Ko chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của TQ ở Đ. Âu và Bắc Việt thời kì hậu Stalin
Trường hợp Việt Nam
Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Việt Nam cần được xem xét theo một ánh
sáng hoàn toàn khác. Nếu ảnh hưởng Trung Quốc ở Đông Âu đến muộn
(sau khi Stalin chết) và chỉ ở mức hạn chế so với ảnh hưởng của Liên Xô
tại khu vực, thì mối quan hệ thân cận - được thúc đẩy nhờ liên hệ truyền
thống và văn hoá giữa hai nước - giữa những người cộng sản Việt-
Trung sâu sắc hơn và có từ thập niên 1920. Nhiều người cộng sản Việt
Nam, gồm cả Hồ Chí Minh, từng tham gia phong trào cộng sản Trung
Quốc và ẩn náu ở Trung Quốc trong thập niên 1930 và đầu 1940. Thắng
lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 không chỉ đẩy mạnh hỗ trợ
bằng hình thức cố vấn và vật chất cho cách mạng Việt Nam, mà còn
cung cấp một mô hình cạnh tranh. Tháng Ba 1951, tại Đại hội Hai của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng của Mao được đặt chung với chủ
nghĩa Marx-Lenin làm kim chỉ nam cho cương lĩnh mới của Đảng. Hình
của Mao được treo ngang hàng với hình của Marx, Engels, Lenin và
Stalin. [1]
Trong khung cảnh lịch sử này, những phát triển ở Việt Nam trong giai
đoạn hậu Stalin có nhiều liên hệ với Trung Quốc hơn là với Liên Xô.
Với các nước Đông Âu, các vấn đề lớn nhất của họ lúc này xuất phát từ
việc thực thi mô hình Stalin như quá nhấn vào công nghiệp nặng, thiếu
các vật phẩm căn bản hàng ngày, sự phẫn uất vì các đợt thanh trừng, sự
tàn nhẫn của công an, và lại thêm cả kiểm soát chính trị từ Moskva.
Khác với Đông Âu, những vấn đề khó khăn nhất của Bắc Việt là do bắt
chước mô hình Trung Quốc. Trong số các hành động mượn của Trung
Quốc, có ba cái đặc biệt gây bức bối. Thứ nhất là cải cách ruộng đất: bất
kì một nông dân giàu có nào cũng có thể bị gán là "địa chủ", bị đưa ra
"toà án nhân dân" và bị hành quyết mà không cần tiến trình pháp lý nào,
và những ai thông cảm thì có thể bị phạt nặng. Thứ hai là cải tạo tư
tưởng: các trí thức, ngay cả những vị đã đồng lòng tham gia cách mạng,
bị bắt tham dự các trường, lớp học đặc biệt để cải tạo và bị buộc thú tội.Thứ ba là kiểm soát trí thức bằng một chính thể quân sự. Điều này là vì
cho đến tháng Hai 1955, Bắc Việt không có Bộ Văn hoá, và đa số trí
thức tham gia kháng chiến chống Pháp - đặc biệt là văn nghệ sĩ - đều
nhập ngũ và chịu kiểm soát của Tổng cục Chính trị, một cơ quan hình
thành theo mẫu của Liên Xô, và trực tiếp hơn, của Trung Quốc. Nhiều
chính trị viên đã học ở Trung Quốc và chỉnh huấn hoạt động của trí thức
thông qua kỷ luật quân đội: ví dụ, khi họ muốn ra khỏi doanh trại thì
cũng phải có thẻ, giống như những người lính.
Sau cái chết của Stalin, giống như các nước khác trong thế giới cộng sản,
các tiếng nói chống đối cũng xuất hiện trong giới trí thức Bắc Việt ngay
từ năm 1955. Vào tháng Hai, khoảng 30 nhà văn, hoạ sĩ trong quân đội
viết "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", bao gồm ba đòi hỏi:
1) trao lại sự lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ; 2) thành lập một hội
văn nghệ bên trong cơ cấu quân đội; 3) bãi bỏ cơ chế quân sự kiểm soát
văn nghệ sĩ phục vụ trong quân đội. [2] Nhân vật hàng đầu trong nhóm
phản kháng này là Trần Dần. Cùng tháng ấy, Trần Dần dẫn đầu khoảng
20 nhà văn, hoạ sĩ đến nói chuyện với tướng Nguyễn Chí Thanh, người
đứng đầu Tổng cục Chính trị. Họ đề đạt ba yêu cầu tập trung vào tự do
sáng tạo cho nhà văn và nghệ sĩ. Thỉnh cầu chính trị này bị viên tướng từ
chối và ông lên án các trí thức bộ đội, rằng hành động của họ "chứng tỏ
ý thức hệ tư bản đã bắt đầu tấn công các đồng chí". [3] Thất bại của thỉnh
nguyện này làm các trí thức bực bội, những người ngây thơ tin rằng sự
đóng góp của họ cho cách mạng đã chiếm được niềm tin của Đảng, và
điều này chuẩn bị cơ sở cho thách thức quyết liệt hơn của giới trí thức
vào năm sau.
Đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn, Trần Dần và nhóm của ông góp một
phần vào phong trào "Tan băng" trong thế giới cộng sản hồi giữa thập
niên 1950, do các nhà văn, nghệ sĩ thúc đẩy và nhắm vào học thuyết
"hiện thực xã hội chủ nghĩa" của Stalin và sự kiểm soát của Đảng đối
với trí thức. [4] Nhưng trường hợp Trần Dần cũng thể hiện một liên hệ
với Trung Quốc. Ông có mặt ở Trung Quốc năm 1954, khi vụ Hồ Phong
xảy ra. Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và là đảng viên lâu năm,
gửi một lá thư dài cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng Bảy
1954, chỉ trích sự thống trị của các cai tổng văn nghệ, rằng việc ép buộc
xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa đã không để cho sáng tạo có tự do,
và thái độ quan cách của các lãnh đạo văn nghệ càng làm cho nhà văn và
trí thức bực bội. Mặc dù ông không có ý định thách thức quyền uy của
Đảng, nhưng hành động của Hồ Phong phản ánh sự bực bội trong nhiều
trí thức, nghệ sĩ và được xem là bằng chứng sớm nhất của sự phân rẽ giữa Đảng và trí thức sau ngày thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Nhưng đến cuối năm 1954, cánh văn nghệ của Đảng mở cuộc phản kích
và buộc Hồ Phong làm tự kiểm, và đến tháng Năm 1955, chiến dịch
chống Hồ Phong đã trở thành rầm rộ. Ông bị bắt tháng Sáu 1955 và bị
giam cho đến cuối kỳ Cách mạng Văn hoá.
Chắc chắn Trần Dần có biết những tư liệu liên quan đến lá thư của Hồ
Phong: ông đang ở Trung Quốc vào lúc lá thư tạo ra chấn động và thảo
luận trong giới trí thức Trung Quốc. Cũng chắc chắn Trần Dần có cảm
tình với Hồ Phong, vì bản thân ông gặp xung khắc với chính dạng lãnh
đạo văn nghệ mà Hồ Phong chỉ trích. Trần Dần được cho đi Trung Quốc
để hoàn tất kịch bản bộ phim về chiến thắng Điện Biên Phủ. Theo thông
lệ, đi cùng ông là một chính trị viên mà sau đó ông có mâu thuẫn vì
người kia xen vào công việc sáng tạo của ông. Trần Dần cũng ghét sự áp
dụng "hiện thực xã hội chủ nghĩa", giống như Hồ Phong. Cùng thời
điểm ông mở tranh luận với tướng Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần cũng
đăng bài phê phán tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tố Hữu có chân trong
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động trí thức và văn
nghệ, và tập thơ của ông được xem là ví dụ mẫu mực khi mô tả các anh
hùng. Công kích thứ văn chương "hiện thực xã hội chủ nghĩa" kiểu Tố
Hữu, Trần Dần nhấn mạnh: "Realism encourages a hundred schools to
thrive both in substance and in form". Điều này khiến Boudarel đặt giả
thiết là "ngay từ tháng Hai 1955, một chiến dịch Trăm hoa Đua nở đã
hình thành trong Ban Văn nghệ của quân đội Bắc Việt. Nó xảy ra một
năm trước khi một phong trào có tên như thế bắt đầu ở Trung Quốc, và
gần hai năm trước khi chính sách này có hiệu lực." [5] Tuy nhiên, cụm từ
"bách gia" thực sự đã có từ thời cổ sử Trung Hoa, chỉ không khí tranh
đua triết lý và tư tưởng trong giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc (thế kỷ
tám đến thế kỷ ba trước Công nguyên). Khi đã biết ảnh hưởng của văn
hoá Trung Quốc ở Việt Nam, sẽ không phải vô lý khi giả định rằng Trần
Dần đã dùng cụm từ này mà không nhận biết về nguồn gốc của nó.
Ngoài ra, lần đầu tiên cụm từ "bách hoa tề phóng" có mặt trong đời sống
văn hoá Trung Quốc là năm 1951, khi Mai Lan Phương, nam diễn viên
nhạc kịch nổi danh nhất Trung Quốc, nhờ Mao ra chỉ thị cho Học viện
Nhạc kịch Truyền thống Trung Quốc vừa mới thành lập. Mao bảo: "Hãy
để trăm hoa đua nở, để thể loại mới thay thế cái cũ." [6]
Còn về cụm từ "bách gia tranh minh", thì đó là câu trả lời của Mao cho
cuộc tranh luận giữa Quách Mạt Nhược và Phạm Văn Lan, hai sử gia có
tiếng, về cách làm thế nào áp dụng lý thuyết của Marx vào việc nghiên
cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc. Chính trong bối cảnh này Trần Bá Đạt,
thư ký riêng và là trưởng ban nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, đã yêu cầu Mao đưa ra chỉ thị [7] . Như vậy, cả "trăm hoa" và "trăm nhà" đều đã
được dùng ở Trung Quốc từ 1953 cho công tác học thuật và sân khấu,
mặc dù chúng được đề đạt riêng rẽ, lan toả trong từng giới, và chưa
mang ý nghĩa chính trị sâu sắc cho đến giai đoạn hạ bệ Stalin mùa Xuân
1956.
Theo Kim N. B. Ninh, sự bất mãn của trí thức Việt Nam với chính quyền
không phải bắt đầu từ cuộc xung khắc giữa Trần Dần với Đảng mà đã có
từ cuối thập niên 1940 [8] . Vì thế liên hệ Trung Quốc trong trường hợp
Trần Dần có thể được xem là cảm hứng khiến ông bày tỏ (cùng nhiều
người khác) những bức bối đã có từ trước. Sau này các bạn của Trần
Dần thừa nhận liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần trong bức tranh biếm
hoạ đăng trên Nhân văn, tờ báo phản kháng có ảnh hưởng nhất, trong số
ra ngày 30-9. Đảng thậm chí nhận ra sự liên hệ này, và ta không ngạc
nhiên là khi Trần Dần bị bắt tháng Hai 1956 - sáu tháng sau khi Hồ
Phong bị giam - thì một số cán bộ nói lý do của việc bắt giữ là "Trung
Quốc có Hồ Phong, có lẽ chúng ta cũng có một Hồ Phong." [9] Như tác
giả Kim N. B. Ninh chỉ ra, "Có vẻ chiến dịch chống Hồ Phong dữ dội ở
Trung Quốc đã làm tăng sự cảnh giác ở Việt Nam" và kết quả là Trần
Dần trở thành nạn nhân của sự cảnh giác đó [10] .
Tuy nhiên, ngay sau khi Trần Dần bị bắt, bối cảnh quốc tế lại trở nên có
lợi cho giới trí thức. Liên Xô tổ chức Đại hội 20 vào tháng Hai và Trung
Quốc loan báo Chính sách Trăm hoa vào tháng Hai, cả hai sự kiện ngay
lập tức có tác động tới quan hệ giữa trí thức Việt Nam và Đảng. Để giới
thiệu đường lối mới của Liên Xô, Anastas Mikoyan, phó Thủ tướng thứ
nhất của Liên Xô, đến Bắc Kinh và Hà Nội trong tháng Tư. Cùng tháng
ấy, Trần Dần được thả, chủ yếu vì việc bắt giữ ông diễn ra mà không có
sự chuẩn y của ban lãnh đạo cao cấp nhất trong Đảng, nhưng sự thay đổi
trong không khí quốc tế rõ ràng đóng một phần vai trò trong việc thả
Trần Dần. Diễn văn của Lục Định Nhất vào cuối tháng Năm cổ vũ Chính
sách Trăm hoa nhanh chóng được các trí thức Việt Nam hăm hở đọc.
Triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo, trưởng Khoa Sử của Đại học Sư
phạm Hà Nội mới thành lập cùng năm ấy, nhanh chóng tìm người dịch
nó trong tháng Bảy [11] .
Theo Bernard B. Fall, ban đầu Bắc Việt cố không chú ý tới sự cởi mở
bất ngờ ở Trung Quốc, nhưng sự bỏ qua không thể tồn tại được lâu vì
nhiều nhà văn có tiếng ở miền Bắc nắm bắt ngay khẩu hiệu của Trung
Quốc. Với họ, khẩu hiệu Trung Quốc có cùng âm vọng như nền giáo dục
cởi mở của Pháp mà họ từng thụ hưởng nhiều năm trước [12] . Hai cuộc họp quan trọng trong mùa Hè trở thành điểm tập hợp cho ý kiến phản
kháng. Một là Hội nghị của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội từ cuối
tháng Bảy đến đầu tháng Tám, và tại đó các đại biểu phê phán nặng nề
nhiều chính sách của Đảng, từ việc thiếu thực phẩm đến thuế. Hai là hội
nghị của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật miền Bắc (1-18 tháng Tám)
với chừng ba trăm đại biểu, nhằm học tập Đại hội 20 của Liên Xô và
chính sách văn hoá mới của Trung Quốc. Cuộc họp đưa ra năm đòi hỏi,
trong đó có việc đòi dịch và công bố Chính sách Trăm hoa của Mao [13] .
Bị thúc ép trước các diễn biến này, và rộng lớn hơn là vì không khí hạ bệ
Stalin và cởi mở trong thế giới cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
chính sách mới với trí thức vào tháng Tám, nhấn mạnh đoàn kết, tin
tưởng và hợp tác với trí thức chứ không nói đến cải tổ [14] . Vẫn theo thói
tục học tập kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam gửi đại diện sang Trung
Quốc theo dõi phong trào Trăm hoa [15] . Vào tháng Mười, khi khủng
hoảng Ba Lan - Hungary đang lên cao trào, sự xét lại chính sách của Bắc
Việt chuyển sang giai đoạn mới mang tính chính trị hơn. Hội nghị lần
thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ đầu tháng Chín và
kéo dài đến cuối tháng Mười, rõ ràng là vì sức nặng của các vấn đề được
thảo luận và chia rẽ trong Đảng. Cuối cùng, hôm 29-10, Đảng ra tuyên
bố công khai thừa nhận các sai lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất
và một số lĩnh vực khác. Trường Chinh, người giữ chức Tổng Bí thư
suốt từ 1941 và đứng số hai sau Hồ Chí Minh, nhận trách nhiệm và từ
chức, cùng với Thứ trưởng Nông lâm (Hồ Viết Thắng). Một chiến dịch
sửa sai sau đó được tiến hành nhằm giảm bớt các đau khổ của người
nông dân trong cải cách ruộng đất [16] . Đài phát thanh Hà Nội hôm 30-
10 tường thuật về Hội nghị 10, nói rằng dân chủ hoá và cải thiện đời
sống nhân dân nay là hai trọng tâm đầu tiên của Đảng, trong khi việc
thống nhất đất nước, vốn vẫn là ưu tiên số một, thì chuyển xuống số ba
[17] .
Những thay đổi lớn này tại Việt Nam và không khí chung ở Trung Quốc
và Đông Âu cho phép các trí thức Việt Nam tận hưởng giai đoạn Nhân
văn - Giai phẩm, một thời đoạn độc đáo của quá trình giải phóng trí thức
từ tháng Tám đến tháng Mười Một năm 1956. Sự giải phóng được thể
hiện bằng sự xuất hiện đột ngột tại các quầy báo nhiều ấn phẩm của tư
nhân tập hợp các trí thức phản kháng. Trong số đó có hai ấn phẩm nhiều
ảnh hưởng nhất mà tên được đặt cho giai đoạn này. Thứ nhất là Giai
phẩm mùa Xuân và Giai phẩm mùa Thu, giới thiệu các văn phẩm mang
nội dung chính trị. Thứ hai là Nhân văn, một tuần báo công khai nói
chuyện chính trị. Trong văn cảnh Việt Nam, hai chữ Nhân văn còn phản ánh ý niệm Nho giáo về việc trở thành một người văn minh nhờ vào việc
học văn chương và triết lý. Các thảo luận chính trị mà các ấn phẩm này
khơi dậy bao quát nhiều chủ đề, từ các chính sách trí thức và văn hoá của
Đảng cho đến cải cách ruộng đất, tệ quan liêu, tham nhũng, bất tài, và sự
chính danh của "chính thể đảng trị", như cách gọi của sinh viên [18] . Các
thảo luận không giới hạn trong các bài báo và thư độc giả, mà còn lan ra
đại học, trường học và thậm chí các buổi họp của Hội đồng Nhân dân Hà
Nội và Mặt trận Tổ Quốc [19] .
Rõ ràng ta thấy có ảnh hưởng của Trung Quốc trong quá trình nới rộng
tự do ở Việt Nam. Tất cả các ấn phẩm phản kháng đều hướng tới Trung
Quốc như niềm cảm hứng. Như Kim Ninh chỉ ra, "Thực sự, Nhân văn
theo sát các sự kiện ở Trung Quốc và Đông Âu, ủng hộ Chiến dịch Trăm
hoa và xu hướng cởi mở ở Ba Lan và Hungary... Các cây bút của Nhân
văn cảm thấy rõ rệt là họ đang tham gia một phong trào quốc tế rộng
hơn..." [20] Ngoài ra, tên của một số tờ báo phản ánh sự liên hệ trực tiếp
với Trung Quốc. Ví dụ ta có tạp chí Trăm hoa, trong khi cái tên Đất mới
(một tạp chí của sinh viên đại học đã dùng từ "chính thể đảng trị" để chỉ
chính phủ) ám chỉ vùng đất màu mỡ cho các loại hoa mới sinh sôi.
Các liên hệ cá nhân giữa các trí thức phản kháng với Trung Quốc cũng
dễ thấy. Ví dụ, vào cao trào giải phóng, Phan Khôi, chủ biên của Nhân
văn và là nhân vật nổi tiếng nhất của phong trào, có mặt ở Trung Quốc
đại diện cho trí thức Việt Nam tại buổi lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của
Lỗ Tấn [21] . Việc chọn Phan Khôi làm đại diện cho Việt Nam khó có thể
nói là ngẫu nhiên, vì sự kiện kỷ niệm nhằm tôn vinh một trí thức nổi
tiếng vì sự độc lập tư tưởng và Phan Khôi lại có tiếng là nhà bình luận
độc lập. Có một chi tiết khiến sự đại diện của Phan Khôi ở Trung Quốc
lại có thêm ý nghĩa. Một năm trước đó, khi chính phủ yêu cầu Phan Khôi
phát biểu về cùng đề tài Lỗ Tấn nhân kỷ niệm ngày mất của nhà văn
Trung Quốc, ông đã phải nộp bản thảo cho Hội Văn nghệ và sửa chữa
bài viết dựa trên các nhận xét. Một năm sau, gần như cùng lúc khi ông
sang Trung Quốc dự sự kiện quan trọng hơn về Lỗ Tấn, Phan Khôi viết
bài "Phê bình lãnh đạo văn nghệ" trên Nhân văn [22] than phiền về thiếu
tự do sáng tạo ở Bắc Việt, nhắc lại câu chuyện một năm trước cùng
nhiều ví dụ tương tự về sự can thiệp của chính quyền, và đặt câu hỏi,
"Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!"
[23]
Nhưng liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Việt Nam còn có thể được
khảo sát từ một góc nhìn khác, dựa trên sự riêng biệt của quá trình nói rộng tự do ở Việt Nam. Sự nới rộng tự do ở Việt Nam có khác biệt bởi vì
con đường của nó nhiều va vấp và ở một số chặng thì tương ứng với
hoàn cảnh ở Trung Quốc. Để hiểu điều này, tôi cần tóm tắt quá trình mở
rộng tự do ở Việt Nam.
Từ tháng Tám đến tháng 11-1956, phong trào trải qua thời điểm vàng
son, giai đoạn Nhân văn - Giai phẩm. Rồi ngay sau khi Liên Xô đàn áp
cuộc nổi dậy ở Hungary, chính phủ Liên Xô bắt đầu đánh lại trí thức
bằng việc in các bình luận, xã luận và thậm chí "thư độc giả" lên án các
phần tử chống chủ nghĩa xã hội. Như một xã luận của báo Nhân dân ở
Việt Nam, xuất hiện năm ngày sau cuộc đàn áp, viết rằng: "Chúng ta
không thể cho phép bất kỳ ai lợi dụng tự do dân chủ và tự do ngôn luận
để tách rời nhân dân khỏi Đảng." [24] Sau hơn một tháng chuẩn bị tuyên
truyền như vậy, vào ngày 18-12, sau một nghị định của Chủ tịch nước,
Ủy ban Hành chính Hà Nội cho ngưng phát hành Nhân văn và Giai
phẩm; đóng cửa nhà xuất bản Minh Đức; tịch thu các số báo cũ; và cảnh
cáo những ai còn sở hữu và phân phối báo. Một chiến dịch báo chí nhanh
chóng diễn ra để hạ uy tín hai ấn phẩm và người viết.
Việc cấm hai tờ báo và chiến dịch báo chí phê phán chúng là một trở
ngại nghiệm trọng cho giới trí thức, nhưng cơn bão chính trị tháng 12-
1956 qua đi nhanh đến bất ngờ. Chỉ hai tháng sau, Nhân dân ngừng
chiến dịch phê phán Nhân văn - Giai phẩm, và toàn bộ những người bị
nhắm đến trong chiến dịch đều an toàn, không ai bị bắt hay mất việc, mà
họ chỉ phải tự kiểm thảo và một số bị giáng chức. Như Kim Ninh chỉ ra,
các trí thức "tiếp tục giữ chỗ làm nhà nước và, trong một số trường hợp,
họ duy trì cả vị trí lãnh đạo trong các nhà xuất bản quốc doanh và thậm
chí trong Ban Chấp hành của Hội Văn học Nghệ thuật." [25] Trong tháng
Hai, Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần hai được triệu tập, và nghị quyết
không nhắc gì tới vụ Nhân văn - Giai phẩm, mặc dù nó ghi nhận sự cần
thiết chống lại "các khuynh hướng sai trái". Đến tháng Năm, một tờ báo
mới, tuần báo Văn, ra đời với tư cách là cơ quan chính thức của Hội Nhà
văn vừa thành lập. Dưới ngọn cờ của tuần báo Văn, các cây bút của
Nhân văn và Giai phẩm nhanh chóng tụ họp lại. Honey chỉ ra, "Dù họ đã
phải học tập những gì thì hoá ra tất cả đều vô ích, vì họ nhanh chóng tiếp
tục sự công kích Hội Văn học Nghệ thuật, Đảng, chính thể, và mọi mục
tiêu trước đó." [26]
Nói cách khác, môi trường văn hoá tại miền Bắc Việt Nam phần lớn năm
1957 ít nhất cũng là nhẹ nhàng và dễ thở. Ngay từ khi ra mắt, báo Văn bị
các tờ báo Đảng phê bình vì một số nội dung, nhưng sự chỉ trích chưa khi nào đưa tới một chiến dịch phối hợp lên án của báo chí, hay buộc các
nhà văn phải im lặng. Hirohide Kurihara, trong nghiên cứu của ông về
chính sách văn hoá Bắc Việt từ 1956 đến 1958, ghi nhận có hai đường
lối "linh động" dẫn dắt tình hình trí thức trong năm 1957. Một "ngả về
hướng tôn trọng sự chủ động của các nhà văn và trí thức... không có
biện pháp cụ thể nào nhằm buộc người cầm bút tham gia học tập chính
trị hay các hoạt động sản xuất"; đường lối thứ hai "mang tính ôn hoà
nhằm đạt các mục tiêu chính sách, một cách tiếp cận nhấn mạnh vào việc
đạt tới sự đồng thuận thông qua thuyết phục và thảo luận kiên nhẫn."
Khi thực hiện chính sách đồng thuận này, "những người nắm chính sách
được cảnh báo không được hành động lỗ mãng." [27]
Thời gian cởi trói tiếp theo này kéo dài được khoảng nửa năm và cuối
cùng chấm dứt vào đầu 1958. Ngày 6-1, Bộ Chính trị ra "Nghị quyết Bộ
Chính trị về công tác văn nghệ", đòi trục xuất toàn bộ những "phần tử
phá hoại" ra khỏi các tổ chức văn nghệ và yêu cầu văn nghệ sĩ học tập
chủ nghĩa Marx-Lenin và tham gia lao động [28] . Theo sau nghị quyết là
việc đình bản tuần báo Văn vô thời hạn và từ đây bắt đầu chiến dịch
mạnh và lâu dài nhằm loại bỏ tận gốc mọi tiếng nói và thành phần đối
kháng trong giới trí thức. Nhiều trí thức bị bắt và năm người trong số họ,
tất cả gắn với vụ Nhân văn - Giai phẩm và do Phan Khôi đại diện, bị đưa
ra xử và kết án vì "các hoạt động tâm lý chiến núp dưới bóng Nhân văn -
Giai phẩm". [29] Cùng lúc đó, đa số các trí thức, bất kể hoạt động chính
trị của họ là gì trong giai đoạn Nhân văn - Giai phẩm, đã phải đi cải tạo
dưới hình thức học tập chính trị sát sao và lao động nặng nhọc ở nông
thôn và nhà máy - một hình thức vay mượn từ Trung Quốc.
Như thế, thời kì nới rộng tự do ở Việt Nam có hai giai đoạn nở rộ: từ
tháng Tám đến tháng Mười Một 1956, và từ tháng Năm 1957 đến tháng
Giêng 1958. Đối với các sử gia, những câu hỏi tự nhiên là: Tại sao chính
phủ Việt Nam không nhân sự biến ở Hungary mà dập tắt các tiếng nói
đối kháng trong nước bằng cách đẩy mạnh công cuộc đàn áp đã bắt đầu
với việc cấm báo Nhân vănGiai phẩm hồi tháng 12-1956? Tại sao nhà
nước vẫn cho phép giới trí thức tiếp tục sự công kích chính thể vào mùa
hè 1957?
Điều khiến các câu hỏi này càng thêm kích thích sự tò mò là có một sự
kiện đã có thể tạo nên môi trường thuận lợi hơn cho chính quyền thẳng
tay đàn áp trí thức vào thời điểm cấm báo Nhân vănGiai phẩm. Sự kiện
đó là cuộc nổi loạn của nông dân ở tỉnh Nghệ An chống lại chính sách
cải cách ruộng đất. Nỗi bức bối của người nông dân vì cải cách ruộng đất đã chất chồng mấy năm, và việc Đảng công khai thừa nhận các sai lầm
trầm trọng trong chiến dịch, được Trường Chinh thông báo (ông này sau
đó từ chức Tổng Bí thư để xoa dịu sự bất bình), chỉ cung cấp thêm cho
nông dân cơ hội bày tỏ phẫn uất. Cuộc nổi dậy bắt đầu từ ngày 5-11 và
có đến hơn 20.000 nông dân tham gia. Nó kéo dài khoảng một tuần và bị
một đơn vị đặc biệt của quân đội Bắc Việt dập tắt. Sự kiện này làm lung
lay tận gốc sự tự tin của chính thể trong việc cai trị nông thôn - đặc biệt
vì tỉnh Nghệ An là quê ông Hồ Chí Minh và căn cứ đầu tiên của cách
mạng Việt Nam - và nó là sự biến rất đẫm máu trong thời kì hạ bệ
Stalin, có lẽ chỉ kém các cuộc nổi dậy ở Ba Lan và Hungary. Nhưng, thật
không may là nó chưa được chú ý đầy đủ trong các nghiên cứu về vấn đề
hạ bệ Stalin từ góc nhìn toàn cầu. Cuộc nổi dậy là một đe doạ lớn cho
chính thể, và sẽ không ngạc nhiên nếu chính quyền siết chặt các chính
sách chung ở trong nước để dập tắt mọi dấu hiệu của xu hướng nổi loạn
trong dân sau vụ đàn áp nổi dậy này. Nhưng trên thực tế sự đàn áp trí
thức - sau khi cuộc nổi dậy nông dân bị dập tắt - đã diễn ra ngắn ngủi,
nhẹ nhàng và thậm chí tiếp theo sau ta thấy quá trình trả lại tự do cho
văn nghệ sĩ còn được phục hồi.
Mặc dù tôi không tìm cách loại bỏ mọi khả năng giải thích quá trình nới
rộng tự do lúc lỏng lúc chặt ở Việt Nam, nhưng việc xem xét mối liên
quan Trung Quốc có thể cung cấp ít đầu mối. Do ảnh hưởng nặng của
Trung Quốc ở Việt Nam và quan hệ thân mật giữa hai đảng, và do thời
kì nới rộng tự do ở Việt Nam lấy cảm hứng từ mô hình Trung Quốc, sẽ
vô lý nếu cho rằng ban lãnh đạo Việt Nam đã tự ý tạm ngừng đàn áp vào
đầu năm 1957 mà không theo dõi thái độ của Trung Quốc. Vào mùa
Xuân 1957, khi môi trường ở Việt Nam một lần nữa trở nên thuận lợi
cho sự mở rộng tự do dân chủ, đó là lúc ban lãnh đạo Trung Quốc mở
chiến dịch "chỉnh phong" quy mô cả nước để lấy ý kiến phê bình của trí
thức đối với Đảng. Giới trí thức Bắc Việt tái tục sự công kích chính thể
vào đầu mùa Hè, chính vào thời điểm phong trào chỉnh huấn ở Trung
Quốc đạt cao điểm và đa số những người phái hữu đang để lộ mình khi
công khai chỉ trích Đảng và đòi cải cách.
Nhưng vào ngày 8-7-1957, chiến dịch chống phái hữu bắt đầu ở Trung
Quốc. Cũng chính vào ngày ấy, vô tình hay hữu ý, ông Hồ Chí Minh ghé
Bắc Kinh trên đường đi Bắc Hàn, Liên Xô và Đông Âu. Trên đường
quay về Việt Nam, vào cuối tháng Tám, ông Hồ một lần nữa ghé thăm
Trung Quốc và gặp các lãnh đạo Trung Quốc lúc ấy đang bận rộn với
chiến dịch chống phái hữu. Về mặt chính thức, ưu tiên của ông Hồ là
được Trung Quốc ủng hộ lời kêu gọi của ông nhằm mở một hội nghị tham vấn về việc thống nhất đất nước thông qua tổng tuyển cử tự do [30] .
Nhưng đằng sau đó họ còn bàn bạc chuyện gì? Họ có bàn về chiến dịch
đang diễn ra ở Trung Quốc và những thách thức mà giới trí thức Việt
Nam đặt ra cho Đảng của ông Hồ? Mặc dù không có tư liệu nào có thể
cung cấp thêm thông tin, nhưng có một điều chắc chắn: ông Hồ hẳn bị ấn
tượng mạnh về chiến dịch và ý định thật cũng như chiến lược của Mao
nhằm buộc kẻ thù lộ mình. Ông Hồ giỏi tiếng Hoa (ông từng làm thông
dịch viên cho các phái viên Liên Xô và những người cộng sản Trung
Quốc trong thập niên 1920), và có thể tự mình đọc báo tiếng Hoa. Các tờ
báo Trung Quốc lúc ấy tràn ngập các bài chống phái hữu và các phương
pháp dùng để trấn áp, như vậy làm sao tất cả những điều này lại không
được ông Hồ chú ý cơ chứ? [31] Một bằng chứng cho ảnh hưởng của
Trung Quốc là khoảng hai tuần sau khi trở về nước, ông Hồ, dùng bút
danh Trần Lực, đã đăng một bài trên Nhân dân ngày 16-9 với tựa đề
"Đập tan tư tưởng hữu khuynh". Theo Boudarel, bài báo dường như in
đậm dấu ấn chiến dịch đang diễn ra ở Trung Quốc. Cách ông Hồ tiếp cận
vấn đề cũng tương tự như cách nói ẩn dụ của Mao. Ông viết, "Tư tưởng
hữu khuynh như cỏ độc. Hãy nhổ cỏ và biến chúng thành phân để làm
đồng lúa được màu mỡ." [32]
Điều đáng nói là ít tác giả nào chú ý đầy đủ đến các ảnh hưởng quốc tế
đối với lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1957-1958, theo nghĩa là liên
kết những thay đổi trong nước với những diễn biến cụ thể trong phong
trào cộng sản quốc tế. Tuy nhiên có một ngoại lệ là tác giả Kurihara.
Kurihara nhấn mạnh những thay đổi tạo ra bởi Hội nghị Moskva của các
đảng cộng sản thế giới tháng 11-1957, mà trong đó Trung Quốc đóng vai
trò lớn trong việc hợp tác với Liên Xô để lên án "khuynh hướng xét lại",
ám chỉ nguy hiểm từ cánh hữu. Vì thế, đối với Bắc Việt, tình hình quốc
tế cuối năm 1957 và đầu 1958 rất khác giai đoạn trước đó. Như Kurihara
chỉ ra, "Cả Liên Xô, nước gây cảm hứng cho Nhân văn - Giai phẩm nhờ
sự lên án Stalin, và Trung Quốc, nước cũng gây cảm hứng nhờ chính
sách 'Trăm hoa', đã ký vào Tuyên bố, tức là bày tỏ ủng hộ cho cuộc đấu
tranh chống xét lại. Ngoài ra, chính sách 'Trăm hoa' đã biến thành chiến
dịch chống phái hữu ở Trung Quốc." [33]
Khi Nhân văn và Giai phẩm bị cấm, một vài nhà quan sát phương Tây
đặt giả thiết rằng các ấn phẩm là "các quả bóng nhử, được thả với sự
ngầm chuẩn thuận của chính phủ" và rằng "thí nghiệm rõ ràng đang đi
đến điểm kết thúc." [34] Nếu nhận xét đó đúng, hẳn Hồ Chí Minh cảm
thấy nhẹ nhõm khi ông ở Trung Quốc chứng kiến chiến dịch chống phái
hữu quyết liệt và thán phục chiến thuật của Mao. Bốn tháng sau, ông Hồ bắt đầu lại cuộc tấn công giới trí thức bằng cách đi theo mô hình Trung
Quốc, một mô hình mà hẳn ông đã cân nhắc trong lúc ở lại Trung Quốc:
bóc trần tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng, bằng việc đăng
những lời "thú tội" của họ trên báo, tổ chức các cuộc họp tập thể mà ở
đó những người bị tố cáo phải tự phê hoặc lên án chính mình, sa thải và
bỏ tù nhiều người, trục xuất nhiều người khỏi các hội nghề nghiệp, và
gửi hàng trăm, hàng ngàn người xuống các vùng nông thôn, nhà máy để
cải tạo thông qua lao động nặng nhọc.
Toàn bộ những chương và diễn biến song song này, khi đặt chúng cạnh
nhau, rõ ràng chứng tỏ ảnh hưởng mạnh của Trung Quốc trong phong
trào nới rộng tự do ở Việt Nam ngay từ năm 1955 cho tới 1958. Giống
như tại Đông Âu, sự liên hệ với Trung Quốc đã tạo cảm hứng ban đầu
cho giới trí thức, khiến họ duy trì quan điểm ngay cả sau khi Liên Xô
đàn áp cách mạng Hungary. Nhưng rốt cuộc sự liên hệ với Trung Quốc
trở thành cú đánh cuối cùng, bất ngờ và có lẽ nặng nề nhất cho phong
trào nới rộng tự do dân chủ.
Kết luận
Phong trào hạ bệ Stalin và mở rộng tự do ở giữa thập niên 1950 là một
hiện tượng của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu và cần được xem xét từ góc
nhìn toàn cầu. Góc nhìn này có thể cho phép ta xem xét nhiều nguồn tư
liệu của nhiều nước cộng sản đóng góp vào hiện tượng này và những
tương tác phức tạp dính dáng đến các nước liên quan, thay vì chỉ nhìn
hiện tượng từ góc nhìn lấy Moskva làm trung tâm.
Là một ví dụ của cái nhìn toàn cầu này, những liên hệ với Trung Quốc,
thể hiện trong trường hợp Đông Âu và Việt Nam, có thể giúp mở rộng
viễn kiến của chúng ta nhờ việc đặt quá trình giải ảo Stalin trong một
văn cảnh rộng hơn. Đầu tiên, Trung Quốc đã đóng góp vào thay đổi
chính trị với những nỗ lực của riêng mình và hành động như một nguồn
độc lập trước Moskva trước Đại hội 20 của Liên Xô, chứ không phải là
một nước ở vị trí ngoài rìa và phản ứng thụ động, và Trung Quốc còn
tiếp tục xác lập ảnh hưởng cả sau khi cuộc nổi loạn Hungary bị đàn áp,
khi mà không khí ở Đông Âu rõ ràng không thuận lợi cho một ảnh
hưởng như vậy. Ảnh hưởng của Trung Quốc không chỉ có trong những
nhân vật cải tổ Đông Âu, mà còn tạo nên hiệu ứng gây lo ngại ở
Moskva, như chính Khrushchev thừa nhận. Thứ hai, khi liên kết trường
hợp Việt Nam với Trung Quốc, ta có thể thấy có sự tồn tại của một mô thức phản kháng và phản đối trong thời kì hậu Stalin - một mô thức châu
Á, chủ yếu thể hiện qua phản đối bằng ngôn từ của trí thức chứ không
phải là những cuộc xuống đường của quần chúng hay thậm chí nổi loạn,
mặc dù Việt Nam cũng có một cuộc nổi loạn nông dân ngắn ngủi và
Trung Quốc chứng kiến một vài cuộc biểu tình của sinh viên và công
nhân. Mô thức phản kháng và phản đối châu Á có vẻ khác với mô thức
Ba Lan - Hungary, mà ở đó sự phản đối của trí thức ban đầu quan trọng
nhưng sau đó bị làm lu mờ bởi hành động bạo lực của quần chúng. Thứ
ba, mối liên hệ Trung Quốc và ảnh hưởng Trung Quốc đối với quá trình
giải ảo Stalin có tính hai mặt. Một mặt, Trung Quốc tán đồng - dù cố ý
hay không - sự giải phóng ở Đông Âu và Việt Nam, và sự tán đồng này
là một phần quan trọng trong việc hạ bệ Stalin mà Moskva phát động.
Nhưng mặt khác, ngược với niềm tin ngây thơ của nhiều nhân vật cải
cách và trí thức Đông Âu và Việt Nam, Mao và ban lãnh đạo Trung
Quốc chưa bao giờ thực sự tin vào dân chủ và tự do. Họ không chần chừ
bộc lộ phản ứng cứng rắn trước thách thức sự cai trị của Đảng Cộng sản
trong trường hợp Hungary, nhưng phải mất một năm trước khi nhiều
người ở Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc nhận ra điều này. Dù ý định
ban đầu của những người cộng sản Trung Quốc có là gì (khi họ cổ vũ
cho Chính sách Trăm hoa và Chỉnh huấn), cuối cùng thì họ chấm dứt
phong trào giải phóng từng nảy nở bằng cách dùng biện pháp khác với
cách đàn áp cách mạng Hungary của Liên Xô, nhưng có tính toán hơn và
có lẽ tiêu cực hơn [35] . Vì thế, nếu Trung Quốc đã đóng góp vào phong
trào giải phỏng và tác động đến các nước cộng sản khác theo cách riêng
của mình, thì nước này cũng đóng góp vào sự đàn áp phong trào giải
phóng theo cách riêng của mình.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro