Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

kinh Trung Bo Toat Yeu 6

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 91

Brahmayu

I. TOÁT YẾU

Brahmàyu Sutta- Brahmàyu.

An old and erudite brahmin learns about the Buddha, goes to meet him, and becomes his disciples.

Phạm chí Brahmàyu.

Một người bà la môn già uyên bác tìm hiểu về Phật, đến gặp Ngài và trở thành đệ tử Ngài.

II. TÓM TẮT

Phạm chí Brahmàyu 120 tuổi, một bà la môn đạo cao đức trọng, tinh thông về đại nhân tướng [1] khi nghe tin đồn về Phật, đã phái Uttara một đệ tử thông minh trẻ tuổi đi đến hội chúng Phật để tìm hiểu về 32 tướng [2] đại nhân xem có đúng như tin đồn. Vì theo thánh điều của ông, ai đủ 32 tướng ấy thì chỉ có hai đường: một là làm vua Chuyển luân có bảy báu là xe [3], voi, ngựa, châu ngọc, phụ nữ, người hầu, và cố vấn. Hai là xuất gia thành đấng toàn giác, vén màn cho thế gian [4].

Uttara thấy được tất cả đặc tướng, chỉ trừ hai tướng là tướng lưỡi dài rộng và tướng mã âm tàng. Phật hiện thần lực [5] cho thấy hai tướng ấy. Sau bảy tháng quan sát, thanh niên về thuật lại: Thế tôn quả có đủ 32 tướng đại nhân,

1. Lòng bàn chân bằng phẳng

2. Dưới hai bàn chân có hình bánh xe 1000 căm

3. Gót chân thon dài.

4. Ngón tay ngón chân dài.

5. Tay chân mềm mại.

6. Tay chân có màn da lưới.

7. Mắt cá tròn như con sò.

8. Ống chân như con dê rừng.

9. Khi đứng thẳng, hay bàn tay buông xuống chạm đầu gối.

10. Tướng mã âm tàng.

11. Màu da như vàng ròng.

12. Da trơn không dính bụi

13. Mỗi lỗ chân lông chỉ mọc một sợi

14. Lông mọc xoáy tròn về bên phải

15. Thân hình cao thẳng.

16. Có bảy chỗ đầy đặn [6]

17. Nửa thân trước như con sư tử

18. Giữa hai vai không có lõm khuyết.

19. Thân thể cân đối; chiều cao của thân bằng chiều ngang với hai tay dang ra.

20. Nửa thân trên vuông tròn

21. Vị giác vô cùng tinh tế [7]

22. Quai hàm như sư tử

23. Có 40 răng.

24. Răng đều đặn

25. Răng không khuyết hở

26. Răng cửa trơn láng

27. Tướng lưỡi rộng dài.

28. Ân thanh tuyệt diệu như tiếng chim Ca lăng tần già.

29. Mắt màu xanh thẫm

30. Lông mi đẹp như lông mi bò cái

31. Giữa hai lông mày có sợi lông trắng mịn

32. Ðỉnh đầu nhô lên tướng nhục kế [8].

Các uy nghi của Ngài thật toàn hảo: lúc Ngài bước đi, lúc Ngài ngồi, lúc Ngài nhận cơm nước, lúc ăn chỉ để diệt trừ cảm thọ cũ mà không khởi lên cảm thọ mới [9], lúc Ngài thuyết tùy hỷ pháp [10]...

Uttara nói: Chúng con đã trông thấy tôn giả Gotama đi, thấy tôn giả đứng, thấy tôn giả ngồi, thấy tôn giả ăn xong ngồi im lặng, thấy tôn giả im lặng đi đến tu viện giảng Pháp. Tôn giả Gotama là như vậy, như vậy là tôn giả Gotama, như vậy và còn nhiều hơn vậy nữa [11].

Nghe xong Brahmayu đích thân đến nơi Phật. Ông đã thấy tất cả đại nhân tướng, chỉ trừ hai tướng: tướng mã âm tàng và tướng lưỡi dài rộng. Phật biết ông có thể chứng quả Bất hoàn, nên hiện thần lực cho ông thấy đủ 32 tướng. Ông hỏi Phật ý nghĩa của: Bà la môn, thông Vệ đà [12], ba minh, cát tường, ứng cúng, viên mãn, mâu ni, Phật đà.

Phật trả lời Phật [13] là thắng tri điều cần phải thắng tri, tu tập những gì cần tu tập, đoạn trừ những gì cần đoạn trừ [14] Và Ngài tóm thâu sự trả lời bằng bài kệ:

Ai biết được đời trước,

Thấy thiện thú, ác thú

Ðoạn tận sự tái sinh

Thắng trí được viên thành

Vị ấy gọi mâu ni.

Ai biết tâm thanh tịnh

Giải thoát mọi tham dục

Sinh tử đã đoạn tận

Phạm hạnh được viên thành

Thông đạt nhất thiết pháp

Vị ấy xưng Phật đà [15].

Bà la môn nghe xong đảnh lễ xưng tên và hôn chân Phật. Ngài thuyết pháp tuần tự [16] cho ông về bố thí, về cõi trời, về sự nguy hiểm của 5 dục và lợi ích của xuất ly. Khi tâm ông đã thuần thục, Ngài giảng tứ đế. Pháp nhãn khởi lên nơi ông: Cái gì có tập khởi đều đoạn diệt. Ông chứng ngộ Pháp, nghi hoặc được tiêu trừ. Ông thỉnh Phật hôm sau đến thọ trai. Bảy ngày sau, ông từ trần.

Phật tuyên bố ông đã đoạn năm hạ phần kết sử, và hóa sinh vào cõi Tịnh cư không còn trở lui đời này.

III. CHÚ GIẢI

1. Các tướng đại nhân là một học thuật căn cứ trên 12.000 tác phẩm giải thích những đặc điểm của các bậc vĩ nhân như Phật, Ðộc giác, đại đệ tử, vua chuyển luân... Những tác phẩm này bao gồm 16.000 bài kệ gọi là Mật điểm về bậc giác ngộ.

2. 32 tướng hảo đề cập trong kinh này được nói đến trong toàn thể kinh Trường Bộ số 30 tên là Kinh Tướng. Mỗi tướng này được kinh giải thích là quả báo của một đức hạnh mà Phật đã viên mãn trong thời gian còn làm Bồ Tát.

3. Bảy báu được đề cập trong kinh Trung Bộ 129. Xe báu là lý do vị vua ấy được gọi là chuyển luân vương.

4. Thế gian này bị vây phủ trong bóng tối phiền não, được che bằng 7 lớp màu: tham, sân, si, mạn, nghi, kiến và hành động vô luân. Sau khi đã tẩy trừ những lớp màn này, Phật tỏa ánh sáng cùng khắp.

5. Kinh sớ nói: Phật hiện thần thông này vì biết rõ thầy của thanh niên có thể chứng Bất Hoàn nếu thanh niên này hết nghi.

6. Bảy thân phần gồm có phần lưng của bốn tay chân, hai vai và thân mình.

7. Tướng kinh (Trường bộ kinh 30) diễn như sau: "bất cứ vị gì mà đầu lưỡi của Ngài tiếp xúc, Ngài thưởng thức được nó trong cổ họng, và vị ấy tỏa ra khắp nơi". Nhưng thật khó hiểu được làm thế nào đặt tướng này lại có thể được xem như một tướng trên cơ thể, và làm sao người khác thấy được.

8. Tướng này giải thích tại sao đỉnh đầu Phật nhô ra thành nhục kế ở trên đỉnh các tượng Phật.

9. Ðây là cách tư duy khi dùng đồ ăn khất thực, như trong kinh Trung bộ số 2.

10. Tùy hỷ pháp là một pháp thoại ngắn sau bữa ăn để giáo giới các thí chủ về một vài khía cạnh của pháp và bày tỏ lời cầu nguyện nghiệp phước của họ sẽ đem lại cho họ nhiều quả báo.

11. Câu này có ý nói: những đức tính mà tôi không mô tả là còn nhiều hơn cả những đức tính mà tôi đã mô tả. Những đức tính vi diệu của đức Ðạo sư giống như đại địa, đại hải. Nếu nói chi tiết thì thật vô lượng vô biên như hư không.

12. Vedagù, tevijja, sotthiya - thông Vệ đà, ba minh, cát tường - Ba danh từ này tiêu biểu hạng bà la môn lý tưởng; xem thêm kinh Trung bộ 39. Danh từ thứ 6 kevali viên mãn, và thứ 7 muni mâu ni có lẽ là những hạng người lý tưởng trong chúng khổ hạnh không thuộc bà la môn giáo. Với câu trả lời của Ngài, Phật gán cho những danh từ này những ý nghĩa mới, phát xuất từ hệ thống tu tập của Phật giáo.

13. Ở đây và trong câu trả lời, danh từ Phật chỉ có nghĩa là một người đã tỉnh thức, giác ngộ, trong ý nghĩa một vị A la hán.

14. Pháp cần phải thắng tri là Tứ diệu đế, cần phải tu tập là Thánh đạo Tám Ngành, cần phải từ bỏ là các ô nhiễm tham sân si. Ở đây cần phải hiểu danh từ Phật với nghĩa đặc biệt là đấng Toàn Giác.

15. Kinh sớ giải thích câu trả lời của Phật bao gồm cả 8 câu hỏi của bà la môn.

16. Như kinh Trung Bộ 56.

IV. PHÁP SỐ

3 thọ, 5 hạ kết sử, 32 đại nhân tướng.

V. KỆ TỤNG

Phạm chí Brahamàyu

Người tuổi cao đức trọng

Tinh thông đại nhân tướng

Muốn tìm hiểu Thế tôn.

Ông sai Uttara

Thông minh và trẻ tuổi,

Ði đến hội chúng Phật

Quan sát các đặc tướng

Căn cứ thánh điển ông

Ai đủ băm hai tướng

Thì chỉ có hai đường:

Vua Chuyển luân hoặc Phật.

Sau bảy tháng quan sát

Thanh niên về thuật lại:

Thế tôn đủ tướng tốt

Của một bậc đại nhân

Lòng bàn chân bằng phẳng (1)

Có bánh xe ngàn căm (2)

Gót chân Phật thon dài (3)

Ngón tay chân cũng vậy (4)

Tay chân Phật mềm mại (5)

Có màn da lưới mỏng (6)

Mắt cá hình con sò (7)

Ống chân như sơn dương (8)

Ðứng thẳng, tay chạm gối (9)

Có tướng mã âm tàng (10)

Màu da như vàng chói (11)

Trơn tru không dính bụi (12)

Mỗi lỗ lông một sợi (13)

Lông xoáy tròn phía phải (14)

Thân hình cao thẳng ngay (15)

Có bảy chỗ (16) đầy đặn

Nửa thân như sư tử (17)

Vai không có lõm lồi (18)

Thân hình Ngài cân đối (19)

Chiều cao bằng bề ngang

Nửa thân trên vuông tròn (20)

Vị giác (21) Ngài tinh tế

Quai hàm như sư tử (22)

Ngài có 40 răng (23)

Hàm răng trắng đều đặn (24)

Không chỗ nào khuyết hở (25)

Răng cửa Ngài trơn láng (26)

Tướng lưỡi Phật rộng dài (27)

Âm thanh Ngài tuyệt diệu (28)

Như Ca lăng tần già

Ðôi mắt màu xanh thẫm (29)

Mi mắt như ngưu vương (30)

Giữa mày, lông trắng mịn

Tức là tướng bạch hào (31)

Ðỉnh dầu Ngài nhô cao

Ðây là tướng nhục kế (32)

Uy nghi Ngài toàn hảo:

Nào lúc Ngài bước đi

Nào lúc Ngài ngồi xuống

Lúc Ngài nhận nước, cơm

Lúc thuyết tùy hỉ pháp...

Chúng con đã trông thấy

Tôn giả Gotama

Ăn xong ngồi im lặng

Chúng con đã trông thấy

Tôn giả Gotama

Ðến tu viện giảng Pháp

Không hủy báng, tán dương

Tôn giả Gotama

Tuyệt vời là như vậy

Như vậy, Gotama

Và hơn như vậy nhiều

Nghe xong Phạm chí già

Ðích thân đến nơi Phật

Quán sát đại nhân tướng

Của đức Phật Thích ca.

Phật biết bà la môn

Sẽ chứng quả Bất hoàn

Nên Ngài hiện thần thông

Cho thấy đủ các tướng

Ông hỏi Phật ý nghĩa:

- Gì là Bà la môn?

Sao gọi thông Vệ đà?

Sao gọi là ba minh?

Cát tường và ứng cúng?

Viên mãn và mâu ni?

Sao gọi là Phật đà

Xin Thế tôn giải rõ.

"Biết những gì cần biết

Tu tập pháp cần tu,

Ðoạn trừ cái cần đoạn

Ấy gọi là toàn giác.

Ai biết được đời trước

Thấy thiện thú, ác thú

Ðoạn tận sự tái sinh

Thắng trí gọi mâu ni.

Ai biết tâm thanh tịnh

Giải thoát mọi tham dục

Sinh tử đã đoạn tận

Phạm hạnh được viên thành

Thông đạt nhất thiết pháp

Vị ấy xưng Phật đà".

Bà la môn nghe xong

Hài lòng lời giải đáp

Ðảnh lễ tự xưng tên

Và quỳ hôn chân Phật

Ngài thuyết pháp tuần tự

Về bố thí, cõi trời

Về nguy hiểm ngũ dục

Và lợi ích xuất ly

Khi tâm ông thuần thục

Ngài giảng bốn diệu đế

Pháp nhãn khởi nơi ông:

Có sinh đều đoạn diệt

Ống chứng ngộ được Pháp

Nghi hoặc được tiêu trừ

Và thỉnh Phật thọ trai

Tại nhà ông ngày kế

Bảy ngày sau hôm ấy

Bà la môn từ trần

Nghe tin, Phật tuyên bố

Ông đã chứng Bất hoàn

Ðoạn năm hạ kết sử

Hóa sinh cõi Tịnh cư

Tại đấy nhập niết bàn

Không lui đời này nữa.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 92

Sela [1]

I. TOÁT YẾU

Sela Sutta - To Sela.

The brahmin Sela questions the Buddha, gains faith in him, and becomes a monk along with his company of pupils.

Giảng cho Sela.

Bà la môn Sela hỏi Phật, đạt được đức tin nơi Ngài và trở thành một tỳ kheo theo đoàn đệ tử Phật.

II. TÓM TẮT

Bà la môn Sela đi đến nhà bện tóc Keniya thấy nhà cửa được trang hoàng, liền hỏi nguyên do và được trả lời là chuẩn bị đón tiếp Phật. Nghe âm thanh này, Sela chấn động tâm can, liền hỏi Keniya chỗ Phật đang trú và đưa đồ chúng đến yết kiến Phật. Ông quan sát thấy nơi Ngài có đủ các đặc tướng của một bậc giác ngộ, nên đọc kệ khen ngợi:

Đối với người khéo sinh

Những tướng tốt trang trọng

Đều có trên thân Ngài

Tất cả đại nhân tướng

Mắt sáng, mặt tròn đầy

Cân đối, thẳng, hoàn mỹ

Giữa chúng sa môn tăng

Ngài chói như mặt trời

Ngài xứng bậc đại vương

Chuyển luân, bậc Điều ngự

Chiến thắng khắp thiên hạ

Bậc tối thượng Diêm phù [2]

Ông hỏi phải chăng Ngài là bậc Chánh đẳng giác. Phật xác nhận với bài kệ:

Cần biết, ta đã biết

Cần tu, ta đã tu

Cần bỏ, ta đã bỏ

Do vậy ta là Phật [3].

Sela cùng đồ chúng xin xuất gia dưới sự lãnh đạo của Thế tôn, được thọ đại giới và cuối cùng họ đều đắc quả A la hán.

III. CHÚ GIẢI

1. Bản kinh này không gồm trong kinh Trung bộ bản in của hội Văn bản Pali PTS, vì kinh này trùng với kinh cùng tên trong kinh Tiểu bộ.

2. Diêm phù đề là tiểu lục địa Ấn Độ.

3. Các bài kệ số 4, 5, 6, 8 trong phần Kệ tụng dưới đây rút từ nguyên bản dịch của HT Minh Châu.

IV. PHÁP SỐ

32 đại nhân tướng.

V. KỆ TỤNG

Bà la môn Sela

Thấy tịnh xá trang hoàng

Hỏi bện tóc Keniya

Được trả lời: đón Phật

Nghe đến âm thanh này

Tim Sela chấn động

Ông hỏi đường đến Phật

Quan sát các đặc tướng

Sau khi thấy tận mắt

Đặc tướng bậc đại nhân

Ở trên thân của Phật

Ông đọc kệ tán dương:

- Đối với người khéo sinh

Những tướng tốt trang trọng

Đều có trên thân Ngài

Tất cả đại nhân tướng

Mắt sáng, mặt tròn đầy

Cân đối, thẳng, hoàn mỹ

Giữa chúng sa môn tăng

Ngài chói như mặt trời

Ngài xứng bậc đại vương

Chuyển luân, bậc Điều ngự

Chiến thắng khắp thiên hạ

Bậc tối thượng Diêm phù [2].

Ông hỏi phải chăng Ngài

Là bậc Chánh đẳng giác

Là đấng Phật Thế tôn?

Phật xác nhận với lời:

"Cần biết, ta đã biết

Cần tu, ta đã tu

Cần bỏ, ta đã bỏ

Do vậy ta là Phật."

Sela cùng đồ chúng

Hoan hỷ xin xuất gia

Được lãnh thọ đại giới

Cuối cùng đều đắc quả.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 93

Assalayana

I. TOÁT YẾU

Assalayana Sutta - To Assalàyana.

A young brahmin approaches the Buddha to argue the thesis that the Brahmins are the highest caste.

Giảng cho Assalayana.

Một thanh niên bà la môn đến Phật tranh luận đề tài giai cấp bà la môn là cao nhất.

II. TÓM TẮT

Một số đông bà la môn từ khắp nơi có việc đến thành Xá vệ, nơi Phật đang trú. Họ đề cử Assalayana trẻ tuổi, đầu cạo trọc, thông minh, có tài biện bác, tinh thông ba tập Veda, đến tranh luận với Phật vì Ngài chủ trương sự thanh tịnh của bốn giai cấp [1]. Ba lần thanh niên từ chối, bảo Gotama là vị nói đúng pháp, rất khó tranh luận bại Ngài. Nhưng đại chúng bà la môn nói thanh niên đã sống đời tu hành ẩn sĩ [2], nên có thể thảo luận với Phật. Cuối cùng đã làm theo yêu cầu của họ. Thanh niên đến Phật, mở đầu với lời tuyên bố của bà la môn: Chỉ có bà la môn là con chính thống sinh ra từ miệng Phạm thiên, và hỏi ý kiến Phật về quan điểm ấy. Phật phản bác với những luận cứ:

1. Các nữ bà la môn cũng có kinh nguyệt, mang thai và cho con bú như tất cả phụ nữ thuộc mọi giai cấp; các người bà la môn cũng sinh ra từ nữ căn như tất cả mọi người [3].

2. Tại hai miền Yona và Kamboja [4] biên địa của Ấn độ, chỉ có hai giai cấp là chủ và tới, người hết làm chủ thì làm tớ, và cũng có người ngược lại, sau khi làm tớ lại trở thành chủ.

3. Người thuộc cả 4 giai cấp phạm 10 ác nghiệp [5] khi chết đều đọa vào cõi dữ: bình đẳng trên phương diện chịu ác báo.

4. Người bất cứ giai cấp nào, mà từ bỏ 10 ác làm 10 lành thì khi thân hoại mạng chung cũng đều được sinh vào thiện thú, cõi trời.

5. Cả 4 giai cấp đều có thể tu tập tâm từ không sân hận, chứ không riêng gì giai cấp bà la môn mới tu được: bình đẳng trên phương diện tu tập.

6. Cả 4 giai cấp đều có thể xuống sông tắm rửa tẩy sạch bụi bặm.

7. Ngọn lửa do người Bà la môn đốt bằng gỗ thơm, với lửa do các giai cấp khác đốt với gỗ tồi, đều có thể cháy sáng và có tác dụng như nhau.

8. Trong hôn phối, con của một người bà la môn kết hôn với một người thuộc giai cấp khác sẽ giống cả cha lẫn mẹ, thuộc cả hai dòng máu.

9. Nếu có hai anh em cùng mẹ khác cha, một người thông hiểu thánh điển, một người không thông, các bà la môn sẽ cúng dường tôn trọng người thông hiểu thánh điển, không kể dòng họ.

10. Giữa hai người, một thông thánh điển nhưng không hành thiện pháp, một người có hành thiện pháp mà không thông thánh điển, người bà la môn sẽ tôn trọng người có thực hành thiện pháp.

Phật kết luận: trước hết thanh niên bà la môn chủ trương sanh chủng, sau lại bỏ sanh chủng theo thánh điển, và cuối cùng bỏ luôn cả thánh điển mà công nhận sự bình đẳng của 4 giai cấp do Phật chủ trương.

Phật kể lại câu chuyện quá khứ, lúc 7 ẩn sĩ bà la môn bàn luận về sự ưu thắng của giai cấp mình, bị Asita Devala [6] khiêu khích nên họ trù ếm cho Asita thành tro tàn hạ liệt. Nhưng càng trù ếm, Asita càng đẹp ra. Bảy ẩn sĩ Bà la môn buồn rầu nghĩ rằng phạm hạnh và chú thuật của mình đã trở thành vô hiệu; nhưng Asita bảo không phải thế, chỉ cần từ bỏ tâm oán hận đối với Asita. Bảy ẩy sĩ nghe danh Asita Devala liền đảnh lễ. Rồi Asita bác bỏ quan điểm ưu thắng của giai cấp Bà la môn với hai luận cứ:

1. Bà la môn không phải thuần chủng vì trong quá khứ, có những nam nữ bà la môn kết hôn với những người thuộc giai cấp khác.

2. Khi cha mẹ giao hợp, phải có hương ấm của người thì bào thai mới thành [7]. Nhưng không thể biết được hương ấm của một người lúc nhập thai là thuộc giai cấp nào. Do vậy, chính các tôn giả ấy cũng không tự biết mình là ai.

Kể xong chuyện, Phật bảo thanh niên Assalayana: Bảy ẩn sĩ Bà la môn xưa bị ẩn sĩ Asita Devala chất vấn về sanh chủng còn không ứng đáp được, thì làm sao ngày nay thanh niên lại có thể ứng đáp với Ngài. Thanh niên tán thán Phật và xin Phật nhận y làm đệ tử, từ nay đến mạng chung sẽ trọn đời quy ngưỡng.

III. CHÚ GIẢI

1. Lý luận bênh vực lập trường này được đưa ra trong kinh 90.

2. Họ ngụ ý: Thanh niên học xong 3 tập Vệ Ðà và các chú thuật thì cũng như những người xuất gia. Bởi thế y sẽ không bị luận bại, mà sẽ thắng.

3. Câu này muốn nói rằng người bà la môn cũng do phụ nữ sinh ra như những người khác, cho nên lời tuyên bố của họ rằng họ sinh ra từ miệng Phạm Thiên là vô lý.

4. Kamboja là một miền đất ở Ấn độ về phía bắc xứ trung ương.

5. Lý luận ở đoạn này hoàn toàn giống với lý luận trong kinh số 84.

6. Theo kinh sớ, Asita Devala là tiền thân Phật. Phật muốn hiển thị: trong quá khứ, người thuộc chủng tính cao hơn ta, nhưng người đã không trả lời được chất vấn của ta về chủng tính. Vậy thì làm sao bây giờ người có thể chất vấn ta được khi ta đã thành Phật?

7. Giống như kinh số 38.

IV. PHÁP SỐ

4 giai cấp, 10 bất thiện, 10 thiện, 4 phạm trú.

V. KỆ TỤNG

Thanh niên bà la môn

As-sa-la-ya-na

Thông minh và hùng biện

Ðến tranh luận với Phật

Bà la môn chủ trương

Chỉ có chủng tánh này

Con chính thống Phạm thiên

Sinh ra từ miệng ngài.

Phật bác quan điểm ấy:

Những người bà la môn

Cũng sinh từ nữ căn

Như tất cả mọi người

Phụ nữ bà la môn

Thai nghén, cho con bú

Như tất cả phụ nữ

Thì có gì tối tôn?

Có hai miền biên địa

Ở Ấn độ đương thời

Chỉ hai hạng thay nhau

Làm thầy rồi làm tớ.

Người thuộc giai cấp nào

Khi phạm 10 ác nghiệp

Chết đều đọa cõi dữ:

Ðồng đẳng chịu ác báo.

Người ở giai cấp nào

Mà bỏ ác làm lành

Khi thân hoại mạng chung

Ðều tái sinh thiện thú.

Người ở giai cấp nào

Ðều có thể tu tập

Tâm từ không hận sân:

Ðồng đẳng trong tu tập.

Người ở giai cấp nào

Cũng có thể xuống sông

Dùng cào lưng, bột tắm

Ðể rửa sạch bụi bặm

Ngọn lửa được đốt lên

Với nhiên liệu hảo hạng

Tác dụng không khác gì

Lửa nhiên liệu tồi tàn.

Nếu một bà la môn

Cưới người khác giai cấp

Con giống mẹ lẫn cha

Thuộc cả hai dòng máu.

Hai anh em khác cha

Một người thông thánh điển

Còn một người không thông

Người thông được kính nể

Bất kể dòng họ gì.

Nếu người thông thánh điển

Mà không hành thiện pháp

Cũng không được nể vì

Nguời có hành thiện pháp

Dù không thông thánh điển

Cũng sẽ được tôn trọng

Hơn người không thực hành.

Do những luận cứ này

Phật luận bại chàng trai

Lúc đầu tôn sanh chủng

Sau thánh điển được sùng

Và cuối cùng bỏ luôn

Thánh điển cùng sanh chủng

Ðề cao hành thiện pháp

Như Phật đã chủ trương.

Phật kể chuyện xưa kia

Có 7 vị ẩn sĩ

Luận bàn về ưu thắng

Giai cấp bà la môn

Lúc ấy tiền thân ngài

Ẩn sĩ A-si-ta

Phản bác quan điểm ấy

Với hai luận cứ này:

Giai cấp Bà la môn

Không phải là thuần chủng

Bởi vì trong quá khứ

Kết hôn với người ngoài

Muốn hình thành bào thai

Cần mẹ, cha, hương ấm

Nhưng không thể biết được

Giai cấp hương ấm này

Bảy ẩn sĩ ngày xưa

Tiền thân Ta luận bại

Sao nhà ngươi hôm nay

Chất vấn được Như lai?

Thanh niên bà la môn

Công nhận lời Phật dạy

Xin theo làm đệ tử

Quy ngưỡng đến trọn đời.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 94

Ghotamukha

I. TOÁT YẾU

Ghotamukha Sutta - To Ghotamukha.

A discussion between a brahmin and a bhikkhu on whether the renunciate life accords with the Dhamma.

Giảng cho Ghotamukha.

Một cuộc luận đàm giữa bà la môn và tỳ kheo về vấn đề: đời sống viễn ly có hợp chính pháp không.

II. TÓM TẮT

Trong lúc tôn giả Udena đang kinh hành trong vườn xoài nơi Ngài cư trú, Bà la môn đi đến chào hỏi tôn giả rồi nói: Không có sự xuất gia đúng pháp, vì không thấy ai được như tôn giả (có ý chê bai người xuất gia nói chung). Tôn giả bước khỏi đường kinh hành để vào trú xứ, ngồi vào chỗ [1]. Bà la môn cũng theo vào.

Udena trước hết kể ra 4 hạng người: tự hành khổ, hành khổ người, hành khổ cả hai, và không tự hành khổ cũng không làm khổ người. Bà la môn chỉ thích ý hạng thứ tư, như kinh 52, Kandaraka.

Rồi tôn giả nói có hai hội chúng: hạng có tham dục, tìm cầu vợ con châu báu ... và không tham dục, tức không có những việc này. Rồi Ngài hỏi bà la môn hạng người mà ông thích ý có mặt trong hội chúng nào. Bà la môn đáp hạng ấy có mặt ở trong hội chúng không tham châu báu, đồ trang sức, từ bỏ vợ con ... Khi ấy bà la môn công nhận mình đã tự mâu thuẫn với lời nói trước, và xin tôn giả giải thích về 4 hạng người. Tôn giả giải thích như trong kinh 52.

Bà la môn nghe xong, xin quy y tôn giả, nhưng tôn giả khuyên hãy quy y Phật lúc ấy đã nhập niết bàn. Bà la môn xin cúng dường tôn giả 500 kahapana [2] nhưng Ngài không nhận, bà la môn xin cúng một tinh xá, nhưng tôn giả khuyên hãy cúng giảng đường cho tăng. Bà la môn làm theo, cho xây một giảng đường cúng chư tăng ở Ba liên phất [3], nay vẫn còn giảng đường mang tên ông.

III. CHÚ GIẢI

1. Kinh sớ nói: Ngài làm như vậy sau khi nhận ra rằng cần phải có một cuộc đàm luận dông dài.

2. Kahàpana là đơn vị tiền lệ thời ấy.

3. Vào những ngày cuối cùng của đời đức Phật, đô thị này hãy còn là một thành phố nhỏ tên Pataligama. Trong kinh Trường bộ 16, Phật tiên đoán tương lai nó sẽ thành môt đô thị quan trọng, và quả thật cuối cùng nó đã thành thủ đô của xứ Ma Kiệt Đà. Ngày nay là Patna, thủ đô của nước Bihar.

IV. PHÁP SỐ

Hai hội chúng: có tham dục và không tham dục

4 hạng người: tự hành khổ, hành khổ người ...

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Ưu đề na (Udena)

Kinh hành trong vườn xoài

Gặp Gô ta mu kha

Bà la môn đến bạch:

Thưa tôn giả Ưu đề

Trong đời sống xuất gia

Thật ít người đúng pháp

Mấy ai được như Ngài

Tôn giả đi vào nhà

Cùng Mu kha thảo luận

Vấn đề ông đưa ra:

Xuất gia không đúng pháp

Ngài kể ra 4 hạng:

Hạng tự hành, hành người

Hạng làm khổ cả hai

Hạng không làm ai khổ

Hạng cuối không tham dục

Tịch tịnh, trú lạc thọ.

- Con thích ý hạng này

Không làm khổ mình, người.

"Này Gô-ta-mu-kha

Lại có hai hội chúng

Gồm thâu hai hạng người

Có tham dục và không

Hạng còn có tham dục

Cầu vợ con, tài sản

Hạng không còn tham dục

Từ bỏ các thứ này

Hạng người ông thích ý

Có mặt trong chúng nào?"

- Thưa trong chúng xuất gia

Từ bỏ vàng, châu báu.

"Phải chăng lời nói ông

Mâu thuẫn với lời trước?"

- Thật lợi ích cho con

Xin tôn giả chỉ dạy.

Rồi tôn giả giải thích

Lối sống 4 hạng người

Như những gì đã nói

Trong bài kinh năm hai

Tự hành là khổ hạnh

Không đưa đến giải thoát

Hành người là nghề ác

Hại người và vật khác

Hành khổ mình lẫn người

Là tế đàn tà kiến

Không làm khổ mình người

Là thiền lạc ly dục

Bà la môn hoan hỉ

Muốn cúng nhà, quy y

Tôn giả khuyên quy Phật

Nay đã nhập niết bàn

Và khuyên cúng chư tăng

Một giảng đường học pháp

Ở thành Ba liên phất

Nay vẫn còn lưu danh.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 95

Cankì [1]

I. TOÁT YẾU

Cankì Sutta - With Cankì.

The Buddha instructs a young brahmin on the preservation of truth, the discovery of truth, and the final arrival at truth.

Với Cankì.

Phật giáo giới một thanh niên bà la môn về sự hộ trì chân lý, khám phá chân lý, và chứng đạt chân lý.

II. TÓM TẮT

Phần dẫn nhập:

Khi Phật ở trong rừng Chư thiên [2] tại làng Opasàda nước Kosala, nhiều gia chủ bà la môn nghe tiếng đồn tốt đẹp về Ngài đã kéo nhau đi yết kiến. Bà la môn Cankì từ trên lầu cao trông thấy cảnh ấy, hỏi người quản gia và sau khi biết chuyện, liền sai người này đến báo với đoàn người hãy chờ, ông cũng muốn đi yết kiến Phật. Bấy giờ có một số đông bà la môn từ nhiều địa phương khác đến, nghe bà la môn Cankì đi yết kiến Phật thì can ngăn vì cho rằng không xứng đáng cho bà la môn Cankì yết kiến sa môn Cồ đàm, mà ngược lại, hãy để Cồ đàm yết kiến bà la môn Cankì, vì Cankì có dòng họ cao quý, giàu có, thông ba tập Vệ đà với 5 yếu tố: danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, lịch sử truyền thống; lại đẹp trai, khả ái, có giới hạnh; được vua chúa kính nể, được bà la môn Pokkarasati [3] kính nể.

Cankì cũng đưa ra những lý do ông phải đi yết kiến Phật: Sa môn Gotama là bậc thiện sanh từ phụ hệ và mẫu hệ; Ngài đã từ bỏ rất nhiều vàng bạc, xuất gia trong tuổi thanh xuân; Ngài là bậc tôn sư của những bậc tôn sư trong thiên hạ; Ngài đầy đủ 32 đại nhân tướng; và Ngài là khách qúy của địa phương này, nên thật xứng đáng cho Cankì đến yết kiến.

Đến nơi, thấy Phật đang đàm luận với một số bà la môn trưởng thượng, và có một thanh niên bà la môn tên Kapathika thỉnh thoảng lại ngắt lời những vị này, bị Phật khiển trách, bà la môn Cankì liền can thiệp, xin tôn giả Gotama đừng khiển trách vì thanh niên này là bậc đa văn, có trí, giỏi biện luận. Phật biết được tâm ý thanh niên này muốn vấn nạn Ngài, nên để mắt đến anh ta.

Phần chính:

Kapathika bạch: Thưa sa môn Cồ đàm, y cứ vào các chú thuật xưa đã được khẩu truyền đến nay, các bà la môn đi đến kết luận: chỉ đây mới là sự thật, ngoài ra đều sai lầm. Ngài nói sao về điều ấy?

Phật hỏi lại thanh niên: Có một người bà la môn nào, hay bậc thầy nào của Bà la môn hiện tại hay lùi về bảy đời trước, đã nói: Tôi đã biết đã thấy điều này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai? Thanh niên đáp không có.

Phật lại hỏi những nhà tụng tán và tác giả các chú thuật [4] được khẩu truyền cho đến bây giờ, có nói rằng: Tôi biết, tôi thấy điều này; chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm? Thanh niên cũng nói không.

Khi ấy Phật dạy, vì không một người bà la môn nào trong quá khứ hay hiện tại đã thực sự thấy, biết, thì câu họ nói chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm, chỉ như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, và lòng tin của họ trở thành vô căn cứ. Thanh niên bà la môn nói không phải bà la môn chỉ dựa trên lòng tin, mà còn trên sự truyền khẩu (lời đồn).

Phật dạy có 5 việc mà ngay hiện tại cũng có thể đem lại hai kết quả khác nhau (nghĩa là không chắc chắn) đó là tín (tin tưởng), tùy hỷ (vui theo, đồng ý), tùy văn (nghe truyền tụng), cân nhắc suy tư các lý do, và chấp nhận quan điểm [5]. Có những điều lúc đầu được ta tin tưởng hoàn toàn, mà về sau thành trống rỗng hư vọng, ngược lại cũng có điều lúc đầu ta không tin nhưng về sau hóa ra là chân thật. Bốn việc còn lại cũng thế. Do vậy người trí tôn trọng sư thật (hộ trì chân lý) không nên đi đến kết luận: chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm [6].

Khi ấy thanh niên hỏi thế nào gọi là hộ trì chân lý [7], Phật dạy ấy là khi một người nói tôi tin điều này, nhưng không cả quyết chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai. Với bốn việc còn lại cũng vậy, người ấy không cả quyết như trên, thì gọi là hộ trì chân lý (hay bảo vệ, tôn trọng sự thật). Nhưng như thế chưa phải là khám phá chân lý [8].

Khám phá hay chứng ngộ chân lý là, sau khi quan sát kỹ một bậc thầy [9] về thân ngữ ý hành, thấy vị ấy không còn bị tham, sân, si chi phối khiến vị ấy có thể dối gạt người khác, xúi họ đi đến tự hại, phải đau khổ lâu dài, một người khởi lòng tin, đến gần, thân cận giao thiệp, lóng tai, nghe pháp, thọ trì pháp, tìm hiểu ý nghĩa các pháp ấy, nhờ hiểu nên hoan hỉ chấp nhận, rồi khởi lên ước muốn tu tập, khi đã ước muốn thì cố gắng, sau khi cố gắng liền cân nhắc [10], sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần [11], nhờ tinh cần, vị ấy tự thân chứng ngộ chân lý và thể nhập chân lý với trí tuệ [12]. Nhưng thế cũng chưa phải chứng đạt chân lý [13].

Muốn chứng đạt chân lý, cần phải tu tập nhiều lần. Trong việc chứng đạt chân lý, cốt nhất là tinh cần. Muốn tinh cần, phải cân nhắc. Muốn cân nhắc phải cố gắng. Muốn cố gắng phải có ước muốn. Để có ước muốn, cần phải hoan hỉ chấp nhận. Muốn hoan hỉ chấp nhận, phải tìm hiểu ý nghĩa. Muốn tìm hiểu ý nghĩa phải thọ trì pháp. Muốn thọ trì pháp thì phải nghe pháp. Muốn nghe pháp phải lóng tai. Muốn lóng tai phải thân cận giao thiệp. Muốn thân cận giao thiệp phải đến gần. Muốn đến gần phải có lòng tin.

Thanh niên bà la môn tán thán Phật đã gợi nơi anh ta lòng ái kính sa môn, và xin Phật nhận anh làm đệ tử cư sĩ, từ nay đến mạng chung trọn đời quy ngưỡng [14].

III. CHÚ GIẢI

1. Đoạn mở đầu kinh này gần giống như đoạn mở đầu kinh Trung Bộ 4, nhan đề Sonadanda sutta.

2. Theo kinh sớ, rừng này được gọi là Rừng chư thiên Devavana, vì những đồ cúng ở đấy dành để cúng chư thiên.

3. Pokkarasàti là một bà la môn giàu có khác, được Vua Ba Tư Nặc phong ấp tên Ukkatthà. Trong kinh Trường bộ 2, sau khi nghe Phật thuyết pháp, ông chứng quả Dự Lưu và đã cùng với gia đình quyến thuộc xin quy y.

4. Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, và Bhagu là những vị ẩn sĩ mà các bà la môn xem như những người biên chép kinh Vệ Đà do Thiên khải.

5. Saddhà, ruci, anussava, àkàraparivitakka, ditthinijjhànakkhanti. Trong 5 nền tảng này để đặt đến niềm tin, 2 yếu tố đầu hoàn toàn thuộc về cảm xúc, yếu tố thứ 3 là sự chấp nhận truyền thống một cách mù quáng, và 2 yếu tố cuối cùng thuộc phạm vi suy luận nhận thức. Những thứ này đều có thể có hai cách khác nhau; cách nào cũng có thể thành đúng và sai.

6. Không thể đi đến kết luận chỉ đây là đúng, khi không tự mình thấy rõ sự thật, mà chỉ công nhận dựa trên 5 căn cứ như trên, những cơ sở không có gì chắc chắn.

7. Saccànurakkhana, hộ trì chân lý, bảo vệ sự thật.

8. Saccànubodha, khám phá, chứng ngộ chân lý.

9. Phương pháp tìm ra chân lý (tìm hiểu người nói pháp có bị còn tham, sân, si chi phối đến nỗi xúi kẻ khác tự hại, hại người không. Sau khi biết thân ngữ ý hành vị ấy không phải của kẻ bị ám vì tham sân si, thì biết Pháp do vị ấy giảng là sâu xa, được người trí chứng biết, không dễ gì do một kẻ còn tham sân si mà dạy được) theo kinh này dường như khai triển phương pháp đã được nói trong kinh số 47.

10. Tùleti. Vị ấy tra tầm các pháp theo nguyên lý vô thường, v.v... Giai đoạn này như vậy dường như là giai đoạn tuệ quán.

11. Nỗ lực ussahati, có vẻ đồng nghĩa với padahati, tinh cần, nhưng động từ trước có nghĩa là nỗ lực trước khi tuệ quán, động từ sau là nỗ lực nâng tuệ quán lên đạo lộ siêu thế.

12. Kinh sớ: vị ấy chứng Niết bàn với thân tâm lý thuộc đạo lộ Dự Lưu, và sau khi thâm nhập các cấu uế, vị ấy chứng niết bàn bằng trí tuệ, làm cho niết bàn hiển lộ.

13. Trong kinh này, sự khám phá chân lý dường như có nghĩa đắc quả Dự Lưu, sự chứng đạt chân lý dường như có nghĩa đắc quả A la hán.

14. Xem chú thích số 8 kinh 50.

IV. PHÁP SỐ

3 độc tham sân si; 5 pháp không chắc chắn: tín, tùy hỉ, tùy văn, cân nhắc suy tư, chấp nhận quan điểm; 12 pháp đưa đến chứng đạt chân lý: lòng tin, đến gần, giao thiệp, lóng tai, nghe pháp, thọ trì pháp, tìm hiểu ý nghĩa, hoan hỉ chấp nhận...

V. KỆ TỤNG

Bà la môn Cankì

Đến yết kiến Thế tôn

Lúc Phật đang luận đàm

Cùng các bậc trưởng thượng

Một bà la môn trẻ

Tên Ka-pa-thi-ka

Ưa ngắt lời người lớn

Phật khiển trách anh ta

Cankì liền can thiệp

Xin tôn giả Gotama

Đừng khiển trách Ka-pa

Có trí, giỏi biện luận.

Biết tâm của Ka-pa

Thế tôn đưa mắt nhìn

Ka-pa-thi-ka bạch:

- Xin hỏi Gô-ta-ma,

Căn cứ vào chú thuật

Bà la môn kết luận:

Chỉ đây là sự thật

Ngoài ra đều sai lầm.

Ngài có ý kiến gì

Về lời tuyên bố ấy

Xin tôn giả chỉ dạy?

Phật hỏi lại thanh niên:

"Trong các bà la môn

Hiện tại, từ bảy đời,

Có ai tự thấy biết

Và tuyên bố thành lời:

Tôi biết, thấy điều này

Chỉ đây là sự thật.

Ngoài ra đều là sai?"

Thanh niên đáp rằng không.

"Tác giả các chú thật

Được khẩu truyền xưa nay

Có ai nói như vầy?"

- Cũng không, thưa tôn giả

"Nếu sự tình là vậy

Không bà la môn nào

Trong quá khứ hiện tại

Đã thực sự thấy, biết

Mà lại loan truyền câu:

Chỉ đây là sự thật,

Ngoài ra đều sai lầm,

Như mù nối đuôi nhau

Tin vậy vô căn cứ".

Bà la môn cãi lại:

- Không phải chỉ lòng tin

Mà còn sự truyền khẩu.

Phật dạy: "Có 5 việc

Có thể đúng hoặc sai

Và cho hai quả báo

Ngay trong thời hiện tại

Một, tin; hai, đồng ý

Nghe truyền tụng là ba;

Bốn, cân nhắc suy luận

Năm, chấp nhận quan điểm.

Có thể điều ta tin,

Thì hóa ra trật lất

Ngược lại cũng có điều

Không tin mà có thật

Điều gì ta đồng ý

Có thể là trống không

Điều ta không đồng ý

Có thể là đúng lý

Ba việc kia cũng vậy

Có khi đúng khi sai

Do vậy người có trí

Không kết luận vội vàng

Nói tôi tin điều này,

Nhưng không có cả quyết

Chỉ đây là sự thật,

Ngoài ra đều lầm sai.

Với bốn việc còn lại

Cũng thái độ như trên

Là hộ trì chân lý

Nhưng chưa phải chứng ngộ

Khám phá hay chứng ngộ

Là quan sát bậc thầy

Thân ngữ ý hành vi

Không còn tham sân si

Không dối gạt người khác

Khiến họ khổ lâu dài,

Sau khi thấy như vậy

Khởi lòng tin vị ấy

Rồi đến gần, giao thiệp

Lóng tai mà nghe pháp

Thọ trì pháp đã nghe

Và tìm hiểu ý nghĩa

Hiểu rồi vui chấp nhận

Khởi lên ước muốn tu

Cố gắng, và cân nhắc

Cuối cùng, phải tinh cần.

Nhờ tinh cần, thân chứng

Thể nhập với trí tuệ

Nhưng thế cũng chưa phải

Là chứng đạt chân lý

Muốn chân lý chứng đạt

Cần tu tập nhiều lần

Cốt nhất là tinh cần

Pháp hành trì nhiều nhất

Tinh cần do cân nhắc

Cân nhắc do cố gắng

Cố gắng do ước muốn

Ước muốn do chấp nhận

Chấp nhận do hiểu nghĩa

Hiểu nghĩa nhờ thọ trì

Thọ trì nhờ nghe pháp

Nghe pháp nhờ lóng tai

Lóng tai nhờ thân cận

Thân cận nhờ đến gần

Đến gần nhờ lòng tin

Mối đầu của thành đạt."

Thanh niên bà la môn

Tán thán đức Thế tôn

Đã gợi nơi anh chàng

Lòng ái kính sa môn

Chàng xin quy y Phật

Xin làm một cư sĩ

Từ nay đến mạng chung

Sẽ trọn đời quy y.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 96

Esukàrì

I. TOÁT YẾU

Esukàrì Sutta - To Esukàrì.

The Buddha and a brahmin discuss the brahmin's claim to superiority over the other castes.

Giảng cho Esukàrì.

Phật thảo luận với một bà la môn về lời tuyên bố giai cấp bà la môn là tối thắng hơn các giai cấp khác.

II. TÓM TẮT

Bà la môn Esukari hỏi ý kiến Phật về chủ trương giai cấp của Bà la môn theo đó người đồng đẳng cấp được phục vụ nhau và phục vụ người thuộc những giai cấp trên, không phục vụ người thuộc giai cấp dưới. Như giai cấp Thủ đà la phải phục vụ ba giai cấp trên, và chỉ được phục vụ bởi người cùng giai cấp. Phật hỏi lại, quan điểm đó có được mọi người đồng ý không. Bà la môn đáp không. Phật dạy vậy cũng như có người nghèo bị ép ăn một thứ họ không muốn ăn, rồi bảo họ trả tiền.

Kế tiếp, Phật nói Ngài không chủ trương nên phục vụ hay không nên phục vụ, Nhưng theo Ngài, nếu do phục vụ mà người phục vụ trở thành tốt hơn, thì nên phục vụ. Nếu do phục vụ mà họ thành xấu hơn, thì không nên phục vụ. Vì nếu nói một cách chân chính, thì người thuộc bất cứ giai cấp nào cũng sẽ nói cần người nào phục vụ cho mình mà do vậy họ trở thành tốt hơn. Rồi Phật phân tích thế nào là tốt: đó không phải là sự cải thiện về dòng họ, về sắc đẹp, về tài sản, mà về năm yếu tố: lòng tin, giới, nghe nhiều, bố thí và trí tuệ.

Esukari lại hỏi ý kiến Phật về chủ trương của bà la môn về tài sản: tài sản của giai cấp bà la môn là khất thực [1], của Sát đế lợi là cung tên, của Vệ xá là chăn nuôi trồng trọt [2], của Thủ đà là lao động tay chân. Nếu một giai cấp không sống đúng theo tài sản nói trên, mà làm việc khác để kiếm sống, thì đấy là không làm tròn bổn phận, là đồng nghĩa với trộm cắp. Phật hỏi lại và được trả lời như trên, là không phải mọi người đồng ý chủ trương ấy: và Phật cũng đưa ví dụ người nghèo bị ép nuốt một vật họ không ưa, lại phải trả tiền.

Phật chủ trương tài sản cho con người là thánh pháp vô thượng [3], nhưng khi nhớ đến gia hệ xưa của một người về phía cha và mẹ, người ấy được kể tùy theo chỗ họ thọ sinh [4]. Do vậy người thuộc giai cấp nào cũng có thể từ bỏ 10 ác, cũng có thể tu tập mười lành, thành tựu thiện pháp, cũng có thể xuống sông tắm sạch bụi bặm, cũng có thể đốt lên ngọn lửa với nhiên liệu mà mình đang có. Tất cả giai cấp đều có thể thành tựu chánh đạo, và khi đã thành tựu thì đều được giải thoát. Cũng như ngọn lửa được đốt lên với mọi thứ củi đều có tác dụng như nhau, ánh sáng và hơi nóng chỉ là một.

Bà la môn tán thán Phật và xin quy y.

III. CHÚ GIẢI

1. Theo kinh sớ, những người bà la môn xưa có tục lệ đi khất thực dù họ có tài sản lớn.

2. Mặc dù nghề nông có vẻ là một công việc lạ lùng đối với một người đã được mô tả là thương gia, cần phải hiểu rằng giai cấp thương gia không những buôn bán ở đô thị mà còn sở hữu và cai quản những đầu tư về nông nghiệp.

3. Ariyam kho aham bràhmana lokuttaram dhammam pruisassa sandhanam pannàpemi. Này bà la môn, ta chủ trương tài sản dành cho con người là thánh pháp tối thượng.

4. Attabhàvassa abhinibbatti: Nghĩa đen là "Bất cứ nơi đâu vị ấy tái nhập bào thai".

IV. PHÁP SỐ

3 tiêu chuẩn để lượng giá theo thế gian: dòng họ, sắc đẹp, tài sản; 4 phạm trú; 4 loại tài sản theo chủ trương giai cấp của bà la môn giáo: do khất thực, do cung tên, do buôn bán, và do sức lao động. 4 chủ trương phụng sự theo bà la môn; 4 chủ trương phụng sự của Phật theo đó người phụng sự phải tốt hơn theo thời gian; 5 tiêu chuẩn để lượng giá theo Phật: tín, giới, thí, văn, tuệ; 10 thiện nghiệp.

V. KỆ TỤNG

Một người Bà la môn

Tên E-su-ka-ri

Hỏi Phật nghĩ thế nào

Về chủ trương của họ:

Những người bà la môn

Cần phải được phụng sự

Bởi người đồng giai cấp

Và ba giai cấp dưới

Chiến sĩ được phụng sự

Bởi người đồng giai cấp

Và hai giai cấp dưới

Là thương gia, lao động

Thương gia được phụng sự

Bởi thương gia, thủ đà

Riêng giai cấp thủ đà

Phải phục vụ lẫn nhau.

"Có phải chủ trương này

Mọi người đều chấp nhận?"

- Thưa không, Gô ta ma

Bà la môn đặt ra.

"Như vậy có khác gì

Bắt ép kẻ khác ăn

Thức ăn họ không muốn

Lại bảo trả tiền đi?"

Phật bảo bà la môn:

"Nếu do việc phụng sự

Một người thành tốt hơn

Thì rất nên phụng sự

Nếu họ thành xấu hơn

Thì không nên phụng sự

Vì ai cũng đều cần

Một người hầu tốt hơn

Và "tốt" đây có nghĩa

Tín giới văn thí tuệ

Năm pháp lành này tăng

Không kể đẹp, giàu sang."

Bà la môn chủ trương

Tài sản cho mỗi giới:

Bà la môn khất thực

Sát đế lợi cung tên

Vệ xá nông súc nghiệp

Thủ đà việc tay chân

Sống cách nào khác trên

Là không tròn bổn phận.

Phật cũng bác như trên

Và dạy:"Ngài chủ trương

Tài sản cho con người

Là thánh pháp vô thượng

Chỉ do gia hệ xưa

Về phía cha và mẹ

Mà một người được kể

Tùy theo chỗ thọ sinh

Người thuộc mọi giai cấp

Ðều có thể bỏ ác

Và có thể làm lành

Và thành tựu thiện pháp

Ðều có thể xuống sông

Tắm tẩy sạch bụi đất

Có thể đốt ngọn lửa

Với nhiên liệu của mình

Tất cả mọi giai cấp

Ðều có thể thành đạo

Khi thánh đạo đã thành

Thì đều được giải thoát

Cũng như các ngọn lửa

Dù củi đốt khác nhau

Tác dụng không hề khác

Cũng vậy với giải thoát."

Bà la môn nghe rồi

Tán thán kỳ diệu thay

Và xin Phật quy y

Trở thành một cư sĩ

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 97

Dhànanjàni

I. TOÁT YẾU

Dhànanjàni Sutta - To Dhànanjàni.

The venerable Sàriputta admonishes a brahmin who tries to excuse his negligence by appeal to his many duties. Later, when he is close to death Sàriputta guides him to rebirth in the Brahma - world but is reprimanded by the Buddha for having done so.

Giảng cho Dhànanjàni.

Tôn giả Xá Lợi Phất giáo giới một bà la môn lấy cớ bận nhiều phận sự để biện minh cho sự lơ đễnh (tu học) của mình. Về sau, khi ông gần chết, Xá lợi phất hướng dẫn ông tái sinh vào cõi Phạm thiên, nhưng Ngài bị Phật quở vì đã làm như vậy.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Xá Lợi Phất giáo giới bà la môn Dhananjani vì vị này sống buông thả, viện cớ còn có trách nhiệm đối với cha mẹ, vợ con, bạn bè, tôi tớ, lao công, thân hữu, bà con huyết thống, tân khách, tổ tiên, chư thiên, vua chúa, và còn cái thân này phải được chu cấp, nên không thể tu được. Tôn giả hỏi ông, một người vì những liên hệ ấy và vì cái thân mà làm điều phi pháp, bị kéo xuống địa ngục, có thể lấy cớ ấy để được khỏi tội hay không? Bà la môn nói không thể.

Lại hỏi người vì những liên hệ ấy và vì cái thân mà làm điều bất chính, với người cũng vì những liên hệ ấy và vì cái thân mà làm điều đúng pháp, ai tốt đẹp hơn? Bà la môn trả lời người làm đúng pháp thì tốt đẹp hơn.

Về sau, bà la môn bị bệnh sắp chết, sai người đến đảnh lễ Phật và tôn giả Xá Lợi Phất để báo tin, và xin được gặp tôn giả. Tôn giả viếng thăm ông, kể ra những cõi tái sinh từ địa ngục trở lên đến các cõi trời Tứ thiên vương, Tam thập tam, Dạ ma, Đâu suất đà, Hóa lạc, Tha hóa tự tại, và cuối cùng là Phạm thiên. Nghe đến Phạm thiên giới, bà la môn đặt biệt chú ý, Tôn giả bèn thuyết giảng cho ông con đường cộng trú với Phạm thiên, là an trú biến mãn cùng khắp mười phương tâm từ, bi, hỉ, xả. Rồi tôn giả ra đi, mặc dù còn nhiều pháp cao thượng hơn [1].

Khi biết chuyện, Phật quở trách tôn giả vì sao có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, mà tôn giả chỉ giảng cho bà la môn một cảnh giới thấp kém. Tôn giả trả lời vì Ngài biết ông ái luyến phạm thiên giới, nên tôn giả thuyết giảng con đường đưa đến đấy. Phật cho biết bà la môn quả thực đã sinh lên Phạm thiên giới [2].

III. CHÚ GIẢI

1. Tôn giả Xá Lợi Phất đã ra về mà không giảng dạy cho ông ta một giáo lý giúp ông đạt đến đạo lộ siêu thế để trở thành một bậc định tánh giác ngộ. So với khả năng này thì sự sinh lên cõi Phạm thiên được xem là thấp kém.

2. Nhận xét này gần như một lời quở trách nhẹ nhàng. Có lẽ Phật đã thấy Dhànanjàni có khả năng đạt đến đạo lộ siêu thế, vì ở chỗ khác (như trong kinh 99) chính Ngài cũng dạy con đường lên Phạm thiên giới trong trường hợp người nghe Pháp không có khả năng chứng đắc đạo lộ siêu thế.

IV. PHÁP SỐ

Tam bảo, 3 nghiệp, 4 phạm trú, 5 dục tăng trưởng, 10 bất thiện nghiệp.

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Xá Lợi Phất

Viếng phạm chí Đà nhiên

Khi được tin không lành

Vị này sống phóng dật

Bà la môn Đà nhiên

Viện cớ còn trách nhiệm

Với cha mẹ, vợ con

Còn bạn bè tôi tớ

Còn lao công, thân hữu

Còn bà con huyết thống

Tân khách và tổ tiên

Chư thiên và vua chúa

Lại còn cái thân này

Cần phải được chu cấp

Cần phải được thụ hưởng

Khó sống không phóng dật.

"Này hỡi bà la môn

Nếu ai vì cha mẹ

Vì bà con huyết thống

Và vì chính bản thân

Làm những điều phi pháp

Bị lôi xuống điạ ngục

Có thể viện cớ này

Để miễn tội hay không?

Vì những liên hệ này

Mà làm điều đúng pháp.

Với làm điều phi pháp

Ai tốt đẹp hơn ai?"

Bà la môn công nhận

Viện cớ cũng không thoát

Khi đã làm phi pháp

Tốt hơn, làm đúng pháp

Khi Đà nhiên bệnh nặng

Ông xin gặp tôn giả

Trước giây phút từ trần

Tôn giả lại viếng thăm

Ngài nêu các cảnh giới

Từ điạ ngục, bàng sanh

Cõi người, các cõi trời

Cho đến Phạm thiên giới.

Nghe danh từ Phạm thiên

Bà la môn chú ý

Tôn giả bèn thuyết giảng

Đường lên cõi phạm thiên

Hãy trú tâm biến mãn

Mười phương hư không giới

Với từ, bi, hỉ, xả

Đây đường đến Phạm thiên

Giảng xong bốn phạm trú

Tôn giả bèn ra về

Mặc dù còn nhiều pháp

Cao hơn Phạm thiên giới.

Phật quở trách tôn giả

Vì chỉ giảng Phạm trú

Và cho biết Đà nhiên

Đã sanh lên Phạm thiên.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 98

Vàsettha

I. TOÁT YẾU

Vàsettha Sutta - To Vàsettha.

The Buddha resolves a dispute between two young Brahmins on the qualities of a true brahmin.

Giảng cho Vàsettha.

Phật giải quyết một cuộc tranh cãi giữa hai thanh niên bà la môn về những đức tính của một bà la môn chân chính.

II. TÓM TẮT

Hai thanh niên bà la môn Bharadvaja và Vasettha tranh luận về đề tài thế nào là một bà la môn. Người thì cho là do huyết thống, người thì cho là do hành động hiện tại. Họ đưa vấn đề đến xin Phật giải quyết. Trước hết Phật đưa ra sự khác nhau giữa loài vật và con người. Trong khi loài vật có chủng loại khác nhau rõ rệt do tướng thọ sanh, có muôn màu muôn vẻ như noãn thai thấp hóa và lớn nhỏ, không chân, hai chân hay nhiều chân... thì con người, tướng thọ sanh không có gì sai khác. Bởi thế, sự khác nhau chỉ là do danh xưng, do nghề nghiệp hiện tại của mỗi hạng người. Ngang đây, Phật gần như đồng ý với thanh niên Vasettha chủ trương bà la môn là do hành động, do giới hạnh. Nhưng sau đó, Ngài gán cho danh từ bà la môn một định nghĩa cao thượng hơn, đồng hóa bà la môn với bậc A la hán mẫu người lý tưởng trong đạo Phật, là bậc đã giải thoát khỏi hữu, chứng ba minh và dứt sạch lậu hoặc.

III. CHÚ GIẢI

1. Bản kinh này không nằm trong Trung bộ kinh ấn bản của Hội Văn bản Pali, vì lý do như đã nói trong chú thích 1, kinh 92.

2. Ở đây danh từ hành động cần hiểu là hành vi hiện tại, chứ không phải hành vi quá khứ hay nghiệp sản sinh ra những hậu quả trong hiện tại.

3. Sàmannà. Theo kinh sớ, sự khác nhau về hình dạng các thân phần nơi súc vật là do chủng loại - yoni - của chúng. Nhưng sự phân biệt chủng loại như vậy không có nơi thân thể của bà la môn và các chủng tính khác. Vì lý do ấy, sự phân biệt giai cấp bà la môn, sát đế lợi, vân vân, chỉ thuần là phân biệt trên danh từ; một thành ngữ theo quy ước mà thôi, không tương ứng với thực tại.

4. Từ trước đến đây, Phật đã phê phán lời xác nhận của Bhàradvàja rằng sanh chủng làm cho người ta là một bà la môn. Bây giờ, Ngài sẽ đề cao lời xác nhận của Vàsettha rằng chính hành động hay nghiệp, khiến người ta thành bà la môn. Vì ngày xưa những người bà la môn và các bậc hiền trí trên đời không chấp nhận sự kiện một bà la môn mà có cách sinh nhai bất đáng, có giới hạnh và tư cách khiếm khuyết.

5. Bhovàdi. Bho, Ngài, là cách xưng hô giữa những người bà la môn. Từ đây trở đi, Phật đồng nhất vị bà la môn chân chính với bậc A la hán. Những câu kệ ở đây giống Pháp cú 396-423, trừ trong Pháp cú 423 có thêm hai câu.

6. Kinh sớ: Do ý hành hiện tại muốn hoàn tất công việc đồng áng, vv..

7. Với câu kệ này, danh từ nghiệp có hơi thay đổi ý nghĩa do từ ngữ duyên sinh. Nghiệp ở đây không còn có nghĩa hành động hiện tại định đoạt quy chế xã hội của một người, mà hành động với ý nghĩa đặc biệt là một năng lực trói buộc hữu tình vào vòng hiện hữu. Dòng tư tưởng này còn rõ rệt hơn nữa trong bài kệ kế tiếp.

8. Bài kệ này và tiếp theo lại nói đến bậc A la hán. Nhưng ở đây, sự tương phản không phải là giữa vị A la hán trở nên thánh thiện do hành động của mình với người sanh chủng bà la môn nhưng không xứng với danh hiệu bà la môn; mà là giữa vị A la hán kể như một người đã giải thoát sự trói buộc của hành động và quả báo, với tất cả chúng sinh khác còn bị trói buột vào bánh xe sinh tử bởi những hành nghiệp của mình.

IV. PHÁP SỐ

3 lậu hoặc, 3 nghiệp, 4 giai cấp, 5 triền cái.

V. KỆ TỤNG

Thanh niên Vasettha

Cùng Bha-ra-dva-ja

Bà la môn đến Phật

Xin giải quyết tranh chấp

- Tôn giả Gotama

Giữa hai người chúng con

Có sự tranh luận này

Về huyết thống thọ sanh

Bharadvaja nói

Chính do sự thọ sanh

Con nói do hành động [2]

Mới thành bà la môn

Cả hai người chúng con

Không thể thuyết phục nhau

Chúng con đến hỏi ngài

Bậc chánh giác tôn xưng.

Ðức Thế tôn bèn dạy:

Loài vật và cỏ cây

Có muôn ngàn sắc thái

Chúng có tướng tùy sanh

Trong thế giới loài người

Tướng sanh không sai khác

Chỉ tùy theo danh xưng [3]

Loài người được kêu gọi

Chăn bò, lo ruộng đất

Kẻ ấy là nông phu [4]

Ai sống theo nghề nghiệp

Kẻ ấy là công thợ

Ai sống nghề buôn bán

Kẻ ấy là thương nhân

Ai sống hầu hạ người

Kẻ ấy là nô bộc

Ai sống lấy của người

Kẻ ấy là kẻ trộm

Ai sống nghề cung tên

Kẻ ấy là nhà binh

Ai sống nghề tế tự

Kẻ ấy là tế quan

Thọ hưởng làng, quốc độ

Kẻ ấy là vua chúa

Và Ta không có gọi

Kẻ ấy Bà la môn

Chỉ vì do thọ sanh

Do cao sang, giàu có.

Người không ham thế lợi

Không tham lam, chấp thủ [5]

Thoát ly các trói buộc

Chính danh Bà la môn.

Ai không lỗi, chịu đựng

Nhiếc mắng cùng đánh trói

Trang bị với nhẫn lực

Chính danh Bà la môn.

Ai biết ngay đời này

Khổ vì ngã đoạn tận

Gánh nặng được đặt xuống

Chính danh Bà la môn.

Hành động làm nông phu [6]

Hành động làm công thợ

Hành động làm lái buôn

Hành động làm nô bộc

Hành động làm ăn trộm

Hành động làm nhà binh

Hành động làm tế quan

Hành động làm vua chúa

Kẻ trí thấy hành động

Như thật là như vậy

Thấy rõ lý duyên khởi [7]

Biết rõ nghiệp dị thục

Do nghiệp, đời luân chuyển

Do nghiệp, người luân hồi

Nghiệp trói buộc chúng sinh

Như trục xe quay bánh.

Do khổ hạnh, phạm hạnh

Tiết chế và chế ngự

Tác thành bà la môn

Mới thật là tối thượng [8]

Ba minh đã thành tựu

An tịnh, đoạn tận hữu

Va-set-tha nên biết

Đây Phạm thiên, Đế thích.

(Hầu hết toàn bài rút từ bản dịch của Hòa thượng Minh Châu, trừ bài cuối theo bản Anh dịch.)

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 99

Subha

I. TOÁT YẾU

Subha Sutta - To Subha.

The Buddha answers a young Brahmin's questions and teaches him the way to rebirth in the Brahma - world.

Giảng cho Tư Bạt.

Phật trả lời những câu hỏi của một bà la môn trẻ và dạy cho anh ta con đường tái sinh lên Phạm thiên giới.

II. TÓM TẮT

Bà la môn Subha Todeyyaputta [1] trình bày với Phật chủ trương của các bà la môn rằng chính người tại gia thành tựu chánh đạo, thiện pháp, xuất gia không thành tựu. Do vì tại gia có nhiều dịch vụ, công tác, tổ chức, lao lực, nên có quả báo lớn. Còn xuất gia ít dịch vụ, công tác, ít tổ chức, lao lực, nên quả báo nhỏ. Phật dạy Ngài chủ trương cần phải phân tích [2], không thể nói một chiều. Và Ngài phân tích có 4 trường hợp:

(1) Dịch vụ lớn, công tác lớn, tổ chức lớn, lao lực lớn, nếu làm hỏng, kết quả nhỏ

(2) Dịch vụ lớn ... tổ chức lớn, nếu làm đúng, kết quả lớn

(3) Dịch vụ nhỏ ... tổ chức nhỏ, làm hỏng, sẽ có kết quả nhỏ

(4) Dịch vụ nhỏ ... tổ chức nhỏ, làm thành tựu, sẽ có quả báo lớn

Hai trường hợp đầu là nông nghiệp, hai trường hợp sau là buôn bán [3]. Kế tiếp bà la môn đưa ra năm pháp tác phước đắc thiện mà họ chủ trương, là Chân thực, khổ hạnh, phạm hạnh, tụng đọc và thí xả . Phật hỏi trong số những người bà la môn hiện tại và quá khứ, có ai tuyên bố họ đã chứng ngộ với thượng trí, quả báo dị thục của năm pháp ấy? Thanh niên trả lời không. Phật dạy vậy cũng như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người đầu, người giữa và người cuối đều không thấy [4].

Thanh niên bà la môn bất mãn vì bị nói như vậy, bèn dẫn lời Pokkharasati, một bà la môn danh tiếng nói rằng [5] có một số sa môn bà la môn tự cho đã chứng pháp thượng nhân, thật sự thấy chỉ là lời trống rỗng, vì làm sao còn là người lại chứng được pháp vượt con người?

Phật hỏi lại, bà la môn ấy có tha tâm thông, biết tâm tư của tất cả sa môn bà la môn khác không. Thanh niên đáp tâm người tớ gái ông ta còn không biết, làm sao có thể biết tâm tất cả sa môn bà la môn?

Phật dạy ví như người mù tuyên bố không có các hình sắc, vì anh ta không thấy biết chúng, lời ấy đúng không. Rồi Ngài khiến thanh niên phải xác nhận bốn tiêu chuẩn của lời nói tốt đẹp là: được thế tục chấp nhận, cần phải được suy tư, cần phân tích cân nhắc, và liên hệ đến mục đích. Thanh niên công nhận lời tuyên bố trên của các bà la môn hoàn toàn thiếu bốn tiêu chuẩn ấy.

Kế tiếp Phật nêu lên 5 triền cái và 5 dục, bà la môn Pokkharasati đã bị chúng ngăn che và trói buộc nên không chứng được thượng nhân pháp. Ngài lại đề cập hỷ lạc do thiền định ly dục bất thiện pháp như là ngọn lửa đốt lên không nhờ các nhiên liệu thông thường. Ngài hỏi thanh niên 5 pháp tác phước đắc thiện có nhiều hơn ở người tại gia hay người xuất gia, thanh niên bà la môn nói ở xuất gia. Phật dạy 5 pháp ấy là những tư cụ của tâm, để tu tập không sân hận.

Cuối cùng Ngài giảng con đường cộng trú với Phạm thiên [6] là biến mãn khắp mười phương với tâm từ, bi, hỷ, xả, không có hạn lượng [7], còn gọi bốn phạm trú. Thanh niên tán thán Phật và xin quy y.

III. CHÚ GIẢI

1. Subha Todeyyaputta là một bà la môn giàu có, thống lĩnh một khu làng Tudigama gần thành Xá vệ. Kinh 135 cũng được giảng cho ông Tư Bạt này.

2. Vibhajjavàdo kho aham ettha. Những lời nói như vậy giải thích tại sao về sau đạo Phật được gọi là vibhajjavàda, Tỳ bà sa luận hay lý thuyết phân tích.

3. Rõ ràng vào thời ấy, thương mãi còn ở giai đoạn sơ khai. Ngày nay tuyệt nhiên không còn có thể nói như vậy.

4. Như trong kinh 95.

5. Lời này có lẽ đã được nói trước khi Pokkharasati trở thành đệ tử Phật, như được nói trong kinh 95.

6. Trí này thuộc về Như Lai lực thứ ba, biết đường đến các cảnh giới. Xem kinh số 12.

7. Theo kinh sớ, nghiệp hữu hạn là nghiệp thuộc dục giới; ngược với nghiệp vô hạn là các thiền thuộc sắc hoặc vô sắc giới. Ở đây muốn nói đến các phạm trú được tu tập như một pháp môn thiền. Khi chứng đắc và làm chủ một thiền thuộc vô sắc hay vô sắc giới thì một nghiệp thuộc dục giới không thể thắng lướt nó và có được cơ hội phát sinh hậu quả. Vì ngăn chặn được hậu quả của các nghiệp thuộc dục giới, phạm trú mà hành giả đã chủ động được, sẽ đưa vị ấy tái sinh cộng trú với Phạm thiên.

IV. PHÁP SỐ

4 phạm trú; 4 lý do tại gia có nhiều phước đức theo chủ trương của bà la môn; 4 sự phân tích theo Phật. 5 pháp tác phước đắc thiện của bà la môn; 5 triền cái, 5 dục tăng trưởng.

V. KỆ TỤNG

Bà la môn Subha

Đến trình bày với Phật:

Chính những người tại gia

Thành tựu nhiều thiện pháp

Tại gia nhiều dịch vụ

Công tác tổ chức lớn

Và lao lực nhiều hơn

Nên có quả báo lớn.

Xuất gia ít dịch vụ

Ít công tác, tổ chức

Lại cũng ít lao lực

Nên có quả báo nhỏ.

Phật dạy Ngài chủ trương

Mọi sự cần phân tích

Không thể nói một chiều

Và có 4 trường hợp.

Có công việc bao hàm

Dịch vụ, công tác lớn

Tổ chức, lao lực lớn

Nếu làm hỏng, quả nhỏ.

Nếu làm đúng, quả lớn:

Tỷ dụ như nông nghiệp

Có công việc bao hàm

Dịch vụ, công tác nhỏ.

Tổ chức, lao lực ít

Làm hỏng, kết quả nhỏ

Làm đúng, kết quả lớn:

Tỷ dụ như bán buôn.

Có năm điều phước thiện:

Chân thực và khổ hạnh

Phạm hạnh và tụng đọc

Với thí xả là năm.

Phật hỏi trong số người

Bà la môn hiện tại

Và quá khứ có ai

Tuyên bố đã chứng đắc

Với thượng trí, tuyên thuyết

Những quả báo dị thục

Của năm điều nói trên?

- Thưa không, bạch tôn giả.

"Cũng như chuỗi người mù

Nối đuôi nhau không thấy."

Bà la môn bất mãn

Khi nghe Phật nói vậy.

Tôn giả Gotama

Có người chỉ nói láo

Chưa chứng nói đã chứng

Các pháp vượt hơn người.

"Làm sao còn là người

Chứng pháp vượt con người?"

- Bậc thầy bà la môn

Đã nói lời như vậy.

"Phải chăng bậc thầy ấy

Có được tha tâm thông

Biết tâm niệm mọi người?"

- Thưa không, Gotama.

Ngay tâm người tớ gái

Ông ta còn không biết

Làm sao có thể biết

Tâm tất cả mọi người?

"Như người mù tuyên bố

Không có các hình sắc

Vì không thấy biết chúng

Lời ấy là thế nào?

Phải chăng nó tốt đẹp

Vì thế tục chấp nhận

Có suy tư phân tích

Và liên hệ mục đích?"

- Thưa không, Gotama

Những lời tuyên bố ấy

Không thế tục chấp nhận

Không suy tư cân nhắc.

"Bị 5 triền, 5 dục

Ngăn che và trói buộc

Nên bà la môn ấy

Không chứng thượng nhân pháp.

Có ngọn lửa đốt lên

Không bằng các nhiên liệu

Có màu sắc ánh sáng

Lửa hỷ lạc trong thiền.

Và này hỡi thanh niên

5 điều có phước thiện

Chỗ nào thực hành nhiều

Tại gia hay xuất gia?"

- Xuất gia thưa tôn giả

"Đấy là những tư cụ

Để tu không sân hận

Cộng trú với Phạm thiên

Biến mãn mười phương giới

Với từ, bi, hỷ, xả

Không có hạn lượng nào

Còn gọi bốn phạm trú."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 100

Sangàrava

I. TOÁT YẾU

Sangàrava Sutta - To Sangàrava.

A brahmin student questions the Buddha about the basis on which he teaches the fundamentals of the holy life.

Giảng cho Sangàrava.

Một thanh niên bà la môn hỏi Phật về nền tảng dựa trên đó Ngài giảng dạy những điều căn bản của đời sống phạm hạnh.

II. TÓM TẮT

Nữ bà la môn Dhananjani [1] sùng tín Phật, Pháp, Tăng, mỗi khi trượt chân bà lại thốt lên lời tán thán ba ngôi báu. Sangàrava lúc đầu chỉ trích bà, nhưng sau theo lời khuyên, đến yết kiến Phật và hỏi: có một số sa môn, bà la môn cũng tự nhận (giảng dạy) căn bản phạm hạnh sau khi đã chứng đạt ngay hiện tại [2] cứu cánh bỉ ngạn nhờ thượng trí, vậy Ngài là thế nào giữa các vị ấy.

Phật dạy có ba hạng, hạng 1 do truyền thống, họ tự nhận đã đắc đạo; như các bà la môn thông hiểu ba tập Vệ đà. Hạng 2 do tin tưởng, như các nhà lý luận và tra tầm [3]. Hạng 3 tự mình hoàn toàn chứng tri [4] những gì trước đấy chưa từng nghe; như Phật. Và Phật thuật lại quá trình tu chứng của Ngài từ khi còn tại gia cho đến khi tìm ra con đường trung đạo tránh hai cực đoan hưởng lạc và ép xác, ngồi thiền đạt giác ngộ.

III. CHÚ GIẢI

1. Dhànanjànì là một bậc Dự lưu. Theo kinh sớ, Sangàrava là em trai của chồng bà.

2. Ditthadhammàbhinnàvosànapàramippatt àdibrahmacariyam patijànanti. Kinh sớ chú: Họ tự cho là những người sáng tạo, khai sáng, phát sinh một đời phạm hạnh, nói: Sau khi biết và thấy ngay trong đời hiện tại, sau khi đạt dến tột đỉnh, chúng tôi đã đạt niết bàn gọi là hoàn toàn vì vượt trên tất cả.

3. Điều khó hiểu là những người lý luận tra tầm (takkì, vìmamsì) ở đây được nói là dựa trên căn bản của đức tin thuần túy - saddhamattakena. Chỗ khác thì tin và lý luận tương phản như hai nền tảng khác nhau của sự xác tín (Trung 95), và chỉ đức tin mà thôi thì rất gần với sự căn cứ vào truyền khẩu, hơn là với lý luận và tra tầm.

4. Sàmam yea dhammam abhinnàya. Câu này nhấn mạnh sự thân chứng kể như nền tảng để công bố đời sống phạm hạnh.

IV. PHÁP SỐ

3 hạng người tự công bố đã chứng thượng trí: hạng nghe nhiều, hạng tín tưởng và hạng thân chứng.

V. KỆ TỤNG

Một nữ bà la môn

Tên Dhananjani

Do lòng tin tha thiết

Trượt chân niệm Phật đà

Một nam bà la môn

Tên Sangàrava

Chê thật là hạ liệt

Tán thán kẻ trọc đầu.

- Này hiền giả thân mến

Chớ thốt lời phạm thượng

Ngươi sẽ không nói vậy

Nếu biết được Thế tôn.

Nghe lời khuyên can này

Bà la môn quyết định

Đi đến yết kiến Phật

Và bạch hỏi Thế tôn:

- Tôn giả Gotama

Sa môn bà la môn

Nhiều người giảng phạm hạnh

Đều xưng được thượng trí

Giữa những người như vậy

- đều chứng đắc như nhau

Con hỏi Gotama

Có quan hệ thế nào?

Phật dạy có ba hạng

"Hạng 1 do truyền thống

Tự nhận đã đắc đạo

Khi thông ba Vệ đà

Hạng 2 do tin tưởng

Nhờ lý luận tra tầm

Hạng 3 tự chứng tri

Những gì chưa từng biết

Một trong những vị này

Chính là Phật Thế tôn

Ngài tự mình chứng tri

Pháp chưa từng nghe nói."

-ooOoo-

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 101

Kinh Devadaha

I. TOÁT YẾU

Devadaha Sutta.

At Devadaha. The Buddha examines the Jain thesis that liberation is to be attained by self-mortification, proposing a different account of how striving becomes fruitful.

[Phật xem xét chủ trương của Kỳ na giáo cho cần khổ hạnh mới đạt giải thoát, và đề nghị một giải thích khác, làm thế nào để tinh cần đem lại kết quả.]

II. TÓM TẮT

Tại thị trấn Devadaha của bộ tộc Sakya (Thích Ca), Phật thuật lại cho chúng tỳ kheo việc Ngài luận bại chủ trương của lõa thể ngoại đạo Nigantha (Ni Kiền Tử).

1. Ngoại đạo Ni Kiền Tử chủ trương: Tất cả cảm thọ vui, khổ, trung tính đều do nghiệp quá khứ [1]. Nếu diệt nghiệp quá khứ (bằng khổ hạnh), không tạo nghiệp mới, thì tất cả nghiệp chấm dứt. Do nghiệp đoạn, khổ đoạn; do khổ đoạn, cảm thọ đoạn; do cảm thọ đoạn, tất cả khổ sẽ chấm dứt [2]. Phật dạy, vì họ không biết gì về đời quá khứ, không biết thiện pháp hiện tại; nên thật không hợp lý chủ trương như vậy [3]. Ví như người bị trúng tên độc cảm thọ đau đớn lúc y sĩ mổ xẻ, lúc vật dụng dò tìm chạm da thịt, lúc mũi tên được rút ra, lúc đốt miệng vết thương, lúc đắp thuốc. Khi vết thương lành, người ấy phải nhớ đã trải qua những đau khổ như thế nào, và cũng biết hiện tại mình đã khỏi bệnh, an vui.

2. Các Ni Kiền Tử nói: Nigantha tự xưng có tri kiến toàn diện luôn tồn tại khi đi đứng ngủ thức. Ông đã dạy tu khổ hạnh để làm mòn ác nghiệp cũ, hộ trì thân khẩu ý để tương lai không tạo ác nghiệp. Chúng tôi hoan hỉ tin nhận lý thuyết ấy. Phật dạy những gì ta tin tưởng, hoan hỉ chấp thuận, nghe đồn, xét thấy có lý, chấp nhận một quan điểm - cả năm điều ấy có thể đúng hoặc sai.

3. Vì chỉ có đau đớn khốc liệt khi có tha thiết tinh cần, không tinh cần thì không khổ, nên nói cảm thọ do nhân các nghiệp quá khứ là sai. Lại nữa, khổ hạnh không thể làm cho nghiệp hiện báo [4] thành sanh báo và ngược lại; nghiệp có khổ báo thành nghiệp lạc báo và ngược lại; nghiệp đã chín [5] thành chưa chín và ngược lại; nghiệp nhiều báo thành ít báo và ngược lại; nghiệp có báo thành nghiệp không báo [6] và ngược lại.

4. Phật kết luận: Ni Kiền Tử đáng bị chỉ trích vì mười điểm: Nếu cảm giác khổ vui do nghiệp quá khứ, thì quá khứ họ đã làm nhiều phi pháp; nếu do tạo hóa [7] họ đã có một tạo hóa hung ác; nếu do kết hợp các điều kiện [8], họ đã kết hợp ác duyên; nếu do sinh loại [9], họ bị ác sinh loại; nếu do tinh tấn hiện tại, họ đang thực hành tà tinh tấn. Nếu khổ vui không do năm nguyên nhân ấy, Ni Kiền Tử vẫn đáng bị chỉ trích, vì vô cớ tự chuốc khổ.

5. Tinh tấn có kết quả là khi vị tỷ kheo không để tự ngã bị khổ thắng lướt, không từ bỏ lạc thọ hợp pháp nhưng cũng không bị nó chi phối [10]. Vị ấy biết hai cách diệt trừ tham dục (nhân khổ) là tinh cần và xả [11]. Vì khi tinh cần thì không có tham dục; cũng thế khi tu xả. Ví như có người sầu khổ vì nhiệt tình ái mộ một cô gái, khi biết vậy bèn xả tâm luyến ái và từ đấy đâm ra dửng dưng dù thấy nàng nói cười với bất cứ ai. Sự tinh cần chống lại ái dục trong trường hợp ấy được gọi là tinh tấn hợp pháp. Lại nữa nếu tự thấy lạc thọ khiến bất thiện tăng, thiện giảm, ngược lại tinh cần khiến thiện tăng [12], bất thiện giảm; vị tỷ kheo sẽ khổ hạnh vừa đủ để nhiếp phục tự ngã, như thợ làm tên nung tên cho dễ uốn. Sự tinh cần có kết quả là như cuộc đời Phật từ khi xuất gia đến lúc thành đạo.

6. Và Phật kết luận có mười trường hợp Như Lai đáng được tán thán, ngược lại với mười điều đáng chỉ trích của Ni Kiền Tử: Nếu lạc khổ do nghiệp quá khứ, Như Lai đã làm thiện hành nên nay được tối thắng lạc; nếu do tạo hóa, Như Lai đã được sinh bởi một tạo hóa toàn thiện; nếu do duyên hợp, Như Lai đã kết thiện duyên; nếu do sinh loại, Như Lai đã được thiện sinh; do tinh cần hiện tại, Như Lai đã thiện tinh tấn. Với năm giả thuyết ngược lại Như Lai cũng đáng được tán thán.

III. CHÚ GIẢI

1. Trong Tương ưng 36, 21 và Tăng chi 3, 61, Phật cũng bác bỏ thuyết này của Kỳ na giáo, cho cảm thọ vui khổ là do nghiệp quá khứ. Giáo lý Phật thừa nhận có thứ cảm thọ không do nghiệp quá khứ mà do nghiệp hiện tại, và còn có thứ cảm thọ không có tác dụng nghiệp và cũng không phải là hậu quả nghiệp.

2. Ðây là chủ trương của Ni Kiền Tử, như trong kinh số 14.

3. Thuyết Ni Kiền Tử không hợp lý vì chính sự tha thiết tinh cần (khổ hạnh) khiến cảm thọ đau đớn không phải là nghiệp quá khứ.

4. Nghiệp hiện báo là hành động có hậu quả ngay trong đời này.

5. Nghiệp hiện báo đã chín cũng đồng nghĩa với nghiệp hiện báo, nghĩa là phải chịu hậu quả ngay bây giờ. Nghiệp chưa chín đồng nghĩa với nghiệp sanh báo nghĩa là phải chịu hậu quả ở đời kế tiếp. Nhưng có sự phân biệt như sau. Tất cả nghiệp nào có quả báo trong cùng một đời đều được gọi là hiện báo, song chỉ có những nghiệp đem lại quả báo trong vòng bảy ngày mới được gọi là nghiệp đã chín.

6. Nghĩa là một nghiệp không có cơ hội đem lại quả báo.

7. Issaranimmànehetu. Thuyết này của hữu thần giáo bị Phật bác bỏ trong kinh Tăng chi 3, 61.

8. Sangatibhàvahetu, ám chỉ học thuyết của Makkhali Gosàla (Mạt già lê), bị bác bỏ dông dài trong kinh Trung 60 và Tăng chi 3.

9. Abhijàtihetu, một tín điều của Makkhali Gosàla.

10. Thuyết Trung đạo của Phật, tránh cực đoan khổ hạnh ép xác và cực đoan say đắm nhục lạc.

11. Kinh sớ giải thích nguồn gốc khổ là tham ái, được gọi thế vì đấy là gốc rễ của khổ bao hàm trong năm uẩn. Ðoạn kinh này đưa ra hai cách diệt tham ái là nỗ lực tinh cần và buông xả. Sự tàn tạ của nguồn gốc, theo Kinh sớ, là đạo lộ siêu thế. Ðoạn kinh này muốn ám chỉ cách tu tập của một vị lợi tuệ đi trên con đường vui (sukhapatipadà khippàbhinnà).

12. Ðoạn này hiển thị lý do Phật cho phép chư tỷ kheo tu khổ hạnh đầu đà một cách vừa phải để vượt qua những nhiễm ô. Những khổ hạnh trong đạo Phật không phải để làm tiêu mòn nghiệp cũ và thanh luyện tâm hồn như Kỳ na giáo và ngoại đạo chủ trương. Theo Kinh sớ, đoạn này hiển thị sự tu hành của một tỷ kheo có tuệ chậm lụt đi trên con đường gian nan (dukkhapatipadà dandhàbhinnà).

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

1. Ở Deva-daha

Thị trấn tộc Sakya

Phật thuật lại tỏ tường

Luận bại Ni Kiền Tử.

Pháp này nói khổ vui

Ðều do nghiệp quá khứ

Nghiệp đoạn cảm thọ đoạn

Thọ đoạn, dứt khổ đau.

Nhưng vì không thể biết

Ðời quá khứ ra sao

Ðã tạo nghiệp thế nào

Ðến mức nào hết khổ?

Làm sao trong hiện tại

Thành tựu các hạnh lành?

Không biết những việc ấy

Thuyết họ thành vô căn.

Như người trúng tên độc

Chịu đau lúc mổ xẻ

Lúc dò tìm tên độc,

Lúc rút mũi tên ra,

Lúc đốt nung, đắp thuốc

Khỏi bệnh phải nhớ ra

Khổ đau càng cay đắng

An vui thêm mặn mà.

2. "Ni Kiền Tử toàn trí

Có tri kiến toàn diện

Lúc đi đứng ngủ thức.

Dạy khổ hạnh nghiệp tiêu.

Hộ trì thân khẩu ý,

Tương lai khỏi tạo ác

Nghiệp đoạn sẽ dứt khổ

Tôi hoan hỉ lời này."

Phật dạy điều ta tin

Hoặc hoan hỉ chấp thuận,

Hoặc nghe nhiều người nói,

Hoặc xét thấy hay ho,

Hoặc chấp nhận quan điểm

Ðều có thể lầm to.

Và Ngài bác chủ trương

Thọ do nghiệp quá khứ.

Vì ngay trong hiện tại

Họ chịu khổ khốc liệt

Khi tha thiết tinh cần,

Không tinh cần không khổ.

3. Khổ hạnh không thể chuyển

Hiện báo thành sanh báo

Khổ báo thành lạc báo

Ðã chín thành chưa chín

Nhiều báo thành ít báo

Có báo thành không báo

Vì không chuyển được gì

Nên Khổ hạnh vô ích.

4. Nếu cảm giác khổ vui

Là do nghiệp quá khứ

Thì chắc Ni Kiền Tử

Ðã làm nhiều phi pháp

Nếu do một tạo hóa

Tạo hóa ấy hung ác

Nếu do nhiều duyên hợp,

Ni Kiền bị ác duyên

Nếu do sáu sinh loại

Họ thuộc ác sinh loài

Nếu do nghiệp hiện tại,

Ni Kiền nỗ lực sai.

Nếu cảm giác khổ vui

Không do năm nhân ấy,

Ni Kiền vẫn đáng chê

(Vì vô cớ chuốc khổ).

5. Tinh tấn có kết quả

Là khi vị tỷ kheo

Nhận lạc thọ hợp pháp

Bất động trước khổ vui.

Vị ấy biết rõ rằng

Tham dục không khởi lên

Khi tinh cần nỗ lực

Hoặc khi tu tập xả

Ví như có một người

Say đắm một nữ nhân

Do nhiệt tình ái mộ

Nên mất ngủ mất ăn

Ðau khổ vì hờn ghen

Trái tim chàng tan nát

Những khi thấy cô nàng

Vui đùa cùng kẻ khác.

Sau thấy sự tai hại

Bèn dứt bỏ mê say

Tâm an nhiên tự tại

Mặc ai cười với ai.

Phật đưa ví dụ này

Hiển thị có hai cách

Ðể trừ diệt tham ái

Nguyên nhân của khổ sầu:

Một là tu tập xả

Không ái luyến tham cầu

Hai tinh cần nỗ lực

Khi vướng lụy mắc câu.

Tinh cần tiêu ái dục

(Nguyên nhân của khổ đau)

Là tinh cần hợp lý

Trong pháp Phật nhiệm mầu.

Lại nữa nếu trú lạc

Mà ác tăng, thiện giảm

Nên khổ hạnh hợp lý

Ðể nhiếp phục bản thân.

6. Như Lai đáng tán thán

Vì cả mười trường hợp:

Dù khổ vui hữu tình

Do nghiệp cũ hay không.

Như Lai đã thiện hành

Nay gặt Niết bàn lạc

Không như ai làm ác

Khiến nay phải hành xác;

Dù khổ vui hữu tình

Do, không do tạo hóa:

Như Lai đã được tạo

Bởi tạo hóa thiện hiền.

Dù khổ vui hữu tình

Do, không do các duyên:

Như Lai thiện kết hợp

Tối thắng lạc hiện tiền.

Dù khổ vui hữu tình

Do, không do sinh loại:

Như Lai sinh loại lành

Nay được Niết bàn lạc.

Dù khổ vui hữu tình

Do, không do tinh tấn:

Như Lai khéo tinh tấn

Nay được Niết bàn vui.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 102

Kinh Devadaha

I. TOÁT YẾU

Devadaha Sutta.

A survey of various speculative views about the future and the past and of misconceptions about Nibbàna.

[Xét qua các kiến chấp siêu hình về vị lai quá khứ và những quan niệm sai lạc về Niết bàn.]

II. TÓM TẮT

Tại vườn Cấp cô độc [1], Phật dạy chúng tỷ kheo các chủ thuyết ngoại đạo luận bàn về tương lai tự ngã sau khi chết:

1. không bệnh [2], có tưởng;

2. không bệnh, không tưởng;

3. không bệnh, phi tưởng phi phi tưởng;

4. đoạn diệt;

5. Hiện tại Niết bàn.

Tóm lại, ba chủ trương đầu thuộc thường kiến (cho rằng sau khi chết, tự ngã tồn tại không bệnh), chủ trương 4 là đoạn kiến (cho hữu tình chết là hết); chủ trương cuối chấp hiện tại Niết bàn. Những chủ thuyết ấy xoay vần từ 5 còn lại 3 (gồm 3 loại thường kiến kể như một, một đoạn kiến và một hiện tại niết bàn), hoặc từ 3 thành 5.

A. Thường kiến loại một là Hữu tưởng (sau khi chết tự ngã không bệnh, có tưởng), chia ra nhiều thuyết: 1. (tự ngã) có sắc; 2. không sắc; 3. vừa có vừa không sắc; 4. không có không không sắc; 5. tưởng đồng nhất; 6. tưởng dị biệt; 7. tưởng hữu hạn; 8. tưởng vô lượng [3]. Vượt trên các tưởng này, còn có một số ít cho rằng tự ngã là biến xứ Thức vô lượng và bất động [4], hoặc cho tự ngã là tưởng Vô sở hữu xứ. Họ cho cái tưởng không có gì siêu việt các tưởng về sắc, vô sắc, hữu hạn hay vô lượng [5]. Như Lai biết rõ đấy toàn là hữu vi (có điều kiện), và cái gì có điều kiện đều thô. Nhưng có niết bàn là sự chấm dứt các hành, và vì biết cái này là sự thoát ly, Như Lai đã ra khỏi các tưởng ấy [6].

B. Thường kiến loại hai là Vô tưởng [sau khi chết, tự ngã không có tưởng, không bệnh] chia ra: 1. tự ngã có sắc; 2. không sắc; 3. vừa có vừa không sắc; 4. không có không không sắc [7]. Những vị này bài bác chủ trương hữu tưởng, cho tưởng là bệnh hoạn, cục bướu, mũi tên, chỉ có vô tưởng là an tịnh, cao cả. Ðối với chủ trương vô tưởng này, Như Lai biết rõ: Ngoài năm uẩn ra, không thể nói sự đến đi sinh diệt tăng trưởng thuần thục của thức [8]. Ðấy vẫn còn là hữu vi, thô. Thấy được cái này, tức sự thoát ly khỏi hữu vi, Như Lai đã vượt qua vô tưởng.

C. Thường kiến loại ba là Phi tưởng phi phi tưởng, cũng có 4 trường hợp như trên là (tự ngã sau khi chết không bệnh, không có cũng không không tưởng) có sắc, không sắc, cũng có cũng không, không có không không sắc [9]. Những sa môn bà la môn này bài bác các chủ trương hữu tưởng, và cũng bài bác chủ trương vô tưởng. Họ nói hữu tưởng là bệnh, cục bướu..., còn vô tưởng thì kỳ cục [10]; chỉ có cái này là thù diệu, đó là phi tưởng phi phi tưởng. Như Lai biết không thể có sự chứng nhập xứ này nếu còn tạo tác của thấy, nghe, cảm, biết (kiến văn giác tri), vì đấy là một tai họa cho việc chứng nhập xứ này [11]. Họ lại công bố xứ này không phải được chứng nhập bằng các (tâm) hành, mà bằng tàn dư của các hành[12]. Ðây vẫn còn hữu vi thô. Như Lai biết rõ có sự chấm dứt các hành gọi là Niết bàn. Sau khi biết rõ Có cái này (niết bàn), thấy rõ sự thoát ly khỏi cái kia (các hành), Như Lai đã vượt khỏi hành.

D. Ðoạn kiến: Những sa môn bà la môn chấp sau khi chết tự ngã đoạn diệt, hủy diệt [13] thì bài bác cả ba chủ trương trên, là hữu tưởng, vô tưởng và phi tưởng phi phi tưởng. Như Lai biết những kẻ này sợ hãi chán ghét tự ngã nhưng vẫn chạy vòng quanh ngã [14], như một con chó bị cột vào dây cọc không ngừng chạy quanh cây cọc.

Tóm lại, những kiến chấp về tương lai đều lập một trong năm xứ đã kể [15] (không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu, phi tưởng phi phi tưởng, và hiện tại niết bàn.)

E. Về quá khứ, các sa môn bà la môn có 16 kiến chấp như sau về tự ngã và thế giới:

1. Thường[16];

2. Vô thường [17];

3. Thường và vô thường [18];

4. Không thường, không vô thường [19];

5. Hữu biên [20];

6. Vô biên;

7. Hữu biên và vô biên;

8. Không hữu biên không vô biên;

9. Tưởng đồng nhất [21];

10. Tưởng sai biệt;

11-12. Tưởng hữu hạn, vô lượng;

13-14. Toàn vui, toàn khổ;

15. Vừa khổ vừa vui;

16. Không khổ không vui.

Những vị giữ một trong 16 kiến chấp này đều cho chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai. Nhưng về điều này, họ không có một tri kiến thuần tịnh thân chứng nào ngoài niềm tin, sự hoan hỉ chấp nhận, nghe đồn, suy xét lý do, chấp nhận quan điểm [22]. Cho nên dù họ có quan điểm gì cũng chỉ là chấp thủ tà kiến [23]. Sau khi biết rõ Có cái này (niết bàn), thấy rõ sự thoát ly khỏi cái kia (các hành), Như Lai đã vượt khỏi tất cả hành [24].

F. Hiện tại Niết bàn [25]

Một số sa môn bà la môn [26] từ bỏ quan điểm về quá khứ vị lai, ít dục, an trú viễn ly hỷ [27]; nhưng khi viễn ly hỷ này diệt thì ưu tư sanh khởi, ưu tư diệt thì viễn ly hỷ sinh [28] như hết bóng mát lại bị nóng, hết nóng lại mát. Như Lai biết cái này là hữu vi pháp và đã vượt khỏi hữu vi. Lại có người còn vượt qua vượt khỏi hữu vi. Lại có người còn vượt qua viễn ly hỉ, đạt được phi vật chất lạc [29] cho là thù điệu. Nhưng khi phi vật chất lạc bị diệt thì viễn ly hỷ sanh, và ngược lại. Cái này cũng thuộc hữu vi, Như Lai đã vượt qua. Có người vượt qua cả 2 thứ hỷ lạc trên, an trú bất khổ bất lạc cho là thù điệu. Nhưng khi bất khổ bất lạc này diệt, phi vật chất lạc [30] lại sinh, như bóng mát nhường chỗ cho sức nóng. Như Lai biết đây cũng thuộc hữu vi và đã vượt qua. Lại có người vượt qua tất cả chủ thuyết và tu tập trên, không dục kiết sử, vượt qua hỷ, lạc, vô khổ vô lạc, quán "ta là tịch tịnh không chấp thủ." [31] Nhưng Như Lai biết vị này vẫn còn chấp thủ [32].

Vô thượng tịch tịnh được Như Lai chính đẳng giác, đạt giải thoát không chấp thủ [33] do biết tập khởi, đoạn diệt, vị ngọt và nguy hiểm của 6 xúc xứ [34].

[đại ý đoạn này Phật dạy người nào chứng đến tứ thiền nhưng còn có ý nghĩ Ta là tịch tịnh thì vẫn còn chấp trước mặc dù đã đi đúng đường đến Niết bàn. Vô thượng Niết bàn được Như Lai thân chứng là khi thấy rõ cả 2 khía cạnh sinh và diệt, vị ngọt cùng nguy hiểm của 6 căn 6 trần, nhờ thấy rõ nên giải thoát chấp thủ vào 6 xúc xứ, nghĩa là thoát khỏi 5 uẩn hay cái Ta.]

III. CHÚ GIẢI

1. Kinh này tương tự kinh Phạm Võng trong Trường Bộ kinh.

2. Aroga, vô bệnh, theo Kinh sớ, là chấp thường (chủ trương sau khi chết tự ngã vẫn tồn tại).

3. Kinh Phạm Võng đề cập mười sáu kiến chấp kiểu này, gồm tám quan điểm nói ở đây và thêm: (tự ngã) hữu biên, vô biên, vừa hữu vừa vô, phi hữu phi vô biên; toàn vui, toàn khổ, vừa vui vừa khổ, không vui không khổ. Trong kinh này tám quan điểm sau được kể như những suy tưởng về quá khứ.

4. Rõ ràng những kiến chấp ngã vô sắc, có tưởng đồng nhất hoặc tưởng dị biệt, căn cứ vào sự chứng đắc Không vô biên xứ. Biến xứ Thức theo kinh sớ, là Thức vô biên xứ. Những người chứng Thức vô biên xứ tuyên bố xứ này là tự ngã.

5. Tưởng trong thiền vô sắc thứ ba - Vô sở hữu xứ - là vi tế nhất trong các tưởng thế gian. Mặc dù trong thiền vô sắc thứ tư (Phi tưởng phi phi tưởng) vẫn còn có một loại tưởng, song nó quá vi tế nên không còn thích hợp để gọi là tưởng.

6. Theo Kinh sớ, đoạn này có nghĩa như sau: Tất cả loại tưởng này cùng các kiến chấp liên hệ đều hữu vi, và vì hữu vi nên thô. Nhưng có Niết bàn, được gọi là sự chấm dứt tất cả hành, nghĩa là cái hữu vi. Sau khi biết rõ Có cái này, nghĩa là Niết bàn, thấy sự thoát ly khỏi hữu vi, đức Như Lai đã vượt qua hữu vi pháp.

7. Bốn trường hợp sau (tưởng đồng nhất, dị biệt, hữu hạn, vô lượng) không được kể ở đây vì phái này chấp ngã là vô tưởng. Kinh Phạm võng đề cập tám kiến chấp, ngoài bốn cái này thêm hữu biên, vô biên, vừa hữu biên vừa vô biên, phi hữu phi vô biên.

8. Theo Kinh sớ, lời này nhắm đến các cõi chúng sinh đủ cả năm uẩn. Trong các cõi vô sắc, thức sinh khởi không cần có sắc uẩn, và trong cõi vô tưởng thì có sắc không thức. Nhưng thức không bao giờ sinh mà vắng bóng ba tâm uẩn kia (thọ, tưởng, hành).

9. Kinh Phạm võng kể thêm bốn chấp hữu biên vô biên, vv.

10. Sammoha, ở đây có nghĩa khác với ngu si vọng tưởng như thường hiểu. (Bản Anh dịch là stupefaction).

11. Kiến văn giác tri chỉ cho các nhận thức qua cửa ngõ giác quan. Muốn đắc thiền vô sắc thứ tư, phải vượt qua mọi tâm hành thường ngày liên hệ các giác quan, vì nó là chướng ngại cho sự chứng đắc xứ này (Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Do vậy tưởng này gọi là phi tưởng (neva sannì).

12. Sasankhàràvasesasamàpatti. Trong thiền vô sắc thứ tư, một tâm hành vô cùng vi tế vẫn còn sót lại, nên gọi là Phi phi tưởng.

13. Kinh Phạm võng giải thích bảy loại chấp đoạn, ở đây gồm chung thành một loại.

14. Sự sợ hãi chán ghét tự ngã là một khía cạnh của phi hữu ái (vibhavahanhà), khát khao phi hữu, gọi là đoạn kiến. Nó cũng còn mang sự chấp ngã, cho rằng lúc chết là ngã hủy diệt, và do đó mặc dù nó chối bỏ ngã, thuyết này vẫn trói buộc người ta vào vòng sinh tử.

15. Kỳ thực Phật mới kể ra có bốn loại tư duy về tương lai.

16. Quan điểm này bao gồm cả bốn hạng chấp thường tư duy về quá khứ, đề cập trong kinh Phạm võng.

17. Vì đây là quan điểm về quá khứ, ta có thể xem nó ngụ ý ngã và thế giới tự nhiên phát sinh không do từ đâu cả. Như vậy nó cũng gồm cả hai thuyết ngẫu sinh trong kinh Phạm võng.

18. Thuyết này bao gồm cả bốn loại chấp một phần bất diệt (thường).

19. Thuyết này có thể gồm luôn bốn loại chủ thuyết trườn uốn như con lươn nói trong kinh Phạm võng.

20. Các kiến chấp từ 5-8 tương đương với bốn thuyết về không gian (extensionists) trong kinh Phạm võng.

21. Tám chấp này, từ số 9 đến 16, trong kinh Phạm võng được kể vào các chủ thuyết về tương lai tự ngã bất diệt, hữu tưởng.

22. Nghĩa là, chủ tuyết họ không căn cứ trên trí tuệ mà chỉ dựa vào niềm tin hoặc suy luận. Kinh số 95 nói năm nền tảng niềm tin này có thể đưa đến hậu quả đúng hoặc sai.

23. Kinh sớ: đấy không phải là chân thật trí mà chỉ là tà giải (hiểu sai), nên gọi là ôm giữ quan điểm (chấp thủ kiến).

24. Theo Kinh sớ, ngang đây đã bao gồm tất cả sáu mươi hai kiến chấp đề cập trong kinh Phạm võng; nhưng kinh này có phạm vi rộng lớn hơn vì nó còn bao gồm một trình bày về ngã kiến, nhất là ở đoạn cuối nói về một vị chứng tứ thiền.

25. Tiêu đề này do đại đức Nanamoli đưa vào cho đủ số năm, vì ở trên Phật chỉ mới trình bày có bốn loại quan điểm.

26. Kinh sớ: Ðoạn này cốt hiển thị rằng tất cả 62 kiến chấp siêu hình đều nặng ngã kiến (chấp có chủ thể hay cái ta dưới dạng này hay khác).

27. Pavivekam pìtim, ám chỉ hai thiền đầu có hỉ.

28. Theo Kinh sớ, ưu tư khởi lên là do mất thiền. Ưu tư không khởi lên ngay sau khi thiền (tâm) chấm dứt, mà khởi lên khi (hành giả) suy nghĩ về sự biến mất của (tâm) thiền.

29. Niràmisam sukham. Ðây là lạc ở thiền thứ ba.

30. Thiền thứ tư.

31. Santo ham asmi, nibbuto ham asmi, anupàdàno ham asmi. Từ ngữ aham asmi, tôi là, chứng tỏ vị ấy vẫn còn chấp trước, như Phật sẽ hiển thị.

[Chú riêng của người dịch: Xem thêm kinh Kim Cương, chỗ Phật hỏi Tu Bồ Ðề rằng A la hán có ý thức mình là la hán không. Tu Bồ Ðề bạch: Dạ không, vì nếu có tức còn chấp ngã, chưa thực sự thanh tịnh. Sở dĩ Phật nói con - Tu Bồ Ðề - là kẻ ưa tịch tịnh cũng vì trong tâm con không còn một tạo tác nào cả, vô sở hành.]

32. Theo Kinh sớ, đây là ngã kiến, vì còn thấy ta là tịch tịnh.

33. Ở chỗ khác, giải thoát không chấp thủ (anupàdà vimokkha) có nghĩa là Niết bàn, nhưng ở đây có nghĩa là sự chứng quả A la hán.

34. Kinh Phạm võng cũng hiển thị sự liễu tri các khía cạnh tập khởi, đoạn diệt, vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của sáu xúc sứ là con đường vượt khỏi mọi kiến chấp.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật dạy chúng tỷ kheo

Ngoại đạo bàn tự ngã

Có ba loại chấp thường

Có tưởng hoặc không tưởng;

Một chấp ngã đoạn diệt;

Một hiện tại Niết bàn.

Ðấy là các chủ thuyết

Xoay vần giữa năm ba.

Chấp Hữu tưởng gồm tám:

Ngã có sắc, không sắc

Vừa có vừa không sắc

Không có cũng không không;

Ngã có tưởng đồng nhất

Hoặc có tưởng dị biệt

Hoặc có tưởng hữu hạn

Hoặc có tưởng vô cùng.

Trên nữa có các chấp

Ngã là Thức vô biên,

Hoặc Vô sở hữu xứ

Vẫn còn hữu vi thô.

Chấp Vô tưởng gồm bốn:

Ngã có sắc, không sắc;

Hoặc vừa có vừa không;

Không có cũng không không.

Vô tưởng bác Hữu tưởng,

Cho tưởng là bệnh hoạn,

Là cục bướu, mũi tên,

Chỉ Vô tưởng thù diệu.

Nhưng bàn Thức đến đi

Diệt, sinh hay tăng trưởng

Ngoài sắc thọ tưởng hành

Là việc làm phi lý.

Chấp Phi tưởng phi phi

Gồm bốn: có, không sắc,

Cũng có cũng không sắc,

Không có cũng không không.

Bác hữu tưởng cục bướu

Vô tưởng thì kỳ cục

Chỉ cái này thù diệu:

Phi tưởng phi phi tưởng.

Như Lai như thật biết

Nếu nhờ hành sót lại

Mà chứng Phi phi tưởng

Vẫn còn hữu vi thô.

Phái chủ trương đoạn diệt

Vẫn xoay quanh tự ngã:

Sau chết, ta thế này

Như chó chạy quanh cột.

Về tự ngã, thế giới

Có mười sáu kiến chấp

Liên hệ đến quá khứ:

Là thường, là Vô thường

Vừa thường vừa vô thường

Không thường, không vô thường;

Là Hữu biên, Vô biên;

Vừa Hữu biên, vô biên

Không hữu không vô biên

Tưởng đồng nhất; sai biệt

Tưởng hữu hạn, vô lượng;

Tưởng toàn vui, toàn khổ

Vừa khổ lại vừa vui;

Không khổ cũng không vui.

Ai cũng cho mình đúng

Các quan điểm khác sai.

Lại có những sa môn

Từ bỏ các quan điểm

An trú viễn ly hỷ;

Cho đấy là thù diệu

Nhưng khi hỷ này diệt

Thì ưu tư sanh khởi.

Kẻ đắc thiền thứ ba,

Xem lạc này thù diệu

Nhưng khi lạc ấy diệt

Viễn ly hỷ lại sinh

(tụt xuống lại nhị thiền)

Như hết mát lại nóng.

Có người vượt tam thiền

Hết bị dục trói buộc

Chứng tứ thiền và nghĩ

"Ta tịch tịnh vô chấp."

Nhưng họ còn vẫn chấp

Dẫu đã đi đúng đường.

Cái Vô thượng tịch tịnh

Ðược Như Lai chính giác

Khi biết rõ năm uẩn:

Khởi, diệt, và vị ngọt,

Cùng nguy hiểm của chúng

Nên vô chấp, xuất ly.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 103

Như thế nào

(Kimtisutta)

I. TOÁT YẾU

Kinti Sutta: What Do You Think About Me?

The Buddha explains how the monks can resolve disagreements about the Dhamma

[Các ông nghĩ gì về ta? Phật dạy các tỷ kheo cách giải quyết những bất đồng về Pháp.]

II. TÓM TẮT

Phật ở Kusinara gọi các tỷ kheo mà hỏi, có phải vì bốn sự cúng dường hay vì thành bại [1] mà Thế Tôn thuyết pháp không. Chúng tỷ kheo thưa không. Ngài chỉ vì từ tâm và lợi tha mà nói pháp. Phật dạy nếu biết thế, thì hãy học tập tất cả pháp mà Như Lai sau khi thân chứng đã truyền dạy - tức là 4 niệm xứ, 4 chính cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi, 8 thánh đạo - và hãy tu học trong tinh thần hòa hợp không tranh cãi. Nhưng trong khi tu học hòa hợp như vậy, có thể có sự bất đồng giữa hai tỷ kheo về Thắng pháp [2] hoặc về Luật. Nên dàn xếp như sau.

A. Về pháp:

Vị tỷ kheo hòa giải nên xét xem sự bất đồng của họ thuộc tính chất nào. Có 4 trường hợp:

1. Giữa 2 phe, có sai khác cả về nghĩa lẫn về văn [3];

2. Hoặc sai khác về nghĩa, đồng nhất về văn;

3. Hoặc đồng nhất về nghĩa, sai khác về văn;

4. Hoặc đồng nhất về nghĩa và văn.

Vị hòa giải nên đến người nào dễ nói trong cả 2 phe để khuyên họ đừng cãi lộn: Với 2 trường hợp đầu, cãi nhau vô ích vì hai bên không đồng nói một chuyện (khác nhau về nghĩa); với 2 trường hợp sau thì chỉ khác nhau về văn là vấn đề nhỏ nhặt [4] không nên cãi nhau vô lối.

B. Về Luật:

Nếu có người phạm giới phạm luật [5] thì không nên khiển trách liền, mà phải suy nghĩ đắn đo như sau, trường hợp nào nên nói, trường hợp nào không nên.

1. Nên sửa sai cho người ấy nếu việc này không hại gì cho ta, cho họ; họ không phẫn uất, lanh lợi, dễ nói, và ta có thể khiến họ bỏ ác theo thiện.

2. Vẫn nên sửa sai nếu xét thấy cuối cùng ta sẽ khiến người ấy bỏ ác theo thiện mặc dù có thể gặp một hay nhiều chướng ngại như sau: a) có hại cho ta; b) có hại cho người; c) có hại cho cả hai; d) người kia phẫn uất; e) chậm lụt; f) khó nói. Nhưng tất cả trở ngại này đều là việc nhỏ nếu cải hóa được một con người.

3. Ngược lại nếu xét thấy cuối cùng không thể nào sửa đổi họ dù phải chịu những thiệt thòi trên, thì nên xả, nhưng không nên khinh miệt.

Trong khi tu học với tinh thần hòa hiệp, nếu có khởi lên một cuộc cãi nhau, một ý kiến ngoan cố, tâm hiềm hận phẫn nộ ưu não, thì người hòa giải nên đi đến người nào dễ nói nhất trong mỗi phe và bảo: Có phải nếu biết được việc này thì vị Sa môn [6] sẽ quở trách? Nếu không bỏ việc này [7] thì có thể chứng niết bàn không? Ðương nhiên họ phải đáp rằng Phật sẽ quở trách, và không thể chứng niết bàn. Khi sự thuyết phục thành công, nếu có ai hỏi có phải nhờ ngài mà họ đã an trú vào điều thiện không, vị tỷ kheo hòa giải chỉ nên nói nhờ được nghe Pháp của Thế Tôn mà họ tự sửa đổi. Trả lời như vậy tỷ kheo hòa giải khỏi phạm lỗi khen mình chê người.

III. CHÚ GIẢI

1. Bhavàbhavahetu, Kinh sớ: Các ngươi có nghĩ rằng Như Lai giảng Pháp để được công đức, được hưởng vui ở một cõi cao siêu nào chăng?

2. Abhidhamma. Theo Sớ, ám chỉ 37 pháp trợ đạo nói ở đoạn trước.

3. Nghĩa attha và văn byanjana là hai khía cạnh của Pháp Phật dạy. Xem thêm Trường 29, cũng bàn đến sự bảo tồn Pháp cho đúng về văn và nghĩa.

4. Ðoạn này muốn nói rằng câu văn hơi khác không nhất thiết trở ngại việc hiểu đúng ý nghĩa. Nhưng ở chỗ khác, ví dụ kinh Tăng Chi 2, Phật có dạy rằng Diệu pháp biến mất là do hai yếu tố: diễn đạt sai trên văn tự, và giải sai ý nghĩa.

5. Nguyên tắc chung trong việc sửa sai là: Nếu vị tỷ kheo có lỗi có thể sửa đổi, thì dù vị ấy có bị tổn thương và bản thân người can gián bị phiền hà, cũng nên can. Nhưng nếu vị ấy không thể nào sửa đổi được, thì người can gián nên có thái độ xả.

6. Vị Sa môn ở đây là đấng Ðạo sư (satthà), chỉ đức Phật. Như ở kinh Trung bộ 105.

7. Việc này có nghĩa là sự cãi nhau.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật ở Câu thi na

Gọi chư tỷ kheo hỏi

Như Lai có giảng dạy

Ðể được phước lợi lành?

Chúng tỷ kheo thưa không,

Ngài chỉ vì từ tâm

Vì lợi ích tha nhân

Mà thuyết tuyên diệu pháp.

Vậy hãy khéo tu học

Băm bảy pháp trợ đạo

Do Như Lai thân chứng

Trong tinh thần vô tranh.

Nên hòa giải tranh chấp

Mỗi khi có bất đồng

Giữa hai nhóm tỳ kheo

Khi bàn về thắng pháp:

Khác nhau nghĩa và văn;

Ðồng nhất văn, khác nghĩa;

Ðồng nhất nghĩa, khác văn;

Ðồng nhất văn và nghĩa.

Với hai trường hợp đầu

(Kẻ nói gà người vịt)

Cãi nhau thật vô ích

Vì vấn đề khác nhau.

Với hai trường hợp sau

- đồng nghĩa, văn hơi khác -

Cũng không nên cãi nhau

Về bất đồng vụn vặt.

Vị Tỷ kheo hòa giải

Nên đến người dễ nói

Ở trong cả hai bên

Ðể trình bày như trên.

Khi phạm giới xảy ra

Xét nên, không nên nói

Nên nói nếu không hại

Cho người hoặc cho ta;

Người kia không phẫn uất,

Thông minh, biết phục thiện

Và chính ta có thể

Ðưa họ thoát đường tà.

Và cũng nên sửa sai

Nếu xét ra sửa được

Dù có những phiền phức:

Hoặc hại bản thân ta

Hoặc hại đến cho người

Hoặc ta, người đều hại;

Hoặc người kia phẫn uất

Chậm hiểu, khó thuyết phục.

Tất cả chướng ngại này

Chỉ là điều nhỏ nhặt

So với việc to lớn

Cải hóa một con người.

Nhưng nếu xét cho cùng

Có nói chỉ phí công

Thì bỏ qua, im lặng

Nhưng cũng chớ phiền lòng.

Giữa chúng tăng bình yên

Bỗng khởi lên tranh cãi

Ngoan cố và hiềm hận

Nên hòa giải đôi bên:

Ðấng Ðạo sư biết được

Ngài sẽ quở trách liền.

Không từ bỏ tranh chấp

Niết bàn khó chứng nên.

Nếu hòa giải thành công,

Nên nói nhờ Phật Pháp

Mà hai phe tranh chấp

Tự bỏ ác theo lành.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 104

Làng Sama

I. TOÁT YẾU

Sàmagàma Sutta.

At Sàmagàma. The Buddha lays down disciplinary procedures for the guidance of the Sangha to ensure its harmonious functioning after his demise.

[Tại làng Sàma, Phật ấn định những điều luật để chỉ đạo cho tăng chúng sống hòa hợp sau khi Ngài niết bàn.]

II. TÓM TẮT

A. Phật thuyết kinh này ở thôn Xá Di (Samagama) của bộ tộc Thích Ca (Sakka). Sau khi giáo chủ Ni Kiền Tử qua đời ở Pàvà [1], đệ tử chia làm hai phe đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, khiến cư sĩ của họ chán ngấy, như đã chán ngấy Pháp và luật vụng thuyết không đưa đến giải thoát, do một người chưa đạt hoàn toàn giải thoát giảng dạy; và bây giờ họ không còn nơi nương tựa [2]. Ðây là những gì sa di Cunda [3] thuật lại với tôn giả A Nan. Tôn giả đến bạch Phật. Phật dạy trong Phật pháp không có sự cãi nhau về 37 pháp trợ đạo, nên khỏi lo. A Nan lại lo có tranh luận về giới luật [4]. Phật dạy tranh luận này là việc nhỏ nhặt không đáng kể, chỉ có tranh chấp về Pháp [5] mới đem lại bất an cho đa số.

Rồi Ngài dạy có 6 nguyên nhân tranh chấp [6] là:

- hiềm hận não hại,

- khinh miệt lấn lướt,

- ganh ghét xan tham,

- gian manh xảo trá,

- ác dục tà kiến,

- cố chấp khó xả.

Do 6 gốc rễ này mà tỷ kheo sống không kính Ðạo sư, Pháp và Tăng, không viên mãn học tập. Vậy hãy có phương pháp dứt các tranh chấp đưa đến bất an cho đa số.

B. Các tranh chấp có 4:

- do tranh luận,

- do chỉ trích,

- do phạm giới,

- do trách nhiệm.

Ðể diệt 4 tránh sự này [7] có 7 nguyên tắc [8]:

1. Hiện tiền tì ni [9]: tất cả tỷ kheo phải có mặt để phán quyết một việc tranh cãi theo chỉ đạo của Pháp [10];

2. Quyết định đa số (đa nhân mích tội): khi tránh sự không thể giải quyết tại chỗ, thì phải đi đến một trú xứ nhiều tỷ kheo hơn, rồi tất cả tập hợp để giải quyết;

3. Ức niệm tỳ ni [11], để cho đương sự tự nhớ lại có phạm tội ba la di hoặc gần ba la di [12] hay không;

4. Bất si tì ni [13]: đương sự bị điên đã làm quấy, tỉnh lại không nhớ;

5. Quyết định tùy theo thú nhận (tự ngôn trị) [14]: là khi một tỷ kheo nhớ 1 giới tội, tỏ lộ với một tỷ kheo lớn tuổi hơn mà sám hối;

6. Quyết định tùy theo giới tội người phạm [15] (Mích tội tướng);

7. Trải cỏ che lấp (Như thảo phú địa) [16]: cả 2 phe lần lượt cử ra một người đứng lên tỏ lộ tội lỗi của những người phe mình để xí xóa cho nhau, trừ những tội trọng và tội liên hệ đến cư sĩ [17].

C. Có sáu pháp khả niệm (lục hòa) đem lại sự hòa hợp [18] cho tăng chúng, đó là:

1) An trú từ thân nghiệp đối với nhau;

2) Từ khẩu nghiệp;

3) Từ ý nghiệp;

4) San sẻ lợi dưỡng;

5) Cùng thành tựu giới luật;

6) Thành tựu tri kiến thánh thiện đưa đến xuất ly.

Thực hành sáu pháp này thì không có một cách nói nào thô hoặc tế mà tỷ kheo không thể chịu nổi [19]. Sáu pháp ấy sẽ mang lại cho tỷ kheo an lạc hạnh phúc lâu dài.

III. CHÚ GIẢI

1. Kinh này mở đầu giống kinh Trường bộ 29, cũng liên quan đến việc duy trì sự hòa hợp của tăng chúng sau khi Phật nhập diệt.

2. Theo Kinh sớ, đền thờ và chỗ tựa ở đây là Nàtaputta, vị giáo chủ đã chết.

3. Sa di Cunda là em trai tôn giả Xá Lợi Phất.

4. Ngay lúc Phật còn ở đời, tranh chấp thuộc loại này cũng đã xảy ra trong chúng tỷ kheo ở Kosambi, được nói trong kinh Trung bộ 48 đoạn 2.

5. Ðây là tranh chấp về Bát thánh đạo hoặc các giác chi khác.

6. Bốn cặp đầu bao gồm các cấu uế làm ô nhiễm tâm nói trong kinh Trung bộ 7.

7. Adhikarana. Horner dịch là legal questions (vấn đề luật pháp) đề cập dông dài trong Luật tạng. Vắn tắt, ngôn tránh (vivàdàdhikarana) khởi lên khi tỷ kheo cãi nhau về Pháp và Luật; phạm tránh (anuvàdàdhikarana) khi buộc tội một tỷ kheo phạm giới luật; mích tránh (àphattàdhikarana) khi một tỷ kheo phạm giới tìm cách chối tội; sự tránh (kiccàdhikarana) liên hệ đến việc thực thi các phận sự của tăng.

8. Adikaranasamatha, chỉ tránh hay diệt tránh. Làm thế nào áp dụng bảy cách diệt tránh để dàn xếp 4 loại tranh chấp, được nói trong Luật tạng.

9. Sammukhàvinaya, Hiền tiền tì ni. Luật giảng là đối diện với, hay với hiện diện của Tăng chúng, Pháp, Luật và những người liên hệ đến việc tranh chấp. Luật này áp dụng cho cả bốn loại tránh sự (chuyện cãi nhau), chỉ khác nhau cách diễn đạt.

10. Dhammanetti samanumajjitabbà, Kinh sớ đưa ví dụ là mười thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, ở đây cốt ám chỉ Pháp và Luật.

11. Sativinaya, ức niệm tì ni. Khi một tỳ kheo vô tội mà bị cử tội thì vị ấy phải xin tăng làm pháp yết ma Ức niệm để vị ấy nhớ đầy đủ và chính xác hành vi mình.

12. Tội ba la di, pàràjika, là tội đáng trục xuất khỏi tăng chúng. Tội gần ba la di là phạm tăng sàn sanghàdisesa, (cần họp chúng để tỏ lộ và hành sám một thời gian); hoặc phạm những bước đầu tiến đến trọng tội.

13. Amùlhavinaya, Bất si tì ni, Một tỷ kheo trong quá khứ bị bệnh điên đã phạm những giới tội, khi bình phục được tăng làm pháp này. Tiêu chuẩn để xác định sự điên cuồng là đương sự không nhớ mình đã làm gì trong lúc bị điên.

14. Thủ tục này là phương pháp lập ra để giải tội cho một tì kheo khi phạm một giới tội có thể sám hối để giải tỏa.

15. Pàphiyyàsikà, Mích tội tướng, pháp này dành cho một tỷ kheo thường gây rối, ngu si nhiều lỗi, hoặc sống liên hệ bất đáng với tục gia cư sĩ.

16. Tinavattràraka, Như thảo phú địa, được áp dụng khi tăng chúng vướng vào một cuộc cãi vã trong đó nhiều tỷ kheo phạm các tiểu giới. Nếu kết tội những vị này thì tranh chấp sẽ kéo dài, nên Kinh dạy phương pháp để giải tỏa, được ví như lấy cỏ phủ lấp trên phân để khử mùi hôi.

17. Những giới tội đáng khiển trách nặng nề thuộc loại Ba la di và Tăng tàn. Giới liên hệ cư sĩ là khi vị tỷ kheo phỉ báng người thế tục.

18. Như kinh 48, đoạn 6.

19. Như kinh 21, ám chỉ ví dụ cái cưa.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Tại thôn Xá Di

Phật thuyết kinh này

Về bảy diệt tránh

Và pháp lục hòa

Tôn giả Thuần Ðà

Thuật với A Nan

Rằng ở Pa-va

Ðệ tử Ni Kiền

Sau khi thầy chết

Ðã chia hai phe

Cãi nhau kịch liệt

Tục gia đệ tử

Ðâm ra chán ngấy

Trước tình trạng ấy

Cũng như chán ngấy

Pháp luật vụng thuyết

Khiến các tín đồ

Không chỗ tựa nương.

Tôn giả A Nan

Nghe xong bạch Phật

Nỗi lo của mình

Sau Phật niết bàn

Có việc tương tự

Trong tỷ kheo chúng.

Phật hỏi tôn giả

Ở trong tăng chúng

Có ai cãi nhau

Về Bốn niệm xứ

Về Bốn chánh cần

Bốn Như ý túc

Năm căn năm lực

Về Bảy giác chi

Và tám thánh đạo?

A Nan bạch Phật

Về các pháp này

Con không hề thấy

Hai vị tỷ kheo

Nói trái ngược nhau.

Thế thì khỏi sợ.

Nhưng bạch Thế Tôn

Sợ có tranh luận

Về giới và luật.

Ðấy là việc nhỏ.

Tranh chấp về Pháp

Mới là tai hại

Ðem lại bất an

Cho đa số người.

Có 6 nguyên nhân

Ðưa đến tranh chấp:

Hiềm hận não hại

Khinh miệt lấn lướt,

Ganh tị xan tham

Gian manh xảo trá,

Ác dục tà kiến

Cố chấp khó xả.

Do 6 pháp này

Tỷ kheo không kính

Phật, Pháp và Tăng,

Không tròn học giới.

Vậy hãy tìm cách

Dứt các tranh luận

Ðưa đến bất an

Cho cả mọi người.

Tranh chấp có 4:

Do tranh luận Pháp,

Do chỉ trích nhau

Do phạm giới tội,

Và do trách nhiệm.

Ðể diệt tránh sự

Có 7 nguyên tắc:

Hiện tiền tì ni

Tất cả tỷ kheo

Ðều phải có mặt

Mỗi khi phán quyết

Một việc tranh cãi

Theo đúng luật pháp.

Ða nhân mích tội

(Quyết định đa số)

Gặp một tránh sự

Khó mà giải quyết

Tại chỗ mình ở,

Hãy đến trú xứ

Có nhiều tỷ kheo

Họp lại xử phân.

Ức niệm tỳ ni

Là cho đương sự

Tự nhớ tội mình

Ðể rồi xử trị.

Bất si tì ni

Lúc điên phạm giới

Nay đã tỉnh lại

Xin tăng miễn bàn.

Pháp tự ngôn trị

Là tỏ lỗi mình

Trước người lớn hơn

Ðể mà sám hối.

Pháp Mích tội tướng

Gặp kẻ chối quanh

Thì cứ phán xét

Theo tội đã phạm.

Trải cỏ che lấp

Là khi 2 phe

Ðều phạm nhiều lỗi

Cử ra đại diện

Xin lỗi lẫn nhau.

Cuối cùng Phật dạy

Sáu pháp khả niệm

(thường gọi lục hòa):

Tỷ kheo sống chung

Thân khẩu ý nghiệp

Thấm nhuần từ tâm;

San sẻ lợi dưỡng;

Thành tựu giới luật;

Tri kiến thánh thiện

Ðưa đến xuất ly.

Thực hành như vậy

Thì không có gì

Không thể kham nhẫn;

Sáu pháp khả niệm

Làm cho tăng chúng

An vui lâu dài.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 105

Thiện Tinh

I. TOÁT YẾU

Sanakkhatta Sutta - To Sunakkhatta.

The Buddha discusses the problem of an individual's overestimation of his progress in mediatation.

[Phật bàn thảo vấn đề cá nhân đánh giá quá mức sự tiến bộ của mình về thiền.]

II. TÓM TẮT

Lúc Phật ở Vesali, có nhiều tỷ kheo đã tuyên bố chứng thánh quả. Tỷ kheo Thiện Tinh [1] đến hỏi Phật những vị tuyên bố như thế có thực sự đã chứng thánh hay chưa. Phật dạy một số chứng thật, một số chỉ tuyên bố như vậy vì tăng thượng mạn [2] (chưa chứng nói chứng). Chính vì số người sau này mà Phật thuyết pháp [3]. Nhưng cũng có người ngu si bày đặt câu hỏi để chất vấn, thì dù lúc đầu Như Lai có định nói pháp cho họ, sau cũng đổi ý [4]. Khi ấy tỷ kheo Thiện Tinh thỉnh Phật nói Pháp. Phật dạy như sau:

1. Có hạng người thiên về vật chất thế gian [5]. Họ chỉ ưa nói chuyện vật chất thế gian, suy nghĩ những gì liên hệ năm dục, và khoái giao du với hạng người như vậy. Khi câu chuyện khởi lên liên hệ đến bất động thì họ không để ý, lóng tai hay cố tìm hiểu, cũng không khoái hạng người ưa nói về bất động. Như người xa quê ưa nghe chuyện liên hệ đến quê nhà mình. Cũng vậy, khi thấy một người không thích câu chuyện về bất động thì nên biết đấy là hạng bị trói buộc về vật chất thế gian.

2. Một số người thiên nặng về Bất động [6] thì chỉ nói và suy tư những gì liên hệ đến bất động, và khoái giao du với hạng người tương tự. Họ không để tâm, không lóng tai hay cố tìm hiểu câu chuyện liên hệ vật chất thế gian và cũng không giao du hạng người này. Như lá khô đã lìa cành, không thể xanh trở lại. Cũng vậy, khi thấy một người thiên về bất động thì nên biết họ không bị trói buộc vì vật chất thế gian.

3. Một số thiên nặng về Vô sở hữu xứ cũng như trên, không ưa nghe câu chuyện về vật chất hay bất động. Như hòn đá vỡ làm đôi không liền lại được. Cũng thế, khi thấy một người không bị trói buộc vì kiết sử bất động thì nên biết họ thiên về Vô sở hữu xứ.

4. Một số người thiên về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Họ không ưa thích nói chuyện, suy tư liên hệ đến Vô sở hữu xứ, không khoái giao du với hạng người này. Ví như một người đã ăn các món ngon chán chê, sau khi đã quăng bỏ thì không ưa ăn lại. Cũng vậy khi một người không bị trói buộc bởi kiết sử Vô sở hữu thì ta biết họ thiên về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

5. Một số thiên về chính Niết Bàn. Họ không thích hay nghe suy tư câu chuyện chỉ liên hệ Phi phi tưởng xứ, hay giao du hạng người này. Kiết sử Phi tưởng phi phi tưởng xứ nơi họ đã bị cắt đứt như thân cây sa la. Mặc dù thiên về chính Niết Bàn, họ lại khởi lên ý nghĩ: Khát ái đã được vị Sa môn [7] gọi là mũi tên, nọc độc vô minh bị dục tham và sân làm cho lan khắp. Nay ta đã nhổ mũi tên khát ái, tẩy trừ độc vô minh. Ta là người hoàn toàn thiên hướng Niết bàn. Vì vọng tưởng về tự ngã [8] như thế, họ có thể khởi sự theo đuổi những việc bất đáng thuộc đối tượng giác quan, tâm họ bị tham dục xâm chiếm, và sẽ phải đau khổ cho đến chết. Ví như người bị trúng tên độc dược y sĩ giải phẫu dùng dao cắt miệng vết thương, dùng dụng cụ dò tìm mũi tên và rút ra được nhưng dấu vết mổ xẻ [9] vẫn còn. Bởi thế y sĩ dặn phải kiêng cử nắng gió bụi bặm, giữ vệ sinh, ăn đồ ăn thích hợp cho đến khi vết thương hoàn toàn bình phục. Nhưng vì không làm theo lời dặn nên vết thương lại làm độc, khiến người ấy đau như chết. Cũng thế, một người đã nhổ tên độc khát ái nếu còn chút tự mãn về việc này thì sẽ bị tham dục xâm chiếm trở lại khiến họ đau khổ gần chết. Vì trong Pháp Luật Như Lai thì một người xả giới hoàn tục cũng như chết, và phạm giới nặng thì như gần chết. Phật dạy vết thương dụ cho 6 xúc xứ; thuốc độc là vô minh; ái như mũi tên; vật dụng dò tìm là niệm; con dao là thánh trí tuệ; y sĩ giải phẫu là Phật. Tỷ kheo phải phòng hộ sáu xúc xứ vì khi đã rõ sanh y là nguồn gốc của đau khổ [10] vị ấy lìa sanh y như xa lánh ly nước ngọt có tẩm độc, hoặc xa một con rắn độc, nếu người ấy muốn sống, không muốn chết, muốn vui không muốn khổ [11].

III. CHÚ GIẢI

1. Xem kinh 12.

2. Adhimànena, tăng thượng mạn. Họ công bố chứng quả vì tăng thượng mạn, nghĩa là chưa chứng mà tự cho đã chứng.

3. Kinh sớ: Cho họ biết rõ họ thuộc trình độ nào.

4. Kinh sớ: Vì họ bị tham thúc đẩy, nên đức Như Lai không thuyết pháp cho họ. Ngài chỉ khởi lên ý hướng nói Pháp khi gặp những hành giả chân chính.

5. Lokàmisa, chỉ năm dục là sắc thanh hương vị xúc.

6. Anenja, bất động, chỉ các thiền chứng từ tứ thiền đến bốn vô sắc định. Nhưng vì hai định cao nhất được đề cập riêng, nên kinh này dường như chỉ xem tứ thiền và hai Không định đầu tiên (Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ) là Bất động.

7. Chỉ đức Phật.

8. Trở lại vấn đề tự đánh giá quá mức, như mở đầu kinh.

9. Bản PTS hoàn toàn ngược lại.

10. Như kinh 66.

11. Như kinh 46.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Khi Phật ở Vesali

Nhiều tỷ kheo tuyên bố

Họ đã chứng thánh quả

Khiến Thiện Tịnh hoài nghi.

Ông bèn đến hỏi Phật

Phật cho ông biết rằng

Một số đã chứng thật

Ngoài ra chỉ khoa trương

Ðấy là tăng thượng mạn

Chưa chứng đã nói chứng

Chính vì hạng người này

Mà Như Lai thuyết pháp

Nhưng Ngài Không định nói

Với kẻ chất vấn suông.

Rồi Ngài dạy Thiện Tinh

Ðặc tính năm hạng người.

Hạng thiên về vật chất

Hạng thiên về Bất động

Hạng thiên Vô sở hữu

Hạng Phi tưởng phi phi

Hạng chính hướng Niết bàn.

Chỉ nghĩ về năm dục

Giao du người trần tục

Câu chuyện về Bất động

Bị họ gác ngoài tai

Là hạng người thứ nhất

Bị trói vào vật chất

Ví như kẻ đi xa

Nhớ quê nhà dằng dặc.

Hạng thiên về Bất động

Nói, nghĩ và tương giao

Liên hệ đến bất động

Gác mọi chuyện thế gian

Như lá khô lìa cành

Không còn xanh trở lại.

Hạng thiên Vô sở hữu

Không ưa chuyện vật chất

Cũng chẳng màng Bất động

Như hòn đá vỡ đôi.

Phi tưởng phi phi tưởng

Thiên về định chứng này

Không thích nói, suy tư

Liên hệ Vô sở hữu.

Như người đã chán chê

Ðồ cao lương mỹ vị

Ðã quăng bỏ đi rồi

Không ưa ăn trở lại.

Hạng chính hướng Niết Bàn

Không màng chuyện Phi tưởng

Vì họ đã cắt đứt

Trói buộc của xứ này.

Nhưng vừa khởi tâm nghĩ:

Ta ái tận, niết bàn

Dục sẽ xâm chiếm tâm

Làm họ đau như chết.

Như người trúng tên độc

Ðược y sĩ mổ xẻ

Với dụng cụ dò tìm

Rút được mũi tên ra

Vì vết mổ còn tươi

Y sĩ dặn kiêng cữ,

Do không theo lời dặn

Người ấy phải đớn đau.

Người còn chút tự mãn

Ðã nhổ độc khát ái

Sẽ bị dục xâm chiếm

Khiến khổ đau dài dài

Trong Pháp Luật Như Lai

Xả giới cũng như chết

Khi biết rõ sanh y

Là nguồn gốc đau khổ

Tỷ kheo lìa sanh y

Như xa lìa rắn độc,

Muốn sống, không muốn chết,

Muốn vui, không khổ sầu.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 106

Bất động lợi ích [1]

I. TOÁT YẾU

Ànenjasappàya Sutta - The Way to the Imperturbable.

The Buddha explains the approaches to various levels of higher meditative states culminating in Nibbàna.

[Con đường đến Bất động. Phật giải thích những cách đạt đến các tầng thiền chứng, tột đỉnh của nó là niết bàn.]

II. TÓM TẮT

Tôi nghe như vầy, Phật ở Rammassadhamma thị trấn dân Kuru, dạy các tỷ kheo:

(Bất động)

Dục [2] là vô thường, trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si tánh. Dục và dục tưởng hiện tại, tương lai đều thuộc lãnh vực ma, chỗ dinh dưỡng của ma, dẫn đến tham, sân, chướng ngại cho tu tập. Sau khi xét thấy vậy, tỷ kheo an trú đại hành tâm, vượt khỏi cảnh giới của dục và quyết định [3] đắc thiền. Khi tu tập như vậy, tâm vị ấy không còn các bất thiện pháp như tham, sân, mạn, và trở thành an tịnh trong giới xứ này [4], tâm vị ấy hoặc đạt đến Bất động (định), hoặc thiên về trí tuệ (tuệ), và khi thân hoại mạng chung vị ấy sẽ tái sinh vào cõi Bất động [5]. Ðây là con đường thứ nhất đạt đến Bất động.

Hoặc vị tỷ kheo suy tư như sau [6]: Những dục và dục tưởng hiện tại tương lai đều liên hệ 4 đại và sắc do 4 đại tạo. Tỷ kheo hành trì như vậy, tâm vị ấy trở nên an tịnh trong giới xứ của nó, thành tựu Bất động ngay hiện tại, hoặc thiên nặng về trí tuệ. Khi chết, thức diễn tiến như vậy có thể đạt đến Bất động. Ðây là con đường thứ hai để được Bất động.

Hoặc tỷ kheo suy nghĩ [7]: "Dục, dục tưởng hiện tại và tương lai, sắc, sắc tưởng hiện tại và tương lai, cả 2 đều vô thường, không đáng tham chấp vui thú trong đó." Nhờ an trú nhiều lần như vậy, tâm vị ấy trở nên an tịnh trong giới xứ này. Với tâm an tịnh vị ấy thành tựu Bất động ngay hiện tại hay thiên về tuệ. Khi chết thức có thể nhờ vậy đạt Bất động. Ðây là con đường thứ ba để đạt đến Bất động.

(Vô sở hữu xứ)

Vị tỷ kheo suy nghĩ [8]: "Dục và dục tưởng hiện tại và tương lai, sắc, sắc tưởng hiện tại và tương lai và bất động tưởng, khi được đoạn diệt không dư tàn, thì tâm được tịch tịnh. Ðây gọi là Vô sở hữu xứ thù diệu. Ðây là cách thứ nhất để đạt đến Vô sở hữu xứ.

Hoặc vị tỷ kheo đi đến gốc cây và suy nghĩ: "Ngã, và ngã sở đều trống rỗng" (không có gì là Ta hay của ta) [9]. An trú trong giới xứ này vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay hiện tại hoặc thiên về tuệ. Khi chết vị ấy có thể đạt Vô sở hữu xứ. Ðây là con đường thứ hai để đạt đến Vô sở hữu xứ.

Hoặc vị ấy nghĩ: "Ta và sở thuộc của ta không có bất cứ ở đâu và trong hình thức nào" [10]. Tu tập như vậy, tâm vị ấy trở thành an tịnh, hoặc thiên về tuệ. Khi chết vị ấy tái sinh về Vô sở hữu xứ. Ðây là con đường thứ ba để đạt Vô sở hữu xứ.

(Phi tưởng phi phi tưởng xứ)

Vị tỷ kheo nghĩ: "Dục, dục tưởng, sắc tưởng và bất động tưởng, vô sở hữu xứ tưởng, chỗ nào các tưởng ấy đoạn diệt không dư tàn là tịch tịnh, thù diệu, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ." Nhờ an trú như vậy, vị ấy thành tựu ngay hiện tại Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc thiên về tuệ. Khi chết có thể tái sinh ở phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðây là con đường tu tập Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

(Niết bàn)

Tôn giả A Nan bạch: Nếu một tỷ kheo tư duy, tu tập như sau: "Trước đã không có thì nay không là của ta; về sau cũng sẽ không có và không là của ta. Hãy đoạn trừ những gì hiện có và đã có" [11]. Nhờ thế vị ấy được xả [12] thì có chứng cứu cánh Niết bàn không? Phật đáp có người chứng người không. Không chứng là do còn chấp trước xả ấy, hoan hỷ trong xả ấy, nghĩa là thủ trước Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn chấp trước thì không thể chứng Niết bàn. Khi ấy tôn giả A Nan bạch: Bạch Thế Tôn, nhưng vị ấy chấp trước vào cái gì? Phật đáp, vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ [13]. A Nan bảo, đấy là chỗ chấp trước thù thắng nhất. Phật đồng ý, nhưng dạy thêm rằng nếu xả mà không hoan hỷ chấp trước xả ấy, không lệ thuộc vào nó, thì sẽ chứng cứu cánh Niết bàn, bất tử, nghĩa là tâm giải thoát không thủ trước.

Khi ấy tôn giả A Nan tán thán Phật đã dạy về sự vượt qua bộc lưu nhờ vào một điểm tựa nào hay khác [14], và hỏi thêm: Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Thánh giải thoát [15]? Và Phật đã trả lời: Ấy là khi vị thánh đệ tử suy xét như sau: Dục và dục tưởng, sắc và sắc tưởng hiện tại tương lai, tưởng về Bất động, về Vô sở hữu xứ hay Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đều là cái ngã nối dài [16]. Ðây là bất tử, tức cái tâm giải thoát nhờ không chấp thủ [17].

Những gì cần giảng dạy cho đệ tử vì lòng thương tưởng, Ta đã giảng dạy. Ðây là những gốc cây, những ngôi nhà trống. Hãy thiền định chớ trì hoãn mà phải ân hận về sau.

III. CHÚ GIẢI

1. Xem chú thích số 6 kinh 105. Bất động ở đây dường như chỉ bao gồm thiền thứ tư và Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ...

2. Ám chỉ cả hai thứ: dục lạc và những ô nhiễm do dục lạc.

3. Kinh sớ ghi chú: sau khi đã vượt qua dục giới và quyết định đắc thiền.

4. Theo Kinh sớ, tâm vị ấy an trú trong xứ này có nghĩa là, hoặc vị ấy đạt được tuệ nhắm đến A la hán quả, hoặc đắc thiền thứ tư. Nếu vị ấy đắc tứ thiền, thì thiền này trở thành căn bản để đạt đến bất động, tức chính thiền thứ tư. Nhưng nếu vị ấy đắc tuệ, thì vị ấy sẽ quyết định làm viên mãn tuệ giác bằng cách đào sâu tuệ để chứng quả A la hán. Sự quyết định viên mãn tuệ là lý do tại sao những đoạn kinh kế tiếp mặc dù cuối cùng dẫn đến các định chứng, lại chỉ toàn nói về phát triển tuệ giác.

5. Kinh sớ giải thích đoạn này mô tả tái sinh của một người không thể chứng quả A la hán mặc dù đã đắc tứ thiền. Kết sanh thức của vị ấy là thức dị thục lúc tái sinh, thức ấy cũng có bản chất bất động như cái nghiệp thức đã đạt tứ thiền. Vì chính cái thức thuộc tứ thiền định đoạt sự tái sinh, nên người ấy sẽ tái sinh trong một cõi trời tương ưng với tứ thiền.

6. Theo Kinh sớ, đây là tư duy của một người đã đắc tứ thiền. Vì vị ấy xem sắc (vật chất) cũng thuộc những thứ cần phải vượt qua, nên nếu được định bất động thì vị ấy đạt đến Không vô biên xứ, và nếu không chứng quả A la hán thì vị ấy tái sinh vào Không vô biên xứ.

7. Ðây là suy nghĩ của một người đắc xứ Không vô biên. Nếu đạt bất động, vị ấy sẽ đắc Thức vô biên xứ và tái sinh vào xứ ấy nếu không đắc quả A la hán.

8. Ðây là suy nghĩ của một vị đã đắc Thức vô biên và đang nhắm đến Vô sở hữu xứ.

9. Kinh sớ gọi đấy là hai cái không - không tôi và của tôi - và cho giáo lý về Không vô biên xứ này được giảng giải bằng tuệ hơn là bằng định như đường lối trong phần trước. Kinh Trung Bộ số 43 nói pháp quán này sẽ dẫn đến Không tâm giải thoát.

10. Kinh sớ gọi đây là Bốn không và giải thích như sau: (i) Vị ấy không thấy đâu là cái ngã; (ii) không thấy một cái ngã như là một cái gì thuộc về một người khác như anh, bạn, người phụ tá...; (iii) không thấy ngã của một người khác; (iv) không thấy cái ngã của người khác được xem như cái gì thuộc về mình. Trong cảo bản của đại đức Nanamoli có ghi chú như sau: Những từ trong đoạn này và đoạn sau hình như là những câu đúc về sự chứng đắc Vô sở hữu và Phi tưởng phi phi tưởng xứ trong ngoại đạo, đôi khi được dùng làm cơ sở cho ngã kiến hay thân kiến.

11. Kinh sớ: Nếu trong quá khứ vòng nghiệp đã không do ta tích lũy, thì bây giờ vòng quả báo sẽ không dành cho ta; nếu hiện tại ta không tích lũy vòng nghiệp thì tương lai ta cũng sẽ không gặt quả báo. Cái gì đang hiện hữu, đã sinh ra, chính là năm uẩn. Phần đầu của công thức này cũng lại như là công thức cô đọng của một kiến chấp của ngoại đạo. Nhiều kinh cho đấy là đoạn kiến mà Phật đã áp dụng nhưng gán cho nói những ý nghĩa mới.

12. Theo Kinh sớ, vị ấy đạt tuệ xả, nhưng từ đoạn 11 trở đi, dường như cũng cốt nói đến xả của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

13. Ðây ám chỉ tái sinh của một vị đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ý nói vị ấy tái sinh vào cõi hữu tốt nhất, thù thắng nhất.

14. Nissàya nissàya oghassa nittharanà. Theo kinh sớ, Phật đã giải thích sự vượt qua bộc lưu cho một tỷ kheo xử dụng bất cứ định chứng nào từ tam thiền đến bốn không làm căn bản để đắc quả A la hán.

15. Câu hỏi của ngài A Nan là cốt để gợi cho Phật nhắc đến sự tu tập của thiền giả càn tuệ (sukkhavipassaka) người đắc quả A la hán mà không phải tùy thuộc vào một thiền chứng nào cả.

16. Esa sakkàyo yàvatà sakkàyo. Ðây là toàn thể thân kiến - ba cõi (hữu); ngoài vòng ba hữu này, không có một cái ngã nào hết.

17. Theo Kinh sớ, đây ám chỉ quả vị A la hán của hành giả càn tuệ. Quả vị này gọi là Bất tử vì nó có hương vị của Niết bàn bất tử.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

1. Phật dạy chúng tỷ kheo:

Các dục là vô thường

Trống rỗng và lừa dối

Chuyện trò của kẻ ngu

2. Do dục và dục tưởng

Nổi lên tham sân mạn

Hãy chiến thắng cảnh dục

Quyết trú tâm đại hành.

3. Khi tâm đã an định

Sẽ hướng đến tứ thiền

Hoặc A la hán quả

Ðây bất động đầu tiên.

4. Thứ hai là Bất động

Của Không vô biên xứ

Khi vượt qua sắc tưởng

Quán bốn đại bốn không.

5. Loại Bất động ba

Là Thức vô biên xứ

Quán dục tưởng sắc tưởng

Vô thường, không đáng ham.

6. Hoặc vượt xa dục sắc

Bất động cũng không màng

Ðoạn diệt không dư tàn

Chứng Vô sở hữu xứ.

7. Cách hành đạo thứ hai

Ðể chứng Vô sở hữu

Là quán hai cái không

Không tôi, không của tôi.

8. Cách hành đạo thứ ba

Do thấy bốn cái không

Không ta không của ta

Không nó không của nó.

9. Lại đoạn dục, sắc tưởng

Cùng các tưởng bất động

Thấy đây là thù diệu:

Phi tưởng phi phi tưởng.

10. Ananda hỏi Phật

Quán không ngã, ngã sở

Một tỳ kheo trú xả

Có chứng niết bàn chăng?

11. Không hoan hỷ, sẽ chứng

Còn thủ trước, khó chứng

Dù thủ Phi phi tưởng

Chỗ bám víu tinh vi.

12. A Nan lại bạch Phật

Vi diệu, hy hữu thay

Thế Tôn đã giải thích

Nhiều cách vượt qua dòng.

Nhưng xin Ngài giảng thêm

Thế nào Thánh giải thoát?

13. Hãy quán sát mọi tưởng

Dục sắc và bất động

Phi tưởng phi phi tưởng

Ðều là ngã nối dài.

14. Chỉ đây là bất tử:

Giải thoát không chấp thủ

Tỷ kheo quán như vậy

Ðạt cứu cánh Niết bàn.

15. Ta đã giảng lợi ích

Bất động, Vô sở hữu

Và Phi tưởng phi phi

Cuối cùng, Thánh giải thoát.

16. Này đây những gốc cây

Và những ngôi nhà trống

A Nan, hãy thiền định

Chớ để hận về sau.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 107

Ganaka Moggallana

I. TOÁT YẾU

Ganakamoggallàna Sutta - To Ganaka Moggallàna.

The Buddha sets forth the gradual training of the Buddhist monk and describes himself as the "shower of the way."

[Nói với nhà toán học Moggallàna. Phật đề ra trình tự huấn luyện một tỷ kheo và tự cho mình là người chỉ đường.]

II. TÓM TẮT

1. Bà la môn lấy ví dụ xây nhà [1] hoặc làm cứ gì như học toán [2] đều theo một trình tự, để hỏi trong đạo Phật có chăng một trình tự như thế. Phật đưa ra hình ảnh huấn luyện ngựa [3] để giảng về thứ tự học đạo. Trước hết là hộ trì giới, sống chế ngự với giới bổn, đủ uy nghi chính hạnh, thấy nguy hiểm trong lỗi nhỏ. Hai hộ trì 6 căn khi tiếp xúc 6 trần. Ba tiết chế trong ăn uống, không cho cảm thọ mới khởi lên. Bốn chú tâm cảnh giác gột sạch tâm trí khỏi chướng ngại pháp. Năm, thành tựu chính niệm tỉnh giác trong mọi uy nghi. Sáu, an trú chính niệm bằng thiền toạ tại chỗ vắng để rũ bỏ 5 triền cái, chứng sơ thiền đến tứ thiền. Những pháp này vừa đưa đến vô thượng an ổn thoát khỏi khổ ách mà cũng vừa là hiện pháp lạc trú của vị đã đắc quả A la hán. [4]

2. Bà la môn lại hỏi khi được giảng dạy như vậy, có phải ai cũng chứng cứu cánh niết bàn hay chỉ một số ít? Phật đáp chỉ một số ít, ví như người đã được chỉ đường rành rẽ nhưng lại đi theo hướng khác, thì người chỉ đường [5] không thể làm gì được. Cũng thế, trong khi có niết bàn, có đường đến niết bàn, với Phật là người dẫn đường, các đệ tử sau khi được khuyến giáo chỉ một số đi theo đúng đường, một số không theo đúng.

3. Bà la môn bạch Phật [6] có những người sống không vì lòng tin chỉ vì sinh kế, không giữ giới hộ trì căn, không kính trọng sự tu học, sống quá dung tục, dẫn đầu đọa lạc, ngu đần, liệt tuệ, từ bỏ gánh nặng, viễn ly... tôn giả Gotama không thể sống với những người như vậy. Còn những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, tôn kính học tập, không thờ ơ với sa môn hạnh, dẫn đầu về viễn ly, chính niệm tỉnh giác, nhất tâm, có tuệ, tôn giả Gotama sống hòa hợp với những vị ấy. Ví như trong các loại hương rễ cây, hương sắc chiên đàn là nhất, trong các loại hương hoa, hương hoa nhài là nhất. Cũng vậy trong các giáo lý, giáo lý của tôn giả Gotama cao nhất hiện nay [7] Rồi bà la môn xin quy y Tam bảo.

III. CHÚ GIẢI

1. Không thể nào nội trong một ngày mà xây được một cái nhà bảy tầng, phải có sự tiến hành tuần tự từ lúc phát quang, đặt nền móng cho đến khi hoàn tất.

2. Ganaka, tên ông có nghĩa là Mục Kiền Liên nhà kế toán.

3. Xem Trung 65, đoạn 33.

4. Những giao đoạn tu hành trước đấy là cần thiết cho những tỷ kheo để đắc quả la hán, song cũng lợi ích cho các vị tỷ kheo đã đắc quả ở chỗ đưa đến hiện tại lạc trú. Theo sớ giải, lạc trú này là sự đắc quả A la hán, và giải thích rằng một vài vị có thể chứng quả A la hán dễ dàng bất cứ lúc nào, còn các vị khác thì phải siêng năng tu tập từng bước một để đắc quả.

5. So sánh với Pháp cú 276: Chính các ông phải nỗ lực; chư Như Lai chỉ có nêu lên con đường.

6. Như Kinh số 5, đoạn 32.

7. Paramajjadhammesu. Lý thuyết của Gotama là tối thượng, cao nhất trong các giáo lý đương thời, tức của lục sư ngoại đạo.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Toán số gia Mục liên

Hỏi trình tự tu hành

Trong Pháp và Luật Phật

Ðấng Thiện thệ đáp liền.

Thành tựu Giới trước tiên

Thứ hai, gìn giữ tâm

Khi căn trần xúc đối

Khiến ô nhiễm không sinh.

Ba uống ăn chừng mực

Ðủ duy trì cơ thể

Bốn chú tâm cảnh giác

Phòng chướng ngại tham sân.

Năm đứng ngồi giác tỉnh

Chính niệm từng uy nghi

Sáu tìm nơi an tịnh

Dứt triền cái, chứng thiền.

Ðây sáu việc cần làm

Của người chưa chứng thánh

Nhưng bậc thánh vẫn làm

Ðể hiện tại vui an.

Dù được dạy như thế

Mà kẻ chứng, người không

Vì Phật chỉ con đường

Ai không theo khó chứng.

Những người thiếu đức tin

Xuất gia vì sinh kế

Thờ ơ sa môn hạnh

Khó theo Gotama;

Những thiện gia nam tử

Vì lòng tin xuất gia

Sống chú tâm tỉnh giác

Sẽ gần đức Thích Ca.

Ngài là vị tối cao

Trong các thầy giáo đạo

Con trọn đời quy kính

Tôn giả Gotama!

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 108

Gopaka Moggallana

I. TOÁT YẾU

Gopakamoggallàna Sutta.

With Gopaka Moggallàna. The venerable Ànanda explains how the Sangha maintains its unity and internal discipline after the passing away of the Buddha.

[Với Gopaka Moggallàna. Tôn giả A nan giải thích làm sao tăng chúng duy trì được sự thống nhất và kỷ luật nội bộ sau khi Phật qua đời.]

II. TÓM TẮT

Sau khi Phật nhập diệt [1] không lâu, tôn giả A Nan vào khất thực trong thành Vương xá đang được xây kiên cố [2], và vì còn quá sớm, ngài đến nơi bà la môn Gopaka. Ông này hỏi có vị tỷ kheo nào thành tựu trọn vẹn các pháp như Phật đã thành tựu không; tôn giả đáp không, các đệ tử đang còn hành đạo và sẽ thành tựu về sau. Khi ấy đại thần xứ Ma kiệt đà [3] đi đến, ông hỏi có vị tỷ kheo nào được Phật sắp đặt làm chỗ nương tựa cho chúng tăng sau khi ngài nhập diệt không. Tôn giả đáp không có vị tỷ kheo nào cả. Ông lại hỏi, vậy có vị tỷ kheo nào được tăng chúng tôn lên làm chỗ nương cho toàn thể không, và tôn giả cũng trả lời không có. Vị đại thần nói, vậy tăng chúng không có chỗ nương tựa, làm sao sống hòa hợp được. Tôn giả nói chúng tăng có Pháp và Luật làm chỗ nương [4], mỗi kỳ bố tát chúng tăng nhóm họp và y cứ giới bản Phật chế để biết ai sống đúng pháp ai không. Khi ấy đại thần hỏi có vị tỷ kheo nào được chúng tăng cung kính đảnh lễ và sống nương tựa vào vị ấy không. Tôn giả đáp có, đấy là bất cứ ai thành tựu mười pháp như sau. Một là sống có giới hạnh, đúng theo giới bổn Biệt giải thoát. Hai là đa văn; ba biết đủ với 4 vật dụng; bốn chứng 4 thiền không khó nhọc; năm thực hiện được các thần túc thông; sáu biết tâm kẻ khác (tha tâm thông); bảy có thiên nhĩ thông; tám túc mạng thông (biết vô lượng kiếp trước của mình); chín thiên nhãn thông (thấy sự sống chết của chúng sinh); mười lậu tận thông, không còn sơ hở, đạt tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

Ðại thần xứ Ma kiệt đà công nhận một vị tỷ kheo như thế quả thật xứng đáng được tôn thờ, rồi hỏi chỗ ở của tôn giả. Khi được biết tôn giả trú tại vườn Trúc, Ðại thần bảo chỗ ấy rất tốt cho thiền định, tôn giả Gotama lúc ở đấy đã giảng nói về thiền. Ngài quả là vị tu thiền, thiên về thiền, tán thán tất cả thiền định. Tôn giả A Nan phản bác: "Thế Tôn không tán thán tất cả thiền định. Có loại thiền định Phật không tán thán. Ðó là vị tu thiền với tâm bị tham dục chi phối, không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đã khởi. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng để tu thiền, nhập thiền [5]. Cũng vậy với 4 triền cái khác (sân, hôn trầm, trạo hối, hoài nghi). Loại thiền định được Thế Tôn tán thán là thiền nơi vị tỷ kheo ly dục ly bất thiện, chứng trú từ sơ đến tứ thiền.

Ðại thần hoan hỷ tín thọ lời tôn giả A Nan và xin cáo từ vì bận nhiều công việc.

III. CHÚ GIẢI

1. Theo sớ giải, sau khi phân chia xá lợi Phật, tôn giả Ananda đi đến Vương xá để trùng tuyên về Pháp trong kỳ Ðại kết tập thứ nhất.

2. Vua Pajjota là bạn vua Bình sa xứ Ma kiệt đà, người đã bị con trai A xà thế giết chết. Theo kinh sớ, vua A xà thế nghĩ rằng vua Pajjota có thể tìm cách báo thù cho bạn.

3. Xem Trường bộ 16.

4. Câu này cốt nói rằng Tăng già không phải được cai quản bởi phán định của các phần tử trong Tăng, mà bởi Pháp và Luật do Phật đặt ra cho tăng noi theo. Về vấn đề này các tỷ kheo tuân theo lời dạy cuối cùng của Phật là: Sau khi Ta nhập diệt, Pháp và Luật sẽ là thầy của các ông.

5. Xem số 525.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Ananda

Vào Vương xá khất thực

Vì hãy còn quá sớm

Ghé thăm Gopaka.

Bà la môn này hỏi

Có vị tỷ kheo nào

Thành tựu Pháp trọn vẹn

Bằng đức Gotama?

Thật không tỷ kheo nào

Thành tựu trọn vẹn Pháp

Như Thế Tôn thành tựu

Việc ấy hãy còn lâu.

Ðại thần xứ Ma kiệt

Ðến cắt ngang câu chuyện

Nêu lên một vấn đề

Với A Nan tôn giả:

Ai sẽ là chỗ nương

Sau khi Phật niết bàn

Việc này được sắp đặt

Do Phật hay chư Tăng?

Không vị tỷ kheo nào

Ðược Thế Tôn sắp đặt

Hay tăng chúng thỏa thuận

Ðể lãnh đạo tăng già.

Nếu không người lãnh đạo

Làm sao tăng hòa hợp?

Chúng tôi nương theo Pháp

Pháp chính là chỗ nương.

Mỗi kỳ tăng bố tát

Tụng giới Biệt giải thoát

Theo đúng pháp xử trị

Những trường hợp trái sai.

Có một tỷ kheo nào

Ðược chư vị tôn kính

Thường đảnh lễ cúng dường

Xem là chỗ tựa nương?

Có mười pháp khả hỷ

Ðược Thế Tôn tuyên bố

Ai thành tựu như vậy

Ðáng đảnh lễ, nương theo:

Vị tỷ kheo giữ giới;

Biết đủ bốn vật dụng;

Ða văn, chứng bốn thiền

Ðã được các thần túc

Biết tâm địa kẻ khác

Nhớ nhiều đời quá khứ

Ðắc thiên nhĩ siêu phàm

Thiên nhãn, lậu tận thông.

Ðại thần Ma kiệt đà

Thốt lên lời tán thán:

Chư tôn giả tôn kính

Ðúng người đáng kính tôn!

Thưa tôn giả A Nan

Vườn trúc lâm khả ái

Thật hợp với thiền tư

Thế Tôn thường ca ngợi.

Không hẳn, Bà la môn

Thế tôn không ca ngợi

Thiền định của hạng người

Còn tham sân, trạo hối

Lấy hôn trầm rối loạn

Lấy hoài nghi bối rối

Làm đối tượng thiền tư

Bị năm triền chi phối.

Thế Tôn chỉ tán thán

Ly dục ly bất thiện

Chứng và trú sơ thiền

Hỷ lạc ly dục sanh.

Nhị thiền không tầm tứ

Với hỷ lạc định sanh

Và nội tĩnh nhất tâm

Tứ thiền Phật ca ngợi.

Ðại thần xứ Ma Kiệt

Tin nhận lời tôn giả

Rồi đứng dậy cáo từ

Vì còn đi công việc.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 109

Ðại kinh Mãn Nguyệt

I. TOÁT YẾU

Mahàpunnama Sutta.

The Greater Discourse on the Full-mơn Night. A bhikkhu questions the Buddha on the five aggregates, clinging, personality view, and the realisation of non-self.

[Bản kinh lớn giảng vào đêm rằm. Một tỷ kheo thỉnh vấn Phật về năm uẩn, về chấp thủ, thân kiến và sự chứng ngộ vô ngã.]

II. TÓM TẮT

1. Vào một đêm trăng rằm bố tát [1] tại giảng đường Lộc mẫu, Phật ngồi giữa trời có tăng chúng vây quanh. Một tỷ kheo [2] nêu lên nhiều câu hỏi, được Ngài tuần tự giải đáp.

2.

1) Gì là gốc của 5 thủ uẩn? Ấy là dục tham [3];

2) Chấp thủ với 5 thủ uẩn là một hay khác [4]? Không phải một, không phải khác. Khi có dục tham đối với 5 thủ uẩn thì gọi là chấp thủ;

3) Có thể có nhiều kiểu tham đối với 5 thủ uẩn? Có thể, như mong có sắc như vậy trong tương lai, hoặc mong có thọ như vậy, hoặc tưởng, hoặc hành, hoặc thức như vậy trong tương lai;

4) Gì là nghĩa chữ "uẩn"? Tất cả sắc nội ngoại thô tế xa gần đều thuộc sắc uẩn. Thọ tưởng hành thức cũng vậy;

5) Gì là điều kiện hay duyên cho mỗi thứ? Bốn đại là nhân duyên để gọi là sắc uẩn. Xúc là nhân duyên của ba uẩn thọ, tưởng, hành. Danh sắc là nhân, duyên để gọi là thức uẩn [5].

6) Thế nào là thân kiến [6]? Do không học tập thánh Pháp, xem sắc là tự ngã, hoặc tự ngã có sắc, hoặc sắc ở trong tự ngã, hoặc tự ngã ở trong sắc. Với 4 uẩn kia cũng thế (thành 20 thân kiến). Không thân kiến là khi không chấp trước như trên;

7) Gì là vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của sắc, thọ, tưởng, hành, thức? Hỷ lạc khởi lên do năm uẩn là vị ngọt. Tính vô thường, khổ, biến hoại của chúng là nguy hiểm. Sự nhiếp phục dục tham đối với năm uẩn gọi là xuất ly;

8) Do nhân duyên gì mà không có mạn tùy miên (chấp ta và của ta)? Do thấy như thật với trí tuệ tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức nội ngoại thô tế xa gần đều không phải của tôi, không phải là tôi hay tự ngã của tôi."

3. Khi nghe vậy, một tỷ kheo khởi lên hoài nghi: nếu cả 5 uẩn là vô ngã, vậy những hành động do tâm vô ngã làm, được ngã nào lãnh thọ quả báo [7]? Phật biết được tâm niệm ấy, trách cứ tỷ kheo và nhắc lại rằng Ngài đã nhiều lần dạy cách đặt câu hỏi [8] như sau: Sắc, thọ... là thường hay vô thường? Cái gì vô thường là khổ hay vui? Cái gì đã vô thường, khổ thì có hợp lý để xem là tôi hay của tôi không? Do quán sát như vậy, thánh đệ tử sinh yểm ly với 5 uẩn. Do yểm ly nên ly tham, do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, vị ấy biết mình đã giải thoát: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, từ nay không còn trở lại đời sống này nữa."

III. CHÚ GIẢI

1. Ngày thứ mười lăm của mỗi nửa tháng.

2. Vị tỷ kheo này là một A la hán đang dạy dỗ sáu mươi đệ tử cùng sống với ông trong rừng. Những đệ tử này nỗ lực thiền quán, đã pháp triển được nhiều tri kiến thuộc tuệ giác nhưng không chứng được đạo và quả, bởi thế họ được thầy dẫn đi yết kiến Phật. Vị thầy hỏi Phật nhiều câu hỏi không phải vì bản thân mà vì muốn đánh tan hoài nghi của các môn đệ.

3. Chandamùlakà. Ở đây chanda (dục) đồng nghĩa với tanhà (khát ái) nguồn gốc của khổ bao hàm trong năm uẩn.

4. Xem kinh Trung bộ 44, đoạn 6.

5. Trong sắc uẩn, mỗi đại (trong bốn đại) làm điều kiện cho ba đại kia và cho sở tạo sắc (vật chất do bốn đại tạo). Xúc là một duyên (điều kiện) cho các uẩn thọ, tưởng, hành, như kinh Tương ưng bộ 35 dạy: Này các tỷ kheo, khi tiếp xúc, người ta cảm thọ, khi tiếp xúc người ta nhận thức, khi tiếp xúc người ta có khuynh hướng hành động (hành, ý muốn). Kinh Sớ giải thích rằng vào lúc nhập thai, sắc và ba tâm uẩn khởi lên gọi là danh sắc, một duyên cho kết sanh thức. Trong tiến trình đời sống, các giác quan và đối tượng của chúng cùng ba tâm uẩn (thọ, tưởng, hành) là danh sắc làm duyên cho năm thức thuộc cảm quan.

6. Như trong kinh Trung bộ 44, đoạn 7-8.

7. Dường như vị tỷ kheo này khó hiểu làm thế nào nghiệp lại có thể phát sinh ra hậu quả nếu không có cái ngã để nhận hậu quả ấy.

8. Câu này rất khác nhau tùy mỗi ấn bản. Bản dịch này dựa theo câu tương tự trong kinh Tương ưng 22, trong đó ghi patipucchà vinìtà có lẽ đúng hơn ấn bản hội Pali Text là paticca vinìtà, mà đại đức Nanamoli dùng làm bản gốc, và dịch: Này các Tỷ kheo, bằng nhiều ví dụ, Ta đã giảng dạy cho các ông về lý duyên sinh.

9. MA (Sớ giải Trung bộ): Sáu mươi tỷ kheo từ bỏ các đề mục thiền của mình đã tu, và quán một đề mục mới dựa trên lời giảng dạy của Phật. Ngay tại chỗ, họ chứng quả A la hán.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Vào một kỳ bố tát

Thế Tôn ngồi giữa trời

Chúng tỷ kheo vây quanh

Giữa đêm rằm trăng sáng.

Một tỷ kheo đứng lên

Xin phép nêu câu hỏi

Phật dạy ngồi yên chỗ

Ðưa ra các vấn đề.

Sắc thọ tưởng hành thức

Lấy gì làm gốc rễ?

Tham dục là gốc rễ.

Chấp thủ là năm uẩn

Hay ngoài năm uẩn ra

Còn có sự chấp thủ?

Thủ không là năm uẩn

Cũng không ngoài năm uẩn;

Nhưng khi có hỷ tham

Ðây gọi là chấp thủ.

Nghĩa của uẩn là gì?

Tất cả sắc trong ngoài

Thô tế quá hiện vị

Xa gần hay xấu đẹp

Ðều gọi là sắc uẩn.

Thọ tưởng hành và thức

Cũng nên hiểu như vậy.

Gì là nhân và duyên

Của sắc cho đến thức?

Bốn đại: nhân của sắc

Xúc, nhân thọ tưởng hành

Và nhân của thức uẩn

Chính là danh và sắc.

Thế nào là thân kiến?

Kẻ ngu xem sắc uẩn

Là tự ngã của ta

Hoặc tự ngã có sắc

Hoặc ngã ở trong sắc

Hoặc sắc ở trong ngã

Bốn cũng kia cũng vậy

Thành hai mươi thân kiến.

Bốn cũng kia cũng vậy

Thành hai mươi thân kiến.

Không thấy sai như trên

Gọi là không thân kiến.

Gì là những vị ngọt

Nguy hiểm và xuất ly

Của sắc và bốn uẩn?

Hỷ lạc khởi từ sắc

Là vị ngọt của nó

Vô thường của sắc pháp

Là nguy hiểm của nó

Ðiều phục sự tham sắc

Là xuất ly của sắc.

Với bốn tâm uẩn kia

Cũng cần hiểu như vậy.

Làm sao để bỏ được

Tâm ngã mạn về tôi

Và sở thuộc của tôi?

Ðối với tất cả sắc

Và thọ tưởng hành thức

Hãy thường xuyên quán sát

Ðây không phải là tôi

Của tôi, tự ngã tôi.

Khi ấy có tỷ kheo

Khởi lên một ý nghĩ

Nếu năm uẩn vô ngã

Thì ai chịu quả báo?

Phật biết tâm niệm này

Dạy cách đặt câu hỏi:

Sắc thường, vô thường?

Vô thường khổ hay vui?

Cái gì vô thường, khổ

Nên chăng xem là ta

Và tự ngã của ta?

Ðối với bốn tâm uẩn

Cũng tự hỏi như thế.

Khi như thật quán sát

Thực chất của năm uẩn

Tâm khởi lên nhàm chán

Do nhàm chán, hết ham

Do ly tham, giải thoát

Tự biết đã giải thoát

Không còn thọ thân sau.

Phật dạy kinh này xong

Chúng tỷ kheo tín thọ

Ngay tại chỗ đang ngồi

Chứng lậu tận, giải thoát.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 110

Tiểu kinh Mãn Nguyệt

I. TOÁT YẾU

Cùlapunnama Sutta.

The Shorter Discourse on the Full-moon Night. The Buddha explains the differences between an "untrue man" and a "true man".

[Bản kinh ngắn thuyết vào đêm rằm. Phật giảng sự khác biệt giữa một người bất chính và một người chân chính.]

II. TÓM TẮT

Phật ở Ðông viên, giảng đường Lộc mẫu, vào ngày rằm bố tát dạy chúng tỷ kheo về chính và bất chính.

1. Người bất chính (asappurisa [1]) không thể biết được một người là bất chính hay chân chính. Người bất chính là kẻ đầy đủ pháp bất chính; giao du với người bất chính, suy tư như người bất chính, nói năng như người bất chính, hành động bất chính, có tà kiến, bố thí một cách bất chính. Ðầy đủ pháp bất chính là: bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ. Giao du với người bất chính là làm bạn với những kẻ có các pháp bất chính như trên. Suy tư bất chính là nghĩ những việc tự hại, hại người, hại cả hai. Nói năng bất chính là nói láo, hai lưỡi, ác khẩu, vô ích. Hành động bất chính là sát sinh, tà hạnh trong các dục. Tà kiến là tuyên bố không có bố thí và quả báo, thiện ác không có kết quả, không có đời này đời sau, các loại hóa sanh, ở đời không có sa môn, bà la môn tự chứng thánh trí và truyền dạy lại. Bố thí bất chính là không tự tay bố thí, bố thí một cách vô lễ, không nghĩ kỹ, bố thí vật không cần, bố thí không nghĩ tương lai. Người đầy đủ pháp bất chính như vậy, sau chết sanh vào cảnh giới của kẻ bất chính là địa ngục hoặc bàng sanh.

2. Người chân chính thì có thể biết được một người khác là chân chính hay bất chính. Người chân chính là người đầy đủ chính pháp, giao du các bậc chân chính, suy nghĩ chân chính, có chính kiến, bố thí chân chính. Và "chân chính" thì ngược lại với những gì là bất chính nói trên.

III. CHÚ GIẢI

1. Asappurisa, Kinh sớ chú thích là pàpapurisa, một kẻ xấu ác.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

1. Thế Tôn dạy chúng ta

Về chính và bất chính

Kẻ bất chính khó phân

Người chính với kẻ tà.

2. Bất chính là một người

Ðầy đủ pháp bất chính

Giao du kẻ ác nhân

Nghĩ nói làm đều quấy.

3. Bố thí cũng phi chân

Trong cách cho, vật thí.

Khi thân hoại mạng chung

Ðọa bàng sanh ngạ quỷ.

4. Pháp bất chính nghĩa là

Không tin, không hổ thẹn

Ít nghe và lười biếng

Thất niệm lại ngu đần.

5. Giao du kẻ bất chính

Là thường kết bạn thân

Với những người có đủ

Pháp bất chính như trên.

6. Suy tư cùng toan tính

Ðều tự hại, hại người

Hoặc hại đến cả hai

Là tư duy bất chính.

7. Nói dối, ác, ly gián

Hai lưỡi và phù phiếm

Sát sinh, trộm, tà dâm

Là nói làm bất chính.

8. Bố thí không chính chân

Không tự tay, vô lễ

Ðem cho vật không cần

Không nghĩ đến tương lai.

9. Có tà kiến nghĩa là

Bác bỏ nghiệp và quả

Phủ nhận đời này, sau

Thánh nhân và cha mẹ.

10. Một con người chân chính

Biết kẻ chính người tà

Ðầy đủ pháp chính chân

Giao du người hiền thiện.

11. Tín tàm quý đa văn

Tinh cần niệm và tuệ

Ðây gọi là chính pháp

Theo chính ấy, bạn hiền.

12. Nghĩ chính: không tự hại

Hoặc hại đến mình, người

Nói chính: không hai lưỡi

Lời dối, thô, phù phiếm.

13. Chính kiến tin nhân quả

Có cha mẹ, thánh nhân

Sự bố thí chính chân:

Tự tay cho vật cần.

14. Một con người chân chính

Ðầy đủ pháp chính chân

Nghĩ, nói, làm đều tốt

Mạng chung sinh cõi lành.

-ooOoo-

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 111

Kinh Bất đoạn

(Anupadasuttam)

I. TOÁT YẾU

Anupada Sutta - One by One as They Occurred.

The Buddha describes the venerable Sàriputta's development of insight when he was training for the attainment of arahantship.

Từng pháp một, ngay khi chúng khởi lên.

Phật mô tả sự phát triển tuệ giác của tôn giả Xá lợi Phất lúc ngài tu để đắc quả A la hán.

II. TÓM TẮT

Phật ở Xá vệ, gọi các tỷ kheo mà ca tụng Sariputta là bậc nhiều trí tuệ, vị quán pháp bất đoạn [1] trong nửa tháng.

Vị ấy an trú không gián đọan các pháp sơ thiền gồm có tầm, tứ, hỷ lạc, nhất tâm, xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục thắng giải, tấn, niệm, xả, tác ý [2] biết rõ lúc chúng khởi lên, trú và diệt; an trú với tâm không luyến ái, không chống đối, vô hạn [3] vì biết còn có giải thoát cao hơn nữa [4], còn nhiều việc phải làm. Vị ấy diệt tầm, tứ, an trú nhị thiền, với các pháp thuộc nhị thiền (nội tĩnh, hỷ, lạc, nhất tâm, xúc, thọ, tưởng, tư tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý) cho đến các pháp thuộc tứ thiền bất khổ bất lạc, với xả niệm thanh tịnh [5] (và các pháp khác như trên) cũng biết rõ chúng khởi, trú, và diệt, biết còn có những pháp cao hơn. Vị ấy chứng đắc và quán sát tương tự như thế cho đến Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất khởi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vị ấy quán sát các pháp từ không thành có, và sau khi xuất hiện đã biến mất [6], đối với chúng vị ấy không luyến ái, không chống đối, an trú với tâm không hạn lượng vì biết còn thứ giải thoát cao hơn. Vị ấy vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng trú định Diệt thọ tưởng, lậu hoặc được tận trừ nhờ thấy với trí tuệ [7]. Với chánh niệm, vị ấy xuất khởi Diệt thọ tưởng định, cũng quán sát như trên, các pháp [8] từ không thành có và sau khi xuất hiện đã biến mất, đối với chúng tâm không luyến ái, không chống đối, an trú với tâm vô hạn lượng. Vị ấy biết không còn sự giải thoát nào cao hơn [9] thế nữa, không còn việc gì phải làm.

Và Phật kết luận: Tôn giả Xá Lợi Phất đã thành tựu viên mãn [10] Giới uẩn, Ðịnh uẩn, Tuệ uẩn và Giải thoát uẩn của bậc thánh, là con chánh tông của Phật, từ Pháp hóa sinh, kẻ thừa tự Pháp không thừa tự tài vật, chân chính chuyển Pháp luân vô thượng mà Như Lai đã chuyển.

III. CHÚ GIẢI

1. Anupadadhammavipassanà. MA (Sớ giải Trung bộ) giải thích vị ấy phát triển tuệ quán tuần tự đi sâu vào các pháp nhờ các thiền chứng và thiền chi, như sẽ mô tả. Nửa tháng nói ở đây là kể từ lúc tôn giả Xá Lợi Phất xuất gia theo Phật cho đến lúc ngài chứng quả A la hán trong khi nghe Phật giảng cho Dìghanakha về cảm thọ. (xem kinh Trung bộ 75, đoạn 14.)

2. Năm pháp đầu trong bảng kê này là các thiền chi thuộc sơ thiền; các pháp sau đó là những thành phần thêm vào mỗi thứ làm một nhiệm vụ riêng trong thiền định [DG. Theo duy thức học, gọi là năm biến hành và năm biệt cảnh tâm sở]. Sự phân tích tỉ mỉ này về các tâm pháp báo trước phương pháp luận của Luận tạng, bởi thế không phải là sự tình cờ khi tên tuổi của Sàriputta được gắn liền với sự ra đời của văn học Luận tạng.

3. Tất cả những danh từ này có nghĩa là sự tạm thời dằn dẹp các nhiễm ô nhờ năng lực thiền định chứ không phải sự hoàn toàn giải thoát ô nhiễm do đoạn tận chúng bằng A la hán đạo, điều mà tôn giả Sàriputta còn phải chứng đạt.

4. Sự vượt xa hơn nữa ở đây là thiền chứng kế tiếp, tức nhị thiền.

5. Theo ấn bản BBS (Đại tạng Miến Điện) là passaddhattà cetaso anàbhogo, mà Kinh sớ giải là tâm còn có lạc ở tam thiền bây giờ được xem là vẫn còn thô, và khi lạc ấy lắng xuống thì tâm có sự an tịnh nhờ xả. Ấn bản hội PTS là passivedanà, rõ ràng sai.

6. Cần phải sử dụng phương pháp nội quán gián tiếp này để quán sát Phi tưởng phi phi tưởng, thiền vô sắc thứ tư vì nó vô cùng vi tế, các thánh đệ tử không thể trực tiếp tra tầm được, mà chỉ có chư Phật toàn giác mới có thể trực tiếp quán sát nó.

7. Kinh sớ đưa ra giải thích sau về đoạn kinh này, do các trưởng lão của xứ Ấn truyền lại: Trưởng lão Xá Lợi Phất tu chỉ quán song hành và đã chứng quả Bất hoàn. Rồi ngài nhập định Diệt thọ tưởng và sau khi xuất định này, đã chứng quả A la hán.

8. Vì trong định Diệt thọ tưởng không còn thiền chi nào cả, nên Kinh sớ nói các pháp này chắc phải ám chỉ các sắc pháp sinh trong khi tôn giả chứng diệt định, hoặc ám chỉ các tâm pháp thuộc định chứng vô sắc thứ tư trước đấy.

9. Hãy chú ý sự thực chứng rằng không còn giải thoát nào cao hơn sự chứng đắc A la hán quả.

10. Vasippatto pàramipatta, tối thắng rốt ráo (ba la mật).

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật gọi chúng tỷ kheo

Ngợi khen Xá Lợi Phất

Bậc trí tuệ siêu phàm

An trú bất đoạn quán.

Vị ấy chứng sơ thiền

An trú không gián đoạn

Các pháp thuộc sơ thiền:

Tầm tứ hỷ lạc định

Xúc (tác) ý thọ tưởng tư

Dục thắng giải niệm xả

Rõ biết sinh trú diệt

Không tham luyến chống đối

An trú tâm vô hạn

Biết còn pháp cao hơn

Còn có việc phải làm.

Vị ấy chứng nhị thiền

Cho đến Phi phi tưởng

Cũng thái độ như trên:

Giải thoát không chấp thủ.

Xuất khởi Phi phi tưởng

Chứng Diệt thọ tưởng định

Khi xuất khởi Diệt định

Quán sát các pháp này

Từ không mà ra có

Có lại trở về không

An trú tuệ giải thoát

Không còn việc phải làm.

Tôn giả Xá Lợi Phất

Con chính tông của Phật

Thừa tự Pháp Như Lai

Chuyển pháp luân vô thượng.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 112

Sáu thanh tịnh

I. TOÁT YẾU

Chabbisodhana Sutta - The Sixfold Purity.

The Buddha explains how a bhikkhu should be interrogated when he claims final knowledge and how he would answer if his claim is genuine.

Sáu sự thanh tịnh.

Phật giảng cách chất vấn một tỷ kheo khi vị ấy tuyên bố đã đạt trí tối hậu; nếu đúng thật thì vị ấy phải trả lời như thế nào.

II. TÓM TẮT

Phật dạy chúng tỷ kheo: Nếu có vị nào tuyên bố đã đoạn tận lậu hoặc, việc làm đã xong, thì khi nghe vậy không nên khen hay bác bỏ, mà nên hỏi lại vị ấy những vấn đề như sau. Họ thấy, nghe, nghĩ, biết [1] những gì mà tuyên bố như vậy? Trả lời chân chính là: Ðối với những gì thấy nghe nghĩ biết (kiến văn giác tri) họ không ái luyến không chống đối, không bị chúng trói buộc, an trú với tâm không hạn lượng [2]. Ðược trả lời như vậy, cần hỏi tiếp là thái độ của họ thế nào đối với năm thủ uẩn. Cần trả lời đã đoạn trừ tâm cố chấp và tùy miên [3] đối với chúng vì biết chúng vô thường, biến hoại. Vấn đề thứ ba là về sáu giới (địa thủy hỏa phong không và thức), họ phải thấy là địa giới không phải tự ngã, tự ngã không tùy thuộc vào địa giới [4] (cũng vậy với năm giới còn lại). Vấn đề thứ tư là sáu xúc xứ (căn trần thức, tức mười tám giới), câu trả lời chân chính là: đối với mắt, sắc, nhãn thức, và các pháp được nhận thức bởi nhãn thức [5], họ đã đoạn tận dục tham hỷ ái, thiên chấp, tùy miên (cũng vậy với năm căn trần thức còn lại) nên biết tâm đã giải thoát. Thứ năm là đối với thức thân và tướng ngoài, làm sao biết đã đoạn mạn tùy miên tôi là người làm, sở thuộc của tôi là người làm [6]? Trả lời câu này, họ phải kể lại tuần tự việc xuất gia với lòng tin, thành tựu thánh giới uẩn, đắc bốn thiền [7] cho đến thấy như thật bốn chân lý và nhờ quán sát với trí tuệ, tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, khởi lên hiểu biết: Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không còn đời sống nào khác nữa. Khi ấy, nên tán thán: Thật lợi ích thay cho chúng tôi được thấy một vị Phạm hạnh như tôn giả. [8]

III. CHÚ GIẢI

1. Xem số 17.

2. Cũng như trong kinh 111 đoạn 4, nhưng ở đây các từ này cốt diễn đạt sự đoạn tận nhiễm ô nhờ A la hán đạo.

3. Theo kinh sớ, tất cả từ này đều có nghĩa ái và kiến.

4. Phần đầu phủ nhận sự xem địa đại là tự ngã, phần hai phủ nhận xem các sắc và tâm pháp ngoài địa đại là tự ngã. Cũng thế với các đại khác.

5. Kinh có vẻ như trùng lặp khi đã nói sắc lại còn nói thêm các pháp được tâm nhận biết bằng nhãn thức. Sớ giải đưa ra hai quan điểm để giải quyết vấn đề. Một quan điểm cho rằng sắc là chỉ cho mọi vật thực sự đi vào nhận thức, còn các pháp có thể nhận biết bằng nhãn thức là những vật thấy được nhưng đã chấm dứt trước khi được thấy. Quan điểm thứ hai nói Sắc chỉ tất cả hình dạng không phân biệt, còn nhóm từ thứ hai là ba tâm uẩn hoạt động cùng với nhãn thức.

6. MA (Sớ giải Trung bộ) giải thích tôi làm (ahankàra) là mạn còn của tôi làm (mamankàra) là tham. Mọi tướng (nimitta) ngoài chỉ cho ngoại vật.

7. Túc mạng trí và sinh tử trí ở đây được gạt bỏ vì câu hỏi đầu tiên liên hệ đến sự chứng quả A la hán chứ không nói các định chứng thuộc thế gian.

8. MA cho rằng kinh này còn gọi là Ekavissajjitasutta; và thấy khó giải thích con số sáu trong nhan đề nguyên thủy, vì trong kinh chỉ có năm câu hỏi đáp. Có thể chia mục cuối thành hai, là thân với thân thức của mình và thân thức người khác. Hoặc có quan điểm cho rằng bốn chân lý có thể được xem là vấn đề thứ sáu. Nhưng cả hai quan điểm đều không ổn, nên rất có thể là có một đoạn đã thất truyền.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật dạy chúng tỷ kheo

Nếu có người tuyên bố

Sinh tận, phạm hạnh thành

Không nên khen, hoặc bác.

Nên hỏi họ thấy gì

Nghe, nghĩ, biết những gì

Ðể tự xưng giải thoát

Không còn việc phải làm?

Cần trả lời chân chính:

Tôi không khởi ưa chán

Ðối kiến văn giác tri

Hằng trú tâm vô hạn.

Ðối với năm thủ uẩn

Thấy vô thường biến hoại

Tôi đoạn trừ cố chấp

Tâm giải thoát não phiền.

Với sáu giới trong ngoài

(Bốn đại và không, thức)

Không chấp đấy là tôi

Hay tự ngã của tôi.

Với sáu nội ngoại xứ

(tức là mười tám giới)

Tôi rũ sạch hỷ tham

Tự biết đã giải thoát.

Nhưng làm sao biết được

Ðã dứt mạn tùy miên:

Ta chính là người làm

Sở thuộc ta, người làm?

Với lòng tin xuất gia

Tôi thành tựu thánh giới

Chính niệm và tỉnh giác

Trong tất cả uy nghi.

Thiền định nơi vắng vẻ

Gột trừ năm triền cái

Chứng cho đến tứ thiền

Tâm hướng trí lậu tận.

Như thật biết bốn đế

Tâm giải thoát dục lậu

Hữu lậu, vô minh lậu

Biết việc làm đã xong.

Do thấy biết như trên

Ðối với thức thân này

Và tất cả ngoại tướng

Tôi dứt mạn tùy miên.

Ðược trả lời như trên

Hãy thốt lời ngợi khen:

Lành thay cho chúng tôi

Gặp người như tôn giả.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 113

Kinh Chân nhân

I. TOÁT YẾU

Sappurisa Sutta - The True Man.

The Buddha distinguishes the character of a true man from that of an untrue man.

[Phật giản biệt đặc tính của một người chân chính khác với người bất chính.]

II. TÓM TẮT

Phật giảng về chân nhân và phi chân nhân [1]. Phi chân nhân thì tự hào vì mình xuất gia từ một gia đình cao sang, nên khen mình chê người. Cũng vậy, tự hào về giai cấp (dòng họ), danh tiếng, lợi lộc, đa văn, trì luật, thuyết pháp, khổ hạnh [2], chứng thiền cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tự cho ta được như vậy, các tỷ kheo khác không được, nên khen mình chê người. Chân nhân thì lấy đạo làm chính yếu, nên không nghĩ vì thuộc gia đình cao sang, dòng họ cao quý, danh tiếng... cho đến chứng các thiền, mà tham sân si được đoạn trừ, do vậy không khen mình chê người. Vị ấy nhớ lời Phật dạy rằng sự thật về mọi thứ luôn luôn khác với những gì được quan niệm về chúng [3], nên vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng, chứng Diệt thọ tưởng định [4], và sau khi thấy với trí tuệ, lậu hoặc đoạn trừ. Vị ấy không nghĩ mình là bất cứ gì, không nghĩ đến bất cứ việc gì [5].

III. CHÚ GIẢI

1. Sappurisađhamma và asappurisadhamma.

2. Tức 13 khổ hạnh đề cập trong Thanh tịnh đạo, chương II.

3. MA giải thích atammayatà không đồng hóa, không bao gồm trong đó, có nghĩa là vắng mặt khát ái. Nhưng theo đoạn văn này có lẽ là vắng bóng ngã mạn thì đúng hơn. Câu vì dù chúng quan niệm thế nào đi nữa thì sự thực bao giờ cũng khác hơn (yena yena hi mannati tato tam hoti annathà) là một ẩn ngữ triết học còn xuất hiện trong Tiểu bộ kinh 588 và Ud. 3. Luận Udàna giải thích nó có nghĩa rằng dù phàm phu quan niệm thế nào về các uẩn, là ngã hay ngã sở thuộc vv, sự thực vẫn khác với những gì người ta gán cho nó: nó không là tôi hay của tôi.

4. Cần ghi chú rằng không có chuyện người phi chân mà lại nhập định Diệt thọ tưởng được. Khác với bốn thiền và bốn định vô sắc mà phàm phu cũng chứng được, định Diệt thọ tưởng là phạm vi chỉ dành cho những vị đã chứng quả Bất hoàn và A la hán.

5. Na kinci mannati, na kuhinci mannati, na kenaci mannati. Ðây là một lời ngắn ngọn về cùng một trạng thái đã được mô tả đầy đủ trong kinh Trung bộ 1. Về tưởng tri, xem chú thích số 6.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật giảng về chân nhân

Và phi chân nhân pháp.

Phi chân nhân xuất gia

Tự hào về đủ thứ:

Ta gia đình cao sang

Tỷ kheo khác hèn hạ

Do tư duy như vậy

Nên khen mình chê người.

Về giai cấp dòng họ,

Danh tiếng và lợi lộc

Ða văn, khéo giữ giới,

Thuyết pháp và khổ hạnh

Nghĩ không ai bằng mình.

Chân nhân thì suy nghĩ

Không do các pháp ấy

Tham sân si đoạn trừ

Cốt yếu là hành đạo.

Với tư duy như vậy

Không khen mình chê người

Thấy ai hành đúng pháp

Cũng cần đáng tán dương.

Khi chứng đắc các thiền

Cho đến Phi phi tưởng

Phi chân nhân tự mãn

Cho không ai bằng mình.

Chân nhân không như vậy

Khi chứng đắc tứ thiền

Cho đến Phi phi tưởng

Vẫn với tâm vô tham.

Nhờ thế vượt Phi tưởng,

Chứng Diệt thọ tưởng định

Lậu hoặc được đoạn trừ

Ðạt hoàn toàn giải thoát.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 114

Nên hành trì, không nên hành trì

(Sevitabha-sevitavhasuttam)

I. TOÁT YẾU

Sevitabbàsedvitabba Sutta - To Be Cultivated and Not To Be Cultivated.

The Buddha sets up three brief outlines of things to be cultivated and not to be cultivated, and the venerable Sariputta fills in the details.

Nên đào luyện và không nên đào luyện.

Phật nêu vắn tắt ba toát yếu về những pháp cần đào luyện và không cần, rồi tôn giả Xá lợi Phất nói chi tiết đầy đủ.

II. TÓM TẮT

Phật dạy đối với mười pháp sau đây [1] là thân hành, khẩu hành, ý hành, tâm sinh, tưởng đắc, kiến đắc, ngã tính đắc, sáu đối tượng giác quan (sắc thanh hương vị xúc pháp), bốn vật dụng và người giao du - đều có hai loại, nên và không nên đào luyện [2]. Không nên là khi luyện nó, ác pháp tăng, thiện pháp giảm và nên là ngược lại.

Tôn giả Xá Lợi Phất triển khai lời dạy ấy như sau: Về thân hành, không nên sát sinh, trộm cắp, tà hạnh trong các dục. (Và từ bỏ những nghiệp ấy là điều nên làm, đối với các pháp sau cũng vậy.) Về khẩu hành, không nên nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, nói vô ích. Về ý hành, không nên tham tài vật, sân muốn hại kẻ khác, và có tà kiến [3] như không tin có bố thí, nhân quả, cha mẹ, đời này đời sau, các bậc thánh hiền. (Nên làm là ý hành ly tham, bất hại và có chính kiến, ngược với tà kiến nói trên.) Tâm sinh không nên đào luyện là tâm gì khiến cho ác pháp tăng, thiện pháp giảm; như người có tham [4] sống với tâm thấm nhuần tham, (với sân và hại cũng vậy). Tưởng đắc không nên luyện là tưởng đi kèm dục, sân, hại; ngược lại nên đào luyện tưởng ly dục, vô sân, bất hại. Kiến đắc không nên có tà kiến cho rằng không có bố thí vân vân; kiến đắc nên có là chính kiến như trên. Ngã tính đắc [5] không nên có là tính đắc có hại, làm cho bất thiện pháp tăng, thiện pháp giảm, ngăn cản sự chấm dứt sinh tử luân hồi [6] nên có là ngã tính đắc vô hại, khiến thiện pháp tăng, bất thiện pháp giảm. Về sáu đối tượng giác quan (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp do mắt tai mũi lưỡi thân ý nhận thức) cũng có hai loại không nên tiếp xúc và nên tiếp xúc. Sắc không nên tiếp xúc [7] là khi sự tiếp xúc nó làm bất thiện pháp tăng, thiện pháp giảm, nên tiếp xúc là ngược lại. Với năm đối tượng còn lại là (pháp thứ chín, mười trong bảng lược kê ở đầu) y thực sàng tọa, người giao du cũng vậy.

Phật khen ngợi sự triển khai của tôn giả Xá Lợi Phất, và dạy rằng ai hiểu lời dạy một cách chi tiết [8] sẽ được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài.

III. CHÚ GIẢI

1. Ðoạn đầu này chỉ đưa ra một mục lục sẽ triển khai trong toàn bản kinh.

2. Ananamannam. Hai cái loại trừ nhau, không thể xem cái này với cái kia là một được.

3. Mặc dù tà kiến và chính kiến thường được bao gồm dưới mục Giới, trong kinh này chúng được trình bày riêng rẽ ở đoạn kiến đắc là sự thủ đắc quan điểm.

4. Trong khi tham và sân nói ở đoạn ý hành có năng lực của một nghiệp đạo, thì ở đoạn nói về tâm sinh, chúng được hiển thị mới trong giai đoạn sơ khởi, như những khuynh hướng chưa phát nghiệp.

5. Attabhàvapatilabha, sự thủ đắc cá thể, ở đây chỉ cho sự tái sinh.

6. Aparinitthitabhàva. Từ ngữ bất thường này được dịch theo chú thích của MA.

7. Sự khác nhau không nằm ở đối tượng mà ở phương pháp tiếp cận đối tượng. Với người này tham dục và các nhiễm ô khác khởi lên đối với một sắc nào đó, nhưng cùng một sắc ấy một người khác lại khởi tâm nhàm chán, ly tham khi tiếp xúc.

8. MA: Người nào nghiên cứu kinh và luận giải kinh này mà không tu tập theo đó thì không thể gọi là đã hiểu ý nghĩa chi tiết của kinh. Chỉ những người tu tập theo lời dạy trong đó thì mới gọi là hiểu ý nghĩa chi tiết.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật dạy về hai loại

Nên, không nên hành trì

Với các pháp như sau

Tỷ kheo nên xét kỹ.

Trước tiên nên vắn tắt:

Thân khẩu và ý hành,

Tâm sinh và tưởng đắc

Kiến đắc, ngã tính đắc

Sáu đối tượng giác quan

Bốn vật dụng thường dùng

Và hạng người giao du

Ðều có đáng, bất đáng.

Những gì không nên làm

Vì đưa đến hậu quả

Thiện giảm bất thiện tăng

Nên làm là ngược lại.

Thân hành không nên làm

Là giết, trộm, tà dâm

Khẩu hành dối, hai lưỡi,

Ác khẩu, lời phù phiếm

Ý hành tham sân hại

Tà kiến bác nhân quả

Từ bỏ các sự ấy

Là pháp nên hành trì.

Những tâm sinh bất đáng

Khiến ác tăng thiện giảm

Như người có lòng tham

Lại sống với tâm tham

(Cũng vậy sân và hại)

Tâm sinh nên hành trì

Là sống tâm ly tham

Vô sân và bất hại.

Tưởng đắc không nên hành

Là dục sân hại tưởng

Tưởng đắc đáng hành trì

Xa lìa dục sân hại.

Kiến đắc không nên có

Tà kiến bác nhân quả

Bác cha mẹ, thánh hiền

Ngược lại là chính kiến.

Ngã tính đắc không nên

Là thứ nào có hại

Không chấm dứt luân hồi.

Nên hành thứ vô hại,

Khiến thiện tăng, ác giảm.

Ðối với sáu đối tượng

Do giác quan nhận thức:

Sắc không nên tiếp xúc

Là khi tiếp xúc nó

Ác pháp tăng thiện giảm

Nên xúc là ngược lại.

Với những gì còn lại:

Thanh hương vị xúc pháp

Bốn vật dụng thường ngày

Và chỗ, người giao du

Chiếu theo đây nên biết.

Phật dạy Xá Lợi Phất

Ai hiểu rộng lời này

Sẽ an lạc dài lâu.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 115

Ða giới

I. TOÁT YẾU

Bahudhàtuka Sutta - The Many Kinds of Elements.

The Buddha expounds in detail the elements, the sense bases, dependent origination, and the kinds of situations that are possible and impossible in the world.

Nhiều loại yếu tố.

Phật giảng chi tiết về (mười tám) giới, (mười hai) xứ, duyên khởi, và những trường hợp có thể, không thể xảy ra ở đời.

II. TÓM TẮT

Phật dạy tất cả những sự sợ hãi, thất vọng và hoạn nạn chỉ sinh khởi cho kẻ ngu, không phải cho người hiền trí, cũng như lửa lan từ một ngôi nhà cỏ và đốt nó cháy rụi. Bởi thế, các tỷ kheo hãy phát tâm trở thành người hiền, biết suy tư tìm hiểu. Tôn giả A Nan hỏi thế nào là hiền. Phật dạy, ấy là khi tỷ kheo thiện xảo về Giới [1], xứ, duyên khởi và về xứ phi xứ.

- Thiện xảo về Giới là biết rõ mười tám giới (sáu căn, sáu trần, sáu thức); hoặc sáu giới (bốn đại thêm không, thức); hoặc sáu giới là lạc, khổ, hỷ, ưu, xả, và vô minh [2], hoặc dục sân hại, ly dục vô sân bất hại [3]; ba giới là dục, sắc, vô sắc [4]; hoặc hai giới là hữu vi, vô vi [5].

- Xứ có sáu nội ngoại xứ là mắt và sắc tai và tiếng... cho đến ý và pháp [6].

- Duyên khởi có 12 nhân duyên.

- Xứ phi xứ là biết rõ chuyện có thể xảy ra hoặc không thể xảy ra như sau:

Không thể có việc thành tựu chính kiến [7] mà lại xem các hành là thường, lạc [8], ngã; phạm năm tội nghịch; đề cao một đạo sư khác. Phàm phu thì có thể phạm những sai lầm này, xem một pháp nào đó là ngã [9] và giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá tăng hòa hợp, và làm thân Phật chảy máu [10] hoặc đề cao một đạo sư khác [11].

Cũng không thể có chuyện trong một thế giới mà đồng thời xuất hiện hai vị Phật [12], hai vua Chuyển luân. Cũng không thể có chuyện nữ nhân mà thành Phật [13], Ma Vương, Ðế thích, Phạm thiên. Không thể có chuyện do nhân duyên [14] nghĩ, làm, nói ác mà được quả vui và sinh vào cõi lành hay ngược lại. Những điều ngược lại thì có thể xảy ra.

Khi được hỏi tên pháp môn này là gì, Phật dạy nên gọi là Ða giới, hoặc Bốn chuyển [15], Pháp kính, hoặc Trống bất tử, hoặc Vô thượng chiến thắng.

III. CHÚ GIẢI

1. Mười tám giới được giải thích chi tiết trong TTD chương 15. Vắn tắt, ý giới (manodhàtu) theo Luận, bao gồm ngũ môn hướng tâm (pancadvàràvajjana-citta) và ý thức tiếp thu đối tượng sau khi các giác quan đã nhận biết. Ý thức giới (manovinnànadhàtu) thì bao gồm mọi loại thức trừ năm thân thức và ý giới. Pháp giới (dhammadhàtu) bao gồm các loại vi tế sắc không ở trong tầm nhận biết của giác quan, ba tâm uẩn thọ tưởng hành, và Niết bàn. Nó không gồm các quan niệm, ý tưởng trừu tượng, phán đoán, vv. Mặc dù những thứ sau này được gồm trong khái niệm về tâm pháp (đối tượng của tâm), pháp giới chỉ gồm những gì có tự tính, không bao gồm những gì do tâm tạo nên.

2. Lạc và khổ giới là lạc thọ và khổ thọ của thân, hỷ và ưu giới là vui khổ của tâm, xả giới là cảm thọ không vui không khổ. Theo MA, vô minh được đưa vào đây vì nói có vẻ giống với xả giới.

3. Vibhanga định nghĩa đây là sáu loại tầm (vitakka) tương ứng, xem Trung bộ 19, đoạn 2.

4. MA giải thích dục là năm uẩn thuộc dục giới, sắc là năm uẩn thuộc sắc giới, vô sắc là bốn uẩn thuộc vô sắc giới.

5. MA: hữu vi giới bao gồm mọi pháp do duyên sinh và là tên gọi ám chỉ năm uẩn. Vô vi giới là niết bàn.

6. Mười hai xứ được TTD giải thích trong chương 15. Ý xứ bao gồm mọi loại thức và như vậy nó gồm cả bảy giới làm nhiệm vụ của thức. Pháp xứ cũng như pháp giới.

7. MA: một người có chính kiến (ditthisampanno) là có kiến thuộc đạo, tối thiểu là một thánh đệ tử đã đắc quả Dự lưu. Hành đây cần hiểu là một hành hữu vi, nghĩa là bất cứ pháp duyên sinh nào.

8. MA nêu lên rằng một thánh đệ tử chưa chứng A la hán cũng còn có thể xem các hành là lạc với tâm không tương ưng tà kiến, nhưng vị ấy không thể giữ cái quan niệm rằng bất cứ hành nào cũng là khả lạc. Mặc dù tưởng và ý hành khả lạc có khởi lên trong tâm, vị ấy vẫn phản tỉnh để biết thế là lầm.

9. Trong đoạn nói về tự ngã, chữ hành được thay bằng chữ pháp. Theo MA, sở dĩ như vậy vì để bao gồm cả những khái niệm như tướng về Kasina vân vân mà phàm phu dễ xem là tự ngã. Nhưng xét sự kiện Niết bàn được mô tả là bất tử và lạc, và cũng dễ bị tưởng là ngã (xem kinh số 1), nên chữ hành có thể nói chỉ bao gồm các pháp hữu vi, còn chữ pháp thì gồm cả hữu vi và vô vi. Nhưng lối giải thích này không có trong luận giải của luận sư TTÐ.

10. Ðoạn này phân biệt phàm phu với thánh đệ tử trên phương diện năm tội nghịch. Theo MA, một thánh đệ tử thì không thể nào cố ý đoạt bất cứ sinh mạng của chúng sinh nào, nhưng ở đây nêu lên việc giết cha mẹ để nhấn mạnh khía cạnh nguy hiểm của cương vị phàm phu và năng lực của thánh đệ tử.

11. Nghĩa là có thể thừa nhận bất cứ ai ngoài Phật làm Vô thượng sư.

12. MA: Không thể nào có một vị Phật khác ra đời kể từ thời gian một Bồ tát nhập thai mẹ lần cuối cho đến khi giáo lý của Ngài hoàn toàn biến mất.

13. Lời này chỉ xác quyết rằng một vị Phật toàn giác luôn luôn thuộc nam tánh, nhưng không phủ nhận một người hiện tại là phụ nữ có thể thành Phật trong tương lai. Nhưng muốn thế thì trước hết người ấy phải tái sinh thành nam tử.

14. Trong đoạn này, cái câu do nhân ấy do duyên ấy (tannidàna tappaccayà) là hết sức quan trọng. Như Phật sẽ cho thấy trong kinh 136, một người phạm ác hành có thể tái sinh lên thiên giới và người làm thiện hành có thể tái sinh vào đọa xứ. Nhưng trong các trường hợp này, sự tái sinh là do nguyên nhân một nghiệp khác với nghiệp người ấy thường làm. Sự đúng luật sát sao chỉ áp dụng cho nghiệp và quả của nó.

15. Bốn chuyển là Giới, Xứ, Duyên sinh và Xứ phi xứ (việc có thể xảy ra, không thể xảy ra)

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Tất cả những sợ hãi

Thất vọng và tai ương

Chỉ đến cho kẻ ngu,

Không phải cho người trí.

Như từ căn lều cỏ

Dù đẹp xinh kiên cố

Một đóm lửa nổi lên

Cũng đốt tan tành nó

Bởi thế, hãy quyết tâm

Trở thành một người hiền

Biết suy tư tìm hiểu

Ðây là lời Phật dạy.

Hiền trí là thiện xảo

Về Giới, xứ, duyên khởi

Việc có thể xảy ra

Và không thể xảy ra.

Giới là mười tám giới:

Mắt sắc và nhãn thức

Ý, pháp và ý thức

Cộng thành mười tám giới.

Lại có sáu loại giới

Bốn đại thêm không, thức

Biết rõ các thứ ấy

Là thiện xảo về giới.

Lạc khổ hỷ ưu xả

Cuối cùng thêm vô minh

Là sáu giới thuộc tâm

Các tỷ kheo nên biết.

Dục, sắc và vô sắc

Ðây gọi là ba giới

Hữu vi và vô vi

Ðây gọi là hai giới.

Xứ gồm sáu trong ngoài

Con mắt và hình sắc

Lỗ tai và âm thanh

Cho đến ý và pháp.

Thiện xảo về duyên khởi:

Ðây có tức kia có

Ðây sinh thì kia sinh

Ðây không thì kia không

Ðây diệt, kia cũng diệt.

Do vô minh, sinh hành,

Do hành sinh, thức sinh

Do thức, danh thức sinh

Do danh sắc, sáu nhập

Do sáu nhập, có xúc

Do xúc mà có thọ

Do thọ mà có ái

Do ái mà có thủ

Do thủ mà có hữu

Do hữu mà có sinh

Do sinh có già chết

Sầu bi khổ não ưu.

Vô minh diệt hành diệt

Hành diệt thì thức diệt

Thức diệt, danh sắc diệt

Cho đến già chết diệt.

Ðây là sinh và diệt

Của toàn đống khổ này.

Tỷ kheo biết như vậy

Thiện xảo về duyên sinh.

Thiện xảo Xứ phi xứ

Là tỷ kheo biết rõ

Chuyện có thể xảy ra

Và không thể xảy ra:

Thành tựu chính tri kiến

Thì không thể quan niệm

Có thường, lạc, và ngã

Trong các pháp hữu vi;

Hoặc phạm năm tội nghịch;

Ðề cao đạo sư khác.

Cũng không thể có chuyện

Ðồng thời, trên thế giới

Xuất hiện hai vị Phật,

Hai Chuyển luân thánh vương.

Cũng không thể có chuyện

Nữ nhân mà thành Phật,

Thành Ma vương, Ðế thích

Hoặc vua trời Phạm thiên.

Cũng không thể có chuyện

Do nghĩ, nói, làm, ác

Mà được quả an vui

Và sinh vào cõi lành

Do nghĩ nói làm thiện

Mà gặp quả đau khổ

Và sinh vào đọa xứ.

Việc có thể xảy ra

Là những điều ngược lại.

Kinh này tên Ða giới

Hoặc Pháp kính, Bốn chuyển

Hoặc tên Trống bất tử

Tỷ kheo hãy thọ trì.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 116

Thôn Tiên Isigilisatta [1]

I. TOÁT YẾU

Isigili Sutta - Isigili - The Gullet of the Seers.

An enumeration of the names and epithets of paccekabuddhas who formely dwelt on the mountain Isigili.

Vật nuốt những vị tiên.

Kể ra tên và đặc điểm các vị Phật Độc giác trước kia đã cư trú trên núi Thôn tiên.

II. TÓM TẮT

Khi ở thành Vương Xá, trên núi Isigili, Phật chỉ cho các tỷ kheo những ngọn núi vây quanh thành, là núi Vebhàra [2] (Phụ trọng), Pandava (Bạch thiện), núi Vepulla (Quảng phổ), núi Gijjhakùta (Linh thứu) và dạy chúng: Những núi này xưa kia có tên khác, nay tên khác, duy chỉ ngọn núi Isigili thì xưa nay vẫn vậy. Phật kể lai lịch cái tên này như sau. Thuở xa xưa có năm trăm vị Ðộc giác Phật [3] sống trong núi này một thời gian khá dài. Họ được thấy đi vào trong núi rồi không thấy trở ra, nên quần chúng đã bảo nhau: Ngọn núi này đã nuốt những ẩn sĩ (Ime isigilatìti) [4]. Do vậy nó có tên là Thôn tiên. Và Phật kể danh xưng mười ba vị Phật độc giác đã trú lâu ngày trong núi ấy: Arittha, Uparittha, Tagarasikhì [5], Yasassì, Sudassana, Piyadassì, Gandhàra, Pindola, Upàsabha, Nitha, Tatha, Sutavà và Bhàvitatta [6]. Ngoài ra còn nhiều vì độc giác và ẩn sĩ khác nữa. Họ là những tinh hoa của hữu tình đã nhổ mũi tên khổ và dứt sạch tham ái, tự mình chứng đắc giải thoát, những vị đã đoạn tận tái sinh, từ bỏ chấp thủ nguồn gốc của đau khổ, đánh bại quân ma, những bậc vô cấu đoạn trừ tai nạn, có can đảm phi thường, thọ thân sau chót, đã đoạn kết sử, đã thắng mọi chiến trận, đã đạt đến Niết bàn.

III. CHÚ GIẢI

1. Ở Tích Lan kinh này được tụng thường xuyên làm kinh cầu an.

2. Núi này và núi sau đó là những ngọn núi bao quanh thành Vương xá.

3. Ðộc giác Phật là một vị tự mình đạt giác ngộ giải thoát không nhờ Pháp do Phật giảng. Vị ấy không thể giảng dạy Pháp cho người và cũng không thể thiết lập nền giáo lý. Ðộc giác Phật chỉ xuất hiện vào thời trên thế gian không còn có Phật pháp.

4. Hán dịch là thôn tiên, trong đó thôn là nuốt trộng.

5. Tagarasikhin được nhắc đến trong Ud5 và SN3.

6. Nanamoli nhận xét rằng nếu không có luận giải thì thật rất khó mà phân biệt tên riêng và đặc điểm của các vị Phật độc giác.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Khi ở thành Vương xá

Từ đỉnh núi Thôn tiên

Phật chỉ các ngọn núi

Vây quanh thành Vương xá:

Vebhàra (Phụ trọng)

Pandava (Bạch thiện)

Vepulla (Quảng phổ)

Gijjakùta (Linh thứu)

Những núi này xưa kia

Ðều mang những tên khác

Duy có tên Thôn tiên

Trước sao nay vẫn vậy.

Do đâu có tên này

Là I-si-gi-li (Thôn tiên)?

Xưa năm trăm Ðộc giác

Tu trong này khá lâu.

Họ đã vào trong núi

Rồi không thấy trở ra

Nên quần chúng bảo nhau:

Núi này nuốt (thôn) ẩn sĩ.

Và Phật kể danh xưng

Mười ba vị độc giác

Ðã trú trong núi ấy

Cùng nhiều ẩn sĩ khác.

Họ là những tinh hoa

Của tất cả hữu tình

Ðã nhổ mũi tên khổ

Và dứt sạch tham ái;

Ðã tự mình chứng đắc,

Ðã đoạn tận tái sinh

Ðã từ bỏ chấp thủ

Nguồn gốc của khổ đau;

Ðã đánh bại quân ma,

Ðã đoạn trừ tai nạn

Có can đảm phi thường

Thọ hình hài sau chót

Những con người vô cấu

Ðã đoạn hữu kết sử,

Ðã thắng mọi chiến trận

Ðã đạt đến Niết bàn.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 117

Ðại tứ thập

I. TOÁT YẾU

Mahàcattàrìsaka Sutta - The Great Forty.

The Buddha defines the factors of the Noble Eightfold Path and explains their inter-relationships.

Số bốn mươi vĩ đại.

Phật định nghĩa các chi của thánh đạo tám ngành và giải thích tương quan giữa các chi phần ấy.

II. TÓM TẮT

Phật dạy các tỷ kheo về Ðịnh của bậc thánh [1], cùng những yếu tố hỗ trợ cho định, gồm bảy chính còn lại trong Bát chính đạo là Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến và chính niệm.

1. Về Chính kiến:

a. Chính kiến là yếu tố dẫn đạo [2], biết phân biệt giữa chính kiến và tà kiến thì gọi là chính kiến [3]. Tà kiến là không tin có bố thí, nhân quả, đời này đời sau, cha mẹ, thánh hiền.

b. Chính kiến gồm hai, là hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là loại chính kiến thuộc thế gian, thuộc phước báu, chấp thủ [4] như tin có bố thí vân vân, ngược với tà kiến nói trên. Còn chính kiến vô lậu [5] là cái thấy thuộc đạo nơi người đã thuần thục trong thánh đạo, có vô lậu tâm, thánh tâm.

c. Ai tinh tấn đoạn trừ tà kiến thành tựu chính kiến, gọi là chính tinh tiến. Ai chính niệm đoạn trừ tà kiến, an trú chính kiến, gọi là chính niệm. Vậy có ba yếu tố xoay quanh chính kiến, đó là chính kiến, chính tinh tiến và chính niệm [6].

2. Về Chính tư duy:

a. Chính kiến đi hàng đầu [7]: Biết phân biệt giữa chính tư duy và tà tư duy gọi là chính kiến. Tà tư duy là tư duy có dục, sân, hại. Chính tư duy là tư duy ly dục, vô sân, bất hại [8].

b. Chính tư duy có hai loại, hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là chính tư duy ly dục vô sân bất hại nói trên. Vô lậu là chính tư duy siêu thế, thuộc bậc thánh, thuộc đạo [9].

c. Tinh tiến đoạn trừ tà tư duy, thành tựu chính tư duy, gọi là chính tinh tiến. Chính niệm đoạn trừ tà tư duy, an trú chính tư duy, gọi là chính niệm. Như vậy cũng có ba yếu tố xoay quanh chính tư duy, là chính kiến, chính tinh tiến và chính niệm [10].

3. Về Chính ngữ:

a. Cần có chính kiến để phân biệt tà ngữ và chính ngữ. Tà ngữ là nói láo, hai lưỡi, ác khẩu, phù phiếm.

b. Chính ngữ có hai loại là hữu lậu, vô lậu. Chính ngữ hữu lậu là từ bỏ bốn ác khẩu nghiệp nói trên, đem lại phước báo. Chính ngữ vô lậu là sự viễn ly bốn loại tà ngữ nơi một bậc thánh có tâm siêu thế, thuộc đạo [11].

c. Tinh tiến trừ tà ngữ, thành tựu chính ngữ, gọi là chính tinh tiến. Chính niệm đoạn trừ tà ngữ, an trú chính ngữ, gọi là chính niệm. Vậy về chính ngữ cũng có ba yếu tố xoay quanh, là chính kiến, chính tinh tiến, chính niệm.

4. Về Chính nghiệp:

a. Chính kiến cũng đi trước để biết phân biệt giữa tà nghiệp và chính nghiệp. Tà nghiệp là sát đạo dâm.

b. Chính nghiệp cũng có hai loại, hữu lậu, thuộc phước báo, là từ bỏ ba tà nghiệp nói trên. Vô lậu là chính nghiệp thuộc siêu thế, thuộc đạo, sự viễn ly ba thân ác hành nơi một bậc thánh.

c. Ai tinh tiến đoạn trừ tà nghiệp, thành tựu chính nghiệp, gọi là tinh tiến. Chính niệm đoạn trừ tà nghiệp an trú chính nghiệp, gọi là chính niệm. Như vậy về chính nghiệp cũng có ba yếu tố khác xoay quanh là chính kiến, chính tinh tiến và chính niệm như trên.

5. Về Chính mạng:

a. Chính kiến cũng đi trước để phân biệt giữa tà mạng và chính mạng. Tà mạng nơi tỷ kheo là lừa đảo, nói mê ly, hiện tướng, gian trá, lấy lợi cầu lợi [12].

b. Chính mạng cũng có hai, hữu lậu và vô lậu. Từ bỏ tà mạng là chính mạng hữu lậu thuộc phước báo. Viễn ly tà mạng nơi vị tu tập thánh đạo, có vô lậu tâm, gọi là chính mạng siêu thế, thuộc đạo.

c. Ba yếu tố xoay quanh chính mạng cũng như trên.

6. Ðại tứ thập:

Chính kiến đi hàng đầu, vì nhờ có chính kiến mà sinh chính tư duy [13], do chính tư duy có chính ngữ, do chính ngữ có chính nghiệp, do chính nghiệp có chính mạng, do chính mạng có chính tinh tiến, do chính tinh tiến có chính niệm, do chính niệm có chính định, do chính định có chính trí, do chính trí có chính giải thoát. Như vậy là đạo lộ của hữu học gồm tám chi và của A la hán gồm mười chi [14].

Ở đây, trước tiên là chính kiến; Nơi người có chính kiến, tà kiến được từ bỏ, và những bất thiện do duyên tà kiến cũng được loại trừ. Những thiện pháp do chính kiến phát sinh được tu tập cho đến viên mãn... Nơi người có chính giải thoát, tà giải thoát và những bất thiện do tà giải thoát được từ bỏ, các thiện pháp do chính giải thoát phát sinh được tu tập cho đến viên mãn. Vậy có hai mươi thiện phần, hai mươi bất thiện [15] gọi là đại pháp môn bốn mươi.

Ðại pháp môn này đã được chuyển vận không bị chận đứng bởi bất cứ sa môn bà la môn nào trên thế giới, vì nếu ai bác bỏ nó ngay trong hiện tại sẽ bị chỉ trích với mười mệnh đề hợp pháp rằng: Bác bỏ chính kiến tức là xem các sa môn bà la môn có tà kiến đáng được tôn trọng, cúng dường... Bác bỏ chính giải thoát tức là xem các sa môn bà la môn tà giải thoát là đáng tôn trọng cúng dường. Ngay những người theo Vô nhân luận, hư vô luận như hai bậc thầy sống ở Okkala là Vassa và Bhanna [16] cũng không nghĩ pháp môn này là đáng chỉ trích.

III. CHÚ GIẢI

1. Ariyam samma2 samàdhim sa-upanisam saparikkhàram. MA giải thích chữ thánh ở đây có nghĩa là siêu thế, và nói đây là định thuộc đạo lộ siêu thế. Những điều kiện, chỗ dựa của nó là bảy đạo chi kia, như sẽ được hiển thị.

2. Pubhangamà: tiên phong. MA nói hai loại chính kiến đi tiên phong là chính kiến thuộc tuệ tra tầm các hành là vô thường khổ vô ngã; và chính kiến thuộc đạo khởi lên như là quả của tuệ quán đưa đến sự đoạn tận nhiễm ô. Chính kiến thuộc tuệ làm tiên phong dường như được hiển thị trong đoạn 4, 10, 16, 22 và 28; chính kiến thuộc đạo làm tiên phong được nói trong đoạn 34, 35.

3. Lời này gợi ý rằng muốn có được chính kiến về bản chất của thực tại thì trước hết phải biết phân biệt giữa tà giáo và chính giáo về bản chất vạn pháp. Theo MA đây là chính kiến thuộc tuệ, cái tuệ quán liễu tri tà kiến đối với một đối tượng là nhờ đi sâu vào tính vô thường khổ vô ngã của nó, và chính kiến là nhờ thi thố nhiệm vụ liễu tri ấy và nhờ đánh tan hoài nghi.

4. Ðây là chính kiến thế gian, một công đức đưa đến tái sinh tốt đẹp nhưng tự mình nó thì không đủ để vượt ra ngoài cõi hữu.

5. Ðịnh nghĩa này cho chính kiến siêu thế là tuệ giác bát nhã được tìm thấy trong các điều kiện đưa đến giác ngộ như là một căn, lực, giác chi và đạo chi. Chỗ khác, như kinh 141, chính kiến thuộc đạo được định nghĩa là tri kiến về Bốn chân lý. Ta có thể nói hiểu rõ khái niệm bốn chân lý là chính kiến thế gian, còn chính kiến xuất thế là sự thâm nhập 4 đế bằng đạo lộ thực chứng niết bàn.

6. MA: Chúng đi kèm chính kiến làm hàng đầu. Chính tinh tấn và chính niệm câu hữu với chính kiến siêu thế; chính kiến thuộc tuệ là tiên phong của chính kiến siêu thế.

7. MA giải thích đây là chính kiến thuộc tuệ, liễu tri chính tư duy qua nhiệm vụ của nó và bằng cách dẹp trừ hoang mang. Nhưng dường như vấn đề ở đây là cốt phân biệt rõ hai loại ý hành hay tư duy.

8. Ðây là định nghĩa chuẩn về chính tư duy kể như một trong bát chánh đạo, xem Trung 141.

9. Trong định nghĩa này, tư duy (sankappa) đồng nghĩa với tầm (vitakka), được giải thích xa hơn nữa là yếu tố đưa đến định an chỉ nhờ hướng tâm và dán chặt tâm trên đối tượng của nó. Về tầm ngữ như ngữ hành, xem Trung bộ 44.

10. MA: Lời này chỉ nói đến các pháp câu hữu với chính tư duy siêu thế. Trong giai đoạn chuẩn bị tu tập, thì ba chính tư duy thế gian khởi lên riêng rẽ, nhưng ở sát na đạo lộ siêu thế, một ý hành duy nhất khởi lên cắt đứt cả ba tà tư duy. Vậy chính tư duy siêu thế cũng có thể mô tả là tư duy về từ bỏ hay ly dục, vô sân và bất hại. Cũng vậy với chính ngữ vân vân.

11. Trong khi chính ngữ thế gian được thực hành theo bốn kiểu tùy loại tà ngữ phải tránh, vào sát na thuộc đạo lộ siêu thế, một yếu tố chính ngữ duy nhất làm cả bốn nhiệm vụ cắt đứt khuynh hướng đối với bốn loại tà ngữ. Cũng vậy với chính nghiệp.

12. Với tỷ kheo, có những cách bất chính khi xin nhu yếu phẩm được nói trong TTD I. MA nói các cách xin đề cập trong kinh không phải là loại tà mạng duy nhất, tà mạng này bao hàm bất cứ kiểu kiếm sống nào vi phạm giới luật Phật chế. Tăng chi 5 kể năm loại tà mạng của cư sĩ là buôn bán khí giới, chúng sinh, thịt, rượu và độc chất.

13. MA giải thích rằng với một người đã có chính kiến thuộc đạo thì đương nhiên sẽ có chính tư duy thuộc đạo; cũng thế người có chính kiến thuộc quả thì chính tư duy thuộc quả cũng xuất hiện. Tương tự với các chi phần kế tiếp ngoại trừ hai cái cuối đề cập đạo lộ siêu thế.

14. Hai yếu tố mà A la hán có thêm là chính trí (có thể xem là trí hồi quan rằng mình đã phá hủy các nhiễm ô) và chính giải thoát, các kinh nghiệm thân chứng rằng tâm giải thoát tất cả ô nhiễm.

15. Hai mươi thiện là mười chính và các thiện pháp phát xuất từ mỗi chính; còn hai mươi bất thiện là mười tà và các bất thiện pháp phát xuất từ mỗi tà. Do đây có tên Ðại tứ thập.

16. MA chỉ nói hai vị này là những người sống ở xứ Okkala.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật dạy các tỷ kheo

Về Ðịnh của bậc thánh

Cùng cận duyên, tư trợ

(những yếu tố giúp vào)

Gồm bảy chính còn lại

Trong con đường Bát chính.

1. Chính kiến đi hàng đầu:

Biết phân biệt tà, chính

Thì gọi là chính kiến.

Tà kiến là không tin

Có bố thí, nhân quả

Ðời này và đời sau

Cha mẹ và hiền thánh.

Chính kiến gồm hai loại

Thế gian và xuất thế

Chính kiến thuộc thế gian

Ngược tà kiến nói trên.

Thế gian là hữu lậu

Thuộc phước báo, chấp thủ

Còn chính kiến vô lậu

Thuộc thánh đạo, thánh tâm.

Siêng đoạn trừ tà kiến

Và thành tựu chính kiến

Gọi là chính tinh tiến;

Tâm chuyên nhất một niềm

Ðoạn tà, tu chính kiến

Ðược gọi là chính niệm.

Chính kiến, tinh tấn, niệm

Ði kèm theo chính kiến

Trong thánh chính định này.

2. Muốn có chính tư duy

Trước hết cần chính kiến

Biết thế nào tà tư

Và thế nào chính tư.

Tà tư duy: tư tưởng

Có dục, sân và hại.

Chính tư duy ly dục

Vô sân và bất hại.

Chính tư duy có hai

Hữu lậu và vô lậu

Hữu lậu là tư duy

Lìa dục sân và hại

Vô lậu là siêu thế

Tư duy thuộc thánh đạo.

Siêng trừ tà tư duy

Thành tựu chính tư duy

Gọi là chính tinh tiến;

Tâm chuyên nhất một niềm

Bỏ tà, tu tập chính

Ðược gọi là chính niệm.

Chính kiến, tinh tấn, niệm

Ði kèm chính tư duy

Trong thánh chính định này.

3. Chính ngữ cần chính kiến

Phân biệt tà, chính ngữ.

Tà nói dối, hai lưỡi

Ác khẩu và phù phiếm.

Từ bỏ bốn tà ngữ

Sẽ đem lại phước báo

Ðây Chính ngữ thế gian.

Còn Chính ngữ vô lậu

Là viễn ly bốn tà

Thuộc đạo tâm, siêu thế.

Siêng loại trừ tà ngữ

Và thực hành chính ngữ

Gọi là chính tinh tiến;

Tâm chuyên nhất một niềm

Bỏ tà, tu tập chính

Ðược gọi là chính niệm.

Chính kiến, tinh tiến, niệm

Ði kèm theo chính ngữ

Trong thánh chính định này.

4. Chính nghiệp cũng như trên

Cần trước tiên chánh kiến

Phân biệt tà, chính nghiệp:

Tà nghiệp sát đạo dâm

Từ bỏ sát đạo dâm

Là Chính nghiệp hữu lậu

Sẽ được hưởng phước báo.

Còn chính nghiệp vô lậu

Là viễn ly ác hành

Thuộc đạo tâm, siêu thế.

Siêng loại trừ tà nghiệp

Và thực hành chính nghiệp

Gọi là chính tinh tiến;

Tâm chuyên nhất một niềm

Bỏ tà, tu tập chính

Ðược gọi là chính niệm.

Chính kiến, tinh tiến, niệm

Ði kèm theo chính nghiệp

Trong thánh chính định này.

5. Chính mạng cần chính kiến

Phân biệt tà, chính mạng:

Lừa đảo, nói mê ly,

Hiện tướng và gian trá

Cùng lấy lợi cầu lợi

Năm cách khất thực ấy

Ðược gọi là tà mạng

Nơi một vị tỷ kheo.

Từ bỏ tà mạng ấy

Là chính mạng hữu lậu

Sự viễn ly tà mạng

Nơi vị tu thánh đạo,

Là chính mạng siêu thế.

Siêng loại trừ tà mạng

Và thực hành chính mạng

Gọi là chính tinh tiến;

Tâm chuyên nhất một niềm

Bỏ tà, tu tập chính

Ðược gọi là chính niệm

Chính kiến, tinh tiến, niệm

Ði kèm theo chính mạng

Trong thánh chính định này.

6. Trong đạo lộ hữu học

(với tám chi thánh đạo)

Hoặc đạo A la hán

(với mười chi thánh đạo)

Chính kiến cũng dẫn đầu:

Do vì có chính kiến

Mà có chính tư duy

Do chính tư, chính ngữ,

Do chính ngữ, chính nghiệp,

Do chính nghiệp, chính mạng

Do chính mạng, chính tiến

Do chính tiến, chính niệm

Do chính niệm, chính định

Do chính định, chính trí

Và do chính trí này

Mà có chính giải thoát.

Trước tiên là chính kiến

Nơi người có chính kiến

Tà kiến được từ bỏ

Và những pháp bất thiện

Do tà kiến sinh ra

Đồng thời được loại trừ

Tất cả các thiện pháp

Phát xuất từ chính kiến

Ðược tu tập viên mãn.

(Với chín pháp còn lại

Chính tư duy... giải thoát

Cũng triển khai như trên

Chiếu theo đây nên biết.)

Có hai mươi thiện phần

Và hai mươi bất thiện

Trong đại pháp bốn mươi

Ðược chuyển vận bất tuyệt

Bất cứ ai trên đời

Cũng không thể chận đứng.

Nếu có ai bác nó

Sẽ bị chỉ trích ngay

Với lý luận hợp pháp:

Ông bài xích chính kiến

Tức xem đáng tôn thờ

Những kẻ có tà kiến

Cho đến Chính giải thoát

Nếu ông bài xích nó

Tức xem đáng tôn thờ

Những kẻ tà giải thoát.

Ngay người Vô nhân luận

Cũng ngán pháp môn này.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 118

Nhập tức xuất tức niệm

I. TOÁT YẾU

Nàpànasati Sutta - Mindfulness of Breathing.

An exposition of sixteen steps in mindfulness of breathing and of the relation of this meditation to the four foundations of mindfulness and the seven enlightenment factors.

[Trình bày 16 bước trong pháp niệm hơi thở, tương quan giữa thiền pháp này với Bốn niệm xứ và Bảy giác chi.]

II. TÓM TẮT

Vào lễ tự tứ [1] đêm rằm, Phật ngồi giữa trời được vây quanh bởi một đại chúng gồm những vị thượng thủ danh tiếng. Ngài đưa mắt nhìn quanh rồi khen hội chúng này thật toàn hảo, đã đắc quả từ Dự lưu đến A la hán, hoặc là những vị chuyên tu thiền bốn niệm xứ cho đến bát thánh đạo. Ngài tuyên bố sẽ ở lại đấy (Xá vệ) cho đến tháng tư lễ Komudi [2]. Những tỷ kheo tại địa phương đến quy tụ để hành thiền. Họ chuyên tâm tu tập bốn phạm trú, tu tưởng bất tịnh, tưởng vô thường, hoặc tu niệm hơi thở vô ra.

Pháp môn niệm hơi thở này, nếu được tu tập viên mãn, sẽ đưa đến kết quả lớn là viên mãn bốn niệm xứ. Do viên mãn bốn niệm xứ mà bảy giác chi được viên mãn. Do bảy giác chi viên mãn mà minh giải thoát được viên mãn.

Như thế nào tu niệm hơi thở được viên mãn sẽ có kết quả lớn, công đức lớn? Vị tỷ kheo đi đến chỗ trống, ngồi kiết già lưng thẳng an trú chính niệm trước mặt. Chính niệm, vị ấy thở vô, chính niệm vị ấy thở ra.

Thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài. Hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài. Hay thở vô ngắn, vị ấy biết tôi thở vô ngắn. Hay thở ra ngắn, vị ấy biết tôi thở ra ngắn. Vị ấy tập: Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô. Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô. An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra. [3]

Vị ấy tập: Cảm giác hỷ thọ [4], tôi sẽ thở vô. Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô. Cảm giác lạc thọ [5], tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô. Cảm giác tâm hành [5], tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô. An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra.

Vị ấy tập: Cảm giác về tâm [6], tôi sẽ thở vô. Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Với tâm hân hoan [6], tôi sẽ thở vô. Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Với tâm định tĩnh [6], tôi sẽ thở vô. Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Với tâm giải thoát [6], tôi sẽ thở vô. Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra.

Vị ấy tập: Tùy quán vô thường, tôi sẽ thở vô [7]. Tùy quán vô thường, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Tùy quán ly dục, tôi sẽ thở vô. Tùy quán ly dục, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Tùy quán tịch diệt, tôi sẽ thở vô. Tùy quán tịch diệt, tôi sẽ thở ra. Vị ấy tập: Tùy quán xả ly, tôi sẽ thở vô. Tùy quán xả ly, tôi sẽ thở ra.

Bốn pháp đầu, trong khi quán thân thể [8] như là thân thể, vị tỷ kheo nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm để điều phục tham ưu ở đời. Khi quán cảm thọ [9] như là cảm thọ với bốn pháp tiếp theo, vị tỷ kheo nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm để điều phục tham ưu ở đời. Với nhóm bốn pháp thứ ba, trong khi quán tâm trên tâm [10], vị tỷ kheo nhiệt tâm, tỉnh giác, chính niệm để điều phục tham ưu [11] ở đời. Trong khi quán pháp trên các pháp với nhóm bốn pháp thứ tư cũng vậy. Như vậy là bốn niệm xứ được viên mãn nhờ quán hơi thở vô ra.

Bảy giác chi [12]: Trong khi tỷ kheo tùy quán thân trên thân, niệm giác chi phát sinh và đi đến viên mãn. Nhờ tư duy thẩm sát trong khi có chính niệm [13] trạch pháp giác chi sinh khởi và đi đến viên mãn. Trong khi thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động khởi lên gọi là tinh tấn giác chi, và khi tinh tấn giác chi viên mãn thì hỷ phi vật chất sinh khởi. Tâm hoan hỷ đi đến viên mãn sẽ khiến thân tâm khinh an, là khinh an giác chi. Khi tâm được khinh an, an lạc, sẽ đưa đến định giác chi, và với tâm định tĩnh thì dễ nhìn sự vật với thái độ xả, đấy là xả giác chi. Ðối với ba nhóm còn lại là thọ, tâm, pháp cũng thế.

Minh giải thoát: Bảy giác chi được tu tập viên mãn khiến cho minh giải thoát được viên mãn là vì cả bảy giác chi đều liên hệ đến viễn ly, ly tham, diệt, xả ly.

III. CHÚ GIẢI

1. Pavàranà lễ tự tứ, là lễ kết thúc an cư mùa mưa, trong lễ này các tỷ kheo thỉnh cầu lẫn nhau giáo giới, chỉ lỗi cho mình.

2. Komudì là ngày rằm tháng Kattika, tháng thứ tư mùa mưa; nó được gọi như vậy vì vào mùa mưa ấy hoa kumuda (hoa súng) nở.

3. Ðoạn bốn pháp đầu được giải thích trong kinh số 10, chỉ khác đoạn này ở chỗ thêm ví dụ. Vì đã giải thích bốn niệm xứ quán về hơi thở trong Thanh Tịnh Đạo nên ở MA, Luận sư Buddhaghosa chỉ nói độc giả tham khảo luận TTD. Bốn chú thích sau đều rút từ TTD VII.

4. Người ta kinh nghiệm hỷ thọ theo hai cách: nhờ đạt hai thiền đầu trong đó có mặt hỷ, hành giả cảm thọ hỷ theo kiểu khinh khoái. Cách thứ hai là nhờ xuất khỏi thiền ấy và quán sát hỷ cũng phải bị hoại diệt, như vậy hành giả được hỷ theo kiểu tuệ giác.

5. Cũng phương pháp giải thích ấy áp dụng cho mệnh đề hai và ba, ngoại trừ mệnh đề hai bao hàm ba thiền dưới còn mệnh đề ba bao hàm cả bốn thiền. Tâm hành là tưởng và thọ được an tịnh nhờ tuần tự phát triển các tầng mức cao hơn về tịnh chỉ và tuệ quán.

6. Cảm thọ về tâm cần hiểu là nhờ bốn thiền. Khiến tâm hân hoan là hoặc đắc hai thiền đầu có hỷ hoặc đi sâu và hai thiền bằng tuệ quán để thấy chúng vô thường, vân vân. Khiến tâm định tĩnh ám chỉ hoặc định chứng thuộc thiền, hoặc sự tập trung chốc lát (sát na định) khởi lên cùng với tuệ quán. Khiến tâm giải thoát có nghĩa là giải thoát tâm khỏi các chướng ngại và các thiền chi thô nhờ các định chứng cao dần, và khỏi các nhận thức sai lầm nhờ tri kiến thuộc tuệ.

7. Ðoạn bốn pháp này hoàn toàn đề cập tuệ giác, không giống ba đoạn trước đề cập cả chỉ lẫn quán. Quán ly tham và quán đoạn diệt có thể hiểu là tuệ quán đi sâu vào tính vô thường của các hành, và là đạo lô siệu thế chứng niết bàn ly dục (viràga) và chấm dứt khổ đau. Quán từ bỏ là sự từ bỏ nhiễm ô nhờ tuệ và sự thể nhập niết bàn nhờ đạo.

8. Hơi thở ra vào cần được xem như phong đại làm nên thân thể trong bốn đại. Nó cũng cần được hiểu là xúc xứ trong các pháp thuộc về thân (vì đối tượng chú ý là sự chạm xúc của hơi gió ra vào nơi cửa mũi).

9. MA giải thích sàdhuka manasikàra (tác ý một cách sát nút) tự nó không phải là cảm giác thực, mà đây chỉ nói ẩn dụ. Trong đoạn bốn pháp thứ hai, cảm thọ thực thụ là lạc thọ nói trong câu hai và cảm giác bao hàm trong chữ tâm hành trong câu ba và bốn.

10. MA: Mặc dù thiền giả lấy tướng hơi thở vô ra làm đề mục tu, vị ấy vẫn được xem là đang quán tâm như là tâm, vì đang duy trì tâm mình trên đối tượng bằng cách đánh thức hai tâm pháp là chính niệm và tỉnh giác.

11. MA: Tham và ưu là hai triền cái đầu tức dục và sân, và do vậy tiêu biểu sự quán các tâm pháp khởi đầu bằng năm triền cái. Vị ấy từ bỏ được triền cái nhờ quán vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, và đi đến kết quả là nhìn đối tượng với tâm xả.

12. MA nói đoạn kinh này hiển thị các giác phần cùng hiện hữu trong từng sát na tâm khi tu thiền quán.

13. MA: Chính niệm theo dõi hơi thở là thuộc thế gian; chính niệm thế gian này làm hoàn hảo nền tảng chính niệm thế gian; nền tảng chính niệm thế gian kiện toàn các đại chi siêu thế; và các đại chi siêu thế làm viên mãn chính trí và giải thoát, nghĩa là quả và niết bàn.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Ðêm trăng rằm tự tứ

Ðức Phật ngồi giữa trời

Với đại chúng vây quanh

Toàn thượng thủ danh tiếng.

Ngài đưa mắt nhìn quanh

Khen hội chúng toàn hảo

Gồm nhiều vị La hán

Tối thiểu cũng Dự lưu.

Ngài cho đại chúng biết

Như Lai sẽ lưu lại

Tại thành Xá vệ này

Ðến rằm tháng tư sau.

Khi được biết tin ấy

Những tỷ kheo địa phương

Quy tụ lại hành thiền

Theo lời Phật chỉ dạy.

Hoặc tu bốn phạm trú

Hoặc tu tưởng bất tịnh

Hoặc tu tưởng vô thường

Hoặc tu niệm hơi thở.

Phật dạy pháp môn này

Nếu tu tập viên mãn

Sẽ có kết quả lớn:

Viên mãn bốn niệm xứ

Kiện toàn bảy giác chi

Cho đến minh giải thoát.

Pháp quán niệm hơi thở

Gồm mười sáu đề mục

Về thân thọ tâm pháp

Cách tu tập như sau.

Tỷ kheo chọn chỗ vắng

Ngồi kiết già lưng thẳng

An trú niệm trước mặt

Tỉnh giác, thở vô ra.

Hơi vô dài, rõ biết

Hơi ra dài, rõ biết

Hơi thở ngắn cũng vậy

Cảm giác toàn thân,

Tôi sẽ thở vô,

Cảm giác toàn thân,

Tôi sẽ thở ra.

An tịnh thân hành,

Tôi sẽ thở vô

An tịnh thân hành,

Tôi sẽ thở ra.

Như vậy vị ấy tập

Bốn quán niệm về Thân.

Cảm giác hỷ thọ,

Tôi sẽ thở vô.

Cảm giác hỷ thọ,

Tôi sẽ thở ra.

Cảm giác lạc thọ,

Tôi sẽ thở vô.

Cảm giác lạc thọ,

Tôi sẽ thở ra.

Cảm giác tâm hành,

Tôi sẽ thở vô

Cảm giác tâm hành

Tôi sẽ thở ra.

An tịnh tâm hành

Tôi sẽ thở vô

An tịnh tâm hành

Tôi sẽ thở ra.

Như vậy vị ấy tập

Bốn quán niệm về Thọ.

Cảm giác về tâm

Tôi sẽ thở vô

Cảm giác về tâm

Tôi sẽ thở ra.

Với tâm hân hoan

Tôi sẽ thở vô

Với tâm hân hoan

Tôi sẽ thở ra.

Với tâm định tĩnh

Tôi sẽ thở vô

Với tâm định tĩnh

Tôi sẽ thở ra.

Với tâm giải thoát

Tôi sẽ thở vô

Với tâm giải thoát

Tôi sẽ thở ra.

Như vậy vị ấy tập

Bốn quán niệm về Tâm.

Tùy quán vô thường

Tôi sẽ thở vô

Tùy quán vô thường

Tôi sẽ thở ra.

Tùy quán ly dục

Tôi sẽ thở vô

Tùy quán ly dục

Tôi sẽ thở ra.

Tùy quán tịch diệt

Tôi sẽ thở vô

Tùy quán tịch diệt

Tôi sẽ thở ra.

Tùy quán xả ly

Tôi sẽ thở vô

Tùy quán xả ly

Tôi sẽ thở ra.

Như vậy vị ấy tập

Bốn quán niệm về Pháp.

Trong khi quán thân thể

Chỉ như là thân thể

Tỷ kheo trú nhiệt tâm

Tỉnh giác và chính niệm

Ðể điều phục tham ưu

Ðối với mọi sự đời.

Trong khi quán cảm thọ

Quán tâm và các pháp

Qua mười sáu đề mục

Tỷ kheo trú nhiệt tâm

Chính niệm và tỉnh giác

Ðể điều phục tham ưu

Ðối với mọi sự đời.

Như vậy bốn niệm xứ

Ðược tu tập viên mãn

Nhờ quán thở vô ra.

Trong khi tùy quán thân

Và quán thọ, tâm, pháp

Niệm giác chi phát sinh

Và đi đến viên mãn.

Nhờ tư duy thẩm sát

Trong khi có chính niệm

Trạch pháp giác chi sinh

Và đi đến viên mãn.

Trong khi thẩm sát pháp

Sự tinh tấn khởi lên

Là tinh tấn giác chi

Khi tinh tấn viên mãn

Hỷ phi vật chất sinh.

Tâm hoan hỷ tột độ

Sẽ khiến thân nhẹ nhàng

Và tâm cũng khoan khoái

Là khinh an giác chi.

Khinh an đưa đến lạc

Lạc đưa đến định

Gọi là định giác chi.

Và với tâm định tĩnh

Ta dễ nhìn sự vật

Với thái độ buông xả

Ðấy là xả giác chi.

Bảy giác chi tu tập

Ði đến chỗ viên mãn

Minh giải thoát phát sinh

Vì cả bảy giác chi

Ðều liên hệ viễn ly

Ly tham, diệt, giải thoát.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 119

Thân hành niệm

I. TOÁT YẾU

Kayagatasati Sutta - Mindfulness of the Body.

The Buddha explains how mindfulness of the body should be developed and cultivated and the benefits to which it leads.

Niệm thân.

Phật giải thích làm thế nào để tu tập pháp niệm thân và nói những lợi ích mà pháp tu này đem lại.

II. TÓM TẮT

Chúng tỷ kheo tụ họp ca ngợi pháp môn niệm thân hành mà Phật đã dạy. Phật nhân đấy giảng rộng pháp tu này.

A. Các pháp niệm thân hành:

1. Niệm hơi thở: Ngồi kiết già lưng thẳng ở chỗ vắng, theo dõi hơi thở vô ra như đã nói trong kinh 18, mục niệm thân.

2. Chính niệm tỉnh giác trong bốn uy nghi, ý thức rõ thân đang đi, đứng, ngồi, nằm, nhiệt tâm tinh cần, đoạn trừ các tư duy liên hệ thế tục.

3. Niệm thân hành: Ý thức rõ thân thể đang được sử dụng như thế nào, ngó tới ngó lui hay co duỗi tay chân ăn uống nói im đi đứng ngủ thức.

4. Quán tính chất bất tịnh trong tất cả thân phần từ tóc lông cho đến nước tiểu.

5. Phân biệt bốn đại ở trong thân: tóc lông móng... là địa, nước mắt mũi miệng... là thủy, hơi nóng là hỏa, chuyển động là phong.

6. Quán thi thể phình trương sau ba ngày bị quăng bỏ.

7. Quán thi thể bị các loài trùng, chim thú ăn.

8. Quán bộ xương liên kết còn máu thịt, đã hết thịt nhưng còn dính máu, bộ xương đã rã rời mỗi nơi một cái xương.

9. Quán thi thể sau nhiều năm tháng chỉ còn là đống xương trắng màu vỏ ốc. Thấy bản chất thân này cũng vậy, không vượt qua bản chất ấy. Nhờ sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần quán niệm như trên, các niệm và tư duy thế tục được đoạn trừ, nội tâm chuyên nhất, định tĩnh. Ðấy gọi là tu tập thân hành niệm.

B. Những kết quả của thân hành niệm:

1. Chứng bốn thiền: sơ thiền với hỷ lạc do ly dục sinh thấm nhuần thân tâm, như một cục bột nhồi thấm nước [2]. Thiền thứ hai, với hỷ lạc do định sinh, như hồ nước đầy gặp cơn mưa lớn, nước mát lan tràn hồ. Thiền thứ ba toàn thân thấm nhuần lạc thọ gọi là xả niệm lạc trú, như những hoa sen ở trong hồ thấm đầy nước. Thiền thứ bốn xả niệm thanh tịnh, toàn thân thấm nhuần sự trong sáng thuần tịnh, như người ngồi với một tấm vải trắng trùm đầu phủ xuống toàn thân.

2. Minh trí [3] và giải thoát: Người tu tập thân hành niệm đã viên mãn, thì các thiện pháp của vị ấy đều dự phần vào minh trí, như trăm sông đổ vào biển. Không tu tập thân hành niệm thì ma vương dễ làm hại, như cục đất sét ướt bị lún dưới sức nặng của một viên đá ném vào, như bình rỗng dễ làm đầy nước, như cây khô dễ cháy. Ngược lại người có tu tập thân hành niệm thì ma không hại được, như trái banh dây dội vào cánh cửa chắc chắn không thể phá cửa, như bình nước đã đầy không thể đổ thêm, như cây tươi đầy nhựa không thể bị đốt cháy.

3. Dễ đắc thần thông: Với căn bản thân hành niệm, hành giả dễ chứng bất cứ pháp nào có thể chứng nhờ thắng trí, như một lực sĩ dễ dàng lắc đổ một bình nước đầy, phá một khúc đê cho nước tràn, như một người đánh xe giỏi lái cỗ xe ngựa hay chạy trên đường bằng phẳng.

C. Kết luận về lợi ích của thân hành niệm:

Thân hành niệm khéo tu tập viên mãn sẽ đưa đến mười lợi ích lớn: Một là nhiếp phục lạc khổ. Hai, nhiếp phục sợ hãi khiếp đảm. Ba kham nhẫn được các nghịch cảnh đủ loại. Bốn dễ chứng bốn thiền, được hiện tại lạc trú. Năm chứng thần túc thông. Sáu Thiên nhĩ. Bảy tha tâm. Tám túc mạng trí. Chín Sinh tử trí hay thiên nhãn, biết sống chết chúng sinh. Mười lậu tận trí.

III. CHÚ GIẢI

1. Ðoạn 4 đến 17 của kinh này giống với kinh số 10, ngoại trừ ở đây điệp khúc về tuệ được thay bằng điệp khúc bắt đầu bằng: Khi vị ấy trú nhiệt tâm tinh cần. Sự thay đổi ấy chứng tỏ kinh này nhấn mạnh về định trong khi kinh số 10 nhấn mạnh về tuệ. Sự thay đổi này tái xuất hiện trong đoạn nói về các thiền (đoạn 18 đến 21 bản dịch của Nana - moli) và về thắng trí (37 đến 41), cả hai đều khác với kinh số 10.

2. Các ẩn dụ về thiền cũng được thấy trong kinh số 39 và 77.

3. MA giải thích các pháp này là tám loại tuệ được giải thích trong kinh 77.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật dạy chúng tỷ kheo

Chín pháp niệm thân hành

Và kết quả tu niệm.

Trước hết niệm hơi thở

Tỷ kheo tìm chỗ vắng

Ngồi kiết già lưng thẳng

Theo dõi hơi vô ra

Gồm có bốn đề mục

Quán niệm thân trên thân

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần niệm hơi thở,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Hai Chính niệm tỉnh giác

Trong cả bốn uy nghi

Lúc ngồi nằm đứng đi

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần niệm uy nghi,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Ba là niệm thân hành

Ý thức rõ thân thể

Được sử dụng thế nào

Ngó tới hay ngó lui

Tay chân co hay duỗi

Ý thức lúc ăn uống

Nói im và ngủ thức.

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần niệm thân hành

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Bốn quán thân bất tịnh

Tóc lông móng răng da

Thịt gân xương thận tủy

Tim gan hoành cách mạc

Lá lách phổi ruột già

Màng ruột phân mật đàm

Mủ máu, mồ hôi, mỡ

Mỡ nước và nước mắt,

Nước miếng, và nước mũi,

Nước khớp xương, nước tiểu.

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần quán bất tịnh,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Năm Phân biệt bốn đại

Trong thân này tóc lông

Là thuộc về địa đại,

Nước mắt nước mũi miệng

Là thuộc về thủy đại,

Hơi ấm thuộc về hỏa,

Các chuyển động là phong

Tỷ kheo trú nhiệt tâm

Tinh cần quán bốn đại,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Sáu quán thây phình trương

Sau ba ngày quăng bỏ

Thấy bản chất thân này

Chung cuộc đều như vậy

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần quán thây trướng,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Bảy quán thây thú ăn,

Bị côn trùng rúc rỉa

Thấy bản chất thân này

Chung cuộc đều như vậy

Tỷ kheo trú nhiệt tâm

Tinh cần quán trùng rỉa,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Tám quán bộ xương nguyên

Còn dính máu và thịt,

Hết thịt chỉ còn máu,

Bộ xương đã rã rời

Xương chân tay đầu mặt

Thấy bản chất thân này

Chung cuộc đều như vậy

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần quán bộ xương,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Chín quán một tử thi

Trải qua nhiều năm tháng

Chỉ còn đống xương trắng

Quăng bỏ giữa đồng hoang.

Thấy bản chất thân này

Chung cuộc đều như vậy

Tỷ kheo trú nhiệt tâm,

Tinh cần quán xương trắng,

Ðoạn tư duy thế tục

Nội tâm được định tĩnh.

Chín pháp niệm thân này

Tỷ kheo hãy tu tập

Có quả báo lớn lao.

Một, hiện tại lạc trú.

Hai, Ma không thể hại.

Ba, dễ chứng thần thông.

Lại có mười lợi ích:

Một, nhiếp phục lạc khổ

Hai, nhiếp phục khiếp sợ

Ba, nhẫn được nghịch cảnh

Bốn, dễ chứng bốn thiền

Năm, chứng thần túc thông

Sáu, chứng Thiên nhĩ thông

Bảy, biết được tâm người

Tám, chứng túc mạng trí.

Chín, tùy nghiệp thú trí

(Biết sống chết chúng sinh

Còn gọi là thiên nhãn)

Mười là trí lậu tận

Sạch ô nhiễm lỗi lầm.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 120

Hành sinh

(Sankhàrupapattisuttam)

I. TOÁT YẾU

Reappearance by Aspiration.

The Buddha teaches how one can be reborn in accordance with one's wish.

Sự tái sinh do ước nguyện.

Phật dạy làm thế nào ta có thể tái sanh tùy theo mong ước của mình.

II. TÓM TẮT

Phật dạy về sự tái sinh do ý hành [1] mang lại. Một tỷ kheo đầy đủ năm pháp là tín giới thí văn tuệ, nếu khởi lên mong ước được tái sinh vào giai cấp nào hay cõi nào, thì hãy chú tâm vào cõi ấy, tu tập tâm ấy, khi thân hoại mạng chung liền được như ý. Ðấy là đạo lộ đưa đến tái sinh theo ước nguyện [2]. Như mong sinh vào dòng họ Sát đế lỵ, Bà la môn, cư sĩ, Bốn đại thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ ma, Ðâu suất, Hóa lạc, Tha hóa tự tại, hoặc mong sinh vào cõi Phạm thiên có tâm biến mãn [3] từ một ngàn đến một trăm ngàn thế giới. Hoặc mong sinh vào chư quang thiên [4]: Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm thiên; hay chư Tịnh thiên: Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh; hoặc cõi trời Quảng quả, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, sắc cứu cánh; hoặc vào cõi Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tùy ý muốn và sự tu tập tương ưng cõi nào, vị tỷ kheo sẽ tái sinh vào cõi ấy. Nếu đầy đủ năm pháp trên, nhưng chỉ mong an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu, thì vị ấy do đoạn trừ các lậu hoặc, sẽ chứng đạt an trú vô lậu tâm ngay hiện tại, không còn tái sinh ở bất cứ nơi nào [5].

III. CHÚ GIẢI

1. Sankhàrà luôn luôn được dịch là formation (hành) nhưng nội dung kinh này có lẽ cần dịch cách khác để làm sáng tỏ ý nghĩa. MA lúc đầu giải là sự tái hiện của các hành (thay vì của một cái ngã hay con người) hoặc tái hiện các uẩn trong một hiện hữu mới nhờ một nghiệp hành có công đức. Tuy nhiên trong các đoạn kế tiếp, MA lại chú thích sankhàrà là patthanà, chữ này có một ý nghĩa dứt khoát là nguyện vọng.

2. MA: Ðạo là năm đức tín tấn niệm định tuệ cùng với nguyện. Người có năm đức mà không nguyện hoặc có nguyện mà thiếu năm đức thì không có một số phận quyết định. Số phận có tính quyết định chỉ khi có đủ cả hai yếu tố.

3. MA giải thích có năm thứ biến mãn: biến mãn tâm, nghĩa là biết tâm chúng sinh trong một ngàn thế giới; biến mãn kasina là triển khai được tướng của kasina đến ngàn thế giới; biến mãn thiên nhãn, biến mãn ánh sáng, biến mãn thân, như trên.

4. Xem chú thích kinh số 1 về các cõi trời.

5. MA: Năm đức đã kể cũng đủ để tái sinh vào cõi dục, nhưng muốn có tái sinh thù thắng hơn và muốn đoạn trừ lậu hoặc thì cần nhiều điều kiện hơn. Căn cứ trên năm đức mà đắc thiền chứng thì sẽ sinh vào cõi Phạm thiên; nếu đắc các vô sắc thì sẽ sinh vào vô sắc giới. Nếu phát triển tuệ giác và đắc quả Bất hoàn, thì được sinh vào cõi Tịnh cư thiên; nếu đắc A la hán đạo thì sẽ được lậu tận.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Phật dạy về tái sinh

Do ý hành [1] mang lại.

Cần có đủ năm đức

Tín giới thí tuệ văn

Mong tái sinh về đâu

Hãy chú tâm tu tập,

Khi thân hoại mạng chung

Liền tái sinh như nguyện [2]:

Vào dòng Sát đế lỵ,

Bà la môn, cư sĩ,

Hoặc Bốn đại thiên vương,

Hoặc Tam thập tam thiên,

Dạ ma, Ðâu suất đà,

Hóa lạc, Tự tại thiên,

Hoặc các cõi Phạm thiên

Biến mãn [3] từ một ngàn

Đến trăm ngàn thế giới

Hoặc vào chư quang thiên [4]

Thiểu, Vô lượng, Quang âm

Hay là chư Tịnh thiên:

Thiểu, Vô lượng, Biến tịnh;

Hoặc cõi trời Quảng quả

Vô phiền, Vô nhiệt thiên,

Thiện kiến, Sắc cứu cánh;

Hoặc cõi Không vô biên

Hay cõi Thức vô biên,

Hay Vô sở hữu xứ

Cõi Phi tưởng phi phi

Do ước nguyện, tu tập,

Tỷ kheo sẽ tái sinh

Vào cõi như ý nguyện.

Nếu đầy đủ năm pháp

Nhưng chỉ mong an trú

Vô lậu tâm giải thoát

Vô lậu tuệ giải thoát

Ðoạn trừ các lậu hoặc,

Tỷ kheo sẽ chứng đạt

An trú vô lậu tâm

Ngay trong đời hiện tại,

Không còn phải tái sinh

Ở bất cứ nơi nào [5].

-ooOoo-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #kinh#trung