Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Lak kaka

Với một giọng thơ rất riêng, Huy Cận được biết đến như một thi sĩ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Ông thường đi sâu vào miêu tả thiên nhiên, nhưng từng lời văn câu chữ lại thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế. Và Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu cho nét đặc sắc ấy của riêng ông. Xuyên suốt cả bài thơ, đặc biệt là ở 3 khổ cuối tác phẩm, là nỗi sầu của một cái “tôi” cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.

Nếu như ở khổ đầu, thi sĩ dẫn dắt người đọc đến với một Tràng Giang mênh mông sông nước mà vắng lặng với nỗi buồn về thân phận lạc loài, phiêu dạt, thì đến với khổ thứ 2, nỗi lòng ấy đã được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Nỗi buồn vô hạn ấy trước hết được miêu tả qua một không gian bao la. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã, sông thì bao la, mênh mông. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”.

Từ láy “lơ thơ” được đẩy lên đầu câu thơ vừa tô đậm sự thưa thớt vừa gợi sự hiu quạnh. Không những thế, tác giả còn khéo léo kết hợp nó với tính từ “nhỏ” lại càng nhân lên sự nhỏ bé trơ trọi của những gò đất ven sông. Trong khi đó, gió lại được miêu tả với từ láy “đìu hiu”. Tất cả như đang tạo nên nét mờ nhoè cho hình ảnh. Với nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, Huy Cận không những gợi lên được màu sắc cổ kính, dẫn người đọc về với cổ thi:

“Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo – Bên Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn).

“Lơ thơ tơ liễu buông mành…”(“Truyện Kiều”). 

mà dường như còn đưa vào trong câu thơ một nỗi buồn nhân thế thổi về từ ngàn xưa theo làn gió. Vần lưng “nhỏ”, “gió” hoà nhịp với hai từ láy “lơ thơ” và đìu hiu”, âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt cô quạnh, tạo cho lòng người cảm giác nơi đây thật hoang vắng như đã bị bỏ quên. Giữa khung cảnh ấy, con người trở nên đơn côi, lạc lõng đến nỗi phải thốt lên: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

                Không gian của bức tranh Tràng Giang còn được tiếp tục mở rộng với 3 hình ảnh: làng, chợ và bến. Những tưởng khi thêm hình ảnh, bức tranh sẽ sống động hơn, nhưng không. Làng thì ở xa, chợ thì đã về chiều và cảnh vật thì vẫn vắng vẻ. Đôi chút âm thanh của cuộc sống con người không làm bớt đi sự vắng lặng nhưng vẫn tạo được ít nhiều màu vẻ của cuộc sống. Từ “đâu” có thể hiểu là một từ phủ định tuyệt đối, nơi đây không một âm thanh sự sống, không một tiếng nói con người. Nhưng cũng có thể hiểu “đâu” là đâu đó, có ý nghĩa chỉ địa điểm. Âm thanh ở đâu đó vang lại nhưng lại là âm thanh của sự tan rã. Từ “đâu” cũng có thể là từ để hỏi, để thi nhân bộc lỗ hết sự ngơ ngác, nỗi buồn lẻ loi, cô quạnh. Song dù thế nào thì câu thơ vẫn phảng phất một sự trống trải, quạnh quẽ và cô liêu.

Đôi mắt nhân vật trữ tình tiếp tục nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông, để rồi dưới con mắt ấy, tạo vật thiên nhiên trong buổi chiều tà trên sông nước cũng thật lạ lùng:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vot;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Không gian tiếp tục được mở ra theo hai chiều. Câu trên là sự vô biên về chiều cao, còn câu dưới là sự vô biên về bề rộng và chiều dài. Một khoảng không gian đang dãn nở ra trong cụm từ “nắng xuống”, “trời lên. Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” đem lại cảm giá về một sự chuyển động rất rõ rệt, và gợi cả sự chia lìa, bởi nắng và trời nay lại phải tách bạch nhau. Câu thơ đề từ của bài: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài cũng được lấy lại trong ý thơ Sông dài, trời rộng, Đặc biệt ở chỗ, từ láy “chót vót” đáng lí ra phải dùng để chỉ độ cao, vậy mà ở đây lại được kết hợp với từ “sâu”. Độc đáo chính ở trong độ sâu của cái nhìn lên, đây là sự lạ hoá trong cái nhìn, trong cảm giác. Dường như ánh mắt Huy Cận không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường trình để nhận biết chiều cao của nó, mà ánh mắt của ông như xuyên vào đáy của vũ trụ. bến cô liêu.Vì vậy, cụm từ “sâu chót vót” vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời, vừa gợi cái cảm giác rợn ngợp trước không gian hiu quanh, vừa gợi cả cái nhìn xa hút của nhà thơ.

Nhà thơ nhìn về dòng sông, nhìn về cảnh vật, mong mỏi có chút gì đó quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang ngập tràn cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Không khó để bắt gặp hình ảnh “bèo” trong thơ cổ hay ca dao, như:

Thân em như thể bèo trôi; Sóng dập gió dồi biết tấp vào

Nhưng trong thơ HC, không chỉ là một hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Đây là hình ảnh tả thực, mà cũng là ẩn dụ cho sốt kiếp nhỏ bé, nổi trôi vô định trong cuộc đời cũ. Trong khi đó, cụm từ “về đâu” lại khiến cho câu thơ mang âm hưởng của một câu hỏi tu từ.  Dưới cái nhìn của Huy Cận, cảnh vật nơi đây không có chút gì gợi sự thân mật tình người. Không một chiếc cầu nhỏ, không một chuyến đò ngang để cuộc sống đi về trong tình gần gũi. 2 bờ sông gần mà lại hoá xa, như 2 thế giới cách biệt, xa lạ. Cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay những cùng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu vết của con người. Tác giả như đang mong mỏi một sự giao hoà, giao cảm trong cuộc đời.

Thiên nhiên tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ lạ lùng:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khổ thơ miêu tả khung cảnh hoàng hôn trên sông nước Tràng Giang và nỗi buồn nhớ quê hương của con người. Đây là một kiểu tâm trậng thi hứng rất điển hình trong thơ cổ điển, nhưng dưới sự miêu tả độc đáo của HC, thiên nhiên đã có những nét chấm phá thật khác lạ. Cảnh hoàng hôn được vẽ nên trong 2 câu thơ đầu:

“Lớp...sa”

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

 Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi.Nhìn từ ngoại cảnh đây là một hình ảnh hùng vĩ, tráng lệ, sống động, nhưng khi nhìn từ tâm trạng nhà thơ, ta lại thấy đó là một sự rợn ngợp. Không gian rộng mở lại càng thêm đối lập với hình ảnh người đơn chiếc nhỏ nhoi.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Trong thơ xưa, chim bay về rừng, về tổ đã trờ thành một tín hiệu thẩm mĩ báo hiệu hoàng hôn. Hình cảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà dễ gợi nên một bỗi buồn xa vắng. Với HC, sức mạnh nghệ thuật lại nằm ở sự tương phản. Từ “sa” không chỉ khiến bóng chiều mông lung, trở nên có hình khối, có sự nặng mà còn nói lên sự ập đến rất nhanh của hoàng hôn. Cánh chim quá đỗi mong manh, trong khi bóng chiều thì mênh mông, nặng trĩu trên đôi cánh nhỏ. Sự cảm nhận này chứa đựng cái cảm giác của con người cá nhân khi thấy mình quá nhỏ bé, cô đơn và bất lực trước cuộc đời.

Bài thơ kết thúc bằng những dòng suy tưởng:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Đứng trước cảnh sông nước Tràng Giang mênh mông trong buổi hoàng hôn, tấm lòng của tác giả với quê hương muôn ngàn con sóng “dợn dợn” lên tâm hồn. Từ láy “dợn dợn” cho thấy nỗi nhớ thương từ ý thức đã chuyển thành cảm giác thấm thía. Ý thơ khiên ta nhớ tới câu thơ của Thôi Hiệu:

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn” (Lầu Hoàng Hạc)

Thôi Hiệu đứng trên lầu Hoàng Hạc, nhìn thấy khói sóng buổi chiều mà buồn nhớ quê hương. Còn Huy Cận thì "không khói hoàng hôn” mà lòng vẫn đong đầy nỗi nhớ.Trước buổi chiều tịch mịch trên bờ Tràng giang mà nhớ đến quê hương, nhớ đến một cái làng sơn cước heo hút thuộc Hương Sơn, Hà Tĩnh. Nhưng đó là bề nổi của tứ thơ này. Sâu thẳm hơn là nhà thơ đứng trên quê hương mình mà nhớ quê hương mình, cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương xứ sở mình, ấy là nỗi lòng, tâm trạng bơ vơ lạc lõng của kẻ nhớ về một thời tự do của quê hương.

"Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não(...)Lại có khi suối buồn thương cứ tự trong thâm tâm chảy ra lai láng không vướng bụi trần"(Hoài Thanh,Hoài Chân).Quả thật vậy,"những vần thơ ảo não" ấy đã được Huy Cận thể hiện trong bài thơ "Tràng Giang"-tiêu biểu cho một phong cách rộng mở luôn tìm đến vũ trụ bao la và thấm đượm một tình cảm sâu lắng với quê hương.Bài thơ là một nỗi buồn về sự chia lìa tan tác của cuộc đời

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: