Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ktpt12

cua12::;Nội dung lý thuyết của Harrod Domar:

Vào những năm 40 các nhà kinh tế R. Harrod và E. Dornar đã đề xuất quan điểm về mối tăng trưởng kinh tế và các nhu cầu về vốn tư bản.

R. Harrod coi phạm trù kinh tế động là tình trạng của nền kinh tế khi tổng đầu tư của sản phẩm có thay đổi, tăng lên hoặc giảm đi. Ông cho rằng nghiên cứu một nền kinh tế đang mở rộng thì cần xem xét mối tương quan giữa 3 nhân tố: sức lao động, quy mô tư bản hiện có và sản lượng sản phẩm được sản xuất ra. Việc xác định khối lượng tư bản cần thiết đủ để làm cho 2 yếu tố kia phát sinh tác dụng là điều quan trọng nhất. Ông nêu ra các phương trình tăng trưởng kinh tế động như:

Phương trình tăng trưởng thực tế của sản xuất:

GxC= Sản xuất

C= (C2-C1)/ Giá trị

Trong đó: G là mức tăng tổng đầu ra trong thời kỳ xem xét

C là tư bản tăng lên trong thời kỳ đó so với mức tăng của sản phẩm cùng kỳ.

Sản xuất là tiết kiệm

C1 là tư bản lúc đầu kỳ nghiên cứu

C2 là tư bản vào cuối kỳ

Nhưng tiết kiệm là đại lượng khó xác định chính xác trước được, như vậy vấn đề là làm sao xác định được tốc độ tăng trưởng giá trị, trong đó tiết kiệm thực sản xuất cần phải bằng đầu tư cần thiết. Ông ra khái niệm tăng trưởng có bảo đảm theo phương trình sau:

GW x Cr= Sản xuất

Trong đó:

- GW là tốc độ tăng trưởng có bảo đảm, đáp ứng được lợi ích của người sản xuất, nghĩa là tốc độ tăng trưởng theo sản phẩm đầu ra tạo được điều kiện cho quá trình tiếp tục diễn ra.

- Cr là hệ số cơ bản cần thiết.

Trong lý thuyết tăng trưởng của mình Harrod - R. Harrod chủ yếu nghiên cứu và đề xuất quan điểm về mối quan hệ tăng trưởng và các nhu cầu về vốn cơ bản. Tư tưởng cơ bản của thuyết cho rằng mức tăng trưởng của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, hay toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phụ thuộc chặt chẽ vào tổng số tư bản đầu tư cho đơn vị kinh tế đó. Trong điều kiện kinh tế thị trường, về cơ bản thu nhập được chia làm thành 2 phần: Phần dành cho tiêu dùng trực tiếp và phần dành cho tái đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp. Với giả định toàn bộ tiết kiệm được dành cho đầu tư thì tổng đầu tư bằng tổng tiết kiệm. Như vậy, mối quan hệ tăng trưởng và đầu tư được biểu hiện thành mối quan hệ giữa mức tăng trưởng và mức tiết kiệm. Nói cách khác tốc độ của sản xuất tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm trên tổng sản phẩm kinh tế quốc dân.

Lý thuyết R. Harrod - Dornar cho rằng tư bản được tạo ra bằng đầu tư dưới dạng nhà máy và thiết bị là nguồn xác định chính của sự tăng trưởng và số tiền tiết kiệm của dân cư, các công ty là nguồn để có vốn đầu tư.

Để đo năng lực sản xuất tăng thêm hay khả năng tăng trưởng, người ta dùng chỉ số gia tăng tư bản - đầu ra là 2:1. Chỉ số này thường được dùng để lựa chọn việc quyết định đầu tư cho loại sản phẩm hay ngành nào đó trong mỗi giai đoạn ở một thời điểm nhất định.

cau13;;

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: