LHPTK 14 end
CHƯƠNG XIV
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN
I. KHÁI NIỆM, TÍNH CHẤT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN
Để tổ chức quyền lực Nhà nước tại địa phương, Nhà nước ta cũng như mọi quốc gia khác đều phân chia lãnh thổ ra các đơn vị hành chính và tổ chức cơ quan quản lý ở đó để bảo đảm mối liên hệ giữa Trung ương và địa phương, thực hiện chính sách của Nhà nước
tại địa phương và quản lý địa phương.
Trên thế giới có nhiều cách tổ chức cơ quan quản lý địa phương và cũng có nhiều
tên gọi khác nhau về các cơ quan đó. Ngay trong một nước cũng có nhiều mô hình tổ
chức cơ quan quản lý khác nhau ở đơn vị hành chính khác nhau cùng tồn tại. Về cơ bản
có những mô hình sau đây:
- Cơ quan chính quyền địa phương là một bộ máy hành chính đứng đầu là một quan chức chủ đạo (Tỉnh trưởng, Quận trưởng) được bổ nhiệm từ trên. Cơ quan mang tính cá nhân này (vì toàn bộ quyền hạn tập trung vào trong tay người đứng đầu, các bộ phận khác nhau trong bộ máy ấy chỉ là thừa hành và giúp việc) có toàn quyền thực hiện mọi công việc quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương, thực hiện việc "cai trị". Mô hình này tồn
tại phỏ biến ở thời kỳ phong kiến trước đây ở một số đơn vị hành chính gọi là "trung gian" ở một số nước châu Âu, châu Mỹ và châu Á,...
- Chính quyền địa phương là cơ quan hành chính do cấp trên bổ nhiệm (hoặc được bầu ra) kết hợp với một Hội đồng tự quản do dân cư bầu ra. Ở đây vai trò chủ đạo thuộc
về cơ quan hành chính, còn Hội đồng tự quản chỉ đóng vai trò tư vấn, nằm dưới sự giám
hộ của cơ quan hành chính và chỉ được bàn định những vấn đề thuần tuý địa phương không được tham gia vào những vấn đề chung của quốc gia trừ các vấn đề có tính chất chính trị. Hình thức quản lý này phổ biến ở các đơn vị hành chính "trung gian" các nước
tư bản (nhất là ở Pháp trước cải cách hành chính năm 1982).
- Mô hình quản lý địa phương bởi một Uỷ ban hành chính do dân cư hay các Hội đồng tự quản cấp dưới trực tiếp bầu ra. Uỷ ban cũng có người đứng đầu song hoạt động chủ yếu mang tính tập thể. Uỷ ban quyết định tập thể các vấn đề quản lý địa phương, các thành viên phân công phụ trách từng mảng công việc. Hình thức này phổ biến ở đơn vị hành chính cấp huyện, quận ở Anh, Mỹ, Bắc Âu và cả ở cấp huyện của ta trước năm
1960.
- Mô hình chính quyền địa phương là một Hội đồng - cơ quan đại diện quyền tự quản hoặc quyền lực Nhà nước - do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và chính quyền cấp trên. Hội đồng là cơ quan có toàn quyền quyết định và thực hiện các vấn
đề địa phương theo qui định của pháp luật. Hội đồng có cơ quan chấp hành - hành chính của mình dưới dạng Uỷ ban chấp hành hay Uỷ ban hành chính hoặc cơ quan cá nhân như Thị trưởng, Chủ tịch. Mô hình này phổ biến ở các đơn vị hành chính "tự quản" ở các nước tư bản và ở tất cả các cấp đơn vị hành chính các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có nước ta.
Các hình thức tổ chức cơ quan quản lý địa phương trên đây mặc dù có tên gọi khác nhau, cơ cấu và địa vị pháp lý của mỗi bộ phận không giống nhau nhưng tựu chung lại đều mang một tính chất là cơ quan chính quyền Nhà nước ở địa phương, được lập ra để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Ngay mô hình chính quyền kiểu "tự quản đia phương" ở nhiều nước, tuy thường được đặt ngoài hệ thống Nhà nước nhưng chúng vẫn là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, tức thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các cơ cấu phi nhà nước(1).
Về nguyên tắc, cơ quan chính quyền địa phương dù là một bộ phận hay nhiều bộ phận (một cơ quan hay nhiều cơ quan) song là một cơ cấu thống nhất, trong đó quyền hạn thực sự trong việc quản lý địa phương thuộc về một cơ quan - gọi là "cơ quan quyết định". Cơ quan này là Hội đồng hay Uỷ ban hoặc Quận trưởng, Tỉnh trưởng phụ thuộc vào tính chất của từng đơn vị hành chính và nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước của các chế độ Nhà nước. Các cơ quan khác còn lại - cơ quan chấp hành - thừa hành hoặc tư vấn - giám sát được lập ra để thực hiện phần công việc được phân giao hoặc để giám sát. ở đây không có việc vận dụng chế độ phân quyền giữa các cơ quan chính quyền địa phương (tức là chia chính quyền địa phương ra hai cơ quan độc lập nhau, chế ước lẫn nhau giống như cách tổ chức các cơ quan Nhà nước cấp cao ở Trung ương) như một số người quan niệm.
Theo pháp luật hiện hành thì cơ quan chính quyền địa phương nước ta ở tất cả các cấp đơn vị hành chính là Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với các bộ phận cấu thành khác như Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, các sở, phòng, ban của Uỷ ban nhân dân(2)v.v... trong đó Hội đồng nhân dân là cơ quan chủ đạo.
Hội đồng nhân dân là "cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên" (Đ.
119 Hiến pháp năm 1992). Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động, sáng tạo của địa phương. Tính quyền lực Nhà nước của Hội đồng nhân dân biểu hiện ở chỗ: nó thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ đồng thời thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên phân giao. Quyết định của Hội đồng nhân dân có tính bắt buộc chung đối với các cơ quan, tổ chức
và công dân ở địa phương. Uỷ ban nhân dân "do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên
và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp" (Đ.123 Hiến pháp năm 1992).
Theo tinh thần này, Hội đồng nhân dân là hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới. Nó không phải là cơ quan đại diện, tư vấn bên cạnh cơ quan hành chính hay là "cơ quan tự quản" như trong các chính quyền địa phương kiểu phong kiến trước đây và tư bản hiện nay, mà là cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước của nhân dân
(1) Bản thân chế định "tự quản địa phương", phổ biến ở các nước tư bản, vẫn mang tính Nhà nước. Xem: M.A. Kraxnốp. Tự quản địa phương - tính Nhà nước hay tính xã hội? Tạp chí Nhà nước và pháp luật Xô Viết. Số 10-
1990. tr.81.
(2) Trước đây có một thời ở cấp bộ và huyện không thành lập Hội đồng nhân dân mà chỉ có Uỷ ban hành chính do
Hội đồng nhân dân cấp dưới bầu ra. Từ Hiến pháp 1959 mới qui định thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (sau đổi gọi Uỷ ban nhân dân) ở tất cả các cấp hành chính - TG
trên địa bàn lãnh thổ - được coi là một bộ phận quyền lực hợp thành quyền lực Nhà nước chung của toàn quốc. Uỷ ban nhân dân cũng không phải là một cơ quan hành chính của cấp trên đặt ra ở địa phương để "cai trị" mà là một cơ cấu thuộc Hội đồng nhân dân với nhiệm vụ chính là "chấp hành" Hội đồng nhân dân đồng thời được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương. Như vậy, cả hai cơ quan này đều thuộc cơ cấu chính quyền địa phương thống nhất, cùng có chức năng quản lý địa phương theo qui định của pháp luật. Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan đại diện, cơ quan
tập thể có phương thức hoạt động theo kỳ họp, ra nghị quyết về các vấn đề xây dựng địa phương và giám sát (giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác ở địa phương, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương). Còn Uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ tổ chức thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của cấp trên và cùng với Thường trực Hội đồng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân (như chuẩn bị kỳ họp). Giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân không có sự tách biệt. Với cách hiểu đó, Hội đồng nhân dân ngoài ý nghĩa là cơ quan đại diện bao gồm các đại biểu có thẩm quyền do dân bầu lên ở từng địa phương - cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương - còn bao hàm ý nghĩa là cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương, trong đó
có cả Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các bộ phận hợp thành khác.
II. SỰPHÁT TRIỂN TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN QUA CÁC HIẾN PHÁP
Với cách mạng tháng Tám, nhân dân ta đã đánh đổ toàn bộ bộ máy chính quyền cai
trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến từ Trung ương đến địa phương. Thay vào đó
là một bộ máy chính quyền nhân dân mới được xác lập. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là
"thiết lập một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân".
Trên phạm vi toàn quốc, Uỷ ban dân tộc giải phóng do Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) bầu ra sau được đổi thành Chính phủ lâm thời là cơ quan chính quyền của nhân dân, đại diện cho nhân dân toàn quốc. Ở các địa phương thay cho bộ máy chính quyền cũ bị đánh đổ là các Uỷ ban nhân dân cách mạng và Uỷ ban công nhân cách mạng được thành lập. Một số địa phương trước đó đã có Uỷ ban dân tộc giải phóng cũng được chuyển thành Uỷ ban cách mạng.
Ngày 2-9-1945 Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào. tiếp theo đó Chính phủ đã xúc tiến các biện pháp nhằm thành lập và hoàn chỉnh hệ thống cơ quan chính quyền địa phương kiểu mới.
Theo Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 qui định về tổ chức chính quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày 21-12-1945 qui định tổ chức chính quyền nhân dân thành phố, thị xã, khu phố thì cơ quan chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân do dân cử ra và Uỷ ban hành chính do Hội đồng nhân dân bầu ra. Ở huyện, kỳ và khu phố chỉ có Uỷ ban hành chính. Thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
xã, tỉnh, huyện, kỳ được qui định tại Nghị định số 161 ngày 29-12-1945 của Bộ Nội vụ
về thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thành phố, khu phố được qui
định tại Nghị định số 31 ngày 28-01-1946 của Bộ Nội vụ.
Hiến pháp năm 1946 hiến định hoá cách tổ chức cơ quan chính quyền địa phương trên đây trong chương V "Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính" với các điều từ 57 đến 62.
Thực hiện qui định của Hiến pháp và các sắc lệnh, một hệ thống chính quyền địa phương kiểu mới được khẩn trương thiết lập. Tuy nhiên do điều kiện thời bấy giờ mà ở nhiều nơi không thành lập được Hội đồng nhân dân mà vẫn chỉ có một mình Uỷ ban hành chính tồn tại cho mãi đến sau này.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh
254/SL ngày 19-11-1948 qui định việc tổ chức chính quyền địa phương trong thời kỳ
kháng chiến và Sắc lệnh số 255/SL ngày 19-11-1948 về tổ chức chính quyền nhân dân
địa phương ở những vùng tạm thời bị địch kiểm soát hay uy hiếp.
Sau khi kháng chiến thắng lợi ở miền Bắc Nhà nước dã tiến hành các biện pháp củng cố chính quyền địa phương. Sắc luật số 004/SL ngày 20-7-1957 về thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và Sắc luật số 110/SL ngày 31-5-1958 về tổ chức chính quyền địa phương được ban hành qui định tổ chức lại cơ quan chính quyền địa phương ở
các đơn vị hành chính.
Hiến pháp năm 1959 đã thực hiện một sự đổi mới căn bản tổ chức cơ quan chính quyền địa phương. Theo Hiến pháp này đơn vị hành chính nước ta không còn cấp kỳ (Bộ). Nước được chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn. Ở tất cả các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Các thành phố có
thể chia ra khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính. Lần đầu tiên Hội đồng nhân dân được xác định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Uỷ ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương. Những qui định này được kế thừa qua các Hiến pháp cho tới sau này. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban hành chính 25-10-1962 đã cụ thể hoá các qui định trên của Hiến pháp.
Đến Hiến pháp năm 1980 không còn khu tự trị (đã bỏ do Nghị quyết kỳ họp thứ II Quốc hội khoá V ngày 27-12-1975) nhưng lập ra đơn vị hành chính đặc khu - tương đương tỉnh và phường ở những thành phố, thị xã. Cách thức tổ chức Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân, thẩm quyền của chúng được Hiến pháp 1980 qui định khá đầy đủ
(Chương IX). Những qui định của Hiến pháp lại được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (6-1983). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1989 đưa thêm vào cơ cấu Hội đồng nhân dân một cơ quan mới: Thường trực Hội đồng nhân dân.
Hiến pháp hiện hành - Hiến pháp năm 1992 - về cơ bản giữ nguyên cách tổ chức hệ thống chính quyền địa phương như hiện tại, bỏ đơn vị hành chính đặc khu. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 không qui định việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính như trước đây mà để cho Luật định. Đặc biệt Hiến pháp cũng không nhắc đến Thường trực Hội đồng nhân dân với tính cách là một cơ quan như Luật sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1980 (1989) đã qui định với ý chỉ còn coi Thường trực Hội đồng nhân dân như là một bộ phận gắn bó của Hội đồng nhân dân. Sự phân định chức năng giữa Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban cũng có những đổi mới v.v... Tất cả những điều này sau này được qui định rõ trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
năm 1994 và Pháp lệnh về nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của mỗi cấp Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân năm 1996.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 đã có một số sửa đổi,
bổ sung trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân như: quy định quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân, quy định thẩm quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng bầu; tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân ở tất cả các cấp; phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân từng cấp (tỉnh huyện, xã) ngay tại Luật chứ không để Pháp lệnh quy định như trước nữa, thể hiện sự phân cấp mạnh hơn cho địa phương; phân định cụ
thể hơn thẩm quyền và trách nhiệm giữa Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
Theo qui định hiện hành thì hệ thống chính quyền địa phương nước ta gồm ba cấp: tỉnh và tương đương, huyện và tương đương, xã và tương đương. Ở mỗi cấp đều có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Hội đồng nhân dân các cấp đều có Thường trực Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân từ cấp huyện trở lên còn có các ban để giúp Hội đồng nhân dân hoạt động. Uỷ ban nhân dân có các sở, phòng chuyên môn của mình.
III. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp được qui định chung trong Hiến pháp và được cụ thể hoá và phân định riêng đối với từng cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (tỉnh, huyện, xã) tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Ở đây, để tiện theo dõi, chúng ta phân tích gộp chung nhiệm
vụ, quyền hạn của tất cả các cấp Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Những nhiệm vụ
quyền hạn cụ thể của mỗi cấp được nêu ở chừng mực nhất định khi cần thiết.
1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân được pháp luật qui định là xuất phát từ vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan chính quyền Nhà nước trong hệ thống bộ máy Nhà nước thống nhất. Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn theo phân cấp quản lý của chính quyền cấp trên, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương.
Mặt khác, như đã nói ở trên, Hội đồng nhân dân là hình thức quản lý địa phương kiểu mới. Nó bao quát và thống nhất trong mình những cơ cấu do nó lập ra để phân công, phân nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân (như Thường trực, Uỷ ban nhân dân, các ban). Những nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật qui định cho Hội đồng nhân dân ở những nét chung nhất là hàm ý qui định cho cơ quan chính quyền địa phương
ở cấp đó mà Hội đồng nhân dân là cơ quan chủ đạo, bao quát. Việc thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn đó sau này sẽ được phân định cụ thể cho bản thân Hội đồng nhân dân (kỳ họp Hội đồng nhân dân) hay Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Uỷ ban nhân dân tuỳ thuộc mức độ và tính chất của vấn đề.
Nhiệm vụ (chức năng) cơ bản nhất của Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương là "căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, ra nghị quyết về các biện pháp đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng,
an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước" (Đ.120 Hiến pháp năm
1992). "Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết
của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương. (Đ. 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003).
Tựu trung lại chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân thể hiện trên ba hướng: một là, quyết định các biện pháp quản lý địa phương; hai là, tổ chức thực hiện các quyết định và ba là, giám sát việc thực hiện các quyết định và hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác. Như vậy, pháp luật nước ta nhìn nhận Hội đồng nhân dân là một cơ quan quản lý địa phương toàn quyền và thống nhất. Tính toàn quyền và chủ đạo của Hội đồng nhân dân thể hiện ở chỗ nó là cơ quan vừa quyết định các biện pháp (ban hành nghị quyết) vừa tổ chức thực hiện các quyết định và giám sát thực hiện các quyết định đó. Đương nhiên Hội đồng nhân dân không làm hết tất cả mà lập ra các cơ cấu của mình để phân giao, phân nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung.
Trong số các phương hướng hoạt động chủ yếu đó thì chức năng quyết định và chức năng giám sát được Hội đồng nhân dân trực tiếp thực hiện nhiều hơn cả. Ở đây chức năng quyết định là đặc trưng nổi bật của Hội đồng nhân dân với tính cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Điều này phân biệt Hội đồng nhân dân nước ta với các Hội đồng
tự quản (thực chất là Hội đồng tư vấn) ở một số đơn vị hành chính các nước tư bản.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, Hội đồng nhân dân, mặc dù được coi là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan có quyền quyết định, song nó không phải là một "Quốc hội địa phương" có quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở địa phương. Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ quản lý địa phương trong khuôn khổ qui định của pháp luật tức là thi hành, chấp hành pháp luật của Nhà nước ở địa phương, quyết định những vấn đề được giao ở địa phương. Với ý nghĩa đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước và quản lý Nhà nước ở địa phương.
Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân được Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân qui định chung cho tất cả các cấp theo từng lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trong lĩnh vực kinh tế Hội đồng nhân dân quyết định:
1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương biện pháp nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, đảm bảo quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh của các cơ sở kinh tế theo qui định của pháp luật, dự toán và phê chuẩn quyết toán ngân sách của địa phương;
2. Chủ trương, biện pháp phân bố lao động và dân cư ở địa phương;
3. Biện pháp quản lý, sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở địa phương theo
qui định của pháp luật;
4. Biện pháp thực hiện chính sách tiết kiệm trong hoạt động quản lý của Nhà nước trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, chống tham nhũng, chống buôn lậu.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội và đời sống, Hội đồng nhân dân quyết định:
1. Chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, văn nghệ, thể dục
thể thao, phát thanh, truyền hình, giáo dục thanh niên, bảo vệ chăm sóc giáo dục thiếu niên, nhi đồng, xây dựng nếp sống văn minh, giáo dục truyền thống, đạo đức tốt đẹp, giữ
gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, chống các tệ nạn xã hội và những biện pháp không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương;
2. Chủ trương, biện pháp giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lãnh đạo, cải thiện đời sống nhân dân ở địa phương;
3. Chủ trương, biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ chăm sóc người già, bà mẹ, trẻ em, thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình;
4. Chủ trương, biện pháp thực hiện chính sách ưu đãi, chăm sóc và giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình có công với nước, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế
xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường, Hội đồng nhân dân quyết định:
1. Chủ trương, biện pháp khuyến khích việc nghiên cứu, phat huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống ở địa phương;
2. Chủ trương, biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường ở địa phương theo qui định của pháp luật;
3. Biện pháp thực hiện các qui định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả trên địa phương, bảo vệ
lợi ích người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh trật tự an toàn xã hội, Hội đồng nhân dân quyết
định:
1. Biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn
dân, đảm bảo thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ thực hiện nhiệm vụ động viên chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang trong nhân dân ở địa phương;
2. Biện pháp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương;
định:
Trong lĩnh vực thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, Hội đồng nhân dân quyết
1. Biện pháp đảm bảo thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc, đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữ gìn, tăng cường khối đại đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc ở
địa phương;
2. Biện pháp đảm bảo chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở địa phương;
Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Hội đồng nhân dân quyết định:
1. Biện pháp đảm bảo việc thi hành Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên trong cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương;
2. Biện pháp bảo vệ tài sản, tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
3. Biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước, bảo hộ tài sản của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương;
4. Biện pháp đảm bảo giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo qui định của pháp luật.
Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân quyết định:
1. Bầu, miễn nhiệm, bãi miễn Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực (ở cấp tỉnh và huyện) Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các ban của Hội đồng nhân dân; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; bãi nhiệm
đại biểu Hội đồng nhân dân và chấp nhận việc đại biểu xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu;
2. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu;
3. Bãi bỏ những quyết định sai trái của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, những quyết
định sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
4. Quyết định giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp Hội
đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng ddến lợi ích của nhân dân;
5. Thông qua đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính ở địa phương để đề nghị cấp trên xét.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân
Với tính cách là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
Nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Tương tự như đối với Hội đồng nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân được Hiến pháp quy định những nét cơ bản tại điều 123 và được Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mới (năm 2003) quy định cụ thể và phân định theo
theo từng cấp Uỷ ban nhân dân. Ở đây chỉ nêu chung cho tất cả các cấp và nêu một cách tổng quát nhất.
Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế-xã hội, trình Hội đồng nhân dân thông qua, trình Uỷ ban nhân dân cấp trên phê duyệt; tổ chức và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đó; lập dự toán ngân sách, phương án phân bổ ngân sách; tổ chức thực hiện ngân sách; thực hiên đại diệnchủ sở hữu phần vốn Nhà nước
tại doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực nông, ngư nghiệp, thuỷ lợi và đất đai, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo và kiểm tra thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi trên
địa bàn; các chương trình khuyến nông, khuyến ngư v.v...
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Uỷ ban nhân dân xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tổ chức quản lý đối với các doanh nghiệp trên địa bàn theo thẩm quyền; tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển công nghiệp; tổ chức thực hiện việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác ở
địa phương v.v...
Trong lĩnh vực giao thông, vận tải, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo, kiểm tra việc xây dựng
và thực hiệnquy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giao thông; tổ chức quản lý các công trình giao thông đô thị, đường bộ, đường thuỷ; tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám định
kỹ thuật an toàn phương tiện cơ giới; tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra, bảo vệ công trình giao thông v.v...
Trong lĩnh vực xây dựng, quản lí và phát triển đô thị, Uỷ ban nhân dân tổ chức việc lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền các quy hoạch xây dựng vùng, xây dựng
đô thị trên địa bàn; quản lý đầu tư, khai thác sử dụng các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị; xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển vật liệu xây dựng, quản lý việc khai thác và sản xuất kinh doanh v.v...
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, Uỷ ban nhân dân lập quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới thương mại, du lịch, dịch vụ; cấp, thu hồi giấy phép kinh doanh; quy định
các quy tắc về an toàn và vệ sinh trong hoạt động thương mại v.v...
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo,văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, y tế và xã hội, Uỷ ban nhân dân thực hiện quản lý Nhà nước đối với các loại hình trường, lớp các hoạt động văn hoá, các đơn vị y tế trực thuộc; chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức thực hiện
các biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân v.v...
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ mô trường, quản lý sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ v.v...
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, Uỷ ban nhân dân bảo đẩm an ninh chính trị, an topàn xã hội; thực hiên các biện pháp xây dựng lực lượng vũ trang; chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ v.v...
Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Uỷ ban nhân dân tổ chức chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và chính sách dân tộc, tôn giáo; bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc; xem xét giải quyết các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ở địa phương v.v...
Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc
thi hành Hiến pháp và pháp luật, tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật, ở địa phương; tổ chức và chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư của các cơ quan Nhà nước cấp trên; chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tiếp dân, trực tiếp xét, giải quyết và chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền mình, xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân dân; tổ chức công tác thanh tra Nhà nước; chỉ đạo công tác thi hành án, quản lý hộ tịch; thực hiện công tác tư pháp khác v.v...
Trong việc xây dựng chính quyền, Uỷ ban nhân dân chỉ đạo thực hiện công tác bầu
cử; quy định tổ chức bộ máy, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn; cho phép lập hội, quản lý hướng dẫn kiểm tra việc thành lập và hoạt động của hội theo quy định của pháp luật; quản lý biên chế, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý cho cán bộ công chức; xây dựng đề án thành lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính v.v...
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Uỷ ban nhân dân ra các
quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện những văn bản đó; đình chỉ việc thi hành sửa
đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các ngành thuộc quyền mình và của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng
của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
IV. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN NHÂN DÂN
Như đã nói ở trên, chính quyền địa phương là một thể thống nhất gồm Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Ở nghĩa tổng quát hoạt động của chính quyền địa phương thông qua các hình thức: kỳ họp của Hội đồng nhân dân và hoạt động của các bộ phận hợp thành như Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân và cả Uỷ ban nhân dân - cơ quan chấp hành - hành chính Nhà nước ở địa phương có nhiệm vụ tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Ở một khía cạnh khác,
các hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân thực hiện sự phân công, phân nhiệm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân do các cơ cấu của nó - là bộ phận cấu thành của Hội đồng nhân dân. Hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân được đảm bảo bằng hiệu quả của các bộ phận này. Với ý nghĩa đó pháp luật phải ghi nhận các hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân và phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các
bộ phận đó. Mỗi một hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân có vị trí nhất định.
Tuy nhiên, hiện tại giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân còn có sự phân biệt nhất định. Uỷ ban nhân dân là cơ quan trực thuộc hai chiều: vừa trực thuộc Hội đồng nhân dân vừa trực thuộc cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên nên có sự độc lập tương
đối thể hiện trong tổ chức và phương pháp hoạt động. Vì vậy, để thuận lợi trong việc phân tích chúng tôi xem xét riêng từng cơ quan này.
A. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân
a) Thường trực Hội đồng nhân dân
Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ quan mới được thành lập ra từ sau khi có Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 6-1989. Lúc đầu Thường trực Hội đồng nhân dân mới chỉ thành lập ở cấp tỉnh và huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư
ký; ở cấp xã không thành lập Thường trực mà chỉ có Ban Thư ký. Theo qui định của Luật
này Thường trực Hội đồng nhân dân là cơ quan đảm bảo việc tổ chức các hoạt động của Hội đồng nhân dân. Trước đó, Uỷ ban nhân dân với tính cách là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan Nhà nước ở địa phương thì đồng thời cũng là cơ quan thường vụ thường trực của Hội đồng nhân dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là Chủ tịch Uỷ
ban thường vụ của Hội đồng nhân dân(3). Uỷ ban nhân dân thực hiện tất cả các chức năng
gọi là thường vụ, thường trực như: tổ chức việc chuẩn bị và triệu tập các kỳ họp Hội đồng nhân dân, điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân, phối hợp
với các Ban xây dựng các đề án trình Hội đồng nhân dân xét và quyết định; giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân được xét và giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân trừ những vấn đề chỉ do kỳ họp giải quyết. Lý do của những thay đổi này là do Uỷ ban nhân dân bận bịu quá nhiều vào hoạt động hành chính Nhà nước mà không có điều kiện tổ chức, điều hoà hoạt động của Hội đồng nhân dân, thực hiện các chức năng thường vụ, thường trực được phân giao. Mặt khác, bản thân Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân đương nhiên không hào hứng gì trong việc tăng cường hoạt động của Hội đồng nhân dân. Vậy cần phải thành lập ra Thường trực Hội đồng nhân dân để đảm nhiệm chức năng thường vụ, thường trực vốn không thích hợp đối với cơ quan chấp hành - hành chính Nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
1994 có một số thay đổi về tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân. Lúc này Thường trực
chỉ còn gồm có Chủ tịch và Phó chủ tịch mà không còn chức danh Thư ký và không còn
coi là một cơ quan của Hội đồng nhân dân nữa với hàm ý gắn Thường trực với Hội đồng nhân dân chứ không tách thành một cơ quan riêng. Ở cấp xã bỏ Ban thư ký mà thành lập Chủ tịch Hội đồng nhân dân (có Phó Chủ tịch). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định tổ chức Thường trực Hội đồng nhân dân ở tất cả các cấp nhưng ở tỉnh và huyện có thêm Uỷ viên thường trực, còn ở cấp xã vẫn chỉ có Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
Thường trực Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Hội đồng nhân dân, Thường trực được chọn bầu ra trong số đại biểu, theo thể thức: bầu Chủ tịch Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của chủ toạ kỳ họp (Chủ toạ kỳ họp này là Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước, nếu khuyết thì do Phó Chủ tịch và nếu khuyết cả hai thì là triệu tập viên do Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định), bầu Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực theo sự giới thiệu của Chủ tịch. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ
đó. Thành viên của Thường trực không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Kết quả bầu này phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; đối với cấp tỉnh phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Trong khi
(3) Trường Chinh. Mấy vấn đề về Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. NXB Sự thật. Hà Nội, 1985. tr.
267-268
chờ phê chuẩn, những người được bầu giữ các chức vụ trên được thực hiện ngay nhiệm vụ, quyền hạn của mình ngay sau khi bầu.
Nhiệm kỳ của Thường trực Hội đồng nhân dân (cũng như của Uỷ ban nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân) và các chức vụ trong đó theo nhiệm kỳ của hội đồng nhân dân hiện là 5 năm. Lần đầu tiên, tại Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, pháp luật quy định Chủ tịch Hội đồng nhân dân (và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân) ở mỗi đơn vị hành chính không giữ quá hai nhiệm kỳ liên tục (Đ. 6). Quy định này, cũng giống như quy định nhiệm kỳ của cơ quan đại diện nói chung, là nhằm mục đích để giám sát đối với các đại diện được bầu ra và tạo cơ hội để các nhân tố mới tham gia vào hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước.
Thường trực Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ sau đây:
1. Triệu tập và chủ toạ các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp Hội đồng nhân dân;
2. Đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan Nhà nước khác ở địa phương thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
3. Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;
4. Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân; xem xét kết quả giám sát của các Ban khi cần thiết và báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất;
giữ mối liên hệ với các đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp các chất vấn của đại biểu
Hội đồng nhân dân đến Hội đồng nhân dân;
5. Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp Hội đồng nhân dân;
6. Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
7. Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối vói người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
8. Phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
9. Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp (đối với cấp tỉnh là lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
Chính phủ );
10. Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Thường trực Hội đồng nhân dân làm việc theo nguyên tắc tập thể. Mỗi tháng Thường trực Hội đồng nhân dân họp ít nhất một lần để kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của mình, đề ra nhiệm vụ công tác tháng
sau. Thường trực Hội đồng nhân dân có thể họp bất thường theo đề nghị của từng thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân.
b) Các Ban của Hội đồng nhân dân
Các Ban của Hội đồng nhân dân là cơ quan được lập ra để giúp Hội đồng nhân dân hoạt động. Ban của Hội đồng nhân dân được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Ở cấp xã, phường, thị trấn không có các Ban(2).
Theo qui định của pháp luật hiện hành thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được thành lập ba Ban:
+ Ban kinh tế và ngân sách;
+ Ban văn hoá - xã hội;
+ Ban pháp chế.
Ở những tỉnh có nhiều dân tộc có thể thành lập Ban dân tộc để giúp Hội đồng nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Ở cấp huyện thành lập hai Ban:
+ Ban kinh tế - xã hội
+ Ban pháp chế.
Các Ban của Hội đồng nhân dân được thành lập tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân. Số lượng thành viên của mỗi Ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và bầu chọn trong số đại biểu có năng lực kiến thức chuyên môn, phù hợp với nhiệm vụ của Ban, có điều kiện thực tế tham gia các hoạt động của Ban.
Thành viên của các Ban không thể đồng thời là thành viên Uỷ ban nhân dân cùng
cấp.
Trưởng ban và các thành viên của Ban do Hội đồng nhân dân bầu bằng cách bỏ
phiếu kín theo danh sách từng ban do Chủ tịch Hội đồng nhân dân giới thiệu. Các đại biểu cũng có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ trên. Phó ban do Ban bầu ra.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các Ban gồm:
1. Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
2. Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công;
3. Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
4. Giúp Hội đồng nhân dân giám sát cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
(2) Trước đây cấp xã cũng có các ban (3 ban là ban kinh tế, xã hội và đời sống, ban pháp chế và ban thư ký). Từ luật năm 1989 chỉ còn có ban thư ký, song đó là một hình thức cơ quan Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã. Với việc
tổ chức ra Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã và nay là Thường trực Hội đồng nhân dân xã thì không
còn ban này nữa (TG).
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các Ban có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu của các Ban.
5. Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần
thiết.
Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân đã cụ thể hoá những nhiệm
vụ, quyền hạn của từng ban.
Hình thức hoạt động của Ban là phiên họp do Trưởng ban triệu tập. Tại phiên họp
các thành viên thảo luận trước các dự án trình Hội đồng nhân dân thông qua, hoặc chuẩn
bị các đề án trình Hội đồng nhân dân, kiểm điểm việc thực hiện chương trình, bàn công
tác của thời gian tới.
Ban còn tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát ở cơ sở, phát hiện những vấn đề để kiến nghị với cơ sở hoặc trình Hội đồng nhân dân quyết định. Các kiến nghị của ban có giá trị bắt buộc các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cơ quan hữu quan xem xét và thực hiện. Kết quả phải báo cáo lại cho ban biết.
Thường trực Hội đồng nhân dân điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban. Các Trưởng ban được dự các kỳ họp hàng tháng của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp.
2. Hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân.
a) Kỳ họp Hội đồng nhân dân
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân. Đó là hội nghị định
kỳ gồm các phiên họp của toàn thể (đa số) các đại biểu Hội đồng nhân dân để bàn bạc và quyết định những vấn đề của địa phương được nêu ra trong chương trình nghị sự. Thông qua kỳ họp, ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương được chuyển thành quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có ý nghĩa bắt buộc chung. Tại kỳ họp còn quyết định các biện pháp để thi hành quyết định, chỉ thị, pháp luật của Nhà nước ở
địa phương, thực hiện quyền giám sát việc thực hiện nghị quyết và hoạt động của các cơ
quan trực thuộc Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác ở địa phương.
Theo qui định của pháp luật, kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp họp thường lệ mỗi năm hai kỳ (trước đây qui định 3 tháng họp một kỳ. Ở miền núi nơi nào đi lại khó khăn
thì Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện họp 6 tháng một lần). Ngoài những kỳ họp thường lệ, Hội đồng nhân dân tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu.
Kỳ họp Hội đồng nhân dân do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp triệu tập.
Kỳ họp thứ nhất mỗi khoá Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp khoá trước triệu tập và chủ toạ cho đến khi bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới. Trường hợp khuyết Chủ tịch thì Phó Chủ tịch triệu tập và chủ toạ. Nếu khuyết cả hai
thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp (ở cấp tỉnh thì do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội) chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ toạ.
Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành (được coi là hợp lệ) khi có ít nhất 2/3
tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham dự.
Về nguyên tắc, tất cả nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân sẽ được Hội
đồng nhân dân quyết định và quyết định tại kỳ họp. Kỳ họp có thể quyết định bất cứ vấn
đề gì thuộc thẩm quyền của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, như
đã nói ở trên, không phải bất cứ vấn đề gì cũng đem ra kỳ họp giải quyết và không cần thiết phải như vậy. Hội đồng nhân dân có thể phân giao cho các cơ cấu của nó, như Thường trực, Uỷ ban nhân dân, các Ban giải quyết trong khuôn khổ của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân chuẩn bị nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định. Trước đây khi chưa thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân thì tất cả các chức năng thường vụ, thường trực trong hoạt động của Hội đồng nhân dân đều do Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm. Nay các nhiệm vụ, quyền hạn về thường vụ, thường trực được chuyển giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân còn Uỷ ban nhân dân
chỉ phối hợp với Thường trực cùng giải quyết. Tuy là phối hợp, nhưng trong nhiều trường hợp vai trò của Uỷ ban nhân dân là rất quan trọng, nhất là khi chuẩn bị các nội dung có liên quan đến kế hoạch, ngân sách v.v...
Trước ngày họp 30 ngày, Thường trực Hội đồng nhân dân họp với Uỷ ban nhân dân, Trưởng phó Ban của Hội đồng nhân dân quyết định chương trình và các vấn đề sẽ bàn và giao cho các cơ quan chuẩn bị. Các báo cáo, đề án và các vấn đề sẽ bàn trong kỳ họp do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng với Uỷ ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân (ở tỉnh, huyện), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng với Thường trực Hội đồng nhân dân (ở xã, phường, thị trấn) chuẩn bị.
Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của chủ toạ cuộc họp hoặc của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Ngày họp, nơi họp và dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là 5 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Tài liệu cần thiết của
kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân trước ngày khai
mạc kỳ họp. Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp trên được bầu ra ở địa phương, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương (như Chủ tịch Liên đoàn lao động, Chủ tịch Hội nông dân, Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội cựu chiến binh) và
đại biểu cử tri được mời tham dự kỳ họp, được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết. Các cơ quan thông tin báo chí ở địa phương được mời dự các phiên họp công khai.
Kỳ họp Hội đồng nhân dân có thể có nhiều nội dung làm việc khác nhau phụ thuộc vào tính chất của mỗi kỳ họp và yêu cầu công việc hiện tại. Trong kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Hội đồng nhân dân chủ yếu là công tác tổ chức, xây dựng bộ máy. Kỳ họp đầu năm Hội đồng nhân dân tập trung thảo luận và quyết định kế hoạch và dự toán ngân sách, quyết định chương trình hoạt động trong năm, quyết định các vấn đề thiết thực về kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng v.v... Trong các kỳ họp cuối năm, Hội đồng nhân dân nghe
và thảo luận báo cáo kiểm điểm công tác của Thường trực, Uỷ ban nhân dân, Chánh án
Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, các ngành kinh tế - xã hội v.v... ở
địa phương. Có thể có những kỳ họp dành tập trung thảo luận và quyết định về một chuyên đề cụ thể nào đó như về quản lý đất đai, bảo đảm trật tự trị an trên địa bàn. Trong
kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân kiểm điểm nhiệm kỳ hoạt động của mình.
Chủ toạ các kỳ họp Hội đồng nhân dân do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp đảm nhiệm. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước chủ toạ cho đến khi bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới. Nếu khuyết Chủ tịch thì do Phó Chủ tịch chủ toạ và nếu khuyết cả hai thì là triệu tập viên do Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định làm chủ toạ như đã nêu ở trên.
Chủ toạ kỳ họp có nhiệm vụ điều khiển các phiên họp theo chương trình đã được Hội đồng nhân dân thông qua, tổ chức thảo luận, lấy biểu quyết về các vấn đề nêu ra, xem xét lại các nghị quyết và biên bản trước khi Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực.
Một nội dung quan trọng của các kỳ họp Hội đồng nhân dân là thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Chất vấn là hình thức quan trọng qua đó Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của
các cơ quan thuộc Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức khác trên phạm vi lãnh thổ. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn về bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét của Hội đồng nhân dân. Chất vấn không phải là câu hỏi thông thường mà là một
đòi hỏi làm rõ về một hay nhiều sự việc "có vấn đề", tức là các biểu hiện của sự không
chấp hành hoặc thi hành không đúng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và của cấp trên hướng dẫn, có biểu hiện vi phạm pháp luật mà đại biểu thấy có cơ sở vững chắc. Nếu chất vấn của đại biểu nêu ra, được Hội đồng nhân dân tán đồng (được chấp nhận) thì được coi như là một vấn đề của chương trình nghị sự.
Chất vấn có thể bằng miệng hoặc viết tay, có thể của một hay nhiều đại biểu.
Thủ trưởng các cơ quan hoặc cá nhân bị chất vấn phải nghiêm túc trả lời chất vấn ngay tại kỳ họp. Trường hợp cần điều tra, Hội đồng nhân dân quyết định cho trả lời tại kỳ họp sau. Nếu đại biểu chưa thoả mãn với nội dung trả lời có thể đề nghị Hội đồng nhân dân thảo luận. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Chất vấn cũng có thể được đại biểu nêu ra trong thời gian giữa hai kỳ họp. Đại biểu
gửi chất vấn đến Thường trực Hội đồng nhân dân để chuyển đến cơ quan hoặc người bị
chất vấn.
Kết quả của các kỳ họp là Hội đồng nhân dân thông qua các quyết định của mình dưới hình thức các nghị quyết. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tán thành. Đối với việc bãi miễn đại biểu phải
có 2/3 tổng số đại biểu tán thành. Riêng nghị quyết về việc bầu cử, miễn nhiệm và bãi nhiệm Uỷ ban nhân dân, nghị quyết giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và một
số nghị quyết khác còn phải được sự phê chuẩn của cấp trên (Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân - đối với cấp tỉnh là Uỷ ban thường vụ Quốc hội và
Thủ tướng Chính phủ) mới được thi hành.
Nội dung nghị quyết phải chỉ ra chủ trương, biện pháp, thời gian thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị thực hiện nghị quyết đó.
Nghị quyết Hội đồng nhân dân phải được gửi đến các cơ quan hữu quan để thực hiện, đồng thời được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, chuyển lên chính quyền cấp trên để theo dõi và giám sát.
Ngoài ra, Hội đồng nhân dân còn ra nghị quyết để thông qua (ban hành) các văn bản pháp qui địa phương như các "Nội quy kỳ họp Hội đồng nhân dân", "Quy chế xây dựng làng văn hoá" v.v...
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân có hiệu lực ngay sau khi được thông qua hoặc
sau khi được các cơ quan Nhà nước cấp trên phê chuẩn. Có một số nghị quyết ghi rõ thời gian thi hành. Nghị quyết hết hiệu lực khi đã thực hiện xong hoặc bị chính Hội đồng nhân dân sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bị cấp trên đình chỉ bãi bỏ.
b) Hoạt động của các cơ cấu của Hội đồng nhân dân.
Đó là hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân và của các Ban của Hội đồng nhân dân nói trên. Mỗi một cơ cấu này thực hiện một phần chức năng, nhiệm vụ được quy định chung cho cấp Hội đồng nhân dân đó. Hãy xem ở phần trên.
c) Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Xét về mặt cơ cấu tổ chức thì đại biểu Hội đồng nhân dân không phải là một cơ cấu riêng biệt của Hội đồng nhân dân vì Hội đồng nhân dân là một cơ quan hoạt động tập thể
có hình thức hoạt động chủ yếu là kỳ họp mà ở đó tất cả các đại biểu đều tham dự và bàn
định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Ngoài ra có nhiều
đại biểu còn tham gia vào Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân. Một số hoạt động của đại biểu (cùng với tổ đại biểu) tại đơn vị bầu cử cũng mang tính phụ trợ, là phương thức liên hệ với cử tri, thu thập ý kiến của họ
rồi báo cáo hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Nhưng hoạt động của đại
biểu trong chừng mực nhất định cũng có tính độc lập. Đó là một hình thức đảm bảo hiệu quả của hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Theo quy định của pháp luật, hoạt động của đại biểu tập trung trên hai mặt:
Một là, hoạt động của đại biểu tại kỳ họp và trong các cơ cấu của Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, các sinh hoạt của tổ đại biểu, hoàn thành những nhiệm vụ được giao. Trong kỳ họp, đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền đề nghị ghi vào chương trình nghị sự những vấn đề mà đại biểu xét thấy cần thiết để Hội đồng nhân dân xem xét và quyết định; thảo luận, phát biểu ở tổ và tại hội trường; biểu quyết các nghị quyết và kết luận của kỳ họp; chất vấn Chủ tịch và các thành viên của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền tham gia dự các phiên họp của Hội đồng nhân dân cấp dưới ở nơi bầu ra mình, có quyền phát biểu nhưng không biểu quyết.
Nếu là thành viên của các cơ cấu của Hội đồng nhân dân thì đại biểu có trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của các cơ quan đó, hoàn thành nhiệm vụ được phân công.
Hai là, hoạt động của đại biểu tại đơn vị bầu cử. Đại biểu phải liên hệ chặt chẽ với
cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, ít nhất 3 tháng một lần phải tiếp xúc với cử tri, lấy ý kiến của họ về những vấn đề sẽ bàn trong kỳ họp Hội đồng nhân dân và báo cáo với cử tri
về hoạt động của mình và Hội đồng nhân dân, tiếp dân theo lịch đã phân công.
Hoạt động của đại biểu tại đơn vị bầu cử không chỉ mang tính riêng lẻ mà còn có hình thức tập thể. Các đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ra ở một hay nhiều đơn vị bầu cử lập thành tổ đại biểu. Tổ đại biểu là hình thức sinh hoạt tập thể của đại biểu để nghiên cứu tài liệu chuẩn bị đóng góp ý kiến cho kỳ họp. Trong kỳ họp, tổ đại biểu thảo luận và đóng góp ý kiến về các vấn đề thuộc chương trình nghị sự của kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tổ đại biểu tập hợp ý kiến đại biểu để phản ánh với đoàn thư ký kỳ họp. Tổ đại biểu phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở đơn vị mà đại biểu ứng cử để tổ chức tiếp xúc với cử tri, thu thập ý kiến và nguyện vọng của cử tri đóng góp cho kỳ họp.
Ba tháng một lần tổ đại biểu sinh hoạt để kiểm điểm hoạt động của tổ và bàn kế hoạch công tác, tổ chức nghiên cứu pháp luật, chính sách của Nhà nước do Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp thông báo.
Đại biểu Hội đồng nhân dân được đảm bảo các điều kiện để hoạt động. Đó là những đảm bảo về vật chất, đảm bảo về việc làm và đảm bảo về thân thể. Trong thời gian làm nhiệm vụ đại biểu (kỳ họp, đi giám sát) đại biểu được thoát ly công tác chuyên môn mà vẫn hưởng lương. Nếu đại biểu không phải là biên chế Nhà nước thì được hưởng thù lao ngày công tham gia hoạt động đại biểu.
Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ toạ kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu. Nếu vì phạm pháp quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp mà đại biểu bị tạm giữ thì cơ quan Nhà nước ra lệnh tạm giam giữ phải báo cáo ngay với Chủ toạ kỳ họp. Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp biết.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khoẻ hoặc vì lý do khác. Việc chấp nhận đại biểu xin thôi làm nhiệm vụ do Hội đồng nhân dân cùng cấp xét và quyết định.
Đại biểu Hội đồng nhân dân không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân
thì tuỳ mức độ phạm sai lầm mà bị Hội đồng nhân dân hoặc cử tri bãi nhiệm. Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
B. Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
1. Cơ cấu tổ chức và cách thức thành lập Uỷ ban nhân dân.
Như đã nói ở trên, Hội đồng nhân dân là hình thức quản lý Nhà nước ở địa phương theo lối mới. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương thì cũng
chính là cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương, đóng vai trò cơ quan chỉ đạo, bao quát
tất cả các công việc từ ra quyết định đến thực hiện quyết định và quản lý hành chính Nhà nước. Nhưng do phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân là theo kỳ họp (họp - tan), nên phải lập ra Uỷ ban nhân dân - cơ quan đảm nhiệm các chức năng tổ chức hoạt động thường xuyên của Hội đồng nhân dân và tổ chức thực hiện các nghị quyết của cơ quan này. Uỷ ban nhân dân, vì vậy, gắn liền với Hội đồng nhân dân, là hình thức làm việc của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp. Từ năm 1989 đặc biệt là từ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, do đã lập ra Thường trực của Hội đồng nhân dân nên chức năng thường vụ thường trực của Uỷ ban nhân dân có giảm đi "Uỷ ban nhân dân phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân ( và các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp chuẩn bị nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, xây dựng các đề án trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định" (Đ.120 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003). Hiện tại, chức năng chủ yếu của Uỷ ban nhân dân là tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương sự theo phân cấp.
Uỷ ban nhân dân gồm có: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là đại biểu Hội đồng nhân dân, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu. Trong nhiệm kỳ, nếu khuyết Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì người được giới thiệu để bầu không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo quy định hiện hành số thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ 9 đến 11 người (riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có không quá 13 người); cấp huyện, quận, thị
xã từ 7 đến 9 người; cấp xã, phường, thị trấn từ 3 đến 5 người. Trong đó số Phó Chủ tịch
ở các cấp tương ứng là 3 đến 4 (hoặc 5), 2 - 3 và 1 - 2 người.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách đề cử chức vụ từng người. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được bầu ra trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Phó Chủ tịch và
các thành viên khác được bầu ra theo sự giới thiệu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Đại
biểu Hội đồng nhân dân có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ trên. Kết quả bầu
cử này phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, như đã nói ở trên, không giữ chức vụ đó quá hai nhiệm
kỳ liên tục.
Trong quá trình soạn thảo Hiến pháp năm 1992 có ý kiến đề nghị thực hiện chế độ bổ nhiệm các chức vụ trong Uỷ ban nhân dân. Song Quốc hội đã quyết định giữ nguyên cách thức bầu cử như cũ nhưng quy định cách thức phê chuẩn mới, chặt chẽ hơn. Nếu như trước đây việc phê chuẩn do Uỷ ban nhân dân cấp trên thực hiện (Hội đồng Bộ trưởng đối với cấp tỉnh) và chủ yếu xem xét tính hợp pháp của việc bầu thì nay việc phê chuẩn do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thực hiện (Thủ tướng đối với cấp tỉnh) và cần phải đi vào thực chất các yêu cầu, tiêu chuẩn đối với các chức danh được bầu. Trường hợp không nhất trí kết quả bầu, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên (Thủ tướng đối với các thành viên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh)
có thể yêu cầu Hội đồng nhân dân bầu lại.
Để tránh tình trạng trong khi chờ phê chuẩn không rõ ai là người điều hành công việc
của Uỷ ban nhân dân cũng như để xác định rõ thời điểm bắt đầu thực hiện nhiệm vụ của các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu như Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của
Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mới ghi rõ: "Những người được bầu giữ các chức vụ nói trên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình ngay sau
khi được bầu" (Đ.50 Luật năm 2003). Trường hợp chức danh nào đó không được cấp trên
phê chuẩn thì với quy định này, những hoạt động của họ trong thời gian đó vẫn phù hợp về
mặt pháp lý.
2. Hình thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Trong tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân từ trước đến nay luôn quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách kết hợp với chế độ thủ trưởng. Sự vận dụng nguyên tắc này theo từng giai đoạn lịch sử có thể nghiêng về mặt này hoặc mặt kia.
Tại Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
1994 và năm 2003, bên cạnh việc tiếp tục coi trọng tính tập thể lãnh đạo, đã có sự nhấn mạnh sự phân công và tăng cường hơn chế độ thủ trưởng so với trước đó.
a) Hoạt động tập thể của Uỷ ban nhân dân.
Về vai trò của tập thể Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp quy định: "Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số" (Đ.124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 tại điều
124 quy định 6 vấn đề mà Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số
gồm:
1- Chương trình làm việc của Uỷ ban nhân dân;
2- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
3- Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm ở địa phương trình Hội
đồng nhân dân quyết định;
4. Kế hoạch huy động nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
5. Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế - xã hội, thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước khi trình Hội đồng nhân dân;
6- Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương;
Uỷ ban nhân dân các cấp mỗi tháng họp ít nhất một lần. Các quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.
Hình thức văn bản của Uỷ ban nhân dân là quyết định và chỉ thị. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký xác nhận thay mặt Uỷ ban nhân dân.
b) Hoạt động của Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân.
Về vai trò thủ trưởng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp và Luật quy định khá nổi bật với tư cách là người lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân. Theo Hiến pháp năm 1992 một số nhiệm vụ, quyền hạn trước đây quy định cho Uỷ ban nhân dân như: phê chuẩn kết quả bầu Uỷ ban nhân dân; đình chỉ việc thi hành hay bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và đình chỉ các văn bản
sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới v.v... nay được quy định cho Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân, nhằm đảm bảo lãnh đạo và giám sát kịp thời hoạt động của các chính quyền
Nhà nước cấp dưới ở địa phương.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
1. Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên mônthuộc Uỷ ban nhân dân;
2. Triệu tập và chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban nhân dân;
3. Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng,
kỷ luật cán bộ, công chức Nhà nước theo sự phân cấp quản lý;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới;
5. Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ;
6. Chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Uỷ ban nhân dân trong phiên họp gần nhất;
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được ra quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Phó Chủ tịch và các uỷ viên Uỷ ban nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch phân công và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch về công việc được giao. Các Phó Chủ tịch, tuỳ theo số lượng và tính chất của từng cấp, thường được phân công phụ trách các mảng công tác như kinh tế - tài chính, văn hoá - xã hội. Các uỷ viên được phân công phụ trách các mặt công tác như công an, quân sự, tổ chức, thanh tra, kế hoạch, tài chính, văn phòng v.v...
3. Cơ chế chịu trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân
Cơ chế chịu trách nhiệm đề cập ở đây là cơ sở, hình thức và trình tự chịu sự phán
xét và gánh chịu chế tài của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính cấp trên, của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên trước Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân do các hoạt động chấp hành, điều hành của mình.
a. Trách nhiệm tập thể của Uỷ ban nhân dân.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định: "Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Chính phủ " (Đ.119). Đây là trách nhiệm tập thể của một cơ quan của cơ quan hành chính địa phương trước Hội đồng nhân dân và chính quyền Nhà nước cấp trên. Hình thức trách nhiệm được áp dụng thông thường là từ chức hoặc giải tán.
Ở nước ta thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám đã ghi nhận rất rõ các hình thức trách nhiệm này. Các Sắc lệnh 63 ngày 22-11-1945 và Sắc lệnh 77 ngày17-12-1945 quy định hình thức trách nhiệm từ chức của Uỷ ban hành chính trước Hội đồng nhân dân khi bị bỏ phiếu
bất tín nhiệm và bị giải tán bởi Uỷ ban hành chính cấp trên khi không tuân lệnh cấp trên.
Việc quy định trách nhiệm tập thể của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Song với cách quy định như hiện nay là còn rất chung và không thể thực hiện. Cần thiết phải quy định
cụ thể hơn, đặc biệt là các hình thức chế tài, cơ sở và trình tự áp dụng.
b. Trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên Uỷ ban nhân
dân.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: "Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình... cùng với tập thể Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan Nhà nước cấp trên. Phó Chủ tịch và
các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân. Mỗi thành viên của Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan Nhà nước cấp trên" (Đ.125). Trách nhiệm ở đây thuộc phạm trù trách nhiệm chính trị thể hiện dưới các hình thức chế tài miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức.
Hình thức trách nhiệm của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là bị Hội đồng nhân dân bãi nhiệm, miễn nhiệm (không bao hàm ý cho thôi nhiệm vụ bình thường mà hiện nay vẫn dùng thuật ngữ này) và bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp (đối
với cấp tỉnh là Thủ tướng) miễn nhiệm, cách chức, đình chỉ công tác. Các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân dưới hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, không chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên (và Thủ tướng) chỉ phê chuẩn việc bãi nhiệm, miễn nhiệm đó. Riêng hình thức chịu trách nhiệm của mỗi thành viên của Uỷ ban nhân dân (kể cả Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên) trước Uỷ ban nhân dân cùng cấp cũng như của những thành viên khác của Uỷ ban nhân dân (ngoài Chủ tịch và Phó Chủ tịch đã nói trên) trước cơ quan Nhà nước cấp trên (được hiểu là Uỷ ban nhân dân hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp) như thế nào
thì hiện tại cũng chưa được quy định rõ.
V. CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân dân không những chỉ đòi hỏi sự thay đổi của cơ cấu tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương, mà còn cả sự thay đổi tổ chức haọt động của các cơ quan chính quyền nhà nước ở địa phương.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà các chủ thể của nó phải có quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, và trên cơ sở đó các chủ thể phải chủ động và phải chịu trách nhiệm
về mọi hành vi của mình. Trước hết của sự đổi mới này là sự phân định rõ ràng quyền
hạn, trách nhiệm của từng cấp chính quyền địa phương. Nhà nước pháp quyền không chỉ dừng lại việc phân định giữa 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn phải được phân định giữa trung ương và địa phương, giữa địa phương và địa phương. Về nguyên tắc, trong nhà nước pháp quyền mọi chủ thể đều có quyền tự nhiên của mình, trong đó có cả các địa phương tạo nên tính tự trị của địa phương. Trong phạm vi quyền hạn tự nhiên của mình các đại phương phải chủ động tự chịu trách nhiệm trước pháp luật,
mà không cần thiết phải chịu trách trước chính quyền cấp trên. Sự phối kết hợp giữa các cấp chính quyền cần tuân theo cơ chế hợp đồng.
So với bộ máy của chính quyền trung ương, thì việc tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương của Việt Nam hiện nay vẫn là thể hiện cơ chế bao cấp rõ nhất và nhiều nhất. Vì sự bao cấp và tập trung chỉ có thể xẩy ra từ trung ương xuống
địa phương, chứ không bao giờ có chiều ngược lại.
Sự giản đơn và tập trung bao cấp có thể được thể hiện bằng một loạt những biểu hiện sau đây:
- Thứ nhất, đất nước Việt Nam được chia thành bốn cấp chính quyền nhà nước (kể cả trung ương), theo kiểu các hình chóp nhỏ nằm trong các hình chóp lớn. Việc tổ chức nhà nước địa phương theo kiểu này là rất chắc chắn. Ưu điểm lớn nhất của nó là không để lọt vấn đề phải quản lý, nhưng khuyết điểm lớn nhất của chúng là sự trùng lặp. Các vấn đề quản lý xã hội ở địa phương đều được pháp luật quy định cho tất cả 3 cấp của chính quyền địa phương. Cùng một vấn đề cả 4 cấp chính quyền, kể cả chính quyền trung ương đều phải đứng ra giải quyết, chưa kể đến cấp thôn hiện nay đang được tái hình thành, và
có khả năng giải quyết nhiều công việc như thời xưa. Sự trùng lắp không những chỉ có
tác dụng lãng phí thời gian tiền bạc của ngân sách nhà nước , cũng như sự đóng góp của nhân dân, mà chính còn là sự chồng chéo, và nhũng nhiễu phiền phức cho nhân dân.
- Thứ hai, việc tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền không có sự phân biệt giữa các vùng lãnh thổ khác nhau, giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng đồng bằng và miền núi, giữa vùng có dân tộc kinh với các vùng có nhiều dân tộc thiểu số, tức là không
có sự phân biệt giữa đơn vị hành chính tự nhiên và đơn vị hành chính nhân tạo. Mặc dù
đã có Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc phân biệt thẩm quyền cho chính quyền địa phương các cấp, nhưng như trên đã nêu, và nội dung của pháp lênh này đã được nâng cấp lên thành những quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, nhưng những nội dung của Luật này vẫn chỉ dừng ở mức độ chung cho mọi
cấp.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền cấp dưới là bản sao của chính
quyền cấp trên. Cấp trên có cơ cấu tổ chức nào và các hình thức hoạt động nào, thì ở cấp dưới cũng có những cơ cấu và hình thức đó. Mô hình này được tổ chức theo của Xô viết,
mà đặc trưng của nó là các cấp chính quyền địa phương đều được tổ chức giống nhau. Ở
cấp nào cũng có Hội đồng nhân dân (Xô viết) do dân trực tiếp bầu ra và đều được gọi là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hoạt động một cách hình thức.
Cách tổ chức này không phân biệt các quận, hạt có nhiệm vụ quản lý nhà nước về một lĩnh vực nhất định nào đấy xuất phát từ nhu cầu quản lý chung của nhà nước, với các cộng đồng lãnh thổ dân cư được hình thành một cách tự nhiên bền vững, cần phải có những quyết định phản ánh nhu cầu từ cộng đồng dân cư, khác với các vùng lãnh thổ khác, mà pháp luật và các quyết định quản lý nhà nước cấp trên không có điều kiện thể hiện. Quan hệ trung ương và địa phương không rõ ràng, thiếu thủ tục làm việc, nặng về
cơ chế cấp phát, xin cho.
Đầu mối tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân các cấp cũng còn nhiều nặng nề. Việc kiến thiết tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân còn
rập khuôn và tương ứng với các bộ, ngành trung ương. Tức ở trung ương có bộ, ngành nào thì ở địa phương cũng có các cơ quan chuyên môn đó tương ứng. Số lượng, tên gọi của các cơ quan chuyên môn của mỗi địa phương cũng dập khuôn giống nhau mặc dù đặc điểm tính chất, yêu cầu quản lý ở mỗi địa phương có sự khác nhau.
- Thứ ba, việc tổ chức và hoạt động các cấp chính quyền không tạo điều kiện cho việc chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền cấp dưới, nặng về việc cấp dưới xin ý kiến chỉ đạo, hoặc phê duyệt của cấp trên, theo cơ chế "xin - cho". Các cấp chính quyền trong hoạt động không dựa vào pháp luật, không coi pháp luật là cơ sở hoạt động của mình, mà chỉ dựa vào ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương mang nặng nhiều quy định còn thể hiện ở sự bảo trợ của chính quyền cấp trên, hạn chế sự chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp trên, hạn chế vai trò của pháp luật, nhiều quyết định của chính quyền đã được thông qua, nhưng không có hiệu lực thi hành ngay, mà còn phải chờ sự phê chuẩn của cấp trên.
- Thứ tư, việc tổ chức chính quyền địa phương trước đây quá lệ thuộc một cách chủ quan của tư duy cũ muốn tiến nhanh, tiến mạnh, một cách vội vàng lên chủ nghĩa xã hội, bằng cách nhập một loạt các đơn vị hành chính lại, để cho chúng có đủ dân số và đất đai
với quy mô lớn, mà không phù hợp với trình độ quản lý của chúng ta. Với cách thức suy nghĩ như vậy đã làm cho nhiều đơn vị hành chính trở lên bị thua thiệt, kém phát triển.
Do cả một thời kỳ quá dài phải duy trì cơ chế bao cấp tập trung, nên nhìn chung hiện nay, bên cạnh các địa phương không chủ động giải quyết các công việc có liên quan đến địa phương là việc chính quyền trung ương luôn luôn can thiệp vào những hoạt động của chính quyền địa phương. Thậm chí nhiều quy phạm trong hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn thể hiện rất đậm nét cơ chế này. Vì vậy, một trong những vấn đề nóng bỏng hiện nay là cần phải phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương. Chủ trương chung của phân cấp giữa trung ương và địa phương là: Những việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt thì phân giao cho đầy đủ quyền hạn và đảm bảo những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. Cơ quan được phân giao thẩm quyền phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Tiếp theo sự phân định, phân quyền giữa trung và địa phương, địa phương với địa phương là sự phân quyền giữa các cơ quan Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Trên
cơ sở này mà các cơ quan chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm trước các hành
vi hoạt động của mình. Sự phân định và sự chịu trách nhiệm này gần tương tự sự phân
định, sự chịu trách nhiệm giữa các cơ quan lập pháp pháp và hành pháp ở trung ương.
Hãy xem nhận định của một nhà chính trị học Alfred De Grazia để minh chứng cho nhận định trên:
“Những hội đồng địa phương hoạt động theo những thủ tục lập pháp tương tự như những thủ tục của nền lập pháp quốc gia. Đành rằng chính sách lưỡng viện rất hiếm trong những chính quyền địa phương, song hội đồng đô thị hay thị xã duy nhất góp lại những đề nghị, họp thành uỷ ban để cứu xét những đề nghị đã rồi thảo luận
và bỏ thăm về những đề nghị ấy theo thể thức tương tự như thể thức trong nền lập pháp quốc gia. Vị Chủ tịch Hội đồng, một khi được nhân dân bầu ra, cũng xử sự trong nhiều phương diện như một vị Tổng thống hay Thủ tướng, và hợp lực cùng các viên chức hành chính cao cấp khác để hoàn thành những nhiệm vụ như ấn định
kế hoạch, tổ chức, tuyển mộ nhân viên điều khiển, ấn định ngân sách, v.v..., núi túm
lại các chức vụ tương tự về nhiều phương diện chính như những chức vụ do những viên chức khác thuộc cấp bậc lớn hơn thực hiện...”1.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro