KINH ÐẠI BẢO TÍCH TẬP IV
KINH ÐẠI BẢO TÍCH
TẬP IV
NGHI THỨC TRÌ TỤNG
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam
mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI:
Án lam. (7 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH KHẨU NGHIỆP:
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta bà ha. (3 lần)
CHƠN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP:
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
CHƠN NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG:
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng. (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lần)
Lạy đấng Tam Giới Tôn,
Quy mạng mười phương Phật,
Nay con phát nguyện lớn,
Trì tụng Đại Bảo Tích,
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ,
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát Bồ Đề tâm,
Khi mãn báo thân này,
Sanh qua cõi Cực Lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Đại Bảo Tích Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
XIII
.
PHÁP HỘI
PHẬT THUYẾT NHÂN XỬ THAI
THỨ MƯỜI BA
Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, Tôn Giả A Nan sáng sớm từ thiền định dậy cùng năm trăm Tỳ Kheo đồng đến chỗ đức Phật chắp tay cung kính lễ chân Phật rồi ở một bên.
Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng:
"
Phật có pháp yếu sơ trung hậu đều lành, nghĩa ấy vi diệu thuần nhất không tạp đầy đủ tướng phạm hạnh thanh bạch. Đó là nhập mẫu thai tạng Tu đa la pháp vậy. Các ông phải nghe kỹ khéo suy nghĩ, nay Phật vì các ông phân biệt giải nói".
Tôn giả A Nan bạch Phật:
"Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi xin thích muốn được nghe".
Đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan:
"Nếu có chúng sanh lúc muốn nhập thai, nhân duyên đầy đủ thì được thọ thân, nếu chẳng đủ duyên thì chẳng thọ thân.
Thế nào gọi là chẳng đủ duyên? Đó là cha mẹ phát khởi tâm nhiễm ái, trung ấm hiện tiền cầu chỗ thọ sanh, nhưng cha mẹ này trắng đỏ hòa hiệp hoặc trước hoặc sau mà chẳng chung thời gian, trong thân còn có các bệnh hoạn. Nếu như vậy thì chẳng nhập thai.
Thai tạng của người mẹ, hoặc có bệnh phong hoàn khí huyết bế tắc, hoặc mỡ bế tắc, hoặc thịt tăng kết, hoặc bệnh chất mặn, bệnh bụng lúa mạch, bệnh lưng eo kiến, hoặc như miệng lạc đà, như gỗ cong càng xe, như trục bánh xe, như miệng cốt bánh xe, như lá cây, hoặc cong vòng như măng tre cong, hoặc phía trong thai tạng như tua hột lúa mạch, hoặc tinh huyết rỉ chảy nhiều chẳng dứt, hoặc bệnh đái hạ chảy nước, hoặc đường thai tạng quá rít, hoặc trên nhọn dưới nhọn, hoặc cong, hoặc cạn, hoặc lủng lọt, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc ngắn nhỏ, và các tạp bệnh. Nếu như vậy thì chẳng nhập thai.
Hoặc cha mẹ tôn quí có phước đức lớn mà trung ấm ti tiện. Hoặc trung ấm tôn quí có phước đức lớn mà cha mẹ ti tiện. Hoặc đều có phước đức mà không nghiệp tương cảm. Nếu như vậy cũng chẳng nhập thai.
Trung ấm ấy lúc muốn thọ thai trước phát khởi hai quan niệm điên đảo. Lúc cha mẹ hòa hiệp, nếu trung ấm nam thì đối với mẹ sanh lòng yêu, với cha sanh lòng giận, lúc cha chảy tinh thì cho là của mình. Nếu trung ấm nữ thì đối với mẹ sanh lòng giận, với cha sanh lòng yêu, lúc mẹ chảy nhớt thì cho là của mình. Nếu trung ấm không khởi lòng yêu giận ấy thì không thọ sanh.
Nầy A Nan! Thế nào được thọ thai? Đó là cha mẹ khởi lòng ái nhiễm, nguyệt kỳ đều thuận, trung ấm hiện tiền, không có những bệnh những lỗi như trên, nghiệp duyên đầy đủ, như vậy thì thọ thai.
Trung ấm ấy lúc muốn nhập thai còn có hai thứ: một là không phước đức, hai là có phước đức lớn.
Trung ấm không phước đức, tâm giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền nghĩ rằng: Nay tôi gặp phong lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến bức hại, do đó nên sợ hãi mà nghĩ rằng: nay tôi phải chạy vào nhà cỏ, nhà lá, hoặc ẩn trốn chân tường, hoặc chạy vào núi, chằm, rừng rậm, hang động, lại còn phát sanh nhiều thứ thấy khác nữa. Tùy theo chỗ nghĩ thấy bèn nhập vào thai mẹ.
Nầy A Nan! Trung ấm ấy lúc tối sơ vào thai mẹ có tên là ca la lã, đây là nương chất bất tịnh của cha mẹ và nghiệp quá khứ của nó mà được thọ thân. Nghiệp ấy và trong các duyên cha mẹ đều riêng chẳng tự sanh, do sức hòa hiệp mà thọ thân. Ví như lấy thùng đựng chất lạc và dùng dây v. v... mà sản xuất chất tô. Trong riêng các món đều không chất tô, do sức hòa hiệp mới sanh được chất tô.
Thân ca la lã cũng như vậy, sức nhân duyên hoà hiệp thì được thọ thai.
Lại nầy A Nan! Ví như nương nơi cỏ xanh, phân bò, táo và lạc mà đều riêng sanh côn trùng. Trong mỗi thứ không có trùng, do sức nhân duyên thì trùng sanh. Lúc trùng ấy sanh đều riêng theo chỗ nó nương mà có màu chỗ đó, hoặc xanh hoặc vàng đỏ trắng.
Vì thế nên biết phụ mẫu bất tịnh mà sanh thân ấy, tìm trong các duyên đều chẳng có thân, cũng chẳng rời ngoài sức các duyên hòa hợp mà thọ thai. Lúc thân ấy sanh cùng tứ đại chủng tánh của cha mẹ cũng chẳng sai khác. Đó là địa đại làm chất cứng, thủy đại làm chất ướt, hỏa đại làm chất nóng, phong đại làm chất động. Thân ca la lã nếu chỉ có địa đại mà không thủy đại thì như người bốc bột hay tro khô trọn chẳng hòa hiệp được. Nếu chỉ có thủy đại mà không có địa đại thì như dầu hay nước tánh nó lỏng ướt bèn chảy tan. Nếu chỉ có địa giới thủy giới mà không hỏa giới thì như mùa hạ khối thịt tươi để chỗ râm không nắng chiếu nó sẽ thúi rã. Nếu chỉ có địa thủy và hỏa mà không có phong giới thì chẳng tăng trưởng như có người thợ và đệ tử giỏi nghề thổi đường làm thành nhiều món trong ruột trống bọng, nếu không sức phong thổi thì chẳng nên được. Bốn đại tánh ấy y trì lẫn nhau mà được kiến lập.
Vì thế nên biết thân ca la lã cũng vậy, nhân nơi cha mẹ tứ đại và phong nghiệp mà được sanh. Trong mỗi duyên đều không có, do sức hòa hiệp mà được thọ thân.
Lại nầy A Nan! Ví như hột giống mới sạch khéo cất chứa chẳng cho trùng ăn, không hư mục cháy khô lủng lỗ. Có người chọn ruộng tốt chỗ nhuần ẩm mà gieo hột giống ấy rồi muốn trong một ngày mầm cây nhánh lá tậm rợp bông trái sum suê thảy đều đầy đủ có được chăng?".
-
Bạch đức Thế Tôn! Không được!
-
Nầy A Nan! Cũng vậy, thân ca la lã đều từ nhân duyên thứ đệ sanh trưởng mà chẳng được đồng thời tất cả các căn đều đầy đủ. Thế nên phải biết dầu từ cha mẹ mà có thân ấy, nhưng tìm trong các duyên đều không có, do sức hòa hiệp mà có thọ sanh.
Lại nầy A Nan! Ví như người mắt sáng cầm châu nhật quang đặt trong ánh nắng giữa ngày, đem phân bò khô treo trên ấy cách châu vừa chừng bèn phát sanh lửa.
Cũng vậy, thân từ cha mẹ ra, thân ca la lã có năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, gọi nó tên là danh sắc. Trong sát na thọ thân đã phải trải qua các sự khổ, Phật chẳng khen tặng, huống lại thời gian dài luân hồi các cõi.
Ví như chút phẩm còn là dơ hôi huống là nhiều.
Thân ngũ ấm ca la lã ấy, ai sẽ ưa thích nó.
Lại nầy A Nan! Thân ấy ở trong thai mẹ trải qua ba mươi tám thất nhật rồi mới sanh ra.
Thất nhật thứ nhất, lúc ở thai mẹ tên ca la lã, thân tướng tối sơ hiện ra như giọt sanh lạc, trong bảy ngày hơi nóng nấu nung tứ đại lần thành.
Thất nhật thứ hai, lúc ở thai mẹ phong nghiệp được cảm gọi là biến mãn, phong ấy rất nhỏ nhẹ thổi hông tả và hông hữu của mẹ khiến ca la lã thân tướng lần hiện, dạng như lạc đặc, hoặc như tô đọng, hơi nóng nấu nung bèn chuyển làm thân an phù đà tứ đại lần thành.
Thất nhật thứ ba, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên tàng khẩu, do sức phong này khiến lần ngưng kết, an phù đà ấy chuyển làm bế thủ dạng như chầy đâm thuốc mà ngắn nhỏ. Ở trong thai hơi nóng nấu nung tứ đại ấy lần tăng trưởng.
Thất nhật thứ tư, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên nhiếp thủ, do sức phong ấy khiến bế thủ chuyển làm già na dạng như đá ấm, hơi nóng nấu nung tứ đại lần tăng .
Thất nhật thứ năm, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên nhiếp trì, do sức phong ấy hay khiến già na chuyển làm bát la xa khư các mụt vỡ ra xuất hiện hai vai hai vế và thân đầu, như tháng mùa cây cối cành lộc phát sanh, sức phong nhân duyên các bóng mụt xuất hiện cũng vậy.
Thất nhật thứ sáu, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là phạn, do sức phong ấy mà bốn tướng xuất hiện, đó là hai gối hai cánh.
Thất nhật thứ bảy, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên triền chuyển, do sức phong ấy có bốn tướng xuất hiện, đó là hai bàn chân hai bàn tay, bốn tướng này mềm dịu như khối bọt.
Thất nhật thứ tám, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên phiên chuyển, do sức phong ấy có hai mươi tướng xuất hiện, đó là tướng hai mươi ngón chân tay, như mưa xuống nhánh chồi lần được tăng trưởng, do sức phong nghiệp các căn hiện ra cũng vậy.
Thất nhật thứ chín, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên phân tán, do sức phong ấy hiện ra chín tướng, đó là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng và chỗ đại tiện tiểu tiện tên là cửu tướng .
Thất nhật thứ mười, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là kiên ngạnh, do sức phong ấy nên liền cứng chắc. Lại có nghiệp phong tên là phổ môn thổi thân trong thai khiến đều nổi phồng như trái ổi.
Thất nhật thứ mười một, lúc ở thai mẹ lại có cảm nghiệp phong tên là kim cương, do sức phong ấy ở tại trong thai hoặc lên hoặc xuống khiến các lỗ trên thân đều được thông suốt, cũng do sức phong khiến người mang thai hoặc buồn hoặc vui đi đứng ngồi nằm tánh nết đổi khác vận động tay chân khiến các lỗ thân thai lần tăng trưởng, ở trong lỗ miệng chảy ra máu đen, trong lỗ mũi chảy ra nước dơ, phong ấy hồi chuyển rồi dứt.
Thất nhật thứ mười hai, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là khúc khẩu, do sức phong ấy trong thân thai giữa hai hông sanh đại trường tiểu trường như tơ sen hoặc như nhợ sen để trên đất, cuộn mười tám vòng ở trong thân. Lại có nghiệp phong tên là xuyên phát, do sức phong ấy mà ba trăm hai mươi chi tiết và trăm lẻ một huyệt sanh trong thân thai.
Thất nhật thứ mười ba, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là cơ khát, do sức phong ấy thân thai trống gầy sanh ý tưởng đói khát, bà mẹ ăn uống có chất bổ dưỡng liền thấm nuôi thân thai từ lỗ rốn và các huyệt.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đứa con ở thai mẹ
Trải qua mười ba thất
Thân nó biết trống gầy
Nên nghĩ tưởng đói khát
Bà mẹ có ăn uống
Thấm nuôi lấy thân thai
Do đó thân mạng còn
Lần lần được lớn thêm.
Thất nhật thứ mười bốn, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là tuyến khẩu, do sức phong ấy sanh chín trăm gân giao kết trước sau và hai bên thân.
Thất nhật thứ mười lăm, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là liên hoa, do sức phong ấy sanh hai mươi mạch chất bổ uống ăn chảy vào các mạch ấy nhuần ích nơi thân. Những gì là hai mươi? Đó là phía trước phía sau bên tả và bên hữu của thân đều riêng có năm mạch. Mỗi mạch ấy đều riêng có bốn mươi mạch nhỏ chi phái. Mỗi mạch nhỏ ấy lại đều riêng có một trăm chi phái nhỏ. Phía trước thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là thương khư. Phía sau thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là lực. Bên tả thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là an định. Bên hữu thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là cụ thế. Tám vạn chi mạch lớn nhỏ như vậy sanh nơi thân ấy, và nó còn có nhiều màu sắc, đó là xanh vàng đỏ trắng màu tô màu lạc màu dầu. Tám vạn mạch ấy, mỗi mạch mỗi rễ, trên mỗi rễ sanh một lỗ hoặc hai lỗ đến bảy lỗ, mỗi lỗ đều liền nhau với lỗ lông, như rễ sen có các lỗ.
Thất nhật thứ mười sáu, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là cam lộ, do sức phong ấy làm cho mắt tai mũi miệng ngực ức bốn bên tam tạng chỗ chín lỗ đều khai phát hơi thở ra vào trên dưới thông suốt không chướng ngại. Nếu có uống ăn tư nhuận thân ấy, có chỗ ngừng chứa lại hay tiêu hóa theo phía dưới chảy ra. Như thợ gốm và đệ tử giỏi nhồi bùn bố trí vòng dây dưới trên xoay chuyển tạo thành đồ vật. Đây cũng vậy, do sức phong và nghiệp thiện ác khiến mắt tai v.v...lần lần đầy đủ.
Thất nhật thứ mười bảy, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là mao ngưu diện, do sức phong ấy khiến hai mắt được sáng sạch, các căn tai mũi thành tựu. Ví như có mặt gương bị bụi đóng, hoặc dùng bột gạch và dầu tro chùi lau cho sạch. Sức phong nghiệp thổi các căn mắt tai v. v...khiến được sáng sạch cũng như vậy.
Thất nhật thứ mười tám, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là đại kiên cường, do sức phong ấy làm cho các căn lần hoàn thành mà còn sáng sạch. Ví như nhật nguyệt bị mây mù che khuất phong mạnh bỗng nổi lên thổi tan mà nhật nguyệt ấy bỗng rất sáng chói. Phong nghiệp thổi các căn làm sáng sạch thêm cũng vậy.
Thất nhật thứ mười chín, lúc ở thai mẹ do sức phong nghiệp trước mà bốn căn nhãn nhĩ tỷ thiệt thành tựu. Lúc tối sơ nhập thai đã có ba căn là thân căn mạng căn và ý căn. Như vậy đến đây các căn đều đầy đủ.
Thất nhật thứ hai mươi, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là kiên cố, do sức phong ấy khiến trong thân sanh các thứ xương. Trong mỗi chân sanh hai mươi xương, gót có bốn, mắt cá có hai, gối có hai, vế có hai, eo lưng có ba, xương sống có mười tám, sườn có hai mươi bốn, ngực có mười ba, mỗi tay có hai mươi, cánh có bốn, vai có hai, hàm có hai, sọ có bốn và gốc răng có ba mươi hai. Ví như thợ điêu khắc và đệ tử trước dùng gỗ cứng sau dùng dây mực tạo thành hình tượng, đầu chưa đắp bùn mà bấy giờ gọi là cốt tượng. Do sức phong nghiệp lúc sanh các xương cũng vậy. Trong bảy ngày nầy, trừ các xương nhỏ còn các xương lớn được sanh số có hai trăm cái.
Thất nhật thứ hai mươi mốt, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là sanh khởi, do sức phong ấy mà sanh thịt trên thân. Ví như thợ hồ và đệ tử đem hồ tô tường vách, do sức phong nghiệp hay sanh thịt trên thân cũng vậy.
Thất nhật thứ hai mươi hai, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là phù lưu, do sức phong ấy mà sanh máu huyết.
Thất nhật thứ hai mươi ba, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là tịnh trì, do sức phong ấy mà sanh da nơi thân.
Thất nhật thứ hai mươi bốn, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là trì vân, do sức phong ấy làm cho da thứa được điều hòa bằng phẳng sắc sáng nhuần bóng.
Thất nhật thứ hai mươi lăm, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là trì thành, do sức phong ấy mà máu thịt tăng trưởng.
Thất nhật thứ hai mươi sáu, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là sanh thành, do sức phong nầy mà sanh lông tóc móng, mỗi thứ đều liền với các mạch.
Thất nhật thứ hai mươi bảy, lúc ở thai mẹ lại có nghiệp phong tên là khúc thược, do sức phong ấy làm cho thân tướng lần thành. Hoặc đời trước tạo nghiệp ác bỏn sẻn chẳng bố thí, hoặc chẳng nghe lời dạy bảo của cha mẹ sư trưởng, do nghiệp ác ấy nên thân tướng xấu, nếu thân cao lớn mập trắng mềm mại mà cho là đẹp thì lại thọ lấy thân lùn ốm đen cứng, hoặc thọ lấy thân phần chẳng đầy đủ, hoặc thọ lấy thân đui điếc câm ngọng các căn chẳng đủ, giọng nói người chẳng muốn nghe, thân thể xấu xí như ngạ quỉ, do nghiệp ác mà thọ lấy thân chẳng vừa ý như vậy, cha mẹ quyến thuộc thấy còn chẳng vui huống là người khác. Nếu đời trước tạo mười nghiệp lành ưa bố thí, không có lòng gian tham bỏn xẻn dua dối phỉnh gạt, biết nghe lời cha mẹ sư trưởng dạy bảo, do đó nên thọ được thân không có các tướng xấu xí tàn tật, mà đoan trang xinh đẹp đủ các tướng tốt, giọng nói người thích nghe, ai thấy cũng mến ưa, do nghuệp thiện mà thọ được thân thắng diệu như vậy.
Thân ở thai mẹ ấy, nếu là nam thì ngồi bẹp trong bụng mẹ phía nách hữu hai tay bụm mặt hướng về xương sống mẹ ở yên đó. Nếu là nữ thì ngồi bẹp trong bụng mẹ phía nách tả hai tay bụm mặt quay lưng về phía sống lưng mẹ ở yên đó. Thân thai ấy ở dưới sanh tạng trên thục tạng, hơi nóng nấu nung, nằm chỗ trói cột như ở trong túi da. Người mẹ ăn nhiều hay ăn ít, ăn ngon ăn dở, ăn khô ăn ướt, ăn đắng cay mặn chua nóng lạnh, hoặc dâm dục, đi gấp nhảy nhót, nằm lâu ngồi lâu, thân thai điều cảm thọ khổ não. Lúc ở thai mẹ chịu nhiều khổ bức bách, loài người còn vậy huống là loài địa ngục khó có gì để ví dụ được. Ai là người có trí mà còn ưa thích thân trong biển sanh tử.
Thất nhật thứ hai mươi tám, lúc ở thai mẹ phát sanh tám ý tưởng điên đảo: một là tưởng ngồi xe cỡi ngựa, hai là tưởng lầu gác, ba là tưởng giường chõng, bốn là tưởng suối chảy, năm là tưởng ao hồ, sáu là tưởng sông rạch, bảy là tưởng vườn tược, tám là tưởng vườn rộng lớn.
Thất nhật thứ hai mươi chín, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là hoa điều, do sức phong ấy khiến thân thai sắc sáng nhuần bóng các tướng rõ ràng, đều do quá khứ đã tạo các nghiệp sai biệt chẳng đồng, tùy hình loại riêng mà có các thứ màu sắc, hoặc màu trắng, màu đen, hoặc màu chẳng trắng chẳng đen, hoặc màu xanh, màu khô khốc, màu nhuần bóng.
Thất nhật thứ ba mươi, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là thiết khẩu, do sức phong ấy mà tóc lông móng đều tăng trưởng, cũng hiện các ánh sáng trắng đen, theo nghiệp duyên phát khởi mà sanh tướng ấy.
Thất nhật thứ ba mươi mốt đến thất nhật thứ ba mươi lăm, lúc ở thai mẹ thân tướng trưởng đại lần đầy đủ tướng người.
Thất nhật thứ ba mươi sáu, lúc ở thai mẹ sanh tâm yểm ly chẳng vui thích.
Thất nhật thứ ba mươi bảy, lúc ở thai mẹ phát khởi năm ý tưởng điên đảo: Một là tưởng bất tịnh, hai là tưởng hôi dơ, ba là tưởng ngục tù, bốn là tưởng tối tăm, năm là tưởng nhàm gớm. Đứa con ở thai sanh các tâm nhàm lìa ấy.
Thất nhật thứ ba mươi tám, lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là câu duyên, do sức phong này liền xoay chuyển. Lại có một thứ phong tên là xu hạ hay làm cho đầu hướng xuống, hai tay duỗi dài làm muốn sanh ra. Nếu đứa con ấy đời trước từng chứa họp các nghiệp đọa lạc làm cho thân ấy tay chân tung hoành chẳng chuyển trở được, do nghiệp ác nên chết trong bụng mẹ. Lúc ấy người mẹ chịu nhiều đau khổ hoặc phải chết. Nếu đứa con ấy đời trước tu nghiệp thiện tạo nhân trường thọ, lúc sắp sanh ra mẹ con an ổn không có các nạn khổ như trên.
Quá thất nhật thứ ba mươi tám rồi, lúc sắp sanh ra chịu các sự đau khổ mới sanh được. Do đó nên biết rằng thọ lấy thân ấy thiệt là khổ lớn.
Lúc tối sơ sanh ra, hoặc nam hay nữ vừa sanh rơi xuống, hoặc lấy tay bưng, hoặc khăn áo hứng, hoặc tại giường chiếu, hoặc trong nhà, hoặc tại đất, hoặc chỗ xa xôi, hoặc tại giữa ngày, hoặc mùa đông mùa hạ phong lạnh hơi nóng chạm xúc, thân sơ sanh chịu đau đớn lớn, như bò sống bị lột da chạm phải tường vách, hoặc ở tại đất trống bị trùng kiến cắn, cũng như có người bị muỗi mòng cắn chích mà thêm bị đánh đập, lúc sơ sanh dùng nước ấm nóng tắm chạm đến thân đau đớn cũng vậy.
Con đã được sanh lần tăng trưởng, mẹ dùng sữa tạp huyết nơi thân để nuôi con mà Phật đã nói rộng ở các kinh khác.
Vì thế nên biết rằng thân ấy đều thành tựu bởi những bất tịnh và đau khổ. Ai là người có trí mà lại mến thích thân sanh tử như vậy.
Lại nầy A Nan! Lúc sơ sanh trong bảy ngày có tám vạn hộ trùng theo thân mà sanh, nó tung hoành ăn nuốt.
Có hai hộ trùng tên sĩ phát nương tóc ăn tóc. Có hai hộ trùng nương mắt ăn mắt. Có bốn hộ trùng tên án thừa, tên hữu ngạc, tên phát bệnh và tên viên mãn nương đầu ăn đầu. Có một hộ trùng tên hắc đạo diệp nương tai ăn tai. Có một hộ trùng tên tàng khẩu nương mũi ăn mũi. Có hai hộ trùng tên diêu trịch và biến trịch nương môi ăn môi. Có một hộ trùng tên châm khẩu nương lưỡi ăn lưỡi. Có một hộ trùng tên lợi khẩu nương cuống lưỡi ăn cuống lưỡi. Có một hộ trùng tên thủ viên nương nướu ăn nướu. Có hai hộ trùng tên thủ võng và bán khuất nương bàn tay ăn bàn tay. Có hai hộ trùng tên viễn tý và cận tý nương cánh tay ăn cánh tay. Có hai hộ trùng tên thiết và cận thiết nương yết hầu ăn yết hầu. Có hai hộ trùng tên kim cương và đại kim cương nương tim ăn tim. Có hai hộ trùng tên luy và luy khẩu nương thịt ăn thịt. Có hai hộ trùng tên cụ sắc và cụ xưng nương huyết nút huyết. Có hai hộ trùng tên dũng kiện và hương khẩu nương gân ăn gân. Có hai hộ trùng tên bất cao và hạ khẩu nương xương sống ăn xương sống. Có một hộ trùng tên chỉ sắc nương mỡ ăn mỡ. Có một hộ trùng tên hoàng sắc nương mật ăn mật. Có một hộ trùng tên chơn châu nương phổi ăn phổi. Có một hộ trùng tên địch nương lá lách ăn lá lách. Có trăm hộ trùng tên là nguyệt, có trăm hộ trùng tên nguyệt khẩu, có trăm hộ trùng tên huy diệu, có trăm hộ trùng tên huy diện và trăm hộ trùng tên quảng đại, năm trăm hộ trùng này nương bên tả ăn bên tả. Có năm trăm hộ trùng có năm tên như trên nương bên hữu ăn bên hữu. Có bốn hộ trùng tên thiểu xuyên, đại xuyên, cốt xuyên và cốt diện nương xương ăn xương. Có bốn hộ trùng tên đại bạch, tiểu bạch, hấp lực và hổ đạo nương mạch ăn mạch. Có bốn hộ trùng tên ý lạc, sư tử lực, thố phúc và đam dục nương sanh tạng mà ăn sanh tạng. Có hai hộ trùng tên dũng mãnh và dũng mãnh chủ nương thục tạng ăn thục tạng. Có bốn hộ trùng tên diêm khẩu, võng khẩu, uẩn khẩu và điểu khẩu nương đường tiểu ăn đường tiểu. Có bốn hộ trùng tên ưng tác, đại tác, toái mạt và ức sô nương đường đại ăn đường đại. Có hai hộ trùng tên hắc diện và khả úy diện nương vế ăn vế. Có hai hộ trùng tên tật lại và tiểu lại nương gối ăn gối. Có một hộ trùng tên ngu căn nương mắt cá chân ăn mắt cá chân. Có một hộ trùng tên hắc đầu nương chân ăn chân.
Nầy A Nan! Lược nói tám vạn hộ trùng nương thân nầy, ngày đêm ăn nút và có thể làm cho khí lực hư kém dung nhan tiều tụy, các thứ bệnh khổ đều họp tại thân, lại hay làm cho tâm lo buồn nhiệt não, dầu có lương y cũng phải mê lầm chẳng biết thuốc gì để trị. Ai là người có trí lại mến thích thân sanh tử như vậy.
Lại nầy A Nan! Từ khi sơ sanh đến trưởng thành áo cơm nuôi dưỡng thành lập thân ấy, thọ mạng được trăm tuổi hoặc ngắn ngủi. Trong trăm năm có ba trăm mùa, xuân là lúc nóng, hạ là lúc mưa, và đông là lúc lạnh. Mỗi mùa có bốn tháng, một năm có mười hai tháng. Trong trăm năm có ngàn hai trăm tháng chia nửa tháng trăng nửa tháng không trăng thành hai ngàn bốn trăm, ngày đêm có ba vạn sáu ngàn, mỗi ngày ăn hai lần thành bảy vạn hai ngàn bữa ăn, nếu có không ăn cũng ở số ấy, nghĩa là lúc bệnh, lúc say hoặc nhịn ăn, hoặc lúc sân hận ngủ say chơi đùa các sự vụ khác và uống sữa mẹ, đó gọi là không ăn. Thân thể ấy dầu thọ trăm tuổi rồi cũng chết mất. Ai là người trí mà lại mến thích thân trong biển sanh tử như vậy.
Lại nầy A Nan! Thọ thân ấy có hai thứ khổ: một là các thứ bệnh nhóm họp làm khổ gọi là nội khổ, hai là người và phi nhân bức não gọi là ngoại khổ.
Những gì gọi là các thứ bệnh nhóm họp nơi thân? Đó là các thân phần mắt tai mũi lưỡi răng cổ v. v... đều có các bệnh sanh ra. Hoặc là phong, hoặc nhiệt, chảy mũi chảy dãi, điên cuồng, khô đét, hơi lên ngột thở, tiểu tiện lâm lịch, cùi hủi ung thư, trĩ lậu, bụng đau ruột thắt, ghẻ dữ máu mủ, rét nóng các thứ bệnh đều họp nơi thân. Còn có trăm lẻ một bệnh tâm hoàng, trăm lẻ một bệnh phong, trăm lẻ một bệnh đàm và trăm lẻ một bệnh do phong hoàng đàm hòa hiệp cùng sanh. Bốn trăm lẻ bốn bệnh như vậy bức thiết thân ấy gọi là nội khổ.
Còn có ngoại khổ gia hại thân ấy. Đó là hoặc tại lao tù bị đánh đập gông xiềng, hoặc thẻo tai thẻo mũi, hoặc chặt tay chân, chém đầu lóc thịt. Nếu không có chư Thiên thần thủ hộ thì có thể bị phi nhân quỉ quái làm hại. Hoặc bị muỗi mòng ong kiến độc trùng cắn chích. Hoặc nóng rét đói khát phong mưa các thứ khổ não bức thiết thân ấy. Thân người còn dường ấy huống là thân các ác đạo khổ khó kể hết. Đó là do thuở quá khứ tạo các nghiệp bất thiện nên phải thọ báo như vậy. Hoặc ngừa binh khí gia hại mà xây thành lũy tường hào để bảo vệ lấy thân. Vì ngăn phong mưa trùng độc mà cất nhà cửa. Vì bốn trăm lẻ bốn bệnh nội khổ ngoại khổ mà cầu tìm uống ăn y phục giường mền thuốc men ruộng vườn nhà phòng vàng bạc nhà cửa xe cộ tôi tớ đồ dùng cung cấp, nếu chẳng vừa ý thì sanh khổ não. Dầu được dư thừa thì tham lam bỏn xẻn do gìn giữ, lúc bị tan mất lại rất khổ sầu.
Nầy A Nan! Thân ngũ ấm ấy mỗi oai nghi đi đứng ngồi nằm không lúc nào chẳng khổ. Nếu đi mãi không tạm nghỉ thì khổ, đứng mãi, ngồi mãi, nằm mãi cũng đều khổ.
Nếu đi lâu mà tạm đứng nghỉ thì sanh ý tưởng vui, kỳ thiệt chẳng phải vui. Hoặc đứng lâu mà tạm ngồi, hoặc ngồi lâu mà tạm nằm thì vọng sanh ý tưởng vui, thiệt ra không có vui. Vì thế nên gọi thân ngũ ấm đều là khổ.
Nếu có ai hoặc vì tự lợi, hoặc vì lợi tha, hoặc vì tự tha cùng lợi thì nên chán sợ các khổ như vậy mà xuất gia tu học, ở nơi pháp Niết bàn giải thoát tất chẳng luống uổng.
Nếu có người đem y phục thức ăn giường nệm thuốc men những đồ cần dùng thí cúng cho người xuất gia ấy thì sẽ được quả báo lớn oai lực phước đức.
Nầy A Nan! Sắc là thường hay vô thường?
-
Bạch Thế Tôn! Sắc là vô thường!
-
Nầy A Nan! Nếu vô thường thì khổ hay chẳng khổ?
-
Bạch Thế Tôn! Sắc vô thường tức là khổ.
-
Nầy A Nan! Nếu vô thường khổ tức là pháp bại hoại. Nếu là đệ tử đa văn của Phật nghe lời ấy có chấp sắc thân như vậy là ngã là sở chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Không.
Trong sắc không ngã cũng không ngã sở.
-
Lại nầy A Nan! Thọ tưởng hành và thức là thường hay vô thường?
-
Bạch Thế Tôn! Bốn ấm ấy đều vô thường.
-
Nầy A Nan! Nếu là vô thường thì khổ hay chẳng khổ?
-
Bạch Thế Tôn! Bốn ấm ấy đều gọi là khổ.
-
Nầy A Nan! Nếu là vô thường khổ tức là pháp bại hoại. Nếu là đệ tử đa văn của Phật nghe lời ấy có chấp bốn ấm ấy là ngã là ngã sở chăng?
-
Bạch đức Thế Tôn! Không. Bốn ấm ấy thiệt không ngã ngã sở.
-
Lại nầy A Nan! Ngã ấy chẳng ở quá khứ hiện tại vị lai, hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc thắng hoặc liệt, hoặc cận hoặc viễn. Tất cả pháp khác cũng đều không ngã không ngã sở. Dùng như thiệt trí quan sát các pháp không có ngã. Nếu đệ tử đa văn của Phật mà quan sát như vậy thì sanh lòng chán lìa mà được giải thoát cứu cánh Niết bàn. Tu học như vậy thì chứng pháp thân ấy, phần sanh khởi đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau".
Đức Phật nói kinh này rồi, Tôn giả A Nan xa trần rời cấu được pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp lậu tận ý giải. Tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
XIII.
PHÁP HỘI PHẬT THUYẾT NHẬP THAI TANG
THỨ MƯỜI BỐN
Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở thành Ca Tỳ La vườn Đa Căn Thọ chúng Tỳ Kheo vô lượng người câu hội.
Bấy giờ đức Thế Tôn có em trai tên Nan Đà, thân như màu hoàng kim đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu thấp hơn Phật bốn ngón tay. Vợ tên Tôn Đà La nghi dung đoan chánh thế gian ít có, đẹp sáng siêu tuyệt người đều thích thấy. Nan Đà cưng vợ triền miên lưu luyến không tạm xa rời, tình ái nhiễm rất nặng quyết chung sống trọn đời.
Đức Thế Tôn xét biết đến thời kỳ thọ hóa độ, bèn vào lúc sáng sớm đắp y cầm bát đem Trưởng lão A Nan làm thị giả vào thành khất thực, kế đến cổng nhà Nan Đà mà đứng. Đức Thế Tôn dùng sức đại bi phóng ánh sáng màu hoàng kim chiếu khắp trong nhà Nan Đà đều thành màu hoàng kim cả.
Nan Đà nghĩ rằng ánh sáng bỗng chiếu đến chắc là đức Như lai. Liền sai người hầu ra cổng xem, vội trở vào báo rằng đức Thế Tôn đứng tại cổng nhà. Nan Đà nghe báo liền muốn ra mau nghinh lễ đức Thế Tôn.
Tôn Đà La tự nghĩ nếu ta để y đi, đức Thế Tôn tất định cho y xuất gia. Nàng bèn níu áo chồng lại.
Nan Đà bảo vợ nay nên tạm cho ta đi ra lễ đức Thế Tôn rồi ta liền trở vào.
Tôn Đà La nói cùng nhau ước kỳ hẹn tôi mới cho đi. Nàng lấy phấn ướt đắp lên trán rồi nói với chồng rằng: Điểm này chưa khô phải trở vào, nếu trễ hẹn phải phạt năm trăm tiền vàng. Nan Đà ưng chịu rồi liền ra ngoài cổng lễ chân đức Phật, tiếp lấy bát của Như Lai mang vào nhà đựng đầy cơm ngon bưng ra ngoài cổng.
Đức Thế Tôn liền bước đi đồng thời ra dấu cho A Nan chớ có lấy bát ấy.
Đức Như Lai Đại Sư oai nghiêm tôn trọng, Nan Đà chẳng dám kêu đứng lại, bèn trao bát đầy cơm cho A Nan.
Ngài A Nan hỏi:
"Vừa rồi anh tiếp lấy bát ở nơi ai?".
Nan Đà nói:
"Ở nơi đức Phật".
Ngài A Nan nói:
"Như vậy nên trao cho đức Phật".
Nan Đà chẳng dám gọi đức Phật chỉ lặng lẽ đi theo sau.
Về đến tinh xá ở vườn Đa Căn Thọ, đức Thế Tôn rửa tay chân rồi đến ghế mà ngồi. Nan Đà dâng bát cơm. Đức Thế Tôn ăn xong bảo Nan Đà rằng:
"Em xuất gia được chăng?". Vì đức Thế Tôn thuở xưa lúc tu Bồ Tát đạo, đối với cha mẹ sư trưởng và chư tôn túc chưa hề trái lời dạy bảo, nên lời dạy của Phật không ai trái lại. Do đó mà Nan Đà nghe đức Phật bảo xuất gia liền đáp rằng:
"Xuất gia được".
Đức Thế Tôn liền sai Ngài A Nan cạo râu tóc Nan Đà.
Ngài A Nan vâng lịnh đức Phật tìm người đến cạo.
Nan Đà nói với người ấy rằng:
"Ngươi biết chăng, không bao lâu ta sẽ làm Chuyển Luân Vương, nếu ngươi cạo tóc ta, ta sẽ chặt cánh tay ngươi".
Người ấy sợ hãi gói dao lại muốn từ đi về .
Ngài A Nan vội bạch đức Phật. Đức Phật đến hỏi Nan Đà:
"Em chẳng xuất gia ư?".
Do oai của đức Phật, Nan Đà thưa:
"Xin xuất gia".
Đức Thế Tôn cầm bình nước rưới lên đầu Nan Đà, tịnh nhân liền cạo.
Nan Đà nghĩ rằng nay phải kính phụng đức Thế Tôn, ban ngày tạm xuất gia, chờ tối sẽ về nhà. Đến chiều tối, Nan Đà theo đường cũ đi về nhà. Đức Thế Tôn hóa hố lớn ngay giữa đường. Nan Đà thấy hố ấy tự nghĩ rằng: Bây giờ không làm sao đi về nhà được, đành phải xa Tôn Đà La. Đêm nay nhớ tưởng nàng có thể chết được. Nếu còn sống, sáng mai sẽ về. Vì nhớ Tôn Đà La nên Nan Đà sầu khổ suốt đêm.
Biết ý nghĩ của Nan Đà, đức Phật bảo Ngài A Nan đến cho Nan Đà hay là đức Phật sai Nan Đà làm tri sự nhân.
Ngài A Nan tuân hành lời đức Phật.
Nan Đà hỏi A Nan:
"Sao gọi là tri sự nhân và phải làm gì?"
Ngài A Nan nói:
"Phải kiểm điểm các việc trong chùa".
Nan Đà hỏi:
"Phải làm những sự gì?".
Ngài A Nan nói:
"Nầy Cụ thọ! Phàm người tri sự, lúc chư Tỳ Kheo đi khất thực phải rưới quét trong chùa, lấy phân trâu mới thứ đệ tô cho sạch, phải để ý canh phòng chớ cho thất lạc, có việc phải phán quyết thì đem bạch chư Tăng. Nếu có hương hoa thì đem trao cho chúng. Đêm đến thì đóng cổng đóng cửa đến sáng mới mở. Chỗ đi đại tiểu phải thường rửa lau. Trong chùa nếu có chỗ nào hư thì phải tu bổ".
Nghe xong Nan Đà nói: ” Thưa Đại Đức! Như lời đức Phật sai bảo, tôi xin vâng làm".
Sáng ngày đến giờ tiểu thực, chư Tỳ Kheo chấp trì y bát vào thành Ca Tỳ La khất thực.
Nan Đà thấy chùa vắng người liền nghĩ rằng ta quét chùa xong sẽ trở về nhà. Do thần lực của Phật, chỗ Nan Đà quét sạch hiện ra phân dơ. Thấy vậy Nan Đà bỏ chổi hốt sạch phân, nhưng phân vẫn còn không hốt hết được. Nan Đà nghĩ rằng: Thôi mặc, đóng cửa chùa rồi về. Cũng do thần lực của đức Phật, đóng cửa phòng này xong qua đóng cửa phòng kia thì phòng này cửa lại tự nhiên mở trống.
Nan Đà lo rầu nghĩ rằng nếu có kẻ trộm xâm phạm thì có hại gì.
Ta sẽ làm vua lại xây trăm ngàn ngôi chùa lớn tốt hơn đây. Ta nên về nhà. Sợ đi đường lớn gặp Phật nên Nan Đà theo đường nhỏ mà đi. Đức Phật biết bèn từ đường nhỏ ngược chiều đi lại. Từ xa Nan Đà thấy Phật, chẳng muốn gặp Phật, liền ẩn mình trong tàng cây rậm bên đường. Thần lực của Phật làm cho các nhánh cây đều cất cao lên lộ Nan Đà ra.
Đức Phật hỏi Nan Đà:
"Em từ đâu đến đây nên theo ta".
Nan Đà hổ thẹn cúi đầu đi theo Phật.
Đức Phật biết Nan Đà quá luyến ái vợ, muốn dẫn tiếp Nan Đà khiến xả ly nên đức Phật ra khỏi thành Ca Tỳ La đến Thất La Phiệt ở tại vườn Lộc Từ Mẫu của bà Tỳ Xá Khư.
Đức Phật thầm nghĩ Nan Đà ngu si nhiễm hoặc mãi nhớ vợ chẳng bỏ tình ái, nên làm phương tiện cho thôi dứt.
Đức Phật bảo Nan Đà rằng:
"Từ trước em có thấy núi Hương Túy chưa?". Nan Đà thưa chưa từng thấy.
Đức Phật nói:
"Nếu như vậy em nên nắm chéo y ta".
Nan Đà tuân lời nắm chéo y của đức Phật.
Lúc ấy đức Thế Tôn dường như Nga Vương bay lên hư không đến núi Hương Túy dắt Nan Đà xem ngó hai bên. Dưới cây có trái kia thấy một con khỉ cái mù một mắt đang ngửa mặt nhìn sững đức Như Lai.
Đức Phật bảo Nan Đà rằng con khỉ cái này sánh với Tôn Đà La thi ai đẹp?
Nan Đà thưa:
"Tôn Đà La con giòng Thích Ca đẹp như thiên nữ nghi dung đệ nhất trong đời không có hai người. Khỉ cái này đem sánh với nàng thì ngàn muôn ức phần chẳng bằng một".
Đức Phật hỏi:
"Em có thấy thiên cung chưa?".
Nan Đà thưa rằng chưa thấy.
Đức Phật lại bảo Nan Đà nắm chéo y rồi như Nga Vương bay lên hư không đến trời Đao Lợi, khiến Nan Đà nhìn ngắm cảnh thù thắng ở cõi trời. Nan Đà tuân lời đến vườn hoan hỉ, vườn thể thân, vườn thô thân, vườn giao hiệp, cây viên sanh, tòa Thiện Pháp Đường, các thắng cảnh cõi trời như vậy, nào cung điện vườn tược, nào hoa quả ao tắm, những chỗ dạo chơi vui vẻ thù thắng đều quan sát hết.
Kế đến Nan Đà vào trong thành Thiện Kiến, lại thấy các thứ âm nhạc âm thanh vi diệu, nhà cửa cao rộng màn che trướng phủ, nơi nào cũng có các thiên nữ cùng nhau vui đùa. Nan Đà xem khắp mọi cung, thấy có một cung điện chỉ có thiên nữ mà không có thiên tử, bèn hỏi thiên nừ rằng:
"Tại sao mọi cung đều có thiên tử thiên nữ ở chung cùng nhau vui thú, mà cung này chỉ có toàn thiên nữ?".
Thiên nữ đáp:
"Đức Thế Tôn có người em trai tên Nan Đà theo Phật xuất gia tu phạm hạnh mạng chung sẽ sanh nơi đây, chúng tôi chờ ông ấy".
Nan Đà nghe nói vui mừng hớn hở vội trở lại chỗ đức Phật.
Thấy Nan Đà, đức Phật hỏi em có thấy cảnh thắng diệu ở cõi trời chăng? Nan Đà thưa đã thấy, rồi thuật lại mọi sự đã được thấy.
Đức Phật hỏi có thấy thiên nữ chăng?
Nan Đà thưa:
"Đã thấy".
Đức Phật hỏi:
"Các thiên nữ ấy sánh với Tôn Đà La thì ai đẹp?".
Nan Đà thưa:
"Đem Tôn Đà La so với các tiên nữ ấy thì cũng như đem con khỉ cái chột mắt ở núi Hương Túy sánh với Tôn Đà La, trăm ngàn muôn lần chẳng bằng một".
Đức Phật bảo Nan Đà rằng:
"Người tu phạm hạnh có thắng lợi ấy, nay em nên gắng tu phạm hạnh sẽ được sanh cõi trời hưởng khoái lạc này".
Nan Đà nghe đức Phật nói lòng vui mừng đứng yên.
Bấy giờ đức Thế Tôn cùng Nan Đà rời cõi trời Đao Lợi trở lại rừng Thệ Đa. Từ ngày ấy vì ái mộ thiên cung mà Nan Đà chuyên tu phạm hạnh.
Đức Phật biết tâm niệm của Nan Đà nên sai Ngài A Nan đi truyền lịnh đức Phật cho các Tỳ Kheo không người nào cùng Nan Đà ngồi chung chỗ, kinh hành đồng chỗ, để y một sào, để bát một chỗ, để bình một chỗ, chẳng được đồng một chỗ với Nan Đà mà đọc tụng kinh điển.
A Nan truyền lịnh đức Phật, các Tỳ Kheo đều tuân hành.
Nan Đà thấy mọi người xa lánh mình thì rất hổ thẹn. Lúc sau, Ngài A Nan cùng các Tỳ Kheo ở trong nhà thị giả vá y phục. Nan Đà nghĩ rằng các Tỳ Kheo đều rời bỏ tôi chẳng ở đồng một chỗ. Còn A Nan nầy là em trai tôi há lại lánh tôi.
Nghĩ vậy Nan Đà liền đi vào nhà ngồi bên A Nan.
Lúc ấy A Nan vội đứng dậy tránh ra. Nan Đà nói:
"
Nầy A Nan! Các Tỳ Kheo khác bỏ tôi đã đành. Còn A Nan là em trai tôi sao nỡ ghét lánh tôi".
Ngài A Nan đáp:
"Thiệt có lý ấy, nhưng anh tu đạo riêng, còn tôi theo đường khác, vì vậy mà phải tránh nhau".
Ngài Nan Đà hỏi:
"Thế nào là đạo anh đường em?".
Ngài A Nan đáp:
"Anh thích sanh cõi trời mà tu phạm hạnh, tôi cầu Niết Bàn mà trừ dục nhiễm vậy".
Ngài Nan Đà nghe lời ấy càng thêm lo buồn.
Đức Thế Tôn biết tâm niệm của Nan Đà nên đến hỏi: ”Em đã thấy địa ngục chưa?".
Ngài Nan Đà thưa:
"Chưa thấy".
Đức Phật bảo Ngài Nan Đà nắm chéo áo y của Phật rồi đem Nan Đà vào trong địa ngục. Đức Phật đứng qua một bên bảo Ngài Nan Đà đi xem các nơi trong địa ngục. Ngài Nan Đà liền đi, trước hết thấy sông tro, kế đến rừng gươm, sông phẩn. Vào trong quan sát thấy các chúng sanh thọ nhiều sự khổ: hoặc bị kềm rút lưỡi, bẻ răng, móc mắt, hoặc bị cưa sẻ đôi thân thể, hoặc bị búa chặt rời tay chân, hoặc bị mâu xuyên qua thân, hoặc roi đánh, xóc đâm, hoặc bị chùy sắt đập nát, hoặc bị rót nước đồng vào miệng, hoặc bị ném lên cây gươm núi dao, hoặc bị chày giã đá xay, hoặc ôm cột đồng nằm giường sắt cháy đỏ, lại thấy vạc sắt đốt lửa lớn dầu nước sôi trào nấu các hữu tình, lại thấy một vạc dầu nước sôi sục mà không có ai bị nấu trong ấy.
Ngài Nan Đà hỏi duyên cớ. Ngục tốt giải đáp rằng:
"Em trai đức Phật là Nan Đà chỉ nguyện muốn sanh thiên mà tu phạm hạnh, rồi đây ông sẽ được sanh cõi trời tạm hưởng khoái lạc, khi thân trời mạng chung sẽ phải vào vạc dầu sôi này, nên tôi chụm lửa chờ ông ấy".
Nghe ngục tốt nói, Ngài Nan Đà rất kinh sợ rởn ốc dựng lông mồ hôi lạnh tuôn ra, tự nghĩ rằng nếu nó biết mình là Nan Đà có thể nó sẽ lấy chĩa xom mình bỏ vào vạc để nấu. Ngài Nan Đà vội vã chạy gấp về chỗ đức Phật.
Đức Phật hỏi:
"Em đã thấy địa ngục chăng".
Ngài Nan Đà buồn khóc rơi nước mắt nghẹn ngào nói nhỏ thưa rằng:
"Tôi đã được thấy".
Đức Phật hỏi:
"Em đã thấy những gì?".
Ngài Nan Đà đem tất cả những sự đã thấy thuật trình đức Phật.
Đức Phật phán:
"Nếu nguyện nhân gian, hoặc cầu thiên thượng thì có những lỗi lầm như vậy. Nay em phải cầu Niết bàn mà tu phạm hạnh, chớ thích cõi trời mà gây sự khổ về sau.".
Ngài Nan Đà nghe đức Phật dạy như vậy, trong lòng rất hổ thẹn cúi đầu nín lặng.
Đức Thế Tôn liền dắt Ngài Nan Đà cùng ra khỏi địa ngục về đến rừng Thệ Đa bảo Ngài Nan Đà và chư Tỳ Kheo rằng: ” Trong tâm có ba thứ cấu dơ là dâm dục, giận thù và ngu si rất đáng được vứt bỏ, phải nên xa rời, các ông phải tu học".
Đức Thế Tôn ở rừng Thệ Đa không bao lâu, vì muốn tùy duyên giáo hóa chúng sanh nên cùng đồ chúng qua nước Chiêm Ba ở bên ao Yết Già.
Ngài Nan Đà cùng năm trăm Tỳ Kheo cũng đi theo đức Phật. Các Ngài đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật thấy đại chúng ngồi xong bảo ngài Nan Đà rằng:
"Phật có pháp yếu sơ trung hậu đều thiện, văn nghĩa khéo hay thuần nhất viên mãn phạm hạnh thanh bạch. Đó là kinh Nhập Mẫu Thai. Ông phải lắng nghe kỹ khéo suy nghĩ, nay Phật sẽ vì ông mà nói kinh ấy".
Ngài Nan Đà thưa:
"Vâng, bạch đức Thế Tôn. Xin muốn được nghe".
Đức Phật nói: ” Dầu có thai mẹ mà có nhập và chẳng nhập. Thế nào là thọ sanh nhập vào trong thai mẹ?
Nếu cha mẹ nhiễm tâm cùng làm dâm ái, bụng mẹ sạch sẽ, nguyệt kỳ điều hòa đến thời kỳ và trung ấm hiện tiền, như vậy thì nhập thai mẹ.
Trung ấm ấy có hai thứ hình: một là dung sắc xinh đẹp, hai là dung mạo xấu xí.
Trung ấm địa ngục có dung mạo như cây gỗ cháy trụi. Trung ấm bàng sanh có màu như khói. Trung ấm ngạ quỉ có màu như nước. Trung ấm trời hay người có màu như hoàng kim. Trung ấm cõi sắc thì hình sắc trắng láng. Trời vô sắc không có thân trung ấm vì không có sắc thân vậy.
Trung ấm của hữu tình hoặc có hai tay hai chân, hoặc nhiều chân bốn chân không chân, tùy theo nghiệp ngày trước đáng phải thác sanh chỗ nào thì cảm thân trung ấm như thân hình ấy.
Nếu là trung ấm trời thì đầu hướng lên trên, trung ấm người bàng sanh và quỉ thì đi ngang, trung ấm địa ngục thì đầu trút xuống.
Phàm thân trung ấm thì đều có thần thông đi trong hư không, như thiên nhãn ở xa thấy chỗ thọ sanh.
Nói nguyệt kỳ đến thời kỳ là nói thời kỳ nạp thai.
Nầy Nan Đà! Hoặc có nữ nhân trải qua ba ngày, hoặc năm ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc có chờ duyên trải qua lâu nguyệt kỳ mới đến. Nếu có nữ nhân thân không oai thế thọ nhiều tân khổ hình dung xấu xí không ăn uống tốt, nguyệt kỳ dầu đến mà mau dứt; dường như đất khô khi rước nước dễ khô. Nếu có nữ nhân thân có oai thế thường thọ an lạc nghi dung đoan chánh được ăn uống tốt, có nguyệt kỳ đến chẳng mau dứt, dường như đất nhuần khi rưới nước thì khó khô.
Thế nào là chẳng nhập thai mẹ?
Lúc cha xuất tinh thì mẹ chẳng xuất, lúc mẹ xuất tinh thì cha chẳng xuất, hoặc đều chẳng xuất, đều chẳng thọ thai.
Nếu mẹ bất tịnh mà cha tịnh, hoặc cha bất tịnh mà mẹ tịnh, hoặc đều bất tịnh cũng đều chẳng thọ thai.
Nếu chỗ âm của mẹ có bệnh phong, bệnh hoàng, bệnh đàm, hoặc có huyết khí thai kiết, hoặc bị thịt tăng, hoặc bị uống thuốc, hoặc bị bệnh lúa mạch, bệnh eo lưng kiến, hoặc sản môn như miệng lạc đà, hoặc trong ấy như cây nhiều rễ, như đầu cầy, như càng xe, như dây leo, như lá cây, như tua lúa mạch, hoặc bụng dưới sâu, hoặc trên sâu, hoặc chẳng phải đồ thọ thai, hoặc máu thường xuất, hoặc thường chảy nước, hoặc như mỏ quạ, hoặc mở mà chẳng hiệp, hoặc trên dưới bốn bên rộng hẹp chẳng đồng, hoặc cao hạ lõm lồi, hoặc bên trong có trùng ăn thúi hư bất tịnh. Nếu mẹ có những lỗi ấy thì chẳng thọ thai.
Hoặc cha mẹ tôn quí mà trung ấm ti tiện, hoặc trung ấm tôn quí mà cha mẹ ti tiện cũng chẳng thành thai.
Nếu cha mẹ và trung ấm đều tôn quí mà nghiệp chẳng hòa hiệp cũng chẳng thành thai.
Nếu ở nơi cảnh trước mà trung ấm không có nam nữ hai thứ ái niệm cũng chẳng thọ thai.
Nầy Nan Đà!
Thế nào là trung ấm được vào thai mẹ?
Nếu bụng mẹ tịnh, trung ấm hiện tiền thấy làm việc dục, không có những lỗi như trên, cha mẹ và con có nghiệp tương cảm mới nhập vào thai mẹ.
Lại lúc trung ấm sắp nhập thai tâm liền điên đảo. Nếu là nam thì với mẹ sanh yêu với cha sanh ghét. Nếu là nữ thì cha sanh yêu với mẹ sanh ghét. Đời quá khứ vì tạo các nghiệp mà sanh vọng tưởng có tâm niệm hiểu sai lầm, tưởng lạnh rét, tưởng phong lớn mưa lớn mây mù; hoặc nghe tiếng đông người ồn ào, tưởng như vậy rồi tùy theo nghiệp đời trước ưu hay liệt mà sanh mười thứ vọng tưởng: Nay tôi vào nhà, tôi muốn lên lầu, tôi lên đài điện, tôi lên giường ghế, tôi vào nhà cỏ, tôi vào nhà lá, tôi vào lùm cỏ, tôi vào trong rừng, tôi vào lỗ vách, tôi vào trong rào.
Nầy Nan Đà! Lúc trung ấm niệm tưởng như vậy liền nhập thai mẹ.
Phải biết tối sơ thọ sanh gọi là yết la lam, là tinh cha huyết mẹ chớ chẳng phải vật khác. Do tinh huyết cha mẹ hòa hiệp làm chỗ sở duyên của thức nương ở nơi đó. Ví như chất lạc bình dùi nhân công động chuyển mãi thì có chất tô suất sanh, khác đây thì chất tô chẳng sanh. Phải biết cha mẹ tinh huyết bất tịnh và thân yết la lam cũng như vậy.
Lại nầy Nan Đà! Có bốn thí dụ, ông nên lắng nghe:
Như nương cỏ xanh mà trùng sanh ra. Cỏ chẳng phải trùng, trùng chẳng rời cỏ, nương nơi cỏ nhân duyên hòa hiệp thì trùng sanh thân nó màu xanh như màu cỏ. Cha mẹ tinh huyết và thân yết la lam nhân duyên hòa hiệp có đại chủng căn sanh cũng như vậy.
Như nương phân bò mà sanh trùng. Phân chẳng phải trùng, trùng chẳng rời phân, nương phân nhân duyên hòa hiệp mà trùng được sanh thân nó màu xanh. Tinh cha huyết mẹ thân yết la lam cũng như vậy, nhân duyên hòa hiệp thì đại chủng căn sanh.
Như nương táo sanh trùng, táo chẳng phải trùng, trùng chẳng rời táo, nương nơi táo nhân duyên hòa hiệp mà trùng được sanh thân nó màu đỏ. Tinh cha huyết mẹ thân yết la lam cũng như vậy, nhân duyên hòa hiệp thì đại chủng căn sanh.
Như nương chất lạc sanh trùng, lạc chẳng phải trùng, trùng chẳng rời lạc, nương chất lạc nhân duyên hòa hiệp mà trùng được sanh thân nó màu trắng. Tinh cha huyết mẹ thân yết la lam cũng như vậy, nhân duyên hòa hiệp thì đại chủng căn sanh.
Lại nầy Nan Đà! Nương cha mẹ bất tịnh và yết la lam nên địa giới hiện tiền tánh cứng rắn, thủy giới hiện tiền ướt nhuần, hỏa giới hiện tiền tánh ấm nóng, phong giới hiện tiền tánh nhẹ động.
Nầy Nan Đà! Nếu cha mẹ bất tịnh và thân yết la lam chỉ có địa giới mà không thủy giới thì khô khốc mà phân tán như tay bóc bột tro khô vậy. Nếu chỉ có thủy giới mà không có địa giới thì lỏng chảy như dầu như giọt nước.
Do thủy giới nên địa giới chẳng tan, do địa giới mà thủy giới chẳng chảy.
Nầy Nan Đà! Thân yết la lam có địa thủy hai giới mà không hỏa giới thì thúi rã như ngày mùa hạ khối thịt tươi để chỗ râm mát.
Nầy Nan Đà! Thân yết la lam có địa thủy hỏa giới mà không phong giới thì chẳng tăng trưởng quảng đại.
Đây đều do nghiệp quá khứ làm nhân, lại làm duyên lẫn nhau cùng chiêu cảm nhau mà thức được sanh, địa giới hay trì, thủy giới hay nhiếp, hỏa giới hay chín, phong giới hay lớn. Như có người thợ bánh và học trò trộn nấu đường cát rồi dùng miệng thổi cho nó lớn rộng thêm mà bên trong thì rỗng trống như củ sen. Trong thân bốn đại chủng địa thủy hỏa phong, do nghiệp lực tăng trưởng cũng như vậy.
Nầy Nan Đà! Cha mẹ bất tịnh có thân yết la lam, thân ấy chẳng phải bụng mẹ, chẳng phải là nghiệp, chẳng phải nhân chẳng phải duyên, do các thứ ấy hòa hội mới có thai.
Như hột giống mới chẳng bị phong nắng làm tổn hư, chắc thiệt không lỗ cất chứa đúng cách, đem gieo vào ruộng tốt nhuần ướt. Do nhân duyên hòa hiệp như vậy mà rễ mầm cọng nhánh lá bông trái thứ đệ sanh trưởng.
Nầy Nan Đà! Hột giống ấy chẳng phải rời lìa các duyên hòa hiệp mà mầm cây v.v... được sanh.
Do đó mà biết rằng chẳng phải chỉ có cha mẹ, chẳng phải chỉ có nghiệp và các duyên khác mà thai được sanh, cần phải do tinh huyết của cha mẹ, nghiệp và các duyên hòa hiệp mới có thai vậy.
Nầy Nan Đà! Như người sáng mắt vì cầu lửa nên đem nhật quang châu để trong ánh nắng rồi đặt phân bò khô lên mới có lửa phát sanh.
Nương đủ các duyên hòa hiệp mới có thai sanh cũng như vậy.
Cha mẹ bất tịnh thành yết la lam gọi đó là sắc thọ tưởng hành thức cũng gọi là danh sắc. Khối uẩn danh sắc ấy đáng chán ghét, thác sanh các loài nhẫn đến chút phần sát na, Phật chẳng tán thán. Tại sao? Vì sanh vào các loài là rất khổ, ví như phẩn dơ, chút phần cũng hôi, sanh vào các loài chút phần cũng khổ. Năm thủ uẩn sắc thọ tưởng hành thức ấy đều có sanh trụ tăng trưởng và suy hoại. Sanh tức là khổ, trụ tức là bệnh, tăng trưởng suy hoại tức là lão tử.
Vì lẽ ấy người trí đâu nên ở nơi biển sanh tử mà mến ưa nằm trong thai mẹ thọ khổ lớn ấy.
Lại nầy Nan Đà! Phàm nhập thai cứ đại số mà nói thì có ba mươi tám thất nhật.
Thất nhật thứ nhất, thai ở bụng mẹ như ở trong nồi, thân căn ý căn đồng ở một chỗ, hơi nóng đốt nấu rất đau khổ tên là yết la lam trạng như nước cháo hay nước lạc. Trong bảy ngày hơi nóng bên trong nấu nung, bốn đại chủng mới phát hiện.
Thất nhật thứ hai thai ở bụng mẹ có phong khởi lên tên là biến xúc do nghiệp trước phát sanh thổi chạm thai ấy tên là án bộ đà trạng như lạc đặc như tô đọng. Trong bảy ngày hơi nóng bên trong nấu nung bốn đại chủng phát hiện.
Thất nhật thứ ba thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là đao sao thổi chạm thai ấy tên là bế thi trạng như chiếc đũa hay con trùng, trong bảy ngày bốn đại chủng phát hiện.
Thất nhật thứ tư thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là nội khai thổi chạm thai ấy tên là kiện nam trạng như vỏ hài hay ôn thạch, trong bảy ngày bốn đại chủng phát hiện.
Thất nhật thứ năm thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là nhiếp trì thổi chạm thai ấy có năm tướng hiện đó là hai cánh hai đùi và đầu. Như mùa xuân mưa xuống rừng cây rậm rợp nhánh lá tăng trưởng, năm tướng nơi thai tăng trưởng cũng như vậy.
Thất nhật thứ sáu thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là quảng đại thổi chạm thai ấy có bốn tướng hiện đó là hai chỏ hai gối.
Thất nhật thứ bảy thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là triền chuyển thổi chạm thai ấy có bốn tướng hiện đó là hai tay hai chân.
Thất nhật thứ tám thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là phiên chuyển thổi chạm thai ấy có hai mươi tướng hiện đó là tay chân đều mười ngón.
Thất nhật thứ chín thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là phân tán thổi chạm thai ấy có chín tướng hiện đó là hai mắt hai tai hai mũi miệng và hai lỗ dưới.
Thất nhật thứ mười thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là kiên ngạnh làm cho thai cứng chắc.
Lại có phong nghiệp tên là phổ môn làm cho thai phồng lên như trái nổi.
Thất nhật thứ mười một thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là sơ thông làm cho thai thông suốt chín lỗ hiện ra. Lúc mẹ đi đứng ngồi nằm làm việc phong ấy xoay chuyển hư thông lần lần khiến chín lỗ lớn ra.
Thất nhật thứ mười hai thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên khúc khẩu thổi hai bên thai làm đại trường và tiểu trường. Lại có phong nghiệp tên là xuyên phát lai cho thai sanh ra một trăm chỗ cấm.
Thất nhật thứ mười ba thai ở bụng mẹ do sức phong trước nên biết đói khát, lúc mẹ uống ăn có chất bổ dưỡng từ rốn vào để nuôi thân thai.
Thất thứ mười bốn thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là tuyến khẩu làm cho thai sanh một ngàn lóng: thân trước sau tả hữu đều sanh hai trăm năm mươi lóng.
Thất thứ mười lăm thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là liên hoa làm cho thai sanh hai mươi mạch hấp rút chất bổ dưỡng: thân trước sau tả hữu đều có năm mạch nhiều thứ tên nhiều màu sắc, hoặc tên bạn tên lực tên thế, màu thì xanh vàng đỏ trắng, màu đậu, màu dầu, màu tô, màu lạc và nhiều màu khác, tướng nó hòa nhã. Hai mươi mạch ấy, mỗi mạch đều riêng có bốn mươi mạch làm quyến thuộc hiệp lại có tám trăm mạch hấp rút hơi: thân trước sau tả hữu đều riêng có hai trăm. Tám trăm mạch ấy, mỗi mạch còn có một trăm đường mạch quyến thuộc liền nhau hiệp có tám vạn: thân trước sau tả hữu đều có hai vạn. Tám vạn mạch ấy còn có nhiều lỗ, hoặc một lỗ, hoặc hai lỗ nhẫn đến bảy lỗ, mỗi lỗ liền với lỗ lông. Như rễ sen có nhiều lỗ thông nhau.
Thất nhật thứ mười sáu thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là cam lộ hành có thể làm phương tiện an trí nơi chỗ cho hai mắt, hai tai, mũi miệng cổ họng, ngực hông, chỗ chứa đựng đồ ăn uống, hay làm cho hơi thở ra vào thông suốt.
Thất nhật thứ mười bảy thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là lông phất khẩu hay làm cho mắt tai mũi miệng v. v... nhuần ướt.
Thất nhật thứ mười tám thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là vô cấu làm cho sáu căn thanh tịnh.
Thất nhật thứ mười chín thai ở bụng mẹ thành tựu bốn căn nhãn nhĩ tỷ và thiệt cộng với ba căn lúc tối sơ nhập thai là thân căn mạng căn và ý căn.
Thất nhật thứ hai mươi thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là kiên cố làm cho thân thai, chân tả sanh hai mươi lóng xương ngón chân, chân hữu sanh hai mươi lóng xương ngón chân, gót có bốn, mắt cá có hai, gối có hai, vế có hai, eo có ba, sống có mười tám, sườn có hai mươi bốn. Tay tả sanh hai mươi xương ngón, tay hữu sanh hai mươi xương ngón, cánh có bốn, bắp có hai, ngực có bảy, vai có bảy, cổ có bốn, hàm có hai, răng có ba mươi hai, sọ đầu có bốn. Trong đây trừ xương nhỏ thì xương lớn có hai trăm.
Thất nhật thứ hai mươi mốt thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là sanh khởi hay làm cho trên thân thai sanh thịt.
Thất nhật thứ hai mươi hai thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là phù lưu hay làm cho thân thai sanh huyết.
Thất nhật thứ hai mươi ba thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là tịnh trì hay làm cho thân thai sanh da.
Thất nhật thứ hai mươi bốn thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là tư mạn hay làm cho da sáng bóng.
Thất nhật thứ hai mươi lăm thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là trì thành hay làm cho máu thịt tư nhuận.
Thất nhật thứ hai mươi sáu thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là sanh thành hay sanh tóc lông móng cùng các mạch liền nhau.
Thất nhật thứ hai mươi bảy thai ở bụng mẹ có phong tên là khúc thược hay làm cho tóc lông móng đều thành tựu.
Nầy Nan Đà! Nếu đứa con đời trước tạo nhiều ác tham gian bỏn xẻn bất hiếu bất hòa, nay sanh nhân gian được quả báo chẳng vừa ý. Nếu đời cho cao là đẹp thì thân nó lùn, nếu cho thấp là đẹp thì thân nó cao, thô tế ít nhiều gầy mập cận ly khiếp dũng trắng đen v. v... đều ngược sở hảo của người đời. Lại còn do nghiệp ác nó cảm lấy ác báo như đui điếc câm ngọng ngu đần xấu xí, giọng nói người ghét, tay chân cong què, hình như ngạ quỉ thân thuộc còn ghét chẳng muốn nhìn huống là người khác, ba nghiệp đối với người nói điều gì, người chẳng tin nhận chẳng để ý. Tại sao? Vì đời trước nó tạo nghiệp ác nên nay được báo ác như vậy.
Nầy Nan Đà! Nếu đứa con ấy đời trước tạo nghiệp phước bố thí chẳng tham gian cứu giúp người nghèo thiếu làm nhiều nghiệp lành hiếu thảo thuận hòa, thì nay cảm báo lành sanh trong nhân gian được quả báo vừa ý, cao thấp thô tế nhiều ít mập gầy dũng khiếp v.v... điều hiệp sở thích người đời, sáu căn tròn đủ đoan chính đẹp xinh, giọng nói người ưa, ba nghiệp trình bày người đều tin nhận kính nhớ để lòng. Tại sao? Do đời trước nó tạo nghiệp lành nên được báo tốt như vậy.
Nầy Nan Đà! Nếu thai là nam, ở bên hông hữu của mẹ ngồi bẹp hai tay bụm mặt hướng sống lưng mẹ mà ở yên. Nếu thai là nữ, ở bên hông tả ngồi bẹp hai tay bụm mặt hướng bụng mẹ mà ở yên. Nó ngồi dưới sanh tạng trên thục tạng, vật sống đè xuống, vật chín đâm lên, như trói năm chỗ cắm tại đầu cây nhọn. Lúc mẹ ăn nhiều hay ăn ít đều bị đau khổ, hoặc ăn quá lỏng, quá khô, quá lạnh, quá nóng, quá mặn, quá đắng, quá cay, quá chua, quá ngọt đứa con đều đau khổ cả. Hoặc mẹ hành dục, hoặc đi gấp chạy mau, ngồi lâu nằm lâu, hay nhảy nhót thảy đều bị khổ.
Nầy Nan Đà! Phải biết lúc ở thai mẹ có nhiều thứ khổ đau bức bách đức con chẳng thể kể hết. Ở trong loài người còn khổ đến thế huống là các ác đạo, ai là người có trí mà lại ưa thích lấy thân tai ách trong biển khổ sanh tử.
Thất nhật thứ hai mươi tám thai ở bụng mẹ, đứa con ấy vọng sanh tám thứ tưởng điên đảo: tưởng là ở nhà, là ngồi xe, là vườn, là lầu, là gác, là rừng cây, là giường ghế, là sông ao, mà thiệt không các thứ ấy chỉ hư vọng phân biệt.
Thất nhật thứ hai mươi chín thai ở bụng mẹ có phong nghiệp tên là hoa điều hay làm thân đức con láng trắng sạch sẽ, hoặc do nghiệp lực khiến màu đen thâm, hay xanh, hay các màu khác, hay khô khốc không tươi nhuần, ánh sáng trắng ánh sáng đen đều theo màu sắc mà phát ra.
Thất nhật thứ ba mươi thai ở bụng mẹ có phong tên thiết khẩu làm cho tóc lông móng được sanh trưởng và nhuần sáng.
Thất nhật thứ ba mươi mốt đến thất nhật thứ ba mươi bốn thai ở bụng mẹ tăng trưởng quảng đại.
Thất nhật thứ ba mươi lăm thai ở bụng mẹ chi thể đầy đủ.
Thất nhật thứ ba mươi sáu và ba mươi bảy thai ấy chẳng thích ở bụng mẹ.
Thất nhật thứ ba mươi bảy thai ấy sanh ba ý tưởng chẳng điên đảo. Đó là ý tưởng bất tịnh, hôi dơ và tối tăm.
Thất nhật thứ ba mươi tám, thai ở bụng mẹ có phong tên là lam hoa hay làm cho thai hướng xuống giăng dài hai tay xu hướng cửa đẻ. Kế có phong tên xu hạ thổi khiến thai trút đầu xuống hai chân đưa lên sắp ra cửa đẻ.
Nầy Nan Đà! Nếu đứa con ấy, đời trước nó tạo những nghiệp ác và làm trụy thai người, do đó nên nay thai ấy tay chân ngang lọan chẳng lay chuyển được bèn chết trong bụng mẹ. Người mẹ nhân đó mà chịu vô lượng thống khổ hoặc cũng phải chết.
Nầy Nan Đà! Nếu đứa con ấy, đời trước nó tạo phước đầu chuyển mình chẳng tổn hại mẹ an ổn ra ngoài không các tai ách, lúc đẻ cũng khiến người mẹ rất đau khổ gần chết thai mới sanh ra được. Các ông nên quan sát kỹ mà cầu xuất ly.
Lại nầy Nan Đà! Nay ông đã biết ở thai khổ, lúc sanh khổ. Ông nên biết phàm người thọ sanh rất khổ não.
Lúc sơ sanh hoặc nam hay nữ rơi vào tay người, hoặc trên khăn, chiếu v.v... hoặc trong nắng hay chỗ râm, hoặc trên xe, hoặc nơi giường, trong lòng người, tất cả chỗ đều chịu sự đau đớn, khổ sở. Như bò bị lột da đứng dựa vách bị kiến bu, hoặc dựa cây bị sâu cắn, dầu đứng chỗ trống bị nắng phong cũng rất đau khổ. Trẻ sơ sanh cũng vậy lúc tắm nước nóng chịu khổ rất là bức thiết.
Sau khi được sanh, trẻ ấy uống sữa của mẹ mà lớn.
Nầy Nan Đà! Đã có nhiều thứ khổ không gì đáng ưa, đâu có người trí mà lại ái luyến sanh tử.
Sanh bảy ngày rồi, trong thân ấy có tám vạn hộ trùng ngang dọc ăn nuốt.
Có một hộ trùng tên thực phát nương tóc ăn tóc.
Có hai hộ trùng tên phục tàng và thô đầu nương đầu ăn đầu.
Có một hộ trùng tên nhiễu nhãn nương mắt ăn mắt.
Có bốn hộ trùng tên khu trục, bôn tẩu, ốc trạch và viên mãn nương óc ăn óc.
Có một hộ trùng tên đạo diệp nương tai ăn tai.
Có một hộ trùng tên tàng khẩu nương mũi ăn mũi.
Có hai hộ trùng tên dao trịch và biến trịch nương môi ăn môi.
Có một hộ trùng tên mật diệp nương răng ăn răng.
Có một hộ trùng tên châm khẩu nương lưỡi ăn lưỡi.
Có một hộ trùng tên lợi khẩu nương cuống lười ăn cuống lưỡi.
Có một hộ trùng tên thủ viên nương nướu ăn nướu.
Có hai hộ trùng tên thủ võng và bán khuất nương bàn tay ăn bàn tay.
Có hai hộ trùng tên đoản huyền và trương huyền nương bắp tay ăn bắp tay.
Có hai hộ trùng tên cận tý và viễn tý nương cánh tay ăn cánh tay.
Có hai hộ trùng tên dục thôn và dĩ thôn nương yết hầu ăn yết hầu.
Có hai hộ trùng tên hữu oán và đại oán nương ngực ăn ngực.
Có hai hộ trùng tên loa bối và loa khẩu nương thịt ăn thịt.
Có hai hộ trùng tên hữu sắc và hữu lực nương máu và ăn máu.
Có hai hộ trùng tên dũng kiện và hương khẩu nương gân ăn gân.
Có hai hộ trùng tên bất cao và hạ khẩu nương xương sống ăn xương sống.
Có hai hộ trùng đồng tên chỉ sắc nương mỡ ăn mỡ.
Có một hộ trùng tên hoàng sắc nương hoàng ăn hoàng.
Có một hộ trùng tên chơn châu nương thận ăn thận.
Có một hộ trùng tên đại chơn châu nương eo lưng ăn eo lưng.
Có một hộ trùng tên vị chí nương lá lách ăn lá lách.
Có bốn hộ trùng tên thủy mạng, đại thủy mạng, châm khẩu và đao khẩu nương ruột ăn ruột.
Có năm hộ trùng tên nguyệt mãn, nguyệt diện, huy diệụ huy diện và biệt trụ nương hông bên hữu ăn hông bên hữu.
Có năm hộ trùng đồng tên trên nương hông bên tả ăn hông bên tả.
Có bốn hộ trùng tên xuyên tiền, xuyên hậu, xuyên kiên và xuyên trụ nương xương ăn xương.
Có bốn hộ trùng tên đại bạch, tiểu bạch, trùng vân và xú khí nương mạch ăn mạch.
Có bốn hộ trùng tên sư tử, bị lực, cấp tiển và liên hoa nương sanh tạng ăn sanh tạng .
Có hai hộ trùng tên an chí và cận chí nương thục tạng ăn thục tạng.
Có bốn hộ trùng tên diêm khẩu, uẩn khẩu, võng khẩu và tước khẩu nương đường tiểu ăn nước tiểu.
Có bốn hộ trùng tên ưng tác, đại tác, tiểu hình, và tiểu thúc nương đường đại ăn phẩn.
Có hai hộ trùng tên hắc khẩu và đại khẩu nương vế ăn vế.
Có hai hộ trùng tên lại và tiểu lại nương gối ăn gối.
Có một hộ trùng tên ngu căn nương bắp chơn ăn bắp chân.
Có một hộ trùng tên hắc hạng nương bàn chân ăn bàn chân.
Nầy Nan Đà! Thân này rất đáng chán sợ, nó thường có tám vạn hộ trùng ngày đêm cắn ăn, vì thế mà làm cho thân nóng khổ gầy ốm mỏi mệt đói khát.
Lại còn tâm có nhiều khổ não lo rầu chết ngất, nhiều bệnh phát hiện, không lương y trị lành được.
Nầy Nan Đà! Người trí đâu có ở trong biển sanh tử ưa thích thân rất khổ này.
Thân ấy lại còn bị các thần bệnh bắt giữ đó là thiên thần, long thần, bát bộ thần và các quỉ thần các ly mị bắt giữ. Hoặc bị nhật, nguyệt, tinh thần làm tổn. Các quỉ thần ấy làm bệnh hoạn, bức não thân tâm khó nói hết.
Nầy Nan Đà! Có ai ở sanh tử thích vào thai mẹ để chịu nhiều đau khổ, sanh thành như vậy, tăng trưởng như vậy, uống máu sữa của mẹ và uống ăn vọng có ý tưởng là ngon lần lần trưởng thành, dầu cho được an lạc không bệnh, áo cơm dư thừa, sống trăm tuổi, trong đời ấy giấc ngủ gần phân nửa. Ban đầu làm trẻ thơ, kế làm đồng tử, đến trưởng thành nhiều ưu bi hoạn nạn các bệnh hoạn đau nhức vô lượng trăm thứ khổ hành hạ thân ấy khó nói hết.
Các khổ trong thân bức não, lúc khó chịu đựng thì chẳng còn muốn sống, có ý tìm chết. Thân như vậy nhiều khổ, ít vui, dầu tạm sống còn tất rồi hoại diệt.
Nầy Nan Đà! Phàm sanh đều tử không thường còn. Dầu cho uống thuốc tư dưỡng thọ mạng được kéo dài năm tuổi chung quy cũng chẳng khỏi tử thần giết chết đưa qua đất trống.
Phải biết sanh sống không đáng vui ưa, tư lương đời sau phải siêng chứa họp, chớ có buông lung, chuyên tu phạm hạnh chẳng nên lười nhác. Đối với các gia hành: lợi hành, pháp hành, công đức hành, thuần thiện hành phải thường thích tu tập. Hằng quan sát chính mình, lòng ghi nhớ hai nghiệp thiện ác, chớ để sau này phải nói ăn năn, lúc ấy tất cả sở hữu mến ưa đều rơi lìa mà theo nghiệp thiện ác đi vào đời sau.
Nầy Nan Đà! Thọ mạng trăm năm có mười vị:
Tối sơ là anh nhi, vị này nằm trong nôi. Thứ hai gọi là đồng tử, làm trẻ nít chơi đùa. Thứ ba gọi là thiếu niên thọ các dục lạc. Thứ tư gọi là thiếu tráng dũng kiện đa lực. Thứ năm gọi là thanh niên có trí đàm luận. Thứ sáu gọi là thành tựu hay khéo tư lương giỏi làm kế sách. Thứ bảy gọi là lần suy giỏi biết pháp thức. Thứ tám gọi là hủ mại các việc suy nhược. Thứ chín gọi là cực lão không còn làm gì được. Thứ mười gọi là trăm tuổi, là đúng vị chết.
Nầy Nan Đà! Khái quát những đại vị lược nói có mười vị như vậy, tính theo bốn tháng làm một mùa thì trong trăm năm có ba trăm mùa, xuân hạ và đông đều có trăm mùa. Một năm có mười hai tháng tổng số có một ngàn hai trăm tháng. Lấy mỗi nửa tháng làm số thì có tất cả hai ngàn bốn trăm lần nửa tháng. Theo ba mùa thì đều riêng có tám trăm lần nửa tháng. Ngày đêm thì có ba vạn sáu ngàn. Một ngày ăn hai bữa thì có bảy vạn hai ngàn bữa ăn. Dầu có sự duyên chẳng ăn cũng ở trong số ấy. Sự duyên chẳng ăn như là vì sân hận mà chẳng ăn, vì gặp khổ mà chẳng ăn, vì cầu chẳng được, vì ngủ, trì trai, chơi đùa mà chẳng ăn, vì sự vụ, vì bệnh mà chẳng ăn. Ăn cùng chẳng ăn cộng lại có tổng số như trên, gồm lúc uống sữa mẹ. Mạng người trăm tuổi Phật đã nói đủ. Năm, tháng, ngày, đêm và số uống ăn các ông phải nhàm chán.
Nầy Nan Đà! Thân ấy sanh thành trưởng đại có nhiều bệnh hoạn, như là những bệnh đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, cổ, họng, ngực, bụng, tay, chân, hủi, cùi, điên cuồng, sưng thủng, ho suyễn, bệnh phong, hoàng nhiệt, đàm ấm, ngược bệnh, gân cốt đau nhức. Thân người có nhiều bệnh khổ như vậy. Lại còn có trăm lẻ một bệnh phong, trăm lẻ một bệnh hoàng nhiệt, trăm lẻ một bệnh đàm ấm, trăm lẻ một bệnh tổng hợp, cộng là bốn trăm lẻ bốn bệnh từ nội thân phát sanh.
Nầy Nan Đà! Thân thể ung nhọt các bệnh họp thành không tạm thời dừng niệm niệm chẳng ở lại, thể chất nó là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là pháp bại hoặi gần nơi chết mất chẳng thể bảo tồn yêu cưng được.
Nầy Nan Đà! Các chúng sanh còn có sự thống khổ lúc sống, như là bị chặt tay, chơn, đầu, móc mắt, thẻo tai, lắt mũi, ngục tù giam cầm gông xiềng đánh đập khảo tra, đói khát khổ sở, rét nóng mưa tuyết, muỗi mòng, kiến, rận, phong bụi, ác thú, độc trùng nhiều thứ bức não khổ sở vô lượng vô biên khó kể hết được. Mà các hữu tình thường ở giữa sự thống khổ như vậy lại đam mê vui thích. Bao nhiêu dục lạc đều lấy khổ làm căn bổn, mà hữu tình chẳng biết rời bỏ lại đi tìm cầu, ngày đêm bị nung nấu thân tâm nhiễm não, bên trong cháy nóng không lúc nào nghỉ.
Nầy Nan Đà! Những hữu tình ấy đều là bỏ khổ tìm khổ, chỉ là khổ sanh, chỉ là khổ diệt, các hành nhân duyên nối nhau phát khởi đức Như Lai biết rõ nên nói pháp hữu tình sanh tử. Các hành đều vô thường chẳng phải cứu cánh chơn thiệt, là pháp biến hoại chẳng bảo thủ được, phải cầu tri túc phải rất chán sợ siêng cầu giải thoát.
Nầy Nan Đà! Các loài hữu tình trong thiện đạo chỗ sanh bất tịnh còn phải chịu nhiều thứ đau khổ kể nói khó hết, huống là các hữu tình địa ngục ngã quỉ bàng sanh ba ác đạo có biết bao là thống khổ không thể chịu được.
Lại nầy Nan Đà! Có bốn thứ người nhập thai mẹ:
Một là hữu tình nhập trụ xuất thai đều chánh niệm.
Hai là hữu tình nhập và trụ chánh niệm, xuất thai chẳng chánh niệm.
Ba là hữu tình nhập thai chánh niệm, xuất thai chẳng chánh niệm.
Bốn là hữu tình nhập trụ và xuất thai đều chẳng chánh niệm.
Ai là người nhập trụ và xuất thai đều chánh niệm? Như có một loại hữu tình tánh ưa trì giới luôn tập hạnh lành thích làm thắng sự tạo phước, rất giỏi giữ gìn, chất trực chẳng buông lung có trí huệ lớn, lúc lâm chung không có gì phải ăn năn liền thọ sanh. Đây hoặc là bậc Dự Lưu bảy đời, hoặc là bậc Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc là bậc Nhất Lai, hoặc là bậc Nhất Gian Bất Hoàn Hướng. Người ấy do trước tu hạnh lành, lúc lâm chung dầu có khổ não mà tâm chẳng tán loạn chánh niện mà chết, lại còn chánh niệm nhập vào thai mẹ biết rõ các pháp. Phàm đã do nghiệp thọ sanh đều từ các nhân duyên mà được sanh khởi, thường ở cùng chỗ với các ma.
Nầy Nan Đà! Phải biết thân này luôn là hang ổ của tất cả bất tịnh, thể chất chẳng thường còn, là vật ngu si dụ gạt kẻ mê. Thân này lấy xương làm cơ quan, gân mạch liền nhau thông các lỗ huyệt, mỡ xương thịt tủy cùng ràng rịt nhau dùng da phủ lên để che sự dơ xấu đầy những bất tịnh, tóc lông răng móng phần vị sai biệt, vì chấp là ngã và ngã sở nên luôn bị bắt kéo đi chẳng được tự tại, thường luôn ra mũi dãi mồ hôi dơ dáy, nước vàng đàm nhớt, mỡ trỉn hư rã, thân mật gan phổi, đại trường tiểu trường phẩn tiểu đáng gớm, còn những loài trùng đầy dẫy các nơi, trên dưới các lỗ thường chảy hôi dơ, hai tạng sanh thục trùm bằng da mỏng nào khác hầm tiêu.
Nầy Nan Đà! Ông phải quan sát phàm lúc ăn nuốt, răng nhai, nước miếng ngấm nuốt vào cổ họng tủy óc hòa chung chảy tân dịch trong bụng, như chó gặm xương khô vọng cho là ngon, đồ ăn vào bụng ợ ngược trở lên lại nuốt trở vào.
Nầy Nan Đà! Thân nầy nguyên từ yết la lam, án bộ đà, bế thi v.v... các vật bất tịnh mà được sanh trưởng, anh nhi lưu chuyển nhẫn đến lão tử, luân hồi trói buộc như hố tối tăm, như hầm thúi dơ thường mặn lạt đắng cay ngọt chua các thực phẩm để tư dưỡng. Lại lửa trong bụng mẹ đốt nấu thân căn, nồi phẩn bất tịnh thường bị nóng khổ. Lúc người mẹ đi đứng nằm ngồi như bị trói năm chỗ, như bị lửa thui khó chịu nổi, không gì ví dụ.
Nầy Nan Đà! Thai ấy dầu bị khổ thiết ở trong hầm phân dơ, nhưng do lợi căn nên tâm chẳng toán loạn.
Lại có một loại hữu tình bạc phước, thai ở bụng mẹ hoặc ngang hoặc ngược, do nghiệp lực đời trước, hoặc mẹ ăn uống lạnh nóng mặn cay chẳng khéo điều hòa, hoặc uống nước quá lượng, hoặc nhiều làm dâm dục, hoặc nhiều tật bệnh, hoặc hay sầu não, hoặc có lúc trợt té, hoặc bị đánh đập, do đó mà thân người mẹ tăng nóng, do thân mẹ nóng nên thai như bị thiêu đốt rất khổ sở, do khổ đau nên thai liền động chuyển, do động chhuyển nên hoặc thai nằm ngang nằm úp sanh ra chẳng được. Có nữ nhân giỏi dùng dầu tô thoa tay cho vào bụng mẹ nhẹ nhàng đưa thai về chỗ cũ. Lúc tay họ chạm vào thai thì đứa con ấy rất là đau khổ, như trẻ nhỏ bị lóc da thịt rồi rắc tro lên đau khổ khó nói được.
Dầu bị khổ thống ấy nhưng vì thượng lợi căn nên chánh niệm chẳng tán. Thai ấy ở bụng mẹ chịu khổ như vậy.
Lúc sắp sanh, đau khổ mà ra ngoài. Do nghiệp phong ấy làm cho hai tay giao hiệp, gân cốt co rút rất khổ sở, thân thể xanh bầm như sưng thũng khó chạm đến được, đói khát bức ngặt, tim treo nhiệt não, do nghiệp lực nên có phong thổi xô ra. Đã được ra ngoài bị hơi phong chạm đến đau như dao cắt như đụng lửa than, tay người hay khăn chiếu đụng đến đều rất đau đớn. Dầu bị khổ nhưng do thượng lợi căn nên chánh niệm chẳng tán loạn biết nhập thai ở thai ra ngoài đều rất khổ. Ai là người trí lại ưa thích nhập thai mẹ.
Nầy Nan Đà! Ai nhập và thụ thai có chánh niệm còn lúc xuất thai chẳng chánh niệm?
Có hạng hữu tình tánh ưa trì giới tu tập phẩm lành thường làm thắng sự tạo phước, tâm họ chất trực chẳng phóng dật có ít trí huệ, lúc lâm chung không hối tiếc. Đây hoặc là bực Dự Lưu bảy đời, hoặc bực Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc bực Nhất Lai, hoặc bực Nhất Gian Bất Hoàn Hướng. Người này do trước đã tu hạnh lành, nên dầu lúc lâm chung các khổ bức ngặt mà tâm chẳng loạn lại còn chánh niệm nhập vào thai mẹ biết rõ các pháp, do nghiệp sanh ra thì đều từ các nhân duyên mà được sanh khởi, ở bụng mẹ và lúc ra ngoài đều chịu nhiều đau khổ, do trung lợi căn nên nhập thai và trụ thai có chánh niệm mà lúc xuất thai thì không. Ai là người trí lại thích nhập thai mẹ.
Nầy Nan Đà! Ai nhập thai có chánh niệm mà trụ và xuất thai thi không?
Có hạng hữu tình tánh ưa trì giới tu tập phẩm lành thường làm thắng sự tạo phước, tâm họ chất trực chẳng buông lung có ít trí huệ, lúc lâm chung không hối tiếc. Đây hoặc là bực Dự Lưu bảy đời, hoặc là bực Gia Gia sáu đến hai đời, hoặc là bực Nhất Lai hoặc là bực Nhất Gian Bất Hoàn Hướng. Lúc lâm chung dầu nhiều đau khổ mà tâm chẳng tán loạn lại còn chánh niệm nhập vào thai mẹ, vì là bực hạ lợi căn nên lúc ở thai và lúc xuất thai không chánh niệm. Ai là người trí lại thích vào thai mẹ.Nầy Nan Đà! Ai nhập trụ và xuất thai đều không chánh niệm?
Có các hữu tình ưa phá giới chẳng tu thiện phẩm thường làm việc ác tạo nghiệp ác, tâm chẳng chất trực nhiều buông lung không trí huệ tham của bỏn xẻn tay luôn co rút chẳng thể mở giăng ban bố cho người, luôn hi vọng lòng chẳng điều thuận, kiến và hành điên đảo, lúc lâm chung hối hận các nghiệp bất thiện hiện ra, đương lúc chết rất khổ sở bức thiết, làm họ tán loạn chẳng tự nhớ biết tôi là ai từ đâu đến nay đi chỗ nào, đây gọi là ba thời kỳ nhập thai trụ thai và xuất thai đều không chánh niệm.
Nầy Nan Đà! Các hữu tình ấy sanh làm người dầu có vô lượng khổ não như vậy nhưng là chỗ tốt, trong vô lượng kiếp khó được thân người.
Nếu sanh cõi trời thường sợ trụy lạc, có khổ ái biệt ly, lúc lâm chung, chư Thiên bảo rằng: Nguyện ông được thác sanh thiện đạo, đó là trời người.
Nhân đạo khó được, xa rời các chỗ nạn chướng lại càng khó.
Những gì là ác đạo? Đó là địa ngục đạo thường bị khổ thiết khó ví dụ được. Ngạ quỉ đạo tánh nhiều sân hận không tâm nhu nhuyến, dối gạt giết hại, lấy máu nhuộm tay không có tình thương hình dung xấu xí ai thấy cũng kinh sợ, dầu đến gần người nhưng vì đói khát nên luôn bị chướng ngại. Bàng sanh đạo vô lượng vô biên, tạo việc vô nghĩa, việc vô phước, việc vô pháp, việc bất thiện, việc không thuần chất, ăn nuốt lẫn nhau kẻ mạnh lấn kẻ yếu. Có các bàng sanh lúc sanh lúc sống lúc chết đều ở trong chỗ bất tịnh phẩn dơ hôi thúi tối tăm. Hoặc có loại tạm ra ánh sáng như ong bướm muỗi ruồi kiến mối rận rệp. Ngoài ra có vô lượng vô biên giống sanh trưởng thường tối tăm. Do vì chúng nó ở đời trước là kẻ ngu si chẳng nghe kinh pháp, phóng túng nơi ngũ dục tạo nghiệp ác nên sanh trong các loài thọ lấy khổ ngu mê tăm tối.
Nầy Nan Đà! Lại có vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình nghe mùi phẩn dãi liền chạy đến lấy đó làm món ăn uống, đó là các giống heo dê chó gà chồn kên quạ ruồi nhặng bọ hung, chúng nó do nghiệp ác đời trước mà tự cảm lất báo ấy.
Nầy Nan Đà! Lại có vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình sanh và sống đều ở trong nước như thủy tộc cá tôm v.v..., chúng nó do nghiệp ác đời trước mà tự cảm lấy báo ấy.
Nầy Nan Đà! Lại có vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình thường lấy cỏ cây và các thứ bất tịnh làm món ăn uống, như voi ngựa trâu bò đà lừa, chúng nó do nghiệp ác đời trước mà thọ báo ấy.
Nầy Nan Đà! Biển khổ sanh tử rất khổ rất khổ, lửa nóng đốt cháy, không một hữu tình nào là chẳng bị thiêu đốt. Các hữu tình ấy do nơi ngọn lửa phừng mạnh nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý tham cầu trần cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp.
Thế nào gọi là ngọn lửa phừng mạnh?
Nầy Nan Đà! Đó là những ngọn lửa tham sân si, những ngọn lửa sanh lão bệnh tử, những ngọn lửa ưu bi khổ não độc hại thường tự đốt cháy không một ai được khỏi.
Nầy Nan Đà! Người giải đãi thọ nhiều khổ sở, họ bị phiền não vây buộc mà tạo nghiệp ác, nên luân hồi chẳng dứt, sanh tử chẳng hết. Người tinh tấn thọ nhiều an lạc, phát tâm dũng mãnh dứt trừ phiền não, tu tập pháp lành chẳng bỏ việc thiện không lúc nào thôi nghỉ.
Các ông phải quan sát thân thể này da thịt gân xương máu mạch tủy não sẽ tan rã chẳng lâu, thường phải nhất tâm chớ để giải đãi, người chưa chứng đắc phải siêng cầu chứng ngộ. Các ông cần phải học tập như vậy.
Nầt Nan Đà! Phật chẳng cùng thế gian làm những tranh luận, nhưng thế gian đối với phật lại cưỡng làm tranh luận. Tại sao?
Vì những người biết rõ các pháp chẳng tranh luận với ai, đã rời lìa ngã và ngã sở thì còn ai tranh luận với ai.
Do vì thế gian không thấy hiểu mà vọng phát khởi chấp trước, nên Phật chứng Đẳng Chánh Giác tuyên lời rằng Phật ở nơi các pháp không gì chẳng biết rõ.
Nầy Nan Đà! Phật nói có sai dị chăng?
-
Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật nói không sai dị.
-
Nầy Nan Đà! Lành thay, tốt thay! Như Lai nói quyết không sai dị. Như Lai là đấng chơn ngữ, đấng thiệt ngữ, đấng như ngữ, đấng bất dị ngữ, là người muốn tất cả thế gian mãi mãi an vui được thắng lợi lớn, là người biết đạo, là người hiểu đạo, người thuyết đạo, người khai đạo, là Đại đạo sư, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Người thế gian vô tri vô tín, thường làm nô bộc cho các căn, chỉ thấy trong bàn tay mà chẳng nhìn lợi lớn chơn thiệt, việc dễ chẳng tu, việc khó lại luôn làm.
Nầy Nan Đà! Thôi đi. Cảnh giới trí huệ như đây, nay ông phải dùng nhục nhãn để quan sát những thứ ấy được. Biết những thứ được thấy đều là hư vọng thì gọi là giải thoát.
Nầy Nan Đà! Ông chớ tin Phật, chớ theo chỗ muốn của Phật, chớ y lời của Phật, chớ xem tướng Phật, chớ theo chỗ thấy hiểu của Sa Môn, chớ phát sanh cung kính đối với Sa Môn, chớ nói Sa Môn Kiều Đàm là đại sư của tôi, mà ông chỉ nên ở nơi pháp được tự chứng của Phật riêng tại chỗ tịch tĩnh suy lường quan sát thường siêng tu tập, tùy theo pháp đã được dụng tâm quan sát, liền theo pháp ấy quán tưởng cho thành tựu, chánh niệm ở yên nơi đó, tụ làm cồn bãi, tụ làm nương về, pháp là cồn bãi là chỗ nương về, không có cồn bãi nào khác, không có chỗ về nào khác.
Nầy Nan Đà! Thế nào là Tỳ Kheo tự mình làm cồn bãi chỗ về?
Nầy Nan Đà! Nếu có Tỳ Kheo theo nội thân của mình quan sát siêng gắng nhiếp niệm được chánh hiểu rõ, đối với thế gian có bao nhiêu giận não thường suy xét điều phục, đây gọi là theo nội thân quan sát là khổ. Nếu quan sát ngoại thân và nội ngoại thân cũng như vậy.
Nầy Nan Đà! Ông ở nơi tập pháp quan sát nơi thân rồi an trụ nơi đó, quan sát nơi diệt rồi an trụ nơi đó. Lại ở nơi tập và diệt hai pháp quan sát nơi thân rồi lại an trụ nơi đó. Tức ở thân nầy hay thành chánh niệm. Hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, hoặc không y tựa mà an trụ, đối với thế gian nầy biết là không lấy được. Đây gọi là Tỳ Kheo ở nơi tự nội thân theo nội thân quan sát mà an trụ nơi đó, quan sát ngoại thân và nội ngoại thân cũng vậy.
Kế quan sát nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ mà an trụ nơi đó. Kế quan sát nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm mà an trụ nơi đó. Kế quan sát nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp rồi an trụ nơi đó. Siêng gắng nhiếp niệm được chánh hiểu rõ, đối với thế gian có bao nhiêu giận não đều thường suy xét điều phục, quan sát tập pháp rồi an trụ, quan sát diệt pháp rồi an trụ, lại quan sát tập diệt hai pháp rồi an trụ. Tức ở nơi thân nầy hay thành chánh niệm, hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, với các thế gian nầy biết không lấy được.
Đây gọi là Tỳ Kheo tự làm cồn bãi chỗ về nương, pháp làm cồn bãi chỗ về nương, không có cồn bãi chỗ về nương nào khác.
Nầy Nan Đà! Nếu có trượng phu bẩm tánh chất trực không siểm cuống, lúc sáng sớm đến chỗ Phật, Phật đem pháp lành tùy cơ chỉ dạy. Người ấy đến chiều tự trình bày sở đắc. Hoặc chiều chỉ dạy đến sáng trình bầy sở đắc.
Nầy Nan Đà! Pháp lành của Phật hiện được chứng ngộ hay trừ nhiệt não khéo ứng thời cơ dễ làm phương tiện, là pháp tự giác khéo hay che chở. Người đối trước Phật thân nghe Phật nói pháp thuận với tịch diệt Niết bàn hay đến Bồ đề Chánh giác, đây là chỗ biết của Phật. Vì thế nên nay ông thấy các pháp tự lợi, lợi tha hoặc tự tha đều lợi phải thường tu học. Với pháp xuất gia nên cẩn thận thật hành chớ để luống qua. Như vậy sẽ được thắng quả vô vi an lạc đáng được thọ cúng dường, làm cho các thí chủ được phước lợi lớn được quả báo rất tốt tôn quí quảng đại. Các ông phải nên tu học như vậy.
Lại nầy Nan Đà! Chưa có một sắc pháp nào là đáng được mến ưa và có thể về sau chẳng biến hoại. Chưa có sắc pháp nào chẳng phát khởi ưu bi chẳng sanh phiền não.
Nầy Nan Đà! Sắc ấy là thường hay vô thường?
-
Bạch Thế Tôn! Thể nó là vô thường.
- Nầy Nan Đà! Đã là vô thường thì nó là khổ chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Là khổ.
- Này Nan Đà! Đã là vô thường là khổ tức là pháp biến hoại. Các đệ tử đa văn của Phật có cho sắc là ngã, ngã có sắc, sắc thuộc ngã, ngã ở tại trong sắc chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Không cho như vậy.
-
Nầy Nan Đà! Thọ tưởng hành và thức là thường hay vô thường?
-
Bạch Thế Tôn! Là vô thường.
-
Nầy Nan Đà! Đã là vô thường thì thọ tưởng hành thức có là khổ chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Đều là khổ.
-
Nầy Nan Đà! Đã là vô thường khổ tức là pháp biến hoại. Các đệ tử đa văn của Phật có cho rằng thọ v. v... là ngã, ngã có thọ v.v..., thọ v.v... thuộc ngã, ngã ở trong thọ v.v... chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Đều không cho như vậy.
-
Nầy Nan Đà! Do đó mà biết rằng phàm là sắc, hoặc quá khứ. Hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thắng, hoặc liệt, hoặc cận, hoặc viễn, tất cả sắc đều chẳng phải ngã, ngã chẳng có sắc, sắc chẳng thuộc ngã, ngã chẳng ở trong sắc. Phải dùng chánh niệm chánh huệ mà quan sát vậy. Với thọ tưởng hành và thức cũng dùng chánh niệm chánh huệ mà quan sát như vậy. Nếu đệ tử đa văn của Phật quan sát như vậy, chán sợ nơi sắc, chán sợ thọ tưởng hành thức. Đã chán sợ thì không nhiễm trước liền được giải thoát. Đã giải thoát rồi tự biết mình giải thoát mà tuyên lời rằng sự sanh của tôi đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong chẳng còn thọ thân sau".
Phật nói pháp ấy xong, Cụ thọ Nan Đà xa trần rời cấu được pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm Tỳ Kheo ở nơi hữu lậu tâm được giải thoát.
Đức Thế Tôn lại nói kệ bảo Nan Đà rằng:
"Nầy người không chánh định
Thì không trí thanh tịnh
Chẳng dứt được phiền não
Nên ông phải siêng tu
Ông thường tu diệu quán
Biết các uẩn sanh diệt
Thanh tịnh nếu viên mãn
Chư Thiên đều vui đẹp
Cùng bạn bè giao hoan
Qua lại ái niệm nhau
Tham danh say mê lợi
Nan
Đà! Ông phải bỏ
Chớ thân cận tại gia
Với những người xuất gia
Nhớ vượt biển sanh tử
Cùng tận bờ mé khổ
Trước từ yết la lam
Kế thành bóng thịt nhão
Bóng thịt thành bế thi
Bế thi thành kiện nam
Kiện nam tạm chuyển biến
Sanh đầu và tứ chi
Các xương họp thành thân
Đều từ nghiệp mà có
Xương đầu hiệp chín miếng
Hàm có hai xương liền
Răng có ba mươi hai
Chân răng cũng như vậy
Lỗ tai và xương cổ
Xương nướu và sống mũi
Ngực hông cùng yết hầu
Tổng có hai mươi xương
Khuôn mắt có bốn xương
Hai vai cũng hai cặp
Hai cánh cùng đầu ngón
Tổng có năm mươi xương
Sau cổ có tám xương
Xương sống ba mươi hai
Tất cả có căn bổn
Số ấy cũng bốn phần
Xương sườn bên hông hữu
Liền nhau có mười ba
Hông tả liền nhau sanh
Cũng có mười ba xương
Những cốt tỏa như vậy
Ba ba liền nối nhau
Hai hai móc kéo nhau
Ngoài ra chẳng nối nhau
Hai đùi chân tả hữu
Hiệp có năm mươi xương
Tổng ba trăm mười sáu
Chống đứng cho thân thịt
Lóng xương móc nối nhau
Hiệp thành xương chúng sanh
Đấng thiệt ngữ ghi nói
Chỗ biết của Chánh giác
Từ chân đến nơi đầu
Hôi dơ chẳng bền chắc
Do đây cọng thành thân
Mỏng manh như nhà cỏ
Không ngọn chỉ xương đứng
Máu thịt tô đắp khắp
Đồng người gỗ cơ quan
Cũng như tượng huyễn hóa
Nên quan sát thân này
Gân mạch lại vấn quanh
Da ướt gói bọc nhau
Chín chỗ có miệng ghẻ
Khắp nơi thường chảy tràn
Phẩn đái các bất tịnh
Ví như kho cùng thúng
Đựng những lúc bắp thảy
Thân nầy cũng như vậy
Hôi dơ đầy trong ấy
Vận động cơ quan xương
Mỏng manh chẳng bền chắc
Kẻ ngu thường ưa thích
Người trí không nhiễm trước
Thường chảy mũi dãi dơ
Mủ máu luôn đầy dẫy
Mỡ vàng lộn nước sữa
Óc đầy trong sọ đầu
Ngực ức đàm ấm chảy
Trong có tạng sanh thục
Mỡ nhớt và da màn
Năm tạng những ruột dạ
Các thứ hôi rã ấy
Những dơ dáy đồng ở
Thân tội sâu đáng sợ
Đây tức là oan gia
Người vô thức đam mê
Ngu si thường bảo hộ
Thân hôi dơ như vậy
Dường như thành quách mục
Ngày đêm bị phiền não
Trôi dời không tạm dừng
Thân: thành, xương: tường vách
Máu thịt làm bùn tô
Vẽ màu tham sân si
Theo chỗ mà trang sức
Đáng gớm thành thân xương
Máu thịt liên hiệp nhau
Thường bị ác tri thức
Khổ trong ngoài đốt nhau
Nan
Đà! Ông phải biết
Những lời Phật đã nói
Ngày đêm thường nhiếp niệm
Chớ nghĩ đến cảnh dục
Nếu người muốn xa lìa
Thường quan sát như vậy
Siêng cầu chỗ giải thoát
Mau khỏi biển sanh tử".
Đức Thế Tôn nói kinh Nhập Thai nầy rồi, Cụ thọ Nan Đà và năm trăm Tỳ Kheo đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
Tỳ Kheo Nan Đà vượt khỏi biển sanh tử hiểm nạn đến Niết bàn cứu cánh an ổn được quả A La Hán nói kệ tự mừng rằng:
"Kính tâm dưng nước tắm
Nước sạch và hương thoa
Cùng tu những ruộng phước
Được báo thù thắng nầy".
Đại chúng nghe lời kệ ấy đều nghi ngờ, vì muốn hết nghi nên bạch đức Phật rằng:
"
Tỳ Kheo Nan Đà trước tạo nghiệp gì mà được thân màu hoàng kim đủ ba mươi tướng trang nghiêm, trông với thân Thế Tôn chỉ kém có bốn ngón. Với cảnh dục lạc, ông ấy rất nhiễm trước. Nhờ đức Phật xót thương cưỡng vớt ra khỏi biển sanh tử đặt ông ấy nơi cứu cánh Niết bàn. Mong đức Thế Tôn giải thích cho".
Đức Phật bảo đại chúng rằng: "Tỳ Kheo Nan Đà đời trước tạo nghiệp nay quả báo thành thục đều được phát hiện".
Đức Phật liền nói kệ rằng:
"Giả sử trải trăm kiếp
Nghiệp đã tạo chẳng mất
Lúc nhân duyên hội ngộ
Lại tự thọ quả báo”.
Các ông nên lắng nghe đây. Thuở quá khứ chín mươi mốt kiếp, người thọ tám vạn tuổi, có Phật xuất thế hiệu là Tỳ Bà Thi Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, cùng sáu vạn hai ngàn Tỳ Kheo du hành nhân gian đến thành Thân Huệ chỗ nhà vua đóng đô. Đức Phật ấy đến ở tại rừng Thân Huệ. Đức Phật ấy có em trai khác mẹ rất say đắm cảnh dục lạc. Đức Tỳ Bà Thi Phật khuyên em xuất gia ra khỏi biển sanh tử phương tiện đặt tại cứu cánh Niết bàn.
Nhà vua lúc bấy giờ tên là Hữu Thân dùng pháp trị nước, nhân gian đông giầu no đủ an ổn. Vua có em trai khác mẹ rất say mê dâm nhiễm. Vua nghe đức Phật và đại chúng đến ở rừng Thân Huệ, bèn đem các Vương Tử thị thần cung nữ nhân dân đến chỗ đức Phật, đảnh lễ chân Phật rồi ngồi một phía.
Đức Tỳ Bà Thi Phật vì vua và đại chúng tuyên dương diệu pháp chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng được sự hiểu biết thù thắng.
Em trai vua say mê sắc dục chẳng chịu ra khỏi cửa. Các con đại thần và các tri hữu đến bảo rằng: Thiện hữu có biết chăng? Nay nhà Vua và Vương Tử cùng nội cung đại thần nhân chúng đến chỗ đức Tỳ Bà Thi Phật lễ kính nghe pháp được sự hiểu biết thù thắng. Thân người khó được, Ngài đã được, sao nay Ngài vẫn say đắm dâm dục chẳng chịu ra khỏi cửa. Nghe các bạn trách, em vua hổ thẹn, miễn cưỡng đi theo, Tỳ Kheo em trai đức Phật gặp hỏi, họ thuật cớ sự. Tỳ kheo ấy nói tôi là em trai đức Phật, ngày trước ở nhà say mê cảnh dục, may được đức Phật cưỡng dắt xuất gia an ổn đến cứu cánh Niết bàn. Nay còn có hạng người ngu si giống như tôi. Các Ngài từ bi cưỡng dắt đồng đi thiệt là việc lành rất lớn. Đến chỗ đức Phật tất sẽ tin sâu.
Nhóm người ấy đến chỗ đức Phật. Đức Tỳ Bà Thi Như Lai quan sát các căn tánh dục mà vì họ thuyết pháp. Em vua nghe pháp rồi phát khởi lòng tin sâu lễ Phật bạch rằng: Mong Thế Tôn cùng Thánh chúng sáng mai đến nhà tôi vào ôn thất tắm gội. Đức Phật yên lặng nhận.
Em trai vua biết đức Phật đã nhận lời, liền lễ chân Phật, về đến chỗ vua thưa rằng: tôi đến chỗ Phật nghe pháp sanh lòng tin, với cảnh dâm dục sanh lòng chán lìa. Tôi phụng thỉnh Phật và Tăng sáng mai đến nhà tôi vào ôn thất tắm gội. Đức Như Lai Đại Sư đã từ bi nhận lời. Đức Phật là chỗ mà trời và người đều phải cúng dường, Đại Vương nên rưới quét đường sá, trang nghiêm thành quách.
Nhà vua nghĩ rằng em trai ta mê say sắc dục khó khuyên can, nay Phật điều phục được thiệt là hi hữu. Đức Phật vào thành ta nên nghiêm sức. Vua đáp rằng rất tốt. Em về lo sắm sửa các vật cần thiết để tắm gội. Ta sẽ tùy sức trang nghiêm thành quách. Em vua rất vui mừng tạ từ về nhà.
Nhà vua bảo các quan nên truyền lịnh phổ cáo nhân dân sáng ngày Thế Tôn sẽ vào thành, nhân dân đều nên tùy sức trang nghiêm thành quách rưới quét đường sá, cầm các hương hoa đón rước đức Đại Sư.
Nhân dân nghe lời phổ cáo liền rưới quét trang nghiêm khắp nơi rước nước hoa, đốt hương thơm, treo phan lọng rải hoa cúng dường như vườn hoan hỉ của Thiên Đế Thích. Em trai vua thì sắm sửa nước nóng thơm và dầu thơm, trang nghiêm nhà tắm đặt bày ghế ngồi.
Sáng ngày, đức Tỳ Bà Thi Phật sắp vào đến thành. Nhà vua mang đại chúng ra tiếp nghinh lễ chân Phật rồi theo sau Phật vào thành.
Em trai vua tiếp đức Thế Tôn vào ôn thất dưng nước thơm để Phật tắm rửa thấy thân Phật như màu hoàng kim ba mươi hai tướng tốt tám mươi tùy hình hảo toàn thân xinh đẹp, liền vui mừng sanh lòng tin sâu. Đức Phật tắm xong mặc y phục rồi, em trai vua đảnh lễ chân Phật phát nguyện rằng: Nay tôi may mắn gặp phước điền tối thượng dâng lễ mọn cúng dường, nguyện tôi đời sau thân màu hoàng kim như đức Phật. Như em trai Phật đam mê cảnh dục, được Phật cưỡng dắt ra khỏi đến chỗ an trú cứu cánh Niết bàn. Nguyện tôi đời sau được làm em Phật, được thân màu hoàng kim, lúc tôi đam mê cảnh dục được Phật cưỡng dắt ra khỏi sông sâu ái nhiễm đến chỗ Niết bàn an ổn.
Nầy các Tỳ Kheo! Em trai vua Thân Huệ đam mê sắc dục chíng là Nan Đà hiện nay, do ngày trước tạo nhân lành cúng dường Phật Tỳ Bà Thi và phát thiện nguyện nên nay được thân màu hoàng kim vàđược Phật cưỡng dắt ra khỏi đến chỗ an ổn cứu cánh Niết bàn".
Chư Tỳ Kheo còn có chỗ nghi nên bạch đức Phật do tạo nghiệp gì mà Tỳ Kheo Nan Đà được ba mươi hai tướng đại trượng phu?
Đức Phật bảo chư Tỳ Kheo: "Ông ấy tạo nghiệp rộng nói như trước. Về quá khứ trong tụ lạc có một Trưởng giả giàu lớn nhiều của đồ dùng không thiếu. Có một khu vườn bông trái sum suê, suối chảy ao tắm rừng cây sầm uất, có thể làm nơi ẩn tu hành cho người xuất gia.
Bấy giờ có vị Độc Giác xuất thế thương xót chúng sanh mà ở nơi nhàn tĩnh. Thế gian không Phật chỉ có phước điền ấy.
Có một Độc Giác Tôn Giả du hành nhân gian đến tụ lạc ấy quan sát khắp nơi đến vườn trên. Người giữ vườn thấy Tôn Giả liền thỉnh ngơi nghỉ tại vườn. Giữa đêm Tôn Giả nhập hỏa quang tam muội. Người giữ vườn thấy vậy liền về báo với Trưởng giả về sự thù thắng hi hữu đáng vui mừng ấy. Trưởng giả nghe báo vội đến vườn lễ chân Tôn Giả bạch rằng: Ngài vì khất thực làm phước điền cho tôi, mong Ngài ở lại vườn nầy, tôi sẽ thường cúng dường.
Tôn Giả thấy ân cần liền nhận lời ở trong vườn ấy nhập chánh định thắng diệu giải thoát. Tôn Giả lại nghĩ rằng thân hôi thúi này luân hồi sanh tử, việc nên làm đã làm xong, nay tôi phải nhập viên tịch vĩnh chứng vô sanh. Nghĩ như vậy rồi Tôn Giả bay lên hư không nhập hỏa quang định hiện các thần biến phóng ánh sáng lớn, trên chói lửa hồng, dưới chảy nước trong. Bỏ thân ấy rồi thần thức chẳng sanh vĩnh viễn chứng vô dư Niết bàn giới.
Trưởng giả thâu thi hài dùng dầu thơm để thiêu lại lấy nước sữa để tắt lửa, thâu xương tàn để trong bình mới xây tháp treo phan lọng, lòng rất kính tin, rưới ba mươi thứ nước thơm và phát đại nguyện cầu các tướng hảo.
Nầy chư Tỳ Kheo! Trưởng giả thuở quá khứ ấy chính là Nan Đà hiện nay. Do nơi nghiệp kính tin cúng dường nên nay thọ quả báo cảm được ba mươi tướng thắng diệu".
Đại chúng lại có chỗ nghi lại bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Tỳ Kheo Nan Đà đã từng tạo nghiệp gì, nếu không xuất gia bỏ trần tục thì quyết sẽ nối ngôi Luân Vương?".
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Thuở quá khứ trong kiếp Hiền này lúc người thọ hai muôn tuổi, có Phật Ca Diếp Ba xuất thế đủ mười đức hiệu an trụ tại rừng Thí Lộc. Trong thành ấy có vua tên Ngật Lật Chỉ, dùng pháp trị dân làm đại Pháp Vương, có ba Vương Tử. Việc giáo hóa đã xong, Phật Ca Diếp Ba nhập đại Niết bàn. Nhà vua kính tin dùng các gỗ thơm như chiên đàn, trầm thủy, hải ngạn, ngưu đầu, thiên mộc hương để làm lễ trà tỳ, rưới tắt lửa với sữa thơm, thâu Xá lợi của Phật đựng trong bình vàng báu xây tháp bằng tứ bửu, ngang rộng đều một do tuần, cao nửa do tuần. Lúc đặt tướng luân lên tháp, Vương Tử thứ hai đích thân treo lọng ở giữa.
Nầy chư Tỳ Kheo! Vương Tử thứ hai thuở ấy chính là Nan Đà vậy. Do thuở xưa ông ấy kính tâm cúng dường treo lọng ở giữa tháp, thiện nghiệp ấy làm cho ông hai ngàn năm trăm đời thường làm Lực Luân Vương cai trị một châu thiên hạ. Trong đời nầy nếu chẳng xuất gia, Nan Đà lại sẽ làm Lực Luân Vương được đại tự tại".
Trong đại chúng lại còn nghi bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Tỳ Kheo Nan Đà từng tạo nghiệp gì mà nay ở trong đệ tử Phật là người thiện hộ căn môn đệ nhất?".
Đức Phật phán dạy: "Nầy chư Tỳ Kheo! Đây là do nguyện lực vậy. Thuở Phật Ca Diếp Ba, đời trước Nan Đà xả tục xuất gia, thân giáo sư của ông ấy ở trong pháp của Phật Ca Diếp Ba, thiện hộ căn môn được xưng là đệ nhất. Ông ấy trọn đời tự giữ phạm hạnh, nhưng hiện đời ấy không chứng ngộ. Lúc lâm chung ông ấy phát thệ rằng: Tôi ở chỗ Phật trọn đời giữ hạnh mà không chứng ngộ. Tôi nguyện đem căn lành tu hành nầy, lúc Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, tôi sẽ ở trong giáo pháp của đức Phật ấy lìa tục xuất gia dứt các phiền não được quả A La Hán. Thân giáo sư tôi đây thiện hộ căn môn đệ nhất, tôi nghuyện sau nầy ở trong giáo pháp của Phật Thích Ca Mưu Ni tôi cũng là người thiện hộ căn môn đệ nhất.
Do nguyện lực ấy nên nay đây Nan Đà là người thiện hộ căn môn đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.
Nầy chư Tỳ Kheo! Nếu thuần ác nghiệp cảm thuần ác báo, nếu thần thiện nghiệp cảm thuần thiện báo, nếu là tạp nghiệp sẽ cảm tạp báo. Vì thế nên các ông phải rời lìa thuần ác nghiệp và tạp nghiệp mà tu thuần thiện nghiệp. Các ông phải tu như vậy".
XIII.PHÁP HỘI VĂN THÙ SƯ LỢI THỌ KÝ THỨ MƯỜI LĂM
Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở thành Vương Xá núi Kỳ Xà Quật cùng chúng Tỳ Kheo một ngàn người, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, bực thượng thủ có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát.
Lại có bảy mươi hai ức chư Thiên đều xu hướng Bồ Tát đạo, lại có Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương cùng chư Thiên quyến thuộc đều năm muôn hai ngàn cũng đều xu hướng Bồ Tát đạo. Có bốn A Tu La Vương cùng quyến thuộc vô lượng chúng.
Có bảy vạn hai ngàn Đại Long Vương như Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Bà Lưu Na Long Vương, Ta Kiệt La Long Vương, Trì Đại Địa Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Cao Thắng Long Vương, Phục Ma Long Vương, Tối Long Vương, Nguyệt Thượng Long Vương v.v... làm bực thượng thủ.
Lại có vô lượng Dạ Xoa Vương, như Kim Tỳ La Dạ Xoa Vương, A Tra Bạc Câu Dạ Xoa Vương, Tô Chi Lộ Ma Dạ Xoa Vương, Diệu Ý Dạ Xoa Vương, Diệu Huệ Dạ Xoa Vương, Diệu Tướng Dạ Xoa Vương, Phổ Sắc Dạ Xoa Vương, Bất Động Dạ Xoa Vương, Hữu Lực Dạ Xoa Vương, Đại Lực Dạ Xoa Vương v.v... làm bậc thượng thủ.
Đại chúng như vậy cùng chung họp tại pháp hội.
Bấy giờ trong thành Vương xá, Quốc Vương, đại thần và tứ chúng, cùng Thiên Long Bát Bộ, Nhân Phi Nhân đều mang y phục, đồ uống ăn, mùng mền, thuốc men, các vật cần dùng đến chỗ Như Lai mà cung kính cúng dường tôn trọng tán thán.
Một ngày kia, sáng sớm đức Thế Tôn đắp y mang bát cùng chư Tỳ Kheo đại chúng hướng đến thành Vương Xá cung vua A Xà Thế. Thần lực của Phật phóng trăm ngàn tia sáng màu đẹp, trăm ngàn âm nhạc đồng thời hòa tấu, mưa những hoa đẹp như hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi lăng xăng rơi xuống.
Do thần lực của đức Phật, nên chỗ nào đức Như Lai bước đến có hoa sen báu xuất hiện lớn như bánh xe, cọng bằng bạc, cánh bằng vàng, tua bằng tỳ lưu ly. Trong đài hoa có Hóa Bồ Tát ngồi kiết già. Chư Bồ Tát ấy cùng hoa sen báu bay vòng bảy lần quanh thành Vương Xá rồi nói kệ:
"Đại Đạo Sư đáng kính cúng dường
Lợi lạc chúng sanh khiến an ổn
Đủ oai đức lớn tâm tịch tĩnh
Bực đời nương nhờ sẽ vào thành
Ai muốn xa rời khổ sanh tử
Hoặc thích du hí ở thiên cung
Hoặc ai muốn phá các ma quân
Phải gần đấng Pháp Vương diệu biện
Phật khó nghe danh nay xuất hiện
Trải trăm ngàn kiếp tu các hạnh
Dùng tâm đại bi đi thế gian
Đấng đáng kính ấy sẽ vào thành
Từng hành vô lượng vô biên xả
Nam nữ thê thất và ngôi vua
Đầu mắt tai mũi và chân tay
Y phục uống ăn thảy đều xả
Đã tu vô lượng đức bố thí
Chứng được vô thượng Nhất thiết trí
Dùng trí điều tâm chắc công hạnh
Tịnh giới không khuyết bực đại nhân
Thành tựu vô lượng đức nhẫn nhục
Đấng tâm tịch tĩnh sẽ vào thành
Câu chi kiếp hành đại tinh tấn
Thương chúng sanh khổ quên mỏi mệt
Đầy đủ vô lượng vô tỉ thiền
Đấng phạm âm sẽ vào Vương Xá
Trí huệ vô lượng không ai sánh
Dường như hư không vô biên tế
Tối thắng Thế Tôn giới đức đủ
Tu hết các hạnh trí thanh tịnh
Phá tan quân ma hay
cứu khổ
Được ở ngôi cao yên bất động
Pháp Vương vô thượng chuyển pháp luân
Đấng Thích Sư Tử sẽ vào thành
Nếu muốn thành Phật hiện ra đời
Ba mươi hai tướng để trang nghiêm
Phải phát vô thượng Bồ đề tâm
Kính trọng cúng dường đức Như Lai
Nếu muốn bỏ hẳn tham sân si
Và cùng xa rời các phiền não
Phải mau thân cận Thích Sư Tử
Cung kính dâng lên đồ cúng dường
Nếu muốn được thành Thích Phạm Vương
Trăm ngàn quyến thuộc cùng tùy tùng
Hằng thọ thiên cung các khoái lạc
Phải mau thân cận Thích Sư Tử
Muốn làm tứ châu Thánh Luân Vương
Nguyện được thất bửu đều thành tựu
Ngàn con Vương Tử đều dũng kiện
Phải mau cúng dường đấng tối thắng
Muốn làm Trưởng Giả chủ trong ấp
Của cải thêm rộng nhiều vô lượng
Quyến thuộc sắc tướng đều siêu luân
Phải mau cúng dường Thích Sư Tử
Đã được giải thoát và sẽ được
Đều do nghe Phật pháp tịch tĩnh
Đấng Thế Tôn khó được gặp gỡ
Phải nghe câu vô ưu cam lộ".
Trong thành Vương Xá, nam nữ già trẻ vô lượng chúng sanh nghe lời kệ ấy đều được khai ngộ, mọi người mang hương hoa phan lọng vô lượng âm nhạc đến chỗ đức Như Lai nhất tâm chiêm ngưỡng hớn hở vui mừng cung kính cúng dường.
Lúc đức Thế Tôn vào thành chân đạp ngạch cổng thành, mặt đất toàn thành chấn động sáu cách, mưa những hoa đẹp và các âm nhạc. Chúng sanh trong thành, người đui được thấy, người điếc được nghe, người cuồng tỉnh trí, người trần truồng được mặc, người đói được ăn, người nghèo có của. Các chúng sanh ấy cũng chẳng bị não bức vì tham sân si kiêu mạn. Họ đều có lòng từ đối với nhau như cha con thân thuộc. Trong tiếng nhạc ấy nói kệ rằng:
"Đại trượng phu thập lục
Tối thắng nhân Sư Tử
Vào đô thành lợi người
Chúng sanh được an vui
Mù đui được thấy sắc
Điếc lác được nghe tiếng
Điên cuồng tâm trí tỉnh
Lõa lồ mặc y phục
Đói khát được ăn uống
Nghèo cùng được của cải
Lại ở trên hư không
Trăm ngàn ức chư Thiên
Đồng vì cúng dường Phật
Hòa tấu các âm nhạc
Đấng thập lực oai đức
Nay vào trong thành này
Trong thành sáu thứ động
Đó là khắp động thảy
Chúng sanh khỏi kinh sợ
Đều được rất vui mừng
Mà nay trong thành này
Tất cả các chúng sanh
Chẳng bị tham sân si
Tật đố nó não bức
Vui mừng đầy thân tâm
Lòng từ đối đãi nhau
Nguyện Phật mau vào thành
Làm an vui chúng sanh
Lúc Thế Tôn vào thành
Khắp phóng quang minh lớn
Trời người đều tấu nhạc
Vui thích nơi tâm ý
Các sự lạ như vậy
Có nhiều vô lượng thứ
Trời người A Tu La
Tất cả đều chiêm phụng".
Lúc ấy thành Vương Xá có Bồ Tát trưởng giả tử tên Tồi Quá Cữu ở trong đường phố xa thấy đứcThế Tôn tướng hảo kỳ đặc, đoan nghiêm lặng sáng, các căn đứng lặng, người thấy không nhàm, an trụ xa ma tha điều phục tối thượng, điều phục các căn như giỏi điều tượng, chánh niệm chẳng loạn như ao vực trong, thân trang nghiêm với ba mươi hai tướng. Bồ Tát Tồi Quá Cữu thấy đức Phật sanh lòng tin thanh tịnh rất tôn trọng đến lễ chân Phật đi nhiễu ba vòng rồi đứng qua một bên.
Lại có vô lượng trăm ngàn chúng sanh đồng đến chỗ đức Phật. Vô số chư Thiên đứng trên không chắp tay cung kính tôn trọng đảnh lễ.
Bồ Tát Tồi Quá Cữu bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát thành tựu bao nhiêu pháp mau được Vô thượng Chánh giác tùy sở nguyện trang nghiêm thanh tịnh Phật độ".
Vì muốn điều phục các chúng sanh, vì thương xót Tồi Quá Cữu, đức Thế Tôn đến chợ ở giữa đại chúng tuyên rằng:
"Nầy thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu một pháp mau được Vô thượng Bồ đề tùy sở nguyện nghiêm tịnh Phật độ. Gì là một pháp? Nầy thiện nam tử! Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh vì thật hành đại bi nên do chí nguyện thù thắng mà phát Bồ đề tâm.
Thế nào gọi là chí nguyện thù thắng mà phát Bồ đề tâm? Đó là người đã phát Bồ đề tâm rồi thì nhẫn đến việc ác rất nhỏ cũng trọn chẳng làm. Chẳng làm những gì? Đó là tham sân si cùng những cử chỉ cợt đùa của người tại gia thảy đều xa rời. Nếu là người đã xuất gia thì chẳng còn hi vọng danh lợi cung kính mà an trụ nơi pháp tu hành xuất gia.
Thế nào là pháp tu hành xuất gia? Đó là như thiệt ngộ nhập tất cả các pháp.
Những gì là tất cả pháp được ngộ nhập? Đó là uẩn, giới, xứ, hữu vi, vô vi.
Thế nào là ngộ nhập? Đó là quan sát ngũ uẩn tịch diệt như huyễn không vô sở hữu. Lúc ngộ nhập như vậy, chẳng thấy ngộ nhập, vô giác vô tư, tất cả phân biệt thảy đều tịch diệt. Ở nơi các uẩn nếu ngộ nhập như vậy, tức là ngộ nhập tất cả pháp. Đây gọi là pháp tu hành xuất gia.
Lúc Bồ Tát tu hành như vậy vẫn chẳng bỏ rời các chúng sanh. Tại sao? Như chỗ mình quan sát, Bồ Tát đem dạy lại chúng sanh, mà vẫn chẳng thấy có pháp và chúng sanh.
Nầy thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát thành tựu một pháp mau được Vô thượng Bồ đề, cũng làm cho Phật độ được đầy đủ viên mãn.
Phật nói pháp ấy rồi, Bồ Tát Tồi Quá Cữu được vô sanh nhẫn, vui mừng hớn hở bay lên hư không cao bảy cây đa la. Trong đại chúng ấy, hai ngàn người phát Bồ đề tâm, một vạn bốn ngàn chư Thiên và Nhân xa trần rời cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.
Đức Thế Tôn mỉm cười, từ diện môn phóng các thứ tia sáng màu chiếu suốt vô lượng thế giới. Chiếu xong, tia sáng màu ấy trở lại nhiễu quanh Phật ba vòng rồi rót vào đảnh đức Phật.
Tôn giả A Nan chỉnh y phục trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay cung kính ở trước Phật mà nói kệ rằng:
"Đại Sư sức tự tại
Đến bờ kia các pháp
Thế Tôn Nhất thiết trí
Duyên gì hiện mỉm cười
Đấng thập lực Thiện Thệ
Hay làm những lợi ích
Suốt thấu cả ba đời
Duyên gì hiện mỉm cười
Rõ tâm hành chúng sanh
Thượng trung hạ sai biệt
Biết ý tưởng vô ngại
Mong Phật tuyên nói cho
Ức do tha chư Thiên
Đều đến đảnh lễ phật
Mong Phật phát diệu âm
Tế độ người khát ngưỡng
Thắng định đến bờ kia
Trí huệ cũng đến bờ
Rời xa những lầm lẫn
Duyên gì Phật mỉm cười
Trăm ngàn chúng chư Thiên
Vì chánh pháp đến họp
Vô lượng các Tỳ Kheo
Chắp tay đều nguyện nghe
Hòa tấu các âm nhạc
Cúng dường đức Như Lai
Lành thay Phật Thế Tôn
Mong giải quyết chúng nghi".
Đức Phật bảo Ngài A Nan: Nay ông có thấy Bồ Tát Tồi Quá Cữu bay lên hư không chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Có thấy.
- Nầy A Nan! Sau đây sáu vạn hai ngàn a tăng kỳ kiếp, Tồi Quá Cữu sẽ thành Phật tại thế giới nầy hiệu là Tịch Tĩnh Diều Phục Âm Thanh Như Lai đủ mười đức hiệu. Kiếp ấy tên Ly Nhiệt Não, quốc độ công đức trang nghiêm, đại chúng Thanh Văn Bồ Tát như đức Bất Động Như Lai tại thế giới Diệu Hỉ".
Bấy giờ đức Thế Tôn cùng chư Tỳ Kheo thẳng đến cung vua A Xà Thế theo thứ tự trải tọa mà ngồi.
Nhà vua đem các thứ uống ăn tự tay rót sớt cúng phật và Tăng, cũng dâng lên đức Phật y phục thượng diệu.
Cúng dường xong, Vua ngồi lên ghế thấp trước Phật chắp tay bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Phẩn hận sân não từ đâu sanh? Ngu si vô trí từ đâu diệt?".
Đức Phật nói:
"Nầy Đại Vương! Phẫn hận sân não từ ngã sở sanh. Nếu chẳng biết được công đức và lỗi lầm cùng ngã và ngã sở thì gọi là vô trí. Nếu như thiệt biết ngã và ngã sở ấy thì tức là chẳng phải trí chẳng phải chẳng phải trí vậy.
Đại Vương nên biết tất cả các hành: tới không từ đâu, đi không chỗ đến. Nếu không lai khứ thì không sanh diệt. Nếu không sanh diệt thì trí và vô trí ấy cũng đều không. Tại sao? Không có chút pháp nào mà có thể biết rõ sanh cùng chẳng phải sanh. Nếu rời năng tri thì là tri vậy".
Vua A Xà Thế bạch Phật rằng:
"Đức Như Lai rất hi hữu, khéo nói pháp như vậy. Nay tôi thà được nghe pháp mà chết, chớ chẳng mong luống sống".
Đức Thế Tôn vì vua A Xà Thế mà khuyến phát khai hiểu làm cho vua vui mừng rồi, liền trở lại núi Kỳ Xà Quật, rửa chân xong trải tọa ngồi nhập tam muội. Vì pháp thí nên lúc xế trưa đức Phật từ tam muội dậy. Chư đại Bồ Tát và chúng Thanh Văn đều từ chánh định dậy.
Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chung cùng bốn vạn hai ngàn Thiên Tử xu hướng Đại thừa. Di Lặc Bồ Tát cùng chung năm ngàn chúng Bồ Tát. Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát cùng chung năm trăm chúng Bồ Tát. Vua A Xà Thế cũng đem quyến thuộc cùng chung đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ chân Phật lui ngồi một phía.
Thành Vương Xá lại có vô lượng trăm ngàn chúng sanh đồng đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ đức Như Lai đảnh lễ chân Phật lui ngồi một phía.
Thừa oai thần của Phật, Ngài Xá Lợi Phất đứng dậy trịch vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Trước đây đức Như Lai ở tại chợ trong thành Vương Xá đã vì Tồi Quá Cữu Bồ Tát mà nói tóm lược về đại Bồ Tát công đức trang nghiêm thanh tịnh Phật độ. Lành thay đức Thế Tôn! Nguyện đức Phật nói rộng về chư Bồ Tát thật hành hạnh bất thối chuyển Bồ đề, dứt các phiền não, nghiêm tịnh Phật độ, viên mãn đại nguyện, tu hành đầy đủ các Ba la mật, xa rời bực Thanh Văn Bích Chi Phật, noi đi theo dấu đi của Như Lai, hàng phục chúng ma chế ngự các ngoại đạo, đủ Nhất thiết trí chuyển diệu pháp luân. Bồ Tát như vậy dầu chưa được Nhất thiết chủng trí mà có thể quyết định lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh. Trong hội này, các thiện nam tử thiện nữ nhân được nghe pháp ấy rồi sẽ vui mừng tu hành".
Đức Thế Tôn tự nghĩ nay ta thuyết pháp chẳng phải chỉ vì đại chúng hiện tiền, ta phải thị hiện thần biến.
Đức Thế Tôn phóng trăm ngàn ức tia sáng màu đẹp, mỗi tia sáng chiếu khắp trăm ngàn ức thế giới mười phương, tất cả nhật nguyệt châu ma ni điện lửa Thiên Long đều bị chói luốt tất cả, cho đến tất cả núi rừng cây cối vì ánh sáng Phật chiếu suốt nên không hiện được bóng.
Đức Thế Tôn lại thị hiện tiếng đặng hắng oai đức, tiếng ấy vang đến thế giới mười phương.
Đông phương cách đây tám mươi bốn hằng hà sa Phật độ, có thế giới tên Phổ Quang Minh hiện có Phật hiệu Tập Cát Tường vương. Thế giới ấy không có danh từ Thanh Văn Bích Chi Phật, chỉ có Bồ Tát đông đầy. Mỗi Bồ Tát đều có trăm ức bất thối Bồ Tát làm quyến thuộc. Trong chúng Bồ Tát ấy có một Bồ Tát tên Pháp Thượng. Tại sao lại tên là Pháp Thượng? Vì Bồ Tát ấy ở trước chúng hội nghe Phật thuyết pháp rồi bay lên hư không cao bảy cây đa la, tự ẩn thân mình mà nói pháp môn Bồ Tát tạng tên là Câu Đà la ni Kim Cương. Chúng hội ấy đều nghĩ rằng: Tất cả các pháp đều chỉ có tiếng gọi nó mà thôi. Tại sao? Vì như Pháp Thượng Bồ Tát chẳng hiện thân tướng chỉ nghe tiếng nói thôi. Tiếng ấy không thể tánh như thân tướng kia, đã rời thấy nghe thì tức là pháp tánh. Lúc nói pháp ấy, trong pháp hội có vô lượng đắc nhẫn Bồ Tát xa thấy Pháp Thượng Bồ Tát ở thế giới ấy. Lại thấy ở thế giới này, Phật phóng quang minh và tiếng đặng hắng của Phật vang khắp thế giới ấy. Chư Bồ Tát ấy đồng đến chỗ đức Phật Tập Cát Tường Vương đảnh lễ chân Phật rồi đứng một phía. Pháp Thượng Bồ Tát bạch Phật: ” Bạch đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà hiện thoại ứng này?".
Đức Phật Tập Cát Tường Vương nói:
"Nầy Pháp Thượng! Phương Tây cách đây tám mươi bốn hằng hà sa Phật độ có thế giới tên Ta Bà hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, vì muốn triệu tập chư Bồ Tát mười phương nên từ tất cả lỗ lông phóng ra tia sáng ấy, cùng phát tiếng đặng hắng".
- Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi muốn qua thế giới Ta Bà lễ kính cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng muốn nghe pháp.
Đức Phật Tập Cát Tường Vương nói: Nên đi, nay đã phải lúc".
Pháp Thượng Bồ Tát nghĩ rằng: Ta phải dùng thần biến gì để qua thế giới Ta Bà lễ kính Phật Thích Ca Mâu Ni? Nghĩ xong, liền nhập tam muội tên Nhất thiết trang nghiêm thân.
Do sức oai thần của tam muội ấy làm cho Tam thiên Đại Thiên thế giới nầy đầy những hoa đẹp chứa cao đến gối, trăm ngàn âm nhạc đồng trỗi, phan lọng báu nhiều thứ trang nghiêm, lại có hương thơm xông khắp mọi nơi như cung trời Tha Hóa Tự Tại.
Hiện thần biến rồi, Pháp Thượng Bồ Tát cùng sáu mươi ba ức đại Bồ Tát, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, ẩn mất nơi thế giới Phổ Quang Minh mà hiện ra trong thế giới này đến lễ chân Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hóa hiện tòa sen mà ngồi.
Phương Nam cách đây chín mươi sáu ức na do tha Phật độ có thế giới tên vi trần hiện có Phật hiệu Sư Tử Dũng Mãnh Phấn Tấn, có vô lượng đại Bồ Tát cung kính vây quanh. Có một Bồ Tát tên Bửu Chưởng. Tại sao tên là Bửu Chưởng? Bồ Tát ấy lúc ở các Phật độ giáo hóa chúng sanh, muốn dùng bàn tay hữu rờ khắp bao nhiêu thế giới thì liền làm được như ý muốn, từ tay ấy phát ra tiếng Phật, Pháp Tăng, tiếng thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, huệ, từ, bi, hỉ, xả v. v... trăm ngàn ức na do tha tiếng pháp bửu như vậy.
Bửu Chưởng Bồ Tát thấy ánh sáng và tiếng vang của Phật liền bạch hỏi nơi đức Phật Sư Tử Dũng Mãnh Phấn Tấn rằng: ” Bạch đức Thế Tôn! Do duyên cớ gì mà có thoại ứng ấy?".
Đức Phật nói:
"Nầy Bửu Chưởng! Phương Bắc cách đây chín mươi sáu ức na do tha Phật độ có thế giới tên Ta Bà hiện có Phật Thích ca Mâu Ni, vì muốn diễn nói pháp môn Phật độ công đức trang nghiêm, họp chư Bồ Tát cho nghe pháp ấy để nhiếp thọ công đức nên hiện ra thoại ứng ấy.
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn qua thế giới Ta Bà kính lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng nghe pháp.
- Nầy thiện nam tử! Chớ đi làm gì. Tại sao? Vì thế giới Ta Bà có đủ tam độc và là chỗ tụ họp của chúng sanh khổ não.
- Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thấy nghĩa lợi gì mà rời cõi thanh tịnh để hiện thân trong cõi trược uế?
- Nầy thiện nam tử! Đức Phật ấy thuở xưa xa phát thệ rằng: Nguyện tôi mau thành tựu đại bi thường ở trong chúng sanh tệ ác thành Phật chuyển pháp luân.
- Bạch đức Thế Tôn! Đức Thích Ca Như Lai thuở xưa phát nguyện đại bi khó phát ấy nay ở trong thế giới ác. Đức Thế Tôn ấy rất là khó gặp, nay tôi phải qua kính lễ cúng dường".
Đức Sư Tử Dũng Mãnh Phấn Tấn Phật nói:
"Nên đi, nay đã phải lúc. Nhưng nầy thiện nam tử! Ông đến cõi ấy phải khéo quan sát cẩn thận chớ để tổn thương. Tại sao? Vì ở đó chư Bồ Tát thiệt là khó gặp, mà các chúng sanh khác thì tâm hành hiểm độc dối trá khó điều phục được.
- Bạch đức Thế Tôn! Cõi ấy dầu có giận hờn oán thù cũng chẳng tổn tôi được. Giả sử tất cả chúng sanh cùng tận vị lai giận hờn mắng nhiếc đến đánh đập tôi đều chịu được chẳng phiền".
Đức Phật ấy nói với tất cả chư Bồ Tát:
"Nầy các thiện nam tử! Các ông nếu được như Bửu Chưởng Bồ Tát thì có thể cùng đi".
Nghe lời phán của Phật, liền có bảy vạn hai ngàn Bồ Tát đồng thanh bạch rằng:
"Chúng tôi xin đi".
Bửu Chưởng Bồ Tát nghĩ rằng nay tôi phải dùng thần biến gì để qua kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni và có thể an lạc vô lượng chúng sanh.
Nghĩ xong liền đưa bàn tay hữu che trùm cõi Tam thiên Đại Thiên nầy rồi mưa những đồ uống ăn y phục xe cộ vàng bạc lưu ly chơn châu kha bối san hô bích ngọc, tùy lòng hi vọng chúng sanh đều được đầy đủ. Người thích nghe pháp liền được nghe. Lại khiến vô lượng chúng sanh nghe pháp chứng được chơn thiệt. Cũng làm cho vô số chúng sanh bệnh khổ thọ vui vi diệu thù thắng. Hiện thần biến xong, Bửu Chưởng Bồ Tát cùng chư Bồ Tát trong khoảng một niệm, ẩn nơi kia mà hiện nơi đây, đến đảnh lễ chân Phật nhiễu bên hữu ba vòng rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hóa hiện đài sen mà ngồi.
Phương Tây cách đây bảy mươi hai ức na do tha trăm ngàn Phật độ có thế giới tên Ma Ni Tạng hiện có Phật hiệu Ma Ni Tích Vương. Phật độ ấy thành tựu bằng lưu ly thanh tịnh, không có Thanh Văn và Bích Chi Phật, chỉ có chúng đại Bồ Tát thanh tịnh đi đứng đến lui nơi đất lưu ly đều thấy đức Như Lai hiện rõ ràng như trong gương sáng thấy đầu mặt mình, thấy Phật rồi thỉnh pháp, đức Phật ấy vì chư Bồ Tát nói đại nguyện thuở trước. Chư Bồ Tát ấy nghe pháp đắc nhẫn.
Trong bạch hào ma ni bửu giữa chặng mày của Như Lai phóng ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Ma Ni Tạng, tất cả ánh sáng khác đều bị chói lấp. Cõi ấy có Bồ Tát tên Thắng Trí Nguyện thấy ánh sáng ấy liền đến bạch đức Phật Ma Ni Tích Vương rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Có duyên cớ gì mà hiện thoại ứng ấy".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Phương Đông cách đây bảy mươi hai ức na do tha trăm ngàn Phật độ có thế giới tên Ta Bà hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni vì muốn triệu tập chư Bồ Tát mà hiện thoại ứng ấy".
Bồ Tát Thắng Trí Nguyện bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn qua thế giới Ta Bà kính lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng nghe pháp".
Đức Ma Ni Tích Vương Như Lai nói:
"Nên đi, nay đã phải lúc".
Bồ Tát Thắng Trí Nguyện nghĩ rằng: Nay tôi phải hiện thần biến gì để qua kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Nghĩ xong liền nhập tam muội làm cho trong cõi này sự khổ trong ba ác đạo đều tiêu diệt mà được vui vô thượng như Tỳ Kheo được chánh định. Bấy giờ tất cả chư Thiên, thế nhân và hàng phi nhân chẳng bị tham sân si mạn nghi ác kiến các phiền não bức nhiễu và đều phát lòng từ đối với nhau.
Hiện thần biến xong, Bồ Tát Thắng Trí Nguyện cùng bốn vạn hai ngàn Bồ Tát, trong khoảng một niệm ẩn nơi cõi kia mà hiện ra nơi cõi này, đến lễ chân Phật rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hóa hiện đài sen mà ngồi.
Phương Bắc cách đây sáu vạn ba ngàn Phật độ có thế giới tên Thường Trang Nghiêm hiện có Phật hiệu Ta La Khởi Vương. Cõi ấy chưa hề có tên nữ nhân, tất cả đều liên hoa hóa sanh ca sa theo thân. Lúc ấy Phật Ta La Khởi Vương vì chư Bồ Tát mà nói pháp môn Phật chủng tánh ấn. Sao gọi là Phật chủng tánh ấn? Đó là tối sơ phát tâm Bồ đề tức là đủ giới Bồ Tát, nhập Bồ Tát tạng được Đà la ni tâm chẳng tán loạn, chẳng rời nơi xả, chứng tánh không, chánh tu vô tướng, không chỗ nguyện cầu, tánh rời tham nhiễm, hay chứng nhập nơi uẩn giới xứ, phát khởi quan sát đều ưa cầu Phật huệ, chơn thiệt biết rõ tánh vô sanh, chứng tất cả pháp mà vô phân biệt, đầy đủ chánh kiến dứt các vọng niệm, đây gọi là Phật chủng tánh ấn.
Trong đại chúng ấy có Bồ Tát tên Tướng Trang Nghiêm Tinh Tú Tụ Vương. Bồ Tát nầy có bổn nguyện thù thắng, chúng sanh nào thấy thân Ngài thì nhất định sẽ được ba mươi hai tướng. Bồ Tát nầy thấy ánh sáng và nghe tiếng của Phật liền đến bạch đức Phật Ta La Khởi Vương rằng:
"Do duyên cớ gì mà hiện thoại ứng ấy?".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Phương Nam cách đây sáu vạn ba ngàn Phật độ có thế giới tên Ta Bà có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni vì muốn triệu tập chư Bồ Tát nên hiện điềm ấy.
- Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao hiệu là thế giới Ta Bà?
- Nầy thiện nam tử! Cõi ấy kham nhẫn tham sân si và các khổ não nên gọi là thế giới Ta Bà.
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh cõi ấy đều có thể nhẫn thọ được các sự đánh đập mắng nhiếc não hại chăng?
- Nầy thiện nam tử! Chúng sanh cõi Ta Bà ấy ít có ai thành tựu được công đức nhẫn nhục, mà phiền nhiều tùy thuận tham sân si oán hận triền phược.
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì thế giới ấy chẳng nên gọi là Ta Bà.
- Nầy thiện nam tử! Thế giới ấy cũng có thiện nam tử thiện nữ nhân tu hành Bồ Tát thừa đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, thành tựu hạnh nhẫn nhục cứu hộ chúng sanh giỏi tự điều phục. Nếu bị gia hại những người nầy đều có thể nhẫn chịu không hề buông lung tham sân si. Do có những thiện trượng phu ấy nên gọi là thế giới Ta Bà. Lại trong cõi ấy cũng có chúng sanh đầy đủ những điều ác ít biết hối lỗi tâm họ thô dữ không tàm quí, chẳng kính Phật, chẳng trọng Pháp, chẳng mến Tăng nên thường đọa địa ngục ngạ quỉ súc sanh. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong các chúng sanh hạ liệt ấy đều nhẫn thọ được tất cả sự mạ nhục ghét hờn chê bai não loạn mắng chửi khủng bố, tâm Phật như đại địa chẳng ai lay động được, không chỗ trái nghịch được. Nếu được cúng dường tôn trọng, tâm Phật không cao hạ cũng không ghét thương. Vì cớ đó nên thế giới ấy tên là Ta Bà.
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi được lợi lành lớn là chẳng sanh vào trong chúng sanh hạ liệt tệ ác ấy.
- Nầy thiện nam tử! Chớ có nói như vậy. Tại sao? Phương Đông Bắc có thế giới tên Diệu Trang Nghiêm Nhẫn hiện có Phật hiệu Đại Tự Tại Vương. Chúng sanh cõi ấy thảy đều đầy đủ một bề an vui như Tỳ Kheo nhập diệt tận định. Nếu có người ở cõi ấy tu phạm hạnh trăm ngàn ức năm chẳng bằng ở cõi Ta Bà tu khoảng đàn chỉ. Đối với chúng sanh khởi tâm từ bi được công đức còn nhiều hơn nữa, huống là an trụ tâm thanh tịnh một ngày một đêm.
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn qua thế giới Ta Bà kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng nghe pháp".
Đức Phật Ta La Khởi Vương bảo Tướng Trang Nghiêm Tinh Tú Tụ Vương Bồ Tát rằng:
"Nên đi, nay đã phải lúc".
Bồ Tát ấy nghĩ rằng nay tôi phải hiện thần thông gì để qua lễ kính Thích Ca Mâu Ni Như Lai? Nghĩ xong liền hóa lọng báu che trùm cõi Đại Thiên nầy, có trăm ngàn muôn ức chuỗi ngọc phan báu rũ thòng giáp vòng, mưa các thứ hoa, tự nhiên trỗi trăm ngàn âm nhạc, lại khiến trong hội nầy hàng tứ chúng và Bát Bộ Nhân Phi Nhân tự thấy mình có đủ ba mươi hai tướng hiện ra trong lọng báu ấy.
Hiện thần thông xong, Tướng Trang Nghiêm Tinh Tú Tụ Vương Bồ Tát cùng mười ức Bồ Tát trong khoảng một niệm ẩn nơi kia hiện ra nơi đây, đến lễ chân Phật rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hiện đài sen mà ngồi.
Như vậy khắp mười phương có vô lượng Phật độ, trăm ngàn ức Bồ Tát thấy ánh sáng và nghe tiếng đặng hắng của Phật, đồng thưa bạch cùng đức Như Lai bên ấy rồi đồng qua thế giới nầy lễ chân Phật hiện đài sen mà ngồi.
Trong thế giới nầy, hàng Thích Phạm Hộ Thế đại oai đức chư Thiên Bát Bộ đều thấy ánh sáng và nghe tiếng Phật cũng đồng đến lễ chân Phật rồi ngồi một phía.
Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thần biến làm cho vô lượng Bồ Tát ở mười phương đến đều thấy cõi nầy công đức trang nghiêm và thân lượng của Phật cũng đồng với Phật độ mình không chút sai khác. Nhưng chư Bồ Tát ấy vẫn biết rõ độ kia cõi nầy chẳng tạp loạn.
Đức Di Lặc Bồ Tát đứng dậy chỉnh y trịch bày vai hữụ gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà nói kệ rằng:
"Danh chấn mười phương trí vô lượng
Phóng đại quang minh chiếu thế gian
Tất cả chúng sanh cùng đo lường
Chẳng lường được trí huệ Thế Tôn
Mười phương vô lượng ức Bồ Tát
Vì cầu pháp nên đồng đến họp
Mà đều tin ưa các pháp môn
Nguyện Phật diễn nói cho vui mừng
Như Lai giới định và trí huệ
Danh xưng nghe khắp mười phương cõi
Thuyết pháp vô úy như sư tử
Sáng khắp hư không như mặt nhật
Tất cả Trời Rồng và La Sát
Và chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni
Chúng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di
Chắp tay thích nghe đức Phật nói
Quá khứ vị lai và hiện tại
Thế Tôn nơi ấy đều biết rõ
Dùng sức thắng giải cứu quần mê
Mong giải quyết nghi cho hiểu rõ
Thế nào trí hành của bồ Tát
Nghiêm tịnh Phật độ cho sáng sạch
Thế nào thệ nguyện mau thành mãn
Nay thỉnh Như Lai tuyên nói cho
Thế nào không tham giới không khuyết
Hay nhẫn các sự mắng nhục đánh
Tinh tấn tu hành không biếng lười
Giải thoát vô lượng chúng sanh khổ
Chuyên tâm ưa nhập môn tam muội
Ở yên cung điện thiền thanh tịnh
Ở đời lợi ích mà không nhiễm
Ví như hoa sen chẳng dính nước
Thế nào trí huệ xuất thế gian
Diễn nói pháp thậm thâm vi diệu
Hàng phục tất cả các chúng ma
Mau đầy đủ được xa ma tha".
Đức Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
"Nay ông vì Phật mà sắp đặt pháp tọa. Phật sẽ thăng tòa nói chỗ tu hành theo trí nguyện thuở trước, hay khéo xuất sanh Phật độ công đức trang nghiêm xu hướng pháp môn chơn thiệt".
Di Lặc Bồ Tát tự nghĩ rằng nay do ý nghĩa gì mà đức Thế Tôn truyền tôi sắp đặt pháp tọa mà chẳng bảo các ông A Nan, Mục kiền Liên v.v... Tại sao Phật lại bỏ rơi các Thanh Văn. Phải chăng đức Thế Tôn chỉ vì chư Bồ Tát mà thuyết pháp. Hoặc là hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng phải pháp khí đối với pháp môn ấy. Vì lẽ ấy mà đức Phật Thế Tôn truyền tôi sắp đặt pháp tọa.
Di Lặc Bồ Tát liền dùng thần thông hóa hiện tòa sư tử báu cao bốn vạn do tuần giáp vòng trang nghiêm đẹp, trải tòa với thiên y mềm nhuyễn, từ bửu tòa ấy phát ra những tia sáng chiếu suốt Tam thiên Đại Thiên thế giới này.
Đức Như Lai thăng tòa, cả thế giới nầy chấn động sáu cách.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng:
"Bồ Tát thành tựu bốn pháp có thể làm cho sở nguyện đều được đầy đủ. Những gì là bốn?
Một là phát trí nguyện thù thắng
Hai là đối với chúng sanh phát tâm thương xót.
Ba là phát khởi tinh tấn.
Bốn là kính thờ bực thiện tri thức.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu một pháp làm cho sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Đó là Bồ Tát phải thích học theo đức Bất Động Như Lai lúc làm Bồ Tát tu hành lập thệ nguyện rộng lớn rằng: Tôi sanh vào xứ nào, lúc sơ sanh nếu chẳng xuất gia thì là khi dối chư Phật mười phương. Chư Bồ Tát phải học theo như vậy. Hoặc có Phật xuất thế hay không có Phật xuất thế, tất cả đời sanh vào xứ nào đều quyết định xuất gia. Tại sao? Vì chỗ tối thắng của Bồ Tát là xuất gia vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Người thích xuất gia hay nhiếp lấy mười thứ công đức. Những gì là mười?
Một là chẳng nhiễm lấy các dục lạc.
Hai là ưa thích nơi a lan nhã.
Ba là thật hành chỗ sở hành của Phật.
Bốn là rời lìa việc làm của phàm phu
Năm là chẳng nhiễm lấy vợ con và tài sản
Sáu là rời lìa nhân nghiệp ác đạo.
Bảy là tu tập các pháp thiện đạo
Tám là căn lành đời trước đều chẳng tổn giảm.
Chín là luôn được chư Thiên khen tặng.
Mười là tất cả quỉ thần đều cung kính thủ hộ.
Nếu Bồ Tát thường thích xuất gia thì được mười thứ công đức như vậy. Vì thế nên Bồ Tát có trí cầu Bồ đề muốn độ chúng sanh thường phải xuất gia. Đây gọi là Bồ Tát thành tựu một pháp.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu hai pháp làm cho sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Đó là Bồ Tát chẳng thích Thanh Văn địa chẳng cầu Thanh Văn thừa, chẳng ưa thích nói pháp Thanh Văn thừa, chẳng gần gũi người Thanh Văn thừa, chẳng học giới Thanh Văn, chẳng thích nói pháp cùng tương ưng với Thanh Văn thừa, cũng chẳng khuyên người hành Thanh Văn thừa. Với Duyên Giác thừa, Bồ Tát chẳng ưa thích cũng như vậy. Bồ Tát chỉ vì Phật pháp khuyến phát chúng sanh thành tựu tối thượng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là hai pháp vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có ai khuyên người xu nhập Phật thừa, Bồ Tát nầy có thể nhiếp lấy mười thứ công đức. Những gì là mười?
Một là được quốc độ thanh tịnh không có Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Hai là được thuần một chúng Bồ Tát thanh tịnh.
Ba là được chư Phật Thế Tôn hộ niệm.
Bốn là thường được chư Phật xướng danh khen ngợi và thuyết pháp cho.
Năm là chỗ phát tâm đều rộng lớn.
Sáu là nếu sanh cõi trời thường làm Đế Thích hoặc Phạm Thiên Vương.
Bảy là nếu sanh nhân gian thì làm Chuyển luân Vương.
Tám là thường thấy chư Phật.
Chín là được chư thiên và người mến nhớ.
Mười là nhiếp lấy vô lượng vô biên a tăng kỳ công đức. Tại sao? Nếu có người hay khiến bao nhiêu chúng sanh toàn cõi Đại Thiên
Tất cả đều được quả A La Hán, hoặc quả Duyên Giác. Nếu lại có người hay đặt một chúng sanh nơi Phật Bồ đề, thì công đức nầy nhiều hơn công đức kia. Tại sao? Vì chẳng phải do Thanh Văn Duyên Giác xuất hiện mà Phật chủng chẳng dứt. Thế gian nếu không Phật thì không có Thanh Văn Duyên Giác. Do Phật xuất hiện mà Phật chủng chẳng dứt và xuất sanh Thanh Văn Duyên Giác. Vì thế nên Bồ Tát làm cho người an trụ trong Phật thừa thì được mười thứ công đức như vậy và được quốc độ thanh tịnh.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu ba pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nhiếp thọ Phật độ công đức trang nghiêm. Những gì là ba?
Một là tôn trọng ưa thích an trụ a lan nhã.
Hai là không chỗ nhiễm trước mà làm pháp thí.
Ba là bền vững an trụ luật nghi thanh tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát an trụ giới luật thì được mười thứ vô úy. Những gì là mười?
Một là vào tụ lạc vô úy.
Hai là ở trong chúng thuyết pháp vô úy.
Ba là ẩm thực vô úy.
Bốn là ra khỏi tụ lạc vô úy.
Năm là vào chùa vô úy.
Sáu là ở trong chúng ăn uống vô úy.
Bảy là giáo thọ vô úy.
Tám là thân cận Hòa thượng a xà lê vô úy.
Chín là đối với quyến thuộc của mình, từ tâm dạy bảo vô úy.
Mười là thọ dụng bốn sự y phục, uống ăn, mền mùng, thuốc men vô úy.
Nầy Xá Lợi Phất! Người an trụ giới luật, có lời nói ra mọi người đều tin nhận. Đây là mười thứ vô úy của Bồ Tát.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thuyết pháp tâm không có chỗ nhiễm trước thì hay nhiếp thọ mười thứ công đức. Những gì là mười?
Một là chẳng sanh ác dục.
Hai là chẳng cầu người khác biết mình.
Ba là chẳng phát khởi tâm cầu danh.
Bốn là đối với nhà đàn việt tâm chẳng nhớ luyến.
Năm là chẳng trông nom giữ gìn nhà đàn việt.
Sáu là với tứ sự cúng dường rất hạ liệt cũng lấy làm vui đủ.
Bảy là thuyết pháp khiến người tin nhận.
Tám là được thiện thần ủng hộ.
Chín là chẳng sanh tà giác.
Mười là phát khởi tâm niệm Phật.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát tôn kính thích ở a lan nhã thì thành tựu mười thứ công đức lợi ích. Những gì là mười?
Một là xa rời ngôn luận thế tục.
Hai là chuyên quên nhàn tĩnh.
Ba là tâm duyên định cảnh.
Bốn là bỏ rơi những danh vụ.
Năm là mến ưa chư Phật.
Sáu là hằng thọ thiền định hỉ lạc.
Bảy là lúc tu phạm hạnh không có chướng ngại.
Tám là dùng ít công lực mà được tam muội.
Chín là giáo pháp được thọ chưa hề quên mất.
Mười là pháp nghĩa được nghe thảy đều biết rõ.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu bốn pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là bốn?
Một là như lời nói hay làm được, như việc làm hay nói được.
Hai là thường tự khiêm hạ.
Ba là xa rời bỏn xẻn và ghen ghét.
Bốn là thấy người được lợi sanh lòng hoan hỉ.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát ấy như việc làm hay nói được có bốn điều lợi ích. Những gì là bốn?
Một là trong miệng thường phát ra mùi thơm hoa sen xanh.
Hai là ngữ nghiệp thanh tịnh, lời nói không sai lầm.
Ba là tất cả thế gian đồng tin nhận.
Bốn là nhiếp thọ âm thanh viên mãn của Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát khiêm hạ có bốn điều lợi ích:
Một là xa rời những thân súc sanh ác thú.
Hai là thọ khoái lạc vi diệu.
Ba là mưu ngầm giặc giữ đều chẳng hại được.
Bốn là kham thọ trời và người cung kính lễ bái.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát rời bỏn xẻn ganh ghét có bốn điều lợi ích:
Một là chẳng quên mất lòng bố thí.
Hai là lúc đói khát thì làm nhà đại thí chủ.
Ba là thấy người trì giới đến thì tiếp rước dẫn vào.
Bốn là hoặc thọ người thí hay thí cho người không có ai ganh ghét.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thấy người được lợi sanh lòng hoan hỉ có bốn điều lợi ích:
Một là thường sanh tâm nầy: Tôi nhiếp chúng sanh phải cho họ lợi lạc, nay họ tự được lợi lạc nên tôi sanh lòng vui mừng.
Hai là chỗ có tài vật, vua quan nước lửa cướp giặc oán thân đều chẳng xâm đoạt được.
Ba là tùy sanh xứ nào của báu và các con thảy đều đầy đủ, vua chẳng còn đố kỵ huống là người khác.
Bốn là của cải chứa dùng đều vô tận.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu năm pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là năm?
Một là Bồ Tát đến chỗ pháp sư thăm hỏi tu những công hạnh gì có thể được Phật độ thanh tịnh trang nghiêm? Nếu được nghe, như lời tu hành.
Hai là do Bồ Tát trì giới thanh tịnh và nguyện lực nên sanh trong Phật quốc. Được sanh Phật quốc rồi quan sát nước ấy nhiều thứ trang nghiêm các thứ đồ dùng báu đẹp, chúng Thanh Văn và Bồ Tát thân tướng vi diệu. Đối với Phật cung kính tôn trọng bạch hỏi Bồ Tát tu những công hạnh gì được Phật độ rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm? Được Phật dạy cho rồi như pháp tu hành.
Ba là Bồ Tát có trí hành, phải tịnh trí ấy, phải tấn hành ấy. Thế nào là tịnh trí? Đó là ở nơi pháp năng duyên và pháp sở duyên xa rời trí Thanh Văn và Duyên Giác. Thế nào là tấn hành? Đó là như chỗ được nghe quyết định tu hành, rời lìa chẳng tu hành.
Bốn là Bồ Tát khéo biết nhân sanh tử và biết xuất ly. Nhân sanh tử là chẳng chánh tư duy, đây là chỗ y chỉ của bốn điên đảo làm nhân sanh tử. Xuất ly là chánh tu hành, với tất cả pháp chẳng sanh phân biệt đó là xuất ly vậy.
Năm là chỗ Bồ Tát biết rõ thể tánh chư Phật và tánh quốc độ đều chỉ có giả danh, giả danh cũng tịch diệt. Biết rõ như vậy nên chẳng sanh khởi tri tưởng.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu sáu pháp khiến mau được vô thượng Bồ đề, cũng hay nhiếp lấy Phật độ tối thượng:
Một là Bồ Tát làm đại thí chủ, bao nhiêu vật sở hữu trân ngoạn khả ái đều hoan hỉ bố thí chẳng tiếc, lại nghĩ rằng tôi làm bố thí lớn để viên mãn Đại thừa. Nghĩa là lúc cầu vô thượng Bồ đề, tất cả đều xả thí, lòng không luyến tiếc, đầy đủ thành tựu tư lương Bồ đề, bỏ thân mạng nầy còn chẳng hối tiếc, huống là tư sản vợ con. Nầy Xá Lợi Phất! Cớ chi Như Lai được gọi là đấng Nhất thiết trí? đó là lúc tu Bồ Tát hạnh, nơi sở hữu của mình đều xả bỏ tất cả, do đó được Bồ đề rồi gọi là Nhất thiết trí.
Hai là Bồ Tát tại gia hay xuất gia, thà bỏ thân mạng chớ trọn chẳng phá giới. Đem sự trì giới ấy cùng chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Trì giới như vậy tự cảm thấy vui mừng thích tu phạm hạnh, ngày đêm an vui càng siêng cầu pháp an trụ chánh tu hành, chán sợ tam giới mong cầu thoát ly. Dầu thấy sức yếu mà nhớ đến chúng sanh, họ cũng khổ như tôi, tôi sẽ gánh lấy gánh nặng ấy nhiếp lấy chúng sanh đặt tại Niết bàn an lạc. Trì giới như vậy lúc tự giác hỉ liền được tâm đại bi, nhẫn đến khi chưa được Nhất thiết chủng trí chẳng bỏ tinh tấn xem như tự cứu lửa cháy đầu.
Ba là Bồ Tát mặc giáp nhẫn nhục rời cao mạn được sức đại nhẫn, nếu bị mắng hay đánh, tâm nhẫn thành tựu chẳng sanh sân hận. Giả sử có gậy lớn như núi Tu Di, có người cầm đánh mắng suốt cả ức kiếp cũng chẳng sanh lòng oán giận. Tại sao? Vì các chúng sanh ấy chẳng theo Phật học, mà tôi thì đương theo Phật học, được họ đánh mắng bao nhiêu thêm lớn đại bi bấy nhiêu. Tôi phải mặc giáp hoằng thệ nhiếp thủ chúng sanh làm cho họ được giải thoát nhập Niết bàn, vì thế nên tôi chẳng nên sân hận. Bồ Tát lúc đương an trụ nhẫn lực như vậy thì thành tựu mười điều đầy đủ: một là chủng tánh, hai là tài sản, ba là quyến thuộc, bốn là sắc tướng, năm là thiện xả, sáu là thiện hữu, bảy là được nghe chánh pháp, tám là như lời nói tu hành, chín là lúc mạng chung được thấy chư Phật, mười là được thấy Phật rồi sanh lòng tin thanh tịnh.
Bốn là Bồ Tát vì muốn thành tựu thiện pháp nên kiên cố tự định thời khóa phát khởi tinh tấn, lại vì mỗi mỗi chúng sanh mà tận thuở vị lai ở trong sanh tử thứ đệ tu hành các hạnh tinh tấn chẳng mỏi mệt. Đem công nghiệp tự định khóa và đại bi ấy vì tất cả chúng sanh trong tất cả thời gian lúc còn lưu chuyển sanh tử chẳng bỏ chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát đem thất bửu đầy hằng sa thế giới mười phương, trong mỗi niệm, dâng lên đức Như Lai, cúng dường nối tiếp như vậy mãi đến tận vị lai tế.
Nếu có Bồ Tát phát tâm đại bi mặc giáp tinh tấn, công đức nầy nhiều hơn công đức kia.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát có đủ tinh tấn nầy thì được mười thứ pháp chi nguyện thù thắng. Những gì là mười?
Một là rời lìa hạnh phàm ngu. Hai là nhiếp thọ hạnh Phật. Ba là thấy lỗi sanh tử. Bốn là an trụ tâm đại bi. Năm là chẳng thối thất tâm bổn nguyện. Sáu là ít bệnh tật. Bảy là thuận chư Phật giáo. Tám là mỏng nhẹ dâm nộ si. Chín là theo văn rõ nghĩa. Mười là tu hành thành tựu.
Năm là Bồ Tát nghĩ rằng chư Phật Như Lai tâm thường ở tại chánh định chưa hề thất niệm, tôi phải theo chỗ làm của Phật. Nếu tâm tán loạn thì trọn chẳng chứng được chỗ làm của Phật. Vì thế nên phải rời bỏ tất cả tâm chấp lấy, cũng bỏ tất cả lợi dưỡng cung kính tụ lạc thành ấp uống ăn đồ cần dùng và các thân hữu. Vì muốn lợi ích các chúng sanh nên chẳng bỏ chúng sanh. Thường ưa ở a lan nhã chỗ tịch tĩnh, độc hành không bạn như con tê giác một sừng. Ở chỗ tịch tĩnh rồi khởi tâm đại từ ban đầu khắp một phương rồi lần lần đến khắp mười phương đến khắp chúng sanh. Tâm từ khắp cả rồi được nhập thiền định.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát tại gia đem tất cả đồ dùng đáng ưa thích cúng dường tất cả hằng sa chư Phật và Tỳ Kheo Tăng trong hằng sa kiếp. Nếu có Bồ Tát xuất gia đi bảy bước hướng đến chỗ a lan nhã tịch tĩnh, phước đức nầy hơn phước đức kia nhiều. Vì có thể mau được đại Bồ đề vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát ưa ở tịch tĩnh nhập thiền định thì được mười thứ công đức lợi ích. Những gì là mười? Một là được niệm, hai là được huệ, ba là tu hành, bốn là biện luận mau, năm là được Đà la ni, sáu là khéo biết pháp sanh, bảy là khéo biết pháp diệt, tám là giới tụ chẳng phạm, chín là chư Thiên cúng dường, mười là chẳng tham sự tốt của người.
Sáu là Bồ Tát khéo biết trí huệ chẳng lưu, đó là trí huệ lấy giới làm đầu, pháp lành tăng trưởng lấy huệ làm đầu. Vì thế nên Bồ Tát phải học trí huệ. Thế gian có bao nhiêu tất cả công xảo khó làm khó thành, tất cả y dược đều học hết mà sự thông hiểu nầy chẳng chứng nhập được ly dục tịch diệt, cũng chẳng thể xu hướng Bồ đề, chẳng phải hướng Sa Môn, Bà La Môn, chẳng phải xu hướng Niết bàn. Vì thế nên nay tôi phải lại khắp cầu công xảo pháp dược, do trí nầy khiến tôi được cứu cánh tịch diệt. Bồ Tát cầu pháp bổn: chẳnh thấy chút pháp hay khởi được pháp. Do chẳng thấy nên an trụ nơi tịch diệt. Do an trụ tịch diệt thì không nhiệt não. Do không nhiệt não nên biết rõ sanh tử, vì chúng sanh mà thọ sanh để làm cho chúng sanh trừ diệt khổ sanh tử vậy. Đây là sáu pháp.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu bảy pháp khiến sở hữu chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là bảy?
Một là tự bỏ tất cả, mà thí bất khả đắc vậy. Hai là chẳng khuyết phạm, mà chẳng dính mắc nơi giới vậy. Ba là nhẫn nhục nhu hòa, mà chúng sanh bất khả đắc vậy. Bốn là phát khởi tinh tấn, mà thân tâm bất khả đắc vậy. Năm là thành tựu thiền định, mà chẳng trụ nơi thiền vậy.Sáu là trí huệ viên mãn, mà vô phân biệt vậy. Bảy là tùy niệm chư Phật, mà xa rời tướng vậy.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu tám pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là tám?
Một là chẳng thích Niết bàn, hai là bố thí đồ trang nghiêm, ba là tâm quảng đại, bốn là tôn kính Pháp Sư, năm là chẳng làm tà mạng, sáu là bình đẳng ban cho, bảy là chẳng tự căng cao, tám là chẳng khinh miệt người.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu chín pháp khiến nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là chín?
Một là đủ thân luật nghi, hai là đủ ngữ luật nghi, ba là đủ ý luật nghi, bốn là diệt các tham dục, năm là diệt các sân hận, sáu là diệt các ngu si, bảy là chẳng làm điều khi dối, tám là làm bạn kiên cố, chín là chẳng khinh mạn thiện tri thức.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu mười pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là mười?
Một là nghe địa ngục khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Hai là nghe súc sanh khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Ba là nghe ngạ quỉ khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Bốn là nghe chư Thiên suy não chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Năm là nghe nhân gian đói khát giặc cướp oán địch giết hại chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Sáu là Bồ Tát tự nghĩ: Giờ đây tôi phải phát khởi tinh tấn, nhẫn đến chưa được Phật độ thanh tịnh trọn chẳng lười trễ.
Bảy là khiến trong nước tôi đồ uống ăn y phục theo ý niệm liền được.
Tám là các chúng sanh trong nước tôi thọ mạng vô lượng.
Chín là các chúng sanh trong nước tôi không tâm bỉ ngã.
Mười là bao nhiêu chúng sanh trong nước tôi quyết định xu hướng Vô thượng Bồ đề.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát cầm hoa đẹp đến chỗ Như Lai, hoặc chỗ tháp Phật mà cúng dường thì nguyện rằng: Nguyện hoa đẹp nầy sắc hương thù thắng, người thấy hoa đều vui đẹp. Lúc tôi thành Phật, khiến trong nước tôi khắp nơi đầy những hoa đẹp như vậy, và những cây báu trang nghiêm mọi chỗ. Nhẫn đến hương bột hương thoa y phục uống ăn lọng báu tràng phan vàng bạc lưu ly chơn châu các thứ báu lúc dùng cúng dường cũng phải như hoa, hồi hướng công đức trang nghiêm Phật độ. Do vì Bồ Tát an trụ nơi giới luật nên tùy tâm sở nguyện đều được thành tựu.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát phải thường nhiếp lấy mười nghiệp đạo thiện đều hồi hướng Nhất thiết chủng trí. Vì thế nên lúc Bồ tát thành phật, trong Phật độ ấy bao nhiêu chúng sanh lúc sơ sanh đều có đủ mười nghiệp đạo thiện và trí xuất ly.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát đến đâu cũng khuyên các chúng sanh đều xu hướng Vô thượng Bồ đề. Chỉ ca ngợi Phật thừa mà chẳng nói đến nhị thừa và công pháp. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy các chúng sanh quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề, xa rời Thanh Văn và Bích Chi Phật. Có vô lượng Bồ Tát đầy trong nước ấy.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát đối với lợi dưỡng của người chẳng hề ngăn dứt, thấy người được lợi thì vui mừng. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy bao nhiêu chúng sanh có những đồ vật cần dùng không hề đoạn dứt, đầy đủ được đại pháp quang minh.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni có ai phạm tội thì trọn chẳng đem rao nói, chỉ tự mình an trụ trong chánh pháp. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy tất cả không có danh từ tội lỗi. Tại sao? Vì đại chúng trong nước ấy đều được thanh tịnh không có pháp tội lỗi.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thích pháp cầu pháp chẳng sanh nhiệt não, như pháp đã được nghe an trụ đúng mà tu hành. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy tất cả chúng sanh đều thích pháp cầu pháp không có nhiệt não, tu hành đúng pháp.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát đem các thứ âm nhạc cúng dường Phật pháp hồi hướng thiện căn về công đức trang nghiêm Phật độ. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy có trăm ngàn âm nhạc tự nhiên hòa tấu.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát nếu thấy chúng sanh thất niệm thì làm cho họ được chánh niệm. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy các hàng đệ tử được thiền duyệt thực.
Nầy Xá Lợi Phất! Phật độ công đức như vậy, đầy đủ biện tài Như Lai, hoặc một kiếp, hoặc hơn một kiếp nói kể chẳng hết được.
Nầy Xá Lợi Phất! Nhưng nay Phật tùy theo chỗ thích muốn của chư Bồ Tát mà lược nói như vậy. Người có chí nguyện thù thắng nghe rồi xu hướng sẽ được viên mãn công đức Phật độ.
Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu ba pháp mau được Vô thượng Bồ đề cầu Phật độ đều được thành. Những gì là ba? Một là đại nguyện thù thắng, hai là an trụ chẳng phóng dật, ba là như pháp được nghe phát khởi chánh tu hành".
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai hi hữu khéo nói pháp ấy. Vì đức Thế Tôn an trụ bất phóng dật nên được pháp Bồ đề phần. Vì an trụ chánh tu hành nên được đại Bồ đề. Vì an trụ thắng nguyện nên được Phật độ công đức trang nghiêm".
Đức Phật nói; "Đúng vậy, đúng như lời ông nói. Như thuở trước, Phật dùng đại nguyện lực thành tựu Phật độ, vì chẳng phóng dật nên được đại Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu chỉ có ngôn thuyết an trụ phóng dật mà chẳng chánh tu hành, người ấy còn chẳng đến được bực Thanh Văn huống là có thể được Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên Bồ Tát nếu muốn tự biết mình là chơn Bồ Tát thì như sở học của Bồ Tát phải học như vậy".
Bây giờ trong hội có bốn vạn Bồ Tát đứng dậy chắp tay hướng Phật mà đồng thanh bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật đã thọ ký chỗ học của Bồ Tát, chúng tôi sẽ học theo an trụ chẳng phóng dật tu hành thành tựu đầy đủ đại nguyện nghiêm tịnh Phật độ".
Đức Phật vui vẻ mỉm cười.
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật có duyên cớ gì mà hiện mỉm cười?
Đức Phật hỏi:
"Ông có thấy chư thiện nam tử sư tử hống ấy chăng?".
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật:
"Vâng, đã thấy".
Đức Phật nói:
"Nầy Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử ấy, quá trăm ngàn kiếp, đều riêng ở cõi khác được Vô thượng Chánh giác đồng hiệu Nguyện Trang Nghiêm Như Lai đủ mười đức hiệu cũng như đương lai Sư Tử Phật v.v... Cõi ấy thanh tịnh như nước của Vô Lượng Thọ Phật chỉ trừ thọ lượng đều thọ mười kiếp".
Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát liền từ tòa đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi đồnh chơn Bồ Tát đây được chư Phật Thế Tôn thường khen tặng, bao lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề? Phật độ sẽ được như thế nào".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Ông nên hỏi Văn Thù Sư Lợi".
Sư Tử Dũng Mãnh hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng:
"Chừng nào Ngài sẽ được Vô thượng bồ đề?".
Văn Thù Sư lợi nói:
"Sao Ngài chẳng hỏi tôi có xu hướng Bồ đề chăng mà lại hỏi tôi thành Bồ đề. Tại sao? Vì ở nơi Bồ đề, tôi còn chẳng xu hướng huống là sẽ được".
Sư Tử Dũng Mãnh hỏi:
"Ngài há chẳng vì lợi ích chúng sanh mà đến Bồ đề ư?".
Văn Thù Sư Lợi nói:
"Không. Tại sao? Vì chúng sanh bất khả đắc vậy. Nếu chúng sanh là có thì có thể vì làm lới ích mà hướng đến Bồ đề. Nhưng chúng sanh thọ mạng va nhân đều vô sở hữu, nên nay tôi chẳng đến Bồ đề cũng chẳng thối chuyển".
Sư Tử Dũng Mãnh nói: ” Ngài có xu hướng chư Phật pháp chăng?"
Văn Thù Sư Lợi nói:
"Không. Thưa Ngài, tất cả các pháp đều xu hướng Phật pháp. Tại sao? Các pháp vô lậu vô hệ vô hình vô tướng là xu hướng Phật. Như xu hướng Phật các pháp cũng vậy. Thưa Ngài! Như lời Ngài hỏi xu hướng Phật pháp, nay tôi hỏi Ngài tùy ý Ngài đáp. Là sắc cầu Bồ đề ư? Là sắc bổn tánh cầu, là sắc như cầu, là sắc tự thể cầu, là sắc không cầu, là sắc ly cầu, là sắc pháp tánh cầu Bồ đề ư? Thưa Ngài! Là sắc được Bồ đề ư? Nhẫn đến là sắc pháp tánh được Bồ đề ư?".
Sư Tử Dũng Mãnh đáp:
"Không, thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi. Sắc chẳng cầu Bồ đề, nhẫn đến sắc pháp tánh chẳng cầu Bồ đề. Sắc chẳng được Bồ đề, nhẫn đến sắc pháp tánh chẳng được Bồ đề".
Văn Thù Sư Lợi hỏi:
"Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Thọ tưởng hành thức cầu Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh cầu Bồ đề ư? Thức được bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh được Bồ đề ư?.
Sư Tử Dũng Mãnh đáp:
"Không. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thọ tưởng hành thức chẳng cầu Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh chẳng cầu Bồ đề. Thức chẳng được Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh chẳng được Bồ đề".
Văn Thù Sư Lợi hỏi:
"Rời lìa ngũ uẩn có ngã, ngã sở chăng?".
- Không. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Đúng vậy. Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Lại còn lấy pháp gì để cầu Bồ đề và được Bồ đề!
- Thưa Ngài Văn Thù Sư lợi! Lời Ngài nói đại chúng đều kính tin. Nay Ngài nói chẳng cầu Bồ đề chẳng được Bồ đề, hàng tân phát ý Bồ Tát nghe lời nầy sẽ sanh kinh sợ.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có kinh sợ. Trong thiệt tế cũng không kinh sợ. Đức Như Lai vì người không kinh sợ mà thuyết pháp. Nếu người kinh sợ thì họ sanh nhàm. Nếu sanh chán nhàm thì họ ly dục. Nếu ly dục thì họ giải thoát. Nếu giải thoát thì không Bồ đề. Nếu không Bồ đề thì là vô trụ. Nếu họ vô trụ thì là vô khứ. Nếu vô khứ thì là vô lai thì là vô nguyện cầu. Nếu không nguyện cầu thì chẳng thối chuyển. Nếu chẳng thối chuyển thì là thối chuyển. Thối chuyển những pháp gì? Đó là chấp ngã chúng sanh thọ mạng và nhân, hoặc đoạn hoặc thường thủ tướng phân biệt thảy đều thối chuyển cả. Nếu kia thối chuyển thì là chẳng thối chuyển. Chẳng thối chuyển những pháp gì? Đó là không vô tướng vô nguyện thiệt tế và các Phật pháp đều chẳng thối chuyển. Sao gọi là Phật pháp? Nghĩa là chẳng rời chẳng dính và không sở duyên, không nhập không xuất không có sở hành cũng không biểu thị, chỉ có giả danh, không, vô sanh, vô khứ vô lai, vô nhiễm vô tịnh, không trần, lìa trần, không ngã, không phân biệt, không hòa hiệp, không chấp thủ, bình đẳng không trái, đây là Phật pháp.
Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Các Phật pháp ấy chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Tại sao? Vì các Phật pháp không chỗ sanh vậy. Hàng tân phát ý Bồ Tát kia nghe lời nầy nếu sanh kinh sợ thì mau được Bồ đề. Nếu khởi tâm phân biệt mà nghĩ rằng nay chúng tôi được thành Bồ đề, tùy có phát tâm an trụ nơi hiện chứng mới được Bồ đề. Nếu chẳng phát tâm thì trọn chẳng được. Vì các phân biệt nầy đều chẳng sanh nên Bồ đề và tâm đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc thì vô phân biệt. Nếu vô phân biệt thì không hiện chứng. Tại sao? Vì sở nhân hiện chứng bất khả đắc vậy.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Hư không có thể được Bồ đề chăng?
- Không, thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Đức Như Lai há chẳng nói tất cả pháp đồng hư không ư?
- Đúng vậy. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Như hư không Bồ đề cũng vậy. Như Bồ đề hư không cũng vậy. Hư không với Bồ đề không hai không khác. Nếu Bồ Tát biết nghĩa bình đẳng nầy thì không có tri cũng không bất tri cũng không bất kiến".
Lúc nói pháp ấy, có một vạn bốn ngàn Tỳ Kheo tận các lậu tâm được giải thoát, mười hai na do tha Tỳ Kheo xa trần rời cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh, chín vạn sáu ngàn chúng sanh phát tâm Bồ đề, năm vạn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Sư Tử Đũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng:
"Từ khi Ngài phát tâm Bồ Tát đến nay được bao nhiêu thời gian?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:
"Thôi đi, Ngài chớ sanh vọng niệm. Nếu có ai ở trong pháp vô sanh mà nói rằng tôi phát tâm Bồ đề, tôi làm hạnh Bồ đề là đại tà kiến.
Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Tôi trọn chẳng thấy có tâm phát hướng Bồ đề. Do chẳng thấy tâm và Bồ đề nên không có phát".
Sư Tử Dũng Mãnh hỏi:
"Ngài Văn Thù Sư Lợi trọn chẳng thấy tâm, đó là cú nghĩa gì?".
Văn Thù Sư Lợi nói:
"Thưa Ngài! Là trọn chẳng thấy gọi là bình đẳng.
- Thế nào nói là bình đẳng? Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Bình đẳng như vậy bởi các thứ tánh đều vô sở hữu. Các pháp ấy vì là một vị nên nói. Một vị nói ấy, đó là rời lìa vậy, không nhiễm không tịnh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng sanh chẳng diệt, không ngã không thọ, chẳng thủ chẳng xả. Thuyết pháp như vậy, chẳng quan niệm tôi nói cũng không phân biệt. Ở trong pháp bình đẳng ấy mà biết rõ tu hành thì gọi là bình đẳng.
Lại nữa, thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát nhập vào bình đẳng ấy thì trọn chẳng thấy có các thứ giới hoặc ít hoặc nhiều. Ở trong bình đẳng chẳng thấy bình đẳng, ở trong tương vi chẳng thấy tương vi. Tại sao? Ví nó bổn lai tánh thanh tịnh vậy".
Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chẳng chịu nói mình phát tâm bao lâu mà đại chúng đều muốn nghe".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Văn Thù Sư Lợi là bực trí nhẫn thậm thâm. Ở trong trí nhẫn thậm thâm ấy, Bồ đề và tâm đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên chẳng nói. Nhưng nầy thiện nam tử! Nay Phật sẽ nói Văn Thù Sư Lợi phát tâm lâu mau. Nầy thiện nam tử! Thuở quá khứ lâu xa quá bảy mươi vạn a tăng kỳ hằng sa kiếp, có Phật hiệu Lôi Âm Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất thế tại phương Đông cách đây bảy mươi hai na do tha Phật độ, thế giới ấy tên Vô Sanh, Lôi Âm Như Lai thuyết pháp tại đó. Chúng Thanh Văn có tám mươi ức na do tha. Chúng Bồ Tát nhiều gấp bội.
Bấy giờ có vua tên Phổ Phúc đủ bảy báu trị bốn thiên hạ với chánh pháp lý làm Chuyển Luân Vương. Trong thời gian tám vạn bốn ngàn năm, vua Phổ Phúc thường cung kính cúng dường Phật Lôi Âm với những y phục uống ăn cung điện đền đài đẹp tốt, cũng thường cung kính cúng dường chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn.
Thân tộc của vua, nội cung thể nữ vương tử đại thần chỉ chuyên lo cúng dường mà không làm gì khác. Dầu thời gian nhiều năm mà không ai mỏi nhọc.
Sau thời gian ấy, nhà vua ở vắng một mình suy nghĩ: nay tôi đã nhóm họp căn lành quang đại mà còn chưa định chỗ hồi hướng, vì cầu Đế Thích, Phạm Vương, Chuyển Luân Vương chăng? Vì cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật chăng?
Lúc vua nghĩ như vậy rồi, trên không có chư Thiên bảo rằng: Đại Vương chớ phát khởi tâm kém hẹp ấy. Tại sao? Vì phước đức của vua đã họp được rất nhiều, vua nên phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nghe lời khuyến cáo ấy, vua Phổ Phúc vui mừng nghĩ rằng nay tôi ở nơi đây quyết định chẳng lui, vì chư Thiên biết lòng tôi nên đến khuyến cáo. Nhà vua đem tám mươi ức na do tha trăm ngàn người đến chỗ Phật Lôi Âm, đảnh lễ chân Phật, hữu nhiễu bảy vòng, cúi mình cung kính chắp tay nói kệ bạch Phật:
"Nay tôi lễ Thế Tôn
Mong vì tôi chỉ dạy
Làm sao được thành tựu
Đấng Thế Tôn tối thượng
Chỗ nương nhờ cho đời
Tôi đã rộng cúng dường
Bởi tâm chẳng quyết định
Chưa biết chỗ hồi hướng
Tôi đã tu phước lớn
Nên hồi hướng chỗ nào
Là cầu ngôi Chuyển Luân
Đế Thích hay Phạm Vương
Là cầu quả Thanh Văn
Hay cầu Bích Chi Phật
Lúc tôi nghĩ như vậy
Trên không chư Thiên bảo
Đại Vương chớ nên phát
Tâm hồi hướng kém hẹp
Nên vì các chúng sanh
Mà phát nguyện rộng lớn
Vì lợi ích thế gian
Nên phát tâm Bồ đề
Nay tôi thỉnh Thế Tôn
Đấng Pháp Vương tự tại
Mong nói các phương tiện
Phát khởi tâm Bồ đề
Phát tâm Bồ đề rồi
Sẽ được như Thế Tôn
Duy nguyện đức Thế Tôn
Vì tôi tuyên nói đủ".
Bấy giờ đức Lôi Âm Như Lai vì vua Phổ Phúc mà nói kệ rằng:
"Đại Vương nên lắng nghe
Phật sẽ thứ đệ nói
Tất cả pháp nhân duyên
Tùy căn dục thật hành
Như sở nguyện đã có
Được quả báo như vậy
Phật ở thuở quá khứ
Cũng phát tâm Bồ đề
Vì tất cả chúng sanh
Nguyện làm lợi ích họ
Như chỗ Phật phát nguyện
Như xưa đã phát tâm
Được bất thối Bồ đề
Ý nguyện mau viên mãn
Đại Vương phải kiên cố
Tu tập các công hạnh
Vua sẽ được vô thượng
Phật Bồ đề quảng đại".
Vua Phổ Phúc nghe Phật nói vui mừng hớn hở được chưa từng có, liền ở trước đại chúng đại sư tử hống mà nói kệ rằng:
"Nay đối trước đại chúng
Phát tâm đại Bồ đề
Vì mỗi mỗi chúng sanh
Thệ tận vị lai tế
Thọ vô lượng sanh tử
Mà làm lợi ích lớn
Tu đủ hạnh Bồ Tát
Cứu các chúng sanh khổ
Từ nay nếu trái thệ
Phát khởi tâm tham dục
Bỏn xẻn ganh oán hờn
Là dối Phật mười phương
Tôi từ ngày hôm nay
Nhẫn đến thành Bồ đề
Thường phải học chư Phật
Tu hành các phạm hạnh
Tùy thuận giới thanh tịnh
Xa rời các lỗi lầm
Tôi ở nơi Bồ đề
Cũng chẳng nguyện mau chứng
Sẽ tận vị lai tế
Rộng lợi ích chúng sanh
Nghiêm tịnh các Phật độ
Vô lượng bất tư nghị
Sẽ khiến danh hiệu tôi
Nghe khắp mười phương cõi
Nay tôi tự thọ ký
Quyết định sẽ thành Phật
Chí nguyện thắng thanh tịnh
Nơi đây vốn không nghi
Tôi sẽ sạch ba nghiệp
Chẳng cho sanh các ác
Tôi dùng chơn thiệt nầy
Thành Phật Lưỡng Túc Tôn
Nếu tâm tôi chơn thiệt
Đất sẽ động sáu cách
Nếu lời tôi thành thiệt
Không có chút hư vọng
Sẽ khiến trong hư không
Âm nhạc tự nhiên trỗi
Nếu tôi không siểm khúc
Cũng không tâm oán hận
Do tâm chơn thiệt ấy
Sẽ mưa hoa mạn đà".
Lúc vua Phổ Phúc nói kệ rồi, tâm vua chơn thiệt nên mười phương các ức thế giới chấn động sáu cách, trên không âm nhạc tự nhiên hòa tấu và mưa hoa mạn đà la.
Hai mươi ức người tùy tùng nhà vua đều rất vui mừng mà tự bảo rằng chúng tôi sẽ được Vô thượng Bồ đề, rồi bắt trước nhà vua mà phát Bồ đề tâm.
Đức Phật bảo đại chúng:
"Vua Phổ Phúc thuở xưa ấy đâu phải ai khác, chính là Văn Thù Sư Lợi ngày nay vậy. Ông ấy thuở quá khứ
bảy mươi vạn a tăng kỳ hằng sa kiếp tối sơ phát tâm Bồ đề, kế đó quá sáu mươi bốn hằng sa kiếp được vô sanh pháp nhẫn hay đầy đủ Bồ Tát thập địa và thập trí lực Như Lai, các pháp ở Phật địa thảy đều viên mãn, mà ông ấy chưa từng khởi tâm, nghĩ rằng tôi sẽ thành Phật.
Nầy chư thiện nam tử! Thuở ấy, hai mươi ức người tùy tùng nhà vua đồng phát Bồ đề tâm ấy, đều do Văn Thù Sư Lợi khuyên dạy cho vào sáu Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, nay tất cả đều đã chứng Vô thượng Bồ đề chuyển đại pháp luân, xong Phật sự, nhập Niết bàn. Văn Thù Sư Lợi đều cúng dường chư Phật ấy và hộ trì chánh pháp của chư Phật ấy. Chỉ còn có một đức Phật hiện tại là Địa Trì Sơn Như Lai ở thế giới tên Địa Trì tại Hạ phương cách đây bốn mươi hằng sa Phật độ, cũng có vô số chúng sanh Thanh Văn và Bồ Tát.
Lúc đức Phật nói nhân duyên đời trước của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, trong đại chúng có bảy ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
"Thưa Ngài! Ngài đã đầy đủ thập địa và Như Lai thập lực đầy đủ tất cả Phật pháp, cớ sao chẳng thành Vô thượng Bồ đề?".
Văn Thù Sư Lợi nói:
"Thưa Ngài! Không có đã viên mãn tất cả Phật pháp rồi lại còn chứng Bồ đề. Tại sao? Vì đã viên mãn thì chẳng nên lại chứng.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thế nào viên mãn tất cả Phật pháp?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Phật pháp viên mãn như chơn như viên mãn. Chơn như viên mãn như hư không viên mãn. Phật pháp chơn như và hư không như vậy cũng không có hai. Như Ngài hỏi rằng thế nào viên mãn tất cả Phật pháp? Như sắc viên mãn, như thọ tưởng hành thức viên mãn, Phật pháp viên mãn cũng như vậy.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là sắc v. v ... viên mãn?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Sắc được Ngài thấy, là thường hay vô thường?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đều chẳng phải cả.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Nếu pháp đã chẳng phải thường chẳng phải vô thường, nó có tăng giảm chăng?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Chẳng tăng giảm.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Nếu pháp chẳng tăng giảm thì gọi là viên mãn. Thế nào là viên mãn? Nếu ở nơi các pháp chẳng biết rõ được thì sanh phân biệt, nếu biết rõ được thì không phân biệt. Nếu không phân biệt thì không tăng giảm. Nếu không tăng giảm thì là bình đẳng. Nếu thấy sắc bình đẳng tức là sắc viên mãn. Thọ tưởng hành thức và tất cả pháp viên mãn cũng như vậy.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Từ lúc Ngài được pháp nhẫn đến nay không một tâm niệm nguyện thành Chánh giác, nay sao lại khuyên người xu hướng Bồ đề?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Tôi thiệt chẳng hề khuyên một chúng sanh xu hướng Bồ đề. Tại sao? Vì chúng sanh vô sở hữu vậy. Vì chúng sanh tánh tự ly vậy. Nếu chúng sanh là có thì khiến họ xu hướng Bồ đề. Chúng sanh đã bất khả đắc nên không có được khuyên. Tại sao? Vì là bình đẳng vô phân biệt vậy. Chẳng phải đem bình đẳng cầu bình đẳng, cũng không có khởi. Vì thế nên thường nói rằng phải quan sát các hành: tới không từ đâu, đi không đến đâu, đây gọi là bình đẳng, là tánh không. Ở trong tánh không, chẳng có sở cầu.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Như lời Ngài hỏi tôi rằng từ lúc đắc nhẫn đến nay không có một niệm tâm sẽ được Bồ đề! Thưa Ngài! Ngài có thấy tâm ấy chăng, mà dùng tâm ấy được Bồ đề chăng?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Không. Tại sao? Vì tâm chẳng
phải sắc nên chẳng thấy được. Bồ đề cũng vậy chỉ là danh tướng thôi. Hoặc tâm danh hay Bồ đề danh đều vô sở hữu cả.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Như lời Ngài nói tôi chẳng sanh một niệm tâm được Bồ đề, đó là mật ý mà nói. Tại sao? Vì tâm bổn lai không có sanh nên là vô sanh. Đã vô sanh thì gì được gì chứng?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Sao gọi là bình đẳng chứng nhập?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Ở trong các pháp mà không buộc dính thì gọi là bình đẳng chứng. Nói chứng nhập là trí vi tế ấy chẳng sanh diệt không khác với chơn như không phân biệt, đây gọi là chứng nhập. Nếu là người chánh kiến tu hành thì trong bình đẳng không có một pháp để được, rời lìa các thứ tánh, cũng chẳng dính mắc nơi một, đây gọi là chứng nhập. Nếu dùng thân chứng các pháp vô tướng, biết rõ tướng ấy là vô tướng, mà đối với thân tâm cũng chẳng chấp trước, đây gọi là viên mãn chứng nhập.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là được?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Do ngôn thuyết thế gian mà gọi là được. Chỗ được của chư Thánh chẳng phải ngôn ngữ nói được. Tại sao? Vì pháp không y chỉ rời lìa ngôn thuyết ấy.
Lại nữa, thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Lấy không được làm được, cũng chẳng phải được chẳng phải chẳng được gọi đó là được".
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật:
"Bạch đức Thế Tôn! Xin nói Phật độ của Văn Thù Sư Lợi được".
Đức Phật bảo Ngài Sư Tử Dũng Mãnh hỏi nơi Ngài Văn Thù Sư Lợi.
Sử Tử Dũng Mãnh Bồ Tát bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
"Thưa Ngài! Ngài sẽ được Phật độ công đức trang nghiêm nào?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:
"Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Nếu tôi cầu Bồ đề, Ngài có thể hỏi Phật độ sẽ được.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngài há lại chẳng cầu Bồ đề ư?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Tôi chẳng cầu. Tại sao? Vì nếu có chỗ cầu thì có nhiễm trước, nếu có nhiễm trước thì có tham ái, nếu có chỗ ái thì có chỗ sanh, nếu có sanh thì có ái, nếu có ái thì trọn chẳng xuất ly. Vì thế nên tôi chẳng cầu Bồ đề. Tại sao? Vì Bồ đề bất khả đắc vậy. Do vì bất khả đắc nên chẳng cầu.
Nhưng Ngài hỏi tôi Phật độ nào tôi sẽ được. Tôi không thể nói. Tại sao? Vì đối với đức Như Lai Nhất thiết trí mà tự nói Phật độ công đức trang nghiêm của mình, thì thành ra Bồ Tát tự khen công đức của mình".
Đức Phật nói:
"Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể tự nói dùng những nguyện gì trang nghiêm Phật độ. Khiến chư Bồ Tát nghe rồi quyết định thành mãn nguyện ấy".
Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi tuân lời Phật, liền đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng: ” Bạch Thế Tôn! Nay tôi thừa thần lực Phật sẽ tuyên nói, những ai muốn cầu đại Bồ đề đều nên lắng nghe. Nếu nghe điều nguyện ấy phải như thiệt tu học cho được viên mãn".
Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát gối hữu chấm đất, mười phương đều có hằng sa Phật độ chấn động sáu cách.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật; "Bạch Thế Tôn! Tôi từ thuở xa xưa trăm ngàn ức na do tha a tăng kỳ kiếp đến nay phát khởi nguyện như vầy:
Tôi dùng thiên nhãn vô ngại thấy trong vô lượng vô biên Phật độ có tất cả chư Phật Như Lai, nếu chẳng phải là do tôi khuyên phát tâm quyết định Bồ đề và giáo hóa khiến tu sáu Ba la mật cho đến thành vô thượng Bồ đề, thì ở nơi Bồ đề tôi trọn chẳng nên chứng. Mà tôi quyết phải viên mãn sở nguyện nầy, rồi sau sẽ chứng Vô thượng Bồ đề".
Chư Bồ Tát đều nghĩ rằng: Ngài Văn Thù Sư Lợi dùng thiên nhãn vô ngại thấy bao nhiêu như Lai?
Đức Phật biết tâm niệm ấy mới bảo Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát rằng:
"Nầy thiện nam tử! Ví như đem cả tam thiên Đại Thiên thế giới nầy nghiền nát thành vi trần, có thể dùng toán số biết là bao nhiêu chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không thể biết được.
- Nầy thiện nam tử! Thiên nhãn vô ngại của Văn Thù Sư Lợi thấy vô lượng chư Phật ở phương Đông lại quá số ấy, chín phương kia cũng như vậy".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Tôi có nguyện là lấy hằng sa Phật độ làm một Phật độ vô lượng báu đẹp xen lẫn trang nghiêm. Nếu không như vậy thì tôi trọn chẳng chứng Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện khiến trong nước tôi có cây Bồ đề lượng bằng mười cõi Đại Thiên, ánh sáng của cây ấy chiếu khắp nước.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện là tôi ngồi Bồ đề rồi chứng Vô thượng Bồ đề nhẫn đến Niết bàn, trong thời gian ấy chẳng rời khỏi tòa Bồ đề mà chỉ dùng biến hóa hiện thân khắp mười phương vô lượng vô số Phật độ thuyết pháp cho các chúng sanh.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện là khiến nước tôi không tên nữ nhân, chỉ thuần có Bồ Tát rời lìa phiền não cấu đủ phạm hạnh, lúc sơ sanh ca sa theo thân ngồi kiết già bỗng nhiên hiện ra, Bồ Tát như vậy đầy khắp nước tôi. Không có tên Thanh Văn và Bích Chi Phật, ngoại trừ đức Như Lai biến hóa qua đến mười phương vì các chúng sanh nói pháp tam thừa".
Bấy giờ Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi đương lai thành Phật hiệu là gì?".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Lúc Văn Thù Sư Lợi thành Phật hiệu Phổ Kiến. Tại sao lại hiệu là Phổ Kiến? Bởi đức Như Lai ấy, ở nơi mười phương vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật độ đều khắp làm cho được thấy. Nếu các chúng sanh thấy đức Phật Phổ Kiến thì tất định sẽ được vô thượng Bồ đề.
Nay Phổ Kiến Như Lai dầu chưa thành Phật, khi ta hiện tại đây và sau khi ta nhập Niết bàn, có ai nghe danh hiệu ấy, cũng đều tất định sẽ được Vô thượng Bồ đề, chỉ trừ người đã nhập ngôi vị ly sanh và người tâm nguyện hẹp kém".
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện là như cõi nước đức Phật A Di Đà lấy pháp hỉ làm món ăn, mà trong nước tôi Bồ tát sơ sanh lúc khởi ý nghĩ ăn liền có món ăn trăm vị đầy trong bát tại tay hữu, liền nghĩ rằng nếu chưa cúng dường mười phương chư Phật và bố thí những chúng sanh nghèo cùng khổ não và ngạ quỉ v.v... cho họ no đủ thì tôi quyết định chẳng nên tự ăn. Lúc nghĩ như vậy liền được ngũ thần thông bay đi vô ngại đến mười phương vô lượng vô số Phật độ cúng dường chư Phật và chúng Thanh Văn, cùng chu cấp cho chúng sanh nghèo khổ, rồi thuyết pháp cho họ rời lìa khát ái, trong khoảng một niệm trở về đến bổn xứ.
Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện là trong nước tôi chư Bồ Tát sơ sanh cần dùng y phục, trong tay họ tùy ý xuất hiện các thứ bửu y tốt sạch vừa mặc đúng y phục của Sa Môn tự nghĩ rằng nếu chưa cúng dường mười phương chư Phật tôi chẳng nên tự dùng, trong khoảng một niệm qua đến mười phương vô lượng Phật độ, đem bửu y ấy cúng dường chư Phật rồi trở về bổn xứ mới tự thọ dụng.
Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! tôi còn có nguyện là trong nước tôi, chúng Bồ Tát được của báu và những đồ dùng, cần phải chia cúng chư Phật và chúng Thanh Văn. Khắp cúng dường rồi sau mới thọ dụng.
Trong nước tôi lại rời lìa tám nạn và pháp bất thiện. Đã không tội lỗi lại không cấm giới, không có các nhiệt não bất như ý".
Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Phật độ ấy tên là gì?".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Nước ấy tên là Tùy Nguyện Tích Tập Thanh tịnh Viên Mãn".
- Bạch đức Thế Tôn! Phật độ ấy ở phương nào?
- Nầy thiện nam tử! Phật độ ấy ở tại phương Nam. Thế giới Ta Bà nầy cũng ở trong Phật độ ấy.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện trong nước tôi chứa họp vô lượng diệu bửu làm thành. Lại dùng vô lượng báu ma ni xen lẫn trang nghiêm. Báu ma ni ấy ở trong các thế giới mười phương chưa từng có. Tên của các báu ấy, trong câu chi năm nói cũng chẳng hết được. Tùy ý thích của chư Bồ Tát muốn nước ấy bằng vàng thì thấy là vàng. Thích bằng bạc thì thấy nước ấy bằng bạc, nhưng với người thấy vàng không hề tổn giảm. Hoặc thích bằng pha lê lưu ly mã não xích chơn châu vô lượng thứ báu đều tùy sở thích mà thấy không chướng ngại nhau. Cho đến thích bằng chiên đàn hương a già la hương xích chiên đàn hương v.v... đều tùy sở thích riêng mà thấy không chướng ngại nhau.
Trong nước ấy chẳng dùng ánh sáng nhật nguyệt tinh tú châu ngọc đèn lửa để soi sáng, chư Bồ Tát ấy đều dùng ánh sáng của tự thân mình chiếu suốt ngàn ức na do tha cõi.
Trong nước ấy lấy hoa nở xòe làm ngày, hoa khép lại làm đêm, tùy ý thích thời tiết của chư Bồ Tát mà đều ứng đúng theo, nhưng không có lạnh nóng già bệnh chết. Chỉ tùy sở nguyện của chư Bồ Tát muốn chứng Bồ đề liền qua thế giới khác ở cung trời Đâu Suất mãn thọ giáng sanh mà thành Phật. Trong nước ấy không có nhập Niết bàn. Trăm ngàn thứ nhạc ở hư không, dầu chẳng hiện tướng hình mà nghe tiếng nhạc. Nhạc ấy chẳng phát thanh thuận tham ái, chỉ phát thanh Phật Pháp Tăng và các Ba la mật, các pháp môn Bồ Tát tạng. Tùy theo chỗ hiểu của chư Bồ Tát thảy đều được nghe diệu pháp.
Chư Bồ Tát nếu muốn thấy Phật, tùy chỗ đến kinh hành đứng ngồi, theo ý nghĩ liền thấy Phổ Kiến Như Lai ngồi cây Bồ Đề. Nếu các Bồ Tát có chỗ nghi, chỉ cần thấy đức Phổ Kiến Phật chẳng đợi giải thích mà liền hết nghi hiểu rõ pháp nghĩa.
Lúc ấy trong hội có vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Bồ Tát đồng thanh nói rằng:
- Nếu có ai được nghe danh hiệu Phổ Kiến Phật bèn được lợi lành tối thượng, huống là người sanh về cõi nước ấy.
- Nếu có ai được nghe pháp môn Văn Thù Sư Lợi thọ ký nầy và nghe tên Văn Thù Sư Lợi thì gọi là diện kiến chư Phật.
Đức Phật bảo chư Bồ Tát rằng: Đúng như vậy. Đúng mhư lời các ông nói. Nầy thiện nam tử. Nếu có ai thọ trì trăm ngàn ức danh hiệu chư Phật, nếu lại có ai xưng danh hiệu Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì phước nhiều hơn, huống là xưng danh hiệu Phổ Kiến Phật. Tại sao? Vì trăm ngàn ức na do tha đức Phật ấy lợi ích chúng sanh chẳng bằng Văn Thù Sư Lợi làm lợi ích trong một kiếp.
Lúc ấy trong chúng có vô lượng trăm ngàn ức na do tha Thiên Long Bát Bộ Nhân Phi Nhân đồng thanh xướng rằng:
"Nam mô Văn Thù Sư Lợi đồng Chơn bồ Tát
Nam mô Phổ Kiến Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác".
Xướng lời trên rồi có tám vạn bốn ngàn ức na do tha chúng sanh phát tâm Bồ đề. Vô lượng chúng sanh căn lành thành thục được bất thối chuyển trong ba thừa.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện như tôi đã được thấy Vô lượng vô số trăm ngàn ức na do tha chư Phật Thế Tôn, bao nhiêu Phật độ công đức trang nghiêm của chư Phật ấy tất cả đều có đủ trong một Phật độ của tôi, chỉ trừ nhị thừa và ngũ trược.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tôi tự nói các thứ công đức trang nghiêm trong Phật độ hơn hằng sa kiếp cũng nói chẳng hết. Như sở nguyện của tôi, chỉ có đức Phật biết được".
Đức Phật nói:
"Đúng vậy. Nầy Văn Thù Sư lợi! Ở trong tam thế, tri kiến của đức Như Lai không có hạn lượng chướng ngại".
Bấy giờ trong đại chúng có chư Bồ Tát nghĩ rằng: Phật độ công đức trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi được có bằng quốc độ của đức Phật A Di Đà chăng?
Đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát nên nói với Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát rằng:
"Nầy thiện nam tử! Ví như có người phân tích một sợi lông làm trăm phần, đem một phần lông chấm lấy một giọt nước trong đại hải. Một giọt nước biển ấy đem dụ cho sự trang nghiêm của quốc độ Phật A Di Đà, còn toàn nước đại hải đem lại dụ cho quốc độ trang nghiêm của Phật Phổ Kiến, lại còn hơn đây nữa. Tại sao? Vì Phật độ trang nghiêm của Phổ Kiến Như Lai chẳng thể nghĩ bàn được vậy".
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Những loại Phật độ trang nghiêm như vậy, trong tam thế chư Phật còn có quốc độ như vậy chăng?".
Đức Phật nói:
"Có. Nầy thiện nam tử! Phương Đông cách đây quá trăm ức hằng sa thế giới có Phật độ tên Trụ Tối Thượng Nguyện, có Phật hiệu Phổ Quang Thường Đa Công Đức Hải Vương Như Lai thọ mạng vô lượng vô biên thường thuyết pháp cho chúng Bồ Tát. Cõi nầy công đức trang nghiêm đồng như cõi của Phổ Kiến Như Lai.
Nầy thiện nam tử! Có bốn Bồ Tát mặc giáp hoằng thệ bất tư nghị quyết định thành mãn thệ nguyện ấy, cũng sẽ được Phật độ trang nghiêm như Phật độ của Phổ Kiến như Lai.".
Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Xin nói danh hiệu và chỗ ở của chư Bồ Tát ấy. Lại xin hiển thị quốc độ của Phổ Quang Thường Đa Công Đức Hải Vương Như Lai để cho đại chúng đây được nhiều lợi ích. Tại sao? Vì chư Bồ Tát đây nếu được thấy nghe thì ở nơi đại nguyện ấy sẽ được thành mãn".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Các ông lắng nghe, Phật sẽ nói cho. Nầy thiện nam tử! Bốn Bồ Tát ấy, một người tên Quang Minh Tràng ở tại Phật độ phương Đông của Phật Vô Ưu Đức. Người kế tên Trí Thượng ở tại Phật độ phương Nam của Phật Trí Vương. Người thứ ba tên Chư Căn Tịch Tĩnh ở tại quốc độ phương Tây của Phật Huệ Tích. Người thứ tư tên Nguyện Huệ ở tại quốc độ phương Bắc của Phật Na La Diên".
Đức Thế Tôn dùng sức thần thông hiện Phật độ của Phổ Quang Thường Đa Công Đức Hải Vương Như Lai cho trong đại hội nầy thấy đức Phật ấy và chúng Bồ Tát cùng những công đức trang nghiêm ở thế giới ấy, từ trước chưa từng thấy cũng chưa từng nghe, tất cả sự trang nghiêm ấy chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng trăm ngàn ức na do tha châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trong một kiếp nói công đức ấy cũng chẳng hết. Đại chúng đây đều thấy rõ như xem trái am ma lặc trong bàn tay. Bồ Tát cõi ấy thân cao bốn vạn hai ngàn do tuần. Thân của Phật cao tám vạn bốn ngàn do tuần, ánh sáng chiếu khắp như tòa núi vàng diêm phù đàn, thành tựu công đức trang nghiêm rộng lớn ngồi dưới cây Bồ đề, chư Bồ Tát cung kính vây quanh, hiện trăm ngàn ức những sự biến hóa qua đến trong các thế giới mười phương thuyết pháp cho các chúng sanh.
Đức Phật bảo chư Bồ Tát:
"Các thiện nam tử! Các ông có thấy Phật độ ấy trang nghiêm và chúng Bồ Tát chăng?".
Đại chúng đồng thanh bạch phật rằng:
"Vâng, chúng tôi đã thấy. Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi sẽ học hạnh Bồ Tát ấy như chỗ tu hành của Văn Thù Sư lợi, chúng tôi cũng sẽ thành tựu phật độ trang nghiêm như vậy".
Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ diện môn của Phật phóng ra nhiều tia sáng màu chiếu vô lượng vô biên thế giới, chiếu song tia sáng ấy trở lại quanh Phật ba vòng rồi rót vào đảnh phật.
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà hiện mỉm cười?".
Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
"Trong đại chúng đây có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát thấy sự trang nghiêm của Phật độ ấy, dầu đã phát tâm mà nay muốn sẽ thành tựu Phật độ như vậy. Nhưng trong số ấy có mười sáu thiện đại trượng phu đủ chí nguyện thù thắng mà phát đại tâm, họ sẽ thành mãn như đại nguyện của Văn Thù Sư lợi. Chư Bồ Tát khác cũng mau sẽ được Vô thượng Bồ đề, sẽ được Phật độ trang nghiêm như cõi nước của Phật A Di Đà.
Di Lặc nên biết, chư Bồ Tát chí nguyện đã thù thắng, chỗ thành tựu cùng lớn. Người chí nguyện thù thắng thì nói tôi thành tựu như Văn Thù Sư Lợi trang nghiêm Phật độ.
Những người chí nguyện kém dầu cũng khởi lòng tin nói lời như vậy. Do ngữ nghiệp phát ra lời ấy có thể bỏ dứt sáu mươi ức trăm ngàn na do tha kiếp sanh tử lưu chuyển, cũng được viên mãn năm ba la mật".
Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát thấy bốn phương nơi quang minh tràng, bốn đại Bồ tát đều ngồi trong lâu các lưu ly quang minh có trăm ngàn ức chư Thiên vây quanh mưa hoa trổi nhạc hiện đại thần biến chấn động đại địa mà đến cõi nầy.
Di Lặc Bồ Tát liền bạch Phật hỏi sự ấy.
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử:! Bốn Bồ Tát ấy vì thấy ta nên chư Như Lai ở bốn phương đều khiến đến đây".
Bốn Bồ Tát ấy đến đảnh lễ chân Phật rồi ngồi qua một phía, ánh sáng các Ngài chiếu khắp đại hội nầy.
Đức Phật bảo các Bồ Tát rằng:
"Nầy đại chúng! Bốn thiện đại trượng phu đây chí nguyện xu hướng đều chẳng nghĩ bàn, phải nên tôn trọng thỉnh hỏi pháp yếu ấy. Mà sở nguyện của bốn Bồ Tát ấy đối với chư Bồ Tát là tối thù thắng.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân được thấy bốn Bồ Tát ấy thì tất định sẽ được Vô thượng Bồ đề bỏ dứt hai mươi ức kiếp sanh tử lưu chuyển, đầy đủ viên mãn năm ba la mật. Nếu có nữ nhân nghe tên chư Bồ Tát thì mau rời khỏi thân nữ nhân".
Đức Phật nhiếp thần lực, cõi ấy bỗng chẳng còn hiện.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Tất cả pháp đều như huyễn. Tại sao? Ví như nhà ảo thuật huyễn biến ẩn hiện. Các pháp sanh diệt cũng như vậy. Mà sanh diệt ấy tức là không sanh diệt. Do không sanh diệt tức là bình đẳng. Bồ Tát tu bình đẳng ấy thì có thể chứng được vô thượng Bồ đề".
Trí Thượng Bồ Tát nói:
"Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Nơi Bồ đề nầy thế nào chứng được?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:
"Bồ đề nầy chẳng phải là được cũng chẳng phải là hoại được, chẳng phải an trụ được".
Trí Thượng Bồ tát nói:
"Nhưng Bồ đề nầy chẳng phải do an trụ mà được, cũng chẳng phải chẳng an trụ mà được. Tại sao? Vì pháp tánh ấy bổn lai vô sanh, chẳng phải đã có, chẳng phải sẽ có, chẳng phải hư hoặc được, vì thế nên không được".
Văn Thù Sư Lợi hỏi chư Bồ Tát rằng:
"Thế nào gọi là: Nói pháp môn nhất tướng?".
Di Lặc Bồ Tát nói:
"Nếu có người chẳng thấy uẩn giới và xứ, cũng chẳng phải chẳng thấy, không chỗ phân biệt, cũng chẳng thấy hợp tan. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Sử Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát nói: ” Nếu chẳng phát khởi các thứ phân biệt: nầy là pháp phàm phu, nầy là pháp nhị thừa, nầy thời chẳng trái pháp tánh, không phân biệt như vậy mà nhập nhất
tướng nghĩa là vô tướng. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Lạc Kiến Bồ Tát nói:
"Nếu có người tu chơn như hạnh mà cũng chẳng sanh tưởng chơn như, nơi thậm thâm nầy không chỗ phân biệt. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Vô Ngại Biện Bồ Tát nói:
"Nếu có thể cứu cánh tận hết nơi các pháp, cũng đem pháp ấy nói cho người. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Thiện Tư Bồ Tát nói:
"Nếu dùng tư nghị nhập vào bất tư nghị, bất tư nghị ấy cũng bất khả đắc. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Diệu Ly Trần Bồ Tát nói:
"Nếu có ai chẳng nhiễm tất cả tướng, cũng chẳng phải nhiễm chẳng phải chẳng nhiễm, không trái không thuận cũng chẳng mê hoặc, chẳng phải một chẳng phải hai, cũng chẳng phải các thứ, chẳng lấy chẳng bỏ. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Ta Kiệt La Bồ Tát nói:
"Nếu có ai nhập vào được pháp thậm thâm khó vào như biển, mà ở nơi pháp ấy cũng chẳng phân biệt, dầu vì người mà nói nhưng không có ý tưởng nói pháp. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Nguyệt Thượng Bồ Tát nói:
"Nếu ở nơi tất cả chúng sanh tâm hành bình đẳng dường như trăng tròn không có ý tưởng là chúng sanh. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Ly Ưu Ám Bồ Tát nói:
"Thế nào là nhổ mũi tên ưu khổ chúng sanh? Đó là ngã và ngã sở là gốc khổ của họ, nếu có thể an trụ được ngã ngã sở bình đẳng. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Vô Sở Duyên Bồ Tát nói:
"Nếu chẳng phan duyên dục giới, sắc giới, vô sắc giới, pháp Thanh Văn, pháp Duyên Giác, pháp chư Phật. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Phổ Kiến Bồ Tát nói:
"Nếu lúc thuyết pháp nên nói pháp bình đẳng, nghĩa là tánh không bình đẳng cũng không có ý tưởng là không và ý tưởng là bình đẳng. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Tịnh Tam Luân Bồ Tát nói:
"Nếu lúc thuyết pháp phải tịnh tam luân, nghĩa là chúng sanh được dạy, ngã bất khả đắc, cũng chẳng phân biệt mình làm Pháp Sư, nơi pháp được nói mà không trụ trước. Thuyết pháp như vậy gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Thành Tựu Hạnh Bồ Tát nói:
"Nếu có ai có thể nói nơi tất cả pháp, tu bình đẳng hạnh, chỗ biết như thiệt chẳng văn phải văn tự thuyết, vì tất cả pháp rời lìa ngôn thuyết vậy. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Thâm Hạnh Bồ Tát nói:
"Nếu ai có thể thuyết pháp rõ thấu tất cả pháp thậm thâm, cũng chẳng thấy năng thuyết sở thuyết kia và người được nghe. Đây gọi là: Nói pháp môn nhất tướng".
Lúc nói pháp môn nhất tướng ấy, ba mươi bảy ức Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn. Tám vạn bốn ngàn na do tha trăm ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Bảy ngàn Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tận hết các hữu lậu tâm được giải thoát. Chín mươi sáu na do tha chư Thiên và Nhân ở trong các pháp được nhãn tịnh.
Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bao lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề? Phật ấy thọ mạng và chúng Bồ Tát có bao nhiêu?".
Đức Phật bảo hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:
"Thưa Ngài! Bao giờ Ngài sẽ được Vô thượng Bồ đề".
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:
"Nầy thiện nam tử! Chừng nào hư không giới làm sắc thân, tôi mới sẽ được Vô thượng Bồ đề. Nếu ảo nhân được Bồ đề thì tôi mới sẽ được. Nếu lậu tận A La Hán là Bồ Tát thì tôi mới sẽ được. Nếu lúc nào mộng hưởng ảnh và hóa nhân được Bồ đề tôi mới sẽ được. Nếu mặt nguyệt chiếu làm ngày, mặt nhật chiếu làm đêm tôi mới sẽ được Vô thượng Bồ đề. Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Lời hỏi của Ngài nên đem hỏi người cầu Bồ đề".
Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát nói:
"Ngài há chẳng cầu Bồ đề ư?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:
"Chẳng có cầu. Tại sao? Vì Văn Thù Sư Lợi tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Văn Thù Sư Lợi. Tại sao? Vì Văn Thù Sư Lợi chỉ có danh từ, Bồ đề cũng chỉ có danh từ. Danh từ ấy cũng là ly là vô tác nên là không. Không tánh ấy tức là Bồ đề".
Đức Phật hỏi Ngài Sư Tử Dũng Mãnh rằng:
"Nầy thiện nam tử! Ông có nghe thấy các chúng hội Thanh Văn và Bồ Tát của A Di Đà Như Lai chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Tôi có thấy nghe.
- Nầy thiện nam tử! Số ấy là bao nhiêu?
- Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải toán số nghĩ bàn đến được.
- Nầy thiện nam tử! Như pháp đo lường của nước Ma Kiệt, một hộc dầu mè, lấy một hột tỉ dụ cho chúng Thanh Văn và Bồ Tát ở nước Phật A Di Đà. Còn bao nhiêu thì tỉ dụ lúc Văn Thù Sư Lợi được Bồ đề số chúng Bồ Tát, lại còn quá số ấy.
Nầy thiện nam tử! Như đem tam thiên Đại Thiên thế giới vi trần số kiếp so với số kiếp thọ lượng của Phổ Kiến Như Lai, trăm phần ngàn phần trăm ngàn ức phần, nhẫn đến toán số thí dụ chẳng bằng được. Nên biết thọ mạng của Phổ Kiến Như Lai không có toán số cũng không hạn lượng.
Ví như có một người đem tam thiên Đại Thiên thế giới nghiền nát ra vi trần, người thứ hai người thứ ba cũng đem Đại Thiên thế giới nghiền nát ra vi trần. Lại có một người mang vi trần ấy đi qua phương Đông quá chừng ấy số vi trần thế giới mới bỏ xuống một vi trần, lại đi quá vi trần số thế giới nữa mới bỏ xuống một vi trần, thứ đệ đi và bỏ như vậy đến hết số những vi trần. Lại chín phương kia mỗi phương cũng đều có một người đi và bỏ đến hết vi trần như vậy. Nầy các thiện nam tử! Những thế giới mười phương được đi qua ấy có thể biết được số chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không thể biết.
- Nầy thiện nam tử! Tất cả thế giới mà các người ấy đã đi qua, hoặc có dính vi trần hay không đều đem nghiền nát thành vi trần. Có thể toán số biết được số vi trần ấy chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không thể biết được. Nếu có ai tính lường thì tâm sẽ mê loạn mà chẳng biết được.
- Nầy thiện nam tử! Chư Phật Như Lai đều biết rõ hết số vi trần ấy. Giả sử có quá số ấy, Như Lai cũng biết rõ"
- Di Lặc Bồ Tát bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát vì cầu đại trí huệ như vậy, nên dầu ở địa ngục vô lượng ức kiếp thọ khổ cũng trọn chẳng bỏ rời trí ấy".
Đức Phật nói:
"Đúng như vậy. Đúng như lời Di Lặc nói. Có ai ở trong đại trí huệ ấy mà chẳng sanh lòng thích muốn. Chỉ trừ kẻ hạ liệt và người giải đãi".
Lúc Phật nói trí ấy, có một vạn người phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát rằng:
"Nầy thiện nam tử! Như tất cả thế giới mười phương mà mười phương ấy đã đi đều làm thành vi trần hết, Văn Thù Sư Lợi sẽ ở trong kiếp vi trần ấy thật hành Bồ Tát đạo. Tại sao? Vì đại nguyện của Văn Thù Sư Lợi chẳng thể nghĩ bàn, xu hướng cũng chẳng thể nghĩ bàn, được Bồ đề rồi thọ lượng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chúng hội Bồ Tát cũng chẳng thể nghĩ bàn".
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi xu công hạnh sở tu rất lớn, sở nguyện cũng rất quảng đại mới ở nơi bấy nhiêu vi trần số kiếp mà chẳng sanh mỏi mệt".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:
"Đúng vậy. Đúng như lời Ngài nói. Thưa Ngài! Hư không giới có nghĩ rằng đã qua ngày đêm thời tiết tháng năm số kiếp v. v.. . chăng?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Không vậy.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Đúng vậy, nếu có ai tỏ biết tất cả pháp đồng với hư không, trí vi tế ấy không có phân biệt, cũng không quan niệm rằng trải qua ngày đêm thời tiết tháng năm các kiếp số v. v.. . Tại sao? Vì trí vi tế ấy ở nơi các pháp không có tưởng niệm vậy.
- Nầy thiện nam tử! Như hư không giới không có mỏi mệt và ý tưởng nhiệt não. Tại sao? Dầu cho quá hằng sa kiếp, hư không giới cũng không sanh khởi cũng không thiêu diệt, chẳng phải bị phá hoại được. Tại sao? Vì hư không giới vô sở đắc vậy.
Nầy thiện nam tử! Nếu Bồ Tát rõ biết tất cả pháp vô sở hữu rồi thì cũng có ý tưởng nhiệt não và mỏi mệt v. v.. .
Nầy thiện nam tử! Danh từ hư không ấy cũng không có thiêu diệt nhiệt não mỏi mệt, cũng chẳng động lay, chẳng sanh chẳng lão, chẳng đến chẳng đi. Danh hiệu Văn Thù Sư Lợi cũng vậy, không có nhiệt não mỏi mệt v .v. .. Tại sao? Vì danh tự tánh ly vậy".
Lúc nói pháp ấy, Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương và chư Thiên Tử đại oai đức đồng thanh xướng rằng:
"Các chúng sanh nghe pháp môn ấy đước lợi lành lớn, huống là thọ trì đọc tụng. Nên biết họ được thiện căn rất rộng lớn.
Bạch đức Thế Tôn! Nơi pháp môn ấy, chúng tôi thọ trì đọc tụng rộng tuyên lưu bố, vì chúng tôi muốn hộ trì pháp thậm thâm ấy".
Sư Tử Dũng Mãnh bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Nếu có ai được nghe pháp môn ấy, thọ trì đọc tụng suy gẫm và phát tâm công đức trang nghiêm phật độ như vậy được bao nhiêu phước?".
Đức Phật nói:
"Nầy thiện nam tử! Đức Như Lai dùng vô ngại nhãn thấy chư Phật và Phật độ của chư Phật, nếu có Bồ Tát đem thất bửu đầy những phật độ ấy để cúng dường mỗi mỗi Như Lai đều cùng tận vị lai tế, khiến Bồ Tát nầy an trụ tịnh giới, với tất cả chúng sanh được tâm bình đẳng. Nếu lại có Bồ Tát ở nơi pháp môn công đức trang nghiêm Phật độ nầy mà thọ trì đọc tụng, lại có thể phát tâm theo sở học của Văn Thù Sư Lợi đi bảy bước. Hai công đức sau nầy đem so với công đức cúng dường thất bửu trên kia, thì công đức trên trăm phần chẳng bằng một, nhẫn đến thí dụ toán số chẳng đếm được".
Di lặc Bồ Tát bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Pháp môn nầy tên là gì, và chúng tôi phải thọ trì thế nào?".
Đức Phật nói:
"Pháp môn nầy tên là chư Phật du hí, cũng tên là chư nguyện cứu cánh, cũng tên là Văn Thù Sư Lợi công đức trang nghiêm Phật độ, cũng tên là linh phát Bồ đề tâm Bồ Tát hoan hỉ, cũng tên là Văn Thù Sư Lợi thọ ký, nên thọ trì như vậy".
Bấy giờ chư Bồ Tát từ mười phương đến muốn cúng dường pháp môn ấy nên mưa các thứ hoa và ca ngợi rằng:
"Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thế Tôn! Chúng tôi được nghe pháp môn bất tư nghị Văn thù Sư Lợi sư tử rống trang nghiêm".
Chư Bồ Tát nói lời ấy rồi đều trở về bổn độ.
Lúc nói pháp nầy, có hằng sa Bồ Tát được bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh thiện căn thành thục.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi liền nhập tam muội tên Bồ Tát xuất sanh quang minh phổ chiếu như huyễn. Nhập tam muội rồi làm cho chúng hội nầy thấy khắp tất cả Như Lai trong vô lượng vô biên Phật độ mười phương. Trước mỗi đức Như Lai đều có Văn Thù Sư lợi Bồ Tát nói Phật độ công đức trang nghiêm của mình. Chúng tôi được thấy như vậy rồi, đối với đại nguyện thù thắng của Văn Thù Sư Lợi sanh lòng hi hữu.
Phật nói kinh nầy rồi, tất cả Bồ Tát, chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà Di, Thiên Long Bát Bộ, Nhân và Phi Nhân, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
XIII.PHÁP HỘI BỒ TÁT KIẾN THIÊT THỨ MƯỜI SÁU
PHẨM
TỰ
THỨ NHẤT
Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở tại nước Ca Tỳ La Vệ rừng Ni Cư Đà, cùng với chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Tên các Ngài là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, tất cả đều là đại A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, tâm tự tại, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát, như đại long tượng, chỗ làm đã xong, đều bỏ gánh nặng đến được tự lợi hết các kiết sử ở trong chánh giáo tâm được thiện giải, nơi tất cả pháp tâm không chỗ ngại, đến nơi bờ kia, tự được giải thoát và giải thoát quyến thuộc, tự được điều phục và điều phục kiến thuộc, tự được tịch định và tịch định quyến thuộc, tự được độ thoát và độ thoát quyến thuộc, tự đến bờ kia và làm quyến thuộc đến bờ, tự đến lục địa và làm quyến thuộc đến lục địa, tự được an ổn và an ổn quyến thuộc, tự được tịch diệt và tịch diệt quyến thuộc, tự phá phiền não và phá phiền não cho quyến thuộc, tự được Sa Môn và Sa Môn quyến thuộc, tự được dứt ác và dứt ác quyến thuộc, tự được Bà La Môn và Bà La Môn quyến thuộc, tự trừ ác pháp và trừ ác pháp quyến thuộc, tự biết rõ các pháp và làm quyến thuộc biết rõ, tự mình đắc độ và hay đắc độ quyến thuộc, tự đủ các đức và làm quyến thuộc đủ các đức, tự không phiền não và làm không phiền não cho quyến thuộc, tự lìa năm chi và làm quyến thuộc lìa năm chi, tự được lìa chướng và làm quyến thuộc lìa chướng, tự được tịnh ý và làm quyến thuộc được tịnh ý, tự được lục thông và làm quyến thuộc đủ lục thông, tự lìa ghét yêu giải thoát và làm quyến thuộc lìa ghét yêu giải thoát, tự thủ hộ nhất tâm và làm quyến thuộc thủ hộ nhất tâm, tự niệm môn cụ túc và làm quyến thuộc niệm môn cụ túc, tự y tứ y và làm quyến thuộc y tứ y, tự rời lìa các kiến chấp và làm cho quyến thuộc lìa kiến chấp, tự bỏ các hi vọng và làm cho quyến thuộc bỏ hi vọng, tự được tận hành và làm cho quyến thuộc tận hành, tự được sự việc xong và làm cho quyến thuộc sự việc xong, tự tu và làm cho quyến thuộc tự tu, tự không trược niệm và làm cho quyến thuộc không trược niệm, tự đoạn dứt hữu giác và làm cho quyến thuộc đoạn hữu giác, tự nương thân hành và làm cho quyến thuộc nương thân hành, tự được thích bất động và làm cho quyến thuộc thích bất động, tự tâm thiện giải thoát và làm cho quyến thuộc tâm thiện giải thoát, tự huệ thiện giải thoát và làm cho quyến thuộc huệ thiện giải thoát, tự được hiền thánh và làm cho quyến thuộc được hiền thánh, các bực như vậy đượcc rời lìa nhánh lá trù bỏ da thứa, chỉ có tâm thiệt an trú mà an trụ.
Bấy giờ đức Thế Tôn vào lúc cuối đêm ngồi ngoài đất trống, chúng Tỳ Kheo vây quanh bốn mặt.
Đức Thế Tôn quan sát chúng Tỳ Kheo rồi bảo rằng: "Các ông dò tìm một người có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương".
Huệ Mạng A Nhã Kiều Trần Như đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay tác lễ rồi bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn!
Tôi đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương được chăng?".
Đức Phật nói: "Thôi, nầy Kiều Trần Như! Nay ông đầy đủ đức của bực đại sư chẳng nên đến đó".
Các Ngài Huệ Mạng Bà Sáp Mô, Gia Du Đà, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên đều lần lượt bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tôi có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương".
Đức Phật nói: "Thôi, các ông đều đầy đủ pháp tôn trọng của bực đại sư chẳng nên đến đó giáo hóa".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên tự nghĩ nay đức Thế Tôn muốn ai đến giáo hóa Tịnh Phạn vương? Nghĩ xong liền nhập như thiệt tam muội, dùng sức tam muội trang nghiêm tâm mình liền thấy được ý của Phật muốn Huệ Mạng Ca Lưu Đà Di đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương. Ví như trong cửa sổ lầu gác nhiều từng, ánh sáng mặt nhật chiếu vào vách phía Tây, Đại Mục Kiền Liên thấy tâm của Phật chuyên ở Ca Lưu Đà Di muốn bảo đi giáo hóa phụ vương cũng như vậy.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên xuất định đến chỗ Tôn giả Ca Lưu Đà Di mà nói rằng: "Tâm niệm của Thế Tôn biết Ngài có thể giáo hóa Tịnh Phạn Vương, nay Ngài phát đại dũng mãnh mau đến giáo hóa".
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói: "Thứ dân còn khó giáo hóa huống là quốc vương. Tại sao? Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh có sức tự tại khó giáo hóa được. Ví như chứa họp củi khô hoặc hai năm ba năm đến ngàn năm, củi tích chứa lâu năm như vậy rất là khô ráo, bấy giờ có người phóng hỏa đốt thành ngọn lửa lớn. Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên! Khối lửa ấy chừng có lớn chăng?".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: "Rất lớn".
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói: "Nếu lại có người đem vô lượng dầu tô tưới vào, khối lửa ấy có thêm thạnh chăng?".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: "Càng thạnh hơn gấp bội".
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói: "Có thể đến gần khối lửa ấy chăng?".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: "Khó gần được".
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói: "Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh ấy, khó có thể giáo hóa, khó đến gần cũng như vậy.
Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên! Ví như ngà của voi cuồng có nên đụng chạm được chăng?".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: "Chẳng nên đụng chạm".
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói: "Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh khó giáo hóa được cũng như vậy".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: "Đức Thế Tôn tâm niệm biết Ngài có khả năng đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương vậy".
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói: "Có thiệt đức Thế Tôn nghĩ rằng tôi có khả năng đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương chăng?".
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói: "Đức Thế Tôn thiệt nghĩ đến Ngài cho rằng Ngài có khả năng giáo hóa được Phụ Vương”.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Ca Lưu Ðà Di rằng: “Ông nên vào thành giáo hóa Phụ Vương. Chỉ có Phật và ông là có thể giáo hóa được Tịnh Phạn Vương thôi.
Nầy Ca Lưu Đà Di! Trong hàng Thanh Văn đệ tử Phật, ông là người có khả năng đệ nhất về việc giáo hóa các ấp tụ lạc".
Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng bảo Ca Lưu Đà Di rằng:
"Lắng nghe Ưu Đà Di
Ông hay giáo hóa giỏi
Quyết khiến dòng Thích mừng
Đến hóa Tối Thắng Vương
Lúc vua được tỏ ngộ
Lợi ích hàng Trời Người
Quyết được đến bờ kia
Ông nên mau đến hóa
Tịnh Phạn Vương dòng Thích
Nay lòng hờn loạn trược
Niệm huệ chẳng hiện hành
Dường như té gộp cao
Luyến tiếc nơi ngôi cao
Tâm huệ mê mất hết
hư người buôn mất vốn
Vói nhớ sanh khổ nhiều
Như trời mất cung điện
Luyến nhớ ngũ dục lạc
Chưa biết Phật chánh pháp
Buồn rầu rất não loạn
Tự nghĩ mất thất bửu
Và bốn cấp nhân gian
Nhớ đến ngôi Thánh Vương
Miệng thốt lời phi pháp
Có lúc vua buồn loạn
Chẳng biết mình và người
Như quỉ đoạt tinh hồn
Nắm giữ lấy thân người
Như tại núi Kê La
Tất cả không chỗ thấy
Não hận ấy che chướng
Nên thấy lại chẳng thấy
Cũng như ngủ mê chết
Tâm mình chẳng tự biết
Bị lo hờn mê chướng
Vua chẳng biết tự mừng
Như người vợ chết chồng
Buồn khóc sanh lo khổ
Nay vua si não loạn
Buồn thương sanh khổ lớn
Ông có phương tiện giỏi
Đến hóa Tịnh Phạn Vương
Xô ngã tràng tà mạn
Kiến lập đèn chánh pháp
Không còn ai hóa được
Tịnh Phạn Đại Vương ấy
Chỉ có Ưu Bà Di
Thuở trước từng đồng hành
Ưu Bà Di nên biết
Từng có đại Quốc Vương
Tên là Tăng Trưởng Thiệt
Danh tiếng chấn mười phương
Như pháp làm Quốc Vương
Tất cả đều quy hóa
Dùng chánh pháp trị dân
Vua lãnh tứ thiên hạ
Trong ấy đầy thành ấp
Vườn tược bông trái thơm
Nhiều những chúng hiền thánh
Không có người tạp ác
Rừng tốt rất trù mật
Đất sạch không gai góc
Rất nhiều thứ tịnh diệu
Ao hoa trang nghiêm đẹp
Nhân dân rất đông giầu
Bỏ ác ăn ở lành
Đóng các cửa ác thú
Quyết lên thiên đạo tốt
Xưa vua ấy có con
Từng cúng dường nhiều Phật
Tu đủ các căn lành
Tròn đầy những công đức
Tên là Diệu Kiên Huệ
Được nhiều người hầu hạ
Thường thấy lỗi ngũ dục
Bỏ nhà ưa nhàn tĩnh
Phụ Vương bảo Vương Tử
Con nên thọ ngũ dục
Thể nữ tự vui chơi
Ở cung điện báu đẹp
Cha sắm sửa cho con
Đồ chơi không hề thiếu
Sao con chẳng thọ vui
Con nên nói ý con
Biết các loài lành tốt
Trong cung báu của con
Gái báu thường vây quanh
Cảnh tốt rất đáng vui
Chư tiên nhân ở rừng
Còn bỏ trở về nhà
Thọ các vui nữ sắc
Huống con không thiếu thốn
Chúng thể nữ vây quanh
Vua quan đều tùy tùng
Cung điện như thiên cung
Nên thọ ngũ dục lạc
Cung nữ rất đẹp xinh
Chẳng khác gì thiên nữ
Múa ca đánh nhạc hay
Có thể tùy ý vui
Mắt như lá ưu ba
Môi đỏ như ngậm son
Mặt tròn mày rộng đen
Trán bằng cổ cao ngấn
Tay thẳng đầy tròn trịa
Đẹp như vòi tượng vương
Bàn tay màu hoa sen
Ngón tròn vót mềm đẹp
Lưỡi mỏng rộng đỏ hồng
Lời hay như cam lộ
Răng trắng trong kín đều
Chuỗi ngọc y phục báu
Rún sâu chẳng hiện bụng
Lưng như chày kim cương
Vế đùi mêm tròn thẳng
Không khác đùi lộc vương
Bước đi như nga vương
Thảy đều nhìn ngó con
Tuổi trai tráng đáng yêu
Có thể nối dòng dõi
Con và các người đẹp
Như hoa xuân nở tốt
Trai tráng tuổi chưa gìa
Phải mau thọ dục lạc
Kiên Huệ bạch Phụ Vương
Cha nói phi chánh lý
Nếu có lời đúng pháp
Truyền bảo chẳng dám trái
Nay cha nghe con nói
Lời lành và chơn thiệt
Nhẫn đến trong giấc mơ
Chẳng có ý tưởng dục
Nay lời nói của cha
Người trí chẳng bằng lòng
Kẻ ngu thích dục lạc
Người sáng thì thường nhàm
Sao có người mắt sáng
Khen người mù dẫn đường
Đâu có người giải thoát
Mà lại ưa ngục tù
Đâu có người an lạc
Lại khen tặng sự khổ
Ý con xem Phụ Vương
Như kẻ mù chìm tù
Như mộng thọ ngũ dục
Lại bị dục nhận chìm
Phụ Vương như đui mù
Mắt con sáng thấy rõ
Cha bị dục cuốn trôi
Nay con rất nhàm chán
Dục như chén thuốc độc
Cũng như đầu rắn độc
Như mũi dao gươm bén
Cũng như khối lửa lớn
Lúc vua quan khuyên bảo
Kiên Huệ đều chẳng nghe
Bỏ cha và quốc độ
Rời dục mà xuất gia
Như rắn lột da cũ
Cũng như bỏ mũi dãi
Rời xa những lỗi ác
Tuyệt hi vọng xuất gia
Lúc Kiên Huệ bỏ tục
Có một quan chức trẻ
Người ấy tên Nguyệt Thí
Bỏ nhà theo Kiên Huệ
Đồng tử xuất gia rồi
Và cùng quan trẻ kia
Thành tựu bốn phạm trụ
Đầy đủ ngũ thần thông
Thấy rõ lỗi ngũ dục
Siêu tuyệt nơi dục giới
Chuyển chánh diệu pháp luân
Sanh chẳng lên Phạm Thiên
Đồng tử xuất gia rồi
Phụ Vương lòng ghét giận
Nguyệt Thí đến chỗ vua
Giáo hóa cho vua mừng
Ưu Đà Di nên biết
Thuở xưa kia Kiên Huệ
Rời xa nơi ngũ dục
Nay chính là thân ta
Ưu Đà Di nên biết
Vua Tăng Thiệt xưa kia
Đâu phải ai xa lạ
Là Tịnh Phạn Vương vậy
Ưu Đà Di nên biết
Người theo ta xuất gia
Nguyệt Thí là thân ông
Đã từng hóa Tăng Thiệt
Thế nên Ưu Đà Di
Nay nên hóa Phụ Vương
Quyết có lợi ích lớn
Vì xưa đã giáo hóa".
Tôn giả Ưu Đà Di nghe lời phán dạy của Phật liền nín lặng lãnh nhận.
Lúc đó Ưu Đà Di qua đêm đến sáng vào giờ khất thực đắp y mang bát đi vào thành Ca Tỳ La. Có hơn ngàn người dòng thích Ca tập họp tại vương môn đều có chỗ cần.
Vua Tịnh Phạn Vương nghe Phật Như Lai đến thành Ca Tỳ La tại rừng Ni Cư, Vương sanh lòng ghét hờn rằng: Đức con ấy xuất gia chối bỏ chủng tộc giàu sang ta. Nếu nó ở nhà sẽ nối ngôi Kim Luân cai trị tứ thiên hạ thống lãnh đúng pháp nhân dân không nghịch mạng, đầy đủ bảy báu: luân bửu, tượng bửu, mã bửu, ma ni bửu, nữ bửu, chủ tạng thần bửu, đạo sư bửu, ngàn con trai dũng kiện, dung nhan xinh đẹp có khả năng dẹp cường địch bảo hộ tứ thiên hạ, chẳng dùng vũ khí ngự trị quốc độ, chỉ trị chánh đúng pháp tự nhiên thái bình. Ta được làm Luân Vương tự tại khoái lạc, họ phải tôn trọng cúng dường cho ta, vì đức con ấy xuất gia nên những sự đáng lẽ được ấy mà đều mất cả.
Tịnh Phạn Vương nghĩ như vậy rồi truyền cho dòng Thích: Tất cả mọi người chẳng được đến chỗ con ta ở kính tin nghe pháp, nếu có ai phạm sẽ chém đầu.
Bấy giờ có người dòng Thích tên Hỉ Diện chẳng ở trong chúng chẳng nghe lệnh Vương, thấy Tôn giả Ưu Đà Di liền đến cúi đầu thưa: "Tôn giả mới đến, được bình an chăng? Đức Thế Tôn an vui ít bệnh ít não đi đứng nhanh nhẹ đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu chăng?".
Tôn giả Ưu Đà Di báo Hỉ Diện rằng: "Đức Như Lai an lạc ít bệnh ít não đi đứng nhanh nhẹ đi đường chẳng mệt uống ăn chẳng thiếu".
Có người dòng Thích tên Thiện Giác thấy Hỉ Diện cùng Tôn giả Ưu Đà Di tại chỗ vắng nói chuyện, cũng đến thưa rằng: "Đại Đức từ xa đến được an lành chăng? Đức Thế Tôn đi đứng an lạc ít bệnh ít não đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu chăng?".
Tôn giả Ưu Đà Di báo Thiện Giác rằng: "Đức Như Lai thánh ngự an lạc ít bệnh ít não đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu".
Lại có hai người dòng Thích tên Vô Ưu và Ly Ưu thấy Hỉ Diện và Thiện Giác cùng Ưu Đà Di ở chỗ vắng nói chuyện, hai người cũng đến chào đón hỏi thăm như trên rồi tiếp hỏi: "Bạch Đại Đức! Đức Như Lai ở trên đường đi cớ sao không thiếu?".
Tôn giả Ưu Đà Di báo với Vô Ưu và Ly Ưu rằng: "Do Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương và chư Thiên thường đến cúng dường nên chẳng thiếu vậy".
Các người dòng Thích ấy đồng thưa rằng: "Bạch Đại Đức Ưu Đà Di! Chúng tôi đều muốn đến chỗ đức Phật Thế Tôn cúng dường nghe pháp mà sợ chẳng được. Vì Tịnh Phạn Vương có sắc lịnh nghiêm cấm tất cả người dòng Thích. Nếu ai vi phạm sẽ bị chém đầu".
Tôn giả Ưu Đà Di nghe nói bèn nghĩ rằng đây là Phụ Vương rất oán hận, tôi phải dùng phương tiện để đến chỗ vương.
Tôn giả Ưu Đà Di liền nhập như thiệt tam muội, dùng sức tam muội trang nghiêm tâm mình, lại dùng thần lực bay cao bằng bảy cây đa la, ngồi kiết già trên hư không rồi bay đến chỗ Tịnh Phạn Vương. Nhà vua ngó thấy liền rời chỗ ngồi chắp tay cung kính hướng về Ưu Đà Di mà nói kệ rằng:
"Đại Sư ca sa từ đâu đến
Thành tựu oai nghi khó được thấy
Nếu có cần gì xin nói mau
Nay tôi thành tâm quyết phụng cấp".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp Vương rằng:
"Tôi là con của con Đại Vương
Đại Vương là Tổ phụ của tôi
Tôi vì Như Lai đi khất thực
Được đồ ăn sẽ về dâng Phật
Hôm nay Đại Vương được lợi lành
Con vua là đấng Tối Tôn Thượng
Oai đức quang minh chiếu mười phương
Như trăng rằm mặt nhật giữa trưa
Như mặt nhật không gian chẳng mây mù
Ánh sánh chói chang đều chiếu khắp
Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương
Oai đức danh tiếng vang mười phương
Dường trăng đêm thu lúc mới mọc
Che lấp lửa đóm khắp soi sáng
Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương
Hàng phục ngoại đạo riêng chói sáng
Như giữa trưa mặt nhật chói chang
Tinh tú bị lấn nên chẳng hiện
Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương
Hàng phục ngoại đạo tự mình sáng
Như giữa trưa mặt nhật lấn trăng
Làm mặt nguyệt mất sáng chẳng hiện
Con trai Đại Vương phục ngoại đạo
Như mặt nhật sáng làm trăng ẩn
Như cầm thú nghe sư tử rống
Thủy lục không hành tan về hang
Sợ chạy đào tẩu mê phương hướng
Vì tiếng sư tử khó chịu đựng
Đại Thánh Như Lai lúc gầm rống
Tà ngoại được nghe tiếng vô ngã
Dầu kẻ vô tri đến hữu đảnh
Nghe tiếng vô ngã thảy đều sợ
Trong Nhân Thiên kẻ ngu si mù
Như Lai mắt sáng chỉ đường họ
Vì họ làm đèn trừ tối tăm
Phát khởi trí sáng tối vô thượng
Chánh tà bình đẳng chẳng bình đẳng
Dạy bảo thế gian đạo phi đạo
Vì người lạc đường chỉ đúng đường
Từ bùn dục nhiễm vớt ra khỏi
Như mây bao phủ ao khô cạn
Mưa tuôn đầy tràn ruộng ướt đều
Con trai Đại Vương đấng Tối Thắng
Gầy dựng mưa pháp nhuận Trời Người
Như nước thấm đất và núi sông
Cùng trăm giống cỏ rừng cây cối
Cỏ thuốc cây cành và dây leo
Hoa thơm đua nở khắp núi đẹp
Đấng đủ thập lực tứ vô úy
Đầy đủ mười tám pháp bất cộng
Trái Nhất thiết trí hoa trang nghiêm
Con trai Đại Vương thân vi diệu
Như núi Tu Di ở giữa biển
Nghiêm tốt bất động trời thích ở
Con trai Đại Vương đấng Thiện Thệ
Trong biển Sa Môn tối đệ nhất
Đao Lợi Thiên Chúa Xá Chỉ Phu
Trong chúng chư Thiên kỳ diệu nhất
Con trai Đại Vương đấng Thế Tôn
Trong chúng Sa Môn kỳ diệu nhất
Tuyên nói bí áo pháp thậm thâm
Dùng điện đại bi chiếu khắp chỗ
Như Lai Long Vương tuôn mưa pháp
Niệm xứ nước ao chảy chậm xuống
Oai đức trì giới như mặt nhật
Dùng sức tam muội trừ mê tối
Sáng trí huệ dứt phiền não ái
Mặt nhật Đại Thánh chiếu thế gian
Đầy đủ niệm xứ báu ma ni
Thuyền bè giới định qua bỉ ngạn
Giác chi gươm báu thiền tràn đầy
Lại cầu vô ưu vào biển Phật
Rễ giới thanh tịnh chắc khó động
Tam muội lá cây cành niệm xứ
Thất giác hoa không thân cây cứng
Vô ngã kiên cố thành cây Phật
Đi trong rừng giới người đại lực
Tam muội điều phục nương núi đức
Ba môn giải thoát làm cảnh giới
Phật thập trí lực là Vương Tử
Chánh kiến vô trước đấng Thế Tôn
Hàng phục cường địch đại Pháp Vương
Khủng bố tất cả các ngoại đạo
Con trai Đại Vương đấng vô úy
Tịnh giới đức tạng diệu trang nghiêm
Thiền định tịch diệt y phục báu
Thế Tôn đủ trí cảnh giải thoát
Bố thí tài vật như trưởng giả
Xa lìa các ác họp những lành
Gốc thiện huệ diệt các phiền não
Trí huệ thí phát cho Trời Người
Con trai Đại Vương đấng chói sáng
Mây giới trời huệ dùng làm chớp
Tám sợi tơ mưa hay nhuần thấm
Thế Tôn giúp ích mầm mạ tốt
Vương Tử dường như rồng lớn mưa".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Thắng Sĩ đến đây an lạc chăng
Đến như uống ăn không thiếu thốn
Thân không mỏi mệt giường nệm chiếu
Như hoa bờ sông chẳng héo úa?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Cảnh giới thiền định đủ thần lực
Thân tâm an lạc khắp đầy đủ
Thế Tôn tinh thần trụ tịch tĩnh
Dường như sen vàng chẳng khô khan".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Xưa dùng cờ trống tự cảnh tỉnh
Âm nhạc tranh sắc cùng tiêu sáo
Kỹ nữ xinh đẹp để tự vui
Nay ở rừng vắng chẳng khổ ư?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Thiền định tịch tĩnh làm cảnh giới
Khéo hay tu học tam muội vui
Đi đứng ngồi nằm tu pháp lành
Tâm thường mừng vui không khổ não".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Giường báu vô giá thường nằm an
Lúc ngủ gái đẹp luôn hầu cạnh
Giáp vòng trần thiết nhiều đèn sáng
Vậy sao nằm tối chẳng buồn bực?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Lúc ngủ Thế Tôn nằm giường thánh
Nệm êm là từ gối mềm bi
Phật an trụ hỉ tâm thường vui
Bỏ ba cõi khổ chẳng buồn bực".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Hàng Thích chủng mạnh thường vây quanh
Học rộng thông thái dùng làm bạn
Lớn khôn trong cung điện nguy nga
Vậy sao ngày nay thích rừng vắng?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Như pháp sanh con luôn kề cận
Đồng tu chỉ định ở tại bên
Lòng ưa rừng vắng tu thiền định
Đạo sư vô úy thích nuí rừng".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Đồng tử ngày xưa lúc ở cung
Dùng ao tắm trời để tắm gội
Cũng dùng dầu thơm thoa thân mình
Nay ở trong rừng ai tắm cho?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Nước ao các pháp bờ giới lành
Thế Tôn tự tắm và tắm người
Mình cùng các con nổi chẳng ướt
Tự độ đã xong độ quần sanh".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Ngày xưa hương thơm thường ướp thân
Chỉ vàng châu ngọc để trang nghiêm
Thường mặc thiên tử báu
Nay ở trong rừng trang sức gì?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Tràng hoa công đức hương ướp giới
Anh lạc thiền định y tàm quí
Trí huệ giải thoát tự trang nghiêm
Ánh sáng oai đức chiếu khắp rừng".
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng:
"Xưa dùng dao gươm cung tên mâu
Dũng sĩ cầm mang luôn phòng vệ
Cũng dùng lọng báu thường chen trên
Nay ở rừng vắng ai hộ vệ?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Từ bi nhẫn nhục tự phòng vệ
Đệ tử Thanh Văn quyến thuộc mạnh
Dùng công đức lành quyết không sợ
Thập lực hùng mãnh tứ vô úy".
Tịnh Phạn Vương nói kệ khen rằng:
"Lành thay khéo nói đức con tôi
Lâu tu pháp lành chẳng thối chuyển
Ngài lấy bát xong mang bát về
Tôi cũng đi đến chỗ Thế Tôn".
Tôn giả Ưu Đà Di lại thưa vua rằng:
"
Tâu Đại Vương! Đức Bà Già Bà là Thầy đại chúng hay ngự phục chúng sanh, là đại tiên nhân hay khéo an trụ, trong chúng Sa Môn là vua Sa Môn, ánh sánh chiếu khắp. Như trăng đêm rằm muôn sao vây quanh ánh trăng rất sáng chiếu khắp nơi, đức Thế Tôn cũng vậy, ở trong chúng Sa Môn ánh sáng chiếu khắp. Như trăng mùa thu ở trong hư không chẳng có mây che, đức Bà Già Bà cũng vậy, ở trong đại chúng ánh sáng chiếu khắp. Như Thiên Đế Thích là vua chư Thiên ở Thiện pháp đường, trong hàng chư Thiên ánh sáng rực rỡ, đức Bà Già Bà ở trong đại chúng ánh sáng rực rờ cũng như vậy. Như Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương ở trong chúng chư Thiên ánh sáng rực rỡ oai đức độc tôn, đấng Bà Già Bà ở trong đại chúng oai đức độc tôn cũng như vậy. Như Đại Phạm Thiên Vương chúa thế giới Ta Bà trăm ức chúng Phạm Thiên vây quanh ánh sáng rực rỡ oai đức độc tôn, đấng Bà Già Bà ở trong chúng Sa Môn oai đức hiển hích độc tôn cũng vậy".
Nghe nói đạo đức của đấng Bà Già Bà xong, Tịnh Phạn Vương tự nghĩ rằng Sa Môn nầy là đệ tử Thanh văn còn có đại thần thông đại oai đức như vậy, huống là đức Như Lai. Vua lại nhớ lúc Thái Tử vừa sanh thì cả đại địa chấn động sáu cách mười tám tướng: động, biến động, đẳng biến động, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích, phóng ánh sánh lớn, không ai đỡ dìu mà tự đi bảy bước, trên không có hai đường nước chảy xuống tắm gội thân thể, tự nhiên có thánh tọa bằng chơn kim, trong hư không hóa thành lọng trời, chư Thiên lễ bái, từ đó đến ngày chưa xuất gia chẳng bị ngũ dục mê hoặc, phàm có làm điều gì thì quyết định chẳng bỏ dở, nói gì thì làm được nấy, trong tất cả thời gian kiên cố đại lực, chẳng nói dối, chẳng trái tín hành, từng có lời rằng tôi thành Vô thượng Bồ đề tự độ mình rồi sẽ độ Phụ Vương.
Tịnh Phạn Vương nhớ Phật lúc còn là Thái Tử Bồ Tát đã có bốn thệ nguyện nên vua nói kệ rằng:
"Nếu có người sơ sanh
Trí sáng nói chẳng luống
Lời cùng việc chẳng khác
Người trí ai chẳng tin
Nếu người lúc sơ sanh
Đối cha nói thành Phật
Quyết làm bực Thế Tôn
Người trí ai chẳng tin
Nếu có người chẳng tiếc
Khối báu bằng núi Tuyết
Rời lìa những tham lẫn
Người trí ai chẳng tin
Nếu người trong giấc mộng
Chẳng nói lời hư vọng
Như lời mà tu hành
Người trí ai chẳng tin
Lời nói như gươm dao
Chẳng não cũng khiến giận
Người rời sự giận hờn
Người trí ai chẳng tin
Không có ai khi được
Tham sân cũng chẳng nhiễm
Vua đầy đủ trí huệ
Người trí ai chẳng tin
Tất cả ngù dục lạc
Và cùng những sang giàu
Đều không cột trói được
Người trí ai chẳng tin
Các thứ sự hi hữu
Và cùng những vật tốt
Không làm động lòng được
Người trí ai chẳng tin
Dùng những lời ngọt ngon
Thông minh lời khéo nói
Không làm mê hoặc được
Người trí ai chẳng tin
Dùng những lời thuận nghĩa
Những câu muốn quyết định
Cũng chẳng buộc ràng đưọc
Người trí ai chẳng tin
Quân lực bố trí mạnh
Cùng nhiều cách canh phòng
Vẫn vượt khỏi hoàng thành
Người trí ai chẳng tin
Rời bỏ ngũ dục lạc
Để cầu hạnh cam lộ
Hi vọng được Bồ đề
Người trí ai chẳng tin
Sáu năm tu khổ hạnh
Dũng mãnh không ai bằng
Cầu được thắng Bồ đề
Người trí ai chẳng tin
Sáu năm ăn thô ít
Cầu được thắng Bồ đề
Lợi an các thế gian
Người trí ai chẳng tin
Sáu năm bị ma nhiễu
Nối nhau tìm lỗi dở
Vẫn chẳng gặp được dịp
Người trí ai chẳng tin
Chẳng cầu vật người khác
Thường lợi ích thế gian
Người trí ai chẳng tin
Chẳng nghe pháp nơi người
Tự nhiên thành Bồ đề
Tịch định khó biết được
Người trí ai chẳng tin
Phạm Vương đến khuyến thỉnh
Cần cầu Phật Thế Tôn
Như thỉnh mà diễn thuyết
Người trí ai chẳng tin
Vì thương xót nhớ tôi
Nên đến vườn Ni Câu
Vì độ các Thích chủng
Người trí ai chẳng tin
Như Lai tự độ rồi
Độ tôi khỏi biển khổ
Ghi nhớ thệ nguyện xưa
Người trí ai chẳng tin
Nay là lúc được lợi
Biết Phật Nhất thiết trí
Vì thương xót đến tôi
Người trí ai chẳng tin
Nay tôi sẽ đến đó
Thấy thân đấng Đạo Sư
Lúc nghĩ suy như vậy
Biết mình là Nhân Vương".
Tịnh Phạn Vương suy gẫm xong nói với Tôn giả Ưu Đà Di: "Thưa Đại Đức! Ngài đến đây còn cần thứ gì?".
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng:
"Vốn vì lợi ích cho Đại Vương
Tôi dùng thần thông bay đến đây
Nếu nơi thập lực một niệm tin
Nam nữ đều được đến đường lành
Thập lực công đức vô biên tế
Thế Tôn vì Thích chủng mà đến
Sự đáng mừng vui nay mới tới
Nhân chúa phải nên phát lòng tin
Đại Vương danh tiếng quyết thêm lớn
Đầy khắp cõi tam thiên Đại Thiên
Con vua đã là kho của vua
Đầy đủ thập lực tâm từ bi
Du hành mười phương tâm vô ngại
Như sen ở nước chẳng dính nước
Tự độ tứ lưu các cõi rồi
Cũng độ Trời người bốn sông dữ
An trí trên bờ đất vô úy
Đại Vương phải nên tin Đạo Sư
Nhổ khỏi tứ lưu ba tên độc
Cũng làm quần sanh thắng y sư
Trong chúng y sư tôn thượng nhất
Đại Vương phải nên kính tin sâu
Cũng hay hàng phục các quân ma
Ma Vương quyến thuộc bè đảng ác
Chứng được tịch diệt đại Bồ đề
Đại Vương phải nên kính tin sâu
Nhân Vương Thiên Vương đều khuyến thỉnh
Vì độ chúng sanh nói diệu pháp
Diễn bày vô thượng thuốc cam lộ
Là đấng Pháp Vương phải nên tin
Che lấp tất cả chúng ngoại đạo
Chuyển diệu pháp luân quá cân lường
Hóa độ vô lượng ức chúng sanh
Đại hùng Nhân Vương phải nên tin
Vô minh phủ dầy trong hắc ám
Mắt mình trong sáng sáng mắt người
Thuyết pháp trừ được những mù lòa
Đại hùng Nhân Vương phải nên tin
Lão bệnh tử khổ bức bách người
Nói pháp trừ được lão bệnh tử
Khiến chúng thế gian lên đường lành
Đại hùng Nhân Vương phải nên tin
Ba lửa đốt cháy chúng thế gian
Như đất cháy hồng dùng nước tắt
Nói Bát chánh đạo Phật vì người
Đại hùng Nhân Vương phải nên tin
Dứt hết ba uế trừ các ác
Hay rời thế gian ba cấu trược
Du hành mười phương rất kỳ diệu
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Như cha yêu con thương thế gian
Thập lực đại từ tâm nhuần khắp
Phát khởi đại bi độ chúng sanh
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Khó điều điều được đức Thế Tôn
Người đáng được độ nay đều độ
Hay dứt lửa phừng các phiền não
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Chúng sanh đọa trong biển ba cõi
Phật như thuyền tầu hay tế độ
Thập lực đại bi cứu thế gian
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Thân đoan chánh vô lượng công đức
Đại bi du hành hóa thế gian
Khiến tâm trược lâu được thanh tịnh
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Như nhọc ma ni lắng nước trong
Đi trong đời làm sạch chúng sanh
Trừ dứt bầy mê đua loạn trược
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Như châu ma ni tánh thanh tịnh
Hay khiến người trí lòng vui đẹp
Thế Tôn rời ác tâm sáng sạch
Khiến những người trí hâm mộ thích
Nơi đức Thế Tôn khởi tín tâm
Hay khiến Trời Người lìa gánh khổ
Bỏ báu sanh tử được tịnh diệt
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Trong khối công đức nói ít phần
Như giữa không gian một dấu chim
Bờ Phật công đức tôi chẳng biết
Đại Vương phải nên kính tin sâu".
Tịnh Phạn Vương nghe Tôn giả Ưu Đà Di khéo nói công đức được tu lúc đức Phật còn làm Bồ Tát, vua liền tự nhớ bổn thệ của Như Lai: Tôi được độ rồi sẽ độ Phụ Vương. Vì nhớ như vậy nên vua rất kính tin và nói với Tôn giả Ưu Đà Di rằng: "Nầy Tỳ Kheo! Nay Ngài chính là con của con trai tôi, Ngài nên ăn rồi mau về chỗ đức Phật đem cơm dưng lên, nay tôi cũng phải đến ra mắt đức Thế Tôn".
Tôn giả Ưu Đà Di biết lòng vua đã kính tin, ăn cơm xong, Tôn giả bưng cơm canh về dưng lên đức Phật.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: "Ưu Đà Di giáo hóa Tịnh Phạn Vương được chánh tín. Hôm nay chư Thiên và người đời được lợi ích rất lớn".
Đức Thế Tôn khen ngợi Tôn giả Ưu Đà Di rằng: "Lành thay! Lành thay! Nay ông được phước đức lớn, vì đã làm cho Tịnh Phạn Vương kính tin vậy".
Đức Thế Tôn lại bảo chư Tỳ Kheo rằng: "Ưu Đà Di giáo hóa Tịnh Phạn vương được công đức, nếu là có sắc thì hằng sa thế giới mười phương chẳng dung thọ được, vì khối công đức ấy rộng lớn vô lượng vậy".
PHẨM TỊNH PHAN VƯƠNG ĐẾN PHẬT THỨ HAI
Bấy giờ đức Thế Tôn ăn cơm rửa tay rửa bát xong, hiện thoại tướng. Tức thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng vô lượng na do tha trăm ngàn ức chúng Dạ Xoa vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ thiên cung, hiện ra trước Phật lễ chân Phật rồi đứng qua hướng Bắc trên hư không. Chúng Dạ Xoa trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.
Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Càn Thát Bà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chân Phật rồi đứng qua hướng Đông trên hư không, chúng Càn Thát Bà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.
Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Cưu Bàn Trà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chân Phật rồi đứng qua phương Nam trên hư không, chúng Cưu Bàn Trà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và Tăng.
Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Long vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chân Phật rồi đứng qua phương Tây, trên hư không, chư Long trước sau vây quanh, chắp tay cung kính Phật và chúng Tỳ Kheo Tăng.
Thích Đề Hoàn Nhân Thiên Đế cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh từ cung trời Đao Lợi hiện ra trước Phật lễ chân Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như Lai và Tỳ Kheo Tăng.
Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Quang Âm Thiên Vương, Biến Tịnh Thiên Vương, Quảng Quả Thiên Vương, Tịnh Cư Thiên Vương đều cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh, từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chân Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như Lai và Tỳ Kheo Tăng.
Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng sáu mươi na do tha quyến thuộc vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cung điện mình hiện ra trước Phật, đảnh lễ chân Phật, hiện tướng cung kính đứng qua một phía.
Kim Sí Điểu Vương cùng tám vạn sáu ngàn chúng Ca Lâu La quyến thuộc vây quanh, từ cung điện mình hiện ra trước Phật đảnh lễ chân Phật hiện tướng cung kính đứng qua một phía.
Lại có tám ức các nhà ngoại đạo từ bốn phương đến mà nói kệ rằng:
"Trong hư không thanh tịnh
Vầng trăng tròn đêm rằm
Vượt hơn các tinh tú
Ánh sáng riêng chói rỡ
Phật như trăng tròn sáng
Diệt tối trừ ba cấu
Hay siêu các ngoại đạo
Dường trăng giữa hư không
Mặt nhật ngàn quang minh
Hay trừ các tối tăm
Vượt hơn ánh sáng trăng
Làm nở ao hoa sen
Phật quang hơn mặt nhật
Chiếu khắp cõi Đại Thiên
Như Lai hay nở bày
Rừng hoa sen Thanh Văn
Thiên Chúa Kiều Thi Ca
Ngồin tại nhà Thiện Pháp
Vượt hơn chúng chư Thiên
Chày kim cương chói rực
Thập lực núi công đức
Pháp Vương Lưỡng Túc Tôn
Vượt hơn các ngoại đạo
Dường như Thiên Đế Thích
Tu Dạ Ma Thiên Vương
Được chư Thiên cúng dường
Ở trong hàng Thiên chúng
Chói sáng ngồi bửu tọa
Thập lực oai vô biên
Vượt hơn các ác đạo
Đức vô úy quang minh
Nói rõ Bát chánh đạo
Như Đâu Xuất Thiên Vương
Chúng chư Thiên vây quanh
Vượt hơn các Thiên chúng
Đức lành mà chói sáng
Điều Ngự Thầy Trời Người
Được Bát Bộ chúng dường
Vượt hơn các thế gian
Vô úy nói pháp rõ
Như Hóa Lạc Thiên Vương
Ở tại trong thiên cung
Vượt hơn chúng chư Thiên
Công đức riêng sáng rõ
Phật hơn các thế gian
Rời được khỏi ba cõi
Hay điều vua chưa điều
Đủ thập lực sáng chói
Như Tự Tại Thiên Vương
Ở tại trong thiên cung
Vượt hơn các Thiên chúng
Đức lành mà rạng rỡ
Phật quang minh như vậy
Đầy đủ thập lực hành
Vượt hơn chúng Trời Người
Do công đức lành trước
Như Đại Phạm Thiên Vương
Vượt hơn các Phạm chúng
Sáng rực lời ngọt hay
Hiển bày đường Bát chánh
Như Lai hơn Phạm Vương
Vua trong chúng Sa Môn
Quang minh soi ba cõi
Chuyển pháp luân tứ đế
Chúng tri kiến họp xong
Trời Rồng Người nghe pháp
Vua tối thắng Trời Người
Tuyên nói đường Bát chánh
Hư không đo lường được
Biển lấy bình đong hết
Núi Tu Di cân được
Phật đức khó biết được".
Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nói với hàng Thích chủng rằng: "Nầy các Ngài! Như mặt nhật sắp mọc trước tiên hiện tướng sáng đẹp, như lúc sao mai mọc thì biết mặt nhật sè mọc chẳng lâu. Cũng vậy, Ca Lưu Đà Di ở nơi đức Phật Như Lai Nhất thiết chủng trí mà trước hiện tướng lành, Tỳ Kheo ấy nói công đức của Như Lai tức là tướng Nhất thiết trí vậy. Các ông mau xếp đặt xe tốt, ta sẽ đến chỗ Phật ngự".
Các Thích chủng tâu rằng: "Lành thay Đại vương! Nay đã phải lúc, những thứ cần dùng nay đã lo xong".
Vua lại truyền cho các quan từ thành Ca Tỳ La đến rừng Ni Câu Đà phải sửa sang đường xá, dùng cát mịn tốt trải đất, rải các thứ hoa treo những lục màu, trổi âm nhạc và các thứ ca vũ.
Vua ngồi xe tốt xuất thành Ca Tỳ La thẳng đến vườn Ni Câu Đà. Sau xe vua có tám vạn bạch tượng cùng những châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trên mỗi thớt tượng đều trần thiết tòa thất bửu rất lạ hi hữu. Sau đoàn voi, có tám vạn ngựa quí, trên mỗi ngựa quí đều có tràng vàng, ngựa và tràng đều trang nghiêm với bảy báu xinh đẹp đệ nhất.
Trong thành có vô lượng người nghiêm sức xe cộ: ngựa xanh xe xanh lọng xanh đao xanh y phục tất yên cương cả đều xanh cầm tràng xanh. Sau mỗi xe có trăm người y phục xanh đi theo. Vàng đỏ và trắng ba đội người ngựa ba màu kia cũng như vậy.
Lại có hàng Thích chủng đều riêng nghiêm sức các thứ xe đẹp xanh vàng đỏ trắng: trang nghiêm nhiều màu, xe ngựa nhiều màu, nghiêm sức nhiều màu, mỗi xe ngựa đều có trăm người trang nghiêm nhiều màu.
Đức Thế Tôn xa trông Tịnh Phạn Vương đến liền bảo chư Tỳ Kheo rằng: "Các ông muốn thấy chúng trời Đao Lợi đi dạo chơi thì nên xem Thích chủng xuất thành Ca Tỳ La. Tại sao? Vì Thích chủng du hành cùng chư Thiên không khác".
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Trong thành Ca Tỳ La Vệ kia
Tịnh Phạn Đại Vương và quyến thuộc
Tối Thắng Nhân Vương hôm nay đến
Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói
Tượng mã xe cộ hơn trăm ngàn
Nhiều thứ trang nghiêm rất đẹp lạ
Từ Ca Tỳ La mà dẫn ra
Nhân Vương bửu tạng và các xe
Ngựa xanh xe xanh trang nghiêm xanh
Y phục người theo đều màu xanh
Giày mang dao đeo thảy đều xanh
Roi xanh cương xanh lạc lưới xanh
Người áo xanh cầm phan lọng xanh
Người ngựa đều xanh rất đẹp lạ
Ngựa vàng xe vàng nghiêm sức vàng
Người theo y phục đều màu vàng
Giày mang dao đeo cũng đều vàng
Roi vàng cương vàng lạc lưới vàng
Người áo vàng cầm phan lọng vàng
Người ngựa đều vàng rất đẹp lạ
Ngựa đỏ xe đỏ nghiêm sức đỏ
Người theo y phục đều màu đỏ
Giày mang dao đeo cũng đều đỏ
Roi đỏ cương đỏ lạc lưới đỏ
Người áo đỏ cầm phan lọng đỏ
Người ngựa đều đỏ rất đẹp lạ
Ngựa trắng xe trắng trang nghiêm trắng
Người theo y phục đều màu trắng
Giày mang dao đeo cũng đều trắng
Roi trắng cương trắng lạc lưới trắng
Người áo trắng cầm phan lọng trắng
Người ngựa đều trắng rất đẹp lạ
Xe ngựa bốn màu trang nghiêm bốn
Người theo y phục đều bốn màu
Giày mang dao đeo cũng bốn màu
Roi cương lạc lưới bốn màu đủ
Người và phan lọng đều bốn màu
Người ngựa bốn màu rất đẹp lạ
Sau các xe kia trang nghiêm voi
Số voi ấy đủ tám mươi ngàn
Yên vàng nệm vàng trang nghiêm vàng
Lưng voi đều có điện bảy báu
Các thứ trang nghiêm ngựa rồng quí
Số ngựa cũng đủ tám mươi ngàn
Bảy báu trang nghiêm rất lạ đẹp
Người phục sức đẹp theo sau xe
Dùng những hoa đẹp rải đường ngự
Dùng năm thứ hương làm thơm đất
Treo những bình hương và lụa màu
Tráng sĩ diễn trò đoàn ca vũ
Nhiều thứ trang nghiêm khắp cả đường
Hòa tấu âm nhạc theo sau vua".
Tịnh Phạn Vương và đoàn tùy tùng đến vườn Ni Câu Đà xuống xe đi bộ vào.
Đức Thế Tôn biết Phụ Vương từ lâu có lòng oán hận, vì độ Phụ Vương nên đức Phật bước lên hư không cao quá đầu người tự tại đi ra. Lúc đức Phật đi, bên hữu có Đại Phạm Thiên Vương, bên tả có Thiên Đế Thích, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đều cầm các thứ lọng trời cúng dường Như Lai.
Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương và Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phía Đông Như Lai quỳ gối chắp tay hiện tướng cung kính.
Chúng chư Thiên các cõi trời Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên và Tha Hóa Tự Tại Thiên ở giữa hư không mưa hoa trời ưu bát la, mạn đà la và hương bột chiên đàn, tấu các âm nhạc và ca vũ, lại mưa nước thơm, từ trước tới nay chưa từng thấy sự cúng dường Như Lai như vậy.
Đức Như Lai lại hiện thần thông, do sức thần của Phật làm cho mọi người đều thấy rõ tướng dạng chư Thiên.
Tịnh Phạn Vương thấy chư Thiên Tử cúng dường Như Lai, vua sanh lòng hi hữu, lại thấy lâu đài thất bửu nghiêm sức đầy cả hư không, Vua nói rằng: "Đức Như Lai ngày xưa lúc còn là đồng tử chẳng sanh lòng cố luyến nơi ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tứ thiên hạ. Nay đức Như Lai ở trong tam thiên Đại Thiên thế giới làm đại Pháp Vương có vô số Trời và Người thị vệ. Nay tôi tại đây làm người đứng quanh".
Tịnh Phạn Vương trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đầu mặt lễ chân Phật chắp tay bạch Phật rằng: "Đức Thế Tôn lúc sơ sanh không người phò trì mà tự đi bảy bước nhìn ngó mười phương rồi
mới nói lời này: Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, sẽ được độ thoát bờ lão bệnh tử. Lúc đó tôi rập đầu lạy chân Thế Tôn. Thời gian sau Thế Tôn đến thôn ruộng ngồi trong bóng mát dưới cây Diêm Phù, mặt trời dầu đã xế về Tây mà bóng cây vẫn ở nguyên chỗ, còn có chư Thiên đồng sáu cõi trời ở trước Thế Tôn chắp tay làm lễ, lúc đó tôi cúi đầu lễ chân đức Thế Tôn. Hôm nay, lần thứ ba, tôi lại cũng đầu mặt lễ chân đức Thế Tôn".
Tịnh Phạn Vương nói kệ rằng:
"Lưỡng Túc Thế Tôn lúc sơ sanh
Không người phò trì đi bảy bước
Tự nói ta tối thắng trong đời
Lúc ấy tôi lạy bực trí sáng
Thế Tôn xuất thành đến thôn ruộng
Bóng cây Diêm Phù che chẳng rời
Lục thiên đồng tử dâng cúng dường
Lúc ấy tôi lạy đấng Ứng Cúng
Nay lần thứ ba tôi cúi lạy
Cung kính đấng thương xót thế gian
Đáng được Trời Người dâng cúng dường
Đời không ai hơn được đức Phật
Thế Tôn trước hiệu Tất Đạt Đa
Tên ấy cha mẹ lấy làm mừng
Mới biết Như Lai danh hiệu thiệt
Được nguyện đầy đủ được cam lộ".
Bấy giờ chư Thiên cõi dục vì đức Như Lai mà trải tòa sư tử, dùng thiên y vi diệu lót trên tòa và trải khắp vườn Ni Câu Đà, lại dùng thiên y kiếp ba thọ che giăng trên không. Đức Thế Tôn từ hư không xuống ngồi trên tòa sư tử. Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc đầu mặt lạy chân Phật rồi lui ngồi một phía. Chư Thiên cõi dục, cõi sắc cũng đảnh lễ đức Phật rồi lui ngồi một phía trên hư không.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Tịnh Phạn Đại Vương và quyến thuộc
Đến chỗ Thế Tôn dâng cúng dường
Từ thành Ca Tỳ La Vệ ra
Đến vườn khả ái Ni Câu Đà
Phật cùng vô lượng chúng vây quanh
A Tu La Vương và Long Vương
Cưu Bàn Trà Vương Kim Sí Vương
Càn Thát Bà Vương và quyến thuộc
Dạ Xoa Đại Vương chúng quỉ thần
Khẩn Na La Vương và Thiên Tử
Tất cả đều sanh lòng mừng rỡ
Dục giới lục thiên đã như vậy
Sắc giới Phạm chúng Phụ Phạm Vương
Quang Âm Biến Tịnh và quyến thuộc
Nhẫn đến Quảng Quả Tịnh Cư Thiên
Sa Môn đại chúng Bà La Môn
Tăng Khư Vệ Thế Ni Kiền Tử
Cùng các ngoại đạo tất cả phái
Thuật sĩ tu hành các thứ lạ
Đại chúng bốn phương đều đến họp
Như Lai tự hiện đại thần thông
Khiến Tịnh Phạn Vương và Thích chủng
Đều được tín tâm lòng mừng rỡ
Như Lai khắp vì tất cả chúng
Dùng lời vi diệu câu nghĩa hay
Như Lai ý tại Tịnh Phạn Vương
Hiện hóa các thứ thần thông lực
Vua vốn chẳng cho Phật xuất gia
Tướng sư ngày trước đoán đồng tử
Tại gia tất làm Chuyển Luân Vương
Vô lượng Nhân chúng đồng phục thị
Đầy đủ Thánh Vương bảy thứ báu
Cũng lại có đủ bốn thần thông
Như pháp trị chánh gìn quốc độ
Kim Luân gồm trị tứ thiên hạ
Bấy giờ Bồ Tát nói lời nầy
Ta xưa vô lượng do tha kiếp
Tất cả thời gian thường nói thiệt
Phụ Vương lắng nghe lời ta nói
Phụ Vương từ xưa đối với ta
Từ đầu thiệt không lòng tin kính
Muốn đem Luân Vương bảo ta làm
Đem tứ thiên hạ sánh luyến tiếc
Ví như thuở xưa có thần qui
Theo biển thủy triều lên lục địa
Hải thủy triều ấy rút về biển
Thần qui sa vào trong giếng sâu
Trong giếng ba ba hỏi hải qui
Người từ nơi nào nay đến đây
Hải qui trí rộng nói ba ba
Tôi theo thủy triều sa xuống giếng
Lúc thủy triều kia rút về biển
Tôi đi chậm chạp theo chẳng kịp
Vì vậy nay tôi mất thời tiết
Sa vào giếng nhỏ cùng anh ở
Ba ba lại hỏi hải qui rằng
Nước biển có nhiều hơn nước giếng
Há lại rộng lớn hơn đây chăng
Là lớn hay nhỏ xin nói lẹ
Hải qui trí rộng bảo ba ba
Anh ngu ở chỗ người đào bới
Tôi ở trong nước biển cả kia
Đã trải quá lâu nhiều năm tháng
Còn chẳng biết được trong lòng biển
Huống là thấu rõ bờ biển ấy
Ngày xưa Phụ Vương điều chẳng biết
Sức đại thần thông oai đức tôi
Muốn đem Luân Vương tứ thiên hạ
Hào quí trong đời quyến rũ ta
Nay ta hiện làm Pháp Luân Vương
Thống lãnh tam thiên Đại Thiên giới
Như pháp chánh trị lìa vũ khí
Được Bát Bộ chúng đồng cúng dường
Nay ta xưng tụng lời ngày xưa
Nên đến ứng hiện đại chúng nầy
Dùng sức thần thông tu tâm mình
Dùng niệm từ bi triệu tập chúng
Tất cả các cõi đều vân hội
Đồng muốn Phụ Vương được tịnh tín".
PHẨM A TU LA VƯƠNG THỌ K
Ý
THỨ BA
Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thoại tướng. Do thoại tướng ấy nên A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða nghĩ rằng: Nay tôi cúng dường Phật trước nhất.
A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða cùng đồ chúng sáu mươi na do tha, quyến thuộc, phụ nữ cũng sáu mươi na do tha, đồng đem bửu châu vô giá và các vật quí trong biển dâng cúng đức Phật.
A Tu La Vương ấy hóa làm sáu mươi na do tha xe thất bửu. Các bửu xa ấy lại hóa làm sáu mươi na do tha ngựa điều thuận, trên ngựa lại hóa lưới linh thất bửu để trang sức, chân ngựa đeo linh xuyến bằng chơn kim, bờm và đuôi ngựa đều bao kết bằng thất bửu, dây cương bằng chơn kim, trên xe báu đều trang nghiêm với thất bửu, càng lọng đều bằng thấtbửu. Các lọng thất bửu ấy ở trên hư không bay theo xe, dây linh treo trong lọng cũng bằng thất bửu, có lưới thất bửu giăng trùm lên trên lọng. Gió nhẹ thổi động xe ngựa và lọng thất bửu ấy phát ra tiếng vang vi diệu như trăm thứ nhạc do nhạc công giỏi đồng hòa tấu khiến ngưòi nghe vui vẻ, đoạt thị thính người, đoạt tâm ý người.
Các xe ngựa thất bửu ấy ở trên không cách mặt đất sáu mươi do tuần, sau xe tấu âm nhạc, trên xe đều có A Tu La nữ trang sức rất đẹp. Các A Tu La nữ ấy, hoặc đứng vũ, hoặc ngồi vũ, hoặc xướng ca, hoặc thân động chuyển, hoặc rắc hương bột, hoặc rưới nước thơm, hoặc mưa các thứ hương mưa các thứ hoa mưa mạt vàng, hoặc rải hoa vàng hoa bạc hoa lưu ly hoa pha lê hoa xích chơn châu hoa mã não hoa xa cừ, hoặc cầm thất bửu rải, hoặc rải trang sức, tất cả đều để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có A Tu La nữ rung động linh xuyến cho reo thành tiếng, hoặc đội vòng hoa thất bửu trang nghiêm với chơn kim, hoặc đội vòng hoa chơn kim trang nghiêm với thất bửu, hoặc cầm lưới chơn kim, hoặc cầm phan thất bửu,
hoặc cầm lọng thất bửu, hoặc cầm tràng thất bửu, đều để cúng dường đức Thế Tôn.
Lại có các A Tu la nữ chắp tay nói kệ tán thán rằng:
Quy mạng Trượng Phu Ðiều Ngự Sư
Quy mạng đấng Trượng Phu Tối Thắng
Quy mạng Trượng Phu Lưỡng Túc Tôn
Quy mạng Trượng Phu không ai sánh
Quy mạng đấng soi sáng thế gian
Quy mạng biển trí lớn tối thượng
Quy mạng rừng đầy đủ công đức
Quy mạng núi tối thắng vi diệu
Quy mạng khối đầy đủ công đức
Quy mạng người dứt sạch phiền não
Quy mạng thầy tu các tịnh hạnh
Quy mạng tịnh hạnh không đoạn tuyệt
Quy mạng vô y không khiếp nhược
Quy mạng không lười không tán điệu
Quy mạng quyết định phát tinh tấn
Quy mạng đấng quyết định đầy đủ.
A Tu La Vương lại hóa làm sáu mươi na do tha màn trướng thất bửu vi diệu rất lạ nhiều màu trang nghiêm. Dưới mỗi màn trướng
báu bay lững lờ ấy lại hóa sáu mươi na do tha đại địa thất bửu. Trên đại địa ấy đều hóa sáu mươi na do tha tường thành thất bửu. Trong mỗi tường thành hóa sáu mươi na do tha lâu đài cung điện thất bửu. Mỗi
điện đường có sáu mươi na do tha cửa lớn cửa sổ thất bửu xen lẫn trang nghiêm. Trong mỗi điện đường có sáu mươi na do tha tòa sư tử thất bửu trải bửu y. Hai đầu sư tử tọa để gối đỏ, trước tọa có chiếc kỷ thất bửu trên để sáu ức bửu y của A Tu La Vương. Trên mỗi tòa sư tử đều có hai A Tu La nữ trang sức thất bửu đều cầm lá cây đa la thất bửu làm quạt hầu hai bên một hóa A Tu La tử ngồi trên ấy. Các điện đường ấy đều có sáu mươi na do tha tràng lọng thất bửu.
Các màn trướng và điện đường thất bửu ấy ở trên không bay nhiễu bên hữu đức Phật ba vòng, rải các thứ hương, mưa các thứ hoa cúng dường đức Phật.
Lúc ấy ngoài bốn cửa thành Ca Tỳ La đều rộng sáu mươi do tuần, do sức oai thần của A Tu La Vương phóng ánh sáng chiếu khắp sáu mươi do tuần, chiếu lên sáu vạn do tuần chu vi đầy khắp những đồ cúng dường. Các
màn trướng lững lờ bay nhiễu quanh Phật rồi dừng lại.
Lúc ấy trong thành Ca Tỳ La chứa hoa trời mạn đà la cao bảy trượng, nước thiên hương thành bùn. Do thần lực của Phật làm cho hơi thơm ấy khắp tam thiên Ðại Thiên Ðại thừa nghe hơi thơm ấy, người mới phát Bồ đề tâm cũng còn được bất thối chuyển huống là người đã tu lâu.
A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dùng bột hương chiên đàn cõi trời rải lên trên đức Phật mà nói kệ rằng:
"Nay tôi quy y Bà Già Bà
Ðấng ban Trời Người đức vô úy
Quy y đấng tối thắng bất động
Hi vọng vô thượng đại Bồ đề
Nay tôi quy y Bà Già Bà
Lòng mừng chẳng đọa ba ác đạo
Thế nên nay tôi quy y Phật
Mong cầu vô thượng đại Bồ đề
Nay tôi quy y Bà Già Bà
Ðấng trừ sanh tử biển khổ lớn
Hay dứt đồng hoang lìa phiền não
Bực thầy hay dẫn đạo chúng sanh
Nay tôi quy y Bà Già Bà
Quy y Phật rồi chẳng cầu sanh
Biển rất khổ bị già chết bức
Thế Tôn là thầy của Trời Người".
Nói kệ tán thán Phật rồi A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng.
Các ngựa báu anh lạc trang nghiêm, các xe báu, các A Tu La, các A Tu La nữ, các tràng phan lọng báu linh lưới thất bửu bị gió thổi động vang ra tiếng vi diệu vui lòng đẹp dạ như cả trăm thứ nhạc hòa tấu rất hay.
A Tu La Vương lại nhiễu Phật ba vòng, mưa hương bột chiên đàn cõi trời, hương bột ưu bát la, hương bột trầm thủy, hương bột đa ma la, các thứ hương bột a tu la từ trên không rơi xuống. Lại mưa các hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ba lô sa ca, ma ha ba lô sa ca, ca ca la bà, ma ha ca sa la bà, ba tra lê, ma ha ba tra lê, chất đa la ba ra trê, ma ha chất đa la ba tra lê. Lại có các thứ hoa biến hóa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly, hoa pha lê, hoa xích chơn châu,hoa xa cừ, hoa mã não từ trên không mưa xuống.
Lại mưa nước thơm cõi trời, nước thơm A Tu La. Do vì nước thơm ấy nên thành Ca Tỳ La trong ngoài sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm, hơi thơm ấy khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Bồ Tát được nghe hơi thơm ấy được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng, do thần lực đức Phật ở trong hư không trỗi âm nhạc trời và âm nhạc A Tu La. Các âm nhạc ấy do thần lực Phật nên vang khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Người tu Ðại thừa nghe tiếng âm nhạc ấy được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Vô lượng trăm ngàn A Tu La nữ, hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc thân chuyển động.
Các A Tu La nữ lại rải các thứ hương bột, cõi trời và các thứ hoa trời, hoa biến hóa, hoa thất bửu để cúng dường đức Phật. Lại rải những y phục báu và những đồ trang sức thất bửu, các thứ hương bột, các thứ chơn châu để cúng dường Phật.
A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða cùng các quyến thuộc đồng thanh nói kệ rằng:
"Tâm tôi thường như vậy
Gặp gỡ Phật Thế Tôn
Vì qui y Như Lai
Vị lai thường cúng dường".
A Tu La Vương Ba La Ðà bố thí cúng dường Phật cũng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rồi nói kệ rằng:
"Tôi lạy đấng được thiệt thập lực
Cũng lạy đấng vô úy tự tại
Quyết định được những pháp bất cộng
Quy mạng Ðạo Sư các thế gian
Tôi lạy đấng dứt trừ kiết sử
Cũng lạy xuất ly đường sanh tử
Ðạo Sư dẫn dắt chúng sanh nghèo
Tôi lạy trí sâu chẳng nghĩ bàn
Cùng chúng hòa hiệp chẳng lay động
Ở trong các loài tâm giải thoát
Như hoa sen kia chẳng dính nước
Thế Tôn vốn tu các pháp không
Rời lìa lựa chọn được vô tướng
Nơi tất cả chỗ không nguyện cầu
Tôi lạy như không không chỗ nương".
A Tu La Vương Thiện Tý trần thiết cúng dường quảng đại vô lượng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những lúa vàng chơn kim và nói kệ tán thán:
"Ðấng Ðại Mâu Ni không ai sánh
Trên trời dưới trời cũng vô tỉ
Phật biết chúng sanh như dương diệm
Chẳng phải thiệt chỉ là ý tưởng
Nơi đây không người làm người thọ
Cũng không sĩ phu không vô ngã
Rời lìa tạo tác không thể tánh
Tuyên nói tất cả pháp tịch địch
Tin hiểu được nơi pháp Như Lai
Quán tất cả pháp đều bình đẳng
Người ấy sẽ được làm Phật tử
Thuận lời Phật dạy như cha mẹ
Nay tôi khen ngợi phước đã được
Tôi đem phước đức của tôi có
Hồi thí chúng sanh đều làm Phật".
A Tu La Vương Bạt Trì Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dùng hoa chất da la ba tra lê rải cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
"Ðại Tiên Như Lai thân thần diệu
Vượt hơn tất cả các Trời Người
Ðã như Tu Di so hột cải
Lại giống biển lớn sánh dấu trâu
Nhan dung Như Lai rất đoan chánh
Nhiều tướng trang nghiêm tối đệ nhất
Vượt hơn tất cả các màu sắc
Như mặt nhật mọc lửa đóm lu
Thế Tôn khối vô lượng oai đức
Khiến các oai đức chẳng hiện được
Như mặt nhật mọc sáng đóm mờ
Ðại Thánh Thế Tôn biển trí lớn
Vượt hơn trùm khắp cả ba cõi
Che các ngoại đạo khiến chẳng hiện
Như mặt trời sáng khuất ánh trăng".
A Tu La Vương Diệm Bà Lợi trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng, dùng hoa ma ha ba tra lê rải cúng Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
"Bực trí huệ thích xa ma tha
Trừ được ba độc tham sân si
Dẫn dắt chúng sanh xuất thế gian
Như mưa rào tắt lửa lắng bụi
Thế Tôn hừng hực mắt chánh pháp
Cũng như dầu tô tưới lửa hừng
Hay dứt phiền não lưới nghi hết
Cũng như lửa đốt đồng hoang lớn
Nhan dung đoan chánh rất vi diệu
Các tướng trang nghiêm tối đệ nhất
Vượt hơn tất cả các diệu sắc
Như mặt nhật mọc sáng đóm mờ
Như Lai nắm cầm các thiện căn
Vô lượng ức vạn na do tha
Hay trừ phiền não và nghiệp ác
Như ăn cam lộ trừ thân độc
Thổi trừ tất cả tối vô minh
Như đêm đuốc sáng soi hắc ám
Như Lai thị hiện mắt chánh pháp
Dường như thợ ngọc rõ giá ngọc".
A Tu La Vương Lạc Chiến trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những hoa báu nói kệ tán thán rằng:
"Ác tâm khó điều Phật điều được
Như dũng sĩ mạnh hàng giặc dữ
Khéo được nhu nhuyến tâm tự tại
Tôi lạy đấng vô úy tâm điều
Ủiều được các căn lìa oán thù
Rời úy vô úy được an ổn
Thế Tôn phiền não chẳng còn phát
Trừ dứt độc hại đều không thừa
Sức na la diên khéo tu từ
Ở trong yêu ghét lòng bình đẳng
Như Lai biết ý tưởng chúng sanh
Chẳng bị sáu đường nắm giữ được
Rời lìa tâm tưởng hết tham ái
Phóng sáng trí huệ phá tối tăm
Ở trong các pháp lòng chẳng chấp
Thế Tôn siêu quá không ai sánh".
A Tu La Vương Thiện Nhật trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Ða A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dâng các bửu tạng lên Phật nói kệ tán thán rằng:
"Ðại Hùng biết từ lâu
Thiệt tướng của các pháp
Ðó là tên các pháp
Ðều riêng hòa hiệp giả
Thể của tất cả pháp
Các cách cầu chẳng được
Nói rằng là pháp Này
Nói đều là giả danh
Lìa danh gọi thể tánh
Các tướng cũng như vậy
Không tướng cũng không danh
Ðã lìa ba thứ pháp
Nói rằng là giải thoát
Thiệt thì không chỉ được
Người nói nói cũng không
Người hiểu cũng là không
Biết các pháp như vậy
Ðấng Mâu Ni vô thượng
Chẳng chấp nơi các pháp
Tu hành danh xưng lớn".
A Tu La Vương Phục Tam Giới trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Ða A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dâng chơn châu anh lạc lên Phật nói kệ tán thán rằng:
"Nay tôi khen Phật lìa oán địch
Dung nhan đoan chánh sức giới trí
Tất cả thế gian không như Phật
Dùng thân vô tỉ phục thù địch
Sắc lực quang minh chiếu ba cõi
Tu các nghiệp lành được tướng tốt
Tám mươi tùy hảo đều nghiêm tịnh
Sức trì tịnh giới không bị động
Người trí suy lường chẳng biết được
Vì Phật trì giới tâm thanh tịnh
Nên được thành đấng Phật Thế Tôn
Trí lực của Phật không còn sánh
Vì không bố úy hơn ba cõi
Như vua sư tử rống giữa rừng
Vượt hơn tất cả các ngoại đạo".
A Tu La Vương Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm các báu rải trên Phật mà tán thán rằng:
"Ðại chúng đều họp chỗ Mâu Ni
Tịnh tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Tất cả hiện tiền thấy Thế Tôn
Ðây là tướng bất cộng của Phật
Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
Mọi loài tùy tâm đều được hiểu
Phật thuyết pháp đúng cơ chúng sanh
Ðây là tướng bất cộng của Phật
Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
Chúng sanh tùy loài đều được hiểu
Xứng ý mong muốn biết rõ nghĩa
Ðây là tướng bất cộng của Phật
Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
Hoặc có tu tấn hoặc điều phục
Hoặc có chứng được quả vô học
Ðây là tướng bất cộng của Phật".
A Tu La Vương Mục Chơn Lân Ðà trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm xích chơn châu rải lên Phật nói kệ tán thán rằng:
"Tâm tịnh vui mừng kính tin Phật
Rời lìa ngạo mạn không tà kiến
Thuận Phật A Hàm chẳng phóng dật
Ðây là bực tu hành vô tỷ
Các pháp tự tánh bất khả khả đắc
Như mộng hành dục thảy đều hư
Chỉ theo ý tưởng chẳng thiệt có
Thế Tôn biết pháp cũng như vậy
Như mây mùa thu trăng trong nước
Mê hoặc chúng sanh ngu vô trí
Chẳng mê hoặc được người mắt sáng
Tinh tấn rất ưa Phật chánh pháp
Người diệu rất diệu chẳng sai lầm
Ở trong Phật pháp chẳng phóng dật
Phân biệt các pháp đều như mộng
Ðược thấy như thiệt diệu tam muội".
Bấy giờ các A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða v.v... có sáu mươi na do tha A Tu La trần thiết cúng dường rồi, thảy đều chắp tay làm lễ đứng yên, mừng vui hớn hở tình ý tràn đầy vui mừng vừa lòng, tâm nguyện Bồ Ðề nối tiếp chẳng tuyệt.
Ðức Thế Tôn biết các A Tu La tín tâm cúng dường rồi, theo pháp chư Phật mà thị hiện tướng mỉm cười. Từ diện môn của Phật phóng ra vô lượng tia sáng màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tía pha lê vàng bạc và màu lẫn lộn. Từ miệng phóng ra rồi, các tia sáng màu ấy nhiễu Phật ba vòng trở về nhập vào đảnh Phật.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay làm lễ rồi nói kệ hỏi Phật rằng:
"Hùng mãnh Mâu Ni hiện thoại tướng
Thương thế gian chẳng phải không nhân
Thế Tôn tối thắng xin nói cho
Nhân duyên gì Ðại Tiên hiện tướng
Thương xót chúng sanh hiện thoại ứng
Thấy các Tu la cúng dường lớn
Muốn thọ ký cho A Tu La
Khiến đại chúng tôi được vui vẻ
Nay có thắng tâm tin chẳng nghi
Trong chúng đây có người phát tâm
Thế Tôn biết tín căn họ rồi
Thiền Nhân Ðạo Sư hiện tướng ấy
Ngày nay ai phát tâm thanh tịnh
Trong đại chúng ai sanh thắng tín
Thế Tôn biết tín căn họ rồi
Hiện thoại tướng mỉm cười tối diệu
Nay đại chúng đây muốn biết rõ
Ðều thấy Như Lai hiện mỉm cười
Hôm nay ai lại hàng ma oán
Phật hiện mỉm cười vì người ấy
Lành thay Ðại Tiên hàng ma oán
Mong dứt lòng nghi của đại chúng
Nguyện Phật nói mau chớ chần chờ
Cho đại chúng đây được biết rõ".
Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
"Lành thay nghĩa hỏi của Tỳ Kheo
Phật hiện thoại tướng lợi thế gian
Phật nói quả báo không có thừa
Nay ông nhất tâm khéo lắng nghe
Các A Tu La cúng dường Phật
Ðể cầu Vô thượng thắng Bồ Ðề
Tâm ý Tu La không chỗ nương
Như tay tại hư không chẳng chướng
Tu La cúng dường Thế Tôn rồi
Tâm ý chúng ấy đều thanh tịnh
Ðại trí đều bỏ đạo Tu La
Với Trời Người từ lâu đã thích
Chúng ấy ở đời vị lai sau
Gặp gỡ hằng sa đại Ðạo Sư
Ở kiếp Thiện Danh được thành Phật
Chư Phật ấy đồng hiệu Thiện Danh
Số đúng sáu mươi na do tha
Danh chấn mười phương soi thế gian
Diễn nói pháp vô y vô trước
Hay rộng độ thoát chúng Nhân Thiên
Các Phật độ ấy rất nghiêm tịnh
Phật biết thế gian rời ngũ trược
Tịnh Phật quốc độ ba ngàn cõi
Số đúng sáu mươi na do tha
Nước kia chẳng có ba ác đạo
Do lòng mừng vui đất ruộng sạch
Phật kia hùng mãnh Vô thượng Ðại thừa
Chư Như Lai kia được thọ mạng
Ở đời sáu mươi do tha kiếp
Diễn nói pháp không nơi y chỉ
Mỗi mỗi Như Lai đều cũng vậy
Sau khi Như Lai kia diệt độ
Thế gian người trí đều cũng diệt
Ðủ số sáu mươi do tha kiếp
Chánh pháp Phật ấy còn tại thế
Chư Như Lai ấy đều riêng độ
Số chúng sanh đông như hằng sa
Chư Như Lai ấy số vô lượng
Cõi thọ chánh pháp trụ cũng vậy
Chư Như Lai kia hay thành thục
Sáu mươi do tha số chúng sanh
Ðều khiến an trụ trong Ðại thừa
Thảy đều nối tiếp giống Tam bảo
Hôm nay thọ ký cho Tu La
Ðấng Ðại Tiên độ đời tuyên nói
Trời Người nghe thọ ký Này rồi
Thâm tâm hớn hở được tịnh tín".
PHẨM BỔN SỰ THỨ TƯ
Bấy
giờ Huệ Mạng Ma Ha Ca Diếp thấy các A Tu La Vương cúng, dường đức Phật rồi, sanh tâm hi hữu tự nghĩ rằng: Lúc đức Thế Tôn tu hạnh Bồ Tát tạo căn lành gì mà nay được quả báo ấy? Ngài liền nhập như thiệt tam muội, do sức tam muội trang nghiêm nơi tâm nên nhớ biết thuở quá khứ vô số a tăng kỳ kiếp tất cả công đức mà Như Lai đã tu tập trong các loài ấy, trong các đời ấy tu tập thiện căn đều để làm đầy đủ vô thượng Bồ đề. Do các thiện căn ấy mà được bực bất thối chuyển, các thiện căn ấy đều nhớ biết.
Lúc Ngài Ma Ha Ca Diếp nhớ thiện căn lớn của đức Như Lai, Ngài nghĩ rằng như Phật đã tu tập căn lành rộng lớn, thiện căn mỗi
mỗi lần phát tâm của Như Lai, ví như hằng sa thế giới quốc độ mười phương tất cả chúng sanh trong ấy đều được thân người, rồi trong hằng sa kiếp cúng dường chư Phật như A Tu La Vương. Mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa kiếp cúng dường Phật rồi chẳng báo đáp được thiện căn một lần phát tâm của đức Như Lai.Huệ Mạng Ma ha Ca Diếp từ tam muội dậy tán thán rằng:
“Mỗi mỗi Như Lai đấng Mâu Ni
Phát tâm rộng lớn hướng Bồ đề
Sự cúng dường Phật các Tu La
Cũng chẳng bằng một phần Ca La
Thế Tôn Ứng Cúng Thầy Trời Người
Như khối chiên đàn bằng núi chúa
Chỗ cúng dường thù thắng Trời Người
Do nơi công đức đến bỉ ngạn
Ðấng Thầy Trời Người đáng thọ cúng
Hơn số hằng hà sa đã thọ
Ví như biển cả đầy nước trong
Nước thơm hòa hiệp mà cúng dường
Ðầy đủ công đức nên thọ cúng
Nhiều hơn cả số hằng hà sa
Chứa đầy khối hoa mà cúng dường
Dường như núi Chướng Ca Bà La
Tự nhiên Ðại Sĩ nên thọ cúng
Ngọn đèn sáng như núi Tu Di
Biển cả dùng làm bình đựng dầu
Ðem đèn cúng dường chư Thế Tôn
Ðấn oai thế nên thọ cúng dường
Nhiều hơn số hằng hà sa
Tạo lập tháp miếu mà cúng dường
Do nơi công đức đến bỉ ngạn
Nhân Thiê Ðạo Sư nên thọ cúng
Ðem những lọng báo lớn đẹp lạ
Mỗi lọng che khắp cõi Ðại Thiên
Trải suốt số kiếp na do tha
Ðấng Thế Tôn thương xót thế gian
Công đức vô biên nên thọ cúng
Ðem những tràng báo để cúng dường
Ðầy khắp thế giới trong mười phương
Nơi số kiếp ức bất tư nghị
Ðem phan rộng lớn mà cúng dường
Ðầy hằng hà sa các thế giới
Trải qua vô lượng ức kiếp số
Cúng dường Như Lai Thiên Nhân Sư
Phát khởi phân biệt làm thí dụ
Ðại chúng con của Ðại Luận Sư
Lắng nghe lắng nghe các Trời Người
Tôi cùng mọi người tại chúng Này
Số đông như số hằng hà sa
Bao nhiêu đại chúng ở mười phương
Tất cả đều sẽ được làm Phật
Ðầy đủ thập lực đại Ðạo Sư
Số chư Phật ấy như hằng sa
Mỗi mỗi đều có hằng sa đầu
Nơi mỗi mỗi đầu như hằng sa
Ðều có đủ cả hằng sa miệng
Nơi mỗi mỗi vô lượng miệng ấy
Ðều có vô lượng vô số lưỡi
Dùng lưỡi ca ngợi nơi Như Lai
Chư Như Lai ấy nói chẳng hết
Công đức bờ kia chẳng đến được
Nhất thiết chủng trí chẳng lường được
Do công đức đến bỉ ngạn vậy”.
Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: “Lành thay, lành thay! Này chư Tỳ Kheo! Chư Thanh Văn của ta lòng đoan trực có trí có pháp như Phạm Thiên mới được vào trong biển công đức của Phật. Tại sao? Vì Như Lai đầy đủ vô lượng công đức, đầy đủ công đức chẳng nghĩ bàn. Khối công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Này chư Tỳ Kheo! Khối công đức của Như Lai nếu là hình sắc, thì công đức mỗi mỗi lần phát tâm ấy, hằng sa thế giới chẳng dung chứa được? Tại sao?
Này chư Tỳ Kheo! Công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai là chỗ phan duyên của Nhất thiết trí, như hằng sa chư Phật, như hằng sa kiếp, chẳng thể suy lòng chẳng thể nói hết. Tại sao? Vì lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa không một phát tâm nào là chẳng vì lợi ích tất cả chúng sanh, nhiếp thuộc chúng sanh không một phát tâm nào là chẳng vì tất cả chúng sanh, chúng sanh giới không biên tế, chúng sanh trong đó cũng không biên tế, công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai cũng không biên tế. Tại sao? Như chúng sanh giới không biên tế, như chúng sanh giới chẳng lường được, khối công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai chẳng thể cùng tận, đều vì thương xót lợi ích an lạc tất cả chúng sanh mà phát tâm vậy. Giả sử tất cả chúng sanh đều cúng dường chẳng thể báo đáp được công
đức một lần phát tâm của Như Lai. Tại sao? Vì các chúng sanh ấy cúng dường Như Lai đều vì hi vọng quả báo thế gian tạp thực vậy.Bồ Tát phát tâm rời lìa nơi tâm tạp thực cầu báo thế gian mà vì lợi ích an lạc chúng sanh, muốn khiến chúng sanh trái sanh tử mà xu hướng Niết bàn.
Lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa vì lợi ích an lạc chúng sanh, rời lìa tạp thực chẳng cầu báo thế gian”.
Ðức Phật bảo chư Tỳ Kheo; “Thuở quá khứ, vô lượng vô biên lưu chuyển sanh tử vô số bất khả tư nghì trong vô thỉ thế giới bất khả thuyết kiếp có Phật hiệu Nhân Ðà Tràng Vương xuất thế đủ mười đức hiệu.
Này chư Tỳ Kheo! Lúc đức Nhân Ðà Tràng Vương Như Lai thành Phật, hằng sa thế giới đồng một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không có các ác đạo và tám nạn, chúng sanh trong đó đều an trụ chánh định tụ. Hoàn toàn không có chúng sanh tà định, tăng thượng mạn. Tất cả đều không có thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, cũng không có phiền não ác đạo, nghiệp ác đạo.
Tại sao? Vì đức Nhân Ðà Tràng Vương Như Lai giáo hóa chúng sanh ấy cho họ phát tâm dứt tất cả ác, đem pháp lành dạy cho họ tu học.
Trong quốc độ của đức Nhân Ðà Tràng Vương Như Lai có năm thứ vui: một là được dục lạc, hai là được vui xuất gia, ba là được vui thiền định, bốn là được vui tam ma đề, năm là được vui Vô thượng Bồ đề.
Các chúng sanh ở quốc độ ấy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm trước, như ong mật chi” lấy mật hoa mà chẳng lấy sắc hoa, như chim bay đi trên không mà chẳng dừng dính hư không, chúng ấy cũng vậy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm lạc. Các chúng sanh ấy không có lo khổ chỉ có vui sướng, cũng không bất khổ bất lạc thọ vì không ngu si vậy, chỉ có sự vui thích vừa lòng. Tại sao? Vì các chúng sanh vốn đã tu căn lành. Do vì đức Phật ấy lúc tu hạnh Bồ Tát hiện các tướng hảo khiến các chúng sanh ấy chẳng làm ác mà đặt để cho họ tu tập pháp lành, họ lần lượt rời lìa ác đạo ở chỗ lành vui, tất cả thứ nghiệp bất thiện họ đều không hẳn. Lúc họ tạo nghiệp lành được quả báo an vui mà họ chẳng tham luyến và không bao giờ sanh khổ thọ, vì chẳng tạonghiệp ác nên chẳng thọ quả khổ vậy.Vì không ngu si nên cũng không bất khổ bất lạc thọ.
Trong quốc độ ấy tất cả thời gian thường không có gió dữ mưa bạo, cũng không có độc nhiệt, chúng sanh cõi ấy không có khổ vì thời tiết thay đổi.
Lúc đức Nhân Ðà Tràng Vương Như Lai tu hạnh Bồ Tát, tất cả thân nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả khẩu nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả ý nghiệp trí thượng thủ tri thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả chúng sanh trong quốc độ ấy theo Bồ Tát nghe pháp rồi tất cả ba nghiệp thân khẩu ý nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển hồi hướng. Do nơi nghiệp lành nên báo ngu si chẳng sanh. Do vì không ngu si nên chúng sanh ấy không có khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Các chúng sanh ấy lúc sanh quốc độ kia, đức Nhân Ðà Tràng Vương Như Lai giáo hóa rồi, họ kính trọng nơi pháp, nếu lúc du hành họ suy lường nơi pháp yêu thích nơi pháp nhiễm trước nơi pháp. Lúc du hành do họ yêu thích nhiễm trước nơi pháp không có khổ thọ, đi đứng ngồi nằm ngủ thức đều không có một chút khổ về oai nghi. Các chúng sanh trong quốc độ ấy không có ác để thuận theo. Do vì không ác nên không có khổ sanh và không chấp nơi lành. Do cớ ấy nên các chúng sanh kia khéo thuận nơi không mà không có biến dịch khổ. Ở trong các pháp chẳng sanh tham trước nên chẳng có hoại khổ. Quốc độ ấy cũng không có hoán tắng hội khổ. Tại sao? Vì các chúng sanh ấy ở trong tất cả chúng sanh được tâm an trụ bình đẳng hiện tiền nên không có oán tắng. Cũng không có ái biệt ly khổ. Tại sao? Vì các chúng sanh ấy không ái trước tất cả pháp. Khổ ái biệt ly do nơi ái mà sanh. Chúng sanh ấy không ái nhiễm nên không có ái biệt ly khổ. Cũng không có khổ khổ. Tại sao? Vì đối với lạc thọ chẳng luyến trước vậy.Chỉ có hành khổ thôi, đó là vô thường khổ. Tại sao? Ðức Phật ấy chỉ nói đệ nhất nghĩa đế. Ðức Phật thọ hằng sa kiếp. Trong Phật độ ấy không có một chúng sanh nào tranh luận với Phật mà sanh trong cõi ấy. Tại sao? Vì lúc làm Bồ Tát đã thành thục xong chúng sanh vậy”.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng: “Này chư Tỳ Kheo! Ý các ông thế nào? Có thể dùng hạ thiện căn, ít thiện căn những thiện căn
Chẳng tập giỏi, những thiện căn chẳng tương ưng, thiện căn chẳng phải đại tinh tấn, thiện căn chẳng phải thiện thú, chẳng phải thiện pháp, chẳng phải thiện hồi hướng mà có hể làm lợi ích các chúng sanh ấy hay ban vui trừ khổ ư? Có thể nghiêm tịnh quốc độ quảng đại ấy ư? Có thể thành thục nhiều chúng sanh như vậy ư?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng: “Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: ”Ý các ông thế nào? Có thể dùng tâm hạ liệt, tâm khiếp nhược, tâm tương ưng bất thiện, tâm chẳng phải tinh tấn, tâm chẳng phải khéo tập thiện căn, tâm chẳng phải thiện thú, tâm chẳng phải thiện pháp, tâm chẳng phải thiện hồi hướng mà làm lợi ích an lạc được các chúng sanh ấy, ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng snh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bach rằng: “Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: ”Ý các ông thế nào? có thể dùng tin hạ liệt, tin ít, tin kém, tin khiếp nhược, tin tương ưng bất thiện, tin chẳng phải tinh tấn, tin chẳng phải khéo tập thiện căn, tin chẳng phải thiện
thú, tin chẳng phải thiện pháp, tin chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đai như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch Phật rằng: ”Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: “Ý các ông thế nào? Có thể dùng giới hạ liệt, giới ít, giới kém, giới chẳng phải tinh tấn, giới chẳng phải khéo tập thiện căn, giới chẳng phải thiện thú, giới chẳng phải thiện pháp, giới chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ dược và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng: “Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: “Ý các ông thế nào? Có thể dùng tinh tấn hạ liệt, tinh tấn ít, tinh tấn kém, tinh tấn khiếp nhược, tinh tấn chẳng tương ưng, tinh tấn chẳng phải tinh tấn, tinh tấn chẳng phải khéo tập thiện căn, tinh tấn chẳng phải thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được
Các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng: “Chẳng thể dược”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: “Ý các ông thế nào? Có thể dùng niệm hạ liệt, niệm ít, niệm kém, niệm khiếp nhược, niệm chẳng tương ưng thiện căn, niệm chẳng tinh tấn, niệm chẳng khéo tập thiện căn, niệm chẳng phải thiện thú, thiện phát thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng: “Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: “Ý các ông thế nào? Có thể dùng định hạ liệt, định ít, định kém, định khiếp nhuợc, định chẳng tương ưng thiện căn, định chẳng tinh tấn, định chẳng khéo tập thiện căn, định chẳng thiện thú, thiện phát, thiện hồi hướng, mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được quốc độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng: “Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng: “Ý các ông thế nào? Có thể dùng huệ hạ liệt,huệ ít, huệ kém, huệ khiếp nhược, huệ chẳng tương ưng thiện căn, huệ chẳng tinh tấn, huệ chẳng khéo tập thiện căn, huệ chẳng thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “Chẳng thể được”.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng: “Ðúng như vậy. Này các Tỳ Kheo! Thiệt chẳng phải dùng ít thiện căn, ít giới, ít tín, ít tinh tấn, ít niệm, ít định, ít huệ mà có thể lợi ít được các chúng sanh, và có thể ban vui cứu khổ, nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại, thành thục, được nhiều chúng sanh như vậy.
Này chư Tỳ kheo! Ý các ông thế nào? Các ông có biết đức Phật Nhân Ðà Tràng Vương thuở quá khứ xa xưa ấy là ai chăng?”.
Ðức Phật hỏi rồi mà chư Tỳ Kheo đều nín lặng chẳng đáp.
Ðương lúc ấy, phương Ðông quá hằng sa thế giới tên Nguyệt Quang Trang Nghiêm, hiện tại có Phật hiệu Cao Oai Ðức Vương Như Lai. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại chúng hội ấy biết tâm niệm của Phật Thích ca Mâu Ni liền bạch đức Cao Oai Ðức Vương Như Lai rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại thế giới Ta Bà. Tôi qua đó đảnh lễ cúng dường cung kính nghe pháp”. Ðức Cao Oai Ðức Vương Như Lai nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: “Ông đi tùy ý, nay đã phải lúc”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đầu diện lễ đức Cao Oai Ðức Vương Như Lai đi nhiễu Phật ba vòng rồi như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ cõi Nguyệt Quang Trang Nghiêm hiện ra trước đức Thích Ca mâu Ni Như Lai lạy chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Ðức Nhân Ðà Tràng Vương Như Lai thuở xưa ấy tức là Thế Tôn vậy. Tại sao? Do đức Thế Tôn đầy đủ bất tư nghì các thiện phương tiện có thể thành thục chúng sanh và nghiêm tịnh Phật độ luôn chẳng mỏi mệt cũng chẳng chán nhàm. Ðức Thế Tôn an trí chúng sanh
nơi Bồ Tát thừa cũng chẳng mỏi nhàm. Nếu có người chơn thiệt ngữ nói lời chánh đáng rằng: Thù thắng trong thù thắng, vi diệu trong vi diệu, thượng thủ trong thượng thủ, tối thắng trong tối thắng, nói đức Phật là như vậy, thì nên biết rằng Thích Ca Mâu Ni chơn thiệt không khác”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói kệ rằng:
“Hùng mãnh xảo phương tiện
Thương xót các thế gian
Hiện đại oai thần lực
Ðể thành thục chúng sanh
Ðã ở thuở quá khứ
Từng làm tám ức Phật
Như tự có thần lực
Vô tâm chứng chánh giác
Sáu mươi một Tam Thiên
Thanh tịnh quốc độ Phật
Trí cạn chẳng biết Phật
Mâu Ni xảo phương tiện
Chẳng bỏ sơ phát tâm
Các nơi chỗ kia hiện
Lại ở đời vị lai
Thị hiện vô lượng Phật”.
PHẨM CA LÂU LA VƯƠNG THỌ KÝ THỨ NĂM
Bấy giờ lại có tám ức sáu vạn Kim sí Ðiểu Vương thấy A Tu La cúng dường Phật và được thọ ký rồi, đối với Như Lai lòng tin vô lượng vui mừng hớn hở. Vì để cúng dường nên chư Kim Sí điểu Vương hóa hiện tám ức sáu ngàn vạn đền đài thuần nghiêm sức với thất bửu cõi trời rất lạ vi diệu. Mỗi mỗi đền đài có bảy lớp câu lan bằng tứ bửu la vàng bạc lưu ly và pha lê vi diệu đệ nhất xen lẫn hiệp thành.
Vòng quanh bốn mặt đền đài ấy treo thòng những linh thất bửu là vàng bạc lưu ly pha lê xa cừ mã não và chơn châu, báu ấy tinh kỳ vi diệu đệ nhất. Lại có màn lưới thất bửu, tràn thất bửu,
phan thất bửu và tám ức sáu ngàn vạn trướng thất bửu.
Chư Kim Sí Ðiểu Vương cầm tám ức sáu ngàn vạn đền đài thất bửu ấy, lọng phan tràng trướng thất bửu ấy dưng lên đức Phật Như Lai. Ðã cúng dường xong, chư Kim Sí Ðiểu Vương và những vật cúng dường bay trên hư không nhiễu quanh đức Phật ba vòng như tượng vương Yên La Bà Na ở cõi trời Ðao Lợi đầu đội chư Thiên bay trên không đến cây ba lợi chất đa la. Chư Ðiểu Vương ấy mang đền đài lọng tràng phan trướng thất bửu bay trên không nhiễu quanh Phật ba vòng cũng như vậy.
Chư Ðiểu Vương bay nhiễu Phật rồi dừng ở một phía cung kính đồng thanh nói kệ tán thán rằng:
“Quy mạng đấng xuất ly sanh tử
Quy mạng đấng cứu độ sanh tử
Quy mạng đấng kiên cố vô thương
Quy mạng đấng vô thượng vô đẳng
Nghuyện tôi sẽ được thân kiên cố
Ba mươi hai tướng tự nghiêm sức
Lại có tám mươi tùy hình hảo
Nguyện cầu chúng tôi như Ðạo Sư
Nguyện tôi viên quang đủ oai đức
Hình nhan công đức đều thành tựu
Nguyện được Phật oai nghi đệ nhất
Khiến tâm người tịnh chứng tịch diệt
Nguyện đủ giới đức tam ma đề
Cũng được Phật trí huệ vô thượng
Nguyện đều làm Phật độ chúng sanh
Như nay Phật làm thế Ðạo Sư
Bạch Phật tôi nguyện đủ thập lực
Cũng được mười tám pháp bất cộng
Thành Phật trí huệ hơn thế gian
Như nay là Phật thượng trong thượng
Cũng biết chúng sanh không thể tánh
Như ảo như mộng không sở y
Tuyên nói như hướng như hư không
Như Phật hôm nay vì chúng nói”.
Ðức Phật biết chư Ðiểu Vương kính tin rồi, liền hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
Ðấng vô thượng thắng đại Ðạo Sư
Chẳng vô sự mà hiện tướng cười
Ðấng thương thế gian xin nói cho
Hiện tướng mỉm cười do cớ gì
Chư Ðiểu Vương kia đã cúng Phật
Ðiện lọng tràng phan hiện hư không
Khiến Trời Người thấy sanh ngưỡng mộ
Nguyện Lưỡng Túc Tôn nói nghĩa ấy
Tất cả đại chúng chấp tay đứng
Thân tâm thanh tịnh đều mừng rỡ
Nguyện nghe Ðiểu Vương quả vị lai
Xin Lưỡng Túc Tôn tuyên nghĩa ấy
Néu đức Thế Tôn tuyên nói rồi
Tất cả đại chúng đều không nghi
Ðại chúng rời nghi được vô úy
Trí Như Lai hay làm mừng rỡ
Ðại chúng vui mừng được vô úy
Rời những lỗi ác tâm thanh tịnh
Chúng ấy thích nghe Như Lai nói
Dường như đệ tử nhận lời thầy
Nguyện dứt lòng nghi của đại chúng
Nguyện Phật nhiếp thọ cho mừng rỡ
Ðại chúng mừng vui đều đến họp
Nguyện nói Ðiểu Vương quả đương lai”.
Ðức Phật nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng:
Thập lực chơn thiệt siêu tất cả
Viên âm phạm thanh đều đầy đủ
Hàng phục các căn vì Mã Thắng
Nói quả vị lai của Kim Sí
Lành thay Mã Thắng hỏi nghĩa ấy
Phật hiện mỉm cười thương thế gian
Lắng nghe báo ấy để vui dạ
Lòng sẽ mừng rỡ trừ nghi hoặc
Ðiểu Vương cúng dường lớn nơi Phật
Ðể cầu quả Bồ đề Vô thượng
Bốn vô sở úy mười trí lực
Vì được pháp ấy thành Ðạo Sư
Lại cầu mười tám pháp bất cộng
Kim Sí Vương ấy cúng dường Phật
Cũng cầu thân kiên cố chẳng hoại
Ba mươi hai tướng tám mươi tốt
Cầu Phật tịnh giới tam ma đề
Cảnh giới đại trí huệ của Phật
Thành tựu tịnh độ độ thế gian
Vì cầu đây Ðiểu Vương cúng Phật
Ðiểu Vương lòng tin cúng Phật rồi
Kẻ trí hay rời súc sanh đạo
Quyết sẽ được sanh tại cõi trời
Thân chim Này là thân tối hậu
Hằng sa kiếp sau chúng họ sẽ
Thường sanh nhân gian và thiên thượng
Cúng dường vô lượng chư Phật rồi
Sẽ được làm Phật phục các căn
Quốc độ Phật ấy không ác thú
Ðầy đủ thân tướng lìa tám nạn
Phật ấy đồng hiệu Phổ Ðoan Chánh
Kiếp ấy tên là Tu Di Tràng
Trong tám ức bốn ngàn vạn năm
Vì thương thế gian Phật trụ thế
Thuở ấy tất cả chư Như Lai
Tuổi thọ Phật sự thảy đều đồng
Phật ấy lìa nhiệt dứt phiền não
Mỗi mỗi đức Phật tám mươi hội
Trong mỗi mỗi hội tám ức người
Rời lìa kiêu mạn được tự tại
Vì họ sẵn có thân kim sắc
Sức mạnh nên lòng thường kiêu mạn
Sau Này thành Phật thương chúng sanh
Dứt trừ kiêu mạn chuyển pháp luân
Quá khứ chúng họ đã từng làm
Chúng tiên nhân tu hành khổ hạnh
Số đủ tám ức sáu ngàn vạn
Phàm chỗ tu hành vì thần thông
Lúc chúng tiên nhân được thần thông
Khen mình khổ hạnh là hi hữu
Chẳng phạm cấm giới đủ công đức
Ở trong rừng núi sanh kiêu mạn
Do kiêu mạn nên sanh Kim Sí
Do tâm thông nên có thần lực
Do giới thanh tịnh nên thấy Phật
Do mạn nên quên tâm Bồ đề
Nay Phật thọ ký Bồ đề rồi
Và nói gốc sanh ra Kim Sí
Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng
Mừng rồi đều thành Bồ đề khí”.
XIII
.
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIÊT
PHẨM LONG NỮ THỌ KÝ THỨ SÁU
Bấy giờ chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ thấy chư A Tu La và chư Ca Lâu La cúng dường Thế Tôn và được thọ ký rồi sanh lòng mừng vui hớn hở vừa ý phát khởi tâm cúng dường Thế Tôn. Họ liền hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, thân lọng bằng tỳ lưu ly, cán lọng bằng chơn kim, lưới tỳ lưu ly trùm trên lọng, viền bằng lưới xích chơn châu, trăm ngàn lọng con bằng tỳ lưu ly và lưu tô bảy báu thòng rủ bốn phía. Chư Long Nữ lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn ngựa quí, ngựa xanh màu xanh thân xanh ánh sáng xanh, tất cả đồ trang sức đều xanh, báu tỳ lưu ly làm cương khớp,lại hóa hiện trên không xe báu ma ni đại oai đức trên xe ấy có điện báu ngang rộng đều sáu mươi do tuần, điện báu ấy che trùm
khắp cả chúng tại đại hội, bốn mặt điện có chín ức sáu ngàn vạn lưu tô bằng những châu báu thòng xuống các nơi vi diệu rất lạ, màu sáng chóa mắt. Có lưới báu trùm trên điện báu ấy. Lại có linh báu treo bốn mái điện hóa làm các thứ chim thất bửu thứ tự bay liệng, nhiều vòng bốn mặt điện báu ấy. Lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn thứ âm nhạc rồng. Chư Long Nữ ấy ngồi trên ngựa xanh ném lọng báu lên hư không tự nhiên bay đi. Chư Long Nữ đều cầm nhạc khí hòa tấu nhiễu quanh Phật ba vòng, dùng bột thơm chiên đàn và trầm thủy cõi trời và bột la đa ma la, bột vàng chơn kim cõi trời cùng các thứ hoa rải lên trên đức Phật, lại đem các thứ vòng hoa, các thứ y phục quý lạ, các thứ hương, các thứ anh lạc rải lên trên đức Phật để cúng dường.
Lúc chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ tấu nhạc, do thần lực của Phật, âm thanh ấy vang khắp tam thiên Ðại thiên thế giới. Chúng sanh được nghe âm thanh ấy thì được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Trong điện báu đại oai đức và trong khoảng kê của lưu tô thất bửu, các chim thất bửu, những linh báu do gió nhẹ thổi đọ-ng phát ra âm thanh vi diệu hòa nhã rất đáng ưa thích
như trăm thứ nhạc do các nhạc công giỏi cùng hòa tấu. Âm thanh
ấy do thần lực của Phật, cũng vang khắp Ðại Thiên thế giới, chúng sanh được nghe đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Chư Long Nữ lại mua các thứ hoa trời, các thứ hương trời cùng nước thơm. Hơi thơm ấy bất luận gió nghịch gió thuận đèu bay đi vô ngại. Do nước thơm mưa xuống ấy mà cả thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm. Hơi thơm ấy xông khắp Ðại Thiên thế giới. Chúng sanh được ngửi hơi thơm ấy đều được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ ấy cúng dường đức Phật rồi và cùng chín ức sáu ngàn vạn lọng báu, ngựa báu, âm nhạc báu, tất cả các báu trang nghiêm ở trên hư không đảnh lễ Phật nhiễu quanh Phật ba vòng rồi dừng ở một phía cung kính nói kệ tán thán rằng:
“Hàng Long Nữ có trí huệ tốt
Tâm ý hớn hở sanh mừng vui
Cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật
Nguyện cầu an đại Bồ đề
Hóa làm chín ức sáu ngàn vạn
Lọng báu và các trang nghiêm đẹp
Cúng dường đức Phật khéo điều tâm
Xuất ly tất cả các chướng ngại
Lại hóa chín ức sáu ngàn vạn
Ngựa quí và đồ trang nghiêm báu
Ngựa và trang nghiêm đều màu xanh
Cũng lại hóa hiện tràng màu xanh
Ngựa ấy đều đi trên hư không
Ðến chỗ Phật ngự dâng lễ cúng
Long Nữ đều có lòng kính tin
Ðầu mặt đảnh lễ chư Như Lai
Những hóa nhạc khí ở Long cung
Vì cúng dường Phật mà đem đến
Ðến rồi dâng lên Thích Ca Phật
Ðáng thọ cúng dường đại Ðạo Sư
Thế Tôn khiến tiếng âm nhạc ấy
Vang khắp cõi tam thiên Ðại Thiên
Vô lượng chúng sanh được nghe rồi
Ðều được tâm Bồ đề bất thối
Chúng Long Nữ ấy ở không trung
Hóa làm một đại chúng bửu điện
Rộng rãi có sáu mươi do tuần
Trùm khắp toàn hội các đại chúng
Báu ấy tên ma ni oai đức
Chiều khắp mười phương cõi Ðại Thiên
Hàng Long Nữ ấy đều tiến lên
Tâm tịnh mừng vui cúng dường Phật
Phát sanh lòng hớn hở vô lượng
Vì cầu quả Bồ đề an ổn
Nguyện cho chúng tôi sẽ làm Phật
Vì lợi ích tất cả chúng sanh
Chúng tôi nguyện vì vô lượng chúng
Thuyết pháp cứu khỏi vòng phiền não
Cũng như thập lực đại Ðạo Sư
Hiện nay cứu khổ chúng sanh vậy
Tất cả các pháp như ảo mộng
Cũng như bọt nước chẳng chắc bền
Lại như mưa xối nổi bóng nước
Nên biết các pháp không có chủ
Chúng sanh như ảnh cũng như tượng
Quan sát thế gian như vậy rồi
Mong nguyện chúng tôi vì chúng nói
Pháp tánh chơn như và thiệt tế
Như Phật trí sáng khéo thấy pháp
Vọng tưởng hư ngụy dối thế gian
Như ảo trang nghiêm không có thiệt
Chỉ hay noặc loạn các phàm phu
Với pháp chúng sanh mê vô trí
Chẳng biết các pháp chơn thiệt tánh
Ðạo Sư đã thấy pháp bỉ ngạn
Lại hay khiến các chúng khác hiểu
Hư không nổi mây che khắp đất
Thấy mây hư không kia như ảnh
Nó không thể thiệt không sở y
Cũng lại như ảnh không có thiệt
Chúng sanh như vậy không thể tánh
Chỉ hay dối lầm các căn môn
Phật trí thấy các loài như vậy
Chỉ hay dối lầm kẻ vô tri
Thế gian tôn trọng lấy nghiệp ấy
Nơi người trí huệ làm lợi ích
Như Lai thị hiện không thể tánh
Vì chúng sanh thấy chơn thiệt vậy
Chỉ dùng thiệt pháp vui lòng chúng
Trong bùn sanh tử làm cầu đò
Thiệt pháp chẳng phải cảnh người ngu
Vì họ chấp danh chẳng cầu nghĩa
Vì Phật trí sáng tôi quy y
Ðấng đầy đủ thị hiện chơn thiệt
Hay làm thân cứu cho kẻ ngu
Làm thiện tri thức làm nhà về
Như vậy vì cầu đại Bồ đề
Chúng tôi cúng dường đại Ðạo Sư
Nguyện được làm Phật giác ngộ người
Lợi ích thế gian như Phật vậy”.
Ðức Thế Tôn biết các Long Nữ đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười; huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi rằng:
Ðấng thắng trí ở trong thế trí
Ðạo Sư tối thắng hiện mỉm cười
Ðức trọng kiên cố dường như núi
Phật hiện mỉm cười chẳng không nhân
Ðấng chứa tối thượng hơn trong người
Mong nói nhân duyên tướng mỉm cười
Trời Người Rồng Quỉ nếu được nghe
Nơi Phật đều sanh lòng mừng rỡ
Thế gian Ðạo Sư với thế gian
Thương biết tất cả pháp nhân duyên
Không có một pháp Phật chẳng hiểu
Nhân duyên chủng loại Phật đều biết
Ngưỡng mong đức Phật thương nói cho
Duyên cớ do đó Phật mỉm cười
Tất cả đại chúng nếu được nghe
Sanh lòng mừng rỡ hết nghi hoặc
Như Lai diệu pháp có lợi lớn
Những đại chúng đây quyết sẽ được
Ðại chúng nếu được tâm tịch định
Do ưa diệu pháp được lợi ích
Phật lực khiến dứt phân biệt rồi
Chỉ thích Bồ đề nghe Phật nói
Nếu được nghe nhân duyên mỉm cười
Quyết sẽ thành tựu nơi Phật đạo
Nếu người nơi pháp lòng có nghi
Tâm họ xao động sanh khổ não
Hiện nay đại chúng trong hội này
Chẳng biết duyên do Phật mỉm cười
Ðại chúng có thể dứt lòng nghi
Ngưỡng mong Ðạo Sư trừ dứt cho
Mau thương tuyên nói độ chúng tôi
Do nhân duyên gì Phật mỉm cười
Ngày nay ai tâm được thanh tịnh
Ngày nay ai trừ được ma oán
Ngày nay ai kính tin nơi Phật
Ngày nay ai được cúng duờngPhật
Ngưỡng mong Ðại Sư ở trước chúng
Tuyên nói ai có công đức ấy
Chúng tôi nghe nói sanh lòng mừng
Lòngmừng vui rồi được an ổn
Các đại chúng đây đều kính lễ
Tất cả đều có lòng muốn biết
Nguyện nghe cớ cười dể được mừng
Ngưỡng mong Thế Tôn tuyên nói rõ
Các Trời Người Này được nghe rồi
Tất cả đại chúng không còn nghi
Nếu được nghe lời Như Lai nói
Tất cả sẽ được lòng mừng rỡ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
“Lành thay Huệ Mã Thắng Tỳ Kheo
Hỏi nơi Như Lai nhân duyên cười
Thấy các Long Nữ cúng dường rồi
Phật thương thế gian nên mỉm cười
Nay Phật vì ông nói quả ấy
Rời lìa tội lỗi chí tâm nghe
Duyên cớ nay Phật hiện mỉm cười
Mã Thắng các người nghe Phật nói
Các Long Nữ Này tâm không chấp
Cầu đại Bồ đề tu tinh tấn
Dùng trí huệ tu thế gian không
Quyết định an trú đạo Bồ đề
Nơi đây không tác không người thọ
Cũng không kẻ sanh kẻ dưỡng dục
Chỉ có các pháp không việc khác
Pháp ấy cũng vọng như ảo mộng
Do vì biết ơn cúng dường Phật
Hay dùng trí huệ biết chơn thiệt
Lành thay Phật hiểu các thế gian
Nghĩa là thấy được không vô ngã
Họ thích không ấy khéo tu tập
Dầu bày cúng dường xem như ảo
Nơi thắng Bồ đề đã phát nguyện
Quán Bồ đề ấy cũng chẳng chấp
Họ đem tối thắng ấy cúng dường Phật
Cũng quán chúng sanh không tịch rồi
Lìa hẳn loài rồng thân ác thú
Cùng trời Ðế Thích kia đồng ở
Tại trời Ðao Lợi thọ vui lớn
Hưởng hết thọ mạng Ðao Lợi rồi
Không ai chê được tiếng tâm họ
Lại được sanh lên trời Dạ Ma
Lúc họ ở cung trời Dạ Ma
Hưởng đủ vui sướng cung trời ấy
Các Phật tử ở trời Dạ Ma
Cho đến mãn hết thọ lượng ấy
Các Phật tử Này hưởng đủ vui
Hết thọ mạng nơi Dạ Ma rồi
Lại được sanh lên trời Ðâu Suất
Cùng trời cõi ấy đồng một loại
Ðược các Thiên nữ thường vây quanh
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Lòng không luyến trước gìn đạo lành
Như hoa sen kia nước chẳng ngấm
Trời ấy dùng được trí huệ lớn
Quan sát tất cả thế gian không
Dường như khác đá chớ chẳng mất
Ðạo niệm chẳng mất cũng như vậy
Các Thiên Tử ấy ở Ðâu Suất
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Ở nơi Ðâu Suất mãn thọ rồi
Lại được sanh lên trời Hóa Lạc
Họ được danh tốt không hư hoại
Ðược các Thiên Nữ thường cúng dường
Dầu ở cung trời tâm không trước
Cho đến hết hạn thọ lượng ấy
Ở trong cung trời Hóa Lạc kia
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Chủng trí huệ ấy mãn thọ rồi
Nơi tất cả pháp được cứu cánh
Sanh lên Tha Hóa Tự tại Thiên
Làm thương chủ lớn tín thanh tịnh
Ở trời Tha Hóa lòng không nhiễm
Lúc ở trời ấy ưa chánh pháp
Phật tử ở cung trời Tha Hóa
Hưởng ngũ dục lạc rất vi diệu
Không có ngu si gìn đạo lành
Cho đến hết hạn thọ mạng ấy
Dầu hưởng lạc dục mà thấy lỗi
Ưa cầu chánh định và Niết bàn
Tu tập chứng được thiền định rồi
Mạng chung liền sanh trời Phạm Thiên
Ở cung Phạm Thiên giỏi biết thiền
Hưởng vui tịch diệt quả thiền ấy
Trí huệ rất lớn trụ một kiếp
Nguyện cầu Vô thượng đại Bồ đề
Lúc ở Phạm cung trong một kiếp
Khéo dùng oai nghi cầu trí huệ
Phương tiện để lợi ích thế gian
Rộng làm vô biên và vô lượng
Trí ở Phạm cung vui tại thiền
Chẳng trước nơi thiền mà tịch diệt
Biết trước thiền lạc cũng là lỗi
Các căn tịch định cầu Bồ đề
Nơi tất cả pháp lòng tin hiểu
Ðều được an trụ Bồ Tát hạnh
Biết các thiền định tướng hư dối
Chỉ cầu tịch diệt đại Niết bàn
Các Phật tử ấy ở trong đó
Cầu được Bồ đề quả an ổn
Ở tại Phạm cung tâm thanh tịnh
Nghĩ lại chúng sanh khéo điều tâm
Giáo pháp tự nhiên của Phạm Thiên
Thuyết giáo Phạm Thiên chẳng xuất thế
Chỉ có Bồ đề đạo chư Phật
Cứu cánh hay được xuất thế gian
Ðương thời Phạm Thiên sanh tin rồi
Phát tâm an trụ nơi Phật đạo
Biết giáo tự nhiên của Phạm Thiên
Chẳng phải cứu cánh đạo xuất thế
Nơi pháp Như Lai họ tương ưng
Vì các thế gian nói pháp ấy
Như pháp nhãn họ nói quả ấy
Khiến người nghe kia mau được biết
Phật tự ở tại Phạm cung kia
Làm những lợi ích thế gian rồi
Hay khiến vô lượng na do tha
Ức chúng an trụ đạo Bồ đề
Họ ở vô lượng na do tha
Sẽ được cúng dường tất cả Phật
Vị lai kiếp tinh tú sau đây
Các căn tịch tịnh sẽ làm Phật
Các Trời Người Rồng A Tu La
Kim Sí Dạ Xoa Càn Thát Bà
Cưu Bàn Trà Quí Khẩn Na La
Tất cả đại chúng đều mừng rỡ
Chúng ấy được chư Phật giáo hóa
Ở trong Phật pháp đắc lực rồi
Thảy đều mừng vui chấp tay kính
Cúi đầu đảnh lễ nơi chân Phật”.
PHẨM LONG VƯƠNG THỌ KÝ THỨ BẢY
Bấy giờ Long Vương Nan Ðà và Bạt Nan Ðà v.v...chín ức chư Long thấy các Long Nữ cúng dưòng Phật và được thọ ký rồi, họ sanh tâm hi hữu, tâm chưa từng có mà nghĩ rằng: Ðức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri thiệt là hi hữu chưa từng có, đức Như Lai biết các chúng sanh căn cơ thâm tín, đức Như Lai không có chút phần nào là chẳng thấy chẳng nghe chẳng chứng. Chánh pháp của Như lai do Phật khéo tuyên nói hay khiến đại chúng nghe rồi hiện biết, không có thời tiết, tùy cơ trao pháp quyết định làm cho đắc quả, khiến các người trí hiện được chứng biết. Cho đến hàng nữ nhân động chuyển khinh tháo trí huệ cạn kém mà còn hiểu được thâm pháp của Phật nói, huống là những người trí khéo an trụ trong pháp Phật làm chúng đệ tử. Hàng nữ nhân
ấy dục tâm tăng thượng, sân tâm tăng thượng, si tâm tăng thượng còn có thể biết được chỗ tuyên nói của Như Lai. Vì suy nghĩ như vạ-y nên đối với đức Phật, chư Long Vương Nan Ðà, Bạt Nan Ðà v.v...sanh tâm hi hữu chưa từng có. Vì cúng dường Phật nên chư Long nổi mây trùm khắp tất cả thế gian mưa nước thơm làm thành bùn thơm, hơi thơm ấy đầy khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Chúng sanh nghe hơi thơm ấy đều đuợc chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Nơi thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần mưa xích chơn châu khắp mọi nơi, lại có các thứ báu vô giá trùm khắp giáp vòng vườn Ni Câu Ðà. Lại lấy long hoa hóa thành nhà đẹp rộng sáu mươi do tuần, toàn nhà đều bằng thất bửu. Lại có vô lượng nhạc khí đồng tấu cúng dường. Nhà thất bửu long hoa ấy hóa làm chín ức hoa tràng nhiều màu treo khắp nhà, lưới tỳ lưu ly trùm trên cột báu, bửu châu vô giá trải đầy mặt tiền, bửu châu ấy rất nhu nhuyến như bà lá thạch ở trời Ðao Lợi, đá ấy màu như tỳ lưu ly, chạm đến mềm nhuyển như thiên y vi diệu khả ái. Trong các thứ ma ni bửu ấy, hoặc có thứ phát xuất tia sáng mát lạnh, hoặc phát xuất nước xanh, nước vàng, nước đỏ; nước trắng, hoặc
phát xuất nước nhiều màu, hoặc phát xuất gió mát mẻ, hoặc có bửu châu tùy ý chúng sanh mà phát xuất những đồ cần dùng, hoặc có bửu châu phát xuất dầu trơn, hoặc có bửu châu có thể làm gương sáng hiện bóng tất cả đại chúng. Tất cả nhân dân từ thành Ca Tỳ La ra đều hiện rõ bóng trong ấy. Tất cả đại chúng đều thấy Phật và Thanh Văn hiện các thứ thần thông biến hóa. Do thần lực của báu ma ni ấy, trong thềm nhà phát xuất những lọng báu nhiều màu, những tràng báu nhiều màu, những phan báu nhiều màu, những vòng hoa nhiều màu, những vòng hương, những vòng báu, những vòng chơn châu, những lưới linh báu, lại phát xuất những ngựa quý nhiều màu. Long Vương Nan Ðà và chín ức chư Long xua các ngựa quí đi bộ theo nhiễu quanh bên hữuPhật ba vòng rồi dùng báu nhu nhuyến rải nơi Thế Tôn. Các thứ báu từ dưới nền nhà đẹp ấy phát xuất đều bay lên hư không che đức Phật và chúng Thanh Văn. Các nhạc khí tại hư không tự nhiên phát xuất âm thanh vi diệu cúng dường đức Phật.
Chín ức chư Long nhiễu Phật xong, Ở trước Phật chấp tay yên lặng niệm Phật công đức chiêm ngưỡng Như Lai mắt chẳng tạm rời, thích Phật công đức thêm tâm an trụ Vô thượng Bồ đề. Chư Long yên lặng niệm Phật công đức giây lát rồi cùng đảnh lễ chân Phật đồng thanh nói kệ tán thán rằng:
“Lâu tu oai nghi tướng trăm phước
Bi tâm ly cấu hạnh đầy đủ
Dứt bỏ vô tận đất báu quý
Thế Tôn rời khỏi thành Ca Tỳ
Trong sáu năm dài tu khổ hạnh
Như Lai chẳng được đạo cam lộ
Ý Thế Tôn còn chẳng chán buồn
Bởi Ngài đã lâu tu trí huệ
Như Lai thiệt là thầy Trời Người
Vì thế gian mà tu khổ hạnh
Thế gian nghe rồi còn chẳng kham
Huống là có thể lấy mắt ngó
Thế Tôn quá khứ bỏ đầu mắt
Như thánh chứa hộp tâm Bồ đề
Nghe tin ấy chúng tôi chẳng vui
Vì nghĩ đến Phật quá khổ hạnh
Như Phật xưa làm tiên nhẫn nhục
Bị vua Ca Lợi chặt tay chân
Thẻo tai lắc mũi chẳng oán giận
Chúng tôi nghe tin chẳng nhẫn được
Như Phật đem thân lên bàn cân
Vì chim nương cứu chẳng nở bỏ
Chúng tôi nghe tin cũng chẳng vui
Như Lai quá khứ quá cần khổ
Tại sao lòng chúng tôi chẳng vui
Vì Thế Tôn chịu quá khổ sở
Kẻ ác hại đến đức Như Lai
Họ đọa ác đạo Phật lại thương
Ðầy đủ thánh huệ đại Ðạo Sư
Sao hành được tâm bất hại ấy
Tu tập đạo hạnh không sai sót
Ngưỡng mong Phật nói hạnh an lạc
Nay chư Long Này đã phát tâm
Cầu nơi Như Lai Bồ đề hạnh
Như Phật tuyên dạy đều làm được
Ngưỡng mong Phật nói đạo Bồ đề
Chúng chư Long Này rất khác ngưỡng
Chỉ cầu chỗ bất tử bất sanh
Nguyện nói Như Lai hạnh an ổn
Khiến các chúng sanh dễ giáo hóa”.
Ðức Phật thấy các Long chúng cúng dường và phát nguyện. Biết họ đã thâm tín rồi, Phật
liền hiện mỉm cười. Chư Phật pháp nhỉ nếu hiện tướng mỉm cười thì từ diện môn phóng vô lượng tia sáng màu chiếu đến Phạm Thiên rồi trở về nhập vào đảnh Phật.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“Lành thay Sa Môn Ðại Mâu Ni
Chẳng phải không cớ hiện mỉm cười
Thế Tôn từ bi xin nói rõ
Vô thượng Chánh Giác cớ sao cười
Ðại chúng chiêm ngưỡng cầu được nghe
Thế Tôn vô lượng công đức hạnh
Thấy cười sanh nghi lòng chẳng vui
Ngưỡng mong Pháp Vương dứt nghi cho
Ai nay ở trong pháp Thích Ca
Sanh lòng kính tin và mừng rỡ
Ai khiến ngày nay ma Ba Tuần
Tâm ý mê loạn và lo rầu
Ai ngày hôm nay hay cung phụng
Cha lành công đức đại Ðạo Sư
Ai dâng cúng dường thắng đệ nhất
Mong đức Như Lai Vô thượng nói
Toàn đại chúng đây đồng chấp tay
Thảy đều đối Phật chiêm ngưỡng đứng
Ngưỡng mong Ðạo Sư trừ lưới nghi
Vì chúng mà nói duyên cớ cười
Ðại chúng nghe rồi lòng mừng rỡ
Biết được chánh pháp Thế Tôn dạy
Ðại trí Thế Tôn khiến chúng mừng
Tùy thuận chánh giáo khéo an trụ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng:
“Trí huệ rộng sâu đại Ðạo Sư
Lúc nói phạm âm đủ tám đức
Tâm Phật thanh tịnh rời uế trược
Lắng nghe Phật nói nhân duyên cười
Các Long Vương Này lòng kính tin
Cúng dường nơi Phật hơn tất cả
Chúng ấy vì cầu Phật Bồ đề
Ðể lợi ích tất cả thế gian
Lòng bi tăng thượng quán thế gian
Không có Ðạo Sư vui sao được
Tôi làm sao được đại Bồ đề
Thành thục chúng sanh chẳng mỏi nhọc
Rất ưa tịch tịnh đủ trí huệ
Tu thừa an lạc tâm thanh tịnh
Nơi không vô tướng và vô nguyện
Từ vô lượng kiếp đã tu lâu
Tâm Phật bình đẳng quán thế gian
Như Phật đã được tướng trí huệ
Tâm từ bi hỉ đều bình đẳng
Vì khiến thế gian an ổn vậy
Tâm bi đệ nhất lòng thương xót
Sẽ được làm Phật vừa ý mình
Chúng ấy quán sát chúng sanh rồi
Sẽ thành Ðạo Sư hiệu Vô Oán
Lúc các chúng ấy được cam lộ
Không có ma oán cũng không dư
Hằng thường diễn nói pháp vô ngã
Một bề không có thế tục thuyết
Chư Như Lai ấy đủ đại bi
Khiến các chúng sanh nhập trí Phật
Lúc Chư Như Lai ấy thuyết pháp
Tất cả chúng sanh đều tín hiểu
Lúc chúng ấy đời đời tu hành
Thành thục chúng sanh chẳng khó lắm
Chúng sanh thành thục nghe pháp rồi
Sẽ được giải thoát chứng cam lộ
Những người nghe pháp đều giải thoát
Các chúng sanh ấy đều đoan nghiêm
Tất cả chúng sanh đều biết hiểu
Chánh pháp của chư Phật ấy nói
Tất cả quỉ thần và súc sanh
Không ai chẳng hiểu lời Phật ấy
Tất cả đều được niệm pháp rồi
Hiểu được Như Lai pháp cam lộ
Không có chúng sanh nghe Phật dạy
Mà họ chẳng sanh lòng yêu thích
Yêu thích chánh pháp Phật nói rồi
Tất cả thảy đều được cam lộ
Thuở ấy những người được giáo hóa
Sẽ được giải thoát bệnh sanh tử
Và giải thoát khổ chết buồn lo
Nghe Phật nói rồi lòng không nhơ
Như vậy Thích Ca Mâu Ni Phật
Nói ý chư Long đáp Phật tử
Như tâm kiên quyết của chư Long
Vì được Bồ đề Vô thượng vậy
Như Lai thọ ký cho chư Long
Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng
Ðại chúng mừng rồi quy y Phật
Tất cả thảy đều tâm tịch tĩnh”
PHẨM CƯU BÀN TRÀ THỌ KÝ THỨ TÁM
Bấy giờ lại có một ức tám ngàn vạn Cưu Bàn Trà thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ và Long Vương cúng dường Phật được thọ ký
họ rất vừa lòng hớn hở vui mừng sanh lòng hi hữu chưa từng có, nghĩ rằng đức Như Lai Thế Tôn công đức trí tuệ vi diệu thù thắng được sự cúng dường hi hữu như vậy mà chẳng mừng chẳng kỳ lạ, vì trí tuệ của Phật là tối tôn thắng trong các trí huệ vậy. Ví như đại hải chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao? Vì sâu rộng vậy. Ðức Thế Tôn được cúng dường thù thắng mà tâm Phật chẳng tăng giảm. Tại sao? Vì đối với tất cả pháp không chỗ nghi vậy.
Lúc ấy một ức tám ngàn vạn Cưu Bàn Trà vì cúng dường nên hóa hiện một ức tám ngàn vạn lọng thất bửu treo những vòng thất bửu
Lại hóa một ức tám ngàn vạn xe thất bửu, trên xe lại hóa một ức tám ngàn vạn lọng báu, những xe ấy liền nhau, lọng báu đều treo những tụi báu, có màn lưới xích chơn châu trùm lên trên. Lại hóa những âm nhạc Cưu Bàn Trà hòa tấu cúng dường Phật. Lại hóa một ức tám ngàn vạn ngựa nhiều màu báu rất điều phục để kéo xe ấy. Chư Cưu Bàn Trà đều ngồi xe thất bửu nhiễu bên hữu Phật ba vòng, dùng hoa thất bửu rải trên Phật rồi xuống xe đến lê’ chân Phật nhiễu Phật ba vòng chấp tay đứng một phía nói kệ tán thán rằng:
“Chẳng tăng chẳng gjảm Ðại Mâu Ni
Dường như Tu Di các núi chúa
Thọ sự cúng dường vô thượng Này
Vì Như Lai được vô úy vậy
Quan sát chúng sanh chỉ có danh
Và chỉ có dụng chẳng nắm lấy
Ðạo Sư do tu hạnh tịch diệt
Do đó người trí không cống cao
Thế Tôn biềt đời dường ảo mộng
Trong ảo trong mộng thọ dục lạc
Lại giống thủy nguyệt và dương diệm
Quán sát như vậy không còn thừa
Ví như càn thành không có thiệt
Khắp mười phương cầu chẳng th
ể được
Thành ấy không thiệt chỉ có danh
Phật thấy thế pháp đều như vậy
Tất cả Trời Người cúng dường Phật
Xe báu lọng báu và âm nhạc
Tràng hoa tua tụi cùng chấp tay
Thế Tôn xem biết như ảnh hưởng
Chúng tôi trần thiết như cúng dường rồi
Nguyện tôi đương lai sẽ làm Phật
Cũng nguyện tôi biết đời như mộng
Biết rồi thuyết pháp như Thế Tôn
Chúng tôi thấy những người khổ não
Bị sanh già ịnh chết bứt ngăt
Nguyện biết Phật Bồ đề Vô thượng
Nói cho kẻ nghe được giải thoát
Ở chỗ các chúng sanh vô trí
Nguyện được Bồ đề để thuyết pháp
Diễn thuyết không có pháp cấu trược
Trong chúng không đạo làm Ðạo Sư”.
Ðức Thế Tôn biết chư Cưu Bàn Trà sanh lòng tín sâu nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“Phật chẳng không cớ hiện mỉm cười
Chẳng cho tất cả là hi hữu
Phật chẳng hi hữu mà mỉm cười
Nay tôi nguyện nghe nhân duyên ấy
Tất cả Trời Người đều có nghi
Thấy nơi miệng Phật hiện mỉm cười
Ngưỡng mong dứt trừ các lưới nghi
Diễn nói sự mỉm cười của Phật
Ai nói chánh pháp được tín sâu
Ai hay như pháp thấy từ phụ
Ai được Phật khen dâng cúng dường
Tôi nguyện được nghe Thế Tôn nói
Ngày nay đối với hành hữu vi
Ai thấy lỗi nó mà vứt bỏ
Ngày nay ai an trụ thiệt tế
Tâm họ thanh tịnh tôi nguyện nghe
Ai hàng phục ma và quyến thuộc
Ai khiến được Phật tâm vui vẻ
Ai hay được đáy hữu vi sâu
Tôi muốn được nghe để dứt nghi
Tất cả đại chúng đứng chắp tay
Cầu nghe nhân duyên Phật mỉm cười
Nguyện dứt tất cả chúng sanh nghi
Ðấng thế Tôn tuyên thọ ký họ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng:
“Lành thay Mã Thắng hỏi nghĩa ấy
Ðem lợi ích lớn cho thế gian
Vì ông hỏi nhân duyên mỉm cười
Mã Thắng lắng nghe nay Phật nói
Chúng Cưu Bàn Trà cúng dường Phật
Nơi pháp tịch diệt tâm an trụ
Chúng ấy thấy Phật chẳng kinh quái
Sanh lòng hi hữu mà nguyện cầu
Chúng ấy hôm nay cúng dường Phật
Tâm họ chọn lấy pháp tịch diệt
Do lòng tin sâu khởi đại bi
Nơi người lạc đường làm Ðạo Sư
Vì thương chúng sanh nên cúng Phật
Vì kẻ lạc đường khởi lòng
Chúng hiền trí ấy làm vậy rồi
Ðược bỏ thân quỉ sanh Ðao Lợi
Thiên Vương thường dùng lòng từ bi
Tại trời luôn luôn dạy dỗ họ
Họ có các pháp được không nghi
Ðược làm thân quyến Thiên Ðế Thích
Họ có vô lượng hằng sa kiếp
Mỗi mỗi quốc độ làm Phật hạnh
Mặc giáp hằng thệ rất kiên cố
Cúng dường đấng Pháp Vương tự tại
Họ có vô lượng các quốc độ
Lòng không mỏi nhọc được thanh tịnh
Lợi ích đại chúng làm Ðạo Sư
Sẽ được làm Phật hiệu Bất Quái
Lúc họ ở các nước tu hành
Người nước ấy tất biết thành Phật
Do phương tiện Này đời vị lai
Dầu độ chúng sanh không tâm quái
Vì cầu đạo vô thượng an ổn
Tịnh các quốc độ đều chẳng quái
Nơi việc được làm tâm không trước
Nơi đại Bồ đề cũng như vậy
Hỏi duyên cớ cười Phật đã đáp
Chúng sanh đều được dứt lòng nghi
Ðại chúng hết nghi đều mừng rỡ
Quyết định biết rõ họ cúng dường”.
PHẨM CÀN THÁT BÀ THỌ KÝ THỨ CHÍN
Bấy giờ lại có ba ức sáu ngàn vạn chúng Càn Thát Bà thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương và Cưu Bàn Trà cúng dường Phật được thọ ký, họ vừa lòng xứng ý hớn hở vui mừng sanh tâm hi hữu chưa từng có mà nghĩ rằng: Ðức Như Lai thiệt là hi hữu chưa từng có tuyên nói pháp giới không có biến đổi mà thị hiện có làm tăng trưởng căn lành. Dầu không tác giả mà thị hiện tác nghiệp. Chư Càn Thát Bà ở trong pháp ấy rõ biết như vậy rồi, đối với Như Lai sanh lòng tôn trọng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Họ mừng vui vì muốn cúng dường Phật, nên hóa hiện ba ức sáu ngàn vạn đầu đại tượng vương đều có sáu ngà. Trên mỗi ngà có bảy ao nước. Trong mỗi ao có bảy hoa sen. Mỗi hoa sen có ngàn cánh,
Trên mỗi cánh có bảy ngọc nữ. Khoảng cách của một cánh sen có bảy thị nữ, trang sức với như’ng đồ trang nghiêm bằng thiên bửu, tay cầm thiên hương để cúng dường. Nơi mỗi đầu đại tượng vương lại hóa làm ba ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, ba ức sáu ngàn vạn trướng bằng thiên lương.
Chư Càn Thát Bà đều ngồi trên tượng vương tấu thiên âm nhạc, ở trên hư không đi nhiễu Phật ba mươi sáu vòng, đem hương trời hoa trời và hoa thất bửu rải cúng dường Phật, mùi hương hoa ấy lan khắp mười phương. Lại mưa nước thơm cõi trời sáu mươi do tuần thành Ca Tỳ La làm cho toàn thành ướt thành bùn thơm, hơi bùn thơm khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới, chúng sanh nghe hơi ấy đều chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Lúc họ tấu âm nhạc, tiếng nhạc ấy vang khắp tam thiên Ðại thiên thế giới, chúng sanh nghe tiếng nhạc ấy đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Chư Càn Thát Bà ở trên tượng vương trần thiết cúng dường Phật, khiến các ngọc nữ tấu nhạc ca vũ. Lại có ngọc nữ động thân tay rải rác thứ bột hương để cúng dường Phật.
Chư Càn Thát Bà ở trên không ngồi tượng vương nhiễu Phật đã ba mươi sáu vòng rồi, họ xuống tượng nhiễu Phật ba vòng đảnh lể Chân Phật chắp tay đứng một phía nói kệ tán thán rằng:
“Thế Tôn trí tuệ ngoài ba cõi
Tự mình ra rồi lại độ người
Tất cả thế gian không bằng Phật
Tướng hảo thân sáng rất đoan chánh
Trời Người tối diệu vô biên xưng
Thị hiện thế gian chẳng nghĩ bàn
Chẳng thấy một pháp tướng khác
Mà dạy chúng sanh tu thiện nghiệp
Pháp chơn như không biến đổi khác
Chỉ có ngôn thuyết không có nghĩa
Không có dụng sự và người dùng
Dầu vậy Phật độ các quần sanh
Chẳng đến chẳng đi cũng chẳng sanh
Phật hay diễn thuyết pháp như vậy
Dầu nói các pháp thể tánh kgông
Thế Tôn lại bảo siêng hành đạo
Không có một pháp hay tự tác
Người sáng thế gian nói có tác
Các pháp đều chẳng tự hay biết
Thế Tôn thị hiện làm tất cả
Như xe họp nhiều những chi phần
Chi phần chẳng biết tự hay làm
Công dụng xe ấy hiện thấy được
Phật nói các pháp cũng như vậy
Các pháp mỗi mỗi chẳng dạy nhau
Cũng chẳng thay đổi dạy bảo nhau
Tất cả các pháp chẳng nương nhau
Pháp bổn bất sanh cũng bất diệt
Phật vì thế để nói như vậy
Thế đế các pháp chẳng toàn không
Như pháp thế đế thể tánh trụ
Biết như vậy rồi vì chúng nói
Thế Tôn nói các pháp như vậy
Ðại bi chỗ làm rất kỳ đặc
Các pháp thể tánh chẳng thể thấy
Như Lai phương tiện nói pháp trụ
Chúng tôi nguyện làm vô biên xưng
Ðại Ðại Sư đủ tướng trăm phước
Ðại hỉ lợi ích các thế gian
Nguyện làm Thế Tôn như Phật vậy
Chúng tôi nguyện nơi kẻ ám chướng
Những
người tùy thuận dòng tham dục
Người khát ái buộc ràng trăm khổ
Cúng tế độ họ như Thế Tôn
Chúng tôi nguyện nơi người nhiều khổ
Người chẳng thấy bờ kia mà trói
Người chạy như vượn khỉ nhảy nhót
Cứu tế độ họ như Thế Tôn
Chúng tôi nguyện như người mù lòa
Người sáu loài nhọc nhằn qua lại
Người nơi mình tự hoại nghiệp quả
Cứu tế độ họ như Thế Tôn”.
Ðức Phật biế chư Càn Thát Bà sanh lòng tin sâu nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“Vô biên oai đức hiện mỉm cười
Ðạo Sư mỉm cười chẳng không nhân
Nguyện Phật mau nói nhân duyên ấy
Dứt trừ chúng sanh các mối nghi
Nay thấy Thế Tôn mỉm cười rối
Ðại chúng thảy đều sanh nghi hoặc
Tất cả nguyện nghe nghĩa mỉm cười
Ngưỡng mong đại bi dứt mối nghi
Ai nơi Phật pháp sanh kính tin
Ai rời được nơi các lưới nghi
Phật biết chúng sanh tin sâu rối
Trời Người bực thánh nên hiện cười
Ai có trí tuệ hay tùy thuận
Phát chơn như được Như Lai nói
Biết nhiệm huệ giải hạnh họ rồi
Ở trong đại chúng hiện mỉm cười
Tất cả đại chúng không dị tâm
Chỉ muốn thích nghe Thế Tôn nói
Chắp mười ngón tay để trên đầu
Nhất tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Lìa các uế trược không lo rầu
Mắt đời hiện còn nên mừng rỡ
Vì trừ tất cả lòng nghi hoặc
Nguyện đại bi nói nhân duyên cười”.
Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng:
“Phật hiện mỉm cười vì đời vậy
Lành thay Mã Thắng hỏi đúng giờ
Ðại chúng thiện căn sẽ tăng trưởng
Vì Phật mỉm cười sự thọ ký
Mã Thắng lắng nghe lời Phật nói
Ðạo Sư nay hiện cớ mỉm cười
Phật sẽ nói rõ nghĩa mỉm cười
Ông phải vui mừng nghe Phật nói
Càn Thát Bà Vương kính tin Phật
Tâm họ thanh tịnh sanh mừng rỡ
Y nơi thiệt pháp nhập pháp rồi
Nơi Phật chánh pháp sanh hỉ kỳ
Các pháp tịch diệt an bất động
Hàng đại chúng Này xu thiệt tế
Như thành Càn Thát nhập như vậy
Cúng dường nơi Phật không ai bằng
Các pháp như vậy không có sanh
Tất cả cũng lại chẳng tận diệt
Ðại chúng tư duy pháp như huyễn
Chưa hiểu rõ được sanh nghi hoặc
Pháp chẳng nói được phương tiện nói
Phật vì chơn thiệt nên như vậy
Chúng ấy vào chánh pháp Phật rồi
Ngồi tượng Ðại Long cúng dường Phật
Quan sát Bồ đề không sanh diệt
Càn Thát Bà Vương cúng dường Phật
Thương xót chúng sanh hạng ngu mê
Vì thế mà cầu Nhất thiết trí
Chúng ấy phát nguyện sẽ thành Phật
Khiến người ngu mê mất trí huệ
Nhập pháp chơn thiệt an trụ rồi
Khiến được cầu bất tử tịch diệt
Chúng ấy cúng dường như vậy rồi
Bỏ rời thân quỉ lòng mừng rrỡ
Quyết được vãng sanh trên cung trời
Hằng cùng đế thích gần gũi nhau
Ðược gặp nhiều ức na do tha
Cúng dường Như Lai Vô Thương Giác
Từ một Phật độ đến Phật độ
Nơi chỗ chư Phật được nghe pháp
Chúng ấy tu tịnh Phật hạnh rồi
Chỗ được Phật độ cũng thanh tịnh
Hóa vô lượng chúng phát đạo tâm
Khiến họ tăng trưởng Phật chủng tử
Biết các thế gian tánh không rời
Cũng đem pháp ấy dạy bảo người
Khiến chúng an trụ Nhất thiết trí
Trụ thế vô lượng na do tha
Phật ấy đồng hiệu vô biên huệ
Mỗi mỗi chư Phật trụ ở đời
Thảy đều vô lượng do tha kiếp
Diễn nói Phật đạo cho người nghe
Như vậy Thích Ca Mâu Ni Phật
Nói báo Càn Thát Bà cúng dường
Cùng họ thọ ký khiến được nghe
Nhân duyên cười mà Mã Thắng hỏi
Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng
Biết Phật thọ ký rất đáng thích
Nghe Phật thọ ký vô thượng rồi
Thảy đều vui y Thích Ca Phật”.
PHẨM DẠ XOA THỌ KÝ THỨ MƯỜI
Bấy giờ lại có tám ức Dạ Xoa thấy A Tu La, Ca LâuLa, Long Nữ, Long Vương, Cưu bàn Trà, Càn Thát Bà cúng dường Phật được thọ ký, họ vui mừng hớn hở đều sanh lòng hi hữu, chưa từng có biết Phật Thế Tôn trí huệ vô tận tối tôn tối thắng trí huệ vô ngại bất khả tư nghì. Họ còn lại được nghe pháp môn thứ đệ. Ðối với Phật, họ tưởng là Ðạo Sư, là vô tận huệ. Ðối với chánh pháp của Phật sanh lòng yêu thích. Vì cúng dường nên phát khởi tinh tấn nói kệ tán thán rằng:
“Chúng tôi tán thán đấng cứu thế
Vì Phật đầy đủ trí lực vậy
Vô tận vô lượng như biển cả
Thế Tôn thân tốt không ai bằng
Tu Di còn biết được khinh trọng
Hư không còn biết được rộng hẹp
Sức trí huệ của đức Như Lai
Tất cả chẳng ai đo lường được
Biết các chúng sanh lòng kính tin
Những người đáng độ đều độ xong
Nơi người được độ biết xu hướng
Nên Phật là không ai sánh bằng
Tùy chúng tu tạo nghiệp thiện ád
Tất cả chỗ sanh thọ thân hình
Biết rõ căn tính đáng thọ pháp
Nên Phật là không ai sánh bằng
Tham dục ác hành sân khuể hành
Si hành phiền não Phật đều biế
t
Kiêu mạn tật đố cũng biết rõ
Nên Phật là không ai sánh bằng
Chúng sanh nơi đây nhiều lầm lỗi
Như Lai biết rõ nghiệp đạo họ
Thế Tôn biết họ rất lanh lẹ
Nên Phật là không ai sánh bằng
Thiện Thệ thấy rõ các htế gian
Tùy phương diện họ có lỗi lầm
Và cùng ngữ ngôn họ sai lỗi
Thế Tôn thấy rõ hết tất cả
Tại trong lục đạo ở bao lâu
Tùy họ thọ khổ nhiều hay ít
Và họ thọ lấy các thứ thân
Tất cả Thế Tôn đều thấy biết
Tùy sức phiền não họ phát khởi
Phương tiện tạo tác và gây nghiệp
Theo nghiệp thọ lấy các thứ khổ
Tất cả Ðạo Sư đều biết rõ
Tùy họ chỗ cầu đạo giải thoát
Ở trong Phật pháp đã xuất gia
Tinh tấn tu học thánh đạo rồi
Dứt hết phiền não Phật đều biết
Ở trong Phật pháp có phàm phu
Dầu được xuất gia chẳng biết nghĩa
Chê bai pháp diệu của người trí
Thế Tôn cũng lại biết rõ họ
Những kẻ chê bai chánh pháp ấy
Nghiệp hành ấy mắc những khổ não
Tùy tại địa ngục ở lâu mau
Như Lai cũng đều biết rõ cả
Nơi Phật đã được kính tin sâu
Xuất gia thọ trì tạng chánh pháp
Quán sát các pháp thảy đều không
Dứt trừ tất cả đường sanh tử
Chẳng muốn tất cả thân sanh tử
Quan sát thân Này dường như ảo
Biết các âm thanh đều như hưởng
Ở vững nơi đạo Phật cũng biết
Tán thán Ðạo Sư không sánh bằng
Nay tôi chỗ được khối phước đức
Dùng phước đức này nguyện thành Phật
Cũng nguyện chúng sanh thành Chánh giác”.
Ðức Thế Tôn biết chúng Dạ Xoa thâm tâm kinh tín nên hiện tượng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“Ðức Thế Tôn hiên tướng mỉm cười
Ngưỡng mong cho biết bhơn duyên cười
Tất cả chư Phật chẳng vô cớ
Mà hiện ra tưởng mỉm cười ấy
Nay đại chúng Này đều hoài nghi
Vì thấy Ðạo Sư mỉm cười vậy
Ngưỡng mong Thế Tôn trừ nghi cho
Khiến tất cả chúng được mừng rỡ
Nay người được kính tin nơi Phật
Và người biết chánh pháp vi diệu
người tâm kiên cố bất động ấy
Nguyện Phật tuyên nói cho họ nghe
Ðại chúng tại đây đều hoài nghi
Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Hôm nay sẽ có những sự gì
Duy nguyện Thế Tôn dứt nghi cho
Hôm nay ai hiện đại thần lực
Hôm nay ai phát đại tinh tấn
Hôm nay Phật cùng ai thân hữu
Nơi đại chúng Này xin hiển hiện
Lành thay Mâu Ni thương thế gian
Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc
Trời Người đại chúng đều được nghe
Hôm nay tất cả rất mừng vui”.
Ðức Thế Tôn nói đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
“Lành thay lời hỏi của Mã Thắng
Nay sẽ lợi ích lớn thế gian
Do ông hỏi được nhân duyên cười
Nên khen ông khéo hiểu ý Phật
Nay Phật sẽ đáp hết nghĩa ấy
Ông nên nhất tâm chuyên lắng ngh
e
Biết tâm ý các Dạ Xoa rồi
Phật vì thế gian hiện mỉm cười
Các chúng Dạ Xoa lòng kính tin
Vì họ biết Bồ đề tịch diệt
Khen Phật công đức chơn thiệt rồi
Phát tâm xu hướng đại Bồ đề
Vì họ biết các pháp không tịch
Trừ khiến tất cả tướng hư vọng
Nguyện bỏ tất cả loài sanh tử
Phát tâm xu hướng đại Bồ đề
Do sức thiền định biết các ấm
Chỉ là thế đế chẳng chấp trước
Chẳng trước sanh tử như hoa sen
Phát tâm sanh tử đại Bồ đề
Những sự chướng ngại trong sanh tử
Họ thấy là không chẳng bị buộc
Biết Phật Bồ đề vô thượng rồi
Họ có thể tu Bồ đề hạnh
Những sanh lão tử thảy đều không
Ðây là đâo Bồ đề vô thượng
Biết pháp tự tánh không tịch rồi
Nay được đại Bồ đề an ổn
Biết ấm tự tánh không tịch rồi
Bồ đề tịch tĩnh tánh cũng lìa
Hạnh Bồ đề được tu cũng không
Trí biết như vậy phàm chẳng rõ
Hay quán trí huệ tánh tự không
Cảnh giới được quán đều tịch diệt
Người biết pháp biết thảy đều không
Người Này hay tu Bồ đề đạo
Phải biết không cũng tánh tự không
Tướng và nguyện cũng không thể tánh
Nếu người có thể biết như vậy
Người Này hay tu hạnh chơn thiệt
Trời Người đại chúng nghe đây rồi
Sanh lòng mừng rỡ được lợi ích
Nơi Phật tất cả kính tin rồi
Tâm trụ câu Bồ đề tịch tĩnh
Nay cúng dường thù thắng Này rồi
Tâm chúng Dạ Xoa đều thanh tịnh
Những bực trí Này bỏ quỉ đạo
Hưởng thọ vui trong thiện đạo
Nơi nhiều ức Phật thuở vị lai
Họ dùng thần thông trong một niệm
Nơi nhiều Phật độ sắm cúng dường
Ở chỗ chư Phật được pháp nhẫn
Nơi các thế giới chẳng khởi tướng
Người trí hay dùng thần lực đến
Quán thế gian Này như ảo hóa
Người trí du hành không thủ trước
Dạ Xoa dũng mãnh cúng dường Phật
Sẽ được vô thượng đại Bồ đề
Cũng được vô thượng tịnh Phật độ
Trong ấy sẽ độ vô lượng chúng
Chúng ấy sẽ thành Thế Gian Giải
Tất cả đồng hiệu Vô Biên Trí
Danh nghe mười phương thọ ngàn kiếp
Trí huệ thọ mạng tịch diệt đồng
Chư Phật ấy có chúng Thanh Văn
Dường như tinh tú giữa đêm vắng
Chúng ấy dễ được đại Bồ đề
Tất cả không có sự nặn khổ
Trời Người đại chúng nghe đây rồi
Vì đạo Bồ đề lòng mừng rỡ
Tâm họ kiên cố phát tinh cần
Dùng sức tinh tấn gìn công hạnh”.
PHẨM KHẨN NA LA VƯƠNG THỌ KÝ THỨ MƯỜI MỘT
Bấy giờ có tám ức Khẩn Na La chúng, Ðại Thọ Khẩn Na La vương làm thượng thủ, thấy chư A La Hán, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa cúng dường Phật được thọ ký, họ sanh lòng hi hữu chưa từng có, do vì chúng sanh bất khả đắc vậy, vì không mạng giả, không sanh giả, không có nhân, không trượng phu, không dưỡng dục, không thọ giả, không có ngã, không ngã sở vậy. Do các ấm mà gọi là chúng sanh. Tất cả các ấm cũng bất khả đắc. Do các giới chủng gọi là chúng sanh. Tất cả giới chủng cũng bất khả đắc. Do các nhập mà gọi là chúng sanh. Tất cả các nhập cũng bất khả đắc. Do có nghiệp nên có quả báo, mà hành nghiệp ấy cũng bất khả đắc, Vô thượng Bồ đề cũng
ất khả đắc, tất cả Bồ Tát cũng bất khả đắc, tất cả chư Phật cũng bất khả đắc. Dầu vậy mà đức Thế Tôn thọ ký cho chư Bồ Tát. Do nghĩa gì mà Như Lai thọ ký cho chư Bồ Tát, nêu bày danh hiệu của họ, hiển hiện nghiệp báo, nói đương lai Bồ Tát đại chúng, cũng hiển bày chư Phật thần thông lực, cũng nói chánh pháp lực, cũng hiển hiện trang nghiêm Phật độ, tuyên nói chúng sanh có nghiệp có báo, cũng nói Phật độ thanh tịnh, cũng hiển bày Bồ Tát du hành các phật quốc từ một Phật độ, cũng nói Bồ Tát đến đó cúng dường, cũng nói thần biến cúng dường thù thắng, lại liệt bày đồ cúng vi diệu hi hữu, lại nói qua bao nhiêu kiếp sẽ được làm Phật, đức Phật ấy trụ thế bao lâu, Phật ấy sẽ có bao nhiêu Thanh Văn, sau khi diệt độ chánh pháp của Phật ấy trụ thế bao lâu, tại sao Như Lai bỏ chúng sanh mà nhập đại Niết bàn?
Ðại Thọ Khần Na La Vương sanh niệm nghi ấy liền cùng tám ức chúng Khẩn Na La lễ Phật chấp tay nói kệ bạch hỏi rằng:
“Chúng tôi nghe Phật thọ ký rồi
Lòng sanh nghi hoặc sao Ðại Trí
Ðã nói thọ ký lại nói không
Nơi hai thuyết ấy tôi chẳng hiểu
Ðã nói không tịch lìa tự tánh
Pháp giới bình đẳng không biến động
Mà sao Như Lai thọ cúng dường
Việc ấy thế nào bạch Thế Tôn
Ðức Phật đã nói pháp vô sanh
Mà lại nói phát tâm Bồ đề
Ðức vô lượng trí nói hai thuyết
Thuyết ấy bí mật tôi chẳng hiểu
Thế Tôn nói pháp không có diệt
Mà sao lại nói là có tử
Ngưỡng mong như thiệt nói rõ cho
Dứt hết lòng nghi tôi được mừng
Sao đức Thế Tôn nói như ảo
Mà lại nói rằng sanh cõi trời
Ðức Lưỡng Túc Tôn nói như vậy
Giáo pháp bí mật tôi chẳng hiểu
Phật nói các pháp không sở y
Mà lại nói y thiện tri thức
Ðây là mật ngữ của Thế Tôn
Tôi thiệt chẳng hiểu bạch Như Lai
Tại sao Phật nói không sở tác
Lại dạy chúng sanh tu hạnh nghiệp
Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư
Lời nói bí mật tôi chẳng hiểu
Tại sao Phật nói tánh tự không
Lại nói quán không được giải thoát
Ở nơi nghĩa Này tôi chẳng hiểu
Ngưỡng mong Như Lai dứt nghi cho
Tại sao Phật nói sự tận diệt
Lại nói các pháp tánh tịch diệt
Chúng tôi ngưỡng mong đấng vô thượng
Giải rõ những thuyết bí mật ấy
Tại sao Thế Tôn cần kệ tụng
Hiển thị các pháp như hư không
Mà người ngu si hủy báng pháp
Chết rồi chắc đọa đại địa ngục
Ðại Hùng luôn nói các thiện đạo
Mà lại còn nói các đạo khác
Ðã nói các loài do tạo nghiệp
Lại nói không có ai tạo nghiệp
Ðấng Vô Thượng Tôn thường tuyên nói
Các thuyết sai biệt chẳng biết được
Chúng tôi nơi ấy sanh nghi hoặc
Ngưỡng mong Thế Tôn dứt trừ cho
Ðã nói nghiệp lành không họp được
Lại nói tu hành được Bồ đề
Sa Môn Pháp Vương nói như vậy
Chúng tôi nơi ấy chẳng hiểu được
Tại sao nói pháp bất khả tận
Mà nói kẻ chê tội được hết
Ðấng vô lượng trí xin khai thị
Chúng tôi nơi ấy rất nghi ngờ
Như Lai đã nói pháp chơn tế
Lại nói điên đảo và thí giới
Ðấng mắt sáng không lòa diệt tội
Ngưỡng mong vì tôi nói nghĩa ấy
Ngoài Phật không ai gì chúng tôi
Giải thích được những điều nghi ấy
Chỉ có Như Lai dứt trừ được
Vì thế tôi kính đấng Ðại Giác’’.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Ðại Thọ Khẩn Na La Vương rằng:
“Ông hỏi nói không lại thọ ký
Nơi hai sự ấy chẳng hiểu được
Các pháp nếu là chẳng phải không
Thì Phật chẳng vì họ thọ ký
Do nhân duyên gì nói như vậy
Các pháp nếu có thể tánh riêng
Thì nó còn mãi chẳng chuyển được
Nó phải chẳng giảm cũng chẳng tăng
Các pháp thể tánh vốn tự không
Dường như mặt gương bằng sạch sáng
Hay hiện tất cả các sắc tượng
Phải biết tất cả pháp như vậy
P
háp giới không có tướng biến dị
Ông nơi tất cả vật cúng dường
Mỗi mỗi các phần nên quan sát
Trong những phần nào mà có tướng
Pháp giới thường trụ không biến khác
Người trí phải nên quán như vậy
Các người phàm phu đều mê hoặc
Vì không trí huệ nên không hiểu
Ông hỏi Phật nói là vô sanh
Lại nói phát tâm nên khó hiểu
Các ông nay phải nhất tâm nghe
Ðấng thập lực nói nghĩa bí mật
Phàm phu chìm ngập sông sanh tử
Cũng còn buộc ràng nắm chỗ ấy
Tâm thường ôm lấy tưởng điên đảo
Nên thọ sanh tử các khổ não
Từ trước đến nay chưa nghe pháp
Phật nếu vì họ quyết định nói
Phàm phu ngu mê nơi pháp ấy
Càng thêm tăng trưởng các nghi hoặc
Họ nghe Bồ đề lợi ích lớn
Lòng họ chuyên chú nơi quả ấy
Tâm họ lại còn sanh ham luyến
Tự nhiên thắng trí không thông được
Ông hỏi không diệt lại có chết
Hai điều Này ông chẳng biết được
Nơi đây ông phải nhất tâm nghe
Phật sẽ vì ông nói chơn thiệt
Vì các chúng sanh chấp thường kia
Do đó Như Lai nói nghĩa diệt
Hằng thấy những có đều suy hoại
Không có một pháp nào là thường
Ông hỏi các pháp như mộng ảo
Lại nói sanh thiên nên nghi ngờ
Hữu học phàm phu thiện ác đạo
Pháp ấy bất định nên hư ảo
Ông hỏi Phật nói không sở y
Lại nói y chỉ thiện tri thức
Vì người cầu rời bỏ y chỉ
Nên thiện hữu nói không sở y
Ông hỏi rốt ráo không tác năng
Lại nói có tác nên chẳng hiểu
Phải xem xe kia nhiều thành phần
Cũng quán xe có những tác dụng
Nếu lại có người chấp nơi ngã
Cũng lại lấy những sự ngã làm
Phật vì bọn họ nói không tác
Dầu như vậy chẳng phải không dụng
Ông hỏi tất cả tánh tự không
Lại nghi quán không được giải thoát
Người vô trí ngu si điên đảo
Chẳng có biết được thể tánh không
Từ nơi vọng tưởng phân biệt sanh
Hư vọng phan duyên nên bị buộc
Vì độ những chúng sanh như vậy
Thế Tôn nói tánh chẳng phải có
Như ông hỏi rằng sự tận diệt
Tất cả các pháp tánh cũng diệt
Các chúng sanh mê hoặc vô trí
Vì vọng phân biệt nên khát ái
Như kẻ khát nước thấy dương diệm
Vì nhớ tưởng nên càng thêm khát
Người ngu nên bị hư vọng hại
Nơi vô sở hữu khởi phân biệt
Người khát vọng sanh thấy tướng nước
Nơi chỗ dương diệm nước vốn không
Vọng tưởng làm hại các chúng sanh
Nơi các bất tịnh tưởng là tịnh
Phàm phu ngu si bị ái trói
Trong nhơ xấu ấy tánh chẳng sạch
Như dương diệm kia giống tướng nước
Trong thể tánh nắng thiệt không nước
Như vậy trong thân không sắc sạch
Thân sắc cũng lại tánh chẳng sạch
Phàm phu ngu si điên đảo thấy
Vọng tưởng là sạch nên bị trói
Dầu nói các pháp như hư không
Cũng nói hủy báng đọa địa ngục
Người ngu nghe nói sanh sợ sệt
Người trí dầu nghe tâm an ổn
Thế gian thể tánh tự không tịch
Ngu si vô trí tưởng có ngã
Bọn họ nếu nghe tánh không giáo
Sợ sệt chẳng được còn thọ sanh
Bọn họ hủy báng pháp tánh không
Ðều do vì họ chấp ngã kiến
Như người trói buộc nơi hư không
Người vô trí ấy đọa địa ngục
Phật vốn đã nói các thiện đạo
Và vì thế gian nói các đạo
Nói có tạo nghiệp mà chẳng mất
Cũng trừ chấp là có tác giả
Tất cả các đạo dường cảnh mộng
Phật vì ông nói biết như vậy
Trong mộng không có tướng khứ hai
Người thấy điên đảo chấp khứ lai
Phật đã diễn nói xó tác nghiệp
Suy tìm mười phương không tác giả
Vì như gió lớn thổi cây khô
Cây ấy chạm nhau phát sanh lửa
Gió ấy cùng cây chẳng nghĩ tưởng
Chúng ta hay phát xuát lửa ấy
Dầu là như vậy mà lửa sanh
Phải biết có nghiệp không tác giả
Ông hỏi phước đức không tích tụ
Sao họp Thiện được quả Bồ đề
Nay Phật chơn thiệt vì ông nói
Ông phải chăm chỉ chí tâm nghe
Ví như người đời được trường thọ
Mạng họ đến được hơn trăm tuổi
Nơi số tuổi ấy không tụ tích
Tất cả duyên họp cũng như vậy
Ông hỏi các pháp không có tận
Sao Phật lại nói nghiệp được hết
Người quán không pháp không có cùng
Tùy thế pháp nên nghiệp có hết
Phật dầu nói có thiệt tế pháp
Ðiên đảo cũng chẳng ngoài thiệt tế
Hàng chúng sanh ngu si điên đảo
Chẳng biết rõ được chơn thiệt tế
Khẩn Na La Vương phải lắng nghe
Vì người tinh tấn đủ tinh tấn
Tất cả các tướng là nhất tướng
Ðó là vô tướng phải nên biết
Nếu hay hiểu được nơi chữ nhất
Phật vì người trí nói Bồ đề
Tất cả các tướng là nhất tướng
Ðó là vô tướng phải nên biết
Nếu hay hiểu được nơi chữ nhất
Phật vì người tri nói Bồ đề
Tất cả các pháp đều vô tác
Ðây nói chữ A môn tổng trì
Tất cả Bồ Tát chỗ tu hành
Vô biên hành tướng Phật đã nói
Ðây cũng vào được tất cả pháp
Ðó là chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp đều tịch diệt
Dạy môn chữ A khiến chứng nhập
Khẩn Na La Vương phải nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp vô phân biệt
Vào pháp môn Này Phật đã nói
Khẩn Na La Vương phải nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp không tự tánh
Dạy môn chữ A khiến chương nhập
Khẩn Na La Vương phai nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp không vô biên
Dùng môn chữ A nói các pháp
Khẩn NaLa Vương phải nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Pháp tận vô tận Phật đã nói
Phải nói tất cả pháp vô tận
Tất cả Như Lai đủ thập lực
Ðã nói môn tổng trì vô tận
Tất cả các pháp không có môn
Ðã nói môn tổng trì vô tận
Tất cả các pháp không có môn
Vì vậy không nên hiện chẳng có
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Do đây vào được môn chữ A
Nơi các pháp bất khả tư nghì
Chư Phật biết thiệt hay hiển thị
Thọ khẩn Na La Vương nên biết
Ðây cũng chữ A đà la ni
Tất cả các pháp không sở thu
Phật vì người trí nói Bồ đề
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Tất cả các pháp không có lai
Nếu người chẳng tu thì chẳng được
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Các pháp giả danh đều sẽ có
Suy tự tánh nó chẳng thể được
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Tất cả các pháp không tự tánh
Suy tự tánh nó chẳng thể được
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là đà la ni của Phật nói
Tất cả các pháp bất khả đắc
Vì pháp tự tánh không nên vậy
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là đà la ni Thiện Thệ nói
Khẩn Na La Vương nên lắng nghe
Tất cả các pháp lìa nghĩ nhớ
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Chư Phật Thế Tôn đã hiển thị
Vì pháp không thiệt không chướng ngại
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Nên nhập đà la ni chữ A
Tất cả các pháp không chướng ngại
Không có gì hay chướng các pháp
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Nhập mô chữ A Phật đã nói
Tất cả các pháp không có sanh
Người trí phải biết chỉ nhất tướng
Tất cả pháp kia là vô sanh
Hãy biết pháp ấy không có danh
Tất cả các pháp không có sanh
Sanh ấy bổn lai bất khả đắc
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Nếu pháp là không thiệt không sanh
Chẳng nhìn thấy được chẳng chỉ được
Các pháp tự tánh bất khả đắc
Vì thế không có ai hay thấy
Tất cả các pháp không có sanh
Nên là nhất tướng không có tướng
Ví như hư không không có bằng
Tất cả các pháp cũng như vậy
Tất cả các pháp không tăng giảm
Chẳng một chẳng hai chẳng nhiệt não
Cũng chẳng phải lạnh chẳng phải nóng
Vì chẳng phải có chẳng thấy được
Không có tướng cong không tướng ngay
Cũng không có tướng sáng tướng tối
Cũng không những tướng thấy nghe thảy
Là đà la ni vô sở hữu
Chẳng phải siểm khúc chẳng chánh trực
Không có các tướng co duỗi thảy
Cũng không giận hờn không vui vẻ
Lại không khởi tác không tịch diệt
Không có tướng nhập và tướng xuất
Không tiến không thối không lai vãng
Cũng lại không ngủ và không thức
Lìa tướng giác tri cần phải biết
Chẳng phải mắt thấy cũng chẳng mù
Không có năng kiến và ám chướng
Cũng không tướng mở và tướng nhắm
Chẳng có điểu phục chẳng điều phục
Chẳng phải điệu động chẳng chỉ tức
Chẳng phải thế gian chẳng Niết bàn
Chẳng phải chơn thiệt chẳng hư vọng
Phải biết Phật cảnh là như vậy
Vì muốn điều phục các thế gian
Dứt trừ lòng nghi cho các ông
Trong đệ nhất nghĩa ngoài Phật ra
Tất cả không ai trừ nghi được”.
Ðại Thọ Khẩn Na La Vương nghe đức Phật nói môn tổng trì lòng rất vui mừng phát tâm tinh tấn dũng mãnh, tức thì hóa làm tám ức lầu gác. Các lầu gác ấy hoặc ở trên cây, trên hoa sen hoặc ở trên núi, đều trang nghiêm bằng thất bửu, có lọng thất bửu, tràng thất bửu, tua tụi bữu hoa, tua tụi lụa nhiễu nhiều màu để trang sức.
Ðại Thọ Khẩn Na La Vương cùng tám ức Khẩn Na La cầm các thứ hoa trên đất, dưới nước tại Hương Sơn đề rải trên Phật rồi đều
Lên lầu gác thất bửu bay nhiễu đức Phật ba vòng, lại rải hoa lên đức Phật rồi lại nhiễu đức Phật ba vòng nữa.
Ðại Thọ Khẩn Na La Vương và chúng Khẩn Na La xuống lầu gác đi nhiễu đức Phật ba vòng, đảnh lễ chân Phật, nhất tâm chắp tau chiêm ngưỡng Thế Tôn mắt chẳng tạm rời đứng qua một phía suy nhớ đức Như Lai vô lượng công đức thuở quá khứ và hiện tại.
Biết tâm nguyện của Ðại Thọ Khẩn Na La Vương và tám ức chúng Khẩn Na La, đức Thế Tôn hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“Phật chẳng phải không duyên mà cười
Ðấng Thiên Nhân Sư nói như thiệt
Chúng thấy Phật cười đều hoài nghi
Nay thấy Tối Thắng như trăng non
Bạch đức Thế Tôn hôm nay ai
Nơi pháp vô nhị sanh thắng huệ
Ngày nay tôi ôm lòng nghi hoặc
Ngưỡng mong Thế Tôn trừ nghi cho
Ai ở Phật pháp được tịnh tâm
Do đó Như Lai hiện tướng cười
Ngưỡng mong Như Lai nói rõ cho
Chúng tôi hết nghi lòng vui mừng
Bấy giờ tất cả hàng đại chúng
Nếu nghe Phật nói đều mừng rỡ
Nguyện trừ nghi hoặc cho đại chúng
Như lời Phật dạy đều làm được
Vì thế nên đấng Lưỡng Túc Tôn
Dứt trừ nghi hoặc nói rõ cớ
Nguyện vì Khẩn Na La Vương thảy
Và vì tất cả các chúng sanh”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng:
“Lành thay Mã Thắng hỏi phải lúc
Nay Phật vì ông phân biệt nói
Do vì ông hỏi Phật hiển bày
Ðại chúng sẽ được Phật công đức
Ông nên thanh tịnh tâm chuyên nhất
Nghe sự hi hữu chớ loạn ý
Ðức Thiện Thệ có trí tối thắng
Tri kkiến rộng lớn không chướng ngại
Ðặt nghi vấn nơi Khẩn Na La
Làm lợi tất cả các chúng sanh
Nay Phật nói quả đương lai họ
Lắng nghe Phật sẽ dứt nghi cho
Thọ Khẩn Na La tám ức chúng
Vương và quan dân các quyến thuộc
Chúng ấy cúng dường nơi Phật rồi
Từ đây mạng chung sanh cõi trời
Từ đó về sau chín ức kiếp
Lưu chuyển ở trong cõi Nhân Thiên
Tu tập đầy đủ năm thần thông
Ðược trí tự tại tâm tự tai
Họ nơi na do tha Phật độ
Là do chư Phật sai qua đó
Thân ở cung trời luôn bất động
Hằng thọ thiền duyệt vui an ổn
Họ ở chín mươi ngàn muôn kiếp
Tại trong Trời Người lưu chuyển rồi
Mỗi mỗi ở trong Phật độ mình
Ðều được thành bực vô thượng đạo
Kiếp ấy hiệu là Thường Chiếu Diệu
Ở trong kiếp ấy thành Phật đạo
Ðây đều hạng nhất sanh bổ xứ
Chúng trí huệ ấy sẽ thành Phật
Phật độ ấy không một người nào
Chẳng phải người tu hành thành thục
Ðều là bực nhất sanh bổ xứ
Không người cầu Thanh Văn Duyên Giác
Tất cả đều là đại Bồ Tát
Người soi sáng đời đều sanh đó
Ðều là người nhất sanh bổ xứ
Họ đều sẽ được thành Phật đạo
Cõi ấy các chúng đại Bồ Tát
An trụ trong hoằng thệ đại nguyện
Ở trong vô lượng chư Phật độ
Ta đều sửa trị khiến thanh tịnh
Bồ Tát ấy nguyện rất rộng lớn
Ở trong đêm dài khéo suy lường
Vì họ có tính nguyện thanh tịnh
Ðều riêng sửa trị Phật độ mình
Các Phật độ ấy trang nghiêm đẹp
Xa rời tất cả các phiền não
Ðất ấy khắp nơi có cung điện
Giải thoát tất cả các ác đạo
Bao nhiêu tội ác và tám nạn
Các Phật độ ấy thảy đều không
Ðã tu thanh tịnh Phật độ rồi
Chúng sanh liền được dễ điều phục
Như vậy Thế Tôn Thiên Trung Thiên
Nói thọ ký cho Khẩn Na La
Tất cả chư đại chúng hiện tại
Nghe rồi thảy đều rất vui mừng”.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro