lich su tdtt
A.SỰ PHÁT TRIỂN LỊCH SỬ TDTT QUA CÁC THỜI KỲ
I.TDTT TRONG XÃ HỘI NGUYÊN THỦY
1. Sư phát sinh của TDTT như một bộ phận của nền văn hóa chung của loài người, bắt nguồn từ đời sống vật chất của xã hội nguyên thủy. Quá trình phát sinh đó diễn ra do tác động qua lại của các nhân tố khách quan và chủ quan: tác động va lại của tính chất và trình độ của hoạt động sản xuất nguyên thủy như ; săn bắn, hái lượm… là nhân tố khách quan, còn ý thức của con người là nhân tố chủ quan.
Trong quá trình hàng ngàn năm , con người đã sống trong điều kiện “đấu tranh” về sức mạnh, sức nhanh,sức bền và khéo léo, với nhiều loại công việc như: săn bắt hái lượm, bắt cá…đã tạo nên sự bền bỉ về thể lực. Việc chế tạo và sử dụng các loại công cụ săn bắt cũng đòi hỏi con người sự phát triển nhất định vể thể lực, kỷ năng vận động.
Dựa vào năng lực tư duy đã cho phép con người xác lập được mối quan hệ giữa việc chuẩn bị từ trước với kết quả săn bắt. Chính từ đó nhiều hành vi vận động được tách ra khỏi nguồn gốc sản xuất và hình thành nội dung, phương pháp tập luyện, sự xuất hiện của các bài tập TDTT được xếp vào thời kì sớm nhất.
Việc truyền thụ và áp dụng kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp chính là giáo dục và trong trường hợp này là giáo dục thể chất.
Kinh nghiệm sử dụng công cụ hàng ngày đã cho con người nhận thức thấy tác dụng của việc chuẩn bị trước thông qua tập luyện các bài tập. Từ đó các bài tập chuẩn bi cho lao động dần dần được “tách khỏi” cơ sở ban đầu là lao động và được khái quát , trừu tượng hóa để trở thành các môn thể thao.
Ví dụ: Trên cơ sở tự nhiên lúc săn đuổi hay chạy chốn kẻ thù đã dần dần hình thành môn chạy, nhảy, qua chướng ngại vật; ném trúng đích thành môn ném…
2.Trong xã hội nguyên thủy sự phê phán lý luận tư sản về sự phát sinh của TDTT là hoạt động của con người xã hội cổ đại trong lĩnh vực giáo dục thể chất là không có ý thức, không có mục đích, có tính chất bản năng: bản chất giáo dục thể chất có nguồn gốc thờ cúng và không có quan hệ với nhu cầu xã hội . Đồng thời họ cũng phủ nhận vai trò của lao động và tư duy là những hiện tượng mới về chất, đã đưa con người lên một vị trí cao hơn rất nhiều so với tất cả các loài vật.
3.Trong xã hội thị tộc xuất hiện một hình thức xã hội mới là làm ăn chung, có sự phân công lao động rỏ ràng ở các giới và tập thể. Giáo dục thể chất đã đạt được một trình độ cao trong tất cả các bộ tộc.
Người da đỏ châu Mỹ cũng đã phát triển các bài thập TDTT rất phong phú ( đi bộ, chạy, nhảy, bơi, đua thuyền và các trò chơi ném bóng…). Họ nhận thấy rất rõ vai trò của kinh nghiệm tập thể, của sự tương trợ sự giao tiếp thường xuyên. Vì thế, ngay trong quá trình giáo dục thể chất, vấn đề được quan tâm hàng đầu không phải là các bài tập đơn lẻ mà là tính tập thể của các trò chơi.
4.Do xã hội thị tộc tan rả, có sự xung đột giữ các bộ lạc mang tính thường xuyên và chiến tranh trở thành một “ nghề” ổn định để cướp bóc. Do đó đã xuất hiện tập luyện và thi đấu các bài tập có vũ khí.
Giáo dục thể chất không những bị quân sự hóa mà ngày càng bị lệ thuộc vào tôn giáo thể hiện rất rỏ ở xã hội Mania.
Các bài tập và phương pháp huấn luyện trở nên phức tạp và chủ yếu là giảng dạy quân sự và thể lực.
II.TDTT TRONG XÃ HỘI CHIẾM HỮU NÔ LỆ
Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm so với sự cần thiết để sống, khả năng bóc lột lao động lao động đã xuất hiện. Việc biến các tù binh bắt được thành nô lệ đã trở nên có lợi.
Sau ngày xã hội phát triển đã phân chia thành chủ nô và nô lệ, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Nguồn cung cấp nô lệ quan trọng nhất là thông qua chiến tranh mà chiến tranh đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt về thể lực cho binh sỉ, sức mạnh, sức bền, khéo léo củng như kỷ năng sử dung vũ khí đã được xã hội hóa coi trọng. Từ đó hệ thống giáo dục thể chất và hệ thống giáo dục quân sự, huấn luyện thể lực ra đời vào thời gian này; chúng đã mang tính giai cấp, tức là được sử dụng cho lợi ích của giai cấp thống tri.
1.TDTT ở các quốc gia phương động cổ đại
Khuynh hướng quân sự là nét đặt trưng của TDTT ở các nước phương đông cổ đại. Các bài tập quân sự cũng như cưỡi ngựa , vật, bơi, săn bắn và các bài tập gần gũi với quân sự được áp dụng rộng rãi.
