Chương 4: Thương mại dịch vụ , thương mại quyền sở hữu trí tuệ
Chương 4: Thương mại dịch vụ , thương mại quyền sở hữu trí tuệ và thương mại liên quan đến đầu tư
4.1. Thương mại dịch vụ
4.1.1. Bản chất của thương mại dịch vụ
4.1.1.1. Khái niệm về thương mại dịch vụ
a. Khái niệm về thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ là một khái niệm phân biệt với khái niệm thương mại về hang hoá. Nếu thương mại hàng hoá về cơ bản là mua bán các sản phẩm hữu hình, thì thương mại dịch vụ về cơ bản là trao đổi về các sản phẩm vô hình. Thương mại dịch vụ là toàn bộ những hoạt động cung ứng dịch vụ trên thị trường thông qua mua bán nhằm mục đích lợi nhuận.
D ịch vụ có thể được cung cấp trên thị trường như một sản phẩm độc lập (ví dụ cung cấp một khoá học tiếng anh),
một số trường hợp chúng được cung cấp nhu một tập hợp nhiều dịch vụ riêng lẻ có tính chất bổ sung lẫn nhau (ví dụ một tour du lịch bao gồm: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ nhà hàng…),
trường hợp khác chúng phải đi kèm cùng với các sản phẩm hàng hoá (ví dụ các dịch vụ nhà hàng luôn đi kèm với thức ăn, đồ uống).
4.1.1.2. Đặc điểm của thương mại dịch vụ
a. Tính đặc thù về đối tượng trao đổi trong thương mại dịch vụ
Sự khác biệt rõ nhận thấy nhất giữa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ chính là ở đối tượng của hoạt động trao đổi. Trong thương mại hàng hóa đối tượng trao đổi là các sản phẩm vật thể còn trong thương mại dịch vụ chúng là các sản phẩm phi vật thể. Mặc dù có sự khác biệt nhưng dịch vụ và hàng hóa vẫn có những điểm giống nhau:
Là sản phẩm của lao động vì vậy dich vụ mang giá trị. Trong trao đổi giá trị dịch vụ thể hiện thông qua giá cả thị trường. Dịch vụ cũng có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng của dịch vụ hay công dụng của chúng chính là các lợi ích mà người tiêu dùng nhận được và thỏa mãn khi tiêu dùng chúng.
Vì dịch vụ vô hình nên so với hàng hoá chúng khó thương mại hoá hơn.
Vì dịch vụ vô hình nên khi xẩy ra mất cân đối cung cầu theo thời gian người ta không dự trữ chúng lại trong các kho hoặc nếu có sự mất cân đối cung cầu theo không gian người ta không thể điều hoà bằng cách vận chuyển chúng từ nơi này qua nơi khác bằng các phương tiện vận tải nhằm điều tiết cung cầu như trong trường hợp thương mại hàng hoá.
Trong thương mại dịch vụ để thoả mãn đòi hỏi của khách hàng người ta luôn phải đảm bảo sự sẵn sàng cung ứng tại nơi và thời điểm mà thị trường có nhu cầu. Mâu thuẫn là ở chỗ cầu về dịch vụ thường có tính đàn hồi cao và mang tính thời vụ lớn trong khi cung dịch vụ lại có tính “cứng”. Điều này dẫn tới những mâu thuẫn về cung cầu. Ví dụ: khả năng truyền tải mạng điện thoại di động hay mạng Internet thì có hạn nhưng cầu lại biến động và mang tính thời vụ rất cao nên thường xẩy ra tình trạng “quá tải
b. Tính đặc thù về các phương thức cung cấp trong thương mại dịch vụ
Do những đặc trưng của sản phẩm dịch vụ nên các giao dịch trong thương mại dịch vụ giữa người mua, người bán thường đòi hỏi phải có sự tiếp xúc trực tiếp. Trao đổi các dịch vụ có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
dịch vụ được chuyển dịch trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng (Ví dụ như chuyển tiền qua ngân hàng…).
nhà cung cấp dịch vụ dịch chuyển đến nơi có người tiêu dùng (ví dụ các bác sỹ đến khám bệnh tại nhà)
người tiêu dùng di chuyển đến nơi có nhà cung cấp dịch vụ (ví dụ bệnh nhân đến bệnh viện để khám, chữa bệnh)
Nhà cung cấp dịch vụvà người tiêu dùng cùng di chuyển đến một địa điểm thứ ba( vd giáo sư tù nhật dến ĐH của VN dạy cho SV trung quoc
Trong buôn bán quốc tế dịch vụ được cung cấp giữa các quốc gia theo một trong bốn
phương thức sau:
- Phương thức 1: di chuyển qua biên giới của các sản phẩm dịch vụ (các dịch vụ có
thể truyền qua phương tiện viễn thông như chuyển tiền qua ngân hàng).
- Phương thức 2: di chuyển của người tiêu dùng sang nước khác( khách du lịch sang
thăm một nước khác).
- Phương thức 3: thiết lập hiện diện thương mại tại một nước để cung cấp dịch vụ
(thành lập chi nhánh hay công ty con ở nước ngoài).
- Phương thức 4: di chuyển tạm thời của thể nhân sang một nước khác để cung cấp
dịch vụ tại đó (các luật sư hay bác sỹ di chuyển đến nước khác để làm việc).
c. Tính liên ngành của các dịch vụ
L ĩnh vực dịch vụ có một đặc điểm nổi bật là sự liên kết cao giữa các ngành và phân ngành dịch vụ. Để tạo ra một sản phẩm dịch vụ loại này phải là sự liên kết và phối hợp hoạt động của nhiều ngành dịch vụ khác nhau cùng tạo ra và cung ứng các dịch vụ (ví dụ như sản phẩm du lịch).
d. Tính đa dạng cúa các loại hình dịch vụ
Dịch vụ là lĩnh vực rất rộng, đa dạng về quy mô và tính chất kinh doanh. Bên cạnh một số ngành dịch vụ quy mô kinh doanh lớn: vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, lao động chuyên môn cao như dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ hàng không, vận tải biển, vận tải đường sắt… còn có vô số những ngành dịch vụ kinh doanh nhỏ, linh hoạt, phân tán, lao động giản đơn, thích hợp với loại hình kinh doanh nhỏ, hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ.
Sự đa dạng về vai trò của dịch vụ đối với đời sống và sản xuất: có nhiều ngành dịch vụ là những ngành quan trọng cung cấp yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh và trình độ của những ngành dịch vụ này có ảnh hưởng rất lớn tới sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của quốc gia ví dụ dịch vụ vận tải, dịch vụ viễn thông…Nhiều ngành dịch vụ không chỉ đáp ứng nhu cầu sản xuất mà cả nhu cầu sinh hoạt của dân cư như dịch vụ điện thoại. Ngoài ra có một số dịch vụ hoàn toàn chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của dân cư .
e. Tính chất nhạy cảm về tác động của dịch vụ với đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường
Thương mại dịch vụ là lĩnh vực hoạt động kinh tế có sự phụ thuộc chặt chẽ và đặc biệt nhậy cảm vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng. Ngược lại, cũng là lĩnh vực mà hoạt động của chúng có tác động rất phức tạp và khó dự báo đối với đời sống xã hội.
4.1.1.3. Phân loại thương mại dịch vụ
Ngày nay, dịch vụ là một lĩnh vực bao gồm những hoạt động hết sức rộng lớn. Ban
thư ký WTO đã chia các hoạt động dịch vụ khác nhau thành 12 ngành (trong đó gồm 155
tiểu ngành):
1. Các dịch vụ kinh doanh
2. Dịch vụ bưu chính viễn thông
3. Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên quan
4. Dịch vụ phân phối
5. Dịch vụ giáo dục
6. Dịch vụ môi trường
7. Dịch vụ tài chính
8. Các dịch vụ xã hội và liên quan đến y tế
9. Các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành
10. Các dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao (ngoài dịch vụ nghe nhìn)
11. Dịch vụ vận tải
12. Các dịch vụ khác chưa được thống kê ở trên
Cần lưu ý rằng ngoài 11 ngành dịch vụ chính, nhóm dịch vụ thứ 12 (nhóm các dịch vụ khác) là vô số những loại dịch vụ tồn tại một cách khách quan do nhu cầu của đời sống. Những dịch vụ này rất đa dạng và hiện vẫn chưa được xét đến trong thống kê thương mại.
4.1.2. Vai trò của thương mại dịch vụ
- Thương mại dịch vụ có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào GNP của nền kinh tế các quốc gia.
Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng trưởng kinh tế không những thể hiện ở sự tăng trưởng nhanh chóng của bản thân những ngành dịch vụ mà vai trò này còn thể hiện ở việc thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là vai trò của các ngành dịch vụ như bưu chính - viễn thông, tài chính - ngân hàng, giao thông - vận tải… Với khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đó, những đóng góp của thương mại dịch vụ vào GNP cũng ngày càng được khẳng định.
- Vai trò của thương mại dịch vụ với tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, cải thiện cán cân thương mại của các quốc gia.
Xu thế tự do hóa thương mại không chỉ còn diễn ra ở lĩnh vực thương mại hàng hóa, mà tự do hóa thương mại dịch vụ cũng đang từng bước mở ra. Hiện nay, các nước phát triển đang chú trọng vào phát triển và tìm cơ hội xuất khẩu ở các ngành dịch vụ như tài chính, viễn thông, y tế và giáo dục. Các nước này thường thu được lợi ích rất cao nhờ vào những ngành dịch vụ và thường gây sức ép đòi hỏi các nước mở cửa hơn đối với thị trường này. Mặc dù các nước đang phát triển và chậm phát triển thường có nhiều bất lợi khi mở của thị trường dịch vụ, song họ cũng đang khai thác những lợi thế so sánh của mình để hội nhập và cải thiện cán cân thương mại thông qua các ngành dịch vụ như du lịch, xuất khẩu lao động.
- Vai trò của thương mại dịch vụ với việc thúc đẩy phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, các ngành dịch vụ mới không ngừng ra đời và phát triển nhanh chóng. Do vậy, lĩnh vực dịch vụ đã ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, một số ngành dịch vụ ra đời đã thúc đẩy tích cực trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các vùng, giữa các quốc gia, đưa đến xu thế phân bổ nguồn lực theo nguyên lý cân bằng hiệu quả cận biên
- Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội.
M ột mặt, qui mô của lĩnh vực dịch vụ ngày càng được mở rộng sẽ đem lại công ăn việc làm ngày càng nhiều cho xã hội. Mặt khác, đối với một số ngành dịch vụ, sự phát triển nó sẽ đem lại số lượng công ăn việc làm mới cả về số tương đối và tuyệt đối. Đây lànhững lĩnh vực dịch vụ có cấu tạo hữu cơ mà việc sử dụng lao động sống có xu hướng tăng nhanh hơn lao động vật hóa
- Vai trò của thương mại dịch vụ đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Trước hết, xuất phát từ những vai trò của thương mại dịch vụ nói trên mà nó đã góp cải thiện tích cực thu nhập cho xã hội và người lao động. Theo đó việc cải thiện thu nhập được xem là một yếu tố quan trọng cho phép con người nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Mặt khác, thực tế ngày nay ở hầu hết các quốc gia thì chất lượng cuộc sống đang phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thỏa mãn nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ liên quan đến chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí, giải trí hay phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Ngoài ra, thương mại dịch vụ còn đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường giao lưu văn hóa, chuyển giao công nghệ…
4.2. Thương mại quyền sở hữu trí tuệ
4.2.1. Bản chất của thương mại quyền sở hữu trí tuệ
4.2.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản trí tuệ là sản phẩm của óc sáng tạo của con người, tri thức của nhân loại.
Các sản phẩm trí tuệ gồm: Các ý tưởng sáng tạo, phát minh sáng chế, công nghệ, các tác phẩm văn học nghệ thuật...
Tài sản trí tuệ có 4 đặc trưng cơ bản sau:
-Tính vô hình.
- Mang đặc tính của hàng hóa, dịch vụ công
- Tính phái sinh
- Tinh tương đối
Tài sản trí tuệ về bản chất là vô hình, nhưng nói chung nó được chứa đựng trong một hình thái hữu hình cố định. Tuy nhiên, những vật thể này thường chẳng bao giờ có một giá trị tương đương với giá trị của những ý tưởng được tổ chức mà vật thể đó thể hiện.
b. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với các tài sản trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu quyền lựa chọn ai có thể tiếp cận và sử dụng tài sản của mình và bảo vệ nó trước việc sử dụng không được phép.
Quyền sở hữu trí tuệ được trao cho chủ sở hữu về ý tưởng, phát minh và những biểu hiện có đặc điểm sáng tạo mang tính chất của tài sản (tài sản trí tuệ).
Quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền hưởng dụng và quyền định đoạt đối với một tài sản, các quyền lợi này gọi là các quyền lợi đối vật vì được hành xử trên các vật hữu hình.
Các quyền lợi này có tính chất phi tài sản, không thể giá trị bằng tiền bạc và đương nhiên chúng không thể đem ra trao đổi.
Quyền sở hữu trí tuệ có tính chất đặc biệt, nó vừa là một quyền lợi về tài sản, vừa là phi tài sản. Khi nói đến quyền sở hữu nói chung người ta thường nghĩ đến các quyền lợi tài sản của chủ sở hữu. Song đối với quyền sở hữu tài sản trí tuệ thì các quyền lợi phi tài sản (quyền lợi tinh thần) lại có tính trội yếu.
Quyền sở hữu trí tuệ hiện được đề cập chủ yếu bao gồm: Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với người gây giống.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tác hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạng tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Quyền đối với người gây giống là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Những quyền sở hữu trí tuệ chỉ có giá trị trong nền kinh tế thị trường. Những quyền này tạo ra một cơ chế cho những vật không thể sờ thấy được (sản phẩm vô hình) để được buôn bán trên thị trường và quan hệ cung cầu trên thị trường sẽ quyết định giá trị của tài sản trí tuệ.
Việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc thúc đẩy sự sáng tạo, phổ biến và sử dụng kết quả của hoạt động trí óc và khuyến khích trao đổi công bằng.
c. Khái niệm thương mại quyền sở hữu trí tuệ
Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể được hiểu là toàn bộ những hiện tượng, hoạt động và những quan hệ kinh tế phát sinh gắn với việc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính thương mại trên thị trường.
Trong trường hợp này quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ là đối tượng của hoạt động thương mại.
việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ cũng chỉ được xem là có tính thương mại khi người nhận chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ phải sử dụng và khai thác các quyền đó liên quan đến mục đích sinh lợi.
Các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ cũng bao gồm người người bán (người chuyển nhượng) và người mua (người nhận chuyển nhượng).
Thương mại quyền sở hữu trí tuệ có thể diễn ra trong các lĩnh vực sau: Chuyển nhượng quyền sở hữu các tác phẩm văn học nghệ thuật; Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp; Chuyển nhượng quyền sở hữu giống cây trồng.
4.2.1.2. Đặc điểm của thương mại quyền sở hữu trí tuệ
a. Đặc điểm của đối tượng chuyển nhượng (mua, bán) trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ
- Đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu đối với những tài sản trí tuệ, những tài sản do lao động trí óc của con người tạo ra.
- Quyền sở hữu trí tuệ về cơ bản chỉ thực sự trở thành đối tượng chuyển nhượng khi quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận và bảo hộ
- Quyền sở hữu trí tuệ với tư cách là đối tượng chuyển nhượng chỉ là quyền về tài sản. Như đã nói ở trên, quyền sở hữu trí tuệ có tính chất đặc biệt, nó vừa là một quyền lợi về tài sản, vừa là phi tài sản. Trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ, các quyền nhân than (hay quyền phi tài sản) không phải là đối tượng chuyển nhượng
- Không phải mọi quyền sở hữu trí tuệ đều có thể trở thành đối tượng của hoạt động chuyển nhượng nói chung và chuyển nhượng mang tính thương mại nói riêng. Những quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ chỉ mang tính phân biệt chung về xuất xứ nơi sản xuất và địa phương có điều kiện về con người và tự nhiên đặc biệt cho việc sản xuất ra sản phẩm thì không thể đưa ra chuyển nhượng, đó là tên gọi xuất xứ hoặc chỉ dẫn địa lý của hàng hóa.( vd chè thái nguyên)
b. Đặc điểm về chủ thể tham gia vào quá trình chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ
- Do đối tượng chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ là quyền tài sản nên người nhận chuyển nhượng (người mua) trong quan hệ thương mại này phải tôn trọng các quyền nhân thân (quyền phổ biến, quyền về sự tôn trọng tên tuổi, quyền về sự tôn trọng tác phẩm) của tác giả. Người nhận chuyển nhượng phải nêu rõ tên hoặc bút hiệu của tác giả trên tác phẩm; phải tôn trọng sự toàn vẹn của tác phẩm, không được thay đổi, thêm bớt, sửa chữa tác phẩm nếu không được tác giả đồng ý.
- Trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ, người nhận chuyển nhượng phải thực hiện trả thù lao (mức giá cả) cho tác giả tài sản trí tuệ hoặc theo một tỷ lệ phần trăm trên thu nhập từ việc khai thác tài sản trí tuệ hoặc là một khoản tiền khoán nhất định. Tuy nhiên, phương thức phổ biến là trả theo tỷ lệ phần trăm. Bởi vì, nếu trả một khoản tiền khoán nhất định cho tác giả có thể đem lại sự rủi ro và thiệt thòi cho một trong hai bên hoặc người khai thác hoặc tác giả.
c. Đặc điểm liên quan đến điều kiện chuyển nhượng trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ
- Việc thực hiện các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể diễn ra trong môi trường pháp lý có thực thi nghiêm túc sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Nhà nước. Bởi vì nếu không có sự bảo hộ này các tài sản trí tuệ sẽ trở thành hàng hóa công, và do vậy các hoạt động chuyển nhượng mang tính thương mại sẽ không thể diễn ra.
- Việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu được thực hiện thông qua hợp đồng chuyển nhượng bằng văn bản với những điều khoản chủ yếu như quyền lợi được chuyển nhượng (quyền sao chép, in ấn, trình diễn…); Thời hạn khai thác; Hành vi vi phạm phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên;… Đặc điểm này bắt nguồn từ tính dễ gian lận và đặc thù của đối tượng chuyển nhượng.
d. Các đặc điểm khác
Như là ính nhạy cảm trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ đối với những sản phẩm trí tuệ liên quan đến bảo vệ sức cạnh tranh của nền kinh tế, đến các cuộc chạy đua vũ trang; tính cạnh tranh; giá cả… trong thương mại quyền sở hữu trí tuệ.
4.2.2 Vai trò của thương mại quyền sở hữu trí tuệ
- Vai trò kích thích các hoạt động sáng tạo của con người. Các hoạt động thương mại quyền sở hữu trí tuệ đem lại quyền lợi kinh tế thỏa đáng cho người sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật hay những sáng chế, giải pháp hữu ích. Thông qua các hoạt động thương mại,tác giả của những tài sản trí tuệ có thể chuyển nhượng sản phẩm của mình trên thị trường theo quan hệ cung cầu
- Vai trò thúc đẩy ứng dụng các tiến bộ về công nghệ, gống cây trồng và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật. Nếu các tác phẩm văn chương, nghệ thuật có vai trò làm giàu, đẹp đời sống văn hóa, tinh thần của con người thì các sang chế, các giải pháp hữu ích… lại góp phần làm giàu của cải vật chất cho xã hội. Tuy nhiên, những tài sản trí tuệ đó chỉ có thể phục vụ hiệu quả cho con người khi nó có một cơ chế khai thác thích hợp. Việc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ thông qua thương mại cho phép người có nhu cầu ứng dụng, khai thác các tài sản trí tuệ được thuận lợi hơn trong tìm kiếm, lựa chọn các tài sản phù hợp. Đồng thời, trong quá trình chuyển nhượng này cũng đòi hỏi những người khai thác phải sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả tài sản mà mình đã mua.
- Vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ, giao lưu văn hóa. Việc chuyển nhượng những ứng dụng khoa học công nghệ và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật phục vụ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục, viễn thông, điện ảnh, âm nhạc… giữa các quốc gia đã góp phần không nhỏ làm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia và các khu vực.
- Các vai trò khác, như vai trò đối vấn đề giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại...
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro