LÀM CHỦ NGHỆ THUÂT THUYẾT PHỤC
Phần 1
Một vài người may mắn
có được nghệ thuật thuyết
phục, còn hầu hết mọi
người không có nó. Liệu
bạn có khả năng thu
hút khán giả, làm lay
chuyển những người còn chưa
quyết định đi theo bạn,
biến kẻ thù thành bạn
bè?
Trong kỷ nguyên của các
nhóm làm nhiều nhiệm vụ
khác nhau và hợp tác
liên công ty, việc lĩnh
hội nghệ thuật thuyết phục
có ảnh hưởng lớn hơn
nhiều cơ cấu quyền lực
chính thức.
Nhưng có thực sự khả
năng thuyết phục rất kì
diệu? Chúng ta - những
con người bình thường hàng
ngày phải đối mặt với
những thử thách của việc
lãnh đạo, chúng ta thất
vọng liệu rằng có một
ngày mình lĩnh hội được
nghệ thuật này?
Tin tốt cho chúng ta
- từ ngành khoa học
hành vi: Nghệ thuật thuyết
phục khêu gợi lên những
nhu cầu thầm kín và
có thể dự đoán được
của con người. Hầu hết
chúng ta đều có thể
học cách đảm bảo sự
đồng thuận, giảm giá thành
trong thương lượng, và giành
được sự nhượng bộ của
đối tác - bằng cách
áp dụng một cách nghệ
thuật sáu nguyên lý khoa
học về kết bạn và
gây ảnh hưởng đến người
khác.
Một số người có tài
năng thiên bẩm đơn giản
họ biết cách thu hút
người nghe, lay chuyển những
người chưa theo mình, và
biến những người phản đối
thành người ủng hộ mình.
Quan sát những bậc thầy
về nghệ thuật thuyết phục
thể hiện sự thần kì
của họ ngay lập tức
khiến chúng ta thấy ấn
tượng và bối rối.
Điều gây ấn tượng không
chỉ ở cách họ dễ
dàng sử dụng sức thu
hút và tài hùng biện
để thuyết phục người khác
làm những gì họ đề
nghị, mà còn ở chỗ
những người khác hào hứng
như thế nào khi làm
những việc họ được giao
cho, như thể nghệ thuật
thuyết phục tự bản thân
nó là một ân huệ
mà họ không thể chờ
đợi hơn nữa để đáp
trả.
Phần làm chúng ta bối
rối là những người có
khả năng thuyết phục bẩm
sinh này thường không thể
giải thích cũng như truyền
dạy kỹ năng đáng ngạc
nhiên này cho những người
khác. Cách thức của họ
trong con mắt những người
khác là một nghệ thuật,
và như một quy luật,
người nghệ sỹ giỏi trong
thực hành hơn là giải
thích cho người khác.
Hầu hết những người này
không thể giúp đỡ chúng
ta - những người có
sức thu hút và khả
năng diễn thuyết bình thường
nhưng vẫn phải đối mặt
với thách thức căn bản
của việc lãnh đạo- thuyết
phục người khác làm việc
cho mình.
Thử thách đó cũng khó
khăn tương tự đối với
các nhà quản lý doanh
nghiệp - những người hàng
ngày phải tìm ra cách
khuyến khích và chỉ dẫn
lực lượng lao động gồm
các cá nhân có tài
năng. Giơ tấm biển "Bởi
vì tôi là ông chủ"
giờ đã lỗi thời. Thậm
chí nếu như nó vẫn
còn ý nghĩa và hợp
với quy tắc đạo đức
đối với tất cả những
người liên quan, thì quan
điểm đó cũng không còn
chỗ đứng trong một thế
giới nơi các nhóm làm
nhiều chức năng, các công
ty hợp doanh, các sự
hợp tác liên công ty
đã phá đi ranh giới
của quyền lực. Trong môi
trường đó, nghệ thuật thuyết
phục có tầm ảnh hưởng
đến hành vi của người
khác lớn hơn cơ cấu
quyền lực cũ nhiều.
Điều này lại khiến chúng
ta trở lại vị trí
xuất phát ban đầu. Kỹ
năng thuyết phục có thể
cần thiết hơn bao giờ
hết, nhưng làm cách nào
để các nhà quản lý
có thể có những kỹ
năng này nếu như những
người thuyết phục thành công
tài năng nhất không thể
truyền lại nghệ thuật của
họ? Bằng cách dựa vào
khoa học.
Trong suốt năm thập kỷ
vừa qua, các nhà khoa
học hành vi đã thực
hiện các thực nghiệm hé
lộ ánh sáng về cách
thức các giao dịch nhất
định khiến con người nhượng
bộ, tuân thủ, hay thay
đổi. Nghiên cứu này chứng
minh rằng nghệ thuật này
vận dụng cách khêu gợi
các nhóm động cơ hữu
hạn và nhu cầu thầm
kín của con người, và
nghệ thuật thuyết phục này
vận hành theo những cách
có thể dự đoán được.
Nói một cách khác, nghệ
thuật thuyết phục bị chi
phối bởi các nguyên tắc
cơ bản có thể được
đào tạo, học hỏi, và
áp dụng. Bằng cách làm
chủ các nguyên tắc này,
nhà quản lý có thể
mang lại sức sống cho
ngành kinh doanh một cách
khoa học để đảm bảo
sự đồng thuận, giảm chi
phí thoả thuận, và giành
được sự nhượng bộ. Phần
tiếp theo của bài viết
này sẽ miêu tả sáu
nguyên tắc cơ bản của
nghệ thuật thuyết phục và
đề xuất một số cách
mà các nhà quản lý
có thể áp dụng chúng
trong tổ chức của họ.
Các nguyên tắc của nghệ
thuật thuyết phục
* Kết nối
Mọi người đều thích những
người thích họ, họ tự
thích bản thân mình
Ví dụ: Trong bữa tiệc
Tupperware, sự thích thú của
khách hàng với chủ nhà
ảnh hưởngđến quyết định mua
nhiều gấp hai lần ảnh
hưởng của sản phẩm.
Áp dụng: Để gây ảnh
hưởng đến mọi người, và
có nhiều bạn, thông qua:
- Sự giống nhau: Tạo
ra sự gắn bó ban
đầu với đồng nghiệp mới,
ông chủ mới và những
người trực tiếp báo cáo
với bạn bằng cách kín
đáo khám phá những mối
quan tâm chung của họ
- bạn sẽ thiết lập
thiện chí và sự tin
tưởng.
- Lời khen tặng: thu
hút và làm người khác
nguôi giận. Nhận xét tích
cực về mọi người -
bạn sẽ tạo ra sự
cộng tác nhiệt tình hơn
từ họ.
* Tương hỗ
Con người đáp trả những
ai đã tốt với họ.
Ví dụ: Khi các cựu
chiến binh tàn tật Hoa
Kì gắn các nhãn địa
chỉ miễn phí ghi tên
từng người trong các phong
bì mời đóng góp từ
thiện, số lượng trả lời
tăng gấp đôi.
Áp dụng: Hãy cho đi
cái mà bạn muốn nhận
lại. Hãy cho đồng nghiệp
mượn một nhân viên của
mình khi họ cần sự
giúp đỡ của bạn; bạn
sẽ nhận được sự giúp
đỡ từ đồng nghiệp này
sau này.
* Bằng chứng xã hội
Mọi người sẽ làm theo
khi nhiều người giống mình
cũng làm như vậy
Ví dụ: Nhiều người dân
New York trả lại ví
mất hơn khi biết rằng
những người New York khác
cũng đã từng làm thế.
Áp dụng: Hãy sử dụng
tầm ảnh hưởng của những
người ngang hàng với bạn
để gây ảnh hưởng theo
chiều ngang, không phải theo
chiều dọc; ví dụ, mời
một người "thuộc thế hệ
cũ" có ảnh hưởng để
ủng hộ các sáng kiến
nếu như các nhân viên
kì cựu khác phản đối
bạn.
* Nhất quán
Con người hành động theo
những cam kết bằng văn
bản, công khai và tự
nguyện.
Ví dụ: 92% dân cư
sống trong một khu đã
kí quyết định sẽ góp
tiền ủng hộ dự án
xây mới khu trung tâm.
Áp dụng: Hãy biến những
cam kết của người khác
thành cam kết có hiệu
lực, công khai, và tự
nguyện. Nếu bạn quản lý
một nhân viên người phải
nộp các báo cáo đúng
thời hạn, hãy viết sự
thoả thuận đó ra giấy
(một bản ghi nhớ), công
khai cam kết đó; và
kết nối cam kết đó
với các giá trị của
nhân viên (ảnh hưởng của
các báo cáo đúng thời
hạn lên tinh thần đồng
đội chẳng hạn).
* Chuyên môn
Người ta thường tìm đến
các chuyên gia - những
người có các cách giải
quyết ngắn nhất để đưa
ra quyết định đòi hỏi
thông tin chuyên nghiệp.
Ví dụ: Ý kiến một
chuyên gia trên New York
Times phát sóng trên TV
tạo ra 4% thay đổi
trong ý kiến của người
dân Mỹ.
Áp dụng: Đừng cho rằng
khả năng chuyên môn của
bạn là điều hiển nhiên
ai cũng thấy. Thay vì
đó, hãy thiết lập sự
tin tưởng vào chuyên môn
của bạn trước khi làm
kinh doanh với đồng nghiệp
hay đối tác; ví dụ,
bạn nói chuyện với họ
trước một buổi họp quan
trọng, miêu tả cách bạn
giải quyết rắc rối tương
tự với cách một thành
viên trong quốc hội.
* Sự khan hiếm
Mọi người đánh giá cao
những gì khan hiếm
Ví dụ: Những nhà bán
buôn thịt bò nhận được
số đơn đặt hàng tăng
600% khi họ nhận được
thông tin là có khả
năng khan hiếm thịt bò.
Áp dụng: Sử dụng các
thông tin mật để thuyết
phục. Gây ảnh hưởng và
gây sự chú ý của
người chơi quan trọng bằng
cách nói, ví dụ: "...vừa
mới nhận được thông tin
đó hôm nay. Thông tin
này sẽ không được công
bố cho đến tuần sau".
Robert B.Cialdini
Havard Business Review
Ngọc Trâm (dịch)
(Còn nữa)
* Robert B.Cialdini là nhà
tâm lý học nổi tiếng,
giáo sư môn Tâm lý
học đồng thời thành viên
của hội đồng quản trị
Trường ðại học bang Arizona,
Mỹ. Ông nổi tiếng với
các cuốn sách về thuyết
phục và marketing như: "Gây
ảnh hưởng: Tâm lý của
sự thuyết phục"; "Gâyảnh hưởng:
Khoa học và ứng dụng"...
Phần 2
Khi nghiên cứu về nghệ
thuật thuyết phục, tác giả
Robert B.Cialdini đã chỉ ra
rằng, hai trong số các
nguyên tắc của nghệ thuật
này là kết nối và
tương tác. Nguyên tắc kết
nối thể hiện ở chỗ
"mọi người thích những ai
thích họ", còn nguyên tắc
tương tác chứng tỏ rằng
"mọi người đều đền đáp
cho ai đối tốt với
họ".
Nguyên tắc: Kết nối
Áp dụng: phát hiện sự
tương đồng thực sự và
đưa ra những lời khen
thực lòng.
Hiện tượng bán lẻ trong
trường hợp buổi tiệc của
Tupperware là minh hoạ rõ
ràng trên thực tế của
nguyên tắc này. Bữa tiệc
trưng bày sản phẩm của
Tupperware được tổ chức bởi
một cá nhân, thường là
một phụ nữ, người sẽ
mời đến nhà mình một
loạt bạn bè, hàng xóm,
và họ hàng. Tình cảm
của khách mời dành cho
nữ chủ nhân sẽ khiến
họ mua hàng hoá của
chủ nhà, một động lực
mua hàng đã được khẳng
định trong nghiên cứu năm
1990 về quyết định mua
hàng ở các bữa tiệc
trưng bày sản phẩm.
Jonathan Frenzen và Harry Davis,
hai nhà nghiên cứu, viết
trong cuốn "Tạp chí chuyên
đề Nghiên cứu khách hàng",
nhận xét sự quý mến
của khách với nữ chủ
nhân đáng giá gấp hai
lần cân nhắc của họ
với hàng hoá họ mua
trong việc đưa ra quyết
định mua hàng. Bởi vậy
khi khách ở bữa tiệc
Tupperware mua hàng, họ không
chỉ mua để làm hài
lòng bản thân họ. Họ
đang mua hàng để làm
hài lòng cả nữ chủ
nhà nữa.
Điều gì thực sự xảy
ra ở những bữa tiệc
Tupperware cũng thực sự xảy
ra với công việc kinh
doanh nói chung: Bạn muốn
gây ảnh hưởng tới người
khác, và có nhiều bạn
bè, bằng cách nào?
Các nghiên cứu có kiểm
soát đã xác định ra
một vài nhân tố làm
tăng sự kết nối một
cách đáng tin cậy, nhưng
trong đó có hai nhân
tố đặc biệt quan trọng
- là sự tương đồng
và lời ngợi khen. Nói
theo nghĩa đen sự tương
đồng bao giờ cũng kéo
mọi người vào gần nhau
hơn.
Trong một thí nghiệm, báo
cáo đăng trên Tạp chí
chuyên đề Tính cách cá
nhân năm 1968, những người
tham gia đứng gần nhau
hơn về mặt khoảng cách
sau khi họ biết rằng
họ cùng chia sẻ cùng
một niềm tin chính trị
và giá trị xã hội.
Và trong một bài báo
năm 1963 của tờ "Những
nhà khoa học hành vi
Hoa Kỳ", nhà nghiên cứu
F.B.Evans sử dụng dữ liệu
nhân khẩu học từ các
báo cáo của một công
ty bảo hiểm để chứng
minh rằng khách hàng tiềm
năng sẽ sẵn sàng kí
hợp đồng với người bán
hàng cùng tuổi, tôn giáo,
cùng quan điểm chính trị,
hoặc thậm chí là cùng
thói quen hút thuốc lá.
Các nhà lãnh đạo có
thể sử dụng sự tương
đồng để tạo ra mối
liên hệ mật thiết với
các nhân viên mới thuê,
trưởng phòng, hay thậm chí
với ông chủ mới. Các
cuộc trò chuyện thường ngày
trong suốt ngày làm việc
tạo cơ hội lý tưởng
để khám phá ít nhất
một lĩnh vực sở thích
chung, một thói quen, một
đội bóng rổ ở trường
ðại học, hay cuộc tái
vận động cử tri của
Seinfeld.
Điều quan trọng là thiết
lập mối quan hệ ngay
từ lúc đầu bởi vì
sự ràng buộc này sẽ
tạo tiền đề cho thiện
chí và niềm tin trong
những lần gặp gỡ sau
này. Bạn sẽ thấy dễ
dàng đạt được ủng hộ
cho một dự án mới
nếu như mọi người mà
bạn đang cố gắng thuyết
phục đã sẵn có chiều
hướng suy nghĩ như bạn.
Lời ngợi khen, một động
lực cho sự quý mến,
làm cho người khác cảm
thấy bị cuốn hút và
được làm nguôi ngoai. ðôi
khi người ta có thể
nhận được ngợi khen mà
họ chẳng có thành tích
gì. Các nhà nghiên cứu
trường ðại học North Carolina
viết trong Tạp chí chuyên
ngành về Tâm lý học
xã hội thực nghiệm nhận
thấy con người cảm thấy
kính mến nhiều nhất với
những người khen tặng họ
một cách hào phóng ngay
cả khi những nhận xét
đó không đúng sự thật.
Trong cuốn sách tựa đề
"Sự hấp dẫn giữa người
với người", Ellen Berscheid và
Elanie Hatfield Walster giới thiệu
dữ liệu thực nghiệm chứng
minh rằng các nhận xét
tích cực về các đặc
điểm, thái độ, và hành
động của người khác thiết
lập mối quan hệ đáng
tin cậy đáp trả lại,
cũng như là sự sẵn
sàng hợp tác với mong
muốn của người đã khen
ngợi họ.
Cùng với việc tạo ra
mối quan hệ tốt đẹp,
những nhà lãnh đạo khôn
ngoan còn sử dụng lời
khen để sữa chữa những
mối quan hệ xấu hay
không hiệu quả.
Hãy tưởng tượng bạn là
giám đốc một đơn vị
tầm cỡ trong tổ chức
của mình. Công việc của
khiến bạn thường xuyên phải
tiếp xúc với giám đốc
khác - giả sử ông
giám đốc đó tên là
Dan - người không thích
bạn. Cho dù bạn có
cố gắng làm thế nào
chăng nữa ông ta cũng
không hài lòng. Tệ hơn,
ông ta có vẻ không
bao giờ tin rằng bạn
đang cố gắng hết sức
có thể cho ông ta.
Vì chán ghét thái độ
của ông ta và sự
thiếu tin tưởng vào khả
năng và thiện chí của
bạn đối với ông ta,
bạn sẽ không dành nhiều
thời gian làm việc với
ông ta như bạn cần
thiết; kết quả là thành
tích của cả đơn vị
ông ta và đơn vị
của bạn đều sút kém.
Nghiên cứu về lời khen
chỉ ra một chiến lược
để sửa chữa các mối
quan hệ. Có thể lời
khen cho ông Dan rất
khó tìm ra, nhưng chắc
phải có một đặc điểm
nào đó của ông Dan
mà bạn ngưỡng mộ thực
lòng, liệu rằng ông ra
rất quan tâm đến mọi
người trong nhóm làm việc
của mình, sự tận tuỵ
với gia đình, hay đơn
giản là đạo đức nghề
nghiệp của ông ta.
Trong lần gặp gỡ lần
sau với ông ta, hãy
khen ngợi thành thực đặc
điểm này của ông ta.
Hãy cho ông ta thấy
rõ là, ít nhất, bạn
đánh giá cao những gì
ông ta cho là quan
trọng. Tôi dự đoán là
Dan sẽ nới lỏng những
suy nghĩ tiêu cực không
ngừng của ông ta về
bạn, và cho bạn cơ
hội để thuyết phục ông
ta về năng lực và
thiện ý của bạn.
Nguyên tắc Tương tác
Áp dụng: Hãy cho đi
cái mà bạn muốn nhận
về.
Lời khen có xu hướng
tác động làm Dan cảm
thấy thân thiện và dễ
chịu, bởi vì mặc dù
câu nệ nhưng ông ta
vẫn là con người và
vẫn là đối tượng của
xu hướng chung của con
người là đối xử với
mọi người theo cách mà
mọi người đối xử với
ông ta. Nếu bạn thấy
mình đang mỉm cười với
người đồng nghiệp chỉ vì
họ mỉm cười với bạn
trước, thì bạn sẽ biết
cách thức mà nguyên tắc
này hoạt động.
Các tổ chức từ thiện
dựa trên nguyên tắc này
để giúp họ gây quỹ.
Ví dụ, trong nhiều năm,
tổ chức Các cựu chiến
binh tàn tật Hoa Kỳ
đã sử dụng các lá
thư xin ủng hộ quỹ
làm bằng tay rất đẹp,
đã thu hút được một
tỉ lệ đáng kể là
18% hồi âm cho lời
kêu gọi của họ. Nhưng
khi nhóm bắt đầu đính
kèm một món quà nhỏ
trong phong bì, tỉ lệ
hồi âm tăng lên gần
gấp đôi là 35%.
Món quà - các nhãn
địa chỉ ghi tên của
từng người nhận - thực
sự rất khiêm tốn, nhưng
cái mà các nhà quyên
tiền tiềm năng nhận được
đã làm nên sự khác
biệt. Họ đã nhận được
một sự khác biệt so
với tất cả những thứ
khác.
Cái gì hiệu quả trong
những lá thư thì cũng
hiệu quả tại nơi làm
việc. Dĩ nhiên, động cơ
thúc đẩy các nhà cung
cấp phát tặng quà tại
sở mua bán vào thời
gian nghỉ lễ không chỉ
là tính thời vụ của
mặt hàng đó.
Năm 1996, các giám đốc
bán hàng đồng ý một
cuộc phỏng vấn của tạp
chí Inc. cho biết sau
khi chấp nhận một món
quà từ một nhà cung
cấp, họ sẵn sàng mua
các sản phẩm và dịch
vụ mà trước đó họ
có thể đã từ chối.
Những món quà có thể
có ảnh hưởng khởi đầu
cho sự khắc sâu trong
trí nhớ. Tôi khuyến khích
các độc giả của mình
gửi cho tôi những ví
dụ minh chứng cho nguyên
tắc ảnh hưởng tại nơi
làm việc trong cuộc sống
thực của họ. Một độc
giả, nhân viên của State
of Oregon, gửi cho tôi
một lá thư trong đó
bà ta có nêu lên
ba lí do cho sự
cam kết của bà với
nhà quản lý.
Đó là, "ông ta gửi
tôi những món quà cho
con trai tôi trong dịp
Giáng sinh và gửi quà
cho tôi trong dịp sinh
nhật. Thể loại công việc
tôi làm thì không có
cơ hội được thăng tiến,
và lựa chọn duy nhất
cho tôi là dời đến
làm việc cho một văn
phòng khác. Nhưng tôi nhận
thấy bản thân mình tự
phản đối lại quyết định
dời đi. Ông chủ của
tôi sắp đến tuổi về
hưu, và tôi nghĩ tôi
sẽ có khả năng chuyển
đi sau khi ông chủ
nghỉ hưu.... Hiện nay, tôi
vẫn muốn ở lại vì
ông ta rất tốt đối
với tôi".
Mặc dù, xét cho cùng
nghệ thuật tặng quà là
một trong những áp dụng
khó khăn của quy luật
tương hỗ. Trong các trường
hợp sử dụng phức tạp,
nghệ thuật tặng quà liên
quan đến lợi thế của
người đi trước một bước
thành thực, với tư cách
là giám đốc người muốn
nâng cao thái độ tích
cực trong mối quan hệ
hiệu quả giữa các cá
nhân ở nơi làm việc:
Các giám đốc có thể
thúc đẩy các hành vi
thể hiện sự ngưỡng mộ
từ đồng nghiệp và nhân
viên bằng cách thể hiện
nó trước. Cho dù đó
có thể là cảm giác
tin cậy, tinh thần hợp
tác, hay thái độ dễ
chịu, nhà lãnh đạo nên
làm gương các hành vi
mà họ muốn nhìn thấy
ở những người khác.
Vấn đề tương tự với
các giám đốc phải tiếp
cận với những vấn đề
phân phối thông tin và
phân bổ nguồn lực. Nếu
bạn cho một thành viên
trong nhóm các nhân viên
của mình đến giúp đỡ
một đồng nghiệp đang thiếu
nhân lực và sắp đến
hạn chót của thời hạn
nhiệm vụ, bạn sẽ tăng
đáng kể khả năng nhận
được sự giúp đỡ khi
bạn cần. Khả năng của
bạn sẽ tăng lên thậm
chí nhiều hơn nếu như
bạn nói, khi đồng nghiệp
cám ơn cho sự giúp
đỡ của bạn, một vài
lời đại thể như, "Chắc
chắn rồi, tôi rất vui
khi được giúp bạn. Tôi
biết điều đó sẽ quan
trọng như thế nào đối
với tôi khi tôi cần
đến sự giúp đỡ của
bạn".
Phần 3
Hai nguyên tắc tiếp theo
trong nghệ thuật thuyết phục
là bằng chứng xã hội
và nhất quán. Nguyên tắc
bằng chứng xã hội cho
rằng, "mọi người làm theo
xu hướng của những người
giống mình", và nguyên tắc
nhất quán nghĩa là "mọi
người thống nhất với những
cam kết rõ ràng của
bản thân họ".
Nguyên tắc sử dụng bằng
chứng xã hội
Áp dụng: Hãy tận dụng
sức mạnh của đồng nghiệp
khi sức mạnh đó sẵn
có cho bạn.
Con người, những sinh vật
xã hội, dựa chủ yếu
vào những người xung quanh
họ để ra ám hiệu
cho cách họ suy nghĩ,
cảm nhận, và hành động.
Chúng ta biết điều này
bằng tiềm thức, nhưng tiềm
thức cũng được khẳng định
bởi thực nghiệm.
Năm 1982, một nhóm các
nhà nghiên cứu đến gõ
cửa từng nhà ở Columbia,
Nam Corolina, kêu gọi ủng
hộ cho một dự án
từ thiện và cho mọi
người xem một danh sách
các cư dân lân cận
đã đóng góp cho chiến
dịch. Các nhà nghiên cứu
nhận thấy danh sách các
nhà tài trợ càng dài
thì khả năng kêu gọi
được sự ủng hộ từ
thiện càng lớn.
Đối với những người đang
được kêu gọi ủng hộ,
tên của bạn bè và
hàng xóm trong danh sách
đó là một dạng của
bằng chứng xã hội về
cách thức họ nên phản
ứng lại. Nhưng những bằng
chứng này không có sức
thuyết phục nhiều bằng tên
của những người không quen
biết ngẫu nhiên.
Trong một thực nghiệm của
những năm 1960, lần đầu
tiên được đăng trong Tạp
chí chuyên ngành về Tính
cách và Tâm lý học
xã hội, các cư dân
của thành phố New York
được kêu gọi trả lại
ví cho chủ nhân bị
mất. Họ có xu hướng
trả lại ví rất lớn
khi họ biết rằng những
người dân New York khác
cũng đã từng cố gắng
làm như vậy. Nhưng việc
biết rằng một ai đó
từ nước ngoài đã cố
gắng trả lại ví cho
người bị mất chẳng hề
lay động đến quyết định
của họ.
Bài học cho các nhà
quản lý từ các thực
nghiệm trên là nghệ thuật
thuyết phục có thể rất
hiệu quả khi nó bắt
nguồn từ những người cùng
trang lứa, cùng hoàn cảnh
với bạn. Môn khoa học
này ủng hộ nguyên tắc
mà các chuyên gia bán
hàng đã biết: Lời chứng
thực từ các khách hàng
hài lòng có hiệu quả
nhất khi các khách hàng
hài lòng và khách hàng
tiềm năng cùng trong các
trường hợp giống nhau. Bài
học này có thể giúp
giám đốc khi phải đối
mặt với nhiệm vụ mời
chào một ý tưởng mới
cho doanh nghiệp.
Hãy tưởng tượng rằng bạn
đang cố gắng tổ chức
hợp lý hoá các tiến
trình công việc của nơi
bạn làm việc. Một nhóm
các nhân viên lâu năm
phản đối. Hơn là việc
cố gắng thuyết phục các
nhân viên này thay đổi
vì lợi ích của bạn,
hãy đề nghị một người
làm việc lâu năm ủng
hộ ý tưởng đó nói
lên ý tưởng đó trong
buổi họp nhóm. Lời khuyên
của người này sẽ có
sức nặng hơn rất nhiều
với nhóm hơn là một
bài phát biểu hùng hồn
từ ông chủ. Nói một
cách đơn giản, ảnh hưởng
này thường có hiệu quả
nhất theo chiều ngang hơn
là theo chiều dọc từ
cấp trên xuống cấp dưới.
Nguyên tắc nhất quán
Áp dụng: Hãy khiến người
khác cam kết rõ ràng,
công khai và tự nguyện.
Sự kết nối là một
phương cách hiệu quả, nhưng
nghệ thuật thuyết phục cần
nhiều hơn việc đơn giản
là làm mọi người cảm
thấy thân thiện với bạn,
ý tưởng và sản phẩm
của bạn. Mọi người không
chỉ cần cảm thấy thích
bạn mà còn cần cảm
thấy được uỷ thác để
làm cái mà bạn mong
muốn họ làm. Sự đáp
trả tốt đẹp sẽ là
cách thức tin cậy để
làm mọi người cảm thấy
gắn bó với bạn. Cách
khác là tìm cách có
được sự cam kết của
công chúng.
Nghiên cứu của tôi đã
chứng minh rằng hầu hết
mọi người, một khi họ
đã có một quan điểm
hay tiếp tục lịch trình
theo đuổi một vị trí
nào đó, họ sẽ gắn
liền với dự án đó.
Các nghiên cứu khác tái
khẳng định và tiếp tục
chứng minh cách thức các
cam kết nhỏ, có vẻ
rất tầm phào có thể
có những tác động mạnh
mẽ tới các hành động
trong tương lai.
1983 tổng kết cách thức
họ đề nghị một nửa
số dân cư trong một
khu dân phố kí vào
đơn đề nghị tái xây
dựng khu trung tâm cho
người tàn tật. Lý do
đề nghị này rất tốt
và món tiền đóng góp
rất nhỏ, bởi vậy hầu
hết mọi người được hỏi
đều đồng ý ký vào
đơn.
Hai tuần sau, trong Ngày
tổng kết quyên góp Quốc
gia cho người tàn tật,
tất cả những người dân
trong khu phố đó đều
có người đến tận nhà
để mời. Hơn một nửa
những người không được đề
nghị kí vào đơn đã
ủng hộ từ thiện. Nhưng
một con số đáng ngạc
nhiên lên đến 92% những
người đã kí vào đơn
đã quyên góp tiền cho
dự án. Cư dân của
khu phố cảm thấy có
nghĩa vụ phải thực hiện
đúng như cam kết của
họ bởi vì những cam
kết này là họ chủ
động, công khai và tự
nguyện. Ba đặc tính quan
trọng này nên được xem
xét riêng rẽ.
Chúng ta tìm được những
bằng chứng thực tiễn chứng
minh rằng nếu con người
có sự lựa chọn chủ
động - một sự lựa
chọn được nói to ra
hoặc viết hoặc bằng bất
cứ cách nào để người
khác biết - có tác
động định hướng cho các
quyết định trong tương lai
của chủ thể hơn là
sự lựa chọn giống như
thế nhưng không được nói
ra.
Delia Cioffi và Randy Garner
viết trong cuốn Cẩm nang
Tính cách và Tâm lý
học xã hội năm 1996,
mô tả một thí nghiệm
trong đó các sinh viên
đại học trong một nhóm
được đề nghị điền vào
một bản in sẵn nói
rằng họ mong muốn làm
tình nguyện viên cho dự
án giáo dục về AIDS
ở các trường công lập.
Các sinh viên trong nhóm
khác cũng tham gia vào
dự án này bằng cách
để trống chỗ điền rằng
họ không muốn tham gia
dự án. Một vài ngày
sau, khi các tình nguyện
viên tập hợp để làm
nhiệm vụ, 74% những người
đến là những sinh viên
trong nhóm đã kí vào
bản cam kết in sẵn
theo mẫu.
Ngụ ý này rất rõ
ràng với giám đốc người
muốn thuyết phục phụ tá
của mình vào các nhiệm
vụ nhất định: Hãy viết
nhiệm vụ đó thành văn
bản. Chúng tôi giả sử
bạn muốn nhân viên của
mình nộp các báo cáo
vào những thời điểm đúng
hạn hơn. Ngay khi bạn
tin rằng bạn đã giành
được một hợp đồng, hãy
đề nghị nhân viên của
mình tổng kết quyết định
trong một bản ghi nhớ
và gửi nó cho bạn.
Bằng cách làm như vậy,
bạn sẽ tăng đáng kể
khả năng anh ta sẽ
thực hiện theo đúng cam
kết, bởi vì theo quy
luật, con người sẽ cố
gắng làm theo đúng những
gì họ đã viết ra.
Nghiên cứu trong lĩnh vực
xã hội về sự cam
kết đề xuất ý tưởng
là các cam kết bằng
văn bản trở nên có
trọng lượng hơn nhất là
khi các cam kết này
được thông báo công khai.
Trong một thí nghiệm cổ
điển, miêu tả trong Tạp
chí chuyên ngành về Tâm
lý học xã hội và
các hành vi bất thường
năm 1955, các sinh viên
được đề nghị ước đoán
chiều dài của một số
sợi dây căng trên một
mặt phẳng. Một vài sinh
viên được đề nghị viết
lựa chọn của mình trên
một mảnh giấy, kí vào
đó, và nộp giấy cho
người kiểm soát thí nghiệm.
Một vài người khác viết
lựa chọn của mình lên
một tấm bảng xoá, sau
đó tẩy tấm bảng đi
ngay lập tức. Còn những
người còn lại được hướng
dẫn là giữ bí mật
sự lựa chọn của họ.
Các nhà thực nghiệm sau
đó công bố rằng tất
cả ba nhóm với các
bằng chứng là những sự
lựa chọn ban đầu của
họ có thể sai lầm.
Những người chỉ phải giữ
sự lựa chọn của mình
trong đầu thì có khả
năng thay đổi những ước
tính ban đầu của họ.
Những sinh viên trong nhóm
đã viết ra và tẩy
ngay đi ngay lập tức
trung thành với ý kiến
ban đầu của mình hơn
nhóm ba. Nhưng nhóm thứ
nhất là nhóm lưỡng lự
nhất khi thay đổi lựa
chọn ban đầu do họ
đã nộp sự lựa chọn
của họ cho người thực
hiện thí nghiệm.
Các nhà nghiên cứu người
Do Thái viết trong cuốn
Cẩm nang về Tính cách
và Tâm lý học xã
hội năm Thí nghiệm này
nhấn mạnh vào độ kiên
định của hầu hết mọi
người với những người khác
như thế nào. Hãy quay
trở lại trường hợp của
người nhân viên đã nộp
báo cáo chậm trễ. Nhận
ra sức mạnh của khát
vọng khắc phục sai lầm
của anh ta, bạn nên
tăng cường những cam kết,
ngay khi bạn thuyết phục
anh ta thành công về
nhu cầu nộp báo cáo
đúng hạn, và thông báo
những cam kết này công
khai.
Một cách để làm như
vậy là bạn gửi cho
nhân viên đó một email,
"Tôi nghĩ rằng kế hoạch
của anh chính là cái
mà chúng ta cần. Tôi
đã thông báo về kế
hoạch này cho Diana ở
bộ phận sản xuất và
Phil ở bộ phận vận
tải, và họ cũng nghĩ
chúng ta đã đi đúng
hướng". Bất cứ cách thức
nào bạn có thể thực
hiện để công khai những
cam kết này, những cam
kết này sẽ không còn
giống các quyết định cho
dịp Năm mới khi mọi
người bí mật thực hiện
và sau đó từ bỏ
mà lỗi không do ai.
Các cam kết nên được
thông báo công khai và
đặt ở vị trí dễ
thấy.
Hơn 300 năm trước, Samuel
Butler viết trong một bài
thơ hai câu giải thích
cô đọng tại sao các
cam kết nên được thực
hiện tự nguyện sẽ có
khả năng tồn tại và
hiệu quả: "Người hành động
trái với ý chí của
mình/Là lúc anh ta đang
ở trong sự câm lặng
của lý trí." Nếu một
quyết định bị ép buộc,
cưỡng ép, hay áp đặt
bởi các lực lượng bên
ngoài, đó không phải là
một cam kết; đó là
một gánh nặng không mong
muốn.
Hãy tưởng tượng bạn sẽ
hành động như thế nào
nếu ông chủ của bạn
ép buộc bạn phải đóng
góp cho chiến dịch của
một ứng cử viên chính
trị. Liệu rằng điều đó
có khiến bạn ủng hộ
cho ứng cử viên đó
khi bạn có quyền bí
mật bầu cử? Có lẽ
là không. Trên thực tế,
trong cuốn sách Phản ứng
tâm lý học năm 1981,
Sharon S. Brehm và Jack
W.Brehem công bố dữ liệu
rằng bạn sẽ muốn bầu
cho ứng cử viên đảng
đối lập là cách thức
bạn thể hiện sự chống
đối với sự ép buộc
của ông chủ.
Phản ứng ngược lại này
cũng có thể xảy ra
nơi công sở. Hãy quay
lại trường hợp người nhân
viên chậm trễ nọ. Nếu
như bạn muốn có bước
thay đổi đột phá trong
hành vi của nhân viên
này, bạn nên tránh đe
doạ hay gây ra các
tiểu xảo áp lực để
làm anh ta hợp tác
hơn. Anh ta sẽ nhìn
nhận những thay đổi trong
hành vi của mình như
hậu quả của việc bị
doạ nạt hơn là cam
kết cá nhân để thay
đổi.
Một cách tiếp cận tốt
hơn là xác định một
vài khía cạnh mà nhân
viên này đánh giá cao
nơi công sở - ví
dụ như phong cách làm
việc hiệu quả, hay là
tinh thần đồng đội -
và sau đó miêu tả
các báo cáo kịp thời
hạn rất quan trọng và
nhất quán với các giá
trị trên ra sao. ðiều
này giúp nhân viên có
lý do để cải thiện
chính mình. Và do anh
ta có những giá trị
đó, những giá trị này
sẽ tiếp tục hướng dẫn
hành vi của anh ta
ngay cả khi không có
sự theo sát của bạn.
Phần 4
Trong bài viết đăng trên
tạp chí Havard Business Review
gần đây, tác giả, đồng
thời là nhà tâm lý
học nổi tiếng Robert B.Cialdini
đã trình bày các nguyên
tắc của nghệ thuật thuyết
phục, trong đó ông đã
đề cập đến nguyên tắc
chuyên môn và khan hiếm.
Nguyên tắc chuyên môn
Mọi người sẽ tham khảo
ý kiến các chuyên gia.
Áp dụng: Hãy thể hiện
chuyên môn của bạn; đừng
cho rằng mọi người hiển
nhiên thấy được chuyên môn
của bạn.
Hai nghìn năm trước, một
nhà thơ La Mã Virgil
đã cho lời khuyên đơn
giản này cho những ai
đang tìm kiếm sự lựa
chọn đúng đắn: "Hãy tin
vào chuyên gia". ðiều này
có thể là một lời
khuyên tốt hoặc không phải
như vậy, nhưng theo miêu
tả cách thức con người
thực sự đã làm, chúng
ta không thể bác bỏ
lại lời khuyên này.
Ví dụ, khi các phương
tiện truyền thông giới thiệu
quan điểm của một chuyên
gia uyên bác về một
chủ đề nào đó, tác
động của ý kiến này
rất mạnh mẽ. Câu chuyện
về ý kiến của một
chuyên gia trong tờ New
York Times có liên hệ
với 2% sự thay đổi
ý kiến của toàn dân
trên cả nước, theo một
nghiên cứu của Tổng hợp
ý kiến toàn dân theo
quý năm 1993. Và các
nhà nghiên cứu viết trong
Tổng hợp Khoa học chính
trị Hoa Kì năm 1987
nhận thấy khi người ta
phát sóng ý kiến của
chuyên gia trên truyền hình
toàn quốc, ý kiến toàn
dân có thể thay đổi
đến 4%.
Một người hoài nghi về
luận điểm này có thể
tranh cãi rằng những nghiên
cứu này chỉ chứng minh
rằng sự không có chính
kiến, dễ thay đổi của
công chúng. Nhưng lời giải
thích công bằng hơn cho
vấn đề này đó là
trong bối cảnh phức tạp
hỗn loạn của cuộc sống
hiện đại, một ý kiến
chuyên gia có chọn lọc
là một hướng dẫn ngắn
nhất có giá trị và
hiệu quả để đưa ra
các quyết định. Thực tế,
một vài câu hỏi, có
thể trong các trường hợp
luật pháp, tài chính, y
tế, hay kỹ thuật, đòi
hỏi các kiến thức chuyên
ngành để trả lời, và
chúng ta không có sự
lựa chọn nào khác ngoài
việc tin tưởng vào các
chuyên gia.
Do người ta có lí
do tốt để tìm đến
các chuyên gia, nhà quản
lý nên chịu khó đảm
bảo rằng họ đã thành
lập nên hệ thống chuyên
môn của mình trước khi
họ cố gắng gây ảnh
hưởng với người khác. Chúng
ta thường ngạc nhiên rằng
con người thường giả định
sai lầm rằng những người
khác sẽ nhận ra và
đánh giá cao các kinh
nghiệm của mình.
Điều này xảy ra trong
một bệnh viện khi mà
các chuyên gia liệu pháp
vật lý rất buồn phiền
vì nhiều bệnh nhân đột
quỵ của họ đều bỏ
các bài tập ngay khi
họ được ra viện. Cho
dù các chuyên gia chữa
trị có nhấn mạnh bao
nhiêu đến tầm quan trọng
của tập luyện thường xuyên
- trên thực tế, việc
luyện tập này quan trọng
sống còn với quá trình
hồi phục các chức năng
độc lập - nhưng lời
nhắn nhủ này chẳng thấm
vào suy nghĩ của bệnh
nhân.
Các cuộc phỏng vấn với
một vài bệnh nhân giúp
chúng ta tìm ra vấn
đề. Các bệnh nhân này
quen thuộc với môi trường
và sự hướng dẫn của
các chuyên gia trị liệu,
những các bệnh nhân biết
rất ít về khả năng
của các chuyên gia liệu
pháp vật lý - những
người liên tục thúc giục
họ luyện tập. Phương thuốc
cho căn bệnh thiếu thông
tin này rất đơn giản:
Chúng ta chỉ cần đề
nghị các chuyên gia trị
liệu cho bệnh nhân xem
tất cả các giải thưởng,
bằng cấp, và giấy chứng
nhận của đội ngũ nhân
viên treo trên tường của
phòng trị liệu. Kết quả
rất khả quan: Bệnh nhân
thực hiện các bài tập
tăng lên đến 34% và
con số này từ đó
không bị giảm sút.
Điều chúng tôi cảm thấy
đặc biệt có trọng lượng
ở đây không chỉ ở
việc chúng tôi đã tăng
tỉ lệ tuân thủ theo
lời khuyên của bác sĩ
lên bao nhiêu, và còn
ở cách thức thực hiện
điều đó. Chúng tôi không
đánh lừa hay doạ nạt
bất cứ một bệnh nhân
nào. Chúng tôi thông báo
cho họ về sự tuân
thủ lời khuyên. Chúng tôi
chẳng phải đầu tư cái
gì, hay là sử dụng
bất cứ thời gian hay
nguồn lực nào trong quá
trình này. Trình độ chuyên
môn của đội ngũ bác
sĩ là sự thật -
tất cả những việc chúng
tôi là chỉ là cho
mọi người thấy rõ điều
đó.
Nhiệm vụ cho các giám
đốc - những người muốn
có được hệ thống chuyên
môn của mình lại khó
hơn một chút. Giám đốc
không đơn giản là chỉ
ra bằng cấp trên tường
và đợi tất cả mọi
người chú ý vào đó.
Ở đây chúng ta cần
một chút tinh tế.
Bên ngoài nước Mỹ, mọi
người có truyền thống là
dành thời gian giao tiếp
về các vấn đề xã
hội trước khi bước vào
làm ăn kinh doanh trong
lần đầu tiên. Thông thường
họ gặp nhau trong bữa
tối trước cuộc họp hay
cuộc thương lượng một ngày.
Các cuộc gặp gỡ này
thường làm cho thảo luận
sau này dễ dàng hơn
và giúp làm giảm các
bất đồng ý kiến -
hãy nhớ tìm ra mối
liên hệ và sự tương
đồng - và họ có
thể tạo ra cơ hội
thiết lập sự chuyên nghiệp.
Có lẽ bạn nên kể
một câu chuyện vui về
cách thức giải quyết rắc
rối tương tự như cách
của một người trong hội
đồng vào cuộc họp hôm
sau. Hoặc có lẽ bữa
tối là thời gian để
miêu tả những năm tháng
bạn đã lĩnh hội một
quy tắc phức tạp nào
đó - bạn nói về
điều này không phải một
cách khoa trương mà theo
cách biến nó thành một
phần của cuộc đối thoại
thông thường.
Cứ cho là như vậy,
chúng ta không phải lúc
nào cũng có thời gian
để có một quy trình
giới thiệu dài dòng theo
cách đó. Nhưng ngay cả
khi trong các cuộc hội
thoại mào đầu ở hầu
hết các cuộc họp, bạn
luôn có cơ hội để
nói đến thành tích và
kinh nghiệm của bạn như
một phần trao đổi thông
tin được nhắc đến một
cách tự nhiên.
Quá trình thông báo các
thông tin cá nhân ban
đầu này giúp bạn có
cơ hội thể hiện chuyên
môn trong thời điểm bắt
đầu cuộc chơi, do vậy
khi cuộc thảo luận nhắc
đến việc làm ăn kinh
doanh, những gì bạn nói
ra sẽ được chấp nhận
với sự kính nể và
tôn trọng đúng mực.
Nguyên tắc của sự khan
hiếm
Mọi người đều muốn có
nhiều hơn cái họ đang
khan hiếm.
Áp dụng: Nhấn mạnh lợi
ích độc nhất vô nhị
và các thông tin mật.
Các nghiên cứu đều cho
rằng các tài sản và
cơ hội đều được coi
là quý giá hơn khi
chúng trở nên khan hiếm
hơn. ðó là một thông
tin đặc biệt hữu ích
cho các giám đốc. Họ
có thể vận hành nguyên
tắc của sự khan hiếm
với các nguồn lực của
tổ chức, hữu hạn về
thời gian, nguồn cung cấp,
và các cơ hội có
một không hai. Hãy thông
báo một cách thành thật
cho đồng nghiệp về cánh
cửa của một cơ hội
nào đó đang đóng lại
- cơ hội lọt vào
mắt xanh của người chủ
trước khi bà ta đi
nghỉ dài ngày, và có
lẽ hành động này sẽ
làm thay đổi quyết định
của người đồng nghiệp rất
lớn.
Các giám đốc có thể
học được điều này từ
các nhà bán lẻ về
phương thức để thiết lập
những lời mời chào, không
phải ở việc mọi người
được lợi gì mà ở
chỗ họ sẽ mất gì
nếu như họ không hành
động ngay khi nhận được
thông tin.
Sức mạnh của từ "mất
mát" được chứng minh trong
một nghiên cứu năm 1988
về các chủ nhà đất
tại California đề trong tạp
chí chuyên ngành về Tâm
lý học ứng dụng. Một
nửa số người được thông
báo là nếu họ từ
bỏ ngôi nhà của mình,
họ sẽ tiết kiệm được
một khoản kha khá mỗi
ngày. Một nửa số người
còn lại được thông báo
là nếu họ thất bại
trong việc từ bỏ ngôi
nhà của mình, họ sẽ
mất một khoản tiền kha
khá mỗi ngày. Và số
lượng người từ bỏ nhà
của họ trong nhóm hai
lớn hơn nhóm một nhiều
khi người ta dùng ngôn
ngữ của "sự mất mát".
Hiện tượng tương tự cũng
xảy ra trong kinh doanh.
Theo một nghiên cứu đăng
trên tạp chí Quá trình
ra quyết định và hành
vi tổ chức của con
người năm 1994, các con
số mất mát tiềm năng
có ảnh hưởng đến quá
trình ra quyết định của
giám đốc hơn là các
món lợi tiềm năng.
Khi lên kế hoạch cho
đề nghị của mình, các
nhà quản lý cũng nên
nhớ rằng những thông tin
nội bộ thì thuyết phục
hơn nhiều dữ liệu có
sẵn rộng rãi. Một nghiên
cứu sinh của tôi, Amram
Knishinsky, viết trong bài nghiên
cứu của mình năm 1982
về quyết định mua của
người bán buôn thịt bò.
Anh ta quan sát thấy
họ tăng gấp đôi số
lượng đơn đặt hàng khi
họ được thông báo là
có khả năng có bất
lợi cho điều kiện thời
tiết nước ngoài, trong tương
lai gần sẽ có thể
có sự khan hiếm thịt
bò nhập khẩu. Nhưng số
lượng đơn đặt hàng tăng
đến 600% khi họ được
thông báo là chẳng có
ai khác ngoài họ biết
được thông tin này.
Sức thuyết phục của thông
tin nội bộ có thể
được áp dụng bởi các
giám đốc những người nắm
giữ các thông tin không
được phổ biến rộng rãi
và ủng hộ ý kiến
hay một ý tưởng mới
mà vị giám đốc này
muốn cả công ty áp
dụng. Lần sau khi thể
loại thông tin này đặt
trên bàn làm việc của
bạn, hãy tận dụng nó
để trở thành người chơi
nắm chìa khoá chủ động.
Thông tin bản thân nó
có thể chẳng có ích
lợi, nhưng thông tin mật
lại có vẻ ngoài lấp
lánh rực rỡ rất đặc
biệt. Hãy đặt nó lên
bàn, và nói, "Tôi mới
chỉ nhận được báo cáo
này ngày hôm nay. Chúng
ta sẽ không công bố
nó cho đến tuần sau,
nhưng tôi muốn cho anh
xem trước những thông tin
trong báo cáo đó." Sau
đó hãy quan sát những
người đang lắng nghe bạn
làm theo ý bạn như
thế nào.
Hãy cho phép tôi nhấn
mạnh vào một điều hiển
nhiên. Trừ khi thông tin
là xác thực, bạn sẽ
không thể đề nghị thông
tin mật, không có sự
vui mừng để hành động
ngay lập tức hay là
mất cơ hội này mãi
mãi. Các đồng nghiệp bị
mắc lừa để hợp tác
với bạn sẽ không chỉ
là mục tiêu về đạo
đức mà họ còn bị
lừa dối một cách trắng
trợn. Nếu mánh lừa của
bạn bị phát hiện -
và chắc chắn rồi nó
cũng sẽ bị phát hiện
- sẽ làm tiêu tan
lòng nhiệt tình mà lúc
đầu lời đề nghị của
bạn mang lại. Nó cũng
mời chào sự lừa dối
trở lại với người đã
nói dối trước. Hãy nhớ
nguyên tắc của sự tương
hỗ.
Phần cuối
Sau khi phân tích kỹ
lưỡng 6 nguyên tắc của
nghệ thuật thuyết phục, trong
phần cuối bài viết này,
tác giả Robert B.Cialdini cho
rằng, các nguyên tắc này
nên được kết hợp với
nhau để tạo ra ảnh
hưởng lớn nhất.
Hãy kết nối tất cả
dữ kiện với nhau
Không có gì là mập
mờ hay khó hiểu trong
sáu nguyên tắc của nghệ
thuật thuyết phục ở đây.
Trên thực tế, sáu nguyên
tắc này mã hoá khả
năng thấu hiểu trực giác
của bạn về cách thức
mọi người đánh giá thông
tin và các quyết định
chính thức. Kết quả là,
các nguyên tắc này rất
dễ lĩnh hội, mặc dù
chúng không có cơ sở
giáo dục chính thức của
bộ môn Tâm lý học.
Trong các buổi hội thảo
và giới thiệu tôi tổ
chức, tôi đã học được
hai mấu chốt cần nhấn
mạnh.
Thứ nhất, mặc dù sáu
nguyên tắc và các cách
áp dụng chúng có thể
được thảo luận riêng rẽ
nhằm mục tiêu rõ ràng,
các nguyên tắc này nên
được áp dụng kết hợp
để tạo ra ảnh hưởng
lớn nhất.
Ví dụ, khi thảo luận
về tầm quan trọng của
chuyên môn, tôi gợi ý
các giám đốc dùng các
cuộc nói chuyện thông thường,
giao tiếp xã hội để
thiết lập lòng tin. Nhưng
các cuộc nói chuyện cũng
tạo cơ hội để bạn
thu thập thêm thông tin
chứ không chỉ thể hiện
chuyên môn của bạn. Trong
lúc bạn đang thể hiện
với các đối tác ở
bữa tối những kỹ năng
cần thiết trong công việc,
bạn cũng có thể học
hỏi về lịch sử đối
tác, sở thích, và những
gì họ không thích -
những thông tin sẽ giúp
bạn định vị sự tương
đồng thực sự và có
thể đưa ra những lời
ngợi khen chân thành.
Bằng cách thể hiện trình
độ chuyên môn và thiết
lập mối quan hệ hoà
hợp, bạn sẽ nhân đôi
sức mạnh thuyết phục của
mình. Và nếu như bạn
thành công trong bữa tiệc
tối với đối tác, bạn
có thể khuyến khích những
người khác cũng làm như
thế, nhờ vào khả năng
thuyết phục của các bằng
chứng xã hội.
Vấn đề khác tôi muốn
nhấn mạnh là quy tắc
của đạo đức áp dụng
trong môn khoa học về
gây ảnh hưởng này cũng
giống như cách áp dụng
với mọi lĩnh vực khác
của cuộc sống. Không chỉ
là sai trái về mặt
đạo đức khi lừa phỉnh
người khác đồng ý với
mình, mà đó trên thực
tế đó còn là một
lời khuyên tồi. Các mẹo
lừa đảo và gây áp
lực chỉ có tác dụng
trong ngắn hạn, trong tất
cả các trường hợp. Tác
động dài hạn của chúng
là rất tồi tệ, đặc
biệt là trong một tổ
chức hoạt động không dựa
trên nền tảng của niềm
tin và sự hợp tác.
Quan điểm này thể hiện
rõ ràng trong trường hợp
sau, khi trưởng phòng của
một công ty sản xuất
hàng may mặc liên quan
đến một buổi giới thiệu
đào tạo do tôi tổ
chức. Bà ta miêu tả
vị phó giám đốc của
công ty là người lôi
kéo cam kết của mọi
người bằng các thủ đoạn
lừa bịp ghê gớm. Thay
vì cho các nhân viên
thời gian để thảo luận
và suy nghĩ toàn diện
về dự án của ông
ta một cách cẩn thận,
ông ta sẽ tìm đến
từng người một vào thời
điểm họ bận rộn nhất
trong ngày và miêu tả
lợi ích của dự án
với vẻ tận tâm, và
kiên nhẫn.
Sau đó ông ta sẽ
chốt bằng một câu quyết
định. "Sẽ rất quan trọng
với tôi nếu như anh
đồng ý vào nhóm của
tôi trong dự án này".
Bị doạ nạt, làm cho
mệt mỏi, mọi người sẵn
sàng đuổi ông ta ra
khỏi nơi làm việc, và
các lãnh đạo của phòng
ban sẽ chẳng thay đổi
với quyết định của ông
ta. Bởi vì các cam
kết không được thực hiện
tự nguyện, các lãnh đạo
phòng ban sẽ chẳng bao
giờ nghe theo ông ta,
và kết quả là dự
án của vị phó chủ
tịch nó sẽ phá sản
hay đuối dần dần.
Câu chuyện này có tác
động sâu sắc đến những
người tham gia buổi giới
thiệu của tôi ngày hôm
đó. Một vài người bất
động vì ngạc nhiên khi
họ nhận thấy các hành
vi khó chịu tương tự
của họ. Nhưng điều làm
mọi người ớn lạnh là
sự thể hiện của trưởng
phòng nọ khi bà ta
diễn tả sự thất bại
thảm hại của dự án
của nhà lãnh đạo cấp
trên. Bà ta mỉm cười.
Tôi không thể nói gì
hiệu quả hơn quan điểm
mà phương pháp lừa dối
và áp đặt các nguyên
tắc về gây ảnh hưởng
xã hội là sai trái
về mặt đạo đức và
ngoan cố một cách thực
dụng. Tuy nhiên các nguyên
tắc tương tự, nếu áp
dụng phù hợp, có thể
thay đổi các quyết định
một cách đúng đắn. Trình
độ chuyên môn thật sự,
sự gắn bó thật sự,
và sự tương đồng đáng
tin cậy, các bằng chứng
xã hội thực tế, các
thông tin nội bộ, và
các cam kết tự nguyện
có thể tạo ra các
sự lựa chọn mang lại
lợi ích cả hai bên.
Và bất cứ cách tiếp
cận nào hiệu quả cho
mọi người thì đều hiệu
quả cho kinh doanh, bạn
có đồng ý với tôi
về điều này?
Dĩ nhiên, tôi không muốn
ép buộc bạn làm theo,
nhưng nếu bạn đồng ý
với tôi, tôi sẽ rất
vui nếu bạn có thể
kí vào bản ghi nhớ
để cam kết của bạn
có hiệu lực.
Các chuyên gia thuyết phục,
cuối cùng thì cũng an
toàn
Nhờ vào các nghiên cứu
thực tế trong hàng mấy
thập kỷ của các nhà
khoa học, kiến thức của
chúng ta về cách thức
và lý do tại sao
nghệ thuật thuyết phục chưa
bao giờ lại có thể
rộng lớn hơn, sâu sắc
hơn, và chi tiết hơn
bây giờ. Nhưng những nhà
khoa học này không phải
là những người nghiên cứu
đầu tiên trong lĩnh vực
đó. Lịch sử của các
nghiên cứu về nghệ thuật
thuyết phục là một lịch
sử cổ xưa và đáng
tôn trọng, lịch sử này
đã tạo ra danh sách
của những anh hùng và
chiến binh.
Một nhà nghiên cứu về
ngành ảnh hưởng xã hội
nổi tiểng, ông William McGuire,
tranh luận trong một chương
của cuốn Cẩm nang Tâm
lý xã hội học, tái
bản lần thứ 3 rải
rác trong mấy nghìn năm
lịch sử Tây phương là
có bốn thập kỷ trong
đó các nghiên cứu về
nghệ thuật thuyết phục phát
triển.
Thập kỷ đầu tiên là
Thời kỳ Periclean của Ai
Cập cổ đại, thập kỷ
thứ hai xuất hiện trong
suốt những năm Cộng Hoà
La Mã, tiếp theo là
thời kỳ Phục hưng ở
Châu Âu, và thập kỷ
cuối trải rộng suốt hàng
trăm năm thời kỳ vừa
mới kết thúc, 4 giai
đoạn này đã chứng kiến
sự xuất hiện của các
chiến dịch truyền thông, quảng
cáo và thông tin trên
diện rộng.
Trong mỗi thập kỷ trong
3 thời kỳ trước, các
nghiên cứu về sức thuyết
phục có hệ thống được
đánh dấu bởi các thành
tựu của con người đang
phát triển rực rỡ đột
nhiên chấm dứt khi nhà
lãnh đạo chính trị có
khả năng thuyết phục chết
đi. Nhà triết học Socrates
có lẽ nổi tiếng nhất
với tư cách là chuyên
gia về thuyết phục với
các khả năng thuyết phục
kỳ diệu.
Thông tin về quá trình
thuyết phục là một mối
đe doạ bởi vì thông
tin này tạo nền tảng
cho sức mạnh của mọi
người để tách rời hoàn
toàn khỏi các nhà chức
trách chính trị. Phải đối
mặt với nguồn các đối
thủ gây ảnh hưởng khác,
các nhà cầm quyền trong
các thế kỷ trước có
một số khả năng loại
bỏ các đối thủ hiếm
có của mình. Các đối
thủ này là những người
biết cách phân bổ các
nguồn lực mà các nhà
cầm quyền chưa bao giờ
có khả năng độc quyền
các nguồn lực này, ví
dụ như ngôn ngữ thuyết
phục thông minh, các thông
tin chiến lược, và quan
trọng nhất là sự thấu
hiểu tâm lý.
Người ta có lẽ đã
đặt quá nhiều niềm tin
vào bản chất của con
người khi nói rằng các
chuyên gia về thuyết phục
không còn phải đối mặt
với những nguy cơ từ
những người có sức mạnh
quyền lực. Bởi vì sự
thật về thuyết phục không
còn là của cải riêng
của một vài thành viên
sáng giá, các cá nhân
có động lực, do đó
các chuyên gia trong lĩnh
vực này chưa thể dễ
thở hơn chút nào. Trên
thực tế, do hầu hết
con người đang có quyền
lực thì lại muốn duy
trì quyền lực đó, họ
có khả năng sẽ thích
tăng thêm các kỹ năng
thuyết phục hơn là loại
bỏ các kỹ năng này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro