Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 2: sau ly biệt lòng còn vương vấn


Bùi Dự cầm dao tách vỏ ấu thoăn thoắt, chẳng mấy chốc mà được một bát ấu đầy ắp, trắng phau, hiếm có củ nào bị nứt làm đôi. Y bần thần trông chỗ vỏ đen xù xì chất đầy một góc bàn, lại nhìn thư phòng vốn quen thuộc với y đến hơn trăm năm, trong phút chốc, mọi thứ có vẻ thật xa lạ.

Dọn sạch vỏ ấu cho vào lá chuối rồi buộc lại, Bùi Dự bưng củ ấu đã tách vỏ ra bậc tam cấp. Y ngồi xuống cạnh cậu thư đồng đang bện châu chấu và thuyền từ lá tre rồi bảo:

-Xuân Cập, ăn đi này.

Vì sao tên của cậu nhóc này lại là Xuân Cập, nguyên do cũng rất đơn giản. Trước kia Bùi Dự chưa giáng trần, y chưa có cái tên này, mọi người đều gọi y là thần quan Nguyên Đán. Ngày đản sinh của y cũng vào tết Nguyên Đán, việc tổng kết, chỉnh lý sổ sách của dịp lễ đoàn viên này cũng là do y đảm nhiệm. Thế nên lúc chọn thằng bé này làm thư đồng, y liền lấy cái tên Xuân Cập này. Bao giờ đông qua xuân đến, cũng là lúc nhà nhà cùng đón tết.

Chuyên lo việc lễ lạt đoàn viên, mà cuối cùng gia đình lại chia ngả biệt ly.

Xuân Cập ngừng bện thuyền tre, cậu thấy sắc mặt Bùi Dự không tốt lắm, có vẻ man mác buồn liền nói:

-Ông ơi, ông cũng bóc nãy giờ rồi. Ông mau ăn đi ạ.

Bùi Dự mỉm cười, nhón lấy một củ ấu rồi lại đẩy cái bát tô cho Xuân Cập. Cậu thư đồng thấy y ăn rồi cũng ăn cùng, ngập ngừng đôi chút mới mở lời:

- Ông đang nhớ người nhà đúng không ạ?

Trong những năm Bùi Dự giáng trần, Xuân Cập dẫu tò mò về tung tích của y, nhưng cũng không dám trái luật nhà trời mà đi dò la, bởi làm lộ thiên cơ là trọng tội. Vốn dĩ cậu chỉ là thư đồng lo việc giấy mực, lại vẫn còn là một đứa trẻ nên khi Bùi Dự rời đi, công việc của y đã có các quan khác đảm nhiệm thay. Thế nên, Xuân Cập cũng chỉ trông coi phủ Nguyên Đán, vào dịp năm hết tết đến thì sắp xếp lại sổ sách lễ bộ gửi tới mà thôi.

Sau khi xác phàm về với đất, các thiên binh thiên tướng nhà trời đến đón quan thần Nguyên Đán về trời, Xuân Cập mới rõ thân phận của y bây giờ.

Bùi Dự nguyên quán ở phủ Giang Đông(1), năm mười tám tuổi, y đỗ Tam giáo(2) rồi được thánh thượng bổ nhiệm làm việc ở bộ Công. Năm hai mươi tuổi, y theo chân Thị lang bộ Công về Giang Đông đắp đê. Một năm sau đó, y nên duyên với Đặng Thị, con gái của quan tri phủ. Khi Bùi Dự hai mươi tám tuổi, theo luật hồi tỵ (3) của triều đình, y được bổ nhiệm làm tri châu của châu Hồng Giang, phủ Gia Hưng(4). Do có công dẹp loạn người Lương quấy nhiễu biên giới, bảo vệ nước nhà nên sáu năm sau, y hồi kinh và được phong là Chỉ huy sứ của Kim Ngô Vệ, trật chính tứ phẩm(5).

Năm y ba mươi lăm tuổi, thê tử Đặng Thị qua đời, con gái Bùi Thị lúc đó mới chín tuổi.

Đến độ tứ tuần, Bùi Dự đã là Thị lang bộ Binh, trật tòng tam phẩm. Khi ấy, con gái Bùi Thị đã mười bốn tuổi, cũng đã đính hôn.

Sau khi con gái yên bề gia thất, vào độ tuổi bốn mươi sáu, Bùi Dự yên tâm vâng mệnh triều đình làm quan trấn thủ Bắc Sơn. Trong những năm ở Bắc Sơn, y giúp dân khai khẩn đất hoang, khuyến khích buôn bán, cải thiện kinh tế, được nhân dân yêu quý vô cùng.

Vào năm Bùi Dự năm mươi ba tuổi, nhà Lương lại đem quân sang với ý đồ đánh chiếm Đại Việt. Cùng với các tướng lĩnh khác, y cùng họ đẩy lùi thế giặc và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ nước nhà. Trận chiến diễn ra gần một năm, quân đội Đại Việt toàn thắng. Một phần do quân dân đồng lòng, phần do triều đình nhà Lương đã dần suy yếu, phương bắc bị các bộ lạc du mục nhăm nhe xâu xé, phải dời xuống phía nam.

Khải hoàn trở về, Bùi Dự bị bệnh nặng rồi qua đời ở Bắc Sơn, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi. Y được tặng hàm Thiếu úy chính nhị phẩm, truy phong làm quận công.

Và đó là đôi dòng khái quát về cuộc đời của quận công Bùi Dự trong chính sử.

Lời kể của Bùi Dự có phần chi tiết hơn những gì sử quan ghi chép, song, những chuyện liên quan tới gia đình, y dường như không muốn nhắc tới. Xuân Cập cũng không hỏi thêm, bởi cậu cũng mang máng cảm nhận được nỗi muộn phiền của Bùi Dự, dù y đã cố che giấu.

Liên tiếp mấy tháng trời, Bùi Dự đi lại giữa các phủ để xin ấn cấp lệnh, đến nay mới xem như rảnh rỗi một hôm. Do còn bộn bề công việc, Đức Vua Cha Ngọc Hoàng đã rời lịch trao ấn sang ngày rằm, đó cũng là ngày mặt trăng hội tụ đủ linh khí của đất trời, ấn lệnh cũng nhờ đó mà phúc đức đã sâu dày lại thêm phần viên mãn. Về trời rồi, Bùi Dự cũng nên trở lại với nhịp sống trước kia. Y đến Tàng Thư Các (6) để xem lại sổ sách trong những năm qua ở dưới hạ giới.

Ánh nắng vàng xuyên qua những khung cửa sổ chạm bốn loài tùng cúc trúc mai, hắt lên những giá sách cao ngất lác đác vụn vàng. Bóng của bốn loài cây vươn dài, choãi ra từ nền gỗ rồi vươn lên, hằn in trên hàng sách vở đã có từ hàng ngàn năm trước, lưu trữ bóng hình gấm vóc của xứ sở. Bùi Dự đi qua những hàng thẻ tre chất chồng, ánh nắng vàng soi tỏ từng hạt bụi li ti bám lại trên những trang sử của dân tộc, cũng bám lại trên triều phục của y.

Ở Tàng Thư Các của mỗi phủ, từ thần tích của tiên thánh cho tới đời sống của người dân, kể cả những tạo vật nhỏ bé nhất cũng được chép biên rõ ràng, phản ánh lại bức tranh sống động của Đại Việt qua mấy ngàn năm lịch sử. Thế nhưng, trong bốn phủ, thư viện của phủ Thượng Thiên lại dồi dào tư liệu hơn cả. Bởi lẽ mỗi dịp tết đến xuân về, Ông Táo của các nhà đều gửi báo cáo về cho thiên đình để các vị tiên thánh luận xét công đức cho từng nhà. Các chuyện ma chay hiếu hỉ, sinh lão bệnh tử của người trần, từng việc lớn nhỏ đều được lưu giữ ở phủ Trời. Không phải quan nhà Trời nào cũng có thể can dự vào việc công của người trần, đặc biệt là chuyện sống chết. Chỉ duy hai vị quan kề cận bên Đức Vua Cha Ngọc Hoàng là tỏ tường việc này. Đó là Quan Nam Tào giữ sổ sinh, Quan Bắc Đẩu cầm sổ tử.

Trước khi giáng trần, Bùi Dự là quan tâm phúc của Tôn Ông Đệ Nhất(7). Do chuyên liệu việc lễ tết, Bùi Dự phụ trách quản lý sổ sách mà các Ông Táo gửi tới, sau đó y sẽ chuyển lại cho Quan Lớn để ngài kiểm tra rồi dâng lên cho Vua Cha Ngọc Hoàng xem xét. Do vậy, Bùi Dự cũng có thể dễ dàng ra vào Tàng Thư Các, y chỉ không thể bước vào gian cung cấm chứa sổ sách biên chép chuyện thiên cơ mà thôi.

Đến nơi lưu giữ sổ sách của phủ Giang Đông, Bùi Dự vội kiếm tìm sổ trần của bản thân, không khó để y thấy được sổ của vợ con cũng ở gần đấy. Trong những năm vừa mới qua đời, Bùi Dự và vợ dẫu ở hai nơi cũng thường xuyên qua lại thăm nom nhau. Sau đó chiến loạn liên miên, núi sông bắc nam chia ranh giới, dân chúng không được đi lại tự do giữa hai vùng. Trần sao âm vậy, vợ y không thể lên phía bắc thăm y được nữa, nên Bùi Dự thường xuyên xuôi nam thăm nàng. Theo lý thì y cũng không được vượt qua đất Lạc Kinh, nhưng y lại là quan chính danh của triều Đặng, do bảo vệ biên cương mà qua đời trên đất của vua tôi họ Bùi nên việc y cùng một số quan lại được đi lại giữa hai vùng đất cũng là vì lẽ ấy.

Sau khi Thuận Khánh hoàng đế lên ngôi, tiếp nối vương triều nhà họ Đặng thì ở phía bắc, nhà Lương lại rục rịch đem quân tấn công biên giới. Phía bắc Đại Lương đã bị người Đột Quyết nuốt trọn, buộc phải xuôi nam dời kinh. Nhân nghe tin Đại Việt có nội chiến và chia lại biên giới, chúng liền cho quân ồ ạt tiến công các phủ Bắc Sơn, Gia Hưng nhằm mở rộng bờ cõi bù lại cho phần đất bị ngoại tộc chiếm mất. Mặc dù thần thánh bốn phủ đều không hài lòng với vương triều họ Bùi mới lập ở Lạc Kinh, nhưng nếu không ra tay tương trợ thì giặc phương bắc sẽ lại cắn nuốt núi sông nước Nam một lần nữa. Miền Thượng(8) đã tìm được mấy vị tướng tài chính quán các phủ phía bắc để phò tá thiên tử, nhưng nhà Lương lại cho thầy phong thuỷ tới để trấn yểm các huyệt long mạch của Đại An-nơi vua tôi họ Bùi cư ngụ, nhằm làm suy yếu vận khí quốc gia và hòng cản bước nhân tài.

Khi vua Đặng Quang Tông lên ngôi, ngài đã truy phong cho Bùi Dự lên tước quận công, sau này bắc nam chia ngả, quan lại địa phương cũng xin triều đình họ Bùi xây lại đền thờ cho khang trang. Khi ấy vua Quang Đức của họ Bùi cũng ban tặng sắc phong "Hộ Quốc Thần" cho y. Như vậy, Bùi Dự có quyền lực cả ở âm phủ lẫn trần thế và chức vị của y cũng chính danh ở cả hai vùng đất lẫn hai triều đại. Thế nên, mộ của Bùi Dự được chọn để phát nhằm trấn long mạch và bảo vệ hai phủ Giang Đông và Gia Hưng. Do có ngôi mộ phát kết mạnh, hiệu lực của bùa chú cũng bị át đi và suy yếu tác dụng. Khi bùa chú tại các long mạch bị yểm suy yếu đi, các vị tiên thánh của phủ Thượng Ngàn lại chỉ cho các thanh đồng của mình đi hàn lại long mạch. Khi hàn lại được long mạch thứ hai, Mẫu Thượng Ngàn đã nối lại được nhân duyên để các vị tướng tài xuất hiện, trợ giúp cho triều đình. Khi bốn trên sáu long mạch được hàn lại, Đức Vua Cha Nhạc Phủ đã thu giam hồn phách và xử lý tên thầy phù thuỷ kia.

Theo luật của âm phủ, bất kỳ ai, sinh vật nào, cho dù là thần thánh cũng không được tự do can dự vào chuyện sống chết của người cõi dương. Bởi chỉ cần số mệnh của một người thay đổi sẽ kéo theo sự biến chuyển trong cuộc sống của vô số người khác. Thế nên, dẫu muốn tiễn tên phù thuỷ từ sớm, các vị tiên thánh cũng chỉ đành sử dụng giải pháp là để Bùi Dự phát mộ ngay lập tức nhằm cản hiệu lực của bùa chú, rồi mới tính sổ gã kia sau.

Trong quá trình phát mộ để trấn an long mạch của Đại An, Bùi Dự hoàn toàn phải ở trong mộ. Y không được ra ngoài, người ngoài cũng không được phép vào trong. Y chỉ có thể ngồi thiền một chỗ như thế, nội tâm cũng chỉ tập trung hoàn toàn cho nhiệm vụ phát mộ nhằm hỗ trợ mọi người ở bên ngoài. Hễ có người tới cúng bái xin lộc, y uỷ quyền cho Thần Thổ Địa làm công việc ghi chép những lời y nói vọng ra từ trong mộ. Đến năm Quang Đức thứ tám, cũng là năm Thuận Khánh thứ mười, việc phát mộ của Bùi Dự đã hoàn tất. Khi ấy, đất nước cũng trong cảnh thái bình thịnh trị được vài năm.

Mười năm, Bùi Dự đã ở nguyên một chỗ đằng đẵng mười năm.

Phát mộ xong, phủ Thượng Thiên cử thiên binh thiên tướng tới đón quan thần Nguyên Đán, cũng là tướng quân Bùi Dự về trời. Trong mười năm dài chỉ ở nguyên trong mộ, Bùi Dự không thể xuống phía nam gặp vợ thăm con. Y cũng không biết con của mình còn sống hay đã chết. Mấy tháng nay, y chỉ vội vã đi các đền các phủ xin ấn lệnh thật nhanh để chóng về phủ Trời sắp xếp công việc rồi sau tìm gặp người thân.

Bàn tay y lật giở từng trang sổ ghi chép chi tiết cuộc đời và gia đình của mình, xúc cảm hoài niệm dâng trào. Tuy nhiên, khi mở sổ của con gái, Bùi Dự nhìn những dòng chữ dừng lại cách đây ba mươi năm về trước, cõi lòng lại chùng xuống. Đây là sổ ghi chép thông tin hàng năm mà ông công ông táo gửi về thiên đình báo cáo. Những năm sau khi Bùi Dự qua đời, con gái y lưu lạc khắp nơi, mấy tháng lại đổi chỗ ở một lần, chỗ ở cố định lâu nhất cũng không đến một năm rưỡi. Hàng năm cứ đến ngày kỵ và tháng bảy âm lịch, mỗi năm Bùi Dự phải đi nhận đồ mã ở một đền khác nhau. Do con gái không thờ cúng tại gia, nên nếu gửi đồ cho vợ chồng y thì cũng sẽ gửi nhờ ở một đền hoặc phủ nào đó rồi y sẽ qua đó lấy.

Đã nhiều năm như thế rồi, áo mũ ngựa xe gửi khắp nơi cũng không có ai đến nhận nữa.

Chẳng biết bây giờ người gửi phiêu bạt nơi đâu?

                                                     *****

Phi nước đại về đến phủ Hoàng Hoa(9), con ngựa bị ghì cương hí dài một tiếng rồi dừng lại.

Ba mươi lăm năm về trước, khi núi sông vẹn toàn, phủ Hoàng Hoa hãy còn là đô thành của Đại Việt. So với khắp nơi trên cả nước, không đâu tấp nập hơn cả. Kinh đô ngày ấy nay là cố đô, núi xanh sừng sững từng dãy như lớp lớp tường thành kiên cố chở che, giữ gìn cho nét cổ kính, trang nghiêm còn sót lại của thời vàng son nọ.

Trong những năm nội chiến kéo dài, quân thần họ Đặng lui binh về Thanh Đô để củng cố lực lượng, họ Bùi trở lại đất tổ Lạc Kinh dựng quốc xây thành. Hoàng Hoa khi ấy từ kinh đô bị giáng xuống trở thành một phủ, nay dân chúng vẫn đông đúc, nhưng không thể nào sánh bằng kinh đô ngày ấy được nữa.

Bùi Dự cũng chỉ biết đến thế, bởi sau đó y không thể tìm gặp người thân nữa.

Y phi ngựa tới nghĩa trang mà năm ấy y đã an táng vợ mình. Trong mắt người dương, đó chỉ là nơi an nghỉ của người đã khuất, thế nhưng ở cõi âm, nơi đó là một khu dân cư đông đúc. Thấy đường xá chật hẹp hơn, người qua kẻ lại tấp nập, Bùi Dự dắt bộ ngựa qua từng con ngõ. Không khó để y đoán ra đó là dân chạy nạn, lính tráng chết trong nội chiến.

Bùi Dự đi mãi, cuối cùng cũng tìm được chỗ ở của vợ mình hồi trước. Ngay khi tới nơi, y đứng sững lại trước ba, bốn ngôi nhà nhỏ xíu xếp san sát nhau, thay cho căn nhà rộng có sân lát đá trước kia. Nhìn tên họ trên bia đá, Bùi Dự cũng ngờ ngợ rằng mấy người này là cùng một tộc.

Ông tam đại của họ đó thấy Bùi Dự cứ đứng trước cửa nhà mình một hồi lâu thì liền ra chào hỏi:

-Xin hỏi quan trên có điều chi căn dặn chúng tôi?

Về chuyện mồ mả, con cháu hay công đức gia đình đây?

Bùi Dự ngập ngừng trong giây lát rồi mới mở lời:

-Nơi đây từng là nhà của vợ ta cho tới hơn mười năm trước. Nàng ấy hiện giờ đang ở đâu rồi, ông có hay chăng?

-Chuyện của phu nhân, chúng tôi quả thực không rõ. Nhưng cách đây dăm ba năm, con cháu trong họ chuyển nhà cho chúng tôi ra đây thì đất này ngày trước là bãi chôn tập thể, toàn người tha hương thôi!

Bùi Dự yên lặng nghe ông ấy kể chuyện, mấy năm trước người chết nhiều, người ta xuống dưới này cứ phải chen chúc nhau mà sống. Sau rồi đến phiên đến kì, họ được xếp cho đi đầu thai. Đến lúc con cháu của tộc này mua lại đất để sang cát cho họ, đất này đã qua mấy mùa ruộng rồi.

Nỗi bất an dâng đầy trong tim Bùi Dự, y vội cáo biệt ông lão rồi tìm đến chỗ thành hoàng làng xin xem nhờ sổ sách để xác nhận thực hư. Hồi còn ở dương thế, Bùi Dự từng xin sắc phong cho ông thành hoàng làng họ Lê này, cũng tu sửa đền miếu cho khang trang nên ông quan này rất quý Bùi Dự, luôn phù hộ cho đường công danh của y gặp may mắn. Sau khi mất, mỗi lần xuôi nam thăm vợ, Bùi Dự cũng đều tới ghé thăm gia đình ông thành hoàng làng ấy.

Dường như may mắn không mỉm cười với y, bởi khi tới nghè (10), gia nhân của Lê Thực thưa lại rằng, hiện ông đang phải đi canh giữ mộ phần của các vua để siết lại long mạch. Phủ Hoàng Hoa vốn là đất tổ của họ Đặng, lăng tẩm của các vua đời trước đều được đặt ở đây. Bây giờ, Hoàng Hoa không còn là kinh đô, nhưng dẫu sao vẫn là hành cung và là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều trước, nên việc bảo vệ long mạch vẫn rất được xem trọng.

Mặc dù không gặp được Lê Thực, người ở nghè cũng bẩm cho y biết, vợ y thực sự không còn ở đây nữa. Mười năm trước, lúc Bùi Dự bắt đầu phát mộ, phe cánh của thái hậu Bùi Thị và đương kim hoàng đế, lúc bấy giờ đã đối đầu nhau gay gắt. Hồi ấy hai họ đã chia ranh giới, đánh nhau ròng rã hơn hai năm. Binh lực hai bên suy tổn, người chết nhiều như ngả rạ. Cũng vì thế mà nghĩa trang càng thêm chật chội, người chết chôn chen chúc nhau, thậm chí hoả táng tập thể rồi chôn cũng có. Thế nên, nhiều ngôi mộ không được chăm lo tu sửa cũng dần xuống cấp và trở thành một phần của bãi chôn tập thể.

Khi ấy là thời loạn, nạn trộm mộ hoành hành khắp nơi. Nghĩa trang này lại là nơi an nghỉ cuối cùng của nhiều quý tộc quan lại tiền triều, nên mộ của họ đều bị lũ trộm nhắm tới hòng khua khoắng đồ tuỳ táng hoặc đồ thờ quý giá. Không ít mộ bị đào lên rồi vứt thi cốt đi nơi khác. Trong dân gian cũng có lời đồn rằng, có lẽ do trộm mộ xâm phạm hoàng lăng nên họ Đặng đã đến lúc suy vi, phải nhường nửa giang sơn cho họ Bùi. Nhưng dù sao đồn cũng chỉ là đồn, bởi hoàng lăng luôn được canh phòng nghiêm ngặt. Hơn nữa, việc đương kim hoàng đế dẹp loạn Chiêm Thành, lại mở mang bờ cõi về phía nam càng chứng tỏ rằng, sự thịnh suy của vương triều nằm trong tay người trị quốc, chứ không phải ở ý trời. Lâu dần, lời đồn cũng biến mất, thế nhưng việc nông dân đi bắt cá sông mà vô tình bắt gặp cốt người cũng không phải là chuyện gì hiếm lạ.

Vợ của Bùi Dự là một trong số những người xấu số đó.

Thi cốt của nàng bị vứt ở con kênh gần đó, sau lại trôi dạt ra sông rồi được người ta vớt lên. Họ cũng chỉ an táng qua quýt rồi thôi, bởi truy được danh tính của người đã khuất đối với họ cũng không phải là chuyện đơn giản.

-Vợ của ta là tiên, nếu chỉ có vậy thì giờ hẳn nàng vẫn đang ở đất này mới phải? Ta đã đi gần hết cả phủ Hoàng Hoa rồi, sao vẫn không thấy nàng đâu?

Phu nhân Đặng Thị, khuê danh là Cẩm Tú, vốn là một tiên nữ ở Địa Phủ. Do nhà quan tri phủ họ Đặng mãi không có con, mà hai ông bà lại là người phúc hậu, nhân nghĩa nên nhà trời lệnh cho tiên cô Cẩm Tú xuống trần làm con để chăm sóc họ, thỏa lòng mong mỏi. Đương lúc quan thần Nguyên Đán của Thiên Phủ giáng trần, nhà trời liền tác hợp cho hai người nên duyên.

Sau khi qua đời, Cẩm Tú lại về hầu Bà Chúa Liễu ở Đồi Ngang để gần chồng gần con. Hiềm nỗi, khi Bùi Dự qua đời, di hài chưa kịp đưa từ Bắc Sơn về lại quê nhà thì đã đùn mối rồi thành mộ. Thế là từ đó, cùng với sự tồn tại song hành của lưỡng triều, gia đình họ đã vĩnh viễn bị chia cắt.

Sau khi Bùi Dự phát mộ để trấn yểm long mạch, y đã không gặp bất kỳ ai trong mười năm. Cũng trong khoảng thời gian ấy, vào năm Thuận Khánh thứ hai, công chúa Liễu Hạnh giáng trần. Cẩm Tú cùng các tiên cô khác ngày ngày cùng lo liệu công việc ở các vùng lân cận quanh Đồi Ngang. Bẵng đi một ngày, các cô không thấy nàng đâu cả, liền chia nhau vội vàng đi tìm chị em. Lúc tìm được Cẩm Tú, cô nào cô nấy đều không khỏi kinh hãi, khi thấy nàng đang ôm cái trán bê bết máu ngồi ở triền sông. Mộ của nàng đã bị quật, hài cốt trôi dạt ra sông. Các tiên cô ríu rít rủ Cẩm Tú về phủ để chữa thương, nhưng nàng chỉ hốt hoảng nhìn họ như những người xa lạ. Đến khi ấy, các tiên cô ngó hài cốt dưới đáy sông thì mới vỡ nhẽ, Cẩm Tú bị quất phải hộp sọ nên đâm mất trí, nàng còn chẳng nhớ mình là tiên!

Thần tiên mà được người đời biết đến rồi hương khói đủ đầy, pháp lực sẽ mạnh hơn tiên bình thường. Thế nhưng, rất ít thần tiên không hạ phàm mà được nhiều người phàm biết đến. Cách tốt nhất để có bước tiến trong sự nghiệp chính là giáng trần và tạo dựng công đức. Phúc đức càng sâu dày, càng được nhiều người biết đến thì ngày sau vị đó về lại cõi tiên, sẽ có cả danh tiếng lẫn pháp lực.

Tuy xuống trần gian đem lại lợi ích to lớn như thế, nhưng vẫn có một điểm yếu chí mạng. Nếu mồ mả, thi cốt bị huỷ hoại, thì bản thân người đó, cho dù chỉ còn ở dạng linh hồn cũng phải chịu nỗi đau tương ứng. Như trường hợp của Cẩm Tú lúc bấy giờ, nhất thời các cô không biết phải giải quyết ra sao. Bởi lẽ, chỉ có cấp trên trực tiếp quản lí các cô mới có đủ quyền phép để phục hồi thương tích cho Cẩm Tú, cũng có cách để an táng lại mồ mả cho nàng.

Do Phủ Thượng Thiên cách xa trần thế, nên Mẫu Cửu Trùng Thiên đã uỷ quyền cho công chúa Liễu Hạnh đại diện cho phủ trời ở cõi dương. Mà tiên chúa giáng trần chưa về, lại thêm chiến sự kéo dài, bề trên liền bàn bạc để các phủ Thượng Thiên, Thượng Ngàn đảm đương việc đối phó với nhà Lương. Phía nam thì có phủ Địa, phủ Thoải lo quân Chiêm Thành. Cô Chín hiện đang ở Bắc Lệ cùng bà chúa Nguyệt Hồ tiên liệu chiến sự. Tình hình trận mạc căng thẳng, nhà Lương lại ồ ạt đem quân xuống khiến cô không rời đi đâu được. Cô Cả thì đảm đương tài liệu đơn sớ giúp các mẫu, nên để thuận tiện cho công việc, cô vẫn đang trên phủ trời. Các Chầu, các Chúa địa phủ thì đã xuôi nam được mấy tháng để giúp họ Đặng dựng lại sơn hà. Trước mắt, những vị tiên thánh có thể nhờ cậy lại không ngự ở bản đền. Sau một hồi bàn bạc, có cô nảy ra một ý:

-Hay là chúng mình nhờ Mẫu Thoải (11) giúp đưa Cẩm Tú về?

Thoạt đầu, các cô đều tán đồng với ý này. Thế nhưng, ngẫm kỹ lại nảy ra vấn đề khác. Cẩm Tú đang là tiên của Địa phủ, nay do mất trí nên phải lang thang như cô hồn. Nếu nhờ Mẫu Thoải đưa nàng về, thì theo luật, nàng là cô hồn nên tạm thời phải lưu lại chỗ của Mẫu cho tới lúc đi đầu thai. Nhưng danh tính của Cẩm Tú thì tính thế nào đây? Là người hay tiên, ở Địa Phủ hay Thoải Phủ?

Cuối cùng, do không đành lòng để Cẩm Tú ở lại một mình với vết thương đang đổ máu, các cô quyết định mời Mẫu đến để đưa nàng về và để Mẫu tìm cách giúp an táng lại hài cốt của nàng. Sau đó, các cô gửi giấy tờ của nàng về thiên đình nhờ cậy Mẫu Cửu Trùng Thiên sắp xếp thân phận mới cùng công việc cho Cẩm Tú, để nàng tạm thời theo hầu Mẫu Thoải. Còn về ký ức của nàng, các tiên cô cũng chỉ đành chờ công chúa Liễu Hạnh trở về rồi tính tiếp. Bởi chuyện mồ mả, thương tích thì có thể nhờ các tiên thánh khác cùng phủ cứu chữa, còn Cẩm Tú lại theo hầu một mình công chúa Liễu Hạnh, nên chỉ có tiên chúa giúp nàng nhớ lại được thôi.

Bùi Dự chăm chú nghe mấy người ở nghè kể chuyện, nghe đến độ đờ đẫn. Hoá ra người lái đò hôm nọ y gặp ở cửa Thác Bờ là vợ y thật. Không dưng mà lại có người giống vợ mình từ ngoại hình đến giọng nói như thế, nhưng khi thấy lệnh bài và hỏi người đó làm việc ở đâu, nàng đáp là ở phủ Thoải, mối hoài nghi trong lòng y đã bị dập tắt. Y nào ngờ cơ sự lại lắm điều nhiêu khê đến vậy. Hoá ra trong những năm Bùi Dự không thể về đây, vợ y lại vất vả khó nhọc như thế.

Sau khi tạm biệt mấy người ở nghè, y luống cuống thúc ngựa chạy về phía trước, về một con đường xa lạ mà có lẽ hơn ba mươi năm trước y đã từng thuộc nằm lòng. Phủ Hoàng Hoa vàng son ngày ấy nay đã hoá rêu phong, vẻ lộng lẫy huy hoàng của tòa thành này giờ đây chỉ còn lại trong ký ức của y. Mà có lẽ, vẻ đẹp trác tuyệt của kinh đô năm ấy đã được y tô vẽ thêm bằng biết bao hy vọng và hạnh phúc từ thuở thiếu thời tới lúc hiển vinh.

Càng đi, càng nghĩ lại càng đớn đau. Nỗi đau nơi ngực trái lan dần, choán lấy tâm trí Bùi Dự, đau đến độ y không thở nổi. Y mỏi mệt gục đầu xuống, một tay nắm dây cương, tay còn lại che đi vành mắt đỏ quạch.

"Trơ đây những sợi lòng thòng,

Kéo về buộc lại khó lòng lắm thay!

Liều cho nam bắc đông tây,

Chia lìa các ngả thì đây cũng đành.

Tiếc chi cái phận lênh đênh,

Bay về mình biết cho mình đấy thôi.

Oanh buồn bướm mệt lắm rồi,

Xuân sau dù gặp cũng ngoài một năm!" (12)


Chú thích:

Chú thích:

(1). Giang Đông: địa danh hư cấu, có vị trí địa lý tương đương với các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên ngoài đời thực.

(2). Luật hồi tỵ: Luật Hồi tỵ được ban hành đầu tiên dưới thời vua Lê Thánh Tông. Luật ra chỉ dụ cấm quan lại không được lấy vợ, kết hôn, làm thông gia ở nơi mình cai quản, cũng như không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà ở nơi mình làm quan lớn, không được dùng người cùng quê làm người giúp việc. Không được bổ nhiệm viên quan về cai trị huyện hoặc tỉnh mà ông ta xuất thân từ đó. Không được bổ nhiệm một viên quan tới nơi ông ta có người họ hàng tại nhiệm ở vị trí lãnh đạo.

(3). Gia Hưng: địa danh hư cấu, có vị trí địa lý tương đương với một phần các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn.

(4). Thi Tam giáo: Thời Lý - Trần tổ chức thi Tam giáo để tuyển những người thông hiểu cả ba tôn giáo Nho, Phật và Lão. Khoa thi Tam giáo đầu tiên diễn ra năm 1195 đời Lý Cao Tông. Người đỗ Tam giáo gọi là Tam giáo xuất thân. Khoa thi Tam giáo cuối cùng tổ chức năm 1247 đời Trần Thái Tông. Hình thức này sau đó không áp dụng nữa.

(5). Phỏng theo thể chế võ quan thời vua Lê Thánh Tông.

(6). Tàng Thư Các: nơi lưu giữ sổ sách

(7). Tôn Ông Đệ Nhất: là vị quan lớn đứng đầu trong Ngũ Vị Tôn Ông, hay còn gọi là Quan Đệ Nhất Thượng Thiên.

(8). Miền Thượng: phủ Thượng Ngàn

(9). Phủ Hoàng Hoa: địa danh hư cấu, có vị trí địa lý tương đương với tỉnh Ninh Bình

(10). Nghè: đền, miếu nhỏ thờ thành hoàng làng hoặc các vị thần có công với làng.

(11). Mẫu Thoải: là Mẫu Thoải ở đền Vực Vông, Ninh Bình.

(12). Nam kha tử- Tào Tuyết Cần. Bản dịch của nhóm Vũ Bội Hoàng.


28/11/2025. Viết bởi Lập Đông, chỉ đăng tại VV@ttpad.

Cảm ơn mọi người vì đã đọc, hãy bình chọn và bình luận để mình có động lực viết tiếp nhóoo <33

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro