
Lac Duong Nu Nhi Hanh (2) - Tieu Doan
Quy ển III: Cư Duyên liệp
Chương 50 Liễu ám tuất lâu đa mộng vân
Thành xám x ịt màu sắt thép, nỏ sắt sáng rờ rỡ. Từ sáng sớm đến giữa trưa, trong vòng ba canh giờ, trên thành dưới thành, nội trong khoảng bốn dặm, mọi sự vật đều đắm chìm trong tĩnh lặng.
V ầng thái dương sáng chói khô khốc, vắt mồ hôi đẫm ướt y phục binh sĩ Khương Nhung trên tường thành. Quần áo nhớp nháp thấm vào thân thể đã lâu chưa tắm sạch, như keo dầu vấy bám bịt kín sinh mệnh --- Sinh mệnh cũng là vậy đó, bình thường cơ hồ trễ nhác chẳng chứa đựng được gì, chỉ có lúc hát hò cặp kè trai gái say sưa, nhồm nhoàm rượu thịt mới vực tỉnh được nó trong chốc lát. Nhưng dấn mình vào chiến trận, gặp giờ phút sinh tử cách một đường tơ, nó lại bệ rạc đến mức khiến cho người ta cảm thấy nặng nề khó mà gánh nổi.
… Cu ộc đời này… cuộc đời này ta đã làm được gì rồi? Có người đang nghĩ như vậy, con người sao cứ đến giờ phút sinh tử lại đi nghĩ tới những chuyện chẳng can hệ gì hết vậy? Tâm tư cũng đông đặc lại, hòa trộn vào máu, máu tựa hồ chảy chậm đi, như phèn trắng pha vào nước, mọi sự trong lòng đều chìm nghỉm hết, còn tất cả những dịch thể có thể lưu động chừng như đều bị ánh mặt trời hun đốt bốc hơi sạch, tuy hiện giờ là một mùa đông giá buốt.
Đ úng giờ Ngọ, dưới thành chợt có động tịnh. Bảy tám người ăn mặc theo kiểu lính tráng Yên Kỳ áp giải sĩ tốt Khương Nhung đã bị bắt ở Yên Kỳ thành đến. Lính Yên Kỳ ai cũng cưỡi ngựa, thực ra đang chột dạ lo canh cánh, tứ chi lạnh ngắt, nhưng bề ngoài lại ra vẻ mạnh mẽ --- Đây là Trương Bá Uy sai phái bọn họ làm, bọn họ dong suốt một ngày một đêm, cuối cùng đã đến. Đám binh sĩ Khương Nhung bị áp giải thì lại đi bộ suốt cả trăm dặm, tướng tá héo còm, mặt mày tái mét.
M ột thớt ngựa phi ra khỏi doanh trại của quân Hán đằng sau cánh rừng, mấy binh sĩ Yên Kỳ thấy tinh kỳ bên mình phấp phới, có vẻ đã định thần trở lại. Bọn họ hãi sợ thanh thế Khương Nhung từ lâu. Kẻ phi ngựa ra khỏi trại là một tùy tùng của Hàn Ngạc, dẫn mấy binh sĩ Yên Kỳ vào doanh trại nghỉ ngơi, lại lùa mấy chục tên lính Khương Nhung đến khoảnh đất trống dưới thành.
M ấy chục tên này đều bị trói bằng dây thừng. Chúng ngày thường hung hãn tàn bạo, giờ xương tỳ bà bị gãy gọn, đau đớn đến cùng cực, lại phải co ro rét mướt, đáng thương như một lũ châu chấu bị xỏ cột. Chúng chẳng còn mặt mũi để ngẩng đầu, không dám nhìn lên trên tường thành Y Ngô, như muốn quên lãng hết, đầu óc thất thần bị dồn vào dải đất giữa hai phe, đứng thẫn thờ hụt hẫng. Có tên chân giò mềm nhũn cơ hồ muốn phệt mông xuống đất, nhưng dây thừng trói buộc một hàng, mấy kẻ vũ dũng kiên cường hơn trợn mắt ngăn chặn vẻ khiếp nhược của đồng bọn, có điều sự dũng cảm còn sót lại đó chừng như cũng chỉ đủ để giữ được thế đứng của bản thân.
Đứng loạng choạng gần muốn bò lê.
C ửa thành Y Ngô lại chẳng chịu mở, bọn trên thành có vẻ chẳng chút động lòng trắc ẩn đối với đám đồng bào bị bắt giữ, trái lại còn lo lắng đó là quỷ kế của quân Hán. Một hồi sau, trong trại Hán mới dong ra một cỗ xe ngựa. Cỗ xe chạy rất nhanh, con ngựa kéo xe cực kỳ thần dũng, chính là con Ban Chuy của Hàn Ngạc.
1 Liễu rũ gác canh dệt thêu mây mộng, là Tiểu Đoạn sửa một chữ trong câu thơ “Liễu ám chu lâu đa mộng vân" của Đỗ Mục (xem chú thích {1} hồi 49).
M ột người trẻ tuổi thân thể cao nghệu gầy gò đứng sừng sững trên xe. Bên càng xe có cắm một cây cờ, trên cờ thêu bốn chữ lớn: “Thiên tử sứ Hàn”. Chữ “Hàn” đường thuê chỉ đen thanh tú, bút thế lẫm liệt, như hàng mi của người trẻ tuổi đó. Dưới bóng lá cờ, gương mặt của gã có vẻ vàng vọt vì nhọc nhằn chuyện hành quân. Cỗ xe chạy về phía cửa thành, vượt qua đám binh sĩ Khương Nhung bị bắt, thản nhiên dừng cách tường thành mấy chục trượng. Người trẻ tuổi trên xe giơ bàn tay che nắng hắt vào mắt, nhìn lên tường thành thốt: “Sứ giả Hán triều Hàn Ngạc thỉnh mời Tông Khách Ba ra nói chuyện”. Bên trên im lìm. Một khắc sau mới có một tên Khương Nhung mặt mày đen đúa, tạng người tầm vóc chắc nịch hiện thân nói: “Ta đây”. Hàn Ngạc nheo mắt quan sát hắn, chợt quát: “Không phải ngươi!”. Gã nói thực nhanh, mà trương cung còn nhanh hơn nữa, chưa dứt lời thì một cây cung đã lọt vào tay gã. Kẻ tự xưng là “Tông Khách Ba” cơ hồ chẳng kịp có phản ứng, Hàn Ngạc đã bắn một tên lên. Tường thành Y Ngô cực cao, cả gần năm trượng có, cung kình của Hàn Ngạc lại mạnh mẽ vô cùng, không ngờ có thể bắn tới nơi. Hán tử mặt đen chẳng kịp né tránh, mặt mày tái nhợt, chỉ thấy một mũi tên lông đuôi bay thẳng đến yết hầu của mình. Đằng sau hắn bỗng có một bàn tay thò ra, vỗ một chưởng đánh bạt tên. Mũi tên lại chưa hết thanh thế, đâm xéo lên khăn đội đầu của hán tử mặt đen. Kề bên vai hán tử đó lộ ra một khuôn mặt vàng ngời. Khuôn mặt vàng chói đó quái dị khôn tả, phía trên trán là một cái mũ nhỏ mà người Khương Nhung hay đội, đuôi sam thõng một bên. Cái làm cho người ta cảm thấy kinh dị không phải là sắc mặt, mà là cái đầu của hắn. Cái đầu rất to, cơ hồ rộng ngang bằng vai. Hàn Ngạc dưới thành cao giọng cười: “Ngươi mới phải!”. Gã không đợi Tông Khách Ba lên tiếng, chợt giơ tay, quật cây cung lên mặt một tên lính Khương Nhung bị trói đang động đậy muốn nhào lên, dây cung liền kéo một vệt máu dài trên mặt tên đó. Bọn Khương Nhung trên tường thành nhốn nháo. Hàn Ngạc lớn tiếng gọi: “Tông Khách Ba, nghe đồn ngươi là đệ tử hàng thứ ba dưới trướng ‘Hoạt Phật’ Đại Kim Ba, xưng là cao thủ hạng nhất của Hữu Hiền vương. Ngày xưa ‘Hoạt Phật’ Tiểu Kim Ba từng vào Trung thổ, ngông cuồng thái quá cho nên bị Đại nội tổng quản Du Cửu Khuyết xứ ta đánh bại, mặt dày chạy về. Lúc đó ta còn nhỏ, đó giờ rất hối tiếc không thể tận mắt chứng kiến. Hôm nay ngươi và ta gặp mặt ở trận tiền, đánh một trận công thủ chắc phải dai dẳng lắm. Tuy ta thắng chắc, còn phải xem ngươi có dám xuống đây không cái đã. Hai người chẳng có ai khác tương trợ, không dẫn theo bất cứ một ai, hai chủ soái giao chiến. Ngươi cũng có cơ hội rửa nhục cho Tiểu Kim Ba. Nếu người không dám xuống cũng được, dám xuống mà thắng được ta…”. Thân người gã chợt bay vọt lên, đạp trên đầu bọn lính Khương Nhung bị trói, dây cung quất lên đầu chúng, rồi hạ mình trở lại xe: “… Ta sẽ thả mấy chục tên lính bại trận này”. Gã ngước đầu, lại hét: “Chỉ e ngươi không dám thôi”. Nói xong gã phất tay, một tùy tùng của gã chạy đến, phiên dịch lời nói qua tiếng Khương Nhung, rống lên cho bọn trên thành nghe. Thanh âm của người tùy tùng này không ngân vang như Hàn Ngạc, lại lớn giọng hơn nhiều, ai ai trên thành cũng nghe thấy hết. Nhất thời trên tường thành xôn xao rúng động, người nào cũng biết Tông Khách Ba là một hảo thủ võ lâm, thuật đao cung phải là bậc nhất dưới trướng Hữu Hiền vương. Ai ai cũng thót tim, trông chờ Tông Khách Ba xuống làm thịt Hàn Ngạc, phong tỏa nhuệ khí quân Hán, sau đó kéo rốc ra đánh tan kẻ địch --- Bọn chúng khinh thường quân Hán đã lâu, chưa từng bị chọc tức đến thế, tên nào tên nấy cũng nhìn sang Tông Khách Ba. Chỗ Hàn Ngạc đứng cách tường thành chưa tới nửa dặm, cách trại quân Hán đằng sau cũng phải ba dặm hơn. Viện thủ của hai phe cách xa như vậy, xem ra gã thực muốn đánh tay đôi với Tông Khách Ba. Gã ngó lên thành một cách khinh miệt, lòng lại cực kỳ lo lắng --- Hành động hôm nay thành công hay thất bại là phải xem xem Tông Khách Ba có bị gã khích động, chịu xuống thành đánh một trận hay không? Tông Khách Ba bụng đang ngờ vực, nhưng những ánh mắt đang chằm chằm nhìn hắn trở thành một áp lực nặng nề. Nếu không xuống đánh, sau này trước mặt thủ hạ binh sĩ, e là hắn khó mà ngẩng cao đầu. Mất mặt như vậy, kêu hắn làm sao điều khiển kẻ dưới? Trầm ngâm một hồi, chợt nghe hắn trầm giọng quát: “Được!”, bỗng nhiên giật một sợi dây thừng buộc chặt, đu dây bay xuống dưới. Cái vọt mình của hắn lanh lẹ mau mắn, Binh sĩ Khương Nhung trên tường thành thấy hắn động tác kiêu dũng, không khỏi nhất tề hoan hô vang dậy. Hàn Ngạc phất tay, người tùy tùng thoái lui. Tông Khách Ba đã hạ mình xuống đất, từng bước từng bước vững chãi đi tới. Hàn Ngạc cũng nhún mình lách xuống xe nhẹ nhàng, đứng yên chờ đợi. Gã vỗ lên cổ Ban Chuy một cái, con ngựa nghe lời gã, kéo xe bỏ đi, nhường khoảnh đất trống cho hai người. Tông Khách Ba đứng cách Hàn Ngạc năm thước, thấy bên cạnh Hàn Ngạc chẳng có ngươi thông dịch, không ngờ hắn lại dùng tiếng Hồ pha lẫn tiếng Hán trọ trẹ: “Ta giết ngươi trước, rồi giết chúng nó, sau đó…”. Hắn nhìn về phía doanh trại sau lưng Hàn Ngạc: “Giết sạch bọn quân Hán các ngươi”. Lúc hắn nói “chúng nó”, ngón tay chỉ tới mấy chục tên lính Khương Nhung đang bị trói. Hàn Ngạc nghe loáng thoáng cũng hiểu được, gã thầm rùng mình, người Khương Nhung đúng là tàn bạo! Tông Khách Ba nói xong, bọn lính bị bắt ai ai cũng tái mặt, đám Khương Nhung trên thành lại hò reo tở mở. Sau lưng Hàn Ngạc, trong doanh trại chợt vang lên tiếng trống trận, như thôi thúc dũng khí của Hàn Ngạc. Có điều Hàn Ngạc biết giờ phút này ở đó chỉ có chưa tới mười bốn, mười lăm mạng, phần nhiều là dân thường ở thành Y Ngô. Tiếng trống đó bất quá là cả trăm con dê treo mình đá đạp mà thôi. Gã chợt rút kiếm: Trường Canh, Trường Canh, hôm nay trông vào ngươi! Trông vào thời, vào số, vào mạng ta… coi ra sao! Tông Khách Ba phất hai ống tay áo, rút ra hai thanh kim đao. Đao mạ vàng, lấp loáng kim quang dưới ánh mặt trời. Hắn xuất thủ cực nhanh, chẳng nói chẳng rằng, hai đạo kim quang cuốn thẳng về phía Hàn Ngạc. Đây là lần thứ nhì Hàn Ngạc đối đầu với cao thủ Tháp Nhĩ Tự. Trận khổ chiến trong nhà trạm ở thành Cư Duyên gã còn chưa quên. Trường kiếm hất ra, như hạc réo mây ngàn, ngang nhiên đón đánh. Song đao của Tông Khách Ba ùa tới, hoàn toàn không chút hoa hoè, rải rắc một màn mưa vàng chói, nếu để một chút xíu nhuốm lên mình, e phải lập tức bị banh da xẻ thịt. Lính Khương Nhung cả trên lẫn dưới thành tròn mắt nhìn, chúng từ lâu đã biết Tông Khách Ba là hảo thủ bậc thầy, nhưng mấy ai thực sự được chứng kiến đâu. Hàn Ngạc những ngày tháng qua thanh danh vang lừng, bọn kỵ binh bị gã đánh tơi tả rao đồn về kiếm thuật của gã chẳng khác gì thiên thần. Tâm tình của bọn Khương Nhung dưới thành đặc dị nhất: bản năng của chúng đương nhiên mong cho Tông Khách Ba thắng, nhưng hắn mà thắng thì chắc chắn sẽ giết chúng để rửa sạch mối nhục thất bại cho Khương Nhung. Nếu chúng ở địa vị của Tông Khách Ba, chúng cũng sẽ làm vậy. Có điều vào lúc này --- mạng là mạng mình, tuy hồi trước chúng đâu có thấy quý tiếc mạng sống như vậy. Đao thế của Tông Khách Ba sức lực mạnh bạo, khí huyết tràn trề, bên trong còn hiển hiện nét âm hiểm xảo trá. Càng đánh Hàn Ngạc càng cảm thấy “Hoạt Phật” Đại - Tiểu Kim Ba quả không phải hư danh. Trán gã nhỏ mồ hôi lạnh, lòng không khỏi bội phục trận đấu giữa Du Cửu Khuyết và Tiểu Kim Ba. Đánh đến lúc khẩn cấp, hai luồng đao quang của Tông Khách Ba hợp lại thành một, nhất thời trong trường như lổn ngổn rắn vàng, trăn vàng, còn kiếm khí của Hàn Ngạc màu xám bạc, lạnh buốt như đông giá, chém rắn chặt trăn, tìm kẽ hở mà chỉa chọt, uyển chuyển hung mãnh, rõ ràng đã đánh đến miệt mài mê mải. Tiếng gầm của Tông Khách Ba càng lúc càng lớn, Hàn Ngạc biết đã đấu đến thời điểm xác định thắng bại, đôi mày nhướng lên, kiếm thế yếu đi, một đao của Tông Khách Ba chém lên cánh tay trái của gã. Hàn Ngạc chẳng mấy lưu tâm tới lách tránh --- Gã vốn có ý như thế, biết nếu cứ dốc sức đánh hoài, chưa đến lúc cạn hơi kiệt sức thì có muốn thắng Tông Khách Ba cũng chẳng phải dễ, chỉ còn nước liều hiểm chiêu này. Huyết quang tung toé, Tông Khách Ba mừng rỡ, binh Khương Nhung trên thành hoan hô vang trời, bọn bên dưới hé cửa thành, chuẩn bị xông ra vây hãm doanh trại quân Hán. Hàn Ngạc lại uốn mình, bắp thịt trên mặt co giật, cánh tay trái của gã đã bị Tông Khách Ba xén đứt một mảng thịt lớn! Nhưng kiếm trên tay phải của gã lại đã nương thế ép tới gần, xộc về phía dưới bẹ sườn của Tông Khách Ba. Tông Khách Ba cả kinh vặn mình, không ngờ đã tránh thoát. Có điều Hàn Ngạc đã liều chịu bị thương, làm sao dễ dàng vứt bỏ máu thịt như vậy? Trường Canh cứ giữ một đường thẳng lao tới, mũi kiếm “oong” một tiếng. Thanh kiếm qua trăm lần rèn đúc từ sắt thuần chất quẫy động dưới nội kình của gã, bẻ cong lưỡi, mũi kiếm lắc lư, chưa tới một nháy mắt đã ghim xuyên qua bẹ sườn trái của Tông Khách Ba. Binh sĩ Khương Nhung vốn đang định xông ra thì thấy mũi kiếm màu xám bạc đâm xuyên qua thân thể Tông Khách Ba lòi ra sau lưng. Chưa ai kịp phản ứng, bọn thân tín của Tông Khách Ba đã đẩy cửa thành, phóng ngựa như bay ra, muốn cứu chủ tướng! Sau khi thụ thương, Tông Khách Ba mặt mày tái nhợt phi thân thoái lui, hắn biết thương thế cực nặng, kiếm thế tiếp theo đó của Hàn Ngạc khó mà ngăn cản. Thấy có người phi ngựa ra cứu, hắn vội quát: “Đừng ra! Về thành! Đóng cửa!”. Thân người hắn vọt ra sau, vọt về phía viện binh đang lao đến. Hàn Ngạc chợt hú dài một tiếng, toàn thành đều nghe. Binh sĩ trên tường thành đang ngó gã và Tông Khách Ba một rượt một chạy, khẩn trương đến nín thở. Xông ra khỏi cửa cứu viện cũng phải có mấy chục kỵ sĩ, tuy Tông Khách Ba quát tháo ra lệnh cho chúng lùi lại, chúng vẫn giục ngựa lao nhanh tới. Lúc này trong thành chợt có hỏa quang bốc lên, không ngờ chính ở doanh trại mà binh sĩ Khương Nhung do Tông Khách Ba thống lãnh đồn trú. Sau đó trong thành ồn ào nhốn nháo, có người la hoảng: “Người Y Ngô phản rồi”. Lại có người hét to: “Hễ là dân Y Ngô thì hãy làm phản!”. Câu sau lại là người Y Ngô dùng tiếng Y Ngô mà la to. --- Ngươi có còn là dân Y Ngô không? Là người Y Ngô thì ngươi làm phản đi! Đó là tiếng thét của bọn bốn người Khố Tán. Họ đã lén lút trốn về Y Ngô từ trước, liên lạc tử sĩ, đốt lửa chính là ký hiệu bọn họ hiệu triệu dân Y Ngô đứng dậy. Binh Khương Nhung nhất thời hỗn loạn --- Chúng cơ hồ đều dồn lên hết trên tường thành, người ở lại trong doanh trại vốn chẳng có bao nhiêu. Quân doanh đã bị đốt, ai nấy cũng đều thất kinh. Chúng nguyên định chia binh đi cứu, nhưng trên tường vốn cũng có binh sĩ Y Ngô bị chúng ra lệnh bắt lên giữ thành. Đám binh sĩ đó có vẻ đang nôn nao muốn phát động. Bây giờ chúng cũng không biết nên chế ngự binh sĩ Y Ngô tựa hồ đã có mưu đồ sẵn bên trên thành, hay là nên về doanh trại trấn an loạn lạc trong thành, hoặc ra khỏi thành cứu trợ Tông Khách Ba trước đã! Đang hoang mang không quyết định được, chúng thấy trên tường thành đã có binh sĩ Y Ngô hươi đao xoay lại đánh. Trong thành huyên náo om sòm, chừng như dân chúng toàn thành đều đã làm phản. Cái câu “Là người Y Ngô thì hãy làm phản!” càng lúc càng vang vọng, như sấm sét rền rĩ, truyền đi khắp ngõ ngách. Quân dân Y Ngô cả trên lẫn dưới thành tựa hồ đã đợi cái ngày này từ lâu, dân bán hàng rong, bán thịt, thậm chí cả phụ nữ trẻ con cũng nhất tề hò la. Nam tử trẻ tuổi thì vác đao phóng lên. Tông Khách Ba ngoài thành cũng nghe thấy, lòng khẩn trương vô cùng, phóng chạy càng mau hơn. Binh sĩ Khương Nhung ở cửa thành có kẻ muốn mở cửa cứu Tông Khách Ba vào, có kẻ lại muốn đóng để ngăn chặn quân Hán ùa vô, chưa chi đã hỗn loạn hết hàng ngũ. Đạo lý nhà binh tuy là so đọ sức lực, như xếp hàng đầu phải là hàng ngũ trật tự. Hễ đã mất trật tự, coi như bại chắc. Lòng quân Khương Nhung đã dao động, lúc này trong thành hò reo ầm ĩ, Khố Tán dẫn đám tử sĩ Y Ngô mà hắn tập kết trong vòng ba ngày nay tấn công lên tường thành. Bên trên thành loạn lạc tràn lan, Khố Tán tay cầm loan đao, vạt áo nhuộm máu, hai mắt đỏ ngầu. Hắn biết trách nhiệm mình đảm trách hôm nay cực kỳ quan trọng, nếu không thắng, e toàn thành phải mang họa bị tàn sát. Cừu hận đè nén trong đầu hắn bao nhiêu năm trời bung trào ra hết. Đám tử sĩ Y Ngô bên cạnh hắn ai ai cũng liều chết quyết chiến, mà lính Khương Nhung cũng cực kỳ hung hãn anh dũng, tường thành nhất thời lọt vào tình trạng khổ đấu. Hàn Ngạc tăng gia cước lực, lúc này nghe tiếng càng gắng chí, thân người bay bổng lên, một kiếm giữa không trung thần tốc bắn tới sau lưng Tông Khách Ba. Tông Khách Ba gầm lên như một con hổ dữ, song đao phản công, rõ ràng muốn liều chết với Hàn Ngạc. Hai thanh kim đao sáng bừng lên, xuất ra hết bản lãnh chân truyền của hắn. Hàn Ngạc hú dài một tiếng, Trường Canh màu xám bạc cả kiếm lẫn người vọt vào trong đao quang vàng óng. Khố Tán trên tường thành cũng hít một hơi sâu, tay dừng sựng lại --- Hành động đoạt thành hôm nay có thành công hay không, phải trông vào một kiếm đó! Nếu kiếm đó mà bại, Tông Khách Ba chạy được vào thành, với sự trầm tĩnh của hắn, e sẽ thủ chặt cửa thành, bình định nội loạn, mà ngoài thành vốn chẳng có nhân lực để tấn công mạnh. Chỉ cậy vào sức trong Y Ngô thành, nhất định khó mà hạ được năm trăm binh mã Khương Nhung hung hãn. Tiếp đó Y Ngô thành sẽ phải lọt vào thảm cảnh đồ sát. Lại thấy dưới thành kim quang hừng hực, kiếm ảnh trắng xám đã tắt ngóm, binh Khương Nhung trên thành la lớn: “Thủ lãnh thắng rồi, thủ lãnh thắng rồi!”. Lời nói vừa vang lên, bọn Khương Nhung quả nhiên phấn chấn lòng quân, liên tiếp chém chết mấy binh sĩ Y Ngô phiến loạn. Lại nghe dưới thành vọng truyền một tiếng hú trong ngần, cao xa đến mức ai nấy trên tường thành cũng không khỏi ngoái đầu dòm về hướng đó. Trường kiếm của Hàn Ngạc ánh sáng tối mờ đi một chốc rồi lại đột nhiên bừng bừng ngời tỏa, như đồng sao lấp lánh, sao băng bay xẹt. Sau một kiếm đó, trường kiếm của gã uống máu, chém Tông Khách Ba cách đầu ngựa của bọn viện binh một trượng! Quân mã ra cứu viện ngẩn ngơ, Khố Tán trên đầu thành thấy vậy hét lớn: “Tông Khách Ba đã chết, Tông Khách Ba đã chết!”. Hắn vừa thét vừa xuất thủ. Thủ hạ của hắn cũng đã nhận lệnh từ trước, lập tức nhất tề hét vang: “Tông Khách Ba đã chết, Tông Khách Ba đã chết!”. Thanh âm lại truyền vọng trong thành, toàn thành khói lửa mù mịt, ai nấy cũng hò la giữa vùng lửa khói: “Tông Khách Ba đã chết! Tông Khách Ba đã chết!”. Cái chết của một người không ngờ có thể dẫn tới sự vui mừng cuồng dại của toàn thành! Mấy trăm kỵ mã Khương Nhung uy chấn Y Ngô, trông cậy vào hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật nghiêm khắc. Giờ phút này chủ soái đã chết, bụng dạ chúng không khỏi hoảng hốt. Hàn Ngạc cho dù thụ thương cũng không giảm mất sự hùng dũng. Trường kiếm phất bay, bất chấp cánh tay trái bị trọng thương, đoạt lấy một thớt ngựa tại đương trường, giết liên miên mấy kỵ mã, vọt tới cửa thành. Binh sĩ giữ cửa thất kinh, đang định đóng cửa, Hàn Ngạc đang trên lưng ngựa còn cách hai trượng, đột nhiên nhún mình bay đi. Sau khi chém mấy tên lính giữ cửa, cửa thành lại mở rộng, binh sĩ Y Ngô ở cửa thành cũng ùa ra chém giết, quật ngược về hướng đó. Toàn thành đâu đâu cũng hô hào rền vang, mấy trăm binh sĩ Khương Nhung chìm lỉm vào giữa những tiếng gầm thét cuồng nộ của người Y Ngô. o0o Hai ngón tay thon nhè nhẹ vuốt ve cái vỏ sò màu đỏ. Đỗ Phương Ninh đang ngồi ở gác canh trên tường Cư Duyên thành, lưng dựa vách lầu, một chân cuốn lấy lỗ châu mai, một chân giắt hẫng ngoài tường thành --- Hiện tại nàng đâu có cần để ý gì lễ nghi, đang đêm khuya, nàng cũng còn mặc nam trang. Làn mi của nàng đen nhánh rũ buông, lòng đang nghĩ: đường vân cuốn vòng trên vỏ sò này có phải là dấu tích năm tháng để lại? Thêm một tuổi, vỏ lại có thêm một tầng, cho nên trên vỏ lại có thêm một đường vân? Nghĩ đến cái tầng đó, nàng chợt có cảm giác Hàn Ngạc đem tặng mình vào cái ngày sinh nhật tựa như cũng có thêm một tầng ý nghĩa. Rồi khoé môi nàng nhoẻn hé một nụ cười, cảm thấy mình thực vẫn còn căn bệnh của mấy cô bé, khoái ngồi nghĩ suy vẩn vơ mò moi thêm ra ý này nghĩa nọ --- Thực ra một nam nhân vai u thịt bắp như gã nào có nghĩ đến mấy thứ đó chứ? Nhưng đường vân trên vỏ sò vẫn cho nàng thêm chút cảm giác thỏa mãn làm sao. Nàng không vội xem thư Hàn Ngạc. Trong thư còn có thể nói gì chứ? Bất quá toàn là thương lượng đại sự quân binh, chẳng có câu nào riêng tư giành cho nhau cả. Nghĩ đến đó, Đỗ Phương Ninh chợt thấp giọng mắng một câu: “Tên khờ!”. Nhưng chính phong cách “tên khờ” đó lại khiến cho Phương Ninh cảm thấy tâm tư của hai người chưa bao giờ được khắng khít đến thế. Thư của Hàn Ngạc chẳng đều đặn chút nào, có lúc mười bữa nửa tháng mới được một lá, có khi ngày hôm sau lại có nữa. Phần nhiều khi gã gặp trở ngại hoặc mưu tính đại để đã thành công thì có thư. Thư thuật chuyện cũng rất sơ lược, chỉ báo cáo một kết quả. May là Phương Ninh giỏi hỏi han, tình hình tường tận đa số là nàng nghe ngóng thăm dò qua miệng của người đưa thư --- Hàn Ngạc ba ngày hạ hai thành, Yên Kỳ và Y Ngô trước sau đều lọt vào tay gã. Gã dốc sức toan tính cho Y Ngô, đề bạt Khố Tán làm Y Ngô An phủ sứ, chỉnh đốn binh lực, tu sửa thành trì. Cho nên thêm vào Cư Duyên, gã đã có ba thành trong tay, lập tức tổ chức “Liên Thành Kỵ”. Người của ba thành đã dốc sức tương trợ cho “Liên Thành Kỵ” này. Cư Duyên và Y Ngô binh mã nhiều nhất, mỗi nơi hơn năm trăm kỵ binh, Yên Kỳ cũng chấp nối góp nhặt được ba trăm kỵ sĩ. Dưới tay Hàn Ngạc cuối cùng đã có được một nhánh quân. Phương Ninh tuy ở Cư Duyên, lại cũng phải lo giúp Hàn Ngạc xử lý quan hệ qua lại giữa các thành và sự vụ quân nhu. Sau khi nghỉ ngơi ba ngày ở Y Ngô, Hàn Ngạc lại lên ngựa rời thành, lần đó gã lại lập uy, một xe một ngựa đoạt lấy Khang Thành, nơi binh sĩ Khương Nhung vốn đã tan rã. Sau đó gã liên tiếp dẫn tùy tùng đi đông đi tây, ngựa không dừng vó, các thành Tái ngoại dần dần từng cái một lọt vào sự khống chế của gã. Ở Ô Tôn gã giết Ô Tôn vương, lập thái tử khác; ở Đại Nguyệt Thị huyết chiến gian khổ, đơn thân độc mã quần chiến với mấy chục hảo thủ Khương Nhung tập hợp lại, cuối cùng đã hạ được Đại Nguyệt Thị. Mỗi lần đoạt được thành, gã liền an trí một An phủ sứ, dự tính xây dựng “Liên Thành Kỵ”. Có chút thời gian, gã còn phải thao luyện binh mã, có thể thấy bận rộn đến mức nào. Đến nay, trải qua sự giao du phương xa và công kích tầm gần của gã, đã có mười một thành lọt vào liên minh của gã, “Liên Thành Kỵ” cũng khuếch triển đến ba ngàn bảy trăm kỵ mã. Hình thế đại mạc tạm thời yên ổn. Nhưng hơn hai tháng trời hai người bọn họ bươn chải chộn rộn, chẳng gặp được nhau gì hết. Có một lần dấu mực trên thư lờ mờ, lại là vì Hàn Ngạc lúc viết thư ngủ gục trên giấy, trán thấm mực làm nhòa hết chữ. Phương Ninh xem thư mà tay không khỏi run run: nam tử kia sao chăm chú hết lòng đến… khờ như vậy? Nhưng nàng cũng quá bận bịu, trong hai tháng ngắn ngủi, nàng đã đến bảy thành trì, an bài sự vụ, trù hoạch vấn đề cung ứng, loay hoay chuyện binh mã riết, chẳng được gặp mặt. Hay cái là trước mắt đã sắp xếp được có hệ thống, thể lệ đã thành, Đỗ Phương Ninh có thể nghỉ ngơi chút ít. Cho nên mới có ngày hôm nay lên ngồi thừ trên gác canh. Chút nhàn hạ bé nhỏ mà nàng trông đợi lại là vì sao? Chỉ là vì để lại có chút thời gian yên tĩnh nhớ tới một người…?
Quy ển III: Cư Duyên liệp
Chương 51 Chỉ huy năng sự hồi thiên địa1
Cách m ột trăm bảy chục dặm phía tây Y Ngô thành có một chỗ gọi là Thạch Bản Tỉnh, nơi đồn trú của “Liên Thành Kỵ”. Chỗ đó là một mảng thảo nguyên, đất đai ẩm thấp, mỗi khi sang xuân, rất nhiều dòng sông đổ vào đất liền chảy ngang qua đó, tạo thành ao đầm. Mùa đông lại lạnh vô cùng.
Hàn Ng ạc cố ý chọn chỗ đó làm chỗ trú quân, cũng là chỗ gã luyện binh. Chủ lực của “Liên Thành Kỵ” vốn là binh sĩ Y Ngô và Cư Duyên, gần đây hai thành trì đó mỗi nơi đã tăng lên đến hơn bảy trăm kỵ binh, được gã xếp thành hai dinh “Khuynh” và “Phúc”, trọn tên là “Khuynh thành” và “Phúc sào”2. Cách đây vài ngày, Vương Hoành Hải còn phái hơn bảy trăm kỵ binh đến cho gã sai khiến, như vậy Hàn Ngạc cuối cùng đã có dinh hộ vệ riêng của mình. Đã sắp đến đầu xuân, mà xuân miền Tái thượng luôn chậm chân, phải tới giữa tháng ba băng mới tan chảy, đó là “Sông băng mới nứt tràn biên giới, rừng hoa đã rụng chín đế đô”3. Xuân về, Hàn Ngạc cũng mấy hôm sau mới để ý, ngày tháng thực lu bu đến mức gã quên luôn mùa màng cảnh trí.
1 Người chỉ huy tài giỏi vang vọng đất trời, là câu trong bài thơ “Phụng ký chương thập nhị ngự” của Đỗ Phủ.2 “Nghiêng thành” và “lật ổ”. 3Đây là hai câu thuộc bài thơ "Biên từ" của Trương Kính Trung: Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai trì, Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti. Tức kim hà bạn băng khai nhật, Chính thị Trường An hoa lạc thì. Trương Kính Trung là một thi nhân không mấy nổi tiếng đầu đời Đường. Theo sách "Tân Đường thư, Trương Nhân Nguyện truyện", năm Trung tông Thần Long thứ ba (707), khi Trương Nhân Nguyện nhậm chức tổng quản cầm quân phương Bắc đã từng dùng Trương Kính Trung, lúc đó đang giữ chức Giám sát ngự sứ, để lo phân bố quân đội. Bài "Biên từ" này đại để là tác phẩm của ông ta vào giai đoạn đó. "Ngũ Nguyên" trong câu đầu là huyện Ngũ Nguyên thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ ngày nay. Trương Nhân Nguyện để lo phòng ngự Đột Quyết đã xây dựng một trong ba Thụ Hàng thành trứ danh: Tây Thụ Hàng thành, ở phía tây bắc Ngũ Nguyên. Dải đất Tái Mạc đó, phía bắc là sa mạc, khí hậu lạnh cóng, sự vật hoang lương, cảnh sắc thướt tha của mùa xuân đến trễ lắm. Hai chữ "cựu lai" nghĩa là từ xưa đến nay, không những cho thấy cái lạnh lẽo cái hoang tàn ở đây xưa nay vẫn vậy, mà còn chứng tỏ thi nhân đã nghe nói đến từ lâu. Câu này vẽ toàn cảnh, ba câu sau miêu tả cụ thể hơn. Sang câu thứ nhì, tháng hai đã vào xuân lâu rồi, ở nội địa vốn đã đào hồng liễu lục, ánh xuân rực rỡ, còn ở đây thùy dương lại chưa nhú lá nở tơ. Màu liễu luôn là ký hiệu của ngày xuân, các thi sĩ luôn phát hiện ý xuân, tiếng xuân, bóng xuân từ màu liễu. Sự vật điển hình như "thùy dương còn chưa giăng tơ" là đặc điểm cho thấy xuân đến trễ ở vùng biên cương, làm cho người đọc tưởng tượng giữa hoang mạc vô biên, mấy cây liễu trơ trọi phất phơ giữa gió lạnh gay gắt, cảnh tượng hoang vắng giá buốt chẳng một chút xanh tươi. Hai câu ba, bốn vẫn đeo đuổi phong cảnh biên thùy "xuân đến trễ", có điều đổi kiểu cách: thông qua sự đối chiếu cảnh vật khác biệt giữa Ngũ Nguyên và Trường An mà bức phá cường điệu mùa xuân trễ nãi miền biên giới phương Bắc. Giữa câu thứ nhì và hai câu cuối bao hàm một khoảng cách thời gian. Băng tan bên sông, Trường An hoa rụng, ám chỉ thời gian đã vào cuối xuân. Miền Bắc hoang hàn đến lúc đó băng trên sông mới nứt nẻ tan chảy, tiếng bước chân của ngày xuân thấp thoáng có thể nghe, bóng dáng và sắc thái ngày xuân vẫn chưa thể thấy, còn đô thành Trường An thì lại đã nở rộ đỏ tươi từ lâu, đã tàn đến cuối xuân rồi. Đối chiếu như vậy, không những thêm một bước cho thấy mùa xuân đến trễ ở biên thùy, mà còn ngụ ẩn niềm hoài niệm của tướng sĩ rét mướt ở phương Bắc đối với đế đô. Tuy đối diện cảnh tượng lạnh giá hoang lương trời Bắc, tiếng lòng của thi nhân lại không phải là nỗi ưu thương và thở than nặng nề, cũng không phải là sự thê lương và cô tịch dấn thân vào tuyệt vực cùng khổ.
Lúc này Hàn Ng ạc đang ngồi trong trướng viết thư cho Đỗ Phương Ninh, chợt thấy Liên Ngọc đi thả ngựa cho mình khép nép đứng bên ngưỡng cửa, như có gì muốn nói mà lại không dám. Hàn Ngạc mấy ngày nay chẳng nhín được chút thời gian nào để tự mình đi thả ái mã Ban Chuy. Liên Ngọc là vệ binh thân cận của gã. Gã vẫy Liên Ngọc vào, thấy hắn trình thư, lại là thư của Vương Hoành Hải. Hàn Ngạc liếc sơ qua, trên thư có một câu: “Có một chuyện ta thực hổ thẹn với Hàn huynh…”, đang định đọc tiếp, lại thấy Liên Ngọc thập thò mấp máy môi như muốn gắng sức mở miệng. Gã không khỏi đặt thư xuống, hỏi: “Sao vậy? Có chuyện gì vậy?”.
Liên Ng ọc tuổi tác không lớn. Cư Duyên vương phi thấy Hàn Ngạc chẳng có ai kề cận, cho nên đưa hắn đến hầu cận gã. Hắn vốn là người Hán, mới mười bảy tuổi, tướng tá lanh lợi, tâm tư nhạy bén, hành sự rất được nước, Hàn Ngạc cũng rất thích hắn. Liên Ngọc như đã chuốc họa, dí dí chân nhè nhẹ trên mặt đất --- Động tác này lại khiến cho Hàn Ngạc nhớ tới mình hồi còn tuổi xanh, lòng hơi hòa dịu, cười thốt: “Nói đi, có gì mà ghê gớm quá vậy? Có phải nhớ nhà không?”.
Liên Ng ọc lắc lắc đầu, vành mắt đỏ lựng: “Tôi làm mất con ngựa của Tuyên phủ sứ rồi”. Hàn Ngạc giật mình. Ban Chuy tuy cứng đầu khó dạy, nhưng chính mình đã giao phó nó cho Liên Ngọc, nó xưa nay cũng rất nghe lời gã. Ngựa khác mất cũng không nói gì, Ban Chuy làm sao mà mất được? Gã hơi rướn mình, nghe Liên Ngọc nói: “Mấy bữa nay con Ban Chuy hễ thấy ngựa Hán mới đến thì lại tựa như đang suy nghĩ miên man. Mấy ngày đầu tôi thả nó ra ăn cỏ, có lúc nó nổi hứng, chạy đi đâu mất, nhưng cuối cùng cũng quay về, chừng như chơi rất vui. Vì Tuyên phủ sứ quá bận, tôi chẳng dám nói cho ngài biết. Nhưng hôm nay mới ra khỏi dinh, nó chạy đi thực xa, ngựa tôi cưỡi cũng không rượt kịp nó, cứ nghĩ nó sẽ như trước, chơi đã rồi sẽ quay về. Nào ngờ đợi hoài mà cũng chẳng thấy, tôi cưỡi ngựa đi tìm khắp nơi mà lại chẳng tìm ra. Đêm khuya rồi mà vẫn không kiếm được…”. Hắn nói đến đó, cơ hồ muốn bật khóc. Hàn Ngạc vỗ vai hắn nhè nhẹ. Nhìn bộ dạng tuổi thiếu niên của hắn, lòng không biết sao lại nghĩ đến Tiểu Kế, gã bất nhẫn khiển trách hắn. Gã mỉm cười thốt: “Yên tâm, nó không mất đâu. Ta đi tìm nó xem sao. Lớn đầu rồi, mất một con ngựa cũng đâu phải khóc than chứ. Lẽ nào ngày thường tính khí của ta không tốt sao? Vì mất một con ngựa mà có thể đem ngươi xử theo quân pháp sao?”. Giọng nói của gã giễu cợt, Liên Ngọc cũng nhịn không được bật cười. Hàn Ngạc đứng dậy. Miệng gã tuy nói chơi, nhưng lòng lại rất khẩn trương. Ban Chuy ơi Ban Chuy, theo ta sáu bảy năm rồi, sao có thể đột nhiên đi chẳng cáo biệt gì hết vậy? o0o Hàn Ngạc đi ra khỏi dinh, gió đêm phớt qua, tinh thần tỉnh táo hơn hẳn. Gã nhất thời cũng không biết đi đâu mà kiếm, nhưng trong đầu bất chợt dâng hiện một cảm giác quen thuộc, tựa hồ cảm thấy Ban Chuy cách gã không xa. Gã đi về hướng đông, chỗ Liên Ngọc thường thả ngựa. Tuyết đọng tan hờ, cỏ cây khô trắng, gã phấn chấn tinh thần, thiết nghĩ mình đã lâu chưa có cơ hội giãn gân giãn cốt --- Thói quen tập tành sáng sớm và đêm khuya có lúc cũng quên mất, gã phải lợi dụng dịp này để thư giãn một chút, thân hình bay lên, vận động “Đạp Ca Bộ” lao thẳng đi. Gã biết Ban Chuy thích nhất là tản bộ bên bờ sông, đằng đông có một con sông nhỏ, có điều đã đóng băng kín mít. Chẳng bao lâu sau gã đã chạy đến bên bờ, vọt ngược dòng đi lên. Được một chốc, vùng đất xa xa có một chỗ chập chùng, gã thoáng nhìn thấy bóng Ban Chuy. Gã đang định hú dài một tiếng, chợt lại thấy bên cạnh Ban Chuy có một người. Trăng in rọi những tảng băng trôi, ánh sáng bàng bạc, bóng người kia ngồi lẳng lặng, dáng dấp cao trội, trông thực quen thuộc. Hàn Ngạc im ỉm tới gần, muốn xem xem người nào mà con ngựa tràn đầy dã tính của mình chịu nằm yên bên cạnh như thế. Gã còn cách người ngựa mấy trượng thì nhảy lên một cây to. Cành cây khô gầy, gã chăm chú quan sát, thấy người kia còn là thiếu niên. Nó đang vuốt ve lông bờm của Ban Chuy nhè nhẹ, miệng khẽ thốt: “Chuy nhi, Chuy nhi, chỉ có ngươi tốt. Ngạc ca cứ muốn bỏ rơi ta, một mình lăn lộn trong hiểm nguy chứ chẳng để ý tới cái thân cô khổ linh đinh chẳng ai chiếu cố này”. Hàn Ngạc bàng hoàng, gã chỉ thấy một bên mặt của thiếu niên kia dưới ánh trăng: cái cằm nhọn nhọn, đôi mắt to to, cái bớt xanh lờn lợt trên má lại đã thu nhỏ bớt rồi --- Từ sau khi uống thuốc của Tổ cô bà, cái bớt xanh đó tựa hồ bắt đầu thun lại --- Thiếu niên thân người nhanh nhẹn lanh lợi kia, không phải Tiểu Kế thì còn là ai chứ? Nửa năm không gặp, thân thể nó cao vọt lên, mới nhìn hoàn toàn chẳng giống bộ dạng của một thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi chút nào, chẳng trách hồi nãy mình có cảm giác quen mắt, lại không nhận ra được. Dư Tiểu Kế ghé bên tai Ban Chuy thấp giọng: “Nhưng Ngạc ca chẳng thể bỏ ta đâu. Đó, Vương lão gia không cho ta đi, ta lén theo đội nhân mã ông ta phái đến đây! Có điều Ngạc ca mà biết được, không biết có nổi giận không? Ta không dám đi gặp Ngạc ca, chỉ đành tìm ngươi đi chơi thôi”. Mặt mày nó cười hì hì, lại có chút vẻ sợ sệt. Hàn Ngạc ban đầu thấy nó thì chỉ ngạc nhiên, sau đó sực nhớ, mới hiểu thư Vương Hoành Hải hồi nãy có câu “Có một chuyện ta thực hổ thẹn với Hàn huynh…” là muốn nói tới chuyện gì. Tiếp đó đầu lại không khỏi hơi bực --- Bực Tiểu Kế không ngờ lại chẳng chịu nghe lời, làm cho người người lo lắng. Giờ thấy bộ dạng của nó, chút tức bực cũng sắp tan biến đi hết. Gã ngồi trên cây đong đưa hai chân, mắt nhìn tướng tá cao nhồng của Tiểu Kế, lòng cảm thấy khoan khoái. Cả nửa năm nay, bụng gã cứ canh cánh, mà cũng chẳng biết canh cánh cái gì. Lúc nhìn thấy Tiểu Kế, gã mới đột nhiên phát giác thì ra cái mình lo hoài chính là nó. Thân ảnh của Tiểu Kế rất cao, nhưng còn hình dạng gầy thon của tuổi thiếu niên, bên hông trên cổ đều đã có dáng vẻ trưởng thành, xem ra sau này mình lùn hơn nó rồi. Chỉ mới nửa năm, nó sao lại cao vụt lên như vậy? Gã không khỏi nghĩ tới căn bệnh kỳ lạ của Tiểu Kế. Hình tướng và tuổi xương của nó không đồng nhất, tới giờ tựa hồ mới phù hợp. Gã nhớ tới chuyến đi Tái ngoại lần này vốn là để tìm thuốc cho Tiểu Kế, không ngờ thời gian qua mau như vậy, bận bịu mãi, tới giờ còn chưa rảnh để xuất thủ. Gã khẩn trương: chuyện này chẳng thể trì hoãn nữa. Con Ban Chuy lại đã nhìn thấy gã, liền hí vang mừng rỡ. Gần đây nó ít có cơ hội gặp Hàn Ngạc. Mấy ngày nay nếu không có Tiểu Kế bầu bạn, chắc nó phải cô đơn tịch mịch lắm. Dư Tiểu Kế giật mình ngoái đầu, ngó thấy Hàn Ngạc. Mặt nó hứng khởi đến đỏ hồng, sau đó như hơi sợ sệt. Hàn Ngạc thấy vậy, còn bao nhiêu ý niệm bực bội về sự không ngoan ngoãn của nó cũng sụt lở hết, lại vẫn giả bộ nghiêm khắc. Tiểu Kế không khỏi rụt rè: “Ngạc ca…”. Hàn Ngạc mặt sa sầm không lên tiếng. Ban Chuy lại đã chạy đến, cạ cổ nhè nhẹ vào chân Hàn Ngạc đang thõng xuống. Hàn Ngạc lại không lý gì tới nó, chỉ trừng trừng nhìn Tiểu Kế. Hai người xa cách đã lâu, thoạt gặp lại không khỏi cảm thấy sường sượng, giống như một cái nồi nước đun sôi, để lâu nguội ngắt, cần phải hâm nóng lại một chút. Dư Tiểu Kế trân trối một hồi, chợt la lớn: “Tôi không cần biết, tôi không cần biết, tôi đã đến rồi. Huynh có muốn tống tôi đi, giữa đường tôi cũng sẽ chạy. Người khác nhất định không canh chừng được tôi, trừ phi huynh đích thân áp giải tôi về, nhưng đến đâu tôi cũng sẽ chạy thôi. Nửa năm nay co ro ăn co ro ngủ, buồn bực muốn chết tôi rồi!”. Thấy nó lại khôi phục bộ dạng láu cá như trước, Hàn Ngạc suýt nữa là không kềm chế được. Tuy miễn cưỡng nghiêm mặt, khoé môi gã vẫn he hé một nụ cười, lại có cảm giác không nên cười --- Nếu cứ dung túng như vầy nữa, hài tử kia sau này sẽ không nghe lời. Tiểu Kế tinh ranh có thừa, đã sớm nhận ra. Nó giả ngoan ngoãn chầm chậm đi tới chỗ Hàn Ngạc, nhè nhẹ kéo chân gã, sau đó bỗng nhảy vọt lên, thân người cao vút, ôm lấy cổ Hàn Ngạc, miệng mềm mỏng: “Ngạc ca, thực ra huynh cũng vui mừng khi gặp tôi mà, có phải không? Người lớn các người sao cứ giả bộ như vậy chứ? Lòng rõ ràng là cao hứng mà còn làm như nghiêm nghị”. Hàn Ngạc vốn còn muốn làm dữ dạy dỗ chỉnh sửa nó một trận, Dư Tiểu Kế nào có cho gã thời gian mở miệng chứ? Nó hạ mình xuống một chạc cây, thò tay lén thọc lét gã, định chọc cho gã cười thành tiếng. Hàn Ngạc vốn không sợ nhột, nguyên hồi trước có khi muốn cho nó vui lòng mới giả bộ sợ. Nào ngờ phàm chuyện gì làm như thực thì hay thành thói quen, giả vài lần bỗng dưng thành ra có sợ hài tử kia thọc lét. Chẳng mấy chốc, dưới vuốt bén của Dư Tiểu Kế, gã chẳng còn giữ vững được vẻ trấn định lúc thống lãnh ba quân nữa, nhột không chịu nổi, xoay tay công kích Dư Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế cười hì hì, Hàn Ngạc trong bụng lại thở dài: lần này mình lại thua rồi! Trải qua nửa năm rèn luyện, gã vốn cảm thấy bản thân chín muồi hơn xa ngày xưa, vậy mà vẫn phải thua thằng bé giỡn hớt này! Bao nhiêu lời đanh sắc căn bản không thể thoát khỏi miệng trước mặt nó! Có điều lòng lại đang ấm áp --- Bây giờ cũng chỉ có trước mặt Tiểu Kế thì mình mới là mình, hoàn toàn chân thực. Dư Tiểu Kế đã bình tĩnh trở lại, ngồi trên chạc cây ngang Hàn Ngạc, nhìn trăng sáng treo cao, thở dài: “Ngạc ca, không ngờ tôi lại đã tìm được huynh. Tôi vốn cho là huynh không ưa tôi, không còn tìm thấy huynh được nữa, nào ngờ huynh gặp mà không mắng chửi tôi… Ngạc ca, trông huynh mệt mỏi quá đó, tôi đến tìm huynh là để nói tôi cũng muốn đầu quân! Tôi muốn làm một tên lính quèn thủ hạ của huynh. Vào xuân chẳng phải sẽ đánh giặc sao? Người xưa chẳng thường nói: đánh cọp cũng cần anh em ruột, ra trận toàn nhờ binh cha con? Ngạc ca, công phu huynh dạy tôi, tôi chẳng bỏ phí chút nào. Không tin tôi diễn cho huynh xem, Vương lão tướng quân còn khen thưởng tôi hết lời đó. Ngạc ca, huynh cho tôi dẫn vài tên lính theo huynh đánh giặc đi”. Tay Hàn Ngạc nhẹ nhàng đặt trên vai Tiểu Kế, lòng ấm dịu: thằng bé này… Miệng gã lại mỉm cười nói: “Vậy cũng được, bất quá cái gì mà ‘đánh cọp cũng cần anh em ruột, ra trận toàn nhờ binh cha con’? Ngươi nói coi, bọn ta là anh em ruột, hay là binh cha con?”. Tiểu Kế bị hỏi thừ người, sau đó cười khì khì, lắc đầu không ngừng: “Huynh chơi lấn tôi! Huynh mới có bây lớn mà đã nghĩ tới ‘cha con’? Có tài thì kiếm mấy ả đàn bà con gái sinh con đi. Tôi bất quá là một đứa con hoang, huynh muốn chơi lấn kiểu này đâu có được”. Hàn Ngạc né mình tránh nó hoa chân múa tay, nhìn khuôn mặt của Tiểu Kế dưới ánh trăng thanh, cảm thấy một luồng hơi ấm như huynh như đệ, như bằng như hữu bừng nở trong lòng. Ai nói giữa sa trường mọi sự đều vô tình chứ? o0o Thời gian thấm thoắt trôi qua, nháy mắt Dư Tiểu Kế đã đầu quân được hơn một tháng. Cuộc sống người lính tuy gian khổ, nó lại nhờ vậy mà trưởng thành cứng cáp hơn nhiều. Người xung quanh đâu có ngờ thiếu niên đó thực ra chỉ mới mười lăm, ai cũng cho là đã sắp mười bảy, mười tám gì rồi. Có điều mặt mày nó lúc sơ suất cũng có khi để lộ nét thơ ngây của hài tử. Bị nó vòi vĩnh, Hàn Ngạc chỉ còn nước viết thư hồi đáp cho Vương Hoành Hải, nói Tiểu Kế đã đầu quân, đa tạ ông ta đã chiếu cố, xin đừng lo lắng, sau này nó sẽ ở bên mình. Vì để thỏa lòng nó, gã còn cấp cho nó mười mấy binh sĩ lão thành, để nó dẫn đi dò thám tin tức. Gã vốn không cho là quan trọng gì, nào hay Tiểu Kế lại coi trọng sự sai phái của gã vô cùng. Có những chuyện nó vốn thông minh hơn Hàn Ngạc, có Vương Hoành Hải chăm sóc, nó đã học được lắm tiếng Hồ, chắc đã có ý muốn theo giúp Hàn Ngạc từ lâu. Giờ lăn lộn ở Thạch Bản Tỉnh hơn một tháng, cơ bản nó đã có thể đối đáp trọ trẹ tiếng Hồ với người của các thành, Hàn Ngạc lại mãi cho đến nay vẫn chỉ có thể nghe hiểu đại khái tiếng Khương Nhung, nói thì không thể nói. Cho nên Dư Tiểu Kế đã trở thành tay thông dịch cho gã, hễ rảnh chân là theo hầu bên cạnh gã. Ngày thường Tiểu Kế cũng dốc sức nghiên cứu hình thế bốn phía, dẫn thủ hạ ra thám thính quân tình. Ngoài ra có thể vì nó trưởng thành mà tính tình cũng biến chuyển, không còn ham chơi nữa, công việc Hàn Ngạc giao phó không ngờ từ sáng sớm đến tối khuya làm gọn ghẽ vô cùng. Trong quân vốn có nhiều hảo thủ võ lâm, nó là ái đệ của Hàn Tuyên phủ sứ, hơn nữa lại tinh quái ghê gớm, ai mà giấu giếm gì được nó? Nhất thời ai cũng bị nó moi móc học này hỏi nọ đến bảy tám phần chứ không ít. Đối diện một đứa bé khôn ngoan như vậy, Hàn Ngạc cho dù có nghiêm khắc cũng không bắt được tật gì. Nhưng hôm nọ gã lại nổi giận thực sự, mặt mày cau có, nhíu mày hỏi: “Ai cho ngươi xuất chiến?”. Gã đã hạ giọng rất thấp. Trong quân, tuy gã luôn luôn trầm mặc, nhưng cũng rất ít khi nổi nóng. Lần này thấy gã giận dữ, chư tướng cũng chột dạ. Dư Tiểu Kế mặt mày làm như vô tội, vì đang ở trong dinh trại, nó đâu dám nhảy nhót quậy phá như bình thường. Nó cụp mắt nhìn mũi chân, nói không nên lời. Hàn Ngạc càng giận, biết nó lại ỷ vào bộ dạng bé bỏng đáng thương để làm mềm lòng mình. --- Gã nóng thực ra cũng vì gần đây Khương Nhung Hữu Hiền vương cảm thấy cục thế mười lăm tòa thành không xong, chẳng đợi đến xuân, chưa kịp quay về từ tuốt miền cực bắc mà đã sai phái hơn một vạn thiết kỵ dưới trướng phát động thế công đối với mười lăm thành. Hàn Ngạc lo cho Tiểu Kế, không muốn để nó gặp hiểm nguy, luôn luôn câu thúc nó không cho ra ngoài. Nhưng gã vốn bận rộn, không thể theo sát, Dư Tiểu Kế lại quỷ kế đa đoan, đâu có bỏ thói ham mạo hiểm, thường hay ra ngoài dò thám quân tình. Nó nhỏ mà túc trí đa mưu, ngày xưa vốn là tổng quản tin tức chín cửa thành Lạc Dương, tin tức nó mang về thường là tin vô cùng trọng yếu. Song le hôm nay không ngờ trên đường nó đụng mấy chục kỵ binh địch mà không chịu thoái tránh, lại bày mưu dụng kế dẫn mười mấy thủ hạ đột tập địch nhân, đắc thắng một trận nhỏ. Có điều đã nó bị thương. Hàn Ngạc thấy vết thương trên trán nó, lòng vừa đau xót vừa giận dữ. Hàn Ngạc tuy phái lắm nhân thủ dũng mãnh, thông hiểu chiến trận làm thủ hạ của nó để chiếu cố cho nó, lại cũng sợ Dư Tiểu Kế đắc thắng thì sau này sẽ chẳng e dè nguy hiểm, gây ra đại họa. Người xung quanh lúc đó liên tục khuyên can, Hàn Ngạc mới bớt giận. Mấy ngày nay Hàn Ngạc để ý tra xét quan hệ giữa Dư Tiểu Kế và đám bộ hạ của nó. Gã nói là để Tiểu Kế thống lĩnh mười mấy người đó, thực ra là muốn họ chăm sóc cho Tiểu Kế, vì vậy mà gã hay cảm thấy họ chịu ủy khuất quá, nên cũng từng ngấm ngầm gửi gấm cảm tạ họ. Nào ngờ mấy ngày liền, trải qua bao nhiêu sự tình, gã dần dà phát giác mười mấy hán tử già đầu kia đối với nó không những chỉ là “yêu ai yêu cả quạ trên nóc nhà”4 --- Đó là lời của Dư Tiểu Kế, nó nói nó là một con quạ nhỏ --- mà thực ra họ cũng có ý kính trọng tài năng thống lĩnh của nó, coi nó như một người lớn. Hàn Ngạc tuy vui bụng, lại càng thêm lo rầu. Sau khi gã phát tác xong, mọi người đều đã lui ra, gã lưu Tiểu Kế lại trong trướng, còn định trách cứ thêm vài câu. Tiểu Kế thấy chẳng còn ai, không nhịn nổi lời mắng nhiếc của gã nữa, mặt đỏ bừng chống cự: “Tại sao ai ai vào sinh ra tử, làm gì cũng được, còn tôi phải ngoan ngoãn ru rú trong dinh? Tôi đâu phải là lính kiểng chứ”. “Huống hồ hôm nay tôi còn đánh thắng nữa”. Hàn Ngạc thừ người, thực ra gã cũng cảm thấy mình còn nợ công lao của Tiểu Kế. Nhưng lòng dạ gã lo âu, càng nổi nóng thêm, lại phát tác: “Vì ngươi là huynh đệ của ta, ta có thưởng công hay không thì có liên quan gì chứ? Ngươi cho rằng ngươi thực là lính ở đây à?”. Tiểu Kế nổi giận: “Tôi không xứng đáng làm lính ở đây sao?”. Hàn Ngạc nóng nãy: “Tuổi ngươi không đủ! Hơn nữa ta nói ngươi không đủ thì là ngươi không đủ”. Gã quát câu đó xong, thấy vành mắt Dư Tiểu Kế đỏ ửng, cũng cảm thấy mình hơi quá đáng. Tiếp đó gã cũng có cảm giác lời nói của mình chẳng phân rõ công tư, thị phi lẫn lộn. Dư Tiểu Kế thẫn thờ nhìn gã, có vẻ cũng không ngờ gã có thể nói ngang như vậy. Hàn Ngạc thầm thở dài, lòng nghĩ: xem ra làm gia trưởng cũng ngon lành, có thể nổi nóng chẳng cần đạo lý. Mình cứ hay than vãn sao bọn quan lại cứ vì tư tình mà không lo công ích, thì ra một khi mình tại vị, hành động cũng đâu có khác gì. Gã thầm hổ thẹn. Thấy gã giận dữ chẳng thèm nói lý lẽ, Dư Tiểu Kế lại trở nên ngoan ngoãn, nhẹ giọng: “Ngạc ca, tôi biết huynh không muốn để tôi bị thương tổn, muốn chiếu cố bảo vệ tôi, gánh vác hết cho tôi. Nhưng tôi cũng không muốn để huynh cưng chìu dung túng, bị người ta nói xấu. Chuyện của tôi, tự tôi phải đảm trách. Huynh còn phải thống lĩnh ba quân, tôi không thể gây nguy hại đến đại sự của huynh, làm cho tướng sĩ dưới trướng nói là huynh không công bằng”. Hàn Ngạc tới lúc đó mới cảm thấy hài tử này thực đã trưởng thành rồi, gã cũng tự thấy mình không đúng, lại không biết xin lỗi làm sao, vừa định mở miệng nói thì nghe ngoài cửa có khoái mã đến báo: “Báo, báo, báo! Thuộc hạ của Hữu Hiền vương, tướng tiên phong Niêm Mộc Xích đã tập kết hơn một vạn thiết kỵ, sắp kéo đến Thạch Bản Tỉnh, mưu đồ tiêu diệt Liên Thành Kỵ ta!”. Hàn Ngạc chấn động --- Đến rồi! Gã chờ đợi cái ngày này từ lâu rồi! Từ lúc Khương Nhung Hữu Hiền vương xuất binh đến mười lăm thành, bọn chúng một mực đi theo lối đánh dùng mấy cánh quân nhỏ đột kích quấy rối, khiến cho mười lăm thành phải canh cánh tự lo phòng thủ chứ không thể giúp đỡ gì nhau. Mấy tháng nay, binh lính trong mười lăm thành đã luyện tập miệt mài, thành trì cũng tu bổ chắc chắn, người Khương Nhung vốn không rành công thành, cũng không có tính nhẫn nại, cho nên đại để còn thủ được. Thêm vào “Liên Thành Kỵ” của Hàn Ngạc hành quân quỷ dị, xuất quân khéo léo, phá rối đánh chọc hông địch quân, nhất thời cũng khiến cho gần hai vạn nhân mã thuộc hạ của Hữu Hiền vương bối rối không chịu được. Ý đồ của gã là làm cho Niêm Mộc Xích bực dọc hết nhịn nổi, bỏ mười lăm thành mà tập kết binh lực quyết đấu với mình trên biển cỏ Thạch Bản Tỉnh! Gã vội truyền lệnh triệu tập tướng lĩnh các dinh trại. Chuyện của Dư Tiểu Kế coi như xí xóa. Cả bọn đã đợi chờ ngày này từ rất lâu, đã có dự tính kế hoạch, cho nên ai nấy cũng hết sức bình tĩnh. Trừ dinh trung quân đứng yên bất động, gã tách “Liên Thành Kỵ” ra làm nhiều nhóm, mỗi nhóm có nhiệm vụ riêng, lẩn trốn chờ đợi. Lệnh truyền cực nhanh, vì binh Khương Nhung kéo đến mau lắm. Mới có một canh giờ, gã đã ban phát quân lệnh xong, sau đó quay lại vỗ vai Tiểu Kế, cười nói: “Được rồi, coi như ngươi cũng đã dạy Ngạc ca một bữa. Ngạc ca cũng xin thỉnh giáo, lần này Ngạc ca ngươi sai. Trước mắt phải đụng một trận đại chiến, trận này Ngạc ca cho ngươi đánh, coi như đoái công chuộc tội thì sao hả? Nhưng ngươi phải theo bên cạnh ta --- Đừng cho rằng kề cận ta là hưởng phúc, trách nhiệm của bọn ta nặng nhất, làm không xong thì ngươi phải bỏ mạng với Ngạc ca, da ngựa bọc thây đó. Quân Hán thuộc trung dinh của ta phải lên trước, dụ địch thâm nhập. Phải bẻ gãy nhuệ khí, tiêu diệt ngạo khí của chúng! Địa hình dải đất này, hiện tại bọn ta rành hơn chúng. Thắng bại trận này phải xem xem có thể quyết chiến kéo dài một tháng đến ngày băng tan không”. Hôm đó bọn họ nhổ trại. Trừ hai dinh “Khuynh”, “Phúc” hành quân cơ động, chuẩn bị tiếp ứng, Hàn Ngạc thân lãnh hơn bảy trăm binh mã người Hán đón đầu địch nhân. Binh mã của mười lăm thành thì Hàn Ngạc chia ra giao phó cho các tướng lãnh dẫn đi mai phục. Gã ra lệnh phải bảo toàn thực lực, tránh tinh nhuệ của địch, chỉ tìm cơ hội quấy nhiễu, tiêu diệt kỵ mã Khương Nhung tản mác vòng ngoài. Dư Tiểu Kế theo sát bên Hàn Ngạc. Hảo thủ võ lâm bên cạnh Hàn Ngạc phần nhiều gã đã phân phối qua nhóm của Dư Tiểu Kế. Nhóm này do Cao Dũng thống lãnh, gọi là “Chiết Xung Kỵ”. Cao Dũng vốn là tham tướng mà Vương Hoành Hải sai tới, người kiêu dũng, tinh thông mưu lược, đã trở thành cánh tay trợ giúp Hàn Ngạc. Tiểu Kế cũng thành tiên phong trong “Chiết Xung Kỵ”. Mỗi lần đụng trận, Hàn Ngạc thường đích thân đốc chiến, ra lệnh cho Tiểu Kế phóng ngựa đi trước, bẻ gãy mũi nhọn của địch. Mỗi lúc như vậy, gã đứng ở trung quân mà hay toát mồ hôi lại, còn lo lắng hơn là bản thân mình xung sát. Nhưng gã cũng cảm thấy Tiểu Kế nói không sai: không thể vì để tránh nỗi lo của mình mà không cho nó xông pha sóng gió. Một hôm, bọn họ đã giết sạch bọn binh sĩ Khương Nhung đi trước dò la tin tức, cuối cùng đụng ngay chủ lực hơn hai ngàn kỵ binh tiên phong của Khương Nhung. Hai phe đứng đối diện giữa biển cỏ vàng cháy. Hàn Ngạc mặt mày nghiêm nghị, nhìn Cao Dũng nói: “Trận chiến này hết sức quan trọng đối với bọn ta… Các ngươi dẫn một nhóm kỵ binh xông thẳng vào hàng ngũ địch. Trận chiến này phải bại chứ không được thắng. Có điều bại mà không được loạn, quân mã không được tản mác. Sau khi xung trận, ráng giằng co một hồi, rồi theo con đường ta đã an bài hôm trước mà đi, để ta đoạn hậu tiếp ứng. Nội trong ba ngày, bọn ta phải mượn địa hình khiến cho chúng tụt hậu một khoảng lộ trình cỡ một ngày”. Gã nhíu chặt đôi mày, công phu luyện binh ba tháng nay vừa qua muốn xem kết quả hôm nay. Cái đạo binh gia, cầu thắng không dễ, cầu bại càng khó --- Vì bại đây là giả bại, phải bại mà không loạn, bại mà không tan rã, vậy thì mới gọi là làm được. Binh bại vốn không khác gì núi sụp, nếu mà loạn, đại sự coi như tiêu. Liên Thành Kỵ của gã bộ hạ bất quá chỉ có hơn ba ngàn, mà phải đối phó đại quân Khương Nhung gần một vạn rưỡi. Đã hết sức khốn khó như vậy, Hàn Ngạc cũng chỉ còn nước thi hành kế sách mạo hiểm này. Cao Dũng cùng Tiểu Kế được lệnh, lập tức dẫn hơn hai trăm kỵ binh xông thẳng ra. Hàn Ngạc ở dưới đại kỳ của trung quân, chỗ ngồi an toàn, tay án lên chuôi kiếm, lòng bàn tay lại đẫm mồ hôi lạnh. Đây vẫn là trận chiến mà gã chưa bao giờ gặp phải. Hôm nay không phải là cuộc tranh thắng bại kiểu giang hồ mà gã có thể dùng võ nghệ của mình để quyết định; hôm nay quan hệ đến an nguy của mười lăm thành, tính mạng của hơn ba ngàn kỵ binh thuộc hạ, trong đó bao gồm cả tính mạng của Tiểu Kế. Mười lăm thành có lắm ngựa tốt, “Chiết Xung Kỵ” hơn hai trăm kỵ mã lại là nhóm quan trọng nhất trong trung quân, ngựa họ cưỡi cũng đều là ngựa tốt. Hàn Ngạc phất tay, Chiết Xung Kỵ nhất tề phi lên. Lượt tên đầu của Khương Nhung đã bắn xong, thấy bên mình có không ít binh sĩ ngã gục, Hàn Ngạc xanh mặt, cưỡng bách mình đừng nhìn Tiểu Kế. Đội binh gã phái ra quả nhiên không tệ, sau trận mưa tên, họ đã xông vào trận địch, chém giết đẩy lùi, huyết chiến với quân Khương Nhung, kiên trì lần lữa được một hồi mới xoay đầu ngựa bại lui. Binh Khương Nhung ồ ạt rượt theo. Hàn Ngạc thấy Cao Dũng thân người tắm máu, Tiểu Kế mặt mày lâu ngày không rửa ráy, dơ đến mức chỉ còn lộ đôi mắt trắng dã, người nó cũng đã trúng một tên. Bọn họ giả tan rã thất bại như thực, cắm cổ mà chạy, nương vào sức ngựa mà tách xa truy binh cỡ một tầm tên, nhưng cũng đã hao tổn gần phân nửa. Lúc này đâu phải là lúc đau xót chiến hữu đồng bào, Hàn Ngạc đã nhận thức được sự tàn khốc của kẻ làm tướng từ lâu --- Mỗi một chỉ lệnh, thực ra cơ hồ đều đã quyết định phải có bao nhiêu người hy sinh, thậm chí có những chỉ lệnh chính là mệnh lệnh mà kẻ chấp hành phải chịu bị tiêu diệt sạch. Song có những khi tổn thất là cái tất nhiên phải chịu; mệnh lệnh như vậy cũng cần phải phát ra. Mình có quyền lợi gì mà phán quyết sinh tử của kẻ khác?... Hàn Ngạc nhướng mày, trước mắt gã đâu có thời gian mà nghĩ ngợi mấy chuyện đó. Một tướng lãnh, cái có thể làm cũng chỉ là dốc hết sức suy nghĩ đắn đo kỹ càng trước khi hạ lệnh mà thôi. Chiết Xung Kỵ đã vọt vào trận địa của gã, một trận tên nỏ rào kín bắn về phía kẻ địch đang đuổi đánh, tạm thời phong tỏa thế tiến của địch. Cứ kéo dài một hồi, trời đã gần tối. Hàn Ngạc ra lệnh cho thuộc hạ tháo lui. Tinh kỳ buông ngã, dựa theo lộ tuyến đã định, phóng ngựa chạy nhanh, suốt dọc đường làm như quăng bỏ trống chiêng cờ xí vô số. Tuy nói bại trận lần này là đã có kế hoạch, nhưng bại là bại, sơ suất một chút e rằng toàn quân phải bị diệt. --- Trong lịch sử, không biết bao nhiêu lần giả bại mà cuối cùng biến thành bại thực? có biết bao nhiêu lần trá hàng cuối cùng đã biến thành bị ép bức phải đầu hàng thực? Không ai biết, chỉ biết những tướng lãnh đó phải gánh chịu bị chê mắng ngàn đời. Một hai ngày đầu, Hàn Ngạc hoàn toàn không có thời gian chiếu cố cho Tiểu Kế, vốn muốn kêu nó đi trước, nhưng nó không chịu. Mãi cho đến khi thấy bản thân thụ thương thì chỉ có thể làm tăng thêm gánh nặng cho Hàn Ngạc, nó mới chịu bỏ đi trước. Hàn Ngạc lại dẫn hơn hai trăm kỵ binh đoạn hậu, lâu lâu quay lại xung sát. Lúc đó, không chỉ là tính mạng của bộ hạ, cả tính mạng của gã cũng giao phó cho Ban Chuy và Trường Canh. Sinh tử cách một đường tơ, sau ba ngày, bọn họ cuối cùng đã dựa vào địa hình quen thuộc, nhờ có mấy nhóm binh đánh du kích mà thoát khỏi thế địch, cuối cùng đã tách rời địch nhân được khoảng cách đủ một ngày đường. Nhưng đến khi Hàn Ngạc đuổi kịp trung quân đi trước, hơn hai trăm kỵ sĩ bên mình chỉ còn lại mấy chục mạng. Tính luôn mười mấy người còn đang dụ địch đi sai đường không biết sống chết ra sao, bọn họ đã bị thương tổn quá nửa rồi. Nhìn thấy Hàn Ngạc bắt kịp, mặt mày Dư Tiểu Kế sáng bừng lên. Toàn thân Hàn Ngạc như hư thoát, cơ hồ muốn ngã nhào xuống ngựa. Nhưng gã gắng chấn chỉnh tinh thần, nhất thời tuy không có hơi sức đâu xử lý chuyện gì, gã lại không thể để toàn quân thấy mình hụt hơi, gồng gượng vạch vai Tiểu Kế rửa sạch xức thuốc cho vết thương bị tên bắn mấy ngày trước. Dư Tiểu Kế đầu vai trần gặp lạnh cũng run run. Vì thiếu máu, môi miệng nó tái mét, nhưng giọng nói nó lại nồng ấm: “Ngạc ca, kế mưu của huynh đã thành rồi. Cái ‘bại’ lần này của bọn ta đã thành công rồi! Mọi sự có phải đang tiến triển theo phương hướng đã định không?”. Hàn Ngạc im lặng chẳng nói gì, một hồi thực lâu sau mới đáp: “Phải, bọn ta đã thành công. Ngạc ca ngươi thành công đích thân dâng hiến không biết bao nhiêu tính mạng cho địch nhân giết, trong đó phần nhiều là những người Ngạc ca ngươi biết rõ phải chết mà lại vẫn để cho bọn họ xông vào chịu chết”. Dư Tiểu Kế vành mắt đỏ lựng, nó hiểu sự tự trách mình của Hàn Ngạc. Vầng thái dương lặn mình đằng chân trời đỏ ối như rưới máu, soi rọi cuộc chiến nhẫn nại gian khổ của những người lính Hán cách xa gia đình ngàn dặm. Thì ra cuộc sống nhà binh, tranh đấu sa trường nói ra tráng liệt lắm, nhưng tư vị thực sự bên trong lại là vậy đó. Nửa tháng sau đó, Hàn Ngạc cùng hơn năm trăm kỵ binh còn lại của trung quân lần lữa dắt mũi đại đội nhân mã của Niêm Mộc Xích đi. May là gã đã có tính toán chu đáo, dọc đường đã an bài bù đắp cung ứng, tuy có bại mà không bị loạn, dần dần dẫn dụ Niêm Mộc Xích vào sâu trong đồng cỏ bao la mấy trăm dặm của Thạch Bản Tỉnh, lại một mực không để cho Niêm Mộc Xích hoài nghi, khiến cho hắn nghĩ rằng bọn họ đã đại bại đến mức không gom góp được quân binh. Dư Tiểu Kế biết Ngạc ca thực ra đang đợi cái gì --- Gã đang đợi tháng tư đến, đợi băng tan và cơn mưa hiếm có đổ xuống đất đai phương bắc, đợi bùn lầy nhầy nhụa. Nó thấy Hàn Ngạc hết sức bận rộn nên cũng không dám quấy nhiễu, chỉ lẳng lặng theo một bên. Có lúc nhàn hạ, nó ngồi giữa cỏ cây, nhìn mây trời chờ đợi tin bầy nhạn trở về. Ngạc ca nói: đến lúc nhạn kéo bầy về, trận này đã đến lúc trở mình. Có một hôm Hàn Ngạc lại nhận được một phong thư, sau khi xem xong, mặt gã liền biến sắc. Dư Tiểu Kế thấy mày mi gã cau có, cũng không dám hỏi, một lúc sau Hàn Ngạc mới nói: “Cư Duyên thành bị năm ngàn kỵ binh dưới trướng Khương Nhung Hữu Hiền vương đến vây, bọn chúng xem ra đã có ý muốn đoạt cho được một trong hai tòa thành trì trọng yếu nhất trong số mười lăm thành của ta. Y Ngô thành quá kiên cố, cho nên chúng bỏ Y Ngô mà tấn công Cư Duyên, vì đó cũng là điểm đặt chân đầu tiên của quân mã nhà Hán ta. Cư Duyên mà mất, các thành còn lại tất đều bị chấn động, e là cục diện Tây Vực sẽ khó mà yên ổn”. Nhưng trong thành Cư Duyên chỉ có ba trăm cấm vệ quân và hơn một ngàn binh sĩ Cư Duyên, tuy còn có thể dựa vào lợi thế thành trì, bọn họ thủ được không đây? Phương Ninh… Phương Ninh… hiện giờ bên mình nàng chắc chỉ có một Vũ Thứu hữu dũng vô mưu. Dư Tiểu Kế lo lắng ngước nhìn: “Ngạc ca, huynh có định về cứu viện không?”. Hàn Ngạc ngó về phương hướng Cư Duyên, lặng lẽ thốt: “Ta làm sao mà về cứu viện được? Còn có một vạn rưỡi địch quân đang lẩn quẩn ở đây. Vì bọn chúng, ta đã đánh mất tính mạng của hơn hai trăm tướng sĩ, không thể toàn thắng thì làm sao có thể về cứu viện?”. “Cư Duyên… cũng chỉ có thể dựa vào một mình Phương Ninh thôi”. Dư Tiểu Kế im lặng ngó Ngạc ca, dòm nỗi hoảng hốt lo âu trong lòng gã, biết một khi gã quay lại, đối diện với tướng sĩ, gã còn phải điềm tĩnh cười nói. Nhưng tình huống như vầy, làm sao mà gã cười cho được? Bên tai nghe Hàn Ngạc nói: “Chuyện này chỉ có ngươi biết, đừng nói cho ai biết đó”. Dư Tiểu Kế có cảm giác lệ muốn ứa trào, nó gắng hết sức gật đầu hai cái.
Có hoang l ạnh, nhưng trong hoang lạnh lại ẩn hàm sự bát ngát hoành tráng; có cô tịch, nhưng trong cô tịch toát tỏa sự hòa bình yên tĩnh của biên thùy, không có đao quang kiếm ảnh, cát bụi khói lửa; mùa xuân ở đây đến chậm ghê, nhưng ngày xuân vẫn sẽ giáng lâm. "Băng tan bên sông" cho người đọc một niềm hy vọng trông đợi mùa xuân. Giọng văn, ý văn hòa bình, có thể thấy Đường triều thuở khai nguyên đang hồi cực thịnh. 4 Nguyên văn là "ái ốc cập ô", ý nói yêu thích người nào thì yêu thích cả con quạ đậu trên mái nhà của người đó. Thành ngữ này xuất xứ từ sách "Thượng thư đại truyện - Đại chiến". Cuối đời Thương, Chu Vũ vương có bọn quân sư Khương Thượng (Thái công) phù tá, liên hợp chư hầu, xuất binh thảo phạt Trụ vương. Sau khi Trụ vương chết, Vũ vương không yên lòng, cảm thấy thiên hạ chưa an định. Ông triệu kiến Khương Thái công, hỏi rằng: "Tiến vào kinh đô nhà n, phải xử trí làm sao đối với sĩ chúng của vương triều cũ?". Khương Thái công đáp: "Tôi nghe nói: nếu mình yêu thích người nào, thì cả con quạ đen đậu trên nóc nhà của người đó mình cũng thích; nếu không thích người nào, thì cả hàng rào tường vách của nhà y mình cũng ghét. Vậy là nói: giết toàn bộ những phần tử đối địch, một mống cũng không tha. Đại vương ngài thấy sao?". Vũ vương cho là không thể làm vậy. Lúc đó Triệu công Cơ Thích mới nói: "Tôi nghe nói rằng: kẻ có tội, phải giết; người vô tội, để cho họ giữ lực lượng tàn dư. Đại vương ngài thấy sao?". Vũ vương cũng cho là không được. Đến phiên Chu công Cơ Đán nói: "Tôi thấy nên để cho mọi người về nhà hết, ai nấy đều lo canh tác ruộng đất của mình". Vũ vương nghe vậy thì cao hứng vô cùng, lòng nhẹ hẫng đi, cảm thấy thiên hạ từ đây có thể an định rồi. Sau này Vũ vương làm theo lời Chu công, quả nhiên thiên hạ mau chóng yên bình, Tây Chu cũng lớn mạnh hẳn.
Quy ển III: Cư Duyên liệp
Chương 52 Đoạt trướng trung quân động quỷ thần1
C ư Duyên thành thực ra đã bị vây một tháng trời. Nhưng ban đầu người Khương Nhung chẳng coi trọng Cư Duyên thành, chúng biết binh thủ thành không có nhiều, chỉ điều một ngàn năm trăm kỵ binh đến mà thôi. Chủ lực của chúng cứ dồn ở Thạch Bản Tỉnh và ngoài thành Y Ngô.
Đỗ Phương Ninh chuẩn bị chu mật, vì vậy nửa tháng đầu còn chịu đựng dễ dàng. Nhưng sau đó Hữu Hiền vương chừng như đột nhiên nhận thức được tầm quan trọng của Cư Duyên thành, tăng binh vài lần nữa, từ một ngàn năm trăm lên ba ngàn, rồi lên tới năm ngàn, vây kín Cư Duyên thành. Nếu chỉ là vây thành cũng còn đỡ, có điều năm nay Cư Duyên khô hạn vô cùng, mười ngày trước Cư Duyên đã mất đi Tiểu Tế hồ ngoài thành. Đó là nguồn nước của thành, tuy có kênh ngầm thông vào, song cuối cùng đã bị Khương Nhung phát hiện, chặn đứt hẳn. Điểm đó tuy Đỗ Phương Ninh đã có dự liệu, có chuẩn bị, nhưng nàng luôn cầu mong sẽ không biến thành như thế.
Trong thành tuy có ch ứa nước, lại có nàng khống chế phân phối cực kỳ nghiêm khắc, có điều lần lữa nữa thì cũng chỉ đủ dùng cỡ hai chục ngày. Nếu nguồn nước mà bị cắt, toàn thành phải loạn mà thôi, ngày thành bị phá đâu còn xa mấy.
Ngày hôm đó, binh sĩ Khương Nhung công thành rất rát. Cả Vũ Thứu đó giờ vũ dũng có tiếng cũng phải bối rối, bực bội trách cứ “Liên Thành Kỵ” của Hàn Ngạc sao còn chưa về cứu. Đỗ Phương Ninh lại biết Liên Thành Kỵ hiện phải đảm đương nhiệm vụ quan trọng. Nàng với Hàn Ngạc đã bặt tin, không biết gã bây giờ ra sao rồi. Có điều nàng biết cho dù mọi sự như nguyện, cái ngày gã có thể quay về cũng phải sau một tháng nữa. Ý đồ của Hàn Ngạc là nhất cử phá một vạn rưỡi kỵ binh Khương Nhung. Chỉ e đến lúc đó Cư Duyên thành đã bị phá. Đương nhiên Hàn Ngạc mà giữ vẹn toàn quân đại thắng, mất một Cư Duyên cũng có thể tha thứ.
Mà n ếu như vậy, Đỗ Phương Ninh sẽ không thể tha thứ cho bản thân --- Vì: mình đang ở Cư Duyên! Hàn Ngạc đã đem địa bàn cội rễ trọng yếu này giao phó cho mình! Đây là thành trì đầu tiên mà mình cùng gã đã hạ, nó đã minh chứng mọi sự, bao gồm những trầm tư không lời của mình và Hàn Ngạc.
Hu ống hồ cuộc chiến với Khương Nhung vừa mới khai diễn. Nếu Cư Duyên thành bị phá, toàn thành bị đồ sát, lòng tin của mười lăm tòa thành mà mình với Hàn Ngạc khổ tâm xây đắp sẽ bị đả kích trầm trọng. Trận chiến của Hàn Ngạc cho dù có đắc thắng, kết quả cũng sẽ vì việc này mà bị hủy mất quá nửa. Nếu Hàn Ngạc không thể toàn thắng, mình lại đánh mất cả vùng đất ruột rà mà gã có thể kéo quân về tạm nghỉ, vậy thì mình còn mặt mũi nào để đối diện với sự tín nhiệm của gã? Tay Đỗ Phương Ninh siết chặt cái vỏ sò. Năng lực của nàng đã dốc hết, mưu tính cũng đã cạn kiệt, cơ hồ không còn gì để dựa dẫm nữa. Dưới thành lại là binh lính công phá hung tàn bạo ngược trùng trùng điệp điệp của Khương Nhung. Khoé môi nàng cắn một mảng tơ tóc rơi khỏi mũ nhà binh… Không… nàng vẫn còn có cái để trông cậy vào. Đó không phải là gì khác… đó là chút lòng tin… đó là --- Cư Duyên không thể bị phá! Vì… lẽ nào chúng không biết ai đang trấn thủ Cư Duyên thành? Là Đỗ Phương Ninh ta!
1 Kẻ đoạt cờ tướng soái chấn động quỷ thần, ở đây Tiểu Đoạn sửa câu “Huấn luyện cường binh động quỷ thần”, câu tiếp theo câu “Chỉ huy năng sự hồi thiên địa” trong bài thơ “Phụng ký chương thập nhị ngự” của Đỗ Phủ (xem chú thích {1} hồi 51).
Đỗ Phương Ninh của Vi môn Đỗ thị mà dù có hàng ngàn hàng vạn bọn nam tử tề tựu lại cũng không bì được! Ngay cả Cư Duyên vương phi hàng ngày cũng mấy lần lên thành đốc chiến. Nhưng hôm nay, thế công quần quật hung mãnh ghê gớm. Binh thủ vệ thành đông vào cáo cấp, tiếp đó thành bắc, thành nam cũng đồng thời cáo cấp. Không ngờ đã có mấy chục binh sĩ Khương Nhung leo thang lên đầu tường thành đông. Nếu để chúng giằng dai một khắc, ngay lập tức sẽ có mấy trăm mạng ùa lên, một khi chúng đứng vững thì nháy mắt thành sẽ bị phá! Đỗ Phương Ninh đem trách nhiệm thủ thành nam gian nan nhất giao cho Vũ Thứu --- Hôm nay bọn Khương Nhung cũng chỉa mũi dùi vào mặt nam thấp hơn ba mặt kia. Đỗ Phương Ninh vốn đang đốc chiến ở thành bắc, vừa nghe tin không khỏi bấn loạn tâm tình. Nàng vốn đã mấy ngày trời không ngủ, thân thể mệt nhừ, nhưng giờ phút này lại đâu cho phép nàng nhắm mắt nghỉ ngơi dù chỉ một phút giây. Nàng cắn lọn tóc rối, một tay siết Thanh Sách, tay kia rút chủy thủ “Đoạn Phong” mà nàng một mực chẳng chịu dùng tới, một mình lao lên đầu tường thành nam. Thành nam quả nhiên nguy ngập, mấy chục tên lính Khương Nhung đã công chiếm một góc hở, binh sĩ trên tường thành ai nấy cũng mệt mỏi, vừa phải lo đề phòng địch nhân tấn công lên chỗ khác, rồi còn dốc sức không cho có thêm lính địch leo lên được, tả xung hữu đột, cục diện hỗn loạn. Nhưng đáng sợ nhất lại là lòng người. Đỗ Phương Ninh vừa liếc nhìn là thấy không chỉ binh sĩ Cư Duyên mà cả cấm vệ quân mặt mày cũng đã biến sắc. Ngay cả Vũ Thứu thần tình cũng thảm đạm, tựa như cảm thấy có đánh nữa cũng vô ích. Không xa là Cư Duyên vương và vương phi của ông ta, Cư Duyên vương sợ run bần bật, muốn chạy trốn xuống dưới. Đỗ Phương Ninh xông tới trước mặt họ, quét mắt nhìn thì thấy thân ảnh mỹ miều của Bộc Ách Phi lúc đó tỏ rõ tư thế kiên cường, đỡ Cư Duyên vương không cho ông ta quỵ ngã. Đỗ Phương Ninh bối rối, tiếp đó nổi giận: Hay cho Vũ Thứu, ngày thường ngươi không phải luôn luôn tự xưng là anh hùng sao? Nàng vọt mình bay lên, từ góc quanh bay phốc tới khoảng hở trên tường thành đông mà bọn Khương Nhung đã chiếm giữ. Vung tay hươi đao, mới xuất thủ mà nàng đã chém chết hai tên, có điều địch nhân còn đang ùa lên, Thanh Sách của nàng uyển chuyển uốn lượn, liên tiếp quấn trói mấy tên, hoặc siết gãy cổ, hoặc quăng xuống dưới. Nàng vẫn còn nhận thấy vẻ sợ hãi kinh hoàng lộ ra từ mắt của Cư Duyên vương đằng xa, cấm vệ quân thủ thành tựa hồ cũng đã tuyệt vọng, chúng tướng sĩ đều đang ngó nàng, chừng như đều đã nhìn thấy kết quả thất bại thành trì bị phá. Binh sĩ Cư Duyên không ngờ đã nhũn tay. Lòng tin của họ đã đi hết, lính Khương Nhung dưới thành vẫn còn đang ồ ạt tràn lên, nháy mắt sẽ vẹt ra một khoảng hở thứ nhì trên tường thành! Đỗ Phương Ninh nóng lòng: nếu mất lòng tin vào lúc này thì nào có khác gì bại vong chắc chắn? --- Không thể được, đây là Cư Duyên thành của nàng, Cư Duyên thành mà nàng và Hàn Ngạc đã khổ tâm lo liệu mới được đến như bây giờ, nàng không thể cho phép nó bị phá vỡ! Đỗ Phương Ninh đột nhiên hú một tiếng thực dài. Những ngày qua nàng giả thành một nam tử, để tránh lộ âm điệu, nói chuyện cũng luôn luôn hạ giọng, làm như rất trầm lắng. Nhưng lúc này nàng rướn giọng cất tiếng, ngước ngẩng lên cao, để lộ cái cổ không có trái khế của nàng. Tiếng hú cao vút ngân vang, lòng nàng lại đang nghĩ tới Hàn Ngạc chắc hiện giờ cũng đang khốn đốn binh mã, cả hai đều đồng cảnh ngộ, có chết cũng cam tâm. Song nàng biết nếu Hàn Ngạc gặp cục thế như vầy, gã tất cũng sẽ ngẩng đầu, rướn cái cổ vĩnh viễn chẳng chịu thua của gã. Nàng làm sao mà để thua gã, để gã cười chê cho được? Nàng thả giọng hú dài, lòng cũng trông mong có Hàn Ngạc hòa nhịp. Nhưng dưới thành im phăng phắc, lẽ nào chốc lát thành trì bị phá, giây phút hồng nhan tuyệt mệnh mà hai ta cũng phải thất vọng không có duyên gặp lại? Đỗ Phương Ninh có cảm giác mình đã điên dại! Nàng chợt giật bỏ mũ quan trên đầu, mái tóc dài bung xõa. Sau đó nàng xé toang y phục nhà binh. Mặt mày nàng sém lửa, cát bụi phủ mờ, nhưng ba ngàn sợi tơ xanh rũ tuôn, eo thon hiển hiện, gương mặt vẫn còn dáng điệu nữ nhi. Toàn thành xông pha cùng nàng mấy tháng liền lẫn bọn Khương Nhung giao chiến với nàng nửa tháng ai nấy đó giờ chỉ thấy vẻ hào hùng mạnh mẽ, làm sao mà không kinh ngạc cho được? Trừ Vũ Thứu ra, còn có ai biết nàng là một cô gái chứ? Huống hồ cho dù là Vũ Thứu, bình thường cũng chỉ đối đãi nàng như một nam nhân. Nàng thét bảo Vũ Thứu: “Vũ thống lãnh, cấm vệ quân các người không ngờ mới đến nước này mà đã buông tay. Một hảo nam nhi, cả đời lo báo quốc, tử chiến tại sa trường cũng là nghĩa vụ! Một cô gái dòng Vi họ Đỗ thành Lạc Dương ta đây cũng không sợ, các người sợ gì chứ? Ta thực hổ thẹn giùm các người đó!”. Tiếp đó nàng ngó đám cấm vệ quân mà hét: “Là lính của gia môn, các ngươi xông lên cho ta! Hôm nay nếu muốn phá thành, trừ phi bọn Khương Nhung đạp qua xác của Đỗ Phương Ninh ta!”. Vũ Thứu sắc mặt bẽn lẽn, không dám đáp lời, nghiến răng xông về phía địch nhân. Gã bị Đỗ Phương Ninh trách chọc trước mặt đám đông, lòng xót xa khôn tả. Gã không phải oán Phương Ninh, chỉ tức mình, mà lại càng hận bọn Khương Nhung. Ba trăm cấm vệ quân tuy chỉ còn lại hai trăm hơn, nhưng ai ai cũng hùng dũng hơn người. Họ thấy Đỗ Phương Ninh vừa để lộ bộ dạng con gái mà đã tắm máu kẻ địch, ai nấy cũng cảm thấy khí huyết dâng trào --- Con mẹ nó, liều thì liều! Lão tử hôm nay cho dù có bỏ mạng cũng không để bị một người con gái cười chê! Hôm nay cố giữ mạng sống mà không đánh đuổi được bọn Khương Nhung xuống dưới thì sống có ích gì? Sau này e ngày ngày xấu hổ, đụng đầu vào cục đậu hủ cũng đủ chết. Phải mà, mình yếu đuối như vậy, cục đậu hủ cũng đập chết được mà! Binh sĩ Cư Duyên trên tường thành kinh ngạc la lên: “A, Đỗ phó sứ không ngờ lại là một cô gái!”. Đỗ Phương Ninh nghe vậy, chủy thủ phất ra, một đao cắt đứt cổ họng một tên lính Khương Nhung, lại ngoái đầu nhoẻn cười với người lính Cư Duyên vừa lên tiếng, trông thực tươi tắn lanh lợi. Ai ai cũng thầm mắc cỡ xấu hổ, ai ai lòng cũng dâng trào nhiệt huyết. Những người lính đó thấy một cô gái má hồng cũng cam tâm lăn xả hy sinh, cả đám liền liều mình xông tới. Gần một trăm binh Khương Nhung trên đầu thành lập tức bị giết hoặc bị ép lùi xuống dưới. Thành trì lại vững chãi trở lại. Đỗ Phương Ninh bay nhảy nhẹ như bông, tay sách tay chủy, mãi cho đến khi tên địch cuối cùng mò lên thành bị chém đứt họng mới lớn giọng trên tường thành: “Truyền lời cho Hữu Hiền vương biết Lạc Dương Đỗ Phương Ninh ta đang ở đây! Nếu có gan thì cứ đến công phá! Đỗ Phương Ninh ta ngày nào chưa chết, Cư Duyên thành ngày đó chưa phá được. Đỗ Phương Ninh ta dù có chết, hồn ta cũng sẽ đến bảo vệ thành này!”. Binh Khương Nhung dưới thành có vẻ đờ đẫn kinh hãi, rùng mình phát lãnh, thanh thế yếu đi. Chủ tướng của chúng thấy lính mình đã mệt, đành ủ rũ thu binh. o0o Một thớt ngựa Thông lao nhanh trên lộ đồ hướng về Trương Dịch. Ngồi trên lưng ngựa chính là Đỗ Phương Ninh. Sau khi giải tỏa thế công hôm đó, bọn Khương Nhung đã đổi chiến lược, chỉ vây chứ không công, muốn ép người trong thành đến bước khốn cùng. Đỗ Phương Ninh biết địch không có gan công phá, mà lúc này cái đáng sợ không phải là bị công thành, mà là bị cắt đứt nguồn nước. Nàng không thể ngồi yên chờ chết, sang hôm sau nàng đi gặp Cư Duyên vương, về đến liền triệu Vũ Thứu, cho hắn thủ thành, còn mình phải đi cầu viện binh. Vũ Thứu ngạc nhiên: “Còn có chỗ có thể chia binh đến cứu sao? Y Ngô? Bọn họ e bây giờ cũng đang lo cho bản thân còn chưa xong. Tình thế trước mắt làm sao cho phép bọn họ rảnh rang đi cứu viện?”. Đỗ Phương Ninh lại lạnh lùng thốt: “Trương Dịch”. Vũ Thứu mặt mày nghi hoặc: tướng trấn thủ Trương Dịch là Lư Ngộ, xưa nay luôn luôn sợ sệt đánh đấm, làm sao chịu lao sư động chúng mấy trăm dặm, chui vào đất đại mạc để cứu viện? Lại nghe Đỗ Phương Ninh lạnh lùng nói: “Ta tự có biện pháp khiến cho họ đến. Hà hà, Cư Duyên mà bị phá, Khương Nhung lập tức danh tiếng vang vọng, sợ là Trương Dịch cũng chẳng mấy chốc nguy ngập như trứng xếp chồng. Ta tìm ngươi đến không phải vì nói mấy chuyện đó, mà muốn ngươi toàn lực thủ thành. Nội trong mười lăm ngày ta dứt khoát sẽ kéo viện binh đến. Ta muốn ngươi sống còn! Đừng nói chết chóc với ta. Nếu viện quân không đến, là Đỗ Phương Ninh ta thất hứa, ta tự bán mình vào An Lạc Oa ở Lạc Dương chịu hổ thẹn một đời. Bất quá nếu viện quân của ta đến đúng ngày, ngươi lại để thành trì bị phá, mà ngươi còn sống, vậy…”. Mặt nàng đanh lại: “Ta cũng chẳng nói gì, ngươi tự thiến vào cung làm Thái giám đi!”. Vũ Thứu bị nàng khích đến mặt đỏ bừng, thở hì hục, chẳng nói nổi câu nào. Đỗ Phương Ninh lạnh lùng nhìn hắn, nàng phải cho bọn nam nhân này một áp lực không thể nào ngăn ngừa được, đè ép cho ra hết lòng quả cảm của họ! Đêm đó Đỗ Phương Ninh lên thành, đối diện toàn quân thủ thành nói: “Ta đi dẫn cứu binh, nội trong mười lăm ngày sẽ đến. Nếu không y hẹn, ta sẽ tự tử tạ lỗi. Nếu trong vòng mười lăm ngày đó mà các ngươi để cho thành bị phá, các ngươi cũng đáng để bị tàn sát với toàn thành lắm!”. Ấn tượng nàng lưu lại cho người ta luôn luôn là dũng cảm kiên nghị, thêm vào hôm trước chiến đấu trên tường thành đã khiến cho mọi người bội phục nàng như thần thánh, cho nên họ lập tức thề thốt quyết tâm. Đỗ Phương Ninh gói ghém hành trang, giục ngựa ra khỏi thành. Nàng vẫn mặc đồ lính, mặt bôi lọ đen để bọn Khương Nhung không biết là mình. Trận đột vây đó cực kỳ nguy hiểm, mấy lượt nàng suýt táng mạng. Trên đầu thành tối đen, im ỉm không một tiếng động, sợ bọn địch chú ý. May là nàng có ngựa Thông nhanh nhẩu và tuyệt kỹ võ công đầy mình cho nên cuối cùng đã thoát vòng vây. Phóng đã xa mà nàng vẫn còn nghe tiếng hoan hô như sấm dội trên tường thành. o0o Từ Cư Duyên đến Trương Dịch phải năm ngày đường. Nhưng ngựa Thông sức thần, mới ba ngày Đỗ Phương Ninh đã đến. Lư Ngộ vừa định đi nghỉ, thấy Đỗ Phương Ninh đột ngột xông vào, binh sĩ canh cửa chẳng ai cản chặn được nàng, không khỏi giật mình cả giận quát lớn: “Ngươi là ai mà dám tự tiện xông vào đây?”. Thanh âm của hắn tỏa lộ một phần lo sợ. hắn thấy người đến tuy thân thể không oai vệ, nhưng thân ảnh cực kỳ dũng mãnh, sợ là hạng sát thủ. Đỗ Phương Ninh lại rút trong mình ra kim bài --- Lúc chia tay, Hàn Ngạc đã giao phó kim bài cho nàng, vì muốn nàng xử lý sự vụ ngoại giao với mười lăm Thành chủ. Nàng trầm giọng: “Ta là Tuyên phủ sứ của Thiên tử!”. Sau đó nàng mới điềm đạm bồi thêm một câu: “Ta là Lạc Dương Đỗ Phương Ninh”. Lư Ngộ mặt mày kinh hãi. Hắn đã gặp không ít Thiên tử sứ, cũng chẳng có gì đặc biệt, trừ phi là quan đến lấy ấn. Nhưng câu sau lại khiến cho hắn hơi kinh hãi. Hắn cũng biết danh tiếng của Đỗ Phương Ninh trong Vi môn Đỗ thị ở Lạc Dương, tuổi tác tuy nhỏ, lại một mình chấp chưởng sự vụ hai dòng, trong triều cũng lẫy lừng tiếng tăm. Sao lại có thể là nàng ta? Nữ tử này cũng thuộc hạng chua cay trong triều, nghe nói từ Tể tướng, Đông cung Thái tử cho đến Tử Thần Du Cửu Khuyết cũng phải nhường nàng ta một bước. Chẳng phải có câu “Có con trai như dê cừu, chi bằng có con gái như lang sói” sao? Nàng ta đến đây làm gì? Lư Ngộ vốn là môn hạ của Bộc Xạ Đường, như nước với lửa với họ Đỗ của Phương Ninh đang dựa dẫm Đông cung. Lư Ngộ là một võ quan, xưa nay không mấy ngó ngàng gì tới vụ việc ganh đua trong triều. Nhưng tai họa nảy sinh từ những tranh đấu trong triều cũng lan đi xa lắm, Trương Dịch thành ngoại trừ chức võ quan Phòng ngự sứ của hắn ra, còn có một Thái thú Hướng Đình, mà gã lại là kẻ dưới trướng Đông cung. Hắn còn đang thầm tính toán, lại thấy Đỗ Phương Ninh phất tay: “Thỉnh Lư Phòng ngự sứ phái người mời Hướng Thái thú đến họp. Ta có chỉ ý truyền triệu, đồng thời có sự vụ quan trọng phải thương lượng”. Lư Ngộ liền phái người đi. Bụng hắn đang phập phồng suy nghĩ quanh co, còn vẫy tay muốn kêu đám thân tín lên. Đỗ Phương Ninh lại lạnh lùng thốt: “Sự vụ triều đình cơ mật, Lư Phòng ngự sứ nên yêu cầu kẻ dưới lui ra đi”. Lư Ngộ đâu còn cách nào khác, thầm nghĩ nàng ta chắc cũng không đáng sợ gì, bất quá tính tình đàn bà con gái chua ngoa một chút thôi, liền cho tùy tùng thoái lui. Đỗ Phương Ninh chăm chú ngó Lư Ngộ, bình tĩnh thốt: “Lư Phòng ngự sứ có nghe nói Cư Duyên thành bị vây không?”. Lư Ngộ gật gật đầu. Cách đây nửa tháng hắn đã nhận được tin. Đỗ Phương Ninh thốt: “Vậy tốt quá. Ta lần này là thỉnh Lư Phòng ngự sứ phái binh đi giải vây cho Cư Duyên”. Lư Ngộ mặt mày kinh ngạc, hắn vốn nghĩ Đỗ Phương Ninh tới là vì có sự vụ trong triều, nào ngờ một người con gái mà lại đề cập đến quân vụ. Sắc mặt hắn bắt đầu có vẻ làm khó --- Quan quyền kiểu như hắn, bày trò thoái thác là chuyện rành rọt nhất xưa nay. Hắn nói: “Việc này… chuyện điều binh còn chưa báo lên soái trướng, làm sao có thể dễ dàng xuất quân chứ?”. Đỗ Phương Ninh bình tĩnh thốt: “Binh Khương Nhung vây thành chẳng được bao nhiêu, chưa tới năm ngàn quân. Chủ lực của chúng đang bị kềm chế đối đầu với Liên Thành Kỵ ở Thạch Bản Tỉnh. Ta cũng biết binh Hán bọn ta yếu đuối, dùng để thủ thành thì còn miễn cưỡng lo được, nếu dùng để tiến đánh, e chẳng thể nào. Nhưng trong Cư Duyên thành còn có hơn một ngàn binh kiêu dũng thiện chiến và ba trăm kỵ mã cấm vệ quân của ta. Binh Trương Dịch, theo ta được biết, tối thiểu cũng có tám ngàn. Nếu không lợi dụng ưu thế giáp kích, giải khai vòng vây Cư Duyên, một khi Cư Duyên bị phá, Trương Dịch sợ rằng không lâu sau phải chuốc họa! Đến lúc đó, Lư Phòng ngự sứ dùng mưu sách nào để đánh lui kẻ địch đây? Dùng kế chước gì để tránh họa đây? Thực ra bọn ta chỉ cần chỉnh đốn cờ hiệu, binh đoàn xuất chinh rầm rộ, giới bị kỹ càng, từ đằng sau áp tới làm như giáp chiến. Khương Nhung đang khi xuất kỳ bất ý, bọn ta có thể âm thầm kéo đến cách ngoài thành Cư Duyên chừng năm dặm. Lúc đó bọn ta an bài doanh trại, dong cờ gióng trống nhát chúng. Binh Khương Nhung công thành đã lâu mà không xong, lại thấy đại quân ta tới, thế nào vòng vây Cư Duyên cũng sẽ tiêu tán mà chẳng cần đánh. Sao? Lư Phòng ngự sứ ngài còn do dự gì nữa chứ?”. Lư Ngộ lại luôn luôn khiếp nhược, chỉ nói: “Không thể đâu, không thể đâu, lao sư viễn chinh, chưa xin phép mà đánh, toàn là tử tội. Mấy đề nghị của Vi phu nhân không thể nào làm được đâu”. Đỗ Phương Ninh không khỏi lộ sắc giận, nàng nãy giờ ôn hòa thương lượng, thực ra đã nhẫn nại lắm rồi, tới giờ một tay vỗ bàn, một tay cầm “Thiên tử kim bài” đập đập trên bàn: “Ta là sứ giả của Thiên tử nhà Hán, đây là lệnh truyền của Thiên tử, có gì mà không thể?”. Lư Ngộ thấy thần sắc của nàng, tuy thân là một nam tử mà cũng không thể không cảm thấy sợ sệt. Lúc đó ngoài cửa chợt có tiếng vó ngựa vọng vào, một khi có người đến, Lư Ngộ đâu có sợ nữa. Hắn với Hướng Đình tuy thuộc hai thế lực khác nhau, lại luôn luôn hợp tác rất chặt chẽ, biết Hướng Đình trầm tính, chắc không để Đỗ Phương Ninh gây rối. Mặt hắn sa sầm, lạnh lùng nói: “Có kim bài của Thiên tử cũng đâu thể được! Hành động của cô vượt quá quyền hạn của kim bài, không sợ hạ quan bẩm tấu lên triều sao?”. Phương Ninh nghe ngoài cửa có tiếng rảo bước, nàng đã sớm dự liệu đến cục diện này, nãy giờ khuyên nhủ Lư Ngộ chỉ là mong hắn bất ngờ chịu đáp ứng. Đã không nói được thì chỉ còn nước đánh bạc một ván. --- Chuyến này có bị Đông cung Thái tử trách tội thì nàng cũng bất chấp, vì chuyện làm của nàng liên quan đến tính mạng của hàng vạn chúng dân. Nàng biết môn hạ của Bộc Xạ Đường dễ gì mà nghe người thuộc phe Đông cung ra lệnh. Nàng chợt nghiêm mặt, lạnh lùng quát: “Tướng cầm quân có chức phận làm việc phải biết cân nhắc ! Lư Phòng ngự sứ, nếu ngươi cứ một mực nhát gan chẳng chịu đánh, dồn ba quân và đường cùng, không lẽ ta giết không được ngươi sao?”. Lư Ngộ mặt sa sầm, khinh thường Đỗ Phương Ninh nói: “Ngươi…!”. Còn chưa dứt lời, đột nhiên thấy chủy thủ trong ống tay áo của Đỗ Phương Ninh hiện ra, hắn vừa định la làng, lách mình tránh né. Tuy hắn là dân nhà võ đỗ đạt làm quan, song lâu nay ngồi thừ một chỗ, sự linh động chỉ còn bằng một phần mười ngày xưa. Đỗ Phương Ninh phất chủy thủ, mặt lộ sát khí --- Chuyện đến nước này chính là bị bọn quan lại ngu đần các ngươi phá hỏng. Nàng xưa nay chẳng muốn đụng tới, nhưng hôm nay Lư Ngộ đã đụng tới nàng. Lư Ngô rên một tiếng thảm thiết, chủy thủ của Đỗ Phương Ninh đã đâm xuyên qua yết hầu của hắn. Nàng hét lớn: “Trương Dịch Phòng ngự sứ Lư Ngộ dám chống đối lại lệnh truyền của Thiên tử, ta phải giết để làm gương!”. Nói xong, nàng đứng bật dậy, một tay kéo thi thể của Lư Ngộ vọt ra sảnh đường. Trước đường có cắm một cột cờ cao cao, đêm khuya gió lặng, lá cờ đang nhũn nhặn rũ mình. Người ngoài cửa thất kinh, chợt thấy nam tử mặt đồ lính kia lôi thi thể của Lư Ngộ vọt ra, máu kéo lê một vệt dài trên đất. Chúng nhân mới vừa định ngăn chặn, lại bị Thanh Sách trong ống tay áo nàng vỗ vù vù tối tăm mặt mũi, chẳng mở mắt nổi. Hay cho Đỗ Phương Ninh! Đến trước cột cờ, nàng một tay bám chặt, hai chân bấu leo lên, tay kia kéo theo thây Lư Ngộ, nhanh nhẹn vọt lên trên. Thân hình nàng cực kỳ mau mắn, chẳng bao lâu sau đã lên đến đỉnh cột cờ, treo thi thể của Lư Ngộ tuốt trên đó. Một trận gió thình lình lướt qua, thổi tà áo nàng tung bay phần phật, lá cờ lướt thướt cũng tung bay nhất thời, phát tiếng phành phạch. Nàng trầm giọng thét lớn: “Lư Ngộ kháng chỉ, ta đã chém chết! Nếu có ai dám theo gót hắn, ta chém hết không tha!”. Nói xong, nàng quắc mắt chăm chăm ngó Hướng Đình vừa mới đến mặt mày tái nhợt, chầm chậm rút kim bài ra, chẳng để ai nhìn thấy rõ chữ viết trên kim bài, lớn giọng quát: “Hướng Thái thú, hiện tại chức quan của ngài cao nhất trong Trương Dịch thành. Thỉnh ngài lập tức truyền lệnh cho chư tướng đến họp mặt. Thiên tử có lệnh phát binh Trương Dịch giải vây cho Cư Duyên!”.
Quy ển III: Cư Duyên liệp
Chương 53 Trận vân lãnh áp hoàng mao chướng1
Mây xám đè nặng trên trời dưới đất --- Hàn Ngạc ngước nhìn bầu trời: trận mưa này cuối cùng đã đến. Xuân, đồng cỏ Tái ngoại cũng lấm tấm xanh. Trung quân do hơn bảy trăm binh mã người Hán tập hợp thành, trải qua những ngày giằng dai, nay chỉ còn ba trăm hơn. Hàn Ngạc lòng bi khái, gã biết nếu chỉ lo trốn chạy thì đâu cần hy sinh biết bao nhiêu người như vậy. Nhưng gã phải dùng lữ đoàn trung quân này để dụ dính chủ lực một vạn năm ngàn kỵ binh của Niêm Mộc Xích. Thỉnh thoảng gã còn phải đột kích, có lúc còn phải mạo hiểm tiến tới, chỉ cho bại chứ không cho thắng, thường phải cho địch nhân nếm chút chút mật ngọt để chúng bén mùi quen vị mà theo nà. Cho thắng nhỏ mới dán sát được, để bại hoài ắt trì kéo nên, làm vậy gã mới có thể lần lữa trận quyết chiến này đến mùa mưa. Quạ trên tường thành, quạ trên tường thành, thiếu mất xác tanh rữa thì làm sao có ăn? --- Chiến tranh cũng là vậy đó! Bản thân gã là con quạ trên tường thành! Gã đã mải miết dùng binh sĩ thuộc hạ đồng bào làm mồi, đích thân dâng tận miệng Niêm Mộc Xích cho hắn thưởng thức, cho dân tộc khát máu kia nhai nuốt. Hành quân mệt mỏi, chiến đấu nhọc nhằn đến đâu vẫn không đánh gục được gã, nhưng thứ cảm giác bỉ ổi ti tiện đó lại một mực dày vò tâm lý gã. Đó là một sự hổ thẹn hối tiếc từ bên trong ăn lần ra ngoài. Gã rất sợ nhìn những bộ mặt chân thành tín nhiệm mình của các tướng sĩ dưới tay, đã có bao nhiêu gương mặt như vậy bị gã đưa vào chỗ chết? Đã đến lúc phát động, trận chiến này chỉ cho phép thắng, không thể bại. Cho dù thắng cũng không thể đắp bồi niềm thẹn của gã. Nhưng gã vẫn phải giữ thần sắc bình tĩnh. Giữa cơn mưa lớn, gã đi vào trướng trung quân. Cái trướng này đã dựng sẵn từ lâu. Nơi đây là “A Náo”, cách Thạch Bản Tỉnh ba chục dặm về phía tây, phiên dịch ra Hán văn là “Hoàng Mao chướng”. Mỗi lần xuân sang, sau khi mưa dầm suốt mấy ngày, nội trong phương viên mấy chục dặm quanh đó liền biến thành ao đầm lầy lội. Người quen thuộc địa hình vùng này mà gã lưu lại hồi trước đã đi tra dò, dùng ám ký đặt dấu rõ ràng ở những nơi ao sâu đầm lún, hợp thành địa đồ, phát cho các nhóm dưới trướng. Ba quân đang đợi hắn ở đây. Mọi mai phục sắp bày sẵn sàng cũng đã đến lúc phát động, hai dinh bảy đội của Liên Thành Kỵ đã sớm phái kỵ binh do thám chờ chực tại nơi này. Địa đồ trải trước mặt Hàn Ngạc, gã lạnh lùng hỏi: “Thám tử của hai dinh Khuynh – Phúc có mặt chứ?”. Bên dưới có hai người lên tiếng: “Có mặt!”. Hàn Ngạc hỏi: “Hai dinh có phải đã đến Sa Khảm --- xác định có thể cắt đứt đường lui của Khương Nhung?”. Hai thám mã kia trầm giọng đáp “phải”. Hàn Ngạc bình tĩnh thốt: “Hai dinh Khuynh thành – Phúc sào --- Trận chiến này nếu để có kẻ địch chạy thoát --- ít hơn thì không tính, mà có quá mười tên, ngươi về nói với chủ tướng các ngươi rằng họ đừng có gặp lại ta nữa, cũng bất tất về lại Cư Duyên và Y Ngô gặp phụ lão trong thành”. Nói xong, gã giao mệnh lệnh. Hai thám mã thấy giọng điệu nghiêm khắc của gã mà thần sắc chẳng chút khiếp sợ, trái lại còn phấn chấn bội phần, khẳng khái lãnh lệnh, vâng dạ đi liền. Hàn Ngạc giơ tay chỉ nhẹ từng điểm trên địa đồ, từng đội từng đội nhân mã xác nhận bọn họ có đến phương vị đó an bài chu đáo chưa. Đội Nguyệt Thị, đội Khang, đội Ô Tôn… gã điều động cực kỳ tận tường chặt chẽ. Ngoài trướng chợt có khoái mã lao vào doanh trại. Vó ngựa khựng lại, Dư Tiểu Kế chạy vọt vào trong. Nó khuỵu gối thi lễ, báo cáo: “Đội tiên phong hơn năm ngàn kỵ binh của Niêm Mộc Xích đã tiến tới Hoàng Mao chướng. Chúng hình như đã nghe ngóng được bọn ta tụ tập gần một ngàn năm trăm binh chủ lực ở đây. Trung quân của Niêm Mộc Xích ở ngay đằng sau, tổng cộng hơn tám ngàn kỵ binh, triển khai thành hai cánh, binh mã tản ra bao vây. Chúng vừa đến rìa Hoàng Mao chướng, lập tức muốn ùa vào. Còn có hơn hai ngàn kỵ binh đoạn hậu, có vẻ muốn diệt cho bằng được bọn ta trong trận này”. Hàn Ngạc lạnh lùng thốt: “Biết trước mà”. Miệng gã ban bố lệnh truyền chẳng chút mất bình tĩnh , một hồi sau phân phó xong, người của các đội binh đã lãnh mệnh đi ra, trong trướng chỉ còn lại Hàn Ngạc và Dư Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế đi đến bên Hàn Ngạc, thấy mặt mày Hàn Ngạc vì mệt mỏi cực độ mà xanh dờn, thấp giọng nói: “Ngạc ca, huynh đã ba ngày rồi chưa chợp mắt. Sắp tới giờ Thân rồi, còn được một khoảng thời gian để nghỉ ngơi. Huynh cũng nhắm mắt một chút đi”. Hàn Ngạc hé nụ cười khổ, nói cho cùng, chỉ có ở trước mặt Tiểu Kế gã mới không cần phải giả vẻ trấn tĩnh sắt đá. Gã hỏi: “Hơn năm chục kỵ binh bọn ta phái đi dụ địch hôm qua ra sao rồi?”. Bàn tay của Dư Tiểu Kế vốn đặt nhẹ trên vai gã, giờ động tác lại cứng đơ, mặt mày đờ trơ ra, có một vẻ thẫn thờ mà kẻ ở tuổi nó không nên có. Nó sợ Hàn Ngạc hỏi đến vấn đề đó, nó không muốn nói, nhưng lại không thể không đáp. Nó nhẹ giọng: “Toàn quân bị tiêu diệt”. Sau đó nó ép mình cứng cỏi tiếp lời: “Bọn Khương Nhung đem họ ra… phanh thây, cho chó ăn ngay trong trại của chúng". Nó không dám ngó Hàn Ngạc, chỉ cảm thấy thân người của Ngạc ca cứng đơ. Tiểu Kế thất kinh, đang tính toán xem phải khuyên giải làm sao, lại thấy Hàn Ngạc vụt ngã người, phun ra một ngụm máu tươi rải rắc lấm tấm trên địa đồ. Hàn Ngạc há miệng, lại chẳng nói gì, gã nói không nên lời. --- Hơn năm chục mạng người… hơn năm chục mạng người! Hơn năm chục mạng sống của những người trẻ trung còn chưa đến ba mươi, dưới một mệnh lệnh của gã, mệnh lệnh mà gã biết rõ họ phải chết chắc, đã đi bỏ mình vào miệng chó như vậy đó… như vậy đó! Điều này trái hẳn với phép xử thế của gã. Gã không có quyền, chẳng có quyền làm vậy! --- Mãi cho đến cái lần hai phe giao chiến, gã mới thực sự lãnh hội được sự hung bạo của người Khương Nhung. Dân tộc đó du mục vùng hoang dã, nội bộ của chúng cơ hồ biến đổi liền liền, hoàn toàn không có thứ tự. Bộ lạc du mục, mỗi lần thiên dời chỗ ở, mỗi lần mất mùa đói kém, những người già yếu đều bị chúng bỏ rơi giữa vùng hoang dã, mặc cho chết đói chết khát. Giữa chiến trận, chúng cũng chẳng ngó ngàng gì đến người mình bị thương. Đó là trật tự của chúng, chúng tranh đấu để sống còn giữa chốn hoang dã cuồng bạo vô tình này, đã sống còn như thế suốt ngàn vạn năm. Tuy có vẻ vô tình, lại chừng như có một sự dũng cảm khôn lường, thứ dũng cảm duy nhất để đối kháng oai trời. Thứ dũng cảm đó, bất kể là mười lăm thành trì ở đây hay là dòng dõi nhà Hán cũng chẳng có được. Bởi chúng không bị vướng mắc trói buộc. Thứ dũng cảm chém giết bạo tàn đó Hàn Ngạc cũng không có, gã chỉ còn nước gồng mình vực dậy lòng quả cảm của bản thân để chống đối. Gã biết dòng xối đó nếu xung phá qua rào cản này, sơn hà nhà Hán sẽ biến thành thây chất ngập đất! Nhưng trận đối đầu này nhất định phải hy sinh cắt bỏ như thế hay sao? Nhìn từng mạng người chính tay mình tống ra, Hàn Ngạc cảm thấy mình còn tàn nhẫn hơn cả bọn Khương Nhung! Đây là lối lùa dê phanh xẻ vào cúng cọp một cách có tính toán, có chỉ huy. Trướng trung quân trống vắng, Hàn Ngạc lẳng lặng gục ngã. Trận chiến này gã đã bố trí chặt chẽ, an bài chu mật, thần tình một mực trấn định tỉnh táo. Gã biết tướng sĩ ba quân dưới tay đâu có sợ hy sinh, cũng không sợ tử vong, chỉ cần gã dùng chữ “nghĩa” hay chữ “quốc gia” mà che mắt bọn họ, khiến bọn họ chẳng còn có thể máy mó gì tới ý nghĩa thực sự của sinh mệnh thuộc về bản thân. Ngọn cờ dụ dỗ người ta đi chết phất cao vời vợi đó lại chính là cái làm cho Hàn Ngạc day dứt băn khoăn nhất, nó là một sự lừa đảo giả trá quá sức! Dư Tiểu Kế bàng hoàng, nhưng nó không dám kêu cứu --- Nó tuyệt chẳng thể vào lúc này để ba quân trên dưới nhìn thấy sự gục ngã của chủ tướng. Sự gục ngã này chỉ có thể để một mình Hàn Ngạc biết --- và còn nó nữa. Hai bàn tay của nó bỗng nhanh lẹ án lên mình Hàn Ngạc. Đôi mắt của nó chợt trợn trắng sau lưng Hàn Ngạc, giống như đôi mắt trắng dã của Dư cô cô, tựa như hắc y nữ tử mà Hàn Ngạc từng gặp ở Cư Duyên thành. Miệng nó khẽ niệm: “Ngủ đi, ngủ đi…”, thanh âm khàn đục trầm lắng, chừng như muốn gắng sức thôi miên Hàn Ngạc vào mộng cảnh. Hàn Ngạc cảm thấy toàn thân hư thoát, gã ngó bàn tay của Tiểu Kế trên vai, ngoái đầu ngó Tiểu Kế cười khổ, nụ cười thê thảm làm sao. Vẻ thê thảm đó lại là cái Tiểu Kế sợ nhìn thấy nhất. Nó im ỉm lấy trong mình ra một nắm hương Long Đoàn, len lén thắp cháy. Một vầng khói xanh bốc lên lọt vào mũi Hàn Ngạc, mặt Hàn Ngạc cũng đờ đẫn. Dư Tiểu Kế thốt: “Ngạc ca, ngủ đi, ngủ một giấc cho khỏe đi, tất cả những lo âu trong lòng huynh sẽ kể hết cho tôi biết trong mộng. Khi đó, bao khổ não sẽ không còn là của một mình huynh nữa, còn có tôi gánh vác với huynh. Sau này… nếu con người chết đi mà có kiếp sau… tất cả mọi dày vò dằn vặt của cuộc đời, bất kể là ở trời nào đất nào, sẽ có tôi và huynh ở cùng một nơi, có tôi và huynh cùng gánh vác…”. Lời nói của nó có hơi hướm thôi miên, mà thanh âm nhẹ nhàng lại có một nét kiên định, như muốn trỗi khỏi nhân thế hỗn loạn này, là chút yên bình quay về điểm tựa sau khi mọi tâm tưởng khác đã phá toái hư không… Thời gian hun hút, mà không gian cũng mênh mang… Bọn ta đều là những đứa bé lang thang trong cõi mê, không biết mình đến từ đâu, mình đi tới đâu. Trong cái thời gian và không gian đó, không có trói buộc phương hướng, đâu đâu cũng là hư không, mọi tham chiếu đều là hư ảo, vì không có một sự vật gì hết, cơ hồ tuyệt đối tĩnh tại, tuyệt đối bất động. Nhưng… còn có tôi! Có tôi, sẽ lập tức cho huynh một tiêu điểm để nhắm ra một cự ly cơ bản nhất. Nhắm vào tôi mà động, lấy cái động của mọi sự động mà trông về sự tĩnh. Cái tĩnh đó là nhà, cũng là quay về điểm tựa, là quy y… Đó là tâm pháp căn bản của Mê Điệt thuật, một ngón của Đại Hoang Sơn mà Dư Tiểu Kế được truyền dạy. Nó tuy tuổi nhỏ, quen nhảy nhót giỡn hớt, nhưng đối với thứ tâm pháp này lại lãnh ngộ mau mắn. Hàn Ngạc quả đã ngủ. Gã gặp đủ thứ kỳ ngộ lạ lùng, có Phương Ninh, có Dư Tiệp, có Tổ cô bà, có sư phụ… thực là nhiều quá, còn có Yêu Yêu, A Xu và A Thù, thậm chí có cả Nhị cô nương và Bộc Ách Phi nữa, nhưng còn người thân mật nhất, chút đau xót dằn vặt trong lòng gã thì lại không cách nào vực kéo lên được… Đột nhiên thây chất ngổn ngang, những gương mặt của các chiến sĩ không tên quen thuộc dâng hiện trong mộng, mặt mày họ đẫm máu, ngó gã la lớn: “Ngươi phất cờ dụ bọn ta vào tử địa. Đến sau khi chết, bọn ta mới biết bọn ta vốn không có đường sống, bị ngươi quăng vào chốn hư vô vĩnh viễn siêu thoát này!”… Rồi lại có Phương Ninh một mình trấn thủ Cư Duyên thành, Cư Duyên tựa hồ đã bị phá, nàng đang trên tường thành, đã đến bước đường cùng, nhưng thần sắc của nàng gã lại không trông rõ được, không hiểu được. Gã chỉ thấy nụ cười tươi đẹp của nàng… Tại sao niềm khát vọng cả hai có thể sống hòa mình lại bị gán cho những rối ren khó xử đến chẳng hiểu nổi như vầy… Ảo ảnh nối tiếp lướt qua đầu Hàn Ngạc. Dư Tiểu Kế gắng sức đề tụ tâm thần, toàn lực phát động Mê Điệt thuật. Tuy không thấy những ảo tưởng trong đầu gã, song mỗi một màu sắc xanh rờn, vàng sẫm, đỏ tươi đều thoáng qua não nó. Thân người nó run bần bật, nó phải gồng mình dẫn chúng ra, gồng mình gạn lọc xoi suốt đến cội lòng của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc mê mẩn trong mộng mà bỗng run rẩy, trước mắt Dư Tiểu Kế tựa hồ là một mảng trắng xóa, trắng như mùa đông của Trường An thành, mà mùa đông đó lại dằng dặc chơi vơi, bao trùm hết những ngõ ngách trong tâm linh. Trường An xa vời, là một ảo tưởng và lời thầm thì bí ẩn, như chứng giám tất cả những điều chất chứa không nói được trên thế gian, chỉ nghe Hàn Ngạc kêu lên trong mộng: “Phụ thân… phụ thân…”. Tiểu Kế giật mình, nó cuối cùng đã kiếm ra chỗ then chốt để an ủi vết thương ứa máu lâu nay trong lòng Ngạc ca mà lâu nay nó vốn không thể nào phát giác được. Một dòng lệ cuối cùng đã chịu lăn dài trên khuôn mặt gầy gò vàng vọt của Hàn Ngạc, Dư Tiểu Kế để mặc nó tuôn rơi, giơ tay kề dưới cằm gã mà hứng những giọt nước mắt. Sau đó nó nâng vóc nước mắt, vận động tâm pháp, tiềm nhập vào chỗ kín đáo nhất trong lòng Hàn Ngạc, xoa xoa dìu dịu… o0o Đến giờ Thân, chỗ trung quân của Liên Thành Kỵ bỗng vang vọng tiếng trống trận dồn dập. Tiếng trống tựa như có thể thúc đẩy nhiệt huyết trong thân thể mọi người. Sắc màu của nhiệt huyết nhuốm nhuộm lên hai má gầy gò của Hàn Ngạc, từng chút từng chút, tuy mong manh mà rõ rệt. Sau đó, nó như thắp sáng mặt mày của một ngàn năm trăm tướng sĩ trước dinh. Một ngàn năm trăm khuôn mặt nam nhi cương nghị đột nhiên cháy bừng lên, từ trước ra sau, đằng đằng sôi sục một luồng nhiệt huyết. Ngoài tiếng trống trận, bốn bề vắng lặng. Nhưng thanh âm máu nóng tuôn chảy trong mình một ngàn năm trăm kỵ mã lại chừng như đang âm thầm đổ dồn như Trường Giang như Hoàng Hà giữa vùng bình nguyên cỏ dại này. Sau một giấc ngủ ngắn ngủi, Hàn Ngạc thần tình kiên nghị. Ba quân dưới trướng lần đầu nhìn thấy mặt Hàn Tuyên phủ sứ phớt hồng, giống như một lá cờ giương cao, bên trên thêu hai chữ: quả cảm! Môi Hàn Ngạc mấp máy, tựa hồ muốn nói gì. Nhưng biết bao lời nói đến bên môi chỉ hóa ra một chữ: “Đánh!”. Một ngàn năm trăm binh lính nhất tề phi ngựa --- Tiên phong của Khương Nhung đã đến, chúng lâu nay thắng trận liên miên, bụng dạ kiêu ngạo, vì kiêu mà hỏng thế, hỏng thế nên tiếng tăm thì mạnh mà thực lực thì yếu. Huống hồ chúng vừa mới đến, đang lúc người ngựa mệt mỏi, ba quân của Hàn Ngạc lại đã nuôi dưỡng nhuệ khí từ lâu. Bọn họ cần phải chôn lấp ngọn gió, bẻ gãy mũi nhọn tiên phong, dẫn dụ đại quân vào tăng viện. Lúc đó mới là cơ hội thắng trận thực sự. o0o Ô Vượng, tiên phong của Niêm Mộc Xích, đang cách trung quân của Hàn Ngạc khoảng ba dặm. Đồng cỏ này trải dài bát ngát, chúng truy đuổi chủ lực quân của Hàn Ngạc cả một tháng trời, vừa kiêu căng vừa bồn chồn khôn cùng. Trời đã chạng vạng, chúng đã phát hiện bọn Hàn Ngạc, lập tức nghỉ ngơi, định sang ngày mai sẽ phát động tiến công, đánh một trận cho xong, cáo thành cuộc chiến trì trệ này. Binh Khương Nhung nghỉ ngơi lại không dàn trải có hệ thống nghiêm ngặt như binh Hán. Chúng chia nhau xuống ngựa, tụm năm tụm ba, muốn ngồi đâu thì ngồi. Ai có doanh trướng thì dựng doanh trướng, không có thì ở lộ thiên qua đêm. Mưa dầm cả ngày, đâu có ai phòng bị, tên nào tên nấy cũng khổ não khôn cùng. Lối thống lãnh của Niêm Mộc Xích cũng tàn bạo vô cùng, chỉ lo lập công, đâu có để ý gì tới lính Khương Nhung có lắm kẻ đội mưa nổi sẩn, hoặc nhiểm phải bệnh lỵ. Hơn năm ngàn nhân mã lương thực phân tán, chia nhau nhúm lửa, có kẻ còn đang ôm bụng đằng xa. Vào lúc đó, tiếng trống vọng văng vẳng. Chúng đâu thèm để ý: Liên Thành Kỵ chỉ là hạng hư danh, yếu ớt đáng khinh, những ngày tháng qua chúng vừa bắt vừa chém cả mấy trăm mạng rồi còn gì. Nào ngờ đang khi chúng hoàn toàn không phòng bị, một đội nhân mã ồ ạt phi tới. Bọn Khương Nhung thất kinh, có kẻ mới vừa giải giáp tháo bỏ cung đao ngả mình, đâu kịp vũ trang, chân trần chạy vội về phía bầy ngựa. Ô Vượng gầm lên, cầm roi quất đám lính xung quanh, thúc giục nhào lên đón địch. Chỉ trong chốc lác, Liên Thành Kỵ đã cuốn tới nơi. Bọn Khương Nhung thậm chí chẳng kịp dàn trận phóng tên, lác đác mấy chục mũi bắn xiên bắn xéo, hoàn toàn không có cách nào ngăn trở được, để mặc cho Liên Thành Kỵ xông vào doanh trại. Vốn đang mệt mỏi, lại chẳng có trật tự, mà còn ngạo mạn cẩu thả, hoàn toàn không ngờ nổi, bọn Khương Nhung liền bị Liên Thành Kỵ xung sát, tên bắn từ xa, đao quét gần sát, nháy mắt đã bị hạ gần năm trăm tên. Ô Vượng dẫn đám tướng lãnh la lối rùm trời, nhưng cục diện đã quá hỗn loạn, hắn cũng chẳng thể nào khống chế nổi. Liên Thành Kỵ chia làm năm đội, tung hoành giết chóc, biết bao nhiêu là binh sĩ Khương Nhung còn chưa kịp lên ngựa đã bị người ta chém chết tại đương trường. Có kẻ kéo quần chưa kịp đứng dậy đã bị đâm chết ngay trên đống phân của mình. Liên Thành Kỵ co mình đã lâu, cực kỳ dũng mãnh. Bọn họ đa số là nhân mã của mười lăm thành, bị Khương Nhung đè đầu ngậm đắng nuốt cay lâu ngày, căm hận vô cùng. Đánh trận nhờ vào thế mà thắng. Bọn họ thế đã mạnh, càng đánh càng hăng. Chính giữa là dinh hộ vệ mang cờ hiệu Hán, chia làm hai đội. Một đội do Cao Dũng thống lãnh, tuy đã quá mệt mỏi, nhưng vì báo thù cho đồng bào, bọn họ dũng mãnh đến mức không ai có thể cản chặn nổi, người ngựa hào hùng, sát khí lẫm liệt. Đội kia có Liên Ngọc phất cao đại kỳ “Hán Thiên tử sứ Hàn” theo sát đằng sau Hàn Ngạc, hăng hái xung kích, tràn trề quyết tâm. Trong đội binh mã đó, Dư Tiểu Kế sắc mặt tái nhợt, mắt mũi lấm lem, nhưng mười mấy thủ hạ của nó ai nấy cũng là hảo thủ võ lâm, xông pha như chỗ không người. Hàn Ngạc lưng đeo cung, tay vung Trường Canh, phi ngựa vùn vụt dẫn đầu, không chút chùn bước. Hàn Ngạc cứ tung bổng mình khỏi lưng ngựa, Trường Canh tuy ngắn, nhưng địch nhân nội trong khoảng vòng mười bước đều bị kiếm của gã đâm trúng. Đến giờ gã đã hoàn toàn gạt bỏ lòng trắc ẩn. Hai phe giao chiến, lấy dũng làm chính! Gã rướn cổ hú vang, điều khiển năm đội quân mã, quát tháo liên thanh, chỉ huy thủ hạ kẻ trái người phải, tới lui xung kích. Ô Vượng mắt đỏ ngầu. Hắn vốn là tiên phong, giỏi nghề cung nỏ, đã mấy lượt lắp tên bắn Hàn Ngạc. Khổ là Hàn Ngạc thân hình nhanh nhẹn, con ngựa của gã lại là hạng lương câu một trong cả vạn, bắn đâu có trúng nổi. May là số lính ban đầu bị giết đâu phải là bọn phản ứng nhanh lẹ và cảnh giác nhất, mà hầu như là bọn chậm chập khờ khạo nhất. Chúng vốn có thói quen tự mình tác chiến, đã ổn định trận địa sau khi tổn thất mất một phần ba số lượng. Nhất thời giữa biển cỏ tiếng hò la chém giết vang trời. Xộc vào mũi toàn là mùi hôi thối và mùi máu tanh, mà khí vị đó tựa hồ càng kích thích bản tính cuồng bạo của con người. Đánh được một hồi, thấy bọn Khương Nhung đã định thần, phe mình càng lúc càng có lắm thương tổn, Hàn Ngạc quát: “Lui!”. Gã quân lệnh như núi, hơn nữa đã có dặn dò trước. Gã được báo đại quân của Niêm Mộc Xích đã có thám mã truyền tin, đang kéo rốc tới đây, lúc này không lui thì còn đợi đến bao giờ? Năm đội binh liền y theo phương vị và lộ tuyến đã định, xông ra khỏi trận, cao bay xa chạy. Ô Vượng mắt đỏ hừng hực, nạt: “Rượt!” --- Từ khi hắn đối đầu với binh Hán, chưa bao giờ nếm mùi đại bại như vầy. Bị thương tổn nặng nề, hắn làm sao mà không hận cho được? Nếu không đích thân giết sạch kẻ địch, hắn còn mặt mũi nào thống lãnh kỵ binh tiên phong, còn mặt mũi nào đi gặp chủ soái Niêm Mộc Xích? Miệng hắn gầm rú, binh mã của hắn chia thành nhóm đuổi theo năm đội quân của Hàn Ngạc. Tiếp đó đại quân của Niêm Mộc Xích cũng đã đến, hơn tám ngàn kỵ binh gia nhập vào cuộc đuổi bắt. Trời tối dần --- bóng đêm đè nặng thảo nguyên, không có trăng, những vì sao cũng mờ ảo lấp loé. Ô Vượng nhắm ngay lá cờ của Hàn Ngạc mà rượt. Bọn họ một chạy một đuổi cũng được gần nửa canh giờ. Hàn Ngạc theo lộ trình đã định, lúc phi thẳng lúc bẻ quẹo đi đường vòng. Bọn Khương Nhung lại hoàn toàn không có kế hoạch, có lúc thấy đường đâm thẳng gần hơn liền nhào vào, lập tức lại có cả chục cả trăm nhân mã lọt vào bùn lầy, vùng vẫy không thoát nổi, từ từ chìm nghỉm. Binh Khương Nhung đuổi đánh hơn hai trăm lính Liên Thành Kỵ cũng có cả gần ba ngàn, kéo lần kéo lữa, dằng dặc dặm trường nối thành một đường dài, bao gồm cả thủ hạ của Ô Vượng lẫn trung quân chủ lực của Niêm Mộc Xích. Ô Vượng lọt vào bóng đêm, tuy mấy lượt suýt lọt vào bùn sâu, nhưng đang khẩn trương vội vã, chẳng thèm tra cứu, cũng không ngó ngàng gì tới nhân mã của mình bị đắm chìm --- Trời tối hù, có nhìn cũng nhìn không rõ, chỉ biết nối đuôi mà đuổi. Hàn Ngạc có lúc xoay ngược đánh giết, rồi lại phóng ngựa bỏ chạy. Thình lình một mũi tên bay lướt sát bên gã, nhắm thẳng vào lưng Tiểu Kế đang hoàn toàn chẳng phòng bị gì. Hàn Ngạc nổi giận, thấy thanh thế của mũi tên thì đoán chỉ có sức của Ô Vượng mới có thể bắn được như vậy. Gã hú dài một tiếng, vọt mình khỏi lưng ngựa, vỗ văng mũi tên đó. Mũi thứ nhì lại đã đến. Trường kiếm của Hàn Ngạc vung ra, gạt bắn nó đi, miệng gã thét: “Hay cho Ô Vượng, hôm nay ta phải giết ngươi đến tế vong linh các chiến sĩ!”. Gã chẳng quay đầu ngựa, lại búng mình lên lần nữa. Gã cách chỗ Ô Vượng chưa tới hai trăm bước, lập tức chạy bộ tới, vọt bay đến trước đoàn quân của Ô Vượng chỉ trong chớp mắt. Thấy đường đi đã bị thủ hạ của Ô Vượng ngăn chặn, Hàn Ngạc chợt thét lên: “Tiểu Kế, giúp ta một tên!”. Dư Tiểu Kế nghe vậy liền xoay ngựa lại. Đến cách chừng năm chục bước, nó lấy cây nỏ mà Hàn Ngạc tặng nó ra, giương lên bắn một phát. Nó nhắm đúng Ô Vượng, nhưng tuổi còn nhỏ, tay còn yếu, mũi tên vừa bay qua tai Hàn Ngạc thì đã yếu thế, làm sao mà giết được Ô Vượng. Hàn Ngạc đang giao chiến với binh Khương Nhung, thấy mũi tên lướt tới, chợt hét lên một tiếng, búng mình lên, chẳng thèm để ý đến một đao đang chém xuống lưng, tung một chưởng đánh tới đằng đuôi mũi tên. Lần này gã nặng tay, lực khí phát từ nội tức, mũi tên rung động giữa không trung, sau đó thân tên bị đánh nát, chỉ còn lại đầu nhọn xộc về phía Ô Vượng. Không gian bỗng vang vọng hai tiếng thét, thanh âm thê thảm. Một là Hàn Ngạc, gã tuy đã vận lực lên lưng, một thanh trường đao vẫn đã chém trúng lưng gã, y phục lập tức xé toẹt ra, một vòi máu tươi phún trào. Tiểu Kế thấy vậy, mắt trợn tròn muốn toét, giục ngựa phóng nhanh đến liền. Hàn Ngạc xoay tay chém một kiếm trúng tên đả thương mình, mau lẹ thoái lùi ra sau. Còn tiếng hét kia là của Ô Vượng. Đầu tên nhọn thình lình vọt tới, vì quá nhỏ, hắn đâu có nhìn thấy rõ. Song thủ của hắn quơ quào bịt cổ họng, la hoảng một tiếng rồi rơi khỏi mình ngựa, thân thể cường tráng lại bị đội kỵ mã đằng sau lao tới dẫm đạp, xương thịt tan nát, chết tại đương trường. Hàn Ngạc đột kích thành công, vụt phóng người lên, vọt về đội quân của mình. Gã thấy Tiểu Kế đang bất chấp thân mình lao tới, sau đó lại nghe có tiếng ngựa hí thảm, thì ra con ngựa của Tiểu Kế đã trúng tên té quỵ. Tiếp đó một màn tên bay tới như mưa đổ, đùi Tiểu Kế cũng đã ghim một mũi. Hàn Ngạc chẳng nhiều lời, bắt lấy Tiểu Kế không để nó té xuống đất, chạy vút về phía Ban Chuy. Mưa tên rào rào rải rắc đằng sau, Hàn Ngạc ôm Tiểu Kế trước ngực, miệng khẽ thốt: “Hay cho Tiểu Kế, đúng làđánh cọp cũng cần anh em ruột, ra trận toàn nhờ binh cha con!”. Nói xong thì đã chạy tới trước Ban Chuy, gã thấy bộ hạ của mình đã đi trước, còn lại là mười mấy kỵ sĩ theo Tiểu Kế. Gã rướn mình phi thân lên ngựa, vô ý đụng phải mũi tên trên đùi Tiểu Kế khiến nó đau quá rên khẽ một tiếng. Hàn Ngạc thấp giọng: “Ngươi không sao đâu!”. Lại quát một tiếng: “Đi!”, rồi ngồi chung ngựa với Tiểu Kế dẫn mười mấy hảo thủ trà trộn vào bóng tối hun hút. o0o Trận chiến này xảy ra giữa đêm tối mênh mang. Liên Thành Kỵ dựa vào địa lợi, số địch nhân bị giết kém xa số bị dẫn dụ lọt vào đầm lầy. Bọn Khương Nhung người ngựa mù quáng, ban đầu cứ lo đuổi nà, mặc cho ngựa từng con từng con lọt vào bùn sâu. Đánh đến nửa đêm, chúng mới đột nhiên tỉnh ngộ, nhưng vì hãm mình vào đồng cỏ cao suốt một phương viên mấy chục dặm, chúng đã lạc hết phương hướng, có muốn thoái cũng thoái không xong. Sau nửa đêm, công thủ gì cũng đã vào thế, Liên Thành Kỵ bắt đầu phản công. Người ngựa Khương Nhung vừa đánh vừa chìm, qua một đêm cũng đã tổn thất quá nửa. Bọn đi sau muốn đột vây, lại đụng phải hai dinh “Khuynh thành” và “Phúc sào” đã mai phục từ lâu đón đánh thẳng mặt. Trừ vài thớt ngựa ngẫu nhiên len thoát, cơ hồ cả đám đều bị ép lẩn quẩn trong đồng cỏ ác mộng này. Về sau, hơn ba ngàn quân Liên Thành Kỵ chia thành mấy trăm người một đội, chặn đường tập kích binh Khương Nhung suốt một dải ao đầm. Họ đã cắm ký hiệu ở đây, mà ký hiệu lại giấu mình rất kín đáo, bọn Khương Nhung đâu có nhận ra, còn nhân mã Liên Thành Kỵ lại hiểu chỗ nào nước nông nước sâu, toàn là biết trước chốn nào có thể qua, nơi nào không thể vào. Có những nơi trông có vẻ như đồng trống, thực ra lại là hầm bẫy. Binh Khương Nhung tả xung hữu đột, tới giờ đã lọt vào đường cùng. Hàn Ngạc cùng Dư Tiểu Kế gặp địch giết địch, đi vòng vòng tìm kiếm Niêm Mộc Xích, hễ gặp thủ hạ gặp gian khó là liền nhào lên giải cứu. Kiếm gã bén mà lại đè nén lòng căm phẫn từ lâu, đánh tay đôi thì còn ai có thể ngăn trở chứ? Dư Tiểu Kế bất chấp đùi bị thương, buông tên lia lịa, nội trong một đêm đã sát thương mấy chục tên địch. Trận này đánh ba ngày liền. Trừ đêm đầu chiến trận kịch liệt, về sau cán cân cơ hồ nghiêng hẳn về một bên, cuối cùng chỉ là tìm bắt tàn quân của địch. Một vạn năm ngàn kỵ binh dưới trướng Niêm Mộc Xích chạy thoát chưa tới năm trăm mạng, số còn lại hoặc chết hoặc bị bắt, trở thành lần đầu tiên bọn chúng thất bại nặng nề sau khi vực dậy thanh thế gần đây. Điều duy nhất đáng tiếc là: không tìm được Niêm Mộc Xích. Những kẻ đột vây chạy thoát xem ra cũng đâu có hắn. Nói không chừng hắn đã bỏ mình dưới bùn lầy. Chờ đến khi bùn khô thịt rữa, có dân du mục phát hiện thì e cũng chỉ còn xương trắng mà thôi, đâu có ngờ được hắn là đại tiên phong Niêm Mộc Xích từng một thời vầy mây gọi gió dưới trướng Hữu Hiền vương.
1 Bóng mây chiến trận đè nặng gò Hoàng Mao, là Tiểu Đoạn dựa theo câu "Trận vân lãnh áp Thanh Lưu quan" trong bài thơ "Tống trương dã phu tự thừa mục Trừ châu" của Lục Du. Năm 956 Sài Vinh sai phái đại tướng Triệu Khuông Dẫn dẫn quân công đả trọng trấn Trừ Dương (Trừ châu) miền Giang Bắc của nước Nam Đường. Triệu Khuông Dẫn kịch chiến ở ải Thanh Lưu hoài mà không thành công. Sau nghe theo lời của mưu sĩ Triệu Phổ, toàn quân nửa đêm tắt hết đèn đuốc, cho ngựa ngậm hàm thiết, nương bóng tối theo đường nhỏ đi một mạch đến Trừ châu, nhắm lúc binh mã Nam Đường đang mệt mỏi rã đám không có hàng ngũ, đánh tan tành bắt sống chủ tướng Hoàng Phủ Huy và Diêu Phượng. Lục Du làm bài thơ này là nói đến chiến công đó).
Quy ển III: Cư Duyên liệp
Chương 54 Nhạn sí phất thiên hà lý trầm1
M ấy trăm nóc trướng, bảy ngàn binh Trương Dịch chỉnh chỉnh tề tề lặng lẽ hạ trại ngoài Cư Duyên thành. Họ đến từ mười ngày trước, dựng lều dựng trướng nội trong một đêm, mười ngày nay chẳng hề khổ đấu, chỉ giữ vững doanh trại. Binh Khương Nhung vây thành đột nhiên thấy có viện binh của Cư Duyên đến, không khỏi thất kinh. Nhưng chúng đã coi thường binh Hán từ lâu, mấy lượt cho vài trăm kỵ binh xông vào trại thăm dò thử, có điều Đỗ Phương Ninh dặn Hướng Đình giữ yên bất động, chỉ dùng tên nỏ bắn cho địch tháo lui, làm thương tổn cả trăm nhân mã của chúng. Về sau chúng và người trong thành chỉ ngó từ xa. Ngày qua ngày, lòng tin của quân Hán tựa hồ đã bắt đầu kiến lập được. Nhưng Đỗ Phương Ninh biết như vầy mà tấn công thì vẫn chưa đủ. Để củng cố quân tâm, sau mười ngày, vào lúc nửa đêm, nàng bỗng chọn mười mấy kỵ sĩ đột phá vòng vây mà vào. Nàng mặc trang phục nữ nhân, trường sách với đoản đao, tuy hao tổn mất mấy người, nhưng có Vũ Thứu thấy vậy kéo mấy chục cấm vệ quân ra khỏi thành tiếp ứng, bọn nàng nhập bọn với họ vào được thành. Từ trận đột phá đó, bọn Khương Nhung bắt đầu nới lỏng vòng vây. Im được hai ngày, Đỗ Phương Ninh lại dẫn binh đoạt lại nguồn nước. Tiểu Tế hồ mất cả tháng trời, cuối cùng đã lọt lại về tay Cư Duyên thành. Một buổi sớm vài ngày sau nữa, Đỗ Phương Ninh mới vừa dậy thì thấy có lính thủ thành mặt mày mừng rỡ chạy vào báo: “Khương Nhung trốn đi mất rồi. Vòng vây đã biến mất nội trong một đêm”. Đây là dùng thế mà hù dọa để giải vây. Đỗ Phương Ninh thở phào một hơi --- Lòng dạ quặn thắt những ngày qua cuối cùng đã yên tâm được rồi. Song lúc này nàng vẫn chưa thể nghĩ ngợi gì nhiều, liền truyền lệnh hẹn Cư Duyên vương ra mặt tưởng thưởng tướng sĩ Trương Dịch. Nàng lại cưỡi ngựa vào doanh trại trước, thương thảo với Hướng Đình xem có nên đuổi đánh hay không. Cuối cùng họ quyết định đứng yên chờ coi --- Binh Hán còn yếu, truy kích trên hoang mạc quá nguy hiểm. Đỗ Phương Ninh phải bận bịu quá nhiều chuyện, chạy đi chạy lại liên tục hai ba ngày từ sáng sớm đến tối khuya mới coi như ổn thỏa --- Binh Hán chưa thể thoái lui, phải đồn trú đến khi đã minh xác được tình thế; Cư Duyên thành cần phải khao thưởng quân Hán, nhưng nàng cũng phải tính toán đúng độ, đong lường đúng mức, không thể gây nên sự phản cảm của người trong thành; quân Trương Dịch nàng mới đoạt được thôi, nàng phải đắn đo xem làm sao giải thích với triều đình, làm sao bình định tâm tưởng của kẻ không phục trong quân… Những chuyện đó toàn là đại sự cực kỳ đau đầu, chẳng thể nào sơ suất bất cứ một chuyện nào. Chộn rộn mấy ngày trời mà thám mã nàng phái đi Y Ngô thăm dò tình huống vẫn chưa về. Lòng nàng khẩn trương, cơ hồ hàng ngày đều muốn phái người đi coi, mong sau vài ngày tới có thể nhận được tin tức của Y Ngô thành, nếu may mắn mà nói, còn có thể có tin Hàn Ngạc nữa. Nàng thở dài nhè nhẹ, có lúc lại nghĩ: đừng nói gì tới bây giờ cứ canh cánh chờ tin, cho dù qua mấy ngày nữa cuối cùng có tin hồi báo, những gì nàng nghe được về Hàn Ngạc cũng là tình huống cách bao nhiêu ngày trước rồi. Không chừng được một niềm an ủi bé nhỏ, nghe được tin gã còn sống mạnh sống khỏe mấy ngày trước, mà Hàn Ngạc lại đang tắm máu nằm lặng im giữa vùng hoang dã, thất bại mất mạng. Nỗi lo rầu đó cơ hồ từng giờ từng phút dày xéo lòng nàng, hành hạ đến mức nàng hoàn toàn không có hơi sức vui mừng mình đã cứu vãn được Cư Duyên. Ban ngày nàng còn có thể miễn cưỡng cười nói giả lả, ăn mừng với toàn thành. Nhưng sau khi rời khỏi đám đông, niềm sầu muộn lại dấn lên mày mi, trán nàng phơn phớt mấy nếp nhăn. Phải hồi trước thì nàng đã sợ rồi, nhưng bây giờ… chỉ cần chàng bình an, dù mặt mày ta đầy nếp nhăn lại đã sao? Đêm hôm đó, nàng cuối cùng đã có chút thời gian ra ngồi bên hồ Tiểu Tế. Tuy nói cái hồ bé bỏng này cách xa quê hương tới mấy ngàn dặm, nhưng nó lại cho nàng một cảm giác ấm áp quen thuộc làm sao. Nàng cảm thấy ngồi hoài như vầy cũng hay --- Nếu cái đêm ngồi tựa bên nhau hôm nọ có thể kéo dài mãi cũng hay. Nàng vốn là một cô gái quen lo toan mưu tính thành công, nhưng giờ phút này, lòng nàng lại có ý nghĩ lạ thường: nàng thực chẳng cần Hàn Ngạc làm gì hết, không lo nghĩ tới gã đại thắng hay là thảm bại, nàng chỉ cần gã bình an là được rồi. Trên trời có thanh âm nhạn vỗ cánh bay, mặt nước lặng lờ, mấy con cá chắc đều đã chìm vào giấc ngủ. Đỗ Phương Ninh nghĩ tới những truyền thuyết cổ xưa liên quan đến thư tín, nàng khẽ buông thõng hai chân… mà hiện tại giờ đây, vẫn là: cánh nhạn phớt trời, sông đâu tăm cá, chưa có tin… không có tin…
1 Nhạn bay ngang trời, cá lặn đáy sông. Ở đây Tiểu Đoạn sửa một chữ trong câu “Yến nhạn phất thiên hà lý trầm” thuộc bài thơ “Ký thượng thúc phụ di trọng tam thủ” của Hoàng Đình Kiên. Xưa dùng bóng chim tăm cá để nói tới tin tức thư từ.
Hết quyển III
Tóm t ắt các hồi truyện quyển III:
Cố nhân Hoành Hải bái tướng quân
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Khúc vô hòa giả đương tư
Dĩnh Luận thiểu ti chi thả tá Tần Yến hạm phong hầu không hữu tướng
Nga mi khuynh quốc tự nan hôn
Hồ mã tê hòa Du Tái địch Sở viên ngâm tạp Địch thôn châm
Thành cao thiết úng hoành cường nỗ
Liễu ám tuất lâu đa mộng vân Chỉ huy năng sự hồi thiên địa Đoạt trướng trung quân động quỷ thần
Trận vân lãnh áp Hoàng Mao chướng
Nhạn sí phất thiên hà lí trầmHai kẻ tri giao khuấy chiến trường
Một lời ủy thác động biên cương
Đụn hoang réo rắt tâm e ấp Đồng vắng véo von ý tỏ tường Áo sồng cằm yến sao quen vậy? Rèm ngọc mày ngài có biết chăng?
Cư Duyên sánh bước chia lo lắng
Hồ thẳm kề vai xẻ trở trăn Y Ngô sắp kế vì tình buộc? Thành dựng bày mưu bởi lợi ràng?
Huynh đệ trùng phùng nương ngựa Hán
Hồng nhan lẻ bóng chống binh Khương
Lòng chàng canh cánh bao hoài tưởng
Dạ thiếp phập phồng chút nhớ thương
Quy ển IV: Nhung mã dật1
Chương 55 Tây chinh nhật điều vạn hoàng kim2
Tháng bảy năm Gia Hy thứ hai mươi chín, một đội ngựa xe nghiễm nhiên rong ruổi
1 Tiểu Đoạn dựa theo một câu trong bài thơ "Bạch Đế" của Đỗ Phủ: Bạch Đế thành trung vân xuất môn, Bạch Đế thành hạ vũ phiên bồn. Cao giang cấp hạp lôi đình đấu, cổ mộc thương đằng nhật nguyệt hôn. Nhung mã bất như quy mã dật, thiên gia kim hữu bách gia tồn. Ai ai quả phụ tru cầu tận, đỗng khốc thu nguyên hà xứ thôn? Tạm dịch: Thành Bạch Đế mây dồn toạc cổng, Bạch Đế thành mưa xối chao sông. Ghềnh cao thác dựng sấm sầm sầm, cội lão dây già trời sẫm sẫm.Ngựa chiến giờ ra ngựa thả rong, bếp hồng nay biến bếp tro đông. Gái góa tỉ ti quan nạo vét, đồng thu rấm rứt biết đằng thôn? Hai câu "Cao giang cấp hạp lôi đình đấu, cổ mộc thương đằng nhật nguyệt hôn" đã dùng làm tựa hai hồi 27 & 28 (xem chú thích {1} hồi 27 và chú thích {1} hồi 28). Bài thơ này Đỗ Phủ sáng tác năm 766 (đời Đường Đại tông) lúc ông cư ngụ ở Quỳ châu. Ông đả phá luật thơ cố hữu, áp dụng phong cách dân ca hoặc điệu cổ vào thơ. Hai câu đối đầu dùng cách trả treo của dân ca để tả cảnh tượng hiểm trở của chốn mỏm núi eo sông mây mưa mịt mờ. Lên lầu thành Bạch Đế, hơi mây cuồn cuộn, từ trong cửa thành tuôn ra ngoài, cho thấy tòa sơn thành cao ngút. Nhìn xuống dưới, cơn mưa lớn "dưới thành" đổ ụp, khiến cho người ta có cảm giác tòa thành ở tuốt bên trên mây mưa, lại một lần nữa ngụ ý thành trì chót vót. Hai câu này đưa tục ngữ vào thơ, hơn nữa âm tiết cứng cựa, không hợp với thanh bình trắc của luật thơ bình thường, đọc lên thì có vẻ vụng bướng, nhưng cũng vì vậy mà có một thứ khí cốt mạnh mẽ. Hai câu đối kế đó nối theo "vũ phiên bồn" mà miêu tả cảnh mưa. Hơn nữa không có vẻ ngang trái như hai câu trên, mà viết rất công phu. "Cao giang" đối với "cấp hạp", "cổ mộc" đối với "thương đằng", "lôi đình" và "nhật nguyệt" mỗi thứ chỉ một vật ("lôi đình" chỉ sấm sét, "nhật nguyệt" chỉ một ngày), trên dưới đối rất đều. Hai câu tập trung sáu hình tượng, từng cái từng cái nối nhau lọt qua ngòi bút của thi nhân, thực có khí thế hừng hực, vùn vụt có thanh có sắc. "Cao giang" chỉ địa thế sông Trường Giang nơi này rất cao, ẩn ý nước sông thuận thế mà đổ xuống; "cấp hạp" nói hai núi giáp nước, cho nên chỗ hẻm núi dòng chảy rất xiết, thêm vào mưa dầm dề xối xả ("vũ phiên bồn"), nước sông ngập ngụa, thế nước càng khẩn cấp, làm cho người ta như nghe tiếng sấm sét. Hai bên vách núi cây cối và dây leo to sù rậm rạp, khiến cho cả ngày u ám tối tăm. m tiết bình trắc đều hoàn toàn hợp luật, khéo dùng với hai câu nghịch trái ban đầu. Bốn câu trên đó dùng mây mưa vầy tụ mà ngầm tả sự loạn lạc của thời đại, phô bày diện mạo của xã hội mưa máu gió tanh, lót đường cho sự phát triển của những câu về sau. Sự chuyển hoán giữa đoạn trước và đoạn sau của bài thơ bày tỏ hình ảnh xã hội nhà Đường sau loạn An Lộc Sơn. Đoạn sau vụt biến sang phong cảnh khác, từ khẩn trương kịch liệt hóa thành âm ám thê lương. Tiếng sấm dần xa, màn mưa thưa bớt, trước mắt thi nhân xuất hiện một vùng đồng dã tiêu điều sau cơn mưa. Thi nhân thấy ngựa thả rong khắp nơi và thôn làng sau khi trải qua những tai kiếp. Chữ "dật" (nhàn rỗi) rất đáng chú ý. Ngựa xổng lững thững rong chơi, xem ra là ngựa không chủ. Tuy không phải kéo xe cày ruộng, nhưng số mệnh không phải đáng buồn lắm sao? Hoang thôn mười nhà trống hết chín, thực là thê lương xót xa. Cặp câu đối này hình thức khác với những câu đối bên trên, lặp từ trước sau hình thành vẻ chậm chạp, giọng điệu dài thượt, truyền đạt nỗi niềm than thở đến vô cùng tận của thi nhân, tương phản rõ rệt với lối hùng hục khẩn trương của phần trước. Cảnh sắc thảm đạm, đâu đâu cũng điêu tàn, nhân dân sống làm sao đây? Dẫn tới hai câu cuối xé nát tâm can. Thi nhân dùng hình tượng bi kịch điển hình để tố cáo hiện thực hắc ám. Quả phụ cô độc cùng khổ, cả ngày bi thương, biết bao là ưu sầu và xót xa! Chồng nàng có lẽ đã chết trong chiến loạn, nhưng quan phủ cũng chẳng tha cho nhà nàng, nạo khoét sạch bách. Cuối cùng khắp hoang nguyên truyền vọng tiếng gào khóc, mùa thu đến lúc thu hoạch gặt hái mà lại như vậy, khổ nạn đến đâu có thể tưởng tượng được. "Hà xứ thôn" ý nói không nhận rõ người khóc ở thôn nào, tạo thành một không khí bi kịch man mác mênh mông, thực tế là nói không có chỗ nào không có tiếng khóc. 2 Tiểu Đoạn sửa câu “Đông chinh nhật điều vạn hoàng kim” của Lý Thương Ẩn trong bài “Tùy sư đông” (nhà Tùy đi chinh phạt Cao Ly ở phía đông tốn cả vạn lượng vàng mỗi ngày).
trên đường từ Y Ngô đến Cư Duyên. Hăm mấy kỵ mã mặc y phục dinh hộ vệ của Liên Thành Kỵ, xe cộ chở toàn đồ dùng nhà binh. Đoàn người dọc đường chẳng chuyện trò gì nhiều, nhưng sắc mặt lại hết sức thư thái. Từ trận chiến Hoàng Mao chướng, trải qua mấy tháng sắp bày, cục thế mười lăm thành vùng Mạc Bắc ngày càng yên bình. Khương Nhung Hữu Hiền vương bị thất bại nặng nề, nhất thời không dám can phạm nữa. Liên Thành Kỵ dưới sự thống lãnh của Hàn Ngạc phấn chấn lòng quân, tuy binh lính pha trộn từ mười lăm thành, cũng đã dần dần hòa hợp, răm rắp như cánh tay điều khiển ngón tay, mặc ý chỉ huy. Hàn Ngạc gần đây luôn luôn theo dõi sự vụ bố phòng các thành, tuyển chọn kẻ hiền tài. Tham tướng Cao Dũng mà Vương Hoành Hải sai phái đến quả là một tướng tài, chuyện quân vụ Hàn Ngạc lần lượt giao cho hắn quản lý, mấy tháng nay làm rất thỏa đáng. Điều chỉnh Liên Thành Kỵ hơn ba tháng, Hàn Ngạc cuối cùng đã có thời gian đi về Cư Duyên thành.
Chuy ến này một phần là công vụ, phần lớn lại là lo chuyện bệnh án của Tiểu Kế. Gã nhớ lại lời hắc y nữ tử coi số trong Cư Duyên thành nói với mình hôm nọ. Đồ Nhiên Thảo… Đồ Nhiên Thảo… thời cơ truy tầm Đồ Nhiên Thảo chắc đã chín muồi rồi? --- Tiểu Kế nửa năm không gặp, thoắt đó đã cao vụt lên mấy tấc, thực quá quái dị. Hàn Ngạc hàng ngày thăm dò tâm mạch của nó, cảm thấy quá là không ổn. Gã đâu thể trì hoãn chuyện này nữa. Gã không nói rõ với Tiểu Kế, cứ lo chọn hảo thủ giao nhiệm vụ, cuối cùng đã nặn được chút thời gian để dẫn nó về Cư Duyên. Trong đội có người liếc bâng quơ lên trời, sau đó “ối” lên một tiếng, nghểnh cổ chăm chú nhìn.
Chúng nhân đều ngó theo hắn, thấy trên trời phấp phới một con diều giấy. Diều to ghê, thả cũng rất cao, hình hai con nhạn cột song song mà dây chẳng rối, bay múa lồng lộng, trông thực đẹp mắt. Một con to hơn, hùng hồn mạnh mẽ, là con màu xanh; con kia màu đỏ tươi xinh xắn. Dư Tiểu Kế thấy hai con nhạn, không khỏi bật cười, chỉ con lớn kêu lên: “Đó là con trống”, rồi lại chỉ con kia nói:”Con nhạn mái dán đẹp quá”.
Nó thích ch ơi trò thả diều khi còn ở Lạc Dương thành lắm, cũng kinh nghiệm quá rồi. Hai con nhạn bay liệng thỏa thích. Mùa này vốn không phải là mùa thả diều, miền hoang dã Tái ngoại vùng tây bắc cũng đâu có tập tục này, vậy mà người thả diều lại khéo tay ghê, trời nóng hừng hực, ngoài hơi nóng ra thì làm gì có gió, vậy mà diều lại cứ bay cao ngất.
Hàn Ng ạc thấy vậy, lòng hơi rúng động, đắn đo một hồi. Chỉ còn cách Cư Duyên thành chưa tới mười dặm, gã cười nói: “Các người đi trước đi, ta có chuyện phải tạt ngang, lát sau gặp lại trong Cư Duyên thành vậy”. Đám tùy tùng ngẩn ngơ, có điều không dám hỏi nhiều. Dư Tiểu Kế thấy thần tình của Hàn Ngạc, ít nhiều đã hiểu được, tủm tỉm ngó gã. Hàn Ngạc đỏ mặt, thấp giọng dặn nó: “Theo bọn Ô đại ca thì phải ngoan một chút đó, đừng có nhảy nhót như xưa. Vào Cư Duyên thành đợi ta, ta đi gặp một người đến tối sẽ về”.
o0o Ngoài Cư Duyên thành chừng mấy dặm có một cánh rừng liễu đỏ. Lúc đó tà dương chiếu vào rừng, cây cối nghiêng bóng dài thượt dưới đất, đẹp như tranh vẽ. Trên một gốc
cây b ị chặt ngã có đặt hai chén rượu. Bên gốc cây có một nữ tử mặc đồ nhà binh ngồi thản nhiên, tay nàng đang cầm một cuộn dây, tóc lòa xòa thoát khỏi cái nón xanh, phất phơ nhè nhẹ. Hàn Ngạc phóng đến gần thì vó ngựa lại trù trừ --- Lúc không gặp cứ canh cánh trông mong, gặp rồi thì lại có cảm giác… không biết nên nói sao đây.
M ấy tháng xa cách, Đỗ Phương Ninh thân thể càng đậm mùi sương gió. Nàng nghiêng đầu liếc nhìn, mỉm cười thốt: “Hàn Tuyên phủ sứ, nghe nói ngài thành công trở về, tiểu tướng chuẩn bị chút rượu mọn khoản đãi ngài đây”.
Hàn Ng ạc cười nói: “Không dám, không dám. Mất công quá, mất công quá”. Đỗ Phương Ninh cười cười: “Tắm nắng đen thui rồi”. Hàn Ngạc cười khà khà, gã lâu nay đâu có soi gương, bản thân cũng không biết bộ dạng mình ra sao. Đỗ Phương Ninh lại im lặng quan sát gã, thấy gã gầy hơn đen hơn, nhưng thân mình cao nhồng tựa hồ tràn trề tinh lực hơn bao giờ hết, thần tình cũng trấn định vô cùng, không còn vẻ còm cỏi buồn bã ngày nào, mà rất có nét trầm hùng của bậc chỉ huy thiên quân vạn mã.
Đỗ Phương Ninh rót một chén cho Hàn Ngạc: “Uống xong chén này, tôi nói cho chàng nghe một tin tốt”. Hàn Ngạc uống cạn, hỏi: “Tin tốt gì vậy?”. Đỗ Phương Ninh đáp: “Triều đình đã phong cho Vương Hoành Hải làm Chinh Tây đại tướng quân, ra lệnh cho ông ta sắp xếp chuẩn bị giải quyết sự vụ biên đình tây bắc cho xong”. Hàn Ngạc nhướng mày --- Vậy là phe Đông cung lần này đã được thế rồi! Tiếp đó gã thầm trách mình sao lại nghĩ như vậy: nói gì thì nói, chuyện này cũng là một chuyện tốt. Vương Hoành Hải là tướng tài, được trọng dụng tất nhiên là phước đức cho thiên hạ chúng sinh. Lòng gã máy động, nhất thời trầm ngâm: “Giải quyết cho xong e khó lắm. Bọn trong triều đọc sách cho lắm, nghĩ là đánh trận cũng như làm thơ vậy, một khoảnh khắc nhấc bút có thể giết ngàn vạn người, thực tế đâu có lẹ được chứ! Vương Hoành Hải tướng quân nếu có thể tận tâm thao túng bốn năm năm trời có lẽ mới bình định xong dải đất tây bắc này”. Đỗ Phương Ninh cười nói: “Sao chàng thành thực dữ vậy, cứ để ý văn từ từng li từng tí, còn cười chê người ta là văn nhân nữa. Người ta bất quá là khoa trương thôi. Mấy bậc lão thành trong triều, bao gồm cả Hoàng đế, ai mà không thích nghe lời ngon ý ngọt chứ? Nếu không khoa trương một chút, nói nào là ‘một trận có thể thành công hoàn toàn’, bọn họ sao lại chịu để bị cuốn vào sự vụ biên đình bề bộn phiền nhiễu này? Chàng vẫn là chàng đó, hành sự trung thực quá, toàn dựa vào chiến thắng tích tiểu thành đại, đánh trăm trận để lập uy. Những kẻ trong triều ai nấy cũng đều là hạng con dòng cháu dõi, đeo đuổi đắm mê phù hoa, nhất thời hứng chí vỗ vỗ đầu mà làm. Không tạo cho chúng cơ hội được cao hứng, bọn ta một chuyện chút xíu cũng làm không được đó”. Hàn Ngạc nghe lời nói hờn mát nũng nịu của nàng, hơi ấm dâng trào trong lòng, cười nói: “Phương nữ hiệp, hạ quan xin lãnh giáo. Phương nữ hiệp tinh thông đường đời. Sau này tiền đồ của hạ quan xin giao hết cho Phương nữ hiệp chỉ điểm". Đỗ Phương Ninh cười khúc khích: “Vậy coi như chàng nghe lời tôi --- Không nghe thì tôi cũng hết cách, có nghe lời thì làm đến đại thần cũng không phải không thể”. Lời nói của nàng có ẩn hàm thâm ý. Trong thế giới của nàng, rất nhiều thứ bậc vốn đã xác định, nàng một mực muốn kéo Hàn Ngạc vào thế giới của mình, tuy biết rõ mình thích gã lại chính là vì gã không thuộc trật tự thứ bậc trong thế giới của mình. Hàn Ngạc chỉ mỉm cười nói: “Lời nói của Phương nữ hiệp, hạ quan nào dám không nghe”. Gã ngẩng lên, vừa khéo dừng ngay cổ áo hở rộng vì trời nóng, bất giác mục quang nóng bừng lên, khẩu khí xưa nay đoan chính cương trực cũng không khỏi nhuốm đượm chút xấu hổ bẽn lẽn. Có điều lời nói nhẹ nhàng chừng như đùa chọc, Phương Ninh nghe vậy là biết gã ngấm ngầm cự tuyệt. Đỗ Phương Ninh cảm nhận được mục quang của gã, má ửng hồng, tự cạn một chén rồi cười thốt: “Vậy thì thực là mặt trời mọc ở hướng tây rồi. Sau này chàng thực chịu tôi nói gì cũng nghe chứ?”. Mắt nàng he hé ngó xéo, nếu có Hàn Ngạc thực lòng quỳ dưới quần hồng, Thành Nam Tính yếu nhược đã lâu nhất định đã thu được một trợ thủ hùng mạnh rồi. Hàn Ngạc cảm thấy đầu nóng hổi, nhìn bộ dạng nói cười tha thướt của nàng, cơ hồ muốn thoát miệng đáp: “Phải”. Nhưng gã cũng vụt cảm thấy cứ nói đùa nữa sẽ không tránh khỏi nguy hiểm --- Gã làm sao mà tránh khỏi có cảm giác đó. Quen biết Đỗ Phương Ninh, những gì mình nói ra đều là chân tâm, nhưng nàng… nàng lại pha tạp quá nhiều sự đời. Có nhiều lúc, khi Đỗ Phương Ninh thoát ra ngoài vòng thế tục, gã cảm thấy nàng khả ái khả kính làm sao. Nhưng một khi dính vào đường đời, Hàn Ngạc lại cảm thấy mình chỉ là một con cờ mà nàng dùng rất đắc ý, rất thuận tay. Cái Phương Ninh muốn bất quá chỉ là mình hoàn toàn lọt vào quyền khống chế của nàng. Nàng là người tự do. Đàn bà con gái trên đời ít có ai dám làm dám gánh như nàng --- Một mình bôn ba Tái ngoại, tự lập công lập nghiệp, gồng mình trấn thủ một tòa thành, nào phải chuyện một nữ tử tầm thường có thể làm được. Nhưng nàng cũng là kẻ không tự do. Trong Lạc Dương thành, nàng còn có gia tộc của nàng, những sắp bày của nàng, chồng… của nàng, mình có thân với nàng đến đâu thì đáng để coi là ai chứ? Hàn Ngạc nghĩ vậy, mặt mày tái nhợt, không lên tiếng. Đỗ Phương Ninh nãy giờ đã uống vài chén, mặt hơi ửng đỏ, lòng cao hứng, chẳng chú ý gì đến thần sắc của gã có biến hóa. Nàng khẽ hát: Khoác áo nhà binh cũng bởi ai? Mày ngài quen giễu đấng tu mi Bỗng dưng tở mở ra Biên Tái, Ruổi ngựa Thông lấn lướt Ban Chuy. ... Mừng ngây ngất, chén cạn môi, Đi hết Quan Sơn đâu đợi về! Đánh đã Ngân Hà treo Thanh Sách, Buộc lấy Trường Canh thỏa lứa đôi.3 … Hàn Ngạc lòng phát run. Phương Ninh nàng… tuy là một người con gái, nhưng mối tình này thực ra xưa nay nàng hoàn toàn là người chủ động. Như nàng hát đó --- Đánh đã Ngân Hà treo Thanh Sách, buộc lấy Trường Canh thỏa lứa đôi, cũng do nàng chủ động trói buộc thao túng. Lời ca dịu dàng, bao nhiêu quyết đoán sát phạt của Đỗ Phương Ninh giờ phút này đều ẩn tàng bên dưới mảnh nhu tình đó, như một mảnh khăn sa lộng lẫy khoác lên những ôn nhu, có lọt vào trong cũng đâu có gì để chẳng cam lòng. Nó làm cho Hàn Ngạc không thể không động lòng. Gã nghe cái bản ngã độc lập trong lòng mình khe khẽ than, không khỏi giơ tay đặt nhẹ lên tay nàng, nhỏ giọng: “Phương Ninh, cuộc phá vây Cư Duyên thành vừa rồi thực nhọc nàng quá”. --- Thực là đàn ông không biết tình tứ mà, đang khi nhỏ nhẹ thủ thỉ, không ngờ lại nói ra một câu như vậy. Nhưng Đỗ Phương Ninh cảm thấy bàn tay của gã nóng đến phát run, vậy thì hà tất phải tính toán gã nói gì nữa! Tình này cảnh này, nói gì đi nữa cũng đâu có quan trọng! Quan trọng là… nàng vừa quay lại, thấy môi miệng trên khuôn mặt rám nắng của Hàn Ngạc tựa hồ đang bốc cháy, mồ hôi đầm đìa, đồng tử cũng đen như muốn thiêu đốt, thu tóm mọi vật vào trong bóng đen của đôi mắt mà thiêu. Sức mị hoặc đầy nam tính nhất thời cũng khiến cho lòng Đỗ Phương Ninh mềm nhũn. Nàng chầm chậm nhắm mắt, ánh mặt trời tàn đang bám lấy mảnh tình nồng mà tô hồng cánh rừng, muốn để bọn họ ghi nhớ mong chờ một ngày mai. Bắp thịt trên người Hàn Ngạc run run, có cảm giác bàn tay của Phương Ninh đang hóa thành nước trong tay gã, còn tay gã thì như một tấm sắt nóng bỏng, chỉ muốn chui vào nước, nung nấu tôi luyện đánh xèo một cái. Dòng nước Phương Ninh tự hồ đang đợi gã hút vào môi, giải trừ cơn khát, xoa dịu thâm tình. Bàn tay của gã thuận thế dịu dàng sờ lên cánh tay của nàng, dưới lớp áo nhà binh vẫn là một thân thể mềm mại ấm áp. Da thịt cách một lớp vải mà vẫn khuấy động như mặt nước bị làn gió nhẹ phớt qua. Bàn tay của gã nhẹ nhàng lướt đến cổ Phương Ninh, như trượt trên váng sữa, làm cho gã cảm thấy toàn thân cứng đơ. Tịch dương rực lửa, ráng chiều hồng thắm, cát trải nệm giường, gió giăng màn trướng. Tái ngoại khả ái như vầy, cuộc đời còn có gì để trông đợi nữa… Bên trong lồng ngực gã tựa hồ có gì đó thình lình cắn một phát đau điếng. Đau không thể tưởng tượng nổi, như một lưỡi dao vụt đâm vào. Hàn Ngạc quá quen nhịn đau mà cũng không làm sao chịu được cơn đau như bị mũi dao nghiền lên tim vậy. Gã ráng nghiến răng không rên thành tiếng, tuôn mồ hôi hột, ban đầu còn kinh ngạc không biết mình bị gì vậy, nhưng lập tức nảy chút manh mối trong đầu --- Một gương mặt hằn học ngó gã… Thù nhi! Hàn Ngạc chợt nhớ tới lời Lợi đại phu, không sai… là A Đổ! Loài cổ trùng “A Đổ” mà Tiểu Thù hạ trên người mình cuối cùng đã phát tác! Lợi đại phu không phải đã nói loài trùng độc này sẽ phát tác một khi mình phát tác chân tình sao? Lợi đại phu có nói thuốc của ông ta có công hiệu cầm giữ được một năm, mà nay đã quá một năm từ lâu rồi. Hàn Ngạc hít sâu một hơi, gắng gượng đè nén chân khí hỗn loạn trong tâm mạch, phải một hồi sau mới định thần được. Khi mở mắt ra, gã thấy Phương Ninh đang ngó mình. Gã miễn cưỡng cười cười, Đỗ Phương Ninh lo lắng: “Trên mình có thương thế?”. Hàn Ngạc gật gật đầu --- Gã cũng không biết giải thích làm sao. Thoạt lạnh thoạt nóng, gã chỉ cảm thấy màu đỏ tươi tắn vừa nãy trong mắt gã tựa như đã thành hoang lạnh. Hai người lẳng lặng nuôi tâm sự riêng, một hồi sau Đỗ Phương Ninh mới nói: “Đi đi”. Hàn Ngạc gật gật đầu. Nhìn dây diều Đỗ Phương Ninh cột trên gốc cây, gã hỏi: “Còn diều thì sao?”. Gió chiều phất cao, không có Đỗ Phương Ninh điều khiển, diều cũng vẫn đang tung bay trên trời. Đỗ Phương Ninh chợt đưa ngón tay vạch một đường cắt đứt dây diều. Thoát khỏi sự trói buộc, diều chợt bay đi phần phật. Hàn Ngạc “ối” lên một tiếng, cảm thấy tiếc nuối. Lại nghe Phương Ninh cười nói: “Để chúng đi đi. Đời người luôn có ràng rịt, hai con nhạn chúng hoàn toàn không bị câu thúc cũng tốt. Cuối cùng tuy rơi xuống cát hoang bùn lạnh, nhưng cũng coi như đã bay đi”. Hàn Ngạc không nói gì. Gã với Đỗ Phương Ninh lên ngựa, đi từ từ về. Được một khắc, vầng thái dương vàng vọt treo bên trời tây soi bóng người ngựa lê dài trên mặt đất, có lúc ngẫu nhiên hợp thành một, có lúc lại tách rời ra. Sóng vai mà đi như vậy, dần dần cả hai lại tắm mình trong nỗi niềm ấm dịu --- Thả bước thong dong bên nhau như vầy thực là hay, Hàn Ngạc chỉ muốn con đường này vĩnh viễn đi hoài không hết. Đỗ Phương Ninh lại bắt đầu có ý thụt lại nửa bước, nàng đã lâu rồi không được nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc lúc trầm mặc tựa hồ càng có phong độ, đó là ánh sáng và vẻ yên bình ẩn tàng đằng sau bóng tối. Nhìn thân ảnh lanh lẹ của Hàn Ngạc trên lưng ngựa, thần thái trong mắt Đỗ Phương Ninh biến ảo. Gã xắn tay áo vì trời quá nóng, cánh tay rám gầy khống chế cương ngựa, bắp tay vồng lên mạnh mẽ, lấm tấm mồ hôi. Đỗ Phương Ninh thẫn thờ, bắp thịt điểm xuyết những giọt mồ hôi lấp lánh dẫn theo chút tinh khí nam nhi lọt vào mắt mình vào buổi chiều tàn nóng bức này thực có sức dụ hoặc khôn tả. Đỗ Phương Ninh liếc liếc, nhãn thần tựa hồ bị nó thu hút, hơi thở khẩn trương hẳn. Nàng chưa từng có cảm giác như thế, cảm giác đó sao giống… Mặt nàng chợt lan ướt một màu hồng, hơi thở nặng nề. Hàn Ngạc đi đằng trước cũng đã phát giác, gã quay đầu lại, hoàn toàn không biết mình là nguyên nhân: “Sao vậy?”. Đỗ Phương Ninh mặt càng bừng đỏ, thừa lúc gã chưa nhìn rõ mặt mình, giục ngựa phi nhanh đi. Hàn Ngạc còn đang hoang mang vì cử động của nàng, lại nghe Đỗ Phương Ninh hối thúc: “Chạy mau lên, xem Thông nhi của tôi nhanh hay là Ban Chuy của chàng nhanh”. o0o Mấy ngày liền Hàn Ngạc sợ nhất là gặp Đỗ Phương Ninh. Vì chỉ cần trong lòng dâng chút ý niềm ôn nhu là lồng ngực lại khó chịu như bị dao cắt. Trùng độc cũng đã nằm trong mình gã hơn một năm. Trước đây tuy gã thường hay nghĩ đến Phương Ninh, nhưng luôn cảm thấy hai người xa sông cách núi. Hễ nhớ thì thỉnh thoảng có cảm thấy hơi bực bực ê ê trong bụng, nhưng còn chưa ngại lo gì. Đến bây giờ sau khi kết hợp cả vùng Tái ngoại, dù cách xa Đỗ Phương Ninh mấy tháng mà lại có cảm giác đồng tâm như một, gặp mặt ấm nồng, thuốc của Lợi đại phu cũng đã hết công hiệu, trùng độc phát tác lợi hại vô cùng. Vốn gã chỉ có yêu đương cô gái này, cảm thấy nàng thực là thần bí mê ảo quá, vừa gặp trên Lạc Du nguyên là đã dốc lòng. Dần dần sau khi hiểu thấu, gã không khỏi sinh ra thêm chút thương tưởng: nàng hóa ra cũng là một nữ tử cuộc đời khốn khổ phải vùng vẫy tranh đấu. Ngày nay bên dưới niềm yêu lại thêm vào một phần kính trọng --- Gã đã nghe sứ giả mà Đỗ Phương Ninh phái đến cách đây mấy tháng kể về lúc Cư Duyên bị vây hãm nàng đã vung Thanh Sách và chủy thủ quyết chiến trên tường thành ra sao! Lúc đó gã nghe mà lòng trào dâng nhiệt huyết. Cư trú trong Cư Duyên thành mấy ngày nay, tuy hàng ngày gặp mặt Đỗ Phương Ninh, gã phải đề phòng dè dặt tránh né cảm giác đau điếng đột phát kia, lại không thể để lộ ra mặt, sợ gây cho Phương Ninh phải lo lắng. Vì vậy thời gian này thực là khổ não. Mà mỗi khi đêm đến, gã với Đỗ Phương Ninh cùng nghỉ ngơi trong một dịch quán. Nằm trên giường, tĩnh lặng trong đêm, tuy cách mấy gian phòng, lại có cảm giác từng hơi thở của nhau đều có thể nghe rõ mồn một. Lúc đó gã không tránh khỏi tương tư, như câu thơ “Mỗi dạo đêm về nhớ vẩn vơ”4. Khi đó, mái tóc đen nhánh của Phương Ninh tựa hồ lợi dụng sự bao bọc của bóng đêm mà mọc tuôn ra từ lòng Hàn Ngạc. Gã giơ tay muốn dịu dàng vuốt ve mái tóc lòa xòa đó, mơ tưởng bên dưới là một gương mặt mê loạn si tình, nhưng thần thái ẩn hàm trên gương mặt kia là cái gã một mực cảm thấy thần bí không hiểu nổi. Gã muốn hiểu nó, đọc thấu nó, lại tựa hồ không có cửa để vào. Đến đêm, giờ là đêm, trong đêm, gã lại mơ tưởng lột đi lớp vỏ cứng cỏi của nàng --- như lột vỏ trái vải xứ Lĩnh Nam vậy, sau khi lột xong, bên trong có phải trắng ngần vui lòng vừa ý, kinh tâm động phách không? Nếu cắn vào lớp thịt mọng, để vị ngọt thấm vào môi miệng, có phải gã sẽ hiểu thấu hiểu suốt được nàng, khiến cho nàng sản sinh tình cảm quyến luyến thân thiết với mình? Khi đó ngón tay Hàn Ngạc luôn luôn cảm thấy khô khốc, nóng hổi, cong cớn, cứng đờ, như bị động kinh. Đó là một bàn tay mong mỏi vuốt ve vỗ về, nhưng lại không thò đến được bên nàng. Cũng đỡ là về đêm, gã có thể thăm dò căn nguyên sự nóng bức sục sôi của mình. Một tay che trăng, hai tay che trời, đuốc lửa dưới đất giơ cao, thiêu đốt, lấy một tư thế nghểnh cao mà thiêu đốt vầng trăng gã khổ não tương tư lại khó lòng thân cận. Trăng tan, sóng sóng sánh sánh sạt băng lở tuyết, sau đó, rên lên một tiếng, rơi đánh “bình” lên mình gã, băng tan tuyết chảy, tưới dập hết những quyến luyến trông mong của gã. Cảm giác sau đó sao lại hụt hẫng đến thế? --- Đến lúc nào mình mới có thể tỉnh khỏi giấc mộng hỗn loạn này, mở mắt là gặp được gương mặt điềm tĩnh của nàng? Hàn Ngạc có cảm giác bàn tay của Phương Ninh cũng đang tìm đến mình, móng tay bấu ngập lòng gã. Mỗi lần như vậy, Hàn Ngạc lại cảm thấy một nỗi đau đớn khác ngoài nỗi đau nhức cổ trùng. o0o Tiểu Kế có hôm sáng sớm tới sắp dọn giường chiếu cho Hàn Ngạc thay Liên Ngọc, đến khi xếp chăn không khỏi cười ngất. Hàn Ngạc giật mình phát giác, mặt đỏ bừng lên. Miệng Tiểu Kế lại a í à ơi hát: Lên núi cao dõi trông Bình Xuyên, Bình Xuyên có một đóa mẫu đơn, nhìn thì dễ mà hái thì khó, hái không được thực là uổng.5 Hàn Ngạc từ mặt tới cổ đỏ lòm, chỉ còn nước để mặc cho nó gập hông cười. Dư Tiểu Kế lại không cho là mình quá đáng, cười hì hì bắt đầu vòi tiền. Dư Tiểu Kế hai ngày nay cơ hồ không có ở nhà. Hàn Ngạc cũng không có cách nào ngó ngàng tới nó, dù gì đi nữa thì nó vẫn còn là một thằng bé. Mấy tháng rồi xông pha chiến trận, cũng thực làm khổ nó quá rồi, để nó đi chơi cho vui đi. Ban ngày ban mặt, gã có thể tìm cách không gặp mặt Phương Ninh. Nói thực ra, cái gã sợ không phải là nỗi đau đớn do trùng độc phát tác --- Chỉ cần mình có nhau, đau đến chết thì đã sao? Cái gã sợ chính là niềm thất vọng không có kết quả, không có chung cuộc. Đến lúc tình cờ gặp nhau, những hôm đó chuyện bọn họ đàm luận đa số là chuyện tây chinh của triều đình. Bởi cuộc tây chinh này, triều đình phải chuẩn bị một số lượng tiền bạc và lương thảo khổng lồ, thậm chí còn có văn thư yêu cầu Hàn Ngạc lo liệu trù bị một phần từ mười lăm tòa thành Tây Vực. Vì chuyện này, Hàn Ngạc không tránh khỏi đau đầu. Gã phải tính toán chính xác, lượng sức mà làm --- Đây là đại sự hiện nay, gã không thể không giúp Vương Hoành Hải một tay, nhưng mười lăm thành cục thế mới an định, gã chẳng thể tát cạn nước để bắt sạch cá, nhắm tới lợi ích trước mắt mà không tính toán cao xa, phá hư cơ nghiệp tốt đẹp. Cho nên mấy ngày nay gã cứ hí húi sổ sách trong trướng, cuối cùng mệt mỏi đến mức chẳng còn lo nghĩ gì đến tình huống cùng quẫn giữa mình với Đỗ Phương Ninh. Hôm đó Hàn Ngạc dò ra trong cấm vệ quân có hiện tượng lạm dụng chức quyền tham ô, gã không khỏi nổi giận, đích thân đi tra cứu, hóa ra con số liên quan lớn vô cùng. Hàn Ngạc tức quá, sau khi điều tra xong liền mở trướng lớn ở trung quân, gọi người đó đến, nhất nhất hỏi cho ra. Người đó không chối cãi gì được, mặt mày tái mét. Mặt Hàn Ngạc cũng trắng nhợt, tay gã cầm quân lệnh, chần chừ một hồi rồi mới giận dữ quát lớn một tiếng: “Chém!”. Trong trướng im lìm. Người đó không ngờ lại bị trừng phạt nghiêm khắc đến thế. Hắn nhìn Hàn Ngạc, thấy Hàn Ngạc thẫn thờ --- Đây vẫn là lần đầu tiên gã thét lệnh chém đầu tướng sĩ thủ hạ, nhưng gã không thể không làm như vậy. Người đó trước khi ra khỏi trướng lại ngoái nhìn Đỗ Phương Ninh sau lưng Hàn Ngạc, cười thê thảm: “Hàn Tuyên phủ sứ, quân lệnh của ngài luôn luôn nghiêm khắc, không nhân từ với kẻ dưới thì tôi cũng không nói gì được. Chuyện này tôi sai, tôi không nên có lòng tham như vậy. Nhưng trên đời này, kẻ tham ô đâu phải chỉ một mình tôi! So với những đại nhân vật thì tôi có ra gì chứ! Tôi thực là một kẻ oan khuất quá!”. Thanh âm của hắn thê thảm, Hàn Ngạc mặt tái nhợt, không nói được tiếng nào, gắng trấn định ngồi cho đến khi xong việc, cũng không kêu thủ hạ trình dâng thủ cấp, ra lệnh chôn cất đàng hoàng, phái người về an ủi giao tiền trợ cấp cho gia đình của hắn ở Quan Trung. Qua chuyện hôm đó, gã một mình phi ngựa ra khỏi Cư Duyên thành, khóc rống giữa vùng hoang dã. Gã cũng không biết mình tại sao lại khóc --- Vì sao vậy? Vì những tướng sĩ mà gã không thể không hy sinh trên sa trường? Vì gã quan coi sóc quân nhu tham ô mà gã không thể không chém? Hay là vì… Gã cảm thấy trong lòng tràn ngập vô số những bùi ngùi phiền muộn.
3 Xem chú thích {2} hồi 47. 4 Nguyên tác là “mỗi đáo dạ lai quán khỉ tư”. Câu thơ này Tiểu Đoạn có giải thích nguồn gốc trong bài viết cho Thương Nguyệt làm lời tựa xuất bản hai bộ MẶC HƯƠNG, xin trích dịch dưới đây: ------------------------------------------------------------ Thương Nguyệt lúc còn trong trường là người rất mê lên mạng. Tôi nhớ mình thường viết bản thảo đến cả hai ba giờ đêm mới xong, vậy mà vẫn có thể lên mạng tìm nàng. Hai bên lại nói cười râm ran một phen. Nói chuyện với con gái thực là chuyện thoải mái nhất trên đời. Tôi hay sợ lên ICQ, vì ICQ toàn là nam sinh, ai ai cũng nghiến răng nghiến lợi kể lể sầu tư bát ngát, hoặc nhíu mày nhắm mắt bàn luận đời người. Tương phùng với nam tử, hở ra là bị ép "luận kiếm". Mà tôi lại sợ "luận kiếm". Kiếm là thứ dùng để múa một mình, tôi hay nói. Cho nên hai ba giờ khuya, tôi thường hay lên mạng kiểu "ẩn thân", đi nói chuyện trên trời dưới đất với tiểu cô nương Thương Nguyệt, cười giỡn chẳng chút e dè. Khoảng thời gian đó thường hay lan man phá phách vậy đó. Chủ đề huyên thuyên thực ra không có gì, trong số những cái thường nói đến là chọc nàng về chuyện "lấy chồng". Đương nhiên bọn tôi rất "nhã". Hễ luận tới chuyện nàng lấy chồng, hầu như lần nào cũng rất văn vẻ chải chuốt. Lúc đó bọn tôi có phong trào chơi làm thơ trên mạng, có lúc đối đáp với nhau, mỗi người làm một câu. Nhắc đến việc đó, bài "Sơ trang thi" viết cho nàng cũng câu cú lắm đó. Ghi lại cho vui: Mỗi đáo dạ lai quán khỉ tư, tiểu Thương Nguyệt nhi nhị bát thì, phong phiến quần nhi tấn vũ ti. Đậu khấu sao đầu nguyên túc mệnh, diêm linh nhứ ngữ tiểu si si, nhược cá khâm triền tiểu yêu chi? (Tạm dịch: Mỗi dạo đêm về nhớ vẩn vơ, bé Thương Nguyệt đã tròn đôi tám, váy xuân lộng gió tóc mưa râm. Hạt đậu non mầm nhú mộng mơ, dưới chuông ríu rít đam mê tám :D, có kẻ choàng chăn ấm eo em?) Thuở đó Thương Nguyệt đang hăng hái khoái chí làm Thập lục muội trong "Phỉ bang" (bang cướp). Cái
"đậu khấu sao đầu" là trò chơi đố chữ không mấy cao minh, chữ "khấu" (蔻 - đậu khấu) bỏ một đầu thành
" khấu" (寇 - ăn cướp). Câu "diêm linh" là nhớ tới năm xưa cùng du ngoạn Tây An, nàng dùng thuật ngữ kiến trúc giảng giải phong cách của Đại Nhạn Tháp cho tôi nghe.
Th ương Nguyệt lại lấy làm bất mãn, nói tôi tả nàng như một cô bé si khờ. Lúc đó nàng vẫn còn tâm tính bé gái, "yêu" sự buồn thảm --- Thời niên thiếu ai ai cũng hay như vậy phải không? Luôn cảm thấy chỉ có ưu thương đến mức thê thảm mới có thể kéo vực ta khỏi đời người tầm thường này, tạo dựng một con đường, tiếp xúc một cách thắm thiết với bản chất của cuộc đời. Tiểu Nguyệt nhi vì vậy mà lúc ấy rất hay tuyên dương sự thê thảm trong văn từ của mình, như Huyết Vi. Tôi lại không thích cái đó. Sở dĩ tôi thích Thương Nguyệt là vì sự ung dung và lộng lẫy rực rỡ ngọc ngà hết sức bẩm sinh của nàng. Còn câu cuối thì là vì Thương Nguyệt, tuy chẳng biết mình đã đẹp quá rồi mà hay hối tiếc rằng bản thân không đủ đẹp, lại cực kỳ đắc ý về cái eo thon của mình ---- ngoại trừ so bì với ca ca Giang Nam của nàng thôi. … ------------------------------------------------------------ Xin chú thích thêm cho đoạn dịch bên trên: Trong câu "Phong phiến quần nhi tấn vũ ti", "vũ ti phong phiến" là thành ngữ hình dung mưa phùn gió nhẹ ngày xuân, xuất xứ từ "Mẫu đơn đình - Kinh mộng" của Thang Hiển Tổ thời Minh: "Triêu phi mộ quyển, vân hà thúy hiên; vũ ti phong phiến, yên ba họa thuyền". "Đậu khấu" chỉ thiếu nữ xinh xắn cỡ mười ba, mười bốn tuổi, lấy điển từ hai câu thơ trong bài thơ "Tặng biệt" của Đỗ Mục: "Phinh phinh niểu niểu thập tam dư, Đậu khấu sao đầu nhị nguyệt sơ" (Xinh xắn yểu điệu cỡ tuổi mười ba, [đúng là] đậu khấu nhú ngọn đầu tháng hai). 5 Xem chú thích {5} hồi 32.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 56 Vật tình duy hữu túy trung chân1
Khóc m ột trận rã rượi, Hàn Ngạc về đem tất cả những sổ sách của cấm vệ quân và Liên Thành Kỵ trong nửa năm nay ra xem kỹ. Những suy đoán ngờ vực của gã thì ra không chỉ là suy đoán ngờ vực, nhưng gã còn chưa dám tin, điều tra kỹ càng đến ba ngày, sau đó không khỏi ngồi thừ ra. Gã phái người mời Phương Ninh đến. Những ngày qua, gã vì để tránh trùng độc phát tác, ít khi nói cười với Phương Ninh, cảm thấy Phương Ninh dần dần cũng lạnh lùng với mình. Song le hai người chỉ ngấm ngầm gầy chiến tranh lạnh, người kề cận còn chưa phát giác ra. Hàn Ngạc lại không có cách nào giải thích với Phương Ninh nỗi khổ của mình, nhưng chuyện trước mắt lại là công vụ, gã thốt: “A Ninh, ta đã xem sổ sách gần đây…”. Miệng gã chợt khô ran, lại không muốn thè lưỡi liếm môi, chỉ đành tiếp tục cưỡng bức mình nói khan: “… Từ ba tháng trước, Cư Duyên thành giải vây, Hoàng Mao chướng đại thắng, quan quyền và thương gia ở mười lăm thành quyên góp ban tặng ngày càng nhiều, có lần nàng điều đi tới hơn hai vạn lượng vàng, không phải dùng cho việc quân nhu của cấm vệ quân và Liên Thành Kỵ, mà lại là đưa về Lạc Dương”.
Đỗ Phương Ninh mặt mày bình tĩnh như thường, tựa hồ đã sớm dự liệu có cục diện hôm nay. Nàng hững hờ đáp: “Không sai”. Hàn Ngạc lòng xót xa, thấp giọng: “Tại sao?”. Mắt gã tránh né mắt Phương Ninh, Đỗ Phương Ninh có cảm giác tức hận --- Nhiều ngày rồi gã cứ một mực như vậy, gã coi nàng là gì chứ? Một thiếu phụ nhà giàu dụ dỗ tuổi niên thiếu thanh xuân của gã? Một nữ tử ác độc như rắn rít? Nàng đáng để gã tránh né như thế sao? Nghĩ vậy, nàng không thể không tức hận. Nếu là kẻ khác, nàng có thể tha thứ, nhưng nàng lại không thể tha thứ cho gã! --- Cả ngươi cũng không hiểu ta… Lòng nàng bỗng dâng lên một nguyện vọng độc địa muốn châm chích gã: không sai, ta đâu có phải như trong tưởng tượng của ngươi, ta cũng không phải là nữ thần gì hết, càng không muốn ảo hóa thành bậc kỳ nữ cống hiến hết gia sản vì nước vì dân trong mộng mơ của ngươi, ngươi không coi ra gì thì cứ mà không coi ra gì đi. Khoé môi Đỗ Phương Ninh hiển hiện một nụ cười lạnh hời hợt: “Ngài cũng biết mà, cấm vệ quân đâu phải là người triều đình phái đến, hơn năm trăm nhân mã trước sau kéo đến đây, còn phải lo cho họ ăn uống tiêu dùng, ta đã mạo hiểm bỏ tiền riêng ra mà cầm cự chống giữ. Vì họ, Vi gia bọn ta đã tốn đâu phải chỉ vạn lượng vàng, còn cả Đỗ gia nữa! Ta không phải là người thế thiên hành đạo lo lắng cho quốc gia gì hết. Những gì đã làm cho Cư Duyên thành, sau khi cục diện ổn định, cũng cần phải hoàn trả lại”. Giọng điệu của nàng nhấn mạnh bốn chữ “Vi gia bọn ta”. Sau đó nàng ngước lên nhìn Hàn Ngạc một cách tàn nhẫn, muốn thấy vẻ thống khổ méo mó trên mặt gã --- Cái ngươi một mực e dè không phải là cái đó sao? Đỗ Phương Ninh ta là người tự do, nhưng nếu ngươi không xem ta là người tự do, vậy thì ta đem thân phận Vi thiếu phu nhân ra đó! Đau gì mà đau? Đó không phải chính là sở nguyện của ngươi sao? Mày Hàn Ngạc cau lại, gã chẳng nói gì một hồi thực lâu, cuối cùng mới thốt: “Nhưng tổng số nàng điều đi đã hơn xa con số hai vạn. Số chi này ghi vào hạng mục bình thường, nói là thu mua quân nhu ở Lạc Dương thành. Lẽ nào đền trả như vậy còn chưa đủ sao?”. Đỗ Phương Ninh chợt cười lên: “Ta mạo hiểm, cả gia sản cũng trút ra hết, đương nhiên phải thu được lợi ích chứ”. Mắt nàng ngó Hàn Ngạc đăm đăm: “Nếu không, tại sao ta đem thân phận đường đường một thiếu phu nhân chạy ra vùng Tái ngoại hoang dã này?”. --- Nàng muốn xỉa xói gã, nàng muốn châm chích gã! Ai khiến ngươi muốn để ta chịu đựng sự lạnh lùng này? Ta không ngại thân phận của mình, theo ngươi viễn hành đất Tái ngoại, tuy giấu tên giả dạng, nhưng chẳng phải vẫn là bất chấp sự cười chê của người ta đó sao? Lẽ nào chỉ có ngươi sợ người ta cười chê, còn ta thì không sợ? Mà ngươi còn là một người đàn ông nữa. Miệng Hàn Ngạc bỗng đắng nghét, cổ họng thậm chí có chút hơi hướm tanh tưởi --- Thì ra là vậy! Gã khổ não thốt: “Vậy việc giết viên quan quân nhu hôm nọ, chuyện tham ô của hắn nàng thực ra đã biết từ trước? Mà những sổ bạ của hắn thì cũng không phải là của một mình hắn, chứ không con số sao lại lớn đến thế. Không trách trước khi hắn bị xử trảm lại thốt những lời như thế”. Khoé môi Đỗ Phương Ninh hé lộ nét trào phúng: “Hàn Tuyên phủ sứ, ngài quá đơn giản mà. Triều đình nhà Hán bọn ta chuyện gì cũng như vậy thôi. Thừa nước đục thả câu, đâu có ai tiết lộ ra làm gì. Ta có lợi ích riêng tư, sao lại có thể điều tra kỹ càng người khác chứ? Mọi người đều liều mạng đánh sống đánh chết đến nước này, ai lại đi đục lỗ giấy bọc cửa sổ mà vạch trần ra chứ! Con người hắn đã như vậy, không cho hắn chút của ngọt thì sao ta làm được gì chứ?”. Hàn Ngạc biến sắc: “Vậy ta hạ lệnh giết hắn, sao nàng hoàn toàn không cản ngăn?”. Đỗ Phương Ninh lên giọng: “--- Quân uy! Là vì quân uy. Quân uy của ngài là cây cột chống bên ngoài của bọn ta. Cây cột đó bất kể ra sao cũng không thể để ngã! Nó dùng để lay động chiêu dụ người ta dốc lòng quy thuận. Còn bọn ta --- sự tham ô của bọn ta… đã gọi là tham ô, đâu thể chường mặt ra. Cũng chỉ có người như ngài mới vĩnh viễn không hiểu muốn làm đại sự cần phải luồn lách trườn lướt, ngài cho rằng mọi người đều chẳng có gì phải e dè như ngài, chỉ vì một tiếng đạo nghĩa gì gì đó mà liều mình bán mạng, có phải không?”. Hàn Ngạc bàng hoàng nhìn nàng, chẳng nói được lời nào. Đỗ Phương Ninh thấy thần sắc thống khổ trên mặt gã, ban đầu còn đang hỉ hả, đắc ý mình cuối cùng đã châm chỉa được gã, báo thù cái sự lãnh đạm những ngày qua của gã. Nhưng cười cho hả rồi lại chột dạ, nàng lại áo não cảm nhận được sự quan tâm của mình. Phải, nàng vẫn quan tâm cho gã --- Hà tất phải nói những chuyện đó với chàng chứ? Cho dù đó là thực tình, nhưng chàng có cái đạo nghĩa và tinh thần trách nhiệm của chàng, một tinh thần trách nhiệm rất đơn thuần, rất trẻ thơ. Mình đâu có nên dùng giọng điệu ác độc như vậy để đả kích những cái đó, mình đáng lẽ nên hòa hoãn chậm rãi nói cho chàng biết tất cả những sự đen tối giả trá đằng sau những gì có vẻ quang minh, mà những sự đen tối giả trá đó là những cái cần thiết. Chàng phải hiểu, không có những cái đó, sẽ không có tiền, sẽ không có những giao dịch trao đổi, nàng cũng chẳng có cách nào đưa gia môn của mình vào nói chuyện với Đông cung và triều đình! Gã không thể hiểu được nàng sao? Nàng theo gã lặn lội Tái ngoại, bất kể là tính về mặt Vi gia hay Đỗ gia, cũng đã quá phép rồi. Nàng cảm thấy lòng mình chẳng hổ thẹn chút nào, gã cũng nên cho phép nàng âm thầm lo lắng cho gia môn của nàng, ăn nói được với các thế lực sau lưng chứ! Hàn Ngạc chợt yếu ớt thốt: “Phương Ninh, ta không đúng với nàng, nàng về trước đi”. Giọng nói của gã quá suy sụp, Đỗ Phương Ninh giật mình. Nàng đứng dậy một cách thất thần. Thừ ra một hồi, nàng cũng không biết làm sao đối diện với ánh mắt ương bướng tự trách bản thân của nam nhân kia. --- Gã thì ra không trách rầy nàng, gã đang tự trách, tự trách mình đã giết lầm một viên quan quân nhu. Tuy là người đó cũng có sai trái, nhưng vẫn có căn nguyên, có sai mà không đến nỗi phải chết. Gã không yêu cầu nàng gì cả, gã đem trách nhiệm quẳng hết lên bản thân gã. Mình đáng lẽ phải biết từ sớm, Ngạc là một người có cái thói tự trách bản thân như vậy đó, thậm chí luôn đem những sai trái của người khác, của thế giới bên ngoài mà gồng mà gánh chẳng tra chẳng xét. Đỗ Phương Ninh thờ thẫn đứng dậy, nhìn mồ hôi lạnh đầm đìa trên trán Hàn Ngạc, lại không có hơi sức để tỏ ra quan tâm nữa. Vì nàng sợ mình sẽ yếu đuối đánh mất sự khống chế. Nàng đi đến cửa, vẫn không khỏi dừng bước. Hàn Ngạc tựa hồ khẩn trương quá mức, quát một tiếng: “Đi!”. Tiếng hét đó gấp rút lỗ mãng như vậy, đâu có giống với tính tình thường ngày của gã. Đỗ Phương Ninh chẳng ngờ lại không bực tức, ngoái đầu lại ngó, chợt thấy Hàn Ngạc phun một ngụm máu bắn thẳng lên nóc trướng --- Độc trùng A Đổ đã phát tác khi tình yêu của gã đối với Phương Ninh lên đến mức đau thương tột bực. Đỗ Phương Ninh phi thân ngược lại, ôm giữ Hàn Ngạc đang lảo đảo muốn ngã. Mặt Hàn Ngạc tái mét không còn chút máu, ửng hiện một màu xám xịt. Đỗ Phương Ninh bắt mạch, thấy mạch chạy hỗn loạn. Thì ra gã đã tiêu hao tinh lực qua chiến dịch Hoàng Mao chướng đến dường này! Trên mình gã tựa hồ tiềm ẩn thương thế độc hại. Đỗ Phương Ninh khóc lên: “Ngạc, Ngạc, Ngạc, chàng đừng trách tôi, tôi thực không phải có ý đó. Tôi không làm vậy thì cũng không có cách nào đưa gia môn lên để ăn nói! Tôi biết chàng khổ công điều hành quân lữ, kiên cường thẳng thắn một lòng. Nhưng trong bóng tối có nhiều chuyện chàng không biết, mà những chuyện đó cần phải làm. Đông cung Thái tử, Bộc Xạ Đường, Tam Tỉnh Lục Bộ, ông bà cha mẹ hai gia đình nhà tôi, mỗi một nơi đều phải tính tới, đều phải chăm chút. Thế sự này là vậy đó, đúng là vậy đó, mọi người chỉ nhận được lợi ích và tiền. Tôi cũng không ngờ chuyện quân nhu bị chàng điều tra ra. Bất quá chàng đã hạ quân lệnh, tình thế khi ấy tôi cũng không có cách nào cản trở. Chàng đừng tự trách mình, đây không phải là lỗi của chàng. Nếu có lỗi, đó cũng là lỗi của tôi, là sai lạc của đường đời này. Tôi mong muốn được thấy chàng bay cao tiến mạnh, nhưng sống trong cái thế giới này, bọn ta chỉ có thể lần quần quanh quy tắc của nó mới có thể có cơ hành sự…”. Khoé môi tái nhợt của Hàn Ngạc hiện một nụ cười thảm, gã giơ tay muốn vuốt ve làn tóc mai của Phương Ninh: “Không phải là lỗi của nàng, ta cũng có nhiều chuyện không nói với nàng, là ta sai. Viên quan quân nhu kia, ta đã giết lầm…”. Bàn tay của gã còn chưa phớt đến tóc mà đã choáng váng hôn mê bất tỉnh rồi. o0o Một chén cháo trắng, vài dĩa đồ ăn. Hàn Ngạc hôn mê tới hai ngày, đến khi tỉnh dậy, gã nhìn thấy những thứ đó. Chập chờn mộng mị, tựa như có người nhỏ lệ bên giường, chừng như gã nghe người đó nói: “Ngạc, là tôi không tốt. Sổ bạ năm nay tôi sẽ không điều gởi đi nữa, sau này cũng dốc sức dè xẻn chuyện chăm chút cho triều đình và gia đình. Tôi không thể hứa với chàng rằng mình sẽ hoàn toàn thanh cao, tôi làm không được. Thương thế của chàng tôi sẽ tìm cách, tôi biết khi chàng tỉnh dậy, có thể người chàng không muốn gặp nhất là tôi, cho nên tôi đi trước. Tôi đi Y Ngô và Thạch Bản Tỉnh giúp chàng an bài sự vụ quân lực. Chàng dưỡng sức cho khoẻ nhé, chàng phải… khoẻ đó”. Hàn Ngạc chỉ mơ mơ hồ hồ nhớ mấy câu. Gã chỉ nhớ lúc đó muốn kéo giữ nàng, muốn nắm tay nàng, muốn nói gã không trách nàng, nhưng gã không có lực khí mở miệng. Cư Duyên hẫng hụt quá… hẫng hụt quá, Hàn Ngạc mở mắt: nàng vừa đi khỏi, ta mới hiểu cái ý của “khuynh thành” --- Khi nàng không có mặt, thành thị này đối với ta là hẫng không. Tại sao nàng và ta yêu thương nhau đến thế mà luôn có những chướng ngại cách trở, làm cho lòng hai ta xa rời vậy? Nàng không sai, nhưng tựa hồ ta cũng không thể nói mình đã sai. Cái nhân thế này, thực ra đã sai ở đâu? Thấy gã tỉnh dậy, Liên Ngọc rối rít hoan hô, mừng rỡ đỡ gã ngồi dậy. Hàn Ngạc yếu ớt hỏi: “Tiểu Kế đâu?”. Liên Ngọc đáp: “Nó cầm chịu hai ngày trời, chẳng cho tôi thay ca. Hồi nãy không chống được nữa, tôi mới ép nó đi ngủ một chút. Hay là tôi kêu nó dậy nhé?”. Hàn Ngạc lắc lắc đầu. Liên Ngọc bưng chén cháo loãng tới. Vốn định lắc đầu, nhưng thấy khuôn mặt tiều tụy vì mải lo nghĩ cho mình suốt hai ngày nay của bộ hạ, gã cũng bất nhẫn chối từ. Gã gắng ăn hai muỗng, một hồi mới nhận ra mùi vị, gã chợt thất thần thốt: “A Xu, là Xu tỷ… Xu tỷ đã đến?”. Thanh âm của gã lí nhí, tựa hồ chẳng tin nổi. Sau đó gã định thần lại, bên ngoài Dư Tiểu Kế chợt chạy tọt vào. Vừa thấy Hàn Ngạc đã tỉnh, nó nhảy phóc đến trước giường, nắm chặt tay gã, cười nói: “Ngạc ca, huynh thiệt hù chết tôi mà”. Nó chắc đã lo lắng quá lắm, trải qua hai ngày, cái cằm của nó coi bộ còn nhọn hơn nữa. Hàn Ngạc lòng ấm áp hẳn --- Thế giới này những suy tư mộng tưởng của Tiểu Kế vẫn là cái gã còn có thể đoán định được. Một chút hiểu biết đó giúp cho gã giành lại cảm giác yên ổn đối với thế giới. Gã mỉm cười thốt: “Lo cho Ngạc ca cũng đâu cần phải cả đêm không ngủ. Mắt đỏ ngầu rồi kìa, đi coi coi giống cái gì?”. Dư Tiểu Kế bẽn lẽn cười, giơ tay sờ cổ tay Hàn Ngạc, như muốn xem bệnh cho gã. Hàn Ngạc gặp nó cũng cảm thấy vui bụng, nâng cằm nó nói: “Đừng giả bộ làm thầy lang với ta. Ngươi không sợ xấu mặt sao trước mặt Hàn sư phụ à? Sao rồi, Ngạc ca bệnh hai ngày, ngươi khóc quá phải không?”. Dư Tiểu Kế bị gã đoán trúng, nghĩ tới bộ mặt mình hai ngày qua khóc lóc tèm lem, thực là mất mặt quá. Nó tức mình, xô tay gã nói: “Quỷ mới khóc cho huynh. Tôi chỉ là rầu nếu huynh chết, tôi phải bị nước mắt của Phương Ninh nè, A Xu nè, có lẽ Tiểu Thù nè, người tỷ tỷ chết thành ma của tôi nè, còn có Yêu Yêu nữa, khóc ngập lầu xá ngâm tôi thành thịt muối luôn”. Hàn Ngạc bị nó chọc cười khì: “Ngươi thực là biết nói năng, cháo này ở đâu ra vậy?”. Dư Tiểu Kế ngó gã, cười tinh quái: “Vụ này đâu thể dễ dàng nói cho biết chứ. Nếu huynh muốn biết, phải đồng ý mỗi tháng cho tôi thêm vài lượng ”. Hàn Ngạc “phì” một tiếng, gã đâu có chịu lãnh bổng lộc. Trước đây hành tẩu giang hồ, nhu cầu sinh hoạt đa phần là dựa vào số tiền kiếm được bằng cách dùng tu vi nội gia chữa trị những chứng bệnh nan y đường khí huyết cho người ta. Ngày nay bổng lộc triều đình cấp cho gã hầu hết đem bù đắp chỗ này chỗ nọ vì Biên Tái quá thiếu thốn. Số còn lại cũng bị tiểu quỷ khoái xài tiền này bóp nặn cho kỳ hết. Gã cười thốt: “Bọn binh lính ăn dầm nằm dề ở mấy cái nhà thổ mới phải tiêu tiền. Ngươi sao chứ, mới nhập ngũ có mấy tháng, thân thể còn chưa trưởng thành mà cũng bày đặt học đòi à?”. Dư Tiểu Kế mặt ửng đó, nó lưu manh lắm, bị Hàn Ngạc dựa vào thân phận người lớn chọc quê mà cũng không ăn thua gì, giơ tay thọc lét gã. Hàn Ngạc mới ngả bệnh thân người yếu ớt, làm sao mà tránh thoát, chỉ còn nước cầu xin, cười nói: “Được rồi được rồi, đây không phải là ngươi bắt, mà là thưởng cho ngươi, hơn nữa là thưởng lương lính đó. Ta sợ ngươi rồi, ngươi đi tìm Liên Ngọc mà hỏi đi, coi coi còn bao nhiêu thì cứ tấn công hắn mà lấy. Ngươi mau trả lời chuyện ta hỏi ngươi kìa”. Dư Tiểu Kế thấy nói vậy mới dừng tay, cười đáp: “Cháo này à, hôm trước Hàn Tuyên phủ sứ của bọn ta ngả bệnh nặng, ông trời thấy bất nhẫn, đã phái một tỷ tỷ dịu hiền như thần tiên nấu cho tôi mang đến. Tên của nàng ta à, không biết là A Xu hay là Tiểu Thù hen, tôi nghe cũng hệt nhau, không phân biệt được”. Hàn Ngạc nhất thời hoang mang: “A Xu, nàng sao lại có thể đến vùng Tái ngoại này? Gã đang bị bệnh, tai mắt chậm chạp, Dư Tiểu Kế vụt lách mình phóng ra ngoài rèm, kéo một cô gái tiến vào, cười nói: “Ngạc ca, tôi kéo đến cho huynh đây. Huynh từng kể Xu tỷ và Thù tỷ là chị em song sinh, huynh nói cho tôi biết coi đây là A Xu hay là Tiểu Thù? Tên của họ đọc giống hệt nhau, kêu sai cũng là chuyện dễ mà”. Hàn Ngạc ngước đầu, thấy A Xu đang mỉm cười đứng trước giường, nụ cười vẫn ấm áp như hồi còn nhỏ. o0o Nói cho cùng, Hàn Ngạc với Đại Xu phải gọi là bạn chơi chung cái thuở thanh mai trúc mã. Đương nhiên không chỉ có hai người họ, còn có một Tiểu Thù nữa, khéo sao cả ba cùng một tuổi. Hàn Ngạc hồi bé không có cha mẹ đùm bọc, gã cũng chẳng biết sinh nhật của mình vào ngày nào, có điều quen gọi Đại Xu là “Xu tỷ”, Tiểu Thù lại gọi là “Thù muội”. Tiểu Thù vì điểm đó mà luôn luôn không phục, bực tức nói: “Bằng vào cái gì mà kêu chị ta là tỷ, lại đi gọi ta là muội? Ta chỉ sinh muộn hơn chị ta có một chút xíu mà! Ta không tin ngươi lại sinh ra ngay trong khoảng cách thời gian hai đứa bọn ta chào đời!”. Tiểu Thù tính khí nóng nảy, ăn nói không hòa thuận, hay gây gổ --- Điểm này nàng ta khác hẳn bà chị. Tính tình của Đại Thù luôn luôn ôn hòa uyển chuyển, Hàn Ngạc kính ái ở chỗ đó. Vì lối xưng hô này, Tiểu Thù không biết đã động can qua với Hàn Ngạc bao nhiêu lần. Nhưng Hàn Ngạc từ nhỏ bản chất cũng rất quật cường ương ngạnh, nói gì cũng không chịu sửa miệng. Nào ngờ chút thù hằn đó lại thâm sâu đến thế. Hàn Ngạc tới bây giờ còn chưa hiểu nổi vì nguyên nhân gì mà Tiểu Thù lại hạ cổ trùng lên mình mình? Nhưng gã ngay từ tấm bé đã không hiểu nổi tính khí Trương Phi của Thù muội, cho nên giờ nhớ đến nàng ta, gã chỉ biết thở dài chứ không muốn nghĩ ngợi gì nữa. “Xu tỷ, tỷ sao lại đến đây?”. Gã ngước hỏi. A Xu nhoẻn cười, nét ôn nhu quan hoài cũng hết sức tươi tắn: “Ta lo cổ trùng đệ trúng lại sắp phát tác, cho nên mới đến. Nào ngờ đến thực đúng lúc”. Hàn Ngạc thở dài không nói gì nữa. Lại nghe A Xu hỏi: “Đệ có trách Thù muội không?”. Hàn Ngạc lắc lắc đầu, trường đời này sao phải hận người trách người chứ. Nếu có xích mích, gã hay nhắc nhở mình như vậy. Gã bùi ngùi thốt: “Ta chỉ không hiểu nàng ta sao lại phải làm như vậy”. A Xu mỉm cười nói: “Lẽ nào đệ tới bây giờ còn chưa rõ sao?”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ nhìn nàng, lại thấy sắc mặt A Xu cũng do dự thẫn thờ một hồi, tựa như không biết nên nói hay không. Một hồi lâu sau nàng mới thấp giọng: “Nó là vì… thích đệ đó”. Hàn Ngạc bàng hoàng, mặt mày ngẩn ngơ: Tiểu Thù mỗi lần gặp mình là vùng vằng bực tức chưa quăng mình vào vạc dầu sôi được, vậy mà còn thích mình sao? Gã thất kinh chẳng thốt nên lời. Nhãn thần ôn nhu của A Xu lướt qua khuôn mặt anh tuấn đang thất thần của gã, ánh mắt phảng phất cũng có một tia xót xa. Nàng nói: “Loài trùng ‘A Đổ' vốn là cấm kỵ của Tố Nữ môn bọn ta. Trong ‘Tố Vân tâm kinh' của Tố Nữ môn có ba dạng cấm kỵ là ‘độc, trùng, chú', đó là những cái không cho phép môn hạ đệ tử học và dùng: ‘Kỵ Thể hương’, “Chẩm Đầu chú', ‘A Đổ trùng’. Có điều Tiểu Thù tính khí xưa nay cũng ngỗ nghịch lắm. Vốn hồi còn rất nhỏ, nó thấy một cô gái khóc lóc rấm rứt, tức giận chồng cô ta không chịu về nhà, cứ ở ngoài lăng nhăng với bọn đàn bà khác. Nó nhớ trong môn phái của bọn ta có ‘Chẩm Đầu chú', liền lén học dạy cho cô ta. ‘Chẩm Đầu chú' là công phu dựa vào sự thành khẩn thuần túy mà khống chế tâm ma của người khác, đó là dạng nhẹ nhất, khiến cho người mình thích hôm nào không ngủ gần mình, hễ đầu đụng lên gối người khác là sẽ đau muốn toét vỡ ra. Lần đó Tiểu Thù thành công, vui hết sức vui. Nhưng ta không ngờ sau này nó lại phá cấm kỵ nữa, tu tập luôn những độc thuật khác mà Tố Nữ môn không cho phép đệ tử học. Thậm chí vì tập thuật ‘A Đổ’, nó chẳng ngại phản bội lìa bỏ sư môn, đi đầu Bắc Mang phái. Chuyện này không thể không nói nguyên nhân là đệ, mà cũng… dính dấp đến ta”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ lắng nghe. Gã biết Tổ cô bà xuất thân từ Tố Nữ môn, hai đứa cháu của bà cũng vậy. Song chuyện năm xưa Tiểu Thù phản lại Tố Nữ môn, đi theo Bắc Mang phái thì gã luôn mập mờ không rõ lý do, thấp thoáng nghe sư phụ nói mà cũng không dám hỏi, thậm chí một mực không chắc người phản môn là A Xu hay Tiểu Thù, vì tên của họ nghe không khác gì nhau. Lúc ấy gã còn chưa tới mười sáu. Từ cái năm đó, Tổ cô bà và A Xu không còn qua lại với gã nữa. A Xu bình tĩnh thốt: “Tiểu Thù phản môn bỏ phái thực ra là vì đệ. Năm đó…”. Mặt nàng hé lộ nụ cười khổ: “Đệ chắc còn nhớ trưởng bối của bọn ta hay nói đùa, từng nói sẽ cho hai người bọn ta kết mối nhân duyên chứ?”. Ánh mắt nàng nồng nàn nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc hồi ức lại thời niên thiếu xa vời, lòng cũng ấm áp làm sao. Thực ra đó còn là thời thơ ấu chưa biết chuyện yêu đương nam nữ là gì, nhưng đã từng có lời, tuy sau này đã cắt đứt đường duyên, Hàn Ngạc vẫn cảm thấy cuộc đời của A Xu và mình có liên quan rất thâm sâu. Chút ôn nhu đó không phải bắt nguồn từ tình yêu, mà là niềm cảm khái cùng ngó lại những năm tháng tâm hòa ý hợp mà hai người từng trải. A Xu dùng nụ cười che giấu nỗi buồn tận đáy lòng: “Từ lúc đó trở đi, thái độ của Tiểu Thù đối với ta cũng biến đổi. Có khi nó đứng đằng xa ngó ta, nhãn thần tràn trề ganh ghét. Ta nói chuyện với nó, nó cũng chẳng lý gì tới. Về sau… về sau có một hôm nó bỗng vui vẻ với ta lắm, có vẻ như cảm thấy mình đối xử không đúng với ta. Ta cho là nó hối hận về thái độ hằn học khoảng thời gian trước đây, cho nên cũng không để ý. Nhưng sau đó không lâu, khi ấy ta theo Tổ cô bà sống trong cung, lại phát hiện có rất nhiều nam tử quen biết ta bỗng nhiên biến đổi, trước đây muốn thân cận mà nay lại kính nhi viễn chi. Ta vốn làm trong y phòng của cung nữ, đám thị vệ thường hay ghé chơi, nhưng kể từ lúc đó thì biến chuyển hết. Mãi cho đến một năm sau, có một ngày Tổ cô bà kêu ta đến bắt mạch cho ta, dò xét hơn một canh giờ mới biến sắc nói với ta rằng: ‘Xu nhi, con không phát giác gì à? Con để người ta hạ Kỵ Thể hương từ hồi nào vậy?’. Kỵ Thể hương là độc vật hiếm có. Kỵ Thể hương trong Tố Nữ môn của bọn ta lại khác với thế tục. Thứ hương đó mà hạ xong, ban đầu rất nhẹ, từ từ thấm vào cốt tủy. Nghe nói nữ tử trúng phải nó, trên mình sẽ toát ra mùi vị thoang thoảng, mà mùi vị đó con gái không ngửi ra, nhưng nam tử lại cảm nhận được. Phàm nam tử nào mà cảm thấy, chỉ có thể nảy sinh niềm tôn kính, chứ không còn một chút xíu ý muốn… thân cận với nữ tử đó. Đó vốn là dược vật mà Tố Nữ môn chỉ dùng khi đưa cô gái nào lên nhậm chức Môn chủ để bảo đảm trinh khiết, tâm vô tạp niệm… Tổ cô bà có hỏi ai đã hạ, lúc đó ta run rẩy, nghĩ tới thái độ khác lạ của Tiểu Thù muội, ta lập tức thấu hiểu. Có điều ta không nói, cũng không thể nói. Tổ cô bà chắc cũng đã đoán được, bà run run nói: ‘Oan nghiệt mà, oan nghiệt. Đáng tội ta luôn luôn chỉ lo coi bệnh cho người ta, mà cả tâm bệnh của đứa cháu ruột cũng không nhìn ra, thực là thầy thuốc không thể tự chữa mà!’”. A Xu nói đến đó, thân mình cũng run run. Nhưng một cô gái như nàng, có run cũng rất kín đáo, kín đáo đến mức Hàn Ngạc không nhận ra. Hàn Ngạc bất tri bất giác siết chặt tay nàng như hồi còn nhỏ, bất quá hồi nhỏ gã nắm tay nàng phần nhiều là vì mình bị ủy khuất, gặp khốn khó nên tìm đến nàng để được an ủi. Lại nghe A Xu nói: “Mấy ngày sau đó ta cứ thẫn thờ. Tuy khi ấy ta còn chưa hiểu rõ, lại cũng biết Kỵ Thể hương này một khi đã hạ, đâu thể nào giải trừ được, vì người hạ dược thường hay trút hết mọi oán độc vào. Nếu muốn giải, một trong số những vị thuốc là phải lấy mạng người hạ dược. Ta biết cuộc đời mình sau này sẽ rất khác, lúc ấy cũng không nghĩ đến thực ra là khác làm sao. Từ đó, ta chỉ đến gặp đệ có một lần phải không? Cũng là vì để tìm sư phụ của đệ, chứ không còn muốn gặp nữa. Đệ chắc lúc đó cũng nghi hoặc dữ lắm phải không?”. Hàn Ngạc nhớ tới tình hình năm xưa, quả cũng rất ngờ vực, nhưng lại tựa hồ… không có thương tâm. Giờ đây gã lại có chút hổ thẹn vì mình chưa từng nảy sinh mối thương tâm đối với A Xu. Gã lặng im nắm chặt tay A Xu, thực không biết nàng xoay sở làm sao để vượt qua đoạn thời gian đó. A Xu mỉm cười: “Ta rất sợ Tổ cô bà trừng phạt Tiểu Thù. Nào ngờ Tiểu Thù lại biết bọn ta đã phát giác. Có một tối nó chợt tới trước giường ta. Nó cho là ta đã ngủ, quỳ trước giường mà khóc. Ta ở gần sát nó biết bao nhiêu lâu mà chưa từng thấy nó khóc lần nào. Hôm đó nó khóc đến tan nát cõi lòng ta. Ta nghe nó lắp bắp nói một câu: ‘Xu tỷ, tôi không phải với tỷ, nhưng tôi cũng không kềm được mình. Tôi không giống tỷ, xưa nay tôi chẳng kềm chế được bản thân’. Ta nhớ tới Tổ cô bà cứ nói hoài, Thù nhi cốt cách dị thường, không giống một nữ tử bình thường, mang ra từ trong thai Tiên Thiên đã có chút nhiệt độc, bà cũng không có cách nào hóa giải. Ta định vuốt ve an ủi nó, lại đâu có ngờ tối hôm đó nó đã cho ta uống thuốc, ta chỉ có thể nằm bất động trên giường mà nghe. Ta biết Tiểu Thù bản tính cứng cỏi, nó xin lỗi cũng không cho ai có chút cử động thương tưởng tội nghiệp nó”. “Ta muốn nói với nó rằng ta không trách nó, lại không há miệng lên được. Ta nghe nó vừa rơi lệ vừa nói. Nhưng nó bỗng căm hận, hằn học chằm chặp ngó ta, giận dữ thốt: ‘Tỷ tại sao lại là tỷ tỷ của tôi? Là tỷ tỷ của tôi cũng được, sao còn sinh đôi với tôi, diện mạo còn giống hệt tôi! Rồi còn có tính tình tốt đẹp mà ai thấy cũng thương nữa. Mọi người đều nói ưu điểm của một người con gái, công dung ngôn hạnh tỷ đều chiếm hết. Vậy kẻ làm muội muội này còn làm gì được nữa? Làm sao cũng không thoát được cái chuẩn mực của tỷ! Tôi chỉ có thể khiến cho tỷ thua tôi về hạ độc, tâm tư không ác bằng tôi, thủ đoạn kế mưu không bì kịp tôi. Nhưng cho dù tôi có thành công, trong mắt người ta tôi chỉ là một con bé hung ác, tỷ lại là một tiên nữ!’”. “Nó trừng trừng nhìn ta, rồi lại đột nhiên dịu giọng: ‘Thực ra tôi cũng muốn học theo tỷ lắm… nhưng thế gian này đã có tỷ, tôi chỉ đành làm theo kiểu cách của mình. Mà tôi cũng cao hứng lắm, tôi cuối cùng đã thành công, cuối cùng đã trở thành một bản thân hoàn toàn không giống gì tỷ. Song tại sao đến khi tôi thành công, đến khi cuối cùng đã quấy nhiễu được Tiểu Ngạc nhi ngày ngày, gây cho gã chẳng màng gì đến ăn uống, chỉ tức hận không giết được tôi, đến khi khiến cho gã thấy trên thế gian này bất cứ một cô gái nào cũng không giống được tôi, tỷ lại chẳng nói chẳng rằng cướp gã đi?’. Thần sắc của nó thoạt ôn hòa, thoạt hung ác, ta cũng chưa từng nghĩ tới tâm lý của Tiểu Thù thì ra là vậy. Trước đây ta cứ cho là nó phá phách ương bướng mà thôi. Lại nghe Tiểu Thù nói: ‘Người ta luôn cho là con gái nên như vầy, nên thế kia, tôi khơi khơi không phải vậy, khơi khơi muốn quậy phá gã, để cho gã cảm thấy tôi hoàn toàn không giống ai. Tên Tiểu Ngạc chết bằm đó, gã kiêu ngạo quá… hu hu… gã luôn luôn kiêu ngạo như thế, chẳng nhường nhịn gì tôi, cũng không chịu đối với tôi tốt như đối với tỷ'. Nó vụt biến sắc: ‘Tôi nói nhiều với tỷ như vậy là vì tôi phải đi. Vì tôi đã luyện xong ‘A Đổ' mà môn phái không cho phép ai tu luyện, ba thứ công phu cấm kỵ tôi đều đã học xong. Thực là hay đó! Được chúng, mình có thể hoàn toàn khống chế người mình thích. Tỷ tỷ, tôi không phải với tỷ, khiến cho tỷ trọn đời chẳng thân cận được với gã. Vậy thì tôi không muốn gã nữa, nhưng tôi cũng tuyệt không cho phép kẻ khác đụng tới gã, không cho phép gã thích ai khác, phải khiến cho gã trọn đời là của tỷ”. “Nó nói xong câu đó, bỏ đi không quay đầu lại. Sau này ta mới biết nó đã gia nhập Bắc Mang phái. Trong Bắc Mang phái có một môn đồ cũ bị Tố Nữ môn bọn ta đuổi đi, là Quỷ Cơ. Ả năm xưa vì không được người ta yêu thương nên gây ra những hành vi sai trái, mới bị Tố Nữ môn đuổi đi. Thực ra ta biết bọn họ không phải là không được người đời yêu thương, mà là cái bọn họ muốn nó quá khác lạ với con gái bình thường trên đời. Những chuyện đó là bí mật của Tổ cô bà và ta. Sau đó bọn ta cũng không gặp đệ nữa. Nếu không phải vì ‘A Đổ', ta nghĩ hiện giờ ta cũng không đến gặp đệ đâu”. Hàn Ngạc bàng hoàng lắng nghe, dần dần nhớ tới Đại Xu và Tiểu Thù trong ký ức mơ hồ của mình ngày xưa. Phần nhiều gã nhớ về hình dáng hồi đó của họ, lòng ấm hẳn: đối với Đại Xu, là mối nhợ ràng rịt ôn nhu; đối với Tiểu Thù, lại là một thứ đau khác hẳn. Nhưng nghĩ tới, gã lại cảm thấy nỗi phiền muộn bốc dâng trong lồng ngực. --- Cổ trùng A Đổ quả nhiên kỳ diệu. Gã đã hiểu A Xu đột nhiên kể những chuyện đó cho mình nghe là vì ngay cả nàng cũng không giải được trùng độc mà Tiểu Thù hạ, chỉ còn nước dùng phương pháp này để cố gắng tiêu trừ. A Đổ là tâm ma, cũng chỉ có thể hóa giải từ tâm. Chỉ cần gã không nghĩ tới Phương Ninh nữa, không nghĩ tới những vướng víu trước đây nữa, A Đổ cũng sẽ vì hại không được mà bị tê liệt. A Xu chợt vui vẻ như không mắc míu gì về chuyện xưa tích cũ: “Đi Tái ngoại lần này đệ hành sự rất hay đó, Tổ cô bà đang khen đệ đó”. Hàn Ngạc bẽn lẽn cười: “Xu tỷ, tỷ từ Trường An đến, chắc biết không ít chuyện trong triều chứ?”. A Xu mỉm cười thốt: “Triều đình muốn tây chinh, sự vụ điều động lương thảo vùng đông nam đã phái Đỗ Mông đảm nhiệm”. Nàng liếc Hàn Ngạc, thấy Hàn Ngạc đang ngạc nhiên. Gã thầm nghĩ: có phải Đỗ Mông là huynh trưởng của Phương Ninh không? Đúng, là y. Thực là nước nhà, nhà nước, nhà tức là nước! Mình cùng mấy ngàn tướng sĩ liều mạng miền Tái ngoại, bất quá là để thành toàn cho y bổ béo. Hàn Ngạc thừ người, khổ não hỏi: “Đỗ gia bọn họ chuyến này ngon lành rồi!”. A Xu điềm đạm thốt: “Chi tiết tường tận ta cũng không biết, chỉ nghe nói bá tánh của mấy tỉnh màu mỡ miền đông nam đang khốn khổ vì chuyện này. Hai nhà Vi Đỗ ở Lạc Dương, những năm qua môn đệ suy nhược, người vào thì ít, kẻ ra lại nhiều. Nhưng lần này tựa hồ cửa nẻo đông đúc, ca múa vui vầy”. Hàn Ngạc cảm thấy khó chịu, há miệng ói. A Xu vội bưng thau đỡ, thấy gã ói ra một ngụm máu bầm. --- Hàn Ngạc nguội lạnh cõi lòng, tình cảm trong sáng của mình với Phương Ninh mà gã luôn luôn tự cao tự ngạo tựa hồ trong nháy mắt đã bị phủ trùm lên một lớp nhớp nháp tanh dơ. Gã nhắm mắt nằm dài một hồi, có điều cũng lạ, lòng gã hụt hẫng thành tro, nghẽn nghẹn hết tình cảm nhớ thương, thì thương thế tuốt trong phế phủ do chất độc A Đổ bộc phát lại giảm thiểu thoải mái hơn nhiều. Sang ngày hôm sau, Hàn Ngạc đã có thể đi đứng. Gã nhất thời không mấy quan tâm đến công vụ. Gã cảm thấy tất cả những hành vi của mình đâu xứng đáng gọi là anh dũng đức độ, toàn làm tổn thương mạng người, cuối cùng cũng chỉ bất quá là giúp những kẻ không công hưởng lộc mà thôi. Dư Tiểu Kế thấy gã không được vui, cố theo sát gã. Hàn Ngạc thường cùng Tiểu Kế ra ngoài Cư Duyên thành uống rượu, có một lần túy lúy, gã nắm tay Dư Tiểu Kế nửa cười nửa nhăn hỏi: “Tiểu Kế, ngươi nói coi nữ nhân là cái gì vậy? Nữ nhân… thực ra là cái gì vậy?”.
1 Sự đời say mướt mới thành chân, là câu trong bài "Hoán khê sa" của Hạ Chú. Ý câu này nghĩa là chỉ khi say mới tìm về "chân bản ngã" của mình được, say mới hưởng thụ được niềm hoan lạc tự do tự tại.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 57 Thiên chuyển Tam châu Phòng ngự sứ1
“Ti ểu Kế, ngươi đi làm gì đó?”. Dư Tiểu Kế mặt ửng đỏ không đáp. Hàn Ngạc thấy nó lẻn vào cửa mà thần sắc lờ đờ, như mất mát gì vậy, không khỏi hỏi truy thêm lần nữa. Dư Tiểu Kế lúc đó mới như nghe thấy, ấp úng: “Tôi… vào cung. Cư Duyên vương phi nói muốn gặp tôi, phái thị vệ đến dẫn tôi vào cung”.
Hàn Ng ạc quan sát kỹ mặt nó, lòng ngạc nhiên: Bộc Ách Phi sao lại đột nhiên muốn gặp Tiểu Kế? Nhìn thần thái thất thần của nó, gã chợt liên tưởng đến gì đó, không khỏi cười hỏi: “Vương phi rất đẹp phải không?”.
D ư Tiểu Kế gật gật đầu: “Ừm…”. Nó tựa hồ còn đang chìm ngập trong tâm tư hồi nãy gặp gỡ Bộc Ách Phi. Hàn Ngạc không khỏi cười lên, dài giọng: “Aaạ…”. Dư Tiểu Kế còn ngẩn ngơ, một hồi sau mới phát giác thanh âm quái dị của Hàn Ngạc, lại thấy rõ nụ cười trên mặt Hàn Ngạc. Nó định thần lại, đỏ mặt tống một quyền lên lưng gã, kêu lên: “Huynh ‘aaạ' cái gì?”.
Hàn Ng ạc thầm nghĩ: Tiểu Kế cũng đã đến tuổi “địa địa nghía nghía người đẹp” rồi, chỉ là tuổi tác của Bộc Ách Phi lớn hơn nó nhiều thôi. Gã mỉm cười: “Ta đâu có ‘aaạ' gì đâu --- Còn ngươi, nóng nảy làm gì?”. Dư Tiểu Kế càng thấy khó chịu, tức tối ngó gã, nhéo Hàn Ngạc một cái đau đến há hốc miệng. Từ khi thành tài hành tẩu giang hồ tới nay, có lẽ gã chỉ chịu để một mình Tiểu Kế đánh đấm. Gã cảm thấy lần này Tiểu Kế đánh mạnh quá, lưng nóng rát hẳn, biết Tiểu Kế đã tức giận. Gã thấy Dư Tiểu Kế định nói gì đó, đột nhiên gã ngẩn ngơ. Tiếp đó gã kéo nó đến sát, nhìn mặt nó trân trân.
D ư Tiểu Kế ban đầu tức, giờ lại mắc cỡ: “Nhìn gì vậy?”. Hàn Ngạc hơn nửa năm nay sau khi gặp lại Tiểu Kế cứ bận bịu chuyện quân, lòng cũng rối rắm trăm bề, thực sự chưa từng quan sát nó kỹ. Cho dù gã thấy thân người nó cao vùn vụt lạ thường, cũng không có cảm giác gì. Đến giờ đăm đăm ngó nó, phát hiện cái bớt xanh trên mặt nó gần như biến mất, để lộ mặt mũi đầy phong độ, hai mắt to tròn, cái cằm nhọn nhọn, đúng là một thiếu niên tuấn tú. Hàn Ngạc tự cho mình không phải hạng xấu xa, nhưng giờ so với tiểu đệ này thì mình kém là cái chắc. Hơn nữa… mày mi của Tiểu Kế thấp thoáng có vẻ quen thuộc, không ngờ lại có chút giống như… Hàn Ngạc nhíu nhíu mày… giống như bộ dạng của Vệ Tử Câm mà mình từng gặp thoáng qua một lần ngày xưa. Con người đó đã lâu rồi Hàn Ngạc không nhớ tới. Gã vốn chẳng mẫn cảm gì mấy về tướng mạo, giờ đột nhiên quan sát kỹ Dư Tiểu Kế, thực ra cũng là vì vừa nãy nghĩ đến nhan sắc khuynh thành của Bộc Ách Phi, một nhan sắc e rằng thế gian này không còn ai xứng hợp được với nàng. Từ đó mà máy động tâm tư, gã lại liên tưởng đến phong thái khó mà miêu tả cho được của Vệ Tử Câm khi mình gặp trong Chi Lan viện, tựa hồ chỉ có diện mạo tướng tá của người đàn ông sống u uẩn trong Chi Lan viện kia mới có thể đem so bì với nàng. Gã đang tự cười mình sao khi nghĩ tới Bộc Ách Phi lại liên tưởng đến một nam tử không có quan hệ gì hết. Đúng lúc đó tướng mạo của Dư Tiểu Kế lọt vào khoé mắt gã, khiến cho gã giật mình phải nhìn kỹ. Đôi mắt to tròn và cái cằm nhọn nhọn quả có giống Vệ Tử Câm. Dư Tiểu Kế bị gã ngó đến bứt rứt, định ngoẹo đầu tránh né, nhưng gã lại kéo trở lại. Dư Tiểu Kế vùng không thoát, tức tối: “Ngạc ca, huynh lại điên rồi à, tôi tức quá đi thôi! Từ hồi huynh với Đỗ Phương Ninh chia tay, huynh cứ thất thần như bị điên vậy”. Nó xưa nay đâu có hảo cảm gì với Đỗ Phương Ninh, xưng hô gọi cả tên lẫn họ, cực kỳ không tôn trọng. Hàn Ngạc không để ý quở trách, mà cũng không giải thích rõ với nó, chỉ cười nói: “Ta chỉ muốn xem xem tại sao ra ngoài mà không ai ngó ngàng gì tới ta. Thì ra bên cạnh ta quả nhiên có châu có ngọc. Ngạc ca của ngươi vừa già vừa xấu, đâu còn ai thèm ngó nữa chứ”. Dư Tiểu Kế mặt đỏ lựng, “phì” một tiếng: “Huynh mà xấu, huynh xấu thì tỷ tỷ của tôi sao lại mê đến thần trí ngất ngư? Ngay cả chết e cũng chết không nhắm mắt, còn muốn hoàn hồn vì huynh đó”. Nó nói tới người chị đã qua đời mà không có vẻ đau thương, Hàn Ngạc thì lại buồn rã ruột. Lại nghe Tiểu Kế lầm bầm: “Hôm nay tôi xui thực mà, sao cứ bị người ta bưng mặt dòm ngó hoài… Mặt tôi hôm nay lên đậu à?”. Hàn Ngạc nghe vậy ngạc nhiên hỏi: “Có ai bưng mặt ngươi?”. Dư Tiểu Kế mặt đỏ hồng, nó xưa nay đâu có e ngại gì với Ngạc ca, có gì nói đó, nhưng giờ cũng không khỏi có ý mắc cỡ, thấp giọng đáp: “Không phải Cư Duyên vương phi thì còn ai. Nàng ta nâng mặt tôi, nói lải nhải không thể hiểu nổi, cái gì mà ‘lớn rồi, quả nhiên đã trưởng thành rồi'…”. Giọng điệu nó có vẻ bất mãn, Hàn Ngạc lại ngẩn người, cảm thấy đằng sau lời nói đó tất có liên quan đến thân thế mờ ảo của Tiểu Kế. Sự không hòa hợp giữa tuổi xương với tuổi thực của nó, sự cao vọt đột ngột của nó, lai lịch xuất thân của nó trong Dư gia ở ngõ Luân Hồi, còn có… quan hệ giữa Bộc Ách Phi với Dư Hoàng hậu… Gã bần thần, tiếp đó lại nhớ đến lời nói của cô gái áo đen coi số lúc vừa đến Cư Duyên thành: “Nếu ngươi có thể làm rõ chuyện xảy ra trong vương cung Cư Duyên, thì ngươi có thể kiếm được người biết nơi hạ lạc của thứ thuốc đó; nếu ngươi có thể làm một chuyện hiệp nghĩa, thì ngươi có thể nhận được sự trợ giúp của y thị; nếu ngươi có thể trợ giúp một nữ tử yếu đuối, thì ngươi có thể lấy được thứ thuốc gần như không còn trên đời này nữa”. Lời nói của cô ta lẽ nào muốn chỉ Bộc Ách Phi? Lại nghe Liên Ngọc ngoài cửa bẩm báo: “Hàn soái, Cách Phi vương tử của Y Ngô thành cầu kiến”. o0o Hàn Ngạc lẳng lặng quan sát tướng mạo của Cách Phi vương tử. Cách Phi vương tử là con trai thứ của Y Ngô vương, trạc tầm băm mấy, cao hơn Hàn Ngạc một chút, thân người thẳng thớm, cử chỉ dứt khoát, lại toát ra một sức sống tuổi trẻ còn chưa đi qua hết. Trên gương mặt đen đen, thần tình có một nét âm lạnh hùng dũng khác thường. Phần khí độ đó nhất định khiến cho con gái thích lắm phải không? Hàn Ngạc biết hắn sao lại đến tìm mình. Bá tánh trong thành vốn bất mãn Y Ngô vương do bọn Khương Nhung lập vô cùng. Vừa khởi nghĩa thành công, thoát khỏi ách khống chế của chúng, họ lập tức truất phế tên bù nhìn kia, vị trí tân Y Ngô vương còn treo hẫng tới giờ. Bảy đứa con của tiền vương và đám quý tộc thế mạnh đã triển khai vòng tranh giành vương vị này. Không ít kẻ đã đến chỗ Hàn Ngạc thăm dò cầu mong viện trợ. Đây vốn là nội vụ của Y Ngô thành, Hàn Ngạc đâu có thích tỏ bày ý kiến, gã lại đang bận bịu --- Triều đình đã hạ thánh chỉ giao mười lăm thành Tây Vực cho Hàn Ngạc, thăng gã làm Phòng ngự sứ cho ba châu: Đình châu, Y châu, Tây châu, đồng thời còn lãnh luôn danh hàm Tây lộ Tuyên phủ sứ. Thực ra ngày nay làm gì có ba châu đó tồn tại? Ba châu đó vốn ở Tái ngoại, triều đình bỏ hoang từ lâu, trừ Đình châu còn một ít cư dân, hai châu còn lại đều cơ hồ là thành không. Hàn Ngạc hiểu triều đình có ý muốn gã tính toán sắp bày cho mặt tây. Lúc này Phương Ninh rầm rộ kiến lập nha môn cho Phòng ngự sứ. Theo ý trong thư của nàng, tuy không bày bố huy hoàng gì, nhưng cũng phải khí khí phách phách dựng lên nha môn của Phòng ngự sứ mới có thể tuyên truyền uy phong của đất nước, trấn áp Khương Nhung. Hàn Ngạc thấy phải tốn vật lực nhân lực, không mấy đồng ý. Nghe nàng nói định xây ở Y Ngô vì thành trì kiên cố. Hàn Ngạc bản thân tuy luôn luôn chăm lo sự vụ, nhưng chẳng muốn nghĩ đến gì khác. Người kề cận nghe là biết Hàn Ngạc sợ nếu trú ngụ lâu ở miền tây bắc này, tất cả những kẻ hy vọng được chàng nâng đỡ ủng hộ sẽ tìm đến liên miên. Cách Phi lần này tới cũng là một trong số. Hàn Ngạc cười khổ, gã chán ghét trò khuynh loát tranh giành quyền lợi danh tiếng, nhưng nay ngồi ở chức này, muốn lo công vụ thì làm sao mà tránh cho khỏi. Chuyện vương vị Y Ngô, gã cũng không thể không lo tới. Lâu nay gã vẫn luôn mật truyền tin tức qua lại với Khố Tán. Vị vương tử Cách Phi này, theo Khố Tán nói, là một nhân vật năng nổ gánh vác trách nhiệm, một nhân tài rất hiếm có. Từ khi Khương Nhung vào chiếm Y Ngô thành, hắn cứ kéo bộ tộc của mình ra săn bắn ở vùng hoang dã chứ không chịu khuất phục. Nhưng con người của hắn cũng rất tàn bạo, Khố Tán có chấp thuận hắn thì cũng là sự chấp thuận nửa vời. Thân phận của hắn lại là con thứ, trong Y Ngô thành có không ít thế lực không đồng ý với mưu đồ giành vương vị của hắn, bao gồm cả gia đình vương hậu của tiền vương. Hàn Ngạc im lặng nhìn người đó --- Bây giờ hắn đến gặp mình để làm gì? Cách Phi nói khách sáo dăm câu với Hàn Ngạc, tựa như cũng không quen kiểu cách đó, nhất thời không khí ngột ngạt. Cách Phi chợt đằng hắng một tiếng, cười nói: “Cư Duyên thành này tôi cũng lâu rồi không đến --- Từ khi Y Ngô thành bị Khương Nhung chiếm đóng, tôi cứ đi săn bắn bên ngoài. Bất quá ở đây có chỗ thú vị hơn Y Ngô, năm xưa tôi cũng từng mấy lần vào chơi trong thành. Thành bắc có một ‘ngõ Luân Hồi', trong ngõ Luân Hồi có một người coi số rất trúng, nổi tiếng suốt một dải quanh đây, Hàn Tuyên phủ sứ không biết có đến đó lần nào chưa?”. Ngõ Luân Hồi? --- Lẽ nào cái ngõ chỗ mình gặp hắc y nữ tử kia cũng gọi là ngõ Luân Hồi? Hàn Ngạc bàng hoàng, quắc nhìn vị Y Ngô vương tử kia, lại thấy thần sắc của hắn vẫn như thường. Hắn rõ ràng không phải là người thích nói chuyện vặt vãnh về phong cảnh nhân tình địa phương, sao lại đề cập tới chuyện này? Hàn Ngạc nhất thời cũng không đoán được hắn có ý định gì. Gã chỉ “ồ” một tiếng không tiếp lời. o0o Cho dù vương tử Y Ngô kia không nhắc, Hàn Ngạc hôm nay cũng muốn đi cái “ngõ Luân Hồi” đó một chuyến. Gã lần này đến Cư Duyên nguyên nhân chính là vì căn bệnh của Tiểu Kế. Hai ngày nay sắp khoẻ lại hẳn, gã biết mình cần phải vào cái ngõ đó một lần nữa để thăm dò. Chờ đến tối, sau khi xử lý xong phần lớn công vụ, gã rảnh được một chút để ra khỏi cửa, thả bước đi về phía ngõ hẻm từng gặp hắc y nữ tử kia. Đi một khắc mới đến, cái ngõ nhỏ vẫn hoang lương như trước. Nó nằm ngay bên tường thành, bốn bề không có cư dân, lướt nhìn chỉ thấy toàn là vách đất vàng nghệch đầy vết nứt khô khốc giữa những gian nhà không có đỉnh. Sự hoang lương của thành trì Tái ngoại khác rất nhiều với Trung thổ --- Hẻm nhỏ của Quan Trung, cho dù có hoang lương, ít nhiều gì cũng còn chút hơi ẩm và rong rêu, còn ở đây lại khô cạn đến mức mất hết không còn một chút hơi nước. Nước là vật được quý trọng trong thành, địa phương không có người, cả hơi nước cũng không còn. Trong thành vốn là nơi tụ tập vui vầy, hẻm nhỏ bỏ hoang này lại giống như chút man hoang của sa mạc ngoài thành len lỏi xâm nhập vào trong. Khí trời không tốt đẹp gì, đêm mới vào canh một, trăng đã lên, không trung còn thấy cát bụi lơ thơ. Đằng sau xa xa có thanh âm khảy đàn. Tiếng nhạc suốt một dải Quy Tư là vậy đó, gần thì nghe rất vui tai, nhưng chỉ cần ở cách xa một chút, lập tức mất đi phần nhiệt khí có mặt tại trường, nghe trở nên hoang lương cực kỳ. Hàn Ngạc cũng không biết nữ tử nọ còn ở đây hay không. Gã đi vào căn nhà đất ngày trước, bên ngoài lỗ cửa sổ vầng trăng mờ mịt đến hoa mắt, vách tường đất vàng lạo xạo rơi. Trên cái án vẫn tích đọng tro hương, Hàn Ngạc còn nhớ ba chữ tro hương vẹt thành hôm xưa: Đồ Nhiên Thảo. Không ngờ trên án tới giờ vẫn còn y nguyên! Vẫn là ba chữ “Đồ Nhiên Thảo”. Nét chữ cũng toát tỏa một thứ hoang lương, trống vắng, hão huyền. Tại sao loại cỏ thuốc cứu mạng đó lại có cái tên “hão huyền” như vậy? Hàn Ngạc chợt cảm thấy đằng sau có người. Gã ngoái đầu lại, quả nhiên thấy hắc y nữ tử nọ vẫn trùm hắc bào từ đầu đến chân, co rúc trong bóng tối ngó mình. Thân thể của nữ nhân đó không biết sao cứ luôn ban phát cho người ta một cảm giác hoang đường đến thế, lại từ hoang đường mà đi đến hoang lương vô cùng tận. Lúc nhìn ả ta, Hàn Ngạc luôn cảm thấy những kẻ bói toán quả nhiên không giống người thường: trước mặt bọn họ, đời người cứ như hư vô. Bao nhiêu thực tế trong đời gã: mười lăm thành Tái ngoại, Cư Duyên này, phồn hoa giàu có, những gì gã nỗ lực bảo vệ và khống chế đều chừng như trở thành ảo tưởng trong mắt nữ nhân kia. Chỉ có Ba Đan Cát Lâm vô biên vô vọng tựa hồ mới là thực, là nơi chân thực duy nhất trong nhân gian. Căn nhà đất của ả như là chốn duy nhất để dùng một thứ phương thức hoang đường siêu thoát cuộc đời phồn hoa giả tạo này, thông tới con đường chân thực. Ánh mắt cách một lớp khăn sa dày của ả tựa hồ đang nói với mình: trên thế gian này cái gì cũng đều là giả trá, chỉ có hoang lương này mới là thực. Nhưng --- Tiểu Kế không phải thực sao? Bàn tay mà tay gã từng siết chặt không phải thực sao? Sinh mệnh cũng… không phải thực sao? Hàn Ngạc cong ngón tay cấu lòng bàn tay mình, quyết tâm hôm nay bất kể ra sao, cho dù phải ép cũng phải hỏi cho ra nơi hạ lạc của Đồ Nhiên Thảo. Gã có nghe Tổ cô bà nói qua, thứ cỏ đó gần như là không còn trên thế giới này, chỉ sinh sôi ở sa mạc Ba Đan Cát Lâm. Dù gã có tình cờ tìm được trên sa mạc cũng vô dụng, vì loại Đồ Nhiên Thảo gã cần phải là loại đã trải qua nhiều năm luyện chế, mà sự luyện chế đó hết sức phức tạp. Tổ cô bà lúc đó có nhắc đến tên Bộc Ách Phi, vậy người mình muốn tìm là nàng ta phải không? Gã chưa xác định được. Nữ nhân kia giọng khàn khàn: “Ngươi đã đến”. Hàn Ngạc im lặng suy nghĩ, không chỉ là mình muốn đến, mà còn là vương tử Y Ngô gì đó muốn mình đến. Hắn và nữ tử này có quan hệ gì? Nữ tử nọ lại đi đến trước án, lấy tay che tro hương trên án thốt: “Ta biết ngươi phải đến, vì lúc ta thắp hương, dự cảm trình hiện, tro hương đã rơi thành hai chữ ‘Đồ Nhiên’”. Khẩu khí của ả có hơi hướm lan man. Hàn Ngạc không còn sức nhẫn nại để dây dưa huyền hư với ả, lạnh lùng hỏi: “Ngươi biết thì hãy nói thực với ta đi: ta thực ra nên tìm ai? Ngươi nhất định cũng có dính dấp với y thị, có phải không? Ngươi nói thực coi ta nên làm gì? Các ngươi muốn giá gì đây?”. Trải qua sự rèn luyện của chiến trận, gã rất khác lúc trước. Nữ nhân nọ lại im ỉm ngó gã, chợt hỏi một câu: “Ngươi có dè dặt gì về chuyện thông gian không?”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ tại đương trường, có đánh chết gã cũng không tin nữ nhân nọ sẽ hỏi một câu như vậy vào lúc này. Gã đang hoài nghi mình có nghe lộn hay không, lại nghe thanh âm của nữ nhân nọ lặp lại: “Ngươi khinh ghét thông gian phải không?”. Hàn Ngạc không chịu nổi giọng điệu của ả --- Cái đám người này, cái đám bói toán này, bọn họ thực ra đang nghĩ những gì? “Thông gian” --- Gã cơ hồ chưa từng nghĩ đến từ này, nay vừa nghe người ta nhắc tới, cái gã lập tức nghĩ đến lại là… Phương Ninh. Gã thống khổ nhíu chặt đôi mày, nhớ đến lời nói của Liễu Tam Tài bên Thiên Tân kiều --- “Để đôi gian phu dâm phụ đó hưởng thụ cuộc hẹn hò của chúng đi!”. Gã thậm chí còn hoài nghi hắc y nữ tử kia có phải đang tra khảo đạo đức của gã không. Nhưng gã với Phương Ninh đâu có gì, cho dù có gì thì gã cũng nhất định không vì vậy mà tự hổ thẹn. Tiếp đó chỉ nghe nữ nhân nọ nói: “Bộc Ách Phi hiện đang lo sợ không còn có thể thông gian với người ta nữa. Y thị cần sự giúp đỡ của ngươi, cho nên ta mới hỏi ngươi có dè dặt gì đến chuyện thông gian hay không?”. Hàn Ngạc thầm thở phào một tiếng, gã biết hôm nay sẽ nghe đến cái tên Bộc Ách Phi, có điều nào có ngờ lại được nhắc đến như vầy. Gã nhất thời không biết nên nói gì. Đối với chuyện riêng của người ta, gã luôn luôn không cảm thấy có hứng, cho dù là một nữ nhân mỹ lệ như Bộc Ách Phi. Nhớ đến vẻ đẹp của Bộc Ách Phi, gã lại không khỏi nghĩ tới một Cư Duyên vương béo phệ đần độn, nghĩ tới năm xưa nàng sao lại thành một con cờ bị gả bán ra hoang mạc này, nghĩ tới mấy lần gặp mặt, trong phong vận cười nói vui tươi của nàng thấp thoáng một thần sắc mà người ngoài khó lường được, nhất thời gã có cảm giác cho dù nàng có đi thông gian, có lẽ cũng có thể lý giải được phải không? Nữ nhân nọ chừng như đã đọc được thần sắc thông cảm trong mắt gã. Nhưng ả xem ra cũng có hơi kinh ngạc đối với phản ứng của Hàn Ngạc, chỉ nghe ả hỏi: “Ngươi không muốn biết kẻ thông gian với y thị là ai?”. Phải, là ai? --- Hàn Ngạc lúc đó mới nghĩ tới vấn đề đó. Mắt nữ nhân nọ tựa hồ bốc dâng nét cười cợt, dạng nam nhân khù khờ như Hàn Ngạc thực không có nhiều --- Gã sao lại không có chút cảm hứng đối với một vấn đề thú vị như vậy? Ả thốt: “Ngươi không hỏi vài câu sao? Nói chuyện với ngươi, ta cảm thấy rất mệt nhọc đó”. Lời nói của ả có ý chọc quê. Hàn Ngạc cũng cảm thấy nói chuyện với ả rất mệt nhọc mà! Gã miễn cưỡng tạo hứng: “Người đó là ai?”, lòng lại thầm nhủ: có quan hệ gì với ta chứ? Song le lời nói tiếp sau đó của nữ nhân nọ lại cho thấy có liên quan với gã: “Cách Phi, là Y Ngô vương tử Cách Phi. Chắc ngươi cũng đã gặp mặt rồi chứ?”. Hàn Ngạc đờ người --- Gã tới giờ mới minh bạch hoàn toàn, nhưng gã lại cau mày. Gã không thích thứ giao dịch như vầy, gã không thích dùng quyền lợi trong tay mình để tiến hành giao dịch trao đổi. Nữ nhân nọ nói trực tiếp: “Đồ Nhiên Thảo mà ngươi cần đang ở trong tay Bộc Ách Phi, nhưng y thị muốn ngươi giúp y thị một việc. Việc này chỉ có ngươi mới có năng lực làm được, đối với ngươi mà nói, cũng rất giản đơn. Chỉ cần ngươi đáp ứng, Đồ Nhiên Thảo kia y thị nhất định sẽ dâng cho ngươi. Thứ cỏ thuốc đó trên thế gian này e chỉ còn một phần nhỏ thôi”. Ả không cần nói rõ, Hàn Ngạc cũng biết ả muốn gì --- Không sai, gã hiện lãnh chức Tây lộ Tuyên phủ sứ và Tam châu Phòng ngự sứ, sau lưng còn có một triều đình hùng mạnh, tay lại đang nắm bảy ngàn quân Liên Thành Kỵ, quả có thể nói quyền lực cao nhất ở mười lăm thành trì vùng tây bắc. Huống hồ Y Ngô thoát khỏi ách thống trị của Khương Nhung vốn là nhờ gã dốc sức giải cứu. Lời gã nói ra, Y Ngô thành trên dưới không thể không trịnh trọng đối đãi. Nhưng quyền lợi đó là do mấy ngàn tướng sĩ liều mạng đổ máu đánh đổi, gã có thể dùng nó để làm một cuộc trao đổi cá nhân sao? Hàn Ngạc im lặng nhìn ả, nhất thời không biết nói gì. Bàn tay của nữ nhân nọ rút một cuộn lụa trắng ra, khe khẽ buông trải, sau đó lắc lắc hỏa tập, chiếu sáng hình ảnh trên bức tranh. Một đứa bé mắt to tròn, cằm nhọn nhọn, đôi mắt thất thần nhìn mình. Nó tựa hồ đang nói: “Ngạc ca, huynh phải cứu tôi, nhất định phải cứu tôi!”. Hắc y nữ tử lại khéo chọn đúng thời điểm bình tĩnh thốt: “Y thị muốn ngươi giúp Cách Phi lên làm Y Ngô vương --- Ngươi có năng lực đó. Uy danh của ngươi đâu còn ai vang vọng bằng. Huống hồ thánh chỉ gần đây đã thăng ngươi nhậm chức Tam châu Phòng ngự sứ. Cách Phi tuy còn bị nhiều thế lực phản đối, ngươi cũng có thể giúp hắn áp chế được. Hơn nữa chuyện này đối với ngươi cũng có lợi. Tài Đán hiện có thanh thế mạnh nhất trong Y Ngô thành cũng đâu chắc gì sẽ dốc lòng quy thuận nhà Hán các ngươi. Ngươi chỉ cần kêu Khố Tán nói một câu ủng hộ Cách Phi, hoặc chỉ cần xuất hiện cùng với Cách Phi một lần trên đường xá Y Ngô là xong rồi. Đâu phải là yêu cầu đòi hỏi gì cao đâu? Đương nhiên ngươi còn có chọn lựa khác ở Y Ngô thành, nhưng chọn Cách Phi đâu chắc gì thua kém chọn người khác, lẽ nào không phải vậy sao?”. Hàn Ngạc im lặng lắng nghe, một hồi sau gã mới bình tĩnh đáp: “Ta không thể làm”. Nữ tử nọ ngạc nhiên ngó gã. Hàn Ngạc lạnh lùng thốt: “Điều này không phải ý nói ta sẽ phản đối hắn. Ta chỉ có thể nghiên cứu lợi hại, xác định ai có lợi cho Y Ngô thành, ai có lợi cho đại cuộc Biên Tái, rồi ta mới ủng hộ người đó. Ngươi nói không sai, ta có quyền lợi đó, nhưng quyền lợi đó vốn đã đánh đổi bằng sinh mệnh của mấy trăm tướng sĩ. Vụ giao dịch này ta không thể làm. Cho nên ta không thể đáp ứng ngươi hiện giờ”. Hắc y nữ tử hằn học nhìn gã, sau đó chợt cười cuồng dại, đột nhiên rút trong mình ra một nhúm cỏ khô màu chàm sẫm. Động tác của ả cực nhanh, vừa cầm nhúm cỏ là đã đẩy liền vào hỏa tập đốt cháy. Hàn Ngạc thất kinh: đó phải là Đồ Nhiên Thảo! Đâu thể ngờ nữ tử nọ lại hạ thủ hung tàn như vậy. Gã kêu lên: “Không được!”, liền lao mình tới. Xưa nay gã chưa từng xuất thủ với đàn bà con gái nặng đến thế! Gã vỗ một chưởng phách không lên nhúm cỏ đang bốc cháy, chưởng thế đập lên ngực nữ tử nọ, ả ôm ngực thoái lui. Hàn Ngạc đoạt được nhúm cỏ, lập tức dập tắt lửa. Khói vẫn đang bốc nghi ngút, cỏ lại đã cháy rã trong tay, chỉ còn lại tàn vụn. Mặt Hàn Ngạc đỏ bừng lên, giận dữ quay sang nữ tử nọ: “Đây không phải là chỗ Đồ Nhiên Thảo duy nhất chứ? Ngươi đừng cho là ta sẽ không giết ngươi! Cỏ này còn không?”.
1 Phòng ngự sứ là một chức quan, thời Tống để võ tướng lãnh nhận, bậc cao bằng Đoàn luyện sứ, thấp hơn Quan sát sứ. Đỗ Phủ có bài thơ "Phụng tống Thục châu bách nhị biệt giá tương trung thừa mệnh phó Giang Lăng, khởi cư Vệ thượng thư thái phu nhân, nhân kỳ tòng đệ hành quân tư mã vị", trong đó có câu "Thiên chuyển ngũ châu Phòng ngự sứ" (dời qua nương nhờ ngài Phòng ngự sứ coi sóc năm châu). Ở đây Tiểu Đoạn đổi "ngũ châu" thành "tam châu".
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 58 Khởi cư bát tọa thái phu nhân1
Đ ây vẫn là lần đầu trong đời gã lên tiếng uy hiếp một cô gái. Nữ tử nọ lạnh lùng ngó gã, tay ôm ngực khẽ ho húng hắng. Màn khói lan tỏa từ nhúm cỏ cứ lẩn quẩn không chịu tan, trong nhà hăng hắc mùi cỏ tươi. Sao cỏ khô lại có hương vị của cỏ tươi? Nữ tử nọ thốt: “Trên thế gian này, Đồ Nhiên Thảo đã trải qua chế luyện chỉ có một nhúm”.
Hàn Ng ạc ngẩng lên, hai dòng lệ cơ hồ muốn tuôn rơi: gã đã giết Tiểu Kế rồi! Gã đã giết Tiểu Kế rồi! Gã nắm giữ hai vai nữ tử nọ, miệng quát: “Ngươi đi tìm Bộc Ách Phi đến cho ta! Ngươi kêu ả nội trong vòng ba tháng phải luyện cho xong Đồ Nhiên Thảo mới cho ta. Nếu không… nếu không…”. Mặt mày gã bừng bừng lửa giận, bình sinh gã chưa từng nổi giận đến như vầy, chỉ nghe gã hung hăng thốt: “… Ta cho dù có phải làm ngược lòng trời, bất nhân bất nghĩa, dốc sức ép bức, ta cũng phải giết ngươi, phế Bộc Ách Phi, giết sạch người trong Cư Duyên vương cung, giết cả tên Cách Phi kia! Phàm những ai có liên quan với Bộc Ách Phi, ta sẽ giết không chừa một mạng. Ta bắt ả thưởng thức cái tư vị cô độc góa bụa, bắt ả dung nhan tàn tạ, để cho ả sống không bằng chết!”.
Gã nói m ột tràng mà nỗi giận dữ trong lòng chưa giảm bớt được. Vừa nghĩ tới thương thế của Tiểu Kế có thể không còn cách trị, đầu óc gã có cảm giác sợ hãi và phẫn nộ ăn lấn đến tậy đáy sinh mệnh: “Các ngươi… các ngươi lấn áp ta quá rồi”.
N ữ tử nọ cũng nổi nóng “Vậy ngươi tự đi tìm đi! Triều đình các ngươi còn nợ Bộc Ách Phi, các ngươi còn nợ y thị! Các ngươi biết những năm qua y thị đã gánh vác những gì cho các ngươi chứ? Các ngươi quăng y thị một mình một bóng vào tòa cô thành vùng Tái ngoại này mà có từng đặt mình vào tình huống của y thị, có từng thương xót y thị hay chưa? Hiện tại các ngươi đắc ý rằng y thị còn là một bà phi chính thống, còn tiếp tục mạo danh một cô con gái dòng dõi quý phái của thiên triều cao xa hun hút. Nhưng các ngươi có biết lúc y thị đến, Cư Duyên vương có bao nhiêu phi tần hay không? Nếu y thị không mạo hiểm mưu cầu sống còn, đến giờ không biết xương cốt đã rữa mục tới đâu rồi. Bảy năm trước Khương Nhung vùng dậy, triều đình các ngươi đã làm được những gì? Ngươi cho là bảy năm qua Cư Duyên thành vẫn không lọt vào sự khống chế của Khương Nhung là vì Cư Duyên vương cảm niệm uy đức và ơn huệ của triều đình các ngươi? Không phải đâu! Đừng hòng như thế! Bộc Ách Phi tuy bị người Hán các ngươi bỏ rơi, nhưng ngày đêm không quên các ngươi. Là y thị, chính y thị đã lập mối giao hảo với mười lăm thành, âm thầm bỏ ra biết bao nhiêu sức lực mới không để đứt đoạn hết mối quan hệ giữa triều đình nhà Hán và mười lăm thành. Là y thị dụng hết tâm lực mới thuyết phục được Cư Duyên vương không chịu đầu hàng Khương Nhung. Một lão đầu tử vừa già vừa ngu lại vừa hiếu sắc như vậy, y thị vẫn có thể ngồi yên trên cái ngai vương phi, lại phải lo liệu đủ thứ mưu đồ, bộ dễ lắm sao? Ngươi biết y thị những năm qua có bao nhiêu lần tuyệt vọng chưa? Y thị nào có dám trông mong sẽ có Hàn đại Tuyên phủ sứ ngươi một kiếm xông pha đến đây, tảo bình cục thế của mười lăm thành! Nhưng y thị vẫn cứ làm, chỉ mong sao lần lữa được ngày nào hay ngày đó, khiến cho Khương Nhung bị kèm cặp ít nhiều, vậy y thị cũng đâu có phụ thiên hạ đất Quan Trung. Nhưng triều đình các ngươi biết cái gì chứ? Các ngươi có khi nào cho là y thị đã làm được chuyện gì đâu? Y thị chỉ là một món hàng để giao hảo với Cư Duyên vương, tống dâng làm quà lễ! Ngươi cho rằng những gì ngươi làm được ở mười lăm thành, bao gồm Cư Duyên thành này, là không có sự giúp đỡ của y thị sao? Trong quan trong dân, chuyện cung ứng quân nhu, ngươi có biết y thị đã âm thầm dốc hết sức lực vì các ngươi không? Ngươi một kiếm mà bình định được mười lăm thành, sự trông đợi của bá tánh trong mười lăm thành, thanh danh của ngươi vang vọng ngay cả trước khi ngươi xuất hiện, sự vụ quân nhu tính toán xây đắp cho Liên Thành Kỵ, sự ủng hộ của quan quân và dân thường, ngươi cho rằng toàn là do hai đứa ngươi và ả ranh con Đỗ Phương Ninh kia làm được sao? Các ngươi nợ y thị! Các ngươi nợ y thị! Y thị có tình nhân thì sao chứ? Y thị chỉ cần ngươi giúp tình nhân của y thị một lần, đâu có trái nghịch làm hại gì với lợi ích thực sự, vậy thì đã sao? Ngươi ỷ vào một cây trường kiếm, tung hoành tứ hải, vì huynh đệ của ngươi mà có thể giết hết thiên hạ, đó là sự hùng dũng của ngươi! Nhưng y thị có gì đây? Y thị chỉ có dùng sắc để hành sự, chỉ có Đồ Nhiên Thảo để uy hiếp, còn bị người ta mắng là hồng nhan họa thủy, mắng là hạng thô bỉ ti tiện. Những gì y thị làm, so với các ngươi thì có khác biệt chỗ nào chứ?”.
1 "Bát tọa" là tám bậc quan viên cao cấp của triều đình thời phong kiến. Các tác phẩm văn học thường dùng để chỉ quan Thượng thư. Câu này có nghĩa là: vào vấn an bà phu nhân quan Thượng thư, là câu tiếp theo câu “Thiên chuyển ngũ châu Phòng ngự sứ” (xem chú thích {1} hồi 57) của Đỗ Phủ trong bài thơ "Phụng tống Thục châu bách nhị biệt giá tương trung thừa mệnh phó Giang Lăng, khởi cư Vệ thượng thư thái phu nhân, nhân kỳ tòng đệhành quân tư mã vị". Thơ của Đỗ Phủ hay khiển trách sự tàn ác của quân phiệt địa phương, nhưng ông lại phải dựa vào sự tiếp tế của quân phiệt. Sinh nhật của vợ ông Đô đốc Quỳ châu, ông phải viết bài thơ trên để chúc.
Mi ệng ả mắng lớn, mắt phừng lửa giận, cơ hồ muốn thiêu rụi vuông khăn sa dày che mặt, toàn thân run lẩy bẩy. Hàn Ngạc kinh ngạc nhìn ả, mục quang của hai người đối đầu trong bóng đêm. Ai cũng không chịu thua. Làn khói xanh trên nhúm cỏ trong tay Hàn Ngạc lạt dần. Gã định buông tha cho nữ nhân nọ đi, ả ta nói đâu có sai… Nữ nhân nọ lại giơ ngón tay chỉ gã, lạnh lùng quát: “Ngã, mau ngã xuống”.
o0o Hàn Ngạc còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, vừa hít một hơi, liền cảm thấy thân thể mềm nhũn. Gã thất kinh, đề khí lần nữa, nữ tử nọ đã vùng thoát khỏi tay gã, nhảy lùi ba
bước lạnh lùng đứng yên, giơ tay sửa lại tấm khăn sa hồi nãy vì khích động quá mà buông xéo xuống, lãnh đạm thốt: “Ngã!”.
Khói c ỏ có độc! --- Hàn Ngạc mới vừa phát giác. Nữ tử nọ quả nhiên tàn ác, ả hững hờ thốt: “Ai nói với ngươi thứ ta đốt hồi nãy là Đồ Nhiên Thảo? Đồ Nhiên Thảo đã trải qua luyện chế chỉ có một nhúm, ta đâu có dại gì đem đi đốt. Bất quá nếu không dụ ngươi khẩn trương để lộ sơ hở, Mê Điệt hương kia dù dược lực có mạnh đến đâu, muốn làm cho Thái Bạch kiếm khách nhà ngươi hôn mê e là khó ngàn khó vạn”.
L ời nói của ả toát ra vẻ đắc ý. Hàn Ngạc đề khí liên hồi, nhưng chân khí như bị rò rỉ. Thân thể nhũn ra, chầm chậm ngồi xuống, vẫn không ngã gục như lời của nữ tử nọ. Ánh mắt ả lộ nét ngạc nhiên bội phục. Ả rút một thanh đao trong ống tay áo ra. Đó là một thanh loan đao, lưỡi đao kề dưới cằm Hàn Ngạc, lạnh lùng thốt: “Ta chỉ muốn ngươi nói một câu, có chịu đáp ứng hay không? Ta không cần biết gì đến đại sự Biên Tái của triều đình nhà Hán. Cho dù ngươi là cây cột chống trời hiện tại của dải đất tây bắc này, ta cũng bất chấp. Cũng như ngươi giận dữ vì Tiểu Kế vậy, ta cũng có thể giết ngươi vì Cách Phi. Ngươi nói coi có chịu hay không?”.
Hàn Ng ạc bình tĩnh nhìn ả: “Không!”. Nữ tử nọ quắc mắt, vận kình vào đao, cứa lên cổ Hàn Ngạc. Một dòng máu tứa ra, ả lại lạnh lùng thốt: “Đừng cho rằng ta giết ngươi cái rụp, ngươi mà không chịu, ta sẽ bắt ngươi chết rất khó coi. Ngươi nói lại đi, có chịu đáp ứng không?”.
Hàn Ng ạc tĩnh tại ngó ả: “Bộc Ách Phi tại sao lại nhất định phải giúp hắn cho được?”. Nữ tử nọ nhãn thần giá buốt như băng tuyết, miệng lại nóng hổi như lửa đỏ: “Vì y thị yêu hắn. Lần đầu y thị nhìn thấy hắn trên lưng ngựa, lập tức yêu liền. Ta lúc đó trông thấy thần tình của y thị là biết y thị yêu hắn rồi”.
Hàn Ng ạc hít một hơi sâu. Không biết tại sao, gã đột nhiên cảm thấy cảm động. Vì mình mà nói, Phương Ninh có thể nào làm giống như vậy không? Nàng có vô số trói buộc gia môn của nàng, e rằng nàng không thể làm được như vậy, có phải không? Mà vì Phương Ninh, mình có thể nào làm như thế không? Gã lắc lắc đầu… Sợ rằng gã cũng không thể thực sự bất chấp đại cục. Tâm tư của gã chợt mệt mỏi quá sức. Sau đó thân người gã vụt búng dậy, lưỡi đao quét qua dưới cổ, rướm một lằn máu, nhưng gã đã bóp lấy cổ họng của nữ tử nọ, điềm đạm nói: “Trước khi ta đến đây đã có phòng bị sẵn rồi. Ta sợ ngươi lại dùng Long Đoàn hương để thoái thác nữa, ta đã ăn Bách Tẩm đan trước rồi”.
Th ần quang trong mắt nữ tử nọ nhất thời tản mác, thấp giọng: “Tổ cô bà?”. Hàn Ngạc mệt mỏi đáp: “Không sai, là Bách Tẩm đan của Tổ cô bà. Tuy thuốc đó có thể không đúng tầm để dùng chống lại thuốc của ngươi, nhưng hiện giờ ta vẫn còn tự bảo vệ mình được. Ngươi không ngờ phải không?”. Sau đó gã thở dài một hơi: “Ngươi… đi đi. Đồ Nhiên Thảo ta sẽ tìm biện pháp khác để hỏi Bộc Ách Phi”. Gã ngước nhìn bóng đêm tịch mịch. Ánh mắt của nữ tử mờ mịt --- Ả ta đã thất bại, ả ta lại không khóc, nhưng thân thể rõ ràng đã rã rời quá rồi, bộ dạng còn bi thương hơn cả bật khóc. Hàn Ngạc hỏi: “Trước khi ngươi đi, ta có thể được biết ngươi là ai không?”. Nữ tử nọ không nói, xoay mình đi ra cửa. Đến khi đi tới ngưỡng cửa, cước bộ của ả có hơi trì hoãn. Nghĩ ngợi một lúc, ả mới giơ tay kéo nhẹ tấm áo dài đen bao trùm. Áo dài rơi chầm chậm, từ từ để lộ cái eo thon thả yểu điệu bên trong. Rồi ả phất tay lên, vuông khăn sa đen cũng rớt xuống, hiển hiện cái ót dong dỏng. Ả ngoái đầu lại, nhan sắc vô cùng mỹ lệ, tuy đang trong đêm đen, cũng chừng như vụt nở rộ một đóa hoa hoang dại giữa đại mạc trần ai. Ả ta thốt: “Ngươi mãn nguyện rồi chứ?”. --- Bộc Ách Phi! Thì ra ả là Bộc Ách Phi! Ả không ngờ lại là Bộc Ách Phi! Tâm tình Hàn Ngạc nhất thời cực kỳ hỗn loạn, cũng cực kỳ kích động. Nữ tử nọ lại đã xoay đi sắp bước ra cửa. Hàn Ngạc nói: “Xin đợi đã, ta có thể đáp ứng nàng, nhưng không phải là vì Đồ Nhiên Thảo. Mà là…. vì nàng…” Thanh âm của gã ngưng lại một chút: “Triều đình quả thực đã nợ nàng, người Hán già trẻ lớn bé cũng thực đã nợ nàng, ta cũng… nợ nàng. Chuyện nàng nói, ta… nhận lời”. Nữ tử nọ bần thần ngẩn ngơ. Nàng ta đột nhiên xoay mình, rút trong lòng ra một nhúm cỏ khô màu xanh sẫm, lặng lẽ đặt lên án, rồi lại bỏ đi. Hàn Ngạc không nói tiếng nào, bỗng nhiên vòng tay hạ mình, quỳ thẳng xuống đất, bái một bái theo bóng lưng của nàng ta. Cuộc đời này, lần đầu tiên chàng bái một người, ngay cả đối với sư phụ cũng chưa từng, vì sư phụ ghét nhất là làm vậy. Bộc Ách Phi chợt sựng lại, tựa hồ đã cảm nhận được một lạy chân thành của gã. Ả muốn đi, thân người lại run run, cuối cùng vẫn dừng thêm chút nữa. Ả bình tĩnh thốt: “Ngài… hà tất phải làm vậy? Hà tất phải nhất định bắt ta lột sạch mọi tôn nghiêm rồi mới chịu nhận lời ta?”. Hàn Ngạc thấp giọng: “Nàng không nhận thấy sao? Nếu hồi nãy ta chịu nhận lời, vậy thì chỉ là một vụ trao đổi. Điều đó đối với ta mới thực là không có tôn nghiêm đó!”. Thân mình Bộc Ách Phi run nhè nhẹ, quay lại đỡ Hàn Ngạc dậy. Hai người đều là người Hán, biết bao nhiêu năm rồi, cuối cùng Bộc Ách Phi mới đón nhận được chút cảm giác thân nhân từ một người Hán. Nàng cảm nhận được sự kính trọng chân thực của Hàn Ngạc đối với mình, trong khi chuyện mình làm được có bao nhiêu đi chăng nữa thì đối với người Hán mà nói cũng chẳng bõ bèn gì. Nàng đỡ Hàn Ngạc dậy, khẽ giọng: “Thứ cỏ thuốc này phải nấu ba lần rửa ba lần rồi mới có thể dùng, ngài chắc biết rồi chứ? Tổ cô bà nhất định đã nói cho ngài biết cách dùng rồi phải không? Nhớ đó, ngài nợ ta một mối tình, không chỉ là một, mà là hai, vì ta sau này còn nói cho ngài biết xuất thân lai lịch thực sự của Tiểu Kế. Nãy giờ ta đi ra ngoài lâu rồi, hiện phải về, cho nên không kể liền được. Sau này ngài nhất định phải ghi nhớ còn nợ ta một mối tình, nhất định phải đáp ứng một thỉnh cầu nữa đó”. Nói xong, nàng ta đi ra. Hàn Ngạc đuổi theo ra ngoài cửa, lại thấy một luồng đao quang nhoáng lên ngay ngưỡng cửa chém sau lưng mình. Sau khi gã trúng độc, phản ứng không được nhanh nhẹn, chỉ lách mình được một chút, có cảm giác lưng lạnh buốt, đã thụ thương rồi. Gã định hoàn thủ, tai lại nghe thanh âm của một nam tử: “Ách Phi, nàng sao lại khóc vậy? Tại sao hồi nãy bắt ta đi? Nàng bị ăn hiếp à? Có phải ta đã đến trễ quá không? Ta giết gã để rửa hận cho nàng!” --- Là Cách Phi. Kẻ vung đao là Cách Phi. Bộc Ách Phi khẩn trương thốt: “Không phải, chàng mau đi đi. Chuyện đã thành rồi, chàng sau này phải trông nhờ vào Hàn Tuyên phủ sứ nhiều lắm đó”. Nàng ta cực lực đè nén nỗi khích động. Tay Hàn Ngạc đã phất đến mạch máu nơi cổ người kia, chỉ cần đánh tới, hắn tất mất mạng. Cách Phi ngây người, thu đao đứng yên, bẽn lẽn nhìn Hàn Ngạc, nói không nên lời. Hàn Ngạc lại mỉm mỉm cười, nhìn theo hai thân ảnh một gần một xa, một đi một đứng trong đêm tối, chợt cảm thấy đời người vẫn lắm hay ho đẹp đẽ. Gã ngó Cách Phi đang ôm đao đứng thẫn thờ, cười nói: “Ngươi không đưa nàng sao? Yên tâm, cho dù lãnh một đao của ngươi, ta cũng sẽ đáp ứng chuyện của các ngươi”. Nói xong, gã cất bước đi trước. o0o Cuộc tranh giành vương vị ở Y Ngô thành đã diễn ra rất lâu lắc, nhưng lại kết thúc cũng rất mau mắn. Đương nhiên rất mau cũng phải có kế hoạch --- Trước hết Cách Phi đích thân dẫn tùy tùng đến khao thưởng binh sĩ Y Ngô thuộc dinh “Phúc”. Liên Thành Kỵ tuy bắt nguồn từ mười lăm thành, nhưng binh mã lại quy hết dưới tay Tuyên phủ sứ, người Hàn Ngạc phái ở lại cầm đầu ngày nay là Cao Dũng. Cao Dũng tiếp được thư của Hàn Ngạc, tiếp đãi Cách Phi một cách trân trọng. Tướng sĩ Y Ngô thấy Cách Phi được thống lãnh của mình đối xử có lễ như vậy, càng thêm phần khâm phục tôn kính Cách Phi, huống hồ trong đám tướng sĩ vốn có không ít người do Cách Phi phái tới. Dưới sự cổ động của họ, nhân mã của dinh Y Ngô trong Liên Thành Kỵ dĩ nhiên nhận Cách Phi làm chúa. Sau đó, đến lúc Cách Phi về đến Y Ngô thành, Khố Tán đích thân dùng thân phận An phủ sứ thiết yến khoản đãi hắn, lại phân một đội thân binh hộ vệ hắn. Sau nữa, Hàn Ngạc phái mười cấm vệ quân thân tín tới Y Ngô, hiệp trợ Cách Phi. Mấy chuyện này làm xong, trong Y Ngô thành trên dưới đều biết Y Ngô vương theo ý của Hàn Tuyên phủ sứ là ai. Toàn thành lúc này vốn rất ngưỡng mộ trông cậy vào gã, hơn nữa mọi người đều rất cảm niệm ngày xưa gã tận tay giết chết Tông Khách Ba, giúp cho Y Ngô thành thoát khỏi sự khống chế của Khương Nhung, báo được huyết hải thâm cừu. Bản thân Cách Phi cũng rất có đức có tài, do đó ai ai cũng kính phục, mặc nhận là Y Ngô vương mới. Đến ngày Cách Phi dời vào vương cung, Đỗ Phương Ninh được thư của Hàn Ngạc, còn dùng thân phận phó sứ tới chúc mừng. Nàng và Hàn Ngạc vốn đã trở thành nhân vật trong truyền thuyết đối với bá tánh của mười lăm thành. Nàng mà lộ diện, có khác gì triều đình lộ diện, đại cục đến đó đã định. Cho dù còn có người ôm dạ bất mãn, nào có dám để lộ ra mặt nữa, huống hồ còn có tin đồn mấy ngày tới Hàn Tuyên phủ sứ sẽ thân hành đến Y Ngô, lại nghe Đỗ Phương Ninh nói rằng nàng nhận lệnh của Hàn Ngạc dâng thư thỉnh cầu cho Cách Phi lên làm Y Ngô vương. Mà những ngày qua Hàn Ngạc cứ một mực ở Cư Duyên đâu có đi đâu. Không phải là vì bệnh của Dư Tiểu Kế --- Từ sau khi gã xin được Đồ Nhiên Thảo, sắc nấu đúng cách, lại có gã là một cao thủ dưỡng khí của Đạo gia dốc chân lực tẩy tủy gò cốt, thương thế thai độc gây ra cho Tiểu Kế cũng đã dần dần vơi giảm. Sắc mặt của tiểu tử đó càng ngày càng hồng hào, Hàn Ngạc nhờ A Xu ngày ngày cùng gã nấu thuốc điều dưỡng --- Thời gian qua Tiểu Kế cũng đã phá phách vui đùa quen thân với A Xu lắm rồi! Nó luôn luôn không ưa Đỗ Phương Ninh, lại rất là thích A Xu. Hàn Ngạc thấy hai ngày nay hễ A Xu mang thuốc đến là nó hay nhăn mặt quậy phá không muốn uống, biết là bệnh thế của tên tiểu quỷ này quả không còn đáng ngại nữa, thường cười nói với nó: “Người đừng ăn hiếp Xu tỷ tỷ đó. Ngươi mà tiếp tục phá, ta sẽ đánh ngươi đó”. Tiểu Kế cười hì hì: “Ngạc ca, tôi sao lại dám ăn hiếp chị ta chứ? Nếu huynh cưới chị ta, chị ta thành chị dâu của tôi, tôi bảo đảm sẽ ngoan ngoãn nghe lời hơn ai hết”. Hàn Ngạc “phì” một tiếng, thầm nhủ: tên tiểu quỷ này rõ ràng còn tức Phương Ninh, cho nên gã không để ý gì tới lời nói của nó. Dư Tiểu Kế hết bị căn bệnh làm khổ, âm thầm nghiên cứu tập luyện tâm pháp dòng Đại Hoang Sơn của nó. Hàn Ngạc có lúc bắt gặp, thấy tay nó cầm một cuốn sách ngả vàng mang tên “Hà điển”. Dòng Đại Hoang Sơn đâu đâu cũng núi non hang hốc hoang tịch, cả tâm kinh cũng đặt tên cổ quái. Hàn Ngạc lo cho thương thế của Tiểu Kế, kêu nó đừng có khổ luyện mau quá, Tiểu Kế lại cười nói: “Ngạc ca, tôi phải luyện cho mau để giúp huynh giải trừ cổ trùng ‘A Đổ'”. Hàn Ngạc cười, cũng không coi là nghiêm trọng cho lắm. Gã ở yên một chỗ bất động lại chính là vì trong Cư Duyên thành đã xảy ra một chuyện khác. --- Lo xong cho Tiểu Kế, gã vốn định về Thạch Bản Tỉnh theo dõi Liên Thành Kỵ, chuẩn bị đề phòng Khương Nhung đến công phạt nữa. Nhưng chuyện Cách Phi lên làm Y Ngô vương khiến cho gã phải trì hoãn chuyến đi. Sau khi gã sai sứ truyền tin, sắp xếp cho xong chuyện mình ủng hộ lập Cách Phi làm Y Ngô vương, hôm đó vừa sáng sớm, Dư Tiểu Kế hốt hoảng chạy xộc vào. Hàn Ngạc thấy mặt mày nó đỏ bừng, chắc là chạy rất vội vã, liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”. Dư Tiểu Kế đáp: “Ngạc ca, Cư Duyên vương bỏ mạng rồi!”. Hàn Ngạc đang cầm chén trà, nghe được tin đó, tay thõng lìa, chén rơi vỡ tan tành. Gã không muốn tin, lại thấy sứ giả Bộc vương phi đến báo tang. Hàn Ngạc rùng mình, gã không ngờ được --- song đáng lẽ gã nên liệu trước, Bộc Ách Phi cuối cùng đã đợi được đến cái ngày này. Với tài hạ độc của nàng ta, còn có gì mà không làm được? Cái nàng ta đó giờ còn thiếu kém bất quá chỉ là một thế lực bên ngoài, mà nay thế lực bên ngoài đã có, việc Cách Phi tiếp nhậm chức Y Ngô vương đã định, có sứ giả của Thiên tử nhà Hán trong Cư Duyên thành, nàng ta không hành động thì còn chờ tới khi nào nữa chứ? Gã vẫn không thể nào tưởng tượng được nữ nhân đó lại có thể… hạ thủ một cách tàn độc như vậy. Gã không nói gì, vào cung gặp Bộc Ách Phi. Thần sắc của nàng ta lại không có vẻ vui hay giận gì, cực kỳ đoan trang, không quá đau xót, mà cũng không có gì khác lạ. Hàn Ngạc vừa gặp là nhìn thẳng vào mắt nàng. Bộc Ách Phi cũng không e dè co rụt, trái lại còn thẳng thắn nghênh đón mục quang của gã, mãi cho đến khi Hàn Ngạc không còn dám nhìn nàng chằm chằm nữa. Hàn Ngạc đi đến trước quan tài của Cư Duyên vương, thấp giọng nói một câu với Bộc Ách Phi: “Xin đừng đau buồn thái quá, giữ sức khỏe để lo cho tang sự nữa”2. Gã cảm thấy lời mình nói khách sáo giả dối làm sao. Bộc Ách Phi cúi mình đáp lễ. Hai người tuy chưa nói gì, nhưng lòng đã có vấn đáp. Bộc Ách Phi chăm chú nhìn gã, chẳng lên tiếng mà thực ra đã thừa nhận hết. Nàng không e dè tránh né Hàn Ngạc, vì nàng biết rõ giờ này phút này, Hàn Ngạc chỉ còn nước tiếp nhận sự thực. Gã tuyệt không thể để cho Cư Duyên thành loạn lạc, càng tuyệt không thể đem một kẻ mạo danh con gái nhà quý phái ra làm hung thủ, xét xử trước công chúng. Cuộc hẹn ước ở căn nhà đất, thì ra Đồ Nhiên Thảo chỉ là một sự dẫn dụ; Cách Phi muốn làm Y Ngô vương cũng bất quá là bước đầu trong mưu đồ của nàng ta. Hàn Ngạc cuối cùng đã hiểu rõ người con gái này làm sao mà sống còn dưới tình huống bao nhiêu năm vò võ, bên trong không có thân nhân, bên ngoài không có viện thủ ở tòa cô thành Tái ngoại này. Gã cũng chẳng biết nên bình phẩm người con gái này ra sao --- Nữ nhân ơi là nữ nhân, cái đêm gặp nàng ở gian nhà đất, làm sao mà nàng vừa nhiệt tình vừa chân thành được vậy? Cả ám toán cũng hết sức nhiệt tình. Nghĩ tới nàng ta hôm đó, Hàn Ngạc thực khó tin ngày nay cái âm mưu quỷ trá đến dường đó cũng phát ra từ tay nàng. Gã chằm chằm nhìn khuôn mặt béo phệ của Cư Duyên vương trong quan tài, giơ tay vạch rèm mắt, có thể xác nhận đã trúng độc --- Gã quen A Xu lâu rồi, đối với trò dụng độc ít nhiều gì cũng hiểu đại khái. Bộc Ách Phi chỉ lặng lẽ ngó gã, Hàn Ngạc hỏi: “Hậu sự xử lý làm sao?”. Lòng gã lần đầu tiên dâng hiện chút tình cảm thương tâm cho Cư Duyên vương đã chết. Bộc Ách Phi bình tĩnh đáp: “Người chết rồi, xử lý tốt đẹp đến đâu được nữa? Bất quá chỉ chôn cất cho long trọng, để ông ta dưới suối vàng sống bình an thôi. Tiền đồ của người sống mới là cái chờ định đoạt. Thành trì Cư Duyên này phải trông nhờ vào Hàn Tuyên phủ sứ trấn an phủ dụ đó”. Hàn Ngạc thở dài: “Nhưng Cư Duyên vương đâu có con trai”. Bộc Ách Phi chợt ngước lên: “Không sai. Đúng vào thời cuộc này, đem Cư Duyên thành hấp tấp giao phó cho ai cũng không mấy ổn thỏa. Hàn Tuyên phủ sứ, Cư Duyên vốn có truyền thống nữ vương. Tiểu nữ muốn dựa dẫm vây cánh của Tuyên phủ sứ, bước lên vương vị này, không biết ý Hàn Tuyên phủ sứ ra sao? Sau này cục diện đối địch với Khương Nhung, ta cũng có thể tận hết sức hèn cho triều đình. Những mong Hàn Tuyên phủ sứ dâng tấu văn về triều đình, y theo tập tục tiền lệ, phong ta làm ‘Thái phu nhân' hoặc ‘Vương phu nhân', dùng danh hiệu chính thống thay thế triều đình thống lãnh tòa cô thành Tái ngoại này”. Hàn Ngạc im lặng nhìn nàng, không nói câu nào. Lòng bàn tay gã lại cảm thấy buốt giá - - Lại một mạng người, lại chính tay gã tiễn một mạng người. Mà đây chính thị cái gọi là quyền mưu…
2 Nguyên tác là "tiết ai thuận biến". "Tiết" là tiết chế (tức là dè dặt, kềm chế), "biến" là biến cố. Ức chế bi thương mà lo liệu cho biến cố, là câu dùng khi thăm viếng an ủi người nhà của kẻ qua đời. Xuất xứ từ sách "Lễ ký - Đàn cung hạ": "Tang lễ, ai thích chi chí dã; tiết ai, thuận biến dã. Quân tử niệm thủy chi giả dã".
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 59 Xả sinh sách mã luận binh địa1
“Ngạc ca, huynh khóc à?”
Hàn Ng ạc bần thần ngẩng lên. Có Tiểu Kế hỏi, gã mới phát giác mặt mình loang ngấn lệ. Thạch Bản Tỉnh đầu tháng tám vào cuối hạ, mây trên trời đè sát, cỏ cây mặc sức hưởng thụ chút hoan du cuối cùng của năm nay. Bốn bề toàn là đầm lầy đồng hoang. Màu xanh cỏ cây này, cụm mây xám sẫm này, ngọn gió tanh tưởi này, cỏ cao phất phơ trong gió này, đều có một thứ ý vị nồng đậm đến cùng cực cho dù biết sắp tiêu điều tàn tạ --- Bốn mùa lặp đi lặp lại, cỏ héo úa rồi lại nảy nở, lặp đi lặp lại, lặp đi lặp lại, nhưng thịt xương chiến sĩ bỏ mình nơi đây lại chẳng thể nào tỉnh thức nữa.
“Có bi ết cây cỏ năm nay sao lại tươi tốt đến thế không?”. Hàn Ngạc u uất hỏi. Dư Tiểu Kế chăm chú ngó gã, lắc lắc đầu, không đáp lời. “Vì năm nay nơi đây đã có biết bao nhiêu người phơi thây, xương thịt của vô số nhân
mã đã trở thành chất vun bón tốt nhất cho đồng cỏ này. Trước đây hơn ba tháng, chỉ mới hơn ba tháng trước…”. Hàn Ngạc ngẩng lên: “… Nơi đây hãy còn một trận đại chiến. Trận đại chiến đó, ngươi và ta cũng đã từng trải. Ta nghe dân du mục quanh đây nói đồng cỏ năm nay phì nhiêu dị thường, nhưng năm nay lại chẳng ai đến đây thả gia súc. Họ bất nhẫn --- Lý do làm cho đồng cỏ này hết sức rậm rạp tốt tươi cũng chính là lý do khiến cho họ bất nhẫn”.
Hàn Ng ạc bình tĩnh trần tình --- Cư Duyên thành cục thế đã định, gã không muốn ngồi lì ở đó thêm ngày nào nữa. Trước đây mấy ngày gã đã dẫn Dư Tiểu Kế quay trở lại Liên Thành Kỵ. Giờ nói đến trận đại chiến đó, tuy gã không cảm thấy lòng quá đau xót, lại phát giác nước mắt bỗng dưng lăn dài trên má. Lệ nóng đột ngột quá, lại còn ngay trước mặt Dư Tiểu Kế, không kịp khống chế. Gã cũng chẳng giơ tay áo chùi --- Còn có ai có thể khiến cho gã đối diện sự tự thuật lặng lẽ này mà hai dòng nước mắt tuôn rơi, đáy lòng bàng hoàng khổ đau đến tê dại?
D ư Tiểu Kế giữ im lặng, thần tình thông hiểu --- Có lẽ nó chẳng thể nào hoàn toàn minh bạch Ngạc ca thực ra nói gì, nhưng nó có cảm giác mình “hiểu được”. Hiểu được là một sự biết nhau còn thâm sâu hơn cả “minh bạch”, ánh mắt nó có thần sắc đồng tình thương cảm, khuyên nhủ an ủi. Bàn tay nó đặt nhè nhẹ lên vai Hàn Ngạc. Những ngày qua Hàn Ngạc đã quen cái thói quàng vai của nó rồi, mỗi lần như vậy, gã thường cảm thấy một thứ tâm pháp cổ quái hết sức, chắc là xuất xứ ở dòng Đại Hoang Sơn thấm nhập vào thân mình. Song gã chẳng cần phòng bị lo ngại gì Tiểu Kế, cũng từng hỏi nó, nó chỉ cười đáp: “Tôi muốn trị cổ trùng cho huynh”.
--- Gi ờ Tiểu Kế nhẹ giọng: “Nhưng… vẫn là… bọn ta đã thắng”. Hàn Ngạc thốt: “Phải, bọn ta đã thắng. Vì dụ địch, ta tận tay dâng hiến tổng cộng hai trăm tám mươi sáu cái mạng quèn của các tướng sĩ hộ vệ. Bọn ta đã thắng. Trong trận chiến cuối cùng đó, Liên Thành Kỵ tổng cộng hao tổn hết sáu trăm bảy chục nhân mã: quân Hán sáu mươi ba người, Y Ngô một trăm lẻ sáu người, Cư Duyên bảy mươi chín người, Nguyệt Thị bốn mươi lăm người…”.
1 Bỏ đời lên ngựa làm thân lính, đây là câu Tiểu Đoạn dựa theo câu "Xả chu sách mã luận binh địa" (bỏ thuyền lên ngựa làm thân lính) trong bài thơ "Quý hạ tống hương đệ thiều bồi Hoàng môn tòng thúc triêu yết". Thi ý của bài thơ này là tống biệt ông chú Đỗ Hồng Tiệm của thi nhân rời khỏi đất Thục về kinh yết kiến vua. Đỗ Hồng Tiệm lúc đó đang làm chức Hoàng môn thị lang đồng bình chương sự, kiêm luôn chức phó nguyên soái các lộ Tây Xuyên.
Gã k ể hết từng thành một, cuối cùng khe khẽ thốt bốn chữ: “Bọn ta đã thắng”. Ngón tay gã bỗng giật giật, bụng gã thầm nhủ: “Là ta đã an bài thành công trận chém giết và đưa người vào đường chết hết sức có kế hoạch này!”. Dưới thảm cỏ cao tươi tốt bên cạnh là xương trắng nhờ nhờ mà gã không thể không ngó ngàng gì tới. Tiểu Kế chợt ra sức nắm vai Hàn Ngạc: “Ngạc ca, những người đó không phải do huynh đưa vào chỗ chết, không! Họ cũng có những sự chẳng đặng đừng của họ, cũng có mộng của họ. Một khi vào sa trường, mọi người ai nấy chỉ có thể tự lo cho mạng mình. Trách nhiệm của huynh có vậy thôi!”. Nó bấu thực chặt vai Hàn Ngạc, như muốn bấu cho đau điếng mất hết cảm giác tê tái trong lòng gã.
Hàn Ng ạc mỉm cười: “Nhưng họ vẫn là vì ta mà chết. Trước khi ta hạ lệnh, đã biết họ chết chắc”. Dư Tiểu Kế lắc đầu: “Không, họ chết vì bảo vệ cái họ muốn bảo vệ”. Khoé môi Hàn Ngạc hé nụ cười nhạo mình: “Cái họ muốn bảo vệ là gì? Là dùng sinh mệnh để hoàn trả lại lương thảo và vàng bạc cho Đỗ phủ ở Lạc Dương? Là vì cái chức đại quan lo trù bị quân lương mà Đỗ Mông mưu đoạt? Là vì sự tham ô của đám quan lại trên trên dưới dưới? Là muốn nâng ta lên làm Tam châu Phòng ngự sứ? Hay là giúp cho cục diện được bình định, góp phần cho Cách Phi có cơ hội tranh đoạt ngôi vị Y Ngô vương, cho Bộc Ách Phi cuối cùng có cơ hội hoàn thành nguyện ước đeo đuổi lâu nay, thống lãnh một thành, được sắc phong làm ‘Vương phu nhân'?... Công lao của tất cả những người chết bất quá là bỏ lại mấy nắm xương tàn để người ta đi tranh đoạt. Khà khà, khà khà… ta có giương cao lá cờ gì đi nữa, bất quá chỉ là lấy đó để tự ngu --- Không chỉ là tự ngu, mà còn đã dụ dỗ hãm hại biết bao nhiêu là oan hồn!”. Gã tự trách mình hết sức kịch liệt, Tiểu Kế thấy gã đột ngột phát ra những lời phẫn khích, nhất thời cũng không biết nói gì mới phải. Sắc mặt nó chợt bình tĩnh lại: “Ngạc ca, huynh nghĩ quá nhiều rồi. Thế giới này là vậy đó. Huynh chỉ là một cá thể. Nếu huynh cứ cô độc một mình lang thang, không có trách nhiệm, đương nhiên cũng chẳng có dính dấp ràng buộc. Nhưng một khi huynh nhập vào đoàn thể, huynh cũng chỉ là một người bình thường, không tất yếu phải nhận thầu hết những sai trái trên đời. Huynh gánh vác không xong, cũng bất tất phải gánh vác”. Cổ họng Hàn Ngạc mấp máy, cái cổ ương ngạnh rướn giữa gió chiều, nói không ra lời. Tiểu Kế chợt cảm thấy gã như một con thú bị bắt giữ, vừa mệt mỏi, lại vừa nóng nảy, cố sức gầm gừ cắn xé, muốn vùng khỏi sự khống chế, lại không có sức thoát thân, vì cái vòng thòng lọng lao lung lần này là cái vòng gã tự mình thắt chặt. Nó chợt ôm giữ Hàn Ngạc giữa đồng cỏ, thấp giọng: “Ngạc ca, huynh đừng tự xem trọng mình quá. Huynh làm vậy là tốt lắm rồi. Tất cả mọi sự, nếu được quay trở lại, huynh cũng chỉ có thể làm như vậy, chỉ có thể chẳng đặng đừng như vậy. Thanh danh vang vọng đến ngàn sau, gánh nặng đảm nhận đến trăm năm, những cái đó đều là nói hão, không phải là cái huynh gánh vác được, cũng bất tất phải gánh vác. Huynh có kiêu ngạo đến đâu, cũng đâu cần dựng mình thành một đại nhân vật gì chứ. Sai lầm của bọn họ, để bọn họ tự mình gánh. Huynh chỉ có thể làm cái huynh cần phải làm. Ngoại trừ việc đó ra, đủ thứ nhân nhân quả quả đều không đáng để huynh gánh nhận”. Cánh tay niên thiếu của nó vừa kiên cường, lại vừa ấm áp. Thần thái của Hàn Ngạc lại đang bốc cao xa xăm vượt khỏi tám phương. Trong ý thức của gã, cứ bất tri bất giác muốn kéo mình lọt vào một cảnh giới “siêu ngã”, vượt trên bản năng và ý thức bản ngã để duy trì những giá trị truyền thống và những lý tưởng đạo đức xã hội, đó là sự tự mong mỏi và tự hứa hẹn của một nam nhân, của gã. Cho nên bất kể là chuyện gì, bất kể là trách nhiệm gì, đặt lên mình gã, luôn luôn cảm thấy nặng hơn gấp mấy lần so với đặt lên mình một người bình thường. Có thể Tiểu Kế nói không sai, mình chỉ là một cá nhân, một người. Hàn Ngạc mỉm cười, trong thâm tâm của gã, giữa sự ngưỡng mộ trông nhờ của người ta gần đây đối với gã, thì ra gã đã sớm không còn coi mình là một cá thể, là một “người” nữa. Cái tâm của một nam nhân, thì ra là hư vinh và cuồng vọng đến thế đó! Gã mỉm cười tự nhạo, cảm nhận được sự kiên định giữa vòng tay của Tiểu Kế, lòng không khỏi dâng trào một nỗi niềm cảm động. Là nó, là tiểu huynh đệ này đây, luôn luôn kiên định nói cho gã biết: huynh chỉ là một cá nhân, bất kể nỗ lực đến đâu, tự cường đến đâu, khát vọng được hoàn hảo đến đâu, nhưng… huynh chỉ là một người bình bình thường thường. Gã xoay tay ôm Tiểu Kế --- Cho nên, trong lòng Tiểu Kế, Ngạc ca của mình vĩnh viễn là kẻ “bất bại” phải không? Bởi nó nhìn thấy được nỗ lực và sự vùng vẫy của mình trong cái thế giới bình phàm này, cũng hiểu được sự không cam tâm của mình, lý giải được những lẩn tránh của mình. Sự lý giải đó, sâu xa đến tậy đáy lòng gã, khiến cho gã cảm thấy bên mình còn có Tiểu Kế, thực tốt quá. Thình lình gã cảnh giác, một tay kéo cổ Dư Tiểu Kế sang một bên, tay kia vung kiếm. Gã lâu rồi chưa rút kiếm. Kiếm vừa ra khỏi vỏ, Dư Tiểu Kế giật mình, sau đó mới nghe một luồng đao phong giấu mình trong vùng cỏ cao cách xa ba thước ùa tới! Thanh đao đó dài tới hơn năm thước, đao vừa quét sang, không trung phủ trùm một màu xanh lục, cỏ cao mấy thước bay phất phơ trong gió, chính giữa là một luồng đao quang hung bạo. Một đao đó hết sức trực tiếp, Hàn Ngạc xoay vụt một vòng, Trường Canh nghênh địch, chặn đứng đao phong, đồng thời đứng chắn đằng trước Tiểu Kế. Gã chẳng dừng tay, phất trường kiếm, cả người lẫn kiếm ôm Tiểu Kế bay về phía người kia. Dư Tiểu Kế thấy Hàn Ngạc ôm mình chặt cứng không nới tay, cũng phải kinh hãi --- Kẻ đến nhất định là cao thủ, nếu không Ngạc ca đã buông mình rồi. Ngạc ca nhất định là lo mình sẽ gặp nguy hiểm nếu bỏ mình lại! Bên cạnh là một mảng ao đầm, sau khi thất thủ một đao, người kia lại ẩn thân vào vùng cỏ cao. Hàn Ngạc thu kiếm đứng yên, có vẻ phán đoán chưa ra phương vị của y. Dư Tiểu Kế bất giác nín thở, nó không dám quấy nhiễu thính lực của Ngạc ca. Song thủ của nó ôm chặt hông Hàn Ngạc, cảm thấy thế đứng của Hàn Ngạc vững như sắt đá, nhưng mũi kiếm lại khẽ rung từng dợn sóng hư ảo. Sau đó, đao phong vụt ập đến, lại cuộn theo một khoảnh cỏ. Hàn Ngạc thét lên một tiếng, Trường Canh kiếm nhóa ánh sáng trắng nhợt, mọi vật lại trở về tĩnh lặng, có điều vạt áo của gã đã thấm ướt mồ hôi lạnh. Luồng đao phong thứ ba bùng phát, Hàn Ngạc vọt mình lên, bay lui về đằng sau. Dư Tiểu Kế chợt cảm thấy ngón tay mình ươn ướt, không khí cũng có chút mùi vị tanh tanh. Ngạc ca đã thụ thương? Nhưng nó không dám động đậy, cũng không dám tìm xem vết thương của Ngạc ca, chỉ ngước lên ngó sắc mặt lạnh lùng hung mãnh của gã. Thời gian tựa hồ ngừng trôi --- Vết thương của Ngạc ca có vẻ không nhẹ, vì máu còn chảy hoài. Hàn Ngạc chợt quát một tiếng dài, mang Tiểu Kế xoay mình giữa không trung, bay xộc về phương hướng khoảnh cỏ bên phải. Kiếm thế của gã như cầu vồng trắng vắt ngang mặt trời, quang ảnh không gì ngăn trở nổi của Trường Canh kiếm chẻ như sấm sét vào khoảnh cỏ. Hai tiếng rên khản vang vọng. Hàn Ngạc hạ mình bên khoảnh cỏ, đứng yên bất động, vùng cây cối đối diện cũng tĩnh lặng không lay động, tựa hồ gió cũng kinh hoàng đến nghẹn hơi. Đã qua một khắc mà chừng như chỉ mới trong nháy mắt, Dư Tiểu Kế còn chưa kịp phát giác dấu hiệu báo trước gì, lại thấy không trung bùng nổ đao phong kiếm khí. Chỉ một chớp mắt đó, đao kiếm hình như va chạm vào nhau tới mấy chục lượt. Đến khi Hàn Ngạc hạ mình, Dư Tiểu Kế thấy cây cỏ bên kia bị bổ rẽ một vệt xanh trải dài tuốt ra xa, bên trên là một đường máu tươi. Hàn Ngạc lúc đó mới buông Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế thoát thân, liền quay ra sau lưng gã xem vết thương trên vai. Nó cũng có thể coi là từng trải chiến trận, thấy thương thế sâu tới xương, liền xé một mảnh vải từ trên mình băng bó cánh tay đó cho Hàn Ngạc, miệng hỏi: “Kẻ đến chỉ có một mình? Y đi rồi?”. Cái làm cho nó cảm thấy kinh dị là đối phương tuy đột kích, lại chỉ có một người mà vẫn có thể làm cho Ngạc ca bị thương. Hàn Ngạc gật gật đầu. Gã nhìn về hướng người kia chạy đi, bình tĩnh thốt: “Thương thế của y chắc nặng hơn ta, y là một hảo thủ. Ta sợ y có tiếp ứng nên không đuổi theo”. Dư Tiểu Kế biết thực ra gã lo cho mình, sợ mình bị thương. Xa xa chợt có một thớt ngựa phóng đến, người trên ngựa mặc quần áo Liên Thành Kỵ. Còn chưa tới gần, hắn đã nhảy xuống ngựa cao giọng: “Hàn Tuyên phủ, thám tử có chuyện khẩn cấp trình báo, Cao tướng quân thỉnh Hàn Tuyên phủ về dinh”. o0o “Khách Đan Tam Sát?”. Cao Dũng trầm mặc không lên tiếng. Khố Tán bên cạnh gật đầu: “Không sai, là Khách Đan Tam Sát. ‘Khách Đan’ trong tiếng Khương Nhung ý chỉ ‘phò tá vương gia’. Chúng là sát thủ lợi hại nhất dưới tay Ô Tất Hãn. Theo thám tử về báo, Ô Tất Hãn đã phái Khách Đan Tam Sát đến hành thích Hàn Tuyên phủ sứ”. --- Nếu không phải tin này quá trọng yếu, Khố Tán đâu có đích thân đến. Hàn Ngạc nhíu nhíu mày: “Xem ra tên hồi nãy gặp phải chính là một tên trong số bọn chúng. Coi như bọn ta đã đụng đầu rồi”. Cao Dũng và Khố Tán nhìn chỗ băng bó trên mình Hàn Ngạc, bụng đã hiểu ra. Hai người đồng thời khẩn trương: họ đều là hảo thủ tinh thông đao pháp, cũng biết rõ thân thủ của Hàn Ngạc. Kẻ đến không ngờ có thể đả thương gã, cho thấy đâu thể coi thường. Khố Tán trầm ngâm: “Hàn Tuyên phủ sứ đụng bao nhiêu tên?”. Hàn Ngạc bình tĩnh đáp: “Một”. Cao Dũng và Khố Tán thất kinh đưa mắt nhìn nhau. Họ biết trên thế gian này, với một thanh kiếm Trường Canh, Hàn Ngạc cơ hồ có thể xếp hàng hảo thủ bậc nhất trong võ lâm. Người đến chỉ có một mà lại có thể gây thương tích cho gã sao? Nếu cả ba cùng đến thì sao? Cao Dũng chợt trầm ngâm nói: “Khách Đan Tam Sát có phải một dùng trường đao, một dùng trảm yêu đao, một dùng giải mã đao?”. Gã hỏi Khố Tán. Khố Tán gật gật đầu. Cao Dũng hít một hơi sâu, trấn định tâm thần: “Nếu là vậy, ba tên đó tôi đã từng nghe nói tới. Trong võ lâm Quan Trung, chúng được gọi là Qua Bích trường đao, trảm yêu, và giải mã. Mười năm trước, Trung thổ đệ nhất kiếm khách Từ Hoài Thanh cũng từng ra Tái ngoại một chuyến. Nghe nói y đụng phải chúng. Đến khi y trở về Trung Nguyên, đã mất đi một cánh tay, từ đó bế môn, nhưng một năm sau vẫn chết sớm. Y tuy không có nói gì, nhưng theo tin tức môn nhân của y truyền ra, y bị một trong ba tên đả thương. Nghe nói ba tên đó cực kỳ kiêu ngạo, đương thời cho dù đều có mặt tại trường, lại chỉ có một tên xuất chiến. Từ Hoài Thanh không kể cụ thể là tên nào đả thương y, chắc là lo hảo hữu của y xông pha ra Tái ngoại trả thù cho y mà chuốc họa. Từ Hoài Thanh năm xưa xưng ‘Đệ nhất kiếm', cùng ‘Vô song sĩ' Lợi Dữ Quân lừng danh vũ nội. Từ khi y bỏ mạng, võ lâm Trung thổ không còn danh ‘Đệ nhất kiếm' nữa”. Hắn kể tường tận là để nhắc nhở Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cũng thấp thoáng có nghe đến truyền thuyết đó. Năm xưa thời thiếu niên lúc gã luyện kiếm, nguyện vọng lớn nhất là có một ngày có thể đối diện luận kiếm với vị ‘Đệ nhất kiếm’ đó. Đáng tiếc sau này kiếm thuật của gã còn chưa thành thì y đã qua đời. Không khí trong trướng nhất thời ngột ngạt. Một hồi sau, Hàn Ngạc chợt mở miệng cười nói: “Đây là chuyện tốt”. Khố Tán và Cao Dũng kinh ngạc ngó gã. Hàn Ngạc thốt: “Ta vốn cứ lo Khương Nhung vương Ô Tất Hãn mùa thu sẽ lại kéo đến. Với uy lực thiết kỵ dưới trướng của y, nếu toàn lực công tập mười lăm thành, Liên Thành Kỵ bọn ta đâu thể nào đối kháng được. Đại quân của Vương Hoành Hải tướng quân lại không biết tới lúc nào mới có thể trù bị cho xong. Nay y đã phái người đến giết ta, với tính cách của y, ta dám phán đoán y nhất định đã quyết định gác lại đại sự xuất thủ đối phó mười lăm thành, cho nên mới dùng cái lối hành thích này. Nội bộ của Khương Nhung quả nhiên có chuyện, tình báo trước đây của bọn ta xem ra có thể không sai”. Gã quét mắt nhìn Khố Tán và Cao Dũng. Hai người đồng thời gật đầu. Sự quyển thổ trùng lai của Khương Nhung vương luôn luôn là một tảng đá khổng lồ đè nặng lên đầu bọn họ. Khách Đan Tam Sát tuy nguy hiểm, nhưng so với Khương Nhung toàn lực tấn công thì vẫn đỡ hơn nhiều. Hàn Ngạc chợt nói với Khố Tán: “Kêu nhân mã của ngươi đi đi, nhất định phải cho ta biết nội bộ của Khương Nhung có phải đã xảy ra chuyện gì không”. Gã bỗng ngước nhìn ra ngoài trướng, ánh mắt kiên định lạnh lùng. Nhưng bên dưới sự lạnh lùng đó, tựa như có cái gì đó lẳng lặng thiêu đốt. Khố Tán và Cao Dũng đều có cảm giác thần thái của gã khác thường, như đang trù hoạch một hành động kinh tâm động phách gì đó. Nhãn quang của Hàn Ngạc lại lướt qua hai người bọn họ, nhìn sâu vào đồng cỏ bên ngoài, tràn trề một thứ sát khí khôn tả. o0o Mười mấy ngày tiếp đó lại là thời gian Hàn Ngạc và Tiểu Kế vui vẻ thoải mái nhất. Hàn Ngạc không ngờ đã lo liệu xong công vụ bề bộn, buông thả tâm tư hoàn toàn, cùng Tiểu Kế cưỡi ngựa nhàn du trên đồng cỏ xung quanh Thạch Bản Tỉnh. Phong cảnh đồng cỏ cuối hạ cực kỳ mỹ lệ, cỏ xanh rờn dày kín, trút hết hơi sức còn sót lại trước khi giá lạnh tàn diệt chúng. Lúc không có gió, quét mắt nhìn quanh, bốn bề lặng yên như một cái hồ xanh thẳm. Gió dậy, ngọn cỏ phất phơ hàng ngàn hàng vạn tư thế. Mặt trời lặn vùng thảo nguyên là đẹp nhất, đỏ một màu ấm nồng, e ấp nơi ranh giới giữa trời và đất, quang cảnh thực có thể làm cho người ta nhìn đến si dại. Mỗi khi đến lúc đó, Hàn Ngạc thường cùng Tiểu Kế chuyện vãn huyên thuyên. Bình thời gã nói không nhiều, chỉ có khi gần Tiểu Kế mới lắm lời. Gã nói chuyện với Tiểu Kế cũng không phải e dè lo ngại gì hết, đại sự triều dã, tình báo quân đội, thậm chí đôi khi chưởi thề nói tục cũng văng tuốt. Hàn Ngạc từng nói: “Nói thực ra, ta cảm thấy người Khương Nhung tàn nhẫn thì có tàn nhẫn, nhưng còn đỡ hơn người Hán. Chúng không có lắm giả trá như người mình. Chém giết cũng xong. Những chém giết dũng mãnh tàn bạo, tranh đoạt sinh tồn thực ra cũng có thể coi là thuần khiết, nhưng còn người Hán bọn ta…”. Gã cười cười, sau đó tiếp một câu: “… Mới thực là… đồ mẹ họ!”. Dư Tiểu Kế không khỏi cười lớn, cũng nhạy theo: “Đồ bà mẹ họ!”. Hàn Ngạc đã lăn lộn trong quân đội lâu ngày, ít nhiều gì cũng học được chút tiếng chưởi thề, Tiểu Kế thì từ bé đã sinh nhai ở đầu đường xó chợ, chưởi thề thì nó rành nhất rồi, nhưng trước mặt Hàn Ngạc xưa nay nghiêm nghị, nó cũng rất là buồn bực. Tới giờ được nước, đang rảnh rỗi chuyện trò, hai người tìm không được lời nào có thể hình dung tâm tình, lại mắng lớn một câu, cũng khá là khoái trá. Có lúc Hàn Ngạc lại tuôn ra một câu chưởi thề mới lạ, Dư Tiểu Kế không khỏi cười ngã ngửa, hiển hiện thần tình “bé con dễ dạy”, miệng lại cười nhạo: “Đại Tuyên phủ sứ ngài ơi, người ta đa số cứ cho ngài là một người đoan chính, mấy lời này mà để người ta nghe được, đừng nói gì ai, Đỗ Phương Ninh chắc cũng không muốn ngài nữa”. Hàn Ngạc cười khà khà thọc lét nó: “Lẽ nào ngươi dám mách? --- Không muốn ta thì đã sao? Đàn bà như quần áo, Ngạc ca ngươi đã sớm nhận ra rồi. Ta tuy thô lỗ, nhưng những chuyện bọn họ làm, sự âm hiểm tàn độc của họ, Ngạc ca ngươi có học đến một vạn năm cũng học chưa được một nửa”. Dư Tiểu Kế cũng cười theo gã: “Không sai, bọn họ không có một ai tốt hết. Ừm, trừ Tổ cô bà thôi, người từ từ bi bi như cô bà mới có thể coi là nữ nhân thực sự”. Hàn Ngạc thỉnh thoảng lại theo dõi công phu của nó. Xem thủ pháp nó luyện gần đây, Hàn Ngạc thấy nó tăng tiến cực nhanh, lòng cũng không khỏi mừng rỡ. Từ sau khi căn bệnh tiềm tàng trong người nó đã trị dứt, cái bớt xanh trên mặt biến mất, càng lúc càng sáng sủa đẹp trai. Hàn Ngạc thường nói đùa: “Tìm đâu ra một vị tiểu soái huynh đệ như thế này chứ? Tiểu Kế, tới lúc bọn ta về lại Trường An, vừa ló mặt ra, e rằng con gái mười hai đại lộ sẽ bị ngươi làm cho mê mẩn hết đó”. Dư Tiểu Kế nhướng mắt: “Ối, đâu cần về Trường An, con gái ở Y Ngô thành và Cư Duyên thành đã mê tôi xếp lớp rồi”. Hàn Ngạc ôm bụng ngã ra cười. Nói đùa vui bụng, Dư Tiểu Kế cũng không luyện công, cắn cọng cỏ dựa đầu trên đùi gã nằm dài, cười hì hì thốt: “Ngạc ca, tôi không muốn về Trường An, tôi muốn theo huynh làm lính. Hoặc là bọn ta đi chăn ngựa, làm người Khương Nhung, khắp đất khắp trời không ai quản thúc, vậy mới là chuyện vui bậc nhất thiên hạ”. Hàn Ngạc mỉm cười: “Không về Trường An, thực muốn cưới con gái Hồ à? Ngươi có phải đã để ý ả nào trong Y Ngô thành không? Đúng rồi, Tiểu Kế, tại sao ngươi muốn làm lính vậy?”. Tiểu Kế cười đáp: “Làm lính? Làm lính thì có thể ở cùng chỗ với huynh. Nếu không làm lính, ngày thường tôi làm gì cũng bị huynh câu câu thúc thúc, đâu có khoái hoạt chứ. Làm lính thì lại có cục diện hiểm ác, hứng chí lắm phải không? Muốn giết thì giết, muốn chém thì chém, tôi có chém giết tàn bạo đến đâu, huynh cũng không thể mắng tôi. Hai phe ra trận, thị thị phi phi phải quyết đoán rõ ràng, rành rành mạch mạch. Không giống như ở Quan Trung, tôi cho dù muốn làm một hiệp sĩ, cuối cùng phát hiện bên dưới cái vỏ hiệp nghĩa đó, chuyện sau lưng đều quanh quanh quẹo quẹo, rồi phần lớn còn phải chịu nghe huynh giảng đạo không ngưng. Cái ta có chính là tinh thần lực khí, luôn luôn phải có chốn để phát tiết, đúng không? Nhưng bất kể là Trường An hay Lạc Dương, quy củ có lắm, thị phi khó đoán nhận, vậy thì làm lính nó sảng khoái hơn rồi! Tôi nói tên Khương Nhung kia đáng giết, Ngạc ca huynh không có cách nào bác bỏ phê bình tôi, phải không? Nam nhân nào mà không muốn làm lính chứ? Con đường tìm hai chữ ‘đạo nghĩa' to tát mà nương theo, không sai lạc vào đâu được như vậy đâu có nhiều. Tung hoành xông pha, lấy đao để nói chuyện. Khà khà, Ngạc ca, thực ra tôi thích sống trong cái thế giới có thể sát nhân phóng hỏa không một chút cấm kỵ như vậy đó”. Nó nghiến cọng cỏ tới rỉ nước: “Huống hồ làm lính tuy nguy hiểm, không phải còn có huynh trông coi cho tôi sao?”. Hàn Ngạc không khỏi cười lên: “Nếu có một ngày ta cũng trông coi không được ngươi thì sao?”. Dư Tiểu Kế cười đáp: “Vậy trừ phi huynh cũng lọt vào hiểm địa hoàn toàn không có sinh cơ để thoát ly. Đến lúc đó, chết thì chết, cũng đã là lúc tôi nên chết”. Nói nói cười chuyện sinh tử một cách thản nhiên, Hàn Ngạc đối với cái lạc quan ngỗ nghịch chẳng bận tâm của nó cũng không khỏi buồn cười, hai tay bưng nó quăng ngang đồng cỏ, mắng: “Phì, cái tên tiểu lưu manh đất Lạc Dương ngươi, không, người còn thích giết người nữa --- cái tên Khương Nhung oắt con ngươi!”. Dư Tiểu Kế lọt vào một vũng nước nông, nó đứng bật dậy, cắm đầu cụng Hàn Ngạc, đến mức gã cũng dính nước đầy mình, cười lớn: “Tên ca ca của oắt con Khương Nhung thì có gì tốt đẹp chứ?”.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 60 Tha ngọc yêu kim báo chủ thân1
V ầng trăng trên Y Ngô thành to tròn trắng muốt, một mình tuốt bên trên nóc dịch quán An phủ sứ của Y Ngô mà nhìn xuống. Trên đó có một người đang ngồi ôm gối. Thân thể dãi dầu sương gió, vẻ thông minh toát tỏa nét yêu kiều, mà nét yêu kiều cũng không che đậy được vẻ thông minh. Nàng ngồi như vậy đã được một lúc. Một bóng người nhảy lên, hạ mình bên cạnh nàng. Người đó thốt: “Đã đến mà sao không vào nhà?”.
Nàng m ỉm cười: “Tôi muốn mượn làn gió thổi sạch hết tục khí trên mình, tránh cho Hàn Tuyên phủ sứ ngài phải chướng mắt”. Nói xong nàng ngoảnh cổ nhoẻn cười chăm chú nhìn, không phải là Phương Ninh thì là ai?
Hàn Ng ạc vì lo nghênh tiếp đặc sứ đến toan tính dựng lại Bắc đình Đô hộ phủ nên mới về Y Ngô thành. Gã đã về được hai ngày, hồi nãy trong nhà nghe trên mái ngói có tiếng động, biết liền Phương Ninh đã từ Khang Thành về. Nàng lại chẳng vào nhà, chỉ ôm gối ngồi trên nóc. Hàn Ngạc không nhẫn nại được mới phóng lên đây. Lần này trước khi chạm mặt, hai người đều có chút ngượng nghịu, không biết nên gặp sao đây --- Đủ trò thế tục, đạo đời khác biệt, có quá nhiều sự bất đồng giữa bọn họ. Nghĩ tới những vướng vướng vít vít giữa hai người, Hàn Ngạc không khỏi nguội lạnh cõi lòng. Nhưng… sau khi theo quán tính nhảy lên, trùng phùng Phương Ninh, những dằn xé lại quên đi mất trong nháy mắt, chỉ còn lại sự mừng vui, hoan hỉ khôn tả.
Ph ương Ninh yêu kiều hờn mát nói một câu, Hàn Ngạc liền có cảm giác bao phiền não đều như băng tuyết tan rã tiêu tán hết. Gã cũng ôm gối ngồi cạnh Đỗ Phương Ninh. Cả hai không nói gì, phải một hồi thực lâu sau, Hàn Ngạc mới bắt lời: “Nàng chỉ truyền thư cho ta biết triều đình sắp phái sứ giả đến dự tính xây dựng lại Bắc đình Đô hộ phủ, lại chẳng nói là ai”. Gã vốn không rõ mấy về quan viên trong triều, nói như vậy cũng bất quá là vì không tìm được đề tài nào khác để bắt chuyện. Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Chẳng qua là Bộc Xạ Đường lại có đề nghị mới. Thấy chuyện mười lăm thành có lợi lộc, chúng cũng đã động lòng, không muốn để Đông cung giành hết, cho nên Bắc đình Đô hộ phủ đã bỏ phế không biết bao nhiêu lâu cũng được lôi ra”.
Nàng th ốt lời nhạo báng. Hàn Ngạc lại nhận ra ý tứ đằng sau những lời nói đó rõ ràng là đặt mình ngoài vòng tranh chấp của Đông cung và Bộc Xạ Đường --- Nàng muốn nói sẽ cùng cái gã chẳng còn bị ràng buộc, không còn chút chướng ngại mình đây đứng dạt sang một bên thôi, phải không? Hai người lần này gặp lại, không biết sao lại có vẻ thẹn thò như cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Hàn Ngạc len lén nắm bàn tay Đỗ Phương Ninh giấu trong ống tay áo, Đỗ Phương Ninh khẽ vùng vẫy, mà không vùng thoát, để mặc cho gã nắm giữ. Chút ôn nhu tĩnh tại đó đâu có ai muốn phá hoại. Qua một hồi thực lâu, Phương Ninh mới lên tiếng: “Chàng có biết lần này ai đến không? Người này nói tên là chàng nhận ra liền”.
Hàn Ng ạc ngẩn người: ai? Người gã quen mặt trong triều đâu có mấy ai. Gã thầm nghĩ: sao hôm nay ngồi với Phương Ninh, “A Đổ” lại không phát tác? Nghe Đỗ Phương Ninh cười thốt: “Từ khi tôi chém Trương Dịch Phòng ngự sứ, bọn quan văn phe Bộc Xạ Đường chắc sợ khiếp đảm rồi. Kiến nghị dựng lại Bắc đình Đô hộ phủ tuy do chúng đề ra, nhưng lại không có tên nào muốn đi. Cũng là vì có một giang hồ lãng tử như huynh, thêm vào một đứa con gái sài lang có tiếng như tôi, lại ở tuốt vùng Tái ngoại hoang lương, không có luật lệ quy củ, ai mà dám đi? Cuối cùng kẻ của phe Bộc Xạ Đường lãnh mệnh đến đây lại là người bằng hữu của chàng: Cổ Siêu Trác”.
1 Đai ngọc ấn vàng báo nghĩa vua, là câu tiếp theo là câu "Xả chu sách mã luận binh địa" trong bài thơ "Quý hạ tống hương đệ thiều bồi Hoàng môn tòng thúc triêu yết" của Đỗ Phủ (xem chú thích {1} hồi 59). "Tha ngọc yêu kim" nghĩa là đeo đai ngọc và ấn vàng, dùng để hình dung Đỗ Hồng Tiệm, cũng là để chỉ quan cao đời nay của họ Đỗ. Ấn vàng là ấn dùng cho Thừa tướng, các bậc công hầu và tướng quân.
Hàn Ng ạc bàng hoàng, bàn tay đang siết chặt tay Đỗ Phương Ninh lại không chịu buông, lấy bàn tay bên kia vỗ đùi cười nói: “Là hắn? Hắn đến thì tốt quá, vậy ta có thể yên tâm rồi”.
Đỗ Phương Ninh đưa mắt nhìn gã: “Chàng yên tâm cái gì?”. Sau đó mục quang của nàng thêm chút thông hiểu: “Người họ Cổ này không giống bọn quan lại bình thường, là người có khí phách hào sảng. Hắn đến thì đỡ hơn người nào khác đến. Bất quá hắn rất có sức có tài, nói không chừng, đối với tôi mà nói, hắn đến lại có hại hơn là ai khác”.
V ừa dứt lời, nàng lại không muốn nhắc tới những chuyện tranh giành thế lực nữa: “Tôi nghe nói Khách Đan Tam Sát đã động thủ hành thích chàng phải không? Chàng đụng mấy tên?”. Hàn Ngạc cúi đầu, gã biết Phương Ninh vốn còn rất nhiều sự vụ ở Khang Thành, cho nên vội vã về đây chắc cũng vì chuyện này. Gã thấp giọng đáp: “Một”.
Đỗ Phương Ninh lúc gã nhảy lên chắc đã nhìn thấy vết thương trên vai gã. Giờ không nói gì, giơ tay cởi áo Hàn Ngạc. Hàn Ngạc né né mình, tay Đỗ Phương Ninh lại đè lên vai gã, khẽ thốt: “Đừng động đậy!”. Thanh âm nghiêm nghị có chút ôn nhu, Hàn Ngạc khựng lại, nghe lời không cựa quậy.
Đỗ Phương Ninh kéo áo ngoài của gã xuống một chút, thấy từ vai dọc xuống lưng có một vết thương vừa mới khép miệng. Nhìn hình dạng thương thế, lại quen thuộc công phu của Hàn Ngạc, nàng đại để cũng đoán được tình hình lúc động thủ. Nàng đưa ngón tay dịu dàng sờ lên vết thương, thấp giọng: “Đao pháp lợi hại quá. Là Qua Bích trường đao Đồ Lỗ?”. Hàn Ngạc bình tĩnh đáp: “Ta đoán là y”. Đỗ Phương Ninh môi run run. Nàng không nói gì, nhưng Hàn Ngạc hiểu nàng, phàm lúc nàng có bộ dạng như thế, không có nghĩa là nàng sợ, mà là… phẫn nộ!
Ngón tay c ủa Đỗ Phương Ninh dừng sững lại ở trên vết thương, đầu ngón tay truyền lan một chút nhiệt lực. Hai người lòng thầm dâng trào một thứ hào khí --- Có “Sách Kiếm minh” ta, cho dù Khách Đan Tam Sát đến thì cần gì phải sợ! Ngay cả Đại Tiểu Kim Ba liên hợp với Du Cửu Khuyết đồng thời xuất thủ thì đã sao!
Hai ng ười đồng thời nghe tiếng hò hét trong dạ, đó là sự hòa hợp âm thầm trưởng thành qua biết bao nhiêu lần liên thủ đối địch. Họ như đồng thời phán cho Khách Đan Tam Sát bản án tử hình. Ngón tay của nàng run run, nàng phẫn nộ là vì vết thương của Hàn Ngạc; Hàn Ngạc phẫn nộ là vì tên kia dám gây động đến Phương Ninh, làm cho tâm địa xưa nay vốn rất bình tĩnh của nàng lại phải phẫn nộ. Đỗ Phương Ninh thốt: “Không chỉ có chúng, Đại Mạc vương Mạc Vong căm hận chàng đả thương lão, gần đây đã cùng Mạc Thất ra mặt, e không chóng thì chày sẽ có động tịnh”.
Hàn Ng ạc không nói gì, dựa lưng lên đầu gối nàng. Lòng hai người đồng thời bốc dâng một luồng sát khí, nhưng bên dưới sát khí lại là niềm ôn nhu không che chắn nổi. Không biết cứ ngồi như vậy được bao lâu, Đỗ Phương Ninh có cảm giác lưng Hàn Ngạc càng ngày càng nóng, nóng đến mức khiến cho nàng hoảng sợ. Tâm lý nàng mê loạn, hoang mang lùi ngồi cách xa Hàn Ngạc chừng một thước.
Th ần tình của Hàn Ngạc cũng có vẻ bồn chồn, hai người lại nhất thời không nói gì cả. Một lúc sau, vai Hàn Ngạc bị gió thổi mát lạnh, hô hấp mới dần dần bình hòa lại, gã nói: “Theo thám mã của Khố Tán về báo, năm nay Biên Tái chắc có thể yên ổn --- Khương Nhung có nội loạn, Tả Hữu Hiền vương cùng hai mươi tám bộ lạc lớn nhỏ dưới trướng Khương Nhung vương Ô Tất Hãn đang đấu đá. Y ra lệnh ép chúng hồi sư về đất Thanh Thảo hồ vùng cực bắc để bình định trường phân tranh nội bộ này. Xem ra năm nay có thể bớt lo lắng phòng bị Khương Nhung xâm lăng tập kích, có điều không biết tin đó có xác thực không”.
Đỗ Phương Ninh cũng đã bình tĩnh, gật đầu: “À, lần này tôi đến là vì muốn nói cho chàng biết Vương Hoành Hải cũng có thư, cũng có nhắc đến tin đó, ông ta nói cơ bản có thể xác định được. Ông ta đang nhắm vào tin đó, một khi có thời cơ, sẽ tận dụng ưu thế tiến công bình định Khương Nhung. Đáng tiếc ông ta nói đại quân của ông ta nhất thời chưa chuẩn bị xong, bên trong còn nhiều chuyện rắc rối. Ông ta không thể độc tài trong quân đội, bị kềm kẹp dữ lắm. Chuyện này triều đình hình như cũng đã biết. Bất quá dù có nghe đồn đại, bọn chúng lại vẫn quen cái thói an hưởng tạm bợ, e rằng sự vụ tây chinh sẽ bị chúng trì hoãn lại. Chúng chỉ muốn Vương tướng quân bảo vệ Biên Tái không để mất mát là hoan hô may mắn rồi. Điều này lại trở thành chuyện đáng lo”. Nàng nói mà không thấy Hàn Ngạc đáp trả, không khỏi ngoái nhìn.
Hàn Ng ạc rõ ràng có lắng nghe, lại không ngó về phía nàng, mà hai mắt đăm đăm hút vào đêm tối. Cái gã nhìn là vùng cực bắc kia, thần tình bừng cháy, một ngọn lửa hung mãnh đến cùng cực tràn khỏi ánh mắt, đó là… sát khí!
Đỗ Phương Ninh giật mình, quen biết Hàn Ngạc lâu nay, nàng chưa từng thấy sát khí lẫm liệt đến thế --- Ngạc luôn luôn là một người rất an phận, rất đạm bạc. Nàng truy bắt ánh mắt của Hàn Ngạc, muốn nhận ra gã đang nghĩ gì. Hàn Ngạc cuối cùng đã nhìn sang, thấy thần sắc của nàng có vẻ hơi thấm hiểu ý tưởng của mình. Gã cụp mắt, tựa như muốn che giấu tâm tư, cũng chừng như cố ý phá bỏ không khí ngượng ngùng: “Nàng có nghe nói Bộc Ách Phi định cuối năm nay sẽ thành hôn với Y Ngô vương không?”. Đỗ Phương Ninh bần thần, sau đó khoé môi ẩn hiện một nụ cười. Nàng đã sớm liệu được, chỉ là không ngờ thời gian người Tái ngoại thủ tang lại ngắn như vậy.
Hàn Ng ạc cũng không nói gì nữa, họ mỉm cười nhìn nhau, tựa như đã âm thầm bình phẩm chuyện này, sở kiến của cả hai đều gần như nhau. Chỉ bất quá nụ cười của Đỗ Phương Ninh có hơi châm chích, còn nụ cười của Hàn Ngạc lại có chút chua chát, cũng có chút bi thương --- Gã như nhìn thấy thi thể của Cư Duyên vương nằm giữa con đường dẫn tới hôn lễ này, mà đó cũng là kẻ gã tận tay dâng cho Bộc Ách Phi hạ độc giết chết.
Tr ăng trên trời tròn trặn làm sao, lại chiếu rọi được bao hoan lạc, bao sầu tư? Đỗ Phương Ninh thở dài: “Ngóng trăng rằm mà trễ sang trăng mười sáu rồi. Tôi vội vàng quay về, không ngờ vẫn bỏ lỡ Trung Thu hôm qua". Hôm qua là Trung Thu? --- Hàn Ngạc tới giờ mới vụt nhớ đến. Gã liếc nhìn Phương Ninh, chợt khẽ thốt: “A Ninh, tối nay bọn ta đoàn viên cũng được chứ. Tối nay… nàng đừng đi…”.
Đỗ Phương Ninh kinh ngạc ngó gã, lại thấy mặt gã mắc cỡ đỏ bừng lên. Nhưng gã đâu có vì vậy mà luống cuống, lợi dụng lúc nàng đang kinh ngạc, gã ôm nàng vào lòng. Đỗ Phương Ninh vặn vẹo mình, muốn vùng thoát ra. Song le nàng chưa từng lần nào cảm thấy tay Hàn Ngạc mạnh đến mức đó. Gã ôm ngang hông nàng, cánh tay bó sát, khiến cho nàng có rướn hết sức mình cũng không thoát nổi.
Móng tay c ủa nàng bấm sâu vào cánh tay gã. Nàng như quên đi mình cũng là một cao thủ võ lâm, quên đi tất cả những kỹ xảo, chỉ bằng vào thể lực của một người con gái mà vùng vẫy, như vậy thì làm sao mà vùng thoát cho được?
S ức nóng lửa đỏ trên mình Hàn Ngạc như cũng hun đốt luôn sang nàng, thân người nàng như tan chảy thành nước. Gã ôm nàng nhảy xuống, lao vào nhà --- Tiểu Kế nói không sai, mình hà tất khăng khăng biến mình thành nhân vật siêu trác gì chứ? Lo gì mấy thứ thanh danh vang vọng đến ngàn sau, trách nhiệm đảm nhận đến trăm năm? Cứ tự nhiên… Một đêm Tái ngoại như vầy chỉ có thể tự nhiên mà đến, đâu thể cầu mong. Cứ tự nhiên… Gã cơ hồ nhận thấy trọn đời cũng không thể đọc hiểu người con gái này, vậy gã tại sao không thử dùng một phương pháp khác để triệt để thấu suốt nàng?
o0o
Thân th ể Đỗ Phương Ninh bị Hàn Ngạc đè trên giường, nàng thậm chí cảm thấy động tác của gã có chút thô lỗ. Bản năng khiến nàng kháng cự lại gã, những bài học khuê các ăn lậm lâu ngày, nhuốm nhiễm vào tai mắt, xâm nhập vào xương cốt, hóa thành bản năng. Những bài học đó đã giáo hóa mấy ngàn năm từ lúc có người Hán đến nay, từ lúc có nhà nho đến giờ, khư khư giảng dạy. Nàng muốn há miệng hét lên, nhưng môi đã bị môi Hàn Ngạc ngăn chặn. Nàng gắng sức đẩy vai Hàn Ngạc dang ra, nhưng không đẩy nổi chỗ cứng cựa bên dưới đang dán chặt không cho xô dạt. Nàng có sức kháng cự lại động tác của Hàn Ngạc, nhưng lại có vẻ không chống đối được chỗ nóng bỏng trên mình gã.
--- Ph ương Ninh thế nào đây? Hàn Ngạc một mực khát vọng biết được Phương Ninh thực ra như thế nào. Nàng như một trái vải đỏ tươi, trong sắc màu tươi thắm lại có chút gai góc. Nhưng hôm nay, gã cuối cùng đã bất chấp sự gai góc của nó, bất chấp sự đau xót sợ bị bóc bị lột đến lõa lồ của nó. Gã bóc gã lột sạch, để lộ da thịt trong trắng của trái vải… Trước đây, gã cứ sợ sau khi bóc xong lột xong, mình không có cách nào tiến tới mà lại dùng cái áo choàng đạo đức dâng hiến che phủ bảo vệ sự trong trắng run rẩy kia… Cái gì bao bọc sự trong trắng đang run rẩy không thôi kia? Là sự gìn giữ thiếu nữ? Hay là lớp da mỏng manh sắp bị xé rách kia? Lạ là trong đầu Hàn Ngạc chỉ nảy sinh cảm giác phá hoại, đối diện trái vải mới lột sạch vỏ này, gã chỉ muốn cắn phập răng vào nước ngọt, chiếm hữu, xâm nhập.
Thân th ể Phương Ninh trơn mịn trắng muốt, ngón tay chắc nịch do luyện công lâu ngày đang cấu vào da lưng Hàn Ngạc. Hàn Ngạc không dám nhìn nàng, vì mắt ai cũng đang thiêu cháy rừng rực. Phương Ninh đang khe khẽ ngọ nguậy giữa đống quần áo bị Hàn Ngạc lột hết, nàng bấu cào nhè nhẹ, Hàn Ngạc cũng đã trần truồng giữa tất cả mọi khao khát nóng bỏng của gã. Khi gã rướn vào, Đỗ Phương Ninh bỗng cắn lên bên cổ gã - - Ngươi sao lại có thể, sao lại có thể… Song một khi gã đã phá được chướng ngại thì đâu còn e dè gì tới sự rúng động thân thể của nàng… Những ngại ngùng ngờ vực hỗn độn đã bị phá vỡ, niềm yêu giờ phút này tựa hồ trong ngần rõ rệt, tưới lên cuộc đời và dục vọng của hai người, nhục thể quấn vào nhau. Tất cả mọi hư không trong sinh mệnh đều bị chút dục niệm kia phủ lấp, Đỗ Phương Ninh cảm thấy một nỗi thẹn nhục chưa từng có, vì thẹn nhục mà cảm thấy khoái lạc, vì khoái lạc mà càng thêm thẹn nhục… thẹn nhục gia tăng dẫn đến khoái lạc gia tăng… cứ chồng chồng chất chất, trùng trùng điệp điệp, từng tầng từng lớp đắp lên.
H ệ thống giáo dục đã hình thành sự khắc chế của nàng, nhưng khắc chế đó tuy kềm cấm dục vọng, lại như nước bị đập chặn ngăn, một khi đập bị phá vỡ, nước lại càng dâng trào hung hãn hơn. Tính người không những chỉ là tính động vật, cái cảm giác hổ thẹn sỉ nhục mà trinh tiết thồ kéo theo tựa hồ âm thầm thốt lên một nguyện vọng bí mật: nguyện vọng có một ngày có thể từ hổ thẹn sỉ nhục mà đẩy khoái lạc lên cao thêm một tầng nữa. Đỗ Phương Ninh có cảm giác cái tâm mình vốn luôn luôn đặt ở vị trí rất cao cả càng lúc càng hụt thấp, thấp đến đè lún luôn vào bùn đất, cuối cùng khi rã mục thành bùn đất thì nở ra một đóa hoa khoái lạc.
Đ ó là một thứ khoái cảm đả phá lề thói --- Thì ra đủ mọi trói buộc, đủ mọi áp chế, đủ mọi răn dạy, những ý niệm tôn nghiêm và thanh bạch tích chứa ngập tràn, tất cả đều là hư hão? Cái gì kêu gọi giải thoát, xổng mình phóng túng? Một người dốc hết tinh lực một đời nặn nung ra một thứ đồ sứ tốt đẹp nhất, sau khi thành công, buông tay quẳng xuống đất, tiếng vỡ vụn phá hoại đó mới có thể gặt hái được niềm khoái lạc thực sự của cuộc đời.
Đỗ Phương Ninh cảm thấy mình bị xâm phạm, bị phá vỡ, bị chọc thủng. Tất cả những gì nàng dốc lòng tạo dựng đều bị sự chống cự nửa vời của bản thân phá nát, nhưng nàng… đã khoái lạc.
Hàn Ng ạc cũng cảm thấy mình đã xâm phạm, phá vỡ, chọc thủng một cách vô sỉ, quăng vỡ vụn tất cả những ảo tưởng mà mình tôn kính ngưỡng mộ, vứt đi những nỗ lực đóng hằn cái dấu đạo nghĩa, nhưng gã… gầm lên, cũng đã khoái lạc.
o0o
M ới sáng sớm, Dư Tiểu Kế đi xộc vào nhà, không thèm ngó Đỗ Phương Ninh, cầm cái tay nải nói với Hàn Ngạc: “Ngạc ca, tôi về Liên Thành Kỵ”. Hàn Ngạc còn chưa có phản ứng, nó đã xoay mình đi ra. Hàn Ngạc đuổi theo ra ngoài, nắm vai nó hỏi: “Sao nói đi là đi vậy?”. Dư Tiểu Kế lại căm ghét liếc gã: “Tôi không muốn ngồi thừ ra ở Y Ngô thành nữa, cũng không muốn nhìn thấy Đỗ Phương Ninh”. Hàn Ngạc không khỏi ngẩn ngơ: “Ngươi là giở cái tính khí trẻ con ra nữa à? Nàng ta đâu có làm gì ngươi đâu”. Dư Tiểu Kế lại nổi giận: “Ả còn chưa làm gì sao? Ả là hung thủ hại chết tỷ tỷ của tôi! Ả… ả… ả… huynh còn chưa biết sao? Ả cũng đâu có nói cho huynh biết đâu --- Nửa tháng trước khi bọn ta đến, ả đã tuyển mười mỹ nữ Y Ngô tiến cung dâng hiến cho triều đình. Huynh thấy cái sáo nghiêm chỉnh, cái bộ dạng ‘tôi là con gái, dứt khoát không chịu thua nam nhân’ ngày thường của ả, cái thứ giả ra vẻ thẳng thắn cao xa đó, nhưng không phải chính ả đã đem mấy cô gái giống như ả làm quà lễ dâng cho cái bọn khốn nạn kia? Bọn ta lăn lộn xông pha liều mình vào sinh ra tử giữa trận tiền, nói là vì bá tánh nhà Hán, vì giải cứu người của mười lăm thành, nhưng bọn ta giờ đây có khác gì bọn Khương Nhung? Khà khà, ả lo cho ai khác chứ? Tôn nghiêm của ả có vẻ hơn ai hết, nhưng ả để ý lo lắng gì cho những cô gái như ả chứ? Ả để ý lo lắng gì cho những binh sĩ Y Ngô bỏ mình trên sa trường chứ? Ả…”. Nó nhìn thẳng Hàn Ngạc: “… Thực sự để ý lo lắng cho huynh sao?”. “Ngạc ca, huynh là một thằng khờ, luôn luôn là một thằng khờ! Kẻ ả yêu thương nhất chính là bản thân ả! Tôi không muốn ở lì trong Y Ngô thành này, tôi không cái tính nhẫn nại đó, không có cái mặt dày đó, xáng cho người ta một bạt tay mà còn muốn thấy toàn thành nịnh hót kính trọng mình. Tôi về Liên Thành Kỵ, ở đó ít ra sạch sẽ hơn, không có cái đám đàn bà con gái giả trá, không phải thấy những chuyện làm của chúng khiến cho người ta phải ói mửa hết bữa cơm mới vừa nuốt! Dư Tiểu Kế tôi là một tên tiểu lưu manh, là một người Khương Nhung, nhưng người Khương Nhung có cưỡng đoạt nữ nhân cũng chỉ là cho bản thân mình, không phải là kẻ bán mình làm một con điếm dựng biển tiết nghĩa tìm một thế thân để lừa đảo Hoàng đế lão tử, cho nhà mình trên dưới thênh thang đường công danh!”. Mắt gã đỏ ngầu. Lúc nó vừa bắt đầu mở miệng mắng nhiếc, một tay Hàn Ngạc đã giơ lên, cơ hồ táng vào mặt nó. Tiếp đó, Hàn Ngạc như mất hết sức lực, tay thõng thượt, gã hiểu lời nói của Tiểu Kế toàn là lời thực, biết Phương Ninh sẽ nói tất cả những việc đó đều là sự luồn lách không thể không dùng đến trong quá trình đấu tranh cho lý tưởng… Họ luôn đúng, họ luôn luôn đúng… Nhưng Tiểu Kế… Răng gã cắn chặt vào môi, cắn cho tươm máu. Mặt mày gã chỉ còn một nụ cười thê thảm ảm đạm. Mắt gã mờ đi, sự âm ám đó đã tố cáo thâm tâm gã đang muốn thoát khỏi cái mũ miện hư hão, phóng chạy điên cuồng như thế nào. Gã lại không nói gì. Dư Tiểu Kế thấy thần tình của gã, tròng mắt của gã càng lúc càng mờ tối, đen như đêm tối. Chìm trong cái bóng tối hun hút sâu kín đó, Hàn Ngạc càng cầm chắc quyết định của mình hơn. Gã buông Dư Tiểu Kế, thấp giọng: “Được, ngươi đi đi, ta không cản ngươi. Hôm nay sứ giả đến trù tính xây dựng lại Bắc đình Đô hộ phủ sẽ đến, ta phải đi nghênh tiếp. Ngươi về Liên Thành Kỵ, sau này phải bảo trọng đó. Ba ngày sau nhớ nhận thư của ta đó”. Dư Tiểu Kế mấp máy môi muốn nói gì, vai lại đã bị Hàn Ngạc đẩy đi: “Đi đi!”.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 61 Giang thiên mạc mạc điểu song khứ1
M ột thớt ngựa Chuy bôn ba trên con đường từ Y Ngô thành lên phía bắc. Phía bắc thành là sa mạc, thực ra trong sa mạc đâu có đường, chỉ là khi ngoái lại nhìn, dấu chân ngựa trải dài nãy giờ làm cho người ta có cảm giác có một con đường. Còn có một con ngựa chở đồ ăn nước uống lặng lẽ đi theo. Người trên lưng ngựa Chuy trông có vẻ rất mệt mỏi, mặt mày lấm lem cát bụi, nhưng đôi mắt lại vẫn hết sức kiên định -- Để ta đi một mình, cứ để một mình ta đi, thế giới này ta đã quen độc hành.
C ục diện của mười lăm thành đã tạm thời bình định, có Phương Ninh và Cổ Siêu Trác, gặp chuyện gì đi nữa chắc họ vẫn có thể an bài --- Đông cung với Bộc Xạ Đường quyền khuynh thiên hạ, hai người họ đều là nhân vật đầu não trong số. Dù hai phe Thái tử và Tể tướng đang đấu tranh kịch liệt, cũng đỡ gã có thể tin chắc Phương Ninh và Cổ Siêu Trác đều là người biết phải trái thiệt hơn, họ sẽ không phá hỏng nền tảng --- Đó là: không để chuyện tranh đua đảng phái làm ảnh hưởng đến đại cục Tái ngoại. Cho nên gã yên tâm. Mà Khương Nhung giờ phút này đang lọt vào nội loạn, có lẽ đây chính là thời cơ.
Gã không th ể ngồi thừ ra đội cái chức hão Tam châu Phòng ngự sứ với Thiên tử Tuyên phủ sứ. Cho dù bên dưới cái quan hàm đó còn có sự nghiệp, còn có giàu sang phú quý, còn có quyền thế có thể làm biết bao nhiêu chuyện, còn có Phương Ninh, nhưng đó là sự nghiệp ô uế xấu xa mờ ám --- Có thể lừa dối người quân tử nếu dùng phương pháp hợp tình hợp lý2, Phương Ninh chính đã làm như vậy đối với mình. Dưới sự dụ hoặc của cái gọi là sự nghiệp bậc đại trượng phu đeo đuổi, mình thực ra phải giúp tất cả những kẻ trục lợi trên trên dưới dưới trong triều hoàn thành bao nhiêu trò tranh đoạt gian xảo nữa?
Gã không th ể ngồi lì ra nữa, nếu không, không chỉ chẳng có cách nào đối diện bản thân, chẳng có cách nào đối diện cái tâm tư khát vọng không để bụi trần nhuốm nhiễm của thời niên thiếu, cũng không có cách nào đối diện một Tiểu Kế đã ngưỡng mộ mình đến dường này. Gã viết cho Tiểu Kế một lá thư, trong thư chỉ có dăm câu: “Kế, những gì ngươi nói đều đúng cả. Ngạc ca không phải là kẻ có thể dắt díu một binh đoàn đi chinh phạt thiên hạ để giành được công danh thế tục, vì vậy Ngạc ca lần này phải viễn hành một mình. Nếu có một ngày sao Bạch Lang tắt ngóm ở vùng cực bắc, thì đó chính là ngày Ngạc ca thành công. Có điều cái kết quả tốt đẹp đó Ngạc ca cũng chỉ dám cầu mong. Tiền trình hiểm ác, không thể dẫn ngươi theo. Nhân tình ấm lạnh, bất cứ chuyện gì cũng phải bảo trọng đó”.
1 Sông trời man mác đôi đường én, là câu trong bài thơ “Diễm Dự” của Đỗ Phủ. Gò Diễm Dự là một mõm núi ở giữa lòng sông ở cửa khẩu chính của hẻm núi Cù Đường bên dưới Bạch Đế thành. Cái gò này đến mùa đông nước cạn mới nhô lên, còn mùa hè thì thành đá ngầm, tàu thuyền rất sợ khi đi ngang qua đó. Năm 1958 thì cái gò này bị phá bằng thuốc nổ.2 Nguyên tác là "Quân tử khả khi chi dĩ phương", là câu thuộc một mẩu chuyện trong Sách "Mạnh Tử - Vạn chương thượng": hồi đó có người cho ông Tử Sản nước Trịnh một con cá, Tử Sản kêu kẻ thuộc hạ giữ ao đem thả cá xuống ao, hắn đem nấu cá rồi về nói: "Ban đầu con cá trông đừ căm, một hồi sau lại hết sức nhanh nhẩu, bơi lội thỏa thích". Tử Sản nói: "Coi như kiếm được chỗ nên đến, kiếm được chỗ nên đến rồi". Tên thuộc hạ ra ngoài nói: "Ai nói Tử Sản trí tuệ gì chứ? Ta đã nấu chín ăn sạch mà y còn nói: 'Coi như kiếm được chỗ nên đến, kiếm được chỗ nên đến rồi'". Cho nên có thể lừa dối người quân tử nếu dùng phương pháp hợp tình hợp lý, nhưng lại rất khó dùng cách không hợp tình hợp lý mà gạt gẫm họ. Tử Sản là Công tôn Kiều, là cháu của Trịnh Mục Công, con của Công tử Phát.
L ần này có thể nói gã đã nhất quyết ra đi. Gã không lo cho Phương Ninh --- Bất kể dòng đời đảo xoay vùn vụt đến đây, một cô gái như nàng luôn luôn có thể tự bảo vệ lấy bản thân. Gã nay đã hiểu được điểm đó. Người làm cho gã lo lại là Tiểu Kế. Nghĩ đến khi nó nhận được thư, bên dưới đôi mắt to tròn, bên trên cái cằm nhọn nhọn chắc sẽ phải ngấn lệ. Tuy đã quyết tâm lên đường, gã lại không có cách nào không canh cánh cho được.
o0o
Thám mã truy ền báo, địa phương Khương Nhung vương “Thiên Kiêu” Ô Tất Hãn tụ tập Khương Nhung Tả Hữu Hiền vương và thủ lãnh các bộ lạc là Thanh Thảo hồ. Mục đích chuyến đi lần này của Hàn Ngạc cũng là Thanh Thảo hồ. Trước khi đi gã đã nghiên cứu kỹ địa hình con đường này --- Thanh Thảo hồ cách Y Ngô thành khoảng hơn một ngàn dặm. Dọc đường có sa mạc, cũng có thảo nguyên, thỉnh thoảng có lấn qua Qua Bích. Hiện tại gã đã đi đến rìa bắc bộ của sa mạc Ba Đan Cát Lâm. Thu sang, nhạn chao liệng bên trên, vỗ cánh về nam. Thanh Thảo hồ đi lên nữa là Bắc Hải mà Tô Vũ từng chăn dê phải không? “Huề thủ thượng hà lương, du tử mộ hà chi?”3… Nơi Lý Lăng và Tô Vũ chia tay nhau năm xưa không biết ở đâu đây? Thuở ấy, lòng bọn họ không biết có tư vị ra sao?
--- Hàn Ng ạc rời Y Ngô thành đã ba ngày, đầu óc nghĩ ngợi lan man, xa xa thấy có một chấm đen nhỏ ngã nằm giữa sa mạc, đi đến gần nữa mới nhận ra đó là một người. Cách chỗ người nọ nằm không xa còn có bóng dáng một con thú. Hàn Ngạc từ từ đi tới, chợt vung roi thúc Ban Chuy --- vì gã đã thấy người kia mặc y phục Liên Thành Kỵ. Màu áo xanh đen, chừng như là binh Hán trong dinh hộ vệ. Sao vậy, sao lại có người trong dinh hộ vệ lạc giữa sa mạc?
Hai ng ười còn cách nhau khoảng hai dặm. Ngựa của Hàn Ngạc nhanh chân, không lâu sau đã đến nơi. Gã nhảy xuống, chăm chú ngó thì thấy quả là một người trong đội nhân mã mà Vương Hoành Hải sai phái đến. Mặt rất quen, nhưng lại không nhớ được tên. Người lính đó môi miệng khô nứt, mắt còn he hé, đang trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Hàn Ngạc khẩn trương, tháo túi nước bên yên ngựa vọt mình đến bên người đó. Gã đỡ ót của hắn lên, dốc nước vào miệng người đó.
Đầ u gã vào lúc này bỗng thoáng qua tâm tư cảnh giác, đó là --- sát khí. Giữa sa mạc trống trống không không, gã cảm nhận được một luồng sát khí. Gã nhìn bốn bề tra xét, muốn tìm kiếm nguồn gốc của luồng sát khí. Có điều đâu đâu cũng hoang vắng, khiến cho gã phải hoài nghi không biết có phải chỉ là ảo giác hay không. Tay gã vẫn ôm đầu người lính, tiếp tục rót nước, thấm ướt môi hắn. Người lính nọ mở mắt, lập tức nhận ra gã, thần sắc thảm thiết, tựa như muốn nói gì đó, lại nói không nên lời. Hàn Ngạc bần thần, thình lình thấy người lính đang đờ đẫn bỗng phi thân lên, ôm chầm lấy mình. Hàn Ngạc tới lúc đó mới cả kinh phát giác sát khí hình như là truyền qua thân thể người lính đó! Tại sao một người lính cùng phe sắp chết lại đột kích mình? Gã không kịp nghĩ ngợi, giơ một bàn tay chắn giữa mình và người lính, lại không dám dụng lực thái quá, sợ làm hại đến tính mạng của hắn.
Ng ười lính tuy không nói gì, mắt bỗng đỏ ngầu, trông thực khủng bố. Song thủ của hắn cứng đơ ôm lấy Hàn Ngạc, ánh mắt lại có vẻ cảnh cáo gì đó! Lúc này Hàn Ngạc chợt thấy huyết quang bung toé, một vật nhọn hoắt đen thui từ sau lưng người lính đâm xuyên qua phổi hắn, chìa tới lồng ngực của mình.
3 "Dữ Tô Vũ" của Lý Lăng có câu: "Huề thủ thượng hà lương, du tử mộ hà chi?" (Dắt tay nhau lên cầu từ biệt, người rời quê hương chiều đến phương nào?). "Hà lương" là cây cầu bắc qua sông, chỉ nơi tống biệt. "Du tử" chỉ người rời quê hương đi sống nơi khác.
--- Bẫy rập! Hàn Ngạc hú một tiếng dài, thì ra đây là bẫy rập!
Thân gã rùn xu ống, mũi sắt nhọn hình dáng giống ống sáo đen ngòm xuyên qua thân thể người lính, đâm phập vào vai trái của gã. Chiêu này quá nhanh, nhanh đến mức Hàn Ngạc chỉ kịp né khỏi chỗ yếu hại. Gã đau đến tối sầm mắt, nhưng song thủ lại ôm giữ người lính, hai chân búng một cái bay lùi ra sau. Người lính che chắn mục quang của gã, không kịp ngó xem kẻ phục kích giấu mình trong cát bên dưới thân hắn là nhân vật nào. Tên kia rõ ràng đang đuổi theo. Không gian vang lên một tiếng rít gay gắt, là tiếng rít do cái ống sắt đen sì trong tay tên kia phát ra. Hàn Ngạc chỉ thấy máu tươi đang rơi rải bên dưới ống sắt đang bay đánh. Đó chính là máu của người lính, còn có máu của mình nữa. Gã thoái quá nhanh, mà người đuổi đánh cũng xộc đến quá lẹ, gã hoàn toàn không kịp nhìn kỹ xem bóng dáng thấp bé kia là ai. Gã lùi luôn hẳn ba trượng. Đến lúc chân chạm đất, bên dưới bỗng hụt hẫng, tựa như cát lún --- Có cạm bẫy! Hàn Ngạc trán toát mồ hôi lạnh, liếc nhìn một cái, nháy mắt đã liếc thấy một ống tre lú ra khỏi mặt cát --- Bên dưới còn có người nữa! Gã chỉ kịp cảnh giác, một mảng cát mù mịt bay bắn lên, một vùng đao quang từ trong cát đổ ập ra, tựa hồ trở lật mình. cát vàng mù trời, đâu đâu cũng là cát, mà đao quang vọt lên như khiến từng hạt cát có đủ mãnh lực sát nhân. Hàn Ngạc hai chân nhún một cái, thân người xoay vụt co cuộn lại, lao thẳng vào không trung. Gã không kịp rướn tay, bắp thịt trên lưng co giật, đẩy Trường Canh cột sau lưng búng “rẻng” một tiếng, thoát khỏi vỏ bay ra. Hàn Ngạc hữu thủ ôm giữ người lính, tả thủ tung bắt Trường Canh, thân người dang giữa trời, một kiếm đón đầu ống sắt nọ. Đương đầu hiểm cảnh, gặp mạnh thì đánh mạnh, đón lấy khó khăn mà đi lên, đó vốn là tính khí của Hàn Ngạc! Cát vàng bay bắn, búi tóc gã bung khăn cột xõa tung ra, trước khi đao quang bửa lên mình, Trường Canh va vào ống sắt “choang” một tiếng, Hàn Ngạc mượn lực lui nhanh, kẻ truy kích cũng vì lực va chạm mà giảm tốc độ. Đao quang và màn cát mù trời vẫn cuốn cuộn ùa đến. Cát chọc rách tà áo, đao quang hung hãn cùng cực, chém một lằn giữa trời, vẹt một vệt toé máu dưới bẹ sườn của Hàn Ngạc. Gã lùi quá nhanh, lợi dụng khoảng thời gian hai tên kia toàn lực công tập chưa kịp nhảy vọt đến gần, gã đã thoái ra được cỡ một trượng. Sau đó gã hạ mình ngồi vững chãi giữa đồng cát, vẫn còn ôm người lính nọ. Cát từ từ rơi lã tã, Hàn Ngạc thân người đầm đìa máu, gã tuy may mắn thoát khỏi trận đột kích vừa qua, có điều đã mang trọng thương. Người lính nọ cũng đã như cây đèn cạn dầu, miệng hắn không ngừng ứa máu, gắng gượng lên tiếng: “Đại Mạc… Hàn soái, là Đại Mạc vương…”. Hắn dốc hết sức tàn giúp Hàn Ngạc nắm hiểu được tình huống. Hàn Ngạc không ngước lên ngó hai tên kia, mà cúi đầu trân trân nhìn người lính. Hắn cựa quậy yếu ớt, thốt: “Ngài mau chạy đi!” --- Tựa hồ hắn muốn vùng thoát khỏi Hàn Ngạc, tuy không còn sức để giúp gã cự địch, ít ra cũng không muốn thành gánh nặng cho Hàn soái. Hắn vì gắng vùng vẫy mà hao hết lực khí, lá phổi lại bị đâm thủng, thân người không ngừng co giật đau đớn, cổ họng khọt khẹt òng ọc máu tươi, hai mắt thảng thốt ngó Hàn Ngạc, nhưng chẳng còn có thể lên tiếng nữa. Cái chết của hắn cực kỳ thê thảm, thân người cục cựa lần cuối như một con thú bị thương. Hàn Ngạc không còn cách tương trợ, chỉ đành ôm chặt lấy hắn --- Người lính này tên là gì? Hàn Ngạc nỗ lực moi tìm trong não, gã chợt thống hận ký ức của mình… Thương thay xương gởi sông Vô Định… mà vẫn hồn đeo giấc ruột rà 4… Ra vùng Biên Tái đầu quân, cách xa vạn dặm, nếu gã có thể nhớ được tên người lính, thét lớn vào giờ phút cuối cùng đứng trên bến bờ sinh tử này, để dùng tên tuổi chiêu hồn hắn, dùng tiếng gọi giúp hắn nắm được điểm xác định cuối cùng của cuộc đời này. Nhưng gã nhớ không ra… nhớ không ra! Người lính cuối cùng đã bất động, miệng mấp máy. Sau khi phì ra ngụm máu bọt cuối cùng, mắt hắn trợn trừng chẳng chịu lìa trần, ngó Hàn Ngạc chăm chăm, đó là chút bất an vướng vít còn sót lại của hắn. Sắc mặt Hàn Ngạc lại bình tĩnh trở lại, gã đâu phải là lần đầu đối diện tử vong, có điều vẫn là lần đầu để thuộc hạ chết trong lòng mình. Cổ họng gã đánh thót, gã cảm thấy thân thể người lính đột nhiên mềm nhũn như bông, tựa hồ bao nhiêu lực khí của sinh mệnh mạnh mẽ trong chốc lát đã tản mác hết. Hai tên đứng dang ra chằm chặp nhìn gã lại một mực lãnh khốc vô tình. Chúng muốn tìm một cơ hội để công kích đang khi gã thất thần. Hàn Ngạc vẫn còn ôm người lính, đáng lẽ tư thế phải có sơ suất, nhưng người gã đang bốc dâng một luồng khí hung mãnh, nhàn nhạt mong manh bao trùm hết mọi kẽ hở, khiến cho hai tên kia cũng không dám khinh thị xuất thủ. Hàn Ngạc giơ tay vuốt mắt người lính, tới lúc đó mới ngẩng lên: “Đại Mạc vương?”. Hai tên đối diện một khô gầy, một to béo, mặt mày vàng nghệch, nhuốm đượm cát gió, trán hằn nếp nhăn. Tên gầy cầm một thanh đao bản rộng, còn tên béo chính là kẻ phục kích Hàn Ngạc trước tiên, tay đang cầm một ống sắt rỗng ruột dài cỡ hai thước, đầu mũi hết sức bén nhọn mỏng tanh. Hàn Ngạc nhìn tên mập: “Mạc Thất?”. Lại quay sang tên kia: “Mạc Vong?”. Thanh âm của gã rất bình tĩnh, máu trên vai vốn còn đang ứa, nhưng lúc này chỉ còn ri rỉ, thấm lí tí ra --- Mạc Thất và Mạc Vong biết võ công của gã cực cao, đã có thể tự phong bế huyết mạch. Khuôn mặt Hàn Ngạc vì mất máu mà hiển hiện vẻ nhợt nhạt, Mạc Vong hằn học chằm chằm ngó gã: “Quả báo nhãn tiền. Ngươi ở thôn Địch cũng đã từng giả trúng độc mà phục kích ta, nào ngờ báo ứng mau như vậy phải không, Hàn Tuyên phủ sứ?”. Hàn Ngạc khoé miệng hơi trễ, gã biết cuộc tranh đấu giữa mình với Đại Mạc vương đâu phải vòng ân oán giang hồ bình thường, mà là cuộc tranh đấu lợi hại ta sống ngươi chết. Thứ tranh đấu này, không có gì là quang minh chính đại, hai phe đều có thể tận dụng đường lối quỷ quyệt của binh gia. Mạc Vong tới giờ mới lên tiếng: “Hàn Tuyên phủ sứ, ngươi đã ép hai lão đầu tử bọn ta vào đường cùng. Từ khi ngươi bình định mười lăm thành, mở lại thương lộ nối liền đông tây, hạ lệnh toàn lực trấn áp những đoàn thương lữ của hai ta, ngươi phải sớm liệu được sẽ có ngày nay”. Lão không phải ham nói chuyện lảm nhảm giết thời gian với Hàn Ngạc, mà là vẫn còn đang dò kiếm một cơ hội quyết thắng --- Hàn Ngạc đâu phải giản đơn. Lão già có đôi mắt ti hí trên khuôn mặt béo phị nhận định được tu vi và nghị lực kiên định của người trẻ tuổi này hơn xa trong mức tưởng tượng của lão. Tuy hiện gã đã bị thương, nhưng người sống ở vùng đại mạc ai nấy cũng biết một con sói bị thương thông thường còn đáng sợ hơn lúc bình thường. Hàn Ngạc lạnh lùng thốt: “Có ta ở đây, đâu thể nào dung túng cho hai ngươi lợi dụng đường xa cách trở mà vụ lợi bản thân. Ta chừa cho các ngươi một con đường sống, chỉ cần các ngươi làm ăn đàng hoàng, không hù dọa cướp bóc các thương đội khác, hệ thống canh phòng suốt một dải Trương Dịch cho tới toàn hành lang Hà Tây vẫn sẽ mở rộng cho các ngươi”. Mạc Vong tức tối cười lên: “Bớt nói mấy lời hoang đường đi! Ai tra xét đóng cửa quán xá của bọn ta trong mười lăm thành? Đúng, không phải là ngươi, mà là con điếm Đỗ Phương Ninh. Chớ có giảng dạy đạo nghĩa thiên hạ với bọn ta! Chuyện làm ăn trên con đường đó toàn là của hai lão ca đây, họ Đỗ trong Thành Nam Tính không phải đã thèm muốn từ lâu rồi sao? Ả không những chỉ cắt đứt thương lộ của ta, còn muốn giết người cướp của. Lão đại, huynh nói đi, gần đây đội thương lữ của bọn ta tổng cộng đã bị cướp bóc giết chóc bao nhiêu lần rồi? ‘Mạc Thượng Mai’, khà khà, ‘viên đá quý sa mạc’! Con nữ phỉ đó dẫn binh lính Y Ngô chuyên môn cướp bóc tàn sát nhân mã thương đội của bọn ta, còn có thể là ai khác chứ? Đổi tên thì ta đoán không ra sao? Trên đại mạc này, còn có nữ nhân nào dám dẫn một đám cướp đụng đến tài vật của hai lão ca đây? Trong mười lăm thành ả là quan, ngoài thành ả là cướp! Quan với cướp một nhà --- Người chớ có mở miệng nói những lời hoang đường đó!”. Hàn Ngạc ngây người: “Mạc Thượng Mai”? Đó là cái gì? Theo khẩu khí của lão ta, đó chắc là danh hiệu của một nhóm thổ phỉ? Lại chuyên môn đi đánh cướp thương đội của Đại Mạc vương? Hơn nữa đầu lĩnh là một cô gái? Chúng muốn nói: Phương Ninh là thủ lãnh của “Mạc Thượng Mai”? ---- Với tác phong và hành vi của Đỗ Phương Ninh, thêm vào tình hình đang hết sức cần vàng bạc của Thành Nam Tính, cho đến sự trông cậy vào tài nguyên vùng Mạc Bắc của Đông cung, Hàn Ngạc có chút tin tưởng, nhưng gã chưa từng nghe Phương Ninh nói đến chuyện này. Khoé môi gã hé nụ cười khổ, đương nhiên nếu là Phương Ninh làm, nàng đâu thể nói cho mình biết. Có thể lừa dối người quân tử nếu dùng phương pháp hợp tình hợp lý, Phương Ninh luôn luôn đối phó mình theo kiểu đó. Nhưng mấy tháng qua, nàng đâu có thời gian rảnh? Nàng bộn bề trăm chuyện, lẽ nào có cơ hội ra ngoài đánh cướp bọn Đại Mạc vương? Gã với nàng đã từng mấy lần phái binh sĩ vây bắt thuộc hạ của Đại Mạc vương, quả có đả kích sự quấy nhiễu của chúng đối với các đội thương lữ của mười lăm thành. Bọn họ đã dùng cấm vệ quân và Liên Thành Kỵ san bằng không ít sào huyệt của Đại Mạc vương, tối thiểu cũng bảy tám chỗ. Về điểm đó, mục đích đạo nghĩa của gã và nàng còn tương đồng. Gã biết Đỗ Phương Ninh muốn mượn đó mà công phá thực lực của một phe nhân mã khác trong đảng của Thái tử, đoạt lấy chỗ tài nguyên đó. Gã đang trầm tư mặc tưởng, Mạc Thất và Mạc Vong lại đâu có rảnh. Đã nhắm trúng thời cơ, chúng đưa mắt nhìn nhau, chuẩn bị phát động. Hàn Ngạc chợt ngẩng lên, vẫn còn ôm thi thể của người lính nọ, kiếm giắt ngang trên đầu gối chân trái, vai phải và dưới bẹ sườn đều đã mang thương tích, gã muốn sử kiếm thì chỉ còn nước dùng tả thủ. Cái ngước đầu đó của gã đúng vào lúc Mạc Thất và Mạc Vong dợm phát tác. Cả hai nhất tề cả kinh, cảm thấy sự thất thần thực đúng lúc của gã tựa hồ chỉ là một cạm bẫy. Nhưng tên đã lắp trên dây cung, đâu thể không bung ra. Mạc Thất xuất đao, quét ngang một đường, kéo theo một màn cát vàng. Kình lực đó như đã tập hợp hết lên cát, cát vàng như một lưỡi đao lần theo quầng sáng bung ra, chém thẳng về phía Hàn Ngạc. Hàn Ngạc thét một tiếng, Trường Canh đâm tới, quầng cát giữa trời đột nhiên như khựng lại, chia nhau rơi mình. Sau đó không trung vang lên một tiếng rít sắc nhọn --- “Động Không Nhận” lừng danh đại mạc của Mạc Vong xé gió lao đến! Hàn Ngạc nửa người mang thương thế, hành động bất tiện, hai lão già kia lấn ép gã ở chỗ đó. Hàn Ngạc vẫn khoanh gối ngồi yên, chẳng chịu di động. Trường kiếm trong tay gã lấy tĩnh chế động, uyển chuyển uốn dọc bẻ ngang, bảo vệ thân mình. Mạc Thất sắc mặt kinh ngạc, bực dọc thốt: “Khà khà, ngươi đúng là học đủ ngón nghề, ‘Trường Cư kiếm pháp' của Công Dã phái mà ngươi cũng dùng được”. --- Công Dã Thường ở đất Thục Trung vì không đi đứng bình thường được nên sáng tạo ra “Trường Cư kiếm pháp”, dùng tư thế quỳ hay ngồi mà đối phó kẻ địch, đánh khắp thiên hạ, kiếm pháp đúng là hiếm có trên đời. Hàn Ngạc bình tĩnh nói: “Công Dã tiền bối là hảo hữu của gia sư, tại hạ hồi nhỏ đã từng được người không chê ngu khờ mà chỉ điểm tận tình”. Gã ăn nói hết sức bình hòa, kiếm thế lại càng đánh càng mạnh. Mạc Vong đã từng giao thủ với gã, vậy mà lại cảm thấy chỉ sau vài tháng ngắn ngủi, kiếm pháp của gã chừng như tiến bộ ghê gớm --- Vốn kiếm pháp của Hàn Ngạc càng đánh càng đè nặng áp bức, hễ phát ra là không thể thu hồi, cho nên đấu với gã, người ta có cảm giác càng lúc thủ pháp của gã càng trầm ổn tỉnh táo. Đó là sự trấn định vượt quá bình thường, cũng là cái chấp nê ẩn nhẫn theo đuổi đến cùng, tựa hồ coi sống chết như không, thấp thoáng toát tỏa khí độ đã luyện thành qua những ngày tháng chỉ huy thiên quân vạn mã. Mạc Thất và Mạc Vong một lưỡi đao một mũi nhọn giáp kích, vốn liên thủ đã quen, còn Hàn Ngạc thì lại mới bị trọng thương, đánh hoài như vầy, chúng nghĩ Hàn Ngạc dứt khoát không cầm cự được bao lâu. Nào ngờ Hàn Ngạc chỉ dùng một tả thủ vận kiếm, tuy lọt vào cục thế hiểm ác, lại một mực không gục ngã. Mạc Thất chợt như nghĩ đến gì đó, thất kinh la lên: “Ngươi đã luyện ‘Sủng Nhục Kinh'?”. Hàn Ngạc nụ cười có vẻ ngạo nghễ: “Sủng Nhục Kinh"? Không sai, gã có luyện qua “Sủng Nhục Kinh”. Nhưng trước đây tính tình trẻ con nóng nảy, không phù hợp với công phu đó, cho nên tập hoài vẫn không thành. Nào hay hơn một năm nay sau khi mấy lần gặp thất bại, ra Tái ngoại điều binh, quân vụ bận bịu, gã lại từ từ thông hiểu được phép tắc trong kinh. --- “Sủng Nhục Kinh” vốn là bí kíp một người bạn quá cố của Thái Ất chân nhân để lại, giao cho ông ta bảo quản. Tâm pháp mà Thái Ất chân nhân tu tập lại không hợp với nó --- Ông ta luyện tâm pháp “Lưỡng Vong” của Đạo gia, mục đích là sủng nhục giai vong, vinh hay nhục đều quên hết. Hàn Ngạc lại không phải là người tập được Đạo, cho nên ông đem “Sủng Nhục Kinh” truyền cho gã. “Vinh hay nhục gì đi nữa, tâm tư không vì mừng rỡ hay rầu rĩ mà thành tán loạn, cứ tĩnh như nước tù đọng; vinh hay nhục gì đi nữa, đến khi tâm tư hỗn loạn, liền động nhanh như thỏ chạy trốn”, đó là cảnh giới tối cao của kiếm pháp mang tên “Sủng Nhục Kinh”. Thân người Hàn Ngạc chợt xoay vọt lên, đánh một chiêu như sấm chớp. Gã chạm mặt Mạc Thất và Mạc Vong giữa không trung trong một sát na điện quang hỏa thạch, lại trở về tư thế ngồi yên giữa đồng cát hoang. Hai lão già kia biết hôm nay mà muốn thu thập gã, e phải tổn hao lắm công phu. Người tập luyện “Sủng Nhục Kinh” hết sức nhẫn nại đánh dai dẳng. Hồi nãy chiêu thức của gã rõ ràng là theo đường lối “vinh hay nhục gì đi nữa, đến khi tâm tư hỗn loạn, liền động nhanh như thỏ chạy trốn”. Ngay khi đó, xa xa đằng chân trời hình như có cát bụi bốc lên, chợt có một hán tử phóng ngựa nhào tới, người trên ngựa la lên: “Mạc lão gia, Mạc lão gia, Mạc Thượng Mai đánh đến rồi!”. Mạc Thất và Mạc Vong mặt mày nhất tề biến sắc --- Sao ả lại đến vào lúc này? Hán tử kia nói: “Chúng vừa đánh nhân mã của bọn ta ở hang Bạch Lang, đám huynh đệ cầm cự không nổi nữa, các ngài mà không về, e là chúng sẽ diệt sạch hang Bạch Lang!”. Hai lão già chợt cười đanh ác. Sau khi đánh vài chiêu với Hàn Ngạc, chúng cũng biết nhất thời không thể thành công. Thấy khói bụi bên kia càng lúc càng mịt mù, xem chừng Mạc Thượng Mai có chia quân kéo sang đây, Mạc Thất dừng tay, thở dài một tiếng, căm hận thốt: “Họ Hàn kia, ngươi số lớn lắm, hôm nay coi như ngươi thoát tai kiếp. Có điều hai bên phải một sống một chết, bọn ta sẽ còn quấy quả ngươi đến chết mới thôi!”. o0o Hàn Ngạc sau khi phi nhanh mấy dặm mới xuống ngựa mai táng thi thể của người lính nọ giữa gò cát. Gã im lặng ngồi trước mộ phần --- Thực ra gã mệt quá rồi, đào cũng đào rất nông, lại không đắp mồ được. Khắp nơi toàn là cát vàng, có muốn đắp thành mồ cũng chẳng đắp được, mà bốn bề cũng hoàn toàn không có dấu vết gì để ghi nhớ, sau này muốn tìm e chẳng thể nào mà tìm ra. Gã thầm thở dài, lại phải chôn cất một huynh đệ tuốt vùng dị vực xa vời. Máu trên vai gã rỉ xuống, thấm vào cát, đỏ tươi chói mắt. Ngồi được một khắc, gã mới động thủ cầm máu vết thương. Tự băng bó thương thế rất bất tiện, phải thực lâu sau gã mới lo liệu xong. Hồi nãy sau khi Mạc Thất và Mạc Vong vừa đi, gã cũng vội vã lên ngựa --- vì gã không muốn gặp Phương Ninh. Theo hai lão già kia nói, “Mạc Thượng Mai” cũng chính là Phương Ninh. Năm tháng chinh chiến dọc ngang chốn cát vàng này… ôi… những kỷ niệm yêu đương ấm dịu hoàn toàn biến mất. Gã mặc lại áo, tiếp tục lên đường. Những ngày sau đó, gã cố gắng dưỡng thương. Gã biết những gì Đại Mạc vương nói đâu phải là nói khoác, những trận phục kích trên sa mạc hoang lương này chỉ mới khai diễn, ước hẹn giữa bọn chúng với mình nhất định chưa chết chưa tan. --- Ngày nọ Hàn Ngạc đang lang thang, tính toán làm sao tránh né không phải gặp hai lão già kia trước khi thương thế giảm bớt. Gã chợt giật mình, nếu Phương Ninh thực là “Mạc Thượng Mai”, nàng có thoát khỏi sự liên thủ công kích của Mạc Thất với Mạc Vong không? Tiếp đó khoé môi gã lại hé cười lặng lẽ, gã biết Phương Ninh nghênh địch trù tính chu đáo hơn xa mình, nàng chắc không sao đâu. Trời sắp ngả hoàng hôn, gã nhìn sang hướng tây, thần sắc bỗng kinh ngạc: quang cảnh bên đó, giữa trời đột nhiên hiện ra một con sông. Dòng nước lấp lánh, lăn tăn trong ngần, bờ sông cũng có cát, mà cát lại mát mẻ ẩm ướt, khác xa cái khô khốc lạnh lùng của cát hoang miền sa mạc cô tịch. Dòng sông đó đang chao động giữa không trung qua ánh sáng chiết xạ. Trên sông có một đôi chim trắng bay lượn nhẹ nhàng thảnh thơi, không câu không thúc. Hàn Ngạc ngẩn ngơ nhìn. Gã biết đó là ảo ảnh, nhưng cảnh vật đẹp đến dường đó, thực làm cho người ta không thể nào không trông mong để rồi chuốc lấy thất vọng não nề. Sau đó gã nhìn thấy rõ một thớt ngựa. Con ngựa đứng ngoài vùng cát vàng, ngay trước dòng sông. Hàn Ngạc dụi dụi mắt, nhất thời cũng không biết thớt ngựa đó là thực hay là ảo, ngay cả Ban Chuy cũng chừng như đã thẫn thờ. Hàn Ngạc chầm chậm ruổi ngựa đi tới, lại thấy có một nữ tử ngồi trên lưng ngựa, nàng cũng đang nhìn dòng sông trong ảo ảnh, bờ má rơm rớm một vẻ ôn nhu hồng thắm. Hàn Ngạc phóng ngựa đến bên cạnh, sau khi mất máu, thần trí của gã cứ có chút mơ hồ, nảy sinh ý muốn giơ tay sờ xem có thực là người hay không. Nữ tử nọ chợt thấp giọng: “Đừng có vội hà hiếp người ta, muốn đi là đi như vậy sao?”. Nàng ngoái mặt --- Phương Ninh, đó là Phương Ninh thực. Ánh mắt nàng vừa tức giận, lại vừa dịu dàng, có chút thẹn thò, cũng có chút nóng nãy. Hàn Ngạc vốn muốn một mình đi Thanh Thảo hồ, giờ đây thình lình gặp nàng, nghe nàng nói chuyện, gã tựa như mới sực tỉnh khỏi một giấc mộng. Gã giật cương, Ban Chuy nhảy chồm lên, hai đùi gã bất tri bất giác kẹp vào mình ngựa, lập tức phi nước đại. Phương Ninh đằng sau giận dữ: “Ngươi chạy gì nữa chứ? Ta tìm ngươi đã ba ngày trời, dễ lắm sao? Tiểu quỷ cả gan, ăn hiếp người ta rồi muốn chạy là chạy à!”. Nói xong, nàng phóng ngựa rượt theo.
4 Nguyên tác là hai câu "Khả liên Vô Định hà biên cốt, do thị xuân khuê mộng lý nhân" trong bài thơ "Lũng Tây hành" của Trần Đào. "Vô Định hà" tức là sông Vô Định miền bắc bộ Thiểm Tây, một nhánh của Hoàng Hà. Xương trắng của các tướng sĩ chất chồng bên bờ sông Vô Định, mà vợ của họ ở phương xa vẫn tin chồng còn sống, vẫn tha thiết gọi tên trong mộng, trông đợi sớm có ngày họ trở về đoàn tụ.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 62 Phong vũ thời thời long nhất ngâm1
Hàn Ng ạc chạy đằng trước, Đỗ Phương Ninh rượt phía sau. Hàn Ngạc thực ra cũng không biết mình chạy vì cái gì, mà Đỗ Phương Ninh lại biết nàng tại sao lại rượt theo. Sau khi Hàn Ngạc thụ thương, thể lực yếu hơn nhiều, vụt thấy Đỗ Phương Ninh vọt mình lên, Thanh Sách bung ra, kết thành một vòng thòng lọng giữa không trung, quăng cột lấy đuôi con Ban Chuy. Ban Chuy đau quá hí vang, dừng sựng lại. Đỗ Phương Ninh mượn lực phóng sang, tay buông Thanh Sách, nhảy phốc lên lưng ngựa của Hàn Ngạc, hai tay ôm Hàn Ngạc vật xuống. Hai người rơi đánh “bịch” xuống đất. Đỗ Phương Ninh chẳng dừng tay, mà cào cấu đánh đấm bên trên Hàn Ngạc. Hàn Ngạc chưa bao giờ bị người ta đè xuống như vậy. Gã giơ tay đỡ gạt mấy cú đánh của Đỗ Phương Ninh. Hai người cứ kẻ đánh người đỡ lăn lộn trên cát, thuận theo triền dốc mà lăn xuống. Tới khi hết đà, hai người đầu cổ mặt mày dính đầy cát. Đỗ Phương Ninh đã vứt bỏ hết phong thái bình tĩnh, điên cuồng nhất quyết chế ngự Hàn Ngạc cho bằng được. Hàn Ngạc một là bất nhẫn hoàn thủ, hai là thương thế khiến cho thân thể mệt nhừ, nhưng lại không chịu đầu hàng, cứ tiếp tục giằng co một hồi thực lâu. Đỗ Phương Ninh thét lớn một tiếng, lại đè ép lên mình Hàn Ngạc. Hàn Ngạc ngước lên, bần thần nhìn đôi mắt đen nhánh của nàng, song thủ rã rời, bị nàng bắt giữ đè sát xuống cát. Ánh mắt của Đỗ Phương Ninh nửa tức tối nửa cổ quái, chằm chằm ngó gã, như hận không nuốt trọng được gã. Tiếp đó đột nhiên môi nàng vồ xuống, chèn ép lên miệng Hàn Ngạc. Hàn Ngạc ngoẹo đầu, lại bị nàng kéo bật lại, môi đè lên môi. Đỗ Phương Ninh đâu chỉ dùng môi, răng nàng còn cắn nhè nhẹ lên môi Hàn Ngạc nữa. Môi gã sưng lên, dấu răng ri rí máu tanh tanh. Hàn Ngạc có cảm giác máu huyết trong người như thiêu đốt, một ý nghĩ ấm dịu bao trùm lấy gã. Bên tai nghe Đỗ Phương Ninh tức giận thốt: “Ngươi làm gì vậy? Ăn hiếp người ta rồi bỏ đi? Ta là nữ tử, có thể để cho ngươi ăn hiếp một cách tùy tiện như vậy à? Ta cũng phải ăn hiếp lại ngươi!”. Miệng nàng thầm thì, môi lại ép sát tấn công Hàn Ngạc. Hàn Ngạc đâu có quen tư thế bị động như vầy, liền kháng cự theo bản năng. Nhưng răng gã tuy ngậm chặt, Phương Ninh đang tức tối, đột nhiên cắn lên cái mũi cao cao của gã một cái, khiến cho gã đau quá, há miệng kêu lên. Môi Đỗ Phương Ninh lại vời xuống, đầu lưỡi chui tọt vào miệng gã. Tiếp đó răng môi va cạ, lưỡi quấn vào nhau, mù mù mịt mịt… Hàn Ngạc để mặc lưỡi nàng tung hoành trong miệng mình, đầu óc dần dần trống trơn: gã yêu Phương Ninh, gã cũng không biết sao mình lại yêu, nhưng ngay bây giờ gã biết đây là cô gái gã muốn, cho nên mình vừa thoát trói buộc vẫn cứ để bị xâm lấn quấn quít. Đây là một nữ tử gã vĩnh viễn không lường được. Tình yêu của Phương Ninh là cái chủ động, như nàng chủ động hôn Hàn Ngạc. Hơi thở của Phương Ninh và Hàn Ngạc càng lúc càng nặng nề, Đỗ Phương Ninh thốt: “Tối hôm đó ta dại quá, cho nên mới bị ngươi ăn hiếp. Ngươi là nam nhân, lại đi ỷ vào sự vô tri của ta mà ăn hiếp ta như vậy sao?”. Nàng dốc sức tấn công môi miệng Hàn Ngạc, tựa hồ muốn công nhập xâm chiếm sinh mệnh của người đàn ông này --- Gã là của nàng, gã cần phải là của nàng! Hàn Ngạc có cảm giác một ngọn lửa lòng bị nàng thắp cháy, thân người Phương Ninh nóng bỏng. Nàng buông hai tay gã, ôm vò đầu Hàn Ngạc khiến tóc tai gã rối bong. Song thủ của Hàn Ngạc vòng ra sau ôm eo nàng, cảm thấy một sức nóng bốc dựng lên, gã trở mình, đè Đỗ Phương Ninh bên dưới, môi miệng hạ xuống, thì thầm: “Không phải làm như nàng, phải vầy nè”. Phương Ninh nhắm mắt, tựa hồ đang hưởng thụ nụ hôn hơi thở thô bạo của người đàn ông, một lần nữa hưởng thụ niềm ôn nhu bị áp đảo. Nhưng chỉ trong chớp mắt, nàng lại thình lình ôm lật gã lại, lại đè lên mình gã, hôn lấy hôn để: “Ai nói nhất định phải y theo ngươi! Ta nói làm vầy nè!”. Hai người quấn quấn quít quít, lăn lăn lộn lộn, thay phiên nhau tranh quyền chủ động. Hàn Ngạc là nam nhân, nếu chỉ nói về thể lực thì dĩ nhiên gã mạnh hơn. Nhưng có lúc gã đè lên Phương Ninh, nàng lại cắn gã một cái đau điếng, đành phải chịu bị lật. Bọn họ cứ lăn lông lốc cách xa hai con ngựa, chúng ngẩn ngơ hờ hững ngó họ, có vẻ như cũng đang cười nhạo sự si dại của đôi thanh niên nam nữ. Cuối cùng Hàn Ngạc làm cứng, không lý gì tới môi đang bị Phương Ninh cắn, cũng không rống cổ cãi, đè nàng xuống nói: “Làm như vầy!”. Nói xong, gã đẩy lưỡi vào miệng nàng, sát tới mức nàng muốn nghẹn thở. Tất cả hơi thở trên đời đều bị cắt đứt hết, khiến cho nàng chỉ còn cảm nhận được miệng và lưỡi, hô hấp suốt từ phổi và chút hơi tanh của máu tươm trên miệng gã. Phổi của gã mạnh hơn Phương Ninh nhiều, hơi thở cũng dài hơn, Đỗ Phương Ninh ban đầu còn vùng vẫy, sau đó thân người dần dần mềm nhũn đi, bắt đầu mê man theo nụ hôn của gã, song thủ ôm chặt lấy cổ gã. Toàn thế giới tựa hồ đều bị bọn họ bài trừ ra ngoài, mà trọn một vũ trụ chừng như đang nảy nở trong lòng bọn họ. Đỗ Phương Ninh chẳng kháng cự nữa, cũng không còn lo ai chủ động ai bị động, nàng mở rộng hết tâm tình đón nhận. Nụ hôn đó như lấp kín hơi thở, Đỗ Phương Ninh gần như dựa vào không khí nhả ra từ miệng gã mà sống còn, chỉ vì có gã mà sống còn. Một hồi thực lâu sau, nàng đột nhiên muốn tránh thoát, tìm lại thế chủ động của nàng con gái mình đây. Nhưng bên dưới hông Hàn Ngạc chợt ép cứng tới mức nàng không còn chút xíu khí lực nào. Má nàng ửng hồng, môi Hàn Ngạc từ từ cách rời. Mặt mày hai người ướt dầm dề, lẽ nào giữa sa mạc hoang vắng cũng có nước? Hay chỉ là hơi tình đọng lại từ miệng môi? Bất kể là gì đi nữa thì cũng đã thấm ướt rồi. Hơi thấm ướt đó tự nhiên phát ra. Thấm nhuần đến thế, tại sao vậy? --- Đỗ Phương Ninh nhắm mắt, bất động một hồi. Sau khi hé nhìn Hàn Ngạc, nàng lại nhắm chặt mắt như nghẹn thở, có một vẻ an nhiên tan chảy hoàn toàn sau khi bị đả bại triệt để. Lo gì chứ, cả một đời ít ra phải thua một lần, có phải không? Cũng bất quá là thua người đàn ông này mà thôi. Lực khí của gã mãnh liệt hơn mà. Đỗ Phương Ninh lần đầu đặt mình thấp hơn, lại có cảm giác thì ra “thấp” cũng có chút khoái lạc và an bình. Nàng thỏ thẻ: “Được rồi, để chàng được lần này, làm như vậy cũng xong”. Mắt Hàn Ngạc bỗng hơi ươn ướt. Gã hôn nhẹ lên mắt Phương Ninh, rèm mi nàng chớp chớp, song thủ ôm chặt cổ Hàn Ngạc, miệng khe khẽ thốt lời thề nguyện bình sinh: “Ngạc, tôi sẽ không để chàng lìa bỏ tôi, tôi với chàng vĩnh viễn không xa lìa”. Vĩnh viễn không? --- Thế gian này hàng ngày thực ra có bao nhiêu người nhắc tới hai chữ “vĩnh bất”? Mà thực ra lo gì đến sau này, chỉ cần khi nói hết lòng hết dạ, dứt khoát khăng khăng, cái giây phút đó cũng đã là “vĩnh bất” rồi. Hàn Ngạc thấp giọng: “Vĩnh bất phân ly…” o0o Bàn tay Đỗ Phương Ninh vô ý đụng phải vai Hàn Ngạc, Hàn Ngạc đau quá né mình. Đỗ Phương Ninh cả kinh: “Chàng đã thụ thương?”. Hàn Ngạc im lặng gật đầu. Đỗ Phương Ninh ngồi dậy, cởi áo cho Hàn Ngạc, phơi bài thân thể rám màu đồng của gã giữa sa mạc. Nàng xem xét chỗ vết thương, cau mày: “Vậy mà gọi là băng bó sao!”. Nói xong, nàng tháo gỡ hết. Máu đã khô, Hàn Ngạc người run khe khẽ. Đỗ Phương Ninh biết gã đau, nhẹ tay một chút, chót mày mỗi lần xé một lớp băng lại giật giật. Nàng nhìn vết thương, căm phẫn thốt: “Động Không Nhận --- là Đại Mạc vương?”. Hàn Ngạc ngoái lại, thấy sát khí bốc dâng trên mặt nàng, chỉ thoáng qua rồi giấu kín. Hàn Ngạc biết: lần này vì mình mà lòng Phương Ninh đã nuôi hận đối với Đại Mạc vương rồi. Nỗi căm hận của nàng không yếu ớt như con gái tầm thường, nỗi hận của Đỗ Phương Ninh nàng là vung đao tưới máu! Đỗ Phương Ninh thốt: “Đừng động đậy, có mấy chỗ thúi thịt, tôi phải cắt cho chàng”. Nói xong, nàng nghiến răng rút một thanh chủy thủ, chăm chú quan sát vết thương, cắt cả thịt lẫn mài vít văng ra. Tay nàng không run, nhưng mắt xót đau, nàng tung mình nhảy đến bên con ngựa, rút ra một túi rượu, lại quay trở lại bên Hàn Ngạc, mở nút đổ vào. Hàn Ngạc đau muốn nhảy dựng, lại nghe Đỗ Phương Ninh thốt: “Ráng chịu một chút, xong rồi. Như vầy thì không bị sốt”. Nói xong, nàng mau mắn lấy trong mình một bình thuốc trị thương, cạy nắp rắc rắc lên vai Hàn Ngạc, sau đó hai ngón tay xoa xoa điểm điểm huyết mạch của gã, lại lấy bên yên ngựa một cuộn vải trắng băng bó kỹ càng. Nàng gạt mồ hôi trên mặt, mắng lớn: “Hay cho Đại Mạc vương ngươi!”. Người nàng run khẽ, tay vẫn băng cho xong vết thương. Hàn Ngạc sợ nàng tức quá có hại cho thân thể --- Gã biết Phương Ninh là người cực kỳ dễ nổi nóng, hơn nữa sự giận dữ của nàng xưa nay hết sức thành thực, gã giơ tay ôm eo nàng, muốn xóa vơi cơn giận: “Nàng sao tính được hướng ta đi?”. Đỗ Phương Ninh nhìn gã, ánh mắt cười vui, bình tĩnh được phần nào: “Hôm đó lúc bọn ta ngồi trên mái nhà nói tới việc Khương Nhung chắc đang nội loạn, thực ra tôi đã biết tính toán của chàng rồi”. Hàn Ngạc lẳng lặng ngó nàng. Hiểu nhau là sao? Hiểu nhau có phải là như vậy không? Đỗ Phương Ninh chợt giáng cho gã một bạt tay trong khi gã hoàn toàn không phòng bị, hờn giận: “Chàng coi tôi là gì chứ? --- Tôi biết chàng không chịu được những tranh giành lợi ích ở trần thế rối ren này, cũng không muốn tiếp tay cho hổ, lại chẳng thèm thuồng gì cái quan hàm Tam châu Phòng ngự sứ, mà định bằng vào một thanh kiếm của mình đi hành thích Khương Nhung vương ở Thanh Thảo hồ. Bởi chỉ có y mới có thể bình định nội loạn của Khương Nhung. Chàng nhận định tình thế này chỉ cần y chết là nguy cơ vùng Tái ngoại lập tức được giải trừ, tôi làm sao mà không minh bạch tính toán của chàng được chứ?”. “--- Nhưng chàng coi tôi là ai đây? Một thiếu phụ tịch mịch trong khuê phòng hun hút rất cần được an ủi? Cho tôi một đêm trăng hoa thì khiến cho tôi có thể an tâm tưởng nhớ cả đời? Chàng ăn hiếp người ta rồi muốn đi như vậy sao?... Muốn dựng mình thành một đại hiệp? Chàng đừng cho Đỗ Phương Ninh tôi là hạng nữ nhân nằm dài trên giường nhung nhớ đàn ông! Hờ hờ, chuyến đi Thanh Thảo hồ này tuy hiểm ác cực kỳ, nhưng chàng đã có thể đi, tại sao tôi không đi được? Chớ có nghĩ Trường Canh của chàng ngon lành cho lắm, danh vọng của Sách nữ Phương Ninh tôi đâu có kém chàng chứ! Thanh Thảo hồ nếu muốn đi, thì tôi đi cùng chàng. Nếu không đi thì cả hai ở lại! Chàng đừng hòng đẩy tôi ra như vậy”. Nàng đã phát tác xong, thấy bộ dạng của Hàn Ngạc thừ ra, nhãn thần ngó mình không biết là yêu thương hay là tội nghiệp, là kính trọng hay là ngưỡng mộ. Hồi nãy nàng tát có hơi nặng tay, má bên trái của gã còn in dấu, nàng không khỏi nhoẻn cười, ôm đầu gối ngồi bên cạnh Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cũng không thể nào hiểu nổi sao sắc mặt của nàng lại biến chuyển mau đến thế, lại nghe nàng khe khẽ hát: “Chớ nhạo giả trai chẳng vẽ mày, một mình tỉnh thức gối còn hai. Má hồng há chịu ngồi an phận? Núi xanh lả lướt bóng xiêm bay. Môi phớt tóc mai lời rủ rỉ, tên reo xong trận lại mềm tay. u yếm thiếp đây chàng cứng cỏi, phất phới giang hồ suốt tháng ngày…”2. Hàn Ngạc cảm thấy nàng ca hát thực yêu kiều tinh anh, cho dù có gộp ngàn ngàn vạn vạn người con gái trên đời, cũng không bì được một cái nhướng mày, một nụ cười duyên của nàng trong lòng gã. Gã ghé sát má nàng, cắn nhẹ làn tóc mai lất phất… Môi phớt tóc mai lời rủ rỉ… Cho dù xông pha gian nguy, vẫn hát hò lời ca tình tứ, cái gọi là hạnh phúc cũng chỉ tới mức đó là cùng, phải không? Làm sao mà hơn được thế… Dọc đường, Đỗ Phương Ninh thuật lại tận tường nàng đã lo liệu sự vụ trong mười lăm thành như thế nào sau khi gã đi --- Thực ra Hàn Ngạc trước khi đi đã đem trách nhiệm mình gánh giao phó rõ ràng: Liên Thành Kỵ có Cao Dũng thống lãnh, nếu Khương Nhung tạm thời chưa xâm phạm thì không trở ngại gì; chuyện trong mười lăm thành gã đã bẩm báo triều đình xin thăng Khố Tán làm Tuyên phủ phó sứ, ngày nhậm chức đâu có lâu lắc gì. Với năng lực của Khố Tán, chắc có thể đảm đương được; gã còn gửi thư cho Bộc Ách Phi --- Bất kể gã nghĩ gì về nàng ta, nàng ta vẫn là một kỳ nữ túc trí đa mưu, lợi ích giữa hai bên lại hòa hợp, nhờ cậy nàng ta theo dõi qua lại giữa mười lăm thành và liên lạc với Cao Dũng cùng Khố Tán là chuyện nên làm; trước khi đi, gã còn ngồi đàm luận với Cổ Siêu Trác một đêm, trình bày thời cục vùng Tái thượng. Cổ Siêu Trác tuy có dính líu tới cuộc tranh chấp giữa Bộc Xạ Đường và Đông cung, nhưng vẫn là một nhân vật biết coi trọng trách nhiệm, hai người đồng ý với nhau rất nhiều việc. Đỗ Phương Ninh cười nói: “Tuy tôi đã liệu trước được chuyến đi này của chàng, nhưng có quá nhiều chuyện phải lo, nhất thời xử lý không xong. May là cách đây mấy ngày tôi đã truyền thư kêu người đến giúp, chừng nửa tháng sẽ đến. Tôi có viết một bức thư dài để lại. Chuyện Cư Duyên với Y Ngô, bọn ta bất tất phải lo lắng nữa”. Sau đó nàng ngước lên: “Có điều mười lăm thành trước mắt tuy tạm thời bình an, lại chỉ bất quá là sự yên tĩnh trên mũi đao. Một khi Khương Nhung vương bình xong nội loạn, thế lực của y e còn mạnh hơn trước nữa. Khi đó, không chỉ mười lăm thành, ngay cả bên Vương Hoành Hải tướng quân cũng không tránh khỏi như trứng xếp chồng”. Hàn Ngạc bình tĩnh nói: “Nghe đồn Ô Tất Hãn thông minh sáng suốt. Ngày nào y còn sống, Khương Nhung tất càng mạnh, mà Biên Tái dĩ nhiên lại càng khó yên bình”. Đỗ Phương Ninh nói: “Cho nên chàng muốn ám sát y?”. Hàn Ngạc im lặng không nói gì, một hồi thực lâu sau mới thốt: “Nàng biết bên Thanh Thảo hồ tụ tập chừng bao nhiêu nhân mã Khương Nhung chứ?”. Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Tối thiểu cũng hai chục vạn phải không?”. Hàn Ngạc liếc nàng không nói. Đỗ Phương Ninh chậm rãi thốt: “Bất quá chớ có khuyên tôi đừng đi”. Khoé miệng hé cười, thực là một hương tình “coi chết chóc như về nhà”, chỉ nghe nàng thấp giọng: “Có lẽ chết mới là cái kết thúc tốt nhất mà chàng và tôi có thể giành được”. Hàn Ngạc tuy tâm trường cứng cỏi, vốn đã nuôi chí liều mình cửu tử nhất sinh từ lâu, đến lúc này lòng cũng không khỏi cảm thấy chút đắng cay. Đỗ Phương Ninh cười nói: “Ngạc, chàng thực vẫn chưa thoát được tính khí con nít mà, luôn cho rằng thế gian này có những ‘đại sự' không thể không làm. Mà hình như bọn đàn ông ai ai cũng như vậy hết. Tôi theo chàng hoàn thành tâm nguyện này cho chàng. Nói gì đi nữa, chuyện này xem ra dứt khoát chẳng chút liên quan với Thành Nam Tính và phe đảng của Đông cung. Cái Đông cung Thái tử mong mỏi chỉ là vùng Biên Tái được tạm thời yên ổn, để bọn họ trên trên dưới dưới có thể tiếp tục tranh đoạt, cầu cái an bình trước mắt. Những chuyện trước đây, mặc cho có bô bô là tôi giúp chàng gì đi nữa, e rằng trong lòng chàng cũng cứ hoài nghi tôi có tư tâm”. Nàng ngửa lên nhìn trời: “Nhưng chuyện giết Thiên Lang này, đúng là lần duy nhất tôi hoàn toàn vì chàng mà làm đó”. Hàn Ngạc cảm động, siết chặt tay nàng. Hai người lặng im không nói gì, lòng biết chuyến đi này khó có đường sống. Bóng tối mênh mang, vầng thái dương đã lặn mất, lại vẫn còn một chút ấm dịu khăng khăng chẳng chịu tản mác. o0o Hai người vì thương thế của Hàn Ngạc, lại biết Đại Mạc vương có thể vẫn đang rượt theo, cho nên chẳng vội vã đi nhanh, cứ quanh quẹo đánh đường vòng trên sa mạc. Vùng khoáng dã hoang lương, cũng đỡ họ đều là cao thủ giang hồ, đêm tối giá buốt cũng không phải sợ. Mỗi lần về khuya, sao giăng đầy trời, nỗi niềm ôn nhu ôm ấp giữa biển cát hoang vắng lại làm cho lòng người xúc cảm ngút ngàn. Mỗi lần Hàn Ngạc rên lên khe khẽ, bên dưới thân hình rung động rướn căng của gã, Đỗ Phương Ninh bờ má loáng thoáng ửng đỏ, đỏ như một đóa hoa dại miền đại mạc, vừa hoang lương vừa tươi tắn. Ánh rọi vào lòng Hàn Ngạc, nó trở thành một vẻ đẹp hoang dã tỏa ngời không chút kềm chế. Trên sa mạc chơ vơ, dưới sức áp bức của sự sống và cái chết, từ cái kẽ hở của cuộc đời giữa mọi mưu đồ và thao túng, đột nhiên trình hiện một đoạn thời gian hư không này. Hai người họ chừng như cuối cùng đã hoàn nguyên, trở thành hai nam nữ bình thường nhất đời --- không có trói buộc vướng vít, không có gánh nặng chở mang, mà chỉ có bầu bạn, chỉ có dốc lòng chung vui. Thân thể thực là một sự vật tươi đẹp, đặc biệt là lúc dấn mình vào vùng cát vàng hung bạo này. Cát vàng trơn trợt ấm nồng, sa mạc bình thản trải mình không dấu không vết, nhấp nhô nhàn nhã, nhưng một khi có con người, một khi có tuổi trẻ, lập tức có thể khơi gợi dục niệm của chàng, dung nạp vào chỗ thiếu hụt của ta, bồi đắp tất cả những chỗ trống trải, mãn nguyện đôi bên. Đêm tĩnh lặng, bốn bề im ắng, chỉ có hơi thở, vang vọng bên tai từng âm từng tiếng giữa hồng hoang vạn cổ. Gầm gừ, dịu vợi, rên rỉ, sướng khoái… đó là tình cảm bùng phát lan trải giữa đồng cát vô tình, đất trời tịch mịch. Có người có ta, hai chứng nhân này đây, cho nên có sự tồn tại. Ái tình của bọn họ cuối cùng đã không còn là sự tồn tại kín đáo cần phải hết sức thận trọng dè dặt thăm dò xem xét rồi mới dám nghiệm chứng. Bọn họ cuối cùng đã có thể vứt bỏ nhân thế sau lưng, không cần lễ pháp, tôn nghiêm, ngôn ngữ… tiêu trừ đủ thứ mê cung cái sáng cái tối che chắn đôi lứa như một lớp giáp trụ dày kín. Nó đã là một sự tồn tại. Giữa đại mạc hoang lương này, nó đang ở đây, an an tĩnh tĩnh ngay tại đây --- một sự tồn tại không cần người khác chứng giám. Nhưng những giờ phút đó cũng không trụ vững được. Vừa sáng sớm, Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh phát hiện bên Đại Mạc vương có dị động --- Họ cảm nhận được sự đuổi đánh. Hàn Ngạc không muốn đại khai sát giới, thân thể lại đang bị thương, cho nên mấy ngày sau đó bọn họ cứ tránh né sự truy lùng của bọn thuộc hạ phe Đại Mạc vương. Sa mạc Ba Đan Cát Lâm vốn nằm trong phạm vi thế lực của Mạc Thất và Mạc Vong. Nơi đây nay đã bị chúng vây kín như một cái đai sắt. Hàn Ngạc cầm một cành khô chỉ chỉ trên cát, trầm ngâm thốt: “Hình như đâu đâu cũng có bọn Đại Mạc vương. Chúng sao lại nổi điên đột ngột vậy? Bằng vào cái gì mà chúng cho rằng có thể làm thịt bọn ta? Lấy hai chọi hai, chúng đâu có nhiều khả năng thắng chứ”. Đỗ Phương Ninh lại cười tủm tỉm: “Theo suy đoán của tôi, chúng có thể đã bắt tay với Khách Đan Tam Sát --- Khương Nhung vương phái người đến hành thích chàng, không ngờ cũng cùng một chủ ý với chàng đòi ám sát y. Vậy là thích khách của hai phe lại phải đụng đầu nhau trước rồi. Đại Mạc vương xưa nay qua lại thân mật với người Khương Nhung, không thể nào không biết bọn Khách Đan Tam Sát đã đến. Bọn ta đụng đầu với chúng lần này, chưa chắc ai hơn ai”. Nàng cười mà lòng khẩn trương --- Lấy hai đánh hai, bọn nàng đối phó Đại Mạc vương có lẽ cũng còn một nửa cơ hội chiến thắng. Đại Mạc vương Mạc Thất và Mạc Vong quen thuộc hình thế đại mạc, thêm vào nhân mã thủ hạ tinh thông tập kích trên đồng cát, đủ để gây lắm phiền hà cho họ rồi. Nếu cộng luôn Khách Đan Tam Sát… Hàn Ngạc im lặng một hồi rồi nói: “Đụng đầu thì sớm muộn gì cũng phải đụng, đến sớm cũng hay hơn đến trễ. Nếu ta không giải quyết cho xong ba tên đó, hành thích Ô Tất Hãn sợ rằng cũng thêm phần trở ngại”. Đỗ Phương Ninh nói: “Nhưng… ‘Đệ nhất kiếm' Từ Hoài Thanh năm xưa đã gục ngã dưới tay bọn chúng. ‘Đệ nhất kiếm' với ‘Vô song sĩ' lúc đó lừng danh giang hồ. Chàng đánh với Lợi Dữ Quân cũng đâu có chắc thắng được sáu phần”. Nàng nghĩ tới cái lần Hàn Ngạc ra mặt trên giáo trường cũ ngoài Trường An thành vì nàng, có đấu với Lợi Dữ Quân, khoé môi không khỏi hiện chút nhu tình. Hàn Ngạc bình tĩnh thốt: “Hồi còn niên thiếu, người ta ngưỡng mộ nhất là Từ Hoài Thanh. Từ khi biết ông ta gãy cánh miền Tái ngoại, mộng tưởng lúc đó là giúp ông ta báo thù. Nào ngờ ngày nay cuối cùng đã đụng đầu bọn chúng. Nàng đừng lo, Hàn Ngạc của giờ đây đâu còn là Hàn Ngạc của trước kia”. Thấp Đỗ Phương Ninh nghi hoặc ngó mình, Hàn Ngạc hơi do dự rồi mới nhả từng tiếng: “Sủng… Nhục… Kinh". Đỗ Phương Ninh ngẩn ngơ, nàng nhớ hồi xưa Hàn Ngạc có kể sư phụ Thái Ất chân nhân của gã từng nói: nếu có ngày gã tu luyện được những gì ghi tải trong “Sủng Nhục Kinh”, gã sẽ vượt được thêmmột tầng đột phá trên kiếm đạo. Bất quá gã mà muốn tập thành chắc cũng khó --- Sao mới hơn một năm, Hàn Ngạc bù đầu chuyện quân lữ mà vẫn khổ tu thành công “Sủng Nhục Kinh” kia? Hàn Ngạc không giải thích gì nhiều, chỉ nói một câu: “’Sủng Nhục Kinh’ không phải là kiếm thuật, mà là tâm pháp. Sư phụ năm xưa là lo ta quá cứng ngắc dễ gãy, đại khái khó liệu được ta có sống được đến lúc luyện xong nó hay không. Nào ngờ ta vẫn sống sờ sờ đây”. Gã thở dài một hơi, hai năm nay gã đã trải nghiệm biết bao nhiêu là vinh nhục. Sủng Nhục Kinh… Sủng Nhục Kinh --- thực ra đó là vinh nhục đến “kinh hoảng” mà. Vinh nhục mà không kinh hoảng, yên lắng, tĩnh, như nước tù để trấn định tâm tư; vinh hay nhục gì cũng kinh hoảng, lộn nhào, động, mà trở nên linh mẫn hơn hết. Gã cúi đầu trầm tư, đối diện với sự liên thủ của Đại Mạc vương và Khách Đan Tam Sát, gã cũng không thể không toàn lực giới bị. Đỗ Phương Ninh thấy gã chẳng nói chẳng rằng, biết gã đang đắn đó gì đó, cũng không dám quấy nhiễu. Một hồi sau, đến lúc bọn họ lên ngựa khởi hành, Hàn Ngạc vẫn trầm lặng. Đột nhiên Đỗ Phương Ninh nghe gã kêu lên: Phương Ninh, Quan Sơn Ngại!”. Đỗ Phương Ninh nghe gã gọi chiêu thuật của Thanh Sách, không khỏi ngẩn người, nhưng chẳng chậm trễ, rung tay phất Thanh Sách thoát khỏi eo thon mà dang rộng ra. Không trung nhấp nhô dập dờn vòng lụa, trùng trùng chướng ngại cách trở. Hàn Ngạc hú dài, rút kiếm đâm giữa trời. Người gã bay lên đằng sau ngựa của Phương Ninh, một kiếm tủa mình bên trên uy thế ngăn cách “Quan Sơn Ngại” của Thanh Sách. Trường Canh kiếm rạch một đường trắng nhợt, chiêu của gã chính là “Thiên Thanh Nhất Tuyến” trong “Thái Ất kiếm pháp”. Quan sơn cách trở, trời xanh tít tắp --- Vầng sáng màu trắng tái loang loáng rồi lại giấu mình. Đỗ Phương Ninh hội ý, Thanh Sách lại rung lên, tiếp tục xuất một chiêu “Quan Sơn Ngại”. Hàn Ngạc lúc này lại đổi góc độ, lại thi triển “Thiên Thanh Nhất Tuyến”. Hai người tập hết sức hứng khởi, lặp đi lặp lại, liên tục thi dụng suốt nửa canh giờ, tuy chỉ một chiêu, lại đã luyện tới trán tươm mồ hôi. Đỗ Phương Ninh hoan hỉ nhìn gã: “Ngạc, thực hay ghê”. Hàn Ngạc nói: “Bọn ta đã liên thủ đối địch nhiều lần, nhưng ai nấy cứ theo đường đi nước bước riêng, lại còn thi thố lẫn nhau, chưa từng thử liên thủ xuất kích thực sự. Thực ra với Thanh Sách và Trường Canh, nếu có thể kết hợp mắc xích, xem ra có thể nảy sinh rất nhiều diệu dụng đó”. Đỗ Phương Ninh hồi nãy đã thể hội được sự uyển chuyển mà cứng cỏi của chiêu thức đó, công thủ hết sức toàn diện, cho nên khẽ khẽ gật đầu. Nàng tuy là nữ tử, nhưng tu vi võ học cực cao, cao thủ thời nay hơn được nàng cũng chẳng có mấy ai, huống hồ kiến thức lại dồi dào. Nàng nói: “Có lẽ lực khí hai ta vận dụng còn chưa điều hòa đến mức tốt nhất. Thay phiên nhau xuất thủ, chưa thể hoàn toàn kết hợp động tĩnh, bù đắp bồi bổ cho nhau”. Nói xong, nàng khe khẽ đọc mấy câu khẩu quyết điều tức của mình. Hàn Ngạc tán thưởng liếc nhìn nàng rồi nhắm mắt suy nghĩ, một hồi lâu sau nói: “A, có lẽ nên như vầy”. Gã hít một hơi sâu, tính toán hòa nhịp với tiếng hơi thở điều tức của Đỗ Phương Ninh một lúc rồi mới chọn đúng lúc xuất chiêu. Đỗ Phương Ninh xem bộ pháp của gã, tuy đã quen thuộc trước đây, nhưng vẫn chỉ là kẻ bàng quang, tới giờ muốn kiên nhẫn kết hợp mắc nối cho ăn ráp, đâu phải là chuyện dễ. Nàng chợt quay lại đưa môi áp nhẹ lên môi Hàn Ngạc, thấp giọng: “Xem xét nội tức của tôi”. Nội công Hàn Ngạc luyện vốn theo phép thuật thai tức Tiên Thiên của Đạo gia. Nội tức của Đỗ Phương Ninh lại âm nhu hơn nhiều, nghiêng về tà môn tạp đạo. Hàn Ngạc biết nàng muốn mình dùng khí Tiên Thiên tra dò hiểu biết sự vận hành nội tức trong người nàng. Vốn người tập võ công đâu có chịu để bất cứ một ai thấu suốt căn cốt khí tức của mình, sợ bị người ta khống chế --- Người nào cũng có chỗ sơ hở trong sự vận hành nội tức, để người ta biết nhược điểm thì dứt khoát phải là hạng thề nguyền sống chết có nhau rồi. Hàn Ngạc ngưng thần tĩnh tâm: lưỡi là mầm của tim3, qua môi thơm của Phương Ninh, một hơi nội tức của gã dài dằng dặc dò thám tìm hiểu xương cốt tim gan thận phổi của nàng. Tốn một khoảng thời gian thực lâu, Hàn Ngạc thấp giọng thốt: “Trong huyệt vị dưới sườn trái của nàng còn mang thương thế từ hồi luyện công năm xưa”. Đỗ Phương Ninh gật gật đầu, Hàn Ngạc thầm thở dài, mọi người chỉ biết Đỗ Phương Ninh yêu kiều thông minh, có mấy ai ngờ sự khổ sở mà nàng gánh chịu để khổ tu võ nghệ? Đỗ Phương Ninh cũng dùng nội tức xâm nhập huyệt mạch của Hàn Ngạc, lập tức phát giác xương cốt gân mạch không ít chỗ bị thương tổn nghẽn nghẹn. Hai người tổn hao tinh thần quá sức, mặt mày mệt mỏi. Hàn Ngạc nhẹ nhàng rụt lưỡi khỏi miệng Phương Ninh, than thở: “Ta trước đây cho rằng thuật Hợp Tạ Song Tu của Đạo gia chắc là nói xằng, nào ngờ lại là thực”. Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Hợp Tạ Song Tu?”. Chỉ nghe tiếng nàng nói thôi cũng đủ làm người ta ấm dịu cõi lòng. Hàn Ngạc nhìn nụ cười của Đỗ Phương Ninh, chợt nâng cằm nàng, muốn hôn lên môi. Đỗ Phương Ninh vội nói: “Khí tức của tôi không kéo dài bằng chàng, bây giờ không thể được”. Hàn Ngạc thấp giọng: “Không phải”. --- Lưỡi xoắn xuýt, nuốt, nhả, nút, xoay, câu, dụ… Mặt Đỗ Phương Ninh phớt hồng, cũng bắt đầu đáp trả lại gã. Một khắc sau, nàng đẩy gã ra, hai người vẫn lặng im không lên tiếng. Rồi thẫn thờ một hồi lâu, cuối cùng nàng nửa thẹn nửa tức: “Tôi còn cho chàng là người đàng hoàng, nào ngờ… không chịu luyện công, chỉ biết lợi dụng cơ hội chiếm tiện nghi”. Hàn Ngạc cười xấu hổ: “Sao hôm nay khẩu khí của nàng nhu nhược vậy? Không phải nàng nói đâu chỉ có nam nhân bọn ta ăn hiếp nữ nhân, mà nữ nhân các nàng cũng có thể ăn hiếp nam nhân vậy? Sao không coi là nàng chiếm tiện nghi, mà cứ khăng khăng ta đang chiếm tiện nghi?”. Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Chàng còn chưa biết đàn bà con gái sao? --- Uổng cho chàng mang danh đa tình. Đàn bà con gái cho dù lòng có thích, trước tiên cũng phải giả ở địa vị kẻ yếu, sau này nói gì đi nữa cũng có lý”. Hai người không khỏi nhất tề cười lớn. Họ muốn tránh khỏi sự truy tập của bọn Đại Mạc vương, phải tiếp tục lên đường, cảnh giác giới bị hết sức. Họ đang nghĩ làm sao mới có thể kết hợp sách và kiếm không chừa một kẽ hở. Có lúc Đỗ Phương Ninh định thần, chợt hỏi một câu: “Ngạc, huyệt Chương Môn của chàng như có khoảng hở, vậy là sao? Đối địch bị thương?”. Cả hai đều là người kiêu ngạo, trước đây đã âm thầm hiểu biết rằng cả hai chẳng người nào nào chịu kể những đau đớn khổ sở trong người. Tới giờ họ lại có cảm giác có thể đề cập thẳng, không phải e dè. Hai người tuy không nói ra, lòng lại biết mình đang sáng chế ra một phép hợp bích võ thuật chưa từng có. Người nào cũng phấn chấn, chia nhau trầm tư mặc tưởng, muốn tranh tiên, không chịu hoàn toàn dựa vào người kia để ăn theo. Vì vậy sa mạc tuy hoàn toàn không có phong cảnh, tâm địa lại tràn trề nỗi niềm tư lự. Mỗi tối, Đỗ Phương Ninh lo chút lương khô, hai người ăn xong lại bắt đầu nghiên cứu thương thảo. Cũng có lúc tranh luận đến đỏ mặt tía tai, gây gổ um sùm, Hàn Ngạc luôn luôn là kẻ ngậm miệng trước. Đỗ Phương Ninh thừ ra một hồi mới bắt đầu bình tâm mà chuyện vãn tiếp. Vì ban ngày tâm ý tương hợp, đến đêm càng ái ân triền miên. Bọn họ dốc lòng dốc sức sáng tạo chiêu đầu cũng đã hao mất ba ngày. Có một tối, hai người tập xong, Đỗ Phương Ninh chợt ôm vai Hàn Ngạc, hơi thở có vẻ khẩn trương, đè lên mình gã. Hàn Ngạc nhẹ giọng cười nói: “Nàng không phải sợ vết thương ta đau sao? Bây giờ sao chẳng lo ngại gì hết vậy?. Đỗ Phương Ninh hờn mát một câu: “Chàng không phải khoe khoang mình đồng da sắt sao?”. Thấy bờ má thắm đỏ và thần sắc giận hờn dịu dàng của nàng, Hàn Ngạc cảm thấy một luồng hơi nóng từ bụng dưới trào lên. Đêm đại mạc tối đen. Bầu trời úp phủ mặt đất, mặt đất dang mình bình thản tiếp nhận sự ấp ủ đó. Con người chịu khuất ở giữa như ngủ vùi trong vỏ con trai. Con trai vì thế mà đau xót: một hạt cát sắc cạnh bám cứng trong lòng, trở thành chút tồn đọng hành hạ thâm tâm… không thể nào bài tiết ra, đành bao bọc ngậm giữ chút thô cứng đó, lăn lộn xoay trở, nuốt nhả hút phì, mãi cho đến khi nó mài dũa kết tinh thành hình trong sáng tròn trịa, thành ngọc. Những ngày đó, hai người dùng nội tức tìm hiểu những vết thương kín đáo của nhau, tu tập phép hợp kích thì lúc nhanh lúc chậm. Có lần gây dữ quá, Đỗ Phương Ninh thấy Hàn Ngạc lại ngậm miệng trước, trề môi làm ra vẻ nhân nhượng, nàng không khỏi vừa tức vừa bực: “Chàng đừng làm như chàng đang nhường tôi, hai người mình chưa biết ai nhường ai à! Chàng hoàn toàn lấy thoái làm tiến, hành hạ tôi. Đã chiếm chỗ ngon mà còn không cho phép người ta than khổ”. Miệng nàng nói tới bốn chữ “lấy thoái làm tiến”, tựa như tâm cơ máy động, nhất thời quên đi cuộc gây gổ, kéo tay áo gã, rung Thanh Sách thấp giọng: “Chiêu ‘Thái Sơ Hồng Oanh' của chàng…”. Mười mấy ngày rồi, hai người càng thấu hiểu ăn ý với nhau hơn, thuật hợp kích cũng dần dần già dặn. Lại bốn năm ngày sau, hai người phát giác thuật hợp kích mà mình khổ công luyện tập đã đạt đến một cảnh giới mới. Nhưng Đỗ Phương Ninh lại thấp thoáng có vẻ không vui, ngày nọ nàng hỏi Hàn Ngạc: “‘Thạch hỏa quang trung ký thử thân’ của chàng với ‘Song Ti Võng' của tôi, hai tuyệt nghệ đắc ý của bọn ta sao lại chừng như không kết hợp được vậy?”. Hàn Ngạc liếc nhìn nàng không nói gì. Đỗ Phương Ninh ngẩn ngơ, cảm thấy sự trầm mặc của gã tựa hồ ẩn hàm thâm ý. Sau đó nàng mới minh bạch: đó là do căn cơ xử thế làm người của họ khác biệt quá, không trách mỗi khi nàng muốn dùng “Song Ti Võng” tương hợp với ‘Thạch hỏa quang trung ký thử thân”, Hàn Ngạc luôn luôn hờ hững ứng phó cho qua. Cái đó không phải chỉ dựa vào sự trui rèn kết hợp kỹ xảo mà có thể dung hòa thành công. Đỗ Phương Ninh nghĩ đến đó, lòng bỗng xót xa ê chề, lẽ nào… lẽ nào hai người sau khi hợp thể làm một, vô số lần hoan lạc đêm trường, vô số lần khí tức sớt chia, vô số lần tranh cãi nghiên cứu rèn luyện đều vẫn không thể dung hợp căn cội sâu kín nhất của võ đạo hai bên? Lẽ nào ở chốn sâu nhất kín nhất của sinh mệnh, hai ta cuối cùng phải mang kiếp số vĩnh viễn cô độc? Mắt nàng bỗng ươn ướt, nhưng có rơi nước mắt cũng không tẩy sạch được sự khô cạn của đại mạc này. Hàn Ngạc như thấu hiểu ý tưởng của nàng, thò tay nắm tay nàng, nhẹ giọng: “Thế sự khó mà viên mãn được, cái gì nắm được trong tay cũng đã tốt lắm rồi”. Nàng lại không có cách nào biết đủ đầy, biết thỏa mãn như gã, thậm chí hoài nghi: Hàn Ngạc vốn là một nam nhân, có thể vĩnh viễn là kẻ tự tư. Tuy nói mình một mực thừa nhận sự tự tư của mình, nhưng tận gốc rễ của sinh mệnh, một nam nhân, vì để tự chứng nghiệm sự tồn tại, sẽ khư khư cái nền móng đơn độc tạo dựng sinh mệnh đã ăn sâu vào xương cốt mà không chịu thực sự cùng nàng hoàn thành sự kết hợp ý lòng này. Tối hôm đó, Đỗ Phương Ninh rên ư ử dưới thân thể Hàn Ngạc, bàn tay Hàn Ngạc lướt qua cánh tay trần của nàng. Đêm lạnh quá, ngón tay của gã như là sức nóng duy nhất trong đêm, sức nóng đó thậm chí muốn đun sôi, sôi đến khoé môi nàng không nhịn được phải run rẩy. Nhưng Hàn Ngạc chợt thét lớn một tiếng, bàn tay gã không vuốt ve cánh tay nàng nữa, mà siết giữ thanh kiếm của gã. Gã tung mình lên, tay trần vung Trường Canh, hùng hổ đánh một chiêu giữa trời nhắm chỗ cách nàng chừng năm thước. Đỗ Phương Ninh tới khi đó mới nhìn thấy trên mặt cát có một đường cát lướt nhanh cuộn tới. Đao quang bùng nổ sau lưng Hàn Ngạc, rạch một vệt nhỏ, dưới cát cũng có người rên khản một tiếng, máu tươi thấm hiện. Luồng sóng cát kia lập tức thoái lùi, Hàn Ngạc hạ mình, giận dữ quát: “Qua Bích trường đao!”. --- Sự yêu đương vui vầy của họ là niềm yêu lăn lộn trên mũi nhọn của đao kiếm và sự hoang lương của sa mạc này. Đỗ Phương Ninh bất động, ngước nhìn gã, thấy gã ở trần đứng sừng sững, thân hứng vết thương nhẹ, mũi trường kiếm nhỏ máu địch, thực có một thứ hùng dũng mãnh liệt ngạo nghễ của hảo nam tử. Trên trời mây vần vũ cuồn cuộn, đang đêm mùa thu, nhưng vùng đất sa mạc này, cơn mưa đó có tuôn rơi được không chứ? Trăng tròn nửa sáng nửa tắt. Hàn Ngạc ngẩng nhìn trời, mặt mày bừng bừng khí thế, một hồi sau gã bỗng chu môi hú một tiếng dài. Tiếng hú như vạn mã bôn đằng, chẳng phải liền một âm vọt lên, mà đắp đổi thay phiên, có thăng có trầm, lại kéo dài dằng dặc, ngút tận chín tầng mây. Đỗ Phương Ninh biết gã muốn dẫn dụ Đại Mạc vương và Khách Đan Tam Sát đến quyết chiến. Tiếng hú của Hàn Ngạc lan suốt một tuần trà. Đến khi gã dừng giọng, tiếng hú còn tựa như ngưng đọng thành hình, vang vọng sấm dậy giữa không trung. Gã chợt cúi đầu: “Nàng là ‘Mạc Thượng Mai'?”. Đỗ Phương Ninh ngạc nhiên: “’Mạc Thượng Mai' gì?”. Hàn Ngạc thấy thần sắc của nàng đâu phải giả trá, nhất thời bụng vui mừng, tươi cười thốt: “Không phải thì thôi. ‘Mạc Thượng Mai' là một nữ tướng cướp. Khà khà, anh thư đương thời, trên đại mạc này e phải tính hai người các nàng. Ngày mai bọn ta đi đến bãi Khách Đan. Vòng vây của Đại Mạc vương càng lúc càng ép sát, không thể lần lữa nữa. Cả Qua Bích trường đao cũng đã đến! Để xem xem Đại Mạc vương với Khách Đan Tam Sát có giết được Sách Kiếm Song Lữ bọn ta hay không”.
1 Mưa gió liền liền một tiếng rồng, là câu tiếp theo câu “Sông trời man mác đôi đường én” trong bài thơ “Diễm Dự” của Đỗ Phủ (xem chú thích {1} hồi 62). Vốn gò Diễm Dự còn có tên là Yến Oa (ổ yến), có chim yến làm tổ bay liệng xung quanh. Hình dáng của gò lại giống con rồng, nước va vào đá vang tiếng như rồng gầm. Vì vậy Đỗ Phủ mới viết hai câu trên để tả nó.
2 Nguyên tác là: “Mạc tiếu nam trang dịch nữ trang, độc miên nhân khởi hợp hoan sàng. Hồng nhan khởi cam bạc mệnh ngộ? Thanh sơn thùy phi trữ la thường. Ni ngữ tấn biên thần phi độ, minh đích chiến bãi chỉ sinh lương. Ngã tự hàm kiều quân hoài nhận, y nỉ giang hồ tuế nguyệt trường…”. Bài này Tiểu Đoạn sáng tác, chỉ có một câu "Độc miên nhân khởi hợp hoan sàng" là trích từ bài thơ đầu trong ba bài "Yến Tử lâu" mỹ nhân Quan Phán Phán đối đáp với thi sĩ Bạch Cư Dị. Trương m mới kết nghĩa vợ chồng với Quan Phán Phán được hai năm thì mất, câu thơ này ý nói gái góa vò vỏ, không ngủ được thẫn thờ ngồi trên chiếc giường cưới. 3 Nguyên tác là “thiệt vi tâm chi miêu”. Y học Trung Quốc cho rằng "lưỡi là mầm của tim", tức nói lưỡi có liên hệ mật thiết với tim trên phương diện bệnh lý và sinh lý, cũng là nói bệnh chứng của tim thường có thể phản ánh qua lưỡi.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 63 Nhung mã bất như quy mã dật1
Qua Bích t ừng khúc từng mảng vách đá đứng lõa lồ trên sa mạc. Trải biết bao thời đại, đá bị dông gió bào mòn, bị năm tháng vót nạo, trở thành những vách dựng lõm loét vô cùng kỳ hiểm.
Qua Bích ở đầu bắc sa mạc Ba Đan Cát Lâm gọi là bãi Khách Đan --- “Khách Đan” tiếng Khương Nhung có nghĩa là hộ vệ, thành danh vì khu hiểm địa này đã từng hộ vệ tổ tiên của Khương Nhung tránh thoát sự tập kích của địch nhân. Hàn Ngạc cùng Phương Ninh đi mấy chục dặm, gặp phục kích liên miên, phóng ngựa thoát hiểm, bỏ rơi đám thuộc hạ tùy tùng của Đại Mạc vương, mặt trời quá đỉnh đầu mới đến đây. Lúc họ đánh với bọn bộ hạ của Đại Mạc vương, thấp thoáng có cảm giác đối phương đang muốn bức mình đi về nơi này. Bãi Khách Đan là chỗ Đại Mạc vương bày bố mai phục? Hai người biết mình đã thoát khỏi bọn binh tôm tướng cá, nhưng còn hai cao thủ vẫn đeo sát, chắc là Mạc Thất và Mạc Vong. Ngựa của họ mới lọt vào vùng Qua Bích, cảnh vật đằng trước liền bắt giữ ánh mắt của họ. Giữa trưa, bãi Khách Đan cát hoang vách sẫm, đâu đâu cũng một màu vàng chói lọi, mặt trời chiếu rọi sơn nhai, ánh sáng huyền ảo không ngờ cũng là màu vàng. Cái màu vàng đó còn cậy vào sự tương phản của bóng râm sau lưng mà khoa trương vẻ huy hoàng hùng vĩ khôn tả.
Hàn Ng ạc cùng Đỗ Phương Ninh trên lưng ngựa đưa mắt nhìn nhau, như cùng thốt: cho dù chôn xương ở chốn này cũng không oán thán. Họ không phóng đi nữa, vì thời cơ quyết chiến đã đến. Bọn họ mà không giết được Đại Mạc vương và Khách Đan Tam Sát, thì bọn họ bị giết. Quy củ trong biển cát hoang lương cũng là vậy đó. Hai người lỏng dây cương chầm chậm đi lên một vách cao. Dõi trông, bốn bề đều là vách dựng, hào hùng kỳ diệu. Xa hơn nữa là cát vàng không biên giới. Dưới mặt trời cháy bỏng, mặt mày Hàn Ngạc rám nắng cả năm hiển hiện một màu đen phớt, còn mặt Đỗ Phương Ninh nhọc nhằn mệt mỏi lại thành vàng vọt, trán cả hai đều tươm mồ hôi. Họ cầm cương đứng song song, có thể ngửi được hơi hướm trên mình nhau.
Đ âu đâu cũng là không khí khô khốc, bên trong lại nồng đậm sát khí. Hàn Ngạc chợt thét lớn: “Qua Bích Trường Đao, Trảm Yêu, Giải Mã, Hàn mỗ đã đến, các ngươi hiện thân đi!”. Thanh âm của gã vang lồng lộng, mới vừa dứt lời, lại nghe trên con đường bọn họ hồi nãy đi qua cũng phát ra hai tiếng hét, đó là hai lão Đại Mạc vương. Tiếng hét của chúng như cuồng phong sóng dữ cuốn xộc tới. Đỗ Phương Ninh không nhịn được, cũng ngửa lên hú một hơi. Thanh âm của nàng với Hàn Ngạc một cao một thấp, lên xuống đúng điệu đúng đàng, quẩn quyện vào nhau. Hàn Ngạc nhất thời mục quang đăm đăm, tiếng thét bỗng ngưng bặt, để Đỗ Phương Ninh một mình hét chống hai lão Mạc Thất, Mạc Vong --- Qua Bích quá rộng lớn, hồi nãy gã bị cảnh sắc kỳ lạ trước mắt làm kinh ngạc, tới giờ mới nhìn thấy ba người trên bãi Qua Bích.
o0o Ba người không đứng cùng một chỗ --- Trên một vách cao cách Hàn Ngạc không xa có một người đang ngồi. Người đó mặc áo hồ cừu dày cộm, bên trong lại để ngực trần, da vàng như cát hoang. Trên đùi hắn vắt ngang một thanh đao. Đao dài cũng phải năm thước
có --- Qua Bích Tr ường Đao! Hàn Ngạc đã đụng hai lượt hành thích của hắn, vẫn là lần đầu tiên nhìn thấy chân diện mục. Mũi hắn rất cao, đầu tóc dơ dáy, bện thành đuôi sam rối nùi, mục quang âm lãnh, hoàn toàn chẳng lý gì tới tiếng thét của Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh, lẳng lặng không lên tiếng.
1 Xem chú thích {1} hồi 55.
D ưới bóng sơn nhai đằng trước, bên trái cũng có một người đứng. Người này lưng dựa vào vách núi, đầu đội nón rũ che mặt, không nhìn thấy đường nét gì, chỉ có thể thấy loan đao dưới hông, thanh đao cong vòng như vầng trăng khuyết. Lúc Hàn Ngạc chòng chọc ngó sang phía hắn, hắn cũng ngước lên liếc trả. Cái liếc của hắn quét qua hết sức ngược ngạo --- Hắn mắt lé, nhưng ánh mắt hung tàn làm sao. Hàn Ngạc thầm thốt: Trảm Yêu!
Ai là Gi ải Mã? Nghe nói một đao của Giải Mã có thể nội trong thời gian một tuần trà mổ thịt lóc xương nguyên một con ngựa, xong xuôi mà tim ngựa vẫn còn đập. Trên bãi cát không xa bên phải, một người đang nằm. Mắt hắn như trống rỗng, không sợ ánh mặt trời, nhìn thẳng lên trên. Giải Mã đao của hắn đang ngậm trên môi, trắng loang loáng, chỉ hơi dài hơn chủy thủ một chút --- Ngắn tấc nào hiểm ác tấc ấy, người đó dám dựa vào binh khí dài chưa tới nửa thước mà thành danh, chắc võ nghệ rất ghê gớm.
Vó ng ựa lộc cộc, Đại Mạc vương Mạc Thất và Mạc Vong đã phi đến. Chúng ngẩng lên, nhìn thấy Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh đứng trên vách cao. Hàn Ngạc thân người cao vút rắn chắc, dấn mình trên vách núi lại càng thêm phần lỗi lạc. Tô đậm tương phản với sự lỗi lạc của gã chính là nét kiều diễm của Đỗ Phương Ninh. Đỗ Phương Ninh tuy mấy ngày rồi chưa rửa ráy, nhưng con gái vốn hay chú ý giữ mình sạch sẽ. Hiện giờ giữa biển cát hoang, nàng vẫn mày mi như tranh họa. Mạc Thất và Mạc Vong tuy đã sống ở Tái ngoại lâu ngày, cũng vẫn là người Hán. Cảm giác thẩm mỹ của mỗi một dân tộc vốn không giống nhau, bọn lão đâu phải là thiếu đàn bà, chỉ có điều lâu nay ít khi gặp mỹ nữ người Hán. Thình lình nhìn thấy một hồng nhan tuyệt thế giữa Qua Bích, cả hai lòng không khỏi hoảng hốt, tựa hồ nhớ về những năm tháng xa xưa.
Hàn Ng ạc và Đỗ Phương Ninh lúc này đã xuống ngựa, thả cho hai con tự do đi đứng. Bọn họ chọn cái vách cao này vốn là để bảo vệ chúng đó. Trong sa mạc, bất kể thắng bại, không có ngựa đâu có được. Hàn Ngạc chợt tháo túi nước, để Đỗ Phương Ninh uống vài hớp, tới gã thì ngửa đầu uống một ngụm rồi đi đút cho hai con ngựa. Cử động của gã toát ra một thứ thần khí nhanh nhẹn chẳng dư chẳng thừa, khiến cho Mạc Thất và Mạc Vong đều cảm thấy mình sống đến giờ mà chưa từng gặp đôi nam nữ tài tình xinh xắn đến như vậy.
Hàn Ng ạc buông túi nước thốt: “Đã đến đông đủ rồi à? Vậy không cần nhiều lời, lên đi!”. Gã vừa dứt lời, Qua Bích Trường Đao ngồi bên kia đã vọt mình lên, thân người che phủ ánh mặt trời. Trên trời dưới đất, hình với bóng bay bổng, trường đao lóa dương quang, chẳng nói chẳng rằng chẻ xuống đầu Hàn Ngạc. Hai lần phục kích thất thủ, còn mang thương tích, bụng hắn đang tức tối Hàn Ngạc đến cùng cực. Hàn Ngạc gầm lên một tiếng, tay vừa ấn thì Trường Canh đã thoát khỏi vỏ bay ra. Trường đao dài quá, Qua Bích Trường Đao còn chưa đến, đao đã đến trước. Hàn Ngạc không đâm chém được hắn, chỉ còn nước vung kiếm quật lên đao. “Kẻng” một tiếng, đao kiếm va vào nhau, Qua Bích Trường Đao thân ảnh khựng giữa không trung, thấy Thanh Sách trên hông Đỗ Phương Ninh phần phật sắp tung ra, người hắn lộn một vòng ra sau --- Phương thức bay lộn đó cũng khác xa võ nghệ của Trung thổ, hắn hạ mình trở lại vách núi cách chỗ Hàn Ngạc đứng cỡ hai trượng! Tí lực của hắn mạnh ghê! Hàn Ngạc cảm thấy cánh tay phải ê ẩm, gã vốn đâu có lừng danh về lực. Nếu đấu lực, gã phải kém Qua Bích Trường Đao một thành rồi. o0o Đỗ Phương Ninh chợt ngước nhìn trời, kêu lên một tiếng: “Ưng!”. Trên trời quả có một con chim ưng đang liệng vòng vòng thực bắt mắt. Trời xanh đến mức lòng người trống vắng, chỉ thoảng một vầng mây nhàn nhạt. Đỗ Phương Ninh nói: “Nghe đồn Giải Mã trong Khách Đan Tam Sát rất rành nuôi dưỡng ưng khuyển. Chim ưng được tập luyện có thể dùng để truyền tin. Hôm nay ngươi và ta đụng đầu, ngươi có dám để con chim ưng kia bay về truyền báo cho Khương Nhung vương một câu không?”. Nàng nói tiếng Khương Nhung. Vừa nói xong, nàng rút trong ống tay áo ra một vuông lụa trắng, dùng bút vẽ mày viết lên mấy chữ Khương Nhung, cuốn một cục đá, phất tay quăng xuống chỗ Giải Mã đang ngồi. Cái quăng của nàng gió rít vù vù, nhắm đúng ngay đoản đao trên môi Giải Mã. Hắn chẳng thèm tránh né, để mặc cục đá và vuông lụa đập lên lưỡi đao. Hắn ngậm đao rất chặt, lưỡi đao không ngờ lại chẳng bị chấn động, chẳng cắt vào môi miệng. Hắn dùng tiếng Khương Nhung đọc lướt qua vuông lụa: “Hành thích Hàn Ngạc thành công”. Hắn nghi hoặc ngẩng lên. Đỗ Phương Ninh cười lạnh: “Không sai, nếu ngươi có lòng tin, có dám trước trận chiến đem truyền câu đó về không?”. Nàng nói hai lượt, một tiếng Khương Nhung, một tiếng Hán. Hàn Ngạc quay sang nhìn Đỗ Phương Ninh, biết mưu đồ trong thâm tâm của nàng. Giải Mã mắt nhoáng ánh buốt lạnh, chợt phất tay, chu miệng huýt, con chim ưng kia chúi đầu lao xuống, còn cách hai trượng mới trở mình, khéo léo hạ ngay trên cánh tay của hắn. Giải Mã cột mảnh vải trên đùi chim ưng. Gã còn hơi do dự, Đỗ Phương Ninh chợt cười lớn: “Cho dù người Khương Nhung các ngươi không đoán ra, ta nghĩ hai lão đầu họ Mạc kia đã đoán được --- Chuyến đi này của bọn ta là đi hành thích Khương Nhung vương. Khà khà, trận chiến ngày nay chưa chết chưa thôi, ngươi có dám thả con chim ưng đó không?”. Giải Mã nghe vậy, mặt mày chợt phừng phừng vẻ hung bạo. Cánh tay trái vốn đang khoanh cong cho con chim ưng đứng, tới giờ hữu thủ vỗ một cái lên cánh tay trái, lại giơ ngón tay chỉ. Chim ưng vọt lên, chao một vòng rồi nhắm Thanh Thảo hồ cách tám trăm dặm ở hướng chính bắc bay đi. Mạc Thất và Mạc Vong đưa mắt nhìn nhau, biết Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh đã động sát tâm. Trận chiến hôm nay, bọn họ đã nói thẳng đi hành thích Khương Nhung vương, vậy thì một là họ chết, một là họ quyết giết cho sạch năm người bên mình. Đỗ Phương Ninh chợt thấp giọng nói với Hàn Ngạc: “Ngạc, bọn ta không còn đường thoái, chỉ còn nước vượt khó mà lên thôi”. Kẻ địch đứng lòng vòng xa nhất cũng chỉ cách năm trượng, cơ hồ chỉ phóng tới một cái là đã lọt vào phạm vi giao chiến. Hàn Ngạc đáp: “Được, bọn ta qua chỗ Qua Bích Trường Đao đứng quyết chiến với chúng”. Nói xong, gã phi thân lên, Thanh Sách ở giữa hai cánh tay Phương Ninh chợt dang ra, thân người Hàn Ngạc vừa bắt đầu rơi xuống, không ngờ lại hạ ngay trên Thanh Sách. Dải dây có đôi cánh tay của Phương Ninh kéo chặt, hết sức cứng cỏi, mũi chân của Hàn Ngạc vừa chấm lên, mượn lực lao thẳng về hướng hai tên Đại Mạc vương tuốt đằng xa nhất. Hai lão cũng đâu có ngờ ngay từ đầu gã lại tấn công đến chỗ xa. Còn đang trên ngựa, hai lão nhất thời kinh hoảng, một huy đại đao, một giơ Động Không Nhận đánh trả. Nhưng ngựa quá mệt mỏi, chỗ ngồi của hai lão trở nên không vững vàng. Hai con ngựa hí thảm một tiếng, sau một chiêu lùi liền mấy bước. Trường Canh kiếm của Hàn Ngạc rạch một đường vòng cung trên không, tiếp tục phóng tới, ép không cho hai lão Đại Mạc vương xuống ngựa. Gồng tay cho gã vọt mình xong, Đỗ Phương Ninh phất Thanh Sách quấn sang chỗ Qua Bích Trường Đao ở bờ đối diện hơi thấp hơn. Qua Bích Trường Đao miệng xí xào một câu, huy trường đao nghênh phong chém tới. Nào ngờ Thanh Sách thoạt mềm thoạt cứng, cổ tay Phương Ninh giật khẽ, đầu dây cuộn lên lưỡi đao, mượn sức kéo của hắn, thân người bay treo lên. Thanh Sách của nàng vốn dài tới ba bốn trượng, vừa cậy vào kình khí lắc đưa, vừa có sự xảo diệu của dải dây gợn sóng, thò thụt công phá. Nàng vừa quăng mình, liền rút ra một mũi chủy thủ. Thanh Sách của nàng có tính năng co duỗi cực nhạy, nàng trở đầu dây phóng về phía Giải Mã đã ngã mình nằm dài trở lại sau khi thả chim ưng. Giải Mã giật mình, không ngờ một nàng con gái lại xuất thủ lanh lợi tàn độc đến thế. Có sức giãn, dải sách bung xa tới bảy trượng. Hắn vội lộn mình, miễn cưỡng tránh né, bộ dạng không tránh khỏi có vẻ khốn đốn, liền nổi nóng há miệng phun đoản đao bay lọt vào tả thủ. Thấy dải dây của Phương Ninh đã hết đà, hắn liền nhào đến. Đỗ Phương Ninh vụt trượt mình từ trên vách xuống trước mặt Trảm Yêu. Trảm Yêu lách mình, cái nón lại bị mũi chủy thủ của nàng vít rớt. Đỗ Phương Ninh thấy đầu hắn trụi tóc, cười lớn dùng tiếng Khương Nhung mắng: “Thì ra là một tên hói!”. Trảm Yêu giận dữ, lao đến tấn công. Nàng lại đã theo sức thu rụt của dải dây mà bay lên, trở lại vị trí trên vách. Nàng xuất thủ thần tốc, Khách Đan Tam Sát tự đại, xưa nay chưa từng liên thủ xuất kích, ban đầu không đề phòng, chẳng ngờ bị nàng một lượt tấn công cả ba người. Bên kia Hàn Ngạc cũng nhắm đánh bất thình lình, trường kiếm được nước đâm trúng đùi trái của Mạc Thất, tuy thương thế rất nhẹ, cũng đủ khiến Mạc Thất kinh hãi nổi giận. Mạc Vong thừa lúc gã đắc thủ, cuối cùng đã có thể rời khỏi lưng ngựa bay lên, lao mình đánh trên không. Hàn Ngạc lướt né, Mạc Thất cũng bay bổng, hai người đánh liên hoàn, lần này đến phiên Hàn Ngạc thoái lùi liên miên. Đỗ Phương Ninh mới lên được trên vách núi, tung chủy thủ về phía Qua Bích Trường Đao. Qua Bích Trường Đao hụp đầu tránh khỏi. Giải Mã, Trảm Yêu cũng đã bay đến nơi. Thanh Sách của nàng triển khai, quấn lên lưỡi trường đao. Hay cho Đỗ Phương Ninh! Lúc này đang bị vây đánh, đột nhiên thân người nàng vọt nhắm đúng chỗ Hàn Ngạc, bám Thanh Sách lẹ làng lao đến bên gã, một tay nắm lấy tay gã, hai người đồng thời nhảy búng ngược về. Mạc Thất và Mạc Vong giáp kích trên không, lại không có cách nào ngăn chặn hai người họ lui nhanh, bọn lão vội đuổi theo sát rạt. Trong nháy mắt, Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh đã đứng trên vách chỗ của Qua Bích Trường Đao. Năm đại cao thủ nhất tề vây chặt. Đầu dải dây đã buông lưỡi trường đao, ngón tay trắng muốt thắt kéo dây về. Hàn Ngạc phấn chấn, Trường Canh kiếm ngân oong oong chực chờ. Đỗ Phương Ninh thốt: “Ngạc, địch đông ta ít, trận chiến hôm nay hai ta sống chết có nhau". Hàn Ngạc không đáp, mũi kiếm càng ngân vang hơn. Khách Đan Tam Sát cùng Mạc Thất Mạc Vong kẻ âm lãnh, kẻ hung ác, kẻ nóng giận chằm chặp ngó họ. Đỗ Phương Ninh chợt lên giọng: “Cư Duyên thành bắc liệp thiên kiêu…”. Nàng chưa dứt lời, Hàn Ngạc đã phát động. Thì ra sau khi phép hợp kích mà bọn họ luyện tập gần đây có thành tựu, bọn họ đã đặt tên cho nó là “Cư Duyên liệp”. Thanh Sách trong tay Đỗ Phương Ninh rung lên, ngoằn ngoằn ngoèo ngoèo, nhấp nhấp nhô nhô, có mềm có cứng quấn quanh, khiến cho đối phương nhất thời cũng khó lường Thanh Sách chuyên dùng đánh từ xa đang muốn tấn công người nào. “Quan Sơn Ngại”! Đó là chiêu “Quan Sơn Ngại” của Đỗ Phương Ninh. Kiếm của Hàn Ngạc bỗng bung dệt một mảng kiếm khí, phất tay tung chiêu “Thiên Thanh Nhất Tuyến”, đâm thẳng về phía Giải Mã! Cư Duyên thành ngoại liệp Thiên Kiêu, bạch thảo liên thiên dã hỏa thiêu. Mộ vân không thích thì khu mã, thu nhật bình nguyên hảo đóa điêu. Hộ Khương giáo úy triêu thừa chướng, Phá Lỗ tướng quân dạ độ Liêu. Ngọc bá giác cung châu lặc mã, Hán gia tương tứ Hoắc Phiêu Diêu.2 Đó là một bài thơ Hàn Ngạc cực thích, chỉ là không mấy thỏa mãn với câu cuối. Ý chí hào sảng nam nhi đó là cái gã kính ngưỡng và kỳ vọng ở mình nhất. Cho nên khi Đỗ Phương Ninh hỏi dùng tên gì cho cái phép hợp kích mà họ mới tu tập, gã liền nghĩ đến ba chữ: Cư Duyên liệp! --- Thanh Thảo hồ ở cách Cư Duyên thành tám trăm dặm về phía bắc, đó chính là mục tiêu của gã, cũng là tâm nguyện của gã: rời Cư Duyên đi săn, săn Thiên Kiêu! Hai người bọn họ mới phát động, địch thủ cũng đã có động. Khách Đan Tam Sát không phải không quen liên thủ, chỉ là chúng không có dịp, mà cũng không cần phải liên thủ. Trường đao, yêu đao, đoản đao đan thành một màng lưới đao, từ trên trời thoạt dày thoạt mỏng, thoạt cuồng dại mãnh liệt, thoạt âm độc khó lường, từng sóng từng sóng cuốn đến công tập. Hai lão già Đại Mạc vương rất đồng tâm, hợp lực sắc nhạy ghê gớm, huống hồ chúng vốn là huynh đệ. Kim Sa Đao cùng Động Không Nhận của Đại Mạc Kim Sa môn do hai lão dốc sức khai sáng phối hợp nhịp nhàng không một sơ hở. Sau cơn hỗn loạn ban đầu, chúng cả kinh phát giác đôi nam nữ kia tuy tuổi tác còn trẻ, thân thủ lại hùng mạnh hơn trong sở liệu của chúng. Không hẹn mà thành Khách Đan Tam Sát công tập mé trái, còn hai lão Đại Mạc vương trấn giữ mặt phải. Khiến cho Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh khó chịu nhất là phía trái, không chỉ vì Khách Đan Tam Sát người đông, mà còn bởi chúng đang ở tuổi sung sức, sát khí hung hãn vô cùng. Luận về tu vi cá nhân, mỗi một tên chừng như đều cao hơn Đại Mạc vương Mạc Thất và Mạc Vong một bậc. Hàn Ngạc vốn muốn một mình đương đầu bên trái, lại bị Đỗ Phương Ninh xen lên trước, vung Thanh Sách ngăn chặn hết thế công bên đó, nhường mặt phải yếu hơn cho Hàn Ngạc. Tiếp đó chủy thủ của nàng còn đón đỡ một phần lớn bên phải nữa, Hàn Ngạc trên không trung chỉ lo tiến kích. Thanh Sách của Đỗ Phương Ninh cuốn vòng vòng, phong tỏa hết công thế của địch. Nàng tuy là con gái, nhưng bản tính quả cảm. Khi có địch nhân đột nhập vào vòng Thanh Sách, nàng nghiến răng cắn giữ tơ tóc tung bay tán loạn theo Thanh Sách, chủy thủ liều chết dồn hết can đảm toàn lực bảo vệ thanh thế hợp kích của nàng và Hàn Ngạc. Nhãn quang của Hàn Ngạc càng lúc càng lạnh, sắc mặt cũng càng lúc càng xanh. Mặt Đỗ Phương Ninh thì lại càng lúc càng trắng tái. Nửa tháng nay, bọn họ luyện theo lối Hợp Tạ Song Tu, tiến triển hết sức. Nếu không nhờ đoạn thời gian khổ luyện trui rèn đó, dưới sự giáp kích của ngũ đại cao thủ, Đỗ Phương Ninh thực không biết mình và Hàn Ngạc có phải đã sớm táng mạng xuống suối vàng rồi không. Vai Hàn Ngạc chợt toé máu, ánh vào mắt Đỗ Phương Ninh --- Nàng thấy Hàn Ngạc vì lo giải vây cho nàng nên tung liều một kiếm đâm về mé cổ của Qua Bích Trường Đao, lập tức để lộ sơ hở, bị Giải Mã chém một đao trúng vai, nhưng trường kiếm của gã cũng đã đâm trúng cổ tên Qua Bích Trường Đao. Có điều lúc đó gã đã yếu sức, không kịp thoái về, Qua Bích Trường Đao sau khi chấn thương, đao quang càng đánh trả hung bạo hơn, chém ngay đầu Hàn Ngạc, muốn chẻ gã làm đôi. Đỗ Phương Ninh mắt đỏ ngầu, phất Thanh Sách quấn lấy cổ tay Hàn Ngạc, không thèm cự địch mà giật gã ra sau. Nhưng vừa vung Thanh Sách, Kim Sa Đao cùng Động Không Nhận của Mạc Thất và Mạc Vong bên phải nháy mắt đã xộc đến. Đỗ Phương Ninh nghiến răng nhún mình vọt về phía Kim Sa Đao của Mạc Vong, chủy thủ chỉa đâm vào ngực lão, đúng là chiêu số lấy mạng đổi mạng. Mạc Vong biến sắc, thu đao thoái lui, Động Không Nhận của Mạc Thất lại đã ác hiểm quét dưới sườn Phương Ninh, cơ hồ đâm xuyên qua. Tuy nàng vặn eo né thoát, vẫn bị rạch một vệt tươm máu. Hàn Ngạc lúc này mượn lực của Thanh Sách nhảy trở về cạnh nàng. Thấy đao của Trảm Yêu vừa tạt ngang tới, định chém Đỗ Phương Ninh đứt đoạn, gã không kịp nghĩ ngợi, song thủ ôm Đỗ Phương Ninh xoay một vòng, đẩy nàng đến trước mặt mình, đưa lưng ra dùng vỏ kiếm đón đỡ một đao đó. Tuy thoát hiểm, thân người gã chấn động, vỏ kiếm muốn nứt toạc, vạt áo sau lưng nát hết, ngũ tạng lục phủ nhộn nhạo khó chịu muôn vàn. Thanh Sách của Đỗ Phương Ninh lại chọn đúng thời cơ rung mình quấn lên cổ Trảm Yêu. Tay nàng phẩy một cái, đầu dải dây kết thành một vòng thòng lọng siết cổ hắn chặt đến mức lưỡi muốn thè ra. Hắn chỉ còn nước xoay tay vỗ một đao về phía Thanh Sách. Hắn vội vàng tự cứu lấy mình, đao thế thu hồi trở lại, nhờ đó mà Hàn Ngạc không bị chém phập vào hông. Hàn Ngạc bỗng dưng xoay mình, một kiếm gạt văng trường đao xé gió. Đỗ Phương Ninh mặt mày tái nhợt, thấy Động Không Nhận của Mạc Thất dưới sự yểm hộ của Kim Sa Đao đang vù vù đâm sang. Nàng không có cách nào tránh né, ôm Hàn Ngạc xoay mình dùng vai hứng lãnh một chiêu của Động Không Nhận. Hàn Ngạc tái mặt, Mạc Thất thì đắc ý có thừa, chợt thấy dưới sườn Đỗ Phương Ninh nhú ra một mũi kiếm, đó là Trường Canh của Hàn Ngạc! Hàn Ngạc không ngờ từ bên dưới hông Phương Ninh đâm ra một kiếm, khiến cho lão khó lòng phòng bị, đành chịu bị đâm trúng vai. Nhưng kiếm thế không vì vậy mà ngưng hẳn, lại còn dấn thêm lực khí, thuận đà nhấn xuống chặt đứt cánh tay của lão! Mạc Vong thất kinh, Kim Sa Đao của lão đang quạt đường khác, thấy Mạc Thất trọng thương, vội vàng thu hồi đao thế, dùng sống đao vỗ lên cổ Hàn Ngạc. Hàn Ngạc loạng choạng, nếu không phải đang ôm Phương Ninh, gã cơ hồ phải té nhào. Hai người thân mình tắm máu, bên kia cũng có ba tên thụ thương. Chúng không ngờ giờ phút quyết thắng liều mạng lại đến mau như thế! Song ai ai cũng cũng không dám chậm tay một chút xíu nào, biết cục diện bữa nay có lẽ có thể giết được đôi nam nữ kia, chỉ là không biết phe mình phải tổn hao bao nhiêu mạng. Mạc Thất tuy đã già nhưng thực dũng cảm, mất một cánh tay mà vẫn tự phong bế mạch máu rồi lại lao lên, mắt đỏ ngầu. Hàn Ngạc với Đỗ Phương Ninh cũng không liệu được hôm nay lại thảm thương đến như vầy, bọn họ một tay chống đỡ lấy nhau, cứ lo trợ giúp người thương. Đỗ Phương Ninh thốt thê lương: “Ngạc, không ngờ lại sắp thành một đôi uyên ương đẫm máu”. Hàn Ngạc không đáp, hai người siết chặt binh khí, tuy quả cảm dũng mãnh như bậc hào hùng phá ải chém tướng, nhưng chẳng thiếu phần dạt dào tình chàng ý thiếp nâng đỡ lẫn nhau. Đỗ Phương Ninh thấp giọng: “Ngựa còn đó, tôi chặn chúng, chàng còn có đại sự phải lo, có lẽ còn có thể chạy thoát”. Ánh mắt Hàn Ngạc đầy vẻ trách móc --- Nàng bị mình kéo lọt vào cục diện hiểm nghèo, lẽ nào nàng không biết mình đang cảm thấy có lỗi lắm sao? Chết thì chết, tại sao phải nói thế? Gã tức giận quát: “Không, thanh sơn bất lão3…”. Chừng như cái Đỗ Phương Ninh muốn hỏi cho ra chính là một câu nói đó của gã. Bờ má nhuộm máu, nàng tươi cười: “Được, vậy thì… bạch thủ đồng quy4…”. Hai người đều biết cầm cự như vầy có lẽ có thể giết được hai ba tên địch, nhưng mình nhất định phải bỏ mạng. Đỗ Phương Ninh chợt thốt: “Ngạc, tầng cao nhất trong tâm pháp của sư môn tôi thực ra gọi là… Thượng Da…”. Thượng Da?... Trời ơi! Thiếp mong chúng mình yêu nhau, để ái tình của đôi ta vĩnh viễn không suy tàn. Trừ phi núi non biến thành đất bằng, trừ phi sông nước khô cạn không còn một giọt, trừ phi mùa đông sấm sét, mùa hạ tuyết băng, trời và đất hợp thành một --- đến lúc đó mới dám nói "đoạn tuyệt" với chàng!5 Tâm pháp của nàng thì ra gọi là “Thượng Da”! Nàng vung tay gạt văng đao của Giải Mã đang đâm vào lưng Hàn Ngạc, lại phất Thanh Sách tập kích Đại Mạc vương nhị lão. Hàn Ngạc nghiến răng, lại một lần nữa vẹt trường đao, một kiếm đâm về phía Trảm Yêu, Đỗ Phương Ninh nói tiếp: “Nhưng tôi biết nam nhi các người tâm pháp cứng bướng lắm, kiếm thuật chàng tu luyện là ‘Thạch Trung Hỏa' nội công tâm pháp của ‘Thạch Trung Hỏa' e chính là ‘Thiên Hạ' lừng danh đời đời”. --- Côn Lôn cao vọi tuyết một miền, Bồng Lai xa thẳm lạnh triền miên. Tay nào xốc được toàn thiên hạ, sao nỡ một mình đến chốn tiên?6Đó là bài “Thử hạn khổ nhiệt”, Ngạc ơi Ngạc, cái chàng nuôi trong lòng là toàn thiên hạ này phải không? Cái chàng muốn tu thành có phải là “thiên hạ” nhất kiếm như vậy? Đỗ Phương Ninh thốt: “Nhưng ‘Thượng Da' của tôi với ‘Thiên Hạ' của chàng vĩnh viễn không thể trùng hợp sao? ‘Song Ti Võng’ lấy ‘Thượng Da’ làm tâm pháp không ăn khớp được với ‘Thạch Trung Hỏa” dùng ‘Thiên Hạ' làm nội ý sao? Bọn ta yêu thương nhau đến chừng này, lẽ nào một lần hòa hợp cũng không thể nào sao?”. Nàng hỏi hết sức khổ sở, nàng biết những chiêu thức liên thủ của nàng và Hàn Ngạc chưa thể xung phá tầng hạn chế cuối cùng, thực ra là vì mình và gã khác nhau ở nền tảng căn bản làm người xử thế. Nàng không phải là một nữ tử yếu mềm, nàng không sợ chết, nhưng trước khi chết, bất kể ra làm sao, nàng cũng phải đeo đuổi cơ hội mong manh cuối cùng! Cho dù cơ hội đó có mờ mịt xa vời, nhưng chỉ cần có chút thu hoạch, chỉ cần tận đáy lòng của hai người thực sự có thể khắng khít, chỉ một sát na hòa hợp triệt để, nàng có chết cũng cam tâm. Mặt mày Hàn Ngạc chợt bừng bừng ý chí: “Được, bất quá là chết thôi, thử xem!”. “Thạch… Hỏa… Quang… Trung… Ký… Thử… Thân…!”. Hàn Ngạc dồn nỗi niềm ôn nhu hết sức quyết liệt thả bảy chữ đó bên tai Đỗ Phương Ninh, sau đó gã một tay kéo giữ Thanh Sách của nàng --- Thạch Tê Phế Lũy, Hỏa Trạc Tịch Hoa, Quang Độ Tinh Dã… ba chiêu thức chàng khổ tu đã không biết bao nhiêu lần cơ hồ tung ra trong cùng một chớp mắt. Một kiếm đó, gã quyết tâm quyết chí! Một đời này, gã chưa từng phát một kiếm thỏa thích quyết đoán đến thế. Đầu Thanh Sách bị tả thủ của gã siết chặt, nội tức của Đỗ Phương Ninh cũng dốc vào dải dây truyền vào năm ngón tay của gã, thuận một đường chảy vào lục mạch. Vì dằn vặt, cho nên nhất quyết! Nàng dốc hết tâm pháp “Thượng Da” của mình để tương trợ Hàn Ngạc, lại không biết có thể hòa hợp với nội ý của Hàn Ngạc hay không. Một kiếm đó đã quyết ý đến thế! Ngũ đại cao thủ của đối phương làm sao mà liệu được gã đến nước này còn có thể tung một chiêu quyết ý đến dường đó! Phong độ của một kiếm đó là --- Tuy thiên hạ nhân ngô vãng hĩ7! Bởi… Hàn Ngạc giờ phút này đang chở che Phương Ninh, gã không thể để nàng chết, gã muốn nàng sống còn! Qua Bích Trường Đao quạt một vùng dương quang vàng chói, một kiếm trắng nhợt kia lại như ánh chớp xẹt qua --- “Trung Thiên Quyết!” Một kiếm đó là thế thứ tư của “Thạch Hỏa Quang Trung Ký Thử Thân” lấy “Thiên Hạ” làm tâm pháp --- thế trảm. Đao thế của Qua Bích Trường Đao còn chưa dứt, lại thấy kim quang mù trời vụt tắt. Một cái đầu người thình lình bay ngang qua mắt Giải Mã, đó là đầu của Qua Bích Trường Đao! Đầu lâu của hắn bay bổng giữa không trung, ánh mắt trợn trừng còn chưa tin nổi, hắn không tin một kiếm đó có thể giết được hắn! Trảm Yêu, Giải Mã thất kinh! Rồi hai tên đồng thời lao đến chỗ Hàn Ngạc! --- Tiếp đó là chiêu kiếm “Ký Tình”. Gởi tình nơi nao? Hàn Ngạc ngoái lại nhìn Phương Ninh, nhãn quang tràn ngập nhu tình, kiếm ý cũng như đoạn như tục, cực kỳ triền miên. Một kiếm đó đã ngưng tụ hết lực khí của gã và Phương Ninh. Đó là một chiêu kiếm hòa hợp “Thiên Hạ” với “Thượng Da”. Một kiếm đó lại là đánh về phía Đại Mạc vương, rạch đứt búi tóc của Mạc Thất, sau đó đâm xuyên qua xương tỳ bà của Mạc Vong. Mạc Vong thõng tay, Kim Sa Đao rớt xuống đất, chém đứt cả ngón tay út của lão. Sát na đó, chúng vốn có thể thừa cơ chém chết Hàn Ngạc hay Đỗ Phương Ninh, nhưng chúng đã kinh hoàng, kinh hoàng trước một Hàn Ngạc quyết tuyệt dứt khoát, một Đỗ Phương Ninh liều lĩnh hoàn toàn không phòng vệ, dốc toàn lực tương trợ cho chiêu kiếm thành công. Hàn Ngạc chợt quát: “Thử Sinh Pha Tự Hứa!”. --- Đó là thức thứ năm của “Thạch Trung Hỏa”. Đời này tự hứa nguyện đó mà! Gã sống như một cô nhi, hồi nhỏ không có cha mẹ nuôi nấng, nghèo hèn không thân thích, những gì gã sở hữu vốn chỉ có chút tự hứa nguyện đó. Đỗ Phương Ninh nhìn gã, một nỗi niềm ấm dịu từ con tim dâng lên. Nếu không có chút ý niệm ôn nhu đó, tâm pháp của nàng khó mà đạt được sự kết hợp ăn khớp với Hàn Ngạc đến thế. Một kiếm đó đột phá ngăn trở, Giải Mã, Trảm Yêu và Mạc Vong hoàn toàn quên bẳng công tập, chỉ biết tự bảo vệ lấy bản thân. Thế liên thủ của chúng đã bị phá vỡ, kiếm của Hàn Ngạc lướt gió mà đến, xoáy vùn vụt đâm vào lồng ngực Giải Mã. Trước khi chết, đao của hắn cũng đã cắm phập vào bụng dưới của Hàn Ngạc. Miệng hắn hoi hóp, tựa như không cam tâm chết đi như vầy. Trảm Yêu bình tĩnh nhất, hắn xoay mình bỏ chạy, nháy mắt đã vọt ra ngoài mấy trượng. Hàn Ngạc trọng thương, muốn vận khí mà xem chừng khí lực đang tiết ra ồ ạt. --- Biết đuổi theo hắn không kịp, gã nghe Đỗ Phương Ninh thét: “Thời cơ bắn thiên lang đã đến, không thể bỏ lỡ, không thể hắn chạy thoát!”. Thanh Sách của nàng chợt kéo giật lại , tả thủ giữ chặt một đầu, cong người lại, chân phải uốn lại, căng luôn đầu dây kia. Toàn thân nàng như dây cung trương cứng. Hàn Ngạc biết dụng ý của nàng, hú dài một tiếng, liều chút nội tức cuối cùng, thân mình vọt lên, bay là là về phía dây “cung”, điểm nhẹ mũi chân, sau đó một kiếm thần tốc, người như một mũi tên để Thanh Sách của Phương Ninh bắn ra --- Nàng là cung của gã, mà gã là tên của nàng. Một “tên” đó phát ra thực vượt ngoài ý liệu của mọi người. Hàn Ngạc bay vụt ra xa năm trượng, một kiếm chém chết Trảm Yêu tại đương trường! Mạc Vong thất kinh, dùng một tay kéo xốc Mạc Thất đã mất đi một cánh tay, thân hình nhún nhảy, thoái lùi xuống vách đá, hạ mình lên yên ngựa, miệng thốt: “Đỗ cô nương, xin niệm tình ngươi và ta là người của Đông cung. Xin lấy tính mạng của huynh đệ ta mà thề sau này nhất quyết không chống đối Hàn Tuyên phủ sứ nữa! Quyết không để lộ một lời nào về đại kế hành thích của hai vị!”. Lão còn chưa dứt lời đã giật cương bỏ chạy. Hàn Ngạc chân khí đã cạn, nói chuyện hết sức khó nhọc, chống kiếm thét: “Những lời ngươi nói có thực không?”. Mạc Vong cười thảm một tiếng: “Trên đại mạc, lấy sức mà giành thắng. Sức của ta không thể thắng ngài, ngày nào ngài còn sống, lời của ta đương nhiên là thực!”. Hàn Ngạc thấy chúng đã chạy xa, gắng sức loạng choạng trở về vách đá. Đỗ Phương Ninh cũng toàn thân tắm máu, thõng mình ngồi bệt xuống. Gần đó là thi thể của Qua Bích Trường Đao và Giải Mã, xa hơn nữa là thây của Trảm Yêu, nhưng họ không còn hơi sức đâu mà để ý. Hàn Ngạc còn cách Đỗ Phương Ninh cỡ một thước thì cầm cự không nổi nữa, lảo đảo ngã nhào, mặt ngờ nghệch bàng hoàng: “Bọn ta đã thắng?”. Đỗ Phương Ninh nhìn bộ dạng ngây ngô của gã, không khỏi vứt bỏ hết tâm trạng khẩn trương, một giọt lệ tuôn rơi. Hàn Ngạc bần thần thốt: “Bọn ta sao lại thắng được?”. --- Cuối thu đầu đông, buổi ban ngày rất ngắn, hai người thực lâu sau mà vẫn không có lực khí để đứng dậy, chỉ đành ngồi nhìn vầng thái dương bắt đầu hạ mình trời tây. Mặt trời tàn, bọn họ cuối cùng lại có thể sống đến chiều tàn --- Phải mà, những ách nạn, những sinh tử, những chém giết, bọn ta sao lại chịu đựng được? --- Bọn ta sao lại thắng được? Trải trăm trận vẫn còn tồn tại đây, thực là may mắn. Đằng chân trời, cái vầng đỏ ối kia tựa hồ đã lún chìm vào đại sa mạc. Đêm lạnh, hai người khật khừ ngồi trên lưng ngựa, để mặc chúng sải bước. Đi chậm rãi từ từ như vậy, thực giống như về nhà --- Ngựa chiến giờ an nhàn thành ngựa rong về nhà… Mà đến lúc nào hai đứa mình mới có thể chậm rãi kề cương, “về” một cách thực sự?
2 Xem chú thích {1} hồi 41. 3 "Thanh sơn bất lão", núi xanh không già, là thành ngữ chỉ sự vĩnh tồn, xuất xứ từ "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung. 4 "Bạch thủ đồng quy" xuất xứ từ "Kim cốc tập tác thi" của Phan Nhạc, có nghĩa là đến đầu bạc vẫn có nhau, hình dung tình cảm thủy chung dài lâu, sau này dùng để biểu thị ở đến già cùng chết với nhau. 5Đây là bài tình ca “Thượng Da” (“thượng da” là “trời ơi”, tỏ ý thán oán), xuất xứ từ sách “Hán nhạc phủ”, không biết tác giả là ai. Nguyên tác là: Ngã dục dữ quân tương tri, trường mệnh vô tuyệt suy. Sơn vô lăng, giang thủy vi kiệt, đông lôi chấn chấn, hạ vũ tuyết, thiên địa hợp, nãi cảm dữ quân tuyệt! 6 Nguyên tác là: “Côn Lôn chi cao hữu tích tuyết, Bồng Lai chi viễn thường di hàn. Bất năng thủ đề thiên hạ vãng, hà nhẫn thân khứ du kỳ gian?”. Đây là bốn câu trong bài "Thử hạn khổ nhiệt" của Vương Lệnh thời Bắc Tống. Bài thơ này khí thế hào hùng, bày tỏ ý chí hiệp nghĩa muốn đồng cam cộng khổ với thiên hạ. "Côn Lôn" là vùng núi cao phía tây, tuyết đọng không tan chảy; "Bồng Lai" là một trong ba ngọn núi thần ở Bột Hải trong truyền thuyết. Những nơi đó đều là thế giới mát lạnh không có nỗi khổ hạn hán nóng bức, là đất lành để tránh nạn, nhưng không thể đem toàn thế giới kéo xốc đi cùng thì sao lại có thể một mình đi hưởng phước được?7 Dù đương đầu với toàn thiên hạ, ta vẫn cứ xông tới! Ở đây Tiểu Đoạn sửa một chữ trong câu “Tuy thiên vạn nhân ngô vãng hĩ!” của thầy Tăng Tử nói với Tử Tương, xuất xứ từ sách “Công Tôn Sửu thượng” của Mạnh Tử.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 64 Thiên gia kim hữu bách gia tồn1
Th ương thế trên mình hai người đâu phải nhẹ, nhưng may sao toàn là ngoại thương --- Khách Đan Tam Sát đều là hảo thủ ngoại gia, bị chúng đả thương tuy đau đớn, lại không lắm phiền hà như sau khi bị hảo thủ nội gia Trung thổ đánh. Đỗ Phương Ninh bản tính cẩn thận, có mang theo thuốc bên mình. Hai ngày sau đó họ tuy có đi, nhưng chậm hơn nhiều vì để điều dưỡng thương thế. Sang tháng chín, họ đã đi ra sa mạc Ba Đan Cát Lâm, đến một vùng thảo nguyên lớn. Cỏ đã khô, sáng tối lúc nào cũng giăng sương dày kín. Vó ngựa dẫm trên cỏ sương, chỉ nghe lộp cộp vang vọng, càng hiển hiện sự tĩnh tại của đồng trống.
Bu ổi ban mai sương thu tản mạn như dòng sữa bao bọc cánh đồng, vẫn những cọng cỏ sức sống ngoan cường không cam tâm khuất phục, còn buông tuồng chút màu xanh cuối cùng. Đất đai này, thực phảng phất như một mảnh “đất mộng” --- Thề lìa bỏ ngươi, đi đến vùng đất mộng2… Hàn Ngạc bâng quơ nghĩ tới mấy câu đó. Đỗ Phương Ninh từ khi vào thảo nguyên vẫn chưa tìm ra nguồn nước. Nàng ưa thanh khiết, lòng không tránh khỏi khó chịu. Bình minh hôm đó, nàng thấy hơi móc lâm râm, liền kêu Hàn Ngạc dang ra xa, còn không cho phép gã quay đầu lại nữa.
Hàn Ng ạc cười nghe lời, dẫn ngựa đi thả --- Phương Ninh ngay cả con ngựa cũng không chịu cho ở kề cận. Gã một mình đi cách xa hơn trăm bước, có sương che lấp, dù ngoái đầu cũng không nhìn thấy gì rõ. Gã ngồi một hồi, chẳng nghe thấy Phương Ninh có động tĩnh gì, cũng không tránh khỏi quay lại ngó, cho rằng Phương Ninh chắc đang luyện công gì đó. Lúc ấy hơi sương lan tràn ghê gớm thực, đôi mắt sắc bén như gã mà cũng không thể nhận ra được gì. Chợt có một luồng gió phất qua, sương mù xô dạt, Hàn Ngạc thoáng nhìn thấy Đỗ Phương Ninh lõa thể giữa làn sương như dòng sữa bị gió pha loãng. Nàng ngửa đầu đứng một chỗ, thân mình khô quánh đã lâu đón nhận những giọt nước li ti trên đồng cỏ. Dưới gót lờ mờ lấm tấm xanh, sương xung quanh như tấm khăn sa choàng lên người nàng, trên vai còn đọng những giọt nước, bờ vai tròn trịa trơn mịn, tất cả lại như thoang thoảng mơ hồ… Hàn Ngạc nhìn đến ngây ngốc. Một hồi lâu sau, Đỗ Phương Ninh mới bắt đầu dùng một tấm lụa lau chùi thân thể thấm đẫm sương móc. Bốn bề tĩnh lặng, gió đã đi xa, sương cũng vầy tụ kín mít trở lại, Phương Ninh dần dần mờ ảo, cơ hồ tan biến. Hàn Ngạc lẳng lặng thưởng thức bức tranh xinh đẹp đó, bứt một cọng cỏ cắn cắn, như tìm thấy chút vị ngọt qua hương cỏ.
o0o “Bọn ta cơ hồ đã dốc hết toàn lực mới giải quyết được Khách Đan Tam Sát. Hành thích Khương Nhung vương không biết sẽ ra sao đây?”. Đỗ Phương Ninh cười nói: “Hơn nữa bọn ta làm sao để tiếp cận y? Còn phải chọn đúng lúc y và thuộc hạ của y hoàn toàn không phòng bị nữa. Ô Tất Hãn nghe đồn tính tình nóng nãy, lại cực kỳ lắm trí nhiều mưu, e không phải là hạng dễ bị lừa gạt. Chuyện này vô cùng khó đây”.
Hàn Ng ạc cũng moi óc đến nhức đầu. Đỗ Phương Ninh nhìn gã nói tiếp: “Tôi hiểu tiếng Khương Nhung, huống hồ những năm qua bọn Khương Nhung cũng đã bắt không ít phụ nữ người Hán, chắc cũng có con đàn cháu đống. Nếu tôi muốn giả trang làm một người Khương Nhung thì cũng còn được. Có điều…”. Nàng nheo mắt cười cười nhìn mặt Hàn Ngạc: “Mũi chàng tuy cao, nhưng tối đa chỉ có thể giả làm người Hồ vùng Tây Vực, người Khương Nhung đâu có tướng tá như như chàng. Mũi của chúng khoằm hơn người Hán. Không biết nếu tôi kết mấy bím tóc cho chàng thì có giống được chút nào không hen”. Nàng thò tay bóp má bóp mặt Hàn Ngạc, chăm chú quan sát rồi bỗng không nhịn được cười: “Bình thường không để ý, tới giờ tôi ngó kỹ mới phát hiện chàng đâu phải chỉ là không giống người Khương Nhung, không giống người Hồ, mà thực ra cũng không giống người Hán luôn nữa. Chàng là người gì vậy?”.
1 Ngàn nhà nay chỉ còn trăm, xem chú thích {1} hồi 55.2 Nguyên tác là: "Thệ tương khứ nhữ, thích bỉ mộng thổ!". Ở đây Tiểu Đoạn sửa câu"Thệ tương khứ nhữ, thích bỉ lạc thổ" (Thề lìa bỏ ngươi, đến vùng đất yên vui bên kia) trong sách "Thi Kinh - Thạc Thử".
Th ấy nàng dùng giọng điệu chọc quê, gã biết nàng đang xiên xỏ mình. Hàn Ngạc không khỏi mỉm cười: “Tới giờ mới phát giác ta xấu quá phải không? Không vừa ý chút nào phải không?”. Gã cười mà khoé môi hơi trề, để lộ hàm răng đều đặn còn dính nhựa cỏ --- Tay gã còn đang cầm cọng cỏ nhai nhai, lên nữa là sống mũi cao thẳng, đôi mắt không lớn nhưng tràn trề tinh thần, ánh mắt thanh khiết vô tội. Chỉ vì ánh mắt đó mà nàng thích gã --- Đỗ Phương Ninh đã gặp cả ngàn cả vạn nam nhân con nhà quyền quý cũng chẳng thấy ai có ánh mắt đó.
Không bi ết sao gương mặt trong sáng chân thành của Hàn Ngạc lại luôn luôn thu hút Đỗ Phương Ninh… Đó thực là… tướng mạo của hảo “nam tử”! Đỗ Phương Ninh tim đánh thót, mặt ửng hồng gắt gã: “Hứ! Một nam nhân như chàng, tướng tá dễ ưa để làm gì chứ? Tôi thì luôn luôn…”. Khoé môi nàng cũng trễ xuống, cười giễu: “… Sợ chàng tướng mạo dễ coi quá, gây cho mấy Vu cô nương nè, Nhị cô nương nè, hình như còn có Thù cô nương, Xu cô nương gì nữa… phải cam tâm chết lên chết xuống vì chàng, hay là không biết vì nguyên nhân gì mà nổi nóng với chàng, trên Bắc Mang sơn trong Mộ Hoa viện thầm mong trộm nhớ, hạ cả ngàn cả vạn cổ trùng kỳ quái… Ừm, chuyện tôi chưa biết chắc còn không ít. Mấy trò thỏ thỏ thẻ thẻ nhỏ nhỏ nhẻ nhẻ của chàng sao lại qua được con mắt sắc bén của tôi, sao lại khiến cho tôi chọn đúng chàng trong ngàn ngạn vạn vạn nam tử vậy chứ".
Hàn Ng ạc đỏ mặt: gã không cãi lại, đầu óc bối rối, mặt mà đỏ thì đỏ lan luôn xuống cổ. Đỗ Phương Ninh cứ làm như không để ý, thì ra đã thăm dò nắm rõ những giao du và hành tung của gã, khám phá ra hết. Gã cũng không biết tại sao gần đây cổ trùng lại chẳng phát tác, thỉnh thoảng chỉ rêm rêm. Lẽ nào thằng bé Tiểu Kế trị được loài cổ trùng mà Lợi đại phu cũng phải bó tay? Nghe Đỗ Phương Ninh nói “chuyện tôi chưa biết chắc còn không ít”, trong đầu gã chợt nghĩ tới Yêu Yêu, càng đỏ chín mặt, lòng hoảng hốt, chắc nàng ta chưa bị Đỗ Phương Ninh phát giác chứ?
Gã ngh ẹn họng thốt không nên lời. Đỗ Phương Ninh lại khoái gã không lên tiếng được, nàng mỉm cười thốt: “Hiện giờ chàng đã rám nắng đen cháy, đen không khác gì một tên lính Khương Nhung, sao lại còn có thể đỏ mặt? Chàng dạy tôi đi, giúp tôi sau này cũng có thể học ra vẻ e thẹn để gạt gẫm mấy đại tẩu và mấy tiểu cô nương đi”. Hàn Ngạc tức đến mức không muốn để ý gì tới lời nàng nói nữa, giọng điệu của nàng lại dần dần dịu dàng trở lại, khe khẽ thốt: “Ngạc, chàng giống như một cục cây vậy, không biết nói chuyện. Thực ra người như chàng lại dễ dụ người ta nhất, dễ đặt bẫy nhất, dễ khiến người ta gần gũi nhất". Hàn Ngạc lòng ấm dịu. Gã chẳng có cách nào nắm bắt được cái nàng Phương Ninh này. Nàng xưa nay vẫn làm cho mình quay cuồng, khiến mình nóng giận, rồi lại khiến mình vui cười. Đỗ Phương Ninh nhẹ giọng than: “Người như tôi sao lại có thể để bị chàng gạt, bị chàng lừa chứ?”.
L ời nói không chỉ ẩn hàm sự ôn nhu, mà còn có một chút ý vị thẫn thờ. Hàn Ngạc ngây người, gã biết Đỗ Phương Ninh là một nữ tử cực kỳ kiêu ngạo. Người kiêu ngạo thực sự đâu thể nào đi kể lể với người mình yêu về tình cảm yêu đương của mình, phải không? Trong thâm tâm của mình, đối với những triền miên quấn quít, kề vai tựa gối chẳng phải cũng có một phần chống chế không thể nói rõ là gì sao? Vì tất cả những người kiêu ngạo trong thâm tâm đều đã sớm coi bản thân là một kẻ cô độc? Đó là tâm tưởng ban sơ của một người, lời nói vừa rồi của Đỗ Phương Ninh tựa hồ là niềm cảm khái đối với việc bản thân nàng làm trái lại lại tâm tưởng ban sơ, cho nên mới tỏ ra chút bần thần.
Hàn Ng ạc không nói gì, chỉ nhai nhai cọng cỏ. Ngước nhìn bốn bề, mây đùn cỏ hoang, đất trời bát ngát, hai con ngựa phi nước kiệu song song, quả là an lạc đến tận cùng. Nhưng nỗi hoài vọng thời niên thiếu không câu không thúc một mình một bóng với trăng sao mây gió lại dâng trào từ tận đáy lòng.
S ự kết đôi, dắt tay nương cậy lẫn nhau giữa hai người là câu trả lời cuối cùng của cuộc khảo vấn nghiêm khắc nhất trong đời người sao? Có lúc quả có cảm giác là vậy, hai mái đầu cọ sát, đôi tình nhân nồng cháy. Nhưng cuộc sống đâu có ngắn ngủi dừng sựng ngay giây phút đó, mà đời người rất dài, dài đến có lúc bản thân lại muốn một mình thoát bay đi, không dòm ngó gì thiên hạ, thả sức phi nước đại, một kiếm ẩn dật nhàn rỗi cao vời --- Ngay cả khi tâm địa khát vọng sự cô độc như thế, Phương Ninh với mình cũng tương thông, cho nên sự gần gũi của hai đứa thực là… rất hay.
--- H ọ lúc này đã đi được năm sáu trăm dặm, gần đến Thanh Thảo hồ rồi, cho nên Đỗ Phương Ninh mới trịnh trọng nói đến vấn đề hành thích Khương Nhung vương. Đỗ Phương Ninh định thần lại, nhớ tới đề tài nghiêm chỉnh, vuốt vuốt làn tóc mai hỏi lại: “Ngạc, chàng nói coi chuyện này phải làm sao?”.
Hàn Ng ạc nhắm mắt nằm trên thảm cỏ: “Ta cũng chưa nghĩ ra. Ta cứ thắc mắc chuyện này thực ra có thể làm hay không? Có phải sau khi hành thích Khương Nhung vương, bộ hạ của y sẽ tan rã phân tán, tuy vẫn còn quấy nhiễu nhưng không còn có thể gây đại họa? Dù gì thì cũng là một mạng người, tuy mình không thấy cái mạng đó quý giá gì hơn kẻ khác, nhưng cũng đâu có rẻ rúng gì hơn. Bọn ta không thể tự nhiên khơi khơi vô cớ đi giết y. Nếu thực sự hành thích xong là có thể phá tan tình thế Khương Nhung ép bức vùng Tái ngoại thì chuyện này tất cần phải làm. Còn về làm như thế nào --- sự vụ kiểu này là cái để đi làm, không phải là cái để nghĩ cho ra. Nàng và ta hiện đang mò mẫm trong bóng tối, có nghĩ cũng nghĩ không ra gì, chỉ còn nước chớp thời cơ mà hành động thôi”.
T ối hôm đó, họ lại đụng một đám dân Khương Nhung du mục. Đỗ Phương Ninh quả nhiên đã cải trang thành một phụ nữ Khương Nhung, cũng bắt Hàn Ngạc đổi mặc lớp áo thường ngày của dân du mục. Nàng rất tinh thông thuật hóa trang, bên dưới xương gò má đánh hai lớp phấn dày cộm, hết sức khoa trương, lại cũng nổi bật một vẻ đẹp hoang dại mạnh bạo. Nàng còn quậy tung đầu tóc của Hàn Ngạc, xén bớt đi.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 65 Dĩ đoạn yến hồng sơ khởi thế1
Thanh Th ảo hồ chiếm một phạm vi cực lớn, sau khi Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh theo dân chăn dắt đến rìa ngoài thì không dám đi tới nữa --- Cách đó mười mấy dặm là trung tâm đại hội của Khương Nhung vương và Tả, Hữu Hiền vương cùng thủ lãnh của các bộ lạc, phòng vệ cực kỳ nghiêm ngặt, nhân mã lại đông, tướng mạo như Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh mà trà trộn vào tất sẽ bị nghi ngờ. Vì vậy họ chỉ dựng một cái trướng ở nơi thưa người, làm như đi tránh lạnh để che mắt. Trong vòng mấy ngày, họ đã nhiều lần thử dò vào khu trung tâm. Tuy đã thận trọng từng bước, họ vẫn mấy lượt gặp hiểm nguy. Nguyên nhân lớn nhất khiến cho họ phải rụt rè là họ không thể đả thảo kinh xà, càng không thể tùy tiện xuất thủ đả thương ai.
Chuy ện lo âu cũng không ít. Hàn Ngạc với Đỗ Phương Ninh tuy cuối cùng đã đến được Thanh Thảo hồ, nhưng các bộ tộc trú ngụ quanh đó hết sức chia rẽ. Tổng cộng phải hơn hai chục vạn, dù toàn là người Khương Nhung mà lại chẳng ở cùng một nơi, cứ tản ra khắp phương viên đồng cỏ mấy chục dặm trường. Tả Hữu Hiền vương, hai mươi mấy bộ tộc, thêm vào bộ tộc của Khương Nhung vương, chia ra gần ba chục khu đóng đô, thực khó cho Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh điều tra ra chỗ ở của Khương Nhung vương, huống hồ y có thể đi tuần du ở chỗ các bộ tộc khác bất cứ lúc nào.
H ọ lại không tiện tìm người hỏi dò. Vì khu trung tâm này bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành chiến trường, dân du mục đã tránh né ra xa. Đỗ Phương Ninh muốn bắt đại một tên lính Khương Nhung để hạch hỏi, nhưng Hàn Ngạc biết nếu làm vậy thì khó tránh khỏi tiết lộ phong thanh, chỉ còn nước giết người diệt khẩu, mà gã lại không muốn ẩu tả khai sát giới. Đỗ Phương Ninh cũng hiểu ý gã, nhắc một lần rồi thôi. Song “chỉ giết kẻ cầm đầu” nói thì dễ mà làm thì khó! Mỗi lần dò thám ban đêm, vì phải chọn lựa tra xét từng bộ tộc, Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh tốn thêm khá nhiều thời gian. Đã vậy ngựa của hai người lại hết sức bắt mắt --- Người Khương Nhung thích tuấn mã, vạn nhất chúng để ý thì không tránh khỏi phiền hà, nên càng bồi thêm một tầng âu lo cho họ.
“Xem ra Kh ương Nhung vương đại khái đã bình định xong tranh đấu nội loạn giữa Tả Hữu Hiền vương”. Hàn Ngạc sang ngày thứ hai phải thốt lên một câu cảm thán. Không sai, nhân mã đồn trú ở Thanh Thảo hồ tuy đông, lại cực kỳ yên bình. Đỗ Phương Ninh biết nỗi lo trong lòng gã, không nói thêm gì. Mấy ngày nay thần tình của Hàn Ngạc hết sức sầu muộn, Đỗ Phương Ninh cũng không có cách để an ủy, chỉ đành ban ngày theo ngồi thừ với gã giữa bãi cỏ mù sương, lẳng lặng không lên tiếng --- “Cư Duyên thành bắc liệp Thiên Kiêu”, nghe thì hào hùng lắm, nhưng trên thế gian này, tất cả những nghĩa cử kỳ diệu vĩ đại có biết bao nhiêu là phiền toái khốn cùng mà người ngoài chẳng làm sao thấu hiểu hết!
1 Nhạn bắc trỗi mình mau gãy cánh, đây là câu trong bài thơ "Tặng Lưu ti hộ Phần" của Lý Thương Ẩn. Lưu Phần học rộng tài cao, tính tình thẳng thắn, thù ghét kẻ ác, có chí lắng trong gạn đục. Lý Thương Ẩn rất tôn sùng ông. Câu này thi nhân đem so Lưu Phần với chim hồng đất bắc tung xoãi vạn dặm (họ Lưu là người Yên), vừa định thi triển chiến lược kế sách to tát thì bị gãy cánh ngay lập tức. Ý thơ ám chỉ cái thuở ứng thí chưa đỗ; thời Đường Văn tông, Lưu Phần từng ứng theo lời hiệu triệu bậc hiền lương dâng sớ can gián, công kích hoạn quan chuyên quyền phá hại quốc gia, nên tru diệt, nhất thời lừng danh kinh sư. Nhưng vì bị hoạn quan căm ghét, cả đời ông bị trù dập.
Đ êm hôm đó, Hàn Ngạc một mình thám sát doanh trại, Đỗ Phương Ninh muốn đi ra xa cầu may xem có nghe ngóng được tin tức gì từ đám dân du mục không. Hàn Ngạc đã hóa trang thành người Khương Nhung, có điều gã không quen cái trò dịch dung, cho nên vẫn không mấy giống. Gã cũng không dám cưỡi Ban Chuy, chọn đại một con trong bầy ngựa vậy. Hôm nay cái trại gã đi dò la đã là doanh trại thứ mười ba rồi, gã len lén đi vòng vào khu trung tâm rồi cột ngựa bên Thanh Thảo hồ.
--- Dù g ọi Thanh Thảo hồ, ở đây vốn đâu phải chỉ là một cái hồ, mà là một một dải đồng cỏ rậm rạp, tuy đã vào đông, vẫn có thể tưởng tượng được đến mùa xuân mùa hạ, đồng cỏ sẽ xanh rờn không bến bờ như một tấm gương khổng lồ vậy. Đây thực là vùng đất an lạc của thế gian. Hàn Ngạc với Đỗ Phương Ninh hàng ngày tĩnh tọa giữa cỏ cây cứ có cảm giác đây là địa phương đáng để dốc lòng hướng về, nhưng thiên đường nhân gian bình yên này lại đang ẩn tàng biết bao nhiêu là giết chóc.
Hàn Ng ạc cột xong ngựa, một mình thi triển khinh công bay nhanh đến chỗ doanh trại cách chừng hai dặm. Gã vòng qua trạm canh phòng, tiềm nhập vào trong, từ từ lục soát. Đang đêm khuya, thêm vào thân pháp của gã cực nhanh nhạy, chẳng làm kinh động đến ai. Doanh trại này hết sức lớn, lều trướng san sát, trải dài cả dặm có. Hàn Ngạc len tới giữa, lại thấy ở đó trống trải hơn nhiều, một cái trướng da dê lớn dựng sừng sững. Hàn Ngạc hít một hơi: đến rồi.
Ngoài tr ướng có binh sĩ Khương Nhung canh phòng. Hàn Ngạc điều hòa hô hấp, đoán định khoảng cách giữa trướng với chỗ mình đứng, lợi dụng lúc mấy tên lính canh không chú ý, vọt mình bay lướt thẳng vào bóng tối bên kia trướng. Gã mới hạ mình đứng vững thì nghe trong trướng truyền ra một tràng cười lớn. Gã nín thở, biết mình phải mau mắn hành động, thò ngón tay rạch một đường lên trướng. Gã mới ghé mắt nhìn, lại nghe trong trướng chợt có người dùng tiếng Khương Nhung la lên: “Có thích khách!”.
Hàn Ng ạc giật mình, tiếp đó gã phát giác một mũi tên bắn ra chỗ mình. Gã nghiêng mặt tránh, mũi tên đó xuyên qua tấm da dày bay sát ngang mặt gã một cách hiểm ác. Trong trướng có ai mà lại có thể phát hiện được mình vậy? Hàn Ngạc vọt mình lên, gã chưa xác định được kẻ trong trướng có phải là Khương Nhung vương hay không, cũng chẳng biết có nên xuất thủ hay không. Người bên ngoài trướng cũng đã phát giác, Hàn Ngạc không còn chỗ ẩn thân, một tay án kiếm nhún nhảy nhẹ nhàng lên trên cái trướng lớn. Gã dõi mắt ngó, thấy bốn bề bóng lều trướng trùng trùng điệp điệp, áp bức khôn tả. Gã rùng mình: hôm nay e phải bỏ mạng ở đây.
C ửa cái trướng lớn có người ùa ra, Hàn Ngạc còn chưa kịp nhìn rõ coi có bao nhiêu tên, lại thấy một kẻ cầm tù và thổi lên. Tiếng tù và vừa vang vọng, toàn doanh trại lập tức rúng động, chẳng mấy chốc có muốn chạy cũng không còn cách. Nhân mã ngoài trướng kinh hoảng, nhất thời tán loạn. Vào lúc này, trên không chợt rực ráng, xa xa cách đây chưa tới hai dặm bỗng vọt lên một viên pháo hoa lớn, bùng nổ hết sức chói lòa, trắng xanh vàng đỏ ngời ngời bung trải.
Pháo hoa thu hút h ết mọi ánh mắt trong trại, ai nấy cũng ngước lên trên. Hàn Ngạc lòng mừng rỡ, biết đây là thời cơ hết sức tốt. Thân người gã nhẹ nhàng phóng lên, nháy mắt đã vọt khỏi cái trướng lớn ở trung ương. Sau đó gã lộn mình liên tục, thừa khi chúng nhân còn nhốn nháo chạy ra xa mười mấy trượng. Gã biết chỉ cần rời khỏi vùng đất trung tâm thì cục thế hiểm nguy bữa nay coi như đã thoát được quá nửa. Quả nhiên tới lúc pháo hoa tàn tắt, người bên cái trướng lớn định thần, tiếng tù và lại vang vọng, lại có thêm người ùa ra. Hàn Ngạc chăm chú quan sát, thấy nơi cửa trướng có một hán tử Khương Nhung thân thể cực kỳ hùng tráng đang đứng. Gã chằm chặp nhìn y, ghi nhớ vóc dáng rồi không dám chần chừ thêm nữa, len lén trốn ra ngoài.
May là gã đang mặc y phục người Khương Nhung. Binh sĩ Khương Nhung vốn không như quân Hán, chẳng có phù hiệu đặc biệt gì cả. Trà trộn trong đám đông, người ta không ngắm nghía kỹ thì cũng chẳng thể nào nhận ra. Lại là ban đêm, Hàn Ngạc suốt dọc đường giở kỹ xảo thân pháp, tốn thời gian một tuần trà mới thoát khỏi doanh trại đó. Gã ngước đầu lên, thấy bên trên chỗ cỏ cao nơi mình cột ngựa cũng đang có một viên pháo hoa nổ rưới.
Hàn Ng ạc cảm thấy lưng đẫm mồ hôi lạnh --- Hồi nãy khi mình chống kiếm giữa doanh trại, nếu không có viên pháo hoa kia, e rằng cái mạng của mình cuối cùng cũng tan tành như nó, nháy mắt tan biến không còn tồn tại nữa! Gã nhún người bay lướt trên ngọn cỏ, bụng đang hiếu kỳ không biết ai mà khéo léo phóng pháo hoa cứu mình, phải đi tới xem xem.
Pháo hoa v ốn là thứ đồ chơi chỉ có dân Hán mới có, sao lại xuất hiện ngay giữa vùng đất nơi người Khương Nhung cư trú được? Mấy viên hồi nãy bắn liên miên tới giờ cũng đã tắt, trên thảm cỏ chỉ còn một bóng đêm tối hù. Hàn Ngạc chạy rất nhanh, chớp mắt đã xộc đến chỗ hồi nãy pháo hoa vọt lên. Gã sợ làm kinh động người bắn pháo, thân hình chậm dần, rón rén đến gần. Sau đó gã nghe tiếng một hài tử khóc.
Ti ếng khóc nấc nghẹn, tựa như chuyện thương tâm nhất trên đời đang quần thảo trong đầu người khóc. Mà chuyện thương tâm nhất trên đời đại khái đâu có gì khác ngoài việc một đứa bé bị người ta đoạt đi đồ chơi nó yêu thích nhất. Hàn Ngạc tim co thắt, như vẩn vơ nhớ đến thuở ấu thơ của mình. Gã lại mò tới, thấy tuốt trong vùng cỏ khô có một đứa bé cao cỡ bốn thước đang đứng, nó đang dùng ống tay áo chùi mặt khóc thổn thức.
B ờ vai nho nhỏ của nó rung rung, khiến cho Hàn Ngạc muốn chạy tới vỗ về an ủi. Nhưng quần áo đứa bé đó mặc lại không phải là quần áo của con nít Khương Nhung, nhìn cho kỹ sao lại giống đồ Hán. Ngay cả là đồ Hán thì cũng quái dị, tươi tắn đến dị thường --- Tuy nói trẻ con người Hán cũng có lắm đứa mặc đồ màu mè, nhưng đồ của đứa bé này lại hí phục không ra hí phục, mà đồ con nít cũng chẳng ra đồ con nít, cổ quái khôn tả.
M ột đứa bé màu mè loang lổ như vậy, đêm hôm khuya khoắt khóc than tuốt sâu trong Thanh Thảo hồ, thực có một hơi hướm quỷ dị. Hàn Ngạc cảm thấy đầu óc phát lãnh: đứa bé này quá gầy đi! Gã nhìn kỹ hai lượt, ngó lên ngó xuống, bất giác nổi niềm thương xót --- Con cái nhà ai đây? Mẫu thân của nó là người Hán phải không? Lẽ nào giống như Thái Văn Cơ2 bỏ lại con mà đi, để cho thằng bé một mình lưu lạc trong bộ lạc của người Khương Nhung? Hàn Ngạc nhất thời nghi hoặc vô hạn.
Đứ a bé khóc một hồi thì bỗng im bặt. Thần tình của nó biến đổi cũng rất mau, tuy nói xa xa không nhận rõ được mặt mày nó, gã lại cũng cảm thấy tiếng khóc của nó vụt dừng sựng lại quá thần tốc. Nó giơ hai ống tay áo chùi chùi mắt, lẩm nhẩm: “Ta không khóc, ta sao lại khóc? Trần Quả Tử ta đó giờ đâu cần phải khóc, ta phải cười!”. Nó nói tiếng Hán, sau đó nó vỗ tay hát:
2 Thái Văn Cơ tên là Diễm, tự Chiêu Cơ, người thời Đông Hán, con gái của đại văn học gia Thái Ung, là một tài nữ và văn học gia nổi tiếng. Vì kỵ húy Tư Mã Chiêu nên về sau người ta đổi nàng thành Văn Cơ. Ban đầu nàng được gả cho Vệ Trọng Đạo ở Hà Đông, nhưng chưa được một năm thì chồng chết. Đến cuối thời Đông Hán, xã hội loạn lạc, Thái Văn Cơ bị bắt tới Nam Hung Nô làm vợ Tả Hiền vương, sinh hai đứa con: A Địch Quải và A Mi Quải. Nàng còn học được lối thổi "Hồ già" (kèn lá) và những ngôn ngữ dị tộc. Mười hai năm sau, Tào Tháo thống nhất phương Bắc, nhớ đến công ơn dạy dỗ của ân sư Thái Ung cho nên dùng vàng ròng chuộc Thái Văn Cơ, nàng lại phải lìa bỏ con cái. Về lại Hán, triều đình gả nàng cho Giáo úy Đổng Tự, lúc đó nàng cũng đã ba mươi lăm tuổi. Những bài "Hồ già thập bát phách" và "Bi phẫn thi" của nàng nổi tiếng động lòng người; nàng còn dùng trí nhớ siêu phàm, qua sự yêu cầu của Tào Tháo, ghi chép lại khoảng 400 quyển sách trong thư viện mấy ngàn quyển của cha nàng đã thất thoát trong loạn lạc.
Núi Đậu Tử, đánh trống sành. Non Dương Bình, sương sóng sánh. Theo khói trắng, cưới Long nữ. Dệt thành lụa, hai trượng rưỡi. Một nửa về La Giang, một nửa qua Huyền Vũ3…
Đ ó là một bài dân ca đầy ý vị trẻ thơ. Không biết sao đứa bé kia tuy vừa vỗ tay vừa vui hát, lòng Hàn Ngạc lại chỉ có một cảm giác bi thương: thằng nhỏ rõ ràng đang tự mê hoặc cho bản thân được vui bụng. Ngoài hai dặm là doanh trại san sát của người Khương Nhung, cái tuổi thơ tự tìm hoan lạc trong sầu muộn đó, cái non yếu trong sát khí đó, thực khiến cho Hàn Ngạc cảm thấy thê thảm.
Hàn Ng ạc lẳng lặng nín thở. Thằng bé chợt rút trong mình ra một viên pháo hoa, tiếc nuối thốt: “Viên cuối rồi, đốt xong là hết luôn”. Sau đó nó đốt hỏa tập, tay run run như bất nhẫn đốt ngòi pháo. Hỏa quang rọi sáng mặt nó, cái đầu to to, cái cổ thon thon, gương mặt con nít người Hán rất thanh tú dễ coi, da trắng thực đáng yêu. Nhưng khuôn mặt quá nhợt nhạt, non nớt đến vô cớ, giống như… lưng Hàn Ngạc lành lạnh… giống như một con quỷ con nửa đêm hiện về than khóc…
Bàn tay run l ẩy bẩy của thằng bé cuối cùng đã châm vào ngòi, ngòi có nhét bột tiêu thạch, cháy xèo xèo lan lên. Hỏa tập đã tắt, chỉ còn chút ánh sáng le lói của ngòi pháo. Nhờ ánh sáng đó, Hàn Ngạc giật mình phát hiện trên trán đứa bé tựa hồ trội lên mấy nếp nhăn, đường nét khắc khổ già nua như một lão nhân. Hàn Ngạc cơ hồ muốn dụi mắt, có cảm giác mắt mình hoa lên. Rồi pháo hoa vọt lên, vạch một đường thẳng vào bầu trời, khói xẹt thành một cái đuôi màu trắng xám. Hàn Ngạc quan sát kỹ đứa bé, lại thấy mặt nó trơn tru nhẵn nhụi, đâu có nếp nhăn gì, bụng mới thở phào một hơi.
Góc m ắt gã loé lên ánh vàng xanh đỏ tím lam bùng nổ giữa không trung… Đủ thứ sắc thái nhất thời rừng rực bầu trời, một nụ cười rạng rỡ toé ra trên mặt thằng bé, sáng lạn làm sao. Hàn Ngạc cũng vui lòng, cùng ngẩng lên thưởng thức pháo hoa với nó, nhưng những tia màu đã tản thành những điểm lấm tấm rơi vãi. Nghĩ tới gương mặt nó sắp tàn tạ nụ cười, Hàn Ngạc không khỏi quan tâm ngó lại nó --- Gã lại cho rằng mình nhìn lầm -- Theo sự rơi hẫng của pháo hoa, vẻ trơn mịn trên mặt thằng bé tựa hồ cũng sinh sôi những nếp nhăn li ti --- Không thể nào là thực! Nhưng… lại chừng như là thực --- Hàn Ngạc dụi dụi mắt, ánh sáng pháo hoa tắt ngóm rất nhanh, chỉ một nháy mắt mà cảnh tượng trước mặt gã có vẻ như kéo dài mấy chục năm ròng: nụ cười của thằng nhỏ từ từ héo úa, già lão đi, như viên pháo hoa tàn hơi, hoàn thành một nửa đời người từ bé thơ non dại đến tuổi trung niên quá ba mươi.
3 Đây là bài dân ca tả thác nước Miên Châu, có tên là "Miên Châu ba ca":Đậu Tử sơn, đả ngõa cổ. Dương Bình sơn, tát bạch vũ. Hạ bạch vũ, thú Long nữ. Chức đắc quyên, nhị trượng ngũ. Nhất bán chúc La Giang, nhất bán chúc Huyền Vũ. "Miên Châu" là huyện Miên Dương, Tứ Xuyên ngày nay. "Ba ca" là dân ca đất Thục. "Ba" nguyên là một tên gọi khu vực mà dân tộc cổ đại vùng tây nam Trung Quốc cư trú, ở đây là chỉ đất Thục. "Đậu Tử sơn" nằm ở huyện Miên Dương. "Đả ngõa cổ" ý nói thanh âm thác nước đổ xuống khe giống như đánh trống sành. "Dương Bình sơn" ở Tứ Xuyên, không rõ địa điểm cụ thể. "Triệt bạch vũ" ý chỉ lúc thác đổ va vào vách núi, nước bắn tung toé như sương mưa tản mạn. "Long nữ" là con gái của Long vương trong truyền thuyết thần thoại. Hai câu này nói thác nước cứ như một dải lụa trắng dài hai trượng rưỡi do Long nữ dệt ra. "La Giang" và "Huyền Vũ" đều là địa danh đất Thục. Từ tiếng nước vang vọng như đánh trống sành, liên tưởng đến âm nhạc tùng xèng lúc cưới vợ; từ sương khói tản mạn, liên tưởng đến người mình đến cưới là Long nữ; từ việc cưới Long nữ, liên tưởng đến lụa trắng mà Long nữ dệt làm trang phục đi lấy chồng; cuối cùng tả vị trí địa lý của thác nước đó: một nửa chảy đến La Giang, một nửa chảy qua Huyền Vũ.
Mi ệng mũi tai mắt vẫn y nguyên, nhưng hơi hướm trẻ nít lại đã rụng rơi, thần sắc ngang trái, tàn bạo đủ khiến cho người ta nôn nao từ từ dâng hiện trên mặt nó. Nếp nhăn trên trán cũng càng lúc càng hằn sâu, da thịt càng lúc càng lỏng lẻo, lỗ chân lông hở hang. Hàn Ngạc ngẩn người, kinh hãi ngó trân trân đứa bé không còn là đứa bé nữa. Thân thể vẫn như một hài tử, cái đầu to to, cái cổ thon thon, vẫn còn y nguyên, chỉ là tư vị đã đổi. Đây không phải là một hài tử… Đây là một… người lùn!
Gió b ắc chợt vùn vụt thổi, mạnh bạo như Hàn Ngạc cũng phải cảm thấy thân mình từ trong ra ngoài đều phát lãnh. Đến khi gã sực tỉnh khỏi cơn kinh ngạc, hài tử kia đã cưỡi ngựa phóng đi xa. Đêm nay sao yêu dị quá! Dõi theo, vóc dáng của người lùn kia vẫn yếu đuối như một đứa con nít, Hàn Ngạc có cảm giác toàn thế giới như thác loạn hết. Có lẽ việc ban đầu gã nhận lầm hắn là một đứa bé chỉ là một ảo giác. Nhưng ảo giác đó lại quái dị đến thế, khiến cho Hàn Ngạc xưa nay quen tiêu trừ hết mọi tâm lý yêu ma quỷ quái cũng phải chập chờn khó chịu.
o0o “Có sứ giả của triều đình đến?”. Hàn Ngạc hỏi một cách kinh ngạc. “Phải, nghe nói nội trong vòng hai ba ngày họ sẽ đến”. Hàn Ngạc bàng hoàng nhìn
Ph ương Ninh. Nàng chỉ lẳng lặng thuật lại, mặt mày tỉnh bơ: “Sứ giả tên gọi Lý Trường Thân, hắn là quan Phó khanh của Tông Chính Tự. Nghe đồn hồi đầu tháng sáu, lúc Khương Nhung bắt đầu có nội loạn, Khương Nhung vương Ô Tất Hãn đã phái người cầu hòa với triều đình. Bọn ta ở mãi tuốt Tái ngoại, tin tức không thông suốt với triều đình, chắc triều đình cũng chẳng coi bọn ta ra gì. Người trong triều bình an hưởng thụ đã lâu, sợ đánh đấm lắm, vừa nghe nghị hòa thì còn gì mà không ưng thuận? Khương Nhung vương là một người tinh minh, chỉ cần dâng thư tỏ ra khách khí đôi chút, giữ mặt cho triều đình thì chuyện gì mà không qua cái vèo! Hì hì, văn khéo ăn võ, văn khéo lấn võ, triều đình bọn ta luôn luôn đeo bộ mặt nghỉ việc võ mà sửa việc văn, làm ra vẻ thái bình thịnh thế. Bọn triều thần chắc ai ai cũng một mực tin một bức thư có thể thắng hàng vạn quân binh”.
M ặt Hàn Ngạc bắt đầu tái xanh: “Lẽ nào không ai hoài nghi đây chỉ là kế hoãn binh của Khương Nhung vương? Một khi y chỉnh lý nội vụ xong, đến ngày quyển thổ trùng lai sợ rằng còn lắm họa hơn trước nữa”. Đỗ Phương Ninh thở dài: “Bá quan nhà ta nào có lo xa đến thế. Ngạc, chàng còn chưa thấu hiểu sao? Sứ giả do triều đình phái đến lần này là người của Tông Chính Tự, mà Tông Chính Tự xưa nay chuyên lo nội vụ của hoàng gia tôn thất, tại sao lại phái độc một mình người của chúng đến? Điều đó cho thấy gì? Đó là chứng minh triều đình lại tính đến chuyện gả cưới hòa thân”.
“C ạch” một tiếng, cây roi ngựa trong tay Hàn Ngạc bị gã bẽ gãy gọn. Gã cười lạnh hai tiếng: “Hán gia thanh sử thượng, kế chuyết thị hòa thân… A Ninh, ta nhớ hình như có hai câu như vậy, tiếp theo là gì?”. Đỗ Phương Ninh ngâm nga: “Xã tắc y minh chúa, an nguy thác phụ nhân!”4.
4 Bài thơ "Vịnh sử" của Nhung Dục: Hán gia thanh sử thượng, kế chuyết thị hòa thân. Xã tắc y minh chúa, an nguy thác phụ nhân. Khởi năng tương ngọc mạo, tiện nghĩ tĩnh hồ trần.
Hàn Ng ạc vỗ đùi: “Hay cho câu an nguy phó thác cho đàn bà! Chúng thực đã quen đem đại sự thiên hạ một nước một nhà buộc lên lưng quần của nữ tử”. Đỗ Phương Ninh cười thành tiếng, Hàn Ngạc vẫn không lý gì tới, tiếp tục giận dữ thốt: “Bọn ta tắm máu sa trường, bảo gia vệ quốc, nhưng làm sao bằng đem con gái quyền quý đi dâng cho người ta. Phương Ninh, nàng nói coi có phải vậy không?”.
Đỗ Phương Ninh lại cười khẽ: “Chàng mới vừa nói quốc gia đại sự không nên buộc lên lưng quần của nữ tử, còn hỏi tôi làm gì?”. Hàn Ngạc đã bình tĩnh lại, gãi gãi đầu bẽn lẽn cười xòa. Đỗ Phương Ninh thấy bộ dạng ngớ ngẩn của gã cũng không khỏi cười theo: “Ngạc, chàng có tính toán gì?”.
Hàn Ng ạc nheo mắt, rèm mi thoáng hiện vẻ hung hãn: “Có gì để tính chứ, ta chỉ muốn đi gặp Lý Trường Thân, có lẽ đây là một cơ hội". Đỗ Phương Ninh hội ý cười thốt: “Nếu Lý Trường Thân biết tâm tư của chàng, e bây giờ kẻ hắn không muốn gặp nhất là chàng đó”.
Đị a hạ thiên niên cốt, thùy vi phụ tá thần. (Tạm dịch: Sử xanh nhà Hán chép, kế vụng làm thông gia. Xã tắc nương minh chúa, an nguy cậy gả dâu. Sao đòi đem má ngọc, hòng tránh lấm bùn HồChục kiếp xương mai một, còn ai trung đứng chầu) Bài thơ này châm chích chính trị, mượn cổ giễu kim. Sau loạn An Lộc Sơn, triều chính hỗn loạn, đất nước suy yếu, các phiên trấn cắt đất xưng hùng, biên cương khói lửa, mà triều đình một mực cầu hòa, khiến cho nhân dân ở biên thùy gánh họa ly tán. Vì vậy thi nhân cho chính sách hòa thân chấp nhận chịu khuất hèn của triều đình là một mối sỉ nhục cho quốc gia, xót xa sáng tác bài thơ. Hai chữ "Hán gia" nào có khác gì mắng thẳng triều Đường, vì vậy hai cặp câu đầu thẳng thắn chê trách gả bán kết thân kết thích với ngoại bang là chính sách vụng về nhất trong lịch sử nhà Đường, trên thực tế là đem an nguy của quốc gia phó thác cho phụ nữ. Cặp câu thứ ba khéo léo đi sâu hơn, vạch trần thực chất của hòa thân là hòng đem nữ sắc xin xỏ sự an toàn cho đất nước. Nhưng là ai thỏa thuận chấp hành chính sách đó? Hạng người đó lẽ nào còn có thể coi là trung thần phò tá Hoàng đế? Cặp câu cuối chém đinh chặt sắt đặt câu hỏi nghiêm khắc trách cứ để kết thúc. Bài thơ tuy trách triều đình, nhưng vẫn còn giữ mặt mũi cho Hoàng đế, ngụ ý Hoàng đế sẽ có quyết định anh minh và trọng dụng hiền thần, bài trừ kẻ dâng mưu lược ương dở.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 66 Cánh kinh kiếm khách hậu quy hồn1
“Lý đại nhân, hai huynh đệ bọn tôi nghe đại nhân đi sứ Tái ngoại nên đặc biệt đến ra mắt”. Lý Trường Thân ngờ vực ngó hai người. Họ mặc đồ Khương Nhung, đêm hôm khuya khoắt đột nhiên xuất hiện trong trướng của hắn, làm sao mà hắn không kinh nghi cho được? Một người thân mình cao nghệu, mặt mày thanh tú, thần khí hùng dũng; người kia thấp hơn, răng trắng mắt sáng, cũng thực đẹp trai. Họ tuy ăn mặc theo kiểu Khương Nhung, nhưng quả có tướng mạo của người Hán. Người thấp hơn bước lên thấp giọng bẩm báo: “Huynh đệ tại hạ đều là nhân sĩ giang hồ, năm xưa có làm mấy chuyện kết oán ở Quan Trung, vì vậy mới phải lang thang ra Tái ngoại. Dù sao cũng là nam nhi, nghe nói triều đình có sự vụ cho nên xin được góp sức. Chúng tôi có nghe ngóng được rằng bọn Khương Nhung cũng có kẻ quyền cao chức trọng chẳng chịu nghị hòa với triều đình, muốn gây điều bất lợi cho đại nhân, do đó lập tức đến để bảo vệ ngài”. Y ngưng giọng một chút rồi tiếp: “Tại hạ Ninh Phương, vị này là đại ca của tôi, Ninh Hàn”. Hàn Ngạc cười khổ: “lần này lại bị Phương Ninh đổi luôn tên họ. Lý Trường Thân lại nghi hoặc ngó sang Hàn Ngạc. Gã không rành miệng lưỡi, cho nên phen này cứ để cho Đỗ Phương Ninh toan tính. Đỗ Phương Ninh háy gã, miệng thốt: “Đại ca, bên ngoài xem chừng có động tĩnh”. Hàn Ngạc gật đầu, bay vọt ra liền, chớp mắt đã ra khỏi cửa trướng. Gã đảo một vòng bên ngoài, có tiếng vỗ cánh phành phạch truyền vọng, tiếp đó là một tiếng ré khẽ, đến khi Hàn Ngạc trở về, tay có cầm một con quạ. Gã xuất thủ thần tốc, bay lượn như làn chớp, khiến cho Lý Trường Thân phải trợn mắt há mồm. Lần này hắn đi sứ Tái ngoại vốn cứ canh cánh, tim luôn đập thình thịch, hoàn toàn không nắm chắc được an nguy của bản thân. Nay tự nhiên từ trên trời rơi xuống hai cao thủ hộ vệ, rõ ràng không chút ác ý với mình, sao lại không thầm niệm Phật tạ ơn cho được? Huống hồ hai người trước mặt một thì hình dạng anh hào, trông thực khả kính; một thì ăn nói rành mạch, có vẻ rất thân thiện, mới gặp không khỏi nảy sinh lòng hảo cảm. Đỗ Phương Ninh nói: “Lý đại nhân, từ hôm nay trở đi, hai người bọn tôi giả làm quân hộ vệ của đại nhân được chứ? Cốt sao tránh để bọn thuộc hạ nhỏ mọn của Khương Nhung vương làm hại ngài”. Lý Trường Thân còn trầm ngâm chưa lên tiếng, nàng lại mở miệng cười nói: “Chắc đại nhân không an tâm về tài nghệ của huynh đệ tôi?”. Nàng không đợi hắn đáp trả, chợt lấn mình tới trước Hàn Ngạc, một chưởng đè lên vai gã. Hàn Ngạc rùn vai, tả thủ của Đỗ Phương Ninh lại lòi ra một mũi chủy thủ, đâm lên ngực gã. Hàn Ngạc trở cổ tay nắm bắt. Hai người muốn biểu diễn cho Lý Trường Thân thấy rõ, từng chiêu từng thức cố ý đánh chậm rõ ràng rành mạch. Lý Trường Thân lại vẫn cảm thấy bọn họ xuất thủ như chớp. Nhất thời trong trướng ưng bay thỏ nhảy, hai người thuận tay múa máy vài chiêu. Họ xưa nay rất ít khi đối mặt đánh nhau, ban đầu chỉ là vì cho Lý Trường Thân xem thủ pháp của mình, giao thủ được mấy chiêu thì lại nổi hứng, quyền qua chưởng lại, đấu đá kịch liệt đẹp mắt. Lý Trường Thân hồi đầu còn có thể nhìn thấy thân pháp, về sau hoa mắt chỉ biết ngó quyền ảnh chủy quang mịt mù. Hắn kinh hãi đến há hốc miệng --- Cao thủ Đại Nội mà hắn từng gặp bất quá cũng chỉ được dường này là cùng. Hắn sợ hai người đả thương lẫn nhau, vội vòng tay nói: “Nhị vị tráng sĩ, xin hãy mau mau dừng tay, hạ quan đa tạ. Nể lời thỉnh cầu của nhị vị, xin nhị vị chịu ủy khuất làm hộ vệ cho Lý mỗ vài ngày vậy”. Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh nhìn nhau cười, hai người chắp tay dừng trận. Họ biết muốn đến gần Khương Nhung vương hết sức khó. Lý Trường Thân đi sứ, chính đã cho họ một cơ hội khó tìm ra. Mấy ngày nay họ cũng đã từng mấy lượt ló đầu chặn đường đội ngũ của Lý Trường Thân, nào ngờ cứ lỡ dịp mãi. Đến khi hắn đã đi đến bên Thanh Thảo hồ, họ mới tìm ra. Thấy hắn chịu chấp nhận lời thỉnh cầu của mình, mục quang của họ không khỏi có phần hân hoan phấn chấn. o0o Tuy Lý Trường Thân đã đến Thanh Thảo hồ, lại vẫn chưa được gặp mặt Khương Nhung vương mấy ngày liền, chỉ có sứ giả thủ hạ của Khương Nhung vương ra mặt tiếp đãi, nói rằng Khương Nhung vương đi săn bắn chưa về, phải đợi thêm vài ngày mới có thể diện kiến. Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh đều ăn mặc y phục thị vệ, hành động tiện lợi hơn trước nhiều. Đỗ Phương Ninh đã làm quen được với đám thuộc hạ của Lý Trường Thân, nghe ngóng được lắm tin tức. Thì ra triều đình có ý hòa thân với Khương Nhung vương, người bị tuyển lại là một cô gái dòng họ Vi. Đỗ Phương Ninh nghe vậy có vẻ thất thần nghĩ ngợi, về tới cũng không kể cho Hàn Ngạc nghe. Hàn Ngạc thì mải lo nắm bắt hình thế suốt một dải Thanh Thảo hồ. Tuy thân phận giúp ích được nhiều, nhưng gã vẫn không tiện dò la nội tình của bọn Khương Nhung, chỉ lọ mọ học hỏi địa hình. Một hôm, trận tuyết đầu mùa lất phất báo hiệu đông đến. Tuyết không rơi nhiều, theo lời của người hướng đạo trong đội ngũ, tuyết năm nay đến trễ cũng cỡ một tháng. Thuộc hạ của Lý Trường Thân đa số là người Quan Trung, tuyết rơi tháng chín lại là quá sớm đối với bọn họ, ai ai cũng than lạnh. Hàn Ngạc với Đỗ Phương Ninh hứng chí, cưỡi ngựa ra ngoài dạo tuyết. Hoạt động một hồi giữa trời tuyết, khí sắc của hai người cũng thư giãn hẳn, Phương Ninh da trắng ửng hồng, cực kỳ kiều diễm. Một con chương chạy vù qua, nàng cao hứng vọt mình đuổi theo. Hàn Ngạc cũng rượt sát đằng sau. Đỗ Phương Ninh biết Hàn Ngạc không muốn mình sát sinh, cho nên không dùng đao tên. Hai người dốc sức rượt đuổi, dọc đường nàng còn quanh quẹo cản lối Hàn Ngạc, không cho gã vượt qua mặt. Họ hỉ hỉ hả hả, chơi đùa vui thú, mãi cho đến khi con chương hoảng sợ cùng đường, bị Hàn Ngạc chặn đứng cho nàng tay không bắt lấy, ôm nó vào lòng vuốt ve một hồi rồi thả cho đi. Nàng vì chạy suốt một hơi cho nên mặt càng đỏ hồng, thấy Hàn Ngạc hé cười ngó mình, không khỏi háy gã: “Nhìn cái gì?”. Hàn Ngạc giơ tay vén làn tóc xõa bên ngoài mũ của nàng, cười nói: “Khó có dịp thấy nàng như một đứa bé”. Phương Ninh lại thấm mệt ôm gối ngồi trên tuyết, mỉm cười: “Chàng thích thấy tôi như vầy? Ngạc, thực ra cái chàng muốn chẳng phải là vợ, cũng không phải là tình nhân, mà chỉ là một nữ nhân, có phải không? Chàng thích một người không có thân phận, giống như chàng vậy. Chàng không thích người có thân phận, nhưng khơi khơi lại đụng phải một nữ tử có lắm thân phận trên trần đời này, chàng có hối hận không?”. Hàn Ngạc kinh ngạc nhìn nàng, cảm thấy lời nàng nói mình chưa từng nghĩ tới, bất quá nó có vẻ rất có lý. Gã trầm mặc một hồi: không sai, có lẽ chỉ có ở vùng Tái ngoại hoang lương này, sau khi Đỗ Phương Ninh thực sự vứt bỏ được tất cả mọi thứ thân phận -- thiếu phụ khuê các, hiệp nữ giang hồ, quý tộc trong triều, con gái Đỗ gia… thì mình mới có thể thực sự chung đụng chẳng trói buộc chẳng trở ngại với nàng! Thốt lên lời đó, lòng hai người nhất thời cũng tĩnh tại, bốn bề đều là tuyết trắng mênh mang, bát ngát làm sao, tĩnh lặng làm sao. Trời đất này tuy cô độc, lại rất phù hợp với tính tình của Hàn Ngạc. Nhưng gã có quyền gì bắt một cô gái như Phương Ninh phải theo mình lần khần ở cái chốn tịch mịch này đến già? Biết bao nhiêu chuyện không thể trầm tư mặc tưởng. Một khi nghĩ ngợi sâu xa, đằng sau những khoái lạc hoan du thì ra cũng là thê lương đến bất lực. Hai người tâm lý đều giá buốt, lạnh đến thấu tim, nhưng ở nơi tận cùng hoang lương lạnh lẽo băng giá này, khi cảm thấy mọi thứ tựa hồ đều đã bị đâm thủng, bị phá vỡ, không còn chỗ ỷ dựa, không còn chịu đựng được nữa, họ lại cảm thấy chút ấm dịu của tình nồng và nguyện lực giữa đôi mình tươi đẹp làm sao. Họn vốn ngồi tách ra, lúc này Hàn Ngạc lại cúi đầu thò tay siết chặt tay nàng --- “Chấp tử chi thủ, dữ tử giai lão”2 có lẽ là câu thơ bi thương nhất từ khi có chữ viết, hai người họ đều có tâm ý dắt tay nhau đến già, vấn đề là cùng già ở bối cảnh ra sao? Lạc Dương xa vời như là một đóa hồng đỏ trong mộng. Tạp nhạp ô trọc, tạp nhạp khí vị khói nến, tạp nhạp tất cả mọi dục vọng trên đời cùng tất cả mọi phân tranh, vấp ngã và khoái lạc bắt nguồn từ dục vọng, đó là một thế giới “hữu”. Đỗ Phương Ninh khinh ghét nó thấu tâm can, lại cũng yêu quý nó vô vàn. Cái nàng muốn là có một người trợ giúp nàng, nghe lời nàng, ở cùng với nàng đến già trong thế giới đó. Còn Hàn Ngạc? Gã không thích cái thế giới “hữu” đó, nhưng lẽ nào cái gã muốn chỉ là một thế giới “vô”? Một thế giới trống trống không không, tự do đến mức mình thậm chí phải sợ không có điểm tựa? Cái gã muốn là có người đứng cùng mình bên ngoài dòng chảy cuồn cuộn đục vẩn, tự lập bên bờ, tự xây đắp niềm riêng, ước muốn riêng. Chọn lựa cuộc đời khác biệt đến thế, người và ta làm sao ở cùng một nơi, làm sao dung hòa những sinh tử bi hoan của nhau? --- “Hữu” là mặt trái của “vô”, hay “vô” là toàn bộ của “hữu”? Đối diện ba vấn đề không gian, thời gian cùng sinh mệnh, vốn mỗi người một khác. Người có vui vẻ thương yêu nhau đến đâu đi chăng nữa, thì ra cũng là cô độc như vậy mà thôi. o0o “Thùng thùng thùng thùng thùng thùng”, một tràng tiếng trống trận vang lên, vọng hưởng giữa đồng dã bao la, từng tiếng từng tiếng hùng tráng, kích thích nhiệt huyết, lại bị sự mênh mông của cánh đồng áp bức pha loãng thành một nỗi đơn bạc khôn tả. Tay trống tựa như không phục trời cao đất rộng, cảm thấy đất trời bát ngát có ý muốn tiêu trừ tiếng trống của họ, cho nên tiếng trước vừa mới tản mác, nhiệt lực thấm vào tuyết đang nguội lạnh đi, bọn họ không đợi nó chết hẳn mà bồi theo thêm một tràng, thúc giục vùn vụt, dốc sức kéo toạc ra một thế giới “hữu thanh” náo nhiệt sục sôi giữa đất trời “vô thanh” này. Thế giới đó là vật bị đóng kín, trải dần ra xa vẫn là khoáng dã im lìm, nhưng nội trong vòng tiếng vang có thể lan đến lại đã chống dựng ra một cõi người. Địa phương “hữu thanh” là có người, địa phương có người là có nhiệt khí. Tiếng trống thôi thúc nhiệt khí, nhiệt khí lây nhiễm sang tiếng trống, ngựa hí chó sủa, chim bay thú chạy, tuyết đọng trời buốt, cây khô cỏ héo --- Đó là một trường săn. Người trong trường săn bị âm thanh và khí vị giục giã đến máu huyết bừng bừng, phải gia nhập vòng vây săn tìm buông tuồng vui thú một trận giữa mưa tuyết mênh mang này mới được. --- Hôm nay đã là sáng sớm ngày thứ ba sau khi tuyết bắt đầu rơi. Mới rạng đông, thuộc hạ của Khương Nhung vương đã đến trước trướng của Lý Trường Thân, nói y đã về đến. Gặp trận tuyết đầu mùa, Khương Nhung vương muốn mở một cuộc săn bắn hoành tráng quy mô nhất trong vòng mấy chục năm nay, cho nên thủ lãnh của các bộ lạc cùng Tả, Hữu Hiền vương đều tham gia. Y còn truyền lời muốn để cho sứ giả của Thiên tử nhà Hán được dự xem. Thuộc hạ của y lúc nói chuyện sắc mặt lộ vẻ cổ quái, khiến cho Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh cũng có hơi ngờ vực. Lý Trường Thân cũng ngẩn ngơ, hắn là quan văn, xưa nay đâu mấy hiểu biết chuyện săn bắn, tươi cười hỏi: “Không biết là săn gì vậy? Trời lạnh như vầy, còn có gấu hay sói sao?”. Tên kia cười cười: “Ngài tham dự thì biết thôi”. Nụ cười kỳ dị, tựa hồ có ẩn giấu gì đó. Lý Trường Thân chỉ còn nước phân phó cho người chuẩn bị ngựa. Đỗ Phương Ninh cảnh giác, thấp giọng nói với Hàn Ngạc: “Trường săn này e có sự việc cổ quái”. Hàn Ngạc nhíu nhíu mày, cũng không hiểu nổi, khẽ thốt: “Có lẽ là Khương Nhung vương muốn thừa cơ thị uy?”. Khi đoàn người bọn họ đến trường săn, vòng vây bên kia tựa hồ đã mở màn. Bên ngoài trường tụ tập không ít người, lại đều là kẻ bàng quan. Khương Nhung vương không có mặt, có vẻ không nhịn được nên cũng đã tham dự cuộc săn. Nơi đó là một thảo nguyên bằng phẳng rộng rãi, xa xa còn có một cánh rừng lớn. Hàn Ngạc dõi trông, thấy tuốt đằng xa có mấy đội nhân mã phi phóng dọc ngang. Bốn bề tiếng trống rầm rập, hù dọa dã thú trong đồng cỏ rừng cây. Những đội nhân mã đó cách xa quá, chỉ thấy y phục có hơi khác biệt, nhóm hổ đoàn báo, chừng như là vật thờ phụng của bộ lạc. Hàn Ngạc ngắm kỹ, xem ra người ngựa của hai mươi mấy bộ tộc và Tả Hữu Hiền vương đều có mặt, có điều không rõ ai là ai. Sứ giả của Khương Nhung vương phi tới báo tin rồi quay về cười nói: “Đại Hãn của bọn ta đang săn bắn hăng say quá, phải chờ săn xong rồi mới gặp mặt ngài nhé. Ông ta còn nói…”. Hắn ngó lên ngó xuống Lý Trường Thân: “Nếu sứ giả của Thiên tử cũng có hứng tham dự, chi bằng vào vòng cùng đi săn”. Lý Trường Thân thẹn thò, ghé mắt nhìn thuộc hạ, thấy ai ai mặt mày cũng có vẻ sợ hãi. Nụ cười trên mặt tên sứ giả Khương Nhung càng tươi hơn nữa, còn toát tỏa vẻ ngạo nghễ, tựa như đang chế giễu sự yếu đuối của người Hán. Hàn Ngạc nhấc dây cương, lớn giọng: “Phương đệ, bọn ta tham dự chơi cho vui chứ?”. Đỗ Phương Ninh nhìn sang phía gã, biết gã đâu phải là nhân vật thích làm ra vẻ, nàng hiểu tính toán của gã. Hàn Ngạc cười cười nói với Lý Trường Thân: “Lý đại nhân, hai huynh đệ tiểu nhân rành săn bắn từ bé, lần này không tránh khỏi ngứa tay ngứa chân, xin để bọn tôi tham dự đem chút thịt rừng về cho đại nhân thưởng thức”. Lý Trường Thân vừa định mở miệng chối từ, lại thấy ánh mắt của Hàn Ngạc tràn ngập ý kiên quyết. Hắn tuy làm quan, bản tính lại yếu mềm, nhất thời không có cách nào cự tuyệt. Hàn Ngạc cười lên, kéo đầu ngựa ngoái sang Đỗ Phương Ninh: “Phương đệ, sao hả?”. Đỗ Phương Ninh ngước nhìn, đôi mắt lấp lánh tinh quang, trầm giọng: “Được!”. Hai người giật dây cương, ngựa tung vó xông ra. Lúc đó trường săn cách chỗ họ đứng tới bốn dặm, hai người phi song song, Đỗ Phương Ninh chợt nghiêng mình ép gần sang bên Hàn Ngạc: “Ngạc, chàng định xuất thủ ngay bây giờ?”. Hàn Ngạc gật đầu, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía trước: “A Ninh, một khi ta xuất thủ, nàng lập tức chạy đi, không cần theo bên ta, cũng không cần lo cho ta”. Đỗ Phương Ninh mặt bừng lửa giận: “Không!”. Hàn Ngạc biết chẳng còn nhiều thời gian, thẳng người thò tay siết chặt tay Phương Ninh: “A Ninh, nàng nghe ta một lần được không? Xuất thủ như vầy, bất kể đắc thủ hay thất bại , cơ hội thoát thân gần như không có. Nàng còn có biết bao nhiêu người trông cậy vào nàng, cũng còn có biết bao sự nghiệp cần nàng một mình lo liệu. Nàng phải nghe ta lần này”. Sắc mặt của Đỗ Phương Ninh chợt hiển hiện sát khí, nhướng mày giận dữ thốt: “Chàng cho tôi là ai đây? Tôi không ngại đường xa vạn dặm theo chàng để chứng kiến chàng một mình thỏa chí anh hùng à? Huống hồ chàng cho rằng một mình chàng nhất định có thể thành công sao? Hà hà, thêm một Đỗ Phương Ninh tôi, cơ hội bọn ta đắc thủ phải cao hơn ba phần. Chắc không phải chàng cho rằng tôi theo chàng là muốn bám víu những ngày tháng cuối đời của chàng, ráng róc rỉa chút hoan lạc tận cùng để ngày sau bâng khuâng tưởng nhớ chứ? Ngó chàng đi chết mà lẳng lặng không lên tiếng à?”. Thanh âm của nàng trầm lắng: “Tôi không làm vậy được!”. Miệng Hàn Ngạc vẫn còn cầu xin: “A Ninh, ta xin nàng!”. Ngựa phi hết tốc lực, thân người gã lại nghiêng sang, nắm lấy tay Đỗ Phương Ninh. Nàng vặn cổ tay vùng thoát, đẩy gã trở lại, làm mặt lạnh: “Chuyện này tuyệt đối không được! Nếu chàng không muốn thì bọn ta chia nhau hành sự, xem xem Trường Canh của Thái Bạch kiếm khách chàng bén hay Thanh Sách của Sách nữ Đỗ Phương Ninh tôi mạnh! Chàng coi thường đứa con gái này đến thế sao?”. Hàn Ngạc thò tay muốn kéo dây cương của nàng cho ngựa xoay đầu, Đỗ Phương Ninh nổi nóng quật một quyền lên cổ tay gã. Hàn Ngạc chịu đựng không né, cánh tay đau điếng, lại vẫn lôi cương ngựa của nàng, miệng khẽ thốt: “Thông nhi… Thông nhi… nghe ta nói, đừng nghe chủ nhân của ngươi, mau đưa nàng chạy đi!”. Nói xong gã vung một chân muốn thúc lên bụng con ngựa, chọc nó hoảng để nó chạy tránh. Đỗ Phương Ninh nghiến răng, vặn mình thụt một khuỷu tay về phía sườn Hàn Ngạc. Cứng cáp như gã cũng không dám để nàng đánh trúng, chỉ còn nước lách mình tránh, chân phải cong lại không đá được. Gã còn chưa từ, giơ tay định nắm nữa, Đỗ Phương Ninh biến sắc, lập tức hoàn chiêu. Hai con ngựa đều là thần mã, vừa mới hiện thân, người tụ tập bên kia thấy chúng phi như gió thoảng, không nhịn được rầm rộ tán thưởng, ghen tị chằm chặp ngó chúng. Tới khi thấy hai người trên ngựa kẻ đánh qua người đấm lại, động thủ không ngưng, ai nấy cũng đều kinh ngạc. Thân người Hàn Ngạc dẻo dai, Đỗ Phương Ninh thoạt hụp thoạt ngửa, vùn vụt như gió, kỵ thuật thực ghê gớm! Người ta lại không khỏi hoan hô huyên náo. Tên sứ giả Khương Nhung cũng chẳng biết họ đang làm gì, mặt mày kinh nghi lẩm nhẩm: “Gì đây, hai tên hộ vệ này cũng biết Đại Hãn của bọn ta hôm nay mở cuộc ‘săn người’ chưa từng có suốt mấy chục năm qua sao? Có oán báo oán, có thù báo thù, tuyệt không giằng dai, hai tên này trước đây có thù sao?”. Bên này Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh nháy mắt đã phi ba dặm. Đỗ Phương Ninh chợt ghìm dây cương, Thông nhi chậm vó, tránh khỏi thế công của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cũng dừng ngựa, Đỗ Phương Ninh chợt lỏng cương, con ngựa vọt mau qua mặt Ban Chuy. Hàn Ngạc biết không còn thời gian, dấn sức đuổi nhanh, Đỗ Phương Ninh đột nhiên mở miệng hát: Khoác áo nhà binh cũng bởi ai? Mày ngài quen giễu đấng tu mi Bỗng dưng tở mở ra Biên Tái, Ruổi ngựa Thông lấn lướt Ban Chuy. ... Mừng ngây ngất, chén cạn môi, Đi hết Quan Sơn đâu đợi về! Đánh đã Ngân Hà treo Thanh Sách, Buộc lấy Trường Canh thỏa lứa đôi.3 Tiếng ca mềm dịu mà lại hào khí ngút ngàn. Hàn Ngạc cảm thấy một nỗi niềm ấm nồng tràn dâng trong tim. Gã đuổi kịp Phương Ninh thì ngựa của cả hai đã lọt vào trường săn. Đằng trước một lá cờ tung bay phần phật, màu cờ đen ngòm, bên trên có thêu một con chim giống như chim ưng, lại không phải là chim ưng, cánh và vuốt bung xoè, cực kỳ hung hãn. Đỗ Phương Ninh ngừng ca, quay sang Hàn Ngạc thốt: “Khương Nhung vương!”. Không sai, là Khương Nhung vương! Cây cờ đó rõ ràng là cờ hiệu của Khương Nhung vương trong truyền thuyết. Tham gia săn bắn có hơn cả ngàn người, ai nấy đều mặc đồ nhà binh, mặt mày sơn màu vẽ hình, có kẻ như sói, có kẻ tựa cọp, có kẻ giống gấu, là các vật tổ của các bộ tộc. Đại kỳ của Khương Nhung vương còn cách hai dặm, dưới cờ có một người thân thể hùng tráng, cực kỳ khí khái, y phục sặc sỡ, chính là nhân vật Hàn Ngạc từng ngó thấy vào cái đêm ngộ hiểm ở Thanh Thảo hồ. Mục quang của gã ngưng đọng, ghim chặt vào y --- Lần nhắm này chưa chết chưa thôi. Đỗ Phương Ninh vui mừng cười thốt: “Ngạc, giờ đây chàng không còn thời gian cãi cọ với tôi đâu, bọn ta coi như xong rồi, đại sự cấp bách!”. Không sai --- Đại sự là chính, chuyện này thậm chí còn trọng yếu hơn tính mạng của mình và Đỗ Phương Ninh. Nàng chợt thò một tay ra, Hàn Ngạc ngạc nhiên, cũng giơ một tay. Hay người vỗ vào tay nhau, ngoéo ngón trỏ đồng thanh: “Được! Cư Duyên liệp, liệp Thiên Kiêu!”. Họ nhìn nhau gật đầu, tâm tình nằng nặng dưới đáy mắt, vẫn thấp thoáng nụ cười hờ. Họ biết sau cái nhìn này, rất có thể không còn cơ hội nhìn nhau nữa. Đùi kẹp lại, ngựa hí dài, như mũi tên vọt lên phía trước, đuổi theo kỵ đội của Khương Nhung vương. “Nội trong vòng ba trượng ta mới xuất thủ!”. Phương Ninh gật đầu, hiểu ý Hàn Ngạc. Gã muốn nói đến gần trong vòng ba trượng mới nắm chắc đắc thủ qua một chiêu. Nàng thốt: “Mấy tên khác chàng không cần lo tới”. Nàng ghé mắt ngó bốn phía cực kỳ ngạo nghễ: “Đã có tôi!”. Hàn Ngạc cũng gật đầu -- Cũng chỉ có Phương Ninh hợp tác với gã mới khắng khít không một kẽ hở được. Hai người phân công sẵn sàng, đôi mắt Hàn Ngạc chỉ nhìn về hướng Khương Nhung vương, thấy y còn cách mình một dặm, đang truy sát một con gấu. Tùy tùng của y có mười mấy tên, ai ai cũng cưỡi ngựa tốt, con ngựa của Khương Nhung vương lại đúng là thần mã. Bốn bề cũng có nhiều bộ tộc khác đang đuổi theo Khương Nhung vương. Hàn Ngạc thừ người, sao như có người muốn săn đoạt của y vậy? Có điều gã chẳng có thời gian ngẫm nghĩ, vỗ vỗ cổ Ban Chuy thấp giọng: “Chuy nhi… Chuy nhi… phải cậy vào ngươi đó. Ngươi chưa từng khiến ta thất vọng, để xem dòng máu lai của ngươi có đuổi kịp tuấn mã của Khương Nhung vương kia không”. Ban Chuy cũng lâu rồi không có dịp phi phóng thỏa thích như vậy. Tiếng động trong trường săn tựa hồ đã kích thích dã tính của nó. Có Hàn Ngạc vỗ về, nó liền rướn cổ, ngang nhiên hí vang. Khương Nhung vương thân thủ quả khoẻ khoắn. Con gấu bị y rượt là một con gấu trắng khổng lồ, chạy cũng thực nhanh. Đỗ Phương Ninh lại đang nhắm vào bọn kề cận Khương Nhung vương và bên cạnh hai người họ. Họ đang chằm chằm ngó người ta, lại không biết người ta cũng đang ngó họ. Ban Chuy và ngựa Thông vừa vào cuộc đã lập tức làm xôn xao toàn trường, mục quang của ai nấy cơ hồ cũng bị hai con ngựa hấp dẫn. Họ đã đuổi đến còn cách Khương Nhung vương khoảng một dặm, đột nhiên xiên ra một đội nhân mã, cũng thần tốc rượt sang, kẻ cầm đầu hung tợn, thân hình như thiết tháp, hai mắt tựa sao trời. Đỗ Phương Ninh quét mắt sang hắn, thấy đội người đó cách họ chừng mấy chục trượng, nhưng đồng thời đang truy cản Khương Nhung vương. Mắt người nọ chừng như ngùn ngụt sát khí, thoạt đăm đăm nhìn Khương Nhung vương, thoạt chằm chặp ngó Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh. Đỗ Phương Ninh nghiến răng, biết hành tung của bọn mình có thể đã bị người ta phát hiện, nói với Hàn Ngạc: “Có kẻ phát giác, đang lao tới hộ giá. Chàng cẩn thận, nhưng đừng lo về hắn, mọi sự có tôi”. Hàn Ngạc không ngó ngàng gì chỗ khác, đôi mắt ghim chặt lên mình Khương Nhung vương, trầm giọng: “Được!”. Gã thúc Ban Chuy, thấy ngựa của Khương Nhung vương chậm lại, y đang trương cung nhắm con gấu trắng bắn một mũi. Gã thừa cơ cùng Đỗ Phương Ninh lao đến gần vài trượng. Khương Nhung vương bắn hụt một tên, lại giục ngựa đuổi theo, sau đó hết rượt lại bắn, hết bắn lại rượt. Con gấu đằng trước bị chọc tức, cùng đường gầm lên một tiếng, rồi lại nghe nó rú đau đớn, đã trúng phải tên. Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh lúc đó chỉ còn cách Khương Nhung vương chừng mười trượng. Thuộc hạ của Khương Nhung vương có kẻ cả kinh phát giác, một người trong mười mấy tùy tùng xoay lại, bắn một mũi tên về phía Hàn Ngạc. Hàn Ngạc giật mình, xoay tay kéo cung, dùng lưng cung gạt tên. Bọn tùy tùng thấy gã thân thủ cao tuyệt, ai nấy cũng trở đầu ngựa. Chúng toàn là hảo thủ cưỡi ngựa bắn cung, nhất tề trương cung lắp tên, bắn một loạt về phía Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh. Đỗ Phương Ninh quát khẽ một tiếng, tay phất Thanh Sách --- Nàng quả không cần Hàn Ngạc lo tới, trường sách uốn lượn tung bay, cuốn những mũi tên rơi xuống hết. Bốn bề vang lên tiếng la ó rền rĩ, Khương Nhung vương cũng đã phát hiện, lại chẳng thèm để ý, tránh lại còn tăng tốc đuổi theo con gấu trắng. Hàn Ngạc lại kẹp đùi giục ngựa, Ban Chuy biết ý chủ nhân, cật lực vọt tới như bay. Tùy tùng của Khương Nhung vương không ngờ ngựa của gã một khi dấn sức lại nhanh đến thế! Bị gã xông vào đội hình, chúng chia nhau rút đao chém về phía Hàn Ngạc. Ngựa Thông của Đỗ Phương Ninh hí lên một tiếng, cũng vừa kịp đến, Thanh Sách rung mình, tiếp đỡ hết những binh khí tấn công Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cũng cảm thấy mười mấy tên kia toàn là hảo thủ, để Phương Ninh lo một mình e không phải dễ, nhưng gã giờ phút này phải bất chấp tất cả, phải giục ngựa phi nhanh. Khương Nhung vương dẫn đầu, cách đội hình của đám tùy tùng khoảng một tầm tên, Hàn Ngạc bỏ chúng sau đuôi, lao thẳng theo Khương Nhung vương. Dải dây của Đỗ Phương Ninh đằng này đón đỡ, ỷ là binh khí mềm mỏng công kích được cả từ xa đến gần, cũng sắp vượt lên trước, đoạn hậu cho Hàn Ngạc. Nhưng nàng mới vừa xông ra khỏi vòng vây của đám tùy tùng, lại thấy đội nhân mã đuổi theo kia cũng đã lên tới, dẫn đầu chính là hán tử như thiết tháp. Hắn tung một đao. Đao của hắn cực dài, giống như trường đao chém cỏ. Đao phong mãnh liệt, khiến Đỗ Phương Ninh không thể không né. Con ngựa của hán tử đó muốn lướt qua cạnh nàng rượt theo Hàn Ngạc. Đỗ Phương Ninh cái lách tránh vừa rồi hiểm ác đến cùng cực, mũ rớt lại, tóc mai lõa xõa, trường sách đang xoãi ra ngoài, không kịp thu về. Nàng nghiến răng xoay tả thủ rút chủy thủ, đẩy một đao nhắm ngay hán tử kia. Hán tử cũng giật mình vì sự hung hãn của nàng, ngã ngửa tránh, vẫn muốn đuổi lên. Thanh Sách lúc này đã vòng về, lại cuốn lên cổ ngựa của hắn. Nàng biết tấn công hán tử nhất định khó mà cản trở được, cho nên chọn đánh con ngựa. Con ngựa lướt vụt đi, nàng quấn không trúng cổ nó, đang khẩn trương thình lình nảy ý, phất tay dùng Thanh Sách cuộn lấy chân sau của nó. Con ngựa hí lên một tiếng, bị giật chậm lại, trở thành cuộc đấu lực giữa hai con ngựa. Hán tử cả giận, trường đao quành về chém lên mặt Đỗ Phương Ninh. Bờ má nàng ánh rọi đao quang sáng ngời. Nàng không thể thu dải dây về, đành dùng chủy thủ tiếp đỡ. Hổ khẩu tê rần, chủy thủ cơ hồ rớt khỏi tay, nhưng nàng đã trì hoãn được hán tử. Lại một đao tấn công sang, Đỗ Phương Ninh ép sát cạnh hắn, ỷ vào công phu tiểu xảo quần thảo trên lưng ngựa. Hán tử dùng tiếng Khương Nhung ngoái lại la lớn với đám thuộc hạ của hắn đang rượt theo. Tình thế cấp bách, Đỗ Phương Ninh tuy rành tiếng Khương Nhung cũng nghe không rõ hắn nói gì. Có điều nàng không thể để bất cứ một ai vọt lên quấy nhiễu đại sự của Hàn Ngạc. Nàng nghiến răng, trường sách bay ra sau mau chóng tập kích bọn đang ùa lên, chỉ bằng một thanh chủy thủ nhỏ nhoi đeo bám hán tử. Đao một dài một ngắn, nàng phải chịu lỗ, mỗi lần hán tử muốn thúc ngựa lấn lên, nàng lại bất chấp hiểm nguy quấn sát hắn. Ác nhất là nàng còn phải phân tâm hai nơi, dải dây dài đeo chặt mấy kỵ sĩ khác, không cho phép chúng sấn tới, nhất quyết đoạn hậu cho Hàn Ngạc. Hàn Ngạc còn cách Khương Nhung vương chưa tới mười trượng, gã muốn chặn cản y tiếp tục phóng chạy, nghiêng mình trương cung, vặn hông dùng miệng ngoạm kéo một mũi khỏi túi tên, lắp lên dây nhắm kỹ bắn vèo đi! Một tên đó xé gió vùn vụt, Khương Nhung vương đằng trước nghe tiếng gió, mãi cho tới giờ y mới bỏ theo đuổi con gấu trắng kia, tựa như cũng vừa mới cả kinh phát giác mình đã lọt vào hiểm cảnh. Thân người y ngã rạp ra trước, tránh thoát mũi tên trong đường tơ kẽ tóc. Hàn Ngạc đột nhiên tung mình, lướt thẳng tới trước. Ban Chuy nhẹ hẫng người, chạy càng nhanh hơn, nháy mắt đã thu ngắn thêm một khoảng cách. Được ba trượng Hàn Ngạc mới hạ mình, ngồi lại trên lưng ngựa. Khương Nhung vương đã dứt khoát không ngó ngàng gì tới con gấu nữa, phóng ngựa đổi đường, bỏ chạy bán mạng, hàng ngàn kỵ binh bốn phía chừng như đã nhận ra tình thế, đều vội vàng ùa đến. Nhưng thần sắc của chúng lại khiến Hàn Ngạc cảm thấy cổ quái khôn tả. Hàn Ngạc biết cơ hội không còn nữa, bay bổng thân người để con ngựa nhẹ nhàng vọt mau hơn, trải qua mấy lần như vậy, cuối cùng gã đã chỉ còn cách Khương Nhung vương ba trượng, đưa y lọt vào phạm vi tung kiếm. Khương Nhung vương cũng hết sức kiêu dũng, thình lình xoay người giương cung bắn một tên. Hàn Ngạc tay án kiếm, chính đang vào lúc sắp vọt mình lên, muốn né vốn cũng có thể né dễ dàng, nhưng lại sợ mất thời cơ. Gã nghiến răng chỉ hơi bẻ mình để mặc mũi tên ghim thẳng lên vai, vẫn không đổi hướng lao, bay bổng lên không, Trường Canh kiếm rạch một đường sáng nhợt, nhắm đúng về phía Khương Nhung vương. Thân thủ của y cũng dẻo ghê, lăn một vòng giấu mình dưới bụng ngựa. Hàn Ngạc vừa xuất chiêu lại mất mục tiêu, kiếm trong tay chẳng sựng lại, chém thẳng xuống đầu ngựa. Khương Nhung vương dưới bụng ngựa rút một thanh đoản đao đâm xộc lên hông Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cảm thấy hông đau điếng xé nát tâm can, nhưng gã không tránh, oằn hông dùng kình lực giữ chặt đoản đao, vặn mình đoạt lấy khí giới, vẫn để nó cắm trên mình, Trường Canh thuận đà chém đầu ngựa rơi lông lốc. Thân ngựa vẫn chạy được hơn một trượng rồi mới ngã khuỵu xuống. Khương Nhung vương mình mẩy máu me bò khỏi bụng ngựa. Kẻ truy kích xung quanh ùa đến như kiến cỏ, Phương Ninh làm sao mà ngăn trở cho hết. Hàn Ngạc hú dài một tiếng, ráng gượng cơn đau, tiếp tục hạ thủ, Trường Canh kiếm lại tấn công tới. Khương Nhung vương ôm đầu lăn một vòng, không ngờ đã tránh thoát. Lối né của y cực kỳ có bài bản, tuy đường lối khác xa võ thuật Trung thổ, nhưng hết sức hữu hiệu. Hàn Ngạc quét mục quang, thấy có bọn chỉ còn cách mình có mấy trượng, tụ thành vòng vây, mấy chục mũi tên đang vùn vụt nhắm đúng ngay gã. Có mũi như hụt mục tiêu, bắn thẳng về phía Khương Nhung vương. Khương Nhung vương đang lồm cồm rướn dậy bỏ chạy. Vết thương trên vai và hông Hàn Ngạc hết sức nặng, máu tươi chảy thành dòng, gã biết mình chắc chỉ còn đủ sức cho một chiêu, vậy mà vẫn không khẩn trương, trái lại còn chậm rãi hít một hơi sâu --- Mưa tên trên không đổ ập xuống, loạt đầu, loạt thứ nhì, loạt thứ ba nối sát nhau, tổng cộng cũng phải cả trăm mũi. Hàn Ngạc phi thân giữa một trời tên, Trường Canh xuất chiêu, rạch một vùng sáng ngời hơn cả tuyết trắng trên cánh đồng. Một vòi máu bắn túa, bốn bề chợt tĩnh lặng, tựa như khoảnh khắc đó có thể lắng nghe từng nhịp thở. Toàn trường vang vọng tiếng hô hấp nặng nề của mấy ngàn kẻ tham gia săn bắn. Khương Nhung vương ngã quỵ, thủ cấp lăn ra xa, đôi mắt trợn trừng như chẳng cam lòng. Vai Hàn Ngạc cũng đã dính thêm mấy mũi tên, đứng sừng sững thẫn thờ dõi nhìn bốn phía --- Gã đang tìm Phương Ninh. Vì mất máu quá nhiều, mắt gã tối sầm lại, Đỗ Phương Ninh hình như bị vây khốn giữa dòng người như triều dâng, không nhìn thấy được. Xung quanh toàn là tuyết, tuyết trắng lại như biến thành đen dưới mắt Hàn Ngạc, là sự vật duy nhất có thể nhận rõ, còn lại toàn là bóng dáng mịt mờ đang vây tụ về. Ban Chuy hí dài một tiếng, phóng tới đỡ lấy thân người Hàn Ngạc tuy còn đứng vững nhưng thực ra đã hết sức. Hàn Ngạc dựa vào mình ngựa: trăm trận thành công, một chiêu diệt địch, nhiệm vụ của gã đã hoàn thành! Còn Phương Ninh, Phương Ninh đang ở đâu? Hàn Ngạc nghĩ tới Phương Ninh, tựa hồ lại có thêm sức lực, tả thủ chống cái yên, phi thân lên ngựa, lướt về phương hướng Phương Ninh hồi nãy bị địch vây. Gã đang phóng nhanh mà còn gập hông thò tay bắt lấy thủ cấp của Khương Nhung vương chỏng chơ dưới đất, xốc cái đuôi sam của y xông lên.
1 Ở đây là Tiểu Đoạn sửa một chữ trong câu “Cánh kinh tao khách hậu quy hồn” (người nam lạc phách lại kinh tâm), vốn là câu tiếp theo câu "Dĩ đoạn Yên hồng sơ khởi thế" trong bài "Tặng Lưu ti hộ Phần" của Lý Thương Ẩn (xem chú thích {1} hồi 65). Câu này nói đến lần họ Lưu bị biếm đi Liễu Châu làm Ti hộ tham quân. Thi nhân đem so Lưu Phần với Khuất Nguyên bị dèm pha đuổi đi, biếm tuốt Nam hoang, khó lòng quay về quê hương cố thổ. Hai câu nối liền hai tao ngộ trong đời họ Lưu, bút điệu xót xa phẫn uất.2 Nắm chặt tay người, ở với nhau đến già. Đây là câu thuộc bài thơ "Chấp tử chi thủ" trong sách "Thi Kinh - Bội Phong - Kích Cổ". 3 Xem chú thích {2} hồi 47.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 67 Lưỡng cung vô sự an bàn thạch1
Đỗ Phương Ninh lọt vào vòng huyết chiến, Ban Chuy phi điên cuồng đến. Trường kiếm của gã tới đâu, kẻ địch bị chém làm hai mảnh tới đó, chẳng bao lâu đã tới gần nàng. Đỗ Phương Ninh toàn thân như tắm máu, thấy gã, mắt vụt sáng lên, lại thấy thủ cấp, không khỏi bật cười vang. Mấy chục tên đang vây đánh Đỗ Phương Ninh tới giờ mới ngó thấy thủ cấp trong tay Hàn Ngạc, ai nấy đều ngơ ngẩn, dừng sựng lại hết. Nàng nhìn thân thể khỏe khoắn của gã, mỉm cười thốt: “Một chiêu Trường Canh, chém chết Thiên Kiêu, tôi cuối cùng đã không làm hỏng đại sự của chàng”. Bóng địch như triều dâng, hai người nhất định phải bất hạnh bỏ mình, nhưng ánh mắt của nàng lại chứa chan tình tứ. Giữa đồng tuyết sát phạt chém giết, không ngờ lại dâng hiện một tình cảm ấm nồng kỳ lạ. Sóng mắt nàng như làn gió, dịu dàng quét sạch thiết kỵ trùng trùng điệp điệp, thở dài khe khẽ: “Khoác áo nhà binh cũng bởi ai?... Thực ra là vì ai?”. Sau đó nàng không nhìn Hàn Ngạc mà ngó đằng chân trời, yêu kiều ngâm nga: “… Mày ngài quen giễu đấng tu mi. Bỗng dưng tở mở ra Biên Tái, ruổi ngựa Thông lấn lướt Ban Chuy… Tại sao tôi lãnh đạm với nam tử trên đời, cuối cùng lại chẳng có cách nào hờ hững với chàng… Tại sao?”. Lúc nàng nói, khoé miệng he hé nụ cười. Nàng là một nữ tử có lắm tâm sự, nhưng giờ khắc này, nàng tựa như cuối cùng đã bình tĩnh trở lại. Nàng quét nhìn địch nhân ùn ùn vây quanh, dịu dàng cười thốt: “Lần này đúng thực là ‘đi hết Quan Sơn đâu đợi về' phải không?”. Vòng vây đột nhiên nhốn nháo, có hai thớt ngựa lao ra, người trên ngựa mắt đỏ ngầu xông về phía Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh. Họ biết cục diện đồ sát sắp tới đây chỉ là dư vị. Đưa mắt nhìn nhau, Hàn Ngạc chợt thốt khẽ: “Nhĩ ngã đồng cừu”. Tiếp đó hai người lộn khỏi lưng ngựa, né đao của hai kỵ sĩ. Đến khi họ hạ mình trở lại lên yên, hai tên tướng địch đã vượt qua. Trường kiếm của Hàn Ngạc thoát khỏi tay nhắm ngay lưng một tên. Tên đó nghe gió lộng sau lưng, cúi đầu tránh thoát. Trường kiếm mất mục tiêu, rõ ràng phải rớt xuống đất. Thanh Sách của Đỗ Phương Ninh chợt phất ra, thắt giữ chuôi kiếm. Đầu dải dây rung nhẹ, trường kiếm đổi mục tiêu, đâm xuyên lưng tên bên này. Người xung quanh la hoảng. Đỗ Phương Ninh giật cổ tay, lưỡi kiếm phạt ra, một vòi máu tung toé, Hàn Ngạc bay đến chìa một tay nắm giữ Trường Canh, bẻ mình giữa không trung, đâm về phía tên còn lại. Tên đó xoay người vung đao, nhưng đâu có nhanh bằng Hàn Ngạc, trường kiếm đâm trúng ngay cổ họng hắn. Đao phong rã rượi, thân ảnh của Hàn Ngạc giăng trên đầu địch nhân, một khi hạ mình xuống, e liền phải bị băm vằm nát bét! Thanh Sách của Đỗ Phương Ninh lại cuốn lên, cuộn bắt cổ chân của gã, kéo Hàn Ngạc lộn một vòng trở về trên lưng Ban Chuy. Đỗ Phương Ninh cười khe khẽ: “Dữ tử huề quy”.
1 Xong chuyện triều đình đà thỏa dạ, là câu trong bài thơ “Đồng Tử Chiêm hòa Triệu bá sung đoàn luyện” của Hoàng Đình Kiên.
Đ ó là hai thức cuối cùng trong chuỗi chiêu hợp kích “Cư Duyên liệp” mà họ luyện gần đây, một mực chưa có cơ hội sử dụng. Hồi nãy Hàn Ngạc truy sát Khương Nhung vương, chúng nhân đều đang trong cục, tuy cực kỳ hung hiểm, nhưng đâu có chứng kiến rõ rệt như hai thức này. Bốn phía nhất thời tĩnh lặng đến mức một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe tiếng.
Ng ựa của hai người nương kề nhau, thân hình của họ cũng dựa sát vào nhau, biết thời gian gần gũi không còn được bao lâu nữa. Họ không nói gì, không gian tĩnh tại. Một hồi thực lâu, Đỗ Phương Ninh mới từ từ mở mắt, hơi ngạc nhiên: “Sao chúng còn chưa tấn công?”.
--- Ph ải, bọn Khương Nhung kia sao còn chưa tấn công? Vòng vây tựa hồ đã định thần, xì xầm nhốn nháo, Đỗ Phương Ninh dõng tai, nghe có mấy tên kêu lên: “Chúng đã giết Tả Hiền vương, chúng đã giết Tả Hiền vương!”.
Chúng l ặp đi lặp lại, câu đó ngay cả Hàn Ngạc cũng hiểu được. Gã và Phương Ninh đưa mắt nhìn nhau, mặt mày họ bỗng dưng tái mét --- Họ khổ tâm tính toán, liều mình một trận, thì ra lại không phải đã giết được Khương Nhung vương, mà là Tả Hiền vương!
Hàn Ng ạc đột nhiên ngồi thẳng dậy, gã không cam tâm, gã không cam tâm! o0o Nhân mã xào xáo, một tràng thanh âm vang lên: “Dẫn chúng đi gặp Đại Hãn, dẫn chúng đi gặp Đại Hãn”. Đỗ Phương Ninh và Hàn Ngạc tới giờ mới minh bạch tại sao chúng tụ tập mà không ùa lên đánh. Hai hán tử mắt đỏ ngầu hồi nãy rõ ràng là thân tín của Tả Hiền vương, vậy Khương Nhung vương đang ở đâu? Họ đang nghĩ ngợi, chợt thấy vòng vây dạt sang hai bên, một thớt ngựa tầm thước chầm chậm thả bước. Đó là một con ngựa đen, người trên ngựa cũng không mấy cao to, sắc mặt đen rám. Ngựa của y đi tới đâu, bọn Khương Nhung phải nín thở cầm hơi tới đó. Y dừng lại cách Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh cỡ mười trượng, đưa mắt lẳng lặng ngó hai người. Đám đông đã dạt thành một con đường ở giữa y và họ. Đỗ Phương Ninh lòng bàn tay chợt toát mồ hôi, thấp giọng: “Cao thủ”. Hàn Ngạc trầm mặc, một hồi sau mới thốt: “Thì ra đó mới là Khương Nhung vương”. Không sai --- Đó mới là Khương Nhung vương! Chỉ bằng vào khí độ trầm lặng của y, Tả Hiền vương cao to hùng tráng, tung hoành săn bắt hồi nãy không biết đã phải kém bao nhiêu phần rồi. Không khí trong trường nhất thời lặng lẽ, chẳng ai dám nói gì. Tay Hàn Ngạc tuy còn cách xa chuôi kiếm, lại đang đoán định xem Khương Nhung vương thực kia có lọt vào tầm đánh của mình chưa. Đỗ Phương Ninh thân người bất động, mắt quét quanh. Nàng với Hàn Ngạc tâm ý tương thông, lòng đang nghĩ làm sao để tạo một cơ hội cho gã. Khương Nhung vương chợt mở miệng: “Các ngươi là ai?”. Y nói tiếng Khương Nhung, Hàn Ngạc cũng loáng thoáng hiểu. Gã và Phương Ninh nhìn nhau, đang không biết phải hồi đáp ra sao, trong trường chợt vang lên một tràng tiếng vỗ tay, kéo theo một giọng nói non nớt: “Đại Hãn, đây là hai người trốn chạy khỏi Trung thổ mà tôi tìm được, hảo thủ võ lâm đó!”. “Tôi nói Tả Hiền vương nuôi lòng phản loạn, Đại Hãn đích thân triệu hắn đến Thanh Thảo hồ mà hắn vẫn không chịu thần phục, có dã tâm muốn làm Khương Nhung vương. Bằng vào đức hạnh của hắn thì làm sao xứng đáng chứ? Đại Hãn là người độ lượng, khai mở cuộc ‘săn người' này, cho hắn mang cả cờ hiệu của Khương Nhung vương, truy sát con gấu trắng vua của muôn thú vùng Thanh Thảo hồ này. Nếu thủ lãnh của các bộ tộc cùng thủ hạ của Hữu Hiền vương đều không làm khó được hắn, để hắn có thể bắn chết con gấu trắng giữa vòng tranh đấu, danh vị Khương Nhung vương vậy đã lọt về tay hắn rồi”. “Tả Hiền vương kia không phải đã nói hắn có thể thần phục chúng nhân, giết được bạch hùng trước khi người ta giết hắn sao? Không cần Đại Hãn xuất thủ, hai sát thủ do Trần Quả Tử tôi tìm về đã giết được hắn. Xem xem hắn có còn dám ngông cuồng nữa không?”. “Đại Hãn… Đại Hãn… quy củ của cuộc săn người này là có oán báo oán, có thù báo thù, không dây dưa rắc rối về sau. Giết được kẻ nào thì lãnh chức của kẻ đó, vị trí Tả Hiền vương chắc đã là của tôi rồi, Đại Hãn không thể không y theo lời tổ huấn đó”. Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh nhất tề thất kinh --- Thì ra là vậy, không trách trường săn này sát khí cực nặng… Thì ra là một cuộc “săn người” tàn khốc! Đỗ Phương Ninh nhìn tên Khương Nhung sử trường đao từng ác đấu với mình --- Thì ra y đâu phải muốn cứu Tả Hiền vương, y chỉ là không muốn mình đoạt giết Tả Hiền vương. Người Khương Nhung không ngờ lại có thứ quy củ đó! Kẻ lên tiếng trông có vẻ như một tiểu hài tử, ăn mặc kiểu Hán, lại lộn xộn không ra kiểu cách, như là vận đồ diễn tuồng vậy. Thân hình của hắn tuy cao chưa tới bốn thước, gương mặt lại có nếp nhăn. Tướng mạo vốn thanh thanh tú tú, ngó kỹ lại thấy quỷ dị nhớt nhợt, giống như một thằng hề nhỏ. Hàn Ngạc giật mình, gã nhận ra hắn: là… hài tử mà gã từng gặp bên Thanh Thảo hồ đêm hôm nọ. --- Không, hắn không phải là con nít, thực ra là một người lùn! Hắn nhún nhảy tới trước đầu ngựa của hai người, thò nắm tay họ cười hì hì kéo xuống: “Giỏi lắm, các ngươi coi như không nhục sứ mệnh, mau mau xuống theo ta ra mắt Đại Hãn”. Hắn nói hết sức tự nhiên, Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh cảm thấy hắn đang giúp mình, thầm ngẩn ngơ đi theo hắn. Mặt mày Khương Nhung vương vẫn tỉnh bơ, người lùn tự xưng là “Trần Quả Tử” đã lôi Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh đến cách Khương Nhung vương chừng ba trượng, cười thốt: “Đại Hãn, đây là quy củ của tổ tông, vị trí Tả Hiền vương từ nay thuộc về tôi rồi, người không thể không nhận đó”. Vừa đến gần Khương Nhung vương hơn, tâm tư của Hàn Ngạc đã tập trung lên kiếm. Nhưng gã với Đỗ Phương Ninh đều đang bị thương nặng, còn Khương Nhung vương tựa hồ nông sâu khó lường, gã cũng không dám khinh cử vọng động. Sắc mặt của Khương Nhung vương vẫn âm trầm, chỉ gật gật đầu không nói, cũng chẳng biết y đang khẳng định điều gì, lại quày đầu ngựa bỏ đi. Nhất thời cả bọn Khương Nhung đều lớn tiếng hò reo, hình như đang tán tụng. Mọi người, trừ đám bộ hạ của Tả Hiền vương ra, có vẻ chẳng chút ngó ngàng gì tới cái chết của hắn. Khương Nhung vương đi được vài trượng mới ngoái đầu nói với Trần Quả Tử: “Một hồi dẫn họ vào trướng gặp ta”. Nói xong, y giật cương giục ngựa lao đi, cả đám ùn ùn kéo theo. Mãi cho đến khi chúng đã đi thực xa, Trần Quả Tử nâng ống tay áo lau những giọt mồ hôi tới giờ mới dám ứa ra, liếc mắt quan sát họ, bình tĩnh thốt: “Hai cái mạng của các ngươi coi như ta đã vãn hồi được phân nửa. Nếu muốn sống còn, sau này phải nghe ta. Hai vị thích khách, đi theo ta”. o0o Hai chén rượu cay đặt trước mặt Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh. Đây là một cái trướng lớn, đỉnh trướng rất cao, Khương Nhung vương ngồi cách họ cũng khá xa. Hàn Ngạc từ lúc vừa tiến vào đã âm thầm so đo cự ly. Đáng tiếc chỗ ngồi của Khương Nhung vương lại vượt ngoài tầm kiếm của gã mấy thước, dù có Phương Ninh chống đỡ cho hai mé, muốn một chiêu giết chết y e không phải là chuyện dễ. Huống hồ kiểu ngồi của y trầm trầm ổn ổn, khí thế toát tỏa khá giống Khách Đan Tam Sát. Y mà có một nửa công phu của Khách Đan Tam Sát, chặn đứng được một chiêu của gã, trong trướng còn có một đám tướng lãnh rõ ràng là cao thủ, Hàn Ngạc quả phải lọt vào thế vạn nan. Khi ngồi xuống, Hàn Ngạc thấy Đỗ Phương Ninh đang ngó mình, gã lắc lắc đầu nhè nhẹ, gắng không để ai thấy. Trần Quả Tử đang đứng bên cạnh Khương Nhung vương, bộ dạng của hắn giống như một tên hề bé nhỏ, lại tựa như một lộng thần2, ăn mặc không khác gì phường chèo. Đỗ Phương Ninh thấy tình hình thân cận ám muội giữa hắn với Khương Nhung vương, không khỏi cau cau mày. Hàn Ngạc lúc ngó sang Trần Quả Tử, mắt lại hiển lộ vẻ xót thương, nhưng thần sắc đó mau chóng tan biến mất dạng. Trần Quả Tử cũng đã nhận thấy vẻ mặt của Đỗ Phương Ninh, lại hoàn toàn không để ý, còn cười hết sức hân hoan, tựa như muốn chọc tức Đỗ Phương Ninh. Đến khi liếc thấy nét thương cảm qua đáy mắt của Hàn Ngạc, sắc mặt của hắn bàng hoàng, tiếp đó lại chừng như phẫn nộ… Khương Nhung vương thủy chung là người ít lời, chỉ thốt một câu: “Uống”. Hàn Ngạc đưa mắt nhìn Đỗ Phương Ninh, chỉ còn nước nâng chén cạn một hơi. Xong một tuần rượu, Khương Nhung vương không lý gì tới họ nữa, lo xử lý sự vụ. Phải một hồi thực lâu sau, thấy Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh còn có mặt, y có vẻ mệt mỏi phất phất tay, thị ý cho hai người lui ra. Họ đành đi về. Lúc hai người rời khỏi bàn, họ trao đổi ánh mắt kinh nghi: Khương Nhung vương kêu họ đến chỉ vì muốn cho họ uống một chén rượu thôi sao? Là gì đây? Là ban thưởng? Hai người lại được an bài trong trướng của Trần Quả Tử. Cái trướng này bày biện cực kỳ cổ quái, đầy dẫy đồ vật nhỏ nhặt, Hán có, Khương Nhung có. Thú nặn bằng đất sét, bội ngọc, chung rượu, quạt tròn, bội đao trang sức tinh tế… xếp đầy tràn lớn lớp, không biết bao nhiêu mà kể. Có cái giá trị liên thành, có cái chỉ là hàng bán dạo vụng về. Vì đồ vật nhỏ xíu, thành ra trong trướng màu mè huy hoàng, lộn xộn hết sức. Đỗ Phương Ninh là người có kiến thức mà cũng không khỏi ngẩn ngơ. Nàng ngoái lại ngó Hàn Ngạc, thấy gã cũng đang ngạc nhiên, xem chừng lại có thần tình tội nghiệp. Nàng thúc khủy tay lên ngực Hàn Ngạc, cười hỏi: “Sao vậy?”. Hàn Ngạc thấp giọng thở dài: “Hài tử đó…”. Đỗ Phương Ninh “xí” một tiếng: “Hắn không phải là con nít, tuổi tác của hắn chắc còn lớn hơn chàng mà. Hắn là một người lùn biến thái". Nàng tỏ lộ thần sắc khinh bỉ. Hàn Ngạc lại bình tĩnh thốt: “Nếu không phải ta gặp cơ duyên khác, có lẽ giờ đây ta cũng không khác gì hắn”. Đỗ Phương Ninh hơi bần thần nhìn gã, không rõ hàm ý trong lời nói của gã. Mắt Hàn Ngạc lan man, buồn bã nhớ tới Tiểu Kế. Nếu Tiểu Kế có mặt, nó sẽ hiểu gã đang nói gì. Tận đáy lòng, có lúc gã cảm thấy mình vẫn còn là một hài tử yếu đuối không có chỗ dựa… Mùa đông ngoài Trường An thành, vùng khoáng dã bát ngát, trước mộ phần hoang lương, một đứa bé mặt mày tái nhợt, chỉ biết hãi sợ với sợ hãi. Nếu không phải đã gặp được sư phụ, hiện tại gã ra làm sao? Có người cả đời cũng đi không xong lộ trình thăm thẳm từ tấm bé đến “thành niên”. Vì thiếu hụt, vì bỏ lỡ, e sau này người đó sẽ biến thành âm hiểm giữa thế giới “thành nhân” này, đó cũng là một sự âm hiểm báo trả như một đứa trẻ. Gã bỗng nhớ đến cái đêm pháo hoa nổ tuốt giữa Thanh Thảo hồ và gương mặt bừng sáng của hài tử kia. Gã đứng dậy đi ra ngoài, cái trướng của Trần Quả Tử đơn độc quá, cô cô độc độc đứng trong dãy trướng của người Khương Nhung. Gã nghĩ tới dung nhan tàn tạ già lão trong nháy mắt khi pháo hoa vụt tắt, chợt lòng cảm thấy có cái gì đó bị vỡ vụn tan tành, một giọt lệ bất tri bất giác lăn dài trên má, mà bản thân gã lại không phát giác. Gã biết mình có thể đột nhiên mềm yếu đến thế, cho nên mới đi ra ngoài. Đâu có ai hiểu, bao gồm cả Phương Ninh. Ngay cả nàng cũng không hiểu. Gã bỗng nghe bên cạnh có tiếng thở, quay đầu lại, thấy Trần Quả Tử đang nhìn mình một cách kỳ quái. Tuy không thấu hiểu mọi sự liên quan tới hắn, Hàn Ngạc lại có cảm giác hắn là một hài tử rất mẫn cảm --- Không biết sao gã luôn cảm thấy hắn vẫn còn là một đứa bé. Thấy gã nhìn mình, Trần Quả Tử đột nhiên nghiêm mặt, có vẻ không cao hứng, cười lạnh: “Gió lạnh tỉnh rượu à? Không cần đâu, rượu kia vĩnh viễn không tỉnh được đâu”. Nói xong hắn quay mình đi vội vào trướng. Trước khi xoay lại, nhãn quang của hắn quét qua mặt Hàn Ngạc, gã mới cả kinh phát giác má mình còn ngấn lệ. Gã đưa tay áo chùi sạch, theo đến cửa trướng, nghe Trần Quả Tử đang nói với Đỗ Phương Ninh: “Hai vị thích khách bị thương không nặng chứ? Có còn muốn hành thích nữa không?”. Hàn Ngạc với Đỗ Phương Ninh giật mình. Họ vốn nhận thấy lai lịch và tác phong hành sự của Trần Quả Tử hết sức cổ quái, không rõ thực ra tại sao hắn lại cứu mình. Hắn lạnh lùng cười thốt: “Hai người các ngươi tỉnh dậy đi, các ngươi muốn ám sát Khương Nhung vương à? Bằng vào hai người các ngươi mà cho là được sao? Sau khi uống xong rượu ‘Đồ Tô' kia, các ngươi có thể cũng còn lực khí để giết người, bất quá tối đa cũng chỉ có thể giết kẻ Tiên Thiên chẳng đủ mà Hậu Thiên cũng không toàn vẹn như ta thôi. Muốn hành thích Đại Hãn? Các ngươi mau tỉnh dậy đi”. Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh thất kinh, lẳng lặng đề khí, mới phát giác khí tức trong người rất kỳ cục. Trần Quả Tử lạnh lùng thốt: “Đó là thuốc Đại Kim Ba Hoạt Phật dâng cho Đại Hãn bọn ta. Bất kể một ai uống vào, nội trong vòng mười bữa nửa tháng mà muốn dấn sức sát nhân, e chẳng vận được tới một phần mười kình lực nữa. Tả Hiền vương không chịu nghe lời, Đại Hãn đã muốn gạt bỏ hắn từ lâu rồi. Nhưng người kiêu ngạo, hơn nữa trước đây phụ thân của Tả Hiền vương còn là đại ân nhân của người, cho nên người không muốn giết, mới một mực kềm chế không muốn động thủ. Thêm vào Tả Hiền vương cũng được không ít trưởng lão ủng hộ, vì vậy lần lữa cho tới ngày nay”. “Đại Hãn bị ép mở cuộc ‘săn người', tung tin nếu Tả Hiền vương không để mất tinh kỳ mà giết được bạch hùng, thì người sẽ nhường ngôi vị Khương Nhung vương. Nào ngờ Tả Hiền vương khéo sao bị các ngươi giết! Ta tuy nói láo liên hồi, với trí thông minh của người, chắc cũng không thể tin tưởng hoàn toàn. Có điều vì quy điều của tổ tiên, hơn nữa đang cần an bài kẻ tiếp nhận chức Tả Hiền vương, nhất thời người không tiện giết các ngươi. Nhưng ta tận mắt chứng kiến người cho các ngươi uống ‘Đồ Tô'. Uống xong thì các ngươi đâu có khác gì là dân thường, Đại Hãn cũng không phải lo lắng về các ngươi nữa. Ta thấy công phu của hai ngươi không tệ. Sao? Có chịu phò tá ta làm Tả Hiền vương không? Nếu chịu, ta sẽ toàn lực bảo vệ hai cái mạng quèn của các ngươi”. Thân thể hắn tuy nhỏ bé, khi nói chuyện hai mắt ngó tuốt qua đỉnh đầu Hàn Ngạc với Đỗ Phương Ninh, thị ý bản thân căn bản không coi bọn họ ra gì. Hắn lạnh lùng thốt: “Ta nói với Đại Hãn là ta để các ngươi mai phục làm bộ hạ của Lý Trường Thân. Đại Hãn cũng đã điều tra, quả nhiên các ngươi mới đầu quân cho họ Lý. Ta liệu không sai, người của triều đình nhà Hán làm gì có ai gan to đến thế? Vì vậy Đại Hãn cũng tin ta được phân nửa, cho rằng các ngươi thực là hộ vệ bán mạng cho ta. Sao? Theo ta, các ngươi toàn mạng, chuyện gì cũng có ta chở che. Không theo ta, khà khà, đợi bị ngũ mã phanh thây đi!”. Đỗ Phương Ninh nhìn bộ dạng kiêu ngạo tự đại của hắn, hừ một tiếng, không lý gì tới. Trần Quả Tử lại hỏi thẳng Hàn Ngạc: “Sao? Có dám thừa nhận các ngươi thực ra là đến hành thích Khương Nhung vương chứ không phải Tả Hiền vương không?”. Hàn Ngạc bình tĩnh ngó hắn, lặng lẽ đáp: “Không sai”. Người lùn kia chợt cười phá lên, chỉ hai người cười đến thở hổn hển: “Bằng vào các ngươi? Các ngươi cũng đáng sao? Hai con heo Hán khờ khạo!”. Đỗ Phương Ninh bỗng ngắt lời: “Lẽ nào ngươi không phải người Hán?”. Người lùn ngẩn ngơ, nhảy dựng: “Ta không phải, ta mới không phải là bọn người Hán chẳng đáng một đồng xu cắc bạc. Chỉ có bọn khờ dại các ngươi mới phải”. Đỗ Phương Ninh cười lạnh: “Vậy ngươi coi Khương Nhung vương là ai? Y coi ngươi là ai? Ngươi bất quá cũng chỉ là… một tên lộng thần”. Cánh mũi nàng khinh khỉnh, tỏ vẻ khinh thị khôn tả. Trần Quả Tử thình lình nổi nóng: “Y… y ít ra là một anh hùng, mạnh hơn nhiều so với tên Hoàng đế nhà Hán các ngươi. Ta tình nguyện theo y làm một lộng thần, các ngươi biết gì mà nói?”. Đỗ Phương Ninh thâm tâm như đã cố ghim vào hắn: “Không sai, y mạnh hơn Hoàng đế của bọn ta nhiều, cho nên Hoàng đế của bọn ta phái sứ giả đến muốn hòa thân với y, nghe nói người được tuyển chọn lần này là Vi Nhị Nhi, đứa con gái như hoa như ngọc của họ Vi ở Trường An. Biết y mạnh, bọn ta mới đến để thần phục y mà! Bọn ta còn muốn giết chết y, tránh để y chà đạp khinh bạc những đứa con gái Hán bọn ta như chà đạp khinh bạc người Hán vậy”. Lời nói của nàng hình như châm chích hết sức thâm sâu, Hàn Ngạc nghe lại hoàn toàn không hiểu, chỉ cảm thấy có thâm ý gì đó. Trần Quả Tử quả nhiên tái mặt, vụt thẫn thờ trân trân nhìn miệng Đỗ Phương Ninh, chắc cái tin đó hắn chỉ mới nghe được. Hàn Ngạc thấy hắn như muốn lảo đảo ngã quỵ, suýt nữa đã giơ tay ra đỡ. Trần Quả Tử đã hồi phục diện mạo non nớt, thanh âm thì lại già nua, không khác gì giọng nói của một nam nhân ba mươi mấy tuổi rồi, rú lên: “Ngươi… ngươi… ngươi…”. Hắn như bỗng phát giác, chỉ trỏ Đỗ Phương Ninh: “Thì ra ngươi là con gái! Ngươi là…”. “Đỗ… Phương… Ninh!”. Hắn chợt sực tỉnh, nhãn thần tràn trề nét thống hận ghét cay ghét đắng: “Họ Đỗ họ Vi các ngươi chẳng có ai tốt!”. Nói xong hắn liếc sang Hàn Ngạc, rõ ràng cũng đã đoán ra gã là ai, nhãn thần lại có vẻ phức tạp khôn cùng, hoàn toàn không khinh ghét như lúc nhìn Đỗ Phương Ninh, chỉ là một niềm hận gặp gỡ trễ quá. Hắn chợt chạy ra ngoài, bỏ Hàn Ngạc đứng ngây ra. Phải một hồi sau Hàn Ngạc mới nói: “Phương Ninh, nàng sao lại hà hiếp một…. hài tử”. Gã ngẫm nghĩ, vẫn thốt lên hai tiếng “hài tử”. Phương Ninh ngó gã, không chế nhạo cái thói “tốt với mọi người” của gã, chỉ mệt mỏi thốt: “Không châm chích hắn, làm sao hắn giúp bọn ta được?”. Hàn Ngạc có cảm giác nàng biết gì đó, hơn nữa còn biết rõ Trần Quả Tử kia là ai. Nhưng nàng không chủ động kể, gã cũng không hỏi. --- Phương Ninh đang tính toán gì? Bất quá, bất kể là nàng tính gì đi nữa, chắc phải có dính dấp tới việc hành thích Khương Nhung vương. Gã chỉ cảm thấy nàng không nên đối đãi như vậy với một “hài tử”. o0o “Ta không khóc, ta không thể khóc để chúng thấy”. Giờ Tý, sâu kín trong Thanh Thảo hồ, Trần Quả Tử cắn môi hằn học nói với Hàn Ngạc. Đêm tĩnh lặng, cỏ khô hoang lương làm sao, Hàn Ngạc cũng không biết tại sao mình lại len lén theo hắn đến đây. Gã không biết nói gì mới phải, chỉ trầm mặc đứng yên. Gã đứng đó đón gió, vô tình dùng thân mình che chắn thế gió cho Trần Quả Tử quần áo mong manh đang lạnh run bần bật. Khí tức vận hành của gã đã bị “Đồ Tô tửu” chế ngự, nhưng thấy môi Trần Quả Tử lạnh đến tái mét, gã vẫn gồng mình vận chân khí “Thạch Trung Hỏa” lan phát hơi ấm. Có điều gã mạo hiểm vận dụng chân khí cũng không tránh khỏi quá cật lực, chẳng bao lâu sau mặt trắng nhợt, lại vì mang thương thế mà ửng đỏ một màu bệnh hoạn. Trần Quả Tử nói xong một câu tức hận, ngẩn ngơ ngó gã một hồi mới cắn môi hỏi: “Ngươi là Hàn Ngạc?”. Hắn ngước nhìn Hàn Ngạc, thanh âm không như bình thời mà hiển hiện chút thơ dại của cái lúc bắn pháo hoa. Hàn Ngạc lặng lẽ gật gật đầu --- Cái tên đó chắc đã lan truyền rộng rãi ở đây. Trần Quả Tử trầm mặc ngó gã. Không trách Hàn Ngạc cảm thấy hắn là một “hài tử” - - Chỉ một chốc sau hắn lại đổi giận làm vui, rút trong mình ra một cái ống pháo cong vẹo, nhẹ giọng: “Ta lại tìm được một cái, nhưng bị dính ẩm, mà ngòi cũng không có. Ta muốn hơ khô nó, có điều sợ nó bị hun nóng nổ bùm một cái hư mất. Nhét trong mình lại càng ẩm thấp, càng lúc càng biến thành vô dụng. Ta lại không quăng bỏ được. Ngươi có thể giúp ta đốt nó không?”. Hàn Ngạc gật gật đầu, im lặng tiếp lấy ống pháo hoa, siết chặt trong lòng bàn tay. Giấy pháo đỏ đỏ xanh xanh, hơi mềm nhão, nhăn nhúm. Gã đề khí dĩ nhiên vô cùng phí sức, có điều giúp được “tiểu hài nhi” kia cao hứng thì vẫn cố gắng làm thử. Tam Dương chân khí của gã phát ra, ôn ôn hòa hòa trọn một tuần trà. Ống pháo hoa có nhiệt lực của lòng bàn tay hơ khô, còn gã thì toát đẫm mồ hôi, tựa hồ còn mệt hơi cả đánh đấm với cường địch. Gã có cảm giác yếu ớt đến mức thanh âm cũng run run, ráng hết sức khống chế, lại thấy Trần Quả Tử lắc lắc một cây hỏa tập cháy bùng lên, có điều vẫn còn hoài nghi không biết viên pháo hoa có thể đốt được hay không. Hàn Ngạc thò tay tiếp lấy, hít một hơi sâu, tả thủ cầm ống pháo, hữu thủ nâng hỏa tập, vận khí bức hơi --- Gã vốn không nên dùng nội lực, phế phủ đau nhói, thứ rượu “Đồ Tô” kia quả nhiên lợi hại! Ngọn lửa trên hỏa tập bị gã ép sáng loè, chui vào ống pháo, giống như một ngòi pháo. Trần Quả Tử mặt mày trông đợi nhìn gã, thấy ống pháo bốc ra một luồng khói xanh, nhưng chẳng có động tĩnh gì cả, hắn cơ hồ thất vọng. Ngay lúc đó, những hạt tròn tròn xanh đỏ sáng ngời từ trong ống pháo phun ra, vọt thẳng lên bầu trời đêm, nổ bừng giữa không trung. Trần Quả Tử hoan hỉ nhảy nhót vỗ tay chan chát. Hàn Ngạc lẳng lặng nhìn hắn. Dưới hỏa quang, gương mặt của hắn phảng phất lại trở về tuổi ấu thơ, không có một nếp nhăn nào, bình bình thản thản, khoái khoái lạc lạc. Trong ống tổng cộng cũng chỉ có chừng bảy tám viên, nối đuôi nhau bắn lên, thời gian cũng không kéo dài được bao lâu. Pháo hoa đã rụng tắt lâu rồi, Trần Quả Tử vẫn há hốc miệng dõi nhìn trời, không nói nên lời. Mặt hắn như rất khoái lạc, lại có nét ưu thương. Niềm khoái lạc đó khiến cho Hàn Ngạc cũng cảm thấy sung sướng, nhưng nỗi ưu thương man mác kia lại quấn quyện bao buồn đau ràng ràng buộc buộc trong đầu gã, sắc như lưỡi dao cắt vào con tim gã. Một hồi lâu sau, Trần Quả Tử thốt: “Ngươi quả nhiên là Hàn Ngạc, từ khi nghe danh ngươi, ta đã muốn gặp ngươi”. Hắn ôm đầu gối ngồi quỵ xuống. Thân người hắn vốn thấp bé, ngồi như vậy lại càng co rúm lại, ngước đầu nói chuyện với Hàn Ngạc phải tốn lắm lực khí. Hàn Ngạc cũng ngồi theo, vẫn che chắn ngọn gió cho hắn. Trần Quả Tử thốt: “Người thực sự dũng cảm, không còn lực khí cũng vẫn có thể dũng cảm. Thì ra lời nói đó không phải là nói trỏng, thì ra trên thế gian này vẫn còn có người như thế. Nhưng tại sao bọn họ không được vậy?”. Mũi Hàn Ngạc còn ngửi được mùi khói pháo nồng nặc, lại cảm thấy thoải mái khó tả. Trần Quả Tử thốt: “Ngươi có chịu nghe ta kể một cố sự không?... Thực ra ta không phải là một hài tử… mà là một người đã lớn tuổi, đâu chỉ hơn ngươi dăm tuổi, mà là trăm tuổi, ngàn tuổi. Ngươi có chịu nghe một hài tử già nua thế này kể một chuyện xưa không?”. Lời nói của hắn mơ mơ hồ hồ, thực cứ như còn già nua hơn xa “hồn quỷ” của Dư Quốc trượng mà gã gặp trong ngõ Luân Hồi. Hàn Ngạc gật gật đầu, hắn muốn nói thì cứ nói, hắn nên có cơ hội để nói, có phải không? Tiểu hài nhi già lão kia kể: “Hồi xửa hồi xưa, ở Trường An thành có một gia đình dòng dõi sui gia của họ nhà vua, quê tổ lại ở Lạc Dương. Nhưng năm đó, gia đình họ sắp phải lụn bại: đám con trai chẳng có ai ra hồn, tranh đấu trong triều đình càng lúc càng quyết liệt, gia môn bọn họ tất phải bại vong. Họ có một hài tử mới chừng sáu bảy tuổi. Người lớn cầm đầu gánh vác gia đình bối rối tìm biện pháp để bảo toàn gia môn --- Một triều đình như thế, cách tốt nhất để tự bảo toàn là nắm bắt được nhiều tin tức nội tình, tốt hơn hết là có thể làm vừa lòng Hoàng thượng. Nói gì đến làm vừa lòng, biết được tin tức trong Hoàng cung cũng tốt quá rồi, vì như vậy có thể cân nhắc lợi hại”. “Cuối cùng biện pháp họ nghĩ ra là đưa đứa bé nọ vào cung. Tuy nó là một bé trai, nhưng nghe nói hồi triều Hán đám đại quan có cái lệ dâng bé trai lanh lợi nhập cung làm Thái giám để có tay trong thám thính tin tức”. “Chuyện đó cũng đã lan truyền từ mấy trăm năm trước rồi, giới quyền quý nhà Hán cũng biết giữ mặt mũi, không thể thẳng thắn đem con trai quý tộc dâng hiến vào cung làm bầy tôi thiến hoạn. Rồi một buổi sớm, đứa bé đó thấy mình có một bà bảo mẫu mới, mà bà bảo mẫu này thực khác biệt, già thực là già, già đến mức như tượng đá ngàn xưa dãi dầu nắng mưa vậy. Nhưng bà ta rất biết chơi đùa với con nít, cho nên đứa bé rất thích bà ta. Thích thì thích, nó cũng có hơi sợ, vì nó phát hiện bà bảo mẫu này có một công tác đặc biệt, mỗi ngày đều dùng một thứ thủ pháp đặc biệt xoa nắn tinh hoàn của nó độ hai ba canh giờ”. Mặt mày hắn thẫn thờ, kể tiếp: “Lúc đó nó còn chưa biết đó là trò bí truyền mấy ngàn năm của người Hán, có từ lâu lắm rồi… lâu lắm rồi. Đó là một thứ thủ pháp âm độc, có nhiều người biết, nhưng đa số là kẻ quyền cao chức trọng. Cái họ thường nghiên cứu là làm sao để thiến người ta, chế tạo ra nô bộc, khiến người hầu kẻ hạ mất hết tâm tính dũng cảm, chịu phục tùng mình. Một khi đã bị thiến, chủ nhân đâu còn phải e ngại gì nữa, thực là tốt quá rồi”. Ba năm sau, bà bảo mẫu lại treo cổ chết một cách lạ lùng. Thằng bé lại biết nhất định không phải bà ta tự sát. Vì nó hiểu biết, nó thông minh. Nhưng nó có thông minh đến đâu, cũng đến mười hai, mười ba tuổi mới dần dần phát hiện mình khác với những thằng bé khác. Nó hoàn toàn không có những biến hóa như người khác, chỗ nào đáng lẽ phát triển thì lại không phát triển. Cổ họng, giọng nói, râu ria nó cũng không phát triển. Sau đó một tin tức lưu truyền trong Trường An thành: thì ra đứa con trai cưng trong nhà quý tộc kia là một ‘Thiên yêm'3”. Hàn Ngạc ánh mắt bi thương dõi trông xa vời, gã biết kẻ nó kể đến là ai. “Thiên yêm tuy nói ra không đẹp đẽ gì, nhưng đó là cái mạng trời ban, cũng không mấy mất mặt. Đến khi thằng bé được mười ba tuổi, vì có bộ phận trên thân thể nhỏ hơn bình thường, Thái y cũng nói nó là Thiên yêm, do đó nó dễ dàng tiến cung. Nó vừa lanh lợi vừa thanh tú, thông minh đẹp mã, lại biết văn chương, hiểu chiết tự, ăn nói lưu loát khôn khéo, không phải bên cạnh Hoàng thượng đang thiếu một đứa như vậy sao? Hoàng thượng không thích bọn Thái giám thúi tha eo éo kia, cho dù chúng là những kẻ đặc biệt tạo ra cho ngài. Hài tử nọ vì vậy đã trở thành cận thần nhỏ tuổi nhất Hoàng cung và được ngài sủng ái nhất”. Hàn Ngạc nỗ lực điều chỉnh hô hấp, hơi hít vào sặc mùi thuốc pháo, gắng sức không để mình phát ra tiếng thở dài. Gã cảm thấy chuyện hài tử kia kể tuy nhất định là một chuyện vừa chân thực vừa đau xót, nhưng lại tựa như… một chuyện ngụ ngôn. Trần Quả Tử thốt khẽ: “Hài tử nọ thực lanh lợi, nó rất mau chóng học được đủ trò, biết chêm lời vui nhộn, cũng rành làm vừa lòng hậu cung, biết khi nào nên nghiêm chỉnh, lúc không nên nói thì tuyệt không nói. Vì vậy nó học được lộng quyền”. Mặt nó dâng hiện vẻ tươi sáng và ác độc kiểu con nít: “Những năm tháng đó, cũng cách đây chừng mười mấy năm, hài tử nọ nhất thời đã có thể quyền khuynh trong triều. Từ sau khi Dư Hoàng hậu qua đời, kẻ được sủng ái nhất trong cung cũng là nó. Nó cũng có thể giúp đỡ gia tộc của mình, tranh giành được biết bao lợi ích cho họ, thanh trừ biết bao kẻ địch!”. Trần Quả Tử mắt lộ vẻ buồn thảm: “Nhưng tiếng tăm của nó cũng đã quá vang vọng. Trong Trường An thành, già trẻ lớn bé đều biết tới nó. Dùng cái gọi là ‘trong sạch’ mà mưu cầu lợi ích riêng tư, nó đã trở thành một đứa con nít yêu dị trong lời đồn đại --- Giảo đồng phá lão4, đó là lời di huấn ngàn xưa. Cho nên trận công kích nhắm vào nó cũng đã bắt đầu”. Hắn biến sắc: “Tươi sáng chỉ nhất thời, làm sao dài lâu được5… vật đổi sao dời, lòng người biến chuyển mà! Huống hồ lúc đó Hoàng thượng cũng đã già. Chính trị nhà Hán xưa nay là vậy, nói thì nói Hoàng thượng nhất thống, thực ra bọn văn quan mới là chúa tể của thiên hạ này. Hoàng thượng dù có còn nhuệ khí, lăn lộn vài ba năm cũng dần dần tiết hết. Sau đó nào là đi cầu tiên học đạo, nào là đắm say tửu sắc, nào là tuổi già nghĩ tới kiến lập công trạng ghi danh thiên cổ, bệnh gì cũng có đủ. Thuở ấy chính là lúc Khương Nhung hưng thịnh trở lại, vừa mới quật khởi. Bọn đại thần túc trí đa mưu trong triều có ý định mới: tên đồng tử yêu dị kia mà lưu lại trong cung thì thực quá bại hoại chính quyền, biện pháp tốt nhất để đối phó Khương Nhung chẳng phải là đem đống bảo vật cùng tên yêu vật đó mà tống khứ đi một thể sao? Vừa khiến địch đẹp lòng, lại vừa làm ủy mị ý chí của địch. Đó thực là một kỳ mưu nhất cử lưỡng tiện”. “Tiểu hài nhi nọ khi đó cũng đã mười sáu mười bảy, thân thể thì một mực không tăng trưởng. Đầu óc cũng chẳng phải sáng suốt hoàn toàn, nếu đổi lại là bây giờ, có lẽ nó đã đủ thông minh để toan tính sao cho không phải đi. Song le vào lúc đó, nó thực khờ, có đánh chết cũng không tin Hoàng thượng sẽ dâng nó cho người Khương Nhung. Có điều Hoàng thượng không biết đi nghe lời kẻ nào, thực đã đẩy nó đi”. Mặt Trần Quả Tử chảy dài một dòng lệ, thanh âm của hắn chợt biến thành thê lương: “Khi đó nó thề: nếu đưa nó vào tay bọn Khương Nhung, trọn đời trọn kiếp này nó sẽ coi nhà Hán là kẻ địch, bắt thiên tử Đại Hán vĩnh viễn ăn không ngon ngủ không yên!”. Hắn chợt ngửa mặt lên: “Nó đã làm được, nó cơ hồ đã làm được! Nó có trí mưu, nó cũng có lắm tiểu xảo, lắm chỗ hữu dụng trong chính cục của người Khương Nhung. Nó cũng rành làm vừa lòng người. Nó nhắm vào Ô Tất Hãn khi ấy thế lực chẳng được là bao, nó lấy được lòng của Ô Tất Hãn. Nó muốn thực hiện cái mộng anh hùng của nó qua y. Nó vào sinh ra tử, đề xuất biết bao nhiêu là ý kiến giúp ích cho Ô Tất Hãn! Nó cũng trở thành một tên đồng tử yêu dị ở đất Khương Nhung. Cho nên Ô Tất Hãn mới tín nhiệm nó hết sức. Có lúc y biết rõ lời của nó có thể là nói láo, nhưng vì tình cảm hai bên, nên chưa bao giờ y vạch trần. Nó cũng không biết cảm giác của nó đối với Ô Tất Hãn ra sao, nó bội phục tôn kính y hay là khinh ghét y, thương y hay hận y? Nó mang trọn bản lãnh của nó đến vùng đất Man hoang này. Nó dốc sức quèn giúp Ô Tất Hãn đánh cho ra cơ nghiệp. Cách đây mấy năm, nó đã dựa dẫm oai phong của Ô Tất Hãn mà quấy nhiễu Biên Tái. Kẻ nào đắc tội với nó, nó vĩnh viễn không quên, nó phải bắt bọn đó trả một giá đắt, trả bằng máu! Nó đã làm được!”. Thanh âm của Trần Quả Tử vừa bi thương vừa nghèn nghẹn, tựa hồ kể đến mệt nhừ, thân người mềm nhão như một đứa bé. Hàn Ngạc chợt có cảm giác ngó nghiêng nó hơi giống Tiểu Kế --- Thực ra đâu có giống, nhưng không hiểu tại sao bộ dạng non nớt lại khiến cho gã liên tưởng đến Tiểu Kế. Trần Quả Tử chợt im lặng, xa xa vang lên tiếng tù và quái lạ, nó đứng bật dậy, gạt lệ thốt: “Ta chắc đã điên rồi, cố sự này ngươi vĩnh viễn không thể kể cho người thứ hai biết. Vĩnh vĩnh viễn viễn. Ngươi phải thề đó! Đại Hãn đang tìm ta, ta phải về trước”. Hàn Ngạc cũng đứng dậy, thấy hắn lên ngựa xoay đi, gã há miệng kêu: “Quả nhi!”. --- Tên của ta… tên của ta… Hồi nhỏ ta quen nghe cái tên đó, đã lâu lắm rồi không có ai gọi như vậy! Lời đó nghĩa là gì đây? Lời chiêu hồn bằng tiếng quê hương mẹ đẻ mà mấy chục năm trời xa xăm gian khổ đất người chẳng được dịp nghe? Lệ tuôn như mưa bấc, năm xưa hắn còn như một trái cây tươi non, giờ đây lại là một quả già để qua đêm nhũn nhão. Hắn ngoái đầu, tha thiết nhìn Hàn Ngạc: “Lời cuối của cố sự này, mãi cho đến gần đây nó mới nghe cái tên Hàn Ngạc, nó hối hận không được nghe sớm hơn. Thì ra đời người còn có thể có một lối sống khác… Nhưng… không phải ai ai cũng có dũng khí và vận khí như vậy. Cái ngươi thu hoạch được, bản thân ngươi phải biết trân trọng yêu quý đó”. Hàn Ngạc cảm thấy lòng thổn thức, nhìn thân hình gầy bé của Trần Quả Tử dong ngựa đi xa. Nhỏ nhắn, già nua, gã lại gọi, gọi về một hồn phách, không biết làm vậy cũng chỉ khiến cho thân còm kia tăng thêm phần thống khổ mà thôi. Không trung thoang thoảng mùi thuốc pháo, Hàn Ngạc chợt phát giác lồng ngực thư giãn hơn nhiều. --- Dược lực “Đồ Tô” đã được giải trừ rồi sao? Lẽ nào… mùi vị thuốc pháo nồng đậm thanh khiết kia là vật diệt trừ được dược tính của “Đồ Tô”? o0o Trướng của Khương Nhung vương rất dễ nhận ra, y chừng như là một người bản tính giản dị, có lẽ vì những khổ ải y từng trải có rất nhiều người chưa phải gặp qua. Hàn Ngạc hổm rày nghe loáng thoáng về xuất thân cực khổ của Khương Nhung vương, hình như còn từng làm nô lệ cho tộc khác nữa. Y với Trần Quả Tử đúng là một cặp có số khổ. Công lực của gã chưa hoàn toàn bình phục, nhưng gã biết không còn thời cơ nào khác nữa. Trần Quả Tử là một người hết sức tâm cơ, hắn kêu mình đốt pháo hoa nhất định không phải không có thâm ý. Gã không về gặp Phương Ninh, tự mình tốn công tốn sức lẻn lẩn đến bên trướng của Khương Nhung vương. Lúc đó đã quá nửa đêm, trong trướng không có ai khác, chỉ có hai tiếng hơi thở một nặng một nhẹ của hai người, rõ ràng là Khương Nhung vương và Trần Quả Tử. Hàn Ngạc hít sâu một hơi, sau đó đột ngột rút kiếm, một luồng kiếm phong rạch qua trướng, gã lách mình tiến vào. Khương Nhung vương phản ứng nhanh ghê, y vốn đang ngồi trên chăn da dê nói chuyện với Trần Quả Tử. Bên trong phừng phừng một ngọn đuốc, không khí ấm áp, Trần Quả Tử ở trần để lộ da thịt trắng nhợt như một đứa bé đã chết, cuộn nằm trong đệm lông. Phản ứng đầu tiên của Khương Nhung vương là xoay mình rút đao. Đao của y ở sát một bên, sau đó đôi mắt chằm chằm ngó mặt Hàn Ngạc vừa đột nhiên tiến vào. Hàn Ngạc vốn định vô tới là đánh liền, nhưng giờ nhìn thấy tư thế Khương Nhung vương cầm đao, thân hình gã bỗng về trạng thái tĩnh, lặng như nước đọng --- Sủng nhục bất kinh, tĩnh nhược chỉ thủy6. --- Khương Nhung vương là một hảo thủ dụng đao! Đao của y đâu có đặc biệt gì, xanh xanh, gỉ gỉ, nhưng đó tuyệt đối là một thanh đao tốt để sát nhân. Khương Nhung vương thân thủ e còn hơn cả Khách Đan Tam Sát! Giây phút đó thân hình của Hàn Ngạc và Khương Nhung vương đều như dừng sựng lại --- Không có hơi thở, họ không có thời gian để hít thở, đều biết chỉ nội trong vòng một chiêu là đã phán quyết xong sinh tử. Khương Nhung vương cũng chẳng kêu gọi hộ vệ ngoài trướng, sợ chỉ một sát na phân tâm thì Hàn Ngạc sẽ lập tức xuất kích. Trần Quả Tử bần thần ngồi dậy, lúc này chỉ có hắn là còn nhàn rỗi, hắn có thể kêu lên. Chỉ cần hắn la lên một tiếng, bọn hộ vệ cách sau lưng Hàn Ngạc trong gang tấc mà xông vào, công cuộc hành thích hôm nay tất phải thất bại. Hàn Ngạc khẩn trương chăm chăm nhìn Khương Nhung vương, chẳng còn tâm tư để lo lắng đến động tĩnh của Trần Quả Tử. Gã biết cái Khương Nhung vương muốn cũng chỉ là một sơ hở. Có kẽ hở, e sẽ lập tức: sủng nhục giai kinh, động như thoát thỏ!7. o0o Bàn tay của Trần Quả Tử còn giấu bên trong đệm lông, mặt mày thoạt xanh thoắt trắng. Hàn Ngạc và Khương Nhung vương đã sắp phát động, không khí trong trướng đè nặng, Trần Quả Tử bỗng há miệng. Hắn vừa há, Khương Nhung vương liền cảm thấy được. Bọn họ hợp tác hơn mười năm trời, y biết Trần Quả Tử sắp la lên, hộ vệ sắp ùa vào, y nên phát động trước. Chỉ cần giằng co một khắc, viện binh tới nơi, Hàn Ngạc nhất định bỏ mạng. Nhưng bàn tay của Trần Quả Tử nằm trong đệm lông đột nhiên huy động. Chính vào lúc Khương Nhung vương mới định rướn mình lao đánh, một thanh chủy thủ hừng xanh thọt ra khỏi đệm, đâm phập vào hậu tâm của Khương Nhung vương. Khương Nhung vương biết Trần Quả Tử thù hận chế độ nhà Hán sâu xa đến chừng nào, cho nên hoàn toàn không ngờ chiêu đánh của hắn. Y nổi giận chém ngược lại, đao đã kề sát trên cổ Trần Quả Tử. Hàn Ngạc đề kiếm muốn xông đến cứu, lại sợ nếu mình nhào tới, Khương Nhung vương mà hất tay chút xíu thì sẽ lấy mạng Trần Quả Tử. Mắt Trần Quả Tử đen nhánh tha thiết nhìn Khương Nhung vương, mắt của Ô Tất Hãn cũng trân trân ngó hắn --- Trọn đời y chém địch giết người vô số, nhưng một đao này đã chạm vào da thịt mà lại chùn tay. Trong trướng nhất thời nghẽn nghẹn, Khương Nhung vương chợt thở nặng, đao rơi rớt, thân lụn ngã. Trần Quả Tử lặng lẽ nhìn y, dang tay bắt lấy thanh đao trước khi nó kịp rớt thành tiếng, thẹn giọng: “Dù gì đi nữa, tôi vẫn là một người Hán. Tôi không thể để người hòa thân với nhà Hán, không thể để muội muội ruột thịt mà mình yêu thương nhất hồi nhỏ lại bị tống khứ đến đây. Nơi đây không phải là nơi nó nên đến”. Hắn vuốt ve lưỡi đao trên lưng Khương Nhung vương: “Lưỡi đao này là của phó tướng La Từ, thủ hạ của Tả Hiền vương. Đao có tẩm độc, cũng là loại độc Tả Hiền vương chuyên dùng lúc săn gấu. Người thấy đó, tôi đã trù tính biết bao nhiêu chuyện rồi? Trù tính giúp người trước đây, diệt trừ biết bao nhiêu là địch nhân, ngay cả cái chết của người cũng do tôi trù tính ra”. Hắn chợt ngước lên nhìn Hàn Ngạc, cười thốt: “Ngươi giết không được y đâu, y mới là đao thủ lanh lẹ nhất của người Khương Nhung. Trừ ta ra, không ai giết được y… Chỉ có ta mới có thể giết y… chẳng ai khác có thể!”. Răng hắn nghiến lên môi, chừng như cuối cùng đã trưởng thành, đã chín muồi. Thanh âm của hắn hết sức bình tĩnh, nhưng sâu kín trong ý lời lại là nửa khóc nửa cười: “Đao của phó tướng La Từ tẩm kịch độc đâm chết Đại Hãn, ta cũng chết dưới đao của chúng. Ngày mai Khương Nhung sẽ phải đại loạn, nội chiến tranh giành nhất định sẽ quyết liệt vô cùng. Có người phục thù, có kẻ tranh ngôi… Không ngờ chuyện cuối cùng ta làm lại là một chuyện ghi danh sử sách nhà Hán. Cuộc đời này của ta, cuối cùng cũng là một con chó chẳng nuôi được, cuối cùng cũng là một tên đồng tử yêu dị vô ân vô nghĩa… Ngươi đi đi, chuyện ở đây vĩnh viễn đừng nhắc đến với ai, vĩnh viễn… để ta bị chôn vùi trong lịch sử”. Môi hắn chợt hôn lên lưỡi đao tẩm độc còn lộ một nửa sau lưng Khương Nhung vương. Hàn Ngạc đã sớm đề phòng hắn muốn tự tử, nhưng làm sao ngờ hắn lại dùng cách đó. Gã chạy xộc tới, có điều chất độc kia thực quá mãnh liệt, nháy mắt sắc mặt của Trần Quả Tử đã xám xịt, hắn cười nói với Hàn Ngạc: “Khà khà, ngươi tính không bằng ta đâu. Nếu kiếp sau bọn ta làm huynh đệ, ta là đại ca --- Đừng thấy ngươi cao to mà tưởng, ngươi cũng chỉ xứng làm tiểu đệ thôi”. Tiếp đó ý thức mơ hồ, màu xám xịt dần dần tan biến khỏi gương mặt nhỏ bé, hiển lộ một màu trắng nhợt khó tả, chừng như nhận lầm Hàn Ngạc ra Ô Tất Hãn, bàn tay nhỏ của hắn giơ giơ muốn nắm lấy tay Hàn Ngạc: “Ô Tất… Ô Tất… đao của người cuối cùng vẫn không chém xuống… cho nên… tôi đi theo người… tôi đi theo người…”. Một làn gió đột nhiên thổi luồn qua chỗ trướng bị kiếm của Hàn Ngạc rạch, sắc bén như lưỡi dao, chặt đứt lời nói vẩn vơ kia, cũng chém đứt hết nhiệt khí trong tim Hàn Ngạc…
2 "Lộng thần" là bầy tôi đùa vui được bậc đế vương yêu thích. Từ "lộng thần" này do Hán Văn đế sáng chế ra. Kề cận Hán Văn đế có một đại thần tên gọi Đặng Thông, thời đó làm Thái trung đại phu, rất được Hán Văn đế yêu chuộng. Có một hôm, Thừa tướng Thân Đồ Gia vào triều, mà Đặng Thông lại đứng cạnh Hoàng thượng, cử chỉ ngạo mạn, mất hết lễ tiết. Thân Đồ Thừa tướng sau khi bẩm tấu sự vụ xong mới nói: "Bệ hạ sủng ái kẻ tôi thần thì có thể cho y giàu sang phú quý, còn về lễ nghi triều đình thì không thể không nghiêm túc". Hoàng thượng nói: "Ông khỏi cần nói, ta yêu thích y!". Sau khi thoái triều, về đến nhà, Thân Đồ Gia liền viết một đạo công văn triệu Đặng Thông đến phủ Thừa tướng. Đặng Thông không đến, Thân Đồ Gia chuẩn bị đem Đặng Thông ra xử tử. Đặng Thông biết chuyện lớn, vội chạy vào cung kể cho Hán Văn đế nghe, vua mới nói: "Ngươi an tâm mà đến, ta lập tức phái người triệu ngươi về". Đặng Thông đến phủ Thừa tướng, tháo mão đi chân trần khấu đầu tạ tội, còn Thân Đồ Gia vẫn ngồi yên bất động, cố ý không lấy lễ đối đãi, mở miệng mắng: "Đặng Thông ngươi dám có cử chỉ tùy tiện trước triều, thái độ ngạo mạn, đã phạm vào tội 'đại bất kính', đáng đem chém đầu!". Đặng Thông sợ đến mọp đầu. Thân Đồ Thừa tướng vẫn không chịu tha cho y. Văn đế tính toán thời điểm Thừa tướng đã hành hạ Đặng Thông đủ rồi, liền phái người trao thánh chỉ triệu hồi Đặng Thông, cho sứ giả nói với Thừa tướng: "Thử ngô lộng thần, quân thích chi" (Tên bầy tôi bỡn cợt này của ta, xin người thả cho). Đặng Thông nhờ vậy mới được tha về. 3 "Thiên yêm" ý nói nam tử cơ quan phát dục không toàn vẹn, không có năng lực sinh sản. Thiên yêm còn gọi là thiên hoạn, ý là nam tử thậm chí ngay khi còn trong thai đã thiếu sót tinh hoàn, hoặc là người âm dương không phải nam mà cũng chẳng phải nữ. Thiên yêm có tiếng bao gồm Hán Ai đế, Hán Vũ Dương hầu, đại tướng quân nhà Tùy Dương Ước, Thái úy nhà Tống Cao Cầu...4 “Giảo đồng” tức là thằng nhỏ giảo hoạt, là tên một bài trong sách “Thi Kinh”. Còn “phá lão” xuất xứ từ “mỹ nam phá lão” trong “Dật Chu thư – Vũ xưng giải”, nghĩa là dùng nam nhi trẻ trung sủng ái mà dèm pha phá hư người lão thành.5 Nguyên tác là hai câu “Khởi vô nhất thời hảo, bất cửu đương như hà” trong bài thơ “Nghĩ cổ kỳ thất” của Đào Uyên Minh. 6 Xem hồi 61. 7 Cũng xem hồi 61 phần “Sủng Nhục Kinh”.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 68 Vạn quốc quy tâm hữu nữ thần1
“ Triều đình không phải lo nữa, xin yên lòng vững bụng như bàn thạch; đã tru diệt Ô Tất, đã tạo thành thế nội loạn”. Đó là lời Đỗ Phương Ninh báo hỉ với Đông cung Thái tử. Lá thư mật tấu viết rất ngắn gọn mà mạnh bạo, Đỗ Phương Ninh hết sức đắc ý, đưa cho Hàn Ngạc xem. Hàn Ngạc lại im lặng một hồi mới thốt: “Khương Nhung vương không phải do ta giết”. “Vậy là ai?”. Đỗ Phương Ninh ngạc nhiên hỏi. Hàn Ngạc không đáp --- Gã đã hứa không nói, đâu thể nói ra. Trầm mặc một lúc lâu, gã mới thốt: “Lạc Dương Vi gia có cả chi nhánh trong Trường An thành? Năm xưa đưa Vi Quả Nhi nhập cung cũng đã qua sự thương lượng của các bậc trưởng bối hai nhà Vi Đỗ phải không?”. Gã vừa hỏi xong, Đỗ Phương Ninh chợt ngậm miệng. Từ khi rong ruổi tới vùng cực bắc, săn diệt Thiên Kiêu đến giờ, lần đầu tiên giữa hai người đột nhiên bốc dâng một không khí lạnh lẽo giá buốt như sương đông. Mặt Đỗ Phương Ninh trắng tái, còn mặt Hàn Ngạc lại một màu xanh dờn. o0o Mật thư để Lý Trường Thân mang về. Khương Nhung náo loạn, ai ai cũng cho rằng bộ hạ của Tả Hiền vương hành thích Ô Tất Hãn. Hữu Hiền vương cùng hai mươi mấy bộ tộc vì phục thù, vì tranh vị mà chém giết kịch liệt. Bên Thanh Thảo hồ thây phơi ngổn ngang. Hàn Ngạc chứng kiến cảnh binh đao đồ sát, lòng không khỏi cảm khái: lẽ nào… lẽ nào vì an ninh của nhà Hán, nhất định phải dùng thủ đoạn âm hiểm dồn hãm dân Khương Nhung vào kiếp nạn này? Đỗ Phương Ninh cũng biết nỗi u sầu của gã, nhưng nàng cũng không có cách nào khuyên giải, chỉ thốt: “Xong rồi, bọn ta đã thành công rồi”.Nhất tướng công thành vạn cốt khô2 --- Hàn Ngạc trầm mặc gật đầu, không nói gì hết, thân người toát ra một vẻ mệt nhọc mà Đỗ Phương Ninh từ lúc quen biết gã đến nay chưa từng thấy. Nhưng họ còn có nhiều đại sự phải làm. Đến khi hành sự, Hàn Ngạc vẫn tỏ ra hung mãnh như rồng như cọp, có điều sau đó lại càng trầm lặng. Trước hết họ đưa Lý Trường Thân đi suốt đêm hôm đó đến nơi an toàn để hồi triều phục mệnh. Sang sáng sớm hôm sau họ lại lợi dụng lúc người Khương Nhung đại loạn mà kéo bộ thuộc của Lý Trường Thân ra. Lý Trường Thân thoát nạn, có vẻ hết sức cảm kích hai người, lại được biết thân phận của họ, lòng càng thêm bội phục. Đưa hắn đi xong, Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh còn ở lại nửa tháng, âm thầm thăm dò tình thế Khương Nhung. Vị trí Tả Hiền vương tạm thời có người em ruột Đồ Túc lên thay thế. Thủ hạ của hắn binh cường tướng mạnh, nhưng Hữu Hiền vương hết sức giận dữ cho rằng chúng đã ám sát Khương Nhung vương, lập tức chống đối chúng hết mình. Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh một đêm còn tới gặp Hữu Hiền vương --- Hiện chính là thời cơ trà trộn vào nội loạn của Khương Nhung, không tốn một binh một tướng mà bình định được sự vụ Biên Tái. Không đầy vài ngày sau, các thế lực tụ tập quanh Thanh Thảo hồ đã bỏ đi hết: có kẻ không muốn hòa mình vào dòng đục; có kẻ lập tức kéo binh đi xa, im ỉm chờ xem biến chuyển; lại có kẻ co mình thủ thế chực chờ cơ hội. Nhất thời cục diện yên tĩnh đi, nhưng động loạn đã bắt đầu lú mầm. Lo xong mấy đại sự, Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh mới cất bước về Y Ngô. Đường về phảng phất ngắn quá. Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh đều biết chuyến quay về này có ý nghĩa gì đối với họ: rồng thiêng chịu trói, phượng báu lọt lồng. Nhưng để tạm thời bảo toàn vùng Mạc Bắc, còn có lắm sự vụ đợi chờ, bọn họ không thể không trở về đối phó. Trời rất lạnh, lạnh đến bừng cháy tình nồng, chút nhiệt tình đó cũng chỉ có thể co rúc trong cái trướng bé nhỏ. Bên ngoài là một mùa đông khắc nghiệt, thậm chí có khi khiến cho Hàn Ngạc cảm thấy ôm ấp nhau như vầy, co cuộn trong lòng nhau như vầy, trải qua một đời một kiếp cũng quá tốt đẹp. Nhưng… nhưng lòng họ lại chẳng phải như vậy. Trải qua những chuyện vừa rồi, Hàn Ngạc có cảm giác hết sức mệt mỏi, tim cũng chừng như già đi, lụn bại. Đỗ Phương Ninh lại hứng chí vô cùng. Nàng tuy không nói ra, nhưng cuộc săn Thiên Kiêu rõ ràng đã cho Đỗ gia và Vi gia của nàng thêm vốn liếng trên phương diện chính trị, nàng tuyệt đối không thể lãng phí được. Có một hôm nàng cười nói với Hàn Ngạc: “Một mình trấn biên cương, xả thân cùng kiếm báu3 --- Ngạc, bằng vào sự xả thân hành thích của chàng, soái trướng của Bắc đình Đô hộ phủ nhất định phải để chàng ngồi rồi”. Hàn Ngạc không nói gì, gã biết lòng nàng có cái trật tự của nàng, nàng rất muốn kết nạp mình vào cái trật tự đó. Sau đó, đối với nàng mà nói, mọi sự đều yên ổn. Đỗ Phương Ninh nàng nào có sợ yêu thương lén lút, đâu có khiếp tình cảm mù mờ, càng không lo lời đồn đại xấu xa, chẳng e dè cái gọi là đạo đức cao cả. Nàng chỉ cần… chỉ cần mình chịu nghe nàng sắp đặt, đi theo con đường nàng đã an bài. Phương Ninh theo mình xả thân liều chết, nói cho cùng, đàn bà con gái trên đời còn có ai chịu làm như vậy cùng mình chứ? Chừng như cũng nên thuận theo nàng, nhưng gã khống chế không chịu buông tuồng để con tim mình bị bắt giữ. Gã biết những trật tự kia tất nhiên phải tồn tại, cũng là cái tất nhiên cần phải có. Có điều một khi trở thành cần thiết, là phải có thỏa hiệp; mà hễ có thỏa hiệp, là phải chịu ô trọc. Gã làm sao có thể nhẫn nại cúi đầu cụp mắt cam tâm theo sở nguyện của nàng, dìm mình vào quan trường, thốt những lời mình không muốn thốt, làm những chuyện mình không muốn làm? Gã yêu nàng, nhưng nếu vì nàng mà đánh mất bản tính, làm trái lại con tim mình, vậy thì cả mình cũng không còn, làm sao còn cái gì để yêu nàng nữa? Đỗ Phương Ninh vẫn đang mặt mày tươi tắn nói chuyện đạo lý đời người với gã, nàng dịu dàng nỉ non: “Ngạc, tôi biết chàng là một nam nhân kiên cường. Con tim của nam nhân vĩnh viễn khát khao khai thác những vô biên vô hạn, vô cùng vô tận bên ngoài. Nhưng chàng khai hoang xong, cũng phải cho người ta sống với chứ, không thể không cúi đầu làm những chuyện vặt vãnh mà. Khoái lạc của đời người chẳng phải cũng ở những chuyện vặt vãnh đó sao? Kẻ làm chính trị, đâu phải chỉ liệu lường dục vọng của người khác, mà cũng phải toan tính dục vọng của bản thân. Cái tâm mong mỏi ngao du khắp xứ sở, tung hoành chốn hoang vu cũng đâu phải là đại kế cho cả đời cả kiếp. Cái tâm đó là cái không thể nào thực hiện được, vì không có điểm tựa quay trở về, không có điểm quy y. Nhân gian này đâu có hoàn mỹ, nhưng nó là nhà của tất cả mọi người chúng ta. Bất kể nhốn nháo lộn xộn đến đâu, ti tiện thô bỉ ích kỷ đến đâu, mọi người cũng đều không cách lìa được nó. Quy tắc từ ngàn xưa đến nay cố định ở đó, tổ tiên ông bà ta đã sớm nhìn thấu cái chữ ‘người', biết rằng họ chỉ có thể ôm ấp được những gì. Chàng đừng có những tưởng vứt bỏ cái thế giới hiện thực này mà một mình tạo ra một thế giới. Chàng có biết không, sự tự do mà chàng khát vọng là cái tản mạn buông tuồng không nơi nương tựa, nó khiến cho người ta cảm thấy hoảng sợ. Hãy trấn an cõi lòng mà sống qua ngày qua tháng đi. Tuy chàng khinh ghét, nhưng cuộc đời này chỉ có quyền danh, có lợi ích mới còn có thể giúp người ta cảm nhận được một chút thành tựu, một sự yên ổn bé bỏng. Hơn nữa…”. “Nhân thế này sao lại không tốt đẹp cho được, vẫn còn có tôi, còn có…”. Nàng ngước mắt: “Tôi yêu chàng”. Đó có lẽ là lời yếu mềm nhất mà nàng có thể để thoát ra. Trái tim gã không thể không cảm động, gã vòng tay ôm lấy nàng --- Gã cũng không phải không thích nhân thế này, nhưng… người đông lúc nhúc, dục vọng tràn trề, một khi mình hơi muốn bảo tồn cá tính, hơi phóng túng buông thả, là sẽ vô tình đụng chạm làm rạn vỡ biết bao nhiêu thứ. Gã không muốn vì sự chẳng e dè của mình mà phá hoại lối sống của người ta, cho nên gã mới trốn đời. Gã không thể giống như Phương Ninh, không thể vì bản thân mà nhất định toàn lực hạ thủ, bất kể giết chóc đâm chém, phàm ai là kẻ cản trở nàng là nàng đều trừ khử tiêu diệt không chút bứt rứt thẹn lòng. Nàng nói nàng thích nhân thế này, nhưng một khi không có gì trái nghịch với cái trật tự căn bản trong quan niệm đánh giá của nàng, nàng đâu có đặt bản thân vào đấy mà đoái nghĩ xót thương cho con người trong nhân thế đó. Cái tư tưởng gọi là “chán đời” của mình, thuở ban sơ thơ ấu vốn chỉ là ý niệm mềm yếu không muốn gây thương tổn cho cái thân thể bé nhỏ của bản thân, nhưng dần dần khôn lớn, phát hiện mình đủ kiên cường quả cảm, đủ năng lực đả thương người, cái gã không muốn làm tổn thương lại chỉ là người ta, không phải là bản thân mình. Gã không nói gì, vì gã biết những ngày tháng như vầy không có nhiều. Những giờ phút còn lại để khắng khít bên nhau này, gã đâu muốn đôi co với Phương Ninh. Nàng cảm nhận được sức lực của vòng tay ấy, nghĩ tới cái ngày đó, ngoài Cư Duyên thành, lúc mình nhìn thấy những sợi lông tơ óng ánh dương quang tàn lụi trên bắp tay săn chắc của gã, lòng sao lại chợt nảy sinh một nỗi xung động khao khát. Thứ cảm giác đó có phải là niềm yêu, khát vọng gần gũi nhau sinh sôi từ chốn nguyên thủy nhất? Nhưng… tươi sáng chỉ nhất thời, làm sao dài lâu được?4 Trần thế quá nhiều trở ngại, tâm tư vốn đã có trái nghịch, khát vọng thâm sâu đến đâu cũng chỉ có thể trở thành cái tươi sáng nhất thời thôi phải không? Hàn Ngạc không nói, nhưng nàng thấu hiểu --- Rèm mi nàng rũ thấp, như lá thông đêm lạnh, run run nhè nhẹ, không nghĩ ngợi gì nữa, yên lòng tạm thời phó mặc mình rúc vào lòng người đàn ông rắn chắc kia. Nếu quả trọn đời du mục miền Tái ngoại như vầy, chỉ có trời, đất, cỏ, nước, ngựa, dê, trướng, sữa… có phải sẽ tươi đẹp lắm không?... Không còn gì khác, chỉ có người và ta. Có lúc nửa đêm nàng vụt cảm thấy hơi thở của Hàn Ngạc vồ vập, nàng mở mắt, khẽ cuộn vào lòng gã, bàn tay gã vuốt ve da thịt nàng một cách nồng nàn mãnh liệt. Nàng nhìn vào mắt gã trong đêm tối, lều trướng hẹp hòi, trời đông giá buốt, ngọn lửa của gã đang thiêu đốt, từ đầu ngón tay thiêu vào tâm mạch, từ Vĩ Lư thiêu đến Dũng Tuyền, sau đó uốn co, bẻ vặn lên Bách Hội, hỗn loạn tâm can phế phủ, ngứa ngáy tim gan phèo phổi, khêu chọc xúc giác nhạy bén nhất, chẳng cam chịu trời đất tịch mịch này, chứng cầu cho sự tồn tại của một sự “sống”. Sau đó, núi băng nứt vỡ, giây phút tuyết lở, dốc bình cam lồ, rót dải Ngân Hà, rồi qua một hơi thở bất cứ cái gì cũng tĩnh tại. Đêm đông vốn không có chim chóc ríu rít côn trùng rỉ rả lại càng thêm im ắng, đồng hoang vốn chỉ có tuyết trắng nhờ nhờ mênh mang cũng chẳng còn tồn tại. Hai người hư hão giữa không gian thời gian bao la: vũ trụ bất động, dằng dặc không chốn nương tựa. Sau cơn nóng bỏng, linh hồn như gột rửa về buổi ban sơ non nớt cứ dập dờn phất phơ giữa cái bát ngát trống trơn đó. Khi ấy --- đúng là có cảm giác mình thực sự cần nhau. Nàng biết đó là phương thức Hàn Ngạc dùng để nói gã bỏ không được nàng, gã cần có nàng. Hàn Ngạc khi ấy không còn bay bổng nữa, không còn tư thế kiểu cách quen thuộc của gã nữa, mà chỉ có thể dập dờn phất phơ, như một cọng lông chim đã tách rời: thân thể hư không thành tinh linh, không còn chân, không còn cánh, chỉ có lông chim thẫn thờ… Nàng cuối cùng đã biết gã, ngoài cái tư thế vỗ cánh bay cao trước mặt người ta ra, còn có cái dập dờn phất phơ vô hình nữa. Nàng đã biết hình thái của gã ra sao khi đuối mệt không chốn nương nhờ. Thánh hiền của bao đời, công sức của bao thế hệ đã kiến dựng một mảnh đất vững chãi rộng lớn, sao chàng không dừng lại, hạ mình, sinh sống yên ổn? Từ khi ông Cổn trộm “Tức Nhưỡng”5, chàng không thấy đất đai trên thế gian này có quá nhiều, lầu các nhà cửa có quá nhiều đó sao? Chàng khao khát sự tản mạn buông tuồng trăm dòng rót vào Hoàng Hà6, cái thanh thế hoàn toàn vô định đó sao? Đỗ Phương Ninh căm hận sự lan man xa vời cơ hồ nhấn chìm nàng của gã. Nàng như một con chim hoàn hồn sau khi chết đuối, muốn tìm từng cành cây, từng viên đá, từng chút thực tại để san bằng nó, để lấp đầy nó. Nàng không muốn sự bầu bạn hiện tại. Nàng không muốn kiểu bầu bạn hiện giờ, đó rõ ràng là “lượn quanh ba vòng, biết đậu cành nào?”7. Nàng là một con chim Tinh Vệ8… nàng là một con chim Tinh Vệ… Ban đầu thấy biển cả mênh mông buông thả nàng cho rằng có thể tự do bơi đùa, một chút bất cẩn lại để mình chết đuối. Chỉ là một chút khác biệt trong sự cấu tạo sinh lý đó sao? Một chút dốc đổ của chàng có thể lấp đầy được ta sao? Chút chịu nhận của ta lại không có cách nào dung giữ sự kiêu ngạo của chàng? Tại sao chút tổn thất mất mát đó lại tạo thành sự hụt hẫng hư hão của chàng? Nữ nhân là sự chứng thực của “hữu”, vì ta có mang thai, có sinh đẻ; còn nam nhân các người cho dù có chút kiêu ngạo cứng cỏi trên mình, lại khó mà che đậy được sự tản mạn không tự kềm chế được của “vô”. Đỗ Phương Ninh tâm tư triền miên, sau đó, vừa oán lại vừa yêu, vừa ghét lại vừa mến, vòng tay ôm ấp Hàn Ngạc. o0o Nấn ná lần lữa, hơn một tháng sau, hai người mới về đến Y Ngô. Bắc đình Đô hộ phủ của Cổ Siêu Trác đã tạm thời dựng lên. Hai người vừa đến Y Ngô, Cổ Siêu Trác nghe tin liền sai người đến mời. Thịnh tình khó từ khước, hai người lấm lem bụi đường chưa kịp tắm rửa, bương bả lau mặt rồi đi phó hội. Triều đình đã lập biên chế Bắc đình Đô hộ. Trong Đô hộ phủ có rất nhiều quan viên được ủy nhiệm, toàn là từ Trường An đến. Hàn Ngạc đâu quen biết ai, nhưng thấy sau khi Đỗ Phương Ninh gặp họ, nàng tuy đang ăn mặc giả đàn ông mà vẫn có ý giữ khoảng cách với mình, chắc những người đó là người quen cũ của nàng --- Cho dù không quen, hai bên khẳng định cũng có biết nhau. Gã nhìn thần sắc của Đỗ Phương Ninh, đoán biết quan lại trong Bắc đình Đô hộ phủ đa số là môn hạ của Bộc Xạ Đường. Giữa họ và Đỗ Phương Ninh luôn gìn giữ một sự khách khí rất lãnh đạm --- Cũng phải, Đỗ Phương Ninh tuy hành sự ở Tái ngoại, lại đâu phải do triều đình giao trách nhiệm, mọi người cũng biết nàng là một nữ tử, hơn nữa đảng phái bất đồng, thực đâu thể thân thiết nồng hậu gì. Nhưng Cổ Siêu Trác đối với Hàn Ngạc thì lại hết sức nhiệt tình, chắc biết gã tuy có giao hảo với Phương Ninh, thực tế đâu phải một phe với Đông cung. Bộc Xạ Đường của hắn cho dù không thu nạp được con người này, ít ra cũng phải giữ một phần giao tình vậy. Trong bụng gõ bàn tính, bề ngoài lại giả lả nói cười. Sau khi vào chỗ, châm rượu, Cổ Siêu Trác nói: “Nhờ Hàn huynh thiết lập nền tảng cơ nghiệp, chuyện trù kiến Bắc đình Đô hộ phủ lần này của đệ thực quá thuận lợi, mấy tháng nay cũng chẳng có Khương Nhung quấy nhiễu. Chỉ là hơn mười ngày trước, phía bắc Y Ngô thành nghe thám mã về báo thình lình phát hiện kỵ binh của Tả Hiền vương, không biết là vì nguyên nhân gì đây. Đệ có ấn tượng Khương Nhung vương vốn đã phân vạch thế lực, một dải tây bắc này đáng lẽ là chỗ thế lực của Hữu Hiền vương bao trùm chứ”. Hàn Ngạc còn chưa mở miệng --- Gã vừa nhìn Cổ Siêu Trác là biết hắn đang suy đoán mục đích mình đột nhiên xuất hành mấy tháng rồi lại thình lình quay về. Trước khi gã đi tuy có ngồi nói chuyện với Cổ Siêu Trác, lại đâu có cho hắn biết tính toán của mình cho chuyến đi. Cổ Siêu Trác trong bụng chỉ cho rằng Hàn Ngạc thấy sự vụ Biên Tái ngày càng có lề lối hoàn chỉnh, triều đình lại phái người quen cũ đến, không tiện ở gần Đỗ Phương Ninh nữa, mà hắn cũng biết rõ tính tình vui thú vắng lặng của gã, nên gã mới đột nhiên treo mão mà đi. Nhưng vì để an lòng dân, hắn một mực không tiết lộ ra ngoài rằng Hàn Ngạc đã đi, càng không bẩm báo về triều, không muốn sự tranh đấu trong triều quấy quả tới sự ra đi của Hàn Ngạc, đó cũng có thể coi là chút tâm ý của một kẻ làm bằng hữu --- Lại nghe Đỗ Phương Ninh thản nhiên tiếp lời: “Đó là vì Tả Hiền vương hiện đã không còn chịu sự khống chế của Khương Nhung vương nữa, hơn nữa ngôi vị Tả Hiền vương đã thay người, là Đồ Túc, em ruột của tiền vương”. Mọi người cả kinh, ai ai cũng biết Khương Nhung vương Ô Tất Hãn hùng tài đại lược, mưu trí hơn người, sao Tả Hiền vương lại có thể thoát khỏi sự khống chế của y? Cổ Siêu Trác cũng giật mình, trầm ngâm: “Tin của Đỗ phó sứ từ đâu ra vậy? Có căn cứ không? Chuyện này rất to tát, không biết sao Tả Hiền vương lại đổi ngôi vậy? Sao lại thoát khỏi tầm khống chế của Khương Nhung vương?”. Đỗ Phương Ninh quét mắt ngó mặt mũi mọi người, điềm đạm thốt: “Lần này ta theo đuôi Hàn Tuyên phủ sứ, âm thầm lên đường thẳng tới Mạc Bắc, đến Thanh Thảo hồ nơi Khương Nhung vương triệu tập các bộ tộc và Tả Hữu Hiền vương để giải quyết hết những tranh giành hục hặc. Hàn Tuyên phủ sứ có kế sách bí mật, không muốn hô hào rầm rộ. Ngài bày mưu hành thích Khương Nhung vương, giải trừ nỗi lo cho Biên Tái --- Nếu Ô Tất Hãn chết, Khương Nhung tất sẽ có nội loạn. Mà Khương Nhung loạn lạc vốn chẳng ai khác ngoài Ô Tất Hãn có thể áp chế. Vì vậy chỉ cần Ô Tất Hãn chết, Khương Nhung sẽ không còn là mối âu lo nữa. Bọn ta vừa từ Thanh Thảo hồ về. Cho nên tin tức này là tin bọn ta đích thân dò thám được”. Nàng vừa dứt lời, mọi người kinh hãi, ngay cả Cổ Siêu Trác cũng phải thất kinh. Ai nấy đều chăm chăm ngó Hàn Ngạc và Đỗ Phương Ninh, thấy Hàn Ngạc im lặng không lên tiếng, tựa như không muốn tự khoe công, cũng chẳng biết cuộc mạo hiểm ám sát lần này của họ kết quả ra sao, vội ngó trân trân lên bờ môi đỏ thắm của Đỗ Phương Ninh chờ chực. Nàng cười thốt: “Kết quả là: Ô Tất Hãn đã bị diệt, Khương Nhung đã có nội loạn, chẳng thể nào dập tắt được; Tả Hữu Hiền vương công khai đối kháng nhau, Thanh Thảo hồ thây chất ngổn ngang; hai mươi mấy bộ tộc kia hoảng hốt như rắn không đầu. Vì Tả Hiền vương Đồ Túc thế mạnh, hơn nữa bản tính hung hãn khó trị, bọn ta đã có mật hội với Hữu Hiền vương, đính xong mật ước hai bên không can phạm nhau, âm thầm trợ giúp hắn chống đối Tả Hiền vương. Các vị đại nhân, Biên Tái tuy gian khó, chư vị hiện có thể an tâm rồi”. Ô Tất Hãn đã chết? Khương Nhung vương đã bị diệt? --- Quan viên hoảng kinh há hốc miệng. Cổ Siêu Trác vụt ngó sang Hàn Ngạc --- Trường Canh thực sắc bén hơn hết! Có thanh kiếm đó, thiên hạ còn ai dám tranh phong? Hàn Ngạc lại vẫn im lặng ngồi thừ ra. Cổ Siêu Trác chợt nâng chén, đứng dậy kính Hàn Ngạc: “Hàn huynh, tại hạ không còn lời gì để nói được! Huynh xả thân mạo hiểm, trải lắm khó khăn, không biết đã thành toàn cho biết bao nhiêu mạng sống của thiên hạ này, không biết đã tao ngộ bao nhiêu khổ nạn gian nan, đây, Cổ Siêu Trác ta kính huynh một chén!”. Nói xong, hắn ngửa cổ uống cạn. Gã vốn không quen xổ ngôn từ, nhưng có một câu của Cổ Siêu Trác cũng đủ rồi, ít ra có thể tránh tự trách mình đã dồn dân Khương Nhung vào tình thế dầu sôi lửa bỏng. Gã cũng cạn chén. Cổ Siêu Trác cười khà khà, lại nâng chén nói với Đỗ Phương Ninh: “Đỗ phó sứ quả nhiên cân quắc….”. Nói đến đó, hắn sực nhớ tới quy điều của người Hán cùng thể chế của triều đình --- Đỗ Phương Ninh giả trai, điều này đâu tiện vạch trần, liền cười cười ngậm miệng, lại ngửa cổ uống cạn. Họ tuy thuộc đảng phái khác biệt, bụng dạ nguýt lườm nhau, nhưng Cổ Siêu Trác con người thẳng thắn, lời nói chân thành. Đỗ Phương Ninh mỉm cười, liếc mắt ngó Hàn Ngạc. Nàng tuy hiếu cường, lại đâu có ý muốn tranh công với Hàn Ngạc. Lòng nàng bỗng nảy sinh niềm cảm khái --- Nếu… Ngạc gã là phu quân danh chính ngôn thuận của mình, mình lặn lội ngàn dặm theo chồng, lập nên công trạng, đối diện với sự ngưỡng mộ của chúng nhân, cảm giác ngút ngàn đó chắc hay biết mấy! Cơ hồ đây là lần đầu nàng sinh sôi ý niệm “xuất giá tòng phu”, nhưng… nàng thầm thở dài, uống cạn chén rượu, đem chút chua chát chôn vùi vào rượu cay. Đại sự này vừa tuyên bố, mọi người đều hân hoan. Cường địch đã mất, chúng nhân nhất thời quên đi ân oán ràng rịt giữa hai phe, cởi mở tươi vui hẳn. Đây là sự buông thả sau khi giải thoát khỏi cái ách sinh tử đè nặng lòng người. Đỗ Phương Ninh cười nói với Hàn Ngạc: “Hàn Tuyên phủ sứ, bọn ta truyền lệnh cho Tuyên phủ ty và đồng thời cậy Bắc đình Đô hộ phủ của Cổ huynh cùng đăng bảng ở nha môn tuyên cáo tin này đi, cho bá tánh mười lăm thành cùng vui mừng một phen”. Nàng cười he hé, hết sức ôn nhu. Hàn Ngạc lòng lâng lâng, gật gật đầu, cũng nở một nụ cười. Đỗ Phương Ninh biết lúc này chính là cơ hội dương uy lập danh, liền phân phó thủ hạ đi làm. Chẳng mấy chốc, nào là Y Ngô vương đến chúc mừng, nào là sứ giả của Bộc Ách Phi đang trong Y Ngô thành cũng đến, thêm vào sứ giả của không ít thành trì đang có mặt ở Y Ngô, ai ai cũng đến chúc tụng. Các quan lại và thương gia trong thành ai ai cũng ăn mừng, nhất thời toàn thành huyên náo rộn ràng, bá tánh bắt đầu rượu chè ca múa. --- Trèo lên xương trắng mà tươi cười, Hàn Ngạc cùng Cổ Siêu Trác ra đến ngưỡng cửa, Đỗ Phương Ninh cũng theo sau, Cổ Siêu Trác biết điều thoái qua một bên. Hai người thấy không khí hân hoan ăn mừng toàn thành, có cảm giác trận đánh mà mình xả thân liều mạng cũng không phải hão. Tâm ý tương thông, họ đưa mắt nhìn nhau mỉm cười, có điều quảng trường đông đúc quá, Hàn Ngạc chẳng thể nào siết nhẹ tay nàng. Tuy hiện giờ khoái lạc tràn đầy, họ lại có một cảm giác thiếu hụt trống trải rõ ràng mồn một, thấy bất lực làm sao. Hàn Ngạc không ưa ồn ào náo nhiệt, nhưng sau tiệc rượu, thiệp mời đưa đến có biết bao nhiêu mà kể cho xiết, sợ là phải yến ẩm không ngừng. Đỗ Phương Ninh một mình lo toan, có vẻ hết sức vui thú. Hàn Ngạc biết phen nhiệt náo này cũng chẳng thể nào tránh khỏi trong sách lược chính trị của triều đình nhà Hán đối với dân chúng mười lăm thành, khổ là gã không có lòng dạ nào để tham dự --- Mặt này chừng như còn có một nguyên nhân khác, bởi sự khoái lạc của gã đâu phải là sự khoái lạc của Đỗ Phương Ninh: sự khoái lạc của họ không giống nhau. Gã không muốn cảm nhận điểm đó, sau khi quay về tiếp đãi một số người đến chúc tụng, chưa kịp rửa ráy, gã đã nói với nàng: “Ta muốn đi xem Liên Thành Kỵ”. Đỗ Phương Ninh ngạc nhiên, mày mi thoáng nét sầu, nhưng chớp mắt đã mất dạng. Tính tình của nàng với Hàn Ngạc quá khác biệt. Trầm ngâm một lúc, nàng cũng không cản gã, gật gật đầu, sau đó cười tươi: “Đi cũng tốt, bọn ta đi vắng đã lâu, hồi nãy mới về tôi cũng không tiện hỏi. Bất quá theo sở liệu của tôi, e là Cổ Siêu Trác đã tốn không ít hơi sức muốn thu phục Liên Thành Kỵ về dưới trướng của hắn”. Nói xong, nàng ngước lên: “Có điều chàng về tới rồi, hà hà, tôi tin công phu của hắn phải bị hao phí hết”. Hàn Ngạc thẫn thờ nhìn nàng, lòng cũng biết lời nàng nói hơn nửa là thực, nhưng… Gã không muốn nghĩ xa nghĩ gần, cũng chẳng muốn phá hỏng sự hứng chí của Phương Ninh, cười trừ: “Nàng cho là ta có tài nghệ ghê gớm dữ vậy sao?”. Đỗ Phương Ninh liếc nhanh gã một cái, cảm thấy được tâm tư bàng hoàng hồi nãy của gã, lại cũng không muốn nhắc đến, cũng cười xòa: “Hàn Tuyên phủ sứ của bọn ta trăm trận trăm thắng, danh vọng trong quân khác gì thần linh, điều đó đâu phải thổi phồng”. Hai người tuy đang cười, lại cũng có cảm giác thời gian đồng tâm hiệp lực, tâm ý hòa hợp đã một đi không trở lại. o0o Hàn Ngạc phóng ngựa ra cửa thành. Vừa thoát khỏi chốn ồn ào, lòng dạ gã thoải mái hẳn. Lớn đầu đến chừng này, gã vẫn không quen nghe người ta tán tụng mình ngay trước mặt, cho dù đó là lời thành thực của họ. Con tim gã bay bổng, bởi sắp có thể gặp được… Tiểu Kế! Khoé môi gã hơi trề, không phát giác bản thân mình đang hé cười, lòng nghĩ: xú tiểu tử kia không biết cao lớn tới chừng nào rồi? Mình để lại thư từ biệt, chắc bị nó mắng thúi đầu phải không? Chắc nó lo cho mình lắm, biết bao nhiêu lâu rồi, không biết có lo rầu quá mà gầy đi không… Đầu gã suy nghĩ vẩn vơ, bất tri bất giác đã phóng suốt một đêm. Qua sáng sớm hôm sau, gã đã đến địa giới Thạch Bản Tỉnh, đã lấp ló lều trướng của Liên Thành Kỵ. Gã ngước nhìn, thấy giữa ánh bình minh le lói, xa xa bên vệ đường tựa hồ có một người dựa khuỷu tay trên thân ngựa đợi chờ. Thực ra vẫn chưa nhìn được rõ thân hình, nhưng ý niệm đầu tiên trong đầu gã là: Tiểu Kế. Gã cũng không biết có đoán đúng không, nhưng đã nảy ý muốn chọc phá Tiểu Kế, liền phi thân xuống ngựa, dẫn Ban Chuy rẽ qua một bên cho nó nằm xuống, còn gã thì đánh đường vòng sang bên đó. Gã rón rén thả bước, sắc trời còn lờ mờ, tới lúc còn cách khoảng trăm bước mới phát hiện người bên đường quả là Tiểu Kế. --- Nó đang đợi mình sao? Hàn Ngạc cười tủm tỉm, len lén tới sát nó. Dư Tiểu Kế trên lưng ngựa, rướn mình đưa tay che trên mắt dõi trông tới đằng trước. Chân chấm trên bàn đạp, nó giữ nguyên tư thế chẳng thư thả gì đó, bất động thực lâu. cuối cùng nó mới ngồi phệt xuống yên, miệng lẩm bẩm: “Hồi nãy hình như có nhìn thấy ngựa, sao lại biến mất vậy? Lẽ nào ta bị hoa mắt?”. Nó nói có vẻ thất vọng, buồn bực ngồi áo não, miệng cắn một cọng cỏ, một hồi sau mới lí nhí: “Ngạc ca sao mà tới nhanh như vậy được chứ. Trong thành còn không biết bao nhiêu là chuyện trói buộc…”. Khẩu khí của nó chán chường, Hàn Ngạc lần đầu nghe nó nói chuyện buồn rầu đến thế, lòng không khỏi đau xót. Gã ngắt một cọng cỏ đọng tuyết, sau đó nhẹ nhàng lách sang, chọt nhẹ sau ót Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế thất kinh xoay mình, quát lớn: “Ai?”. Hàn Ngạc tới khi nó quay đầu thì đã chui xuống bụng ngựa. Dư Tiểu Kế không nhìn thấy gã, còn cho là mình lầm lẫn.
1 Các nước thần phục nhờ có nữ thần. Ở đây Tiểu Đoạn sửa một chữ trong câu “Vạn quốc quy tâm hữu lão thần” (trấn an các nước bởi tôi trung), là câu tiếp theo câu “Lưỡng cung vô sự an bàn thạch” trong bài thơ “Đồng Tử Chiêm hòa Triệu bá sung đoàn luyện” của Hoàng Đình Kiên (xem chú thích {1} hồi 67). 2 Một ông tướng nên công trạng là đã nhờ vào sự hy sinh của hàng vạn sinh mạng, là câu trong bài thơ “Kỷ Hợi tuế nhị thủ” của Tào Tùng. 3 Là hai câu "Độc lập Tam Biên tĩnh, khinh sinh nhất kiếm tri" trong bài "Tống Lý trung thừa quy Hán Dương biệt nghiệp" của Lưu Trường Khanh. 4 Xem chú thích {5} hồi 67. 5 Có sách ghi Ông Cổn là cháu của Hoàng Đế, cũng có thể coi là dòng dõi danh môn. Thuở ấy đột nhiên xảy ra một trận hồng thủy ghê gớm, con người sinh sống hết sức gian nan, ngay cả Hoàng Đế và Nghiêu, Thuấn cũng không có cách chống. Theo sử ký, ông Cổn là được một đại thần tên là Ngũ Nhạc tiến cử, lúc đó ông Nghiêu không mấy để ý tới, nhưng do không có nhân tuyển thích hợp nên ông Nghiêu vẫn phải dùng ông Cổn. Truyền thuyết khác thì nói ông Cổn không phải là bầy tôi của ông Nghiêu, mà là chúa thần trên trời hạ giới để giúp người, tuy không có sự cho phép của Thiên Đế. Không những vậy, trước khi hạ giới, ông Cổn còn trộm luôn một bảo bối của Thiên Đế. Bảo bối đó có tên Tức Nhưỡng, nghe nói là một thứ đất thần có thể tự sinh trưởng. Ông muốn dùng nó để ngăn nước. Đọc "Thiên vấn" của Khuất Nguyên, có thể thấy ông Cổn trị thủy sắp thành công, đến giờ phút then chốt, Thiên Đế phát hiện hành vi của ông, nổi trận lôi đình, phái Hỏa thần Chúc Dung xuống đánh chết ông ở Vũ Sơn, thu hồi Tức Nhưỡng, cuối cùng đã khiến cho sự trị thủy của ông thất bại. Nhưng ông đã để lại một người kế thừa, chính là nhân vật anh hùng thời thượng cổ của Trung Quốc - Đại Vũ, mà chính ông Vũ đã thành công trong công cuộc trị thủy. 6 Nguyên tác là “bách xuyên quán Hà”, xuất xứ từ sách “Trang Tử - Thu thủy”. 7 Nguyên tác là “Nhiễu thụ tam táp, hà chi khả y?”, hai câu thơ trong bài “Đoản ca hành” của Tào Tháo. 8 Sách "Sơn hải kinh - Bắc sơn kinh" có viết: "Có một tòa núi tên là Phát Cưu sơn, bên trên có lắm cây chá. Có một loài chim hình dạng như con quạ, đầu có hoa văn, mỏ trắng, chân đỏ, tên gọi Tinh Vệ, tiếng kêu của nó như tự gọi tên nó. Tương truyền loài chim đó là hóa thân của Nữ Oa, con gái Viêm Đế. Có một lần Nữ Oa bơi lội ở Đông Hải, bị chết đuối, hóa làm chim Tinh Vệ, đi ngậm cành cây và viên đá trên Tây Sơn đem ra lấp biển Đông. Sông Trọc Chương là bắt nguồn từ Phát Cưu sơn, chảy ra hướng đông, rót vào Hoàng Hà”.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 69 Nhất khứ tử đài liên sóc mạc1
Hôm n ọ Hàn Ngạc nhận được một phong thư. Xem xong, gã nói với Dư Tiểu Kế: “Tiểu Kế, hai ngày nữa theo ta về Cư Duyên một chuyến”. Dư Tiểu Kế đang chơi đùa khoái trá với gã ở Thạch Bản Tỉnh, nghe vậy xụ mặt: “Về Cư Duyên làm gì?”. Lại thấy phong thư trong tay Hàn Ngạc, liền hỏi: “Ai viết vậy?”. Hàn Ngạc cười đáp: “Đi về để gặp Bộc Ách Phi từng sững sờ vì bộ mặt đẹp trai của ngươi đó, là thư của nàng ta”. Tiểu Kế chu mỏ, ghé mắt xem tên trên phong thư, quả nhiên là Bộc Ách Phi. Nó thuận thế xem luôn nội dung, rụt đầu cười nói: “Ái chà, Ngạc ca, kỳ này thiệt là không hay cho huynh rồi! Người ta mới góa bụa, lại muốn huynh bí mật quay về Cư Duyên thành một chuyến, còn hẹn gặp đêm hôm khuya khoắt. Khặc khặc, vụ này coi mòi phải có gì đây. Huynh dẫn tôi theo làm gì? Tôi đâu có muốn quấy nhiễu để bị người ta ghét bỏ đâu”. Hàn Ngạc thầm thở dài: tiểu tử này càng lúc càng láu cá. Từ khi gã về đến, cảm giác gần gũi với Tiểu Kế không còn kiểu người anh lớn với đứa em trai nhỏ bé nữa, mà giống như sống cùng với một tiểu tử thành niên. Cả hai đều là trai trẻ, Tiểu Kế thường quấy phá châm chọc mà gã tức cũng không thể, giận cũng không xong. Hàn Ngạc ngó lên ngó xuống Tiểu Kế, năm nay nó bao nhiêu tuổi rồi? Tuổi đời cũng chỉ hơn mười lăm thôi mà, sao lúc trước bé xíu mà thoáng chốc đã vọt cao đến thế, cứ giống như thiếu niên mười bảy, mười tám vậy? Lòng gã nhớ tới lúc mới gặp Tiểu Kế, cái bộ dạng tinh quái lấm lem bé tí của nó, khoé môi không khỏi mỉm cười. Gã biết Bộc Ách Phi lần này vời gã về chắc là muốn kể bí ẩn thân thế của Tiểu Kế: “Là vì nàng ta kiếm ta, cho nên mới kêu ngươi đi theo về đó chứ”. Dư Tiểu Kế ưỡn ngực: “Tôi hiểu rồi, Ngạc ca --- Huynh sợ thanh danh một đời bị hủy trong phút chốc, lọt vào tay một người đàn bà, bị… âm mưu quỷ kế của ả ta… làm ô uế tấm thân thanh bạch của huynh. Huynh muốn tôi theo huynh để bảo vệ trinh tiết của huynh. Không thành vấn đề, một thế gian, hai huynh đệ, đi thì đi”. Hàn Ngạc bị nó chọc đâm tức cười, phất tay lấy lá thư “quất” cho nó một cái: “Ngươi làm sao mà bảo vệ được ta? Nếu thực như ngươi nói, ngươi chắc đem thân ra thay thế à?”. Gã liếc lên liếc xuống nó: “Cũng không biết ngươi có thực sự trưởng thành chưa. Trên mép còn mấy cọng lông măng mà bày đặt học đòi à?”. o0o Phải bảy ngày sau mới tới ngày hẹn. Chắc Bộc Ách Phi biết Hàn Ngạc bận bịu, cố gắng trì hoãn đôi phần. Dư Tiểu Kế trước đó có nói muốn dẫn Hàn Ngạc đến Phong Tuyết Khanh gần đó xem chơi. Theo nó thì cảnh tuyết ở đó cực kỳ đẹp mắt, vì vậy vừa sáng sớm đã dẫn dụ Hàn Ngạc động thân. Hàn Ngạc có chút giờ rảnh, liền nghe theo nó. Gã đến Tái ngoại này tuy đã hơn một năm, nhưng nhiệm vụ chất chồng, đâu có ra ngoài du ngoạn. Phong Tuyết Khanh lại không nằm trên con đường về Cư Duyên, họ phải đi vòng ra xa. Có một tên ham chơi như Tiểu Kế làm bạn, dọc đường Hàn Ngạc thường hay cười nói. Phong Tuyết Khanh nằm ở phía tây nam Thạch Bản Tỉnh, là một thung lũng tuyết rất lớn. Thực ra hai bên đâu có núi, chỉ là hai triền dốc trải dài chừng mấy dặm, nơi ở giữa trũng xuống là Phong Tuyết Khanh. Hàn Ngạc cùng Tiểu Kế đến nơi thì đã về đêm, hai người cũng không dựng lều trướng, cưỡi ngựa đã mệt, nằm ngửa trên tuyết nhìn sao giăng đầy trời. Bầu trời trong ngần sâu thẳm như dán vào mặt người, sao nhấp nháy lung linh tựa hồ chỉ cần thò tay ra là có thể bắt được. Tuyết bên dưới mình trải dài ngàn vạn dặm, chẳng buốt lạnh mà lại cho người ta một cảm giác mềm dịu như bông . Nằm ngửa như vậy, họ cảm thấy mình không khác gì thần tiên. Bao nhiêu vẩn đục trong lòng như đã được tẩy sạch, Hàn Ngạc tán thán: “Đẹp quá”. Lời nói thoát khỏi miệng như muốn bay lên biến thành sao trời lấp lánh ngó xuống mình, thực chẳng dám cất tiếng bâng quơ vô vị. Tiểu Kế im lặng nằm, Hàn Ngạc nhẹ giọng: “Sao kiếm được chỗ này vậy?”. Dư Tiểu Kế đáp: “Có lúc muốn yên tĩnh một mình --- Người muốn yên tĩnh luôn có thể kiếm được nơi yên tĩnh”. Hàn Ngạc ngoái đầu nhìn mặt nó, thấy cái sống mũi đã cao lại càng thêm cao, cái cằm nhọn nhọn lấm tấm râu tơ, làn hơi trăng trắng phà khỏi lỗ mũi lượn lờ, lờn lợt như dải Ngân Hà. Hai người lặng lẽ nằm đó, có cảm giác tâm thần bình tịnh hẳn --- Cảnh vật tự nhiên, ngóng gió ngắm sương thường giúp người ta lắng đọng cõi lòng, quên đi thực tại. Bên ngoài nhân gian vốn còn có cái khoái lạc nằm trông sao trời. o0o Sang hôm sau, trời còn chưa sáng rõ Dư Tiểu Kế đánh thức Hàn Ngạc. Gã nửa tỉnh nửa mê hỏi: “Sao thức sớm vậy chứ?”. Dư Tiểu Kế chắc đã dùng tuyết rửa mặt, tinh thần tươi tỉnh ghê, vội thốt: “Mau lên, Ngạc ca, trễ là không nhìn thấy đó!”. Nói xong nó vốc một nắm tuyết chà lên mặt Hàn Ngạc, khiến cho gã sực tỉnh hẳn. Hàn Ngạc ngẩn ngơ đứng dậy, chỉnh sửa y phục, Tiểu Kế lại đã kéo gã chạy nhanh. Hai người chạy tới cốc khẩu phía nam, thấy trời xanh hút, tinh quang sáng ngời, gió ban mai đang lùa qua cốc đạo sâu kín, phát tiếng hù hụ. Tiểu Kế nói: “Tôi đã nhờ người ta tính giùm, sáng sớm hôm nay nhất định có gió lớn”. Nói xong, họ đứng sừng sững đón gió, mày mi phất phơ. Tiểu Kế lại nói: “Ngạc ca, tôi tìm thấy nơi này mới biết tại sao huynh muốn khổ tu võ nghệ. Bởi vì chỉ có như vậy mới có thể viễn hành ra khỏi đời, một mình giữa chốn hoang dã, đối diện với đất trời rộng lớn”. “--- Trời đất… thực là đẹp!”. Nó chợt tán thán. Theo tiếng nói của nó, một điểm sáng le lói xuất hiện trên trời. Sau đó, ánh sáng nhờn nhợt như bụng cá chết đượm nhuốm lên màn trời sâu thẳm. Những vì sao chớp nháy, như muốn rung phủi hết hào quang còn lại của đêm qua, đi về ngơi nghỉ. Tiếp đó, băng tuyết cuốn theo trận gió phủ lên tóc tai mặt mũi hai người. Rồi phong cảnh kỳ diệu xuất hiện: tuyết trong cốc đột nhiên bay liệng, trắng mênh mang, chẳng tụ thành mảng mà từng hạt từng hạt múa lượn trong bóng mờ, tản tản mạn mạn, bay bổng theo gió, bao trùm khắp cốc. Hàn Ngạc thẫn thờ há hốc miệng. Gió luồn vào bụng gã, tựa hồ thổi xuyên qua thân người gã. Gã nắm tay Tiểu Kế, có cảm giác đứng đây đâu còn là đứng ở nhân gian nữa, cũng không phải trên trời, mà là hư hư ảo ảo… Ngũ lâu thập nhị thành, thiên thượng bạch ngọc kinh2đều hư hóa thành tuyết trong chớp mắt, lất phất lan man trong lòng người ý tưởng thần tiên. Kỳ cảnh này gã chưa từng trải. Giữa gió lộng, mọi thứ đều động: màu trắng miên man, màu xanh hun hút, tuyết, sao… như dòng sông trôi mình bên cạnh họ. Chỉ có họ là vật tĩnh, đứng giữa những bập bềnh, vượt ngoài thế sự. Hàn Ngạc lại hít một hơi sâu, tâm can phế phủ tràn ngập một niềm cảm động khôn tả. Quần áo Tiểu Kế tung bay phần phật, nó hỏi Hàn Ngạc: “Ngạc ca, huynh nghĩ gì vậy?”. Hàn Ngạc lặng lẽ ngắm băng tuyết sao trời tẩy sạch mọi ý niệm trần tục của mình, miệng thốt: “Động”. “Còn có… vĩnh hằng”. Vĩnh viễn xa đến cỡ nào?... Muốn xa bao nhiêu thì xa bấy nhiêu… Nếu quả những xanh hút, trắng xóa kia đều lưu động như ảo huyễn, những ngôi sao hạt tuyết kia đều phất phơ không bờ bến, tất cả đều bồng bềnh phù phiếm như con thuyền không trói buộc, tại sao mình còn nghĩ đến “vĩnh viễn”? Gió tựa hồ dừng lại, tuyết và sao đều lặng im. Xanh hút --- xanh hút đến đứng sựng, trắng hão --- trắng hão đến bàng hoàng, mê ly hoảng hốt --- hoảng hốt đến mất hết khống chế, còn gì có thể đúc kết lại được chứ? Gã cúi đầu, đá núi nhấp nhô như răng thú xung quanh mình. o0o Hàn Ngạc ngáp một tiếng thườn thượt, Dư Tiểu Kế ngoái lại ngó gã: “Cưỡi ngựa mà còn buồn ngủ nữa. Ngạc ca, hiện giờ tinh thần của huynh thực xấu đó”. Hàn Ngạc cười nói: “Ngạc ca của ngươi già rồi, làm sao mà bì được ngươi đang tuổi thiếu niên tươi tắn”. Bọn họ đã đi khỏi Phong Tuyết Khanh được hơn một canh giờ. Lúc ra đi, trời đã sắp sáng rõ. Hàn Ngạc không muốn chứng kiến cảnh vật thực tại dưới ánh mặt trời bắt đầu phá hoại trải nghiệm như mộng du kia, cho nên giục Tiểu Kế rời đi sớm một chút. Tiểu Kế có vẻ minh bạch cảm nhận của gã, không lôi kéo gì. Hàn Ngạc trước khi đi có nhớ đến một câu còn hằn sâu trong ký ức của gã: “Nơi này quá hoang lạnh, không thể ở lâu, cứ ghi nhớ tình cảnh rồi ra đi”3. Câu đó hình như là lời của Liễu Tông Nguyên, ẩn hàm sự thấu hiểu cùng ý vị ưu thương bên dưới sự thấu hiểu đó, mỗi lần thể hội lại, vẫn cảm thấy có nét mới lạ. Câu trước đó hình như là: “… Cá trong đầm đại khái có cả trăm con, dời chuyển như chơi vơi giữa không trung chẳng cần nương tựa, ánh mặt trời rọi xuống đáy nước, ánh bóng cá lên đá…”4. Hàn Ngạc nhắm mắt trầm tư… Có lẽ… cảnh giới mà đời mình trông về là sự “dời chuyển như chơi vơi giữa không trung chẳng cần nương tựa” vừa ấm áp lại vừa cách lìa phải không? Thứ cảnh ngộ đó gã cũng đã từng ngẫu nhiên trải qua, nhưng cuối cùng vẫn không qua được “nơi này quá hoang lạnh, không thể ở lâu, cứ ghi nhớ tình cảnh rồi ra đi”. “Ghi nhớ” là sao đây? Có phải là một khắc tĩnh lặng sau khi trải qua ba sinh, quy chứng nhân quả?... Gã đang nghĩ ngợi triền miên, đột nhiên Tiểu Kế cảnh báo: “Có người!”. Tiếp đó lại nghe Tiểu Kế nói: “Là hai cao thủ, cao thủ bị thương”. Hàn Ngạc mở mắt, gã biết công phu của Tiểu Kế không còn thuộc hạng tầm thường, nhãn quang cao cường, kẻ có thể được nó gọi là “cao thủ” e trên đời chẳng có mấy ai. Gã ngước lên nhìn, thấy Tiểu Kế nói không sai, đằng trước cách chừng hai ba dặm đang có hai người cưỡi chung một con ngựa, bộ dạng tơi tả chật vật chạy sang bên này. Hai người kia chừng như đã trông thấy họ, liền quất ngựa lao đến. Dư Tiểu Kế khịt mũi hừ một tiếng: “Không phải người tốt, chúng muốn cướp ngựa của bọn ta”. Hàn Ngạc đã thấy thái độ khẩn trương của hai người kia, xem chừng Tiểu Kế nói đúng. Gã lại thấy Dư Tiểu Kế tay siết chuôi đao, không khỏi cười thầm: thằng bé coi bộ biết nghe lời mình, chẳng chịu chủ động gây sự. Có điều tính tình khoái náo nhiệt như nó sao lại kềm chế nhẫn nại được chứ? Đáng lẽ sợ không có ai đến gây hấn với mình mới phải chứ. Hiện giờ mà xuất thủ thì Hàn Ngạc cũng đâu có trách được. Nhưng thần khí trẻ nít mới thoáng qua mặt Dư Tiểu Kế thì quả gã đã có thấy trước đây. Hàn Ngạc ngó nó, gò cương cười tủm tỉm. Dư Tiểu Kế cũng ghìm ngựa, đợi hai người kia đến gần hơn rồi nói: “Ngạc ca, lát nữa huynh đừng xuất thủ”. Nó như muốn biểu diễn thủ đoạn trước mặt Ngạc ca của nó. Hàn Ngạc máy động tâm tư, mỉm cười thốt: “Để ngươi đó, có điều đừng ra tay ác quá. Chắc chỉ là tình thế bắt buộc, không phải là hạng tàn độc chẳng thể dung tha”. Khoé môi Dư Tiểu Kế hé lộ một nụ cười, tựa hồ đang giễu gã quá là “Đường tăng”. Nó biết có Hàn Ngạc kề cận thì phải chịu câu thúc, liền giật cương vọt lên. Hàn Ngạc cũng hiểu ý nó, lại cứ để mặc nó, dừng ngựa đứng xa xa nhìn. Ngựa của Tiểu Kế lẹ chân, còn ngựa của hai người bên kia đã mệt nhừ, Tiểu Kế phải phóng đến hơn hai dặm mới đối mặt với chúng. Hàn Ngạc còn định coi Tiểu Kế xuất thủ thế nào, đột nhiên mặt mày biến sắc, quát lên: “Đại Mạc vương!”. Gã khẩn trương lo lắng, hai chân ép vào hông ngựa, Ban Chuy từ lâu đã thông thạo tâm ý của gã, co chân vọt đi, như làn chớp phóng theo. Hàn Ngạc sợ chậm trễ Tiểu Kế sẽ dính độc thủ, miệng thét: “Tiểu Kế!”. Tiếng thét của gã vang ngút ngàn, truyền vọng giữa đồng tuyết hết sức oai phong lẫm liệt: gã muốn Đại Mạc vương biết gã có mặt, chẳng dám hạ sát thủ! --- Gã đang hối hận sao nhất thời cẩu thả, để Tiểu Kế một mình lọt vào cục diện hiểm ác này! Vì vậy hai tiếng kêu tràn trề sát khí. Hai người bên kia quả nhiên là Đại Mạc vương Mạc Thất và Mạc Vong. Chúng vừa đến gần Tiểu Kế đã định xuất thủ. Nào ngờ nghe tiếng quát của Hàn Ngạc, chúng ngẩng nhìn cũng đã nhận ra là gã. Thanh âm có tính uy hiếp nặng nề --- Hàn Ngạc xưa nay trầm tính, bọn Đại Mạc vương mấy lần đối diện với gã mà chưa khi nào thấy gã ra oai như vậy, giọng điệu rõ ràng là muốn bày tỏ chỉ cần mình động đến thiếu niên đằng trước, gã dù có lặn lội chân trời góc biển cũng chẳng buông tha cho mình. Hai người ngẩn ngơ, Tiểu Kế cũng đã nghe tiếng thét, cảnh giác kéo đầu ngựa thoái lùi ra mười mấy trượng. Hàn Ngạc phóng cực nhanh, nháy mắt đã đứng sóng vai với nó. Gã lạnh lùng nhìn Mạc Thất và Mạc Vong, đến giờ mới yên dạ. Dư Tiểu Kế cũng đã nghe danh Đại Mạc vương từ lâu, mặt mày cũng khẩn trương đến tái mét. Nhưng đâu phải nó sợ, ngó lên ngó xuống Đại Mạc vương, nó thực không hiểu hai người lừng danh giang hồ đến thế mà sao lại có bộ dạng khốn cùng như vậy. Mạc Thất trước đây đã mất một cánh tay, bây giờ mặt mày vàng nghệch, hơi thở hì hục, mình mẩy loang lổ vết sậm, rõ ràng đã trọng thương. Mạc Vong cũng chẳng tốt đẹp gì mấy, toàn thân tắm máu, máu đã đông thành băng, bám cứng trên y phục mày mi râu ria, thực thảm hại khôn cùng. Hàn Ngạc bần thần, gã không ngờ chúng lại ra nông nỗi này. Mạc Vong mất cả mũ, đầu tóc bạc phơ lòa xòa trong gió, chừng như đã lâu không rửa ráy, thực là thê lương hết sức nói. Hàn Ngạc buồn thầm: hai người này tung hoành Tái ngoại, làm chúa một cõi, hôm nay sao lại lọt vào hạ trường như vầy? Mạc Thất đã nửa tỉnh nửa mê, thấy Hàn Ngạc thì càng hoảng kinh, gần như xỉu luôn. Mạc Vong cười một tiếng thảm thiết: “Thực là vận khứ bất phùng Thanh Hải mã5 mà! Khí số của hai lão đầu bọn ta xem ra tiêu rồi, tiêu hết rồi!”. Ba tiếng “tiêu hết rồi” cơ hồ là gào than, thê lương đến cùng cực. Hàn Ngạc không khỏi thương tình, lại thấy con ngựa của họ đã quá mệt mỏi, không còn xốc chở trọng lượng của hai người được nữa cho nên khuỵu chân muốn quỵ. Mạc Vong không đánh mất bản sắc hung hãn, rút đao rạch lên cổ nó --- Lão định kích thích chút thể lực cuối cùng của nó. Nhưng con ngựa chẳng còn chịu đựng được nữa, hí thảm một tiếng rồi ngã nhào tại đương trường. Hai đại cao thủ hoàn toàn không phòng bị, cho nên loạng choạng lăn xuống. Mạc Vong nổi giận, chống dậy thốt: “Loài súc sinh, xưa nay chăm lo cho ngươi thực vô ích mà”. Mạc Thất lại tỉnh táo, nhãn quang lộ vẻ động lòng trắc ẩn, nhìn con ngựa thốt: “Lão nhị, để nó đi đi, nó đã tận lực rồi”. Sau đó lão ta ngoái đầu nhìn sang Hàn Ngạc: “Sao, Hàn Tuyên phủ sứ, hai lão đầu tử ta hiện đã tán gia bại sản rồi. Ngươi có muốn tiện tay lấy luôn mạng của bọn ta không?”. Chẳng hiểu sao tuy biết rõ hai người kia xưa nay đâu có thương tiếc ai, nhưng trong lòng Hàn Ngạc vẫn có chút bất nhẫn. Một hồi sau gã lắc lắc đầu: “Bọn ta chỉ là ngẫu nhiên đụng đầu thôi, nếu các ngươi sau này không can phạm vào quy điều Biên Tái, ta dĩ nhiên để các ngươi đi”. Mạc Thất cười thảm: “Để bọn ta đi? Chắc ngươi cũng nhận ra hai lão ca đây đâu còn chỗ đi chứ?”. Mạc Vong còn chưa dứt bỏ thái độ bạo hung, nóng nảy thốt: “Người còn giả nhân giả nghĩa gì nữa, lão đại, ta ẳm ngươi đi!”. Nói xong lão bồng Mạc Thất lên, loạng choạng lầm lũi bỏ đi. Dư Tiểu Kế nhìn dấu chân xiên xẹo dần khuất, xúc động thoắt giật cái túi da giắt bên yên ngựa quăng về phía Mạc Vong. Mạc Vong hổ có ngã cũng vẫn còn uy, xoay mình tiếp lấy, đúng là thứ bọn họ cần. Lão tháo nút cho lão đại của lão uống một ngụm, rồi cũng ừng ực cho đỡ khát, kêu lên: “Đa tạ, tiểu huynh đệ!”. Dư Tiểu Kế tựa chừng cổ vũ họ, vói giọng sau lưng họ: “Hảo hán tử! Hảo huynh đệ!”. Hai câu đó vừa thốt, đột nhiên thân người của Mạc Thất và Mạc Vong run run, vụt ưỡn mình đứng thẳng. Tiểu Kế cũng khẽ run, chừng như rất khích động. Thương thế của Mạc Vong chắc không nhẹ, phải một khắc sau mới đi khỏi tầm mắt của Hàn Ngạc và Tiểu Kế. Hàn Ngạc hiểu tâm tư của Dư Tiểu Kế, thấy nó còn thẫn thờ ngó theo, gã thò tay siết giữ bàn tay lạnh như băng của nó: “Ngươi nói không sai, hai người họ cho dù có gần chết mà quả xứng là hảo hán tử, hảo huynh đệ!”. o0o Dư Tiểu Kế xoay lại, đôi mắt nhìn sâu vào đáy mắt của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc ngượng nghịu không quen bị ngó như vậy, nhưng cũng không tránh đi. Bốn mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt như ló ra hai đôi bàn tay, siết chặt vào nhau một cách nồng nhiệt, như có hứa hẹn. Họn lại phóng ngựa lên đường, chưa được một dặm, thấy đằng trước bụi tuyết bốc dâng, chừng như có một đại đội nhân mã đang ồ ạt lao tới. Hàn Ngạc cả kinh, đưa mắt nhìn Tiểu Kế, cả hai cũng đoán được phần nào là kẻ truy đuổi Đại Mạc vương. Hai người muốn xem xem thực ra là ai mà có thể ép bức Đại Mạc vương đại bại trốn chạy như vậy. Đội nhân mã kéo đến rất nhanh, nháy mắt đã tới gần. Còn cách chừng một dặm, kỵ sĩ đi đầu nhìn thấy bọn Hàn Ngạc, mở miệng dùng tiếng Y Ngô quát hỏi: “Có thấy hai lão đầu thụ thương chạy ngang đây không?”. Hắn vừa hỏi xong, Dư Tiểu Kế hừ lạnh một tiếng, không chịu mở miệng. Tên kia nổi nóng, đến khi đại đội nhân mã rà sát, hắn tách ra phóng tới, vung một roi quất sau lưng Dư Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế rút đao, đao quang nhóa lên, chém đứt đầu roi. Tên nọ càng giận dữ, muốn nhào vào quyết đấu. Dư Tiểu Kế ngẩng lên ngó về phía một thớt ngựa đằng sau đội hình đang phi tới, “a” lên một tiếng, lẩm bẩm: “Mạc Thượng Mai!”. Hàn Ngạc cũng ngẩn ngơ, thấy một nữ tử ngồi trên một con ngựa đen cách sau mấy chục kỵ sĩ. Nữ tử thân hình thẳng thớm khỏe khoắn, một bộ đồ đen tuyền, áo choàng tung bay phần phật theo gió, khí thế hết sức mạnh mẽ. Một vuông khăn đỏ che mặt nàng ta. Khăn đỏ dài phải hai thước bay là đà, chỉ còn thấy đôi mắt. Vó ngựa cuốn tuyết lả tả, tạo ánh tương phản với y phục đen, khăn đỏ và dây tua đỏ phất phơ trên chuôi đao. Nữ tử nọ cũng liếc nhìn, sau đó giật mình, dùng tiếng Y Ngô thét: “Lui xuống, đừng hỏi xằng, đó là Hàn Tuyên phủ sứ uy chấn tam châu”. Chúng kỵ sĩ cả kinh --- Hàn Ngạc từ lúc chém chết Tông Khách Ba, uy danh đã nổi như cồn suốt một dải sa mạc, huống hồ giờ lại là sau khi gã đi Thanh Thảo hồ trở về. Bọn kỵ sĩ khựng lại, nữ tử như vội vàng muốn truy sát Đại Mạc vương, vung roi chỉ, chúng nhân nghe tiếng roi vang vọng, lại chực phóng về phía trước. Đường đi của đại đội nhân mã lại cách chỗ đứng của Hàn Ngạc và Dư Tiểu Kế khoảng nửa dặm. Hàn Ngạc thấy Tiểu Kế mặt mày hoang mang, chắc nó còn canh cánh về hai lão Đại Mạc vương, thương tình bọn họ cùng đường, bất nhẫn ngó nhìn người ta chịu chết. Gã lại thấy đội phỉ kia chẳng e dè gì trước mặt mình, không khỏi nổi nóng, chợt lạnh lùng quát: “Có Hàn Ngạc ta ở đây, các người vẫn tung hoành chẳng ngần ngại, muốn giết ai thì giết à?”. Đội cướp kia bản tính hung bạo, kẻ dễ nóng giận đương nhiên phừng phừng lửa giận. Họ ngoái đầu, thấy Hàn Ngạc xua ngựa tiến tới một bước, cản trước mặt Tiểu Kế, một tay án kiếm, oai phong lẫm liệt, uy thế một mình xông pha giữa thiên quân vạn mã. Gã thét: “Đại Mạc vương cũng vì hoành hành ngang ngược mới mấy lượt bị Liên Thành Kỵ đánh trọng thương, giờ để cho các ngươi chiếm tiện nghi sao? Các ngươi muốn nẫng tay trên à?”. Bảy tám chục thớt ngựa bên kia nhất thời dừng khựng, hoa tuyết bị vó ngựa cuốn lên hồ nghi sựng giữa không trung, chầm chậm rơi rớt. Nữ tử nọ chợt cất tiếng cười vang, thốt bằng tiếng Y Ngô: “Hàn Tuyên phủ sứ muốn làm sao?”. Hàn Ngạc không hiểu, phải nhờ Tiểu Kế phiên dịch. Gã đáp: “Buôn bán có quy tắc buôn bán, ăn cướp có đường lối của ăn cướp. Các ngươi nếu không theo quy củ, đi đến đâu cũng giết người đoạt mạng, nói không chừng ta phải trừ diệt các ngươi!”. Bọn gã chỉ có hai người, đối diện mấy chục thiết kỵ mà lại chẳng chút khiếp sợ. Nữ tử nọ bàng hoàng, thẫn thờ ngó Hàn Ngạc. Không biết sao Hàn Ngạc lại có cảm giác quen thuộc. Nàng ta vòng tay thốt: “Tiểu nữ tuyệt chẳng có ý mạo phạm Hàn Tuyên phủ sứ cùng Liên Thành Kỵ. Ngày nào Hàn Tuyên phủ sứ còn tại vị, ngày đó bọn ta cũng tuyệt không đụng chạm tới Liên Thành Kỵ”. Hàn Ngạc chợt bình tĩnh lại. Thấy đối phương ăn nói như vậy, gã cũng không thể nào ép bức thái quá, nên để cho họ đi. Gã lại thấy Tiểu Kế mặt mày vẫn còn thừ ra, trầm ngâm một hồi rồi thốt: “Vậy các người lui về đi, bắt đầu từ hôm nay đừng truy sát hai lão Đại Mạc vương nữa”. Nữ tử nọ ngây người, không ngờ được sao gã lại đột nhiên bảo lãnh cho hai lão Đại Mạc vương kia, thanh âm hơi giận: “Hàn Tuyên phủ sứ…”, tiếp đó lại hòa hoãn đôi chút: “Sao ngài lại muốn bảo vệ hai tên đó? Chúng lẽ nào không phải là cướp sao? Phải biết mạnh sống yếu chết --- Tái ngoại này nguyên cũng có quy củ của Tái ngoại, hai tên Đại Mạc vương cũng đâu thể không phục theo quy củ đó”. Hàn Ngạc bình tĩnh đáp: “Vì tiểu đệ của ta hôm nay không muốn nhìn thấy có ai giết chết hai lão”. Nữ tử ngẩn ngơ, đưa mắt nghi hoặc ngó Tiểu Kế. Hàn Ngạc cũng không biết sao mình lại dính vào chuyện này, gã chỉ phát giác Tiểu Kế không vui, cảm thấy phải làm gì cho nó. Chuyện vô lý đến thế, duyên do vô lý đến thế, vẫn là lần đầu gã làm. Vuông khăn đỏ trên mặt nữ tử rung động, chợt nói: “Được, bỏ qua hôm nay, coi như nể mặt Hàn Tuyên phủ sứ. Các huynh đệ, bọn ta đi”. Nàng ta giục ngựa xoay đầu bỏ đi. Chúng thuộc hạ cũng ùa theo. Nữ tử còn quay lại nói: “Hàn Tuyên phủ sứ, tiểu nữ quyết không đụng vào các đoàn thương nhân chính quy và Liên Thành Kỵ. Mong Hàn Tuyên phủ sứ cũng đừng coi ‘Mạc Thượng Mai' ta là địch”. Khi nàng nói câu đó, đáy lòng Hàn Ngạc dâng hiện một cảm giác quen thuộc. Gã đưa mắt nhìn Tiểu Kế, thấy mình tuy đã khiến cho truy binh lui đi, mặt mày Tiểu Kế lại chừng như chẳng hoan hỉ gì, chỉ có vẻ bần thần hoảng hốt. o0o … Khoác áo nhà binh cũng bởi ai? Mày ngài quen giễu đấng tu mi; bỗng dưng tở mở ra Biên Tái, ruổi ngựa Thông lấn lướt Ban Chuy… Từ vẫn là từ cũ, chỉ là người ca lại khác. Bộc Ách Phi yểu điệu cười duyên, tay nâng chén ngọc, ngâm hát khe khẽ: “Mừng ngây ngất, chén cạn môi, đi hết Quan Sơn đâu đợi về. Đánh đã Ngân Hà treo Thanh Sách, buộc lấy Trường Canh thỏa lứa đôi…”. Chính là vương cung của Cư Duyên thành, ở hoa viên phía sau, đêm đã canh ba, bốn bề vắng lặng không bóng người. Cái đình nho nhỏ này xây theo kiểu Ba Tư, bên trong trải thảm lót đệm gấm, lửa than rừng rực, Bộc Ách Phi ngồi một mình với Hàn Ngạc, chẳng có tỳ nữ phục thị. Hàn Ngạc lại không có dẫn Tiểu Kế theo, vì gã cho rằng đêm nay sẽ nói đến bí ẩn thân thế của Tiểu Kế, nhất thời chưa biết có nên để nó nghe không. Trước đình có một ao nước, nước lại là suối nước nóng, bốc hơi nghi ngút, vì vậy xung quanh ao có lắm cành lá còn xanh tươi. Mới dấn thân vùng tuyết đọng xa vời, nay ngồi đây lại càng cho gã một cảm giác hoảng hốt quái dị. Trong đình chỉ đặt một cái ghế dài, chỉ có Hàn Ngạc ngồi ghế, Bộc Ách Phi thì ngồi trên thảm bên cạnh. Giữa thảm gấm đệm thêu, nàng mặc quần áo màu lụa đào, mắt sao mũi ngọc, môi đỏ răng trắng, tay đang châm rượu cho Hàn Ngạc. Đang rót mà nàng hé miệng khẽ hát, dùng lời ca dâng chén. Ánh rượu sóng sánh, mười ngón tay của nàng áp sát vào chén, trắng muốt nõn nà. Nàng ngồi gần sát Hàn Ngạc, vạt váy lòa xòa, lướt thướt lấn lên cổ chân gã. Trời không trăng, cuối tháng mùa đông, không phải thời tiết nở hoa, mà sự kiều diễm của nàng đâu khác gì một đóa hoa tươi tắn. Cả Hàn Ngạc cũng có cảm giác nhìn thoáng qua là thần hồn mê muội, thầm cảm thán: nữ tử như vậy mà sống xa tắp miền Tái ngoại này, thực là ủy khuất cho nàng quá. Tuổi tác của Bộc Ách Phi phải hơn Hàn Ngạc nhiều, nhưng nàng chẳng có nét già, đôi khi mới thấy khoé mắt hé lộ chút nếp nhăn, nhưng đó cũng là nét phong tình. Nàng thốt: “Bài ca hay, ca hay, người viết ra bài ca đó cũng hay. Hàn Tuyên phủ sứ cùng Đỗ cô nương ruổi rong kề cận, lang bạt thiên nhai, kết minh sách kiếm, thực làm cho người con gái bạc mệnh này phải ghen tị đó”. Nói xong, nàng nhẹ nhàng ngước lên thở dài một tiếng. Khác với những cô gái tầm thường, nàng thở dài cũng ngước lên mà thở dài. Gương mặt đó như một đóa hoa nở rộ ngay trước mặt Hàn Ngạc. Ngón tay của nàng dịu dàng mân mê thành chén, xoa xoa, ánh mắt ngó xéo lên cổ chân của Hàn Ngạc, dáng điệu hơi buông thả, như muốn đưa tay xoa nhẹ cổ chân gã. Ngứa ngáy mơ hồ, như muốn gãi vào tâm trí của người đàn ông kia. Chẳng có thắp hương, không khí lại chừng như lan man hương khí của Mê Điệt hương. Cổ chân Hàn Ngạc run khẽ, Bộc Ách Phi cười thốt: “Lạnh à?”. Nói xong, nàng giơ tay bóp nhẹ, nắm giữ cổ chân gầy gò của Hàn Ngạc, thấp giọng: “Có lúc thực muốn có một chỗ dựa cứng cáp như vầy”. Thanh âm của nàng như nước kia, ngón tay khuấy động cũng dịu dàng như bơi đùa giữa dòng xuân tháng ba, như dây thủy hạnh mềm mại lan man quấn quít. Hàn Ngạc toàn thân cứng đờ, Bộc Ách Phi trước mắt lại tựa hồ đã hóa thành nước, thấm lan lên mình gã, dùng dòng nước đêm vắng xoa dịu những vết thương nứt nẻ vì những chì chiết xói xỉa của cuộc đời. Đầu ngón tay nàng dịu dàng, nhẹ nhàng chui vào vớ lót của Hàn Ngạc, toàn thân như hóa ra một dòng nước xuân xanh lọt vào kẽ hở y phục của Hàn Ngạc. Trơn mịn ngưa ngứa, lần lên chân Hàn Ngạc, bám sát vào da thịt mà vuốt ve, mà đi lên. Khẩu khí của nàng lại có vẻ tự than thân trách phận, khiến cho Hàn Ngạc cũng không đành lòng tránh né. Nàng khe khẽ thốt: “Ta muốn xem chân của ngài, có được không?”. Hàn Ngạc còn chưa kịp lên tiếng, Bộc Ách Phi lại đã coi như gã mặc nhận, nhẹ nhàng tháo giày của gã --- Thì ra nữ tử cởi giày cũng cởi ôn nhu đến thế. Bàn tay của nàng dịu dàng áp lên vớ vải, miệng khe khẽ than: “Lâu rồi, lâu lắm rồi không nhìn thấy chân trần của đàn ông người Hán bọn ta. Lâu lắm phải không? Bao lâu rồi? Từ khi tiến cung, cũng đã mười tám hai chục năm rồi phải không?”. Nàng ngẩng đầu nhè nhẹ, lời ta thán dìu dịu đã lột mất giáp trụ trong lòng Hàn Ngạc, năm ngón tay lại nhẹ nhàng cởi vớ trên chân Hàn Ngạc. Mặt Hàn Ngạc tuy rám nắng, chân vì không thấy ánh mặt trời mà trắng tái. Bộc Ách Phi cúi đầu, bàn tay xoa nhẹ kẽ chân gã, dịu dàng, mềm mại như trăng nước, nhũn nhặn đến mức chẳng có cách nào lánh thoát, đụng chạm một hồi lại thành nóng ran. Hàn Ngạc tới giờ mới phát giác lòng bàn tay nàng nóng hổi, nàng thấp giọng: “Thực ra, ngày xửa ngày xưa, cái thuở ban sơ, người thiếu niên đầu tiên ta gặp hết sức mắc cỡ thẹn thò, chẳng bao giờ thấy y để lộ chỗ nào, chỉ khi cùng đùa chơi dưới nước mới nhìn thấy cổ chân của y. Khi ấy ta thích cái cổ chân đó lắm. Thực là khờ hết sức khờ --- Ai mà nghĩ đến tiến cung, ai mà nghĩ đến cưới gả hòa thân, ai mà nghĩ đến làm vương phi gì? Lòng nuôi ý niệm khờ khạo muốn gả cho y, đến tối đem cho y một bồn nước ấm, rửa sạch bụi bặm trên chân y, xoa dịu hết những mệt nhọc trong xương cốt y”. Nàng ngẩng lên: “Bao nhiêu năm rồi?... Bao nhiêu năm rồi?... Thời gian trôi qua nhanh thực. Ông trời… ông trời không biết có thể cho nữ tử bị nhà Hán vứt bỏ, bị mệnh vận ruồng rẫy ra tuốt vùng Tái ngoại hoang lương này được như nguyện không?”. Khi nàng nói đến “thời gian”, trong mắt như ươn ướt lóng lánh. ---- Cái gọi là thời gian, cái thời gian rần rật trôi qua kia có phải là cái có thể đánh lở hết mọi phòng bị trong lòng người không? Ngón tay của nàng xoa xoa nhè nhẹ trên chân Hàn Ngạc, mặt lại kề sát bên đầu gối gã: “Ngài là nam nhân, nhà Hán ta chẳng còn được bao nhiêu nam nhân”. Bờ má nàng dựa vào đầu gối Hàn Ngạc: “Ta là nữ nhân, một nữ nhân bị ruồng bỏ tuốt chốn hoang dã. Đã thực lâu rồi, thực cảm thấy mình mềm yếu như nước trôi vậy. Thời gian, dung nhan, tuổi trẻ, xuân xanh… cứ vùn vụt trôi đi, khó mà dựng toàn thân dậy được. Chỉ muốn đón nhận một chút cứng cáp, siết giữ một chút chắc nịch, tìm kiếm một chút kiên cường, dựa dẫm một chút bùng nổ…”. Hàn Ngạc là kẻ tập luyện võ nghệ, tà áo không buông dài, đang khi vô tâm bị Bộc Ách Phi vén lên, một bàn tay của nàng vạch nhè nhẹ lên cổ chân gã, bàn tay kia lại lần lên đầu gối, gương mặt kề sát giữa hai chân gã, khẽ giọng: “Nghe nói người rèn kiếm muốn rèn xong thì vào giờ phút cuối cùng phải trải qua bước dùng lửa tôi luyện… Kiếm đang nóng bỏng nhúng thẳng vào nước lạnh, xèo một tiếng, khói xanh bốc lên… Tại sao một người đàn bà như ta đây cả đời chỉ có thể để mặc cho da thịt như nước của mình phải lạnh lẽo hoài, lạnh lẽo mãi, giá giá buốt buốt, lại chẳng hơ nguội được…”. Nàng than khe khẽ: “Ta đợi chẳng được một thanh kiếm hừng hực ngùn ngụt nhúng vào để sôi sục được một lần sao?”. Nàng nói mà mắt chợt dâng hiện một điểm tinh hỏa, chút hào quang loang loáng đó như thắp bừng mặt mày nàng trong nháy mắt, rồi thiêu đốt đến mức khoé môi nàng khô ran, lưỡi nàng thoáng liếm môi vô ý thức. Đầu lưỡi mềm mại đỏ ngời như ngọn lửa lòng, chao đảo muốn nổ xộc vào lồng ngực Hàn Ngạc. --- Chỉ một điểm tinh hỏa bé nhỏ như vậy, Hàn Ngạc vốn đâu nghĩ có thể làm bỏng được mình. Nào ngờ một giây sơ ý, bao nhiêu niềm khao khát và hư vinh của nam giới đều tựa chừng bị thắp bừng lên, sau đó phừng phừng rạo rực, thân người lập tức như bị thiêu đốt, thiêu qua tim, thiêu qua lồng ngực, thiêu qua bụng dưới, thiêu phựt ra một ngọn hỏa diệm sơn sừng sững. Bộc Ách Phi mắt đê mê, miệng hé mở, dáng dấp yếu đuối dâng hiến môi thơm, rên rỉ khe khẽ, toàn thân như rung động… Hàn Ngạc có cảm giác thần kinh vững chãi nhất của mình cũng phải run run, một nữ tử thế đó… một đêm thế đó… tất cả đều có vẻ hết sức mỹ lệ… tất cả cũng chừng như yêu dị ảo huyễn… o0o Thân người Hàn Ngạc vụt xoay vùn vụt bay lên, bay vọt lên trời, bay khỏi đình chẳng ai có thể chặn giữ được. Sau đó gã thi triển Đạp Ca Bộ giữa không trung, mũi chân chấm lên mái đình, từng bước đi lên, như muốn với vào đêm tối không trăng. Bên dưới là ngôi đình chan chứa lửa hồng cùng dung nhan xuân nồng giữa đông giá. Gã hạ mình cách xa mấy trượng, chân trần dẫm lên tuyết, khí băng hàn xộc vào huyệt Dũng tuyền, đầu óc gã bình tịnh lại, ánh mắt trong ngời, bần thần ngó Bộc Ách Phi trong đình --- “Xá nữ kỳ yêu”… tới hôm nay gã mới rõ cái gì gọi là “Xá nữ kỳ yêu”… Bộc Ách Phi đôi mắt mê ly lẳng lặng nhìn gã, mục quang sóng sánh tựa hồ khiến cho tuyết đọng dưới chân Hàn Ngạc phải tan chảy. Hàn Ngạc chợt cúi đầu, hít sâu một hơi, trấn định tâm tình, điều chỉnh khí mạch, sau đó phải một hồi nữa mới rùn vai nhảy trở vào trong đình, ngồi lại trên ghế dài, cười khẽ: “Bộc vương phi quả xứng bậc khuynh thành, ‘Mê Điệt thuật’ thực có thể trói buộc nhấn chìm hết nam tử trong thiên hạ, không biết có chuyện gì muốn Hàn mỗ làm vậy?”. Bộc Ách Phi ánh mắt có hơi thất vọng, nàng ta thốt khẽ: “Ngài lẽ nào không biết kẻ thi triển Mê Điệt thuật cũng cần phải động tâm mới có thể phát huy được đến cảnh giới như thế sao?”. Thanh âm của nàng mềm dịu --- Nếu đúng là Mê Điệt thuật, quả đã phát huy đến cực độ, hồn nhiên đến tự nhiên. Hàn Ngạc mỉm cười, chẳng đáp lời, đeo vớ mang giày trở lại. Thanh âm của Bộc Ách Phi lừng khừng: “Ngài thực… thực… làm nước chảy vô tình sao? --- Nhân sinh đắc ý tu tận hoan6, Hàn Tuyên phủ sứ, ngài làm một dòng sông cuồn cuộn trôi, chẳng chịu dừng chân chốc lát mà muốn trôi đi đâu chứ?”. Hàn Ngạc mỉm cười, chờ mang giày xong mới đáp: “Bộc vương phi, ta nghe được tin vương phi sắp thành hôn với Y Ngô vương Cách Phi phải không?”. Bộc Ách Phi mặt mày lạnh lùng thốt: “Không sai”. Nàng cúi đầu: “Thực ra hắn từ khi lên ngôi Y Ngô vương đã nạp biết bao nhiêu là tỳ thiếp rồi. Đỡ là hắn vẫn chẳng dám không cưới ta”. Trên trán nàng hiển hiện một nếp nhăn khổ ải, khiến cho Hàn Ngạc lòng không khỏi dâng niềm thương cảm. Gã vừa nảy ý tội nghiệp, lại thấy Bộc Ách Phi thoắt hé lộ nụ cười tươi như hoa xuân, ánh xuân lan man trước mắt gã. Gã hoảng hốt trấn định tâm thần, không dám nhìn nữa, phải thực lâu sau mới quay lại. Bộc Ách Phi lại thở dài, biết không làm gì được. Nàng cười thốt: “Hàn Tuyên phủ sứ, hồi nãy ngài cũng đâu phải hoàn toàn không động tâm chứ?”. Mục quang của nàng ám muội đến khiến cho Hàn Ngạc hoang mang. Nàng lại cười nói: “Nói gì thì nói, bọn ta cũng coi như đã có chút gần gũi da thịt. Hàn Tuyên phủ sứ, tiểu nữ gặp phải đại nạn, ngài phải giúp ta đó”. Ánh mắt nàng như cười mà không phải cười liếc sang Hàn Ngạc. Gã nghe nàng nói mà chẳng thể nào khống chế trấn định thần hồn, mặt mũi cổ tai đỏ tía như nổi lửa. Sở đắc từng trải hơn hai năm qua đã sớm sụp lở tan tành trước mặt một người đàn bà như Bộc Ách Phi, nháy mắt gã như hoàn nguyên trở lại thành một thiếu niên thẹn thò non nớt, trong lòng lẫn ngoài mặt đều bẽn lẽn xấu hổ. Nhưng cái bẽn lẽn xấu hổ của gã Bộc Ách Phi lại chừng như rất yêu thích. Sóng mắt nàng lóng lánh, như cười cợt gã. Nhưng sâu kín trong nhãn quang lại tựa hồ ẩn tàng một nỗi tiếc nuối mà người tâm tư sâu sắc cũng không nhận ra được. Hàn Ngạc thở dài: “Phi tỷ, sao nàng lại làm khổ mình mà đùa bỡn với ta vậy?”. Thanh âm gã chua chát. Bộc Ách Phi tuy còn cười, lòng lại cũng đang khổ não --- “Xá nữ kỳ yêu” mà nàng khổ tu hơn ba chục năm trời không ngờ lại chẳng cầm giữ được người trẻ tuổi kia! Nàng chợt nổi giận, nhưng chẳng bộc lộ ra ngoài, thanh âm chỉ hơi có biến chuyển: “Ta chỉ không phục con tiểu nha đầu Đỗ Phương Ninh thôi, bằng vào cái gì mà có vận khí tốt đẹp đến thế? Xuất thân cao quý, tu tập tinh thông, quen biết cũng có lắm tao ngộ tốt đẹp hơn người khác. Còn ta, bằng vào cái gì mà nhất định phải….”. Chừng như đây là lần đầu tiên nàng không khống chế được mình: “Nhọc nhằn để làm gì… Gác tía gả mình vùi Mạc Bắc, cuối cùng cũng chỉ có thể mồ xanh chiếc bóng… hứng hoàng hôn7?”.
1 Xem chú thích {7} bên dưới.2 Tiểu Đoạn đảo ngược vị trí hai câu trong bài thơ "Kinh loạn ly hậu thiên ân lưu dạ lang ức cựu du thư hoài tặng Giang Hạ Vi thái thú Lương Tể" của Lý Bạch.
3 Câu này nguyên văn là: "Dĩ kỳ cảnh quá thanh, bất khả cửu cư, nãi ký chi nhi khứ". Đây là lời văn trong "Tiểu Thạch Đàm ký" của Liễu Tông Nguyên, ghi chú quá trình du ngoạn của tác giả, miêu tả cảnh sắc "Tiểu Thạch Đàm". Lúc đó Liễu Tông Nguyên tham gia cuộc cải cách của Vương Thúc Văn, thất bại bị biếm, lòng buồn bực nên tìm cảnh sông núi để vượt qua nỗi buồn thất chí, thông qua cảnh vật để giải tỏa tao ngộ bất hạnh của mình. Ông tả cái vui cái thú của cuộc du ngoạn, nhưng thứ lạc thú đó chỉ là tạm thời, tâm trạng ưu thương bi hoài lập tức hiển lộ ra. 4 Câu này nguyên văn là: "Đàm trung ngư khả bách hứa đầu, giai nhược không du vô sở y, nhật quang hạ triệt, ảnh bố thạch thượng", cũng thuộc "Tiểu Thạch Đàm ký" của Liễu Tông Nguyên. 5 Hết thời chẳng gặp được ngựa Thanh Hải, là câu thơ trong bài “Vịnh sử - kỳ nhất” của Lý Thương Ẩn. Ngựa Thanh Hải là một loại ngựa lai giống ở vùng Thanh Hải, sức mạnh có thể chạy ngàn dặm mỗi ngày, trong thơ của Lý Thương Ẩn ý dùng ngựa Thanh Hải để ví anh tài có thể đảm đương việc nước. 6Đời người tận hưởng cho phỉ chí, là câu trong bài thơ “Tương tiến tửu” của Lý Bạch. 7Đây là hai câu "Nhất khứ tử đài liên sóc mạc, độc lưu thanh trủng hướng hoàng hôn" trong bài "Vịnh hoài cổ tích - kỳ tam" của Đỗ Phủ. "Khứ" là rời bỏ; "tử đài" là "tử cung", tức là cung điện của Hoàng đế; "liên" là "liên nhân", tức kết hôn về nhà chồng, gả mình; "sóc mạc" là sa mạc phương Bắc, ý chỉ nơi chốn của Hung Nô; "thanh trủng" là nói mộ phần của bậc vương hậu vương phi; "hướng hoàng hôn" ý nói vương hậu vương phi chết rồi thê lương lạnh lẽo làm sao.
Nàng lâu nay quen kh ống chế bản thân mà cũng không khỏi chua chát cõi lòng, buông xuôi hai dòng lệ. Nàng nhắm mắt: thôi rồi, “Xá nữ kỳ yêu” khổ tu biết bao lâu nay đã gần như đại thành, lẽ nào hôm nay phải bị hủy diệt trong phút chốc?
Hàn Ng ạc thấy vậy cũng thất kinh, bất giác đi tới vỗ vỗ vai nàng, khẽ thốt: “Phi tỷ, đừng… đừng vậy… Mê Điệt thuật của nàng thiên hạ vô địch, nếu không phải ta sợ lọt vào sẽ bị nàng cười nhạo như bọn nam tử khác thì đã không tránh thoát rồi”.
L ời an ủi của gã chẳng có lý gì hết, nhưng lại đã làm cho Bộc Ách Phi cảm thấy đỡ đi phần nào. Nàng ngưng rơi lệ, mỉm cười nói với gã: “Dư Tiệp nói không sai, ngài vốn là… quả nhiên là một kẻ đa tình mà”.
Quy ển IV: Nhung mã dật
Chương 70 Hoang xuân vọng đoạn chính trường ngâm1
“D ư Tiệp?”. Hàn Ngạc ngẩn người. “Không sai, là Dư Tiệp. Ngài kinh ngạc sao ta biết nó? Nó chính do ta nuôi lớn đó”. Hàn Ngạc quả có kinh ngạc, gã bình tĩnh lại rồi hỏi: “Hôm nay chắc nàng nói cho ta
bi ết thân thế của Tiểu Kế chứ?”. Bộc Ách Phi mỉm cười gật đầu: “Không sai, nhưng ngài phải chấp nhận một chuyện với ta”. “Chuyện gì?”. “Cứu mạng ta, đêm nay có kẻ muốn giết ta”. Hàn Ngạc bàng hoàng: “Ai? Sao nàng biết đêm nay có kẻ muốn giết nàng?”. Bộc Ách Phi bỗng thở dài khe khẽ. Hàn Ngạc không biết sao lại nghĩ đến “Mạc Thượng Mai” mà gã đã gặp cách đây ba ngày, tại sao thân hình của cô gái đó lại cho gã một cảm giác quen thuộc vậy?”. Máy động tâm tư, gã trầm ngâm thốt: “Có liên quan đến ‘Mạc Thượng Mai’ chứ? Nàng với ‘Mạc Thượng Mai’ ắt có quan hệ rất sâu kín phải không?”. Gã chỉ ngờ vực, cho nên hỏi rất khéo. Bộc Ách Phi ngạc nhiên: “Sao ngài biết?”. Tâm tư nàng đang chìm vào chuyện khác, cho nên bất cẩn thoát miệng thốt lời, lại thấy Hàn Ngạc đang trầm mặc chăm chú nhìn mình, cười khổ nói tiếp: “Không sai, ta có dính líu tới ‘Mạc Thượng Mai’. Một nữ tử như ta sống ở Tái ngoại này đâu phải dễ. Huống hồ ta lại là một nữ tử ưa xa hoa nữa. Hàn Tuyên phủ sứ, sao? Chuyện này ngài cũng muốn can thiệp à? Bọn ta đâu có động chạm gì tới Liên Thành Kỵ đâu, chỉ là tiếp quản nghề nghiệp của Đại Mạc vương thôi”. Lời nói của nàng có chút ý vị nhạo giễu. Hàn Ngạc thầm thở dài: thế gian này sao chẳng có người nào đơn giản được vậy chứ? Bộc Ách Phi, Mạc Thượng Mai, võ sĩ Y Ngô… tất cả thực ra có mối quan hệ gì đây? Gã thốt ngắn gọn: “Nàng làm vậy là vì cái gì?”. Bộc Ách Phi cũng đáp gọn lỏn: “Vì tiền”. “Bất quá chuyện lo lắng cho tính mạng và chuyện ‘Mạc Thượng Mai’ chẳng liên quan gì hết. Tiểu Ngạc, ngài có nhận lời không?”. Nàng kêu gã là Tiểu Ngạc, là vì Hàn Ngạc hồi nãy nhất thời khích động mà kêu nàng là “Phi tỷ”. Hàn Ngạc cười khổ: làm sao mà dứt bỏ được. Gã gật đầu: “Ta chấp nhận”. Bộc Ách Phi cười rất cao hứng, nói tiếp: “Ta cũng không cảm tạ ngài, vì ngài cũng chẳng phải vì ta mà đáp ứng. Ngài là vì Tiểu Kế”. Hàn Ngạc chẳng tiếp lời, chỉ hỏi: “Sao nàng biết có người muốn giết nàng? Hơn nữa sao nàng có thể đoán định là đêm nay?”. Bộc Ách Phi đáp: “Bởi đêm nay là đêm ba mươi Đông nguyệt2, là đêm cả nhà Dư Quốc trượng ở ngõ Luân Hồi bị giết mười bảy năm về trước. Ngõ Luân Hồi vốn có diệu dụng có thể tránh địch. Nhưng cái đêm ba mươi Đông nguyệt đó, đến canh tư, trận pháp lại lộ khe hở”. Nàng thở dài nhè nhẹ: “Cho nên nếu có người muốn giết ta, ngày giờ y chọn cũng nhất định là đêm nay. Cái vườn này cũng có bố trí một Thập Sá cổ đồ, tuy không bì được với cái trong ngõ Luân Hồi, nhưng có muốn giết ta thì đêm nay mới tiện lợi đó”. Ngõ Luân Hồi? --- Lại là ngõ Luân Hồi. Thời gian thấm thoát đã hai năm, nào ngờ quay đi quay lại vẫn không ra khỏi được ngõ Luân Hồi kia. Hàn Ngạc lòng hoảng hốt, lại biết rất nhiều bí mật sẽ được làm sáng tỏ trong đêm nay. Bộc Ách Phi chợt ngước lên: “Có biết năm xưa sao ta lại gả mình ra tuốt Tái ngoại này không?”. Hàn Ngạc lắc lắc đầu, gã làm sao biết được. Có điều gã biết nàng sắp kể lại câu chuyện xưa đó. Bộc Ách Phi thở dài: “Thực ra ta là kẻ chủ động gả mình đi xa. Sự gả bán hòa thân đó chẳng có cung nhân nào chịu, nhưng ta lại là kẻ chủ động”. “Ta vốn tiến cung với Dư Sắc Nhi. Bao lâu rồi? Cũng hai chục năm phải không? Lúc đó ta còn là một a hoàn thắt hai bím tóc, vốn nghĩ rằng cuộc đời này sẽ phải chôn vùi đến già --- Biết bao cung nhân đều như vậy hết. Nhưng thân nhân của ta lại nào có nghĩ thế, họ toàn là ‘giai vân nhập nội tiện thừa ân’3, bởi ta cũng thuộc hạng ‘kiểm tự phù dung hung tự ngọc’4 mà. Dư Sắc Nhi là tiểu thư nhà họ Dư, cũng là Dư Thục phi sau này, là Dư Hoàng hậu tiếp đó. Chắc ngươi đã nghe nói nhiều về nàng ta phải không? Ta với nàng ta cùng tiến cung một lượt, lại làm sao mà ngờ người được Chúa thượng yêu thương là nàng, còn ta trở thành người hầu hạ nàng. Nói gì đi nữa, nàng đâu thể coi là một nữ nhân đẹp tuyệt trần --- làm sao mà bằng ta được”. “Nhưng sau này dần dần ta mới hiểu tính tình của nàng có chỗ đặc thù độc đáo. Nàng như một cái vại ngọc bé nhỏ ấm áp, không làm bỏng tay, cũng không làm buốt tay, có một ý vị gia đình bình bình thường thường. Ta cũng chẳng biết ban đầu Hoàng thượng sao lại gặp nàng ta , dần dà càng ngày càng sủng ái. Có lẽ vì Hậu cung tuy có cả ba ngàn mỹ nữ, cũng chỉ cái tính như nàng ta mới có thể đối đãi với Hoàng thượng tựa một người bình bình thường thường chứ không coi là bậc đế vương”. “Ta luôn kề cận Dư Thục Phi, chứng kiến nàng ta được phong làm quý phi, cũng chứng kiến sự yêu chuộng của Hoàng thượng đối với nàng ta. Ta nào có ghen tị, bởi tính tình của nàng ta thực rất tốt, đối đãi với ta cũng rất tốt. Hai năm trôi qua, ta dần trưởng thành, dung nhan càng tươi đẹp, Hoàng thượng lại chưa từng ngó ngàng gì đến ta. Xem ra ông ta đối đãi hết sức tốt với Dư Thục Phi vốn đâu phải vì háo sắc. Càng được vua yêu, Dư Quốc trượng ở ngoài cũng càng thêm thanh thế. Dư Thục Phi lại một mực âu sầu chẳng vui. Khi ấy ta còn chưa thấu rõ, sau này mới biết đó là vì thanh thế của Dư Quốc trượng đã mạo phạm đến giới quý tộc, khiến cho Đông cung Thái tử bực tức”. “Hơn ba năm sau, Dư Thục Phi thụ thai. Mọi người đều hết sức cao hứng, Hoàng thượng đó giờ không hài lòng mấy về Đông cung Thái tử, thậm chí mấy lượt hứa hẹn với Dư Thục Phi nếu nàng sinh con trai sẽ để nó kế vị ông sau này. Tuy là nói riêng, nhưng trong cung lắm miệng lưỡi, cuối cùng cũng truyền lan ra ngoài, ta nghĩ Đông cung Thái tử nhất định phải biết”. “Dư Thục Phi sắp lâm bồn, có một hôm nửa đêm nàng ta thình lình rú lên khiến ta giật mình tỉnh dậy. Ta vội chạy đến, lại thấy nàng ta ôm bụng đau đớn lăn lộn trên giường, chỉ tay ra song cửa. Bên ngoài tối hù, ta biết nàng bị người ta ám toán. Một chưởng đó đánh vào bụng, nàng ta lại không dám làm lớn chuyện, sợ gia môn cũng mang họa theo. Tính mệnh của đứa bé xem ra không giữ được, ta thấy nàng ta lệ tuôn đầm đìa. Vào lúc đó, ta thực cảm thấy tất cả mọi vinh hoa trên đời đều là thứ hại người --- May là trong Mộ Hoa viện còn có một Tổ cô bà lòng dạ nhân từ, thủ thuật nhân ái”. “Kẻ kia hạ thủ hết sức âm độc, lại không nặng nề gì. Y chỉ muốn đánh một chưởng gây nội thương, tàn hại tính mệnh hai mẹ con, lại chẳng khiến cho họ chết ngay lập tức hòng không để lại dấu tích. Đêm hôm đó, nàng đã sinh hạ đứa bé. Người trong cung đều cho rằng đứa bé đã chết, chỉ có ta biết không phải vậy. Đứa bé khi ra đời vẫn còn hơi thở, Dư Thục Phi trân trân nhìn Tổ cô bà, chẳng nói tiếng nào, nhưng ánh mắt đang khẩn cầu bà cứu giúp mạng đứa bé. Thủ pháp của Tổ cô bà hết sức cổ quái, bà ta phong bế thất khiếu lục thức của đứa bé, lúc đó trong phòng chỉ có ta, Dư Thục Phi và Tổ cô bà. Bà ta nói: đứa bé đã mang nội thương, Tiên Thiên chẳng đủ, nếu để nó cất tiếng khóc, hai ba ngày sau chẳng thể nào giữ được tính mạng. Vì vậy bà ta dùng thuật thai tức mạo hiểm phong bế thất khiếu lục thức của nó, khiến cho nó vẫn như đang nằm trong bụng mẹ hít thở. Nếu số lớn, hai năm sau có lẽ có thể tháo mở trở lại, coi như sinh ra nó lần nữa. Bất quá vẫn phải chôn theo một chút bệnh ngầm, đó là tuổi Tiên Thiên và tuổi Hậu Thiên của nó không hợp, mai này mười ba mười bốn tuổi tất có đại nạn, đến khi ấy phải có Đồ Nhiên Thảo chế luyện đặc biệt mới có thể cứu được”. Hàn Ngạc cả kinh: “Tiểu Kế?”. Tay gã run run, thanh âm cũng run run: thân thế của Tiểu Kế thì ra là vậy, lẽ nào… Gã run giọng hỏi: “Lẽ nào… nó là Hoàng tử?”. Bộc Ách Phi bần thần: “… Ta cũng không biết. Ta chỉ biết chắc chắn nó là con của Dư Thục Phi, nhưng có thực là Hoàng tử hay không thì ta chẳng biết”. Hàn Ngạc thẫn thờ, không hiểu nàng ta nói gì. Bộc Ách Phi thở dài: “Không biết ngươi có nghe nói tới một người xếp tên trong ‘Tử Thần’, cũng là huynh đệ thân cận nhất của ‘Tử Thần’ lão đại Du Cửu Khuyết, mang tên Vệ Tử Câm hay không?”. Nhắc đến cái tên đó, thần sắc của nàng chẳng biết sao lại bỗng biến thành buồn bã. Hàn Ngạc cảm thấy đầu tươm mồ hôi lạnh, nhớ tới tướng mạo thần tiên của Vệ Tử Câm, nghĩ đến cái cằm nhọn nhọn và đôi mắt to tròn của Tiểu Kế, phần nào hiểu được Bộc Ách Phi muốn ám thị cái gì. Gã lắp bắp: “Nàng nói… nó không phải là con của Hoàng thượng… mà là…”. Bộc Ách Phi thở dài ngắt lời: “Người đã qua đời, bọn ta không nên nói lung tung. Ta cũng chỉ là hoài nghi thôi. Thực hư ra sao ta cũng không biết. Ta nghĩ Hoàng thượng cũng chẳng biết, bao gồm cả Vệ Tử Câm chắc cũng không biết. Nó thực ra là con ai, trừ Dư Thục Phi ra, ta nghĩ chẳng ai biết được. Ngươi biết đó, bí thuật của dòng Đại Hoang Sơn rất cổ quái, trong lòng Dư Hoàng hậu… chỉ cần có Vệ Tử Câm, chỉ cần trong đầu nghĩ tới y, cho dù không phải con của y, nàng ta cũng có thể khiến cho đứa bé giống y ít nhiều”. Hàn Ngạc không khỏi ngẩn ngơ. Bộc Ách Phi có vẻ không muốn nhắc tới chuyện liên quan đến Vệ Tử Câm, nói vòng qua: “Thấy không giữ được đứa bé, Hoàng thượng vô cùng thương tâm, Dư Thục Phi thì lại có vẻ nhẹ nhõm. Đứa bé đã được Tổ cô bà lén mang ra khỏi cung, nằm thai tức trong dược thất, chờ ngày hoàn hồn. Hoàng thượng vẫn yêu thương Dư Thục Phi như xưa, mấy tháng sau, muốn giúp nàng ta vui, vì Hoàng hậu vừa từ trần, ông đã lập nàng ta làm Hoàng hậu. Đáng tiếc Dư Thục Phi lại không sống được lâu, mười bảy ngày sau nàng đã qua đời. Ta không biết nàng ta chết vì thương thế mới hay là thương thế cũ, khi ấy nàng ta tĩnh dưỡng trong Chi Lan viện chứ không trú ngụ ở Hậu cung. Nhưng ta biết nàng ta nhất định đã chết dưới tay nhân thủ của bè đảng Đông cung”. Hàn Ngạc lòng bàn tay rướm mồ hôi, lại nghe Bộc Ách Phi thốt: “Dư Hoàng hậu chết chẳng được bao lâu, toàn gia Dư Quốc trượng cũng bị diệt. Ta biết tiếp đó có thể sẽ đến lượt ta, vừa hay đang lan truyền tin tức hòa thân, ta chẳng ngại ngần gì cả, âm thầm mưu tính để triều đình sai phái ta đi hòa thân. Nào ngờ ông trời thương tình, ta đã được lên đường. Ta biết chỉ có đi Tái ngoại này mới nuôi trồng được Đồ Nhiên Thảo, ta còn tưởng nhớ sự đối đãi tốt đẹp của Dư Thục Phi đối với ta năm xưa --- Bọn ta quả có tình tỷ muội, cho nên không quên Đồ Nhiên Thảo”. “Ta cũng chẳng phải đi có một mình. Ta có dẫn theo đứa bé côi cút duy nhất còn sót lại sau khi cả nhà Dư Quốc trượng ngộ hại, cũng là cháu gái của Dư Quốc trượng, Dư Tiệp”. “--- Vì vậy ta mới nói Dư Tiệp là do ta nuôi nấng. Khi ấy nó mới ba tuổi, nhưng a đầu đó hết sức đĩnh ngộ, học gì cũng giỏi, tâm tính cũng hết sức sâu sắc. Được mười bốn tuổi, nó từ hồi nhỏ có nghe ta kể chuyện gia môn của nó, quyết chí quay về phục thù. Sau này nó đã tìm được Tiểu Kế. Bọn ta xuất thân từ Đại Hoang Sơn, tu vi của Dư Tiệp về mặt dị thuật dĩ nhiên không tồi. Ta hỏi: ‘Bằng vào một mình ngươi thì làm sao có thể phục thù?’”. “Nó nói nó đã dùng lý luận tướng mệnh mà suy tính, nếu cơ duyên khéo được, nó sẽ tìm ra một người, người đó nhất định có thể giúp nó, bởi tướng mệnh của người đó có duyên với Tiểu Kế, cũng có duyên với nó. Nó về đến Lạc Dương, người đầu tiên nó tìm là Tiểu Kế. Sau khi Tiểu Kế ra khỏi cung được hai năm, ta có phái người đi tiếp nhận từ tay Tổ cô bà, ngấm ngầm giao cho người ta nuôi dưỡng. Rồi Dư Tiệp dốc lòng tìm cho ra dòng còn lại của Đại Hoang Sơn, lấy ‘Lai Nghi' làm hiệu, muốn giở lại đoạn huyết án năm xưa, có điều nó thế cô lực nhược, phe địch quá mạnh. Mấy năm trời nó cứ lo tìm cái người mạng số cho thấy có thể giúp Tiểu Kế. Nó tìm hết sức khổ ải, mà hai năm sau nó nói nó đã tìm ra”. Bộc Ách Phi nhìn sang Hàn Ngạc: “Người đó là ngươi”. Hàn Ngạc không khỏi bàng hoàng, lại nghe Bộc Ách Phi thốt: “Nó bói ra ngươi, vì vậy ngươi chưa từng gặp nó mà nó đã gặp ngươi vô số lần rồi. Nó thường hay thư từ qua lại với ta, về sau thư của nó cơ hồ lá nào cũng có nhắc đến ngươi. Ta không nói thì chắc ngươi vĩnh viễn đâu có biết nó đã thích ngươi từ đầu rồi”. Hàn Ngạc cảm thấy con tim như ngừng đập, mỗi lần nghĩ tới Dư Tiệp, gã đều có cảm giác đó. Thì ra… là vậy! Bộc Ách Phi lại nói: “Cho nên thực ra nó biết ngươi trước Phương Ninh. Vì vậy sau này nó nghe nói tới cái tên Sách Kiếm song lữ mới chẳng cam lòng. Ngươi nói xem hôm nay sao ta lại lấy sắc đẹp dụ dỗ ngươi?”. Nàng ta chợt liếc Hàn Ngạc một cái. Gã không biết sao nàng ta lại nói tới vấn đề này, mặt mày đỏ bừng, lại nghe: “Chỉ vì ta cũng cảm thấy không phục giùm cho Dư Tiệp. Bằng vào cái gì mà Đỗ Phương Ninh có thể chiếm giữ được ngươi? Nhân phẩm của ả đâu có xứng. Huống hồ…”. Nàng ta nghiến răng: “Là Thành Nam Tính của ả năm xưa mua chuộc Vu Tự Vọng, tàn sát cả nhà Dư Quốc trượng trong ngõ Luân Hồi! Gia môn của ả là cừu nhân sinh tử của Dư Tiệp và ta!”. Hàn Ngạc thất kinh, đầu óc bấn loạn, gã thoáng có cảm giác mọi sự liên quan tới mình thì ra đã sớm lọt vào vòng toan tính của Phương Ninh, thậm chí mình cũng đã sớm rơi vào mưu đồ của Bộc Ách Phi và Dư Tiệp. Dư Tiệp tuy đã chết, nhưng chuyện này còn lâu mới xong. Ý đồ của bọn họ đâu chỉ là báo thù một cách đơn giản như vậy. “Từ khi ngươi và Đỗ Phương Ninh ra Tái ngoại, ta biết người của Đông cung chẳng thể nào không phát giác sự tồn tại của ta. Chúng dứt khoát không thể để ta sống còn”. Nàng ta chợt ngẩng lên, ánh mắt hằn học, rồi lại cười cười nói nói yểu điệu: “Canh tư sắp đến rồi, nếu ngài không tin, một hồi nữa sẽ thấy sát thủ tới. Ngài muốn ở đây đợi hay là núp vào chỗ kín mà xem?”. Hàn Ngạc bất giác đứng dậy, thấy nói gì đi nữa cũng không xong, nhất thời lúng túng, chẳng kịp nghĩ ngợi kỹ: “Vậy ta tránh một lúc”. Gã muốn giành chút thời gian ngẫm nghĩ. Bộc Ách Phi có vẻ cũng muốn gã làm vậy, giơ tay chỉ một thân cây, thì ra đã tính sẵn vị trí ẩn náu cho gã. Hàn Ngạc lách mình núp sau thân cây. Đêm tĩnh mịch, Hàn Ngạc đầu óc bấn loạn, nhất thời nghĩ: thực là vậy sao? Lời nói của Bộc Ách Phi quả ăn khớp, gã không có cách nào ngờ vực. Gã lại không khỏi đắn đo: vậy có nên kể cho Tiểu Kế nghe không? Nhớ tới Tiểu Kế, đầu gã lại đau nhức. Đôi mắt to tròn của nó hiển hiện trước mặt gã, trong sạch làm sao, ngây thơ làm sao. Nếu người của Đông cung biết thân thế của Tiểu Kế, bọn chúng làm sao có thể dung tha cho nó sống còn được chứ? Nghĩ đến đó, toàn thân Hàn Ngạc toát mồ hôi lạnh, nhưng cũng tỉnh táo hẳn. Tay gã chợt siết chặt chuôi kiếm, khoé môi bỗng nảy hiện nụ cười lạnh. Ai dám ám hại Tiểu Kế chứ? Gã không khỏi nổi giận, thầm nhủ: “Hàn Ngạc ta còn chưa chết mà!”. --- Ngày nào Hàn Ngạc ta còn sống, nào có thể cho phép các ngươi gia hại một cọng lông của Tiểu Kế! Sao dời chuyển trên trời, canh bốn đã đến. Hàn Ngạc chợt thấy cảnh vật xung quanh hơi lung lay, biết Bộc Ách Phi nói không sai, Thập Sá cổ đồ quả nhiên có kẽ hở vào đúng giờ khắc này. Sau đó gã thấy một hắc y nhân nhoáng hiện, vọt đến khoảnh đất trống trước đình. Thân ảnh kia có vẻ quen thuộc, nhưng gã đâu kịp nghĩ ngợi, vì người nọ đã xuất thủ. Một thanh đoản đao bay lên không trung, bay thẳng về phía Bộc Ách Phi trong đình! Hàn Ngạc chợt rướn mình lên, quát lớn một tiếng: “Dừng lại!”. Trường Canh kiếm đã rút ra, nhóa lên trên không, đâm về phía người nọ. Kiếm phong cực kỳ hung mãnh, người nọ cả kinh, phất tay vung một dải dây xanh đánh ngược ra sau lưng. Sách và kiếm va vào nhau, hai người qua một chiêu đã biết đối phương là ai, hạ mình cùng một lúc, tròn mắt trân trối nhìn nhau. Bộc Ách Phi lại đứng bên lề cười cười mà ngó, bồi một câu chẳng biết vì đắc ý hay là ác độc: “Ngươi đoán chẳng sai, hài tử năm xưa chẳng biết có chết rồi hay chưa chính là Dư Tiểu Kế”. Thân người Đỗ Phương Ninh run run. Nàng xem ra đã biết rõ nội tình, tuy nói tuổi tác của nàng còn nhỏ, chuyện xưa xảy ra khi nàng còn tấm bé, nhưng nhất định nàng đã biết vụ án thần bí liên quan đến Dư Hoàng hậu. Hàn Ngạc cũng run rẩy. Gã tới giờ mới biết cái kế Bộc Ách Phi cười nói ôn hòa và Dư Tiệp đã chết kia an bài độc ác đến dường nào! Đỗ Phương Ninh ngó Hàn Ngạc, đột nhiên rướn mình bay đi, lao nhanh ra ngoài. Hàn Ngạc kêu: “Phương Ninh!”, vội vã đuổi theo. Hai người một chạy một đuổi, nháy mắt đã ra khỏi Cư Duyên cung. o0o Ngoài thành Cư Duyên, Đỗ Phương Ninh chợt cất tiếng cười thê lương. Hàn Ngạc thực sợ nhìn thấy nàng cười như vậy. Lại nghe nàng thốt: “Thì ra ta cứ mãi coi thường con a đầu Vu Tiệp kia. Chiêu này của ả ta đúng là cao minh, thực là cao minh!”. Giữa hai người giờ phút này dường như đã đào sâu một khoảng cách. Là bè đảng của Đông cung, nàng bất kể thế nào cũng không thể để chuyện của Dư Tiểu Kế phô bày ra ánh sáng, không thể để nó còn sống. Chuyện này liên can đến tính mạng của gia đình nàng. Trước đây, hành vi của nàng tuy Hàn Ngạc không vừa lòng, lại cũng chẳng can thiệp thái quá. Nhưng nếu có Tiểu Kế đứng giữa… Đỗ Phương Ninh cười thảm não: “Chàng hiện đã hiểu rồi à? Thế gian này đâu phải chỉ có một người con gái ác độc tôi đây”. Sau đó nàng chợt dịu mặt: “Chàng giúp tôi… hay là giúp nó?”. Hàn Ngạc thẫn thờ đứng đó, Đỗ Phương Ninh bần thần nhìn gã một hồi, chợt lao đến, tay buông rơi Thanh Sách, kéo Hàn Ngạc ngã xuống, môi áp giữ môi gã, không nói gì hết, hôn ngấu nghiến. “Chàng giúp tôi.. hay là giúp nó?”. Nàng lại hỏi lần nữa. Hàn Ngạc vẫn không đáp. Đỗ Phương Ninh tức hận cắn môi gã, sau đó lệ nóng bỗng tuôn rơi. Rồi nàng như cuồng điên, như biết lần này là lần cuối, duỗi tay cào xé y phục Hàn Ngạc, như muốn cùng gã điên cuồng một lần… o0o Đêm đen dày kín. Đêm đen như cái vỏ trai khép lại, lặng lẽ ôm bọc con người vào trong. Sa mạc Ba Đan Cát Lâm biết bao nhiêu hạt cát mà kể, nhưng chỉ có một hạt có thể xâm nhập vào lòng, cắt quặn một niềm đau ấm êm, dùng dịch thể nóng dịu hàm dưỡng ra một hạt sáng. Mắt người trong đêm như hạt châu giấu mình trong vỏ trai vậy. Đỗ Phương Ninh lặng lẽ ngồi trên sa mạc, tay nàng cầm một cái vỏ sò màu đỏ nho nhỏ, giống như một chấm lửa giơ cao giữa đêm tối. Niên quan5đã qua, bên tai nàng tựa hồ còn đang vọng vang bài ca nàng sáng tác ngày trước: “Khoác áo nhà binh cũng bởi ai…”. Phải, bởi ai? Đêm trừ tịch, nhưng nàng lại không thể cùng chung vui với Hàn Ngạc. Sau cái lần cuồng điên cuối cùng đêm hôm đó, họ đã trốn tránh nhau. Hôm nay… khoé môi nàng hé nụ cười khổ não… nàng phải đi rồi. Lạc Dương thành còn cần có nàng, nàng còn có biết bao nhiêu chuyện phải làm. Nàng vốn muốn ở đại sa mạc này mãi, ở mãi với Hàn Ngạc… mãi… Nhưng… đường đời khó lường mà! Nàng thở dài một hơi. Đây chính là cánh rừng liễu đỏ nàng từng đến đón Hàn Ngạc đắc thắng trở về. Tay nàng kéo Thanh Sách, tháo một mối gút, lại gỡ không được mối gút trong lòng mình. Cuối cùng… nàng khắc hai hàng chữ trên cành cây. o0o Hai hàng chữ đó đến khi Hàn Ngạc thấy thì đã qua mấy ngày rồi. Mặt trời lặn soi rọi cánh rừng liễu đỏ, người cùng cạn chén thuở trước lại đã không còn. Mùa xuân hoang lương sắp đến phải không? Trên cành cây là câu: Nhất khứ tử đài liên sóc mạc… Mắt Hàn Ngạc chợt ươn ướt. Câu bên dưới lại như một tiếng thở dài buồn thảm: Đồng kết Thanh Sách quyến hoàng hôn… Hàn Ngạc chợt trào nước mắt. Thì ra trong lòng nàng cũng luôn luôn khát vọng cùng thắt tơ xanh… chung hưởng chiều vàng… Ánh mặt trời như những đường chỉ vàng rải rắc giữa sa mạc… Trong Lạc Dương thành, giờ này không biết là giờ nào rồi? Nàng đang trên đường về Lạc Dương phải không? Trước mắt… chỉ có cát, chỉ có cát vàng vô biên vô hạn…
1 Xuân hoang mỏi ngóng ngâm thườn thượt, là Tiểu Đoạn sửa câu "Cao thu vọng đoạn chính trường ngâm" trong bài thơ "Tả ý" của Lý Thương Ẩn.2 Tức là 30 tháng 11 theo lịch ngày nay. 3 Dụ dỗ vào cung sẽ được hưởng phước, là câu trong bài “Thượng Dương bạch phát nhân” của Bạch Cư Dị. 4 Mặt tựa phù dung ngực ngọc ngà, cũng là câu trong bài “Thượng Dương bạch phát nhân”. 5 “Niên quan” là đêm trừ tịch. Theo truyền thuyết thần thoại thì vào thời kỳ Thái Cổ, có một loại quái thú hung mãnh tên là "Niên", ẩn sâu trong rừng núi. Hình dạng của nó hung ác, bản tính hung tàn, chuyên ăn thú rừng và chim chóc, ăn cản loài bò sát và côn trùng, mỗi ngày mỗi đổi khẩu vị, riết rồi ăn tới cả người ta, khiến cho ai nhắc tới "Niên" cũng biến sắc. Về sau người ta dần dần nắm bắt được quy luật hoạt động của "Niên", cứ mỗi ba trăm sáu mươi lăm ngày thì tới phiên nó đi đến chỗ có đông người cư ngụ tìm ăn thịt người, hơn nữa thời gian nó xuất hiện toàn là vào lúc trời tối, tới khi gà gáy thì nó lại quay về sơn lâm. Tính đúng được ngày "Niên" ra hoành hành, bá tánh mới đóng cửa trốn nhủi trong nhà vào cái đêm đáng sợ đó, gọi là "Niên quan" ("quan" là đóng), hơn nữa còn nghĩ ra một biện pháp để qua khỏi Niên quan: mỗi lần đến tối hôm đó, nhà nhà đều nấu nướng từ sớm, tắt lửa không đụng đến bếp lò nữa, trâu bò gà vịt nhốt vô chuồng hết, đóng chặt cửa trước cửa sau, trốn trong nhà ăn bữa cơm tối, do vậy bữa cơm tối hôm đó có ý vị chẳng biết hên xui thếnào, nên bày trí rất thịnh soạn, ngoài việc muốn toàn gia già trẻ lớn bé cùng ăn cơm biểu lộ sự đoàn viên ra, còn cần cúng tế tổ tiên trước khi ăn, cầu thần linh của tổ tiên bảo vệ cho bình an qua được đêm hôm đó. Sau khi ăn xong không ai dám đi ngủ, cùng ngồi chuyện vãn để vững bụng, dần dần hình thành tập quán thức trọn đêm trừ tịch. Còn theo truyền thuyết khác thì ngày xưa người thiếu tiền tô phải thanh toán nợ vào ngày đó, cho nên qua khỏi ngày đó giống như quá quan vậy ("quá quan" là qua khỏi ải), vì vậy gọi ngày cuối năm là "Niên quan".
Hết quyển IV
Tóm t ắt các hồi truyện quyển IV:Tây chinh nhật điều vạn hoàng kim .......... Rừng liễu cánh diều đơm ấm dịu Vật tình duy hữu túy trung chân .......... Tình chi cho lắm hóa đìu hiu Thiên chuyển Tam châu Phòng ngự sứ .......... Quyền chi cho dữ thành thờ thẫn
Kh ởi cư bát toạ thái phu nhân .......... Quật khởi má hồng há chịu xiêu Xả sinh sách mã luận binh địa .......... Đồng vắng mau quên sắc nước kia Tha ngọc yêu kim báo chủ thân .......... Gác the khó lãng dáng yêu kiều Giang thiên mạc mạc điểu song khứ .......... Cát vàng man mác hương trời nọ Phong vũ thời thời long nhất ngâm .......... Đêm trắng triền miên bóng mỹ miều Nhung mã bất như quy mã dật .......... Thiên hạ của chàng, chàng của thiếp Thiên gia kim hữu bách gia tồn .......... Người ham đất mộng, mộng cô liêu Dĩ đoạn Yên hồng sơ khởi thế .......... Trống vang pháo vọng buồn đôi lúc Cánh kinh kiếm khách hậu quy hồn .......... Tay dắt vai kề sợ một mai Lưỡng cung vô sự an bàn thạch .......... Rượu cay khói đậm vầy bao nỗi Vạn quốc quy tâm hữu nữ thần ..........Đá chiếc cành đơn lấp bấy nhiêu Nhất khứ tử đài liên sóc mạc .......... Bối rối đợi mòn bờ liễu tối Hoang xuân vọng đoạn chính trường ngâm ...... Bâng khuâng trông mỏi ánh dương chiều
Quy ển V: Nhật sắc phú1
Chương 71 Hạo hạo Trường An xa triển trần2
M ột tòa trạch viện rộng lớn, tọa lạc ở phường Chu Tước trong thành Trường An. Nơi đây vốn là khu nhà cũ của Trường Lạc công chúa, sau khi sửa sang lại, dáng dấp càng huy hoàng. Đường vào viện cứ đi mãi đi hoài, phảng phất vĩnh viễn chẳng đi đến nơi. Cửa đen tuyền chiếu rọi hai bóng người, một trấn định, một linh động, lại chính là Hàn Ngạc và Dư Tiểu Kế.
Hàn Ng ạc nghiêng đầu nghi hoặc ngó người dẫn đường. Đã sang tháng năm, mùa hè nóng bức, nhưng trong phường có lắm cây hoè già khoe tàng rậm rạp, hết sức thanh tịnh mát mẻ. Không khí ung dung tịch mịch càng làm nổi bật y phục quá ư cũ kỹ của Hàn Ngạc và Tiểu Kế. Trường An quyền quý phồn hoa, hai người mới từ Tái thượng về, ăn mặc chẳng tránh khỏi có vẻ không hợp thời trang. Hàn Ngạc hỏi: “Quý chủ nhân là ai? Sao lại muốn gặp huynh đệ bọn ta?”.
Gã và Ti ểu Kế lần này lẻn về Trường An, nào ngờ mới đến ngoài thành đã có người nghênh tiếp, chỉ nói rằng chủ nhân mời mọc, lại chẳng chịu cho biết thực ra là ai. Hàn Ngạc thầm kinh hãi hành tung của mình không ngờ lại có người tra ra, nhưng vẫn theo để dò la thực hư, suốt dọc đường cứ ngờ ngờ vực vực. Người dẫn đường vận quần áo xanh, đội nón nhỏ, bộ dạng bình thường đến mức không thể nào bình thường hơn được nữa, hoàn toàn chẳng có điểm đặc biệt gì hết. Hắn cười đáp: “Hàn công tử, ngài đăng đường rồi sẽ biết mà”. Nói xong hắn đi tới đẩy cửa.
Hàn Ng ạc lùi lại bên Dư Tiểu Kế, bảo vệ toàn thân nó --- Từ khi chia tay với Đỗ Phương Ninh, hơn một năm trời nay gã một mực không để Dư Tiểu Kế rời xa mình. Vì gã biết thân phận thực của Tiểu Kế, đương nhiên có thể nhận thấy hiểm nguy tàng ẩn bên trong: nó là con của Dư Hoàng hậu, là “Thái tử” mà đương kim Hoàng thượng từng hứa hẹn, thân phận “Hoàng tử” đâu phải là cái dễ gánh. Ít ra một khi Đông cung biết được, tất sẽ coi nó là cây đinh trong mắt, cái gai trong thịt, phải trừ diệt càng sớm càng tốt.
Kh ổ đấu ngoài Biên Tái những năm qua đã trui rèn cho gã thêm trầm tĩnh. Từ khi Ô Tất Hãn chết, sự xâm lược của Khương Nhung không còn là nỗi lo lớn nữa. Có điều thế lực của Khương Nhung chia thành mấy chỗ, quấy nhiễu còn hơn trước nữa. Gã bận bịu sự vụ, sở dĩ lẻn về Trường An với Tiểu Kế là vì nghe tin Hoàng thượng tuổi già lâm trọng bệnh, e khó cầm cự được lâu. Gã tuy chưa kể cho Tiểu Kế nghe về thân thế của nó, lại cảm thấy không thể không dẫn nó về --- Con người đó có lẽ là phụ thân của nó.
Khi ến cho gã quyết tâm trở về Trường An một chuyến lại là vì một vụ ám sát. Vụ ám sát đó đến giờ nhớ lại cũng không khỏi khiến cho Hàn Ngạc rùng mình. Vết thẹo bên trái cổ Tiểu Kế là dấu tích vụ ám sát đó để lại --- Khi ấy Hàn Ngạc bất quá có hơi sơ suất, do có chuyện phải đi Y Ngô thành, không dẫn Tiểu Kế theo, vụ ám sát phát động đúng ngay lúc đó.
o0o Là tháng ba, băng biên thùy còn chưa tan, Tiểu Kế ra bờ sông đục băng cho ngựa uống nước, thích khách không ngờ lại giấu mình dưới nước. Nếu không phải công phu của Tiểu Kế nhờ có sự để tâm dạy dỗ của Hàn Ngạc đã tăng tiến hơn nhiều, chiêu đó nó tuyệt đối không tránh khỏi, có điều vẫn đã gây thương tích bên cổ nó. Nếu chẳng phải phản ứng c
ủ a nó thần tốc, Liên Thành Kỵ ở gần đó, hơn nữa trên người nó có pháo hiệu, có Cao Dũng đã được Hàn Ngạc phó thác phải toàn lực bảo vệ nó, vụ ám sát lần đó e đã thành công rồi.
1 Tựa đề xuất xứ từ câu “Nhật sắc dục tận hoa hàm yên” trong bài thơ “Trường tương tư - kỳ nhị” của Lý Bạch, có nghĩa là sương khói phủ che hoa lá dưới ánh chiều tàn. 2 Trường An bát ngát xe nghiền bụi, là Tiểu Đoạn sửa một chữ trong câu “Hạo hạo Trường An xa mã trần” (Trường An bát ngát bụi ngựa xe) thuộc bài thơ “Hạnh Viên” của Nguyên Chẩn.
Hàn Ng ạc nghe tin, phóng ngựa cả đêm từ Y Ngô thành về. Thấy Tiểu Kế nằm dài máu me loang lổ, gã tái mặt khẩn trương. Gã xem vết thương thấy hình dáng như một con ngô công uốn éo, hết sức khủng bố, liền mở miệng thốt ba tiếng: “Long Môn Dị!”. Lâu nay gã vốn đâu có ở chung với Liên Thành Kỵ, cũng chẳng có thăng trướng lo liệu việc quân, vậy mà hôm đó đến giờ Ngọ lại thăng trướng, khẩu khí cực kỳ nghiêm khắc, hạ lệnh cho bộ hạ giới nghiêm suốt ba chục dặm, ai có bộ dạng khả nghi bắt hết, ai chống cự: “Giết không tha!”.
Đ ó là lần đầu tiên gã ban bố mệnh lệnh hà khắc đến thế. Liên Thành Kỵ cũng là lần đầu tiên thấy Hàn Ngạc hung bạo đến dường đó. Ba quân trên dưới nhất thời chấn động, phòng bị nghiêm ngặt tới mức phạm vi cả trăm dặm chung quanh không có một bóng người. Nhưng Hàn Ngạc biết nếu thực là cao thủ của Long Môn Dị, binh sĩ có canh phòng kín mít cũng chẳng thể nào bắt giữ được chúng. Khi đó gã lại nhận được thư của Bộc Ách Phi. Thư rất ngắn gọn, chỉ nói nghe mật thám của nàng ta báo rằng có cao thủ của cả Long Môn Dị và Bắc Mang Quỷ đến Tái ngoại, tuy chẳng đi cùng đường, lại xem chừng đều nhắm vào một Tiểu Kế. Hàn Ngạc xé nát lá thư, trợn mắt nhướng mày, thầm tức giận: “Người của Đông cung Thái tử quả nhiên đã phát động!”.
--- Tr ừ chúng ra, có ai thỉnh được hai tổ chức lớn đến như vậy trong Lạc Dương thành? Bắc Mang Quỷ xưa nay hành nghề ám sát thì không nói làm gì, chỉ cần có tiền là thỉnh được; Long Môn Dị đâu phải là tổ chức sát thủ, mời được chúng xuất động nhất định phải có bàn tay của phe Đông cung Thái tử. Hàn Ngạc lúc đó lòng đau xót: Phương Ninh, Phương Ninh! --- Yên bình được hơn một năm, gã vốn rất cảm kích Phương Ninh về đến không đem bí mật đó nói ra. Đâu có mấy ai biết bí mật đó. Giờ đây Đông cung Thái tử đã phát động, xem ra cơ mật đã bị tiết lộ, nhất định là nàng cuối cùng không nhịn được mà. Lẽ nào nàng thực xem trọng phú quý cho gia đình đến thế sao? Hay là nàng cảm thấy với uy danh thanh thế hiện nay của Hàn Ngạc, Dư Tiểu Kế lông cánh đã đủ, nếu nó kề cận gã tất sẽ có đại họa, phải diệt trừ cho mau?
Gã v ừa xót vừa giận, thương tổn tình cảm, thầm thốt: Phương Ninh… nàng chẳng phải cũng là hảo thủ võ lâm sao? Còn cần gì mà phải tìm bọn Bắc Mang Quỷ với Long Môn Dị? Nàng sao không đích thân đến đánh một trận với ta, giết ta rồi hãy giết Dư Tiểu Kế?
Bi ến cố tiếp đó càng khiến cho gã kinh hồn. Chỉ mấy ngày sau, Khố Tán trấn thủ Y Ngô phi ngựa đến, bởi trong mười lăm thành đã xảy ra đại sự. Hắn kiếm Cao Dũng, sau đó lại tìm mấy thân tín của Hàn Ngạc trong Liên Thành Kỵ. Họ vào trướng của Hàn Ngạc bàn bạc riêng trước rồi mới mời gã và Tiểu Kế về. Thì ra là bởi gần đây, cơ hồ chỉ nội trong một đêm, khắp mười lăm thành Tái ngoại đều có dán giấy đề cùng một nội dung:
Nòi vua còn sót l ại, Chân mệnh ở Liên Thành! Lời rao truyền này rõ ràng muốn chỉ Dư Tiểu Kế --- Chúng tướng ngó Hàn Ngạc, thấy
m ặt mày gã biến sắc mấy lượt. Người trong cuộc đều là người từng trải, biết Hàn Ngạc tính tình ngay thẳng đạm bạc, chuyện này tất chẳng phải gã làm, cũng không thể nào do gã nghĩ ra mấy lời yêu ngôn dị ngữ đế vương đó. Dư Tiểu Kế mới bị ám toán ngày hôm trước, ai ai cũng hoài nghi vô hạn. Hàn Ngạc bụng thầm tính: chuyện này chắc không phải là chủ ý của Đông cung, chúng đâu có muốn phơi bày ra. Đây có phải là hành vi riêng của Long Môn Dị hay Bắc Mang Quỷ không? Mục đích là ép mình ra mặt đánh một trận? Bất quá có quan hệ đến thân thế của Tiểu Kế, chúng tuy có làm sát thủ thì cũng đâu được cho biết --- Người của Đông cung tuyệt không thể nào nói cho bất cứ một ai biết bí mật này.
V ậy thực ra là kẻ nào chẳng chịu yên thân mà nhất định muốn ép mình ra mặt, chẳng ngại quấy rối thiên hạ mà muốn mình với Đông cung Thái tử đối đầu một trận? Gã trầm ngâm thực lâu rồi mới thốt: “Xem ra ta có ở lại với Liên Thành Kỵ chắc sẽ gây bất lợi cho mọi người, cũng bất lợi cho cả đại sự. Có lẽ đã đến lúc lúc ta nên đi”. Dư Tiểu Kế vốn có mặt, nghe vậy không khỏi kinh ngạc. Hàn Ngạc nói xong, giơ tay vuốt nhẹ vết thương trên cổ nó, thúc đẩy khí lực khiến nó ngủ mê đi. Chúng tướng đưa mắt nhìn nhau, có người hỏi: “Chuyện này xem ra có nhắm vào Hàn soái à?”. Lại có kẻ trầm ngâm: “Chắc có quan hệ đến thân thế của thằng bé Tiểu Kế?”. Họ đã quen biết Tiểu Kế lâu nay, Tiểu Kế miệng oang oang, cho nên bí mật của “ngõ Luân Hồi” nơi xuất thân của nó đại để ai ai cũng biết được vài phần. Hàn Ngạc không đáp, cũng không giải thích gì nhiều. Gã không biết nên nói làm sao. Có người khích động: “Chúng cũng hiếp người thái quá! Bọn ta là lính, tuốt ngoài vạn dặm, vốn chẳng muốn tham dự vào chuyện tranh đoạt trong triều của chúng. Nhưng Hàn soái, nếu chúng cứ ép miết, chỉ cần ngài nói một câu, một vạn bảy ngàn binh Liên Thành Kỵ bọn ta đâu phải dễ bị dồn ép. Muốn bức bọn ta phản thì bọn ta phản mẹ nó luôn!”. Hàn Ngạc khi ấy đã thăng lãnh chức soái của Bắc đình Đô hộ phủ, vì vậy bộ hạ đều gọi gã là Hàn soái. Liên Thành Kỵ cũng đã khuếch trương thêm, hết sức lớn mạnh. Tính số binh mã mười lăm thành, chắc cũng phải gần hai vạn lính, thêm vào dưới trướng Bắc đình Đô hộ phủ còn có hơn hai vạn quân Hán, binh lực trong tay Hàn Ngạc hiện đang vô cùng cường thịnh. Mục quang gã bình tĩnh quét qua mặt mọi người, thấy ai nấy cũng có thần sắc trấn định đồng lòng, cả Khố Tán cũng vậy, thậm chí Cao Dũng cũng chẳng phản đối --- Họ đã nghe được những gì? Lúc mục quang của gã quét qua mặt Cao Dũng, thấy hắn gật gật đầu --- Cao Dũng khác với những người kia, đâu phải do Hàn Ngạc đề bạt làm quan tướng. Hắn nguyên là mệnh quan của triều đình do Vương Hoành Hải phái đến. Cả hắn cũng gật đầu khẳng định, Hàn Ngạc có thể xác định sự ủng hộ mà mình thu hoạch được từ Liên Thành Kỵ và mười lăm thành trì Tái ngoại thực vững như bàn thạch. Khố Tán chợt nghiêm giọng: “Hàn soái, tôi muốn mạo muội hỏi ngài một chuyện --- Chuyện này có phải có dính tới phe đảng của Đông cung Thái tử không? Chúng nhất quyết lấy cho được mạng Tiểu Kế phải không?”. Sau đó hắn chăm chú ngó Hàn Ngạc: “Người ngồi đây đều chẳng phải là kẻ không có đủ năng lực đảm đương sự vụ, có những lời tôi cũng phải hỏi thẳng mới được, tin rằng Hàn soái tín nhiệm bọn tôi toàn là đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất. Tiểu Kế… nó có phải là con của Dư Hoàng hậu năm xưa không?”. Hàn Ngạc thót tim: xem ra giấy không bọc được lửa, quân dân Tái ngoại nhất định đã có lưu truyền những tin đồn mà Hàn Ngạc lại chẳng hay biết. Hàn Ngạc nghi hoặc nhìn Khố Tán. Khố Tán đã hiểu được phần nào qua ánh mắt của gã. Gã thấy chúng bộ hạ ngó mình, đợi gã cho đáp án, có điều vấn đề này rõ ràng quan hệ quá trọng đại, họ đã quyết tâm muốn hỏi thì rõ ràng đã dồn hết tính mạng của cả đám lẫn gia đình vào cuộc. Hàn Ngạc cũng không kháng cự nổi ánh mắt chí thành của bộ hạ. Gã trầm ngâm rồi gật gật đầu, lại do dự một lúc mới thốt: “Ta cũng mới biết cách đây không lâu”. Cao Dũng chợt vỗ bàn: “Vậy thì Liên Thành Kỵ nguy lắm!” --- Phe Đông cung Thái tử quyết không thể cho phép một đội quân chống đối mình hùng hậu như vậy tồn tại. Khố Tán lại mỉm cười, nhẹ nhàng thốt: “Vậy cũng hay, chúng muốn làm cứng, bọn ta cứ thả cửa làm cứng lại. Khà khà, Bắc đình An phủ sứ Cổ Siêu Trác là người của Bộc Xạ Đường, nhất định Đông cung sẽ mất hết tin tức Tái ngoại, vậy thì hay quá rồi! Chắc người của Bộc Xạ Đường mà biết chuyện này sẽ rất mừng. Họ đâu thể nào giúp sức cho Đông cung, e chỉ còn nước trợ lực cho bọn ta. Khà khà, Đông cung… Đông cung… nhất định muốn ép các thành Tái ngoại bọn ta liên kết với Bộc Xạ Đường à?”. Hai thế lực Đông cung với Bộc Xạ Đường đó giờ gay gắt tranh đoạt quyền khống chế mười lăm thành Tái ngoại và Liên Thành Kỵ, nhưng Hàn Ngạc luôn luôn kính nhi viễn chi đối với làn sóng hiểm ác lan tỏa từ cuộc đấu đá trong triều. Nào ngờ thái độ đó lại càng làm tăng thêm tính trọng yếu của Liên Thành Kỵ. Có thể vì Đông cung trước đây còn chưa biết thân thế của Dư Tiểu Kế, cho nên chẳng để tâm áp chế họ, mà còn thăng quan cho gã càng ngày càng cao nữa. Tính ra đến nay gã cũng đã thành đại quan nhị phẩm của triều đình rồi còn gì. Trẻ tuổi như gã vốn cực kỳ khó được như vậy, ở trong triều mấy chục năm cũng chưa chắc đã nên. Thấy mặt mày thành khẩn của chư tướng, Hàn Ngạc lần đầu có cảm giác như Đỗ Phương Ninh: gã không thể ngã, cũng không thể đi! Liên Thành Kỵ này, gã đâu thể nói đi là đi. Công danh của biết bao nhiêu người, tính mạng gia đình của biết bao nhiêu người đều có dính dấp với gã. Mình mà đi, bao nhiêu xương máu họ đã đổ với mình trở thành tay trắng. Nghĩ tới những người đồng bào từng trải trăm trận quyết chiến lập công, lòng gã cảm thấy gã nợ họ. Nếu mình đi, bất kể triều đình phái ai đến, e Liên Thành Kỵ sẽ loạn. Liên Thành Kỵ mà loại, Biên Tái tất phải loạn, biết bao nhiêu người lại lọt vào vòng khói lửa đây chứ? Huống hồ nói cho cùng, triều đình ỷ lại vào mình thực ra là vì một dải tây bắc Thanh Hải, phía nam của Liên Thành Kỵ, bộ tộc Thổ Cốc Hồn sau khi tiềm ẩn lâu năm đã dần dần khôi phục thanh thế. Chúng vốn bị Khương Nhung áp chế, lại cũng luôn luôn rậm rịch ló đầu. Ô Tất Hãn vừa chết, chúng không còn bị trói buộc nữa. Thổ Cốc Hồn dân chúng hung bạo, một khi thành loạn, họa hoằn tất hết sức ghê gớm. Triều đình coi trọng Liên Thành Kỵ cũng chính do nguyên nhân đó. Các chư tướng ai ai cũng biết Thổ Cốc Hồn nhất định sẽ tấn công. Họ đều là nam nhi đại trượng phu, đều có khát vọng lập công lớn, xây dựng cơ nghiệp, đó là lời tự hứa với lòng của mỗi một người bọn họ. --- Ngó về vùng tây bắc, đã bắn Thiên Lang, Hung Nô còn chưa diệt, làm sao ngồi yên! Ai ai cũng đều ôm khát vọng lớn lao đến vùng đất hoang vu Tái ngoại này, muốn bằng vào một đao một ngựa kiến lập công trạng. Thanh danh của mình là uy danh của Liên Thành Kỵ, đó nào phải chỉ bằng vào máu huyết của một mình mình, mà là thứ đã đánh đổi bằng máu huyết của mấy ngàn đồng bào. Mình giờ đây sao có thể đi cho được? Khố Tán bình tĩnh nói: “Cho nên, Hàn soái, ngài không thể đi. Thổ Cốc Hồn thanh thế đang mạnh. Triều đình thiếu tướng soái tài ba, chỉ có một Vương Hoành Hải lão tướng quân mà lại cũng đang bận bịu hết sức, bị người ta khắc chế, cử động chẳng được tự do. Nếu ngài đi, Thổ Cốc Hồn đã vững, triều đình lại có biến thì e chẳng còn ai chế ngự được. Đây đâu phải là chuyện của một mình ngài". “Mà cho dù là chuyện của một mình ngài thì cũng là chuyện của cả đám bọn tôi. Tôi và Cao tướng quân cùng các chư tướng đã thương lượng rồi. Nếu triều đình nhất định muốn để chuyện tranh đoạt nội bộ lây lan ra đến quan ải biên thùy, vậy thì… bọn tôi nhất định… ủng hộ ngài…”. Hắn khựng lại, không nói cho dứt câu: “… Bất kể ngài chọn lựa ra sao. Bởi cái bọn tôi ủng hộ thực ra không phải là ngài, mà là đại nghiệp. Đại nghiệp đó là cái đã dùng tính mạng của mấy ngàn nam nhi bọn tôi để đánh về, nào có thể cho phép hạng chỉ biết tranh quyền đoạt lợi, nịnh nọt ton hót trong triều mặc sức phá hoại. Chuyện trấn an Quan ngoại, chuyện sống còn của Quan nội đâu cho phép chúng gây ra loạn lạc!”. Câu nói của hắn đã thốt lên nỗi lòng mọi người. Ai nấy đều im lặng, Hàn Ngạc một lúc sau mới từ từ thốt: “Được, ta không đi. Nhưng trước hết ta phải dẫn Tiểu Kế về Trường An một chuyến. Chuyện này ta sẽ tận hết sở năng của ta để lo cho xong. Nhưng nếu lo không xong, ta sẽ về…”. Gã quét mắt nhìn mọi người: “Một khi ta về lại, e sẽ có đại loạn. Chuyện đến nước này… chư vị có thể chờ khi ấy rồi hãy chọn lựa”. Trong trướng lại im ắng, lát sau có người lên tiếng: “Hàn soái, chuyến đi Trường An này ngài phải hết sức bảo trọng. Bọn tôi đương nhiên hy vọng ngài có thể bình định mọi sự. Nhưng nếu bình định không xong, vụ tranh phạt này đâu phải do bọn tôi chọn lựa, mà là do chúng chọn lựa. Ngài nhất định phải bình yên trở về. Bọn tôi thì… đâu cần tới lúc đó… Hiện bọn tôi đã chọn lựa rồi!”. Khố Tán chợt thò một bàn tay ra, nhìn các đồng liêu. Ai nấy mặt mày cũng hết sức nghiêm nghị, một hồi sau lại có một bàn tay đặt lên tay hắn, từ từ cứ chồng chất thêm thành mười mấy bàn tay, bao gồm cả Cao Dũng. Họ cùng ngó sang Hàn Ngạc. Hàn Ngạc ngẩng lên hít một hơi sâu, cầm tay Tiểu Kế đang mê man cùng đưa tay mình nhất tề đặt lên trên. o0o Hàn Ngạc và Tiểu Kế lúc này đã vào đại đường của tòa viện. Gạch vàng lót thẳng thớm trải dài. Người dẫn đường cười nói: “Nghe kể năm xưa Trường Lạc công chú tu bổ lại đại đường này xong thì thợ nghề đến lãnh tiền thưởng. Trường Lạc công chúa rất vừa ý, nói phải thưởng một ngàn quan. Thợ nghề lại cười nói: ‘Xin công chúa cho người bắt hai trăm con kiến mang đến, đóng chặt cửa lại. Sau một đêm, lại kêu người vào đếm, nếu thiếu một con, bọn tôi tình nguyện chẳng nhận một xu teng tiền thưởng’. Trường Lạc công chúa cao hứng, quả nhiên sai người làm theo, đóng cửa kín mít. Sang hôm sau, đúng là chẳng thiếu một con kiến nào! Trường Lạc công chúa hết sức vui lòng, cho thuộc hạ thưởng đám thợ nghề tới ba ngàn quan”. Tiểu Kế nghe chuyện rất khoái chí, cúi đầu quan sát kẽ gạch, thực cũng hết sức ăn khớp chẳng hở vào đâu. Hàn Ngạc lại thấy lạ sao người đó bỗng dưng vô cớ đi khoe khoang gian phòng của chủ nhân mình với khách. Trường Lạc công chú? --- Bà chắc đã qua đời rồi, vậy chủ nhân hiện tại là ai? Gã không muốn nhiều lời, nhướng mày hỏi: “Bọn ta đã đăng đường, xin hỏi chủ nhân ở đâu?”. Chỉ nghe người nọ cười đáp: “Chủ nhân đang ở đây nè”. Hàn Ngạc cùng Dư Tiểu Kế ngẩn ngơ, nhìn kỹ xung quanh, lại thấy người nọ vỗ tay, ngoài cửa sảnh có mấy gia nhân tiến vào. Hắn dẫn đầu, những người kia xếp hàng hết sức trật tự, nhất tề quỳ xuống, nói với Hàn Ngạc: “Bọn tiểu nhân xin ra mắt chủ nhân”. Hàn Ngạc thực đã bị họ làm cho ngây ngốc, lại nghe người cầm đầu nói: “Chủ nhân cũ của bọn tiểu nhân đã đem tòa viện này cùng bọn tiểu nhân dâng hết cho ngài rồi”. Hàn Ngạc càng thất kinh, cái tòa trạch viện u tĩnh rộng lớn trong Trường An thành lắm bụi bặm xe cộ này sao lại trở thành của mình đây? Là ai đã vung tay phóng khoáng đến thế?
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 72 Đoản mấn soa trì bất cập quần1
Là ai l ại vô cớ cho mình nguyên một tòa trạch viện như vầy? Hàn Ngạc nằm dài trên giường nghĩ hoài cũng không ra --- Là Phương Ninh chăng? Hay là Lạc Dương vương? Đáng lý hai người đó chẳng thể nào biết hành tung của mình. Mình với Tiểu Kế lần này lén về Trường An là chuyện cực kỳ bí mật, ngay cả trong Liên Thành Kỵ cũng chỉ có vài người biết, mà họ đều là người không thể nào tiết lộ bí mật đó.
Hàn Ng ạc vốn đâu định tiếp nhận món quà lễ to tát vô cớ này. Người ta cho quà tất phải có sở cầu. Nhưng quản gia Lâm Vượng lại nói nếu Hàn Ngạc không ở lại, chủ nhân cũ của họ sẽ trách mắng họ. Hàn Ngạc mềm lòng, cũng muốn xem xem thực ra là ai mà biết được hành tung của mình, cho nên đã ở lại. Gã lặng lẽ đếm nhịp thở của mình, Tiểu Kế bên kia thì lại ngủ say như chết --- Có phải nó cũng đang hoài nghi kẻ dâng tòa viện là Phương Ninh không? Lần này sao lại chẳng nghe nó mở miệng châm chọc gì cả?
Tòa tr ạch viện tuy rộng rãi, lối bày biện trong phòng ngủ lại hết sức đơn giản, như biết Hàn Ngạc thích thế. Cách trần thiết rất ư khéo léo. Gã có cảm giác phải là một nữ tử mới bố trí tinh tế đến thế. Gã trăn trở một hồi lâu, đã gần canh ba mà vẫn không ngủ được, liền rướn mình ngồi dậy. Qua tiếng hô hấp của Tiểu Kế, gã nhận thấy thì ra nó cũng chưa ngủ. Ngẫm nghĩ một lúc, Hàn Ngạc mở miệng: “Tiểu Kế, Ngạc ca có vài lời, có lẽ đã đến lúc nên nói với ngươi. Lâu nay Ngạc ca chưa dám nói…”.
Gã ngh ĩ đã đến lúc nói cho Tiểu Kế biết thân thế của nó. Nhưng gã nhất thời không biết phải mào đầu làm sao. Dư Tiểu Kế ở giường bên kia cũng ngồi lên, cúi ngó đầu gối, do dự thấp giọng: “Ngạc ca, thực ra tôi cũng có nhiều chuyện chưa cho huynh biết, ví như…”.
Xem ch ừng trong bụng nó cũng có bí mật, mà bí mật đó đã đè nặng lâu nay, đến mức nó cứ nao nao xốn xang, cũng thấy đã đến lúc cần phải tỏ bày. Hàn Ngạc ngẩn ngơ nhìn nó, thấy mặt nó tỏ vẻ có lỗi. Một lúc sau, Tiểu Kế như quên luôn phải nói gì. Mày mi Hàn Ngạc đột nhiên nhướng lên, ánh mắt lạnh lùng liếc ra ngoài song cửa. Tiếng ve sầu đang day dứt tâm can, trong phòng lại im phăng phắc, thanh âm tựa hồ càng vang vọng hơn nữa. Có điều trong tiếng ve sầu thấp thoáng nảy sinh sát khí. Hàn Ngạc vụt vọt lên, khoác áo dài rướn người chộp lấy kiếm bên giường, mở cửa định lao ra ngoài. Dư Tiểu Kế bỗng vút tới, một tay ôm giữ thân người Hàn Ngạc, ngăn không cho gã bước ra. Hàn Ngạc hoang mang, lại nghe nó thốt cực nhanh: “Ngạc ca, đừng động, trong viện có bày bố trận thế”. Hàn Ngạc ngây người ngó ra: “Sao ngươi nhận ra được?”. Sư phụ của gã Thái Ất thượng nhân tinh thông đạo Lưỡng Nghi, gã cũng rất mẫn cảm về món này, sao gã chẳng phát giác mà Tiểu Kế lại biết? Vừa nãy gã chỉ cảm thấy không khí xung quanh hơi kỳ dị, với kinh nghiệm sâu dày, gã có thể nhận ra có địch thủ đến, hơn nữa còn là cao thủ. Cái khiến cho gã kinh ngạc là kẻ địch rõ ràng đã đến được hơn một khắc, vậy mà sao đến giờ này gã mới phát giác? Lại thấy Tiểu Kế lách mình cản trước người Hàn Ngạc. Đôi đồng tử của nó chợt biến thành quỷ dị, một con sáng ngời, một con mờ ảo, phảng phất như âm dương nhãn vậy. Giọng nói của nó cũng trở nên quái dị: “Ngạc ca quên rồi sao, tôi là người của Dư gia. Dư gia xuất thân từ dòng Đại Hoang Sơn, mà ‘Hà điển’ ở Vô Kê Nhai trên Đại Hoang Sơn e trên đời này chỉ có một mình tôi xem qua, một mình tôi biết mà thôi”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ, gã thực quên đi xuất thân của Tiểu Kế, lại thấy đôi mắt nó đột nhiên biến chuyển, không còn quái dị một âm một dương nữa, mà đột nhiên lấp lánh sóng sánh như hai giọt nước trong suốt. Nó lẩm bẩm: “Lợi hại, lợi hại”. Hàn Ngạc nhìn ra ngoài cửa, đêm trăng khuyết, gã đâu có thấy gì khác lạ. Viện vẫn là viện, mấy hòn giả sơn, đá tảng, cây cối cũng vẫn y nguyên, đâu có gì kỳ dị. Lại nghe Tiểu Kế thốt: “Ngạc ca, huynh nếu muốn xem rõ, liếm mắt tôi một cái đi”. Hàn Ngạc bàng hoàng, có điều nhận thấy lần này chẳng phải là nó nói đùa. Gã cúi xuống, thấy đôi mắt của nó giống nước mà lại cũng chẳng giống, đọng chứ không chảy. Hàn Ngạc tâm tư mê hoặc, thè lưỡi liếm lên mắt nó. --- Đây lẽ nào là thuật “Hải khách quy lai” trong truyền thuyết? “Hải khách quy lai thoại thương mang, kình xỉ hồng nghê nhất đồng tàng; tâm hữu linh tê thùy năng độ, thiệt miêu nhất điểm ngộ trầm hương”2. Truyền thuyết nói có khách đi tàu lênh đênh trên biển tuốt từ phương xa về, mắt thấy biết bao nhiêu là cảnh tượng kỳ lạ. Bà con lối xóm ai mà muốn biết những gì y chứng kiến phải dùng đầu lưỡi liếm qua mắt y để mong được cảm ngộ. Mấy chuyện quái lạ đó Hàn Ngạc tuy có nghe, nhưng luôn luôn cho rằng là lời đồn nhảm nhí, nào ngờ tâm pháp của Đại Hoang Sơn quả nhiên hoang đường đến thế. Sau khi liếm xong, gã cảm thấy một vị hơi ngọt rồi đắng từ đầu lưỡi lan vào tâm mạch, khẽ hỏi: “Lẽ nào đó là ‘Chỉ thủy thanh đồng’ trong truyền thuyết?”. Dư Tiểu Kế đáp: “Không sai, đó là ‘Thủy thanh đồng’, cũng là tâm pháp đặc biệt của Đại Hoang Sơn bọn tôi. Tỷ tỷ của tôi nói biết bao nhiêu người dốc sức cả đời mà vẫn chẳng thể tu đến cảnh giới tối cao. Nhưng chị ta nói có một lão bà bà bảo tôi mới chào đời đã có một đôi ‘Thủy thanh đồng’”. Hàn Ngạc lại ngoái nhìn ra ngoài cửa, lập tức sởn tóc gáy: Tiểu Kế nói không sai, trong viện quả có bày bố trận thức! Chỗ họ nghỉ ngơi vốn ở đằng sau tòa viện, trận thức kia sâu sâu xa xa, từ cửa tòa nhà trải suốt tới đây, thực chẳng thể lường được. Hàn Ngạc ban đầu không thể nhìn ra rõ trận thế, bản năng lại cho thấy hung hiểm vô cùng. Tiểu Kế thì thầm: “Long Môn Dị! Trận ‘Long Môn nhị thập phẩm’ kia chỉ có môn hạ của Long Môn Dị mới sắp bày được, mà lại đâu phải chỉ với sức của một người là có thể làm được. Ngạc ca, chúng đã bắt đầu bố trí từ canh một lúc bọn ta nhập thất. Chúng mượn trận pháp để làm tan biến hình ảnh, do đó huynh chẳng cảm thấy có kẻ đến gần. Nếu không nhờ khả năng cảnh giác của huynh đã đạt đến mức dị thường, tới khi mình phát hiện, sợ bọn ta đã lọt vào trận rồi. Lúc đó có muốn phá cũng chẳng thể phá, có muốn thủ cũng không còn chỗ thủ, chúng tất sẽ lấy giường của bọn ta làm tâm điểm của trận. Bây giờ may là chúng còn chưa kịp tóm gian phòng của bọn ta vào trận”. --- “Long Môn nhị thập phẩm”? Chẳng lẽ đây là “Long Môn nhị thập phẩm” mà sư phụ mình một đời theo đuổi kỳ môn cũng chưa từng đoán định được thực hư đó sao? Trận thế này rõ ràng không chỉ có một người, Long Môn Dị thực ra có bao nhiêu tên đến đây? Chúng lẽ nào đã kéo rốc hết sào huyệt đến để giết Tiểu Kế? Hàn Ngạc nhờ mượn lực “Thủy thanh đồng” của Tiểu Kế thi triển phép “Đàm doanh”, giờ đại để đã nhìn thấy rõ trận pháp trong viện. Trận này có nét thô cứng đơn sơ, tựa hồ có căn cội từ thuở Tam Quốc, thành hình qua thời Ngụy Tấn. Gã đứng thẳng, đột nhiên chuôi kiếm mang sau lưng ngân rền rĩ, Trường Canh tựa hồ cũng cảm thấy được cục diện nguy nan đằng trước. Hàn Ngạc khẽ thốt: “Tiểu Kế, Long Môn Dị kéo rốc đến đây, Ngạc ca lần này e không bảo vệ được ngươi”. Đến giờ gã đã cảm nhận được trong trận có người. Cái đáng sợ là chỉ mới hơn hai canh giờ, phạm vi của trận thức dường như không chỉ giới hạn ở chỗ này, mà từ cửa lớn luồn vào, lan tuốt ra vườn sau, hầu như thu nạp toàn bộ tòa viện to lớn vào trận thế. Chỉ là những di động lí tí, nhưng nhà cửa phòng ốc, hành lang xà nhà gì cũng tận hết sở dụng. Bầu trời đen thẫm, tinh quang thoạt sáng ngời. Hàn Ngạc bỗng cảm thấy dưới lòng đất có thanh âm dời động --- Chúng bày bố đại trận “Long Môn” này không ngờ còn mượn cả sao trời và mạch đất. Thân hình gã nhoáng lên, thả một bước vào viện. Tiểu Kế có muốn kéo cũng chẳng kịp, chỉ thấy Hàn Ngạc đã đi tới mé hòn giả sơn. Đạp Ca Bộ của gã vốn có nguồn gốc từ thuật số, trận thế này tuy gã không rành, nhưng tu vi của gã xưa nay luôn luôn tìm tòi gom nhặt tinh túy, đã nhìn ra mắt trận. Chân gã vừa mới hạ xuống gần hòn giả sơn, trận thế lung lay mê hoặc. Nó định phát động, gã bỗng dấn lực, thân mình xoay một vòng bay lên. Chỉ một nháy mắt ngắn ngủi mà như dài thườn thượt, toàn thân gã như hóa thành một điểm tinh hỏa sáng ngời lên, sau đó lại mờ lợt, lại sáng, lại mờ, hạ mình dưới bóng râm của một cây hoè già. Trăng khuyết --- Thạch hỏa quang trung ký thử thân! Gã toàn lực phát động, không phải để đả thương ai, chẳng phải vì giết địch, nào phải để phong tỏa trận địa, mà chỉ muốn đoạt đúng phương vị đó trong trận pháp ngàn nguy vạn hiểm. Tiểu Kế cả kinh, la lớn: “Ngạc ca…”. “Đó là mắt trận!”. Trong một trận, con mắt trận hung hiểm nhất. “Long Môn nhị thập phẩm” vốn bắt nguồn từ bên Hoàng Hà, truyền thuyết nói rằng ở dưới Hoàng Hà nguyên có nhiều đại huyệt sâu vô cùng tận, kéo xa tới mạch biển. Một khi lọt vào, dòng xoáy cuồn cuộn kéo lọt ra biển. Đó là nỗi khiếp sợ của thuyền bè, nhưng đó cũng là nơi khởi nguyên lực lượng của trận pháp này. Điểm đó lọt vào hư không, trống trải sâu hóm, như không có cội, không có đáy, thông tuốt tới biển già sóng dữ, trên đầu là ngàn vạn dòng chảy đè nén. Nơi đó lấy tên “trận nhãn”, cũng chính là “hải nhãn”. Ngạc ca sao lại đạp thẳng vào chốn hiểm ác đến thế? Phép “Điền hải nhãn”, lấp mắt biển, vốn là cách phá trận hung hiểm nhất. Nội trong khoảnh khắc rất có thể phải bỏ mạng tại đương trường. Trận thế chợt đình trệ, “Long Môn nhị thập phẩm” nào phải tầm thường, trong trận cũng đâu chỉ có một hải nhãn. Hải nhãn đó vốn là căn nguyên lực lượng của trận pháp này. Kẻ bố trận chắc cả kinh, nào có ngờ Hàn Ngạc lại có thể nhìn ra chỗ trọng yếu của trận pháp, lại còn dám bước thẳng vào chốn hiểm nguy nhất trong trận! Trong bóng tối có người “hừ” một tiếng, nghiến răng: “Giỏi!” --- Hàn Ngạc dùng thuật “Tinh hỏa tiên hải” lấp vào hải nhãn, vừa dẫm chân xuống, nhật nguyệt lộ mình, lửa phụt không ngừng, nước tràn đất nuốt, vẫn chẳng để chí khí bị khuất phục. Cái dẫm đó gã phải hứng chịu sức phản hết sức to tát, lại cũng đã gây thương tích cho một người bố trận. Trận pháp đã động, cảnh vật bốn bề trong chớp mắt muốn xoay trở quần quật, chôn Hàn Ngạc vào hải nhãn. Ẩn tàng trong quang cảnh xoáy chuyển cuồn cuộn kia chính là lực. Xoay dồn những kẻ bố trận vào, lực lập tức tăng lên gấp mấy lần. Hàn Ngạc thi triển Đạp Ca Bộ giữa không trung, thuật “Thạch Trung Hỏa” của gã như sao trời rơi rụng giữa đồng trống, sóng biển tung toé thét gào mà vẫn không tắt ánh. Gã toàn lực phát động, đạp liên tu bất tận lên bảy hải nhãn của trận pháp. --- Cái gã ỷ vào là sức linh động của mình. Trận thế này tuy mạnh, lực của trận tuy lớn, nhưng phát động lại hao phí thời gian hơn gã. Trong một khoảnh khắc, thân mình Hàn Ngạc như ánh tinh hỏa rạch qua, vọt lên hụp xuống mấy lượt, đạp liên miên lên mấy cái hải nhãn của “Long Môn nhị thập phẩm”. Rơi xuống như tinh hỏa, bay lên như sa âu, hễ tụ lực thì hạ mình, hễ thả lỏng thì phiêu bồng, thế phất phơ đó chẳng phải là “Giang thượng sa âu lược thủy phân” ngày xưa Lợi Dữ Quân cũng đã từng khen ngợi thì còn là gì nữa? Tiểu Kế ngơ ngẩn nhìn Hàn Ngạc trong trận, tới giờ mới hiểu tại sao gã lại chui vào chốn hiểm nguy vạn bề kia. Ngạc ca vừa nãy thốt: “Ngạc ca lần này e không bảo vệ được ngươi”, cho nên gã mới dẫm vào nơi gian nguy, lọt vào đúng chỗ trong trận mà chẳng ai ngờ nổi, không cho phép chúng trở tay nhắm vào nó. Gã đạp đúng vị trí hung hiểm, nào phải chỉ hung hiểm đối với bản thân, mà còn vạn phần hung hiểm đối với kẻ bố trận. Hàn Ngạc lại quay về đứng dưới cây hoè già. Gã vừa hạ mình, trận thế chợt đình trệ. Gã biết chúng sắp phát động. “Long Môn nhị thập phẩm” ba chục năm ròng chưa tái hiện giang hồ. Từ khi nó ra đời đến nay, xem chừng chưa từng nghe nói trận thế thất thủ lần nào. Gã cũng chẳng đủ sức để đối kháng. Gã chợt ngước lên, ngẩng nhìn trời cao. Sở cầu hiện tại của gã, những gì gã có thể dựa dẫm chỉ có ý trời mà thôi. --- Tại sao hòn Chỉ Trụ giữa dòng Hoàng Hà như cột chống trời Côn Lôn mà cũng sụp đổ, để cho dòng đục tràn lan ngập ngụa khắp bốn phương? Tại sao muôn vạn chòm xóm trở thành hang hốc cho cáo thỏ?3 Tất cả đều là cái chẳng biết hỏi từ đâu, còn lại chỉ có ý trời. Nhưng --- ý trời xưa nay dễ gì hỏi4… Hàn Ngạc đột nhiên vọt lên, treo mình giữa không trung, bắp thịt trên lưng nhún đẩy Trường Canh bắn cao. Trận thế đã phát động, gã khó mà chộp được chút thời gian nghỉ chân. Đất trời tối sầm, thình lình như có gió lốc lùa qua, sắc bén như đao, bao trùm như cánh đại bàng. Trong nháy mắt, thắt lưng, quần áo và giày đứt đoạn, vỏ kiếm rơi mất, ngay cả áo trong cũng bị lực công tập của kẻ bố trận cắt nát bấy. Búi tóc bị xén, xõa mái tóc bay phất phới, toàn thân như lõa lồ, y phục rách nát gượng bám trên mình gã, lồng ngực và bắp đùi lồ lộ giữa trời. Cát bụi bốc mù trời, như tang điền sau biết bao nhiêu lần thương hải cạn kiệt. Mặt đất khô quánh, trên đen dưới vàng, trận thức trong viện khiến cho người ta hoa mắt. Chỉ có màu huyền hoàng, sắc huyền đen tuyền, sắc hoàng vàng choé. Tiểu Kế định thần ngước mắt, giữa trời đất huyền hoàng, Ngạc ca bay lượn như tinh hỏa, tựa sa âu. Chẳng có chỗ hạ chân, trước mắt Hàn Ngạc chợt mờ mịt. Trận thế vừa bốc dâng, gã mù mờ không còn biết vị trí của mắt trận nữa. Thân người gã bay là đà xuống, vừa dẫm lên hòn giả sơn, đột nhiên phát giác trong giả sơn có người giấu mình. Hòn giả sơn lấn tới, kẹp vào cổ chân gã. Gã lại bay xéo lên, lao về hướng một cành hoè khô, nhưng khi xuống tới mới phát hiện cành khô kia vốn là lưỡi đao. Gã liều chịu để bàn chân thụ thương, điểm mũi chân bay lên, chổng đầu đưa chân lên trời, chấm mũi kiếm lần theo tường viện. Bên tường thình lình giăng một cọng xích sắt, cuốn lấy sống kiếm. Hàn Ngạc thất kinh --- chẳng còn gì để dựa dẫm, chẳng còn gì để trông cậy! Dư Tiểu Kế chợt hét lên: “Ngạc ca!”. Tiếng gọi như muốn kêu Hàn Ngạc ngó sang nó. Hàn Ngạc nghe vậy liền nhìn về phía Tiểu Kế, thấy nó mặt mày quả quyết, thét lên: “Tôi cho huynh mượn đôi mắt!”. Dứt lời, nó giương tay điểm lên mắt, như muốn móc mắt ra. Hàn Ngạc biết đó chắc phải là bí thuật của Đại Hoang Sơn, giật mình la lên: “Đừng!”. Song chỉ của Dư Tiểu Kế đã điểm lên hai đồng tử, sau đó giơ ngón tay búng ra, vạch hai đường lóng lánh trên không, hai ánh nước bay ra, trong trận có kẻ cả kinh kêu lên: “Thủy thanh đồng, ‘Chỉ thủy thanh đồng’ không ngờ còn tồn tại trên thế gian!”. Hàn Ngạc chưa kịp phản ứng thì đã phát giác hai giọt “nước” kia xộc thẳng vào song nhãn, dán chặt rồi tỏa bừng lên, mắt gã thình lình ngời sáng. Bên ngoài là một thế giới nước --- Thì ra còn có thể nhìn thế giới theo góc độ này: tất cả trong rõ như nước. Hóa ra thằng bé Tiểu Kế hoạt kê nhốn nháo mặt mày dơ dáy kia lại có đôi mắt nhìn nhận thế giới theo đường lối đó. Trận địa trong nháy mắt tựa hồ hiện rõ mồn một. Hàn Ngạc lại chẳng kịp chú ý, gã còn đang ngó Tiểu Kế. “Chỉ thủy thanh đồng” --- ánh nước vượt qua ô trọc, vượt qua những hàm hồ hỗn độn, ai trong sáng thì trong sáng, ai vẩn đục thì vẩn đục, còn thân ảnh của Tiểu Kế lại chừng như thấu suốt. Hàn Ngạc có cảm giác thân ảnh của nó như hư hóa thành nước lọt vào tim mình, hòa tan, chẳng nắm bắt được. Sau đó gã mới phát hiện hốc mắt của Tiểu Kế trống không --- Nó đã mù, giờ nó đã mù! Hàn Ngạc lòng đau xót. Kẻ trong trận còn đang kinh ngạc bần thần, gã đã từ trên không lướt xuống. Lần này mũi kiếm của gã dùng Sủng Nhục Kinh phát động chiêu “Nhất tinh phi độ” của “Thạch Trung Hỏa”, mây lững lờ, núi sừng sững, một kiếm của gã quyết tuyệt, đâm phập vào xương tỳ bà của một tên. Tên nọ rên hừ một tiếng, trận thế rung chuyển rồi vững chãi trở lại, đất trời nhất thời mưa gió rào rạt, nhưng Hàn Ngạc lại đã đứng trên cành hoè. o0o Mắt gã sáng ngời, phát kiếm đả thương người, chiêu bất hư phát. Những kẻ đến toàn là cao thủ, có tới tám chín mạng. Chúng một đằng muốn giục đẩy trận thế để ẩn hình dấn sức, nào ngờ Hàn Ngạc được sự tương trợ của “Thủy thanh đồng”, lập tức ngó thấy chúng rành rành. Đánh được một khắc, Hàn Ngạc thân mình trúng ba vết thương, nhưng gã cũng đã đánh bị thương bốn tên. Có kẻ trong trận kêu lên: “Đánh nữa thì ‘Long Môn nhị thập phẩm’ phải chịu thiệt. Hôm nay giết không được gã đâu, các huynh đệ, bỏ đi!”. Tên đó vừa dứt lời là liền thu trận. Chúng thoái tới đâu, trận thế co cuộn lại tới đó, kín mít chẳng một kẽ hở. Hàn Ngạc tuy còn truy kích, cũng không thể tấn công vào được. Thấy bọn người kia lui từng bước ra ngoài, gã lại lo cho Tiểu Kế, chẳng muốn đuổi theo nữa. Hàn Ngạc bẻ mình vọt về, bụng lại sầu tư: hồi nãy đang lúc cấp bách, Tiểu Kế thi triển “Thủy thanh đồng” khiến đôi mắt như mù. Bí thuật đó tất phải có cấm chế, chẳng biết đôi mắt nó có trở lại bình thường được không? Gã lao vội vào viện, lại khám phá bên trong đang dâng bốc một vầng quỷ khí. Hơi hám quỷ dị quá dày đặc, mù mù mịt mịt, khác thường vô cùng. Hàn Ngạc ngó thấy một nữ tữ đang thò bàn tay như quỷ trảo bấu lên đỉnh đầu Tiểu Kế. Nữ tử nọ hình tung ảo mị, không hơi không tiếng, rõ ràng đã dựa vào lúc trận pháp còn chưa hoàn toàn tản mác mà tiềm nhập. Song nhãn của Tiểu Kế vẫn có vẻ mù lòa, hoàn toàn chẳng phát giác. “Bắc Mang Quỷ!” --- Hàn Ngạc thất kinh, cơ hồ muốn lộn nhào. Gã hối hận đã quên Bộc Ách Phi có nhắc mình đâu chỉ một “Long Môn Dị” muốn giết Tiểu Kế, mà còn có Bắc Mang Quỷ nữa. Nhưng gã còn cách tới mười mấy trượng, đâu thể cứu kịp. Gã khẩn trương, tức mình chẳng thể đem hết lực khí cho Tiểu Kế mượn. Gã vừa quay về thì Tiểu Kế đã cảm ứng được. Chút cảm ứng đó cũng nhờ nó ở gần gã ba năm nay. Tiếp đó nó lại cảm nhận được hiểm nguy. Hàn Ngạc mắt trợn muốn toét, hai điểm tinh quang bùng thoát khỏi song nhãn, quát lớn: “Tiểu Kế, ta trả cho ngươi!”. Gã ấn ngón tay vào mắt, chẳng biết làm sao để phản trả “Thủy thanh đồng” của Tiểu Kế, nhưng trong tâm mạch đột nhiên có một luồng nội tức ào ạt ép bức hai điểm thủy quang trào ra khỏi mắt. Tình hình khi ấy cực kỳ quỷ bí, Hàn Ngạc có cảm giác mắt tối sầm đi, sau đó đến khi ngó nhìn lại được, gã thấy nữ tử kia thần tình ngơ ngẩn. Tuy cảnh tượng vẫn chưa rõ ràng mấy, gã vẫn có thể trông được một bàn tay của Tiểu Kế đã bóp giữ đầu vai của nữ tử. Nữ tử nọ nào có ngờ nổi, cánh tay nhất thời bị đánh trật khớp thõng thượt. Hàn Ngạc phi thân đến, tung một chưởng chặt xuống ót nữ tử. Gã hạ sát thủ, nhưng vừa liếc thấy gương mặt xinh đẹp mà ngạo ngược, miệng không khỏi kêu lên: “Tiểu Thù!”. Gã đã nới bớt kình lực, song vẫn không tránh khỏi khiến cho nữ tử nọ miệng ọc một ngụm máu. Hàn Ngạc giơ tay ra đỡ, nữ tử nọ mặt mày hằn học, đẩy gã văng ra, lại ói thêm một ngụm. Hàn Ngạc thốt: “Tiểu Thù, là nàng đó sao?”. Nữ tử nọ hung hãn ngó sang gã: “Là ta!”. Tiểu Kế mắt đã sáng trở lại. Nó bần thần nhìn nữ tử, thấy nàng ta chẳng khác A Xu tỷ tỷ chút nào, cả về thân hình, thanh âm lẫn diện mạo. Có khác thì chỉ có thần sắc trên mặt. Thần sắc của A Xu tỷ tỷ luôn luôn ôn hòa thanh thoát, còn Tiểu Thù nhi này lại mặt mày ngang ngược, hung hãn chằm chằm nhìn Hàn Ngạc, như muốn nuốt chững gã vào bụng. Thấy vẻ mặt của nàng ta, tâm tư Hàn Ngạc như mê loạn, nhớ đến những lời A Xu đã nói với mình ở Cư Duyên thành --- Thì ra nàng ta thực thích mình sao? Vì vậy mà chẳng ngại mạo phạm cấm kỵ của sư môn, luyện tập cấm thuật, chẳng những đã thi dụng cổ trùng “A Đổ” lên mình mình, còn hạ cả “Kỵ Thể hương” lên người chị ruột của nàng ta nữa sao? Gã từ nhỏ đã chẳng biết làm sao đối diện cô gái này. Những cô gái khác mà gã quen biết, tuy gã chẳng hiểu tâm tư của họ, ít ra gặp mặt còn có thể nói năng. Còn đối với Tiểu Kế, gã lại chẳng biết phải đối xử làm sao. Đáy lòng gã đột nhiên nổi cơn thịnh nộ, nghĩ tới Tiểu Kế mới thoát hiểm, gã bực tức hỏi: “Sao cả một đứa bé mà nàng chẳng chịu tha vậy?”. Mắt gã bừng bừng lửa giận, kiếm cắp sau khuỷu tay, có gặp người bạn thời thơ ấu cũng chẳng giấu được sát khí hừng hực. Tiểu Thù tức tối thốt: “Ta đương nhiên muốn giết nó! Ta nhất định phải giết nó! Cổ trùng ‘A Đổ' ta hạ lên người ngươi sao lại đột nhiên tự giải một cách vô căn cớ chứ, để cho ngươi và con điếm hạ tiện Đỗ Phương Ninh gần gụi chẳng chút trở ngại. Hờ hờ, các ngươi thông gian được bao nhiêu lần rồi? Thì ra tên tiểu quỷ họ Dư này dùng bí thuật của Đại Hoang Sơn âm thầm phá đi ‘A Đổ' của ta. Chẳng ngờ nó phá được ‘A Đổ' của ta! Nó phá ‘A Đổ’ là đã làm tổn thương ta! Ngươi biết thuật pháp đó mỗi lần bị phá thì ta thụ thương càng nặng chứ?”. Hàn Ngạc lâu nay ngạc nhiên sao từ cái đêm ở Y Ngô, vui vầy không biết bao nhiêu lần mà sao chẳng bị gì hết? Lợi đại phu có nói mình đâu thể nào thân cận nữ nhân, có gần thì e phải đền mạng mà. Thì ra chính là nhờ Tiểu Kế. Gã nhớ lại mỗi lần gã thấy mệt mỏi, Tiểu Kế ấn ấn tay lên vai mình, khiến cho tâm tư mình mờ mịt hẳn. Đang khi mình mơ hồ, nó đã làm gì? Có phải đã giúp phá ‘A Đổ” vào lúc đó? Biết bao nhiêu lần sáng sớm gã thấy Tiểu Kế mặt mày vàng vọt, chẳng còn tâm tư luyện công, khiến cho gã cứ trách cứ nó. Thì ra nguồn cơn là từ vụ này. Gã cảm kích nhìn Tiểu Kế, lại thấy nó có vẻ cười cười mà cũng chẳng phải cười. Hàn Ngạc ngơ ngẩn, không biết nó đang nghĩ cái gì, sau đó mới vụt tỉnh ngộ: lối chữa trị “A Đổ” chắc phải… Cổ họng gã nghẹn cứng, bẽn lẽn chẳng thốt ra lời, nhất thời tức bực: tên tiểu lưu manh, tên tiểu láu cá, tên tiểu du côn… thầm chưởi mắng Tiểu Kế liên hồi. --- Biết bao chuyện mình mắc cỡ, biết bao chuyện bí mật… tên tiểu quỷ kia e là đã biết sạch, làm sao mà nó không cười cho được! Gã trông thấy thương thế của Tiểu Thù, lòng không khỏi dâng hiện niềm thương tưởng, thì thầm: “Thù nhi, nàng khổ nhọc như vậy làm gì?”. Sắc mặt của Tiểu Thù bỗng mê man, bàng hoàng thốt: “Khổ làm gì? Nhọc làm gì? Sống có gì vui? Chết có gì khổ?”. Hàn Ngạc thấy tâm tình của nàng ta, lòng không khỏi dịu đi, giơ tay đỡ vai nàng ta muốn sửa lại cho đúng khớp. Tiểu Thù thoạt hé một nụ cười cổ quái, châm chích: “Hàn Ngạc, tên khốn ngươi quả nhiên là hạng đa tình. Ta chỉ cần để lộ vẻ yếu đuối một chút là liền có thể thu phục ngươi, khiến cho ngươi trúng kế!”. Sắc mặt nàng ta bỗng biến thành tinh ranh, rồi hung hãn thét lên: “Nhưng ta không, ta chẳng thèm làm! Ta sao lại phải giả yếu đuối dịu dàng để ngươi đối tốt với ta? Ta phải hại ngươi! Ta phải hà hiếp ngươi! Ta phải phá hoại tất cả những gì bên cạnh ngươi, những gì ngươi để ý tới! Ngươi quên không được ta, cũng thoát không được ta!”. Nàng ta ngửa mặt lên: “Trừ phi ngươi giết ta, bất quá muốn làm vậy cũng phải coi ngươi có bản lãnh hay không!”. Nói xong nàng ta nhảy lên: “Ta chẳng giống tỷ tỷ của ta, càng không giống bọn a đầu thô tục Đỗ Phương Ninh, Dư Tiệp. Ta chẳng bao giờ giả ra vẻ ôn nhu với ngươi!”. Nàng vốn có thể sửa cánh tay cho đúng khớp xương rồi mới đi, nhưng cứ để mặc nó buông thõng, buông dài cho Hàn Ngạc cũng phải đau lòng theo, lộn mình qua tường bỏ đi. Hàn Ngạc bần thần một hồi lâu rồi mới định thần lại được, kêu: “Tiểu Kế…”. Gã vốn muốn cảm ơn nó, hỏi coi nó có thụ thương hay không. Nhưng còn chưa nói được thêm lời nào, gã lại thấy Tiểu Kế mặt mày nghiêm nghị, thần sắc bực tức khôn tả. Nó thốt: “Trước hết tôi phải nói thêm một lần nữa cho huynh rõ: huynh nói cái gì mà ‘Sao cả một đứa bé mà nàng chẳng chịu tha vậy?’, tôi đã nói với huynh hàng trăm hàng ngàn lần rồi! Dư Tiểu Kế tôi tuy chẳng đủ Tiên Thiên, tuổi xương chẳng hợp với tuổi đời, nhưng tôi đâu có còm cỏi gì đâu? Tôi không phải là thằng bé, tôi là người lớn! Chỉ có huynh mới thấy ai ngạo ngược là chẳng biết phải làm sao, chỉ có huynh mới ngó thấy đàn bà con gái là chẳng biết phải làm sao, kẻ còn bé là huynh chứ đâu phải tôi!”. Hàn Ngạc cười khổ. Gã biết mình tranh cãi không được với Tiểu Kế: “Được, được, là ta, là ta, ngươi là người lớn”. o0o Sang ngày hôm sau Hàn Ngạc dậy rất trễ. Gã hôm qua lao lực thái quá, vừa vào nhà là liền lo điều tức, sau đó ngủ say như chết. Thức dậy lại thấy Dư Tiểu Kế đang cười hì hì nhìn mình, gã còn chưa rõ nguồn cơn thì lại nghe Tiểu Kế nói: “Ngạc ca, hôm qua ăn mặc như vậy mà gặp cái cô Thù nhi gì đó đó hả”. Hàn Ngạc ngó lại, mặt mày bỗng đỏ bừng lên. Y phục của gã bị trận thế cắt nát, áo hở toang ra, cơ hồ toàn thân lõa lồ. Gã còn thấy Tiểu Kế hì hì ngó mình, vung một chưởng vỗ vào đầu nó, nó lại còn vẩu miệng thốt: “Bây giờ mới biết Tiểu Thù tại sao mới nói được vào câu lại bỏ chạy! Bất quả ả ta cũng thực hung mà --- Nếu tôi là ả, e vừa thấy huynh là đã hoảng vía chạy mất rồi”. Hàn Ngạc bị nó chọc đến đỏ mặt tía tai, vội đi thay đồ, ra tới thì Tiểu Kế đã bỏ đi. Đi ra vườn gã lại gặp Dư Tiểu Kế đang sắp đặt gì đó. Gã ngạc nhiên hỏi: “Tiểu Kế, đêm hôm qua lúc ta nhập thần điều tức thì ngươi còn chưa ngủ, chắc chạy rong bên ngoài chứ gì? Thực ra ngươi đã làm gì vậy?”. Tiểu Kế cười đáp: “Trận pháp ‘Long Môn nhị thập phẩm’ của Long Môn Dị thực ghê gớm. Tuy tôi không bố trận được, đại để nhìn vẫn có thể hiểu. Chúng đã hao phí rất nhiều tâm tư. Đến khi chúng bỏ đi, hình tung của trận thế còn chưa tiêu tán. Đêm hôm qua tôi chú tâm xem trận thế. Giờ tôi thêm chút công phu, thêm chút biến hóa gầy lại trận. Nếu tôi thành công, khà khà, với tài xảo lộng của Đại Hoang Sơn bọn tôi, người của Long Môn Dị có trở lại thì e cũng phải phí lắm công phu mới tiến công vào được”. Hàn Ngạc thấy bên mình nó toàn là búa với dùi, leo lên leo xuống, lúc nhảy lên cây, lúc phóng lên đá, bận bịu mà vui nhộn vô cùng. Gã tuy không hiểu nổi, lại cũng cảm thấy Tiểu Kế bày bố rất có hình có dáng, cười nói: “Thực chẳng ngờ ngươi lại có thể năng cán đến thế”. Dư Tiểu Kế toe toét: “Huynh cho rằng huynh biết hết tài nghệ của tôi sao? Có thể nói tôi là truyền nhân duy nhất của Đại Hoang Sơn hiện nay, bao nhiêu tâm pháp tôi học được, tỷ tỷ của tôi cũng chẳng bì kịp. Tôi bắt đầu nghiên cứu ‘Hà điển' từ năm ngoái, khà khà, tôi học chẳng có căn cội gì hết, kêu tôi đi tự mình bố trí một cái trận thô thiển thì chắc không được, nhưng đã có cấu trúc, lộng xảo thêm chút thì tôi làm hay lắm”. Hàn Ngạc hồi mới quen Tiểu Kế chỉ biết nó là một thằng bé phá phách, nào có ngờ tuổi tác nó nhỏ như vầy mà lại tinh thông tâm pháp của gia môn nó đến thế. Gã thầm rùng mình: thì ra nhân thế thực khó lường, dù là một đứa bé con như Tiểu Kế, ở sát bên mình mình bao lâu nay mà mình cũng chẳng hiểu thấu được căn cơ của nó. Gã lại thấy Dư Tiểu Kế ngước lên nhìn, như biết gã đang nghĩ gì, mặt mày hơi có chút khổ não, cũng có chút… hổ thẹn. Hàn Ngạc cười miễn cưỡng, không quen được dáng vẻ đó của nó, nghe nó nói: “Ngạc ca, huynh đang trách tôi?”. Hàn Ngạc lắc lắc đầu, nó lại nói: “Huynh đừng gạt tôi mà. Hôm qua tôi từng dùng thuật ‘Đàm doanh' giúp huynh nhìn rõ trận pháp, rồi cho huynh mượn ‘Thủy thanh đồng’ nữa --- Phương pháp đó đâu phải là thứ có thể dùng bình thời, chẳng phải gặp ai cũng sử được, cần phải có chút tâm ý tương thông đó. Nhưng cho mượn thì cho mượn, nào có phải cho mượn khơi khơi. Ít ra nội trong vòng hai ba ngày tới, bụng huynh nghĩ gì thì tôi đại khái có thể hiểu được”. Hàn Ngạc biết nó chẳng nói láo. Gã thầm cười khổ, bị Tiểu Kế khám phá tâm tư chắc phiền hà lắm đây… Chợt nghe ngoài cửa truyền vọng tiếng động huyên náo, Dư Tiểu Kế bỏ Hàn Ngạc chạy ra xem. Gã cũng theo sau, thấy Tiểu Kế đã ra cửa gây với một đám người. Đám người kia ăn mặc y phục của vương phủ gì đó, quản gia Lâm Vượng bên cạnh Tiểu Kế đang bực tức thốt: “Mới tảng sáng tôi đã phát hiện một đống rác lớn trước cửa, còn cho rằng ai đó cẩu thả đổ lầm chỗ, kêu kẻ dưới quét dọn. Nào ngờ hồi nãy chúng lại đổ thêm mấy xe rác hôi thúi kia chất ngập trước cửa ra vào của bọn ta!”. Hàn Ngạc thấy trên con đường trước cửa quả có một cỗ xe mới đổ gì đó chẳng biết, hôi thúi như đồ lòng của thú vật để lâu ngày, nhơ bẩn khôn tả. Còn có vài chiếc đang đậu bên kia chờ tới phiên. Bọn người kéo xe cũng phải có mười mấy tên, một tên ra vẻ quản sự cười lạnh: “Có biết khu nhà này tại sao lại trống không bao nhiêu năm nay chẳng ai dám mua không? Đó là vì nhị gia của vương phủ bọn ta muốn mua mà chủ nhà đòi mắc quá, ba ngàn lượng chẳng chịu. Nhị gia của bọn ta cả giận, ngài mà mua không xong thì đừng hòng ai mua được! Nào ngờ hôm trước lại có kẻ mua. Còn có kẻ gan trời như vậy sao? Nhị gia nói rồi, bọn ta cứ đổ đầy nơi đây. Sao? Bọn ta đang đợi các ngươi dọn dẹp để đổ tiếp đó”. Tòa trạch viện rộng lớn này mà “nhị gia” của chúng lại ra giá có ba ngàn lượng, cả Hàn Ngạc chẳng biết gì nhiều về giá cả mà cũng không khỏi cười khổ. Lại nghe tên quản sự kia thét: “Bọn bây, đổ đi! Chỗ này từ đây về sau là chỗ bọn ta đổ rác, mỗi ngày đổ ba lần đúng ngay nơi đây đó”. Thủ hạ của hắn dạ ran, đẩy xe đến đổ. Tên quản sự ngạo nghễ liếc Hàn Ngạc đang đứng bên trong, thấy gã ăn vận kiểu bình dân, cười lạnh: “Người mua chẳng để lại tên tuổi, ta còn nghĩ là quan quyền gì trong triều mới dám tranh giành với vương phủ của bọn ta. Hà hà, xem ra ngươi đâu có đức hạnh gì chứ”. Hàn Ngạc còn chưa nói gì, Dư Tiểu Kế đã nổi nóng, xông tới tung trảo, kéo gạt cả đám lọt thỏm vào cái đống rác mà chúng mới đổ. Nó hạ thủ rất nặng, bọn kia té ngã chỏng gọng, lồm cồm bò dậy, nhất thời mình mẩy dính đầy đồ dơ. Tên quản sự là kẻ bị xô trước, lại là kẻ nhỏm dậy được cuối hết, tức tối quát: “Phản rồi, phản rồi!”. Đang định hạ lệnh cho thủ hạ lao lên, hắn lại thấy chẳng còn đứa nào đứng vững được, ai nấy cũng hệt như hắn. Hắn trợn trừng mắt, bụng lại hoảng hồn, miệng thì hò hét mà chân lại bủn rủn muốn khuỵu, vội cùng đám thủ hạ thụt lùi đẩy xe đi: “Hảo tiểu tử, ngươi đợi đó, ngươi đợi rước họa diệt môn đi”. Dư Tiểu Kế giận dữ ngoái lại, ngó về phía Hàn Ngạc, muốn thốt gì đó. Lại thấy Hàn Ngạc chỉ cười khổ giơ tay vuốt vuốt tóc mai, chẳng nói chẳng rằng. Lâm Vượng lẩm bẩm: “Đạo lý gì đây chứ? Mình mà không phải là quan quyền, hay cấp bậc thấp kém hơn người ta thì mình chẳng thể nào sống trong Trường An thành này sao? Đạo đời gì đây chứ?”.
1 Tóc mai chẳng dài bằng người ta, đây là Tiểu Đoạn sửa chữ "dực" (cánh) trong câu "Đoản dực soa trì bất cập quần" thuộc bài thơ "Đỗ Tư Huân" của Lý Thương Ẩn thành chữ "mấn" (tóc mai). Câu này lấy điển từ sách "Thi Kinh - Bội phong - Yến yến": "Yến yến vu phi, soa trì kỳ vũ", nghĩa là chim yến cho rằng cánh mình nhỏ sức yếu, không thể so bì với các loài chim khác. Đây là vừa khiêm tốn vừa tự thương mình không thể phấn đấu bay xa. Đỗ Tư Huân tức là Đỗ Mục.
2 Tạm dịch: Hàng hải khách về kể chuyện nghe, cầu vồng ánh đỏ cá kình bay; thần giao cách cảm đà xem thấy, chót lưỡi đưa đường cưỡi gió mây. 3 Nguyên văn là: "Để sự Côn Lôn khuynh Chỉ Trụ, cửu địa Hoàng lưu loạn chú? Tụ vạn lạc thiên thôn hồ thỏ". Ba câu này thuộc bài "Hạ tân lang - Tống Hồ Bang Hành trích Tân châu". Bài từ này ra đời vào năm Thiệu Hưng thứ mười hai (1142). Năm Thiệu Hưng thứ tám, Hồ Thuyên (tức Hồ Bang Hành) vì can gián nghị hòa cho nên bị biếm đi Phúc châu, rồi bị Tần Cối hãm hại, dời qua Tân châu (nay là Quảng Đông Tân Hưng). Trương Nguyên Cán cảm thương cho Hồ Thuyên nên sáng tác bài từ, sau cũng vì nó mà bị hạ ngục, bị tước chức thành thứ dân. Ba câu chất vất căn nguyên sản sinh ra bi kịch. Câu "Côn Lôn khuynh Chỉ Trụ" ẩn dụ vương triều Bắc Tống diệt vong, sĩ phu lưu lạc chạy về Nam. Câu "Cửu địa Hoàng Hà loạn chú" ẩn dụ sự tiến công hung bạo của quân Kim. Câu "Tụ vạn lạc thiên thôn hồ thỏ" miêu tả cảnh tượng hoang lương sau khi vó sắt của binh Kim dẫm đạp Trung Nguyên, dân chúng bỏ nhà bỏ cửa dạt trôi, làng thôn trở thành hang ổ của dã thú. 4 Nguyên văn là “Thiên ý cao nan vấn”, câu tiếp phần trên trong bài “Hạ tân lang - Tống Hồ Bang Hành trích Tân châu”.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 73 Thương Long khuyết hạ trì Chuy mã1
Hai ngày sau, ng ười tặng tòa viện vẫn chưa xuất hiện. Tiểu Kế lại chẳng có vẻ hiếu kỳ như bình thời, khiến cho Hàn Ngạc cứ phải suy đoán mãi. Hàn Ngạc thấp thoáng nhận định được người đó tất phải có dính dấp tới việc “Long Môn Dị” tập kích hôm trước. Nếu không, bọn phục kích sao lại có thể theo sát im ỉm kéo đến? Nhưng gã không đi, muốn xem xem chúng còn có cử động gì. Chuyến trở về Trường An lần này tuy bí mật, lại có khác gì đối đầu thẳng với phe Đông cung Thái tử.
L ạ là Tiểu Kế hai ngày nay cứ buồn bực, có lúc giả vui vẻ, nhưng chẳng ham chơi như ngày thường. Hàng ngày nó chỉ lo tu bổ trận pháp gì đó trong viện. Hàn Ngạc vì phải tính toán kế hoạch hành sự ở Trường An cho nên cũng chẳng ra khỏi cửa. Hôm nay gã gặp Tiểu Kế mới cười hỏi coi Tiểu Kế đang bày bố trận gì đó. Tiểu Kế chớp chớp mắt, đáp trả: “Ngạc Ngư trận”.
Hàn Ng ạc ngẩn người, trận gì mà gã chưa từng nghe nói tới vậy? --- Thằng bé Tiểu Kế này hành sự cổ quái quá, cả bố trận cũng có tên kỳ dị, trận thế này ra đời từ hồi nào đây? Gã thắc mắc hỏi nữa, lại nghe Tiểu Kế cười đáp: “Không hiểu sao? Thôi để tôi nói cho huynh nghe: cái tên đó đâu có khác gì lấy tên của huynh, thêm vào họ của tôi, gộp lại thành ‘Ngạc Dư' đại trận chứ!2”. Hàn Ngạc không khỏi cười lớn. Tiểu Kế cũng hết sức đắc ý, còn chăm chú vẽ một bức tranh vụng về trên tường, nói đó là trận nhãn, chỉ cho Hàn Ngạc coi rồi cười nói: “Ngạc ca, huynh là con cá sấu, còn tôi là một con cá con đáng tội cứ theo sát bên mình huynh, run rẩy không biết chừng nào sẽ bị huynh ăn thịt. Cá con tôi nếu có gì sai sót, xin cá sấu huynh mở lượng hải hà mà tha thứ nhé”. Hàn Ngạc “phì” một tiếng, lại xem kỹ bức tranh con cá sấu của nó, không biết sao càng xem càng có cảm giác thần tình kia thực rất giống mình. Sau đó cứ mỗi lần gã đi ngang qua bức tường thì lại cảm thấy hết sức thân thiết, phảng phất ngôi nhà này đã trở thành nhà mình thực sự vậy. o0o Mà ba ngày trời bọn họ cũng đâu có được bình yên. Thì ra địa giới đối diện cái ngõ nhỏ của họ là Di vương phủ. Hôm trước tên quản sự bếp núc của Di vương phủ bị đánh, nhưng mấy ngày sau cũng vẫn đến gây, dẫn theo đông đảo viện thủ. Mới đầu thì chỉ có mấy tên sai vặt trong nhà bếp, hai ba chục tên vung vẩy dao bầu chẳng ra thể thống gì, bị Dư Tiểu Kế đấm đá ngã nhào, về sau chấn chỉnh binh mã, kéo cả thị vệ của vương phủ, gã nào gã nấy cũng y phục rỡ ràng, quắc mắt hò hét, hết sức oai vệ! Có điều Dư Tiểu Kế ba năm có minh sư kề cận, chăm chỉ rèn luyện, nào phải hạng dở hơi? Xưa nay bị Hàn Ngạc kềm chế, bực bội chẳng có cơ hội xuất thủ, mà tính tình khoái có chuyện, làm sao mà nó cầm lòng cho đặng? Bọn thị vệ hùng dũng tới đâu cũng bị nó quật cho bò càng bò niễng, bỏ chạy tán loạn. Dư Tiểu Kế hậm hực: “Con bà nó, bọn lão tử ta tắm máu sa trường là để bảo vệ bọn tiểu nhân chúng bây ở nhà tác oai tác quái à? Thực tức chẳng để Khương Nhung kéo rốc đến Trường An, đập ói máu chúng bây!”. Nhìn thần tình thiếu niên ngạo nghễ tự hào của nó, Hàn Ngạc lại cười tủm tỉm, cảm thấy rất thú vị. Gã nói lãng qua: “Trận thế của ngươi tới khi nào mới xong đây? Cái tòa viện to lớn này sao giống như một cạm bẫy vậy đó, bọn ta chắc cũng nên đi rồi phải không?”. Dư Tiểu Kế cười đáp: “Ngạc ca, chậm đã chậm đã. Ngày mai, sáng sớm ngày mai tôi sẽ dựng xong”. Nói rồi nó cười hì hì: “Đợi bọn Long Môn Dị, Bắc Mang Quỷ kia mò tới nữa, chỉ bằng vào cái trận này, tôi phải khiến cho chúng thất điên bát đảo, cuối cùng vào đến thì lại chẳng thấy bọn ta ở đâu hết”. Nó đắc ý há miệng cười hằng hặc. Có ngờ đâu sang sáng sớm ngày hôm sau, trước cửa lại huyên náo. Hàn Ngạc cau mày, Tiểu Kế biết bọn Di vương phủ lại đến gây sự, sợ Hàn Ngạc không cho nó ló mặt, đâu có đợi gã mở miệng, vọt nhanh ra ngoài. Hàn Ngạc còn đang bối rối không biết làm sao nói ra thân thế của nó, sợ tiết lộ thì nó sẽ buồn phiền, lại thấy hai ngày qua nó đang khoái trá, đâu muốn cản trở nó, thôi cứ để nó vui cái đã. Dư Tiểu Kế thì ỷ có Ngạc ca chống lưng, đừng nói gì tới vương phủ này nọ, cho dù là binh trời nó cũng chẳng thèm nhíu mày nhăn mặt. Huống hồ hai năm qua nó đã tung hoành sa trường, nói về đánh lộn, nó nào có sợ ai. Nó mới lao ra cửa, lại thấy bọn người hôm nay khác hẳn hôm qua, tuy mặc áo dài nhưng tay chân chắc nịch, đúng là kẻ tập luyện võ nghệ. Dư Tiểu Kế mặt sa sầm, quát: “Lại kéo cứu binh đến à? Đừng nói dai, có muốn động thủ thì bọn bây lên đi!”. Lần này tên quản sự mời được bọn võ quán. Dư Tiểu Kế thấy có một tên thân hình hết sức tráng kiện cao to, chắc phải là hảo thủ. Nó tức Di vương phủ đến gây sự một cách vô lý, chẳng thèm khách khí, chỉ tay nói: “Ngươi là con chó chúng mời đến cắn người đó phải không? Ngươi tên gì đây?”. Hán tử nọ nổi nóng, vén vạt áo thét: “Tiểu súc sinh, hôm nay Đỗ Giang ta phải dạy cho ngươi biết quy củ trong Trường An thành này!”. Dư Tiểu Kế nghe hắn xưng họ Đỗ thì lại càng ghét cay ghét đắng, chẳng lo đáp lời, lắc mình tung một chưởng xáng lên mặt hán tử nọ. Nó xuất thủ cực nhanh, chẳng có ý đả thương mà chỉ muốn khoái chí một phen. Hán tử nọ võ công trầm ổn mà vẫn bị nó táng trúng, tuy không thụ thương nhưng mặt mày nóng rát, mắc cỡ chẳng chịu được. Hắn giật tay xé toang vạt trường bào đang mặc, hét lớn bấu một trảo về phía Dư Tiểu Kế. Nó rùn người lách sang phải. Bọn viện thủ có nghe tên quản sự kể thiếu niên này công phu ghê gớm lắm, cái đám bưng mâm bưng chén trong vương phủ làm sao mà nhận ra Tiểu Kế thuộc môn phái nào, nhưng cũng tha hồ thổi phồng để tránh mất mặt. Do đó hảo thủ của võ quán mà chúng mời đến hôm nay cũng có vẻ để ý đề phòng Tiểu Kế, biết sau lưng nó còn có kẻ chống lưng. Hồi nãy có tên còn sử ám khí xuất thủ tương trợ đồng bọn nữa. Mà tu vi của Tiểu Kế chẳng phải tầm thường, xông pha giữa ba quân toàn là dùng thế thức cận chiến thực dụng, đâu có mấy cái trò múa chân múa tay hoa hoè cho đẹp mắt. Nó lượn một vòng, thuận tay tung một trảo lên mặt một hán tử khác cạnh đó. Bản tính nó linh động, thân thủ cực kỳ lanh lợi, giở Đạp Ca Bộ học được từ Hàn Ngạc, tên kia lập tức bị cào trúng mặt. Dư Tiểu Kế đâu có dám nặng tay, sợ bị Ngạc ca mắng, có điều cũng chẳng chịu dung cho bọn ỷ đông hiếp ít. Nó tả xung hữu đột, thân pháp thi triển tới đâu, người ta ngã lăn ngã nhào tới đó, mười mấy hảo thủ cơ hồ đều bị nó đánh tơi tả. Chúng vốn thấy nó còn niên thiếu, định y theo quy củ giang hồ mà đơn đả độc đấu, giờ bị nó đánh nhầu, xấu hổ quá nhất tề vây đánh. Dư Tiểu Kế lâu rồi mới có dịp xuất thủ cho sướng, đắc ý vô cùng, lả lướt tiến thoái, giao chiến bằng tay không. Nó có đắc thủ cũng chẳng chịu thôi, kéo tên này xô tên kia, nghe bọn chúng gào thét liên hồi, còn nó thì nhào lộn như đang tập tành, xem có vẻ đang bị ăn hiếp mà thực ra lại chiếm hết lợi thế. Hàn Ngạc vốn lo cho nó, cứ ngồi đằng xa ngó chừng. Một hồi thì gã không khỏi mỉm cười, thầm nghĩ: công phu của Tiểu Kế tuy chưa thành, nhưng dõi khắp giang hồ thì chỉ có hạng cao thủ bậc nhất mới có thể khiến gã phải lo cho nó. Thân pháp của Dư Tiểu Kế càng đánh càng chậm, vốn chậm còn khó hơn cả nhanh, phải tính toán từng li từng tí, sai một bước là đi một dặm. Quậy được chừng nửa canh giờ, nó đã toát mồ hôi, tứ chi khoan khoái, nhưng biết làm tới thì Ngạc ca sẽ càu nhàu, liền há miệng cười hì hì: “Được rồi, các ngươi chẳng chịu giữ mặt mũi để xuống đài thì ta toại nguyện cho các ngươi vậy”. Nói xong nó hạ thấp mình, xoay vùn vụt một vòng. Đám đông la ó rân trời, ai ai hai tay cũng che đậy bề dưới, tên nào tên nấy cũng bị nó dùng hai móng tay cắt đứt thắt lưng tuột quần. Dư Tiểu Kế cười hằng hặc, bọn kia thì đầm đìa mồ hôi, chẳng còn sức đánh đấm nữa. Người xem vừa sợ lại vừa tức cười, cục trường náo loạn tới cực điểm. Hàn Ngạc định mở miệng kêu ngưng, lại nghe một thanh âm già nua vang vọng: “Thực không ra gì!”. o0o Thanh âm từ đầu ngõ truyền vào, Hàn Ngạc bên trong nghe tiếng, rùng mình nghĩ: kẻ đến mới thực là cao thủ đây! Dư Tiểu Kế cũng biết vậy, lắc mình lùi lại, bọn thủ hạ của Di vương phủ cùng đám trợ thủ của chúng dạt sang hai bên. Một lão giả râu ria hoa râm cỡ chừng ngũ tuần bước tới. Bên cạnh có người thấp giọng: “Hay quá, Vương tổng giáo tập đã đến”. Hán tử hồi nãy bị làm nhục trợn mắt ngó sang Dư Tiểu Kế, nhãn quang tức tối không thể giết được nó, như muốn thốt: Vương tổng giáo tập của bọn ta đã đến, để coi coi ngươi còn cười được không. Lão giả nọ đến gần, lạnh lùng thốt: “Vương Thông ta sống hơn năm chục năm trời, còn chưa thấy kẻ nào luyện tập võ nghệ mà lại dùng thủ đoạn luồn lách xô đẩy thô bỉ đến thế. Bậc tôn trưởng của ngươi ở đâu, sao họ không dạy dỗ vậy, kẻ đa sự như ta chắc phải ra tay chỉ dạy quá”. Dư Tiểu Kế ban đầu nghe giọng điệu của lão ta hết sức trầm hùng, lòng không tránh khỏi có hơi kinh sợ. Giờ thấy lão chẳng nói đạo lý mà còn trách cứ mình thô bỉ, nó không khỏi tức giận. Có Ngạc ca, nó đâu có sợ lão. Nó chẳng hùng hổ mà lại cười thốt: “Dư Tiểu Kế ta sống mười mấy năm rồi, tới giờ mới phát hiện đâu chỉ con nít bọn ta mà cũng có lắm người lớn không mặc quần lót. Thực là lý thú quá! Lão đầu nhi, ngươi là tổng giáo tập của chúng, có phải người của võ quán các ngươi tập luyện võ công chẳng được mặc quần lót hay không? Vậy ta thực muốn đầu quân học nghệ làm môn hạ của các ngươi đó”. Vương Thông kia là giáo đầu có tiếng ở Trường An, xưa nay luôn được môn nhân đệ tử kính trọng nịnh nọt, nào cho phép một ai châm chọc ngay trước mặt. Sắc mặt sa sầm, lão quát: “Tiểu tử vô sỉ!”. Dư Tiểu Kế nhảy dựng, vỗ mông rồi chỉ Vương Thông mắng: “Ta vô sỉ? Ta phải lột da bọn chó săn chầu chực cung phụng đám quyền quý để chứng minh các ngươi bề ngoài ra vẻ ta đây mà bụng dạ cứ muốn tự thiến vào làm Thái giám luồn cúi hút hít mủ nhọt của bọn quan nhân! Đừng cho rằng các ngươi mặc quần áo là có thể giống người, các ngươi có mặc áo bông dày cộm cũng chẳng che giấu được mùi hôi thúi bốc dậy ngút trời đâu”. Vương Thông cả giận tung một chưởng nhắm ngay đầu Dư Tiểu Kế. Lão xuất thủ mất hết phong độ, nhưng chiêu thức vô cùng hung mãnh. Dư Tiểu Kế luyện tập võ công thì có, nhưng vẫn chưa quen đánh tay đôi. Nó khoái xông pha trận tiền, giết địch tắm máu, thả sức tung hoành cho thỏa thích chứ đâu có quen giằng co quyết đấu. Nó rụt vai lại, trở tay bấu vào cổ tay Vương Thông. Vương Thông sắc mặt bất biến, trong đầu thì lại “ối” lên một tiếng, gồng tay để nó cào một đường, cánh tay rướn dài ra, vẫn vỗ xuống đầu nó. Lão xuất chiêu hết sức nhanh, Dư Tiểu Kế chẳng kịp né tránh, chỉ còn nước đưa song thủ lên đón đỡ, thân mình không khỏi thoái lùi ba bước. Vương Thông thần sắc khoái trá, hừ lạnh:”Võ lâm trong Trường An thành này càng lúc càng bại hoại, nói gì tới cái tên Hàn Ngạc chẳng biết lễ pháp, bọn trẻ thời nay thực chẳng bằng đời trước một góc!”. Hàn Ngạc nghe vậy cảm thấy ngạc nhiên, sao lại bỗng kéo mình vào? Tiểu Kế nổi giận: “Ngươi dám mắng Ngạc ca ta? Đang khi Ngạc ca ta đánh giặc thì ngươi ở đâu? Hầu bọn Di vương phủ làm chuyện tồi bại?”. Nó tức tối vô cùng tận cho nên không còn sợ sệt gì nữa, song quyền siết chặt, tiếp tục đấu với Vương Thông. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nói về dũng cảm nó nào có chịu thua ai! Công phu tâm pháp của nó dù bắt nguồn từ dòng Đại Hoang Sơn, song thực ra chỉ là những bí thuật quái dị, còn tu vi võ nghệ chân chính lại là học từ Hàn Ngạc. Quyền kiếm của Hàn Ngạc vốn cực kỳ hung mãnh, mà gã xưa nay coi trọng đường lối thanh đạm cho nên đã làm nhạt bớt một phần hung mãnh. Dư Tiểu Kế thì lại chẳng giống Ngạc ca của nó ở chỗ xuất thế đó, vả lại lăn lộn trong quân đội cũng giúp cho chiêu pháp của nó càng thực dụng, càng bạo hung hơn, hoàn toàn chẳng có chút xíu nhân nhượng nhẹ nhàng. Tu vi nội lực chưa đủ, vì vậy nó xuất thủ cứ nhắm đúng chỗ yếu mềm của đối phương: mắt, yết hầu, bụng dưới, háng, có điều chiêu thức chẳng thấy âm hiểm mà chỉ có vẻ hung hãn. Vương Thông giật mình, nhận ra quyền pháp của nó như thoát thai từ kiếm pháp. Lão thấy nó còn nhỏ mà đánh đấm chẳng chút trì trệ khựng sựng, đường lối vững chãi, không khỏi thất kinh: sở học của nhà nào vậy? Tại sao không có sáo múa máy bày vẽ như bọn thiếu niên mà toàn là kinh nghiệm thực chiến chỉ có thể đạt được qua những trận đánh liều mình? Hàn Ngạc ban đầu còn lo lắng, tới giờ thì lại an tâm, cảm thấy khoan khoái vô cùng. Quyền pháp của Vương Thông cũng hết sức già dặn, nội lực của lão vững mạnh, mỗi lần va vào cánh tay Tiểu Kế là làm cho nó đau rát vô cùng. Còn Dư Tiểu Kế tối ngày cứ làm ra vẻ ngoan ngoãn nghe lời trước mặt Hàn Ngạc, tới lúc đối địch lại liều mạng như chơi, có đau đớn cũng chỉ kích thích thêm đấu chí. Bài chưởng phong của Vương Thông đã sử đến cực độ, hết sức hùng hậu, cả Hàn Ngạc cũng phải gật gật đầu khen ngợi liên hồi, quả nhiên không hổ là giáo tập của một võ quán. Dư Tiểu Kế quyền thức uy dũng khôn lường, nó chợt quát lên: “Thạch hỏa quang trung ký thử thân!”. Sau đó thân người bay vọt lên, một quyền như kiếm quật lên ngực Vương Thông. Hồi nãy Vương Thông nhục mạ Hàn Ngạc, nó đã để bụng chẳng nguôi. Thức này của Ngạc ca nó yêu thích từ lâu, tuy tập chưa đúng nhưng cũng rất mãnh liệt, thêm vào có thân pháp phù trợ, đương nhiên nhanh nhẹn như ánh chớp. Vương Thông biến sắc, giơ tay trước ngực, dùng thuật “Song soan nội tỏa” phong bế mà vẫn chẳng che giữ được hết, vẫn bị quyền phong của nó xộc vào, lồng ngực nhất thời nghẹn nghẽn vô hạn. Quyền thứ nhì lại đã ùa đến, Vương Thông đỡ không nổi, xoay mình thoái lùi liên tục, lùi đến gần trước mặt bọn đồ đệ. Tuy lão biết mình lùi như vầy Dư Tiểu Kế đâu có dễ gì thu thế, bọn đồ đệ sau lưng e không tránh khỏi gánh họa như bầy cá cùng một ao, có điều lão chẳng thể nào làm khác. Hai chân lão nhún nhảy, đã lui gần một trượng. Dư Tiểu Kế quyền phong tiếp tục ồ ạt đổ tới, Vương Thông định nhờ đệ tử đỡ một chiêu, còn chúng làm sao mà ngờ họa ngay trước mắt? Dư Tiểu Kế gắng gượng thu hồi lực khí, một quyền vẫn đánh trúng ngực một tên đệ tử của lão ta. Tên nọ rú lên một tiếng, hai mắt trợn trắng, miệng sùi bọt mép ngã ngửa. Người trong trường kinh hãi, tiếp đó có người của Di vương phủ rống lên: “Giết người, giết người rồi! Mau đi báo quan! Kêu cấm quân đến tróc nã phản loạn ở đây đi!”. Đây là Trường An của chúng, đây là địa bàn của chúng. Cho dù mình có võ nghệ, có trí có dũng, bọn chúng nào có sợ mình đâu? Dư Tiểu Kế nổi giận, vốn muốn cứu tên kia, lại bị chúng hò la làm cho nóng nảy tức tối thêm. Hàn Ngạc đang định bước ra, lại nghe đầu ngõ vang vọng tiếng vó ngựa, có người kêu lên: “Giết người cái gì? Tại sao ở đây lại tụ tập đông đảo huyên náo vậy?”. Chúng nhân giật mình quay đầu, thấy có mười mấy thớt ngựa lao vào ngõ. Ngựa nào ngựa nấy cũng cứng cáp hùng dũng, chẳng giống ngựa Quan Trung. Dư Tiểu Kế ngạc nhiên, chợt la lên: “A, Liên Ngọc! Ô đại ca! Các người đã đến!”. Kỵ sĩ đi đầu mặt mày thanh tú, chẳng phải Liên Ngọc thì còn là ai chứ? Còn người vừa lên tiếng lại là Ô Trấn Hải, hảo thủ bậc nhất trong Liên Thành Kỵ mà Hàn Ngạc phái theo bảo vệ Dư Tiểu Kế. Tiểu Kế nói: “Ô đại ca, huynh đến thực đúng lúc. Tôi với Ngạc ca trú ngụ ở đây, bọn này khơi khơi lại đến ăn hiếp bọn tôi. Chúng ỷ Ngạc ca tính tình dễ chịu, chủ nhân của chúng lại là quan nhân trong vương phủ gì đó”. Nó quen biết hầu hết mọi người trong Liên Thành Kỵ, quan hệ với Liên Ngọc và Ô Trấn Hải rất thân mật. Ô Trấn Hải không khác gì huynh trưởng của nó, yêu thương nó không thua Hàn Ngạc. Nó phạm lỗi lầm gì, Ô Trấn Hải luôn luôn che chở cho nó trước mặt Hàn Ngạc. Liên Ngọc thì lại là người bạn tốt nhất cỡ tuổi nó. Ô Trấn Hải vừa nhìn thấy nó, gương mặt đen đúa không khỏi thấp thoáng một nụ cười. Nghe nó nói vậy, hắn bừng bừng lửa giận, quét mắt lạnh lùng hỏi: “Quan nhân? Trong Trường An thành này có quan nhân gì chứ? Cho dù là cấp bậc cao tới đâu, làm sao so được với Hàn soái của bọn ta tọa trấn Biên Tái, danh vang bốn bể! Các ngươi biết khôn chút đi, Hàn soái của bọn ta không muốn gây gổ với ai, bản tính bình đạm, nhưng đám bộ hạ bọn ta thì lại khác đó. Bắc đình Đô hộ phủ, Tái ngoại thập ngũ thành, hai vạn quân Liên Thành Kỵ, ba trăm thiết kỵ vệ binh làm sao có thể cho phép kẻ nào mạo phạm chủ soái của bọn ta”. Sau đó hắn nhìn sang Liên Ngọc, thét lớn: “Liên Ngọc, dựng cờ! Không treo cờ thì soái phủ của Liên Thành Kỵ cũng bị người ta coi là chỗ tụ tập bỡn cợt!”. Liên Ngọc “ừm” một tiếng, hắn thân thủ mẫn tiệp, thò tay rút cờ bên yên ngựa, vọt mình về phía cửa viện. Trên mình hắn vốn có mang theo cán cờ, giờ hắn nối từng đoạn lại thành cột cao cả trượng, cắm ngay trước cửa, quấn cờ mặt xanh mặt trắng thêu chữ vàng, tung bay sáu chữ “Bắc đình Đô hộ phủ Hàn”! Ô Trấn Hải xuống ngựa dưới cờ. Vị tướng tài quen dẫn binh tướng xông pha trận mạc ngước nhìn, ánh mắt vừa tự hào vừa tôn kính, sau đó lạnh lùng nói: “Hàn soái của bọn ta phụng chỉ về Trường An bệ kiến. Nói coi, các ngươi tại sao đến đây làm náo loạn?”. o0o Người của Di vương phủ nhất thời im re, có kẻ khe khẽ bàn tán: “Bắc đình Đô hộ phủ? Hàn Ngạc? Tòa viện này thì ra là gã mua? Còn nói chẳng phải mũ lớn gì chứ, quản sự của bọn ta kỳ này đội sọt rồi”. Thì ra chiến trận Khương Nhung tuy cách xa vạn dặm lại đã vang vọng khắp Trường An. Đừng nói gì tới mọi người ai ai cũng kính ngưỡng Hàn Ngạc vì công đạo, cho dù là Đông cung cùng Bộc Xạ Đường trước đây cũng đã từng chiêu dụ gã, khen tụng hết lời, khiến cho danh tiếng của gã với Liên Thành Kỵ vang vọng Trường An. Hơn nữa Hàn Ngạc chưa tới hăm lăm mà đã làm quan tới bậc nhị phẩm, tay nắm soái phủ ở biên quan, triều trung mấy trăm năm nay chẳng có mấy ai được như vậy. Người trong thành Trường An hết sức nể trọng quan vị, kẻ tại trường đại đa số đều có liên quan đến giới sĩ đồ, đương nhiên ai ai cũng biết về gã, ai ai cũng hâm mộ. Liên Thành Kỵ trừ Liên Ngọc ra, tổng cộng có mười hai kỵ sĩ kéo đến. Lúc này mười hai nhân mã nhất tề xếp hàng dưới cờ, mặt mày phong trần, tướng tá hùng dũng. Cả tòa trạch viện lập tức hiển hiện vẻ oai nghiêm như soái trướng miền biên thùy. Lại nghe đầu ngõ truyền vào một thanh âm sắc bén: “Kêu các ngươi làm có chút chuyện mà mấy ngày trời vẫn chưa xong. Nuôi bọn nô tài các ngươi thực vô ích!”. Dư Tiểu Kế có cảm giác thanh âm đó rất quen thuộc. Người của Di vương phủ nghe thấy, ai nấy cũng vừa sợ vừa mừng, dạt tránh sang một góc tường. Dư Tiểu Kế ngẩng lên, kẻ kia đến thực lẹ như gió cuốn. Nó định thần ngó kỹ, thấy y mình mặc áo gấm, bộ dạng công tử, mặt mày lại ngập ngụa âm khí. Tướng mạo chẳng kém cỏi gì, chỉ có điều thần khí ngang ngược phá hoại đi sự hài hòa của gương mặt, giọng điệu âm âm dương dương, quái dị khôn tả. Tiểu Kế “ủa” một tiếng: “Nhị ca ca!”. Kẻ đó đâu phải ai khác, chính là kẻ xếp tên trong Tử Thần, từng bắt cóc Dư Tiểu Kế, ép Hàn Ngạc dự hội Phù Dung viên, “Nhị ca ca” Ngải Khắc. Ả vẫn mặc nam trang, cử động hùng hổ, vừa đến chẳng thèm ngó ngàng gì tới khu trạch viện, mà hằn học nhìn bọn gia nhân --- Thì ra Nhị gia mà chúng nói là ả! Người của Di vương phủ ai nấy cũng cụp mắt. Ả hừ một tiếng: “Chút chuyện nhỏ xíu mà cũng làm không xong, còn nuôi chúng bây làm gì?”. Ả chớp mắt, nhìn một tên bị Dư Tiểu Kế tuột quần, hồi nãy cục diện hỗn loạn, chẳng ai nhớ cho hắn mượn y phục, hắn còn đang buông hai tay bụm che. Ngải Khắc cả giận, ả chắc mới xuống ngựa, tay còn cầm roi dát châu khảm ngọc, lập tức quất lên đầu tên nọ: “Coi coi, thực mất mặt quá! Loài hoang đàng kia mà đánh không lại, để chúng làm cho ra nông nỗi này”. Ả hạ thủ ác độc, tên kia đau đớn ôm đầu, để lộ chỗ kín. “Nhị ca ca” Ngải Khắc vừa tức tối vừa mắc cỡ, lại quất thêm một roi, trúng ngay chỗ kín của tên kia: “Ngươi thực muốn chọc ta phải không?”. Chiêu này hết sức nặng, têm kia đau đến gập hông gục xuống. Bọn bên cạnh vội cởi áo che phủ cho hắn, đỡ hắn lui lại. Dư Tiểu Kế tuy tức cười tên nọ, nhưng giờ thấy hắn vì mình mà bị đánh đập dã man, không khỏi có hơi nóng giận. Thêm vào Ngải Khắc mở miệng là đã mắng mình, nó bỗng cười hì hì nói: “Ta còn tưởng là ai, thì ra là cái đứa giả dạng. Ngươi đánh hắn thì làm được gì? Người ta sao phải chọc ngươi? Người ta vẫn là nam nhân, có lột xuống thì vẫn còn đó. Còn ngươi mà lột xuống thì e chẳng còn gì, chắc vì vậy mà tức tối lắm phải không?”. Nó xưa nay ăn nói đâu có nể nang, Ngải Khắc nghe vậy mặt liền biến sắc. Ả đâu có coi ai ra gì, cho nên hồi nãy đến chẳng thèm ngó qua phe Tiểu Kế. Giờ nổi giận ngoái đầu, thấy Dư Tiểu Kế đang cười hề hề nhìn mình, ả thì lại đâu có quen bị người ta khinh thị, nói gì tới còn giở giọng điệu khinh bạc ra châm chọc! Hai năm trời không gặp, Tiểu Kế tướng mạo khác hẳn, ả ngẩn ngơ một hồi mới nhận ra là nó, sắc mặt ngạc nhiên rồi nổi giận: “Thì ra là tên tiểu tử ngươi. Cái tên họ Hàn chắc năm xưa thua mà chẳng chịu giữ lời hứa, giờ lại quay về Trường An chứ gì?”. Nói xong ả chẳng thèm cà kê gì nữa, một roi quất về phía Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế đang định lách tránh, sau lưng lại nghe “vù” một tiếng, một mũi trường tiên đã quật tới. Ô Trấn Hải thấy Ngải Khắc xuất thủ hung ác, tuy mới là roi đầu mà rõ ràng đã muốn đả thương Tiểu Kế. Hắn chăm lo cho Tiểu Kế đó giờ, nào có cho phép ai đánh nó ngay trước mặt chứ? Binh khí của hắn vốn là trường tiên cọng sắt, vung một roi đánh thẳng sang bên Ngải Khắc. Ngải Khắc giật mình. Đường roi đó quả là bá đạo, chẳng giống như tuyệt nghệ ở Trường An! Nhưng ả xếp tên trong danh sách Tử Thần, nào phải hạng dễ đụng chạm. Tay ả rung một cái, roi tơ quấn lên trường tiên của Ô Trấn Hải. Thân người ả xoay một vòng, Ô Trấn Hải cũng chẳng thể nào đứng yên, bị ả lôi tới một bước. Ô Trấn Hải thầm thất kinh: đúng là hung hãn thực! Xem ra mình không địch lại. Hắn quát: “Ai đó, sao dám vô lễ trước Bắc đình soái phủ?”. Ngải Khắc ngẩng lên, thấy sáu chữ vàng trên lá cờ, nhất thời thần tình khó tả, tựa như vừa tức tối lại vừa khoan khoái. Giọng nói của ả bén như dao cạo: “Ồ? Đứa con của lão Hàn hầu hạ đổ phân cho bọn ta cuối cùng đã ngoi đầu dậy, thì ra đã về tới Trường An, cả soái kỳ cũng giăng lên rồi? Còn có nô tài để sai sử nữa? Hôm nay ta không dạy dỗ các ngươi thì các ngươi làm sao biết trời cao đất rộng ở Trường An thành này!”. Ả còn chưa dứt lời, cục trường tràn ngập bóng roi rít gió, cuộn quấn vào trường tiên cọng sắt của Ô Trấn Hải. Tiếng roi của hắn hết sức chát chúa, khiến cho mọi người xung quanh phải dạt ra xa hơn nữa để tránh. Nhưng bên dưới màn roi, một đường roi như sợi tơ bé xíu châm bẩm phản kích chẳng ngần ngại. Mới vài chục chiêu, Ô Trấn Hải càng đánh càng kinh hoàng, còn Ngải Khắc thuộc hàng cao thủ bậc nhất trong thiên hạ cũng không khỏi ngạc nhiên sao một thủ hạ của Hàn Ngạc mà cũng dữ dằn đến thế! Ả động sát tâm, thân người bay lên, tả thủ phớt qua tóc mai, đầu ngón tay mới động đậy, Dư Tiểu Kế đã la lớn: “Ẩn Tư Châm! Ô đại ca, năm xưa ả dùng nó đánh lén Ngạc ca ta!”. Nó tuy la lớn, nhưng Ngải Khắc xuất thủ lẹ hơn nhiều! Mũi châm đã tấn công đến khi nó còn đang gào thét. Ô Trấn Hải nếu không phải nhờ tiếng thét của nó giúp cảnh giác thì cơ hồ cũng chẳng thể nào tránh khỏi. Hắn vụt bẻ mình, vẫn bị mũi châm ghim lên mái tóc. Có điều tuy tránh khỏi châm, một đường roi của Ngải Khắc sắp quấn lên cổ hắn. Chiêu đó hắn chẳng thể nào thoát được. Bọn Liên Thành Kỵ cả kinh, đâu có ngờ một cô ả giả dạng nam nhân lại xuất thủ hung tàn đến thế. Mắt thấy Ô Trấn Hải phải táng mạng trong khoảnh khắc, bên trong cửa lớn chợt có một luồng ánh sáng trắng tái bốc lên, Trường Canh kiếm! Hàn Ngạc người còn chưa đến, kiếm đã đến trước, một kiếm công kích tới trước ngực Ngải Khắc. Ngải Khắc vặn mình lách khỏi, người của Liên Thành Kỵ lần đầu tiên thấy Hàn Ngạc chẳng chào hỏi gì mà đã xuất kiếm, đủ để thấy gã e dè tài nghệ của Ngải Khắc đến dường nào. Roi tơ của Ngải Khắc chạm vào Trường Canh, nó vốn không phải là binh khí chính của ả, mà cũng chẳng thể coi là binh khí, lập tức bị đứt thành từng đoạn rơi xuống đất. Ngải Khắc biến sắc thoái lùi, giơ tay án ngang hông, song nhãn lạnh lùng chằm chặp nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc đứng sừng sững trước mặt Ô Trấn Hải, giọng nói chậm rãi: “Hàn mỗ ngày nào chưa chết, đâu thể cho phép tướng sĩ dưới trướng bị người ta tàn hại”. Nhãn quang của Ngải Khắc sắc bén như đầu kim, hận không thể đâm chích gã hàng trăm hàng ngàn lỗ. Thình lình ả ấn nhẹ lên hông, người nhảy phốc lên. Ả rút một thanh nhuyễn đao khỏi thắt lưng ngọc, không trung keng keng nổ vọng mấy tiếng liên hồi, chúng nhân cũng không nhìn thấy rõ hình dáng của hai người. Qua một nhịp thở, hai người đã giao chiến mấy chục chiêu. Ngải Khắc lại hạ mình xuống, cúi nhìn đao rồi ấp úng tức bực: “Ngươi… ngươi dám làm mẻ bảo đao của ta!”. Đao của ả quả đã mẻ hết mười mấy chỗ bằng hạt gạo. Hàn Ngạc khinh ghét ả khôn tả, đôi mắt lạnh lùng nhìn ả chẳng nói chẳng rằng. Ngải Khắc chợt ngẩng lên cười: “Ngươi đừng cho rằng ngươi làm Hàn soái gì gì đó thì không có ai biết xuất thân của ngươi! Hà hà, tòa viện kia nay là của ngươi, bọn ta là hàng xóm, sau này sẽ có nhiều cơ hội gặp mặt. Giao tình của ngươi với ta đúng là chưa chết chưa tan đó”. Nói xong ả xoay mình bỏ đi. Ả đi cũng rất nhanh, người của Di vương phủ theo chẳng kịp. Thoáng đó đã đi đến đầu ngõ, ả quay lại nói: “Vấn an phụ thân đại nhân của ngươi giùm ta nhé!”. Hai chữ “đại nhân” ả nhấn mạnh hết sức, rõ ràng có ý châm chọc. Dư Tiểu Kế nổi giận. Nữ nhân trên đời này, con ả đó đúng là khiến cho nó căm ghét còn hơn cả Đỗ Phương Ninh. Giọng nói của nó xỉa xói đằng sau: “Nhị cô nương, vấn an tên Lữ Tam Tài vụng trộm giùm ta nhé”. Hàn Ngạc chờ cho chúng đi xa rồi mới xoay lại. Gã bình tĩnh nhìn Ô Trấn Hải: “Các ngươi sao lại đến đây?”. Ô Trấn Hải ôm quyền theo đúng lễ pháp quân đội, bẩm báo: “Hàn soái, ngài mới đi được vài ngày, trong triều hạ chỉ kêu ngài về Trường An bệ kiến. Cao tướng quân sợ ngài chẳng biết tin này, cho nên phái tôi dẫn ba trăm vệ binh tới đây”. Hàn Ngạc ngẩn người, không biết Hoàng thượng tại sao lại đột nhiên triệu kiến mình? Gã ngó ngó Trường An thành, lại nghe Ô Trấn Hải nói: “Bọn tôi cũng có dẫn Ban Chuy đến, hiện tại đang ở ngoài thành”. Hàn Ngạc lần này về Trường An vì chẳng muốn làm kinh động đến ai cho nên không cưỡi Ban Chuy. Gã trầm mặc không nói gì --- Triệu mình về Trường An tất chẳng phải vô cớ, đặc biệt là đối với cục diện này. Gã chợt cảm thấy Trường An thành đang có nguy cơ ngấm ngầm gì đó. Nhất thời gã còn chưa rõ tại sao lại có cảm giác đó, nhưng rõ ràng cảm thấy một tấm lưới đang giăng ra nhắm vào gã, dần dần bó chặt lên mình gã. Gã nhìn sang bọn Ô Trấn Hải. Mười hai người này toàn là hảo thủ võ lâm, qua lại mật thiết với gã, trung thành hết mình. Họ đều đã được Hàn Ngạc tận tâm chỉ dạy, hết sức kính phục gã. Mười hai người này là tinh nhuệ trọng tâm của Liên Thành Kỵ, vốn có một danh hiệu: “Liên Thành Đảm”, xem ra Cao Dũng cũng cho rằng mình ngộ nạn, do đó mới phái họ đến. Tới giữa trưa hôm đó, Hàn Ngạc cùng Ô Trấn Hải có lắm chuyện phải bàn. Dư Tiểu Kế lại cặp kè Liên Ngọc kéo qua một bên. Quá Ngọ, chợt có sứ đến tuyên triệu Hàn Ngạc ba ngày sau vào bệ kiến, cho phép được gặp long nhan, cho phép cưỡi ngựa vào cung cấm, cho phép mang kiếm vào triều. Hàn Ngạc lãnh chỉ mà thất thần: mình gặp Đông cung và Bộc Xạ Đường không biết phải đối xử ra sao? Còn Hoàng thượng, tại sao lại muốn gặp mình?
1 Dưới cổng cung Thanh Long cưỡi ngựa Thông, là câu trong bài “Dữ Ngô thị ngự xuân du” của Nguyên Chẩn.2 Chữ "Ngạc" (锷 - mũi đao mũi kiếm) trong tên Hàn Ngạc bao gồm chữ "钅" (vật dụng làm bằng kim
lo ại), mà chữ "Dư" (余) họ của Tiểu Kế vừa là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (ta, tôi), vừa là họ Dư, viết rất giống "钅". Điều này cũng giải thích tính tình cứng cỏi cố chấp của Hàn Ngạc khi tác giả cho gã cái tên này. Còn "Ngạc ngư" (鳄鱼) thì chữ "Ngạc" (鳄 - cá sấu) cũng bao gồm chữ "ngư" (鱼 - cá).
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 74 Tử Các phong đầu chiêm bạch vân1
Đ ó là một ngõ hẻm nhỏ vắng lặng, vẫn hoang lương như ngày nào. Nó có tên là ngõ Bì Nhi, cũng là nhà của Hàn Ngạc hồi nhỏ. Vào đêm, nó rất tĩnh lặng, vì đại đa số người cư trú là người cùng khổ, tối chẳng thắp đèn, còn phải lo ngủ sớm để ngày mai lặn lội gánh gồng.
Hàn Ng ạc đi gần khắp thành, đến đêm lẻn về con đường xưa. Biết bao lâu rồi chưa quay lại, mọi thứ vẫn chẳng thay đổi, chỉ có mùi mốc meo trong căn nhà nhỏ càng nồng đậm hơn so với sau khi mẹ qua đời. Gã cũng không biết tại sao mình lại quay về, gã định thần, nghĩ tới người cha mà mình sắp gặp mặt --- Có nói gì đi nữa, ông ta vẫn là cha ruột của mình mà. Giờ ông ta già rồi, có lắm chuyện gã chẳng nên tức hận ông ta nữa. Có lẽ đã đến lúc gã nên tiếp nhận ông ta về bên cạnh. Đâu cần nói để ông ta nở mày nở mặt, đâu cần nói để ông ta sống sung sướng hơn xưa, cũng đâu cần nói hiếu kính hay không hiếu kính gì, chẳng phải mình nên giúp cho ông ta được chút bình an của những năm tháng còn lại sao?
Nh ưng trong phòng không có người --- “Liên Thành Đảm” đã đến, Hàn Ngạc cũng đã yên tâm phần nào đối với sự an toàn của Tiểu Kế. Có họ một bên, cho dù là cao thủ bậc nhất cũng khó gây bất lợi cho Tiểu Kế --- Gã nhìn thấy cái giường nhỏ của mình, đến ngồi ở bìa giường, một lúc sau không khỏi nằm xuống. Ngày tháng trôi qua vùn vụt. Khi trưởng thành, gã đâu có chịu ngoái đầu, cũng không dám ngoái lại. Gã sợ quay lại nhìn thì gã sẽ chìm vào bể hận ngày xưa, không thể trồi lên, cũng không còn dũng khí để đi tới nữa. Hôm nay gã có thể trở lại, có phải đã chứng minh gã dũng cảm hơn trước nhiều?
Gi ờ phút này, gã không muốn về tòa trạch viện to lớn kia, không muốn gặp ai nữa, gã chỉ muốn nằm ngủ. Những năm qua, gã cũng đã mệt mỏi lắm rồi. Mơ mơ màng màng, gã chợt thò tay xuống dưới gối, nhưng dưới đó lại trống không, rồi một cảm giác thắc mắc bốc dâng trong đầu: mẹ… cái “gối ghiền” mà mẹ làm cho gã đâu rồi?
“G ối ghiền” thực ra là một cục cây quấn lụa mộc làm thành một con cọp nhỏ, cũng là món đồ chơi duy nhất của Hàn Ngạc. Mẹ nó khéo tay, tuy vật liệu chẳng tốt gì, nhưng làm rất đẹp. Con cọp con đó là cái Hàn Ngạc yêu thích nhất hồi bé. Khoé mắt Hàn Ngạc ướt lệ, rồi bỗng nhớ lại: cái “gối ghiền” đó sau bị một đứa bé con nhà chủ nhân của phụ thân để ý, phụ thân chẳng thèm ngó ngàng gì tới gã, lập tức lấy nó dâng cho hài tử kia.
---- Bi ết là chuyện cũ nên bỏ qua, nhưng trong lòng Hàn Ngạc vẫn không khỏi day dứt. Gã đang nhạo mình: lớn như vầy rồi mà còn nhớ nhung đồ chơi. Gã cũng chẳng biết sao mình lại ngó sang cái giường của phụ thân, chợt thấy giữa tranh tối tranh sáng, trên giường có một vật gì đó hình dáng rất quen thuộc. Gã đứng dậy bước sang, lại thấy cái “gối ghiền” đang nằm bên gối của phụ thân. Sao đây? Thằng bé kia không thích chơi nữa sao? Sau khi nó quăng bỏ, phụ thân lại lượm về phải không? Chỉ có điều tuy lượm “gối ghiền” về, ông ta lại bỏ rơi mình ở bãi tha ma ngoài Trường An thành! Hàn Ngạc dịu dàng cầm “gối ghiền” lên, một cảm giác chua chát đắng cay dâng hiện. Con người ơi, con người ơi, ai có thể nói mình thực sự tuyệt tình được? Ai có thể nói đa tình thực ra là thế nào? Gã ôm món đồ chơi bé nhỏ vào lòng, mắt nhắm lại, bỗng ngủ vùi.
1 Là Tiểu Đoạn dựa theo câu “Tử Các phong đầu kiến bạch vân” (lên đỉnh Tử Các xem mây trắng), câu tiếp theo câu “Thương Long khuyết hạ bồi Thông mã” của Nguyên Chẩn (xem chú thích {1} hồi 73).
o0o Trong mộng, Hàn Ngạc thấp thoáng ngửi thấy một mùi hương ru ngủ dìu dịu. Ngọt ngào quá, ấm áp quá, giấc mơ thời niên thiếu tựa hồ đang quay về. Trong mộng, một đôi bàn tay nóng bỏng rướm đượm chút mồ hôi vuốt nhẹ lên mặt mình --- Giấc mơ đó là giấc
m ơ Hàn Ngạc thường hay gặp hồi mười bốn, mười lăm tuổi mỗi lần tuân lệnh sư phụ về ngõ Bì Nhi đi thăm phụ thân. Bàn tay đổ mồ hôi, sợ sệt, khẩn trương! Hàn Ngạc còn nhớ đôi bàn tay đó cởi nhẹ áo mình, hằn trên lồng ngực mình… nhưng khi tỉnh mộng, gã lại thấy y phục còn nguyên, chỉ là trong nhà lẩn quẩn một hơi thơm ru ngủ mà gia đình giàu có mới xài tới. Sao giờ giấc mộng thuở niên thiếu lại đến? Giấc mộng đó luôn làm cho gã cảm thấy sợ hãi, phẫn nộ, đồng thời cũng có chút bẽn lẽn.
Gi ờ đây gã lại có cảm giác áo mình bị cởi ra, phản ứng bản năng khiến cho gã gồng mình. Sau đó gã cảm thấy “bàn tay” kia vuốt ve ngực mình nhè nhẹ, một giọng nói ri rí: “Vẫn cứng cỏi như ngày nào, trong lòng tôi chàng vĩnh viễn là kẻ cứng cỏi nhất”.
Không --- đây không phải là mộng. Hàn Ngạc của hiện tại cũng không phải là Hàn Ngạc của ngày xưa nữa, chút hương ru ngủ không thể ép gã say giấc như xưa. Gã mở mắt, ngồi bật dậy, quả nhiên phát hiện bên giường còn có một người!
Đ ó là một nữ nhân. Y thị thấy Hàn Ngạc tỉnh dậy, thân mình lập tức vọt lên, bay lùi về phía song cửa. Hàn Ngạc không khỏi thoát miệng kêu lên: “Nhị cô nương!”. Thân ảnh đó khựng lại. Hàn Ngạc kêu lên theo bản năng, kêu mà không biết sao mình lại kêu như vậy, nhưng đến khi định thần ngó, không ngờ người đó quả nhiên là Nhị cô nương, cũng là “Nhị ca ca” Ngải Khắc! Chỉ là biết bao nhiêu năm rồi, Hàn Ngạc lần đầu tiên nhìn thấy ả không mặc y phục đàn ông.
Ng ải Khắc dừng trước song cửa, ả chầm chậm xoay mình, để lộ gương mặt. Hoàn toàn không một chút trang điểm, mà cũng đã vứt bỏ khí vị ngạo nghễ ngang ngược xưa nay, chỉ còn là một cô gái bình thường. Nhìn kỹ, ả vẫn có cái đẹp của một người con gái. Ả thấp giọng: “Ta biết ngươi nhất định sẽ về đây, ta đoán không sai mà! Ta biết sẽ có một ngày ngươi phát hiện… Ta đã thề nếu có ngày ngươi phát hiện, ta sẽ nói hết cho ngươi biết, cho dù ta là đấng thiên kim của vương phủ, cho dù ngươi là con của một kẻ hốt phân”.
Hàn Ng ạc khép lại tà áo, chấn chỉnh y phục. Gã thẫn thờ ngồi yên, bàng hoàng nhìn Ngải Khắc, ngẩn ngơ chẳng thốt nên lời. Mặt ả ửng hồng, để lộ vẻ mắc cỡ mà Hàn Ngạc chưa từng chứng kiến kể từ khi quen ả. Ngải Khắc thốt: “Ta phải nói cho ngươi biết --- ta thích ngươi, từ cái lần đầu ta lén lút vào cái ngõ hẻm này, gặp ngươi là ta đã thích liền. Ngươi khác những nam tử mà ta từng gặp. Ngươi… kiêu ngạo quá… mạnh mẽ quá. Ta lớn hơn ngươi một chút, biết nhiều hơn ngươi một chút. Ta đã biết rất nhiều nam nhân, bề ngoài làm ra vẻ mạnh bạo, nhưng chúng một khi gặp phụ thân của ta, thấy gia thế của ta, chúng mềm nhẽo suốt từ trong ra ngoài. Biết bao nhiêu năm rồi, biết được thân phận của ta mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới ta vẫn chỉ có một mình ngươi. Lạ nhất ở chỗ ngươi lúc đó chẳng có võ nghệ, chẳng có sức lực mà vẫn ương ngạnh đến thế. Cho dù ngươi ban đầu đã căm ghét ta, coi thường ta, ta vẫn thích ngươi”.
M ặt ả bỗng bừng sáng. Ả nói tiếp: “Ta biết ngươi không ưa ta, không ưa cái tính khí kiêu kỳ của một đứa con gái. Có biết tại sao từ cái lần đầu gặp mặt, ta cứ mò vào ngõ Bì Nhi hôi thúi dơ bẩn này để vui chơi không? Có biết tại sao từ lúc đó trở đi ta lại đổi sang mặc đồ con trai không? Ta muốn ngươi chú ý đến ta, muốn ngươi cảm thấy ta không giống những đứa con gái khác”.
M ặt ả chợt hiện sắc giận: “Nhưng ngươi vẫn chẳng ưa ta. Ngươi xứng làm con của một kẻ hốt phân! Là ta thu nhận cha ngươi lúc ông ta cùng đường, cũng là ta đẩy ông ta vào chỗ hốt phân. Ta là Ngải Khắc, chẳng một ai dám hạ nhục ta! Ngươi mỗi lần về đây thường hay gặp một giấc mộng phải không?”.
Ả cúi đầu nhìn ngón tay mình, thanh âm bỗng mềm dịu: “Ngươi có biết không? Người đàn bà đầu tiên trong đời ngươi chính là ta đó! Trên thế gian này, hễ ta muốn cái gì thì phải là của ta, ngay cả ngươi cũng không ngoại lệ. Đỗ Phương Ninh gì chứ, Sách Kiếm song lữ gì chứ. Trước khi ngươi quen ả, trước lâu lắm, trong mộng của ngươi đã có ta. Ngươi cho dù cứng cỏi thanh thoát như một lưỡi kiếm, cuộc đời này cũng không thoát khỏi lòng bàn tay của ta”.
Ả chợt ngẩng lên: “Nhưng ngươi đã hại ta, hại cho ta từ đó về sau chẳng thể động tâm với bất cứ một nam nhân nào khác. Cho dù là Lữ Tam Tài gia thế hiển hách, cho dù là bất cứ một ai cũng vậy. Ngươi đã hại ta, ngươi phải đền bù cho ta!”.
Thanh âm c ủa ả hung hãn, chớp mắt lại biến thành ôn nhu: “Bất quá bây giờ ta đã nghĩ ra rồi, ngươi có mạnh hơn ta cũng được. Chỉ cần ngươi đối tốt với ta một chút, ta làm sao có thể nghĩ tới gia thế của ngươi nữa. Hàn lang, chàng có đối tốt với ta được không? Chàng giờ đây là soái tướng của Bắc đình, nếu được ta trợ lực, thêm vào vương phủ, lại có sức của Tử Thần, Đông cung hay Bộc Xạ Đường gì đi nữa cũng chẳng cần phải lo tới nữa”.
Nói xong ả từ từ đi đến gần, tựa vào lòng Hàn Ngạc: “Ta đâu có muốn gì khác, cái ta muốn chỉ là sự cứng cỏi của một nam nhân thực sự, vượt hẳn ra ngoài vinh hoa của nhân thế. Chàng là kẻ cứng cỏi nhất trên thế gian này, Ngạc, chàng là của ta, chàng từ nay là của ta. Ta không coi thường chàng nữa, cũng không hung hãn với chàng nữa”.
Ban đầu Hàn Ngạc hoảng sợ, rồi mắc cỡ, sau đó lại khinh khi, muốn mắng chưởi, rồi lại dâng hiện một nỗi niềm thương cảm --- Người con gái này… sinh trưởng trong vương phủ, từ nhỏ đã được tôn thờ, một chút thực tại của thế gian nàng ta cũng chưa từng nếm trải. Nàng ta là một kẻ sống trong cái thòng lọng vinh hoa, lại vẫn muốn có được chút cảm xúc chân chân thực thực, trong lòng bàn tay, giữa nhân thế này. Nhưng đến khi nghe ả nói câu cuối cùng, lòng gã lại chỉ có căm ghét. Gã chợt búng mình dậy, tránh khỏi thân mình Ngải Khắc. Gã còn chưa biết phải nói làm sao, mặt mày Ngải Khắc đột nhiên lại tràn ngập vẻ kiêu ngạo bạo ngược, thần sắc đó trong một sát na đã phá hoại đi tất cả những gì chân thực của ả. Hàn Ngạc không cảm thấy được những hành động của ả ngày xưa vô sỉ ra sao, cho nên chẳng có cảm giác phẫn nộ bực tức gì cho lắm. Nhưng giờ phút này, ả hồi phục lại thần sắc của một đấng thiên kim con nhà vương tướng, tỏ ra cái dáng vẻ chiếm cứ hết sức ngạo ngược kia, gã lại cảm thấy vừa xấu hổ vừa giận dữ. Gã chợt lạnh lùng thốt: “Nhị cô nương… xin tự trọng!”.
Ng ải Khắc thốt mơ hồ: “… Tự trọng? Ta còn có gì cần phải tự trọng nữa? Ta yêu ngươi vẫn chưa đủ sao?”. Thanh âm ả khẩn trương, như nhớ tới thân phận của mình, hừ thốt: “Chớ có nói năng kiểu đó với ta --- Người quyền quý bọn ta bất kể làm gì cũng là tự trọng, chớ có đem cái quy củ thế tục đó mà tròng vào ta, đó là cái sáo giành cho hạng xuất thân đê tiện các ngươi. Ngươi ở trước mặt ta mới cần phải học thế nào gọi là tự lượng, tự trọng đó!”.
Hàn Ng ạc không muốn nói thêm câu nào nữa, vọt mình lên lách ra ngoài. Ngải Khắc xuất thủ cản chặn, nhưng với Đạp Ca Bộ thần tốc, còn có ai có thể ngăn gã chứ? Hàn Ngạc đã ra ngoài cửa, còn nghe Ngải Khắc dốc hết sức thét: “Họ Hàn kia, là ta đã chơi ngươi!”. Thanh âm đó phảng phất tụ vầy hết những oán hận của đời người, là lời phù chú cùng nụ cười đanh ác của kẻ bắt giữ --- Nhưng ngươi không trói buộc được ta… nhưng ngươi không trói buộc được ta! Hàn Ngạc thốt trong lòng, thân người gã tan biến vào bóng đêm.
o0o
Ngoài Tr ường An thành có một ngọn núi tên là Tử Các phong. Đêm tĩnh lặng, Hàn Ngạc ngồi một mình trầm tư trên đỉnh núi. Dõi mắt nhìn xuống, đèn lửa Đại nội lấp loáng. Tâm tình gã đang bấn loạn, khí vị mục rữa của ác mộng ngày xưa đang đè ép gã. Gã hít một hơi sâu, gắng gượng lắm mới bình tĩnh lại được. Gã vẫn còn day dứt ký ức thời niên thiếu của mình. Gã muốn ghi nhớ những năm tháng thanh tịnh tuy rất tịch mịch trên đỉnh Thái Ất phong trắng xóa, còn ký ức meo mốc mai một trong ngõ Bì Nhi lại là cái gã tình nguyện lãng quên. Nhưng đêm nay, tất cả những gì trong quá khứ đều hòa vào nhau mà quay trở lại. Trường An này đây, gã làm sao mà yêu thương cho được? Gã tình nguyện đem Trường An trong đầu mình xóa hết thành không. Gã đang hồi tưởng lại những gì liên quan đến Nhị cô nương, nghĩ đến dục vọng của ả, mong mỏi của ả, chân bản ngã của ả, vốn tất cả cũng chẳng nên trách cứ gì. Tại sao nhuốm cái trật tự trong cõi đời, ả lại có thể biến thành ô trọc đáng ghét đến thế?
Đ áy lòng gã cũng nghĩ đến Thù nhi, nghĩ đến Yêu Yêu… Nữ nhân thực ra là cái gì đây? Có lẽ chọn lựa của Yêu Yêu là chính xác nhất. Rất nhiều cái tốt đẹp chỉ là cái trong khoảnh khắc, cố chấp ràng rịt cả đời cả kiếp, cuối cùng phải bị tổn thương tan nát, có đúng không?
Gã l ại nghĩ đến Phương Ninh,cái Phương Ninh muốn, thực ra cũng bất quá là kéo mình vào làm bạn trong cái quỹ đạo trật tự phức tạp của nhân thế này, có phải không? Nhưng nếu cái đạo đời chưa đến chết chưa hối cải của mình vẫn tồn tại, nàng có còn yêu thương mình không? Mà cái trật tự đó đã dị hóa biết bao nhiêu nam nhân, gã không muốn mình như vậy, gã muốn mình --- còn như một nam nhân. Bàn tay gã mò vào vạt áo, sờ lên cái “gối ghiền”, lòng lại hoài tưởng: động cơ nào khiến phụ thân đem cái món đồ chơi sờn cũ này về? Nghĩ đến đó, mắt gã lại ươn ướt. Phụ thân đâu phải chẳng yêu thương mình chút nào, phải không? Ngón tay chạm vào lụa mềm rách rưới, nghĩ tới phần yêu thương đã trải lắm thương đau tan nát đó, gã cảm thấy cái mình sợ chính là nó --- Gã không muốn cái sự vật bắt mình cuối cùng phải bị thương đau hành hạ dằn vặt khổ ải đó, cho dù nó cũng được gọi là… yêu.
Nh ưng hàng trăm hàng ngàn thứ thương đau tan nát kia lại là sự cứu vớt chuộc tội cuối cùng của mỗi một con người giữa dòng đời đảo điên nghiêng ngả này. Đó là một trò đùa của tạo hóa đặt ra, có phải không?
Hàn Ng ạc chợt cảnh giác. Tử Các phong này vốn là chỗ gã hay lên chơi hồi nhỏ, cho nên hết sức rành rọt địa hình, xoay một vòng liền tìm được chỗ ẩn mình đằng sau một tảng đá lớn. Người đầu tiên lên đỉnh núi là một nữ tử. Hàn Ngạc ngẩng lên nhìn, giật mình thầm thốt: Dư cô cô!
N ữ tử đó chính là Dư cô cô. Cô ta đang ngó về hướng đông, xoay lưng về phía Hàn Ngạc. Con đường ngoằn ngoèo lởm chởm như vậy, cô ta làm sao bò lên được tới đây? Đã canh tư, cô ta muốn làm gì đây? Tiếp đó lại có một nhân ảnh xuất hiện, lại càng khiến cho Hàn Ngạc kinh hoàng. Bóng người đó xuất hiện cơ hồ hoàn toàn không hơi không tiếng, ngay cả Hàn Ngạc cũng chẳng nghe thấy tiếng bước chân của y, thậm chí cũng chẳng có tiếng tà áo tung bay theo gió. Hàn Ngạc tỉnh táo hoàn toàn, áp lực đột nhiên gia tăng, gã lại muốn thử hóa giải áp lực đó trong đầu mình, vì nếu có áp lực, thân người gã tất có kiếm khí tiết ra, kẻ đến cũng sẽ lập tức khám phá ra chỗ ẩn thân của mình.
Sau đó gã thấy y lòn ra sau lưng Dư cô cô. Tuy toàn thân đen tuyền, hoàn toàn không nhìn thấy diện mạo, nhưng y lại có một thứ uy lực cửu cung cửu khuyết ngưng tụ xung quanh. Hàn Ngạc rùng mình: Du Cửu Khuyết! Không ngờ là Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết! --- Y đến đây làm gì? Có phải muốn hại Dư cô cô? Hay là họ có một cuộc hẹn ước bí mật?
D ư cô cô không quay đầu lại, nhưng đã cảm thấy được áp lực sau lưng. Thanh âm quái dị của cô ta vang lên: “Tại sao ngươi nhất định muốn ép ta đến đây? Lần này ta đâu có mạo phạm đến Tử Thần các ngươi”. Giọng nói của Du Cửu Khuyết tràn trề sát khí, y lạnh lùng thốt: “Đúng là không có. Bất quá ‘Lai Nghi' của các ngươi gần đây cứ ló đầu ló cổ vào cung cấm làm gì? Trường An thành gần đây có lắm tin đồn, có phải các ngươi là kẻ gây ra không?”.
D ư cô cô đột nhiên xoay mình, hừ lạnh: “Tin tức của các ngươi thực nhạy bén đó, không hổ là Tử Thần Nhất Cực. Ngươi thực ra muốn hỏi ta điều gì?”. Du Cửu Khuyết chợt thốt: “Công phu của ngươi không tệ. Xưa nay vẫn giấu kín hay là mới có tiến bộ gần đây? Dòng Đại Hoang Sơn quả nhiên có lắm bí thuật. Điều ta muốn hỏi ngươi là lão thất Quan Phi Độ của bọn ta có phải bị ngươi giết không?”.
Thanh âm c ủa y trầm lắng xuống, như sắp xuất thủ. Dư cô cô vụt ngẩng lên cười: “Thực là buồn cười thay, người của Tử Thần các ngươi bị giết, đến bây giờ không ngờ vẫn chưa biết hung thủ”. Cô ta chợt chằm chặp ngó Du Cửu Khuyết: “Nói cho ngươi biết cũng không sao: không phải ta giết, cũng không phải người trong ‘Lai Nghi' của bọn ta giết. Kẻ giết hắn là ‘Điếu Quỷ' A Thù trong Bắc Mang Quỷ. Ngươi có tài, không sợ đắc tội với Bắc Mang Quỷ thì đi tìm ả mà thanh toán”.
Du C ửu Khuyết mục quang ngưng đọng: “Ả tại sao lại giết lão thất?”. Dư cô cô lạnh lùng cười đáp: “Một nữ hài tử như ả, tuy có tàn độc, có vô tình, giết người bất quá vẫn là vì tâm ma. Đáng trách là trách hôm đó lão thất của các ngươi mở miệng khinh bạc Hàn Ngạc, bị ả nghe được, cho nên ả quyết tâm hạ thủ. Trước hết ả hạ độc, sau đó hạ sát thủ, giết chết người trong Tử Thần của các ngươi. Hà hà, ngươi hỏi ả tại sao muốn giết lão thất của các ngươi, chi bằng về hỏi coi ‘Nhị ca ca' của các ngươi sao lại hận Hàn Ngạc dữ vậy”.
Hàn Ng ạc thầm run: là Thù nhi giết Quan Phi Độ? Người trong Tử Thần chẳng có ai không ra tay tàn độc, sao nàng ta lại mạo hiểm làm như vậy? Hà tất phải mạo hiểm làm như vậy chứ? Du Cửu Khuyết chợt im bặt. Phải một hồi lâu sau, y mới âm trầm thốt: “Ngươi trước mặt ta mà dám vô lễ như vậy, không sợ ta giết ngươi sao?”.
Y t ự phụ là thiên hạ đệ nhất cao thủ, lời nói như thế, quả cũng chỉ có y lên tiếng mới đáng sợ. Dư cô cô thân thể run lên, tựa như cũng không tránh khỏi lo sợ. Tiếp đó cô ta lại buông tiếng cười dài: “Với cơ mưu của ngươi, biết ta mấy ngày nay bữa nào cũng lên đỉnh Tử Các phong ngắm mây trắng mà bói họa xem phước, vậy sao không biết ta có thể dự đoán phước họa của bản thân chứ? Ngươi dám giết ta? Cho dù người trong thiên hạ ai ai ngươi cũng dám giết, nhưng ngươi dám giết ta sao?”. Thanh âm của cô ta vụt chấn động: “Ta là người của Dư gia trong ngõ Luân Hồi. Ngươi muốn giết thì giết đi, chỉ cần ngươi không sợ Vệ Tử Câm hận ngươi trọn đời trọn kiếp, vĩnh viễn không để ngươi gặp mặt, ngươi muốn giết thì cứ giết đi!”.
Du C ửu Khuyết thoạt biến sắc mặt, tung một chưởng đánh lên ngực Dư cô cô. Một chưởng đó của y hiệp lực “Thượng đế thâm cung bế cửu hôn” mà y khổ tu hơn bốn chục năm ròng, Hàn Ngạc có muốn cứu cũng chẳng kịp. Nhưng đến khi chưởng của y đánh trúng lồng ngực của Dư cô cô, y lại đột nhiên thu hồi lực khí. Dư cô cô phun một ngụm máu, chỉ nghe Du Cửu Khuyết quát khẽ: “Ngươi không xứng nhắc tới cái danh tánh đó trước mặt ta. Nhớ đó: mạo phạm lần này, ta tuy không giết ngươi, nhưng đã lưu lại thương thế, hành hạ ngươi trọn đời trọn kiếp chẳng an thân”.
Ánh m ắt Dư cô cô tràn ngập vẻ kinh sợ. Du Cửu Khuyết lại đã vọt mình lên, trước khi đi còn thét: “Ta bất chấp ngươi đấu làm sao với Đông cung, nhưng nhớ đó, chớ có phạm vào cung cấm của ta”. Y đi thực xa rồi, Dư cô cô còn ôm ngực ho húng hắng, khốn khó lắm mới ói ra được một ngụm máu bầm. Sau đó cô ta ngẩn ngơ trông về phương đông. Phương đông, mây mỏng duỗi mình, tới lúc này Hàn Ngạc mới phát hiện mắt cô ta đâu còn trắng xóa mù lòa như trước, cô ta hình như đã nhìn thấy gì đó. Một hồi sau, cô ta khe khẽ lẩm bẩm: “Hàn Ngạc… Hàn Ngạc… bọn ta đã phí hết tâm lực ép ngươi về lại Trường An. Nay thời thế đã định, người đừng có phụ lòng kỳ vọng của ta đó”.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 75 Nhị tinh kiếu ngoại thông Man phục1
Hôm nay là ngày Thánh ch ỉ triệu Hàn Ngạc vào bệ kiến, còn cho phép cưỡi ngựa, đeo kiếm thượng triều, thực hết sức oai vệ. Hai ngày qua trong đầu Hàn Ngạc cứ lần quần những chuyện vừa xảy ra: từ lời đồn đại trong mười lăm thành, đến chuyện Long Môn Dị và Bắc Mang Quỷ ám sát Dư Tiểu Kế; từ việc bỗng dưng vô cớ có người dâng cho gã một tòa viện to lớn, tới Thánh chỉ ưu ái triệu vào bệ kiến… Mọi sự, chính hay phản, tựa hồ đều hữu ý vô tình đưa mình lên chót đỉnh của vinh hoa phú quý, ác đấu hiểm tranh. Thực ra là có ý đồ gì? Mọi sự có phải là mưu tính của Phương Ninh không?
Ngh ĩ tới Phương Ninh, Hàn Ngạc lòng chợt bấn loạn. Gã ngoái lại, thấy Dư Tiểu Kế đang ngó mình chăm chăm. Hôm nay vì để thượng triều, gã đâu có tránh khỏi phải phục sức theo đúng lễ pháp. Gã là nguyên soái, dĩ nhiên phải mặc đồ nhà binh. Áo giáp bó sát càng hiển hiện đường nét chắc nịch tràn trề tinh khí của gã.
Y ph ục đó cũng do người chủ nhân không tên không tuổi tặng cho, mà đến nay y vẫn chưa lộ diện. Quan hệ đến thể chế của triều đình, Hàn Ngạc bất đắc dĩ lắm mới chịu mặc. Tiểu Kế sờ khôi giáp của gã, cười nói: “Ngạc ca, y phục huynh mặc thực là oai vệ quá, về tới phải cho tôi mượn mặc thử xem đó”. Hàn Ngạc không khỏi mỉm cười: “Ngươi còn phải nói mượn với Ngạc ca sao? Bất quá người ta chỉ ép ta mặc cái thứ nặng nề này, còn ép ngươi mặc thì e phải là long bào đó, không phải oai vệ hơn Ngạc ca nhiều sao?”.
Bên ngoài Liên Ng ọc đã chuẩn bị ngựa. Hàn Ngạc cưỡi Ban Chuy, dặn dò Tiểu Kế một tiếng, Liên Ngọc đi trước dắt ngựa về phía cung thành. Nơi họ trú ngụ vốn là chốn giàu sang, đâu có cách cung thành bao xa. Dọc đường không biết bao nhiêu là thiếu nữ thiếu phụ nhà quyền quý tựa song cửa từ trên lầu nhìn xuống, muốn xem xem người trẻ tuổi mà làm quan tới bậc nhị phẩm thần thái ra sao. Hàn Ngạc hai năm nay tuy đã từng trải, nhưng dọc đường vẫn bị người ta dòm ngó đến mắc cỡ dị thường. Gã thầm cảm thấy may mắn không nghe lời Tiểu Kế cho phép nó dẫn ngựa tiến cung. Liên Ngọc nghiêm nghị hơn Tiểu Kế nhiều, nếu mà có nó thì thực chẳng biết phải bị châm chọc tới dường nào.
Nh ớ tới bộ dạng thiếu niên láu cá của Tiểu Kế, Hàn Ngạc bất giác cảm thấy ấm lòng. Hôm nay gã tiến cung vốn có một chướng ngại tâm lý to lớn: gặp Hoàng đế e không tránh khỏi phải quỳ bái, mà chuyện này Hàn Ngạc đó giờ đâu có muốn. Giờ nghĩ tới Tiểu Kế, gã thầm than: Hoàng đế chắc là cha ruột của Tiểu Kế, dù sao cũng có thể coi là bậc tôn trưởng, có lạy thì cũng không sao.
M ới đi đến phường Thái Bình, sắp quẹo vào đường lớn Chu Tước thẳng tới cửa Hàm Quang, Hàn Ngạc bỗng máy động tâm tư, thấp thoáng có một cảm giác bất tường bốc dâng. Gã từng trải chiến trận, thứ trực giác đó rất mẫn cảm, nhưng sự cảnh giác này lại không phải hoàn toàn bắt nguồn từ trực giác như dã thú của gã, mà là mấy ngày gần đây Tiểu Kế tối nào cũng dùng tâm pháp Vô Kê Nhai của dòng Đại Hoang Sơn bồi đắp cho gã, nói muốn giúp cho gã thêm một con mắt. Nghe Tiểu Kế nói đó là tâm pháp “Minh mục”. Hàn Ngạc bất nhẫn từ chối hảo ý của Tiểu Kế, cũng đành phải nghe theo nó. Gã cũng thầm phục thuật phép kỳ dị của Đại Hoang Sơn, tới giờ vụt cảnh giác, lập tức chấn chỉnh tinh thần. Liên Ngọc theo gã đã lâu, cũng thông hiểu được gã, hắn quay đầu lại ngó gã. Hàn Ngạc thấp giọng: “Liên Ngọc, nếu một hồi nữa ta kêu ngươi đi, ngươi phải lập tức đi ngay. Chạy về viện kêu bọn Tiểu Kế đừng lo cho ta, trước hết hãy xông ra khỏi Trường An thành”.
1 Sứ giả ra biên thùy mặc đồ Man, là câu trong bài "Sứ đông Xuyên - Lạc khẩu dịch - nhị thủ" của Nguyên Chẩn. "Nhị tinh" tức là "nhị sứ tinh". Sách "Hậu Hán thư - Lý Cáp truyện" có kể Hán Hòa đế sai sứ giả mặc thường phục đến các châu các huyện nghe ngóng dân tình. Hai sứ giả đến Ích châu, tối nghỉ chân ở nhà Cáp. Cáp hỏi: "Hai vị lúc rời kinh sư có biết triều đình sai hai sứ giả đi không?". Hai người đáp không, thắc mắc Cáp tại sao hỏi vậy. Cáp chỉ sao trời mà rằng: "Có Nhị sứ tinh tách về hướng Ích châu, cho nên mới biết". Sau này người ta dùng "Nhị tinh" / "Nhị sứ tinh" để chỉ sứ giả (“tinh” là sao).
Liên Ng ọc lo lắng, lại thấy thần sắc của Hàn Ngạc hết sức trấn định, bàn tay cầm cương của hắn cũng gia tăng thêm khí lực --- Hàn soái trăm trận trăm thắng, lòng tin của hắn bốc dâng: cho dù là hung hiểm gì, hắn cũng không sợ.
Đ i đến cửa Hàm Quang, Hàn Ngạc càng lúc càng cảnh giác. Thủ lãnh cấm vệ quân ở cửa Hàm Quang là Trương Quân thấy Hàn Ngạc đến liền lên đón. Hàn Ngạc xuống ngựa trả lễ, Trương Quân vội khoát tay ngăn gã, Hàn Ngạc bậc quan cao hơn hắn xa. Gã lại cảm thấy bàn tay của hắn giơ ra cản chừng như ướt đẫm. Mới đi vào cửa cung, gã gặp một viên quan mặc áo bào vàng cười tươi ra đón: “Hàn huynh, Hàn huynh, hôm nay cuối cùng đã hân hạnh được gặp mặt huynh rồi”.
Hàn Ng ạc lại không chú ý đến hắn, mà đang ngó sáu người sau lưng hắn. Sáu người đó mặc đồ tùy tùng, kẻ gầy người mập, nhưng Hàn Ngạc vừa liếc qua bộ dạng đã biết chúng khẳng định có tu luyện võ công, ai nấy cũng là hảo thủ, đứng một bên bất động, khó mà đoán định trình độ. Hàn Ngạc thầm giật mình: không ngờ có người muốn đối phó mình hôm nay! Mà đã qua cửa Hàm Quang vào cung thành rồi còn gì, đó là ai? Là Hoàng thượng chăng? Không đúng --- Hoàng thượng chắc đâu có lý do để giết mình, nếu ông ta muốn giết mình thì đã hạ chỉ một cách quang minh chính đại, hà tất phải làm như vầy? Nhưng trong cung là địa bàn của Tử Thần, nếu không phải Hoàng thượng muốn giết mình thì còn có ai dám làm vậy chứ?
Hàn Ng ạc trên ngựa ôm quyền hành lễ, cười hỏi: “Nào dám, nào dám. Tại hạ thực xấu hổ, không biết các hạ xưng hô thế nào?”. Gã nói xong thì định xuống ngựa. Trương Quân lại bước lên ngăn gã. Hàn Ngạc khoé mắt quét nhìn, thấy hổ khẩu của hắn có vết chai cứng, một đầu lãnh của cấm quân không ngờ cũng tu luyện Hổ Trảo thủ được đến mức độ đó! Trong cung lắm nhân tài, thực khó thể lường được! Không đợi bàn tay của Trương Quân rờ tới hông mình, Hàn Ngạc chợt đặt tay lên vai hắn một cách rất tự nhiên. Hắn lập tức sựng lại, đứng yên bất động, nụ cười trên mặt có vẻ hết sức bẽn lẽn. Hàn Ngạc tới giờ lại càng xác định được những ngờ vực của mình. Viên quan kia cười nói: “Huynh đệ tôi đây là Ngô Tất Chính, hiện nhậm chức Thượng khanh của Thái Phó Tự, đặc biệt ra đây nghênh đón Hàn huynh tiến cung diện kiến Thánh thượng”. Hàn Ngạc chợt thốt một câu: “Thì ra là Ngô huynh. Không biết hôm nay ai trong số các vị Tử Thần coi ban vậy? Tiểu đệ có quen biết các vị Tử Thần, đang muốn gặp mặt”.
Câu nói c ủa gã thốt quá đột ngột, lại thốt cực nhanh. Bình thời gã nói rất chậm rãi, tới giờ đột nhiên lại chất vấn, với cái khí thế thống lãnh ba quân, xông pha thiên quân vạn mã, hỏi một câu Ngô Tất Chính bất giác phải đáp: “Là Ngải Khắc huynh…”. Hắn mới nói chữ “Ngải”, Hàn Ngạc lập tức nghĩ: chúng quả nhiên muốn hại mình! Ngải Khắc coi ban, không phải chính là thời cơ tốt để ả lộng quyền hay sao? Với uy thế của Du Cửu Khuyết, nếu y muốn đối phó mình, lại là lệnh của Hoàng thượng, y nhất định không bày kế xảo ngay cửa cung để chặn giết mình đâu. Gã thoát miệng hỏi: “Ngô huynh thì ra là môn hạ của Đông cung”.
Ngô T ất Chính líu lưỡi một hồi mới mở miệng: “À… huynh đệ chỉ là người lo chuyện cho Hoàng thượng thôi”. Lúc đó Hàn Ngạc nghe thanh âm cửa cung cách đằng sau chừng hai trượng đang đóng lại. Gã kinh hãi: quả nhiên là chặn giết! Đây là sát cục! Bọn Đông cung bố trí sát cục ở cửa Hàm Quang này! Kiếm khí trên mình gã đằng đằng, thầm nhủ: lẽ nào Đông cung Thái tử thực sợ mình gặp Hoàng thượng, cho nên phải khai diễn cái trò kinh biến đoạt cửa? Giọng nói của gã giả ra vẻ ngạc nhiên: “Sao, chưa qua giờ Ngọ mà, sao phải đóng cửa cung vậy?”. Gã vừa lên tiếng là đã chuẩn bị xuất thủ. Gã luôn luôn theo lối địch chưa động thì ta bất động, địch muốn động thì ta động trước. Bụng gã vụt thoáng nghĩ: không được! Chúng hôm nay đại khái muốn bức mình ra tay trước, để nói mình hành hung trong cung, tới lúc đó chín cổng thành đóng chặt, chúng có thể làm chiếu giả mà giết mình. Xem ra cái thế hôm nay Đông cung muốn mạo hiểm một phen, trước hết ép mình xuất thủ, rồi danh chính ngôn thuận giết mình, khiến cho Hoàng thượng cũng không nói gì được, Đông cung Thái tử cũng không còn sợ có Dư Tiểu Kế tranh giành nữa. Nếu chuyện này vỡ lở, chúng e bị dồn vào đường cùng, bị ép phải đi tới “bức cung”2. Thực là nguy hiểm, mà lại hoàn toàn đâu có chuẩn bị trước, Hàn Ngạc chỉ biết giờ phút này không thể khinh cử vọng động. Cung thành này chẳng thể loạn, Trường An này chẳng thể loạn, thiên hạ này cũng chẳng thể vì gã mà loạn!
Ki ếm khí trên người gã ngùn ngụt như muốn thoát về phía cửa cung. Bị khí thế của gã lôi cuốn, sáu tên mặc đồ tùy tùng kia liền lăm le chực chờ phát tác. Trên tường cung hình như có sát khí. Đó là ai? Ngải Khắc? Thân mình Hàn Ngạc bỗng tiết ra sát khí, phản ứng của gã lại vượt ngoài ý liệu của sáu người kia. Chúng chưa được lệnh phát tác, đâu thể nào tiết sát khí trước. Hàn Ngạc chợt vỗ vai Trương Quân: “Sao dám lao nhọc Trương huynh dắt ngựa cầm đèn chứ!”. Trương Quân nghiến răng, đau đến mức co mình lại, thoát khỏi bàn tay của Hàn Ngạc. Song thủ của gã lại ôm quyền về phía Ngô Tất Chính. Hắn cho rằng gã muốn mở miệng nói gì đó, đang chờ đợi gã lên tiếng rồi mới có phản ứng. Hai đùi Hàn Ngạc lại kẹp nhẹ. Ban Chuy tâm ý tương thông, thình lình vọt lên. Đâu có ai ngờ con ngựa lại hung bạo như vậy, ngay cả Liên Ngọc cũng vậy. Tay vừa nới lỏng dây cương, Ban Chuy đã vọt xa hơn hai trượng, Hàn Ngạc kéo giữ tay Ngô Tất Chính, chúng nhân còn chưa kịp phòng bị, gã đã cười nói với hắn: “Ngô huynh, phiền huynh theo ta tiến cung diện kiến Thánh thượng”. Nói xong gã lại kẹp hai chân, ngựa cũng chẳng dừng, chạy thẳng tới trước. Một tay gã nắm tay Ngô Tất Chính, nhấc hổng hai chân của hắn, cứ như bay về phía cửa Thừa Thiên của Hoàng thành. Sáu tên tùy tùng ba chân bốn cẳng đuổi theo định công kích. Kiếm bên hông Hàn Ngạc chợt có bắp thịt búng văng ra chừng một tấc. Gã tuy chưa xoay lại, nhưng sát khí sau lưng hừng hực, áp chế sáu hảo thủ võ lâm. Gã tranh tiên được một chiêu, chúng bỏ mất tiên cơ, nào có dám mạo hiểm xuất thủ. Ngựa của Hàn Ngạc nhanh, nháy mắt đã phi nước kiệu gần đến cửa Thừa Thiên. Gã biết bên trong là điện Thái Cực. Với oai danh của Du Cửu Khuyết, qua cửa Thừa Thiên là trọng địa mà Tử Thần phòng vệ, chỉ cần đến đó, phe Đông cung có hung hãn muốn mạo hiểm tới đâu cũng chẳng dám phát động.
Ch ưa tới mà gã lớn tiếng: “Bắc đình Đô hộ phủ Hàn Ngạc phụng chỉ vào ra mắt Thánh thượng”. Khẩu khí của gã bình ổn, tâm tình lại không dám buông thả. Sáu tên kia gã chẳng biết là ai, nhưng sáu luồng sát khí cứ như bóng theo hình, ép sát sau lưng gã. Hàn Ngạc từng trải trăm trận, biết chỉ cần chúng động thủ, mình e chẳng có khả năng toàn thân thoái lui.
2 “Bức cung” là ép vua thoái vị nhường ngôi.
--- M ột đám hảo thủ như vậy ở đâu ra? Đông cung hôm nay thực muốn kéo rốc sào huyệt đến sao? Gã chỉ còn nước ỷ vào chút tiên cơ mà bắt giữ Ngô Tất Chính, ép cho chúng không có cách nào xuất thủ trước.
Ng ựa Chuy còn cách cửa Thừa Thiên khoảng mười mấy trượng, một trong sáu tên mở miệng: “Hàn đại nhân, ngài sao lại dám ép bức Ngô Thượng khanh ngay trong cung vậy?”. Lời nói của hắn rõ ràng là tạo lý do để ra tay! Hàn Ngạc không đáp, đùi lại kẹp cứng, ngựa càng phi nhanh hơn. Sáu tên kia vọt mình lướt tới, đã lọt vào cự ly có thể xuất thủ trên không đối phó Hàn Ngạc. Hàn Ngạc vì đang ở cung cấm nên cũng không dám cho ngựa phóng nước đại, gã rùng mình: thực thoát không được sao? Gã nào có lo cho an nguy của mình, mà là đang lo cho Tiểu Kế: nó trong viện chắc hoàn toàn chẳng phòng bị gì hết. Chẳng những vậy, nếu có loạn, đâu phải chỉ sinh tử của một mình nó, lưỡng cung tranh đoạt, đến đường cùng phải rút đao trở mặt. Tuy gã đâu có coi chúng là người tốt lành gì, có điều chiến loạn mà bùng nổ, tai họa tất thảm thương lắm, đâu phải là phước phận cho thiên hạ chúng sinh.
Gã ngoái đầu lại ngó, tính toán xem có thể tung một kiếm giết chết sáu tên hay không. Nhưng thấy thế bay của chúng, có một tên để lộ đầu tóc trắng phếu khỏi khăn bịt đầu, Hàn Ngạc biết chẳng thể nào làm được --- “Thương Sơn Tứ Hạo”! Sáu tên đó rõ ràng có bốn là “Thương Sơn Tứ Hạo”! Bốn tên lừng lẫy giang hồ, mà thanh danh phái Thương Sơn cũng đâu có kém Thái Ất thượng nhân sư phụ của mình. Một trong hai tên còn lại thân hình đằng không chẳng khác gì một lưỡi đao, lẽ nào là “Bất Trắc Đao” Bốc Ưng, thiên hạ đệ nhất chưởng đao nổi tiếng giang hồ? Tên kia chắc là “Song Nhận” Vi Đĩnh quá. Xem ra chúng bất chấp cả sống chết của Ngô Tất Chính. Hàn Ngạc ngước nhìn lên trời, kiếm ý ngùn ngụt. Chính ngay lúc đó, đột nhiên nghe ở cửa Thừa Thiên có một thanh âm trầm hùng vang lên: “Hàn huynh đã đến?”.
Sáu ng ười trên không dĩ nhiên thất kinh, vội vàng hạ mình xuống, tỏ ra hết sức khẩn trương. Hàn Ngạc nhìn về phía cửa Thừa Thiên, thấy cửa đã mở, bên trong có khác gì là cấm địa của Thượng đế, sừng sững đè nặng, nhưng uy thế áp bức kia đâu phải phát ra từ thành trì, mà là từ một người đứng ở cửa thành. Đó là… Du Cửu Khuyết.
M ột câu nói chậm rãi giúp cho Hàn Ngạc phóng ngựa tới được cửa Thừa Thiên. Gã nhảy xuống, điềm đạm mỉm cười: “Là Du huynh? Đã lâu không gặp”. Du Cửu Khuyết trao đổi một ánh mắt với gã. Cái nhìn đó, song nhãn của Du Cửu Khuyết sâu hút như cửu cung cửu khuyết, còn đôi mắt của Hàn Ngạc lại sáng ngời sắc bén.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 76 Ngũ dạ đăng tiền thảo Ngự văn1
Chuy ện vệ binh của Hàn Ngạc được vào đóng trong cung cấm thực vượt ngoài dự liệu của gã, cũng vượt ngoài dự liệu của mọi người trong triều dã. Tiếp đó bận bịu suốt hai ngày, may sao Tiêu Giác thống lãnh vệ binh là người hết sức năng cán, cũng là thâm giao của Hàn Ngạc, cho nên chuyện này có thể phó thác được. Thánh thượng truyền lệnh tạm lưu Hàn Ngạc ở lại Trường An tham dự sự vụ trọng yếu trong triều, nhất thời việc quan bề bộn, công vụ phức tạp. Hoàng thượng còn ra lệnh cho Hàn Ngạc lãnh luôn chức Binh bộ Hành tẩu, coi như thêm một chức quan văn. Nhất thời khách khứa chật nhà, được cái Liên Ngọc tuy tuổi nhỏ nhưng xưa đã quen chuyện bút nghiên giúp Bộc Ách Phi, cũng hết sức tinh tế trong việc xã giao. Ô Trấn Hải cũng xăng xái lo đôn đốc, chỉ còn Dư Tiểu Kế nhàn hạ rảnh rỗi mà thôi.
Nó ng ồi không buồn bực, ngày ngày lo chấn chỉnh “Ngạc Ngư trận”. Hàn Ngạc dù bộn bề trách nhiệm vẫn cho người đi tìm cha mình. Bọn “Long Thành Đảm” vốn có kẻ xuất thân ở Trường An, cho nên rất rành địa giới, nhưng mấy ngày rồi mà vẫn tìm không ra. Canh hai một đêm nọ, Hàn Ngạc mới vừa về đến, ra tới hậu viện thì thấy Dư Tiểu Kế ngồi một mình trên mái ngói, bộ dạng cô đơn thực đáng tội. Hàn Ngạc tươi cười vẫy tay, Dư Tiểu Kế nhảy xuống: “Ngạc ca, làm gì vậy?”.
Hàn Ng ạc thốt: “Chẳng phải ngươi có nói muốn vào Hoàng cung xem sao? Lại còn muốn lén lút nữa, vậy hôm nay ta phải dẫn ngươi đi thôi. Ngày mai vệ binh của bọn ta sẽ tiếp nhận nhiệm vụ vào canh gác trong thành, vậy thì đâu còn lén lút được nữa”. Dư Tiểu Kế không ngờ gã còn nhớ lời nói của nó --- Ngạc ca xem ra luôn luôn để tâm bất cứ yêu cầu gì của mình, dù nhỏ nhoi đến đâu đi nữa. Nó liền cười đáp: “Được”. Dư Tiểu Kế giờ đây đâu phải hạng bỡn, hai người rời khỏi tòa trạch viện, lẻn tới ngoài cung thành. Hàn Ngạc muốn tạo hứng cho Tiểu Kế, dẫn nó nhảy qua tường cung. Vào được cung, Dư Tiểu Kế vừa nhìn thấy điện Thái Cực là liền muốn lên mái điện chơi. Hàn Ngạc cười nói: “Ngươi không sợ Tử Thần sao? Cấm quân trong cái cung đó tuy không phải do chúng thống lãnh, nhưng thị vệ trong cung chắc toàn là giao cho chúng coi sóc. Ngươi thực muốn Ngạc ca đánh một trận với Du Cửu Khuyết trên điện Thái Cực sao?”.
D ư Tiểu Kế le lưỡi cười, nghĩ tới bộ dạng của Du Cửu Khuyết cũng không khỏi chột dạ, miệng lại thốt: “Ngạc ca, huynh hồi đó thì thua y, nhưng bây giờ làm sao biết hươu chết về tay ai chứ. Công phu của huynh không phải đã tiến bộ lắm rồi sao? Tôi không đi điện Thái Cực nữa, nhưng không phải vì sợ y, mà là tội cho y, không muốn để y bại dưới tay Ngạc ca mà mất hết uy danh”. Hàn Ngạc cười khẽ vỗ đầu nó một cái: “Còn nhỏ chẳng chịu học điều hay, cứ lo học vỗ mông ngựa”. Họ lợi dụng lúc thị vệ sơ suất, vọt lên ngồi trên mái điện Hàm Anh. Cấm thành lặng lẽ, đã sang canh ba, Dư Tiểu Kế nhìn phong cảnh cung đình bát ngát bên dưới, cười nói: “Bọn ta ngồi như vầy còn lý thú hơn làm Hoàng đế nữa, ông ta có nhảy lên được cũng chẳng thể ngồi trên mái ngói thưởng thức cảnh vật như bọn ta”.
1 Suốt đêm trước đèn viết thư dâng vua, là câu tiếp theo câu “Nhị tinh kiếu ngoại thông Man phục” (xem chú thích {1} hồi 75). "Ngũ dạ" tức là năm canh (một đêm năm canh). Sách "Hán cựu nghi" có viết: "Ngũ dạ giả, Giáp dạ, Ất dạ, Bính dạ, Đinh dạ, Mậu dạ dã".
Hàn Ng ạc cười cười nhìn Dư Tiểu Kế: “Sao, Tiểu Kế, muốn làm Hoàng đế hả?”. Dư Tiểu Kế rụt cổ: “Tôi làm sao có cái số mạng đó chứ”. Tiếp đó thè lưỡi cười nói: “Ngạc ca, huynh có cảm thấy số mạng tôi xấu đến thế sao --- xui đến mức phải đi làm Hoàng đế bù nhìn à? Đông cung gì nè, Bộc Xạ Đường gì nè, có ai chịu để cho mình tỉnh tâm chứ? Mạng của tôi như vầy được rồi, ông trời chắc bắt tôi theo sát bên huynh, quanh đông quẹo tây, có kẻ địch hay có tai họa gì cũng xông pha chẳng lo rầu”.
Nó nói c ười hỉ hả, Hàn Ngạc lại như có tâm tư, thấp giọng: “Thực ở cạnh Ngạc ca tốt hơn làm Hoàng đế sao? Chẳng phải ngươi cứ phàn nàn Ngạc ca chuyện gì cũng không cho ngươi làm theo ý đó sao? Nếu ngươi làm Hoàng đế, chẳng phải có thể ra lệnh cho Ngạc ca theo sát bên ngươi suốt ngày để cho ngươi trút hết tức tối, cho ngươi tiêu khiển sao?”. Dư Tiểu Kế ngẩn người, buồn bực: “Vậy thì còn gì là chơi vui nữa? Tôi muốn trên đầu chỉ có trời cao, không phải nghĩ ngợi gì hết, vậy mới là thú vị nhất chứ”. Nói xong nó chợt trợn mắt: “Ngạc ca, thì ra huynh nói tôi theo sát bên huynh là để huynh trút hết tức tối, để cho huynh tiêu khiển à?”. Hàn Ngạc không ngờ nó lại moi móc được kẽ hở đó, mặt mày ngớ ra, bỗng bị Dư Tiểu Kế chọt một cái bên hông, suýt chút đã lăn rớt xuống. Dư Tiểu Kế chợt ngẩng lên nhìn vầng trăng đang bị mây che khuất, thấp giọng kêu lên: “Ái chà, không được rồi, trăng sắp ló ra, bị nó chiếu phải thì bọn ta đâu có ngồi trên mái được nữa”. Hai người lên tuốt đỉnh điện nhìn mây mù co duỗi trên trời, cảm thấy hết sức bình an. Một hồi sao Dư Tiểu Kế lại hỏi: “Ngạc ca, mấy ngày nay huynh có tìm ra phụ thân của huynh chưa?”.
Hàn Ng ạc lắc lắc đầu. Dư Tiểu Kế hỏi: “Huynh không hận ông ta à?”. Hàn Ngạc thấp giọng: “Hết hận lâu rồi --- Hóa ra hận ông ta là vì hồi đó mình chưa đủ
kiên cường, luôn luôn cần cái gì đó để hận. Con người lớn lên, đủ dũng cảm, có lắm chuyện không còn oán hận nữa”.
Gã lu ồn tay vào lòng cầm cái “gối ghiền”, gã đã chùi rửa nó mấy hôm trước, giờ đưa vào tay Tiểu Kế: “Tiểu Kế, cái này cho ngươi. Nó cũ kỹ rách rưới, chẳng biết ngươi có thích không”.
D ư Tiểu Kế tiếp lấy, thấy đó là một con cọp nhỏ loang lổ, lụa bọc trên gỗ đã bạc màu từ lâu. Nó ngó ngó, lại nhìn nhìn Hàn Ngạc. Hàn Ngạc cười nói: “Đợi sau này có thời gian, ta sẽ kể cho ngươi chuyện con cọp con đó. Tiểu Kế, ngươi có nghĩ tới phụ thân của ngươi không?”. Dư Tiểu Kế gật gật đầu, lại lắc lắc đầu: “Vốn có nghĩ tới, hồi nhỏ, bây giờ thì không”. Nó thở ra một hơi nhè nhẹ: “Tôi bây giờ cái gì cũng không có, nghĩ về ông ta để làm gì chứ? Vĩnh viễn không biết ông ta là ai cũng tốt. Biết rồi, nói không chừng sẽ thêm chút hối tiếc trong lòng”.
Hàn Ng ạc bần thần, không nói gì. Dư Tiểu Kế khẽ thốt: “Ngạc ca, huynh nghĩ đến phụ thân của huynh nhiều lắm phải không?”. Hàn Ngạc cụp mắt --- Có nghĩ chứ… còn nghĩ rằng mình không nên có một người cha như vậy… thì cũng có nghĩ đến chứ! Tưởng tượng có một ngày tỉnh cơn ác mộng, phát hiện phụ thân thực của mình ở cạnh mình… Gã gật đầu nhè nhẹ. Dư Tiểu Kế lại thò tay đụng đụng trán gã: “Nhưng sau đó, huynh học cho bản thân mình làm một người cha, có phải không?”.
--- H ọc cho bản thân mình làm một người cha… Một câu nói nhẹ nhàng làm sao, Tiểu Kế sao lại đột nhiên nói ra câu đó? Nỗi đau xót của đời người bất quá là vậy đó, tới lúc có một người thân thiết nhẹ nhàng vạch trần, nó cũng đã đến lúc lành lại. Trăng hơi nhú ra. Dưới ánh trăng, Hàn Ngạc nhìn bóng Tiểu Kế, đáy lòng khẽ thốt: Tiểu Kế, ngươi thực đã giúp ta rất nhiều… rất nhiều…
o0o Binh bộ Thị lang Triệu Bình Phục là người của Bộc Xạ Đường, điểm này Hàn Ngạc có thể xác định. Không ngờ một chuyện là, tuy hai người thường gặp nhau trong triều, tối
hôm nay h ắn lại mặc thường phục đến gặp mặt Hàn Ngạc. Hàn Ngạc biết hắn có chuyện cơ mật muốn đàm thảo, hai người ngồi ở tiểu hoa sảnh, qua một tuần trà, Triệu Bình Phục phất tay cho thủ hạ thoái ra. Hàn Ngạc hiểu ý, cũng kêu bộc phó lùi xuống. Triệu Bình Phục nói mấy câu xã giao rồi lập tức vào đề: “Xem ra gần đây Hoàng thượng rất bất mãn Đông cung”. Hàn Ngạc cười cười không đáp. Triệu Bình Phục tiếp lời: “Bất quá Đông cung những năm qua cũng quá là làm tới! Binh bộ trong triều, cho dù tôi giữ chức Thị lang nhưng thực là hổ thẹn, bất quá chỉ là cái hư danh thôi. Một số môn hạ của Đông cung cầm binh ở các nơi. Ngay cả cấm vệ quân trong Kinh mà Đông cung gần đây cũng khống chế phần lớn rồi, cho nên không thể không gây nghi kỵ cho Thánh thượng”.
Hàn Ng ạc hớp một ngụm trà, vẫn chưa lên tiếng. Triệu Bình Phục cười nói: “Có lẽ Hoàng thượng đã có ý muốn đổi ngôi Thái tử. Tính ra cũng không có mấy ai. Tam hoàng tử Chí Bình được Hoàng thượng thương yêu, nhưng bản tính nhu nhược. Những người còn lại không biết Hoàng thượng để ý ai đây?”. Nói xong, đôi mắt lão mưu thâm toán của hắn ngó sang Hàn Ngạc. Hàn Ngạc nghe câu đó, lòng hơi kinh ngạc: gã biết Triệu Bình Phục này là tay chân đắc lực của Tể tướng Trần Hi Tái, lại nghe Triệu Bình Phục hữu ý vô tình thốt: “Đáng tiếc, năm xưa Dư Hoàng hậu cũng sắp sinh con, nếu quả có thể trưởng thành lớn khôn, với sự sủng ái của Hoàng thượng, thêm vào sự hiền thục của Dư Hoàng hậu, mà còn là con ruột của Hoàng hậu, người được lập làm Đông cung nhất định là người đó. Như vậy thì đúng là may mắn cho bá tánh thiên hạ, cũng là phước phận cho bá quan trong triều”.
Hàn Ng ạc vụt ngẩng lên, trao đổi một ánh mắt với Triệu Bình Phục. Lời đồn đại liên quan đến thân thế của Tiểu Kế lẽ nào Bộc Xạ Đường cũng đã biết? Chúng rõ ràng đang ám chỉ với mình gì đó. Thực ra là ai ở đằng sau thao khống chuyện này? Hàn Ngạc thắc mắc trong đầu, bề ngoài thì mỉm cười tươi tắn, có điều vẫn chẳng lên tiếng.
Lúc này v ệ binh của gã đã tiếp nhận nhiệm vụ canh phòng cấm thành. Dư Tiểu Kế còn ham vào cung chơi, cho nên đòi vào làm một đầu lãnh trong đội vệ binh. Hàn Ngạc cũng có ý này, nhưng lo cho an nguy của Tiểu Kế --- Một khi không có mình bên cạnh, hoặc không có “Liên Thành Đảm” hộ vệ, gã đâu thể an tâm. Huống hồ gã rất lo Nhị cô nương Ngải Khắc sẽ liên hiệp với Lữ Tam Tài đối phó Tiểu Kế. Bữa trước tình cờ nghe được Tử Thần lão đại Du Cửu Khuyết bắt Ngải Khắc về nhà tĩnh dưỡng nghỉ ngơi, cả Lữ Tam Tài cũng phái đi công cán, gã ngấm ngầm gật đầu, thấu hiểu chuyện cửa cung hôm nọ Ngải Khắc đã khiến cho Du Cửu Khuyết nổi giận. Có điều kẻ càng khiến cho gã không an tâm được lại là Du Cửu Khuyết. Gã suy đi tính lại, vẫn nghĩ đây là cơ hội tốt nhất để Tiểu Kế gặp mặt Hoàng thượng. Cuối cùng gã quyết định để Dư Tiểu Kế cùng cả nhóm mười hai người “Liên Thành Đảm” bọn Ô Trấn Hải gia nhập vệ binh, chỉ giữ lại vài thân tín giúp mình hành sự. Gã ra lệnh cho bọn Ô Trấn Hải lúc vào cung không được rời khỏi Dư Tiểu Kế nửa bước. Gã còn dặn trừ khi có mình triệu Dư Tiểu Kế về, bất cứ một ai triệu cũng không được đi. Gã an bài thỏa đáng xong thì mới bớt lo. Mấy hôm tiếp đó gã hết sức bận bịu. Hôm trước lại nghe nói Hoàng thượng triệu kiến hết một đám vệ binh, mỗi người đều được Hoàng thượng tận tay trao tặng một tấm cẩm bào. Hàn Ngạc nghe vậy, không khỏi động tâm: dòng họ Dư, người của Đại Hoang Sơn thực ra đã gieo cái gì trong đầu Hoàng thượng?
Thánh th ượng chừng như rất thân cận đội vệ binh của gã. Hôm nọ Hàn Ngạc thấy Tiểu Kế chưa về đến, lòng hết sức lo rầu, cho nên cũng đi vào cấm thành. Sau đó gã mới biết Hoàng thượng đang thảo văn thư trong “Huân Phong Các”, thấy Tiểu Kế lanh lẹ nên đặc biệt lưu lại hầu cận ông ta. Hàn Ngạc hỏi biết bọn Ô Trấn Hải cũng có mặt bên ngoài Các cho nên mới yên tâm. Gã cũng chẳng quay về viện, mà ngồi trên tường thành thâu đêm.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 77 Thiên bôi lục tửu hà từ túy1
“Thanh danh c ủa Hàn Ngạc hổm rày rất vang vọng”. Ngô Tất Chính cười hì hì nói. “Vậy à?”. Ngải Khắc nhướng mày. Gần đây ả có lắm chuyện chẳng vừa lòng. Du Cửu Khuyết bắt ả về nhà nghỉ, e trong triều chẳng có ai là không biết chuyện đó. Căn nguyên của chuyện đó dĩ nhiên ả đổ hết lên đầu Hàn Ngạc. Thấy uy thế của gã tăng vọt ở Trường An thành, ả lại càng thêm phần tức tối. Ả hờ hững thốt: “Gã chỉ là một tên có xuất thân đê tiện. Trường An thành này, muốn hủy đi thanh danh của một người thực ra cũng dễ mà”.
Ngô T ất Chính cười nói: “Đối phó người khác chắc dễ, đối phó tên Hàn Ngạc này e là khó vô cùng”. Nói xong, đôi mắt ti hí của hắn vô tình hữu ý quét lên gương mặt đang sôi lửa giận của Ngải Khắc. Ngải Khắc cau mày: độ bén của Trường Canh, có lẽ chỉ có Du Cửu Khuyết mới có thể kềm chế được. Nhưng ám khí của ả đâu chỉ có một Ẩn Tư Châm, phương thức đả bại một người còn có rất nhiều mà, tỷ như: đồn đại.
o0o “Ngạc ca, Ngải Khắc mới sáng sớm đã sai người đưa thư”. Hàn Ngạc vừa về viện, Dư Tiểu Kế đã đưa một phong thư cho gã. Hàn Ngạc nhíu mày, gã chẳng muốn nghe nói tới cái tên cái họ đó chút nào. Gã thuận tay bỏ xuống, hỏi: “Viết gì vậy?”. Dư Tiểu Kế lắc lắc đầu, nó cũng chưa xem.
Hàn Ng ạc tháo tín hàm, thấy trên giấy chỉ có viết vài dòng, đại ý là nói: “Nghe Hàn huynh lập công về triều, quang tông diệu tổ. Bổn viện có một lão nô tên Hàn Thuật Đức, tự nhận là cha của Hàn huynh. Năm Gia Hy thứ mười tám lão ta tự nguyện bán thân, vào bổn viện làm nô, hiện đang lãnh tránh nhiệm dọn dẹp nhà xí. Nay Hàn huynh áo gấm xun xoe Trường An, nào có thể để y như vầy được? Bởi thế nên ngày hai mươi tám tháng này sẽ mở yến ở Phù Dung viên bên Khúc giang, có mời hết các hảo hữu trong triều của Hàn huynh, để chứng kiến cảnh cha con Hàn huynh đoàn tụ. Ngải Khắc đệ kính thư”.
Hàn Ng ạc im lặng xem xong, mặt mày hơi tái: vậy là biết những ngày qua tại sao một mực không tìm ra phụ thân. Thư còn kèm theo một phần văn khế bán thân làm nô, chẳng phải nguyên bản mà là bản sao. Tiểu Kế thấy Ngạc ca mặt mày không vui, nó cầm lên xem, lập tức nổi giận, đột nhiên xé tan lá thư, thét lớn: “Thô bỉ!”.
Nó v ốn rành mắng chưởi, nhưng lúc này tức giận đến mức mắng cũng không mắng nổi. Nó thẫn thờ một hồi, chợt dậm chân lao ra ngoài cửa. Hàn Ngạc hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”. Tiểu Kế không quay đầu, mắt đỏ ngầu, thanh âm phẫn nộ đến khan khản: “Tôi phải vào cung, tôi kéo hết vệ binh đi diệt sạch Di vương phủ, giết cái tên giả dạng kia, giết cha ả, giết hết một ổ rắn chuột nhà ả”.
Hàn Ngạc vội kéo giữ nó, điềm đạm thốt: “Đừng đi”.
D ư Tiểu Kế nóng giận: “Ngạc ca, huynh nhịn được, tôi nhịn không được! Con bà nó, cho dù phải lật hết cửu cung cửu khuyết, tôi cũng phải giết con ả đó!”. Hàn Ngạc chỉ điềm đạm thốt: “Vệ binh dùng để trấn thủ cung thành, tiêu diệt địch nhân, chứ không phải dùng để giúp một mình ta hả cơn tức. Chúng muốn giao trả cha ta, dùng phương thức gì thì cứ dùng. Ngày hăm tám này ta vào Phù Dung viên nhất định sẽ gặp. Chúng muốn xem cái gì thì cứ để chúng xem”. Dư Tiểu Kế thất kinh: “Ngạc ca, huynh thực muốn đi sao?”. Nó giấu chẳng chịu nói: chúng muốn mượn cớ này để hạ nhục huynh! Chúng muốn hạ nhục huynh đó! Hàn Ngạc buông nó ra, chỉ điềm đạm nói một câu: “Dù thế gian có tôn mình lên thì mình cũng chẳng dốc sức thêm, thế gian có chê trách mình thì mình cũng không ngã lòng…2”. Nói xong, gã đi kiếm Liên Ngọc bàn bạc xử lý công chuyện. Dư Tiểu Kế nhìn theo bóng gã, ngẩn ngơ một hồi lâu mới hiểu được hai câu nói của Ngạc ca --- Đó là hai câu của Trang Tử, Ngạc ca hồi mới chỉ dạy tâm pháp cho mình cũng đã từng nhắc đến. Hình như sau đó có một câu “xác minh được trong ngoài, nhận định được vinh nhục3”. Tiểu Kế bàng hoàng nghĩ ngợi, câu đó nó nghe từ hai năm trước, mà tới hôm nay mới thấu hiểu được ý tứ của nó. Phải, “dù thế gian có tôn mình lên thì mình cũng chẳng dốc sức thêm, thế gian có chê trách mình thì mình cũng không ngã lòng, xác minh được trong ngoài, nhận định được vinh nhục”, qua ý vị của mấy câu nói, nó tựa hồ đã hiểu được Ngạc ca sao lại kiêu ngạo như vậy, đã hiểu thực ra cái gì gọi là… tôn nghiêm. Cũng sắp đến ngày hăm tám rồi, Tiểu Kế tuy hiểu tâm ý của Hàn Ngạc, cũng hiểu cái đạo xử thế của gã, nhưng tâm lý vẫn càng lúc càng nóng nảy khẩn trương. Nó lớn lên trong hẻm hốc, đánh đấm tranh giành, cũng có lúc đánh không lại phải trốn, nó không sợ thất bại, vì trong thâm tâm nó cũng nghĩ như Ngạc ca: những kẻ dùng cường quyền để hạ nhục người khác, cái bị vũ nhục vĩnh viễn là tôn nghiêm của bản thân chúng, chứ không phải là tôn nghiêm của ta! Là chúng không xứng sinh ra làm người, chứ không phải là ta vì yếu ớt bé nhỏ mà không xứng sinh ra làm người! Nỗi oan khuất vũ nhục của toàn thế giới rơi lên mình nó thì nó có thể không để ý đến, nhưng… nó chẳng thể nhịn để người ta nhắm vào Ngạc ca của nó. Dư Tiểu Kế nó không sợ trời không sợ đất, nó đâu có giống Ngạc ca ở bản tính điềm đạm. Bởi nó biết: bất kể bề ngoài của Ngạc ca có kiên cường ra làm sao, thực ra gã cũng sẽ đau xót. Nhưng những lời đó nó không thể nói với ai. Nói với Ô Trấn Hải ư? Chỉ càng làm thêm một Ô đại ca tức giận. Ô đại ca mà nổi nóng, rất có thể sẽ thiêu rụi cả cái Di vương phủ kia. Liên Thành Kỵ thân thiết với Ngạc ca như cốt nhục, hễ là người trong Liên Thành Kỵ, làm sao cam tâm ngó chủ soái của mình chịu nhục. Song Ngạc ca đâu có muốn họ làm vậy. Hôm đó Dư Tiểu Kế ôm đầu gối ngồi thừ ra trên tường cung, thực lâu sau, nó thấy Tiêu Giác đi tới cười hỏi: “Tiểu Kế, chuyện gì mà không vui vậy?”. Dư Tiểu Kế bực tức chẳng nói. Tiêu Giác là một người tinh minh năng cán, tính khí cũng tương tự Ngạc ca, hết sức trầm tĩnh, nhẫn nhịn. Hắn ngồi xuống gần Tiểu Kế, xông pha chiến trận lâu nay, ngồi kề vai như vậy khiến cho một cảm giác tín nhiệm dâng lên trong lòng hai người. Một lúc sau Dư Tiểu Kế mới buồn bực lên tiếng. Tiêu Giác chỉ bình tĩnh lắng nghe, xong mới hỏi một câu: “Hàn soái nói làm sao?”. Dư Tiểu Kế đáp: “Hàn huynh nói sẽ đi, còn nói gì mà… dù thế gian có tôn mình lên thì mình cũng chẳng dốc sức thêm, thế gian có chê trách mình thì mình cũng không ngã lòng”. Câu đó nó mà nói với mấy hán tử khác trong đám vệ binh thì chắc họ không hiểu nổi, nhưng Tiêu Giác là người có đọc sách. Gã trầm lặng một hồi rồi vỗ vai Tiểu Kế: “Ta trước đây cứ kính trọng Ngạc ca của ngươi, bây giờ mới hiểu tại sao lại kính trọng gã”. Nói xong hắn lẳng lặng bỏ đi. Đến tối hăm ba tháng sáu, Dư Tiểu Kế lại không nhịn được, nó không phải muốn tháo gỡ hết những dằn vặt trong lòng, mà nó chỉ cảm thấy: chúng đối đãi với Ngạc ca như vậy là không công bình! Nó không thể nhẫn nhịn chịu đựng sự bất công đó! Nó lẻn ra ngoài, trong viện vốn có trận thế chính nó đã xếp bày, cho nên nó đi lại cũng dễ quá mà. Di vương phủ gần kề, nó muốn đi dò thám xem Ngải Khắc định làm gì. Dư Tiểu Kế nó tu tập tâm pháp của Đại Hoang Sơn và kiếm thuật của Thái Ất Môn, nó đâu có tin không cứu được phụ thân của Ngạc ca! Di vương phủ lầu các trùng điệp, nhưng những thứ đó đâu làm khó dễ được Tiểu Kế. Kiến trúc tuy tráng lệ phức tạp, nhưng càng phức tạp thì, trái lại, càng có lề lối. Nó quen nghiên cứu trận thế, đâu thể bị lạc đường. Đã sang canh hai, nó lục tìm hết chỗ này tới chỗ nọ. Với tính khí của Ngải Khắc, nó nghĩ phụ thân của Ngạc ca sẽ bị nhốt ở nơi chẳng tốt đẹp gì. Dư Tiểu Kế hồi trước cũng đã từng bị ả giam cầm trong phòng chứa củi, có lẽ ả cũng giam ông già ở chỗ đó, phải không? Nó lẻn vào vườn sau. Hậu hoa viên cành lá xanh rờn. Dư Tiểu Kế “xì” một tiếng cười thầm: bọn nhà giàu tốn tiền tạo cảnh thiên nhiên, thực ra cái vườn đẹp như vầy chúng đâu có biết thưởng thức, chỉ biết đam mê rượu thịt. Cạnh hậu hoa viên còn có một cái vườn hoang phế nằm sát đằng sau nhà bếp, tỏa mùi hôi thúi. Dư Tiểu Kế đi vòng sang, tiến vào khu vườn hoang. Đêm tối hù, nó định thần nhắm phương vị mới tìm được phòng củi. Cửa phòng củi quả nhiên có khóa --- Đó là một cái phòng trống trơn đâu có chất củi, vốn đã bỏ hoang, bên trong lộn xộn dơ dáy hết sức. Vừa thấy ống khóa, Dư Tiểu Kế mừng thầm, biết bên trong nhất định có người bị nhốt, nếu không thì khóa làm chi. Nó để ý nghe ngóng xem xung quanh có tiếng bước chân hay không --- Ngạc ca tính tình phóng khoáng, cho rằng Ngải Khắc chỉ muốn hạ nhục mình, chứ đâu có nghĩ tới Ngải Khắc lại ngược đãi cha mình như vậy. Ngải Khắc làm sao mà biết “lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão4” chứ? Dư Tiểu Kế đến sát cửa phòng củi, thò tay siết ống khóa. Nó đương nhiên không bẻ được ống khóa, nhưng lại rất dễ dàng vặn đứt một mắt xích, tháo khỏi cửa. Nó nhẹ nhàng mở cửa, tiếng động khô mục truyền vọng. Phòng củi tối thui, Tiểu Kế khẽ kêu: “Bá bá, bá bá, ông có ở trong đó không?”. Trong cửa không có tiếng đáp. Nhưng phòng củi rõ ràng có người, vì có tiếng hô hấp của một lão giả. Dư Tiểu Kế một hồi sau thích ứng được cảnh vật trong phòng thì mới nhìn ra chỗ nằm của lão giả kia. Dưới đất chỉ có một cái chăn dơ bẩn, Tiểu Kế đi tới, định thần nhìn kỹ, quả nhiên là phụ thân của Ngạc ca. Nó đỡ ông ta dậy, lại ngửi thấy mùi phân và mùi nước tiểu. Nó nổi giận: họ Ngải quả nhiên chẳng còn là người! Những ngày qua cha của Ngạc ca chắc không được đi ra ngoài nửa bước. Nó hỏi: “Bá bá, tôi kêu ông mà sao ông không lên tiếng trả lời vậy?”. Lão nhân sợ sệt co rụt lại, bày tay run rẩy trong tay nó, giọng cũng run run: “Tôi không biết là gọi tôi, tôi không ngờ còn có người gọi mình là bá bá”. Dư Tiểu Kế thấp giọng: “Bá bá, là tôi, tôi đến cứu ông. Bọn ta đừng lên tiếng, chỉ cần ra khỏi viện là đến chỗ Ngạc ca rồi, không phải sợ nữa. Tôi là Tiểu Kế, là huynh đệ của Ngạc ca mà ông đã từng gặp, Dư Tiểu Kế đây”. Lão nhân vẫn còn sợ, thì thầm: “Ngạc ca gì? Ngài nói tiểu Ngạc? A, ngài là… ngươi là…”. Mượn chút ánh sáng le lói qua khung cửa, cuối cùng lão đã nhận ra Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế cười nói: “Không sai, tôi là Tiểu Kế nè”. Nó nghiêng tai nghe ngóng, rồi đỡ lão đi. Công phu của nó đã tiến triển vượt bậc, hơn xa hồi trước, đỡ một ông già đâu phải là chuyện khó. Nó mau lẹ như con vượn, cõng lão giả mà chẳng để vang một tiếng động, nhảy liền ra khỏi phòng củi. Ngoái nhìn cái phòng thêm một lần, miệng nó gằn: “Đáng lẽ phải đốt vương phủ này phá chơi, nhưng hôm nay không rảnh, sẽ có một ngày ta tận tay thiêu rụi chỗ này”. Nói xong nó cõng lão giả lẻn đi. o0o Hàn Ngạc cả đêm lo sự vụ Binh bộ. Gã bận rộn hết sức, đang trù tính việc cung ứng lương thực và lương bổng cho binh lực trấn thủ các nơi. Gã cũng muốn tìm hiểu cho rõ xem Đông cung với Bộc Xạ Đường nắm giữ bao nhiêu quân đội, đặc biệt ở những thành thị lớn. Đây vốn là chuyện bí mật, gã muốn kiếm người đàm thảo, tìm người mình có thể đàm thảo được. Suốt một đêm gã với Liên Ngọc xem sổ sách trong Binh bộ, nhưng chẳng biết tại sao lòng gã lại một mực cảm thấy bất an. Có điều gã không để cảm giác bất an đó quấy nhiễu việc làm. Cục thế ngày nay, Hoàng thượng đã già, lại còn bệnh hoạn, Đông cung với Bộc Xạ Đường tương tranh, Trường An thành nguy cơ trùng trùng. Gã đã lãnh nhiệm vụ này, với tính khí của gã, nhất định không chịu để mọi sự phát triển đến bước chẳng còn có thể thu thập được. Tuy nói vạn nan, nhưng lại vẫn muốn dốc hết sức mình. Bận rộn đến hừng sáng, gã ngước đầu dụi dụi cặp mắt đã hơi sưng, ngó Liên Ngọc cười nói: “Khổ cho ngươi quá, nhưng còn chưa thể nghỉ, bọn ta hôm nay còn không ít chuyện phải làm. Lát nữa khi ta thượng triều, ngươi đi ngủ một giấc đi”. Liên Ngọc mỉm cười không nói gì. Rèm ngoài lung lay, Hàn Ngạc cảnh giác, đứng dậy hỏi: “Ai?”. Lại thấy Dư Tiểu Kế ló đầu vào. Hàn Ngạc cười hỏi: “Tiểu Kế? Giờ này mà chạy tới đây làm gì?”. Gã đi ra khỏi các, thấy Tiểu Kế chỉ đến có một mình, không có ai theo cạnh. Gã sa sầm nét mặt, không khỏi trách móc: “Ô Trấn Hải đâu? Đã kêu người đừng đi một mình mà. Sao ngươi lại không nghe lời?”. Thần tình của Tiểu Kế lại khác với ngày thường, vành mắt nó đỏ lựng, như mới vừa khóc, thân thể cũng ướt lấm lem. Hàn Ngạc kinh ngạc, nổi giận: “Có ai hạ thủ à?”. Dư Tiểu Kế lắc lắc đầu, im lặng chẳng nói. Hàn Ngạc không biết nó bị gì rồi. Gã vốn không quen miệng lưỡi, một lúc sau mới hỏi: “Tiểu Kế, người đừng có như vậy mà. Ngạc ca hồi nãy không nên trách ngươi, thực ra là chuyện gì vậy?”. Dư Tiểu Kế cúi đầu: “Ngạc ca, huynh đi theo tôi được không?”. Hàn Ngạc ngẩn người, Dư Tiểu Kế lại cúi đầu bỏ đi. Hàn Ngạc vào các dặn dò Liên Ngọc một tiếng, vội vàng chạy theo. Dư Tiểu Kế chẳng dừng, đi một mạch ra ngoài. Nó đã ra khỏi nội thành, lần về hướng tây, một mực đi ra Trường An thành. Dọc đường nó cúi thấp đầu, ngoài Trường An thành không xa là một dòng nước nhỏ, Tiểu Kế đến bên dòng nước, vai run lên chẳng kềm chế được. Hàn Ngạc vừa ngạc nhiên vừa khẩn trương, nắm giữ vai nó, dịu giọng: “Tiểu Kế, ai ăn hiếp ngươi à?”. Dư Tiểu Kế không nói gì, Hàn Ngạc nhìn mặt nó, thấy lệ nóng chan hòa, khóc đến đỏ ngầu mắt. Hàn Ngạc lòng đau xót, nhẹ nhàng vỗ vai nó --- Lâu lắm rồi Tiểu Kế đâu có khóc trước mặt gã, cho dù là khóc, cũng chưa từng khóc thê lương đến thế. Dư Tiểu Kế khẽ vùng thoát khỏi tay gã, chạy đến bờ, nhìn thấy nước thì ngồi bệt xuống, như không còn cầm cự được nữa. Nó lại chẳng lên tiếng, khóc nấc mà chẳng thành tiếng thì còn gì có thể đau thương hơn được nữa! Hàn Ngạc cũng ngồi xuống cạnh nó, im lặng không tìm ra được lời nào để an ủi, càng không biết làm sao để hỏi. Dư Tiểu Kế một lúc sau mới ngừng khóc, bẽn lẽn giấu mặt trên đầu gối, thấp giọng: “Ngạc ca, tôi đối không đúng với huynh!”. Hàn Ngạc vỗ vai nó nhè nhẹ: “Sao vậy, ngươi cứ nói đi”. Dư Tiểu Kế ngẩng lên: “Tối hôm qua, tôi cứu bá bá… phụ thân của huynh ra. Tôi đã đi Di vương phủ”. Hàn Ngạc bàng hoàng, ngây người ngồi yên. Lại nghe Tiểu Kế gắng dốc hết dũng khí thốt: “Nhưng bây giờ ông ta đã chết”. Mặt Hàn Ngạc lập tức tái mét. Gã chưa kịp phản ứng: phụ thân… đã chết? Chết là sao? Ông ta năm nay chưa tới ngũ tuần mà? Dư Tiểu Kế cưỡng bách mình nhìn thẳng vào mặt Ngạc ca: “Tôi cõng ông ta thoát khỏi Di vương phủ, chẳng có ai phát giác. Lúc đó bá bá hỏi tôi: ‘Ngươi muốn dẫn ta đi đâu vậy?'. Tôi cao hứng quá, mới đáp: ‘Bọn ta đi gặp Ngạc ca’. Nhưng thanh âm của ông ta sau lưng tôi lại bỗng biến đổi, khàn giọng nói: ‘Ta không muốn đi, chết cũng không muốn'. Thanh âm kiên quyết lắm, tôi chẳng biết phải làm sao. Tôi quay đầu lại thẫn thờ nhìn ông ta, sau đó ông ta lại khóc”. Thần tình của nó thực thê thảm, như tới bây giờ mới hiểu thấu. “Tôi không biết phải làm sao, lần đầu tôi thấy một người lớn tuổi như vậy mà còn khóc. Tôi nghĩ phải đưa ông ta đến một nơi nào đó rồi từ từ khuyên nhủ. Ông ta đồng ý, cho nên bọn tôi đi đến ngoài thành Trường An. Tôi tốn hơi tốn sức lắm mới dẫn ông ta ra khỏi thành được, cửa thành lúc đó đã khóa hết. Tôi dẫn ông ta đến đây… ông ta lại một mực không nói chuyện. Một hồi lâu sau ông ta mới nói: ‘Hài tử, ngươi là bằng hữu của Ngạc nhi phải không? Ta biết ngươi có hảo tâm, nhưng ta… thẹn lắm, không muốn gặp nó. Nó là nó, ta là ta. Nó có ngạo khí của nó, ta… ta một đời luồn cúi không cứng cỏi được, nhưng trước mặt con trai mình, đi cầu xin nó thu nhận, cuộc đời này của ta…’. Ông ta không nói gì nữa, tôi lúc đó nửa hiểu nửa không. Ông ta lại nói: ‘Nó về Trường An rồi?’. Tôi gật gật đầu. Thần tình của bá bá kỳ quái làm sao, mơ hồ mờ mịt, một lát lại thận trọng hỏi: ‘ Ngạc nhi bây giờ sự nghiệp chắc ngon lành lắm, tươi sáng lắm hả?’. Tôi không biết nên nói làm sao, đành đáp: ‘Ngạc ca hiện là nguyên soái, làm quan lớn lắm, muốn tiếp ông về hưởng phước’. Ông ta chừng như hết sức cao hứng, lại sợ sệt, còn có vẻ hổ thẹn nữa, tôi cũng không tả được thần tình đó ra sao. Tôi nghe ông ta lẩm bẩm: ‘Sự cứng cỏi của nó, sự nỗ lực của nó, sự kiêu ngạo của nó, chẳng giống người cha vô dụng này chút xíu nào, vẻ vang cũng xứng lắm’. Tôi nghĩ ông ta cao hứng cho huynh, cho nên tôi cũng khoái lắm. Có điều tiếp đó ông ta không nói gì một hồi lâu sau, cuối cùng thốt: ‘Nhưng… đó là sự vẻ vang của nó. Ta đâu thể đi hứng nhận. Nếu không, trọn kiếp này ta thực vĩnh viễn không còn là người nữa. Nó chắc sợ ta làm nô bộc ở Di vương phủ tổn hại đến thể diện của nó, vậy ta không về Di vương phủ nữa, cũng chẳng đến chỗ nó, ta tìm một làng quê trốn tránh cho đến chết là xong’”. Dư Tiểu Kế lúc đó lại trào lệ, khóc nấc: “Ngạc ca, tôi ngu quá. Tôi khuyên ông ta theo tôi về gặp huynh, nói huynh nhất định đâu có khinh ghét ông ta. Tôi đem cả chuyện Ngải Khắc muốn hạ nhục huynh ra kể, còn nói với ông ta huynh đã quyết định đến hôm đó sẽ đi tiếp đón ông ta về. Tôi thấy mặt bá bá ban đầu sợ hãi, sau đó là thương tâm, thần tình vừa có chút phẫn nộ, vừa có chút yếu đuối, cuối cùng tựa như trở nên hạnh phúc, tôi còn cho là ông ta đã đồng ý nữa. Nào ngờ ông ta nói: ‘Ngươi coi mình mẩy ta dơ dáy như vầy, làm sao mà đi gặp nó? Ta phải tắm rửa trước đã. Lần này ta tuyệt không hại Ngạc nhi bị nhục nữa’. Tôi nghe ông ta nhận lời, cao hứng quá mức. Trời cũng không lạnh lắm, bá bá muốn xuống sông tắm, mà dòng nước này thông ra Kính Thủy, cũng sạch lắm, tôi chịu liền. Ông ta lúc đó có vẻ xấu hổ, không chịu để tôi thấy ông ta thoát y, tôi còn cười ông ta lớn đến thế mà còn mắc cỡ, nên nghe lời ông ta chạy ra xa một chút, cũng quay lưng lại nữa, để cho ông ta tự do xuống sông tắm. Trước khi ông ta xuống, miệng mấp máy hai tiếng, tựa hồ muốn nói gì đó với tôi, mà tôi lại hoàn toàn không nghe được, cuối cùng ông ta cũng không nói nữa, đi xuống nước”. Dư Tiểu Kế cắn môi, gắng trấn định lại, nhìn thẳng Hàn Ngạc, kiên cường chờ đón bị quở mắng, nó run run thốt: “Nhưng thực là lâu, ban đầu tôi còn nghe tiếng nước, tiếp đó chẳng còn nghe nữa. Tôi xoay lại, thấy trên bờ đâu có y phục. Tôi mới bắt đầu cả kinh, vội nhảy tùm xuống dòng nước. Nhưng trời tối đen, nước tuy không mấy sâu mà cũng chẳng tìm ra. Tôi mò mẫm tùm lum chỗ mà cũng không mò ra. Tôi bơi thuận dòng rồi ngược dòng mấy dặm mà vẫn không kiếm được. Tôi biết tôi đã hại chết bá bá --- Ngạc ca, là tôi đã hại chết bá bá!”. Nước mắt nó lăn dài, mặt mày Hàn Ngạc lại đờ đẫn, không tỏ vẻ gì hết. Cổ họng Dư Tiểu Kế giần giật. Hàn Ngạc tựa hồ đã quên có nó ở đây, đôi mắt nhìn chăm chăm vào mặt sông, nhưng mặt mày vẫn cứng đơ. Lần đầu tiên vẻ mặt của gã cứng đơ như vậy khi nghĩ đến phụ thân mình. Đó là sự tráng liệt có phải không? Gã là vậy… đó là cái nam nhân của cha gã, cá tính của gã đã như vậy, ông ta cũng chỉ có thể tráng liệt như thế phải không? Bất kể ông ta chết có đáng hay không, chết oan khuất yếu đuối đến dường nào, nhưng đó vẫn là một sự tráng liệt, có phải không? Nhưng người ơi: ta không so bì mà, ta thực không so bì mà! Cổ họng Dư Tiểu Kế khàn khàn: “Tôi tới lúc đó mới biết bá bá đã có ý định tự sát, là tôi ngu, là tôi quá ngu! Ông ta hình như trước khi xuống nước còn nói một câu: ‘Nước này thông ra Kính Thủy, Kính Vị phân minh5, ít ra Kính Thủy đằng dưới vẫn là cái trong lành’. Nhưng tôi lại không hiểu, nghe không hiểu…”. Tiếng khóc nức nở của nó đã che mất lời nói, Hàn Ngạc nắm vai Tiểu Kế, khẽ thốt: “Tiểu Kế, chớ có trách mình, thực sự đừng nên trách mình. Bá bá không trách ngươi, Ngạc ca cũng tuyệt không trách ngươi. Đó không phải là cái sai của ngươi, là cái sai của Ngạc ca, ngươi… chẳng làm sai điều gì hết”. Dư Tiểu Kế cuối cùng lại đã khóc thành tiếng. Nó nén giữ không được nữa, khản giọng mà khóc: “Bá bá… ông ta nghĩ dòng nước này thông ra Kính Thủy, thi thể của ông ta cuối cùng sẽ lọt được vào dòng Kính Thủy trong lành, ra đi một cách sạch sẽ. Nhưng rồi đến khi tôi tìm thấy ông ta, ông ta lại đâu có lọt được vào Kính Thủy, mà là lọt vào…”. Nó nghiến răng: “Trong một hố phân ở một cái lạch nhỏ tích đọng phân dơ chừng hai dặm hạ du của con sông nhỏ này”. Tiếng khóc của nó chợt nổ vang thảm thiết. Nó nghĩ trọn đời này nó cũng không quên được buổi bình minh hôm đó: nó khóc mà kéo thi thể của phụ thân Ngạc ca ra khỏi cái hố nhơ nhớp, kéo ông ta ra bờ Kính Thủy trong lành nhất, rửa sạch từng chút từng chút trên mình ông ta. Nó chùi rửa mấy lượt, muốn giúp ông ta vĩnh viễn tách ly khỏi những dơ bẩn, vĩnh viễn lìa bỏ những thúi tha, vĩnh viễn rời xa cõi đời rữa nát này…. Nó đối không đúng với Ngạc ca… Ngạc ca xoay mặt đi, gã vẫn bình tĩnh, vẫn là một sự bình tĩnh đáng sợ làm sao. Sau đó, bên tai nó chợt vang lên một tiếng gào, lần đầu nó nghe Hàn Ngạc gào thê lương đến thế --- Hàn Ngạc cuối cùng đã gào lên, tiếng gào khóc chấn động đất trời, vang vọng ngoại ô, vang vọng một vùng hoang dã. Năm xưa, cũng ở cái dải đất ngoại ô này, bên một bãi tha ma, gã từng bật khóc một cách non nớt, bất lực. Nhưng gã không ngờ được cuộc đời này của gã, hai lần nhận thức sâu sắc nhất đối với phụ thân lại là hai trận gào khóc thảm thương duyên sinh duyên diệt. o0o Người đã hạ táng. Hàn Ngạc vùi mình trong chén rượu, Dư Tiểu Kế chưa từng thấy Ngạc ca hụt hẫng đến thế. Thi thể của bá bá vốn được nó an bài trong một gian nhà cỏ, giờ đây đã trở về đất vàng. Nhi tử của ông ta lại vùi mình trong rượu. Ngàn chén rượu đục lại không thể thành nhất túy. Hết một vò, lại mở vò kế, Hàn Ngạc chẳng thốt một câu nào. Gã có uống nữa cũng uống không vô, đã mửa hai ba lượt, lại đem chén rượu đổ lên đỉnh đầu, tràn xuống cổ áo, thấm qua cổ…
1 Ngàn chén rượu xanh sao chẳng say, là câu trong bài thơ “Tặng Đoạn thất nương” của Lý Bạch.
2 Nguyên tác là “Cử thế nhi dự chi bất gia khuyến , cử thế nhi phi chi bất khả trở”, hai câu của Trang Tử trong “Tiêu diêu du”. 3 Nguyên tác là “Định hồ nội ngoại chi phân, biện hồ vinh nhục chi cảnh”. “Nội ngoại” ý chỉ bản thân và vật ngoài thân, vinh dự và sỉ nhục đều là vật ngoài thân, chỉ có tinh thần tự chủ mới là cái trọng yếu, đáng quý. 4 Câu này ở trong sách “Mạnh Tử - Lương Huệ vương thượng”, ý nói mình có phụng dưỡng hiếu kính với bậc tôn trưởng của mình thì cũng đừng nên quên những người lớn không có máu mủ ruột thịt với mình. 5 Vị Thủy là dòng lớn nhất của Hoàng Hà, bắt nguồn từ Cam Túc, qua Thiểm Tây đổ vào Hoàng Hà. Kính Thủy lại là một nhánh của Vị Thủy, bắt nguồn từ Ninh Hạ. "Kính Vị phân minh" là thành ngữ ẩn dụ sự phân biệt rõ ràng, chẳng thể chối cãi được. Sách "Thi Kinh bội phong - Cốc phong" viết : "Kính dĩ Vị trọc, thực thực kỳ chỉ". Theo truyền thuyết xưa thì nước sông Kính trong, nước sông Vị đục, giới tuyến chỗ chỗ hai sông giáp nhau hiển hiện rành rành. Căn cứ theo khảo chứng các tư liệu hiện hữu, biến hóa sông Vị trong - sông Kính đục xảy ra vào thời kỳ thịnh Đường. Thi nhân Đỗ Phủ trong bài "Thu vũ thán" có viết: "Trọc Kính thanh Vị hà đương phân". Sự khác nhau trong đục qua thời đại cũng là vì lượng phù sa biến chuyển.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 78 Nhất diện hồng trang não sát nhân1
S ắc mặt Di vương gia sa sầm, lão đang tức bực: “Là ai khiến ngươi đắc tội với Hàn Ngạc?”. Tay lão vung vẩy một tờ thiếp mời, hỏi Ngải Khắc: “Còn muốn đến Phù Dung viên gây náo loạn nữa! Thiếp mời của ngươi cái nào chưa gửi thì lập tức xé bỏ cho ta, cái nào gửi rồi thì thu về hết. Ngươi có biết ngươi làm vậy sẽ dẫn đến hậu quả gì không? Ngươi làm tay chân cho Đông cung à? Bây giờ còn đỡ, đến khi Hàn Ngạc thật sự trở thành nhân vật trọng yếu trong triều thì ngươi làm sao đây?”. Sắc mặt lão càng sa sầm xuống: “Ngươi vì ân oán cá nhân mà đắc tội với Du Cửu Khuyết còn chưa nói đến, lại tiếp tục làm như vầy, e đắc tội luôn với Hoàng thượng không chừng. Ngươi chẳng nghĩ tới Hàn Ngạc hiện tại ở cương vị gì à? Muốn bọn ta bị diệt môn à?”. Di vương phủ giàu sang phú quý, nhưng bọn người phú quý thì ra sống cũng bấp bênh còn hơn cả bá tánh thường dân, vì phải lo sợ đủ thứ chuyện. Ngải Khắc mặt mày bí xị. Ả căm tức nhìn phụ thân: “Hoàng thượng? Hoàng thượng đã già quá rồi, cầm cự được bao lâu chứ? Đông cung cùng Bộc Xạ Đường, bọn ta phải chọn một bên chứ, không phải sao? Cha ngồi yên được bao lâu đây? Thiên hạ này sớm muộn gì cũng trở thành thiên hạ của Đông cung”. Di vương gia hừ một tiếng: “Nếu thiên hạ của y thì cũng còn được. Lẽ nào ngươi không nhận ra bây giờ y đang ở thế bất an sao? Người đừng thấy Hoàng thượng già nua mà coi thường. Phế bỏ ông ta xem có vẻ không khó, nhưng ông ta có biết bao thế lực chống lưng, đặc biệt là được quân lực của Hàn Ngạc --- Hoàng thượng rõ ràng là muốn cho gã nắm binh quyền, muốn phế Thái tử đâu phải là chuyện không thể nào”. Nói xong lão thở dài nhè nhẹ: “Ta chỉ là không biết trong tay Hàn Ngạc thực ra cầm con bài tẩy gì? Xem chừng là một lá bài Thiên2. Ngươi tới giờ còn chưa hiểu tại sao người của Bộc Xạ Đường đến bợ đỡ gã à?”. Ngải Khắc ngẩn người: phải, trong tay họ Hàn thực ra đang nắm lá bài gì đây? Sự phẫn nộ của Di thân vương là sự bất lực, còn sự phẫn nộ của Ngải Khắc lại là sự khốn cùng. Vào lúc đó, ánh đèn trong nhà vụt mờ mịt, co rúc lại. Di vương gia còn chưa phát giác, Ngải Khắc vừa thấy lập tức ngấm ngầm kinh hoàng. Sau đó một khí thế mưa biển gió trời dốc đổ tràn ngập tiểu hoa sảnh. Là ai? Là ai trước khi xuất thủ lại có khí thế ghê gớm đến như vậy? o0o Kẻ đến rõ ràng là cao thủ! Nhưng bên trong kiếm khí như mưa to gió lớn tập kích vào nhà lại pha lẫn một mùi rượu hết sức nồng nặc. Kiếm Khách Hành? --- Hảo thủ đương thời, còn ai có thể sử bài Túy kiếm đó? Lẽ nào “Kiếm Khách Hành” trong Thái Bạch Lâu năm xưa lại trùng hiện ở Di vương phủ này? Kẻ đến còn tuốt ngoài song cửa, Ngải Khắc xếp tên trong danh sách Tử Thần đâu phải hoàn toàn nhờ vào gia thế, ả nhún mình vọt lui tới giữa sảnh. Ả đã mất tiên cơ, nhưng ả không bấn loạn tâm thần. Được, muốn đến thì ngươi cứ đến! Một tay chống bên hông, một tay vén tóc mai, Di vương gia lúc đó cũng đã cảm thấy nguy cơ, nhưng luồng hơi kia quá đậm đặc, đè nén đến nổi lão có muốn la lên cũng la không được. Lão cũng có tập võ nghệ gia truyền, nhưng đã lâu rồi không tu luyện, gần như quên hết. Lúc này thấy thân thể con gái lan tỏa một luồng sát khí, lão hoảng vía hỏi: “Du Cửu Khuyết?”. Trong ý tưởng của lão, chỉ có tu vi của Du Cửu Khuyết mới có thể tạo ra thanh thế dường đó. Nhưng lão mới vừa lên tiếng thì lại phát giác thanh âm của mình chỉ có thể vọng quanh mình chừng một thước, hoàn toàn không truyền vang ra được. Ngải Khắc sắc mặt lạnh lùng ngó song cửa đằng đông, kẻ đến đang ở ngoài đó. Phên đã tan nát, gỗ giấy bay tung toé, lại chẳng truyền vọng một tiếng vang nào. Mọi âm thanh đều bị kiếm thế trầm uất kia chế ngự. Sau đó một bóng người đột nhiên vọt vào, vừa vọt vào là liền xuất thủ. Y vừa xuất thủ, Ngải Khắc lập tức thất kinh: không sai, rõ ràng là “Túy kiếm” trong Thái Bạch Lâu lừng danh giang hồ! Kiếm thế mượn tửu kình cùng tâm ý mới thi triển được, cho nên trong giang hồ cực hiếm thấy. Xưa trong Thái Bạch Lâu ở Trường An từng có kẻ túy lúy múa bài kiếm này, cơn say chảy tràn chữ nghĩa, vết chữ phóng khoáng cuồng dại còn lưu lại trên tường qua năm dài tháng rộng. Ngày nay kỳ nhân cùng kỳ tự đã thành tuyệt hưởng từ lâu, tại sao lại có thể trùng hiện cho được? Người nọ vọt vào, mặt che vuông vải, kiếm thế phát xuất. Ngải Khắc cũng chẳng kịp lên tiếng, thầm ngâm câu chữ hằn khắc trong Thái Bạch Lâu: … Bình sinh hàm khoái sự, thống mộ Lý Trích Tiên. Kinh hoa la quyện khách, đỗng khởi nhất cuồng ngôn. Tiểu phú lưu nhật lệ, đại túy khuynh hải lam. Hữu chí cánh bi khái, lão tận vị hồi thiên. Khảng khái ca hành lộ, thảm đạm tích hoa niên. Trường An vô sở dữ, thả thượng Thái Hoa hàm. Bất vũ bất hồi thủ, lôi điện diệc trầm miên. Ngẫu nhiên vọng Hoa hạ, sầu khởi thiên địa phiên!3 Người để lại những câu chữ đó vốn khi ấy chưa có tiếng tăm, mà sau này chính là Thái Ất thượng nhân lừng lẫy giang hồ. --- Hàn Ngạc! Ngải Khắc nghiến răng, là Hàn Ngạc đến! Gã đã cứu phụ thân của gã, sao còn quay lại? Kiếm thế chẳng dừng chút nào, cuộn thẳng lên đầu Ngải Khắc. Ả vung tả thủ rút đao bên hông, là nhuyễn đao mang tên “Ngọc Đái”. Ả vừa thấy kiếm thế, lập tức biết chỉ bằng vào thanh nhuyễn đao này đâu đủ để kháng cự. Thân người xoay vùn vụt, “Ẩn Tư Châm” giấu kín trên mái tóc cũng bắn ra liền. Đèn nến trong nhà bị đè ép chỉ còn le lói, còn Ngải Khắc và phụ thân của ả thì lại bị áp chế đến mức chẳng phát ra tiếng được. Đây là lần đầu tiên Ngải Khắc phải khổ đấu kể từ khi thành danh ra mặt. Ban đầu ả giận dữ, giận đến tóc tai dựng đứng, Ẩn Tư Châm ngang dọc, Ngọc Đái đao tung hoành. Nhưng tiếp đó lại là sợ, sợ không phải vì chiêu thức của người kia, lộ số Túy kiếm cũng chẳng lạ lùng gì, có muốn đả bại ả trong khoảnh khắc đâu phải chuyện dễ. Nhưng cái ả sợ là tinh lực của người kia cuồn cuộn tuôn tràn như trường giang đại hà, kiếm thế tung ra tựa hồ chẳng còn có thể dừng lại được nữa, chín khúc đoạn mười tám bến bờ, ồ ồ ạt ạt, ngập ngụa tràn lan, tiết rót ra hết, như muốn dốc đổ tận cùng những uất ức sầu muộn trong lòng. Từ lúc thình lình xuất hiện cho đến khi thu kiếm cũng đã đấu hơn hai canh giờ. Trong khoảng thời gian đó, Di vương gia và Ngải Khắc không ngờ chẳng có hơi sức để phát ra một tiếng thét la. Ngải Khắc ban đầu còn hung hăng, về sau mồ hôi chảy như tắm, qua một canh giờ thì đã gần như sức cùng lực kiệt. Nhưng ả gồng mình tranh đấu vùng vẫy giữa kiếm thế như mây buông biển dựng của người kia. Lòng ả thầm kêu lên: ngươi giết ta đi! Ngươi giết ta đi! Là ngươi ngon! Là ngươi dữ! Nhưng ả lại không thốt ra lời được. Lại qua một canh giờ nữa, sự giận dữ của người đó có vẻ mới phát tiết xong. Ngải Khắc đến khi ấy đã rã rời, đã hư thoát, ả nhìn thấy đôi mắt của người kia. Ánh mắt của y nào có phẫn nộ, nào có oán thán, chỉ có khinh bỉ, một sự khinh bỉ Ngải Khắc chẳng thể nào gánh chịu nổi. Cuộc đời của ả chưa từng có cảm giác thua thiệt đến thế. Ả thà tình nguyện để người kia giết ả, nhưng y chỉ muốn phế ả. Người kia chợt thu kiếm, cũng đột ngột như khi đến, nháy mắt đã biến mất chẳng còn đâu. Ngải Khắc thẫn thờ nhìn ra song cửa, biết người kia đã đi, cũng sẽ không đến nữa. Y tuy không giết ả, nhưng cũng nào có khác gì đã giết ả. Trải qua trận đấu đó, ả đã dốc tận tâm tư, đã hao hết lực khí. Khổ tu một đời e là đã phế diệt từ đây. Nhưng trong mắt ả lại không có lệ. Ả trống rỗng, nước mắt và khí lực tựa hồ đã trút cạn. Ả đã mất hết niềm kiêu sa, dõi mắt nhìn quanh, ả thấy phụ thân mặt mày không còn hồn phách. Di vương phủ phú quý phồn hoa, sau khi sự kiêu ngạo của ả tan mất hết, tựa hồ cũng đột nhiên khô quánh, đột nhiên héo hon. Hơi hướm kiêu kỳ giàu sang của toàn Di vương phủ đã bị cơn giận dữ như cuồng phong bạo vũ kia quét sạch, cái còn lại, trong mắt ả, cũng chỉ là một sự hoang lương khôn cùng. o0o Trên lưng con lừa là một cái yên màu đỏ, da thuộc nhuộm hết sức tươi tắn. Một hàng cây hoè già nua xanh thẫm, con lừa thả bước chậm rãi, thực như thi như họa. Trên lưng lừa là một nữ nhân, thân thể yểu điệu, đáng hận là mặt lại phủ một lớp sa mỏng đỏ tươi, che phủ mông lung, hoàn toàn không nhìn thấy mũi miệng. Binh sĩ canh cửa của Hàn Ngạc vừa thấy liền ngẩn ngơ. Con lừa đi đến trước cửa thì dừng lại, người cưỡi ngẩng nhìn sáu chữ “Bắc đình Đô hộ phủ Hàn” trên lá cờ, thần tình có hơi xa vời. Nàng ta dịu dàng thốt: “Xin báo với Hàn tướng quân tiểu nữ có chuyện cầu kiến”. Binh sĩ giữ cửa vốn sống miền Tái ngoại, đâu có phải ít thấy đàn bà con gái. Giờ tuy đã vào Trường An, nhưng ngày ngày họ bận bịu trách nhiệm, đâu có được ngắm nghía bóng hồng nào trong thành. Họ thấy phong độ của nữ tử kia, không khỏi bàng hoàng, một người bẽn lẽn ấp úng: “Nàng… xin hỏi cách xưng hô?”. Nữ tử nọ mỉm cười: “Mạc Thượng Mai”. Người lính ngẩn ngơ, lập tức biến sắc. --- Cái tên đó hắn đã nghe vang vọng mười lăm thành, là tên của một nữ phỉ vùng Tái ngoại. Kẻ đến không ngờ chính là nàng ta? Hắn xoay mình vội vàng chạy vào báo. Không lâu sau, nữ tử nọ đã an tọa trong tiểu hoa sảnh. Nơi đây vốn là nhà cũ của Trường Lạc công chúa, phú quý phong lưu, nào ngờ Hàn Ngạc lại vào trú ngụ được, biến nó thành một doanh trại quân đội. Nữ tử mỉm cười chăm chú quan sát cảnh vật trong viện, tựa như đã nhận ra trận pháp mà Dư Tiểu Kế bố trí, khoan khoái thưởng thức. Một hồi nữa mới nghe có tiếng bước chân. Nàng ta nghiêng đầu nhìn, thấy Hàn Ngạc đang đi ra. Hàn Ngạc mặt mày gầy ốm, chỉ có mục quang vẫn hết sức trong sáng hùng dũng. Gã liếc nhìn nữ tử --- Gã với Mạc Thượng Mai cũng đã từng gặp mặt một lần, nhưng đã quá lâu rồi, giờ đâu có khác gì lần đầu tương kiến. Mặt Mạc Thượng Mai lại ẩn giấu đằng sau vuông khăn sa, Hàn Ngạc nhất thời còn chưa biết nói gì, lại nghe nàng ta cười hỏi: “Hàn tướng quân, tòa viện này chắc đã ở quen rồi chứ?”. Hàn Ngạc bàng hoàng: thì ra tòa viện này là nàng ta tặng? Gã năm ngoái được tin Mạc Thượng Mai đã tru sát hai huynh đệ Đại Mạc vương, tiếp lãnh địa bàn của chúng, độc bá mối lợi mậu dịch tơ lụa. Xem ra --- Hàn Ngạc nhíu mày --- con đường buôn bán đó quả nhiên là một tài nguyên to tát. Gã với nữ tử nọ cũng chẳng thể nói rõ là địch hay là bạn. Bất quá nàng ta quả đâu có đụng chạm gì tới Liên Thành Kỵ. Lúc còn ở mười lăm thành, gã quá bận bịu việc quân cho nên đâu có để ý gì tới nàng ta. Nhưng nàng ta cùng một phe với Bộc Ách Phi, chắc cũng là thù địch của Đông cung phải không? Gã nghĩ vậy, miệng điềm đạm thốt: “Đa tạ đã có lòng, ta cũng quen rồi”. Tiếp đó mắt gã lấp loáng: “Không biết hôm nay cô nương sao lại đến đây?”. Mạc Thượng Mai cười đáp: “Tiểu nữ đến là vì tướng quân dựng soái trướng ở Trường An tổn hao quá nhiều, lo rằng tướng quân không đủ tài lực, cho nên đến đền ơn”. Hàn Ngạc hơi thừ người. Cái gọi là “sống ở Trường An đâu phải dễ” quả không sai. Bổng lộc của gã đâu có dư dã gì, muốn cầm cự về mặt này cũng vô cùng gian khó. Bổng lộc mới của gã lại lãnh ở tuốt Bắc đình Đô hộ phủ, tới giờ còn chưa mang đến đây được. Hơn nữa gã không muốn dùng quân lương của đội vệ binh, quả gần đây đang gặp khó khăn. Đồ ăn hàng ngày, thêm vào tòa nhà to lớn như vầy, phải nuôi nấng người quản lý quét dọn, kể ra thực nhức đầu. Lại nghe ngoài cửa chợt có tiếng ồn, nữ tử cười nói: “Vừa nói tới thì đã đến”. Nói xong nàng ta vỗ tai: “Xin Hàn tướng quân cho tùy tùng của bọn tôi tiến vào”. Hàn Ngạc truyền lệnh, không lâu sau lại thấy hai hán tử cao to khiêng một cái thùng sắt vào. Trong thùng chứa đầy hoàng kim. Mạc Thượng Mai cười nói: “Tiểu nữ vừa hay mới chuyển hàng tới Trường An, nghe Hàn tướng quân về Trường An gặp thiếu thốn cho nên đến đền ơn, mong Hàn tướng quân đừng trách ít ỏi”. Hàn Ngạc có vẻ hứng thú nhìn nàng ta. Nữ tử này thực ra muốn đòi hỏi từ mình cái gì đây? Lại nghe Mạc Thượng Mai nói: “Nay con đường buôn bán ở Quan ngoại đã hoàn toàn trông nhờ vào sự chiếu cố của Hàn tướng quân. Chuyện làm ăn của tiểu nữ thì lại đa phần có dính dấp với Trần Tể tướng, còn cung cấp hầu hết nhu yếu phẩm trong cung nữa. Hai chỗ đó tiểu nữ hiện tại đi lại cũng lắm, Hàn tướng quân mới đến Trường An, e còn chưa quen biết nhiều người trong triều dã, nếu có gì muốn biết hoặc muốn liên lạc, sau này tiểu nữ có lẽ có thể dốc chút sức hèn”. Bộc Xạ Đường? --- Hàn Ngạc nhìn nữ tử nọ, thấp thoáng có cảm giác mạng lưới bao bọc lấy mình hiện đang ngày càng co thắt lại. Gã “ủa” một tiếng: “Cô nương thì ra là người làm ăn buôn bán. Hàn mỗ xưa nay chỉ nghĩ cô nương làm nghề ăn cướp thôi chứ. Có điều mối làm ăn mà cô nương muốn giao dịch với tại hạ là gì đây? Tại sao tổn phí bao nhiêu đó mà chẳng sợ không thu hồi được?”. Mạc Thượng Mai lại cười điềm đạm: “Càng phải mạo hiểm thì lợi tức cũng càng lớn. Thời nhà Tần Lã Bất Vi có nói với phụ thân của ông ta: buôn bán tơ lụa kiếm được bao nhiêu tiền? Buôn bán lúa gạo kiếm được bao nhiêu tiều? Còn buôn bán một Hoàng đế kiếm được bao nhiêu tiền?”. Nàng ta nói nhẹ nhàng, Hàn Ngạc lại hơi biến sắc: Tiểu Kế --- Họ quả đã nhắm vào cái đầu Tiểu Kế! Gã bình tĩnh ngó Mạc Thượng Mai không nói gì: thì ra đối với họ mà nói, mọi sự đều có thể mua bán. Mạc Thượng Mai lại cười khúc khích, đứng dậy nói: “Hàn tướng quân bận rộn công vụ, tiểu nữ cũng không dám quấy nhiễu lâu. Tôi trú không xa nơi này, ở một tiểu viện trong phường Thái Bình. Chỗ tôi ở có trồng nhiều hoa lắm, rất dễ nhận ra. Hàn tướng quân sau này nếu có lệnh truyền thì xin cứ gọi, tiểu nữ sẽ lập tức nghe lệnh”. Hàn Ngạc cũng không tiễn, mãi cho đến khi nàng ta ra tới cửa gã mới đột nhiên thốt: “Xin hỏi thăm Bộc vương phi và Dư cô cô giùm ta”. Nữ tử nọ thân hình hơi sựng lại. Hàn Ngạc rùng mình: họ quả nhiên là một phe.
1 Mới thoáng bóng hồng đà rã rượi, là câu tiếp theo câu "Thiên bôi lục tửu hà từ túy" (xem chú thích {1} hồi 77). Thi nhân bày tỏ rằng trước khi gặp nàng thì bồn chồn chờ đợi, nhâm nhi mãi chẳng say, đến khi gặp lại bỗng có cảm giác khổ thân không biết làm sao đây. Đó là quá yêu, yêu đến mức không biết làm sao mới phải.2 Bài Cửu (bài Cốt) một bộ có 32 con, mỗi con từ 2 điểm tới 12 điểm. Trong số có 11 con bài mà mỗi loại có hai lá, gọi là bài Văn, hay Văn tử. Hai lá bài Thiên mỗi lá 12 điểm, 6 điểm đỏ, 6 điểm trắng, là lá bài lớn nhất trong các con bài Văn. 3Đây là bài thơ Tiểu Đoạn sáng tác, tạm dịch: Bình sinh ham rượu chè, hâm mộ Lý Trích Tiên. Kinh kỳ chân nghỉ bước, buông một tiếng ngông cuồng. Thi thơ lan trời đất, túy lúy dốc biển hồ. Chí khí thành thương cảm, già cỗi ráng giằng dai. Khẳng khái lời ca vọng, thảm đạm tháng ngày buông. Trường An đà hết chỗ, say tới đỉnh Hoa Sơn. Mưa gió chẳng xoay lại, sấm sét cũng vùi mê. Tình cờ ngó thiên hạ, buồn thế thái đảo điên! Lý Trích Tiên tức Lý Bạch. Thái Hoa tức Hoa Sơn.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 79 Tư Tử đài biên phong tự cấp1
“Tiểu Kế, có một chuyện ta nghĩ nên nói cho ngươi biết”.
D ư Tiểu Kế chẳng ngạc nhiên gì, ngồi trên tường thành đong đưa hai chân, nhìn cảnh trí ngoài cung, có vẻ chẳng mấy để tâm. Tiểu tử này lại cao vọt thêm, đứng dậy cũng đã vượt quá hàng lông mày của mình rồi -- Hàn Ngạc liếm liếm môi, sợ lời nói sắp tới sẽ đả phá cuộc sống vô ưu vô tư của Tiểu Kế. Nhưng gã không thể không nói: “Ngạc ca thực ra đã biết thân thế của ngươi từ năm ngoái”. “Thực ra ngươi bây giờ đã mười chín tuổi rồi, thành người lớn rồi. Hồi ngươi mới chào đời, vì bị trọng thương, người ta phải dùng thủ pháp khống chế, ngươi phải trải qua ba năm thai tức, đó là căn cội dẫn đến nội thương của ngươi, cũng là lý do tại sao ngươi cao vụt mau lẹ như vậy. Mẹ của ngươi, bây giờ Ngạc ca đã xác định được, bà ta là…”. Gã khựng một chút: “… Dư Hoàng hậu”. Hàn Ngạc ngoái nhìn về phía cung điện: biết bao nhiêu năm trôi qua, Dư Hoàng hậu có thể nào ngờ đứa con của nàng ta sẽ có một ngày trở về nơi này không? Có lẽ chọn lựa ban đầu của nàng ta chỉ là muốn để thằng bé có một cuộc sống bình thường! Nhưng mọi sự đều đã rối loạn, đối diện cuộc tranh đấu hiểm ác trong triều, đối diện sự hành thích có thể xảy ra bất cứ lúc nào của “Long Môn Dị”, “Bắc Mang Quỷ”, Hàn Ngạc không thể không nói ra chân tướng. “Mẹ?”. Dư Tiểu Kế thì thầm, ngờ vực ngước lên --- Một từ xa lạ làm sao… Giờ biết được, tốt hay không tốt? Ánh mắt nó mờ mịt. Giờ nó đã trưởng thành, bất kể là tình yêu thương của mẹ, hay là sự bảo bọc ấm nồng của mẹ, thực ra nó đâu còn cần nữa. Nhìn bộ dạng trầm mặc của nó, Hàn Ngạc không nhịn được, giơ tay định cầm tay nó. Dư Tiểu Kế lại nhẹ nhàng né tránh. Nó biết Ngạc ca cả năm nay có giấu giếm bí mật gì đó, có thể liên quan đến nó, mà nó cũng đã từng đoán rằng điều đó có thể có liên quan đến thân thế của nó. Hôm nay cuối cùng nó đã biết được, nào có ngờ lại là như thế. Không trách mình cũng được cho là người của Dư gia, không trách tỷ tỷ cùng Bộc Ách Phi đối đãi với mình như vậy. Nhưng đầu óc nó lại thẫn thờ --- Biết lai lịch của mình thực quan trọng thế sao? Không biết gì hết chẳng phải tốt hơn sao? Đâu cần phải gánh nhận ân oán triền miên đời này qua đời nọ, đâu cần gánh nhận kế thừa những nhược điểm trong tính cách. Cứ như Ngạc ca đó, có phụ thân thì được hạnh phúc hơn là không có sao? Dư Tiểu Kế từ nhỏ đã cảm thấy mình là một đứa bé bị tạo hóa đùa chơi, ruồng bỏ xuống cái hồng trần này. Vậy cũng xong, nó tình nguyện là một thằng bé hoang đàng, nó đã quen rồi: cái gì cũng tự mình trải nghiệm, ai yêu thì cứ yêu, ai hận thì cứ hận. Nó tình nguyện để trời sinh đất dưỡng, đâu muốn có phụ mẫu gì, càng không muốn có gia đình, nó khác Ngạc ca ở chỗ đó. Nó quay lại nhìn Hàn Ngạc, thấy gã đang ngờ nghệch nhìn nó. Nó cười thầm --- Có lúc nó cảm thấy Ngạc ca giống một đứa bé hơn là mình. … Dư Hoàng hậu? Cho dù là Dư Hoàng hậu thì thế nào chứ? Thấy Tiểu Kế chừng như chẳng có phản ứng gì cả, Hàn Ngạc không khỏi hoang mang. Dư Tiểu Kế thầm nhủ: có lẽ món quà tốt nhất mà mẫu thân cho mình là để mình không biết phụ mẫu là ai, đến khi biết thì nó đã đủ lớn, còn mẹ thì lại đã mất từ lâu lắm rồi. Những sự về trước đều rỗng không, chẳng có trói buộc bẩm sinh gì hết. Cuộc đời này, tất cả mọi cảm nhận đều là của bản thân nó, đó mới thực là tâm pháp của Vô Kê Nhai trên Đại Hoang Sơn. Nó bần thần nghĩ ngợi, lòng hơi khó chịu trống vắng, sau đó lại nhú lộ một sự ấm dịu hư không. Nó lại nghe Hàn Ngạc hỏi: “Tiểu Kế, sao vậy?”. Dư Tiểu Kế lắc lắc đầu, không nói gì. Hàn Ngạc hỏi: “Có trách Ngạc ca che giấu ngươi lâu nay không?”. Dư Tiểu Kế lắc đầu: “Không… không có gì, tôi chỉ nhất thời chưa định thần lại được. Con của Hoàng hậu? Hiển hách quá, ngon lành quá. Có điều hiện giờ tôi chưa muốn nghĩ tới. Ai sinh ra cũng được mà, trước khi sinh là chuyện khác, sinh rồi thì là chuyện của tôi. Không dây dưa rễ má, không ái hận gì hết, vậy là tốt nhất”. Hàn Ngạc có hơi không hiểu nhìn nó. Gã gần gũi Tiểu Kế lâu nay, đặc biệt là hai năm qua, gã biết tâm pháp dòng Đại Hoang Sơn mà Tiểu Kế luyện rất dị thường, có nhiều chỗ hoang đường đến bất cận nhân tình, nhưng nhất thời gã cũng chẳng hiểu thấu nó nói vậy là sao. Lại nghe Dư Tiểu Kế thốt: “Ngạc ca, thực ra có một chuyện tôi cũng giấu huynh hoài. Nói gì thì nói, tôi cũng đã thành một con cờ bị bọn họ lợi dụng để kéo huynh vào tròng”. Nó ngẩng lên: “Tỷ tỷ của tôi thực ra chưa chết. Huynh cho rằng chị ta đã chết, sự tự sát của chị ta tuy cắt đứt hơi thở cũng khá là hung hiểm, nhưng nó chính là phép ‘Luân Hồi' của Đại Hoang Sơn bọn tôi. Chị ta chưa chết. Lam Lão Nhân cũng là người của Đại Hoang Sơn. Ngay từ lúc ban đầu, đây đã là một cái bẫy”. Hàn Ngạc giật mình: Dư Tiệp? Dư Tiệp chưa chết? Những nghi hoặc đã lâu không hiểu nổi nay bỗng sáng tỏ. Dư Tiểu Kế cười khổ: “Đáng thương cho tôi, cũng mãi cho đến hôm nay huynh kể cho tôi biết mẹ tôi là ai thì tôi mới hiểu họ thực ra muốn làm gì”. Đôi mắt nó nhìn xa vời: “Ngạc ca, tôi luôn cho rằng tôi là cô nhi thì huynh sẽ đối tốt với tôi. Mà tôi cũng muốn làm một cô nhi, chui ra từ kẽ đá. Tỷ tỷ của tôi nói những chuyện đang làm là vì tôi, nhưng những gì họ gán ép cho tôi thực ra đâu phải cái tôi muốn. Huynh có trách tôi lừa huynh không?”. Hàn Ngạc trấn định tâm thần, mỉm cười thốt: “Ngươi đâu có lừa ta, chỉ là trước đây ngươi còn nhỏ, không có dũng khí để nói với Ngạc ca mà thôi. Bây giờ thì… ngươi trưởng thành rồi”. Dư Tiểu Kế ngẩng lên, Ngạc ca cuối cùng đã thừa nhận nó lớn rồi! Hàn Ngạc giơ tay vỗ đầu nó, cười nói: “Ngươi lớn rồi. Có rất nhiều chuyện Ngạc ca sẽ từ từ nói với ngươi. Ngươi thông minh, thực ra mấy chuyện đó không cần ta phải kể tận tường, chắc ngươi cũng đã minh bạch rồi: bọn ta lần này sao lại phải đến Trường An, tại sao người của Đông cung muốn hành thích ngươi, tỷ tỷ của ngươi và Bộc Ách Phi có ý đồ gì… Ngươi cứ nghĩ đi, có chọn lựa gì thì hẵng nói chuyện với Ngạc ca. Chuyện này không dính tới tỷ tỷ ngươi, nếu ngươi muốn Ngạc ca giúp ngươi thì Ngạc ca sẽ giúp”. Dư Tiểu Kế chợt vui vẻ cười nói: “Ngạc ca, tôi bây giờ không phải là cô nhi nữa, huynh có còn chịu bảo bọc cho tôi không?”. Hàn Ngạc cười nói: “Tiểu hoàng tử, không phải ta muốn bảo bọc ngươi, mà là hạ quan muốn khẩn cầu tiểu hoàng tử bảo bọc cho hạ quan”. Dư Tiểu Kế cười khì: “Vậy được, ta bảo bọc cho ngươi. Người đâu, đem trói Hàn Ngạc lại cho bổn vương, trị tội phạm thượng”. Hàn Ngạc rụt đầu, sờ sờ cổ mình, mỉm cười thốt: “Vương gia khai ân! Tiểu nhân không dám nữa, không dùng gậy trúc đánh ngài nữa”. Hai người cười một hồi, lại nghe Tiểu Kế nói: “Nghe nói đêm mai Trường An thành không có giới nghiêm!”. “Cấm dạ”, hay giới nghiêm, có nghĩa là mặt trời vừa xuống núi thì trong thành sẽ đánh tám trăm tiếng trống, gọi là “trống dẹp đường”. Hễ trống dừng thì các phường trong thành lập tức đóng cửa, ai lén dạ hành bị bắt sẽ bị phạt nặng. Vốn thời mới khai quốc, chỉ có ba ngày tết Thượng Nguyên mới không giới nghiêm. Về sau nới lỏng một chút, cả tết Trung Thu cũng không cấm. Có điều hôm nay là mùng ba tháng tám mà! Hàn Ngạc ngây người: “Không phải Thượng Nguyên, không phải Trung Thu, sao lại chẳng giới nghiêm?”. Dư Tiểu Kế đáp: “Nghe nói ngày mai là tết Vạn Thọ gì đó của đương kim Hoàng thượng”. Nó vừa nhắc tới Hoàng thượng thì chợt hơi ngượng miệng. --- Thì ra là sinh nhật của Hoàng thượng. Hàn Ngạc thấy thần sắc của Tiểu Kế, xem ra nó cũng đang chờ đợi sự náo nhiệt của đêm ngày mai. Nó hứng chí như vậy, gã cũng bất nhẫn làm nó phật ý, cười nói: “Vậy được, ngày mai ngài ngoan ngoãn chờ ta ở trạm canh của vệ binh, đến tối ta sẽ theo hầu tiểu vương gia ngài”. Gã châm chọc Tiểu Kế, Dư Tiểu Kế “ừm” một tiếng, ngồi ngông nghênh trên tường thành cười nói: “Vậy được, Hàn khanh, ngươi chớ có cô phụ sự trọng vọng của Cô đấy”. Hàn Ngạc thấy nó ra vẻ, không khỏi cười khì: “Cô? Không trách ngươi cứ nói ngươi là một cô nhi, thì ra giới quyền quý các người xưa nay quen xưng Cô đạo Quả2”. o0o Nào ngờ sang hôm sau Hàn Ngạc bận rộn cả ngày. Hoàng thượng có vẻ hết sức coi trọng gã, gần đây thấy thủ lãnh vệ binh Tiêu Giác làm việc ổn thỏa, ông đã thăng hắn làm thủ lãnh của cấm quân trong cung thành. Tuy đã phong chức cho thủ hạ của gã tiếp quản hơn ba ngàn nhân mã cấm quân trấn thủ cung thành, ông ta còn hỏi gã coi có còn nhân tài xuất sắc nữa không, Hàn Ngạc đành tiến cử Ô Trấn Hải. Hoàng thượng liền phái hắn lo tuần sát trong Trường An thành, quản lý nhiệm vụ giữ trị an, cầm đầu hơn tám trăm binh sĩ. Ông ta liên tiếp thăng chức cho thủ hạ của Hàn Ngạc, lại cho tiếp quản thân binh trong cấm cung, không chỉ bá quan kinh ngạc, ngay cả gã cũng cũng cảm thấy lạ kỳ --- Hoàng thượng bất quá chỉ mới gặp gã một lần, kể mộng mị gì đó của ông ta, sao lại tín nhiệm gã dữ vậy? Ông ta thực ra đã nằm mơ thấy cái gì? Ông ta có biết ít nhiều về Tiểu Kế sao? Lẽ nào giấc mơ đó có thể điều khiển tâm chí của ông ta? Người của Đại Hoang Sơn tiềm ẩn lâu nay, xem ra mưu đồ cũng ghê gớm lắm. Nội thị kề cận ông ta thực ra có quan hệ gì tới dòng Đại Hoang Sơn không? Hàn Ngạc càng lúc càng cảm thấy có điềm bất tường. Cuộc du hành Trường An lần này đúng là gã bị ép đi. Ban đầu gã còn cho rằng mình chủ động, đâu có ngờ vừa vào Trường An thì chừng như mọi sự đã lọt vào tròng mà người ta sắp đặt sẵn. Trường An này có phải gã không nên đến hay không? Lúc hứa với Tiểu Kế, gã đâu có liệu được bữa nay Tiêu Giác và Ô Trấn Hải lại gặp vô số chuyện phiền toái phải xử lý. Ví như chuyện phòng vệ cung thành đa phần đã lọt vào tay Tiêu Giác, mà kẻ chủ quản cung cấm hiện nay là “Lục yêu” Lục Phá Hầu trong Tử Thần, qua lại ăn nói với tên đó cũng hầu hết giao cho Tiêu Giác làm, nhưng có lắm chỗ vi diệu, cho nên Tiêu Giác thường phải thương lượng với gã. Ô Trấn Hải cũng phải lo cai quản việc tuần phòng trong thành. Tuy không phải trực thuộc dưới quyền Hàn Ngạc, nhưng xưa nay họ luôn luôn tôn trọng gã, rất nhiều chuyện đều muốn thương nghị với gã. Chức vị của Hàn Ngạc trong triều cũng rắc rối, gã vốn là soái tướng của Bắc đình Đô hộ phủ, dùng chức nguyên soái mà trú lâu trong Trường An vốn rất không thỏa đáng. Có điều ý của Hoàng thượng lại chừng như không muốn để gã đi, tuy giao cho chức Binh bộ Hành tẩu, thực ra đâu phải là chức thực. Hôm nay mới sáng sớm gã vừa đến Binh bộ đã bị dính một chỗ, vì là công vụ, Hàn Ngạc đâu thể thoái thác. Mãi cho đến giờ Thìn gã mới xử lý xong. Tiếp đó lại có người đến mời, gã mới biết trong cung Hoàng thượng có thiết yến cùng chung vui với bá quan. Gã biết nhất định sẽ bị bó buộc không đi ra được, lòng phiền não, thầm nhủ: e phải thất hứa đi chơi với Tiểu Kế tối nay. Gã lo lắng cho sự an toàn của Tiểu Kế: với tính khí của Tiểu Kế, đêm nay náo nhiệt như vậy, nhất định không chịu ngồi thừ trong cung bực bội. Nếu có một Tiêu Giác tinh tế tỉnh táo bên cạnh nó thì Hàn Ngạc còn có thể an tâm. Để một mình nó ở trong viện thì thực đáng lo. Gã liền kêu Liên Ngọc đi nhắn Ô Trấn Hải triệu tập mười một người còn lại trong “Liên Thành Đảm” đi theo Tiểu Kế. May là hôm nay có Ô Trấn Hải lo mặt an toàn cho Trường An, chắc có thể danh chính ngôn thuận mà làm. Mười một Đảm vệ kia đều là tướng sĩ can đảm từng trải trăm trận của gã, ít nhiều gì cũng có thể giúp gã đỡ lo. Gã an bài xong chuyện Tiểu Kế rồi mới đi lầu “Hoa Ngạc Tương Huy”3. Đại yến đang khai mở trong “Hoa Ngạc Tương Huy” lâu. Gã đến nơi thì Hoàng thượng vì mệt người cho nên mới vừa loạng choạng thoái khỏi tiệc. Ngồi ở vị trí thủ tịch trong lầu là đương kim Tể tướng, Tả Bộc xạ Trần Hy Tái. Lão ta tuổi tác cỡ lục tuần, đầu tóc hoa râm, nhãn quang mờ đục, xem có vẻ như một ông già suy yếu vô dụng, nhưng Hàn Ngạc biết con người đó hiện đang thống lãnh hệ thống văn quan toàn quốc, khiến cho ngay cả Đông cung Thái tử cũng không thể được như ý. Ngồi đối diện là quan Thái phó của Đông cung Thái tử, tên gọi Vi Linh. Y làm quan nhất phẩm, lại là bậc kỳ cựu trong triều. Hàn Ngạc vừa vào Hoa Ngạc lâu thì thấy có một người ra nghênh đón, tươi cười dẫn gã vào nhập tiệc. Gã được dẫn tới phương hướng thủ tịch. Trần Hy Tái mỉm cười đứng dậy chào hỏi, khà khà thốt: “Hàn tướng quân, nhọc quá nhọc quá. Sự vụ phòng vệ trong cung cấm chắc bận bịu lắm, hoàn toàn dựa vào một tay Hàn tướng quân coi sóc. Bọn ta đây nhờ vậy mới được an nhàn ca hát nhâm nhi thống khoái”. Tiệc rượu này là hai hàng bàn gỗ tử đàn, ở giữa trải thảm. Bên cạnh Trần Hy Tái đặc biệt lưu giữ một vị trí, chắc là đợi Hàn Ngạc nhập tiệc. Hàn Ngạc chậm rãi bước giữa hai hàng bàn, mục quang của người xung quanh vừa có hâm mộ, vừa có ghen tị, gã thì lại có cảm giác đang bước trên váng băng. Toàn sảnh chỉ có gã là y phục cũ kỹ. Trần Hy Tái lại hết sức khách khí với gã. Gã mới vừa tới gần, lão đã tươi cười kéo tay gã vào chỗ. Hàn Ngạc cũng chẳng biết có nên khiêm tốn hay không, nói khiêm tốn thì khiêm tốn làm sao chứ, gã chỉ còn nước mỉm cười ngồi xuống. Vừa mới ngồi thì Trần Hy Tái đã đứng dậy, nâng chén nói với mọi người: “Ngày nay Hà thanh hải yến4, nước nhà thanh bình, chúng ta có thể cùng hưởng thụ sự an lạc này, một là nhờ phước Thánh thượng, hai là có Hàn tướng quân dốc sức ổn định Biên Tái, tiêu trừ họa hoạn. Chén rượu này phải kính Hàn tướng quân”. Hàn Ngạc miệng ấp úng thoái thác, bá quan hầu hết đứng dậy nâng chén chúc tụng, gã cũng đành phải đứng lên. Quét mắt nhìn quanh, gã thấy Thái phó vẫn ngồi yên bất động, cũng chẳng thèm nhấc chén. Hàn Ngạc bụng hơi rét, thôi thì cứ uống cạn chén cái đã. Sau khi ngồi xuống lại, Trần Hy Tái lại nói: “Hàn huynh, trước khi gặp mặt, ta cũng đã mười mấy lần nhận được thư của Cổ Siêu Trác huynh bày tỏ lòng kính ngưỡng đối với Hàn huynh, ca ngợi hết lời. Lão hủ đâu có biết Hàn huynh đang độ xuân xanh, đâu có biết thần thái ra sao. Gần một tháng trời nay đích thân chứng kiến, quả nhiên huynh khí độ hơn người”. Lão nói toàn lời sáo rỗng, Hàn Ngạc cũng chẳng biết nên khách sáo làm sao, mỉm cười khiêm tốn không nói gì. Lời nói của Trần Hy Tái cũng chẳng dài dòng gì, nhưng hết sức văn vẻ, thực có phong độ của bậc Tể tướng văn nhã ôn hòa. Hàn Ngạc một mặt thù đáp với lão, một mặt lại nghĩ tới những ngày mình ở Tái ngoại, mỗi lần có tấu chương liên quan đến quân vụ và sự vụ Biên Tái, bao nhiêu thỉnh cầu về lương thảo và nhu yếu phẩm cho quân đội hầu hết bị những lời màu mè tâng bốc như vậy trì hoãn chối từ --- Vẫn là lần đầu gã ngồi cạnh Trần Hy Tái nói chuyện. Từ khi Hàn Ngạc vào Trường An, đặc biệt là sau khi được Hoàng thượng trọng dụng, Trần Hy Tái một mực chiêu dụ gã. Nhưng Hàn Ngạc biết Trường An nước đục, luôn luôn thoái thác không chịu gặp riêng. Trần Hy Tái chợt đổi đề tài, mỉm cười hỏi: “Chẳng biết quê hương của Hàn tướng quân là ở đâu vậy?”. Hàn Ngạc ngẩn người, đáp: “Là Trường An”. Thanh âm của Trần Hy Tái chợt hạ thấp, vừa hay chỉ có một mình Hàn Ngạc nghe được: “Đường thượng nhị lão5 của Hàn tướng quân mạnh khỏe chứ?”. Ngón tay của lão xoa xoa vòng vòng thành chén. Hàn Ngạc thừ ra, lòng bần thần hụt hẫng: Đường thượng nhị lão… Đường thượng nhị lão… Lại nghe Trần Hy Tái thấp giọng: “Sao lão hủ nghe nói lệnh tôn của tướng quân vừa mới quy tiên?”. Hàn Ngạc lòng đau xót: quy tiên? Chết như vậy cũng gọi là quy tiên sao? Trần Hy Tái khẽ thở dài: “Ta cũng vừa nghe nói… Bất quá gần đây bọn tay chân của Đông cung Thái tử hè nhau dâng tấu nghị, nói rằng cha già của Hàn huynh mới qua đời, Hàn huynh lại chẳng y theo cái lệ ‘Đinh ưu', đi ngược lại đường lối đại nghĩa của triều đình lấy hiếu đạo để trị vì thiên hạ. Chúng muốn trừng trị Hàn huynh để tuyên cáo với thiên hạ. Chuyện này Hàn tướng quân không biết sao?”. Để tang? --- Hàn Ngạc bàng hoàng, tới giờ mới nghĩ đến triều đình đó giờ quả có thể lệ để tang đó. Cái gọi là “Đinh ưu”, quan trong triều khi cha mẹ qua đời thì chiếu theo lệ mà dâng thư xin từ quan, khoác áo the trắng để tận hiếu lễ. Theo lệ thì thủ hiếu phải suốt hạn kỳ ba năm. Sau ba năm mới có thể tấu thỉnh phục chức. Hàn Ngạc thẫn thờ, gã thực đâu có nghĩ tới chuyện đó, bụng cũng biết đó chỉ là cái cớ, mục đích của Đông cung đâu phải nhằm vào hiếu đạo gì chứ! Mình còn thấy lạ sao gần đây Đông cung chẳng có động tịnh gì, thì ra chúng đã có ra sức rồi còn gì! Trần Hy Tái thấy Hàn Ngạc không đáp, thấp giọng cười nói: “Hàn tướng quân, may là chuyện này lão hủ lại biết trước được. Hàn tướng quân là tôi thần không thể thiếu được của triều đình đương kim, huống hồ cục diện ngày nay trong triều đâu có yên ổn, bốn bể bại hoại loạn lạc, đừng nói gì khác, chuyện Thổ Cốc Hồn ở mặc tây, không có Hàn tướng quân thì còn ai có thể xử trí chứ? Thiên địa quân thân sư, trời - đất – vua – cha mẹ - sư phụ, cái đạo vua tôi nguyên đặt trước cái đạo cha mẹ con cái mà. Đây gọi là Hung Nô còn chưa diệt, làm sao nghĩ tới gia đình cho được? Lão hủ biết Hàn tướng quân đâu có phải không coi trọng lễ chế, mà là lo cho đại hiếu chứ không màng tiểu hiếu, cho nên đã dâng thư tấu thỉnh kiến nghị ‘Đoạt tình’6. Hàn huynh trách nhiệm trong triều nặng nề, chắc Thánh thượng cũng không thể thiếu vắng Hàn huynh một ngày. Cái lệ ‘Đoạt tình’ này chắc nội trong hai ngày sẽ được ân chuẩn”. Thì ra là vậy --- Cái gọi là “Đoạt tình” có nghĩa khi trọng thần của triều đình bẩm báo “Đinh ưu”, vì quốc gia đại sự cho nên Hoàng đế đặc biệt hạ lệnh “Đoạt tình”, không cho phép ở nhà thủ tang. Hàn Ngạc hít một hơi sâu: chế độ nhà Hán này, triều đình này thực là tràn đầy những khuynh loát đảo điên vì dục vọng cá nhân. Bộc Xạ Đường gia ơn như vậy, chắc chính vì đang tranh đấu với Đông cung, muốn kéo mình về chung một phe. Gã mỉm cười: “Đa tạ Tướng quốc xem trọng”. Ánh mắt quét qua cảnh tượng sang trọng xung quanh, lòng không khỏi thầm nhủ: mình trà trộn vào đây làm gì? Gã vốn đâu có hợp cách thức của chúng. Đèn lửa Đông thị và Tây thị chắc đang rập rờn náo nhiệt, nếu ở cạnh Tiểu Kế, hai người cười nói huyên thuyên thì hẳn khoái lạc hơn xa. Mình lại không thể giữ lời hứa với Tiểu Kế, không thể không đến dự cái yến tiệc bá quan này, thực ra là tại sao? Lại thấy Trần Hy Tái mỉm cười chỉ sang phía đối diện: “Hàn tướng quân, vị ngồi bên kia là Trừ vương, ngài kính ngưỡng Hàn huynh đã lâu, mà ngài cũng là Tam hoàng tử của đương kim Thánh thượng. Hoàng thượng cũng yêu thích ngài nhất. Năm xưa ông cũng đã từng mấy lượt muốn truyền ngôi cho Tam hoàng tử. Tam hoàng tử là người nhân ái, nếu không phải vì ngài là con thứ thì đã thành người thừa kế rồi, như vậy thì thiên hạ chúng sinh thực hết sức hạnh phúc. Hàn tướng quân, không biết Hàn tướng quân có cao kiến gì về việc lập thái tử, nên lập trưởng hay lập đức?”. Hàn Ngạc nghe lão nói đến đó thì giật mình: tới rồi! Gã không biết hồi đáp làm sao, chỉ cười trừ, nâng chén kính Trần Hy Tái: “Tiểu tử vô học, theo Tướng quốc thì thế nào tốt hơn?”. Trần Hy Tái nhãn quang mù mờ bỗng thoáng lộ vẻ quỷ trá. Họ nói cười đã nửa canh giờ, Hàn Ngạc ngoái lại, gặp Liên Ngọc ở cửa bên hông đang đi tới. Hàn Ngạc thấy thần sắc trên mặt hắn thì hơi kinh hãi --- Con người trầm tĩnh như Liên Ngọc, xưa nay chẳng để lộ vẻ vui mừng giận dữ thái quá, sao lại mồ hôi mồ kê đầm đìa thế kia? Liên Ngọc đi đến bên gã, ghé bên tai gã thốt: “Hàn soái, Tiểu Kế ngộ hiểm!”. Chỉ sáu tiếng đó thôi, Hàn Ngạc lập tức biến sắc. Gã đứng bật dậy, cười một tiếng với Trần Hy Tái rồi liền rời khỏi tiệc. Trước khi đi gã còn quét mắt qua phía Thái phó Vi Linh, thấy lão già đó cũng đang chăm chăm ngó mình. Gã theo Liên Ngọc ra khỏi lầu thì hỏi gấp: “Ở đâu? Ai hạ thủ?”. Liên Ngọc cũng biết chuyện cấp bách, nói hết sức vắn tắt: “Ở Đông thị, hình như là người của Long Môn Dị và Bắc Mang Quỷ! Ô tướng quân cáo cấp rằng mười hai Đảm vệ đã có ba bỏ mình, nhưng họ bảo vệ được Tiểu Kế thoái về hướng Tư Tử đài. Có điều chỗ đó xem chừng cũng có mai phục. Ô tướng quân được tin liền chạy tới. Có ba người đi báo tin, hai người trong số đã bị chặn giết. Hàn soái…”. Hàn Ngạc kéo Liên Ngọc lui vào bóng tối dưới lầu, đầu óc gã đảo chuyển nhanh như chớp: Đông cung… Đông cung… quả nhiên đã động thủ! Gã đâu có dẫn theo bao nhiêu nhân thủ. Gã tính toán xong, liền mau chóng dặn dò Liên Ngọc: “Ngươi trước hết đi báo cho Tiêu tướng quân biết chuyện này, sau đó sai ngươi phi ngựa đến phường Thái Bình thám thính cho ra chỗ ở của Mạc Thượng Mai, báo cho nàng ta biết tin. Ngươi kêu Tiêu tướng quân chọn một số hảo thủ trong vệ binh đi ngay đến Tư Tử đài cứu cấp. Còn bản thân Tiêu tướng quân thì đi gặp Lục Phá Hầu: hôm nay mà thấy có gì lạ thì lập tức đóng chặt cửa cung”. Liên Ngọc nghi hoặc nhìn Hàn Ngạc: “Hàn soái… lẽ nào ngài không đi?”.
1 Bên đài Tư Tử gió vùn vụt, là câu trong bài thơ “Xuất quan túc bàn đậu quán đối tùng lô hữu cảm” của Lý Thương Ẩn. Tư Tử đài là cái đài Hán Vũ đế xây để tưởng nhớ Thái tử Cư bị ông ta giết lầm.2 Cô và Quả là lối tự xưng vương thời cổ đại. Thành ngữ “xưng Cô đạo Quả” ý chỉ tự phong làm vương, cũng ẩn dụ cuồng vọng làm thủ lãnh. 3 "Hoa ngạc" là đài hoa, thành ngữ "Hoa ngạc tương huy" có nghĩa là đóa hoa cùng đài hoa giúp nhau khoe ánh khoe sắc, ẩn dụ cho tình huynh đệ đùm bọc lẫn nhau, thủ túc tình thâm. Thành ngữ này xuất xứ trong sách "Cựu Đường thư - nhượng Hoàng đế hiến truyện": "Huyền tông vu Hưng Khánh cung tây nam trí lâu, tây diện đề viết Hoa Ngạc Tương Huy chi lâu, nam diện đề viết Cần Chính Vụ Bản chi lâu" (vua Huyền tông dựng lầu ở phía tây và phía nam cung Hưng Khánh, mặt tây đặt tên là lầu Hoa Ngạc Tương Huy, mặt nam đặt là lầu Cần Chính Vụ Bản). 4 "Hà" là Hoàng Hà, "yến" là bình tĩnh, thành ngữ này có nghĩa là Hoàng Hà nước trong, biển cả lắng sóng, ẩn dụ thiên hạ thái bình. 5 Cha mẹ thường ở phòng chính trong nhà, cho nên gọi là Đường thượng nhị lão. 6 Lễ tục xưa của Trung Quốc, quan viên nào cha mẹ chết thì nên bỏ chức quan để ở nhà thủ chế, gọi là "Đinh ưu". Mãn tang rồi thì quay lại nhận chức. Đại thần nào không thể thiếu, thì khỏi phải từ quan, cho mặc thường phục để lo sự vụ, không dự yến tiệc, gọi là "Đoạt tình". Cái lệ "Đoạt tình" này vốn hiếm có, nhưng ở chiến trường đâu thểnói tới "Đinh ưu".
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 80 Ngọc Nương hồ thượng nguyệt ứng trầm1
“Hàn Ng ạc đã ra khỏi Hoa Ngạc lâu?”. Thái tử Chí Hoa mặt mày ngay đơ. “Phải, gã đã ra khỏi Hoa Ngạc lâu”. Hôm này là tết Vạn Thọ, trong điện Trường Lạc cũng đang thiết yến. Yến tiệc này
ng ười tham dự đa số là quan viên của ngũ Giám cửu Tự --- Hoa Ngạc lâu cùng Trường Lạc điện, yến tiệc mời mọc bá quan lại mở ở hai chỗ, có thể thấy cái thế đối lập của Đông cung và Bộc Xạ Đường. Ngũ Giám cửu Tự đa số có quan hệ bên trong, cho nên họ cũng luôn luôn nằm cùng một phe. Hoàng thượng khởi giá rời Hoa Ngạc lâu, lòng vòng một khắc sau thì đến điện Trường Lạc. Y vốn muốn ở lại kề cận chung vui, mà Hoàng thượng lại kêu y lui xuống. Y đâu có nghĩ ngợi gì tới tình cảm cha con mong manh quá, vì đêm nay y có đại sự. Y khẽ nói với người tới báo tin: “Người đối phó gã ngoài cửa cung đã chuẩn bị xong chưa?”.
Th ủ hạ của y gật gật đầu: “Thái tử yên tâm, mọi sự đều đã chuẩn bị ổn thỏa”. Thái tử Chí Hoa cau mày: “Nhưng thanh kiếm trong tay gã…”. Cái làm cho y nghi ngại nhất không phải là thân thế của Dư Tiểu Kế, mà là thanh kiếm chẳng e dè sợ sệt, độc lai độc vãng của Hàn Ngạc. Gã có thể dùng thanh kiếm đó trấn an Tây Vực, tài ba đến thế, Đông cung Thái tử làm sao mà không hoảng hồn cho được? Thiếu phó Đỗ Hương Sơn bên cạnh y cũng là người của Đỗ gia ở Lạc Dương. Lão điềm đạm thốt: “Thái tử yên tâm, kiếm của Hàn Ngạc hôm nay e cũng chẳng thể bén được”. Đông cung Thái tử “ủa” một tiếng, ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy?”. Đỗ Hương Sơn đáp: “Võ nghệ hễ buông tuồng dũng khí thì được lợi thế. Gã trước đây nằm ngoài lưới, đương nhiên chẳng ngần ngại lo sợ gì cả. Nhưng nay gã đã vào Trường An, lọt vào trật tự quy tắc, có lắm chỗ phải e dè, lưỡi kiếm làm sao mà bén được nữa? Trong cung Thái tử, Tứ Hạo lão cùng ‘Bất Trắc Đao’ Bốc Ưng huynh, ‘Song Nhận’Vi Đĩnh huynh nếu hồi trước đối phó Hàn Ngạc thì chắc không tránh khỏi gặp bất lợi. Võ nghệ của họ vốn chẳng hơn kém là bao, nhưng cái khiến cho họ sợ là cái khí thế thoát dật của Hàn Ngạc, mà cái đó lại nằm ngoài võ nghệ. Còn ngày nay, cái khí thế thoát dật đó đã mất, vì vậy xin Thái tử an tâm, gã không đến Tư Tử đài được đâu, cho dù đến cũng vô dụng”. Đông cung đang nghi hoặc, còn chưa hiểu hoàn toàn, lại có người chạy vào hạ giọng bẩm báo: “Có tin truyền Hàn Ngạc cưỡi Ban Chuy ra cửa An Thượng”. Ra khỏi cửa An Thượng là đã ra ngoài cung thành. Bên trong cung thành là cấm địa có Tiêu Giác và Tử Thần canh giữ, Đông cung nếu muốn có mưu đồ gì thì cũng bị lắm bó buộc. Nhưng ngoài cung thành, khà khà, chính là thiên hạ mà y cùng Bộc Xạ Đường tương tranh. o0o Hỏa thụ ngân hoa hợp, tinh kiều thiết tỏa khai.Ám trần tùy mã khứ, minh nguyệt trục nhân lai.Du kỹ giai nùng lý, hành ca tận lạc mai. Kim ngô bất cấm dạ, ngọc lậu mạc tương thôi.2
1 Trên hồ Ngọc Nương trăng chìm nghỉm, là câu tiếp theo câu “Tư Tử đài biên phong tự cấp” trong bài thơ “Xuất quan túc bàn đậu quán đối tùng lô hữu cảm” của Lý Thương Ẩn (xem chú thích {1} hồi 79).2 Tạm dịch:
Đ ó là một bài thơ cũ. Muốn miêu tả cảnh tượng phong lưu trù phú của đêm tết Vạn Thọ trong Trường An thành này, có lẽ chỉ có bài thơ đó của Tô Vị Đạo mới có thể theo sát phần nào. Mới tối, Đông thị bóng người trùng trùng. Tiểu Kế lúc vừa đến vẫn còn hơi không vui: Ngạc ca lại bị công vụ trói buộc rồi, nhưng giờ nó cũng đã thấu hiểu Hàn Ngạc chịu hãm mình ở Trường An thực ra là vì ai. Đêm nay Đông thị đèn lửa sáng ngời, vì là tết Vạn Thọ, mọi người mượn cớ để cởi mở cõi lòng cho khoan khoái đôi chút. Đâu đâu cũng thắp đèn thắp đuốc, thực không khác gì hàng ngàn cây lửa, hàng vạn đóa hoa bạc, dần dần Tiểu Kế cũng cười toe toét.
M ười một Đảm vệ đã ngấm ngầm bố trí trong Đông thị. Ô Trấn Hải đang lãnh quan chức, không thể phân thân, song hắn biết Tiểu Kế muốn đến Đông thị du ngoạn, cho nên đã sắp đặt cẩn thận. Có điều bọn họ không để ai nhìn thấy. Dư Tiểu Kế chứng kiến tình cảnh náo nhiệt, thầm nghĩ: Ngạc ca bây giờ mà có mặt ở đây thì tốt quá. Nó biết Hàn Ngạc cũng không phải không ưa nhiệt náo, gã chỉ là không biết nên vui chơi làm sao, cũng không biết làm sao để thân cận với người ta. Tiểu Kế nghĩ tới lời nói hôm nọ, thực ra hà tất phải vậy chứ? Ngạc ca hiện giờ vì mình mới bị kềm giữ ở lại Trường An, nhưng cái gọi là con trai của Hoàng hậu có gì liên quan với bản thân nó chứ? Cái khiến cho nó lo âu là vẻ mệt mỏi gần đây của gã. Vẻ mệt mỏi đó người khác không nhận ra, nó lại nhận ra. Phải cọ quậy trong sự khuynh loát thế lực của Đông cung và Bộc Xạ Đường, huống hồ ở giữa còn có Tử Thần, ngày tháng của Ngạc ca đâu thể nào thoải mái cho được! Chuyện trên đời vốn là cuộc cờ tranh đoạt quyền hành, mà cái đó vốn không phải là sở trường của Ngạc ca. Ngạc ca có thể hành sự, nhưng tốt nhất là chuyện tuy hiểm nguy mà có mục đích rõ ràng. Chuyện chính trị trong triều nguyên phải là kẻ cam lòng vứt bỏ, coi thiên hạ như những con cờ mới có thể làm được. Đừng nói gì khác, mấy ngày qua Tiểu Kế có cảm giác ngay cả luồng kiếm khí kiên cường hung mãnh xưa nay ngưng tụ trên mình Ngạc ca tựa hồ cũng có phần tổn hao tản mác. Đó chính là điểm khiến cho nó ưu phiền nhất. Sau đêm hôm nay, có lẽ nó nên nói chuyện với Ngạc ca: những gì Ngạc ca muốn giúp mình biết thì mình đều đã biết, những cái Ngạc ca muốn mình nhận thấy thì mình cũng đã nhận thấy --- Tiểu Kế nghĩ tới diện mạo của Hoàng thượng trên điện Thái Cực, lại hoàn toàn không có cảm giác thân cận --- Nó muốn về lại quân đội, bọn họ là nam tử, chốn quay về tốt nhất của một nam tử có lẽ là vùng biên cương, vĩnh viễn khai thác biên cương!
Đ èn lửa soi muôn chỗ, cửa thành mở chói ngời. Bụi mờ theo vó ngựa, trăng sáng đuổi bóng người. Ca kỹ khoe hương thắm, khúc Mai hoa thả lơi. Quân binh thôi gác giữ, trống canh chẳng giục rời. Đây là bài thơ "Chính nguyệt thập ngũ dạ" của Tô Vị Đạo. "Hỏa thụ ngân hoa" có nghĩa là đèn lửa sáng
l ạn; "thiết tỏa khai" nghĩa là đô thành thời Đường có giới nghiêm, mà đêm nay không giới nghiêm, mở khóa cho mọi người thông hành; "nùng lý" hình dung trang sức y phục diễm lệ, bắt nguồn từ sách "Thi Kinh - Triệu Nam - Hà bỉ nùng hĩ": "Hà bỉ nùng hĩ, hoa như đào lý"; "Lạc mai" tức là nhạc khúc "Mai hoa lạc"; "Kim ngô" tức là cấm vệ quân trong kinh thành; "lậu" tức là khí cụ đo tính thời gian thời xưa, câu này nói không có giới nghiêm thì trống canh bất tất phải vồ vập thúc giục.
Bài th ơ này miêu tả cảnh sắc trong thành Trường An vào đêm Nguyên Tiêu. Theo sách "Đại Đường tân ngữ" và "Đường lưỡng kinh tân ký": hàng năm vào cái đêm này, trong thành Trường An đều có thắp hoa đăng; ba ngày liên tiếp ban đêm không có giới nghiêm, người xem đèn đông nghẹt. Xe ngựa của giới quyền quý qua lại nườm nượp, tiếng ca hát nói cười của dân chúng hòa lẫn nhiệt náo vô cùng.
M ới vào xuân, thế giới còn chưa tươi tắn sắc màu, nhưng ánh đèn Tết sáng lạn huy hoàng làm sao. Từ sự hình dung "cây lửa hoa bạc" có thể thấy phong cảnh ban đêm mỹ lệ rực rỡ đến dường nào! Vua Đường Duệ tông là vị Hoàng đế ham hưởng lạc nhất thời Đường, tuy ông ta chỉ làm vua trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng bất kể là tết nào ông ta cũng bỏ rất nhiều nhân lực vật lực phô trương một phen để ông ta du ngoạn. Hàng năm vào cái đêm Nguyên Tiêu, nhất định phải dựng những cột đèn cao hai chục trượng, thắp hơn năm vạn trản đèn, hào quang tỏa sáng như cây lửa (hỏa thụ). Nói "Hỏa thụ ngân hoa hợp" là vì nhìn đâu cũng giống như nhau. Chữ "hợp" này có nghĩa là "tương đồng", giống như trong câu "Bạch vân hồi vọng hợp" trong bài "Chung Nam sơn" của Vương Duy, hay câu "Lục thụ thôn biên hợp" trong bài "Quá cố nhân trang" của Mạnh Hạo Nhiên. Vì đâu đâu cũng cho phép dân chúng đi lại cho nên cửa thành cũng mở khóa. Bài "Thượng Nguyên dạ" của Thôi Dịch có câu: "Ngọc lậu đồng hồ thả mạc thôi, thiết quan kim tỏa triệt minh khai" cũng có thể đem ra ấn chứng. Bên ngoài thành ải là hào nước, "kiều" ở đây tức là cây cầu bắc qua hào nước. Cây cầu này những đêm bình thường tối hù, nay đã được tân trang đón tết, điểm xuyết vô số lồng đèn. Ánh đèn chiếu sáng, hào thành nhìn giống như một dòng sông sao trên trời, cho nên cũng biến cây cầu thành "tinh kiều". "Hỏa thụ", "ngân hoa" và "tinh kiều" đều tả ánh đèn, lối nhìn từ trên xuống của thi nhân, là phần tả toàn cảnh; đồng thời câu "Tinh kiều thiết tỏa khai" cũng cho thấy người du hành đông đảo, dẫn đến phần kế tiếp miêu tả cụ thể phong cảnh ngày Tết hơn.
Ng ười đổ xô ồ ạt, bụi bặm bốc dâng dưới vó ngựa cũng nhìn không thấy; ánh trăng chiếu đến mỗi một góc độ hoạt động của đám đông, ai ai cũng có thể nhìn thấy trăng sáng treo trên đầu. Ngày tết đèn lửa huy hoàng, chính là cái đêm trăng thanh gió mát. Dưới ánh trăng và ánh đèn, bọn ca kỹ trang điểm ăn vận hoa lệ, vừa đi vừa hát khúc "Mai hoa lạc". Đêm Nguyên Tiêu trong thành Trường An thật có lắm trò để thưởng thức. Cái gọi là "hoan ngu khổ nhật đoản" (vui quá mà ngày lại ngắn), bất tri bất giác đã về khuya, ai nấy lại vẫn ôm ấp tâm tình lưu luyến, hy vọng cái đêm Nguyên Tiêu năm nay đừng bương bả đi qua. Hai câu "Kim ngô bất cấm dạ, ngọc lậu mạc tương thôi" dùng tâm lý chung để miêu tả, kết thúc bài thơ, hết lời mà ý chưa hết, khiến cho người đọc còn vương vấn dư âm, có cảm giác ba ngày còn chưa dứt.
Nh ưng một quang cảnh trước mắt đã thu hút nó: lối vào phía nam Đông thị lúc đó hiện ra một vùng đất trống. Địa giới đó có dựng một núi đèn, đủ thứ đèn hình dạng hoa hoè kỳ xảo tầng tầng lớp lớp xếp thành một tòa núi, thực là tươi sáng. Nơi đó đang đốt pháo hoa, người xem chen chúc. Pháo hoa nổ cũng rất lý thú, nở bùng ra tuốt trên cao như một táng lá dày kín. Tiểu Kế đi đến gần, muốn xem xem làm sao đốt pháo hoa. Nó chen vào đám đông, thấy người phóng pháo thắp ngòi pháo, tiếp đó trên một cái giá cao mười mấy thước nổ bùng một cột ngân quang như thác đổ, tinh quang bay tứ tán, Tiểu Kế vừa hoảng hồn vừa khoái trá, bất giác há hốc miệng vỗ tay lia lịa. Lý Hoa bên cạnh nó tuy lăn lộn giang hồ lâu nay mà cũng không khỏi tròn mắt thưởng thức, lẩm bẩm: “Tuyệt kỹ kỳ xảo như vậy, nhất định không phải là trò của dân gian. Đây nhất định là ngón nghề của bậc thợ thầy trong cung”.
D ư Tiểu Kế xuất thân từ dòng Đại Hoang Sơn, cảm giác của nó nhanh nhạy linh mẫn lắm. Nó vừa nghe tới bốn chữ “thợ thầy trong cung” thì liền giật mình. Nó hơi biến sắc mặt, cảm thấy xung quanh thấp thoáng có sát cơ. Nó khẽ thốt: “Lý đại ca, bọn ta đi, có vấn đề”.
Nó v ừa nói xong mới phát giác người bên cạnh tuy đông, nhưng có kẻ không hơi không tiếng lén lút lấn về phía họ. Nó kéo tay Lý Hoa đi ra ngoài. Lý Hoa là một trong thập nhị Đảm vệ, võ nghệ đầy mình, lại từng trải trăm trận, vừa nghe nó nói liền cảnh giác. Có điều thanh âm bốn phía quá hỗn tạp, hắn cũng không có cách nào phát ám hiệu đã ước định trước khi xuất hành. Hắn và Tiểu Kế chỉ muốn đi thực nhanh, nhưng có quá đông người, có cố tới đâu cũng không nhanh được. Dư Tiểu Kế đang định thi triển thân pháp, chợt cảm thấy tay bị Lý Hoa kéo mạnh --- Lý Hoa thân người tráng kiện, kéo Tiểu Kế ra trước người mình. Bị kéo bất ngờ, Tiểu Kế hoảng kinh, tiếp đó lại hoảng vía phát hiện một mũi chủy thủ lòi ra tới trước ngực Lý đại ca. Nó mới vừa định la lớn, song thủ của Lý Hoa đã gồng quăng nó lên không, thoát khỏi đám đông, sau đó trở tay vặn cổ kẻ đánh lén mình. Trong đám đông có hai kẻ muốn lao về hướng Tiểu Kế hạ mình. Lý Hoa bỗng giơ tay kéo cổ áo tên kia, tên kia xoay mình đánh. Lý Hoa ôm chặt lấy hắn, trở tay quất lên lưng mình, mũi chủy thủ liền đâm qua lồng ngực hắn, đâm phập luôn vào tim tên kia. Dư Tiểu Kế trên không nhìn thấy vậy, nhiệt huyết trào dâng, thấy Lý Hoa còn ngó mình một lần cuối. Hắn không nói gì được, nhưng ý tứ của ánh mắt rõ ràng là muốn Tiểu Kế chạy cho mau. Cục trường huyên náo, đèn đuốc sáng ngời mà chẳng ai chú ý đến dị động kề bên. Tiểu Kế thấy thân ảnh của Lý Hoa ngã ụp xuống, chìm vào biển người.
Đ ây rành rành là một cuộc hành thích có tính toán! --- Mũi chủy thủ kia là “Long Môn thích” mà Tiểu Kế đã từng gặp qua, là binh khí độc môn của Long Môn Dị. Nhưng cảnh trí nơi này đúng là do bậc thờ thầy trong cung dựng, Đông cung hôm nay đúng là đã ra lệnh cho các nhánh toàn lực xuất thủ! Thân hình Dư Tiểu Kế mới vừa bay ra khỏi đám đông, đã có ba tên chờ chực chỗ nó sắp hạ mình --- Đây là một cuộc vây đánh hoàn mỹ, Dư Tiểu Kế làm sao tránh thoát. Nhưng vào lúc đó, chợt có nhân ảnh nhoáng hiện, người đó dùng thân mình bay đè lên binh khí của ba tên kia đang chỉa lên trên, đó chính là Ngô Lượng trong số bọn Đảm vệ. Hắn còn làm thêm một chuyện: giơ chân đá Tiểu Kế bay qua phía trái. Sau đó hắn đổ ụp xuống, hoàn toàn không lo mấy binh khí kia sẽ đâm xuyên qua thân mình, song thủ bóp cổ một tên, đôi chân cũng kẹp đầu một tên khác. Hai tên đó cả kinh, tên còn lại chẳng kịp truy kích Tiểu Kế, vung một đao chẻ lên hông hắn. Ngô Lượng dốc hết sức tàn vặn mình trên không, tay chân bắt xoắn, hai tiếng “cạch” khẽ vang, hắn đã bẻ gãy cổ hai tên kia. Có điều một đao của tên còn lại đã chém trúng, thân người Ngô Lượng đứt thành hai đoạn, mà tay chân hắn vẫn còn bám cứng trên cổ hai tên kia, không chịu buông lơi.
D ư Tiểu Kế mắt muốn toét ra. Nó vừa hạ mình xuống là liền muốn chạy ngược trở về cứu người, tay lại bị Triệu Trác chờ nơi đó kéo giữ. Triệu Trác đưa nó lên ngựa, đánh vào mông ngựa một chưởng, con ngựa lập tức vọt đi. Xung quanh người qua kẻ lại, còn có kẻ buôn bán gánh quầy. Đêm sáng rõ, là ánh đèn sáng, nhưng con đường bên dưới ánh đèn và đoàn người thực ra rất tối. Dư Tiểu Kế mới định xoay lại thì thấy Triệu đại ca cũng vọt lên ngựa, ôm đè nó xuống, bên tai nó rin rít tiếng ám khí xé gió, sau đó nghe Triệu Trác rên khẽ một tiếng, biết hắn đã thụ thương. Tiểu Kế định ngồi dậy xuất thủ, nhưng nó hoàn toàn không có kinh nghiệm đối phó cuộc vây giết giữa đám đông có tính toán kỹ càng này. Phải chờ đến lúc Triệu Trác ấn cổ nó một cái, đẩy nó xuống bụng ngựa thì nó mới xuất thủ được. Trong mình nó luôn luôn có mang đoản đao “Hàm Thanh” của Ngạc ca, lưỡi đao tuy ngắn nhưng chuôi có cột dây. Vòng dây trong tay Triệu Trác cũng đánh xa đánh gần, con ngựa mau mắn chở Tiểu Kế xông về phía cửa ra mặt nam Đông thị.
H ọ mới đến cửa ra, ở đó có mấy thớt ngựa và bảy tám Đảm vệ vừa kéo đến. Triệu Trác phất tay, kéo Tiểu Kế ra quăng cho một Đảm vệ. Tiểu Kế còn chưa kịp nói gì thì người đó đã lôi nó lên ngựa, phóng nhanh về hướng nam. Nó ngoái đầu lại nhìn, đột nhiên thấy có một luồng sáng bay vọt lên, đầu Triệu Trác văng ra.
Ngoài Đông thị quang tuyến rất mờ tối, cái đầu toé máu bay vào bóng đêm, mắt Triệu Trác còn trừng trừng nhìn về phương hướng Tiểu Kế phóng chạy --- Hắn là tử sĩ, chúng có thể hành thích Tiểu Kế thành công, nhưng tới chết hắn cũng không để địch nhân đắc thủ!
o0o Đến khi người của Liên Ngọc phái đi đến được phường Thái Bình tìm nơi trú ngụ của
M ạc Thượng Mai thì bỗng phát hiện nơi đó tình hình không ổn! Đó là một hoa viên không lớn lắm, nhưng trong vườn cành lá ngã nghiêng, đồng thời rõ ràng có kẻ ẩn mình. --- Thì ra chúng cũng biết đến chỗ này? Hàn soái biết Tiểu Kế gặp nguy cơ ở Tư Tử đài, muốn nhờ Mạc Thượng Mai viện trợ. Người báo tin vốn là người trong Liên Thành Kỵ, rất rành về thực lực của nữ phỉ kia. Hắn biết tin mình truyền hết sức trọng đại, vừa định mở miệng la lên cảnh báo, đồng thời cũng lao về hướng một gian phòng còn thắp đèn thì cổ đột nhiên bị một sợi thòng lọng thắt giữ. Người lính gồng mình vùng vẫy, nhưng miệng không thốt được tiếng nào. Hơi thở của hắn càng lúc càng ngắn lại, sứ mệnh của hắn chưa hoàn thành, hắn không cam lòng, hắn chẳng cam lòng đâu! o0o Ngoài cửa An Thượng, con đường giữa hai phường Bình Khang và Tuyên Dương không đông đúc náo nhiệt như ở Đông thị, mà vắng lặng chẳng một bóng người, có vẻ hắc ám --- Sự ồn ào nhiệt náo của Trường An thành hôm nay đều tập trung ở hai chợ Đông, Tây và trong cung. Một thớt ngựa Chuy chợt phi vào con đường này, nó phóng rất nhanh. Nơi đó cách đài Tư Tử không xa. Con đường quá tối tăm. Thớt ngựa Chuy mới vừa phi qua cửa sau của một tòa viện lớn, bên cửa chợt hiện ra một bóng người, tay cầm Song nhận đen thui --- Đây mới là cục trường chính gầy dựng đêm nay, một trận mai phục, đã mai phục từ rất lâu, mà người bị hành thích là gã Hàn Ngạc vang danh sa mạc, lừng lẫy lưỡng đô kia. Kẻ phục kích là “Song Nhận” Vi Đĩnh. Hắn biết tiếng tăm của Hàn Ngạc đâu phải hư danh. Có điều hôm nay hắn không phải đối đầu thẳng, mà là phục kích. Song nhận của hắn đã sơn đen, khó mà nhận ra trên con đường tăm tối này. Hơn nữa Song nhận nội kình một chính một phản, tiêu trừ lẫn nhau, một chiêu đó không phát ra tiếng động nào cả. Hắn đã từng gặp Hàn Ngạc ở cửa Hàm Quang. Ngày hôm đó chúng không ngại giả làm tùy tùng của Ngô Tất Chính --- Sáu cao thủ: Thương Sơn Tứ Hạo, Bốc Ưng và hắn. Chực chờ trong bóng tối, hắn hồi tưởng lại hôm nọ, không khỏi cảm thấy tức tối: nào có ngờ để cho gã chạy thoát! Nhưng cuộc tập kích hôm nay hắn cần phải đắc thủ. Nếu không, cái danh “Song nhận phục kích, trăm lần không thoát một” làm sao mà dùng được nữa? Người trên ngựa tựa như hoàn toàn không cảnh giác. Mà như vậy thì Vi Đĩnh lại càng phải cảnh giác hơn. Đúng vào khoảnh khắc song nhận của hắn ép tới mông ngựa mà người trên ngựa vẫn chẳng có động tịnh gì, trên không bỗng nổ bùng một luồng ngân quang. Ngân quang như đột nhiên nổ giữa lòng đường, hết sức bất thình lình --- Bốc Ưng vốn chờ trên mái ngói bên đường, đao quang của y sao lại có thể đột nhiên bừng sáng ở lòng đường vậy? Vi Đĩnh cùng Bốc Ưng tề danh hơn hai chục năm trời, theo Đông cung cũng gần hai chục năm, nhưng hắn vẫn không hiểu nổi đao của Bốc Ưng sao lại xuất hiện vào thời điểm đó --- “Bất Trắc Đao” quả nhiên khôn lường! Nhưng chuyện càng làm cho hắn không lường được lại là tiếp sau đó. Hắn thấy một cái đầu người bay lên, còn chưa rõ là đầu ai, đánh xong lui lại liền, sau đó mới nhận ra là đầu của người trên ngựa. Con ngựa vẫn phi tới trước, rải rắc một đường máu. Bốc Ưng tựa hồ cũng bàng hoàng --- Y đâu thể nào đắc thủ dễ dàng như vậy. Y và Vi Đĩnh đưa mắt nhìn nhau, ngẩn ngơ một hồi, đột nhiên mặt mày biến sắc: “Không phải là Hàn Ngạc! Tuyệt không thể là Hàn Ngạc!”. --- Vậy Hàn Ngạc đang ở đâu? Hàn Ngạc hiện đang ở đâu? Bên đài Tư Tử, Dư Tiểu Kế lúc đó cũng đang thầm kêu lên: “Ngạc ca đang ở đâu, Ngạc ca huynh hiện giờ đang ở đâu?”. o0o Hàn Ngạc lúc đó lại vẫn còn trong cung. Gã vừa nghe tin, dặn dò Liên Ngọc xong là tung mình vùng thoát khỏi sự chú ý của mọi người. Sau đó lợi dụng bóng tối, thân hình của gã trở quẹo sang hướng bắc, chạy về phía điện Trường Lạc. --- Cuộc cờ hôm nay, địch thủ đã tính toán chu đáo, chúng đương nhiên cũng có tính toán tới mình. Tiểu Kế giờ phút nào còn ở cạnh mình, giờ phút đó chúng không thể nào động thủ. Nhưng gã với Tiểu Kế hiện đã tách rời, có muốn hội hợp lại đâu phải dễ. Bên ngoài tường cung thành, chúng nhất định đã chuẩn bị đón chờ mình --- Đây nhất định là một trận vây đánh. Tuy nói mình không sợ, nhưng chỉ cần bị cầm chân, Tiểu Kế e phải gặp bất trắc. Gã nghĩ đến gương mặt của sáu kẻ mà gã từng gặp ở cửa Hàm Quang, lòng rúng động: sáu tên đó toàn là cao thủ, nếu chúng liên thủ vây đánh, sợ rằng mình nhất thời khó mà xông ra được. Cho nên chọn lựa của gã lại là trở về điện Trường Lạc. Hàn Ngạc đột nhiên trấn định tâm thần, gã đang ở bên hồ Ngọc Nương. Cái gọi là Ngọc Nương hồ thực ra chỉ là một cái đầm gần điện Trường Lạc, chỉ cách một cung viện. Bên hồ liễu rũ xanh rờn. Hàn Ngạc hít một hơi sâu, gã phải nhờ vào thời gian một hơi thở này để định thần --- Gã không liệu được có bao nhiêu nhân thủ hộ vệ bên cạnh Đông cung Thái tử. Hơn nữa chưa đến nước vạn bất đắc dĩ, gã cũng không thể trở mặt chính thức. Hít một hơi đó, gã có cảm giác không hay, dưới bẹ sườn hơi đau, đầu óc càng bấn loạn hơn. Hôm trước lúc mới nghe nói phụ thân đã chết, gã quá bi thương, biết đã làm chấn động đến chỗ căn bản luyện khí của mình. Sau đó giận dữ tuốt kiếm phế trừ Ngải Khắc ở Di vương phủ, gã cho rằng có thể lấy đó mà chặn giữ thương thế không cho làm thương tổn đến căn cơ. Nhưng giờ hít vào một hơi, gã mới cảm thấy khí tức của mình vận hành đã có trở ngại! Gã rúng động tâm thần, tu vi của gã là nền tảng cho gã đứng. Lòng gã chợt xót xa nghĩ đến: gã cứ cho rằng mình đã quên lãng cha già, nhưng cái chết của phụ thân vẫn là đả kích nặng nề nhất trong suốt hơn hai mươi năm qua đối với gã! Sự đau xót đó lại chẳng thể nói ra. Từ khi vào Trường An đến nay, triều chính trói buộc, đâu đâu cũng bị lôi kéo, sự tu tập của gã bị gián đoạn thường xuyên, bản thân cũng cảm thấy nhuệ khí trên mình tựa hồ đã tản mác một phần lớn --- Gã không còn là thiếu niên rút kiếm tập tành, tung hoành chốn không người im hơi lặng tiếng như xưa --- Ngựa xe mũ áo, ngựa xe mũ áo, ai ai cũng nhìn thấy cái vinh quang chót vót của gã, lại không chú ý đến vào khoảnh khắc ngồi trên ghế nhị phẩm, thanh danh nhất thời có một không hai, cái thế đứng mà gã dựa vào, cái nhuệ khí giúp gã tồn tại, bao nhiêu tu vi cơ hồ đã tiêu tán quá nửa. Hàn Ngạc đã sớm nhận thấy, nhưng nào phải gã chẳng còn cam tâm khổ tu, đã đam mê phú quý, mà thực ra cục thế xung quanh đã nhiễu loạn tu vi của gã. Cuộc cờ ở Trường An mà gã lọt vào quả cũng khiến cho gã khó lòng xoay trở. Trong vòng giao tranh của Đông cung và Bộc Xạ Đường, ban đầu gã mới đến, thế lực vốn cực yếu, phải nói là yếu nhất. Nhưng trên cái cán cân đang nằm ngang, sự có mặt đột ngột của gã lại làm biến đổi sự cân bằng đó. Cục thế tựa hồ thấy rõ hễ gã nghiêng về trái thì trái thắng, nghiêng sang phải thì phải ăn. --- Đây là cục diện khác xa cái lúc gã ở tuốt vùng mười lăm thành Tây Vực: đánh với Khương Nhung, ngươi chết thì ta sống, đó là một chọn lựa rành rành; nhưng tranh đấu trong triều, lòng bàn tay hay lưng bàn tay, trở qua trở lại, thứ chém giết này là thứ gã không có sức để dâng hiến, cũng bất nhẫn gánh vác. Đông cung mà nắm chính quyền, hệ thống văn quan dưới trướng Bộc Xạ Đường Trần Hy Tái sẽ có bao nhiêu người toàn gia bị diệt? Còn nếu Đông cung ngã, thiên hạ có loạn không? Đừng nói gì khác, e là toàn gia Phương Ninh cũng phải gặp bất trắc. Những người đó lại đang chấp chưởng binh quyền các nơi, đây đúng là một cục diện nguy nan. Tuy nói hành động của họ xưa nay Hàn Ngạc đâu có thích thú gì, song gã biết đây là nhân thế. Gã không có sức tạo ra một cõi đời sáng sủa mới mẻ, gã không có quyền hủy diệt cái quy tắc sống tạm bợ trong thối rữa kia. Trong cái quy tắc đó, có bao nhiêu ngươi thả mình tạm bợ mà sống thực được chứ! Sư phụ năm xưa nói con người của gã hay lo lắng nghĩ suy quá, không phải hình tượng của bậc tông sư: cái gọi là “cô âm bất trưởng, độc dương bất sinh”3, gã chỉ dựa vào vào độc một khí dương cương, chỉ bằng vào độc một dòng Thiếu Dương trong chân khí mà mình tu luyện, tuy nhờ vậy mà được tiểu thành, nhưng cũng trở nên mối họa ngầm lớn nhất của gã. Một khi lọt vào cục diện hỗn loạn, có chuyện phải phân tâm, khó tránh khỏi bị tiêu tán chân khí. Mà cục diện triều chính lại là cái âm dương trộn lẫn, kẻ có khí chất bao la bát ngát mới có thể đứng được --- bởi mình phải chịu đựng những âm mưu, những ô trọc. Gã ở Trường An càng lâu, càng cảm thấy sức nặng của âm khí ở đây gã gánh không nổi. Tu vi vốn phụ thuộc vào lề lối. Sau khi vào Trường An, gã xem có vẻ trấn định, thực tại lề lối đã loạn, bản thân cảm thấy Trường Canh vẫn còn trong tay, nhưng đâu còn là Trường Canh của ngày xưa nữa. Cái chết của phụ thân cách đây nửa tháng đã làm cho tâm lý gã bị tổn thương nặng nề. Giờ phút này, tâm lý gã thực đang trống trống không không, gã không còn biết mình tại sao lại gầy dựng tu vi, tại sao sống --- Cuộc sống này là vì cái gì? Gã tới giờ mới hiểu bao nhiêu hành động của mình trước đây toàn là phản kháng. Nhưng mục tiêu phản kháng một khi mất đi, sống còn, cái động lực để tiến tới còn đâu nữa? Đầu ngón tay Hàn Ngạc run run, gã nếu vì cứu Tiểu Kế mà gây thương tổn cho phe Đông cung, cho dù cứu được Tiểu Kế, sự cân bằng một khi bị phá, cục diện tiếp theo chẳng biết có sẽ đi đến mức máu chảy thành sông hay không? Đông cung cùng Bộc Xạ Đường đều không sai, họ đã sống trong cái phép tắc của cõi đời này từ thuở ban đầu, kẻ sai tựa hồ là mình và Tiểu Kế đã xâm phạm vào Trường An. Đủ thứ kết cục, chẳng có cái nào không có máu, cho dù thực như sở nguyện của Dư Tiệp: có mình phù trợ, Tiểu Kế đăng cơ thống trị giang sơn, kết cục cuối cùng cũng là máu. Hàn Ngạc khí huyết trào dâng trong lòng, nhất thời có vẻ khó mà khống chế được. Gã kêu khẽ một tiếng, vọt mình chúi đầu vào hồ Ngọc Nương, một hồi lâu không nổi lên --- Gã muốn mượn hơi lạnh độ trong của nước để giải trừ đi tạp niệm. Dù sao, Tiểu Kế gã phải cứu cho được, nhất định phải cứu! Tới khi gã ló đầu ra khỏi mặt nước, bên tai chợt nghe có tiếng tiêu. Tiếng tiêu dịu dàng uyển chuyển, trong lành thấu suốt. Gã nhìn lên bờ, thấy có một người thân thể cao thon đứng ở một chỗ liễu rũ rậm rì bên bờ hồ không xa mấy, dựa vào một thân cây mà thổi tiêu khe khẽ. Thân hình của người đó chỉ cho thấy sau lưng, lại khiến Hàn Ngạc có một cảm giác quen thuộc khôn tả. Gã tựa hồ nhận ra người đó, vì phong thái kia vốn là cái khó quên. Người bên cạnh người đó lại càng làm cho Hàn Ngạc thất kinh, là một nữ tử diện mạo xấu xa vô cùng, chừng như đã từng bị thiêu hủy --- Là nữ tử từng giúp mình thoát khỏi trận thế trong Chi Lan viện! Hàn Ngạc kinh ngạc, nhưng lòng gã hiện đang khẩn trương, đâu kịp nghĩ ngợi gì, lập tức lao về hướng điện Trường Lạc.
3 Một mình âm hay một mình dương thì không sinh trưởng được, ý nói chỉ bằng nhân tố hoặc điều kiện về một mặt mà thôi thì không thể xúc tác thành sự xuất hiện hay sự sinh trưởng của sự vật.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 81 Gia tán vạn kim thù sĩ tử1
Dân chúng ở ở hai chợ Đông Tây vẫn huyên náo hết mình. Tuy có người bị giết, thậm chí bị giết ở nơi ánh đèn huy hoàng nhất, nhưng đao quá nhanh, mà thi thể mới ngã vật ra lại liền có người dọn dẹp --- Ô Trấn Hải đang cai quản việc bảo an, đang khẩn trương mà vẫn hạ lệnh cho thanh lý, thủ hạ của Đông cung và Long Môn Dị cũng dọn dẹp thi thể của song phương, thậm chí bá tánh chỉ thấy rối ren chút ít, còn chưa phát giác thực ra đã xảy ra chuyện gì thì đã yên ổn trở lại.
--- Ch ẳng một ai muốn phá cục diện phồn vinh nhiệt náo này, vì mưu đồ của kẻ sát nhân cũng là khống chế cục diện nhiệt náo này. Cơ hồ không còn đường lựa chọn, Tiểu Kế dưới sự hộ vệ của bảy Đảm vệ bắt đầu chạy trối chết. Người của “Long Môn Dị” quả nhiên tinh thông vây giết, huống hồ chúng lại có Đông cung trợ lực. Chúng một mực ép bọn Dư Tiểu Kế chạy về phương hướng chúng đã dự định sẵn. Đằng trước là một ngõ cụt, chúng chọn nơi đó để động thủ. Cuộc cờ giết Tiểu Kế đã định: nếu ám sát không thành công ở chợ Đông, chỗ tuyệt mệnh tiếp đó là cái ngõ cụt này. Dư Tiểu Kế cùng bảy Đảm vệ còn định đột phá quay về khu viện nơi họ trú ngụ, ở đó có trận thế mà Tiểu Kế bày bố. Nhưng thời thế đâu để người quyết định, Dư Tiểu Kế cùng bảy Đảm vệ đâu còn đường chọn lựa, chỉ còn nước nhắm vào hướng duy nhất mà bọn vây đánh lưu lại để chạy táng mạng. Bốn bề đâu đâu cũng là hẻm nhỏ tối đen, mái nhà tối đen, những cây hoè già tối đen, giữa cái bóng đêm tối đen đó, Dư Tiểu Kế cũng biết đằng trước tất là đường chết. Thân người nó bỗng thoát khỏi yên ngựa, chủy thủ quật về phía một mái ngói bên hông, ở đó có kẻ đang định phóng ám khí. Tên nọ cũng không ngờ nó xuất thủ nhanh đến thế, chỉ nghe một tiếng “úi chao”, hắn rớt bịch xuống đất. Ngõ hẻm trong thành Trường An có trật tự lắm, đường xá tề tề chỉnh chỉnh, ngang ra ngang dọc ra dọc. Họ chạy tới nữa là đến phường Tĩnh Cung. Phường này ở phía trên nội thành, đằng trước nhất định là đường chết. Dư Tiểu Kế nằm rạp trên ngựa, chợt nói với bảy Đảm vệ: “Bọn ta chia binh hai ngã, tôi chạy tới trước, các người rẽ qua phía trái”. Bảy Đảm vệ ai nấy cũng “hừ” một tiếng chẳng đáp --- Họ biết cục diện hôm nay hung hiểm, cơ hồ là cục diện phải chết chắc, nhưng nếu không có chọn lựa nào khác, nhất định phải toàn quân bị diệt, thì kẻ chết cuối cùng cũng phải là Tiểu Kế! Họ không thể để một người nào trong số còn sống mà lại chứng kiến cái chết của Dư Tiểu Kế. Nháy mắt đã đến đầu đường, không có Đảm vệ nào hoành cương rẽ đi, trái lại Dư Tiểu Kế bỗng dưng kéo đầu ngựa xông sang phía trái. Bảy Đảm vệ khẩn trương, nhất tề bẻ đầu ngựa. Kẻ vây đánh cũng không ngờ Dư Tiểu Kế xông tới, nghe có tiếng gió rít vang lên ở đầu đường tối hù, nháy mắt Dư Tiểu Kế đã đâm trúng một mạng, bản thân nó bên hông cũng ướt đỏ. Một vòng thòng lọng tung bay trên không, một người trong số bọn Đảm vệ phóng thòng lọng lôi Tiểu Kế lên ngựa của hắn, tức tối thốt: “Ngươi đừng có hòng một mình làm hào kiệt, bỏ bọn ta vào nước này!”. Dư Tiểu Kế cười thảm, đêm nay vì nó bị đánh mà mười một Đảm vệ chỉ còn bảy. Lúc này họ sắp chạy vào một cái ngõ nhỏ tối thui, thình lình trên không truyền vọng một tiếng mèo kêu quỷ dị. Dư Tiểu Kế nghe vậy thì hơi biến sắc mặt. Họ mới vào đến hẻm thì thấy trên một bức tường trong hẻm thoạt ló ra một người giơ tay vẫy họ. Có người trong bọn Đảm vệ muốn xuất thủ, Dư Tiểu Kế chợt kêu lên: “Đừng!”, sau đó thấp giọng: “Là người giúp bọn ta”. Nói xong nó vọt mình lên, lộn qua bức tường. Bảy Đảm vệ thấy vậy cũng đồng thời phi thân lộn vào trong. Bên trong là một tòa nhà bỏ hoang, bọn họ những ngày qua cũng đã rất quen thuộc đường đi nước bước trong thành Trường An. Một người trong số nói: “Là nhà của Lương vương xưa”. Trong nhà có một cái vườn hoang, trong vườn có đài, cả bọn ngẩng lên, thấy trên đài có biển khắc ba chữ “Tư Tử đài”. Dư Tiểu Kế vừa hạ mình trong vườn, ngước lên nhìn quanh --- Ở đây không có cây cối che chắn, ánh trăng sáng chói. Nghe bên bụi rậm cây cối um tùm vang lên một tiếng mèo kêu, lần này bảy Đảm vệ nhận ra là tiếng người giả, nhưng không phải phát ra từ cổ họng, quái dị khôn tả. Sắc mặt của Tiểu Kế cũng biến thành hơi quái dị, nó lách mình thốt nhanh: “Theo tôi”. Nói xong liền dẫn bảy Đảm vệ bỏ đường chính mà lòng vòng quanh quanh quẹo quẹo trong vườn. Một trong số các Đảm vệ chân bị thương, vô ý đi sai một bước, liền cảm thấy trước mắt mờ mịt. Dư Tiểu Kế vội vàng kéo hắn đến bên cạnh. Nó khẽ thốt: “Có trận thế. Đáng tiếc chỉ bố trí sơ sài. Chắc không hiệu dụng gì mấy nếu đối phó bọn Long Môn Dị”. Vừa thốt, nó nghe thấy bên ngoài tường không xa cửa vườn vang vọng tiếng người nói --- Đó là truy binh đã kéo đến. Dư Tiểu Kế lại chuyển mình, vòng qua một vườn hoa, dẫn bảy Đảm vệ dừng ngoài một cái đình hoang lương cây cỏ mọc loạn xạ. Cái đình đã hư mục, Dư Tiểu Kế lại tựa như nhận ra gì đó, giơ tay ra dấu cho bảy Đảm vệ đừng lên tiếng. Nó thấp giọng: “Xem ra bọn họ cũng không chuẩn bị kịp --- Trận thức này sắp đặt hết sức lỏng lẻo. Bất quá chỉ cần kiên trì chờ đến khi Ngạc ca tới”. Nói xong, nó đi một mình tới trước, dời chuyển cây cối. Sau khi nó sắp xếp xong, bảy Đảm vệ hồi nãy có cảm giác hoa lá che chắn tầm mắt, cái gì cũng không nhìn thấy rõ, tới giờ cục thế trong vườn vụt hiện ra mồn một. Dư Tiểu Kế miệng thì thầm: “Trận thế sơ sài như vầy, chắc kẻ bố trận cũng không có mấy ai, sao lại có thể như thế được chứ?”. Nó chợt im bặt, đứng yên không nói tiếng nào. Trong bọn Đảm vệ có người tính tình nóng nảy định mở miệng, chợt thấy nó bấm bấm mười ngón tay, có vẻ đang tính toán gì đó. Một khắc sau nó chợt nói: “Vương đại ca, bốn người các người đứng ở đây”. Nói xong nó dẫn bốn người sang bên trái cái đài trống không. Tiếp đó nó lại dẫn ba người còn lại tới một chỗ cách đó chưa đầy hai chục bước, cả đám đều mượn cây cỏ che giấu thân hình. Nó nói: “Nếu có địch đến, các người ghi nhớ chỉ có thể đứng yên tại chỗ mà xuất thủ, địch thủ có thụ thương cũng dứt khoát không ra truy kích”. Nói xong thân ảnh nó lắc lắc lư lư mấy lượt, biến mất không còn thấy đâu nữa. Bảy Đảm vệ cả kinh, đầu lãnh Vương Xứ Tích nói: “Không ngờ Tiểu Kế còn có viện thủ. Bọn ta nghe lời nó đi, không cần để ý là ai!”. Hắn nói xong thì nghe có mấy tiếng la thảm vang vọng. Họ ngước lên nhìn, thấy trong số hai mươi mấy tên mới tiến vào viện có vài kẻ đi gần cây cỏ thì đột nhiên cành lá phất động. Thấp thoáng chỉ thấy ánh sáng lấp loáng, lại có ba bốn tên thụ thương. Bọn địch thất kinh, có một tên trán cao nghệu, trên đầu có hai cục u như hai cái sừng phất tay, bọn còn lại dừng khựng hết. Một trong bảy Đảm vệ hừ khẽ một tiếng: “Long Uyên Các! Là Long Uyên Các trong Long Môn Dị! Mấy kẻ còn lại đầu cũng có sừng, lẽ nào Long Môn Dị đã kéo rốc đến hết? Long Môn Thất Phiến Lân hôm nay đã có mặt cả đám rồi!”. Hắn vừa nói xong, lại nghe tên mà hắn gọi là “Long Uyên Các” lạnh lùng hừ: “Dư nghiệt của Đại Hoang Sơn không ngờ cũng dám bày trò trước mặt Long Môn Dị bọn ta. Đáng tiếc, đáng tiếc, Thập Sá đồ của các ngươi hung ác thì có hung ác, nhưng bày bố sơ sài như vầy, tổng cộng cũng bất quá có sáu bảy người thôi, phải không? Trận thế này còn chưa thành hình mà!”. Nói xong hắn phất tay: “Bày ra Long Tưu đại trận vây giữ chúng”. Thủ hạ của hắn chừng như đều là người tinh thông trận pháp, chúng chia nhau túa ra, lần theo tường vườn hình thành một vòng vây. Bên cạnh Long Uyên Các bao gồm cả hắn còn lại tổng cộng bảy tên, chắc là Long Môn “Thất Phiến Lân”. Hai mươi mấy tên kia mới vừa tản ra, thấy chúng nhổ hoa nhổ cỏ, dời đất dời đá, chém chặt cành cây đi tới. Bảy Đảm vệ có cảm giác cảnh trí trong khu vườn bên cạnh lung lung lay lay. Dư Tiểu Kế đột nhiên lại hiện thân bên cạnh họ --- Thì ra nó đứng đâu có xa. Sắc mặt nó hơi có biến: “Chúng quả nhiên đã kéo hết tinh nhuệ tới, không ngờ nhân thủ ở đây cũng có thể sắp đặt Long Tưu trận!”. Bảy Đảm vệ biết nguy cấp, lúc đó lại thấy Long Môn “Thất Phiến Lân” đột nhiên nhún mình bay lên, phương vị không đồng nhất, một loạt vọt đến mấy chỗ giữa khu vườn. Bảy tên mới lao lên, không trung lất phất một tấm khăn choàng. Tấm khăn choàng đó không biết dệt bằng chất liệu gì, hết sức mỏng manh, tỏa ra bảy góc độ bay lên, nhấp nháy ánh lân tinh. Bảy Đảm vệ tới giờ mới biết tại sao chúng được gọi là “Thất Phiến Lân”! Ánh lân tinh đột nhiên đè ép lên bảy phương vị cực kỳ quái dị trong khu vườn. Bảy Đảm vệ hoảng hồn, chợt cảm thấy cảnh vật đảo lộn, tựa hồ trong khoảnh khắc mọi vật hiện ra rõ rệt hết. Lại thấy trong khu vườn đó, dưới gốc cây, bên tảng đá có thân ảnh của năm sáu người nằm phục, mấy người đó đều mặc quần áo màu vàng sẫm, thì ra Thập Sá đồ kia do bọn họ bố trí. Có điều bọn họ giờ đã hiện thân, làm sao mà địch lại “Long Tưu đại trận” do Long Môn “Thất Phiến Lân” liên thủ? Không trung chợt vang lên một tràng cười, thanh âm lạnh lẽo, tựa hồ băng đá vỡ từng mảng rơi rụng xuống vườn. Tràng cười vừa thoát ra, cảnh vật trong vườn có biến. Hết sức đột ngột, cây cối chừng như tối sầm đi, ánh trăng trên trời nháy mắt đã mờ mịt hẳn, thời gian như bị kéo trở ngược lại, đình đài bốn bề như biến mất, hoa cỏ không còn tung tích, nơi đây sâu sâu kín kín, mơ mơ hồ hồ, cứ như một tòa núi hoang sơ. Sau đó bên cái đài hoang ở giữa khu vườn đột nhiên xuất hiện một bóng người, thân thể yểu điệu, lách mình vài lượt đã lượn vòng qua cái đài hoang. Phàm chỗ nào người đó đi ngang, tựa như có một vùng khói xanh bốc lên. Sau khi cảnh vật bốn phía chấn động thì đột nhiên tối sầm đi. Nhân ảnh của những người bố trận mới hiện ra trong Thập Sá đồ nháy mắt đã không còn thấy đâu nữa. Người bên cái đài hoang lượn quanh rồi hạ mình trên đài. Vẫn không thấy rõ được bộ dạng của y, chỉ nghe “Thất Phiến Lân” khẽ kêu lên, chia nhau xuất thủ, ba người tấn công về phía đài, bốn tên còn lại hoặc đánh lên đá, hoặc quật lên cây. Nhân ảnh bay lượn khắp nơi, bảy tên Long Môn ôm ngực rớt xuống, trên đài lại có một người chậm rãi hạ mình. Trước hết chỉ thấy hắc ý nhoáng lên, sau đó bóng đỏ hơi lất phất, nhưng sắc đen vượt trội. Người đó thân pháp kỳ ảo, bọn Thất Phiến Lân biến sắc mặt, có kẻ chợt cắn toẹt ngón giữa, phất máu tươi tung toé lên đài. Nhân ảnh trên đài vụt hiển lộ chân diện mục. Người đó toàn thân vận hắc y, khoác áo choàng, hai cổ tay áo đều có thắt dây đỏ, ánh sắc đỏ lơ thơ lên quần áo đen, hết sức bắt mắt. Đó là một nữ tử, trên mặt nàng ta có che một vuông sa tươi tắn. Người trong Long Môn Dị vẫn chưa nhận ra nàng ta là ai, trong số bảy Đảm vệ có người khẽ thốt: “Mạc Thượng Mai!”. Thanh danh Mạc Thượng Mai đã sớm vang truyền khắp mười lăm thành Tây Vực, nàng là con gái mà lại làm ăn cướp, ngay cả các tướng sĩ trong Liên Thành Kỵ cũng phải cảm thấy hiếu kỳ về người con gái này. Nàng đến đi như gió, dưới trướng đa số là dũng sĩ Y Ngô. Sau khi độc lực đánh ngã Đại Mạc vương, nàng đã gần như độc bá mối lợi mậu dịch tơ lụa và hương liệu miền tây bắc. Bọn Đảm vệ luôn luôn cảm thấy nàng hết sức thần bí, lại làm sao mà ngờ sẽ tương phùng trong khu vườn hoang ở Trường An thành này. Nàng sao lại đi giúp Tiểu Kế? Mạc Thượng Mai lạnh lùng lên tiếng: “Chớ có cho Thập Sá đồ ta bày biện sơ sài mà khinh khi. Long Uyên Các, ngươi với ta có oan cừu hai đời. Hờ hờ, ở Lạc Dương thành, hôm xưa trong ngõ Luân Hồi nào có đất cho Long Môn Dị các ngươi đứng! Hiện giờ Long Tưu trận không ngờ cũng dám lớn tiếng sao? Mạc Thượng Mai ta hôm nay phải phục thù. Dư gia gần hai chục năm trời nhẫn nhục tiềm ẩn, nay ta nào có sợ dốc hết hàng ngàn hàng vạn lượng hoàng kim, dòng Đại Hoang Sơn vẫn còn lắm tử sĩ chiến đấu cho họ Dư. Long Môn Dị các ngươi có muốn lộng hành cũng khó đó!”. “Thất Phiến Lân” chẳng nói gì, nhưng đám Đảm vệ tuy thấy bốn bề tĩnh mịch, vô số cây cỏ đột nhiên không có gió mà lung lay, cảnh vật ban đầu còn nhìn thấy được, thình lình lại rung động. Hai mươi mấy thủ hạ của Long Môn Dị vây quanh vườn đang chậm bước tiến tới, nhưng gần thêm một bước lại tựa hồ càng khốn khó vô hạn, khiến cho chúng có muốn lấn đến cũng không lấn nhanh được. Khi co thắt đến một mức độ nhất định, vòng vây chợt khựng lại. Từ cái đài hoang nhìn vào trận, nhân ảnh của bọn “Thất Phiến Lân” có vẻ ảo hiện một màn lân quang. Cuộc đấu quỷ dị gì đây? Bọn Đảm vệ bị trận thế che mắt, nhìn không rõ phương vị của “Thất Phiến Lân”, càng không nhận ra Mạc Thượng Mai xuất thủ, nhưng thân hình của nàng ta tựa hồ vẫn là cái thực tại duy nhất giữa màn lân quang. Nàng vọt mình lên, hắc y che trời, tơ đỏ lấp loáng, nhoáng lên giữa màn lân quang. Nàng muốn độc lực kháng cự “Long Tưu” đại trận kia sao? Nữ tử kia thực ghê gớm, bảy Đảm vệ nhất thời cảm thấy: anh thư thời nay, trừ Đỗ Phương Ninh ra, nữ tử kia đúng là hạng họ chưa từng thấy! Dư Tiểu Kế thân hình thân hình hơi di động, cũng kéo bảy Đảm vệ dời chuyển. Lòng nó đang lo lắng --- Đem trận Thập Sá đồ bí trí sơ sài này đối đầu với Long Tưu trận mà Long Môn Dị huấn luyện hết sức chặt chẽ, xem ra cũng thực khốn khó, nhưng vẫn có thể trì hoãn lần lữa được. Song le chẳng biết Đông cung còn có viện thủ kéo đến hay không! Chợt nghe ngoài ngõ truyền lại một tiếng hí vang, Tiểu Kế mặt mày mừng rỡ: “Ngạc ca!”. Nó hú dài một tiếng, con ngựa ngoài vườn cũng hí đáp. “Thất Phiến Lân” thất kinh, thấy ngoài cửa vườn cách mấy trăm bước chợt có một thớt ngựa phóng vào. Trên lưng ngựa có một người, Tiểu Kế vòng ra ngoài trận đón liền, lại thấy không trung có hai nhân ảnh bay vút, quật xuống lưng ngựa. Nghe người trên ngựa rú khẽ, vụt ngã ụp xuống --- Đó lại không phải là Hàn Ngạc! Là một binh sĩ trong đội vệ binh, đồng bạn của hắn bị “Bất Trắc Đao” chém chết, hắn đợi ở đằng trước, nhảy lên ngựa phóng đến đây để dâng ngựa cho Tiểu Kế. Hai tên vừa tiến vào định xuất thủ giết ngựa. Ban Chuy lại vọt mình lên, cước lực của nó cực mạnh, “Bất Trắc Đao” Bốc Ưng cùng “Song Nhận” Vi Đĩnh không ngờ cũng đánh hụt. Tiểu Kế cũng lao lên bắt lấy cương, nhảy lên yên ngựa. Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh đã đuổi đến. Tiểu Kế ngã ngửa trên mình ngựa, tung “Hàm Thanh” đánh ngược ra sao. Không trung chợt có một ngọn trường tiên cuốn đến, Ô Trấn Hải cũng đã đến! Tiểu Kế mới phóng đến bên cạnh bọn Đảm vệ, liền có người tiếp ứng. Vi Đĩnh cùng Bốc Ưng đã vùng thoát khỏi thế đánh từ xa của Ô Trấn Hải, rượt lên tới. Chúng thực hung ác, qua một chiêu thì một người trong bọn Đảm vệ đã mất đi một cánh tay. Người đó mặt mày tái nhợt, Dư Tiểu Kế nghiến răng ưỡn ngực xông tới, đón đỡ một chiêu của Bốc Ưng, để người bị thường lui về trong trận, hỏi con ngựa: “Ngạc ca sao rồi? Ngạc ca có ngộ hiểm không?”. Nhưng con ngựa nghe hiểu được gì? Mạc Thượng Mai trên đài thấy Ban Chuy thình lình chạy đến, vốn mặt mày mừng rỡ, tới giờ thần tình lại khẩn trương: lại có cường địch truy kích đến, nàng ta không khỏi nghiến răng --- Đông cung hôm nay xem ra đã dốc hết toàn lực, nếu không phải nàng có bày mê cục trong phường Thái Bình, dẫn dụ người của Bắc Mang Quỷ đi lạc, cục diện hôm nay Long Môn Dị và Bắc Mang Quỷ một khi hợp lực, thêm vào thanh thế của lục đại cao thủ phe Đông cung, e phe mình nội trong khoảnh khắc phải tan vỡ! --- Hàn Ngạc… Hàn Ngạc… Tiểu Kế không phải là huynh đệ ngươi quan tâm nhất sao? Ngươi hiện giờ đang ở đâu? “Bất Trắc Đao” cùng “Song Nhận” nhất tề lao tới, trận thế của nàng có thể cản trở Long Tưu một khắc đã không dễ gì rồi, lại làm sao mà đương đầu được sự xuất hiện đột ngột của hai cao thủ kia? Hai tên mà đến, “Thương Sơn Tứ Hạo” có phải cũng không xa?
1 Vạn lượng vàng báo trả sự hy sinh của binh sĩ, là câu trong bài thơ “Hiến Hoài Ninh quân Tiết độ sứ Lý tướng công” của Lưu Trường Khanh.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 82 Thân lưu nhất kiếm đáp quân ân1
Trong điện Trường Lạc, hương hoa lả lướt, giọng ca rạt rào. Hàn Ngạc biết mình không có nhiều thời gian, gã chỉ lo một chuyện: nếu chẳng phải như sở liệu của mình, Thương Sơn Tứ Hạo cùng “Bất Trắc Đao” Bốc Ưng và “Song Nhận” Vi Đĩnh sáu người mà không kéo hết ra ngoài cung chờ chực phục kích mình, còn ở bên Đông cung Thái tử, vậy thì Tiểu Kế thực sự nguy kịch rồi!
Nh ưng hiện gã đâu còn đường chọn lựa, tuy y phục toàn thân ướt đẫm, gã cũng đâu có thời giờ ngó ngàng. Ngoài điện Trường Lạc có không ít vệ sĩ của Đông cung, Hàn Ngạc lạnh lùng quét mắt, thấy trong số cũng lắm hảo thủ. Gã không thể làm kinh động đến chúng --- Lần theo mé mái vành mà nhìn, từ chỗ này đến trước điện Trường Lạc tổng cộng cũng mấy trăm bước, gã không có cách nào vọt qua liền. Ở hành lang bên hông đâu đâu cũng có thị vệ canh gác. Thân hình của gã chớp nhoáng ẩn náu trên nóc, sau cột, lần tới cửa lớn của điện Trường Lạc. Gã đã vượt qua được mười mấy tên thị vệ, còn cách ngưỡng cửa chừng hai chục bước, đột nhiên nghe có người quát khẽ: “Ai đó?”.
Ng ười đó là Cảnh Chiêu, thủ lãnh thị vệ của Thái tử, Hàn Ngạc đã từng gặp mặt. Gã không kịp đáp lời, thân hình thần tốc lướt thẳng lên bậc đá trước cửa đại điện. Cảnh Chiêu thấy gã động thân là liền vung một đao. Nhưng khi xuất thủ hắn còn chưa biết kẻ đến là ai, cho nên vẫn phải nương tay. Hàn Ngạc thi triển thân pháp thoát khỏi màn đao quang. Đến trước bậc đá, gã không thể không dè dặt, thân người có vẻ chậm mà lại hết sức nhanh nhẹn lao lên. Cảnh Chiêu đằng sau cả kinh, hươi đao đuổi theo, há miệng định hét lên. Hàn Ngạc đã lên tới cửa điện, ngó vào thì thấy Đông cung Thái tử đang ngồi tuốt trên cao, gã lập tức tranh tiên: “Hoàng thượng thiên thu, tiểu tướng Hàn Ngạc xin chúc mừng cùng Thái tử”.
Gã v ừa dứt lời là liền lách mình vào điện. Gã đưa mắt nhìn bên Thái tử, trừ Thiếu phó Đỗ Hương Sơn cùng Quả Nghị tướng quân Chu Hoè Tân ra, đâu có Tứ Hạo và “Bất Trắc Đao” hay “Song Nhận” theo hầu. Gã hơi an tâm, đao quang đằng sau lại đã cuốn đến. Hàn Ngạc mặt vẫn nhìn về phía trước, nghiêng mình thúc khuỷu tay đánh lên bắp tay của Cảnh Chiêu. Động tác của gã rất gọn nhẹ, toàn là phát ra sau lưng, quan viên ngũ Giám cửu Tự tuy đông đảo mà cũng chẳng có ai nhận ra.
Hàn Ng ạc muốn xuất thủ uy hiếp Đông cung Thái tử, bắt y hạ lệnh triệt thoái khỏi đài Tư Tử, nhưng lại không thể thẳng thừng trở mặt với Đông cung. Gã biết bề ngoài mình tuyệt chẳng thể xuất thủ. Lúc này trong điện cả gã lẫn Đông cung Thái tử đều phải e dè - - Việc vây giết Tiểu Kế là ở trò ngấm ngầm ngoài cung, là cuộc tranh đấu hiểm ác trong bóng tối, nhưng đây là điện Trường Lạc, còn đang bày biện yến tiệc bá quan tham gia, dự tiệc nào chỉ có quan viên của ngũ Giám cửu Tự, mà cũng có một số quan lại của Bộc Xạ Đường. Cục thế trong triều ràng ràng rịt rịt, đâu chỉ một mình Hàn Ngạc chẳng hiểu rõ, sợ rằng cả người trong cuộc như Đông cung Thái tử cũng không thể hoàn toàn thấu suốt. Bọn họ một là đại quan nhị phẩm của triều đình, một là đương kim Thái tử, bất kể người nào cũng chẳng thể mạo hiểm xuất thủ giết chết đối phương. Nếu làm ẩu, làm sao mà ăn nói với triều đình trên dưới?
1 Một thanh kiếm đáp đền ơn huệ của vua, là câu tiếp theo câu: "Gia tán vạn kim thù sĩ tử" trong bài thơ “Hiến Hoài Ninh quân Tiết độ sứ Lý tướng công” của Lưu Trường Khanh (xem chú thích {1} hồi 81).
Chiêu th ức của Hàn Ngạc động tác tuy thoăn thoắt nhỏ nhặt, nhưng hết sức chuẩn xác. Cái gã sợ là một chiêu chẳng thành, phải đánh dài lâu với Cảnh Chiêu, vậy thì tội danh đột ngột xông vào điện hành thích Thái tử phải gánh hết rồi. Tay gã mới chạm lên bắp tay của Cảnh Chiêu, liền thuận đà trườn xuống nắm giữ cổ tay. Cảnh Chiêu còn cho rằng gã sắp sử dụng chiêu số hiểm ác gì đó, lại nghe Hàn Ngạc cười hỏi: “Sao, Cảnh huynh, cả Hàn mỗ cũng không nhận ra à?”.
C ảnh Chiêu thừ người, “Thái Ất chân khí” Hàn Ngạc khổ tu đột nhiên lan qua cổ tay hắn mà công nhập. Cảnh Chiêu miễn cưỡng đề khí kháng cự, nhất thời chẳng thốt nên lời, gồng sức đến đỏ bừng cả mặt mày. Hàn Ngạc rụt tay lại, khẽ cười nói: “Cảnh huynh trách nhiệm hết sức nặng, nhất thời nhận lầm, cũng đâu cần e thẹn vậy”. Gã cười cười nói nói, tiêu sái bước tới. Gã còn cách chỗ Đông cung chưa tới năm chục bước, bụng đang lo lắng, nhưng ngoài mặt lại đâu thể để lộ, tức là chẳng được vọt một cái tới nơi, nỗi khổ này thực chưa từng trải. Thân hình gã lướt tới, chân như chẳng chạm đất, chỉ có vạt áo bào còn kéo lê, nháy mắt đã lên được nửa đường. Còn cách chừng hai chục bước, mé trái chợt có một người đứng dậy, chính thị Sở Thanh Bích, Thượng khanh của Đại Lý Tự. Hắn giữ trách nhiệm quản lý hình phạt, cũng là một kẻ có luyện võ. Trong số bọn người của ngũ Giám cửu Tự, xem ra hắn cảnh giác nhất, ý thức được ngay tình cảnh nguy hiểm, lập tức đứng lên, tả thủ cầm vò rượu, hữu thủ nâng chén, mỉm cười thốt: “Hàn huynh, khó mà gặp được mặt, huynh và tôi suốt ngày bận bịu việc triều chính, đến đây, hạ quan kính huynh một chén”.
Nói xong h ắn bước ra khỏi bàn, chắn trước người Hàn Ngạc, khuỷu tay trái giăng ngang, khuỷu tay phải lại chìa về phía Hàn Ngạc, nghiêng vò chuẩn bị châm rượu, quả nhiên phản ứng cực nhanh. Hàn Ngạc thấy vẻ mặt hoảng sợ của Đông cung, nhưng gã vẫn không thể vội vã, thò hữu thủ chạm lên tay trái của Sở Thanh Bích, tả thủ lại giữ lấy chén rượu trên tay phải của hắn, cười nói: “Nào dám nào dám, nhọc quá nhọc quá”.
Mi ệng gã nói mà hữu thủ vận kình, một vòi rượu túa ra, rót vào trong chén. Gã có xuất thủ uy hiếp cũng không thể để lộ hình tích. Chỉ cần sơ sót một chút, hiển hiện kẽ hở, chúng quan viên trước mặt làm chứng gã hành thích Thái tử, đâu chỉ Đông cung thị vệ lập tức có cớ toàn lực vây đánh gã, ngay cả tính mạng của Tiểu Kế cũng thôi rồi.
S ở Thanh Bích dồn sức vào khuỷu tay trái đề kháng, định quật vào huyệt Thần Khuyết trước ngực Hàn Ngạc, lại đột nhiên cảm thấy chân khí trên cổ tay Hàn Ngạc cuồn cuộn dâng trào. Hắn vừa vận lực, vòi rượu hiệp sức của hai người chui vào chén, mà chén lại nằm trong hữu thủ của hắn. Hai luồng nội lực tấn công, hắn cơ hồ cầm không nổi, tả thủ của Hàn Ngạc thuận thế kéo dẫn, đưa vòi rượu tiếp tục rót vào chén, gã lại đẩy thêm một luồng nội khí lên hổ khẩu bàn tay phải của Sở Thanh Bích --- Đây là kình khí tuần hoàn, lấy địch chế địch, là tâm pháp vô thượng trong Thái Ất môn của gã. Hàn Ngạc đang khẩn trương, lúc trước mỗi lần vận dụng tâm pháp của sư môn đều có chỗ ngắc ngứ, vậy mà nay lại trôi chảy một đường --- Thái Ất môn vốn nhắm vào chờ địch động rồi mình mới động, không hợp tính cách của Hàn Ngạc, gã dụng kiếm cũng luôn luôn tranh tiên. Nào có ngờ công phu nội gia này hôm nay gã lại dùng được.
Đ ông cung Thái tử chợt để lộ vẻ mệt mỏi: “Hàn khanh quá khách khí, bổn cung hôm nay mệt rồi, phải về nghỉ ngơi đây. Hàn khanh cũng bận rộn sự vụ, đâu cần khách sáo như thế”.
Nói xong y động đậy, muốn đứng lên.
Hàn Ng ạc hít một hơi sâu, khinh xảo đoạt lấy chén rượu trong tay Sở Thanh Bích, miệng thốt cực nhanh: “Thái tử, Hàn Ngạc tôi làm tướng miền Biên Tái, thực thô lậu đến mức cả một chén rượu ngài cũng không nể tình sao? Hoàng thượng luôn luôn ra lệnh cho tiểu tướng thân cận với Thái tử mà”. Nói xong, gã vọt tới thực nhanh, miệng cười nói: “Sở huynh, bọn ta một lát nữa không say không về, tại hạ phải kính Thái tử một chén trước khi ngài đi đây”.
Gã l ần này khống chế thân pháp thực có chừng mực. Người xung quanh chỉ thấy gã đi về phía Thái tử, tựa hồ không nhanh, nhưng nháy mắt đã tới trước chỗ ngồi của Đông cung. Quả Nghị tướng quân Chu Hoè Tân thấy gã lướt tới gần, đột nhiên đứng dậy, vỗ vai Hàn Ngạc, cười khà khà: “Hàn tướng quân ơi, ngài quả là hán tử trong quân đội của bọn ta đó, hành sự nhanh nhẩu ghê. Cho dù là kính rượu cũng phải theo quân lệnh chứ”.
H ắn vỗ vai có vẻ hào phóng, nhưng Hàn Ngạc liếc thấy lòng bàn tay của hắn chai lì đỏ lòm ngang dọc --- Đó không phải là bàn tay của kẻ khổ luyện Thiết Sa Chưởng thì còn là gì nữa! Gã từ lâu đã nghe nói Chu Hoè Tân là hảo thủ võ nghệ cao cường bậc nhất trong số chư tướng của triều đình, công phu của hắn dứt khoát phải tu luyện hơn ba chục năm mới được đến nước đó. Nhưng gã lại không thể chống đối mạnh bạo, liền còng người, chén từ tả thủ chuyển qua hữu thủ, vai trái thuận thế hạ xuống, muốn giải trừ bớt lực khí của Chu Hoè Tân. Gã thấy chưởng thế của Chu Hoè Tân tuy có vẻ vô tâm, nhưng thực ra hết sức nặng nề, nếu bị vỗ trúng, nội tạng của mình nhất định phải thụ thương!
Nh ưng gã cũng không còn đường chọn lựa, hữu thủ mau lẹ nâng chén về phía Thái tử. Thiếu phó Đỗ Hương sơn ngồi mé trái Thái tử chợt tươi cười đứng dậy, thò tay tiếp lấy: “Thái tử hôm nay cao hứng, hồi nãy đã uống nhiều rồi, tửu lực có hạn. Chén rượu này của Hàn tướng quân xin để tại hạ tiếp thay”.
N ăm ngón tay của lão hơi giương ra như cấu lên hữu thủ của Hàn Ngạc, nhãn thần lại liếc sang Thái tử. Đông cung thấy vậy liền đứng bật dậy, cười nói: “Hàn khanh, bổn cung thực tửu lực có hạn. Hàn khanh cứ chung vui với mọi người, ta đi đây”. Nói xong y lùi lại ba bước.
M ột chưởng của Chu Hoè Tân đánh thẳng lên vai Hàn Ngạc. Hắn cũng nào có ngờ mình đã dốc sức vào chưởng thế như vậy mà Hàn Ngạc lại liều mạng không đón đỡ, gồng mình chịu trận. Hàn Ngạc cảm thấy máu trào lên cổ họng, ụa ra miệng, nhưng gã gắng sức nuốt lại vào bụng: Tiểu Kế… Tiểu Kế… ta có cứu được đệ hay không phải trông vào giây phút tới đây!
--- Thái Ất chân khí trong người gã vận chuyển lực đạo, cứng cỏi bao bọc lấy thanh thế của Thiết Sa Chưởng, sau đó chẳng sợ khí mạch bị công phá, dắt dẫn nó ùa về phía cổ tay phải, sắc mặt mệt mỏi nâng chén: “Vậy chén này Đỗ huynh xin cứ uống”.
Gã nói t ới tiếng cuối, khống chế không nổi nữa, thanh âm run run. Đỗ Hương Sơn cũng không ngờ chén rượu đột nhiên lọt vào tay mình, lão đang định xoay cổ tay, lại cảm thấy một luồng nội kình hết sức hùng hậu bao bọc trong một lớp chân khí mềm như bông nổ bùng ra giữa lòng bàn tay mình. Lão vận lực, “bình” một tiếng”, chén rượu vỡ nát. Chu Hoè Tân biết Hàn Ngạc liều chịu thụ thương như vậy tất phải có mưu đồ --- Thấy gã không ngờ lại đẩy lực đạo của mình qua đả thương Đỗ Hương Sơn, hắn liền trở cổ tay bấu xuống hông Hàn Ngạc, muốn bắt lấy đại huyện Thận Du của gã, nhất quyết đánh gã trọng thương!
Nhãn quang c ủa Hàn Ngạc đột nhiên sáng bừng lên, như nổ ra một đạo tinh quang. Trường Canh đeo bên hông chợt lay động, có bắp thịt nơi eo khống chế, “rẻng” một tiếng bật ra chừng hai tấc, chặn giữ bàn tay của Chu Hoè Tân. Đông cung Thái tử đã đi được mười mấy bước, Chu Hoè Tân mặt mày biến sắc, Đỗ Hương Sơn lại vẫn đang toàn lực chống cự nội kình bùng nổ giữa bàn tay lão, Hàn Ngạc chợt thét lên: “Trường Canh chẳng thể vô cớ mà ngân tiếng, chén rượu chẳng thể vô cớ mà bể nát, phải cảnh giác! Có thích khách, mọi người mau hộ vệ Thái tử!”.
Nói xong, thân hình gã h ết sức thoát dật lướt tới mười bước về mé bên hông Đông cung Thái tử. Đã đến lúc nguy kịch, gã với Chu Hoè Tân và Đỗ Hương Sơn chỉ có thể đấu một chữ “nhanh”. Chu Hoè Tân một chưởng thuận thế nhào tới, miệng quát: “Hộ vệ Thái tử!”. Đỗ Hương Sơn bất chấp sự công tập của nội kình trong chén, cũng nhún mình lao lên, hét lớn: “Thị vệ!”. Ba người cùng hò la phải “bảo vệ Thái tử”, người trong điện đa số không hiểu võ nghệ, nhất thời bàng hoàng thờ thẫn. Còn có người hoảng vía dõi mắt nhìn quanh, còn nghĩ quả có địch đến tấn công. Hàn Ngạc vốn la lên trước để giải thích hành động đường đột của mình. Gã lách mình nhanh như đá lửa chớp loé, Chu Hoè Tân cùng Đỗ Hương Sơn bụng thầm quát: “Thạch hỏa quang trung ký thử thân”! Bọn chúng từ lâu đã nghe nói đến phép “Thạch hỏa quang trung ký thử thân” của Hàn Ngạc, đến hôm nay mới tận mắt chứng kiến, chẳng ngờ lại phát ra vào giờ phút này. Tới lúc tay Hàn Ngạc rướn về phía Đông cung Thái tử, tay của Chu Hoè Tân cùng Đỗ Hương Sơn cũng quật sang chỗ gã. Nhưng một thức “Lãm yêu chiết” của Chu Hoè Tân mới phớt đến bên hông Hàn Ngạc thì lại bị Trường Canh búng mình đả thương năm ngón tay, Hàn Ngạc cũng bị dư kình công tập, eo muốn gãy gập. Tay của Đỗ Hương Sơn khi ấy đã duỗi về phía cổ gã. Có điều Hàn Ngạc vẫn nhanh hơn một chút. Một tay gã kéo giữ áo Đông cung Thái tử, xoay mình dùng thân Thái tử chặn chiêu tiến kích của Chu Hoè Tân, nhìn Đỗ Hương Sơn tươi cười. Chiêu thức của Đỗ Hương Sơn vốn có thể đắc thủ, nhưng khi thấy gã cười, lão không khỏi rùng mình, biết rằng: tiểu tử này chắc dám giết bỏ Thái tử chứ chẳng chơi --- Trong Đỗ gia lão thuộc hàng chú bác của Đỗ Phương Ninh, vốn cũng biết đến bản tính của Hàn Ngạc, biết gã kiêu ngạo cứng cỏi, vì một Dư Tiểu Kế, e rằng gã cũng chẳng ngần ngại phạm thượng giết chúa. Đỗ Hương Sơn than thầm, kình lực tiết hết. Hàn Ngạc lên tiếng: “Chúng thị vệ nghe đây, phòng ngự lục soát cho kỹ, xem trong cung có dị động gì không. Ta hộ vệ Thái tử về Đông cung cái đã”. Nói xong gã đỡ Thái tử đi ra sau điện, nháy mắt đã vòng qua bình phong, thoát khỏi thị tuyến của bá quan. Chu Hoè Tân cùng Đỗ Hương Sơn đưa mắt nhìn nhau, Chu Hoè Tân đi theo, còn Đỗ Hương Sơn ở lại thu thập tàn cục. Họ mới vừa vòng qua bình phong, Hàn Ngạc đã thấp giọng lạnh lùng nói với Thái tử: “Hỏa tốc truyền lệnh giải tán vòng vây đài Tư Tử ngay, nếu không…”. Gã khẽ hừ bằng mũi một tiếng, thân mình hơi run, nội thương sôi sục. Thái tử đâu có phát giác, lại cảm thấy một mũi nhọn lạnh buốt như hàn băng chỉa vào sườn mình, đau đớn phát run. Chu Hoè Tân theo sau thấy vậy, khẩn trương quát: “Hàn Ngạc, ngươi dám…”. Hàn Ngạc lúc này đã đỡ Thái tử đi đến hành lang đằng sau, Cảnh Chiêu cũng đã dẫn mấy chục Đông cung thị vệ theo sát, đấu đá có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Trường Canh bên hông Hàn Ngạc chợt lại búng lên, vọt ra gần phân nửa. Binh khí hứng lấy nguyệt quang, ánh ngời lóa mắt lạnh lòng. Hàn Ngạc ưỡn ngực, lạnh lùng thốt: “Hàn mỗ cuộc đời này vẫn chưa hiếp đáp ai”. Sau đó thanh âm của gã càng buốt lạnh, càng trấn định, sắc bén như lưỡi kiếm: “Nhưng nếu tiểu đệ của ta bị tổn hại tới một cọng tóc, cái gì ta cũng dám, cái gì ta cũng làm! Ta chẳng cần biết lưỡng cung có nghiêng ngã, thiên hạ có loạn ly!”.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 83 Nhược giáo giải ngữ ứng khuynh quốc1
M ột cuộn địa đồ trải trên cái án ngà trong Đông Noãn các của Đông cung. Trên địa đồ là địa thế của Thổ Cốc Hồn phía tây Thanh Hải, Hàn Ngạc đang cúi mình chăm chú nghiên cứu.
--- Ti ết trời Mạt phục oi bức mà lại ngồi trong cái các ấm nóng này, thực không tránh khỏi có phần quái dị. Nhưng chỗ này là chỗ Hàn Ngạc chọn, vì ở đây đâu có ai qua lại vào mùa hạ, gã có thể an tâm hơn.
Gã đã theo sát Đông cung Thái tử ba ngày. Ba ngày nay, gã và Đông cung Thái tử không rời khỏi cái các này nửa bước. Bên ngoài hay có người tiến vào dâng trà dâng cơm. Lúc những người đó đến, Hàn Ngạc chẳng thèm ngó. Ngay cả Thương Sơn Tứ Hạo cũng từng giả trang làm kẻ hầu cận để vào dâng cơm, nhưng cuối cùng chúng cũng phải lẳng lặng bỏ đi. Đông cung Thái tử ngồi cách Hàn Ngạc chưa đầy ba thước, thủ lãnh thị vệ của Đông cung Cảnh Chiêu, Thái phó Đỗ Hương Sơn, Quả Nghị tướng quân Chu Hoè Tân và sáu cao thủ của Đông cung đã tính toán không biết bao nhiêu lần, cuối cùng vẫn thúc thủ chẳng có cách nào khác --- Ai ai cũng không ngờ sẽ dẫn tới kết quả này. Nếu chúng liên thủ, thanh thế e chẳng một ai có thể chống cản. Tuy bọn chúng quả có thể giết được Hàn Ngạc, nhưng Thái tử đang ở gần sát gã, bọn chúng mà động, chẳng người nào có thể ngăn trở Hàn Ngạc giết y trước.
“N ội trong vòng ba thước, sinh tử đều do gã quyết định!”. Đỗ Hương Sơn lắm mưu nhiều kế, cuối cùng vẫn không thể không than một câu. Không ai dám phản bác, vì bọn chúng vô phương đem tính mạng của Đông cung Thái tử ra mà đánh đổ. Hơn nữa chúng quả có cảm giác cả một tí xíu cơ hội cũng không có. “Thạch hỏa quang trung ký thử thân… Thạch hỏa quang trung ký thử thân…”, hai ngày nay Chu Hoè Tân cứ lẩm bẩm hai câu đó. Với một kiếm “Thạch hỏa quang trung ký thử thân” thần tốc hung mãnh, cho dù chúng có kéo Tử Thần đồng thời xuất thủ, cho dù Du Cửu Khuyết có đích thân đến sử dụng “Cửu hôn cửu khuyết” đại pháp uy chấn vũ nội e cũng không ngăn được một kiếm quyết tuyệt đó của Hàn Ngạc. Huống hồ Du Cửu Khuyết chắc đang bực tức bọn chúng nhiễu loạn Trường An, làm sao mà chịu tương trợ cho được?
Đỗ Hương Sơn thở dài: “Người các ngươi phái đi tìm có tin gì chưa?”. o0o Thực ra cái đêm Hàn Ngạc ép Thái tử vào ngồi trong Đông Noãn các, gã đã thốt một câu: “Nếu ta không nhận được tin do chính thuộc hạ của ta thông báo rằng huynh đệ của ta quả còn bình an, thì…”. Gã quét mắt nhìn quanh: “… Ta không dễ gì đi đâu”. Có điều cục thế sau đó không chỉ khiến cho bọn thuộc hạ của Đông cung kinh ngạc, ngay cả Hàn Ngạc cũng thất kinh --- Tin tức người của Đông cung phái đi hạ lệnh đình chỉ vây đánh nào ngờ lại là: “Đã ngưng vây đánh, nhưng Dư Tiểu Kế bị bắt đi rồi”. Hàn Ngạc đương nhiên không tin, nổi trận lôi đình tại đương trường! Trường Canh thoát khỏi vỏ kề sát yết hầu Thái tử, lạnh lùng quát: “Ngươi đã giết nó! Nó gần như là anh em ruột của ngươi. Không ngờ ngươi lại đã hạ thủ giết nó!”. Người về truyền tin là Đỗ Hương Sơn, lão toát mồ hôi lạnh, vội vàng thốt: “Ta không nói láo chút nào! Bọn ta quả thực chưa giết được Dư Tiểu Kế”. “Vậy nó đang ở đâu?”. Mồ hôi tươm trên trán Đỗ Hương Sơn, lời nói của lão ngay cả chính lão cũng cảm thấy hoang đường: “Nó đã bị người ta bắt đi rồi”. Hàn Ngạc lạnh lùng ngó lão: “Theo ngươi nói, tại trường có bọn Thất Phiến Lân của Long Môn Dị, còn có Thương Sơn Tứ Hạo, ‘Bất Trắc Đao' Bốc Ưng, ‘Song Nhận' Vi Đĩnh, thêm vào bảy Đảm vệ của ta, cả Ô Trấn Hải, thậm chí có luôn Mạc Thượng Mai. Bao nhiêu người như vậy, lại ở giữa hình thế của Long Tưu đại trận cùng Thập Sá đồ, mà vẫn có người cướp được Dư Tiểu Kế mang đi sao?”. Đỗ Hương Sơn miễn cưỡng gật đầu, lòng bàn tay đầm đìa mồ hôi lạnh --- Lời nói đó khó trách Hàn Ngạc không tin, cho dù bản thân lão cũng cảm thấy quả là khó tin. Một đường máu ứa ra trên cổ họng Thái tử, nhưng một kiếm đó đâu dễ gì ấn xuống. Cảnh Chiêu bên ngoài siết chặt đao, song thủ của Chu Hoè Tân bắt chéo --- Hàn Ngạc mà hạ thủ, chúng tuyệt không thể để gã bước ra khỏi Đông Noãn các nửa bước. Bất quá đến lúc đó dù có bắt giữ được gã thì còn gì để bù đắp được nữa? Hàn Ngạc cũng đang do dự --- Lời nói đó tuy không có lý, nhưng Đỗ Hương Sơn đâu phải là hạng người đem tính mạng của Thái tử ra làm trò cười. Gã chợt thu kiếm, trở tay quăng một cái lệnh bài, điềm đạm thốt: “Kêu Triệu Thường Lượng thuộc hạ của ta đến gặp ta”. Triệu Thường Lượng là một trong bọn Đảm vệ của gã, là người biết xem xét sự việc, nói năng chuẩn xác. Đỗ Hương Sơn thở phào, lập tức đi kiếm Triệu Thường Lượng. Trước khi Triệu Thường Lượng đến, Thương Sơn Tứ Hạo cùng Bốc Ưng và Vi Đĩnh đã về tới. Long Môn Thất Phiến Lân lại chỉ còn năm tên, một đã bỏ mạng, một bị trọng thương. Đến khi Triệu Thường Lượng xuất hiện, trong Đông Noãn các chỉ có hắn cùng Hàn Ngạc và Thái tử, hắn cũng thuật lại y như vậy. Câu đầu Hàn Ngạc hỏi hắn là: “Tiểu Kế đã ngộ hại phải không?”. Sắc mặt của gã lúc đó tái xanh pha lẫn nét đỏ bừng giận dữ. Triệu Thường Lượng lại thẫn thờ lắc đầu, tựa như chính hắn cũng không hiểu nổi tình hình. Hàn Ngạc bần thần: “Nó thực đã bị cướp đi? Vậy nó bị bắt đi làm sao? Bị ai bắt?”. Triệu Thường Lượng đánh đấm mệt đừ, thân thể bị thương tới mười mấy chỗ. Hắn cắn răng cầm cự: “Cục trường đương thời cực kỳ hỗn loạn. Mạc Thượng Mai đột nhiên xuất hiện tương trợ, bày bố Thập Sá đồ một cách sơ sài để đối kháng Long Tưu đại trận của bọn Long Môn Dị. Nữ tử đó xuất thủ hết sức hung hãn, dùng một thứ binh khí quái lạ, giống như một vầng trăng lưỡi liềm vậy. Nhưng bọn họ đánh nhau toàn là bằng trận thế, bọn tôi không ai hiểu được. Sau đó Ban Chuy của Hàn soái bỗng chạy đến, người đưa ngựa tới lại bị Bốc Ưng giết chết. Y đến cùng với Vi Đĩnh, toàn lực lao đến quyết giết cho bằng được Tiểu Kế. Bảy Đảm vệ bọn tôi dốc sức kháng cự chúng. Chúng đúng là cao thủ, nếu không được Tiểu Kế một bên dùng trận thế tương trợ, bọn tôi e chẳng thể nào ngăn địch. Bọn chúng cùng bọn thuộc hạ của Long Môn Dị ở ngoài trận xung sát, Ô tướng quân cùng Diêu huynh đệ thì xông vào trận, cùng tấn công Long Môn Thất Phiến Lân. Hỗn loạn quá, bọn tôi cho dù trong cuộc cũng không nhìn thấy rõ. Tôi với sáu huynh đệ toàn lực bảo vệ Tiểu Kế, nhãn quang đều nhắm vào nó. Tình hình quá khẩn bách, Vương đại ca kêu Tiểu Kế để Ô tướng quân hộ tống, cưỡi Ban Chuy đi trước --- Với cước lực của Ban Chuy, chỉ cần ra khỏi Trường An thành là có thể trở về Liên Thành Kỵ, chờ Hàn soái quay về. Nhưng Tiểu Kế trượng nghĩa, thấy Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh công kích hung hãn quá, có nói gì cũng chẳng chịu đi. Khi ấy Hồ huynh đệ bị Vi Đĩnh đánh cụt một tay, Tiểu Kế một mực đứng cạnh để coi sóc cho hắn. Công phu của Tiểu Kế thực không tồi, bọn Đảm vệ chúng tôi e có quá nửa không bằng được nó…”. Mục quang của Hàn Ngạc lạnh lùng liếc qua mặt Đông cung Thái tử, Thái tử cũng không khỏi biến sắc mặt. Triệu Thường Lượng kể tiếp: “Vốn nếu cứ như vậy thì bọn tôi có lẽ còn cầm cự được. Nhưng không biết Thất Phiến Lân động dụng đại pháp gì, trận thế đột nhiên lung lay, tôi chỉ nghe Mạc Thượng Mai rú lên một tiếng, đang bận tay chỉ kịp ngoái liếc sang chỗ nàng ta, thấy binh khí của nàng ta bay vút trên không như một vầng trăng khuyết, biết nàng ta đã liều mạng! Bảy người bọn tôi liên thủ giáp kích Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh, cả Hồ huynh đệ cũng lao lên liều mình! Tôi lúc đó đã tính rồi, lợi dụng Tiểu Kế không phòng bị, thình lình đá nó một cước văng về phía Ô tướng quân, miệng còn la lên một tiếng, ý là để Ô tướng quân bảo vệ Tiểu Kế chạy trước. Tôi đá nó lên cái đài hoang kia, Mạc Thượng Mai cùng Thất Phiến Lân đã đấu đến lúc phân định sinh tử, đó là khe hở duy nhất, cũng chỉ có khe hở đó mà thôi. Tôi nhìn thấy Ô tướng quân đã chạy về hướng Ban Chuy, chuẩn bị tiếp ứng. Nhưng lúc đó…”. Sắc mặt hắn tức giận: “… Thương Sơn Tứ Hạo xuất hiện. Chúng vừa hiện thân là lập tức từ bốn phương hướng lao tới cái đài hoang, liên thủ tấn công Dư Tiểu Kế. Ô tướng quân tung một roi, roi lại quật ngược về, khiến cho tướng quân phải thụ thương. Tôi tới lúc đó mới biết thì ra chúng đã đến từ lâu, nhưng đang chực chờ cơ hội. Tôi đâm hối hận: là tôi đã hại Tiểu Kế! Tiểu Kế thực đã trưởng thành, cũng không uổng là kẻ xuất thân từ Liên Thành Kỵ, hết sức dũng mãnh. Nó vung chủy thủ trên không, đấu đá với bốn tên già thành tinh kia. Nhưng nó tiếp chỉ được một chiêu thì tôi thấy nó thổ huyết rơi xuống”. Hàn Ngạc sắc mặt khẩn trương, lúc đó cũng đâu phải chỉ có gã khẩn trương, ngay cả Thái tử bên cạnh gã cùng bọn thuộc hạ của Đông cung ngoài cửa cũng hết sức khẩn trương. Chúng biết sinh tử của Tiểu Kế có liên quan đến sinh tử của Thái tử. Đông cung Thái tử tuy lọt trong cuộc tranh đấu triều chính, luôn luôn có cảm giác nguy cơ như trứng xếp chồng, nhưng giờ phút sinh tử cách một đường tơ này vẫn là lần đầu y phải đối diện. “… Tôi lúc đó thấy bọn Tứ Hạo liên thủ lao xuống, toàn là tung chiêu sát thủ. Song bọn tôi ai cũng bị quấn quít vây giữ, cách xa quá, không thể nào cứu kịp. Diêu huynh đệ lúc đó lướt lên liền bị dính độc thủ, ngã đè che Tiểu Kế ở dưới. Tứ Hạo từ trên không hạ xuống, Tiểu Kế thét lớn tung chủy thủ ra. Bọn tôi đều nghĩ rằng không thể cứu vớt nữa, giờ phút đó cả bọn nghe thấy một tiếng quát khẽ, một bóng người xuất hiện còn nhanh hơn cả tiếng quát. Lúc tiếng quát vang lên, thanh âm lại rơi đằng sau bóng người đó. Không ai nhìn thấy rõ tướng tá của người đó, là nam hay nữ, cao hay thấp, béo hay gầy. Bọn tôi chỉ kịp nhìn thấy bóng dáng nhàn nhạt. Long Tưu đại trận cùng Thập Sá đồ lúc đó bố trí dày kín xung quanh, bọn tôi động đậy một bước cũng khó, vậy mà hai trận thế tựa như chẳng cản nổi y. Y vừa lọt vào trận, nhoáng một cái đã vọt lên hoang đài, tay kéo một tấm màn vải che phủ toàn thân. Bọn tôi thấy cái màn vải đó phủ ụp xuống, ụp đúng ngay Tiểu Kế mới vừa lách ra bên dưới thi thể của Diêu huynh đệ, cũng ụp luôn Thương Sơn Tứ Hạo. Sau đó màn vải lung lay, chắc là y giao thủ với Tứ Hạo --- Chỉ có một chiêu, tôi thấy Tứ Hạo bay lui, người đó tựa hồ cũng đã thụ thương, vì trên hoang đài có vết máu. Nhưng theo tôi thấy, Tứ Hạo bị thương còn nặng hơn y nữa! Y kéo Tiểu Kế thoái lui, lúc y thoái, bọn tôi cơ hồ ai ai cũng xuất thủ, bất kể là Long Môn Dị, hay người của Đông cung, hoặc Ô tướng quân, thậm chí cả Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh, người cuối cùng chặn đường y là Mạc Thượng Mai, vì bọn tôi đâu có biết y là địch hay là bạn. Nhưng cả đám liên thủ mà không ngờ vẫn chẳng cản chặn được y, chỉ gây thương tích cho y một vài chỗ. Lúc đó y đã bay ra khỏi vườn…”. Hắn ngưng một chút, chỉ ra ngoài các: “… Đúng lúc Đỗ Hương Sơn đến nơi, lão vừa ló đầu lên thì thấy người đó bắt Tiểu Kế mang đi, lão lập tức xuất thủ. Hai người họ đụng một chiêu. Sau đó Đỗ Hương Sơn rơi xuống đất, mửa một ngụm máu. Lão xem chừng cũng không rõ kẻ cướp người kia là ai, lúc đó rống lên: ‘Đông cung cùng Long Môn Dị mau dừng tay!’. Giờ phút lão la lên, người đó đã biến mất không còn thấy đâu nữa. Tôi còn nghe Đỗ Hương Sơn la lớn: ‘Thái tử bị người ta khống chế, sát cục hôm nay tạm dừng!’. Bọn tôi nghe vậy mới đoán rằng Hàn soái đã đến đây. Nhưng… Tiểu Kế đã biến mất”. Hàn Ngạc trán lấm tấm mồ hôi lạnh --- Gã cơ hồ đã giết chết Tiểu Kế! Gã áp bức Đông cung, thì ra có thể vẫn chậm một bước! Nhưng một bước đó phải đền bằng tính mạng! Tiểu Kế không ngờ đã bị bắt đi! Người tại trường tới giờ cũng không biết kẻ bắt Tiểu Kế đi là ai, càng không biết bắt đi hay là cứu đi, có hảo ý hay ác ý. Gã trầm ngâm một hồi: “Người đó có phải là Du Cửu Khuyết không?”. --- Thân thủ như vậy, trừ Du Cửu Khuyết ra, còn có ai có thể làm được? Cho dù là bản thân Hàn Ngạc cũng chẳng biết mình có làm được không. Trong các nhất thời trầm tĩnh, một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy được. Triệu Thường Lượng nghĩ ngợi một hồi, cuối cùng lắc lắc đầu. Hàn Ngạc càng thêm mê hoặc, nhưng gã không hỏi truy: “Kết cục bọn ta thương tổn bao nhiêu người?”. Thanh âm của gã hết sức buồn bã. Triệu Thường Lượng cúi đầu: “Vệ binh chết mất mười bảy người, còn huynh đệ Đảm vệ chúng tôi, hiện tại trừ Ô tướng quân ra cũng chỉ còn lại bảy người”. Hàn Ngạc mắt loang loáng hàn quang, Triệu Thường Lượng ngước lên, thấy đôi mắt của Hàn soái như trong ngần. Gã biết gã không thể rơi nước mắt, vì đây còn là chỗ của Đông cung. Triệu Thường Lượng cắn môi, để lộ vẻ kiên quyết, hắn dùng dáng vẻ đó để nói với Hàn Ngạc: mười hai Đảm vệ bọn tôi vốn là tử sĩ! Đây là chức trách của bọn tôi… Nhưng đây là chỗ của Đông cung, bọn họ không thể nào nói thẳng với nhau. Hàn Ngạc để cho hắn về trước, bản thân lưu lại trong Đông Noãn các, vì gã không có cách nào đoán định kẻ xuất thủ có phải là cao thủ bí mật của Đông cung hay không, có phải dùng kế này để phá việc mình bắt Thái tử hay không. Huống hồ muốn tìm Tiểu Kế, nhân thủ của gã cũng đâu có đủ, chi bằng bức ép Đông cung, chẳng cần biết có phải do người của chúng bắt cóc không, nhất định phải bắt chúng giao người ra! Nhưng đã ba ngày trôi qua mà vẫn hoàn toàn không có tin tức. Lòng Hàn Ngạc vừa lo vừa sợ, trong bụng như dầu sôi lửa bỏng, cho nên gã mới mượn việc dò xem địa đồ để trấn định tâm thần. Hai ngày qua Đỗ Hương Sơn có vào nói này nói nọ, có điều gã vẫn hờ hững đuổi lão ra. Đến đêm, Thái tử riết cũng quen với nỗi sợ, cũng có thể chợp mắt, Hàn Ngạc thì vẫn tĩnh tọa --- Gã cảm thấy sợ hãi, đây là lần đầu tiên gã thực sự cảm thấy kinh sợ: nếu Tiểu Kế thực sự gặp bất trắc… vậy… chút câu chấp trói buộc nhất của gã trên đời này hoàn toàn đứt đoạn, đó là cái trống không hụt hẫng mà gã không có cách nào gánh chịu. Lần này Hàn Ngạc có cảm giác cứ như trở về cái thuở mới năm tuổi đầu: ngoài Trường An hoang lương, mùa đông trắng nhờ bao trùm tất cả, trắng nhờ đến mọi thứ giữa nhân gian đều thành trống rỗng mênh mang; mộ phần ngổn ngang, người dưới mộ thân thể đã lạnh buốt, vĩnh viễn cách một dòng suối vàng, gã không còn có thể siết giữ tay bà nữa; nỗi sợ đang dằn xé tâm can gã, đó là sợ hãi, không phải là đau xót. Đó là một cảm giác bị tất cả vứt bỏ… gã chỉ không ngờ được thứ cảm nhận đó gã phải gặp lại một lần nữa ở cuộc đời này… Gã miễn cưỡng nhắm mắt, gã không thể ngủ, nhưng phải nghỉ ngơi. Có điều vừa nhắm mắt, không trung tựa hồ đong đưa một bàn tay chơi vơi, sau đó ló hiện một chút huyết sắc. Bàn tay đó cứ như bàn tay của mình thuở trước --- Tiểu Kế đã lớn rồi, nhưng trong ấn tượng của gã, bàn tay giơ ra kia vẫn là bàn tay nhỏ nhắn yếu ớt của một đứa bé mười ba mười bốn tuổi. o0o Đông cung Thái tử đã gần tứ tuần, tên gọi Chí Hoa. Y hơi mập phì, mấy ngày qua ngồi thừ trong Đông Noãn các, khó tránh khỏi đổ mồ hôi dầm dề. Từ ngày thứ ba trở đi, y thử nói chuyện với Hàn Ngạc --- Y phát hiện Hàn Ngạc đâu phải là kẻ bất cận nhân tình, cũng đâu phải là kẻ chẳng hỉ chẳng nộ, chỉ là niềm hỉ nộ của gã cứ giấu kín trong lòng. Thái tử Chí Hoa ta thán: “Hàn… huynh, ngươi thực coi ta là kẻ ác độc không thể tha thứ sao?”. Hàn Ngạc ngó y, chỉ vì hai tiếng “Hàn huynh” y thốt. Y tiếp lời: “Lẽ nào cuộc tranh đấu giữa ta với Bộc Xạ Đường cũng đều là ta sai? Hàn huynh lẽ nào không cảm thấy triều chính đã hư hoại tới mức cơ hồ chẳng thể thu thập? Phụ hoàng của ta thực ra không lý gì tới việc triều chính đã lâu. Bá quan trong triều kẻ tham lam an hưởng, kẻ mưu đồ lợi ích cá nhân. Từ Trần Hy Tái trở xuống, toàn bộ hệ thống văn quan thúi nát chẳng có năng lực, đã đến nước không còn có thể tưởng tượng nổi. Ta cứ tìm cách biến chuyển, lại gặp đủ thứ trở lực”. Y bực bội ngồi dậy: “Gần mười năm nay, bọn chúng thậm chí đã phát triển tới bước muốn mưu đồ phế bỏ Thái tử --- Lẽ nào Bộc Xạ Đường đắc thế là sở nguyện của Hàn huynh? Đừng nói gì khác, việc Hàn huynh khai hoang miền tây bắc, dốc sức phong tỏa thế lực Khương Nhung cũng có ta chống lưng trong triều. Người của Bộc Xạ Đường thì lại một mực gò bó Hàn huynh đó thôi”. Hàn Ngạc lẳng lặng nhìn Thái tử, gã biết y làm Thái tử cũng đã hơn ba chục năm. Quyền thế ở ngay bên y, nhưng đâu phải dễ gì nắm, mà nguy nan liên tục xuất hiện, y có qua được chắc cũng chẳng như ý. Tuổi trẻ hăng máu, y có phải cũng đã thử ra sức tiến thủ? Ngay cả bây giờ, y cũng đâu phải không có chí muốn chỉnh đốn thiên hạ? Nhưng sự chỉnh đốn của y là dùng máu để trả một giá đắt. Thái tử Chí Hoa than: “Thực ra có biết bao nhiêu chuyện ta cũng toàn là bất đắc dĩ mới làm. Quyền thế ơi quyền thế, đây là cái thế tòng quyền. Ví như người ta nói béo mập là một tượng trưng của phú quý, ta chứng kiến thân người mình dần dần béo phị mà không có biện pháp…”. Y lau mồ hôi: “… Cũng chứng kiến thế lực bên cạnh dần dần thúi nát mà không có biện pháp. Có biết bao nhiêu chuyện ta bị ép bị đẩy đi làm. Huynh cũng từng ngồi ghế Thống soái, lời ta nói chắc ngươi hiểu được”. Hàn Ngạc không nói gì. Thái Tử Chí Hoa lại lải nhải tiếp: “Hàn huynh, ta biết ngươi nhanh nhạy linh mẫn, dõi khắp sông biển, cũng có thể chấn hưng một diện mạo riêng, nếu lập triều, cũng có thể được thiên hạ phù trợ. Thực ra ta thấy may mắn có cơ hội này để ở gần Hàn huynh. Nếu Hàn huynh có thể trợ giúp ta trừ khử họa hoạn, thuận lợi đăng cơ, huynh và ta một quân một thần hà tất không thể khai mở một cơ nghiệp thịnh thế”. Mặt mày y từ từ sáng bừng lên. Hôm nay là ngày thứ bảy y kề cận Hàn Ngạc, y thực ra là một người biết quan sát liệu giải con người: “Bọn ta đừng nói gì tới giàu sang… Ta biết sở cầu của Hàn huynh đâu phải cái đó. Nhưng lẽ nào việc bọn ta bây giờ chung vai ra sức, lo liệu cho dân tình không phải đúng là cơ hội tốt nhất đây sao?”. Hàn Ngạc vẫn không nói gì. Thái tử Chí Hoa cũng buồn bực hẳn, một hồi thực lâu sau, Hàn Ngạc lại thấy y bần thần đăm đăm nhìn một tấm lụa xanh trên tường. Y thấp giọng than: “Ta không bằng huynh, ta sinh ra là đã lọt vào cuộc cờ này. Thực ra ta đã vì đại cuộc thiên hạ mà quăng bỏ rất nhiều chọn lựa của bản thân rồi!”. --- Đằng sau tấm lụa đó là cái gì? Sao mấy ngày nay Thái tử Chí Hoa mỗi lần phiền muộn lại cứ trân trân nhìn tấm lụa xanh đó đến xuất thần? Hàn Ngạc chậm bước đến bên tường, nhè nhẹ vén tấm lụa xanh lên. Bên dưới lụa là một bức tranh, vẽ một nữ tử: xinh đẹp tươi tắn, bờ má như thịt trái vải, mũi như mỡ ngỗng đọng lại. Bên trên đề bảy chữ, có thể chính là nét bút của Thái tử Chí Hoa. Bảy chữ đó là: Nhược giáo giải ngữ ứng khuynh quốc. Hàn Ngạc bàng hoàng nhìn người trong tranh và dòng chữ. Không sai --- Giai nhân như vậy, đúng thực là “nhược giáo giải ngữ ứng khuynh quốc”. Nhưng người trong tranh… Hàn Ngạc lòng xót xa âm ỉ, cũng thấp thoáng thấu hiểu Chí Hoa tại sao lại hay ngẩn ngơ nhìn tấm lụa xanh kia, thấp thoáng thấu hiểu câu nói của y: “Thực ra ta đã vì đại cuộc thiên hạ mà quăng bỏ rất nhiều chọn lựa của bản thân rồi!”… Nữ tử trong tranh… chính là… Phương Ninh.
1 Hoa mà cất tiếng đà nghiêng nước, là câu trong bài thơ "Mẫu đơn hoa" của La Ẩn. Sách "Khai nguyên thiên bảo di sự" của Vương Nhân Dụ có viết: tháng tám Đường Minh hoàng ra ao Thái Dịch xem sen trắng ngàn lá, vua cùng Dương Quý phi ngồi thưởng lãm, tả hữu ai ai cũng khen ngợi hoa đẹp, vua chỉ Quý phi mà rằng: "Làm sao bì được với 'Giải ngữ hoa' của ta?" ("Giải ngữ hoa" là hoa biết nói, biết hiểu ý).
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 84 Nhậm thị vô tình dã động nhân1
Thái t ử Chí Hoa và Hàn Ngạc chẳng lên tiếng một hồi thực lâu. Nhưng bọn họ cũng không nhìn lên bức tranh trên tường nữa. Trời sắp tối, Hàn Ngạc thắp mấy cây nến bạc. Ánh nến sáng bừng càng làm hiển lộ vẻ ôn nhu sang giàu của cách bày biện trong Đông Noãn các này. Hàn Ngạc đã thả tấm lụa xanh xuống, sắc mặt của Thái tử Chí Hoa lại vẫn còn hơi hướm chưa dứt bỏ được, y nhẹ giọng: “Người đó chắc Hàn huynh nhận ra chứ?”.
Hàn Ng ạc buồn bã không lên tiếng --- Nào chỉ nhận ra? Gã làm sao mà ngờ gã lại thấy bức tranh này trong cung. Thái tử Chí Hoa thấp giọng: “Dư Tiểu Kế chắc không sao, có lẽ kẻ bắt nó đi có thâm cừu đại hận gì đó với ta, mong mỏi Hàn huynh hạ thủ giết ta. Hàn huynh chớ có để y như nguyện! Chỉ cần Hàn huynh bỏ qua chuyện này, cùng ta liên thủ đánh gục Bộc Xạ Đường, chuyện giữa người trong tranh và Hàn huynh, ta sẽ nghĩ ra cách…”. Y khẽ thở dài: “Ta đâu phải chỉ biết lo tranh giành quyền thế, ta cũng thực lòng hy vọng… nàng… có thể sống hạnh phúc…”.
Thái t ử Chí Hoa mơ màng ngẩng lên, tựa như đang nghĩ tới nguyện vọng gì đó của mình năm xưa. Hàn Ngạc vẫn im lặng không đáp, lòng gã đang dâng hiện hình bóng Phương Ninh: cách bày biện trong khuê các của Phương Ninh ở Lạc Dương chắc cũng phong lưu ôn nhã như trong Đông Noãn các này? Ngồi đối diện nàng ở chốn phong lưu ôn nhã như vậy có phải là lạc thú thần tiên không? Trong bụng tương tư, ngoài mặt gã cũng dịu đi. Ngoài các đang tĩnh lặng đột nhiên vang vọng tiếng bước chân. Hàn Ngạc lắng nghe, biết Đảm vệ Triệu Thường Lượng hổm rày ngày nào cũng tới báo tin đã đến. Nhưng tiếp đó dường như nhận ra tâm sự qua tiếng bước chân, cho nên gã hơi biến sắc. Triệu Thường Lượng đi tới, hắn mới bị sát khí của Thương Sơn Tứ Hạo ngoài các khống chế mà vẫn bình tĩnh, có điều vừa vào đến, sắc mặt liền biến đổi, chỉ nghe hắn khẽ thốt: “Hàn soái, Tiểu Kế đã chết!”.
V ừa lên tiếng, không chỉ Thái tử Chí Hoa thất kinh, người ngoài các cũng hoảng hồn -- Lần lữa được bảy ngày, bọn họ cho rằng có thể xong chuyện, mọi sự cuối cùng sẽ êm dịu đi, có ai ngờ lại có một tin tức đột nhiên bùng nổ như vậy. Thương Sơn Tứ Hạo ùa vào, thân người Hàn Ngạc chợt bay lên, một tay gã kéo Triệu Thường Lượng xoay một vòng, tay kia đặt lên chuôi kiếm trên án. Mặt gã tái nhợt, hoàn toàn hụt hẫng trống vắng…
Hàn Ng ạc không hỏi gì --- Gã chẳng thốt lên được tiếng nào. Một khi mở miệng, gã e không khống chế được mình: chẳng màng thiên hạ loạn lạc, một kiếm giết chết Đông cung Thái tử, thiêu rụi nơi này, thiêu sạch Trường An này!
Tri ệu Thường Lượng biết gã đang đợi mình nói tiếp, thanh âm của hắn nghẹn ngào: “Bọn tôi tìm ra Tiểu Kế ở ngoài thành, một kiếm xuyên qua tim, kiếm thế tựa hồ là Song nhận. Toàn thân… tắm máu…”. Yết hầu hắn nghèn nghẹn, không thể nào lên tiếng nổi nữa.
Hàn Ng ạc mặt mày thoáng qua vẻ bạo tàn, Thương Sơn Tứ Hạo cũng cảm thấy không xong. Bốn bóng người lao tới, Trường Canh của Hàn Ngạc lại đã thoát khỏi vỏ. Tứ Hạo vừa đến nơi, mũi kiếm của Hàn Ngạc đã chỉa tới trước yết hầu của Thái tử Chí Hoa. Bọn Tứ Hạo khựng lại, chỉ một giây sững người đó, kiếm thế của Hàn Ngạc bỗng xoay chuyển, quét qua cổ một trong bốn tên. Tên đó vì còn lo kềm chế thanh thế, nào có kịp phản ứng, cổ hắn lập tức túa máu như mưa, vết thương khá nặng. Ba tên còn lại liền vọt tới, kiếm của Hàn Ngạc lại đã đâm vào lồng ngực của Thái tử Chí Hoa nửa tấc. Mắt gã trân trân nhìn Triệu Thường Lượng, miệng đắng nghét: “Chết rồi?”.
1 Mặc có vô tình cũng hớp hồn, là câu tiếp theo câu “Nhược giáo giải ngữ ứng khuynh quốc” trong bài thơ "Mẫu đơn hoa" của La Ẩn (xem chú thích {1} hồi 83).
T ứ Hạo bị bức phải đứng sững lại. Triệu Thường Lượng nén lệ cụp mắt gật gật đầu. Hắn cũng biết một kiếm đó của Hàn Ngạc sẽ dẫn đến kết quả gì, nhưng… giây phút người trong Liên Thành Kỵ bọn họ nhìn thấy Tiểu Kế trong tình cảnh thê thảm đó, đã quyết định bất kể tin tức này có làm cho Hàn soái bi thương nổi giận đến đâu, có làm cho thiên hạ loạn ly đến đâu, họ cũng phải cho gã biết! Dọc đường hắn đã hết sức áp chế tâm tình của mình, sợ người của Đông cung nhận ra, tất cả cũng chỉ để thố lộ một câu --- Tiểu Kế đã chết! Dư Tiểu Kế đã chết, thiếu niên bọn họ chứng kiến trưởng thành trong quân đội đã chết!
Đỗ Hương Sơn cùng Vi Đĩnh, Bốc Ưng, Cảnh Chiêu hiện cũng đã được tin, đã chạy đến ngoài các. Đỗ Hương Sơn thấy tình thế nguy kịch, vừa định mở miệng thì thấy Hàn Ngạc ánh mắt thẫn thờ không còn sức sống nữa. Gã ngó sang Thái tử Chí Hoa hết sức hung bạo, thanh âm của gã đờ đẫn: “Chết là sao? Chết là sao? Ngươi có thể cho ta biết không?”.
Gã v ừa lên tiếng, bọn thuộc hạ của Đông cung ai ai cũng cả kinh. Chúng vừa định động thủ, Hàn Ngạc chợt hú lên một tiếng, tiếng hú cực kỳ thê thảm, âm điệu khích động. Bọn Đỗ Hương Sơn nhất thời cũng chẳng dám tiến tới thêm bước nào, mà cũng không thể đứng yên. Hàn Ngạc đột nhiên mỉm cười, nụ cười kỳ quái, có vẻ đã mê loạn tâm thần. Gã chậm rãi thốt: “Nếu ngươi không biết, để ta đưa người xuống suối vàng học hỏi. Có điều Tiểu Kế có muốn gặp ngươi hay không? Đối với nó, đó là chuyện tốt hay xấu?”.
Gã v ừa có động, thuộc hạ của Đông cung lại muốn xuất thủ, nhưng kiếm của gã không đâm tới mà lại rút ra. Chúng đứng sựng, kiếm của Hàn Ngạc lại đột nhiên đâm vào một chỗ khác trên ngực Thái tử Chí Hoa. Y đau quá rên hừ hừ, lại nghe Hàn Ngạc thốt: “Ta làm sao để bắt ngươi chết một ngàn lần đây…”.
Thanh âm c ủa gã bạo ác hẳn, nhưng tay đã chùn, vừa đâm vào mấy phân thì kiếm thế sựng lại --- Hàn Ngạc xem ra đã điên rồi, bọn thuộc hạ của Đông cung hoảng kinh. Chúng biết gã xưa nay chưa bao giờ hành hạ địch nhân như vậy. Thái tử Chí Hoa run giọng: “Hàn huynh, Dư Tiểu Kế đâu phải bị thuộc hạ của ta giết! Mạng ta còn nằm trong tay ngươi, họ làm sao mà dám giết nó?”.
Thanh âm c ủa y run rẩy, chợt gắng sức chỉ lên tấm lụa xanh trên tường: “Vì nàng, ngươi cũng không thể tha cho ta toàn mạng sao? Không vì ta, chỉ vì nàng thôi. Ta mà chết, ngươi không sợ hai dòng họ Thành Nam Tính bị diệt môn sao?”.
Trong ngoài các nh ất thời tĩnh mịch, Hàn Ngạc lại chừng như chẳng nghe y nói gì: Phương Ninh… Y đang nói tới Phương Ninh đó sao?... Thời gian tựa hồ ngưng hẳn, tất cả đều mất hết ý nghĩa. Lại một hồi lâu hết sức im ắng, chợt có người khe khẽ than: “Ngài cho rằng vì tôi gã có thể tha cho ai sao?”.
Thanh âm v ừa vang lên, sắc mặt của Thái tử Chí Hoa hiển hiện vẻ hoảng hốt – Nàng đã đến, nàng đã đến… Câu nói của nàng thán oán làm sao. Thanh âm vọng ngoài song cửa. Cái các này vốn có hai tầng, ngoài cửa sổ không xa có một cây cổ thụ tàng rất lớn. Sau đó rèm cửa lung lay, một người ngồi trên khung cửa. Đó là một nữ tử, mày không vẽ mà xanh, môi không tô mà đỏ, búi tóc phớt nhẹ khua màn rèm lách cách khe khẽ, thanh âm như gõ vào lòng người. Nàng thấp giọng than: “Tôi đã khuyên ngài rồi, chớ có đụng tới Dư Tiểu Kế. Các người không biết hễ đụng tới thì sẽ gặp phải kết quả thế nào sao? Các người lại không nghe, các người không nghe lời tôi…”.
Hàn Ngạc nhắm chặt mắt --- Đừng… đừng để gã nhìn thấy Phương Ninh vào giờ phút này. o0o
… Đêm như vầy, nữ tử như vầy, cuốn rèm mà xuất hiện, phảng phất như một giấc mộng mỹ lệ không phải trên trần thế sau cuộc rượu tàn, sau sênh ca tản, hư hư không không… Phương Ninh khẽ thốt: “Ngươi không nên đến Trường An!”.
Sau đó nàng đăm đăm nhìn Hàn Ngạc, thanh âm chợt hết sức sắc nhọn: “Ngươi bằng vào cái gì mà đến Trường An?” --- Lối sống của ta đâu phải lối sống của ngươi --- Ngươi không nên xuất hiện trong cuộc sống của ta nữa! Sau đó mắt nàng thoáng hiện vẻ tức giận: “Ngươi đã không nhận Trường An này là Trường An của ngươi, vậy ngươi đến làm gì nữa? Tại sao đến để khiến nó thêm nhiễu loạn?”.
Nàng đang chất vấn cái đạo xử thế của Hàn Ngạc. Hàn Ngạc lòng mê loạn: phải, đây đâu có phải là Trường An của ta, sao ta lại đến? Hàn Ngạc mặt mày bàng hoàng, ánh mắt Đỗ Phương Ninh lại hiện vẻ ôn nhu: “Sao ngươi lại đến Trường An?”.
Câu h ỏi của nàng hết sức dịu dàng. Sau đó nàng phất ống tay áo, cuốn một cái chặn giấy trên án khéo léo va nhẹ lên huyệt ngủ của Thái tử Chí Hoa. Thái tử Chí Hoa còn đang mơ màng, lập tức ngủ vùi --- Đỗ Phương Ninh sợ y còn tỉnh táo, lỡ động đậy khiến Hàn Ngạc phải xuất thủ.
Hàn Ng ạc bình tĩnh nhìn vào mắt nàng, vẫn là người xưa, vẫn gương mặt đó, nhưng… gã chợt lạnh lùng thốt: “Cho dù nàng kêu chúng đừng động đến Tiểu Kế, nàng cũng không nên cho chúng biết bí mật thân thế của Dư Tiểu Kế!”.
Gã h ận Phương Ninh chính ở điểm đó --- Nàng còn nói ta không nên đến Trường An này, nhưng ta đã bị nàng ép đến đây. Nhãn quang của Đỗ Phương Ninh chợt co thắt lại như một mũi châm, thanh âm khích động: “Chỉ có chàng và ta biết sao? Còn Bộc Ách Phi thì sao? Ả ta không biết sao? Chàng cho rằng bí mật thân thế của Tiểu Kế là ta để lộ?... Ngạc, chàng thực khờ quá, chàng cho rằng thế lực đằng sau Dư Tiểu Kế không có ý đồ gì sao? Chàng không nghĩ tới việc cố ý để tin này lộ ra, khiến cho Đông cung ép bức chàng, thực ra có lợi cho chúng hay là cho ta? Hàn Ngạc bần thần. Chu Hoè Tân từ ngoài các bỗng vọt lên. Hắn vừa vào tới, liếc nhìn Hàn Ngạc trầm giọng: “Bộc Xạ Đường có thể đã phát giác chuyện lạ trong cung. Bọn tả Kim Ngô vệ cùng bọn Tam hoàng tử Chí Bình đã có dị động. Chúng xem chừng đã có chuẩn bị”. Nói xong hắn ngó thanh kiếm của Hàn Ngạc: “E rằng Thái tử mà có mệnh hệ gì… chúng sẽ lập tức phát động!”. Hắn vừa dứt lời, sự quan tâm của mọi người đột nhiên không còn là sinh tử của Thái tử nữa, mà là… bản thân mình. Mặt mày ai ai cũng tái mét --- Bọn Bộc Xạ Đường chắc đã đợi cái ngày này lâu rồi, cuối cùng chúng đã được cơ hội! Nhưng… Dư Tiểu Kế sao lại có thể chết được? Nó sao có thể chết chứ? Thuộc hạ của Đông cung giờ phút này mới đột nhiên phát giác: kẻ không nên chết nhất chính là Dư Tiểu Kế mà chúng toàn lực truy sát, mà Hàn Ngạc toàn lực bảo vệ. --- Thanh kiếm của Hàn Ngạc xem ra không thể nào vãn hồi, nhất thời mặt mày Đỗ Hương Sơn, Chu Hoè Tân, Thương Sơn Tứ Hạo, Bốc Ưng, Vi Đĩnh, Cảnh Chiêu đều bốc dâng một nỗi hoảng sợ… Thái tử mà chết, cây ngã khỉ chạy tán loạn, vậy… chúng coi như tiêu rồi phải không? Hàn Ngạc lại không muốn nhìn thấy thần sắc hèn hạ của chúng. Im lặng một hồi, thanh âm của Đỗ Phương Ninh chợt vang lên: “Cảnh Chiêu, ngươi dẫn một đội thị vệ đi bảo vệ Hoàng thái tôn2 trước đi”. Cảnh Chiêu bàng hoàng, toàn trường ai ai cũng trĩu nặng bầu tâm sự riêng, đầu óc hoảng hốt, nhưng thanh âm của Phương Ninh lại hết sức trấn định. Nàng điềm đạm thốt: “Tứ Hạo lão, thỉnh các vị cũng toàn lực hiệp trợ, giới bị bảo vệ an toàn cho Hoàng thái tôn”. Sắc mặt nàng nghiêm túc, rất mệt mỏi, cũng rất lãnh đạm: “Bọn ta không chỉ có một Thái tử, mà còn có Hoàng thái tôn. Uy thế của Đông cung không thể cho phép Trần Hy Tái toại nguyện, nói loạn là loạn” --- Huống hồ nếu thông truyền tin Thái tử chết, bọn ta vẫn là kẻ biết trước --- Đỗ Phương Ninh ánh mắt cứng cỏi, nàng phải tận dụng thời gian để chuẩn bị. Nàng chợt chăm chú nhìn lên chuôi kiếm của Hàn Ngạc, mục quang thoáng vẻ hưng phấn, có chút đồng tình, cũng có chút chế nhạo: “Ta không có cách nào bảo đảm chàng không giết Thái tử, không có cách nào lặp lại một lần nữa với chàng rằng, dù Dư Tiểu Kế có chết, cũng chẳng phải do người của Đông cung ta giết. Nhưng điều ta muốn nói với chàng là chuyện sẽ xảy ra tiếp đến. Một khi kiếm trong tay chàng đâm xuống, một khi Thái tử chết, ta sẽ không để bọn họ liều mình với chàng dẫn tới lưỡng bại câu thương, đó chẳng phải là hy vọng của Trần Hy Tái sao? --- Lão ta đừng hòng muốn thủ lợi ngư ông! Nay ngoài Trường An thành còn có Cấm vệ quân cùng Vũ lâm lang3, ít ra có ba vạn binh lực trong tay Đông cung bọn ta! Chàng có tin thanh kiếm trong tay chàng mà đâm xuống, phe Đông cung của ta trong Trường An thành sẽ vì tự vệ mà liều mình một trận không? Chàng dám giết, Đỗ Phương Ninh ta dám tổ chức binh biến Đoạt cung ngay! Đánh vào Tử Thần, uy hiếp Thánh thượng, Hoàng thái tôn Doãn Ninh cũng đã mười tám rồi, coi như đã thành niên, bất kể Hoàng thượng có chịu hay không, ta cũng phải thỉnh ông ta lập Doãn Ninh làm Hoàng thái tử, lập tức nhiếp chính. Vi Đĩnh huynh, thỉnh ngươi đi truyền lệnh cho Cấm quân, kêu Trương Quang Đình chuẩn bị sẵn sàng, sau đó quay lại đây ngay. Bốc Ưng huynh, thỉnh huynh đi gặp đội Vũ lâm lang một chuyến. Hờ hờ, nếu muốn loạn, bọn ta loạn cho coi, đánh một trận tơi bời với binh tả Kim Ngô dưới trướng Trần Hy Tái cho coi! Hờ hờ, Thái tử dù có chết, Hoàng thái tôn vẫn còn đó! Tuy nói chuyện này không phải dứt khoát có thể thành công, nhưng ít ra còn hơn là thúc thủ chờ chết. Ngày mai chắc mũ mão quan trường sẽ ngổn ngang dưới thềm Hoàng thành!”. Giọng nói của nàng hết sức trấn định, nháy mắt đã làm yên lòng đám thuộc hạ của Đông cung, nhưng ý của nàng thực ra là nhắm sâu vào nội tâm của Hàn Ngạc. Nàng vừa nói vừa chăm chú nhìn Hàn Ngạc. Nàng đã từng hợp tạ song tu với gã, từng nắm bắt sự vận hành khí tức của nhau. Nàng biết rõ phép luyện khí của Hàn Ngạc vừa cô lập vừa câu chấp, tu vi quá dựa dẫm vào tâm chí. Nếu tư tưởng của gã rối loạn, khí tức tất sẽ loạn, một khi nàng nắm được cái loạn đó, nhất định có cơ hội để lợi dụng. Trong Đông Noãn các nhất thời chỉ thấy Đỗ Phương Ninh lời nói điềm đạm, sắc mặt ôn hòa, nhưng ý tứ sắc bén, áp dụng sự thấu hiểu của nàng đối với Hàn Ngạc, từng câu từng chữ đều đánh trúng vào chỗ yếu hại trong nội tâm của gã. Lời nói của nàng thực đang dồn ép nội tức của gã, Hàn Ngạc có cảm giác khi nghe nàng nói: tất cả những hành vi của mình, kết quả đều dẫn đến máu đổ, đâu phải máu của một vài người, mà càng ngày càng nhiều. Thế gian này, cái khiến cho gã không muốn gánh chịu nhất là máu. Đỗ Phương Ninh thấy khoé môi ương bướng của gã rướm một giọt mồ hôi, biết nội tức của gã đã bị mình làm nhiễu loạn. Nàng biết nếu làm tới nữa, chân khí trong người gã một khi mất khống chế, tất sẽ thành mối họa lớn cho bản thân gã, nói không chừng thành quả của bao nhiêu năm tĩnh tu sẽ do đó mà bị hủy trong phút chốc. Nhưng nàng vẫn tiếp tục chậm rãi dẫn dụ nỗi bất an và tao loạn trong thâm tâm Hàn Ngạc… Nàng thầm nhủ: Ngạc, ta đối không phải với chàng một lần này. Cuộc đời của chàng, tâm ý quá cố chấp, nếu chàng có quỵ ngã, ta chiếu cố cho chàng trọn đời cũng được. Đó là thuật “Tỏa tâm” của nàng, một khi đã khống chế, khó mà cho thoát được. Tâm pháp của Đỗ Phương Ninh càng lúc càng dồn lấn, Trường Canh của Hàn Ngạc tuy vẫn còn trong tay, nhưng dần dần không còn tương quan với gã nữa. Càng về sau, Đỗ Phương Ninh không cần lên tiếng, chỉ dùng mắt nhìn vào mắt Hàn Ngạc. Gã có cảm giác chân khí trong người lẫn lộn không còn thuần nhất nữa, sức ép quá lớn, muốn nổ bùng ra, chẳng thể khống chế. Bất nhẫn chứng kiến thảm trạng chân khí của gã tiêu tán hết, nàng ngoảnh mặt đi, dải Thanh Sách trong ống tay áo chợt cuốn về phía Thái tử Chí Hoa. Vào khoảnh khắc chân khí của Hàn Ngạc tan vỡ, thình lình gã cảm thấy trước ngực buốt lạnh. Tâm thần gã không khỏi chấn động, tỉnh táo hẳn, sau đó gã di động thân hình, từ tốn lướt tới. Đúng vào giây phút Thanh Sách của Đỗ Phương Ninh cuốn tới hông Thái tử Chí Hoa, gã mở mắt nhìn thẳng lên Trường Canh kiếm trong tay! Đỗ Phương Ninh phát giác Hàn Ngạc đã thoát khỏi sự khống chế của nàng, lập tức do dự: Trường Canh mà còn trong tay Hàn Ngạc, e ngay cả Du Cửu Khuyết cũng chỉ có thể than thầm một câu khi nói tới tính mạng của Thái tử Chí Hoa: “Nội trong vòng ba thước, sinh tử đều do gã quyết định!”. Nàng cũng khó mà điều khiển được Thanh Sách, nó liền mềm nhũn thả mình xuống. Bàn tay Hàn Ngạc đang siết Trường Canh không động đậy gì nữa. Qua một hồi lâu, Đỗ Phương Ninh thu Thanh Sách về, khẽ thở dài --- “Đánh đã Ngân Hà treo Thanh Sách, buộc lấy Trường Canh thỏa lứa đôi”. Không biết tại sao, lòng nàng lại bỗng dưng nghĩ tới câu đó. Bọn thuộc hạ của Đông cung cảm thấy Đỗ Phương Ninh nói rất có lý, Cảnh Chiêu đã đi, Tứ Hạo cũng đã đi, Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh dợm chân muốn đi, xử lý theo lời nàng dặn. Hàn Ngạc lúc đó chợt nhìn sang Triệu Thường Lượng: “Thi thể của Tiểu Kế do ai phát hiện?”. Miệng gã đắng nghét, tâm lý đang gào khóc cuồng điên, nhưng gã không thể không tra cho rõ. Triệu Thường Lượng một mực ngó gã và Phương Ninh, đôi bạn lữ này ở miền Tái ngoại vốn là đôi bạn lữ trong truyền thuyết, trong mộng ảo của bọn nam nhi ở Liên Thành Kỵ. Hắn thực không muốn thấy họ đánh nhau. Hắn đáp: “Mạc Thượng Mai”. Hàn Ngạc ngẩn người: “Mạc Thượng Mai?”. Sau đó lòng gã bỗng bốc dâng một tia hy vọng mờ mịt. Hy vọng của gã là nữ tử kia càng tàn độc thì càng tốt, vì điều đó quan hệ đến… Gã chợt nói nhanh: “Đem thi thể của Tiểu Kế tới đây”. Triệu Thường Lượng ngạc nhiên, liền xoay mình ra đi. Người của Đông cung đang đắn đo không biết có nên chặn hắn lại không, Phương Ninh lại lắc lắc đầu ra dấu cho chúng. Triệu Thường Lượng đi rồi, Đỗ Phương Ninh chợt điềm đạm thốt: “Tất cả những ai không tương can, nên ngủ thì đi ngủ đi, nên tránh thì tránh mau đi”. Bọn Đỗ Hương Sơn ngó nàng, biết nàng muốn chúng đi. Chúng đưa mắt nhìn nhau, cảm thấy có ở lại cũng đâu có cách nào khác, chần chừ một hồi rồi cùng nhau bước đi. o0o Trong ngoài các nhất thời vắng lặng. Hàn Ngạc đầu óc rối rắm, lo âu muôn bề. Đỗ Phương Ninh chợt ngẩng nhìn gã cười nói: “Trọn một năm không gặp, chàng không đổi khác gì, chàng thấy tôi… có khác chỗ nào không?”. Hàn Ngạc nhìn nàng, quả có chút khác biệt khó tả… Đỗ Phương Ninh thấy gã gật gật đầu, liền mỉm cười nói: “Không khác gì mấy, chỉ là trước khi gặp chàng tôi đã ăn chút tỳ sương”. Hàn Ngạc thất kinh muốn bật dậy… nhưng gã vẫn bất động. Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Không hề gì, chỉ một chút xíu thôi --- Chàng chắc không biết tỳ sương có thể giúp thông khí huyết, giúp cho nhan sắc tươi tắn. Chàng không cảm thấy bây giờ tôi đẹp hơn ngày thường à?”. Hàn Ngạc bần thần nhìn mặt nàng: Phương Ninh luôn luôn rất đẹp, nhưng gã vẫn chưa từng cảm thấy nàng đẹp như đêm nay… Sao nàng lại đi nói những chuyện đó vào lúc này? Đỗ Phương Ninh khẽ thốt: “Tôi ngày nay có đẹp bằng Bộc Ách Phi chưa?”. Thì ra câu nàng thực sự muốn hỏi mình là câu đó. Thần tình kinh hoàng trước vẻ đẹp của Bộc Ách Phi ngày trước bản thân gã vốn đã quên đi, thì ra nàng lại một mực ghi nhớ. Dáng điệu của nàng có hơi bẽn lẽn, có chút đắc ý, cũng có tí thống khổ… Hàn Ngạc thì lại chỉ cảm thấy thảm thương, đáy lòng gã đang kêu lên: “A Ninh, sao nàng lại phải như vậy? Ta thích nàng đâu phải vì cái đẹp chẳng ai bằng”. Nỗi niềm ấm dịu đó vẫn từ từ dâng lên, vẩn vơ từ gót chân cho đến chót mày, quyến luyến ràng rịt. Nhưng một hình bóng đẫm máu trong ảo tưởng soẹt qua mắt gã. Đỗ Phương Ninh chợt cười thê lương: “Thực ra chàng lát nữa có muốn giết Thái tử, tôi cũng không trách gì”. Nàng thở dài: “Trái lại tôi càng bội phục chàng hơn, nếu tôi có thể ân oán phân minh như chàng thì hay quá rồi. Tôi vẫn sẽ giúp chàng thoát khỏi vòng vây sau khi chàng giết y. Mà những lời tôi nói hồi nãy cũng đều là lời nói thực. Cho dù chàng giết được Thái tử, tôi sẽ vì hai họ Thành Nam Tính mà đánh một trận sống mái với Bộc Xạ Đường!”. Sau đó nàng nhẹ giọng: “Có biết tại sao lần này tôi nhất định phải uống một chút tỳ sương không? Vì… đây có lẽ là lần tương kiến cuối cùng của bọn ta. Tôi chỉ hy vọng, trong lòng chàng, tôi vĩnh vĩnh viễn viễn là người đẹp nhất”. Hàn Ngạc dạ xót xa. Gã đứng lặng bất động, cứ như một khúc gỗ. Đỗ Phương Ninh thầm than --- Không có cơ hội, vẫn không có cơ hội. Từ lúc nàng tiến vào, bất kể ngôn ngữ, dung nhan, hay giọng nói đều đã châm chước mấy lượt, muốn đảo loạn tâm tư của Hàn Ngạc. Nhưng tâm gã tuy loạn, lại chẳng phải loạn hoàn toàn, nàng vẫn chẳng được cơ hội nào để đoạt Thái tử khỏi tay gã. Nàng hơi bần thần: hà tất phải trấn định như vầy! Nàng cùng gã, gã với nàng, nàng nhớ tới nàng và gã ngày xưa… Năm xưa, chỉ cần mình hơi nhoẻn cười, Ngạc nhất định sẽ… Khoé môi nàng he hé nụ cười, nhớ tới một Hàn Ngạc tuy bề ngoài điềm đạm trấn định, cố gắng ra vẻ, thực ra lúc nào cũng tâm thần cuồng mê vì nàng --- Hồi đó thực là bé nhỏ mà, gã luôn động lòng dù chỉ vì một cử chỉ bé nhỏ. Mình hồi đó hễ muốn dẫn dụ sự chú ý của gã thì thực quá đơn giản mà. Nhưng bây giờ, tại sao mọi sự biến đổi hết vậy? Hai người lẳng lặng đứng đó, chẳng thốt lời nào một hồi thực lâu. Đột nhiên có tiếng bước chân truyền vọng, Triệu Thường Lượng cùng Ô Trấn Hải đồng thời tiến vào, họ khiêng một cỗ quan tài nhỏ. Hàn Ngạc lúc vừa ngó thấy quan tài, mặt mày hụt hẫng. Bọn môn hạ của Đông cung cũng đã tề tựu, trong đầu Hàn Ngạc chợt có một cảm giác --- Gã tại sao không cảm thấy nỗi đau xé nát tâm can vĩnh viễn chia lìa? Gã không tin mấy, nhưng gã với Tiểu Kế gần gũi lâu rồi, gã cảm thấy nếu thực là thi thể của Tiểu Kế, gã đáng lẽ có thể… --- Giờ quan tài đã ở trước mặt gã, người bên trong xem ra thực là Tiểu Kế, mặt mày giống hệt. Hàn Ngạc chợt thò tay thăm dò bên trong y phục của nó. Ô Trấn Hải cùng Triệu Thường Lượng tưởng gã đau thương quá phát cuồng, bọn thuộc hạ của Đông cung ai ai cũng nín thở. Bàn tay còn lại của Hàn Ngạc đang siết chặt kiếm. Có điều sau khi thăm dò xong, sắc mặt gã bỗng bình tĩnh hẳn. Mọi người đều chằm chằm ngó gã, nhưng gã vẫn chẳng để lộ dáng vẻ gì. Ai cũng đang đoán xem trong đầu gã đang nghĩ gì, còn gã thì nghĩ: Mạc Thượng Mai! Mạc Thượng Mai! --- Đây không phải là Tiểu Kế! Bất kể nàng ta dùng bí thuật gì của Đại Hoang Sơn để ngụy trang dung mạo cùng thân thể của người chết này, đây vẫn không phải là Tiểu Kế, đặc điểm bí ẩn nhất trên mình Tiểu Kế chắc trên đời này chỉ có một mình gã biết. Gã tỉnh táo hít một hơi sâu. Trước khi gã có động, Đỗ Phương Ninh nghiêm mặt: “Chàng lẽ nào thực sự muốn giết Đông cung Thái tử? Chàng thực thấy rằng mấy vạn chúng sinh loạn ly bỏ nhà bỏ cửa, Trường An thành loạn lạc sục sôi là chuyện thú vị lắm à?... Bọn tôi sinh ra trong cuộc, hết sức bất đắc dĩ, đây là số mạng. Chàng vốn là kẻ ngoài cuộc, đây là Trường An, chàng không có sức để giải quyết, hà tất phải đến?”. Hàn Ngạc chợt xoay lại: “Đây không phải là Tiểu Kế”. Toàn trường kinh hoàng, ai ai cũng cho rằng đó nhất định là Tiểu Kế, sao Hàn Ngạc lại nói ngược? Ô Trấn Hải cùng Triệu Thường Lượng vẫn cho rằng Hàn Ngạc đã mê muội thần trí, nhưng nhìn vào mắt gã, họ lại thấy gã vẫn còn tỉnh táo sáng suốt. Hàn Ngạc vụt đứng dậy, nhìn sang Đỗ Phương Ninh: “Qua bảy ngày rồi, ta gần như có thể nhận định kẻ bắt Tiểu Kế không phải là người của Đông cung. Ta chỉ cần nàng nói một câu, Tiểu Kế có phải thực sự không nằm trong tay người của Đông cung không?”. Đỗ Phương Ninh gật gật đầu. Hàn Ngạc phất tay giải khai huyệt ngủ bị phong bế cho Thái tử Chí Hoa, xoa xoa nhè nhẹ hai lượt, giúp y khôi phục lại thần trí, lạnh lùng thốt: “Vậy được, bây giờ phiền Thái tử đưa ta ra khỏi cung”. Người của Đông cung không ngờ Hàn Ngạc nói đi là đi. Tả thủ của gã vẫn án trên vai Thái tử, dìu y đi ra cửa. Ô Trấn Hải cùng Triệu Thường Lượng mê hoặc khiêng quan tài theo sau. Đỗ Phương Ninh lại không tiễn. Hàn Ngạc mới vừa bước ra khỏi Đông Noãn các thì ngoái lại nhìn nàng, thần sắc thảm đạm đó xưa nay nàng chưa từng thấy trên mặt gã. Nàng có cảm giác tất cả đều đã sụp đổ, tan vỡ hoàn toàn, vĩnh viễn không thể khôi phục. Sau khi Hàn Ngạc kéo Thái tử ra khỏi cửa Đông cung, kẻ đứng gần gã nhất là Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh. Ngoài cung bóng đêm mênh mang. Hàn Ngạc chợt buông Thái tử Chí Hoa, phi thân đi. Thương Sơn Tứ Hạo định truy đuổi, những ngày qua chúng tức bực quá rồi, Đỗ Hương Sơn lại phất tay ngăn cản, muốn chúng xem xét xem trên mình Thái tử Chí Hoa có bị gã ngấm ngầm hạ thủ gì không. Bốc Ưng cùng Vi Đĩnh trợn mắt nhìn theo Hàn Ngạc, gã đã đi được gần hai trượng, thình lình đảo trở lại, Thương Sơn Tứ Hạo cùng Đỗ Hương Sơn, Chu Hoè Tân thét lên, nhất tề đứng sát Thái tử Chí Hoa bảo vệ. Kiếm của Hàn Ngạc đã thoát khỏi vỏ, tung một chiêu nhắm ngay Vi Đĩnh. Một tiếng gào thê thảm, kiếm thế thu về còn giao kích thêm một chiêu với Bất Trắc Đao của Bốc Ưng. Gã xuất thủ quá đột ngộ, người tại trường không một ai ngờ được, lại chính là “Thạch hỏa quang trung ký thử thân” lừng danh của gã. Hàn Ngạc giọng điệu khích động: “Vệ binh của ta đâu có để người ta tự tiện giết hại!”. Một kiếm vừa rồi đã chém đứt cánh tay trái của Vi Đĩnh. Chiêu đó chính để báo mối thù cho cánh tay của Đảm vệ Hồ Nghiêu Dân hôm trước.
2 Con trai trưởng của Thái tử. 3 Binh lính dòng quý tộc.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 85 Đạm mặc la cân đăng bạn tự1
V ề đến viện, Hàn Ngạc tâm tình buồn bã. Nhưng gặp lại những thuộc hạ vào sinh ra tử, lòng gã cũng thấy ấm dịu đi. Gã không quen nói khách sáo, cũng không nói tiếng cảm tạ nào, chỉ tận tâm coi sóc vết thương của họ. Hồ Nghiêu Dân thương thế nặng nhất, mất đi một cánh tay, vẫn còn đang tĩnh dưỡng. Bọn Ô Trấn Hải mặt mày có vẻ hổ thẹn. Hàn Ngạc cũng không nhiều lời, để họ đi nghỉ. Gã lại mang cái quan tài vào phòng. Liên Ngọc thấy gã không vui, cũng không dám quấy nhiễu, đem nước cho gã rửa mặt rồi thoái ra. Một khắc sau, ngoài song cửa lại hiện ra một bóng người.
C ửa sổ vốn không khép, đó là thân ảnh của một nữ nhân: Mạc Thượng Mai! Hàn Ngạc vừa ngước lên là liền nhận ra. Gã bình tĩnh ngó nữ tử nọ mà không lên tiếng. Mạc Thượng Mai không kềm chế được, khẽ thốt: “Ta chỉ đến xem xem ngài sao lại xác định hài tử đó không phải là Tiểu Kế”.
Hàn Ng ạc chợt lạnh lùng: “Nàng xác định là nó sao?”. Mạc Thượng Mai đờ ra tại đương trường. Hàn Ngạc lại cười lạnh: “Nàng chắc biết kẻ bắt Tiểu Kế đi là ai phải không? Vậy còn thằng bé dịch dung giả Tiểu Kế là ai? Là ai nhất định muốn ta giết Đông cung Thái tử?”. Mạc Thượng Mai thần sắc kinh ngạc. Hàn Ngạc thở dài: “Nàng không cần dối gạt ta nữa. Thần sắc của nàng đâu có buồn lo, tỷ đệ các nàng tình thâm, nếu không phải đã biết nó chẳng bị gì xấu, làm sao mà không âu lo như thế được? Huống hồ Tiểu Kế còn có chỗ để các người lợi dụng, các người làm sao mà dễ dàng buông bỏ cho nó chết được? Dư Tiệp cô nương, ta nói có sai gì không?”. Mạc Thượng Mai thân người khẽ run lên. Hàn Ngạc thở dài nhè nhẹ: “Xem ra ta đoán không sai. Nàng quả nhiên là Dư Tiệp. Bí thuật của Đại Hoang Sơn, khà khà, dịch dung thuật của Đại Hoang Sơn quả nhiên hơn người. Nếu ta đoán không lầm, Dư cô cô cũng là nàng phải không? Thậm chí cả Dư Quốc trượng mà ta gặp khi mới vào Lạc Dương cũng là nàng chứ?”. Gã vốn tâm tư tinh tế, Dư Tiểu Kế hôm nọ vừa nói tỷ tỷ của nó còn chưa chết, gã liền đoán ra đầu đuôi khúc mắc trước sau. Hàn Ngạc điềm đạm thốt: “Nàng lập kế hãm ta thì ta không trách nàng”. Thanh âm của gã chợt hơi rướn cao: “Nhưng Tiểu Kế, các người cũng bày kế đẩy nó vào ư? Thân phận của nó không phải do Đỗ Phương Ninh tiết lộ cho Đông cung biết, mà là các người, có phải không? Lời đồn ‘Nòi vua còn sót lại, chân mệnh ở Liên Thành’ cũng là các người làm, có phải không? Người của dòng Đại Hoang Sơn cài đặt bên cạnh Hoàng thượng đã khiến ông ta nằm mộng, chắc cũng là các người chứ? Các người vì ép ta cùng Đông cung tương kháng, chẳng ngại dẫn dụ Đông cung mua chuộc bọn Long Môn Dị cùng Bắc Mang Quỷ truy sát Tiểu Kế, có vậy thì ta mới đến Trường An, mới trú ngụ trong tòa viện mà nàng dâng cho, Long Môn Dị cùng Bắc Mang Quỷ tại sao có thể theo bén gót như thế được? Tin tức cũng là nàng để lộ ra, phải không? Nàng còn liên hợp với Bộc Xạ Đường, cũng tiết lộ tin tức cho phe họ. Khà khà, khà khà, Bộc vương phi ơi Bộc vương phi, Dư cô cô hay Dư cô nương ơi, ý đồ của các người thực to tát quá. Nhưng cái vương vị kia thực trọng yếu vậy sao? Đến mức nàng còn hãm biểu đệ của mình vào chốn bất trắc như thế?”. Sau đó gã lại quát một tiếng, chỉ thi thể trong hòm: “Hài tử này có tội gì chứ? Các người muốn ép ta trừ diệt Đông cung Thái tử, bất chấp lấy thân mình của nó ra thay thế! Quá tàn độc!”. Thân hình gã chợt bay lên, chưởng kình quật về hướng Dư Tiệp. Dư Tiệp lại một mực không ngắt lời gã, nàng xoay tay chống đỡ, công lực của nàng đã tiến triển rất nhiều, nhưng Hàn Ngạc xuất thủ hung mãnh quá, một tay của gã đã đánh trúng ngực Dư Tiệp, nàng mửa một ngụm máu, rồi lại chẳng đề kháng nữa, lạnh lùng nhìn Hàn Ngạc. Tay Hàn Ngạc khựng lại, gã đâu có muốn đả thương người. Cuối cùng Dư Tiệp lãnh đạm thốt: “Đó là chúng thiếu ta, thiếu thì phải trả, chúng thiếu Dư gia ta quá nhiều rồi!”. o0o Một khúc nhạc nhè nhẹ lan man bên trên tòa viện, Hàn Ngạc đang thổi địch khe khẽ. Mây phớt vầng trăng, như một niềm an ủi nhàn nhạt. Cây địch Hàn Ngạc đang cầm là cây địch bé nhỏ làm bằng xương dê. Hôm qua lúc bị “Tỏa tâm thuật” của Phương Ninh nhiễu loạn nội tức, chính cây địch này ép sát trước ngực gã đã phát hơi lạnh giúp gã thoát khỏi khốn ách. Nhưng Tiểu Kế hiện đang ở đâu? Là ai bắt nó đi? Hàn Ngạc đang ngồi trên mái nhà --- Bình thời Tiểu Kế có ở nhà rất thích kéo gã lên ngồi trên mái. Trăng tháng sáu treo bên trời, tâm tình của gã cuối cùng đã bình tĩnh lại được. Ngoài tường viện chợt như có bóng người lướt vào, nhưng nỗi niềm dâng hiện trong đầu gã lại không phải là cảnh giác, mà là một cảm giác quen thuộc. Đáy lòng gã sung sướng reo ca. Không lâu sau, gã nghe tiếng hoan hô khe khẽ của Liên Ngọc, sau đó gã nghe sau lưng có thanh âm ai đó nhảy lên mái. Song gã không quay đầu lại, một đôi bàn tay che mắt gã, sau đó là thanh âm của một thiếu niên: “Đoán xem tôi là ai?”. Hàn Ngạc không hồi đáp, mải miết thổi địch, âm điệu rõ ràng hiển hiện niềm hân hoan. Bàn tay che mắt gã một lúc sau mới buông thõng, nhảy tới trước mặt gã, đôi mắt to to, cái cằm nhọn nhọn… Lúc Tiểu Kế chưa về, Hàn Ngạc cảm thấy có rất nhiều lời muốn hỏi nó, nhưng đến khi nó về đến, tất cả mọi sự đều chừng như không còn tương can nữa, về là đủ rồi. Gã vẫn thổi địch, Tiểu Kế ngồi bên cạnh gã, gã nghe tiếng hơi thở của nó, biết nó không bị thương. Lại một hồi lâu sau, Tiểu Kế giơ tay gõ nhịp khe khẽ trên đầu gối mình, hai người cùng nhớ lại cái ngày nào ở Lũng Trung. Ngày tháng đó đúng là trong lành khoan khoái làm sao, ít ra hồi tưởng lại là thế. Lòng Hàn Ngạc tưởng niệm lời ca mà họ từng hát: Lên núi cao dõi trông Bình Xuyên, Bình Xuyên có một đóa mẫu đơn, nhìn thì dễ mà hái thì khó, hái không được thực là uổng.2 Lúc Tiểu Kế hát bài ca đó, lòng dạ gã còn khoái hoạt. Khi ấy gã đang nhớ tới Phương Ninh phải không? Nhưng đường đời thực khó lường. Hôm nay, có còn có thể dùng thứ tâm tình kia mà nhớ đến Phương Ninh được sao? Những ôn nhu đó, những quyến luyến đó, lẽ nào đều không còn tồn tại nữa? Một lúc sau Hàn Ngạc mới dừng tiếng địch, lại là vì bị Tiểu Kế ngắt chặn. Tiểu Kế hỏi: “Ngạc ca, phụ thân của tôi thực ra là ai?”. Hàn Ngạc ban đầu kể cho nó biết thân thế, chỉ nói nó là con của Dư Hoàng hậu. Tiểu Kế sâu sắc, ý tứ đằng sau lời nói đó nó đã đoán ra: Ngạc ca muốn nói rằng phụ thân của mình xem chừng không xác định được. Hàn Ngạc thẫn thờ, không biết nên hồi đáp làm sao. Trầm ngâm một hồi, Tiểu Kế lại lãng đi: “Ngạc ca, hai ngày nay tôi đã gặp được một người”. Hàn Ngạc quay nhìn sang nó, thấy thần tình của nó có hơi xa vời. Nó nói tiếp: “Tôi chưa từng gặp ai đẹp như vậy, mà lại là một nam nhân, thực là tuấn tú thanh thoát, hơn huynh thì không nói gì, ngay cả Cù Lập mà mình từng gặp ở Long Hoa Hội xem ra cũng kém y xa. Y… là người đã cứu tôi”. Hàn Ngạc bàng hoàng: người nó nói đến… lẽ nào là… Vệ Tử Câm? Dư Tiểu Kế thốt: “Hôm đó trong tòa nhà cũ của Lương vương, y đã cứu tôi ra. Nhưng tôi một mực không nhìn thấy được mặt y. Tôi đã bị Thương Sơn Tứ Hạo đánh bị thương, thương thế chừng như rất nặng, vì lúc y mang tôi phóng trên đường, tôi đã hôn mê không biết gì nữa. Đến khi tôi tỉnh dậy, hình như là đang trong cung, bởi nơi đó rất tĩnh lặng. Cách bày biện trong ngôi nhà đó cũng giống như trong cung, chỉ có trong cung mới bày biện như thế. Y vào ngó tôi, thở dài một hơi. Lúc đó tôi mới nhìn thấy mặt y, không khỏi ngẩn ngơ, đẹp đến dường đó, cũng chỉ có cái lần tôi vừa gặp Bộc Ách Phi mới khiến cho tôi bàng hoàng như khi ấy. Rồi y điểm huyệt ngủ của tôi. Lúc tôi ngủ, y tựa hồ đã trị thương cho tôi. Đến lúc tôi lại tỉnh dậy thì hoàng hôn đã buông. Trong nhà không có ai, tôi bò dậy, gắng gượng xuống giường, nhìn ra ngoài cửa sổ, trong viện cũng chẳng có người. Nhưng tôi nhận ra ở đó có bố trí một trận đồ, trận thế cổ quái ghê, giống như Thập Sá đồ của Đại Hoang Sơn bọn tôi, lại không hoàn toàn là vậy…”. Hàn Ngạc đờ đẫn: Chi Lan viện, người đó quả nhiên là… Vệ Tử Câm. Lại nghe Tiểu Kế nói: “… Trời sắp tối, tôi có hơi sợ tối, đi thắp đèn trên cái án trước cửa sổ. Sau đó tôi nhìn thấy một vuông khăn tơ, có vẻ cũ kỹ, tôi xưa nay chưa từng thấy loại khăn đó. Cái khăn tơ đó màu trắng, tôi cúi xuống xem thì thấy bên trên có viết chữ. Tôi chong đèn thì thấy viết…”. Thần tình của Tiểu Kế thờ thẫn, giọng nói xa vắng: “… Thanh thanh tử câm, du du ngã tâm; đãn vi quân cố, trầm ngâm chí kim”3. Hàn Ngạc lặng người: “Đoản ca hành” của Tào Mạnh Đức? Lại nghe Tiểu Kế nói tiếp: “Vuông khăn cũ quá, mà bên trên đâu chỉ có viết một dòng đó, còn có mấy chữ nhỏ nữa. Mấy câu hồi nãy nét chữ có vẻ nguệch ngoạc cứng thô. Chữ nhỏ bên cạnh lại nắn nót hơn nhiều, đường nét mong manh lắm, người viết tựa hồ tâm tư cũng rất bấn loạn. Tôi thấy kỳ quái: dấu mực in lên khăn tơ, làm sao mà không lem cho được? Người viết vậy mà khống chế được, chắc cổ tay cũng lắm công lực. Mấy chữ nhỏ đó tôi lại không mấy hiểu, đọc qua đọc lại xem chừng đều là một câu… Túng ngã bất vãng, tử ninh bất tự âm… Túng ngã bất vãng, tử ninh bất lai4… Mấy câu đó tôi đọc hai lượt là nhớ hết. Tôi lại phát giác có người tiến vào viện, vội vàng chạy lên giường nằm xuống. Người cứu tôi lại về đến, y cho rằng tôi còn chưa tỉnh, ngồi một mình bên bàn, tay cầm vuông khăn tơ đó, không nói một tiếng nào. Tôi thầm nghĩ vuông khăn đó mà cột trên đầu y thì thực xứng lắm. Y giống như những người mặc áo dài trong tranh thủy mặc vậy. Lát sau tôi mới nghe y khẽ thở dài, tôi chưa từng nghe thanh âm của ai thê lương khổ não đến thế. Rồi tôi mệt quá, ngủ vùi đi”. “Sáng sớm hôm sau tôi thấy đói. Nhưng lương khô mà người đó mang đến lại cũ quá, cứng quá, khó mà nhai được, tôi ăn không vô. Người đó lắc đầu đi ra. Đến giữa trưa, y dẫn một nữ tử vào. Nữ tử tuổi tác không lớn, tôi gọi nàng ta là tỷ tỷ. Tôi chưa thấy ai xấu như vậy --- Thực đó, không phải tôi nói lén sau lưng nàng ta gì, gương mặt của nàng ta chừng như đã hoàn toàn bị thiêu hủy, lúc tôi mới gặp có hơi sợ. Bất quá đồ ăn nàng ta nấu thực là ngon, hơn nữa tính tình của nàng ta lại cực kỳ dịu dàng bình hòa. Mấy ngày sau đó vết thương của tôi vẫn chưa khỏi, toàn là nhờ nàng ta phục thị”. Hàn Ngạc nghe nó kể tới người đó, vụt nhớ đến nam tử thổi tiêu và nữ nhân mặt mày xấu xa mà mình gặp khi ló đầu lên khỏi hồ Ngọc Nương cái ngày hôm đó. Dư Tiểu Kế kể tiếp: “… Hai ngày đầu tôi không có hơi sức để nói chuyện. Đến khi tôi lại sức, nói cảm ơn nàng ta, nàng ta lại mỉm cười không đáp. Tối đến nàng ta lại giúp tôi rửa mặt rửa chân, tôi thực mắc cỡ đó". Mặt nó hiển lộ vẻ bẽn lẽn của thiếu niên nam tử: “Tôi lại cám ơn nàng ta, nàng ta nói: ‘Không cần phải vậy’. Rồi nàng ta thở dài: ‘Thực ra ta nên cảm ơn ngươi'. Tôi nghe vậy ngẩn cả người, lại nghe tỷ tỷ đó như tự lẩm bẩm với bản thân: ‘Nếu chẳng phải ngươi cần có người chăm sóc, y… kẻ luôn luôn không nhờ vả ai kia… làm sao có thể để ta vào Chi Lan viện này, đến bên cạnh y được chứ?’. Khẩu khí vừa ôn nhu vừa đắm đuối, đúng là nỗi niềm ôn nhu phát ra từ tận xương tủy. Sự ôn nhu giả tạo của bọn đàn bà con gái tôi gặp nhiều rồi, Đỗ Phương Ninh nè, tỷ tỷ của tôi nè, nhưng sự ôn nhu của tỷ tỷ này lại là thực. Có điều nghe lại làm cho người ta…”. Dư Tiểu Kế ngẩn ngơ: “… Rã lòng. Mấy ngày sau đó, tôi đã làm quen với tỷ tỷ xấu đó. Tôi nhận thấy nàng ta hết sức tốt bụng. Có một lần tôi hỏi nàng ta: ‘Tỷ tỷ thích y phải không?’. Nàng ta ngây người không nói gì một lúc thực lâu, cuối cùng mới cười gượng: ‘Ta làm sao xứng để thích y chứ? Người thích y phải là người thân phận cao sang tuyệt thế như bậc mẫu nghi thiên hạ, phải có dung mạo thần tiên mỹ miều như mỹ nữ Bộc Ách Phi năm xưa. Hồi dung mạo của ta còn chưa bị hủy cũng đâu có xứng, bây giờ thì lại càng làm sao mà xứng để thích y cho được?’”. Dư Tiểu Kế nói đến đó bỗng ngưng bặt, một lúc sau mới tiếp: “Tôi khi ấy nghe vậy liền nói: ‘Thích một người nào có phải xứng hay chẳng xứng gì chứ! Cho dù thân phận của các người khác biệt, cho dù người của toàn thiên hạ đều không biết hoặc không cho phép tỷ tỷ thích y, nhưng thực ra mình thích thì cứ thích. Cho dù sự thích đó chỉ có thể đặt trong lòng, đó cũng là cái thích thực thực tại tại, cái đó mới trọng yếu nhất'. Nàng ta nghe tôi nói vậy tựa hồ rất vui vẻ…”. Nó lại sững một chút: “Thực ra lời của tôi vốn đâu chỉ nói với nàng ta…”. Hàn Ngạc không hiểu Tiểu Kế sao lại đột nhiên nảy sinh tâm tình ưu phiền mềm yếu như vậy, thực là hiếm thấy. Khoé môi nó hé nụ cười khổ: “Lúc đó tỷ tỷ kia ngó tôi một hồi, đột nhiên nói: ‘Tướng mạo của ngươi thực có hơi giống y’. Tôi nghe mà sững sờ --- Tôi cũng có cái cảm giác đó. Chỉ là tôi đâu có đẹp đến dường đó, còn kém xa… Ngạc ca, phụ thân của tôi thực ra là ai vậy?”. Nó loanh quanh một vòng, không ngờ lại quay về thoại đề đó. Hàn Ngạc ấp úng: “Việc đó… ta cũng không rõ. Nếu nói mẹ ngươi là Dư Hoàng hậu, phụ thân của ngươi đáng lẽ đương nhiên là Hoàng thượng. Có điều… có điều Bộc Ách Phi hồi trước thấp thoáng có hé lộ một ý, nói rằng Dư Hoàng hậu năm xưa có quen biết với Vệ Tử Câm mà ngươi vừa gặp”. Nói đến chuyện này, gã lại không được tự nhiên như Tiểu Kế. Dư Tiểu Kế thẫn thờ: “Vậy là đúng rồi…”. Hàn Ngạc bần thần: “vậy là đúng rồi” cái gì? Tiểu Kế đã nhận định Vệ Tử Câm chính là phụ thân của nó sao? Tâm pháp của dòng Đại Hoang Sơn cực kỳ quái gở, Tiểu Kế thực có tài nghệ phán đoán ra sao? Lại nghe Tiểu Kế trân trối thốt: “… Xem ra Hoàng thượng thực đúng là phụ thân của tôi”. Hàn Ngạc lại càng ngẩn ngơ, gã đâu có thấy tướng mạo của Tiểu Kế giống đương kim Hoàng thượng chút nào. Dư Tiểu Kế nói: “Mẹ tôi hồi đó nhất định thích y lắm. Tâm pháp của Đại Hoang Sơn bọn tôi nguyên có thể khiến cho thai nhi của mình giống một người nào đó mình đang để ý. Tôi tuy quả có hơi giống y, nhưng vừa gặp y là tôi biết y không phải là phụ thân của tôi. Nếu mà phải thì ‘Chỉ thủy thanh đồng’ của tôi nhất định nhận ra được; nếu là vậy thì đâu thể chỉ giống chút tướng mạo bề ngoài như vậy. Nhưng tôi cảm thấy nhãn thần của y lúc nhìn tôi tựa hồ như đang nhìn người mẹ quá cố của tôi vậy”. Hàn Ngạc sững sờ: đạo lý ràng rịt gì đây chứ? Dư Tiểu Kế chợt có vẻ mệt mỏi, Hàn Ngạc thận trọng hỏi: “Tiểu Kế, ngươi cũng đã gặp Hoàng thượng. Vậy lúc ngươi nhìn thấy ông ta, có cảm giác…”. Gã không biết nói làm sao mới không đường đột quá. Dư Tiểu Kế mệt mỏi đáp: “Mình mẩy ông ta đắp phủ lắm thứ quá, tôi không nhìn xuyên được. Trong điện Thái Cực lại có âm khí chất chồng, hơi hám quyền lực phú quý bao trùm. Ở đó chẳng có thiên tính gì hết, có tôi cũng chẳng nhìn thấu được”. Sau đó nó lại khe khẽ nói: “Ngạc ca, y… người y thích lại không phải là mẫu thân của tôi”.
1 Mực thoảng khăn tơ đèn tỏ chữ, là một câu thơ xuất hiện trong tiểu thuyết “Nghiệt Hải Hoa” của Tằng Phác.2 Xem chú thích {5} hồi 32.
3 Cổ áo xanh xanh, lòng ta vương vấn; bởi do người đó, ta mãi thẫn thờ, là những câu trong bài “Đoản ca hành” của Tào Tháo. 4 Sách "Thi Kinh - Trịnh phong - Tử câm" có bài thi ca: Thanh thanh tử câm, du du ngã tâm. Túng ngã bất vãng, tử ninh bất tự âm? Thanh thanh tử bội, du du ngã tư. Túng ngã bất vãng, tử ninh bất lai? Thiêu hề đạt hề, tại thành khuyết hề. Nhất nhật bất kiến, như tam nguyệt hề. (Tạm dịch:Cổ áo chàng xanh xanh, tim em đang canh cánh. Dù em không đến được, chàng nào thể bặt tin? Đai ngọc chàng xanh xanh, lòng em đang nhung nhớ. Dù em không đến được, chàng nào thể chẳng đi? Đến rồi đến rồi kìa, ngoài cửa thành rồi kìa. Một ngày em không gặp, khác gì đã ba trăng). "Thanh thanh tử câm", tức là cổ áo xanh của chàng học trò, ở đây dùng để chỉ cổ áo xanh của người trẻ tuổi đang giả làm thần mùa Xuân. Vì vậy câu này là lời hiệu triệu thần Xuân. Câu "Du du ngã tâm" là nói lòng của thiếu nữ bồn chồn khẩn trương chờ đợi thần Xuân. "Túng ngã bất vãng, tử ninh bất tự âm?" nghĩa là: cho dù tôi không thể đi (ý nói người phàm không thể chung đụng với thần tiên), người sao lại có thể không trao tin (ý chỉ gió xuân đưa tin). "Tử bội" là thắt lưng tơ của nam tử có đeo ngọc bội. "Thiêu hề đạt hề" nghĩa là đến rồi (chữ “thiêu 挑” hài âm với chữ “đáo 到” . "Thành khuyết" nghĩa là cửa thành, đón thần Xuân ở cửa đông. Bài thi ca này miêu tả tâm tình của thiếu nữ đón thần Xuân, chia làm ba chương. "Cổ áo xanh" (thanh câm) trong chương đầu tượng trưng cho nhan sắc ngày xuân, kêu gọi đầu môi cửa miệng biểu lộ tâm tình trông đợi thần Xuân giáng lâm của thiếu nữ. Chương thứ nhì lặp lại hình thức của chương đầu, nhưng tâm tình mong mỏi mãnh liệt hơn. Chương thứ ba chuyển chiết, biểu thị thần Xuân cuối cùng đã đến trước cửa thành, tổng hợp nỗi niềm tương tư của thiếu nữ. Mùa đông ở phương bắc giá buốt kéo dài dằng dặc, ngày xuân tha thướt đến trễ. Tâm lý của người bản xứ đã được thểhiện qua tâm tình của thiếu nữ trong thi ca. Trung Quốc cổ đại coi bốn mùa có thần tiên coi sóc, trao đổi chuyển hoán. Thiên "Tử câm" đem thi ca hình thành phong tục sinh hoạt cúng tế. Trong các thời đại sau khi "Thi Kinh" ra đời, mỗi lần đến ngày xuân về là có dựng cờ xanh, mặt áo xanh, ra cửa đông đón thần Xuân.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 86 Tiểu phong linh bội mộng trung ngâm1
G ần một tháng nay Hàn Ngạc cứ chờ đợi cái thời khắc này, đó là sự điều thiên binh mã Lưỡng bộ --- Liên Ngọc đột nhiên tiến vào thư phòng của gã, bẩm báo: “Hàn soái, có thư”.
N ếu nói Hàn Ngạc có làm được chuyện gì từ hơn ba tháng trời ở Trường An đến nay, thì đó là sau khi nghiên cứu Binh bộ cách đây hai tháng, đắn đo kỹ lưỡng, gã đã vào triều dâng kiến nghị, xin được hai Thánh chỉ. Một là điều Vương Hoành Hải về kinh đô, cầm đầu Binh bộ, hơn nữa còn truyền lệnh cho Vương Hoành Hải kéo một vạn tinh binh mới huấn luyện về đồn trú ở Tân Phong ngoài thành Trường An, sung làm phòng vệ Trường An; hai là điều Cổ Siêu Trác kéo hơn một vạn tinh binh của Bắc đình Đô hộ phủ về trấn giữ Lạc Dương, coi sóc Quan Đông. Hai người này một là môn hạ của Đông cung, một là môn hạ của Bộc Xạ Đường, thế lực cân bằng, Đông cung cùng Bộc Xạ Đường đều chẳng thể nói gì, lại có ý của Hoàng thượng, vì vậy Thánh chỉ ban phát hết sức thuận lợi.
Ngày nay V ương Hoành Hải cuối cùng đã về đến kinh sư, đang đồn trú ở Tân Phong. Thư Liên Ngọc dâng là của Cổ Siêu Trác, trong thư nói nhân mã của hắn đã qua ải Tiêu, chỉ khoảng nửa tháng nữa là đến Lạc Dương. Cuối thư có hai câu: “Tuổi nhỏ ôm lòng gìn đạo nghĩa, chức hèn nuôi chí cứu thế nhân!”2.
Hàn Ng ạc xem tới hai câu đó thì mỉm cười. Trong triều gã rất ít giao du với ai, bạn thâm giao cũng chỉ có Vương Hoành Hải cùng Cổ Siêu Trác. Gã với Vương Hoành Hải mới gặp là đã như quen từ lâu, còn Cổ Siêu Trác từ sau khi gã tru sát Ô Tất Hãn xong cũng rất đồng tâm đồng tình. Gã biết hai người tuy ở thế bất đắc dĩ phải đi theo làm môn hạ của Đông cung và Bộc Xạ Đường, nhưng thực ra vẫn là những kẻ lấy thiên hạ làm trọng. Lúc Hàn Ngạc ở mười lăm thành, gã thường xuyên thư từ qua lại với Vương Hoành Hải, cách nhìn cục diện triều chính rất nhiều chỗ giống nhau, đáng gọi là tri kỷ. Gã với Cổ Siêu Trác ở vùng Tây Vực cũng có một thời gian dài thăm dò lẫn nhau, về sau đã trở thành bạn thân. Nhưng sự kết bạn đó e người của Đông cung và Bộc Xạ Đường chẳng ai biết rõ. Đọc hai câu cuối trong lá thư của Cổ Siêu Trác, Hàn Ngạc nhận ra không phải là tự trào tự phúng, mà rõ ràng là một lời hứa khẳng khái. Được hai người này về, cầm cả vạn tinh binh trấn giữ cục diện ở hai đô thành, Hàn Ngạc đã yên lòng được phần nào.
M ột chuyện mà gã đã cố làm từ lâu: ráng dần dần kiến lập mối liên hệ giữa Vương Hoành Hải cùng Cổ Siêu Trác. Sự tín nhiệm luôn là cái phải kiến lập dần dần, mà hai người đó đều là điển hình đúng nghĩa của bậc nam nhi hán tử. Đây gọi là: vì nước có màng chi sống chết, họa nào lo sợ phước nào ham3, họ giống nhau ở điểm đó, tuy không cùng phe phái, chẳng thông hiểu về nhau, nhưng chuyện này Hàn Ngạc vẫn đã làm thành công.
1 Gió mơn dây ngọc mộng trao lời, là một câu tiếp theo câu “Đạm mặc la cân đăng bạn tự” trong tiểu thuyết “Nghiệt Hải Hoa” của Tằng Phác (xem chú thích {1} hồi 85). 2 Nguyên tác là hai câu "Tảo tuế tiện hoài tề vật chí, vi quan cảm hữu tế thời tâm" xuất xứ từ bài "Hòa Liễu Tử Ngọc quá Trần tuyệt lương" của Tô Thức. Ý nói tuổi tác còn nhỏ mà đã ôm chí hướng thấu suốt đạo lý, làm quan nhỏ cũng dám có quyết tâm cứu đời. "Tề vật" có nguồn gốc từ sách "Trang Tử - Tề vật luận", ý là "đạo lý bất biến". 3 Nguyên tác là hai câu "Cẩu lợi quốc gia sinh tử dĩ, khởi nhân họa phúc tị xu chi" trong bài thơ "Phó thú đăng trình khẩu chiêm kỳ gia nhân" của Lâm Tắc Từ. Bài thơ này sáng tác vào tháng 8 năm 1842, là lời từ giã người nhà lúc họ Lâm bị cách chức sung quân. Ý thơ biểu lộ thái độ bất chấp an nguy cá nhân, tuy vì
Gã m ỉm cười, để coi xem thái độ của Tiểu Kế ra sao. Nếu nó cũng chịu về, vậy thì tốt nhất, gã và nó cuối cùng đã có thể trở về vùng Biên Tái miền tây bắc rồi. Chốn biên thùy giáp ranh Thổ Cốc Hồn quả đang cần phải lo liệu. Hàn Ngạc nhắm mắt, nghĩ đến Tái thượng cát vàng trải dài, tuy mọi sự đều gian khó, lại có một niềm khoái cảm tràn ngập tâm can phế phủ.
Liên Ngọc mới đi ra thì bỗng quay trở lại bẩm: “Trần Bộc Xạ có sai người thỉnh mời
Hàn soái đi dự tiệc”. o0o Yến tiệc của Bộc Xạ Đường mở ở Trần phủ. Hàn Ngạc lại không ngờ đây chỉ là một
b ữa tiệc không theo nghi thức, chủ nhân chỉ có một mình Trần Hy Tái. Hàn Ngạc ngạc nhiên nhập tiệc, chủ khách chào hỏi xong, trừ tùy tùng của lão ra, Trần Hy Tái cho những người khác lui xuống hết. Hàn Ngạc nâng chén kính chủ nhân, Trần Hy Tái uống xong chợt cười nói: “Hàn huynh, thực ra bữa tiệc hôm nay tuy mở ở tệ xá, chủ nhân lại không phải là lão hủ”.
Hàn Ng ạc ngẩn ngơ, thấy Trần Hy Tái vỗ tay, đằng sau bình phong bỗng có một người bước ra. Hàn Ngạc nhận ra là Tam hoàng tử Chí Bình. Hàn Ngạc bàng hoàng, vội đứng dậy bước khỏi bàn đón. Không ngờ Tam hoàng tử Chí Bình đã đi đến gần, Hàn Ngạc vừa định cúi mình hành lễ thì hắn lại đã vái trước.
Đ iều này đâu có hợp với lễ số của triều đình, huống hồ cái Hàn Ngạc sợ nhất là người ta quỳ lạy mình. Gã liền đưa tay ra đỡ, kinh hoảng: “Tam hoàng tử sao lại làm vậy?”. Tam hoàng tử Chí Bình rưng rưng: “Hàn tướng quân cứu ta với! Hàn tướng quân nếu không cứu ta, ta xin quỳ mãi tại đây”. Nỗi sợ hãi trong lời nói của hắn có vẻ rất chân thành. Hàn Ngạc vội hỏi: “Tam hoàng tử gặp chuyện gì à?”. Chí Bình rơi lệ: “Đông cung muốn giết ta!”. Hàn Ngạc đờ đẫn tại đương trường. Chí Bình giọng buồn thảm: “Hàn tướng quân anh dũng kiên nghị, là mối hy vọng duy nhất của ta hiện giờ. Hàn tướng quân nếu không cứu ta, ta sẽ quỳ ở đây đến chết, cũng còn hơn là để huynh đệ tương tàn”. Hàn Ngạc thẫn thờ, gã đã liệu trước Trần Hy Tái mời gã đâu phải chỉ vì khách khí, có điều chẳng ngờ được lão lại khuyên Tam hoàng tử dùng chiêu này. --- Tam hoàng tử Chí Bình đại khái là con cờ Bộc Xạ Đường dốc sức phù trợ, hòng thay thế Thái tử có phải không? Hàn Ngạc có hơi u buồn nhìn lên mặt vị Hoàng tử kia, thấy sắc mặt hắn tái mét. Trần Hy Tái từng nói bản tính của hắn nhân từ, mà đâu có nói hắn nhu nhược mềm yếu. Không sai, nếu lập được một Hoàng đế như vầy, bá quan liêu thuộc dưới trướng Bộc Xạ Đường sau này nhất định sẽ thảnh thơi hơn so với để Thái tử Chí Hoa đăng cơ. Hàn Ngạc lại khinh ghét nhất là sự nhu nhược đó, so đi sánh lại, gã vẫn thích cái ý chí cứng cỏi có chút dã tâm của Thái tử Chí Hoa hơn. Kêu gã giúp ai đây? Nếu gã thực có năng lực phù tá Tam hoàng tử đăng cơ, dùng sự yếu đuối của hắn để đánh đổi lại sự bình yên của triều chính, có phải sẽ khiến cho triều đình dần dần thúi nát không? Còn trợ giúp Đông cung Thái tử? Để cho y kế vị, để cho y tung hoành hủy diệt hệ thống văn quan đã tồn tại cả trăm cả ngàn năm này, cuối cùng có gây ra cái họa cả trong lẫn ngoài, chẳng còn cách nào thu thập được hay không? Hàn Ngạc gắng đỡ Tam hoàng tử dậy, mời y ngồi vào bàn tiệc. Trần Hy Tái sụt sịt: “Chủ nhân thực sự của bữa tiệc hôm nay chính là Tam hoàng tử. Hàn tướng quân, chút lòng thành của Tam hoàng tử, Hàn tướng quân đừng hiểu lầm ý của Hoàng tử”. Sao mới gọi là hiểu lầm? --- Hàn Ngạc nhìn gương mặt nỗi lo âu dâng hiện qua những nếp nhăn hằn sâu của một Trần Hy Tái lão mưu thâm toán: ngươi bắt ta nghĩ làm sao mới gọi là không hiểu lầm ý? Gã đọc được một vẻ tàn độc già dặn đằng sau mục quang của lão. Vị Tể tướng này đây, quyền bính trong tay mấy chục năm trời, nếu Hoàng thượng đột ngột băng hà, e lão đâu có cam tâm để cho Đông cung đăng cơ! Xung quanh Trường An, binh tướng tả Kim ngô vẫn là môn hạ của Bộc Xạ Đường. Mà bên Trường An thành tổng cộng có mười vạn cấm quân, đại đa số là hạng chẳng có chủ kiến. Qua phán đoán của Hàn Ngạc sau khi xem sổ sách Binh bộ, quân lực tâm phúc của vị Tể tướng thiên tả và của vị Thái tử thiên hữu đại để tương đương nhau, mỗi phe có chừng gần một vạn binh. Một khi có chiến tranh, hươu chết về tay ai còn phải trông vào ý trời. Cho nên bản thân mình tuy thực lực không mấy lớn, đối với bọn họ lại là một thực lực phải giành nắm cho được. Hàn Ngạc đang suy nghĩ, Tam hoàng tử lại không nói gì, có vẻ cũng chẳng nhận được rõ cục thế hiện thời, trong đầu đại khái toàn là những gì Trần Hy Tái đã dạy dỗ cho hắn, cứ để Trần Hy Tái thao túng cái thế chủ động nói năng trên bàn tiệc. Lão đã mấy lượt nói chuyện với Hàn Ngạc, mà gã chỉ ừ iệt cho qua --- Có lẽ nếu có thể được Tử Thần Du Cửu Khuyết trợ lực, nếu Hoàng thượng còn giằng dai được hai ba năm, cục thế nan giải khó suy tính này, qua nỗ lực của Vương Hoành Hải tướng quân cùng Cổ Siêu Trác và mình, sẽ hoàn toàn bình định được. Nhưng trong khoảng thời gian đó tất phải có hy sinh, bất quá còn hơn là để Thái tử cùng bá quan xung đột trực tiếp, có phải không? Gã hiện không thể nhiều lời, chỉ còn nước khách sáo an ủi cho qua. Tam hoàng tử Chí Bình quả là không biết nói chuyện, thực “đáng thương” như Trần Hy Tái đã từng nói. Hắn chỉ biết mời rượu, mà uống vào thì hắn lại say trước, ngã vật ra án ngủ vùi. Trần Hy Tái chợt thở dài buồn bã: “Hôm nọ lúc ta vào cung bệ kiến, Hoàng thượng quả đã già quá rồi, tinh thần thua xa hồi trước. Ngài khi ấy đột nhiên than một câu: ‘Thực ra đáng lẽ ta còn có một Hoàng nhi. Gần đây ta nằm mơ thấy nó còn sống, hình như lúc sinh ra gặp bất lợi, khó mà nuôi nấng, đã được đem ra ngoài nuôi. Nếu nó còn sống thì chắc cũng đã mười chín, cũng coi như trưởng thành rồi. Tên của nó chắc là Chí Kế”. Lúc lão nói chuyện, đôi mắt quét nhìn sang Hàn Ngạc. Hàn Ngạc thầm rùng mình, lại nghe Trần Hy Tái nói: “Ta hiểu ý Thánh thượng, biết ngài tưởng nhớ Hoàng tử Chí Kế hơn hết, hình như còn niệm tình Dư Hoàng hậu năm xưa. Nếu Hoàng tử Chí Kế mà còn sống, chắc Hoàng thượng muốn lập làm Thái tử đó”. Đây rõ ràng là Trần Hy Tái muốn ám chỉ: lão đã nhượng bộ. Lão rõ ràng đang nói: miễn sao không để Thái tử Chí Hoa lên ngôi thì sao cũng được, đâu cần lo tới Tam hoàng tử, chuyện gì cũng có thể thương lượng. Hàn Ngạc lại máy động tâm tư: Dư Tiệp, Dư cô nương ơi, sự liên hiệp của cô nương càng lúc càng vững mạnh đó. o0o Một cơn gió nhẹ thoảng qua giường trướng, Dư Tiểu Kế trong mộng nghe thấy một tiếng ngọc bội leng keng, tựa hồ là ngọc bội trên mình Vệ Tử Câm, ngân nga thanh thúy quá, cứ như một cái gì đó mà nó đã đánh mất lâu lắm rồi, tưởng chừng không thể nào tìm lại được. Giữa tiếng ngọc bội cơ hồ có một tà áo dài đứng đó, một hình bóng mơ mơ hồ hồ… Gió lùa qua, vuốt lên bờ má, làm cho nó cảm thấy chút an nhàn. Nó đang thư thái tâm thần thì lại nghe bên giường có người kêu: “Tiểu Kế, Tiểu Kế”. Dư Tiểu Kế mở mắt, thấy người đứng bên giường là Mạc Thượng Mai --- thực ra chắc là biểu tỷ Dư Tiệp của nó. Dư Tiểu Kế trở mình ngồi dậy, lại nghe Dư Tiệp thở dài: “Tiểu Kế, sao vậy, ngươi nằm mơ hay đang luyện công vậy? Thực rất dễ tẩu hỏa nhập ma đó”. Dư Tiểu Kế không đáp. Dư Tiểu Kế lại nhìn vào mắt nó, khẽ thốt: “Tiểu Kế, ta nhận ra ngươi đã luyện ‘Hà điển’ tới căn cơ hoang đường rồi”. Dư Tiểu Kế chợt cau mày, có vẻ không muốn nghe nàng ta nói nữa. Dư Tiệp lại bắt nó nghe: “Ta không nói chắc ngươi cũng biết, tâm pháp trong ‘Hà điển’ có thứ quá là không thiết thực, quá là hoang đường. Ngươi… đừng luyện nữa… coi chừng… cuối cùng hại luôn cả mình”. Ánh mắt nàng ta có vẻ thông hiểu, lời nói cũng có vẻ có ý khác. Dư Tiểu Kế chợt cả giận: “Tôi không cần chị lo, mạng tôi là của tôi! Hoang đường tới đâu thì cũng là tôi tự nguyện”. Lần đầu tiên nó phản kháng lại người chị họ của nó. Nó gằn từng tiếng: “Tôi lớn rồi, tôi biết mình đang làm gì, tôi chỉ muốn tự mình lo cho mình mà thôi”.
vi ệc cấm thuốc phiện chống đối Anh quốc mà bị cách chức nhưng cũng không chút hối tiếc. "Phó thú" là đi đến nơi sung quân. Hai câu này đại để nói: nếu như có lợi cho quốc gia, ta có thể đem sinh mạng mình giao phó; lẽ nào lại gặp họa thì trốn tránh, được phước thì đón lấy? Lâm Tắc Từ lấy ý thời Xuân Thu, Tử Sản của nước Trịnh bị phỉ báng thì nói: "Cẩu lợi xã tắc, tử sinh dĩ chi".
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 87 Ngọc kiểm tứ thư mê phượng triện1
“Tiểu Kế, ngươi có muốn về Tái thượng với ta không?”.
Hàn Ng ạc khẽ thở dài thốt một câu. Gã cũng biết nguyện vọng đó có khác gì là một giấc mộng, nhưng chính vì nó xa vời, đang khi mệt mỏi, gã mới đột nhiên thố lộ câu đó. Những ngày qua gã hết sức bận bịu. Cách đây ba hôm, nửa đêm gã từng ra khỏi thành, ngấm ngầm phi ngựa đến Tân Phong một chuyến. Chuyến đi đó là để gặp mặt Vương Hoành Hải, gã với ông ta có lắm chuyện cần thương nghị. Khi gã ra ngoài hành sự, nỗi lo âu duy nhất của gã vốn là Tiểu Kế, nhưng hiện tại an nguy của nó gã đâu cần lo nữa, bởi gã đã thỉnh được Mạc Thượng Mai đến tòa viện này làm trợ thủ. Sau khi được sự tiếp sức của “Mạc Thượng Mai” Dư Tiệp, hiện khu viện đã bố trí thêm Thập Sá đồ của Đại Hoang Sơn bọn họ. Xem qua trận thế, Hàn Ngạc biết với sức của Đông cung, cho dù có thêm Long Môn Dị cùng Bắc Mang Quỷ dốc hết toàn lực đi nữa, muốn công nhập để hành thích Dư Tiểu Kế e không thể là chuyện một sớm một chiều --- Huống hồ chúng vẫn đâu có dám đánh giữa ban ngày ban mặt. Nhưng việc này cũng khiến cho gã giật mình về thực lực dưới trướng Mạc Thượng Mai --- Bây giờ gã mà nghĩ tới Dư Tiệp thì cứ xưng là Mạc Thượng Mai. Đối với gã mà nói, Dư Tiệp mềm dịu uyển chuyển của ngày xưa thực đã chết từ lâu, người còn sống là nữ phỉ sát phạt quyết đoán Mạc Thượng Mai. Người Dư Tiệp điều đến đâu có nhiều, tổng cộng chỉ có mười sáu, nhưng ai ai cũng đều là cao thủ. Hàn Ngạc đúng là phải hoảng kinh, Đại Hoang Sơn không ngờ còn có thực lực như vậy sao? Mưu đồ thuở xưa của Dư Quốc trượng cũng ghê gớm, họ đưa Dư Sắc Nhi nhập cung chắc đâu phải không có ý gì! E rằng năm xưa chính là vì nguyên do này, dù Dư Hoàng hậu đã qua đời mà Đông cung Thái tử cùng hai họ Vi Đỗ trong Lạc Dương thành vẫn một mực trảm thảo trừ căn đối với Dư gia. Trận pháp mà họ bày bố, Hàn Ngạc ngó thấy cũng phải rùng mình --- Cho dù gã ỷ vào độ bén của Trường Canh cùng sở đắc của biết bao nhiêu năm khổ tu, đối diện với đám người đó, với trận thế đó, gã cũng chẳng có chút tự tin sẽ vượt qua được. Mà thực lực của Dư Tiệp đâu phải chỉ có thế. Năng lực bí mật truyền tin của “Lai Nghi” môn cũng khiến Hàn Ngạc phải hết hồn, hơn nữa thế lực lan trải khắp hai đô thành Trường An Lạc Dương. Bộc Ách Phi ơi Bộc Ách Phi, Dư Tiệp ơi Dư Tiệp, các người an bài thực thỏa đáng mà! Ra mặt chỉ có một cô gái bé nhỏ Dư Tiệp, nhưng sau lưng nàng ta thực ra còn ẩn tàng biết bao nhiêu thực lực của Đại Hoang Sơn sau tai kiếp năm xưa? o0o Dư Tiểu Kế nghe vậy, mặt đột nhiên sáng bừng lên: “Muốn, sao lại không muốn chứ!”. Sắc mặt nó khẩn trương, tựa hồ muốn lập tức theo Ngạc ca của nó trở về Tái thượng. Song Hàn Ngạc lòng đang than vãn: đâu có dễ gì bỏ đi cho được! Trường An trước mắt xem có vẻ yên bình, có điều theo sự tra dò của gã, nước trong nồi đang sôi sùng sục! Có lẽ sự có mặt của gã và Tiểu Kế càng thúc đẩy cho mâu thuẫn mau chóng bùng nổ hơn, phải không? Trường An thành âm thầm lay chuyển, Đông cung cùng Bộc Xạ Đường đều rục rịch muốn phát động. Điều duy nhất mà gã có thể dùng để tự an ủi là quân của Cổ Siêu Trác đã đến Lạc Dương. Hắn với Vương Hoành Hải đều ở trong cuộc, tin tức linh mẫn, tin tức có liên quan đến Bộc Xạ Đường và Đông cung mà hai người bọn họ nhận được là: hai phe đều đã chuẩn bị phát động, mà phe nào cũng có chỗ đáng e dè. Lẽ nào chúng vì để tự bảo vệ lấy mình, để thỏa mãn dục vọng của mình mà thực sự bất chấp ngọc nát cung tan, hủy diệt sự yên bình của muôn dân? Chỗ dựa cho mối liên hệ giữa Hàn Ngạc cùng Vương Hoành Hải và Cổ Siêu Trác hiện nay lại là “Lai Nghi” môn của Dư Tiệp. Hàn Ngạc thầm thở dài: dòng nước đục này, mình càng lúc càng lún sâu rồi. Gã bình tĩnh lại, hỏi: “Vậy… Tiểu Kế… ngươi không muốn làm Hoàng đế sao?”. Gã lại bồi thêm một câu “Ngươi muốn về Tái thượng hay muốn làm Hoàng đế?”. Lời nói của gã giống như đang nói đùa. Dư Tiểu Kế lại biết gã không đùa. Đây là lần đầu tiên gã nói chuyện trịnh trọng với Tiểu Kế. Hàn Ngạc nhìn mặt Tiểu Kế, thấy bên trên môi nó lú nhú ria mép, trái khế nổi trên cổ --- Tiểu Kế thực đã trưởng thành rồi. Gã đang đợi câu trả lời của nó, bình tĩnh cười nói: “Ngươi chớ coi lời nói của Ngạc ca là lời nói đùa. Ngươi phải nghĩ cho thực kỹ, có lẽ bọn ta thực còn có chút cơ hội. Ngươi mà ngồi lên ngôi cửu ngũ, cái uy phong đó lớn đến dường nào!”. Sau đó đáy lòng gã vụt nhẹ nhõm được phần nào, rồi còn giật mình phát hiện: nếu Tiểu Kế thực có cái dã tâm đó, chọn mưu cầu kế vị xem chừng còn nhẹ nhàng hơn là chọn thoái về miền Tái Ngoại nữa đó. Bọn họ đã lún vào dòng nước đục này quá sâu rồi còn gì, phải không? Gã lần đầu tiên cảm thấy, thì ra chọn lựa trên đời này, tiến còn dễ hơn là thoái! Đường đời có vô số làn sóng ép mình đi tới. Mà lùi, nếu muốn lùi một cách tiêu sái tươi cười, thì ra đâu phải dễ. Mặt mày Dư Tiểu Kế cũng nghiêm nghị lạ thường. Nó ôm đầu gối ngồi đó, tưởng tượng tư thế mình khoác hoàng bào, ngồi tuốt trên cao dòm xuống thiên hạ vạn vật --- Ngạc ca đã trịnh trọng thốt lên như vậy, chắc chẳng phải hoàn toàn không nắm chắc được --- Cái đó thực đúng là uy phong. Nhưng nó tưởng tượng như vậy thì lại có cảm giác đâu có thu hoạch được gì, mà tất cả đều là hư không. Ở cái ngôi cao đó, tất cả những cảm nhận về cuộc sống thực tại cũng trống không. Vị trí cửu ngũ chí tôn cách lìa nhân thế quá xa, có phải không? Như sao trời xa thẳm kia, cách lìa hết mọi hoan lạc bi sầu thực sự --- So với điều đó, nỗi sầu bi ít ra cũng là cái thiết thực, mà ngôi vị đó lại còn khiến cho mình cách xa Ngạc ca nữa, phải không? Nó ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi khẳng định: “Tôi không muốn”. Hàn Ngạc nhìn nó: “Thực không muốn?”. Dư Tiểu Kế gật gật đầu, không giải thích gì htêm. Giữa nó với Hàn Ngạc vốn chỉ cần một câu trả lời, mà không cần sự giải thích. Hàn Ngạc he hé một nụ cười, tựa hồ thở phào một hơi. Nhưng gã cười nói: “Ngươi gây cho Hàn Ngạc một đại nan đề rồi. Hiện tại bọn ta muốn toàn thân thoái lui khỏi Trường An chẳng động đến ai thì e còn khó hơn cả muốn tranh đoạt nữa”. Gã lắc lắc đầu: “Vì tiến tới thì chỉ có hai kết cục thành và bại, kết cục đó đều là của bản thân bọn ta, chọn lựa của mình, tự mình gánh chịu, nói trắng ra, cùng lắm là chết. Nhưng hễ lùi, bọn ta đã đến, gieo đủ thứ phiền hà, thành và bại lại để cho người khác gánh. Trường động loạn này, ngươi và ta sợ cũng gánh không nổi”. Họ nói tới đó thì chợt thấy Liên Ngọc đi vào, ghé bên tai Hàn Ngạc nói vài câu, gã lập tức biến sắc mặt. Liên Ngọc nói ngày hôm kia Ngự Sử Đài đã dâng thư tố cáo chuyện làm trái phép của Lạc Dương Vi gia; hôm nay tình huống càng ác liệt hơn, Ngự Sử Đài lại dâng thư tố cáo Tào Súc Hậu cha của Thái tử phi làm nhiều chuyện vi phạm pháp luật, còn tố cáo việc mua bán quan chức, liên can đến cả Đông cung Thái tử, có bằng chứng rõ ràng, liệt kê rành rành. Chuyện này nào phải đơn giản --- Bộc Xạ Đường đã không nhẫn nhịn được nữa, đã phát động rồi. Mấy ngày sau đó Hàn Ngạc bận rộn đến mức chân không chạm đất. Bởi thư tố cáo đòi bỏ Thái tử bay qua bay lại như tuyết đổ, gián quan trong triều đến từ các châu các phủ, thậm chí cả tam Tỉnh lục Bộ cũng đều có tấu nghị. Trần Hy Tái đã phát động hệ thống văn quan thuộc hạ của lão, xem ra lần này đã quyết chí muốn lật đổ Thái tử. Mà chỉ ý của Thánh thượng cũng khá hà khắc, chừng như ông ta đã hết sức giận dữ, ra lệnh cho điều tra tất cả mọi chuyện dính dấp tới Tào Súc Hậu coi có đúng là sự thực hay không. Nội trong ba ngày, Thánh chỉ phát ra liên miên, lệnh truyền bắt giữ Tào Súc Hậu, điều tra chứng thực, tiếp đó lại ra lệnh phong bế gia sản, bắt giam vây cánh, về sau thậm chí còn dùng Thánh dụ quở trách Thái tử phi, bắt phải giam lỏng. Điều khiến cho Hàn Ngạc không ngờ được là chuyện này vốn thuộc quyền của Đại Lý Tự, Thánh thượng lại hạ chỉ ra lệnh cho gã tham gia biện lý. Lần này có khác gì gã bị lôi cuốn vào dòng thác triều chính. Hàn Ngạc nhất thời chỉ cảm thấy mây gió ùn ùn. Không ngờ có một đêm, Tiêu Giác đột nhiên đến gặp Hàn Ngạc, rút trong mình ra một cuộn mật chỉ giao cho gã. Hàn Ngạc xem xong, trầm ngâm không nói gì. Thánh chỉ đại ý nói rằng: gần đây Trẫm nghe nói lúc Dư Hoàng hậu sinh con trai đã từng bị hãm hại, may sao trời thương tình cho nên đứa bé không chết. Nay Trẫm ra lệnh cho Hàn khanh để ý điều tra xem đứa bé ở đâu. Lại nghe nói Dư Hoàng hậu trước khi chết có lưu lại một lá huyết thư, trông vào Hàn khanh điều tra cho tận tường. Hàn Ngạc thầm nghĩ: lẽ nào ngày xưa Dư gia mang họa diệt môn là vì lá huyết thư đó? Món đồ ngày trước Tử Thần muốn lấy, Lạc Dương vương cũng muốn lấy, thậm chí đã từng tranh giành với Phương Ninh, Vu Tự Vọng cũng vì vậy mà chết, cuối cùng bị Phương Ninh cướp khỏi tay Lợi Dữ Quân, nó có phải là lá huyết thư đó không? --- Lá huyết thư đó nội dung có liên quan đến cái gì? Hàn Ngạc nghĩ đến người nội thị bên cạnh Hoàng thượng, nghĩ đến mưu đồ mà Dư Tiệp cùng Bộc Ách Phi dồn sức vào, lẽ nào… nội dung của lá huyết thư đó có thể chứng minh Tiểu Kế đúng là Hoàng tử?
1 Bài thơ "Tặng Hoa Dương Tống chân nhân kiêm ký Thanh Đô Lưu tiên sinh" của Lý Thương Ẩn có hai câu: "Ngọc kiểm tứ thư mê phượng triện, Kim Hoa quy giá lãnh long lân" (tạm dịch: Tráp ngọc sách ban mê nét phượng, động hoa xe đuổi ngán tơ rồng). Bài này Lý Thương Ẩn sáng tác sau khi bị đuổi xuống núi, Tống Hoa Dương bị phái về cung). "Ngọc kiểm" là "ngọc điệp kiểm". Sách "Thuyết văn - Mộc bộ" ghi: "Kiểm, thư thự dã" ("Kiểm" tức là tráp sách). Đoạn Ngọc Tài thời nhà Thanh chú rằng: "Ngọc điệp kiểm giả, ngọc điệp chi ngọc hàm dã, sở vị ngọc kiểm dã" ("Ngọc điệp kiểm" là tráp ngọc đựng trát ngọc). "Phượng triện" là văn tự mà Đạo gia dùng, cũng gọi là Vân triện, Phượng văn. "Phượng triện" cũng là kinh thư của Đạo gia. "Kim Hoa" là vật trang sức làm bằng vàng có liên quan đến Đạo gia, mà cũng là thạch thất của tiên nhân trong truyền thuyết (động hoa vàng), đồng thời núi tiên của Đạo gia cũng gọi là "Kim Hoa sơn". "Long lân" là vẩy rồng, thường dùng để nói đến long bào, áo lễ phục của Hoàng đế, ở đây ám chỉ súng sính lễ phục vua ban. Hai câu này có nghĩa là: bọn ta cùng mê luyến kinh điển của Đạo gia trong tráp ngọc. Từ khi rời động tiên Kim Hoa quay về, đã không còn ham muốn vinh hoa của trần thế nữa.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 88 Kim Hoa quy giá lãnh long lân1
Đỗ Phương Ninh đang ngồi dựa vào một dàn hoa đồ mi. Người xưa có nói “Khai đáo đồ mi hoa sự liễu”2, có phải không? Dàn đồ mi này cành lá xanh rờn --- Hoa nở cũng thực là tươi tắn. Nhưng sự tươi tắn đó cũng có vẻ dung tục, đúng là có ý “liễu kết”. Đỗ Phương Ninh không tin, mấy cái mùa hoa hay điềm hoa kia bất quá là bị bọn dung tục ép uổng vào chuyện đời. Song le những ngày gần đây, phe Đông cung thực đã bấn loạn. Hoàng thượng đã có mật chỉ hạ lệnh nghiêm cấm môn hạ của Đông cung tự tiện đi lại. --- Đỗ Phương Ninh hiện đang ở một khu nhà nhỏ của Đỗ gia trong phường Vĩnh Hưng. Tòa viện này kín đáo, là chỗ nàng rất thích, khi nàng đến Trường An cũng thường trú ngụ ở đây. Nó là chỗ của một mình nàng, thậm chí hồi ban sơ, lúc cùng Hàn Ngạc xưng “Lạc Du song lữ”, lúc người ta còn chưa biết “Sách nữ” Phương Ninh họ Đỗ, có khi lòng nàng mong mỏi: nếu có một sớm mai mình cùng Hàn Ngạc kết vầy đôi lứa, nơi nàng chọn để sống chung nhất định là tòa nhà có dàn hoa đồ mi này đây. Bất quá… nó đã thành quá khứ. Thời gian trôi qua thực mau, mọi sự đều đảo lộn trong biến ảo. Nàng mỉm cười nghĩ đến ngay cả tam thúc Đỗ Hương Sơn xưa nay túc trí đa mưu mà cũng đã bắt đầu nhíu mày nhăn mặt rồi. Cả bốn lão đầu Thương Sơn Tứ Hạo luôn luôn tự phụ hơn người, đặt mắt tuốt trên đỉnh đầu cũng đã bắt đầu có vẻ bí xị. Nhưng Đỗ Phương Ninh vẫn không tin! Nàng trở lòng bàn tay lại nhìn, những vết chai lấm tấm là dấu vết còn để lại qua sự khổ luyện của nàng, nàng luôn cắt tỉa chúng sạch sẽ -- Chúng… đâu có như bọn nam nhân! Mắt Đỗ Phương Ninh thoáng một tia ngạo nghễ. Môn hạ của Đông cung gần đây đã bị Bộc Xạ Đường bó buộc chặt cứng. Nàng chỉ là một nữ tử, có ai mà thèm để ý đến nàng đâu. Tào Súc Hậu vừa bị quy án, náo động đến mức Đông cung phải tả tơi. Chúng chỉ lo xử lý nguy cơ trước mắt --- Đến khi thực sự đụng đầu với đại nạn, chúng chỉ biết múc nước nấu trong nồi đổ lên đổ xuống cho đỡ sôi, chứ chẳng nghĩ tới rút củi khỏi lò, không có biện pháp giải quyết triệt để! Uổng cho chúng là cành vàng lá ngọc, là cao thủ bậc nhất, thì ra cũng chỉ bất quá là những kẻ tầm thường! Triều đình hễ gió đổi hướng chút xíu là chúng câm bặt như ve sầu đông. Có kẻ muốn ngồi cầu may, có kẻ hữu dũng vô mưu muốn làm bừa. Chúng thực ra cũng bố trí chu mật lắm. Nếu không có Hàn Ngạc, không có Vương Hoành Hải cùng Cổ Siêu Trác trấn giữ Trường An và Lạc Dương, không có Tiêu Giác cai quản cấm quân trong cung cấm, không có Ô Trấn Hải tuần sát Trường An thành, chúng với Bộc Xạ Đường đâu phải không thể đấu một trận, tạo kinh biến đoạt cung cũng hà tất không thể thử. Nực cười là chúng bây giờ còn đem hy vọng ký thác lên mình Vương Hoành Hải. Đỗ Phương Ninh lòng bỗng có một ý tưởng kiêu ngạo: ai nói Hàn Ngạc bất quá chỉ là một tên dũng phu, một kẻ không hiểu phép quyền mưu? Đỗ Phương Ninh nàng đã biết không phải vậy từ lâu rồi! Một bóng dáng cao mảnh soi trên mặt đất, rèm mi nàng thả xuống, như cái mái vành giữa ban ngày, che giữ ánh mặt trời, che giữ những bí mật trong ánh mắt. Nàng thốt: “Chàng… đã đến!”. Hàn Ngạc đứng trước mặt nàng, cách chừng hai thước. Thấy vóc dáng của nàng tĩnh lặng làm sao, thống thiết làm sao, lòng gã không hiểu sao lại tràn dâng một sự ham muốn ôm ấm hôn hít. Gã muốn hôn nàng, gã thực muốn ôm nàng vào lòng, bởi… nàng cơ hồ là một sự thần bí gã vĩnh viễn không nắm bắt được. --- Nàng hẹn gã, gã làm sao mà không đến cho được? Nhưng gã lại sựng bước, không dám tiến tới nữa --- Xem có vẻ ôn nhu yểu điệu, mà thực ra tận trong xương trong cốt tồn tại một chút độc lập, cái gã thích sao lại có thể là một nữ tử như thế chứ? Nàng vĩnh viễn không phải là dạng nữ tử toàn tâm toàn ý dựa ngã vào lòng một nam tử! Nhưng tại sao chính vì vậy, gã càng muốn ôm ấp nàng suốt đời? Sự ham muốn của con người vĩnh viễn là cái mà mình không đạt được, có phải không? Hàn Ngạc thầm thở dài: hôm nay sao nàng lại hẹn mình đến đây, ở cái cục thế này? Đỗ Phương Ninh nhìn gã mỉm cười: “Không ngờ cuộc tranh đấu quyền mưu này, kẻ thắng cuối cùng lại có thể là một người chán ghét quyền mưu nhất”. Nàng cười rất chân tâm: “Ngạc, tôi phát hiện vận hạnh của chàng thực rất là tốt đó”. Hàn Ngạc hơi ngẩn ngơ: không sai, vận khí của gã thực rất là tốt. Đỗ Phương Ninh thốt: “Ngạc, nếu chàng đắc thủ, chàng có bảo vệ cho an nguy của hai dòng họ Vi Đỗ ở Lạc Dương không?”. Không đợi Hàn Ngạc hồi đáp, nàng lại nói: “Chàng tuy không thích quyền mưu, nhưng nếu mai này đắc thủ, cho dù không muốn, e cái quyền mưu đó cũng phải buộc chàng thao túng. Có những chuyện chàng muốn đáp ứng cũng đáp ứng không được. Sẽ có rất nhiều lực lượng thúc đẩy chàng phát động. Khi còn ở ngoài cuộc, chàng có thể ra sức đối với chuyện trong cuộc. Nhưng một khi vào cuộc rồi, còn ai có thể dùng được một chút xíu sức lực đối với cục thế này chứ?”. Hàn Ngạc hít sâu một hơi, gã biết lời nàng nói không phải để châm chích gã, mà là lời giãi bày của một kẻ xuất thân thế phiệt đã ngộ được kinh nghiệm của bao đời. Đỗ Phương Ninh ngoái đầu, cổ nàng ngoẹo sang bên, tư thế thực dịu dàng ưu nhã làm sao. Hàn Ngạc chợt rất không muốn nghe nàng nói sự ngoài thân, cái gã muốn nghe chỉ là sự cảm nhận chân tình của một nam tử, gã, và một nữ tử, nàng, là gã với nàng, mọi sự giữa gã và nàng --- Nhưng sự ngoài thân đã quấn bám lấy gã và nàng sâu dày đến dường này từ hồi nào vậy? Cho dù Trường Canh của gã có bén, cũng chặt đứt không hết bao phiền não kia. Đỗ Phương Ninh thốt: “Tôi mời chàng đến, thực tế cũng chỉ muốn nói với chàng một chuyện tôi biết được”. Nàng thở dài một hơi: “Nói gì đi nữa, có rất nhiều chuyện tôi cảm thấy tôi thiếu chàng, còn có…”. “Bọn ta sau này e không còn cơ hội nói chuyện bình tĩnh như vầy nữa, cho nên hôm nay tôi muốn kể cho chàng biết một chuyện có liên quan đến Tiểu Kế. Hồi xưa lúc nó còn trong thai nghén, kẻ đả thương nó và mẫu thân của nó đâu phải là người của Đông cung. Tuy có Đông cung tham dự, nhưng kẻ đả thương Dư Hoàng hậu lại là…”. “… Du Cửu Khuyết”. Hàn Ngạc bàng hoàng, Đỗ Phương Ninh lại nheo mắt nhìn gã, ánh mắt trong sáng khôn tả, mà bên trong sự trong sáng kia lại ẩn tàng biết bao thâm ý. Hàn Ngạc có hơi động lòng, có hơi mê man, có hơi hoảng hốt nhìn nàng, thẫn thờ thốt: “Du Cửu Khuyết?”. Đỗ Phương Ninh gật gật đầu --- Gã nên biết mình đâu có lừa gạt gã. Nhưng tiếp đó hai người cũng không biết nói gì đây, Hàn Ngạc ngây ngô đứng đó, Đỗ Phương Ninh cũng bất động. Bóng mặt trời đổ xéo, Đỗ Phương Ninh thấp giọng: “Trong Lạc Dương thành, liễu vờn hoa lượn. Trong Trường An cung, mây đượm ánh dương. Một mai khói lửa, tro văng khói vướng. Bàng hoàng giấc mộng, tỉnh dậy vô thường? Buồn bã thê lương, với tìm dấu trước. Đồng xanh thu gợn, vó ngựa sánh cương. Ông câu tiều phu, mục đồng thôn nữ. Còn chăng truyền thuyết, Lạc Du song lữ…”. Đã sang tháng chín, gió thu lành lạnh. Cơn gió lùa qua, lá đồ mi rào rạt muốn rơi, muốn nhuộm vàng mặt đất. Hàn Ngạc thờ thẫn: còn chăng truyền thuyết, Lạc Du song lữ… --- Sách Kiếm đã phai tàn dấu vết, còn có thể tái hiện được chăng? Biết bao phồn hoa đều như lá úa thả mình. o0o Đêm, là một đêm. Đêm tối đen như mực, Bóng đêm lan trải, trong một quán rượu nhỏ, Đỗ Phương Ninh đã cải trang đang ngồi với Đảm vệ Triệu Thường Lượng. Triệu Thường Lượng bẽn lẽn không thốt được câu nào --- Nói cho cùng, ban sơ hắn là người được Đỗ Phương Ninh triệu vào đội vệ binh. Trận chiến với Khương Nhung ở Cư Duyên thành, hắn từng tận mắt chứng kiến Đỗ Phương Ninh cởi áo bào, để lộ trang phục nữ nhi, hò hét dốc sức bảo vệ thành trì. Trận chiến đó để lại cho hắn một ấn tượng hùng tráng đẹp đẽ làm sao! Từ đó trở đi, người trong đội vệ binh và Liên Thành Kỵ mỗi khi gặp Đỗ Phương Ninh đều không khỏi bốc dâng dòng hào khí nam tử hán. Trong lòng bọn họ, nàng là người trời. --- Huống hồ hôm đó trên đầu thành Cư Duyên, Thanh Sách vào chủy thủ của Đỗ Phương Ninh cũng từng cứu hắn ba lần. Hôm nay Đỗ Phương Ninh hỏi hắn, hắn làm sao mà không đáp cho được? Song le hắn là bộ hạ của Hàn Ngạc, xưa nay cũng dốc lòng bội phục Hàn Ngạc. Hắn cũng không hiểu giữa Đỗ cô nương với Hàn tướng quân thực ra đang có chuyện gì --- Câu hỏi của Đỗ Phương Ninh, hắn làm sao có thể đáp chứ? Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Triệu đại ca, ta chỉ hỏi ngươi một chuyện, xin ngươi trả lời cho ta biết chắc”. Nàng ngẩng lên, đôi đồng tử trong ngời chăm chú nhìn Triệu Thường Lượng, nhìn đăm đăm đến mức tim hắn thót lên, sau đó như không còn đập nữa, chết lịm: “Tử Thần lão đại Du Cửu Khuyết có hẹn Hàn soái của các người ra gặp mặt, đúng không? Bọn họ đã hẹn rồi?”. Triệu Thường Lượng ngẫm nghĩ, một hồi lâu sau mới nặng nề gật gật đầu. Đỗ Phương Ninh mỉm cười: nàng tính toán không sai. Nàng hỏi tiếp: “Vậy hẹn khi nào? Là đêm nay? Trên đỉnh Tử Các phong? Canh ba đêm nay? Có phải không?”. Mấy câu của nàng thốt liên hồi, hỏi hết sức thận trọng, nhưng nhãn quang đang ép bức Triệu Thường Lượng, khiến cho hắn không còn sức lực để trốn tránh. Lại một hồi lâu sau, Triệu Thường Lượng mới tiếp tục gật gật đầu --- Đây vốn cũng là tin tức hôm kia hắn đã bị Đỗ Phương Ninh bắt ép thố lộ, bây giờ Đỗ Phương Ninh chỉ muốn chứng thực. Đỗ Phương Ninh tựa hồ thở phào một hơi, tiếp đó lại nín thở. Nói như vậy: nàng có cơ hội phải không? Nàng hơi đắn đo, cũng có hơi bất an, nhưng trịnh trọng thốt một câu: “Đa tạ!”. Triệu Thường Lượng cũng không biết tại sao nàng lại đi hỏi chuyện đó, có ý đồ gì đây, chợt nhịn không được nữa, nói nhanh: “Đỗ phó sứ, Hàn soái của bọn ta…”. Đỗ Phương Ninh mỉm cười, nhìn hắn nhẹ nhàng lắc lắc đầu, rồi đứng dậy ra đi. o0o Vì cái đêm hôm nay, nàng đã chuẩn bị ổn thỏa mọi sự. Chuyện tiếp theo đó của nàng là lén lút nhập cung. Với thân pháp của nàng, đây vốn không phải là chuyện khó. Huống hồ họ Đỗ của nàng đâu phải xưa nay không có phi tần tiến cung, cho nên vốn hết sức quen thuộc hình thế trong cung, bên mình Hoàng thượng cũng chẳng phải không có người có quan hệ mật thiết với Đỗ gia của nàng. Cái nàng e dè là Du Cửu Khuyết, là Du Cửu Khuyết uy nghiêm tột bậc, thanh danh cực kỳ lừng lẫy, cơ hồ một mình bao giữ an nguy của chín tầng cửa cung thành. Hành tung của y chẳng một ai có thể đoán định được, cũng chưa từng có người nào biết tại sao y lại xuất hiện ở chỗ y “đáng lẽ không thể xuất hiện”. Nhưng hôm nay nàng đã xác định được: Du Cửu Khuyết đêm nay quả không thể ở trong cung, y có ước hẹn với Hàn Ngạc! Chỉ cần y không có mặt, lực lượng của Tử Thần đã hao đi quá nửa. Thanh thế của Tử Thần thực ra đã giảm sút khá nhiều gần đây: sau khi Tử Thần lão yêu “Nhất tinh như nguyệt khán đa thời” Cung Diệc Tinh đại bại ở Đổng gia Tửu lâu hôm xưa, ba năm nay hắn một mực tiềm ẩn, chừng như đang tu luyện bí kỹ gì đó, cho nên đâu cần lo đến hắn. “Nhị ca ca” Ngải Khắc lại hục hặc với Du Cửu Khuyết hổm rày, công lực xem ra đã bị phế đi phần nhiều, mà “Tam công tử” Lữ Tam Tài, kẻ có quan hệ mờ ám với ả, cũng không nhập cung đã lâu. Thêm vào Quan Phi Độ đã chết, Tử Thần Thất Tú chỉ còn lại ba người. Lộ Tứ Minh lại luôn luôn chăm lo đội cấm vệ, tuần phòng suốt một dải tường thành, tránh qua y chắc không khó. Đêm nay chỉ có một trong hai tên “Ngũ huyền” Hoa Phạm và “Lục yêu” Lục Phá Hầu canh phòng bên cạnh Hoàng thượng, có phải không? Vượt qua một tên chắc không mấy gian nan, kẻ nàng ngần ngại chỉ có Du Cửu Khuyết. Nàng biết với thuật “Cửu khuyết tiềm thính” của y, chỉ cần nàng lọt vào cung cấm, một chút động đậy bên mình Hoàng thượng cũng không qua mắt được y. Huống hồ nếu biết y có mặt, bất cứ một ai cũng khó mà khống chế tâm ý được. Mất tự tin như vậy, e khó tránh khỏi có sai lạc. Mà hễ sai lạc, dứt khoát bị dồn vào thế chí mạng. Đỗ Phương Ninh đổi y phục cung nữ, nàng con nhà giàu sang, rành rọt lễ nghi trong cung, làm sao mà để có sơ hở gì được. Chỉ mới canh hai, tin rằng Du Cửu Khuyết đã ra khỏi thành, nàng thận trọng lẻn vào Dưỡng Tâm điện. Nơi đó là chỗ nghỉ ngơi của Hoàng thượng lâu nay. Thiên hạ yên bình một thời gian lâu dài quá rồi, có một chuyện chẳng có ai dám nghĩ tới phải làm, cũng chẳng tất yếu phải làm, vì làm thì cũng chỉ có hại chứ không có lợi cho bản thân, cho nên chuyện đó, trái lại, càng dễ làm. Đỗ Phương Ninh lần này vào Trường An đã cảm thấy không hay. Nàng đã sớm phát hiện bên cạnh Hoàng thượng có một nội thị kỳ quái. Người đó không biết võ công, nhưng lại thông hiểu bí thuật. Vầy là sao đây? Y bằng vào cái gì mà có thể ngấm ngầm khiến cho Hoàng thượng nảy sinh ý lạ như vầy? Hoàng thượng xưa nay luôn luôn bất mãn Đông cung, nhưng cũng luôn luôn chẳng có ai để hoán thay. Cái này có phải là bí thuật gì đó bắt nguồn từ Đại Hoang Sơn không? Đỗ Phương Ninh đến Trường An kỳ này không để ý gì những chuyện khác, nàng chỉ chú ý đến người nội thị kia --- Y trú ngụ ở đâu? Tập quán phục dịch Hoàng thượng, bao gồm cả dáng vóc tướng tá của y, khi nào y đi nghỉ… Trong cung luôn luôn tĩnh lặng, đặc biệt là Dưỡng Tâm điện --- Ai cũng biết đó là nơi Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết coi sóc, nào có ai dám có chủ ý động chạm đến nơi này. Nơi này cũng là một “khu vực tối tăm dưới bóng đèn”3… Nội thị Tiểu Thái đêm nay hầu hạ Hoàng thượng ngủ. Khi y về đến chỗ ở của mình chỉ cách chỗ Hoàng thượng chừng mấy trượng, trên bàn còn đặt một chén trà Lục An mà y đã chuẩn bị sẵn sàng để dâng cho Hoàng thượng dùng…
1 Xem chú thích {1} hồi 87. 2Đồ mi hoa nở muôn hoa tàn, là câu thơ trong bài "Xuân mộ du tiểu viên" của Vương Kỳ thời Bắc Tống (câu thơ này cũng có xuất hiện trong "Hồng Lâu Mộng" của Tào Tuyết Cần). Hoa đồ mi thường tới mùa hè mới nở hoa. Vì vậy người ta hay coi lúc hoa đồ mi nở là lúc kết thúc tiết hoa của năm, đại biểu cho tuổi thanh xuân của người con gái đã trở thành quá khứ, cũng biểu lộ sự kết thúc của tình cảm. 3 Nguyên tác là “đăng hạ hắc”. Người xưa thường dùng chén, dĩa, trản để đựng dầu và tim đèn. Khi thắp đèn thì khu vực bên dưới vật đựng bị bóng của nó che khuất ánh sáng, nơi đó gọi là “đăng hạ hắc”.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 89 Tằng kinh thương hải nan vi thủy1
Hàn Ng ạc nhìn thân ảnh cương ngạnh đen mờ của Du Cửu Khuyết, lần đầu tiên cảm thấy: thì ra y cũng có vẻ già rồi. Vị Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết tự phụ là Thiên hạ đệ nhất cao thủ này đây, cho dù uy phong đã trấn áp tâm chí của biết bao nhân sĩ tu tập võ nghệ trên đời, nhưng… thì ra y cũng có lúc già nua.
Y b ất quá mới độ ngũ tuần thôi, tại sao lại khiến cho mình cảm thấy vẻ già cỗi đó? Có phải bao nhiêu năm ngồi ở bậc cửu trùng, hộ vệ cung cấm, sức nặng của thanh danh, sức ép của trách nhiệm đã khiến cho một kẻ hùng mạnh cứng cỏi như y khó lòng gánh nhận, đã mệt mỏi nhọc nhằn? Ba năm rồi, từ cái ngày bị Du Cửu Khuyết đánh bại trên vách đá đến lúc đối diện hôm nay, đã qua ba năm rồi. Sau ba năm, mình cuối cùng đã có thể đứng ngang tầm nhìn y --- Còn lần đầu tiên gặp gỡ, mình sao lại bị khí thế Cửu hôn Cửu khuyết của y áp bức đến mức khó mà hít thở đến dường đó!
Cái làm cho Hàn Ng ạc cảm thấy bị áp bức, mà cũng khiến cho gã không khỏi không tôn kính có lẽ là: Du Cửu Khuyết đâu phải chỉ là một cao thủ võ lâm --- Cho dù y có là cao thủ tu vi tuyệt đỉnh trần thế thì Hàn Ngạc cũng coi thường, mà cái khiến cho Hàn Ngạc sợ hãi và bội phục kính trọng chính là sự kiên nhẫn và sự dốc tâm của y. Y áp dụng cái đạo võ nghệ qua tới thiên hạ. Cũng như cái đạo võ nghệ của y, cái y theo đuổi có phải là một sự ổn định? Một sự ổn định vững như bàn thạch? Y hộ vệ trọng tâm của một vương triều, hộ vệ cái tổ vật nhất thống duy nhất còn miễn cưỡng bám trụ khỏi cái thế chia năm xẻ bảy. Công lao đó, phải biết bao kiên nhẫn, biết bao nghị lực mới có thể hoàn thành?
Hàn Ng ạc hít sâu một hơi: hồi Du Cửu Khuyết còn ở tuổi thiếu niên, hà tất không có cái cuồng vọng của tuổi trẻ muốn tung vó vang danh thiên hạ. Nhưng nếu nói y già dặn trưởng thành thì già dặn trưởng thành từ khi nào? Vứt bỏ hết những cuồng tưởng, đối diện với cái thực tế và thời thế thảm đạm này, toàn lực duy trì tảng băng đang tan rã này như vậy đó. Gã trấn định tâm thần, cuối cùng mở miệng hỏi: “Du tổng quản, ngươi mời ta đến gặp mặt là vì chuyện gì? Tại hạ cũng vừa hay có chuyện muốn thỉnh giáo --- Cục thế đương kim, không biết Du tổng quản có kế sách gì có thể chỉ dạy ta không?”.
Gã nói r ất chân thành, cũng rất trực tiếp. Câu trả lời của Du Cửu Khuyết cũng trực tiếp: “Đánh cho Đông cung suy yếu”. Sau đó y hít một hơi dài, như cá kình nuốt trọn biển xanh, uống sạch ba đào, cũng nuốt hết những tanh hôi thúi nát: “Nhưng gìn giữ ngôi vị”. Y chăm chú nhìn Hàn Ngạc: “Hàn tướng quân, các ngươi cũng đâu có hy vọng cuộc tranh giành của Thái tử và Tể tướng náo động tới mức thiên hạ phải loạn ly đồ thán. Ta chẳng thể nào cử động, một là vì bản thân làm tổng quản trong cung, không tiện tham dự vào sự vụ triều trung, hai là vì trong tay ta không có binh lực. Ngày nay bọn chúng phe nào cũng có vây cánh trong quân đội, một khi có biến loạn, e hậu quả không phải nhỏ. Nếu muốn tránh họa hoạn, tình thế hiện nay chỉ có nước mở đường. Mượn vụ án Tào Súc Hậu, trước hết tước bớt uy thế của Đông cung --- Đông cung đăng cơ vốn đâu có phải là đại họa gì, chỉ là những năm qua vì lo bảo vệ bản thân mà y dung túng thế lực của mình, ai ai cũng ôm ấp dục vọng riêng tư. Chúng hiện tại còn chưa có chức vị thực tế, chưa nắm được thực quyền, một khi đắc thế, sự bùng nổ của dục vọng sợ là sẽ khuynh loát đến mức máu chảy thành sông, khích động binh biến bè đảng giao tranh. Cho nên ta mong Hàn tướng quân tước giảm cái thanh thế đó. Thiên hạ này, nếu muốn nó tốt đẹp thì cũng coi nó tốt đẹp được thôi. Vua yếu tôi hèn, có lẽ là phương thức duy nhất có thể giữ gìn sự yên bình. Đó là một sự cân bằng, vì vậy bọn ta phải tước giảm uy thế của Đông cung, cũng phải cắt trừ thực lực trong quân đội của Bộc Xạ Đường, nhưng nhất định phải bảo vệ ngôi vị Đông cung”. Gã thở ra: “Còn muốn làm sao thực sự có một đất nước thiên hạ thái bình, lại phải cần có một vì vua hiền và danh thần mới được. Vua hiền khó cầu, còn ngươi và ta bất quá là bọn người trong võ lâm, e không thể làm danh thần. Bọn ta chỉ có thể dốc sức bảo tồn sự bình định cũng đã đủ rồi. Sở cầu của ta chỉ bất quá là không khích động đến mức xảy ra binh biến đoạt cung mà thôi”. Y thở dài, mục quang mệt mỏi, hờ hững, cứng lạnh, nhìn cái “thiên hạ” bên dưới Tử Các phong, điềm đạm thốt: “Đương nhiên còn phải xem ở ngươi, coi ngươi có ý trợ giúp Dư Tiểu Kế đứa con của Dư Hoàng hậu đoạt ngôi Thái tử hay không!”. Câu đó y nói một cách âm trầm khôn lường. Hàn Ngạc cũng không biết y sẽ phản ứng thế nào đối với câu trả lời của mình, gã chỉ tình thực mà đáp, lắc lắc đầu. Du Cửu Khuyết chợt có vẻ bi thương nhìn vào mắt gã, cười không thành tiếng: “Thực ra ngươi cứ như chim trời phiêu du sông biển thì có gì không tốt chứ, hà tất nhất định phải dìm mình vào Trường An này chứ?”. Y ngưng một chút, lại nói: “Tiến vào như ta, dốc hết sức mình, cũng bất quá để bảo vệ sự hôi thúi, để cho nó từ từ mục rữa mà thôi?”. o0o Một người sao lại có thể trầm tĩnh được đến như thế? Hàn Ngạc tâm tư chợt trào dâng một niềm khích động. Với “Cửu Hôn đại pháp” mà Du Cửu Khuyết khổ tu khổ luyện, trong lòng y nhất định cũng đè nén che giấu những tâm tình khích động mà chẳng ai khác biết được. Dạ gã đang dâng lên một ý nghĩ bé con: mỗi lần đối diện Du Cửu Khuyết, gã đều có ý muốn xuất thủ. Y là một quyền uy, mà khát vọng đánh vào cái quyền uy đó chẳng lúc nào không tồn tại trong lòng Hàn Ngạc. Nhưng hiện giờ gã lại chỉ muốn vạch trần lớp sắt đá bề ngoài của Du Cửu Khuyết, chui vào trong xem thử. Chỉ mong xem được một lần, đối với gã mà nói, cũng đủ quá rồi. Gã rất muốn thấu hiểu cõi lòng của người đàn ông có dáng vóc “phụ thân” đó. Phụ thân, một người cha --- Du Cửu Khuyết trên phương diện võ công quả gây một cảm giác uy lực áp chế đối với gã. Y hết sức tinh thông phép “Quán tâm”, chợt mở miệng hỏi: “Trong lòng ngươi hình như có nghi vấn gì đó?”. Hàn Ngạc định thần --- Gã còn có nghi vấn, gã chợt mở miệng hỏi: “Năm xưa Dư Hoàng hậu trước khi sinh con đã bị hành thích, có thực là ngươi đã hạ thủ không?”. Đây là chuyện Phương Ninh kể cho gã nghe, ý đồ của nàng có phải muốn cho mình đánh một trận với Du Cửu Khuyết không? Du Cửu Khuyết ngạc nhiên nhìn gã: “Sao ngươi biết?”. Y không hồi đáp, nhưng câu nói đó đã đủ khẳng định rồi. Một bàn tay của Hàn Ngạc bất giác án trên chuôi kiếm --- Gã không có cảm xúc cảm tình gì với Dư Hoàng hậu, có điều: sao y lại có thể đả thương Tiểu Kế còn trong thai nghén nặng nề đến mức đó? Đó là phản ứng bản năng của gã, phản ứng đối với bất cứ một ai gây thương tổn đến tiểu đệ của gã. Du Cửu Khuyết chợt buồn bực thốt: “Thực ra lần xuất thủ đó, nội tình ra sao, người kể với ngươi cũng đâu thể biết được. Đó chỉ là một cái Quả, chứ không phải là Nhân --- Nếu ta không xuất thủ, khi ấy Đông cung cũng sẽ không tha cho nàng. Đương thời trong Đông cung còn có Trần má má, với sự âm độc của mụ ta, nếu mụ ta xuất thủ, ta có toàn lực chiếu cố cho Dư Hoàng hậu cũng e không bảo vệ nổi. Mụ ta mà xuất thủ, nhất định sẽ nặng tay hơn ta”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ, gã nào có ngờ Du Cửu Khuyết sẽ thực lòng giải thích. Du Cửu Khuyết sựng lại một hồi rồi nói: “Huống hồ cuộc hành thích lần đó vốn do bản thân Dư Hoàng hậu thỉnh cầu ta xuất thủ”. --- Hàn Ngạc thất kinh, ngạc nhiên nhìn Du Cửu Khuyết, cho rằng mình đã nghe lầm. Du Cửu Khuyết lại bình tĩnh ngó gã, điềm đạm giải thích: “Ngươi nghĩ người của Đại Hoang Sơn năm xưa tại sao lại đưa nàng vào cung? Dư Hoàng hậu, nàng quả là một nữ tử có trí tuệ, có chủ kiến mà suốt đời này ta ít có thấy. Nàng không muốn đứa bé mình sinh hạ từ nhỏ đã lọt vào cái tròng của gia môn, từ nhỏ đã lọt vào sự mưu tính của người ta, từ lúc chào đời đã phải hứng chịu một lối cảm nhận và lối sống không phải của riêng bản thân mình. Dư Hoàng hậu, tuy không biết võ nghệ, nhưng luận về tâm pháp của dòng Đại Hoang Sơn, e thế gian này cũng chỉ có một mình nàng thấu suốt chân ý nghĩa”. Hàn Ngạc nhất thời trầm lặng. Song nghĩ tới sinh mệnh của Tiểu Kế gần như mất đứt vào cái ngày hôm đó, gã chợt nặng giọng: “Nhưng nàng ta đâu thể nhờ ngươi giết con của nàng ta, ngươi lại suýt nữa đã giết chết nàng ta cùng đứa bé!”. Du Cửu Khuyết sắc mặt âm trầm: “Ta chỉ xuất thủ hơi nặng một chút”. Song nhãn của Hàn Ngạc chợt chằm chằm ngó y: “Với tu vi Cửu hôn Cửu khuyết của ngươi, nếu không quyết tâm, xuất thủ đâu thể sai biệt chút nào, sao lại đột nhiên hơi nặng một chút được chứ?”. Tâm tư của gã đang khích động, lại nhận ra bên dưới thần tình luôn luôn bình tĩnh trấn định của Du Cửu Khuyết tựa hồ cũng có chút đắn đo thác loạn. Gã chợt có một cảm giác: mình chỉ cần tiến tới một bước nữa là có thể vạch trần khám phá được y rồi! Chỉ cần khám phá trong lòng y có chút ti bỉ nào đó, về sau có thể đánh vỡ tan tành cái quyền uy của y đã khiến cho gã cảm thấy bị áp chế rồi. Gã lớn giọng: “Là vì ngươi hoài nghi hài tử đó có thể không phải là nòi rồng, có phải không? Là vì ngươi căm ghét một người đàn bà mà ngươi hoài nghi có ngoại tình? Là vì ngươi thống hận phải bảo vệ một đế vương bù nhìn sinh ra từ sự lăng loàn? Ngươi đâu phải là kẻ dễ dàng lỡ tay giết chết một người chứ! Sao lại dứt khoát muốn lấy mạng của người đàn bà đó và đứa con của nàng ta?”. Gã một mực căm ghét Du Cửu Khuyết, cảm thấy đối với gã mà nói, mỗi một cá tính của y đều là một đại sỉ nhục cho kẻ tập võ. Thậm chí hồi còn trẻ, gã luôn luôn coi vị Cửu Hôn tổng quản này là một con chó kiểng mà bậc đế vương nuôi dưỡng. Du Cửu Khuyết đã biến sắc mặt, nhưng y gượng nén nhịn: “Nói bậy!”. Hàn Ngạc lại lạnh lùng nhìn y: “Ngươi một đời không gần nữ sắc, chắc rất căm ghét hạng nữ tử phạm giới”. Gã không biết tại sao lại luôn có ý muốn đả kích y. Con người này đã đè đầu gã quá sức nặng nề. Hàn Ngạc chợt cảm thấy hành vi của mình có chút xíu gì đó thô tục bỉ ổi quá. Gã đang định ngậm miệng, lại thấy sắc mặt của Du Cửu Khuyết không biết tại sao cuối cùng đã có vẻ chẳng thể khống chế được nữa. Chỉ nghe y lạnh lùng thốt: “Ta có gì mà căm ghét? Chuyện nàng ta theo Tử Câm, nếu không phải ta cố bảo vệ, họ đã gặp bất trắc từ lâu rồi. Trong cung lúc đó, khà khà, đâu phải như trong cung ngày nay. Còn có Lý thái giám Lý Lão, còn có Trần má má của Đông cung, hai vị đó, ngươi về mà hỏi sư phụ ngươi thì biết là ai ngay! Công lực của ta khi ấy còn chưa đại thành, bất kể là Trần má má hay là Lý Lão, ai xuất thủ cũng có thể lấy mạng ta, cũng có thể lấy mạng Tử Câm. Ngươi cho rằng chúng có hảo cảm với Dư Hoàng hậu à? Ta tại sao… tại sao phải bảo vệ nàng? Ngươi biết gì chứ!”. Thanh âm của y chợt nổi giận, Hàn Ngạc lần đầu nhìn thấy vẻ nóng giận không còn có thể khống chế phát ra từ y. Hàn Ngạc chợt lạnh giọng: “Ta biết tại sao…”. Du Cửu Khuyết chợt quát lớn: “Câm miệng! Ta…”. Hàn Ngạc cả kinh, một khi Du Cửu Khuyết phát uy, thiên hạ này làm sao còn ai có thể trấn định mà không kinh hoàng cho được! Lời gã nói vốn là một nghi vấn, tại sao Du Cửu Khuyết lại ngờ vực như mình biết đáp án vậy? Gã ngó sang Du Cửu Khuyết, Du Cửu Khuyết quát xong là liền ngậm miệng, không nói gì thêm. Y phải ngậm miệng trước, bịt kín bí ẩn mà y có thể thố lộ. Hàn Ngạc nhìn lên mặt y, chỉ thấy một vẻ thịnh nộ như muốn sát nhân. Gã hãi hùng, nhưng tiếp đó, trong đầu gã chợt bật vang khe khẽ --- Cái gã nhìn thấy trên mặt Du Cửu Khuyết thì ra không phải là sự thịnh nộ, mà tựa như một thứ ghen tị điên cuồng!
1 Từng qua biển rộng màng chi suối, là câu trong bài thơ "Ly tư ngũ thủ - kỳ tứ” của Nguyên Chẩn. Ý của câu này là: người đã từng trải biển xanh sâu rộng không gì bì được thì nước ở nơi nào khác cũng khó mà thu hút được y.
Quy ển V: Nhật sắc phú
Chương 90 Thiếu đế Trường An khai Tử Thần1
“Hoàng thượng đã giá băng!”.
M ới hừng sáng, cửa cung còn chưa mở, tin tức đó đã từ vòng cao nhất của Trường An thành truyền dần ra. Mọi người đều có nội tuyến riêng của mình, kênh ngòi mỗi một tin tức phát ra đều khác biệt, tin nội tuyến của mỗi một người kiếm được cũng không tương đồng: có kẻ vẫn chỉ là hoài nghi, có kẻ lại đã xác định, có kẻ tin chắc, có kẻ mơ hồ… Nhưng chẳng ai dám giành tung tin ra trước.
Ngày hôm đó, buổi sớm trong Trường An thành cũng không có gì khác lạ với thường lệ: binh sĩ dọn đường, nông dân buôn bán rau quả chực ngoài thành chờ mở cửa, đàn bà quét sân tưới vườn, đồ tể mài dao… Mọi sự xem ra chẳng có gì kỳ dị --- Bá tánh nhân gian là vậy đó, tin tức thực ra quan trọng nhất, quan hệ nhiều nhất với họ thì họ lúc nào cũng biết sau cùng nhất. Đợi đến khi biết, tin tức đó đã trải qua lắm sự tân trang, không còn bộ dạng ban sơ của nó nữa…
o0o “Hoàng thượng đã giá băng!” --- Người đầu tiên phát hiện việc này lại là “Ngũ huyền” Hoa Phạm trong số Tử Thần Thất Tú. Đêm hôm đó đến phiên hắn lo phòng vệ cung cấm. Lúc đó hắn đang ở Dưỡng Tâm điện. Vốn những ngày tuần phòng như vậy hết sức bình đạm vô vị. “Ngũ huyền” Hoa Phạm đam mê âm luật, điểm này hắn lại tương đồng với Lục ca của hắn. Gần đây Trường An thành tuy gió gió mưa mưa, có điều hắn đâu có quan tâm mấy chuyện đó: đó là chuyện trong triều đình, hắn tuy quyền cao chức trọng, nhưng hắn chỉ là một hộ vệ dùng võ công để lo trấn thủ cấm cung. Cái hắn quan tâm là sinh hoạt nằm ngoài chức trách của mình. Song hôm nay tâm tình của hắn lại có hơi không bình yên, vì hắn biết: lão đại Du Cửu Khuyết không có mặt. Gần đây Hoa Phạm đã rất hao phí tâm lực vì chuyện nội bộ của Tử Thần, hắn cũng từng cảm khái: Tử Thần đã không còn là Tử Thần ban sơ nữa! Cung Diệc Tinh cùng Lữ Tam Tài liên thủ mà vẫn bị Hàn Ngạc đánh lui cũng là lần đầu tiên Tử Thần bọn họ không hoàn thành nhiệm vụ. Rồi cái chết của Quan Phi Độ làm cho tâm lý của bọn họ càng lung lay. Đáng sợ là trong Thất Tú đột nhiên khuyết một vị trí mà lại chẳng có ai bù đắp vào. Du tổng quản nghe nói đã từng hỏi han Hàn Ngạc. Nếu hôm đó Hàn Ngạc chịu gia nhập Tử Thần, e là thanh thế của bọn họ đâu có yếu nhược đi. Nhưng điều khiến cho y càng lo lắng hơn là Ngải Khắc sau khi gia nhập Tử Thần đã liên thủ với Lữ Tam Tài, ly tâm ly đức khỏi chủ định của Tử Thần. Tử Thần luôn luôn không tham gia vào triều chính, nhưng Ngải Khắc về sau đã phá cái lệ đó. Từ khi Du tổng quản nổi giận, Ngải Khắc cùng Lữ Tam Tài đều hờ hững với Tử Thần, cho nên hắn thấy Tử Thần ngày nay đâu bì được với Tử Thần hôm xưa.
Mà đêm hôm nay Du Cửu Khuyết lại không có mặt, chức trách trấn thủ Dưỡng Tâm điện thình lình có vẻ nặng nề quá --- Thực ra sự lo lắng này vốn đâu có lý chút nào, ai ai đều biết sự an toàn của Hoàng thượng là do Tử Thần hộ vệ, còn có kẻ nào dám mạo hiểm nhập cung mưu đồ gì nữa? Hoa Phạm cảm thấy cái lúc có chút không ổn thỏa là lúc vừa quá canh ba, lòng hắn bất tri bất giác cảm thấy bất an. Công lực của hắn tuy thua xa phép “Tiềm thính” của Du Cửu Khuyết, nhưng chức vụ này hắn đảm nhiệm đã lâu, đối với Dưỡng Tâm điện cũng có một cảm giác quen thuộc khôn tả. Hắn phát giác Dưỡng Tâm điện đêm nay tựa hồ có vật gì đó không quen thuộc với hắn xâm nhập.
1 Bài thơ "Thượng hoàng tây tuần Nam Kinh ca" của Lý Bạch có hai câu: "Thiếu đế Trường An khai tử cực, song huyền nhật nguyệt chiếu càn khôn" (Vua bé Trường An lên điện tía, trời trăng cùng chiếu rọi muôn dân). An Lộc Sơn phản loạn công phá Đồng Quan, Đường Huyền tông chạy trốn về phía tây qua đất Thục, Thái tử Lý Hanh xưng đế, tức là Túc tông (trong thơ gọi là Thiếu đế", gọi Huyền tông là "Thượng hoàng". Thơ Lý Bạch an ủy Huyền tông đã mất đi đế vị đang ở Thành Đô (Nam Kinh trong tựa bài thơ). Vì vậy câu thơ tuy có vẻ huy hoàng, nhưng ẩn tàng là nỗi tịch mịch bi ai.
Khi ấy hắn cũng lập tức đảo một vòng ngoài tường viện, mọi sự đều không có gì dị thường. Chỉ có bóng dáng một cung nhân đi ra, chắc là kẻ từ nhà bếp đến dâng canh sâm cho Hoàng thượng dùng mỗi khi đến canh ba. Tuy Hoàng thượng gần đây cơ hồ không uống, nhưng quy củ đó vẫn một mực không gián đoạn --- Trong cung là vậy, có biết bao quy củ tên tuổi còn tồn tại, trên thực tế lại đã bị quên lãng, nhưng vẫn y nguyên như trước. Giống như khi Hoa Phạm mới vào canh phòng cung cấm, hắn không rõ tại sao có ba thị vệ phải một mực đứng gác một gốc cây khô, mà hỏi cũng chẳng ai biết sao lại phải canh phòng nó, sau này mới khám phá quý phi của tiền triều thích cái cây đó, nhưng cây với người đều đã chết, nguyên do của trách nhiệm canh phòng kia cũng một mực bị người ta quên lãng, một mực để lính gác ở nơi đó, một mực không phá bỏ.
Nh ưng khi quẹo sang lối khác, Hoa Phạm bỗng cảm thấy một sự bất an khôn tả đối với thân ảnh của cung nhân kia. Rồi gã tiềm tâm tra dò, phát hiện: nội thị Tiểu Thái ba năm nay được Hoàng thượng sủng ái nhất đã chết, không ngờ có người sát nhân ở Dưỡng Tâm điện. Hắn phát giác chuyện không hay, vội chạy vào tẩm điện, sau đó hắn phát hiện Hoàng thượng đã qua đời, chẳng phải vì bệnh tật.
Trước giường của Hoàng thượng có đặt một chén trà Niệp Nhi --- Hoàng thượng ngày thường vốn đâu có uống thứ trà đó! o0o
Hoa Ph ạm tuy xử trí quyết đoán, tin tức lập tức bị hắn giữ kín, có điều trong cung mà, làm sao thấu rõ có bao nhiêu nhãn tuyến cài đặt ngấm ngầm, họ cũng đều là người có lai lịch. Tình thế lạ thường trong cung lập tức bị không ít người phát hiện. Tin tức đó thậm chí đã truyền ra qua đủ thứ đường dây bí mật từ trước khi mở cửa cung rất lâu. Di vương gia đã biết, Tiêu Giác đã biết… Trần Hy Tái đương nhiên cũng chẳng thể không biết!
Tr ần Hy Tái hoảng kinh, lão đang chuẩn bị canh năm thượng triều. Tuy Hoàng thượng hai năm gần đây đâu phải mỗi sáng đều có thể dậy sớm như vậy, nhưng bọn họ vẫn giữ nguyên lề lối thượng triều sớm. Lão liền mật ước với bộ hạ tâm phúc trong Bộc Xạ Đường để mở một cuộc họp. Tiếp đó, Tam hoàng tử Chí Bình đang mê ngủ bị chúng đánh thức dậy. Tin giá băng này quá đột ngột, long trời lở đất, trong Trường An thành không biết có bao nhiêu người có cảm giác thảm gấm tường vàng dưới chân, vinh hoa phú quý bên mình đang rung động như hứng cơn địa chấn. Điều Trần Hy Tái muốn biết nhất là: Tử Thần Du lão đại đối với chuyện này sẽ có phản ứng ra sao? Y có giữ bí mật, không cho phát tang hay không? Y có sai người đến tìm mình hay không? Lão cũng chẳng hay tin này Đông cung có biết chưa --- Cho dù biết, Đông cung e cũng không dám làm kẻ đầu tiên mở miệng nói là mình đã được tin, có phải không? Mấy ngày sau đó sẽ ra sao? Hàn Ngạc sẽ làm gì? Người lão lập tức báo cho biết cái tin này lại là vị tướng thống lãnh tả Kim Ngô, Trử Sĩ Kiện. Hôm nay, họ cần phải đến sớm, Thái Cực điện này, cục diện hôm nay có nén nhịn hay là bộc phát đều ở Thái Cực điện này!
o0o Tin Đông cung Thái tử nhận được lại là thiết thực nhất. Vì người truyền tin là người đã khiến cho y quá tin. Đó là: Đỗ Phương Ninh.
Đỗ Phương Ninh tuy cả đêm không ngủ, nhưng mặt mày nàng vẫn sáng rỡ như ngày thường, chút quầng thâm dưới mắt cũng đã đánh phấn che đậy. Giờ Dần nàng vào Đông cung, đánh thức Thái tử, chỉ nói một câu: “Hoàng thượng đã giá băng!”.
Nàng ch ỉ nói năm chữ đó, những gì khác có liên quan cũng không nói, bao gồm môn hạ của Đại Hoang Sơn, bao gồm trà Niệp Nhi, bao gồm… Nhãn Nhi Mị2, bao gồm nàng làm sao để vào ra cung cấm, bao gồm Du Cửu Khuyết đã đi đâu… Mà Nhãn Nhi Mị kia, trong Trường An thành có rất nhiều người biết đến, nhưng ai ai cũng chưa từng nghe có người nào nhắc đến trước mặt mình.
Ph ản ứng đầu tiên của Thái tử Chí Hoa là bàng hoàng, sau đó kinh ngạc, tiếp đó mừng rỡ, trong mừng rỡ chẳng biết còn pha lẫn tâm tình gì khác không… Chỉ có trong Trường An thành, tin tức như vậy mới có thể để kẻ hạ thủ cùng đứa con của người bị hại đề cập đến một cách bình đạm dường đó, có phải không?
Ph ản ứng kế đến của Thái tử Chí Hoa lại là “không tin”! Gã ngạc nhiên hỏi: “Sao nàng biết được?”. Ánh mắt của Đỗ Phương Ninh có chút giễu cợt chăm chú nhìn y, không nói gì hết. Đông cung Thái tử chấn động thân người, y đã đợi cái ngày này quá lâu rồi. Y nằm mộng cũng nghĩ tới cái ngày này. Nhưng tình huống của cái ngày này lại đến quá đột nhiên, quá không phải lúc. Nếu sớm hơn được nửa năm, phản ứng của y đối với tin tức này còn đỡ phần nào. Nhưng bây giờ không chỉ trong cung có Du Cửu Khuyết, mà ngoài cung còn có một Hàn Ngạc. Họ có ủng hộ mình không? Đỗ Hương Sơn và Chu Hoè Tân mới sáng sớm đã bị Đông cung triệu vời. Vừa nghe tin này, mặt mày Đỗ Hương Sơn như quét sạch hết mọi ưu sầu --- Cứ múc nước đổ lên đổ xuống cho bớt sôi, chi bằng rút bỏ củi khỏi lò! Hoàng thượng đã có ý phế bỏ Thái tử, cái chết của ông ta có lẽ, đối với Đông cung mà nói, là con đường giải quyết tốt nhất. Đôi mắt của lão trước hết nhìn sang đứa cháu gái của mình: hảo điệt nữ! Ngươi thực không hổ là người của Đỗ gia ta, là Chuyên Chư trong đám nữ tử, là Gia Cát giữa bầy quần hồng! Nhưng cái lão nghĩ đến tiếp đó là nên làm sao. Cái họ đồng thời nghĩ đến là Thái Cực điện sáng sớm hôm nay! Trong Thái Cực điện, sáng sớm hôm nay chắc sẽ xảy ra một cái gì đó, phải không? o0o Trời vừa hừng sáng, Vương Hoành Hải đã tiếp được thư mật của hai nơi, một nơi là bên Thái tử đưa đến, một nơi lại là từ Hàn Ngạc. Một phong thơ kêu ông ta dẫn binh đến sát Trường An, một phong lại nhờ ông ta án binh bất động, một khi có biến loạn thì phải lập tức thần tốc bình định loạn thế. Vương Hoành Hải bắt đầu phải đối diện chọn lựa thực sự. Mà hôm nay người đi đến Thái Cực điện trễ nhất lại là Hàn Ngạc. Tin gã nhận được tường tận và xác thực nhất, vì đó là tin Du Cửu Khuyết đích thân cáo tri cho Tiêu Giác thông truyền tới gã: bao gồm trản trà Niệp Nhi, bao gồm bóng dáng cung nhân mà Hoa Phạm nhìn thấy --- Bóng dáng đó yểu điệu làm sao, Hàn Ngạc nghĩ tới lúc bóng dáng đó hành động, bộ dạng tà áo bó sát eo thon. Gã nhắm mắt… Phương Ninh… là Phương Ninh… Ngày hôm qua gã với Du Cửu Khuyết bí mật hẹn gặp trên đỉnh Tử Các Phong, cái gì cũng đã nghĩ đến… Đông cung, Bộc Xạ Đường, cùng đủ thứ thế lực dưới trướng chúng… nhưng lại để sót một điểm: Phương Ninh… một Phương Ninh… một nàng con gái. Đó là điều gã nghĩ đến khi vừa nghe được tin. Gã đang đi vào cửa Thừa Thiên, từng bước từng bước dò về phía điện Thái Cực. Trước điện Thái Cực, con đường lát đá xanh kia xem có vẻ sạch sẽ rộng lớn làm sao. Nhưng gã biết vào lúc này, trong điện khẳng định đã tề tựu người của Đông cung cùng Bộc Xạ Đường. Sự tiếp theo đó có thể là một thời cuộc đảo lật trời đất. Gã lắc lắc đầu, trước mắt gã thoáng hiện gương mặt của Tiểu Kế --- Khi Tiểu Kế nghe được tin này, sắc mặt nó tái mét… Con người ở ngôi cửu ngũ chí tôn hơn ba chục năm trời kia, con người từng là niềm tín ngưỡng và là vật tổ của toàn thiên hạ kia, đến khi chết, kẻ duy nhất giữa cơn bàng hoàng hụt hẫng bốc dâng một nỗi niềm thương tiếc máu mủ ruột thịt e cũng chỉ có một Tiểu Kế đó thôi… o0o Thái tử Chí Hoa lại vẫn chưa đến điện Thái Cực, y không có thói quen thượng triều sớm, phát động lực lượng cũng cần phải có sắp đặt. Chuyện đầu tiên y phải làm là tránh bị nghi ngờ. Y đang trên đỉnh lầu của Đông cung dõi trông về Thái Cực điện: mặt trời sắp lên rồi, có phải cuối cùng đã đến thời của y? Vầng thái dương hôm nay là vầng thái dương của y --- Y, một thiếu đế bốn chục tuổi đời, cuối cùng đã sắp --- Thiếu đế Trường An khai Tử Thần!
2 Xem lại trà Niệp Nhi và Nhãn Nhi Mị ở hồi 8. Hết quyển V
Tóm t ắt các hồi truyện quyển V:Hạo hạo Trường An xa triển trần .................... Khiến xui lấm bụi đất kinh kỳ Đoản tấn soa trì bất cập quần .................... Nợ tình trở biến trận cuồng si Thương Long khuyết hạ trì Chuy mã .................... Hận lòng xoay chuyển cơn điên dại Tử Các phong đầu chiêm bạch vân .................... Quá khứ thoạt về nặng giấc bi Nhị tinh hịch ngoại thông mai phục .................... Xe vàng đưa đón người ghen tị Ngọ dạ đăng tiền thảo ngự văn .................... Trăng bạc chào mời bạn sớt chia Thiên bôi lục tửu hà từ túy .................... Rượu đậm đâu đành lơi ruột thịt Nhất diện hồng trang não sát nhân .................... Má phai sao nỡ khép mày mi Tư Tử đài biên phong tự cấp .................... Tám hướng đao hươi giờ hốt hoảng Ngọc Nương hồ thượng nguyệt ứng trầm .................... Bốn bề liễu rũ phút tịnh bình Gia tán vạn kim thù sĩ tử .................... Ngàn vàng báo trả thù gia tộc Thân lưu nhất kiếm đáp quân ân .................... Một kiếm đáp đền nghĩa đệ huynh Nhược giáo giải ngữ ứng khuynh quốc ................. Bâng khuâng bóng lắng vào tranh họa Nhâm thị vô tình dã động nhân .................... Nhức nhối lời hằn tận óc tim Đạm mặc la cân đăng bạn tự .................... Chốn chốn lắm niềm yêu muốn tỏ Tiểu phong linh bội mộng trung ngâm .................... Ai ai bao nỗi nhớ mong tìm Ngọc kiểm tứ thư mê phượng triện .................... Dễ đến khó về thêm rễ má Kim hoa quy giá lãnh long lân .................... Gây nhân lãnh quả thắt dây mơ Tằng kinh thương hải nan vi thủy .................... Anh thư mở lối thuyền mau lướt Thiếu đế Trường An khai Tử Thần .................... Hào kiệt lạc đường ngựa hết phi
Quy ển VI: Ngũ hầu tán1
Chương 91 Thượng đế thâm cung bế cửu hôn2
Th ời gian trôi qua thực nhanh. --- Đã tháng ba, Hàn Ngạc độc trấn Thạch Thích bảo. Qua sáu tháng rồi, biết bao nhiêu chuyện khi mình còn trong cuộc cứ cảm thấy rối rắm bấn loạn, không rõ được đầu đuôi. Đợi đến khi qua rồi, ngoái đầu lại, tựa hồ mới có thể thấu suốt được. Nơi đây cách Lạc Dương hơn hai ngàn dặm đường! Gã đã rời Lạc Dương cũng được gần bốn tháng --- Hôm đó trong điện Thái Cực ở Trường An, hai đội nhân mã của tả Bộc xạ Trần Hy Tái cùng Thái phó Vi Linh chia phe gườm nhau, cục trường nhất thời hết sức khẩn trương. Hàn Ngạc chậm rãi lên điện. Trong điện gần như trống rỗng, tuy các trọng thần của Bộc Xạ Đường cùng Đông cung đang có mặt tổng cộng cũng mấy chục người, nhưng điện quá rộng lớn. Đánh đấm có thể lập tức bùng nổ. Ở ngoài cung, tả Kim ngô tướng quân Trử Sĩ Kiện môn hạ của Trần Hy Tái cùng Thần Sách quân của Đông cung đã sẵn sàng nhúng tay vào kinh biến đoạt cung. Song le chẳng ai chịu thốt lời trước, kể cả Hàn Ngạc. Mọi người đều cảm thấy sàn tòa Thái Cực điện nguy nga này chừng như đang rung chuyển. Đầu Hàn Ngạc đang tràn dâng một cảm giác mình có trách nhiệm gánh vác thiên hạ. Đêm hôm qua gã đâu có ngủ --- Sau khi đi Tử Các phong về, từ lúc Du Cửu Khuyết truyền cho gã cái tin đầu tiên, gã và Du Cửu Khuyết vẫn tiếp tục liên lạc không ngưng. Hàn Ngạc sắc mặt lạnh lùng quét nhìn ánh mắt của mọi người tại trường. Ở đây toàn là trọng thần, lăn lộn quan trường tối thiểu cũng phải hơn ba chục năm, nhưng bị nhãn quang của gã liếc qua, ai ai cũng không khỏi rùng mình: Hàn Ngạc trước mắt có biết sự tình xảy ra trong cung chưa? Cấm vệ của cung thành nay đều nằm dưới quyền khống chế của Tiêu Giác, thủ hạ của gã. Sự vụ trị an của Trường An thành phần lớn cũng rơi vào tay Ô Trấn Hải, dũng tướng dưới trướng gã. Gã sẽ xử lý thế nào đối với cái tin bất thình lình này? Bất kể là người của Đông cung hay Bộc Xạ Đường, chẳng ai muốn trở mặt với gã. Thực lực của chúng vốn tương đương nhau. Quân lực xung quanh Trường An thành cỡ gần mười vạn, trừ bớt hơn hai vạn kỵ binh dưới tay Trử Sĩ Kiện, số còn lại e sẽ nghe theo sự điều động của gã. Trong ngoài Trường An thành lại có cả vạn Thần Sách quân dưới quyền thao túng của phe Thái tử. Lão tướng Vương Hoành Hải đang tọa trấn Tân Phong, đám binh mã đó mà khởi động cũng vẫn cần chút thời gian. Xem ra bên trong thành, đặc biệt là trong cung, binh lực lúc này vẫn đang nằm trong tay Hàn Ngạc. Trần Hy Tái cùng Vi Linh bụng dạ đều đang khẩn trương: tiểu tử này đột nhiên trở thành một kẻ quyền quý, nhảy vọt lên trên. Cái thế trong cung hôm nay thực mờ mịt, lại để cho gã nghiêng sang trái thì trái thắng, dời sang phải thì phải ăn. Hàn Ngạc đột nhiên thở ra một hơi nhè nhẹ. Người trong điện đang chằm chằm ngó thanh kiếm bên hông gã --- Gã là nguyên soái ở biên đình, thống lãnh Bắc đình Đô hộ phủ, Thánh chỉ hồi trước đặc biệt cho phép gã cưỡi ngựa trong cấm cung, đeo kiếm thượng triều. Giờ đây Đông cung cùng Bộc Xạ Đường đều đang quan tâm trông chờ xem mũi kiếm chỉa về đâu. Hàn Ngạc lại chậm rãi mở miệng: “Chư vị đại nhân, trong cung đã xảy ra chuyện”. Gã ngước lên: “Hoàng thượng hôm qua bị hành thích, nội thị kề cận bị giết chết, Hoàng thượng thì bị thương nặng. Hiện giờ Cửu Hôn tổng quản Du đại nhân đang toàn lực cứu trị. Theo cục diện trước mắt, chư vị đại nhân hôm nay không thể ra khỏi cung. Vì lễ chế, Hoàng thượng đang gặp nguy, chư vị đại thần cũng nên ở gần, có phải không? Ta đã hạ lệnh cho cấm quân trong cung phong bế cửa cung, các vị đại nhân xin ở đây cung hầu Thánh an”. Trần Hy Tái cùng Vi Linh mặt mày lộ vẻ kinh ngạc, họ Hàn không ngờ lại chơi trò này? Lòng họ nhất thời đang đảo chuyển: thực ra Hoàng thượng vẫn chưa chết, hay là Hàn Ngạc muốn phong bế cung cấm không cho phát tang? Trần Hy Tái vụt ngó Hàn Ngạc chằm chằm, lại thầm nghĩ: Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết xưa nay không giao tiếp với quan viên bên ngoài, sao theo khẩu khí của Hàn Ngạc thì gã với Du Cửu Khuyết lại như đang nhất trí về chuyện này vậy? Hàn Ngạc điềm đạm nói tiếp: “Đêm hôm qua ta vừa nhận được tin thì liền truyền lệnh cho Vương Hoành Hải Vương lão tướng quân trấn thủ ở Tân Phong cùng Cổ Siêu Trác Cổ huynh đồn trú ở Lạc Dương cẩn thận đề phòng, nhất quyết ổn định cục thế ở lưỡng đô. Trong quân có ai muốn làm loạn thì giết không tha!”. Ba tiếng cuối cùng vừa thoát khỏi miệng, thân người gã bỗng tràn dâng một luồng kiếm khí hung mãnh. Đó là sát khí, là sát khí dung dưỡng từ thuở thống lãnh muôn binh, tác chiến Tái Ngoại, gầy dựng biên đình. Lời gã vừa thốt lên, chẳng cần biết là Trần Hy Tái hay là Vi Linh cũng phải chấn động cõi lòng. Vương Hoành Hải là lão tướng của phe Đông cung, còn Cổ Siêu Trác lại xuất thân từ Bộc Xạ Đường, song phương đều ký thác niềm hy vọng của mình vào hai người này, sao qua giọng điệu của Hàn Ngạc cứ như hai cánh quân đó gã đã khống chế hết? Ba người bọn họ trở thành đồng minh từ hồi nào? Quân mã ở Tân Phong của Vương Hoành Hải bất quá chỉ hơn một vạn, binh lực ở Lạc Dương của Cổ Siêu Trác đại khái cũng cỡ đó. Nhưng Trần Hy Tái và Vi Linh đều biết hai cánh quân đó số lượng tuy ít, lại là đội quân đáng sợ nhất. Bởi thiên hạ đều biết tài luyện binh của lão tướng Vương Hoành Hải. Còn quân của Cổ Siêu Trác lại là quân điều từ Bắc đình Đô hộ phủ của Hàn Ngạc, là tinh binh từng trải trăm trận. Hai cánh quân đó e có thể chống cự mười vạn sĩ tốt chỉ quen ăn no ngủ ấm của triều đình. Vi Linh tâm tư ưu hoài: hồi sớm nay bọn họ có bàn luận, Thái tử Chí Hoa rất trông cậy vào doanh trại của Vương Hoành Hải, Thần Sách quân chỉ có hơn một vạn, muốn chống đối gần ba vạn cấm quân dưới trướng tả Kim ngô sợ rằng phải hết sức cật lực. Lúc này lại có thủ hạ của Trần Hy Tái thần tình nghiêm trọng chạy vào điện, kề tai lão nói nhỏ. Trần Hy Tái nghe xong, tuy xưa nay lão mưu thâm toán, hỉ nộ không để hiện ra, nhưng sắc mặt vẫn không khỏi tái nhợt đi. Người đó vốn thưa rằng: “Bùi Ngự sử theo lệnh Thừa tướng đi truyền tin sáng sớm hôm nay cho người về báo rằng ông ta đã đến chậm một bước. Khi ông ta đến, lão lục Lục Phá Hầu cùng lão tam Lữ Tam Tài của Tử Thần đã tới trước. Bọn họ tới từ hồi khuya, nói rằng phụng Thánh chỉ, Trử tướng quân chỉ còn nước tiếp đãi. Bùi Ngự sử thấy Trử tướng quân xem ra đã bị họ khống chế, vì trong trướng chỉ có ba người Lục Phá Hầu, Lữ Tam Tài cùng Trử tướng quân ngồi uống rượu. Thanh đao ‘Kim Lân Khảm’ thành danh của Lục Phá Hầu đang gát ngang trên đầu gối. Với năng lực của người trong Tử Thần, Trử tướng quân tin rằng không dám có dị động, sinh tử đã bị chúng thao túng”. Mồ hôi nhỏ giọt trên mặt Trần Hy Tái: lẽ nào Du Cửu Khuyết lại đi phù trợ Đông cung? Hàn Ngạc chậm rãi thốt: “Theo điều tra đêm hôm qua của Tử Thần cùng Hàn mỗ, hung thủ mưu đồ hành thích Hoàng thượng chắc có liên quan đến Tào Súc Hậu cha của Thái tử phi đang bị hạch tội bắt giam. Chư vị đại nhân, chuyện đại nghịch phạm thượng như vầy, có phải nên tra xét cho ra ngọn nguồn hay không chứ?”. Gã nói mà ánh mắt chằm chằm ngó Vi Linh, miệng thì lại hỏi Trần Hy Tái. Trần Hy Tái nhất thời cũng không đoán được tâm ý của Hàn Ngạc, nhưng liền làm ra vẻ: “Đương nhiên!”. Trán Vi Linh lấm tấm mồ hôi lạnh. Mũi mâu của Hàn Ngạc sao lại chỉa sang Đông cung? Hàn Ngạc thốt: “Vậy được, hôm nay bọn ta phải tam ty hội thẩm, thỉnh Hình bộ, Đại Lý Tự cùng Án Sát Viện điều tra cho rõ ràng mau lẹ, nếu có phe đảng sau lưng, nhất định phải trừng trị nghiêm khắc!”. Trần Hy Tái mặt mày thoáng hiện vẻ phấn chấn. Lại nghe Hàn Ngạc thở dài: “Các vị đại thần, đang khi bận rộn sự vụ, mong các vị quản thúc thuộc hạ để tránh làm tăng biến loạn trong Trường An thành. Mọi sự phải đợi đến khi Thánh thể vạn an rồi hẵng nói. Điều này vốn liên quan đến sự sống còn của mọi người”. o0o Ba ngày, thời gian ba ngày sau đó Hàn Ngạc phải đếm từng hạt cát thoát khỏi đồng hồ. Ba ngày đó, bất kể là đối với Hàn Ngạc, Du Cửu Khuyết, Trần Hy Tái hay Thái tử Chí Hoa, cho đến tất cả mọi người có dính dấp, e cũng đều là một sự hành hạ ghê gớm. Hàn Ngạc thực ra có tính toán gì? Hoàng thượng thực ra có chết chưa? Sự kết minh của gã với Du Cửu Khuyết, còn có Vương Hoành Hải và Cổ Siêu Trác nữa, thực ra có vững chắc không? Những vấn đề đó đang dày vò đầu óc của những kẻ có quyền hạn tối cao trong Đông cung và Bộc Xạ Đường. Ở ngoài cung, Dư Tiệp cũng đang thắc mắc --- Thời cơ này đối với nàng cùng dòng Đại Hoang Sơn mà nói, có thể cho là thời cơ tốt nhất. Cái nàng dày công vun đắp, chờ đợi cho được chính là cái ngày này. Nàng không có cách nào bức bách Hàn Ngạc, kẻ nàng có thể bức bách chỉ có Dư Tiểu Kế. Nhưng Dư Tiểu Kế suốt ngày câm bặt không lên tiếng, cuối cùng chỉ lạnh lùng thốt một câu: “Tôi không muốn làm Hoàng đế, Tiệp tỷ, chị quên điều đó đi”. Sau ba hôm, lúc Hàn Ngạc đang ngồi trong Vũ Anh điện thì bỗng có người đến báo: “Ngoài cửa Trường Lạc, trong ngõ giữa tường cung đang có Thần Sách quân vào gây rối”. --- Người của Đông cung cuối cùng đã không ngồi yên được nữa! Chúng muốn động thủ! Thần sắc trên mặt Hàn Ngạc càng thêm âm trầm. Gã khi ấy lập tức phi tới ngõ tường ngoài cửa Trường Lạc. Gã tuyệt không thể nương tay. Cục diện này, Trường An này, một khi còn có Hàn Ngạc gã, không thể để nó loạn được! Hai ngày nay, có một người một mực ngồi thủ ngoài cửa Đông cung. Đó là Cung Diệc Tinh. Hắn là Tử Thần lão yêu, bên cạnh hắn có đặt một cây Phách Điêu Cung. Hắn đã ẩn nhẫn ba năm trời, khổ công tu luyện. Du Cửu Khuyết phụ trách an định cục thế trong cung, hạ lệnh cho hắn đến trấn giữ ngoài cửa Đông cung, còn người thống lãnh thuộc hạ của Tử Thần giám thị Đông cung là “Ngũ huyền” Hoa Phạm. Kẻ họ muốn theo dõi gắt gao lại là Thương Sơn Tứ Hạo cùng “Bất Trắc Đao” Bốc Ưng và “Song Nhận” Vi Đĩnh. Xem ra người của Đông cung cuối cùng đã không nhịn được bị uy hiếp nữa, muốn phát động trước. Khi Hàn Ngạc đến nơi, trong ngõ ngoài cửa Trường Lạc đang có hơn một ngàn binh Thần Sách tụ tập. Kẻ cầm đầu chính là Vương Huyền, phó thống lãnh của Thần Sách quân. Bọn chúng đang đối đầu với Tiêu Giác đang lo canh giữ cửa cung. Hàn Ngạc vừa cưỡi ngựa đến, hàng ngũ đội binh Thần Sách lập tức nhốn nháo, có người thét lớn: “Thánh thượng bị họ Hàn bức tử, bây giờ gã đóng chặt cửa cung, không cho phát tang, hòng gây bất lợi cho Thái tử. Hàn Ngạc muốn mưu phản!”. Hàn Ngạc phi thẳng vào ngõ, tay án trên Trường Canh, quát tháo: “Vương Huyền, Thánh thượng không được khỏe, ngươi còn rao đồn mê hoặc chúng nhân, mưu đồ nghịch loạn, ngươi nghĩ ta giết không được ngươi sao?”… o0o ---- Hàn Ngạc ngước mắt lên, mọi sự đã qua rồi, tuy đã sáu tháng trời, lại vẫn cứ như ở ngay trước mắt. Sáu tháng nay, tường cung kia, điện Thái Cực kia, bất cứ lúc nào cũng có thể phát sinh binh biến… Gã đang ngồi trong Thạch Thích bảo. Thạch Thích bảo nằm ở Thiện châu, Thanh Hải. Ở đây, dưới trướng gã có ba vạn tướng sĩ mà Vương Hoành Hải từng luyện ở vùng tây bắc. Gã đang đối diện sự xâm lăng quấy nhiễu của Thổ Cốc Hồn. Tháng mười hai mùa đông năm ngoái, Thổ Cốc Hồn vùng dậy, gã không thể không dẫn quân ra Thanh Hải. Gã đến được ba tháng thì mọi sự cuối cùng đã bắt đầu an định lại. Giao dịch buôn bán muối và kim loại giữa người Hán và người Thổ Cốc Hồn bị biến động gây trở ngại nay cũng đã yên bình. Trước mắt gã, đâu đâu cũng là cỏ dại đá tảng hoang lương. Xuân đến rồi, nhưng cỏ chỉ phơn phớt sắc xanh. Gió lạnh quá, toàn thiên hạ tựa hồ cũng hoang lương như vậy. Lúc này lại có một tà áo choàng phủ lên mình gã. Áo lông dày kín, tuy có vẻ thô lậu, nhưng lại ấm ám vô cùng. Một nữ tử dịu dàng khoác áo cho gã, lời nói bình đạm ôn nhu: “Chàng gần đây lao lực quá. Khí huyết hư hao, phải cẩn thận đừng để nhiễm lạnh”. Giọng nói điềm đạm, dịu dàng cũng như luồng hơi trắng xóa thoát bên môi, lan tỏa chút ấm dịu vô biên. Tấm áo choàng tay nàng khoác lên, đem Hàn Ngạc cách lìa sự giá buốt của toàn thế giới --- Ở ngoài kia, khí vị mùa đông còn chưa tận, tấm áo bàn tay đó gìn giữ hơi ấm bên trong này.
1 Xuất xứ từ câu “Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia” (khói mờ len tỏa cửa vương hầu), là câu trong bài thơ “Hàn thực” của Hàn Hoành. 2 Xem chú thích {3} hồi 17.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 92 Hải lộ vô trần biên thảo tân1
“Xu nhi”. Hàn Ng ạc mỉm cười, là Tổ A Xu đã đến bên cạnh gã. Hàn Ngạc đi miền tây bắc lần này, mới ra khỏi Tán Quan2 thì Xu tỷ đã theo đến. Lúc đó chính là thời khắc gian nan nhất trong đời Hàn Ngạc. Tiểu Kế đã đi. Phương Ninh… Phương Ninh cuối cùng đã cắt đứt với gã… Mọi sự trong lòng gã đều đang sụp đổ, nhưng... vào lúc đó, Xu tỷ đã đến bên cạnh gã.
Di ện mạo của Tổ A Xu rất bình đạm. Song ở vùng Tái ngoại biên quan hoang lương giá buốt này, gương mặt bình đạm của nàng lại tựa hồ là niềm ấm áp duy nhất gã có thể dựa dẫm vào. Hàn Ngạc vén tà áo lông, nhẹ nhàng bao trùm luôn A Xu vào trong. Lần trùng phùng này, sự thay đổi duy nhất của nàng xem chừng là không thích mình gọi “Xu tỷ” nữa, cho nên gã mới đổi gọi nàng là “Xu nhi”.
---- Ai nói “ Quân đội có đàn bà, binh khí làm sao tuốt”3 chứ? Hàn Ngạc có cảm giác nếu chẳng phải có Tổ A Xu xuất hiện đúng lúc, tâm tình của gã giờ phút này tuyệt không thể trấn định đến thế, điềm đạm đến thế.
o0o
Gã định thần lại, ôm A Xu bên dưới tấm áo choàng, lòng lại đang hồi tưởng đến cục diện biến loạn trong ngõ nhỏ giữa tường cung điện ở Trường An thành --- Chuyện hôm đó quá khẩn cấp, binh lính của Tiêu Giác trấn thủ trên tường dưới tường đều đã rút đao tuốt kiếm. Nhưng vấn đề chẳng phải ở chỗ có thể đánh bại Thần Sách quân được không, mà là một khi đụng trận, trong Trường An thành, ngoài Thái Cực điện, sự cân bằng đã gắng gồng bảo trì ba ngày qua sẽ không còn có thể gìn giữ được nữa! Nháy mắt Trường An thành sẽ phải chìm trong khói lửa!
… V ương Huyền xông đến quát mắng Hàn Ngạc, Hàn Ngạc đột nhiên hú dài một tiếng: gã trong quân đội lâu nay, còn chưa có ai dám ngang ngược trước mặt gã như vậy! Thân hình gã bay vọt lên, thình lình rút kiếm. Vương Huyền cũng là người trong quân ngũ, đâu phải hoàn toàn chẳng biết võ nghệ. Nhưng kỳ này gặp đột biến, hắn chỉ kịp sờ lên đao, đao mới vừa thoát khỏi vỏ, còn chưa đỡ chặn kiếm của Hàn Ngạc thì đầu đã bay trước tầng tầng lớp lớp binh Thần Sách.
C ục diện tiếp sau đó lại vượt ngoài sở liệu của Hàn Ngạc: sau khi gã chặt đầu tướng cầm quân, hán tử trong binh đoàn Thần Sách lại chẳng khựng lại, mà chỉ ngẩn ngơ trong khoảnh khắc rồi nhốn nháo định xông lên, không đợi gã mới quay về lưng ngựa mở miệng trấn an. Hàn Ngạc thầm kinh hãi: Du Cửu Khuyết muốn mình cầm giữ bảy ngày cho y. Mới được ba ngày, cục diện lại có thể mất hết khống chế như vầy sao?
Trên t ường cung đột nhiên vang lên một tiếng thét. Thanh âm của một nữ tử dội xuống: “Tướng sĩ Thần Sách quân, dừng tay!”. Tiếng thét quá đột ngột, Thần Sách quân ai nấy đều ngước lên. Một nữ tử toàn thân vận nhung trang đang đứng ở lũy thành. Mặt mày nàng ta sáng ngời, thanh tú như trong tranh, đa số đã nhận ra: là Đỗ Phương Ninh, Đỗ Phương Ninh của Vi môn Đỗ thị ở Lạc Dương, người đã từng đi ủy lạo binh sĩ cho Thái tử nhiều lần. Đỗ Phương Ninh lạnh lùng thét: “Trước mắt các ngươi không còn Hoàng thượng à? Không có Thái tử nữa sao? Không có triều đình nữa sao? Đây đâu phải là nơi các ngươi đến gây huyên náo! Mau lui xuống cho ta!”. Thần Sách quân còn chưa chịu di động, Đỗ Phương Ninh chợt quát một tiếng giận dữ, thân ảnh bay sà xuống. Tường cao hai trượng mà nàng cứ như lướt trên bình địa. Nàng giơ tay lên, lạnh lùng thốt: “Đây là ấn tín của Thái tử, kẻ nào trái lệnh ta, lập tức chém đầu!”. Thần Sách quân nguyên do Thái tử cai quản, thủ lãnh lại là môn hạ của Tào Súc Hậu cha của Thái tử phi. Binh sĩ nhận ra ấn tín, còn đang do dự, Đỗ Phương Ninh lại hét: “Về trại!”. Cả ngàn nhân mã bị mục quang của nàng uy hiếp, riu ríu thoái lui. Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh đứng yên tại đó, một hồi lâu không nói gì. Sau đó họ bước ra ngoài. Hàn Ngạc ngẩng đầu trầm tư: Đỗ Phương Ninh lại thêm một lần nữa mặc đồ nhà binh. Nhưng lần này, nàng… khoác áo nhà binh cũng bởi ai? Hàn Ngạc lòng chợt vang lên câu ca xa vời rồi, xa lắm rồi. Tình thế hiện giờ, tâm can cay đắng, nước mắt muốn tuôn trào. Gã nghiêng đầu, chẳng thốt nên lời. Một lúc lâu sau, Đỗ Phương Ninh mới mở miệng cười hỏi: “Hoàng thượng thực vẫn chưa chết?”. Cục diện gần đây đâu chỉ khiến cho phe Thái tử Chí Hoa đại loạn, ngay cả nàng vốn luôn luôn tự tin mà cũng phải có hơi nghi hoặc. Mắt Hàn Ngạc chăm chăm nhìn nàng, cười hờ hững: “Vậy phải xem nàng tự tin đến đâu”. Gã nhìn sâu vào mắt nàng --- Nhãn Nhi Mị… đôi mắt mê hoặc… trong đôi mắt có vẻ trong sáng đơn thuần đó thực ra ẩn giấu bao nhiêu mị hoặc? Hành vi của nàng, không chỉ có mình chẳng ngờ được, Trần Hy Tái cũng chẳng ngờ, e rằng Đông cung cũng đâu có ngờ, phải không? Thậm chí cả Du Cửu Khuyết cũng bị nàng khiến cho trở tay không kịp --- Ngày trước trong Lạc Dương thành, gia môn nàng gặp nguy nan, nàng bằng vào một chén trà Niệp Nhi mà cắt đứt hết mọi mầm họa. Còn hôm nay, khi Tào Súc Hậu bị bắt, Đông cung rõ ràng ở thế nguy, lại là nàng dùng một chén trà Niệp Nhi hạ độc giết chết Hoàng thượng, người mà mình cùng Du Cửu Khuyết quyết tâm bảo vệ. Nữ tử này… thực khiến cho gã… Ánh mắt của Đỗ Phương Ninh thấp thoáng có thâm ý. Nàng điềm đạm thốt: “Trên dưới triều đình đương kim, bọn lão thần e ai ai cũng cho rằng chàng muốn đưa Tiểu Kế lên. Nhưng cho dù Du Cửu Khuyết có liên thủ với chàng, tôi nghĩ đâu phải đơn giản như thế đâu”. Nàng thấu hiểu Hàn Ngạc, nguyên nhân lúc nàng đối đầu Hàn Ngạc trăm trận chẳng thua trận nào là: nàng thấu hiểu Hàn Ngạc. Nàng thốt: “Tôi biết chàng muốn gì. Tôi nói thẳng cho rồi, tước giảm thanh thế của Đông cung, giữ gìn ngôi Thái tử, có phải vậy không? Tôi đã nghĩ kỹ suốt ba ngày nay, quan sát hành vi cử chỉ của chàng và Du Cửu Khuyết, mới rút ra cái kết luận đó. Bọn chàng đã thương lượng rồi phải không? Muốn giữ chút cân bằng cơ bản giữa Thái tử và hệ thống văn quan vô dụng thúi nát kia khi y lên kế vị, không để cho thiên hạ đại loạn. Ý đồ của Du Cửu Khuyết có phải vậy không? Nếu là vậy, tôi tình nguyện giúp chàng. Chuyện của Tào Súc Hậu, các người cứ tận lực điều tra, tiêu diệt hết dư đảng của lão ta. Thế lực của lão ta ở Trường An cũng lớn mạnh lắm, trong phe Đông cung, lão ta ít ra cũng gánh phân nửa. Tôi sẽ dốc sức khuyên Đông cung Thái tử nhẫn nhịn. Nhưng các người cũng phải phát ra chiếu chỉ, nghiêm trị Tam hoàng tử Chí Bình giao kết với kẻ bên ngoài, bất nhân bất hiếu, bắt giam lỏng ngay. Chàng thấy sao?”. Thì ra mục đích của nàng là trường động loạn này! Nàng là động trung chi động, vầy tụ thế lực giữa động loạn, bình tĩnh trao đổi điều kiện với Hàn Ngạc. --- Đối diện một Phương Ninh thông minh đến thế, Hàn Ngạc còn có thể nói gì nữa? Hàn Ngạc hờ hững thốt: “Trong bè đảng của Thái tử, nhóm Tào Súc Hậu luôn luôn bài xích hai nhà Vi Đỗ ở Lạc Dương dữ lắm phải không?”. Nàng trước hết quyết tâm đánh gục Đại Mạc vương, dẫn đến chúng bị Bộc Ách Phi cùng Dư Tiệp liên thủ bức tử, chẳng phải cũng là vì nguyên nhân đó sao? Đỗ Phương Ninh mỉm cười: “Chàng nói không sai. Hai nhà Vi Đỗ bọn tôi đều là dòng dõi xa xưa, Tào gia là bọn quý tộc đời mới. Vương Huyền hồi nãy chàng giết là em vợ của Tào Súc Hậu. Chàng yên tâm, phương pháp bình định cục diện tốt nhất bất quá là ra sức bảo trì ích lợi của các phe. Tất cả mọi người dấn thân vào cuộc biến loạn này đều sợ bị tổn hại lợi ích. Vi gia và Đỗ gia bọn tôi cùng phe cựu tộc bên Thái tử đã ăn no rồi, chỉ không muốn bị đói kém thôi. Bọn tôi đâu có giống như bọn đời mới Tào Súc Hậu vĩnh viễn chẳng biết ngưng. Một khi chúng nắm quyền, bài trừ kẻ chống đối, mưu cầu cho dục vọng riêng tư, nhất định sẽ tranh đấu hết sức ác liệt với Bộc Xạ Đường bao gồm cả những dòng họ lâu đời ở hai đô thành, đưa đến thiên hạ loạn ly. Tôi có thể khuyên Đông cung cam chịu cắt bỏ một cánh tay, giảm thiểu thanh thế, ba phe bọn ta như vậy sẽ hòa hảo, được chứ? Mục đích của những thế gia cựu tộc bọn tôi thực ra cũng bất quá là một sự yên bình”. Nàng nhẹ nhàng lắc lắc đầu, mỉm cười: “Chỉ cần bọn ta thỏa thuận với nhau, đâu còn chuyện gì lớn nữa chứ? Chỉ bất quá là đánh đổi một Hoàng đế mà thôi”. Nàng đang mỉm cười, Hàn Ngạc thì lại khẽ thở dài: những chuyện này, những trao đổi này khiến cho gã cảm thấy mình ti bỉ quá. Nhưng gã cũng chỉ đành làm vậy mà thôi. Bốn ngày sau đó, Hàn Ngạc đốc thúc tam ty liên hợp với Trần Hy Tái cùng Thái phó Vi Linh điều tra vụ án Tào Súc Hậu thực kỹ lưỡng, thậm chí còn muốn biếm truất Thái tử phi --- có điều chẳng đi tới cội rễ, không động đến ngôi vị Thái tử. Thần Sách quân là binh đội duy nhất trong Trường An thành có thể có dị động, bọn chúng vốn có liên hệ chặt chẽ với Tào Súc Hậu. Chúng cũng đã nổi lên mấy lượt trong Trường An thành, trong ngoài tường cung. Người ngoài thì thấy bề ngoài có vẻ yên bình, nhưng đâu có biết đã dấy lên biết bao trận chém giết, mỗi một lần đều có thể long trời lở đất. Có điều dưới sự liên thủ áp bức của Hàn Ngạc cầm đầu vệ binh và Đỗ Phương Ninh dụng oai Đông cung Thái tử, lần nào cũng nhất nhất bình định được hết. Để trao đổi, Đông cung muốn truất phế Tam hoàng tử Chí Bình. Đây là khoảng thời gian chấn chỉnh quân bình thế lực, từ Đông cung đến Bộc Xạ Đường, nơi nào cũng xào xáo hoảng loạn. Những ngày tháng tiếp đó, trong Trường An thành không biết có bao nhiêu quan lại bị biếm truất kết tội. Nhưng đó vẫn là một cục diện nguy kịch, bất cứ lúc nào cũng có thể mất khống chế. May là Hàn Ngạc cùng Đỗ Phương Ninh liên thủ trấn áp, cuối cùng đã lần lữa được bảy ngày. Sau bảy ngày, Thái tử Chí Hoa cùng Trần Hy Tái đồng thời đăng triều --- Hôm nay đáng lẽ là ngày phát tang mà Hàn Ngạc đã hứa hẹn với bọn chúng, mọi người đang đợi đến cái ngày ấy. Sau này có tranh đấu thì cứ đợi đến sau này. Sau khi phát tang, thực lực của Tử Thần cùng Hàn Ngạc ở Trường An nhất định bị cắt giảm tối đa, e không còn hơi sức đâu để duy trì ổn định cục diện nữa, đó mới là thời cơ để chúng trục lợi dày xéo thiên hạ. Tuy những ngày qua đã khiến cho hai phe bọn chúng phải tổn thương nguyên khí nặng nề, nhưng bất kể là Đông cung hay Bộc Xạ Đường đều chẳng cam tâm. Bọn chúng cũng đang tiếp tục du thuyết dụ dỗ Vương Hoành Hải cùng Cổ Siêu Trác, một mực chuẩn bị. Song điều khiến cho chúng chẳng thể liệu được là: Hoàng thượng không ngờ đã thăng triều! Trên Thái Cực điện, trên bệ rồng, cửu ngũ chí tôn, ông ta quay trở lại điện tía. Mãi cho đến khi nhìn thấy Hoàng đế ngồi trên ngai vàng, Hàn Ngạc cuối cùng mới thở phào nhẹ nhõm --- Du Cửu Khuyết ơi Du Cửu Khuyết, lúc ông trở về cung, Hoàng thượng đã tắt thở gần một canh giờ. Phép “Tồn vong tục đoạn” của ông thực ra linh nghiệm thần diệu đến thế đó! Ông đã hao bao nhiêu chân lực tu vi để gầy nên một Hoàng đế “nửa sống nửa chết” như thế? Bốn chữ “nửa sống nửa chết” là lời Du Cửu Khuyết nói với Hàn Ngạc. Thần sắc của Hoàng thượng quả nhiên hết sức héo hon, Du Cửu Khuyết phải đỡ lên ngai. Lời nói Hoàng thượng phát ra cũng cứng đờ: Thánh giá không được khỏe, nay ra lệnh cho Thái tử coi sóc việc nước, lại ra lệnh cho mười mấy đại thần bọn Trần Hy Tái dốc sức phù tá, đồng thời quở trách Tam hoàng tử Chí Bình bất hiếu, long thể bất an mà chẳng vào thăm hỏi, hạ lệnh biếm truất, tước bỏ vương hiệu, giam ngặt trong nhà. Thánh thượng còn ra lệnh cho Hàn Ngạc cùng tam ty tra cứu bè đảng của Tào Súc Hậu. Mấy chỉ ý đó vừa ban xuống, Hoàng thượng có vẻ không gượng nổi bệnh thế. Ông ta yếu ớt hồi cung, để lại toàn điện trong cơn kinh ngạc. Hàn Ngạc lại thở phào nhè nhẹ: triều đình này coi như gắng gượng bình định được rồi. Còn Đỗ Phương Ninh… nàng có tức tối bị lừa hay không? o0o … Sao ở cạnh A Xu mà còn nghĩ tới một nàng con gái khác chứ? Hàn Ngạc thầm thở dài một hơi, cảm thấy có chút bất an. Sau hai tháng phủ dụ Trường An thành, Thánh thượng truyền chỉ --- Có phải là Thánh ý thực hay không, Hàn Ngạc cũng không rõ, gã không thấu nổi phép “Tồn vong tục đoạn” của Du Cửu Khuyết có thể linh nghiệm đến đâu, nhưng ít ra vẫn là lời phát ra từ miệng Hoàng thượng --- ra lệnh cho Thái tử Chí Hoa coi sóc quốc gia ở Trường An thành, còn ngài chưa được khỏe, muốn di giá đến Đông đô Lạc Dương tĩnh dưỡng. Tiếp đó xa giá xuất phát, Hàn Ngạc cùng sáu ngàn cấm quân hộ giá, theo Hoàng thượng đi Đông đô Lạc Dương. Rồi Vương Hoành Hải vào cầm đầu Binh bộ, những trận kịch đấu giữa các thế lực trong Trường An thành, Hàn Ngạc chẳng muốn hồi tưởng nữa. Cái gã ghi nhớ chỉ còn có sự ra đi của Tiểu Kế. Sự ra đi của nó hết sức đột ngột, không ngờ chỉ để lại một lá thơ. Đâu chỉ có Hàn Ngạc kinh ngạc, mà còn khiến Dư Tiệp cũng chẳng kịp trở tay. Tiểu Kế chỉ nói: nó về Liên Thành Kỵ. Nó không thích Lạc Dương, càng không thích Trường An. Tay Hàn Ngạc run run cầm lá thơ: cả huynh đệ của gã cũng bỏ gã sao? Nhưng đến Lạc Dương mới mười mấy ngày, miền tây bắc biên giới Thổ Cốc Hồn bỗng có tin khẩn, Hàn Ngạc không muốn ngồi thừ ở Lạc Dương nữa, thêm vào quân tình khẩn cấp, gã cũng chỉ còn nước vội vàng ra Biên Tái. Lúc gã ra đi cũng từng ngoái nhìn về Lạc Dương thành. Thành trì màu cam sẫm kia tựa hồ khỏa lấp tất cả nỗi si mê và niềm hoài vọng của gã năm xưa. Tất cả tựa hồ đã lìa xa gã từ cái đô thành đó. Gã làm sao mà ngờ được lại gặp A Xu trong quân đội chứ? A Xu ba bốn năm nay mỗi lần xuất hiện trong đời gã đều tựa hồ hết sức bất ngờ, biến mất cũng không kém phần đột ngột. Nhưng lần nào đến hay đi, nàng chừng như cũng không để lại chút dấu vết gì cả, bình đạm tự nhiên. Hàn Ngạc nhớ mình vừa kinh ngạc vừa mừng vui lúc gặp nàng, gương mặt của nàng điềm đạm quá, ôn nhu quá. Trong doanh trướng ở hoang mạc hư không, giữa bóng đêm khổ ải tịch mịch, cuối cùng đã có một điểm ấm dịu thực tại bầu bạn với Hàn Ngạc. Nhờ đó mà ngày nay, biết bao chuyện trước đây mà Hàn Ngạc cho là biến hóa to tát lại bắt đầu trở thành đơn giản làm sao. --- Có phải từ cái đêm trên miền Tái ngoại đó hay không? Hôm đó gã dịu dàng ôm Xu tỷ vào lòng. Ban đầu chỉ là vì nỗi xót xa mê loạn trong đầu mà thôi, tại sao càng về sau, một góc tâm hồn mà mình cho rằng vĩnh viễn không còn có thể nóng bỏng được nữa bỗng dưng lại nóng bỏng trở lại? Tuy chưa tới mức cuồng nhiệt, không là mê loạn, chỉ là một sức nóng ấm áp nhàn nhạt, nhưng nó lại khiến cho gã một lần nữa ôm ấp một người con gái vào lòng! Cách bày biện trong trướng thô sơ, nàng con gái hơi thở dịu hiền bên mình Hàn Ngạc không còn là “Xu tỷ” nữa, không còn là nữ tử nhàn nhạt đến xa vời chẳng thể suy đoán được, mà chỉ như một nàng con gái mới bước vào đời. Con tim Hàn Ngạc bốc dâng một niềm cảm động, gã bình tĩnh hỏi một câu: “Xu nhi, Kỵ Thể hương nàng trúng phải sao rồi?”. Tổ A Xu lại không hồi đáp. Những ngày ở chung với nàng, Hàn Ngạc cuối cùng đã được một cảm giác “có vợ”. “Vợ” là gì? Thì ra là một sự ấm dịu mềm mại, và một sự gần gũi êm ái. Đó không phải là yêu, lại là chút thỏa hiệp cuối cùng đối với tình nồng của một người trong cái thế gian thô bạo này, mà là như vậy đó... là như vậy đó… Lần đầu tiên trong đời Hàn Ngạc thỏa hiệp như vậy đó, vì đã quá mệt mỏi, vì sự ấm dịu của Xu nhi hiền hòa làm sao, cũng vì cái cảm giác an bình thoải mái khó miêu tả được mà nàng cho gã. Cục thế Biên Tái đã dần dần bình định. Nhưng đời người… có như vậy được không? Có khỏa lấp trong sự an nhiên ổn thỏa có được từ chút thỏa hiệp giữa đủ mọi tranh đấu trong triều trong quân hay không?
1 Biên giới cỏ xuân đeo biển lắng, là câu trong bài thơ “Biên thượng văn già - đệ nhị thủ” của Đỗ Mục. 2 Tán Quan tức là ải Đại Tán Quan, một trong Quan Trung tứ quan, nằm trên Đại Tán Lĩnh ở tỉnh Thiểm Tây, là yết hầu của Tần Lĩnh, vốn là chốn binh gia thời xưa luôn luôn tranh lấy. 3 Là hai câu “Phụ nhân tại quân trung, binh khí khủng bất dương” trong bài “Tân hôn biệt” của Đỗ Phủ.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 93 Hà tất cánh tầm vô chủ cốt1
Cách Th ạch Thích bảo hơn ba chục dặm về phía đông có một thị tập mang tên Sài Phô Tử. Trước đây một tháng, một binh đoàn của Hàn Ngạc đã đánh một trận có quy mô lớn nhất kỳ này với Thổ Cốc Hồn ở đó. Trận chiến đó, Thổ Cốc Hồn mất hết cả ngàn nhân mã, bên Hàn Ngạc cũng tử thương hơn một trăm mạng. Nơi đó cũng là nơi binh Hán giao chiến với Thổ Cốc Hồn nhiều lần trong mấy tháng qua.
Sài Phô T ử vốn đâu có lớn, chỉ có vài trăm nhà, nhưng lại là địa đầu trọng yếu của con đường buôn bán muối và kim loại giữa người Hán và người Thổ Cốc Hồn. Đất đai của Thổ Cốc Hồn sản xuất được nhiều muối hồ và muối giếng, “ngựa Thanh Hải” lừng danh thiên hạ đa số cũng sản sinh từ đó. Muối từ nơi ấy lưu thông vào Quan nội, còn đủ thứ chất liệu của người Hán cũng từ nơi ấy lưu nhập Thổ Cốc Hồn. Nhưng sử chép sự qua lại giữa hai dân tộc khác hẳn nhau này thường là vầy: vô số những cuộc chiến gián đoạn giữa hai bên làm cho con đường mậu dịch cũng bị ngăn trở theo. Mấy tháng nay, tướng sĩ nhà Hán đã hy sinh cả ngàn người ở dải Sài Phô Tử, ban đầu thua trận liên miên. Từ khi Hàn Ngạc đến, cục diện mới dần dần ổn định lại.
Để trấn an cục thế Biên Tái, Hàn Ngạc dựng thành ở Thạch Thích bảo --- Nơi đây xem ra không thể nào không cho đồn trú một binh đoàn vững mạnh. Phương châm của chuyến đi tây bắc lần này của gã, nói cho cùng cũng chỉ là tám chữ: dùng uy để trấn, dùng lợi để an. Tổng số binh địch bị sát thương qua các trận chiến tính ra cũng không nhiều gì, nhưng số bị bắt cũng có tới mấy ngàn. Gã một mặt phái người ký lại hòa ước với Thổ Cốc Hồn, một mặt trấn thủ ở Sài Phô Tử để mở lại con đường mậu dịch. Gã cho số binh sĩ Thổ Cốc Hồn bị bắt khiêng dựng gỗ đá xây thành. Hôm nọ đi tuần tra xong, trời chạng vạng tối, Hàn Ngạc dẫn Liên Ngọc ra xem chiến trường. Dải đất hoang dã này toàn là bình địa, rất thích hợp để giao chiến. Lịch sử giao tranh của binh gia ở đây cũng đã trải dài cả ngàn năm. Đồng không mông quạnh, thỉnh thoảng lấp loáng ánh lân tinh của xương trắng còn chưa được chôn cất. Hàn Ngạc cưỡi ngựa lần theo bãi chiến trường, nhất thời lòng cảm thấy thảm đạm khôn cùng. Dáng vẻ của Liên Ngọc cũng có chút ưu phiền --- Giao chiến lâu thì binh mỏi, một thiếu niên như hắn cũng phải chùn chân. Hàn Ngạc dừng bên một tường lũy đổ nát, đây đó vẫn còn dấu tích khói lửa hun thiêu. Liên Ngọc nói: “Hàn soái, lần trước hình như ngài cũng dừng ở đây”.
L ần đó là sau khi thắng trận đầu, lòng bốc dâng niềm cảm khái, gã đã sáng tác mấy câu thơ. Trên tường đổ dấu mực còn lờ mờ, Liên Ngọc khẽ ngâm: “Xuân lại về đây nhuộm mắt mi, tơ vò lòng tựa cỏ biên thùy. Máu đùn biển cát xương hoang lạnh, vọng nghẽn Trường An tiếng tỉ tê. Vì nước vì dân rao chính nghĩa, tướng ngơ ánh mắt phất cao cờ. Nhà nhà ca múa đêm ngon giấc, bên mộ còn soi bóng lệ mờ”2. Hắn theo Hàn Ngạc đã lâu, đối với lời thơ vụng về của gã tự nhiên cũng cảm ngộ được sâu xa --- Kỳ đó, sau khi thắng trận, báo tin về kinh đô, triều đình lại liền ca múa ăn mừng. Thái tử đang coi việc nước, truyền chỉ cho lập bia đá ghi công. Hàn Ngạc lòng cảm khái, cho nên đã viết mấy câu đó. Hàn Ngạc lại chẳng có tâm trí đâu để nhìn những câu thơ trên vách đổ. Cái gã đang suy nghĩ là: sau khi ký hòa ước xong với Thổ Cốc Hồn, làm sao để hẹn mời tướng soái của Thổ Cốc Hồn đến, cắt máu ăn thề, tế vong linh của tướng sĩ song phương.
1 Hà tất phải tìm xương vô chủ, là câu trong bài thơ “Bắc Mang sơn” của La Ẩn. 2 Nguyên tác bài thơ của Tiểu Đoạn là: “Hựu thị xuân tẩm tấn mi thì, tâm đồng biên thảo loạn như ti. Khí hàn sa hải giai binh huyết, thanh trệ Trường An hữu ám tê. Vi hữu sinh dân kỳ chánh nghĩa, trường tương lãnh nhãn khán linh kỳ. Kỷ gia ca vũ hoan thanh bãi, chung tương phần hỏa dã khốc chi”.
Tr ời tối rồi, vùng hoang dã dâng hiện sương khói mờ mịt. Liên Ngọc nói: “Ủa, có người đang đốt giấy!”. Hàn Ngạc tay cầm dây cương dõi nhìn, thấy một thân hình rất còm cỏi đang đốt giấy đằng xa. Hàn Ngạc thốt: “Đi xem xem”. Nói xong hai người tiến tới. Gần đến nơi, Hàn Ngạc không khỏi kinh ngạc kêu lên: “Tổ cô bà!”. Vùng đất hoang tàn tịch liêu này, một lão bà đang đốt giấy tiền vàng bạc, chính là Tổ cô bà. Hàn Ngạc vội xuống ngựa đi tới, gương mặt già nua của Tổ cô bà không khác gì cái vỏ quít khô, những nếp nhăn còn bám đọng thêm chút tro tàn, mái tóc bạc phơ lơ thơ trong gió. Hàn Ngạc bàng hoàng: “A bà, bà sao lại đến đây?”. Tổ cô bà mỉm cười: “Ồ, là Ngạc nhi. Bà đến để đốt chút giấy tiền vàng bạc”. Nói xong bà ta thở dài: “Một đứa cháu bên họ mẹ của bà đã chết trận ở đây chừng ba tháng trước, bà cũng không biết là trận nào. Gia đình họ cũng không còn ai, chỉ có một bà mẹ góa ở nhà. Nó cũng là đứa con trai cuối cùng của Tổ gia. Mẹ nó nhớ hoài, lòng không yên được, cứ nằm mơ mãi. Cho nên bà đến đây một chuyến, mong góp nhặt được thi hài của nó, đốt giấy tiền vàng bạc cúng nó. Ít ra bà cũng về ăn nói được với mẫu thân của nó”. Hàn Ngạc nghe vậy lòng xót xa. Gã nhìn thấy Tổ cô bà đã đắp một ngôi mộ nhỏ, ngón tay của bà còn dính đất đen. Hàn Ngạc đi tới, quỳ xuống vái một lạy trước mộ phần, tai còn nghe Tổ cô bà thốt: “Nghe nói trận nó bỏ mình, quân Hán đại bại. Bà tìm không ra thi thể xương cốt, chỉ đành đắp đỡ một mộ phần để cúng tế. Tiền bà xin được dọc đường, những tướng sĩ nào hy sinh mà không có ai nhận, bà muốn chở thi thể xương cốt của họ về Trường An”. Hàn Ngạc quỳ bái ba lượt, cổ họng nghèn nghẹn, thốt không nên lời. Tổ cô bà biết nỗi khổ trong lòng gã, giơ tay vuốt nhẹ đầu tóc gã. Hàn Ngạc nhỏ lệ: “A bà, con không làm được gì tốt”. Tổ cô bà vỗ vỗ má gã: “Không phải, tiểu Ngạc, con đã tận lực rồi. Những hành động của con trong suốt hai năm qua thực ra bà đều biết cả, con làm rất tốt. Có điều nhân thế là vậy đó, luôn luôn không tránh khỏi có thương tổn. Sư phụ của con cũng biết, ông ta… rất tự hào về con”. Liên Ngọc đứng đằng xa, không dám tới quấy nhiễu. Giữa cánh đồng bao la trống vắng, Hàn Ngạc cùng Tổ cô bà ngồi trên một khoảnh đất băng còn chưa tan, mặt mày bà tràn đầy sự thông hiểu và từ ái. Hàn Ngạc cảm thấy không phá giải được nỗi nghẹn ngào trong lòng, một hồi sau gã bắt đầu khóc rống. Tổ cô bà biết niềm cảm khái cùng ủy khuất trong tâm tư gã xưa nay không có cơ hội phát ra, bà không nói gì, chỉ dịu dàng vỗ vỗ vai gã. Thân thể của bà vì tuổi tác mà khô cằn như chỉ còn lại cái vỏ, Hàn Ngạc lại có cảm giác đó là sự bao che cứu vớt, hộ trì từ ái cuối cùng trên đời này. Gã chỉ muốn thời gian có thể trở ngược lại, mình vĩnh viễn không trưởng thành, vẫn cứ như hồi nhỏ giúi đầu vào lòng bà, chỉ khóc thôi, khóc chẳng có lý do nguồn cơn gì hết. o0o Hàn Ngạc đã an trí chỗ nghỉ cho Tổ cô bà ở Sài Phô Tử, đến đêm thì về đến Thạch Thích bảo. Gã vừa gặp A Xu là liền cười nói: “Xu nhi, nàng đoán xem hôm nay ta đã gặp ai?”. Tổ A Xu cười điềm đạm: “Ai vậy?”. Hàn Ngạc rất cao hứng, cười nói hân hoan: “Cô bà lão nhân gia đã đến! Ta đã sắp xếp chỗ ở cho bà ở Sài Phô Tử. Bọn ta có đi gặp bà liền bây giờ chứ? Bà chắc cũng đã lâu không gặp nàng. Hay là sáng sớm bọn ta đi thỉnh an bà đi, để cho bà vui”. Sắc mặt của Tổ A Xu lại hơi có biến: “Là Cô bà? Bà đã đến rồi?”. Hàn Ngạc lại chẳng chú ý đến vẻ mặt kỳ lạ của Tổ A Xu. Trên thế gian này, hai người gã tín nhiệm nhất, chưa từng làm tổn thương đến gã đang tề tựu ở đây, không có chuyện gì có thể khiến cho gã cao hứng được đến thế. Nếu Tiểu Kế cũng có ở đây thì tốt quá, Tiểu Kế cũng thích Tổ cô bà mà. Gã thầm tưởng tượng đến một bức tranh gia đình chung sống vui vầy, gã phải viết thơ vời Tiểu Kế đến, cũng nhất định phải lưu Tổ cô bà lại --- Bà tuổi tác đã cao, thực không nên lao lực nữa. Nếu lại có thể tiếp sư phụ đến, vậy thì nào phải sợ chuyện chiến tranh khói lửa, chỉ cần có bọn họ bên cạnh mình, đốt một đống lửa giữa đất trời băng tuyết, để Tổ cô bà cuốn mình trong chăn bên đống lửa, Tiểu Kế nhất định sẽ quấn quanh bà nghe bà kể chuyện xưa, Xu nhi vấn tóc cho bà, mình thì thỉnh giáo chuyện này chuyện nọ với sư phụ, đúng thực là một gia đình rồi còn gì --- Trên thế gian này, còn có cái gì có thể khiến cho gã cảm thấy ấm áp được như tình cảnh đó nữa chứ? Tổ A Xu đã bình tĩnh trở lại, nghe nàng hỏi: “Chàng… có nhắc đến tôi trước mặt bà không?”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ, mặt đỏ ửng: “Không". Gã vốn cũng muốn nhắc tới, nhưng trong lòng không biết sao lại có vẻ mắc cỡ. Trước mặt A bà, gã tựa hồ luôn luôn là một thiếu niên chưa trưởng thành. Những năm qua gã đã từng trải nhiều rồi, biết tâm ý của nữ nhân là cái khó lường nhất --- Nếu nói có nhắc đến, có khi A Xu bẽn lẽn, nói không chừng sẽ tức tối; nếu nói không có nhắc đến, lại e A Xu cảm thấy mình không để ý gì đến nàng, không coi đây là chuyện quang minh chính đại, vẫn sẽ bực bội. Nhưng tính tình gã thẳng thắn, tuy không biết nên đáp làm sao, cũng chỉ đành nói thực. Tổ A Xu lại có vẻ khe khẽ thở phào, không nói gì cả. Hàn Ngạc còn định hỏi nàng có muốn đi liền không, Tổ A Xu lại mệt mỏi thốt: “Chàng cũng mệt rồi, sáng mai đi”.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 94 Dã tri tằng hữu lộng quyền nhân1
Sáng hôm sau v ừa thức dậy, Hàn Ngạc còn nhớ chuyện muốn đi thăm Tổ cô bà. Trời đã sáng rõ, mặt gã hơi ửng đỏ: đêm hôm qua, không biết sao Xu nhi lại chủ động hơn trước nhiều, quấn quít gã mãi cho đến khi trời sắp sáng mới ngủ. Dấu vết chung đụng còn hằn in trên chăn gối ngổn ngang. Nằm cuộn trong chăn thực là ấm, Hàn Ngạc khe khẽ thở phào một hơi, dạ cảm thấy hạnh phúc, cũng có hơi bần thần. Ở chung với Xu nhi, gã luôn rất nghiêm chỉnh, vì trong lòng gã luôn luôn kính trọng nàng, không mấy dám chọc phá nàng --- A Xu hiện đang ở đâu? Gã tỉnh táo được một hồi, lại phát hiện Xu nhi không có trong trướng.
Hàn Ng ạc ngẩn người, mặc áo ngồi dậy. Đi ra ngoài cũng không thấy bóng dáng A Xu. Gã đó giờ rất bẽn lẽn khi nói đến chuyện tư tình nam nữ, xưa nay hết sức uy nghiêm đối với thuộc hạ, cho nên không muốn đi hỏi Liên Ngọc. Gã vừa lo sự vụ vừa đợi nàng đến cùng đi gặp Tổ cô bà, nhưng mãi đến sau giữa trưa vẫn không thấy A Xu về. Lúc đó gã mới lo lắng, kêu Liên Ngọc vào hỏi, Liên Ngọc lại cũng không biết gì. Hàn Ngạc cưỡi ngựa tìm quanh một vòng mà cũng chẳng gặp. Gã lặn lội ở ngoài đến chiều, chỉ thấy toàn là đồng cỏ hoang lương. Lòng gã khẩn trương: Xu nhi… Xu nhi lẽ nào đã bỏ đi? Gã thất thểu về doanh trại, lại thấy Liên Ngọc môi mấp máy, như muốn nói gì đó. Hàn Ngạc đưa ánh mắt nhìn hắn hỏi dò, hắn mới ấp úng bẩm báo: “Hàn soái, tôi kêu mười mấy tùy tùng đi tìm khắp mọi nơi mà cũng không tìm ra. Có điều… trong trại của bọn ta đã thiếu mất một thớt ngựa…”.
H ắn im lặng, không nói gì nữa. Hàn Ngạc thẫn thờ một hồi mới phất tay cho Liên Ngọc đi ra. Gã hồi tưởng lại thần sắc của A Xu hôm qua: có phải nàng không muốn theo mình đi gặp Tổ cô bà? Hay là có ẩn tình gì đây? Gã biết với năng lực của A Xu, biến mất không hơi không tiếng như vậy, mình đâu phải lo nàng gặp chuyện xấu gì. Đó là bản thân nàng muốn đi, nhưng… Gã nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên đến đột nhiên đi thực cũng là thói quen của nàng. Lẽ nào nàng đã bỏ đi như vậy sao? Không quay về nữa sao?
T ại sao những nàng con gái kề cận gã đều cứ như vậy, khó mà dự liệu được, khó mà nắm bắt được như thế? Hơn ba tháng đầm ấm, lẽ nào cuối cùng cũng vẫn là… đến chẳng một lời đi mất dạng2?
Hàn Ng ạc buồn bực ngồi thừ ra. Trời đã tối, trong trướng tối om, gã cũng chẳng thèm thắp đèn. Khi Liên Ngọc mang cơm nước đến, ở ngoài trướng thấy bộ dạng của gã như vậy, hắn cũng không dám vào quấy nhiễu. Hàn Ngạc lòng hụt hẫng, sau đó thoang thoảng dâng hiện một nỗi xót xa, mà nỗi xót xa đó cũng trống vắng đến mức phảng phất không còn là thực tại nữa. Gã nhớ đến tình nồng đêm hôm qua --- Xu nhi ngày thường đâu có như vậy, điều đó ám chỉ gì đây? Gã nghĩ không ra. Hồi trước bầu bạn gần gũi nàng đâu có như vậy. Có những khi Hàn Ngạc mệt mỏi ngủ say, tỉnh dậy lại phát hiện A Xu còn tỉnh, lúc đó thần sắc của nàng Hàn Ngạc luôn luôn không hiểu nổi: nàng không thích như vậy sao? Nàng không thấy hạnh phúc sao? Thần tình trên mặt nàng tại sao luôn luôn cứ như đang hỏi: một nữ nhân và một nam nhân chung đụng, thì ra cũng chỉ có vậy thôi sao?... Tại sao tâm tình của nàng gã chẳng thể nào hiểu được vậy?
1 Cũng hay đã có kẻ chuyên quyền, là câu tiếp theo câu “Hà tất cánh tầm vô chủ cốt” trong bài thơ “Bắc Mang sơn” của La Ẩn (xem chú thích {1} hồi 95). 2 Nguyên tác là “Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung”, câu trong bài “Vô đề - kỳ nhị” của Lý Thương Ẩn.
o0o
T ừ khi Hàn Ngạc ra miền tây bắc, gã đâu đã cắt đứt liên lạc với Lạc Dương, có rất nhiều chuyện không phải nói bỏ là bỏ được. Sau khi Vương Hoành Hải vào cầm đầu Binh bộ, được sự ủng hộ của Hàn Ngạc, bên trong có Du Cửu Khuyết giao truyền Thánh mệnh, bên ngoài liên hợp với Cổ Siêu Trác phủ dụ lưỡng đô, đã thu giữ được quân lực từ rất nhiều thành trấn. Môn hạ của Đông cung dĩ nhiên ai nấy cũng lấm lét. Tào Súc Hậu ngã gục, kéo cả một đám đồng đảng quỵ theo, những chỗ trống đó có vô số kẻ ngóng mong đỏ ngầu cả mắt. Nhưng Vương Hoành Hải hoặc cắt giảm hết, hoặc cho gia nhập, thu nạp thực lực của các cánh quân đó vào dưới sự quản chế của Binh bộ. Binh ở các trấn vốn đa phần yếu ớt, phải dựa dẫm vào cường quyền trong triều, Vương Hoành Hải muốn nắm lấy quyền, lùa hết vào Binh bộ, vốn không tránh khỏi một trường tranh đấu tuy âm thầm nhưng cũng hết sức khốc liệt. Thái tử Chí Hoa tuy cuối cùng đã được đứng ra coi sóc việc nước, nhưng trong ngoài có Tử Thần và Vương Hoành Hải chế ngự, cho dù muốn khuynh loát với Bộc Xạ Đường cũng chịu lắm bó buộc. Cho nên y càng coi Hàn Ngạc là cây đinh trong mắt, là cái gai trong thịt.
Cái lo ạn Thổ Cốc Hồn lần này, nói cho cùng cũng là mưu tính của phe Đông cung. Hàn Ngạc vừa đến biên quan, điều tra kỹ lưỡng liền biết tai họa binh lửa này chính do môn hạ của Đông cung khích động. Quan trấn thủ Thiện châu Ngu Diên Vũ vốn là môn hạ của Đông cung, hắn đột nhiên hạ lệnh cấm cản giao dịch muối và kim loại ở Biên Tái, vì vậy mới khích cho người Thổ Cốc Hồn vùng dậy. Hành động của chúng, mục đích cũng là ép Hàn Ngạc xuất quan viễn hành, lại đâu có ngờ chiến trận chẳng kéo dài được bao lâu mà đã bị Hàn Ngạc trấn an. Người của Đông cung có vẻ không muốn người ta lãnh hết công trạng, mới sai sứ đi đàm thảo hòa ước với Quốc sư của Thổ Cốc Hồn. Hàn Ngạc nghe mấy chuyện đó cũng chỉ còn nước cười thầm, than thầm. Mà lòng gã cũng không khỏi nảy sinh niềm bi khái: chúng gây rối gì thì kệ, nhưng… con dân vô tội thì sao đây?
--- Xu nhi đã đi, gã không muốn kể cho Tổ cô bà biết về chuyện Xu nhi, an bài cho binh sĩ hộ tống Tổ cô bà mang thi thể xương cốt của các chiến sĩ đã hy sinh về Trường An. Cái cảm giác “gia đình” lần đầu tiên trong đời gã khát vọng có được cũng vì vậy mà tiêu tán. Vào lúc này, gã lại nghe được một tin tức khiến cho gã thậm chí cũng không dám tin: Thái tử Chí Hoa giao hảo lại với Thổ Cốc Hồn thì cũng được, đằng này không ngờ còn muốn thỉnh mời tông sư Đại Kim Ba của Cát Đương giáo3 vào Quan nội hoằng pháp, còn chuẩn bị phong làm Quốc sư. Hàn Ngạc nghe tin đó thì đã vào đầu tháng tư, mọi sự coi như ván đã đóng thuyền. Hàn Ngạc rùng mình hoảng kinh: gã có giao thủ với học trò của Đại Kim Ba và Tiểu Kim Ba, hết sức kinh hãi về võ thuật của dòng Cát Đương. Đông cung lần này tại sao lại làm vậy? Lẽ nào là vì Du Cửu Khuyết? E còn dính tới cả mình, phải không? Y khẩn trương tới mức không ngại cầu xin ngoại lực viện trợ, không ngại gây ra sự tranh đấu giữa các giáo phái, mục đích là để trừ khử mình và Tử Thần, phải không?
“Ho ạt Phật” Đại Kim Ba có vô số tín đồ ở Thổ Cốc Hồn, thanh thế cực thịnh. Hàn Ngạc lo ngại không thôi: gã cũng chẳng nhận định được cuộc đông lai kỳ này của dòng Cát Đương sẽ gây ra thêm bao nhiêu biến cố cho triều cục. Chuyện này gã vốn nên dốc sức ngăn cản, nhưng triều đình đã ban lệnh, đâu thể vãn hồi. Năm xưa, chỉ một chuyến đi của Tiểu Kim Ba “Hoạt Phật” vào Trung thổ đã nảy sinh không biết bao nhiêu biến loạn mà kể, may là chỉ giới hạn trong vòng võ lâm và Phật môn thôi. Lần này chúng có được lời mời của Thái tử, e tiếp theo đây sẽ có vô số phiền hà.
3 Xem hồi 46 về Cát Đương giáo.
R ồi sau nữa chuyện khiến cho gã càng kinh ngạc là: lần này cả hai Đại Kim Ba “Hoạt Phật” và Tiểu Kim Ba “Hoạt Phật” đều đi. Đất tây bắc vốn đã tạm thời bình định, nhưng ảnh hưởng của Cát Đương giáo mà ập tới, vùng Biên Tái cũng đâu có ít tín đồ người Hán của giáo phái này. Dòng xoáy ngầm đó vốn đã tiềm tàng lâu nay --- Dân đen cô nhược, có lắm bất mãn với đạo đời hiện tại; lần này Đại, Tiểu Kim Ba “Hoạt Phật” viễn hành sang phương đông, đâu biết chừng sẽ khơi dậy dòng xoáy ngầm đó. Hàn Ngạc chỉ có thể ra lệnh cho thuộc hạ để ý theo dõi hành trình của Đại, Tiểu Kim Ba. Lần này chúng lao sư động chúng, mang theo pháp khí và kinh quyển cả trăm xe. Hơn nữa Bát đại hộ pháp đệ tử của Đại Kim Ba cũng có đi mở đường cho sư phụ, suốt dọc đường qua thành trì nào cũng có tín đồ rạp dưới cát vàng, lập bày hương án cúng tế. Hàn Ngạc vốn có ác cảm với việc truyền giáo, cảm thấy sự cuồng nhiệt tôn giáo này một khi hòa trộn vào cuộc đấu đá triều cục tranh giành lợi ích, e sẽ lan lấn không ngưng nghỉ.
Cái Đại Kim Ba và Tiểu Kim Ba rêu rao là những lời lẽ yếm thế, tuyên truyền cho ngày tận thế. Chúng hứa hẹn với con dân rằng: Tam Thiên thế giới không bao lâu nữa sẽ bị hủy diệt, những người khổ nạn sẽ được vĩnh viễn quy y cảnh Liên Hoa, những kẻ hà hiếp sẽ bị đày đọa chịu phạt luân hồi. Hàn Ngạc những ngày qua cũng từng nghe giảng dạy, có cảm giác những giáo nghĩa kia quả rất êm tai, dễ làm động lòng người --- Chúng hứa hẹn cho những người khổ nạn một thế giới hoàn mỹ trong tương lai, nhưng lại đặt nền tảng cơ sở trên sự phá hoại thế giới hiện tại. Thế giới này không ít tội ác, nhưng nếu hủy diệt nó đi hoàn toàn, cõi Liên Hoa tịch mỹ hỉ lạc quả thực sẽ xuất hiện như hứa hẹn sao?
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 95 Nam quách Tử Kỳ sơ táng ngã1
M ột thớt ngựa Chuy dẫn mười mấy kỵ sĩ tùy tùng bôn tẩu trên hiểm đạo thông đến Ích châu. Hàn Ngạc sở dĩ phải dắt thuộc hạ hỏa tốc lên đường như vậy là vì, sau khi từ Tái thượng về tới Trường An, gã tiếp được tin Vương Hoành Hải mật truyền, nói Ích châu cục thế bất ổn.
S ự an ninh của Xuyên Trung rất có ảnh hưởng đến sự ổn định của Thiểm Trung. Từ xưa đến nay, Xuyên Thiểm cùng đứng ở cái thế “Thiên hạ mà loạn thì loạn trước ở đất Thục, muốn trị thiên hạ thì trị Thục sau rốt”. Tin Vương Hoành Hải truyền là: Ích châu vương Lý Lộ từng âm thầm trợ giúp Tam hoàng tử Chí Bình, cho nên Thái tử rất ghét, muốn cách chức. Lý Lộ có lắm cận vệ binh tướng, thống trị Thục Trung từ lâu, thấy Tam hoàng tử bị truất, sợ mầm họa sẽ lan tới chỗ y, không thể bảo vệ cho vợ con, cho nên đã định mưu phản. Hàn Ngạc sau khi gặp Vương Hoành Hải liền quyết định đích thân phi nhanh tới Ích châu, chấn chỉnh quân trấn ở Thục Trung, bình định cục thế.
B ọn họ đang đi theo con đường sạn đạo xa xưa vốn có tiếng hiểm trở nhất thiên hạ. Vừa mới quẹo qua một khúc quanh, Hàn Ngạc vụt ghìm chặt dây cương, con ngựa cơ hồ đứng sựng lên. Ngựa của gã là ngựa giỏi, thêm vào thân thủ của gã nhanh nhạy, thình lình dừng lại như vậy mà gã không bị quật văng xuống. Nơi khúc quanh lúc này đang có một thư sinh chắp tay sau lưng đứng yên, bộ dạng hết sức nhàn hạ ngắm nhìn cảnh sắc bên dưới sạn đạo. Chỗ hắn đứng hết sức kỳ hiểm, ngựa của đám tùy tùng vốn thua kém Ban Chuy, còn đang tụt hậu tuốt đằng xa. Thư sinh đang giơ một bàn tay sờ sờ mũi, trông rừng núi xanh rờn bên dưới khẽ ngâm: “Xây nhà bốn vách sàn đầy sách, dựng vó ba non lối ngập cành”2.
Hàn Ng ạc ngẩn người. Thư sinh kia đứng sừng sững trên sạn đạo, gã có cảm giác con người này nhất định chẳng phải hạng tầm thường. Gã còn chưa rõ ý đồ của thư sinh, ôm song quyền dịu giọng hỏi: “Tiên sinh sao có nhã hứng đứng ngâm nga ở chỗ kỳ hiểm này vậy?”.
Th ư sinh mỉm cười, chợt xoay mình đi tới trước đầu ngựa của Hàn Ngạc. Hắn phất tay, xuất thủ cực nhanh, bàn tay đã sờ lên đầu ngựa, tươi cười thốt: “Đầu ngựa hướng về Trường Thành. Con Ban Chuy của Hàn tướng quân quả là thần mã”.
Ban Chuy x ưa nay nào có chịu cho người ta vỗ về như vậy? Nó hí dài một tiếng, dựng đứng hai chân đạp lên vai thư sinh kia. Hàn Ngạc kéo cương, không muốn để Chuy nhi đả thương người. Thư sinh kia vụt thoái lui, lách qua một bước, vừa khéo tránh khỏi cú đá của con ngựa. Tả thủ của hắn thuận thế lướt qua ống tay áo, rút ra một thanh kiếm. Kiếm của hắn là nhuyễn kiếm, giấu trong tay áo thực khó phát hiện. Hắn nhẹ nhàng rung tay, thanh kiếm rướn ra gần ba thước. Hắn vung kiếm đâm thẳng về phía Hàn Ngạc đang ngồi trên ngựa.
1 Góc nam Tử Kỳ vừa lìa xác, là câu thơ trong bài "Hải hội tự Thanh tâm đường" của Tô Thức. Câu này vốn dựa theo lời trong sách "Trang Tử - Tề vật luận". Nước Sở có người tên Kỳ ở góc thành nam, cho nên được gọi là Nam quách Tử Kỳ, nghe nói là một đạo sĩ đức hạnh cao khiết. Một hôm Nam quách Tử Kỳ ở nhà rảnh rỗi, ngồi dựa án tĩnh tọa, ý tại Đan điền, ngửa lên trời hít thở, chốc sau tảo trừ hết mọi tạp niệm, dần dần quên hết "vật" và "ngã", đạt đến cảnh giới "trời đất cùng sống với ta, vạn vật hợp nhất với ta". Cho nên "sơ táng ngã" trong câu thơ có nghĩa là vừa chôn bỏ cái bản ngã. 2 Nguyên tác là hai câu: "Gia đồ tứ bích thư xâm tọa, mã tủng tam sơn diệp ủng môn" trong bài "Thứ vận Tống Mậu tông tựu cư Cam Tuyền phường tuyết hậu thư hoài" của Hoàng Đình Kiên. Ý thơ là: nhà thô sơ chỉ có bốn bức vách mà chất đầy sách vở đến mức không còn chỗ ngồi, chỗ ở thì tuốt trên núi cao rừng lá rậm rạp che khuất cửa nẻo đến mức ngựa đi lên cũng phải hoảng vía.
Hàn Ng ạc rùng mình, gã đã sớm nhận ra thư sinh này đâu phải hạng đùa, nhưng vẫn không ngờ hắn xuất thủ nhanh lẹ đến thế. Hàn Ngạc xoay mình vun vút, vặn hông trên không, chẳng dùng tay mà mượn lực của bắp thịt nơi eo bung bắn Trường Canh ra khỏi vỏ. Gã không tấn công mà lo bảo vệ ngựa, cả người lẫn kiếm hạ xuống trước ngựa. Trường Canh cùng nhuyễn kiếm của thư sinh kia giao kích “choeng” một tiếng, cổ tay của hai người khẽ chấn động. Thư sinh quát một tiếng “giỏi”, lại đâm ra một kiếm nữa. Thân kiếm của hắn vốn mềm mại, chuyển mình theo lực cổ tay, hai kiếm va chạm khiến không trung tung toé hoa lửa. Hàn Ngạc đã lâu không đọ sức hết mình với ai, thấy thư sinh kia thực xứng là hảo thủ, lòng không khỏi hứng khởi, Trường Canh kiếm tỏa ra một luồng kình khí ngùn ngụt. Thư sinh kia lại thét một tiếng “hay”, xem chừng hắn cũng nổi hứng --- Sạn đạo này vốn dùng thân cây cắm vào lỗ đục trên vách đá mà dựng thành, một bên lòi ra giữa không trung, địa thế cực cao, hiểm trở khôn cùng. Hai người họ lại hoàn toàn bất chấp bên dưới nào có phải là bình địa, bay lên hạ xuống, phóng vọt liên hồi, trường kiếm chém đâm, liều mạng tranh đấu trên đường núi đất Thục.
Th ư sinh kia chợt cười hết sức hào sảng: “Nghe nói Trường Canh của Hàn tướng quân bén nhọn, cơ hồ có thể xưng bá thiên hạ, ngay cả Đại nội Du Cửu Khuyết về phương diện kiếm thuật cũng phải tán thán không bì kịp, nay gặp mặt quả nhiên danh bất hư truyền”.
Hàn Ng ạc thấy thư sinh khi ra vẻ bằng hữu, khi làm như địch nhân, xuất thủ toàn lực chẳng chút lưu tình, cũng đành quyết chiến với hắn. Gã cao giọng hỏi: “Tiên sinh sao lại đột nhiên rút kiếm gây hấn vậy?”.
Th ư sinh kia mỉm cười: “Ta là bạn thân của Ích châu vương Lý Lộ, nghe nói chuyến đi Thục Trung kỳ này Hàn tướng quân có ý không tốt, cho nên mới đón đầu ở sạn đạo này”. Miệng hắn nói mà tay vẫn chẳng chậm lại chút nào. Nhất thời hai luồng kiếm quang tung bắn giữa rừng núi tháng năm xanh rì. Thư sinh càng đấu càng hăng, miệng chốc chốc lại la “thống khoái, thống khoái”. Hắn chiếm địa lợi, đứng ở chỗ cao hơn, Hàn Ngạc bị ép đến nước phải chấm mũi chân mượn sức búng mình từ những mô đá lồi ra khỏi vách núi. Chợt nghe một tiếng hú dài, thư sinh giở chiêu “Tái trầm tái phù” trồi trồi hụp hụp giữa không trung công kích. Hàn Ngạc thét lớn, búng mình bay lên, đối đầu với hắn trên không. Chiêu này hai kiếm va “bình” một tiếng, hai người đều chấn động thân hình, chẳng còn khống chế được nữa, rõ ràng phải rớt thẳng xuống vực thẳm. Hàn Ngạc chợt cười dài trên không: “Thì ra là Cố huynh!”. Nói xong hữu thủ của gã cắp kiếm ra sau lưng, tả thủ thò ra. Thư sinh cũng rung tả thủ, nhuyễn kiếm chui tọt vào ống tay áo, giơ hữu thủ ra. Hai người nắm tay, tiêu trừ thanh thế cho nhau, tà áo tung bay phần phật, cùng hạ mình sát bên bờ sạn đạo.
Hai ng ười thoát hiểm, vừa chấm đất là liền buông tay. Hàn Ngạc đứng nghiêng một bên, nghiêm giọng: “Có phải là Cố huynh ở đất Lạc Dương?”. Thư sinh kia mỉm cười: “Chính thị Hà Lạc thư sinh Cố Ủng Tỵ”. Giọng mũi của hắn rất nặng, nghèn nghẹt như bịt mũi nói. --- “Hà Lạc Thư”? Hàn Ngạc không ngờ lại đụng “Hà Lạc thư sinh” Cố Ủng Tỵ trên sạn đạo này. Trong Lạc Dương thành có sáu thế lực, tên tuổi truyền tụng qua hai câu. Câu đầu là: “Long Môn Dị, Bạch Mã Tăng, Lạc Dương vương, trấn Quan Đông”, câu thứ nhì là: “Thành Nam Tính, Bắc Mang Quỷ, Hà Lạc Thư, định dư đồ”. Không ngờ vị thư sinh kia lại là nhân vật hàng đầu trong lục đại gia ở Lạc Dương. Sao hắn lại đợi mình ở đây? Cố Ủng Tỵ này xuất thân từ Hà Lạc thư viện, lừng danh với bài kiếm pháp bí truyền “Vương đạo”. Võ lâm có nhắc đến “Nhất vương nhất bá”. “Nhất vương” là Cố Ủng Tỵ cùng “Tái Chu kiếm pháp” của hắn, nghe nói kiếm pháp của hắn như dòng nước: nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền, mới gọi là “Tái phù tái trầm”, Vương đạo nhọc nhằn; còn “Nhất bá” lại là Du Cửu Khuyết. Đường lối võ công của hắn có thể xếp ngang hàng với Du Cửu Khuyết, cho thấy uy thế ra sao. Bất quá Cố Ủng Tỵ xưa nay đóng cửa ẩn cư, rất ít khi nghe nói hắn tham dự vào thế sự thị phi, cho nên Hàn Ngạc ban đầu đâu có nghĩ là hắn. Lại nghe Cố Ủng Tỵ mỉm cười thốt: “Nghe Hàn huynh lần này đi Thục Trung là vì chuyện của Ích châu vương Lý Lộ. Ích châu vương là người nóng nảy, bản tính cứng cỏi. Còn Hàn huynh cũng nổi danh hào dũng. Tiểu đệ đâu muốn để hai vị cụng đầu mẻ trán. Từ lâu đã nghe Hàn huynh có tài thao lược, chắc Hàn huynh cũng không muốn cẩu thả khích động binh đao. Ích châu vương với tiểu đệ cũng có chút duyên quen biết, cho nên chẳng thẹn học theo Mao Toại tự tiến cử mình, nguyện bằng ba tấc lưỡi làm thuyết khách thương thảo cho Hàn huynh”. Đôi mắt Hàn Ngạc chăm chú nhìn lên mặt hắn, thấy ý lời của hắn rất thành khẩn. Danh tiếng của Cố Ủng Tỵ gã đã nghe tới từ lâu, hơn nữa vừa mới đọ sức một trận, thấy đúng là kẻ quang minh chính đại, vì vậy gã mừng thầm --- Cục diện Thục Trung làm sao để khỏi động can qua là tốt nhất rồi còn gì. Gã vui vẻ cười nói: “Đa tạ Cố huynh có lời chỉ giáo. Chỉ là… hà tất phải thình lình rút kiếm kịch chiến ở chốn hiểm địa này?”. Cố Ủng Tỵ cười vang: “Ta cũng đã lâu chưa xuất kiếm. Đó giờ nghe danh Hàn huynh, thường nghĩ: thời thế thiếu vắng anh hùng, khiến cho hạng vô danh tiểu tốt có dịp thành danh3, từ lâu đã muốn đọ kiếm với Hàn huynh để xem cao thấp thế nào. Nếu báo danh từ đầu thì còn đánh đấm gì nữa? Làm sao mà ẩu đả một trận khoái trá chứ?”. o0o Cố Ủng Tỵ lại không cùng Hàn Ngạc đồng hành mà đi trước một bước. Hàn Ngạc đến Ích châu thì Cố Ủng Tỵ đã tới trước mấy bữa, chuyện hắn thay Hàn Ngạc trấn an Ích châu vương Lý Lộ quả nhiên hoàn thành viên mãn. Hàn Ngạc lòng mừng rỡ, một mặt chấn chỉnh quân tình, một mặt lưu giữ Cố Ủng Tỵ. Cố Ủng Tỵ kiến thức quảng bác, chuyện thiên hạ đại sự, phân chia thế lực, trị loạn tế thế chỗ nào Hàn Ngạc không rõ thì ngồi đàm luận với hắn thâu đêm, thu hoạch được rất nhiều, khiến cho gã phải cảm thán sao không gặp được từ sớm. Cố Ủng Tỵ từng nói: “Xem ra Hàn huynh cùng Đông cung thế như nước với lửa. Từ cái loạn Thổ Cốc Hồn cho tới cái loạn Ích châu, rõ ràng toàn là Đông cung cố sức gây ra, dụng ý chính là không muốn Hàn huynh ở lại trong hai đô thành. Chẳng biết chừng một tháng nữa, Hàn huynh lo xong chuyện Ích châu thì sẽ đến vụ gì đây?”. Hàn Ngạc khẽ thở dài: “Chỉ cần cục thế được bình định, ta thực cũng muốn từ quan ra đi”. Cố Ủng Tỵ mỉm cười: “Luôn ngóng sông hồ chờ tóc bạc, còn mong trời đất đợi thuyền con?”4.
3 Nguyên tác là: “Thời vô anh hùng, sử thụ tử thành danh”, câu trong sách “Tấn thư - Nguyễn Tịch truyện”. 4 Nguyên tác là hai câu "Vĩnh ức giang hồ quy bạch phát, dục hồi thiên địa nhập biển chu" trong bài thơ "An Định thành lâu" của Lý Thương Ẩn. Sách "Sử Ký - Hóa Thực Liệt Truyện" có ghi vào thời Xuân Thu, Phạm Lãi phò tá Việt vương Câu Tiễn diệt Ngô xong thì liền dong thuyền con quy ẩn miền Ngũ Hồ. Lý Thương Ẩn dùng chuyện này để nói mình luôn mong mỏi đến già đi quy ẩn sông hồ, nhưng cần phải đợi hoàn thành sự nghiệp trị lý quốc gia, sau khi công thành danh toại rồi mới làm được.
Hàn Ng ạc nghĩ đi nghĩ lại mà không rõ là điển tích gì. Cố Ủng Tỵ cười kể cho gã nghe cố sự Phạm Lãi của nước Việt. Hàn Ngạc thở dài: “Ta nào có cái đại chí cầm cương nảy mực gì đâu chứ? Bất quá là lỡ lọt vào cuộc, không thể tự thoát thân, lại để Cố huynh cười rồi. Mặt dày mày dạn bay nhảy mà cuối cùng đâu có thành đạt được chuyện gì. Thiên hạ này, cái quyền bính sinh sát mà ai ai cũng muốn đâu phải là thứ một kẻ như ta có thể thao túng”.
C ố Ủng Tỵ tựa như thấu hiểu ý gã muốn nói, mỉm cười thốt: “Hàn huynh đối với chuyện của thiên hạ này không nhìn thấu rõ mà lại vẫn làm được một cách lỗi lạc. Chuyện của thiên hạ này vốn đâu phải là cái để nghĩ để tưởng, mà là cái để làm ra. Có điều ta thấy ý đồ của Hàn huynh cùng Vương Hoành Hải Vương lão tướng quân tựa hồ toàn là muốn chấn chỉnh quản thúc lại các quân trấn, khống chế thanh thế lan tỏa khắp nơi của Thái tử Chí Hoa cùng Bộc Xạ Đường. Hàn huynh lại có từng nghĩ rằng: một khi các quân trấn vững mạnh rồi, không còn bị triều đình khống chế, về sau e sẽ dẫn tới đại họa hay không?”.
Hàn Ng ạc ngẩn người, cảm nhận được lời nói của Cố Ủng Tỵ rất có thâm ý, mà cũng hết sức có lý, nhưng gã nhất thời không hiểu rõ được, chỉ cảm thấy lòng hơi bất an. Cố Ủng Tỵ cười cười an ủi: “Bất quá cục thế cũng có vậy mà thôi, Hàn huynh cũng chỉ có thể đi được bước nào hay bước đó. Nhưng cứ trị loạn tiếp tục, mỗi một lần bình định đều sẽ chôn lại một mầm họa. Ngày nào còn Hàn huynh cùng Vương lão tướng quân và Cổ Siêu Trác huynh, chắc ngày đó còn chưa có gì. Bất quá việc này vẫn là việc trị vì, làm sao có thể dùng phép tắc quản thúc, dùng đạo đức phủ dụ, đạt đượt đường lối trị vì đó, đâu phải ai cũng nghĩ ra được”.
Hàn Ng ạc cảm thấy đàm thảo với Cố Ủng Tỵ thực hết sức có ích. Hai người bọn họ đàm binh luận kiếm, đun rượu ngâm thơ, không ngờ dần dần đã thành tri kỷ. Lúc nói chuyện binh mã thì Hàn Ngạc còn xen lời được. Một khi đụng đến văn từ triết lý, gã chỉ còn nước ngậm miệng im lìm. Sự việc bề bộn, thời gian tuôn trôi, nháy mắt đã đến tháng chín, Hàn Ngạc đã dừng chân ở Trục Trung gần bốn tháng rồi. Cục diện Thục Trung ngày càng an định, có một hôm Cố Ủng Tỵ cùng Hàn Ngạc luận tới tam tông “Nho Thích Đạo”, hắn chợt cười nói: “Hàn huynh hồi tháng tư vội vã quay về từ Tái thượng, chắc lại là vì chuyện Đại, Tiểu Kim Ba phải không?”.
Hàn Ng ạc gật gật đầu. Cố Ủng Tỵ cười nói: “Hàn huynh lo rất phải. Gần đây ta nghe nói trong Trường An thành có tới mười vạn bá tánh đi theo dòng Cát Đương kia. Thái tử muốn dụ ngoại giáo vào làm vây cánh, chỉ e cuối cùng… Hàn huynh khi đó sao lại có thể yên tâm ra đi được chứ?”.
Hàn Ng ạc nhíu mày thở dài một hơi: “Ta cũng chẳng an tâm gì được, mà lại chẳng thể không đi. Đại Kim Ba ‘Hoạt Phật’ sang phương đông giáo hóa chúng sinh, ta cũng không nói được là vì sao, lòng thì luôn có chút bất an. Cho nên trước khi đi, ta đã từng nhờ người truyền thư cho ân sư Thái Ất thượng nhân, thuật lại cục thế trong Trường An thành. Có lão nhân gia ở đó, dù sao ta cũng có thể yên dạ được phần nào”.
Không ng ờ mới nói đó, vài ngày sau Trường An thành truyền tin đến rằng Thái tử muốn lập Cát Đương giáo làm tôn giáo chính thức của quốc gia, vậy thì tiêu rồi. Cát Đương giáo không ngờ muốn diệt sạch Phật Đạo lưỡng môn. Hàn Ngạc nghe tin không khỏi ưu hoài. Tiếp sau đó tin đưa đến lại càng khiến cho gã mặt mày biến sắc. Lần này Cố Ủng Tỵ lại nhận được tin lẹ hơn gã. Hắn vừa nghe xong thì lập tức tái mặt, nói với Hàn Ngạc: “Đại Kim Ba ‘Hoạt Phật’ muốn kéo sang Lạc Dương, nghe nói định cùng Bạch Mã Tăng của Bạch Mã tự đấu pháp. Đây là cuộc tranh đấu trong nội bộ Phật môn của họ, giờ chắc lão ta đã đến nơi rồi. Cục thế trong Lạc Dương thành chắc sẽ biến chuyển dữ lắm”.
Hàn Ng ạc cau mày, nói không ra lời. Lại thấy Cố Ủng Tỵ mặt mày thương tiếc nhìn gã, chầm chậm thốt: “Đại Kim Ba thiền sư trước đây đã muốn trừ khử Đạo giáo. Nghe nói tôn sư của Hàn huynh cuối cùng không muốn chứng kiến giáo phái của chúng gây họa tràn lan khắp thiên hạ, mà giờ Đạo môn sức lực đã yếu, ông từng cùng Đại, Tiểu Kim Ba thiền sư luận đạo ba ngày ba đêm ở bến Vị Thủy…”. Hàn Ngạc sắc mặt khẩn trương, Cố Ủng Tỵ lại thở dài: “… Cuối cùng Tiểu Kim Ba thiền sư bị Đạo lực của Thái Ất thượng nhân đả thương, phải thoái về Thanh Hải hồ tĩnh dưỡng. Có điều… tôn sư của Hàn huynh cũng bị Đại Kim Ba ‘Hoạt Phật’ đánh bại. Nghe nói… hình thần tản mác, e… đã quy tiên rồi”.
Hàn Ng ạc thẫn thờ, có cảm giác nội tạng tắc nghẽn, mặt mày tím ngắt, không hít thở nổi: sư phụ… sư phụ không ngờ đã quy tiên rồi sao? Ta không nên đem chuyện đời tục phó thác cho người trước khi đi mà! Cố Ủng Tỵ thấy vậy, vội xuất thủ vỗ một chưởng sau lưng gã. Hàn Ngạc ho khù khụ, mới phun ra được một ngụm máu. Cố Ủng Tỵ thốt: “Đại Kim Ba ‘Hoạt Phật’ kia còn tuyên truyền Cát Đương giáo của lão đã đánh bại Đạo gia, tiếp đó điểm danh tới Đại đức Bạch Mã Tăng của Phật môn. Lão đã kéo đến, lại còn nêu luôn tên hai người trong Nho môn ta, một là Du Cửu Khuyết, một là tại hạ. Lạc Dương xem ra ta không thể không quay về rồi”.
Hàn Ng ạc sắc mặt thảm thương --- Đấu đá về phép tắc triết lý là cái gã không thông hiểu, nhưng gã cũng biết tâm pháp tư tưởng triết học chính là căn cơ tồn tại của thiên hạ, những hung hiểm tàng ẩn bên trong tất nhiên không biết bao nhiêu mà kể. Lòng gã đang tưởng nhớ: sư phụ… sư phụ… Cố Ủng Tỵ lại thở dài: “Vậy đi, ta đi trước. Mười ngày sau, Hàn huynh chắc cũng có thể xử lý xong sự vụ Thục Trung rồi. Khi ấy Hàn huynh e là không thể không quay về Lạc Dương một chuyến đó”.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 96 Đông lai Đạt Ma cầu bổn tâm1
M ột điểm sáng cửa Phật soi lên mặt Đỗ Phương Ninh. Quang tuyến đó lại là ánh mặt trời chiếu qua cửa rơi lên mình vàng của tượng Phật, phản xạ mà ra. Bờ má nàng cũng bừng sáng, tương xứng với kim quang kia. Mặt mày nàng bình tĩnh, hai tay chấp lại, nhưng không quỳ bái --- Vi môn Đỗ thị của nàng thực ra đâu có tin vào thần Phật. Cái nàng tin là bản thân mình. Nàng chấp tay im lặng trước Phật đàn không phải là quy y, mà là lễ số của nàng.
Nàng đang ở trong Bạch Mã tự. Bạch Mã tự xây thời Đông Hán, tương truyền vào năm Vĩnh Bình thứ bảy, Hán Minh đế một đêm mơ thấy một vị thần mình vàng cao tới một trượng sáu, đỉnh đầu tỏa kim quang. Hôm sau vua triệu tập quần thần, hỏi xem vị thần trong mộng là thần nào. Đại thần Phó Nghị đáp rằng: “Nghe Thiên Trúc có người đắc đạo, xưng là Phật”. Hán Minh đế phái sứ thần qua tây phương thỉnh kinh. Đến năm Vĩnh Bình thứ mười, Thái, Tần hai vị sứ thần dắt hai tăng nhân Thiên Trúc dùng ngựa trắng chở kinh về tới. Năm thứ mười một, Minh đế hạ lệnh xây chùa viện ngoài Ung môn, lấy tên là Bạch Mã tự.
--- Đỗ Phương Ninh cũng đâu có tin mấy truyền thuyết đó, nhưng có một điểm nàng tin, mượn tôn giáo để hộ trì quốc thể là một tấn kịch đã có từ lâu. Nói trắng ra, dẫn dụ Đại, Tiểu Kim Ba “Hoạt Phật” viễn hành đông lai chính là chủ ý mà nàng đề xuất với Thái tử Chí Hoa.
B ạch Mã tự đỉnh đỉnh đại danh, là trọng địa của Phật môn không chỉ ở Lạc Dương thành, mà thậm chí của toàn thiên hạ. Triều đình luôn luôn trọng đãi, bá tánh cũng vô cùng kính trọng. Ngày nay tăng nhân chủ trì Bạch Mã tự là Đại đức đương thời. Pháp hiệu của ông ta là Đức Hoành, người ngoài lại chỉ gọi là thiền sư, hoặc Bạch Mã Tăng. Bạch Mã Tăng trú ngụ ở Lạc Dương này cũng đã bốn chục năm hơn, con người từ ái đức độ, thanh danh vang vọng lâu đời, luôn luôn không chịu tham dự vào chuyện thị phi trong Lạc Dương thành. Có ông ta, bá tánh trong Lạc Dương thành tựa hồ cũng cảm thấy yên lòng mát dạ ít nhiều. Khai quang đại điển ông ta chủ trì hàng năm luôn là ngày nhiệt náo nhất trong Lạc Dương thành.
Song g ần đây, Đại Kim Ba đông lai luận đạo với Bạch Mã Tăng. Trận luận đạo này mang tên Vô Già đại hội. Bạch Mã tự ở Lạc Dương thành tây. Đại Kim Ba chọn một nơi cực kỳ rộng rãi ngoài Bạch Mã tự để khai đàn. Đỗ Phương Ninh biết trận luận đạo này, nói cho cùng, đâu chỉ là luận đạo. Đại Kim Ba cùng Bạch Mã Tăng đều là Đại đức của đời nay, cũng đều là hảo thủ võ lâm đỉnh điểm. Cuộc luận đạo giữa bọn họ xem có vẻ bình hòa, thực ra là so bì nguyện lực, lòng tin, đạo pháp và võ công. Những hung hiểm bên trong e còn hơn cả đánh đấm hươi đao tuốt kiếm.
Thái t ử Chí Hoa thỉnh Đại Kim Ba đông lai hoằng pháp, nguyên nhân bề mặt là cầu an cho bệnh tình của Hoàng thượng. Nếu nói thực lòng, đó cũng là vì bệnh trạng của Hoàng thượng. Đỗ Phương Ninh hôm xưa dùng một chén trà Niệp Nhi pha Nhãn Nhi Mị hạ độc giết Hoàng thượng, nhưng nàng cũng nào có ngờ được: thuật “Tồn vong tục đoạn” của Du Cửu Khuyết lại thần nghiệm đến thế, dù không đến mức cây khô hồi xuân, lại gồng giữ được một luồng hơi cho Hoàng thượng. Hoàng thượng tuy chưa chết, nhưng vì để bình định cục thế, chuyện đó chẳng có ai tra xét kỹ lưỡng, mọi tai họa cuối cùng đều đổ lên hết trên mình Tào Súc Hậu cùng bè đảng của lão ta. Hai nhà Vi Đỗ ở Lạc Dương cuối cùng đã dựng lại được thanh thế bên cạnh Đông cung sau bao nhiêu năm ròng bị chèn ép. Nhưng Hoàng thượng ngày nào còn chưa chết, người trong Đông cung khó tránh khỏi ăn ngủ không yên, huống hồ ở giữa còn dính dấp đến một Dư Tiểu Kế có thể giúp dòng Đại Hoang Sơn trùng chấn thế lực! Du Cửu Khuyết hộ giá Hoàng thượng dời sang Đông đô, Trường An thành để cho Đông cung cùng Bộc Xạ Đường gườm nhau. Hàn Ngạc cùng Vương Hoành Hải và Cổ Siêu Trác liên thủ, mượn cớ biếm truất Tam hoàng tử, tra xét phe Tào Súc Hậu mà thu tóm lấy binh quyền thiên hạ. Trong Lạc Dương thành, dòng Đông cung lại chỉ còn lại một mình Đỗ Phương Ninh gắng sức chống chỏi. Những ngày tháng qua, nàng phải cố sức cầm cự, mệt mỏi lắm rồi.
1 Tìm đến Đạt Ma giải tấm lòng, là Tiểu Đoạn dựa theo câu “Tây lai Đạt Ma thượng cầu tâm” (Đằng tây Đạt Ma còn cầu tâm), câu tiếp theo câu “Nam quách Tử Kỳ sơ táng ngã” trong bài "Hải hội tự Thanh tâm đường" của Tô Thức.
Có điều nàng làm sao mà cam tâm chịu như vậy được chứ? Cứ lần lữa thế này hoài, quyền bính thiên hạ cuối cùng không biết sẽ lọt vào tay ai. Vì vậy nàng mới mật mưu hiến kế, khiến Thái tử Chí Hoa thỉnh mời Đại Kim Ba đông lai, dùng pháp lực Phật môn cầu phước trị bệnh cho Hoàng thượng. Nói cho cùng, đó là tranh quyền khống chế Hoàng thượng. Nàng cũng biết trong triều tất sẽ có lực lượng chống đối, bất kể là Bộc Xạ Đường hay là Du Cửu Khuyết cũng đâu thể dung túng việc này. Đại Kim Ba vì muốn thân cận Hoàng thượng cho nên tuyên truyền muốn tranh luận triết lý với Tam tông “Nho Thích Đạo”, lý do đó chính để mọi người ngậm miệng. Lão ta mà đắc thắng, đương nhiên được dùng làm Quốc sư, đích thân chữa trị bệnh tình và chăm lo cho sự an nguy của Hoàng thượng. Ở Trường An, thanh thế của lão ta mới quật khởi, hy sinh Tiểu Kim Ba mà diệt được Thái Ất thượng nhân sư phụ của Hàn Ngạc, tiếp đó lão dời giá đến Đông đô. Cách đây ba ngày, sau khi lão ta cùng Bạch Mã Tăng luận đạo bảy ngày ở Vô Già đại hội, Bạch Mã Tăng thất bại quay về Phù Đồ tháp, còn lão ta được vào trú trong Bạch Mã tự. Trong Lạc Dương thành, nhất thời lòng người hốt hoảng --- Dân đen ai nấy đều bấn loạn tâm tư. Kẻ còn lại chắc chỉ có “Hà Lạc thư sinh” Cố Ủng Tỵ và “Cửu Hôn tổng quản” Du Cửu Khuyết.
--- Đỗ Phương Ninh hít một hơi sâu, mãi cho đến hôm nay, nàng mới cảm thấy áp lực trên mình mình vụt nhẹ đi. Lạc Dương vương xưa nay có giao tình với Tam hoàng tử, lần này vì chuyện Tam hoàng tử bị truất cho nên cũng đã biết điều mà co rụt lại. Thêm vào Du Cửu Khuyết hộ giá dời đến Lạc Dương cũng gây áp bức hết sức nặng nề cho đám môn hạ của Lạc Dương vương. Lạc Dương vương lo sợ, gần như đuổi hết khách khứa, đóng cửa không bước ra. Lần mượn sức này, kẻ nên thanh trừ cũng đều đã thanh trừ được hết rồi phải không? Đã đến lúc hạ màn rồi. Đỗ Phương Ninh bình tĩnh nghĩ ngợi: Vi Đỗ hai nhà cuối cùng nhờ có vụ mượn sức cơ duyên xảo hợp này mà có cơ vững mạnh trở lại rồi. Nàng hôm nay đến Bạch Mã tự là muốn yết kiến thiền sư Đại Kim Ba. Sau khi nàng vào điện chấp tay mặc niệm, đệ tử hộ pháp của Đại Kim Ba mới dẫn nàng vào thiền viện. Đã tháng chín, mùa hạ vẫn còn chưa dứt bỏ, cây cối xanh rì trong thiền viện, vốn đáng lẽ phải có tiếng ve sầu --- Đỗ Phương Ninh từng vào Bạch Mã tự này nhiều lần, có nhớ ve sầu trong viện cực kỳ lừng danh trong Lạc Dương thành: bá tánh đồn đại rằng, vì được đào luyện lâu ngày, tiếng ve sầu cũng giống như tiếng niệm Phật vậy. Nhưng hôm nay nàng bước vào mà lại có cảm giác trống vắng, quái dị khôn tả. Sau đó nàng mới cả kinh phát giác: không có tiếng ve kêu! Đâu chỉ là không có tiếng ve, mà tất cả mọi tiếng động đều câm bặt trong khu viện này. Đạo lực gì đây? Không ngờ đạt tới cảnh giới tịch diệt đến thế! Lòng nàng nảy sinh cảnh giác, vận lực khắp toàn thân. Nàng cảm thấy Thanh Sách trong ống tay áo lúc này ngọ nguậy như một con rắn đang kinh hoảng, cơ hồ không còn nghe theo sự khống chế của nàng nữa. Đỗ Phương Ninh mỗi lần đi tới một bước, nỗi lo sợ trong đầu não lại càng gia tăng. Cửa thiền phòng mở ra, có hai đệ tử theo hầu, Đại Kim Ba “Hoạt Phật” đang đứng đón trước thiền sàng. Thân người lão hết sức cao to, khiến cho người ta vừa gặp là liền có cảm giác ngưỡng mộ. Người đời e không có mấy ai dám ngắm kỹ lão. Đỗ Phương Ninh gắng vận lực trấn định tâm thần, nheo mắt nhìn lên mặt lão, thấy não môn của lão quái dị khôn tả, vồ ra khác hẳn người thường, trên trán như lòi ra phân nửa cái hồ lô, mà trên chỗ vồ lại có một nơi hơi lõm vào. Đỗ Phương Ninh có cảm giác một luồng khí thế không hơi không tiếng đang tấn công lên mình nàng, tựa như kim quang bao phủ toàn thân, đè ép đến mức nàng thở không ra hơi, khiến cho nàng muốn quỵ xuống bái lạy. Đỗ Phương Ninh tới giờ mới cả kinh, tới giờ mới minh bạch: tại sao cả Thái Ất thượng nhân ân sư của Hàn Ngạc cùng Lạc Dương cao tăng Bạch Mã Tăng cũng phải bại dưới tay lão. Mục quang của Đại Kim Ba lại bao trùm về phía nàng, như thiên la địa võng vàng choé. Ánh mắt có vẻ từ bi khôn tả, nhưng lại thấp thoáng tiềm tàng một sự bất an --- Chừng như nếu mình muốn chống lại sự từ bi của lão, thì sự từ bi đó lập tức hóa thành Kim cương nộ mục, dìm diệt mình đến mức tan xương nát thịt, thành Phật môn Sư tử hống, hãm hại mình vào chốn vĩnh bất siêu sinh. Đỗ Phương Ninh lần đầu trong đời đụng phải sức áp chế ghê gớm như vậy, ý tứ trong ánh mắt đó rõ ràng đang nói: quỳ xuống đi, quỳ xuống đi! Đầu gối nàng run rẩy, không đứng vững được. Nhưng nàng một đời chưa bao giờ chịu chân tâm quỵ lụy bất cứ một ai. Kim Ba “Hoạt Phật” này ở đâu đến mà đòi phá bỏ hết ngạo khí của nàng chứ? Đại Kim Ba vẫn không lên tiếng, lão rõ ràng đã biết Đỗ Phương Ninh là ai, biết nàng là một người hết sức trọng yếu mà mình gặp trong cuộc truyền pháp ở Lạc Dương này. Lão ta rõ ràng muốn động dụng “Kim Ba bí pháp” của lão để thu phục nữ tử này về dưới trướng của lão. Đỗ Phương Ninh cảm thấy đầu gối nặng trĩu, tựa hồ xương cốt đang lách cách muốn vỡ tung. Nàng biết đây không chỉ là tương kháng về mặt tu vi võ công, mà rõ ràng có sự tranh đấu nguyện lực. Nàng tiến dẫn Đại Kim Ba đông lai vốn là muốn lão tương trợ mình --- Mình làm chủ, lão chỉ là khách. Sao mới gặp mặt mà lão đã muốn bỏ ghế khách giành đoạt ngôi chủ vậy? Đỗ Phương Ninh thầm nghiến răng, lại có cảm giác đầu óc và lực khí có thể dùng để chống đối càng lúc càng co thắt lại. Nàng nhắm mắt, thấy mình như bị thôi miên, nếu đè tới nữa thì hết kháng cự được, phải quỳ xuống thôi. Đây là hiểm cảnh ghê gớm nhất mà nàng phải đối diện kể từ khi thành tài, trước đây đâu phải chưa từng trải nghiệm cục diện sinh tử, nhưng địch nhân chỉ muốn đoạt lấy mạng mình, còn lần này, cái lão kia muốn là chút nguyện lực cuối cùng của mình. --- Nếu quỳ xuống, sống không bằng chết! Đáy lòng Đỗ Phương Ninh cuồng dại rú lên. Nhưng nàng lại làm sao có thể không quỳ cho được? Nàng đã dần dần mất đi sự khống chế bản thân, sau đó, tâm lý vụt nghĩ đến chỗ dựa và sự hộ trì cuối cùng trong đời mình, đó là --- Ngạc! Nghĩ đến Hàn Ngạc, tâm tư của nàng bỗng hơi hơi tỉnh lại --- Đâu có phải tất cả đều là giả tạo, trên đời này cũng đâu có phải các Pháp đều là Không. Từ khi rời Tái thượng đến nay, lần đầu nàng để mặc mình hồi tưởng lại ngày tháng viễn du Thanh Thảo hồ xa xôi, hành thích Khương Nhung vương. Đất trời hoang lương đó, đêm tối vắng lạnh đó, nhục thể đó, quấn quít triền miên đó, nó đâu phải là Không. Đỗ Phương Ninh có cảm giác con tim dâng tràn một chút ấm nồng, nàng mượn chút nhiệt khí đó, cuối cùng đã có thể mở miệng nói. Nàng điềm đạm cười thốt: “Tiểu nữ Đỗ Phương Ninh cuối cùng đã gặp được Thiền sư”. Nàng vừa lên tiếng, liền cảm thấy áp lực trên mình tiết đi hết. Nhãn quang của Đại Kim Ba như có thâm ý ngó nàng, tựa hồ cũng không hiểu tại sao Phật pháp vô thượng của mình lại chẳng thể bắt nàng bái phục. Còn nàng thì lòng đang run rẩy: là nàng âm mưu dẫn dụ Đại Kim Ba này đông lai, nhưng bây giờ nàng mới phát hiện cục thế đã không còn là cái nàng có thể thao túng nữa. Đáy lòng nàng chợt cười lên một tiếng thảm thương: không ngờ được mà, đến cuối cùng, đến khi Vô thượng thiền sư kia dùng tâm pháp Phật môn bóp nghẽn căn cơ của sinh mệnh để ép ta khuất phục, chỗ dựa chống chỏi tối hậu của ta không ngờ vẫn là: Ngạc…
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 97 Vân quá môn gian lão bệnh tử1
--- D ưới Thái Ất phong thê lương cô khổ, Hàn Ngạc một mình đối diện mộ phần của sư phụ, lòng xót xa đến mức lệ cũng không còn. Cách biệt bốn năm năm trời, gã vốn còn nghĩ sẽ có một ngày có thể về gặp lại gương mặt hiền từ của thầy sau khi đã giải quyết hết chuyện trần đời phiền muộn. Nhưng… lần giã biệt ngày trước lại là vĩnh quyết! Mãi cho đến hôm nay, gã mới thực sự thể hội được sư phụ đối đãi với mình tốt đến dường nào. Lão nhân gia người tuy đã lìa đời, lại vẫn để lại cho mình một chút gì đó, để cho mình chẳng phải thêm một lần nữa hoảng sợ không nơi nương tựa đến xé nát tâm can như cái hôm đông giá thảm đạm ngoài Trường An thành hồi mới năm sáu tuổi đầu kia.
“S ư phụ sao lại chết được chứ?”. Tổ cô bà ở trước mộ. Hàn Ngạc thấp giọng hỏi. “Ông ta không chết, ông ta đã giải thoát”. Mặt Tổ cô bà có một vẻ đau thương mà những nếp nhăn và sự từ bi của bà cũng không
che gi ấu được. Bà từ từ thốt: “Sư phụ của con vốn đã bỏ đời từ lâu, tính của ông ta là vậy đó, cái ông ta tu là cái đạo ‘Tự vong’. Đại, Tiểu Kim Ba đến từ nước Phật hoang thiên, tâm pháp Phật môn không giống như Thiên Trúc nguồn gốc của đạo, cũng không giống Trung thổ chốn phổ truyền cuối cùng của đạo. Đất đai hoang dã trống vắng, thấm nhuần khí chất chốn man hoang, tâm pháp hung hãn cuồng bạo pha lẫn với ý niệm từ bi, không ngờ đã tạo ra một lực khí lung lay trời đất. Sư phụ ngươi dùng thuật ‘Ngô tuy ngô, ngô dĩ táng ngô thân’ của Nam quách Tử Kỳ để chống đối. Tu vi của ông ta cực cao, không ngờ chỉ một mình mà có thể chống lại hai người bọn họ, trước hết đánh trọng thương Tiểu Kim Ba, song le kỳ công cũng tản mác. Dưới sự công tập tâm pháp của Đại Kim Ba, sư phụ con chỉ đành dùng cái tâm ‘Tự táng’ để tương kháng. Nhưng tâm pháp đó, sự viên mãn cuối cùng cũng là ‘tự táng’ mà --- Thủ pháp tự nhiên, ra đi tự nhiên, đó là thuật của Đạo gia. Thuật của Đạo gia chỉ cầu cho bản thân mình, vốn không có ý công kích ai. Cho nên sư phụ con đến khi tâm pháp đã dâng tới mức hoàn hảo, ông ta chẳng đả thương người, mà tự ra đi trước rồi”.
Hàn Ng ạc thẫn thờ lắng nghe, những phép “nguyện lực” đó, gã vốn không mấy thấu hiểu, chỉ có cảm giác tâm ý hoảng hốt. Có điều lời nói của Tổ cô bà tựa hồ đã an ủi được gã --- Sư phụ “tự hóa” mà đi! Ông đâu có thực sự đi, mà đã dung nhập vào ánh trăng tiếng nước, hòa đồng cùng thế giới tự nhiên của đất trời. Sớm bầu bạn với khói núi, chiều gần gũi với hơi mây, sớm sớm chiều chiều vẫn ở bên cạnh mình, thậm chí còn ở trong từng nhịp thở của mình nữa, phải không?
1 Già ốm rồi đi mây thoáng trôi, là Tiểu Đoạn dựa theo câu "Tam quá môn gian lão bệnh tử" trong bài thơ "Quá Vĩnh Lạc Văn trưởng lão dĩ tốt" của Tô Thức. Văn trưởng lão là Văn Cập, người Tứ Xuyên, làm sư đất Thục. Tô Thức vốn là người Thục, vừa là đồng hương với Văn trưởng lão, vừa là văn hữu. Nghe tin Văn trưởng lão chết, Tô Thức làm bài thơ này truy điệu. Câu "Tam quá môn gian lão bệnh tử" ngoài việc áp dụng ý nghĩa đạo Phật coi sinh lão bệnh tử là bốn cái khổ của đời người, ba cái khổ già - bệnh - chết thoắt đi qua cửa, thì ra còn là kỷ niệm Tô Thức từng ghé qua Thiền viện của Văn Trưởng lão ở Tú châu ba lần. Lần đầu vào tháng 12 năm Hi Ninh thứ năm (1074), ông sáng tác bài "Tú châu báo bổn Thiền viện hương tăng Văn trưởng lão phương trượng"; lần thứ nhì tháng 11 năm Hi Ninh thứ sáu, ông sáng tác bài "Dạ chí Vĩnh Lạc Văn trưởng lão viện, văn thời ngọa bệnh thoái viện"; lần thứ ba tháng năm năm Hi Ninh thứ bảy, ông sáng tác bài thơ này. Ba năm ba lần ghé thăm, vừa hay đúng với tình huống của Văn Cập: lão - bệnh - tử.
Ngh ĩ như vậy, Hàn Ngạc cảm thấy lòng dễ chịu đi rất nhiều. Gã nhìn sắc mặt có hơi xám xanh của Tổ cô bà --- Thực ra từ khi gặp mặt, gã đã phát giác ra rồi, có điều tâm tư đang chìm trong thương đau, không kịp nghĩ tới. Tới giờ thấy vậy, gã mới kinh hoảng, khẽ hỏi: “A bà, bà bị bệnh à?”.
Thân ng ười Tổ cô bà như một chiếc lá khô quéo không chịu nổi một làn gió thu. Bà mỉm cười: “Con cũng nhận ra à? Cô bà đúng là thầy thuốc không thể tự chữa cho mình, chuyến này bệnh nặng lắm rồi”.
Bà h ơi do dự: “Nếu không phải vì căn bệnh này, sau khi sư phụ con đi, bà có lẽ còn có thể bằng vào chút nguyện lực ‘Khổ hải từ hàng’ đối kháng lại Đại Kim Ba”. Bà thở dài một hơi: “Đáng tiếc rằng sư phụ con vừa đi, bà cảm thấy căn bệnh này không còn áp chế được nữa, chỉ đành bó tay quay về thôi. Đại Kim Ba kia, cũng chỉ có lão mới có thể đánh bại Bạch Mã Tăng, thậm chí hôm kia lại dùng Lôi Sát đại pháp hủy diệt ‘Hà Lạc thư sinh’”. Hàn Ngạc kinh hoàng, gã từ Thục Trung về, mới đến Trường An là tìm Tổ cô bà để bà dẫn tới mộ sư phụ bái yết. Gã ngạc nhiên hỏi: “Cố Ủng Tỵ Cố huynh đã bỏ mình?”. Tổ cô bà thở dài một hơi, gật đầu nhè nhẹ. Hàn Ngạc lòng xót xa: Cố Ủng Tỵ là người gã mới quen chưa đầy nửa năm, lại đã thành bạn chí thân của gã. Một người như vậy, làm sao có thể từ trần đang khi ở cái tuổi vàng son này? Một luồng kiếm khí trào dâng trong xương cốt, tung vọt lên mặt gã. Tổ cô bà điềm đạm nói: “Họ chết vì bảo vệ đạo của họ, khác với bị giết, con bất tất phải nổi giận. Cầu nhân đắc nhân, đó cũng là cái bọn họ nên làm. Con lẽ nào muốn bằng vào một thanh Trường Canh tru diệt hết những người không hợp với đạo của mình? Đó đâu có phải là tôn chỉ của võ thuật mà con tu tập”. Hàn Ngạc bần thần: phải mà, Đại Kim Ba kia có làm sao để hoằng pháp đi nữa, sư phụ cùng Cố Ủng Tỵ có chết để hộ đạo đi nữa, mình cũng đâu có lý do để báo thù. Giọng gã khổ não: “Vậy, chỉ còn lại Du Cửu Khuyết thôi? Y… có thể thắng Đại Kim Ba không?”. Tổ cô bà thở dài: “Nếu chỉ luận phép Cửu hôn Cửu khuyết của y, chẳng ai có thể hại được y. Hồi xưa bà dùng ‘Từ Hàng nguyện lực’ cũng không thể lung lay tâm chí của y. Thế gian này muốn đả phá phép Cửu hôn Cửu khuyết của y e khốn khó vạn phần. Sư phụ của con lúc còn tại thế, trong lòng ông cũng chỉ trọng vọng một mình y thôi”. Hàn Ngạc thờ thẫn nhìn mây trôi giữa lưng chừng núi. Chỗ gã ở hồi xưa là cái eo núi đó. Hàng ngày mây đùn mây giãn, lướt qua trước cửa. Thế sự buông thả khó liệu, chỗ eo núi kia chắc đã thành hoang phế rồi, phải không? Mây chắc vẫn bay qua trước cánh cửa kia hàng ngày. Nhưng đang khi mây trôi qua cửa, trong cõi đời này, đã trải nghiệm vô số lão, bệnh, sinh, tử. Gã thấp giọng: “Cô bà, tới đây bà định đi đâu?”. Bệnh thế của Tổ cô bà chắc đã nặng lắm, gã tuy sự vụ bộn bề, cũng muốn tận lực đón bà về tĩnh dưỡng bên cạnh. Tổ cô bà lại mỉm cười: “Đâu cũng không đi. Sư phụ con hồi sinh tiền thích cùng bà ngồi im. Nhưng ông ta tuy nhàn rỗi, bà lại rất bận. Hiện giờ bà đã bệnh rồi, già rồi, vô dụng rồi. Thôi trước mộ phần này liễu kết cái nhân gây ra từ trước đi. Cũng đâu còn bao nhiêu thời gian”.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 98 Nhất đàn chỉ khoảnh khứ lai kim1
Hàn Ng ạc về đến Lạc Dương thành lúc hoàng hôn đang buông xuống. Mặt trời buông thả một màn phấn vàng phù phù phiếm phiếm lên hàng liễu bên bờ đê, lên tường lầu cửa nhà, lên hẻm hốc ngõ ngách trong thành, lại có vẻ tiêm nhiễm ánh vẩn đục của dòng nước tù, nhuốm đượm màu héo hon của lá úa, lấm lem vôi bột mới sơn tường cửa, ươn ướt sự nhớp nháp của ngõ ngách, có chốn nó lơi là, có nơi nó chăm chú, trang điểm cho cái cố đô của biết bao triều đại này đây.
T ường thành gần cửa vẫn một màu cam đậm, vốn giã nếp lấy nước trộn đất sét mà xây nên. Lạc Dương là một thành trì của thanh sắc, nó không thảm đạm cổ hủ như Trường An, mà luôn có chút bóng dáng hư hão bềnh bồng trên bề mặt, cứ như bóng in xuống dòng Lạc Hà.
--- An L ạc Oa vẫn an lạc, nước rửa son phấn của bọn tỷ muội đổ rót xuống rạch Ngự, mặt nước sủi bọt vấy bẩn, nhưng Hàn Ngạc nhìn lại đâu có cảm thấy dơ, trái lại gã có cảm giác đó chính là chút hơi hướm nhân gian.
Gã l ại dừng ngựa đứng lặng trên cây cầu nhỏ bắc vòng qua rạch Ngự một chốc, ánh mặt trời rải rắc lên cái cằm cứng cỏi của gã. Trừ chiêu bài mọc thêm nhiều hơn, tất cả có lẽ không khác gì bốn năm về trước. Hôm nay, sau khi gã tiến vào Lạc Dương, lại không về chỗ tá túc hồi đó, cũng không về dinh thự nhà quan của mình, lại cưỡi ngựa từ Tây thị tới Đông thị, đi ngang qua một vườn rau tới An Lạc Oa, chớp mắt đã quẹo vào. Bọn chị em trên lầu các hai bên An Lạc Oa vẫn có kẻ ghé mắt nhìn gã, ngựa lững thững đi qua con đường nhỏ, gã nhớ tới hôm xưa chính ở nơi này, một bàn tay gầy yếu dơ dáy đã nắm lấy dây cương của mình, là sự khởi đầu của mọi biến loạn. Tiểu Kế hiện đang ở đâu? Gã nheo mắt nhìn về phía mặt trời đằng tây. Một năm ròng không gặp, tiểu tử đó chẳng biết đã cao đến cỡ nào rồi? Kể cũng lạ, những ngày qua thâm tâm vốn hết sức đau thương thống thiết, có quá nhiều chuyện đã xảy ra, nhưng hôm nay, cuối cùng trùng nhập Lạc Dương, đáy lòng gã lại tựa hồ vui vẻ hẳn, khoé miệng thậm chí còn hé một nụ cười, thầm nghĩ: cũng là vậy thôi, những gì từng trải, có xấu đến cực điểm thì sau này cũng qua thôi, xấu cũng xấu đến chừng ấy thôi. Nhờ chút cảm ngộ đó, gã bỗng cảm thấy một niềm hứng khởi không tên.
S ư phụ từ trần, Tổ cô bà mang bệnh, Cố Ủng Tỵ bỏ mình, đó cũng là cái bọn họ một dạ sở cầu, có phải không? Họ đều là người hết sức có chủ kiến, đối với người thực sự kiên cường mà nói, nhân thế này không có bi kịch, vì đó là sự chọn lựa của họ. Tất cả mọi hậu quả họ đều đón nhận. Mà bi kịch, chỉ là sự tự thương thân tiếc phận của kẻ yếu đuối, có phải không? --- Hàn Ngạc đang bâng khuâng nghĩ ngợi, bên cạnh chợt có người rà sát qua, gần sát đến chạm phải vào người gã. Hàn Ngạc ngẩn ngơ, con đường này đâu có bao nhiêu người qua lại, sao lại vẫn đi sát đến thế? Tiếp đó gã lại giật mình phát hiện một tờ giấy dán trên tà áo của mình. Gã kinh ngạc, dù rằng hồi nãy đầu óc mình đang lan man, còn có ai có thể giở trò mà mình chẳng hề phát giác vậy chứ?
1 Xưa nay lại tới tay đà xuôi, là câu tiếp theo câu "Tam quá môn gian lão bệnh tử" (xem chú thích {1} hồi 97) trong bài "Quá Vĩnh Lạc Văn trưởng lão dĩ tốt" của Tô Thức, dựa theo ý tam sinh tam thế của Phật gia, một khoảnh khắc búng đầu ngón tay tựa hồ thiền cơ vô hạn, chất chứa quá khứ, hiện tại, tương lai.
Gã nh ẹ nhàng cầm tờ giấy xếp ngay ngắn kia lên, mở ra xem. Ánh mặt trời lan tỏa lên mặt giấy, bên trên là những dòng chữ xinh xắn: Màn phượng lụa thơm rũ mấy tầng, Trướng châu vòm thắm hẹn đêm xuân. Quạt che má dại lòng còn vướng, Xe nghiến đường si giọng vẫn vương. Chiếc bóng cạn hơi tiêm tắt vội, Bặt tin kiệt sức nụ phai dần.
Ban Chuy có bu ộc bờ dương liễu? 2Vẫn đợi canh ba ngóng gió thương? Hàn Ngạc lòng thẫn thờ mê hoặc, cảm thấy dương quang kia trong khoảnh khắc đã biến thành mù mịt. Đây rõ ràng là nét chữ của Phương Ninh. Tại sao là “đêm khuya hẹn
hò” ch ứ không phải là “đêm khuya may vá"? Lại còn cái gì --- Ban Chuy có buộc bờ dương liễu, vẫn đợi canh ba ngóng gió thương? Mấy câu này có phải là Phương Ninh hẹn hò với mình không? Bên bờ Lạc Hà, dưới Đổng gia Tửu lâu, canh ba, buộc ngựa đón gió?
Hàn Ng ạc bần thần ngước lên, lẽ nào tất cả đều bất biến? Những năm qua chỉ là một giấc mộng mà thôi? Lòng gã hơi phiền muộn, lại bỗng có một chút trông mong nồng thắm, sục sôi đến mức đầu rêm lên. Nơi đầu ngón tay chạm lên mặt giấy, làn da đã phớt mịn chút phấn hồng.
o0o
Đế n canh ba, Lạc Dương thành đã hết huyên náo. Thành thị này luôn luôn chẳng lo nghĩ gì tới biến loạn của thiên hạ, chỉ cần còn có thể ca múa là cứ ca múa. Con đường trống vắng, còn đọng hơi hám khói nến, ngọn gió đêm trong lành len chút khí vị vẩn đục của nhân gian. Đó là mùi vị son phấn. Hàn Ngạc đột nhiên không nghĩ ngợi gì nữa, không nghĩ tới quá khứ, không nghĩ tới tương lai, bởi trước đây gã đã nghĩ ngợi quá nhiều rồi, mà bên cạnh chỉ có hôm nay.
Gã c ủa hôm nay, đang khát vọng một giấc mơ. Có thể bản thân gã cũng không nhận ra rằng: vì nỗi khổ đau của những ngày tháng tỉnh táo đã thâm nhập vào xương cốt, cho nên trọn hôm nay gã mới cao hứng hư hư hão hão muốn quên đi quá khứ vị lai, muốn lánh lìa nỗi chán chường kia. Gã đã chứng kiến những tranh đấu thô tục của lối sống thiết thực, đã xem qua những cái thực, đã chán ghét, đã xót xa lắm rồi. Gã chỉ khát vọng một giấc mơ.
Cho dù nó là giả tạo, chỉ cần còn có người cam chịu cái giả với mình, tạo ra một giấc mộng, thì tại sao lại không chấp nhận chứ?
2 Đây là bài “Vô đề - kỳ ngũ” của Lý Thương Ẩn mà Tiểu Đoạn sửa vài chỗ: ở câu hai, chữ “phùng” (縫 may vá) đổi thành “phùng” (逢 gặp mặt); ở câu cuối, "hà xứ tây nam đãi hảo phong" đổi thành "do tự tam
canh đãi hảo phong". Nguyên văn của đoạn này vì vậy trở thành: Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng, Bích văn viên đính dạ thâm phùng. Phiến tài nguyệt phách tu nan yểm, Xa tẩu lôi thanh ngữ vị thông. Tằng thị tịch liêu kim tẫn ám, Đoạn vô tiêu tức thạch lưu hồng. Ban Chuy khả hệ thùy dương ngạn, Do tự tam canhđãi hảo phong.
Trên tr ời không có trăng, con đường rất tối, như có một bức màn trùm kín mặt đất. Chút đèn lửa le lói còn tồn tại hai bên bờ Lạc Hà đang nhấp nháy, tựa hồ chẳng muốn chiếu sáng gì cả, mà đang mê hoặc người, giấu che gì đó. Khúc quanh đầu đường lặng lẽ đã lâu, giờ bỗng thấp thoáng truyền vọng một tràng tiếng lạc. Tiếng lạc leng leng keng keng, rào rào rạt rạt trên con đường lát đá xanh, trước là vó ngựa, sau tới bánh xe, thanh âm ngân vọng bao bọc, khiến cho tiếng vó ngựa đó, tiếng bánh xe kia thoang thoảng mà không thấy đâu, hư ảo như mộng mơ.
Hàn Ng ạc ngẩng lên, thấy một cỗ hương xa mái vòm tròn bằng gấm màu xanh ngọc bích đang thoạt ẩn thoạt hiện không xa. Gã leo lên ngựa, quất nhẹ, Ban Chuy thả bước đi tới. Vóc dáng thành trì đen sẫm, ngõ hẻm quanh quẹo xiên xéo, bốn bề toàn là mái vành tối tăm, bên trong đang chất chứa biết bao bi hoan ràng rịt của bá tánh nhân gian. Hàn Ngạc đột nhiên nảy sinh ý tưởng: nếu mình không tập võ, không theo đạo, có phải cũng sẽ có một cuộc sống bình đạm chơn chất, trải nghiệm những phiền não cùng khoái lạc bình đạm chơn chất hay không?
C ỗ xe tuy lao nhanh, nhưng làm sao nhanh bằng cước lực của Ban Chuy. Có điều Hàn Ngạc đâu có đuổi bắt, chỉ kềm ngựa đi theo cách chừng mười mấy trượng sau xe. Gã cũng không biết mình đang làm gì, phải theo tới đâu, càng không biết diện kiến rồi sẽ ngẫm gì nghĩ gì. Nhưng giờ đây gã chẳng suy tính gì hết, đầu óc cùng tâm tư đều đã mệt mỏi quá rồi, không còn có thể huy động, chỉ muốn quấn quít theo như vầy, bởi trong sự “theo” đó, tựa như cũng có một niềm ôn nhu hư hão day dứt tâm can.
C ỗ xe quẹo vào Bi Lâm phường, vòng qua hào nước, lại dong về phía thành đông. Đến trước cửa một tòa viện nhỏ trong một hẻm con, cỗ xe ngừng lại. Trong viện còn thoang thoảng hương quế. Chưa dừng hẳn, đợi đến khi cửa mở rộng, cỗ xe lại tiến vào. Sau đó cửa liền khép lại. Đây là nơi đâu? Là biệt viện của Đỗ gia ư? Ngoài cửa viện không còn ai, chốc sau xe lại ra, xem có vẻ nhẹ hẳn, đã là một cỗ xe không. Có tiến vào không? Hay là thôi? Hàn Ngạc đầu óc bấn loạn. Mùi quế trong viện quái dị quá, tựa hồ hết sức mê ảo. Mà trong hương khí như thực như ảo đó, thế gian này, tất cả mọi sự, bao gồm nhà cửa ngoài cái ngõ, thị phi ngoài thân xác, tranh đấu trong triều đình… tất cả đều xa vời phiêu diêu, chỉ có cái tiểu viện này còn là một sự tồn tại thiết thực đang bày tỏ một lời mời gọi thiết thực. Hàn Ngạc xuống ngựa, buộc hờ dây cương bên cái trống đá trước cửa, rồi tháo ra, lại cột vào, tháo ra, cột vào, tốn cả nửa canh giờ. Gã cũng không biết mình bị gì, chỉ có cảm giác tâm tư càng lúc càng mê loạn, giống như hồi xưa khi hít phải hương Long Đoàn vậy. Cuối cùng gã khống chế không được nữa, quên luôn con ngựa, nhẹ nhàng lộn mình vọt qua tường viện. Trong viện tối hù, chỉ một ngôi các ở hậu viện thấp thoáng có ánh đèn. Hàn Ngạc vừa vào tới hậu viện, ngọn đèn kia lại đã tắt một cách không hơi không tiếng. Nhưng song cửa lại vọng khẽ, chừng như là thanh âm mở then. Hàn Ngạc do dự một hồi, hương quế trong viện càng thơm lừng, gã rảo bước đến bên cửa sổ, khều hé nhè nhẹ, lộn người vào trong. o0o Bên trong song cửa tối sầm đến mức có mắt mà cũng như mù, tựa hồ không chỉ buông thả một tấm màn mỏng, mà là vô số lớp. Hàn Ngạc hoang mang, gã không nhìn thấy gì hết. Tiếp đó, một bờ môi áp lên môi gã. Rồi… trật tự thời gian cơ hồ hỗn loạn lên hết, mọi sự chừng như đều đã từng nhận biết, nhưng sao lại chẳng nhận biết gì hết, chỉ có hơi khói của ngọn đèn tàn nhè nhẹ lượn lờ, như một sự lặp lại, như một trường ảo mộng… Quấn quít chao liệng, quấn quít chao liệng3… Hàn Ngạc thân bất do kỷ, mê mẩn đắm chìm. Chỉ vào khoảnh khắc cuối cùng, gã mới thoáng tỉnh được một chút, gã nghe thấy mình mơ màng hỏi: “Có phải… A Ninh không?”. Thanh âm có vẻ bấn loạn. Rồi đầu óc gã hôn mê, ngủ vùi đi, không nghe được một tiếng thở dài nhè nhẹ vang lên bên mình.
3 Nguyên tác là “giao cảnh hiệt hàng”, lấy ý hai câu “Hà duyên giao cảnh vi uyên ương, kỳ hiệt hàng hề cộng khiêu tường" (sao lại phải quấn quít như đôi uyên ương, trông ngóng sánh đôi bay liệng trên trời) trong bài “Phượng cầu Hoàng” của Tư Mã Tương Như.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 99 Cầu chi lưu bối khởi dịch đắc1
Ngoài B ạch Mã tự tiếng nói cười huyên náo --- Đó là nơi chốn của “Vô Già đại hội”. Đám tuốt bên trong đa số để đầu trọc, là hòa thượng, không ít kẻ là cao tăng cực kỳ có tiếng tăm của các chùa chiền Lạc Dương. Vòng ngoài nữa là bọn thiện nam tín nữ dáng vẻ nghiêm trang trầm lặng. Còn tiếng ồn ào lại phát ra từ đám đông đến xem náo nhiệt bên ngoài cùng nhất.
L ạc Dương là một thành thị lý thú vậy đó, rất ít ai thực sự có tín ngưỡng quy y gì, mà đại đa số bá tánh sống lăn lóc trong thành là những kẻ ôm giữ chút tâm cảnh “hoặc có thể”. Bọn họ là những kẻ “sống chết gì cũng làm thành truyện để đọc” --- bất kể là sống chết của ai khác hay của chính mình. Ngay cả Đại Kim Ba tông sư e cũng chẳng ngờ xảy ra cục diện này, đây là một đám dân đen lão không hiểu nổi. Họ không biết tôn trọng, cũng chẳng biết kính sợ. Sinh mệnh chỉ là một cuộc tiêu phí mà ông trời ban cho, chứ không phải sự vật gì đáng để phủ phục vái lạy, nâng niu trân trọng. Bọn họ đâu có coi sinh mệnh là chuyện lớn lao gì.
Nói cho cùng, ng ười Lạc Dương có chất người hơn là người Trường An. Trường An toàn những tượng gỗ mặc đồ diễn kịch, còn Lạc Dương mới thực là khách xem. Bọn họ cũng có ngưỡng mộ ghen tị chứ, một khi được cơ hội thượng đài, bọn họ hà tất không nghĩ tới ca diễn cho ngon lành. Nhưng ngày thường, bất kỳ tôn giáo nào, miếu thờ nào, lễ lộc nào, triều đình gì đi nữa, đối với bọn họ âu cũng chỉ bất quá là một hí trường mà thôi.
o0o
Đ ây là một khoảnh đất rộng. Nhưng hôm nay có chút khác lạ, cả tám đệ tử của Thiền sư Đại Kim Ba thượng đài trước sắc mặt kẻ nào cũng có vẻ nghiêm túc khẩn trương. Người vòng ngoài đi coi nhiệt náo cũng cảm thấy được, có kẻ hỏi: “Hôm nay hơi khác lạ vậy?”.
M ột người kề cận khẽ nói: “Ông chưa biết à, hôm nay Cửu Hôn tổng quản Du Cửu Khuyết sẽ đến. Ông ta muốn luận đạo với Đại Kim Ba. Đại Kim Ba lợi hại ghê, dùng đạo thuật liên tiếp đả bại Thái Ất thượng nhân, Bạch Mã Tăng và Cố Ủng Tỵ. Nghe nói lão muốn dùng tăng pháp để cầu phước cho Hoàng thượng, nhưng có rất nhiều người trong triều không phục việc tấn phong lão làm Quốc sư, cho nên mới có lắm tranh đấu. Hôm nay sắp phải đối diện cửa ải cuối cùng rồi, ông không thấy thủ hạ của lão khẩn trương quá sao?”. Người đó lại bồi thêm: “Ông nhìn bên kia kìa, cả Vương Hoành Hải Vương lão tướng quân cầm đầu Binh bộ cũng đã đến, đủ náo nhiệt chưa hả?”.
Không xa mà c ũng chẳng gần là một cái án và một cây lọng, người ngồi bên án dưới lọng chính là lão tướng quân Vương Hoành Hải râu tóc bạc phơ. Ông ta hôm nay không thể không đến, các binh trấn trong thiên hạ ông ta còn chưa quản thúc ổn thỏa, còn chưa lấy lại hết quyền hành của các tướng lãnh môn hạ Đông cung và Bộc Xạ Đường, cho nên Hoàng thượng còn chưa thể chết, càng không thể để ai khác khống chế. Ông ta vẫn cần sự ủng hộ của một “Thánh thượng”. Ông ta không thể không đến.
Nh ưng, cục diện hôm nay nguy hiểm khôn cùng. Người nào khác chẳng biết, ông ta lại biết: Du Cửu Khuyết mạo hiểm dùng thuật “Tồn vong tục đoạn” để giữ mạng cho Hoàng thượng, công lực của y tuy đã trải qua một năm tĩnh dưỡng --- thực ra suốt một năm qua tính mạng của Hoàng thượng e vẫn phải trông vào y để cầm giữ --- nhưng sợ rằng chỉ còn lại ba phần mười. Vì vậy Du Cửu Khuyết trù trừ bất động. Có điều Giám quốc Thái tử đã mấy lượt truyền lời, muốn để Đại Kim Ba tiến cung trị bệnh cầu phước cho Hoàng thượng, lời nói chụp lên cái mũ đường hoàng, Du Cửu Khuyết chẳng thể nào không ra “khảo thí” Đại Kim Ba một phen, hòng ngăn chặn lão tiến cung.
1 Kiếm người tri kỷ làm sao dễ, là câu trong bài thơ "Phục chí Bùi Minh phủ sở cư" của Lý Thương Ẩn.
Song le tr ận chiến bị bao bọc trong cái lớp áo ngoài “luận pháp” này, lực khí đã hao tổn lâu nay của Du Cửu Khuyết quả còn có thể đảm đương được sao? Sau lưng chợt có tiếng ồn ào: “Xem kìa, Đại Kim Ba ra rồi!”. Lại có người thốt: “Cục diện hôm nay chắc hết xảy, nghe nói năm xưa Tiểu Kim Ba cũng từng vào Trung thổ hoằng pháp, Du Cửu Khuyết bực tức lão làm nhiễu loạn lòng người, dốc sức đánh đuổi lão đi”. Đại Kim Ba đã lên ngồi trên cái đàn ở giữa. Vương Hoành Hải vừa ngó lên, vụt phát hiện mục quang của lão ta tuy đang cụp xuống, lại tựa như chẳng có chỗ nào không chiếu rọi tới. “Nguyện Lực đại pháp?”. Vương Hoành Hải có cảm giác toàn thân chấn động, thình lình minh bạch đây không phải là võ thuật, mà là một thứ nguyện lực trực tiếp tiêu hủy nền tảng tâm chí của con người, bắt ép phải quy y! o0o “Ông không thể đi!”. Hàn Ngạc nghiêm nghị thốt. Lúc vừa mới gặp lại Du Cửu Khuyết, gã đã liền phát giác có gì không hay. Từ cái ngày chia tay trên đỉnh Tử Các phong, gã đâu có gặp mặt y lần nào nữa. Hình tượng mà Du Cửu Khuyết để lại trong tâm tư của gã luôn luôn tràn đầy uy lực. Nhưng hôm nay gặp lại, gã mới thấu hiểu chút thâm ý trong giọng nói của Tổ cô bà hôm nọ: “Nếu chỉ luận phép Cửu hôn Cửu khuyết của y, chẳng ai có thể hại được y. Hồi xưa bà dùng ‘Từ Hàng nguyện lực’ cũng không thể lung lay tâm chí của y. Thế gian này muốn đả phá phép Cửu hôn Cửu khuyết của y e khốn khó vạn phần”. Ý của Tổ cô bà là gì? Có phải bà đã sớm liệu biết Du Cửu Khuyết vì cố cầm giữ mạng sống của Hoàng thượng, sau khi động dụng phép “Tồn vong tục đoạn”, công lực đã tổn hao quá nửa? Hàn Ngạc vừa ngó thấy Du Cửu Khuyết, liền phát giác y bề ngoài tuy bình tịnh, nhưng sự trấn định đó không che giấu nổi sự mệt mỏi của nội tâm. Tới giờ gã mới thấu hiểu tại sao với tính tình của y mà còn cho phép Đại Kim Ba gây huyên náo dài lâu đến thế, chưa chịu xuất thủ. Ngay cả gã cũng có thể nhận thấy được sự dao động thần khí của y, tâm ý không được ổn định, Đại Kim Ba làm sao mà không nhìn ra cho được chứ? Thấy Du Cửu Khuyết không đáp, gã vội vàng lặp lại: “Ông không thể đi”. Thần sắc trên mặt Du Cửu Khuyết rất nghiêm túc, y quét mắt nhìn Hàn Ngạc. Hai người đang đứng trên một ngọn đồi nhỏ không xa khoảnh đất rộng kia, có thể ngó thấy cục thế trong trường. Y điềm đạm thốt: “Ta không đi, còn có ai có thể ngăn cản lão ta nhập cung?”. Y thở dài nhè nhẹ: “Đáng tiếc hôm trước sư phụ ngươi chỉ đánh bại được Tiểu Kim Ba”. Tuy chỉ một câu lợt lạt, có điều từ lúc quen biết Du Cửu Khuyết đến nay, vẫn là lần đầu tiên Hàn Ngạc nghe y than, lần đầu tiên nghe y thốt một lời thất chí như vậy. Gã khẩn trương hỏi: “Nhưng nếu ông đi thì nắm chắc được bao nhiêu phần?”. Du Cửu Khuyết nhướng mày: “Nếu cách đây hơn một năm thì ta nắm chắc cỡ năm phần!”. Hàn Ngạc thẫn thờ, Trường Canh vô cớ mà ngân tiếng. Du Cửu Khuyết lại nhìn sang gã: “Gì chứ, ngươi là đại quan trong Bắc đình Đô hộ phủ của triều đình, lại không theo tam tông ‘Nho Thích Đạo', cho dù kiếm thuật của ngươi siêu trác dị thường, có thể diễu oai được sao? Khà khà, chuyện hôm nay ngươi không có lý do để xuất thủ đâu”. Hàn Ngạc lòng tức hận: “Ta có thể hành thích lão!”. o0o Đại Kim Ba vừa thăng đàn, ánh mặt trời sớm mai trong khoảnh khắc tựa hồ dừng sựng lại. Từng tia từng tia nguyện lực vàng óng thấm nhập lòng người dưới sự thúc ép của lão. Chư tăng lữ ở vòng trong ai ai cũng ngạc nhiên, cảm thấy đầu óc hoảng hốt, cơ hồ không thể tự khống chế. Thiện nam tín nữ cũng thầm tụng niệm. Ngay cả chúng nhân đến xem nhiệt náo ở vòng ngoài cũng im bặt. Bọn họ tròn mắt nhìn kim quang phản xạ qua núi xanh, qua gió nhẹ, qua mái vành của Bạch Mã tự không xa, có cảm giác một sự uy nghiêm hoa mỹ của “bờ bên kia” đè nén lên tim, nặng nề đến mức bọn họ không lên tiếng nổi. Dần dần không còn tiếng động gì nữa. Có kẻ chẳng cam tâm còn muốn châm chọc vài câu để phá sự trầm lắng này, Lạc Dương thành đâu có quen với sự nghiêm túc này, nhưng nội trong khoảnh khắc, “bờ bên kia” tựa hồ có nguyện lực của Đại Kim Ba thúc đẩy, kéo sang tới “bờ bên này”. Một “bờ bên kia” tuy trông có vẻ hoa mỹ, nhưng nếu không chịu quy y, tất sẽ bị sấm sét đánh chết tại trường! Cái bảo tướng từ bi hoa mỹ hư hão đó, từ bi chừng như là vì lão ngồi bên trên vực sâu, dùng lực lượng uy mãnh hung hãn, khổ nạn khủng bố đến cùng cực làm bối cảnh. Người vòng ngoài cũng cảm nhận được sự đè ép uy nghiêm, “bờ bên kia” tựa hồ đang phá sụp hết mọi sự vật mà mình gặp phải, tất cả những nói cười bàn tán, những lao nhọc tự gìn giữ bản thân kia dưới mắt lão bất quá chỉ là sự tạm bợ nực cười. Lòng dạ những người vốn đến coi náo nhiệt chợt bốc dâng một nỗi niềm kinh hoảng. Đại Kim Ba lại chẳng mở miệng, đệ tử của lão dẫn một nhóm thiện nam tín nữ bắt đầu tụng kinh Pháp Hoa. Thanh âm vừa vang lên, nước Phật tượng hình, Bạch Mã tự kia, tăng lữ kia, sự lo sợ trong đầu bá tánh kia… mọi thứ đều bị nguyện lực của Đại Kim Ba thôi thúc, dần dần hợp thành một nước Phật hết sức uy nghiêm hoa mỹ. Còn bên ngoài Phật quốc, tất cả đều nằm trong hư ảo. Có kẻ không nhịn được, từ từ quỳ xuống. Một người quỳ, chẳng mấy chốc có người bắt chước theo, toàn trường nhất thời rạp xuống một mảng. Vương Hoành Hải gắng gượng trấn định tâm thần: ngươi… bằng vào cái gì mà dám nói với người ta sao mới là chân thực, sao lại là ảo huyễn? Nhưng nghi vấn của ông ta chỉ nghẽn trong lồng ngực, bên ngoài thân chỉ có tiếng tụng kinh. Dưới ánh sáng của nước Phật kia, mọi vật đều câm nín. Nhưng không lâu sau, đám đông chợt xao động, tựa như có kẻ bị đánh thức khỏi giấc mơ Phật quốc kia. Một tà áo choàng đen tuyền dài thượt đang rảo tới, rà sát người người, phảng phất sâu nặng như chín cổng thành trì. Hành động của y tựa hồ không hơi không tiếng, lại chừng như dẫm mạnh xuống đất, từng tiếng từng tiếng trầm hùng vọng vang khiến lòng người sực tỉnh. Dưới những bước chân nặng nề của y, tất cả những “hương tượng độ hà”2 chỉ bất quá là một ảo mộng gạt người. Chỉ có tác phong vững chãi, trật tự vững chãi, kết cấu thành thành trì chín cổng mới có thể thực sự chở che nỗi hoan khổ của con dân một cách thiết thực. Y tin những mừng vui, những khổ ải kia hoàn toàn là cái thực tại. Còn cái bóng tối đè úp của y, cũng đã chở che cho biết bao nhiêu người. Y tựa hồ mang theo mình một thành trì kiên cố đến cùng cực. Thành trì đó đâu có đóng kín, chín cổng chín lối, năm đường mười ngõ, chỉ giúp người ta cảm thấy được an nhiên, chỉ giúp người ta cảm thấy cuộc đời đâu phải chẳng có thành trì để nương tựa. Chỉ cần thành trì đó kiên cố, có thể khóa kín không cho binh lửa phong sương bên ngoài xâm nhập, thì những gương mặt vui buồn sớm tối, những lao nhọc một đời trong thành trì đó tất cũng vẫn là thực tại. “Du Cửu Khuyết!”. Có người kêu khẽ sau khi sực tỉnh. “Cửu hôn Cửu khuyết” đại pháp của Du Cửu Khuyết tựa hồ mới có thể thâm nhập vào lòng bá tánh Lạc Dương. Vương Hoành Hải thân hình khẽ chấn động: y cuối cùng vẫn đã đến. Một tăng nhân bên cạnh thấp giọng: “Tu vi của Du Cửu Khuyết tuy có bá đạo, nhưng quan tâm cho khổ lạc của con dân, mà không dùng lực khí quái dị làm loạn tâm thần, chính là tâm pháp Nho môn thực thực tại tại”. Bóng hắc y kia từ từ đi tới, kéo theo hết những gánh nặng ô trọc của nhân gian, như xốc dựng theo tôn nghiêm của Cửu thành Cửu khuyết, chậm rãi ụp về phía trung tâm của hình tượng Phật quốc kia. Thanh âm “Pháp Hoa tụng” cũng đã bị gián đoạn một hồi, Đại Kim Ba chợt mở mắt, ánh mắt nhìn lên mình Du Cửu Khuyết, tựa như đang nói: ngươi cuối cùng đã đến! Từ sau cái ngày Tiểu Kim Ba đại bại năm xưa, lão hết sức khát vọng nhìn thấy bậc nhất đại tông sư của người Hán này đây. Hôm nay… cuối cùng đã hội diện. Người xung quanh có thể không cảm thấy được, nhưng Hàn Ngạc đứng xa xa bên ngoài trường đã có cảm giác Du Cửu Khuyết càng đi tới thì cước bộ càng yếu ớt mỏi mệt, tựa như chở không nổi gánh nặng của con dân, từng bước từng bước chỉ có nhọc nhằn. Sau khi y trọng thương, làm sao còn có thể làm như vậy được chứ? Người tại trường lại chỉ thấy bóng che của thân ảnh y càng lúc càng dang rộng, dần dần trùm phủ toàn Vô Già đại hội. Còn kim quang Phật quốc trên mình Đại Kim Ba càng lúc càng lợt lạt, chỉ còn gìn giữ ở cái đàn bên trên thôi. Hàn Ngạc lại cả kinh thốt: “Không hay!”. Gã tuy không rõ đến căn cội, nhưng đã cảm thấy nguyện lực một đời của Đại Kim Ba đang tụ tập lại, xộc thẳng vào tâm Du Cửu Khuyết, công kích đến chỗ trung tâm nhất của thuật Cửu thành Cửu khuyết, cũng là chốn yếu đuối nhất! Du Cửu Khuyết không đi lên đàn, mà dừng lại không xa đàn mấy. “Thượng đế thâm cung bế cửu hôn”, y rõ ràng đã vận khởi lực khí nguồn cội của tất cả những tu vi tâm pháp của y, quyết tâm bao bọc gìn giữ sự yên ổn của Lạc Dương chín triều chín đại cùng tâm ý của y. Tâm pháp của y mang một màu đen sì, thân ảnh của y nhìn từ đằng sau như dâng vọt lên một bóng đen vô biên vô hạn. Màu đen đó lại không thuần sắc, mà là một phiến hỗn độn. Y với Đại Kim Ba đã khai chiến! Thân thể bị tổn thương nặng nề suốt một năm ròng, sắc màu của Cửu thành Cửu khuyết đã vẩn đục, dưới sự tích tụ thôi thúc nguyện lực của y, chỉ như một màu đen mờ mịt. Hàn Ngạc cảm nhận được Cửu thành Cửu khuyết bủa vây bên ngoài y tuy vẫn kiên cố, nhưng chỗ trọng tâm lại cực kỳ bất ổn. Bình thời khi y tu luyện thuật pháp này, e đã phải áp chế vô số tạp niệm, dục vọng và tâm ma, có phải không? Hàn Ngạc ở gần Tiểu Kế lâu nay, bí thuật của Đại Hoang Sơn cũng đã gây nhiều ảnh hướng đến gã, thầm nhủ: nếu Tiểu Kế có mặt thì tốt quá, sở kiến của nó nhất định thâm sâu và trực tiếp hơn mình. Tiếp đó gã cảm thấy không còn nhận ra chỗ đứng của Du Cửu Khuyết, không phải bằng vào mắt mà nhìn, mà là bằng vào cảm giác, cảm xúc, thậm chí bằng vào khứu giác. Gã nhận thấy màu đen càng lúc càng đậm, càng lúc càng thuần. Lòng gã không biết sao lại có một thứ linh cảm bất tường, điều này tựa hồ không ổn! Rồi một vầng kim quang yếu ớt nhoáng lên, tựa như đột nhiên muốn xuyên thấu thân ảnh của Du Cửu Khuyết, đột phá cái lớp đen sì sì kia, thấu suốt qua. Hàn Ngạc thân hình chợt lướt đi: Du Cửu Khuyết đã bại! Gã tới giờ mới minh bạch tại sao khi kể đến trận chiến với Đại Kim Ba, lúc Tổ cô bà nhắc tới cái bại của Cố Ủng Tỵ lại không nói “chết”, mà nói “sụp đổ”. Cuộc chiến nguyện lực, thì ra kết cục thường là “sụp đổ”. Đó là cái cảnh thảm thương nhất của đời người --- Hàn Ngạc chợt có cái cảm giác đó. Thân hình gã vụt lướt lên, lại cũng không biết mình đến thì có ích lợi gì. Mọi người tại trường mù mù quáng quáng, còn đang đợi Du Cửu Khuyết cùng Đại Kim Ba khách sáo một phen trên đàn, lại cảm thấy xung quanh đang dao động. Lực lượng Cửu thành Cửu khuyết vừa nãy ụp phủ lấy mình đã lung lay, Hàn Ngạc lòng nảy sinh nỗi hoảng sợ, thực không biết tiếp sau đây nó sẽ sụp đổ ra sao. Đỗ Phương Ninh cùng Khu Tấn môn hạ của Lạc Dương vương đang ẩn náu chợt nhất tề thở dài. Bọn họ núp rất kỹ, không ai thấy được, lại vì tiếng thở dài kia mà cảm nhận được nhau, bởi đó là sự cảm khái đồng lòng của họ: đây đã không còn là thời thế của mình nữa. Ngày nào Du Cửu Khuyết còn, bọn họ tuy luôn luôn căm hận y đến cực độ, cũng sợ y đến cực độ, lại cảm nhận được sự bao dung Cửu thành Cửu khuyết của y, còn có thể dong ruổi được. Nhưng… Đại Kim Ba đã thắng. Khu Tấn chợt ngẩng lên, nhìn thấy Hàn Ngạc. Đỗ Phương Ninh cũng ngước lên, song lòng chỉ có cảm giác thảm đạm. Tiếp đó người nàng trân trối nhìn lại không phải là Hàn Ngạc, cũng như Hàn Ngạc tuy đã nhìn thấy nàng, nhưng sau một cái liếc thì tầm mắt lại đâu phải ngó về phía nàng. Hai người nhất tề ngước mắt, hướng nhìn lại là không trung. Không trung cơ hồ có tiếng động khe khẽ, thanh âm tựa tiêu tựa địch, giống cầm giống sắt, như ngâm như xướng, lại không thể nói được là thanh âm gì. Đỗ Phương Ninh cùng Hàn Ngạc mặt mày tái mét: không ngờ họ lại không đoán nhận được thanh âm kia đến từ đâu. Đại Kim Ba chợt mở mắt, lão đã thắng! Kim quang trên mình sáng bừng lên, lão phải thắng được trận tối hậu này. Chính vào lúc lão đang định dốc hết toàn lực, mở miệng tuyên bố, lấy đó mà hoằng pháp phổ độ thiên hạ --- dùng phương thức của mình mà độ --- toàn trường nhất thời phát giác kim quang muốn bung vọt lên, nhưng dưới làn kim quang kia, lại đột nhiên có một bóng dáng nhợt nhạt tựa hồ hết sức ung dung hòa nhập vào. Đại Kim Ba mới vừa cả kinh phát giác, Hàn Ngạc cũng mới vừa đến bên Du Cửu Khuyết thì thấy bóng dáng đó còn lướt nhanh hơn cả mình, lướt qua chỗ Du Cửu Khuyết, lướt đi. Gã còn chưa nhận ra đó là ai, chỉ nghe một thanh âm hết sức điềm đạm… hết sức điềm đạm… tựa như nói với Du Cửu Khuyết: “Thanh thanh tử câm, du du ngã tâm…”. Hàn Ngạc đã đến bên Du Cửu Khuyết, cảm thấy y khó lòng khống chế nổi, nguyện lực của Đại Kim Ba lúc này đang dấn sức cuốn cuộn về phía y, xuyên qua thân thể. Nhưng tâm ý của Du Cửu Khuyết tựa hồ đột nhiên trấn định lại. Hàn Ngạc kinh ngạc phát hiện mắt y không ngờ đã rơi lệ. Mà chính vì sự ẩm thấp của giọt lệ kia, thế giới như cát hoang tận đáy lòng khô cạn muốn sụp lở của y tựa hồ ngưng kết lại, “Nguyện Lực đại pháp” của Đại Kim Ba cũng không đả thương được y. Trên đàn chợt hiện thêm một bóng người. Người đó thân thể cao thon, sừng sững đón ánh mặt trời, áo lụa bình đạm lấm tấm dấu mực, chữ nghĩa chừng như vô ý viết lên. Thân hình đó không căn không do, không lai không lịch, không có cách thức nào để suy đoán, càng không có manh mối gì để nắm bắt, không trác tuyệt ngạo nghễ, cũng không mê ảo nhiệm mầu, đột ngột hiện thân trên đàn của Đại Kim Ba như vậy đó. Bát đại hộ pháp đệ tử của Đại Kim Ba nhất tề quát hỏi: “Ngươi là ai? Yêu ma phương nào?”. Chúng là đệ tử Phật pháp, ấn tượng đầu tiên khi thấy người đó lại là hai chữ “ma kiếp”. Gì đây, ma kiếp đã đến? Bất kể là Đại Kim Ba tọa đàn, hay là sự xuất hiện của Thái Ất thượng nhân, Bạch Mã Tăng, Cố Ủng Tỵ, cho đến Du Cửu Khuyết, đều như mang theo một sự yên ổn. Nhưng thế đứng của người đó lại phảng phất khác hẳn, khiến cho hình tượng nước Phật này đây cũng thêm phần khó lường. Người kia ngẩng lên: “Ta là Vệ Tử Câm”. Sau đó y ngoái đầu nhìn về phương hướng Du Cửu Khuyết: “Kêu mọi người đi đi, để ta ở lại”. Người trong trường vừa nhìn thấy dung nhan của y liền có cảm giác một vẻ thanh tú quý phái lọt vào mắt, tinh thuần trong ngần, nào còn có phải là người của thế gian này! Có kẻ khẽ thốt: “A, là Vệ Tử Câm năm xưa hiệu xưng ‘Khán sát Vệ Giới’!”.
2 Theo "Ưu bà tái giới kinh - quyển nhất", ba loài vật thỏ, ngựa, và voi hương qua sông Hằng. Thỏ thì bơi nổi trên mặt nước; ngựa có lúc chạm đáy nước, có lúc lại không; voi thì hoàn toàn chạm đáy nước ("hương tượng" tức là con voi lớn vào mùa giao phối, hung hãn mạnh bạo bằng mười con voi bình thường). "Hương tượng độ hà" ẩn dụ sự tinh thâm ngộ đạo.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 100 Hành hĩ Quan Sơn phương độc ngâm1
Vò r ượu còn phân nửa, một dĩa đậu phộng rang chỉ còn dăm ba hạt. Hàn Ngạc cùng Du Cửu Khuyết ngồi trong cung cấm, từ sáng sớm đến chiều tối. Ban đầu Du Cửu Khuyết còn lo điều tức, liệu lý thương thế. Gian phòng này chỉ có một cái cửa sổ rất nhỏ, khoảng cách từ song cửa đến bức tường đối diện chưa tới ba thước. Thực không hiểu nổi một vị tổng quản quyền quý như Du Cửu Khuyết sao lại đi chọn trú ngụ ở một địa phương như vậy! Trong nhà rất tối. Hàn Ngạc đang nhớ tới sau khi Vu Tiểu Kế lộ diện, Du Cửu Khuyết thầm thì một câu khiến cho gã không hiểu nổi: “Ngươi tiên nghiệm, ngươi siêu nghiệm”. Ý gì đây? Sau đó Du Cửu Khuyết xoay mình bỏ đi. Thấy công lực của y muốn tản mác, cần phải cứu trị gấp, Hàn Ngạc chỉ còn nước theo y về. Nhưng sự thắc mắc một mực dày vò tâm trạng của gã lại đang vật vờ ở Bạch Mã tự: trận đánh vô danh kia, tình hình cụ thể ra sao? Đáy lòng gã đang thấp thỏm. Song gã cũng biết đâu chỉ có gã không nhìn thấy, kỳ thực trận đánh đó e rằng cũng chẳng có ai coi được. Vì Du Cửu Khuyết trước khi đi có kêu Vương Hoành Hải dẹp trường! Lúc vừa về đến cung, Hàn Ngạc còn nhận được tin Vương Hoành Hải truyền, nói không chỉ có ông ta dẹp trường, cả Đại Kim Ba cũng kêu đám người phe lão lui xuống. Xem ra đây đối với lão cũng là kiếp số bí mật. --- Cái quảng trường trống trải rộng lớn đó, bên ngoài Bạch Mã tự mà Bạch Mã Tăng đã lìa bỏ, bên dưới kim quang ngập trời, trận chiến chẳng một ai nhìn thấy được thực ra thế nào rồi? Hàn Ngạc tâm lý xoay vần, lại cũng chẳng đoán ra nổi. Cuộc đấu tranh nguyện lực tông pháp đó vốn không phải là cái gã có thể suy đoán được. o0o Từ giờ Thìn trở đi, gã với Du Cửu Khuyết uống rượu. Du Cửu Khuyết lại chẳng nói năng gì, Hàn Ngạc vốn cũng ít nói, cho nên lẳng lặng ngồi chung. Gã thấy lạ sao Du Cửu Khuyết còn chưa kêu gã đi, y chắc đâu phải là người khoái chung đụng với kẻ khác. Rượu giải sầu uống đã được hai canh giờ --- Du Cửu Khuyết uống không nhanh, nhưng uống cũng dữ lắm. Hàn Ngạc nhìn chỗ bị chặt cụt trên cánh tay phải y vừa đặt lên bàn, sực nghĩ tới một nghi vấn đã tồn tại từ lâu trong lòng mình. Tử Thần… Tử Thần hôm xưa để lại một bàn tay bị chặt đứt ở “Phượng Lâu” thuộc khu nhà cũ của Dư gia trong ngõ Luân Hồi, thực ra bàn tay đó là của ai? Gã cũng từng thấy cổ tay cụt của Vệ Tử Câm, mà là tay trái. Một hồi thực lâu sau, Du Cửu Khuyết thở dài nhè nhẹ. Hàn Ngạc chợt phát hiện mình với vị Đại nội tổng quản này nói cho cùng cũng đã quen biết vài năm, vậy mà mình vẫn không hiểu được chút xíu nào về y. Mục quang của Du Cửu Khuyết lại dừng trên cổ tay cụt của mình, buồn bã than: “Y chém đứt bàn tay của ta cũng đã hai chục năm rồi”. Hàn Ngạc hơi ngẩn ngơ: bàn tay của Du Cửu Khuyết không ngờ lại bị người ta chặt đứt? Trên thế gian này còn có ai có thể chặt đứt tay y? Người y nói có phải là Vệ Tử Câm không? Du Cửu Khuyết mệt mỏi thốt: “Bàn tay bị chặt đứt đó rơi trong khu vườn bỏ hoang của Dư gia ở ngõ Luân Hồi chắc cũng hai chục năm rồi, phải không? Khà khà, chỉ thủy bất hủ, phế xu bất đố2, ta thực muốn đi coi xem, sau bao nhiêu năm ròng, bàn tay cụt kia có thực còn chưa hư rữa hay không”. Thì ra bàn tay cụt năm xưa trên Phượng Lâu là bàn tay của Du Cửu Khuyết! Du Cửu Khuyết có vẻ rất không quen nói đến mình, hơi rượu chắc đã thấm nhiều, không thì tuyệt đâu có thể đa ngôn như thế. Y tiếp tục thốt một cách mỏi mệt: “Bọn ta quen biết bao nhiêu năm rồi? Ta chỉ lớn hơn y ba tuổi, sao y vĩnh viễn cứ như không thể già đi vậy? Không ngờ bao nhiêu năm trôi qua, y sống tịch mịch ở Chi Lan viện, cuối cùng đã tu luyện được đến cảnh giới ‘Dị số'. Hồi xưa sau khi Dư Hoàng hậu qua đời, y hận ta ghê lắm. Tiếp đó y nghe được tin, muốn đến ngõ Luân Hồi cảnh báo. Bọn Thái tử khi ấy muốn đối phó ngõ Luân Hồi. Nhưng… người trong Tử Thần bọn ta xưa nay đâu có can thiệp vào ngoại vụ. Ta cản chặn y ở vườn sau của Dư gia. Y lúc đó đang định để thư lại trong tòa tiểu lâu. Ta đoạt lấy vuông lụa, y chặt đứt bàn tay ta. Khà khà, tu vi của Du Cửu Khuyết ta thực uổng cho danh hiệu đứng đầu vũ nội, e rằng rất ít có ai biết lão bát của bọn ta năm xưa võ nghệ đâu có kém ta. Tuy ta có ý nhường nhịn, cũng mãi cho đến khoảnh khắc đó mới biết đâu phải ta một mực bảo vệ cho y, mà… thì ra y luôn luôn nhường ta”. Trong óc y như hồi tưởng lại hồi còn niên thiếu, bờ liễu xanh xanh, Vệ Tử Câm tà áo tung bay phần phật… Lúc đó y cảm thấy họ Vệ không phải là một con người, mà là một tinh linh. Nhưng… y chợt thốt thê lương: “Thực ra hôm đó y chặt đứt bàn tay ta mà ta đâu có oán giận y. Y hà tất phải sau này tự chặt tay mình, tại sao y phải tự chặt tay chứ? Y sau này… hà tất phải dùng dị thuật tự tàn hại mình chứ? Mọi sự thực ra là sao đây? Nếu sớm biết có kết cục như vậy, ta nhất định sẽ không dễ dàng nhường cho y chặt đứt bàn tay ta để dập tắt lửa giận của y”. Mắt y chợt tuôn lệ, chảy dài trên khuôn mặt đường nét rạch ròi của y. Hàn Ngạc đến giờ mới biết: y thực đã say rồi. Nếu không say, y sẽ mím chặt môi miệng như xưa, đâu thể nào tiết lộ một chữ một lời. Tâm tư của gã cũng có hơi bất an, tựa hồ đột nhiên thấu hiểu vô số nghi hoặc đó giờ, tình yêu thầm kín của Vệ Tử Câm với Dư Hoàng hậu, việc Du Cửu Khuyết đánh Dư Hoàng hậu lúc bà sắp sinh, cho tới đủ mọi thứ chuyện, bao gồm những gì gã từng trải ở Chi Lan viện ngày trước. Nhưng chính vì minh bạch, lòng mới đột nhiên thấy bất an. Nhãn thần sau khi say của Du Cửu Khuyết sao lại trong sáng hẳn, đôi mắt y ngày thường vẩn đục tối sầm, dứt khoát không có thứ ánh sáng đó. Y lẩm bẩm: “Ta nào có ngờ được, cuối cùng y vẫn vì ta mà xuất thủ một lần. Vì sao? Vì sao…”. Miệng y nói, dưới sự giáp kích của men say và thương thế, đột nhiên gục lên bàn ngủ vùi. Hàn Ngạc ngồi đó, nhất thời cảm thấy tâm tình bấn loạn, suy đi nghĩ lại về những gì còn thoang thoảng không rõ được trong đầu. Họ không thắp nến, trong nhà càng lúc càng tối tăm, gã chỉ có cảm giác tâm tư của mình cũng xáo trộn hỗn độn hẳn trong bóng tối. Giấc ngủ của Du Cửu Khuyết rất ngắn, chưa tới một canh giờ sau, y đột nhiên tỉnh dậy. Y xưa nay chức trách quá trọng đại, rất cảnh giác. Đặc biệt từ khi Hoàng thượng bị hành thích, y đã nghiêm khắc hạ lệnh cho Lục Phá Hầu cùng Hoa Phạm không được rời khỏi Hoàng thượng giây phút nào. Y mới vừa tỉnh dậy, sắc mặt đã bình tịnh lại, thấy Hàn Ngạc còn ngồi thừ ra đó, khoé môi y mỉm cười, giọng điệu như thường: “Sao ngươi còn ngồi ở đây? Còn lo chuyện ngoài Bạch Mã tự à?”. Hàn Ngạc chỉ còn nước gật gật đầu. Du Cửu Khuyết lại mỉm cười, một nụ cười Hàn Ngạc chưa từng thấy được trên mặt y, trong đó không biết sao lại pha lẫn một cảm xúc ấm áp khó tìm ra được trên mình y. Chỉ nghe y thốt: “An tâm, Tử Câm mà xuất thủ, phải hơn ta xa. Y không thể bại đâu. Cho dù phải trả một giá đắt, mối họa Đại Kim Ba đến đây coi như chấm dứt”. Thấy y nói khẳng định như vậy, Hàn Ngạc cũng chẳng biết có phải có thể yên dạ hay không. o0o Ngoài Bạch Mã tự, cuộc gặp mặt giữa Đại Kim Ba cùng Vệ Tử Câm đã kết thúc từ lâu, nhưng còn có người nhẫn nại ở lại gần đó chờ đợi kết quả. Người đó đâu phải là ai khác, chính thị Đỗ Phương Ninh. Nàng dừng trên một triền đồi, tuy cách tới hai ba dặm, nhưng nhãn lực của nàng vẫn giúp nàng nhìn thấy được. Nàng xem rõ lắm, lại cứ như không nhìn thấy gì hết. Tất cả những người lén xem e cũng có cái cảm nhận đó. Sợ rằng còn có lắm kẻ không biết ai thắng ai thua. Có điều Phương Ninh lại biết: Vệ Tử Câm đã thắng. Mặt mày Đại Kim Ba tuy kim quang bừng tỏa, nhưng… nguyện lực trong tâm lão đã tiêu tán. Đỗ Phương Ninh chứng kiến nam tử siêu quần thoát dật kia ra đi như thế nào. Nàng thấy y đi vào một sơn cốc nhỏ, trong cốc lại có một nữ tử mặt mày như từng bị phá hủy, xấu xa lắm… chờ đợi y. Cuối cùng hai người bọn họ sóng vai mà đi, Vệ Tử Câm có lẽ thắng không dễ gì, bước chân của y có vẻ dập dờn muốn bay. Nữ tử xấu xa kia cước bộ lại hết sức vững chãi, dìu y như bay hòa vào mây trắng. Đỗ Phương Ninh nhắm mắt, bóng người dần xa, nhưng cái dâng hiện trong lòng nàng lại là một tia kinh hãi, mà ngoài nỗi kinh hãi đó, lại là một tà áo dài tiêu sái phất phơ tựa trong tranh thủy mặc.
1 Đi khắp Quan Sơn ngâm một mình, là câu tiếp theo câu “Cầu chi lưu bối khởi dịch đắc” trong bài thơ "Phục chí Bùi Minh phủ sở cư" của Lý Thương Ẩn. 2 Xem chú thích {2} hồi 4.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 101 Phủ huyện tận vi môn hạ khách1
Lúc Hàn Ng ạc ra khỏi cung cấm thì đã canh hai. Sự vụ trong triều mà gã phải xen tay gần đây cũng không nhiều. Vương Hoành Hải tuy đã quá lục tuần nhưng hết sức tinh minh, cho nên sự vụ trong Binh bộ liệu lý gọn ghẽ lắm. Hữu Bộc xạ Lộ Minh Đường mới được đề bạt nhậm chức cũng là một quan viên năng cán, lại không nằm trong hai đảng của Đông cung và Bộc Xạ Đường, giúp ích được rất nhiều cho Vương Hoành Hải. Quân tình lại có Cổ Siêu Trác tương trợ, chắc không đầy một năm sau, ông ta đã có thể thu tóm hết binh quyền về cho Binh bộ khống chế. Vậy thì Đông cung cùng Bộc Xạ Đường dù có khuynh loát thì cũng chỉ là cuộc tranh đấu giữa các văn quan trong triều, không đến mức biến thành đại loạn.
G ần một năm nay, gã cũng được sự giúp sức của Tử Thần tổng quản Du Cửu Khuyết. Phe Thái tử đã bị tổn thương trầm trọng, thế lực Bộc Xạ Đường cũng đã bị đàn áp giảm thiểu rất nhiều. Mọi người đều biết thời gian bọn họ phất cờ đâu có dài gì, nhưng mượn cái lợi Thái tử Chí Hoa cùng Trần Hy Tái gò bó lẫn nhau, cũng đã làm được không ít đại sự. Hàn Ngạc hít sâu một hơi, có lẽ… cuối cùng đã đợi được đến giờ có thể ra đi rồi.
Gã nh ất thời không muốn về ngủ. Chỗ ở của gã ở Lạc Dương thành cũng chỉ có hai nơi. Một nơi là khu nhà cũ của Dư gia ở ngõ Luân Hồi mà Dư Tiệp đã trùng tu, một nơi là dinh quan. Nhưng hai nơi đó gã đâu có muốn đi, cho nên sau khi ra khỏi cung cấm, trong Lạc Dương thành cũng đã đến giờ giới nghiêm, bốn bề tịch mịch, gã chẳng vội về, mà đi lang thang một phen. Cứ tin vào đôi chân, gã tùy ý thả bước, nào ngờ trong một khu nhà lớn đằng trước lại thấp thoáng tiếng ồn ào huyên náo. Hàn Ngạc ngẩn người, trong nội thành tuy nhà cửa giàu sang cũng lắm chỗ mở tiệc khuya, nhưng ai mà mãi đến sau canh hai vẫn còn khách khứa nhộn nhịp như thế? Gã đi tới vài bước, thấy xe ngựa dừng trước cửa vô số, xa phu đứng đợi tên nào tên nấy quần áo mới toanh. Hàn Ngạc chú ý ngó, mới nhận ra nơi đó chính là khu nhà của Vi gia ở thành nam. Gã đứng yên ngơ ngẩn. Từ lúc Tào Súc Hậu gục ngã, cả Lạc Dương vương phe phái của Bộc Xạ Đường trong Lạc Dương thành thanh thế cũng yếu kém đi, phương hướng bọn môn khách lượn lờ kia nhắm vào không phải là hai nhà Vi Đỗ thì còn có thể là ai khác chứ? Mặt gã hiện một nụ cười khổ, không muốn dừng lâu, lập tức bỏ đi. Đi không xa mấy thì đã tới tường thành, gã đang nhàn, thôi thì cứ nhảy lên thành xem xem. Khắp nơi đèn lửa đều đã tắt, chỉ có đèn lửa của Vi gia ở thành nam còn cháy bừng. Gã không muốn ngó bộ mặt phồn hoa nhốn nháo đó, dõi mắt nhìn quanh, bất tri bất giác đã đứng được một khắc. Ngoài cửa thành đông cỏ cây đang tàn phai nhan sắc, gã buồn bã lặng im, cũng chẳng biết tư vị trong lòng mình thế nào nữa. Chợt vừa chớp mắt, gã phát giác một bóng người đang từ trên tường nội thành lướt về phía ngoài thành. Gã ngây người, giờ này mà còn có kẻ dạ hành, rõ ràng là nhân vật võ lâm, lại thấy sau lưng thân ảnh đó còn có ba cái bóng khác rượt nà. Hàn Ngạc nhất thời nổi hứng, không khỏi lẻn theo.
1 Phủ huyện đủ người làm thực khách, là câu trong bài "Thiếu niên hành - kỳ tam" của Lý Bạch. là câu trong bài "Thiếu niên hành - kỳ tam" của Lý Bạch. Câu này thuộc đoạn kể mấy năm sau khi xuất đạo, chàng kiếm sĩ chiến công lừng lẫy khiến cho phủ huyện đâu đâu cũng toàn là môn khách, vương hầu ai ai cũng là kẻ kết giao ngang hàng.
Gã không mu ốn bị phát giác, giữ cự ly cách xa mười mấy trượng, thấy bóng người đằng trước nhất thân hình thon gọn, thấp thoáng có vẻ quen thuộc. Không lâu sau, Hàn Ngạc lại từ thân pháp của ba cái bóng nối đuôi kia nhận ra chúng là người trong “Long Môn Dị”.
Phi thân đi được một bữa cơm, bóng người đằng trước nhất đột nhiên dừng lại. Hàn Ngạc thấy mấy tên kia đều là hảo thủ, không muốn để chúng phát giác, chạy tới thêm mấy trượng rồi vọt mình ẩn náu trên một thân cây cổ thụ. Ba tên trong Long Môn Dị thân pháp cực nhanh, nháy mắt đã đuổi kịp, chạy đến trước mặt người kia. Hàn Ngạc nhờ có ánh trăng soi, thấy áo choàng của chúng tung bay phần phật, trên mình lấp loáng lân quang. Hàn Ngạc thầm kinh hãi: “Thất Phiến Lân” trong Long Môn Dị? Chúng là hảo thủ tuyệt đỉnh trong Long Môn Dị, không biết người chúng muốn truy kích là ai đây?
Ng ười đằng trước giấu mình trong bóng tối, Hàn Ngạc không nhìn thấy được mặt mũi y. Một tên trong “Tam Phiến Lân” cao giọng quát: “Còn muốn chạy à? Suốt dọc đường ngươi đã dùng thủ đoạn bỉ ổi ám sát huynh đệ bọn ta. Bọn huynh đệ ta đã có ba mạng chết dưới tay ngươi. Hôm nay phải lấy mạng đền mạng thôi!”.
Ng ười trong bóng tối lắc mình, y chẳng đáp lời mà xuất thủ. Chiêu số của y hết sức hung hãn, sử dụng một thanh chủy thủ. Chủy thủ thanh quang lấp lánh, không trung bỗng hiện ra một luồng kiếm khí lẫm liệt. Chiêu số quá quen thuộc, Hàn Ngạc không khỏi cả kinh thầm “a” lên một tiếng: đó rõ ràng là lộ số gần với lộ số của mình. Người nọ xuất thủ cực nhanh, nháy mắt đã trả trao hơn mười chiêu với bọn “Tam Phiến Lân”. Hàn Ngạc thấy chiêu số của y không chỉ có lộ số của mình, mà còn có thủ pháp của dòng Đại Hoang Sơn. Đó không phải là Tiểu Kế thì còn là ai khác? Binh khí trong tay nó không phải là chủy thủ “Hàm Thanh” mà mình tặng nó đó sao?
Hàn Ng ạc vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Mừng rỡ là vì còn tưởng Tiểu Kế xa xôi tuốt ở Liên Thành Kỵ, thì ra lại đã quay về; kinh hãi là nó đang đối đầu hạng hảo thủ lừng danh như “Tam Phiến Lân” kia, hơn nữa lại là ba người, nó ứng phó có nổi không?
Thân ng ười gã vọt lên, lao thẳng về phía Dư Tiểu Kế. Song gã tới gần một chút thì lại thấy Dư Tiểu Kế chẳng yếu thế chút nào dù bị ba tên liên thủ vây đánh. Chủy thủ trong tay tuy ngắn, nhưng nó ỷ vào thân pháp thần tốc, đánh như sấm chớp, thoái lui như khỉ vượn, thực thần thông quảng đại.
Hàn Ng ạc bần thần, không ngờ một năm xa cách, công phu của Tiểu Kế cuối cùng đã đại thành. Thấy nó chẳng bị hung hiểm gì, gã len lén đến gần trong khoảng ba trượng, đúng phạm vi Trường Canh có thể tung ra bất cứ lúc nào, lướt lên một thân cây, tiếp tục ẩn thân. Dư Tiểu Kế lúc mười sáu mười bảy tuổi đã gia nhập Liên Thành Kỵ tham chiến, công phu rèn luyện qua thực chiến, cũng thực là hung mãnh cứng cáp. Thêm vào nó lại được bậc danh sư như Hàn Ngạc chỉ điểm, xuất thân từ dòng Đại Hoang Sơn, mà tâm pháp của Đại Hoang Sơn nó cũng cảm ngộ được hơn ai hết. Năm nay đã quá hai mươi, đúng là một lưỡi kiếm đã mài dũa hoàn hảo. Hàn Ngạc càng xem càng có cảm giác trên mình Tiểu Kế phát ra một luồng nhuệ khí và tiêu kình giống như hồi mình mới xuất đạo. Gã thầm hoan hỉ, lại có hơi cảm khái, chăm chú quan sát gương mặt của Tiểu Kế. Có điều động tác của nó quá nhanh, ngoài đường nét mặt mũi rắn rỏi ra, gã đâu có nhìn thấy gì khác.
Ti ểu tử này thì ra đã trưởng thành rồi. Không trung vang vọng tiếng thét của Tiểu Kế: “Các ngươi truy sát ta một năm có thừa, Đông cung thực ra đã cho các ngươi cái gì tốt đẹp quá vậy? Cứ theo ta đến chết mới thôi à? Tiểu gia trước đây giết đồng bọn của các ngươi… không sai… đúng là có dùng quỷ kế, nhưng các ngươi người đông, lại theo ta sát nút, khà khà, hôm nay cho các ngươi xem xem thủ đoạn của tiểu gia ta ra sao”.
Thân hình nó ch ợt sựng lại, sau đó như từ trạng thái tĩnh lướt nhảy lên, trực tiếp đưa chủy thủ tới trước mắt địch nhân. Hàn Ngạc thầm kêu: “Thạch tê phế lũy”. Đó là kiếm thuật độc môn mà gã sáng chế, trên đời này, trừ gã ra, cũng chỉ có Tiểu Kế biết sử, không ngờ nó đã luyện thành.
Bài “Th ạch hỏa quang” mà Tiểu Kế thi triển lại khiến cho Hàn Ngạc cảm thấy vô cùng lý thú. Kiếm thuật đó trong tay Hàn Ngạc phiêu hốt dũng mãnh, lọt vào tay Dư Tiểu Kế lại biến thành hết sức hung hãn mạnh bạo, chiêu kế tiếp là “Hỏa diệt tịch hoa”. Hàn Ngạc nhìn thấy Dư Tiểu Kế để lộ sơ hở, cả kinh thốt: “Không thể!”, thân hình vọt tới trước. Nhưng một tay của Tiểu Kế lại đã tiềm phục dị thuật của Đại Hoang Sơn, khi địch nhân phát hiện kẽ hở có thể lấn vào, mũi chủy thủ đã chẻ một miếng thịt lớn trên cổ địch. Vết thương động vào huyết mạch, hết sức nghiêm trọng. Tên địch rên thảm một tiếng, lảo đảo quỵ xuống.
H ắn vừa té, có một tên đồng bọn lao lên đỡ. Chúng thấy có người đến giúp Tiểu Kế, liền xoay mình bỏ chạy. Ba tên lui hết sức mau lẹ, Tiểu Kế lại không chịu buông bỏ, vọt mình đuổi theo. Nó còn trên không, Hàn Ngạc lại đã xuất chiêu trao đổi với nó. Gã quen thuộc lộ số của nó quá rồi, mới vung một trảo đã đoạt được chủy thủ của nó, tả thủ ló ra, đưa Trường Canh vào tay nó, thấp giọng: “Thuận tay hơn”.
D ư Tiểu Kế vọt trên không, Trường Canh đánh ra một chiêu “Quang độ tinh dã”. Một trong ba tên “Tam Phiến Lân” rên hừ một tiếng, đầu vai bị kiếm thế đâm xuyên. Dư Tiểu Kế lại không đuổi theo nữa, tới khi nó từ trên không bắt đầu hạ mình, Hàn Ngạc đã lướt lên tới, song thủ nắm lấy tay nó, hai người cùng rơi xuống. Ánh mắt tươi cười, chỉ là nói không nên lời.
Đ ôi mắt của Dư Tiểu Kế sáng như sao trời, nó lại đã cao hơn nữa rồi, cao cũng cỡ Hàn Ngạc chứ chẳng chơi. Một hồi sau nó còn chưa lên tiếng, Hàn Ngạc cười thốt: “Sao về mà không đi tìm ta, quên Ngạc ca của ngươi rồi à?”.
D ư Tiểu Kế không nói. Hàn Ngạc nhớ lại bộ dạng của nó hơn bốn năm về trước, trong quán rượu Lưu Bạch Đọa, Tiểu Kế bị người ta truy sát, mặt mày dơ dáy chạy đến tìm gã. Chỉ có cỏn con bấy nhiêu năm, bây giờ nó bị truy sát mà lại có thể tự mình rút đao nghênh địch, tâm tư gã tràn trề cảm xúc, hoan hỉ pha lẫn với chút thê lương. Một hồi sau, Dư Tiểu Kế lẳng lặng rụt tay: “Tôi cũng mới về”.
Đ ã sang canh ba, hai người lại đều không muốn về thành. Họ đi tới tìm một nơi bằng phẳng ngồi xuống. Hàn Ngạc cười nói: “Hồi trước sao ngươi chẳng nói tiếng nào, nói đi là đi vậy?”.
D ư Tiểu Kế im lặng, một năm không gặp, nó có vẻ biến thành trầm ổn hẳn, bình tĩnh hơn nhiều. Nó lặng yên một hồi rồi mới đáp: “Lúc đó tôi cảm thấy có rất nhiều chuyện không hiểu rõ được, phải một mình mới ngẫm nghĩ xong”.
Hàn Ng ạc thẫn thờ: vậy bây giờ có nghĩ ra chưa? Gã cười hỏi: “Sao chẳng báo tin gì hết, đột nhiên lại quay về vậy?”. Dư Tiểu Kế ngẩng lên: “Tỷ tỷ của tôi, chị ta kêu người truyền tin, nói huynh trải qua hiểm nguy, thân mang trọng thương, cho nên tôi về”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ, là Dư Tiệp dụ Tiểu Kế về? Nàng ta… thì ra còn chưa chịu dứt. Chỉ nghe Dư Tiểu Kế nói: “Thực ra tôi vừa vào Quan nội là đã biết chị ta gạt tôi, mà trước đó tôi cũng có nghĩ rằng chị ta lừa tôi”. Hàn Ngạc cười: “Ngươi không tức sao?”. Dư Tiểu Kế háy gã: “Tức? Lẽ nào huynh thực bị trọng thương thì tôi mới cao hứng sao? Có cái gì mà tức chứ? Từ nhỏ tới lớn tôi đã bị chị ta lừa nhiều lắm rồi”. Hai người nhất thời không nói gì nữa, hơi mệt, họ lại tìm một cái lều tranh chứa rơm lăn ra nằm. Trong lều còn có mùi phân bò, trộn lẫn với không khí đồng quê trong lành, thực là một cảm giác chân thực vô cùng. Hàn Ngạc nằm trên một đống rơm ngửa mặt nhìn nóc lều, nhất thời lại chưa ngủ được. Thân người Tiểu Kế chợt động đậy: “Nhớ tới Yêu Yêu à?”. Hàn Ngạc ngẩn người, đúng là mình nghĩ gì nó cũng biết hết. Gã cười khổ. Tiểu Kế nói tiếp: “Ngủ đi, một Yêu Yêu đi rồi, sau này còn có thể có Yêu Yêu khác mà…”. Thanh âm của nó mệt mỏi, chừng như rất khốn cùng. Hàn Ngạc mở mắt nghĩ: còn có thể có sao? Thực còn có thể có sao? Nói thực buồn cười, cũng đã qua lại với nhiều nữ tử, nhưng người để lại cho gã toàn là những hồi ức tươi đẹp không ngờ chỉ có một Yêu Yêu. Số còn lại… thôi đừng nói… đừng nói đến… Nhưng thực còn có thể có sao? Mình đã qua thời niên thiếu cuồng ngông, cũng không còn khát vọng và kỳ vọng vào tương lai của thời niên thiếu nữa, không còn sự tha thiết nồng nhiệt đối với cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên như thế nữa. Cái gã nghĩ đến chỉ là những thấu hiểu thầm lặng kiểu nắm tay nhau mà thành tri kỷ, có phải thực đã già rồi không? Tiếp đó đầu óc gã nghĩ đến gì đó, mặt mày đột nhiên nóng bừng lên, tâm lý có vẻ bất an, phảng phất vẫn còn cảm giác thời niên thiếu. Sao có thể như vậy… Hàn Ngạc lòng nghi hoặc, nghĩ nghĩ ngợi ngợi rồi cũng ngủ vùi đi. Sang ngày hôm sau lúc tỉnh dậy, Hàn Ngạc lấy cây “Hàm Thanh” Tiểu Kế kê dưới đầu, mỉm cười thốt: “Cái này ta phải thu hồi rồi”. Tiểu Kế ngẩn người, nhưng cũng chẳng nói gì. Hàn Ngạc lại đem “Trường Canh” giắt bên hông nó: “Thiếu niên kiếm khách, ngươi không phải luôn luôn muốn làm kiếm khách sao? Lúc đối địch, cây này vừa tay hơn đó”.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 102 Vương hầu giai thị bình giao nhân1
Khu vi ện tiêu điều, hoa quế đã kết thành trái, thực hiếm thấy. Hương quế thoang thoảng trong không khí --- Đã sang tháng mười rồi, đó chỉ là một chút hương vị còn tồn tại của đóa hoa không cam chịu rụng rơi, mong manh như một niềm quyến luyến trong ký ức.
M ột cỗ xe sơn xanh dừng trước cửa, một nữ nhân bước xuống xe, dung mạo mỹ miều, thân người yểu điệu. Nàng nhìn cửa vào: thiệp hẹn nói là ở đây phải không? Nàng đi tới cửa, trong viện lặng im. Thình lình một con chim trốn lạnh bay ra, oang oác hai tiếng, giọng khản đặc. Nó thấy chẳng có bạn hữu nào phụ họa, mất hứng thú bỏ đi. Cửa khép hờ, tựa như chủ nhân đang đợi ai đó. Nữ tử bước vào vườn sau, chủ nhân đã có mặt. Nữ tử mỉm cười, chẳng bước vào ngôi đình chủ nhân đang ngồi, mà đứng dựa cửa khu vườn. Thanh âm của chủ nhân vang lên: “Sao vậy, Vi phu nhân đã đến mà lại không tiến vào, lẽ nào Lạc Dương Đỗ gia đã phá hủy ngõ Luân Hồi một lần mà còn lo ngại Thập Sá cổ đồ của bọn ta sao?”. Người đến chính là Đỗ Phương Ninh. Nàng điềm đạm mỉm cười: “Đây gọi là hoàng kim chi tử, tọa bất thùy đường2. Ta tuy cũng là người hành tẩu giang hồ, lại đâu phải là hạng cưỡi ngựa làm trò mạo hiểm kiếm sống, phàm chuyện gì cũng thận trọng một chút là hơn”. Nụ cười của nàng tươi tắn, nghe nàng nói, sắc mặt của chủ nhân lại sa sầm. Chủ nhân xoay mình, thì ra chính là “Mạc Thượng Mai” Dư Tiệp. Nàng ta đã đổi trang phục, ăn mặc không còn theo kiểu nhà nghèo như hồi ở Lạc Dương ngày trước, mà cũng chẳng theo lối con gái quý tộc, chắc không muốn giống Đỗ Phương Ninh. Nàng ta vận kình trang bó sát mình, chất vải đắt tiền, khoác thêm một tà áo choàng tản rộng, càng hiển lộ thân mình thon thả của nàng ta. Áo choàng đen tuyền, bên trên thêu kim tuyến, hết sức bắt mắt, chắc cũng tốn không ít công phu. Đỗ Phương Ninh ngó ngó y phục của nàng ta, tươi cười thốt: “Đã lâu không gặp, Dư cô nương ăn mặc cũng khác với ngày trước quá”. Câu nói của nàng có vẻ vô tâm, nhưng lọt vào tai Dư Tiệp thì lại hoàn toàn có ý châm chích. Nàng ta điềm đạm đáp trả: “Hạng cưỡi ngựa làm trò như ta dĩ nhiên ăn mặc cũng phải hợp cách. Bộ đồ này nếu chẳng phải nhờ hồi đó Vi phu nhân không ngại cành vàng lá ngọc, bỏ bê gia đình đi theo Hàn tướng quân ra Tái ngoại, trấn áp Đại Mạc vương thì ta cũng đâu có lột bỏ được quần áo nữ phỉ mà thế vào chứ”. Đỗ Phương Ninh thấy thanh âm của nàng ta hơi nhấn mạnh khi nói đến ba chữ “Vi phu nhân”. Ba chữ đó thoát ra từ miệng Dư Tiệp lại khiến cho nàng có cảm giác chói tai cực kỳ. Nàng lại điềm đạm thốt: “Nghe nói Thánh chỉ năm ngoái đã cho Dư cô nương trùng tu lại ngõ Luân Hồi. Dư cô nương cũng được phong chức Quận chúa, thực là đáng mừng đó. Ủa, huynh đệ Tiểu Kế mà Dư cô nương quan tâm nhất không ở cạnh Dư cô nương à?”. Dư Tiệp mỉm cười: “Nó mà, bản tính như con ngựa hoang vậy, tuy xuất thân cao quý, cao quý gấp mấy lần cái bọn tự phụ mình cao quý, nhưng lại luôn luôn thích đi lang thang, khiến cho cái đám ghen tị ganh ghét phải mướn sát thủ muốn gây bất lợi cho nó. Song số mạng chừng như có trời phù hộ, tới bây giờ nó vẫn còn sống nhăn, không bị tổn thương một cọng tóc nào. Kẻ muốn hại nó chắc là ăn không ngon ngủ không yên, tức tối nghiến răng trèo trẹo”. Đỗ Phương Ninh “xì” một tiếng, cười nói: “Cũng tội nghiệp thực. Bị người ngoài truy sát đã đành, chuyện thảm thương nhất trên đời lại là bị thân nhân tính toán lợi dụng. Rõ ràng người ta không muốn, lại cứ bắt ép người ta làm này làm nọ, mưu đồ cho sự phú quý của mình, đó mới là bỉ ổi nhất đó”. Dư Tiệp ánh mắt căm hận, cười lạt: “Bị thân nhân hại cũng còn đỡ. Với ta, bị người mình yêu lấy cái danh nghĩa yêu thương mà bày kế đưa mình vào tròng, đó mới là bỉ ổi khôn cùng”. Thanh âm của Đỗ Phương Ninh chợt biến thành lãnh đạm: “Với ta, kẻ bày kế thắt tròng mà lại chẳng có ai để thắt mới là đáng tội nghiệp nhất đó. Trên đời này, đáng buồn nhất đâu có gì bằng ba chữ đáng tội nghiệp. Một nữ tử muốn gạt người mà phải tìm kiếm bán sống bán chết, đó mới gọi là hạ tiện. Thực đúng là ‘một khóc hai gào ba tới điếu' lăn vật ra khắp đầu đường xó chợ”. Rồi nàng chuyển giọng: “Không biết Dư cô nương hẹn ta đến có chuyện gì?”. Dư Tiệp ngó mặt trời: “Ừm, chắc giờ này đã lấy được rồi”. Đỗ Phương Ninh ngẩn người: “Lấy được cái gì?”. Dư Tiệp hờ hững đáp: “Tiểu huynh đệ của ta thân thế đáng thương, mẹ nó trước khi lâm chung có để lại một lá huyết thư, lâu nay rơi vào tay kẻ gian, biến đi đâu mất. Ta nói xem ra giờ này lá huyết thư đó chắc đã lấy được rồi”. Đỗ Phương Ninh thần tình hoang mang: huyết thư? Ả nói huyết thư của Dư Hoàng hậu? Dư Tiệp muốn dụ Dư Tiểu Kế lên ngôi, có thể nói ngoại lực đã đủ, cái thiếu sót là lá huyết thư để chứng minh thân thế của Dư Tiểu Kế kia. Vì lá huyết thư đó, hồi trước nàng không ngại đích thân lộ diện, đoạt lấy từ trong tay Lợi Dữ Quân ở nhà của Vu Tự Vọng. Dư Tiệp sao lại nói sắp lọt vào tay? Dư Tiệp mặt mày tươi cười: “Úi, ta cũng đã hao tâm phí sức lắm mới nghe ngóng được chỗ cất giấu của lá huyết thư đó. Nam nhân kia cũng thực đáng thương quá, cưới một bà vợ hung dữ như lang sói, chắc cuộc sống của y cũng chẳng tốt lành gì! Ta thấy y tội nghiệp quá, phí chút tâm cơ mới giúp cho một tiểu a đầu môn hạ của ta có dịp phục thị y. Lá huyết thư đó y cất giấu, hễ con vợ hung ác kia không có mặt, tiểu a đầu của ta khôn ngoan lanh lợi, hiểu biết làm sao khiến cho một người đàn ông cảm thấy mình đúng là đàn ông, cho dù y tối ngày nằm trong phòng không ra ngoài được, hết sức tội nghiệp, muốn xem lá huyết thư đó chắc cũng có biện pháp để được”. Đỗ Phương Ninh tới giờ mới tái mặt: người của Đại Hoang Sơn, là người của Đại Hoang Sơn đã tiềm nhập kề cận Đắc Huy! Không sai, lòng nàng ít nhiều gì cũng thấy có lỗi với Đắc Huy. Đắc Huy lại từ lâu cảm thấy chẳng giúp ích gì được, để an ủi y, nàng đã giao lá huyết thư kia cho y cất, coi như tỏ ra coi trọng ỷ lại vào y một chút. Nàng tuy không ra khỏi khu viện, nhưng nàng đâu thể luôn luôn kề cận Đắc Huy, mà cũng đâu mấy quan tâm đến người hầu cận y. Bây giờ hồi tưởng lại, gần bên Đắc Huy từ năm ngoái sau khi mình đi Trường An đã có thêm một a hoàn. Theo Dư Tiệp nói thì a đầu đó là người của Đại Hoang Sơn. Với bí thuật tấn công tâm tưởng của Đại Hoang Sơn, thêm vào có nữ sắc dụ dỗ, Đắc Huy không rõ nguồn cơn, làm sao mà đề kháng lại được? Nàng biến sắc, bụng khẩn trương bối rối. Lại nghe Dư Tiệp cười khúc khích: “Sao vậy? Một người đàn ông quý tộc có thêm một ả vợ bé thì đâu có gì ghê gớm chứ. Quý tộc ngày nay, cho dù là đàn bà con gái cũng khoái ra ngoài thông gian với người ta mà? Vi phu nhân xuất thân hào môn, chắc cũng quen thế mà, sao lại có vẻ khó chịu như thế? Vậy cũng coi là… bội phản sao?”. Đỗ Phương Ninh nhất thời cảm thấy lòng đau xót. Nàng tuy không chung đụng gì với Đắc Huy, nhưng trên danh phận y vẫn là trượng phu của nàng. Nàng toàn lực chống chỏi cho hai họ Vi Đỗ, nếu… y thực vì một con a đầu mà cam tâm bán đứng chuyện cơ mật tuyệt đỉnh của hai nhà, chỉ vì để được vui lòng, không coi là bội phản thì còn gọi là gì nữa đây? Tâm tình bực bội, Thanh Sách cựa quậy trong ống tay áo, nàng lãnh đạm thốt: “Lấy sắc dụ người, từ Dư Hoàng hậu năm xưa cho đến con tiểu a đầu ngày nay, ả nào ả nấy cũng toàn một giuộc. Cũng chỉ có cái thứ môn phái xuất thân đê tiện nhà quê thiếu học mới giở mấy trò đê tiện đó được”. Mặt mày Dư Tiệp cũng biến sắc: “Đê tiện?”. Nàng ta chợt lớn giọng: “Không sai, là đê tiện. Bất quá đợi đến khi hai nhà Vi Đỗ của ngươi mất hết cơ nghiệp, nam làm nô bộc, nữ đi ca múa, ngươi mới biết thế nào thực sự là đê tiện!”. Đỗ Phương Ninh phừng phừng lửa giận. Nàng đã sớm biết Dư Tiệp vào thành trùng tu ngõ Luân Hồi tất sẽ có họa hoạn. Giờ huyết thư đã lọt vào tay chúng, về sau không biết sẽ làm tới gì đây! Thanh Sách ngọ nguậy, Dư Tiệp lạnh lùng quát: “Sao rồi, ngươi muốn giết ta?”. Hai người đều đã nổi nóng, cục thế lúc này chỉ cần chạm nhẹ là bùng nổ ngay. Thân hình hai người vẫn còn bất động, Đỗ Phương Ninh lãnh đạm: “Giết ngươi? Ngươi còn chưa xứng”. Nàng xoay mình định bỏ đi, Dư Tiệp lạnh lùng thốt: “Chưa giúp ngươi chứng kiến Thành Nam Tính tàn bại, ta đâu có cam”. Đến khi hai người chừng như đều đang quay đầu chẳng thèm chấp nhất, Thanh Sách từ trong ống tay áo của Đỗ Phương Ninh vụt bay vọt ra, xoáy về phía Dư Tiệp. Đôi Luân Hồi Nhận trong tay Dư Tiệp cũng cơ hồ đồng thời bắn tới, đánh thẳng tới hậu tâm của Đỗ Phương Ninh. Hai người cùng lách tránh, Đỗ Phương Ninh hừ lạnh: “Được, ngươi cũng là một nữ tử có võ, bọn ta đấu một trận tranh cao thấp đi!”. Thân hình nàng bung lên, ẩu đả với Dư Tiệp. Nàng hồi mới vào đã định xuất thủ đột tập, nếu chẳng phải lo ngại trong vườn có bày bố trận thế thì đâu có tức tối đến như vầy. Giờ lửa giận đã bốc lên, nàng không còn e dè gì nữa. Đỗ Phương Ninh nàng là ai chứ? Có bao giờ để người ta khinh khi hạ nhục như vậy chứ? Không trung xiêm y tung bay, Đỗ Phương Ninh vọt mình, phi thân lên góc đình, Thanh Sách quật xuống, uyển chuyển mà mãnh liệt. Nàng tuy rất ít khi xuất thủ, nhưng luận về võ nghệ lại cũng xứng đáng thuộc hàng cao thủ bậc nhất. Dù hung mãnh thần dũng như Hàn Ngạc, “Sách Kiếm” cũng luôn luôn xếp ngang hàng. Kỳ này xuất thủ, chiêu thức cuồn cuộn như dòng sông, khó lường như ánh chớp. Từ sau cái lần giả chết, tâm pháp Đại Hoang Sơn của Dư Tiệp có vẻ tiến bộ vượt bực, thoát thai hoán cốt. Nàng ta thống hận Đỗ Phương Ninh đã lâu, luôn luôn muốn phân cao hạ. Nguyên lúc trước ở Lạc Dương, nàng ta tự biết võ nghệ của mình không bằng Đỗ Phương Ninh. Là con gái, xuất thân lại có tao ngộ, dung mạo võ công đều kém kẻ mình hận nhất, đó vốn là chỗ nàng ta không thể dung nạp được. Nhưng từ khi ra mặt trở lại đến nay, đổi tên thành “Mạc Thượng Mai”, xưng hùng Tái ngoại, lòng tin cũng như võ nghệ của nàng ta đều tăng tiến. Nàng ta phi thân bay bổng trong đình, vẫn chiếm được một góc đình dưới sự nà sát của Thanh Sách. Trong tòa lục giác đình, nhất thời chỉ thấy binh khí của hai người bay qua bay lại, hai luồng sáng một xanh một trắng quấn vào nhau, thực là đẹp mắt. Thanh Sách cùng Luân Hồi Nhận đều là binh khí mềm, lại thiện dụng để tấn công từ xa, cho nên hai người giữ khoảng cách một trượng có, mỗi một chiêu phát ra lại đều quyết chí lấy mạng địch nhân. Trận đấu này đúng là phượng liệng loan chao. Lúc ở góc đình, khi trên mái ngói, thuyền quyên giao đấu. Được vài chục chiêu, Đỗ Phương Ninh kinh ngạc về thân thủ tinh tiến của Dư Tiệp. Nhưng Dư Tiệp có cảm giác áp lực càng lúc càng nặng, xem ra võ nghệ của nàng ta vẫn còn kém nàng kiêu nữ nhà họ Đỗ một bậc. Nàng ta không còn ham đánh nữa, giở hư chiêu rồi vọt mình bay ra ngoài viện. Đỗ Phương Ninh đuổi theo sát nút, song con đường trong khu vườn dưới chân đột nhiên ánh hiện năm màu hoa mắt. Nàng thất kinh, biết đó nhất định là trận địa bí ẩn của Đại Hoang Sơn. Đối với bí thuật Đại Hoang Sơn, nàng nghe nói đến nhiều rồi, đâu có dám coi thường. Thân hình nàng sựng lại, Dư Tiệp đã vọt lên đến tường viện. Nàng ta cười yêu kiều, đứng đó ngoái đầu hỏi: “Có biết tại sao ta hẹn ngươi đến tòa viện này không?”. Đỗ Phương Ninh đang bị hãm trong trận, ngạc nhiên ngẩng lên nhìn. Dư Tiệp cười rất đắc ý: cũng có cái ngày ả phải ngước lên nhìn mình. Nhưng nàng ta không thốt ra, lòng thấp thoáng đang che giấu tình cảm gì đó, vùi lấp niềm cảm khái gì đó. Nàng ta khẽ thốt: “Trong tòa viện này, mười bảy tháng chín, ta từng trải một đêm hoan lạc với Hàn Ngạc”. Nói xong, nàng ta rướn mình bỏ đi. Đỗ Phương Ninh tuy bị hãm trong trận, trong đầu lại đang mê mê loạn loạn về câu nói của Dư Tiệp: ả ta nói gì? Ả ta nói gì? Ngạc… chàng chắc đâu phải là hạng người như thế? Nhưng… mình đã đối đãi với chàng như vậy, chàng… thực ra… ở ngoài có từng qua lại với đàn bà con gái nào khác không? Cho dù thông minh sáng suốt như nàng, nghĩ đến việc đó, lòng vẫn không khỏi cảm thấy hơi chua chát xót xa. Trắng như tuyết đầu ngọn núi, trong tựa trăng giữa vầng mây… lòng mình luôn luôn trông mong Hàn Ngạc cũng như vậy. Mà nay, cho dù nàng cuối cùng đã thỏa sở nguyện, cho dù toàn thiên hạ đều đã lọt vào lòng bàn tay mình, cho dù nàng khổ tâm đắn đo lo liệu, cuối cùng bảo toàn được cho gia môn hai họ bình an, nhưng… cái nàng muốn đâu chỉ là những thứ đó! Giọng điệu của Dư Tiệp, lời nói đâu phải láo bậy. Đỗ Phương Ninh cảm thấy đầu óc bấn loạn, tiếp đó nàng chợt nhớ tới cỗ hương xa mái vòm xanh màu ngọc bích hồi nãy nàng ngó thấy, nhìn rất quen mắt, rất giống chiếc xe của mình. Tâm tư nàng nhanh nhạy: Dư Tiệp có phải đã làm gì để lừa Hàn Ngạc đến? Nàng rống lên: “Giả mạo người ta, mới…”. Nhưng vừa ngẩng lên, thân hình của Dư Tiệp đã biến mất rồi. Lời nói nghẹn cứng trong cổ họng nàng, không vạch trần được, nhất thời cảm thấy còn phiền não khổ hận hơn cả sự thất lạc của lá huyết thư, hơn cả sự trói buộc của trận thế quanh mình.
1 Vương hầu toàn kẻ kết tri giao, là câu tiếp theo câu “Phủ huyện tận vi môn hạ khách” trong bài "Thiếu niên hành - kỳ tam" của Lý Bạch (xem chú thích {1} hồi 101). 2 Người giàu sang không dám ngồi gần mái vành, sợ ngói rớt trúng. Câu này ẩn dụ không nên dừng ở chỗ có nguy hiểm, xuất xứ từ sách “Sử ký – Tư mã Tương Như liệt truyện”.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 103 Kiển lư sấu mã trần trung bạn1
D ư Tiểu Kế cưỡi một con lừa, Hàn Ngạc thì vẫn ngồi trên lưng thớt ngựa Chuy của gã, sóng vai chậm rãi đi ra khỏi Lạc Dương thành. Dư Tiểu Kế cười nói: “Ngạc ca, Chuy nhi của huynh xem chừng đã gầy đi rất nhiều đó”.
Hàn Ng ạc thốt: “Hơn một năm nay, chạy đông chạy tây, nó chẳng nghỉ ngơi được chút nào. Cũng là ta đối không phải với nó”. Dư Tiểu Kế ngó người và ngựa, một hồi mới cười nói: “Gầy một chút cũng tốt, gầy thì càng có tinh thần. Con lừa của tôi tuy không gầy, nhưng lại gàn bướng, chọc tôi tức chết đi được. Lúc tôi mua nó, chủ của nó còn bó tay bó chân. Tôi hỏi y có phải nó hay quăng người cưỡi văng xuống không. Y còn mạnh miệng nói chẳng phải, đợi tôi trả tiền rồi mới chịu nói thực. Đúng là tốt bụng mà, còn dặn dò tôi phải cẩn thận, lại cười tôi thấy nó to con mới chọn mua”. Hàn Ngạc nghe vậy không khỏi cười khà khà. Sự vụ phiền toái gì đều đã giao cho Vương Hoành Hải và Cổ Siêu Trác xử lý, lại có Tiểu Kế ở đây, cho nên gã dắt ngựa ra khỏi thành dạo chơi với nó. Gã cười thành tiếng, thanh âm vang vọng không trung, nghe mà ngạc nhiên thầm nghĩ: mình đã lâu lắm rồi không được cười khoan khoái được như vầy. Thực cũng chỉ ở gần Tiểu Kế mới có thể vui vẻ đến thế, phải không? Dư Tiểu Kế nói: “Ngạc ca, mấy ngày trước huynh còn nhăn mặt nhíu mày, bây giờ mới có chút hào khí như hồi còn ở Liên Thành Kỵ đó”. Hàn Ngạc hỏi: “Bọn ta về Liên Thành Kỵ được chứ?”. Dư Tiểu Kế cười nói: “Chuyện đó cũng tùy vào huynh, coi coi huynh buông được không. Tôi bây giờ mới thực làdạt trôi như cánh cò, giữa đất trời bao la2. Tôi nghĩ sao thì làm vậy thôi”. Hàn Ngạc nghe nó nhón vào một câu văn, không khỏi tức cười. Dư Tiểu Kế nhíu mày than: “Bất quá cũng đúng là huynh không thể ở Lạc Dương và Trường An nữa. Tôi ở Tái thượng cái gì cũng xong, chỉ là từng giờ từng phút đều lo lắng cho huynh. Huynh cả ngày qua lại với tên Du Cửu Khuyết mặt mày âm trầm kia, lại phải bận tâm việc cung cấm, thực là không hay. Hồi gặp lại huynh, tôi thấy mình mẩy huynh nhuốm hơi hám Thái giám rồi đó”. Ban đầu nó nói lo âu thì Hàn Ngạc còn động lòng lắng nghe. Tới câu cuối gã lại không khỏi quất một roi, cười mắng: “Hơi hám Thái giám gì chứ? Mấy Thái giám kia cũng là ông già của ngươi nặn ra thôi. Phải mà, ngươi còn trẻ, xương cốt mới cứng được vài ngày mà đã cười ta già rồi”. Dư Tiểu Kế kẹp đùi, thúc con lừa chạy tới. Hàn Ngạc đuổi theo, hai người hỉ hỉ hả hả giả bộ động thủ, rải rắc tiếng cười đùa suốt một đường, hòa lẫn với tiếng vó ngựa vó lừa thanh thúy. Dư Tiểu Kế cười hỏi: “Ngạc ca, bọn ta đang đi đâu vậy?”. Hàn Ngạc đáp: “Rong chơi mấy ngày đủ rồi, cũng phải tìm mục đích gì chứ. Bọn ta đi Long Môn thạch quật xem xem. Đã muốn xem lâu rồi mà không có thời gian". Dư Tiểu Kế ngẩn người: “Động đá Long Môn? Đó có phải là nhà của bọn Long Môn Dị không?”. Hàn Ngạc nghiêm mặt: “Sao, ngươi sợ à? Khà khà, bọn chúng truy sát ngươi hoài, ta thì lại một mực không xuất thủ, chúng cho rằng trong nhà của Tiểu Kế ngươi chẳng có người lớn hay sao chứ? Bọn ta đi lần này, coi như lo liệu sạch gọn luôn, cho ngươi cơ hội quậy phá luôn!”. Dư Tiểu Kế “phì” một tiếng: “Cái gì mà người lớn trong nhà chứ, huynh lớn lắm hả? Đâu có cần huynh, một mình tôi cũng có thể đọ sức rồi. Tôi đâu có sợ bọn quái vật Long Môn Dị. Thất Phiến Lân chúng đã bị tôi cắt mất mấy cái sừng, bây giờ là rồng cụt sừng, thương tích đầy mình, đúng là Long Môn ‘dị'!”. Hàn Ngạc thốt: “Trong Long Môn Dị trừ Thất Phiến Lân ra, đời trước hình như còn có hai lão quái, đừng nói ta không nhắc nhở ngươi, không thể coi thường đâu”. Dư Tiểu Kế lộn một vòng trên lưng lừa, kêu lên: “Lão quái? Chúng làm gì được chứ? Hai ngày nay tôi cao hứng thì có cao hứng, đáng tiếc là chưa được đánh đấm. Bây giờ có dịp, vui cũng thực vui, đúng là toàn diện rồi”. Nhưng cái lộn nhào của nó khiến cho con lừa chịu không nổi. Con lừa nổi cơn gàn, vụt đá dựng hai cước. Dư Tiểu Kế đang khoái trá, hoàn toàn không phòng bị, suýt nữa bị nó lật rớt xuống. May là công phu của Dư Tiểu Kế vững chãi, lắc lư một chút rồi lại ngồi yên. Thấy Hàn Ngạc đang cười hì hì muốn chọc, nó tức khí quất Ban Chuy một cái, khiến cho con ngựa cũng chổng vó lên.
1 Lừa hèn ngựa ốm theo trần tục, là câu trong bài “Thù lạc thiên hỉ lân quận” của Nguyên Chẩn. 2 Nguyên tác là: "Phiêu phiêu hà sở tự, thiên địa nhất sa âu", hai câu trong bài "Lữ dạ thư hoài" của Đỗ Phủ. Thi nhân tức cảnh sinh niềm bi hoài, trời nước mênh mông, cánh cò linh đinh; con người như cánh cò kia, lưu lạc sông hồ.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 104 Tử thụ chu y mộng lý thân1
Hàn Ng ạc cùng Dư Tiểu Kế lần này đi cũng hơn mười ngày, hại cho bọn Liên Ngọc trong dinh cuống cuồng. Cũng đâu phải cái gì ghê gớm lắm, đến ngày thứ năm sau khi họ rời khỏi thành, trong cung chợt giáng chỉ, mà gã chẳng có mặt, chỉ đành báo rằng gã đã xuất hành, cuối cùng phải để phó quan của gã lãnh chỉ.
Ch ỉ ý là: điều tra ra Dư Tiểu Kế vốn là dòng dõi của Dư Quốc trượng. Dư Quốc trượng năm xưa toàn gia ngộ hại, bụng trẫm hết sức bất an. Trẫm tưởng nhớ lòng nhân đức của Dư Hoàng hậu, nay sách phong cho Dư Tiểu Kế làm An Dật Hương công, cho phép thừa kế tước vị năm đời. Ban tặng bào tía đai ngọc, lệnh truyền cúng tế tổ tiên, chọn ngày triều kiến.
Ch ỉ ý đến đột ngột quá, Hàn Ngạc cùng Dư Tiểu Kế còn chưa biết gì thì đã ban xuống dinh quan của gã. Bọn Liên Ngọc ai nấy cũng kinh ngạc. Chỉ ý vừa phát ra, lập tức mau chóng đồn đại khắp hai đô thành. Bá tánh trong Lạc Dương thành ai ai cũng biết được. Người của Đông cung cả kinh, Đỗ Phương Ninh cũng khẽ than: lá huyết thư kia xem ra cuối cùng đã dâng lên tới nhà vua.
o0o
Hàn Ng ạc viết xong chữ cuối rồi mới thở phào nhè nhẹ. Đây là lá đơn gã xin từ chức soái tướng của Bắc đình Đô hộ phủ và chức Binh bộ Hành tẩu. Gã còn đang ở ngoài thành Lạc Dương. Gã ngước nhìn cảnh sắc ngoài cái quán trọ miền quê nơi mình tá túc, nhất thời cảm thấy đầu óc yên bình --- Hoang thôn dã điếm như vầy, có lẽ mới thích hợp với tính khí của gã, phải không? Còn cái gọi là ngựa vàng điện ngọc kia, lại chỉ khiến cho gã có cảm giác bị trói buộc khó chịu.
Bên m ười lăm thành Tây Vực đã có Cao Dũng cùng Khố Tán, Khương Nhung lại đang nảy sinh nội loạn, thế lực yếu hẳn, chắc không có vấn đề gì. Còn cục diện trong triều, ràng ràng rịt rịt mãi, vĩnh vĩnh viễn viễn cũng chẳng xong được, nhưng được cái là trước mắt cũng đã bình định phần lớn. Có Du Cửu Khuyết trấn áp bên trong, Vương Hoành Hải cầm binh ở ngoài, chắc người của Thái tử Chí Hoa cùng Bộc Xạ Đường có gây gổ đến đâu cũng không khích động thành đại loạn. Thời cuộc này, gã có tận hết sở năng cũng chỉ đến thế mà thôi.
Gã v ới Tiểu Kế mười mấy ngày sau mới về đến ngoài Lạc Dương thành. Chuyến đi Long Môn thạch quật lần này, phần lớn là để Dư Tiểu Kế xuất thủ, Hàn Ngạc chỉ áp trận. Cuối cùng đến khi Long Môn nhị lão ra mặt, Hàn Ngạc mới động thủ, dẹp yên chuyện “Long Môn Dị”, về sau khỏi phải bị chúng quấn quanh.
Tr ước khi tiến vào Lạc Dương thành lại, gã muốn hoàn thành tâm nguyện đó của mình. Gã vừa viết xong thì Dư Tiểu Kế tiến vào cửa, liền hỏi: “Ngạc ca, huynh viết gì vậy?”.
Nó cầm tờ trát trên bàn lên, xem xem rồi hỏi: “Thực muốn bỏ đi?”. Hàn Ngạc bình tĩnh đáp: “Mọi sự đã xong, chuyện lớn đều đã phó thác được, ta nếu trì hoãn mãi không đi thì đúng là mê luyến quá rồi đó”.
1 Áo tía thao hồng dấn mộng mơ, là câu tiếp theo câu “Kiển lư sấu mã trần trung bạn” trong bài “Thù lạc thiên hỉ lân quận” của Nguyên Chẩn. Áo đỏ và dây thao tía là y phục nhà quan bậc nhị phẩm và tam phẩm thời Đường.
Gã m ỉm cười: “Chỉ là từ nay về sau, Ngạc ca không còn lãnh lương bổng gì nữa, bọn ta xài tiền chắc phải dè xẻn đó”. Tiếp đó gã ngẩng đầu nhìn cảnh sắc mùa thu trong lành ngoài song cửa, lòng bâng khuâng: đi đâu? Núi rừng sông biển trước mắt tựa hồ không còn là núi rừng sông biển cho mình mặc sức nhảy nhót chao liệng như trước nữa. Nhất thời gã cảm thấy núi xa biển vời, không biết làm sao an bài cuộc sống về sau. Nào ngờ họ mới vào thành về dinh thì nghe Liên Ngọc thuật lại chỉ ý. Hàn Ngạc ngẩn người, Dư Tiệp thì ra vẫn đâu chịu dừng tay! Nàng ta làm sao mà thỉnh được Thánh chỉ đó? Lẽ nào đã đoạt được lá huyết thư kia rồi? Nếu chẳng phải vậy, nàng ta bằng vào cái gì mà chứng minh được thân thế của Tiểu Kế? Đây rõ ràng chỉ là bước đầu tiên của nàng ta, tiếp sau nàng ta sẽ an bài gì nữa? Hàn Ngạc nghĩ tới mà rêm đầu, Dư Tiểu Kế thấy Liên Ngọc mang tử bào ngọc đái tới, cũng không khỏi khoái trá, khoác lên mình, thắt dây đai đứng nghênh ngang, thực càng thêm phần khí khái. Nó cau cau mày, ngó mình trong gương: “Sao dòm giống như một con khỉ diễn trò vậy?”. Nó xoay mình đi ra ngồi trên cái ghế lớn ở giữa đại sảnh, trông ra ngoài, có cảm giác phòng ốc rộng rãi quá. Vinh hoa phú quý mấy chục năm về sau tựa hồ đang ở trước mắt. Lòng nó mê hoặc, thấp thoáng nhớ đến ngày tháng phá phách chơi đùa trong Đồng phường ở bờ bên kia Lạc Hà. Con hẻm nhơ nhớp kia, đám con nít đồng bọn dơ dáy kia! Bọn nó cũng từng lén lút khoét vách cạy ngói xem tuồng, hoặc đứng đường dòm ngó con cháu nhà quý tộc đi ngang qua, thường hay cảm thán: “Ông đây nếu có ngày được đóng bộ như chúng, nhất định phải uy phong hơn xa chúng”. Rồi nó lại nhớ tới A Nhị với cây đòn gánh và hai cái thùng, hàng ngày đi gánh nước suối cho người ta để kiếm tiền, miệng còn rêu rao một câu danh ngôn ai nghe cũng phải ôm bụng cười nắc nẻ: “Ông mà làm Hoàng đế thì sẽ đúc thùng nước bằng vàng, nước của toàn Lạc Dương sẽ quy cho một mình ông gánh hết”. Nghĩ đến đó, mặt Dư Tiểu Kế hé lộ một nụ cười. Bên ngoài dương quang đong đưa, Tiệp tỷ một mực muốn mình trở thành như vầy sao? Nó nghĩ tới tình cảnh trong vở tuồng, mình ngồi sau cái án của vua, Tiệp tỷ tay nâng ngọc tỉ đứng một bên. Cái tình cảnh đó đâu phải chỉ là diễn kịch, mà cũng có thể là thực, muốn giàu sang bao nhiêu cũng được, muốn uy quyền lớn tới đâu cũng được.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 105 Thanh nga dĩ lạc Hoài biên nguyệt1
Trước khi nhập cung, Dư Tiểu Kế có đi gặp Dư Tiệp.
T ỷ tỷ nó nói: “Dòng họ Dư bọn ta cuối cùng đã đợi được đến ngày hôm nay. Sau này dưới suối vàng, gặp tổ tiên ta đâu còn sợ phải thẹn nữa”. Dư Tiểu Kế ăn mặc khác xa hồi xưa. Dư Tiệp tươi cười chỉnh sửa đồ trang sức đeo bên hông nó: “Uy vũ quá, khí phách quá. Tiểu Kế, đệ thực đã trưởng thành rồi. Chẳng ngờ một năm không gặp, đệ lớn đến dường này”. Dư Tiểu Kế ngó tỷ tỷ, thầm nghĩ: tôi thà không trưởng thành. Có thể vì hồi bé không có cha mẹ chăm sóc, phần nào tận đáy lòng nó tựa hồ chẳng lớn lên được, cũng không muốn lớn. Tuy bề ngoài nó tỏ ra rất bình tĩnh trầm lặng, thân hình cử chỉ cũng dũng mãnh bạo dạn vô cùng, nhưng một khi ở gần Ngạc ca, nó vẫn có cảm giác mình vĩnh viễn là đứa bé không chút buồn rầu tư lự của ban sơ. Chút thiếu hụt nào đó trong sinh mệnh có thể làm cho người ta vĩnh viễn khựng lại ở một tâm trạng. Nó quyến luyến sự gần gũi đó, một sự gần gũi không vì lợi ích cá nhân gì hết. Nó nói: “Tiệp tỷ, chuyện này tôi nghe chị. Nhưng bọn ta phải dừng lại ở đây. An Dật Hương công đã là tước vị nhất phẩm rồi, đi lên nữa cũng chỉ có phong vương mà thôi. Tôi không ưa giết người lộng quyền, cũng không muốn kế vị gì hết, không muốn làm Hoàng thượng gì cả. Bọn ta phải ngưng. Người chết quá nhiều rồi, sau này, tôi đã lớn rồi mà, sẽ chiếu cố thực tốt cho chị. Chị cũng đâu phải nhỏ nữa, nên tìm những ngày tháng yên ổn đi”. Dư Tiệp cau mày: “Nói tầm bậy”. Tiếp đó cười tươi tỉnh: “Thuyền đi ngược dòng, không tiến thì sẽ lùi. Đây mới là bước đầu Tiệp tỷ an bài thôi. Hàn Ngạc hiện đang nắm binh quyền toàn thiên hạ, con đường đệ đi sau này còn dài mà. Cũng không phải lâu lắc gì, chỉ nội trong một năm… chỉ cần…”. Nàng ta thoáng trầm tư, trên mặt hiển hiện một nếp nhăn nho nhỏ: “Tiệp tỷ của đệ lèo lái ổn thỏa lắm, đệ phối hợp với Tiệp tỷ thì còn ai có thể nói thiên hạ này không phải là của bọn ta? Huống hồ đệ là con trai của Dư Hoàng hậu, thiên hạ này vốn là của đệ, bọn ta chỉ lấy về cái đáng lẽ là của bọn ta mà thôi. Đệ nghĩ coi, cho dù bọn ta muốn dừng tay, Đông cung, Đỗ Phương Ninh, hay Bộc Xạ Đường có cam tâm để bọn ta dừng tay hay không chứ? Đường đời này đâu có dừng lại được, có rất nhiều người ép đệ đi tới mà”. Dư Tiểu Kế lắc lắc đầu: “Nhưng đó không phải là cái tôi muốn”. Sắc mặt của Dư Tiệp bỗng dưng lạnh lùng, nàng ta im lặng một hồi lâu, hai mắt chăm chăm ngó Dư Tiểu Kế, cuối cùng thốt: “Nhưng… cái mình muốn thì mình vĩnh viễn cũng chẳng đạt được”. Câu nói của nàng ta vừa tàn khốc vừa sắc nhọn, Dư Tiểu Kế có cảm giác tim mình bị đâm xộc vào, hết sức đau xót. Mắt nó vụt bừng sáng, lại nghe Dư Tiệp nói: “Thế gian này, cái gì cũng không thể dựa vào, đệ chỉ còn nước nắm bắt lấy nó, để cho sở dục của mình cho dù không muốn cũng không rời bỏ được mình. Đó là điều ta muốn nói với đệ”. Thần sắc Dư Tiểu Kế cũng đã biến thành lạnh lẽo, nó chăm chú ngó Dư Tiệp, lạnh giọng: “Điều chị muốn thực ra đâu có phải là báo thù cho Dư gia để nhà họ Dư yên lòng thỏa dạ gì, đúng không? Chị thậm chí đâu phải vì muốn cho tôi được tốt lành gì. Chị… bất quá là muốn dẫm Đỗ Phương Ninh dưới gót chân mà thôi”. Mục quang của Dư Tiệp đột nhiên biến thành tàn độc, tiếp đó pha lẫn một màn vàng sẫm, màu sắc khiến người ta phải mờ mắt choáng váng đầu óc. Dư Tiểu Kế rùng mình: đây là tâm pháp của Đại Hoang Sơn! Đồng tử của nó chợt hóa thành trong ngần như nước, đón lấy ánh mắt của Dư Tiệp. Từ bé, từ cái lần đầu không nghe lời Tiệp tỷ, chị của nó đã quen dùng bí thuật gia truyền để trị nó. Nhưng bây giờ nó đâu có sợ nàng ta, cũng không muốn giả vẻ sợ. Màu vàng sẫm khống chế nhân tâm trong mắt Dư Tiệp càng đậm đặc, nàng ta thốt âm trầm: “Đệ thực muốn đấu pháp với Tiệp tỷ của đệ?”. Từ cái lần đầu nàng ta ép Dư Tiểu Kế tiếp tục lừa gạt Hàn Ngạc mà nó không chịu, nàng ta đã bắt đầu dùng cách này để đối phó nó. Dư Tiểu Kế lòng bi thương: Tiệp tỷ đâu có biết cách đây ba bốn năm về trước, nếu luận “Đồng thuật”, tu vi của chị ta đã thua xa “Thủy thanh đồng” của mình, song mình luôn sợ chị ta thương tâm, vì biết chị ta luyện công khổ sở, cho nên một mực không dám đối kháng. Bao gồm cả lúc nàng ta không muốn nó nói cho Hàn Ngạc biết nàng ta là “Mạc Thượng Mai”, bao gồm cả lúc nàng ta không muốn nó nói ra nàng ta đang dụ ép Hàn Ngạc về Trường An… rất nhiều… rất nhiều lần. Ánh mờ đục trong mắt Dư Tiệp hễ lọt vào mắt Dư Tiểu Kế là tựa như bị dung hóa thành màu nước kia. Bọn họ im ỉm đăm đăm nhìn nhau tàn một nén hương. Tâm pháp “Đồng thuật” của Đại Hoang Sơn vốn là tâm pháp hao tổn tâm lực nhất. Dư Tiệp chợt mệt mỏi nhắm mắt: “Dư Tiệp ta xưa nay trời sinh không bì được với người mà”. Dư Tiểu Kế nghe vậy càng cảm thấy thê lương, vội vàng thu hồi ánh mắt. Dư Tiệp cũng dịu giọng: “Được rồi, đệ lớn rồi, giữa hai chị em bọn ta đâu cần phải đấu đá gì nữa. Đệ tiến cung đi. Ta mệt mỏi lắm rồi, có gì cứ đợi đệ về rồi hẵng nói. Hiện giờ Hoàng thượng tâm thần tuy mê loạn, nhưng chỉ cần là chuyện có dính dấp đến Đại Hoang Sơn bọn ta, ông ta sẽ tỉnh táo liền. Ông ta chỉ muốn xác định đệ có thực là con của ông ta hay không, ông ta sẽ ban cho đệ một chỉ dụ. Nghe lời Tiệp tỷ đi, bất kể đệ có muốn kế vị hay không, trước hết hãy nhận lấy nó”. Dư Tiểu Kế thương tiếc nhìn bộ dạng yếu ớt mỏi mệt của nàng ta. Nó có thể cự tuyệt một Tiệp tỷ dùng oai bắt ép, nhưng đâu có cách nào cự tuyệt một Tiệp tỷ rã rời thất chí. Nó gật gật đầu, sắp đến cửa cung còn ngoái đầu lại, nghĩ ngợi một hồi mới khẽ thốt: “Tiệp tỷ, thực ra chị đâu cần oán hận. Tôi biết chị hận Ngạc ca không yêu thương chị, chị cảm thấy mình yêu Ngạc ca. Nhưng thực ra chị đâu có yêu chàng ta, chị chỉ là ghen tức những gì Đỗ Phương Ninh có. Trong lòng chị, kẻ chị để ý thực sự chính là Đỗ Phương Ninh, chứ đâu phải chàng ta. Còn Ngạc ca, chàng ta có thể không yêu chị, nhưng chàng ta quả đã từng để ý đến chị”. o0o Nghe nó nói xong, thấy nó đi thêm vài trăm bước nhập cung, tâm thần Dư Tiệp hơi bấn loạn, mới bắt đầu từ từ thấu hiểu lời nói của Tiểu Kế. Lời nói của nó rất đơn giản, nhưng… chừng như rất đúng. Nàng ta ngẫm lại hồi nãy sau khi nó nói xong, lại dùng đôi mắt “Thủy thanh đồng” của nó đăm đăm nhìn vào mắt nàng ta, ánh mắt của nó đang nói chuyện. Đại Hoang Sơn bọn họ, cái cảnh giới tu vi như Dư Tiệp và Dư Tiểu Kế dùng nhãn thần để nói chuyện cũng chỉ là thuật phép nhỏ nhặt mà thôi. Nhất định Dư Tiểu Kế cảm thấy mấy lời này mà thốt qua cửa miệng thì thực làm tản mác hết chân tình muốn biểu đạt. Ánh mắt của Tiểu Kế đã nói: “Nếu yêu, thì đó cũng chỉ là chuyện một chiều bên chị. Cho dù chàng ta không đáp trả, cũng đâu cần tự oán trách, tự thương thân, đâu cần phải nổi giận. Đó chỉ là chuyện của một mình chị…”. Sau đó nó đã xoay đầu, ánh mắt tựa thoáng một tiếng thở dài. Dư Tiệp bần thần đứng lặng, đây là một con hẻm nhỏ tăm tối không xa cửa cung, bên ngoài là ánh dương của toàn thành. Có phải như vậy không? Có phải như thế không? Nhưng… kêu nàng ta làm sao mà không oán hận chứ? Biết bao nhiêu năm trời, nàng ta bằng vào niềm oán hận đó mà gồng mình đi tới. Nếu không oán, nếu đến khi không còn oán trách mà vẫn chưa đạt được sự đỡ đần của một niềm yêu, thì nàng ta lấy cái gì để chống chỏi sinh mệnh của bản thân? Mệt mỏi quá rồi, thương tích đầy mình rồi! Nàng ta bâng khuâng, nhớ tới hồi mình từ Cư Duyên mới về, mình vẫn chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi, tìm được Tiểu Kế ở Hoài Thượng, hai tháng đầu gần gũi với nó bên sông Hoài. Khi ấy mình còn chưa trải qua những khổ nạn trui rèn của sau này, khi ấy con tim mình còn thuần túy lắm, những ngày tháng đó… thực đúng là… nỗi khoái lạc đơn thuần. Nàng chìm trong suy nghĩ, cước bộ lếch thếch đi từ rạch Ngự ra ngoài thành. Trong ngõ nhỏ ngoài rạch Ngự có một căn nhà, là nơi nàng ta hồi xưa hóa trang thành Dư cô cô coi số cho Hàn Ngạc. Nơi đó, hiện giờ vẫn là cứ điểm ẩn bí nhất trong Lạc Dương thành của dòng Đại Hoang Sơn. Trong gian nhà nhỏ đó, nàng ta và Hàn Ngạc lần đầu tiên chính thức gặp gỡ. Tâm ý mê đắm, hồi nãy lại vừa mới thi triển thuật pháp, dụng lực thái quá, cho nên chút quái lạ bên ngoài căn nhà vốn đáng lẽ sự mẫn cảm của nàng ta có thể lập tức phát hiện ra thì hôm nay nàng lại không nhận thấy được. Đợi đến khi bước qua cửa, nàng mới vụt giật mình, sau đó biết: có muốn thoái cũng đã trễ rồi!
1 Sắc xanh Hoài Thủy trăng day dứt, là câu trong bài thơ “Phiếu Mẫu trủng” của La Ẩn.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 106 Bạch cốt cam vi Tuyền hạ trần1
Trong nhà có ng ười, sáu người. Chúng hóa trang thành môn hạ đệ tử của Đại Hoang Sơn, nhưng chúng đâu phải! Chúng là ai? Dư Tiệp quét mắt nhìn, liền đoán ra được. Đó là Thương Sơn Tứ Hạo cùng “Bất Trắc Đao” Bốc Ưng, còn có “Song Nhận” Vi Đĩnh đã mất một cánh tay. Không ngờ chúng lại kéo rốc đến hết! Sáu tên đó hợp lực xuất thủ, đừng nói gì là nàng ta, cho dù là Hàn Ngạc hay Du Cửu Khuyết, muốn toàn thân thoái lui e cũng khốn khó vô cùng. Tiếp đó nàng nhìn sang chỗ bố trí cơ quan trong nhà, lúc đó mới thực sự thất kinh: chúng đã hủy diệt sạch! Từ trong nhà ra đến cửa khu vườn nhỏ bên ngoài cỡ mười bảy bước, nhưng mười bảy bước đó hiện giờ Dư Tiệp thấy phảng phất như trời cao biển rộng. Nàng ta mỉm cười, lần đầu tiên trên mặt hiển hiện vẻ buồn thảm không chút ngụy trang: “Đỗ Phương Ninh tính chuẩn lắm”. Vi Đĩnh mục quang tàn độc ngó nàng ta. Từ khi y mất đi một cánh tay, mục quang của y hung bạo như một con thú vậy. Y lạnh lùng thốt: “Nếu Đỗ cô nương nói không sai, ngươi mới là chủ chốt bày bố thúc đẩy họa loạn. Xem ra lời Đỗ cô nương khuyên Thái tử thực đúng mà, mỗi một lần hành thích Dư Tiểu Kế lại giúp ích cho ngươi thêm, còn khiến cho Hàn Ngạc bị ép đến đường không thể không chống đối lại Đông cung”. “Kẻ thực sự nên giết đúng ra là ngươi. Đó mới đúng là rút củi khỏi lò". Y còn chưa dứt lời, bóng người bay mịt mù trong nhà. Tổng cộng có bảy bóng, Thương Sơn Tứ Hạo mỗi tên trấn thủ một góc nhà, Bất Trắc Đao cùng Song Nhận nhất tề bay lên, tấn công hai lưỡi Luân Hồi Nhận! o0o Dư Tiểu Kế vừa đi ra khỏi cửa cung thì giật mình. Hồi nãy lúc nó gặp Thánh thượng, vì có tường cung cách trở, tâm pháp của Đại Hoang Sơn bọn họ cũng không thấm qua khỏi sự phong bế kín mít trong cung cấm của Du Cửu Khuyết, cho nên nó đâu có cảm nhận được gì. Nhưng nó vừa ra khỏi cung, đáy lòng lập tức phát lãnh: Tiệp tỷ gặp nguy hiểm! Từ nhỏ nó với Dư Tiệp tỷ dựa dẫm vào nhau, cho nên Dư Tiệp gặp nguy hiểm, nó nhất định có phản ứng. Nó bỗng cắn lên đầu ngón tay, một chút máu tươi bắn ra, sau đó đứng yên trước cửa cung, bốn bề thình lình lặng gió. Nó chầm chậm giơ ngón tay chỉ xuống đất, giọt máu nhỏ xuống dốc xéo qua một bên. Nó búng mình, bất chấp đang là ban ngày ban mặt, phóng ngựa về phía vết máu chỉ tới. Rạch Ngự, nhất định là bên Ngọc Câu Tà! Nó nhập cung cũng được hơn nửa canh giờ, Tiệp tỷ còn có thể chống chỏi đến khi nó tới không? Nó còn chưa tiến vào gian nhà nhỏ đó, mũi đã ngửi thấy mùi máu tanh. Con ngựa của nó mới vừa đến bên rạch Ngự, nó lập tức phi thân sang, lao thẳng về hướng ngôi nhà nhỏ đó.
1 Xương trắng Hoàng Tuyền bụi hững hờ, là câu tiếp theo câu “Thanh nga dĩ lạc hoài biên nguyệt” trong bài thơ “Phiếu Mẫu trủng” của La Ẩn (xem chú thích {1} hồi 105).
Nó v ừa vào nhà là liền thấy máu. Trước hết nó nhìn thấy thi thể của “Bất Trắc Đao” Bốc Ưng, sau đó thấy Thương Sơn Tứ Hạo mặt mày tái mét, rồi mới thấy Dư Tiệp cùng Vi Đĩnh toàn thân tắm máu. Vi Đĩnh đang nghiến răng căm hận thốt: “Bọn đàn bà gian hoạt, trá tử để đánh ngã một người của bọn ta. Hôm nay ta phải xem xem ngươi có thể trá tử được bao nhiêu lần!”.
D ư Tiểu Kế nhìn thấy máu, lửa giận phừng phừng trong đầu. Nó sờ lên hông, “Trường Canh” kiếm thoát khỏi vỏ, một luồng sáng màu trắng tái rạch sang. Thương Sơn Tứ Hạo ai ai cũng bị thương, thương thế của Vi Đĩnh còn nặng hơn nữa, chúng đang định dốc hết sức tàn đánh một chiêu tối hậu tiêu diệt Dư Tiệp. Khi ấy thình lình hào quang lóa mắt, thanh kiếm đó chúng nhận ra! Vi Đĩnh đã quen với thanh kiếm đó quá rồi, mặt mày chúng lập tức hiển hiện vẻ kinh hoảng, một tên trong Tứ Hạo la lên: “Hàn Ngạc!”.
D ư Tiệp thân tuy đang động, nhưng ý thức đã lọt vào trạng thái mơ hồ, dung nhan của nàng ta lại đột nhiên bừng sáng. Nàng ta vốn đâu có phải là nữ tử xinh đẹp gì, song khoảnh khắc đó bỗng dưng sắc mặt tươi tắn hẳn, biến thành cực kỳ kiều diễm. Tiếp đó nàng ta xuất thủ đánh về phía Vi Đĩnh, Trường Canh của Dư Tiểu Kế quét qua, kiếm quang bao bọc thân hình, cũng công kích Vi Đĩnh. Vi Đĩnh cả kinh la lên, vội vàng lách tránh. Trường kiếm quay về tay Dư Tiểu Kế, lại tung một kiếm chém chết một tên trong số bọn Thương Sơn Tứ Hạo đang trấn thủ mặt đông. Rồi nó ôm lấy Dư Tiệp, trở mình bỏ đi!
B ốn tên còn lại cả kinh đến thẫn thờ, chúng vốn cũng đã liệu trước phải tổn hao khí lực lắm mới giết được nữ tử nọ, lại nào có ngờ khốn khó dường này, ả hại cho năm người bị thương không nói gì, còn phải mất luôn một mạng. Dư Tiểu Kế đến hết sức đột ngột, mãi cho đến khi nó đi bọn chúng còn ngộ nhận nó là Hàn Ngạc. Chúng đang kiệt lực, cũng đâu có dám đuổi theo, để mặc Tiểu Kế ẳm Dư Tiệp bỏ đi.
o0o Bên rạch Ngự, không xa lại có một khu vườn bỏ hoang. Chủ nhân của khu vườn hoang đã lâu không dòm ngó gì tới nó, cho nên cỏ dại mọc tràn lan, thậm chí cửa ngõ
c ũng ngập đầy bụi bặm. Khu vườn này lại nghe đồn có quỷ, cho dù là ban ngày, bọn con nít gan trời cũng không dám tiến vào. Dư Tiểu Kế bồng Dư Tiệp vô đó, nó đặt nàng ta xuống đất, bắt đầu lo cứu chữa. Nhưng nó biết: Tiệp tỷ lần này thương thế quá nặng, thực không xong rồi.
N ước mắt của nó tuôn dài từng giọt từng giọt, nhớ tới sự bảo bọc tận tình của Tiệp tỷ ngày xưa. Hồi Tiệp tỷ mới đến Lạc Dương, tụ tập lại “Lai Nghi” môn, thu thập thế lực của dòng Đại Hoang Sơn, nó và chị ta đã giả quỷ trong khu vường hoang này, hù dọa mấy người lân cận, khiến cho họ không dám mò tới nữa, thành ra có được nơi bí mật để tụ họp đầu tiên này. Ngày nay, mình cuối cùng đã được như một phần sở nguyện của Tiệp tỷ, áo mão cân đai, Tiệp tỷ thì lại…
Thân mình D ư Tiệp chợt động đậy, miệng nàng ta còn đang ứa máu, nàng ta kêu khẽ khẽ trong cơn hôn mê: “Trường Canh… Ngạc… Trường Canh… Ngạc…”. Hai dòng lệ không ngơi, Dư Tiểu Kế lòng xót xa đến tận cùng xương tủy. Nó không nên nói rằng Tiệp tỷ thực ra đâu có yêu Hàn Ngạc, không nên đả kích chị ta như vậy. Trên thế gian này, “yêu” thực ra là gì? Tròng mắt của Dư Tiệp chớp chớp, Dư Tiểu Kế biết mình tuy đã tận lực, bất quá chỉ thôi thúc được một khoảnh khắc hồi quang phản chiếu cho chị ta mà thôi. Mắt Dư Tiệp tuy đã mở tròn, lại tựa hồ chẳng nhìn thấy gì. Chỉ nghe Dư Tiệp kêu lên: “Ngạc…”. Nàng ta không nhìn thấy, nhưng gương mặt nhuốm đầy máu của nàng ta lại bỗng hiện một nụ cười: “Thì ra mỗi lần tôi chết, bất kể là chết thực hay chết giả, đều vẫn có thể được chàng ôm tôi”. Nàng ta khe khẽ thốt: “Hôm đó, trong ngôi viện hoa quế còn nở kia, tôi muốn chàng ghi nhớ, người bầu bạn với chàng đêm hôm đó là tôi… là tôi… chính là tôi. Tôi không phải là một cô gái tốt lành, chàng có hận tôi không?”. Nước mắt của Dư Tiểu Kế nhỏ lên bờ má của nàng ta, Dư Tiệp chợt cười dịu dàng, mắt mơ hồ: “Không ngờ tôi giả mù gạt chàng biết bao nhiêu lần, trước khi lâm tử lại thành mù thực, thiên đạo luân hồi mà. Chàng muốn dùng nước mắt để rửa mặt cho tôi à? Đáng thương thay, có rửa sao đi nữa thì tôi cũng không thể nào xinh đẹp được, lại bắt chàng lần cuối cùng nhìn thấy tôi dưới cái bộ dạng khốn khổ như vầy…”. Dư Tiểu Kế cũng không khống chể nỗi bờ vai run rẩy, nó giả giọng Hàn Ngạc: “… Không xinh đẹp, nhưng thực đâu có phải vậy. Từ cái thuở ban đầu, nàng cũng đâu có phải vậy. Bất kể có xinh đẹp hay không, bất kể có khốn đốn xơ xác đến đây, nàng luôn khiến cho người ta ghi nhớ thâm sâu”. Nó vốn rành nhại giọng, huống hồ lúc đó Dư Tiệp đang nửa tỉnh nửa mê. Dư Tiệp rúc trong lòng nó đột nhiên hớp hớp miệng, nàng ta vừa hớp hớp hơi vừa khe khẽ nói gì đó, Tiểu Kế kề tai sát bên môi nàng ta mới miễn cưỡng nghe được: “Tiểu Kế… Tiểu Kế… Tôi muốn nó không phải hối tiếc… nói với nó… cho dù người của toàn thế gian này không biết, thực ra tôi biết nó muốn gì… tôi… khấn cho nó…”. Lời còn chưa dứt, thân người Dư Tiệp co thắt vùng vẫy lần cuối cùng, tay với với giữa không trung, như muốn nắm giữ bàn tay của Hàn Ngạc trong tưởng tượng, rồi đột nhiên cứng đờ. Dư Tiểu Kế hận mình không phát giác, chẳng kịp để cho chị ta nắm được, cho dù có là lừa gạt thì cũng giúp cho chị ta cảm thấy chị ta đã nắm được. Cổ họng của nó bỗng phát ra một tiếng gào bi thương: “Tiệp tỷ, tôi đã giết chị! Là tôi đã giết chị!”.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 107 Mỗ thủy mỗ sơn mê tính thị1
Hàn Ng ạc đang ngồi trong nhà, đầu ngón tay đan vào nhau. Đã hơn nửa tháng trôi qua mà Tiểu Kế vẫn chưa về, nó đã đi đâu? Thực ra đi đâu rồi? Nó mất dạng, bên cạnh gã lại có một người quay về, đó là… Xu nhi. Tổ A Xu về cạnh Hàn Ngạc cũng đột ngột như lúc đi, cũng đạm bạc như lúc đi. Hàn Ngạc chỉ hơi kinh ngạc nhìn nàng, lại không hỏi gì cả. Thế giới này, ly ly hợp hợp, gã đã bắt đầu quen rồi. Nhưng gã không muốn như vậy nữa, hai bữa nay, tuy đối diện Tổ A Xu, nhưng gã lại chưa từng chủ động tỏ ra nồng nhiệt với nàng. Cây lá ngoài song cửa đã tàn tạ, mùa đông, đầu đông, tháng mười một đầu đông. Dinh thự trống vắng, cách bày biện trong nhà, cảnh trí trong nhà, tất cả đều trắng ơ hờ, cứ như tâm trạng của Hàn Ngạc. Hồi đầu năm, gã còn ôm ấp chút trông mong nồng nhiệt cuối cùng đối với hạnh phúc trên đời. Khi ấy, A Xu đến bên mình vào giờ phút vạn nan nhất của mình. Khi ấy, gã thực là lần đầu tiên chào đón tâm trạng cưới một người vợ, cho dù không tiệc lễ rình rang, cho dù không trống kèn huyên náo, nhưng thứ cảm giác đó thực là như vậy. Nàng cũng từng như một người vợ. Song tại sao trong lòng gã thủy chung vẫn có một cảm giác bất an đối với nàng? Cái bất an đó thực ra khởi nguồn từ bản thân nàng, vì gã cảm thấy lòng nàng luôn có chút bất an đối với bản thân. Tại sao vậy? Hàn Ngạc không phải là người quen phân tích tâm sự của nữ tử, cho nên chỉ còn nước mê mê hoặc hoặc, chỉ có thể mê hoặc mà thôi. o0o Lúc đó gã đang ngồi một mình trong nhà, Liên Ngọc bước vào cửa, Hàn Ngạc liền hỏi: “Có tin Tiểu Kế?”. Liên Ngọc lắc lắc đầu: “Hàn soái, có người đến bái kiến”. Hàn Ngạc ngẩn người, gã không muốn gặp ai, nhưng nhìn thần sắc của Liên Ngọc, người đó chắc là người nên gặp. Gã rất phiền não, chẳng thèm hỏi là ai, cứ đi ra tiền sảnh. Khi nhìn thấy vóc dáng của nữ tử nọ, gã cơ hồ thoát miệng kêu: “A Xu!”, tiếp đó mới phát giác không phải, mặt hiện một nụ cười bẽn lẽn, vì nữ tử đó đã xoay lại. Người đó tuy gã chỉ mới gặp thoáng qua hai lần, nhưng gương mặt gã lại không quên được. Đó là một dung nhan chừng như đã bị thiêu hủy, xấu xa đáng sợ đến thập phần. Song thần sắc của nàng ta, quả như Tiểu Kế nói, cực kỳ nhu hòa. Hàn Ngạc hoang mang, người đó gã nhận ra, nhưng gã không biết phải xưng hô làm sao. Gã hít một hơi, chậm rãi thốt: “Không biết cô nương…”. Nữ tử nọ mở miệng: “Tôi là người vô danh. Hàn huynh không cần phải hỏi họ tên”. Khẩu âm của nàng ta có hơi kỳ quái, tựa như cố tạo ra vẻ khản đặc. Hàn Ngạc gật gật đầu, lại không nhịn được nỗi hiếu kỳ, hỏi: “Vậy cô nương đến tìm ta có chuyện gì?”. Nữ tử nọ ngước nhìn gã một hồi mới đáp: “Ngài có chịu giúp tôi cứu một người không? Y mình mang nội thương, tôi tuy đã dốc hết tu vi cũng cứu không được y. Trong Lạc Dương thành này, người có thể giúp sức cho y cũng chỉ có hai. Tôi không thể đi tìm Du Cửu Khuyết, chỉ đành đến đây cầu xin ngài”. Hàn Ngạc ngẩn ngơ: đó là ai? Nói thương thế chỉ có mình và Du Cửu Khuyết có thể lo liệu thì nhất định là kẻ luyện khí. Gã ngờ vực: “Là ai?”. Nữ tử chậm rãi đáp: “Y tên Vệ Tử Câm”. Ba tiếng vừa thoát khỏi miệng, sắc mặt của nàng ta tự nhiên sáng lên, trên gương mặt xấu xa cũng có chút e thẹn, thần thái rất khả ái, cả giọng điệu của nàng ta cũng nhu hòa thêm nhiều, như gió mơn bờ ao, phớt qua cánh sen còn đọng sương mai, lất phất dịu dàng. Hàn Ngạc thẫn thờ: Vệ Tử Câm? Nữ tử nọ nói: “Y từng dùng trận vây khốn ngài. Không biết ngài có thể đừng để trong lòng hay không?”. Hàn Ngạc bàng hoàng gật đầu. Để trong lòng cái gì chứ? Gã đâu có căm ghét Vệ Tử Câm khi nào? Huống hồ y còn cứu Tiểu Kế nữa. Gã định thần lại, mỉm cười thốt: “Được, cô nương lên tiếng, tại hạ đương nhiên sẽ tận lực. Ta cũng luôn luôn rất ngưỡng mộ y mà. Trừ y ra, e hôm nọ chẳng một ai có thể đánh bại Đại Kim Ba. Ta thực đã nợ y. Y thụ thương vì lần đó phải không?”. Gã nói ngưỡng mộ, giọng điệu rất chân thành. Nữ tử nọ vui mừng hớn hở, ánh mắt loé sáng, tuy hưng phấn mà cũng vẫn ôn hòa. Nàng ta vái một vái thực yêu kiều: “Tiểu nữ xin đa tạ”. Hàn Ngạc vội vàng giơ tay định đỡ nàng ta, nhưng tới nửa đường thì sựng lại, vì nghĩ đối phương là một cô gái. Thì ra nàng ta rất yêu y… không ngờ nàng ta đang yêu y. Phong thái như Vệ Tử Câm, ẩn cư lâu năm, nữ tử bên cạnh y thực ai ai cũng kỳ lạ, người yêu thích y ai ai cũng kỳ lạ, trừ Dư Hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ ra, còn có mỹ nữ Bộc Ách Phi chẳng hề quên được y… không ngờ lại còn người con gái trước mắt mình đây. Nhưng tiếp đó ánh mắt của gã lại tiếp xúc với nhãn thần của nữ tử nọ khi nàng ta đứng dậy, đầu Hàn Ngạc như trúng phải một lưỡi tầm sét. Trong nhãn thần đó không ngờ là một cảm giác quen thuộc làm sao, có ôn hòa, có ấm nồng, còn có ý cảm tạ. Trên thế gian này, còn có ai đối với chút tương trợ bình thường nhất của người ta mà lại hiển hiện hàm ý tạ ơn thắm thiết đến thế? Chỉ có… Hàn Ngạc miệng khẽ kêu: “A Xu?”. Gã lắc lắc đầu, đầu óc nhất thời rối bời, tất cả đều bấn loạn, toàn thế giới tựa hồ đều hỗn loạn. Miệng gã cũng lẩn thẩn: “Sao… ta có cảm giác nàng giống người bạn hồi tấm bé của ta quá!”. Nữ tử nọ chợt tránh khỏi tầm mắt gã. Hàn Ngạc lòng đang mê hoặc đến cùng cực, chuyện này đúng là chuyện gã không thể nào hiểu nổi. Gã cần phải suy nghĩ cho rõ ràng, nhưng nhất thời lại không thấu suốt được, đồng thời đủ thứ nghi vấn tràn ngập đầu não, còn có Thù nhi, Xu nhi, quấn quíu khó hiểu, sự bầu bạn ở Thạch Thích bảo, gặp quỷ ở Bắc Mang sơn… Đầu óc gã rối loạn đến cùng cực rồi, rối loạn đến mức… gã không cảm thấy được một đôi quỷ thủ không hình bóng, không hơi tiếng đang bấu sang. Cách nhau khoảng hai thước, Hàn Ngạc ngước lên mới phát hiện Tổ A Xu vừa về cách đây hai hôm đang mặt mày hung ác tung trảo tấn công mình. Mười ngón tay của nàng đều có mang giáp, từng đầu từng đầu sắc bén vô cùng. Ánh mắt của nàng cũng phủ một màn tàn độc. Gã đang mê man, chẳng biết tránh né. Gã chỉ kịp kéo nữ tử nọ ra sau lưng mình. Chiêu thức của Tổ A Xu gã cũng không nhận ra là đối phó mình hay là đối phó nữ tử nọ. Đó là “Vô ảnh quỷ trảo”. Hàn Ngạc lòng đau xót: nếu cả nàng cũng muốn giết ta, vậy thì cứ giết đi. Nữ tử sau lưng gã thân hình vụt nhoáng lên, ôm giữ Hàn Ngạc, như một người chị lớn ôm đứa em yếu đuối, nhẹ nhàng xoay lại, đưa lưng ra đỡ. Song trảo của Tổ A Xu quật trúng lưng nàng ta. Nữ tử nọ lại chẳng phản kích mãnh liệt gì, chỉ nhẹ nhàng phất ống tay áo, yếu ớt đẩy A Xu lùi lại mấy thước, còn thương thế của nàng ta đã sâu tận phế phủ. Hàn Ngạc sau trận đột biến ngó Tổ A Xu mặt mày căm tức đang đứng cách vài thước, thình lình đầu óc gã sực tỉnh, thần sắc đó gã quá quen thuộc… Gã lẩm bẩm: “Thì ra ngươi không phải là Xu tỷ, ngươi một mực lừa ta, ngươi là Thù nhi". Gã nhìn lên bộ giáp đeo trên ngón tay của nàng: “Quỷ giáp của Bắc Mang sơn!”. Gã lại nhìn sang nữ tử thụ thương vì cứu gã, bần thần thốt: “Nàng mới thực là Xu tỷ, nàng mới là A Xu phải không? Mặt nàng sao lại như vậy?”. Sau đó gã nghi hoặc, giận dữ đến cực độ nhìn “Tổ A Xu” tay đang đeo giáp bén: “Ngươi là Thù nhi, từ Bắc Mang sơn, đến trong Trường An thành sau này, bất kể là Đại Xu hay là Tiểu Thù, thực ra vẫn là ngươi, có đúng không? Thực ra đều là ngươi… vì… nàng mới thực là Xu tỷ”. Đầu óc gã dần dần minh bạch. Trong bốn năm năm qua, người gã gặp, bất kể mình cho rằng là “Đại Xu” hay là “Tiểu Thù”, bất kể ôn nhu hay hung bạo, thực ra đều chỉ là một người, chỉ là “Tổ A Thù”. Lòng gã thấp thoáng thấu hiểu nguyên nhân tại sao nàng làm vậy, lại có vẻ không mấy hiểu. Gã thấp giọng: “Nhưng… cho dù là vậy, ngươi có lừa ta cũng được, hà tất nhất định muốn giết ta… hà tất… hạ độc thủ với Đại Xu?”. Gã giơ tay trị thương cho Đại Xu. Vết thương rất sâu, nhưng xem ra đâu đáng ngại. Tiểu Thù bên kia lạnh giọng: “Ta không để cho ngươi biết thì ngươi làm sao mà biết được! Ngươi có chết ta cũng không muốn để cho ngươi biết!”. Nàng ta gào thét cuồng dại như một đứa bé, nhưng nàng ta lại không có ý tấn công nữa, bởi sau khi Hàn Ngạc tỉnh táo, nàng ta biết mình công kích không được nữa. Hàn Ngạc vừa lo cầm máu cho Xu tỷ, vừa gọi Liên Ngọc đi lấy thuốc, vừa khẽ hỏi: “Xu tỷ, sao mặt tỷ lại bị hủy đi như vậy?”. Đại Xu thở dài: “Năm xưa tiểu muội của ta liên tục vi phạm môn quy, thậm chí còn phản sư lìa bỏ môn phái. Tố Nữ môn của bọn ta quy giới hà khắc, tội trạng luôn phải có người gánh nhận. Tiểu Ngạc, đệ đừng trách nó, nó có nỗi khổ của nó, tâm ma của nó. Là ta mạo danh nó để chịu phạt, cho nên mặt cũng đã bị hủy. Bất quá điều đó cũng không là gì cả”. Hàn Ngạc mới cầm máu cho nàng ta, đặt tay lên uyển mạch của nàng ta, thấy khí tức mong manh như đường tơ, không khỏi thất kinh. Tiểu Thù lại đã sớm nhận ra có gì không ổn. Nàng chợt biến sắc, nàng hận tỷ tỷ của nàng, nhưng chị ta sao lại… yêu thương nàng? Đại Xu thốt: “Ta không đi được, nhớ đó, đệ nhất định phải cứu Tử Câm”. Một tờ giấy lăn khỏi lòng bàn tay nàng ta. Thân hình của Tiểu Thù rướn lên, chợt đoạt lấy thân thể tỷ tỷ, giận dữ kêu lên: “Ngươi không được đụng đến chị ta, ngươi không được đụng đến chị ta!”. Hàn Ngạc vừa định ngăn chặn, lại nghe Đại Xu hơi thở yếu ớt: “Để ta theo nó đi. Tình song sinh của bọn ta cũng đã đến lúc liễu kết rồi. Thực ra có lắm chuyện ta đã hại nó, đối không phải với nó”. o0o Đỉnh Bắc Mang sơn, trăng lạnh trong ngần. Hai nữ tử từng có bộ dạng mặt mày giống hệt nhau đang ở giữa một bãi tha ma hoang vắng. A Xu không thể cứu được nữa, Tiểu Thù lặng lẽ nhìn nàng ta, đã thi triển công lực cứu chữa suốt một ngày, nhưng cũng không thể cứu được. Chỉ nghe miệng nàng đờ đẫn lặp đi lặp lại chỉ một câu: “Tôi cuối cùng đã giết được chị, tôi cuối cùng vẫn đã giết được chị”. Bàn tay của Đại Thù lại dịu dàng vuốt ve gương mặt của nàng: “Thực ra muội luôn hận ta phải không? Hận ta giống hệt muội, hận sự ôn hòa của ta. Tiểu Thù, tỷ tỷ đối không phải với muội, khiến cho muội chẳng biết làm sao để tạo một riêng mình. Muội nhớ… mọi sự… mọi sự… ta đều không trách muội… bao gồm việc dung nhan bị hủy, đó cũng là một sự ăn nói với Cô bà. Huống hồ, nếu dung mạo này không bị hủy, ta cũng không có cách nào quen được y, không có cách nào có thể tiếp cận y…”. Một nụ cười tươi tắn nở trên mặt nàng: “Ta đâu phải bị muội giết. Muội hồi nãy tuy đã đánh ta trọng thương, nhưng vết thương đâu đến mức chí tử. Ta không phải bị muội giết... Ta là… vì y… vì để tự giải cấm chế ‘Kỵ Thể hương’, cho nên khí tức mới bị nghẽn nghẹn. Ta… đã sớm biết sau khi giải cấm, ngày tháng của ta đâu còn được bao lâu”. Nàng ta chợt khẽ giọng: “Ôm ta đi, ta sẽ hòa vào lòng muội, chứ không phải chết. Từ nay về sau, ta là muội, muội là ta. Bọn ta là một. Bọn ta… vốn là một!”.
1 Bài thứ nhì thuộc "Thu Tâm tam thủ" của Cung Tự Trân (xem thêm chú thích {1} hồi 13 và chú thích {1} hồi 14) có hai câu: “Mỗ sơn mỗ thủy mê tính thị, nhất sai nhất bội đoạn tri văn” (Đây nước đây non đâu biết tuổi, này thoa này xuyến chẳng hay tin). Thi nhân bày tỏ nỗi bi ai gặp được hồng nhan ở đất này thuở ấy, tới khi chia tay thì biệt vô âm tín đến nay.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 108 Nhất thoa nhất bội đoạn tri văn1
“Tất cả có quay trở lại được không?”.
Đỗ Phương Ninh khẽ thốt. Nơi đây là khu viện quế, ngày đông hờ hững, hờ hững đến mức khiến mình không khỏi hoài nghi vầng thái dương kia có còn lòng dạ nào để tản phát chút hơi hướm ấm áp hay không. Hoa lá trong vườn phủ kín sương lạnh, khô héo rồi. Một luồng hơi trắng thoát ra từ giọng nói của nàng, thanh âm của nàng, cùng cửa miệng của nàng, tất cả vụt như quay về hồi trước, vụt như Lạc Du nguyên đồng cỏ mờ sương ngày xưa.
M ặt Đỗ Phương Ninh cũng có chút ửng hồng của cái lạnh, lại nhạt hơn so với năm xưa. Cái tuổi thanh xuân mười chín đôi mươi sóng cương đồng hành, tất đã qua rồi, tất đã đi xa.
Qua cái màn che c ủa thời gian, đối chiếu ngày xưa và hôm nay, đủ hết mọi sự, những mùa đông cùng trải qua với nhau, từ Lạc Du nguyên, đến Thanh Thảo hồ, rồi cái ngày hôm nay, chồng chất cảnh tượng hỗn loạn, làm khơi dậy chút nỗi niềm ôn nhu trong lòng người sau bao thương tang.
Hôm nay khi nh ận được thiếp mời của nàng, Hàn Ngạc cũng chẳng biết có nên đi hay không, lại vẫn đã đến cái viện quế này. Ký ức ở đây thủy chung cho gã một ấn tượng mê loạn. Nơi này gã đã từng đến, nhưng ngày sau đó, lúc gã tỉnh dậy thì lại ở bên bờ Lạc Hà. Khi ấy liễu bên bờ sông đã lấm tấm vàng, khiến cho gã hoảng hốt ngờ vực đêm hôm qua bất quá chỉ là một trường mộng ảo.
Gã th ấp giọng: “Thì ra nơi đây thực là chỗ của nàng”. Đỗ Phương Ninh thốt: “Nơi đây là biệt viện của tôi”. Sau đó nàng ngồi trước một cây quế khô, thực dịu dàng, giơ một bàn tay vuốt những
sợi tóc mai lòa xòa của Hàn Ngạc: “Mặt trời chiếu rọi, thoạt nhìn còn giật mình tưởng là đã bạc đầu”.
Sau đó bàn tay nàng đặt lên vai Hàn Ngạc, nói một câu: “Tất cả có quay trở lại được không?”. Hoàng hôn. Cái đẹp của hoàng hôn. Vườn quế u tĩnh. Quế còn đó, chỉ là hương không còn nữa. Hàn Ngạc lưỡng lự, khẽ thốt: “Để tất cả kết thúc được không?”. Nhưng trong đầu gã lại nghĩ đến những gì đã trải qua đêm hôm đó. Một gian phòng ấm áp tối hù, một ký ức ấm áp mơ hồ… thì ra… đó là Phương Ninh. Ngón tay của Đỗ Phương Ninh nhè nhẹ vuốt lên ngực gã: “Vẫn gầy làm sao”. Ngón tay dịu vợi như nước đọng, tựa hồ muốn tẩy xóa ký ức trong lòng Hàn Ngạc. Dư Tiệp đã chết, nàng phải tẩy xóa ký ức mà ả đã để lại cho gã. Nàng thốt: “Tôi cũng chán ngán, mệt mỏi rồi. Tôi có lẽ còn nợ chàng. Cho tôi một tháng, sau một tháng, tôi không lo gì chuyện gia môn nữa. Bọn ta chia nhau âu du sông biển, nếu quả lúc đó còn có thể tình cờ tương ngộ, bây giờ chàng đừng nói gì, khi ấy… có lẽ chàng sẽ muốn có một sự quay trở lại”. Đời người dễ trở lại ai ơi? Muốn nói tương tư lại thẫn thờ. Ấy mộng uyên ương tuy đà lỡ, Sao niềm sông biển cũng cứ chờ.
1 Xem chú thích {1} hồi 107.
S ẽ có một ngày đâu biết được, 2Chìm theo giấc cũ chuốc tình ngờ… Trong đầu Hàn Ngạc chợt nhớ tới những câu thơ mình nhìn thấy trên tường vách ngả nghiêng của cái khách xá kia. Bất kể là sao, bất kể quá khứ đã đi qua bao lâu, vẫn có biết bao là ấm dịu, biết bao là nồng cháy, là những cái hai người từng trải qua với nhau. Đó là vết răng hằn ghi trên thời gian, cả đời cả kiếp… trọn đời trọn kiếp… cho dù có phai lạt, cũng vẫn còn tồn tại. Hàn Ngạc trái tim vẫn còn niềm khát vọng của tuổi trẻ đối với hạnh phúc, còn chưa tắt ngóm đi, có thể hun nóng trở lại. Đỗ Phương Ninh khe khẽ thốt: “Tất cả quay trở lại được không?”. Ngón tay của nàng từ sau lưng Hàn Ngạc luồn vào cổ áo của gã. Nàng thích cái gáy của gã nhất. Chạm nhẹ, Hàn Ngạc cảm thấy những gì chôn vùi tận đáy lòng đã được thắp bừng lên. Gã cúi đầu nhìn kỹ mặt Phương Ninh. Cái lọt vào mắt, giống như trời đông ngoài Trường An thành ngày xưa đó, là đôi môi ướt mọng kia, ướt mọng đến mức khiến cho Hàn Ngạc liên tưởng đến những quấn quít ấm nồng, những triền miên êm dịu. Gã liếm khoé miệng khô quánh nhè nhẹ, đầu lưỡi như một ngọn lửa, thắp cháy cả một mùa đông. Đỗ Phương Ninh ngậm lấy đầu lưỡi của gã, sau đó… xoắn xuýt không nên lời.
2 Đây là bài thơ Tiểu Đoạn sáng tác: “Nhân sinh dam giới thị trùng lai, dục đạo tương tư dã bồi hồi. Thị ngã ngộ thức uyên lữ mộng, quái thiên kỳ hứa giang hải tài. Tổng hữu tân kỳ ước bất định, thường trầm cựu mộng nhạ nghi sai".
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 109 Bằng quân mạc thoại phong hầu sự1
Đ i ra khỏi thành, mình mới có thể cảm nhận được đông đã chín mùi. Trận tuyết đầu tiên buông xuống, Hàn Ngạc độc hành ra ngoài thành, muốn để đầu óc mình thanh tỉnh một chút. Tiểu Kế đã đi đâu? Sao còn chưa về?
Bên tai truy ền vọng tiếng đạp tuyết lạo xạo, Hàn Ngạc ngoái đầu, Dư Tiểu Kế đang dẫm theo dấu chân của mình mà đi, không biết đã ló ra từ hồi nào. Hàn Ngạc cả mừng: Tiểu Kế, một tháng nay chạy đi đâu mất tiêu vậy? Sao chẳng nói năng gì cho ta biết?”.
S ắc mặt của Dư Tiểu Kế lại làm cho gã rùng mình. Mặt nó trắng mét, má băng, răng tuyết. “Huynh không nhìn thấy tôi, tôi thì có nhìn thấy huynh”. Nó rút trong mình ra hai cuộn lụa màu vàng tươi, bên trên thấp thoáng có dấu vân rồng. Hàn Ngạc giật mình, đó rõ ràng là Thánh chỉ. Gã tiếp lấy, thấy một cuộn là chiếu thư, ra lệnh: Trẫm điễu tra ra thân thế của Dư Tiểu Kế, vốn là con trai của Dư Hoàng hậu. Thái tử Chí Hoa đại nghịch bất đạo, dám giết mẫu hậu, rồi còn gây ra nhiều chuyện bội nghịch nữa. Nay Trẫm quyết ý phế bỏ Thái tử, lập Chí Kế con của Dư Hoàng hậu thừa kế Hoàng vị, y chiếu. Một cuộn khác lại là chiếu thư ủy nhiệm cho Dư Tiểu Kế viễn du Thanh Hải làm An Tây Đô hộ. Sao lại có tới hai? Dư Tiểu Kế thốt: “Hôm nọ tôi tiến cung, Hoàng thượng đã viết hai chỉ dụ này. Ông ta kêu tôi chọn một. Tôi đã suy nghĩ biết bao nhiêu ngày rồi. Cái hôm tôi đi tìm huynh, muốn hỏi huynh, thì thấy huynh bước ra khỏi cái viện quế kia hồi hừng sáng”. Hàn Ngạc đỏ bừng mặt. Một hồi lâu sau gã mới hết bẽn lẽn, miệng ấp úng: “Ngươi… ngươi cũng biết cái viện quế đó?”. Mục quang của Dư Tiểu Kế thoáng vẻ chế nhạo: “Đó vốn là biệt viện bên ngoài ngõ Luân Hồi của Dư gia bọn tôi, cũng là chỗ tỷ tỷ tôi trùng tu lại, làm sao mà tôi không biết chứ?”. Hàn Ngạc trong đầu “oong” một tiếng. Dư Tiệp? Đó là biệt viện của Dư Tiệp? Sau đó gã cảm thấy cổ họng tanh tanh, một luồng hơi tanh tanh lan tràn từ phế phủ. Mấy ngày qua, gã vì giúp cứu trị cho thương thế của Vệ Tử Câm mà tổn thương nguyên khí hết sức. May là sau đó Du Cửu Khuyết chợt đến tiếp tay. Mục quang của Dư Tiểu Kế hiển lộ chút bất nhẫn, đã bớt lãnh đạm, vỗ vỗ vai Hàn Ngạc nhè nhẹ, khẽ thốt: “Ngạc ca, huynh không nên đau xót như vậy”. Hàn Ngạc hoang mang ngẩng lên, nhìn vào mắt Tiểu Kế. Nhãn thần đó là ánh mắt kiên định nóng bỏng của một thiếu niên đã trưởng thành. Mắt gã cũng nóng lên, từ hồi nào đã đến lượt thằng bé này an ủi mình vậy? Khoé môi gã he hé một nụ cười khổ, ở gần Tiểu Kế, đâu cần nói gì đâu, chắc nó cũng có thể biết được. Gã lẩm bẩm hỏi: “Còn tỷ tỷ của ngươi? Tỷ tỷ của ngươi có giúp ngươi chọn Thánh chỉ nào không?”. Mặt mày Dư Tiểu Kế bỗng dâng lên một trận cuồng nộ: “Tỷ tỷ của tôi đã chết!”. Hàn Ngạc mặt mày tái nhợt, lẩm bẩm: “Chết?”. Gã nhất thời không nghĩ tới “chết” là một khái niệm ra sao. Dư Tiệp đã từng “chết” một lần trước mặt gã, sau khi “sống lại”, gã cảm thấy nữ tử như nàng ta vĩnh viễn cũng không thể chết nữa. Dư Tiểu Kế thốt một cách thảm thương: “Chị ta chết dưới tay Đông cung! Ngạc ca, huynh nói coi tôi nhận tờ chiếu nào?”. Hàn Ngạc lúc đó mới cảm thấy lòng đau đớn: Dư Tiệp đã chết! Gã không rõ được mọi sự giữa mình và người con gái đó, cũng không rõ nàng ta thực ra là một người con gái ra sao, nhưng nỗi đau này công kích hết sức mãnh liệt, hết sức chân thực. Thanh âm của Dư Tiểu Kế rất bình tĩnh, cũng rất lãnh khốc: “Là bọn Thương Sơn Tứ Hạo cùng Bốc Ưng, Vi Đĩnh. Tỷ tỷ của tôi đã giết Bốc Ưng, tôi cũng giết một tên trong số bọn Thương Sơn Tứ Hạo. Bốn tên còn lại, tôi chẳng thể tha cho tên nào”. Lại thấy sắc mặt của nó phủ một màn bạo hung: “Nhưng… xuất thủ là bọn chúng… Kẻ sắp đặt sau lưng… tôi biết… nhất định là… Đỗ Phương Ninh!”. Hàn Ngạc đã sớm liệu được, vẫn không nhịn được nỗi xót xa cay đắng. Dư Tiểu Kế thốt: “Ngạc ca, tôi muốn giết Đỗ Phương Ninh để báo thù cho tỷ tỷ của tôi. Huynh giúp tôi hay giúp ả?”. Hàn Ngạc thẫn thờ thốt không nên lời. Dư Tiểu Kế chợt cúi mình lượm một cành cây, viết hai cái tên dưới đất. Nó đặt cành cây vào tay Hàn Ngạc: “Huynh nếu không nói được, dùng cành cây này mà chọn một đi”. Hàn Ngạc tiếp lấy cành cây, tay lại đờ như khúc gỗ, lạnh cứng không một hơi ấm. Gã đứng lặng như một tượng đá, một khắc trôi qua, hai khắc trôi qua, ba khắc trôi qua, vẫn bất động. Gió lùa tuyết bám vào mày mi, vào mái tóc, một màu trắng xóa. Tuyết kia có đượm vào da thịt mà lại chẳng tan chảy. Tiểu Kế im lặng nhìn gã, biết Thái Ất chân khí của gã tùy theo tâm ý mà động, lúc này chắc da thịt đã như băng tuyết. Dư Tiểu Kế thở dài nhè nhẹ, mệt mỏi thốt: “Cho dù tôi không giết ả, nếu tôi muốn tiếp nhận cái ghế Thái tử, ả e cũng phải giết tôi cho bằng được”. Nó bình tĩnh nhìn vào mắt Hàn Ngạc: “Nếu ả muốn giết tôi, huynh giúp ả hay là giúp tôi?”. Hàn Ngạc ngây ngô, thần tình trên mặt đột nhiên bình tịnh lại, chìa cành cây vạch dưới một cái tên. Dư Tiểu Kế nhìn, ánh mắt chợt hiện một nét cười. Dấu chữ trên tuyết vốn đã bị gió thổi phai, nó thổi một hơi nhè nhẹ, hai cái tên và đường vạch đều tan biến. Nó đi vài bước, xoay mình thốt: “Ngạc ca, huynh nhớ đó, tôi đi Thanh Hải. Tôi đi làm An Tây Đô hộ. Đại Kim Ba bỏ mạng, Thổ Cốc Hồn thề sẽ báo thù. Tháng này có lẽ huynh chưa xem tin báo miền biên thùy, tình thế vùng tây bắc khẩn cấp lắm! Trên đời này, còn có rất nhiều chuyện đang chờ huynh làm!”.
1 Mong người chớ nói chuyện phong hầu, là câu trong bài thơ “Kỷ Hợi tuế nhị thủ” của Tào Tùng.
Quy ển VI: Ngũ hầu tán
Chương 110 Kim ngọc đường trung tịch mịch nhân1
C ầu quế bờ lan vây quanh sảnh vàng đường ngọc, một cây ngũ huyền cầm đặt trên đùi. Nữ tử lặng lẽ ngồi đó, lư hương nhả khói. Dung mạo tuyệt trần, bốn bề không một bóng người, nơi chốn giàu sang làm sao, sảnh đường giàu sang trống vắng làm sao! Nàng chợt quét ngón tay, tiếng đàn vang lên.
Nàng ng ồi đối diện hướng tây bắc, môi mấp máy, khe khẽ ngâm nga: “Trường tương tư, tại Trường An…”. Trường tương tư, ôi Trường An. Thu lạnh giọt sành khóc giếng vàng, đêm vắng nhớ nhung đà rã ruột, tựa rèm thườn thượt một vầng trăng...2 Sau khi Hoàng thượng giá băng, Thái tử Chí Hoa cuối cùng đã được đăng cơ thực sự, hai họ Vi Đỗ ở Lạc Dương của nàng thanh thế cũng từ đấy cường thịnh trở lại. Vương Hoành Hải ra sức khống chế Binh bộ, Du Cửu Khuyết buồn bã quy ẩn, nhưng cuộc tranh đấu giữa hai phe Thái tử và Bộc Xạ Đường trong triều vẫn còn dư âm. Về phía An Tây Đô hộ phủ, Dư Tiểu Kế mang tước An Dật Hương công lẫn chức An Tây đô hộ, vẫn còn đang chiến đấu dai dẳng với Thổ Cốc Hồn. Dư Tiểu Kế cũng rất hung --- Trước khi Hoàng thượng từ trần, nó truyền lời tới Thái tử Chí Hoa, dùng tờ chiếu thư đánh đổi với việc y giết sạch ba tên còn lại trong Thương Sơn Tứ Hạo lẫn Vi Đĩnh. Chuyện đó Thái tử Chí Hoa đã làm --- Nếu nó bắt Thái tử Chí Hoa giết mình, Thái tử cũng giết chứ? Khoé môi Đỗ Phương Ninh hé một nụ cười lạnh. Hiện tại nàng đâu để ý đến những chuyện đó nữa, nàng cũng không biết sao lại chỉ nhớ đến một hình bóng vừa tịch mịch vừa kiêu ngạo, hình bóng nàng muốn quên lãng mà lại càng ghi nhớ thâm sâu. Là cái gì? Là cái gì cuối cùng đã cách trở bọn họ? Người kề cận chỉ biết nàng giờ đang an hưởng vinh hoa --- Vì e dè thời thế, nàng cũng không tiện có cử động gì nữa. Nàng lại nhếch môi, nàng đang an hưởng vinh hoa, một vinh hoa phù phiếm đến vô biên vô hạn, một tôn vinh mà nàng không thể không hưởng thụ. Bởi… cho dù nàng có âu du giang hồ, ước hẹn “làm lại từ đầu”, sau khi Hàn Ngạc biết mọi sự, có thể đã vĩnh viễn khó mà thực hiện được nữa. Cổ họng nàng thả tiếng ngâm bi ai, thanh âm càng lúc càng cao, chấn động đến mái nhà: Trời xanh hun hút vòm cao thẳm, Nước trong chờn vờn ngọn sóng trắng. Trên xa dưới lạ vía chơi vơi,Ải mộng non mơ hồn hụt hẫng. Trường tương tư, Nát tâm can!3 --- Trường tương tư, nát tâm can…
1 Sảnh ngọc đường vàng người tịch mịch, là câu trong bài thơ “Đồng Tử Chiêm hòa Triệu bá sung đoàn luyện” của Hoàng Đình Kiên. “Kim ngọc đường” là sảnh đường của nhà giàu sang quyền quý.2 Tiểu Đoạn sửa bài “Trường tương tư” của Lý Bạch chút ít, thành ra: Trường tương tư, tại Trường An. Lạc vĩ thu đề kim tỉnh hàn, dạ lương bất miên tư dục tuyệt, ỷ duy vọng nguyệt không trường thán…3 Là các câu trong bài “Trường tư tư” của Lý Bạch: Thượng hữu thanh minh chi cao thiên, hạ hữu lục thủy chi ba lan. Thiên trường địa viễn hồn phi khổ, mộng hồn bất đáo quan sơn nan. Trường tương tư, tồi tâm can!
Hết quyển VI
Tóm t ắt các hồi truyện quyển VI:Thượng đế thâm cung bế cửu hôn .......... Cấm cung hừng hực khói đao binh Hải lộ vô trần biên thảo tân .......... Biên ải nồng nàn lửa dục tình Hà tất cánh tầm vô chủ cốt .......... Đồng vắng chôn vùi thân chiến sĩ Dã tri tằng hữu lộng quyền nhân .......... Trướng hoang dìm lấp mộng gia đình Nam quách Tử Kỳ sơ táng ngã .......... Sông tục thượng nhân mong giải thoát Đông lai Đạt Ma cầu bổn tâm .......... Chùa trần thiếu nữ quyết đảo khuynh Vân quá môn gian lão bệnh tử .......... Núi này mây nọ hồn lìa xác Nhất đàn chỉ khoảnh khứ lai kim .......... Xe đó môi đây bóng đổi hình Cầu chi lưu bối khởi dịch đắc .......... Trận nguy bằng hữu chia đôi thức Hành hĩ Quan Sơn phương độc ngâm .......... Rượu đắng bạn bè sớt một bình Phủ huyện tận vi môn hạ khách .......... Huynh đệ mắt mi lòng thấy trọng Vương hầu giai thị bình giao nhân .......... Ả nàng môi miệng giọng coi khinh Kiển lư sấu mã trần trung bạn .......... Lừa ngựa ốm gàn mà hỉ hả Tử thụ chu y mộng lý thân .......... Áo đai đỏ tía lại linh đinhThanh nga dĩ lạc Hoài biên nguyệt .......... Tuổi xanh gồng gánh bao ly loạn Bạch cốt cam vi Tuyền hạ trần .......... Xương trắng cầu mong chút thái bình Mỗ thủy mỗ sơn mê tính thị ..........Kìa em kìa chị trăng lên tiếng Nhất thoa nhất bội đoạn tri văn .......... Đâu ngọc đâu ngà quế lặng thinh Bằng quân mạc thoại phong hầu sự .......... Người chốn phong ba quên tất cả Kim ngọc đường trung tịch mịch nhân .......... Kẻ nơi nhung lụa nhớ riêng mình
Lời cuối:Đối Môn cư
1
Th ời gian cứ trôi qua không hơi không tiếng, vụt chớp mắt mà đã mười bốn mười lăm năm. Đô thành Lạc Dương vẫn một màu cam sẫm, chẳng dính dấp gì tới chiến sự thoạt ngưng nghỉ thoạt tiếp diễn suốt mười mấy năm ròng giữa An Tây Đô hộ phủ với Thổ Cốc Hồn, chẳng liên quan gì tới cuộc tranh đấu triều ca thúi nát hỗn loạn trong Trường An thành, tựa hồ không đụng chạm gì đến mọi sự trên đời này.
Trong nhà sau c ủa Đỗ gia, một thiếu nữ quý tộc cỡ mười bốn mười lăm tuổi, da trắng nõn nà đang bần thần ngồi trước gương. Nàng đang nhớ đến lời nói của mẫu thân --- Mẫu thân Phương Ninh hôm qua chăm chú nhìn mặt nàng, thốt: “Con thực rất giống phụ thân của con”.
--- Có điều nàng thấy nàng đâu có giống phụ thân Vi Đắc Huy chút nào. Phụ thân là một nam nhân cả ngày nằm ngã trên giường, nàng cũng chỉ gặp mặt được vài lần. Nàng vẫn lấy làm lạ tại sao mình cứ một mực trú ngụ trong ngôi nhà lớn nằm đơn độc ngoài thành thuộc quyền sở hữu của ngoại công Đỗ gia, chứ không cùng sống với cha mẹ ở Vi phủ đằng thành nam. Nàng nghĩ ngợi một hồi thì nhức đầu, cũng không suy đoán gì nữa, lại cầm một tờ giấy trên bàn lên xem. Đó là tờ giấy nàng dùng để tập viết, bên trên là một bài thơ nàng sao chép lúc nhàn rỗi. Ý tứ trong thơ nàng cũng không để ý gì lắm. Bài thơ tả một cô bé như nàng phải không? Nhưng… lại có vẻ hoàn toàn không dính líu gì với nàng. Nàng sinh ra trong phú quý, lớn lên trong giàu sang, chưa từng thiếu cái gì hết, mà tựa hồ bất cứ cái gì cũng hoàn toàn không có liên quan với nàng.
L ạc Dương trước cửa có một nàng, Xấp xỉ mười lăm mặt tựa trăng. Ngựa Thông dàm ngọc trượng phu đón,Cá chép mâm vàng tỳ nữ dâng. Gác tía lầu son bày đối diện,Liễu xanh đào đỏ rũ bên thềm. Xe thơm rèm gấm đưa dâu thảo, Trướng thắm quạt tơ rước vợ hiền. Trẻ trung giàu có đức ông chồng, Xa xỉ ngông nghênh cỡ Thạch Sùng. Quá yêu dạy dỗ nàng ca múa,Trao tặng san hô chẳng ngại ngùng. Song xuân hừng sáng nến tàn tro, Lất phất rải rơi đọng ô hoa. Vui nghịch còn đâu giờ tập nhạc, Điểm trang xiêm áo thấm hương lò.Thị thành quyền thế mới làm quen,Triệu sáng Lý đêm đáng bõ bèn. Ai thương gái Việt dù xinh xắn,Giặt lụa đầu sông bởi phận hèn.2
1 Dựa theo câu “Lạc Dương nữ nhi đối môn cư” trong bài thơ “Lạc Dương nữ nhi hành” của “Thi Phật” Vương Duy. 2 Nguyên tác bài thơ “Lạc Dương nữ nhi hành”:
Cô bé có v ẻ mệt mỏi, lại đang nghĩ: mình cũng là như vậy sao? Ngày tháng như vậy là tốt nhất à? Nàng chợt đi đến trước cửa sổ, đã là hoàng hôn. Nàng nhớ rằng: cứ vào khoảng thời gian này, đứng trên lầu trông ra xa, sẽ thấy được con đường ngoài vườn, sẽ có cái gã thiếu niên cưỡi ngựa kia đi ngang qua…
HẾT
L ạc Dương nữ nhi đối môn cư, tài khả dung nhan thập ngũ dư. Lương nhân ngọc lặc thừa Thông mã, thị nữ kim bàn khoái lý ngư. Họa các chu lâu tận tương vọng, hồng đào lục liễu thùy thiềm hướng. La duy tống thượng thất hương xa, bảo phiến nghênh quy cửu hoa trướng. Cuồng phu phú quý tại thanh xuân, ý khí kiêu xa kịch Quý Luân. Tự liên bích ngọc thân giao vũ, bất tích san hô trì dữ nhân. Xuân song thự diệt cửu vi hỏa, cửu vi phiến phiến phi hoa tỏa. Hí bãi tằng vô lý khúc thời, trang thành kỳ thị huân hương tọa. Thành trung tương thức tận phồn hoa, nhật dạ kinh qua Triệu Lý gia. Thùy liên Việt nữ nhan như ngọc, bần tiện giang đầu tự hoán sa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro