Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

p2

PHẨM HƯ KHÔNG HÀNH THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI HAI

Bấy giờ lại có tám vạn Hư Không Hành Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa và Khẩn Na La cúng dường đức Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng ở trong Phật pháp thân tâm yêu thích. Vì cúng dường Phật họ phát khởi tâm dũng mãnh. Vòng khắp ngoài thành Ca Tỳ La tám vạn sáu ngàn do tuần, chư Hư Không Hành Thiên ấy mưa lớn mạn đà la khắp mặt đất dày đến gối người. Họ cúng dường Phật nhiễu Phật ba vòng, nói kệ tán thán đức Phật rằng: ”

“Các căn tịch tĩnh mặt mỉm cười

Cứu hộ tất cả các chúng sanh

Thiện Thệ đầy đủ đại từ bi

Nên làm Thế Tôn Thiên Nhân Sư

Như Lai đại chúng đều an trụ

Ở trong Phật pháp và Niết bàn

Ðạo Sư hạnh trí Lưỡng Túc Tôn

Chúng tôi đầu mặt nay đảnh lễ

Như đêm rằm vầng trăng tròn sáng

Người đời đều lạy trăng giữa sao

Như vậy tất cả các thiên chúng

Thấy Phật mặt cười đều đảnh lễ

Chứa nhóm khối lớn vô lượng phước

Cũng lãi thành tựu thân trí huệ

Ðầy đủ vô lượng oai đức lớn*

Nên tôi đảnh lễ đấng cứu đời

Núi công đức đầy đủ thập lực

Tam đế vô úy lìa tam cấu

Thành tựu mười tám phAp bất cộng

Thấy rõ không nghi đấng Ðạo Sư

Ðầy đủ ba mươi hai tướng tốt

Tám mươi tùy hảo sự trang nghiêm

Tâm Phật thắng thượng như đế Tràng

Nên tôi đảnh lễ đấng vô thượng

Ðã hay cứu cánh sức trì giới

Thiên lực quyết định chẳng khuynh động

Nắm cầm gươm trí huệ tối thượng

Tối thắng dũng kiện hàng thiên ma

Nơi sức trí huệ đến bờ kia

Ðiều ngự Thanh Văn lòng không tiếc

Tâm Phật tịch tĩnh khắp mười phương

Ðộ thoát tất cả chúng Nhân Thiên

Thế Tôn lAé đấng Thiên Nhân Sư

Ðược pháp tịch diệt tối vô thượng

Thưa vâng bạch Thế Tôn tôi nghuyện

Cũng sẽ được pháp thắng diệu ấy

Nguyện tôi cũng sẽ trong Nhân Thiên

Ðược các thế gian tìm mến thích

Như đức Thế Tôn bằng không khác

Biết rõ tâm thích muốn chúng sanh

Nguyện tôi làm lợi cho thế gian

Dùng tâm xót thương tâm đại bi

Nguyện tôi đều độ thoát được những

Chúng sanh đọa biển khổ sanh tử

Nguyện tôi ở trong hang Thiên Nhân

Ðược làm Ðại Ðạo Sư vô thượng

Tôi sẽ giải thoát cõi sanh tử

Những chúng sanh bị trăm thứ khổ”.

Ðức Thế Tôn biết chúng Hư Không Hành Thiên có tâm tín nguyện sâu rộng nên liền mỉm cười. Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:

“Phật Mâu Ni chẳng phải không duyên

Chiếu sáng ba cõi hiện mỉm cười

Ngưỡng mong Thập Lực nói rõ cho

Vì chúng sanh nào mà mỉm cười

Thấy mặt tối Thắng của Như Lai

Hiện tướng mỉm cười làm chúng mừng

Tất cả đại chúng đều hoài nghi

Xin Phật nói rõ nhân duyên cười

Xin Ðại Ðạo Sư mau nói rõ

Nhân duyên mỉm cười sự lợi ích

Xin dứt trừ lưới nghi cho chúng

Xin vua trong Sa Môn tuyên nói

Ai làm cho Phật hiện mỉm cười

Ai ở nơi Phật bày cúng dường

Khiến ai đạt được đáy sanh tử

Mong đức Thế Tôn trừ nghi cho

Ai ở ngày nay động cung ma

Khiến ma cuồng loạn lòng chẳng an

Ai ở ngày khiến Thiên chúng

Thảy đều vui mừng rất hớn hở

Ngưỡng mong vì tôi mà tuyên nói

Dứt trừ tất cả nghi cho đời

Ðại chúng nếu được nghe Phật nói

Tất cả sẽ đều rất vui mừng”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Hôm nay Mã Thắng bạch hỏi Phật

Việc thọ ký Hư Không Hành Thiên

Ông hỏi nơi Phật lợi ích lớn

Cho vô lượng Trời Người thế gian

Nếu không hỏi nơi đức Thập Lực

Chẳng được nghe nói lời thọ ký

Nay ông bạch hỏi nơi Như Lai

Làm lợi ích lớn cho thế gian

Không Hành Thiên đây nơi đức Phật

Dùng tâm mừng rỡ mà cúng dường

Qua khỏi số kiếp a tăng kỳ

Dứt ttrừ phiền não được làm Phật

Từ nơi thân Này mạng chung rồi

Liền được sanh trời chỗ thù thắng

Chỗ vô lượng ức chư Như Lai

Ðều dung hương hoa để cúng dường

Ở chỗ chư Phật phát đạo tâm

Cũng lại tăng tiến tâm Bồ đề

Bởi nói vô lương nhân thắng diệu

Khen ngợi trí tự nhiên của Phật

Chúng ấy sẽ ở đời vị lai

Chỗ vô lượng vô biên chư Phật

Dùng hương hoa tốt để cúng dường

Cũng nói kệ hay để khen ngợi

Chư Bồ Tát thân na la diên

Cúng dường tán thán chư Phật rồi

Ở đời Như Lai kiếp Hân Hỷ

Ðược thành trí tối thắng vô thượng

Phật ấy hiệu là Hoa Tràng Tôn

Tiếng danh nghe khắp đều kính trọng

Tám vạn chúng thiên thần Không Hành

Ðều đồng một kiếp được thành Phật

Trong cõi Phật ấy không địa ngục

Cũng không ngạ quỉ và súc sanh

Cõi ấy cũng không loài Tu La

Không có tất cả tám điều nạn

Lúc tám vạn Hành Thiên thành Phật

Cõi ấy tất cả nhân dân

Tất cả chúng sanh thọ vô lượng

Quả báo như quả trời Ðao Lợi

Nước ấy chẳng nghe tên ác đạo

Huống là có người tạo nghiệp ác

Thuở ấy chúng sanh đều như pháp

Tất cả đều là chúng điều phục

Phật ấy độ người vô lượng ức

Số ấy đông hơn cát sông Hằng

Tuyên nói pháp vô y vô trước

Thập Lực độ thoát các chúng sanh

Phật ấy nhập đại Niết bàn rồi

Xá lợi lưu bố xây bửu tháp

Mỗi Mỗi Xá lợi của Phật ấy

Trong ấy đều hiện thân tướng Phật

Danh tiếng không hư các thân phần

Vì chúng sanh ấy hiện thân biến

Vô lượng ức số các chúng sanh

Ðều phát tâm vô thượng Bồ đề

Ðạo Sư trí phương tiện như vậy

Thọ ký cho chúng Không Hành Thiên

Tất cả đại chúng nghe thọ ký

Thảy đều vui mừng rất hớn hở ’’

PHẨM TỨ THIÊN VƯƠNG THỌ KÝ THỨ MƯỜI BA

Bấy giờ có chin vạn Tứ Thiên VươngThiên thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La và Hư Không Hành Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đề rất vui mừng hớn hở vô lượng, ở trong Phật pháp thâm tâm tin ưa. Ví như có người ngồi ghe bằng sành vào trong song tự nghĩ rằng: Ghe sành Này chẳng bao lâu sẽ nứt bể, lúc đó chưa chìm phải mau vào bờ để khỏi bị thủy nạn. Chín vạn Tứ Thiên Vương Thiên Này cũng như vậy, họ thầy oai thần của Phật nên khởi lòng tin ưa, vì muốn được Phật pháp nên họ phát tâm dũng mãnh cúng dường Như Lai.

Tứ Thiên Vương và chin vạn trời Tứ Thiên Vương hóa ra chín vạn tướng thất bửu rộng

lớn trang nghiêm nhiều màu sắc đẹp lạ. Trong số ấy có nhiều trướng xích chơn châu, trướng hỏa châu, trướng lưu ly, trướng thiên chơn kim, trướng kim cương châu. Chín vạn trướng thất bửu ấy ở hư không bay nhiễu Phậtba vòng. Lại hóa chín vạn thiên nhạc ở hư không nhiễu Phật ba vòng. Lại hóa những hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ca ca la bà, ma ha ca ca la bà, họ đem hoa trời ấy rải lên đức Phật, lại nhiễu Phật ba vòng, dừng ở một bên chắp tay cung kính nói kệ tán tán Phật:

“Chư Thiên chín vạn ở chỗ Phật

Nhất tâm thích muốn Phật công đức

Không diệu không trầm không tham hối

Không cao không hạ lạy Thế Tôn

Dứt giống sanh tử trụ vô minh

Nhổ gai phiền não xô núi mạn

Giỏi nhổ tên độc chữa ghẻ nhọt

Tinh tấn chẳng lười thân viên mãn

Diệt trừ phiền não giải triền phược

Dứt hết kiết sử rời ôn náo

Không và tướng là Phật hạnh

Tâm không nguyện cầu tất cả cõi

Trừ gốc khát ái bỏ vô minh

Những bốn điên đảo đều xa lìa

Phật biết thiệt tế đời không biết

Phàm phu nghe sợ như săn bẩy

Chúng sanh chấp thân chẳng biết không

Bị tối vô minh ham thế gian

Thấy chơn như xem đời trống rỗng

Hiển chơn trí nên được tịnh nhãn

Bày ngũ ấm không danh sắc không

Giới chẳng phải có xứ cũng vậy

Pháp Này pháp khác chỉ danh tự

Pháp danh tự Phật dạy là không

Như ảo sư hóa làm hình tượng

Không ngã không nhân chúng sanh mạng

Các ấm giới và mười hai xứ

Ðều là ảo hóa lời Phật dạy

Như thợ khéo vẽ hình bạch tượng

Cao thấp màu vóc đều giống hệt

Chỉ gạt mắt ngu thiệt không voi

Pháp giới bình đẳng ngu tự mê

Phật dạy rõ như trái trong tay

Người trí chẳng mê khéo học Phật

Phật đại trí huệ soi sáng đời

Chuyển diệu pháp luân độ chúng sanh

Tôi nguyện giác ngộ đại Bồ đề

Chuyển diệu pháp luân như Phật chuyển

Nơi người thế gian mê mất đường

Tôi sẽ độ họ như Phật độ”.

Ðức Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của chin vạn trời Tứ Thiên Vương và Tứ Thiên Vương nên hiện tướng mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra nhiều tia sáng năm màu. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:

“Phật cười chẳng phải không nhân duyên

Xin Phật nói rõ cớ mỉm cười

Thấy Phật cười đại chúng đều nghi

Ngưỡng mong Thế Tôn giải thích rõ

Ai phá ma quân ai hết nghi

Ai quyết định pháp xin Phật nói

Ai phụng Phật ai cúng Phật

Ðại chúng đều nghi xin Phật nói

Phật nói thọ ký chúng nghe rồi

Sẽ hết nghi ngờ xin Phật nói

Khiến các chúng sanh nương Phật trí

Mau được Bồ đề nên thọ ký”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:

“Lành thay Mã Thắng hay hỏi Phật

Duyên cớ mỉm cười ông lắng nghe

vì thương thế gian phải nghe kỹ

Chín vạn chư Thiên ở trước Phật

Lòng tin thanh tịnh đã cúng dường

Nói kệ khen Phật biết pháp không

Quyết định nơi pháp trụ Phật đạo

Họ đã từng cúng tám ức Phật

Vị lai nơi vô lượng ức Phật

Cúng dường cầu được vô thượng đạo

Nơi vô lượng Phật nếu chẳng cúng

Bồ đề thọ kia chẳng ngồi chứng

Ðời vị lai họ đều thành Phật

Ðồng hiệu Ðại Trì Phật Thế Tôn

Chư Phật ấy có chúng Thanh Văn

Tám mươi hộ trì kiến vô ngại

Tất cả chúng sanh Phật độ ấy

Thọ mạng đều tám ức tuổi

Vô số ức Tỳ Kheo đệ tử

Lìa trần cấu trụ tối hậu thân

Phật ấy diệt độ do công đức

Tạo vô lượng tháp trang nghiêm đẹp

Vô lượng ngàn trăm na do tha chúng

Cúng dường chùa tháp lợi người đời

Hoặc phát đại tâm hoặc chứng diệt

Chánh pháp trụ thế thời gian lâu

Ðến tám ức năm do vô lượng

Do tha Bồ Tát trì chánh pháp

Chúng Tứ Thiên Vương được thọ ký

Vì lợi đời thành thục chúng sanh

Ðại chúng nghe rồi rất vui mừng

Hớn hở vô lượng thuận lời Phật”.

PHẨM TAM THẬP TAM THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI BỐN

Bấy giờ có tám ức chư Thiên Ðao Lợi, Thiên Ðế Thích là tối thượng thủ thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên và Tứ Thiên Vương Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng, ở trong Phật pháp thâm tâm tin ưa phát tâm dũng mãnh cúng dưỡng Như Lai, liền hóa làm tám ức lầu gác thất bửu nhiều màu trang nghiêm đẹp lạ, nơi nơi giăng rũ những anh lạc xích châu, lưu ly, hỏa châu, tạp châu. Mỗi lầu gác đều có trăm cấp tràng môn trang nghiêm. Trong mỗi cấp đều có bốn lầu gác nhỏ trang sức cửa nẻo và tòa sư tử, tràng phan lo(ng trướng lọng màn đều bằng thất bửu. Có thiên đồng nữ xinh đẹp đệ nhất hầu nơi lầu gác và tòa sư tử, đánh những nhạc trời. Họ lại hóa làm tám ức xe ngựa thất bửu trang hoàng với những tràng phan lọng báu cõi trời và những âm nhạc trời. Khắp thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần, họ rải những hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ca ca la bà, ma ha ca ca la bà, ba lô sử ca, ma ha ba lô sử ca. Hoa được rải dày đến gối. Thiên Ðế Thích lại hóa làm tám ức y la long tượng, mỗi tượng có tám ức đàu, mỗi đầu tượng đều có sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy ao bông, trong mỗi ao có bảy bông sen đều có ngàn cánh, trong mỗi cánh sen có bảy thiên nữ, mỗi thiên nữ có bảy thị nữ nhiều thứ trang nghiêm. Nơi khoảng cách lầu gác an trí long tượng, xe báu theo sau, cúng dường Như Lai những lầu gác ấy. Họ lại mua các thứ hương trời hoa trời hoa thất bửu để cúng dường Phật. Các tiên nữ ấy hoặc tấu âm nhạc, hoặc ca hoặc vũ, hoặc động chuyển thân tay rải hoa hương cúng dường. Họ lại hóa làm tám ức mã vương trang nghiêm nhiều thứ rồi ngồi lên và đem những vật báu cõi trời rải lên Phật. Lại có tám ức âm nhạc trời ở hư khong tự nhiên hòa tấu. Trên tám ức xe thất bửu, mỗi xe đều có một Hóa thiên nữ. Tám ức thiên nữ ấy hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc động chuyển thân tay rải hoa hương lên Phật cúng dường.

Lúc ấy tám ức chư Thiên Ðao Lợi nghĩ rằng các Hóa thiên nữ cúng dường Như Lai, tất cả các pháp cũng đều như hóa mà đức Như Lai đã từng giảng dạy. Họ biếyt các pháp như ảo hóa rồi, đối với tất cả pháp chă”ng còn hoài nghi. Họ nhiễu Phật ba vòng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua mọ-t phía. Họ biết các pháp như ảo rồi, cũng biết thân mình đồng là ảo hóa, biết những sự cúng dường Như Lai cũng là ảo hóa, pháp của Phật dạy cu’ng như vậy. Ở nơi ảo pháp được không nghi ngờ rồi họ nói kệ tán than đức Phật rằng:

“Những hóa nhân Này dâng cúng dường

Tất cả mọi người cũng như vậy

Ðế Thích chư Thiên và các pháp

Tất cả thảy đều như ảo hóa

Như Lai Ðạo Sư cũng như ảo

Chúng Thanh Văn từ pháp hóa sanh

Nơi lời Phật dạy đều không nghi

Hiểu được thọ ký của Phật nói

Pháp của Như Lai Thế Tôn nói

Phàm phu ngu si chẳng hiểu được

Pháp của Như Lai đã truyền dạy

Tất cả thảy đều như ảo hóa

Nếu hang học nhân và vô học

Chúng điều phục đệ tử của Phật

Những người ấy cũng như ảo hóa

Ở nơi pháp ấy tôi không nghi

Nếu người ưa thích vắng yên lặng

Riêng mình không não như kỳ lân

Chúng ấy tất cả đều như ảo

Ở nơi pháp ấy tôi không nghi

Người hành Phật hạnh Bồ Tát hạnh

Lợi ích chúng sanh chẳng phóng dật

Họ là Bồ Tát con Như Lai

Tất cả thảy đều như ảo hóa

Thiện Thệ Ðạo Sư tự nhiên trí

Thập lực đại bi trí vô lượng

Trí huệ tự tại Thế Gian Tôn

Phật ấy như vậy cũng như ảo

Như pháp Thế Tôn đã từng dạy

Thanh lương tịch tĩnh vô sở y

Pháp được Niết bàn và Niết bàn

Tất cả thứ ấy cũng như ảo

Thiện Thệ như pháp vô sở hữu

Tất cả dường như tánh ảo hóa

Nơi Phật pháp ấy và trí huệ

Trong ấy chúng tôi đều không nghi

Chúng tôi thường nguyện được như Phật

Thấy tất cả pháp dường như ảo

Chúng tôi đi trong cảnh giới Phật

Nguyện được thành Phật khôngcó nghi”.

Ðức Thế Tôn biết tám ức tròi Ðao Lợi thâm tâm tin ưa nên hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật rằng:

“Danh xưng vô tỉ đủ công đức

Như Lai mỉm cười chẳng vô cớ

Ngày nay Như Lai tại sao cười

Ngưõng mong nói rõ trừ nghi cho

Chúng thấy Như lai hiện mỉm cười

Thấy rồi chúng đều có lòng nghi

Ngưỡng mong trừ nghi cho chúng ấy

Khiến chúng chớ ôm lấy lưới nghi

Chúng chư Thiên kia đều mừng rỡ

Tán than Như Lai và cúng dường

Nay Vì ai mà Phật mỉm cười

Xin Phật nói rõ cho chúng mừng

Công đức thanh tịnh như trăng tròn

Ðấng đáng cúng dường xin nói rõ

Lời Phật phán ra nếu họ nghe

Chúng ấy mừng rỡ được thành Phật

Chư Thiên đại chúng dự hội Này

Biét tất cả pháp dường như ảo

Chư Thiên tu học không chướng ngại

Ngưỡng mong Thập Lực nói sự ấy

Tất cả đại chúng nếu trừ nghi

Dùng lòng mừng vui tu thập đạo

Khởi nguyện tăng thượng chẳng hạ liệt

Chúng nghe liền phát tâm dũng mãnh’’.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:

“Mã Thắng nay ông hỏi Như Lai

Khéo hạp thời cơ lợi ích lớn

Phật biết chư Thiên mừng vui rồi

Duyên cớ mỉm cười Phật sẽ nói

Ông vì chư Thiên hỏi cớ cười

Dùng tâm thanh tịnh khéo lắng nghe

Chư Thiên đại chúng dự hội Này

Biết tất cả pháp dường như ảo

Vô lượng vô ngại tri kiến tri kiến huệ

Ðời sau lìa tối được làm Phật

Quá khứ lưu chuyển trong sanh tử

Ðã cúng dường Phật như hằng sa

Ở chỗ chư Phật luôn tu tập

Tất cả các pháp dường như ảo

Nay ở chỗ ta cũng dâng cúng

Cũng như các pháp đồng ảo hóa

Họ sâu tin ưa nơi Phật pháp

Ðời đương lai họ sẽ thành Phật

Nơi Phật pháp này họ tu tập

Không có hư mất không chướng ngại

Chư Thiên cúng dường nơi ta rồi

Lại biết các pháp dường như ảo

Trong kiếp Lực Cân ở đòi sau

Ðược thành tối thắng Vô Thượng Giác

Chư Như Lai ấy đều đồng hiệu

Là Nhân Ðà La Tràng Vương Phật

Phật ấy tuyên dạy pháp như ảo

Ðộ thoát vô lượng ức chúng sanh

Vì thế các ông bỏ phóng dật

Tu tất cả pháp dường như ảo

Người chẳng phóng được ta độ

Cho đủ Bồ đề phần pháp vậy

Tinh tấn dường như cứu đầu cháy

Mau cầu tịch diệt đại Bồ đề’’.

PHẨM DẠ MA THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI LĂM

Bấy giờ lại có bốn ức chư Thiên Dạ Ma thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên và Ðao Lợi Thiên cúng dường Phật đươc thọ ký, họ rất vui mừng hớn hơ » vô lượng, ở nơi Phật pháp họ phát khởi lòng tin ưa mà nghĩ rằng: Phật pháp như vậy rất lạ rất diệu. Ai chứng được Phật pháp ấy thì không gì chẳng biết, không gì chẳng thấy, không gì chẳng giản trạch, không gì chẳng chứng nhập. Nơi đã sanh chưa sanh hiện sanh, hoặc đã diệt sẽ diệt hiện diệt, hoặc nghiệp hoặc báo đều biết như thiệt. Rất lạ đức Như Lai có thể biết thế đế và đệ nhất nghĩa, khéo biết hai đế ấy không còn gì khác. Ðức Phật Thế Tôn ở nơi pháp không,

Khéo hay biết hay thấy, khéo biết giản trạch, khéo chứng tương ưng nên gọi là nhất thiết trí. Gì gọi là thế đế? Tất cả thế tục sanh tử hiện hành, ở nơi các pháp ấy đều biết rõ được cả. Ðệ nhất nghĩa đế không có ngôn thuyết, không có người biết, chẳng phải sở hành của tâm, vì là vô tri nên không người hay nói không ai hiển thị, không ai nói dạy, không có ai nghe, vì là không nói nên cũng không người biết, không sanh không hiển bày, không người thấy, không người sắp đặt, không có nắm lấy, không có giác tri, không có năng đáo cũng không sở đáo, không thể gần kề, không thể đo lường, không có kiến lập, không có vứt bỏ, không sở tác không năng tác, không khen không chê, không lợi không suy, không ngợi không bay, không khổ không vui, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải số chẳng phải chẳng số, chẳng phải sáng chẳng phải chẳng sáng, chẳng phải phiền não, chẳng rời phiền não, chẳng phải thế gian, chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải tiến chẳng phải thối, không động không tác, không có hí luận, vượt khỏi hí luận, tướng sắc được nói bất khả đắc, thọ tưởng hành thức cũng bất khả đắc, tướng nhãn bất khả đắc

nhĩ tỉ thiệt thân và ý các tướng ấy cũng bất khả đắc, tướng sắc bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp đều bất khả đắc, tướng nhãn thức bất khả đắc, các tướng nhĩ thức tỉ thức thiệt thức thân thức và ý thức đều bất khả đắc, tướng nhãn xúc bất khả đắc, các tướng nhĩ xúc tỉ xúc thiệt xúc thân xúc và ý xúc đều bất khả đắc, nhãn xúc sanh thọ bất khả đắc, nhĩ tỉ thiệt thân và ý xúc sanh thọ đều bất khả đắc, tướng sắc tư giác bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp tư giác đều bất khả đắc, tướng không bất khả đắc, các giới địa thủy hỏa phong và thức đều bất khả đắc, tướng dục giới bất khả đắc, tướng sắc giới bất khả đắc, tướng vô sắc giới bất khả đắc, tướng hữu vi bất khả đắc, tướng vô vi bất khả đắc. Các tướng như vậy, nếu các pháp ấy được tuyên nói thì không người hay nói, các pháp như vậy như vậy gọi là những pháp bất khả thuyết. Phật pháp tối thắng, chúng sanh phám phu ngu si không học chẳng biết được nên họ nghe đến sanh kinh sợ. Ở nơi Phật pháp vì họ kinh sợ nên bèn thối thất nơi Nhất thiết chủng trí. Chư Thiên và người đời nên phải xót thương các chúng sanh ấy, họ thường ở sanh tử bị nhiều khổ não

Chư Thiên Dạ Ma quan sát các thế gian chúng sanh khổ não rồi, vì được Phật pháp và vié cúng dươéng Như Lai nên phát khởi tâm tinh tấn dũng mãnh, trần thiết đồ cúng dườnghơn trời Ðao Lợi để dâng cúng Phật, cúng dường xong đảnh lễ chân Phật nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán thán đức Phật:

“Phật thấy các ấm đều không tịch

Ở nơi giới nhập cũng như vậy

Các căn tích tụ đều ly tướng

Như Lai như thiệt biết rõ cả

Bực trí thế gian nơi thiệt pháp

Chẳng theo người nghe tự nhiên hiểu

Ðó là thế đế và chon đế

Ngoài đây không còn pháp thứ ba

Như Lai thương xót tất cả loài

Vì lợi thế gian nói tục đế

Như Lai tuyên nói nơi thế gian

Vì các chúng sanh hiển lục đạo

Ðịa ngục súc sanh và ngạ quỉ

Nhân Thiên Tu La đủ sáu đạo

Nhà hạ liệt và nhà thù thắng

Bao nhiêu nhà nghèo và nhà giàu

Các hàng nô bộc và tì sứ

Các giống nam nữ và hai căn

Bao nhiêu sáu đạo ở thế gian

Ðức Phật Thế Tôn đều đã nói

Quan sát các pháp thế tục rồi

Vì lợi ích lời Phật tuyên nói

Chúng sanh ưa thích nơi sanh tử

Chẳng thể rơéi được tám sự đời

Ðó là lợi suy và hủy dự

Các thứ xưng cơ và khổ lạc

Ðược lợi lòng họ liền vui mừng

Thất lợi họ liền sanh sân não

Sáu sự đời kia cũng như vậy

Thế gian đều theo tám sự ấy

Ở trong tục đế mà nói chơn

Kiến thức điên đảo cần phải rõ

Trong chẳng sạch vui nói sạch vui

Trong không có ngã nói có ngã

Trong pháp vô thường nói là thường

Ở trong tướng ấy luôn nắm lấy

Nghe giáo pháp của đức Phật dạy

Họ bèn sợ chê chẳng tin nhận

Chê bai thiệt giáo của Như Lai

Sẽ đọa địa ngục rất khốn khổ

Phàm ngu tham cầu nơi thế lạc

Càng thọ vô biên trăm thứ khổ

Nếu ai được ở trong Phật pháp

Quan sát như vậy chẳng điên đảo

Bỏ rời sanh tử vào Niết bàn

Như rắn kia lột bỏ da cũ

Tất cả các pháp thể tánh không

Không chẳng có tướng đệ nhất nghĩa

Nếu nghe pháp không mà ưa thích

Chắc được vô thượng đại Bồ đề

Như Lai như thiệt nói pháp ấy

Dứt trừ nghi ngờ cho chư Thiên

Ðều phát tâm Vô thượng Bồ đề

Vì độ tất cả chúng sanh vậy

Chư Thiên như vậy phát tâm rồi

Thảy đều mừng vui tâm thanh tịnh

Ðược nghe Phật pháp tối thắng rồi

Chúng chư Thiên đây đều thành Phật”.

Ðức Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của bốn ức Dạ Ma Thiên nên hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ kheo nói kệ hỏi Phật:

“Phật vì thế gian mà mỉm cười

Tất cả chúng đây đều sanh nghi

Ngưỡng mong Thế Tôn nói rõ cho

Khiến tất cả chúng đều mừng rỡ

Ðược nghe thọ ký chư Thiên rồi

Tất cả đại chúng đều hớn hở

Người có trí huệ phát dũng mãnh

Ở trong Phật pháp làm như lời

Hàng chúng thù thắng của Như Lai

Có đủ pháp khí công đức Phật

Lành thay tuyên nói lời đẹp hay

Ðể nhiếp tất cả đại chúng vậy

Nghe Phật công đức long vui mừng

Các đại chúng đây quyết sẽ được

Nghe đức Như Lai thọ ký rồi

Ðúng pháp sẽ siêng tu tinh tấn

Lành thay Thế Tôn Thầy Trời Người

Vì trừ nghi hoặc cho đại chúng

Ngưỡng mong Thế Tôn mau nói rõ

Ðại chúng nhất tâm ưa thích nghe

Trời Dạ Ma kia được thọ ký

Xin đức Thế Tôn mau nói rõ

Các đại chúng đây đều vui mừng

Tất cả đều phát tâm Bồ đề”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:

“Vì lợi thế gian hiện tướng cười

Mã Thắng đúng giờ khéo hỏi Phật

Lợi ích vô lượng các đại chúng

Vì nghe công đức của Như Lai

Các chúng sanh ưa thích tham sân

Không biết ưa nơi công đức Phật

Tâm họ ngu si bị mê loạn

Sẽ chìm mãi trong biển sanh tử

Với Phật chánh pháp nếu tin ưa

Ðã từng thỉnh hỏi nơi Phật trước

Người tương ưng với tâm đại bi

Người Này sẽ được Phật công đức

Nếu thấy chúng sanh bị si não

Người trí với họ sanh lòng thương

Các chúng sanh ấy nghe Phật đức

Ðội lãnh Phật giáo như vòng hoa

Chúng hội của Phật rất thanh tịnh

Nơi chỗ Phật trước đã tu phước

Họ đối với công đức Như Lai

Ðội lãnh như vòng hoa bà sư

Chỗ Phật trước chúng trời Dạ Ma

Ðã tu trì giới trừ tham trước

Nhàm lìa phiền não lòng thanh tịnh

Với chúng sanh khổ sanh lòng thương

Ðã từng gần gũi vô lượng Phật

Số ấy nhiều như cát song Hằng

Họ đã tu tập vô lượng lành

Ðể cầu Vô thượng Bồ đề vậy

Biết chúng sanh chìm trong phiền não

Với chúng sanh khổ sanh lòng thương

Nơi đấng cứu thế đại Ðạo Sư

Bạch hỏi vô lượng pháp môn diệu

Nay Phật Ðạo Sư vì họ nói

Người nghe đều được thành Phật đạo

Biết chúng sanh bị phiền não móc

Vì họ nói pháp thiện thắng diệu

Ðiều Ngự Trượng Phu đại Ðạo Sư

Vì các chúng sanh nói pháp không

Họ nghe pháp của Phật dạy rồi

Các pháp không ấy đều biết rõ

Ðó là không các pháp tướng không

Nói không tự tánh pháp không tướng

Biết rõ các Phật pháp như vậy

Thảy đều an trụ Phật công đức

Chúng ấy cúng dường nơi Như Lai

Như pháp đều tự thọ ký biệt

Ở kiếp tinh tú đời vị lai

Thảy đều được thành vô thượng đạo

Chư Phật như vậy không tăng giảm

Số ấy đầy đủ bốn ức chẵn

Thảy đều đồng hiệu Tịnh Trí Phật

Khai ngộ vô lượng các chúng sanh

Ðại Thiên hằng phục các ma oán

Ðáp lời Mã Thắng đã bạch hỏi

Chúng trời Dạ Ma đã mãn nguyện

Ðại chúng Trời Người đều mừng rỡ”.

PHẨM ÐÂU SUẤT ÐÀ THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI SÁU

Bấy giờ có tám ức Ðâu Suất Ðà Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La nhẫn đến Dạ Ma Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở và nghĩ rằng: Nơi những pháp nào mà đức Thế Tôn thọ ký cho Vô thượng Bồ đề? Là sắc thọ ký, thọ tưởng hành thức được thọ ký Vô thượng Bồ đề? Chư Thiên ấy lại nghĩ rằng: Chẳng phải thọ ký cho sắc, cũng phải thọ ký Vô thượng Bồ đề cho thọ tưởng hành thức. Tại sao? Vì sắc đã chẳng sanh, Bồ đề cũng chẳng sanh, Thế nào sắc vô sanh mà ngộ được Bồ đề vô sanh, như vậy thọ tưởng hành và thức vô hành làm sao ngộ được Bồ đề vô sanh .Sắc đã chẳng diệt Bồ đề cũng chẳng diệt, thế nào sắc bất diệt lại ngộ được Bồ đề bất diệt, như vậy thọ tưởng hành và thức bất diệt làm sao ngộ được Bồ đề bất diệt.

Sắc vô phân biệt, Bồ đề cũng vô phân biệt, thế nào sắc vô phân biệt lại ngộ được Bồ đề vô phân biệt, như vậy thọ tưởng hành và thức vô phân biệt làm sao ngộ được Bồ đề vô phân biệt.

Sắc đã vô nhị, Bồ đề cũng vô nhị, thế nào sắc vô nhị lại ngộ được bồ đề vô nhị, như vậy thọ tưởng hành và thức vô nhị làm sao ngộ được Bồ đề vô nhị.

Sắc đã vô tác, Bồ đề cũng vô tác, thế nào sắc vô tác lại ngộ được Bồ đề vô tác, như vậy thọ tưởng hành và thức vô tác làm sao ngộ được Bồ đề vô tác.

Sắc đã bất khả đắc, Bồ đề cũng bất khả đắc, thế nào sắc bất khả đắc lại ngộ được Bồ đề bất khả đắc, như vậy thọ tưởng hành và thức bất khả đắc làm sao ngộ được Bồ đề bất khả đắc.

Ở trong các pháp bất khả đắc ấy, gì là Phật, gì là Bồ đề, gì là Bồ Tát, gì là thọ ký. Sắc ấm không, thọ tưởng hành thức cũng đều không. Tại sao? Vì tự tánh không vậy. Thế thì Phật không, Bồ đề không, Bồ Tát không,

thọ ký không. Tại sao? Vì tự thể không vậy. Trong tất cả pháp tánh không như vậy, nói rằng Phật ấy là danh là dụng là thế đế, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thuyết. Nói rằng sắc thọ tưởng hành thức cũng chỉ là danh là dụng là thế đế là ngôn thuyết là thi thiết. Người trí ở nơi đây chẳng nên tham trước.

Ví như có người chiêm bao hưởng thọ ngũ dục lạc, lúc thức chẳng thấy sự vui ấy, vì nhớ lại chẳng được vui ngũ dục nên sanh khổ não.

Người an trụ nơi Bồ Tát thừa mà thủ trước, vì chẳng ngộ Bồ đề chẳng chứng Bồ đề nên chẳng được pháp vị ấy. Vì chẳng được pháp vị nên lòng sanh khổ não. Tại sao? Vì các pháp như vậy đều như cảnh mộng chẳng thiệt có. Pháp ấy nghĩa sai biệt, hang phàm phu hiểu biết đều sai khác. Tất cả các pháp phải biết như vầy: Pháp nào là Phật, pháp nào là Bồ Tát, pháp nào là Bồ đề? Các Phật pháp ấy đều bất khả đắc. Phàm phu bất khả đắc, pháp phàm phu cũng bất khả đắc. Thanh Văn bất khả đắc, pháp Thanh Văn cũng bất khả đắc. Bích Chi Phật bất khả đắc, pháp Bích Chi Phật cũng bất khả đắc. Bồ Tát bất khả đắc, pháp Bồ Tát cũng bất khả đắc. Chư Phật

bất khả đắc, pháp chư Phật cũng bất khả đắc, Bồ đề bất khả đắc, Niết bàn cũng bất khả đắc. Trong các pháp như vậy, chúng tôi hiểu rõ không hoài nghi.

Ðâu Suất Ðà Thiên ở trong pháp ấy không nghi ngờ rồi đối với Phật càng kính tin, thích dâng cúng dường. Họ cúng dường hơn trời Dạ Ma, đảnh lễ chân Phật, nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán than đức Phật:

“Nhừng người an trụ Phật công đức

Như Lai vì họ dạy pháp hành

Họ được ba thứ giải thoát môn

Tu hành trong cảnh giới vô đẳng

Không sắc không thọ tưởng hành thức

Không người hay thọ cũng không tâm

Ðây là cảnh giới trí vô ngại

Thiên Nhân Sư thích lìa dục ấm

Bực trí huệ đại trượng phu ấy

Chẳng lấy tưởng phát tâm Bồ đề

Lìa Ấm rồi được thắng thiện căn

Nơi Phật công đức không nghi lự

Chí nguyện Vô thượng đại Bồ đề

Nhưng với Bồ đề lìa thủ trước

Vì vậy nội tâm không lo mừng

Gọi là Phật tử tu thánh đạo

Ðồng Phật thấy pháp đều bình đẳng

Thế nên vô pháp vô sở úy

Người trí ở chỗ thế gian Này

Cầu Phật công đức khởi tu hành

Giản trạch sắc tướng vô sở trước

Vứt bỏ tấ cả tâm có tướng

Nơi ba cõi kia chẳng mong muốn

Quan sát các cõi thảy đều không

Biết được ngũ ấm đều chẳng sanh

Như Lai thọ ký đến Bồ đề

Bồ đề tâm ấy cũng vô sanh

Người nói lời Này không ngu hoặc

Như Lai công đức và sanh tử

Các Phật pháp ấy đều vô sanh

Người biết như vậy là trí huệ

Ðây là chơn thiệt con Như Lai

Nếu biết được các ấm bất diệt

Giới nhập và cùng pháp Như Lai

Phật cùng Bồ đề và thọ ký

Các pháp như vạ-y đều bất diệt

Nếu vì Bồ đề mà tu hành

Phải biết người ấy cũng bất diệt

Vì biết thế gian là bất diệt

Nên cầu Bồ đề chẳng là khó

Năm ấm giới nhập và Bồ đề

Bồ Tát cùng Phật đều vô tác

Biết rõ như vậy là Phật tử

Hay trì chánh pháp của Như Lai

Ấm giới các nhập đều vô giác

Bồ đề cùng Phật và Bồ Tát

Và cùng thọ ký đều vô giác

Người biết như vậy là Phật tử

Ngũ ấm giới nhập tánh không tịch

Phật cùng Bồ đề và thọ ký

Thiệt con của Phật người tu hành

Tất cả cũng đều tự tánh không

Ấm giới các nhập đều hư vọng

Lưỡng Túc Thế Tôn và Bồ đề

Bồ Tát thọ ký cũng hư vọng

Biết rõ như vậy là Phật tử

Chẳng phải y chỉ chẳng y chỉ

Cũng phải pháp có pháp không

Chẳng phải hữu vi và vô vi

Biết rõ như vậy là Phật tử

Thế Tôn thấy thế gian như vậy

Chúng tôi biết tâm Phật như vậy

Nên liền cúng dường lên Như Lai

Cũng cúng tất cả chúng hiền thánh

Chúng tôi khen Phật mà được phước

Chỉ Phật Thế Tôn biết rõ được

Ðem công phước đức Này thí quần sanh

Nguyện đều thành Phật đủ tướng tốt”.

Ðức Thế Tôn biết trời Ðâu Suất Ðà tán thán và thâm tâm tin ưa rồi liền hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:

“Vô Thượng Sĩ được đại thế lực

Do đại bi tâm hiện mỉm cười

Nguyện Phật nói rõ duyên cớ cười

Cho chúng được nghe đều mừng rỡ

Vì thấy Như Lai hiện tướng cười

Nên đại chúng Này đều hoài nghi

Chúng tôi ân cần khắp chiêm ngưỡng

Thảy đều nhất tâm muốn được nghe

Dường như thế gian có người bệnh

Chỉ tưởng y sư và lương dược

Ðại chúng như vậy đối với Phật

Mong muốn được nghe Phật thọ ký

Chúng ấy đều có trí huệ sâu

Chí cầu Bồ đề vô sở trước

Tất cả cung kính đồng chime ngưỡng

Chỉ mong Như Lai nói ký biệt

Thế Tôn nơi đây khởi đại bi

Dùng Phật trí lực dứt lưới nghi

Thế nên đại chúng đều mừng rỡ

Thảy đều nguyện cầu Phật công đức

Nay đúng là lúc Phật thọ ký

Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc

Phật đã từ lâu lìa oán dịch

Nguyện dứt ngoại đạo các tà luận”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã thắng :

“Nay ông thỉnh hỏi nơi Như Lai

Nhân duyên mỉm cười thật đúng lúc

Vì lợi thế gian nên thưa hỏi

Lòng vì lợi ích các chúng sanh

Biết các chúng trời lòng ưa thích

Nên Phật hiện tướng sáng mỉm cười

Chúng trời biết Phật pháp thắng diệu

Nên họ dâng cúng lên Như Lai

Họ đều như thiệt thấy thế gian

Tùy thuận thánh giáo được chứng pháp

Ðã đến ba thứ giải thoát môn

Chẳng phải thế gian mà biết được

Quá khứ đã cúng vô lượng Phật

Cũng đã hỏi Phật nghĩa sâu ấy

Nơi Phật quá khứ đã tu không

Nên ngày hôm nay hiển không nghĩa

Do thiện căn ấy nay tại đây

Họ được gặp gỡ Thích Ca Tôn

Dùng lý không khen đấng Vô Thượng

Làm lợi tất cả các thế gian

Thế gian như đây đều vô sanh

Chư Phật Bồ đề và thọ ký

Bao nhiêu người tu hành Bồ đề

Chúng ấy tất cả đều vô sanh

Chúng sanh đều đồng có pháp Này

Biết như vậy rồi được Bồ đề

Quá khứ đã được tâm Bồ đề

Họ ở nghĩa Này được biết rõ

Thế gian như vậy cũng chẳng diệt

Chúng trời Ðâu Suất khéo thông đạt

Trí sáng chiếu rõ đều không nghi

Nên chúng trời ấy đều làm Phật

Quyết định chắc được chỗ vô y

Nơi pháp chẳng lấy lìa phân biệt

Tất cả thế gian đều vô tác

Nghĩa Này chúng trời hay biết rõ

Tất cả pháp thể lìa tự tánh

Chúng trời lòng sạch không nghi hoặc

Bồ đề và cùng tâm Bồ đề

Tất cả đều không tự tánh không

Chư Thiên Ðâu Suất huệ kiên cố

Thảy đều an trụ vô sở y

Nên được Bồ đề chẳng là khó

Chắc sẽ mau thành trí Vô Thượng

Ở kiếp tinh tú đời vị lai

Sẽ độ thoát được vô biên chúng

Tất cả trời ấy đều thành Phật

Ðồng cùng danh hiệu Trạch Pháp Vương

như Lai đối với chúng trời Này

Biết họ thích ưa nên thọ ký

Tất cả đại chúng nghe Phật nói

Thảy đều hớn hở vừa lòng dạ”.

PHẨM HÓA LẠC THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI BẢY

Bấy giờ có Hóa Lạc Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc bảy ức chúng trời Hóa Lạc thấy A Tu La nhẫn đến trời Ðâu Suất Ðà cúng dường Phật được thọ ký, họ đều mừng vui hớn hở, họ đều vừa lòng được an trụ thiệt tế, ở trong chơn như không có nghi hoặc. Họ đồng đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, đầu mặt lạy chân Phật, chắp tay cung kính khác miệng đồng lời mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như chúng tôi hiểu nghĩa của Phật nói thì tất cả các pháp là chơn thiệt tế, là vô biên tế, là vô ngại tế, là vô trụ tế, là vô tận tế, là bất nhị tế, là phi tế.

Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng thiệt tế là vì chẳng điên đảo vậy, vô biên tế là vì không hạn lượng vậy, vô ngại tế là vì lìa đối trị vậy, vô trụ tế là vì không tự tánh vậy, vô tận tế

là vì vô sanh vậy, bất nhị tế là vì một vị vậy, phi tế là vì chẳng phải có vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tế ấy khắp tất cả chổ, không có một pháp nào mà chẳng phải là thiệt tế.

Bạch đức Thế Tôn!

Nói là Bồ đề cũng là thiệt tế. Những gì là Bồ đề? Tất cả pháp là Bồ đề vì lìa tự tánh vậy. Nhẫn đến năm nghiệp vô gián cũng là Bồ đề. Tại sao? Vì Bồ đề không tự tánh, năm nghiệp vô gián cũng không tự tánh, nên nghiệp vô gián cũng là Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn! Nói Bồ đề ấy như tánh vô dư Niết bàn, cũng như tánh nghiệp vô gián. Tại sao? Tất cả pháp tức là tánh vô dư Niết bàn, cũng là tánh nghiệp vô gián, thế nên vô dư Niết bàn giới tức là Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh an trụ sanh tử có thể cầu Niết bàn ở trong thiệt tế, không có người an trụ sanh tử cầu Niết bàn. Tại sao? Vì thiệt tế không hai vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi ở nơi đây hiểu rõ không hoài nghi. Nếu ai ở nơi pháp Này không hoài nghi, phải biết người ấy đã ở nơi Phật quá khứ được thọ ký Vô thượng Bồ đề”.

Ðức Thế Tôn nghe Hóa Lạc Thiên Vương và bảy ức chúng trời Hóa Lạc nói thọ ký, vì muốn đại chúng vui mừng nên hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:

“Ðấng thương thế gian hiện mỉm cười

Mà chẳng nói nhân duyên cười ấy

Thiên Nhân Ðạo Sư chẳng không nhân

Hiện tướng mỉm cười phóng tia sáng

Ðã thấy tướng cười của Thế Tôn

Khiến các đại chúng đều hoài nghi

Ngưỡng mong nói duyên cớ mỉm cười

Dứt trừ tất cả những lưới nghi

Chúng ấy nếu được Như Lai nói

Nghe rồi đều sanh lòng hi hữu

Làm sạch chơn lộ cho chúng hội

Làm nhân duyên xu hướng Bồ đề

Nếu có chúng sanh còn hoài nghi

Vì nghi nên khó được Bồ đề

Ngưỡng mong đại trí dứt nghi hoặc

Tinh cần mau chứng đạo vô thượng

Bạch đức Thế Tôn đại chúng Này

Chí cầu Bồ đề lìa những ác

Ðược nghe chư Thiên thọ ký rồi

Quyết định sẽ thành đại Pháp Vương

Nguyện đức Thế Tôn vì xót thương

Dứt trừ tất cả lòng nghi hoặc

Thọ ký Bồ đề cho chư Thiên

Khiến chư đại chúng đều mừng rỡ”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Vì thương thế gian nên hiện cười

Mã Thắng nay ông hỏi nơi Phật

Phật đều thọ ký chư Thiên ấy

Các ông đều phải lắng lòng nghe

Bảy ức chúng trời Hóa Lạc Này

Hay tự thọ ký được thành Phật

Trong chúng đã làm sư tử rống

Hay phá ngoại đạo các tà kiến

Thí như hư không mưa đá khối

Chắc nát mặt đất không còn nghi

Phật tử như vậy lìa nghi hoặc

Tự biết chắc sẽ thành Phật đạo

Dường như trời lặng đến đêm tối

Phải biết trăng mọc chắc chẳng lâu

Phật tử như vậy đủ công hạnh

Biết chắc sẽ đủ mười trí lực

Lại như mặt nhật lúc đứng bóng

Nhìn các sắc tượng đều sáng tỏ

Phật tử như vậy đủ công hạnh

Tự biết chắc được Nhất thiết trí

Dụ như mặt nhật đến lúc lặn

Mọi người đều biết mặt nhật ẩn

Phật tử như vậy đều tự biết

Quyết định sẽ được trí tối thắng

Ví như các dòng đều chảy xuông

Người trí biết sẽ về biển cả

Phật tử như vậy đủ huệ sáng

Biết chắc sẽ được thượng Bồ đề

Như người ném đá lên hư không

Quyết chắc rớt xuống không nghi lự

Phật tử như vậy đều tự biết

Chẳng lâu sẽ được Thế Gian Giải

Người trí pháp nhĩ có thấy biết

Vì hiểu rõ pháp chẳng nghi ngờ

Biết mình có phần Phật công đức

Quyết định gần nơi trí tự nhiên

Giả sử na do tha ma chúng

Hiện Phật bảo ngươi chẳng thành Phật

Chẳng ngăn trở được tâm ý họ

Vì đã tự hiểu pháp chơn như

Quyết định ở nơi Phật công đức

Ðều tự nói mình được thọ ký

Nơi sự thọ ký Này của họ

Như Lai đều tùy hỉ tất cả

Chúng trời ấy tu hạnh Bồ Tát

Tự mình biết rõ chẳng do người

Chúng ấy tự nói thành Thiện Thệ

Như Lai ở đây đều tùy hỉ

Thế nên Mã Thắng nếu có người

Muốn được Bồ đề Vô thượng ấy

Ở nơi pháp Này phải siêng cầu

Quyết được tối thắng chỗ an ổn

Tự thành chánh giác ngộ lý sâu

Tùy nghĩa như thiệt đều biết rõ

Thân cận cúng dường thiện trí thức

Họ chứng Bồ đề chẳng là khó

Nếu ai ngàn kiếp tu khổ hạnh

Da thịt gân xương không luyến tiếc

Nếu người hiểu rõ nghĩa lý Này

Phước đây lớn rộng hơn phước trên

Quá khứ bao nhiêu các đức Phật

Vị lai tất cả đấng thương đời

Và cùng hiện tại các Thế Tôn

Ðều y pháp Này thành Phật đạo

Hóa Lạc chư Thiên cúng Phật rồi

Thảy đều tự biết đệ nhất nghĩa

Ðã cùng quá khứ chư Như Lai

Ngộ nghĩa lý Này sẽ thành Phật

Chư Phật chỗ có thắng tam muội

Và cùng hiện tại định đang trụ

Trời ấy được vào cảnh giới Phật

Vì họ đời trược lâu tu tập

Bảy ức Hóa Lạc chúng trời ấy

Ở nơi tam muội không còn nghi

Phật pháp thanh tịnh đã khéo học

Nay nơi Phật đạo hiện tu hành

Vì thế nơi lý sanh tin hiểu

Nên chánh cần cầu rời mé khổ

Phải thường thân cận bực đa văn

Quyết được Vô thượng đại Bồ đề

Nghe Phật tuyên nói diệu pháp rồi

Chư Thiên Hóa Lạc và chúng hội

Thảy đều vui mừng trừ lưới nghi

Chảy rót thẳng đến đại Niết bàn”.

PHẨM THA HÓA TỰ TẠI THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI TÁM

Bấy giờ có Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại thấy A Tu La nhẫn đến chúng trời Hóa Lạc cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở được vừa lòng khác miệng đồng lời bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng trời Hóa Lạc nói thiệt tế, chúng tôi còn chẳng thấy thiệt huống là thấy tế. Tại sao? Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy thiệt mới được nói là thấy tế. Tại sao? Người ấy hành nơi hai chỗ. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân, người ở nơi thừa như vậy, phải vì họ nói hai thứ pháp ấy. Hai pháp ấy chẳng phải chơn cảnh giới.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân ở nơi pháp bất nhị mà chẳng tin chẳng

nhập, dầu người Này có phát tâm trông được Bồ đề, phải biết người Này đi sai đường. Tại sao? Vì nơi Bồ đề chẳng phải đường đi vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu Bồ đề, người ấy chẳng thấy có một pháp được giác ngộ. Tại sao? Vì không có chút pháp gì có thể được giác ngộ Vô thượng Bồ đề vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Pháp ấy chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải hữu vi, chảng phải vô vi, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải được hay, chẳng phải được biết, chẳng phải được xả, chẳng phải được tu, chẳng phải được chứng. Nói là Bồ đề ấy, pháp đó chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Pháp khác cũng chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Tại sao? Pháp đó chẳng tạp phiền não chẳng rời phiền não, pháp thể bất khả đắc, vì tánh tự ly vậy.

Pháp Này chẳng cùng pháp đó làm đối trị, pháp đó cũng chẳng cùng pháp Này làm đối trị. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều lìa tướng vậy. Vì thế nên pháp đó chẳng phải được biết, được hay, được xả, được tu, được chứng.

Bạch đức Thế Tôn! Sắc sanh ấy lìa tướng sanh, nó cũng chẳng phải được biết được hay

được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Sắc diệt ấy lìa tướng diệt, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Quá khứ ấy lìa tướng quá khứ, nó cũng chẵng phải biết được hay được xả được tu được chứng. Vị lai và hiện tại cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Hữu vi ấy lìa tướng hữu vi, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Vô vi ấy củng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nhu vậy, nhẩn đến được nhiếp nơi ấm, được nhiếp nơi quá khứ vị lai hiện tại, được nhiếp nơi hữu vi vô vi, tất cả các pháp ấy đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên tất cả pháp ấy chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân như vậy vì cầu Bồ đề phát tâm tu hành, họ đều gọi là người an trụ Bồ Tát thừa”.

Tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại đều nói pháp của mình đã biết rồi, đồng nói kệ tán thán đức Phật:

“Thế Tôn khéo nói tận hữu biên

Vĩnh viễn chẳng thọ thân sáu đạo

Người đời vô trí sợ sanh tử

Phát tâm muốn qua bờ sanh tử

Thể các ấm ấy bất khả đắc

Bởi tánh tướng ấm vốn tự không

Tất cả pháp không đều vô tướng

Vì thế các pháp lìa đối trị

Tự thể tức không chẳng có vật

Không có được biết và xả tu

Cũng là chẳng phải pháp được chứng

Như Lai nói hữu tức phi hữu

Tướng cầu Bồ đề bất khả đắc

Các pháp trợ đạo cũng bất đắc

Lấy tâm cầu Phật bất khả đắc

Tướng Bồ Tát tìm cũng chẳng được

Nắm chặc các tướng hạng ngu si

Bọn họ trông được ngộ Bồ đề

Cảnh giới điên đảo chấp lấy tướng

Chẳng phải đi đúng Bồ đề đạo

Nhập Phật cảnh giới lìa các tướng

Gọi là người trí hành đúng pháp

Lìa xa các tướng và vô tướng

Cũng lìa nơi không và bất không

Người Này ngộ được đạo vô thượng

Chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo

Chẳng phải Thanh Văn mà biết được

Chẳng phải Duyên Giác có thể đến

Tâm được giải thoát tịnh vô cấu

Pháp ấy La Hán được tương ưng

Và cùng tất cả Bích Chi Phật

Chẳng phải cảnh của trí huệ họ

Câu ấy tâm có tướng chẳng biết

Người tu thiên không cũng chẳng hiểu

Nếu có ai hiểu không nói không

Cũng nói các pháp không tự tánh

Họ thọ Phật giáo không chê bai

Ðây gọi là khéo tu không tịch

Ngộ được đạo Bồ đề khó ngộ

Nơi đó Phật là chơn Ðạo sư

Khen Phật Lưỡng Túc Thế Tôn rồi

Liền được vô lượng các công đức

Hồi hướng cho tất cả quần sanh

Thành Phật giác ngộ người chưa ngộ”.

Ðức Phật biết Thiên Vương và tám muơi na do tha trời Tha Hóa Tự Tại sanh lòng sâu tin ưa rồi, vì muốn đại chúng thêm lớn thiện căn nên hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:

“Lưỡng Túc Thế Tôn hiện mỉm cười

Vì biết Tha Hóa tin sâu vậy

Phật chưa tuyên nói nhân duyên cười

Ngưỡng mong Như Lai giải thích cho

Ðại Thánh hôm nay chẳng không nhân

Mà hiện tướng mỉm cười hi hữu

Mong Phật nói rõ duyên cớ ấy

Dứt trừ nghi hoặc cho đại chúng

Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười

Nên nay chúng hội đều hoài nghi

Ðấng thương mến tất cả thế gian

Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ

Chúng hội thảy đều trái sanh tử

Hiệp chưởng cung kính cầu Niết bàn

Với cớ Phật cười đều hoài nghi

Ðấng Vô Ngại Thuyết xin trừ dứt

Ðại chúng đều tin pháp của Phật

Tâm được hiểu ro’ lìa thủ trước

Ðều có tâm tin sâu tôn trọng

Lành thay Mâu Ni xin nói rõ

Dũng mãnh tinh tấn nơi Phật pháp

Lìa xa lưới nghi lên đường thánh

Tất cả chư Phật đi đường Này

Vì thế xin trừ nghi cho chúng”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:

“Ông vì lợi ích cho đại chúng

Nói kệ hỏi Phật thiệt phải thời

Ðầy đủ biện tài có xảo tiện

Mới hay hỏi được nghĩa mỉm cười

Do hỏi Như Lai tướng mỉm cười

Chắc sẽ lợi ích vô lượng chúng

Do tất cả các chúng hội

Ðều được an trụ thắng Bồ đề

Biết chúng Tha Hóa tin sâu rồi

Nên Phật mới hiện tướng cười sáng

Tất cả tùy thuận Như Lai giáo

Vì cầu Bồ đề tu diệu hạnh

Quan sát thế pháp lìa các tướng

Như thấy dương diệm chẳng chơn thiệt

Người ngu thấy diệm cho là nưuớc

Muốn cầu Bồ đề chớ đồng họ

Phàm phu thủ tướng tham cảnh vui

Vô trí thường sợ nơi vô tướng

Người ngu chấp tướng bỏ chánh lộ

Lìa tướng thì được diệu Bồ đề

Vọng tưởng tư lương pháp hư ngụy

Theo pháp phân biệt liền bị trói

Người trí thấy tướng thảy đều không

Ðược đà la ni thượng tịch diệt

Phàm phu chấp tướng trụ ác tâm

Họ đều vô trí đọa lục đạo

Luân hồi sanh tử bị nhiều khổ

Vì họ ngu si chấp tướng vậy

Chúng sanh trước tướng thấy các ấm

Phật và Bồ đề cùng Bồ Tát

Người trí lìa tướng thấy không rồi

Hay được Bồ đề đại Vô thượng

Những kẽ chấp tướng tăng phiền não

Hay quán vô tướng trừ kiết sử

Nói là kiết sử tức là tướng

Quán kiết vô tướng liền dứt trừ

Nếu người cầu đạo mà phân biệt

Phân biệt nơi đạo là chướng ngại

Người trí dầu là hành nơi dục

Dục ấy tức là vô tướng hành

Các pháp không thể bất khả đắc

Phân biệt các pháp nói là không

Nếu lìa phân biệt được vô tướng

Ðó là Bồ đề không còn khác

Nghe nơi Thiện Thệ nói lời ấy

Ðại chúng trừ nghi được vô úy

Ðảnh thọ lấy pháp Mâu Ni nói

Như người đầu đội hoa chiêm bặc

Chúng trời Tha Hóa được vô úy

Cúng dường nơi Phật rất hơn hết

Họ biết các pháp cảnh giới Phật

Sẽ làm thế gian đại Ðại Sư”.

PHẨM CHƯ PHẠM THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI CHÍN

Bấy giờ có chín ngàn vạn trời Phạm Chúng thấy A Tu La nhẫn đến trời Tha Hóa Tự Tại cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ ở nơi thiền thế đế lấy hỉ duyệt làm sự ăn ở trong Phật pháp cũng được trí huệ sáng, vì họ đã trồng thiện căn gần gũi cúng dường chư Phật tin sâu thanh tịnh. Ở nơi pháp thậm thâm họ được pháp nhẫn. Chư Phạm Chúng Thiên ấy biết các pháp vô tác phi vô tác, phi sanh phi bất sanh, phi hữu phi bất hữu, phi khởi phi bất khởi, phi diệt phi bất diệt, phi y phi bất y, phi thanh phi trược, phi tắng phi ái, phi hiền phi ngu, phi tri phi bất tri, phi kiến phi bất kiến, phi thọ phi bất thọ, phi trắc ẩn phi bất trắc ẩn, phi vô phi phi vô, phi vật phi phi vật, phi khả đắc phi bất khả đắc, phi khứ phi lai, phi thú phi bấtthú, phi không phi bất không, phi tướng phi bất tướng, phi nguyện phi bất nguyện.

Chư Phạm Thiên ấy đối với tất cả pháp lòng không chấp trước, cũng không chỗ trụ. Ở trong phi dụng họ chẳng ý tưởng phi dụng, ở trong phi bất dụng cũng chẳng ý tưởng phi bất dụng. Ở trong ngôn ngữ họ chẳng ý tưởng ngôn ngữ, ở trong phi ngôn ngữ cũng chẳng ý tưởng phi ngôn ngữ. Ở trong hữu tác họ không ý tưởng hữu tác, ở trong vô tác cũng không ý tưởng vô tác. Ở nơi phàm phu họ không ý tưởng phàm phu, ở trong phi phàm phu cũng không ý tưởng phi phàm phu. Ở nơi pháp phàm phu họ không ý tưỏng pháp phàm phu, ở nơi pháp phi phàm phu cũng không ý tưởng pháp phi phàm phu. Ở nơi Thanh Văn họ không ý tưởng Thanh Văn, ở nơi phi Thanh Văn cũng không ý tưởng phi Thanh Văn. Ở nơi pháp Thanh Văn họ không ý tưởng pháp Thanh Văn, ở nơi pháp phi Thanh Văn cũng không ý tưởng pháp phi Thanh Văn. Ở nơi Duyên Giác họ không ý tưởng Duyên Giác, ở nơi phi Duyên Giác cũng không ý tưởng phi Duyên Giác. Ở nơi pháp Duyên Giác họ không ý tưởng pháp Duyên Giác, ở nơi pháp phi Duyên Giác cũng không ý tưởng pháp phi Duyên Giác. Ở nơi

Bồ Tát họ không ý tưởng Bồ Tát. Ở nơi phi Bồ Tát cũng không ý tưởng phi Bồ Tát. Ở nơi pháp Bồ Tát họ không ý tưởng pháp Bồ Tát, ở nơi pháp phi Bồ Tát họ không ý tưởng pháp phi Bồ Tát. Ở nơi Phật họ không ý tưởng Phật, ở nơi phi Phật cũng không ý tưởng phi Phật. Ở nơi pháp Phật họ không ý tưởng pháp Phật, ở nơi phi pháp Phật cũng không ý tưởng phi pháp Phật. Ở nơi Niết bàn, họ chẳng ý tưởng Niết bàn, ở nơi phi Niết bàn cũng không ý tưởng phi Niết bàn. Ở nơi pháp Niết bàn họ không ý tưởng pháp Niết bàn, ở nơi pháp phi Niết bàn cũng không ý tưởng pháp phi Niết bàn. Ở nơi sanh tử họ không ý tưởng sanh tử, ở nơi phi sanh tử cũng không ý tưởng phi sanh tử. Chư Phạm Chúng Thiên ấy đối với tất cả thảy đều lìa phân biệt, tâm định thanh tịnh. Họ đã được tâm thanh tịnh nên dùng pháp tịch diệt nói kệ tán thán đức Phật:

“Ðại Thánh trí tịch tĩnh rất sâu

Tu hành tịch diệt đến bỉ ngạn

Diễn nói tịch diệt độ chúng sanh

Cũng tự thường hành pháp tịch diệt

Bồ dề tịch diệt khéo thanh tịnh

Pháp Này là cảnh giới Như Lai

Mau được tịch diệt thắng cam lộ

Do đó nay được hết sanh tử

Hằng nói đạo tịch diệt vi diệu

Là chổ sở hành của người trí

Ðường bát chánh diệt phiền não trược

Cứu vớt tất cả các quần sanh

Khéo tu tịch diệt chúng Bồ đề

Là chổ sở hành của Phật trước

Pháp ấy hay đến thành an ổn

Chỗ chứng biết của Phật quá khứ

Là pháp tu học của Như Lai

Phật giáo hóa thế gian như vậy

Nếu người hay hành pháp hữu học

Chứng được vô học thắng Bồ đề

Nhất tâm xu hướng đạo tịch diệt

Các căn tịch tĩnh lâu tu tập

Sẽ được làm Phật Thế Gian Giải

Sức na la diên độ quần sanh

Nếu biết pháp tịch diệt cam lộ

Hay hết tất cả tướng sanh tử

Ðây là chơn thiệt con Như Lai

Tịch diệt hay trừ khổ thế gian

Chúng ấy châng bày cúng dường Phật

Thắng thượng hi hữu rất khác lạ

Nói pháp tịch hết phiền não

Nơi những vô tướng tối đệ nhất

Thế gian tịch diệt lìa các tướng

Nghĩa là tịch diệt tức Niết bàn

Chúng sanh luân chuyễn thọ những khổ

Vì lìa tịch diệt thủ tướng vậy

Các pháp của Phật bất tư nghị

Tức là Bồ đề nhất thiết trí

Qua khỏi sình lầy đến bờ kia

Nên Phật trọn hẳn không nghi lự

Nếu người lìa ấm được giải thoát

Nơi Phật đại thừa chẳng nguyện ưa

Muốn cầu Bồ đề nghĩ diệt độ

Nơi năm ấm ấy sanh bố úy

Tâm tịnh ly dục cầu Niết bàn

Chúng ấy chúng giản trạch như vậy

Nơi pháp thủ tướng cảnh phàm phu

Ðó là lời dạy của Như Lai

Nếu thủ tịch diệt tức bị trói

Do đó chẳng được Nhất thiết trí

Nếu người ở nơi tướng năm ấm

Chẳng sanh lòng giữ cầm thủ trước

Họ hay lợi ích pháp Thích Ca

Ðây gọi hạnh hỉ lạc vô tướng

Hay được chổ vô danh an ổn

Ðến được Bồ đề cảnh giới Phật

Hàng ma tranh luận diệt phiền nảo

Mau được thành tựu Nhất thiết trí

Chúng tôi tán thán Vô Thượng Sĩ

Chỗ chứng tịch diệt các công đức

Chỉ Phật đại trí hay biết rõ

Hồi thí chúng sanh nguyện thành Phật”.

Lúc ấy chủ thế giới Ta Bà Ðại Phạm thiên Vương biết chư Phạm Thiên tán thán Phật rồi, đối trước Phật đứng thẳng dùng chơn thiệt công đức nói kệ khen ngợi đức Phật:

“Pháp Vương đã biết tất cả pháp

Chẳng thiệt hư dối như không quyền

Cũng như thu vân và chớp nháng

Thế nên Ðại Thánh lìa thủ tâm

Cũng như trong mộng người quá đói

Ăn món cam lộ trăm vị ngon

Người mộng đói ăn đều chẳng thiệt

Như Lai thấy pháp cũng như vậy

Lại như trong mộng người quá khát

Ðược uống nước mát lạnh trong sạch

Mộng khát uốn nước đều hư vọng

Phật thấy các pháp cũng như vậy

Không tác không thọ không chúng sanh

Không có tác nghiệp và được báo

Cũng không được người thọ quả báo

Thế Tôn nơi đây không nghi lự

Ví như lời hay được người mến

Nhưng ngôn ngữ ấy vô khả thủ

Cũng không người nói và người nghe

Ðại Thánh biết rõ đều chẳng thiệt

Như nghe tiếng hay đờn không hầu

Tiếng ấy cũng không tánh chơn thiệt

Thế Tôn thấy các ấm như vậy

Biết ấm không tánh bất khả đắc

Dường ngọc ma ni chất tự sạch

Cột nó trên áo theo màu đổi

Các pháp tự thể vốn thanh tịnh

Hư vọng phân biệt thêm điên đảo

Ví như áo trắng sạch không dơ

Tùy thọ màu nhuộm nhiều biến đổi

Các pháp cũng đều tánh tự sạch

Tùy chỗ phân biệt mà ô nhiễm

Dường như có người nghe tiếng ốc

Tìm tiếng ốc ấy từ đâu đến

Tiếng ấy chẳng tự chẳng phải tha

Ðại Tiên thấy pháp cũng như vậy

Như người nghĩ tưởng món ăn ngon

Món ấy các duyên hiệp lại thành

Món ăn thảy đều không tự tánh

Như Lai thấy pháp đều như vậy

Vì như đất đá xây làm thành

Suy thể của thành không tự tánh

Các duyên như vậy thảy đều không

Pháp Vương thấy pháp cũng như vậy

Ví như có người đánh trống lớn

Dầu khiến người nghe lòng mừng rỡ

Tiếng trống các duyên thảy đều không

Ðại Thánh thấy các pháp cũng như vậy

Ví như có người lúc đánh trống

Tiếng trống chẳng từ mười phương đến

Tiếng dứt cũng chẳng đến mười phương

Thế Tôn thấy pháp đều như vậy

Người ấy như vậy đánh trống rồi

Trống ấy chẳng sanh lòng yêu ghét

Cũng chẳng phân biệt tánh các duyên

Phật thấy các pháp đều như vậy

Lại như người ấy đánh trống hay

Tiếng chẳng có ý khiến người mừng

Và các duyên kia cũng đều vậỳ

Ðạo Sư thấy pháp đều như vậy

Như lúc người đánh trống hay kia

Trống ấy chẳng sanh tưởng khổ vui

Cũng chẳng quan sát tánh các duyên

Như Lai thấy pháp đều như vậy

Dường như có người đánh trống hay

Tiếng chẳng tức duyên chẳng ly duyên

Và duyên nhạc kia cũng nhu vậy

Mâu Ni thấy pháp đều như vậy”.

Ðức Thế Tôn biết chư Phạm Thiên và Phạm Vương thâm tâm kính tín và dùng pháp tịch diệt tán thán đức Phật, lại muốn cho đại chúng sanh thiện căn nên liền hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi Phật:

“Ðã thấy Như Lai miệng phóng ra

Ánh sáng mỉm cười rất thanh tịnh

Thế gian Trời Người các đại chúng

Tất cả đều sanh lòng hi hữu

Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười

Pháp hội đại chúng đều hoài nghi

Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai

Ân cần mong muốn được lắng nghe

Mong Phật khai thị có mỉm cười

Dứt trừ lòng nghi của đại chúng

Tối Thắng Mâu Ni chẳng không nhân

Mà hiện tướng cười rất hi hữu

Chư Phật lúc hiện ánh sáng cười

Quyết để lợi ích các thế gian

Nay vì ai Phật hiện tướng cười

Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ

Ðại chúng được nghe chắc vui mừng

Vì đã được biết duyên cớ vậy

Nay đại chúng Này đều chắp tay

Nhất tâm chiêm ngưỡng ưa thích nghe

Thế nên xin Phật giải thích cho

Chắc sẽ trừ dứt những nghi hoặc

Ðạo Sư vì các chúng hội Này

Xin thương tuyên nói cớ mỉm cười

Chúng hội được nghe chắc mừng rỡ

Vì đã rửa sạch lưới nghi ngờ

Lòng chúng chắc bền đều thanh tịnh

Chuyên niệm quí trọng đức Như Lai

Ðại chúng chiêm ngưỡng dung nhan Phật

Dường như nhìn thấy trăng mới mọc

Ðủ tám tiếng hay như Phạm Thiên

Nhất tâm khát ngưỡng mong sớm nghe

Trời Người đại chúng nghe Phật nói

Chắc trừ được nghi trụ chánh pháp

Phạm âm diễn nói tương ưng nghĩa

Ðược nghe xuất thế pháp rất sâu

Phật trí thiện xảo hay vui đẹp

Nên khiến đại chúng thêm hớn hở

Chúng Này lòng sạch lìa nghi ngờ

Ưa thích Như Lai Nhất thiết trí

Người tinh tấn dũng mãnh hữu lực

Mới có chí cầu vô thượng đạo

Thế nên Ðạo Sư thương thế gian

Ngưỡng mong giải thích cho chúng mừng

Lành thay Thế Tôn lòng bình đẳng

Thương xót tất cả các chúng sanh

Khiến các đại chúng thêm thiện căn

An tâm bất động cầu Phật trí”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Thương xót tất cả các thế gian

Nên Phật thị hiện tướng cười sáng

Ông phải lắng nghe nhân duyên ấy

Nghĩa đó rất sâu câu vi diệu

Các chúng hội đây nếu được nghe

Phát cần tinh tấn tu pháp lành

Sẽ làm lợi ích các chúng sanh

Nơi pháp của Phật khởi thắng hạnh

Các Phạm Thiên đây đều mừng rỡ

Ở trong pháp Phật đều không nghi

Na do tha kiếp lâu tu hành

Dường như số kiếp cát sông Hằng

Nơi các cảnh giới đều chẳng trước

Lòng như không gian không chướng ngại

Dầu thích thường tu Bồ Tát hạnh

Mà chẳng mau thủ chứng Bồ đề

Chúng ấy lại ở đời vị lai

Vô lượng ức kiếp số hằng sa

Chúng trời thanh tịnh không nhơ uế

Ðược thế lực lớn trụ thế gian

Sau đó sẽ thành Nhất thiết trí

Làm đại Pháp Vương có oai lực

Ðầy đủ công đức hết sanh tử

Xem các thế gian đều không tịch

Phật ấy như trước lâu tu hành

Thọ mạng hạn lượng lâu cũng vậy

Lúc chư Phật ấy trụ thế gian

Hay cứu độ các chúng sanh khổ

Quốc độ Phật ấy không đâu bằng

Thế giới nghiêm tịnh rất thạnh vượng

Trong vô lượng na do tha kiếp

Như Lai diễn nói cũng chẳng hết

Cõi nước Phật ấy sự nghiêm tịnh

Vô lượng Phật nói cũng chẳng hết

Phật ấy đồng hiệu Ðại Trí Lực

Quốc độ thảy đồng tên Tối Thắng

Vì chúng diễn nói pháp bất động

Bất khả tư nghị vô sở y

Quốc độ Phật ấy các chúng sanh

Thảy đều tu hành các thiện căn

Không một chúng sanh còn đời sau

Trong vòng sanh tử lại sanh nữa

Ðương thời chúng ấy có một khổ

Nơi thế gian ấy bèn hiển hiện

Chỉ sợ các hành đều vô thường

Khiến các chúng sanh khởi nhàm lìa

Thuở đó chúng sanh trong cõi ấy

Lìa các tướng khổ già bệnh chết

Tất cả đều nương một giáo pháp

Ðồng chán vô thường tu thắng hạnh

Chúng sanh cõi đó đương lúc ấy

Tai chẳng còn nghe âm thanh khác

Chỉ nghe bất tịnh vô thường khổ

Vô ngã tịch diệt không vô tướng

Cam lộ Niết bàn và Bồ đề

An ổn thanh lương vô thượng lạc

Những tiếng thắng diệu như vậy thảy

Hằng thường luôn luôn mà được nghe

Lúc đó không còn âm vang khác

Hoặc cây hoặc vách hoặc đất trống

Hoặc là trên không và chùa miếu

Chỉ nghe những câu vi diệu ấy

Nghe rồi tất cả đều đắc đạo

Bèn ở nơi sanh tử được giải thoát

Ðều do thần lực của Như Lai

Ðủ tám công đức âm thanh diệu

Lúc đó không có tâm tạp độc

Những là tham dục và sân khuể

Cũng không ngu si phát tiếng ác

Lời thô bức não đến bên tai

Tất cả nhàm trái nơi sanh tử

Xu hướng Niết bàn đường thẳng lớn

Cõi ấy tất cả đều đúng không

Phật và chúng sanh đều diệt độ

Ðây là thần lực của Phật ấy

Phát chí nguyện rộng chẳng nghĩ bàn

Ðã ở quá khứ do tha kiếp

Vì cầu Bồ đề tu đạo hạnh

Bao nhiêu chúng sanh tại nước ấy

Tất cả sẽ đều được làm Phật

Chư Phạm Thiên Này phát nguyện rộng

Ðều do quan sát câu tịch diệt

Ðều được chứng biết nghĩa thậm thâm

Hiễu rõ đường cát tường của Phật

Chỗ họ tu học đều thông đạt

Làm Ðạo Sư tại các thế gian

Họ quan sát được chúng sanh không

Chẳng sanh lòng giải đãi nhàm mỏi

Do đó nhập được các pháp tánh

Tu tập Bồ Tát thắng diệu hạnh”.

PHẨM QUANG ÂM THIÊN THỌ KÝ THỨ HAI MƯƠI

Bấy giờ có năm mươi tám ngàn vạn trời Quang Âm thấy A Tu La nhẫn đến chư Phạm Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay lễ Phật cung kính bạch đức Phật rằng:

Bạch Ðức Thế Tôn! Có tam muội tên chiếu diệu tất cả pháp. Nếu đại Bồ Tát học tam muội Này thì được quang minh trong tất cả pháp được chứng nhập pháp môn Bồ Tát tạng. Ðại Bồ Tát hiểu biết rõ rồi thì được vô biên biện tài, vô ngại biện tài, tương tục biện tài, nhiều thứ biện tài, mỹ diệu biện tài, chơn thiện biện tài, tương ưng biện tài, giải thoát biện tài, vi tế biện tài, bất cộng biện tài, thậm thâm biện tài, nhẫn đến được biện tài của Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn! Những gì là chiếu diệu nhất thiết pháp tam muội? Bồ Tát nhập pháp môn Này niệm các giác quán biết tất cả pháp không giác lìa giác, pháp không giác ấy khắp tất cả chỗ, không một pháp nào là hay giác sát. Tại sao? Vì tánh tự lìa vậy. Nếu pháp không tánh thì làm sao hay giác được. Biết tất cả pháp không giác tri rồi nhập vào môn chữ A được biện tài trên. Bồ Tát ấy nhập môn chữ A rồi được vô biên biện tài, chữ A vô biên, chữ A chẳng phải phổ biến, chữ A vô tác, chữ A chẳng phải hữu vi, chữ A chẳng phải thành tựu, chữ A không phải sự, chữ A không sở y, chữ A không động chuyễn, chữ A chẳng phải lược, chữ A chẳng phải quảng, chữ A chẳng phải phân biệt, chữ A chẳng phải các sự thành, chữ A chẳng xuyên qua được, chữ A chẳng phải sắc, chữ A chẳng hiển thị được, chữ A chẳng xem được, chữ A không ai thấy được, chữ A chẳng suy nghĩ được, chữ A tánh bất định, chữ A chẳng phải bị biết, chữ A chẳng phải hay biết, chữ A chẳng lường được, chữ A chẳng tự hiển thị được, chữ A chẳng hiển thị được cái khác, chữ A chẳng phải tư nghị, chữ A chẳng đi, chữ A chẳng đến, chữ A chẳng phải gần, chữ A chẳng phải xa, chữ A chẳng phải ngôn thuyết, chữ A chẳng phải là pháp có thể nói được, chữ A chẳng phải danh, chữ A chẳng phải dụng, chữ A chẳng phải hiện tiền, chữ A chẳng phải che ngăn, chữ A chẳng phải di chuyễn, chữ A chẳng cải đổi được, chữ A chẳng phải sai biệt, chữ A không hai, chữ A chẳng phải sanh, chữ A chẳng phải hư vọng, chữ A chẳng phải chơn thiệt, chữ A bất khả thuyết, chữ A chẳng phải sanh diệt, chữ A chẳng phải thanh tịnh. Chữ A chẳng phải pháp bị tịnh, chữ A chẳng phải chấp trì, chữ A chẳng phải nhiếp lấy cái khác, chữ A chẳng phải vứt bỏ, chữ A chẳng phải vì pháp khác mà làm, chữ A chẳng làm pháp khác, chữ A chẳng sanh, chữ A chẳng diệt, chữ A chẳng hay sanh pháp khác, chữ A chẳng hay diệt pháp khác, chữ A chẳng phải sanh chẳng sanh, chữ A chẳng làm sanh nhân cho pháp sanh cũng chẳng làm duyên bất sanh, chữ A chẳng phải y tựa, chữ A chẳng phải giả chẳng giả, chữ A chẳng phải từ chẳng từ, chữ A chẳng phải hứa chẳng hứa, chữ A chẳng phải khả đắc bất khả đắc, chữ A chẳng phải không bất không, chữ A chẳng phải phân biệt bất phân biệt, chữ A chẳng phải tướng bất tướng, chữ A chẳng phải nguyện bất nguyện.

Bạch đức Thế Tôn! Các pháp đều là tướng như vậy đó là vô tướng. Các pháp đều đồng một thiệt đó là vô thiệt, đều đồng một lý thú đó là vô lý thú, đều đồng một nhập đó là vô nhập, đều đồng một giả đó là vô giả, đều đồng một dụng đó là vô dụng, đều đồng một thuyết đó là vô thuyết.

Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp vô khởi, vì bất khả đắc vậy. Các pháp chẳng phải có, vì không có vậy. Các pháp vô sanh, vì chẳng sanh vậy. Các pháp vô diệt, vì chẳng diệt vậy. Là pháp vô vi, vì không có tạo tác vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp đều đồng nhất như, phải biết như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Những pháp bất sanh ấy, thế nào biết được sự dụng của pháp ấy.

Thí như có người tác động trong chiêm bao, phải biết các pháp cũng như vậy. Tại sao?

Vì sự tác động trong chiêm bao chẳng sanh chẳng khởi cũng chẳng phải có vậy. Chiêm bao dầu chẳng thiệt, mà chẳng phải không giả danh nói là có chiêm bao làm. Tất cả các pháp cũng đều như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thí như tiếng vang chỉ có giả danh. Các pháp chỉ giả danh cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Dụ như người ảo chỉ là giả danh. Phải biết các pháp cũng chỉ là giả danh như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thí như dương diệm chỉ là giả danh. Các pháp giả danh cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Như tượng trong gương chỉ có danh dụng. Phải biết các pháp cũng như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Vì vui đẹp kẻ phàm ngu mà nói có sự chiêm bao, sự việc trong chiêm bao đều chẳng phải chơn thiệt, vang ảo diệm ảnh cũng đều như vậy, chỉ có giả danh đều không có sự thiệt .

Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi hiểu biết nghĩa ý những pháp được Như Lai tuyên nói

.

Chúng trời Quang Âm nói kệ tán thán đức Phật:

“Thế Tôn khéo biết pháp nghĩa Này

Và vô biên những thứ pháp khác

Như Lai có những hàng Phật tử

Ðược tiền của cha thường du hí

Người đời ít trí chẳng vào được

Vì luôn có tâm chấp ngã vậy

Mười phương tâm ngã chẵng thễ được

Ngã thễ bổn lai tánh tự không

Như dương diệm chẳng phải thiệt nước

Ngu si thấy nắng tưởng là nước

Ðều do vô trí sanh mê lầm

Hư vọng điên đảo chấp ngã nhân

Họ mê lầm lời dạy của Phật

Nên họ chẳng hiểu nghĩa thú sâu

Phàm phu tâm thức như nắng nước

Chẳng thể biết được nghĩa các ấm

Lòng ưa sanh tử dính tên độc

Các căn bị dòng nước mạnh cuốn

Ðó đều cứu cánh không tự tánh

Vì si che lấp vọng thọ khổ

Họ đều mất trí lòng mê loạn

Ở trong các khổ sanh tưởng vui

Tâm thường điên đảo thuận ba độc

Các phiền não ấy rất đáng sợ

Tham dục sân khuể và ngu si

Các kiết sử Này thường theo dõi

Ham thọ vui nên sanh khát ái

Ngu si chẳng biết nên thọ khổ

Vô trí tùy thuận các phiền não

Như người ngu cõng kẻ thù đi

Nghe pháp môn không của Phật dạy

Lại sợ pháp không mất giải thoát

Như người khiếp sợ tay cầm dao

Lẽ ra an ổn lại sanh sợ

Thế Tôn đại trí chỗ thuyết pháp

Ðó là môn chữ A vi diệu

Hay sanh trí huệ thắng chơn thiệt

Dường như đất bằng mọc cây lớn

Hàng phục ma oán vô lượng chúng

Hay ngộ Bồ đề diệu an ổn

Dùng thuyền bè lớn bát chánh kia

Nơi biển sanh tử độ quần sanh

Bao nhiêu Phật tử của Thế Tôn

Biết rõ giáo pháp của Như Lai

Chóng diệt phiền não các oán địch

Mau chứng Vô thượng đại Bồ đề

Ðã tự giải thoát lìa tâm độc

Thấy các kẻ độc cho thuốc trí

Ðược đến cứu cánh quả bỉ ngạn

Ðược chỗ vô vi rất an vui

Tất cả các pháp thảy đều không

Những thế ngoại luận vọng phân biệt

Người sáng bỏ ác lên đường chánh

Ðều do bổn lai tu học lâu

Lòng không chấp trước tức giải thoát

Các pháp thể tánh tự như vậy

Người hay biết rõ được như vậy

Thành Phật đại lực na la diên

Không có trói buộc không ai trói

Các pháp tánh không đều cũng không

Chơn như tịch diệt và phi như

Chẳng phải cấu uế chẳng phải tịnh

Phiền não vô tướng cũng không đoạn

Bởi nó bổn lai tánh tự không

Biết pháp chơn thiệt được như vậy

Người ấy sẽ được Nhất thiết trí

Tự chứng giải thoát lại độ người

Tất cả chẳng sanh cũng chẳng diệt

Thế gian Trời Người đều mê hoặc

Như cầm thú kia thấy nắng nước

Hư vọng phân biệt sanh thèm khát

Tưởng thấy nam nữ thọ khổ não

Do nhiều thứ nghiệp sanh các loài

Do tâm gây tạo mà sai khác

Chúng tôi hiểu Phật pháp như vậy

Là diệu cảnh giới của Như Lai

Thế nên Như Lai tâm điều phục

Các căn tịch tĩnh hay nhẫn nhục

Thế Tôn như pháp được cúng dường

Thanh tịnh vô cấu hết ô uế

Ðầy đủ công đức lìa tối tăm

Chỉ Phật hay làm mắt ba cõi

Nay tôi khen Phật chỗ được phước

Chỉ có đại Ðạo Sư xuất thế

Thế Tôn Lưỡng Túc khối công đức

Biết được quả báo chúng tôi được

Dùng thắng thiện căn vi diệu Này

Hồi thí tất cả các quần sanh

Nguyện họ ở nơi đời vị lai

Ðều được thành tựu Nhất thiết trí”.

Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quang Âm thâm tâm tin ưa rồi, và biết họ tu hành biện tài đầy đủ, muốn khiến công đức thiện căn của đại chúng lại sẽ lần lần thắng tấn tăng trưởng, đức Phật liền hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Ðức Phật:

“Ðại bi Thiện Thệ chẳng không nhân

Mà hiện tướng cười rất hi hữu

Vô Thượng Sĩ hay lợi ích đời

Chánh giác trí huệ siêu quần sanh

Lưỡng túc Thế Tôn khối công đức

Thương xót chúng sanh xin tuyên nói

Vì ai mà hiện mỉm cười ấy

Phóng sáng thù thắng hiển thế gian

Tất cả chúng sanh nếu được nghe

Tâm ý quyết định sẽ rất mừng

Tu hành nghiệp lành chứng quả Phật

Ðược lìa sanh tử đến Niết bàn

Các chúng Trời Người thế gian Này

Bị sanh tử khổ não bức bách

Xin độ quần sanh thoát biển khổ

Diễn nói bát chánh thuyền bè lớn

Chúng đây được nghe Ðại Tiên nói

Ðủ tám công đức đạo tối thắng

Nơi đây thế gian sanh mừng rỡ

Ưa tu nghiệp lành nguyện thành Phật

Dũng mãnh tinh tấn có sức lớn

Nội tâm thanh tịnh lìa lưới nghi

Sẽ truyền pháp của Như Lai nói

Là chơn Phật tử thọ thánh giáo

Chúng hội tại đây không nghĩ khác

Một lòng chiêm ngưỡng đại Cù Ðàm

Xin Phật nói bày sự thợ ký

Cho chúng quyết đoán lòng nghi hoặc

Chắp tay cung kính chánh ý niệm

Thảy đều mong miốn được lắng nghe

Lành thay xin nói vị cam lồ

Những người khát pháp sẽ được uống

Tất cả đại chúng tại hội Này

Lòng sạch ưa mến thắng công đức

Chiêm ngưỡng Phật nhan rất thù thắng

Dường như trẻ thơ nhìn mặt mẹ

Ðại huệ xin thọ ký chúng trời

Giải bày nhân duyên Phật mỉm cười

Ðược nghe Như Lai thọ ký rồi

Thế gian sẽ được lợi ích lớn

Ai ở nơi Phật thêm căn lành

Và đã phát nguyện được đầy đủ

Ðược tạng công đức thắng vi diệu

Nay tôi muốn nghe họ thọ ký

Ðại chúng chắc sanh lòng mừng vui

Vì được nghe Phật nói thọ ký

Quyết định sẽ đủ sức niệm huệ

Và được tu hành tam muội định”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Lành thay việc hỏi của Mã Thắng

Biện tài ứng cơ nay đúng lúc

Ðây là thần thông của Như Lai

Do đó nay ông sanh trí huệ

Vì lợi ích đời nên thêm biện

Vì thế nay ông hay hỏi Phật

Nay Phật vì họ nói thọ ký

Lặng bặt các căn nhất tâm nghe

Chúng trời Quang Âm huệ thù thắng

Quá khứ đã cúng vô lượng Phật

Thấy thế gian Này không ai cứu

Phát tâm rộng lớn muốn làm Phật

Tu trị thiệt hạnh chơn vi diệu

Quyết định sẽ thành Nhất thiết trí

Vì các chúng sanh cầu Phật đạo

Như mê lạc đường dạy đường chánh

Ðược nghe Thế Tôn dạy như vậy

Tiếng Phật tối thắng không ngang bằnng

Người trí huệ ưa Phật công đức

Quyết được cứu cánh đến bờ kia

Họ có trí lực biết căn lành

Quyết định sẽ được Phật Bồ đề

Mừng vui đã phát Bồ đề nguyện

Như mẹ sanh trai rất hài lòng

Chúng trời vì người cầu Bồ đề

Hiển thị đuường chánh chơn xuất thế

Trong bất khả thuyết do tha kiếp

Tu tập hạnh thắng diệu Bồ Tát

Giáo hóa chúng sanh hơn tinh tú

Ðã an trí nơi Phật Bồ đề

Ðời sau đầy đủ Thế Gian Giải

Tự nhiên thành tựu Nhất thiết trí

Quốc độ của họ bất khả thuyết

Thế giới lớn rộng có trăm ức

Các quốc độ ấy rất nghiêm tịnh

Vô lượng nhiều thứ thắng trang nghiêm

Các chúng sanh trong cõi Phật ấy

Không ba ác ác đạo và tám nạn

Tất cả đều phát tâm Bồ đề

Thảy đều ở bực bất thối chuyễn

Trong quốc độ các Như Lai ấy

Cũng lại chẳng có pháp Tiểu thừa

Chúng sanh thảy đều cầu Phật đạo

Bèn được thẳng đến bực bất thối

Các chúng sanh trong quốc độ ấy

Tất cả thọ mạng đều bằng nhau

Tuổi đến mười ức hằng sa kiếp

Vì họ được gặp chư Phật vậy

Nếu dạy chúng sanh do tha cõi

Ðều được chứng nhập tiểu Niết bàn

Nếu lại có người dạỳ một người

Hoặc nam hay nữ vào Ðại thừa

Phước trước so sánh khối đức Này

Toán số thí dụ chẳng bằng được

Vì thế người đã ở Ðại thừa

Phải nên chuyễ dạy cho người khác

Mã Thắng nên biết vì cớ ấy

Như Lai xuất thế rất là khó

Như hoa ưu đàm rất khó gặp

Vô biên đại trí nói như vậy

Bởi thiện tri thức trí khéo sâu

Giỏi biết phương tiện chỉ đường chánh

An ổn vô thượng thắng Bồ đề

Nếu ai mong cầu phải thân cận

Từ miệng Phật nghe lời như vậy

Ðầy đủ nghĩa vi diệu thậm thâm

Tất cả đại chúng đều vui mừng

Hớn hở sung mãn vừa lòng dạ

Do tha chư Thiên ở hư không

Ðều rải thiên y bay lần xuống

Ðầy tiếng mừng khen khắp hư không

Kính lễ vô thượng đại thần lực

Trí diệu thanh tịnh độ thế gian

Hay trừ chúng sanh phiền não nhiệt

Phật nói cam lộ dứt ba độc

Như thuốc A Dà Ðà tiêu độc

Ðược nghe trí huệ dứt kiết sử

Thế gian mê hoặc nhiều khổ não

Nơi sanh tử ấy sẽ được thoát

Vì nghe thắng pháp nơi Phật vậy”.

PHẨM BIẾN TỊNH THIÊN THỌ KÝ THỨ HAI MƯƠI MỐT

Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Ðại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chân, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người,hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt, hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui. Tại sao vậy?

Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy: Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàn và giác ngộ Vô thượng Bồ đề.

Ðại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhất thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu

hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát Này được năm thứ tự tại: một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Ðại Bồ Tát Này nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Ðạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Ðại Bồ Tát Này nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.

Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật:

“Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh

Ở nơi Phật pháp đều biết hết

Ðầu mặt quy kính Thiên Nhân Sư

Các căn tịch tĩnh như tịch diệt

Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường

Ðấng Mâu Ni đã qua sanh tử

Tôi nay tán thán đại Ðạo Sư

Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt

Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh

Cũng lại chẳng có chỗ y trụ

Như Lai khéo biết sự vọng tưởng

Như nhà ảo thuật biết sự ảo

Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn

Dụ như hang sâu dột tiếng vang

Thế Tôn tri kiến khéo như vậy

Tất cả thế gian Trời Người thảy

Không có chúng sanh không thọ mạng

Cũng lại không nhân không có ngã

Ðại trí quan sát tất cả tưởng

Rõ thấu ý tưởng đều về không

Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi

Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ

Tất cả thế gian các Trời Người

Chẳng lường biết được trí Như Lai

Ðạo Sư diễn nói duyên chúng sanh

Ðó là từ tâm căn lành lớn

Biết rõ tất cả các chúng sanh

Không có chúng sanh và thọ mạng giả

Nơi đây chúng tôi không cấu trược

Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc

Thế nên nơi Phật thắng trí huệ

Ðấng đáng thọ cúng dâng cúng dường

Ở trong mười phương thế giới kia

Tìm khổ rốt ráo chẳng có được

Như Lai vô thượng trời trong trời

Nói duyên chúng sanh phát từ tâm

Ðây là lời dạy của Thế Tôn

Nay tôi được hiểu cũng như Phật

Vì thế tôi đối Thế Gian giải

Nay được cúng dường bực đáng cúng

Ðã không chúng sanh cũng không khổ

Thế nên không có được cứu độ

Ðã khiển trừ được lòng ưu muộn

Bèn được mừng vui rất hớn hở

Phật giáo như vậy bất tư nghị

Chúng tôi đã được biết như thiệt

Thế nên nay tôi cúng dường Phật

Nguyện được trí vô thượng Như Lai

Phật ở các loài chẳng thấy khổ

Niết bàn cũng lại bất khả đắc

Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử

Dùng đây lợi ích các thế gian

Không khổ không loài không chúng sanh

Cũng không Niết bàn để y trụ

Biết được Phật pháp như vậy rồi

Thế nên chúng tôi nay cúng dường

Phật đủ từ bi và hỉ xả

Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết

Mà lại chẳng thấy có chúng sanh

Ðược trụ nơi bốn tâm vô lượng

Chẳng thấy có ai là phóng dật

Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật

Biết được giáo pháp của Phật rồi

Nay tôi cúng dường đại Ðạo Sư

Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân

Quán thân cứu cánh bất khả đắc

Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm

Mà nói có niệm và thất niệm

Thiện Thệ thường nói tu học niệm

Ðó là quán thân chánh niệm xứ

Nay được cúng dường đấng cứu độ

Thế Tôn quán thọ bất khả đắc

Vì thọ không có thể tánh vậy

Cũng lại quán sát nơi thọ giả

Cứu cánh không có tánh chơn thiệt

Và quán người tu niệm xứ ấy

Cứu cánh cũng lại bất khả đắc

Chúng tôi biết Phật pháp như vậy

Nay được cúng dường Thiên Nhân Sư

Quán tâm và quán tâm số pháp

Cứu cánh thể tánh bất khả đắc

Cũng lại chẳng thấy có tu niệm

Và không ai chánh trụ niệm xứ

Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp

Người cầu giải thoát phải tu học

Chúng tôi biết Phật giáo như vậy

Nay được cúng dường Chánh Biến Tri

Như Lai chẳng thấy có các pháp

Cũng chẳng thấy có người tu pháp

Ðại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm

Niệm ấy cũng lại tánh tự không

Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp

Muốn cầu giải thoát phải nên tu

Chúng tôi biết Phật pháp như vậy

Nay được cúng dường Nhất thiết trí

Một niệm xứ còn bất khả đắc

Huống lại còn có ba và bốn

Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy

Các niệm xứ ấy thảy đều không

Thế nên thiệt cầu bất khả đắc

Cứu cánh không người thọ khổ lạc

Chúng tôi biết thánh giáo như vậy

Nay được cúng dường Phật Thế Tôn

Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần

Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập

Ðây thì hay làm đường giải thoát

Sẽ được ra khỏi biển sanh tử

Mà không ai thoát không ai trói

Không Phật không giáo không Bồ đề

Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng

Thế nên nay tôi cúng Ðại Thánh

Phật dạy bốn thứ như ý túc

Ðường an ổn giải thoát thắng diệu

Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh

Tu hành đạo Này được Niết bàn

Như ý và túc cùng người tu

Chơn thiệt quán sát bất khả đắc

Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm

Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có

Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy

Nơi đây chúng tôi đều biết cả

Tâm trí thanh tịnh không cấu uế

Ðều được xa rời các nghi hoặc

Dùng đây tức là thượng cúng dường

Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng

Thế nên diệu trí không ngang sánh

Nay tôi đều được dâng cúng dường

Ðấng Thế Gian Giải nói ngủ căn

Xuất thế được đến giải thoát

Cẩn thận chớ lười thường siêng tu

Ðó là xu hướng Niết bàn lộ

Căn và người tu thảy đều không

Cũng không giải thoát và người thoát

Nơi đây chúng tôi đều không nghi

Thế nên nay được cúng dường Phật

Ðạo Sư chỉ dạy năm thứ lực

Ðường chánh đến được thành Niết bàn

Ðây dứt được hết phiền não phược

Khiến người bị trói được giải thoát

Thể các lực ấy tánh tự không

Phiền não và Phật đều cũng không

Chúng

tôi nơi đây không nghi lự

Thế nên nay được cúng Như Lai

Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi

Bồ đề phần pháp đạo tối thắng

Hay mở sự trói các chúng sanh

Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng

Không có trói buộc và giải thoát

Cũng không ai bị trói được mở

Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc

Thế nên nay được cúng dường Phật

Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo

Hiển thị tất cả các quần sanh

Ðây là gốc khổ các phiền não

Tu học thánh đạo dứt trừ được

Cả hai pháp ấy lìa đối trị

Ðó là thánh đạo và phiền não

Chúng tôi nơi đây đều không nghi

Thế nên được cúng đấng đáng cúng

Tu xa ma tha và xá na

Ðạo ấy hay hết các mé khổ

Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ

Thể các lực ấy tánh tự không

Phiền não và Phật đều cũng không

Chúng

tôi nơi đây không nghi lự

Thế nên nay được cúng Như Lai

Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi

Bồ đề phần pháp đạo tối thắng

Hay mở sự trói các chúng sanh

Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng

Không có trói buộc và giải thoát

Cũng không ai bị trói được mở

Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc

Thế nên nay được cúng dường Phật

Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo

Hiển thị tất cả các quần sanh

Ðây là gốc khổ các phiền não

Tu học thánh đạo dứt trừ được

Cả hai pháp ấy lìa đối trị

Ðó là thánh đạo và phiền não

Chúng tôi nơi đây đều không nghi

Thế nên được cúng đấng đáng cúng

Tu xa ma tha và xá na

Ðạo ấy hay hết các mé khổ

Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ

Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch

Quả xa ma tha và xá na

Tất cả thứ ấy thảy đều không

Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc

Vì thế chúng tôi nay cúng dường

Phật nói bất tịnh trị tham dục

Từ tâm đối trị các sân khuể

Tỳ bà xá na đối trị si

Như Lai hiển thị các chúng sanh

Ðây đều vô tác không tạm dừng

Thế nên không cấu cũng không tịnh

Chúng tôi nơi ấy đều không nghi

Thường thích cúng dường đại Ðạo Sư

Mười nghiệp bất thiện của Phật nói

Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác

Sát sanh thâu đạo và tà dâm

Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu

Ỷ ngữ tham dục và sân khuể

Tối hậu thứ mười tên tà kiến

Phật nói thứ ấy là bất thiện

Là nghiệp đạo ác của chúng sanh

Ðã không chúng sanh cũng không hại

Cả chín nghiệp kia cũng đều không

Không có đối trị các thiện ác

Vì tự tánh nó vốn không tịch

Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy

Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh

Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi

Thế nên nay cúng trí vô thượng

Nếu người tu pháp của Như Lai

Người ấy tức là chơn Phật tử

Người ấy xứ xứ đều thọ vui

Hằng thường xa lìa các khổ não

Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy

An ổn dẫn đạo các quần sanh

Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi

Nay đều cúng dường đấng đáng cúng”.

Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.

Ðức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:

“Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng

Vì lợi ích đời hiện mỉm cười

Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả

Mà hay hóa phục các đại chúng

Giỏi hiểu các pháp đại Ðạo Sư

Phật hiện tướng cười chẳng không nhân

Ðấng Thế Gian Giải lòng không thiếu

Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười

Các đại chúng đây đều một lòng

Không có loạn tưởng ở chánh niệm

Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức

Chỉ muốn được nghe cung kính đứng

Nơi Ðại Luận Sư tự tại Phật

Nếu được nghe nói đều vui mừng

Giỏi hiểu các pháp trí quyết định

Sẽ được làm Phật độ quần sanh

Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín

Chắc thành đại trí nhất thế gian

Lường biết câu cam lộ vi diệu

Người Này thấy được khắp mười phương

Ai ở trong kiếp đời vị lai

Sẽ được làm Phật thường thế gian

Ðấng đại Ðạo Sư diệu ngôn từ

Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui

Nếu ở nơi đấng Ðại Thánh Hùng

Mà sanh kính tin lòng tôn trọng

Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ

Tất cả các ma chẳng động được

Nếu hay sanh tín được quyết định

Tức là Phật tử từ tâm sanh

Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp

Do đó đại chúng được trừ nghi

Nếu có ai đối với chúng sanh

Tâm từ che chở khắp thế gian

Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật

Bèn được an trụ Nhất thiết trí

Ðấng vô thượng trăm phước trang nghiêm

Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi

Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn

Như Lai vì họ hiện tướng cười

Mong được nghe Phật lời thiện xảo

Âm thanh tám đức rất vi diệu

Trước tự được đến nơi thiện đạo

Sau hay dẫn dắt các quần sanh

Phật pháp vi diệu là như vậy

Phật tử an trụ ở trong ấy

Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt

Chắc được ở lâu tại thế gian”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:

“Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười

Phật vì lợi ích các thế gian

Ông được phước đức vừa lòng mình

Phước ấy vô lượng chẳng hết được

Người trí mới hay hỏi đúng lúc

Do đó lợi lớn các chúng sanh

Ông cùng tất cả hàng đại chúng

Mừng vui một lòng nghe Phật nói

Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây

Ở trong pháp Phật đều không nghi

Tất cả mừng vui lòng tịnh tín

Dùng kệ khen ngợi Phật công đức

Trời ấy đã ở đời quá khứ

Cúng dường ngàn ức do tha Phật

Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa Này

Trong tất cả pháp đều không nghi

Do các nhân duyên thuở xưa ấy

Nay nói được kệ tán thán Phật

Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán

Hiền kiếp tất cả chư Như Lai

Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ

Thành Phật đại lực na la diên

Giáo hóa chúng sanh bất khả tư

Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn

Lúc chư Ðại Thánh ấy thành Phật

Ðược danh hiệu Phật rất vi diệu

Nay ta vì ông nói hiệu ấy

Ðồng trong kiếp ấy đều làm Phật

Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai

Thảy đều cứu độ bất tư nghị

Na do tha chúng nhập Niết nàn

Các Như Lai ấy diệt độ rồi

Ðốt thân lưu bố những Xá lợi

Ðem Xá lợi ấy đều xây tháp

Ðầy trong quốc độ như rãi hoa

Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi

Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng

Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt

Thảy đều lợi ích các thế gian

Bất tư nghị do tha chúng sanh

Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi

Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn

Tam thế chư Phật đều tán thán

Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy

Thì được thiện căn thắng vi diệu

Sẽ được thành tựu đạo hữu học

Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng

Dường như vô lượng nan tư chúng

Ðều ở chỗ ta trồng căn lành

Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh

Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc

Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy

Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật

Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội

Ðều do cúng dường Xá lợi ấy

Ðược nghe lời Phật như vậy rồi

Tất cả đại chúng sanh hi hữu

Công đức thắng diệu có oai thần

Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ

Và hàng đại chúng khắp vui vẻ

Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề

Ðược biết Như Lai thế lực lớn

Thảy đều dảnh lễ chân Thế Tôn”.

PHẨM QUẢNG QUẢ THIÊN THỌ KÝ THỨ HAI MƯƠI HAI

Bấy giờ có tám ức chúng trời Quảng Quả thấy A Tu La nhẫn đến trời Biến Tịnh cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa lòng vui mừng hớn hở nhập mỗi mỗi pháp môn, từ mỗi mỗi pháp môn được vô lượng môn, nơi tất cả pháp môn được vô lượng biện tài, bất đoạn biện tài, tương ưng biện tài, giải thoát biện tài, vô trước biện tài, vô ngại biện tài, vi tế biện tài, thậm thâm biện tài, chủng chủng biện tài, mỹ diệu biện tài, tương tục biện tài. Ở nơi các biện tài thảy đều biết rồi, chúng trời Quảng Quả ấy đối với Như Lai, kính tin tôn trọng mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn!

Có đà la ni tên Vô Lượng Môn. Nếu có Bồ Tát tu tâp đà la ni vô lượng môn ấy, thì được các biện tài bất đoạn V.V…ấy, ở trong tất cả cảnh giới tâm chẳng mê hoặc. Các cảnh giới ấy không

có một pháp nào chẳng phải đà la ni. Lúc đại Bồ Tát được đà la ni ấy, ở trong các pháp đều được đà la ni trí biện tài vô ngại. Lúc đại Bồ Tát an trụ đá la ni vô lượng pháp môn ấy thì nhập nơi ngũ ấm, nhập nơi thập nhị xứ, nhập nơi thập bát giới, nhập nơi các căn, nhập nơi tứ đế, thập nhị nhân duyên, nhập nơi chúng sanh, nhập nơi phi chúng sanh, nhập nơi hữu, nhập nơi phi hữu, nhập nơi thủ tưởng, nhập nơi phi thủ tưởng, nhập nơi y nơi phi y,nhập nơi không nhập nơi ngã, nhập nơi tướng nơi phi tướng, nhập nơi nguyện nơi phi nguyện, nhập nơi hữu vi nơi vô vi, tất cả xứ như vậy được bất hoại biện tài.

Ðại Bồ Tát ấy nhập trong ngũ ấm được đà la ni. Nghĩa là sắc ấm ấy tức chẳng phải thành tựu, tại sao, vì không có chút sắc pháp được thành tựu, tại sao, vì địa giới tánh chẳng phải thành tựu, thủy giới hỏa giới và phong giới tánh đều chẳng phải thành tựu, tại sa, vì địa giới tánh ly vậy, nếu pháp không có thể tánh thì gọi là chẳng phải thành tựu, thủy hỏa và phong giới tánh tự ly, vì không thể tánh nên chẳng phải thành tựu. Sắc chẳng phải thành tựu như vậy, do vì chẳng phải thành tựu nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại và

vị lai, tại sao, vì sắc chẳng phải pháp có nên là bất khả đắc. Nếu sắc đã bất sanh tức laé bất diệt, do vì bất sanh diệt nên tức là bất khả thuyét, lại còn có thuyết như vầy, những sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai, các sắc ấy hòa hiệp gọi là sắc ấm, sắc ấy thể tánh cũng bất khả đắc, nào có quá khứ hiện tại vị lai, thế nên sắc ấm chẳng phải là khả thuyết, thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Vì vậy nhập nơi ấm tức là nhập nơi đà la ni. Do vì nhập đà la ni nên ấm bất khả đắc, vì ấm bất khả đắc nên đà la ni cũng bất khả đắc, do đó mà nhập đà la ni bất khả đắc, chỉ có rieng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thiết, chẳng phải ấm chẳng sắc, chẳng phải nhập nơi sắc, cũng chẳng đà la ni thể tánh khả đắc. Tại sao?

Nghiã là ấm v.v…chă »ng phải là tác pháp, vì chẳng phải tải tác pháp nên không có tích tụ. Do vì tích tụ nên giả gọi là ấm, như thế gian nhiều vật liệu tích tụ lại giả gọi là thành là nhà v.v…Các sắc ấy tánh bất khả đắc, không có tích tụ, vì không tích tụ nên là không sắc, cũng hông sắc ấm. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, tánh bất khả đắc không có tích

tụ, vì không tích tụ nên không thọ tưởng hành thức, cũng không thọ tưởng hành thức ấm. Nhập nơi các ấm ấy phải biết như các ấm.

Nhập nơi nhãn rồi là ai nhập, nghĩa là khổ nhập. Gì là nhãn? Ðó là thanh tịnh tứ đại tạo nên sắc gọi đó là nhãn. Những gì là tư đại? Ðó là thanh ti(nh địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới, địa giới ấy tánh tự ly, đã là tánh tự ly thì là pháp thể bất khả đắc, nó là chẳng phải thành tựu. Như vậy thủy hỏa và phong giới tánh đều tự ly, vì pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải thành tựu. Nhãn nhập chẳng phải thành tựu như vậy nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao?Vì nhãn nhập chẳng phải là vật. Vì chẳng phải là vật nên chẳng sanh chẳng diệt. Nếu chẳng sanh chẳng diệt tức là bất khả thuyết. Như vậy nhãn chẳng sanh diệt, nhập cũng chẳng sanh diệt, vì chẳng sanh diệt nên cũng bất khả thuyết. Phải hiểu biết như vầy: Chỉ là riêng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết. Danh ấy và danh thể cũng tư( tánh ly. Tại sao? Vì không có một pháp gọi là nhãn, gọi là nhập, gọi là khổ. Vì danh bất khả đắc nên nhãn nhập cũng bất khả đắc.

Vì nhãn bất khả đắc nên tức là đà la ni nhập. Ðà la ni nhập Này cũng bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly vậy, chỉ là danh dụng giả, chỉ là thế tục, ngôn thuyết thi thiết. Vì thế nên do nhãn nhập mà được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài.

Nên biết nhĩ tỉ thiệt thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều như vậy.Nhập nơi giới ấy được đà la ni nhãn, nhãn thể bất khả đắc, giới thể bất khả đắc. Tại sao? Vì nhã ly nhãn tánhvậy, vì giới ly giới tánh vậy. Bởi pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Chẳng thành tựu thì là chẳng sanh chẳng diệt. Vì chẳng sanh diệt nên nó chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai, chỉ là dan h dụng giả, chỉ là thế tục ngôn thuyết thi thiết. Danh ấy ly danh tự tánh, nhẫn đến thi thiết ly thi thiết tự tánh. Nếu pháp không tự tánh bất khả đắc tức là chẳng phải vật. Ðã chẳng phải vật thì chẳng phải thành tựu. Ðã chẳng phải thành tựu thì chẳng sanh chẳng diệt. Bởi bất sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. Nếu chẳng nhiếp ở danh ấy tức chẳng phải tướng cũng chẳng phải tưởng, chẳng phải dụng, chẳng phải giả, chẳng phải

hữu vi, chẳng phải khả thuyết, chẳng phải lai chẳng phải khứ, chẳng phải được nói cho người, chẳng phải được hiển thị, chẳng phải được biết, chẳng phải được rõ, chẳng phải đen, chẳng phải trắng, chằng phải nhà cửa. Vì ly nhà cửa vậy, vì chẳng phải đến, chẳng phải được đến vậy, vì chẳng phải được, chẳng phải bị được vậy, vì chẳng phải chứng, chẳng phải được chứng vậy, chẳng phải phàm phu cũng chẳng phải phàm phu địa, chẳng phải Thanh Văn cũng chẳng phải Thanh văn địa, chẳng phải Duyên Giác cũng chẳng phải duyên Giác địa, chẳng phải Bồ Tát cũng chẳng phải Bồ Tát địa, chẳng phải Phật cũng chẳng phải Phật địa, chẳng phải địa cũng chẳng phải phi địa, đây tức là chơn như, chẳng dị như, chẳng phải phi như, tịch diệt vô tướng, chỉ riêng dụng riêng giả. Nói rằng Như Lai chỉ riêng vì thế tục nên nói danh Như Lai, chẳng phải đệ nhất nghĩa mà có Như Lai vậy. Tại sao? Vì pháp ấy bất khả đắc nên không có Như Lai ở nơi giới ấy mà nhập. Phải nên nhập nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý giới pháp giới ý thức giới như vậy. Tất cả giới khác cũng phải biết như vậy.

Phải nên rộng nhập pháp giới như vậy.

Bạch Thế Tôn!

Pháp giới ấy, lúc nói rằng ấm mà chẳng hư hoại bổn tánh của pháp giới ấy, lúc nói nhập lúc nói giới, lúc nói tứ đế, lúc nói thập nhị nhân duyên, cũng đều chẳng hoạibổn tánh thể của pháp giới ấy.

Pháp giới tùy theo chỗ được nói tất cả các pháp kiến lập danh tự, đèu chẳng hoại thể tánh của pháp giới ấy.

Bạch đức Thế Tôn! Thi như địa tùy theo chỗ nó ở mà làm danh tự sai khác, nhưng chẳng hư hoại bổn tánh của địa giới ấy. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở làm danh tự sai khác mà chẳng hoại bổn tánh pháp giới. Thi như tủy hỏa phong giới cũng vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thí như hư không tùy theo chỗ nó ở có tác dụng sai khác mà chẳng hoại thể tánh hư không. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở có tác dụng danh tự sai biệt mà chẳng hoại thể tánh pháp giới.

Bạch đức Thế Tôn! Lúc nhập các căn tức là nhập pháp giới? Nói các căn lá nhãn căn nhĩ căn tỷ căn thiệt căn than căn và ý căn, cùng nam nữ căn mạng căn, lạc căn khổ căn hỉ căn ưu căn xả căn, tín căn tinh tấn căn niệm căn định căn huệ căn, vị tri dục tri căn, tri căn tri dĩ căn.

Nhãn ấy, nhãn thể bất khả đắc. Căn ấy, căn thể bất khả đắc. Tại sao?Vì nhãn ấy ly nhãn tự tánh vậy. Ðã ly tự tánh thì không pháp thể. Bởi pháp không thể tánh thì nó chẳng phải vật. Bởi chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng thành tựu nên nó chẳng sanh. Bởi chẳng sanh nên chẳng diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng thể nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế chẳng sanh diệt thì nó chẳng phải nhãn cũng chẳng phải nhãn căn thì làm sao có dụng, phải biết như vậy.

Bạch đức Thế Tôn!Thí như không quyền hư dối không có vật chỉ có danh tự chỉ có ngôn thuyết. Ở trong địa nhất nghĩa không quyền cũng không có. Nhãn và nhãn căn ấy dường như không quyền hư vọng chẳng phải thiệt mà hiện tướng hư giả dối gạt phàm phu, chỉ có danh tự thi thiết ngôn thuyết, ở trong đệ nhất nghĩa nhãn và nhãn căn đều bất khả đắc.

Bạch đức Thế Tôn! Vì như vậy nên ngườo được Nhất thiết trí rồi vì độ chúng sanh mà nói tên là căn. Các căn ấy, ở đệ nhất nghĩa

vì tự tánh ly nên căn thể đều không. Vì pháp ấythể kho-ng nên dụng cũng hư vọng chẳng có chẳng thiệt dối gạt phàm phu. Vì ly tự tánh nên chẳng sanh diệt. Vì chẳng sanh diệt nên chẳng được nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế không có thié nó không có danh không có tướng, chẳng phải được nói, chẳng phải được vì người khác nói, chẳng phải sanh chẳng phải bị sanh, chẳng phải đã biết sẽ biết, chẳng phải đã nghe sẽ ngh, chẳng phải biết chẳng phải biết chẳng phải bị biết, chẳng phải đã chứng sẽ chứng, chẳng phải đã được sẽ được, chẳng phải đã thấy sẽ thấy, chẳng phải đã đến sẽ đến, tại sao, vì nó chẳng phải có vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Thí như có người chiêm bao được vui mừng cười nói mớ đi chơi, người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự vui chơi trong mộng mà tìm chẳng thấy chẳng được. Người ấy đương lúc chiêm bao sự vui chơi ấy còn chẳng có thiệt huống là lúc thức dậy, không bao giờ cảnh mộng ấy lại hoặc thấy hoặc được.

Bạch đức Thế Tôn! Các căn như vậy giống cảnh vui chơi trong mộng thiệt bất khả đắc. Vì thế nên tất cả các pháp thể tánh đều bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở nơi tam thế

thế bất khả đắc thì nó chẳng thể nói được. Với tất cả các căn phải biết như vậy.

Bạch đức Thế Tôn nhập pháp giới là nhập tất cả pháp, nhập tất cả pháp là nhập pháp giới.

Bạch đức Thế Tôn!Nhập pháp tứ đế là nhập pháp giới. Những gì là tứ đế? Ðó là khổ tập diệt đạo.

Ðức Thế Tôn cũng nói tất cả các pháp thảy đều là không, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải mạng, chẳng phải nhân, chẳng phải tưởng, chẳng phải tướng. Chúng tôi ở nơi pháp ấy chăẳng có nghi lự.

Bạch đức Thế Tôn! Vì không chúng sanh nên cũng không có khổ. Tại sao? Vì chúng sanh không nên khổ đế cũng không. Tại sao?Vì không có nhân như vậy nên không có quả như vậy. Vì không có tập nên diệt đế cũng không. Tại sao? Vì không có đạo mà chẳng đoạn tập vậy. Bạch đức Thế Tôn! Ðạo quả ấy là diệt đế. Phiền não tập kia bất khả đắc nên đoạn phiền não diệt cũng bất khả đắc.

Do diệt bất

khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Không khi nào có đạo như vậy mà không có quả của nó. Bốn thánh đế ấy chỉ là phân biệt hư vông chẳng phải có. Bởi chẳng phải có nên chẳng thể nói được là quá khứ hiện tại vị lai.Nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải tướng chẳng phải tưởng, chẳng phải sắp bày chẳng phải bị sắp bày, chẳng phải nêu chỉ chẳng phải bị nêu chỉ, chẳng phải hiển hiện chẳng phải bị hiển hiện, chẳng phải ngũ ngôn chẳng phải bị ngũ ngôn, chẳng phải ngôn từ chẳng phải bị ngôn từ; chẳng no&i chẳng phải bị nói; chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải biết chă”ng phải bị biết, chẳng phải rõ chẵng phải bị rõ, chẳng phải lường chẳng phải bị lường, chẳng phải thấu chẳng bị thấu, chẳng phải đến chẳng phải bị đến, chẳng phải được chẳng phải bị được, chẳng phải nghe chẳng phải bị nghe, chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải đối chẳng phải bị đối, chẳng phải chứng chẳng phải bị chứng, chẳng phải trắng chẳng phải đen, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải đến chẳng phải đi, chẳng phải cạn chẳng phải sâu, chảng phải trong chẳng phải đục, chẳng phải sợ chẳng phải an.chẳng phải trói chẳng phải mở, chẳng phải ghét chẳng phải thương, chẳng phải phiền não chẳng phải thanh tịnh, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải đường sá chẳng phải chẳng đường sá, chẳng phải hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng phải nhiếp thọ chẳng phải chẳng nhiếp thọ, chẳng phải sanh tử chẳng phải chẳng sanh tử, chẳng phải được chẳng phải chẳng được, chẳng phải chúng sanh chẳng phải chẳng chúng sanh, chẳng phải thọ mạng chẳng phải chẳng thọ mạng, chẳng phải ngã chẳng phải chẳng ngã, chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải chẳng tướng,, chẳng phải nguyện chẳng phải chẳng nguyện, chẳng phải y chẳng phải chẳng y, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải thiệt chẳng phải vọng, chẳng phải vọng tưởng chẳng phải chẳng vọng tưởng, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải nhà chẳng phải chẳng nhà, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải xả chẳng phải tu, chẳng phải sanh tử chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, chẳng phải cảnh giới phàm

phu chẳng phải cảnh giới Thanh Văn chẳng phải cảnh giới duyên giác chẳng phải cảnh giới Bồ Tát chẳng phải cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới chẳng phải chẳng cảnh giới, chẳng phải tác chẳng phải bất tác. Nhập vào đế như vậy tức lànhập vào pháp giới. Nhập pháp giới rồi thì được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài. Nhập vào mười hai nhân duyên tức lá nhập vào pháp giới. Vô minh duyên hành hành duyên thức thức duyên danh sắc duyên sắc duyên lục nhập lục nhập duyên xúc xúc duyên thọ thọ duyên ái ái duyên thủ thủ duyên hữu hữu duyên sanh sanh duyên lão tutủ ưu bi khổ não, khối lớn nhiều khổ lớn như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt nhẫn đến sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, khối lớn nhiều khổ diệt.

Bạch đức Thế Tôn! Vô minh ấy, vô minh thể bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly. Nếu pháp không có thể tánh thì nó chẳng phải vật. Vì chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng phải thành tựu nên chẳng phải sanh chẳng phải diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì không có danh không có hình không tướng không tưởng cũng chẳng

sai biệt. Chỉ là riêng danh riêng giả riêng dụng, chỉ là thế tục chỉ là ngôn thuyết, vì giáo hóa tất cả phàm phu chúng sanh. Vô minh ấy ở trong đệ nhất nghĩa thiệt bất khả đắc. Bởi bất khả đắc nên chẳng phải dụng sai biệt cũng chẳng thể nói được.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu chỉ là chỉ riêng danh nhẫn đến chỉ riêng thi thiết thì nó chẳng phải thiệt chỉ là hư vọng ngôn thuyết phân biệt, giác quán chẳng phải định chỉ là hí luận. Vô minh ấy nếu không có tự tánh thì làm sao sanh được hành. Vì vô minh đã không nên hành cũng chẳng sanh, bởi chẳng sanh nên nó tức là bất lão bất bệnh bất tử, chẳng lưu chuyển tức là bất sanh. Nếu chẳng sanh thì làm sao có lão tử. Nếu chẳng sanh chẳng tử tức là chư Phật Bồ đề quá khứ hiện tại vị lai chỉ là thế tục danh tự chẳng phải đệ nhất nghĩa. Nói rằng vô minh đó tức là Bồ đề, các chỉ kia cũng vậy. Nhập mười hai nhân duyên như vậy phải biết tức là nhập nơi pháp giới.

Bạch đức Thế Tôn! Như Lai bất sanh tất cả pháp cũng bất sanh, vì thế tất cả pháp tức là Như Lai. Như Lai bất diệt tất cả pháp cũng bất diệt, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai, Như Lai vô tướng tất cả pháp cũng

vô tướng, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Nói tóm lược, vô tướng bất khả đắc như vậy chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải yêu chẳng phải ghét, pháp giới chẳng thể rõ cũng chẳng thể biết.

Bạch đức Thế Tôn! Chơn như tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là chơn như, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tế tức là Như Lai, tất cả pháp tức là thiệt tế, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn! Tùy trong pháp nào tức là có Như lai, trong pháp ấy tức là có tất cả pháp, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai được Vô thượng Bồ đề, người ấy là có kiến chấp. Tại sao? Vì Như Lai bất nhị, Bồ đề cũng bất nhị, bất nhị ấy chẳng có thể giác ngộ bất nhị vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai chuyễn pháp luân vô thượng, người ấy là có kiến chấp. Tại sao? Vì Như Lai chẳng phải tiến thối vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người,nói Như Lai độ vô lượng chúng sanh, người ấy là có chấp kiến. Tại sao? Vì tất cả pháp thiệt không có chúng sanh nên không có ai được diệt độ vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người nói rằng Như Lai lợi ích vô lượng chúng sanh, người ấy là có kiến chấp. Tại sao? Vì Như Lai chẳng vì lợi ích hay chẳng lợi ích chúng sanh mà xuất thế vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có chúng sanh ở đời vị lai nói rằng Như Lai xả bỏ thọ mạng, chúng sanh ấy là có chấp kiến. Tại sao? Vì pháp giới không có nhiếp thọ cũng không có xả bỏ vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người nói Như Lai nhập vô dư Niết bàn, người ấy là có chấp kiến. Tại sao? Vì pháp giới không có sanh tử cũng không có Niết bàn vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người ở nơi pháp của tôi nói mà có thể quyết định biết, người ấy chẳng còn thối chuyễn nơi Vô thượng Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn! Giả sử pháp giới có biến khác, các thiện nam tử thiện nữ nhân

có thể tin như vậy, tất định sẽ giác ngộ Vô thượng Bồ đề không có biến đổi”.

Tám ức chúng trời Quảng Quả ở nơi Thế Tôn diễn nói pháp của mình được chứng rồi đầu mặt lễ chân Phật, nhiễu Phật ba vòng đứng qua một phía chắp tay đồng thanh nói kệ tán thán đức Phật:

“Kính lễ Thiện Thệ đấng biết pháp

Ðại Ðạo Sư na la diên lực

Thắng Mâu Ni thương yêu tất cả

Phương tiện thị hiện nơi chơn thiệt

Ðã tự biết rõ tất cả pháp

Như thiệt hiển thị các thế gian

Cúi lạy thân vô lượng công đức

Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng

Pháp vi diệu chơn thiệt như vậy

Phật nói tương ưng không có khác

Thế Tôn đại Y Vương vô thượng

Khiến chúng sanh pháp nhãn thanh tịnh

Khai diễn tám thứ đường chơn chánh

Vì được đại Bồ đề Vô thượng

Quy kính thân vô lượng công đức

Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng

Hiễn thị Bồ đề đạo chánh chơn

Quyết định xu hướng đại Niết Bàn

Chứng được Vô thượng thắng Bồ đề

Tịch diệt an ổn rất kiên cố

Ðộ thoát nhiều ức na do tha

Chúng sanh luân hồi khổ sanh tử

Ðãnh lễ thân vô lượng công đức

Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng

Quan sát ngũ ấm đều không vô

Ấm thể rốt ráo bất khả đắc

Ấm ấy tức thể ly chẳng có

Chỉ gạt những chúng sanh phàm ngu

Thế gian nơi đây bị trói buộc

Như khỉ vượn kia bị dính nhựa

Người trí nơi đây được giải thoát

Du hành không ngại như gió trống

Các giới tức thể tánh tự không

Tất cả người trí nói như vậy

Không ấy cũng không có tự tánh

Cứu cánh cầu nó bất khả đắc

Phàm phu nơi đây đều bị trói

Do vì chẳng biết tánh chơn thiệt

Người trí quán sát được giải thoát

Nơi tam giới kia vô sở trước

Các nhập không thể tự không tịch

Tất cả người trí nói như vậy

Như nắm tay không giả chẳng thiệt

Dối gạt hàng chúng sanh ngu tối

Phàm phu vọng sanh lòng thủ trước

Ðều do nơi pháp sanh nghi hoặc

Trụy lạc sanh tử bị tán hoại

Như các nhà buôn chìm biển lớn

Các căn ấy tự nó tự không

Cứu cánh suy tìm bất khả đắc

Ví như trong gương hiện mặt mắt

Tượng ấy không thiệt cứu cánh không

Phàm phu vô trí chấp tượng ấy

Chánh vì chẳng biết pháp chơn thiệt

Dường như bầy chim vào lưới bẫy

Cũng như trong vực cá mắc câu

Chúng sanh không thể lìa tướng sanh

Chơn thiệt tìm cầu bất khả đắc

Ví như trên vách vẽ hình tượng

Cứu cánh không tướng chúng sanh thiệt

Phàm phu vô trí nên thử trước

Ðều do chẳng biết nghĩa chơn thiệt

Người trí quan sát được giải thoát

Ví như chim sanh ra khỏi vỏ

Nhân duyên sanh pháp đều vô thường

Tất cả không tịch lìa phan duyên

Ví như trong mộng hưởng thọ vui

Hư dối gạt gẫm phàm phu mê

Ngu si vô trí bị nó trói

Do chẳng tư lương vọng phân biệt

Người trí quan sát được giải thoát

Như các chim khôn thoát lồng lưới

Như Phật công đức bất tư nghị

Tất cả các pháp cũng như vậy

Các pháp vô tướng như Mâu Ni

Pháp thể tịch diệt như Niết bàn

Các pháp vô y như Như Lai

Nơi tam giới kia chẳng thủ trước

Vì thế tất cả người thành Phật

Ðều do được biết nghĩa Này vậy

Các pháp vô bố như Thế Tôn

Chẳng khởi tưởng thân mình thân người

Các pháp nan tư như Ðạo Sư

Chỉ Phật biết được dắt quần sanh

Pháp vô phân biệt như Thiện Thệ

Chẳng phải tâm cảnh của phàm phu

Là diệu cảnh giới của Như Lai

Chỉ Phật Ðại Thánh biết rõ được

Nếu có vô trí nói thế này

Phật chứng Vô thượng đại Bồ đề

Nếu lại có người nói như vầy

Thế Tôn đã chuyễn diệu pháp luân

Nếu lại có người nhận định rằng

Thiện Thệ đã độ vô lượng chúng

Họ đều bị kiến chấp trói buộc

Vì họ chẳng biết tánh chơn thiệt

Nếu người bảo Phật nói lời Này

Sát hại hành ấm và cùng mạng

Hoặc nói Thập Lực nhập Niết bàn

Ðã lợi ích vô lượng chúng sanh

Tất cả người ấy đều chấp kiến

Bị trói chặt trong rọ của ma

Chẳng hiểu biết được pháp chơn như

Vì chẳng biết nên chẳng biết Phật

Nếu người khéo biết phải chẳng phải

Họ biết rõ được Ðại Ðạo Sư

Sẽ được khối vô lượng công đức

Thành Phật thương xót các thế gian

Ðây là chơn như không biến đổi

Tất cả các pháp lìa nghi hoặc

Ðấng thắng vô thượng trong Trời Người

Chúng tôi đã biết nghĩa như vậy

Tám ức chúng trời Quảng Quả Này

Nơi pháp thảy đều được biết hết

Ðối Phật Ðạo Sư tự diễn nói

Hiện nội tâm mình tin hiểu rồi

Tất cả mừng vui không nghi lự

Ðều tự thấy mình sẽ thành Phật

Ðây là diệu pháp của Như Lai

Họ tự nhận lãnh Phật thọ ký”.

Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quảng Quả có đủ thâm tín, ở trong Phật pháp quyết định không nghi, vì muốn đại chúng trồng căn lành nên hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch đức Phật:

“Ðạo sư trí huệ núi công đức

Chẳng phải không nhân mà mỉm cười

Tôi từng nơi Phật thân tự nghe

Thế Tôn mỉm cười tất có cớ

Như Lai hiện tướng mỉm cười ấy

Khiến chúng đều thọ vui thanh tịnh

Trời Người Tu La đại Ðạo Sư

Ngưỡng mong diễn nói nhân duyên cười

Nay thấy Như Lai từ nơi miệng

Hiện tướng mỉm cười rất thanh lương

Các chúng hội đây đều hoài nghi

Nhất tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai

Ðại bi tối thắng Thiên Nhân Sư

Xin nói cớ cười rất hi hữu

Thế gian nếu được nghe Phật nói

Quyết định trừ hết lòng nghi hoặc

Tám ức chúng trời Quảng Quả ấy

Thảy đều diễn nói tự thọ ký

Do công đức gì được quả gì

Xin nói thành Phật sự thần thông

Khai diễn phạm âm rất vi diệu

Ðể khắp trừ dứt chúng sanh nghi

Tất cả đại chúng nghe Phật nói

Thảy đều hớn hở rất vui mừng

Ðại chúng chắp tay đều nhất tâm

Tịnh tín chiêm ngưỡng cung kính đứng

Chúng trời Phật tử đều tư duy

Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề

Các chúng hội đây có nghi hoặc

Xin đức Như Lai trừ dứt cho

Chắc sẽ được trí biết phải chẳng

Ðầy đủ thành tựu Nhất thiết trí

Ðược nghe Như Lai tiếng tám đức

Chúng trời không ai chẳng vui mừng

Sẽ được hộ trì Như Lai giáo

Tùy thuận chánh pháp như thuyết hành

Quan sát biết lòng chúng trời rồi

Ðại trí Vô thượng nguyện giải nói

Do đó đại chúng lòng mừng vui

Ở trong Phật pháp được tin hiểu

Nay nơi Ðạo Sư nguyện được nghe

Chúng trời quá khứ dã tu hành

Nếu nhờ Như Lai giải nói rồi

Sở nguyện thảy đều được đầy đủ

Chúng trời Quảng Quả như pháp hành

Chắc được thành tựu Nhất thiết trí

Sẽ độ thế gian các chúng sanh

Hiển thị thể tánh pháp chơn như”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

“Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ

Nay ông hỏi Phật thiệt đúng lúc

Phật vì chúng trời Quảng Quả ấy

Ở trước đại chúng hiện mỉm cười

Nay sẽ vì ông phân biệt nói

Ðều phải nhất tâm cùng lắng nghe

Nghĩa nhân duyên của tướng mỉm cười

Ông và đại chúng sẽ được rõ

Như Lai đầy đủ Nhất thiết trí

Quan sát nhân duyên có ba thứ

Lưỡng Túc Thế Tôn chánh quán rồi

Liền hiện mỉm cười thị thế gian

Có người thích ở nơi Niết bàn

Ít trí cạn nhỏ cầu Thanh Văn

Lại có người thích ở yên lặng

Chỉ cầu Bồ đề Bích Chi Phật

Lại có thích cầu đại Ðạo Sư

Thành Phật đại lực na la diên

Phật thấy chúng ấy thâm tín rồi

Tùy họ sở nguyện mà độ thoát

Vì cầu Thanh Văn mà thị hiện

Phải biết là tướng cười tối hạ

Phải nên biết Phật trung phẩm cười

Vì người Bích Chi mà thị hiện

Ông phải biết cười thượng phẩm đây

Vì chúng trời Này thọ ký Phật

Phật giải nói ba nhân duyên cười

Ðó là tối hạ và trung thượng

Khéo hiểu thế gian thắng Ðạo Sư

Thị hiện mỉm cười hiển thoại tướng

Phật biết chúng sanh muốn ba thừa

Nguyện ưa cầu chứng ba thánh quả

Vì cầu Thanh Văn mà hiện cười

Tia sáng mỉm cười vào nơi chân

Vì cầu Bích Chi Phật thị hiện

Phải biết sáng cười nhập vào rún

Vì thọ ký Vô thượng Bồ đề

Tia sáng cười nhập vào đảnh Phật

Mã Thắng Này Ông nên ghi rõ

Nhân duyên mỉm cười có ba thứ

Vừa rồi Phật hiện tướng sáng cười

Sáng ấy nhập vào đảnh của Phật

Phải biết mỉm cười hiện sáng ấy

Ðều vì thọ ký Vô Thượng Giác

Nay Phật sẽ lại vì ông nói

Mỉm cười lại có ba nhân duyên

Lành thay Mã Thắng và đại chúng

Một lòng lặng ý đều lắng nghe

Hiện tiền mỉm cười vì cầu Phật

Tia sáng phóng ra nhập vào đảnh

Tia sáng có lúc dừng ngang lưng

Giây lát mất là vì Duyên Giác

Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng

Tạm thời dừng ở nơi chân Phật

Sáng ấy theo thừa mà biến hiện

Phải biết là vì người Thanh Văn

Nay Phật lại nói cớ mỉm cười

Mã Thắng nghe kỹ có ba thứ

Ðạo Sư phóng ra các tia sáng

Ra rồi vòng quanh nơi mình Phật

Tia sáng ra rồi đều rẽ thưa

Trở lại tụ mau quanh lưng Phật

Lần lần trở lại thêm lớn rộng

Cũng lại vòng quanh bên hữu Phật

Có sáng đầu dừng sau rộng lớn

Lần lần hữu nhiễu quanh thân Phật

Sáng ấy đều khắp hết thân Phật

Cùng đồng với thân không sai khác

Sáng ấy trang nghiêm thân tướng Phật

Rực rỡ dường như khối hoàng kim

Mâu Ni phóng sáng từ miệng cười

Phải biết sáng ấy ký quốc độ

Có sáng phóng ra như lọng báu

Che khắp trên thân đức Thế Tôn

Có sáng như hoa ở hư không

Sáng ấy chói rỡ thân Ðạo Sư

Sáng ấy tất cả đều hữu triền

Ba vòng quanh ngoài thân Nhu Lai

Phải biết sáng áy ký thọ mạng

Xuất thế đại trí hiện thoại tướng

Ba thứ mỉm cười phóng sáng áy

Thiện Thệ theo căn hiện sai khác

Nay đây Mã Thắng cần nên biết

Ðó là ba thứ nhân mỉm cười

Thế gian Ðạo Sư hiện thoại tướng

Khéo biết chúng sanh sâu tin thích

Nay ở trong pháp của Như Lai

Các ông nghe đây được trừ nghi

Tám ức chúng trời Quảng Quả đây

Hiện tiền trước Phật sâu kính tin

Nói rộng chánh pháp môn vi diệu

Ðều riêng cõi khác được thành Phật

Thọ mạng đầy đủ lâu vô lượng

Trải do tha kiếp trụ thế gian

Thế nên Như Lai hiện thoại tướng

Ánh sáng rộng lớn đủ năm màu

Chúng trời Quảng Quả thuở quá khứ

Ba mươi sáu a tăng kỳ kiếp

Thường được gặp gỡ chư Thế Tôn

Thân thừa cúng dường tu pháp lành

Lại trãi thời gian ba mươi sáu

A tăng kỳ kiếp rộng tu hành

Chư Ðại Sĩ này trụ thế gian

Cúng dường Như Lai chưa từng mỏi

Vì tư duy cứu độ các chúng sanh

Nên luôn siêng tu cúng dường Phật

Cúng dường Thế Ttôn đúng pháp nghi

Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề

Chúng trời Quảng Quả đời vị lai

Sẽ làm được Phật na la diên

Thành hiệu Mâu Ni núi công đức

Kiếp ấy hiệu là Thắng Kim Tràng

Chư Như Lai ấy đều riêng ở

Trong quốc độ trang nghiêm thanh tịnh

Phật ấy đồng hiệu Nhật Quang Luân

Ðầy đủ vô lượng khối công đức

Mỗi mỗi Như Lai đều trụ thế

Lâu đến vô lượng do tha kiếp

Chư Thiện Thệ ấy họp chúng hội

Vô lượng vô biên chẳng đếm được

Lúc mỗi mỗi Ðạo Sư thành Phật

Chỗ có hàng đệ tử Thanh Văn

Dầu Phật

ở trong do tha kiếp

Tính đếm số ấy củng chẳng hết

Nếu tất cả toán sư cùng họp

Cũng tính chẳng hết số chúng ấy

Thuở ấy chỗ có chư Bồ Tát

Số đông gấp bội chúng Thanh Văn

Thảy đều phát tâm ở Phật thừa

Nguyện sẽ thành Nhất thiết trí

Ở trong quốc độ thanh tịnh ấy

Ðều sẽ được thành Phật thập lực

Chư Bồ Tát ấy chỗ tu hành

Ðồng như Bỗn Sư không sai khác

Chư Như Lai ấy diệt độ rồi

Chánh pháp hưng thạnh ở đời lâu

Trải đến mười hai na do kiếp

Ðược chư Phật tử siêng hộ trì

Lúc pháp chư Phật ấy hưng thạnh

Kẽ phát tâm vô thượng Bồ đề

Số ấy nhiều hơn cát sông Hằng

Thảy đều siêng tu Bồ Tát hạnh

Chư Thiện Thệ ấy diệt độ rồi

Chỗ có tất cả chúng Thanh Văn

Chúng ấy thảy đều được Niết bàn

Nhiều hơn số cát nơi đại hải

Chánh pháp của chư Thế Tôn ấy

Ðầy đủ hưng thạnh nơi Thế gian

Lợi ích vô lượng các chúng sanh

Giáo pháp Phật ấy rất hưnh thạnh

Nghe Phật giải nói như vậy rồi

Tất cả đại chúng đều tin hiểu

Quyết sẽ được thành Phật Thế Tôn

Rộng làm lợi ích các quần sanh

Bấy giờ chúng hội đều mừng vui

Ðầu mặt lễ lạy chân Như Lai

Cung kính vô lượng nơi Thiện Thệ

Ðúng pháp cúng dường Thiên Nhân Sư

Thế nên hớn hở phát tinh tấn

Dường như cứu đầu đang bi cháy

Thường phải thân cận thiện tri thức

Siêng tu Bát Nhã Ba la mật

Ðây là hạnh thắng tấn thấy thiệt

Tỳ Kheo các ông phải tu tập

Sẽ thành Vô thượng Lưỡng Túc Tôn

Công đức như núi lợi thế gian”.

PHẨM TỊNH CƯ THIÊN TỬ TÁN KỆ THỨ HAI MƯƠI BA

Bấy giờ chư Tịnh Cư Thiên Tử biết vô lượng chúng sanh được an trụ Bồ Ðề ở trong Phật pháp không có nghi lự, họ đều vừa ý vui mừng đều riêng nói kệ vi diệu tán thán Phật công đức. Tín Thí Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Xả thí vợ con yêu

Và xả thân được trọng

Ðến ngôi vua của cải

Tôi lạy đấng Ðàn Ðộ”

Lạc Trì Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như Lai bổn trì giới

Tất cả không chấp trước

Ðược quả đến bờ kia

Tôi lạy đấng Giới Ðộ”

Lạc Nhẫn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Xưa Phật tu nhẫn nhục

Chịu được chặt tay chân

Lòng không hề hối não

Tôi lạy đấng Nhẫn Ðộ”

Lạc Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðấng dũng kiện bất thối

Tinh tấn có đại lực

Ðã được thượng Bồ Ðề

Tôi lạy đấng Tấn Ðộ”

Lạc Thiền Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật bổn tu thiền định

Thế gian chẳng hay biết

Tam tế được bình đẳng

Tôi lạy đấng Thiền Ðộ”

Oai Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại Hùng nơi Bát nhã

Tương tục mà tu hành

Chứng được vô tận huệ

Tôi lạy đấng Trí Ðộ”

Giới Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Bố thí và ái ngữ

Lợi hành cùng đồng sự

Tứ nhiếp độ chúng sanh

Tôi lạy đại Ðạo Sư”

Tịnh Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi đại từ bi hỉ

Ðêm dài thường tu tập

Dùng đây cứu quần sanh

Quy mạng Ðại Thuyền Sư”

Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðến được hạnh vô tranh

Ðiều tâm đại Mâu Ni

Ðiều được kẻ chưa điều

Tôi lạy Ðiều Ngự Sư”

Vô Cấu Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tâm rộng tâm nhu nhuyến

Tâm điều và các căn

Biết tâm các chúng sanh

Tôi lạy đấng biết rõ”

Tịnh Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðấng đầy đủ chánh niệm

An trị trong kiên huệ

Sáng suốt biết rõ ràng

Lạy đấng Giác Giác tha”

Trang Nghiêm Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Từ lâu tâm Phật tịnh

Cũng tịnh Phật quốc độ

Và tịnh quần sanh huệ

Tôi lạy Tịnh Pháp Vương”

Vô Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Sở nguyện không bị hoại

Sức hàng phục ma oán

Mãn túc các nguyện lớn

Vui đẹp chúng chư Thiên”

Tốc Doanh Sự Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như Lai mau biết pháp

Cũng chóng tịnh chúng sanh

Ðã thấy pháp khó thấy

Tôi lạy đấng Ứng Cúng “

Kiên Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Xứ xứ đều giải thoát

Lìa si không phiền não

Ðã đến ở bờ kia

Lạy đấng Kiên Cố Lực”

Lạc Oai Nghi Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ly dục không các lỗi

Trừ tối được lậu cận

Thắng phước điền cho đời”

Thiện Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn trụ chánh pháp

Ðược tam giới cúng dường

Một đường an ổn đi

Vì thế tôi kính lễ”

Vô Ðộng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật như núi tâm kiên cố

Chẳng bị gió làm đông

Chê khen thường bình đẳng

Vì thế tôi kính lạy”

Ðắc Bình Ðẳng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại hùng sắc thù thắng

Ðủ ba mươi hai tướng

Có trí huệ lớn sâu

Tôi lạy Ðoan Chánh Trí”

Thâm Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðấng đại thân phi thân

An trụ pháp chơn như

Nói rõ nơi thiệt tế

Thế gian không ai bằng”

Vô Ðẳng Ngại Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Cứu cánh đồng bất nhị

Dũng kiện hay phục ma

Chẳng nghi nơi nghĩa sâu

Chiếu pháp đến bờ kia“

Hỉ Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hỉ Ý bổn dũng kiện

Sở học đều thông lợi

Bỏ lìa ba cõi ấy

Như rắn thoát da cũ”

Ðịnh Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như đèn trong nhà tối

Hết dầu nên mất sáng

Người trí dứt như vậy

Do nghe Phật pháp vậy“

Trụ Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như Lai khắp quan sát

Bị dục nó trói buộc

Phật đoạn được lưới dục

Do cầm gương trí vậy”

Ða Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðịnh tâm và định hành

Ðịnh oai nghi cảnh giới

Phật diệt được phiền não

Tôi lạy đấng phục oán”

Vô Úy Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Học Phật xa ma tha

Bồ Tát được danh xưng

Vì chánh định dạo dẫn

Thành tựu định tâm Phật”

Ðịnh Thực Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tịch diệt tất cả pháp

Của Ðại Hùng diễn nói

Ðấng Ðại Trí hiểu đó

Mau thành Phật Như Lai”

Thường Quán Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thường quán các chúng sanh

Ðều theo Như Lai học

Chứng được thắng Bồ đề

Ðầy đủ trí huệ lớn”

Trì Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật trí Ba la mật

Vì Bồ tát tu học

Thành bực đại oai đức

Thấy được vô lượng pháp”

Tạo Quang Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Người được bất tư quang

Sẽ được vui vô cấu

Chỗ Như Lai chiếu thế

Ðược nghe trí cảnh giới”

Vô Cấu Quang Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Các pháp vô phân biệt

Do thiện phương tiện vậy

Tu tập trí như vậy

Nên thành Diệu Trượng Phu”

Vô Sở Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vô trụ không xúc nhiễu

Các pháp không chỗ thấy

Chẳng thấy có tự tha

Phật y chơn thiệt thấy”

Trạch Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Các Pháp không quật trạch

Ðạo Sư thấy như vậy

Vì chúng sanh mà nói

Tùy thuận lấy pháp tướng”

Vô Y Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Các pháp vô sở y

Xa lìa nơi bỉ thử

Như Lai hiển hơn thiệt

Như am la trong tay”

Hư Không Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết pháp như hư không

Chẳng sanh cũng chẳng diệt

Phật thấy pháp như vậy

Nên lìa được thế gian”

Vô Tích Tụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Không cầu cũng không mạn

Không giác không bất giác

Y chơn không tụ tánh

Là Phật thấy thế gian”

Tu Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như nhà ảo thuật giỏi

Ảo hóa các thứ vật

Chẳng thiệt mà thấy thiệt

Nên Phật không ai bằng”

Hỉ Ngộ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như hình tượng trong gương

Dầu thấy mà chẳng thiệt

Phật thấy pháp như vậy

Chẳng mẻ nơi thế gian“

Trừ nghi Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật như vang theo tiếng

Các pháp cũng như vậy

Nói nghe đếu chẳng thiệt

Là Phật thấy thế gian”

Vô Ngại Biện Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Người an trụ chánh pháp

Biện tài thuyết thâm diệu

Từ lâu Phật chứng pháp

Nên đầy đủ biện tài”

Vô Chướng Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Y chơn không tự tánh

Tất cả pháp như vậy

Như Lai biết như vậy

Nên trừ được tối tăm”

Vô Ưu Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Không ưu cũng không não

Không tránh không nhiễu trược

Các pháp không cấu nhiễm

Phật thấy tánh chơn thiệt “

Hành Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Không lai cũng không khứ

Các pháp vô sở hữu

Như Lai chơn thiệt thấy

Vì đời nói như vậy”

Thắng Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Không nhiễm cũng không tịnh

Chẳng ngu cũng chẳng trí

Các pháp không năng sở

Phật thấu biết như thiệt”

Ðắc Vô Ngại Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng sáng cũng chẳng tối

Chẳng sắc chẳng phi sắc

Chẳng được chẳng giải thoát

Phật huệ như thiệt thấy”

Dũng Mục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng cuộc cũng chẳng khắp

Chẳng không cũng chẳng có

Như mộng thọ ngũ dục

Phật thấy pháp như thiệt”

Bất Thuấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng sanh cũng chẳng diệt

Chẳng dừng ở trung gian

Mê đó là vô trí

Chỉ Phật thấy chơn thiệt”

Trụ Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng nhân chẳng chúng sanh

Chẳng dụng chẳng của đời

Theo thuyết nên có dụng

Phật hay thấy chơn thiệt “

Trụ Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tất cả pháp được dùng

Nó đều không có tướng

Các pháp tánh tướng ly

Ðạo Sư thấy như vậy“

Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Do pháp không vô tướng

Thế nên chẳng khởi nguyện

Giả đặt có nguyện cầu

Chỉ Phật biết như thiệt”

Tam Muội Lưu Chú Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðã được môn giải thoát

Không có người giải thoát

Phiền não gốc cũng không

Phật thấy tánh chơn thiệt”

Vô Hủy Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Lìa bỏ tất cả ác

Họp những khối công đức

Nên Phật không bị chê

Cũng không có sự chê”

Ðiện Vân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Dường như mây sấm chớp

Mưa xuống khắp mặt đất

Phật tuôn mưa chánh pháp

Sung túc các quần sanh"

Bất Ðường Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Lời của Phật vô thượng

Hay chuyển chánh pháp luân

Sáng thấu lý pháp sâu

Ðầy đủ Nhất thiết trí"

Cụ Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Không sanh cũng không diệt

Các pháp tự tánh không

Vì Như Lai khéo biết

Nên dạy lại mọi người"

Sư Tử Hống Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai sư tử hống

Lúc di n nói pháp không

Ngoại đạo đều kinh sợ

Như thú sợ sư tử"

Nghiệp Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Hiện tiền không phóng dật

Phật tu thành Bồ đề

Ðạo Sư nơi chánh pháp

Không dật đến bờ kia"

Trụ Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán:

"An trụ chẳng phóng dật

Tăng ích Phật chánh pháp

Thập lực cũng công hạnh

Phật pháp bất tư nghị"

Vô Phóng Dật Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Hội nơi không phóng dật

Trợ đạo được sanh thiên

Dùng đây cứu quần sanh

Phật cũng tự giải thoát"

Thành Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Không dật được thành tựu

Các cõi nương giải thoát

Thanh văn và Bồ tát

Ðều từ đây mà học"

Bất Dật Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Bao nhiêu các Phật tử

Thường hành chẳng phóng dật

Hay được Nhất thiết trí

Vì khéo quán thế gian"

Vô Dật Hộ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Lúc Phật tu Bồ đề

Thủ hộ chẳng phóng dật

Ðến được thắng Bồ đề

Vì đại bi trang nghiêm"

Trụ Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nếu trụ chẳng phóng dật

Giản trạch pháp nhất tướng

Phật tử đại dũng kiện

Sẽ được sự nghiệp cha"

Lạc Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Dũng kiện ưa chẳng dật

Hay phá núi phiền não

Ðây đồng dùng Phật trí

Mau dứt khối cao mạn"

Kiên Trì Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thủ hộ không phóng dật

Xưa cầu Nhất thiết trí

A tăng kỳ ức kiếp

Phật tâm không mỏi mệt"

Xa Ma Tha Hiện Tiền Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Pháp tánh tự tịch diệt

Là cảnh giới chư Phật

Người trí y đó trụ

Hay đến thẳng Bồ đề"

Y Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chư Phật y xa ma

Y mà chẳng thủ trước

Chúng sanh phiền não diệt

Như mưa sạch bụi dơ"

Trụ Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chư Phật trụ xa ma,

Bất động như Thái Sơn

Thiên ma chẳng hoại được

Tâm tịch nên tôi lạy"

Xa Ma Tha Ðiều Phục Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Xa ma chỗ điều phục

Phật tử không chê bai

Ức ma chẳng động được

Ly dục như La hán"

Tu Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại hùng xưa lúc tập

Xa ma tha đại định

Không ai biết tâm Phật

Y đâu được thiền định"

Xa Ma Tha Thượng Thủ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật chuyển chánh pháp luân

Liền được xa ma tha

Pháp khác đều y đó

Vì thế được Bồ đề"

Lưu Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật nói xa ma tha

Ðây là lồng lưới tâm

Chúng sanh xa ngục mê

Phật dạy hàng phục tâm"

Xa Ma Tha Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chư Phật diệu cảnh giới

Ðó là xa ma tha

Tu đây được vô ngại

Thành tựu đại Ðạo Sư"

Mãn Túc Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Dùng thiền sung mãn tâm

Rồi lại tu tập huệ

Nên Phật được Bồ đề

Lại hay an chúng sanh"

Trọng Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chẳng thấy có đạo khác

Chỉ ở trong Phật pháp

Chứng được đại trí huệ

Thành bực Vô Thượng Sĩ"

Hân Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật y tỳ xá na

Hay thấy tất cả pháp

Bồ tát tùy thuần học

Thành tựu tự nhiên trí"

Sanh Tỳ Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Vì đến trí bờ kia

Nên thành đại Y Vương

Hiển thị bốn chơn đế

Ðều do tỳ xá na"

Trụ Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Trụ tì bà xá na

Như thiệt biết các pháp

Dũng kiện chứng Bồ đề

Hay thành đại Ðạo Sư"

Tu Tận Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại Sĩ dùng trí huệ

Tu tập thắng Bồ đề

Chẳng sanh cảnh giới thức

Thành tựu đại Ðạo Sư"

Lạc Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người trí y chơn thiệt

Quan sát pháp như đây

Hay được quả vô đẳng

Thành Phật hiệu Ðạo Sư"

Cần Tập Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Do siêng tu trí huệ

Hay lập các khổ hạnh

Kia thành khó hàng phục

Chẳng bị tà đạo hoại"

Tì Bà Xá Ma Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Bao nhiêu các Phật tử

Do quan sát pháp tướng

Biết pháp tướng ấy rồi

Thành tựu Ðiều Ngự Sư"

Tu Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai nơi đêm dài

Tu tập thắng trí huệ

Hay thành Nhất thiết trí

Ðộ thoát vô lượng chúng"

Thù Thắng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật tu Nhất thiết trí

Thành tựu đại Ðạo Sư

Dùng pháp cứu thế gian

Vượt khỏi dòng nước xiết"

Trụ Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Trụ tì bà xá na

Quan sát tất cả pháp

Xuất sanh các Phật pháp

Ðất sanh cây Ni câu"

Trì Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn các Phật tử

Nhiếp thọ thắng trí huệ

Ðược thượng Bồ đề rồi

Hay độ các chúng sanh"

Du Hí Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Du hí nói các pháp

Ðược Phật vô sở úy

Không khiếp cũng không sợ

Thắng trí đại mâu ni"

Tùy Thuận Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại hùng nơi các pháp

Ðều hội tì xá na

Quan sát không tự tánh

Ðây là Phật Bồ đề"

Tì Bà Xá Na Kiên Cố Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chư Phật trí kiên cố

Nói pháp không chỗ sợ

Xem thấy quần sanh khổ

Hay khởi đại bi tâm"

Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Do trí đến Bồ đề

Có trí hay khéo học

Phật được thắng Bồ đề

Ðộ thoát các chúng sanh"

Tu Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập nói pháp không

Người trí ngộ Bồ đề

Phá hoại các lao ngục

Cũng độ kẻ bị trói"

Giải Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Vì Thế Tôn giải không

Nên chẳng thấy thân mạng

Không duyên không tự tánh

Y đây vì đời nói"

Không Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Cảnh giới của chư Phật

Các pháp tánh tự không

Ðại Hùng học trong đó

Vì thương cứu chúng sanh"

Tín Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai lìa xú uế

Bố úy khỏi đã lâu

Chẳng trước ở các pháp

Như gió không tựa đâu"

Lạc Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người tu tập pháp không

Hay ưa cảnh giới Phật

Tức là cúng dường Phật

Cũng thành vô thượng cúng"

Không Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Do tu tập pháp không

Ðạo Sư hay kiến lập

Thông đạt pháp không rời

Thành tựu Thế Gian Giải"

Hướng Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật biết không một pháp

Chẳng là Niết bàn ấy

Các pháp đến Niết bàn

Ðây là Phật Bồ đề"

Không thành Tựu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðã được không tịch định

Phật tử được thành tựu

Chúng ấy cúng dường Phật

Là người tu pháp không"

Thú Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Bao nhiêu người quy không

Có trí chẳng ngu si

Vô trược đoạn phiền não

Ly cấu được Bồ đề"

Mãn Túc Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật pháp được mãn túc

Thành tựu khó hàng phục

Bao nhiêu người tu không

Hay lợi ích thế gian"

Trụ Không Thiên Tử nói kệ tán thán:

"An trụ trong Phật pháp

Người hay tu không trí

Vô lượng các ma chúng

Chẳng động được chúng ấy"

Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Mừng ưa nơi vô tướng

Chẳng trước trong hữu tướng

Giản trạch các pháp rồi

Phật hay siêu thế gian"

Vô Tướng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Lúc tập hành vô tướng

Thanh tịnh tịch diệt hạnh

Ly tướng chúng sanh thảy

Ma chẳng biết chỗ họ"

Vô Tướng Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Vô tướng Phật cảnh giới

Như Lai tu trong ấy

Vô tướng khó chứng hiểu

Tôi lạy đấng định hành"

Khát Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tất cả đại chúng đây

Khát Ba pháp vô tướng

Mong cầu Phật Bồ đề

Cúng dường Thiên Nhân Sư"

Tu Vô Tuớng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai nơi vô tướng

Ngày đêm thường tu hành

Trời Người và quỉ thần

Chẳng biết chư Phật đến"

Vô Tướng Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại Hùng trụ vô tướng

Tư lương tất cả pháp

Ðạo Sư chỗ tu học

Vì thế tôi kính lạy"

Vô Tướng Du Hí Thiên tử nói kệ tán thán:

"Ðại từ hiện du hí

Thượng y pháp vô tướng

Vì thành thục chúng sanh

An trụ trong Phật trí"

Vô Tướng Thành Tựu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người khéo tu ly tướng

Hay được Phật Bồ đề

Cũng hay cúng dường Phật

Như con kính mến cha"

Cửu Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người mến Phật chánh pháp

Tức là tháp chúng sanh

Bao nhiêu người ly tướng

Ðược ở chỗ của Thầy"

Vô Tướng Ðạo Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chúng sanh những chỗ về

Y đạo được tế độ

Vô trước tịch diệt hạnh

Như Lai tối vô thượng"

Tín Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người tin hiểu vô tướng

Tịch diệt lìa các oán

Tôi lạy tất cả Phật

Ðấng tự độ độ người"

Thú Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn có những nguyện

Cầu tìm bất khả đắc

Chúng ấy lìa sở tác

Là Phật xuất thế gian"

Tu Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nơi có chẳng khởi nguyện

Tu hành tâm tịch diệt

Dứt trừ dây khát ái

Là Phật lìa thế gian"

Vô Nguyện Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người được đại tinh tấn

Nơi có lìa khát ái

Những Như Lai tử ấy

Ðều lạy cha của mình"

Tùng Vô Nguyện Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chúng ấy chẳng khởi nguyện

Nơi có mà phá có

Dứt rời được dây ái

Phật tử lìa chê bai"

Vô Nguyện Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Vô nguyện được giải thoát

Chẳng cầu lìa trói buộc

Buông bỏ chẳng khởi nguyện

Phật tử giữ oai đức"

Xuất Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Xuất ly đồng hoang ưu

Nhổ đứt gốc ái nhiễm

Chúng ấy lạy Như Lai

Ðồng trừ được đói khát"

Tất Ðịnh Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người khéo biết hữu khổ

Biết thế lạc hư vọng

Phật là cha chúng ấy

Họ là con Ðại Sư"

Hướng Vô nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người nơi hữu thấy khổ

Người ấy được điều phục

Tôi lạy khéo điều phục

Phá hữu Ðiều Ngũ Sư"

Siêu Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Vượt khỏi đồng hoang hữu

Ðược ở chỗ an ổn

Khắp lạy đại Ðạo Sư

Ðã phục phiền não oán"

Bị Vô Nguyện Khải Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chiến thắng phá oán địch

Kẻ tối cường khó phục

Hàng các ma chúng rồi

Dũng kiện chẳng cầu hữu"

Vô Nguyện Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại lực nơi giải thoát

Dứt được các dây ma

Các hàng Phật tử Này

Xem ma như cỏ nhỏ"

Quán Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Các hữu quán thân Này

Họ hay mến Phật pháp

Không thân không tác giả

Chúng ấy tùy thuận pháp"

Niệm Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Suy niệm nơi thân này

Dơ nhớp không thanh tịnh

Ðã biết thân như thiệt

Kính lạy đại Ðạo Sư"

Yểm Hoạn Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Buộc niệm nội nơi thân

Xem thấy tướng bất tịnh

Họ lìa được thân khổ

Ðiều phục nên kính lễ"

Xả Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Bỏ thân máu mủ Này

Như rắn thoát da cũ

Kính lạy nơi phi thân

Là thân đại Như Lai"

Yểm Ố Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chán ghét thân máu mủ

Chẳng sạch rất hôi dơ

Bỏ thân bất tịnh Này

Quy kính Thiên Nhân Sư"

Hoạn Thân Bì Lao Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thân hư rã đáng sợ

Phật tử cầu thanh tịnh

Chúng ấy đều lạy Phậ

Ðược tu thân chánh pháp"

Bố Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Xem biết tứ đại Này

Dường như rắn độc ác

Chúng ấy vượt khỏi thân

Kính lạy đại Ðạo Sư"

Kiến Thân Quá Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Hiện tiền thấy thân lỗi

Là đượcc mắt trí tuệ

Chiếu rõ ba kiếp Này

Người trí y Phật huệ"

Bất Lạc Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Những ai chẳng ưa thân

Chẳng dựa ở pháp tướng

Không mắc nơi kiết sử

Chúng ấy lạy Ðiều Ngự"

Ư Hữu Khởi Oán Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nơi hữu tướng oán thù

Tu quán phá các hữu

Phật tử học như vậy

Sanh trí ngộ Bồ đề"

Hoại Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nơi hữu thấy lỗi rồi

Biết được diệt vô úy

Phật tử siêng cầu đạo

Ðược hưởng di sản cha"

Khí Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu học bỏ các hữu

Thích ở đại Niết bàn

Tâm định lìa kiết sử

Tôi lạy đại Ðạo Sư"

Ðoạn Hầu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Dứt trừ gốc rễ hữu

Chiếu suốt cõi Ðại Thiên

Các con của Thế Tôn

Sở học đều thông lợi"

Ðộ Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðã qua khỏi biển hữu

Cứu tế kẻ cô độc

Ở trong ba cõi Này

Chúng ấy chẳng tại số"

Phá Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật tử người hành đạo

Phá được hết tam hữu

Họ đã cúng dường Phật

Vì giáo hóa chúng sanh"

Ư Hữu Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Giải thoát được dòng hữu

Cứu cánh trụ hậu tế

Ðại Hùng xuất thế gian

Kính lạy đấng đoạn hữu"

Diệt Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Diệt trừ gốc rễ hữu

Khỏi hữu đến bờ kia

Ðã đoạn nơi hậu thế

Thế gian không bằng Phật"

Trụ Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai trụ hậu tế

Tịch diệt đến bỉ ngạn

Nhất thiết trí độ hầu

Giác ngộ người chưa ngộ"

Ư Hữu Trụ Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật trụ nơi hậu tế

Nói rõ nhân ba hữu

Chẳng thấy có kiết sở

Sau được chẳng sanh hữu"

Ðắc Diệt Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Biết hữu không tịch rồi

Mở được nhân ba hữu

Tinh tấn chẳng khiếp nhược

Tôi lạy đấng bình đẳng"

Ðộ Hữu Ðáo Bỉ Ngạn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Khỏi hữu đến bờ kia

Nhổ trừ nguồn gốc hữu

Cứu độ các quần sanh

Ðạo Sư thương tất cả"

Ư Thọ Vô Não Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nơi thọ không cống cao

Không tư cũng không lự

Thiền sự đều hiểu biết

Xem thọ như bóng nước"

Giải Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai biết các thọ

Bổn Lai không tự tánh

Chỉ phàm phu chấp trước

Như mộng thọ dục lạc"

Quán Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Có trí quán các thọ

Hay được nói thiện đạo

Chẳng sanh thọ vị lai

Như vậy thấy Ðạo Sư"

Ly Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Năng thọ và sở thọ

Phật thấy không tự tánh

Liền nói cho chúng sanh

Câu thậm thâm khó biết"

Quyết Ðịnh Tri Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Các thọ chỉ thế đế

Trong nhất nghĩa không có

Như Lai nói chơn thiệt

Trừ dứt nghi thế gian"

Thiện Giải Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn khéo biết thọ

Dường mây trong hư không

Ai mê người vô trí

Riêng có Phật thiệt hiểu"

Thông Ðạt Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai đạt các thọ

Hiểu thọ đến bờ kia

Biết thọ không ngã sở

Thuyết pháp là tối thượng"

Ðộ Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn lâu đã khỏi

Biển ba thọ khó qua

Bỏ rời bùn lầy xấu

Phật trí hiện vô thượng"

Ðoạn Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðạo Sư nơi các thọ

Biết rõ xuất thế gian

Lìa khỏi bùn ô nhiễm

Chẳng trước chấp các hữu"

Tư Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai niệm các thọ

Do thọ mà đời khổ

Chúng sanh phiền não trói

Phật trí chơn thiệt tánh"

Giải Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật tâm phục phiền não

Cũng hàng các ma oán

Y chơn không bị phá

Nên Phật hiệu Mâu Ni"

Thức Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật biết rõ tâm tưởng

Như nhà ảo thuật giỏi

Thuật ra các thứ hình

Nên Phật hiện Ứng Cúng"

Tâm Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại Hùng đã tu hành

Dứt được tâm sở duyên

Ức kiếp a tăng kỳ

Tâm tánh bất khả đắc"

Nhiếp Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tháo động khó điều phục

Không thể mà ở hang

Phật đoạn tâm tốc tật

Nên được thọ cúng dường"

Giảng Trạch Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật đã giảng trạch tâm

Chúng sanh bị tâm trói

Phật biết được chơn thiệt

Như ảo sư dạy con"

Tu Tâm Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Sở hành tâm cảnh giới

Ðạo Sư quyết định thấy

Như mộng thọ ngũ dục

Làm mê kẻ ngu si"

Tâm Tự Tại Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðiều phục tác nghiệp rồi

Tâm không phân biệt sự

Như Lai thấy tâm tướng"

Tâm Dũng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nói rằng người tâm dũng

Hay phá chúng ma quân

Người dùng tâm thấy tâm

Quán tâm chẳng mỏi mệt"

Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai quán chúng sanh

Người kiến lập nơi pháp

Dùng tâm biết được tâm

Họ là chơn Phật tử"

Ðịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Những người phục được tâm

Họ hay hành tịch diệt

Người ấy lìa trói buộc

Chẳng bị ma làm não"

Nhu Nhuyến Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tâm dũng kiện nhu nhuyến

Ðiều phục các chúng sanh

Những người ưa Phật pháp

Chẳng chấp trước dục lạc"

Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thiện tâm thích thanh tịnh

Suy gẫm mà tác nghiệp

Nghe Phật Chánh pháp rồi

Không còn nghi nghĩa sâu"

Trụ Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người tâm xu hướng pháp

Rất thích chẳng lui mất

Họ là chơn Phật tử

Ðã đến chỉ điều phục"

Tư Duy Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tư duy nơi pháp giới

Cảnh giới nơi cảnh một

Nhất pháp giới thanh tịnh

Là chỗ học của Phật"

Pháp Giới Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Pháp giới được kiến lập

Là tâm đại từ bi

Trụ được trong nhất tướng

Họ là chơn Phật tử"

Pháp Giới Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn nói pháp giới

Ðó là các Phật độ

Ðại sĩ chỗ sở hành

Trí ấy bất tư nghì"

Pháp Giới Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Pháp giới chỗ xuất sanh

Trí ấy khó nghĩ bàn

Chẳng nghi Phật pháp sâu

Cũng biết các căn tánh"

Nhập Pháp Giải Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người nhập thâm pháp giải

Hiểu pháp không gì bằng

Trí lực bất tư nghì

Cũng được các điều nguyện"

Pháp Giới Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðã được pháp vô úy

Là trụ chỗ an ổn

Có được sức biện tài

Không ai sánh bằng được"

Thiện Giải Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai hiểu pháp giới

Cũng đạt nhất thiết trí

Thị hiện tướng pháp giới

Như am la trong tay"

Trụ Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn trụ pháp giới

Thấy pháp chơn thiệt tánh

Chẳng y cũng chẳng ly

Chẳng thủ cũng chẳng xả"

Pháp Giới Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Như Lai hành pháp giới

Tịch tĩnh như hư không

Cảnh giới Ðại Mâu Ni

Kính lạy từ bi phụ"

Quy Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Theo nhiều thứ pháp môn

Thế Tôn nói pháp giải

Trong các pháp môn ấy

Không tâm cũng không sắc"

Pháp Giải Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn nói tinh tấn

Biết được nơi pháp giải

Nhân vì tu tinh tấn

Giác trí đến bờ kia"

Pháp Giới Sung Mãn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ðại từ dùng chánh pháp

No đầy các thế gian

Người biết được pháp giới

Thì được trụ Bồ đề"

Triệt Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán ;

"Thế Tôn suốt thâm pháp

Nên hay quán thế gian

Biết rõ pháp giới rồi

Tôi lạy Thiên Nhân Sư"

Trụ Trí Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Xứ ấy trên tất cả

Trí Như Lai chứng được

Pháp giới và mười phương

Chỗ đi của Ðạo Sư"

Trụ Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Pháp giới là trụ xứ

Ðường được đi của trí

Trọn tất cả các pháp

Ðều hiểu là một tướng"

Tri Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế Tôn biết pháp giới

Ðã làm một tướng tu

Chúng sanh các dục tánh

Phật cũng đều biết rõ"

Xuất Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Lấy được Nhất thiết trí

Gọi là hàng Phật tử

Ở chỗ pháp giới Này

Chỉ trí biết được thôi"

Học Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người tu tập pháp giới

An trụ trong Bồ đề

Thấu được chỗ tự nhiên

Mau thành Phật Như Lai"

Phi Xứ Học Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Người được thấy phi xứ

Hay thich Như Lai giáo

Ngàn ức chúng ma quân

Chẳng mê hoặc được họ"

Tri Phi Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thấy biết được phi xứ

Người trí được mừng vui

Chúng tôi tu chánh giác

Ức ma chẳng động được"

Thâm Mật Xử thiên Tử nói kệ tán thán:

"Khéo học chỗ thâm trí

An trụ trong chánh pháp

Cưỡi được ma Ba Tuần

Như xe đóng ngựa thuần"

Thiện Phi Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phi xứ thiện pháp giới

Tập học nơi nhất tướng

Nếu ma mà não được

Phật nói không hề có"

Trụ Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thị xứ và phi xứ

Chỉ bày người ngu si

Như Lai tự giác rồi

Lời nói dạy chúng sanh"

Thiện Thủ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nhân ấy lấy được sự

Và tác nghiệp thuở xưa

Chỗ nhân ấy tu nghiệp

Thế Tôn đều biết rõ"

Xảo Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tham dục và khuể si

Phật cũng biết nghiệp nhân

Là nhân là nghiệp ấy

Như Lai đều biết rõ"

Tri Ðương Lai Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Biết đời đương lai ấy

Chúng sanh sở tác nghiệp

Nhân ấy sở tác nghiệp

Xứ ấy Phật biết rõ"

Tư Hiện Tại Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Khắp đến mười phương cõi

Chúng sanh nghiệp và nhân

Xứ và nhân nghiệp sự

Ðạo Sư đều biết rõ"

Lực Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Hoặc nghiệp hoặc là nhân

Xứ sở và xuất sanh

Như Lai đều biết rõ

Nên hiểu Thiên Nhân Sư"

Lạc Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nhân nghiệp và xứ sở

Trong quả báo ba cõi

Kia có sự sở tác

Như Lai đều biết rõ"

Lực Chư Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nhân nghiệp sở tác sự

Báo nhân và nhân duyên

Xứ sở tánh tự ly

Là chỗ Phật không có"

Lực Cát Tường Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nhân nhiệp sở tác sự

Xứ nhân duyên thế đế

Quả báo được thọ dụng

Phật biết nó đều không"

Lục Duyệt thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nhân nghiệp sở tác sự

Chỗ nhân duyên tục đế

Phật tự biết rõ rồi

Nói nó không tự tánh"

Lực Du Hí Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nhân duyên sở tác sự

Xứ nhân duyên thế đế

Chẳng do tự tha sanh

Phật biết từ duyên khởi"

Lực Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nếu những nhân duyên nghiệp

Và quả báo chỉ được

Thể tánh nó đều không

Phật nói như sư tử"

Tùy Thuận Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nếu dùng nghiệp nhân duyên

Tăng trưởng các quả báo

Ðấng Lượng Túc biết rõ

Vì thế Phật vô thượng"

Thuận Hành Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập pháp giới ấy

Tạo tác những nghiệp ấy

Sẽ lại được quả ấy

Phật nhãn thấy biết rõ"

Lực Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập pháp giới ấy

Thành tựu tánh như vậy

Phật biết các chúng sanh

Như nhìn năm ngón tay"

Lực Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập pháp giới ấy

Lại gặp bạn như vậy

Thân cận nhau như vậy

Thắng trượng phu biết rõ"

Lực Gia Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Gia trì nói pháp giới

Ðạo Sư biết rõ cả

Thân cận nơi các bạn

Thế Tôn đều soi thấy"

Quyết Ðịnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Giới ấy yếu kỳ ấy

Bạn ấy tương ưng ấy

Phật đều quyết định biết

Nên trừ được nghi hoặc"

Chánh Ðịnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Giới ấy tương tục ấy

Tùy chỉ ở thế gian

Chỉ làm và chỉ được

Thắng Nhân đều biết rõ"

Học Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Ở trong các giới ấy

Ðạo Sư trí biết rõ

Trí ấy thể tánh không

Thắng trí mới nói vậy"

Thừa Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập pháp giới ấy

Tùy thời cơ ở đời

Phật đều biết như thiệt

Nên hiệu Vô Tỷ Thân"

Tùy Thuận Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập pháp giới ấy

Tùy chỗ được công đức

Y nhân và quả báo

Phật đều biết không dư"

Cộng Giới Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tùy chỗ tu pháp giới

Tùy đạo kia được hướng

Phật đều biết không thừa

Nên được người trí kính"

Trí Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tùy pháp giới tu tập

Tùy đạo ấy được hướng

Phật biết chúng sanh hành

Nên hiệu đấng học trí"

Hành Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chánh định và tà định

Cùng bất định chúng sanh

Ở trong ba khối này

Phật quyết định biết được"

Thừa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nếu chánh định chúng sanh

Người kham đến Niết bàn

Phật là mặt nhật sáng

Soi đời trí vô ngại"

Giải Thoát Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nếu có những chúng sanh

Trụ nơi khối bất định

Ðọa trong các ác đạo

Phật cũng dạy Niết bàn"

Lực Kỳ Hội Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật ấy chỉ giả danh

Lực trí cũng như vậy

Và tứ vô úy thảy

Chỉ có nghe ngôn thuyết"

Kiến Thiệt Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Không Phật không Phật pháp

Cũng không khối trí khác

Hiển thị nghĩa đệ nhất

Như Lai biết như thiệt"

Lực Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Trụ nơi sức Phật pháp

Nhân đây được vô úy

Tự tại tùy sở dục

Ðều là hàng Phật tử"

Pháp Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thế đế và chơn đế

Hiển thị hai đế Này

Ở trong chơn đế ấy

Ngôn thuyết bất khả đắc"

Trí Tôn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Pháp ngôn thuyết đều khác

Pháp tướng cũng sai khác

Ngôn thuyết ấy vô tướng

Phật biết pháp tướng ấy"

Hành Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phi xứ chúng bất định

Hoặc hướng đến dị đạo

Tà định tất cả xứ

Mâu Ni đều biết rõ"

Tín Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Tu tập nơi giới ấy

Như khởi tâm tin ưa

Thấy tham cho là sạch

Mâu Ni đều biết rõ"

Bất Tịnh Thừa Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chẳng thiệt vọng phân biệt

Tăng trưởng tham dục giới

Tin thì đi đạo ấy

Mâu Ni biết như thiệt"

Từ Thừa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chẳng thiệt vọng phân biệt

Tăng trưởng sân khuể giới

Tin thì đi đường ấy

Mâu Ni biết như thiệt"

Thừa Nhân Duyên Ðạo Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chẳng thiệt vọng phân biệt

Tăng trưởng ngu si giới

Tin thì đi đường ấy

Mâu Ni biết như thiệt"

Thùa Xả Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Có người sợ chẳng sống

Tăng trưởng lòng tật đố

Tin thì tập làm theo

Mâu Ni biết như thiệt"

Tập Cận Thiên tri Thức Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Gần bạn tốt bạn xấu

Trở lại tăng tịnh tín

Hoặc lại tăng ác nghiệp

Mâu Ni biết như thiệt"

Thức Kiên cố Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Lưu chuyển trong thế gian

Tùy giải được tu tập

Tùy thuận tin theo đó

Phật biết rõ không dư"

Hành Kiên cố Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Lưu chuyển nơi sanh tử

Tu tập hạnh như vậy

Tùy thuận tin nơi ấy

Phật biết rõ không dư"

Tín Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nếu có những chúng sanh

Tùy giới được tu tập

Phật đều biết rõ cả

Nên hiểu Trí Vô Ngại"

Căn Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Phật biết rõ các căn

Tùy theo phương tiện khởi

Phan duyên và cảnh giới

Tùy chỗ nhập như sanh"

Thừa Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Thân bị khổ bức bách

Do tham trước khát ái

Ðoạn diệt những khát ái

Chỉ Phật trí hơn cả"

Căn Cảnh Giải Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Dạy chúng sanh hạ căn

Xa lìa nơi sắc ái

Dạy lợi căn quán sát

Là lời dạy của Phật"

Căn Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Hạ căn trụ không nhàn

Diệt được các tham dục

Chánh quán nơi khát ái

Lưỡng Túc Tôn biết rõ"

Căn Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Nơi ái dục khởi trước

Phật quán vô sở đắc

Tri vô tri đều diệt

Nên gọi là thắng căn"

Bất Ly Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Xa lìa chẳng giận hờn

Là lìa đối trị sân

Là hạ căn sở hành

Phật biết chúng sanh dục"

Tín Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Hành từ trừ sân khuể

Hay khởi trí chúng sanh

Họ diệt được sân khuể

Thế Tôn đều biết rõ"

Cầu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

"Chẳng sân không lỗi ác

Hành từ tánh tịch diệt

Tịnh uế bất khả đắc

Nên hiệu Thiên Nhân Sư"

Căn Thuận Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hành nơi tà phân biệt

Vì người nói tà hạnh

Mê nặng không phương tiện

Phật thấy nên giải thoát”

Trí Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tham sân si phiền não

Thủ trước nơi sự việc

Trái nó thì được trí

Vô Thượng Sĩ biết rõ”

Ly Trí Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tham sân và ngu si

Cùng cảnh sự sáng tối

Tánh nó bất khả đắc

Ðấng Lưỡng Túc biết rõ”

Trì Oai Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chúng sanh chỗ được trí

Tùy được trí nhiều ít

Theo đó thành trí khí

Ðức Như Lai biết rõ”

Cầu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Dùng trí biết nơi trí

Xa lìa các phiền não

Thiên Nhân Sư biết rõ

Nên tôi cúi đầu lạy”

Nhất Hướng Lạc Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quốc độ và thời tiết

Quan sát pháp phương tiện

Phiền não uế và tịnh

Phật biết nó đều không”

Trí Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chúng sanh căn dục tín

Thượng trung hạ sai biệt

Phược giải và trí huệ

Ðều thấy vô giác tri”

Căn Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Các căn thượng trung hạ

Phiền não trí và thọ

Ðiều phục chẳng điều phục

Phật nói đều vô tướng”

Tu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thiền giải thoát phiền não

Chánh thọ tam ma đề

Khởi thanh tịnh chúng sanh

Như Lai đều biết rõ”

Lực Tốc Tật Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì được thiền tịch diệt

Nơi các pháp tự tánh

Thảy đều biết rõ được

Nên hiệu Nhất Thiết trí”

Lục Khải Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu pháp và tự tánh

Nói được nơi pháp Này

Ðược như thiệt chánh thọ

Thì chẳng trước ba cõi”

Lạc Thực Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phiền não tà phân biệt

Phát sanh ra bốn thứ

Biết được nghiệp chỗ sanh

Nên hiệu đấng Vô Tỉ”

Tri Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết được pháp thanh tịnh

Ðối trị các phiền não

Hay tuyên nói nơi nghiệp

Nên hiệu Phật Vô Tỉ”

Lực Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi thiền giải thoát khởi

Tam ma đề chánh thọ

Phiền não và thanh tịnh

Phật đều nói hư giả”

Lực Sanh Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thiền giải thoát thanh tịnh

Tam muội và chánh thọ

Từ bất phóng dật sanh

Nơi đây Phật biết rõ”

Lực Tăng Trưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại hùng ở trong đây

Ðược nơi thiền khắp chuyển

Biết nhập xả vô ngại

Như gió thổi hư không”

Tri Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi vô số ức kiếp

Ở nơi trong các cõi

Chẳng bị lỗi ô nhiễm

Nên hiệu Thắng Trượng Phu”

Trụ Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi vô số ức Phật

Ðã từng tu cúng dường

Vì cầu đạo vô thượng

Do đó tôi quy y”

Kiến Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Từng ở đời quá khứ

Nhiều thứ cúng dường Phật

Nơi các thứ biện tài

Thế Tôn đều được cả”

Tiền Tế Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Xưa lưu chuyển thế gian

Như pháp học như hành

Từng thấy vô lượng Phật

Nên sâu hiểu được Pháp”

Học Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chỗ chư Phật Pháp Vương

Ðại Hùng xưa tu hành

Ở bên Phật học rồi

Nên lạy đấng Biến Tri”

Bổn Phương Tiện Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi vô lượng ức kiếp

Vô biên chư Phật hành

Tu hành thắng tinh tấn

Vì cầu Phật trí vậy”

Bổn Phương Tiện Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tất cả pháp quyết định

Nhiều ức kiếp quan sát

Tất cả pháp không nhập

Chỉ nói duyên hòa hiệp”

Tư Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi vô lượng ức kiếp

Ðạo Sư từng tu hành

Biết nơi xứ phi xứ

Nên hiện Thế Gian Giải”

Giảng Trạch Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Trụ nơi xứ phi xứ

Quan sát nơi nghiệp nhân

Giới căn thiền giải thoát

Phật đều biết rõ hết”

Quan Sát Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quá khứ từng quan sát

Tăng trưởng sức trí huệ

Thập Lực đại hùng mãnh

Dùng trí quán thế gian”

Tiền Tế Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại Hùng bổn tu hành

Biết tất cả chúng sanh

Tịnh hành bất tịnh hành

Nên trị được chúng sanh”

Quan Sát Tiền Tế Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Trước quán nơi chúng sanh

Quá khứ chỗ sở hành

Tin ưa và cùng giới

Rồi sau trị chúng sanh”

Tín Lực Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nay tôi tin Như Lai

Bất khả tư nghị kiếp

Quan sát bổn sở hành

Tâm đều vô sở trước”

Trí Tín Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi vô số ức kiếp

Suy Phật xưa sở hành

Không một ai có thể

Lường công đức Như Lai”

Quán Hậu Tế Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như Lai dùng Phật nhãn

Quán chúng sanh mười phương

Sơ sanh và già chết

Nhiều thứ nghiệp tương ưng”

Học Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu nhân và với nghiệp

Tùy xu hướng Phật đạo

Mâu Ni đều biết hết

Nên hiệu Nhất thiết trí”

Thức Sanh Tử Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu chúng sanh dùng giới

Huân tập tạo các nghiệp

Chúng sanh và nghiệp tập

Phật biết rõ vô giác”

Trí Sanh Tử Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Gần bằng hữu như vậy

Gây tạo nghiệp như vậy

Xu hướng đạo như vậy

Mâu Ni đều biết rõ”

Sở Tu Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết được nơi sở tu

Tùy theo chỗ tác nghiệp

Tác nghiệp như vậy rồi

Như Lai đều biết rõ”

Sự Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nương nơi sự như vậy

Tạo các nghiệp như vậy

Phật đều biết được hết

Ðều là cảnh giới Phật”

Tri Sự Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tùy nơi sự chấp trước

Có được chỗ tạo tác

Vì Phật biết rõ các căn

Nên biết rõ nghiệp ấy”

Trí Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc trí hoặc cảnh sự

Phật biết nó vọng tưởng

Tùy nó như chấp trước

Phật cũng biết không dư”

Tu Tác Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tùy chấp trước tạo nghiệp

Do nơi phiền não vậy

Phật đều biết rõ được nó

Nên được thế gian quy”

Thú Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tùy thú như tạo nghiệp

Tùy nghiệp được quả ấy

Tùy sở duyên tác nghiệp

Phật nhãn đều biết rõ”

Phan Duyên Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết được nơi sở duyên

Tùy duyên nghiệp thành thục

Nơi các thú thọ báo

Phật đều biết không mất”

Tập Khí Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết ác nghiệp tập khí

Thiện nghiệp cũng như vậy

Biết quá khứ sở hành

Chúng sanh đến trong thú”

Nghiệp Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết được ba thứ nghiệp

Hiện vị và quá khứ

Chúng sanh ở trong thú

Trong ấy phàm phu mê”

Báo Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Làm ít được báo nhiều

Làm nhiều được báo ít

Và biết nhiều í thảy

Ngoại đạo mê trong đó”

Học Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Biết nơi nghiệp thiện báo

Cũng biết nghiệp sanh báo

Và biết nghiệp hậu báo

Phật nhãn đều biết rõ”

Tri Hiện Pháp Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc hiện đời tác nghiệp

Hiện tại được thọ báo

Phật đều biết rõ ràng

Phàm phu chẳng hiểu được”

Tri Sanh Báo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc tác nghiệp hiện tại

Ðời kế được thọ báo

Phật đều biết rõ ràng

Phàm phu chẳng hiểu được”

Tri Hậu Báo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc nghiệp nhiều ức kiếp

Rồi sau được thọ báo

Hoặc còn quá xa hơn

Như Lai đều biết rõ”

Tri Nghiệp Bất Thục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc nghiệp được thọ tạo tác

Nghiệp duyên ấy chưa thục

Chưa được thọ quả báo

Như Lai đều biết rõ”

Quán Nghiệp Vị Thục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như Lai khéo quán nghiệp

Hoặc lúc nghiệp tương ưng

Sanh nơi các chúng sanh

Thảy đều hay khéo nói”

Thiện Tri Nghiệp Thục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nghiệp ấy hoặc thành thục

Hay thọ báo đương lai

Phật đều biết như thiệt

Cũng biết trí ấy không”

Nghiệp Thục Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nhất thiết trí rõ thấu

Nghiệp khinh và nghiệp trọng

Biết được chúng sanh dục

Nên được làm Thế Tôn”

Tri Nghiệp Khinh Trọng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chúng sanh đến ác đạo

Theo nghiệp thấy như vậy

Nghiệp ấy hoặc khinh trọng

Người trí đều biết rõ”

Tri Chúng Sanh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thấy chúng sanh sở hành

Và những nghiệp khinh trọng

Hùng mãnh tùy thuận biết

Ngoại đạo chẳng biết được”

Quán Chúng Sanh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quán nơi chúng sanh hành

Tuyên nói nơi nghiệp báo

Như cả nước sông Hằng

Ném muối chừng một lượng”

Học Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc thọ nơi tu nghiệp

Phật nói nghiệp cứu cánh

Cũng báo học vô học

Thắng Tiên đã tuyên nói”

Lạc Phật Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nhãn chỗ thấy biết

Ngu trí trong ba cõi

Tùy nghiệp thọ được báo

Tôi đảnh lễ Phật trí”

Thuyết Nghiệp Tận Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chỗ sanh tử chúng sanh

Thế Tôn đại Ðạo Sư

Ðều biết rõ không dư

Nên lạy trí vô úy”

Vô Sở Ðắc Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc nghiệp và sanh tử

Chỗ chúng sanh riêng đến

Báo ấy như cảnh mộng

Lưỡng Túc Tôn đều biết”

Cầu Phiền Não Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tham dục sân ngu si

Lưỡng Túc Tôn biết hết

Dường người mơ khát nước

Mơ uống nước mát trong”

Ly Phân Biệt Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Từ nơi phân biệt sanh

Tham dục sân ngu si

Như chơi đùa trong mộng

Quy mạng đấng Thắng Thuyết”

Diệt Phân Biệt Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu diệt được phân biệt

Thì gọi hết phiền não

Như mộng thấy mây tan

Thế Tôn hiển hiện đấy”

Quan Sát Lậu Tận Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như mộng thấy trời mưa

Khởi lậu cũng như vậy

Ðại Hùng hay hiển thị

Nhân duyên phát khởi lậu”

Quan Sát Mộng Tận Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như mộng thấy trời mưa

Khởi lậu cũng như vậy

Ðại Hùng hay hiển thị

Phàm phu mê sanh lậu”

Như Tự Tánh Tri Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như mẹ mộng sanh con

Sanh rồi con lại chết

Sanh mừng cũng sanh buồn

Phật thấy đời cũng vậy”

Tư Lương Mộng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như mộng thấy chặt đầu

Hết lậu cũng như vậy

Tự hiểu cũng dạy người

Tôi lạy đại Ðạo Sư”

Tu Tập Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thấy pháp hay hiểu rõ

Như mộng gặp sự mến

Xa lìa nó chẳng thiệt

Như vậy vui thế gian”

Trí Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nghe nơi pháp Như Lai

Lấy pháp không tự vui

Như trong mộng nói mộng

Như vậy hiểu thế gian”

Hoan Hỉ Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Người thiền định hay khiến

Trời Người thế gian mừng

Quan sát nơi các thú

Dường như tượng trong gương”

Quyết Ðịnh Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nghe nơi pháp Như Lai

Như tiếng đờn không hầu

Ðộ Trời Người nghi hối

Nên tôi lạy Pháp Vương”

Ảo Hỉ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như người làm ảo thuật

Mê hoặc các kẻ ngu

Người trí trọn chẳng mê

Vì biết ảo chẳng thiệt”

Trừ Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quán tất cả thế gian

Như trong mộng làm ảo

Trong ấy tôi không nghi

Do nghe Phật pháp vậy”

Học Ảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như ảo sư làm ảo

Từ nơi ảo chẳng mê

Vì biết ảo hư giả

Phật thấy đời cũng vậy”

Quán Vọng Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vọng tưởng sanh thế gian

Ðại Ðạo Sư đều biết

Như tinh tấn niệm Phật

Trong mộng liền thấy Phật”

Diệt vọng Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng phải sự sanh dục

Ðều do vọng tưởng khởi

Chẳng thiệt vọng khởi dục

Thế Tôn biết như thiệt”

Thức Giải Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như tiếng vang hang sâu

Vang ấy không có thiệt

Vì thế chẳng chấp trước

Quán thế gian như vậy”

Thuyết Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tiếng ấy không có thiệt

Mà trong ấy lắng nghe

Phật tuyên nói pháp ấy

Cứu vớt các phàm ngu”

Như Thuyết Hành Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ở trong pháp biệt nghĩa

Chúng sanh vọng lấy khác

Người ta hành biết pháp

Trong ấy trừ nghi hoặc”

Thuận Nghĩa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu nghĩa và pháp thiệt

Không có ai biết được

Không nói cũng không chứng

Mâu Ni nói thuyết ấy”

Pháp Giả Danh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu nghĩa và pháp thiệt

Không có ai biết đưọc

Không nói cũng không chứng

Mâu Ni nói thuyết ấy”

Pháp Giả Danh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phiền não cấu lậu tập

Ðều tưởng vọng phân biệt

Uế ô và thanh tịnh

Chỉ giả danh ngôn thuyết”

Phân Biệt Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tất cả chỉ danh tự

Gọi phiền não lậu thảy

Uế ô và thanh tịnh

Là lời dạy của Phật”

Vô Y Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi ba cõi chẳng trước

Tâm ấy như hư không

Lìa ác thiệt phước điền

Tôi lạy tâm tịch diệt”

Bất Hạ Liệt Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng sắc chẳng không sắc

Chẳng dục chẳng Niết Bàn

Phật tâm vô sở y

Nó như là hư không”

Vô Dục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Lìa nơi dục giới ái

Sắc vô sắc cũng lìa

Giải thoát nơi tham si

Ðảnh Lễ đấng Ái Tận”

Viễn Ly Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ở trong có không có

Phật dứt hẳn xa lìa

Chẳng trước chấp ba cõi

Ðảnh lễ đấng Tự Tại”

Chướng Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chướng che nơi ba cõi

Hành nơi trượng phu hành

Hay giải thoát chúng sanh

Quy mạng đấng Cứu Tế”

Giải Thoát Khát Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Lìa xa các kiết sử

Sau đó hết sanh diệt

Thân tâm đều thanh tịnh

Ðảnh lễ đấng Bình Ðẳng”

Tri Tự Tánh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại Hùng hiểu tự tánh

Biết trong pháp không sự

Không phược cũng không giải

Ðảnh lễ đấng Kiến Thiệt”

Xuất Ứ Nê Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Xa lìa bùn ái dục

Cũng rời lìa các cõi

Không thủ cũng không xả

Ðảnh lễ đấng Vô Sanh”

Thổ Khí Tư Duyên Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vứt cấu và tư duyên

Bỏ tội cũng xa ái

Lìa bỏ các chướng ngại

Quy mạng Ðại Ðạo Sư”

Khí Dục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vứt bỏ lợi bất lợi

Vô trước hành quyết định

Ra khỏi nơi lưới ma

Ðảnh lễ đấng Vô Trước”

Lạc Lợi Ích Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Hoặc tự đạo tha đạo

Người xa lìa não nhiệt

Ðại Hùng thấy đạo ấy

Ðảnh lễ Vô Ngại Kiến”

Ðắc Danh Xưng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tương ưng cùng Phật trí

Người như thuyết như quán

Họ trừ được phiền não

Ðảnh lễ Thế Gian Giải”

Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quyết định nơi các nghiệp

Không ai đương đối được

Sư Tử hống vô úy

Biển trí rống cũng vậy”

Nhất Thiết Xứ Vô Sở Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Khéo độ tất cả xứ

Xa lìa các tên độc

Vô úy chẳng khiếp nhược

Tôi lạy đấng Tối Thắng”

Vô Sở Hí Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chẳng phải Trời Càn Thát

Ma Vương cùng Phạm Vương

Có thể nạn hỏi được

Nên Phật như sư tử”

Sư tử Du Bộ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nơi pháp vô úy

Vì hiểu rõ các pháp

Vô ngại nên vô trước

Không ai nạn hỏi được”

Vô Bố Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Như sư tử ở rừng

Không hề có kinh sợ

Dẹp phục các cầm thú

Giữa rừng rống lớn lên

Thế Tôn rống như vậy

Kinh bố các ngoại đạo

Trời Rồng Càn Thát Bà

Chẳng thấy ai đối địch”

Nhất Thiết Xứ Siêu Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tất cả trong ba cõi

Tất cả đều không có

Ai địch nổi nơi Phật

Vì thế tôi quy y”

Sư Tử Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại trí thất tất cả

Nơi các pháp vô úy

Thế gian không ai bằng

Tôi lạy đấng Vô Úy”

Xứng Thuận Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tự biết là chánh giác

Như pháp không nạn được

Thế gian đều không có

Ai có thể nạn được”

Trì Tạng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật làm sư tử hống

Mở bày các pháp tạng

Ức Phạm Thiên nghe nói

Ðều phát tâm Bồ Ðề”

Thuận Oai Nghi Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chứng ấy được lợi lớn

Người thuận Phật oai nghi

Pháp tâm Bồ Ðề rồi

Quyết làm Thắng Ðạo Sư”

Thuận Lạc Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại chúng sanh thuở ấy

Ðược nghe Phật pháp rồi

Hay phát tâm Bồ Ðề

Quyết thành Diệu Trượng Phu”

Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðược nghe Phật dạy rồi

Thế gian không gì bằn

Ngàn muôn ức chúng sanh

Phát thắng Bồ đề tâm”

Thanh Tịnh Lưu Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nhân Vương nơi đêm dài

Khéo tu tập Phật học

Nên thân Phật thanh tịnh

Ba mươi hai nghiêm tướng”

Vô Lậu Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì Phật được vô lậu

Mà làm sư tử hống

Ðược núi thượng trí huệ

Không ai nạn hỏi được”

Thuận Chúng Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Trông ba cõi đều không

Trời Người A Tu La

Nói Phật lậu chẳng hết

Nên Phật đủ thập lực”

Xảo Tận Lậu Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tất cả những lậu tận

Phật đều hết không thừa

Không ai vấn nạn được

Nên Phật là cha tôi”

Thường Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế gian chẳng thể có

Ai nạn được Pháp Vương

Rằng còn có phiền não

Nên là cha tự tại”

Tịch Diệt Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật đã dứt tham sân

Ngu si và tập khí

Cũng diệt ác nghiệp hành

Tôi lạy đấng tịch diệt”

Phương Tiện Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu dùng phương tiện quán

Dứt hết các phiền não

Phật trí đã đầy đủ

Nên tôi đảnh lễ Phật”

Phương Tiện Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðạo Sư chiếu thế gian

Xảo huệ không cùng tận

Nên dứt hết phiền não

Cũng dứt hết tập khí”

Tu Tịch Diệt Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì dứt các phiền não

Tập khí đều không thừa

Do đó Phật đại trí

Bất động vô sở úy”

Quán Ðạo Lý Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật dứt hết phiền não

Và dứt các tập khí

Chiếu sáng như đức Phật

Thế gian không còn sánh”

Ðoạn Sử Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật dứt các tập khí

Không có sự tanh hôi

Nên Phật Nhất thiết trí

Huệ tối thắng trong trời”

Trụ Biên Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nay Phật tối hậu thân

Ðã dứt nhân duyên sanh

Do vì hết các lậu

Nên Phật được vô úy”

Vô Lượng Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại Hùng dứt chủng tử

Ðốt cháy mầm khổ não

Khô rụi nhánh dây ưu

Tôi lạy đấng ly não”

Xuất Khanh Giản Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn Nhất thiết trí

Ðã lìa hố vô minh

Phật hành đã được tịnh

Nên Phật được vô úy”

Ðộ Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðã độ biển sanh tử

Ðạo Sư việc làm xong

Cũng bỏ nơi bờ kia

Tự lợi được vô úy”

Nhập Niết Bàn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật đã được tịch diệt

Phá hết các phiền não

Nhẫn đến chút tập khí

Thế Tôn thảy đều không”

Pháp Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật dựng tràng chánh pháp

Xô gãy tràng kiêu mạn

Ðại Hùng đã hiển thị

Vô Lượng những pháp hạnh”

Pháp Tánh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tánh cùng những trí biết

Mâu Ni đạt các pháp

Bạn lành của quần sanh

Tôi lạy biển Tối Thắng”

Pháp Sung Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Khát ưa nơi Phật pháp

Nên đuợc vô sở úy

Các Phật tử vô trước

Mà làm sư tử hống”

Cầu Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì cầu các pháp nên

Phật tử được phát tâm

Và thấy Phật vô úy

Có trí cầu Bồ đề”

Kháp Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì khát ưa Phật pháp

Nên nhiều ức chúng sanh

Nghe Phật vô úy rồi

Sâu pháp đại tinh tấn”

Pháp Khởi Tinh Tấn nói kệ tán thán:

“Thấy Phật nói pháp thắng

Kiến lập nơi chánh pháp

Vô úy bố thí rồi

Phật tử cầu Bồ đề”

Trì Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Pháp được Thế Tôn nói

Thậm thâm khó thấy được

Phật tử được nghe rồi

Cầu Vô thượng Bồ đề”

Vô Lẫn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thân mạng và của cải

Phật tử không lẫn tiếc

Nghe Phật sư tử hống

Ðều cầu diệu Bồ Ðề”

Vô Dị Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nghe Phật nói pháp rồi

Tâm tư không có khác

Ở chỗ Phật vô úy

Cầu pháp giữ luật nghi”

Vô Dị Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nghe Pháp Vương hống rồi

Chẳng đến các dị lộ

Xa rời nơi hai thừa

Cầu Vô thượng Bồ đề”

Cận Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thấy Phật sư tử hống

Phật tử được nghe rồi

Quyết được thắng Bồ Ðề

Sẽ thành thân Như Lai”

Cận Biện Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ở chỗ Phật Thế Tôn

Ðược nghe biện tài rồi

Trong diệu pháp Như Lai

Rất sanh lòng mừng vui”

Ðắc Biện Tài Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Lúc Phật hống vô úy

Nói pháp chẳng hủy được

Lòng tin ưa quyết định

Trọn không ý thối chuyển”

Thường Hỉ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thập Lực hống vô úy

Bao nhiêu các Phật tử

Tất cả thời hoan hỷ

Tầm thuận cầu Bồ Ðề”

Vô Khiếp Nhược Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thường mừng chẳng khiếp nhược

Thế Tôn các Phật tử

Ưa cầu thắng Bồ đề

Vì được nghe lời Phật”

Vô Ngại Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chúng ấy tìm Phật tâm

Trọn chẳng có thối chuyển

Tâm mừng vui vi diệu

Vì nghe Phật khéo nói”

Xảo Tri Vô Biên Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Do vì tu chánh pháp

Khối pháp lành chẳng giảm

Ðạo Sư biết phi xứ

Chẳng sanh lòng nhàm đủ”

Xảo Thuyết Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Tu hành nếu pháp ác

Mà chẳng thối giảm đó

Thế Tôn biết phi xứ

Nên Phật vô sở úy”

Pháp Tánh Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Pháp ác thể tánh nó

Sẽ ô uế pháp lành

Nó chẳng ô nhiễm tâm

Phật biết là phi xứ”

Xảo Tương Ưng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Pháp ác và pháp lành

Hai thứ khác chẳng hiệp

Phật nói nơi nghĩa ấy

Nên Phật là Thầy tôi”

Xảo Tri Thiện Bất Thiện Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại Hùng đều biết hết

Các pháp chẳng tạp tụ

Vì vọng tưởng phân biệt

Trong pháp lành mà thối”

Như Thuyết Hành Mãn Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Người hiện hành phiền não

Trọn chẳng sanh pháp lành

Vì chẳng sanh pháp lành

Nên biết chắc thối giảm”

Lạc Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu người ưa giải thoát

Mà tu hành pháp ác

Phật nói họ có chướng

Nên Phật Nhất thiết trí”

Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Người lòng ưa giải thoát

Cần biết sự phiền não

Ðại Hùng nói pháp ấy

Nên Phật đáng thọ cúng”

Kiến Phiền Não Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ði ở trong phiền não

Mà chẳng biết phiền não

Họ chẳng biết chánh pháp

Thiện Thệ nói như vậy

Nếu nói làm việc ác

Mà chẳng thối pháp lành

Chẳng phải khí giải thoát

Lời Lưỡng Túc Tôn nói”

Ðiều Phục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Lìa dục lìa ồn náo

Cũng lìa sân si thảy

Như pháp được Phật nói

Phải nên tu như vậy

Phiền não với pháp lành

Ngu si chẳng biết rõ

Phật chẳng phải thầy họ

Ðại Tiên nói như vậy”

Cần Tu Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nói pháp đối trị

Ðể trừ phiền não vậy

Y theo trừ hết lậu

Không ai vấn nạn được”

Hướng Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nói pháp như vậy

Vì để dứt phiền não

Tu theo dứt hết hoặc

Không ai nạn vấn được”

Phương Tiện Tương Ưng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật là người thuyết pháp

Vì các chúng Thanh Văn

Tu hành theo được chúng

Không ai nạn được Phật”

Thú Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nói pháp như vậy

Vì muốn dứt phiền não

Tu hành theo diệt hoặc

Không ai nạn được Phật”

Vô Úy Công Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì để dứt phiền não

Phật nói bất tịnh quán

Hành theo diệt hết hoặc

Không ai nạn được Phật”

Thiện Phát Tâm Tất Tu Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Từ tâm dứt sân khuể

Tu từ dứt được hoặc

Không ai nạn được Phật

Thế Tôn được vô úy”

Tịnh Mục Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nói tu trí huệ

Thì trừ diệt ngu si

Nếu tu huệ chẳng diệt

Không ai nạn được Phật”

Diệt Giác Quán Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì đối trị giác quán

Phật nói pháp tức quán

Tu theo dứt giác quán

Không ai nạn được Phật”

Tôn Trọng Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vì dứt trừ ngô ngã

Phật nói không tịch diệt

Hành theo diệt ngã chấp

Không ai nạn được Phật”

Tịnh Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thâm tâm tin thanh tịnh

Tất cả phiền não hết

Tu theo dứt phiền não

Không ai nạn được Phật”

Thâm Giải Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðối trị và bạn đảng

Cầu tìm nơi phiền não

Người vô úy nạn Phật

Không bao giờ thấy có”

Giải Dụng Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn chỉ danh dụng

Thử bỉ tận bất tận

Người vô úy vấn nạn

Họ cũng chỉ giả danh”

Ðiều Phục Thân Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Dùng trí khéo hiểu rồi

Thân nghiệp được lưu hành

Thế Tôn đều biết khắp

Nên hiệu Nhất thiết trí”

Trí Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thân nghiệp rất thanh tịnh

Ðại Hùng đều không thừa

Ðấng thương xót quần sanh

Tôi lạy Thế Gian Phụ”

Thân Nghiệp Giảng Trạch Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Khéo giảng trạch thân nghiệp

Thương xót các chúng sanh

Chiếu thế mà tạo tác

Nên hiệu Thắng Trượng Phu”

Thiện Kiến Thân Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thân nghiệp được thanh tịnh

Ðạo Sư đều xem thấy

Thương xót các quần sanh

Nên hiệu Nhất thiết trí”

Thiện Quán Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Khéo quán đưọc thanh tịnh

Thân nghiệp được tương ưng

Vì thương xót quần sanh

Thắng Trượng Phu du hành”

Thành Tựu Ngữ Ngôn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðủ công đức cam mỹ

Rời lìa lời dệt thô

Trí huệ vây quanh nhau

Như Lai thường diễn nói”

Thời Ngữ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Y thời nghĩa tương ưng

Xa lìa sự vô ích

Lời Phật đều trung thực

Chúng sanh vui thọ hành”

Thành Tựu Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thương chúng sanh chẳng não

Thành tương ưng chẳng trược

Chẳng hư hoại nhân quả

Phật vốn nói như vậy”

Bất Tương Vi Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nhẫn đến vì thân mạng

Chưa từng có vọng ngữ

Vì thế Phật công đức

Nơi đời không chướng ngại”

Thiệt Ngữ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật tu nhân thiệt ngữ

Vì thế đời chiêm ngưỡng

Chí tâm ưa lắng nghe

Ðể được Phật pháp vậy”

Tùng Thiệt Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn do thiệt ngữ

Lần đủ thành Bồ đề

Các pháp chơn thiệt tánh

Thế Tôn đều biết rõ”

Thiệt Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi các pháp hữu vi

Như tánh chơn thiệt thấy

Thế Tôn đều biết rõ

Các pháp chơn thiệt tướng”

Giảng Trạch Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nơi mình và nơi người

Biết thân khẩu ý nghiệp

Bởi trí ấy thanh tịnh

Nên hiệu Phật Vô Ðẳng”

Quan Sát Ý Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Pháp Vương tâm ý nghiệp

Bao nhiêu sự tư lương

Thương nhớ nơi chúng sanh

Nên tôi lạy Từ Phụ”

Xảo Giác Quán Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn chỗ tâm duyên

Tâm ấy đều điều thuận

Thương nhớ nơi chúng sanh

Tôi lạy đấng thương đời”

Xảo Phương Tiện Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chúng sanh tâm sở duyên

Ý nghiệp chỗ khởi tác

Các thứ trí huệ sanh

Thế Tôn đều biết rõ”

Giải Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ý nghiệp là Phật địa

Vì thương nhớ chúng sanh

Phương tiện trí thanh tịnh

Phật trí không thể tánh”

Xảo Trí Quá Khứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật biết đời quá khứ

Nếu người chỗ tạo nghiệp

Giới nhẫn tấn định trí

Phật đều biết rõ cả”

Quan Sát Quá Khứ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quan sát quá khứ hành

Biết được nhiều ức Phật

Chỗ sở hành quá khứ

Vì cầu thắng Bồ đề”

Bổn Hạnh Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nhớ biết sự bổn hành

Ức kiếp a tăng kỳ

Phật tâm vô sở trước

Chỗ bổn hành của Phật”

Quan Sát Bổn Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“A tăng kỳ ức Phật

Ðạo Sư đều từng học

Xuất sanh tam muội lực

Thành các thứ Phật pháp”

Bổn Hành Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vô lượng a tăng kỳ

Ðạo Sư tam muội môn

Chỗ chư Phật quá khứ

Từng học cũng tu hành”

Quan Sát Bổn Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Trong sanh tử nhiều lỗi

Ứng cúng phi ứng cúng

Quán rồi độ chúng sanh

Ðộ thoát kẻ mù lòa”

Yểm Quá Khứ Thế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Kia đây ăn nuốt nhau

Cũng từng vui đùa nhau

Cùng giết hại lẫn nhau

Thế Tôn đều biết rõ”

Tri Vị Lai Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðạo Sư thuở vị lai

Trí huệ được vô ngại

Chúng sanh tin nghiệp báo

Các loài Phật đều biết”

Tùng Bổn Hàn Lai Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn nơi quá khứ

Trí huệ không chướng ngại

Thiện nghiệp tam ma đề

Lìa loài biết các loài”

Xảo Tri Vị Lai Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nơi thuở vị lai

Trí huệ không chướng ngại

Chúng sanh chết và sanh

Nghiệp báo đều biết rõ”

Ly Hữu Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn vua ba cõi

Thuyết thắng trong ba đời

Phật trí thường vô ngại

Khéo biết cảnh giới hữu”

Dụng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Chúng sanh chỗ nghiệp hành

Và sự thọ quả báo

Thứ ấy chỉ giả danh

Thế Tôn nói như vậy”

Quan Sát Hiện Tại Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn vua hiện tại

Trí huệ trọn vô ngại

Nơi vô số Phật độ

Mâu Ni đều biết rõ”

Hiện Tại Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn chánh quan sát

Ba đời đều bình đẳng

Cứu cánh vô sở hữu

Mê hoặc trí phàm phu”

Trí Vô Sở Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðạo Sư thấy như vậy

Ba đời vô sở trụ

Bởi y nơi pháp tánh

Nên các pháp vô sự”

Giáo Tam Thế Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Quá khứ và vị lai

Ấm sanh tất bại hoại

Không sự không tự tánh

Ðạo Sư dạy như vậy”

Ý Vô Thức Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn nói vô trước

Thảy đều không bền chắc

Như ảo như dương diệm

Nói năng như tiếng vang”

Tam Thế Tự Tại Phú Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn nơi tam thế

Thường siêng thêm trí huệ

Biết các hành như ảo

Các căn vô sở trước”

Dục Ðáo Bỉ Ngạn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðại Hùng nơi đêm ấy

Ðược chứng đại Bồ đề

Thế Tôn tinh tấn dục

Ðến nay không thối giảm”

Dục Tác Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Ðăng chỗ có dục

Thường chẳng có thối giảm

Các con của Thế Tôn

Rất ưa tinh tấn dục”

Kiến Lập Dục Tác Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn từ dục khởi

Như hoa sen trong nước

Chẳng bị đời ô nhiễm

Như sen ở trong nước”

Dục Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Dục và Thế Gian Phụ

Hai ấy gọi pháp giới

Chẳng hai không hai thể

Thế Tôn thảy đều thấy”

Tinh Tấn Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Do tinh tấn oai đức

Chứng được đại Bồ đề

Nơi pháp thị pháp phi

Trọn chẳng bỏ tinh tấn”

Niệm Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật ở tất cả chỗ

Phát tâm đều tùy thuận

Nơi pháp thiện pháp ác

Phật niệm chẳng tổn giảm”

Nhiếp Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Phụ thường nhiếp tâm

Biết hành nghiệp chúng sanh

Theo chỗ họ tu hành

Mà vì họ thuyết pháp”

Kính Trọng Bát Nhã Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn biển trí huệ

Biên tế bất khả đắc

Dầu ức vô số kiếp

Phật nói cũng chẳng hết”

Học Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Vô Ðẳng Phật Thế Tôn

Giải thoát chẳng tổn giảm

Giải thoát và người thoát

Phật tìm chẳng thể được”

Hội Giải Thoát Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn đấng giải thoát

Tri kiến khắp giải thoát

Hiểu chơn thiệt chẳng giảm

Vì biết không tự tánh”

Quan Sát Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nơi Phật Nhiên Ðăng

Thường tu hành chơn thiệt

Ba nghiệp không lỗi lầm

Nên hiệu là Như Lai”

Thâm Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Thế Tôn không lỗi lầm

Chẳng như chúng sanh khác

Biết các pháp tự tánh

Phật tự tánh chẳng mê”

Ðại Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Phật nơi nhất thiết chủng

Tâm niệm chẳng mê hoặc

Niệm ấy thường hiện tiền

Ví như dầu đầy chén”

Tâm Bất Tán Loạn Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nhẫn đến thời gian ngắn

Tâm niệm chẳng tán loạn

Phật được pháp bất cộng

Chúng sanh đều chẳng biết”

Thiện Giải Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Nếu có tư lương xả

Thiện Thệ không sự ấy

Thế Tôn bất cộng pháp

Ðức ấy bất tư nghì”

Siêu Nhất Thiết Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ở trong ba cõi Này

Biết tất cả pháp đó

Tất cả không bằng Phật

Nên hiệu Nan Hàng Phục”

Kiên Trì Thiên Tử nói kệ tán thán:

“Ðấng Vô Thượng Kiên Cố

Nơi pháp vô sở úy

Bằng đồng tất cả Phật

Giác ngộ kẻ chưa ngộ”.

--- o0o ---

PHẨM GIÁ LA CA BA LỢI BÀ LA XÀ CA NGOẠI ÐẠO THỨ HAI MƯƠI BỐN

Bấy giờ có tám ngàn người ngoại đạo Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca thấy A Tu La nhẫn đến Tịnh Cư Thiên cúng dường được thọ ký, và nghe tiếng tán thán, họ sanh lòng hi hữu. Họ nghe pháp môn ấy, pháp mà họ chưa hề được nghe, họ sanh nghi tự bạch đức Phật rằng: “Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi nghe pháp mà từ trước chưa được nghe, nghe xong chúng tôi không thích Giá La Ca Ba Lợi Bà la Xà Ca ngoại đạo, cũng chẳng thích tại gia. Ở nơi pháp Này, chúng tôi lại nghĩ lự chẳng kính tin, do vì từ trước chưa hề được nghe. Chúng tôi ở chỗ Cù Ðàm Sa Môn cũng có nhân duyên, do nơi Cù Ðàm làm thần thông biến hóa như vậy, chúng tôi được thấy chư Thiên chư Thần được thân vi diệu, và thấy đại chúng qui phục Cù Ðàm rất đông, nên biết vì Cù Ðàm rất khéo thuyết pháp. Do đó ở nơi Cù Ðàm chúng tôi có chút lòng tin.

Cù Ðàm lại vì chúng trời Quảng Quả nói pháp rằng: “Tất cả pháp là Như Lai”. Nơi pháp thuyết ấy chúng tôi rất nghi lự: thế nào tất cả pháp gọi là Như Lai?

Chúng tôi ở nơi Cù Ðàm sanh lòng tin như vậy: chỉ có Cù Ðàm biết được ý chúng tôi như vậy như vậy. Xin Cù Ðàm vì chúng tôi mà giải nói cho chúng tôi hiểu nghĩa của pháp ngữ ấy hầu được lìa lưới nghi ’’.

Ðức Thế Tôn bảo chúng ấy rằng: “Nay Phật hỏi lại các ông, tùy ý các ông đáp”.

Chúng ngoại đạo thưa: “Lành thay Cù Ðàm! Ngài có hỏi chúng tôi xin nói”.

Ðức Thế Tôn hỏi: “Các ông có biết thế nào thai nhập bụng mẹ chăng?”.

- Thưa Cù Ðàm! trong luận của phái tôi có nói ba thứ nhân duyên hòa hiệp thai nhập bụng mẹ. Ðó là cha mẹ gần nhau sanh tham nhiễm nghĩ đến sự dục, do nghĩ mà hành dục nên thai nhập mà thành thai

- Này các ông! Theo ý các ông thế nào, lúc cha mẹ nghĩ tưởng, tham nhiễm ấy có phải từ nơi tâm mẹ mà phát khởi chăng?

- Thưa Cù Ðàm! không phải.

- Này các ông! Có phải từ mẹ nghĩ tưởng sanh khởi chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Không phải.

- Này các ông! Có phải từ nơi tâm cha phát khởi chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Không phải.

- Này các ông! Có phải từ cha nghĩ tưởng sanh khởi chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Không phải.

- Này các ông!Tham dục ấy của cha có vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Không phải.

- Này các ông! Tâm người cha có vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm!Không phải.

- Này các ông! Sự phân biệt của cha có vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Không phải.

- Này các ông! Thai ấy có phải từ thân trời chết rồi xuống vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải từ thân địa ngục chết rồi đến vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải từ súc sanh chết rồi đến vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải từ ngạ quỉ chết rồi đến vào bụng me chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải từ thân A Tu La chết rồi đến vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải là phi sắc đến vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải là sắc đến vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

- Này các ông! Thai ấy có phải là thọ tưởng hành và thức đến vào bụng mẹ chăng?

- Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được.

Ðức Thế Tôn bảo chúng ngoại đạo: “Này các ông! Pháp ấy thậm thâm tịch diệt vi diệu

Khó lường, khó hiển thị được, chẳng phải cảnh giới tư lương, chẳng phải các ông biết được. Các phái ngoại đạo dị kiến dị nhẫn, ưa muốn dị chủng. Nơi pháp chẳng chánh thì tinh tấn tu hành, nơi trong dị kiến thì quyết định xu hướng.

- Này các ông! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân gặp được thiện tri thức thì ở trong pháp thậm thâm sanh được mắt sáng tỏ.

Ví như có người đau mắt lòa tối gặp được lương y chữa lành, họ do nơi mắt lành sáng ấy mà hiện đời được thấy những hình sắc từ trước chưa hề thấy.

Cũng vậy, Này các ông! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân chẳng có đủ các căn tính v.v…, họ gặp thiện tri thức nên huệ nhãn thanh tịnh, do huệ nhãn nên thấy được thâm pháp.

Hàng ngoại đạo các ông từ đêm dài xa xưa bị tà luận dối phỉnh mà sanh dị kiến, ở nơi phi pháp lại cho là thiện pháp, nơi phi giải thoát lại cho là giải thoát, nơi phi xuất thế lại cho là xuất thế.

Thấy các ông tự hư hỏng lại làm các ông hư hỏng. Như có người mù bảo người mù khác rằng tôi dẫn anh đi. Người có trí nên biết hai người mù ấy chắc sẽ trụy lạc nơi phi đạo mà bị khổ.

Cũng vậy, Này các ông! Hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn thiệt chẳng phải Ðạo Sư mà tự xưng Ðạo Sư, thiệt chẳng phải chánh giác mà tự xưng chánh giác, thiệt chẳng biết đạo xuất thế mà tự xưng là biết, thiệt chẳng thấy đạo xuất thế mà tự xưng là thấy, thiệt chẳng biết chỗ cạn qua mà tự xưng là biết, thiệt chẳng phải giáo sư mà tự xưng là giáo sư, điều họ dạy bảo là tà giáo, là tá giác, là tà xuất, là tà đạo, chẳng biết chỗ cạn tự xưng là biết rồi đưa người, người được đưa qua trở lại càng khốn khổ hơn.

Này các ông! Ví như kẻ chăn bò chẳng biết chỗ cạn lùa bầy bò xuống nước, đưa đến chỗ nước sâu giữa dòng bị khốn không ai cứu hộ. Ðó là do kẻ chăn bò chẳng biết chỗ nước cạn vậy.

Cũng vậy, Hàng ngoại đạo các ông chẳng phải Ðạo Sư mà tưởng mình là Ðạo Sư, người được độ trở lại bị khốn khổ.

Này các ông! Phật là Ðạo Sư thiệt có khả năng hóa đạo, người được hóa độ đều chánh được độ. Phật là chánh giác lời nói chẳng hư, người được Phật giác ngộ đều được chánh ngộ. Phật là năng xuất lời nói chẳng hư, người được dạy xuất thì được chánh xuất. Phật thấy đạo dạy đường chánh cho người. Phật biết chỗ cạn lời nói chẳng hư, người được Phật độ thì được chánh độ. Phật biết pháp giáo hóa hay giáo hóa người. Phật biết Phật pháp hay giác ngộ người. Phật biết pháp xuất khiến người được xuất. Do vì Phật chánh kiến nên hay chánh chỉ bảo người. Phật biết chỗ độ qua được nên hay độ người, người được dắt qua đều được đường tốt.

Ngoại đạo các ông, người ưa giải thoát. Phật là Ðạo Sư nay ở trước các ông đây, các ông nên đến. Phật là chánh ngộ hiểu rõ pháp xuất ly, khéo thấy đạo xuất ly nên làm chỗ cạn qua.

Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ khéo suy nghĩ đều sanh ưa muốn chánh niệm hiện tiền tâm sẽ lưu chú phát cần tinh tấn, vì chưa chứng pháp khiến được chứng, vì chưa dến được pháp khiến đến được., vì xưa chưa hành đạo khiến tiến hành, vì xưa chưa đến chỗ khiến đến chỗ, vì chưa phục ma khiến hàng phục, vì xưa chưa tìm bạn khiến cầu bạn lữ, vì chưa được pháp phương tiện khiến được pháp phương tiện.

Này các ông! Như Phật đã nói ba pháp hòa hiệp được thọ thai. Nay sẽ nói, các ông phải nhất tâm nghe kỹ pháp môn thọ thai.

Này các ông! Phật nói mẹ đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm duyên. Phật nói cha, đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm nhân. Phật nói Càn Thát Bà, đó là nghiệp chiêu vời thức. Phật nói Ca La Lã, đó là nghiệp an trí. Phật nói bụng mẹ, đó là chỗ nơi mà nghiệp an trí thức. thức ở nơi bụng rồi thì sanh mạng được tăng trưởng lần lần lớn rộng.

Này các ông! Vì như có thuốc rừng rậm nương đại địa mà được tăng trưởng lần lần lớn rộng. Cũng vậy, thức ấy vào bụng mẹ rồi tăng trưởng lớn rộng. Trong bụng mẹ ấy, hài nhi trưởng thành mới được sản sanh, sanh rồi lần tăng, đã được trưởng thành hành tánh thuở đời trước theo chỗ đã chết mà đến, chỗ sở hành quá khứ kia, quen tập phát khởi hiện tại đây. Cái ấy phải là trí mới biết, chẳng phải ngu rõ được. Kết bạn cùng ở thường quan sát luôn mới biết tánh ấy.

Các ông lắng nghe đây! Người ấy nếu từ địa ngục chết rồi đến sanh trong loài người đây sẽ có tướng Này mà người trí phải biết: tiếng họ ré lên ồ ề, như tiếng con la, tiếp gấp rút, tiếng kinh sợ, tiếng to tiếng nhỏ lòng thường sợ sệt, luôn luôn run rẩy nổi ốc dựng lông trong chiêm bao phần nhiều thấy lửa cháy lớn, hoặc thấy chạy trên núi, hoặc thấy khối lửa, hoặc thấy nồi chảo nước sôi trào, hoặc thấy có người cầm gậy gộc mà chạy, hoặc thấy thân mình bị mâu xóc đâm, hoặc thấy la sát nữ, hoặc thấy bầy chó dữ, hoặc thấy bảy voi dữ rượt, hoặc thấy mình chạy bốn phương mà không có chỗ nương về, lòng họ ít tin, không có thân hữu.

Này các ông! Vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lượt bấy nhiêu, đây gọi là từ địa ngục chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được mà chỉ có trí mới biết.

Này các ông! Người ấy nếu từ súc sanh chết rồi đến sanh trong loài người, họ sẽ có những tướng dạng Này, mà người trí phải biết, họ ám độn ít trí lười biếng ăn nhiều, thích ăn bùn đất, tánh họ khiếp nhược, ngôn ngữ chẳng rành, họ thích làm bạn với kẻ ngu, ưa chỗ tối tăm, mến thích nước đục, ưa nhăn cỏ cây, ưa lấy ngón chân đào khoét đất cát, ưa động đầu xua đuổi ruồi lằn, thường cất cao đầu ngáp nhai không, thường ưa có chân tùy nghi nằm trên đất chẳng tránh ô uế, ưa ngửi không, ưa trần truồng, ưa dối trá, nói khác làm khác ưa nói thêm bớt, họ thường chiêm bao thấy lấy bùn trét lên mình, hoặc mộng thấy mình ở đồng ruộng ăn cỏ, hoặc mộng thấy mình bị rắn quắn, hoặc mộng thấy muình vào trong hang núi rừng rậm. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ súc sanh chết đến sanh trong loài người. Trí mới biết chẳng phải ngu lường được.

Này các ông! Người ấy nếu từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người thì sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Tóc họ vàng, giận trợn mắt nhìn, thường ưa nhịn đói nhịn khát, tham lam bỏn xẻn ghen ghét, ưa tham ăn tham uống, ưa nói lén người, thân nhiều lông, tròng mắt sáng đỏ, nhiều nghĩ tưởng các thức ăn, ưa muốn tích tụ chẳng muốn chia cho, chẳng thích thấy người lành tốt, thấy tài vật liền sanh lòng trộm cắp nhẫn đến được chút ít cũng liền mừng vui, thường cầu tài lợi, ưa ăn dơ, thấy người có của cải liền ganh ghét, lại ở nơi của người tưởng là của mình, thấy người thọ dùng thì tiếc lẫn, nghe nói ăn ngon thì lòng chẳng ưa, nhẫn đến nơi xóm nơi đường thấy trái cây rụng hay lúa đậu liền sanh lòng tham lượm hái. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật chỉ nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

Này các ông! Nếu người ấy từ A Tu La chết đến sanh trong loài người sẽ có những tướng sau đây mà người trí phải biết:

Họ cao ngạo ngã mạn, ưa giận dữ đấu tranh, oán hận chẳng quên, khởi tăng thượng mạng, thân họ to mạnh, mắt trắng như mắt chó, răng dài lộ ra ngoài, dũng kiện nhiều sức lực hay chiến trận, cũng ưa lưỡng thiệt phá hoại kẻ khác, lòng họ cao ngạo khinh miệt sách luận của người, người khác dầu biết mà họ khéo dùng lời lẽ kín sâu, họ cũng có trí lực và phiền não lực, thích tự dưỡng thân thể. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược những tướng ấy, đây gọi là từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

Này các ông! Nếu từ loài người chết rồi sanh trở lại trong loài người thì có những tướng như sau mà người trí phải biết: Người ấy hiền trực ưa gần người lành, chê trách kẻ ác, mến tiếc dang vọng nhà mình, đốc hậu thủ kín, ưa thích tiếng tâm và lời khen tặng, mến ưa nghề khéo, kính trọng trí huệ, có tâm tàm sĩ, tâm tánh nhu nhuyến, biết ơn dưỡng nơi các thiện hữu, lòng thuận không trái, ưa xả thí, biết người hay dở, giỏi quan sát người có ích hay vô ích, giỏi đối đáp lãnh hội ngôn nghĩa ấy, giỏi hòa hiệp cùng giỏi trái lìa, giỏi làm sứ giả tuyên truyền ngôn ngữ, nơi các thứ ngôn ngữ giỏi thông đạt ghi nhớ chẳng quên, cũng biết được thị xứ phi xứ. Có vô lượng tướng như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ loài người chết trở lại sanh trong loài người. Chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

Này các ông! Nếu người ấy từ thân trời chết rồi sanh trong loài người sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Người ấy đoan chánh thích thanh tịnh, hay mang vòng hoa và ướp hương thoa hương nơi thân, thích tắm gội, thọ ngũ dục thì chọn thứ đẹp tốt mà chẳng ưa thứ xấu, ưa âm thanh và ca vũ, thuần giao hữu với các thượng nhân, chẳng kết bạn với hạ nhân, ưa lầu các nhà cao phòng rộng, lòng từ hòa mỉm cười không giận, lời nói dịu dàng đẹp hay khiến người nghe đẹp dạ vui lòng, thích chuổi ngọc và y phục trang sức, thường ưa đi ra vào, bước đi thong dong nhàn nhã, làm việc chuyên cần chẳng biếng lười. Có vô lượng tướng như vậy, nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ thân trời chết rồi sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.

Này các ông! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân muốn siêu thoát các tướng ấy thì phải gần gũi thiện tri thức, thuận theo ý và làm theo chỗ làm của thiện tri thức. Thiện tri thức ấy sẽ thuyết pháp để họ được siêu độ.

Này các ông! Người từ địa ngục chết sanh trong loài người ấy, trước đời địa ngục lúc họ làm thân người họ tạo những tội ác, vì họ sân khuể nên giết hại, do nghiệp giết hại ấy dắt họ đọa địa ngục thọ nhiều thứ khổ, sau đó sanh trong loài người vẫn còn tập khí.

Người ấy đã biết tướng dạng như vậy rồi cần phải tự biết là mình từ địa ngục đến sanh trong loài người. Vì bỏ lìa nhân duyên địa ngục, người ấy phải tìm thiện tri thức. Gặp được thiện tri thức rồi cung kính thưa sự. Thiện tri thức ấy vì trừ nghiệp sân hại mà dạy nói từ bi và trợ đạo tương ưng từ bi. Do các pháp hành ấy trừ được tập khí tàn thừa nhân duyên địa ngục của người ấy. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ nói Thi la Ba la mật tương ưng từ bi để trừ tội ác sân hại cho người ấy. Lúc người ấy tu từ bi, sáu Ba la mật sẽ đầy đủ thêm lớn phước đức.

Này các ông! Người từ súc sanh chết, sanh trong loài người, trước đời súc sanh, lúc làm thân người, họ thật hành quen tập pháp ngu si, do quen tập ngu si bèn làm ác nghiệp, do ác nghiệp ấy sanh trong loài súc sanh, ăn ở chung chạ lâu ngày với các súc sanh, hành động nghi thức súc sanh, nên nay làm thân người vẫn còn những tướng theo tập khí súc sanh. Người ấy phải tự biết sau khi thấy hành tưởng của mình, tôi từ súc sanh chết đến sanh trong loài người đây. Vì bỏ rời nhân duyên súc sanh, họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ngu si. Thiện tri thức dạy họ mười hai nhân duyên. Do pháp nhân duyên ấy mà trừ được ngu si. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ mà dạy Bát Nhã Ba la mật, do đó ngu si thể tánh tự lìa dứt, bèn sanh trí huệ.

Này các ông! Người từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người, trước đời làm ngạ quỉ, lúc làm thân người, họ thật hành chứa quen pháp xan tham, do nghiệp lực xan tham sanh trong loài ngạ quỉ, cùng chung với các ngạ quỉ ăn ở, hành động theo nghi thức ngạ quỉ. Người ấy quan sát thấy hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn là ngạ quỉ chết rồi đến sanh trong loài người Này. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp ngạ quỉ, người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp xan tham của người ấy nên thiện tri thức dạy họ pháp bố thí. Nhờ pháp bố thí mà nghiệp xan tham được trừ. Hoặc thiện tri thức dạy họ pháp trợ Bồ đề tương ưng với bố thí, hoặc dạy họ Ðàn na Ba la mật. Người ấy tu Bàn na Ba la mật mà được đủ sáu Ba la mật. Thiện tri thức hoặc dạy họ tất cả pháp đều bình đẳng. Người ấy tu pháp bình đẳng nên được đủ Bát Nhã Ba La mật. Vì tu Bát Nhã ba la mật nên lưu chú xu hướng Nhất thiết trí.

Này các ông! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, trước đời A Tu La, lúc làm thân người, họ làm nhiều căn lành mà kiêu mạn, do kiêu mạn mà tạo các nghiệp, do sức nghiệp kiêu mạn tích tập mà sanh trong A Tu La cùng chung ăn ở với chư A Tu La làm những nghiệp A Tu La. Từ A Tu La chết họ sanh trong loài người đây nhưng tập khí nghiệp A Tu La vẫn còn. Người ấy nghe pháp như vậy, quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn từ A Tu La chết rồi sanh trong loài người. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp A Tu La nên người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp kiêu mạn cho người ấy, thiện tri thức dạy họ thánh trụ xứ, do pháp môn Này khiến họ trừ được nghiệp kiêu mạn. Hoặc dạy họ không pháp môn, do đây trừ được nghiệp kiêu mạn ngô ngã mà được trí vô ngã. Hoặc dạy họ nhân duyên hòa hiệp mà có các pháp, do hòa hiệp mà có sở tác. Nếu không hòa hiệp thì không sở tác. Quan sát như vậy thì kiêu mạn và nghiệp đều tiêu trừ. Hoặc dạy các pháp nhất tướng, tu theo đây thì được đủ Bát Nhã Ba la mật mau chứng Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển.

Này các ông! Người từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người, lúc đời trước làm thân người, họ tu hành tích tập mười nghiệp đạo lành, do nghiệp lực luôn luôn tu hành tích tập nghiệp đạo lành ấy mà lại sanh trong loài người đây. Người ấy nghe pháp như vậy phải tự biết rằng tôi vốn từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người Này. Vì muốn siêu tập khí nghiệp người, họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ấy, thiện tri thức dạy họ vô thường tưởng để trừ tập khí. Hoặc dạy họ sanh từ lỗi khổ, Niết bàn rất vui. Nghe pháp ấy rồi, người ấy được nhàm sanh tử lỗi khổ mà ưa thích Niết bàn vui. Hoặc dạy họ sáu Ba la mật, do đó hoặc họ có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc dạy họ thiện phương tiện, do đó họ có thể kiên trì sáu Ba la mật mau chứng Nhất trí trọn chẳng thối chuyển.

Này các ông! Người từ thân trời chết rồi đến sanh trong loài người, trước đời làm thân trời, lúc làm thân người tu phạm hạnh bố thí trì giới đều mong phước báu tương lai. Tu hành tích tập thiện nghiệp như vậy dài lâu xong trọn, do nghiệp lực ấy sanh thân trời, cùng chư Thiên chung ăn ở quen nghi thức chư Thiên, từ thân trời chết, tập khí pháp hành chư Thiên vẫn còn, khi được thân người rồi, nghe pháp như vậy quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn quyết từ thân trời chết đến sanh trong loài người. Vì muốn siêu tập khí chư Thiên, người ấy phải tìm thiện tri thức. Thiện tri thức ấy dạy họ tu trì phạm hạnh chẳng cầu báo tương lai, dạy cho họ biết cầu phước báu là lầm lỗi, dạy rõ tịnh tu phạm hạnh không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu bố thí chẳng cầu phước báu, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ bố thí không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu trì giới chẳng cầu phước báu tương lai, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ trì giới không chỗ y trước thì công đức vô lượng. Hoặc dạy họ thiện xảo phương tiện, do đó người ấy có hành lục Ba la mật, đầy đủ lục Ba la mật mau chứng Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển.

Này các ông! Người từ địa ngục chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để được nghe pháp tam thế chư Phật bình đẳng. Ðược nghe pháp bình đẳng rồi phải phát cần tinh tấn y thành ấp tụ lạc cùng đại chúng chung ở nơi đủ cả bốn bộ chúng cùng nhau luận lượng Phật pháp học vấn nạn đáp, pháp tam thế bình đẳng được hiện ra trước, hiểu tất cả pháp không có tự tánh. Do tu trí hiểu Này mà phiền não lần trừ.

Này các ông! Người từ súc sanh chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức gần gũi người đa văn, do gần người đa văn mà trừ lần ngu si. Người ấy dầu gần người đa văn và các kinh luận mà quán tưởng chẳng phải có. Người ấy quán tưởng chẳng phải có rồi tự nhiên hiểu chứng pháp không tự tánh, do đây mà pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền mau chứng Nhất thiết trí chẳng có thối chuyển.

Này các ông! Người từ ngạ quỉ chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức tu hành bố thí để trừ xan tham và làm các công đức. Do vì tu xả thí nên tâm họ chằng tich tụ, do đó pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền được nhất tướng, tức là vô tướng. Người ấy do tu trí hiểu vô tướng Này nên mau chứng Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển.

Này các ông! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để cùng chiến đấu với phiền não ma, đó là kiêu mạn. Bấy giờ người ấy nên quán sát “gì là mạn, ai mạn, ai bị khinh mạn, ai do mạn Này mà khởi phiền não xứ, ai bỏ mạn ấy?”. Suy tìm như vậy không có mạn để được, cũng chẳng thấy có ai nhiếp thọ mạn ấy. Người ấy do quán sát nghĩa như vậy nên không có mạn để được, không có người mạn, cảnh giới tương ưng với mạn cũng chẳng có được, cũng chẳng thấy có ai bỏ kiêu mạn. Quan sát như vậy, không một pháp có thể được. Người ấy lại quan sát như vậy: “Do ác nhiếp thọ tự phỉnh thân mình cũng phỉnh thân người”. Lúc quan sát như vậy có thể thấy các pháp không có tự tánh. Do thấy các pháp đều không có tự tánh nên thấy pháp chẳng phải có, do chẳng phải có nên biết chẳng thành tựu, do biết chẳng thành tựu nên biết là chẳng sanh, vì biết là chẳng sanh nên biết là chẳng diệt, đã chẳng sanh diệt thì đó là bất khả thuyết. Nếu hiểu được bất khả thuyết thì nó chẳng phải quá khứ chẳng phải hiện tại chẳng phải vị lai tam thế bất khả đắc. Các pháp đã là tam thế bất khả đắc thì nên biết chưa hề có được có mất, đây là tất cả pháp bình đẳng. Do tất cả pháp bình đẳng nên biết tất cả pháp là chơn như bất biến bất dị, Như Lai cũng là chơn như bất biến bất dị, vì tất cả pháp tức là chơn như.

Do đó nên quan sát kiêu mạn được biết người ấy từ thân người đời trước chết rồi lại sanh trong loài người, vì họ có sức tập khí kiêu mạn. Nhẫn đến từ địa ngục chết đến sanh trong loài người do có tập khí kiêu mạn nên biết được tướng ấy. Nếu không tập khí kiêu mạn thì không thể nói được là người ấy từ thân người đến hay nhẫn đến từ trong địa ngục đến.

Này các ông! Ðây gọi là trí huệ lìa rời kiêu mạn. Tướng ấy phải do đủ xảo phương tiện mới có thể biết được. Lại do Bát Nhã Ba la mật gia trì nên người ấy mới biết được”.

Lúc ấy, tám ngàn người ngoại đạo được nghe đức Phật thuyết pháp liền được vô sanh pháp nhẫn. Chúng ấy được vô sanh pháp nhẫn rồi liền đứng dậy đảnh lễ chân Phật. Họ đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua một phía khác miệng đồng lời nói kệ tán thán đức Phật:

“Ðạo Sư kiến lập sức trí huệ

Biết các đạo thú chẳng do người

Biết các chúng sanh đi các thú

Như thấy trái cây cầm trong tay

Do các kiến thủ trược thế gian

Thí như mây mù chướng hư không

Do đây bầy ngu thường lưu chuyển

Như bọn người mù lạc đường chánh

Thế gian là thường là vô thường

Lại nói cũng thường cũng vô thường

Lại nói phi thường phi vô thường

Họ như voi đui đi vào thành

Nói đời hữu biên hay vô biên

Nói cũng hữu biên cũng vô biên

Nói phi hữu biên phi vô biên

Do đây lưu chuyển như chim lồng

Lại nói tức thân là thần ngã

Hoặc nói ly thân có thần ngã

Bị vọng tưởng phân biệt trói buộc

như chim sa lưới lòng sanh khổ

Lại nói Trời Tự Tại hóa ra

Lại nói sanh chẳng phải do nhân

Chúng sanh bị kiến thủ che lấp

Ví như mây mù che khuất trăng

Như trứng trong lồng nở ra chim

Theo các lỗ trống thường muốn ra

Chúng sanh bị kiến thủ làm ngu

Họ chẳng giải thoát như chim lồng

Lại để Phạm Vương và Thiên chúa

Lại để đồng hài và phụ nhân

Lại để phương hải Tỳ Sa Môn

Như giặc bị bắt cầu thần linh

Dường như kẻ nghèo gặp chủ nợ

Cầu lập bảo chứng cùng chủ nợ

Như vậy người đời chấp kiến thủ

Ngu si cầu trời mong dục lạc

Phật thấy chúng sanh y chơn thiệt

Như thấy năm ngón trên bàn tay

Ở trong các thú chịu trăm khổ

Như bọn giặc cướp vào lao ngục

Với họ Thế Tôn lòng thương xót

Tu các đạo hạnh biết các thú

Thế Tôn đã dạy pháp xuất ngục

Như vua sanh trai phóng đại xá

Thương đời chẳng kể vô số kiếp

Tu các khổ hạnh được Bồ đề

Kiến thủ phá hoại bọn ngu si

Phật dạy cho họ được giải thoát

Do đây Thiện Thệ Thiên Nhân Sư

Ở trong các pháp được tự tại

Chúng tôi kiến thủ nên lạc đường

Nơi kiến thủ Phật cứu chúng tôi

Do đây Thế Tôn có đại lực

Có đủ vô úy không oán đối

Giữa chúng đại hống như sư tử

Chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy

Vì nó hay động cõi Ðại Thiên

Cũng dùng pháp ấy chiếu khắp chốn

Dùng nó thọ ký các chúng sanh

Cũng nguyện chúng tôi gặp gỡ họ”.

Ðức Thế Tôn biết chư ngoại đạo đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười phóng ánh sáng.

Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:

“Phật thương thế gian hiện mỉm cười

Vì thấy các chúng ngoại đạo ấy

Ngưỡng mong Như Lai nói cớ cười

Phật hiện mỉm cười có nghĩa chi

Ðấng khéo hiểu nhân chẳng không nhân

Mà hiện mỉm cười phóng ánh sáng

Lành thay đấng hiện sáng mỉm cười

Ðại chúng chiêm ngưỡng mong Phật nói

Ðại chúng tại hội đều hoài nghi

Vì thấy Phật hiện ánh sáng cười

Tất cả đều như nhìn trăng tròn

Nhìn Phật chờ nói cớ mỉm cười

Ai tại hôm nay dâng cúng dường

Ai ngày nay làm vui từ phụ

Nay ai có được Phật công đức

Lành thay Ðại Trí xin diễn nói

Ðại chúng nghe nói chắc mừng vui

Ðều do ngoại đạo được thọ ký

Ngưỡng mong Ðạo Sư thương nói cho

Ở trong thừa nào họ đắc đạo

Lành thay Mâu Ni trừ chúng nghi

Do đây đại chúng được mừng vui

Một bề đến Phật không thối chuyển”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ kheo:

“Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ

Hay hỏi Như Lai hàng ma oán

Thương xót thế gian nói lời ấy

Hay hỏi Ðạo Sư Vô Thượng Sĩ

Phật sẽ nói sự hiện mỉm cười

Ông phải nhất tâm nghe duyên cớ

Ông phải vui mừng nghe Phật nói

Nay nói nghĩa cớ Phật mỉm cười

Tám ngàn ngoại đạo đều điều phục

Bỏ các ác kiến trụ thiện kiến

Thấy thế gian bị kiến thủ não

Họ khởi bi tâm cầu Bồ đề

Tất cả kiến thủ đều được bỏ

Vì họ đã biết chánh kiến vậy

Từ Phật được nghe ký vô ngại

Họ đều ưa cầu Nhất thiết trí

Chỗ Phật quá khứ được ký rồi

Cúng dường Ðại bi Lưỡng Túc Tôn

Ðầy đủ chỗ hai ức chư Phật

Ðể được lên Vô thượng Bồ đề

Chỗ Phật tu thí cũng chẳng thiếu

Tu trì tịnh giới tu thiền định

Tịnh tu trí huệ phát tinh tấn

Nơi c

 

ác quần sanh tu nhẫn nhục

Thường tu tập sáu Ba la mật

Lựa chọn trí huệ cầu Bồ đề

Mã Thắng thỉnh hỏi đấng hàng ma

Phát tâm thích cầu Phật Bồ đề

Những khổ não ấy do đảng ác

Y chỈ trong chỗ có kiến thủ

Chúng ấy nay thấy Thắng Ðạo Sư

Bỏ các ác kiến đều không thừa

Do được thiệt hiểu lời Phật dạy

Tùy thuận Phật pháp khởi thâm tín

Họ có nhiều ức Phật vị lai

Ðều siêng cúng dường cầu Bồ đề

Ở đời vị lai kiếp Tinh Tú

Ðều được làm Phật đồng một hiệu

Hiệu Phổ Văn Phật danh tiếng lớn

Phật ấy đại trí độ thế gian

Quốc độ Phật ấy rất thanh tịnh

Nhiều thứ trang nghiêm không đâu bằng

Cõi ấy chúng sanh không ác kiến

Thuần cầu Bồ đề quả hiền thánh

Cõi ấy chúng sanh không ác thú

Thuở ấy cũng không tất cả nạn

Tất cả Phật ấy thọ mạng lâu

Ðồng trụ thế gian tám vạn tuổi

Chúng sanh nghe được danh Phật ấy

Ðều được bất thối thượng Bồ đề

Nếu những người nữ nghe hiệu Phật

Tất cả đều được thân nam nhi

Như vậy Thế Tôn đấng hàng ma

Ðã thọ ký cho chúng ngoại đạo

Tất cả Trời Người nghe thọ ký

Thảy đều mừng vui sanh kính tin”.

PHẨM LỤC GIỚI SAI BIỆT THỨ HAI MƯƠI LĂM

Bấy giờ Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc thấy A Tu La nhẫn đến trời Quảng Quả cúng dường Phật được thọ ký, cũng nghe trời Tịnh Cư nói kệ tán thán Phật, lại thấy ngoại đạo cũng được thọ ký, nhà vua suy nghĩ rằng: Việc ấy hi hữu chẳng nghĩ bàn được. Ðức Thế Tôn rất khéo nói như vậy, tất cả thế gian rồi đều vui mừng.

Do ái luyến con trai mình nên Tịnh Phạn Vương đối với đức Phật tình ý rất ân cần. Ðức Thế Tôn nói với Tịnh Phạn Vương rằng: “Pháp của Phật nói, trước giữa sau đều thiện cả, nghĩa ấy sâu xa, vị ấy thuần thiện thanh tịnh không xen tạp thanh bạch không ô nhiễm, nói rõ pháp phạm hạnh. Những phạm hạnh gì? Ðó là pháp môn phân biệt lục giới. Nay vua nên lắng nghe khéo suy nghĩ sẽ vì vua mà nói”.

Vua nói: “Lành thay, nay tôi nghe kỹ xin Phật nói cho”.

Ðức Phật nói: “Này Ðại Vương! Gì là pháp môn phân biệt lục giới?

Này Ðại Vương lục giới được nói đó là trượng phu, lục xúc nhập cũng là trượng phu, thập bát ý thức cảnh giới cũng là trượng phu.

Này Ðại Vương! Cớ gì Phật nói lục giới tức là trượng phu? Những gì là lục giới? Ðó là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới.

Nói rằng lục giới là trượng phu đó là đây vậy.

Cớ gì Phật nói lục xúc nhập gọi là trượng phu? Nhũng gì là lục xúc nhập? Ðó là vì nhãn xúc nhập thấy các sắc, nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy, nhẫn đến vì ý xúc nhập biết các pháp.

Nói rằng lục xúc nhập là trượng phu đó là đây vậy

Có gì Phật nói mười tám ý thức cảnh giới là trượng phu? Gì là mười tám ý thức cảnh giới? Ðó là nhãn thấy được sắc khả ý do ức

      

Tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc bất khả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc xả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác. Nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy. Nhẫn đến ý biết pháp khả ý, biết pháp xả xứ ý đều ức tưởng phân biệt.

Nói rằng thập bát ý thức cảnh giới là trượng phu đó là đây vậy.

Này Ðại Vương địa giới có hai thứ: đó là nội và ngoại.

Nội địa giới là trong tự thân được có những thứ cứng rắn có được có lấy như là tóc long móng răng da thịt gân xương tủy não ngũ tạng lục phủ đại tiện ngoại địa giới là ngoài thân có những thứ cứng rắn chẳng được chẳng lấy.

Này Ðại Vương! địa giới trong thân, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đi đâu.

Này Ðại Vương: Có lúc nữ nhân tự phân biệt tôi là nư’ nhân, thấy nam tử kia lại sanh phân biệt kia là nam tử, bèn sanh ý tưởng dục ưa muốn hòa hiệp mà sanh ái nhiễm nơi nam tử ấy.

Có lúc nam tử ấy tự phân biệt tôi là nam tử, thấy nữ nhân kia bèn sanh phân biệt kia là nữ nhân rồi sanh ái nhiễm.

Nam

tử và nữ nhân ấy đều sanh ái nhiễm mà cùng hòa hiệp.

Do hòa hiệp mà có ca la lã.

Này Ðại Vương! Nam tử phân biệt ấy và sự được phân biệt, cả hai đều bất khả đắc, nam tử và tánh nam tử cũng bất khả đắc, do đó chẳng tương tục mà sanh phân biệt. Phân biệt ấy tự tánh cũng bất khả đắc. Như phân biệt tự tánh bất khả đắc, hòa hiệp và hòa hiệp tư( tánh cũng bất khả đắc, ca la lã và ca la lã tư( tánh cũng bất khả đắc.

Nếu tự tánh bất khả đắc thì nó làm sao sanh được yết bồ đàm?

Này Ðại Vương! Nhân phân biệt mà sanh ra có thứ cứng rắn ấy. Thứ cứng rắn lúc sanh không có từ đâu đến.

Này Ðại Vương! Có lúc thân Này rốt cuộc làm tử thi. Tử thi cứng rắn ấy lúc biến hoại nó chẳng về phương Ðông cũng chẳng về phương Nam phương Bắc phương Tây bốn cạnh trên dưới.

Như trên ấy, đó là nội thân địa giới.

Này Ðại Vương! Có lúc thế gian đây đều trống rỗng, lại sanh Phạm Thiên cung điện thất bửu. Tướng cứng rán của cung điện ấy lúc sanh không từ đâu đến. Tướng cứng rắn của cung điện thất bửu trời Tha Hóa Tự Tại, trời Hóa Lạc, trời Ðâu Suất, trời Dạ Ma, trời Ðao Lợi, trời Tứ Thiên Vương, lúc sanh không từ đâu đến. Núi Thiết Vi, núi Ðại Thiết Vi cứng rắn, lúc sanh không từ đâu đến. Nhẫn đến núi Tu Di, khắp cõi tam thiên Ðại Thiên, tất cả thứ cứng rắn trong ấy, lúc sanh không từ đâu đến. Ðại địa Này dày một trăm sáu mươi vạn do tuần, lúc sanh không từ đâu đến.

Này Ðại Vương! Có lúc thế giới Này hư hoại. Lúc sắp hoại, đại địa hoặc bị lửa cháy nát, hoặc bị nước trôi rã, hoặc bị gió thổi tan. Lúc lửa cháy đại địa Này cho đến khói tro không còn thấy, như dầu tô bị lửa cháy tan biến không sót thừa, như lấy muối bỏ vào nước tiêu tan hết cả. Lúc bị gió thổi hoại cũng không còn sót thừa, như gió mạnh tỳ lam thổi tan mất bầy phi điểu không còn sót thừa. Ðịa giới trong ấy lúc tan diệt cũng không đi đâu.

Này Ðại Vương! Ðúng vậy đúng vậy, nội thân địa giới và ngoại thân địa giới, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Lúc nó sanh cũng không lúc nó trụ cũng không. Sanh và trụ hai thời gian thể tánh đều không.

Này Ðại Vương! Thủy giới cũng có hai thứ: nội và ngoại. Nội thân thủy giới là những thứ nước, tánh nước, thể nước, hoặc nhuần, tánh nhuần, thể nhuần ở trong thân, như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước miếng, mủ, máu, đàm, mỡ, tủy, sữa, tiểu tiện. Ngoại thân thủy giới là những nước tánh nước thể nước và nhuần tánh nhuần thể nhuần mà thân chẳng được chẳng nhiếp.

Này Ðại Vương! Thủy giới trong thân ấy, lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Như líc thấy người yêu thương thì trong mắt chảy nước mà lúc bị khổ trong mắt cũng chảy nước, lúc nghe pháp kính tin nước mắt chảy ra mà bị phong hàn cũng chảy nước mắt, lúc mắt nhặm đỏ cũng vậy. Nước mắt ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đi đâu.

Này Ðại Vương có lúc thủy giới trong thân tăng trưởng quá nhiều có thể diệt hỏa giới trong thân. Lúc hỏa giới ấy diệt, nó không đi đến đâu. Có lúc hỏa giới trong thân quá tăng thạnh hay làm khô cạn thủy giới trong thân. Lúc bị đốt cạn, thủy giới ấy đi không đến đâu.

Này Ðại Vương! Hỏa giới và thủy giới trong thân ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đi đâu. Lúc sanh nó cũng không, thể tánh nó tự không.

Này Ðại Vương!Có lúc thế giới Này hư hoại. Lúc thế giới Này sắp hoại, trong không gian nổi lên ba mươi hai lớp mây đầy trùm trắp tam thiên Ðại Thiên thế giới đến năm trung kiếp mưa lớn không dứt, giọt mưa như tượng vương đái. Sau đó lại trải qua năm trung kiếp mưa thật to lớn, nước ngập đầy đến Phạm Thiên.

Này Ðại Vương! Thủy giới to lớn ấy, lúc đầu sanh không từ đâu đến.

Này Ðại Vương! Lại có lúc thế giới Này hư hoại. Lúc sắp hoại, trong thế giới Này có hai mặt nhật xuất hiện, bấy giờ suối nguồn sông nhỏ đều khô cạn. Kế đến có bốn mặt nhật xuất hiện, bấy giờ nguồn nước của các sông lớn đều khô hết. Kế đến có năm mặt nhật xuất hiện, bấy giờ nước trong đại hải lần lần khô cạn từ một do tuần, lần lần khô cạn đến mười do tuần, trăm do tuần, ngàn do tuần, vạn do tuần, đến bốn vạn bốn ngàn do tuần đều khô cạn.

Bấy giờ nước còn thừa trong đại hải từ bốn vạn do tuần, lần lần còn ba vạn, hai vạn, một vạn, chín ngàn, tám ngàn đến còn một ngàn do tuần, lần lần cạn còn thừa chín trăm tám trăm đến một trăm do tuần, lần lần cạn còn thừa chín mươi đến còn mười do tuần, cạn lần còn thừa chín đến một do tuần, cạn lần còn thừa năm dặm đến mười đa la thọ, chín đến còn một đa la thọ, cạn lần cho đến chỉ còn vũng ướt như dấu chơn.

Bấy giờ trong đại hải chỉ còn chút tướng ẩm ướt như lúc trời mưa thoạt ướt thoạt khô. Lần đến lúc trong đại hải hơi nước chỉ còn thắm mặt ngón tay.

Này Ðại Vương! Thủy giới ấy lúc lần lần diệt, nó đi chẳng đến đâu, mười phương đều không đến, lúc sanh nó cũng không, lúc trụ nó cũng không, lúc diệt nó cũng không. Tánh thủy giới ây bất khả đắc chỉ có riêng tác dụng thôi. Nhưng tác dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ không có tướng để được. Này Ðại vương hỏa giới cũng có hai thứ: nội và ngoại.

Nội hỏa giới là trong thân chỗ có hỏa, hỏa thể, hỏa tướngvà nhiệt, nhiệt thể, nhiệt tướng. Ðó là trong thân có hơi ấm nóng hay làm tiêu hóa thức uống ăn nhập vào số nhiệt độ ấy.

Ngoại hỏa giới là những hỏa, thể hỏa, tướng hỏa và hơi ấm nóng ở ngoài thân chẳng lấy chẳng thọ ấy.

Này Ðại Vương! Có lúc ca la lã trong bào thai, thân nội hỏa giới tăng thạnh làm thủy giới lần kém nên ca la lã đặc lần cứng lần. Như,đồ kim khí do hỏa lực mà lần cứng rắn. Ca la lã cứng đặc thì gọi là yết bồ đàm. Yết bò- đàm do hỏa lực mà thành tên là ty thi ca. Ty thi ca do hỏa lực mà thành tên là kiên cố. Kiên cố do hỏa lực mà thành mọc ra năm nhánh.

Ðúng vậy, Này Ðại Vương! Thủy giới ấy do hỏa giới thành thục như vậy như vậy. Thủy giới ấy lần đặc lần cứng mà thành khối thịt.

Này Ðại Vương! Lúc hỏa giới ấy sanh, nó không từ đâu lại, mà có thể đốt tiêu thủy giới.

Này Ðại vương! Có lúc trong thân người hỏa giới lần diệt tận. Vì hỏa giới diệt tận nên đồ ăn uống không tiêu hóa mà người bệnh ấy không thể ăn uống được. Vì không ăn uống được nên hỏa giới diệt hết mà người bệnh phải chết.

Này Ðại Vương! Hỏa giới lúc diệt, nó chẳng đi đến mười phương. Lúc sanh nó cũng không, lúc diệt nó cũng không, mà hỏa giới ấy từ nào thể tánh nó tự không.

Này Ðại Vương! Có thời kỳ thế giới hư hoại. Lúc thế giới hoại hỏa giới ngoài thân tăng thạnh cháy đỏ suốt khắp cả tam thiên Ðại Thiên thế giới.

Này Ðại Vương! Lửa ngoài thân ấy, lúc sanh không tưé đâu đến.

Này Ðại vương! Lại có lúc khối lửa lớn ấy cháy khắp cõi Ðại Thiên rồi tắt. Lúc lửa ấy diệt, nó chẳng đến đâu, chẳng đến mười phương.

Này Ðại Vương! Hỏa giới ngoài thân ấy, lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không, chẳng phải có, chẳng thể được. Chỉ là riêng dụng, nhưng riêng dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ.

Này Ðại Vương! Phong giới cũng có hai thứ: nội và ngoại. Gì là phong giới trong thân? Trong thân mình và trong thân người được có phong giới bị thọ bị lấy, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật,, danh tốc tật. Ðó là ở nơi tứ chi là phong, ở nơi tỳ vị là phong đi nơi năm vóc là phong, đi nơi lóng đốt chi phần là phong, hơi thở ra vào cũng là phong. Nói tóm lại, đi khắp trong thân thể đều là phong.

Có lúc phong giới trong thân ấy tăng thạnh tập hiệp có thể làm cho thủy giới khô khan, cũng có thể làm tổn giảm hỏa giới, do đó thân người không nhuận trạch cũng không ấm nóng, bụng phình trướng, tay chân co cúng, các mạch máu căng đầy, gân nóng rút giựt rất đau khổ hoặc phải chết.

Này Ðại Vương! Phong giới trong thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.

Này Ðại vương! Người bệnh phong ấy hoặc gặp lương y cho đúng thuốc hay nên bệnh phong dứt hết. Lúc phong giới ấy diệt, cũng không đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó diệt cũng không, thể tánh nó tự không.Gì là phong giới ngoài thân?

Này Ðại Vương! Ngoài thân được có, thân chẳntg thủ chẳng thọ, thể phong, danh phong, tốc tật, danh tốc tật, đây gọi là phong giới ngoài thân.

Này Ðại Vương! Có lúc ngoại phong giới ấy tăng thạnh tập hiệp làm rụng lá gãy nhánh, gãy cây trốc gốc, lở non ngã núi, tan nátthành vi trần, cả cõi Ðại Thiên Này bị gió mạnh ấy thổi lăn chuyển xoay tròn. Như thợ gốm lấy gậy xoay chuyển vòng khuôn, cõi Ðại Thiên Này bị gió thổi xoay tròn cũng vậy. Như chút ít bột mịn bị gió thổi tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên Này bị gió mạnh thổi tan thành vi trần cũng khó thấy được. Như lúc có gió lớn lấy nắm đất rải theo gió bay tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên Này lúc bị gió mạnh thổi tan cũng khó thấy được như vậy.

Này Ðại Vương phong giới ngoài thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.Lại như đầu mùa hạ không gió cây cỏ khô héo.

Này Ðại Vương! Ngoại phong giới ấy, lúc diệt nó không đi đâu. Phong giới ấy lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không.

Này Ðại Vương! Nội phong giới và ngoại phong giới ấy cả hai đều không. Thể tánh nó tự ly, tướng cũng tự ly, tánh cũng bất khả đắc, tướng diệt cũng ly.

Tại sao? Vì phong giới ấy chẳng phải tác, không có tác giả vậy.

Này Ðại Vương! Gì là hư không giới? Nó cũng có hai thứ: nội và ngoại. Gì là nội hư không giới? Hoặc trong thân mình, hoặc trong thân người được thọ được lấy, đó là hư không, thể hư không, danh hư không, trong thân sanh ra ấy nhập vào số các ấm các xứ và các giới bao nhiêu những lỗ huyệt. Ðây gọi là nội hư không giới. Gì là ngoại hư không giới? Ðó là ngoài thân có chẳng phải sắc, rỗng không nhẫn đến không có lông nhỏ ấy gọi là hư không. Ðây gọi laé ngoại hư không giới.

Này Ðại Vương có lúc do nghiệp nhân duyên nên sanh các nhập. Các nhập ấy được sanh rồi vây quanh không giới, bấy giờ được gọi là vào số nội hư không giới.

Này Ðại Vương trong mỗi mỗi pháp như vậy suy cầu không một nhãn nhập có thể được, chỉ có tác dụng.

Này Ðại Vương do có gì mà không? Vì địa giới thanh tịnh vậy. Như địa giới thanh tịnh nên không, thủy hỏa phong giới thanh tịnh nên cũng không như vậy, nó không từ đâu đến.

Này Ðại Vương! Có lúc tất cả các sắc đều hoại diệt làm hư không. Tại sao? Vì hư không giới vô tận vậy.

Này Ðại Vương! Chỉ nội hư không giới an trụ bất động. Như vô vi Niết bàn giới an trụ bất động, phải biết hư không giới khắp tất cả chỗ cũng vậy.

Này Ðại Vương!Như có người ở đồng hoang trống đào đất làm ao làm giếng. Ý Ðại Vương thế nào, hư không ấy từ đâu đến?

- Bạch Thế Tôn! Nó không từ đâu đến.

- Này Ðại Vương! Nếu người ấy lấy đất đắp lại. Ý Ðại Vương thế nào, hư không ấy đi đến đâu?

- Bạch Thế Tôn! Nó không đi đến đâu. Tại sao? Bạch Thế Tôn! Hư không giới ấy không đến không đi. Tại sao? Vì hư không giới ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy

- Này Ðại Vương! Ngoại hư không giới cũng bất động tánh nó không biến đổi. Hư không giới rỗng không chẳng phải là pháp có. Tại sao? Vì hư không giới chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy.

Này Ðại Vương! Gì là thức giới?

Như nhãn làm chủ phan duyên nơi sắc, vì đối sắc mà biết nên thức sanh ra hoặc biết được xanh vàng đỏ trắng các màu sắc, cũng biết được dài vắn to nhỏ các hình sắc. Tất cả những vật sắc mà nhãn thức thấy được ấy gọi là nhãn thức giới.

Cũng vậy, hoặc biết tiếng, biết hương, biết vị, biết xúc, hoặc biết pháp, hoặc biết sáu căn sở duyên sở tri thì gọi đó là nhĩ thức giới đến gọi là ý thức giới.

Này Ðại Vương! Lại thức giới ấy chẳng y nương các căn, cũng chẳng y nương nơi giới. Tại sao? Vì chẳng phải địa tịnh sắc làm nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong tịnh làm nhãn nhập. Tại sao? Chẳng phải địa giới thanh tịnh và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong giới thanh tịnh sắc và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập. Tại sao? Vì các pháp vô tri vô liễu biệt vậy, không kham năng vậy, chẳng phải sơ trung hậu vậy, chẳng phải nội ngoại trung gian vậy.

Này Ðại Vương: Thức giới ấy biết cảnh trước rồi liền dứt mất chẳng còn sanh lại. Thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không chỗ đến.

Này Ðại Vương! Gì gọi là nhãn nhập?

Ðó là bốn đại chủng cấu thành sắc thanh tịnh. Các pháp thể tánh nếu là tự không, thì có gì là thanh, có gì là trược. trong các pháp không có tịnh uế thì sao lại ở trong các pháp mà thấy có tịnh uế.

Như vậy, Này Ðại Vương! Vì thế nên biết nhãnh nhạ-p quyết định thể tánbh cứu cánh không tịch, tiền tế hậu tế đều bất khả đắc. Tại sao?

Vì vị lai chưa đến nên bất khả đắc, quá khứ đã diệt nên cũng bất khả đắc. Vị lai và sự vị lai bất khả đắc. Nhãn xứ ấy cũng bất khả đắc, vì tự tánh ly vậy. Nếu thể tánh bất khả đắc thì cũng không có được tánh nam và tánh nữ. Ðã không có tánh nam và tánh nữ thì nào có ngã ngã sở.

Này Ðại Vương! Nếu có ngã ngã sở, đó là cảnh giới ma. Không ngã không ngã sở thì gọi là cảnh giới chư Phật Như Lai. tại sao? Vì tất cả pháp ly ngã ngã sở vậy.

Này Ðại Vương! Như thiệt biết rõ nhãn nhập không, nhãn nhập tự tánh không, tại sao? Vì nhãnh nhập ấy tướng nó bất khả đắc, thế nên nhãn nhập ấy thể tánh nó không tịch. Tánh không ấy ly tướng nhãn nhập, đây gọi là vô tướng. Ở nơi tướng không mong cầu nên gọi là vô nguyện. Ðây là ở nơi nhãn nhập ba môn giải thoát hiện ra trước.

Này Ðại Vương! Gì là nhĩ nhập giới đến thân nhập giới?

Này Ðại Vương! Tất cả pháp ấy đối ba giải thoát môn, hiện tiền quyết định đến pháp giới cứu cánh khắp hư không, chẳng gọi được, chẳng nói được, chẳng dùng được, chẳng chỉ được, không tranh luận, không ngữ ngôn, chẳng đo lường được.

Này Ðại Vương! Ðem nhãn đối sắc gọi là điên đảo, nhĩ đối thanh, tỷ đối hương, thiệt đối vị, thân đối xúc, ý đối pháp, gọi là điên đảo. Vì thế các pháp gọi là ý cảnh giới.

Này Ðại Vương! Nhãn nhập đối sắc qua thấy lấy dính có ba thứ ngại: ngó thấy cảnh thuận sanh ý tưởng ái luyến, nếu thấy cảnh trái sanh ý tưởng sân khuể, thấy cảnh trung dung sanh ý tưởng không tham không sân, năm nhập kia đối cảnh cũng có ba thứ ngại như vậy, nếu duyên cảnh thuận sanh tâm ái, duyên cảnh nghịch sanh tâm sân, duyên cảnh trung dung sanh tâm ngu hoặc. Cảnh giới như vậy là chỗ sở hành của ý. Vì ý đi khắp nên gọi là ý cảnh giới.

Này Ðại Vương! Ý ấy hành nơi sắc thuận thì sanh tham dục, hành nơi sắc trái thì khởi sân nộ, hành sắc trung dung thì khởi ngu si. Như vậy, ý hành nơi thanh hương vị xúc cũng đều có ba sự khởi tham sân si. Nghĩa là ý duyên cảnh thuận ý pháp sanh tham dục, ý duyên cảnh trái ý pháp sanh sân khuể, ý duyên cảnh trung dung ý pháp sanh khởi vô minh ngu si.

Này Ðại Vương! Phải như vậy mà biết nơi các căn dường như ảo hóa, biết cảnh giới ấy như mộng.

Này Ðại Vương! Như người trong mộng cùng các thể nữ và đại chúng vui vầy. Người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự việc trong mộng nào đại chúng nào các thể nữ. Ý Ðại Vương thế nào, sự việc được thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt

- Này Ðại Vương! Người ấy đang lúc ở trong mộng cho là thiệt, có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không phải trí. Tại sao? Ðại chúng và thể nữ được thấy trong mộng cứu cánh là không, cũng là bất khả đắc, huống lại cùng nhau vui vầy. Người ấy chỉ tự khổ nhọc, trọn không có thiêt.

- Này Ðại Vương! Các phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy sắc khả ý, mắt thấy sắc rồi sanh lòng chấp trước, sanh chấp trước rồi khởi lòng ái trọng, khởi ái trọng rồi sanh tâm nhiễm trước,sanh nhiễm trước rồi làm nghiệp trước, đó là thân ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp và ý ba nghiệp, tạo nghiệp rồi liền dứt mất, nghiệp ấy dứt rồi nó chẳng y nương. Ở mười phương, nghiệp ấy nhẫn đến lúc lâm chung thức tối hậu diệt thấy việc từ trước hiện ra trong tâm tưởng.

Này Ðại Vương! Người ấy, tự phần nghiệp dứt hết, nghiệp khác hiện ra, giống như từ mộng thức dậy rồi nhớ sự việc trong mộng.

Này Ðại Vương! Như vậy, thức tối hậu làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy mà trong phần sanh thức tâm bắt đầu khởi hoặc sanh địa ngục, hoặc sanh súc sanh, hoặc sanh giới diêm ma la, hoặc sanh A Tu La, hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! không có một pháp nào từ đời Này đến đời khác, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả ba 10 đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp, cũng không người thọ báo.

Này Ðại Vương! Lúc tối hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp ấy, nghiệp thể tánh không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ, thể tánh thọ không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không.Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Như vậy, tác nghiệp và quả báo không hư mất, không có người tác nghiệp, cũng không có người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không có tướng thì cũng không có nguyện cầu gọi là vô nguyện giải thoát môn.

Này Ðại Vương! Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng với không đi chung, đường trước là Niết bàn, xa rời các tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Nên biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người trong mộng đấu với kẻ oán thù. Người ấy thức dậy rồi ghi nhớ cùng kẻ địch đấu nhau. Ý Ðại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy ở trong mộng cho sự ấy là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không phải là trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có kẻ oán địch, huống là chiến đấu. Người ấy huống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy sắc bát khả ái, lòng họ chẳng vui thích mà sanh chấp trước rội khởi tâm sân khuể làm cho tâm trược loạn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba, miệng bốn, ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt mất. Nghiệp ấy dứt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng.

Này Ðại Vương! Người ấy thấy nghiệp ấy hiện rồi, lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như lúc thức dậy nhớ sự trong mộng.

Này Ðại Vương! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên. Do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm bắt đầu khởi, hoặc sanh địa ngục súc sanh ngạ quỉ, hoặc sanh A Tu La Nhân Thiên. Thức trước diệt rồi, sanh phần thức sanh. Sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau nhưng mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi, nó không từ đâu đến, đến lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử cũng không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp á-y, thể tánh nghiệp không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức ấy, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh ấy, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương!Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không nên là vô tướng giải thoát môn.Nếu đã vô tướng thì không có nguyện cầu nên gọi là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như có người ở trong chiêm bao bị quỉ nhiễu não lòng họ kinh sợ. Thức dậy, người ấy ghi nhớ quỉ trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, quỉ được thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy ở trong mộng cho là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không phải là trí. Tại sao? Vì trong mộng quỉ còn không có huống là sợ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại vương! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy xả xứ sắc lòng họ chấp trước rồi tạo nghiệp chấp trước nơi thân ba miệng bốn ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.

Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã tạo từ trước hiện ra trong tâm tưởng.

Này Ðại Vương! Người ấy thấy rồi lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, giống như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.

Này Ðại Vương! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhân Thiên. Thức trước diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tác nghiệp và thọ báo.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, Thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu đã vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người trong mộng thấy nữ nhân đoan chánh đệ nhất trong nước, ở bên nữ nhân ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhân nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt không?

- Bạch Thế Tôn không thiệt.

- Này Ðại Vương! Trong mộng người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn không phải trí. Tại sao? Trong mộng nữ nhân và âm nhạc cứu cánh đều không huống là vui ngũ dục. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nữ nhân và nghe âm nhạc thích ý sanh lòng nhiễm trước rồi tạo nghiệp nhiễm trước nơi thân ba miệng và ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sinh ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng.

Này Ðại Vương! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai nhân duyên nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến trong Nhân Thiên. Thức ấy diệt rồi sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báu đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệpkhông. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả đều có đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! tai nghe ác thanh, sanh khởi ác tâm.

Này Ðại Vương! Như người trong mộng thấy nữ nhân đoan chánh đệ nhất trong nước, ở bên nữ nhân ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhân nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự trong mọ-ng là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí, tại sao? Vì thân ái biệt ly được thấy trong mộng ấy cứu cánh không có huống là buồn khóc. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nghe ác thanh liền chấp trước nên sanh lòng chẳng ưa rồi giận hờn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba miệng bốn và ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng. Cũng vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do nhân duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương không một pháp nào từ đời Này đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy, lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

 

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương tai nghe xả thanh, khởi xả tướng.

Như người trong mộng nghe câu chẳng rõ nghĩa. Thức dậy người ấy ghi nhớ tiếng được nghe trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, tiếng nghe trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! không thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy nằm mộng cho là thiệt thì có phải là trí không?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có âm thanh để được, huống là có câu liễu nghĩa câu bất liễu nghĩa. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hang phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ nghe xả thanh bèn chấp trước nên mê hoặc mà tạo nghiệp. Nghiệp được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.

Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy sự đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi tâm sanh chấp trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ tiếng câu chẳng rõ nghĩa được nghe trong mộng.

Này Ðại Vương! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến, hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thức thọ sanh phần sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng duyệt.

Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

      

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.Hoại, thể tánh hoại không.

Này đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.

Tất cả pháp không là không giải pháp môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn.Nếu vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! thí như người chiêm bao lấy hương gỗ chiên đàn hoặc hương lá đa ma la và các thứ hương khác để xoa thân mình. Thức dậy người ấy các thứ hương được xoa trong mộng vừa rồi. Ý Ðại Vương thế nào?, sự thấy trong mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có hương huống là xoa thân. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phu ngu si không học chánh pháp, họ ngửi hương thơm bèn mến thích rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi thân ngữ ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất, khi mất, nghiệp ấychẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Như trong chiêm bao thức dậy nhớ hương thơm được ngửi trong mộng. Này Ðại Vương! Tối hậu thức lám chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu sanh khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Này Ðại Vương! Lúc hậu thức diệt gọi là tử số.Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệtnó chẳng đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nóchẳng đến đâu. Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả phápđều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước, xa rời tướng xa rời nguyện, cứu cánh. Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người chiêm bao thấy cổ mình đeo những tử thi rắn, chó, thây người v.v…Thức dậy, người nhớ cảnh mộng rồi sợ sệt. Ý Ðại Vương thế nào, cảnh mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy chấp lấy tử thi được thấy trong mộng có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng tử thi thì không có, huống là cột nơi cổ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phám phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy thúi xấu thì chấp trước ghét bỏ mà tạo mười nghiệp sân ghét nơi thân khẩu ý? Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ghét bỏ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra? Như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.

Này Ðại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấymà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp được làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lu&c diê(t cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không.Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh của hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn? không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường đến Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người chiêm bao thấy tỷ căn hoại. Thức dậy, người ấy ghi nhớ mũi mình hư. Ý Ðại Vương như thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy chấp cảnh mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có tỷ căn huống là hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy tỷ căn hoại thì chấp trước lo sợ mà tạo mười nghiệp chấp trước lo sợ nơi thân khẩu ý.

Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc đã làm hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng sợ sệt, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra. Như thức dậy nhớ việc trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! Không một pháp Này từ đời Này đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã tạo và thọ quả báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Lúc hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu tới, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cung không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không.Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. tất cả pháp không là không giải thoát môn.. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường trước là Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện,cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.Này Ðại Vương! Như người mộng thấy mình đói khát được cơm canh ngon tha hồ ăn uống. Thức dậy thấy người ghi nhớ cơm canh ngon được ăn trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có cơm canh huống lại có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy các thức ăn thì chấp trước tham ưa say nhiễm rồi tạo nghiệp tham nhiễm mười thứ nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, nhẫn lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ reươ&c hiện ra trong tâmtưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng tham chấp, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Này Ðại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, thức sanh trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp dã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Lúc hậu thức ấy diệt gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu dến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không.Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không,. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước là Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện, cứucánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giớiu như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng thấy miénh quá đói gặp được dưa đắng, trái câu xa, trái nhâm bà v.v…liền lấy ăn. Thức dậy người ấy ghi nhớ trong mộng ăn những trái đắng. Ý Ðại Vương thế nào, trong mộng người ấy có thiệt ăn trái đắng chăng?

- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.

- Này Ðai Cương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng còn không có trái đắng huống là có ăn. Người ấy luống sự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mộng thấy bị đói khổ, họ liền chấp trước mà tạo mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu và ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâmchung, tối hậu thức diệt, thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi, trong tâm sanh vọng tưởng, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi thác sanh vào sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo, đều chẳng mất hư, không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không.Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi với không trên đường trước, Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như gnười mộng thấy lưỡi mình hư hoại. Thức dậy người ấy ghi nhớ sự trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Ðại Vương! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mọ-ng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải là trí. Tại sao? Vì trong mộng lưỡi còn chẳng có huống là hư hoại. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy thiệt căn hư hoại thì chấp trước sanh long chẳng ưa mà khởi mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt, chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi lòng lo sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp zấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.Hậu thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến; lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh rhế gian không.Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch, tất cả pháp không là không giải thoát môn, không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không trên đường trước Niết bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ đều phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng thấy ôm ấp nữ nhân đẹp nhất nước. Thức dạ-y, người ấy ghi nhớ sự chạm xúc êm dịu trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có gái đẹp, huống là chạm xúc êm diệu.Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu nghu si không học chánh pháp, họ thấy sắc khả ý thì chấp trước mà khởi ái dục sanh lòng nhiễm trước rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi tân khẩu và ý.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng, người ấy thấy rồi sanh lòng ưa vui, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nghiệp ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu loài.

Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đếu đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh không ttừ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhưt nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.

Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng tự lấy đồng lá nóng quắn thân mình. Thức dậy, người ấy ghi nhớ trong mộng quấn đồng lá nóng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng còn không có đồng lá huống là có quấn thân mình. Người ấy tự luống nhọc nhằn đều không có thiệt

Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy sự kinh sợ thì chấp trước nên sợ hải nên tạo mười nghiệp sợ hải thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, người ấy thấy việc làm hiện trong tâm tưởng liền sợ hải, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không tưù đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không tưé đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không.Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thê” tánhNiết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả các pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp tánh, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng thấy thân căn hư hoại chẳng cảm giác khi xúc chạm. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự hư hoại trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có thân căn huống là có hư hoại. Người tự ấy luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.

Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, tự thấy thân căn hư hoại thì chấp trước nên sợ hải rồi tạo mười nghiệp sợ hải nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng?. Người ấy thấy rồi sanh lòng sợ hải, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vật, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần tức tâm sơ khởi vào trong sáu thứ. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đậu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp khôn. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. hoại, thể tánh hoại không.

Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng thấy nhà ảo thuật hóa ra ngũ dục, tự thấy thân mình hưởng thọ ngũ dục. Thức dậy người ấy ghi nhớ cảnh ngũ dục trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng được thấy là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng nhà ảo thuật còn cứu cánh không có huống là ngũ dục và hưởng thọ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy ảo sư thuật ra ngũ dục thì chấp trước mà ái trọng rồi nhiễm trước, do đó họ tạo mười nghiệp ái nhiễm nơi thân khẩu và ý.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ái nhiễm. Nghiệp trước đã hết, nghiệp khác sanh ra, như mộng thức nhớ cảnh sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cung không đến đâu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Hoại, thể tánh hoại không.

Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đầy đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các cann như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phảibiết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng thấy nước lớn cuốn trôi thân mình, vợ con quyến thuộc thấy vậy buồn rầu vô lượng. Thức dậy, người ấy nhớ sự nước trôi và buồn rồi trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mọ-ng cứu cánh không có nước, huống là cuốn trôi và buồn rầu. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy nước cuốn trôi thì chấp trước mà lo buồn rồi tạo mười nghiệp lo buồn nơi thân khẩu và ý.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng buồn sợ, nghiệp trước đã hết, nghiệp sau hiện ra, như người thức dậy nhớ sự cảnh trong mộng .

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau mà có sanh diệt thấy việc làm tưé trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy lúc tữ không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tư” không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi khọng. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và thọ quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều là đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn? xa rời tường xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Ðại Vương! Như người mộng thấy mình uống rượu say không còn hay biết, chẳng biết phải trái thiện ác tội phước tôn ty ưu liệt. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự việc trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

- Bạch Thế Tôn!Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh còn không có rượu huống là có uống say mê loạn chẳng biết tội phước tôn ti thiện ác phải trái hơn kém. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

- Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy uống rượu mê loạn họ sanh chấp trước mà nhiễm ái rồi tạo mười nghiệp nhiễm ái nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng ái trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.

Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũ’ng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Hoại, thể tánh hoại không. Nghiệp được tạo tác và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà cóchớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ đều phải biết như vậy.

'

PHẨM TỨ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU

Bấy giờ đức Phật nói với Tịnh Phạn Vương: “Này Ðại Vương! Các pháp như đã nói ở trên phải chuyên tâm tinh tiến quan sát tu hành chớ theo nơi khác.

Pháp ấy là Bồ đề của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, hay tự tại siêu việt tất cả thế gian, hay trừ tất cả khát ái hàng phục ngã mạn, diệt trừ tội lỗi, được bình đẳng nơi tất cả pháp. Nó chẳng phải là chỗ của hạng phàm phu, tất cả Thanh Văn chẳng đến được, chẳng phải cảnh giới của tất cả Bích Chi Phật, là chỗ tu hành của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng đắc của tất cả chư Phật.

Ở trong pháp ấy, Ðại Vương phải để tâm suy nghĩ rằng: Tôi phải thế nào để được làm mắt sáng ở trong Trời Người, được làm đèn sáng, đuốc lớn, thuyền bè, biết thủy lộ giới là Ðạo Sư, là thương chủ, là đạo thủ ở trong Trời Người.

Tôi phải thế nào để tự độ mình rồi lại độ được người, tự đã giải thoát lại giải thoát người, tự được an ổn lại an ổn người, tự chứng Niết bàn lại khiến người chứng Niết bàn.

Ðại Vương nên biết chẳng nên quan sát đời quá khứ và trải qua sự giàu mạnh tự tại.

Này Ðại Vương! Các căn như ảo, không bao giờ thỏa mãn, cũng không có gì làm nó thỏa mãn được. Cảnh giới như mộng, ở nơi sắc thanh hương vị xúc không biết chán đủ.

      

Này Ðại Vương! Thuở quá khứ có chuyển luân vương tên Vô Biên Xưng có đủ thất bửu oai lực tự tại thống lãnh tứ thiên hạ. Nhà vua ấy ở chỗ đức Phật trước trồng các cội lành nên được thành tựu ý lực nghĩ gì được nấy.

Lúc ấy, vua Vô Biên Xưng tự nghĩ ta thử sức phước đức của ta, nay ta tự nương phước đức khiến tất cả cây cối trong bốn thiên hạ Này thường có bông trái dùng hoài không hết.

Này Ðại Vương! Vua Vô Biên Xưng ý nghĩ như vậy rồi, khắp bốn thiên hạ tất cả rừng cây trổ bông kết trái xum xuê nhân dân dùng mãi không hết.

Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng làm cho tất cả nhân dân trong bốn thiên hạ muốn gì đều được cả không hề trái ý. Nhà vua ấy nghĩ tưởng như vậy rồi, tất cả nhân dân đều được đầy đủ theo chỗ mong cầu.

Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khiến khắp bốn thiên hạ đều mưa nước thơm. Liền đó khắp nơi đều mưa nước thơm.

Nhà vua ấy thử phước lực của mình nên lại nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ đều mưa hoa đẹp. Liền theo ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi đều mưa hoa đẹp.

Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khắp nơi đều mưa y phục đẹp. Liền đó khắp nơi mưa y phục kiếp bối cõi trời

Nhà vua ấy lại muốn thử phước lực của mình nên nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ mưa bạc, rồi lại tưởng mưa vàng. Theo đúng ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi mua bạc rồi mưa vàng.

Tại sao như vậy? Vì vua Vô Biên Xưng ấy từ quá khứ đã ở nơi tất cả chúng sanh tu cộng nghiệp thiện.

Này Ðại Vương! Thuở ấy mặt đất Diêm Phù Ðề dọc ngang đều một vạn tám ngàn do tuần, có sáu mưoi ngàn vạn đại thành. Trung ương có hoàng thành tên Bửu Trang Nghiêm dọc ngang mười hai do tuần, bốn phía bằng phẳng khéo đẹp, đường sá trang nghiêm, ranh giới rành rẽ.

Ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ấy có bảy lớp hàng cây Ða La bằng bốn thứ báu là vàng bạc lưu ly và pha lê rất đẹp đáng ưa. Nếu là cây Ða La vàng thì thân cành gốc rễ bằng vàng mà lá bông và trái bằng bạc. Nếu là cây Ða La bạc thì thân cành gốc rễ bằng bạc mà lá bông và trái bằng vàng. Nếu là cây Ða La bằng lưu ly thì gốc rễ thân cành bằng lưu ly mà lá bông và trái bằng pha lê. Nếu là cây Ða La pha lê thì gốc rễ thân cành bằng pha lê mà lá bông và trái bằng lưu ly.

Thành Bửu Trang Nghiêm ấy giáp vòng có bảy lớp treo lưới linh lạc báu, lại có màn lưới báu che trùm phía trên.

Ngoài thành có bảy lớp hào, mỗi hào sâu nửa do tuần, rộng một do tuần, đáy và bờ hào đều bằng phẳng, đầy nước trong sạch đủ tám đức, chim chóc uống nước ấy. Trong nước hào mọc đầy bốn thứ hoa sen xanh, vàng đỏ và trắng. Ðáy hào trải cát vàng. Bờ hào bằng bốn báu vàng bạc lưu ly và pha lê: bực vàng thì thang bạc, bực bạc thì thang vàng, còn lưu ly và pha lê thì trang sức trên dưới xen lẫn trang nghiêm. Lan can xung quanh hào bày bảy báu trang nghiêm vô tỉ.

Mỗi con đường đều có bảy lớp cổng báu, hai bên đường có những cây chuối vàng, bốn bên hào đường sá giáp vòng, nơi hai đầu đều có tọa ngồi bằng bảy báu.

Tất cả sự trang nghiêm báu quí ấy đều do phước đức của vua Vô Biên Xưng cảm thành.

Xung quanh ngoài thành Bửu Trang Nghiêm có tám vạn rừng vườn. Làm những rừng vườn ấy, vua Vô Biên Xưng không có lòng chấp trước là sở hữu của mình mà cho tất cả nhân dân cùng hưởng. Mỗi khu vườn ấy có tám ao lớn dọc ngang đều nửa do tuần, đầy hoa sen bốn màu. Bờ ao có tám thềm đường bằng bốn báu và cổng ngỏ bảy báu.

Hai bên thềm đường có cây chuối vàng Diêm Phù Ðàn trang nghiêm. Trong ao đầy nước tám đức, các loài chim uống nước ấy. Bốn bên ao nhà vua ấy lại cho trồng nhiều hoa đẹp để nhân dân cùng hưởng.

Các lưới báu linh lạc báu khắp thành Bửu Trang Nghiêm, lúc gió nhẹ thoảng phát ra tiếng hòa nhã như ngũ âm do nhạc công giỏi trổi lên. Nhân dân trong thành cùng vui chơi theo nhạc điệu ấy. Thuở ấy thành lớn Bửu Trang Nghiêm giàu vui an ổn, nhân dân giàu có no đủ, mọi nơi đều có hoa sen bốn màu đẹp thơm vô tỉ.

Một lúc khác, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng:Nay ta sẽ qua châu Tây Cù Ðà Ni. Vua cùng bốn binh chủng cùng bay lên hư không qua Cù Ðà Ni. Chư tiểu Quốc Vương ở châu Tây ấy đều đến phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn muôn năm rồi mang bốn binh chủng lên hư không bay qua châu Ðông Phất Bà Ðề, các tiểu Quốc Vương ở châu Ðông đều phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn vạn năm rồi đem bốn binh chủng lên hư không bay đến châu Bắc Uất Ðơn Việt, nhân dân nơi châu Bắc đều hoan nghênh. Vua Vô Biên Xưng ở lại châu Bắc nhiều trăm ngàn năm cùng quyến thuộc vui vầy.

Một hôm vua Vô Biên Xưng nghĩ rằng ta có nghe trời Ðao Lợi ỏ đảnh núi Tu Di, nay ta nên lên đó.

Nghĩ như vậy rồi nhà vua ấy ngồi long tượng đem bốn binh chủng bay lên hư không thẳng lên núi Tu Di. Nhà vua ấy hỏi quan hầu cận rằng ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ thế nào?

Quan hầu thưa: Tâu Ðại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ đều xoay tròn. Như nhà gốm quay tròn vòng khuôn, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ cũng quay tròn như vậy.

Nhà vua ấy bảo quan hầu cho long tượng vương đại hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.

Nhà vua ấy lại hỏi quan hầu: Giờ đây ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ thế nào?

Quan hầu thưa: Tâu Ðại Vương! Tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ đều chấn động.

Nhà vua ấy nói nay ta muốn đến đánh núi Tu Di, cho long tượng vương Này tiểu hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.

     

Nhà vua ấy hỏi quan hầu: Giờ đây người thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ thế nào?

Quan hầu thưa: Tâu Ðại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn thiên hạ đều chẳng động chẳng chuyển.

Nhà vua ấy bảo: Ðã đến đảnh núi Tu Di rồi.

Vua ấy cùng bốn binh chủng đến đảnh núi Tu Di.

Ðế Thích thấy vua Vô Biên Xưng thì vui mừng đón tiếp và chia nửa tòa ngồi cho cho vua ấy cùng ngồi. Vua Vô Biên Xung tiếp nhận chỗ ngồi rồi cùng Ðế Thích ngự trời Ðao Lợi cả vô lượng năm.

Sau đó, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng: Ta nên truất phế Ðế Thích để riêng ta làm Thiên Vương.

Vừa nghĩ xong như vậy, nhà vua ấy cùng bốn binh chủng từ trời Ðao Lợi rơi xuống vườn bảy báu ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ở Nam Diêm Phù Ðề. Bấy giờ có dân trong thành ra thấy như vậy vội cấp bảo vào thành. Lúc ấy vua đang ngự trị thành Bửu Trang Nghiêm tên là Tác Ái, nghe có vị Thiên Tử bốn binh chủng từ trên không giáng xuống vườn thất bửu ngoài thành, liền truyền nghiêm xa giá cùng bốn bộ binh chủng xuất thành đến vườn thấy vua Vô Biên Xưng. Vua Tác Ái sai đem các thứ hoa và hương bột hương thoa đến rồi tự trịch y vai hữu quỳ gối hữu chắp tay hướng về vua Vô Biên Xưng mà thưa rằng: Ngài là ai?

Vua Vô Biên Xưng nói: Người có từng nghe thuở xa xưa có vua Vô Biên Xưng chăng?

Vua Tác Ái và các quan dân đều nói: Chúng tôi có nghe người xưa nói thuở trước có vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn châu thiên hạ. Vua ấy cùng bốn binh chủng bay lên trời Ðao Lợi.

Vua Vô Biên Xưng nói: Như chỗ các ngươi đã nghe, vua Vô Biên Xưng chính là ta đây.

Từ đó vua Vô Biên Xưng nghe mùi vị đồ ăn uống ở nhân gian lòng chẳng ưa thích chẳng chịu được nên thân tâm trầm trọng hôn mê. Như đem đề hồ để trên cát nóng liền chìm mất chẳng tạm dùng còn, vua Vô Biên Xung ở Diêm Phù Ðề ăn uống các thứ lòng không ưa thích, thân tâm chìm mất cũng như vậy.

Vua Tác Ái thấy vua Vô Biên Xưng chẳng chịu được mùi vị đồ ăn uống ở nhân gian nên thân tâm chóng hư hoại chẳng thể sống còn bèn thưa rằng: Ðại Vương có lời gì dặn bảo để tôi truyền lại cho người đời sau.

Vua Vô Biên Xưng nói với vua Tác Ái: Nhà vua nên biết từ xưa vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn thiên hạ oai đức tự tại, tùy ý muốn gì đều được như vậy, muốn rừng cây đầy hoa quả thì bông trái có luôn hay trừ khổ cho mọi người. Nhân dân muốn cần gì thì đều được thỏa mãn cả. Ta lại có thể mưa nước thơm, mưa hoa đẹp, mưa y phục báu, mưa bạc trắng, mưa vàng ròng. Ngự trị bốn châu giàu mạnh tự tại. Ta lên trời Ðao Lợi, Ðế Thích chia ngự tọa cùng cai trị cõi trời. Vì lòng tham không chán đủ nên phải từ cung trời rơi xuống Diêm Phù Ðề mà chết.

Vua Vô Biên Xưng bảo vua Tác Ái: Các sự việc vừa kể ấy, nhà vua nên truyền nói như vậy và kết luận rằng: Vua Vô Biên Xưng giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán nên phải chết mất. Vua Vô Biên Xưng nói xong thì chết”.

Thuật đến đây, đức Phật nói với vua Tịnh Phạn: Vua Vô Biên Xưng ấy tức là thân Phật đây vậy. Này Ðại vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng.

Này Ðại Vương! Vì thế nên phải nhiếp tâm quan sát như vậy, chớ tin nơi khác”.

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Thường vui pháp tự tại

Luôn luôn sách tấn mình

Trong tham dục tự tại

Lòng phải biết chán lìa

Ly dục tự tại rồi

Trụ trong pháp tự tại

Nếu hàng phục được tâm

Thì hàng phục phiền não

Hàng phục được phiền não

Liền được lìa nghiệp đạo

Ðược lìa nghiệp đạo rồi

Là tháp chùa thế gian

Chẳng bị dục ô nhiễm

hiển bày lỗi phiền não

Nhớ lợi ích chúng sanh

Nên hiệu là tháp chùa

Nghe lời tham dục rồi

Liền lìa được tham dục

Nhất thiết trí tịnh tâm

Nên hiệu là tháp chùa

Tối thắng đại trượng phu

Nhớ dứt lỗi chúng sanh

Giải thoát sân cho họ

Nên hiểu là tháp chùa

Tối thắng đại trượng phu

Nhớ dứt si cho chúng

Thoát tâm ngu si ấy

Nên hiệu là tháp chùa

Ðiều ngự thiên nhân sư

Nhớ dứt mạn cho chúng

Làm tâm chúng sanh sạch

Nên hiệu là tháp chùa.”

Ðức Phật phán tiếp phán tiếp với vua Tịnh Phạn: “Này Ðại Vương! Thuở xưa quá khứ có Quốc Vương tên là Ðịa Thiên, làm vua đúng pháp, có đủ bảy báu và luân báu, tượng báu, mã báu, minh châu báu, ngọc nữ báu, trưởng giả báu và chủ binh báu.

Cha của vua Ðịa Thiên tên là Ðịa Sanh. Sau khi Ðịa Sanh chết, Ðịa Thiên là trưởng tử nên phụ tướng đại thần lấy nước bốn biển rưới đảnh của Ðịa Thiên tôn làm vua, đó là vua Sát Ðế Lợi Quán Ðảnh.

Lúc lên ngôi vua rồi, đến ngày rằm trăng tròn ngày thọ trai, vua ÐịaThiên tắm rửa gội đầu cắt cạo râu tóc và móng tay móng chân, mặc y phục mới sạch, dùng vòng hoa chuổi ngọc mũ mão vòng xuyến trang sức thân mình, ngồi trên lầu cao, các thể nữ vây quanh. Liền đó từ phương Ðông có luân bửu bằng vàng đủ ngàn căm giàn trục đều đủ, ánh sáng chói ngời, ngang dọc đều bảy cánh tay, thuần bằng vàng ròng.

Thấy kim luân bửu xuất hiện, vua Ðịa Thiên nghĩ rằng: Ta từng nghe người xưa nói nếu vua Sát Ðế Lơi Quán Ðảnh lên ngôi mà kim luân bửu ứng hiện thì sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta có phải là Luân Vương chăng, ta nên thử xem.

Vua Ðịa Thiên liền đứng dậy trịch y vai hữu đối luân bửu chắp tay khấn rằng: Luân bửu nên hạ xuống đây. Vua khấn xong, luân bửu liền hạ xuống dừng trước vua.

Vua Ðịa Thiên dùng hương thơm thoa tay, mặc y mão đẹp, tay mặt tiếp lấy luân bửu để trong tay trái, tay mặt xoa vuốt luân bửu mà khấn rằng: Nay ngươi nên hàng phục phương Ðông. Kim luân ấy liền bay lên hư không xoay vòng hai bên rồi dừng ở phương Ðông tại con đường chuyuển Luân Vương thuở xưa. Con đường ấy bằng phẳng rải đầy hoa bằng phẳng rải đầy hoa rất khả ái. Chỗ kim luân đi qua mặt đất đều bằng phẳng không có cao thấp. Do phước đức của vua Ðịa Thiên nên những ao suối giếng hồ khô cạn đều đầy nước tám đức, tất cả cây cối đều xum xê tươi tốt đầy trĩu hoa trái.

Bấy giờ vua Ðịa Thiên mang bốn binh chủng đi theo luân bửu, nếu luân bửu dừng lại vua và binh chủng cũng dừng theo. Những xứ nhà vua đến, quốc vương và thần dân xứ ấy đồng mang lễ vật ra nghênh đón và phụng hiến cả quốc độ ấy cho vua ngự trị.

Vua Ðịa Thiên Chuyển Luân Vương liền bảo rằng: Ta chẳng cần đến quốc độ Này, các ngươi cứ cai trị như xưa, nhưng phải xa lìa những sự sát sanh, cũng chớ trộm cắp, chẳng được tà dâm, không nên vọng ngữ lưỡng thiệt ác khẩu ỷ ngữ, chớ có tham dục giận thù và tà kiến. Các người phải tự mình tu mười nghiệp đạo lành và bảo người khác cùng tu. Nay ta nhận biết các người quy phục nơi ta, tuân lời ta truyền, ta xem các người như con em ta. Các người phải thảo ngay phụng dưỡng cha mẹ sư trưởng và các nhà tu hành. Chớ làm sự phi pháp và sự ác bất thiện, cũng khuyên người làm lành lánh dữ. Nếu được như vậy mới thiệt quốc độ và nhân dân xứ Này qui phục nơi ta.

Lần lượt như vậy, vua Ðịa Thiên theo luân bửu hàng phục xong châu Phất Bà Ðề phương Ðông và cả ba châu Nam, Tây, Bắc rồi trở lại Diêm Phù Ðề tại cung thành cũ, kim luân bửu ấy dừng ở bất động tại hư không trên chỗ vua ngự. Lúc ấy cả bốn châu thiên hạ, do phước lực của vua Ðịa Thiên nên đều biến thành bảy báu trang nghiêm, đó là vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não. Ba ác đạo cũng được giải trừ sanh vào đường lành. Toàn cõi không còn tiếng ác, không còn một ai tạo nghiệp ác.

Tại sao được như vậy? Ðó là do bổn nguyện lực của vua Ðịa Thiên. Vả lại lúc kim luân bửu xoay lăn đến đâu, cả tứ thiên hạ chẳng cần gieo trồng mà mọi nơi đều mọc đầy những cạnh mễ tự nhiên không có cám trấu. Mọi nơi lại tự nhiên sản xuất y phục báu đẹp từ những cây thiên thọ. Tất cả bệnh hoạn khắp nơi đều tự nhiên lui mất, chỉ trừ ba điều là cầu dục lạc, ăn nuốt và suy già. Tất cả nhân dân đều thọ đủ ngàn muôn tuổi, tất cả những khổ não đều tự nhiên tiêu trừ. Có vô lượng sự hi hữu chẳng thể nghĩ bàn như vậy xuất hiện nơi thế gian sau lúc vua Ðịa Thiên theo luân bửu ngự trị toàn bốn châu thiên hạ.

Thời gian lâu về sau, một hôm vua Ðịa Thiên nghĩ rằng: Nơi đây ta thọ hưởng khoái lạc, chẳng biết còn có chốn nào hơn? Vua lại nhớ đã từng nghe trời Ðao Lợi ở đảnh núi Tu Di, sự vui đẹp ở đó thế nào?

Vì lòng còn nặng ái dục nên vua Ðịa Thiên chán ghét sự thọ dụng ở nhân gian mà mong muốn sự vui đẹp ở cõi trời, nên vua cùng bốn binh chủng bay lên cung trời Ðao Lợi. Thấy vua Ðịa Thiên đến, Ðế Thích vui mừng đón tiếp và chia chỗ ngự trị cho.

Cùng Ðế Thích chia trị cõi trời vô lượng trăm ngàn năm, vua Ðịa Thiên bỗng có ý nghĩ truất bỏ Ðế Thích để mình trọn quyền. Vừa nghĩ như vậy xong, vua Ðịa Thiên và bốn binh chủng từ cung trời Ðao Lợi rơi xuống thành An Ổn nơi Diêm Phù Ðề.

     

Bấy giờ vua Ðịa Thiên vì lâu ngày ăn dùng vật thực thắng diệu cõi trời, nay bỗng đến nhân gian nên chẳng chịu được đồ thô xấu, thân tâm vua bị trầm một, như đem đề hồ đổ trên cát nóng liền chìm mất.

Thân tâm quá mệt suy vua Ðịa Thiên nói kệ rằng:

Các vua chúa tự tại

Chẳng trừ được khát ái

Như cỏ khô gặp lửa

Thế nên phải bỏ dục

Thường làm sự dâm dục

Chưa từng có lúc thỏa

Như khát uống nước mặn

Chẳng bao giờ hết khát

Như các dòng về biển

Chẳng bao giờ đầy được

Ái dục cũng như vậy

Chưa bao giờ thỏa đủ

Như lửa cháy cỏ cây

Không bao giờ thôi đủ

Ái dục cũng như vậy

Không bao giờ thỏa đủ

Như tiếng vang hang sâu

Theo tiếng không thôi dứt

Nghe tiếng cũng như vậy

Không bao giờ thôi dứt

Như thùng chứa chất thơm

Chứa đựng không chọn lọc

Ngửi hương cũng như vậy

Không bao giờ chán đủ

Như vá múc đồ ăn

Không bao giờ thôi đủ

Lưỡi nếm các vị ngon

Cũng không hề biết đủ

Như gương sáng hiện bóng

không bao giờ thôi đủ

Người hành dục cũng vậy

Với dục không chán đủ

Như hư không chứa gió

Không bao giờ đầy đủ

Thân thường ưa chạm xúc

Không bao giờ chán đủ

Như trong mộng uống nước

Chẳng bao giờ trừ khát

Y thức duyên các pháp

Cũng chẳng hề chán đủ

Người tham cầu ái dục

Càng thêm lớn ái dục

Nhìn xem các sự cảnh

Ái luyến chẳng chán đủ

Thấy dục tăng khổ não

Dường như lửa cháy củi

Dứt trừ các ái dục

như dùng nước tắt lửa

Này Ðại Vương, chớ nghĩ là ai khác, vua Ðịa Thiên thuở xưa ấy chính lá thân Phật đây vậy.

Thuở xưa ấy vua Ðịa Thiên giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán đủ nên phải chết mất. Tại sao? Do vì các căn không chán đủ nên sự cảnh không thỏa mãn được. Các ăn như gương soi, sự cảnh như bóng tượng. Các căn như ảo, cảnh giới như mộng.

Ðại Vương phải để tâm nơi pháp Này tự quan sát thật kỹ sâu, chớ theo nơi khác. Pháp Này là vô thượng Bồ đề của chư Phật ba đời.

Ðại Vương phải xa rời tất cả giàu mạnh, phải tiêu kiệt tất cả ái dục, lật đổ núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy họa, bình đẳng đối với tất cả pháp. Ðây chẳng phải là địa vị với tất cả phàm phu, chẳng phải đường đi của tất cả hàng Thanh Văn, cũng chẳng phải cảnh giới của tất cả Duyên Giác, mà chính là chỗ đi của tất cả Bồ Tát, là tất cả chứng đắc của tất cả chư Phật Ðẳng Chánh Giác.

Ðại Vương phải chú tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng; Ở trong tất cả thế gian thuở vị lai, tôi phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc lớn, làm ánh sáng, làm thuyền bè, làm đạo sư, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm thượng thủ, tự độ và độ người ,tự thoát và giải thoát người, tự an và an cho người, tự được Niết bàn khiến người cũng được Niết bàn.

Ðại Vương chớ xem xét sự giàu mạnh tự tại đã có thuở trước. Phải biết các căn như ảo nó chẳng hề chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được. Cảnh giới như mộng, chẳng thể làm thỏa mãn được”.

Ðức Phật lại nói với vua Tịnh Phạn: ” Thuở quá khứ có vua tên Ðảnh sanh. Vua ấy có oai đức lớn, có đại thần thông, có oai thế lớn. Vua ấy từ trên đảnh của phụ vương Ô Bô Sa mà sanh ra. Vua từ lâu chứa nhiều căn lành, đã từng thấy vô số chư Phật và tu các thiện căn, cung kính cúng dường chư Phật, tích chứa cội lành, rất được giàu mạnh tự tại trong bốn thiên hạ. Sau khi được quán đảnh lên ngôi vua bảy ngày thì bảy báu hiện ra đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương.

Những gì là bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương?

Một là kim luân bửu, thuần bằng vàng ròng, đủ ngàn căm, giàn trục đủ, ngang dọc đều bảy cánh tay, tự nhiên hiện đến trước nhà vua.

Hai là bạch tượng bửu, đủ sáu ngà, bảy chi chống đất, trắng như núi Tuyết, tự nhiên ứng hiện đến.

…………………………………………….………………..Voi và ngựa hai báu ấy, từ sáng sớm đến giờ ăn có thể đi khắp tám phương bốn châu thiên hạ, hết mé các biển rồi trở về chỗ cũ

Bốn là minh châu bửu, lớn bằng bắp vế người, thuần lưu ly xanh ánh sáng chiếu ra xung quanh đều một do tuần..

Năm là trưởng giả bửu, giàu có vô lượng, tùy ý vua muốn đều có thể sẵn đủ cả.

Sáu là ngọc nữ bửu, đoan trang xinh đẹp tuyệt luân, toàn thân toát ra mùi chiên đàn, hơi miệng sạch thơm, như hoa sen xanh, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, thân sắc mịn màng như lá đồng đỏ. Cả thân mềm dịu như không có xương, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát. Lòng dạ từ bi luôn nói lời nhỏ nhẹ tay chạm đến vua liền hiểu được ý nghĩa của vua.

Bảy là chủ binh bửu, tự nhiên xuất hiện, dũng mảnh sách mưu võ lược đệ nhất, biết trước ý nghĩ của vua cả bảy ngày, giỏi điều binh đánh trận.

Vua ấy lại có đủ ngàn con trai đoan chánh dũng kiện hàng phục được oán địch.

Thuở ấy vua Ðảnh Sanh ngự trị bốn thiên hạ, đúng pháp giáo hóa, khiến bốn thiên hạ giàu vui an ổn, nhân dân đông nhiều, thành ấp tụ lạc gần liền nhau. Toàn cõi không có đá sỏi gai góc mà nhiều châu báu đầy đủ vô lượng, vườn rừng ao suối rất tốt khả ái. Ðó là do vua Ðảnh Sanh an trụ nơi pháp lực mà cảm hiện lành tốt như vậy. Thời kỳ ấy hoặc Người hoặc Trời hưởng thọ dục lạc tối đệ nhất.

Ðô thành của vua Ðảnh Sanh ngự tên là A Du Xà. Thành ấy Ðông Tây đều rộng mười hai do tuần, Nam Bắc đều rộng bảy do tuần. Trong thành ngoài thành các thứ trang nghiêm đều đồng như thành Bửu Trang Nghiêm của vua Vô Biên Xung ở trên, cũng như Ðắc Thắng Ðường ở trời Ðao Lợi.

Ðảnh Sanh Vương tạo ba bửu điện: Một là Nguyệt Xuất điện, vua ở đó trong mùa Hạ, hai là Tỳ Lưu Ly điện, vua ở đó trong mùa Xuân, Ba là Nhật Oai Ðức Khởi, vua ở đó trong mùa Ðông rét lạnh. Lúc vua cùng ngọc nữ và thể nữ vào điện Nguyệt Xuất thì thân thể vua mát mẻ như ướp thoa hương ngưu đầu chiên đàn. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Tỳ Lưu Ly thì thân vua thư thới như ướp thoa hương lá đa ma la. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Nhật Oai Ðức thì thân vua ấm áp như thoa ướp hương trầm thủy.

Vua Ðảnh Sanh ấy theo chỗ thích muốn đều được tùy ý tự tại, khiến các cung điện theo thời tiết mà phát sanh sự cảm xúc vừa ý: tùy ý phát xuất gió, tùy ý phát xuất mưa, các thứ âm nhạc tùy ý vua mà đến, các đồ cần dùng cũng theo ý vua mà xuất hiện.

Bấy giờ nơi cung điện mà vua Ðảnh Sanh ngự trọn bảy ngày, trời mưa vàng và bạc. Qua bảy ngày vua nghĩ rằng: Rất là hi hữu chẳng nghĩ bàn được, nghiệp nhân thanh tịnh cảm lấy quả báo như vậy, tùy ý hiện đến đầy đủ theo ý ta muốn, phước đức gây nên như vậy không thể sai lạc. Có ai thấy quả báo Này mà ở nơi sự tu phước đức lại thôi nghỉ.

Vua Ðảnh Sanh ngự Diêm Phù Ðề trăm ngàn năm, sau đó vua tự nghĩ rằng nay Diêm Phù Ðề của ta an ổn giàu vui, nhân dân đông đúc và đều quí thuộc nơi ta, trong cung điện ta mưa vàng bạc trọn cả bảy ngày.

Giờ đây ta nên qua châu Tây Cù Ðà Ni.

Nghĩ xong, vua Ðảnh Sanh cùng quyến thuộc mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến châu Tây Cù Ðà Ni. Vua đã đến rồi ngự trị châu Tây trăm ngàn năm, cũng tác ý mưa vàng bạc, là cho nhân dân đều an ổn giàu vui. Sau đó vua lại mang bốn binh chủng đến ngự trị châu Ðông Phất Bà Ðề trăm ngàn năm cũng khiến toàn châu Ðông giàu vui an ổn. Vua Ðảnh Sanh lại sang ngự trị châu Bắc Uất Ðơn Việt vô lượng ngàn năm, vua hưởng thọ y báu hơn Người mà chưa bằng Trời.

Sau đó vua Ðảnh Sanh nghĩ rằng, ta có nghe đảnh núi Tu Di có trời Ðao Lợi, ta nên đến đó quan chiêm coi thế nào.

Vua Ðảnh Sanh liền mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến đảnh núi Tu Di. Bấy giờ Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhân cùng ba mươi ba Thiên Vương hợp tại Thiện Pháp Ðường luận sự việc Trời Người.

Thấy vua Ðảnh Sanh đến, Ðế Thích đón tiếp chia ngự tòa cùng ngồi.

Lúc vua Ðảnh Sanh lên ngự tòa cùng ngồi với Ðế Thích xong liền có mười sự việc thù thắng che chói chư Thiên. Ðó là thọ mạng hơn chư Thiên, dung nhan hơn chư Thiên, danh tiếng hơn chư Thiên, thọ lạc hơn chư Thiên, ngự trị tự tại hơn chư Thiên, thân hình hơn chư Thiên, âm thanh hơn chư Thiên, hơi thơm hơn chư Thiên, vị ăn hơn chư Thiên, chạm xúc mịn dịu hơn chư Thiên. Vua Ðảnh Sanh cùng Ðế Thích hình dung tướng mạo hành động oai nghi đồng nhau không sai khác, ăn uống y phục đồ dùng cũng đồng, chỉ có nhìn nháy là khác nhau thôi. Nhưng chư Thiên phân biệt biết rõ thiên Vương và Nhân Vương sai khác.

Rất là lạ lùng hi hữu, Ðế Thích và vua Ðảnh Sanh là Trời và Người mà hình dung tướng mạo lại đồng nhau, đó là sức phước đức tạo ra như vậy, ai lại ở nơi phước đức mà chẳng thích ưa. Vua Ðảnh Sanh ở trời Ðao Lợi vô lượng ngàn năm là tăng thượng tự tại, vua chẳng biết đủ nên sau đó lại nghĩ rằng: nay ta nên một mình làm Thiên Vương cần gì Ðế Thích, ta sẽ truất phế ông ấy. Vừa nghĩ xong như vậy, vua Ðảnh Sanh cùng toàn thể quyến thuộc bốn binh chủng liền rơi xuống Diêm Phù Ðề trong vườn ngoài thành A Tu Xà.

Lúc vua Ðảnh Sanh rơi xuống oai quang chiếu sáng khắp mọi nơi làm luốt mất ánh sáng mặt trời. Như lúc mặt trời mọc, mặt trăng bị luốt mất, lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống mặt trời bị luốt mất cũng như vậy.

Bấy giờ có người xuất thành thấy như vậy, vội vào phổ cáo cho mọi người trong thành hay rằng: Nay có Thiên Tử cùng bốn binh chủng từ hư không sa xuống vườn ngoài thành.

Ðược tin ấy, quốc Vương cùng thần dân chỉnh đốn nghi lễ mang hoa hương kỹ nhạc xuất thành đến khu vườn ấy để tiếp nghinh vua Ðảnh Sanh.

Lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống, toàn cõi đất chấn động sáu cách.

Vua Ðảnh Sanh vì đã quen hưởng thọ dục lạc cõi trời nên chẳng chịu được hơi hám và đồ dùng ở nhân gian, vua mê mệt nằm trên đất, như tô lạc đề hồ đổ vào cát rất nóng liền tiêu tan.

Quốc Vương và thần dân thấy vua Ðảnh Sanh hôn mê nằm trên đất liền kêu hỏi: Ngài là ai?

Vua hỏi lại các người có từng nghe nói vua Ðảnh Sanh thuở xưa chăng?

Quốc vương và thần dân đáp đã có nghe các bực kỳ cựu thuật rằng có vua Ðảnh Sanh chẳng bỏ thân người đem quyến thuộc và bốn binh chủng bay lên trời.

Vua nói Ðảnh Sanh Vương thuở xưa chính là ta đây. Ta cùng bốn binh chủng từ trời rơi xuống vậy. Quốc Vương và thần dân nói kệ hỏi vua rằng:

Tôi nghe kỳ cựu nói

Xưa có vua oai đức

Hiệu là Ðảnh Sanh Vương

Có danh tiếng rất lớn

Vua mang bốn binh chủng

Từ đây bay lên trời

Cũng đem cả quyến thuộc

Thánh Vương trị đúng pháp

Trời Người tuân lời vua

Sức vô thường làm hại

Mất báo trời chịu khổ

Ðảnh Sanh Vương là Ngài

Chúng tôi đều chắp tay

Cúi đầu lạy chân vua

Có sự hi hữu gì

Sẽ truyền lại đời sau.

Vua Ðảnh Sanh Vương từ trời sa xuống bị khổ nói kệ đáp rằng:

Ðảnh Sanh Thánh Vương xưa

Thống lãnh bốn thiên hạ

Thọ lạc hơn Trời Người

Tham không nhàm phải chết

Xưa trong cung vua ấy

Mưa trân bửu bảy ngày

Trị thiên hạ đúng pháp

Tham không nhàm phải chết

Vua trước cùng Thiên Ðế

Chia ngự tọa mà ngồi

Vì phát khởi ác niệm

Quá tham dục phải đọa

Ở trong biển sanh tử

Vì vô trí nên chìm

Vì say đấm ngũ dục

Tham không nhàm phải chết

Như khát mộng uống nước

Chẳng thể hết khát được

Thọ ngũ dục cũng vậy

Trọn không hề chán đủ

Các chúng sanh trí huệ

Dứt trừ tối ngu si

Người trí ấy biết đủ

Chánh quán sát các loài

Trí quán sát các loài

Huệ thấy già bệnh chết

Dứt trừ các khát ái

Bỏ các loài không ham

Quán chạm xúc như lửa

Thì bỏ được khát ái

Quán thọ lạc cũng vậy

Biết ái là chẳng lành

Như đánh các âm nhạc

Căn cảnh giới cũng vậy

Dùng thánh giáo điều phục

Bỏ được căn tự tánh

Tất cả năm loài sanh

Sanh ra từ danh sắc

Trong ấy thức phân biệt

Thì phát sanh tưởng nghĩ

Thánh giả chánh quán sát

Chẳng tham chấp nghiệp nhân

Trí giả đủ sáng suốt

Chứng diệt như củi tàn.

Vua Ðảnh Sanh nói kệ đáp mọi người xong thì chết.

Này Ðại Vương! Vua Ðảnh Sanh thuở xưa ấy chính là thân Phật đây. Ngày xưa Phật từng làm Ðảnh Sanh Chuyển Luân Vương thống lãnh Trời Người oai thế tự tại, vì tham dục không nhàm đủ mà phải chết mất.Vì lẽ ấy nên phải rời bỏ giàu sang kiêu mạn oai thế mà an trụ chẳng phóng dật. Nếu có thể an trụ được nơi hạnh chẳng phóng dật, thì có thể tu các thiện căn.

Này Ðại Vương! Nếu chẳng phóng dật lại có thể vào pháp giới bình đẳng. Nếu người lìa được phóng dật thì thành tựu lợi ích.

Này Ðại Vương! Hữu vi vô vi giới chẳng phải nam nữ, chẳng phải quá vị hiện tại. Ðại Vương nên ở nơi pháp Này mà an trụ tự tâm, chớ theo giáo pháp khác. Pháp Này là Vô thượng Bồ đề của tam thế chư Phật.

Ðại Vương nên xa rời tất cả hào quí, tiêu cạn tất cả biển dục, xô ngã núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy đọa, bình đẳng với tất cả. Ðây chẳng phải chỗ của phàm phu, chẳng phải hàng Thanh Văn làm được, cũng chẳng phải cảnh giới của Duyên Giác. Ðây là công hạnh của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng của chư Phật Chánh Ðẳng Giác.

Ðại Vương phải nhiếp tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng: Ðời vị lai ở trong tất cả Nhân Thiên thế gian, ta phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc, làm ánh sáng, làm thuyền, làm hướng đạo, làm thầy, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm vô thượng, tự độ độ người, tự thoát giải thoát người, tự an an ổn người, tự được Niết bàn khiến người được.

Ðại Vương chớ quan sát thuở trước đã từng giàu sang tự tại, phải biết các căn như ảo không có chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được, cảnh giới như mộng chẳng thỏa mãn được

Này Ðại Vương! Thuở quá khứ có vua hiệu là Ni Di, rõ thấu các pháp, làm vua đúng pháp, trọn chẳng phóng dật, khi vua có làm việc thì rời lìa phóng dật.

Vua Ni Di ấy thường quán tam thế bình đẳng, lại quán tất cả pháp cũng như tam thế bình đẳng. Vua ấy quán tất cả pháp quá khứ xa lìa tự tánh, quán vị lai tất cả pháp xa lìa tự tánh, quán hiện tại tất cả pháp cũng xa lìa tự tánh. Quán tất cả pháp bình đẳng rồi, vua ấy ở nơi tất cả pháp chẳng thủ trước. Vua ấy quán tất cả thế gian bị bốn thứ điên đảo nó làm điên đảo: ở trong pháp bất tịnh mà tưởng là tịnh, ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong pháp vô thường mà tưởng là thường, ở trong pháp vô ngã mà tưởng là ngã. Vua quán thế gian rồi tự nghĩ rằng: Thế gian bại hoại đại bại hoại, chúng sanh ở nơi tất cả pháp tự tánh, không tịch mà họ chẳng hay biết. Ta nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp các chúng sanh. Các chúng sanh ấy tùy thuận ta rồi tất sẽ lãnh thọ lời ta dạy.

Vua Ni Di dùng bốn nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh rồi liền đem pháp bình đẳng dạy các chúng sanh.

Này đại chúng! Tất cả các pháp lìa tự tánh. Nếu tất cả pháp lìa tự tánh thì nó cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tại sao? Vì các pháp ấy tự tánh chẳng phải thiệt vậy. Các pháp đã lìa tự tánh thì các pháp ấy chẳng thể gọi nó lá quá khứ vị lai hiện tại.

Vua Ni Di dạy các chúng sanh về pháp tam thế bình đẳng rồi, có tám mươi ngàn vạn na do tha vô lượng trăm ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ tại cung trời Ðao Lợi, chư Thiên Tử tụ hội nghị luận rằng: Lành thay lành thay, người nước Diêm Phù Ðề được đại lợi ích. Vua Ni Di hiểu rõ các pháp, làm vua đúng pháp có đủ phương tiện. Ở nơi các chúng sanh điên đảo, vua ấy dùng phương tiện khéo dạy họ pháp chẳng điên đảo

Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhân ở cách xa Thiện Pháp Ðường, do thiên nhĩ vói nghe lời các Thiên tử nghị luận, liền đến Thiện Pháp Ðường lên ngự pháp tọa bảo các Thiên Tử rằng: Vua Ni Di ấy thành tựu đầy đủ phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Tại trời Ðao Lợi Này, các Ngài có muốn thấy vua Ni Di ấy chăng? Chư Thiên Tử đồng thưa muốn được thấy.

Thiên Ðế liền truyền ngự thần tên Ma Ða Lê rằng: Nhà ngươi nên trang bị ngàn xe báu cõi trời đến Diêm Phù Ðề nước Bệ Ðề A thưa với vua Ni Di rằng: Ðây là ngàn xe báu cõi trời sai đến rước vua, xin vua chớ kinh sợ. Tất cả chư Thiên Ðao Lợi đều muốn được thấy vua. Xin vua lên ngự trên xe báu Này.

Lúc thấy vua Ni Di lên xe rồi, thì ngươi hỏi: “Thưa Ðại Vương! Nay tôi đem vua theo đường nào để đi đến trên trời Ðao Lợi? Theo đường chúng sanh an trụ điên đảo mà đi hay theo đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo mà đi.

Thiên thần Ma Ða Lê lãnh lịnh Thiên Ðế Thích nghiêm bị ngàn xe báu, tự lên ngồi rồi từ Ðao Lợi Thiên xuống Diêm Phù Ðề đến nước

Bệ Ðề A thưa vua Ni Di rằng: Chư Thiên Ðao Lợi đem ngàn xe báu đến rước xin vua chớ nghi sợ. Chư Thiên trên ấy đồng muốn thấy vua.

Bấy giờ vua Ni Di lòng không kinh sợ buớc lên xe báu. Vua đã lên rồi, thiên thần Ma Ða Lê lại thưa rằng: Nay tôi phải đem vua đi đường nào, đi đường chúng sanh an trụ điên đảo, hay đi đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo?

Vua Ni Di bảo Thiên Thần: Ngài có thể đưa tôi đi khoảng giữa hai đường ấy.

Ma Ða Lê liền đem vua đi giữa hai đường ấy.

Vua Ni Di bảo Thiên Thần: Ngài nên tạm dừng xe lại, tôi muốn quan sát các chúng sanh điên đảo. Thiên Thần tuân lời dừng xe. Trong thời gian ngắn ấy, vua Ni Di làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ trong thiệt kiến tam muội. Tại sao được như vậy? Vì vua từ lâu đã khéo tu tập bất phóng dật hạnh. Khiến chúng sanh nhập thiệt kiến tam muội rồi sau sẽ đều được vô sanh pháp nhẫn.

Ma Ða Lê trọn chẳng hay biết việc làm của vua Ni Di, tiếp tục đưa vua đi đến đảnh núi Tu Di. Từ xa vua thấy rừng rậm xanh tốt liền bảo Thiên Thần:Rừng ấy quyết định là chỗ ở của các chúng sanh chẳng điên đảo.

Thiên Thần Ma Ða Lê thưa: Nơi ấy chính là Thiện Pháp Ðường, chư Thiên Ðao Lợi đang chờ được thấy vua, xin vua bước lên chớ sợ.

Bấy giờ vua Ni Di lòng chẳng sợ bước lên Thiện Pháp Ðường. Thiên Ðế Thích đón tiếp vua và chia nửa bửu tọa cho vua cùng ngồi.

Hai vua ngồi xong. Thiên Ðế Thích ôn nhu nói với vua Ni Di rằng: Ðại vua làm được lợi ích lớn, có thể làm cho Phật pháp thạnh hưng tăng trưởng. Thiên Ðế Thích lại bảo chư Thiên Ðao Lợi rằng: Vua Ni Di Này đầy đủ thành tựu phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong thời gian ngắn, vua Này có thể làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ Phật pháp mà Ma Ða Lê đều chẳng hay biết.

Lúc ấy vua Ni Di vì chư Thiên Ðao Lợi mà giảng rộng Phật pháp vi diệu. Làm cho chư Thiên được lợi ích xong, vua thưa với Thiên Ðế Thích rằng: Tôi muốn trở lại Diêm Phù Ðề,. Tại sao? Vì tôi muốn hộ trì chánh pháp của Phật tại Diêm Phù Ðề vậy.

Thiên Ðế Thích liền truyền Ma Ða Lê nghiêm bị ngàn cổ xe đưa vua Ni Di về.

Về đến Diêm phù Ðề vua Ni Di thành tựu phương tiện đại từ thiện xảo dìu dắt vô lượng chúng sanh an trụ Phật pháp.

Này Ðại Vương! Vua Ni Di thuở xưa ấy chính là thân Phật đây vậy.

Ðại Vương nên quan sát năng lực của hạnh bất phóng dật khó nghĩ bàn được. Vua Ni Di lên ngồi ngự tọa của Thiên Ðế Thích mà còn chẳng tham trước. Vì thế nên Ðại Vương ở trong Phật pháp phải siêng năng tinh tấn tu các hạnh chẳng phóng dật.

Này Ðại Vương! Thế nào gọi là Phật pháp?

Này Ðại Vương! Tất cả pháp đều là Phật pháp cả”.

Tịnh Phạn Vương nghe lời dạy Này liền bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là Phật pháp, thì tất cả chúng sanh cũng lẽ ra là Phật”.

Ðức Phật phán rằng: “Nếu chẳng điên đảo thấy chúng sanh thì chính là Phật vậy”.

Này Ðại Vương! Nói là Phật đó, là như thiệt thấy chúng sanh vậy, như thiệt thấy chúng sanh chính là thấy thiệt tế. Thiệt tế chính là pháp giới.

Này Ðại Vương! Thiệt tế ấy chẳng thể hiển thị được. Chỉ là danh từ, chỉ là thế tục, chỉ là trong số thế tục, chỉ có ngôn thuyết, chỉ giả đặt để. Phải nhận xét như vậy.

Này Ðại Vương! Tất cả pháp vô sanh đây là môn đà la ni. Tại sao đây gọi là môn đà la ni? Ở đây tất cả pháp không động không lay, không lấy không bỏ, đây gọi là môn đà la ni.

Này Ðại Vương! Tất cả pháp bất diệt là môn đà la ni. Tại sao bất diệt là môn đà la ni? Trong ấy, tất cả pháp chẳng động chẳng lay, chẳng lấy chẳng bỏ. Môn đà la ni ấy không có tướng mạo, không có tự tánh, không đặt đề được, không tác không tạo, không lai không khứ, không ngã không nhân, không chúng sanh không thọ mạng, không dưỡng dục chẳng phải đối trị, không hình không trạng, không trói không rời, không uế không tịnh, không thương không ghét, không buộc không mở, không xuất không thối, không được không ở, không định không loạn, không tri chẳng phải vô tri, chẳng phải kiến chẳng phải vô kiến, chẳng phải giới chẳng phải phạm, chẳng phải ăn năn chẳng phải không ăn năn, chẳng phải mừng chẳng phải không mừng, chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải định chẳng phải bất định, chẳng phải thiệt chẳng phải đảo, chẳng phải Niết bàn chẳng phải không Niết bàn, chẳng phải ái kiến chẳng phải lìa ái kiến, chẳng phải giải thoát chẳng phải không giải thoát, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải nhìn xem chẳng phải chẳng nhìn xem, chẳng phải nghiệp chẳng phải chẳng nghiệp, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo.

Này Ðại Vương! Phải dùng sáu mươi bảy pháp môn để vào tất cả pháp.

Này Ðại Vương tự thể các pháp chẳng phải từng có sẽ có hiện có. Như tượng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.

Này Ðại Vương! Như vang chẳng phải đã sẽ, và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.

Này Ðại Vương! Như dương diệm chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.

Này Ðại Vương như khối bọt nước chẳng bền chắc, nó chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.

Này Ðại Vương! Như mộng thấy nữ nhân đẹp, sự thấy trong mộng chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của sắc thọ tưởng hành thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.

Này Ðại Vương! Như Thạch Nữ mộng thấy đẻ con trai, sự được thấy trong mộng ấy chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.

Này Ðại Vương! Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành và thức không có sanh cũng không có diệt, như Niết bàn giới không có sanh không có diệt vậy. Như pháp giới không sanh không diệt, sắc thọ tưởng hành và thức không sanh không diệt cũng như vậy.

Này Ðại Vương Tất cả pháp là Như Lai cảnh giới, bất khả tư nghì cũng là Như Lai cảnh giới, bất cộng pháp, cũng là Như Lai cảnh giới, vì chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả phàm phu vậy, cũng chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả Thanh Văn Duyên Giác vậy.

Tất cả pháp ấy chẳng phải chê chẳng phải khen, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải giác chẳng phải bất giác, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải thức chẳng phải bất thức, chẳng phải xả chẳng phải bất xả, chẳng phải tu chẳng phải bất tu, chẳng phải thuyết chẳng phải bất thuyết, chẳng phải chứng chẳng phải bất chứng, chẳng phải hiển thị chẳng phải chẳng hiển thị, chẳng phải khả văn chẳng phải chẳng khả văn. Tại sao vậy? Vì pháp ấy không có pháp phò cử được xô ngã được như vậy. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp rời lìa tự tánh vậy. Ðại Vương nay phải an tâm ở trong pháp ấy, sâu quan sát nó chớ tin nơi khác”.

Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nghĩ rằng: Ở trong các pháp không có pháp gì để được. Không có pháp ấy chứng được pháp ấy mà gọi là Phật ấy. Các pháp thiệt chẳng có được. Chỉ vì chúng sanh mà đức Phật giả ngôn thuyết thôi.

Lúc Phật nói pháp ấy, Tịnh Phạn Vương và bảy vạn Thích chủng được vô sanh pháp nhẫn. Ðức Phật biết hàng Thích chủng được thâm tín rồi liền hiện mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ hỏi Phật:

“Ðấng Ðại Hùng Ðạo Sư

Vì đời mà mỉm cười

Mong đuốc sáng thế gian

Diễn nói sự mỉm cười

Thập lực Nhất thiết trí

Cớ chi hiện mỉm cười

Xin nói cớ cười ấy

Dứt lưới nghi thế gian

Phật vì hàng Thích chủng

Mà hiện tướng mỉm cười

Xin mau trừ lưới nghi

Của chúng Trời và Người

Ðược nghe đức Phật nói

Thế gian hết nghi ngờ

Lòng họ được hoan hỉ

An trụ trong Phật pháp

Các con của Thế Tôn

Ðược nghe cớ mỉm cười

Bền chắc ở thệ nguyện

Trí huệ tất thông đạt

Ngưỡng mong đấng Ðạo Sư

Dứt trừ lòng chúng nghi

Chúng được hết nghi rồi

Tất được vui lớn rộng”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:

“Phật hiện cười tịch diệt

Mã Thắng hãy lắng nghe

Nay Phật sẽ nói rõ

Thích chủng quyết định trí

Các pháp bất khả đắc

Thích chủng đều biết được

Vì thế tâm quyết định

An trụ nơi Phật pháp

Dòng họ Thích danh tiếng

Y cứ vô sở đắc

Sẽ được Vô Thượng Giác

Biết rõ tất cả pháp

Mạng người Này mãn rồi

Thích chủng ấy quyết định

Ðược sanh nước cực lạc

Gần kề Phật Di Ðà

Họ ở cực lạc rồi

Vô úy thành Bồ đề

Hay đến mười phương cõi

Cúng đường vô số Phật

Ở tại một Phật độ

Hay cúng mười phương Phật

Vì thương xót chúng sanh

Mà cầu đạo vô thượng

Du lịch các Phật quốc

Cúng dường chư Phật ấy

Ðều do thần lực mình

Theo chỗ chư Phật mà đến

Vô lượng vô số kiếp

Cúng dường các Ðạo Sư

Với các thứ diệu cúng

Sau sẽ thành Phật đạo

Mỗi mỗi thành Phật rồi

Hay độ vô lượng chúng

Khiến được thành Phật đạo

Lại giáo hóa chúng sanh

Chúng sanh ở nước ấy

Ðều sẽ thành Phật đạo

Chư Phật Thế Tôn ấy

Chẳng độ chúng Thanh Văn

Mỗi Phật Thế Tôn ấy

Ðều thọ một kiếp tuổi

Chánh pháp chư Phật ấy

Vô lượng vô số kiếp

Chư Phật ấy diệt độ

Chư Bồ Tát đại Trí

Gìn pháp độ thế gian

Ức Vô số ngàn năm

Chư đại Bồ Tát ấy

Giáo hóa vô lượng chúng

Ðặt ở đạo Vô thượng

Thuyết pháp đều không tịch

Khiến trụ bất phóng dật

Tu tập pháp không tịch

Hay được Nhất thiết trí

Ưa hạnh bất phóng dật

Nghe Thế Tôn tuyên nói

Thọ ký hàng thích chủng

Trời Người đều vui mừng

Chí cầu đạo vô thượng”.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Huệ Mạng Xá Lợi Phất: Này Xá Lợi Phất! Ðây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Ông phải nói lại với hàng bất thối chuyển của Bồ Tát. Tại sao vậy? Này Xá Lợi Phất! Tam muội Này chẳng thể nói được. Như Lai ở trong tam muội ấy chẳng được một pháp. Nếu là chẳng được thì nó là chẳng thể giác được. Nếu chẳng thể giác đuợc thì nó là chẳng thể nói được. Nếu chẳng thể nói được thì nó là chẳng thể biết được. Chẳng thể biết được ấy tức là pháp của tam thế chư Phật vậy.

Này Xá Lợi Phất! Nay ta phó chúc cho ông, đây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát phải nên thọ trì đọc tụng giảng nói rộng cho người.

Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ đại thừa trải qua mười kiếp tu hành năm ba la mật, lìa Bát Nhã Ba la mật, nếu có người được nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát Này thì phước đức lớn hơn. Nếu người tạm nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát Này, nếu lại có người được nghe đây rồi nói cho mọi người thì phước đức càng lớn hơn.

Nếu có người trong mười kiếp nghe đây rồi nói cho mọi người, nếu lại có người nhẫn đến trong thời gian một sát na tu tập tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát thì phước đức càng lớn hơn.

Vì thế nên Xá Lợi Phất đem kinh Bồ Tát Kiến Thiệt Tam Muội Này vì chư Bồ Tát mà diễn nói chỉ dạy tu hành.

Này Xá Lợi Phất! Nếu tu theo tam muội Này thì sẽ được vô sanh pháp nhẫn.

Này Xá Lợi Phất! Trong pháp hội đây, chư Bồ Tát được ta thọ ký đạo vô thượng đều được an trụ trong tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Bấy giờ tất cả Bồ Tát Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, Nhân Phi Nhân tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều vui mừng phụng hành.

TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Khi ngài Quán Tự Tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

Này ông Xá lỵ Tử! Sắc chẵng khác Không, Không chẵng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưỡng, Hành, Thức cũng đều như thế.

Này ông Xá lỵ Tử! Tướng Không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.

Cho nên trong “Chân Không” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã ba la mật đa, được đạo quả vô thượng chánh đẵng chánh giác.

Cho nên biết Bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.

Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã ba la mật đa, liền nói bài chú ấy rằng:

“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha”.

NIỆM PHẬT

Thân Phật thanh tịnh tựu lưu ly.

Trí Phật sáng ngời như trăng sáng

Phật ở thế gian thường cứu khổ.

Tâm Phật không đâu không từ bi.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lần)

Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (10 lần)

Nam mô Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật (10 lần)

Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (10 lần)

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)

CHÚC NGUYỆN

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời thường an lành,

Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Từ bi thường gia hộ.

HỒI HƯỚNG

Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,

Vô biên thắng phước đều hồi hướng.

Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới,

Đều được vãng sinh về cực lạc.

Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,

Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,

Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,

Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.

Nguyện sinh Cực lạc cảnh phương Tây,

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ.

Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,

Bồ tát bất thoái là bạn hữu.

PHỤC NGUYỆN

Kính mong:

Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi,

Mây từ rợp khắp, nguổn đạo dài lâu,

Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa,

Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc.

Cúi xin:

Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh độ. Báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân. Quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

(1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả.

Đệ tử và chúng sinh,

Đều trọn thành Phật đạo.

ẤN TỐNG

Hiệu Pháp Lạc Huệ

Hiệu Phúc Quốc

Hiệu Phúc Viên

Hiệu Diệu Độ

Hiệu Phúc Quang

Tự Phúc Viên

Hiệu Diệu Lễ

Hiệu Diệu Hạnh

Tự Phúc Thông

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #kinh