Các tầng lớp quí tộc, tầng lớp thống trị và con em của họ được đến trường để học cách cưỡi ngựa và kĩ năng sử dụng vũ khí, luyện thể chất…
2.TDTT ở Hy Lạp cổ đại
Được phát triển như là một bộ phận của văn hóa cổ đại, bắt đầu từ những thời kỳ sớm nhất của lịch sử hy lạp. ở hy lạp cổ đại, người ta chú ý đến giáo dục thể chất và các cuộc thi đấu khác nhau. Sức mạnh, sức nhanh, bền bỉ và lòng dũng cảm được đánh giá rất cao. Họ cho rằng các vị thần cũng rất thích sức mạnh thể chất và thể hiện qua đua tài. Do đó thi đấu của lịch sử đã trở thành một bộ phận của nghi thức tôn giáo từ rất sớm.
3. Ở Hy Lạp cổ đại có 2 nền văn hoá nổi bật là văn hoá Xapactơ và Athens.
- Hệ thống giáo dục ở Xapactơ: Xapactơ là một nhà nước bảo thủ, còn duy trì nhiều tryền thống của chế độ thị tộc như nền kinh tế tự nhiên dựa vào lực lượng quân sự. Chính điều đó quy định nên sự khác biệt trong hệ thống giáo dục.
Ở Xapactơ người ta rất chú ý rèn luyện thể chất cho trẻ em từ thời thơ ấu. Trẻ khoẻ mạnh, cứng cáp thì nuôi, ốm yếu thì thủ tiêu. Con trai đước giáo dục trong gia đình đến 7 tuổi. Từ 7 tuổi váo các trường để nuôi dạy.Từ 14 tuổi được tập luyện sử dụng vũ khí và bắt đầu làm nghĩa vụ quân sự để trở thành những chiến binh giỏi.
Phụ nữ chưa chồng cũng phải tập như con trai, mục đích để khoẻ mạnh và sinh con cũng khoẻ mạnh.
- Hệ thống giáo dục ở Athens: Athens là một nhà nước tiến bộ, có nền văn hoá kinh tế phát triển nhanh, các công dân Athens không chỉ khoẻ mạnh mà còn có học vấn.
Ở Athens, giáo dục thẩm mỹ ca hát âm nhạc có ý nghĩa lớn. Trẻ em dưới 6 tuổi được giáo dục ở nhà. Từ 7- 14 tuổi được học ở trường. Từ 16 trở lên, được giáo dục ở trường trung học, được giáo dục thể chất nghiêm khắc hơn cùng với học văn hoá.
Hai quốc gia Xapactơ và Athens điều có mục đích giáo dục thể chất là nhằm để đào tạo thanh niên thành những chiến binh; các phương tiện giáo dục thể chất điều sử dụng 5 môn phối hợp.
4.Thể dục ở Hy Lạp cổ đại:
Trong hệ thống giáo dục thể chất ở Hy Lạp cổ đại có sử dụng nhiều phương tiện dưới dạng các bài tập thân thể gọi chung là “ thể dục”, về nội dung thể dục ở Hy Lạp được chia thành 3 loại:
- Palextorica: các bài tập 5 môn phối hợp gồm có chạy 1Xtađia( khoảng 200m), nhảy xa, ném đĩa, lao,vật. Ngoài các bài tập cơ bản đó họ còn tập võ tay không, ném đá, chạy nhảy qua chướng ngại vật…
- Orkhextorica: các bài tập vũ đạo gồm có múa cổ điển, múa dân gian có nhạc đệm dàn chống.
- Trò chơi: được sử dụng trong tập luyện cho trẻ em gồm nhiều loại trò chơi với bóng, kéo co, thăng bằng, trò chơi kết hợp với chạy.
5. TDTT ở La Mã cổ đại:
Lịch sử La Mã cổ đại gồm 3 thời kỳ chính:
- Thời kỳ Quốc vương ( thế kỷ thứ VIII – VI trước công nguyên): TDTT ở thời kỳ này chủ yếu là mang tính chất quân sự, phổ biến là các cuộc thi đấu kỵ sĩ, đua xe, bài tập phóng lao, vật, võ tay không.
- Thời kỳ cộng hoà ( từ thế kỷ thứ IV - thế kỷ I trước công nguyên): hệ thống huấn luyện các chiến binh đã hoàn thiện. Ngoài huấn luyện kỹ năng sử dụng vũ khí và huấn luyện các động tác thường xuyên, còn áp dụng rộng rãi các môn chạy, nhảy sào, leo núi,vật, bơi, hành quân có vũ trang nhằm làm quen với sự thiếu thốn và công việc nặng nhọc.
- Thời kỳ đế chế: Do có chiến tranh nội chiến nên các thế lực thống trị củng cố quyền lực , bằng cách thiết lập chế độ chuyên chính, tăng cường công tác quân sự. Để khuếch trương quyền lực, họ đã tiến hành xây dựng các công trình đồ sộ để tổ chức thi đấu.
6. Đại hội olympic ở Hy Lạp cổ đại:
Người Hy Lạp cổ đại tính thời gian tiến hành đại hội olympic là 4 năm 1 lần, tại thành phố olympic bắt dầu từ năm 776 trước công nguyên. Các đại hội có ý nghĩa chính trị xã hội rất to lớn. Vì trong thời gian tiến hành đại hội olympic phải ngưng tất cả các cuộc chiến tranh. Các nhà lãnh đạo các thành bang phải đến dự đại hội, họ có thể ký các hiệp ước quan hệ thương mại, kinh tế, văn hoá.
Chiến tranh trong thi đấu được vinh dự như chiến thắng trong chiến tranh. Số lượng cuộc thi, người thi qua các đại hội tăng dần, thời gian tiến hành đại hội cũng kéo dài, nhiều môn thi hơn.
Các Đại hội olympic ở Hy Lạp cổ đại là ngày hoà bình của các quốc gia Hy Lạp, có ý nghĩa xã hội sâu sắc thời đó và cả trong thời kỳ hiện đại ngày nay.
III. TDTT THỜI KỲ TRUNG CỔ:
1. TDTT thời kỳ phong kiến sơ kỳ:
Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ bị tan rả, phần lớn các nước chế dộ phong kiến đã thay đổi chế độ chiếm hữu nô lệ .Thời kì này gọi là thời kỳ trung cổ.
Các nước mạnh đã bắt đầu thực hiện các cuộc xâm lược. Từ đó việc đào tạo quân sự là việc bắt buộc đối với các chúa phong kiến.
Đối với nông dân phải chú ý đến các trò chơi giải trí và các bài tập phát triển sức mạnh, sức bền, khéo léo, và các bài tập mang tính quân sự vì họ phải thường xuyên chống kẻ thù để bảo vệ mình.
2.TDTTtrong thời kỳ chủ nghĩa phong kiến phát triển:
Đến khoảng thế kỉ IV, các quan hệ phong kiến đã thiết lập hoàn toàn ở tây âu. Hệ thống huấn luyện quân sự và thể lực cha các đẳng cấp quý tộc được phát triển gọi là hệ thống giáo dục hiệp sĩ. Hệ thống này có 3 cấp:
- Từ 7 tuổi: tập trung tập luyện về quân sự như cưỡi ngựa, đấu kiếm, bơi… đồng thời học các quy tắc hiệp sỉ.
- Từ 14 tuổi: được sử dụng vũ khí để làm tuỳ tùng cho lãnh chúa trong các cuộc hành quân và tham gia thi đấu hiệp sĩ, tham gia chiến đấu.
- 21 tuổi trở thành hiệp sỉ thật sự và tiếp tục tập luyện để thi đấu hiệp sỉ và chiến đấu.
Trong thời gian này, các cuộc thi đấu có ý nghĩa lớn trong việc phát triển TDTT. Các môn ném đá, đẩy tạ , ném búa chim, chạy vượt chướng ngại vật hai các trò chơi đã hình thành quy tắc trong thi đấu dần dần được moi người thừa nhận (Đó cũng là sự xuất hiện của luật thi đấu thể thao hiện đại). Ở thơì kỳ trung cổ, thi đấu mang tính chất thuần tuý, tham gia thi đấu mang tính tự nguyện, thi đấu không gắn với tôn giáo, thi đấu có tính hài hước và từ “ thể thao” có lẻ ra đời từ thời gian này.
3. TDTT trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và sự ra đời của chế độ tư bản:
Tư tưởng cơ bản của các nhà nhân đạo thời kỳ này là sử dụng giáo dục thể chất không chỉ để huấn luyện quân sự mà còn để tăng cường sức khoẻ và phát triển sức mạnh thể chất . Đó là một tư tưởng mới, tiến bộ . Tuy nhiên, quan điểm của các nhà nhân đạo chủ nghĩa còn hạn chế bởi khuynh hướng chỉ nhằm bảo đảm hạnh phúc cá nhân của con người.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa Ý đã thành lập trường học kiểu mới “ nhà vui sướng”. Trong trường có giảng dạy TDTT và giáo dục thể chất. Lần đầu tiên đưa vào kế hoạch học tập của trường. Một lượng thời gian đáng kể được dành cho các trò chơi và các bài tập thể chất. Người ta dạy cho các trẻ biết đấu kiếm , cỡi ngựa, bơi và thực hiện các quy tắc vệ sinh.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa người Pháp đề nghị luân phiên giờ học văn hoá và tập thể dục, ông kết hợp bài tập của giới quí tộc và ngươì nghèo vào mục đích giáo dục con người.
IV. TDTT TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA THỜI KỲ CẬN ĐẠI
1. Những cơ sở tư tưởng lý luận của giáo dục thể chất:
Giăng giác rutxô đã phát triển tư tưởng về vai trò quy định của môi trường bên ngoài trong việc hình thành nhân cách con người. Ông viết “thân thể sinh ra trước tâm hồn, nên việc quan tâm đến thân thể phải là việc trước tiên”. bắt đầu là rèn luyện cơ thể sau đó là các trò chơi và các bài tập giáo dục thể chất.
Nhà giáo dục Thuỵ Sĩ có công lớn trong lĩnh vực giáo dục thể chất , ông đã soạn ra phương pháp phân tích, gọi các động tác ở khớp là các động tác sơ đẳng, là cơ sở để giảng dạy động tác phối hợp phức tạp.
Các nhà cách mạg tư sản pháp ở cuối thế kỉ XVIII có công lớn trong cơ sở lý luận cho giáo dục thể chất. Họ cho rằng cần phải đưa giáo dục thể chất vào hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Sự nảy sinh và phát triển của các hệ thống giáo dục thể chất quốc gia.
- Hệ thống giáo dục ở Đức cho rằng phương tiện giáo dục thể chất gồm: rèn luyện chống thời tiết xấu, biết chịu đối, khát,mất ngủ. Các bài tập phát triển giác quan, chủ yếu trong lúc tham gia trò chơi đặt biệt.Tất cả các bài tập Hy Lạp, trượt băng, mang vác vật nặn, các trò chơi giải trí, các bài tập cỡi ngựa, đấu kiếm, nhảy múa, trong đó các bài tập trên ngựa gỗ và một số dụng cụ khác, các động tác đơn giản của từng bộ phận cơ thể, lao động chân tay.
- Hệ thống giáo dục thể chất của Thuỷ Điển là tính đối xứng và thẳng hàng. Tư thế đúng của tay chân và mình được đặc biệt chú ý.
- Hệ thống giáo dục thể chất ở Pháp có tính chất ứng dụng quân sự đào tạo binh sĩ. Các bài tập thể dục tốt nhất là bài tập phát triển kỉ năng cần thiết trong đời sống, đặc biệt là trong chiến tranh như các bài tập đi, chạy, nhảy, mang vác ở các địa hình tự nhiên. Các bài tập thăng bằng, bò, leo trèo, bơi, lặn, vật, ném, bắn, đấu kiếm, nhào lộn hay các bài tập tay không, múa.
- Giáo dục thể chất và thể thao của các nước Đan Mạch, Anh, Mỹ và một số nước Đông Á, Đông Nam Á đã trở thành những trung tâm chính phát triển TDTT. Tại các trường học xuất hiện các nhóm thể thao nghiệp dư như : chạy, đấm bốc, bơi, chèo thuyền, các môn bóng. Từ những năm 30 của thế kỷ XI người ta tổ chức các cuộc thi thường xuyên về các môn thể thao cho học sinh.
- Các quan điểm của các nhà nhân đạo chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa không tưởng bàn về giáo dục thể chất cho con người.
Sử dụng giáo dục thể chất không những để huấn luyện quân sự mà còn để tăng cường sức khoẻ, phát triển sức mạnh thể chất cho con người. đây là tư tưởng mới và tiến bộ hơn trước.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa người ý thành lập trường học có dạy thể dục, giáo dục thể chất được đưa vào kế hoạch giảng dạy trong trường, dạy các bài tập cỡi ngựa, đấu kiếm, bơi, Đua thuyền.
Nhà nhân đạo chủ nghĩa xã hội pháp vì coi trọng giáo dục thể chất nên ông đề nghị luân phiên giờ học văn hoá và tập thể dục. Ông sử dụng các bài tập của giới quý tộc và của cả người nghèo vào mục đích giáo dục con người.
Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng miêu tả về xã hội tương lai và đời sống hạnh phúc của con người. Theo các ông mục đích của giáo dục là chuẩn bị kiến thức cho trẻ em phục vụ xã hội , tăng cường giáo dục thể chất là điều cần thiết để phát triển hài hoà tinh thân và thể chất của con người trong đó có người lao động.
- Học thuyết của các nhà sáng lập cộng sản chủ nghĩa khoa học giáo dục thể chất - một bộ phận của nền văn hoá chung đối với những người lao động.
Các nhà sáng lập cộng sản chủ nghĩa khoa học đã chỉ rỏ tác động nguy hại của chủ nghĩa tư bản đối với sức khoẻ, đối với sư phát triển thể chất và tinh thân của giai cấp công nhân. Ảnh hưởng của phân công lao động đối với sự phát triển nhân cách con người là những nguyên nhân làm cho con người không thể phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần trong điều kiện xã hội tư bản.
Các Mác viết: “chúng ta hiểu giáo dục gồm có 3 việc: thứ nhất là giáo dục trí tuệ; thứ hai là giáo dục thể chất, những gì đang được dạy ở các trường thể dục và trung tâm huấn luyện quân sự; thứ ba là giảng dạy kỉ thuật, làm cho trẻ biết những nguyên tắc cơ bản của quá trình sản xuất, đồng thời có kỉ năng sử dụng công cụ đơn giản nhất của tất cả các ngành sản xuất”.
Ph. Ăngghen đã viết: chủ nghĩa xã hội sẻ tạo cho công nhân không chỉ những điều kiện vật chất đầy đủ và ngày càng cải thiện để tồn tại mà cả sự phát triển và sử dụng hoàn toàn tự do những năng lực thể chất và trí tuệ của mình.
V. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ DỤC THỂ THAO SAU ĐẠI CHIẾN THỚI GIỚI LẦN THỨ HAI
1.TDTT ở các nước tư bản:
1.1 Những mâu thuẫn gây rất trong phong trào thể thao tư bản:
Sau chiến tranh thới giới lần thứ 2, TDTT các nước tư bản phát triển rất nhanh, mặc dù xã hội tư bản chưa bao giờ chăm lo đến sức khoẻ và phát triển thể chất của quần chúng nhân dân một cách nghiêm túc.
Các giới cầm quyền sử dụng thể thao vì mục đích giáo dục đạo đức và ý thức hệ tư sản cho quần chúng. TDTT cũng được sử dụng để đánh lạc hướng nhân dân lao động khỏi đấu tranh giai cấp. Nó được sử dụng như một phương tiện để nâng cao bốc lột, thu lợi nhuận cho giai cấp thống trị.
TDTT được pphát triển trong các nhà máy xí nghiệp bởi nó nâng cao nâng suất lao động. Do đó đã tăng cao thu nhập của xí nghiệp, trở thành hình thức tổ chức nổi bậc ở các nước tư bản. Không chỉ thể thao nhà nghề mà thể thao quần chúng cũng bị khống chế.
1.2 Sự phát triển của các khuynh hướng khác nhau trong thể thao.
1.2.1.Thể thao nghiệp dư
Mặc dù mục đích không phải kiếm lợi nhuận, song lối kinh doanh tư bản vẫn thể hiện trong thể thao nghiệp dư. Các cuộc thi đấu có tác dụng lớn không những đối với các vận động viên má cả người xem . Các nhà tư bản độc quyền trong việc sản xuất dụng cụ TDTT đã trở thành lực lượng cơ bản trong việc phổ biến các họat động TDTT. Các trường trung học, đại học TDTT đã trở thành nơi cung cấp các nhân tài thể thao . Sự phân biệt chủng tộc thể hiện rất rỏ trong thể thao nghiệp dư ở các nước tư bản như ở Cộng hoà Nam phi,Anh,Mỹ…
1.2.2. Thể thao nhà nghề
Khuynh hướng này ngày càng lan rộng bởi nó thu được nhiều khoản lệ nhuận khổng lồ trong thời gian ngắn và vốn đầu tư ít. Thể thao nhà nghề phát triển ở các môn quyền anh, bóng đá, đua xe đạp, trượt tiết, trượt băng nghệ thuật, bóng rổ, quần vợt. Thể thao nhà nghề giáo dục sự sùng bái bạo lực, ham muốn thành tích bằng bất cứ giá nào cho dù phải trả bằng tội ác hoặc sinh mạng. Trong những năm gần đây, thể thao nhà nghề không những là nguồn lợi kinh tế mà còn được sử dụng vào mục đích chính trị ( các vận động viên có tiến tham gia vận động tranh cử cho các đảng).
1.2.3Thể thao doanh nghiệp và thể thao giáo hội
Thể thao doanh nghiệp do chủ xí nghiệp lập ra mục đích tăng cường bóc lột, đánh lạc hướng đấu tranh giai cấp, quảng cáo sản phẩm. Thể thao giáo hội hướng hoạt động thể thao vào củng cố địa vị của xã hội tư bản và làm cho hoạt dộng thể thao mang sắc thái tôn giáo.
1.2.4Thể thao công nhân:
Trong những năm chiến tranh, thể thao công nhân bị ngưng lại. Sau chiến tranh việc khôi phục phong trào thể thao công nhân là có sự tác động của Đảng Cộng Sản. Hoạt động của Đảng Cộng Sản đã thúc đẩy phát triển thể thao công nhân. Thể thao công nhân đã tập hợp quần chúng nhân dân lao động để tuyên truyền tư tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc vì sự tiến bộ của xã hội.
2.TDTT ở các nước XHCN
Do đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản trong chiến tranh thới giới lần thứ hai và thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại; đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa các nước Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ La Tinh đã tăng lên.
Một loạt các nước như Việt Nam, Bungaria, Hungary, cộng hòa dân chủ Đức, Ba lan, Cu Ba… đã bước vào con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. do đó những thay đổi cơ bản trong giáo dục thể chất và phát triển thể thao cũng diễn ra.
Các câu lạc bộ thể thao được giao cho các tổ chức công đoàn của xí nghiệp và các cơ quan điều khiển. Tập thể, nhóm TDTT của nhà máy, trường học được thành lập, tạo điều kiện dân chủ hóa phong trào thể thao, đại diện nhân dân lao động được tham gia vào lãnh đạo các câu lạc bộ TDTT của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Xóa bỏ kinh doanh tư nhân trong hoạt động thể thao đã mở rộng khả năng sử dụng thể thao vào công tác giáo dục trong tinh thần dân chủ.
Ở việt nam ngày 30/1/1946 Nha thể dục Trung Ương trực thuộc bộ thanh niên được thành lập. Đây là bước quan trọng đầu tiên trên con đường dân chủ hóa phong trào TDTT trong nước.
2.1 Xây dựng các hệ thống giáo dục thể chất xã hội chủ nghĩa:
Giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực TDTT được đặt trưng bằng việc hoàn thiện quản lý phong trào TDTT. Các ủy ban TDTT trở thành hình thức quản lý thích hợp nhất đối với sự tăng cường lãnh đạo của nhà nước.
Việc hình thành ủy ban TDTT ở các nước có thời gian khác nhau song song dựa trên nguyên tắc xây dựng các ủy ban, phương tiện và phương pháp thì giống nhau.
Bắt đầu từ 1949 – 1950, các hoạt độngt hể thao tự nguyện trực thuộc các công đoàn đã thành lập và tập hợp đông đảo quần chúng tham gia. Vai trò của TDTT xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội đã được đánh giá cao. Các cuộc thi đấu thể thao với số lượng lớn đã tạo điều kiện cho phong trào TDTT ở các nước XHCN phát triển mạnh chưa từng thấy.
Ở việt Nam, TDTT đã trở thành tài sản của nhân dân.TDTT được đưa vào trương trình học của tất cả các trường, nhà máy quân đội; đã có chế độ rèn luyện thân thể và tiêu chuẩn vận động viên (1962). Năm 1964 đế quốc Mỹ bắn phá miền Bắc, TDTT đi vào phục vụ huấn luyện lực lượng hậu bị cho quân đội. Năm 1975 đất nước giải phóng, TDTT Việt Nam bước sang một giai đoạn mới.
2.2 Các quan hệ quốc tế
Sự phát triển thành công của TDTT ở các nước XHCN, những kết quả tốt đẹp của các vận động viên đạt được trong các cuộc thi đấu thới giới là nhờ có sự hợp tác Xã Hội Chủ Nghĩa chặt chẻ và ứng dụng khoa học và trao đổi kinh nghiệm cải tạo TDTT theo con đường XHCN.
Thành tựu TDTT ở các nước XHCN có thể đánh giá qua các cuộc thi quốc tế chính thức ở olympic 1948, 1952, 1956, …1998.
B. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA LỜI KIÊU GỌI TOÀN DÂN TẠP THỂ DỤC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
I. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG VÀ SỰ RA ĐỜI NỀN TDTT CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG
Mới giành được chính quyền không lâu, chưa củng cố được lực lượng, còn rất nhiều khó khăn phải khắc phục đặc biệt là nạn đối khủng khiếp do Pháp, Nhật gây ra. Quân Tưởng thừa lệnh đế quốc Mỹ mượn cớ tước vũ khí quân Nhật để thực hiện ý đồ giúp quân Pháp quay lại chiếm nước ta một lần nữa.
Ngày 3/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra các nhiệm vụ cấp bách: phát động phong trào tăng gia sản xuất, chống giặc đối. Bác đã nêu lên một vấn đề có tính quốc sách là “phải nâng cao sức khỏe cho toàn dân,một trong những biện pháp tích cực là tập luyện thể dục – một công việc không tốn kém khó khăn gì”.
Cũng vào thời gian này theo đề nghị của bộ trưởng bộ thanh niên, ngày 30/1/1946 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 14 về việc thành lập tại bộ thanh niên một Nha thể dục Trung Ương do ông Dương Đức Hiền phụ trách. Nhiệm vụ được thể hiện ở 3 khẩu hiệu: Phổ thông thể dục; gây đời sống mới; cải tạo nòi giống. Trong thời gian này Nha Thể Dục đã đào tạo được 62 cán bộ đầu tiên.
Ngày 26/3/1946 Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “ giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì cũng cần đến sức khỏe mới thành công”… “tôi mong muốn đồng bào ta ai củng gắng tập thể dục, tự tôi ngày nào củng tập”.
Nhày 27/3/1946 Sắc lệnh số 33 về TDTT được ban hành, về việc thiết lập trong bộ quốc gia giáo dục một Nha thanh niên và thể dục. Ngày này là cột mốc lịch sử củ ngành TDTT Việt Nam. Bởi vì, trong năm 1946 có 2 sắc lệnh của chính phủ do Chủ Tịch Hồ Chí MInh ký về TDTT.
Ngày 29/1/1991 nhân ngày kỷ niệm 45 năm ngày thành lập ngành TDTT, Hội đồng Bộ Trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định lấy ngày 27/3 làm ngày thể thao Việt Nam.
II CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH – NGƯỜI KHAI SINH NỀN TDTT CÁCH MẠNG
Bác hồ đã khai sinh nền TDTT mới, từ tháng 3 năm 1941 trong cương lĩnh của mặt trân việt minh “ cần phải khuyến khích và giúp đỡ nền thể dục quốc dân, làm cho nồi giống ngày thêm khỏe mạnh”. Ngày thành lập Nha thể dục Trung Ương thuộc bộ Thanh niên và thể dục thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục.
Tháng 3/1946 Bác Hồ ra lời kêu gọi đồng bào toàn quốc tập thể dục. Ngày 26/3/1946 Bác HỒ đến châm ngọn lửa truyền thống tại ngày hội “ thanh niên vận động” ở thủ đô Hà Nội.
Tháng 12/1946 thực dân pháp xâm lược nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Nền TDTT tạm dừng lại, song tại chiến khu Bác Hồ vẫn thường xuyên tập luyện thể dục và động viên cán bộ, chiến sỉ, tập luyện theo Người.
C. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ DỤC THỂ THAO VIỆT NAM
I. GIAI ĐOẠN 1955 - 1975:
TDTT là một bộ phận của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh giành thống nhất nước nhà. TDTT là một trong những biện pháp cơ bản nhằm phát triển con người một cách toàn diện về 3 mặt: Đức dục, trí dục, thể dục.
Trong thời kỳ này nhiệm vụ của công tác TDTT là phát triển rộng rãi hơn nữa phong trào TDTT quần chúng, đặc biệt trong các tầng lớp thanh thiếu niên. Trên cơ sở đó phát hiện bồi dưởng nhân tài mới, bồi dưỡng vận động viên để không ngừng nâng cao trình độ kỉ thuật, chiến thuật và thành tích về các môn thể thao chủ yếu đẩy mạnh việc thực hiện tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, lấy đó làm cơ sở để phát triển các môn thể thao quốc phòng trong các công trường, nông trường, cơ quan, trường học và nông thôn.
Ngày 19/1/1955 tại lễ khai giảng trường đại học nhân dân Việt Nam, Bác nói: “trong vui chơi có giáo dục, cần những thú vui chơi có văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng…”. Trong thời gian này các thành phố thị xã ở Miền Bắc đã tổ chức nhiều cuộc thi đấu thể thao ở các môn bóng, xe đạp, quần vợt.
Tháng 6/1956 chính phủ quyết định thành lập ban thể dục thể thao các tỉnh, thành phố. Ngày 13/6/ 1957 ra thông tư 92 phát động phong trào rèn luyện thân thể. Ngày 2/10/1958 Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị số 106 CT/TW về công tác TDTT. Năm này vận động viên quân đội tham gia giải quân đội 12 nước Xã Hội Chủ Nghĩa tại Cộng Hòa Dân Chủ Đức và nhiều cuộc thi đấu trong nước.
Ngày 23/5/1959 hội bóng bàn Việt Nam ra đời. Trường huấn luyện Trung Ương được thành lập.
1958 – 1959 các lớp bồi dưởng cán bộ TDTT ngắn hạn được mở tại sân Quần Ngựa ( thành phố Hà Nội). Trường trung cấp TDTT Trung Ương và trường cán bộ TDTT được thành lập.
Tháng 12/1962 Ban bí thư Trung Ương ra chỉ thị 38 CT/TW “ tăng cường công tác thể thao quốc phòng” rèn luyện 5 môn chạy, nhảy, bơi,bắn, võ.
Trong giai đoạn này các giải truyền thống và đại hội TDTT như: giải việt dã tiền phong 1959 (Hà Nội), bơi truyền thống Bạch Đằng( sông Bạch Đằng), Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ I 1959 ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định)… gần 200 vận động viên quân đội tham dự có 22 kỷ lục biền bắc được lập. Ngoài ra còn có các hoạt động thể thao quốc tế như giải vô địch bóng đá SKDA, giải bóng đá Việt – Trung – Triều – Mông 1960 ở Trung Quốc, 1959 ở Triều Tiên, và năm 1960 ở Việt Nam. Tham gia Đại Hội thể thao các nước mới trổi dây ở Châu Á “ Ganefo” 1963,1966. Ở giải này có VĐV bắn súng Trần Oanh, VĐV điền kinh Trần Hữu Chỉ và VĐV bơi lội Vũ Thị Sen giành huy chương vàng.
II. GIAI ĐOẠN 1975 - 2000
Hoạt động văn hóa giáo dục, TDTT có nhiều tiến bộ và hoạt động mạnh hơn trước. Trong tình hình mới chỉ thi số 227 CT/TƯ ngày 18/11/1975 đã nêu ra 4 phương hướng là:
- Kết hợp TDTT, lấy thể dục làm cơ sở, kết hợp thể dục với vệ sinh phòng trống bệnh, kết hợp thành tựu hiện đại của thế giới với kinh nghiệm truyền thống của dân tộc , tập trung phục vụ phong trào cơ sở.
- Tập luyện TDTT phải phù hợp với từng lứa tuổi nam nữ, ngành nghề, sức khỏe của từng người và phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh địa lí tự nhiên và truyền thống từng vùng. Thực hiện kiểm tra y học và bảo đảm an toàn trong tập luyện và thi đấu.
- Kết hợp việc phát triển phong trào quần chúng với việc xây dụng lực lượng nồng cốt bao gồm cán bộ, huấn luyện viên, trọng tài, giáo viên, hướng dẫn viên, và vận động viên TDTT.
- Triệt để sử dụng những điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất có sẵng, dựa vào lực lượng của nhân dân.
Năm 1976 toàn quốc có 5000 cơ sở đạt danh hiệu tiên tiến về TDTT. Năm 1980 việt nam gia nhập phong trào Olympic và tham dự đại hội lần thứ 20 tại Moscow, lần 21 ở Seoul, 22 ở Barcelona, và tham dự đại hội Đông Nam Á lần thứ 15 tại Kuala, cho đến nay đã giành được nhiều thành tích to lớn về thứ bậc và tổng số huy trương tại các đại hội .
Ngành TDTT đã thực hiện tổng điều tra xây dựng quy hoạch phát triển sự nghiệp TDTT đến năm 2000 và đầu thế kỉ XXI. Đã tổ chức đại hội TDTT toàn quốc 1985,1990,1995… các đại hội Phù Đổng được tổ chức 1983,1987,1996…
Ngành TDTT được nhà nước tặng Huân Chương Độc Lập hạng I năm 1981 và Huân Chương Hồ Chí Minh 1996.
Bộ giáo dục đã mở trường Sư Phạm Thể Dục Trung Ương 2( nay là trường Đại Học Sư Phạm TDTT Thành Phố Hồ Chí Minh) để đào tạo giáo viên TDTT cho các trường phổ thông và một phần cho các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.
Từ khi thành lập hội thể thao Đại Học Việt Nam đã phối hợp cùng bộ đại học – trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tổ chức nhiều hoạt động TDTT quy mô khu vực và toàn nghành cũng như quốc tế. Hội thể thao Đại học Việt Nam đã tham dự các đại hội thể thao mùa hè của sinh viên thới giới lần thứ XI năm 1981, XII 1983, XIII 1985,XIV 1987, XV 1989, XVI 1991….
Trong thời kỳ này Việt Nam có các trường TDTT như: trường Trung Cấp TDTT Trung Ương được thành lập 25/9/1959 ( nay là trường Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh), Trường Trung Học Thể Dục Thể Thao Trung Ương III thành lập 13/12/1997 ( nay là Trường Đại học Thể dục thể thao Đà Nẵng, trường Cán Bộ Thể Dục Thể Thao Miền Nam thành lập 28/1/1976 ( nay là Trường Đại học Thể dục thể thao TP.Hồ Chí Minh, trường Trung Cấp Sư Phạm Thể dục, thành lập 1961( nay là trường Đại học Sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội), Trường Sư Phạm Thể Dục Thể Thao Miền Nam ( nay là Trường Đại Học Sư Phạm Thể dục thể thao TP.Hồ Chí Minh.
- Các đại hội TDTT toàn quốc: có 5 đại hội được tổ chức vào các năm( 1985,1990,1995,2002,2006)
- Các hội khỏe phù đổng toàn quốc: có 7 hội khỏe phù đổng được tổ chức.
+ Từ 9/10 – 17/10/1983 tại Hà Nội
+ Từ 20/7 – 27/7/1987 tại thành phố Hồ Chí Minh
+ Tháng 7/1992 tại Thành Phố Đà Nẵng.
+ Ngày 4/8/1996 tại Thành Phố Hải Phòng
+ Từ 20 – 31/8/2000 tại Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp.
+ Từ 5/8 – 15/8/2004 tại Thành Phố Huế
+ Từ 20/7 – 10/8/2008 tại Tỉnh Phú Thọ.
- Các đại hội TDTT sinh viên và học sinh chuyên nghiệp toàn quốc : đến nay được tổ chức 3 lần vào các năm 1999, 2003, 2007.
III. CÁC LIÊN ĐOÀN, HIỆP HỘI THỂ THAO CỦA VIỆT NAM ĐƯỢC UỶ BAN OLYMPIC QUỐC TẾ( IOC) CÔNG NHẬN.
Hiện nay, cả nước đã thành lập được hệ thống các Liên Đoàn , hiệp hội và hội thể thao quần chúng từ phương thức xã hội hoá nền TDTT như sau:
- Liên đoàn điền kinh việt nam.
- Hội thể thao Đại học và trung học chuyên nghiệp Việt Nam.
- Liên đoàn võ thuật cổ truyền việt nam.
- Hiệp hội thể thao người khuyết tật Việt Nam.
- Liên đoàn xe đạp – mô tô Việt nam.
- Liên đoàn Taekvondo Việt Nam.
- Liên Doàn Thể Dục Việt Nam.
- Liên đoàn quần xợt Việt Nam.
- Liên Đoàn Judo Việt Nam.
- Liên Đoàn cờ Việt Nam.
- Liên đoàn bắn súng Việt Nam.
- Liên đoàn bóng bàn Việt Nam.
- Liên đoàn bóng rổ Việt Nam.
- Liên đoàn bóng chuyền Việt Nam.
- Hiệp hội thể thao dưới nước Việt Nam.
- Liên đoàn cầu lông Việt Nam.
- Liên Đoàn Bóng đá Việt Nam.
IV.SỰ HỘI NHẬP CỦA THỂ THAO VIỆT NAM VỚI SEAGAMES.
Thực hiện đường lối mới và chính sách tăng cường hội nhập, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, từ năm 1989 thể thaoViệt Nam đã tham gia đều đặn các kỳ đại hội thể thao khu vực ( SEA Games lần thứ 15 – 24…). Thành tích của đoàn thể thao Việt Nam tại các đại hội đều có sự tăng trưởng tiến bộ và để lại dấu ấn khó quên trong lòng bạn bè. Đặc biệt là SEA Games 22 tổ chức tại thủ đô Hà Nội đã thành công tốt đẹp, Đoàn thể thao Việt Nam đã đứng đầu, vượt xa các nước về tổng số huy chương.
ĐỀ XUẤT CỦA BẢN THÂN
- Kết hợp TDTT, lấy thể dục làm cơ sở, kết hợp thể dục với vệ sinh phòng chống bệnh, kết hợp thành tựu của thế giới với kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, tập trung phục vụ phong trào cơ sở.
-Tạo điều kiện cho lứa tuổi thanh thiếu niên tham gia tích cực trong các hoạt động thể thao nhà trường,lực lượng vũ trang và trong phong trào quần chúng rộng rãi. Coi thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội của Đảng và nhà nước ta.
-Nội dung, hình thức tổ chức hoạt động TDTT phải mang bản sắc dân tộc, vì mục đích và lợi ích của dân tộc, phải phù hợp với tâm lý, tập quán, điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống của từng địa phương.
- Quan tâm khai thác và phát triển các trò chơi, các môn thể thao dân tộc, các hình thức và phương pháp dưỡng sinh cổ truyền của dân tộc, các truyền thống văn hoá tốt đẹp, hạn chế và xoá bỏ các tập quán lạc hậu.
-Kế thừa có chọn lọc các tri thức về TDTT của nhân loại. Kết hợp những thành tựu hiện đại với truyền thống của dân tộc.
- Bảo đảm mọi nội dung, biện pháp tổ chức quản lý và phương pháp tập luyện TDTT của quần chúng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. Công tác huấn luyện, đào tạo VĐV phải phù hợp với các quy luật về sinh lý, tâm lý và xã hội của con người.
- Phát triển TDTT rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, mọi địa bàn dân cư. Làm cho việc rèn luyện thân thể trở thành nhu cầu, thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân.
- Làm cho mọi người dân đều có cơ hội tham gia tập luyện và hưởng thụ những giá trị nhân văn của TDTT đồng thời phát huy vai trò chủ động và sáng tạo của cá nhân trong việc tham gia tổ chức, điều hành các hoạt động TDTT cũng như góp phần phát triển sự nghịêp TDTT của nước ta.
- Kiện toàn hệ thống đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, huấn luyện viên, giáo viên TDTT, kiện toàn tổ chức ngành TDTT các cấp, nâng cấp.
-Xây dựng mới và hiện đại hóa một số cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học, y học TDTT, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ nền thể thao việt nam.
- Cần phải đầu tư cơ sở vật cho thể thao Việt nam, cần mở nhiều trường đạo tạo để thu hút nhân tài thể thao.
- Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với sự phát triển thể thao
- Cần phải tăng cường thể thao học đường, về diện tích sân chơi, phương tiện tập luyện
- Việc xây dựng quy hoạch phát triển TDTT Việt Nam cần phải gắn liền với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; sự phân công, phân nhiệm rõ ràng từ Trung Ương cho tới địa phương trong việc tổ chức thực hiện quy hoạch; bổ sung giải pháp phát triển kinh tế thể thao....
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro