Chương 59+60+61+62+63
CHƯƠNG 59: BẢO TRÚ
Tiệp Tự Viên Nhu Tấn Tự Hồng
Tì Bà Thuấn Tức Đạo Thâm Cung
Khả Lân Cụ Thử Hảo Thân Thủ
Ngộ Lạc Ngô Phan Nghịch Để Trung
Dịch:
Nhanh Như Khỉ Vượn Lẹ Như Hồng
Thoáng Trộm Tì Bà Tận Cấm Cung
Đáng Tiếc Tinh Thâm Thân Thủ Thế
Mà Theo Nghịch Tặc Nỡ Cam Lòng
•
Phiên vương Ngô Tam Quế lúc chưa làm phản thường ra lệnh cho tướng sĩ rằng ai một mình tay không bắt sống được cọp sẽ được cấp bổng hạng nhất, tặng danh hiệu Đả hổ tướng. Trong các viên tướng ấy có một người tên Bảo Trú, khỏe mạnh nhanh nhẹn như khỉ, lúc trong vương phủ xây ngôi lầu cao, xà vừa gác lên, Trú men theo góc lầu mà lên, trong giây lát đã tới trên nóc, đứng trên xà chạy đi chạy lại mấy lần, kế lại co người nhảy xuống đứng thẳng dưới đất. Vương có người ái cơ giỏi đánh đàn tỳ bà, chiếc đàn nàng dùng lấy noãn ngọc làm chốt lên dây, cầm lên là cả phòng ấm hẳn. Người thiếp quý báu cất kỹ, nếu không phải vương ra lệnh thì không đem ra cho ai thấy. Một đêm ăn yến, khách có người xin được xem vật lạ một lần, vương đang mỏi mệt nên hẹn để hôm sau. Lúc ấy Trú đang ở bên cạnh nói:
- Không cần vương gia phải ra lệnh, thần có thể lấy được.
Vương bèn sai người báo khắp trong ngoài vương phủ, ra lệnh phòng bị nghiêm cẩn rồi sai Trú đi lấy. Trú vượt qua mười mấy lần tường mới vào tới chỗ người ái cơ của vương ở, thấy đèn trong phòng sáng choang mà cửa nẻo khóa chặt không vào được. Dưới hành lang có cái lồng nuôi chim vẹt, Trú giả tiếng mèo kêu, kế lại giả tiếng vẹt kêu ầm lên là có mèo tới, lại làm ra tiếng vỗ cánh phành phạch rất gấp. Nghe người ái cơ nói:
- Lục Nô ra ngay xem, con vẹt bị mèo vồ chết rồi.
Trú liền nép vào góc tối. Giây lát có một cô gái khêu đèn lách ra, Trú nhân đó lẻn vào, thấy người ái cơ đang cầm chiếc đàn tỳ bà ngồi trên ghế liền xô vào giật lấy bỏ chạy. Người ái cơ hoảng sợ la lớn giặc tới, đám quân canh gác đổ cả ra, thấy Trú ôm đàn chạy nhưng đuổi theo không kịp, bắn tên rào rào như mưa. Trú nhảy lên gốc cây, dưới tường vốn có cây hòe lớn, Trú chuyền qua cành cây như chim chuyền cành, hết gốc cây lên tới gác, hết gác lên tới lầu, chuyền vào trong điện như có cánh, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Khách còn đang uống rượu, Trú ôm chiếc đàn phi thân vào đứng trước tiệc, cửa vẫn đóng chặt như cũ, không hề có tiếng gà kêu chó sủa.
___________________________________
CHƯƠNG 60: THỦY TAI
NẠN LỤT
Mộ Kiến Nhị Ngưu Sơn Thượng Đấu
Triêu Khan Nhất Ốc Thủy Trung Tồn
Thiên Công Tạo Bạch Phân Minh Thậm
A Hộ Thường Lâm Hiếu Tử Môn
Dịch:
Trâu Chọi Trên Non Chiều Thấy Rõ
Nhà Ngâm Dưới Nước Sớm Còn Y
Đạo Trời Đen Trắng Phân Minh Nhỉ
Con Hiếu Luôn Luôn Được Hộ Trì
•
Năm Khang Hy thứ 21 (1682) đại hạn, từ xuân qua hạ đất khô cháy không còn cọng cỏ nào xanh. Ngày mười ba tháng sáu có cơn mưa nhỏ mới có kẻ trồng bắp, ngày mười tám thì mưa lớn ngập bàn chân, người ta mới trồng đậu. Một hôm ở trang Thạch Môn (tỉnh Chiết Giang) có ông già lúc chiều tối nhìn thấy hai con trâu húc nhau trên núi, nói với người trong thôn rằng:
- Sắp có lụt lớn!
Rồi lập tức dắt gia đình đi tránh, người trong thôn đều cười. Không bao lâu mưa đổ ào ào từ đêm đến sáng không ngớt, trên đất bằng nước cao mấy thước, nhà cửa đều bị ngập hết. Có một nông dân bỏ hai đứa con lại, cùng vợ dìu cha mẹ chạy lên gò cao, nhìn xuống dưới thôn thì đã như cái đầm lớn, nghĩ không kịp quay về cứu con nữa. Khi nước đã rút trở về, thấy cả thôn đã thành bãi hoang, vào nhà thấy một gian phòng còn nguyên mà hai đứa con đều ngồi trên giường cười đùa không hề hấn gì. Có người nói đó là trời thương cho hai vợ chồng có hiếu, đó là việc ngày hai mươi tháng sáu.
Năm Khang Hy thứ 34 (1695) ở Bình Dương có động đất, nhân dân mười phần chết hết bảy tám, thành quách đều sụp đổ chỉ còn một căn nguyên vẹn là nhà một người con có hiếu. Giữa cơn đại kiếp mênh mang mà chỉ có những người con hiếu là không việc gì, ai bảo là ông trời kia không phân biệt được trắng đen?
____________________________________
CHƯƠNG 61: CHƯ THÀNH MỖ GIÁP
TÊN GIÁP Ở CHƯ THÀNH
Bất Tử Ư Đao Tử Ư Tiếu
Khả Tri Tiếu Lý Ám Tàng Đao
Lữ Hào Thượng Cửu Chiêm Đa Nghiệm
Tiên Tiếu Cư Nhiên Biến Hậu Hiền
Dịch:
Chém Đao Không Chết Cười To Chết
Mới Biết Trong Cười Có Sẵn Đao
Quẻ Lữ Nghiệm Xem Hào Thượng Cửu
Trước Cười Sau Khóc Chẳng Sai Nào
•
Học quan tiên sinh Tôn Cảnh Hạ nói trong huyện có Mỗ Giáp, gặp lúc có giặc bị chém, đầu rơi xuống trước ngực. Khi giặc rút đi người nhà tìm được xác, đang định đem chôn thì nghe còn hơi thở, nhìn kỹ thấy cổ họng còn một khoảng bằng ngón tay chưa đứt, bèn nâng đầu lên giữ lại cho đúng chỗ rồi khiêng về. Qua một ngày một đêm thì bắt đầu rên rỉ, người nhà lấy thìa đút cháo cho, nửa năm thì lành. Hơn mười năm sau, Giáp cùng hai ba người trò chuyện, có kẻ kể chuyện cười, mọi người cùng cười ầm lên, Giáp cũng vỗ tay. Đang lúc nghiêng ngửa thì vết thương cũ chợt toác ra, rơi đầu phun máu, mọi người cùng nhìn lại thì đã đứt hơi chết rồi. Cha Giáp đi kiện người kể chuyện, mọi người cùng góp tiền van xin, người cha bèn chôn Giáp mà không kiện nữa.
___________________________________
CHƯƠNG 62: HÍ ẢI
ĐÙA CHƠI CHẾT THẬT
Trừu Giai Giải Đới Thái Vô Đoan
Khiển Đắc Hồng Nhan Nhất Tiếu Khan
Chú Thác Liệu Ưng Tâm Bất Hối
Nhất Hồn Do Hỉ Bạng Điêu An
Dịch:
Tuốt Rơm Thòng Cổ Khéo Không Đầu
Khiến Mỹ Nhân Cười Thách Đố Nhau
Trót Dại Hẳn Không Còn Hối Tiếc
Si Hồn Yên Ngựa Bám Theo Sau
•
Mỗ người huyện ta là kẻ lông bông vô lại, tình cờ ra ngoài thôn thấy một thiếu phụ cưỡi ngựa đi tới bèn nói với bạn bè:
- Ta có thể làm nàng cười một trận.
Mọi người không tin, đánh cuộc một bữa rượu. Mỗ bèn chạy lên trước ngựa kêu luôn mồm rằng:
- Ta muốn chết đây!
Nhân thấy chỗ đầu tường có một miếng ván mỏng nhô ra, bề ngang hơn một thước bèn cởi dây lưng móc lên đó, thò cổ vào làm như sắp tự tử. Thiếu phụ đi qua nhìn thấy quả nhiên bật cười, bạn bè cũng đều cười rộ. Thiếu phụ đi xa rồi mà Mỗ vẫn bất động, mọi người càng cười dữ, nhưng tới gần xem thì đã thè lưỡi trợn mắt tắt hơi rồi. Treo cổ lên tấm ván mà chết há chẳng phải là chuyện lạ sao? Chuyện này đủ để răn bọn người khinh bạc vậy.
____________________________________
CHƯƠNG 63: A TIÊM
Cổ Kiếm Phiêu Linh Tứ Bất Câm
Trùng Lai Ưng Vị Cảm Ân Thâm
Phân Cư Bất Tích Phân Kim Túc
Do Lượng Khu Khu Ái Đệ Tâm
Dịch:
Vợ Cũ Lênh Đênh Quạnh Quẽ Sầu
Trùng Phùng Chừng Hẳn Ái Ân Sâu
Ở Riêng Vẫn Cấp Riêng Tiền Thóc
Nếu Chẳng Thương Em Chẳng Thế Đâu
•
Hề Sơn người huyện Cao Mật (tỉnh Sơn Đông) làm nghề buôn bán, thường qua lại vùng Mông Sơn, Nghi Thủy (đều thuộc tỉnh Sơn Đông). Một hôm dọc đường gặp mưa, tới được nhà trọ quen thì đã khuya, gõ cửa mãi mà không ai lên tiếng. Đang ngần ngừ dưới hiên thì hai cánh cửa chợt mở, một ông già bước ra mời vào. Sơn mừng theo vào, lần dò lên sảnh, trong sảnh không có giường ghế gì cả. Ông già nói:
- Ta thương khách không có chỗ nghỉ nên mời vào, chứ thật ra ta không phải là người mở hàng bán cơm. Nhà không có ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già và đứa con gái nhỏ đã ngủ cả rồi. Cái ăn thì còn đủ nhưng không còn nóng lắm, đừng chê là nguội lạnh.
Nói xong vào trong, giây lát mang ra một cái chõng thấp đặt xuống đất mời khách ngồi. Lại trở vào mang ra một cái bàn con, đi lại tất bật trông rất vất vả. Sơn đứng ngồi không yên, giữ ông lại nói xin cứ nghỉ một lúc. Giây lát một cô gái mang rượu ra, ông già nói:
- Con A Tiêm nhà ta dậy rồi!
Nhìn thấy khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp yểu điệu, phong thái đoan trang. Sơn có em trai chưa vợ, cũng thầm có ý bèn hỏi thăm dòng dõi quê quán ông già. Ông đáp:
- Ta họ Cổ tên Sĩ Hư, con cháu đều chết yểu chỉ còn đứa con gái này nên không nỡ làm nó mất giấc ngủ ngon, chắc bà vợ ta gọi nó dậy đấy.
Hỏi:
- Chồng cô em là ai?
Ông đáp còn chưa hứa gả, Sơn mừng thầm. Kế thức ăn bày lên đủ thứ, như trong hàng cơm. Sơn ăn xong cung kính nói:
- Con người bèo nước, đội ơn thương tới, đến chết cũng không dám quên. Nhân thấy ông thịnh đức nên xin đường đột tỏ lời quê mùa. Ta có đứa em trai nhỏ là Tam Lang mười bảy tuổi theo nghiệp đèn sách, cũng không đến nỗi ngu tối, muốn cầu chỉ thắm xe duyên, không biết ông có chê nghèo hèn không.
Ông già mừng nói:
- Lão phu ở đây cũng là ngụ cư, nếu nó có chỗ gửi thân, nhân mượn được túp lều dời đi chỗ khác thì cũng đỡ lo.
Sơn đều xin vâng, đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đặt chỗ ngủ cho khách đâu đó rồi vào.
Gà vừa gáy ông đã ra gọi khách dậy rửa mặt, Sơn gói hành lý xong đưa trả tiền cơm, ông già từ chối, nói:
- Khách ở lại dùng bữa cơm, không lý gì lại lấy tiền, hay định đưa tiền dẫn cưới đây?
Kế chia tay, hơn tháng sau Sơn quay lại, cách thôn hơn dặm thì thấy có bà già dắt một cô gái, khăn áo đều trắng, tới gần thấy như là A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần nhìn Sơn rồi nắm áo bà già nói nhỏ gì đó, bà già liền dừng chân quay lại hỏi Sơn:
- Ông họ Hề phải không?
Sơn dạ dạ. Bà già buồn rầu nói:
- Ông nhà ta không may bị tường đổ đè chết rồi. Hôm nay bọn ta định đi thăm mộ, ở nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát sẽ trở lại ngay.
Rồi đi vào rừng.
Lát sau trở lại thì trời đã tối, bèn cùng đi về, nói chuyện mẹ góa con côi, bất giác mủi lòng thương khóc Sơn cũng bùi ngùi. Bà già nói:
- Dân ở đây rất không lương thiện, con côi mẹ góa khó sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà ông, để lâu nữa sợ chậm trễ ngày tháng, chẳng bằng khuya nay cùng đưa nhau về sớm.
Sơn bằng lòng. Tới nhà, bà già khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, nói với Sơn:
- Nghĩ là ông sắp tới nên đã bán thóc lúa cất trữ đi, chỉ còn hơn hai mươi thạch vì xa nên chưa bán được. Cách đây khoảng bốn năm dặm về phía bắc có ngôi nhà đầu xóm là nhà Đàm Nhị Tuyền là người vẫn mua thóc của ta. Xin phiền ông chịu khó mang một túi tới trước gọi cổng, cứ nói bà già họ Cổ ở xóm Nam có vài thạch thóc định bán lấy tiền đi đường, phiền cho lừa tới chở luôn một lúc.
Rồi đưa túi thóc cho Sơn. Sơn vội vàng đi ngay, tới nơi gõ cửa thì một người đàn ông bụng phệ ra, Sơn nói rõ rồi trút thóc về trước. Lát sau có hai người phu dắt năm con lừa tới, bà già dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống cầm hộc xúc lên, mẹ con bà già chuyền cho nhau, chốc lát đầy túi đưa họ mang đi. Đi lại tới bốn lần mới chở hết thóc, kế họ đưa tiền đưa cho bà già, bà giữ lại một người và hai con lừa rồi thu xếp hành lý đi về phía đông. Được hai mươi dặm, trời mới sáng rõ, tới một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đầy tớ họ Đàm bèn quay về.
Về tới nhà, Sơn thưa lại với cha mẹ. Hai bên gặp nhau rất vui vẻ, bèn dọn một chỗ riêng cho bà già ở rồi chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho Tam Lang, bà già sắm sửa tư trang cho con gái rất đầy đủ. A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện chỉ mỉm cười, sớm tối lo dệt vải không ngừng, vì thế cả nhà ai cũng thương yêu. Nàng dặn Tam Lang:
- Nhớ dặn anh nếu có trở lại miền Tây thì đừng nói gì về mẹ con thiếp cả.
Được ba bốn năm, nhà họ Hề càng giàu có, Tam Lang được vào học trường huyện. Một hôm Sơn ghé trọ nhà láng giềng cũ của họ Cổ, tình cờ kể chuyện năm trước không có chỗ trọ, phải ngủ nhờ nhà ông bà già. Chủ nói:
- Ông khách lầm rồi, đó là căn nhà riêng của bác ta, trước đó ba năm người ở đó thường thấy chuyện quái dị nên bỏ hoang đã lâu, làm gì có ông bà già nào mà cho ông ngủ lại?
Sơn rất kinh ngạc nhưng chưa tin lắm. Chủ nhân lại nói:
- Khu nhà ấy bỏ không mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị sập, bác ta tới xem thì thấy đá đè lên một con chuột to như con mèo, khúc đuôi bên dưới còn quẫy, vội về gọi mọi người tới xem thì không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi vật đó là yêu quái, hơn mười ngày sau vào xem thử thì yên ắng không thấy gì, hơn năm sau mới có người tới ở.
Sơn càng lấy làm lạ, về nói riêng với người nhà, trộm ngờ em dâu không phải là người. Lo thầm cho Tam Lang, nhưng Tam Lang vẫn hết lòng yêu quý vợ như thường. Lâu ngày người nhà xì xào bàn tán, cô gái thoáng nghe biết, nửa đêm nói với Tam Lang:
- Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng có một lỗi nhỏ. Nay lại đặt chuyện để khinh rẻ, xin viết cho tờ ly hôn để chàng chọn một người vợ xứng đáng.
Rồi rơi nước mắt. Tam Lang nói:
- Lòng ta thế nào thì nàng đã rõ. Từ ngày nàng về, nhà ngày một no đủ, vẫn nghĩ là nhờ phúc trạch của nàng, đâu lại còn điều này tiếng khác.
Nàng nói:
- Chàng vốn không hai lòng, thiếp há không biết sao? Nhưng nhiều người nói ra nói vào, e rồi không khỏi như chiếc quạt đến mùa thu bị bỏ xó.
Tam Lang khuyên giải mấy lần mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, ngày ngày cứ tìm mèo giỏi bắt chuột về để dò ý tứ. Cô gái tuy không sợ nhưng rầu rầu không vui.
Một đêm nói mẹ không khỏe, xin Tam Lang cho về săn sóc, sáng ra Tam Lang qua tìm thì trong phòng trống không, phát hoảng cho người đi tìm khắp nơi không thấy tung tích, bứt rứt bỏ ăn bỏ ngủ. Cha và anh lại đều lấy làm may, cùng vỗ về an ủi, định cưới vợ khác cho, nhưng Tam Lang nhất định không chịu. Chờ hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh cứ chế nhạo trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi. Lại vài năm nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng thương nhớ A Tiêm.
Có người em con chú Tam Lang là Lam nhân có việc tới huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), đường xa nghỉ lại nhà người họ hàng bên ngoại là Lục sinh, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất đau thương, cũng chưa rảnh hỏi thăm. Lúc quay về lại nghe thấy bèn hỏi, chủ nhân đáp:
- Mấy năm trước có người đàn bà góa và cô gái mồ côi thuê nhà ở đó. Tháng trước bà già mất, cô gái ở một mình không người thân thích nên khóc đó thôi.
Lam nhân hỏi họ, Lục đáp:
- Họ Cổ, thường đóng cửa không giao thiệp với làng xóm nên chưa rõ gia thế ra sao.
Lam giật mình nói:
- Thế thì là chị dâu ta rồi!
Bèn qua gọi cửa thì có người nín khóc bước ra, đứng trong cửa nói:
- Nhà ta không có đàn ông đâu.
Lam nhìn qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ thấy đúng là chị dâu liền nói:
- Chị mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây.
Cô gái nghe tiếng, mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh lẻ loi khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói:
- Anh Tam Lang nhớ chị lắm, vợ chồng có gì trái ý đâu mà chị xa lánh tới tận đây.
Rồi lập tức định thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu nói:
- Ta vì bị người khinh rẻ mới đưa mẹ đi ẩn, nay lại trở về nương tựa người thì ai không khinh rẻ? Như muốn ta trở về thì phải cùng anh chia bếp, nếu không, ta chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi.
Lam về kể lại cho Tam Lang, Tam Lang lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau đều rơi lệ, hôm sau nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là Giám sinh họ Tạ thấy nàng đẹp, ngầm tính cưới nàng làm thiếp nên mấy năm không lấy tiền nhà, đã nhiều lần ngỏ ý với bà già nhưng bà cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong thì Tam Lang chợt tới, bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó. Nhà Tam Lang vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Cô gái nói không sợ, rồi dẫn vào xem vựa thóc, khoảng hơn ba mươi thạch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Tam Lang mừng nói với Tạ, Tạ không nhận thóc, cứ nhất định đòi tiền. Cô gái than:
- Trăm sự cũng vì nghiệp chung thân này.
Rồi kể lại tình thật. Tam Lang tức giận định kiện lên huyện. Lục bèn can, đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về.
Tam Lang thưa với cha mẹ, xin cùng anh chia nhà ra để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lấy làm lạ, nhưng hơn năm xem lại thì kho đã đầy. Không vài năm, nhà đã giàu có mà Sơn vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nuôi dưỡng và đem tiền gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Tam Lang mừng nói:
- Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán.
Cô gái đáp:
- Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?
Về sau cũng không có chuyện gì lạ.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro