Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

kinh tế chính trị 6 7 8

Câu 6: Thực chất của tích lũy tư bản và các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản, ý nghĩa của vấn đề này. Sự hình thành tỉ suất lợi nhận bình quân và giá cả sản xuất.

Trả lời:

1.Tích luỹ tư bản và các nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản, ý nghĩa vấn đề này:

-Tích luỹ tư bản là tất yếu khách quann do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất cảu tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư; thực chất của tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.

-Quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và ty lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập (bộ phận giá trị thặng dư nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân). Nếu tỷ lệ phân chia không thay đổi, thì quy mô tích luỹ phụ thuộc vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như:

+Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động đối với công nhân làm thuê.

+Tăng năng suất lao động xã hội. đây là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ và có tác dụng thiết thực đối với tích luỹ.

+Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị máy móc, thiết bị được sử dụng) và tư bản tiêu dùng (tức giá trị tiêu hao của máy móc, thiết bị đó qua mỗi chu kỳ sản xuất).

+Quy mô tư bản ứng trước. Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích luỹ ngày càng nhiều.

2.Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất:

a) Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân:

Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.

Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.

Kết quả cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.

Chúng ta đều biết, ở các ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Giả sử có ba ngành sản xuất khác nhau, tư bản của mỗi ngành đều bằng 100, tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng 100%, tốc độ chu chuyển của tư bản ở các ngành đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể bằng lòng, đứng yên ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Trong ví dụ trên, các nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản của mình sang ngành da, làm cho sản phẩm của ngành da nhiều lên (cung lớn hơn cầu), do đó giá cả hàng hoá ở ngành da sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị của nó, và tỷ suất lợi nhuận ở ngành này giảm xuống. Ngược lại, sản phẩm của ngành cơ khí sẽ giảm đi (cung thấp hơn cầu), nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó tỷ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên. Như vậy, do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, làm cho ngành có cung (hàng hoá) lớn hơn cầu (hàng hoá) thì giá cả giảm xuống, còn ngành có cầu (hàng hoá) lớn hơn cung (hàng hoá) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là ()P'.

Nếu ký hiệu p' là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì:

p' =m x 100% (c v)ΣΣ+

Theo ví dụ trên thì:

90P' x 100% 30%300==

C.Mác viết: ... Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng thành tỷ số lợi nhuận chung, đó là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân và do đó nếu có số tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.

Vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào những ngành khác nhau, ký hiệu là P .

p = p' x k

Theo ví dụ trên thì: P = 30% x 100 = 30.

Sự bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận chỉ được thực hiện khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến một trình độ nhất định.

Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân P'và lợi nhuận bình quân P' không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.

b) Sự chuyển hoá của giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất:

Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất.

Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân (giá cả sx = k + P).

Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.

Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hoá. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong giá cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

Câu 7: Sở hữu TLSX trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam. Thành phần kinh tế trong TKQĐ.

Trả lời:

1.Sở hữu về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam có ba loại hình sở hữu cơ bản bản: sở hữu toàn dân, sở hưu tập thể và sở hữu tư nhân (tư hữu) mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu ở nhiều mức độ chín muồi khác nhau. Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại khách quan, lâu dài và thường đan xen lẫn nhau. Trong một đơn vị sản xuất - kinh doanh có thể có nhiều chủ sở hữu đại diện cho nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Ví dụ, trong một công ty cổ phần bao gồm nhiều cổ đông thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau (sở hữu công cộng, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân).

Chính sự đa dạng của các loại hình sở hữu và các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại đan xen với nhau mà hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức liên doanh, liên kết và các hình thức kinh tế quá độ hết sức phong phú trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong các hình thức sở hữu trên thì sở hữu công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu là nền tảng, là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, nhưng nó chỉ có thể được hình thành từng bước từ thấp đến cao và chỉ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản.

2.Thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ:

a)Tính tất yếu khách quan và ý nghĩa của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần.

Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế được đặc trưng bởi hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Do đó, thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị để xác định từng thành phần cụ thể.

Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là tất yếu khách quan. Bởi vì, một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ (như kinh tế cả thể, tiểu thủ kinh tế tư bản tư nhân...) để lại, chúng đang có tác dụng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất; một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới (như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước).

Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, suy đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.

Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần không những là khách quan, mà còn là động lực thúc đẩy, kích thích sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Bởivì:

Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. chính sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Hai là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là cơ sở để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nền kinh tế này do sự tác động của các quy luật kinh tế( như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu) và sự quản lý, điều tiết của nhà nước có tác dụng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, kinh tê thị trường đinh hướng chủ nghĩa xã hội lại tạo điều kiện để mọi công dân tuỳ theo khả năng và điều kiện của mình, tự do lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thực hiện quyền dân chủ về kinh tế theo pháp luật.

Ba là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác sử dụng các nguồn lực các tiềm năng, của đất nước, như sức lao động, vốn tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý để tăng trưởng kinh tế nhanh và có hiệu qủa cao.

b) Cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ

Nền kinh tế nước ta có 6 thành phần. Đó là:

-Kinh tế nhà nước.

-Kinh tế tập thể.

-Kinh tế cá thể, tiểu thủ.

-Kinh tế tư bản tư nhân.

-Kinh tế tư bản nhà nước.

-Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Nội dung, vai trò của các thành phần kinh tế như sau:

*)Kinh tế nhà nước:

Kinh tế nhà nước dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các daonh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và các tài nguyên thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng biển, ngân sách, các quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt ở các ngành các lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước.

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò của nó được thể hiện:

Một là, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.

Hai là, kinh tế nhà nước là chỗ dựa để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

*)Kinh tế tập thể:

Kinh tế tập thể dựa trên hình thức sở hữu tập thể và sở hữu các thành viên. Kinh tế tập thể bao gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn.

Hợp tác xã được hình thành trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực tiếp của xã viên. Phân phối trong hợp tác xã theo kết qủa lao động, theo vốn góp vào theo và mức độ tham gia dịch vụ. hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản là: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã.

*)Kinh tế cá thể, tiểu chủ:

Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: trong kinh tế cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn kinh tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, nhưng có thuế lao động.

ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, thành phần kinh tế này có vai trò lớn trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước. Nó co khả năng sử dụng và phát huy có hiệu quả các tiềm năng về vốn, sức lao động, các kinh nghiệm sản xuất, ngành nghề truyền thống. Hạn chế của ngành này là tính tự phát, manh múm và chậm ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ. Vì vậy, một mặt, cần tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển; mặt khác, cần hướng dẫn nó dần dần vào kinh tế tập thể một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã.

*)Kinh tế tư bản tư nhân:

Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, thành phần này có vai trò đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, giải quyết việc làm khai thác các nguồn vốn và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Vì vậy, một mặt, Nhà nước khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm; mặt khác tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lí để nó hoạt động có hiệu quả và khuyến khích phát triển ở những lĩnh vực mà Nhà nước không cấm. xét về lâu dài có thể hướng thành phần này đi vào kinh tế tư bản nhà nước dưới những hình thức khác nhau.

*)Kinh tế tư bản nhà nước:

Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác liên doanh. Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn trong việc huy động vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý tiên tiến vì lợi ích của bản thân kinh tế tư bản tư nhân và phát triển kinh tế của đất nước. thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. sự tồn tại thành phần kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ nó trong thời kỳ quá độ ở nước ta.

*)Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:

Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu hầu như tuyệt đối là vốn của nước ngoài. Nhưng chủ sở hữu không nhất thiết là nhà tư bản.

Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cần tạo điều kiện thuận lợi để nó phát triển, cải thiên môi trường pháp lý và kinh tế để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài,hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.

c)Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần

Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.

Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ mỗi thành phần là một bộ phận của nền kinh tế, nằm trong hệ thống phân công xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau cả "đầu vào" và "đầu ra". Các thành phần kinh tế đều hoạt động trong một môi trường thống nhất và đều là nội lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.

Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở xu hướng vận động khác nhau, mang bản chất kinh tế khác nhau, biểu hiện lợi ích kinh tế khác nhau. Ngoài ra, ngay trong nội bộ mỗi thành phần kinh tế cũng có mâu thuẫn do sự vi phạm hợp đồng, vì lợi ích cục bộ, chiếm dụng vốn của nhau, vi phạm bản quyền sở hữu phát minh, nhãn mác, giành thị trường,... Những mâu thuẫn của nền kinh tế nhiều thành phần chỉ được giải quyết dần dần trong quá trình xã hội hoá sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Xã hội hoá sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là làm cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Câu 8: Tính tất yếu và tác dụng của CNH,HĐH nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của CNH,HĐH ở Việt Nam. Những tiền đề để đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH ở Việt Nam.

Trả lời

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo nghĩa chung và khía quát là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp có khoa học và công nghệ hiện đại. do đó, ở nước ta công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là quá trình chuyển một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, công nghệ lạc hậu và năng suất lao động thấp thành một nước sản xuất lớn có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động xã hội cao ở các ngành kinh tế quốc dân.

1.Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật cảu một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.

Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.

Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật chất kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ kỹ thuật nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó.

Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá.

Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuát mới cao hơn chủ nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu cảu cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.

Do vậy, có thể hiểu,cơ sở vật - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện đaịu, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ len chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹthuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

2.Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng xuất lao động, tăng sức chế ngự của con ngừơi đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, gópphần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúip cho sự phát triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội.

Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; đảm bảo dơid sống kinh tế, chính tri, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện.

3.Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nội dung chủ yếu sau đây:

+Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Ở nước ta, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và công nghiệp hoá, hiện đại hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu coi xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và công nghiệp hoá, hiện đại hoá có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu coi xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cách thức, là con đường để thực hiện mục tiêu đó. Vì vậy, nội dung chủ yếu cũng như mục đích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

+Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng nhằm từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần. cớ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế..., trong đó quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ là bộ phận có tầm quan trọng - là "bộ xương" của nó. Các quan hệ này biểu hiện ở các khía cạnh như trình độ công nghệ, quy mô, nhịp điệu phát triển giữa chúng ...

Cơ cấu kinh tế là phạm trù kinh tế có tính lịch sử. trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tính chất xã hội hoá lao động là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung, đặc điểm cơ cấu kinh tế ở các giai đoạn khác nhau. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý (tối ưu) ở từng thời kỳ phát triển.

Cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, cho phép khai thác có hiệuquả nhất mọi tiềm năng của đất nước, tham gia có khiệu quả vào phân công, hợp tác quốc tế, phù hợp với xu hướng và có khả năng sử dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại ... Bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý là một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.

Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ ở nước ta, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá được biểu hiện cụ thể như sau:

-Phát triển nông - lâm ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến và các ngành kết cấu hạ tầng dịch vụ cho nông nghiệp là nghiệm vụ quan trọng hàn đầu.

-Tăng tốc độ vf tỷ trọng của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, mở rộng kinh tế dịch vụ, khai thác triệt để các khả năng để sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

-Phát triển có chọn lọc một số ngành sản xuất tư liệu sản xuất, khai thác và chế biến khoáng sản nhằm trước hết phục vụ sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.

-Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên phát triển điện, mạng lưới giao thông vận tải đường bộ,đường thuỷ, đường không và mạng lưới thông tin liên lạc.

-Xây dựng và phát triển các vùng kinh tế để hình thành cơ cấu kinh tế vùng và sử dụng có hiệu quả cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá có kết quả phải giải quyết được các yêu cầu chủ yếu sau đây:

-Tạo nguồn vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là một yêu cầu cơ bản và cũng là điều kiện quan trọng hàng đầu để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện thời đại ngày nay phải đặt khoa học và công nghệ như một "quốc sách", một "động lực".

-Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất.

-Đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân lành nghề. Nội dung và yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại đòi hỏi phải đấy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố cong người - động lực trực tiếp của sự phát triển.

4.Những tiền đề để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệphoá, hiện đại hoá ở đất nước ta.

a)Tạo vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá

b)Đào tạo nguồn nhânn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

c)Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu cảu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

d)Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

e)Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro