Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

kinhtct1

1.Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa...

..2

2.Hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ với tính chất 2 mặt của lao động SX

hàng hóa ...

...5

3.Lượng giá trị và cácnhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị...

.10

4.Tiền tệ...

..12

5.Quy luật giá trị...

.17

6.Công thức chung và mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản...

.20

7.Hàng hóa sức lao động...

.24

8.Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư...

...29

9.Thực chất, động cơ và các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản ...

.36

10.Tích tụ và tập trung tư bản...

.40

11.Chi phí sản xuất TBCN. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận...

.42

12.Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân...

..48

13.Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp...

...52

14.Tư bản cho vay. Lợi tức và tỷ suất lợi tức...

..57

15.Bản chất và các hình thức địa tô TBCN...

..61

1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa

- Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động làm ra nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất

- Sản xuất hàng hóa: là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra nhằm trao đổi, bán trên thị trường

a) Điều kiện ra đời của SXHH:

Phân công lao động xã hội

Là sự phân chia lao động xã hội ra thành nhiều ngành nghề khác nhau, mỗi ngành chỉ chuyên môn hóa sản xuất ra một hoặc một số loại sản phẩm nhất định

Mỗi ngành chỉ chuyên môn hóa sản xuất ra một hoặc một số loại sản phẩm nhất định >< nhu cầu con người đa dạng à nảy sinh nhu cầu trao đổi sản phẩm

Chuyên môn hóa sản xuất à tăng NSLĐ, người sản xuất không tiêu dùng hết à nhu cầu trao đổi sản phẩm dư thừa lấy sản phẩm mà người sản xuất thiếu

à Phân công lao động XH là điều kiện cần thiết, nguyên nhân sâu xa cho SXHH ra đời, tạo ra mối liên hệ trao đổi mật thiết giữa những người SX với nhau

Chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất:

Chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất nảy sinh ra sự độc lập giữa những người sản xuất với nhau về lợi ích kinh tế. Sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau sản xuất ra những sản phẩm khác nhau à độc lập về lợi ích à người này muốn sản phẩm của người kia à nhu cầu trao đổi

à Chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất là điều kiện có tính chất quyết định, là nguyên nhân trực tiếp cho sự ra đời của SXHH

à Tóm lại: SXHH chỉ ra đời khi có đầy đủ 2 điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện trên thì không có SXHH.

Trong lịch sử phát triển của XH loài người, SXHH ra đời từ sự tan rã của công xã nguyên thủy, tồn tại và phát triển trong các chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản ( CNXH ) với các loại hình sản xuất hàng hóa giản đơn, TBCN và XHCN

b) So sánh sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa

- Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động làm ra nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất

- Sản xuất hàng hóa: là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra nhằm trao đổi, bán trên thị trường

Giống nhau: là hai kiểu tổ chức kinh tế tồn tại trong lịch sử phát triển của XH loài người, là quá trình sản xuất ra của cải vật chất và đều là sự kết hợp của 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động

Khác nhau:

Chỉ tiêu

Tự cung tự cấp

SXHH

SX ra của cải vật chất nhằm thỏa

Sản xuất ra của cải, vật chất nhằm

Mục đích

mãn nhu cầu bản thân người sản

thỏa mãn nhu cầu của người khác, của

xuất

xã hội thông qua trao đổi

Chủ thể SX

Là hai người khác nhau, người sản

Là một người, không có trao đổi

và tiêu

xuất không tiêu dùng và người tiêu

mua bán

dùng

dùng không sản xuất

Tái sản xuất là quá trình sản xuất

được lặp đi lặp lại bao gồm hai

Các khâu

hình thức là tái sx giản đơn và

Là sự thống nhất của 4 khâu: sản xuất

của quá

tái sx mở rộng

- phân phối - trao đổi - tiêu dùng.

trình tái SX

Là sự thống nhất của 2 khâu sản

xuất và tiêu dùng

Các ngành

Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông

Nông nghiệp sản xuất nhỏ

SX chính

nghiệp sản xuất lớn, dịch vụ

Trình độ

Đã bắt đầu phát triển đến một trình độ

Thấp, sản xuất phụ thuộc chủ

lực lượng

nhất định, sản xuất bớt lệ thuộc tự

yếu vào tự nhiên

SX

nhiên

Mối quan

Quan hệ kinh tế mang hình thái

Quan hệ kinh tế mang hình thái hàng

hệ kinh tế

hiện vật

hóa, tiền tệ

c) So sánh sản xuất hàng hóa giản đơn và TBCN ( refer to Chương 2 ) - SXHH giản đơn: là hình thức SXHH dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản

xuất, người sở hữu tư liệu sản xuất = người sản xuất, quy mô nhỏ, NSLĐ thấp

- SXHH TBCN: SX dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về TLSX và bóc lột NLĐ làm thuê, chủ sở hữu TLSX không phải là người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa đó, quy mô sản xuất lớn, NSLĐ cao

Giống nhau:

Đếu sản xuất ra sản phẩm nhằm bán hoặc trao đổi trên thị trường Quá trình sản xuất luôn là sự kết hợp giữa TLSX và sức lao động

Khác nhau:

Chỉ tiêu

Giản đơn

TBCN

Chế độ sở hữu tư nhân

Chế độ tư hữu nhỏ TLSX,

TBCN về TLSX, người lao

Cơ sở

người chủ sở hữu TLSX =

động sản xuất ra hàng hóa là

người sản xuất

công nhân làm thuê

Trình độ lực lượng SX

Thấp

Cao

Quy mô lớn, NS cao, sp đa

Quy mô SX và NSLĐ

Quy mô nhỏ, NS thấp

dạng, nhiều về số lượng, cao

về chất lượng

2. Hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ với tính chất 2 mặt

của lao động SX hàng hóa

a) Hàng hóa:

Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa măn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau

Hai thuộc tính của hàng hóa:

- Giá trị sử dụng: là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người

Đặc điểm: GTSD do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định à GTSD không bao giờ thay đổi, trong bất kỳ thời đại KTXH nào thì con người cần một giá trị sử dụng vật phẩm à là phạm trù vĩnh viễn.

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học kỹ thuật con người càng tìm kiểm ra nhiều công dụng của vật phẩm hơn, xét về ý nghĩa đó thì GTSD là một phạm trù lịch sử.

Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội chứ không phải cho người sản xuất hàng hóa

Giá trị sử dụng của hàng hóa đến tay XH phải thông qua trao đổi buôn bán - Giá trị:

Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. VD: 1m vải = 10kg thóc

Vải và thóc là hai hàng hóa khác nhau nhwgn lại có thể trao đổi với nhau vì chúng đều là sản phẩm của lao động và hao phí lao động để sản xuất ra chúng bằng nhau. Trao đổi hàng hóa chính là trao đổi lượng hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Do vậy hao phí lao động bỏ ra để sản xuất hàng hóa chính là cơ sở để quyết định giá trị trao đổi.. Tuy nhiên chỉ có hao phí lao động để sản xuất ra vật phẩm mang trao đổi, bán trên thị trường mới là cơ sở quyết định giá trị trao đổi hàng hóa và hao phí lao động đó tạo ra giá trị hàng hóa.

Định nghĩa ban đều về giá trị hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.

Mối quan hệ giữa giá trị trao đổi và giá trị của hàng hóa: giá trị TĐ là hình thức biểu hiện bề ngoài của giá trị trong lĩnh vực trao đổi mà thôi, xong giá trị không tự bộc lộ ra mà chỉ bộc lộ thông qua trao đổi

Nhìn bề ngoài, hai hàng hóa có thể trao đổi với nhau nhưng thực chất của sự trao đổi này là trao đổi về lao động giữa hai người sản xuất hàng hóa. Do đó quan hệ giứa người với người được ẩn náu đằng sau quan hệ vật với vật hay nói cách khác giá trị biểu hiện mqh XH giữa người sản xuất hàng hóa với nhau, vì vậy giá trị là một phạm trù lịch sử gắn liền với sản xuất hàng hóa

Vậy, giá trị là một phạm trù kinh tế khách quan của sản xuất hàng hóa do hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra và chỉ được bộc lộ thông qua trao đổi. Giá trị biểu hiện quan hệ người với người trong quá trình sản xuất, vì vậy giá trị là một phạm trù lịch sử.

- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

+ Sự thống nhất giữa hai thuộc tính: là hai mặt cùng đồng thời tồn tại trong mỗi hàng hóa, nếu thiếu một trong hai thuộc tính trên thì vật phẩm đó không được gọi là hàng hóa. Do đó hàng hóa là sự thống nhất giữa hai thuộc tính

+ Sự mâu thuẫn: biểu hiện ở khả năng tách rời giá trị và giá trị sử dụng cả về không gian và thời gian

Người bán có giá trị sử dụng, muốn trao đổi vì mục đích giá trị nhưng người mua có giá trị (tiền) muốn trao đổi nhằm mục đích giá trị sử dụng.

Quá trình thực hiện giá trị thực hiện trước trong quá trình trao đổi còn giá trị sử dụng được thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng. Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa biểu hiện thành mâu thuẫn giữa người mua và người bán, giữa cung và cầu.

b) Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa

Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

- Lao động cụ thể: là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp làm việc riêng và tạo ra những kết quả khác nhau. Ví dụ:

Thợ may:

Thợ mộc:

Mục đích: may ra áo

Mục đích: bàn

Đối tượng: vải

Đối tượng: gỗ

Công cụ lao động: kéo, kìm

Công cụ lao động: bào, cưa

Đặc điểm của

- tạo ra giá trị sử dụng

laođộngcụ

- là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế -

thể:

xã hội nào. Cần chú ý rằng, hình thức của lao động cụ thể có thể

thay đổi.

- cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội các hình thức của lao động cụ thể ngày càng phản ánh đa dạng, phong phú đồng thời phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.

- Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ tất cả những hình thức cụ thể của nó, đó là sự tiêu phí về sức lực cơ bắp, thần kinh, trí óc của người sản xuất hàng hóa.

Đặc

Nhưng không phải sự hao phí sức lao động nào về mặt sinh lý

điểm của

cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong

lao động

nền sản xuất hàng hoá, do mục đích của sản xuất là để trao đổi.

trừu

Vì vậy, xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn

tượng:

rất khác nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất, tức lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi. Nếu không có sản xuất hàng hoá, không có trao đổi thì cũng không cần phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy,

lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hoá.

Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hh với tính chất 2 mặt của lao động sxhh: HH là sự thống nhất của 2 thuộc tính vì lao động tạo ra hàng hóa có tính chất 2 mặt. Trong đó, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.

Tuy nhiên, ở đây không phải có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.

Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất một cơ sở khoa học thực sự, giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược: khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay không thay đổi.

Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hoá.

Lao động tư nhân hay tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa: do sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu TLSX cho nên việc sản xuất ra cái gì, chất lượng như thế nào và số lượng bao nhiêu do mỗi người sản xuất hàng hóa quy định và xét về khía cạnh này lao động sản xuất hàng hóa mang tính chất tư nhân và được biểu hiện bằng lao động cụ thể

Lao động XH hay tính chất xã hội của lao động SXHH: do phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất hàng hóa gắn kết với nhau phụ thuộc vào nhau, và lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Do đó, lao động của mỗi người sxhh mang tính chất xã hội và được biểu hiện thông qua lao động trừu tượng.

Trong nền sản xuất hàng hoá, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá "giản đơn" và biểu hiện ở hàng hóa thành các mâu thuẫn sau:

+ Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi + Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng + Hao phí lao động cá biệt với hao phí lao động xã hội.

Sơ đồ khái quát

Sản xuất hàng hóa

CĐ tư hữu tư nhân

Phân công LĐXH

TLSX

LĐXH

LĐ tư nhân

LĐ trừu tượng

LĐ cụ thể

Giá trị

Giá trị sử dụng

3. Lượng giá trị và cácnhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị

- Định nghĩa: lượng giá trị hàng hóa là số lượng lao động, hao phí của người sản xuất kết tinh, bao gồm: hao phí lao động vật hóa tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất và hao phí lao động sống. Do đó, lượng giá trị sử dụng để sản xuất ra hàng hóa ( c ) và hao phí lao động sống của người sản xuất ra hàng hóa ( v+m ). Hay lượng giá trị hàng hóa ( w ): w = c + v + m. Trong đó: c + v là giá trị cũ tái hiện và m là giá trị mới sáng tạo ra. Lượng giá trị hàng hóa được đo lường bằng thời gian hao phí lao động - Căn cứ xác định lượng giá trị hàng hóa XH của hàng hóa là thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá nào đó trên thị trường.

Hai cách xác định lượng giá trị hàng hóa:

C1: Lấy giá trị cá biệt của những người sản xuất hàng hóa nào cung ứng đại bộ phận số lượng hàng hóa trên thị trường làm giá trị xã hội của hàng hóa

C2: Phương pháp tính bình quân gia quyền:

Trong đó:w: là giá trị xã hội của hàng hóa

å

w

q

1

Wi : giá trị cá biệt của từng người sản xuất, từng =

cơ sở sở SX å q

1

qi: số lượng hàng hóa do từng người sản xuất,

từng cơ sở sản xuất ra.

Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.

- Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động:

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động. Đến lượt năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.

Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, căng thẳng của lao động. Khi cường độ lao động tăng, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng và lượng sản phẩm được tạo ra tăng tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.

- Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động giản đơn và lao động phức tạp.

Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.

Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra

được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

4. Tiền tệ

a) Lịch sử ra đời của tiền tệ:

Tiền tệ ra đời là tất yếu của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ giản đơn đến tiền tệ

- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Còn thóc là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị. Hàng hoá (vải) mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc) thì gọi là hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá (thóc) mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hoá khác (vải) gọi là hình thái vật ngang giá. Hình thái vật ngang giá có ba đặc điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội. Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên quan với nhau, không thể tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập của một phương trình giá trị. Trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định.

- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở rộng.

= 10 kg thóc

= 2 con gà hoặc hoặc

= 0,1 chỉ vànghoặc = ...

Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. ở ví dụ trên, giá trị của một mét vải được biểu hiện ở 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.

- Hình thái chung của giá trị: với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi con đường vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.

Ví dụ: hoặc 10 kg thóc

2 con gà = 1 m vải hoặc

0,1 chỉ vàng

Ở đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hoá nào. Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung cũng khác nhau.

- Hình thái tiền tệ: khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.

Ví dụ:

10 kg thóc

1mvải

=0,1 chỉ vàng= vật ngang giá chung

2 con gà

(Vàng trở thành tiền tệ).

Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá được phân thành hai cực: một bên là các hàng hoá thông thường; một bên là hàng hoá (vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hoá đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.

b) Bản chất và chức năng của tiền tệ

- Định nghĩa tiền tệ: là một hàng hóa do hao phí lao động trừu tượng của người khai thác vàng hình thành nên thông qua trao đổi

- Bản chất của tiền tệ: là một hàng hóa đặc biệt, một vật ngang giá chung, nó thể hiện quan hệ sản xuất xã hội, quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau Khi tiền tệ ra đời nó chia thế giới hàng hóa ra thành hai cực: hàng hóa thông thường và hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung. Hàng hóa thông thường chỉ thỏa mãn một hoặc một số nhu cầu nào đó của con người. Ngược lại, tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hóa và có khả năng thỏa mãn được nhiều nhu cầu của người có tiền.

- Chức năng của tiền tệ:

Bản chất của tiền tệ được thể hiện qua các chức năng của nó. Theo C. Mác tiền tệ có 5 chức năng:

+ Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:

* Giá trị hàng hoá. * Giá trị của tiền.

* ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.

Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường. Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.

+ Phương tiện lưu thông: Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.

Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.

Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.

Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.

+ Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

+ Phương tiện thanh toán. Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.

Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.

Tóm lại: 5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.

5. Quy luật giá trị

a) Nội dung của quy luật giá trị:

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi ở đó có quy luật giá trị hoạt động.

Nội dung của quy luật:

- Đối với lĩnh vực sản xuất: Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hoá không phải được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.

- Đối với lĩnh vực lưu thông: trao đổi theo nguyên tắc ngang giá, giá cả phải hình thành trên cơ sở giá trị của hàng hóa, không được thoát li khỏi giá trị hàng hóa.

- Biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị là sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường. Tuân theo quy luật giá trị là tuân theo mệnh lệnh giá cả. Chỉ người sản xuất hàng hóa nào thích nghi với sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường thì người đó mới có lãi, ngược lại bị thua lỗ, phá sản.

b) Tác dụng của quy luật giá trị

-Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá

Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.

Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.

Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.

-Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh

Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.

-Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ

giàu người nghèo

Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.

Tác dụng của quy luật giá trị có ý nghĩa: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.

c) Hình thức biểu hiện của quy luật giá trị qua các giai đoạn của CNTB:

Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản thành quy luật giá cả sản xuất( giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) và thành quy luật giá cả độc quyền ( giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền).

- Trong giai đoạn đầu của CNTB ( CNTB tự do cạnh tranh )

Trong giai đoạn này quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất. Do cạnh tranh giữa các ngành hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân. Giá trị hàng hóa w = v + c + m đã chuyển hóa thành w = K + p . Trong đó giá trị hàng hóa đã chuyển hóa thành giá cả sản xuất, K là chi phí sản xuất TBCN và plà lợi nhuận bình quân. Như vậy giácả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá cả sản xuất nhưng không thoát ly khỏi giá cả sản xuất

- Trong giai đoạn CNTB độc quyền: Trong giai đoạn này quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Công thức giá trị hàng hóa w = c + v + m đã chuyển hóa thành w =K + Pđộc quyền. Thực chất do các tổ chức độc quyền chi phối sự hoạt động của nền kinh tế quyết định giá trị đọc quyền trong đó giá cả độc quyền thấp khi mua và độc quyền cao khi bán. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận bình quân. Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền.

Giá cả độc quyền không xoá bỏ giới hạn của giá trị hàng hoá , nghĩa là giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dư do xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người bán ( công nhân, người sản xuất nhỏ , tư bản vừa và nhỏ…) mất đi.Nhìn vào phạm vi toàn xã hội , toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị .

6. Công thức chung và mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.

- Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, bao gồm:

Thứ nhất, có một lượng tiền đủ lớn

Thứ hai, số lượng tiền đó phải đưa vào lưu thông

Thứ ba, phải sử dụng để bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê để mang lại giá trị phụ thêm cho người sử dụng nó

- Công thức chung tư bản: Tiền tệ với tư cách là tư bản phải vận động theo phương thức chung

T…H…T’, trong đó: T’=T+ΔT

Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu (ΔT) được C.Mac gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, công thức trên đã thể hiện rõ mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. C.Mác gọi công thức trên là công thức chung của tư bản vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù là tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp hay tư bản cho vay.

- So sánh 2 công thức lưu thông hàng hóa Công thức lưu thông hàng hóa giản đơn : H...T...H Công thức chung tư bản : T…H…T’

Giống nhau :

+ Đều gồm 2 nhân tố vật chất là hàng và tiền + Gồm hai hành vi lưu thông đối lập là mua và bán + Phản ánh mối quan hệ kinh tế mua và bán

Khác nhau :

Chỉ tiêu 1. Trình tự mua bán 2. Mục đích

3.Điểmxuất phát và điểm kết thúc 4. Giới hạn của sự vận động H-T-H Bán trước, mua sau

Mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu, nên các hàng hóa trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau.

Đều là hàng hóa

Sự vận động có giới hạn. Giới hạn kết thúc khi đạt được giá trị sử dụng

T-H-T’ Mua trước, bán sau

Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị hơn nữa là giá trị tăng thêm.

Đều là tiền tệ

Sự vận động không có giới hạn vì mục đích của lưu thông tư bản là sự lớn lên

của giá trị và giá trị thặng dư mà sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.

- Phân tích mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản :

Nhìn vào sự vận động của tiền tệ với tư cách là tư bản ta thấy : Tiền ứng trước bỏ vào lưu thông khi quay trở về người chủ của nó thì tăng thêm một lượng nhất định là ΔT. Vậy ΔT ở đâu ra ?

+ Theo quan điểm kinh tế học tư sản : Lưu thông tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm + Theo Mác : Giá trị được tạo ra trong sản xuất, được thực hiện trong lưu thông dưới hình thức giá cả. Trong lưu thông không hề đẻ ra 1 đồng giá trị nào dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá mà chỉ thay đổi hình thái giá trị mà thôi.

Thứ nhất, trường hợp trao đổi ngang giá : Nếu hàng hóa được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả 2 bên trao đổi đều có lợi.

Thứ hai, trường hợp trao đổi không ngang giá : Nếu hàng hóa được bán cao hơn giá trị, thì số lời anh ta nhận được khi là người bán cũng chính là số tiền anh ta sẽ mất đi khi là người mua, rốt cuộc anh ta sẽ không được lợi thêm gì cả. Còn nếu mua hàng hóa thấp hơn giá trị, thì tình hình cũng tương tự như trên. Số lời anh ta nhận được khi là người mua sẽ mất đi khi là người bán. Giả định có một số người nhờ mánh khóe mà luôn mua được rẻ bán đắt, thì như C.Mác nói, điều đó chỉ có thể giải thích được sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích sự làm giàu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay đổi, mà chỉ có phần giá trị nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi.

Như vậy, nếu người ta trao đổi những vật ngang giá, thì không sinh ra giá trị thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới.

Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì cũng không thể làm cho tiền của mình lớn lên được.

Kết luận : " Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông ". Đó là mâu thuẫn của công thức chung tư bản.

Có thể hỏi thêm : Phân tích mối quan hệ giữa hàng hóa SLĐ với mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản

- Hàng hóa SLĐ là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.

- Khái niệm SLĐ : Theo C.Mác " SLĐ hay năng lực lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó"

- Điều kiện để biến SLĐ trở thành hàng hóa

Trong bất cứ xã hội nào, SLĐ cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng SLĐ không phải bao giờ cũng là hàng hóa, nó chỉ biến thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định, đó là :

Thứ nhất, người lao động được tự do về thân thể Thứ hai, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất - Hàng hóa SLĐ cũng có 2 thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng Hàng hóa SLĐ là hàng hóa đặc biệt, có tính chất đặc biệt. Khi tiêu dùng nó tạo ra

một giá trị lớn hơn so với giá trị ban đầu. Điều này giải thích sự hình thành giá trị tăng thêm trong công thức chung của tư bản. Như vậy, giá trị tăng thêm không phải được đẻ ra từ quá trình lưu thông nhưng nó cần phải trải qua quá trình lưu thông để thực hiện giá trị tăng thêm đó.

7. Hàng hóa sức lao động

Các câu hỏi có thể đưa ra :

Câu 1. Phân tích 2 thuộc tính của SLĐ - Khái niệm SLĐ :

Theo C.Mác : "sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó".

- Điều kiện để biến SLĐ thành hàng hóa :

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng sức lao động không phải bao giờ cũng là hàng hoá, nó chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định, những điều kiện đó là:

Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản thân người có sức lao động đưa ra bán. Vậy người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình, thì mới đem bán sức lao động được. Trong các xã hội nô lệ và phong kiến, người nô lệ và nông nô không thể bán sức lao động được, vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô hay chúa phong kiến. Do đó việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ nô lệ và nông nô.

Thứ hai, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Nếu chỉ có điều kiện người lao động được tự do về thân thể thì chưa đủ điều kiện để biến sức lao động thành hàng hoá, vì nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hoá và bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động. Vì vậy, muốn biến sức lao động thành hàng hoá, người lao động phải là người không có tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện ấy người lao động mới bán sức lao động của mình, vì họ không còn cách nào khác để sinh sống.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư bản, tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định. Sức lao động biến thành hàng hoá là nhân tố đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển sản xuất hàng hoá trở thành hình thái phổ biến sản

xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Sự cưỡng bức lao động bằng các biện pháp phi kinh tế trong chế độ nô lệ và chế độ phong kiến được thay bằng hợp đồng mua bán bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động và người sở hữu tư liệu sản xuất.

- Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động : Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.

+ Giá trị hàng hoá sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.

Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.

Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó và mức độ thoả mãn những nhu cầu đó phần lớn phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.

Tuy giá trị hàng hoá sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động.

Giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành: Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản

xuất sức lao động, duy trì đời sống công nhân;

Hai là, phí tổn đào tạo công nhân;

Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái công nhân.

Để biết được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định, cần nghiên cứu hai loại nhân tố tác động đối lập nhau đến sự biến đổi của giá trị sức lao động. Một mặt, sự tăng nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về học tập và trình độ lành nghề, đã làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác, sự tăng năng suất lao động xã hội cũng làm giảm giá trị sức lao động.Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, sự phức tạp của lao động và mức độ sử dụng năng lực trí óc của họ tăng lên. Tất cả những điều đó không thể không ảnh hưởng đến giá trị sức lao động, không thể không dẫn đến sự khác biệt của giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng chúng bị che lấp đằng sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.

+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nào đó; đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

Câu 2. So sánh hàng hóa SLĐ và hàng hóa thông thường - Khái niệm :

Hàng hóa SLĐ : Theo C.Mác : "sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó".

Hàng hóa thông thường : Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau.

- So sánh :

Giống nhau :

+ Đều có 2 thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng + Đều để thỏa mãn nhu cầu của người mua Khác nhau:

+ Đối với thuộc tính giá trị:

Hàng hóa SLĐ:

ü Hàng hóa SLĐ được xác định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra SLĐ.

ü Hàng hóa SLĐ được đo gián tiếp bằng giá trị tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra SLĐ.

ü Giá trị hàng hóa SLĐ bao gồm cả 2 yếu tố tinh thần và lịch sử Hàng hóa thông thường:

Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.

+ Đối với thuộc tính giá trị sử dụng

Hàng hóa SLĐ:

ü Công dụng của hàng hóa SLĐ được thực hiện khi người lao động kết hợp SLĐ của mình với tư liệu sản xuất để sản xuất ra hàng hóa.

ü Khi tiêu dùng thì giá trị sử dụng mất đi nhưng có khả năng tái tạo

ü Khi tiêu dùng nó tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn chính nó ü Hàng hóa SLĐ chỉ bán quyền sử dụng mà không mất đi quyền sở hữu

Hàng hóa thông thường:

Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất... Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.

Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

8. Hai phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư

- Khái niệm: Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.

- Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

a) Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.

Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Ví dụ, Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư.

Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:

Thời gian lao động tất yếu.

Thời gian lao động thặng dư.

m’= (4/4)*100% = 100%

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ.

Khi đó ngày lao động được chia như sau:

Thời gian lao động tất yếu.

Thời gian lao động thặng dư.

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’=(6/4)*100%= 150%

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, thì bây giờ là 150%.

Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.

b) Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.

Ví dụ, Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:

Thời gian lao động tất yếu.

Thời gian lao động thặng dư.

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là: m'= (4 / 4) x 100% = 100%

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

Thời gian lao động tất yếu.Thời gian lao động thặng dư. Do đó bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

m'= (5 / 3) x 100% = 166%

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%

Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn:

hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hoá sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

- So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối Giống nhau:

Đều có mục đích là sản xuất giá trị thặng dư tối đa

Khác nhau:

+ Về biện pháp thực hiện:

Đối với sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Năng suất lao động không đổi nhưng kéo dài độ dài ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi.

Đối với sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Giữ nguyên độ dài ngày lao động, tăng năng suất lao động để rút ngắn độ dài ngày lao động tất yếu.

+ Về phương pháp thực hiện:

Đối với sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Được thực hiện chủ yếu ở giai đoạn đầu chủ nghĩa tư bản khi mà KHCN chưa phát triển.

Đối với sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Được thực hiện chủ yếu ở giai đoạn KHCN đã phát triển.

Câu hỏi thêm:

1, Tại sao nói: "giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối"

- Khái niệm giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch Giá trị thặng dư tương đối là: Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn

thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư

Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là phần giá trị thạng dư trội hơn giá trị thạng dư bình thường nhờ giá trị cá biệt của hàng hóa nhỏ hơn giá trị xã hội.

Kết luận: Giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, xuất hiện và mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.

C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối vì giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có những điểm giống và khác nhau.

Giống nhau: Đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Khác nhau:

+ Cơ sở của viêc tăng năng suất lao động:

Đối với giá trị thặng dư siêu ngạch: Tăng năng suất lao động cá biệt Đối với giá trị thặng dư tương đối: Tăng năng suất lao động xã hội + Điều kiện thu được:

Đối với giá trị thặng dư siêu ngạch: Chỉ có những nhà tư bản áp dụng công nghệ mới, sớm hơn thu được

Đối với giá trị thặng dư tương đối: Tất cả các nhà tư bản đều thu được + Phản ánh mối quan hệ

Đối với giá trị thặng dư siêu ngạch: Phản ánh mối quan hệ giữa tư bản - tư bản, tư bản và lao động làm thuê

Đối với giá trị thặng dư tương đối: Chỉ phản ánh mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê

Như vậy, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hoá.

2, Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Thật vậy, giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.

Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn để đạt được mục đích đó: tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn

cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.

Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.

Tuy nhiên, do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Nhưng trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:

Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. Việc tăng năng suất lao động do áp dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại có đặc điểm là chi phí lao động sống trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được nhiều lao động sống hơn.

Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp. Do đó lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động ngày nay mà tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.

Ba là, sự bóc lột của các nước TBCN phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi không ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước TBCN phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước TBCN phát triển đã bòn rút chất xám, huỷ hoại môi sinh, cũng như cội rễ đời sống văn hoá của các nước lạc hậu, chậm phát triển.

9. Thực chất, động cơ và các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư

bản

- Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản

Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản, mà hình thái tái sản xuất điển hình của nó là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.

Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Nói một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới.

Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ: năm thứ nhất quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m dùng để tích luỹ và 10 m dành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Phần 10 mdùng để tích luỹ được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m vẫn như cũ). Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.

Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:

Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân.

Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự

trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản

không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.

Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư, quy luật này chỉ rõ mục đích sản xuất của nhà tư bản là giá trị và sự tăng thêm giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.

- Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản

Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản, nhưng nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng chính là nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản. Những nhân tố đó là:

a) Trình độ bóc lột sức lao động

Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản.

Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có

thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị.

b) Trình độ năng suất lao động xã hội

Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản: một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước.

Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, được sử dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của tích luỹ tư bản.

c) Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ

vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản.

d) Quy mô của tư bản ứng trước

Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.

Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

10.

Tích tụ và tập trung tư bản

- Khái niệm và tính tất yếu khách quan của quá trình tích tụ tư bản và tập trung

tư bản

Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản. Tích luỹ tư bản xét về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt là tích tụ tư bản.

Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, của sự ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.

Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sát nhập các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản.

- Vai trò: Nếu tích tụ tư bản có vai trò chủ đạo quyết định số vốn của một quá trình tái sản xuất thì tập trung tư bản cho phép tiến hành 1 nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.

- So sánh tích tụ tư bản và tập trung tư bản + Giống nhau:

Tích tụ và tập trung tư bản có điểm giống nhau là chúng đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt.

+ Khác nhau:

Một là, nguồn gốc để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không làm tăng quy mô của tư bản xã hội.

Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập, xét về mặt đó, nó phản ánh trực tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản; đồng thời nó cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.

- Mối quan hệ giưa tích tụ tư bản và tập trung tư bản:

Tích tụ và tập trung tư bản quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích tụ tư bản. ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích luỹ tư bản ngày càng mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

Như vậy, quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành nền sản xuất xã hội hoá cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng sâu sắc thêm.

11.

Chi phí sản xuất TBCN. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

a)

Chi phí SX TBCN

Giải thích sự chuyển hóa của Giá trị thặng dư thành Lợi nhuận. Giá trị thặng dư: là 1 bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do

công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình SX ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới.

Lợi nhuận: Giữa giá trị hàng hóa và chi phí SX TBCN luôn luôn có 1 khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giá cả = giá trị), nhà TB không những bù đắp đủ số TB đã ứng ra, mà còn thu được 1 số tiền lời ngang bằng mới m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.

Phân tích giá trị hàng hóa:

Muốn tạo ra giá trị hàng hóa, tất yếu phải chi phí 1 số lao động nhất định, gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao động quá khứ (lao động vật hóa), tức là giá trị của tư liệu SX (c); lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí tạo ra giá trị hàng hóa. Ký hiệu giá trị hàng hóa: W = c + v + m.

Song, đối với nhà TB, họ không phải chi phí lao động để SX hàng hóa, cho nên họ không quan tâm đến điều đó. Trên thực tế, họ chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản để mua tư liệu SX (c) và mua sức lao động (v). Do đó, nhà TB chỉ xem hao phí hêt bao nhiêu TB, chứ không tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác nói chi phí đó là chi phí SX TBCN, ký hiệu bằng k (k = c + v).

Vậy chi phí SX TBCN là chi phí về tư bản mà nhà TB bỏ ra để SX hàng hóa. Với sự xuất hiện của chi phí SX TBCN, sự khác biệt giữa tư bản bất biến và tư

bản khả biến đã biến mất, làm cho lầm tưởng rằng không sinh ra giá trị thặng dư và vì vậy, bản chất của quan hệ SX TBCN bị che lấp.

So sánh chi phí sản xuất thực tế với chi phí SX TBCN:

Về mặt lượng:

+ Chi phí SX TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hóa: (c + v) < (c + v + m)

+ Vì tư bản SX được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động cho nên chi phí SX TBCN luôn luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước.

+ Sự chênh lệch làm ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

Như vậy, khi nhà tư bản bán hàng hóa, chỉ cần giá cả hàng hóa < giá trị hàng hóa nhưng > CP SX TBCN thì nhà tư bản đã thu được lợi nhuận.

Lợi nhuận:

Lợi nhuận: Giữa giá trị hàng hóa và chi phí SX TBCN luôn luôn có 1 khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giá cả = giá trị), nhà TB không những bù đắp đủ số TB đã ứng ra, mà còn thu được 1 số tiền lời ngang bằng mới m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.

Quan niệm bề ngoài về lợi nhuận: lợi nhuận là khoảng chênh lệch giữa giá cả hàng hóa và chi phí SX TBCN.

Thực chất của lợi nhuận:

Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hóa là lợi nhuận. Hay lợi nhuận là số tiền lời mà nhà TB thu được do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí SX TBCN.

Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:

W = c + v + m = k + m bây giờ chuyển thành:

W = k + p

(hay giá trị hàng hóa bằng chi phí SX TBCN cộng với lợi nhuận) k: xóa nhòa ranh giới giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, nguồn gốc của giá

trị thặng dư.

Khi chi phí SX TBCN ra đời nó xóa nhòa ranh giới phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Do đó, nó xóa nhòa luôn nguồn gốc của giá trị thặng dư và quan niệm giá trị thặng dư là do toàn bộ chi phí SX TBCN sinh ra. Khi giá trị thặng dư được quan niệm là do toàn bộ chi phí tư bản ứng trước sinh ra thì được gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.

Đồng thời, lượng giá trị thặng dư được tạo ra trong SX lại không thống nhất với lượng lợi nhuận thu được thông qua lưu thông do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu:

+ Khi cung > cầu => giá cả < giá trị => p < m + Khi cung < cầu => giá cả > giá trị => p > m + Khi cung = cầu => giá cả = giá trị => p = m Xét trên toàn xã hội: Tổng giá cả = Tổng giá trị => ∑p = ∑m

Từ đó, Mác gọi giá trị thặng dư thu được thông qua lĩnh vực lưu thông là lợi nhuận.

Thực chất của lợi nhuận: lợi nhuận chẳng qua là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư khi giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻcủa toàn bộ tư bản ứng trước, là kết quả của tổng số tư bản bỏ vào SX.

So sánh giá trị thặng dư và lợi nhuận:

+ Giống: là kết quả lao động không công của người công nhân + Khác:

Giá trị thặng dư

Lợi nhuận

Nguồn gốc

Tư bản khả biến

Toàn bộ tư bản ứng trước

Sự bóc lột của nhà TB đối

Che đậy sự bóc lột

Ý nghĩa

với người công nhân

Mối quan hệ giữa giá trị

Là nội dung bên trong của

Là hình thức biểu hiện bề

thặng dư và lợi nhuận

lợi nhuận

ngoài của giá trị thặng dư

Không thống nhất với nhau do ảnh hưởng của quan hệ

Về mặt lượng

cung cầu, p chỉ bằng m nếu hàng hóa bán với giá cả

đúng giá trị.

Nguyên nhân làm giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận:

+ Do sự xuất hiện của phạm trù chi phí SX TBCN đã xóa nhòa sự khác nhau giữa c và v, nên việc p sinh ra trong quá trình SX nhờ bộ phận v được thay thế bằng sức lao động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.

+ Do quan niệm sai lầm của nhà tư bản về tiền công, họ cho rằng: “ lợi nhuận là tiền công của lao động quản lý của nhà tư bản”. Đây là quan niệm muốn che đậy sự bóc lột của nhà tư bản.

+ Do tốc độ chu chuyển tư bản: tư bản với tốc độ chu chuyển càng nhanh thì lợi nhuận thu được càng nhiều, và dường như lợi nhuận là do tốc độ chu chuyển nhanh của tư bản mà có.

+ Do cấu tạo hữu cơ của tư bản: với 1 lượng vốn đầu tư như nhau, những ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản cáo thu được ít lợi nhuận hơn so với những ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản thấp, điều này dường như cấu tạo hữu cơ của tư bản sinh ra lợi nhuận.

c) Tỷ suất lợi nhuận:

Trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận.

Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.

Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có:

=

100% =

100%

+

Lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng giữa m’ và p’ lại có sự khác nhau cả về lượng và chất.

So sánh tỷ suất giá trị thặng dư (m’) và tỷ suất lợi nhuận (p’) + Giống: tỷ suất lợi nhuận chính là tỷ suất giá trị thặng dư chuyển hóa thành + Khác:

Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất lợi nhuận

Ý nghĩa

Phản ánh trình độ bóc lột lao

Phản ánh mức doanh lợi của đầu tư

động làm thuê

tư bản, nó chỉ rõ cho nhà tư bản

thấy đầu tư vào đâu là có lợi.

Về mặt lượng

Lớn hơn tỷ suất lợi nhuận

Nhỏ hơn tỷ suất thặng dư

Xu hướng

Có xu hướng ngày càng tăng

Có xu hướng giảm, vì cấu tạo hữu

lên

cơ của tư bản không ngừng tăng lên.

b) Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận

Sự thèm khát lợi nhuận của các nhà tư bản là không có giới hạn. Mức tỷ suất lợi nhuận cao bao nhiêu cũng không thỏa mãn được lòng tham vô đáy của chúng. Nhưng mức tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các nhà tư bản, mà phụ thuộc vào những nhân tố khách quan sau đây:

+ Tỷ suất giá trị thặng dư:

Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.

Ví dụ:

-Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là: 800c + 200v + 200m, thì m’ = 100% và

p’ = 20%

-Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là: 800c + 200v + 400m, thì m’ = 200% và

p’ = 40%

Do đó, tất cả những thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư, cũng chính là những thủ đoạn nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận.

+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản:

Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.

Ví dụ:

-Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 7/3 thì:

W = 70c + 30v + 30m và p’ = 30% -Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 8/2 thì:

W = 80c + 20v + 20m và p’ = 20%

Thông thường, khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng, thì tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tăng lên, nhưng không thể tăng đủ bù đắp mức giảm của tỷ suất lợi nhuận.

+ Tốc độ chu chuyển của tư bản:

Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng tăng lên, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.

Ví dụ:

-Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 1 vòng:

80c + 20v + 20m, thì p’ = 20%

-Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 2 vòng:

80c + 20v + (20 + 20)m, thì p’ = 40%

Vậy, tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.

+ Tiết kiệm tư bản bất biến:

Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

Vì theo công thức:

=

100%

Rõ ràng khi m và v không đổi, nếu c càng nhỏ thì p’ càng lớn. Vì vậy, trong thực tế, để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà TB đã tìm mọi cách

để tiết kiệm tư bản bất biến như sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất; kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động; thay thế nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền, giảm những chi tiêu bảo hiểm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng và tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải để SX hàng hóa.

Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà TB sử dụng khai thác 1 cách triệt để, để thu tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song , với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng 1 lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành SX khác nhau, mà tỷ suất lợi nhuận thu được lại khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân.

12.

Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình

quân

a) Phân tích sự chuyển hóa của giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất hàng hóa Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì

giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất.

Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân (giá cả SX =

k + P).

Tiền đề của giá cả SX là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả SX gồm có: đại công nghiệp cơ khí TBCN phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành SX, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do chuyển từ ngành này sang ngành khác.

Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hoá. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

Quá trình hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất có thể tóm tắt ở bảng sau đây:

Chênh lệch

Giá cả SX

giữa giá cả

Ngànhsản

Tưbản

Tưbản

m với m'

Giá trị

của hàng

P(%)

sản xuất và

xuất

bất biến

khả biến

= 100%

hàng hoá

hoá

giá trị

Cơ khí

80

20

20

120

30

130

+ 10

Dệt

70

30

30

130

30

130

0

Da

60

40

40

140

30

130

-10

Tổng số

210

90

90

390

90

390

0

Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.

b) Cạnh tranh giữa các ngành

Khái niệm: Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.

Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.

Kết quả cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.

Ví dụ chứng minh sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân

Chúng ta đều biết, ở các ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Giả sử có ba ngành sản xuất khác nhau, tư bản của mỗi ngành đều bằng 100, tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng 100%, tốc độ chu chuyển của tư bản ở các ngành đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Ngành

Chi phí

m' (%)

Khối lượng

P' (%)

sản xuất

sản xuất

Cơ khí

80 c + 20 v

100

20

20

Dệt

70 c + 30 v

100

30

30

Da

60 c + 40 v

100

40

40

Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể bằng lòng, đứng yên ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Trong ví dụ trên, các nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành da, làm cho sản phẩm của ngành da nhiều lên (cung lớn hơn cầu), do đó giá cả hàng hoá ở ngành da sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị của nó, và tỷ suất lợi nhuận ở ngành này giảm xuống. Ngược lại, sản phẩm của ngành cơ khí sẽ giảm đi (cung thấp hơn cầu), nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó tỷ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Như vậy, do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, làm cho ngành có cung (hàng hoá) lớn hơn cầu (hàng hoá) thì giá cả giảm xuống,

còn ngành có cầu (hàng hoá) lớn hơn cung (hàng hoá) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là (P ') .

Nếu ký hiệu p' là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì:

=

100%

Theo ví dụ trên thì:

=

100% = 30%

C.Mác viết: ... Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng thành tỷ số lợi nhuận chung, đó là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân và do đó nếu có số tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.

Vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào những ngành khác nhau, ký hiệu là P.

p=p'xk

Theo ví dụ trên thì: P= 30% x 100 = 30.

Sự bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận chỉ được thực hiện khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến một trình độ nhất định.

Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình

quân P' và lợi nhuận bình quân P' không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.

Ý nghĩa của tỷ suất lợi nhuận bình quân:

Về mặt lý luận: sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã che giấu quan hệ bóc lột TBCN. Mặt khác, lợi nhuận bình quân phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong việc đấu tranh, phân chia giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra. Đồng thời, nó cũng chỉ rõ toàn bộ giai cấp tư sản đã liên minh với nhau để bóc lột giai cấp vô sản. Vì vậy, phong trào đấu tranh của những người vô sản phải là đấu tranh giai cấp.

13.

Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp

a) Phân tích nguồn gốc ra đời của tư bản thương nghiệp trong CNTB

+ Thương nghiệp và vai trò của thương nghiệp trước CNTB

Xét về mặt lịch sử thì tư bản thương nghiệp xuất hiện trước tư bản công nghiệp, đó là thương nghiệp cổ xưa. Điều kiện xuất hiện và tồn tại của tư bản thương nghiệp cổ xưa là lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ. Đặc điểm hoạt động của thương nghiệp cổ xưa là "mua rẻ bán đắt", là "kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo".

Những người trọng thương luôn cho rằng, lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, coi thương nghiệp là sự lừa gạt như chiến tranh vậy. Họ cho rằng, "không một người nào thu được lợi mà lại không làm thiệt kẻ khác".

Thương nghiệp cổ xưa tách rời quá trình sản xuất và chiếm địa vị thống trị trao đổi hàng hoá, do đó nó là khâu nối liền các ngành, các vùng, các nước với nhau, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình tan rã của xã hội nô lệ, phong kiến, tập trung nhanh tiền tệ vào một số ít người, đẩy nhanh quá trình tích lũy nguyên thuỷ của tư bản và sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

+ Tư bản thương nghiệp dưới CNTB

Khi việc thực hiện chức năng chuyển hoá H' - T' của tư bản, do sự phân công lao động xã hội, được chuyển thành một hoạt động chuyên môn hoá cho một nhóm tư bản nào đó, thì tư bản kinh doanh hàng hoá (tư bản thương nghiệp hiện đại) xuất hiện.

Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp.

Hàng hoá sau khi ở tay nhà tư bản công nghiệp được chuyển sang tay nhà tư bản thương nghiệp có nghĩa là nhà tư bản công nghiệp đã bán xong hàng hoá. Đứng về mặt xã hội mà xét thì nhà tư bản công nghiệp phải bán một lần nữa thì mới xong (vì hàng hoá còn phải lưu thông đến tay người tiêu dùng). Nhưng khâu này giờ đây do nhà tư bản thương nghiệp đảm nhiệm. Do đó, tư bản thương nghiệp chỉ là một khâu trong quá trình tái sản xuất, không có khâu này thì quá trình sản xuất không thể tiến hành bình thường được.

Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì việc tách rời này là cần thiết, bởi vì:

Một là, sản xuất càng phát triển, quy mô sản xuất càng mở rộng, các xí nghiệp ngày càng lớn lên, làm cho các chức năng quản lý kinh tế ngày càng phức tạp. Vì vậy, mỗi nhà tư bản chỉ có khả năng hoạt động trong một số khâu nào đó thôi. Điều đó đòi hỏi phải có một số người chuyên sản xuất, còn một số người khác thì chuyên tiêu thụ hàng hoá.

Hai là, tư bản thương nghiệp chuyên trách nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, phục vụ cùng một lúc cho nhiều nhà tư bản công nghiệp, do vậy lượng tư bản và các chi phí bỏ vào lưu thông sẽ giảm đi rất nhiều, do đó tư bản của từng nhà tư bản công nghiệp cũng như của toàn xã hội bỏ vào sản xuất sẽ tăng lên.

Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng càng gay gắt, do đó cần phải có các nhà tư bản biết tính toán, am hiểu được nhu cầu và thị trường, biết kỹ thuật thương mại... chỉ có nhà tư bản thương nghiệp mới đáp ứng được nhu cầu đó. Về phía tư bản công nghiệp mà xét thì nhờ đó mà nhà tư bản công nghiệp rảnh tay trong khâu lưu thông, chỉ tập trung vào sản xuất, năng suất lao động sẽ tăng lên, quá trình sản xuất được đẩy nhanh, rút ngắn thời gian lưu thông và tăng nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản.

Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp vừa thống nhất, phụ thuộc, vừa độc lập tương đối với tư bản công nghiệp.

Sự thống nhất, phụ thuộc của tư bản thương nghiệp vào tư bản công nghiệp thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra, làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, cho nên tốc độ và quy mô của lưu thông là do tốc độ và quy mô sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định. Sở dĩ như vậy là vì sản xuất bao giờ cũng là cơ sở của trao đổi, của lưu thông, không có sản xuất, không có hàng hoá thì không có cái gì để trao đổi, để lưu thông.

Thứ hai, tư bản thương nghiệp đảm nhiệm chức năng tư bản hàng hoá của tư bản công nghiệp (thực hiện giá trị và giá trị thặng dư). Do đó, những giai đoạn vận động của tư bản kinh doanh hàng hoá là do sự vận động của tư bản hàng hoá quyết định.

Công thức vận động của tư bản thương nghiệp (tư bản kinh doanh hàng hoá) khác với công thức vận động của tư bản hàng hoá.

Công thức vận động của tư bản kinh doanh hàng hoá là: T - H - T'. ở đây, hàng hoá được chuyển chỗ hai lần, H từ tay nhà tư bản công nghiệp chuyển sang tay thương nhân, rồi H lại tiếp tục vận động từ tay thương nhân chuyển sang người tiêu dùng. Cuối cùng, kết thúc quá trình vận động thì tăng thêm giá trị (T' > T).

Công thức vận động tư bản hàng hoá là: H' - T'- H... SX... H'

Ở đây, H chỉ chuyển chỗ có một lần, nhưng tiền T' chuyển chỗ hai lần. Nhà tư bản công nghiệp thu được tiền bán hàng của mình, sau đó lại bỏ tiền ra để mua các yếu tố sản xuất, trong quá trình chuyển hoá không làm tăng thêm giá trị. Hành vi H' - T' của tư bản hàng hoá chỉ là một giai đoạn vận động của tư bản kinh doanh hàng hoá mà thôi. Công thức vận động của tư bản thương nghiệp cũng khác với công thức vận động lưu thông hàng hoá giản đơn. Trong công thức vận động của lưu thông hàng hoá giản đơn H - T - H, tiền ở đây chỉ giữ chức năng phương tiện lưu thông. Còn trong công thức vận động của tư bản thương nghiệp thì tiền vận động với mục đích tạo ra tiền lớn hơn hay chuyển từ T thành T'.

Tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tiền tệ mà tư bản công nghiệp trước đây đảm nhiệm. Quá trình này không diễn ra trong sản xuất mà diễn ra trong lĩnh vực lưu thông, chức năng này tách rời các chức năng khác của tư bản công nghiệp.

Tư bản thương nghiệp độc lập làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, nhà tư bản phải ứng trước tư bản nhằm mục đích thu về với lượng tiền lớn hơn trước, thông qua việc mua bán. Với mục đích đó, tư bản của họ không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất, mà chỉ hoạt động trong phạm vi lĩnh vực lưu thông.

b) Phân tích thực chất (nguồn gốc) của lợi nhuận thương nghiệp trong CNTB

+ Nguồn gốc và thực chất của lợi nhuận thương nghiệp

Đối với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản thì, lợi nhuận thương nghiệp được coi là do mua rẻ, bán đắt mà có. C. Mác nói: lợi nhuận thương nghiệp không những là kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo, mà đại bộ phận lợi nhuận thương nghiệp chính là do những việc ăn cắp và lừa đảo mà ra cả.

Đối với tư bản thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, nếu gạt bỏ các chức năng khác liên quan với nó như: bảo quản, đóng gói, chuyên chở (tức là chức năng tiếp tục quá

trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông), mà chỉ hạn chế ở các chức năng chủ yếu là mua và bán, thì nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Trái lại, nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Nếu nhìn bề ngoài thì hình như lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt, do lưu thông tạo ra, nhưng về thực chất thì lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp.

Vấn đề được đặt ra là tại sao nhà tư bản công nghiệp lại nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư đó? Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp lại bằng lòng nhường cho nhà tư bản thương nghiệp là do nhà tư bản thương nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà tư bản công nghiệp. Điều đó được thể hiện:

Một là, tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai đoạn của quá trình tái sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản xuất không thể tái diễn được liên tục. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh vực này nếu không có lợi nhuận thì nhà tư bản thương nghiệp không thể tiếp tục đảm nhiệm công việc đó. Vì vậy, xuất phát từ lợi ích kinh tế của nhà tư bản thương nghiệp mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nó một phần lợi nhuận.

Hai là, tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất. Ba là, tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho công

nghiệp phát triển.

Bốn là, do tư bản thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông, nên tư bản công nghiệp không phải kinh doanh trên cả hai lĩnh vực: sản xuất và lưu thông, do đó có thể rảnh tay trong lưu thông và chỉ tập trung đẩy mạnh sản xuất. Vì vậy, tư bản của nó chu chuyển nhanh hơn, năng suất lao động cao hơn và nhờ đó lợi nhuận cũng tăng lên.

Năm là, tư bản thương nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, nhưng góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận, do đó làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội cũng tăng lên, góp phần tích lũy cho tư bản công nghiệp.

Vì những lẽ đó mà nhà tư bản công nghiệp mới bằng lòng nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp.

+ Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp Ví dụ:

Một nhà tư bản công nghiệp có số tư bản là 900, trong đó chia thành 720c + 180v. Giả sử tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì giá trị hàng hoá sẽ là: 720c + 180v + 180m = 1080.

Tỷ suất lợi nhuận công nghiệp là:

180

P

=

100% = 20%

CN

900

Nhưng khi có nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào quá trình kinh doanh thì công thức trên đây sẽ thay đổi. Giả dụ nhà tư bản thương nghiệp ứng ra 100 tư bản để kinh doanh. Như vậy, tổng tư bản ứng ra sẽ là 900 + 100 = 1000, và tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm xuống còn:

P

=

100% = 18%

CN

Theo tỷ suất lợi nhuận chung này, nhà tư bản công nghiệp chỉ thu được số lợi nhuậnbằng 18% của số tư bản ứng ra (tức là 18% của 900, bằng 162 và nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hoá cho thương nhân theo giá: 900 + 162 = 1062.

Còn nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hoá cho người tiêu dùng đúng giá trị của hàng hoá là: 1080 và thu lợi nhuận là 18, tức là bằng 18% của tư bản thương nghiệp ứng ra. Như vậy lợi nhuận thương nghiệp có được là do giá bán củathương nhân cao hơn giá mua, nhưng không phải vì giá bán cao hơn giá trị mà là vì giá mua thấp hơn giá trị hàng hoá. Hay nói khác đi, nhà tư bản công nghiệp đã vui lòng "nhượng" bớt lợi nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp.

14.

Tư bản cho vay. Lợi tức và tỷ suất lợi tức

a) Phân tích nguồn gốc ra đời tư bản cho vay trong CNTB

Tư bản cho vay đã xuất hiện từ lâu, sớm hơn cả tư bản công nghiệp, đó là tư bản cho vay nặng lãi. Sở dĩ gọi là tư bản cho vay nặng lãi vì tỷ suất lợi tức thường rất cao, có khi lên tới 100% hoặc cao hơn. Vì vậy tư bản cho vay nặng lãi đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất.

Ở đây ta không nghiên cứu loại tư bản cho vay đó, mà nghiên cứu tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản.

Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản hoàn toàn khác với tư bản cho vay nặng lãi. Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra trong quá trình tuần hoàn của tư bản. Sở dĩ như vậy là vì sự xuất hiện và tồn tại của tư bản cho vay vừa là sự cần thiết và có khả năng thực hiện. Điều đó được biểu hiện ở chỗ: trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. Ví dụ: tiền trong quỹ khấu hao tư bản cố định, tiền dùng để mua nguyên liệu, vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua; bộ phận tiền để trả lương cho công nhân, nhưng chưa đến thời hạn trả; bộ phận giá trị thặng dư tích lũy (dưới dạng tiền) để mở rộng sản xuất, nhưng chưa sử dụng.

Số tiền nhàn rỗi như thế không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản, tức là tư bản nhàn rỗi không sinh lợi. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy, nhà tư bản phải đưa cho người khác vay tiền để kiếm lời. Về phương diện khác mà xét, cũng chính trong thời gian đó, có những nhà tư bản khác rất cần tiền. Ví dụ: tiền để mua nguyên, nhiên vật liệu - mà nhà tư bản không có vì hàng hoá chưa bán được; tiền để mở rộng sản xuất - nhưng tích lũy chưa đủ v.v.. Do đó tất yếu các nhà tư bản đó phải đi vay.

Từ hai mặt trên tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Nhờ có quan hệ vay mượn này mà tư bản nhàn rỗi đã trở thành tư bản cho vay.

Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định nhằm thu thêm một số lời nhất định. Số lời đó được gọi là lợi tức, ký hiệu là z.

Tư bản cho vay có những đặc điểm khác căn bản với tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp. Điều này được biểu hiện ở chỗ: đối với tư bản cho vay thì quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở hữu tư bản; tư bản cho vay là hàng hoá đặc biệt.

Tư bản cho vay vận động theo công thức: T - T', trong đó T' = T + z. Nhìn vào công thức này, sự vận động của tư bản cho vay chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay, tiền đẻ ra tiền. Do đó quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được che giấu một cách kín đáo nhất; tư bản cho vay trở nên thần bí và được sùng bái nhất.

b) Đặc điểm của tư bản cho vay trong CNTB

Tư bản cho vay có quyền sở hữu tách rời với quyền sử dụng. Người có quyền sử dụng không có quyền sở hữu. Người có quyền sở hữu không có quyền sử dụng. Thực chất, nhà tư bản sở hữu giao cho nhà tư bản sử dụng 1 số tiền và sau 1 thời gian nhất định nhà tư bản sử dụng phải trả lại số tiền đó với giá trị tăng hơn giá trị ban đầu ra đi. T…T’, trong đó: T’>T. Muốn vậy nhà tư bản đi vay phải sử dụng số tiền đó để kinh doanh và tạo ra lợi nhuận.

Tư bản cho vay là 1 hàng hóa đặc biệt: + Có giá trị và giá trị sử dụng

+ Có kẻ mua và người bán (người đi vay và người cho vay) + Có giá cả (lợi tức cho vay, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu) + Người cho vay không bao giờ mất quyền sở hữu. Đối với người mua, họ có

quyền sử dụng và khi sử dụng thì giá trị sử dụng không những không mất đi mà ngày càng lớn lên.

+ Giá cả là lợi tức, không do giá trị quyết định mà do giá trị sử dụng quyết định. Vì vậy, nó thấp hơn giá trị rất nhiều.

+ Giá trị sử dụng không phải là 1 thuộc tính tự nhiên mà là 1 thuộc tính xã hội do con người quyết định.

Tư bản cho vay là tư bản sùng bái nhất và ăn bám nhất:

+ Thông qua công thức vận động của tư bản cho vay: T…T’, ta thấy nó không liên quan đến sản xuất, tiền đẻ ra tiền, giá trị sinh ra giá trị, bản thân tiền có khả năng sinh sôi nảy nở.

+ Tư bản cho vay là tư bản ăn bám nhất vì qua công thức vận động tổng quát: T…T’ ta thấy không liên quan gì đến SX và lưu thông, người sở hữu không phải hoạt động mà vẫn thu được tiền lời. Thông qua sự vận động của tư bản cho vay chỉ thấy mối quan hệ của tư bản cho vay và tư bản đi vay, chỉ thấy tiền đẻ ra tiền. Như vậy, quan hệ bóc lột TBCN được che giấu 1 cách kín đáo nhất.

ðĐịnh nghĩa: Tư bản cho vay là tư bản có quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng, sau 1 thời gian nhất định làm cho giá trị tăng lên so với giá trị ban đầu ra đi. Nó là tư bản sinh lợi tức. Như vậy, tư bản cho vay không tham gia trực tiếp vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận.

c) Lợi tức và tỷ suất lợi tức. Giới hạn vận động và xu hướng vận động của lợi tức và

tỷ suất lợi tức.

+ Lợi tức

Tư bản cho vay là tư bản sinh lợi tức.

Đứng về phía nhà tư bản cho vay thì do họ nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác trong một thời gian nhất định, nên thu được lợi tức. Về phía nhà tư bản đi vay (nhà tư bản hoạt động) thì họ vay tiền về để đưa vào sản xuất - kinh doanh, nên họ thu được lợi nhuận (lợi nhuận bình quân). Nhưng vì họ không có tư bản hoạt động, nên phải đi vay. Do đó họ phải trích một phần lợi nhuận thu được để trả cho nhà tư bản cho vay. Số tiền trích ra để trả đó được gọi là lợi tức. Như vậy, về thực chất, lợi tức chỉ là một phần của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ sử dụng tư bản đi vay, phải trả cho nhà tư bản cho vay. Trên thực tế lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay, căn cứ vào số tư bản mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng.

Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng, việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức đã che giấu thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức vận động của tư bản cho vay, chúng ta hoàn toàn vạch trần được điều đó.

+ Tỷ suất lợi tức

Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay (thường tính theo tháng, quý, năm).

Nếu gọi lợi tức là z, tỷ suất lợi tức là z', ta có:

= ℎ ( ) 100%

Tỷ suất lợi tức cao hay thấp, điều đó phụ thuộc vào các nhân tố sau đây: Một là, tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Hai là, tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và lợi nhuận của xí nghiệp (nhà tư bản hoạt động).

Ba là, quan hệ cung cầu về tư bản cho vay. Tuy nhiên, ảnh hưởng của cung cầu đối với tỷ suất lợi tức có sự khác biệt với ảnh hưởng của cung cầu đối với giá cả hàng hoá.

Giới hạn tối đa của tỷ suất lợi tức (trừ trường hợp khủng hoảng) là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tỷ suất lợi tức không có giới hạn tối thiểu nhưng phải lớn hơn không (0 < z' < p' ). Trong giới hạn đó, tỷ suất lên xuống phụ thuộc vào quan hệ cung cầu tư bản cho vay và biến động theo chu kỳ vận động của tư bản công nghiệp. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức luôn luôn có xu hướng giảm sút.

15.

Bản chất và các hình thức địa tô TBCN

Chúng ta đều biết rằng, cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ. Vì vậy, ngoài lợi nhuận bình quân ra nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra nữa tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho người sở hữu ruộng dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.

Ø Định nghĩa địa tô TBCN: là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân của TB đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, nhà TB nông nghiệp thu được trả cho địa chủ với tư cách người sở hữu ruộng đất. Địa tô TBCN (R).

Ø Bản chất: là một bộ phận của giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra do vậy địa chủ cùng với nhà TB nông nghiệp cùng tham gia bóc lột công nhân nông nghiệp.

? So sánh địa tô TBCN và địa tô phong kiến

*Giống nhau: sự giống nhau trước hết là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế; cả hai loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với những người lao động.

*Khác nhau:

Địa tô TBCN

Địa tô phong kiến

Về mặt lượng

Địa tô TBCN chỉ là một phần

Địa tô phong kiến gồm toàn

giátrịthặngdưngoàilợi

bộsảnphẩmthặngdưdo

nhuận bình quân của nhà TB

nông dân tạo ra, có khi còn

kinh doanh ruộng đất

lạm vào cả phần sản phẩm cần

thiết

Về mặt chất

Địa tô TBCN phản ánh mối

Địa tô phong kiến phản ánh

quan hệ giữa 3 giai cấp:

mối quan hệ giữa 2 giai cấp:

+ Giai cấp địa chủ

+ Giai cấp địa chủ

+ Giai cấp các nhà TB kinh doanh ruộng đất + Giai cấp công nhân nông + Giai cấp nông dân Trong đó, giai cấp địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân

nghiệp làm thuê

? Các loại địa tô TBCN ·Địa tô chênh lệch

Trong các phần trên chúng ta đã nghiên cứu và thấy rằng lợi nhuận siêu ngạch trong công nghiệp chỉ là hiện tượng tạm thời, không ổn định, nó chỉ xuất hiện đối với nhà TB cá biệt nào có những điều kiện sản xuất thuận lợi hơn điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội.

Trái lại, trong nông nghiệp thì khác, do ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản, ruộng tốt, xấu khác nhau, đại bộ phận là xấu. Do người ta không tạo thêm được ruộng đất mà những ruộng đất tốt lại bị độc quyền kinh doanh kiểu TBCN cho thuê hết nên buộc phải thuê ruộng đất xấu. Điều đó làm cho những nhà TB kinh doanh trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi luôn luôn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, vì nó dựa trên tính chất cố định của ruộng đất và độ màu mỡ của đất đai. Lợi nhuận siêu ngạch này sẽ chuyển hoá thành địa tô chênh lệch.

Về vấn đề giá cả trong nông nghiệp cũng có sự khác biệt với trong công nghiệp. Trong công nghiệp giá cả sản xuất là do điều kiện sản xuất trung bình quyết định; còn trong nông nghiệp, nếu như vậy thì nhà TB kinh doanh trên ruộng rất xấu không thu được lợi nhuận bình quân, và do đó họ sẽ chuyển sang kinh doanh nghề khác. Song, nếu chỉ kinh doanh trên ruộng đất tốt và trung bình thì sẽ không đủ nông sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của xã hội. Vì những lẽ trên mà trong nông nghiệp, giá cả nông sản do điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất quyết định.

Vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận vượt ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu đượctrênnhữngruộngđấtcóđiềukiệnsảnxuấtthuậnlợihơn;nólàsốchênhlệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.

Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch, nguồn gốc của nó là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Địa tô chênh lệch gắn liền với độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối TBCN. Đó là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch.

Có hai loại địa tô chênh lệch: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ

tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt), gần nơi tiêu thụ, gần đường giao thông.

Địa tô chênh lệch II là địa tô thu được nhờ thâm canh mà có. Thâm canh ruộng đất là đầu tư thêm TB vào một đơn vị diện tích để nâng cao chất lượng canh tác, nhằm tăng độ màu mỡ trên mảnh ruộng đó; nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.

Chừng nào mà còn thời hạn hợp đồng thuê ruộng thì nhà TB kinh doanh bỏ túi số lợi nhuận siêu ngạch này. Nhưng khi hết hạn hợp đồng, chủ ruộng sẽ tìm cách nâng cao mức địa tô để chiếm lấy số lợi nhuận siêu ngạch đó, tức là biến lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô chênh lệch.

Vì lẽ đó mà chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê trong một thời gian ngắn, còn nhà TB kinh doanh không muốn đầu tư vốn lớn để đầu tư cải tiến kỹ thuật, cải tạo đất đai, vì làm như vậy phải mất một thời gian dài mới thu hồi được số vốn lớn đã bỏ ra, rốt cuộc chủ ruộng sẽ là người hưởng những lợi ích do việc đầu tư đó đem lại.

Vì vậy, trong thời hạn thuê ruộng, nhà tư bản kinh doanh tìm mọi cách tận dụng hết độ màu mỡ của đất đai để thu được lợi nhuận nhiều hơn. Đó là mục đích kinh doanh của họ. Điều này đã giúp chúng ta dễ dàng đi đến kết luận là trong điều kiện canh tác theo lối tư bản chủ nghĩa thì độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm sút.

·Địa tô tuyệt đối

Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà TB kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất đó tốt hay xấu. Đây là loại tô thu trên tất cả mọi thứ ruộng đất.

Chúng ta đều biết, dưới chế độ TBCN, do có sự độc quyền tư hữu ruộng đất, nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản xuất TBCN trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều đó được thể hiện ở chỗ: nông nghiệp thường lạc hậu hơn so với công nghiệp cả

về kinh tế lẫn kỹ thuật, vì thế cấu tạo hữu cơ của TB trong nông nghiệp thường thấp hơn trong công nghiệp. Điều này phản ánh một điều: nếu trình độ bóc lột ngang nhau, thì một TB ngang nhau sẽ sinh ra trong nông nghiệp nhiều giá trị thặng dư hơn trong công nghiệp.

Sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã cản trở quá trình tự do di chuyển tư bản vào nông nghiệp và do đó đã ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa công nghiệp và nông nghiệp. Do đó, nông sản được bán theo giá thị trường và phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài mức lợi nhuận bình quân được giữ lại để nộp tô tuyệt đối cho địa chủ.

Vậy, địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của TB trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, nó là chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung của nông phẩm.

? So sánh địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối

-Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận vượt ra ngoài lợi nhuận bình quân, thu được trên những ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn; nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.

-Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất đó tốt hay xấu. Đây là loại tô thu trên tất cả mọi thứ ruộng đất.

Giống nhau: về thực chất, địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối đều là lợi nhuận siêu ngạch, nguồn gốc của chúng đều là một bộ phận giá trị thặng dư do lao động của công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra.

Khác nhau: độc quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch, còn độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Vì vậy nếu không còn chế độ tư hữu ruộng đất, không còn giai cấp địa chủ, thì địa tô này sẽ bị xoá bỏ, giá cả nông sản phẩm sẽ hạ xuống có lợi cho người tiêu dùng. RCL= Giá trị sản xuất chung nông phẩm - Giá cả sản xuất cá biệt nông phẩm

(R đất xấu)

(R đất tốt, trung bình,…)

RTĐ = Giá trị sản xuất nông phẩm - Giá trị sản xuất chung xã hội

? Tại sao giá cả nông phẩm được quy định bởi ruộng đất xấu

Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng lại bị hạn chế cả về số lượng, chất lượng. Trong khi đó nhu cầu về nông phẩm của xã hội ngày càng gia tăng, buộc xã hội phải canh tác trên cả những mảnh đất xấu nhất. Do đó, giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quy định bởi điều kiện sản xuất xấu nhất và những nhà TB kinh doanh nông nghiệp trên ruộng đất tốt và trung bình sẽ thu được phần lợi nhuận siêu ngạch và phần lợi nhuận siêu ngạch đó là thường xuyên và ổn định được nhà TB kinh doanh nông nghiệp giữ lại, nộp tô cho địa chủ.

? Trong các nhà TB sau TB nào tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi

nhuận

TB tham gia: TB hoạt động (TB kinh doanh): TB công nghiệp, TB nông nghiệp, TB ngân hàng, TB thương nghiệp

TB không tham gia: TB cho vay là TB không hoạt động (TB không kinh doanh) nên không tham gia trực tiếp vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: