lacduong2e
Chương VI Lưu lạc
Thằng Hiệp ra khỏi nhà nhằm lúc nửa đêm, nên ngoài đường vắng hoe, không có một người qua lại. Tuy vậy mà trên trời mặt trăng vừa lướt qua khỏi cụm mây nên ánh sáng dọi xuống đường, chiếu cỏ cây tỏ rõ như ban ngày. Cảnh thú dường ấy dễ làm cho người đi đường phải cảm xúc. Tiếc vì thằng Hiệp còn mang cái khối giận mẹ ghẻ ở trong lòng canh cánh, nên nó lầm lũi đi xuống phía Xóm-Chiếu, không cảm được cái cảnh ìm-lìm, không thưởng thức được vừng trăng tỏ rạng. Vì nó không nhứt định phải đi đâu, nên xuống tới chợ Xóm-Chiếu nó đứng dụ-dự một chút, rồi men-men lên cầu mống mà qua Bến-Thành. Đi ngang qua nhà ga xe điển ở gần chợ cũ, nó sực nhớ đến anh em bạn của nó, có nhiều đứa ban đêm thường hay ngủ tại đó, nó mới ghé lại mà coi có đứa nào. Bước vô ga xe điển nó thấy có ba đứa nhỏ một trang với nó đương nằm ngủ trên cái bàn dài lót dựa vách tường. Nó cúi xuống dòm mặt từ đứa thì là thằng Hai, thằng Cao với thằng Cứ đều là bạn bán nhựt-trình như nó. Nó bèn lúc lắc mà kêu thằng Cao dậy. Thằng Cao ban đầu hất tay rồi day vô vách không chịu dậy, bị thằng Hìệp cứ theo phá hoài, cực chẳng đã nó phải ngồi dậy, lấy tay giụi mắt và nói lầm bầm rằng: "Ở trong rạp hát về mới ngủ có một chút, cứ theo phá hoài". Thằng Hiệp nói rằng: "Mầy dậy cho tao nói chuyện riêng một chút mà". Thằng Cao mở mắt thấy thằng Hiệp thì hỏi: - Mầy đi đâu qua bên nây chừng nầy vậy mậy? - Dì ghẻ tao đuổi, không cho tao ở nhà của ba tao nữa. - Sao mà ngang vậy? Nhà của ba mầy thì mầy ở, có phép nào mà đuổi mầy được. - Dầu không đuổi, tao cũng đi chớ không thế nào ở đó nữa được. - Mầy ngu quá. Có nhà mà không chịu ở chớ. Mầy không thấy thân tao đây hay sao? Vì không nhà nên đụng đâu ngủ đó, muỗi cắn có ghẻ cùng mình, qua tháng gió bấc lạnh rút ruột teo gan, mầy tưởng sướng lắm hay sao? - Thà là tao chịu cực, chớ ở nhà tao thấy dì ghẻ của tao, sao ghét lắm. - Dì ghẻ nào cũng vậy, bao giờ mà có dì ghẻ dễ thương đâu mậy. - Phải. Dì ghẻ thương sao được. Nhưng mà dì ghẻ của người ta thì dễ chịu, còn dì ghẻ của tao khốn nạn quá chịu không đặng. - Trông thế mầy bị bả đào hả, nên mầy oán mầy nói xấu bả đây chớ gì. - Không phải vậy. Thuở nay tao thương dì tao lắm chớ. Có khi tao kỳ khôi, dỉ cũng đánh chưởi tao mà tao có phiền đâu. Mấy năm nay đi bán nhựt-trình mỗi bữa tao đem về đưa cho dì tao hai cắc luôn luôn. Từ hôm ba tao bị ở tù tới nay, tao càng thương dì tao nhiều hơn nữa, tao lo hết sức, bán nhựt trình bao nhiêu tao không dám ăn xài, tao đem về đưa hết cho dỉ đặng mua gạo mà ăn. Tao ở với dì tao như vậy mà dì tao khốn nạn lắm, không biết thương ba tao ... Thằng Hiệp nói tới đó rồi nó khóc. Thằng Cao chưa rõ tâm sự của nó nên nói pha lửng rằng: - Có thương cũng để bụng, chớ ba mầy mắc ở tù mà làm sao? - Ba tao ở tù, càng thương nhiều hơn mới phải. Chớ thương cái gì mà ba tao mới bị án, thì ở nhà làm đĩ lấy trai. Thằng Cao chưng hửng, nó ngó thằng Hiệp trân trân rồi chậm rãi nói rằng: - Mầy nói bất tử, có lý nào mà khốn nạn dữ vậy? - Thiệt như vậy chớ. Tao thấy rõ ràng, chớ phải tao nghe phong phanh hay sao. Tao mới bắt được hồi nãy đây. - Bắt ở đâu? - Tao mắc đi bán nhựt-trình, ở nhà dắt con em tao đi đâu không biết. Đến khuya có một người đờn ông đưa xe về, rồi người ấy ôm dì tao mà hun, tao thấy rõ ràng như vậy. - Khốn nạn quá! Mầy thấy như vậy sao mầy không chơi thằng cha đó một cái. - Thình lình quá tao làm không kịp. Mà nó hun rồi xe chạy liền, chớ không có vô nhà. - Dì mầy hư như vậy, mà sao lại còn đuổi mầy? - Tao dóa, tao xài dì tao, nên dỉ giận dỉ đuổi tao chớ sao. - Mầy nói mầy có em gái. Mầy giận mầy đi rồi mầy bỏ nó cho ai nuôi? - Dì tao nuôi. Con ruột của dì tao mà. - À! Tao tưởng là em ruột của mầy chớ. - Nó là con của ba tao chớ, song nó với tao khác mẹ. Dì tao như vậy, tao sợ nó ở với dì tao rồi ít năm nó lớn nó cũng hư nữa. - Ôi! Chuyện đó còn xa, hơi nào mà lo. Phải lo chuyện gấp bây giờ đây. Tao hỏi thiệt mầy, vậy chớ mầy tính đi ít bữa rồi về nhà hay mầy đi luôn? - Về làm gì nữa! Về nhà tao gai con mắt rồi sợ có án mạng đa mầy. - Mầy không về nhà rồi mầy đi đâu mà ở? - Vậy chớ mầy không có nhà, rồi mầy ở đâu? Không có nhà mà mầy sống được, thì tao cũng sống được chớ. Tao vái trời cho tao sống tới ba tao mãn tù, đặng tao thuật chuyện tao thấy cho ba tao nghe. - Con nhà nghèo có bao giờ chết đâu mà sợ mậy. Tụi mình phải sống đặng giúp đời chớ. Nếu mình chết rồi ai đi bán nhựt trình cho thiên hạ đọc. Thằng Hiệp buồn, đương giận mà nghe những lời pha lửng của thằng Cao thì nó bớt buồn. Nó ngó thằng Hai với thằng Cứ rồi nói rằng: "Hai đứa nầy ngủ ngon dữ!" Thằng Cao ngáp và nói rằng: "Thôi, ngủ mầy. Tao buồn ngủ quá. Mầy nằm đầu nầy đây, để tao nằm đầu kia cho. Ngủ đặng sáng có đi bán nhựt-trình". Thằng Cao nói chưa dứt lời thì đã nằm chùi trên cái băng. Thằng Hiệp ngồi ngó qua phía bên kia đường, thì thấy một gánh mì để trên lề đường, hai ba người ngồi ăn mì nói chuyện om sòm, lại có mấy chú xa phu kéo xe đi nhởn nhơ gần đó. Nó móc túi mà đếm tiền thì còn được hai cắc rưỡi, vì hồi tối nó về không có Ba Trâm ở nhà, nên nó không nạp tiền. Sợ bỏ túi ngủ rớt mất, nên nó lấy số tiền mà lận trong lưng chắc cứng, rồi day lại mà nói rằng: "Mầy ngủ hay sao Cao?" Không nghe Cao trả lời, nó mới nằm xuống mà nghỉ. Đồng hồ nhà gare chỉ ba giờ. Thằng Hiệp nằm suy nghĩ đến phận của nó từ nay không còn cha mẹ, bà con, anh em gì nữa hết thì tủi trong lòng, nên nó ứa nước mắt. Đã biết thuở nay nó cũng không sung-sướng gì hơn bây giờ, nhưng mà sớm mơi đi, chiều tối về thành thói quen, bây giờ bước vô cái đời vô gia-đình, vô thân-tộc, là cái đời chẳng hề tính tới bao giờ, thì tự nhiên nó phải lo buồn, phải ái ngại. Nó nghĩ phận nó rồi nó nghĩ tới thân cha nó nữa. Cha nó bây giờ ở đâu? Người ta nói tội bị án trên 5 năm thì bị đày ra Côn-Nôn. Vậy thì cha nó đã đi Côn-Nôn rồi hay còn ở Khám Lớn? Sự ấy nó không biết được. Mà dầu ở tù chỗ nào, thân cha nó cũng phải chịu cực khổ đáo để cho đến 10 năm. Nghĩ quanh nghĩ quất, mệt trí nên nằm ngủ quên. Gần 5 giờ sáng, xe điển sửa soạn chạy chuyến nhứt, người ta qua lại trong nhà gare lộn-xộn làm cho thằng Hai giựt mình thức dậy. Nó kéo chân, kéo tay mà kêu mấy đứa kia, chừng lại đến chỗ thằng Hiệp nằm, nó thấy thằng nọ thì nó chưng hửng, nên hỏi rằng: "Thức dậy mầy Hiệp, mầy lại đây hồi nào?". Thằng Hiệp lồm cồm ngồi dậy, vừa dụi mắt vừa đáp rằng: - Tao lại hồi khuya. - Mầy coi hát cọp rồi mầy lại đây ngủ cọp nửa hả? - Không mà. Tao ở nhà tao ra đây chớ. - Có nhà sao không ngủ nhà, lại ra đây mà ngủ chực? Mầy phạm luật rồi. Tao nói cho mầy biết, mấy đứa tao không có nhà, nên mấy đứa tao độc quyền ngủ nhà gare với hàng ba các căn phố trống ở Sàigòn này. Mầy có nhà, mầy không được phép giựt quyền của mấy đứa tao. Tao sẽ kêu lính bắt mầy giải đi Ông Yệm bây giờ. Thằng Cao chận lại mà nói rằng: "Đừng nói nhiều chuyện mầy. Nó có nhà mà nó bị dì ghẻ nó không cho nó ở nữa, nên nó ra đây chớ sao ...". Thằng Cứ chạy lại nói rằng: "Té ra thằng Hiệp bây giờ cũng ra như tụi mình rồi hả? Được lắm. Nhập tụi thêm đông vậy mới vui". Thằng Hai nguýt một cái rồi bỏ đi ra đường, vừa đi vừa nói: "Vậy nó mới hết làm phách, chớ không thì bữa nào hễ chiều rủ nó đi lại rạp hát kiếm giấy coi cọp chơi, nó cứ nói: "Mắc về nhà, mắc về nhà", nghe ghét quá". Xe điển rút chạy, bốn đứa dắt nhau đi lại fontaine ở ngã tư gần đó mà rửa mặt. Thằng Hiệp mắc rửa chân rửa tay nữa nên lâu, thằng Hai với thằng Cứ đi trước qua phía chợ cũ Bến-Thành. Thằng Cao đứng chờ nó, thấy lâu thì thúc rằng: "Ê, mau mau, mầy Hiệp. Mầy muốn tắm hay sao?" Thằng Hiệp vừa đi vừa đáp rằng: - Còn sớm mà. Nhựt-trình chưa ra đâu mà lật đật. - Hai đứa mình vô chợ mới kiếm mua đồ ăn rồi sẽ lại nhật trình. Dì mầy đuổi mầy, vậy mà từ ngày rày sấp lên mỗi bữa mầy phải đem về nạp hai cắc nữa hay không? - Nạp giống gì nữa mậy. Dì tao lấy trai thì để trai nạp cho dì tao ăn. - Vậy từ nay sắp lên mầy xài sướng lắm. - Phải. Tao kiếm được bao nhiêu, tao xài bấy nhiêu, khỏi nuôi ai nữa hết. Thằng Hiệp nói như vậy mà sắc mặt nó buồn hiu, không biết nó buồn là tại nó mất thói quen, hay là tại nó còn thương dì ghẻ với em nó. Hai đứa vô chợ mới mua xôi ăn rồi lại đi kiếm Cặp-rằng lãnh nhật trình đi bán. Trước khi rẽ ra, hai đứa hẹn nhau chiều lại chợ mới đặng gặp nhau rồi đi ăn cơm một lượt. Y như lời hẹn, gần năm giờ chiều, Hiệp lại trước chợ mới thì đã thấy thằng Cao đứng chờ nó tại đó. Hiệp hỏi Cao rằng: - Bữa nay mầy kiếm đặng bao nhiêu? - Bốn cắc rưỡi, còn mầy? - Tao kiếm được có bốn cắc hai. - Từ sớm mơi tới giờ mầy xài hết bao nhiêu? - Hết một cắc hai. - Vậy thì mầy còn ba cắc; mà mầy khỏi nạp cho dì mầy thì mầy còn dư tiền nhiều lắm. - Hôm qua tao còn dư hai cắc rưỡi nữa. - Ồ! Nếu vậy thì bây giờ trong lưng mầy có tới năm cắc rưỡi. - Ừ. - Mầy giàu lớn rồi, xài sao cho hết. - Có năm cắc rưỡi bạc mà giàu giống gì mầy. - Tao nói chơi, chớ tụi mình giàu giống gì cho được. Xài như trời mà. - Nè Cao, tao muốn nói với mầy một chuyện. - Chuyện gì? - Mầy có tật ăn hàng lung quá. - Ủa! Làm thì phải ăn chớ; không ăn thì làm làm chi. - Tao nói cho mầy nghe, tụi mình không có cha mẹ bà con. Mỗi bữa ăn cơm ăn bánh rồi, còn dư được bao nhiêu mình phải để dành mới được. - Thôi đi cha! Để dành rồi chỗ đâu mà cất. Gởi cho họ thì họ giựt mà ăn. Năm ngoái tao để dành được năm đồng bạc, tao gởi cho họ rồi họ đoạt hết đó, tao có nói chuyện cho mầy nghe rồi mà. - Phải. Mầy có nói chuyện đó cho tao nghe. Thiên hạ xấu lắm, thôi thì mình đừng có gởi cho ai hết, mình giữ trong lưng mình. - Trời ơi, không được. Tiền để trong lưng tao chịu sao nổi. Hễ có tiền thì thấy vật gì tao cũng thèm hết thảy. - Phải nhịn chớ. - Tội gì có tiền lại phải nhịn đói mà để dành? - Phải để dành tiền đặng rủi khi đau ốm mình mua thuốc mà uống chớ. - Cần gì mậy. Đau thì có nhà thương đó chi. Nhà nước lập nhà thương là có ý để nuôi tụi mình đó đa, mầy không biết hay sao? - Biết. Thôi, đau thì có nhà thương đã đành, còn quần áo nữa chi? - Quần áo gì? - Phải sắm quần áo mà bận, chớ bận đồ rách rưới dơ dáy, coi khốn nạn quá. - Mầy nói bậy quá. Tụi mình phải bận đồ rách rưới dơ dáy, chớ bận đồ tốt thì sái luật còn gì. - Sao mà sái luật? - Để tao cắt nghĩa cho mầy nghe. Mình bận đồ tốt có hai cái trái: thứ nhứt là người ta tưởng mình là con của ông nầy bà kia, mà mình đi bán nhựt-trình, thì hư danh giá của mấy ông bà tử tế hết; thứ nhì, hễ mình bận đồ tốt thì mình phải lên hạng như ngựa đua vậy, lên hạng trên mà mình không có học, không có xu, nghĩa là mình chạy dưới chân người ta thì khổ quá. Vậy thì thà mình ở hạng bét mà dẫn đầu, còn hay hơn lên hạng trên mà chạy chót. - Mầy nói giọng trường đua quá! - Trời ơi! Tao bảnh lắm mà, mầy không biết hay sao? Có hai ba nhà báo cậy tao chấp bút về mục "Bàn ngựa", mà tao còn dục-dặc tao chưa chịu đó đa mậy. - Nói dóc quá! Nếu có nhà báo cậy mầy bàn ngựa mà sao mầy còn dục-dặc? Thằng Cao cười ngất, nắm vai thằng Hiệp mà đẩy nó đi và nói rằng: "Sợ bàn bậy, họ đánh theo, họ thua tiền rồi họ rầy chớ sao. Thôi, thả xuống chợ cũ ăn cơm, đói bụng rồi". Hai đứa dắt nhau đi xuống chợ cũ. Đi dọc đường, thằng Hiệp vịn vai Cao mà nói rằng: - Tao nói thiệt mà mầy giễu cợt hoài. - Tao giễu cợt hồi nào? Mầy nói thiệt, tao cũng nói thiệt vậy chớ. Mầy muốn nói chuyện gì? - Tao muốn nói chuyện để dành tiền. - Nữa! Cứ bao nhiêu đó nói hoài. Tao nói tiền lận trong lưng để dành khó lắm mầy ơi! - Tao tính như vầy thì được lắm. - Tính sao? - Mình xin với nhà nước lập trong mỗi quartier một cái kho Tiết-Kiệm, để cho con nhà nghèo có thể gởi tiền mà để dành được bền, lập tại Khánh-Hội một cái, tại Cầu Ông-Lãnh một cái, tại Chợ-Đũi một cái, tại Đa-Kao một cái, tại Tân-Định một cái; cho phép có năm đồng xu gởi cũng được, thì dễ cho mình biết chừng nào. - Nếu được như vậy thì tao chịu, chớ gởi cho người ngoài thì tao chạy ngay, thà để tao ăn hàng cho sướng hơn là giao cho họ xài. - Để bữa nào tao với mầy đi với mấy ông chủ-bút nhựt-báo và nói với mấy ông Hội-Đồng Thành-Phố, cậy mấy ổng, người thì viết báo, người thì vô giữa Hội-Đồng, kêu nài xin cho được việc ấy. - Thôi đi mầy! Mấy ổng mắc những việc lớn lao, có giờ đâu mà lo cho mình mỗi ngày có thể gởi năm bảy xu mà để dành. Mà lập cái đó tao coi khó lắm, tụi mình gởi vô, đứa rút ra lộn-xộn, tính sao được. - Sao lại không được. Thiên hạ kể có năm ba ngàn người, kẻ đánh con ngựa nầy, người đánh con ngựa kia, rồi con về nhứt, con về nhì, lộn xộn, mà người ta còn tính được đó sao. - Còn cái nầy khó nữa, như mầy biết chữ mầy ký tên được, còn có nhiều đứa không biết chữ, rồi chừng muốn rút tiền ra mới làm sao? Nếu hết tiền, xin rút tiền ra mà phải chờ năm bảy ngày thì chết đói ngủm cù-đèo. - Có khó gì. Mình gởi tiền thì họ phát cho mình một cuốn sổ, trong sổ dán hình của mình. Chừng mình muốn lấy tiền ra, mình cứ trình cuốn sổ hình, họ coi hình phải của mình thì họ phát tiền, có chi đâu mà khó. - Mầy giỏi thì mầy xin đi. - Tao có quen một ông Hội-Đồng, bữa nào ổng cũng mua nhựt-trình của tao, tao sẽ nói với ổng. Hai đứa ra đại lộ La Somme, thì thấy thằng Hai với thằng Cứ đương ngồi dựa lề đường mà ăn cơm với nhiều người lao-động khác. Chúng nó lựa một chỗ trống mà ngồi, rồi mua một tô canh ba xu, một dĩa thịt ba xu, với hai tô cơm mỗi tô hai xu mà ăn chung với nhau, chỗ ngồi hèn hạ, đồ ăn không quí, mà chúng nó ăn ngon lắm. Thằng Hiệp liếc mắt ngó thằng Hai, thì thấy thằng nọ nghiêm chỉnh, chớ không phải liến xáo như mấy bữa trước. Chừng ăn cơm rồi nó với thằng Cao trả tiền đứng dậy thì thằng Cứ đã đi đâu mất, còn thằng Hai thì đứng dựa gốc cây mà chờ. Hai đứa đi ngang qua lộ thì thấy thằng Hai đi theo, chừng đi khỏi đám đông người nó mới móc trong túi lấy ra một cái đồng-hồ nhỏ, rồi đưa cho thằng Cao coi mà nói rằng: - Đồng hồ nầy tốt hay không mậy? - Mầy làm gì có đồng hồ. - Tao mua năm đồng bạc đó mầy. Rẻ không? - Mầy nói dóc. Mầy làm gì có tới năm đồng bạc mà mua? Thế thì mầy ăn cắp chớ gì? - Đừng nói bậy mậy. Tao mua thiệt chớ. Như mầy muốn, tao bán lại cho mầy. - Không thèm. - Tao bán rẻ. Tao bán hai đồng mà thôi. - Mầy cho không đi nữa, tao cũng không thèm lấy. - Thôi một đồng đây nè, chịu không? - Tao nói không thèm, mà cứ nài hoài. - Đồ ngu quá. Thằng Hiệp nghe thằng Hai mắng thằng Cao thì nó giận, nên nói rằng: - Đồ mầy ăn cắp, người ta không thèm, sao mầy lại mắng người ta ngu. - Mầy nói tao ăn cắp hả? - Chớ gì. - Dầu tao ăn cắp đi nữa cũng còn khá hơn ba mầy chận đường cướp giựt người ta, nên mới bị đày đó. Thằng Hiệp nghe mấy lời nói ấy thì nó lùng bùng lỗ tai, chóa lòa con mắt, nghẹn cứng họng, đứng trân trân không nói được nữa. Thằng Hai bỏ đi lộn trở lại. Thằng Cao bèn cập tay thằng Hiệp dắt đi và nói rằng: "Thằng Hai gian giảo lắm, mình chơi với nó có ngày mình mang họa. Thôi mình thả vô rạp hát Việt-Nam lập thế coi hát cọp chơi, chừng buồn ngủ mình lên gare Taberd mà ngủ êm hơn, đừng ngủ với thằng Hai nữa". Thằng Hiệp lưu linh trót một tháng, tuy trong lưng nó có tiền luôn luôn, không bữa nào bị đói khát, nhưng mà ban đêm, hễ nó nhớ đến thân cha nó bị ở tù, nhứt là nhớ tới lời của thằng Hai mắng nó, thì nó đau đớn trong lòng, không muốn sống chút nào hết. Một bữa, nó nhớ cha nó quá, nên ban đêm nó lén trở về cái xóm nó ở hồi trước, đặng thấy cái nhà là cái dấu tích của cha nó. Mà chừng đi ngang qua nhà, nó thấy cửa đóng, trong nhà không đèn, nó tin chắc dì ghẻ nó đã dắt em nó mà đi chơi với trai, thì nó uất ức trong lòng, vừa buồn rầu, vừa oán hận vô cùng. Một buổi sớm mơi, nó đi bán nhựt trình, có một cô đã trộng tuổi, ngồi trên xe hơi, kêu nó đem lại mua hai số báo. Cô trả tiền rồi cô hỏi nó có cha mẹ hay không. Nó nói không có. Cô mới hỏi nó muốn ở thì cô mướn nó ở bồi, mỗi tháng cô trả cho nó năm đồng bạc. Thằng Hiệp chán ngán vì nỗi mẹ ghẻ lấy trai, mà lại đau đớn vì nỗi chúng bạn ngạo báng, nên đã có ý bỏ xứ Sàigòn mà đi, ngặt sợ đến xứ khác không nghề làm ăn rồi phải đói khát. Nay nó nghe cô nầy mướn nó, thì nó hỏi rằng: - Bẩm cô, nhà cô ở đâu? - Qua có lập vườn cao su ngoài phía núi Chứa-chan. - Xa quá há? - Không xa bao nhiêu. Qua muốn mướn em là vì qua cần dùng một đứa nhỏ lanh lợi đặng năm ba bữa qua sai đi xe lửa xuống Sàigòn một lần mà mua đồ. Còn công việc trong nhà thì có bồi khác, chớ không phải một mình em đâu. Thằng Hiệp suy nghĩ một hồi rồi chịu đi. Cô biểu nó leo lên xe hơi, chạy lại nhà Cặp-rằng mà trả nhựt trình, rồi mới chở nó về Chứa-chan. Chương VII Gặp người quen
Cách năm năm sau. Thằng Hiệp bây giờ đã trở nên một người trai mười chín tuổi. Một buổi sớm mai, nó đi lại trước của nhà thương thí, mình mặc cái áo bành-tô trắng, chân mang guốc vông. Tuy nó ăn mặc sạch sẽ, nhưng mà tướng mạo nó coi bịnh nhiều, hình vóc ốm nhách, nước da vàng ẻo. Nó đương thơ thẩn, bỗng đâu thằng Cao cỡi xe máy chạy ngang, vừa thấy nó thì nhảy xuống hỏi rằng: - Hiệp, mấy năm nay mầy trốn tao mà mầy đi đâu mất vậy mậy? - Tao ra ở ngoài Chứa-chan. - Ở làm giống gì đó? - Ở bồi với Tây. - Sao hồi đó mầy lén tao mầy đi, mầy không cho tao hay? - Bị thình-lình quá, tao không cho mầy hay kịp. - Mấy tháng nay mầy làm ăn khá không? - Làm tháng nào ăn hết tháng nấy, chớ không khá gì. - Bây giờ mầy đi đâu? - Tao bị rét rừng chịu không nổi, nên xin thôi đặng trở về Sàigòn kiếm thuốc uống. Nếu ở ngoài đó nữa, chắc phải chết. - Phải. Bộ mầy coi bịnh nhiều lắm. Phải uống thuốc cho gắt mới được. Đi làm chi ra Chứa-chan không biết. Lệu-khệu ờ Sàigòn lại đói khát gì hay sao. - Bây giờ mầy làm việc gì? - Tao làm planton cho nhà báo "Nam-kỳ". - Lương đủ xài không? - Không đủ cũng phải đủ. Hai đứa nói chuyện tới đó, kế có một cô chừng mười bảy mười tám tuổi, mặc một bộ đồ trắng may thiệt khéo, một tay ôm cái bốp, một tay cầm dù màu hường, cô xâm-xâm đi lại, chừng gần tới cô ngó Hiệp trân-trân vừa cười vừa hỏi rằng: "Xin lỗi anh, phải anh là anh Hiệp hay không?". Hiệp chưng-hửng nên đứng ngó cô nọ mà đáp rằng: "Phải, tôi tên Hiệp. Cô ở đâu mà biết tôi?" Cô nọ cười, lòi hàm răng trên trắng tươi và nhỏ rức, hai bên má lại có mang hai đồng tiền coi rất hữu duyên. Cô nói rằng: "Coi kìa, anh quên em hay sao anh Hiệp? Em là con Lê, con của Hai Tiền hồi trước ở bên Kinh đó". Hiệp gật đầu đáp rằng: "Trời ơi, vậy mà tôi quên chớ! Không gặp nhau đã hơn năm năm rồi, lại cô lớn rồi coi khác, nên tôi nhìn không ra". Cao thấy Hiệp gặp người quen, mà là một cô nhan sắc đẹp đẽ, y phục đàng hoàng, nên nó không muốn xẩn bẩn ở đó nữa. Nó leo lên xe máy và nói với Hiệp rằng: "Thôi, để bữa khác rồi sẽ nói chuyện dài. Mầy phải lại kiếm tao nghe không. Bất luận là giờ nào, mầy lại nhà báo Nam-kỳ thì có tao". Hiệp gật đầu. Cao đạp xe máy chạy qua chợ mới. Cô Lê hỏi tiếp rằng: - Sao anh ốm, lại nước da mét quá vậy? - Tôi đau. - Đau bịnh gì? Đau bao lâu rồi? - Tôi bị bịnh rét rừng đã hai năm rồi, cái gốc nó lậm trong máu hay sao không biết, mà uống thuốc không dứt được. - Mấy năm nay má em kiếm anh dữ quá. Mà em cũng vậy, hễ có dịp đi ra ngoài đường thì em để ý kiếm anh, song không được gặp anh lần nào hết. Anh đi đâu mất vậy? - Tôi ở ngoài Chứa-chan. - Dữ không! Đi xa quá, hèn chi mấy năm nay em với má em kiếm không gặp. Anh về trong nầy hồi nào? - Tôi mới về hồi hôm. - Thôi, em mời anh đi theo em mà về nhà em ở trên Đất-Hộ, đặng má em thăm anh một chút. - Cám ơn cô. Để bữa khác rồi tôi sẽ lên thăm thím Hai. Bữa nay tôi chờ nhà thương mở cửa, tôi vô cho quan thầy thuốc coi mạch đặng xin thuốc tôi uống. - À! Anh muốn xin thuốc nhà thương thí đây anh uống hay sao? - Phải. Tôi có bịnh lâu quá, nên trở về đây là về đặng kiếm thuốc uống. - Không được. Má em dặn gắt lắm. Má em biểu hễ gặp anh, thì dầu thế nào cũng phải mời anh về nhà cho được. Thôi anh lên nhà chơi, để mai rồi anh sẽ xin thuốc. Anh nói anh đau lâu rồi, bây giờ đi xin thuốc, dầu trễ một bữa cũng không hại gì, xin anh phải đi với em. Nè, mà ở trên Đất-Hộ có ông thầy thuốc Ẩn giỏi lắm. Ổng quen với má em, ổng cho thuốc bịnh nào cũng mạnh hết, mà ổng tử tế quá, không cắt cổ thân chủ như mấy ông khác, mạnh rồi ai muốn đền ơn bao nhiêu cũng được, ổng không kèo nài, nhà nghèo không có tiền thì ổng trị giùm. Anh lên trên nhà, rồi em dắt anh lại cho ổng coi mạch, ổng cho thuốc anh uống cũng được vậy. - Tôi nghèo, đâu dám uống thuốc của thầy ngoài. - Không có sao đâu mà anh ngại, em nói ông thầy thuốc Ẩn tử tế lắm. Anh nghèo, ổng cho thuốc thí, không có đòi tiền. Thế nào anh cũng đi với em mới được. Nếu anh không đi, em về em nói với má em rằng em có gặp anh, mà em không dắt anh về nhà, thì má em rầy em chết. Hiệp dụ-dự, mà bị cô Lê nài-nỉ hối thúc quá, không thể từ chối được, nên phải đi với cô lại gare xe điển, rồi cô mua giấy mà đi Đakao. Hai người lên xe điển ngồi ngang mặt nhau, cô Lê nói nói cười cười, tỏ ý gặp được Hiệp thì cô vui mừng lắm vậy. Hiệp nhớ lại cô Lê nhỏ hơn mình 1 hoặc 2 tuổi, hồi trước nước da cô trắng trẻo, gương mặt cô sáng sủa, song cô là con nhà nghèo, áo quần lam lũ, mỗi ngày cô lãnh bánh trái đi bán kiếm lời năm bảy xu. Bây giờ sao cô nên một người gái xinh đẹp, mà ăn mặc sang trọng đến thế nầy? Còn thím Hai Tiền là người hồi đó ở một xóm với mình, nhưng không có tình bà con thân thiết chi lắm, sao mấy năm nay thím có ý kiếm mình làm gì? Nhớ lại ngày Tòa xử cha mình rồi, thì thím ghé hỏi thăm, nghe nói bị án 10 năm, thím khóc, khóc xong rồi về, chớ không nói chi hết. Tại sao bây giờ thím lại kiếm mình? Hiệp còn suy nghĩ những việc ấy, thì xe đã tới gare Đakao. Cô Lê mời Hiệp xuống, rồi dắt trở lại đường Albert 1er, đi lên gần tới ngã tư Mayer, cô mới ghé vào một tiệm may, chưng dọn rực rỡ, thợ may đông tới tám chín người. Hiệp đứng bợ ngợ ngoài cửa, thì cô Lê day lại cười rất hữu duyên và nói rằng: "Mời anh vô. Nhà em đây". Cô Lê hỏi một cô thợ may rằng: - Má tôi đi đâu? - Bà chủ mới lên trên lầu. Cô đưa tay ngoắt Hiệp mà nói rằng: "Má em ở trên lầu. Mời anh đi thẳng lên trên nầy". Hiệp càng bợ-ngợ hơn nữa, song đã đến đây rồi, không lẽ trở lại, nên cứ theo cô Lê mà lên lầu. Thím Hai Tiền đang nằm trên bộ ván gõ láng lẫy, xỏa tóc ra cho một đứa con gái nhỏ vạch kiếm tóc ngứa mà nhổ. Thím nghe có tiếng giày lên thang, thím tưởng có khách, nên lồm cồm ngồi dậy. Cô Lê vừa lên tới đầu thang, thì kêu mà nói lớn rằng: "Má, con gặp được anh Hiệp rồi má à". Hai Tiền ngồi dậy vừa bới tóc vừa hỏi rằng: - Gặp ở đâu? Sao con không dắt nó về đây? - Có chớ. Con có mời ảnh về đó. - Nó đâu? - Ảnh đi sau con đây. Hiệp ló đầu lên thang. Hai Tiền vừa ngó thấy thì la lớn rằng: "Dữ ác không! Mấy năm nay cháu đi đâu mất mà thím kiếm hết sức không được vậy hử? Thím gặp ai quen thím cũng hỏi thăm, nhưng mà không ai biết cháu ở đâu mà chỉ cả. Vậy chớ cháu đi đâu?" Hiệp cười ngỏn-ngoẻn mà đáp rằng: - Cháu ra ở ngoài Chứa-chan. - Dữ không! Ra làm gì ở ngoải? - Cháu ở bồi với Tây ở sở cao-su. - Sao cháu ốm mà nước da vàng ẻo vậy? Cháu đau hay sao? - Thưa, cháu đau nên mới xin thôi mà về đây đặng kiếm thuốc uống. Cháu bị rét rừng. - Ra ở chi chỗ rừng cao nước độc, không mang bịnh sao được. Cháu ngồi chớ, ngồi ghế đó đặng thím hỏi thăm một chút. Cô Lê tiếp mời Hiệp ngồi tại bộ ghế salon để trước bộ ván gõ chỗ Hai Tiền nằm hồi nãy đó, rồi cô bước lại cái bàn nhỏ để phía trong, rót một tách trà bưng ra mời Hiệp uống. Hai Tiền đi rửa mặt và nói nho nhỏ với con rằng: "Con biểu con Hà nó đi mua cà-phê về cho anh con lót lòng chớ". Cô Lê ngoắt con nhỏ nhổ tóc ngứa hồi nãy vô trong buồng. Hiệp ngồi ngó trong nhà thì thấy bàn ghế, ván, tủ, cái nào cũng đẹp, lại có kiếng lớn để soi cả mình, có đồng hồ tốt để coi giờ nữa. Còn Hai Tiền, tuy mặc một cái quần lãnh đen với một cái áo bà ba lụa trắng, chớ không chưng diện chi lắm, nhưng mà bây giờ thêm sắc sảo, sạch sẽ, chớ không phải lam lũ cùi đày như hồi trước. Hai Tiền rửa mặt rồi lại ngồi bộ ván gần cái ghế của Hiệp ngồi. Cô Lê đã thay cái áo dài mà bận một cái áo bà ba lụa màu bông hường, rồi lại ngay cái kiếng lớn đứng soi mà sửa mái tóc. Hai Tiền hỏi Hiệp rằng: - Té ra mấy năm nay cháu ra ở bồi hay sao? - Thưa, phải. - Tại sao khi anh Ba bị Tòa kêu án rồi, cháu không ở với chị Ba cho sung sướng tấm thân, lại đi ở đợ cho cực khổ rồi phải đau ốm vậy? - Cháu không thế ở với dì cháu được. Nếu cháu chịu nhịn nhục mà ở đó sợ e cháu gai mắt rồi cháu phải mang họa lớn. - Sao vậy? Cháu ra đi, chị Ba có cho cháu tiền bạc gì không? - Thưa, không. Tiền bạc đâu mà cho. Từ ngày ba cháu bị bắt rồi, thì mỗi bữa cháu đi bán nhựt-trình có tiền được bao nhiêu, cháu đem về đưa hết cho dì cháu xài. Vậy mà dì cháu chưa vừa lòng, đành đi làm việc xấu hổ, cháu nói rồi lại đánh cháu, đuổi cháu nữa chớ. - Té ra chị Ba đuổi cháu nên cháu mới đi đó sao? - Thưa, phải. - Tại sao chị Ba đuổi cháu? - Thím không hay, hay sao? - Có hay đâu. - À, phải, ba cháu bị bắt được ít ngày rồi thím qua ở đâu bên Sàigòn, thím không có ở đó nữa, nên thím không hay. Vậy để cháu thuật chuyện tồi tệ của dì cháu cho thím nghe. Ba cháu bị Tòa kêu án rồi, thì cháu để ý thấy dì cháu lần lần chưng diện, áo nầy quần kia, có ai tới hỏi thăm ba cháu thì dì cháu làm bộ buồn, còn ở nhà thì vui cười như thường, chẳng có vẻ thương xót ba cháu chút nào hết. Cách chừng một tháng, tình cờ một đêm nọ, cháu bắt được dì cháu lấy trai. Cháu tức giận cháu cự. Dì cháu mắc cỡ mới đánh đuổi cháu ra khỏi nhà đó. - Trời đất ơi! Thiệt như vậy hay sao? - Thiệt như vậy. Cháu thấy rõ ràng. Đi chơi xe hơi với trai, chừng về tới cửa, ôm trai mà hun, có con Hào đó nữa. - Hứ! Chồng thí thân, không kể bị đày lưu, đi cướp giựt đặng đem bạc muôn về cho mà hưởng. Chồng ở như vậy mà không biết thương chồng, ở nhà lại đành đoạn đi lấy trai! - Thưa, thím nói như vậy sợ e oan cho dì cháu. Dì cháu không thương ba cháu, nên ba cháu ở tù thì ở nhà lấy trai: cái tội ấy thì có thiệt. Còn việc ba cháu cướp giựt mà đem về bạc muôn cho dì cháu, thì cháu chắc việc ấy không có, bởi vì tuy ba cháu bị án cướp giựt, nhưng mà bao giờ cháu cũng tin chắc rằng ba cháu không có làm việc hung ác như vậy. Hai Tiền ngồi suy nghĩ, không nói nữa. Hiệp nghe nhắc tới cha thì buồn hiu. Con Hà bưng một mâm cà-phê, bánh mì, xíu mại mà lên thang lầu. Cô Lê ngó thấy thì cô rước bưng đem để ngay trước mặt Hiệp, rồi mời Hiệp ăn lót lòng. Hai Tiền khoác tay biểu con Hà đi xuống từng dưới, rồi bước lại ngồi cái ghế ngang mặt Hiệp mà mời Hiệp ăn. Hiệp buồn nên không muốn ăn, mà vì mẹ con Hai Tiền theo ép quá, nên phải ăn một chút bánh mì và uống một ly cà-phê. Chừng Hiệp ăn rồi, Hai Tiền mới kéo ghế lại ngồi gần một bên và nói nho nhỏ rằng: - Vì cháu thương yêu kính trọng anh Ba, nên hồi nãy cháu cãi với thím, cháu nói anh Ba bị án oan, chớ không có cướp giựt, thím sợ cháu buồn nên thím không cãi lại liền. Nhưng mà theo chỗ thím thấy, thì trước khi anh Ba bị bắt, anh Ba có đem tiền cho chị Ba nhiều lắm. - Không lẽ có như vậy, bởi vì bữa Tòa xử có cháu đi coi, ở giữa Tòa ba cháu nói quả quyết không có cướp của ai hết. - Anh Ba sợ tội, nên ra giữa Tòa anh Ba phải chối chớ. - Còn nếu ba cháu có cướp giựt mà đem tiền bạc về cho dì cháu, thì sao cháu không thấy dì cháu lấy tiền đó ra mà xài? - Chị Ba khôn lắm. Chỉ sợ đem ra xài liền rồi thiên hạ hay, chỉ phải bị tội nữa, bởi vậy chỉ giấu nhẹm cho tới năm kia đây chỉ mới lấy ra mà mua nhà cửa, sắm xe hơi đồ đó. - Có mua nhà, có sắm xe hơi hay sao? - Chớ sao. Nếu không phải tiền bạc của anh Ba, vậy chớ tiền bạc ở đâu mà chỉ làm kinh dinh dữ vậy? Mà thôi, chuyện của chỉ để một lát rồi thím sẽ thuật cho cháu nghe. Bây giờ để thím nói việc nầy cho cháu nghĩ thử coi thím nghi anh Ba có đem tiền về cho chị, vậy mà thím nghi đúng hay không. Thím nhớ chắc, ba con Lê chết nhằm ngày mười hai tháng hai Việt Nam, hồi mặt trời lặn. Tối lại họ đem xuống nhà xác, họ không cho thím ở trỏng, nên thím trở về nhà. Đêm đó thím buồn rầu chong đèn ngồi khóc hoài, không biết làm sao cho có tiền mà chôn cất cha con Lê. Đến khuya, lối hai hoặc ba giờ gì đó, thình lình anh Ba xô cửa bước vô, hỏi thím vậy chớ chuyện gì mà khóc. Thím thuật việc cha của con Lê chết mà không có tiền bạc lãnh xác về chôn. Anh Ba mới móc túi lấy ra một xấp giấy bạc đưa cho thím, biểu lấy đó mà chôn cất cha con Lê, lại căn dặn thím đừng nói cho ai biết. Xấp bạc đó tới 5 tấm giấy 20, mà thím coi hai túi áo bành-tô của anh Ba đầy nhóc, chắc là giấy bạc còn trong đó nhiều lắm. Đến 4 giờ khuya, thím dắt con Lê đi vô nhà thương. Ra đường, đi được một khúc thì thím gặp chị Ba đang xách một cái giỏ mây mà đi. Hai chị em đi với nhau qua Cầu-Kho, rồi thím dắt con Lê ra Chợlớn, còn chị Ba thì xách giỏ đi ra phía Cầu Ông-Lãnh. Chiều bữa sau, chôn cất cha con Lê rồi, thím trở về thì nghe anh Ba đã bị cò bót bắt. Việc thím thấy rõ ràng như vậy đó, nên thím mới đâm nghi đêm đó anh Ba đem bạc về đưa cho chỉ, rồi chỉ bỏ vô giỏ mây mà đem đi giấu, hoặc gởi cho ai đó, nên bữa sau cò bót đến xét nhà mà kiếm không được bạc, cháu nghĩ coi thím nghi trúng hay không? Hiệp ngồi châu mày suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: - Nếu như vậy thì thím nghi phải lắm. Dì cháu đi ra Cầu Ông-Lãnh thì chắc là đem gởi cho người em gái là Tư Hường chớ gì. - Qua không hiểu đem gởi cho ai. Vưng theo lời anh Ba dặn nên mấy năm nay thím không dám nói việc ấy cho ai biết. Bây giờ thím mới nói cho cháu nghe đây mà thôi. - Nếu thiệt như vậy, thì ba cháu giao cho dì cháu một số bạc lớn lắm. - Thím không rõ bao nhiêu. - Mái-Chín Cúng bị giựt hết hai mươi lăm ngàn. Theo lời khai giữa Tòa, thì kiếm được có năm ngàn tại nhà Tám Thiệt, còn lại tới hai chục ngàn thì ba cháu giao cho dì cháu hết. - Có cho thím hết một trăm. - Thì còn tới mười chín ngàn chín trăm. Nếu có tiền bạc nhiều rồi, mà sao mỗi bữa cháu đem về đôi ba cắc lại còn lấy làm chi? - Phải lấy đặng khỏi thiên hạ dị nghị. Mà thím chắc anh Ba giao tiền nhiều lắm, nên mới có mà mua nhà, đất, sắm xe hơi đó chớ. - Sao thím biết dì cháu mua nhà, đất, sắm xe hơi? - Thím với con Lê gặp hoài. Con Hào có dắt con Lê vô tới trong nhà nữa chớ. - Nhà ở đường nào? Cô Lê bước lại đứng gần Hiệp rồi chống tay trên bàn mà đáp rằng: - Nhà ở gần nhà thờ Chợ-Quán. Nhà tốt lắm, có nhà xe, nhà bếp đủ hết, đàng trước lại có sân nữa. Con Hào khoe với em mua về nhà về đất trên tám ngàn. - Không biết năm nay em tôi nó bao lớn? - Ý. Nó lớn lắm, mà chắc anh gặp anh quên nó. Vóc dạc nó lớn hơn em nữa. Em mới gặp nó ngoài Catinat hôm tuần trước đây. - Không biết nó có chồng hay chưa? - Nó nói với em nó chưa có chồng. Mà sao em gặp nó đi chơi, hoặc ngồi nhà hàng với đờn ông con trai hoài. Hiệp nghe nói như vậy thì châu mày, lộ sắc buồn hiu. Cô Lê mới kéo ghế ngồi một bên mà nói rằng: - Anh Hiệp, bác Ba hồi trước có lòng thương tưởng đến cha em, nên lúc cha em mất, bác cho tiền bạc mà chôn cất tử tế, rồi má em cũng nhờ tiền ấy mà làm vốn mua bán lần lần khá lên, nên ngày nay mới có tiệm như vầy đây. Cái ơn ấy chẳng bao giờ mà má em với em quên được. Việc nhà của anh, em coi cũng như việc nhà của em vậy. Mấy năm nay em ngó thấy, em lấy làm buồn hết sức. Em tưởng anh biết rồi, chớ em không dè anh không hay. Nếu em giấu anh, thì té ra em không thiệt tình. Vậy để em tỏ việc của anh cho anh hiểu. Hiệp ngó Hai Tiền rồi day qua ngó cô Lê trân trân, dường như cầu xin cô nói cho mau. Cô Lê nghiêm sắc mặt mà tiếp rằng: "Nói hết lời sợ anh buồn, chớ thiệt bác Ba gái là một người đờn-bà nhơ nhớp khốn nạn lắm. Bác trai bị án đâu chừng một năm, thì em thấy bác gái dọn ở một căn phố tại đường Hamelin. Bác làm bé một ông Huyện nào đó em quên tên; bà Huyện ghen nên bả mướn người ta đánh, lột quần giữa chợ xấu hổ hết sức. Bác gái không dám gần ông Huyện đó nữa, mà rồi bác lại cặp với người khác, thường thường dắt nhau đi chơi tự do không ái-ngại chi hết. Còn con Hào bây giờ bộ nó cũng tự do quá, nay đi chơi với thầy nầy, mai đi chơi với ông kia, mà bác gái không cấm cản chi hết. Bác gái hư mà con Hào cũng hư nữa, không còn gì mà kể". Hiệp ngồi nghe, hai hàng nước mắt nhểu ròng ròng. Hai Tiền muốn khuyên giải cho Hiệp bớt buồn nên nói rằng: "Anh Ba không có hạnh phước về gia-đình, nên ảnh thương vợ con mà trời lại khiến vợ bạc, con hư, ấy là tại cái phần số của ảnh. Thôi cháu cũng chẳng nên buồn làm chi, vái trời phò hộ cho ảnh mạnh giỏi, ít năm nữa ảnh về đây, rồi coi chỉ lấy mặt mũi nào mà đối đãi với ảnh cho biết". Hiệp nghe nhắc tới cha thì càng thêm đau đớn nên vừa khóc vừa đáp rằng: - Dì cháu hư, thì cháu đã thấy tận mặt, nên bây giờ nghe dỉ làm những điều tồi bại thì cháu chẳng lấy làm lạ. Còn con Hào, ngày cháu ra khỏi nhà, thì cháu có ý sợ ngày sau nó bị cái gương xấu của dì cháu mà nó không khỏi hư, té ra cháu lo sợ trước mà rồi cũng không khỏi! Cháu tưởng cháu sống đặng cho tới ngày ba cháu mãn tù, đặng cha con sum hiệp. Chuyện nhà như vậy làm sao mà sống cho tới năm năm nữa, trời đất ơi! - Cháu đừng nói như vậy, không nên. Ai có phần nấy. Họ hư mặc họ, có can cập gì đến cháu đâu mà cháu buồn. Cháu có bịnh, cháu phải làm lảng để lo uống thuốc cho mạnh, đừng thèm buồn chi hết. - Thím thương cháu nên thím khuyên như vậy, chớ không buồn sao được. - Nầy cháu, thím nói thiệt với cháu, hồi trước thím nhờ anh Ba cho một trăm đồng bạc, thím chôn cất chú Hai hết 20, còn 80 thím làm vốn mua bán. Nhờ số tiền đó thím gầy dựng lần lần nên bây giờ mới có được cái tiệm may như vầy. Chẳng giấu cháu làm chi, tiệm của thím khá lắm, mỗi tháng trừ sở phí rồi thím lời trên 100 luôn luôn. Hồi trước thím tưởng cháu theo ở chung với chị Ba mà thím biết chị Ba có tiền thì chắc cháu cũng được sung sướng. Chừng con Lê gặp con Hào mới hay cháu không có ở chung. Thím mới tính kiếm cháu đặng thím đem cháu về thím nuôi, mà kiếm hết sức không được, không dè cháu phải đi ở bồi cực khổ, lại còn mang bịnh hoạn nữa. Mẹ con thím mang ơn anh Ba nhiều lắm, hễ nhớ tới thân anh Ba bị tù rạc, thì mẹ con thím cũng buồn như cháu vậy. Nay cháu về đây không muốn vô Chợ-Quán ở với chị Ba, thôi thì ở đây với thím, chớ đừng có đi ở bồi ở bếp nữa. Hiệp lắc đầu nói rằng: - Dì cháu như vậy, có thế nào mà cháu ở với dì cháu được. Còn cháu ở đây thì bất tiện cho thím, cháu đâu dám. - Có bất tiện chỗ nào đâu, thím nhờ anh Ba mà trả nghĩa cho chồng được, rồi lại làm ăn khá nữa. Nay thím nuôi cháu mà thím sợ nhọc lòng hay là sợ tốn hao hay sao? - Cháu bịnh hoạn mà ở làm rộn cho thím ... - Ậy! Bởi thím thấy cháu bịnh hoạn, nên thím mới biểu cháu ở đây đặng thím kiếm thầy cho cháu uống thuốc. Gần đây có ông thầy thuốc Ẩn giỏi lắm, mà tử-tế nữa. Thím quen nhiều lắm, trong tiệm hễ có cô thợ may nào đau, thì thím rước ổng coi mạch, chớ thím không chịu ông nào khác. Cháu ở đây mà nghỉ, rồi xế thím biểu con Lê dắt cháu lại nhà ổng coi mạch thử coi cháu bị bịnh gì. Cháu phải uống thuốc cho cần mới được, thím coi cháu bịnh nhiều lắm. Cô Lê thình-lình la lớn rằng: "Ý má! Coi mặt anh Hiệp kìa. Sao ảnh xanh quá vậy?" Hai Tiền đứng dậy hỏi Hiệp rằng: "Ừ, sao vậy cháu? Trong mình cháu bây giờ thế nào?" Hiệp rùng mình đáp rằng: "Trong ruột cháu lạnh dữ! Chắc cháu tới cữ rét rồi". Hai Tiền day lại biểu cô Lê: "Con lấy chiếc chiếu trải trên bộ ván nầy cho anh Hai con nó nằm đỡ đi. Ôm một cái mền ra đây nữa, cho nó đắp. Mau mau đi. Để nằm đỡ rồi chiều má sẽ mua một bộ ván nhỏ lót thêm phía trước kia, rồi giăng mùng cho nó nằm kín đáo". Cô Lê trải chiếu rồi ôm mền gối đem ra. Hai Tiền biểu Hiệp lên ván mà nằm, lấy mền đắp cho Hiệp. Cô Lê thấy Hiệp run thì cô sợ, nên nói với mẹ rằng: "Không được đâu má. Để con đi rước thầy thuốc liền bây giờ mới xong". Hai Tiền gật đầu chịu. Cô Lê liền thay áo rồi đi rước thầy thuốc. Cách một lát, ông thầy thuốc Ẩn theo cô Lê mà lại tới, ông có xách theo một cái hộp đựng thuốc và đồ dụng cụ để tiêm thuốc. Ông bắt mạch, coi lưỡi, coi con mắt cho Hiệp và nói rằng: "Bị rét rừng, mà lâu quá không uống thuốc, nên bịnh phải nặng. Tuy vậy mà không hại lắm, uống thuốc riết tự nhiên hết được; song tôi nói trước cho bà biết, phải tiêm thuốc lâu lắm". Hai Tiền nói: "Xin ông ráng điều trị giùm. Bao lâu cũng được, miễn là mạnh được thì thôi". Ông thầy thuốc mở hộp lấy ra tiêm cho Hiệp một ống thuốc, rồi ngồi lại bàn viết toa và nói rằng: "Để rồi bà sai ai đó đi xuống nhà thuốc mua ba thứ thuốc tôi biên đây. Ve thuốc nước thì hai giờ đồng hồ, bà cho uống một muỗng cà-phê, còn thuốc bột thì trước mỗi bữa cơm bà cho uống một cachet, hộp thuốc để tiêm thì mỗi bữa tôi lại tôi tiêm cho". Ông đua toa cho Hai Tiền rồi từ giã mà về, hứa sáng mai ông sẽ trở lại mà tuần mạch và tiêm thuốc. Hai Tiền đưa cái toa cho cô Lê và nói rằng: "Thôi, con kêu xe kéo mà đi mua thuốc, chớ sai bầy trẻ nó có hiểu đâu. Má coi nó bịnh nhiều lắm, bịnh về phần xác, mà cũng bịnh về phần trí nữa. Mẹ con mình phải ráng nuôi nó mà đền ơn đáp nghĩa cho bác Ba con". Cô Lệ gật đầu nói: "Phải vậy chớ sao", Rồi cô bước xuống thang lầu mà đi mua thuốc. Chương VIII Kẻ bạc - Người hậu
Một buổi chiều, trời mưa rỉ-rả, gió thổi lao xao. Hiệp nằm trên bộ ván gõ nhỏ, ngó ra cửa sổ, thấy hột mưa lác-đác, hột nầy tiếp hột kia, như giọt nước mắt của trời nhỏ xuống, rồi lại thấy ngọn cây phía bên kia đường quặc xuống, ngóc lên như ai xô, ai đẩy, thì lòng ngao ngán, trí bàng-hoàng. Cô Lê ở từng dưới đi lên lầu, rồi đi ngay lại chỗ Hiệp nằm, mắt ngó, miệng cười mà hỏi rằng: "Trời mưa dầm-dề từ hồi trưa đến giờ, vậy mà anh có lạnh hay không?" Hiệp lật đật ngồi dậy đáp rằng: "Không. Trong mình tôi như thường, không biết lạnh nữa". Cô Lê kéo ghế ngồi ngay mặt Hiệp mà nói rằng: - Trời nầy mà anh không biết lạnh thì chứng bịnh rét của anh, ông thầy thuốc trị đã dứt rồi. Em nói ông Ẩn giỏi lắm mà, anh coi phải thiệt ổng giỏi hay không? - Ổng giỏi thiệt, nhưng mà ổng trị đã hơn ba tháng rồi... - Thì hồi coi mạch lần đầu, ổng đã có nói bịnh của anh phải uống thuốc lâu lắm mới thiệt mạnh được. Em tưởng phải uống tám chín tháng hoặc một năm, té ra mới ba tháng mấy mà anh dứt được bịnh rét, vậy thì giỏi lắm chớ còn sao nữa? - Không phải tôi nói ổng cho thuốc tới ba tháng mấy mới dứt bịnh rét đó là dở. Tôi biết chứng bịnh của tôi khó lắm, tôi sợ phải uống thuốc tới một hai năm kìa chớ, mà có khị trị không hết rồi phải chết nữa. Ngoài Chứa-chan nhiều người mang bịnh như tôi vậy, tôi thấy họ chết thiếu gì. - Ừ, nếu anh biết như vậy, thì phải công nhận ông Ẩn là thầy thuốc giỏi chớ. - Phải, tôi chịu ổng giỏi. Ý tôi muốn nói hơn ba tháng nay, tôi làm tốn hao của thím Hai nhiều quá. - Thôi, anh cứ nói câu đó hoài, má em nghe đây má em buồn lắm. - Xin cô để tôi nói hết cho cô nghe. - Anh muốn nói việc gì em cũng chịu hết thảy; em chỉ xin anh đừng có nói tới chuyện đó, em buồn lắm vậy. - Không nói sao đặng. Mấy tháng nay thím Hai đã nuôi cơm tôi, mà còn tốn tiền thuốc không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Rồi đây còn phải trả tiền coi mạch, tiêm thuốc cho ông thầy thuốc nữa, thiệt tôi ái ngại hết sức. - Anh nói rồi phải không? Bây giờ anh phải cho em cãi lại. Má em tốn với anh chút đỉnh mà anh ái-ngại, vậy chớ bác Ba hồi trước giúp cho má em chôn cất cha em, mà rồi bác phải bị đày lưu đó, má em với em lại không ái-ngại hay sao? - Cô đừng nhắc việc của ba tôi chớ. Hễ nhắc tới thì tôi buồn, tôi muốn chết phức cho rồi. - Xin lỗi anh. Tại em ham cãi với anh, nên em quên dè-dặt. Mà em xin anh cũng đừng nói tới sự tốn hao nữa, hễ anh nói tới thì em cũng buồn lắm. Người ở đời, nếu biết nhơn nghĩa, thì phải thi ân báo đức vần công với nhau vậy mà. Em nói thiệt, nhờ Trời Phật cho má em làm ăn khá, nên có tiền mà tốn hao chút đỉnh với anh đó, em mừng lắm vậy. - Người biết nhơn nghĩa như cô, thiệt là ít có. Để tôi mạnh rồi đây tôi cũng phải làm sao mà xử nghĩa lại tôi mới vừa lòng cho. - Anh làm sao? Đâu anh nói nghe thử coi. Cô Lê hỏi câu đó rồi liếc mắt ngó Hiệp, ý đợi coi chàng đáp thế nào. Hiệp ngó ra cửa sổ mà suy nghĩ một hồi rồi chẫm rãi đáp rằng: "Để mạnh rồi tôi kiếm công việc làm, mỗi tháng đem về cho thím Hai năm ba đồng cũng phải, miễn có như vậy thì tôi mới vừa lòng". Cô Lê thất vọng, cô châu mày buồn xo. Cô đứng dậy đi lại cửa sổ ngó xuống đường, xem giọt mưa lác-đác, lòng cô lạnh tanh. Cô đứng ngó xuống đường mà đáp với Hiệp rằng: "Anh đang mới vừa khá khá, còn ốm quá, mà tính đi làm việc gì! Anh nằm nhà mà chơi cũng có cơm ăn vậy mà, cần gì phải đi làm cho cực khổ". Hiệp cũng ngó chỗ khác, trí vẩn-vơ, lòng ngao ngán, nói bông lông rằng: "Làm người, mà nhứt là làm đờn ông con trai, thì phải lo làm ăn chớ... Mà trước hết phải đi kiếm dì tôi với con Hào coi..." Cô Lê nghe mấy tiếng ấy thì cô day lại nói cứng cỏi rằng: - Em không muốn anh nhớ tới bác gái với con Hào nữa! Em biểu anh bỏ đi, nhớ tới làm gì? - Không nhớ sao được? - Nếu anh cứ nhớ tới hai người đó hoài, thì làm sao uống thuốc cho mạnh được! - Thiệt tôi cũng muốn vâng lời cô, ngặt vì con Hào là con của ba tôi, nghĩa là nó là em ruột của tôi. Hiệp nói tới đó rồi cảm động nói không được nữa, nước mắt tuôn ra dầm-dề, phải lấy khăn mà lau. Cô Lê lật đật trở lại ngồi trên cái ghế hồi nãy, nhìn Hiệp trân trân rồi cũng chảy nước mắt mà nói giọng bi ai rằng: "Em xin lỗi anh. Vì em thương anh nên em nặng lời, chớ chẳng phải em có ý chi khác. Xin anh nghĩ lại mà coi, mấy tháng nay anh về ở đây, anh đau nhiều lắm, em thấy anh bị rét rừng nên anh đau về phần xác đã nặng rồi, mà anh nhớ chuyện nhà của anh thì anh buồn bực, nên anh còn đau về phần trí nữa. Má em với em ráng sức nuôi anh, em làm cho bịnh phần xác của anh đã gần dứt được rồi, thì em mừng hết sức. Bây giờ còn cái bịnh phần trí của anh nữa, bịnh nầy gốc tại buồn rầu mà sanh ra, phải đốn cái gốc ấy thì trị bịnh mới mạnh. Tại vậy đó, nên em nghe anh nhắc tới bác gái với con Hào, thì em giận quá, phải nói nặng lời, anh hiểu không?" Hiệp gật đầu đáp rằng: - Tôi hiểu. - Ừ, anh hiểu, thôi thì đừng thèm nhớ tới chuyện đó nữa; anh có buồn thì lấy nhựt-trình với tiểu-thuyết em mua đó mà đọc. - Tôi cũng muốn nghe lời cô lắm, không thèm tưởng tới chuyện khốn nạn đó nữa, ngặt bụng tôi định như vậy, mà nó khiến cái trí không nổi. Trí bắt nhớ hoài hoài, tôi không biết làm sao quên được. Cô Lê nhìn Hiệp rất lâu, rồi cô hội ý nên cười mà nói rằng: - Em tìm được phương thuốc hay rồi, chắc sẽ trị cái bịnh buồn của anh được. - Phương thuốc gì? - Để em nói với má em cưới vợ cho anh, hoặc may anh mới hết buồn. - Ý, sao được. - Sao lại không được? Năm nay anh đã 19, 20 tuổi rồi, cưới vợ phải lắm chớ. Anh có vợ, chắc trí anh mắc thương vợ mà quên các chuyện khác hết ... - Tình thương vợ làm sao mà hơn tình thương cha cho được, nên cô chắc có vợ rồi quên cha? - Phải, tình thương vợ không thế nặng hơn tình thương cha được. Mà hai tình đều khác nhau, so sánh sao cho được. Anh có vợ, tuy không phải anh thương vợ mà quên cha, nhưng mà có vợ tự nhiên anh vui thú vợ con, rồi trí khuây lãng, bớt nhớ chuyện buồn về nỗi cha hay là em nữa. - Ý của cô thiệt là tốt, mà cái chước của cô bày đó, tôi coi không hay. Ngày nào ba tôi còn mắc chốn lao tù, thì tôi có lòng dạ nào mà nỡ cưới vợ. Đã vậy mà cái trí của tôi bị bịnh sầu não, nếu tôi cưới vợ thì tôi sợ chứng bịnh của tôi đã không tuyệt, mà nó còn truyền nhiễm lây cho một người thiếu-nữ vô tội, thì tội nghiệp cho người ta biết chừng nào. - Nếu có người thiếu-nữ sẵn lòng thương anh, không sợ nhiễm cái bịnh của anh, tình nguyện hiệp chung cái đời vui vẻ của họ với cái đời buồn thảm của anh, đặng kiếm phương thế mà trị cái bịnh của anh, dường ấy anh cũng không chịu nữa hay sao? - Tôi đâu nỡ vị kỷ đến nỗi làm hư hại cái đời vui vẻ tốt đẹp của người hảo tâm như vậy. Cô Lê lắc đầu, rồi đứng dậy hỏi lảng rằng: - Hộp thuốc để tiêm cho anh đã hết rồi, hồi sớm mới anh đi tiêm thuốc, ông thầy thuốc có biểu mua hay không? - Ổng có nói với tôi rằng tiêm đã nhiều rồi, thôi để nghỉ ít ngày; nếu rét không tái lại, thì chẳng cần phải tiêm nữa. - Còn thuốc uống? - Ổng biểu cứ mỗi đêm uống một viên ký-ninh mà thôi. - Nếu vậy thì mỗi ngày khỏi phải lại cho ông coi mạch nữa? - Thôi. - Anh thèm mì không? Để em sai con Hà đi nấu cho anh ăn nghe? - Cám ơn. Ông thầy thuốc dặn phải cữ ăn một ít lâu, nhứt là phải cữ đồ có dầu mỡ. - Cữ mỡ, thôi thì ăn đồ ngọt. - Thôi, ăn làm chi, tôi không đói. - Ông thầy thuốc đã cho phép anh đi chơi hay chưa? - Ổng nói đi chơi đặng rồi. - Hứ, ổng giỏi mà ổng cho phép như vậy, em không phục. Đi chơi rủi bị mưa gió rồi bịnh phát lại mới làm sao? Em cấm, không cho anh đi đâu hết. Chừng nào em liệu ra ngoài được rồi em sẽ cho phép. - Cô gắt hơn thầy thuốc sao? - Phải, em gắt lắm. Ông thầy thuốc coi mạch định thuốc, còn em thì lo điều dưỡng. Em cũng có quyền như ổng vậy chớ. Cô Lê nói câu sau đó và vừa liếc, vừa đi xuống thang lầu. Hiệp ngó theo lững đững lờ đờ, rồi nằm xuống lấy khăn đậy cặp mắt lại. Một bữa, lối 3 giờ chiều, thím Hai Tiền sai cô Lê đi với một cô thợ may vô Chợ-lớn mua hàng. Cô Lê ra khỏi nhà rồi, thì Hiệp nói với Hai Tiền cho chàng đi chơi một chút. Hai Tiền thấy trời tốt, lại cũng muốn cho Hiệp giải trí, nên cho Hiệp đi chơi và mở tủ lấy cho một đồng bạc để đi xe. Hiệp sợ lại gare Đakao mà đi xe điển, rủi gặp cô Lê rồi cô không cho đi, nên chàng đi bộ xuống Bến Thành rồi đi xe điển đường trong mà vô Chợ-quán. Chàng đi thủng thẳng lại đường Nhà Thờ rồi thơ thẩn kiếm nhà Ba Trâm. Chàng đi ngang qua một cái nhà nhỏ mà đẹp, đàng trước có sân, lại có một cái xe hơi đương đậu dựa thềm. Chàng ngó trước dòm sau, thấy cái nhà nầy giống y như lời của cô Lê chỉ vẽ hôm nọ, nên chàng nghi là nhà của Ba Trâm. Chàng đương đứng ngoài đường ngó vô, bỗng thấy Ba Trâm y phục toàn một màu nước biển, mặt dồi phấn trắng nõn, môi thoa son đỏ lòm, chẳng khác nào một cô gái mới lớn lên, trong nhà bước ra đứng dựa bên xe hơi, rồi kế một người đờn ông, mặc âu phục, cũng trong nhà đi ra đứng khít một bên đó, hai người nói chuyện vui cười. Người đờn ông lại lấy tay sửa dây chuyền, vuốt mái tóc cho Ba Trâm. Hiệp thấy bức tranh nầy, liền nhớ bức tranh khác cũng đem treo trước mắt mình trong một đêm nọ, cách năm năm trước, thì tay chơn lạnh ngắt mà trong ngực hừng hực, cặp mắt chóa lòa. Chàng dợm xốc đi vô cửa ngõ, kế thấy cặp ấy bước lên xe hơi rồi xe rút chạy ra. Hiệp đứng tránh một bên cửa ngõ, mà cặp mắt ngó xe hơi lườm lườm. Xe ra tới, Hiệp cũng thấy Ba Trâm ngó mình trân trân, mà xe cứ thẳng ra đường rồi chạy tuốt. Lúc ấy Hiệp như ngây, như dại, không còn trí khôn gì nữa, nên không biết tính lẽ nào, không biết phải đi đâu. Chàng ngồi chồm hổm trên lề đường, vừa giận, vừa buồn, vừa thẹn thùa, vừa khinh bỉ. Cách chẳng bao lâu, có một người trai ở trong đi ra đóng cửa ngõ. Hiệp bước lại hỏi rằng: - Nhà nầy phải nhà cô Ba Trâm hay không vậy anh? - Phải. Hỏi chi vậy? - Tôi bà con với cô, nên kiếm thăm cô. - Cô tôi đi Vũng-Tàu hứng gió, không có ở nhà. Xe mới đi hồi nãy đây. - Té ra xe mới chạy ra đó là xe của cô Ba Trâm hay sao? - Phải. - Vậy mà tôi không dè chớ. Tôi thấy có một người đờn ông ngồi trên xe nữa. - Ừ, cô đi với ông Hội-đồng. - Ông Hội-đồng nào? - Ông Hội-đồng ở dưới Mỹ-Tho, là chồng của cô, bà con sao mà không biết? - Bà con mà không gặp lâu rồi rồi, nên tôi không hay cô Ba có chồng. - Đụng ông Hội-đồng đã gần một năm rồi. - Tôi không hay. Ông Hội-đồng đó tên gì vậy anh? - Anh hỏi nhiều quá. Muốn biết tên gì thì anh đợi cô về anh hỏi cô. - Không biết cô Ba đi hứng gió chừng nào mới về? - Cái đó tôi không hiểu. Mà cô tôi đem quần áo theo nhiều nên tôi chắc ở lâu. - Còn cô Hào ở đâu mà không đi chơi với cô Ba? - Cô Ba nhỏ không chịu đi Vũng-Tàu, nhưng mà cô đi chơi chớ không có ở nhà. - Đi chơi đâu? - Đi đâu ngoài Sàigòn. Hiệp nghĩ Ba Trâm đi hứng gió, bỏ Hào ở nhà một mình, vậy thì chàng có thể gặp em đươc, nhưng mà Hào đi chơi không biết chừng nào về mà chờ, nên chàng từ giã tên trai đóng cửa đó mà đi, tính mai mốt sẽ trở vô kiếm Hào. Lại gare xe điển mua giấy trở ra Sàigòn, thấy đồng hồ chợ mới chỉ 5 giờ, nghĩ còn sớm, nên thả đi chơi một vòng rồi sẽ về Đất-hộ. Hiệp đi gần tới một nhà hàng bán rượu ở đường Bonard, bỗng thấy một cái xe hơi mới ngừng ngay trước cửa nhà hàng, rồi trên xe bước xuống hai cô y-phục thiệt đẹp, với hai thầy con trai, mà trong hai cô ấy có một cô gương mặt giống in con Hào. Bốn người đi vô nhà hàng ngồi chung một bàn, rồi kêu bồi lấy rượu, hai cô giỡn với hai thầy, nói cười ngả-ngớn. Hiệp đứng ngoài nhìn coi, thấy rõ một cô là con Hào, bèn men men đi vô đứng một bên cô đó rồi cúi xuống nói nhỏ rằng: "Em, anh có vô trong nhà mà không gặp em". Cô Hào ngước lên ngó Hiệp rồi nghiêm nét mặt và nạt rằng: - Ê! Em nào nà! Tôi có biết chú là ai đâu, chú lầm rồi. - Coi kìa! Anh là Hiệp đây, em quên hay sao? - Tôi nói chú lầm rồi, tôi không biết Hiệp Hẹo nào hết. Cô Hào đứng dậy la lớn rằng: "Sao chú dám đến chỗ nầy mà làm nhục tôi? Chú muốn tôi kêu lính bắt chú hay sao? Đồ khốn nạn! Đi ra cho mau". Hai thầy cũng đứng dậy vừa xô Hiệp vừa bảo rằng: "Đi đi". Hiệp giận, cặp mắt đỏ au, tay run bây bẩy, vừa đi ra đường vừa nói lầm bầm rằng: "Phải! Khốn nạn. Khốn nạn thiệt mà! Hèn chi cô Lê không muốn cho tôi đi chơi phải lắm". Hiệp trở ra gare mua giấy xe điển mà về Đakao. Về tới tiệm, Hiệp đi thẳng lên lầu, mà vừa lên hết cái thang thì gặp cô Lê đứng cản đường. Cô hỏi rằng: "Sao anh thừa dịp em đi khỏi, anh lén em mà đi chơi? Anh đi đâu từ hồi ba giờ cho tới bây giờ?". Hiệp rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Tôi dại hơn cô nhiều lắm. Cô biết trước nên cô không muốn cho tôi đi, mà tôi cãi lời cô, nên tôi mới phải gặp cái cảnh đau đớn nhục-nhã như vầy. Tôi xin cô tha lỗi cho tôi". Cô Lê nhìn Hiệp rồi chắc lưỡi lắc đầu nói xuôi rằng: "Thôi rồi! Tôi giữ hết sức mà cũng không khỏi! Ối! Mà cũng nên mổ cái mụn nhọt đó một lần cho rồi, thà đau một lần, mà rồi nó lành, chớ để nói nhức ngấm ngầm khó chịu lắm". Hiệp đi lại bộ ván nhỏ, chỗ chàng ngủ đó mà ngồi, rồi chống hai tay lên trán mà khóc. Cô Lê để cho Hiệp khóc một hồi thiệt lâu đặng phai bớt nước sầu não, rồi cô mới lại ngồi trước mặt, lấy lời dịu ngọt mà hỏi coi buổi chiều ấy Hiệp đi đâu, gặp ai, hay là nghe thấy những việc gì, mà về phải đau đớn trong lòng đến thế. Hiệp to nhỏ tỏ thiệt lại cho cô Lê nghe việc mình đi vô nhà Ba Trâm, thấy Ba Trâm mà cô không thèm hỏi, hay Ba Trâm có chồng là một ông Hội-đồng ở dưới Mỹ-tho, gặp cô Hào ngồi nhà hàng với trai, mình vô chào cô, mà cô không nhìn nhận, lại mắng nhiếc và hăm kêu lính bắt. Cô Lê nghe rõ đầu đuôi rồi cô thở ra mà nói rằng: - Em vẫn biết ý anh muốn thấy rõ ràng cái bạc của bác Ba với cái hư của con Hào. Mà em nghĩ, anh thấy rõ rồi anh càng thêm buồn, rồi sợ anh đau lại, vì vậy mà em không muốn cho anh thấy, nên em không muốn cho anh đi chơi. Nay anh nghĩ coi có phải anh thấy đã vô ích, lại thêm hại hay không? - Phải lắm, phải lắm, hại thiệt. Mấy tháng nay tôi nghe nói con Hào hư, nhưng mà nó với tôi có tình cốt nhục, nên dầu thế nào tôi cũng thương nó hoài, chớ chi tôi nghe lời cô, tôi không ra khỏi nhà, tôi không gặp nó, thì cái tình anh em vẫn còn phưởng-phất, tôi còn có chỗ nương dựa trí mà nhớ gia đình. Tôi cãi lời cô làm chi, mà tôi gặp con Hào cho nó dứt cái tình anh em ấy như vầy. Trời ơi! Bây giờ trí tôi như người chơi vơi giữa biển, nhìn tứ phía mênh-mông, không bờ, không bến, tôi biết níu cái gì mà sống, đặng gặp mặt ba tôi! Hiệp nói tới đó thì khóc dầm, nằm chúi xuống ván, lạnh run lập cập. Cô Lê lật đật xổ mền mà đắp cho Hiệp và nói rằng: "Còn em đây chi. Anh níu mà sống được chớ". Hiệp ngó cô Lê rồi gật đầu đáp rằng: "Cám ơn cô". Chương IX Mãn tù
Cách năm năm sau nữa. Hiệp bây giờ đã được 24 tuổi, tướng mạnh mẽ, nước da sậm, chớ không phải đau ốm mét xanh như hồi ở Chứa-chan mới về đó vậy. Vì Hiệp quyết chí kiếm công việc mà làm cho giải khuây lòng phiền não, nên thím Hai Tiền nhờ tiệm may mà thân thiết được với nhiều bà, nhiều cô, chừng thấy Hiệp thiệt mạnh rồi, thím mới nói với bà phó chủ Hãng dầu mà gởi Hiệp vô làm trong Hãng; ăn lương mỗi tháng được ba chục đồng bạc. Một buổi trưa, thím Hai Tiền ngồi trong tiệm đương sửa soạn hàng mà giao cho mấy cô thợ may, thình-lình anh sáu Thêm ghé lại hỏi rằng: "Chị Hai, mấy tháng nay chị mạnh giỏi hả?" Nguyên Sáu Thêm hồi trước làm cu-li cho Hãng gạo bên Xóm-Chiếu, nên thím Hai Tiền quen nhiều, bởi vậy thím nghe hỏi thì thím ngó ra mà đáp rằng: - Ờ, mạnh. Em đi chơi phải không em Sáu? Mấy tháng nay em đi đâu mất biệt vậy em? - Tôi bị ở tù hết tám tháng, mới mãn hôm qua đây. - Ủa, sao mà ở tù? - Đánh lộn, tôi chém thằng đó đứt hai ngón tay, nên bị án. - Bất nhơn dữ không! Qua có hay đâu. Ngồi đó chơi em Sáu. Sáu Thêm bèn ngồi trên ghế để dựa một bên cái máy may. Hai Tiền mở tủ lấy một đồng bạc mà đưa cho Sáu Thêm và nói rằng: - Em lấy đồng bạc đi uống nước chơi. Lo làm ăn, đánh lộn làm chi mà phải bị tù tội không biết. - Cám ơn chị Hai. Tôi có ham gây gổ với ai đâu. Tại hôm đó giống gì ám cho tôi, nên tôi dằn không được, mới sanh chuyện đó chớ. - Ở trong khám cực lắm hả? - Cái đó khỏi nói. Kêu là tù mà sướng nỗi gì. À, nè, tôi có gặp anh Ba Mậu. Chị biết ảnh không? - Biết lắm chớ. Em gặp ở đâu? - Gặp ở trong khám lớn. Ảnh gần mãn rồi, nên ở ngoài Côn-nôn họ gởi ảnh về. - Phải. Anh Ba Mậu ở tù năm nay đúng mười năm, mà không biết bữa nào mãn. Qua nhớ ảnh bị bắt nhằm ngày mười ba tháng hai, song không hiểu ngày Tây nhằm ngày nào, nên tính không được. - Ảnh nói với tôi tuần tới ảnh mãn. Ảnh có nói ngày nữa. mà tôi quên. - Chắc tuần sau phải không? Để qua nói cho thằng Hiệp hay đặng nó xin phép tuần sau nó ở nhà nó đi đón ảnh. - Thằng Hiệp nào? - Con ảnh đó. Mấy năm nay nó ở với qua đây. - Cha chả! Bà vợ của ảnh mấy năm nay làm nhiều việc khốn nạn quá, không hiểu ảnh tính làm sao. - Ôi! Còn vợ con gì nữa mà nói! Không biết trong khám ảnh có nghe việc đó hay không? - Không, ảnh không hay gì hết, nên gần mãn ảnh vui lắm. - Em có nói cho ảnh nghe hay không? - Không. Nói làm chi. Việc nhà của ảnh để ảnh về ảnh xử lấy. Thôi, để tôi kiếu chị Hai tôi đi chơi. Cám ơn chị nghe không chị Hai. Sáu Thêm ra khỏi cửa, rồi kế Hiệp đi làm việc về, mình mặc một bộ đồ tây bố xám coi mạnh mẽ lắm. Hiệp đi thẳng lên lầu. Hai Tiền hớn hở đi theo sau lưng. Cô Lê đương ngồi thêu khăn trên lầu, vừa thấy Hiệp ló lên thang thì kêu con Hà mà biểu dọn cơm. Hiệp mới ngồi mở giày thì Hai Tiền nói rằng: - Nè cháu, tuần sau đây anh Ba mãn đa. - Cháu cũng biết tháng nầy mãn, song không hiểu ngày nào. Sao thím biết tuần tới mãn? - Sáu Thêm ở tù về, nó mới ghé, nó nói gặp anh Ba trong khám. Anh Ba nói tuần tới đây ảnh mãn. - Nếu vậy thì thứ bảy cháu xin phép ở nhà ít bữa đặng cháu đi đón ba cháu. Cô Lê chen vô nói rằng: "Tôi cũng đi nữa". Hai Tiền cản rằng: "Con đi làm chi, để thứ hai má đi với anh con, mình đón thứ hai không gặp thì đón hôm tối thứ ba, thứ tư, đón hết tuần tự nhiên phải gặp, chớ gì. Nè, mà thím dặn trước cháu: Hễ gặp anh Ba thì đừng có nói chuyện chị Ba với con Hào nghe không. Để mình rước ảnh về nhà rồi thủng thẳng mình sẽ xì ra, chớ nói gấp ảnh hay rồi ảnh buồn". Hiệp gật đầu mà đáp rằng: "Thím nói phải lắm, việc nhà để thủng thẳng năm ba bữa rồi mình sẽ nói. Còn đi đón, cháu đi một mình cũng được. Thím với cô Hai đi làm chi mất công". Hai Tiền nói: "Thím phải đi chớ. Con Lê ở nhà coi tiệm được mà. Vậy một lát, chừng con Hà dọn cơm rồi mình nên nói chuyện chi khác hơn là chuyện đi xuống cửa khám lớn đón rước Cặp-rằng Mậu". Sáng thứ hai, thím Hai Tiền đi với Hiệp xuống ngồi ngay cửa khám lớn, chờ không thấy chi hết, mới về ăn cơm, rồi buổi hầu chiều xuống đón nữa. Đón tới chiều thứ ba gần bốn giờ, Hai Tiền thấy có một người bận áo bành-tô xanh, quần vải đen, ở trong cửa khám bước ra đường, đứng ngó dáo dác. Thím ngó sững người ấy rồi la lớn rằng: "Anh Ba kia kìa cháu. Ảnh chớ ai! Anh Ba, anh Ba!". Hiệp chạy lại gần, thấy quả là cha nó, thì kêu lớn rằng: "Ba, ba, con đây ba. Con đón hai bữa rày". Ba Mậu ngó Hiệp trân trân, miệng cười ngỏn ngoẻn mà hỏi lạt lẽo rằng: "Vậy hả". Hiệp nắm cánh tay Ba Mậu mà dắt đi qua lề đường bên kia. Hai Tiền đi riết lại và nói rằng: "Mừng anh Ba". Ba Mậu cười. Hiệp nói: "Thím Hai hồi trước ở một xóm với mình bên Vĩnh-Hội, ba quên hay sao?" Ba Mậu gật đầu đáp: "Thím Hai Tiền mà, dễ quên không". Thím Hai Tiền nói: - Phải, em đây. Em cũng đón anh Ba mấy bữa rày. - Vậy hay sao? Sao biết bữa nay tôi mãn mà đón? - Sáu Thêm nó nói nên mới hay chớ. - Ờ. Sáu Thêm nó mãn hôm trước. - Thôi, để mời anh Ba về nhà rồi sẽ nói chuyện. Cháu kêu ba cái xe kéo đi cháu. Hiệp kêu xe. Ba Mậu ngó quanh quất rồi hỏi: - Hiệp, còn dì mầy đâu? Hai Tiền rước mà đáp rằng: - Chị Ba không hay. - Còn con Hào? - Chắc nó cũng không hay. - Ủa! Sao thằng Hiệp hay? Hai Tiền không biết lời chi mà đáp cho xuôi, may nhờ ba cái xe kéo chạy lại, nên nói: "Thôi, mời anh Ba lên xe kéo mà về". Ba người bước lên xe. Ba Mậu cười hịt hạt mà nói lớn rằng: "Tôi bị đày mười năm, mà vợ con tôi được sung sướng, thiệt tôi khoái chí lắm". Hai Tiền với Hiệp ứa nước mắt, song không dám nói chi hết. Ba cái xe lên tới Đất Hộ, ngừng ngay trước cửa tiệm. Cô Lê vừa thấy thì lật đật chạy ra xá Ba Mậu. Ba Mậu ngó cô trân trân. Hai Tiền nói rằng: "Con nhỏ tôi đó đa. Con Lê đó anh Ba quên nó hay sao?" Ba Mậu gật đầu và cười, rồi đi theo Hai Tiền mà vào tiệm. Hai Tiền mời đi theo thẳng lên lầu; cô Lê trả tiền xe rồi cũng lên theo. Hai Tiền mời Ba Mậu ngồi tại ghế salon rồi nói rằng: - Tôi tưởng anh Ba ở trỏng chắc anh Ba ốm lắm, té ra không ốm, mà lại có da thịt hơn hồi trước nhiều. - Tôi mập hơn hồi trước hay sao? - Hơn nhiều, mà anh Ba coi già hơn, tóc bạc da giùn. - Ở trong chốn lao tù mười năm mà không già sao được thím. Còn sống đây là may. - Anh Ba về được thiệt em mừng quá. - Tôi cũng mừng lắm. Mà mười năm nay tôi ở tù cực khổ, song tôi không buồn. Mình đã quyết chí thì buồn cái gì. Cực khổ một mình mà cả nhà được sung sướng, thì khoái lắm vậy. Hai Tiền ngó Hiệp rồi biểu cô Lê coi mua đồ thêm đặng nấu cơm ăn cho sớm. Cô Lê đi xuống từng dưới, còn Hiệp thì đương thay đổi quần áo. Ba Mậu ngó Hiệp mà hỏi rằng: - Nhà nầy là nhà của ai vậy Hiệp? - Thưa, nhà của thím Hai. - Còn mầy ở đâu? - Con ở đây nữa. - Còn dì mầy với con Hào ở đâu? - Ở trong Chợ-Quán. - Ủa! Sao lại không ở chung với nhau? - Thưa, con ở riêng. - Bày ở riêng tư làm chi; ở chung với nhau không được hay sao? Thôi, để thăm thím Hai một chút rồi mầy dắt tao về nhà đặng tao thăm dì với em mầy chớ. - Thủng thẳng rồi sẽ về ba, gấp làm chi. - Xa cách nhau tới mười năm lận mà; dì mầy với con Hào nhớ tao lung lắm chớ. Về đặng cho mẹ con nó mừng một chút. Hai Tiền thấy Hiệp bối-rối không trả lời được nữa, thì hớt mà nói rằng: - Anh Ba mới ra, vậy anh Ba ở nhà em mà chơi ít bữa cho khỏe đã anh Ba. - Bây giờ tôi khỏe lắm, có mệt đâu. - Anh Ba ở đây đặng ăn uống tiếp dưỡng ít bữa. - Về nhà rồi tiếp dưỡng cũng được vậy. Trong khám ra rồi ở đây, không về nhà, làm như vậy coi sao được. - Em mang ơn anh Ba nặng quá, trong mười năm nay chẳng giây phút nào mà em quên. Anh Ba về được em mừng hết sức, nên em muốn anh Ba ở đây cho em nuôi ít ngày, đặng em đền ơn đáp nghĩa với anh Ba, cho phỉ lòng em. - Ơn gì đâu? - Anh Ba quên hay sao? Nhờ anh Ba cho em một trăm đồng bạc, em chôn cất cho cha con Lê tử tế, mà còn dư tiền em để làm vốn mua bán, gầy dựng lần lần, nên ngày nay mới có tiệm như vầy, mẹ con em no ấm, đó là ơn nặng lắm chớ. - À, tôi nhớ rồi. Tôi cho thím bạc đêm hôm đó phải không? - Thưa phải. - Tôi lấy tôi đưa đại, tôi không kịp đếm. Té ra được có một trăm hay sao? - Thưa, một trăm lận. Ba Mậu ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng: "Nếu vậy thì tôi đem về cho má con Hào tới mười chín ngàn chín trăm đồng, bởi vì Mái-Chín Cúng khai mất hết hai mươi lăm ngàn, thằng Tám Thiệt nó lấy phần nó năm xấp giấy săn, sau cò xét lấy hết, thì còn có năm ngàn. Còn lại phần tôi hai chục ngàn. Mà tôi cho thím một trăm, thì còn mười chín ngàn chín trăm đồng, phải rồi". Hiệp bước lại hỏi rằng: - Té ra thiệt ba giựt bạc của Mái-Chín Cúng hay sao? - Thiệt có chớ. Nếu không có thì làm sao mà bị đày. - Ba làm việc đó vô ích quá. - Sao mà vô ích! Tao thấy vợ con nghèo cực tao chịu không được, nên tao thí thân tao; thà tao bị đày mà vợ con được sung sướng, tao làm như vậy có ích cho vợ con lắm chớ. Hiệp uất ức trong lòng chịu không được, nên dợm muốn nói thiệt việc nhà cho cha nghe. Hai Tiền ra dấu biểu đừng cãi nữa, nên Hiệp phải dằn lòng, ngậm miệng. Cô Lê bưng đồ ăn, sắp dọn đầy một bàn, rồi Hai Tiền mời Ba Mậu ăn. Trong lúc bốn người ăn uống thì Hai Tiền kiếm chuyện vui mà nói, đặng cho Ba Mậu quên việc vợ con. Mà chừng ăn rồi, thì Ba Mậu hối thúc Hiệp phải dắt về nhà đặng gặp mặt Ba Trâm và con Hào. Hiệp hết phương giấu giếm nữa được, nên phải nói bùng ra rằng: "Con không thế để cho ba gặp mặt dì với con Hào được, bởi vì ngày ba bị Tòa kêu án rồi thì dì lấy trai cùng hết, nay thằng nầy, mai thằng khác. Mấy năm sau đây dì làm bé Hội-đồng nào ở dưới Mỹ-Tho, còn con Hào thì nó bắt chước gương của dì nên nó cũng làm "đĩ", nó gặp con, nó không thèm nhìn con là anh nó. Những đồ như vậy mà ba còn đòi gặp mặt làm chi!" Hiệp đứng nói một dây. Ba Mậu nghe mà dường như không hiểu, nên hỏi gạn rằng: - Mầy nói sao? Dì mầy có chồng khác, còn con Hào thì làm đĩ? - Thưa, phải. - Trời đất ơi! Còn mười chín ngàn chín trăm đồng bạc của tao đem về cho đó, làm gì hết đi, mà mẹ con phải mất tiết hư thân đến thế? - Con có biết đâu. - Mầy không biết tao đem bạc muôn về giao cho dì mầy đặng nuôi con Hào với mầy sao? - Dì có nói đâu mà biết. Tòa kêu án ba được chừng một tháng, dì lấy trai, con bắt được; dì mắc cở dì đuổi con đi, rồi từ đó đến giờ con có léo tới nhà nữa đâu. Ba Mậu dựa ngửa vào ghế mà thở dốc, mặt mầy tái lét, cặp mắt lim-dim. Hai Tiền với cô Lê ngồi trên ván, còn Hiệp thì đứng một bên cha, ba người biết Mậu đau-đớn lắm, nên ngó chừng mà thôi, chớ không dám nói chi hết. Cách một hồi lâu, Ba Mậu mở mắt ra rồi vùng đứng dậy, hai bàn tay ôm cái đầu chặt cứng mà nói rằng: "Tôi đi lạc đường! Trời ơi! Cái đầu tôi muốn bể rồi!" Hai Tiền thấy vậy nên khuyên rằng: "Xin anh Ba chẳng nên buồn. Việc đã lỡ rồi, biết làm sao. Tại mình vô phước, nên trời mới khiến làm phải mà lại gặp quấy. Anh Ba còn cháu Hiệp đây, nó thương, nó trọng anh Ba lắm, vậy cũng đủ rồi, cần gì phải buồn". Ba Mậu té ngồi trên ghế lại, rồi khóc, nước mắt nhểu ròng ròng. Hiệp thấy cha như vậy thì động lòng nên cũng khóc theo. Nhờ khóc, nó giải nỗi uất ức trong lòng được, nên thủng-thẳng Ba Mậu tĩnh trí lại, rồi biểu con thuật tiếp việc nhà cho mình nghe. Hiệp bèn kéo ghế ngồi một bên cha, rồi thủng thẳng tỏ hết các việc ở nhà; cha bị bắt, rồi mình lo đi bán nhựt-trình lấy huê hồng mà nuôi mẹ ghẻ với em, mỗi ngày kiếm được bao nhiêu cũng đem về đưa hết cho mẹ ghẻ. Cha bị Tòa kêu án rồi thì mẹ ghẻ với em ăn mặc lòe lẹt; cách chừng một tháng, mẹ ghẻ lại lấy trai, mình bắt được mình gây, mẹ ghẻ hổ thẹn mới đánh, đuổi ra khỏi nhà, không cho ở nữa. Mình lưu linh trót một tháng, ngày đi bán nhựt-trình, tối ngủ mấy nhà gare. May gặp một cô vợ Tây mướn ở bồi, mới dắt ra vườn cao-su ở ngoài Chứa-Chan. Ở Chứa-Chan năm năm, thân tuy no ấm, nhưng mà phải mang chứng bịnh rét rừng, sợ ở đó nữa phải chết, nên xin thôi, trở về Sàigòn kiếm thuốc uống. Cô Lê đi chợ gặp, mới dắt về tiệm. Thím Hai Tiền không cho đi nữa, thím rước thầy thuốc tiêm thuốc, trị bịnh gần bốn tháng mới lành mạnh, rồi thím gởi cho làm trong Hãng dầu từ ấy đến nay. Còn Ba Trâm thì cô làm nhục nhã đã thèm, rồi mới mua nhà ở đường Nhà thờ Chợ-Quán và làm bé người ta. Hiện bây giờ cô giàu có, ở nhà tốt, bận áo màu, đeo hột xoàn, ngồi xe hơi coi sang trọng lắm. Con Hào thì không có chồng, nhưng mà đêm nào cũng nhảy đầm, ngồi nhà hàng, đi chơi với trai luôn luôn, nay người nầy, mai người kia, không sợ ai chê cười khinh bỉ. Hiệp thuật đủ hết, không sót một khoảng nào. Ba Mậu nghe rõ đầu đuôi rồi thì mặt buồn xo, ngồi chắc lưỡi than rằng: "Lòng người không biết sao mà đo được. Tôi thí thân đi ăn cướp đem về giao cho gần hai muôn đồng bạc. Tôi căn dặn hết lời, tôi gởi con tôi; tôi xin nuôi giùm nó. Có dè đâu, đã không thương tưởng đến tôi, mà cũng không nhớ tiền bạc là tiền của tôi, đành lòng đánh đuổi con tôi đi, không cho nó một đồng nào, để nó lưu linh cực khổ, đau ốm, may nhờ có thím Hai hảo tâm nuôi dưỡng bảo bọc cho nó, chớ không thì nó đã chết rồi, ngày nay tôi về, tôi đâu còn thấy mặt con tôi". Ba Mậu càng nói càng giận, nên đứng dậy đi qua đi lại, rồi trợn mắt châu mày mà la lớn rằng: "Tôi phải kiếm con Võ-Hậu nầy mà buộc nó phải trả đủ tiền bạc lại cho tôi mới được! Hiệp, mầy nói nhà nó ở đường nào, nhà số mấy?" Hiệp đáp rằng: "Ở đường nhà thờ trong Chợ-Quán. Con không nhớ số nhà, song con nhớ cái nhà đó nền đúc, vách tường, đàng trước có sân rộng, hai bên có nhà xe, nhà bếp". Ba Mậu nói: "Tao muốn đi bây giờ". Hai Tiền nói: "Em khuyên anh Ba đừng có nóng. Chị đã có chồng khác rồi, anh có gặp chỉ rồi anh nói giống gì? Em biết anh đụng chỉ hồi trước anh không có làm hôn thú, nên bây giờ chỉ bỏ anh, thì anh không nói chi được. Còn anh muốn đòi tiền bạc lại, việc đó còn khó hơn nữa. Anh giao tiền cho chị, anh có bằng cớ gì đâu. Bây giờ anh đòi, chỉ nói không có thì anh làm sao? Em tưởng người đờn bà đã không nghĩ tình anh nên lấy chồng khác, thì có lẽ cũng dám làm hại anh lắm. Vậy em xin anh bỏ hết việc cũ đi, đừng thèm nhớ tới nữa, để lập đời khác làm ăn thì hay hơn". Ba Mậu cười mà đáp rằng: "Bỏ sao được thím Hai. Tôi ở tù mười năm lao khổ lắm mà. Tại thím là bàng-quan, nên thím không biết giận, chớ chi thím là người trong cuộc như tôi, thì thím cũng không nín được". Hai Tiền cười. Cô Lê chen vô và nói: "Bác gái ở bạc lắm, nên bác Ba giận cũng phải. Mà thôi chuyện đó còn đó, bác mới về, trong mình còn mệt mỏi, vậy xin bác Ba dưỡng sức ít ngày cho khỏe rồi bà con mình sẽ tính lại coi phải làm sao. Bây giờ phải lo nghỉ đã". Hai Tiền khen con nói phải, nên biểu con trải chiếu giăng mùng trên bộ ván lớn, rồi mời Ba Mậu nằm nghỉ. Chương X Gặp vợ con
Một buổi sớm mai, Ba Trâm đưa chồng sau lên xe hơi đi về Mỹ-Tho rồi cô trở vô nhà nằm trên cái ghế xích đu mà xem mấy tấm hình của cô mướn thợ chụp, cô mới lấy về hồi hôm. Cô bận một bộ đồ mát bằng lụa mỏng, màu bông hường; nước da cô đã trắng, mà nhờ màu áo giọi thêm, làm cho nhan sắc của cô pha vẽ lả-lơi với vẽ nghiêm nghị, nên coi đẹp-đẽ vô cùng. Cô nằm lúc-lắc cái ghế mà coi hình, bỗng thấy có người bước lên thềm. Cô ngó ra thì thấy có một người đờn ông, mặc áo bành-tô xanh, quần vải đen, đương xâm-xâm đi vô cửa; mới ngó thoáng qua thì cô biết là Cặp-rằng Mậu, nên cô ngồi dậy làm mặt nghiêm mà hỏi rằng: "Chú đi đâu?" Mậu ngó ngay Ba Trâm và cười mà hỏi lại rằng: - Trời đất ơi! Mình quên tôi hay sao nên kêu tôi bằng chú? - Tôi nhớ chớ. Chú là Cặp-rằng Mậu chớ ai. - Nếu biết tôi là Cặp-rằng Mậu, sao lại kêu tôi bằng chú? - Vậy chớ chú muốn tôi kêu chú bằng cái gì? - Hồi trước mình kêu tôi bằng gì? - Hồi trước khác, bây giờ khác. - À! Bây giờ mình có chồng khác, nên mình phải kêu tôi bằng chú hả? - Phải. - Tôi xin mời chồng mình ra đây cho tôi nói chuyện một chút. - Chồng tôi không có ở nhà. - Vậy chớ đi đâu? - Chú không có quyền gì mà được tra hỏi việc nhà của tôi. Ba Mậu nghe mấy lời ấy thì châu mày xụ mặt coi bộ giận lắm. Anh chống tay trên một cái bàn nhỏ, đứng ngó Ba Trâm mà hỏi rằng: "Thiệt mình lấy chồng khác hay sao mình?" Ba Trâm gật đầu, song mắt ngó chỗ khác, chớ không ngó Ba Mậu. Ba Mậu đứng trân trân một hồi rồi lắc đầu nói rằng: - Thiệt tôi không dè mình nhẫn tâm đến thế! Bây giờ mình muốn cho tôi xử trí cách nào, đâu mình nói cho tôi nghe coi? - Tôi muốn chú đừng léo hánh đến nhà tôi nữa, bởi vì bây giờ tôi có chồng, mà vợ chồng tôi có hôn thú hẳn hòi, nên chú đến nói bậy bạ, sợ e chú phải mang họa. Mậu đập tay trên cái bàn một cái rầm mà la lớn rằng: "Mang họa! Mang họa! Mình phải biết cái thân khốn nạn nầy mà còn sợ gì nữa! Nãy giờ mà tôi không móc họng, bẻ cổ mình đó, là vì ... là vì tôi thương mình quá, nên không nỡ đụng tới mình đó mà thôi chớ". Ba Trâm đứng dậy nói rằng: "Nè, tôi nói cho chú biết, nếu chú ào ào trong nhà tôi, tôi sẽ kêu lính bắt chú liền bây giờ đây cho chú coi". Mậu té ngồi trên một cái ghế, rồi chống tay lên trán mà khóc. Ba Trâm thấy vậy thì cười mà nói rằng: - Tôi khuyên chú hãy về đi. - Mình đuổi tôi hay sao? - Vậy chớ chú có quyền gì mà được tới nhà tôi ngồi mà khóc? - Cho tôi ngồi đặng tôi khóc một chút, cho hơi giận nó hạ xuống, kẻo bể cái ngực, nứt cái đầu tôi bây giờ đây, biết không? Hổm nay người ta nói mà tôi không tin, bây giờ tôi mới thấy rõ ràng mình không còn một chút tình gì với tôi nữa hết. - Thôi, chú khóc rồi thì đi về đi. - Khoan, đi được đâu. Nếu mình muốn cho tôi đi, thì phải đem trả mười chín ngàn chín trăm đồng bạc của tôi lại cho tôi, rồi tôi mới đi. - Bạc gì mà đòi? Tôi có thiếu nợ chú hay sao? Ba Mậu đứng dậy trợn mắt hỏi rằng: - Mình không nghĩ tình tôi, mình bỏ tôi mà lấy chồng khác, mà mình còn đoạt tiền bạc của tôi nữa hay sao? - Tôi đoạt tiền bạc của chú hồi nào? - Tôi chận đường mà cướp giựt của người ta đem về giao cho mình gần hai muôn đồng bạc đặng mình nuôi con. Mình đã không nuôi con tôi, mà mình lại lấy chồng khác, vậy thì mình phải trả tiền bạc đó lại cho tôi chớ. - Tôi có biết tiền bạc gì đâu. - Mình chối hả? Ba Mậu đưa tay chờn-vờn muốn nắm cổ Ba Trâm. Ba Trâm kinh hải nên vừa la vừa chạy. Lúc ấy có một cô nhỏ, chừng 20, 21 tuổi, mình mặc áo sơ-mi, đầu bỏ tóc xõa, ở trong buồng bước ra nạt rằng: "Thằng cha kia, muốn cái gì hử?". Mậu ngó cô ấy, rồi cười ngỏn-ngoẻn mà hỏi rằng: - Con Hào phải không? Năm nay con tôi bây lớn lận hay sao? - É! Con cháu gì nà! Đi ra, đi cho mau. - Con cũng đuổi ba nữa hay sao? - Không biết cha con gì hết, cha gì vậy? Mậu đấm ngực than rằng: "Trời đất ơi! Vợ bạc tình, con bạc nghĩa, cái đời gì mà khốn nạn như vậy nè!" Cô Hào nguýt một cái rồi bỏ đi lại cửa sổ mà đứng. Mậu lắc đầu, rồi thủng thẳng đi ra cửa, đi nghiêng qua ngả lại, bộ như kẻ không hồn. Ra tới đường thì đầu nặng như treo đá, ngực nóng như lửa đốt, cặp mắt đổ hào-quang, không thế đi nữa được, nên ngồi trên lề đường, cứ ngó sững trước mặt, không giận, không khóc, mà cũng không cựa quậy. Lúc ấy Hiệp với cô Lê ở trên đầu đường, đương xâm-xâm đi lại. Hiệp vừa thấy dạng cha ngồi thì chạy riết lại rồi vịn tay trên vai cha mà nói rằng: "Trước khi đi làm, con có dặn ba ở nhà mà nghỉ, đừng có đi đâu hết, sao ba lén đi vô trong nầy làm gì?" Mậu ngó con mà cười hịt-hạt, song không nói chi hết. Cô Lê đi tới, cô kêu mà nói rằng: "Bác Ba, bác đi đâu vậy? Tôi mắc lui-cui dưới bếp, lo chế cà phê cho bác uống, còn má tôi thì mắc lo tiếp khách, bác lỏn đi đâu mất, làm tôi hết hồn hết vía, nên chạy xuống Hãng kêu anh Hiệp đặng đi kiếm bác đây. Bác làm giống gì mà ngồi đây?" Mậu cứ cười hoài. Cô Lê thấy có một cái xe thổ mộ chạy ngang, cô bèn kêu ngừng lại, rồi hối thúc Mậu lên xe mà về. Khi Hiệp dắt cha lên xe, thì Mậu nói: "Tao đi lạc đường vì tao tính sai, nên mới ra cớ sự như vậy đó". Xe về tới tiệm. Hai Tiền chạy ra mừng và hỏi Mậu đi đâu. Mậu cười mà đáp rằng: "Tôi đi thăm mẹ con con Hào, hai đứa nó làm giống gì mà đi kiếm lộn-xộn quá". Hai Tiền nói: "Thăm viếng mà làm gì. Anh Ba nằm nhà mà nghỉ có lẽ tốt hơn nhiều". Mậu lên lầu rồi nằm dài trên ván, không nói chi nữa hết. Hiệp để cho cha nghỉ một lát, rồi òn-ĩ hỏi thăm coi cha vô Chợ-Quán vậy mà có gặp mẹ con Ba Trâm hay không. Mậu không chịu nói tới chuyện ấy, mà lại cứ nói: "Tao đi lạc đường". Hiệp coi bộ cha mệt, nên không dám hỏi nữa. Mậu cứ nằm thiêm-thiếp, tới trưa dậy ăn cơm, rồi cũng nằm lim-dim hoài, không lộ sắc buồn hay giận chút nào hết. Tối lại, khi tiệm đóng cửa rồi, Hai Tiền mới lên lầu, thấy Mậu đương ngồi hút thuốc tại bộ ghế salon, Hiệp đứng xớ rớ gần đó, còn cô Lê thì ngồi dưới bóng đèn khí mà thêu khăn. Thím lại ngồi ngay trước mặt Mậu mà nói rằng: - Em có một việc nhà, em muốn tỏ với anh Ba, song mấy bữa rày em thấy anh Ba không được vui, nên không dám nói. - Thím có việc gì thì cứ nói ra. Người như tôi thì còn biết buồn hay là còn biết vui gì nữa mà thím ngại. - Không phải chuyện gì lạ. Em muốn nói chuyện hai đứa nhỏ đây. Em xin tỏ thiệt với anh Ba, em nuôi thằng Hiệp trong nhà mấy năm nay, em thương nó cũng như con ruột của em vậy. Nó với con Lê đã lớn tuổi rồi, mà em coi ý hai đứa nó thương yêu nhau lắm. Mấy năm nay em muốn gả con Lê cho thằng Hiệp đặng chúng nó có đôi bạn mà làm ăn. Em có tỏ ý ấy với thằng Hiệp, thì nó nói nó thương con Lê thiệt, ngặt vì anh mắc trong chốn lao tù, nó buồn bực hoài, nên không đành cưới vợ, nó đợi chừng nào anh mãn tù, anh về, nó xin phép anh rồi sẽ tính việc hôn nhơn. Nay anh Ba về rồi, vậy em xin anh Ba nghĩ thử coi có nên cho hai đứa nó kết nghĩa vợ chồng với nhau hay không? Mậu quăng điếu thuốc rồi day qua hỏi Hiệp rằng: - Mầy muốn cưới vợ sao Hiệp? - Thưa ba, thím Hai nuôi con mấy năm nay, ấy là ơn nặng, mà lúc con đau, cô Lê cực khổ săn sóc con, nên con mới khỏi chết, ấy là nghĩa dài. Ơn nghĩa ấy con không bao giờ mà quên được. Đã vậy mà con ở chung một nhà với cô hai Lê năm năm nay, con yêu nết, con mến tình cô lắm; con chắc nếu con được một người bạn trăm năm như cô, thì gia-đình của con hạnh phúc nhiều lắm vậy. - Hạnh phúc! Mầy cũng muốn đi lạc đường nữa! Làm thế nào kìa, chớ có phải cưới vợ mà đặng hạnh phúc đâu mầy. Vậy chớ mầy không thấy thân tao đây hay sao, mà mầy còn muốn có vợ? Hiệp cúi đầu, không biết lấy lời chi mà đáp với cha. Hai Tiền cũng ngồi lặng thinh, song sắc mặt buồn lắm. Cô Lê buông đồ thêu và bước lại mà nói rằng: "Bác Ba nói vậy thì tôi nghiệp cho phận đờn-bà con gái lắm. Bác thương vợ thương con, mà bị vợ con phụ bạc, làm cho bác uất ức trong lòng, nên bác cho gia đình là cái ngòi phiền não, chớ không phải là cái nền hạnh phúc. Cháu xin phép bác cho cháu cãi lại đôi lời. Đờn-bà có người quấy, mà cũng có người phải, chớ không phải hết thảy đều là phường vong ân bội nghĩa đâu. Xin bác Ba nghĩ lại". Mậu ngó sững cô Lê, rồi chẫm rãi nói rằng: "Thằng Hiệp lớn rồi, nó muốn thế nào tự ý nó, tôi ngăn cản sao được. Nhưng vì tôi là cha nó, nghe nó muốn cưới vợ, tôi phải nhắc chuyện của tôi cho nó nhớ, chớ không phải cản. Vợ con! Vợ con! Tôi vì vợ con mà phải bị đày mười năm, mà có lẽ nay mai đây, tôi còn phải chết với vợ con tôi nữa cho mà coi!" Hai Tiền nghe mấy lời thì biến sắc, nên lật đật khuyên rằng: - Anh Ba đừng có nói như vậy, không nên. Em xin anh Ba hãy quên hết chuyện cũ đi, đừng thèm nhớ tới vợ con hay là tiền bạc làm chi. Thằng Hiệp nó cưới con Lê rồi, vợ chồng nó làm mà nuôi nhau cũng được vậy. - Không nhớ chuyện cũ sao được. - Anh cho chuyện cũ là một giấc chiêm bao, không có chi là thiệt sự, rồi tự nhiên trí anh bình tĩnh, ít ngày anh sẽ quên được. - Khó lắm! Tại thương nhiều nên phải giận nhiều, tại khổ quá, nên oán phải lớn! - Giận làm chi. Ai ở quấy thì để cho ông trời phạt họ, mình không nên oán hận. - Không có ông trời; mà dầu có ông trời đi nữa, ổng ở trên cao quá, ổng có biết việc ở thế gian đâu. - Em tin chắc có ông trời, mà ổng công bình lắm, hễ ai làm phải thì ổng thưởng, còn ai ở quấy thì ổng phạt. Thủng thẳng để rồi anh coi mà. Mậu không cãi nữa, đi lại bộ ván mà nằm. Trong mấy ngày sau, Mậu không đi đâu hết, mà cũng không muốn nói chuyện, ăn cơm rồi thì cứ nằm gác tay qua trán, mà cặp mắt coi đỏ au. Hai Tiền thấy Mậu không vui, nên không dám nhắc tới chuyện hôn nhân, tính đợi ít ngày cho Mậu khuây lảng rồi sẽ bàn lại. Cách ba ngày sau, lúc gần sáng, Hiệp thức dậy không thấy cha nằm trong mùng như mấy bữa trước. Hiệp lấy làm lạ, lật đật đi xuống từng dưới mà kiếm cha, kiếm phía sau phía trước đều không có, mà lại thấy cửa tiệm có một cánh không gài chốt, chỉ khép sơ mà thôi. Hiệp biết cha thừa lúc trong nhà ngủ hết, lén mở cửa mà đi rồi, thì trong lòng lo sợ, nên lật-đật trở lên kêu Hai Tiền mà cho thím hay. Hai Tiền nghe nói thì thất kinh, nên chắt lưỡi than rằng: "Cha chả! Thím sợ lắm cháu ơi! Bữa hổm ngồi nói chuyện, thím coi ý anh Ba oán hận tụi đó lắm. Thím sợ ảnh trốn mà đi đây, không phải đi chơi đâu. Cháu phải đi kiếm ảnh mới đặng". Hiệp thay đồ mà đi liền, rồi cách một lát cô Lê cũng đi nữa. Hiệp với Lê, mỗi người một ngã, đi trọn hai ngày, đi luôn tới ban đêm nữa, mà cũng không gặp Mậu ở đâu hết. Qua bữa thứ ba, Hiệp xuống tới Bến-Thành, gặp trẻ nhỏ bán nhựt-trình, mới mua một số. Vừa mở ra thì thấy trương đầu có bài như vầy:
Mẹ con bị giết tại Chợ-Quán
Hồi hôm nầy, tại Chợ-Quán, có xảy ra một vụ sát nhơn, hai mẹ con đều bị giết một cách rất ghê gớm, Cô Ba Trâm ở một cái nhà nền đúc, theo đường Nhà thờ Chợ-Quán, với đứa con gái của cô tên là Hào, tuổi đương xuân xanh. Hai mẹ con ngủ nhà trên, còn bồi và sớp-phơ thì ngủ nhà bếp. Đêm hồi hôm, gian-nhân cạy cửa sổ, xeo song sắt, rồi chun vô nhà trên, đâm chém chết hai mẹ con, mà tôi tớ không ai hay hết. Đến sáng, người đầu bếp thấy mặt trời mọc đã cao rồi, mà cô Ba Trâm chưa thức dậy, nó bèn gõ cửa kêu đặng lấy tiền đi chợ. Kêu không được, nó đi vòng ra phía trước, thì thấy có một cánh cửa sổ mở hé. Nó bước lại kéo bét ra, thì thấy có dấu cạy, còn song sắt thì cong vòng, làm thành một lỗ lớn chun vô chun ra được. Nó kinh hãi mới tri hô lên và biểu người bồi đi báo Cò bót. Ông Cò và lính lại tới, phá cửa vô nhà, thì thấy cô Hào nằm trên vũng máu trước cửa buồng của mẹ, còn trong buồng ấy, thì cô Ba Trâm cũng nằm trên vũng máu nữa, mẹ con bị đâm bị chém nhiều vết, nên chết đã lạnh ngắt. Xét trong nhà thì đồ đạc còn y nguyên, không mất món nào, tủ không cạy, thậm chí đồ nữ-trang của hai mẹ con đeo, gian-nhân cũng không lấy. Do theo đó mà suy, thì ai cũng quả quyết hung thủ giết mẹ con cô Ba Trâm là vì oán thù, chớ không phải muốn lấy của. Vụ nầy ông Cò đã báo tin cho quan Biện-lý hay rồi, và Tòa mới mở đường tra vấn. Để có nghe tin gì thêm, rồi số báo sau sẽ tường thuật. Hiệp đọc hết bài nhựt-trình rồi thì mồ hôi nhỏ giọt, quầy quả trở về Đakao mà thông tin cho hai mẹ con Hai Tiền hay. Về tới tiệm, Hiệp đi thẳng lên lầu. Hai Tiền với cô Lê thấy mặt Hiệp khác sắc thì lo sợ, nên lật đật tuốt theo. Hiệp đọc nho nhỏ bài nhựt-trình lại cho mẹ con Hai Tiền nghe. Hai Tiền ứa nước mắt mà than rằng: "Sợ hết sức mà không khỏi! Cha chả! Không biết ảnh trốn khỏi hay không. Thôi, đừng có kiếm nữa mà lậu sự". Hiệp nghe lời nên không dám đi kiếm nữa. Mà ở nhà thì không yên trong lòng, nên cứ đi ra đi vô, nhăn mặt châu mày hoài. Sáng bữa sau, Hiệp mua một số nhựt-trình nữa, thì thấy có một bài như vầy:
Vụ sát-nhơn trong Chợ-Quán, mà bổn báo đã thông tin hôm qua, nghe rõ Tòa tra xét đã có mòi kết quả. Theo cuộc phỏng vấn của bổn báo, thì trước đêm cô Ba Trâm bị giết đó, hồi chiều có thầy C .... ở Sàigòn, là cựu tình-nhân của cô Hào, đến nhà cô Ba Trâm mà thăm. Thầy C ... trách cô Hào bạc tình, hai người rầy rà với nhau, rồi thầy C... có lời hăm cô Hào. Bởi cớ đó nên Tòa nghi, mới bắt thầy C.... Tuy thầy C... chối hoài, thầy khai trong đêm hai mẹ con cô Ba Trâm bị giết đó, thầy ở tại nhà hàng khiêu-vũ với nhiều anh em bạn, đến bốn giờ khuya thầy mới về. Tuy Tòa hỏi chứng, thì cũng quả như vậy, mà coi dấu lăn tay của thầy C... thì không giống với dấu tay mà Tòa chụp hình tại cửa sổ và trong nhà cô Ba Trâm, song Tòa cũng còn nghi, nên chưa thả thầy C... Hiệp với hai mẹ con Hai Tiền đọc bài nầy thì bớt lo sợ một chút, song ba người cũng cứ bàn bàn luận luận ở trên lầu hoài, nằm ngồi không yên. Đến trưa, một cô thợ may lên lầu nói với Hai Tiền rằng có một người đến thăm và xưng là Sáu Thêm. Hai Tiền biểu cho lên. Sáu Thêm vừa thấy mặt Hai Tiền thì hỏi rằng: "Con của anh Ba Mậu còn ở đây hay không?" Hai Tiền, cô Lê và Hiệp nghe hỏi đều rởn ốc cả mình. Hai Tiền gượng mà hỏi rằng: - Em hỏi chi vậy, em Sáu? - Tôi kiếm đặng cho nó hay, anh Ba Mậu chết rồi. - Trời đất ơi! Chết ở đâu? Chết hồi nào? - Hồi khuya nầy ảnh nhào xuống sông bên Lăng-tô ảnh tự vận; mới vớt thây ảnh đặng hồi nãy đây. Cò bót đang sửa soạn chở ảnh qua nhà mổ, đặng cho quan thầy thuốc khán nghiệm, nên tôi lật đật qua cho chị hay. Hiệp với cô Lê khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Hai Tiền than rằng: "Chuyện gì mà phải tự vận cho thiệt mạng không biết! Đã đi lạc đường một lần rồi, tôi hết sức muốn kéo ảnh vô đường phải, mà ảnh còn đi lạc một lần nữa!" Sáu Thêm bước lại đứng gần mà nói nhỏ rằng: "Ảnh sống làm sao cho đặng chị; sống rồi bị chết chém, hoặc bị đày chung thân cũng vậy. Thà là chết phức cho rồi". Hai Tiền ngó Sáu Thêm mà hỏi rằng: "Té ra việc Chợ-Quán đó, ảnh hay sao?" Sáu Thêm gật đầu, song ra dấu biểu đừng hỏi nữa. Hai Tiền lắc đầu nói rằng: "Hèn chi bữa hổm ảnh nói: tại tình sâu nên oán phải nặng, ảnh phải chết với vợ con, ảnh nói như vậy thì tôi đã sanh nghi rồi. Thôi Hiệp, cháu phải tỉnh trí mà lo xin xác chôn cất anh Ba cho ấm cúng. Cháu đừng có buồn rầu làm chi. Tại cái mạng anh Ba phải như vậy nên hồi trước trời khiến ảnh đi lạc đường, rồi bây giờ ảnh mới tới chỗ đó. Mình khóc hoài, ảnh cũng không sống lại được, hay hơn là mình ngậm miệng để lo cho ảnh. Thằng Sáu, em nói họ đem xác ảnh vô nhà xác phải không? Sáu Thêm đáp rằng: "Phải, hồi tôi đi đây thì họ sửa soạn chở xác ảnh, có lẽ bây giờ họ đã tới rồi. Nhà mổ ở gần đây, thôi mình sửa soạn mua hòm rương cho sẵn, đặng hễ mổ rồi thì mình xin phép tẩn liệm đem xác đi chôn". Hai Tiền nhứt diện cậy Sáu Thêm đi với cô Lê đến nhà cho mướn đồ âm-công thương lượng mà mua hòm và mướn nhà vàng, còn nhứt diện đi với Hiệp lại nhà mổ mà chờ đặng xin lãnh xác. Chôn cất Ba Mậu tốn hao bao nhiêu, Hai Tiền bao chịu hết. Đám táng xong rồi, tối lại Hiệp mới lạy mà tạ ơn Hai Tiền và tỏ ý muốn lên núi kiếm chỗ thanh tịnh ở mà tu, không chịu lẩn-quẩn ở trong vòng trần gian, là cái lò phiền não. Cô Lê vừa nghe Hiệp nói muốn đi tu thì cô không e lệ chi hết, tuy có mẹ ngồi đó, song cô bước lại hỏi Hiệp rằng: - Tại sao anh đòi đi tu? - Đời gay go cay đắng như vầy, có vui sướng gì đâu mà không xa lánh cho rồi! - Thế gian tự nhiên như vậy đó, có lạ gì. Mà sự cay đắng anh mới ngó thấy mà thôi, chớ anh chưa nếm, có chi đâu là điều chán ngán nên đi tu? - Ngó thấy đủ ngán rồi, cần gì phải nếm. Mình thấy cái đường khổ, mình lo tránh trước, có lẽ hay hơn. - Em sợ anh tính lầm. Thế gian là khổ hãi; loài người ở trong ấy tự nhiên chịu khổ, tránh đâu cho khỏi được. Anh thấy bác Ba đi lạc đường, anh muốn tránh đường đó mà bước qua đường khác. Anh nghĩ mà coi, đường nào cũng ở trong thế gian, có đường nào mà không khổ. Khổ hay là không khổ đều tại nơi tâm của mình mà thôi. Nếu mình cứ làm phải hoài, dầu mình phải chịu khổ đi nữa, trí mình cũng an, lòng mình cũng khỏe. Hiệp ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi than rằng: "Cái đời của tôi từ nhỏ không có mẹ, rồi từ nay lại không có cha nữa. Còn ai thương tôi, còn ai cho tôi thương nữa mà tôi còn phải liều thân chịu khổ, đặng ở chốn thế gian nầy?" Hai Tiền nói: "Còn qua đây; qua làm mẹ cháu, qua thương cháu cũng như mẹ cháu vậy". Cô Lê cũng nói: "Lại còn em đây nữa; em cũng thương anh, mà em lại trọng anh, chớ không phải như con Hào vậy đâu". Hiệp ngó Hai Tiền rồi ngó cô Lê, rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Cám ơn"
- CHUNG -
Vĩnh-Hội, Septembre 1937
(nhà xuất bản Phương Nam, 1953)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro