kinh hoa nghiêm 1
Thay Lời Tựa
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt đẹp nhất trần gian, ngát hương khắp mười phương các cõi pháp giới.
Tư tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất thể. Tâm thanh tịnh thì thấu đạt chơn lý Phật tánh, suốt thông pháp giới vô ngại, thể nhập bất tư nghì giải thoát hạnh môn. Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng-sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng trong nước. Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả. Ðó là bản tánh vô ngại của Tâm. Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình và vô tình; lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng; lấy xứng tánh bất tư nghì vô ngại giải thoát làm thể. Ðó là ý nghĩa căn cốt của Kinh Hoa Nghiêm.
Bởi thế, nếu Kinh Ðại Bát Nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về lý chơn không vô ngại, thì Kinh Hoa Nghiêm đại biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại-thừa về lý hữu hóa duyên sanh của vạn pháp.
Ngoài ra Kinh Hoa Nghiêm còn là một thông điệp, một bài học phong phú sinh động muôn đời, trao gởi cho hành giả có tâm hướng thượng đại-thừa, tu là cần phải học phải hành qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử tham bái cầu học đạo với năm mươi ba vị thiện tri thức, là bằng chứng cho ta thấy rằng tu học đạo bồ-đề điều tiên quyết cần phải khắc phục nội tâm cống cao ngã mạn, dục vọng loạn tưởng; ngoài thân khiêm cung cầu tiến hành trì phương pháp Hoa Nghiêm tuyệt đỉnh, tìm chân sư liễu ngộ mới mong hiển lộ được Phật tánh chơn tâm của mình.
Nên nghiên tầm ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm là khai mở quang lộ trở về bản tánh chơn tâm thanh tịnh sáng suốt thường nhiên ; là biết được tự thể của các pháp hiện hành trong thế giới vũ trụ ; là thấu suốt cội nguồn sanh sanh hóa hóa của hữu tình và vô tình chúng-sanh; là quán chiếu bí yếu mật nghĩa viên dung tương quan của tâm và cảnh, để rồi từ đó có thể thống triệt lý viên dung vô ngại chủ và khách của vạn pháp, hiện hành sanh hóa, tương duyên tương nhơn quả, tương sanh tương diệt. Tất cả vạn pháp toàn triệt ảnh hiện trên đài gương chơn như thể tánh. Thế nên, thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là bước vào cửa phương tiện cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hy hữu ly vọng hoàn chơn.
Bởi công đức đặc thù nhiệm mầu vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm như thê, nên người có thiện duyên thấy Kinh Hoa Nghiêm mà biết phát tâm thành kính tin sâu, thì như chính mình được thấy Phật. Người thành tâm đọc Kinh Hoa Nghiêm như trực tiếp nghe Phật khai thị. Người chí thành phụng thờ Kinh Hoa Nghiêm như chính mình trực tiếp phụng thờ Phật. Người phát tâm bồ-đề ấn tống Kinh Hoa Nghiêm có công-đức như được cúng dường Phật, như được thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân, như được dự vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm cao sâu, nhiệm mầu vi diệu như thế, nên những ai thành kính phát tâm ấn tống thọ trì kinh này, thì phải biết rằng người đó nhiều đời gieo thiện duyên bồ-đề, đã từng làm sứ giả của Phật và đã từng ở trong ngôi nhà chánh pháp.
Phật-Học-Viện Quốc-Tế nhận thấy thời mạt pháp này, pháp nhược ma cường, để cho chánh pháp đại thừa được trường tồn phổ cập nhân gian, làm rường cột cho niềm tin chánh đạo, ngõ hầu thức tỉnh quần mê sớm hồi đầu về bến giác. Nên nguyện cùng chư Phật tử bốn phương, đồng chí hướng đại thừa vô lượng đạo, đồng tâm thành kính in lại bộ kinh đại thừa quý giá này, để kết thiện duyên vô thượng bồ-đề, cùng các bạn hiền đang hướng nguyện tiến bước theo gót chân Phật trở về giác tánh chân như.
Ngưỡng nguyện chư tôn thiền đức và các bậc thiện hữu tri thức Phật tử gần xa phát tâm hoan hỷ hộ trì.
Thành tâm kính lậy Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Phật Ðản 2532 - Mậu Thìn 1988
THÍCH ÐỨC NIỆM
*******
Lời Nói Ðầu Của Dịch Giả
Khảo cứu theo truyền sử trong đại-tạng, khi thành đạo Vô-thượng Chánh-giác, chưa vội rời đạo-tràng Bồ-Ðề, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật với pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na, cùng chư đại Bồ-Tát chứng giải-thoát-môn, tuyên thuyết Kinh Hoa-Nghiêm.
Sau khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long-Thọ Bồ-Tát, Kinh Hoa-Nghiêm này mới được lưu truyền bằng phạn-văn. Toàn bộ Kinh chữ Phạn có một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm.
Ðến nhà Ðường, Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà từ nước Vu-Ðiền mang bổn Kinh chữ Phạn này sang Trung-Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng Ðại-Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm, từ phẩm 'Thế-Chủ Diệu-Nghiêm' đến phẩm 'Nhập-Pháp-Giới', cộng có ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn-văn, còn lại chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài kệ Phạn-văn chưa được dịch ra Hán-văn.
Kế đó, Pháp-Sư Bác-Nhã, người Kế-Tân dịch thêm phẩm Phổ-Hiền-Hạnh-Nguyện ra Hán-văn, thành phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa-Nghiêm này.
Nguyên bổn chữ Hán chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy chia quyển ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba quyển hoặc nhiều hơn, thành thử mạch văn bị gián đoạn, nên khi phiên dịch ra Việt-văn, tôi chỉ lấy phẩm mà không theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển của bổn chữ Hán trong bổn Việt-văn này, để tiện sự so cứu cho người đọc.
Kinh này gọi đủ là 'Ðại-Phương-Quảng Phật Hoa-Nghiêm', ta quen gọi là Kinh Hoa-Nghiêm.
Nội dung của Kinh này đứng trên cảnh-giới bất-tư-nghì giải-thoát, chư pháp-thân Ðại-Sĩ thừa oai thần của đức Phật tuyên dương công-đức cùng cảnh-giới của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất-tư-nghì của chư đại Bồ-Tát.
Kinh Hoa-Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất-tư-nghì giải-thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh này đều lấy toàn thể pháp-giới tánh làm lượng. Ðã là toàn thể pháp-giới tánh nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông vô-ngại, nên cũng gọi là vô-ngại pháp-giới.
Từng bực cứu cánh của vô-ngại pháp-giới là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư pháp-thân Bồ-Tát thời được từng phần.
Muốn hiểu thấu phần nào cảnh-giới trên đây, người học đạo cần phải biết rõ bốn pháp-giới, bốn cấp bực mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :
1. Lý vô-ngại pháp-giới
2. Sự vô-ngại pháp-giới
3. Lý sự vô-ngại pháp-giới
4. Sự-sự vô-ngại pháp-giới
'Lý' tức là chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông vô-ngại, nên gọi là 'Lý vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý vô-ngại này chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.
Tất cả pháp 'Sự' đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức là đồng lấy pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể 'Sự' là pháp-tánh, mà pháp-tánh đã viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại, nên gọi là 'Sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).
Lý là thể-tánh của 'Sự' (tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng của 'Lý-tánh'. Vậy thời lý-tánh tức là lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh. Chính Lý-tánh là toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là 'Lý-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý-sự pháp-giới này thời là bậc pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).
Tất cả sự đã toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là Ðấng Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).
Sự-sự vô-ngại pháp-giới dung thông tự-tại, nội dung của toàn bộ Kinh Hoa-Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn Kinh này. Nay xin lược dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học-giả tiện tham cứu :
Sự-sự là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể không-gian và thời-gian.
Về không-gian dung thông vô-ngại văn Kinh nói :
Bao nhiêu vi-trần trong thế-giới
Trong mỗi vi-trần thấy các cõi
Bửu quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh-giới tự-tại của Như-Lai
...................................................
Vô-lượng vô-số núi Tu-Di
Ðều đem để vào một sợi lông,
Một thế-giới để vào tất cả
Tất cả thế-giới để vào một,
Thể tướng thế-giới vẫn như cũ
Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp.
...................................................
Trong một chân lông đều thấy rõ
Vô-số vô-lượng chư Như-Lai
Tất cả chân lông đều thế cả
Tôi nay kính lạy tất cả Phật
...................................................
...................................................
Về thời-gian dung-thông vô-ngại văn Kinh nói :
Kiếp quá-khứ để hiện, vị-lai,
Kiếp vị-lai để quá, hiện-tại,
Ba đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng phải dài vắn : hạnh giải-thoát.
...................................................
Tôi hay thâm nhập đời vị-lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm,
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập.
...................................................
Về không-gian và thời-gian dung thông vô-ngại nhau, văn Kinh nói :
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc-độ số vô-lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn-Sư-Tử
Cũng thường vào trong cảnh-giới Phật
Như-huyễn, giải-thoát và oai-lực.
...................................................
...................................................
Tất cả sự không ngoài thời-gian và không-gian. Thời-gian dung thông thời-gian, không-gian dung thông không-gian, thời-gian dung thông không-gian, không-gian dung thông thời-gian. Một không-gian dung thông tất cả không-gian, một thời-gian dung thông tất cả thời-gian, tất cả dung thông với một, thời-gian với không-gian, một cùng tất cả cũng đều dung thông như vậy. Ðây chính là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, mà cũng chính là cảnh-giới giải-thoát bất-tư-nghì mà Kinh Hoa-Nghiêm này lấy đó làm nội-dung như đã nói ở trên.
..............................................................................................................................
Lược giải một vài điều, để giúp phần nào cho học-giả khi cần thấy phải thấu triệt nội-dung của Kinh này. Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin xem bộ Hoa-Nghiêm đại-sớ của Tổ Thanh-Lương và Thập-huyền-môn của Tổ Hiền Thủ.
Tôi thành kính đem công-đức phiên dịch Việt-văn này hồi hướng cho tất cả chúng-sanh đồng về Tịnh-Ðộ, đồng sớm thành Phật.
Viết tại chùa Vạn Ðức
Thủ Ðức ngày Phật nhập Niết-Bàn
Rằm tháng Hai 2508
Dịch-Giả
Hân-Tịnh Tỳ-Kheo
Thích Trí Tịnh
************
Nghi Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh
(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô-lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối, sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam-mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quỳ tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng-dường tất cả Phật
Tôn Pháp, các Bồ-Tát,
Vô-biên chúng Thanh-văn
Và cả thảy Thánh-hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô-biên cõi,
Khắp xông các chúng-sanh
Ðều phát lòng bồ-đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
(Cầm hương lạy 1 lạy)
(Ðứng chắp tay xướng) :
Sắc thân Như-Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô-tận
Trí huệ Phật cũng thế,
Tất cả pháp thường-trú
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần-sanh,
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Quy-y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng-sanh
Ðồng sanh nước An-Lạc.
Án phạ nhựt ra vật (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Thường-tịch quang tịnh-độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Pháp-thân mầu thanh-tịnh
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Thật báo trang-nghiêm độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân tướng hải vi-trần
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Phương-tiện thánh cư độ
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân trang-nghiêm giải-thoát
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân căn giới đại-thừa
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
A-Di-Ðà Như-Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày y-chánh
Khắp pháp-giới Tôn-Pháp (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát
Thân tử-kim muôn ức
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát
Thân trí sáng vô-biên
Khắp pháp-giới Bồ-Tát (1 lạy)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
Cõi An-Lạc phương tây
Thanh-tịnh đại-hải-chúng
Thân hai nghiêm : Phước, trí
Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)
(Ðứng chắp tay nguyện) :
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng-sanh 'trong pháp-giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng (1) 'nên qui mạng (2) sám-hối (3).
(1 lạy, quỳ chắp tay sám hối) :
Chí tâm sám-hối :
Ðệ tử _____ và chúng-sanh trong pháp-giới, từ đời vô-thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô-minh che đăy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.
Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối-tăm, chẳng thấy chẳng nghe chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6), trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. -- Kinh rằng : 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-tịch-quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-Pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải-thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ nay mới chừa bỏ ăn-năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà phát lồ (7) sám-hối, làm cho đệ-tử cùng pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô-thỉ, hoặc hiện-tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt-ráo thanh-tịnh.
Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu-tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi-hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-độ, khắp với chúng-sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.
Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ-trì, làm cho căn lành của đệ-tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhơn-duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm-chung, thân an-lành niệm chánh vững-vàng, xem nghe đều rõ-ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp-dẫn đệ-tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-Tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ-tử sám-hối phát-nguyện rồi quy-mạng đảnh-lễ : Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-bảo. (1 lạy)
(lạy xong tiếp Nghi-thức tụng kinh ...)
Thích Nghĩa Sám Pháp:
(1) : Phiền-não, nghiệp nhơn, quả-báo, ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi : 'ba món chướng'.
(2) : Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng, chính là nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.
(3) : Nói đủ là Sám-ma hối-quá, 'Sám-ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá' tức là ăn-năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) : Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý sáu căn và ba nghiệp thân - khẩu - ý.
(5) : Giết cha, giết mẹ, giết thánh-nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa-hiệp Tăng, gọi là năm tội nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
(6) : A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ-quỉ, Ðịa-ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
(7) : Bày tỏ tội-lỗi ra trước Chúng Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú-tàng (che-giấu), Có phát-lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).
********
Nghi Thức Trì Tụng
Bài Tán Lư Hương
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
CHƠN NGÔN TịNH PHÁP GIỚI
Án Lam (7 lần)
CHƠN NGÔN TịNH KHẨU NGHIỆP
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
CHƠN NGÔN TịNH BA NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ ham (3 lần)
CHƠN, NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lậy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bản-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
*****
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm
Thứ Nhất
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
I. Ðại Hội Vân Tập
(1) Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma-Kiệt-Ðề, trong đạo-tràng bồ-đề, ban đầu thành Vô-thượng Chánh-giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim-Cang. Có các luân-báu, hoa báu, châu ma-ni thanh-tịnh, dùng trang nghiêm. Các c hâu ma-ni sắc-tướng hải làm tràng, thường phóng quang minh, luôn vang ra tiếng vi diệu. Các mành lưới-báu, chuỗi-hoa hương thơm, bủa giăng rủ bốn phía. Châu ma-ni bảo-vương biến-hiện tự-tại, mưa vô-tận châu-bảo và những hoa đẹp rải khắp mặt đất. Cây báu giăng hàng, nhánh lá sum-sê sáng-rỡ.
Do thần lực của Phật làm cho đạo-tràng này ảnh-hiện tất cả sự trang-nghiêm.
Cây bồ-đề cao lớn lạ thường : thân bằng Kim-Cang và Lưu-Ly, cành cây bằng nhiều chất bảo tốt đẹp, lá báu giăng che như mây, hoa báu nhiều màu đơm sáng các nhánh, trái bồ-đề bằng châu ma-ni chiếu sáng, như lửa ngọn xen lẫn trong hoa.
Quanh cây bồ-đề đều phóng quang-minh, trong quang-minh rưới ma-ni-bảo, trong ma-ni-bảo có các Bồ-Tát xuất hiện, đông nhiều như mây.
Lại do thần lực của Như-Lai, cây bồ-đề này thường vang ra tiếng vi-diệu, nói các thứ pháp-môn vô-cùng vô-tận.
Cung-điện lâu-đài của Ðức Như-Lai ở, rộng-rãi trang-nghiêm, tốt đẹp khắp đến mười Phương. Lâu-đài này do châu ma-ni nhiều màu hiệp thành, các thứ hoa báu đơm-đẹp, những đồ trang-nghiêm trong lâu đài tuôn ánh-sáng như mây.
Từ trong lâu-đài chói sáng kết thành bảo-tràng, vô-biên Bồ-Tát và đạo-tràng chúng-hội đều hợp nơi đó, vì có thể xuất hiện quang-minh của chư Phật. Ma-ni bửu-vương bất-tư-nghì-âm kết lại thành lưới. Thần-thông tự-tại của Như-Lai làm cho tất cả cảnh-giới đều hiện trong lưới báu. Tất cả chúng-sanh, cùng nơi chỗ nhà cửa của họ, đều hiện bóng trong đó. Lại do thần-lực của chư Phật, trong khoảng một niệm, cả pháp-giới đều bao gồm trong lưới.
Toà sư-tử cao rộng tốt đẹp : đài bằng châu ma-ni, lưới bằng hoa sen, vòng quanh bằng bảo-châu vi-diệu thanh-tịnh, hoa đẹp nhiều mầu kết thành chuỗi.
Cung điện, lâu đài, cửa nẻo, thềm bực, tất cả đều hoàn toàn trang nghiêm. Cây báu, nhánh lá, bông trái xen nhau rực rỡ. Châu ma-ni chiếu sáng như mây. Chư Phật mười phương hoá hiện nơi châu-vương. Bảo-châu vi-diệu trong búi tóc của tất cả Bồ-Tát đều phóng quang minh chói sáng lâu đài.
Lại do oai thần của chư Phật, chư Bồ-Tát diễn nói cảnh giới rộng lớn của Như-Lai, tiếng đó vi-diệu, vang xa khắp đến tất cả chỗ.
Lúc đó Ðức Thế-Tôn ngự trên tòa sư-tử này thành vô thượng chánh giác : trí Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng, thân Phật khắp đầy tất cả thế gian, tiếng Phật thuận khắp cõi nước mười phương. Ví như hư không bao gồm các sắc tướng, đối với các cảnh giới không chỗ phân biệt. Lại như hư không khắp cùng tất cả, bình đẳng vào trong tất cả quốc độ. Thân Phật thường khắp ngồi trong tất cả đạo tràng của chúng Bồ-Tát, oai quang của Phật chói rỡ như mặt trời mọc lên soi sáng thế giới. Phước đức của Phật rộng lớn như biển cả, đều đã thanh-tịnh, mà luôn thị hiện sanh vào quốc độ chư Phật. Vô biên sắc tướng, đầy đủ ánh sáng, cùng khắp pháp-giới, bình đẳng không sai khác. Diễn thuyết tất cả pháp như giăng bủa mây lớn. Mỗi đầu sợi lông đều có thể dung thọ tất cả thế giới mà vẫn không chướng ngại. Ðều hiện vô lượng thần thông giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh. Thân Phật khắp mười phương mà không có tướng qua lại. Trí Phật vào tất cả tướng mà rõ thấu các pháp đều không tịch. Tất cả thần-biến của chư Phật ba đời đều thấy cả trong quang-minh. Tất cả sự trang nghiêm của tất cả Phật-độ trong kiếp số bất-tư-nghì đều làm cho hiển-hiện.
Có mười thế-giới vi-trần số đại Bồ-Tát theo hầu quanh Phật. Danh hiệu của các ngài là : Phổ-Hiền Bồ-Tát, Phổ-Ðức-Tói-Thắng-Ðăng-Quang-Chiếu Bồ-Tát, Phổ-Quang-Sư-Tử-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Bảo-Diệm-Diệu-Quang Bồ-Tát, Phổ-Âm-Công-Ðức-Hải-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Trí-Quang-Chiếu-Như-Lai-Cảnh Bồ-Tát, Phổ-Bảo-Kế-Hoa-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Thanh-Tịnh-Vô-Tận-Phước-Quang Bồ-Tát, Phổ-Quang-Minh-Tướng Bồ-Tát, Hải-Nguyệt-Quang-Ðại-Minh Bồ-Tát, Vân-Âm-Hải-Quang-Vô-Cấu-Tạng Bồ-Tát, Công-Ðức-Bảo-Kế-Trí-Sanh Bồ-Tát, Công-Ðức-Tự-Tại-Vương-Ðại-Quang Bồ-Tát, Thiện-Dũng-Mãnh-Liên-Hoa-Kế Bồ-Tát, Phổ-Trí-Vân-Nhựt-Tràng Bồ-Tát, Ðại-Tinh-Tấn-Kim-Cang-Tê Bồ-Tát, Hương-Diệm-Quang-Tràng Bồ-Tát, Ðại-Minh-Ðức-Thâm-Mỹ-Âm Bồ-Tát, Ðại-Phước-Quang-Trí-Sanh Bồ-Tát, có mười thế giới vi-trần-số đại Bồ-Tát như vậy làm bực thượng thủ.
Từ xưa chư Bồ-Tát này cùng với Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đồng tu tập thiện căn, thật hành Bồ-Tát hạnh, từ biển căn lành của Như-Lai sanh ra, đã đầy đủ các môn ba-la-mật, huệ-nhãn sáng suốt thấy ba đời, nơi các môn tam-muội đều đầy đủ thanh-tịnh, biện tài rộng lớn vô tận như biển, đủ công-đức Phật tôn nghiêm đáng kính, biết căn tánh của chúng-sanh thuận theo giáo-hóa điều phục, vào tạng pháp-giới, trí vô-phân-biệt, chứng giải-thoát của Phật rất sâu rộng lớn, có thể tùy phương tiện, vào nơi một bực mà dùng tất cả hạnh nguyện, thường đi chung với trí-tuệ, cùng tận thuở vị-lai rõ thấu cảnh-giới bí-mật rộng lớn của chư Phật, khéo biết tất cả pháp bình đẳng của Phật, đã đi trên bực Phổ-Quang-Minh của Như-Lai, nhập nơi vô-lượng môn tam-muội, đều tùy loại hiện thân khắp tất cả chỗ, đồng sự với thế-gian mà thật hành thế-pháp, tổng-trì rộng lớn chứa nhóm tất cả pháp, biện tài thiện xảo chuyển pháp-luân bất-thối, biển cả công-đức của tất cả Như-Lai đều vào nơi thân của các ngài, tất cả quốc-độ của chư Phật các ngài đều phát nguyện đi đến, đã từng cúng-dường tất cả chư Phật trải qua vô-biên số kiếp luôn hoan-hỷ không nhàm, chỗ tất cả chư Phật chứng đạo bồ-đề các ngài thường ở trong đó gần gũi không rời, thường đem nguyện-thệ Phổ-Hiền đã được, làm cho trí-thân của tất cả chúng-sanh đều đầy đủ. Chư Bồ-Tát trên đây trọn nên vô-lượng công-đức như vậy.
Lại có thế-giới vi-trần số Chấp-Kim-Cang Thần : Diệu-Sắc Na-La-Diên Thần, Nhựt-Luân Tốc-Tật-Tràng Thần, Tu-Di-Hoa-Quang Thần, Thanh-Tịnh-Vân-Âm Thần, Chư-Căn-Mỹ-Diệu Thần, Khả-Ái-Lạc-Quang-Minh Thần, Ðại-Thọ-Lôi-Âm Thần, Sư-Tử-Vương-Quang-Minh Thần, Mật-Diệm-Thắng-Mục Thần, Liên-Hoa-Quang-Ma-Ni-Kế Thần, Thế-giới vi-trần số Kim-Cang thần như vậy làm bực tối thượng-thủ. Chư thần này thường phát nguyện lớn trong vô-lượng kiếp quá-khứ : nguyện thường gần-gũi cúng dường chư Phật, nguyện hạnh đã được viên-mãn, đã đến bỉ-ngạn, chứa nhóm vô-biên phước-nghiệp thanh-tịnh, đã thông đạt cảnh-giới của các môn tam-muội, đã được thần-thông theo ở bên Như-Lai, nhập cảnh-giới bất-khả tư-nghì giải-thoát, oai-quang các ngài rất hùng mãnh nơi chúng hội, tùy theo chúng-sanh mà hiện thân để điều phục, tất cả chư Phật hóa thân ở chỗ nào thời các cũng hóa thân theo qua, chỗ cũa tất cả Như-Lai ở các ngài thường siêng năng hộ vệ.
Lại có thế-giới vi-trần số Thân-Chúng Thần : Hoa-Kế Trang-Nghiêm Thần, Quang-Chiếu Thập-Phương Thần, Hải-Âm Ðiều-Phục Thần, Tịnh-Hoa-Nghiêm-Kế Thần, Vô-Lượng-Oai-Nghi Thần, Tói-Thượng-Quang-Nghiêm Thần, Tịnh-Quang-Hương-Vân Thần, Thủ-Hộ-Nhiếp-Trì Thần, Phổ-Hiện-Nhiếp-Thủ Thần, Bất-Ðộng-Quang-Minh Thần, có thế-giới vi-trần số Thân-Chúng-Thần như vậy làm bực thượng thủ. Từ xưa chư thần này đã thành-tựu đại-nguyện cúng-dường phục-sự tất cả chư Phật.
Lại có thế-giới vi-trần số Túc-Hành-Thần : Bửu-Ấn-Thủ Thần, Liên-Hoa-Quang Thần, Thanh-Tịnh-Hoa-Kế Thần, Nhiếp-Chư-Thiện-Kiến Thần, Diệu-Bảo-Tinh-Tràng Thần, Lạc-Thổ-Diệu-Âm Thần, Chiên-Ðàn-Thọ-Quang Thần, Liên-Hoa-Quang-Minh Thần, Vi-Diệu-Quang-Minh Thần, Tích-Tập-Diệu-Hoa Thần, có thế-giới vi-trần số Túc-hành Thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư Thần này trong vô-lượng kiếp quá-khứ thường gần gũi Như-Lai.
Lại có thế-giới vi-trần số Ðạo-Tràng Thần : Tịnh Trang-Nghiêm-Tràng Thần, Tu-Di Bảo-Quang Thần, Lôi-Âm-Tràng-Tướng Thần, Vũ-Hoa-Diệu-Nhãn Thần, Hoa-Anh-Quang-Kế Thần, Vũ-Bửu-Trang-Nghiêm Thần, Kim-Cang-Thể-Vân Thần, Liên-Hoa-Quang-Minh Thần, Diệu-Quang-Chiếu-Diệu Thần, có thế-giới vi-trần số Ðạo-Tràng-Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Thuở quá-khứ, chư thần này đã gặp vô-lượng Phật thành tựu nguyện-lực thường cúng dường Phật.
Lại có thế-giới vi-trần số Chủ-Thành Thần : Bửu-Phong-Quang-Diệu Thần, Diệu-Nghiêm-Cung-Ðiện Thần, Thanh-Tịnh-Hỷ-Bảo Thần, Ly-Ưu-Thanh-Tịnh Thần, Hoa-Ðăng-Diệm-Nhãn Thần, Diệm-Tràng-Minh-Hiện Thần, Thạnh-Phước-Quang-Minh Thần, Thanh-Tịnh-Quang-Minh Thần, Hương-Kế-Trang-Nghiêm Thần, Diệu-Bửu-Quang-Minh Thần, có thế-giới vi-trần số Chủ-Thành Thần như vậy làm bực Thượng-thủ. Trong vô-lượng bất-tư-nghì kiếp, chư thần này đều trang nghiêm Thanh-Tịnh cung-điện của Như-Lai.
Lại có thế-giới vi-trần số Chủ-Ðịa Thần : Phổ-Ðức-Tịnh-Hoa Thần, Kiên-Phước-Trang-Nghiêm Thần, Diệu-Hoa-Nghiêm-Thọ Thần, Phổ-Tán-Chúng-Bửu Thần, Tịnh-Mục-Quán-Thời Thần, Diệu-Sắc-Thắng-Nhãn Thần, Hương-Mao-Phát-Quang Thần, Duyệt-Ý-Âm-Thinh Thần, Diệu-Hoa-Triền-Kế Thần, Kim-Cang-Nghiêm-Thể Thần, có thế-giới vi-trần số Chủ-Ðịa Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này thuở xưa phát-nguyện rộng lớn thường gần gũi chư Phật đồng tu phước-nghiệp.
Lại có vô-lượng chủ Sơn-thần : Bửu-Phong-Khai-Hoa Thần, Hoa-Lâm-Diệu-Kế Thần, Cao-Tràng-Phổ-Chiếu Thần, Ly-Trần Tịnh-Kế Thần, Quang-Chiếu Thập-Phương Thần, Ðại-Lực Quang-Minh Thần, Oai-Quang-Phổ-Thắng Thần, Vi-Mật-Quang-Luân Thần, Phổ-Nhãn-Hiện-Kiến Thần, Kim-Cang-Mật-Nhãn Thần, có vô-lượng Chủ-Sơn-Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đã được pháp-nhãn thanh-tịnh đối với các pháp.
Lại có bất-tư-nghì số Chủ-Lâm Thần : Bố-Hoa-Như-Vân Thần, Trạc-Cán-Thơ-Quang Thần, Sanh-Nha-Phát-Diệu Thần, Cát-Tường-Tịnh-Diệp Thần, Thùy-Bố-Diệm-Tàng Thần, Thanh-Tịnh-Quang-Minh Thần, Khả-Ý-Lôi-Âm Thần, Quang-Hương Phổ-Biến Thần, Diệu-Quang Hoánh-Diệu Thần, Hoa-Quả-Quang-Vị Thần. Bất-tư-nghì số Chủ-Lâm Thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này đều có vô-lượng quang-minh khả-ái.
Lại có vô-lượng Chủ-Dược Thần : Cát-Tường Thần, Chiên-Ðàn-Lâm Thần, Thanh-Tịnh-Quang-Minh Thần, Danh-Xưng-Phổ-Văn Thần, Mao-Khổng-Quang-Minh Thần, Phổ-Trị Thanh-Tịnh Thần, Tế-Nhựt-Quang-Tràng Thần, Minh-Kiến Thập-Phương Thần, vô-lượng Chủ-Dược Thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đều lìa cấu nhiễm, lòng nhơn từ cứu-giúp muôn vật.
Lại có vô-lượng Chủ-Giá Thần : Nhu-Nhuyến-Thắng-Vị Thần, Thời-Hoa-Tịnh-Quang Thần, Sắc-Lực-Dũng-Kiện Thần, Tăng-Trưởng Tinh-Khí Thần, Phổ-Sanh-Căn-Quả Thần, Diệu-Nghiêm Hoàn-Kế Thần, Nhuận-Trạch-Tịnh-Hoa Thần, Thành-Tựu-Diệu-Hương Thần, Kiến-Giả Ái-Nhạo Thần, Ly-Cấu-Tịnh-Quang Thần, có vô-lượng Chủ-Giá thần như vậy là bực thượng-thủ. Chư thần này đều được thành tựu đại hỷ.
Lại có vô-lượng Chủ-Hà Thần : Phổ-Phát-Tánh-Lưu Thần, Phổ-Khiết-Tuyền-Giản Thần, Ly-Trần Tịnh-Nhãn Thần, Thập-Phương Biến-Hống Thần, Cứu-Hộ Chúng-Sanh Thần, Vô-Nhiệt Tịnh-Quang Thần, Phổ-Sanh Hoan-Hỷ Thần, Quảng-Ðức-Thắng-Tràng Thần, Quang-Chiếu-Phổ-Thế-Thần, Hải-Ðức-Quang-Minh Thần, có vô-lượng Chủ-Hà thần như vậy làm bực thượng-thử. Chư thần này đều ân cần để ý lợi ích chúng-sanh.
Lại có vô-lượng Chủ-Hải Thần : Xuất-Hiện Bửu-Quang Thần, Thành-Kim-Cang-Tràng Thần, Viễn-Ly-Trần-Cấu Thần, Phổ-Thủy-Cung-Ðiện Thần, Cát-Tường-Bửu-Nguyệt Thần, Diệu-Hoa-Long-Kế Thần, Phổ-Trì-Quang-Vị Thần, Bửu-Diệm-Hoa-Quang Thần, Kim-Cang-Diệu-Kế Thần, Hải-Triều-Lôi-Âm Thần, có vô-lượng Chủ-Hải thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đều dùng biển cả công-đức của Như-Lai để đầy đủ thân mình.
Lại có vô-lượng Chủ-Thủy Thần : Phổ-Hưng-Vân-Tràng Thần, Hải-Triều-Vân-Âm Thần, Diệu-Sắc Luân-Kế Thần, Thiện-Xảo-Triền-Phục Thần, Ly-Cấu-Hương-Tích Thần, Phước-Kiều-Quán-Âm Thần, Tri-Túc-Tự-Tại Thần, Tịnh-Hỷ-Thiện-Âm Thần, Phổ-Hiện-Oai-Quang Thần, Hống-Âm-Biến-Hải Thần, có vô lượng Chủ-Thủy thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này thường siêng năng cứu hộ và làm lợi ích tất cả chúng-sanh.
Lại có vô số Chủ-Hỏa Thần : Phổ-Quang Diệm-Tàng Thần, Phổ-Tập Quang-Tàng Thần, Ðại-Quang-Phổ-Chiếu Thần, Chúng-Diệu-Cung-Ðiện Thần, Vô-Tận Quang-Kế Thần, Chủng-Chủng-Diệm-Nhãn Thần, Thập-Phương-Cung-Ðiện như Tu-Di-Sơn Thần, Oai-Quang-Tự-Tại Thần, Quang-Minh-Phá-Ám Thần, Lôi-Âm-Ðiển-Quang Thần, có vô-số Chủ-Hoả thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này đều có thể thị-hiện các thứ quang-minh làm cho chúng-sanh dứt trừ những nhiệt-não.
Lại có vô-lượng Chủ-Phong Thần : Vô-Ngại-Quang-Minh Thần, Phổ-Hiện-Dũng-Nghiệp Thần, Phiêu-Kích-Vân-Tràng Thần, Tịnh-Quang-Trang-Nghiêm Thần, Lực-Năng-Kiệt-Thủy Thần, Ðại-Thinh-Biến-Hống Thần, Thọ-Sóc-Thùy-Kế Thần, Sở-Hành-Vô-Ngại Thần, Chủng-Chủng-Cung-Ðiện Thần, Ðại Quang-Phổ-Chiếu Thần, có vô-lượng Chủ-Phong thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này đều siêng năng làm tan dứt tâm ngã mạn.
Lại có vô-lượng Chủ-Không Thần : Tịnh-Quang-Phổ Chiếu Thần, Phổ-Du-Thâm-Quảng Thần, Sanh-Cát-Tường-Phong Thần, Ly-Chướng An-Trụ Thần, Quảng-Bộ-Diệu-Kế Thần, Vô-Ngại-Quang-Diệm Thần, Vô-Ngại-Thắng-Lực Thần, Ly-Cấu-Quang-Minh Thần, Thâm-Viễn-Diệu-Âm Thần, Quang-Biến-Thập-Phương Thần, có vô-lượng Chủ-Không thần như vậy làm bực thượng-thủ.
Lại có vô-lượng Chủ-Phương Thần : Biến-Trụ-Nhứt-Thiết Thần, Phổ-Hiện-Quang-Minh Thần, Quang-Hạnh-Trang-Nghiêm Thần, Châu-Hành-Bất-Ngại Thần, Vĩnh-Ðoạn-Mê-Hoặc Thần, Phổ-Du-Tịnh-Không Thần, Ðại-Vân-Tràng-Âm Thần, Kế-Mục-Vô-Loạn Thần, Phổ-Quán-Thế-Nghiệp Thần, Châu-Biến-Du-Lãm Thần, có vô-lượng Chủ-Phương thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này có thể dùng phương tiện phóng-quang-minh thường chiếu khắp mười phương chẳng dứt.
Lại có vô-lượng Chủ-Dạ Thần : Phổ-Ðức-Tịnh-Quang Thần, Hỷ-Nhãn-Quán-Thế Thần, Hộ-Thế-Tinh-Khí Thần, Tịch-Tịnh-Hải-Âm Thần, Phổ-Hiện-Cát-Tường Thần, Phổ-Phát-Thọ-Hoa Thần, Bình-Ðẳng-Hộ-Dục Thần, Du-Hí-Khoái-Lạc Thần, Chư-Căn-Thường-Hỷ Thần, Xuất-Sanh-Tịnh-Phước Thần, có vô-lượng Chủ-Dạ thần như vậy làm bực thượng thủ. Chư thần này thường siêng năng tu-tập, vui với chánh-pháp.
Lại có vô-lượng Chủ-Trú Thần : Thị-Hiện-Cung-Ðiện Thần, Phát-Khởi-Huệ-Hương Thần, Lạc-Thắng-Trang-Nghiêm Thần, Hương-Hoa-Diệu-Quang Thần, Phổ-Tập-Diệu-Dược Thần, Nhạo-Tác-Hỷ-Mục Thần, Phổ-Hiện-Chư-Phương Thần, Ðại-Bi-Quang-Minh Thần, Thiện-Căn-Quang-Chiếu Thần, Diệu-Hoa-Anh-Lạc Thần, có vô-lượng Chủ-Trú thần như vậy làm bực thượng-thủ. Chư thần này có thể sanh lòng tin hiểu nơi diệu-pháp, thường cùng nhau siêng năng nghiêm-sức cung-điện.
Lại có vô-lượng A-Tu-La-Vương : La-Hầu-Vương, Tỳ Ma-Chất-Ða-La Vương, Xảo-Huyễn-Thuật Vương, Ðại-Quyến-Thuộc Vương, Ðại-Lực Vương, Biến-Chiếu Vương, Kiên-Cố-Hành-Diệu-Trang-Nghiêm Vương, Quảng-Ðại-Nhơn-Huệ Vương, Xuất-Hiện-Thắng-Ðức Vương, Diệu-Hảo-Âm-Thinh Vương, có vô-lượng A-Tu-La Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các A-Tu-La-Vương này đều đã siêng-năng xô dẹp ngã-mạn và những phiền não.
Lại có bất-tư-nghì số Ca-Lâu-La Vương : Ðại-Tốc-Tật-Lực Vương, Vô-Năng-Hoại-Bảo-Cái Vương, Thanh-Tịnh-Tốc-Tật Vương, Tâm-Bất-Thối-Chuyển Vương, Ðại-Hải-Xứ-Nhiếp-Trì-Lực Vương, Kiên-Cố-Tịnh-Quang-Vương, Xảo-Nghiêm-Quang-Kế Vương, Phổ-Thiệp-Thị-Hiện Vương, Phổ-Quán-Hải Vương, Phổ-Âm-Quãng-Mục Vương, có bất-tư-nghì số Ca-Lâu-La Vương như vậy làm thượng-thủ. Các Ca-Lâu-La Vương này đều đã thành tựu sức phương tiện lớn, có thể cứu-hộ tất cả chúng-sanh.
Lại có vô-lượng Khẩn-Na-La Vương : Thiện-Huệ-Quang-Minh-Thiên Vương, Diệu-Hoa-Tràng Vương, Chủng-Chủng Trang-Nghiêm Vương, Duyệt-Ý-Hống-Thinh Vương, Bửu-Thọ-Quang-Minh Vương, Kiến-Giả-Hân-Lạc Vương, Ðộng-Ðịa-Lực Vương, Nhiếp-Phục-Ác-Chúng Vương, có vô-lượng Khẩn-Na-La Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Khẩn-Na-La Vương này đều siêng-năng tinh-tấn quán tất cả pháp, lòng thường khoái-lạc du-hí tự-tại.
Lại có vô-lượng Ma-Hầu-La-Già Vương : Thiện-Huệ Vương, Thanh-Tịnh-Oai-Âm Vương, Thắng-Huệ-Trang-Nghiêm-Kế Vương, Diệu-Mục-Chủ Vương, Như-Ðăng-Tràng-Vi-Chúng-Sở-Quy Vương, Tói-Thắng-Quang-Minh-Tràng Vương, Sư-Tử-Ức Vương, Chúng-Diệu-Trang-Nghiêm-Âm Vương, Tu-Di-Kiên-Cố Vương, Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Vương, có vô-lượng Ma-Hầu-La-Già Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Ma-Hầu-La-Già Vương này đều siêng tu-tập phương-tiện rộng lớn làm cho chúng-sanh dứt hẳn ngu-si.
Lại có vô-lượng Dạ-Xoa Vương : Tỳ-Sa-Môn Vương, Tự-Tại-Âm Vương, Nghiêm-Trì-Khí-Trượng Vương, Ðại-Trí-Huệ Vương, Diệm-Nhãn-Chủ Vương, Kim-Cang-Nhãn Vương, Dũng-Kiện-Tý Vương, Dũng-Ðịch-Quân Vương, Phú-Tư-Tài Vương, Lực-Hoại-Cao-Sơn Vương, có vô-lượng Dạ-Xoa Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Dạ-Xoa Vương này đều siêng thủ-hộ tất cả chúng-sanh.
Lại có vô-lượng Ðại-Long Vương : Tỳ-Lâu-Bát-Xoa Vương, Ta-Kiệt-La Vương, Vân-Âm-Diệu-Tràng Vương, Diệm-Khẩu-Hải-Quang Vương, Phổ-Cao-Vân-Tràng Vương, Ðức-Xoa-Ca-Vân-Tràng Vương, Phổ-Vận-Ðại-Thinh Vương, Vô-Nhiệt-Não Vương, có vô-lượng Ðại-Long Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Long-Vương này đều siêng-năng kéo mây rưới mưa làm tiêu trừ sự phiền-não cho chúng-sanh.
Lại có vô-lượng Cưu-Bàn-Trà Vương : Tăng-Trưởng Vương, Long-Chúa-Vương, Thiện-Trang-Nghiêm-Tràng Vương, Phổ-Nhiêu-Ích-Hành-Vương, Thậm-Khả-Bố-Úy Vương, Mỹ-Mục-Trang-Nghiêm Vương, Cao-Phong-Huệ Vương, Dũng-Kiện-Tý Vương, Vô-Biên-Tịnh-Hoa-Nhãn Vương, Quảng-Ðại-Thiên-Diệu-A-Tu-La-Nhãn Vương, có vô-lượng Cưu-Bàn-Trà Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Các Cưu-Bàn-Trà Vương này đều siêng tu-học pháp môn vô-ngại phóng quang-minh lớn.
Lại có vô-lượng Càn-Thác-Bà Vương : Trì-Quốc-Càn-Thác-Bà Vương, Thọ-Quang Vương, Tịnh-Mục Vương, Hoa-Quang Vương, Phổ-Âm Vương, Nhạo-Diệu-Ðộng-Diêu-Mục Vương, Diệu-Âm-Sư-Tử-Tràng Vương, Phổ-Phóng-Bửu-Quang-Minh Vương, Kim-Cang-Thọ-Hoa-Tràng Vương, Nhạo-Phổ-HIện-Quang-Nghiêm Vương, có vô-lượng Càn-Thác-Bà Vương như vậy làm thượng-thủ. Các Càn-Thác-Bà Vương này đều tin hiểu sâu xa đối với đại-pháp, hoan-hỷ kính mến, siêng-năng tu-tập chẳng mỏi nhàm.
Lại có vô-lượng Nguyệt-Thiên-Tử : Nguyệt-Thiên-Tử, Hoa-Vương-Kế-Quang-Minh Thiên-Tử, Chúng-Diệu-Tịnh-Quang-Minh Thiên-Tử, An-Lạc-Thế-Gian-Tâm Thiên-Tử, Thọ-Vương-Nhãn-Quang-Minh Thiên-Tử, Thị-Hiện-Thanh-Tịnh-Quang Thiên-Tử, Phổ-Du-Bất-Ðộng-Quang Thiên-Tử, Tinh-Tú-Vương Tự-Tại Thiên-Tử, Tịnh-Giác-Nguyệt Thiên-Tử, Ðại-Oai-Ðức-Quang-Minh Thiên-Tử, có vô-lượng Nguyệt-Thiên-Tử như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Tử này đều siêng năng mở bày tâm-bửu của chúng-sanh.
Lại có vô-lượng Nhựt-Thiên-Tử : Nhựt-Thiên-Tử, Quang-Diệu-Nhãn Thiên-Tử, Tu-Di-Quang-Khả-Úy-Kính-Tràng Thiên-Tử, Ly-Cấu-Bửu-Trang-Nghiêm Thiên-Tử, Dũng-Mãnh-Bất-Thối-Chuyển Thiên-Tử, Diệu-Hoa-Anh-Quang-Minh Thiên-Tử, Tói-Thắng-Tràng-Quang-Minh Thiên-Tử, Bửu-Kế-Phổ-Quang-Minh Thiên-Tử, Quang-Minh Nhãn Thiên-Tử, Trì-Thắng-Ðức Thiên-Tử, Phổ-Quang-Minh Thiên-Tử, có vô-lượng Nhựt-Thiên-Tử như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Tử này đều siêng tu-tập lợi ích chúng-sanh thêm lớn căn lành cho họ.
Lại có vô-lượng Ðao-Lợi Thiên-Vương : Thích-Ca-Nhơn-Ðà-La Thiên-Vương, Phổ-Xưng-Mãn-Âm Thiên-Vương, Từ-Mục-Bửu-Kế Thiên-Vương, Bửu-Quang-Tràng-Danh-Xưng Thiên-Vương, Phát-Sanh-Hỷ-Lạc-Kế Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Chánh-Niệm Thiên-Vương, Tu-Di-Thắng-Âm Thiên-Vương, Thành-Tựu-Niệm Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Tịnh-Hoa-Quang Thiên-Vương, Tự-Tại-Quang-Minh-Năng-Giác-Ngộ Thiên-Vương, có vô-lượng Ðao-Lợi Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng phát khởi phước-nghiệp rộng lớn của tất cả thế-gian.
Lại có vô-lượng Dạ-Ma Thiên-Vương : Thiện-Thời-Phần Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thiên-Vương, Vô-Tận-Huệ-Công-Ðức-Tràng Thiên-Vương, Thiện-Biến-Hóa-Ðoan-Nghiêm Thiên-Vương, Tổng-Trì-Ðại-Quang-Minh Thiên-Vương, Bất-Tư-Nghì-Trí-Huệ Thiên-Vương, Luân-Tê Thiên-Vương, Quang-Diệm Thiên-Vương, Quang-Chiếu Thiên-Vương, Phổ-Quan-Sát-Ðại-Danh-Xưng Thiên-Vương, có vô-lượng Dạ-Ma Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng năng tu tập căn lành rộng lớn, thường có lòng hỷ-túc.
Lại có bất-tư-nghì số Ðâu-Suất Thiên-Vương : Tri-Túc Thiên-Vương, Hỷ-Lạc-Hải-Kế Thiên-Vương, Tối-Thắng-Công-Ðức-Tràng Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Quang Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo Diệu-Mục Thiên-Vương, Bửu-Phong-Tịnh-Nguyệt Thiên-Vương, Tói-Thắng-Dũng-Kiện-Lực Thiên-Vương, Kim-Cang-Diệu-Quang-Minh Thiên-Vương, Tinh-Tú-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Trang-Nghiêm Thiên-Vương, có bất-tư-nghì Ðâu-Suất Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng trì-niệm danh-hiệu của tất cả chư Phật.
Lại có vô-lượng Hóa-Lạc Thiên-Vương : Thiện-Biến-Hóa Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Âm-Quang-Minh Thiên-Vương, Biến-Hóa-Lực-Quang-Minh Thiên-Vương, Trang-Nghiêm-Chủ Thiên-Vương, Niệm-Quang Thiên-Vương, Tói-Thượng-Vân-Âm Thiên-Vương, Chúng-Diệu-Tối-Thắng-Quang Thiên-Vương, Diệu-Kế-Quang-Minh Thiên-Vương, Thành-Tựu-Hỷ-Huệ Thiên-Vương, Hoa-Quang-Kế Thiên-Vương, Phổ-Kiến-Thập-Phương Thiên-Vương, có vô-lượng Hóa-Lạc Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng điều phục tất cả chúng-sanh cho họ được giải-thoát.
Lại có vô-số Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương : Ðắc-Tự-Tại Thiên-Vương, Diệu-Mục chủ Thiên-Vương, Diệu-Quang-Tràng Thiên-Vương, Dõng-Mãnh-Huệ Thiên-Vương, Diệu-Âm-Cú Thiên-Vương, Diệu-Quang-Tràng Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Cảnh-Giới-Môn Thiên-Vương, Diệu-Luân-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương, Hoa-Nhị-Huệ-Tự-Tại Thiên-Vương, Nhơn-Ðà-La-Lực-Diệu-Trang-Nghiêm-Quang-Minh Thiên-Vương, có vô-số tự-tại Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng tu-tập pháp-môn rộng lớn phương-tiện tự-tại.
Lại có vô-số Ðại-Phạm Thiên-Vương : Thi-Khí Thiên-Vương, Huệ-Quang Thiên-Vương, Thiện-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương, Phổ-Vân-Âm Thiên-Vương, Quán-Thế-Ngôn-Âm-Tự-Tại Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Quang-Minh-Nhãn Thiên-Vương, Quang-Biến-Thập-Phương Thiên-Vương, Biến-Hóa-Âm Thiên-Vương, Quang-Minh-Chiếu-Diệu-Nhãn Thiên-Vương, Duyệt-Ý-Hải-Âm Thiên-Vương, có vô-số Phạm-Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều đủ đại-từ thương xót chúng-sanh, phóng quang chiếu khắp làm cho chúng-sanh đều vui đẹp.
Lại có vô-lượng Quang-Âm Thiên-Vương : Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thiên-Vương, Thanh-Tịnh-Diệu-Quang Thiên-Vương, Năng-Tự-Tại-Âm Thiên-Vương, Tối-Thắng-Niệm-Trí Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Thanh-Tịnh-Diệu-Âm Thiên-Vương, Thiện-Tư-Duy-Âm Thiên-Vương, Phổ-Âm-Biến-Chiếu Thiên-Vương, Thậm-Thâm-Quang-Âm Thiên-Vương, Vô-Cấu-Xưng-Quang-Minh Thiên-Vương, Tối-Thắng-Tịnh-Huệ-Quang Thiên-Vương, có vô-lượng Quang-Âm Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều an trụ nơi pháp-môn hỉ-lạc tịch-tịnh rộng-lớn vô-ngại.
Lại có vô-lượng Biến-Tịnh Thiên-Vương : Thanh-Tịnh-Danh-Xưng Thiên-Vương, Tối-Thắng-Kiến Thiên-Vương, Tịch-Tịnh-Ðức Thiên-Vương, Tu-Di-Âm Thiên-Vương, Tịnh-Niệm-Nhãn Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Tối-Thắng-Quang-Chiếu Thiên-Vương, Thế-Gian Tự-Tại Chúa Thiên-Vương, Quang-Diệm Tự-Tại Thiên-Vương, Nhạo-Tư-Duy-Pháp-Biến-Hóa Thiên-Vương, Biến-Hóa-Tràng Thiên-Vương, Tinh-Tú-Âm-Diệu-Trang-Nghiêm Thiên-Vương, có vô-lượng Biến-Tịnh Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều đã an-trụ pháp-môn rộng-lớn, siêng làm lợi ích cho thế-gian.
Lại có vô-lượng Quảng-Quả Thiên-Vương : Ái-Nhạo-Pháp-Quang-Minh-Tràng Thiên-Vương, Thanh-Tịnh-Trang-Nghiêm Hải Thiên-Vương, Tối-Thắng-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương, Tự-Tại-Trí-Huệ-Tràng Thiên-Vương, Nhạo-Tịch-Tịnh Thiên-Vương, Phổ-Trí-Nhãn Thiên-Vương, Nhạo-Triền-Huệ Thiên-Vương, Thiện-Chủng-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương, Vô-Cấu-Tịch-Tịnh-Quang Thiên-Vương, Quảng-Ðại-Thanh-Tịnh-Quang Thiên-Vương, có vô-số lượng Quảng-Quả Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều dùng pháp tịch-tịnh mà làm cung-điện và an-trụ trong đó.
Lại có vô-số Ðại-Tự-Tại Thiên-Vương : Diệu-Diệm-Hải Thiên-Vương, Tự-Tại-Danh-Xưng-Quang Thiên-Vương, Thanh-Tịnh-Công-Ðức-Nhãn Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Ðại-Huệ Thiên-Vương, Bất-Ðộng-Quang-Tự-Tại Thiên-Vương, Diệu-Trang-Nghiêm-Nhãn Thiên-Vương, Thiện-Tư-Duy-Quang-Minh Thiên-Vương, Khả-Ái-Nhạo-Ðại-Trí Thiên-Vương, Phổ-Âm-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương, Cực-Tinh-Tấn-Danh-Xưng-Quang Thiên-Vương, có vô-số Ðại-Tự-Tại Thiên-Vương như vậy làm bực thượng-thủ. Chư Thiên-Vương này đều siêng quán sát pháp vô tướng, chỗ thật hành bình đẳng.
(1) Lúc bấy giờ, hải-chúng đều đã vân tập nơi đạo-tràng của Như-Lai. Tất cả đều nhất tâm chiêm-ngưỡng Ðức Thế-Tôn.
(1) : Hán bộ quyển 2.
Cả chúng hội này đều đã rời tất cả tâm cấu-nhiễm phiền-não và những tập-khí thừa, xô ngã tòa núi trọng-chướng, được thấy Phật không bị trệ-ngại. Ðại-chúng này, từ vô-lượng kiếp xa xưa, đã được sự nhiếp-thọ của Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na Phật, trong thời ký tu bồ-tát-hạnh. Họ đã được giáo-hóa thành-thục và đều được an-trụ nơi đạo nhứt-thiết-chủng-trí, đã vun trồng vô-lượng đức lành và đều được đại-phước, đã vào nơi nguyện hải phương-tiện, chỗ thật hành đều hoàn-toàn thanh-tịnh, đã khéo xuất-ly, thường thấy Phật được rõ ràng, dùng sức thắng-giải vào trong biển lớn công-đức của Như-Lai, đã được du-hí thần-thông nơi môn giải-thoát của chư Phật.
II.- CHƯ THIÊN VƯƠNG GIẢI THOÁT MÔN.
Diệu-Diệm-Hải Ðại-Tự-Tại Thiên-Vương được giải-thoát-môn có sức phương-tiện tịch-tịnh khắp pháp-giới hư-không-giới.
Tự-Tại-Danh-Xưng-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn quan-sát khắp tất cả pháp đều tự-tại.
Thanh-Tịnh-Công-Ðức-Nhãn Thiên-Vương được giải-thoát-môn biết tất cả các pháp vô-tướng, không sanh-diệt, không lai khứ, vô-công-dụng-hạnh.
Khả-Ái-Nhạo-Ðại-Huệ Thiên-Vương được giải-thoát-môn biển trí-huệ hiện thấy thật-tướng của tất cả pháp.
Bất-Ðộng-Quang-Tự-Tại Thiên-Vương được giải-thoát-môn đại-định phương-tiện đem lại vô-biên sự an-lạc cho chúng-sanh.
Diệu-Trang-Nghiêm-Nhãn Thiên-Vương được giải-thoát-môn quan-sát pháp tịch-tịnh dứt những si-mê bố-úy.
Thiện-Tư-Duy-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn công-hạnh tư-duy khéo vào vô-biên cảnh-giới chẳng khởi tất cả cõi hữu-lậu.
Khả-Ái-Nhạo-Ðại-Trí Thiên-Vương được giải-thoát-môn đến thuyết pháp khắp mười phương nhưng vẫn bất-động, vô-sở-y.
Phổ-Âm-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn vào cảnh-giới tịch-tịnh, khắp hiện quang-minh của Phật.
Danh-Xưng-Quang-Thiện-Tinh-Tấn Thiên-Vương được giải-thoát-môn an-trụ nơi chỗ tự-ngộ, mà dùng vô-biên cảnh-giới rộng lớn làm cảnh sở-duyên.
Bấy giờ, Diệu-Diệm-Hải Thiên-Vương, nương oai lực của Phật, quan sát khắp các chúng Ðại-Tự-Tại-Thiên, rồi nói kệ rằng :
Thân Phật phổ-biến các đại-hội
Ðầy khắp pháp-giới không cùng tận
Tịch diệt vô-tánh bất-khả-thủ
Vì cứu thế-gian mà xuất hiện.
Như-Lai Pháp-Vương xuất thế-gian
Thắp đèn diệu-pháp chiếu cõi đời
Cảnh-giới Vô-biên cũng vô-tận
Ðây, chỗ chứng của Tự-Tại-Danh.
Phật bất tư-nghị rời phân-biệt
Rõ mười phương đều không có tướng
Mở đạo thanh-tịnh để dạy đời
Tịnh-Nhãn Thiên-Vương quan-sát thấy.
Như-Lai trí-huệ vô-biên-tế
Tất cả thế-gian chẳng lường được
Diệt lòng si tối của chúng-sanh
Ðại-Huệ Thiên-Vương được an-trụ
Như-Lai công-đức bất tư-nghị
Chúng-sanh thấy Phật hết phiền-não
Khiến khắp thế-gian được an vui
Bất-Ðộng Thiên-Vương đã được thấy.
Chúng-sanh tối tăm thường lầm lỗi
Như-Lai dạy cho pháp tịch-tịnh
Là đèn trí-huệ sáng soi đời
Diệu-Nhãn Thiên-Vương có thể biết.
Sắc thân tịnh-diệu của Như-Lai
Hiện khắp mười phương không gì sánh
Thân Phật vô-tánh vô-sở-y
Thiện-Tư Thiên-Vương quan-sát được.
Thinh Âm của Phật vô-hạn ngại
Kẻ đáng được ngộ đều được nghe
Nhưng Phật vắng-lặng thường bất-động
Nhạo-Trí Thiên-Vương chứng môn này.
Như-Lai tịch-tịnh, bực giải-thoát
Hiện khắp mười phương không sót chỗ
Quang-minh soi sáng khắp thế-gian
Nghiêm-Tràng Thiên-Vương đã được thấy.
Vô-biên kiếp-hải thuở quá-khứ
Phật vì chúng-sanh cầu giác-đạo
Vô-lượng thần-thông độ muôn loài
Danh-Xưng Thiên-Vương đã thấy được.
Khả-Ái-Nhạo-Pháp-Quang-Minh-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn quan-sát khắp căn-cơ tất cả chúng-sanh để thuyết-pháp dứt nghi.
Tịnh-Trang-Nghiêm-Hải Thiên-Vương được môn giải-thoát theo sự tưởng niệm làm cho được thấy Phật.
Tối-Thắng-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương được môn giải-thoát thân pháp-tánh bình-đẳng trang-nghiêm vô-sở-y.
Tự-Tại-Trí-Huệ-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn rõ biết tất cả các pháp thế-gian, trong một niệm an lập bất tư-nghì biển trang-nghiêm.
Nhạo-Tịch-Tịnh Thiên-Vương được giải-thoát-môn nơi một lỗ chân lông hiện bất tư-nghì Phật-độ không chướng-ngại.
Phổ-Trí-Nhãn Thiên-Vương được giải-thoát-môn quán-sát pháp-giới.
Nhạo-Truyền-Huệ Thiên-Vương được giải-thoát-môn vì tất cả chúng-sanh trong vô-biên kiếp thường xuất hiện vô-lượng thân.
Thiện-Chủng-Huệ-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn quán tất cả cảnh-giới thế-gian chứng nhập pháp-giới bất tư-nghì.
Vô-Cấu-Tịch-Tịnh-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai-thị pháp xuất-yếu cho tất cả chúng-sanh.
Quảng-Ðại-Thanh-Tịnh-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn quan-sát tất cả chúng-sanh đáng được hóa-độ làm cho họ chứng nhập Phật-pháp.
Lúc đó Khả-Ái-Nhạo-Pháp-Quang-Minh-Tràng Thiên-Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả thiên-chúng Thiểu-Quảng-Thiên, Vô-Lượng-Quảng-Thiên, Quảng-Quả-Thiên rồi kệ rằng :
Cảnh-giới của Phật bất tư-nghì
Tất cả chúng-sanh chẳng lường được
Khiến chúng-sanh kia đều tin hiểu
Ý nguyện rộng lớn không cùng tận.
Nếu có chúng-sanh kham thọ pháp
Thần-lực của Phật dìu-dắt họ
Khiến họ thường thấy Phật hiện tiền
Nghiêm-Hải-Thiên-Vương thấy như vậy.
Tất cả pháp tánh vô-sở-y
Phật hiện thế-gian cũng như vậy
Khắp trong các cõi không chỗ nương
Nghĩa này, Thắng-Huệ quan-sát được.
Theo lòng chúng-sanh chỗ mong muốn
Thần-lực của Phật đều hiện được
Mỗi mỗi sai khác bất tư-nghì
Huệ-Tràng Thiên-Vương đã được chứng.
Bao nhiêu cõi nước thuở quá-khứ
Trong lỗ chân-lông hiện đủ cả
Ðây là chư Phật đại thần-thông
Tịch-Tịnh Thiên-Vương tuyên-thuyết được.
Tất cả pháp-môn không cùng tận
Hội trong đạo-tràng của một pháp
Pháp-tánh như vậy Phật nói ra
Môn phương-tiện này Trí-Nhãn biết.
Bao nhiêu cõi nước ở mười phương
Xuất hiện trong đó mà thuyết-pháp
Thân Phật không đến cũng không đi
Ðây, cảnh-giới của Nhạo-Truyền-Huệ.
Phật xem thế-pháp như vang bóng
Vào chỗ rất sâu của pháp kia
Nói các pháp-tánh thường lặng yên
Thiện-Chủng Thiên-Vương hay thấy biết.
Phật khéo rõ biết các cảnh-giới
Theo cơ chúng-sanh rưới pháp mầu
Dạy môn xuất-yếu bất-tư-nghì
Tịch-Tịnh Thiên-Vương hay ngộ nhập.
Thế-Tôn thường dùng từ-bi lớn
Vì độ chúng-sanh mà hiện thân
Bình-đẳng thuyết-pháp đều được nhờ
Quảng-Ðại Thiên-Vương đã chứng được.
Thanh-Tịnh-Huệ-Danh-Xưng Thiên-Vương được giải-thoát-môn rõ thấu đạo phương-tiện giải-thoát tất cả chúng-sanh.
Tối-Thắng-Kiến Thiên-Vương được giải-thoát-môn khắp thị-hiện theo chỗ ưa thích của tất cả chư-thiên như vang, như bóng.
Tịch-Tịnh-Ðức Thiên-Vương được giải-thoát-môn phương-tiện lớn trang-nghiêm thanh-tịnh khắp tất cả cảnh-giới Phật.
Tu-Di-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn mãi lưu chuyển trong biển sanh-tử theo các chúng-sanh.
Tịnh-Niệm-Nhãn Thiên-Vương được giải-thoát-môn nghĩ nhớ công-hạnh điều-phục chúng-sanh của Như-Lai.
Khả-Ái-Nhạo-Phố-Chiếu Thiên-Vương được giải-thoát-môn vô-lượng phổ-môn Ðà-La-Ni thường diễn thuyết.
Thế-Gian-Tự-Tại-Chủ Thiên-Vương được giải-thoát-môn có thể làm cho tất cả chúng-sanh gặp Phật, sanh tín-tâm.
Quang-Diệm-Tự-Tại Thiên-Vương được giải-thoát-môn có thể làm cho tất cả chúng-sanh nghe pháp tin mừng mà được xuất ly.
Nhạo-Tư-Duy-Pháp-Biến-Hóa Thiên-Vương được giải-thoát-môn chứng nhập công-hạnh điều-phục của tất cả bồ-tát vô-biên vô-tận như hư-không.
Biến-Hóa-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn bi, trí rộng lớn quan-sát vô-lượng phiền-não của chúng-sanh.
Tinh-Tú-Âm-Diệu-Trang-Nghiêm Thiên-Vương được giải-thoát-môn phóng quang-minh hiện thân khẩn ý của Phật nhiếp hóa chúng-sanh.
Lúc đó Thanh-Tịnh-Huệ-Danh-Xưng Thiên-Vương, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả thiên-chúng Thiểu-Tịnh-Thiên, Vô-lượng-Tịnh-Thiên, Biến-Tịnh-Thiên rồi nói kệ rằng :
Rõ biết pháp-tánh là vô-ngại
Hiện khắp mười phương vô-lượng cõi
Nơi cảnh-giới Phật chẳng nghĩ bàn
Khiến chúng đồng quy biển giải-thoát.
Như-Lai ở đời vô-sở-y
Hiện trong các cõi như vang bóng
Pháp-tánh rốt ráo không khởi sanh
Thắng-Kiến Thiên-Vương được ngộ nhập.
Từ vô-lượng kiếp tu phương-tiện
Thanh-tịnh các cõi khắp mười phương
Pháp-giới bất-động thường như-như
Tịnh-Ðức Thiên-Vương đã tỏ ngộ.
Chúng-sanh ngu-si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sanh tử
Như-Lai dạy cho đạo sạch trong
Tu-Di-Âm Vương được giải-thoát.
Chư Phật thật hành đạo vô-thượng
Tất cả chúng-sanh không lường được
Thị-hiện các thứ phương-tiện-môn
Tịnh-Nhãn Thiên-Vương quan-sát rõ.
Như-Lai thường dùng môn tổng-trì
Nhiều như vi-trần trong các cõi
Dạy bảo chúng-sanh khắp mọi nơi
Phổ-Chiếu Thiên-Vương đã chứng nhập.
Như-Lai ra đời rất khó gặp
Qua vô-lượng kiếp gặp một lần
Làm cho chúng-sanh hiểu biết tin
Tự-Tại-Chủ Thiên đã chứng được.
Phật nói pháp-tánh đều vô-tánh
Rộng lớn rất sâu chẳng nghĩ bàn
Khiến khắp chúng-sanh khởi lòng tin
Quang-Diệm Thiên-Vương khéo rõ biết.
Tam thế Như-Lai công-đức đủ
Hoá-độ chúng-sanh bất tư-nghì
Suy-nghĩ nơi kia sanh mừng vui
Nhạo-Pháp Thiên-Vương khai diễn được.
Chúng-sanh chìm trong biển phiền-não
Kiến trược ngu-si rất đáng sợ
Như-Lai thương xót khiến thoát ly
Hoá-Tràng Thiên-Vương quan-sát thấy.
Như-Lai thường phóng đại quang-minh
Trong mỗi quang-minh vô-lượng Phật
Ðều hiện Phật-sự hóa chúng-sanh
Diệu-Âm Thiên-Vương đã chứng nhập.
Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn thường hưởng-thọ vui tịch-tịnh mà có thể hóa hiện tiêu-diệt khổ thế-gian.
Thanh-Tịnh-Diệu-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn tâm đại bi tương-ứng lòng hỷ-lạc của tất cả chúng-sanh.
Tự-Tại-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn trong một niệm khắp hiện năng-lực phước-đức cho tất cả chúng-sanh trong vô-biên kiếp.
Tối-Thắng-Niệm-Trí Thiên-Vương được giải-thoát-môn khiến khắp tất cả thế-gian thành trụ hoại đều như hư-không thanh-tịnh.
Khả-Ái-Nhạo-Tịnh-Diệu-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn ưa thích tin nhận giáo pháp của tất cả thánh-nhơn.
Thiện-Tư-Duy-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn có thể trải qua kiếp số diễn-thuyết nghĩa và phương-tiện của tất cả địa.
Diễn-Trang-Nghiêm-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn phương-tiện cúng-dường tất cả Bồ-Tát lúc từ Ðâu-Suất Thiên-Cung giáng-sanh.
Thậm-Thâm-Quang-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn quan-sát biển vô-tận thần-thông trí-tuệ.
Quảng-Ðại-Danh-Xưng Thiên-Vương được giải-thoát-môn biển công-đức của tất cả chư Phật đầy đủ sức phương-tiện xuất hiện thế-gian.
Tối-Thắng-Tịnh-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn phát sanh lòng tin sâu ưa thích đối với nguyện-lực thuở trước của Như-Lai.
Lúc đó Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thiên-Vương, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả thiên-chúng Thiểu-Quang Thiên, Vô-Lượng-Quang Thiên, Quang-Âm Thiên rồi nói kệ rằng :
Tôi nhớ Như-Lai thuở trước tu
Kính thờ cúng-dường vô-biên Phật
Như hạnh thanh-tịnh tính tâm xưa
Thừa Phật oai-thần nay điều thấy.
Thân Phật vô-tướng lìa cấu nhiễm
Thường trụ từ-bi luôn xót thương
Thế-gian ưu-khổ đều khiến trừ
Diệu-Quang Thiên-Vương được giải-thoát.
Phật-pháp rộng lớn không ngàn mé
Tất cả quốc-độ hiện vào trong
Cõi kia thành hoại đều chẳng đồng
Tự-Tại-Âm-Vương môn giải-thoát.
Như-Lai thần-lực không ai sánh
Hiện khắp mười phương cõi rộng lớn
Trang-Nghiêm Thanh-Tịnh thường hiện tiền
Niệm-Trí Thiên-Vương đã chứng được.
Vi-Trần số cõi khắp mười phương
Có bao nhiêu Phật đều thờ kính
Nghe pháp dứt nhiễm chẳng luống công
Diệu-Âm Thiên-Vương đã chứng nhập.
Phật trong vô-lượng vô-số kiếp
Diễn thuyết phương tiện không ai hơn
Phật-pháp vô-cùng cũng vô-biên
Thiên-Tư Thiên-Vương đã được thấy.
Như-Lai thần-biến vô-lượng môn
Một niệm hiện ở tất cả chỗ
Giáng-sanh thành-đạo phương-tiện lớn
Là môn giải-thoát của Nghiêm-Âm.
Thần-lực gia-hộ hay diễn-thuyết
Và hiện thần-thông của chư Phật
Làm cho thanh-tịnh theo căn cơ
Quang-Âm Thiên-Vương đã được chứng.
Như-Lai trí-huệ không ngằn mé
Thế-gian không sánh không nhiễm trước
Từ tâm ứng vật khắp hiện tiền
Danh-Xưng Thiên-Vương đã được ngộ.
Phật xưa tu tập bồ-đề hạnh
Cúng-dường thập-phương tất cả Phật
Ở trước chư Phật phát đạo tâm
Tối-Thắng Thiên-Vương đã thấy biết.
Thi-Khí-Phạm-Vương được giải-thoát-môn trụ khắp trong đạo-tràng mười-phương thuyết-pháp chỗ thật hành thanh-tịnh không nhiễm trước.
Huệ-Quang-Phạm-Vương được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh nhập chánh-thiền-định.
Thiện-Tư-Huệ-Quang-Minh Phạm-Vương được giải-thoát-môn vào khắp tất cả pháp bất tư-nghì.
Phổ-Vân-Âm Phạm-Vương được giải-thoát-môn vào tất cả biển âm thinh của chư Phật.
Quán-Thế-Ngôn-Âm-Tự-Tại Phạm-Vương được giải-thoát-môn có thể ghi nhớ phương-tiện giáo-hóa tất cả chúng-sanh của Bồ-Tát.
Tịch-Tịnh-Quang-Minh-Nhãn Phạm-Vương được giải-thoát-môn hiện tất cả tướng nghiệp báo thế-gian đều sai khác.
Phổ-Quang-Minh Phạm-Vương được giải-thoát-môn tùy phẩm loại sai khác của tất cả chúng-sanh đều hiện thân ra trước họ để điều-phục.
Biến-Hóa-Âm Phạm-Vương được giải-thoát-môn trụ cảnh-giới hành tướng tịch-diệt thanh-tịnh của tất cả pháp.
Quang-Diệu-Nhãn Phạm-Vương được giải-thoát-môn đối với tất cả cõi hữu-lậu không chấp-trước, không y chỉ, không ngằn mé, thường siêng xuất-hiện.
Duyệt-Y-Hải-Âm Phạm-Vương được giải-thoát-môn thường tư-duy quán-sát vô-tận pháp.
Lúc đó Thi-Khí Ðại-Phạm-Vương thừa oai-lực của Phật quán-sát khắp tất cả thiên-chúng Phạm-Chúng Thiên, Phạm-Phụ Thiên, Ðại-Phạm Thiên, rồi nói kệ rằng :
Thân Phật thanh-tịnh thường tịch diệt
Quang-minh chói sáng khắp thế-gian
Không tướng không hành không hình bóng
Ví như mây nổi giữa không-gian.
Phật-thân như vậy cảnh-giới định
Tất cả chúng-sanh không thể lường
Thị-hiện phương-tiện khó nghĩ bàn
Huệ-Quang Thiên-Vương đã ngộ được
Thế-giới vi-trần biển pháp-môn
Một lời diễn thuyết không còn sót
Kiếp-hải như vậy nói không cùng
Thiện-Tư Phạm-Vương được giải-thoát.
Viên-âm chư Phật khắp thế-gian
Chúng-sanh tùy loại đều được hiểu
Nhưng nơi âm-thinh vô-phân-biệt
Phổ-Âm Phạm-Vương ngộ như vậy.
Bao nhiêu chư Phật trong ba đời
Hướng đến phương-tiện bồ-đề hạnh
Tất cả đều hiện nơi Phật-thân
Âm-Tự-Tại Vương môn giải-thoát.
Tất cả chúng-sanh nghiệp sai khác
Tùy chỗ nhơn-cảm đều khác nhau
Thế-gian như vậy Phật hiện đều
Tịch-Tịnh-Quang Vương được ngộ-nhập.
Vô-lượng pháp-môn đều tự-tại
Ðiều-phục chúng-sanh khắp mười phương
Cũng chẳng phân-biệt nơi trong đây
Phổ-Quang Thiên-Vương đã rõ biết.
Phật thân vô-tận như hư-không
Vô-tướng vô-ngại khắp mười phương
Như-huyễn như-hóa khắp ứng hiện
Biến-Hóa Âm-Vương đã ngộ được.
Thân-tướng Như-Lai không ngằn mé
Trí-huệ âm-thinh cũng như thế
Hiện thân vô-trước ở thế-gian
Quang-Diệu Thiên-Vương đã chứng nhập.
Pháp-Vương an-trụ cung Diệu-pháp
Pháp-thân quang-minh soi tất cả
Pháp-tánh vô-tướng không gì bằng
Hải-Âm Phạm-Vương được giải-thoát.
Tự-Tại Thiên-Vương được giải-thoát-môn hiện tiền thành-thục vô-lượng chúng-sanh tự-tại.
Thiện-Mục-Chủ Thiên-Vương được giải-thoát-môn quan-sát sự vui của tất cả chúng-sanh làm cho họ được vào cảnh-giới vui của thánh-nhơn.
Diệu-Bửu-Tràng-Quan Thiên-Vương được giải-thoát-môn tùy theo những chỗ muốn hiểu biết của chúng-sanh làm cho họ thật hành.
Dũng-Mãnh-Huệ Thiên-Vương được giải-thoát-môn khắp nhiếp tất cả nghĩa diễn-thuyết vì tất cả chúng-sanh.
Diệu-Âm-Cú Thiên-Vương được giải-thoát-môn ghi nhớ đại-từ rộng lớn của Như-Lai tăng tấn công-hạnh của tự-mình.
Diệu-Quang-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn thị-hiện đại-bi dứt trừ tất cả tràng kiêu-mạn.
Tịch-Tịnh-Cảnh Thiên-Vương được giải-thoát-môn điều-phục tâm sân hại của tất cả thế-gian.
Diệu-Luân-Trang-Nghiêm-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn tùy sự nghĩ nhớ đều đến phó hội nơi đạo-tràng của vô-biên chư Phật mười phương.
Hoa-Quang-Huệ Thiên-Vương được giải-thoát-môn tùy tâm niệm của chúng-sanh khắp hiện thành chánh-giác.
Nhơn-Ðà-La-Diệu-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn oai-lực tự-tại lớn vào khắp tất cả thế-gian.
Lúc đó Tự-Tại Thiên-Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Chúng rồi nói kệ rằng :
Phật-thân cùng khắp đồng pháp-giới
Khắp ứng chúng-sanh đều hiện tiền
Các thứ giáo-môn thường dạy trao
Nơi pháp tự-tại hai khai ngộ.
Thế-gian chỗ có các điều vui
Thánh tịch-diệt lạc là hơn hết
Trụ trong pháp-tánh lớn mênh-mông
Diệu-Nhãn Thiên-Vương quan-sát thấy.
Như-Lai xuất hiện khắp mười phương
Theo tâm chúng-sanh mà thuyết pháp
Tất cả lòng nghi đều dứt trừ
Diệu-Tràng Thiên-Vương được giải thoát.
Chư Phật khắp nơi diễn pháp mầu
Những pháp đã nói vô-lượng kiếp
Hay nói hết cả nơi một lời
Dũng-Mãnh Thiên-Vương đã rõ biết.
Ðức từ rộng lớn của thế-gian
Chẳng bằng mảy lông của Ðức Phật
Từ-tâm của Phật như hư-không
Diệu-Âm Thiên-Vương đã được ngộ.
Núi cao ngã-mạn của chúng-sanh
Phật-lực dứt trừ không còn sót
Công-dụng đại-bi của Như-Lai
Quang-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát.
Huệ-Quang thanh-tịnh khắp thế-gian
Những người được thấy trừ si ác
Các đường ác-đạo cũng được lìa
Tịnh-cảnh Thiên-Vương được tỏ ngộ.
Ánh-sáng chân lông hay diễn thuyết
Hiện chư Phật đồng số chúng-sanh
Tùy chỗ thích ưa đều được nghe
Nghiêm-Tràng Thiên-Vương môn giải thoát.
Như-Lai tự-tại chẳng hề lường
Pháp-giới hư-không đều đầy khắp
Tất cả chúng hội thấy rõ ràng
Hoa-Quang Thiên-Vương chứng nhập được.
Vô-lượng vô-biên biển đại kiếp
Hiện khắp mười phương mà thuyết-pháp
Chưa từng thấy Phật có đến đi
Diệu-Quang Thiên-Vương đã tỏ ngộ.
Thiện-Hóa Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai thị tất cả thần lực biến-hóa.
Tịch-Tịnh-Âm-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn rời bỏ tất cả phan duyên.
Biến-Hóa-Lực-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn trừ diệt tâm si-ám của tất cả chúng-sanh cho họ được đầy trí-huệ.
Trang-Nghiêm-Chủ Thiên-Vương được giải-thoát-môn thị-hiện vô-biên âm-thinh vừa ý.
Niệm-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn rõ biết vô-tận tướng phước-đức của tất cả chư Phật.
Tối-Thượng-Vân-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn biết khắp thứ lớp thành hoại của tất cả kiếp quá-khứ.
Thắng-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai-ngộ trí-tuệ tất cả chúng-sanh.
Diệu-Kế Thiên-Vương được giải-thoát-môn phóng-quang khắp đến hư-không giới mười phương.
Hỷ-Huệ Thiên-Vương được giải-thoát-môn sức tinh-tấn tất cả công việc làm không ai phá-hoại được.
Hoa-Quang-Kế Thiên-Vương được giải-thoát-môn biết tất cả chúng-sanh tạo nghiệp thọ báo.
Phổ-Kiến-Thập-Phương Thiên-Vương được giải-thoát-môn thị-hiện bất tư-nghì thân hình chúng-sanh sai khác.
Lúc đó Thiện-Hóa Thiên-Vương, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả Hóa-Lạc-Thiên-Chúng rồi nói kệ rằng :
Thế-gian nghiệp-tánh chẳng nghĩ bàn
Phật vì quần-mê đều khai-thị
Khéo nói lý chơn-thật nhơn-duyên
Tất cả chúng-sanh nghiệp sai khác.
Các môn quán Phật vô-sở-Hữu
Mười phương tìm cầu bất-khả-đắc
Pháp-tánh thị-hiện không chơn thật
Tịch-Âm Thiên-Vương thấy pháp này.
Công hạnh Phật vô-lượng kiếp
Vì dứt si-mê cho thế-gian
Nên dùng tịnh-quang thường chiếu soi
Lực-Quang Thiên-Vương đã được ngộ.
Âm-thinh vi-diệu của thế-gian
Không thể sánh được tiếng của Phật
Phật dùng một tiếng khắp mười phương
Trang-Nghiêm Thiên-Vương môn giải-thoát.
Bao nhiêu phước-lực của thế-gian
Chẳng bằng một tướng nơi thân Phật
Phước-đức của Phật đồng hư-không
Niệm-Quang Thiên-Vương đã được thấy.
Tam thế có nhiều vô-lượng kiếp
Bao nhiêu hình tướng thành cùng hoại
Hiện đủ nơi trong chân lông Phật
Vân-Âm Thiên-Vương đã rõ biết.
Thập-phương hư-không có thể lường
Chân lông của Phật không lường được
Như vậy vô-ngại bất tư-nghì
Diệu-Kế Thiên-Vương đã tỏ ngộ.
Phật trong vô-lượng kiếp quá-khứ
Rộng tự-tại đầy đủ ba-la-mật
Tinh-tấn thật hành không mỏi nhàm
Hỷ-Huệ Thiên-Vương đã được biết.
Nhơn-duyên nghiệp-tánh bất tư-nghì
Phật vì thế-gian đều diễn-thuyết
Pháp-tánh thanh-tịnh vốn không nhơ
Hoa-Quang Thiên-Vương ngộ nhập được.
Ông nên quán Phật một chân lông
Tất cả chúng-sanh ở trong đó
Chúng cũng chẳng đến cũng chẳng đi
Phổ-Kiến Thiên-Vương đã hiểu biết.
Tri-Túc Thiên-Vương được giải-thoát-môn tất cả Phật xuất thế đều viên-mãn pháp-luân giáo-hóa.
Hỷ-Lạc-Hải-Kế Thiên-Vương được giải-thoát-môn thân-quang-minh thanh-tịnh khắp hư-không giới.
Tối-Thắng-Công-Ðức-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn nguyện-hải thanh-tịnh tiêu-diệt khổ thế-gian.
Tịch-Tịnh-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn khắp hiện thân thuyết pháp.
Thiện-Mục Thiên-Vương được giải-thoát-môn khắp thanh-tịnh tất cả chúng-sanh giới.
Bửu-Phong-Nguyệt Thiên-Vương được giải-thoát-môn tạng vô-tận thường hiện-tiền giáo-hóa khắp thế-gian.
Dũng-Kiện-Lực Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai-thị tất cả cảnh-giới chánh-giác của chư Phật.
Kim-Cang-Diệu-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn kiên-cố tâm bồ-đề của chúng-sanh làm cho không hư-hoại.
Tinh-Tú-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn chư Phật xuất thế đều thân cận quan-sát phương-tiện điều phục chúng-sanh.
Diệu-Trang-Nghiêm Thiên-Vương được giải-thoát-môn một niệm biết rõ tâm chúng-sanh tùy cơ ứng-hiện.
Lúc đó Tri-Túc Thiên-Vương, thừa oai-lực Phật, quan-sát khắp tất cả Ðâu-Suất-Ðà Thiên-Chúng rồi nói kệ rằng :
Như-Lai rộng lớn khắp pháp-giới
Với các chúng-sanh đều bình-đẳng
Khắp ứng quần-sanh xiển pháp mầu
Khiến vào pháp nan-tư thanh-tịnh.
Tất cả chư Phật đều đến họp
Cung kính nghe pháp lại cúng-dường
Tinh-Tú-Tràng Vương đã được thấy.
Chúng-sanh tâm-hải chẳng nghĩ bàn
Không trụ không nương cũng không động
Phật nơi một niệm thấy rõ-ràng
Diệu-Trang-Nghiêm Vương khéo rõ biết.
Thời-Phần Thiên-Vương được giải-thoát-môn phát khởi thiện-căn của chúng-sanh khiến họ lìa hẳn ưu-não.
Diệu-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn vào khắp tất cả cảnh-giới.
Vô-Tận-Huệ-Công-Ðức-Tràng Thiên-Vương được giải-thoát-môn sức đại-bi dứt trừ tất cả khổ hoạn.
Thiện-Hóa-Ðoan-Nghiêm Thiên-Vương được giải-thoát-môn rõ biết tâm của tất cả chúng-sanh trong ba đời.
Tổng-Trì-Ðại-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn đà-la-ni quang-minh ghi nhớ tất cả pháp không quên mất.
Bất-Tư-Nghị-Huệ Thiên-Vương được giải-thoát-môn phương-tiện bất tư-nghì khéo vào tự-tánh của tất cả nghiệp.
Luân-Tê Thiên-Vương được giải-thoát-môn phương-tiện chuyển-pháp-luân thành-thục chúng-sanh.
Quang-Diệm Thiên-Vương được giải-thoát-môn quảng-đại-nhãn quan-sát khắp chúng-sanh mà đến điều-phục.
Quang-Chiếu Thiên-Vương được giải-thoát-môn siêu-xuất tất cả nghiệp-chướng chẳng thuận theo chỗ làm của ma.
Phổ-Quán-Sát-Ðại-Danh-Xưng Thiên-Vương được giải-thoát-môn khéo dạy bảo tất cả thiên-chúng khiến thật hành tâm thanh-tịnh.
Lúc đó Thời-Phần Thiên-Vương, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả Dạ-Ma Thiên-Chúng rồi nói kệ rằng :
Phật nơi vô-lượng kiếp lâu xa
Ðã cạn thế-gian biển ưu-não
Mở rộng đạo ly-trần sạch trong
Soi sáng chúng-sanh đèn trí-huệ.
Như-Lai pháp-thân rất rộng lớn
Thập-phương biên-tế bất-khả-đắc
Tất-cả phương-tiện không thể lường
Diệu-Quang Thiên-Vương trí khéo nhập
Sanh lão bịnh tử, ưu bi khổ
Bức ngặt thế-gian không tạm dứt
Như-Lai xót thương nguyệt dứt trừ
Vô-Tận Thiên-Vương đã tỏ ngộ.
Phật trí như-huyễn không chướng-ngại
Nơi tất cả pháp đều thấu suốt
Vào trong tâm-hành của chúng-sanh
Cảnh-giới của Thiên-Vương Thiện-Hóa.
Tổng-Trì biên-tế bất-khả-đắc
Biện-tài đại-hải cũng vô-tận
Hay chuyển thanh-tịnh diệu pháp-luân
Ðại-Quang Thiên-Vương môn giải-thoát.
Nghiệp-tánh rộng lớn không cùng tận
Trí-Huệ giác ngộ khéo khai-thị
Tất cả phương-tiện bất tư-nghì
Bất-Tư-Nghì Vương được ngộ nhập.
Chuyển bất-tư-nghì diệu-pháp-luân
Hiển-thị tu tập bồ-đề-đạo
Dứt hẳn các khổ của chúng-sanh
Luân-Tê Thiên-Vương môn phương-tiện.
Như-Lai chơn-thân vốn không hai
Tùy hình thế-gian khắp ứng hiện
Chúng-sanh đều thấy ở trước mình
Cảnh-giới này Diệm-Thiên đã chứng.
Chúng-sanh một phen thấy được Phật
Tất cả nghiệp-chướng sẽ trừ sạch
Lìa các nghiệp ma trọn không thừa
Là đạo sở-hành của Quang-Chiếu.
Tất cả chúng-hội như đại-hải
Phật ngự trong đó rất oai-diệu
Khắp rưới pháp vũ nhuận chúng-sanh
Danh-Xưng Thiên-Vương được giải-thoát.
Thích-Ca-Nhơn-Ðà-La Thiên-Vương được giải-thoát-môn ghi nhớ chư Phật ba đời xuất thế nhẫn đến quốc-độ thành hoại đều thấy rõ rất vui-mừng.
Phổ-Xưng-Mãn-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn có thể làm cho sắc thân của Phật rất thanh-tịnh rộng lớn thế-gian không gì sánh bằng.
Từ-Mục-Bửu-Kế Thiên-Vương được giải-thoát-môn từ vân khắp che trùm.
Bửu-Quang-Tràng-Danh-Xưng Thiên-Vương được giải-thoát-môn hằng thấy Phật hiện các thứ thân hình tướng oai-đức ở trước tất cả thế-chủ.
Phát-Sanh-Hỷ-Lạc-Kế Thiên-Vương được giải-thoát-môn biết thành ấp cung điện của tất cả chúng-sanh từ phước-nghiệp nào cảm ra.
Ðoan-Chánh-Niệm Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai-thị công-việc thành-thục chúng-sanh của chư Phật.
Cao-Thắng-Âm Thiên-Vương được giải-thoát-môn biết tướng kiếp thành, kiếp hoại, chuyển biết của tất cả thế-gian.
Thành-Tựu-Niệm Thiên-Vương được giải-thoát-môn ghi nhớ hạnh điều-phục chúng-sanh của vị-lai Bồ-Tát.
Tịnh-Hoa-Quang Thiên-Vương được giải-thoát-môn rõ biết nhơn-duyên khoái-lạc của tất cả chư thiên.
Trí-Nhựt-Nhãn Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai-thị thiện-căn thọ sanh của tất cả Thiên-Tử khiến không mê lầm.
Tự-Tại-Quang-Minh Thiên-Vương được giải-thoát-môn khai ngộ tất cả thiên-chúng dứt hẳn các điều nghi.
Lúc đó Thích-Ca-Nhơn-Ðà-La Thiên-Vương, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả Ðao-Lợi thiên-chúng rồi nói kệ rằng :
Tôi nhớ tất cả tam-thế Phật
Bao nhiêu cảnh-giới đều bình-đẳng
Các quốc-độ kia hoại hoặc thành
Oai-thần của Phật đều được thấy.
Phật-thân rộng lớn khắp mười phương
Tướng-hảo quần-sanh đều lợi-ích
Quang-minh chói sáng khắp mọi nơi
Ðạo này, Phổ-Xưng đã được thấy.
Ðại-từ phương-tiện của Như-Lai
Kiếp xưa tu hành rất thanh-tịnh
Hoá đạo chúng-sanh thật vô-biên
Bửu-Kế Thiên-Vương đã tỏ ngộ.
Tôi nhớ công-đức của Pháp-Vương
Trên hết trong đời không ai sánh
Phát sanh quảng-đại hoan-hỉ tâm
Bửu-Quang Thiên-Vương được giải-thoát.
Phật biết nghiệp lành của chúng-sanh
Các thứ thắng-nhơn sanh đại-phước
Ðiều khiến hiển hiện không có thừa
Hỉ-Kế Thiên-Vương đã được thấy.
Chư Phật xuất hiện khắp mười phương
Tất cả thế-gian đều cùng khắp
Quán-sát điều-phục tâm chúng-sanh
Chánh-Niệm Thiên-Vương đã tỏ ngộ.
Như-Lai trí thân mắt rộng lớn
Vi-Trần thế-giới đều thấy suốt
Như vậy cùng khắp nơi mười phương
Thắng-Âm Thiên-Vương được giải-thoát.
Phật-tử thật hành hạnh bồ-đề
Chân lông của Phật đều hiện đủ
Số kia vô-lượng bất-tư-nghì
Thành-Niệm Thiên-Vương đã thấy rõ.
Thế-gian tất cả sự an vui
Tất cả đều do Phật xuất-thế
Như-Lai công-đức bất-tư-nghì
Hoa-Quang Thiên-Vương môn giải-thoát.
Nếu niệm Như-Lai chút công-đức
Nhẫn đến một niệm tâm kính ngưỡng
Lo sợ ác-đạo đều dứt trừ
Trí-Nhãn Thiên-Vương được tỏ ngộ.
Trong pháp tịch-diệt đại thần-thông
Tùy chúng-sanh tâm đều khắp ứng
Bao nhiêu nghi hoặc khiến dứt trừ
Quang-Minh Thiên-Vương đã chứng được.
Nhựt-Thiên-Tử được giải-thoát-môn tịnh-quang chiếu khắp mười phương chúng-sanh tận kiếp vị-lai thường làm lợi ích.
Quang-Diệm-Nhãn Thiên-Tử được giải-thoát-môn dùng tất cả tùy loại ứng-thân khai ngộ chúng-sanh làm cho vào biển trí-huệ.
Tu-Di-Quang-Hoan-Hỉ-Tràng-Thiên-Tử được giải-thoát-môn làm chúa tất cả chúng-sanh khiến siêng tu vô-biên công-đức thanh-tịnh.
Tịnh-Bửu-Nhựt Thiên-Tử được giải-thoát-môn tu tất cả khổ-hạnh thâm-tâm hoan-hỉ.
Dũng-Mãnh-Bất-Thối-Chuyển-Thiên-Tử được giải-thoát-môn quang-minh vô-ngại soi khắp khiến tất cả chúng-sanh được thêm tinh sáng.
Diệu-Hoa-Anh-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn tịnh-quang chiếu khắp thân chúng-sanh khiến sanh lòng vui mừng tin hiểu.
Tối-Thắng-Tràng-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn quang-minh chiếu khắp tất cả thế-gian khiến thành-tựu những công-đức vi-diệu.
Bửu-Kế-Phổ-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn biển đại-bi hiện vô-biên cảnh-giới các thứ sắc tướng trang-nghiêm.
Quang-Minh-Nhãn Thiên-Tử được giải-thoát-môn làm cho chúng-sanh được pháp-nhãn thanh-tịnh thấy tạng pháp-giới.
Trì-Ðức Thiên-Tử được giải-thoát-môn phát-sanh tâm thanh-tịnh tương-tục làm cho chẳng hư hoại.
Phổ-Vận-Hành-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn phổ-vận-nhựt-cung-điện chiếu-thập-phương chúng-sanh khiến việc làm được thành-tựu.
Lúc đó, Nhựt Thiên-Tử thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Nhựt-Thiên-Tử rồi nói kệ rằng :
Trí-huệ-quang Như-Lai rộng lớn
Chiếu khắp mười phương các quốc-độ
Chúng-sanh đều thấy Ðức Như-Lai
Ðiều phục quần-mê nhiều phương-tiện.
Như-Lai sắc tướng thật vô-biên
Hiện thân theo lòng chúng-sanh thích
Khắp mở trí-huệ cho thế-gian
Diệm-Nhãn Thiên-Tử quan-sát thấy.
Phật-thân vô-tỉ không ai bằng
Quang-minh chiếu sáng khắp mười phương
Là bực vô-thượng hơn tất cả
Pháp-môn như vậy Hoan-Hỉ được.
Vì lợi cho đời tu khổ-hạnh
Qua lại các cõi vô-lượng kiếp
Quang-minh biến-tịnh như hư-không
Tịnh-Bửu Thiên-Tử đã được biết.
Phật diễn diệu-âm không chướng-ngại
Cùng khắp mười phương các quốc-độ
Ðều sùng pháp-vị lợi quần-sanh
Phương-tiện như đây Dũng-Mãnh rõ.
Phóng quang-minh lớn bất-tư-nghì
Thanh-tịnh tất cả loài hàm-thức
Ðều khiến phát sanh tin hiểu sâu
Hoa-Âm Thiên-Tử được ngộ nhập.
Thế-gian chỗ có những quang-minh
Chẳng bằng ánh-sáng chân lông Phật
Phật quang như vậy bất-tư-nghì
Thắng-Tràng Thiên-Tử được giải-thoát.
Tất cả chư Phật pháp như vậy
Ngồi cội bồ-đề thành chánh-giác
Khiến kẻ tà ác về đường lành
Bửu-Kế Thiên-Tử thấy như vậy.
Chúng-sanh ngu-si khổ tối tâm
Vì muốn cho họ được tịnh-nhãn
Nên Phật vì họ thắp huệ-đăng
Thiện-Mục Thiên-Tử quan-sát thấy.
Ðấng tự-tại phương-tiện giải-thoát
Nếu ai được gặp cúng một lần
Phước này giúp họ lần chứng quả
Phương-tiện trên đây Trì-Ðức được.
Vô-lượng môn trong một pháp-môn
Vô-lượng ngàn kiếp nói như vậy
Diễn-thuyết pháp-môn nghĩa nhiệm-mầu
Phổ-Vận-Quang Thiên đã hiểu rõ.
Nguyệt Thiên-Tử được giải-thoát-môn tịnh-quang chiếu khắp pháp-giới nhiếp hóa chúng-sanh.
Hoa-Vương-Kế-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn quan-sát tất cả chúng-sanh khiến họ vào khắp vô-biên pháp.
Chúng-Diệu-Tịnh-Quang Thiên-Tử được giải-thoát-môn rõ biết tâm niệm phan-duyên của tất cả chúng-sanh.
An-Lạc-Thế-Gian-Tâm Thiên-Tử được giải-thoát-môn đem sự vui bất-tư-nghì cho tất cả chúng-sanh.
Thọ-Vương-Nhãn-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn tùy thời thủ hộ khiến được thành-tựu như nông-gia gieo giống.
Xuất-hiện-Tịnh-Quang Thiên-Tử được giải-thoát-môn từ-bi cứu-hộ tất cả chúng-sanh khiến họ được thấy những sự thọ khổ thọ vui.
Phổ-Du-Bất-Ðộng-Quang Thiên-Tử được giải-thoát-môn có thể cầm mặt nguyệt thanh-tịnh hiện khắp mười phương.
Tinh-Tú-Vương-Tự-Tại Thiên-Tử được giải-thoát-môn khai-thị tất cả pháp như huyễn như hư-không vô-tướng không tự-tánh.
Tinh-Giác-Nguyệt Thiên-Tử được giải-thoát-môn vì khắp tất cả chúng-sanh khởi công-dụng lớn.
Ðại-Oai-Ðức-Quang-Minh Thiên-Tử được giải-thoát-môn dứt tất cả nghi hoặc.
Lúc đó Nguyệt Thiên-Tử thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chư thiên trong nguyệt cung-điện rồi kệ rằng :
Phật phóng quang-minh khắp thế-gian
Chiếu sáng mười phương các quốc-độ
Chuyển pháp rộng lớn bất-tư-nghì
Phá hẳn chúng-sanh nghiệp si-ám.
Cảnh-giới vô-biên lại vô-tận
Trong vô-lượng kiếp thường khai-thị
Thần-lực tự-tại độ quần-sanh
Hoa-Kế như vậy quan-sát Phật.
Tâm niệm chúng-sanh niệm niệm khác.
Phật trí rộng lớn đều rõ biết
Thuyết pháp cho họ được vui mừng
Diệu-Quang Thiên-Tử được giải thoát.
Chúng-sanh không có thật an vui
Mê chìm ác đạo thọ sự khổ
Như-Lai dạy họ pháp-tánh-môn
Lạc-Tâm Thiên-Tử suy gẫm thấy.
Như-Lai hy-hữu đại-từ-bi
Vì lợi chúng-sanh vào các cõi
Thuyết pháp khuyên họ khiến làm lành
Nhãn-Quang Thiên-Tử đã rõ biết.
Thế-Tôn khai-thị pháp quang-minh
Phân biệt thế-gian các nghiệp tánh
Chỗ làm thiện ác không mất hư
Tịnh-Quang Thiên-Tử lòng vui đẹp.
Phật là chỗ nương tất cả phước
Ví như địa-cầu gìn cung-điện
Khéo truyền đạo mầu rất an-vui
Phương-tiện như đây Bất-Ðộng thấy.
Lửa trí sáng lớn cùng pháp-giới
Hiện hình vô số đồng chúng-sanh
Mở bày chân-thật vì muôn loài
Tinh-Tú-Vương Thiên được tỏ-ngộ.
Phật như hư-không không tự-tánh
Vì lợi chúng-sanh hiện thế-gian
Tướng-hảo trang-nghiêm như bóng hình
Tịnh-Giác Nguyệt-Thiên thấy như vậy
Chưn lông thân Phật diễn thinh Âm
Mây pháp thế-gian che trùm khắp
Người thấy kẻ nghe đều vui mừng
Ðại-Oai-Ðức Thiên được giải thoát.
III.- CHƯ THẦN VƯƠNG GIẢI THOÁT MÔN
Trì-Quốc Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn phương-tiện tự-tại nhiếp tất cả chúng-sanh.
Thọ-Quang Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn thấy khắp tất cả công-đức trang-nghiêm.
Tịnh-Mục Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn dứt hẳn ưu-khổ của tất cả chúng-sanh làm cho sanh lòng vui mừng.
Hoa-Quan Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn dứt hẳn tà-kiến mê-lầm của tất-cả chúng-sanh.
Hỉ-Bộ-Phổ-Âm Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn khắp che chở rưới nhuần tất cả chúng-sanh như mây che mát.
Nhạo-Diêu-Ðộng-Mỹ-Mục Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn hiện thân xinh đẹp rộng lớn làm cho tất cả được an-vui.
Diệu-Âm-Sư-Tử-Tràng Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn danh đồn lớn tốt lan khắp mười phương.
Phổ-Phóng-Bửu-Quang-Minh Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn hiện tất cả thân thanh-tịnh quang-minh đại hoan-hỷ.
Kim-Cang-Thọ-Hoa-Tràng Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn kháp nhuần sum-sê tất cả cây cối làm cho người thấy vui-mừng.
Phổ-Hiện-Trang-Nghiêm Càn-Thát-Bà Vương được giải-thoát-môn khéo vào tất cả cảnh-giới Phật cho chúng-sanh sự an-vui.
Lúc đó Trì-Quốc Càn-Thát-Bà Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Càn-Thát-Bà rồi nói kệ rằng :
Chư Phật cảnh-giới vô-lượng môn
Tất cả chúng-sanh chẳng vào được
Phật tánh thanh-tịnh như hư-không
Vì khắp thế-gian khai chánh-đạo.
Mỗi mỗi chưn lông của Như-Lai
Ðầy đủ công-đức như biển cả
Tất cả thế-gian đều an-vui
Thọ-Quang Vương đây đã thấy được.
Biển khổ rộng lớn của thế-gian
Phật đều có thể tiêu trừ sạch
Phật nhiều phương-tiện đại từ bi
Tịnh-Mục Vương này hiểu biết được.
Mười phương cõi nước rộng vô biên
Trí-Quang của Phật đều sáng chói
Dứt trừ tất cả chấp ác tà
Môn-giải-thoát này Hoa-Quan được.
Phật từ thuở xưa vô-lượng kiếp
Tu tập đại-từ hạnh phương-tiện
Tất cả thế-gian đều an-vui
Phổ-Âm Thần-Vương hay ngộ nhập.
Phật thân thanh-tịnh đều thích thấy
Hay sanh thế-gian vui vô-lượng
Nhơn-quả giải-thoát thứ đệ thành
Diêu-Ðộng Mỹ-Mục khéo khai thị.
Chúng-sanh mê lầm thường lưu chuyển
Ngu-si che chướng rất kín chắc
Như-Lai vì họ nói pháp mầu
Sư-Tử-Tràng-Vương diễn-thuyết được.
Như-Lai khắp hiện diệu sắc thân
Vô-lượng sai khác khắp chúng-sanh
Nhiều thứ phương-tiện soi thế-gian
Phổ-Phóng Bửu-Quang thấy như vậy.
Ðại-Trí phương-tiện vô-lượng môn
Phật vì chúng-sanh mà khai diễn
Vào hạnh chơn-thật đại bồ-đề
Kim-Cang-Tràng-Vương khéo quan-sát.
Trong một sát-na, trăm ngàn kiếp
Phật-lực hay hiện không động diêu
Khắp đem an-lạc thí quần-sanh
Phổ-Hiện Trang-Nghiêm môn giải-thoát.
Tăng-Trưởng-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn trừ diệt tất cả oán-thù.
Long-Chúa-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn tu-tập vô-biên công-hạnh.
Trang-Nghiêm-Tràng-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn biết tất cả lòng ưa thích của chúng-sanh.
Nhiêu-Ích-Hạnh Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn khắp thành-tựu công-hạnh thanh-tịnh sáng-suốt.
Khả-Bố-Úy-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn khai-thị đạo an-ổn vô-úy cho tất cả chúng-sanh.
Diệu-Trang-Nghiêm-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn tiêu-trừ biển ái-dục của tất cả chúng-sanh.
Cao-Phong-Huệ Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn khắp hiện mây sáng chói che muôn loài.
Dũng-Kiện-Tý-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn khắp phóng quang-minh dứt chướng nặng như núi.
Vô-Biên-Tịnh-Hoa-Nhãn Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn khai-thị tâm đại-bi bất thối-chuyển.
Quảng-Ðại-Diện-Cưu-Bàn-Trà-Vương được giải-thoát-môn hiện thân lưu chuyển trong các loài.
Lúc đó Tăng-Trưởng Cưu-Bàn-Trà-Vương, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Cưu-Bàn-Trà mà nói kệ rằng :
Thành-tựu nhẫn-lực Thế-Ðạo-Sư
Vì người tu hành vô-lượng kiếp
Lìa hẳn kiêu-mạn cùng mê lầm
Nên thân của Phật rất nghiêm tịnh.
Từ xưa Ðức Phật đã tu hành
Giáo-hóa thập phương vô-lượng chúng
Các thứ phương-tiện lợi quần-sanh
Môn giải-thoát này Long-Chúa được.
Phật dùng đại-trí cứu chúng-sanh
Thấy biết rõ ràng tâm của họ
Phương-tiện tự-tại khéo dắt-dìu
Nghiêm-Tràng-Vương thấy lòng hoan-hỷ.
Thần-thông ứng-hiện như bóng vang
Pháp-luân như không thường chơn thật
Vô-ương số kiếp ở nơi đời
Nhiêu-Ích-Hạnh-Vương đã được chứng.
Chúng-sanh mù lòa thường tối tâm
Phật quang chiếu hiện đường an-ổn
Cứu hộ muôn loài khổ được trừ
Khả-Bố-Úy-Vương quan-sát thấy.
Biển dục trôi chìm đủ sự khổ
Trí-Quang chiếu khắp đều tiêu diệt
Khổ đã dứt trừ dạy pháp mầu
Diệu-Trang-Nghiêm-Vương được tỏ ngộ.
Phật thân phổ-ứng người đều thấy
Nhiều môn phương-tiện độ cs
Tiếng như sấm nổ rưới mưa pháp
Cao-Phong-Huệ-Vương được chứng nhập.
Quang-minh thanh-tịnh thường lợi-ích
Gặp được Phật quang tiêu chướng nặng
Công-đức của Phật vốn vô-biên
Thâm lý như đây Dũng-Tý biết.
Vì muốn an-vui các chúng-sanh
Phật tu đại-bi vô-lượng kiếp
Tất cả khốn khổ phương-tiện trừ
Vô-Biên-Tịnh-Hoa đã thấy rõ.
Thần-thông tự-tại bất-tư-nghì
Thân Phật hiện khắp mười phương cõi
Nhưng vẫn bất động không khứ lai
Quảng-Ðại-Diện-Vương đã hiểu rõ.
Tỳ-Lâu-Bát-Xoa Long-Vương đã được giải-thoát-môn tiêu diệt tất cả khổ hoạn của loài rồng.
Ta-Kiệt-La Long-Vương được giải-thoát-môn trong một niệm chuyển hình rồng hiện vô-lượng thân chúng-sanh.
Vân-Âm-Tràng Long-Vương được giải-thoát-môn ở trong các loài dùng tiếng thanh-tịnh nói vô-biên danh-hiệu của chư Phật.
Diệm-Khẩu Long-Vương được giải-thoát-môn hiện khắp vô-biên thế-giới kiến lập sai khác.
Diệm-Nhãn Long-Vương được giải-thoát-môn Như-Lai từ mẫn trừ diệt sân-si của tất cả chúng-sanh.
Vân-Tràng Long-Vương được giải-thoát-môn khai-thị phước-đức hỷ lạc lớn cho tất cả chúng-sanh.
Ðức-Xoa-Ca Long-Vương được giải-thoát-môn dùng tiếng thanh-tịnh cứu-hộ dứt trừ tất cả sự bố-úy.
Vô-Biên-Bộ-Long-Vương được giải-thoát-môn thị hiện tất cả sắc thân của Phật và trụ kiếp thứ-đệ.
Thanh-Tịnh-Sắc-Tốc-Tật Long-Vương được giải-thoát-môn xuất sanh sự ưa thích vui mừng lớn cho tất cả chúng-sanh.
Phổ-Hành-Ðại-Âm Long-Vương được giải-thoát-môn thị hiện tất cả âm-thanh vô-ngại bình-đẳng thích ý.
Vô-Nhiệt-Não Long-Vương được giải-thoát-môn dùng mây đại-bi che khắp dứt sự khổ của tất cả thế-gian.
Lúc đó Tỳ-Lâu-Bát-Xoa Long-Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả long-chúng rồi nói kệ rằng :
Quan-sát Như-Lai pháp chơn thường
Tất cả chúng-sanh đều lợi-ích
Dùng lòng đại-từ luôn xót thương
Cứu kẻ trôi chìm lo sợ khổ.
Tất cả chúng-sanh đều sai khác
Một chưn lông Phật đủ thị-hiện
Thần-thông biến-hóa khắp thế-gian
Ta-Kiệt Long-Vương quan-sát thấy.
Phật dùng thần-thông không hạn lượng
Rộng nói danh-hiệu khắp chúng-sanh
Tùy lòng ưa thích đều được nghe
Vân-Âm Long-Vương được tỏ ngộ.
Vô-lượng vô-biên các quốc-độ
Có thể đem vào một chưn lông
Như-Lai an-tọa chúng-hội kia
Diệm-Khẩu Long-Vương đã thấy được.
Tất cả chúng-sanh lòng sân hận
Ngu-si ràng buộc chìm biển khổ
Như-Lai xót thương đều dứt trừ
Diệm-Nhãn Long-Vương quan-sát thấy.
Bao nhiêu phước-đức của chúng-sanh
Trong chưn lông Phật đều hiển-hiện
Hiện rồi đồng về biển đại phước
Vân-Tràng Long-Vương đã quan-sát.
Chưn lông thân Phật phát trí-quang
Trí-quang khắp nơi thuyết diệu-pháp
Chúng-sanh được nghe hết sợ lo
Ðức-Xoa Long-Vương đã được ngộ.
Tam thế tất cả chư Như-Lai
Quốc-độ trang-nghiêm kiếp thứ-đệ
Như vậy đều hiện nơi Phật thân
Biên-Bộ Long-Vương được thấy biết.
Như-Lai công-hạnh thuở xa xưa
Cúng-dường tất cả vô-lượng Phật
Cúng rồi thêm lớn lòng vui-mừng
Tốc-Tật Long-Vương được chứng nhập.
Âm-thinh của Phật thuận theo loài
Vì họ thuyết-pháp được hỷ-lạc
Tiếng Phật thanh nhã cúng vui lòng
Ðại-Âm Long-Vương lòng tỏ ngộ.
Chúng-sanh bức ngặt trong các cõi
Nghiệp hoặc trôi chìm không người cứu
Phật dùng đại-bi khiến thoát lìa
Vô-Nhiệt Long-Vương đã chứng được.
Tỳ-Sa-Môn Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn dùng vô-biên phương-tiện cứu khổ chúng-sanh ác.
Tự-Tại-Âm-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn quan-sát khắp chúng-sanh dùng phương-tiện cứu hộ.
Nghiêm-Trì-Khí-Trượng-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn có thể giúp ích tất cả chúng-sanh rất ác.
Ðại-Trí-Huệ-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn xưng dương công-đức của tất cả thánh-nhơn. Diệm-Nhãn-Chúa-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn đại-bi trí quan-sát khắp tất cả chúng-sanh.
Kim-Cang-Nhãn-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn các thứ phương-tiện lợi-ích an-lạc tất cả chúng-sanh.
Dũng-Kiện-Tý-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn khắp vào nghĩa lý của tất cả pháp.
Dũng-Ðịch-Ðại-Quân-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn hộ vệ tất cả chúng-sanh khiến đều trụ nơi chánh-đạo.
Phú-Tài-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn tăng-trưởng phước-đức của tất cả chúng-sanh khiến họ luôn được khoái-lạc.
Lực-Hoại-Cao-Sơn-Dạ-Xoa-Vương được giải-thoát-môn tùy thuận ức niệm xuất-sanh trí-lực quang-minh của Phật.
Lúc đó Ða-Văn-Ðại-Dạ-Xoa-Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Dạ-Xoa rồi nói kệ rằng :
Chúng-sanh tội ác đã quá sâu
Trăm ngàn kiếp qua chẳng thấy Phật
Trôi chìm sanh-tử thọ khổ nhiều
Vì cứu chúng-sanh Phật xuất-thế.
Như-Lai cứu-hộ các thế-gian
Tất cả chúng-sanh hiện trước họ
Dứt khổ luân-chuyển hết sợ lo
Tự-Tại-Âm-Vương đã ngộ nhập.
Chúng-sanh tạo ác-nghiệp, chướng nhiều
Phật dạy lý mầu khiến rõ biết
Ví như đèn sáng chiếu thế-gian
Nghiêm-Trì Xoa-Vương đã được thấy.
Thuở xưa nhiều kiếp Phật tu hành
Xưng tán mười phương tất cả Phật
Nên có tiếng đồn lớn cao xa
Ðại-Trí-Huệ-Vương được rõ biết.
Trí-Huệ như không vô-lượng-biên
Pháp-thân rộng lớn bất-tư-nghị
Do đây mười phương đều hiện thân
Diệm-Nhãn-Chúa Vương quan-sát thấy.
Trong tất cả loài diễn diệu-âm
Thuyết pháp lợi-ích vô-lượng chúng
Tiếng Phật đến đâu khổ dứt trừ
Kim-Cang-Nhãn Vương được phương-tiện.
Tất cả nghĩa rộng lớn rất sâu
Phật dùng một câu diễn thuyết được
Giáo-lý như vậy khắp thế-gian
Dũng-Kiện-Tý Vương đã được ngộ.
Vô-lượng chúng-sanh chấp đạo tà
Phật dạy chánh-đạo bất-tư-nghị
Khiến khắp thế-gian thành pháp-khí
Dũng-Ðịch-Quân-Vương rõ biết được.
Bao nhiêu phước-nghiệp của thế-gian
Tất cả đều do Phật-quang-chiếu
Phật-trí rộng lớn khó nghĩ lường
Phú-Tài-Xoa Vương được giải-thoát.
Nhớ đến kiếp xưa vô-lượng số
Phật từ lâu xa tu thập-lực
Hay khiến trí-lực đều tròn đầy
Lực-Hoại-Cao-Sơn được rõ biết.
Thiện-Huệ Ma-Hầu-La-Già Vương được giải-thoát-môn dùng tất cả thần-thông phương-tiện khiến chúng-sanh chứa nhóm công-đức.
Tịnh-Oai-Âm Vương được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh trừ phiền-não được thanh-lương vui sướng.
Thắng-Huệ-Trang-Nghiêm-Kế Vương được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh suy tưởng lành hay chẳng lành đều vào pháp thanh-tịnh.
Diệu-Mục-Chủ Vương được giải-thoát-môn rõ thấu tất cả tướng phước-đức tự-tại bình-đẳng vô-sở-trước.
Ðăng-Tràng Vương được giải-thoát-môn khai-thị tất cả chúng-sanh khiến lìa đường tối tăm sợ sệt.
Tối-Thắng-Quang-Minh-Tràng Vương được giải-thoát-môn rõ biết tất cả công-đức của Phật sanh lòng vui mừng.
Sư-Tử-Úc Vương được giải-thoát-môn sức dũng-mãnh làm chủ cứu-hộ chúng-sanh.
Chúng-Diệu-Trang-Nghiêm-Âm Vương được giải-thoát-môn khiến chúng-sanh tùy ý niệm sanh vô-biên hỷ-lạc.
Tu-Di-Úc Vương được giải-thoát-môn quyết định bất-động nơi tất cả cảnh-duyên và được đầy đủ đến bờ kia.
Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Vương được giải-thoát-môn bình đẳng vì tất cả chúng-sanh khai-thị đạo bình đẳng.
Lúc đó, Thiện-Huệ Ma-Hầu-La-Già Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Ma-Hầu-La-Gia rồi nói kệ rằng :
Ông xem Như-Lai tánh thanh-tịnh
Phổ hiện oai-quang lợi quần phẩm
Khai đạo cam-lồ khiến thanh-lương
Các khổ dứt hẳn không còn sót.
Tất cả chúng-sanh ở biển khổ
Các nghiệp hoặc ác tự ràng buộc
Ðem pháp tịch-tịnh dạy chúng-sanh
Tịnh-Oai-Âm Vương khéo rõ biết.
Phật-trí vô-đẳng bất-tư-nghì
Tâm chúng-sanh đều rõ biết cả
Vì họ xiển-minh pháp thanh-tịnh
Trang-Nghiêm-Kế Vương đã tỏ ngộ.
Vô-lượng chư Phật hiện thế-gian
Vì khắp chúng-sanh làm ruộng phước
Biển phước rộng lớn rất khó lường
Diệu-Mục-Chủ Vương thấy tất cả.
Chúng-sanh ở mãi biển sợ lo
Phật khắp hiện tiền mà cứu-hộ
Pháp-giới hư-không đều khắp cùng
Ðăng-Tràng-Vương đây đã thấy được.
Công-đức nơi một chưn lông Phật
Thế-gian chung tính không biết được
Vô-biên vô-tận đồng hư-không
Quang-minh-Tràng-Vương quan-sát thấy.
Như-Lai thông đạt tất cả pháp
Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ
Không nghiêng không động như Tu-Di
Sư-Tử-Úc-Vương môn giải-thoát.
Phật từ thuở trước kiếp lâu xa
Biển rộng hoan-hỷ sâu vô-tận
Vì thế ai thấy đều thích ưa
Trang-Nghiêm-Âm-Vương được chứng nhập.
Rõ biết pháp-giới không hình tướng
Biển ba-la-mật đều đầy đủ
Ðại-quang phổ tế các chúng-sanh
Tu-Di-Úc Vương đã tỏ ngộ.
Ông xem Như-Lai sức tự-tại
Mười phương thị-hiện khắp đồng đều
Sáng soi tỏ ngộ các chúng-sanh
Nhạo-Quang-Minh Vương đã khéo chứng.
Thiện-Huệ-Quang-Minh-Thiên-Khẩn-Na-La Vương được giải-thoát-môn khắp sanh tất cả công-hạnh hỷ-lạc.
Diệu-Hoa-Tràng-Khẩn-Na-La Vương được giải-thoát-môn có thể sanh pháp-hỷ vô-thượng khiến tất cả được an-vui.
Chủng-Chủng-Trang-Nghiêm Vương được giải-thoát-môn tất cả công-đức đầy đủ tâm tin hiểu thanh-tịnh rộng lớn.
Duyệt-Ý-Hống-Thinh Vương được giải-thoát-môn thường nói ra tất cả tiếng duyệt ý khiến người nghe lìa khỏi ưu-bố.
Bửu-Thọ-Quang-Minh Vương được giải-thoát-môn đại-bi an-lập tất cả chúng-sanh khiến giác-ngộ cảnh sở-duyên.
Phổ-Nhạo-Kiến Vương được giải-thoát-môn thị-hiện tất cả sắc thân vi-diệu.
Tối-Thắng-Quang-Trang-Nghiêm Vương được giải-thoát-môn rõ biết tất cả quả thù-thắng trang-nghiêm từ nghiệp não sanh.
Vi-Diệu-Hoa-Tràng Vương được giải-thoát-môn khéo quan-sát tất cả nghiệp thế-gian sanh ra quả báo.
Ðộng-Ðịa-Lực Vương được giải-thoát-môn môn thường khởi tất cả sự lợi-ích chúng-sanh.
Oai-Mãnh-Chủ Vương được giải-thoát-môn khéo biết và khéo nhiếp phục tâm niệm của tất cả Khẩn-Na-La.
Lúc đó, Thiện-Huệ-Quang-Minh Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Khẩn-Na-La rồi nói kệ rằng :
Thế-gian tất cả sự an-vui
Tất cả đều do Phật xuất thế
Ðạo-Sư lợi-ích các chúng-sanh
Khắp làm chỗ quy-y cứu-hộ.
Xuất sanh tất cả những hỷ-lạc
Thế-gian đều được không cùng tận
Hay khiến người thấy chẳng luống qua
Diệu-Hoa-Tràng-Vương được tỏ ngộ.
Biển công-đức Phật không cùng tận
Cầu biên-tế kia bất-khả-đắc
Quang-Minh chiếu sáng khắp mười phương
Trang-Nghiêm Vương đây môn giải-thoát.
Như-Lai đại-âm thường diễn thông
Khai pháp chơn thật lìa ưu-não
Chúng-sanh nghe được đều đẹp vui
Duyệt-Ý-Hống-Thinh hay tín thọ.
Tôi xem Như-Lai sức tự-tại
Ðều do thuở trước siêng hành đạo
Ðại-bi cứu người khiến sạch trong
Bửu-Thọ-Quang-Minh hay ngộ-nhập.
Như-Lai khó được thấy và nghe
Ức kiếp chúng-sanh mới được gặp
Tướng-hảo đầy đủ để trang-nghiêm
Phổ-Nhạo-Kiến Vương đã xem thấy.
Ông xem Như-Lai đại trí-huệ
Quần-sanh tâm nguyện đều khắp ứng
Ðạo nhứt-thiết-trí đều tuyên bày
Tối-Thắng-Trang-Nghiêm hay rõ biết.
Biển nghiệp rộng lớn bất-tư-nghì
Chúng-sanh khổ vui đều do đó
Tất cả như vậy hay chỉ bày
Vi-Diệu-Hoa-Tràng quan-sát thấy.
Chư Phật thần-thông không xen dứt
Mười phương đại-địa thường chấn động
Tất cả chúng-sanh chẳng biết hay
Ðộng-Ðịa-Lực Vương hằng thấy rõ.
Ở nơi chúng-hội hiện thần thông
Phóng đại quang-minh khiến giác-ngộ
Hiển bày tất cả cảnh Như-Lai
Oai-Mãnh-Chủ Vương hay quan-sát.
Ðại-Tốc-Tất-Lực Ca-Lâu-La Vương được giải-thoát-môn vô-ngại-vô-trước-nhãn quan-sát khắp chúng-sanh giới.
Bất-Khả-Hoại-Bửu-Kế Vương được giải-thoát-môn khắp an-trụ pháp-giới giáo-hóa chúng-sanh.
Thanh-Tịnh-Tốc-Tật Vương được giải-thoát-môn khắp thành-tựu sức tinh-tấn ba-la-mật.
Bất-Thối-Tâm-Trang-Nghiêm Vương được giải-thoát-môn sức dũng-mãnh vào cảnh-giới Như-Lai.
Ðại-Hải-Xứ-Nhiếp-Trì-Lực Vương được giải-thoát-môn vào biển công-hạnh trí-huệ rộng lớn của Phật.
Kiên-Pháp-Tịnh-Quang Vương được giải-thoát-môn thành-tựu vô-biên chúng-sanh sai- biệt-trí.
Diệu-Nghiêm-Quan-Kế Vương được giải-thoát-môn trang-nghiêm thành Phật-pháp.
Phổ-Tiệp-Thị-Hiện Vương được giải-thoát-môn thành-tựu sức bình-đẳng bất-khả hoại.
Phổ-Quán-Hải Vương được giải-thoát-môn rõ biết tất cả thân chúng-sanh mà vì hiện hình.
Long-Âm-Ðại-Mục-Tinh Vương được giải-thoát-môn trí hạnh vào khắp sanh-tử của tất cả chúng-sanh.
Lúc đó, Ðại-Tốc-Tật-Lực Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát tất cả chúng Ca-Lâu-La rồi nói kệ rằng :
Phật-nhãn rộng-lớn không ngằn mé
Thấy khắp mười phương các quốc-độ
Trong đó chúng-sanh chẳng thể lường
Hiện đại thần-thông đều điều-phục.
Thần-thông của Phật sức vô-ngại
Ngồi khắp mười phương cội bồ-đề
Thuyết pháp như mây đều khắp đầy
Bửu-Kế lóng nghe lòng tin thuận.
Phật thuở xa xưa tự-tại các hạnh
Phổ-tịnh quảng-đại ba-la-mật
Cúng-dường tất cả chư Như-Lai
Thanh-Tịnh-Tốc-Tật sâu tin hiểu.
Như-Lai trong mỗi một chưn lông
Một niệm hiện khắp vô-biên hạnh
Cảnh giới Như-Lai rất khó suy
Bất-Thối-Trang-Nghiêm đều thấy rõ.
Phật-hạnh rộng lớn bất-tư-nghì
Tất cả chúng-sanh không lường được
Công-đức trí-huệ của Ðạo-Sư
Nhiếp-Trì-Lực Vương đạo giải thoát.
Như-Lai vô-lượng trí-huệ-quang
Hay dứt chúng-sanh lưới nghi hoặc
Cứu-hộ tất cả các thế-gian
Khiên-Pháp-Tịnh-Quang thọ-trì được.
Pháp-thành rộng lớn không thể cùng
Các thứ pháp-môn vô-lượng số
Ðức Phật ra đời rộng mở bày
Diệu-Nghiêm-Quan-Kế đã tỏ rõ.
Tất cả chư Phật một pháp-thân
Chơn-như bình-đẳng vô-phân-biệt
Phật dùng sức này thường an-trụ
Phổ-Tiệp-Thị-Hiện diễn thuyết đủ.
Phật ở các cõi nhiếp chúng-sanh
Quang-minh thế-gian đều chiếu khắp
Các thứ phương-tiện hiện điều-phục
Phổ-Quán-Hải Vương đã được ngộ.
Phật xem tất cả các quốc-độ
Ðều nương nghiệp-hải mà an-trụ
Rưới khắp pháp-vũ ở trong kia
Long-Âm-Tinh Vương được giải-thoát.
La-Hầu A-Tu-La Vương được giải-thoát-môn hiện làm chủ tôn thắng trong đại-hội.
Tỳ-Ma-Chất-Ða-Vương được giải-thoát-môn thị-hiện vô-lượng kiếp.
Xảo-Huyễn-Thuật Vương được giải-thoát-môn tiêu-diệt khổ tất cả chúng-sanh khiến thanh-tịnh.
Ðại-Quyến-Thuộc Vương được giải-thoát-môn tu tất cả khổ hạnh tự trang-nghiêm.
Bà-Trí-Vương được giải-thoát-môn chấn-động thập-phương vô-biên cảnh-giới.
Biến-Chiếu Vương được giải-thoát-môn các thứ phương-tiện an lập tất cả chúng-sanh.
Kiên-Cố-Hạnh-Diệu-Trang-Nghiêm Vương được giải-thoát-môn khắp họp thiện căn sạch các nhiễm trước chẳng thể phá hoại.
Quảng-Ðại-Nhơn-Huệ Vương được giải-thoát-môn sức đại-bi không nghi lầm.
Hiện-Thắng-Ðức Vương được giải-thoát-môn khắp khiến thấy Phật thờ kính cúng-dường tự-tại các thiện-căn.
Thiện-Âm Vương được giải-thoát-môn công-hạnh quyết-định bình-đẳng khắp vào tất cả loài.
Lúc đó La-Hàu Vương thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng A-Tu-La rồi nói kệ rằng :
Tất cả mười phương quảng-đại chúng
Phật thù-đặc nhứt trong tất cả
Quang-minh chiếu khắp đồng hư-không
Trước các chúng-sanh đều khắp hiện.
Trăm ngàn muôn kiếp các quốc-độ
Trong một sát-na đều hiện rõ
Phóng quang độ người đồng khắp đều
Tùy-Ma-Chất-Ða vui khen ngợi.
Như-Lai cảnh-giới không ai bằng
Các thứ pháp môn thường lợi-ích
Chúng-sanh có khổ đều dứt trừ
Xảo-Huyễn-Thuật Vương đã được thấy.
Trong vô-lượng kiếp tự-tại khổ hạnh
Lợi-ích chúng-sanh làm thanh-tịnh
Do đây Phật-trí trọn viên-thành
Ðại-Quyến-Thuộc Vương đã thấy rõ.
Vô-ngại vô-đẳng đại thần-thông
Khắp động mười phương tất cả cõi
Chẳng khiến chúng-sanh có sợ kinh
Ðại-lực nơi đây đã rõ biết.
Phật hiện ra đời cứu chúng-sanh
Ðạo nhứt-thiết-trí đều khai-thị
Ðều khiến bỏ khổ được an-vui
Nghĩa đây, Biến-Chiếu xiển-dương rộng.
Tất cả biển phước của thế-gian
Phật-lực hay sanh khiến thanh-tịnh
Phật hay khai-thị đạo giải-thoát
Kiên-Cố-Trang-Nghiêm được chứng nhập.
Phật đại-bi-thân không ai bằng
Ði khắp vô-ngại đều khiến thấy
Dường như hình bóng hiện thế-gian
Nhơn-Huệ hay tuyên công-đức Phật.
Thần-thông rộng lớn không ai sánh
Khắp chốn hiện thân đầy pháp-giới
Ðều ngồi dưới cội đại bồ-đề
Nghĩa này, Thắng-Ðức hay tuyên thuyết.
Như-Lai ngày trước tu công-hạnh
Trải qua các loài đều cùng khắp
Thoát khổ chúng-sanh không có thừa
Thiên-Âm ca-ngợi công-đức Phật.
IV.- CHƯ THẦN-CHỦ GIẢI-THOÁT-MÔN
Thị-Hiện-Cung-Ðiện Chủ-Trú Thần được giải-thoát-môn khắp vào tất cả thế-gian. Pháp-Khởi-Huệ-Hương Thần được giải-thoát-môn quan-sát khắp tất cả chúng-sanh đều khiến lợi-ích vui mừng đầy đủ. Nhạo-Thắng-Trang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn hay phóng vô-biên pháp quang-minh đáng thích ưa. Hoa-Hương Diệu-Quang Thần được giải-thoát-môn khai phát tâm tin hiểu thanh-tịnh của tất cả chúng-sanh. Phổ-Tập-Diệu-Dược Thần được giải-thoát-môn chứa nhóm trang-nghiêm công-lực quang-minh rộng khắp. Nhạo-Tác-Hỉ-Mục Thần được giải-thoát-môn khai ngộ khắp tất cả chúng-sanh khổ vui đều khiến được pháp-lạc. Quán-Phương-Phổ-Hiện Thần được giải-thoát-môn thân sai-biệt thập phương pháp-giới. Ðại-Bi-Oai-Lực Thần được giải-thoát-môn cứu hộ tất cả chúng-sanh khiến được an-lạc. Thiện-Căn-Quang-Chiếu Thần được giải-thoát-môn công-đức lực khắp sanh vui mừng đầy đủ. Diệu-Hoa-Anh-Lạc Thần được giải-thoát-môn tiếng tăm đồn khắp nơi chúng-sanh thấy Phật đều được lợi-ích.
Lúc đó, Thị-Hiện-Cung-Ðiện Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Trú-Thần rồi nói kệ rằng :
Phật-trí như không vô cùng tận
Quang-minh soi sáng khắp mười phương
Tâm hành chúng-sanh đều biết rành
Thế-gian không nơi nào chẳng đến.
Biết lòng sở-thích của chúng-sanh
Theo cơ diễn nói vô-lượng pháp
Cú nghĩa rộng lớn đều không đồng
Phát-Khởi-Huệ-Hương thấy được rõ.
Phật phóng quang-minh chiếu thế-gian
Thấy nghe vui mừng không luống mất
Chỉ bày tịch-diệt chỗ rộng sâu
Nhạo-Thắng-Trang-Nghiêm lòng tỏ ngộ.
Phật rưới Pháp-vũ vô-biên-lượng
Hay khiến người thấy đều mừng rỡ
Thiện-căn tối-thắng từ đây sanh
Hoa-Hương-Diệu-Quang rõ biết được.
Khắp vào pháp-môn sức khai ngộ
Nhiều kiếp tu tập đều thanh-tịnh
Phổ-Tập-Diệu-Dược hay thấu suốt.
Nhiều môn phương-tiện hóa quần-sanh
Hoặc thấy hoặc nghe đều thọ ích
Ðều khiến hớn hở rất vui mừng
Nhạo-Tác-Hỉ-Mục thấy như vậy.
Thập-lực ứng hiện khắp thế-gian
Mười phương pháp-giới đều không sót
Thể-tánh chẳng có cũng chẳng không
Quán-Phương-Phổ-Hiện hay chứng nhập.
Chúng-sanh lưu chuyển trong hiểm nạn
Như-Lai xuất thế vì thương xót
Tất cả khổ hoạn đều dứt trừ
Ðại-Bi-Oai-Lực môn giải-thoát.
Chúng-sanh trôi chìm trong đêm dài
Phật vì thuyết pháp cho thông hiểu
Ðều khiến được vui trừ khổ lo
Thiện-Căn-Quang-Chiếu môn ngộ nhập.
Như-Lai phước-đức đồng hư-không
Từ đây nở sanh thế-gian phước
Chỗ làm của Phật trọn không hư
Diệu-Hoa-Anh-Lạc được giải-thoát.
Phổ-Ðức-Tịnh-Quang Chủ-Dạ-Thần được giải-thoát-môn tịch-tịnh thiền-định lạc đại dũng kiện. Hỉ-Căn-Quán-Thế Thần được giải-thoát-môn tướng công-đức tướng công-đức thanh-tịnh rộng lớn khả-ái. Hộ-Thế-Tinh-Khí Thần được giải-thoát-môn hiện khắp thế-gian điều phục chúng-sanh. Tịch-Tịnh-Hải-Âm Thần được giải-thoát-môn chứa nhóm lòng hoan-hỷ rộng lớn. Phổ-Hiện-Kiết-Tường Thần được giải-thoát-môn ngôn âm duyệt ý tự-tại rộng lớn. Phổ-Phát-Thọ-Hoa Thần được giải-thoát-môn tạng-quang-minh rộng lớn đầy đủ hoan-hỉ. Bình-Ðẳng-Hộ-Dục Thần được giải-thoát-môn khai-ngộ chúng-sanh khiến thành-thục thiện-căn. Du-Hí-Khoái-Lạc Thần được giải-thoát-môn vô-biên từ cứu-hộ chúng-sanh. Chư-Căn-Thường-Hỉ Thần được giải-thoát-môn đại-bi khắp hiện trang-nghiêm. Thị-Hiện-Tịnh-Phước Thần được giải-thoát-môn khiến khắp tất cả chúng-sanh sở-thích được đầy đủ.
Lúc đó, Phổ-Ðức-Tịnh-Quang Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Dạ-Thần mà nói kệ rằng :
Các ngài nên xem công-hạnh Phật
Quảng-đại tịch-tịnh tướng hư-không
Biển dục không bờ làm sạch trong
Chiếu mười phương đoan-nghiêm thanh-tịnh.
Tất cả thế-gian đều thích thấy
Vô-lượng ức kiếp một lần gặp
Ðại-bi thương người đều khắp cùng
Hỉ-Can-Quán-Thế quan-sát thấy.
Ðạo-Sư cứu hộ các thế-gian
Chúng-sanh thấy Phật hiện trước mình
Làm cho các loài đều thanh-tịnh
Hộ-Thế-Tinh-Khí đã biết rõ.
Phật xưa tu tập biển hoan-hỉ
Rộng lớn vô-biên chẳng lường được
Vì thế người thấy đều thích ưa
Tịch-Tịnh-Hải-Âm hiểu biết được.
Như-Lai cảnh giới chẳng thể lường
Diễn khắp mười phương mà hằng tịch
Khiến khắp chúng-sanh ý sạch trong
Phổ-Hiện-Kiết-Tường nghe vui đẹp.
Giữa nhóm chúng-sanh không phước-đức
Phật bực đại-phước trang-nghiêm sáng
Khai pháp tịch-diệt lìa cấu trần
Phổ-Phát-Thọ-Hoa đã được ngộ.
Muời phương khắp hiện đại thần thông
Tất cả chúng-sanh đều điều phục
Các thứ sắc tướng đều khiến xem
Bình-Ðẳng-Hộ-Dục quan-sát được.
Như-Lai thuở xưa trong mỗi niệm
Từ-bi phương-tiện đều thanh-tịnh
Cứu hộ chúng-sanh đã khắp cùng
Du-Hí-Khoái-Lạc môn giải-thoát
Chúng-sanh ngu-si thường loạn đụt
Tâm họ cứng độc rất đáng sợ
Như-Lai xuất thế vì xót thương
Chư-Căn-Thường-Hỉ được tỏ ngộ.
Xưa Phật tu-hành vì chúng-sanh
Tất cả chí-nguyện đều đầy đủ
Do đây đức tướng đều viên thành
Thị-Hiện-Tịnh-Phước được chứng nhập.
Biến-Trụ-Nhứt-Thiết-Chủ-Phương Thần được giải-thoát-môn năng-lực khắp cứu-hộ. Phổ-Hiện-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn trọn nên công-lực thần-thông hóa-độ khắp tất cả chúng-sanh. Quang-Hạnh-Trang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn đại-quang-minh phá tất cả chướng sanh hỉ-lạc. Châu-Hành-Bất-Ngại Thần được giải-thoát-môn hiện khắp tất cả chỗ chẳng luống nhọc. Vĩnh-Ðoạn-Mê-Hoặc Thần được giải-thoát-môn thị-hiện danh hiệu phát sanh công-đức đồng số tất cả chúng-sanh. Biến-Du-Tịnh-Không Thần được giải-thoát-môn hằng phát-diệu-âm khiến người nghe đều hoan-hỉ. Vân-Tràng-Ðại-Âm Thần được giải-thoát-môn như rồng khắp rưới mưa khiến chúng-sanh hoan-hỉ. Kế-Mục-Vô-Loạn Thần được giải-thoát-môn được giải-thoát-môn năng-lực tự-tại vô-sai-biệt thị-hiện hạnh-nghiệp tất cả chúng-sanh. Phổ-Thế-Nghiệp Thần được giải-thoát-môn quan-sát các thứ hạnh-nghiệp trong tất cả thú-sanh. Châu-Biến-Du-Lãm Thần được giải-thoát-môn công việ làm đều rốt ráo sanh sự hoan-hỉ tất cả chúng-sanh.
Lúc đó, Biến-Trụ-Nhứt-Thiết Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Phương Thần rồi nói kệ rằng :
Như-Lai tự-tại hiện ra đời
Tất cả quần-sanh đều giáo-hóa
Chỉ bày khiến ngộ các pháp-môn
Ðều khiến được thành vô-lượng trí.
Thần-thông vô-lượng khắp chúng-sanh
Tùy họ sở thích mà hiện tướng
Người thấy đều được lìa khổ lo
Phổ-Hiện-Quang-Minh môn giải-thoát.
Trong biển mê tối của chúng-sanh
Phật hiện đuốc pháp rất sáng suốt
Sáng đó chiếu khắp người đều thấy
Quang-Hạnh-Trang-Nghiêm đã tự-tại.
Ðầy đủ các tiếng của thế-gian
Khắp chuyển pháp-luân người đều hiểu
Chúng-sanh nghe pháp phiền-não trừ
Châu-Hành-Bất-Ngại được tỏ ngộ.
Tất cả danh tự của thế-gian
Hồng danh của Phật đồng số đó
Ðều khiến chúng-sanh lìa mê lầm
Vĩnh-Ðoạn-Mê-Hoặc quan-sát biết.
Nếu có chúng-sanh đến trước Phật
Ðược nghe diệu-âm của Như-Lai
Họ đều sanh lòng rất vui mừng
Biến-Du-Tịnh-Không ngộ pháp đó.
Phật ở trong mỗi mỗi sát-na
Khắp rưới vô-biên đại-pháp-vũ
Ðều khiến chúng-sanh phiền-não trừ
Vân-Tràng-Ðại-Âm rõ biết được.
Tất cả thế-gian những biển nghiệp
Phật xưa khai-thị đồng không khác
Khắp khiến chúng-sanh nghiệp-hoặc trừ
Kế-Mục-Vô-Loạn đã rõ thấu.
Nhứt-Thiết-Trí địa vốn vô-biên
Tất cả tâm niệm của chúng-sanh
Như-Lai soi thấy đều rõ ràng
Phổ-Quán-Thế-Nghiệp môn rộng lớn.
Phật xưa nhiều kiếp tu công-hạnh
Ðủ vô-lượng môn ba-la-mật
Ðại-bi thương xót lợi chúng-sanh
Châu-Biến-Du-Lãm được giải-thoát.
Tịnh-Quang-Phổ-Chiếu Chủ-Không-Thần được giải-thoát-môn biết khắp tất cả tâm chúng-sanh trong các loài. Phổ-Du-Thâm-Quảng Thần được giải-thoát-môn khắp vào pháp-giới. Sanh-Kiết-Tường-Phong Thần được giải-thoát-môn rõ thấu vô-biên cảnh-giới thân-tướng. Ly-Chướng-An-Trụ Thần được giải-thoát-môn hay trừ nghiệp-hoặc-chướng tất cả chúng-sanh. Quảng-Bộ-Diệu-Kế Thần được giải-thoát-môn khắp quán-sát tư-duy biển công-hạnh rộng lớn. Vô-Ngại-Quang-Diệm Thần được giải-thoát-môn đại-bi quang khắp cứu-hộ ách nạn tất cả chúng-sanh. Vô-Ngại-Thắng-Lực Thần được giải-thoát-môn vào khắp tất cả phước-đức lực vô-sở-trước. Ly-Cấu-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn hay khiến tâm tất cả chúng-sanh lìa cái-chướng được thanh-tịnh. Thâm-Viễn-Diệu-Âm Thần được giải-thoát-môn trí quang-minh thấy khắp mười phương. Quang-Biến-Thập-Phương Thần được giải-thoát-môn chẳng động bổn xứ mà hiện khắp thế-gian.
Lúc đó, Tịnh-Quang-Phổ-Chiếu Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Không-Thần rồi kệ rằng :
Như-Lai mắt rộng lớn
Như hư-không thanh-tịnh
Thấy khắp các chúng-sanh
Tất cả đều tỏ rõ.
Thân Phật rất sáng chói
Chiếu khắp mười phương cõi
Mọi nơi đều hiện tiền
Phổ-Du-Thần xem thấy.
Thân Phật như hư-không
Vô-sanh vô-sở-thủ
Vô-tánh vô-khả-đắc
Cát-Tường Thần rõ thấu.
Phật từ vô-lượng kiếp
Rộng nói các thánh đạo
Dứt trừ chướng chúng-sanh
Ly-Chướng Thần được ngộ.
Tôi xem Phật thuở xưa
Tu tập bồ-đề hạnh
Vì an-lạc thế-gian
Diệu-Kế-Thần được thấy.
Tất cả cõi chúng-sanh
Lưu chuyển biển sanh-tử
Phật phóng diệt-khổ-quang
Vô-Ngại-Thần thấy rõ.
Tạng công-đức thanh-tịnh
Làm phước điền thế-gian
Dùng trí huệ hiển bày
Thắng-Lực-Thần tỏ ngộ.
Chúng-sanh thường si-mê
Lưu-chuyển trong đường hiểm
Vì họ Phật phóng quang
Ly-Cấu Thần chứng được
Trí-huệ không ngằn mé
Hiện khắp các quốc-độ
Quang-minh chiếu thế-gian
Diệu-Âm Thần thấy Phật.
Phật vì độ chúng-sanh
Khắp mười phương tu-tập
Tâm nguyện lớn không lường
Quang-Biến Thần thấy biết.
Vô-Ngại-Quang-Minh Chủ-Phong-Thần được giải-thoát-môn vào khắp Phật-pháp và tất cả thế-gian. Phổ-Hiện-Dũng-Nghiệp Thần được giải-thoát-môn Phật xuất hiện trong vô-lượng quốc-độ đều cúng-dường rộng lớn. Phiêu-Kích-Vân-Tràng Thần được giải-thoát-môn dùng hương phong khắp dứt trừ bịnh của tất cả chúng-sanh. Tịnh-Quang-Trang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn khắp sanh thiện căn tất cả chúng-sanh khiến dứt trừ núi chướng nặng. Lực-Năng-Kiệt-Thủy Thần được giải-thoát-môn có thể phá vô-biên chúng ác-ma. Ðại-Thinh-Biến-Hống Thần được giải-thoát-môn dứt hẳn sự sợ hãi tất cả chúng-sanh. Thọ-Diễu-Thùy-Kế Thần được giải-thoát-môn biển biện-tài vào thật-tướng của tất cả pháp.
Phổ-Hành-Vô-Ngại Thần được giải-thoát-môn tạm phương tiện điều phục tất cả chúng-sanh. Chủng-Chủng-Cung-Ðiện Thần được giải-thoát-môn nhập thiền-định tịch-tịnh dứt trừ ngu-si rất nặng. Ðại-Quang-Phổ-Chiếu Thần được giải-thoát-môn tùy thuận tất cả chúng-sanh thật hành vô-ngại.
Lúc đó, Vô-Ngại-Quang-Minh Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Phong-Thần rồi nói kệ rằng :
Tất cả Phật-Pháp rất sâu rộng
Phương-tiện vô-ngại khắp vào được
Phật thường xuất-hiện khắp thế-gian
Không tướng, không hình, không ảnh tượng.
Ông xemnl thuở xa xưa
Một niệm cúng-dường vô-lượng Phật
Như vậy dũng-mãnh hạnh bồ-đề
Phổ-Hiện-Dũng-Nghiệp được tỏ ngộ.
Như-Lai cứu-thế bất-tư-nghì
Tất cả phương-tiện không luống uổng
Ðều khiến chúng-sanh lìa khổ lo
Phiêu-Kích-Vân-Tràng môn giải-thoát.
Chúng-sanh vô-phước, chịu khổ đau
Chướng nặng, cái đầy, thường che đậy
Ðều khiến tất cả được thoát lìa
Tịch-Quang-Trang-Nghiêm được rõ biết.
Thần-thông rộng lớn của Như-Lai
Dẹp trừ tất cả loài ma chướng
Bao nhiêu phương-tiện dùng nhiếp trừ
Lực-Năng-Kiệt-Thủy quan-sát thấy.
Chưn lông của Phật diễn diệu-âm
Tiếng Phật thế-gian đều cùng khắp
Tất cả khổ sợ đều dứt trừ
Ðại-Thinh-Biến-Hống rõ biết được.
Phật ở tất cả các quốc-độ
Trong vô-lượng kiếp thường diễn-thuyết
Biện-tài vi-diệu của Như-Lai
Thọ-Diễu-Thùy-Kế đã được hiểu.
Như-Lai tất cả môn phương-tiện
Trí vào trong đó đều vô-ngại
Cảnh-giới vô-biên không ai bằng
Phổ-Hành Vô-Ngại được giải-thoát.
Như-Lai cảnh-giới không ngằn mé
Nơi nơi phương-tiện đều khiến thấy
Mà thân tịch-tịnh không tướng-hình
Chủng-Chủng-Cung-Ðiện được chứng nhập.
Như-Lai nhiều kiếp tu công-hạnh
Tất cả trí lực đều viên mãn
Thuận theo thế-pháp ứng chúng-sanh
Ðại-Quang-Phổ-Chiếu đã được thấy.
Phổ-Quang-Diệm-Tạng Chủ-Hỏa Thần được giải-thoát-môn đều trừ tối tăm tất cả thế-gian.
Phổ-Tập-Quang-Tràng Thần được giải-thoát-môn có thể dứt các nghiệp-hoặc trôi chìm khổ của tất cả chúng-sanh.
Ðại-Quang-Biến-Chiếu Thần được giải-thoát-môn tạng đại-bi phước-lạc vô-động.
Chúng-Diệu-Cung-Ðiện Thần được giải-thoát-môn quan-sát Như-Lai thần-thông-lực thị-hiện vô-biên-tế.
Vô-Tận-Quang-Kế Thần được giải-thoát-môn quang-minh chiếu diện vô-biên hư không giới.
Chủng-Chủng Diệm-Nhãn Thần được giải-thoát-môn các thứ phước trang-nghiêm quang-minh tịch-tịnh.
Thập-Phương-Cung-Ðiện-Như-Tu-Di-Sơn Thần được giải-thoát-môn dứt những khổ não của tất cả các loài.
Oai-Quang-Tự-Tại Thần được giải-thoát-môn tự-tại khai-ngộ tất cả thế-gian.
Quang-Chiếu-Thập-Phương Thần được giải-thoát-môn phá hẳn tất cả kiến chấp ngu-si.
Lôi-Âm-Ðiển-Quang Thần được giải-thoát-môn thành-tựu tất cả nguyện-lực âm-thinh chấn-động.
Lúc đó, Phổ-Quang-Diệm-Tạng Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Hóa thần rồi nói kệ rằng :
Ông xem Như-Lai tinh-tấn lực
Rộng lớn ức kiếp bất tư-nghì
Vì độ chúng-sanh hiện thế-gian
Bao nhiêu ám chướng khiến đều dứt.
Chúng-sanh ngu-si sanh kiến chấp
Phiền-não như thác như lửa cháy
Ðạo-Sư phương tiện đều dứt trừ
Phổ-Tập-Quang-Tràng được tỏ ngộ.
Phước-đức như không vô cùng tận
Cầu tìm biên-tế bất-khả-đắc
Phật đại-bi-lực không động lay
Ðại-Quang-Biến-Chiếu lòng vui đẹp.
Tôi xem công-hạnh của Như-Lai
Trải vô-lượng kiếp không ngằn mé
Như vậy thị-hiện sức thần-thông
Chúng-Diệu-Cung Thần đã rõ biết.
Ức kiếp tu hành chẳng thể suy
Cầu tìm biên-tế chẳng thể biết
Diễn pháp thật tướng khiến vui mừng
Vô-Tận-Quang-Thần quan-sát thấy.
Mười phương chỗ có vô-lượng chúng
Ðại-chúng hiện-tiền chiêm-ngưỡng Phật
Quang-minh tịch-tịnh chiếu thế-gian
Chủng-Chủng-Diệm-Nhãn hay rõ thấu.
Như-Lai xuất hiện khắp thế-gian
Ngồi trong tất cả cung-điện báu
Tuyên thuyết đại pháp rộng vô-biên
Thập-Phương-Cung-Thần môn giải-thoát.
Chư Phật trí-huệ rất rộng sâu
Thế-gian tự-tại đều khắp hiện
Thuyết minh rành rẽ chơn thật lý
Oai-Quang-Tự-Tại ngộ môn này.
Kiến-chấp ngu-si bị che tối
Chúng-sanh mê lầm thường lưu chuyển
Vì họ Phật dạy diệu-pháp môn
Quang-Chiếu-Phương-Thần hay ngộ nhập.
Chí nguyện rộng lớn bất-tư-nghì
Thập-lực lục-độ đã thanh-tịnh
Theo bổn-nguyện xưa hiện ra đời
Lôi-Âm-Ðiển-Quang rõ biết được.
Phổ-Hưng-Vân-Tràng Chủ-Thủy-Thần được giải-thoát-môn từ-tâm bình-đẳng lợi-ích tất cả chúng-sanh.
Hải-Triều-Vân-Âm Thần được giải-thoát-môn vô-biên pháp trang nghiêm.
Diệu-Sắc-Luân-Kế Thần được giải-thoát-môn quan-sát chúng-sanh đáng giáo hóa dùng phương tiện nhiếp thọ.
Thiện-Xảo-Triền-Phục Thần được giải-thoát-môn khắp diễn bày cảnh-giới thậm-thâm của chư Phật.
Ly-Cấu-Hương-Tích Thần được giải-thoát-môn khắp hiện đại-quang-minh thanh-tịnh.
Phước-Kiều-Quang-Âm Thần được giải-thoát-môn thanh-tịnh pháp-giới vô-tướng vô-tánh.
Tri-Túc-Tự-Tại Thần được giải-thoát-môn biển đại-bi vô-tận.
Tịnh-Hỷ-Thiện-Âm Thần được giải-thoát-môn đại hoan-hỷ trong đạo-tràng chúng hội Bồ-Tát.
Phổ-Hiện-Oai-Quang Thần được giải-thoát-môn dùng sức đại phước-đức vô-ngại khắp xuất hiện.
Hống-Thinh-Biến-Hải Thần được giải-thoát-môn quan-sát tất cả chúng-sanh phát-khởi phương-tiện điều-phục như hư-không.
Lúc đó Phổ-Hưng-Vân-Tràng Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Thủy Thần rồi nói kệ rằng :
Thanh-Tịnh từ-bi sát-trần số
Cộng sanh một tướng của Như-Lai
Mỗi mỗi tướng hảo đều như vậy
Do đây nhìn Phật không nhàm đủ.
Thế-Tôn thuở xưa lúc tu hành
Khắp đến chỗ ngự tất cả Phật
Công hạnh tu hành không nhàm mỏi
Phương-tiện như đây Vân-Âm biết.
Phật trong tất cả mười phương cõi
Vắng lặng bất-động không lai khứ
Ðều khiến chúng-sanh thấy thân Phật
Diệu-Sắc-Luân-Kế hay ngộ nhập.
Như-Lai cảnh-giới vô-biên lượng
Tất cả chúng-sanh chẳng biết được
Diệu-Âm diễn-thuyết khắp mười phương
Thiện-Xảo-Triền-Phục tu tập được.
Thế-Tôn quang-minh vô-cùng-tận
Chiếu khắp pháp-giới bất-tư-nghị
Thuyết pháp giáo-hóa độ chúng-sanh
Ly-Cấu-Hương-Tích quan-sát thấy.
Như-Lai thanh-tịnh đồng hư-không
Vô-tướng vô-hình mười phương khắp
Tất cả chúng-hội đều được thấy
Phước-Quang-Âm Thần khéo quan-sát.
Phật xưa tu tập môn đại-bi
Tâm Phật rộng khắp đồng chúng-sanh
Dường như mây lớn hiện thế-gian
Môn giải-thoát này Tri-Túc biết.
Tất cả thập-phương các quốc-độ
Ðều thấy Như-Lai ngự pháp tòa
Khai ngộ rành rẽ đại bồ-đề
Tịnh-Hỷ-Thiện-Âm được chứng nhập.
Chư Phật chỗ làm không chướng ngại
Qua khắp mười phương tất cả cõi
Các nơi thị-hiện đại thần-thông
Phổ-Hiện-Oai-Quang đã ngộ được.
Tu-tập vô-biên hạnh phương-tiện
Khắp cõi chúng-sanh đều đầy đủ
Thần-thông diệu-dụng chẳng tạm dừng
Hống-Thinh-Biến-Hải chứng nhập được.
Xuất-Hiện-Bửu-Quang-Chủ-Hải Thần được giải-thoát-môn dùng thân châu báu trang-nghiêm tâm bình-đẳng bố-thí phước-đức cho tất cả chúng-sanh.
Bất-Khả-Hoại-Kim-Cang Tràng-Thần được giải-thoát-môn phương-tiện khéo giữ-gìn thiện-căn của tất cả chúng-sanh.
Bất-Tạp-Ly-Cấu Thần được giải-thoát-môn có thể làm cạn biển phiền-não của tất cả chúng-sanh.
Hằng-Trụ-Ba-Lãng Thần được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh lìa ác-đạo.
Cát-Tường-Bửu-Nguyệt Thần được giải-thoát-môn khắp dứt trừ đại si-ám.
Diệu-Hoa-Long-Kế Thần được giải-thoát-môn dứt trừ tất cả sự khổ của các loài ma mà ban cho sự an-lạc.
Phổ-Trì-Quang-Vị Thần được giải-thoát-môn chữa sạch kiến-chấp ngu-si của tất cả chúng-sanh.
Bửu-Diệm-Hoa-Quang Thần được giải-thoát-môn xuất-sanh tất cả bửu chủng-tánh bồ-đề tâm.
Kim-Cang-Diệu-Kế Thần được giải-thoát-môn biển công-đức tâm bất động.
Hải-Triều-Lôi-Âm Thần được giải-thoát-môn vào khắp môn pháp-giới tam-muội.
Lúc đó, Xuất-Hiện Bửu-Quang Thần thừa oai lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Hải Thần rồi nói kệ rằng :
Bất-khả-tư-nghì biển đại-kiếp
Cúng dường tất cả mười phương Phật
Khắp đem công-đức thí quần-sanh
Do đây đoan nghiêm không ai sánh.
Tất cả thế-gian đều xuất-hiện
Chúng-sanh căn dục đều biết rõ
Vì họ hoằng tuyên biển pháp-môn
Bất-Hoại-Kim-Tràng vui được ngộ.
Phật là đạo-sư của thế-gian
Pháp-vân pháp-vũ chẳng lường được
Tiêu cạn biển khổ vốn vô-cùng
Bất-Tạp-Trần-Cấu môn ngộ nhập.
Phiền-não che đậy các chúng-sanh
Lưu-chuyển các loài chịu khổ não
Vì họ khai-thị cảnh Như-Lai
Hằng-Trụ-Ba-Thần đã chứng được.
Phật trong nhiều kiếp khó nghĩ bàn
Tu hành công-hạnh vô cùng tận
Dứt hẳn lưới nghi của chúng-sanh
Cát-Tường-Bửu-Nguyệt đã được biết.
Phật thấy chúng-sanh thường khủng bố
Lưu-chuyển trong biển sanh-tử lớn
Khai đạo vô-thượng của Như-Lai
Diệu-Hoa Long-Kế đã hiểu được.
Chư Phật cảnh-giới bất-tư-nghì
Pháp-giới hư-không tướng bình-đẳng
Trừ sạch lưới nghi của chúng-sanh
Trì-Quang-Vị-Thần hay tuyên thuyết.
Phật-nhãn thanh-tịnh bất-tư-nghì
Tất cả cảnh-giới đều gồm thấy
Ðem đạo vi-diệu dạy chúng-sanh
Bửu-Diệm-Hoa-Quang tâm tỏ ngộ.
Ma quân rộng lớn số vô-lượng
Trong một sát-na đều trừ diệt
Tâm không lay động khó nghĩ lường
Kim-Cang-Diệu-Kế được phương-tiện.
Khắp mười phương cõi diễn diệu-âm
Mười phương pháp-giới đều cùng khắp
Cảnh-giới tam-muội của Như-Lai
Hải-Triều-Âm Thần được rõ biết.
Phổ-Phát-Tấn-Lưu Chủ-Hà-Thần được giải-thoát-môn khắp mưa vô biên pháp-vũ.
Phổ-Khiết-Tuyền-Giản Thần được giải-thoát-môn khắp hiện trước tất cả chúng-sanh khiến lìa hẳn phiền-não.
Ly-Trần-Tịnh-Nhãn Thần được giải-thoát-môn dùng phương-tiện đại-bi khắp rửa sạch phiền-não trần cấu của tất cả chúng-sanh.
Thập-Phương-Biến-Hống Thần được giải-thoát-môn hằng ra tiếng lợi-ích chúng-sanh.
Phổ-Cứu-Hộ-Chúng-Sanh Thần được giải-thoát-môn thường sanh lòng từ không não hại đối với tất cả hàm-thức.
Vô-Nhiệt-Tịnh-Quang Thần được giải-thoát-môn khắp thị-hiện tất cả căn lành mát-mẻ.
Phổ-Sanh-Hoan-Hỷ Thần được giải-thoát-môn tu hành đầy đủ bố-thí khiến tất cả chúng-sanh lìa hẳn bỏn-sẻn.
Quảng-Ðức-Thắng-Tràng Thần được giải-thoát-môn làm tất cả phước-điền hoan-hỷ.
Quang-Chiếu-Phổ-Thế Thần được giải-thoát-môn hay khiến tất cả chúng-sanh người tạp nhiễm được thanh-tịnh, kẻ sân-độc được hoan-hỷ.
Hải-Ðức-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn hay khiến tất cả chúng-sanh vào biển giải-thoát thường hưởng vui đầy đủ.
Lúc đó Phổ-Phát-Tấn-Lưu Thần thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Hà-Thần rồi nói kệ rằng :
Như-Lai thuở trước vì chúng-sanh
Tu tập pháp-hải vô biên hạnh
Dường như mưa rưới tan nóng nực
Dứt hết phiền não của chúng-sanh.
Phật xưa nhiều kiếp bất-tư-nghì
Quang-Minh đại-nguyện sạch thế-gian
Căn-tánh thuần-thục khiến ngộ đạo
Phổ-Khiết-Tuyền Thần tâm được ngộ.
Ðại-bi phương-tiện khắp chúng-sanh
Ðều hiện trước họ thường giáo hóa
Khiến họ dứt sạch phiền não nhơ
Tịnh-Nhãn thấy đây rất vui đẹp.
Phật diễn diệu-âm đều khiến nghe
Chúng-sanh ưa thích lòng hoan-hỷ
Ðều khiến trừ sạch vô-lượng khổ
Biến-Hống Thần đây được giải-thoát.
Phật xưa tu-tập hạnh bồ-đề
Vì lợi chúng-sanh vô-lượng kiếp
Do đó quang-minh khắp thế-gian
Phổ-Cứu-Hộ-Thần nhớ biết rõ.
Phật xưa tu-hành vì chúng-sanh
Phương tiện giáo hóa khiến thành thục
Biển phước thanh-tịnh trừ khổ phiền
Vô-Nhiệt-Quang-Thần đã được thấy.
Bố-thí rất rộng lớn vô-cùng
Tất cả chúng-sanh đều lợi ích
Hay khiến người thấy hết xan tham
Phổ-Hoan-Hỷ-Thần được tỏ ngộ.
Phật xưa tu-hành thật phương tiện
Thành tựu vô-biên biển công-đức
Người thấy được Phật đều mừng rỡ
Ðức-Thắng-Tràng-Thần lòng vui thích.
Chúng-sanh phiền não đều trừ sạch
Từ tâm bình đẳng với oán thù
Nên được quang-minh chiếu khắp nơi
Phổ-Chiếu-Thế Thần được thấy rõ.
Phật là biển phước-điền công-đức
Hay khiến chúng-sanh lìa điều-ác
Nhẫn đến thành-tựu đại bồ-đề
Hải-Ðức-Minh-Thần được giải-thoát.
Nhu-Nhuyến-Thắng-Vị-Chủ-Giá Thần được giải-thoát-môn đem pháp-vị cho chúng-sanh khiến thành-tựu thân Phật.
Thời-Hoa-Tịnh-Quang Thần được giải-thoát-môn hay khiến tất cả chúng-sanh được sự vui mừng rộng lớn.
Sắc-Lực-Dũng-Kiện Thần được giải-thoát-môn dùng tất cả pháp môn viên mãn làm cho các cảnh-giới đều thanh-tịnh.
Tăng-Ích-Tinh-Khí Thần được giải-thoát-môn thấy đại-bi vô-lượng thần-thông biến hóa của Phật.
Phổ-Sanh-Căn-Quả Thần được giải-thoát-môn khắp hiện Phật phước-điền khiến gieo giống không hư mất.
Diệu-Nghiêm-Hoàn-Kế Thần được giải-thoát-môn khắp phát hoa tịnh-tín của chúng-sanh.
Nhuận-Trạch-Tịnh-Hoa Thần được giải-thoát-môn đại-từ cứu-tế chúng-sanh khiến thêm lớn biển phước-đức.
Thành-Tựu-Diệu-Hương Thần được giải-thoát-môn rộng khai thị tất cả hành pháp.
Kiến-Giả-Ái-Nhạo Thần được giải-thoát-môn hay khiến pháp-giới chúng-sanh xa lìa những điều ác giải-đãi ưu-não đều được thanh-tịnh.
Ly-Cấu-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn quan-sát thiện căn của tất cả chúng-sanh tùy thuận thuyết pháp khiến chúng hội được vui mừng đầy đủ.
Lúc đó Nhu-Nhuyến-Thắng-Vị Thần thừa oai lực của Phật quan-sát khắp hết tất cả chúng Chủ-Giá-Thần rồi nói kệ rằng :
Như-Lai Vô-thượng biển công-đức
Khắp hiện đèn sáng chiếu thế-gian
Tất cả chúng-sanh đều cứu độ
Ban cho an lạc chẳng sót thừa.
Thế-Tôn công-đức vô-lượng biên
Chúng-sanh được nghe chẳng luống bỏ
Ðều khiến lìa khổ thường vui mừng
Thời-Hoa-Quang-Thần được chứng nhập.
Như-Lai trí lực đều viên mãn
Công-đức trang-nghiêm hiện thế-gian
Ðiều phục tất cả loài chúng-sanh
Pháp này Dũng-Kiện được chứng rõ.
Phật xưa tu tập biển đại-bi
Tâm Phật niệm niệm khắp thế-gian
Thần-thông của Phật thật vô-biên
Tăng-Tinh-Khí Thần quan-sát thấy.
Phật khắp thế-gian thường hiện tiền
Tất cả phương tiện không luống bỏ
Chúng-sanh phiền-não đều sạch trừ
Sanh-Căn-Quả Thần được giải-thoát.
Phật là biển trí của thế-gian
Phóng tịnh Quang-minh đều cùng khắp
Tin hiểu rộng lớn từ đây sanh
Diệu-Nghiêm-Kế Thần được ngộ nhập.
Phật quán thế-gian khởi từ tâm
Vì lợi chúng-sanh mà xuất hiện
Khai thị thắng đạo rất vui lành
Nhuận-Tinh-Hoa Thần môn giải-thoát.
Thiện-Thệ tu-hành hạnh thanh-tịnh
Dưới cội bồ-đề tuyên thuyết đủ
Giáo hóa như vậy khắp mười phương
Thành-Diệu-Hương Thần lãnh hội được.
Phật nơi tất cả các thế-gian
Khiến lìa ưu-não sanh đại-hỷ
Bao nhiêu căn dục khiến sạch trừ
Kiến-Ái-Nhạo Thần được ngộ nhập.
Như-Lai xuất hiện nơi thế-gian
Quan-sát chúng-sanh lòng ưa thích
Các môn phương-tiện khiến thành thục
Ly-Cấu-Quang-Thần môn giải-thoát.
Kiết-Tường-Chủ-Dược Thần được giải-thoát-môn quan-sát khắp tâm của tất cả chúng-sanh mà siêng năng nhiếp thủ.
Chiên-Ðàn-Lâm Thần được giải-thoát-môn dùng quang-minh nhiếp thủ chúng-sanh khiến họ được lợi-ích.
Ly-Trần-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn dùng phương tiện thanh-tịnh dứt trừ phiền não của tất cả chúng-sanh.
Danh-Xưng-Phổ-Văn Thần được giải-thoát-môn hay dùng đại danh xưng thêm lớn vô biên thiện căn.
Mao-Khổng-Hiện-Quang Thần được giải-thoát-môn đại-bi tràng mau đến tất cả cảnh-giới bịnh tật.
Phá-Ám-Thanh-Tịnh Thần được giải-thoát-môn chữa trị tất cả chúng-sanh mù lòa khiến được trí nhãn thanh-tịnh.
Phổ-Phát-Hống-Thinh Thần được giải-thoát-môn hay diễn Phật-Âm giảng nghĩa sai biệt của các pháp.
Tế-Nhựt-Quang-Tràng Thần được giải-thoát-môn hay làm thiện-tri-thức khiến chúng-sanh đều phát thiện căn.
Minh-Kiến-Thập-Phương Thần được giải-thoát-môn tạng đại-bi thanh-tịnh hay dùng phương-tiện khiến chúng-sanh tín-giải.
Phổ-Phát-Oai-Quang Thần được giải-thoát-môn phương-tiện khiến niệm Phật dứt trừ bịnh của tất cả chúng-sanh.
Lúc đó Kiết-Tường-Thần, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Dược Thần rồi nói kệ rằng :
Như-Lai trí-tuệ bất-tư-nghì
Chúng-sanh tâm niệm đều rõ biết
Hay dùng vô-lượng phương-tiện môn
Dứt trừ chúng-sanh vô-lượng khổ.
Ðại-Hùng thiện-xảo khó nghĩ lường
Hành động thi-vi không luốn uổng
Tất khiến chúng-sanh khổ dứt trừ
Chiên-Ðàn-Lâm-Thần đã ngộ được.
Ông xem chư Phật pháp dường ấy
Thuở xưa siêng tu vô-lượng kiếp
Ðối với các cõi không chấp tham
Ly-Trần-Quang Thần được chứng nhập.
Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp Phật
Ai được thấy Phật và nghe danh
Tất được lợi ích không luống qua
Danh-Xưng-Phổ-Văn đã biết rõ.
Trong mỗi chưn lông của Như-Lai
Ðều phóng quang-minh dứt các khổ
Thế-gian phiền-não đều dứt trừ
Mao-Khổng-Quang-Thần môn ngộ nhập.
Chúng-sanh ngu-si bị mù lòa
Nghiệp hoặc khổ não nhiều vô-lượng
Phật đều dứt trừ khai trí-huệ
Phá-Ám-Tịnh-Thần quan-sát thấy.
Như-Lai nhứt âm vô-hạn-lượng
Khai diễn tất cả biển pháp-môn
Chúng-sanh được nghe đều biết rành
Phát-Hống-Thinh Thần được giải-thoát.
Ông xem Phật-trí khó nghĩ bàn
Hiện vào các loài để cứu độ
Hay khiến người thấy đều thuận theo
Tế-Nhựt-Tràng Thần rõ biết được.
Như-Lai phương tiện biển đại-bi
Vì cứu chúng-sanh mà xuất hiện
Rộng khai chánh-đạo dạy chúng-sanh
Kiến-Thập-Phương Thần đã rõ thấu.
Như-Lai khắp phóng đại quang-minh
Tất cả mười phương đều chiếu đến
Chúng-sanh niệm Phật sanh công-đức
Phổ-Phát-Quang-Thần môn giải-thoát.
Bố-Hoa-Như-Vân Chủ-Lâm-Thần được giải-thoát-môn biển trí rộng lớn vô-biên.
Trạc-Cán-Thơ-Quang Thần được giải-thoát-môn sửa sang rộng lớn khắp thanh-tịnh.
Sanh-Nha-Phát-Diệu Thần được giải-thoát-môn tăng trưởng các thứ mầm tịnh-tín.
Kiết-Tường-Tịnh-Diệp Thần được trang-nghiêm tất cả công-đức thanh-tịnh.
Thùy-Bố-Diệm-Tạng Thần được giải-thoát-môn trí-huệ phổ-môn thanh-tịnh thường xem khắp pháp-giới.
Diệu-Trang-Nghiêm-Quang-Thần được giải-thoát-môn biết khắp công-hạnh của tất cả chúng-sanh mà bủa giăng mây pháp.
Khả-Ái-Lôi-Thinh Thần được giải-thoát-môn nhẫn thọ tất cả tiếng trái ý mà diễn thuyết âm thinh thanh-tịnh.
Hương-Quang-Phổ-Biến Thần được giải-thoát-môn hiện khắp mười phương những cảnh-giới rộng lớn đã làm từ thuở xưa.
Diệu-Quang-Hoánh-Diệu Thần được giải-thoát-môn dùng tất cả công-đức nhiêu-ích thế-gian.
Hoa-Quả-Quang-Vị Thần được giải-thoát-môn hay khiến tất cả chúng-sanh thấy Phật ra đời thường kính nhớ chẳng quên trang-nghiêm tạng công-đức.
Lúc đó Hoa-Bố-Như-Vân Thần, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Lâm-Thần rồi nói kệ rằng :
Phật xưa tu tập hạnh bồ-đề
Phước đức trí-huệ đều viên-mãn
Tất cả trí-lực trọn đủ đầy
Phóng đại quang-minh mà xuất thế.
Ðại-bi vô-lượng khắp chúng-sanh
Như-Lai thuở xưa tu thanh-tịnh
Nên nay hay làm lợi thế-gian
Trạc-Thơ-Quang Thần biết rõ được.
Nếu người thấy Phật được một lần
Tất được thắng vào biển thâm-tín
Khai-thị tất cả đạo Như-Lai
Sanh-Nha-Diệu Thần môn-giải-thoát.
Chưn lông chứa nhóm các công-đức
Ức kiếp tuyên dương chẳng thể hết
Chư Phật phương tiện khó nghĩ bàn
Cát-Tường-Diệp Thần hay hiểu rõ.
Tôi nhớ Như-Lai thuở xa xưa
Cúng-dường sát trần vô-lượng Phật
Trí-huệ lần lần thêm sáng suốt
Bố-Diệm-Tạng-Thần rõ biết được.
Tất cả chúng-sanh nhiều công-hạnh
Thế-Tôn một niệm đều rõ biết
Trí-huệ vô-ngại rộng vô-biên
Diệu-Nghiêm-Quang-Thần hay ngộ nhập.
Hằng diễn Như-Lai tịch-Diệu-âm
Khắp sanh vô-lượng đại hoan hỷ
Tùy theo căn tánh đều được ngộ
Lôi-Âm-Thần đây đã làm được.
Như-Lai thị hiện đại thần-thông
Mười phương quốc-độ đều cùng khắp
Phật xưa tu-hành khiến được thấy
Phổ-Hương-Quang-Thần được chứng nhập.
Chúng-sanh gian ác chẳng biết tu
Mê hoặc trầm luân trong sanh tử
Vì họ mở bày đường trí-huệ
Diệu-Quang-Lâm-Thần đã được thấy.
Phật vì nghiệp-chướng các chúng-sanh
Qua vô-lượng kiếp mới xuất hiện
Người khác niệm niệm thường khiến thấy
Hoa-Quả-Vị-Thần quan-sát được.
Bửu-Phong-Khai-Hoa Chủ-Sơn Thần được giải-thoát-môn nhập đại tịch-định quang-minh.
Hoa-Lâm-Diệu-Kế Thần được giải-thoát-môn tu tập từ-thiện-căn thành-thục bất-khả tư-nghì số chúng-sanh.
Cao-Tràng-Phổ-Chiếu Thần được giải-thoát-môn quan-sát tất cả tâm ưa thích của chúng-sanh làm nghiêm-tịnh các căn.
Ly-Trần-Bửu-Kế Thần được giải-thoát-môn vô-biên kiếp tinh tấn không nhàm trễ.
Quang-Chiếu-Thập-Phương Thần được giải-thoát-môn dùng vô-biên công-đức quang khắp giác ngộ.
Ðại-Lực-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn hay tự thành-thục lại khiến chúng-sanh xa lìa ngu-mê.
Oai-Quang-Phổ-Thắng Thần được giải-thoát-môn trừ tất cả khổ khiến không còn thừa.
Vi-Mật-Quang-Luân Thần được giải-thoát-môn diễn giáo-pháp quang-minh hiển bầy tất cả công-đức của Như-Lai.
Phổ-Nhãn-Hiện-Kiến Thần được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh, nhẫn đến trong chiêm-bao, đều thêm lớn thiện-căn.
Kim-Cang-Kiên-Cố-Nhãn Thần được giải-thoát-môn xuất hiện vô-biên đại-nghĩa.
Lúc đó Bửu-Phong-Khai-Hoa Thần, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Sơn-Thần rồi nói kệ rằng :
Xưa tự-tại thắng-hạnh rộng vô-biên
Nay được thần-thông cũng vô-lượng
Rộng mở pháp-môn nhiều vô số
Ðều khiến chúng-sanh được tỏ ngộ.
Tướng-hảo nghiêm thân khắp thế-gian
Ánh sáng chưn lông đều thanh-tịnh
Ðại-từ phương tiện bày tất cả
Diệu-Kế-Sơn Thần ngộ môn này.
Phật thân hiện khắp vô-biên cõi
Thập phương thế-giới đều đủ cả
Tướng-hảo nghiêm tịnh người vui mừng
Phổ-Chiếu-Sơn Thần được ngộ nhập.
Nhiều kiếp siêng tu không lười mỏi
Chẳng nhiễm thế-pháp như hư-không
Các môn phương tiện độ chúng-sanh
Môn này Bửu-Kế Thần được ngộ.
Chúng-sanh tối tâm vào đường hiểm
Phật xót thương họ phóng quang chiếu
Khiến khắp thế-gian tỉnh giấc mơ
Quang-chiếu vui mừng tâm được ngộ.
Xưa ở các cõi rộng tu hành
Cúng dường thập phương vô-số Phật
Chúng-sanh được thấy phát nguyện to
Ðại-Lực-Sơn Thần đã thấy rõ.
Thấy các chúng-sanh lưu chuyển khổ
Tất cả nghiệp-chướng luôn ràng buộc
Dùng trí-huệ quang đều dứt trừ
Phổ-Thắng-Sơn Thần được giải-thoát.
Mỗi mỗi chưn lông vang tiếng diệu
Tùy chúng-sanh tâm ca ngợi Phật
Khắp cả mười phương vô-lượng kiếp
Quang-Luân-Sơn Thần chứng môn này.
Khắp cả mười phương Phật hiện tiền
Các môn phương tiện thuyết diệu-pháp
Lợi ích chúng-sanh nhiều công-hạnh
Hiện-Kiến-Sơn Thần được tỏ ngộ.
Pháp-môn vô-lượng dường biển cả
Nhứt-âm diễn thuyết người đều hiểu
Cả kiếp diễn bày vẫn chẳng cùng
Môn phương tiện này Kim-Cang được.
Phổ-Ðức-Tịnh-Hoa-Chủ-Ðịa Thần được giải-thoát-môn dùng tâm từ-bi niệm niệm quan-sát khắp tất cả chúng-sanh.
Kiên-Phước-Trang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn hiện khắp năng lực phước đức của tất cả chúng-sanh.
Diệu-Hoa-Nghiêm-Thọ Thần được giải-thoát-môn vào khắp các pháp xuất sanh tất cả cõi Phật trang nghiêm.
Phổ-Tán-Chúng-Bửu Thần được giải-thoát-môn tu tập các môn tam-muội khiến các chúng-sanh trừ chướng cấu.
Tịnh-Mục-Quán-Thời Thần được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh thường du hí khoái lạc.
Kim-Sắc-Diệu-Nhãn Thần được giải-thoát-môn thị hiện tất cả thân thanh-tịnh điều phục chúng-sanh.
Hương-Mao-Phát-Quang Thần được giải-thoát-môn rõ biết biển công-đức đại-oai-lực của tất cả Phật.
Tịch-Âm-Duyệt-Ý Thần được giải-thoát-môn nhiếp trì khắp biển âm-thinh của tất cả chúng-sanh.
Diệu-Hoa-Triền-Kế Thần được giải-thoát-môn đầy đủ tánh ly-cấu.
Kim-Cang-Phổ-Trì Thần được giải-thoát-môn khắp xuất hiện tất cả pháp-luân của Phật nhiếp trì.
Lúc đó Phổ-Ðức-Tịnh-Hoa Thần thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Ðịa Thần rồi nói kệ rằng :
Như-Lai thuở xưa trong mỗi niệm
Môn đại-từ-bi bất-khả-thuyết
Tu hành như vậy không thôi ngừng
Nên được bền chắc thân bất hoại.
Tam thế chúng-sanh và Bồ-Tát
Tất cả phước đức đã tạo được
Ðều hiện chưn lông của Như-Lai
Phước-Nghiêm-Ðịa-Thần đã được thấy.
Tam-muội tịch-tịnh rất rộng lớn
Bất sanh bất diệt không lai khứ
Nghiêm tịnh quốc-độ dạy chúng-sanh
Diệu-Hoa-Ðịa-Thần được giải-thoát.
Phật thuở xa xưa tu các hạnh
Vì khiến chúng-sanh tiêu chướng nặng
Phổ-Tán-Chúng-Bửu-Chủ-Ðịa Thần
Thấy giải-thoát này lòng mừng rỡ.
Như-Lai cảnh-giới không ngằn mé
Thế-gian niệm niệm đều hiện khắp
Tịnh-Mục-Quán-Thời Chủ-Ðịa-Thần
Thấy công-hạnh Phật lòng vui đẹp.
Diệu-Âm vô-hạn bất-tư-nghì
Khắp vì chúng-sanh trừ phiền-não
Thấy Phật công-đức rộng vô-biên
Kim-Sắc-Nhãn Thần hay tỏ ngộ.
Tất cả sắc hình đều hóa hiện
Mười phương pháp-giới đều đầy khắp
Như vậy hóa độ các chúng-sanh
Hương-Mao-Ðịa Thần thường thấy Phật.
Diệu-Âm cùng khắp cả mười phương
Trải vô-lượng kiếp thường diễn thuyết
Duyệt-Ý-Ðịa Thần được suốt thông
Theo Phật được nghe rất mừng kính.
Chưn lông thân Phật tuông mây thơm
Tùy chúng-sanh tâm khắp các cõi
Những ai được thấy thành căn lành
Diệu-Hoa-Kế Thần thường quan-sát.
Kiên cố khó hoại như Kim-Cang
Chẳng thể lay động hơn Tu-Di
Phật thân như vậy ở thế-gian
Phổ-Trì-Ðịa-Thần được thấy rõ.
Bửu-Phong-Quang-Diệu-Chủ-Thành Thần được giải-thoát-môn phương-tiện lợi-ích chúng-sanh.
Diệu-Nghiêm-Cung-Ðiện Thần được giải-thoát-môn biết căn tánh chúng-sanh giáo hóa thành thục.
Thanh-Tịnh-Hỷ-Bửu Thần được giải-thoát-môn thường vui mừng khiến tất cả chúng-sanh hưởng thọ phước-đức.
Ly-Ưu-Thanh-Tịnh Thần được giải-thoát-môn tạng đại-bi cứu những kẻ bố-úy.
Hoa-Ðăng-Diệm-Nhãn Thần được giải-thoát-môn đại trí-huệ khắp rõ suốt.
Diệm-Tràng-Minh-Hiện Thần được giải-thoát-môn phương-tiện khắp thị hiện.
Thạnh-Phước-Oai-Quang Thần được được giải-thoát-môn quan-sát khắp tất cả chúng-sanh khiến tu biển phước-đức rộng lớn.
Tịnh-Quang-Minh-Thân Thần được giải-thoát-môn khai ngộ tất cả chúng-sanh ngu ám.
Hương-Tràng-Trang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn quan-sát thần-lực tự-tại của Như-Lai khắp thế-gian điều-phục chúng-sanh.
Bửu-Phong-Quang-Mục Thần được giải-thoát-môn có thể dùng đại quang-minh phá núi chướng ngại của tất cả chúng-sanh.
Lúc đó Bửu-Phong-Quang-Diệu Thần, thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả chúng Chủ-Thành-Thần rồi nói kệ rằng :
Ðạo-Sư thần-lực bất-tư-nghì
quang-minh chiếu khắp mười phương cõi
chúng-sanh hiện-tiền thấy Như-Lai
Giáo-hóa thành-thục vô-lượng-số.
Chúng-sanh căn tánh đều sai khác
Phật rõ biết cả không dư sót
Diệu-Nghiêm-Cung-Ðiện-Chủ-Thành-Thần
Chứng được môn này lòng mừng rỡ.
Như-Lai vô-lượng kiếp tu hành
Hộ-trì chánh-pháp của chư Phật
Tâm thường thừa phụng sanh hoan-hỷ
Môn này Diệu-Bửu-Thần được ngộ.
Như-Lai từ xưa đã trừ được
Tất cả khủng bố của chúng-sanh
Luôn luôn với họ khởi từ-bi
Ly-Ưu-Thành Thần mừng được ngộ
Phật trí quảng-đại vô-hạn-biên
Ví như hư-không chẳng lường được
Hoa-Ðăng-Diệm-Nhãn-Chủ-Thành-Thần
Học được Như-Lai môn diệu-huệ.
Phật thân sắc tướng đồng chúng-sanh
Tùy họ ưa thích đều khiến thấy
Diệm-Tràng-Minh-Hiện-Chủ-Thành Thần
Học phương-tiện này lòng hoan-hỷ.
Như-Lai ngày trước tu phước-đức
Thanh-tịnh quảng-đại vô-biên tế
Thạnh-Phước-Oai-Quang-Chủ-Thành-Thần
Quán-Sát tỏ ngộ lòng vui thích.
Chúng-sanh ngu-mê trong các cõi
Như kẻ sanh manh trọn không thấy
Vì lợi ích họ Phật ra đời
Tịnh-Quang-Minh Thần được chứng nhập.
Như-Lai tự-tại rộng vô-biên
Như mây che khắp cùng thế-giới
Nhẫn đến hiện mộng khiến điều phục
Môn này Hương-Tràng quan-sát thấy.
Chúng-sanh si tối như mù lòa
Các thứ chướng cái theo ràng buộc
Phật quang chiếu suốt khiến mở ra
Quang-Mục-Thành Thần được chứng nhập.
Tịnh-Trang-Nghiêm-Tràng Ðạo-Tràng Thần được giải-thoát-môn đủ sức thệ nguyện xuất hiện cúng dường Phật rộng lớn trang-nghiêm.
Tu-Di-Bửu-Quang-Ðạo-Tràng Thần được giải-thoát-môn thành-tựu bồ-đề hạnh rộng lớn hiện ra trước tất cả chúng-sanh.
Lôi-Âm-Tràng-Tướng-Ðạo-Tràng Thần được giải-thoát-môn tùy tâm ưa thích của tất cả chúng-sanh khiến trong chiêm bao thấy Phật thuyết pháp.
Vũ-Hoa-Diệu-Nhãn Thần được giải-thoát-môn hay mưa tất cả đồ báu trang-nghiêm.
Thanh-Tịnh-Diệm-Hình Thần được giải-thoát-môn có thể hiện đạo tràng trang-nghiêm vi diệu rộng giáo-hóa chúng-sanh khiến thành-thục.
Hoa-Anh-Thùy-Kế Thần được giải-thoát-môn theo căn cơ thuyết pháp khiến sanh chánh niệm.
Vũ-Bửu-Trang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn hay dùng biện tài khắp mưa vô-biên pháp hoan hỷ.
Dũng-Mãnh-Hương-Nhãn Thần được giải-thoát-môn rộng khen ngợi công-đức của chư Phật.
Kim-Cang-Thể-Vân Thần được giải-thoát-môn thị hiện vô-biên sắc tướng trang-nghiêm đạo tràng.
Liên-Hoa-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn dưới cội bồ-đề yên lặng bất động mà đến khắp mười phương.
Diệu-Quang-Chiếu-Diệu Thần được giải-thoát-môn hiển thị những trí-lực của Như-Lai.
Lúc đó Tịnh-Trang-Nghiêm-Tràng Thần thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng Ðạo-Tràng Thần rồi nói kệ rằng :
Tôi nhớ Như-Lai thuở xa xưa
Trong vô-lượng kiếp tu công-hạnh
Chư Phật xuất thế đều cúng-dường
Ðược công-đức lớn dường hư-không.
Phật xưa bố-thí vô cùng tận
Vô-lượng cõi nước như vi trần
Tu-Di-Bửu-Quang-Ðạo-Tràng Thần
Nhớ đến Như-Lai lòng hớn-hở.
Như-Lai sắc tướng vốn vô cùng
Biến hóa rộng khắp tất cả cõi
Chúng-sanh mơ mộng thường thị hiện
Lôi-Âm-Tràng Thần quan-sát thấy.
Phật vô-lượng kiếp tu hạnh xả
Xả được khó xả trí như biển
Xả hạnh như vậy vì chúng-sanh
Diệu-Nhãn-Hoa Thần tỏ ngộ được.
Vô-biên sắc tướng như mây báu
Hiện bồ-đề tràng khắp thế-gian
Thanh-Tịnh-Diệm-Hình-Ðạo-Tràng Thần
Thấy Phật tự-tại sanh hoan-hỷ.
Chúng-sanh công-hạnh biển vô-biên
Như-Lai cùng khắp rưới mưa Pháp
Tùy căn tánh họ trừ nghi hoặc
Hoa-Anh-Tràng Thần đã được ngộ.
Vô-lượng pháp-môn nghĩa sai khác
Biện tài rộng lớn đều vào được
Vũ-Bửu-Nghiêm-Cụ-Ðạo-Tràng Thần
Nơi tâm niệm niệm thường như vậy.
Tất cả quốc độ bất-khả-thuyết
Dùng hết ngôn từ ca-ngợi Phật
Nên được danh dự công-đức to
Dũng-Mãnh-Nhãn Thần ghi nhớ được.
Các thứ sắc tướng nhiều vô-biên
Dưới cội bồ-đề đều khắp hiện
Kim-Thể-Vân Thần ngộ môn này
Hằng quán đạo-thọ sanh hoan-hỷ.
Biên tế mười phương bất khả đắc
Phật tọa đạo-tràng trí cũng vậy
Liên-Hoa-Quang-Minh Ðạo-Tràng Thần
Ðược giải-thoát này rất vui thích.
Ðạo-Tràng tất cả xuất diệu-âm
Ca ngợi Như-Lai trí thanh-tịnh
Cũng khen nhơn hạnh đã viên-thành
Diệu-Quang-Chiếu Thần nghe hiểu được.
Bửu-Ấn-Thủ-Túc-Hành Thần được giải-thoát-môn khắp rưới những châu báu sanh hoan-hỷ rộng lớn.
Liên-Hoa-Quang Thần được giải-thoát-môn thị hiện Phật-thân ngồi tất cả tòa liên hoa sáng đẹp khiến người thấy vui mừng.
Tối-Thắng-Hoa-Kế Thần được giải-thoát-môn trong mỗi tâm niệm kiến lập chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai.
Nhiếp-Chư-Thiện-Kiến Thần được giải-thoát-môn cất chân bước đi đều diều-phục vô-biên chúng-sanh.
Diệu-Bửu-Tinh-Tràng Thần được giải-thoát-môn trong mỗi niệm hóa hiện các thứ lưới liên-hoa chiếu sáng rưới những châu báu vang ra thinh-âm vi-diệu.
Nhạo-Thổ-Diệu-Âm Thần được giải-thoát-môn xuất sanh vô-biên hoan-hỷ.
Chiên-Ðàn-Thọ-Quang-Thần được giải-thoát-môn dùng hương-phong giác ngộ khắp tất cả chúng hội đạo-tràng.
Liên-Hoa-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn tất cả chưn lông phóng quang-minh diễn pháp-âm vi-diệu.
Vi-Diệu-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn nơi thân phóng ra các thứ lưới quang-minh chiếu sáng khắp nơi.
Tích-Tập-Diệu-Hoa Thần được giải-thoát-môn khai ngộ tất cả chúng-sanh khiến sanh nhiều thiện căn.
Lúc đó Bửu-Ấn-Thủ Thần, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng Túc-Hành Thần rồi nói kệ rằng :
Phật xưa tu hành vô-lượng kiếp
Cúng-dường tất cả mười phương Phật
Tâm thường vui đẹp chẳng mỏi nhàm
Tâm hoan hỷ rộng sâu như biển.
Niệm niệm thần-thông chẳng thể lường
Hóa hiện hoa sen hương thơm ngát
Phật ngồi tòa sen đi khắp nơi
Liên-Hoa-Quang Thần đều thấy rõ.
Chư Phật Như-Lai pháp như vậy
Chúng hội rộng lớn khắp mười phương
Thị-hiện thần-thông bất-tư-nghì
Tối-Thắng-Hoa Thần đều thấy biết.
Cõi nước mười phương tất cả chỗ
Nơi đó dở chưn hoặc hạ chưn
Ðều hay thành-tựu các chúng-sanh
Nhiếp-Thiện-Kiến Thần tâm được ngộ.
Như số chúng-sanh khắp hiện thân
Mỗi mỗi thân này khắp pháp-giới
Ðều phóng tịnh-quang rưới các báu
Diệu-Bảo-Tinh Thần được chứng nhập.
Như-Lai cảnh giới vô-biên-tế
Khắp rưới pháp-vũ đều cùng khắp
Chúng-hội thấy Phật sanh vui mừng
Thổ-Diệu-Âm Thần thấy biết được
Âm-thanh của Phật đồng hư-không
Tất cả âm-thinh đều ở trong
Ðiều-phục chúng-sanh đều cùng khắp
Chiên-Ðàn-Thọ Thần nghe hiểu được.
Tất cả chưn lông vang tiếng pháp
Diễn-thuyết hồng-danh tam thế Phật
Người nghe tiếng này đều vui mừng
Liên-Hoa-Quang Thần thấy như vậy.
Phật-thân biến hiện bất-tư-nghì
Mỗi bước hiện tướng dường như biển
Tùy tâm chúng-sanh khiến được thấy
Diệu-Quang-Minh Thần được giải-thoát.
Mười phương khắp hiện đại thần-thông
Tất cả chúng-sanh đều khai ngộ
Tập-Diệu-Hoa Thần nơi pháp này
Thấy biết trong lòng rất hoan-hỷ.
Tịnh-Hỷ-Cảnh-Giới Thân-Chúng Thần được giải-thoát-môn nhớ biển thệ nguyện thuở xưa của Phật.
Quang-Chiếu-Thập-Phương Thần được giải-thoát-môn quang-minh phổ chiếu vô-biên thế-giới.
Hải-Âm-Ðiều-Phục Thần được giải-thoát-môn đại-âm khắp giác-ngộ tất cả chúng-sanh khiến vui mừng điều-phục.
Tịnh-Hoa-Nghiêm-Kế Thần được giải-thoát-môn thân ở cùng khắp như hư-không.
Vô-Lượng-Oai-Nghi Thần được giải-thoát-môn thị-hiện cảnh giới chư Phật cho tất cả chúng-sanh.
Tối-Thắng-Quang-Nghiêm Thần được giải-thoát-môn khiến tất cả chúng-sanh đói thiếu được sắc lực đầy đủ.
Tịnh-Quang-Hương-Vân Thần được giải-thoát-môn trừ phiền-não cấu của tất cả chúng-sanh.
Thủ-Hộ-Nhiếp-Trì Thần được giải-thoát-môn chuyển nghiệp ma ngu si của tất cả chúng-sanh.
Phổ-Hiện-Nhiếp-Hóa Thần được giải-thoát-môn khắp ở nơi trong tất cả cung điện của thế-chủ hiển thị tướng trang nghiêm.
Bất-Ðộng-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn nhiếp khắp tất cả chúng-sanh đều khiến sanh thiện căn thanh-tịnh.
Lúc đó Tịnh-Hỷ-Cảnh-Giới Thần thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả Thân-Chúng Thần, rồi nói kệ rằng :
Tôi nhớ vi-trần kiếp về trước
Có Phật Diệu-Quang hiện xuất thế
Thế-Tôn nơi Ðức Như-Lai kia
Phát tâm cúng-dường tất cả Phật.
Như-Lai thân phóng đại quang-minh
Quang chiếu pháp-giới đều đầy khắp
Chúng-sanh gặp được tâm điều phục
Quang-Chiếu-Phương Thần đã được thấy.
Như-Lai tiếng tâm khắp các cõi
Ngôn-âm của Phật đều viên-mãn
Giác-ngộ quần sanh không sót thừa
Âm-Ðiều-Phục Thần lòng hớn hở.
Phật thân thanh-tịnh thường tịch-diệt
Khắp hiện nhiều thân vẫn vô tướng
Như vậy khắp ở nơi thế-gian
Tịnh-Hoa-Nghiêm Thần chứng nhập được.
Ðạo-Sư thần-lực bất-tư-nghì
Tùy tâm chúng-sanh đều khiến thấy
Hoặc ngồi hoặc đứng hoặc nằm đi
Vô-Lượng-Oai-Nghi được tỏ ngộ.
Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp Phật
Ra đời lợi ích sức tự-tại
Khiến chúng xa lìa khổ nghèo cùng
Thắng-Quang-Nghiêm Thần môn chứng nhập.
Trong mỗi tướng răng của Như-Lai
Phóng quang-minh thơm như mây phủ
Dứt trừ hoặc nghiệp của chúng-sanh
Tịnh-Quang-Hương-Vân quan-sát thấy.
Chúng-sanh nhiễm trước vì chướng nặng
Chạy theo đường ma thường lưu chuyển
Như-Lai khai thị giải-thoát môn
Thủ-Hộ-Nhiếp Thần ngộ nhập được.
Tôi xem Như-Lai sức tự-tại
Phóng đại quang-minh khắp pháp-giới
Ở tại vương cung hóa chúng-sanh
Phổ-Hiện-Hóa Thần được giải-thoát.
Chúng-sanh mê vọng đủ sự khổ
Phật ở trong đó thường cứu-hộ
Khiến dứt phiền não tâm vui mừng
Bất-Ðộng-Quang Thần đã thấy biết.
Diệu-Sắc-Na-La-Diên Chấp-Kim-Cang Thần được giải-thoát-môn thấy Như-Lai thị-hiện thân vô biên sắc tướng.
Nhựt-Luân-Tốc-Tật-Tràng Thần được giải-thoát-môn mỗi sợi lông nơi thân Phật như mặt nhựt hiện ra các thứ quang-minh.
Tu-Di-Hoa-Quang Thần được giải-thoát-môn hóa hiện vô-lượng thân đại thần biến.
Thanh-Tịnh-Vân-Âm Thần được giải-thoát-môn vô-thanh tùy theo mọi loài.
Diệu-Tý-Thiên-Chúa Thần được giải-thoát-môn hiện vì tất cả thế-chủ khai ngộ chúng-sanh.
Khả-Ái-Nhạo-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn khắp khai thị tất cả môn sai biệt trong Phật pháp.
Ðại-Thọ-Lôi-Âm Thần được giải-thoát-môn dùng đồ trang-nghiêm khả-ái nhiếp tất cả thọ-thần.
Sư-Tử-Vương-Quang-Minh Thần được giải-thoát-môn phước-đức trang-nghiêm rộng lớn của Như-Lai đều đầy đủ rõ ràng.
Mật-Diệm-Cát-Tường-Mục Thần được giải-thoát-môn quan-sát khắp tâm của chúng-sanh hiểm ác vì họ hiện thân oai-nghiêm.
Liên-Hoa-Ma-Ni-Kế Thần được giải-thoát-môn khắp rưới tất cả đồ trang-nghiêm như ý của Bồ-Tát.
Lúc đó Diệu-Sắc-Na-La-Diên Thần, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng Kim-Cang Thần, rồi nói kệ rằng :
Ông nên xem Pháp-Vương
Pháp-Vương pháp như vậy
Sắc tướng vô-lượng-biên
Thế-gian đều hiện khắp.
Mỗi lông nơi thân Phật
Lưới sáng bất-tư-nghì
Dường như vừng mặt trời
Khắp soi mười phương cõi.
Như-Lai sức thần thông
Pháp-giới đều cùng khắp
Trước tất cả chúng-sanh
Thị-hiện thân vô-tận.
Như-Lai thuyết pháp-âm
Mười phương đều được nghe
Tùy các loài chúng-sanh
Ðều khiến tâm đầy đủ.
Chúng thấy đấng Mâu-Ni
Ở trong cung-điện vua
Khắp vì các quần-sanh
Xiển-dương pháp rộng lớn.
Chỗ biển pháp xây vần
Tất cả nghĩa sai biệt
Các thứ môn phương-tiện
Diễn-thuyết không cùng tận.
Vô-biên phương-tiện lớn
Khắp ứng mười phương cõi
Gặp Phật tịnh quang-minh
Ðều thấy thân của Phật.
Cúng-dường lên chư Phật
Số vạn-ức vi-trần
Công-đức như hư-không
Tất cả đều chiêm ngưỡng.
Thần-thông-lực bình đẳng
Tất cả cõi đều hiện
An-tọa diệu-đạo-tràng
Khắp hiện trước quần-chúng.
Quang-minh chiếu thế-gian
Ánh sáng đều viên mãn.
Pháp-giới chiếu khắp cùng
Hiển bày công-hạnh Phật.
V.- ÐẠI-BỒ-TÁT GIẢI-THOÁT-MÔN.
Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát nhập bất-tư-nghì giải-thoát-môn phương-tiện hải, nhập Như-Lai công-đức hải, chính là những môn giải-thoát nghiêm-tịnh tất cả quốc-độ điều-phục chúng-sanh khiến họ được xuất ly rốt ráo, giải-thoát-môn khắp đến chỗ của tất cả Như-Lai tu tập đầy đủ công-đức, giải-thoát-môn an lập tất cả địa vị những đại-nguyện của Bồ-Tát, có giải-thoát-môn khắp hiện vô-số vô-lượng thân, giải-thoát-môn diễn thuyết bất-tư-nghì số danh-tự sai khác khắp tất cả quốc-độ, giải-thoát-môn trong tất cả vi-trần đều hiện vô-biên cảnh-giới thần-thông của chư Bồ-Tát, có giải-thoát-môn trong một niệm hiện những sự kiếp thành kiếp hoại trong ba đời, có giải-thoát-môn hiện tất cả Bồ-Tát đều nhập cảnh-giới của mình, có giải-thoát-môn hay dùng thần-thông-lực hóa hiện nhiều thân khắp vô-biên pháp-giới, có giải-thoát-môn hiển-thị những pháp môn thứ đệ tu hành vào nhứt thiết-trí rộng lớn của tất cả Bồ-Tát. Lúc đó Phổ-Hiền-Bồ-Tát ma-ha-tát dùng công-đức của mình, lại nương thừa oai-thần của Phật, quan-sát khắp tất tất cả chúng-hội rồi nói kệ rằng :
Như-Lai trang-nghiêm cõi rộng lớn
Ðồng với tất cả vi-trần số
Phật-tử thanh-tịnh đều khắp đầy
Mưa bất-tư-nghì pháp vi-diệu.
Như trong hội này thấy Phật ngồi
Tất cả vi-trần đều như vậy
Phật-thân không đến cũng không đi
Bao nhiêu quốc-độ đều hiện rõ.
Hiển bày Bồ-Tát chỗ tu hành
Vô-lượng quốc-độ các phương-tiện
Và nói chơn-lý bất-tư-nghì
Khiến các Phật-tử vào pháp-giới.
Xuất sanh Hóa-Phật số vi-trần
Khắp ứng quần-sanh lòng họ muốn
Thâm nhập pháp-giới môn phương-tiện
Rộng lớn vô-biên đều khai diễn.
Như-Lai danh hiệu đồng thế-gian
Mười phương quốc-độ đều đầy khắp
Tất cả phương-tiện không luống qua
Ðiều-phục chúng-sanh lìa cấu nhiễm.
Phật ở trong tất cả vi-trần
Thị-hiện vô-biên đại-thần-lực
Ðều ngồi Ðạo-Tràng hay diễn-thuyết
Như Phật thuở xưa bồ-đề-hạnh.
Tam thế vô-biên kiếp rộng lớn
Phật trong mỗi niệm đều thị hiện
Tất cả kiếp hoại và kiếp thành
Trí bất-tư-nghì đều biết rõ.
Chúng hội Phật-tử rộng vô hạn
Cùng nhau muốn lường cảnh-giới Phật
Pháp-môn của Phật vô-lượng-biên
Rõ biết được cả rất là khó.
Phật như hư-không vô-phân-biệt
Ðồng chơn-pháp-giới vô-sở-y
Hóa hiện đi khắp đến mọi nơi
Ðều ngồi đạo-tràng thành chánh-giác.
Phật dùng diệu-âm rộng tuyên dương
Tất cả các địa đều rành rõ
Hiện trước khắp mỗi mỗi chúng-sanh
Ðều ban pháp Như-Lai bình đẳng.
Tịnh-Ðức-Diệu-Quang Bồ-Tát ma-ha-tát được giải-thoát-môn qua khắp đạo-tràng trang-nghiêm của chúng-hội Bồ-Tát ở mười phương.
Phổ-Ðức-Tối-Thắng-Ðăng-Quang-Chiếu Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn trong một niệm hiện vô tận thân thành chánh-giác, giáo-hóa thành-thục bất-tư-nghì chúng-sanh.
Phổ-Quang-Sư-Tử-Tràng Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn tu-tập phước-đức trang-nghiêm của Bồ-Tát thành tựu tất cả Phật-độ.
Phổ-Bửu-Diệm-Diệu-Quang Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn quan-sát thần-thông cảnh-giới không mê lầm.
Phổ-Âm-Công-Ðức-Hải-Tràng Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn ở trong một chúng hội đạo-tràng thị hiện tất cả Phật độ trang-nghiêm.
Phổ-Trí-Quang-Chiếu-Như-Lai-Cảnh Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn theo Như-Lai quan-sát tạng pháp-giới quảng-đại thậm thâm.
Phổ-Giác-Duyệt-Ý-Thinh Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn gần gũi phụng thờ tất cả chư Phật.
Phổ-Thanh-Tịnh-Vô-Tận-Phước-Oai-Quang Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn xuất-sanh tất cả đà-la-ni thần-thông biến-hóa rộng lớn.
Phổ-Bửu-Kế-Hoa-Tràng Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn công-hạnh vào khắp tất cả thế-gian xuất-sanh vô-biên hạnh-môn của Bồ-Tát.
Phổ-Tướng-Tối-Thắng-Quang Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn có thể ở nơi trong pháp-giới vô tướng xuất hiện tất cả cảnh-giới của chư Phật.
Lúc đó Tịnh-Ðức-Diệu-Quang Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp biển giải-thoát-môn của tất cả Bồ-Tát rồi nói kệ rằng :
Tất cả mười phương những quốc-độ
Trong một sát-na đều nghiêm-tịnh
Dùng diệu-âm-thinh chuyển pháp-luân
Cùng khắp thế-gian không gì sánh.
Như-Lai cảnh-giới vô-biên-tế
Nhứt niệm pháp-giới đều đầy đủ
Trong mỗi vi-trần lập đạo-tràng
Ðều chứng bồ-đề hiện thần biến.
Thế-Tôn ngày trước tu các hạnh
Trải qua trăm ngàn vô-lượng kiếp
Tất cả Phật-độ đều trang-nghiêm
Vô-ngại như không thường xuất hiện.
Thần-thông của Phật không hạn lượng
Sung-mãn vô-biên tất cả kiếp
Giả-sử trải qua vô-lượng kiếp
Niệm niệm quan-sát không nhàm mỏi.
Nên quan-sát Phật cảnh thần-thông
Thập phương quốc-độ đều nghiêm tịnh
Tất cả nơi đây đều hiện tiền
Niệm niệm chẳng đồng vô-lượng thứ.
Xem Phật trăm ngàn vô-lượng kiếp
Chẳng hết một lông nơi thân Phật
Phương-tiện vô-ngại của Như-Lai
Phật quang chiếu khắp vô-lượng cõi.
Kiếp xưa Ðức Phật ở thế-gian
Kính thờ chư Phật vô-biên số
Do đây đại chúng như sông đổ
Ðều đến cúng-dường biển Thế-Tôn.
Như-Lai xuất hiện khắp mười phương
Trong mỗi vi-trần vô-lượng cõi
Vô-lượng cảnh-giới đều hiện ra
Ðều trụ vô-biên vô-tận-kiếp.
Phật trong nhiều kiếp vì chúng-sanh
Tu tập vô-biên đại-bi hạnh
Tùy thuận chúng-sanh vào thế-gian
Giáo hóa chúng hội khiến thanh-tịnh.
Phật trụ chơn-như pháp-giới tạng
Vô tướng vô hình không cấu nhiễm
Chúng-sanh xem thấy được Phật thân
Tất cả khổ nạn đều tiêu diệt.
Hải-Nguyệt-Quang-Ðại-Minh-Bồ-Tát ma-ha-tát được giải-thoát-môn phương tiện xuất-sanh các địa, các ba-la-mật giáo hóa chúng-sanh và nghiêm tịnh tất cả Phật độ.
Vân-Âm-Hải-Quang-Ly-Cấu-Tạng Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn trong mỗi niệm vào khắp pháp-giới các nơi sai khác.
Trí-Sanh-Bửu-Kế Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn trong vô-lượng kiếp hiện công-đức rộng lớn thanh-tịnh ra trước tất cả chúng-sanh.
Công-Ðức-Tự-Tại-Vương-Tịnh-Quang Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn thấy các thứ trang-nghiêm , lúc thập phương tất cả Bồ-Tát tối sơ đến đạo tràng.
Thiện-Dũng-Mãnh-Liên-Hoa-Kế Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn tùy thuận căn trí của chúng-sanh khắp hiển bày tất cả Phật-pháp.
Phổ-Trí-Vân-Nhựt-Tràng Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn thành tựu Phật-trí an trụ vĩnh viễn vô-lượng kiếp.
Ðại-Tinh-Tấn-Kim-Cang-Tế Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn công-lực vào khắp tất cả vô-biên pháp-ấn.
Hương-Diệm-Quang-Tràng Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn hiển bày tất cả Phật hiện tại, lúc bắt đầu tu hạnh Bồ-Tát nhẫn đến thành tựu đại trí-huệ.
Ðại-Minh-Ðức-Thâm-Mỹ-Âm Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn an-trụ biển đại nguyện của Phật Tỳ-Lô-Giá-Na.
Ðại-Phước-Quang-Trí-Sanh Ðại Bồ-Tát được giải-thoát-môn hiển bày cảnh-giới thậm-thâm khắp pháp-giới của Như-Lai.
Lúc đó Hải-Nguyệt-Quang Ðại-Minh Ðại Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp biển trang-nghiêm của tất cả chúng Bồ-Tát rồi nói kệ rằng :
Các ba-la-mật và các địa
Rộng lớn vô-biên đều viên mãn
Vô-lượng chúng-sanh điều phục hết
Tất cả Phật-độ đều nghiêm-tịnh
Như Phật giáo-hóa chúng-sanh giới
Mười phương quốc-độ đều sung mãn
Trong mỗi tâm niệm chuyển pháp-luân
Khắp ứng quần-sanh không bỏ sót.
Phật trong vô-lượng kiếp rộng lớn
Khắp hiện trước tất cả chúng-sanh
Như Phật thuở xưa rộng tu hành
Ðem dạy cho họ hạnh thanh-tịnh.
Tôi thấy mười phương không thừa sót
Cũng thấy chư Phật hiện thần-thông
Ðều ngồi đạo-tràng chứng bồ-đề
Chúng hội nghe pháp bao quanh Phật.
Quang-minh rộng lớn Phật pháp thân
Hiện ở thế-gian dùng phương-tiện
Khắp theo chúng-sanh lòng thích ưa
Xứng căn trí họ mà thuyết-pháp.
Chơn như bình đẳng thân vô-tướng
Pháp thân thanh-tịnh lìa cấu nhiễm
Trí-huệ tịch-tịnh thân vô-lượng
Ứng khắp mười phương mà thuyết-pháp.
Trí-lực của Phật đều thanh-tịnh
Trí-huệ vô-biên như hư-không
Vì chúng khai-thị không ẩn sót
Khiến khắp chúng-sanh đồng ngộ nhập.
Như Phật thuở xưa đã tu hành
Nhẫn đến thành-tựu nhứt-thiết-trí
Nay phóng quang-minh khắp pháp-giới
Trong đó hiện bày đều sáng rõ.
Phật dùng bổn nguyện hiện thần-thông
Chiếu khắp mười phương không chỗ sót
Như Phật thuở xưa đã tu hành
Trong lưới quang-minh đều diễn thuyết.
Thập phương cảnh-giới vô-cùng tận
Vô-đẳng vô-biên đều sai khác
Phật-lực vô-ngại phóng đại quang
Tất cả quốc-độ đều sáng rõ.
VI.- CHƯ BỒ-TÁT CÚNG-DƯỜNG TÁN THÁN.
Lúc bấy giờ tòa sư-tử của Như-Lai, những hoa báu đẹp, luân-đài, thềm bực và các cửa nẻo, mỗi mỗi đều xuất hiện Phật sát vi-trần số Ðại Bồ-Tát. Danh hiệu của các ngài là : Hải-Huệ-Tự-Tại-Thần-Thông-Vương Ðại Bồ-Tát , Lôi-Âm-Phổ-Chấn Ðại Bồ-Tát , Chúng-Bửu-Quang-Minh-Kế Ðại Bồ-Tát, Ðại-Trí-Nhựt-Dũng-Mãnh-Huệ Ðại Bồ-Tát, Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Bửu-Trí-Ấn Ðại Bồ-Tát, Bá-Mục-Liên-Hoa-Kế Ðại Bồ-Tát, Kim-Diệm-Viên-Mãn-Quang Ðại Bồ-Tát, Pháp-Giới-Phổ-Âm Ðại Bồ-Tát, Vân-Âm-Tịnh-Nguyệt Ðại Bồ-Tát, Thiện-Dũng-Mãnh-Quang-Minh-Tràng Ðại Bồ-Tát. Vi-Trần số đại Bồ-Tát như vậy làm bực thượng thủ đồng thời xuất hiện. Chư Bồ-Tát này đều sắm những thứ cúng-dường như mây : mây bửu-hoa như-ý, mây liên-hoa diệu-hương, mây bửu-quang, mây hương-diệm, mây quang-minh như-ý, mây nhạc-âm duyệt-ý, mây bửu-đăng quang, mây cây nhánh bông trái bằng châu báu, mây vô tận bửu như-ý quang-minh thanh-tịnh, mây tất cả đồ trang-nghiêm như-ý. Chư Bồ-Tát này đem những mây báu đẹp như vậy rưới khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng để cúng-dường, rồi đi nhiễu Phật vô-lượng trăm ngàn vòng. Sau đó chư Bồ-Tát này hóa hiện vô-lượng tòa sư-tử liên-hoa báu đẹp, rồi ngồi kiết-già trên ấy. Công-hạnh của chư Bồ-Tát này thanh-tịnh rộng lớn như biển, được trí-huệ lớn soi sáng pháp phổ-môn, tùy thuận chư Phật được công-hạnh vô-ngại, đầy đủ biệt tài, được bất-tư-nghì môn giải-thoát, trụ nơi bực phổ-môn của Như-Lai, Ðã được tất cả môn đà-la-ni, có thể dung thọ tất cả pháp, khéo trụ bậc trí-huệ tam-thế bình-đẳng, đã được hỷ-lạc rộng lớn rất sâu, rất khéo thanh-tịnh vô-biên phước-đức, quan-sát khắp hư-không pháp-giới chư Phật xuất thế ở mười phương quốc-độ đều siêng cần đến cúng-dường. Lúc đó Hải-Huệ Tự-Tại-Thần-Thông-Vương Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Chư Phật tỏ ngộ đều đã biết
Vô-ngại như không đều chiếu rõ
Sáng khắp mười phương vô-lượng cõi
Ở nơi chúng-hội rất nghiêm khiết.
Như-Lai công-đức chẳng thể lường
Thập phương pháp-giới đều sung mãn
Khắp ngồi dưới tất cả thọ-vương
Bực đại tự-tại đồng vân tập.
Phật có sức thần-thông như vậy
Một niệm hiện ra vô-lượng tướng
Như-Lai cảnh-giới thật vô-biên
Tùy môn giải-thoát hay xem thấy.
Như-Lai thuở xưa vô-lượng kiếp
Ở trong các cõi siêng tu hành
Các môn phương-tiện độ chúng-sanh
Khiến họ tuân hành các Phật-pháp.
Tỳ-Lô-Giá-Na đủ tướng hảo
Ngồi liên-hoa tạng sư-tử tòa
Tất cả chúng-hội đều thanh-tịnh
An-trụ vắng lặng đồng chiêm ngưỡng.
Ma-Ni-Bảo-Tạng phóng quang-minh
Khắp pháp vô-biên mây hương-diệm
Vô-lượng chuỗi đẹp đồng thòng rũ
Bảo-tọa như vậy Như-Lai ngồi.
Các thứ trang-nghiêm cửa cát-tường
Thường phóng đăng-quang mây bửu-diệm
Lửa sáng rộng lớn chiếu khắp nơi
Ðức Phật ngồi trên thêm nghiêm hảo.
Các thứ cửa sổ ma-ni-đẹp
Hoa-sen đẹp báu khắp trang-nghiêm
Thường vang tiếng diệu người nghe vui
Phật ngồi trên tòa minh hiển nhứt.
Luân-báu chở tòa hình bán nguyệt
Kim-Cang làm đài màu lửa sáng
Chư đại Bồ-Tát thường bao quanh
Phật ngồi giữa chúng sáng chói nhứt.
Các thứ biến hóa khắp mười phương
Diễn nói Như-Lai nguyện rộng lớn
Tất cả ảnh tượng đều hiện trong
Trên tòa như vậy Phật an-tọa.
Lúc đó Vân-Âm-Phổ-Chấn Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Ngày xưa Phật tu bồ-đề hạnh
Cúng-dường thập phương vô-lượng Phật
Như-Lai oai-lực thường hộ-trì
Trong tòa Như-Lai đều thấy rõ.
Như ý châu-Vương như lửa chói
Hoa đẹp trang-nghiêm tòa sư-tử
Các thứ trang-nghiêm đều ảnh hiện
Tất cả chúng-hội đồng thấy rõ.
Phật tòa khắp hiện tướng trang-nghiêm
Niệm niệm sắc loại đều sai biệt
Tùy các chúng-sanh hiểu chẳng đồng
Riêng thấy Phật ngồi nơi trên đó.
Nhánh báu bủa giăng lưới liên-hoa
Hoa nở hiện ra chư Bồ-Tát
Tiếng vui vi-diệu thường vang ra
Ca ngợi Như-Lai ngồi bửu-tọa.
Công-đức Như-Lai rộng vô-lượng
Tất cả trang-nghiêm từ đây sanh
Những sự nghiêm sức trong mỗi địa
Tất cả chúng-sanh chẳng rõ được.
Kim-Cang làm đất không hư-hoại
Rộng lớn thanh-tịnh rất bằng phẳng
Ma-ni làm lưới giăng hư-không
Dưới cội bồ-đề đều cùng khắp.
Nơi đó vô-biên sắc tướng sáng
Chơn-Kim làm cát rải khắp nơi
Khắp nơi rải hoa và châu báu
Ðều dùng sáng đẹp tòa Như-Lai.
Ðịa-Thần hoan-hỷ nên hớn hở
Sát-na thị hiện vô-cùng-tận
Khắp hiện tất cả mây trang-nghiêm
Luôn ở trước Phật đứng chiêm ngưỡng.
Bửu-đăng rộng lớn rất sáng chói
Hương-diệm phóng quang không dừng ngớt
Tùy thời thị-hiện đều sai khác
Ðịa-Thần dùng đây cúng-dường Phật.
Tất cả mười phương những quốc-độ
Những sư trang-nghiêm trong các cõi
Nay đạo-tràng này đều hiện đủ
Do Phật oai-thần nên được vậy.
Lúc đó Chúng-Bửu-Quang-Minh-Kế Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Thế-Tôn thuở trước lúc tu hành
Thấy các Phật-độ đều viên-mãn
Vô-lượng vô-tận việc đã thấy
Trong đạo-tràng này đều hiện đủ.
Thần-lực quảng-đại của Thế-Tôn
Phóng-quang khắp rưới ma-ni-bửu
Bửu châu như vậy rải đạo-tràng
Khắp cả mặt đất trang-nghiêm đẹp.
Như-Lai phước-đức đại thần-thông
Ma-ni châu bửu khắp trang-nghiêm
Mặt đất cùng dưới cội bồ-đề
Ðều phóng quang-minh mà diễn thuyết.
Bửu-đăng vô-lượng từ trên xuống
Bửu-Vương xen lẫn để trang-nghiêm
Khắp nơi đều diễn diệu-pháp-âm
Ðây là Ðịa-Thần tự hiển-hiện.
Bửu-địa khắp nơi hiện mây sáng
Bửu-cự chói sáng như chớp nháng
Bửu-Võng bủa giăng trùm trên không
Bửu-chi bày hàng trang-nghiêm đẹp.
Các ngài nên xem nơi chốn này
Nhiều thứ diệu-bảo dùng trang-nghiêm
Hiển bày biển nghiệp của chúng-sanh
Khiến họ rõ biết chơn pháp-tánh.
Cùng khắp mười phương tất cả Phật
Những cội bồ-đề đều viên mãn
Tất cả đều hiện trong đạo-tràng
Diễn nói Như-Lai pháp thanh-tịnh.
Tùy lòng ưa thích của chúng-sanh
Nơi ấy vang ra tiếng vi-diệu
Như trên Phật-tòa đã diễn thuyết
Mỗi mỗi pháp-môn đều nói đủ.
Nơi ấy thường phóng diệu hương-quang
Hương-quang diễn nói tiếng thanh-tịnh
Nếu có chúng-sanh kham thọ pháp
Ðều khiến được nghe trừ phiền-não.
Mỗi mỗi trang-nghiêm đều viên-mãn
Giả-sử ức kiếp nói không hết
Như-Lai thần-lực khắp mọi nơi
Vì thế chỗ kia đều nghiêm tịnh.
Lúc đó Ðại-Trí-Nhựt-Dũng-Mãnh-Huệ Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Thế-Tôn nghiêm nhìn ngồi pháp-đường
Chói sáng rực-rỡ trong cung điện
Tùy lòng ưa thích của chúng-sanh
Thân Phật hiện khắp mười phương cõi.
Như-Lai cung điện chẳng nghĩ bàn
Ma-ni-bửu-tạng dùng trang sức
Những đồ trang-nghiêm đều sáng trưng
Trong đó Phật ngồi minh hiển nhứt.
Ma-ni làm trụ đủ các màu
Linh-lạc chơn-kim như mây bủa
Thềm báu bốn mặt liệt thành hàng
Cửa nẻo tùy phương đều mở rộng.
Màn trướng trang-nghiêm lụa bông đẹp
Cây báu nhánh lá đều nghiêm-sức
Chuỗi ngọc ma-ni rũ bốn phương
Pháp-Vương yên lặng ngồi trong đó.
Ma-ni làm lưới tràng đẹp thơm
Ðèn sáng chói rực như mây bủa
Che trên dùng những vật trang-nghiêm
Ðấng Chánh-Biến-Tri ngồi nơi đó.
Hiện mây biến-hóa khắp mười phương
Mây ấy diễn-thuyết khắp thế-gian
Tất cả chúng-sanh đều thuận phục
Hiện rõ như vậy trong điện Phật.
Ma-Ni làm cây đơm bông đẹp
Mười phương các cõi không sánh được
Những sự trang-nghiêm trong ba đời
Bóng hình đều hiện nơi trong ấy.
Các nơi đều có châu ma-ni
Ánh sáng rực rỡ vô-lượng thứ
Cửa nẻo tùy phương xen nhau bày
Trụ-nóc trang-nghiêm rất tráng-lệ.
Như-Lai cung-điện bất-tư-nghì
Thanh-tịnh quang-minh đủ các tướng
Tất cả cung-điện hiện nơi trong
Nơi nơi đều có Như-Lai tọa.
Như-Lai cung-điện vô-lượng-biên
Ðức Phật tự nhiên ngự trong ấy
Mười phương tất cả các chúng-hội
Ðều hướng về Phật mà vân tập.
Lúc đó Bất-Tư-Nghì-Công-Ðức-Bửu-Trí-Ân Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Xưa Phật tu hành những biển phước
Tất cả quốc-độ vi-trần số
Thần-thông nguyện-lực cảm sanh ra
Ðạo-tràng nghiêm tịnh không cấu nhiễm.
Châu-Vương như ý làm gốc cây
Kim-cang như-ý làm thân cây
Bửu-võng che giăng trên không gian
Diệu-hương ngào-ngạt lan tràn khắp.
Cây nhánh nghiêm sức đủ châu báu
Thân bằng ma-ni đua cao vọi
Nhánh lá che đầy như mây giăng
Ðây là đạo-tràng nơi Phật ngự.
Ðạo-tràng rộng lớn bất-tư-nghì
Cây báu giáp vòng đều che khắp
Lá dầy bông say, soi sáng nhau
Trong hoa đều kết ma-ni quả.
Tất cả nhánh cây phát diệu-quang
Chiếu khắp đạo-tràng đều sáng rỡ
Quang-minh thanh-tịnh sáng vô-tận
Hiển hiện như đây do Phật lực.
Ma-ni-bửu-tạng dùng làm bông
Bóng sáng chói giăng dường mây gấm
Quanh cây khắp nơi đều thơm tho
Trong đạo-tràng này khắp nghiêm sức.
Các ngài nên xem Phật đạo-tràng
Lưới báu liên-hoa đều thanh-tịnh
Tia sáng kết vừng đây hiện ra
Tiếng lạc tiếng linh trong mây phát.
Mười phương tất cả các quốc-độ
Những cây trang-nghiêm màu sắc tốt
Trong cội bồ-đề hiện rõ ràng
Phật ngự nơi đây sạch cấu nhiễm.
Ðạo-tràng rộng lớn do phước thành
Cây nhánh mưa báu luôn vô-tận
Trong báu xuất-hiện các Bồ-Tát
Ðều đến mười phương cúng-dường Phật.
Chư Phật cảnh-giới bất-tư-nghì
Khiến khắp cây báu vang tiếng nhạc
Như đạo bồ-đề tu thuở trước
Chúng-hội nghe tiếng đều được thấy.
Lúc đó Bá-Mục-Liên-Hoa-Kế Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Tất cả ma-ni vang diệu-âm
Xưng dương hồng-danh tam-thế Phật
Chư Phật vô-lượng sự thần-thông
Trong đạo-tràng đây đều hiện thấy.
Các bông đua nở như chuỗi giăng
Mây sáng phủ tuôn khắp mười phương
Thần cây bồ-đề hướng Thế-Tôn
Nhứt-tâm chiêm ngưỡng cúng-dường Phật.
Lửa sáng ma-ni kết thành tràng
Trong tràng hừng-hực phát hương thơm
Hương thơm huân khắp tất cả chúng
Do đây đạo-tràng đều nghiêm khiết.
Liên-hoa thòng tuôn sáng màu vàng
Sáng vàng vang ra tiếng của Phật
Che khắp mười phương các quốc-độ
Dứt hẳn nóng phiền của đại-chúng.
Bồ-đề thọ-vương tự-tại-lực
Thường phóng quang-minh rất thanh-tịnh
Chúng-hội mười phương vô-lượng-biên
Trong đạo-tràng này đều hiện rõ.
Nhánh báu chói rõ như đèn sáng
Ánh-sáng tuyên thuyết bổn nguyện lớn
Như Phật thuở xưa nơi các cõi
Công-hạnh tu hành đều nói đủ.
Dưới cây chư thần đông vô-số
Nơi đạo-tràng này đồng hội đến
Trước cây đạo-thọ của Như-Lai
Cùng nhau tuyên dương môn giải-thoát.
Thế-Tôn thuở xưa thường tu tập
Cúng-dường tất cả mười phương Phật
Công-hạnh tu hành và hồng danh
Trong châu ma-ni đều hiện rõ.
Tất cả đạo-tràng vang tiếng diệu
Diệu-âm rộng lớn khắp mười phương
Nếu có chúng-sanh thọ được pháp
Liền điều-phục họ khiến thanh-tịnh.
Như-Lai thuở xưa khắp tu hành
Tất cả vô-lượng trang-nghiêm sự
Mười phương tất cả cội bồ-đề
Mỗi cây trang-nghiêm vô-lượng thứ.
Lúc đó Kim-Diệu-Viên-Mãn-Quang Ðại Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Xưa Phật tu hành hạnh bồ-đề
Nơi các cảnh-giới hiểu rành rõ
Xứ cùng phi-xứ trọn không nghi
Ðây là trí-lực đầu tiên cả.
Như xưa khắp quan-sát pháp-tánh
Tất cả biển nghiệp đều sáng suốt
Việc ấy ngày nay trong lưới sáng
Cùng khắp mười phương diễn thuyết đủ.
Thuở xưa tu hành đại phương-tiện
Theo cơ chúng-sanh mà hóa độ
Khiến khắp chúng-hội lòng sạch trong
Nên nay Phật thành căn-trí-lực.
Như các chúng-sanh hiểu chẳng đồng
Ý muốn việc làm đều sai khác
Thuận theo mỗi người để thuyết pháp
Phật dùng trí-lực được như vậy.
Khắp hết mười phương những cõi nước
Tất cả vô-lượng chúng-sanh-giới
Phật trí bình-đẳng như hư-không
Trong chân lông Phật đều hiện đủ.
Việc làm mọi nơi Phật đều biết
Nhứt niệm tam thế đều không sót
Thập phương quốc-độ các chúng-sanh
Có thể khai-thị khiến được rõ.
Thiền-định giải-thoát sức vô-biên
Tam-muội phương-tiện cũng như vậy
Vì chúng thị-hiện khiến vui-mừng
Tối tâm phiền-não đều trừ sạch.
Trí Phật vô-ngại gồm tam thế
Sát-na đều hiện trong chân lông
Phật-pháp quốc-độ và chúng-sanh
Hiện rõ đều do sức tùy niệm.
Phật-nhãn rộng lớn như hư-không
Thấy khắp pháp-giới đều không sót
Lực-dụng vô-thượng bực vô-ngại
Phật-nhãn vô-lượng hiển bày được.
Tất cả chúng-sanh đủ phiền-não
Tất cả tùy miên cùng tập-khí
Như-Lai xuất-hiện khắp thế-gian
Ðều dùng phương-tiện khiến trừ diệt.
Lúc đó Pháp-Giới-Phổ-Âm Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Oai thần của Phật khắp mười phương
Thị-hiện rộng lớn vô-phân-biệt
Hạnh đại bồ-đề ba-la-mật
Từ xưa đầy đủ đều khiến thấy.
Xưa với chúng-sanh khởi đại-bi
Tu hành Bồ-Tát ba-la-mật
Do đây thân Phật rất đẹp xinh
Chúng-sanh thấy Phật đều mừng rỡ.
Thuở xưa vô-biên vô-lượng kiếp
Tu trì tịnh-giới ba-la-mật
Thân Phật thanh-tịnh khắp mười phương
Dứt trừ thế-gian những đau khổ.
Thuở xưa tu hành nhẫn thanh-tịnh
Tín giải chân-thật vô-phân-biệt
Nên sắc tướng Phật đều viên-mãn
Phóng quang chiếu sáng khắp mười phương.
Thuở xưa nhiều kiếp tinh-tấn tu
Chuyển được chúng-sanh chướng sâu nặng
Nên Phật phân thân khắp mười phương
Dưới cội bồ-đề đều có Phật.
Xưa Phật tu hành vô-lượng kiếp
Vô-lượng thiền-định đều thanh-tịnh
Người thấy được Phật tâm vui mừng
Phiền-não chướng cấu đều trừ dứt.
Như-Lai thuở xưa tu các hạnh
Ðầy đủ bát-nhã ba-la-mật
Nên Phật phóng quang khắp sáng soi
Trừ được tất cả ngu-si-ám.
Các môn phương-tiện độ chúng-sanh
Khiến chỗ tu hành đều thành tựu
Tất cả mười phương đều khắp qua
Vô-biên kiếp số chẳng thôi dứt.
Xưa Phật tu hành trải nhiều kiếp
Trọn nên đại nguyện ba-la-mật
Nên Phật xuất hiện khắp thế-gian
Cứu chúng-sanh tận vị-lai-tế.
Từ vô-lượng kiếp Phật tu hành
Tất cả pháp-lực ba-la-mật
Do đây được thành sức tự nhiên
Hiện khắp mười phương các quốc-độ.
Xưa Phật tu hành trí phổ-môn
Trí tánh rộng lớn như hư-không
Do đây được thành sức vô-ngại
Phóng quang chiếu khắp mười phương cõi.
Lúc đó Vâm-Âm-Tịnh-Nguyệt Ðại Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp tất cả chúng-hội đạo-tràng rồi nói kệ rằng :
Thần-thông cảnh-giới khắp hư-không
Thập phương chúng-sanh đều được thấy
Như xưa tu hành đã được thành
Trong quả ma-ni đều nói đủ.
Thanh-tịnh siêng tu vô-lượng kiếp
Vào bực sơ-địa cực Hoan-Hỷ
Xuất sanh pháp-giới trí rộng lớn
Thấy khắp mười phương vô-lượng Phật.
Trong tất cả pháp bực Ly-Cấu
Khắp chúng-sanh số trì tịnh-giới
Ðã nhiều đại-kiếp rộng tu hành
cúng-dường vô-biên vô-lượng Phật.
Chứa nhóm phước-đức bực Phát-Quang
Tạng xa-ma-tha trí kiên-cố
Pháp-vân rộng lớn đều đã nghe
Trong trái ma-ni nói như vậy.
Diệm-Huệ sáng chói bực vô-đẳng
Khéo rõ cảnh-giới khởi từ-bi
Tất cả quốc-độ bình-đẳng thân
Như Phật đã tu đều diễn nói.
Các môn pháp-tạng bực Nan-Thắng
Ðộng tịch thuận nhau không trái phản
Cảnh-giới Phật-pháp đều bình-đẳng
Như Phật đã tu đều nói được.
Tu hành rộng lớn bực Hải-Huệ
Tất cả pháp-môn đều rõ khắp
Hiện khắp quốc-độ như hư-không
Pháp-âm này trong cây diễn nói.
Cùng khắp pháp-giới thân hư-không
Khắp soi chúng-sanh đèn trí-huệ
Tất cả phương-tiện đều thanh-tịnh
Bậc Viễn-Hành xưa nay nói đủ.
Tất cả nguyện hạnh đã trang-nghiêm
Vô-lượng quốc-độ đều thanh-tịnh
Tất cả phân-biệt không động được
Ðây bực Vô-Ðẳng đều tuyên thuyết.
Vô-lượng cảnh-giới sức thần-thông
Khéo vào giáo-pháp quang-minh lực
Thanh-tịnh như đây bực Thiện-Huệ
Nhiều kiếp tu hành đều nói đủ.
Pháp-Vân rộng lớn đệ-thập-địa
Chứa trùm tất cả khắp hư-không
Cảnh-giới chư Phật đều tuyên bày
Tiếng này Ðại Bồ-Tát oai-thần của Phật.
Lúc đó Thiện-Dũng-Mãnh-Quang-Tràng Ðại Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Vô-lượng chúng-sanh ở trong hội
Các môn tin hiểu tâm thanh-tịnh
Ðều ngộ nhập được trí Như-Lai
Liễu đạt tất cả trang-nghiêm cảnh.
Ðều khởi tịnh nguyện tu các hạnh
Ðều từng cúng-dường vô-lượng Phật
Thấy thân chân thật của Như-Lai
Cũng thấy tất cả những thần-biến.
Hoặc có thấy được Phật pháp-thân
Vô-đẳng vô-ngại đều cùng khắp
Tất cả vô-biên các pháp-tánh
Ðều vào trong thân không thừa sót.
Hoặc có thấy Phật diệu-sắc-thân
Quang-minh sắc tướng đều vô-biên
Tùy các chúng-sanh hiểu chẳng đồng
Trong mười phương đều hiện biến khắp.
Hoặc thấy vô-ngại trí-huệ-thân
Tam thế bình-đẳng như hư-không
Thuận tâm chúng-sanh mà chuyển biến
Các môn sai biệt đều khiến thấy.
Có người rõ được âm-thanh Phật
Cùng khắp mười phương các cõi nước
Tùy theo chúng-sanh chỗ nên hiểu
Ngôn âm nói ra không chướng ngại.
Hoặc thấy Như-Lai phóng quang-minh
Sáng soi mọi nơi khắp thế-gian
Có người ở trong Phật quang-minh
Lại thấy chư Phật hiện thần biến.
Có người thấy Phật phóng quang-minh
Từ nơi chân lông tuôn ánh sáng
Thị-hiện thuở xưa đạo tu hành
Khiến sanh tin sâu vào Phật-trí.
Hoặc thấy tướng Phật phước trang-nghiêm
Và thấy phước này từ đâu sanh
Thuở xưa tu hành ba-la-mật
Ðều trong tướng Phật được thấy rõ.
Như-Lai công-đức chẳng thể lường
Ðầy khắp pháp-giới không ngằn mé
Nhẫn đến thần-thông các cảnh-giới
Do nơi Phật lực tuyên nói được.
Lúc đó Hoa-Tạng-Thế-Giới trang-nghiêm do thần lực của Phật, khắp nơi chấn động sáu cách mười tám tướng : động, biến-động, phổ-biến động; khởi, biến-khởi, phổ-biến-khởi; dũng, biến-dũng, phổ-biến-dũng; chấn, biến chấn, phổ-biến-chấn; hống, biến hống, phổ-biến-hống; kích, biến kích, phổ-biến-kích. Các Thế-Chủ trên đây mỗi vị đều hiện bất-tư-nghì những cụm mây báu cúng-dường rưới xuống nơi chúng-hội đạo-tràng của Như-Lai : những mây hoa-hương trang-nghiêm, những mây ma-ni tốt đẹp, những mây lưới báu rực-rỡ, những mây vô-biên các loại châu ma-ni sáng chói, những mây chơn-châu nhiều mầu, những mây hương chiên-đàn, những mây bửu-cái, những mây châu ma-ni vang ra tiếng vi-diệu thanh-tịnh, những mây chuỗi ngọc ma-ni sáng như mặt nhựt, những mây các thứ đồ trang-nghiêm sai khác. Như trong thế-giới này mỗi vị Thế-Chủ hoan-hỷ cúng-dường như vậy, trong hoa-tạng thế-giới trang-nghiêm tất cả thế-chủ cũng cúng-dường như vậy. Trong tất cả thế-giới, đều có Như-Lai ngồi đạo-tràng, mỗi vị Thế-Chủ đều riêng tin hiểu, đều riêng cảnh-duyên, đều riêng tu tập pháp trợ đạo, đều riêng thành-tựu, đều riêng hoan-hỷ, đều riêng chứng nhập, đều riêng ngộ hiểu các pháp môn, đều riêng nhập cảnh-giới thần-thông của Như-Lai, đều riêng vào cảnh-giới trí-lực của Như-Lai, đều riêng nhập môn-giải-thoát của Như-Lai. Như Hoa-Tạng Thế-Giới này, thập phương tận pháp-giới hư-không giới trong tất cả thế-giới cũng đều như vậy.
***************************************************************************
Phẩm Như Lai Hiện Tướng
Thứ Hai
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, chư Bồ-Tát và tất cả Thế-Gian-Chủ nghĩ rằng : 'Thế nào là địa vị của chư Phật ? - Thế nào là cảnh-giới của chư Phật ? - Thế nào là chư Phật gia trì ? - Thế nào là chỗ làm của chư Phật ? - Thế nào là lực của chư Phật ? Thế nào là vô-sở-úy của chư Phật ? Thế nào là tam-muội của chư Phật ? - Thế nào là thần-thông của chư Phật ? - Thế nào là chư Phật tự-tại ? - Thế nào là chư Phật không ai nhiếp-thủ được ? - Thế nào là mắt của chư Phật ? - Thế nào là tai của chư Phật ? - Thế nào là mũi của chư Phật ? - Thế nào là lưỡi của chư Phật ? - Thế nào là thân của chư Phật ? - Thế nào là ý của chư Phật ? - Thế nào là thân quang của chư Phật ? - Thế nào là quang-minh của chư Phật ? - Thế nào là tiếng của chư Phật ? - Thế nào là trí của chư Phật ? Mong đức Thế-Tôn xót thương chúng tôi mà khai diễn cho. Lại thập phương chư Phật đều vì chư Bồ-Tát mà diễn-thuyết thế-giới hải, chúng-sanh hải, pháp-giới an-lập hải, Phật-hải, Phật ba-la-mật hải, Phật giải-thoát hải, Phật biến-hóa hải, Phật diễn thuyết hải, Phật danh-hiệu hải, Phật thọ-lượng hải, và diễn nói Bồ-Tát thệ-nguyện hải, Bồ-Tát phát-thu hải, Bồ-Tát trợ-đạo hải, Bồ-Tát thừa hải, Bồ-Tát hạnh hải, Bồ-Tát xuất-ly hải, Bồ-Tát thần-thông hải, Bồ-Tát ba-la-mật hải, Bồ-Tát địa-hải, Bồ-Tát trí-hải. Mong Ðức Thế-Tôn cũng vì chúng tôi mà diễn thuyết như vậy'. Lúc đó, do thần lực của chư Bồ-Tát, nơi trong tất cả lùm mây đồ cúng-dường tự nhiên vang ra tiếng nói kệ rằng :
Vô-lượng kiếp tu hành viên-mãn
Dưới cội bồ-đề thành chánh-giác
Vì độ chúng-sanh khắp hiện thân
Như mây đầy khắp vị-lai tế.
Chúng-sanh có nghi đều khiến dứt
Tin hiểu rộng lớn đều khiến phát
Vô-biên khổ não đều khiến trừ
An-lạc của Phật đều khiến chứng.
Vô-số Bồ-Tát đồng sát-trần
Cùng đến pháp-hội chiêm ngưỡng Phật
Mong theo ý mình chỗ nên thọ
Phật thuyết diệu-pháp trừ nghi hoặc.
Thế nào rõ biết Như-Lai địa
Thế nào quan-sát Như-Lai cảnh
Phật chỗ gia-trì pháp vô-biên
Mong dạy pháp này khiến thanh-tịnh.
Thế nào là Phật chỗ thật hành
Mà dùng trí-huệ có thể vào
Phật-lực thanh-tịnh rộng vô-biên
Vì các Bồ-Tát nên khai-thị.
Thế nào rộng lớn các tam-muội
Thế nào tịnh-trị pháp vô-úy
Thần-thông lực-dụng chẳng thể lường
Nguyện tùy chúng-sanh tâm thích nói.
Chư Phật Pháp-Vương như Thế-Chủ
Chỗ làm tự-tại không chướng ngại
Tất cả những pháp rộng lớn kia
Vì lợi chúng-sanh nên khai diễn.
Tại sao Phật-nhãn là vô-lượng
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy
Phật ý vô-lượng lại thế nào
Mong giải cho biết phương-tiện đó.
Như các chúng-sanh vô-lượng cõi
Pháp-giới chỗ có sự an-lành
Chư Phật rộng lớn cũng vô-biên
Mong vì Phật-tử đều khai diễn.
Ra hẳn các độ khả-tư-nghì
Khắp vào giải-thoát môn phương-tiện
Chỗ có tất cả biển pháp-môn
Trong đạo-tràng này xin tuyên thuyết.
Lúc bấy giờ Ðức Thế-Tôn biết tâm niệm của chư Bồ-Tát liền từ trên mặt, trong răng phóng ra vi-trần số quang-minh. Những là quang-minh bửu-hoa khắp soi sáng, những quang-minh các thứ tiếng trang-nghiêm pháp-giới, những quang-minh giăng bủa mây vi-diệu, những quang-minh thập phương chư Phật ngồi đạo-tràng hiện thần biến, những quang-minh mây lọng báu, những quang-minh đầy khắp pháp-giới vô-ngại, những quang-minh trang-nghiêm khắp soi tất cả cõi Phật, những quang-minh kiến lập bửu-tràng kim-cang thanh-tịnh, những quang-minh khắp trang-nghiêm chúng-hội đạo-tràng Bồ-Tát, những quang-minh diệu-âm xưng dương tất cả danh hiệu chư Phật. Phật phóng ra vi-trần số quang-minh như vậy. Mỗi quang-minh này lại có vi-trần số quang-minh làm quyến thuộc. Tất cả quang-minh đủ màu báu đẹp, chiếu khắp mười phương đều một ức Phật sát vi-trần số thế-giới. Chúng Bồ-Tát trong những thế-giới đó từ nơi quang-minh đều được thấy Hoa-Tạng thế-giới trang-nghiêm này. Do thần-lực của Phật, quang-minh đó ở trước tất cả chúng-hội Bồ-Tát xướng kệ rằng :
Trong vô-lượng kiếp chỗ tu hành
Cúng-dường thập phương vô-lượng Phật
Hóa độ tất cả loài chúng-sanh
Nay thành đấng Thế-Tôn Diệu-Giác.
Trong chân lông Phật tuôn mây báu
Quang-minh chiếu khắp mười phương cõi
Người đáng được độ đều thấy hiểu
Khiến đến bồ-đề không chướng ngại.
Phật xưa qua lại trong các loài
Giáo-hóa thành thục những quần-sanh
Thần-thông tự-tại vô-lượng-biên
Một niệm đều khiến được giải-thoát.
Cây báu bồ-đề châu ma-ni
Các thứ trang-nghiêm đều đặc thắng
Phật ở dưới cây thành chánh-giác
Phóng đại quang-minh khắp soi sáng.
To tiếng chấn động khắp mười phương
Vì chúng rộng tuyên pháp tịch-diệt
Tùy tâm chúng-sanh chỗ ưa thích
Các môn phương-tiện khiến tỏ ngộ.
Xưa tu các độ đều viên mãn
Ðồng số vi-trần ngàn quốc-độ
Tất cả trí-lực đều đã thành
Các ông nên qua đồng lễ kính.
Thập phương Phật-tử như sát-trần
Ðều cùng vui-mừng vân-tập đến
Ðã rưới mây báu để cúng-dường
Nay ở trước Phật chuyên chiêm ngưỡng.
Như-Lai nhứt âm vô-lượng số
Hay diễn Khế-Kinh sâu rộng lớn
Khắp rưới diệu-pháp ứng quần tâm
Ðấng Lưỡng-Túc-Tôn nên qua thấy.
Tam thế chư Phật phát nguyện lớn
Dưới cội bồ-đề đều tuyên thuyết
Trong một sát-na đều hiện-tiền
Ông nên mau đến chỗ Như-Lai.
Tỳ-Lô-Giá-Na biển đại-trí
Diệu-môn phóng quang đều được thấy
Nay chờ chúng nhóm để phát tâm
Ông nên qua kia nghe Phật dạy.
Lúc đó tất cả chúng-hội trong thập phương thế-giới đã nhờ quang-minh của Phật khai-thị, đều cùng nhau đến chỗ Phật Tỳ-Lô-Giá-Na cung kính cúng-dường.
Phương đông Hoa-Tạng trang-nghiêm thế-giới hải này, có thế-giới hải tên Thanh-Tịnh-Quang-Liên-Hoa-Trang-Nghiêm. Trong thế-giới này có quốc-độ, tên Ma-Ni-Anh-Lạc-Kim-Cang-Tạng, Phật hiệu Pháp-Thủy-Giác Hư-Không-Vô-Biên-Phương. Trong đại chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát tên Quán-Sát-Thắng-Pháp-Liên-Hoa-Tràng cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật, đều hiện mười thứ thân tướng của Bồ-Tát đầy khắp hư-không mà chẳng tan mất. Lại hiện thứ mây mưa tất cả hoa-sen báu sáng rỡ. Lại hiện mười thứ mây núi báu Tu-Di. Lại hiện mười thứ ánh sáng mặt trời. Lại hiện mười thứ mây chuỗi hoa báu. Lại hiện mười thứ mây tất cả anh-lạc. Lại hiện mười thứ mây hương bột. Lại hiện mười thứ mây hương thoa hương đốt. Lại hiện mười thứ mây tất cả gỗ thơm. Vi-trần số mây cúng-dường như vậy đều khắp cả hư-không mà chẳng tan mất. Chư Bồ-Tát này hướng Phật kính lễ cúng-dường, rồi ở phương đông đều hóa làm những thứ tòa sư-tử tốt đẹp sáng chói, chư Bồ-Tát này ngồi kiết-già trên những pháp-tòa ấy.
Phương nam của Hoa-Tạng thế-giới hải này có thế-giới tên Nhứt-Thiết-Bửu-Nguyệt-Quang-Minh-Trang-Nghiêm-Tạng. Trong thế-giới chủng này có quốc-độ tên Vô-Biên-Quang-Viên-Mãn Trang-Nghiêm. Phật hiệu Phổ-Trí-Quang-Minh-Ðức-Tu-Di-Vương. Trong đại-chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát tên Phổ-Chiếu-Pháp-Hải-Huệ cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật, đều hiện mười thứ mây báu ma-ni châu-vương trang-nghiêm sáng chói đầy khắp hư-không mà chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu hiện ra đồ trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu xưng-dương hồng-danh của Phật. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu nói tất cả Phật-pháp. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu những cây đẹp trang-nghiêm đạo-tràng. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu hiện các Hóa-Phật. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu khắp hiện hình tượng trang-nghiêm của tất cả đạo-tràng. Lại hiện mười thứ mây ma-ni bửu-châu nói cảnh-giới của chư Phật. Lại hiện mười thứ mây hình tượng vô-số cung-điện bất-tư-nghì. Lại hiện mười thứ mây khắp hiện thân tượng của tam thế Phật. Hiện vô-số mây ma-ni châu-vương như vậy đầy khắp hư-không mà chẳng tan mất. Chư Bồ-Tát này hướng Phật kính lễ cúng-dường rồi ở phương nam hóa làm vi-trần số tòa sư-tử đế-thanh-bửu diêm-phù-đàn-Kim liên-hoa-tạng, đồng ngồi kiết-già trên bửu-tòa ấy.
Phương tây của Hoa-Tạng thế-giới hải này có thế-giới hải tên Khả-Ái-Nhạo-Bửu-Quang-Minh. Trong thế-giới chủng đó quốc-độ tên Xuất-Sanh Thượng-Diệu-Tư-Thân-Cụ. Phật hiệu Hương-Diệm-Công-Ðức-Bửu-Trang-Nghiêm. Trong đại-chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát tên Nguyệt-Quang-Hương-Diệm-Phổ-Trang-Nghiêm cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật, đều hiện mười thứ mây lầu-các châu bảo tốt đẹp thơm sáng, khắp hư-không chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây lầu-các vô-biên sắc tướng. Lại hiện mười thứ mây lầu-các đèn báu sáng chói. Lại hiện mười thứ mây lầu-các chơn-châu. Lại hiện mười thứ mây lầu-các hoa báu. Lại hiện mười thứ mây lầu-các chuỗi ngọc báu trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây lầu-các trang-nghiêm sáng chói hiện khắp mười phương. Lại hiện mười thứ mây lầu-các những bột báu xen lẫn trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây lầu-các những châu báu cùng khắp mười phương. Lại hiện mười thứ mây lầu-các cửa đẹp lưới báu.
Chư Bồ-Tát này hiện vi-trần số mây lầu-các rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở nơi phương tây hóa làm tòa sư-tử chơn-kim đại-bửu, rồi đều ngồi kiết-gìa trên bảo-tòa ấy.
Phương bắc của Hoa-Tạng thế-giới hải này, có thế-giới hải tên Tỳ-Lưu-Ly-Liên-Hoa-Quang-Viên-Mãn-Tạng. Trong thế-giới chủng đó có quốc-độ tên Ưu-Bát-La-Hoa-Trang-Nghiêm. Phật hiệu Phổ-Trí-Tràng-Âm-Vương. Trong đại-chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát Sư-Tử-Phấn-Tấn-Quang-Minh cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mười thứ mây những cây đẹp ma-ni thơm tho khắp hư-không, chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây những cây trang-nghiêm hóa-hiện vô-biên sắc tướng. Lại hiện mười thứ mây những cây trang-nghiêm hoa đẹp. Lại hiện mười thứ mây cây trang-nghiêm ánh sáng báu. Lại hiện mười thứ mây những cây trang-nghiêm hóa hiện thân Bồ-Tát. Lại hiện mười thứ mây những cây trang-nghiêm hiển hiện chỗ đạo-tràng bất-tư-nghì thuở trước. Lại hiện mười thứ mây cây báu y-phục sáng như mặt trời. Lại hiện mười thứ mây cây phát ra tất cả âm-thanh vừa ý.
Chư Bồ-Tát hiện những mây cây báu trang-nghiêm rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở phương bắc đều hóa làm tòa sư-tử Liên-Hoa-Ma-Ni, rồi đều ngồi kiết-già trên bảo-tòa đó.
Phương đông bắc của Hoa-Tạng thế-giới hải này, có thế-giới hải tên Diêm-Phù-Ðàn-Kim-Pha-Lê-Sắc-Tràng. Trong thế-giới chủng đó có quốc-độ tên Chúng-Bửu-Trang-Nghiêm. Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Vô-Úy-Ðăng, trong đại-chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát tên Tối-Thắng-Quang-Minh-Ðăng-Vô-Tận-Công-Ðức-Tạng cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mười thứ mây bửu liên-hoa vô-biên sắc tướng khắp hư-không chẳng tan-mất. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử ma-ni sáng chói. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử tất cả đồ trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử tràng hoa báu. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử khắp rưới chuỗi ngọc báu. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử tất cả hoa hương chuỗi ngọc báu. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử thị-hiện tòa trang-nghiêm ma-ni của tất cả Phật. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử cửa nẻo thềm bực và những chuỗi ngọc trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử tất cả cây nhánh báu ma-ni. Lại hiện mười thứ mây tòa sư-tử hương báu xen lẫn trang-nghiêm ánh sáng chói như mặt nhựt. Chư Bồ-Tát này hiện vô-số mây báu tòa sư-tử rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở phương đông-bắc đều hóa ra làm tòa sư-tử bửu-hiên-hoa ma-ni, rồi đều ngồi kiết-già trên bảo-tòa đó.
Phương đông-nam của Hoa-Tạng thế-giới hải này, có thế-giới hải tên Kim-Trang-Nghiêm-Lưu-Ly-Quang-Phổ-Chiếu. Trong thế-giới chủng đó có quốc-độ tên Thanh-Tịnh-Hương-Quang-Minh. Phật hiệu Phổ-Hỷ-Thâm-Tín-Vương. Trong đại-chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát tên Huệ-Ðăng-Phổ-Minh cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mười thứ mây màn trướng tất cả châu ma-ni khắp hư-không chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây màn trướng tất cả hương. Lại hiện mười thứ mây màn trướng bửu đăng. Lại hiện mười thứ mây màn trướng thị-hiện Phật thần-thông thuyết-pháp. Lại hiện mười thứ mây màn trướng hiển hiện tất cả y-phục trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây màn trướng tất cả bửu-hoa. Lại hiện mười thứ mây màn trướng lưới báu khua tiếng lạc tiếng linh. Lại hiện mười thứ mây màn trướng đài liên-hoa lưới ma-ni. Lại hiện mười thứ mây màn trướng tất cả đồ trang-nghiêm bất-tư-nghì. Chư Bồ-Tát này hiện ra vi-trần số mây màn lưới báu như vậy rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở phương đông-nam đều hóa làm tòa sư-tử bửu-liên-hoa, rồi ngồi trên bửu-tòa đó.
Phương tây-nam của Hoa-Tạng thế-giới-hải này có thế-giới-hải tên Nhựt-Quang-Biến-Chiếu. Trong thế-giới-chủng đó có quốc-độ tên Sư-Tử-Nhựt-Quang-Minh. Phật hiệu Phổ-Trí-Quang-Minh-Âm. Trong đại-chúng của Ðức Phật đó có Ðại Bồ-Tát tên Phổ-Hoa-Quang-Diệm-Kế cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mười thứ mây bửu-cái vi-diệu trang-nghiêm khắp hư-không chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái đẹp trang-nghiêm sáng chói. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái tạng chơn-châu vô-biên sắc. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái châu ma-ni vang ra tiếng bi-mẫn của tất cả Bồ-Tát. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái tràng hoa đẹp báu. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái rủ lưới lục-lạc. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái cây ma-ni nhánh trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái châu ma-ni chói sáng như mặt nhựt. Lại hiện mười thứ cây bửu-cái tất cả hương thoa hương đốt. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái tạng chiên-đàn. Lại hiện mười thứ mây bửu-cái cảnh-giới Phật rộng lớn khắp sáng chói. Chư Bồ-Tát này hiện vi-trần số mây bửu-cái như vậy rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở phương tây-nam đều hóa làm tòa sư-tử đế-thanh-bửu trang-nghiêm sáng rỡ rồi ngồi kiết-già trên đó.
Phương tây-bắc của Hoa-Tạng thế-giới hải này, có thế-giới hải tên Bửu-Quang-Chiếu-Diệu. Trong thế-giới chủng đó có quốc-độ tên Chúng-Hương-Trang-Nghiêm. Phật hiệu Vô-Lượng-Công-Ðức-Hải-Quang-Minh. Trong đại chúng của Như-Lai đó có Ðại Bồ-Tát tên Vô-Tận-Quang-Ma-Ni-Vương cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mười thứ mây viên-mãn-quang tất cả châu-bửu khắp hư-không chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang tất cả bửu-diệm. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang tát cả diệu-hoa. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang tất cả hóa-Phật. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang mười phương Phật-độ. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang Phật cảnh-giới. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang tất cả lưu-ly-bửu ma-ni. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang trong một niệm hiện vô-biên tướng chúng-sanh. Lại hiện mười thứ mây viên-mãn-quang tiếng diễn thuyết nói đại-nguyện của tất cả Như-Lai. Lại hiện mười thứ mây mười thứ mây viên-mãn-quang ma-ni-vương tiếng diễn hóa tất cả chúng-sanh. Chư Bồ-Tát này hiện vi-trần số mây viên-mãn-quang như vậy rồi hướng Phật kính lễ cúng dường, liền ở phương tây-bắc đều hóa làm tòa sư-tử vô-tận quang-minh oai-đức-tạng rồi ngồi kiết-già trên bửu-tòa ấy.
Phương dưới của Hoa-Tạng thế-giới hải này có thế-giới hải tên Liên-Hoa-Hương-Diệu-Ðức-Tạng. Trong thế-giới hải đó có quốc-độ tên Bửu-Sư-Tử-Quang-Minh-Chiếu-Diệu. Phật hiệu Pháp-Giới-Quang-Diệm-Huệ cùng vi-trần số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mười thứ mây quang-minh tất cả tạng ma-ni, khắp hư-không chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây quang-minh tất cả hương. Lại hiện mười thứ mây quang-minh tất cả bửu-diệm. Lại hiện mười thứ mây quang-minh vang tiếng thuyết-pháp của tất cả Phật. Lại hiện mười thứ mây quang-minh tất cả Phật-độ trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây quang-minh tất cả diệu-hoa lầu các. Lại hiện mười thứ mây quang-minh việc chư Phật giáo-hóa chúng-sanh trong tất cả kiếp. Lại hiện mười thứ mây quang-minh hoa-nhụy vô-tận-bửu. Lại hiện mười thứ mây quang-minh bửu-tòa quang-minh. Chư Bồ-Tát này hiện mười thứ mây quang-minh như vậy rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở nơi phương dưới đều hóa làm tòa sư-tử liên-hoa bửu-diệm rồi ngồi kiết-già trên đó.
Phương trên của Hoa-Tạng thế-giới-hải này có thế-giới-hải tên Ma-Ni-Bửu-Chiếu-Diệu-Trang-Nghiêm. Trong thế-giới-chủng đó có quốc-độ tên Vô-Tướng-Diệu-Quang-Minh, Phật hiệu Vô-Ngại-Công-Ðức-Quang-Minh-Vương. Trong đại-chúng của Như-Lai đó có Bồ-Tát tên Vô-Ngại-Lực-Tinh-Tấn-Huệ cùng vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật. Chư Bồ-Tát này đều hiện mây quang-diệm báu vô-biên sắc-tướng đầy hư-không mà chẳng tan mất. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm lưới báu ma-ni. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm tất cả Phật-độ trang-nghiêm rộng lớn. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm tất cả diệu-hương. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm tất cả trang-nghiêm. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm chư Phật biến hóa. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm các cây hoa đẹp. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm tất cả kim-cang. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm châu ma-ni hiện công-hạnh của vô-biên Bồ-Tát. Lại hiện mười thứ mây quang-diệm tất cả đèn chơn-châu. Chư Bồ-Tát hiện vi-trần-số mây quang-diệm như vậy rồi hướng Phật kính lễ cúng-dường, liền ở nơi thượng-phương đều hóa làm tòa sư-tử liên-hoa quang-minh diễn thinh-âm của Phật, rồi ngồi trên bửu-tòa đó.
Trong mười ức Phật-sát vi-trần-số thế-giới-hải như vậy có mười ức vi-trần-số đại Bồ-Tát, mỗi Ðại Bồ-Tát có thế-giới-hải vi-trần-số chúng Bồ-Tát đồng đến tập hội. Mỗi Bồ-Tát đều hiện thế-giới-hải vi-trần-số mây, các thứ đồ trang-nghiêm cúng-dường đều khắp hư-không mà chẳng tan mất. Hiện những mây như thế rồi, chư Bồ-Tát đồng hướng Phật kính lễ, cúng-dường. Tùy theo phương hướng của mình đến, chư Bồ-Tát đều hóa làm các thứ bửu-tòa sư-tử trang-nghiêm rồi ngồi kiết-già trên bửu-tòa đó.
Sau khi ngồi xong, trong chân lông nơi thân của chư Bồ-Tát, mỗi mỗi đều hiện mười thế-giới-hải vi-trần-số các thứ bửu-sắc quang-minh.
Trong mỗi quang-minh đều hiện mười thế-giới-hải vi-trần-số chư Bồ-Tát đều ngồi tòa sư-tử liên-hoa-tạng.
Chư Bồ-Tát này đều có thể vào khắp trong tất cả vi-trần của tất cả pháp-giới-hải.
Trong mỗi vi-trần đó đều có mười thế-giới vi-trần-số những cõi rộng lớn. Trong mỗi cõi này đều có tam-thế chư Phật Thế-Tôn.
Chư Bồ-Tát này đều có thể qua gần gũi cúng-dường khắp chư Thế-Tôn đó. Lại có thể trong mỗi niệm dùng pháp-môn tự-tại thị-hiện để khai-ngộ thế-giới-hải vi-trần-số chúng-sanh. Trong mỗi niệm lại dùng pháp-môn thị-hiện tất cả chư Thiên chết rồi sanh để khai ngộ vi-trần-số chúng-sanh. Trong mỗi niệm lại dùng pháp-môn nói tất cả công-hạnh Bồ-Tát, dùng pháp-môn chấn động tất cả cõi tán-thán công-đức thần biến của Phật, dùng pháp-môn nghiêm-tịnh tất cả cõi Phật hiển-thị tất cả đại-nguyện hải, dùng pháp-môn thinh-âm của Phật nhiếp khắp tất cả ngôn từ của chúng-sanh, dùng pháp-môn hay rưới tất cả Phật-pháp, dùng pháp-môn quang-minh chiếu khắp mười phương quốc-độ khắp pháp-giới thị-hiện thần biến, dùng pháp-môn hiện Phật-thân đầy khắp pháp-giới giải-thoát-lực của tất cả Như-Lai, dùng pháp-môn Phổ-Hiền Bồ-Tát kiến lập tất cả chúng-hội đạo-tràng, trong mỗi niệm dùng những pháp-môn như vậy để khai ngộ thế-giới-hải vi-trần-số chúng-sanh.
Trong mỗi niệm, mỗi quốc-độ đều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh, kể đọa ác-đạo được lìa hẳn khổ-não. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh, kẻ trụ tà-định được vào chánh-định. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh tùy lòng ưa thích được sanh lên cõi trời. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh an-trụ bực Thanh-Văn, bực Bích-Chi Phật. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh thờ bực Thiện-tri-thức đủ những phước hạnh. Ðều khiến Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh phát bồ-đề tâm. Ðều làm Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh thẳng đến bực Bồ-Tát bất-thối-chuyển. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh được trí-nhãn thanh-tịnh thấy tất cả pháp bình-đẳng của Như-Lai đã thấy. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh an-trụ trong những lực, những nguyện, dùng trí vô-tận làm phương-tiện thanh-tịnh các Phật-độ. Ðều làm cho Tu-Di-Sơn vi-trần-số chúng-sanh đều được an-trụ nguyện-hải rộng lớn Tỳ-Lô-Giá-Na, sanh trong nhà Như-Lai.
Lúc đó, chư Bồ-Tát, ở trong quang-minh, đồng thời nói kệ :
Trong các quang-minh vang diệu-âm
Cùng khắp mười phương tất cả nước
Diễn thuyết Phật-tử các công-đức
Hay vào đạo bồ-đề vi-diệu.
Kiếp-hải tu hành không mõi nhàm
Khiến chúng-sanh khổ được giải-thoát
Tâm không hạ liệt không nhọc nhằn
Phật-tử khéo vào phương tiện đạo.
Tất cả kiếp-hải phương-tiện
Vô-lượng vô-biên không thừa sót
Tất cả pháp-môn đều khắp vào
Mà thường nói kia tánh tịch-diệt.
Tam-thế chư Phật bao nhiêu nguyện
Tu hành tất cả đều trọn vẹn
Bèn dùng lợi ích các chúng-sanh
Mà tự thật hành nghiệp thanh-tịnh.
Tất cả chư Phật trong chúng-hội
Cùng khắp mười phương đều qua đến
Ðều dùng biển trí-huệ thậm-thâm
Vào pháp tịch-diệt của chư Phật.
Mỗi mỗi quang-minh đều vô-biên
Ðều vào nan-tư các quốc-độ
Trí-nhãn thanh-tịnh khắp thấy đều
Là cảnh sở hành của Bồ-Tát.
Bồ-Tát hay trụ một đầu lông
Ðộng khắp mười phương các quốc-độ
Chẳng khiến chúng-sanh có sợ ngờ
Ðây là phương-tiện bực thanh-tịnh.
Trong mỗi mỗi trần vô-lượng thân
Lại hiện trang-nghiêm các cõi nước
Một niệm sống chết khắp khiến thấy
Ðược bực trang-nghiêm ý vô-ngại.
Tam-thế chỗ có tất cả kiếp
Trong một sát-na đều hiện được
Biết thân như huyễn không thể-tướng
Chứng minh pháp tánh bực vô-ngại.
Phổ-Hiền thắng-hạnh đều được vào
Tất cả chúng-sanh đều thích thấy
Phật-tử trụ được pháp-môn này
Trong các quang-minh vang tiếng lớn.
Lúc đó Ðức Thế-Tôn muốn khiến tất cả đại-chúng Bồ-Tát được sức thần-thông vô-biên cảnh-giới của Như-Lai, nên phóng quang-minh nơi giữa chặn mày, gọi là nhứt-thiết Bồ-Tát trí quang-minh, chiếu khắp mười phương, trạng như mây sáng bửu-sắc, tất cả quốc-độ và chúng-sanh trong tất cả Phật-độ ở mười phương đều làm cho hiển hiện. Quang-minh lại chấn động khắp các thế-giới. Trong mỗi trần hiện vô số Phật. Tùy theo tánh ưa thích chẳng đồng của các chúng-sanh khắp rưới mây diệu-pháp-luân của tam-thế chư Phật, hiển thị biển ba-la-mật của Như-Lai. Lại rưới vô-lượng những mây xuất-ly khiến các chúng-sanh thoát hẳn sanh-tử. Lại rưới mây đại-nguyện của chư Phật hiển bày chúng-hội đạo-tràng của Phổ-Hiền Bồ-Tát trong thập phương thế-giới. Quang-minh ấy chiếu hiện những việc như vậy rồi, trở về nhiễu vòng quanh Phật, rồi nhập vào dưới chơn Phật.
Lúc đó, trước Phật có hoa sen lớn thoạt hiện ra. Hoa ấy có đủ mười thứ trang-nghiêm : các châu báu xen lẫn làm cộng, ma-ni bửu-vương làm gương, các báu làm cánh, các hương ma-ni làm tua, vang diêm-phù-đàn trang-nghiêm đài hoa, lưới đẹp trùm trên mầu sáng thanh-tịnh, trong niệm thị-hiện vô-biên thần-biến của chư Phật, khắp phát khởi tất cả thanh-âm, ma-ni bửu-vương ảnh hiện thân Phật, trong âm-thinh có thể diễn thuyết tất cả hạnh nguyện của Bồ-Tát.
Khi hoa-sen này hiện ra rồi, trong khoảng một niệm trong tướng bạch-hào của Như-Lai đồng thời xuất-hiện đại Bồ-Tát tên Nhứt-Thiết-Pháp-Thắng-Âm và thế-giới-hải vi-trần-số Bồ-Tát. Chư Bồ-Tát này đi nhiễu Phật vô-lượng vòng, lễ chưn Phật. Thắng-Âm Bồ-Tát ngồi đài liên-hoa, các Bồ-Tát ngồi trên tua sen.
Thắng-Âm-Bồ-Tát này rõ pháp-giới, lòng rất hoan-hỷ, nhập sở-hành của Phật trí không nghi trệ, vào biển pháp-thân chẳng thể lường của Phật, qua tất cả cõi chỗ của các Như-Lai. Các chưn lông đều hiện thần-thông, niệm niệm đều quán khắp tất cả pháp-giới. Thập phương chư Phật đồng ban thần lực khiến chư Bồ-Tát này khắp an-trụ tất cả tam-muội, cùng tận kiếp vị-lai thường thấy thân vô-biên pháp-giới công-đức-hải của Phật, nhẫn đến tất cả tam-muội, giải-thoát thần-thông biến-hóa.
Chư Bồ-Tát này liền ở trong chúng, thừa oai-thần của Phật, quan-sát mười phương mà nói kệ rằng :
Phật thân đầy khắp nơi pháp-giới
Hiện khắp trước tất cả chúng-sanh
Tùy duyên phó cảm đều khắp cùng
Mà hằng ở tòa bồ-đề này.
Trong mỗi chưn lông của Như-Lai
Tất cả sát-trần chư Phật ngồi
Chúng hội Bồ-Tát cùng vây quanh
Diễn nói thắng-hạnh của Phổ-Hiền.
Như-Lai ngồi yên nơi Bồ-Ðề
Một lòng thị-hiện nhiều sát-hải
Mỗi mỗi lông đều hiện như vậy
Như vậy khắp cùng cả pháp-giới.
Trong mỗi mỗi cõi đều an tọa
Tất cả sát-độ đều cùng khắp
Thập-phương Bồ-Tát như mây nhóm
Tất cả đồng đến hội đạo-tràng.
Tất cả quốc-độ vi-trần-số
Công-đức quang-minh chúng Bồ-Tát
Ở khắp trong hội của Như-Lai
Nhẫn đến pháp-giới đều đầy khắp
Thập-phương Bồ-Tát như mây nhóm
Tất cả đồng đến hội đạo-tràng.
Tất cả quốc-độ vi-trần-số
Công-đức quang-minh chúng Bồ-Tát
Ở khắp trong hội của Như-Lai
Nhẫn đến pháp-giới đều đầy khắp.
Pháp-giới vi-trần các quốc-độ
Trong tất cả chúng đều xuất hiện
Như vậy phân thân trí cảnh-giới
Trong hạnh Phổ-Hiền hay kiến lập.
Ở giữa chúng-hội của chư Phật
Thắng-Trí Bồ-Tát đều an-tọa
Tất cả nghe pháp đều hoan-hỷ
Nơi nơi tu hành vô-lượng kiếp.
Ðã vào hạnh nguyện của Phổ-Hiền
Tất cả nghe pháp đều hoan-hỷ
Nơi nơi tu hành vô-lượng kiếp.
Ðã vào hạnh nguyện của Phổ-Hiền
Tất cả xuất-sanh các Phật-pháp
Trong pháp-hải Tỳ-Lô-Giá-Na
Tu hành chứng được Như-Lai địa.
Phổ-Hiền Bồ-Tát đã khai giác
Tất cả Như-Lai đồng khen mừng
Ðã được chư Phật đại thần-thông
pháp-giới châu-lưu đều cùng khắp.
Tất cả quốc-độ vi-trần-số
Thường hiện hóa-thân đều đầy khắp
Khắp vì chúng-sanh phóng đại-quang
Ðều rưới pháp-giới xứng lòng họ.
Lúc đó trong đại-chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Quán-Sát-Nhứt-Thiết-Thắng-Pháp-Liên-Hoa-Quang-Huệ-Vương, thừa oai-lực của Phật, quán-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Như-Lai trí rất sâu
Vào khắp nơi pháp-giới
Hay chuyển theo ba đời
Vì đời làm Minh-Ðạo.
Chư Phật đồng pháp-thân
Vô-y, vô-sai-biệt
Tùy theo ý chúng-sanh
Khiến-thấy thân hình Phật.
Ðầy đủ nhứt-thiết-trí
Biết khắp tất cả pháp
Trong tất cả quốc-độ
Tất cả đều hiện đủ.
Thân Phật và quang-minh
Sắc tướng chẳng nghĩ bàn
Chúng-sanh ai ưa thích
Tùy ưng đều khiến thấy.
Nơi trên một thân Phật
Hóa làm vô-lượng Phật
Lôi-âm khắp các cõi
Diễn pháp sâu như biển.
Trong mỗi mỗi chân lông
Lưới sáng khắp mười phương
Diễn diệu-âm của Phật
Ðiều phục kẻ khó phục.
Trong quang-minh Như-Lai
Thường vang tiếng thâm diệu
Ca ngợi công-đức Phật
Và công-hạnh Bồ-Tát.
Phật chuyển chánh-pháp-luân
Vô-biên vô-lượng số
Pháp nói ra vô-đẳng
Trí cạn không lường được.
Trong tất cả thế-giới
Hiện thân thành chánh-giác
Mỗi mỗi khởi thần-biến
Pháp giới đều đầy đủ.
Như-Lai mỗi mỗi thân
Hiện Phật đồng chúng-sanh
Tất cả vi-trần cõi
Khắp hiện thần-thông lực.
Lúc đó trong đại-chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Pháp-Hỷ-Huệ-Quang-Minh, thừa oai-thần của Phật, quan-sát khắp mười phương, rồi nói kệ rằng :
Phật-thân thường hiển hiện
Pháp-giới đều đầy đủ
Hằng diễn quảng-đại-âm
Chấn động mười phương cõi.
Như-Lai khắp hiện thân
Thế-gian đều vào khắp
Tùy chúng-sanh thích ưa
Hiển thị thần-thông lực.
Phật tùy tâm chúng-sanh
Hiện khắp ở trước họ
Chúng-sanh chỗ được thấy
Ðều là Phật thần lực.
quang-minh chiếu vô-biên
Thuyết-pháp cũng vô-lượng
Phật-tử tùy trí mình
Vào được quan-sát được.
Phật thân vốn vô-sanh
Mà thị-hiện xuất-sanh
Pháp-tánh như hư-không
Chư Phật trụ trong đó.
Không trụ cũng không đi
Mọi nơi đều thấy Phật
Quang-minh chiếu cùng khắp
Tiếng tâm đồn khắp cõi.
Vô-thể vô-sở-trụ
Cũng không có chỗ sanh
Không tướng cũng không hình
Chỗ hiện đều như bóng.
Phật tùy tâm chúng-sanh
Vì họ hiện pháp-Vân
Các thứ môn phương-tiện
Khai-ngộ và điều-phục.
Trong tất cả thế-giới
Thấy Phật ngồi đạo-tràng
Ðại-chúng đồng bao quanh
Chói sáng mười phương cõi.
Tất cả thân chư Phật
Ðều có tướng vô-tận,
Thị-hiện dầu vô-lượng
Sắc tướng vô-cùng tận.
Lúc đó trong đại-chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Hương-Diệm-Quang-Phổ-Minh-Huệ thừa thừa oai-thần của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Bồ-Tát trong hội này
Vào Phật-địa khó lường
Mỗi mỗi đều được thấy
Thần-lực của chư Phật.
Trí thân khắp vào được
Tất cả vi-trần cõi
Thấy thân ở trong đó
Thấy khắp các Ðức Phật.
Như bóng hiện các cõi
Tất cả chỗ Như-Lai
Trong tất cả chỗ đó
Ðều hiện sự thần-thông.
Phổ-Hiền các hạnh nguyện
Tu-tập đã sáng sạch
Có thể tất cả cõi
Thấy khắp Phật thần-biến.
Thân ở tất cả chỗ
Tất cả đều bình-đẳng
Trí có thể như vậy
Vào cảnh-giới của Phật.
Ðã chứng trí Như-Lai
Chiếu khắp trong pháp-giới
Khắp vào chân lông Phật
Tất cả những cõi nước.
Tất cả quốc-độ Phật
Ðều hiện thần-thông lực
Thị-hiện các thứ thân
Và các thứ danh hiệu.
Nơi trong khoảng một niệm
Hiện khắp những thần biến
Ðạo-tràng thành chánh-giác
và chuyển diệu-pháp-luân.
Tất cả cõi rộng lớn
Ức kiếp chẳng nghĩ bàn
Bồ-Tát trong chánh-định
Một niệm đều hiện được.
Tất cả những Phật-độ
Chư Bồ-Tát mỗi vị
Khắp vào nơi thân Phật
Vô-biên cũng vô-tận.
Lúc đó lại có Ðại Bồ-Tát tên Sư-Tử-Phấn-Tấn-Huệ-Quang-Minh, thừa oai-thần của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Hay chuyển chánh pháp-luân
Pháp-giới các cõi nước
Như mây đều cùng khắp.
Trong mười phương chỗ có
Những thế-giới rộng lớn
Phật nguyện lực thần-thông
Chuyển pháp-luân khắp chỗ.
Tất cả những cõi nước
Trong chúng-hội rộng lớn
Danh-hiệu đều chẳng đồng
Tùy ưng diễn diệu-pháp.
Như-Lai oai-lực lớn
Phổ-Hiền nguyện tạo thành
Trong tất cả cõi nước
Diệu-âm đều khắp đến.
Phật thân khắp pháp-giới
Khắp rưới những mưa pháp
Vô-sanh vô-sai-biệt
Thế-gian hiện tất cả.
Muôn ức vô-số kiếp
Trong tất cả quốc-độ
Việc làm từ thuở xưa
Diệu-âm đều nói đủ.
Mười phương vi-trần cõi
Lưới sáng trùm khắp nơi
Ánh sáng đều có Phật
Khắp hóa độ quần-sanh.
Phật thân vô sai biệt
Ðầy khắp trên pháp-giới
Ðều khiến thấy sắc thân
Tùy cơ khéo điều phục.
Tam thế tất cả cõi
Tất cả đấng Ðạo-Sư
Danh-hiệu sai khác nhau
Tuyên thuyết đều khiến thấy.
Quá hiện và vị-lai
Tất cả chư Như-Lai
Chuyển vi-diệu pháp-luân
Chúng-hội đều nghe được.
Lúc đó, trong đại-chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Pháp-Hải-Công-Ðức-Tạng thừa oai-thần của Phật, quan sát thập phương rồi nói kệ rằng :
Phật-tử trong hội này
Khéo tu các trí-huệ
Người này đã vào được
Môn phương-tiện như vậy.
Trong tất cả cõi nước
Khắp diễn quảng-đại-âm
Nói công-hạnh Phật làm
Nghe khắp mười phương cõi.
Trong mỗi mỗi tâm niệm
Xem khắp tất cả pháp
An-trụ chơn-như-địa
Rõ thấu biển chánh-pháp.
Trong mỗi mỗi Phật-thân
Ức kiếp chẳng nghĩ bàn
Tu tập ba-la-mật
Và nghiêm-tịnh quốc-độ.
Trong mỗi mỗi vi-trần
Chứng được tất cả pháp
Ðược vô-ngại như vậy
Ði khắp mười phương cõi
Trong mỗi mỗi cõi Phật
Qua đến đều không sót
Thấy Phật xuất thần-thông
Vào công-hạnh của Phật.
Chư Phật tiếng rộng lớn
Pháp-giới đều khắp nghe
Bồ-Tát rõ biết được
Khéo vào biển âm-thanh.
Kiếp hải diễn diệu-âm
Diệu-âm đồng không khác
Bực trí khắp ba đời
Vào diệu-âm của Phật.
Thinh-âm của chúng-sanh
Tiếng tự-tại của Phật
Ðều được trí thinh-âm
Tất cả đều rõ được.
Từ địa mà được địa
Trụ ở trong lực-địa
Ức kiếp siêng tu hành
Chỗ được pháp như vậy.
Lúc đó trong chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Huệ-Ðăng-Phổ-Minh thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả chư Như-Lai
Xa lìa các hình tướng
Nếu biết được pháp này
Mới thấy đấng Ðạo-Sư.
Bồ-Tát trong chánh-định
Huệ-Quang khắp sáng rõ
Biết được tất cả Phật
Thể tánh vốn tự-tại.
Thấy Phật thể chơn thật
Thời hộ pháp thậm thâm
Khắp quan-sát pháp-giới
Tùy nguyện mà thọ thân.
Từ nơi biển phước sanh
An-trụ trong trí-địa
Quan-sát tất cả pháp
Tu hành đạo tối-thắng
Trong tất cả Phật-sát
Chỗ tất cả Như-Lai
Khắp pháp-giới như vậy
Ðều thấy thể chơn-thật.
Mười phương cõi rộng lớn
Ức kiếp siêng tu hành
Ði trong chánh-biến-tri
Biển tất cả các pháp.
Chỉ một thân dày cứng
Trong vi-trần đều thấy
Vô-sanh cũng vô-tướng
Hiện khắp trong các cõi.
Tùy tâm của chúng-sanh
Hiện khắp ở trước họ
Hiện các môn điều-phục
Khiến mau đến Phật-đạo.
Do oai-thần của Phật
Xuất hiện các Bồ-Tát
Phật lực thường gia-trì
Thấy khắp các Như-Lai.
Tất cả đấng Ðạo-Sư
Vô-lượng oai-thần-lực
Khai-ngộ các Bồ-Tát
Pháp-giới đều cùng khắp.
Lúc đó trong chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Hoa-Diệm-Kế-Phổ-Minh-Trí, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Trong tất cả quốc-độ
Khắp diễn tiếng vi-diệu
Ca ngợi công-đức Phật
Pháp-giới đều đầy đủ.
Phật dùng pháp làm thân
Thanh-tịnh như hư-không
Hiện ra những sắc hình
Khiến vào trong pháp đó.
Nếu có người tin mừng
Và được Phật nhiếp-thọ
Nên biết người như vầy
Sanh được Phật trí-huệ.
Những người trí kém ít
Không biết được pháp này
Người huệ nhãn thanh-tịnh
Nơi đây mới thấy được.
Do oai-lực của Phật
Quan-sát tất cả pháp
Nhập trụ và lúc xuất
Chỗ thấy đều sáng rõ.
Trong tất cả các pháp
Pháp-môn nhiều vô-biên
Thành-tựu nhứt-thiết-trí
Vào nơi biển pháp-sâu.
An-trụ Phật quốc-độ
Hiện ra tất cả chỗ
Không đến cũng không đi
Pháp chư Phật như vậy.
Tất cả biển chúng-sanh
Phật thân như bóng hiện
Tùy họ hiểu sai khác
Ðều được thấy Ðạo-Sư.
Trong tất cả chân lông
Mỗi mỗi hiện thần-thông
Tu-hành nguyện Phổ-Hiền
Người thanh-tịnh được thấy.
Phật dùng mỗi mỗi thân
Nơi nơi chuyển pháp-luân
Pháp-giới đều cùng khắp
Nghĩ bàn chẳng thể đến.
Lúc đó trong chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Oai-Ðức-Huệ-Vô-Tận-Quang, thừa oai-lực của Phật, quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Trong mỗi mỗi cõi Phật
Nơi nơi ngồi đạo-tràng
Chúng-hội đồng bao quanh
Ma quân đều xô dẹp.
Thân Phật phóng quang-minh
Ðầy khắp cả mười phương
Tùy ưng mà thị hiện
Sắc tướng hiện nhiều thứ.
Trong mỗi mỗi vi-trần
Quang-minh đều đầy đủ
Thấy khắp mười phương cõi
Chúng loại đều sai khác.
Mười phương những quốc-độ
Vô-lượng vô-biên cõi
Ðều bình-thản thanh-tịnh
Ðế-thanh-bửu làm thành.
Hoặc trùm hoặc ở bên
Hoặc giống hoa sen búp
Hoặc tròn hoặc bốn góc
Những hình tướng sai khác.
Cõi nước trong pháp-giới
Ði khắp không chướng ngại
Trong tất cả chúng-hội
Thường chuyển diệu pháp-luân.
Phật thân chẳng nghĩ bàn
Quốc-độ đều ở trong
Nơi tất cả chỗ kia
Nói pháp giáo-hóa chúng.
Diệu pháp-luân đã chuyển
Pháp tánh không sai khác
Nương nơi một thật lý
Diễn thuyết các pháp-tướng.
Phật dùng tiếng viên mãn
Thuyết-minh lý chơn thật
Tùy chúng hiểu sai khác
Hiện vô-tận pháp-môn.
Trong tất cả quốc-độ
Thấy Phật ngồi đạo-tràng
Phật thân như bóng hiện
Sanh diệt bất-khả-đắc.
Lúc đó trong chúng lại có Ðại Bồ-Tát tên Pháp-Giới-Phổ-Minh-Huệ, thừa oai-thần của Phật, quan sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Như-Lai thân vi-diệu
Sắc tướng chẳng nghĩ bàn
Người thấy lòng vui-mừng
Cung-kính tin Phật pháp.
Phật thân tất cả tướng
Ðều hiện vô-lượng Phật
Vào khắp mười phương cõi
Trong mỗi mỗi vi-trần.
Thập phương những quốc-độ
Vô-lượng vô-biên Phật
Ðều riêng hiện thần-thông.
Chư Bồ-Tát đại-trí
Thâm nhập nơi pháp-hải
Phật-lực thường gia-trì
Phương-tiện này biết được.
Nếu người đã an-trụ
Các hạnh nguyện Phổ-Hiền
Thấy những quốc-độ kia
Thần lực của chư Phật.
Nếu người có tin hiểu
Nhẫn đến các đại nguyện
Ðầy đủ trí-huệ sâu
Thông đạt tất cả pháp.
Có thể nơi thân Phật
Mỗi mỗi quan-sát được
Sắc thinh không chướng ngại
Rõ thấu nơi các cảnh.
Có thể nơi thân Phật
An-trụ cảnh trí-huệ
Mau vào Như-Lai địa
Nhiếp khắp cả pháp-giới.
Số vi-trần Phật-sát
Những quốc-độ như vậy
Hay khiến trong một niệm
Hiện trong mỗi vi-trần.
Tất cả những quốc-độ
Nhẫn đến sự thần-thông
Ðều hiện trong một cõi
Sức Bồ-Tát như vậy.
Lúc đó trong chúng có Ðại Bồ-Tát tên Tinh-Tấn-Lực-Vô-Ngại-Huệ, thừa oai-thần của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Phật diễn một diệu-âm
Nghe khắp mười phương cõi
Các tiếng đều đầy đủ
Pháp-vũ đều cùng khắp.
Tất cả biển ngôn từ
Tất cả tiếng tùy loại
Trong tất cả Phật-độ
Chuyển pháp-luân thanh-tịnh.
Tất cả các cõi nước
Ðều thấy Phật thần-biến
Nghe pháp-âm Phật nói
Nghe rồi đến bồ-đề.
Pháp-giới các cõi nước
Trong mỗi mỗi vi-trần
Giải-thoát lực của Phật
Nơi kia khắp hiện thân.
Pháp-thân đồng hư-không
Vô-ngại vô-sai-biệt
Sắc hình như ảnh tượng
Các thứ tướng hiển hiện.
Ảnh-tượng không nơi chỗ
Vô-tánh như hư-không
Người trí-huệ rộng lớn
Rõ thấu tánh bình-đẳng.
Phật-thân bất-khả-thủ
Vô-sanh cũng vô-tác
Ứng vật khắp hiện tiền
Bình-đẳng như hư-không.
Thập phương vô-lượng Phật
Ðều nhập một chân lông
Ðều riêng hiện thần-thông
Trí-nhãn xem thấy được.
Tỳ-Lô-Gía-Na Phật
Nguyện-lực khắp pháp-giới
Trong tất cả quốc-độ
Thường chuyển pháp vô-thượng.
Một lông hiện thần-thông
Tất cả Phật đồng nói
Trải qua vô-lượng kiếp
Ngằn mé không thể hết.
***************************************************************************
Phẩm Phổ Hiền Tam Muội
Thứ Ba
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát ngồi trên tòa sư-tử ở trước Phật, thừa thần-lực của Phật mà nhập tam-muội tên là Nhứt-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai Tạng-Thân, vào khắp tánh bình-đẳng của tất cả Phật, có thể ở nơi pháp-giới thị-hiện những ảnh-tượng rộng lớn vô-ngại đồng hư-không, pháp-giới xoay vần đều theo vào, xuất sanh tất cả tam-muội, có thể bao nạp khắp mười phương pháp-giới, trí quang-minh của tam-thế chư Phật đều từ đây mà sanh những sự an-lập trong mười phương đều có thể thị-hiện, trùm chứa tất cả lực giải-thoát của Phật và trí của chư Bồ-Tát, có thể khiến tất cả quốc-độ vi-trần, đều có thể dung-thọ vô-biên pháp-giới, thành-tựu biển công-đức của tất cả Phật, hiển-thị biển đại nguyện của Như-Lai, bao pháp-luân của tất cả chư Phật đều lưu thông hộ-trì không đoạn tuyệt.
Như trong thế-giới này, Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Phật nhập tam-muội đây, cũng vậy, khắp pháp-giới hư-không-giới, thập phương tam-thế vi-thế vô-ngại quang-minh rộng lớn, Phật nhãn chỗ thấy được, Phật-lực đến được, Phật-thân hiện được, tất cả quốc-độ, trong quốc-độ này có bao vi-trần, trong mỗi vi-trần có thế-giới vi-trần số Phật độ, trong mỗi độ có thế-giới vi-trần số Phật, trước mỗi đức Phật có thế-giới vi-trần Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng đều nhập tam-muội Nhất-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai-Tạng-Thân này.
Lúc đó, trước mỗi Phổ-Hiền Bồ-Tát đều có thập phương tất cả chánh-pháp hiện ra. Chư Phật này đồng khen rằng : lành thay lành thay ! Này thiện-nam-tử ! Ông có thể nhập Nhất-Thiết-Chư-Phật-Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai-Tạng-Thân này.
Này Phật-tử ! Ðây là mười phương tất cả chư Phật đồng gia-hộ cho ông, do vì nguyện-lực của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, mà cũng do nguyện-lực tu tập tất cả Phật-hạnh của ông. Chính là ông có thể chuyển pháp-luân của chư Phật, chiếu khắp những biển an-lập ở mười phương không sót, khiến tất cả chúng-sanh trừ tạp-nhiễm được thanh-tịnh, nhiếp khắp tất cả quốc-độ không chấp trước, sâu vào cảnh-giới của chư Phật không chướng ngại, hiện bày công-đức của chư Phật, vào được thật tướng của các pháp-thân lớn trí-huệ, quan-sát tất cả pháp-môn, rõ biết căn của tất cả chúng-sanh, hay thọ trì giáo văn của Như-Lai.
Lúc đó thập phương tất cả chư Phật liền ban cho Phổ-Hiền Bồ-Tát trí-lực vào được nhất-thiết-trí-tánh, ban cho trí vào pháp-giới vô-biên vô-lượng, ban cho trí thành-tựu cảnh-giới chư Phật, ban cho trí biết tất cả thế-giới thành hoại, ban cho trí biết chúng-sanh giới rộng lớn, ban cho trí trụ những tam-muội giải-thoát thậm thâm vô-sai-biệt của chư Phật, ban cho trí nhập căn tánh của tất cả Bồ-Tát, ban cho trí biết ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh và từ biện chuyển pháp-luân, ban cho trí vào khắp thân pháp-giới, ban cho trí được thinh-âm của tất cả Phật.
Như trong thế-giới này Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trước Như-Lai được chư Phật ban cho những trí như vậy, tất cả Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong vi-trần thế-giới cũng được như vậy. Tại sao thế ? Vì chứng tam-muội đó thời được như vậy.
Lúc đó thập phương chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Tay Phật đủ tướng-hảo trang-nghiêm phóng lưới quang-minh thơm sáng, đồng thời phát ra tiếng vi-diệu và những sự thần-thông tự-tại. Tất cả Phổ-Hiền nguyện-hải của tất cả Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, những pháp-luân thanh-tịnh và ảnh-tượng của tam-thế chư Phật cũng đều hiện cả trong quang-minh ấy.
Tất cả Phổ-Hiền Bồ-Tát trong tất cả thế-giới vi-trần cũng đều được xoa đảnh như vậy.
Bấy giờ, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền từ tam-muội ấy mà xuất, đồng thời cũng từ vi-trần-số tam-muội mà xuất : từ môn tam-muội trí biết tam thế niệm vô-sai-biệt mà xuất, từ môn tam-muội biết số vi-trần trong tam-thế tất cả pháp-giới mà xuất, từ môn tam-muội hiện tam-thế tất cả Phật-độ mà xuất, từ môn tam-muội hiện xá-trạch của tất cả chúng-sanh mà xuất, từ môn tam-muội biết danh-tự sai khác của tất cả chúng-sanh mà xuất, từ môn tam-muội biết thập phương pháp-giới chỗ nơi đều sai khác mà xuất, từ môn tam-muội biết trong tất cả vi-trần đều có vô-biên Phật-thân rộng lớn mà xuất, từ môn tam-muội diễn nói lý-thú của tất cả pháp mà xuất.
Lúc Phổ-Hiền Bồ-Tát từ những môn tam-muội như vậy mà xuất, chư Bồ-Tát đều được thế-giới vi-trần-số tam-muội, được thế-giới vi-trần-số đà-la-ni, được thế-giới vi-trần-số pháp phương-tiện, được thế-giới vi-trần-số môn biện-tài, được thế-giới vi-trần-số môn tu hành, được thế-giới vi-trần-số trí quang-minh công-đức của chư Phật khắp chiếu pháp-giới, được thế-giới vi-trần-số phương-tiện-lực trí-huệ vô-sai-biệt của chư Phật, được thế-giới vi-trần-số hải-vân trong mỗi chân lông của tất cả chư Phật đều hiện các quốc-độ, được thế-giới vi-trần-số hải-vân mỗi Bồ-Tát thị-hiện từ Ðâu-Xuất Thiên-Cung giáng sanh thành Phật chuyển pháp-luân nhập niết-bàn.
Lúc đó, tất cả thế-giới ở mười phương, do thần-lực của Phật và Ðại Bồ-Tát sức tam-muội của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên các báu trang-nghiêm đều lay động nhẹ, đồng thời vang ra diệu-âm diễn nói các pháp. Lại nơi trong chúng hội đạo-tràng của tất cả Như-Lai khắp rưới mười thứ mây đại ma-ni-vương : mây ma-ni-vương kim-tràng vi-diệu, mây ma-ni-vương quang-minh chiếu sáng, mây ma-ni-vương bửu-luân rũ xuống, mây ma-ni-vương bửu-tạng hiện tượng Bồ-Tát, mây ma-ni-vương xưng dương danh hiệu Phật, mây ma-ni-vương quang-minh chiếu sáng thất cả Phật độ đạo-tràng, mây ma-ni-vương chiếu sáng mười phương tất cả biến hóa, mây ma-ni-vương ca ngợi công-đức của tất cả Bồ-Tát, mây ma-ni-vương sáng chói như mặt nhựt, mây ma-ni-vương tiếng nhạc thích ý vang khắp mười phương.
Rưới khắp mười thứ mây ma-ni-vương như vậy rồi trong các chân lông của chư Phật đều phóng quang-minh. Trong quang-minh nói kệ rằng :
Phổ-Hiền ở khắp các quốc-độ
Ngồi bửu-liên-hoa chúng đều thấy
Tất cả thần-thông đều hiện ra
Vô-lượng tam-muội đều hay nhập.
Phổ-Hiền thường dùng các thứ thân
Châu lưu pháp-giới đều đầy khắp
Tam-muội phương-tiện sức thần-thông
Viên-âm rộng nói đều vô-ngại.
Trong tất cả cõi chư Phật ngự
Các môn tam-muội hiện thần-thông
Mỗi mỗi thần-thông đều khắp cùng
Thập phương quốc-độ không chỗ sót.
Như tất cả cõi Như-Lai ngự
Trong sát-trần kia cũng như vậy
Chỗ hiện tam-muội sự thần-thông
Nguyện lực Tỳ-Lô-Giá-Na Phật.
Phổ-Hiền thân tướng như hư-không
Nương chơn tánh ở chẳng phải cõi
Tùy lòng chúng-sanh chỗ thích ưa
Thị-hiện thân hình đồng tất cả.
Phổ-Hiền an-trụ các đại nguyện
Vô-lượng thần-thông sức tự-tại
Tất cả Phật-thân các quốc-độ
Ðều hiện hình kia mà đến đó.
Tất cả sát-hải vô-lượng biên
Phân thân ở đó cũng vô-lượng
Cõi nước hiện ra đều trang-nghiêm
Trong một sát-na thấy nhiều kiếp.
Phổ-Hiền an tất cả cõi
Hiện đại thần-thông hơn tất cả
Chấn động mười phương đều khắp cùng
Khiến chúng quan-sát đều được thấy.
Tất cả công-đức Phật trí-lực
Các môn đại-pháp đều thành đủ
Dùng các tam-muội phương-tiện môn
Bày hạnh bồ-đề mình đã tập.
Tự-tại như vậy bất tư-nghì
Thập phương quốc-độ đều thị-hiện
Vì bày tam-muội đã khắp vào
Trong mây Phật-quang khen công-đức.
Lúc đó, tất cả chúng Bồ-Tát đều hướng về phía Phổ-Hiền chấp tay chiêm ngưỡng, thừa thần-lực của Phật đồng nói kệ rằng :
Từ các Phật-pháp mà sanh ra
Cũng do Như-Lai nguyện-lực khởi
Chơn-như bình-đẳng tạng hư-không
Pháp-thân của ngài đã nghiêm-tịnh.
Tất cả Phật độ trong chúng hội
Phổ-Hiền ở khắp nơi trong đó
Quang-minh công-đức bực trí-hải
Chiếu khắp mười phương đều được thấy.
Phổ-Hiền công-đức biển rộng lớn
Quá khắp mười phương gần gũi Phật
Tất cả vi-trần có các cõi
Ðều đến được kia mà hiện rõ.
Phật-tử chúng tôi thường thấy Ngài
Gần gũi tất cả chư Như-Lai
Trụ trong tam-muội cảnh chơn thật
Số kiếp vi-trần tất cả cõi.
Phật-tử hay dùng thân phổ-biến
Ðều đến thập phương các cõi nước
Biển cả chúng-sanh đều tế độ
Pháp-giới vi-trần đều vào cả.
Vào nơi pháp-giới tất cả trần
Thân đó vô-tận không sai khác
Ví như hư-không đều khắp cùng
Diễn nói Như-Lai pháp rộng lớn.
Bực tất cả công-đức sáng chói
Rộng lớn như mây sức thù thắng
Trong biển chúng-sanh đều qua đến
Nói công-hạnh Phật pháp vô-đẳng.
Vì độ chúng-sanh nơi kiếp hải
Thắng hạnh Phổ-Hiền đều tu tập
Diễn nói các pháp như mây to
Thinh âm quảng-đại đều nghe khắp.
Quốc-độ thế nào mà xuất hiện
Chư Phật thế nào mà xuất hiện
Nhẫn đến tất cả biển chúng-sanh
Mong theo nghĩa đó nói như thật.
Trong đây vô-lượng vô-biên chúng
Ở trước đức Phật đều cung kính
Vì chuyển thanh-tịnh diệu pháp-luân
Tất cả chư Phật đều tùy hỉ.
**************************************************************************
PHẨM THẾ GIỚI THÀNH TỰU
THỨ TƯ
Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát, do thần-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả thế-giới-hải, tất cả chúng-sanh-hải, tất cả chư Phật-hải, tất cả pháp-giới-hải, tất cả chúng-sanh-nghiệp-hải, tất cả chúng-sanh-căn-dục-hải, tất cả chư Phật-pháp-luân-hải, tất cả tam-thế-hải, tất cả Như-Lai nguyện-lực-hải, tất cả Như-Lai thần-biến-hải.
Quan-sát xong, Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo khắp tất cả chư Bồ-Tát trong chúng hội đạo-tràng rằng : 'Chư Phật-tử ! Chư Phật Thế-Tôn có trí-huệ thanh-tịnh bất-tư-nghì biết tất cả thế-giới-hải thành-hoại, biết tất cả chúng-sanh nghiệp-hải, biết tất cả pháp-giới an-lập-hải, nói tất cả vô-biên Phật-hải, vào tất cả căn-dục-hải, một niệm biết khắp tất cả tam-thế, hiển-thị tất cả Như-Lai vô-lượng-nguyện-hải, thị-hiện tất cả Phật thần-biến-hải, chuyển pháp-luân, kiến-lập diễn-thuyết-hải, thanh-tịnh Phật-thân, vô-biên sắc tướng-hải Phổ-chiếu-minh, tướng-hảo và tùy hình-hảo đều thanh-tịnh, vô-biên sắc-tướng quang-minh luân-hải, cụ-túc thanh-tịnh, các thứ sắc-tướng quang-minh vân-hải, thù-thắng bửu-diệm-hải, thành-tựu ngôn âm-hải, thị hiện ba thứ tự-tại điều-phục thành thục tất cả chúng-sanh, dũng mãnh điều-phục chúng-sanh hải không luống qua, an-trụ Phật-địa, vào cảnh-giới Như-Lai, oai-lực hộ-trì, quan-sát tất cả chỗ làm của Phật-trí, trí-lực-viên-mãn không ai điều-phục được, công-đức-vô-úy không ai hơn, trụ nơi tam-muội vô-sai-biệt, thần-thông biến-hóa, trí-thanh-tịnh-tự-tại, tất cả Phật-pháp không ai hủy hoại được.
Tất cả pháp bất-tư-nghì như vậy, tôi sẽ thừa thần-lực của Phật và oai-thần của tất cả Như-Lai mà tuyên-thuyết đầy đủ. Vì muốn khiến chúng-sanh vào trí-huệ-hải của Phật, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát được an-trụ trong biển công-đức của Phật, vì muốn khiến tất cả thế-giới-hải, tất cả Phật tự-tại được trang-nghiêm, vì muốn khiến trong tất cả kiếp-hải chủng-tánh Phật thường chẳng dứt, vì muốn khiến trong tất cả thế-giới-hải hiển thị tánh chơn thật của các pháp, vì muốn khiến tùy vô-lượng sự hiểu biết của chúng-sanh mà diễn-thuyết, vì muốn khiến tùy căn-hải của tất cả chúng-sanh mà phương-tiện làm cho sanh Phật-pháp, vì muốn tùy chỗ ưa thích của tất cả chúng-sanh mà dẹp phá tất cả núi chướng ngại, vì muốn khiến tùy tâm-hành tất cả chúng-sanh khiến tu-tập thanh-tịnh đạo xuất-yếu, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát an-trụ trong nguyện-hải Phổ-Hiền.
Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát lại muốn khiến chúng hội đạo-tràng sanh lòng hoan-hỷ, thêm lớn sự ưa thích đối với tất cả pháp, sanh lòng tin rộng lớn chơn-thật thanh-tịnh pháp-giới-thân, an-lập nguyện-hải Phổ-Hiền tu tập vào trí nhãn tam thế bình-đẳng, thêm lớn trí-huệ chiếu khắp tất cả thế-gian, sanh đức đà-la-ni trì tất cả pháp-luận, và cũng muốn trong tất cả đạo-tràng tất cả Phật cảnh-giới đều khai-thị, mở bày tất cả pháp-môn của Như-Lai, thêm lớn tất cả trí-tánh pháp-giới rộng lớn rất sâu, liền nói kệ rằng :
Trí-huệ công-đức biển rất sâu
Hiện khắp mười phương vô-lượng cõi
Tùy các chúng-sanh chỗ nên thấy
Quang-minh soi khắp chuyển pháp-luân.
Thập phương quốc-độ bất-tư-nghì
Phật vô-lượng kiếp đều nghiêm tịnh
Vì độ chúng-sanh khiến thành thục
Xuất hiện tất cả các quốc-độ.
Phật cảnh rất sâu khó nghĩ được
Khắp dạy chúng-sanh khiến được vào
Lòng họ thích nhỏ chấp hữu-lậu
Chẳng thông đạt được cảnh-giới Phật.
Nếu có lòng tin trong sạch chắc
Thường được gần gũi thiện-tri-thức
Tất cả chư Phật hộ niệm cho
Ðây mới được vào Như-Lai trí.
Lìa các dua dối lòng thanh-tịnh
Thường thích từ-bi tánh hoan-hỷ
Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu
Kia nghe pháp này lòng vui đẹp.
An-trụ Phổ-Hiền những hạnh nguyện
Tu hành Bồ-tát đạo thanh-tịnh
Quan-sát pháp-giới như hư-không
Bèn biết được chỗ làm của Phật.
Chư Bồ-Tát đây được lợi lành
Thấy Phật tất cả thần-thông-lực
Tu những đạo khác không biết được
Học hạnh Phổ-Hiền mới tỏ ngộ.
Chúng-sanh rộng lớn vốn vô-biên
Như-Lai tất cả đều hộ-niệm
Chuyển chánh-pháp-luân khắp mọi nơi
Cảnh-giới Tỳ-Lô-Gía-Na Phật.
Tất cả cõi nước vào thân tôi
Chỗ chư Phật ngự cũng như vậy
Chúng nên xem các chân lông tôi
Nay tôi hiện bày cảnh-giới Phật.
Phổ-Hiền hạnh nguyện không ngằn mé
Tôi đã tu hành được đầy đủ
Cảnh-giới phổ-nhãn thân rộng lớn
Là Phật chỗ làm phải nghe kỹ.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có mười việc mà chư Phật trong ba đời quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đã nói, hiện nói và sẽ nói.
Những gì là mười ?
Chính là nhơn-duyên khởi thế-giới-hải, chỗ trụ-nương của thế-giới-hải, hình-trạng của thế-giới-hải, thể-tánh của thế-giới-hải, sự trang-nghiêm của thế-giới-hải, sự thanh-tịnh của thế-giới-hải, Phật xuất hiện nơi thế-giới-hải, kiếp trụ của thế-giới-hải, kiếp chuyển biến sai biệt của thế-giới-hải, môn vô-sai-biệt của thế-giới-hải.
Chư Phật-tử ! Lược nói thế-giới-hải có mười việc này. Nếu nói rộng ra thời đồng với thế-giới-hải vi-trần-số mà tam-thế chư Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói.
Chư Phật-tử ! Lược nói do mười thứ nhơn-duyên mà tất cả thế-giới-hải đã thành, hiện thành và sẽ thành. Chính là do vì thần-lực của Như-Lai, vì pháp phải như vậy, vì hạnh nghiệp của tất cả chúng-sanh, vì chỗ sở đắc của tất cả Bồ-Tát thành nhứt-thiết-trí, vì các chúng-sanh và chư Bồ-Tát đồng chứa nhóm thiện-căn, vì nguyện-lực nghiêm-tịnh Phật-độ của chư Bồ-Tát, vì hạnh-nguyện thành-tựu bất-thối của chư Bồ-Tát, vì thắng-giải tự-tại thanh-tịnh của chư Bồ-Tát, vì chỗ lưu-xuất do thiện-căn của chư Như-Lai và thế-lực tự-tại lúc chư Phật thành đạo, vì nguyện-lực tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Ðó là lược nói mười thứ nhơn-duyên. Nếu rộng nói thời có thế-giới-hải vi-trần-số.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương mà nói kệ rằng :
Ðã nói vô-biên sát-độ-hải
Tỳ-Lô-Gía-Na đều nghiêm-tịnh
Thế-Tôn cảnh-giới bất-tư-nghì
Trí-huệ thần-thông-lực như vậy.
Bồ-Tát tu hành những nguyện-hải
Khắp tùy chúng-sanh tâm chỗ muốn
Chúng-sanh tâm hạnh rộng vô-biên
Bồ-Tát quốc-độ khắp mười phương
Bồ-Tát thẳng đến nhứt-thiết-trí
Siêng tu các môn tự-tại-lực
Vô-lượng nguyện-hải khắp xuất sanh
Sát-độ rộng lớn đều thành-tựu.
Tu những hạnh-hải vô-lượng-biên
Vào cảnh-giới Phật cũng vô-lượng
Thanh-tịnh thập phương các cõi nước
Mỗi mỗi cõi trải vô-lượng kiếp.
Chúng-sanh phiền-não làm loạn đục
Phân biệt ưa thích chẳng phải một
Tùy tâm tạo nghiệp bất-tư-nghì
Tất cả sát-hải đầy thành lập.
Phật tử sát-hải tạng trang-nghiêm
Ly-cấu quang-minh báu làm thành
Ðây do rộng lớn tâm tín hải
Chỗ ở mười phương đều như vậy.
Bồ-Tát hay tu hạnh Phổ-Hiền
Du hành pháp-giới vi-trần đạo
Trong trần đều hiện vô-lượng cõi
Rộng lớn thanh-tịnh như hư-không.
Khắp cõi hư-không hiện thần-thông
Ðều đến đạo-tràng chỗ chư Phật
Trên tòa liên-hoa hiện các tướng
Mỗi thân bao trùm tất cả cõi.
Một niệm hiện khắp nơi tam-thế
Tất cả sát-hải đều thành lập
Phật dùng phương-tiện đều vào trong
Là Phật Tỳ-Lô chỗ nghiêm-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số chỗ nương trụ. Hoặc nương tất cả trang-nghiêm mà trụ. Hoặc nương hư-không mà trụ. Hoặc nương bửu-quang-minh mà trụ. Hoặc nương bửu-sắc quang-minh mà trụ. Hoặc nương thinh-âm chư Phật mà trụ. Hoặc nương Kim-Cang hình đại-lực a-tu-la chúng-sanh như huyễn mà trụ. Hoặc nương thân các Thế-Chủ mà trụ. Hoặc nương thân chư Bồ-Tát mà trụ. Hoặc nương tất cả biển trang-nghiêm sai khác hạnh-nguyện Phổ-Hiền mà trụ.
Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có thế-giới vi-trần-số chỗ nương trụ như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Khắp cả mười phương cõi hư-không
Chỗ có tất cả những quốc-độ
Như-Lai thần-lực thường gia-trì
Khắp nơi hiện tiền đều thấy được.
Hoặc có các thứ những quốc-độ
Ðều do ly-cấu-bửu làm thành
Ma-ni thanh-tịnh rất tốt xinh
Quang-minh sáng rỡ khắp hiển hiện.
Hoặc có cõi nước sáng thanh-tịnh
Nương hư-không giới mà an-trụ
Hoặc ở trong biển ma-ni bửu
Lại có an-trụ tạng quang-minh.
Như-Lai ở trong chúng hội này
Diễn thuyết pháp-luân đều xảo diệu
Cảnh-giới chư Phật rộng vô-biên
Chúng-sanh được thấy lòng hoan hỷ.
Có cõi nghiêm-sức bằng ma-ni
Hình như đèn sáng giăng cùng khắp
Lửa thơm mây sáng màu chói rực
Lưới báu sáng chói dùng phủ che.
Hoặc có quốc-độ không ngằn mé
An-trụ liên-hoa biển lớn sâu
Rộng rãi thanh-tịnh khác thế-gian
Chư Phật diệu-thiện trang-nghiêm đó.
Hoặc có quốc-độ theo luân chuyển
Do Phật oai-thần được an-trụ
Ðại-chúng Bồ-Tát đều ở trong
Thường thấy vô-lượng báu rộng lớn.
Có cõi nước ở tay kim-cang
Hoặc cõi nước ở thân Thiên-Chúa
Tỳ-Lô-Gía-Na đấng vô-thượng
Thường ở cõi này chuyển pháp-luân.
Hoặc nương cây báu trụ bằng thẳng
Trong mây sáng thơm cũng như vậy
Có cõi nương trong những biển lớn
Hoặc trụ kim-cang rất bền chắc.
Có cõi nương-trụ kim-cang tràng
Có cõi trụ trong biển Hoa-Tạng
Thần biến rộng lớn khắp các nơi
Tỳ-Lô-Giá-Na Phật hay hiện.
Hoặc dài hoặc vắn vô-lượng thứ
Tướng đó xoay vần cũng chẳng đồng
Hoa-tạng trang-nghiêm khác thế-gian
Tu hành thanh-tịnh mới thấy được.
Các cõi như vậy đều sai khác
Tất cả đều nương nguyện-hải trụ
Hoặc có cõi thường ở hư-không
Chư Phật như mây đều đầy khắp.
Có ở hư-không lưới che trùm
Hoặc lúc hiện ra hoặc không hiện
Hoặc có cõi nước rất thanh-tịnh
Trụ trong bửu-quan của Bồ-Tát.
Thập phương chư Phật thần-thông lớn
Tất cả đều hiện thấy trong đây
Chư Phật thinh âm đều cùng khắp
Ðây do nghiệp-lực mà hóa hiện.
Hoặc có cõi nước khắp pháp-giới
Ly-cấu thanh-tịnh tùng tâm khởi
Như-ảnh như-huyễn rộng vô-biên
Như lưới thiên-đế đều sai khác.
Hoặc hiện các thứ tạng trang-nghiêm
Hoặc ở hư-không mà kiến-lập
Nghiệp-chơn cảnh-giới chẳng nghĩ bàn
Phật-lực hiển-thị đều khiến thấy.
Trong mỗi cõi nước số vi-trần
Niệm niệm thị hiện những Phật-độ
Số đều vô-lượng khắp chúng-sanh
Phổ-Hiền chỗ làm thường như vậy.
Vì muốn thành-thục các chúng-sanh
Trong đây tu hành trải kiếp-hải
Thần-thông rộng lớn hiện khắp nơi
Trong các pháp-giới đều cùng khắp.
Pháp-giới quốc-độ mỗi vi-trần
Những cõi nước lớn ở trong đó
Phật-vân bình-đẳng đều giăng che
Tất cả mọi nơi đều đầy đủ.
Lực dụng tự-tại trong mỗi trần
Tất cả vi-trần cũng như vậy
Chư Phật Bồ-Tát đại thần-thông
Tỳ-Lô-Giá-Na đều hay hiện.
Tất cả quốc-độ rộng vô-biên
Như ảnh, như huyễn như dương-diệm
Mười phương chẳng thấy từ đâu sanh
Cũng không có chỗ đi và đến.
Diệt hoại sanh thành xoay vần mãi
Trong cõi hư-không chẳng tạm dừng
Tất cả đều do nguyện thanh-tịnh
Cũng do nghiệp lực chỗ giữ-gìn.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn, hoặc vuông, hoặc chẳng phải tròn vuông, hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như núi, hoặc hình như cây, hình như bông, hoặc hình như cung điện, như hình chúng-sanh, như hình Phật, có thế-giới vi-trần-số hình sai khác như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương, rồi nói kệ rằng :
Vô-lượng quốc-độ sai khác nhau
Vô-lượng trang-nghiêm vô-lượng trụ
Hình trạng sai khác khắp mười phương
Các ngài đều nên đồng quan-sát.
Hình kia hoặc tròn hoặc vuông vức
Hoặc có ba góc và tám cạnh
Hình châu ma-ni hình liên-hoa
Tất cả đều do nghiệp mà khác.
Có cõi thanh-tịnh sáng trang-nghiêm
Vàng ròng xen lẫn nhiều tốt đẹp
Cửa nẻo mở trống không bít lấp
Ðây do nghiệp rộng ý tinh thuần.
Sát-hải vô-biên tạng sai khác
Ví như mây bủa giữa không gian
Bửu-châu trải đất trang-nghiêm tốt
Ở trong quang-minh sáng của Phật.
Tất cả quốc-độ tâm phân biệt
Quang-minh soi đến mà hiện ra
Chư Phật ở trong những cõi ấy
Nơi nơi thị-hiện thần-thông-lực.
Có cõi tạp-nhiễm hoặc thanh-tịnh
Chịu khổ hưởng vui đều sai khác
Ðây do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn
Các pháp lưu-chuyển thường như vậy.
Trong một chân lông vô-lượng cõi
Như số-vi-trần mà an-trụ
Mỗi cõi đều có đấng Thế-Tôn
Ở trong chúng-hội tuyên diệu pháp.
Trong mỗi vi-trần cõi lớn nhỏ
Nhiều loại sai khác số vi-trần
Bằng phẳng cao thấp đều chẳng đồng
Phật đều qua đến mà thuyết pháp.
Tất cả vi-trần hiện quốc-độ
Ðều là bổn nguyện thần-thông-lực
Tùy lòng ưa thích sai khác nhau
Trong khoảng hư-không đều làm được.
Tất cả quốc-độ những vi-trần
Trong mỗi vi-trần Phật đều nhập
Khắp vì chúng-sanh hiện thần-thông
Tỳ-Lô-Giá-Na pháp như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có các loại thể. Hoặc dùng tất cả bửu trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng một bửu-trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu quang-minh làm thể. Hoặc dùng các thứ sắc quang-minh làm thể. Hoặc dùng tất cả quang-minh trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng kim-cang làm thể. Hoặc dùng Phật-lực nhiếp-trì làm thể. Hoặc dùng tướng diệu-bửu làm thể. Hoặc dùng Phật biến-hóa làm thể. Hoặc dùng nhựt ma-ni làm thể. Hoặc dùng cực-vi-trần bửu làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu-diệm làm thể. Hoặc dùng các thứ hương làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-quan làm thể. Hoặc dùng bửu ảnh-ượng làm thể. Hoặc dùng trang-nghiêm thị-hiện làm thể. Hoặc dùng nhứt âm thị-hiện cảnh-giới làm thể. Hoặc dùng bửu hình Bồ-Tát làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-nhụy làm thể. Hoặc dùng ngôn-âm của Phật làm thể. Có thế-giới vi-trần số thể như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Hoặc có những quốc-độ
Diệu-bửu hiệp lại thành
Bền chắc không hư-hoại
Ðều ở bửu-liên-hoa.
Hoặc là bửu-quang-minh
Xuất-sanh chẳng biết được
Tất cả quang trang-nghiêm
Nương hư-không mà ở.
Hoặc tịnh-quang làm thể
Lại nương quang-minh ở
Mây sáng làm trang-nghiêm
Chỗ Bồ-Tát đi đến.
Hoặc có những quốc-độ
Từ nơi nguyện-lực sanh
An-trụ như ảnh tượng
Ðem nói chẳng thể được.
Hoặc ma-ni hiệp-thành
Chói sáng như mặt trời
Bảo châu dùng trang-nghiêm
Bồ-Tát đều đầy khắp.
Bửu-diệm thành quốc-độ
Mây sáng trùm trên đó
Bửu-quang rất xinh đẹp
Ðều do nghiệp cảm nên.
Hoặc từ tướng tốt sanh
Các tướng trang-nghiêm đẹp
Như mão tốt đội đầu
Ðây do Phật hóa hiện.
Hoặc từ tâm niệm sanh
Tùy tâm chỗ hiểu biết
Như huyễn không chỗ nơi
Tất cả là phân biệt.
Hoặc do Phật quang-minh
Ma-ni-quang làm thể
Chư Phật hiện trong đó
Ðều thị-hiện thần-thông.
Hoặc Phổ-Hiền Bồ-Tát
Hóa hiện các quốc-độ
Dùng nguyện-lực trang-nghiêm
Tất cả đều tốt đẹp.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! nên biết thế-giới-hải có nhiều loại trang-nghiêm. Hoặc dùng trong những đồ trang-nghiêm hiện ra mây đẹp nhứt để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết-minh công-đức của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết minh nghiệp báo của tất cả chúng-sanh để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện nguyện-lực của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng biểu-thị ảnh-tượng của tam thế chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng trong một khoảng một niệm thị-hiện cảnh-giới thần-thông trải vô-biên kiếp để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện thân của chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện tất cả mây hương báu để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện những vật trân diệu quang-minh chiếu sáng trong tất cả đạo-tràng để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện tất cả Phổ-Hiền hạnh nguyện để trang-nghiêm.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Sát-hải rộng lớn vô-lượng-biên
Thành nên đều do nghiệp thanh-tịnh
Nhiều thứ trang-nghiêm nhiều nơi ở
Tất cả mười phương đều đầy khắp.
Vô-biên sắc tướng mây báu sáng
Rộng lớn trang-nghiêm chẳng phải một
Mười phương sát-hải thường xuất hiện
Khắp dùng diệu-âm mà thuyết pháp.
Bồ-Tát vô-biên biển công-đức
Những nguyện rộng lớn để trang-nghiêm
Khắp cõi đồng thời vang diệu-âm
Chấn động mười phương các quốc-độ.
Chúng-sanh biển nghiệp rộng vô-lượng
Tùy kia cảm báo đều chẳng đồng
Trong tất cả chỗ được trang-nghiêm
Ðều do chư Phật hay diễn thuyết.
Tất cả Như-Lai trong ba thuở
Thần-thông hiện khắp thế-giới-hải
Trong mỗi sự có tất cả Phật
Các ngài xem sự trang-nghiêm đó.
Quá-khứ, vị-lai, kiếp hiện-tại
Mười phương tất cả những quốc-độ
Những sự trang-nghiêm ở nơi kia
Ðều thấy ở trong một cõi nước.
vô-lượng Phật trong tất cả sự
Số đồng chúng-sanh khắp thế-gian
Vì khiến điều-phục hiện thần-thông
Dùng đây trang-nghiêm thế-giới-hải.
Tất cả trang-nghiêm tuôn mây đẹp
Nhiều thứ mây hoa mây hương sáng
Mây báu ma-ni thường xuất hiện
Sát-hải dùng đây để trang-nghiêm.
Mười phương những nơi Phật thành-đạo
Các thứ trang-nghiêm đều đầy đủ
Phóng-quang chiếu xa như mây sáng
Trong thế-giới-hải đều khiến thấy.
Phổ-Hiền hạnh-nguyện chư Bồ-Tát
Vô-biên kiếp hải siêng tu tập
Vô-biên quốc-độ đều trang-nghiêm
Trong tất cả chỗ đều hiển hiện.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số môn phương-tiện thanh-tịnh. Chính là do thiện-căn của chư Bồ-Tát gần gũi thiện-trí-thức. Do thêm lớn những công-đức khắp pháp-giới. Do tu-tập những thắng-giải rộng lớn. Do quan-sát cảnh-giới của tất cả Bồ-Tát mà an-trụ. Do tu-tập những môn ba-la-mật đều viên-mãn. Do quán-sát những địa-vị của chư Bồ-Tát mà nhập trụ. Do xuất sanh tất cả thệ nguyện thanh-tịnh. Do tu-tập những hạnh xuất-yếu. Do nhập tất cả biển trang-nghiêm. Do thành-tựu sức phương-tiện thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả cõi nước những trang-nghiêm
Do nguyện lực phương-tiện sanh ra
Tất cả quốc-độ thường chói sáng
Vô-lượng nghiệp thanh-tịnh hiện thành.
Bồ-Tát lâu xa gần trí-thức
Ðồng tu nghiệp lành đều thanh-tịnh
Từ-bi rộng lớn khắp chúng-sanh
Dùng dây trang-nghiêm các quốc-độ.
Tất cả pháp-môn những tam-muội
Thiền-định giải-thoát môn phương-tiện
Nơi chỗ chư Phật đều tu hành
Do đây sanh ra những quốc-độ.
Phát sanh vô-lượng trí thắng-giải
Hiểu được Như-Lai đồng không khác
Phương-tiện nhẫn nhục đã tu hành
Nên nghiêm-tịnh được vô-biên cõi.
Vì lợi chúng-sanh tu thắng hạnh
Phước-đức rộng lớn thường tăng-trưởng
Ví như mây bủa khắp hư-không
Tất cả quốc-độ đều thành-tựu.
Môn ba-la-mật nhiều vô-lượng
Ðều đã tu hành khiến đầy đủ
Nguyện ba-la-mật vô-cùng tận
Quốc-độ thanh-tịnh từ đây sanh.
Những pháp vô-thượng đều tu hành
Sanh ra vô-biên hạnh xuất-yếu
Nhiều môn phương-tiện độ chúng-sanh
Như vậy trang-nghiêm các quốc-độ.
Tu-tập trang-nghiêm môn phương-tiện
Chứng Phật công-đức biển pháp-môn
Khiến khắp chúng-sanh cạn nguồn khổ
Cõi nước rộng lớn đều thành tựu.
Nguyện lực rộng lớn không gì sánh
Khiến khắp chúng-sanh gieo thiện căn
Cúng-dường tất cả chư Như-Lai
Vô-biên quốc-độ đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số Phật xuất hiện sai khác : hoặc hiện thân nhỏ, hoặc hiện thân lớn, hoặc hiện đoản-thọ, hoặc hiện trường-thọ, hoặc chỉ nghiêm-tịnh một quốc-độ, hoặc hiện nghiêm-tịnh vô-lượng quốc-độ, hoặc chỉ hiển thị pháp nhứt-thừa, hoặc hiển thị vô-lượng thừa, hoặc hiện điều-phục thiểu số chúng-sanh, hoặc hiện điều-phục vô-biên chúng-sanh, có vi-trần số sai khác như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Chư Phật có các môn phương-tiện
Xuất hiện tất cả những quốc-độ
Ðều tùy sở thích của chúng-sanh
Ðây là Như-Lai quyền-lực khéo.
Pháp-thân chư Phật bất-tư-nghì
Không sắc, không hình, không ảnh tượng
Vì chúng-sanh hiện tướng sai khác
Theo lòng họ ưa khiến họ thấy.
Hoặc vì chúng-sanh hiện đoản-thọ
Hoặc hiện trường-thọ vô-lượng kiếp
Pháp thân mười phương khắp hiện-tiền
Trong thế-gian tùy nghi xuất hiện.
Hoặc hiện nghiêm-tịnh bất-tư-nghì
Mười phương vô-biên các quốc-độ
Hoặc chỉ nghiêm-tịnh một cõi nước
Nơi một thị-hiện đủ không sót.
Hoặc tùy sở thích của chúng-sanh
Thị-hiện vô-lượng vô-biên thừa
Hoặc chỉ tuyên-thuyết pháp nhứt thừa
Trong một thừa hiện vô-lượng pháp.
Hoặc hiện tự nhiên thành chánh-giác
Ðộ thiểu số người vào chánh-pháp
Hoặc lại thị-hiện trong một niệm
Khai ngộ quần-sanh vô-lượng số.
Hoặc nơi chưn lông tuôn mây sáng
Thị-hiện vô-lượng vô-biên Phật
Tất cả thế-gian đều hiện thấy
Các môn phương-tiện độ quần-sanh.
Hoặc hiện thinh âm khắp mọi nơi
Tùy lòng họ ưa mà thuyết pháp
Vô-lượng vô-biên những đại kiếp
Ðiều-phục vô-lượng các chúng-sanh.
Phật có vô-lượng cõi trang-nghiêm
Chúng-hội thanh-tịnh ngồi nghiêm chỉnh
Phật như vầng mây che trong đó
Thập phương quốc-độ đều đầy khắp.
Chư Phật phương-tiện bất-tư-nghì
Tùy tâm chúng-sanh hiện ra trước
Ngự trong các cõi rất trang-nghiêm
Tất cả quốc-độ đều cùng khắp.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp-trụ, hoặc có vô-biên kiếp-trụ, hoặc có vô-đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-xung-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-tư kiếp trụ, hoặc có bất-khả-lượng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp trụ, có vi-trần số kiếp trụ như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Trong thế-giới-hải nhiều kiếp trụ
Phương-tiện rộng lớn để trang-nghiêm
Mười phương cõi nước đều xem thấy
Số lượng sai khác đều rành rẽ.
Tôi thấy mười phương thế-giới-hải
Kiếp số vô-lượng đồng chúng-sanh
Hoặc dài hoặc vắn hoặc vô-biên
Dùng Phật thinh âm nay diễn nói.
Hoặc thấy mười phương những quốc-độ
Hoặc trụ quốc-độ vi-trần kiếp
Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số
Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng.
Hoặc có thuần tịnh hoặc thuần nhiễm
Hoặc lại nhiễm tịnh chung lộn lạo
Nguyện-lực an lập nhiều sai khác
Trong tâm chúng-sanh mà an-trụ.
Thuở xưa tu hành vi-trần kiếp
Ðược thế-giới-hải thanh-tịnh lớn
Cảnh-giới chư Phật đều trang-nghiêm
Trụ mãi vô-biên kiếp rộng lớn
Dùng bửu quang-minh để đặt tên
Hoặc tên Ðẳng-Âm-Diệm-Nhãn-Tạng
Tên Ly-Quang-Minh và Hiền-Kiếp
Kiếp thanh-tịnh này nhiếp tất cả.
Có kiếp thanh-tịnh một Phật hiện
Hoặc trong một kiếp nhiều Phật hiện
Vô-tận phương-tiện đại-nguyện-lực
Vào trong tất cả thời gian kiếp.
Hoặc vô-lượng kiếp và một kiếp
Hoặc lại một kiếp vào nhiều kiếp
Tất cả kiếp hải phương-tiện môn
Thập phương quốc-độ đều hiện rõ.
Hoặc tất cả kiếp sự trang-nghiêm
Ở trong một kiếp đều hiện thấy
Hoặc sự trang-nghiêm trong một kiếp
Vào khắp tất cả vô-biên kiếp.
Trước từ một niệm sau thành kiếp
Sanh ra đều do tâm chúng-sanh
Tất cả quốc-độ kiếp vô-biên
Dùng một phương-tiện đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số kiếp chuyển biến sai khác. Như là vì pháp như vậy nên thế-giới-hải có vô-lượng kiếp thành, kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng-sanh nhiễm-ô ở nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-ô chuyển biến. Vì chúng-sanh tu phước rộng lớn ở, nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-tịnh chuyển biến. Vì tín-giải Bồ-Tát ở, nên thế-giới-hải thành-kiếp nhiễm-tịnh chuyển-biến. Vì vô-lượng chúng-sanh phát bồ-đề-tâm nên thế-giới-hải thuần kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Vì thập phương tất cả chư Bồ-Tát vân tập nên thế-giới-hải vô-lượng kiếp đại trang-nghiêm chuyển biến. Vì chư Phật Thế-Tôn nhập Niết-bàn nên thế-giới-hải kiếp trang-nghiêm diệt chuyển biến. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế-giới-hải kiếp rộng lớn trang-nghiêm thanh-tịnh chuyển biến. Vì Như-Lai thần-thông biến hóa nên thế-giới-hải kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Có vi-trần số kiếp chuyển biến như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng :
Tất cả những quốc-độ
Ðều tùy nghiệp-lực sanh
Các ngài nên quan-sát
Tướng chuyển biến như vậy.
Những chúng-sanh nhiễm ô
Nghiệp phiền-não đáng sợ
Tâm họ khiến quốc-độ
Tất cả thành nhiễm ô.
Nếu có tâm thanh-tịnh
Tu những hạnh phước-đức
Tâm họ khiến quốc-độ
Tạp nhiễm và thanh-tịnh.
Chư Bồ-Tát tín-giải
Sanh vào trong kiếp kia
Tùy tâm Bồ-Tát này
Quốc-độ đủ tịnh nhiễm.
Vô-lượng số chúng-sanh
Ðều phát bồ-đề tâm
Tâm họ khiến quốc-độ
Trụ kiếp thường thanh-tịnh.
Vô-lượng ức Bồ-Tát
Qua đến mười phương cõi
Trang-nghiêm không có khác
Trong kiếp thấy sai khác.
Trong mỗi mỗi vi-trần
Bồ-Tát đồng vân tập
Quốc-độ đều thanh-tịnh.
Thế-Tôn nhập Niết-bàn
Cõi đó dứt trang-nghiêm
Chúng-sanh không pháp-khí
Thế-giới thành tạp-nhiễm.
Nếu có Phật ra đời
Cõi nước đều tốt đẹp
Tùy theo tâm thanh-tịnh
Ðầy đủ sự trang-nghiêm.
Thần-thông của chư Phật
Thị-hiện bất-tư-nghì
Lúc đó những quốc-độ
Tất cả đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số sai biệt. Như là trong mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số thế-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật xuất hiện oai-đức thần-lực vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả đạo-tràng khắp thập phương pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải quang-minh của chư Phật khắp pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chúng hội đạo-tràng của chư Phật vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật biến hóa danh-hiệu vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải thinh-âm của chư Phật khắp thế-giới-hải vô-biên kiếp trụ vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải pháp-luân phương-tiện vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả thế-giới-hải vào khắp một vi-trần vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải mỗi vi-trần cảnh-giới rộng lớn của tất cả tam thế chư Phật đều hiện trong đó vô-sai-biệt. Có vi-trần số vô-sai-biệt như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Trong một vi-trần nhiều sát-hải
Chỗ nơi riêng khác đều nghiêm-tịnh
Vô-lượng như vậy và một cõi
Mỗi mỗi chia khác không xen tạp.
Trong mỗi vi-trần vô-lượng Phật
Tùy tâm chúng-sanh khắp hiện-tiền
Tất cả quốc-độ đều cùng khắp
Phương-tiện như vậy vô-sai-biệt.
Trong mỗi vi-trần những thọ vương
Nhiều thứ trang-nghiêm đều thòng rủ
Thập phương quốc-độ đều đồng hiện
Tất cả như vậy vô-sai-biệt.
Trong mỗi trần có vị-trần chúng
Cùng nhau bao quanh đức Thế-Tôn
Siêu-việt tất cả khắp thế-gian
Cũng chẳng chật hẹp tạp loạn nhau.
Trong mỗi trần có vô-lượng quang
Chiếu khắp mười phương các cõi nước
Ðều hiện chư Phật hạnh bồ-đề
Tất cả sát-độ vô-sai-biệt.
Trong mỗi trần có vô-lượng thân
Biến hóa như mây đều cùng khắp
Phật dùng thần-thông độ chúng-sanh
Thập phương quốc-độ vô-sai-biệt.
Trong mỗi trần diễn nói các pháp
Pháp đó thanh-tịnh như luân chuyển
Các môn phương-tiện đều tự-tại
Tất cả diễn thuyết vô-sai-biệt.
Một trần diễn khắp tiếng chư Phật
Ðầy khắp pháp-khí các chúng-sanh
Trụ khắp sát-hải vô-biên kiếp
Thinh-âm như vậy cũng không khác.
Sát-hải vô-lượng trang-nghiêm đẹp
Trong mỗi vi-trần tam-thế Phật
Tùy chỗ sở-thích đều khiến thấy
Thể-tánh không đến cũng không đi
Do nơi nguyện-lực khắp thế-gian.
**************************************************************************
Phẩm Thế Giới Thành Tựu
Thứ Tư
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát ma-ha-tát, do thần-lực của Phật, quan-sát khắp tất cả thế-giới-hải, tất cả chúng-sanh-hải, tất cả chư Phật-hải, tất cả pháp-giới-hải, tất cả chúng-sanh-nghiệp-hải, tất cả chúng-sanh-căn-dục-hải, tất cả chư Phật-pháp-luân-hải, tất cả tam-thế-hải, tất cả Như-Lai nguyện-lực-hải, tất cả Như-Lai thần-biến-hải.
Quan-sát xong, Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo khắp tất cả chư Bồ-Tát trong chúng hội đạo-tràng rằng : 'Chư Phật-tử ! Chư Phật Thế-Tôn có trí-huệ thanh-tịnh bất-tư-nghì biết tất cả thế-giới-hải thành-hoại, biết tất cả chúng-sanh nghiệp-hải, biết tất cả pháp-giới an-lập-hải, nói tất cả vô-biên Phật-hải, vào tất cả căn-dục-hải, một niệm biết khắp tất cả tam-thế, hiển-thị tất cả Như-Lai vô-lượng-nguyện-hải, thị-hiện tất cả Phật thần-biến-hải, chuyển pháp-luân, kiến-lập diễn-thuyết-hải, thanh-tịnh Phật-thân, vô-biên sắc tướng-hải Phổ-chiếu-minh, tướng-hảo và tùy hình-hảo đều thanh-tịnh, vô-biên sắc-tướng quang-minh luân-hải, cụ-túc thanh-tịnh, các thứ sắc-tướng quang-minh vân-hải, thù-thắng bửu-diệm-hải, thành-tựu ngôn âm-hải, thị hiện ba thứ tự-tại điều-phục thành thục tất cả chúng-sanh, dũng mãnh điều-phục chúng-sanh hải không luống qua, an-trụ Phật-địa, vào cảnh-giới Như-Lai, oai-lực hộ-trì, quan-sát tất cả chỗ làm của Phật-trí, trí-lực-viên-mãn không ai điều-phục được, công-đức-vô-úy không ai hơn, trụ nơi tam-muội vô-sai-biệt, thần-thông biến-hóa, trí-thanh-tịnh-tự-tại, tất cả Phật-pháp không ai hủy hoại được.
Tất cả pháp bất-tư-nghì như vậy, tôi sẽ thừa thần-lực của Phật và oai-thần của tất cả Như-Lai mà tuyên-thuyết đầy đủ. Vì muốn khiến chúng-sanh vào trí-huệ-hải của Phật, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát được an-trụ trong biển công-đức của Phật, vì muốn khiến tất cả thế-giới-hải, tất cả Phật tự-tại được trang-nghiêm, vì muốn khiến trong tất cả kiếp-hải chủng-tánh Phật thường chẳng dứt, vì muốn khiến trong tất cả thế-giới-hải hiển thị tánh chơn thật của các pháp, vì muốn khiến tùy vô-lượng sự hiểu biết của chúng-sanh mà diễn-thuyết, vì muốn khiến tùy căn-hải của tất cả chúng-sanh mà phương-tiện làm cho sanh Phật-pháp, vì muốn tùy chỗ ưa thích của tất cả chúng-sanh mà dẹp phá tất cả núi chướng ngại, vì muốn khiến tùy tâm-hành tất cả chúng-sanh khiến tu-tập thanh-tịnh đạo xuất-yếu, vì muốn khiến tất cả Bồ-Tát an-trụ trong nguyện-hải Phổ-Hiền.
Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát lại muốn khiến chúng hội đạo-tràng sanh lòng hoan-hỷ, thêm lớn sự ưa thích đối với tất cả pháp, sanh lòng tin rộng lớn chơn-thật thanh-tịnh pháp-giới-thân, an-lập nguyện-hải Phổ-Hiền tu tập vào trí nhãn tam thế bình-đẳng, thêm lớn trí-huệ chiếu khắp tất cả thế-gian, sanh đức đà-la-ni trì tất cả pháp-luận, và cũng muốn trong tất cả đạo-tràng tất cả Phật cảnh-giới đều khai-thị, mở bày tất cả pháp-môn của Như-Lai, thêm lớn tất cả trí-tánh pháp-giới rộng lớn rất sâu, liền nói kệ rằng :
Trí-huệ công-đức biển rất sâu
Hiện khắp mười phương vô-lượng cõi
Tùy các chúng-sanh chỗ nên thấy
Quang-minh soi khắp chuyển pháp-luân.
Thập phương quốc-độ bất-tư-nghì
Phật vô-lượng kiếp đều nghiêm tịnh
Vì độ chúng-sanh khiến thành thục
Xuất hiện tất cả các quốc-độ.
Phật cảnh rất sâu khó nghĩ được
Khắp dạy chúng-sanh khiến được vào
Lòng họ thích nhỏ chấp hữu-lậu
Chẳng thông đạt được cảnh-giới Phật.
Nếu có lòng tin trong sạch chắc
Thường được gần gũi thiện-tri-thức
Tất cả chư Phật hộ niệm cho
Ðây mới được vào Như-Lai trí.
Lìa các dua dối lòng thanh-tịnh
Thường thích từ-bi tánh hoan-hỷ
Chí nguyện rộng lớn tin hiểu sâu
Kia nghe pháp này lòng vui đẹp.
An-trụ Phổ-Hiền những hạnh nguyện
Tu hành Bồ-tát đạo thanh-tịnh
Quan-sát pháp-giới như hư-không
Bèn biết được chỗ làm của Phật.
Chư Bồ-Tát đây được lợi lành
Thấy Phật tất cả thần-thông-lực
Tu những đạo khác không biết được
Học hạnh Phổ-Hiền mới tỏ ngộ.
Chúng-sanh rộng lớn vốn vô-biên
Như-Lai tất cả đều hộ-niệm
Chuyển chánh-pháp-luân khắp mọi nơi
Cảnh-giới Tỳ-Lô-Gía-Na Phật.
Tất cả cõi nước vào thân tôi
Chỗ chư Phật ngự cũng như vậy
Chúng nên xem các chân lông tôi
Nay tôi hiện bày cảnh-giới Phật.
Phổ-Hiền hạnh nguyện không ngằn mé
Tôi đã tu hành được đầy đủ
Cảnh-giới phổ-nhãn thân rộng lớn
Là Phật chỗ làm phải nghe kỹ.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có mười việc mà chư Phật trong ba đời quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đã nói, hiện nói và sẽ nói.
Những gì là mười ?
Chính là nhơn-duyên khởi thế-giới-hải, chỗ trụ-nương của thế-giới-hải, hình-trạng của thế-giới-hải, thể-tánh của thế-giới-hải, sự trang-nghiêm của thế-giới-hải, sự thanh-tịnh của thế-giới-hải, Phật xuất hiện nơi thế-giới-hải, kiếp trụ của thế-giới-hải, kiếp chuyển biến sai biệt của thế-giới-hải, môn vô-sai-biệt của thế-giới-hải.
Chư Phật-tử ! Lược nói thế-giới-hải có mười việc này. Nếu nói rộng ra thời đồng với thế-giới-hải vi-trần-số mà tam-thế chư Phật đã nói, hiện nói và sẽ nói.
Chư Phật-tử ! Lược nói do mười thứ nhơn-duyên mà tất cả thế-giới-hải đã thành, hiện thành và sẽ thành. Chính là do vì thần-lực của Như-Lai, vì pháp phải như vậy, vì hạnh nghiệp của tất cả chúng-sanh, vì chỗ sở đắc của tất cả Bồ-Tát thành nhứt-thiết-trí, vì các chúng-sanh và chư Bồ-Tát đồng chứa nhóm thiện-căn, vì nguyện-lực nghiêm-tịnh Phật-độ của chư Bồ-Tát, vì hạnh-nguyện thành-tựu bất-thối của chư Bồ-Tát, vì thắng-giải tự-tại thanh-tịnh của chư Bồ-Tát, vì chỗ lưu-xuất do thiện-căn của chư Như-Lai và thế-lực tự-tại lúc chư Phật thành đạo, vì nguyện-lực tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Ðó là lược nói mười thứ nhơn-duyên. Nếu rộng nói thời có thế-giới-hải vi-trần-số.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương mà nói kệ rằng :
Ðã nói vô-biên sát-độ-hải
Tỳ-Lô-Gía-Na đều nghiêm-tịnh
Thế-Tôn cảnh-giới bất-tư-nghì
Trí-huệ thần-thông-lực như vậy.
Bồ-Tát tu hành những nguyện-hải
Khắp tùy chúng-sanh tâm chỗ muốn
Chúng-sanh tâm hạnh rộng vô-biên
Bồ-Tát quốc-độ khắp mười phương
Bồ-Tát thẳng đến nhứt-thiết-trí
Siêng tu các môn tự-tại-lực
Vô-lượng nguyện-hải khắp xuất sanh
Sát-độ rộng lớn đều thành-tựu.
Tu những hạnh-hải vô-lượng-biên
Vào cảnh-giới Phật cũng vô-lượng
Thanh-tịnh thập phương các cõi nước
Mỗi mỗi cõi trải vô-lượng kiếp.
Chúng-sanh phiền-não làm loạn đục
Phân biệt ưa thích chẳng phải một
Tùy tâm tạo nghiệp bất-tư-nghì
Tất cả sát-hải đầy thành lập.
Phật tử sát-hải tạng trang-nghiêm
Ly-cấu quang-minh báu làm thành
Ðây do rộng lớn tâm tín hải
Chỗ ở mười phương đều như vậy.
Bồ-Tát hay tu hạnh Phổ-Hiền
Du hành pháp-giới vi-trần đạo
Trong trần đều hiện vô-lượng cõi
Rộng lớn thanh-tịnh như hư-không.
Khắp cõi hư-không hiện thần-thông
Ðều đến đạo-tràng chỗ chư Phật
Trên tòa liên-hoa hiện các tướng
Mỗi thân bao trùm tất cả cõi.
Một niệm hiện khắp nơi tam-thế
Tất cả sát-hải đều thành lập
Phật dùng phương-tiện đều vào trong
Là Phật Tỳ-Lô chỗ nghiêm-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số chỗ nương trụ. Hoặc nương tất cả trang-nghiêm mà trụ. Hoặc nương hư-không mà trụ. Hoặc nương bửu-quang-minh mà trụ. Hoặc nương bửu-sắc quang-minh mà trụ. Hoặc nương thinh-âm chư Phật mà trụ. Hoặc nương Kim-Cang hình đại-lực a-tu-la chúng-sanh như huyễn mà trụ. Hoặc nương thân các Thế-Chủ mà trụ. Hoặc nương thân chư Bồ-Tát mà trụ. Hoặc nương tất cả biển trang-nghiêm sai khác hạnh-nguyện Phổ-Hiền mà trụ.
Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có thế-giới vi-trần-số chỗ nương trụ như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Khắp cả mười phương cõi hư-không
Chỗ có tất cả những quốc-độ
Như-Lai thần-lực thường gia-trì
Khắp nơi hiện tiền đều thấy được.
Hoặc có các thứ những quốc-độ
Ðều do ly-cấu-bửu làm thành
Ma-ni thanh-tịnh rất tốt xinh
Quang-minh sáng rỡ khắp hiển hiện.
Hoặc có cõi nước sáng thanh-tịnh
Nương hư-không giới mà an-trụ
Hoặc ở trong biển ma-ni bửu
Lại có an-trụ tạng quang-minh.
Như-Lai ở trong chúng hội này
Diễn thuyết pháp-luân đều xảo diệu
Cảnh-giới chư Phật rộng vô-biên
Chúng-sanh được thấy lòng hoan hỷ.
Có cõi nghiêm-sức bằng ma-ni
Hình như đèn sáng giăng cùng khắp
Lửa thơm mây sáng màu chói rực
Lưới báu sáng chói dùng phủ che.
Hoặc có quốc-độ không ngằn mé
An-trụ liên-hoa biển lớn sâu
Rộng rãi thanh-tịnh khác thế-gian
Chư Phật diệu-thiện trang-nghiêm đó.
Hoặc có quốc-độ theo luân chuyển
Do Phật oai-thần được an-trụ
Ðại-chúng Bồ-Tát đều ở trong
Thường thấy vô-lượng báu rộng lớn.
Có cõi nước ở tay kim-cang
Hoặc cõi nước ở thân Thiên-Chúa
Tỳ-Lô-Gía-Na đấng vô-thượng
Thường ở cõi này chuyển pháp-luân.
Hoặc nương cây báu trụ bằng thẳng
Trong mây sáng thơm cũng như vậy
Có cõi nương trong những biển lớn
Hoặc trụ kim-cang rất bền chắc.
Có cõi nương-trụ kim-cang tràng
Có cõi trụ trong biển Hoa-Tạng
Thần biến rộng lớn khắp các nơi
Tỳ-Lô-Giá-Na Phật hay hiện.
Hoặc dài hoặc vắn vô-lượng thứ
Tướng đó xoay vần cũng chẳng đồng
Hoa-tạng trang-nghiêm khác thế-gian
Tu hành thanh-tịnh mới thấy được.
Các cõi như vậy đều sai khác
Tất cả đều nương nguyện-hải trụ
Hoặc có cõi thường ở hư-không
Chư Phật như mây đều đầy khắp.
Có ở hư-không lưới che trùm
Hoặc lúc hiện ra hoặc không hiện
Hoặc có cõi nước rất thanh-tịnh
Trụ trong bửu-quan của Bồ-Tát.
Thập phương chư Phật thần-thông lớn
Tất cả đều hiện thấy trong đây
Chư Phật thinh âm đều cùng khắp
Ðây do nghiệp-lực mà hóa hiện.
Hoặc có cõi nước khắp pháp-giới
Ly-cấu thanh-tịnh tùng tâm khởi
Như-ảnh như-huyễn rộng vô-biên
Như lưới thiên-đế đều sai khác.
Hoặc hiện các thứ tạng trang-nghiêm
Hoặc ở hư-không mà kiến-lập
Nghiệp-chơn cảnh-giới chẳng nghĩ bàn
Phật-lực hiển-thị đều khiến thấy.
Trong mỗi cõi nước số vi-trần
Niệm niệm thị hiện những Phật-độ
Số đều vô-lượng khắp chúng-sanh
Phổ-Hiền chỗ làm thường như vậy.
Vì muốn thành-thục các chúng-sanh
Trong đây tu hành trải kiếp-hải
Thần-thông rộng lớn hiện khắp nơi
Trong các pháp-giới đều cùng khắp.
Pháp-giới quốc-độ mỗi vi-trần
Những cõi nước lớn ở trong đó
Phật-vân bình-đẳng đều giăng che
Tất cả mọi nơi đều đầy đủ.
Lực dụng tự-tại trong mỗi trần
Tất cả vi-trần cũng như vậy
Chư Phật Bồ-Tát đại thần-thông
Tỳ-Lô-Giá-Na đều hay hiện.
Tất cả quốc-độ rộng vô-biên
Như ảnh, như huyễn như dương-diệm
Mười phương chẳng thấy từ đâu sanh
Cũng không có chỗ đi và đến.
Diệt hoại sanh thành xoay vần mãi
Trong cõi hư-không chẳng tạm dừng
Tất cả đều do nguyện thanh-tịnh
Cũng do nghiệp lực chỗ giữ-gìn.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn, hoặc vuông, hoặc chẳng phải tròn vuông, hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như núi, hoặc hình như cây, hình như bông, hoặc hình như cung điện, như hình chúng-sanh, như hình Phật, có thế-giới vi-trần-số hình sai khác như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương, rồi nói kệ rằng :
Vô-lượng quốc-độ sai khác nhau
Vô-lượng trang-nghiêm vô-lượng trụ
Hình trạng sai khác khắp mười phương
Các ngài đều nên đồng quan-sát.
Hình kia hoặc tròn hoặc vuông vức
Hoặc có ba góc và tám cạnh
Hình châu ma-ni hình liên-hoa
Tất cả đều do nghiệp mà khác.
Có cõi thanh-tịnh sáng trang-nghiêm
Vàng ròng xen lẫn nhiều tốt đẹp
Cửa nẻo mở trống không bít lấp
Ðây do nghiệp rộng ý tinh thuần.
Sát-hải vô-biên tạng sai khác
Ví như mây bủa giữa không gian
Bửu-châu trải đất trang-nghiêm tốt
Ở trong quang-minh sáng của Phật.
Tất cả quốc-độ tâm phân biệt
Quang-minh soi đến mà hiện ra
Chư Phật ở trong những cõi ấy
Nơi nơi thị-hiện thần-thông-lực.
Có cõi tạp-nhiễm hoặc thanh-tịnh
Chịu khổ hưởng vui đều sai khác
Ðây do biển nghiệp chẳng nghĩ bàn
Các pháp lưu-chuyển thường như vậy.
Trong một chân lông vô-lượng cõi
Như số-vi-trần mà an-trụ
Mỗi cõi đều có đấng Thế-Tôn
Ở trong chúng-hội tuyên diệu pháp.
Trong mỗi vi-trần cõi lớn nhỏ
Nhiều loại sai khác số vi-trần
Bằng phẳng cao thấp đều chẳng đồng
Phật đều qua đến mà thuyết pháp.
Tất cả vi-trần hiện quốc-độ
Ðều là bổn nguyện thần-thông-lực
Tùy lòng ưa thích sai khác nhau
Trong khoảng hư-không đều làm được.
Tất cả quốc-độ những vi-trần
Trong mỗi vi-trần Phật đều nhập
Khắp vì chúng-sanh hiện thần-thông
Tỳ-Lô-Giá-Na pháp như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có các loại thể. Hoặc dùng tất cả bửu trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng một bửu-trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu quang-minh làm thể. Hoặc dùng các thứ sắc quang-minh làm thể. Hoặc dùng tất cả quang-minh trang-nghiêm làm thể. Hoặc dùng kim-cang làm thể. Hoặc dùng Phật-lực nhiếp-trì làm thể. Hoặc dùng tướng diệu-bửu làm thể. Hoặc dùng Phật biến-hóa làm thể. Hoặc dùng nhựt ma-ni làm thể. Hoặc dùng cực-vi-trần bửu làm thể. Hoặc dùng tất cả bửu-diệm làm thể. Hoặc dùng các thứ hương làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-quan làm thể. Hoặc dùng bửu ảnh-ượng làm thể. Hoặc dùng trang-nghiêm thị-hiện làm thể. Hoặc dùng nhứt âm thị-hiện cảnh-giới làm thể. Hoặc dùng bửu hình Bồ-Tát làm thể. Hoặc dùng bửu-hoa-nhụy làm thể. Hoặc dùng ngôn-âm của Phật làm thể. Có thế-giới vi-trần số thể như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Hoặc có những quốc-độ
Diệu-bửu hiệp lại thành
Bền chắc không hư-hoại
Ðều ở bửu-liên-hoa.
Hoặc là bửu-quang-minh
Xuất-sanh chẳng biết được
Tất cả quang trang-nghiêm
Nương hư-không mà ở.
Hoặc tịnh-quang làm thể
Lại nương quang-minh ở
Mây sáng làm trang-nghiêm
Chỗ Bồ-Tát đi đến.
Hoặc có những quốc-độ
Từ nơi nguyện-lực sanh
An-trụ như ảnh tượng
Ðem nói chẳng thể được.
Hoặc ma-ni hiệp-thành
Chói sáng như mặt trời
Bảo châu dùng trang-nghiêm
Bồ-Tát đều đầy khắp.
Bửu-diệm thành quốc-độ
Mây sáng trùm trên đó
Bửu-quang rất xinh đẹp
Ðều do nghiệp cảm nên.
Hoặc từ tướng tốt sanh
Các tướng trang-nghiêm đẹp
Như mão tốt đội đầu
Ðây do Phật hóa hiện.
Hoặc từ tâm niệm sanh
Tùy tâm chỗ hiểu biết
Như huyễn không chỗ nơi
Tất cả là phân biệt.
Hoặc do Phật quang-minh
Ma-ni-quang làm thể
Chư Phật hiện trong đó
Ðều thị-hiện thần-thông.
Hoặc Phổ-Hiền Bồ-Tát
Hóa hiện các quốc-độ
Dùng nguyện-lực trang-nghiêm
Tất cả đều tốt đẹp.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! nên biết thế-giới-hải có nhiều loại trang-nghiêm. Hoặc dùng trong những đồ trang-nghiêm hiện ra mây đẹp nhứt để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết-minh công-đức của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng thuyết minh nghiệp báo của tất cả chúng-sanh để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện nguyện-lực của chư Bồ-Tát để trang-nghiêm. Hoặc dùng biểu-thị ảnh-tượng của tam thế chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng trong một khoảng một niệm thị-hiện cảnh-giới thần-thông trải vô-biên kiếp để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện thân của chư Phật để trang-nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện tất cả mây hương báu để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện những vật trân diệu quang-minh chiếu sáng trong tất cả đạo-tràng để trang-nghiêm. Hoặc dùng thị-hiện tất cả Phổ-Hiền hạnh nguyện để trang-nghiêm.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Sát-hải rộng lớn vô-lượng-biên
Thành nên đều do nghiệp thanh-tịnh
Nhiều thứ trang-nghiêm nhiều nơi ở
Tất cả mười phương đều đầy khắp.
Vô-biên sắc tướng mây báu sáng
Rộng lớn trang-nghiêm chẳng phải một
Mười phương sát-hải thường xuất hiện
Khắp dùng diệu-âm mà thuyết pháp.
Bồ-Tát vô-biên biển công-đức
Những nguyện rộng lớn để trang-nghiêm
Khắp cõi đồng thời vang diệu-âm
Chấn động mười phương các quốc-độ.
Chúng-sanh biển nghiệp rộng vô-lượng
Tùy kia cảm báo đều chẳng đồng
Trong tất cả chỗ được trang-nghiêm
Ðều do chư Phật hay diễn thuyết.
Tất cả Như-Lai trong ba thuở
Thần-thông hiện khắp thế-giới-hải
Trong mỗi sự có tất cả Phật
Các ngài xem sự trang-nghiêm đó.
Quá-khứ, vị-lai, kiếp hiện-tại
Mười phương tất cả những quốc-độ
Những sự trang-nghiêm ở nơi kia
Ðều thấy ở trong một cõi nước.
vô-lượng Phật trong tất cả sự
Số đồng chúng-sanh khắp thế-gian
Vì khiến điều-phục hiện thần-thông
Dùng đây trang-nghiêm thế-giới-hải.
Tất cả trang-nghiêm tuôn mây đẹp
Nhiều thứ mây hoa mây hương sáng
Mây báu ma-ni thường xuất hiện
Sát-hải dùng đây để trang-nghiêm.
Mười phương những nơi Phật thành-đạo
Các thứ trang-nghiêm đều đầy đủ
Phóng-quang chiếu xa như mây sáng
Trong thế-giới-hải đều khiến thấy.
Phổ-Hiền hạnh-nguyện chư Bồ-Tát
Vô-biên kiếp hải siêng tu tập
Vô-biên quốc-độ đều trang-nghiêm
Trong tất cả chỗ đều hiển hiện.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số môn phương-tiện thanh-tịnh. Chính là do thiện-căn của chư Bồ-Tát gần gũi thiện-trí-thức. Do thêm lớn những công-đức khắp pháp-giới. Do tu-tập những thắng-giải rộng lớn. Do quan-sát cảnh-giới của tất cả Bồ-Tát mà an-trụ. Do tu-tập những môn ba-la-mật đều viên-mãn. Do quán-sát những địa-vị của chư Bồ-Tát mà nhập trụ. Do xuất sanh tất cả thệ nguyện thanh-tịnh. Do tu-tập những hạnh xuất-yếu. Do nhập tất cả biển trang-nghiêm. Do thành-tựu sức phương-tiện thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả cõi nước những trang-nghiêm
Do nguyện lực phương-tiện sanh ra
Tất cả quốc-độ thường chói sáng
Vô-lượng nghiệp thanh-tịnh hiện thành.
Bồ-Tát lâu xa gần trí-thức
Ðồng tu nghiệp lành đều thanh-tịnh
Từ-bi rộng lớn khắp chúng-sanh
Dùng dây trang-nghiêm các quốc-độ.
Tất cả pháp-môn những tam-muội
Thiền-định giải-thoát môn phương-tiện
Nơi chỗ chư Phật đều tu hành
Do đây sanh ra những quốc-độ.
Phát sanh vô-lượng trí thắng-giải
Hiểu được Như-Lai đồng không khác
Phương-tiện nhẫn nhục đã tu hành
Nên nghiêm-tịnh được vô-biên cõi.
Vì lợi chúng-sanh tu thắng hạnh
Phước-đức rộng lớn thường tăng-trưởng
Ví như mây bủa khắp hư-không
Tất cả quốc-độ đều thành-tựu.
Môn ba-la-mật nhiều vô-lượng
Ðều đã tu hành khiến đầy đủ
Nguyện ba-la-mật vô-cùng tận
Quốc-độ thanh-tịnh từ đây sanh.
Những pháp vô-thượng đều tu hành
Sanh ra vô-biên hạnh xuất-yếu
Nhiều môn phương-tiện độ chúng-sanh
Như vậy trang-nghiêm các quốc-độ.
Tu-tập trang-nghiêm môn phương-tiện
Chứng Phật công-đức biển pháp-môn
Khiến khắp chúng-sanh cạn nguồn khổ
Cõi nước rộng lớn đều thành tựu.
Nguyện lực rộng lớn không gì sánh
Khiến khắp chúng-sanh gieo thiện căn
Cúng-dường tất cả chư Như-Lai
Vô-biên quốc-độ đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết mỗi mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số Phật xuất hiện sai khác : hoặc hiện thân nhỏ, hoặc hiện thân lớn, hoặc hiện đoản-thọ, hoặc hiện trường-thọ, hoặc chỉ nghiêm-tịnh một quốc-độ, hoặc hiện nghiêm-tịnh vô-lượng quốc-độ, hoặc chỉ hiển thị pháp nhứt-thừa, hoặc hiển thị vô-lượng thừa, hoặc hiện điều-phục thiểu số chúng-sanh, hoặc hiện điều-phục vô-biên chúng-sanh, có vi-trần số sai khác như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-lực của Phật quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Chư Phật có các môn phương-tiện
Xuất hiện tất cả những quốc-độ
Ðều tùy sở thích của chúng-sanh
Ðây là Như-Lai quyền-lực khéo.
Pháp-thân chư Phật bất-tư-nghì
Không sắc, không hình, không ảnh tượng
Vì chúng-sanh hiện tướng sai khác
Theo lòng họ ưa khiến họ thấy.
Hoặc vì chúng-sanh hiện đoản-thọ
Hoặc hiện trường-thọ vô-lượng kiếp
Pháp thân mười phương khắp hiện-tiền
Trong thế-gian tùy nghi xuất hiện.
Hoặc hiện nghiêm-tịnh bất-tư-nghì
Mười phương vô-biên các quốc-độ
Hoặc chỉ nghiêm-tịnh một cõi nước
Nơi một thị-hiện đủ không sót.
Hoặc tùy sở thích của chúng-sanh
Thị-hiện vô-lượng vô-biên thừa
Hoặc chỉ tuyên-thuyết pháp nhứt thừa
Trong một thừa hiện vô-lượng pháp.
Hoặc hiện tự nhiên thành chánh-giác
Ðộ thiểu số người vào chánh-pháp
Hoặc lại thị-hiện trong một niệm
Khai ngộ quần-sanh vô-lượng số.
Hoặc nơi chưn lông tuôn mây sáng
Thị-hiện vô-lượng vô-biên Phật
Tất cả thế-gian đều hiện thấy
Các môn phương-tiện độ quần-sanh.
Hoặc hiện thinh âm khắp mọi nơi
Tùy lòng họ ưa mà thuyết pháp
Vô-lượng vô-biên những đại kiếp
Ðiều-phục vô-lượng các chúng-sanh.
Phật có vô-lượng cõi trang-nghiêm
Chúng-hội thanh-tịnh ngồi nghiêm chỉnh
Phật như vầng mây che trong đó
Thập phương quốc-độ đều đầy khắp.
Chư Phật phương-tiện bất-tư-nghì
Tùy tâm chúng-sanh hiện ra trước
Ngự trong các cõi rất trang-nghiêm
Tất cả quốc-độ đều cùng khắp.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần-số kiếp trụ, hoặc có a-tăng-kỳ kiếp trụ, hoặc có vô-lượng kiếp-trụ, hoặc có vô-biên kiếp-trụ, hoặc có vô-đẳng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-sổ-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-xung-kiếp trụ, hoặc có bất-khả-tư kiếp trụ, hoặc có bất-khả-lượng kiếp trụ, hoặc có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp trụ, có vi-trần số kiếp trụ như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Trong thế-giới-hải nhiều kiếp trụ
Phương-tiện rộng lớn để trang-nghiêm
Mười phương cõi nước đều xem thấy
Số lượng sai khác đều rành rẽ.
Tôi thấy mười phương thế-giới-hải
Kiếp số vô-lượng đồng chúng-sanh
Hoặc dài hoặc vắn hoặc vô-biên
Dùng Phật thinh âm nay diễn nói.
Hoặc thấy mười phương những quốc-độ
Hoặc trụ quốc-độ vi-trần kiếp
Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số
Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng.
Hoặc có thuần tịnh hoặc thuần nhiễm
Hoặc lại nhiễm tịnh chung lộn lạo
Nguyện-lực an lập nhiều sai khác
Trong tâm chúng-sanh mà an-trụ.
Thuở xưa tu hành vi-trần kiếp
Ðược thế-giới-hải thanh-tịnh lớn
Cảnh-giới chư Phật đều trang-nghiêm
Trụ mãi vô-biên kiếp rộng lớn
Dùng bửu quang-minh để đặt tên
Hoặc tên Ðẳng-Âm-Diệm-Nhãn-Tạng
Tên Ly-Quang-Minh và Hiền-Kiếp
Kiếp thanh-tịnh này nhiếp tất cả.
Có kiếp thanh-tịnh một Phật hiện
Hoặc trong một kiếp nhiều Phật hiện
Vô-tận phương-tiện đại-nguyện-lực
Vào trong tất cả thời gian kiếp.
Hoặc vô-lượng kiếp và một kiếp
Hoặc lại một kiếp vào nhiều kiếp
Tất cả kiếp hải phương-tiện môn
Thập phương quốc-độ đều hiện rõ.
Hoặc tất cả kiếp sự trang-nghiêm
Ở trong một kiếp đều hiện thấy
Hoặc sự trang-nghiêm trong một kiếp
Vào khắp tất cả vô-biên kiếp.
Trước từ một niệm sau thành kiếp
Sanh ra đều do tâm chúng-sanh
Tất cả quốc-độ kiếp vô-biên
Dùng một phương-tiện đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số kiếp chuyển biến sai khác. Như là vì pháp như vậy nên thế-giới-hải có vô-lượng kiếp thành, kiếp hoại chuyển biến. Vì chúng-sanh nhiễm-ô ở nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-ô chuyển biến. Vì chúng-sanh tu phước rộng lớn ở, nên thế-giới-hải thành kiếp nhiễm-tịnh chuyển biến. Vì tín-giải Bồ-Tát ở, nên thế-giới-hải thành-kiếp nhiễm-tịnh chuyển-biến. Vì vô-lượng chúng-sanh phát bồ-đề-tâm nên thế-giới-hải thuần kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Vì thập phương tất cả chư Bồ-Tát vân tập nên thế-giới-hải vô-lượng kiếp đại trang-nghiêm chuyển biến. Vì chư Phật Thế-Tôn nhập Niết-bàn nên thế-giới-hải kiếp trang-nghiêm diệt chuyển biến. Vì chư Phật xuất hiện ra đời nên tất cả thế-giới-hải kiếp rộng lớn trang-nghiêm thanh-tịnh chuyển biến. Vì Như-Lai thần-thông biến hóa nên thế-giới-hải kiếp thanh-tịnh chuyển biến. Có vi-trần số kiếp chuyển biến như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng :
Tất cả những quốc-độ
Ðều tùy nghiệp-lực sanh
Các ngài nên quan-sát
Tướng chuyển biến như vậy.
Những chúng-sanh nhiễm ô
Nghiệp phiền-não đáng sợ
Tâm họ khiến quốc-độ
Tất cả thành nhiễm ô.
Nếu có tâm thanh-tịnh
Tu những hạnh phước-đức
Tâm họ khiến quốc-độ
Tạp nhiễm và thanh-tịnh.
Chư Bồ-Tát tín-giải
Sanh vào trong kiếp kia
Tùy tâm Bồ-Tát này
Quốc-độ đủ tịnh nhiễm.
Vô-lượng số chúng-sanh
Ðều phát bồ-đề tâm
Tâm họ khiến quốc-độ
Trụ kiếp thường thanh-tịnh.
Vô-lượng ức Bồ-Tát
Qua đến mười phương cõi
Trang-nghiêm không có khác
Trong kiếp thấy sai khác.
Trong mỗi mỗi vi-trần
Bồ-Tát đồng vân tập
Quốc-độ đều thanh-tịnh.
Thế-Tôn nhập Niết-bàn
Cõi đó dứt trang-nghiêm
Chúng-sanh không pháp-khí
Thế-giới thành tạp-nhiễm.
Nếu có Phật ra đời
Cõi nước đều tốt đẹp
Tùy theo tâm thanh-tịnh
Ðầy đủ sự trang-nghiêm.
Thần-thông của chư Phật
Thị-hiện bất-tư-nghì
Lúc đó những quốc-độ
Tất cả đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nên biết thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số sai biệt. Như là trong mỗi thế-giới-hải có thế-giới-hải vi-trần số thế-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật xuất hiện oai-đức thần-lực vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả đạo-tràng khắp thập phương pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải quang-minh của chư Phật khắp pháp-giới vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chúng hội đạo-tràng của chư Phật vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải chư Phật biến hóa danh-hiệu vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải thinh-âm của chư Phật khắp thế-giới-hải vô-biên kiếp trụ vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải pháp-luân phương-tiện vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải tất cả thế-giới-hải vào khắp một vi-trần vô-sai-biệt. Trong mỗi thế-giới-hải mỗi vi-trần cảnh-giới rộng lớn của tất cả tam thế chư Phật đều hiện trong đó vô-sai-biệt. Có vi-trần số vô-sai-biệt như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Trong một vi-trần nhiều sát-hải
Chỗ nơi riêng khác đều nghiêm-tịnh
Vô-lượng như vậy và một cõi
Mỗi mỗi chia khác không xen tạp.
Trong mỗi vi-trần vô-lượng Phật
Tùy tâm chúng-sanh khắp hiện-tiền
Tất cả quốc-độ đều cùng khắp
Phương-tiện như vậy vô-sai-biệt.
Trong mỗi vi-trần những thọ vương
Nhiều thứ trang-nghiêm đều thòng rủ
Thập phương quốc-độ đều đồng hiện
Tất cả như vậy vô-sai-biệt.
Trong mỗi trần có vị-trần chúng
Cùng nhau bao quanh đức Thế-Tôn
Siêu-việt tất cả khắp thế-gian
Cũng chẳng chật hẹp tạp loạn nhau.
Trong mỗi trần có vô-lượng quang
Chiếu khắp mười phương các cõi nước
Ðều hiện chư Phật hạnh bồ-đề
Tất cả sát-độ vô-sai-biệt.
Trong mỗi trần có vô-lượng thân
Biến hóa như mây đều cùng khắp
Phật dùng thần-thông độ chúng-sanh
Thập phương quốc-độ vô-sai-biệt.
Trong mỗi trần diễn nói các pháp
Pháp đó thanh-tịnh như luân chuyển
Các môn phương-tiện đều tự-tại
Tất cả diễn thuyết vô-sai-biệt.
Một trần diễn khắp tiếng chư Phật
Ðầy khắp pháp-khí các chúng-sanh
Trụ khắp sát-hải vô-biên kiếp
Thinh-âm như vậy cũng không khác.
Sát-hải vô-lượng trang-nghiêm đẹp
Trong mỗi vi-trần tam-thế Phật
Tùy chỗ sở-thích đều khiến thấy
Thể-tánh không đến cũng không đi
Do nơi nguyện-lực khắp thế-gian.
**************************************************************************
Phẩm Hoa Tạng Thế Giới
Thứ Năm
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Hoa-tạng thế-giới-hải này, được trang-nghiêm tịnh là do đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, thuở xưa lúc tu hạnh Bồ-Tát trải qua thế-giới-hải vi-trần số kiếp, trong mỗi kiếp gần gũi vi-trần số Phật, nơi mỗi Phật tu-tập vi-trần số đại nguyện thanh-tịnh.
Chư Phật-tử ! Hoa-tạng thế-giới trang-nghiêm này, có tu-di-sơn vi-trần số phong-luân nhiếp-trì. Phong-luân dưới chót tên bình-đẳng-trụ có thể nhiếp-trì phong-luân trên, trang-nghiêm với vô-số ngọn lửa báu sáng rực rỡ. Phong-luân kế trên tên Xuất-sanh-chủng-chủng bửu-trang-nghiêm có thể nhiếp-trì từng trên tràng ma-ni-vương sáng rỡ.
Phong-luân kế trên, tên bửu-oai-đức có thể nhiếp-trì từng trên vô-số bửu-linh. Phong-luân kế trên tên Bình-đẳng-diêm có thể nhiếp-trì từng trên ma-ni-vương sáng như mặt trời. Phong-luân kế trên tên Chủng-chủng Phổ-trang-nghiêm có thể nhiếp-trì từng vòng hoa sáng chói. Phong-luân kế trên tên Phổ-thanh-tịnh có thể nhiếp-trì từng trên tòa sư-tử hoa báu chiếu sáng. Phong-luân kế trên tên Thinh-biến-thập phương có thể nhiếp-trì từng trên tràng vô-số châu-vương. Phong-luân kế trên tên Nhứt-thiết-bửu-quang-minh có thể nhiếp-trì từng trên cây báu vô-số ma-ni-vương. Phong-luân kế trên tên Tốc-tật-phổ-trì có thể nhiếp-trì từng trên mây tu-di tất cả hương ma-ni. Phong-luân kế trên tên Chủng-chủng-cung-điện-du-hành có thể nhiếp-trì từng trên mây hương-đài tất cả bửu-sắc. Chư Phật-tử ! Lần lượt đến tu-di-sơn vi-trần số phong-luân, trên hết tên Thù-thắng-oai-quang-tạng có thể nhiếp-trì biển hương-thủy phổ-quang ma-ni trang-nghiêm. Biển hương-thủy này có liên-hoa lớn tên Chủng-chủng-quang-minh-nhụy-hương-tràng. Hoa-tạng thế-giới-hải trụ trong tràng đó, bốn phương bằng thẳng thanh-tịnh kiên cố, kim-cang-luân-sơn bao giáp vòng, những cây nơi đất biển đều có khu vực sai khác.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này thừa oai-thần của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Thế-Tôn thuở xưa nơi các cõi
Chỗ chư Phật ngự tu tịnh nghiệp
Nên được các thứ bửu quang-minh
Hoa-tạng trang-nghiêm thế-giới-hải.
Từ-bi rộng lớn khắp tất cả
Xả thân vô-lượng số vi-trần
Do xưa nhiều kiếp sức tu hành
Nay thế-giới này không cấu nhiễm.
Phóng đại quang-minh trụ không-gian
Phong-luân nhiếp-trì không dao động
Phật-tạng ma-ni khắp nghiêm sức
Nguyện lực Như-Lai khiến thanh-tịnh.
Khắp rải hoa ma-ni diệu tạng
Do đại nguyện-lực trụ không gian
Các thứ biển kiên cố trang-nghiêm
Mây sáng bủa giăng khắp mười phương.
Trong xuân ma-ni chúng Bồ-Tát
Khắp đến mười phương sáng rực rỡ
Lửa sáng thành vòng hoa đẹp tốt
Pháp-giới châu-lưu khắp tất cả.
Trong tất cả báu phóng quang-minh
Quang-minh đó chiếu khắp chúng-sanh
Cõi nước mười phương đều chiếu đến
Khiến chúng khỏi khổ đến bồ-đề.
Trong báu, Phật số đồng chúng-sanh
Từ chân lông Phật hiện hóa-thân
Phạm-Vương Ðế-Thích chuyển-luân-vương
Tất cả chúng-sanh và chư Phật.
Hóa hiện quang-minh khắp pháp-giới
Quang-minh diễn nói tên chư Phật
Các thứ phương-tiện hiện điều-phục
Ứng khắp lòng chúng không bỏ sót.
Những vi-trần trong hoa-tạng-giới
Trong mỗi mỗi trần thấy pháp-giới
Bửu-quang hiện Phật như mây nhóm
Chư Phật như vậy ngự tự-tại.
Nguyện-lực quảng-đại khắp pháp-giới
Trong tất cả kiếp-độ chúng-sanh
Hạnh-nguyện Phổ-Hiền trí đều thành
Tất cả trang-nghiêm do đây có.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : ''Chư Phật-tử ! Hoa-Tạng trang-nghiêm thế-giới-hải này, đại luân-vi-sơn ở trên liên-hoa-nhựt-châu-vương, chiên-đàn ma-ni làm thân, oai-đức bửu-vương làm chót, diệu hương ma-ni làm luân, diệm tạng kim cang hiệp thành, tất cả hương thủy chảy trong đó, rừng bằng châu báu, hoa tốt đua nở, cỏ thơm trải đất, minh-châu xen trang-nghiêm, khắp nơi đầy những hoa thơm, châu ma-ni làm lưới giăng trùm, có thế-giới-hải vi-trần số sự trang-nghiêm tốt-đẹp như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Thế-giới đại-hải vô-lượng biên
Bửu-luân thanh-tịnh nhiều màu sắc
Những sự trang-nghiêm đều đẹp lạ
Ðây do thần-lực của Như-Lai.
Ma-ni bửu-luân diệu-hương-luân
Nhẫn đến chơn-châu như đèn sáng
Các thứ diệu-bửu dùng trang-nghiêm
Thanh-tịnh bửu-luân chỗ an-trụ.
Ma-ni kiên-cố dùng làm tạng
Diêm-phù-đàn-kim dùng trang-sức
Phóng quang phát sáng khắp mười phương
Trong ngoài chói suốt đều thanh-tịnh.
Kim-cang ma-ni họp lại thành
Lại rưới ma-ni các diệu-bửu
Bửu đó đẹp lạ đều khác nhau
Phóng quang thanh-tịnh khắp tráng lệ.
Hương thủy chảy xen vô-lượng sắc
Rưới những bửu-hoa và chiên-đàn
Hoa-sen đua nở khắp mọi nơi
Cỏ thơm trải đất hương ngào ngạt.
Vô-lượng cây báu khắp trang-nghiêm
Hoa-nở nhị đơm mầu sáng rỡ
Y-phục xinh đẹp ở trong đó
Mây sáng bốn phương thường viên mãn.
Vô-lượng vô-biên đại Bồ-Tát
Cầm lọng thắp hương đầy pháp-giới
Ðều phát tất cả diệu thinh-âm
Chuyển chánh pháp-luân của chư Phật.
Những cây ma-ni bằng chất báu
Mỗi chất báu đều phóng quang-minh
Tỳ-Lô-Gía-Na thanh-tịnh thân
Hiện vào trong đó đều khiến thấy.
Trong những trang-nghiêm hiện thân Phật
Sắc tướng vô-biên vô-lượng số
Qua đến mười phương khắp mọi nơi
Hóa độ chúng-sanh cũng vô-lượng.
Tất cả trang-nghiêm vang tiếng diệu
Diễn nói bổn nguyện của Như-Lai
Sát-hải thanh-tịnh khắp mười phương
Thần-lực của Phật khiến đầy khắp.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Trong đại-luân-vi-sơn nơi thế-giới-hải này, tất cả đại-địa đều do kim-cang hiệp thành, kiên cố trang-nghiêm chẳng thể hư hoại, bằng phẳng thanh-tịnh, ma-ni làm luân, các thứ báu làm tạng, những ma-ni bửu xen lẫn trong đó, rải những mạt châu báu, hoa sen trải đất, hương tạng ma-ni xen trong hoa. Những đồ trang-nghiêm đầy khắp như mây, tất cả sự trang-nghiêm trong tất cả quốc-độ của tam-thế chư Phật đều họp lại để nghiêm-sức, ma-ni diệu-bửu làm lưới hiện tất cả cảnh-giới của Như-Lai như lưới Thiên-đế giăng hàng trong đó.
Chư Phật-tử ! Ðại-địa của thế-giới-hải này có thế-giới-hải vi-trần-số sự trang-nghiêm như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười-phương mà nói kệ rằng :
Ðại-địa bằng phẳng rất thanh-tịnh
An-trụ kiên cố không hư hoại
Khắp chốn, ma-ni dùng trang-nghiêm
Trong đó các báu cùng xen lẫn.
Kim-cang làm đất rất đáng thích
Bửu-luân bửu-võng trang-nghiêm đủ
Hoa sen trải trên đều viên mãn
Diệu y giăng trùm đều cùng khắp.
Thiên-quang anh-lạc chuỗi ngọc báu
Trải giăng đầy đất trang-nghiêm đẹp
Chiên-đàn ma-ni rải khắp nơi
Ðều phóng quang-minh đẹp thanh-tịnh.
Bửu-hoa sáng chói phóng quang-minh
Tia sáng như mây chiếu tất cả
Rải hoa đẹp đầy và các báu
Trùm khắp mặt đất để nghiêm sức.
Mây dày giăng bủa khắp mười phương
Quang-minh quảng đại vô cùng tận
Khắp đến mười phương tất cả cõi
Diễn pháp cam-lồ của Như-Lai.
Trong châu ma-ni đều khắp hiện
Ðại nguyện của Phật vô-biên kiếp
Công-hạnh thuở xưa của Như-Lai
Trong châu báu này đều hiện đủ.
Những báu ma-ni nơi đại-địa
Tất cả quốc-độ đều đến nhập
Những quốc-độ kia mỗi vi-trần
Tất cả quốc-độ nhập trong đó.
Diệu-bửu trang-nghiêm hoa tạng giới
Bồ-Tát du hành khắp mười phương
Diễn nói hoằng-thệ của đại-sĩ
Ðây là thần-lực của đạo-tràng.
Ma-ni diệu-bửu khắp trang-nghiêm
Phóng tịnh quang-minh đủ sự đẹp
Ðầy khắp pháp-giới khắp hư-không
Phật-lực tự-nhiên hiện như vậy.
Những ai tu tập nguyện Phổ-Hiền
Vào cảnh-giới Phật bực đại-trí
Biết được trong thế-giới-hải này
Như vậy tất cả sự thần biến.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Trong đại-địa của thế-giới-hải này có mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải. Tất cả diệu-bửu-trang-nghiêm đáy biển. Diệu-hương ma-ni trang-nghiêm bờ biển. Tỳ-Lô-Giá-Na ma-ni bửu-vương dùng làm lưới. Trong biển đầy những nước thơm đủ màu chói suốt. Nhiều thứ hoa báu xoay giăng trên mặt nước. Bột mịn chiên-đàn lóng đọng dưới nước. Diễn ngôn âm của Phật, phóng quang-minh báu. Vô-biên Bồ-Tát cầm các thứ lọng, hiện thần-thông. Bao nhiêu sự trang-nghiêm của tất cả thế-giới đều hiện trong đó. Thềm bực bằng mười chất báu liệt hàng khắp nơi. Bao quanh bằng lan-can mười báu. Tứ-thiên-hạ vi-trần-số châu báu trang-nghiêm. Bạch liên-hoa đua nở trong nước. Bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha-số tràng thi-la mười báu. Hằng-hà-sa-số tràng thi-la mười báu. Hằng-hà-sa số tràng y linh lưới báu. Hằng-hà-sa số lâu-các báu đẹp vô-biên sắc-tướng. Trăm ngàn ức na-do-tha thành liên-hoa mười báu. Tứ-thiên-hạ vi-trần rừng cây báu. Bửu-diệm ma-ni dùng làm lưới. Có hằng-hà-sa-số hương chiên-đàn, ngọc ma-ni sáng chói vang ngôn âm chư Phật. Bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha rào tường bằng châu báu bao quanh khắp nơi để trang-nghiêm.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ðại-địa trong thế-giới này
Có hương thủy-hải ma-ni đẹp
Diệu-bửu thanh-tịnh trải đáy biển
Ở trên kim-cang chẳng hư hoại.
Hương-tạng ma-ni xây thành bờ
Châu-luân nhựt-diệm như mây bủa
Diệu-bửu liên-hoa làm anh-lạc
Nơi nơi trang-nghiêm rất thanh-tịnh;
Nước thơm đựng trong đủ các màu
Hoa báu xoay giăng phóng ánh sáng
Tiếng vang chấn động khắp gần xa
Do Phật oai-thần nên diễn pháp.
Thềm bực trang-nghiêm đủ chất báu
Lại dùng ma-ni để trang-sức
Lan-can bao quanh bằng châu báu
Lưới báu liên-hoa như mây bủa.
Cây báu ma-ni liệt thành hàng
Hoa nhụy đua nở sáng rực rỡ
Các thứ tiếng nhạc luôn hòa-tấu
Thần-thông của Phật khiến như vậy.
Hương-diệm chói ngời không tạm dừng
Những bạch liên-hoa đơm báu đẹp
Giăng bủa trang-nghiêm biển nước thơm
Quảng-đại viên mãn đều đầy khắp.
Tràng báu minh-châu thường sáng rực
Y đẹp rủ thòng để nghiêm sức
Lưới linh như-ý diễn pháp-âm
Khiến người nghe tiếng hướng Phật-trí.
Liên-hoa diệu-bửu làm thành quách
Những ma-ni màu trang-nghiêm đẹp
Chơn-châu như mây giăng bốn phương
Như vậy trang-nghiêm biển hương-thủy.
Rào tường bao quang đều khắp vòng
Lâu-các vọng nhau giăng trên đó
Vô-lượng tia sáng thường chói rực
Nhiều thứ trang-nghiêm biển thanh-tịnh.
Tỳ-Lô Như-Lai thuở xa xưa
Tất cả sát-hải đều nghiêm-tịnh
Như vậy rộng lớn vô-lượng-biên
Ðều là Như-Lai tự-tại-lực.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Mỗi biển hương-thủy chảy vòng bên hữu. Tất cả con sông này đều dùng kim-cang làm bờ, tịnh-quang ma-ni dùng để trang-nghiêm, thường hiện mây sáng màu báu đẹp của chư Phật và những ngôn-âm của các chúng-sanh. Những chỗ nước xoáy trong các sông ấy, hiện ra hình tướng tất cả công-hạnh của chư Phật đã tu-tập. Lưới giăng bằng ma-ni treo linh và lạc báu, những sự trang-nghiêm của các thế-giới-hải đều hiện trong lưới đó. Mây báu ma-ni trùm trên đó. Mây này khắp hiện sự thần-thông của đức Tỳ-Lô-Giá-Na, thập phương Hóa-Phật và tất cả chư Phật. Lại vang ra tiếng vi-diệu xưng dương danh hiệu của tam-thế chư Phật và Bồ-Tát.
Trong hương thủy đó thường xuất-sanh tất cả bửu-diệm, mây sáng nối luôn chẳng dứt. Nếu nói rộng ra, thời mỗi con sông đều có thế-giới-hải vi-trần-số sự trang-nghiêm.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Dòng nước thơm trong đầy cả sông
Kim-cang diệu-bửu làm bờ bực
Mạt báu làm luân trải đáy sông
Những thứ nghiêm-sức đều báu đẹp.
Thềm báu liệt hàng đẹp trang-nghiêm
Lan-can bao vòng rất tráng lệ
Chơn châu làm tạng những hoa đẹp
Những tràng chuỗi ngọc đồng rũ xuống.
Nước thơm sáng báu màu thanh-tịnh
Thường tuônma-ni dòng chảy xiết
Các hoa theo sóng đều động dao
Ðồng tấu nhạc-âm tuyên diệu-pháp.
Bột mịn chiên-đàn làm bùn đọng
Tất cả diệu-bửu đồng xoáy khoắn
Hương-tạng ngào ngạt đầy mặt nước
Phát sáng tuôn thơm khắp mọi nơi.
Trong sông xuất-sanh những diệu-bửu
Ðều phóng quang-minh màu chói rực
quang-minh ảnh-hiện thành đài tòa
Lọng báu chuỗi ngọc đều đầy đủ.
Trong ma-ni-vương hiện thân Phật
Quang-minh chiếu khắp mười phương cõi
Dùng đây làm luân đẹp mặt đất
Nước thơm chói suốt thường đầy khắp.
Ma-ni làm lưới, vàng làm lạc
Trùm khắp hương-hà diễn tiếng Phật
Tuyên đủ tất cả đạo bồ-đề
Cùng với hạnh Phổ-Hiền vi-diệu.
Bờ báu ma-ni rất thanh-tịnh
Thường vang tiếng nói bổn-nguyện Phật
Tất cả chư Phật xưa tu hành
Tiếng vang diễn nói đều nghe được.
Trong sông những chỗ nước xoáy khoắn
Bồ-Tát như mây thường hiện ra
Những quốc-độ lớn đều qua đến
Nhẫn đến pháp-giới đều đầy khắp.
Châu-vương thanh-tịnh bủa như mây
Tất cả hương-hà đều che khắp
Chân kia đồng Phật tướng bạch hào
Sáng rỡ hiển hiện bóng chư Phật.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Hai bên bờ đất của những sông hương-thủy này đều trang-nghiêm bằng những diệu-bảo. Mỗi mỗi đều có tứ thiên-hạ vi-trần-số những báu trang-nghiêm. Bạch liên-hoa khắp các nơi. Mỗi nơi đều có tứ thiên-hạ vi-trần-số rừng cây báu hàng lối thứ tự. Trong mỗi mỗi cây thường tuôn ra những mây đẹp, ma-ni bửu-vương chiếu sáng trong đó. Các thứ hoa thơm đầy trên cây. Những cây báu ấy lại vang ra tiếng vi-diệu diễn nói đại nguyện của chư Phật đã tu hành trong nhiều kiếp. Lại rưới các thứ ma-ni bửu-vương đầy khắp mặt đất : những là liên-hoa-luân ma-ni bửu-vương, hương-diệm quang-vân ma-ni bửu-vương, chủng-chủng nghiêm-sức ma-ni bửu-vương, hiện bất-tư-nghì trang-nghiêm-sắc ma-ni bửu-vương, Nhựt-quang-minh ma-ni bửu-vương, quang-võng-vân ma-ni bửu-vương, hiện Phật thần-biến ma-ni bửu-vương, hiện chúng-sanh nghiệp-báo hải ma-ni bửu-vương. Có thế-giới-hải vi-trần-số ma-ni bửu-vương như vậy. Hai bên bờ đất của những sông hương-thủy đều có đủ những sự trang-nghiêm như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát, muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Ðất kia bằng phẳng, rất thanh-tịnh
Chơn-kim ma-ni đồng nghiêm-sức
Cây báu thẳng hàng che trong đó
Cao vọi buông nhành rợp như mây.
Nhánh lá toàn bằng báu trang-nghiêm
Hoa nở phóng quang chiếu bốn phía
Trái bằng ma-ni như mây giăng
Khiến khắp mười phương thường hiện thấy.
Ma-ni trải đất đều đầy khắp
Bột báu màu đẹp đồng trang-nghiêm
Lại dùng ma-ni làm cung điện
Ðều hiện tượng hình của chúng-sanh.
Châu ma-ni vương hiện ảnh Phật
Khắp trên mặt đất đều rải khắp
Như vậy sáng chói khắp mười phương
Trong mỗi vi-trần đều thấy Phật.
Diệu-bửu trang-nghiêm khéo chia giăng
Lưới đèn chơn-châu xen lẫn nhau
Nơi nơi đều có ma-ni luân
Mỗi châu hiện thần-thông của Phật.
Châu báu trang-nghiêm phóng sáng lớn
Trong tia sáng đó hiện Hóa-Phật
Nơi nơi chốn chốn đều cùng khắp
Ðều dùng thập-lực khai diễn rộng.
ma-ni diệu-bửu bạch-liên-hoa
Trong tất cả sông đều mọc khắp
Hoa sen nhiều loại chẳng đồng nhau
Ðều hiện quang-minh không dứt hết.
Những sự trang-nghiêm trong ba thuở
Trong trái ma-ni đều hiển-hiện
Thể-tánh vô-sanh bất-khả-thủ
Ðây là Như-Lai tự-tại-lực.
Tất cả trang-nghiêm mặt đất này
Ðều hiện Như-Lai thân quảng-đại
Kia cũng chẳng đến cũng chẳng đi
Phật xưa nguyện-lực đều khiến thấy.
Trong mỗi vi-trần mặt đất này
Tất cả Phật-tử đương hành đạo
Ðều thấy cõi mình được thọ ký
Tùy theo ý nguyện đều thanh-tịnh.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Thế-giới-hải trang-nghiêm của chư Phật Thế-Tôn đều bất-tư-nghì. Vì sao vậy ? Này Chư Phật-tử ! Tất cả cảnh-giới của Hoa-Tạng thế-giới-hải này, mỗi mỗi đều dùng thế-giới-hải vi-trần-số công-đức thanh-tịnh để trang-nghiêm.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật, quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả chỗ trong sát-hải này
Ðều trang-sức với nhiều thứ báu
Phát sáng trên không, bủa như mây
Quang-minh rổng suốt, thường giăng đậy.
Ma-ni tuôn mây không cùng tận
Ảnh Phật mười phương hiện trong đó
Thần-thông biến-hóa chẳng tạm-dừng
Tất cả Bồ-Tát đồng vân tập.
Những ngọc ma-ni diễn Phật-âm
Tiếng Phật mỹ diệu bất-tư-nghì
Tỳ-Lô-Giá-Na xưa tu hành
Trong bảo-châu này luôn nghe thấy.
Quang-minh thanh-tịnh đấng Biến-Tri
Trong đồ trang-nghiêm đều hiện bóng
Biến-hóa phân-thân chúng vây quanh
Tất cả sát-hải đều cùng khắp.
Tất cả hóa-Phật đều như huyễn
Tìm chỗ đến kia đều chẳng được
Bởi sức oai-thần cảnh-giới Phật
Trong tất cả cõi hiện như vậy.
Thần-thông tự-tại của Như-Lai
Ðều khắp mười phương các quốc-độ
Trong sự trang-nghiêm của cõi này
Nơi các bửu châu đều hiện rõ.
Những sự biến-hóa ở mười phương
Tất cả đều như ảnh trong gương
Chỉ do Như-Lai xưa tu hành
Thần-thông nguyện-lực cấu tạo được.
Nếu Phật-tử tu hạnh Phổ-Hiền
Vào biển thắng-trí của Bồ-Tát
Có thể nơi trong các vi-trần
Khắp hiện thân mình tịnh quốc-độ.
Bất-khả tư-nghì ức đại kiếp
Gần-gũi tất cả chư Như-Lai
Tất cả công-hạnh đã tu hành
Trong một sát-na-do-tha đều hiện được.
Chư Phật quốc-độ như hư-không
Vô-đẳng vô-sanh và vô-tướng
Vì lợi chúng-sanh mà trang-nghiêm
Vì bổn-nguyện nên trụ trong đó.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Nay tôi sẽ nói trong đây có những thế-giới nào an-trụ.
Chư Phật-tử ! Trong mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải này, có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-chủng an-trụ. Mỗi thế-giới-chủng lại có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới.
Chư Phật-tử ! Ở trong thế-giới-hải, các thế-giới-chủng kia đều riêng nương ở, đều riêng hình-trạng, đều riêng thể-tánh, đều riêng phương-sở, đều riêng thu nhập, đều riêng trang-nghiêm, đều riêng chừng ngằn, đều riêng bày hàng, đều riêng vô-sai-biệt, đều riêng năng-lực gia-trì.
Chư Phật-tử ! Các thế-giới chủng này, hoặc có nương đại-liên-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương vô-biên-sắc-bửu-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-chơn-châu-tạng-bửu-anh-lạc-hải mà an-trụ, hoặc có nương hương-thủy-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-hoa-hải mà an-trụ, hoặc có nương ma-ni-bửu-võng-hải mà an-trụ, hoặc có nương triền-lưu-quang-hải mà an-trụ, hoặc có Bồ-Tát bửu-trang-nghiêm-quan-hải mà an-trụ, hoặc có nương chủng-chủng-chúng-sanh-thân-hải mà an-trụ, hoặc có nương nhứt-thiết-phật-âm-thinh-ma-ni-vương-hải mà an-trụ. Có thế-giới-hải vi-trần-số sự an-trụ như vậy.
Chư Phật-tử ! Tất cả thế-giới-chủng đó hình trạng đều khác nhau : hoặc hình núi Tu-Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe, hoặc hình lễ-đàn, hoặc hình rừng cây, hoặc hình lầu gác, hoặc hình sơn-tràng, hoặc hình vuông góc, hoặc hình hoa-sen, hoặc hình thai-tạng, hoặc hình khư-lặc-ca, hoặc hình thân chúng-sanh, hoặc hình mây, hoặc hình tướng-hảo của Phật, hoặc hình quang-minh viên-mãn, hoặc hình lưới chơn-châu, hoặc hình ngạch cửa, hoặc hình đồ trang-nghiêm, có thế-giới-hải vi-trần-số hình trạng như vậy.
Chư Phật-tử ! Những thế-giới-chủng đó hoặc dùng thập phương ma-ni-vân làm thể, hoặc dùng quang-minh làm thể, hoặc dùng lửa báu thơm làm thể, hoặc dùng tất cả báu trang-nghiêm làm thể, hoặc dùng ảnh-tượng Bồ-Tát làm thể, hoặc dùng quang-minh chư Phật làm thể, hoặc dùng sắc tướng của Phật làm thể, hoặc dùng một bửu-quang làm thể, hoặc dùng nhiều bửu-quang làm thể, hoặc dùng thinh-âm những nghiệp-hải của tất cả chúng-sanh làm thể, hoặc dùng thinh-âm thanh-tịnh cảnh-giới của tất cả chư Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm đại-nguyện-hải của tất cả Bồ-Tát làm thể, hoặc dùng thinh-âm phương-tiện của tất cả Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm đồ trang-nghiêm thành hoại của tất cả cõi làm thể, hoặc dùng thinh-âm của vô-biên Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm biến-hóa của chư Phật làm thể, hoặc dùng thinh-âm thiện của tất cả chúng-sanh làm thể, hoặc dùng thinh-âm thanh-tịnh biển công-đức của tất cả Phật làm thể. Có thế-giới-vi-trần-số thể-tánh như vậy.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa thần-lực của Phật quan-sát mười-phương rồi nói kệ rằng :
Sát-chủng kiên-cố diệu trang-nghiêm
Quảng-đại thanh-tịnh quang-minh tạng
An-trụ nơi bửu hải liên-hoa
Hoặc an-trụ nơi Hương-thủy hải.
Hình Tu-điều-phục, thành, cây, lễ-đàn
Tất cả sát-chủng khắp mười phương
Các loại trang-nghiêm hình chẳng đồng
Ðều riêng bủa giăng mà an-trụ.
Hoặc thể-tánh là tịnh quang-minh
Hoặc là hoa-tạng và bửu-vân
Hoặc do những ánh lửa cấu thành
An-trụ ma-ni tạng bất hoại.
Mây đèn màu lửa quang-minh thảy
Nhiều loại vô-biên màu thanh-tịnh
Hoặc dùng ngôn-âm để làm thể
Là tiếng bất-tư-nghì của Phật.
Hoặc do nguyện-lực vang ra tiếng
Thần-biến âm-thinh làm thể-tánh
Phước nghiệp rộng lớn của chúng-sanh
Công-đức âm của Phật cũng vậy.
Sát-chủng mỗi môn đều sai khác
Chẳng thể nghĩ bàn vô-cùng-tận
Mười phương như vậy đều cùng khắp
Quảng-đại trang-nghiêm hiện thần-lực.
Những cõi rộng lớn ở mười phương
Ðều hiện vào trong thế-giới này
Dầu thấy mười phương hiện trong đây
Mà thiệt không vào cũng không đến.
Ðem một sát-chủng vào tất cả
Tất cả vào một cũng không thừa
Thể tướng như cũ không đổi dời
Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp.
Trong vi-trần của tất cả cõi
Ðều thấy Như-Lai hiện trong đó
Nguyện-hải ngôn-âm như sấm vang
Tất cả chúng-sanh đồng điều-phục.
Phật-thân cùng khắp tất cả cõi
Vô-số Bồ-Tát đều đầy khắp
Như-Lai tự-tại không ai bằng
Hoá-độ tất cả các hàm-thức.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Mười bất-khả-thuyết Phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải này ở trong Hoa-Tạng thế-giới-hải giăng bày như lưới báu của Thiên-đế.
Chư Phật-tử ! Hương-thủy-hải ở trung-ương tên Vô-Biên-Diệu-Hoa-Quang. Ðáy biển là tràng ma-ni-vương hiện tất cả hình Bồ-Tát, xuất sanh một đại liên-hoa tên Nhứt-Thiết-Hương-Ma-Ni-Trang-Nghiêm. Trên đó có thế-giới-chủng tên Phổ-Chiếu-Thập-Phương-Xí-Nhiên-Bửu-Quang-Minh, dùng tất cả đồ trang-nghiêm làm thể. Trong đây có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới. Phương dưới tất cả, có thế-giới tên Tối-Thắng-Quang-Biến-Chiếu, dùng kim-cang-trang-nghiêm-quang-diệu-luân làm tế, nương bửu-ma-ni-hoa mà trụ. Trạng như hình ma-ni-bửu. Mây bửu-hoa-trang-nghiêm giăng trùm trên đó. Trong đây có một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh. Phật hiệu Tinh-Nhãn-Ly-Cấu-Ðăng.
Qua khỏi phật-sát vi-trần-số thế-giới về thượng-phương, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Hương-Liên-Hoa-Diệu-Trang-Nghiêm, dùng tất cả đồ trang-nghiêm làm tế, nương bửu-liên-hoa-võng mà trụ, trạng như tòa sư-tử, mây bửu-sắc châu che trùm, hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Thắng-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Phổ-Chiếu-Quang, dủng hương-phong-luân làm tế, nương bửu-hoa anh-lạc mà trụ, hình tám góc, mây ma-ni-nhựt-luân giăng-che, ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Tịnh-Quang-Trí-Thắng-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Quang-Minh-Hoa-Trang-Nghiêm, dùng bửu-vương làm tế, nương biển kim-cang-thi-la-tràng mà trụ, hình như liên-hoa ma-ni, mây kim-cang ma-ni bửu-quanh che giăng, bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, đều thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kim-Cang-Quang-Minh-Vô-Lượng-Tinh-Tấn-Lực-Thiện-Xuất-Hiện.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Phóng-Diệu-Hoa-Quang, dùng bửu-linh-trang-nghiêm-võng làm tế, nương biển thọ lâm trang-nghiêm-bửu-luân-võng mà trụ, hình khắp vuông vức mà có nhiều cạnh góc, mây phạm-âm ma-ni-vương che giăng, năm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Hương-Quang-Hỉ-Lực-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Quang-Minh, dùng tràng bửu-vương trang-nghiêm làm tế, nương biển kim-cang cung-điện mà trụ, hình vuông, mây ma-ni-luân-kế-trướng giăng che, sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Quang-Tự-Tại-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Hoa-Diệm-Trang-Nghiêm, dùng hoa trang-nghiêm làm tế, nương biển bửu-sắc-diệm mà trụ, hình như lầu các, mây bửu-sắc-ý-chơn-châu-lan-thuẫn giăng che, bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Hoan-Hỉ-Công-Ðức-Danh-Xưng Tự-Tại-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Oai-Lực-Ðịa, dùng xuất-nhứt-thiết-thinh ma-ni-vương-trang-nghiêm làm tế, nương biển bửu-sắc-liên-hoa-tòa-hư-không mà trụ, hình như lưới nhơn-đà-la, mây vô-biên-sắc-hoa-võng giăng che, tám phật-sát-vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Quảng-Ðại-Danh-Xưng-Trí-Hải-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Diệu-Âm-Thinh, dủng tâm-vương-ma-ni-trang-nghiêm làm tế, nương biển ma-ni-vương hằng xuất diệu âm-thinh trang-nghiêm vân mà trụ, hình như thân Phạm-Thiên, mây tòa sư-tử vô-lượng bửu-trang-nghiêm giăng che, chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Nguyện-Quang-Minh-Tướng-Vô-Năng-Tối-Phục.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Cang-Tràng, dùng vô-biên-trang-nghiêm-chơn-châu-tạng-bửu-anh-lạc làm tế, nương biển trang-nghiêm bửu sư-tử-tòa ma-ni mà trụ, hình tròn, mười tu-di-sơn vi-trần-số mây ma-ni-hoa-hương giăng che, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Hải-Tối-Thắng-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hằng-Xuất-Hiện-Ðế-Thanh-Bửu-Quang-Minh, dùng Kim-Cang trang-nghiêm làm tế, nương biển chủng-chủng-thù-thù dị hoa mà trụ, hình bán nguyệt, mây thiên-bửu-trướng giăng che, mười một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Lượng-Công-Ðức-Pháp.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Minh-Chiếu-Diệu, dùng phổ-quang-trang-nghiêm làm tế, nương biển hoa-triền-hương-thủy mà trụ, hình như hoa-triền, nhiều thứ y-vân giăng che, mười hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Siêu-Thích-Phạm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ta-Bà, dùng kim-cang trang-nghiêm làm tế, nương liên-hoa-võng do phong-luân nhiếp trì mà trụ, hình như hư-không, dùng mây thiên-cung-điện trang-nghiêm giăng che, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật chính là đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịch-Tịnh-Ly-Trần-Quang, dùng bửu-trang-nghiêm làm tế, nương biển chủng-chủng-bửu-y mà trụ, trạng như hình chấp-kim-cang, mây vô-biên-sắc-kim-cang giăng che, mười bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Thắng-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Diệu-Quang-Minh-Ðăng, dùng trướng trang-nghiêm làm tế, nương biển tịnh-hoa-võng mà trụ, hình như chữ vạn, mây ma-ni-thọ, hương-thủy-hải giăng che, mười lăm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Bất-Khả-Tòi-Phục-Lực-Phổ-Chiếu-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Quang-Biến-Chiếu, dùng vô-tận-bửu-vân ma-ni-vương làm tế, nương biển chủng-chủng-hương-diệm-liên-hoa mà trụ, hình như quy-giáp, mây ma-ni-luân-chiên-đàn giăng-che, mười sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Nhựt-Công-Ðức-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng dùng chúng-sanh-hình-ma-ni-vương làm tế, nương biển quang-minh-tạng-ma-ni-vương mà trụ, hình tám góc, dùng lưới luân-vi-trần-sơn-bửu-trang-nghiêm hoa-thọ giăng che, mười bảy phật-sát vi-trần-số bao quanh, Phật hiện Vô-Ngại-Trí-Quang-Minh-Biến-Chiếu-Thập-Phương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Trần, dùng Diệu-Tướng Trang-Nghiêm làm tế, nương biển chúng-diệu-hoa-sư-tử-tòa mà trụ, hình như chuỗi ngọc, dùng mây ma-ni-vương viên-quang giăng che, mười tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Lượng-Phương-Tiện-Tối-Thắng-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Quang-Phổ-Chiếu, dùng xuất-vô-tận-bửu-vân ma-ni-vương làm tế, nương biển vô-lượng-sắc-hương-diệm-tu-di-sơn mà trụ, hình như bửu-hoa xoay nở, mây vô-biên-sắc-quang-minh-ma-ni-vương-đế-thanh giăng che, mười chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Pháp-Giới-Hư-Không-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Bửu-Diệm, dùng phổ-quang-minh-nhựt-nguyệt-bửu làm tế, nương biển thiên-hình-ma-ni-vương mà trụ, trạng như đồ bửu-trang-nghiêm, mây bửu-y-tràng và lưới ma-ni-đăng-tạng giăng che, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phước-Ðức-Tướng-Quang-Minh.
Chư Phật-tử ! thế-giới-chủng Biến-chiếu-thập-phương-xí-nhiên-bửu-quang-minh này có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới rộng lớn như vậy :
Ðều riêng y trụ, đều riêng hình trạng, đều riêng thể-tánh, đều riêng phương-diện, đều riêng thu nhập, đều riêng trang-nghiêm, đều riêng chừng ngằn, đều riêng hàng-liệt, đều riêng vô-sai-biệt, đều riêng sức gia-trì, giáp vòng bao quanh, chính là :
Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình xoay chuyển. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình giang-hà. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình nước xoáy. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình trục xe. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình lễ-đàn. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình rừng cây. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình nhà lầu. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình tràng thi-la. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình khắp vuông. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình thai-tạng. Mười phật-sát vi-trần-số hình khư-lặc-ca. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình các loại chúng-sanh. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới phật-tướng. Mười phật-sát vi-trần-số hình viên-quang. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình mây. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình lưới. Mười phật-sát vi-trần-số thế-giới hình ngạch cửa.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới như vậy. Mỗi thế-giới này đều có mười phật-sát vi-trần-số thế-giới rộng lớn bao quanh. Mỗi thế-giới sau đây lại có vi-trần-số thế-giới là quyến thuộc.
Tất cả thế-giới đã thuyết-trình trên đây đều ở nơi biển vô-biên-diệu-hoa-hương-thủy và trong sông hương-thủy bao quanh biển này.
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng : 'Chư Phật-tử ! Phương đông của biển Vô-biên-diệu-hoa-hương-thủy này, giáp biển Ly-cấu-diệm-tạng-hương-thủy, có đại liên-hoa tên Nhứt-thiết-hương-ma-ni-vương-diệu-trang-nghiêm. Trên đại liên-hoa này có thế-giới-chủng tên Biến-chiếu-sát-triền, dùng Bồ-Tát-hạnh-hống-âm làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Cung-điện-trang-nghiêm tràng hình vuông, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh. Phật hiệu My-Gian-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðức-Hoa-Tạng, hình tròn, hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Vô-Biên-Pháp-Hải-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-Biến-Hóa-Diệu-Hương-Luân, hình như kim-cang, ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Công-Ðức-Tướng-Quang-Minh-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Sắc-Quang-Minh, trạng như ma-ni-bửu-luân, bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Thiện-Quyến-Thuộc-Xuất-Hưng-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-Cái-Phúc, hình liên-hoa, năm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Pháp-Hỉ-Vô-Tận-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thi-Lợi-Hoa-Quang-Luân, hình tam giác, sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Liên-Hoa-Trang-Nghiêm, hình bán nguyệt, bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Công-Ðức-Hoa-Thanh Tịnh-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Cấu-Diệm-Trang-Nghiêm, hình như bửu-đăng giăng hàng, tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Huệ-Lực-Vô-Năng-Thắng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Phạm-Âm, hình chữ 'vạn', chính phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Quảng-Ðại-Mục-Như-Không-Trung Tịnh-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vi-Trần-Số-Âm-Thinh, trạng như lưới nhơn-đà-la, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kim-Sắc-Tu-Di-Ðăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Sắc-Trang-Nghiêm, hình chữ 'vạn', mười một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Hòi-Chiếu-Pháp-Giới-Quang-Minh-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Sắc-Diệu-Quang, hình như thành-quách rộng lớn, mười hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Bửu-Ðăng-Phổ-Chiếu-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Biến-Chiếu-Quang-Minh-Luân, hình như hoa xoắn tròn, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Liên-Hoa-Diệm-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Tạng-Trang-Nghiêm, hình tứ châu, mười bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Tận-Phước-Khai-Phu-Hoa.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Như-Cảnh-Tượng-Phổ-Hiện, trạng như thân A-Tu-La, mười lăm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Cam-Lộ-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Ðàn-Nguyệt, hìm tám góc, mười sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Pháp-Vô-Ðẳng-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Cấu-Quang-Minh, trạng như dòng hương-thủy xoáy, mười bảy phật-sát vi-trần-số bao quanh, Phật hiệu Biến-Chiếu-Hư-Không-Quang-Minh-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Hoa-Trang-Nghiêm, trạng như hình xây quanh, mười tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Hiện-Thắng-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thắng-Âm-Trang-Nghiêm, trạng như tòa sư-tử, mười chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Biên-Công-Ðức-Xưng-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Cao-Thắng-Ðăng, trạng như phật-chưởng, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Hư-Không-Ðăng.
Chư Phật-tử ! Phương nam của biển Ly-Cấu-Diệm-Tạng hương-thủy này, giáp biển Vô-Tận-Quang-Minh-Luân hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phật-tràng-trang-nghiêm, dùng Phật-công-đức-hải-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết có thế-giới tên Ái-kiến-hoa, hình như bửu-luân, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Liên-Hoa-Quang-Hoan-Hỉ-Diệu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Âm, Phật hiệu Tu-Di-Bửu-Ðăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Bửu-Trang-Nghiêm-Quang, Phật hiệu Pháp-Giới-Âm-Thinh-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Tạng-Kim-Cang, Phật hiệu Quang-Minh-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Âm, Phật hiệu Tối-Thắng-Tinh-Tấn-Lực.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Liên-Hoa-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Pháp-Thành-Vân-Lôi-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Giữ-An-Lạc, Phật hiệu Ðại-Danh-Xưng-Trí-Huệ-Ðăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Cấu-Võng, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Công-Ðức-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hoa-Lâm-Tràng-Biến-Chiếu, Phật hiệu Ðại-Trí-Liên-Hoa-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Phổ-Nhãn-Pháp-Giới-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Quang-Minh-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Thắng-Trí-Ðại-Thương-Chủ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hoa-Vương, Phật hiệu Nguyệt-Quang-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Cấu-Tạng, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Giác.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Quang-Minh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Hư-Không-Ðăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Bửu-Anh-Lạc, Phật hiệu Chư-Ðộ-Phước-Hải-Tướng-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Luân-Biến-Phú, Phật hiệu Ðiều-Phục-Nhứt-Thiết-Nhiễm-Trước-Tâm-Linh-Hoan-Hỉ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Hoa-Tràng, Phật hiệu Quảng-Công-Ðức-Âm-Ðại-Danh-Xưng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Bình-Ðẳng-Trí-Quang-Minh-Công-Ðức-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Tận-Quang-Trang-Nghiêm-Tràng, hình như liên-hoa, y biển bửu-võng mà trụ, lưới liên-hoa-quang-ma-ni giăng che, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Pháp-Giới-Tịnh-Quang-Minh.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Vô-tận-quang-minh-luân-hương-thủy này giáp biển Kim-cang-bửu-diệm-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phật-quang-trang-nghiêm-tạng, dùng âm-thinh xưng nói hồng-danh của tất cả Như-Lai làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Bửu-Diệm-Liên-Hoa, hình như tướng lông màu ma-ni giữa chặn mày, y biển Bửu-sắc-thủy-triền mà trụ, mây lâu-các trang-nghiêm giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Cấu-Bửu-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Diệm-Tạng, Phật hiệu Vô-Ngại-Tự-Tại-Trí-Huệ-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Luân-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Bửu-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Ðàn-Thọ-Hoa-Tràng, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Trí-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phật-Sát-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Quảng-Ðại-Hoan-Hỷ-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Quang-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Pháp-Giới-Tự-Tại-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Tướng, Phật hiệu Vô-Ngại-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệm-Vân-Tràng, Phật hiệu Diễn-Thuyết-Bất-Thối-Luân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Bửu-Trang-Nghiêm-Thanh-Tịnh-Luân, Phật hiệu Ly-Cấu-Hoa-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quảng-Ðại-Xuất-Ly, Phật hiệu Vô-Ngại-Trí-Nhựt-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Trang-Nghiêm-Kim-Cang-Tòa, Phật hiệu Pháp-Giới-Trí-Ðại-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Trí-Huệ-Phổ-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Trí-Cự-Quang-Minh-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-Hoa-Trì-Thâm-Diệu-Âm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Sắc-Quang-Minh, Phật hiệu Phổ-Quang-Hoa-Vương-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Bửu-Tràng, Phật hiệu Công-Ðức-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-Ni-Hoa-Hào-Tướng-Quang, Phật hiệu Phổ-Âm-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thậm-Thâm-Hải, Phật hiệu Thập-Phương-Chúng-Sanh-Chủ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-Di-Quang, Phật hiệu Pháp-Giới-Phổ-Trí-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Liên-Hoa, Phật hiệu Phước-Ðức-Tạng-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Ðại-Biến-Hóa-Quang-Minh-Võng.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Kim-cang-bửu-diệm-hương-thủy này giáp biển Ðế-thanh-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới chủng tên Quang-chiếu-thập-phương, nương mây Diệu-trang-nghiêm-liên-hoa-hương mà trụ, dùng vô-biên-Phật-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Thập-phương-vô-tận-sắc-tạng-luân, hình xoay vòng vó vô-lượng góc, nương biển vô-biên-sắc-bửu-tạng mà trụ, lưới nhơn-đà-la giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Liên-Hoa-Nhãn-Quang-Minh-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Trang-Nghiêm-Tạng, Phật hiệu Vô-Thượng-Huệ-Ðại-Sư-Tử.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Hiện-Liên-Hoa-Tòa, Phật hiệu Biến-Chiếu-Pháp-Giới-Quang-Minh-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Tràng-Âm, Phật hiệu Ðại-Công-Ðức-Phổ-Danh-Xưng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-cang-bửu-trang-nghiêm-tạng, Phật hiệu Liên-Hoa-Nhựt-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhơn-đà-la-hoa-nguyệt, Phật hiệu Pháp-Tự-Tại-Trí-Huệ-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Luân-Tạng, Phật hiệu Ðại-Hỷ-Thanh-Tịnh-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Âm-Tạng, Phật hiệu Ðại-Lực-Thiện-Thương-Chủ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Nguyệt, Phật hiệu Tu-Di-Quang-Trí-Huệ-Lực.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-biên-trang-nghiêm-tướng, Phật hiệu Phương-Tiện-Nguyện-Tịnh-Nguyệt-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-hoa-âm, Phật hiệu Pháp-Hải-Ðại-Nguyện-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhứt-thiết-bửu-trang-nghiêm, Phật hiệu Công-Ðức-Bửu-Quang-Minh-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kiên-cố-địa, Phật hiệu Mỹ-Âm-Tối-Thắng-Thiên.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Quang-thiện-hóa, Phật hiệu Ðại-Tinh-Tấn-Tịch-Tịnh-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-thủ-hộ-trang-nghiêm-hạnh, Phật hiệu Kiến-Giả-Sanh-Hoan-Hỷ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Ðàn-Bửu-Hoa-Tạng, Phật hiệu Thậm-Thâm-Bất-Khả-Ðộng-Trí-Huệ-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hiện-chủng-chủng-sắc-tướng-hải, Phật hiệu Phổ-Phóng-Bất-Tư-Nghị-Thắng-Nghĩa-Vương-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hóa-hiện-thập-phương-đại-quang-minh, Phật hiệu Thắng-Công-Ðức-Oai-Quang-Vô-Giữ-Ðẳng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-Di-Vân-Tràng, Phật hiệu Cực-Tịnh-Quang-Minh-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-Hoa-biến-chiếu, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Giải-Thoát-Tinh-Tấn-Nhựt.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Ðế-thanh-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy nà giáp biển Kim-cang-luân trang-nghiêm-để-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-gián-thố, dùng âm-thinh do nhơn-đà-la-võng trí Phổ-Hiền sanh ra làm thể. Trong đây, phương dưới hết có thế-giới tên Liên-hoa-võng, trạng như hình núi Tu-Di, nương biển Chúng-diệu-hoa-sơn-tràng mà trụ, mây Phật-cảnh-giới-ma-ni-vương-đế-võng giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Pháp-Thân-Phổ-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-tận-nhựt-quang-minh, Phật hiệu Tối-Thắng-Ðại-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Phóng-diệu-quang-minh, Phật hiệu Ðại-Phước-Vân-Vô-Tận-Lực.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thọ-hoa-tràng, Phật hiệu Vô-Biên-Trí-Pháp-Giới-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chơn-châu-cái, Phật hiệu Ba-La-Mật-Sư-Tửu-Tần-Thân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Âm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Diệu-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Kiến-Thọ-Phong, Phật hiệu Phổ-Hiện-Chúng-Sanh-Tiền.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Sư-Tử-Ðế-Võng-quang, Phật Vô-Cấu-Nhựt-Kim-Sắc-Quang-Diệm-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-bửu-gián-thế, Phật hiệu Ðế-Tràng-Tối-Thắng-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-cấu-quang-minh-địa, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Lực-Thanh-Tịnh-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hằng-xuất-thán-Phật-công-đức-âm, Phật hiệu Như-Hư-Không-Phổ-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Cao-Diệm-Tạng, Phật hiệu Hóa-Hiện-Thập-Phương-Ðại-Vân-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-nghiêm-đạo-tràng, Phật hiệu Vô-Ðẳng-Trí-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-sanh-nhứt-thiết-bửu-trang-nghiêm, Phật hiệu Quảng-Ðộ-Chúng-Sanh-Thần-Thông-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-nghiêm-diệu cung-điện, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Nghĩa-Thành-Quảng-Ðại-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-trần-tịch-tịnh, Phật hiệu Bất-Ðường-Hiện.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-ni-hoa-tràng, Phật hiệu Duyệt-Ý-Kiết-Tường-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Vân-Tạng, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Giác-Thần-Thông-Vương.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Kim-Cang-Luân-Trang-Nghiêm-để-hương-thủy này giáp biển Liên-Hoa-nhơn-đà-la-võng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-hiện-thập-phương-ảnh, y liên-hoa-ma-ni trang-nghiêm mà trụ, dùng Phật-trí-quang-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên chúng-sanh-hải-bửu-quang-minh, hình như tạng-chơn-châu, nương biển ma-ni-anh-lạc mà trụ, mây thủy quang-minh ma-ni giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Bất-Tư-Nghị-Công-Ðức-Biến-Chiếu-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-hương-luân, Phật hiệu Vô-Lượng-Lực-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Quang-Luân, Phật hiệu Pháp-Giới-Quang-Âm-Giác-Ngộ-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hống-Thinh-Ma-Ni-Tràng, Phật hiệu Liên-Hoa-Quang-Hằng-Thùy-Diệu-Tý.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Cực-Kiên-Cố-Luân, Phật hiệu Bất-Thối-Chuyển-Công-Ðức-Hải-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-hạnh-Quang-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Phổ-Thắng-Tôn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Sư-Tử-Tòa-Biến-Chiếu, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Vô-Lượng-Lực-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Diệm-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Thanh-Tịnh-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Ðăng, Phật hiệu Vô-Ưu-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thường-Văn-Phật-Âm, Phật hiệu Tự-Nhiên-Thắng-Oai-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Biến-Hóa, Phật hiệu Kim-Liên-Hoa-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Nhập-Thập-Phương, Phật hiệu Quán-Pháp-Giới-Tần-Thân-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xí-Nhiên-Diệm, Phật hiệu Quang-Diệm-Thọ-Khẩn-Na-La-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Quang-Biến-Chiếu, Phật hiệu Hương-Ðăng-Thiện-Hóa-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Hoa-Tụ-Luân, Phật hiệu Phổ-Hiện-Phật-Công-Ðức.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-phổ-thanh-tịnh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Bình-Ðẳng-Thần-Thông-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Quang-Hải, Phật hiệu Thập-Phương-Tự-Tại-Ðại-Biến-Hóa.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chơn-Châu-Hoa-Tạng, Phật hiệu Pháp-Giới-Bửu-Quang-Minh-Bất-Khả-Tư-Nghị-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðế-Thích-Tu-Di-Sư-Tử-Tòa, Phật hiệu Thắng-Lực-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Bửu-Phổ-Chiếu, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Biến-Chiếu-Thế-Gian-Tối-Thắng-Âm.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Liên-hoa-nhơn-đà-la-võng-hương-thủy này giáp biển Tích-tập-bửu-hương-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Oai-đức-trang-nghiêm, dùng Phật pháp-luân-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Chủng-chủng-xuất-sanh, hình như kim-cang, y tràng chủng-chủng-kim-cang-sơn mà trụ, mây kim-cang-bửu-quang giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Liên-Hoa-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hỷ-kiến-âm, Phật hiệu Sanh-Hỷ-Lạc.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-trang-nghiêm-tràng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ða-La-Hoa-Phổ-Chiếu, Phật hiệu Vô-Cấu-Tịch-Diệu-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Biến-hóa-quang, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Không-Trí-Huệ-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-gián-thố, Phật hiệu Khai-Thị-Phước-Ðức-Hải-Mật-Vân-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Trang-nghiêm-cụ-diệu-âm-thinh, Phật hiệu Hoan-Hỷ-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-hoa-trì, Phật hiệu Danh-Xưng-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-trang-nghiêm, Phật hiệu Tần-Thân-Quán-Sát-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-diệu-hoa, Phật hiệu Vô-Tận-Kim-Cang-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-Hoa-Trang-Nghiêm-Thành, Phật hiệu Nhựt-Tạng-Nhãn-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Thọ-Phong, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Lôi-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhựt-quang-minh, Phật hiệu Khai-Thị-Vô-Lượng-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Y-Chỉ-Liên-Hoa-Diệp, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Phước-Ðức-Sơn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phong-phổ-trì, Phật hiệu Nhựt-Diệu-Căn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Minh-hiển-hiện, Phật hiệu Thân-Quang-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Lôi-âm-kim-cang-bửu-phổ-chiếu, Phật hiệu Tối-Thắng-Hoa-Khai-Phu-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðế-Võng-Trang-Nghiêm, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Thị-Hiện-Vô-Úy-Vân.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Tích-tập-bửu-hương-tạng-hương-thủy này giáp biển Bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-vô-cấu, dùng phật-sát-thần-biến-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tịnh-diệu-bình-thản, hình như bửu-thân, nương biển bửu-quang-luân mà trụ, mây chiên-đàn-ma-ni-chơn-châu giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nan-Tòi-Phục-Vô-Ðẳng-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xí-nhiên-diệu-trang-nghiêm, Phật hiệu Liên-Hoa-Huệ-Thần-Thông-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vi-diệu-tướng-luân-tràng, Phật hiệu Thập-Phương-Ðại-Danh-Xưng-Vô-Tận-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệm-tạng-ma-ni-diệu-trang-nghiêm, Phật hiệu Ðại-Trí-Huệ-Kiến-Văn-Giai-Hoan-Hỷ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Hoa-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Vô-Lượng-Lực-Tối-Thắng-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-sanh-tịnh-vi-trần, Phật hiệu Siêu-Thắng-Phạm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Quang-Minh-biến-hóa-hương, Phật hiệu Hương-Tượng-Kim-Cang-Ðại-Lực-Thế.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-minh-triền, Phật hiệu Nghĩa-Thành-Thiện-Danh-Xưng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-anh-lạc-hải, Phật hiệu Vô-Tỉ-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-hoa-đăng-tràng, Phật hiệu Cứu-Cánh-Công-Ðức-Vô-Ngại-Huệ-Ðăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-Xảo-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Huệ-Nhựt-Ba-La-Mật.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Ðàn-Hoa-Phổ-Quang-Minh, Phật hiệu Vô-Biên-Huệ-Pháp-Giới-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðế-Võng-Tràng, Phật hiệu Ðăng-Quang-Hoánh-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Hoa-Luân, Phật hiệu Pháp-Giới-Nhựt-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðại-Oai-Diệu, Phật hiệu Vô-Biên-Công-Ðức-Hải-Pháp-Luân-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðồng-an-trụ-bửu-liên-hoa-trì, Phật hiệu Khai-Thị-Nhập-Bất-Khả-Tư-Nghị-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bình-Thân-Ðịa, Phật hiệu Công-Ðức-Bửu-Quang-Minh-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Ma-Ni-Tụ, Phật hiệu Vô-Tận-Phước-Ðức-Hải-Diệu-Trang-Nghiêm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vi-Diệu-Quang-Minh, Phật hiệu Vô-Ðẳng-Lực-Phổ-Biến-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thập-phương-phổ-kiên-cố-quang-minh-chiếu-diệu, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phổ-Nhãn-Ðại-Minh-Ðăng.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Bửu-Trang-Nghiêm-Hương-Thủy này, giáp biển Kim-Cang-Bửu-Tụ-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Pháp-giới-hành, dùng Bồ-Tát phương tiện âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tịnh-quang-chiếu-diệu, hình như xâu chuỗi, nương biển Bửu-sắc-châu-anh mà trụ, mây Bồ-Tát-Châu-kế-quang-minh-ma-ni giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Công-Ðức-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Cái, Phật hiệu Pháp-Tự-Tại-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Sư-Tử-Tòa, Phật hiệu Ðại-Long-Uyên.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Hiện-Kim-Cang-Tòa, Phật hiệu Thăng-Sư-Tử-Tòa-Liên-Hoa-Ðài.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-hoa-thắng-Âm, Phật hiệu Trí-Quang-Phổ-Khai-Ngộ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-quán-tập, Phật hiệu Trì-Ðịa-Diệu-Quang-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hỉ-Lạc-Âm, Phật hiệu Pháp-Ðăng-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-ni-tạng-Nhơn-đà-la-võng, Phật hiệu Bất-Không-Kiến.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-địa-tạng, Phật hiệu Diệm-Thân-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Quang-Luân, Phật hiệu Tịnh-Trị-Chúng-Sanh-Hạnh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-điều-phục-sơn-trang-nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Vân-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-thọ-hình, Phật hiệu Bửu-Hoa-Tướng-Tịnh-Nguyệt-Giác.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Bố-Úy, Phật hiệu Tối-Thăng-Kim-Quang-Cự.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðại-danh-xưng-long-vương-tràng, Phật hiệu Quán-Ðẳng Nhứt-Thiết-Pháp.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thị-hiện-ma-ni-sắc, Phật hiệu Biến-Hóa-Nhựt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-diệm-đăng-trang-nghiêm, Phật hiệu Bửu-Cái-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Quang-Vân, Phật hiệu Tư-Duy-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Oán-Thù, Phật hiệu Tinh-Tấn-Thắng-Huệ-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Trang-nghiêm-cụ-quang-minh-tràng, Phật hiệu Phổ-Hiện-Duyệt-Y-Liên-Hoa-Tự-Tại-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hào-tướng-trang-nghiêm, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật Thanh-Tịnh-Nhãn.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Kim-cang-bửu-điệp-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Ðăng-diệm-quang-minh, dùng phổ-thị-bình-đẳng-pháp-luân-âm-thinh làm thể. Trong đó, phương dưới hết, có thế-giới tên Bửu-nguyệt-quang-diệm-luân, hình như đồ trang-nghiêm, y biển Bửu-trang-nghiêm-hoa mà trụ, mây lưu-ly-sắc-sư-tử-tòa giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nhựt-Nguyệt-Tự-Tại-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-Di-Bửu-Quang, Phật hiệu Vô-Tận-Pháp-Bửu-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-quang-minh-tràng, Phật hiệu Ðại-Hoa-Tụ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-ni-Quang-minh-hoa, Phật Nhơn-Trung-Tối-Tự-Tại.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Âm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ðại-Thọ-Khẩn-Na-La-Âm, Phật hiệu Vô-Lượng-Phước-Ðức-Tự-Tại-Long.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Tịnh-Quang-Minh, Phật hiệu Công-Ðức-Bửu-Hoa-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tối-Thắng-Âm, Phật Nhứt-Thiết-Trí-Trang-Nghiêm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-bửu-gián-sức, Phật hiệu Bửu-Diệm-Tu-Di-Sơn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-tịnh-tu-di-Âm, Phật hiệu Xuất-Hiện-Nhứt-Thiết-Hạnh-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Sư-Tử-Hoa-Võng, Phật hiệu Bửu-Diệm-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-cang-diệu-hoa-đăng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Ðại-Nguyện-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhứt-Thiết-pháp-quang-minh-địa, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Quảng-Ðại-Chơn-Thật-Nghĩa.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chơn-châu-mạt-bình-thản-trang-nghiêm, Phật hiệu Thắng-Huệ-Quang-Minh-Võng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Lưu-Ly-Hoa, Phật hiệu Bửu-Tích-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Diệu-Quang-Luân, Phật hiệu Ðại-Oai-Lực-Trí-Hải-Tạng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Minh-kiến-thập-phương, Phật hiệu Tịnh-Tu-Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Khả-ái-nhạo-phạm-âm, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Pháp-Giới-Vô-Ngại-Quang.
Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Phương đông của biển Ly-cấu-diệm-tạng-hương-thủy giáp biển Biến-hóa-vi-diệu-thân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thiện-Bố-Sai-Biệt-Phương.
Kế đó là biển Kim-cang-nhãn-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Trang-Nghiêm-Pháp-Giới-Kiều.
Kế đó là biển Chủng-chủng-liên-hoa-diệu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hằng-Xuất-Thập-Phương-Biến-Hóa.
Kế đó là biển Vô-gián-Bửu-Vương-Luân, có thế-giới-chủng tên Bửu-Liên-Hoa-Hành-Mật-Vân.
Kế đó là biển Diệu-hương-diệu-phổ-trang-nghiêm, có thế-giới-chủng tên Tỳ-Lô-Giá-Na-Biến-Hóa-Hạnh.
Kế đó là biển Bửu-Mật-Diệm-Phủ-Tràng-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Chư-Phật-Hộ-Niệm-Cảnh-Giới.
Kế đó là biển Nhứt-thiết-sắc-xí-nhiên-quang, có thế-giới-chủng tên Tối-Thắng-Quang-Biến-Chiếu.
Kế đó là biển Nhứt-thiết-trang-nghiêm-cụ-cảnh-giới, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Ðăng.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số biển hương-thủy như vậy.
Biển hương-thủy gần Luân-vi-sơn nhứt tên Pha-Lê-Ðịa, có thế-giới-chủng tên Thường-phóng-quang-minh, dùng thanh-tịnh-kiếp âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Khả-ái-nhạo-tịnh-quang-tràng, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Tam-Muội-Tinh-Tấn-Huệ.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Hương-trang-nghiêm-tràng, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Chướng-Ngại-Pháp-Giới-Ðăng.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với Ta-Bà thế-giới, có thế-giới tên Phóng-Quang-Tạng, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Vô-Chướng-Ngại-Huệ-Minh.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Tối-Thắng-Thân-Hương, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Giác-Phần-Hoa.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Vô-tận-quang-minh-luân-hương-thủy, đến biển Cụ-túc-diệu-quang-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Vô-Cấu.
Kế đó là biển Quang-diệu-cái-hương-thủy có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Phổ-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Diệu-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hương-Ma-Ni-Quỷ-Ðộ-Hình.
Kế đó là biển Xuất-Phật-âm-thinh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thiện-Kiến-Lập-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Hương-tràng-tu-di-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Quang-Minh-Biến-Mãn.
Kế đó là biển Chiên-đàn-diệu-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Luân.
Kế đó là biển Phong-lực-trì-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Vân-Tràng.
Kế đó là biển Ðế-Thích-Thân-Trang-Nghiêm-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Chơn-châu-Tạng.
Kế đó là biển Bình-Thân-Nghiêm-Tịnh-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên là Tỳ-Lưu-Ly-Mạt-Chủng-Chủng-Trang-Nghiêm.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số biển hương-thủy như vậy. Gần Luân-vi-sơn nhứt, là biển Diệu-thọ-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Xuất-Sanh-Chư-Phương-Quảng-Ðại-Sát, dùng Phật-tồi-phục-ma-âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Diệm-Cự-Tràng, Phật hiệu Thế-Gian-Công-Ðức-Hải.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Bửu, Phật hiệu Sư-Tử-Lực-Bửu-Vân.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Y-Phục-Trạng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Hải-Vương.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Bửu-Anh-Lạc-Sư-Tử-Quang-Minh, Phật hiệu Thiện-Biến-Hóa-Liên-Hoa-Tràng.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Kim-cang-diệm-quang-minh-hương-thủy, đến biển Nhứt-thiết-trang-nghiêm-cụ-oanh-sức-tràng, có thế-giới-chủng tên Thanh-tịnh-hạnh-trang-nghiêm.
Kế đó là biển Bửu-hoa-quang-diệu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Công-Ðức-Tướng-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Liên-Hoa-Khai-Phu-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Bồ-Tát-Ma-Ni-Quan-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Diệu-bửu-y-phục-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tịnh-Châu-Luân.
Kế đó là biển Khả-ái-hoa-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bá-quang-vân-chiếu-diệu.
Kế đó là biển Biến-hư-không-đại-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Quang-Phổ-Chiếu.
Kế đó là biển Diệu-hoa-trang-nghiêm-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Kim-Nguyệt-Nhãn-Anh-Lạc.
Kế đó là biển Chơn-châu-Hương-hải-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phật-Quang-Minh.
Kế đó là biển Bửu-luân-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thiện-Hóa-Hiện-Phật-Cảnh-Giới-Quang-Minh.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy. Gần Luân-vi-sơn nhứt, là biển Vô-biên-luân-trang-nghiêm-để-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Lượng-Phương-Sai-Biệt, dùng những loại ngôn-thuyết âm-thinh của tất cả quốc-độ làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Kim-cang-hoa-cái, Phật hiệu Vô-Tận-Tướng-Quang-Minh-Phổ-Môn-Âm.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Xuất-sanh-Bửu-y-tràng, Phật hiệu Phước-Ðức-Vân-Ðại-Oai-Thế.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Chúng-bửu-cụ-diệu-trang-nghiêm, Phật hiệu Thắng-Huệ-Hải.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Nhựt-Quang-Minh-y-phục-tràng, Phật hiệu Trí-Nhựt-Liên-Hoa-Vân.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Ðế-thanh-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, đến biển A-tu-la-cung-điện-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hương-thủy-quang-sở-trì.
Kế đó là biển Bửu-sư-tử-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Thị-Thập-Phương-Nhứt-Thiết-Bửu.
Kế đó là biển Cung-điện-sắc-quang-minh-vân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Luân-Diệu-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Xuất-đại-liên-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-Trang-Nghiêm-Biến-Chiếu-Pháp-Giới.
Kế đó là biển Ðăng-diệm-diệu-nhãn-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Quán-Sát-Thập-Phương-Biến-Hóa.
Kế đó là biển Bất-Tư-Nghì-trang-nghiêm-luân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thập-Phương-Quang-Minh-Phổ-Danh-Xưng.
Kế đó là biển Bửu-Tích-Trang-Nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Ðăng-Quang-Chiếu-Diệu.
Kế đó là biển Thanh-tịnh-bửu-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tu-Di-Vô-Năng-Vi-Ngại-Phong.
Kế đó là biển Bửu-Y-lan-thuẩn-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Như-Lai-Thân-Quang-Minh.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Thọ-trang-nghiêm-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên An-Trụ-Ðế-Võng, dùng Bồ-Tát-trí-địa-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Diệu-Kim-Sắc, Phật hiệu Hương-Diệm-Thắng-Oai-Quang.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Ma-Ni-Thọ-Hoa, Phật hiệu Vô-Ngại-Phổ-Hiện.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Tỳ-Lưu-Ly-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Pháp-Tự-Tại-Kiên-Cố-Huệ.
Phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Phạm-Âm-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Liên-Hoa-Khai-Phu-Quang-Minh-Vương.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Kim-cang-luân-trang-nghiêm-để-hương-thủy, đến biển Hóa-hiện-liên-hoa-xứ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Quốc-Ðộ-Bình-Chánh.
Kế đó là biển Ma-Ni-Quang-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Pháp-Giới-Vô-Mê-Hoặc.
Kế đó là biển Chúng-diệu-hương-nhựt-ma-ni-hương-thủy, có thế-giới chủng tên Phổ-Hiện-Thập-Phương.
Kế đó là biển Hằng-nạp-bửu-lưu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hành-Phật-Ngôn-Âm.
Kế đó là biển Vô-biên-thâm-diệu-âm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Phương-Sai-Biệt.
Kế đó là biển Kiên-thiệt-tích-tụ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Lượng-Xứ-Sai-Biệt.
Kế đó là biển Thanh-tịnh-phạm-âm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Thanh-Tịnh-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Chiên-đàn-lan-thuẩn-âm-thinh-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hoánh-Xuất-Tràng.
Kế đó là Diệu-hương-bửu-vương-quang-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hiện-Quang-Minh-Lực.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Liên-Hoa-nhơn-đà-la-võng, đến biển Ngân-liên-hoa-diệu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Biến-Hành.
Kế đó là biển Tỳ-lưu-ly-trúc-mật-diệm-vân, có thế-giới-chủng tên Phổ-Xuất-thập phương-âm.
Kế đó là biển Thập-phương-quang-diệm-tụ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hằng-xuất-biến-hóa-phân-bố-thập phương.
Kế đó là biển Xuất-hiện-chơn-kim-ma-ni-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Kim-cang-tràng-tướng.
Kế đó là biển Bình-đẳng-đại-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Pháp-Giới-Dũng-Mãnh-triền.
Kế đó là biển Bửu-hoa-tòng-vô-tận-quang-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Tịnh-Quang-Minh.
Kế đó là biển Diệu-Kim-Tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diễn-Thuyết-Vi-Mật-Xứ.
Kế đó là biển Quang-ảnh-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Tịch-âm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hiện-Tiền-Thùy-Bố.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy. Gần Luân-vi-sơn nhứt, là biển Mật-diệm-Vân-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Nhứt-Thiết-Quang-Trang-Nghiêm, dùng Như-Lai đạo-tràng chúng hội âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tịnh-nhãn-trang-nghiêm, Phật hiệu Kim-Cang-Nguyệt-Biến-Chiếu-Thập-Phương.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Liên-hoa-đức, Phật hiệu Ðại-Tinh-Tấn-Thiện-Giác-Huệ.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Kim-cang-mật-trang-nghiêm, Phật hiệu Ta-La-Vương-Tràng.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Tịnh-hải-trang-nghiêm, Phật hiệu Oai-Ðức-Tuyệt-Luân-Vô-năng-Chế-Phục.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Tích-Tập-Bửu-Hương-Tạng-hương-thủy, đến biển Bửu-quang-minh-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Cấu-Xưng-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Cát-tường-ốc-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới tên Vô-Ngại-quang-Phổ-trang-nghiêm.
Kế đó là biển Chiển-đàn-thọ-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hiện-Thập-Phương-Triền.
Kế đó là biển Xuất-sanh-diệu-sắc-bửu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thắng-Tràng-Châu-Biến-Hành.
Kế đó là biển Tâm-vương-ma-ni-tràng-nghiêm-sức-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thị-hiện-vô-ngại-phật-quang-minh.
Kế đó là biển Chơn-châu-luân-phổ-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Chư-Phật-Nguyện-Sở-Lưu.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-hải như vậy. Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Diêm-phù-đàn-bửu-tạng-luân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Âm-Tràng, dùng nhập-nhứt-thiết-trí-môn-âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Hoa-Nhụy-Diệm, Phật hiệu Tinh-Tấn-Thí.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Liên-hoa-quang-minh-tràng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Tối-Thắng-Tâm-Vương.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Thập-lực-trang-nghiêm, Phật hiệu Thiện-Xuất-Hiện-Vô-Lượng-Công-Ðức-Vương.
Phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Ma-ni-hương-sơn-tràng, Phật hiệu Quảng-Ðại-Thiện-Nhãn-Tịnh-Trừ-Nghi.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Bửu-Trang-nghiêm-hương-thủy, đến biển Trì-Tu-Di-Quang-Minh-Tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Xuất-sanh-Quảng-đại-vân.
Kế đó là biển Trang-Nghiêm-đại-oai-lực-cảnh-giới-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Ngại-Tịnh-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Mật-bố-bửu-liên-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tối-Thắng-Ðăng-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Y-chỉ-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Nhựt-Quang-Minh-Võng-Tạng.
Kế đó là biển Chúng-Ða-Nghiêm-Tịnh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Hoa-Y-Xứ.
Kế đó là biển Cực-thông-huệ-hành-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tối-Thắng-Hình-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Trì-diệu-ma-ni-phong-hương-thủy, có thế-giới-chủng Phổ-Tịnh-Hư-Không-Tạng.
Kế đó là biển Ðại-quảng-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Ðế-Thanh-Cự-Quang-Minh.
Kế đó là biển Khả-ái-ma-ni-châu-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hống-Thinh.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Xuất-Ðế-Thanh-Bửu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Châu-Biến-Vô-sai-biệt, dùng Bồ-Tát Chấn-Hống-Âm-Thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết có thế-giới tên Diệu-Thắng-Tạng, Phật hiệu Tối-Thắng-Công-Ðức-Huệ.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Trang-Nghiêm-Tướng, Phật hiệu Siêu-Thắng-Ðại-Quang-Minh.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Lưu-Ly-Luân-Phổ-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Tu-Di-Ðăng.
Phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Hoa-Tràng-Hải, Phật hiệu Vô-Tận-Biến-Hóa-Diệu-Huệ-Vân.
Chư Phật-tử ! Ngoài biên Kim-cang-Bửu-Tự-hương-thủy, đến biển Sùng-Ðức-Bửu-Tê-Nghê-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thấu-Xuất-Bửu-Tràng.
Kế đó là biển Bửu-Tràng-Trang-Nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hiện-Nhứt-Thiết-Quang-Minh.
Kế đó là biển Diệu-Bửu-Vân-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Trang-Nghiêm-Quang-Minh-Biến-Chiếu.
Kế đó là biển Bửu-thọ-hoa-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-Hoa-Gián-Sức.
Kế đó là biển Diệu-hoa-y-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Quang-Minh-Hải.
Kế đó là biển Bửu-thọ-phong-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Vân.
Kế đó là biển Thị-hiện-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Nhập-Kim-Cang-Vô-Sở-Ngại.
Kế đó là biển Liên-hoa-phổ-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Ngạn-Hải-Uyên.
Kế đó là biển Diệu-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Thị-Hiện-Quốc-Ðộ-Tạng.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Bất-Khả-Hoại-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-Luân-Gián-Thố-Liên-Hoa-Tràng, dùng Phật-lực-sở-xuất âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tối-Diệu-Hương, Phật hiệu Hóa-Vô-Lượng-Trần-Số-Quang.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Bất-Tư-Nghị-Sai-Biệt-Trang-Nghiêm-Môn, Phật hiệu Vô-Lượng-Trí.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Thập-Phương-Quang-Minh-Diệu-Hoa-Tạng, Phật hiệu Sư-Tử-Nhãn-Quang-Diệm-Vân.
Phương trên hết, có thế-giới tên Hải-Âm-Thinh, Phật hiệu Thủy-Thiên-Quang-Diệm-Môn.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Thiên-Thành-Bửu-Diệu-Hương-Thủy, đến biển Diệm-luân-hích-tích-Quang-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bất-khả-thuyết-chủng-chủng-trang-nghiêm.
Kế đó là biển Bửu-trần-lộ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Nhập-Vô-Lượng-Triền.
Kế đó là biển Cụ-Nhứt-thiết-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Quang-Biến-Chiếu.
Kế đó là biển Bố-chúng-bửu-võng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên An-Bố-Thâm-Mật.
Kế đó là biển Diệu-bửu-trang-nghiêm-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thế-Giới-Hải-Minh-Liễu-Âm.
Kế đó là biển Nhựt-Cung-Thanh-Tịnh-Ảnh-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Nhập-Nhơn-Ðà-La-Võng.
Kế đó là biển Chủng-chủng-diệu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tịnh-Mật-Quang-Diệm-Vân.
Kế đó là biển Châu-biến-bửu-diệm-đăng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tùy-Phật-Bổn-Nguyện-chủng-chủng-hình.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Tích-tập-anh-lạc-y-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hóa-Hiện-Diệu-Y, dùng tam-thế chư Phật âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Phát-sanh-Hoan-Hỉ, y biển Nhơn-đà-la-hoa-tạng-hương-thủy mà trụ, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kiên-Ngộ-Trí.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Bửu-Võng-trang-nghiêm, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Lượng-Hoan-Hỷ-Quang.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Bửu-liên-hoa-sư-tử-tòa, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Tối-Thanh-Tịnh-Bất-Không-Văn.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Bửu-Sắc-Long-Quang-Minh, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Phổ-Chiếu-Minh.
Chư Phật-tử ! Trong mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy, có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-chủng, đều y hiện-nhứt-thiết-Bồ-Tát-hình-ma-ni-vương-tràng-trang-nghiêm-liên-hoa mà trụ, đều riêng bửu-tế trang-nghiêm không gián đoạn, đều riêng phóng bửu-sắc-quang-minh, đều riêng quang-minh-vân giăng che, đều riêng trang-nghiêm, đều riêng kiếp sai khác, đều riêng Phật xuất-hiện, đều riêng diễn pháp-hải, đều riêng chúng-sanh khắp đầy dẫy, đều riêng vào đến khắp mười phương, đều riêng sự gia trì của thần lực chư Phật. Trong mỗi thế-giới-chủng này, tất cả thế-giới đều y các loại trang-nghiêm mà trụ, liên tiếp lẫn nhau thành thế-giới-võng, kiến lập nhiều loại sai khác khắp cùng nơi Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải.
Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, mà nói kệ rằng :
Hoa-Tạng thế-giới-hải
Pháp-giới đồng không khác
Trang-nghiêm rất thanh-tịnh
An-trụ nơi hư-không.
Trong thế-giới-hải này
Sát-chủng khó nghĩ bàn
Mỗi mỗi đều tự-tại
Ðều riêng không tạp loạn.
Biển Hoa-Tạng-Thế-Giới
Sát-chủng khéo an bày
Hình khác, trang-nghiêm khác
Các loại tướng không đồng.
Chư Phật biến-hóa-âm
Nhiều loại làm thể đó
Tùy nghiệp-lực mà thấy
Sát-chủng nghiêm-sức đẹp.
Hình Tu-Di, thành, lưới,
Nước xoáy, hình tròn, vuông
Hoa sen nở rộng lớn
Cõi cõi bao quanh nhau.
Hình sơn-tràng, lâu-các
Hình kim-cang xây vòng
Những sát-chủng quảng-đại
Bất-tư-nghì như vậy.
Ðại-hải, lửa chơn-châu
Quang-võng bất-tư-nghì
Những sát-chủng như vậy
Ðều trụ nơi liên-hoa.
mỗi mỗi những sát-chủng
Quang-võng bất-khả-thuyết
Trong quang hiện các cõi
Khắp cả mười phương biển.
Tất cả những sát-chủng
Bao nhiêu đồ trang-nghiêm
Quốc-độ hiện trong đó
Thấy khắp vô-cùng tận.
Sát-chủng bất-tư-nghì
Thế-giới-vô-biên-tế
Nhiều thứ trang-nghiêm đẹp
Ðều do oai-lực Phật.
Trong tất cả sát-chủng
Thế-giới bất-tư-nghì
Hoặc thành, hoặc hư hoại
Hoặc cõi đã hư hoại
Ví như lá trong rừng
Có mọc cũng có rụng
Trong sát-chủng như vậy
Thế-giới có thành hoại.
Ví như trong rừng cây
Các thứ quả sai khác
Như vậy y sát-chủng
Các loài chúng-sanh trụ.
Ví như chủng-tử khác
Sanh quả đều sai khác
Vì nghiệp-lực sai khác
Cõi chúng-sanh không đồng.
Ví như tâm-vương bửu
Tùy tâm thấy màu sắc
Vì tâm chúng-sanh tịnh
Ðược thấy cõi thanh-tịnh.
Ví như đại long-vương
Nổi mây khắp hư-không
Như vậy Phật nguyện-lực
Xuất sanh các quốc-độ.
Như thuật-sĩ ảo-thuật
Hiển được các đồ vật
Vì nghiệp-lực chúng-sanh
Quốc-độ bất-tư-nghì.
Ví như những tượng màu
Của họa-sĩ sáng tác
Như vậy tất cả cõi
Tâm họa-sĩ làm thành.
Thân chúng-sanh khác nhau
Tùy tâm phân-biệt khởi
Như vậy các cõi nước
Không gì chẳng do nghiệp.
Ví như thấy chư Phật
Nhiều hình sắc sai khác
Tùy tâm hành chúng-sanh
Thấy các cõi cũng khác.
Ngàn đắy của các cõi
Bủa giăng lưới liên-hoa
Những tướng trạng không đồng
Trang-nghiêm rất thanh-tịnh.
Những lưới liên-hoa kia
Nơi sát-võng an-trụ
Bao nhiêu sự trang-nghiêm
Các loài chúng-sanh ở.
Hoặc có trong cõi nước
Hiểm trở không bình-thản
Do chúng-sanh phiền não
Thấy trong đó như vậy.
Tạp-nhiễm và thanh-tịnh
Vô-lượng thế-giới-chủng
Tùy tâm chúng-sanh khởi
Bồ-Tát-lực gia-trì
Hoặc có trong cõi nước
Tạp nhiễm và thanh-tịnh
Hoặc do nghiệp-lực khởi
Bồ-Tát chỗ hóa-độ.
Có cõi phóng quang-minh
Ly-cấu-bửu làm thành
Các thứ nghiêm-sức đẹp
Chư Phật khiến thanh-tịnh.
Trong mỗi thế-giới-chủng
Kiếp thiêu bất-tư-nghì
Hiện bày đầy hư ác
Nơi đó thường kiên cố.
Do nghiệp-lực chúng-sanh
Xuất sanh nhiều quốc-độ
Nương trụ nơi phong luân
Và nương thủy-luân trụ.
Thế-giới tự như vậy
Thấy nhiều loại không đồng
Như thiệt không có sanh
Cũng lại không diệt hoại.
Trong mỗi mỗi tâm niệm
Xuất-sanh vô-lượng cõi
Do oai-thần của Phật
Ðều thấy tịnh không nhơ.
Có cõi bùn đất thành
Thể-chất rất cứng rắn
Ðen tối không ánh sáng
Kẻ ác-nghiệp ở đó.
Có cõi kim-cang thành
Tạp nhiễm nhiều lo sợ
Khổ nhiều mà vui ít
Kẻ phước mỏng ở đó.
Có cõi toàn bằng sắt
Hoặc cõi xích-đồng thành
Núi đá hiểm đáng sợ
Kẻ tội ác đầy dẫy.
Trong cõi có địa ngục
Chúng-sanh khổ khó cứu
Luôn ở trong đen tối
Biển lửa thường thiêu đốt.
Hoặc lại có súc-sanh
Biết bao hình xấu-xí
Do nơi tự ác-nghiệp
Thường thọ các khổ-não
Hoặc có cõi Diêm-La
Luôn khổ nỗi đói khát
Trèo lên núi lửa to
Chịu những khổ rất nặng.
Hoặc có các quốc-độ
Bảy báu hiệp lại thành
Bao nhiêu là cung-điện
Do tịnh-nghiệp tạo nên.
Các Ngài xem thế-gian
Trong đó Trời và Người
Quả tịnh-nghiệp thành-tựu
Tùy thời hưởng khoái lạc.
Trong mỗi mỗi chơn lông
Ức cõi bất-tư-nghì
Các thứ tướng trang-nghiêm
Chư từng có chật hẹp.
Chúng-sanh nghiệp sai khác
Thế-giới nhiều vô-lượng
Trong đó sanh thủ-trước
Thọ khổ vui chẳng đồng.
Có cõi thuần châu báu
Thường phóng vô-biên-quang
Kim-cang diệu liên-hoa
Trang-nghiêm tịnh vô-cấu
Có cõi bằng ánh-sáng
Y quang-luân an-trụ
Kim-sắc hương chiên-đàn
Diệm-vân khắp sáng soi.
Có cõi bằng nguyệt-luân
Hương-y trải khắp nơi
Nơi trong một liên-hoa
Bồ-Tát ngồi đầy khắp.
Có cõi bằng châu báu
Hình sắc không bợn nhơ
Ví như lưới Thiên-đế
Quang-minh thường chiếu sáng.
Có cõi bằng chất hương
Hoặc là hoa Kim-cang
Ma-ni quang hiện bóng
Nhìn xem rất thanh-tịnh.
Hoặc có nan-tư-cõi
Hoa xoay kết hợp thành
Trong đó đầy Hóa-Phật
Bồ-Tát khắp sáng rực.
Hoặc có cõi thanh-tịnh
Toàn là những cây hoa
Nhánh đẹp che đạo-tràng
Mây ma-ni giăng khắp.
Có cõi tịnh-quang chiếu
Hoa Kim-Cang làm thành
Có âm-thinh Hóa-Phật
Vô-biên giăng thành lưới.
Có cõi như Bồ-Tát
Mão tốt đẹp ma-ni
Hoặc cõi hình bửu-tòa
Từ quang-minh biến hóa.
Hoặc là mạt chiên-đàn
Hoặc là bạch-hào-quang
Hoặc tiếng trong Phật-quang
Mà thành cõi đẹp đó.
Hoặc thấy cõi thanh-tịnh
Dùng một quang trang-nghiêm
Hoặc thấy nhiều trang-nghiêm
Các cõi đều kỳ-diệu.
Hoặc dùng mười quốc-độ
Vật đẹp để trang-sức
Hoặc dùng ngàn quốc-độ
Tất cả để trang-nghiêm.
Hoặc dùng ức quốc-độ
Trang-nghiêm nơi một cõi
Những hình tướng chẳng đồng
Ðều như bóng tượng hiện.
Bất-khả-thuyết quốc-độ
Trang-nghiêm mơi một cõi
Mỗi vật phóng quang-minh
Do nguyện-lực của Phật.
Hoặc có những quốc-độ
Do nguyện-lực thanh-tịnh
Trong các vật trang-nghiêm
Khắp thấy những sát-hải.
Người tu nguyện Phổ-Hiền
Cảm thành cõi thanh-tịnh
Tam-thế cõi trang-nghiêm
Trong đây hiện đủ cả.
Phật-tử nên quán-sát
Sát-chủng oai-thần-lực
Những quốc-độ vị-lai
Như mộng đều khiến thấy.
Những thế-giới mười phương
Những quốc-độ quá-khứ
AÐều ở trong một cõi
Hiện tượng như huyễn-hóa.
Tất cả Phật tam-thế
Và quốc-độ chư Phật
Ở trong một sát-chủng
Ðều xem thấy tất cả.
Thần-lực của chư Phật
Trong trần hiện các cõi
Các loại đều thấy rõ
Như bóng không chơn thiệt.
Hoặc có nhiều cõi nước
Hình trạng như biển cả
Hoặc như núi Tu-Di
Thế-giới bất-tư-nghì.
Có cõi an-trụ tốt
Hình như lưới Thiên-Ðế
Hoặc hình như rừng cây
Chư Phật đầy trong đó.
Hoặc hình như bửu-luân
Hoặc trạng như liên-hoa
Tám góc trang-nghiêm đẹp
Mọi nơi đều thanh-tịnh
Hoặc như hình bửu-tòa
Hoặc có cõi ba góc
Hoặc như Khư-lặc-ca
Thành-quách, thân Phạm-Vương.
Hoặc như tóc Thiên-chủ
Hoặc như hình bán-nguyệt
Hoặc như núi ma-ni
Hoặc như hình mặt nhựt.
Hoặc có những thế-giới
Hình như hương-hải xây
Hoặc làm vòng quang-minh
Xưa Phật đã nghiêm-tịnh.
Hoặc như hình trục xe
Hoặc hình đàn cúng tế
Hoặc như tướng bạch-hào
Nhục-Kế, mắt rộng dài.
Có cõi hình Phật-thủ
Hoặc như chày Kim-cang
Hoặc như hình Diệm-sơn
Bồ-Tát ở đầy khắp
Hoặc hình như sư-tử
Hoặc như hình con ngao
Thể-tánh đều sai khác.
Ở trong một sát-chủng
Hình các cõi vô-tận
Ðều nhờ nguyện-lực Phật
Hộ-niệm nên an-trụ.
Có cõi trụ một kiếp
Có cõi trụ mười kiếp
Nhẫn đến hơn trăm ngàn
Thế-giới vi-trần-số.
Hoặc ở trong một kiếp
Thấy cõi có thành hoại
Hoặc vô-lượng vô-số
Nhẫn đến bất-tư-nghì.
Hoặc có cõi có Phật
Hoặc có cõi không Phật
Hoặc có chỉ một Phật
Hoặc có vô-lượng Phật.
Cõi nào nếu không Phật
Thời có Phật cõi khác
Biến-hóa đến cõi đó
Ðể thị-hiện phật-sự :
Từ trời giáng thần xuống
Trụ-thai và đản sanh
Hàng ma thành chánh-giác
Chuyển vô-thượng pháp-luân.
Tùy lòng chúng ưa thích
Thị-hiện nhiều tướng mạo
Vì họ chuyển pháp-luân
Hạp căn tánh của họ.
Trong mỗi mỗi cõi Phật
Một Phật hiện ra đời
Trải qua ngàn ức năm
Diễn thuyết pháp vô-thượng.
Chúng chẳng phải pháp-khí
Không thấy được chư Phật,
Nếu ai tâm mến thích
Mọi nơi đều thấy Phật.
Trong mỗi mỗi sát-độ
Ðều có Phật ra đời
Chư Phật trong các cõi
Ức số bất-tư-nghì.
Mỗi mỗi Phật trong đây
Hiện vô-lượng thần-biến
Ðều khắp trong pháp-giới
Ðiều-phục các chúng-sanh.
Có cõi không ánh sáng
Ðen tối nhiều lo sợ
Ðau khổ tợ dao đâm
Kẻ thấy tự đau xót.
Hoặc ánh sáng chư Thiên
Hoặc ánh sáng cung-điện
Hoặc ánh sáng nhựt-nguyệt
Sát võng khó nghĩ bàn.
Có cõi tự chiếu sáng
Hoặc cây báu chói rực
Chưa từng có khổ não
Do phước-lực chúng-sanh.
Hoặc có núi chiếu sáng
Hoặc ánh sáng ma-ni
Hoặc dùng đèn soi sáng
Ðều do nghiệp-lực cả.
Hoặc quang-minh của Phật
Trong đó đầy Bồ-Tát
Hoặc liên-hoa chiếu sáng
Màu rực-rỡ rất xinh.
Có cõi bông chiếu sáng
Hoặc dùng hương-thủy chiếu
Hương đốt, hương thoa sáng
Ðều do nguyện-lực tốt.
Có cõi mây sáng chiếu
Ngọc ma-ni chiếu sáng
Hoặc Phật-quang sáng soi
Tuyên thuyết tiếng đẹp dạ.
Hoặc châu báu chiếu sáng
Hoặc kim-cang sáng chiếu
Tiếng thanh-tịnh vang xa
Dứt trừ các sự khổ.
Hoặc có sáng ma-ni
Hoặc đồ trang-nghiêm sáng
Hoặc ánh sáng đạo-tràng
Chiếu sáng khắp chúng-hội.
Phật phóng đại quang-minh
Hóa-Phật đầy trong đó
Quang-minh chiếu mọi nơi
Khắp cùng cả pháp-giới.
Có cõi rất đáng sợ
Tiếng gào thét kêu khổ
Tiếng rên rỉ não nùng
Ai nghe cũng ghê sợ.
Ðường địa-ngục súc-sanh
Và đến cõi Diêm-La
Thế-giới trược ác này
Thường vang tiếng đáng vui
Ðẹp ý thuận chánh-pháp
Ðây do tịnh-nghiệp được.
Hoặc có những quốc-độ
Thường nghe tiếng Ðế-Thích
Hoặc nghe tiếng Phạm-Thiên
Và tiếng các Thế-Chủ.
Hoặc có những quốc-độ
Trong mây vang tiếng diệu
Biển báu cây ma-ni
Và tiếng nhạc đầy khắp.
Trong viên-quang chư Phật
Hóa-thinh vô cùng tận
Và Bồ-Tát tiếng diệu
Nghe khắp mười phương cõi.
Quốc-độ bất-tư-nghì
Tiếng pháp-luân thường chuyển
Nguyện-hải vang ra tiếng
Tiếng diệu-âm tu hành.
Tam-thế tất cả Phật
Xuất-sanh các thế-giới
Danh-hiệu đều đầy đủ
Thinh-âm vô cùng tận.
Có cõi thường được nghe
Lực-âm của chư Phật
Ðịa, độ và vô-lượng
Diễn nói những pháp đó.
Sức thệ-nguyện Phổ-Hiền
Ức cõi diễn diệu-âm
Tiếng đó như sấm vang
Trụ kiếp cũng vô-tận.
Phật ở cõi thanh-tịnh
Thị-hiện tiếng tự-tại
Trong pháp-giới mười phương
Tất cả đều được nghe.
Hết quyển một
******************************
BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết, chiết nại di, Án, kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đế, ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tá ha (7 lần)
Nam-Mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật (3 lần)
BỔ KHUYẾT TÂM KINH
Ma-Ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm-kinh
Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử ! thị chư pháp không tướng : bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô-sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý-thức giới; vô vô-minh diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô-lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đõa y Bát-nhã-bất-khả-thuyết-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết-bàn.
Tam thế chư Phật y Bát-nhã-bất-khả-thuyết-la-mật-đa cố, đắc a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần-chú, thị đại minh-chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết :
'Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba la tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha'.
VÃNG SANH QUYẾT ÐINH CHƠN NGÔN
Nam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A điều-phục rị đô bà tỳ, a điều-phục rị đa, tất đam bà tỳ, a điều-phục rị đa, tỳ ca lan đế, a điều-phục rị đa tỳ ca lan đa, già điều-phục-nị già già na-do-tha, chỉ đa ca lệ thanh-tịnh bà ha.
Khể chủ tây phương An-Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.
A-Di-Ðà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
NAM-MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP D"N ÐẠO SƯ A-DI-ÐÀ PHẬT (niệm 10, 20, 30 câu tùy ý)
Nam-mô QUAN-THẾ-ÂM Bồ-Tát (10 lần)
Nam-mô ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-Tát (10 lần)
Nam-mô ÐIA-TẠNG-VƯƠNG Bồ-Tát (10 lần)
Nam-mô THANH-TiNH-ÐẠI-HẢI-CHÚNG Bồ-Tát (10 lần)
HỒI HƯỚNG
Ðệ tử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu tội chướng thâm trọng luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Ðà danh hiệu, bổn nguyện công-đức, nhứt tâm xưng niệm cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang-minh, nguyện Phật thị hiện, linh ngã đắc kiến, cập kiến Quan Âm Thế Chí Bồ Tát chúng bỉ thế-giới trung, thanh-tịnh trang-nghiêm, quang-minh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến A Di Ðà Phật.
Ngã kim trì niệm A-Di-Ðà.
Tức phát bồ-đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công-đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang-nghiêm
Nguyện cộng chúng-sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A-Di-Ðà
Tức đắc vãng-sanh Cực-Lạc sát
Ngã ký vãng-sanh Cực-Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhứt-thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhứt thiết chúng-sanh giới
Ngã Phật chúng hội hàm thanh-tịnh
Ngã thời ư thẳng liên-hoa sanh
Thân đỗ Như-Lai Vô-Lượng-Quang
Hiện tiền thọ ngã bồ-đề ký.
Mong ngã Như-Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô-số bá cúng-dường-chi
Tri lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhứt thế chúng-sanh giới.
Chúng-sanh vô-biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật-đạo vô-thượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh tây phương tịnh-độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi-trần phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức
Trang-nghiêm Phật tịnh-độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ-đề tâm
Tận thử nhứt báo thân
Ðồng sanh Cực-Lạc quốc.
Tận thử nhứt báo thân
Ðồng sanh An-Dưỡng-Quốc.
NGUYỆN
A-Di-Ðà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thinh phân minh, diện phụng Di-Ðà, dữ chư thánh-chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ-Tát đạo, quảng độ chúng-sanh đồng thành chủng-trí.
Chí tâm đảnh lễ : Nam-Mô A-Di-Ðà Phật Thế-Tôn.
Nguyện ngã Tội chưóng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm thanh-tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư chúng-sanh (1 lạy)
Chí tâm qui mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bình-đẳng tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại(1 lạy)
**************************************
Phẩm Tỳ Lô Giá Na
Thứ sáu
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Quá thế-giới vô-trần-số kiếp về thuở quá-khứ, lại quá xấp bội thời-gian đó, có thế-giới-hải tên Phổ-Môn-Tịnh-Quang-Minh.
Trong thế-giới-hải này có thế-giới tên Thắng-Âm, y biển ma-ni-võng mà trụ, có tu-điều-phục-sơn vi-trần-số thế-giới bao quanh, hình tròn và bằng phẳng. Cõi này đủ vô-lượng sự trang-nghiêm. Ba trăm lớp bửu-thọ Luân-vi-sơn bao bọc. Những bửu-vân giăng che. Thanh-tịnh không nhơ uế, ánh sáng rực rỡ. Thành ấp cung-điện như Tu-Di-Sơn. Y phục cùng thức ăn uống tùy niệm hiện đến. Kiếp đó tên Chủng-chủng-trang-nghiêm.
Chư Phật-tử ! Trong cõi Thắng-Âm đó có biển Thanh-Tịnh-Quang-Minh-Hương-Thủy. Trong biển này có đại-liên-hoa-tu-di-sơn xuất hiện, tên Hoa-Diệm-Phổ-Trang-Nghiêm-Tràng, lan-can bằng mười chất báu bao vòng. Trên núi đó có một khu rừng lớn, tên Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân. Nơi đây có vô-lượng lâu-các đẹp, vô-lượng nhà viện báu, vô-lượng tràng diệu-hương, vô-lượng tràng bửu-sơn, rất mực trang-nghiêm. Vô-lượng bạch-liên-hoa báu đua nở khắp nơi, vô-lượng lưới hương ma-ni-liên-hoa bủa giăng. Tiếng nhạc hòa vui, hương vân chói sáng, số đều vô-lượng không kể hết.
Có tất cả trăm muôn ức na-do-tha thành bao quanh, nhân dân ở trong đó.
Phía đông của khu rừng có đại thành Diệm-Quang-Minh, chỗ đóng đô của Nhơn-Vương, vòng quanh có trăm muôn ức na-do-tha thành, ngang rộng đều bảy ngàn do tuần, xây dựng bằng những diệu-bửu thanh-tịnh, quách bằng bảy báu, những lầu tháp ngừa giặc đều tráng-lệ, bảy lớp hào báu đầy những hương thủy, nơi đây hoa sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng đua nở khoe xinh. Cây đa-la báu bao bọc bảy lớp. Lâu-các cung-điện đều bằng châu-báu, trên đó, lưới báu che giăng. Hoa hương thơm sáng rải khắp nơi. Có trăm muôn ức na-do-tha cửa lớn, đều bằng châu báu. Trước mỗi cửa đều có bốn mươi chín tràng thi-la, bày hàng thứ tự. Lại có trăm muôn ức khu vườn bao vòng. Trong đây đều có nhiều loại cây tạp-hương, cây ma-ni-hương, mùi thơm lan khắp nơi. Bày chim đẹp hòa hót, ai nghe cũng đẹp ý cả.
Trong đại-thành này, cư dân không ai là chẳng có sanh-đắc-thần-thông bay đi tự-tại, nết hạnh như chư Thiên, những vật nhu-cầu, theo ý muốn hiện đến.
Kế cận đại-thành này về hướng nam, có một Thiên-thành hiệu Thọ-Hoa-Trang-Nghiêm.
Xoay theo phía hữu của Thiên-thành, có Ðại-Long thành tên Cứu-Cánh.
Kế đó là Dạ-Xoa thành tên Kim-Cang-Thắng-Diệu-Tràng.
Kế đó là Càn-Thát-Bà thành tên Diệu-Cung.
Kế đó là A-Tu-La thành tên Bửu-Luân.
Kế đó là Ca-Lâu-La thành tên Diệu-Bửu-Trang-Nghiêm.
Kế đó là Khẩn-Na-La thành tên Du-Hí-Khoái-Lạc.
Kế đó là Ma-Hầu-La thành tên Kim-Cang-Tràng.
Kế đó làm Phạm-Thiên-Vương thành tên Chủng-Chủng-Diệu-Trang-Nghiêm.
Có trăm vạn ức na-do-tha thành như vậy. Mỗi thành này đều có trăm vạn ức na-do-tha lâu-các trang-nghiêm vô-lượng.
Chư Phật-tử ! Trong khu rừng lớn Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân này có một đạo-tràng tên Bửu-Hoa-Biến-Chiếu, dùng những châu báu trang-nghiêm khắp nơi. Hoa báu Ma-Ni đua nở một chỗ. Thắp hương đăng đủ những màu báu đẹp. Mây sáng giăng che, lưới sáng rực rỡ. Những vật trang-nghiêm luôn sản xuất diệu-bửu. Tất cả nhạc khí thường tấu tiếng hòa nhã. Châu Ma-Ni-Vương hiện thân Bồ-Tát. Các loại hoa đẹp cùng khắp mười phương.
Trước đạo-tràng đó có một biển to tên Hương-Ma-Ni-Kim-Cang, có đại-liên-hoa tên Hoa-Nhụy-Diệm-Luân. Hoa đó rộng lớn trăm ức do-tuần. Cọng, cánh, tua, gươn đều bằng diệu-bửu. Mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha liên-hoa bao quanh. Thường phóng quang-minh, luôn vang tiếng diệu, khắp đến mười phương.
Chư Phật-tử ! Thế-giới Thắng-Âm, trong kiếp tối sơ, có mười tu-di-sơn vi-trần-số Như-Lai ra đời. Ðệ nhứt là đức Nhất-Thiết-Công-Ðức-Sơn-Tu-Di-Thắng-Vân.
Chư Phật-tử ! Trước lúc đức Phật đó xuất thế một trăm năm, trong rừng Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân, tất cả đều trang-nghiêm thanh-tịnh. Những là xuất-hiện mây bửu-diệm, vang tiếng ca ngợi công-đức của Phật, diễn nói âm thinh của vô số Phật. Phóng ánh sáng như lưới giăng che mười phương. Cung điện lâu các chiếu sáng lẫn nhau. Hoa báu sáng bay nhóm thành mây. Lại vang ra tiếng vi-diệu trình bày căn lành quảng đại của chúng-sanh tu-hành từ thuở trước, kể danh-hiệu của tam-thế chư Phật, thuật đạo cứu-cánh và hạnh-nguyện của Bồ-Tát tu hành, nói những lời của Như-Lai chuyển-pháp-luân.
Hiện ra những tướng trang-nghiêm như vậy, để ứng điềm đức Như-Lai xuất thế.
Tất cả vua chúa trong thế-giới Thắng-Âm, vì thấy nghe những tướng trang-nghiêm đó nên căn lành được thành thục, đều muốn gặp Phật mà đến đạo-tràng.
Lúc đó trong đại liên-hoa nơi đạo-tràng, đức Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Sơn-Tu-Di-Thắng-Vân Phật thoạt xuất hiện, đủ tướng báu tốt, vô-biên diệu-sắc thanh-tịnh.
Tất cả cung-điện đều hiện bóng Phật. Tất cả chúng-sanh đều được thấy Phật.
Từ nơi thân Phật xuất hiện vô-biên Hóa-Phật, nhiều loại màu sắc sáng rỡ khắp pháp-giới.
Trong thế-giới Thắng-Âm có sáu mươi tám ngàn ức Tu-Di-Sơn, Phật đều hiện thân ngồi trên đảnh núi, như hiện đang ngự trên bửu-tọa tại rừng Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân.
Ðức Phật phóng bạch hào tướng quang, quang-minh này tên phát-khởi-nhứt-thiết-thiện-căn-âm, kèm theo mười phật-sát vi-trần-số quang-minh, chiếu khắp cả quốc-độ ở mười phương.
Nếu có chúng-sanh đáng được điều-phục, thời ánh sáng đó chiếu đến họ, liền được tự khai ngộ, dứt phiền não, phá lưới mê, xô ngã núi chướng, sạch cấu trược, phát tín giải lớn, sanh thiện-căn thù thắng, lìa hẳn tất cả nạn khủng bố, diệt trừ tất cả khổ-não nơi thân-tâm, khởi tâm thấy Phật, hướng đến nhứt-thiết-trí.
Bấy giờ tất cả vua chúa cùng vô-lượng trăm ngàn quyến thuộc, nhờ quang-minh của Phật khai giác nên đều đến chỗ Phật ngự, đầu mặt lạy chơn Phật.
Chư Phật-tử ! Trong đại thành Diệm-Quang-Minh, Quốc-Vương-Hỷ-Kiến-Thiện-Huệ thống lãnh cả trăm vạn ức na-do-tha thành. Phu-Nhơn Phước-Kiết-Tường làm thượng-thủ bất-khả-thuyết vạn bảy ngàn Phu-Nhơn thể nữ. Thái-Tử Ðại-Oai-Quang làm thượng-thủ trong năm trăm Vương-tử. Thái-Tử có một vạn Phu-Nhơn và Diệu-Kiến phu-nhơn là thượng-thủ.
Khi đã được thấy quang-minh của Phật, nhờ sức tu căn lành từ trước, Thái-Tử Ðại-Oai-Quang liền chứng được mười pháp-môn :
Một là môn Chư-Phật-công-đức-luân-tam-muội. Hai là môn Chư-Phật-pháp-phổ-môn-đà-la-ni. Ba là môn Quảng-đại-phương-tiện-tạng-bát-nhã-ba-la-mật. Bốn là môn Ðiều-phục-chúng-sanh-đại-trang-nghiêm đại từ. Năm là môn Phổ-vân-âm-đại-bình-đẳng. Sáu là môn Sanh-vô-biên-công-đức-tối-thắng-tâm-đại-hỉ. Bảy là môn Như-thật-giác-ngộ-nhứt-thiết-pháp-đại-xả. Tám là môn Quảng-đại-phương-tiện-bình-đẳng-tạng-đại-thần-thông. Chín là môn Tăng-trưởng-tín-giải-lực-đại-nguyện. Mười là môn Phổ-nhập-nhứt-thiết-trí-quang-minh-biện-tài.
Lúc đó, Ðại-Oai-Quang Thái-Tử thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp đại-chúng, rồi nói kệ rằng :
Thế-Tôn ngồi đạo-tràng
Ðại quang-minh thanh-tịnh
Như ngàn mặt nhựt mọc
Chiếu khắp cõi hư-không.
Vô-lượng ức ngàn kiếp
Phật mới hiện một lần
Nay Phật hiện ra đời
Mọi người đều mến kính.
Xem trong quang-minh Phật
Hóa Phật bất-tư-nghì
Trong tất cả cung điện
Tịch-tịch mà chánh-thọ.
Hãy xem thần-thông Phật
Chưn lông tuôn mây sáng
Chói rực cả thế-gian
Quang-minh vô-cùng-tận.
Hãy nhìn xem thân Phật
Lưới sáng rất thanh-tịnh
Hiện hình đồng tất cả
Cùng khắp đến mười phương.
Diệu âm khắp thế-gian
Ai nghe cũng vui đẹp
Tùy theo tiếng chúng-sanh
Ca ngợi công-đức Phật.
Phật-quang chiếu đến đâu
Chúng-sanh đều an lạc
Khổ não đều dứt trừ
Trong lòng rất mừng rỡ.
Hãy xem chúng Bồ-Tát
Mười phương đến đạo-tràng
Ðều phóng mây báu đẹp
Hiện-tiền ca ngợi Phật.
Ðạo-tràng vang diệu-âm
Tiếng đó rất sâu-xa
Hay dứt khổ chúng-sanh
Ðây là thần-lực Phật.
Chúng-hội đều cung-kính
Lòng họ rất mừng vui
Ðồng ở trước Thế-Tôn
Chiêm ngưỡng đấng Vô-Thượng.
Chư Phật-tử ! Lúc Thái-Tử-Ðại-Oai-Quang nói kệ, do thần-lực của Phật, tiếng của Thái-Tử vang khắp thế-giới Thắng-Âm.
Quốc-Vương-Hỉ-Kiến-Thiện-Huệ, sau khi nghe lời kệ, rất vui mừng. Nhà vua quan-sát các quyến thuộc rồi nói kệ rằng :
Hỡi tất cả chư Vương
Vương-tử và Ðại-thần
Các Tể-quan thành ấp
Phải mau họp lại đây !
Phổ cáo trong các thành
Mau đánh trống truyền rao
Họp tất cả mọi người
Ðồng đến ra mắt Phật !
Tất cả các nẻo đường
Ðều phải rung lạc báu
Dắt vợ con quyến thuộc
Ðồng đến lễ Như-Lai.
Tất cả các thành quách
Phải sửa sang sạch sẽ
Khắp nơi dựng tràng phan
Nghiêm-sức bằng châu ngọc !
Mành lưới báu che giăng
Kỹ nhạc bủa như mây
Trang-nghiêm giữa hư-không
Mọi nơi phải đầy đủ !
Ðường xá phải dọn sạch
Y phục phải đẹp xinh
Ngồi trên xe báu tốt
Cùng ta đồng đến Phật !
Mỗi người tùy tự-lực
Rải những vật trang-nghiêm
Rợp trời như mây che
Cùng khắp cả không gian !
Lửa thơm, lọng liên-hoa
Chuỗi ngọc hình bán nguyệt
Và nhiều y phục đẹp
Mọi người nên đồng rải !
Ðem nhiều thứ nước thơm
Luân ma-ni thượng diệu
Và chiên đàn thanh-tịnh
Ðều rải đầy hư-không !
Những hoa báu chuỗi ngọc
Trang-nghiêm sạch không nhơ
Cùng với đèn ma-ni
Ðều treo ở trên không !
Mọi người hướng phía Phật
Lòng đều rất vui mừng
Cùng vợ con quyến thuộc
Ðến ra mắt Thế-Tôn.
Lúc đó, Quốc-Vương Hỉ-Kiến-Thiện-Huệ cùng Phu-Nhơn, Vương-Tử, Ðại-thần và quyến thuộc, bảy mươi bảy trăm ngàn ức na-do-tha người đồng ra khỏi thành Diệm-Quang-Minh, thừa phước-lực của Quốc-Vương, bay trên không mà đi. Những đồ cúng dường đầy khắp hư-không. Khi đến đạo-tràng đại-chúng đồng lễ Phật rồi ngồi qua một phía.
Thiên-Vương Thiện-Hóa-Tràng ở thành Diệu-Hoa cùng với quyến-thuộc mười ức na-do-tha đồng câu-hội.
Long-Vương Tịnh-Quang ở thành Cứu-Cánh cùng với hai mươi lăm ức quyến-thuộc câu-hội.
Dạ-Xoa-Vương Mãnh-Kiện ở thành Kim-Cang-Thắng-Tràng cùng quyến-thuộc bảy mươi bảy ức câu hội.
Càn-Thát-Bà-Vương Hỉ-Kiến ở thành Vô-Cấu cùng chín mươi bảy ức quyến-thuộc câu hội.
A-Tu-La Vương Tịnh-Sắc-Tư-Duy ở thành Diệu-Luân cùng năm mươi tám ức quyến thuộc câu hội.
Ca-Lâu-La Vương Thập-Lực-Hành ở thành Diệu-Trang-Nghiêm cùng chín mươi chín ngàn quyến thuộc câu hội.
Khẩn-Na-La-Vương Kim-Cang-Ðức ở thành Du-Hí-Khoái-Lạc cùng mười tám ức quyến thuộc câu hội.
Ma-Hàu-La-Già Vương Bửu-Xưng-Tràng ở thành Kim-Cang-Tràng cùng bất-khả-thuyết ức trăm ngàn na-do-tha quyến thuộc câu hội.
Pham-Vương Tối-Thắng ở thành Tịnh-Diệu-Trang-Nghiêm cùng mười tám ức quyến thuộc câu hội.
Trong trăm vạn ức na-do-tha đại thành như vậy, tất cả chư Vương cùng với quyến thuộc đồng đến đạo-tràng đảnh lễ đức Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Sơn-Tu-Di-Thắng-Vân Như-Lai, rồi ngồi qua một phía.
Lúc đó, vì muốn điều-phục các chúng-sanh, đức Thắng-Vân-Như-Lai ở trong hải-hội đạo-tràng diễn thuyết khế-kinh Phổ-Tập-Tam-Thế-Chư-Phật-Tự-Tại-Pháp, cùng với thế-giới vi-trần-số khế-kinh khác. Tùy tâm chúng-sanh đều khiến được lợi ích.
Ðại-Oai-Quang Bồ-Tát, sau khi nghe pháp này, liền chứng được pháp-hải quang-minh của đức Phật Thắng-Vân đã tích-tập từ đời trước. Những là :
Chứng được trí-quang-minh tất cả pháp tụ bình-đẳng tam-muội, trí quang-minh tất cả pháp đều vào trụ trong tâm bồ-đề tối sơ, trí quang-minh thập phương pháp-giới phổ quang-minh tạng thanh-tịnh nhãn, trí quang-minh quan-sát tất cả Phật-pháp đại-nguyện hải, trí quang-minh vào vô-biên công-đức-hải thanh-tịnh-hạnh, trí quang-minh hướng đến bất-thối-chuyển đại-lực tốc-tật-tạng, trí quang-minh sức vô-lượng biến-hóa trong pháp-giới xuất-ly-luân, trí quang-minh quyết-định vào biển vô-lượng công-đức viên-mãn, trí quang-minh rõ biết biển thần-thông hiện trước tất cả chúng-sanh của vô-biên Phật trong pháp-giới, trí quang-minh rõ biết pháp-lực vô-sở-úy của chư Phật.
Ðại Oai-Quang Bồ-Tát được vô-lượng trí quang-minh như vậy rồi, thừa thừa oai-lực của Phật mà nói kệ rằng :
Tôi nghe phật-pháp vi-diệu
Mà được trí quang-minh
Do đây thấy Thế-Tôn
Việc đã làm thuở trước.
Tất cả chỗ sanh ra
Danh diệu thân sai khác
Và cúng dường nơi Phật
Như vậy tôi đều thấy.
Thuở xưa chỗ chư Phật
Ðều kính thờ tất cả
Vô-lượng kiếp tu-hành
Nghiêm tịnh các thế-giới.
Thí xả chính thân mình
Quảng đại không ngằn mé
Tu tập hạnh tối-thắng
Nghiêm-tịnh các quốc-độ.
Tai, mũi, đầu, tay, chân
Và đến những cung điện
Thí xả số vô-lượng
Nghiêm tịnh các sát-hải.
Nơi mỗi mỗi thế-giới
Ức-kiếp bất-tư-nghì
Tu tập hạnh bồ-đề
Nghiêm tịnh các thế-giới.
Phổ-Hiền đại nguyện lực
Trong tất cả chư Phật
Tu hành vô-lượng hạnh
Nghiêm tịnh các quốc-độ.
Như nhơn nhựt-quang chiếu
Trở lại thấy mặt trời
Tôi do Phật-trí-quang
Thấy đạo của Phật làm.
Tôi xem Phật sát-hải
Thanh-tịnh rất sáng suốt
Tịch-tịnh chứng bồ-đề
Pháp-giới đều cùng khắp.
Tôi sẽ như Thế-Tôn
Nghiêm tịnh các sát-hải
Nhờ oai-thần của Phật
Tu tập hạnh bồ-đề.
Chư Phật-tử ! Lúc đó, Ðại-Oai-Quang-Bồ-Tát, do thấy và cúng-dường đức Phật Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Tu-Di-Thắng-Vân, nên tâm được tỏ ngộ, rồi vì thế-gian mà hiển thị hạnh-hải thuở xưa của Như-Lai, hiển thị phương-tiện tu hành của Bồ-Tát thuở xưa, hiển thị trí thanh-tịnh vào khắp tất cả pháp-giới, hiển thị sức thành Phật tự tại trong tất cả đạo-tràng, hiển thị lực vô-sở-úy trí vô sai biệt của Phật, hiển thị khắp thị hiện thân Như-Lai, hiển thị thần biến bất-khả-tư-nghì của Phật, hiển thị trang-nghiêm thanh-tịnh vô-lượng Phật-độ, hiển thị những hạnh nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Vì thế-gian hiển thị như vậy khiến tu-di-sơn vi-trần-số chúng-sanh phát bồ-đề-tâm. Phật-sát-vi-trần-số chúng-sanh thành tựu Như-Lai thanh-tịnh quốc-độ.
Lúc đó, Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Sơn-Tu-Di-Thắng-Vân-Như-Lai vì Ðại-Oai-Quang-Bồ-Tát mà nói kệ rằng :
Lành thay Ðại-Oai-Quang
Phước-tạng danh tiếng lớn
Vì lợi ích chúng-sanh
Hướng đến bồ-đề-đạo.
Ông được trí quang-minh
Pháp-giới đều đầy khắp
Phước huệ đều rộng lớn
Sẽ được biển trí sâu.
Trong một cõi tu hành
Trải qua sát-trần kiếp
Như ông thấy nơi Phật
Sẽ được trí như vậy.
Chẳng phải kẻ hạnh kém
Biết được phương-tiện này
Ðược sức đại tinh-tấn
Mới tịnh sát-hải được.
Trong mỗi mỗi vi-trần
Tu hành vô-lượng kiếp
Người đó mới làm được
Trang-nghiêm các phật-độ.
Vì mỗi mỗi chúng-sanh
Luân hồi trải kiếp hải
Trong lòng chẳng nhàm mỏi
Sẽ thành Ðại-Ðạo-Sư.
Cúng-dường mỗi mỗi Phật
Cùng tận thuở vị lai
Lòng không chút nhàm mỏi
Sẽ thành vô-lượng-đạo.
Tam-thế tất cả Phật
Sẽ khiến ông toại nguyện
Trong tất cả Phật-hội
Thân ông đều ở đó.
Tất cả chư Như-Lai
Thệ-nguyện vô-lượng-biên
Người đại-trí thông đạt
Biết được phương-tiện này.
Ðại-Quang cúng dường Phật
Nên được oai-lực lớn
Khiến trần-số chúng-sanh
Thành-thục hướng bồ-đề.
Người tu hạnh Phổ-Hiền
Bồ-Tát tiếng tăm lớn
Trang-nghiêm Phật sát-hải
Pháp-giới đều cùng khắp.
Chư Phật-tử ! Trong kiếp Ðại-Trang-Nghiêm đó, có hằng-hà sa-số tiểu kiếp, loài người thọ hai tiểu-kiếp.
Chư Phật-tử ! Ðức Nhứt-Thiết-Công-Ðức-Sơn-Tu-Di-Thắng-Vân Phật thọ năm mươi ức tuổi. Sau khi đức Phật đây diệt độ, thời đức Ba-La-Mật-Thiện-Nhãn-Trang-Nghiêm-Vương Phật ra đời, cũng thành chánh-giác nơi đạo-tràng ở rừng Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân.
Lúc đó, Ðại-Oai-Quang-Ðồng-Tử thấy đức Thiện-Nhãn-Trang-Nghiêm-Vương thành Phật hiện thần-thông, liền chứng được niệm-Phật tam-muội tên Vô-Biên-Hải-Tạng-Môn, và được đà-la-ni tên đại trí lực pháp-uyên, được đại từ tên Phổ-tùy-chúng-sanh-điều-phục-độ-thoát, được đại-bi tên Biến-phú-nhứt-thiết-cảnh-giới-vân, được đại-hỉ tên Nhứt-thiết-Phật-công-đức-hải-oai-lực-tạng, được đại xả tên Pháp-tánh-hư-không-bình-đẳng-thanh-tịnh, được bát-nhã-ba-la-mật tên Tự-tánh-ly-cấu pháp-giới thanh-tịnh-thân, liền được thần-thông tên Vô-ngại-quang-phổ-tùy-hiện, được biện-tài Thiện-nhập-ly-cấu-uyên, và được trí-quang tên Nhứt-thiết-phật-pháp-thanh-tịnh-tạng. Ðược thông đạt mười ngàn pháp môn như vậy.
Ðại-Oai-Quang-Ðồng-Tử, thừa oai lực của Phật, vì các quyến thuộc mà nói kệ rằng :
Trong số bất-tư-nghì ức kiếp
Ðấng Ðại Ðạo Sư khó gặp gỡ
Cõi này chúng-sanh nhiều lợi hành
Nên nay được thấy đệ-nhị Phật.
Thân Phật khắp phóng đại quang-minh
Sắc tướng vô-biên rất thanh-tịnh
Như mây đầy khắp tất cả cõi
Mọi nơi ca ngợi công-đức Phật.
Phật-quang chiếu đến đều hoan hỷ
Chúng-sanh có khổ đều trừ diệt
Ðều khiến cung kính khởi từ-tâm
Ðây là Như-Lai tự tại dụng.
Tuôn mây biến hóa bất-tư-nghì
Phóng lưới quang-minh vô-lượng sắc
Mười phương thế-giới đều đầy khắp
Ðây thần-thông của Phật biến hiện.
Mỗi chưn lông Phật hiện mây sáng
Chiếu khắp hư-không vang tiếng lớn
Những nơi tối tăm đều chiếu đến
Những khổ địa ngục đều trừ diệt.
Như-Lai diệu âm khắp mười phương
Tất cả ngôn âm đều diễn đủ
Tùy các chúng-sanh có thiện nghiệp
Ðây là thần biến của đức Phật.
Vô-lượng vô-biên đại-chúng hải
Trong các pháp hội Phật đều hiện
Khắp chuyển vô tận diệu pháp-luân
Tất cả chúng-sanh được điều-phục.
Thần-thông của Phật vốn vô-biên
Trong tất cả cõi đều xuất hiện
Phật-trí như vậy thường vô-ngại
Vì độ chúng-sanh thành chánh-giác.
Ðại-chúng nên sanh lòng vui mừng
Hớn hở mến ưa rất kính trọng
Ta sẽ cùng nhau đồng đến Phật
Nếu thấy Như-Lai tất hết khổ.
Phát tâm hồi hướng đến Bồ-đề
Xót thương tất cả các chúng-sanh
Trụ nơi Phổ-Hiền nguyện rộng lớn
Sẽ như Pháp-Vương được tự-tại.
Nhờ thần-lực của đức Phật, nên tiếng kệ của Ðại-Oai-Quang Ðồng-Tử được vô-ngại. Tất cả thế-giới đều được nghe. Vô-lượng chúng-sanh phát bồ-đề-tâm.
Ðại-Oai-Quang Ðồng-Tử cùng Vương-Phụ, Vương-Mạu và quyến thuộc, với vô-lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng-sanh giăng lọng báu như mây, cùng đến đạo-tràng Phật Ba-La-Mật-Thiện-Nhãn-Trang-Nghiêm-Vương.
Ðức Phật vì đại-chúng này diễn thuyết nói khế kinh Pháp-tánh thanh-tịnh trang-nghiêm, cùng với thế-giới-hải vi-trần-số khế-kinh.
Ðại-chúng này, sau khi nghe kinh, được trí thanh-tịnh, được vào tất cả phương tiện thanh-tịnh, được bực Ly-Cấu-Quang-Ðịa, được môn ba-la-mật Thị-hiện-nhứt-thiết thế-gian ái-nhạo trang-nghiêm, được môn tăng-quảng-hạnh Phổ-nhập-nhứt-thiết sát độ vô-biên-quang-minh thanh-tịnh-kiến, được môn thu-hướng-hạnh Ly-cấu-phước-đức-vân-quang-minh-tràng, được môn tùy-nhập-chứng Nhứt-thiết-pháp-hải-quảng-đại-quang-minh, được hạnh chuyển-thâm-phát-thu tên Ðại-trí trang-nghiêm, được quán-đảnh-trí tên vô-công-dụng-tu-cực-diệu-kiến, được đại quang-minh hiển-liễu tên Như-Lai công-đức-hải tướng-quang-ảnh biến-chiếu, được nguyện-lực-trí tên vô-lượng-nguyện-lực tín-giảng tạng.
Ðức Thiện-Nhãn-Trang-Nghiêm-Vương Phật vì Ðại-Oai-Quang-Bồ-Tát mà nói kệ rằng:
Lành thay biển công-đức trí-huệ
Phát tâm thu hướng đại bồ-đề
Ông sẽ thành Phật bất-tư-nghì
Khắp vì chúng-sanh làm chỗ tựa.
Ông đã xuất sanh biển đại trí
Ðều hay rõ khắp tất cả pháp
Sẽ dùng vô-lượng diệu phương tiện
Vào cảnh vô tận của Phật làm.
Ðã thấy mây công-đức của Phật
Ðã vào bực trí-huệ vô-tận
Các biển phương-tiện ba-la-mật
Bực danh-hiệu lớn sẽ đầy đủ.
Ðã được môn phương tiện tổng trì
Cùng với môn biện tài vô-tận
Bao nhiêu hạnh nguyện đều tu tập
Sẽ thành vô-thượng đại-trí-huệ.
Ông đã xuất sanh những nguyện hải
Ông đã vào nơi tam muội hải
Sẽ đủ các môn đại thần-thông
Bất-khả-tư-nghì các phật-pháp.
Pháp-giới rốt ráo bất-tư-nghì
Thâm-tâm rộng lớn đã thanh-tịnh
Thấy khắp mười phương tất cả Phật
Ly-cấu trang-nghiêm các sát-hải.
Ông đã vào hạnh bồ-đề Phật
Thuở xưa bổn sự biển phương tiện
Như Phật tu hành chỗ dứt trừ
Diệu hạnh như vậy ông đều ngộ.
Phật ở vô-lượng trong mỗi cõi
Nhiều thứ cúng-dường vô-lượng Phật
Như Phật tu hành đã chứng quả
Trang-nghiêm như vậy ông đều thấy.
Kiếp-hải rộng lớn vô cùng tận
Trong tất cả cõi tu tịnh hạnh
Thệ nguyện kiên cố không thể lường
Sẽ được thần thông lực của Phật.
Cúng dường chư Phật không thiếu sót
Quốc-độ trang-nghiêm đều thanh-tịnh
Trong tất cả kiếp tu diệu-hạnh
Ông sẽ thành Phật đại công-đức.
Chư Phật-tử ! Sau khi đức Ba-La-Mật-Thiện-Nhãn-Trang-Nghiêm-Vương Phật nhập niết-bàn, Quốc-Vương Hỉ-Kiến-Thiện-Huệ cũng băng hà. Ðại-Oai-Quang Ðồng-Tử lên ngôi Chuyển-Luân-Vương.
Lúc đó, nơi đạo-tràng ở rừng Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân, đức Phật thứ xuất thế hiệu là Tối-Thắng-Công-Ðức-Hải.
Ðại-Oai-Quang-Vương cùng quyến-thuộc, nhơn dân đồng đến chỗ Phật ngự đem lâu các trang-nghiêm lớn dâng cúng Phật.
Ðức Phật diễn nói khế-kinh Bồ-Tát-Phổ-Nhãn-Quang-Minh-Hạnh, và thế-giới vi-trần-số khế-kinh khác.
Ðại-Oai-Quang-Vương, sau khi nghe kinh, được tam-muội tên Ðại-phước-đức-phổ-quang-minh. Do được tam-muội này nên có thể rõ biết biển phước cũng chẳng phải phước thuở quá-khứ, hiện-tại, vị-lai của tất cả Bồ-Tát và tất cả chúng-sanh.
Lúc đó đức Phật vì Ðại-Oai-Quang-Vương mà nói kệ rằng :
Lành thay Ðại-Oai-Quang phước đức
Các ông nay đến chỗ Phật ngự
Xót thương tất cả chúng-sanh hải
Phát tâm bồ-đề thắng đại nguyện.
Ông vì tát cả chúng-sanh khổ
Khởi tâm đại-bi khiến giải-thoát
Sẽ làm chỗ tựa cho quần-mê
Ðây gọi phương-tiện của Bồ-Tát.
Nếu có Bồ-Tát hay kiên cố
Tu những thắng-hạnh không nhàm mỏi
Trí giải vô-ngại tối-thượng-thắng
Diệu-trí như vậy đó sẽ được.
Ðấng phước-đức-quang, đấng phước-tràng
Bực phước-đức-xứ, bực phước hải
Phổ-Hiền Bồ-Tát những hạnh nguyện
Chính Ðại-Oai-Quang hay chứng nhập.
Ông đem được nguyện rộng lớn này
Vào biển bất-tư-nghì của Phật
Phước-hải chư Phật vốn vô-biên
Ông dùng diệu-giải đều thấy được.
Ông ở trong thập phương quốc-độ
Ðều thấy vô-lượng vô-biên Phật
Chư Phật thuở xưa chỗ tu hành
Tất cả như vậy ông đều thấy.
Nếu ai trụ nơi phương tiện này
Tất được vào nơi trong trí địa
Ðây là tùy thuận chư Phật học
Quyết định sẽ thành nhứt-thiết-trí.
Ông ở trong tất cả sát-hải
Vi-trần kiếp-hải tu các hạnh
Tất cả Như-Lai những hạnh-hải
Ông đều đã học sẽ thành Phật.
Như ông đã thấy trong mười phương
Tất cả sát-hải rất nghiêm-tịnh
Cõi ông nghiêm-tịnh cũng như vậy
Vô-biên nguyện lớn đều sẽ được.
Nay đây chúng-hội đạo-tràng này
Nghe ông phát nguyện đều mừng rỡ
Ðều vào nguyện lớn của Phổ-Hiền
Phát tâm hồi hướng bồ-đề-đạo.
Vô-biên quốc-độ trong mỗi cõi
Ðều vào tu hành trải kiếp-hải
Bởi những nguyện-lực được viên mãn
Phổ-Hiền Bồ-Tát tất cả hạnh.
Chư Phật-tử ! Trong đạo-tràng Ma-Ni-Hoa-Chi-Luân, sau đó lại có Phật xuất thế hiệu là Danh-Xưng-Phổ-Văn-Liên-Hoa-Nhãn-Tràng. Ðại-Oai-Quang-Vương băng trong thời-kỳ này, rồi sanh trong Thiên-thành Tịch-Tịnh Bửu-Cung trên núi Tu-Di, làm Ðại-Thiên-Vương hiệu là Ly-Cấu-Phước-Ðức-Tràng, cùng Thiên-chúng đồng đến chỗ Phật rải hoa báu cúng dường.
Lúc đó, đức Phật Danh-Xưng-Phổ-Văn-Liên-Hoa-Nhãn-Tràng vì Thiên-Vương mà diễn nói khế-kinh Quảng-Ðại-Phương-Tiện-Phổ-Môn-Biến-Chiếu, và thế-giới-hải vi-trần-số khế-kinh khác.
Nghe kinh xong, Thiên-Vương và Thiên-chúng được tam-muội tên Phổ-Môn-Hoan-Hỉ-Tạng. Do sức tam-muội, nên được nhập thật-tướng-hải của tất cả pháp. Sau đó Thiên-Vương và Thiên-chúng lễ Phật, rời đạo-tràng trở về bổn cung.
*******************************************
Phẩm Như Lai Danh Hiệu
Thứ bảy
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn ở nước Ma-Kiệt-Ðề, trong đạo-tràng bồ-đề, sơ-thỉ thành chánh-giác, nơi điện Phổ-Quang-Minh, ngồi trên tòa Liên-Hoa-tạng-sư-tử, diệu-ngộ đều viên mãn, tuyệt hẳn hai hạnh, đạt pháp vô-tướng, an-trụ nơi chỗ trụ của chư Phật, được Phật bình đẳng, đến chỗ vô-chướng, chỗ làm vô-ngại, đứng nơi bất-tư-nghì, thấy khắp tam-thế.
Cùng với mười phật-sát vi-trần-số chư Bồ-Tát câu hội, tất cả đều là bực nhứt-sanh-bổ-xứ, từ phương khác đồng vân tập đến, đều khéo quan-sát chúng-sanh-giới, pháp-giới, thế-giới, niết-bàn-giới, các nghiệp quả báo, tâm-hành thứ đệ, tất cả văn nghĩa thế-gian, xuất thế-gian, hữu-vi-trần, vô-vi, quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, những pháp như vậy đều khéo quan-sát cả.
Chư Bồ-Tát nghĩ rằng : nếu đức Thế-Tôn có lòng mẫn niệm chúng tôi, xin tùy theo sự ưa thích mà khai thị những điều :
Phật-sát, phật-trụ, phật-sát trang-nghiêm, phật-pháp-tánh, phật-sát thanh-tịnh, phật-thuyết-pháp, phật-sát thể-tánh, phật oai-đức, phật-sát thành-tựu, phật đại bồ-đề.
Như chư Phật Thế-Tôn trong thập phương thế-giới, vì thành tựu tất cả Bồ-Tát, vì khiến chủng-tánh Như-Lai không dứt, vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì khiến chúng-sanh lìa tất cả phiền-não, vì rõ tất cả công-hạnh, vì diễn thuyết các pháp, vì dứt trừ tất cả tạp-nhiễm, vì dứt hẳn tất cả lưới nghi, vì trừ bỏ tất cả tham vọng, vì hoại diệt tất cả chỗ ái-trước, mà diễn nói thập-trụ, thập-hạnh, thập hồi-hướng, thập-tạng, thập-địa, thập-nguyện, thập-định, thập-thông, thập-đảnh của Bồ-Tát. Và cũng diễn nói Như-Lai địa, Như-Lai cảnh-giới, Như-Lai thần-lực, Như-Lai vô-úy, Như-Lai tam-muội, Như-Lai thần-thông, Như-Lai tự-tại. Như-Lai vô-ngại, nhãn-nhĩ-tỷ-thiệt-thân-ý của Như-Lai, Như-Lai biện-tài, Như-Lai trí-huệ, Như-Lai tối-thắng.
Mong đức Thế-Tôn cũng vì chúng tôi mà diễn thuyết cho !
Lúc đó đức Thế-Tôn rõ tâm niệm của chư Bồ-Tát, đều tùy theo từng loại mà vì họ hiện thần-thông.
Sau khi đức Phật hiện thần-thông, phương đông, quá mười phật-sát-vi-trần-số thế-giới, có thế-giới hiệu Kim-Sắc, Phật hiệu Bất-Ðộng-Trí, nơi đó có Bồ-Tát tên Văn-Thù-Sư-Lợi, cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía đông mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương nam, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới có thế-giới Diệu-Sắc, Phật hiệu Vô-Ngại-Trí, có Bồ-Tát Giác-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số chư Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía nam mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương tây, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Liên-Hoa-Sắc, Phật hiệu Diệt-Ám-Trí, có Bồ-Tát Tài-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía tây mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương bắc, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Chiêm-Bặc-Hoa-Sắc, Phật hiệu Oai-Nghi-Trí, có Bồ-Tát Nhựt-Bửu-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía bắc mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương đông-bắc, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Ưu-Bát-La-Hoa-Sắc, Phật hiệu Minh-Trí-Tướng, có Bồ-Tát Công-Ðức-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía đông-bắc mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương đông-nam, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Kim-Sắc, Phật hiệu Cứu-Cánh-Trí, có Bồ-Tát Mục-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng-sư-tử ở phía đông-nam mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương tây-nam, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Bửu-Sắc, Phật hiệu Tối-Thắng-Trí, có Bồ-Tát Tinh-Tấn-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía tây-nam mà ngồi kiết-già trên đó.
Phương tây-bắc, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Kim-Cang-Sắc, Phật hiệu Tự-Tại-Trí, có Bồ-Tát Pháp-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng sư-tử ở phía tây-bắc mà ngồi kiết-già trên đó.
Hạ phương, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Pha-Lê-Sắc, Phật hiệu Pham-Trí, có Bồ-Tát Trí-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng sư-tử ở hạ-phương mà ngồi kiết-già trên đó.
Thượng phương, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới Bình-Ðẳng-Sắc, Phật hiệu Quan-Sát-Trí, có Bồ-Tát Hiền-Thủ cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến đây lễ Phật, rồi hóa hiện tòa Liên-hoa-tạng-sư-tử ở thượng phương mà ngồi kiết-già trên đó.
Bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Ðại Bồ-Tát thừa thừa oai-lực của Phật quan-sát tất cả chúng-hội Bồ-Tát mà nói rằng : 'Chư Bồ-Tát này rất hi hữu'.
Chư Phật-tử ! Phật quốc-độ chẳng thể nghĩ bàn. Phật trụ, phật-sát trang-nghiêm, Phật pháp-tánh, phật-sát thanh-tịnh, Phật thuyết-pháp, Phật xuất-hiện, phật-sát thành-tựu, Phật vô-thượng bồ-đề đều chẳng thể nghĩ bàn.
Tại sao thế ?
Chư Phật-tử ! Tất cả chư Phật trong mười phương biết rằng chúng-sanh ưa thích không đồng, nên tùy chỗ thích nghi mà thuyết pháp điều-phục họ, nhẫn đến khắp pháp-giới, hư-không-giới.
Chư Phật-tử ! Ðức Như-Lai nơi thế-giới Ta-Bà này, trong những tứ châu thiên hạ, thị hiện nhiều thân, nhiều hiệu, nhiều sắc tướng, nhiều dài ngắn, nhiều tuổi thọ, nhiều xứ sở, nhiều căn, nhiều chỗ sanh, nhiều tiếng lời, nhiều quan-sát, khiến chúng sanh đều thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Ðức Như-Lai ở trong tứ châu thiên hạ này, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Nghĩa-Thành, hoặc hiệu Viên-Mãn-Nguyệt, hoặc hiệu Sư-Tửu-Hống, hoặc hiệu Thích-Ca-Mâu-Ni, hoặc hiệu Ðệ-Nhất-Tiên, hoặc hiệu Tỳ-Lô-Giá-Na, hoặc hiệu Cù-Ðàm-Thị, hoặc hiệu Ðại-Sa-Môn, hoặc hiệu Tối-Thắng, hoặc hiệu Ðạo-Sư, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến chúng-sanh thấy biết riêng khác.
Chư Phật-tử ! Phương đông của tứ thiên hạ này, có thế-giới tên Thiện-Hộ-Ðức. Như-Lai ở tại thế-giới đó, hoặc hiệu Kim-Cang, hoặc hiệu Tự-Tại, hoặc hiệu Hữu-Trí-Huệ, hoặc hiệu Nan-Thắng, hoặc hiệu Vân-Vương, hoặc hiệu Vô-Tránh, hoặc hiệu Năng-Vi-Chủ, hoặc hiệu Tâm-Hoan-Hỉ, hoặc hiệu Vô-Giữ-Ðẳng, hoặc hiệu Ðoạn-Ngôn-Luận, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết riêng khác.
Chư Phật-tử ! Phương nam của tứ thiên hạ này, có thế-giới tên Nan-Nhẫn. Ủức Như-Lai ở thế-giới đó hoặc tên Ðế-Thích, hoặc hiệu Bửu-Xưng, hoặc hiệu Ly-Cấu, hoặc hiệu Thật-Ngữ, hoặc hiệu Năng-Ðiều-Phục, hoặc hiệu Cụ-Túc-Hỉ, hoặc hiệu Ðại-Danh-Xưng, hoặc hiệu Năng-Lợi-Ích, hoặc hiệu Vô-Biên, hoặc hiệu Tối-Thắng, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết riêng khác.
Chư Phật-tử ! Phương tây của tứ thiên hạ này, có thế-giới tên Thân-Huệ. Ðức Như-Lai ở thế-giới đó hoặc hiệu Thủy-Thiên, hoặc hiệu Hỉ-Kiến, hoặc hiệu Tối-Thắng-Vương, hoặc hiệu Chơn-Thiệt-Huệ, hoặc hiệu Ðáo-Cứu-Cánh, hoặc hiệu Hoan-Hỉ, hoặc hiệu Pháp-Huệ, hoặc hiệu Sở-Tác-Dĩ-Biện, hoặc hiệu Thiện-Trụ, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Phương bắc của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Hữu-Sư-Tử. Ðức Như-Lai ở thế-giới đó hoặc hiệu Ðại-Mâu-Ni, hoặc hiệu Khổ-Hạnh, hoặc hiệu Thế-Sở-Tôn, hoặc hiệu Tối-Thắng-Ðiền, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Trí, hoặc hiệu Thiện-Ý, hoặc hiệu Thanh-Tịnh, hoặc hiệu Kề-La-Bạt-Na, hoặc hiệu Tối-Thượng-Thí, hoặc hiệu Khổ-Hạnh-Ðắc, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Phương đông bắc của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Diệu-Quan-Sát. Ðức Như-Lai ở thế-giới đó hoặc hiệu Ðiều-Phục-Ma, hoặc hiệu Thành-Tựu, hoặc hiệu Tức-Diệt, hoặc hiệu Hiền-Thiên, hoặc hiệu Ly-Tham, hoặc hiệu Thắng-Huệ, hoặc hiệu Tâm-Bình-Ðẳng, hoặc hiệu Vô-Năng-Thắng, hoặc hiệu Trí-Huệ-Âm, hoặc hiệu Nan-Xuất-Hiện, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Phương đông nam của thứ thiên hạ này có thế-giới tên Hỉ-Lạc. Ðức Như-Lai ở thế-giới đó hoặc hiệu Quang-Diệm-Tụ, hoặc hiệu Biến-Tri, hoặc hiệu Bí-Mật, hoặc hiệu Giải-Thoát, hoặc hiệu Tánh-An-Trụ, hoặc hiệu Như-Pháp-Hành, hoặc hiệu Tịnh-Nhãn-Vương, hoặc hiệu Ðại-Dũng-Kiện, hoặc hiệu Tinh-Tấn-Lực, có mười ngàn hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Phương tây nam của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Thậm-Kiên-Lao. Ðức Như-Lai ở thế-giới đó hoặc hiệu An-Trụ, hoặc hiệu Trí-Vương, hoặc hiệu Viên-Mãn, hoặc hiệu Bất-Ðộng, hoặc hiệu Diệu-Nhãn, hoặc hiệu Ðảnh-Vương, hoặc hiệu Tự-Tại-Âm, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Thí, hoặc hiệu Trì-Chúng-Tiên, hoặc hiệu Thắng-Tu-Di, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết khác nhau.
Chư Phật-tử ! Phương tây bắc của tứ thiên này có thế-giới tên Diệu-Ðịa. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Phổ-Biến, hoặc hiệu Quang-Diệm, hoặc hiệu Ma-Ni-Kế, hoặc hiệu Khả-Ức-Niệm, hoặc hiệu Vô-Thượng-Nghĩa, hoặc hiệu Thường-Hỉ-Lạc, hoặc hiệu Tánh-Thanh-Tịnh, hoặc hiệu Viên-Mãn-Quang, hoặc hiệu Tu-Tý, hoặc hiệu Trụ-Bổn, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Hạ phương của tứ thiên-hạ này có thế-giới tên Diệm-Huệ. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu là Tập-Thiện-Căn, hoặc hiệu Sư-Tử-Tướng, hoặc hiệu Mãnh-Lợi-Huệ, hoặc hiệu Kim-Sắc-Diệm, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Thức, hoặc hiệu Cứu-Cánh-Âm, hoặc hiệu Tác-Lợi-Ích, hoặc hiệu Ðáo-Cứu-Cánh, hoặc hiệu Chơn-Thiệt-Thiên, hoặc hiệu Phổ-Biến-Thắng, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Thượng phương của tứ thiên hạ này có thế-giới tên Nhựt-Trì-Ðịa, Ðức Như-Lai ở đó, hoặc hiệu Hữu-Trí-Huệ, hoặc hiệu Thanh-Tịnh-Diện, hoặc hiệu Giác-Huệ, hoặc hiệu Thượng-Thủ, hoặc hiệu Hạnh-Trang-Nghiêm, hoặc hiệu Phát-Hoan-Hỉ, hoặc hiệu Ý-Thành-Mãn, hoặc hiệu Như-Thạch-Hỏa, hoặc hiệu Trì-Giới, hoặc hiệu Nhứt-Ðạo, có mười ngàn hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Cõi Ta-Bà này có trăm ức tứ châu thiên hạ. Ðức Như-Lai ở đây có tất cả trăm vạn ức danh hiệu, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương đông của cõi Ta-Bà này, có thế-giới tên Mật-Huấn. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Bình-Ðẳng, hoặc hiệu Thù-Thắng, hoặc hiệu An-Ủy, hoặc hiệu Khai-Hiểu-Ý, hoặc hiệu Văn-Huệ, hoặc hiệu Chơn-Thiệt-Ngữ, hoặc hiệu Ðắc-Tự-Tại, hoặc hiệu Tối-Thăng-Thân, hoặc hiệu Ðại-Dũng-Mãnh, hoặc hiệu Vô-Ðẳng-Trí, có trăm vạn ức hiệu như vậy, khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương nam của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Phong-Dật. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Bổn-Tánh, hoặc hiệu Cần-Ý, hoặc hiệu Vô-Thượng-Tôn, hoặc hiệu Ðại-Trí-Cự, hoặc hiệu Vô-Sở-Y, hoặc hiệu Quang-Minh-Tạng, hoặc hiệu Trí-Huệ-Tạng, hoặc hiệu Phước-Ðức-Tạng, hoặc hiệu Thiên-Trung-Thiên, hoặc hiệu Ðại-Tự-Tại, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương tây của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Ly-Cấu. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Ý-Thành, hoặc hiệu Tri-Ðạo, hoặc hiệu An-Trụ-Bổn, hoặc hiệu Năng-Giải-Phược, hoặc hiệu Thông-Ðạt-Nghĩa, hoặc hiệu Nhạo-Phân-Biệt, hoặc hiệu Tối-Thắng-Kiến, hoặc hiệu Ðiều-Phục-Hạnh, hoặc hiệu Chúng-Khổ-Hạnh, hoặc hiệu Cụ-Túc-Lực, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương bắc của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Phong-Lạc. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Chiêm-Bặc-Hoa-Sắc, hoặc hiệu Nhựt-Tạng, hoặc hiệu Thiện-Trụ, hoặc hiệu Hiện-Thần-Thông, hoặc hiệu Tánh-Siêu-Mại, hoặc hiệu Huệ-Nhựt, hoặc hiệu Vô-Ngại, hoặc hiệu Như-Nguyệt-Hiện, hoặc hiệu Tấn-Tật-Phong, hoặc hiệu Thanh-Tịnh-Thân, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương đông bắc của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Nhiếp-Thủ. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Vĩnh-Ly-Khổ, hoặc hiệu Phổ-Giải-Thoát, hoặc hiệu Ly-Thế-Gian, hoặc hiệu Vô-Ngại-Ðịa, hoặc hiệu Ðại-Phục-Tạng, hoặc hiệu Giải-Thoát-Trí, hoặc hiệu Quá-Khứ-Tạng, hoặc hiệu Bửu-Quang-Minh, hoặc hiệu Tịnh-Tín-Tạng, hoặc hiệu Tâm-Bất-Ðộng, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương đông nam của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Nhiêu-Ích. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Hiện-Quang-Minh, hoặc hiệu Tận-Trí, hoặc hiệu Mỹ-Âm, hoặc hiệu Thắng-Căn, hoặc hiệu Trang-Nghiêm-Cái, hoặc hiệu Tinh-Tấn-Căn, hoặc hiệu Ðáo-Phân-Biệt-Bỉ-Ngạn, hoặc hiệu Thắng-Ðịnh, hoặc hiệu Giản-Ngôn-Từ, hoặc hiệu Trí-Huệ-Hải, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương tây nam của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Tiển-Thiểu. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Mâu-Ni-Chủ, hoặc hiệu Cụ-Chúng-Bửu, hoặc hiệu Thế-Giải-Thoát, hoặc hiệu Biến-Tri-Căn, hoặc hiệu Thắng-Ngôn-Từ, hoặc hiệu Minh-Liễu-Kiến, hoặc hiệu Căn-Tự-Tại, hoặc hiệu Ðại-Tiên-Sư, hoặc hiệu Khai-Ðạo-Nghiệp, hoặc hiệu Kim-Cang-Sư-Tử, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Phương tây bắc của thế-giới Ta-Bà này có thế-giới tên Hoan-Hỉ. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Diệu-Hoa-Tụ, hoặc hiệu Chiên-Ðàn-Cái, hoặc hiệu Liên-Hoa-Tạng, hoặc hiệu Siêu-Việt-Chư-Pháp, hoặc hiệu Pháp-Bửu, hoặc hiệu Phục-Xuất-Sanh, hoặc hiệu Quảng-Ðại-Nhãn, hoặc hiệu Hữu-Thiện-Pháp, hoặc hiệu Chuyên-Niệm-Pháp, hoặc hiệu Võng-Tạng, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Hạ phương của cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Quan-Thược. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Phát-Khởi-Diệm, hoặc hiệu Ðiều-Phục-Ðộc, hoặc hiệu Ðế-Thích-Cung, hoặc hiệu Vô-Thường-Sở, hoặc hiệu Giác-Ngự-Bổn, hoặc hiệu Ðoạn-Tăng-Trưởng, hoặc hiệu Ðại-Tốc-Tật, hoặc hiệu Thường-Lạc-Thí, hoặc hiệu Phân-Biệt-Ðạo, hoặc hiệu Tòi-Phục-Tràng, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Thượng phương cũa cõi Ta-Bà này có thế-giới tên Chấn-Âm. Ðức Như-Lai ở đó hoặc hiệu Dũng-Mãnh-Tràng, hoặc hiệu Vô-Lượng-Bửu, hoặc hiệu Lạc-Ðại-Thí, hoặc hiệu Thiên-Quang, hoặc hiệu Cát-Hưng, hoặc hiệu Siêu-Cảnh-Giới, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Chủ, hoặc hiệu Bất-Thối-Luân, hoặc hiệu Ly-Chúng-Ác, hoặc hiệu Nhứt-Thiết-Trí, có trăm vạn ức hiệu như vậy khiến các chúng-sanh thấy biết sai khác.
Chư Phật-tử ! Mười phương quanh cõi Ta-Bà này mỗi phương đều có trăm ngàn ức vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-sổ, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết thế-giới, tận pháp-giới, hư-không-giới, trong đó danh hiệu của Như-Lai đều không đồng.
Như thuở xa xưa, lúc đức Như-Lai còn là Bồ-Tát, do nhiều thứ đàm luận, nhiều thứ ngôn-ngữ, nhiều thứ âm-thinh, nhiều thứ nghiệp, nhiều thứ báo, nhiều thứ xứ-sở, nhiều thứ phương tiện, nhiều thứ căn, nhiều thứ tín giải, nhiều thứ địa-vị mà được thành thục, cũng khiến các chúng-sanh thấy biết như vậy nên vì họ thuyết pháp.
***************************************************************************
Phẩm Tứ Thánh Ðế
Thứ tám
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Ðại Bồ-Tát bảo chư Bồ-Tát rằng : 'Chư Phật tử ! Khổ Thánh-Ðế, trong cõi Ta-Bà này, hoặc gọi là tội, là bức ngặt, là biến dị, là phan duyên, là nhóm, là đâm, là căn tựa, là hư dối, là chỗ nhọt ghẻ, là kẻ ngu-si.
Chư Phật-tử ! Khổ-Tập Thánh-Ðế, cõi Ta-Bà này, hoặc gọi là trói buộc, là diệt hoại, là ái trước, là vọng-niệm, là thú-nhập, là quyết-định, là lưới, là hí luận, là tùy-hành, là gốc điên đảo.
Chư Phật-tử ! Khổ-Diệt Thánh-Ðế, cõi Ta-Bà này, hoặc gọi là Vô-tránh, là ly-trần, là tịch-tịnh, là vô tướng, là vô-một, là vô-tự-tánh, là vô chướng ngại, là diệt, là thể chơn-thật, là trụ tự-tánh.
Chư Phật-tử ! Khổ-Diệt-Ðạo Thánh-Ðế, cõi Ta-Bà này, hoặc gọi là Nhứt-Thừa, là thú-tịch, là đạo-dẫn, là cứu-cánh vô-phân-biệt, là bình-đẳng, là xả-đảm, là vô-sở-thú, là tùy-thánh-ý, là tiên-nhơn-lành, là thập-tạng.
Chư Phật-tử ! Nơi cõi Ta-Bà này nói về tứ thánh-đế có bốn trăm ức mười ngàn danh-từ, theo tâm ý của chúng-sanh khiến họ được điều-phục.
Chư Phật-tử ! Như cõi Ta-Bà này nói về khổ thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn hoặc gọi là doanh-cầu-căn, là bất-xuất-ly, là hệ-phược-bổn, là làm điều không nên làm, là khắp tranh đấu, là phân tích đều vô-lực, là chỗ để tựa, là cực khổ, là tháo-động, là hình-trạng-vật.
Chư Phật-tử ! Về khổ-tập-thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn, hoặc gọi là thuận sanh-tử, là nhiễm trước, là đốt cháy, là lưu chuyển, là gốc bại hoại, là mối hữu-lậu, là ác hạnh, là ái-trước, là nguồn bịnh, là phân số.
Chư Phật-tử ! Về Khổ-diệt thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn, hoặc gọi là đệ-nhất-nghĩa, là xuất-ly, là tán-thán, là an-ổn, là thiện thú-nhập, là điều-phục, là nhứt phần, là vô tội, là ly tham, là quyết định.
Chư Phật-tử ! Về khổ-diệt-đạo thánh-đế, trong thế-giới Mật-Huấn hoặc gọi là mãnh tướng, là thượng hạnh, là siêu xuất, là hữu phương-tiện, là bình-đẳng-nhãn, là ly biên, là liễu ngộ, là nhiếp thủ, là tối-thắng-nhãn, là quán-phương.
Chư Phật-tử ! Về tứ thánh-đế, ở thế-giới Mật-Huấn có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh để khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Về khổ thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là khủng bố, là phần đoạn, là khả-yểm-ố, là phải thừa-sự, là biến dị, là chiếu-dẫn-oan, là hay khi đoạt, là khó cộng-sự, là vọng phân biệt, là có thế lực.
Chư Phật-tử ! Về khổ-tập thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là bại-hoại, là si-căn, là đại-oan, là dao bén, là dứt mùi vị, là cừu-thù, là chẳng phải vật của mình, là ác-đạo-dẫn, là thêm đen tối, là hư lợi lành.
Chư Phật-tử ! Về khổ-diệt thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là đại-nghĩa, là nhiêu-ích, là nghĩa-trung-nghĩa, là vô-lượng, là chỗ phải thấy, là ly phân-biệt, là tối-thượng-điều-phục, là thường-bình-đẳng, là khả-đồng-trụ, là vô-vị.
Chư Phật-tử ! Về khổ-diệt-đạo thánh-đế, ở thế-giới Tối-Thắng, hoặc gọi là hay đốt cháy, là tối-thượng-phẩm, là quyết-định, là vô-năng-phá, là thâm-phương-tiện, là xuất-ly, là bất-hạ-liệt, là thông-đạt, là giải-thoát-tánh, là năng-độ-thoát.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Tối-Thắng, về tứ thánh-đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Ly-Cấu, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là hối-hận, là tư-đải, là triển-chuyển, là trụ-thành, là nhứt-vị, là phi-pháp, là cư-trạch, là chỗ vọng-trước, là thấy hư-vọng, là không có số.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Ly-Cấu, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là vật không thật, là chỉ có lời nói, là chẳng trong trắng, là sanh-địa, là chấp-thủ, là bỉ-tiện, là tăng-trưởng, là gánh nặng, là hay sanh, là thô rắn.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Ly-Cấu, vể khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là vô đẳng-đẳng, là khắp trừ sạch, là ly-cấu, là tối-thắng-căn, là xưng hội, là không tư-đãi, là diệt-hoặc, là tối-thượng, là tất-cánh, là phá-noãn.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Ly-Cấu, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là vật kiên cố, là phương-tiện-phần, là giải-thoát-bổn, là bổn-tánh-thật, là chẳng thể chê mắng, là rất thanh-tịnh, là mé hữu-lậu, là toàn nhận gởi, là làm rốt-ráo, là tịnh phân biệt.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Ly-Cấu, tứ thánh-đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở Phong-Dật thế-giới, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là chỗ ái-nhiễm, là gốc hiểm hại, là phần biển hữu lậu, là chứa nhóm lên, là gốc sai biệt, là tăng trưởng, là sanh-diệt, là chướng-ngại, là cây đao gươm, là số làm thành.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Phong-Dật, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là đáng ghét, là danh-tự, là vô-tận, là phân số, là chẳng đáng ưa, là hay chụp cắn, là vật thô bỉ, là ái trước, là khí cụ, là dao động.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Phong-Dật, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là dứt tương-tục, là khai-hiển, là vô-văn-tự, là vô-sở-tu, là vô-sở-kiến, là vô-sở-tác, là tịch-diệt, là đã đốt sạch, là xả-trọng-đảm, là đã trừ hoại.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Phong-Dật, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là hạnh tịch-diệt, là hạnh xuất-ly, là siêng tu-chứng, là đi an ổn, là vô-lượng-thọ, là khéo rõ biết, là đạo cứu-cánh, là khó tu-tập, là đến bờ kia, là vô-năng thắng.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Phong-Dật, về tứ thánh-đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm chúng-sanh, khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là hay cướp dựt, là bạn chẳng lành, là nhiều khủng bố, là những hí-luận, là địa ngục tánh, là không thật nghĩa, là gánh tham dục, là gốc sâu nặng, là tùy tâm chuyển, là bổn trống rỗng.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là tham trước, là ác thành biện, là quá-ác, là tốc-tật, là hay chấp-thủ, là tưởng, là có quả, là vô-khả-thuyết, là vô-khả-thủ, là lưu-chuyển.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là bất-thối-chuyển, là ly-ngôn-thuyết, là vô-tướng-trạng, là khả-hân-lạc, là kiên-cố, là thượng-diệu, là ly-si, là diệt-tận, là viễn-ác, là xuất-ly.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiếp-Thủ, về khổ-diệt đạo thánh-đế, hoặc gọi là ly-ngôn, là vô-tránh, là giáo-đạo, là thiện-hồi-hướng, là đại-thiện-xảo, là sai-biệt phương tiện, là như hư-không, là tịch-tịnh-hạnh, là thắng-trí, là năng-liễu-nghĩa.
Chư Phật-tử ! Về tứ thánh-đế, ở Nhiếp-Thủ thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh, khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là trọng-đảm, là chẳng bền, là như giặc, là lão tử, là ái-sở-thành, là lưu chuyển, là mệt nhọc, là tướng-trạng-ác, là sanh trưởng, là dao bén.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là bại hoại, là hỗn-trược, là thối thất, là vô lực, là táng-thất, là oai-vi-trần, là bất hòa hợp, là sở tác, là thủ, là ý-dục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là xuất ngục, là chơn thật, là ly nạn, là phúc hộ, là ly ác, là tùy thuận, là căn bổn, là xả-nhơn, là vô vi, là không tương tục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Nhiêu-Ích, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là đạt-vô-sở-hữu, là nhứt-thiết-ấn, là tam-muội-tạng, là đắc-quang-minh, là bấtt-thối-pháp, là năng-tận-hữu, là quảng-đại-lộ, là năng điều-phục, là hữu an-ổn, là gốc bất lưu chuyển.
Chư Phật-tử ! Về tứ thánh-đế, ở thế-giới Nhiêu-Ích, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Tiển-Thiểu, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là hiểm-lạc-dục, là chỗ hệ-phược, là tà-hạnh, là tùy-thọ, là vô-tâm-sĩ, là tham-dục-căn, là hằng-hà-lưu, là thường phá hoại, là tánh khói lửa, là nhiều ưu não.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Tiển-Thiểu, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là quảng-địa, là năng-thú, là viễn-huệ, là lưu-nạn, là khủng-bố, là phóng-dật, là nhiếp-thú, là trước-xứ, là trạch-chủ, là liên-phược.
Chư Phật-tử ! Ở Tiển-Thiểu thế-giới, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là sung-mãn, là bất-tử, là vô-ngã, là tự-tánh, là phận-biệt-tận, là an-lạc-trụ, là vô-hạn-lượng, là đoạn luân chuyển, là tuyệt-hành-xứ, là bất nhị.
Chư Phật-tử ! Ở Tiển-Thiểu thế-giới, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là đại quang-minh, là diễn-thuyết hải, là giản-trạch-nghĩa, là hòa-hiệp-pháp, là ly-thủ-trước, là đoạn tương-tục, là quảng-đại-lộ, là bình đẳng nhơn, là tịnh phương tiện, là tối-thắng-kiến.
Chư Phật-tử ! Về tứ thánh-đế, ở Tiển-Thiểu thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là lưu-chuyển, là xuất sanh, là thất lợi, là nhiễm trước, là trọng đảm, là sai biệt, là nội hiểm, là tập hội, là ác xá trạch, là khổ-não-tánh.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là địa, là phương tiện, là phi thời, là phi-thật-pháp, là vô-để, là nhiếp-thủ, là ly giới, là phiền-não-pháp, là hiếp-liệt-kiến, là cấu-tụ.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là phá-y-chỉ, là bất-phóng-dật, là chơn thật, là bình đẳng, là thiện tịnh, là vô bịnh, là vô khúc, là vô tướng, là tự tại, là vô sanh.
Chư Phật-tử ! Ở thế-giới Hoan-Hỉ, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là nhập thắng-giới, là đoạn tập, là siêu-đẳng-loại, là quảng đại tánh, là phân biệt tận, là thần lực đạo, là chúng phương tiện, là chánh niệm hạnh, là thường tịch lộ, là nhiếp-giải-thoát.
Chư Phật-tử ! Về nhiếp-thánh-đế, ở Hoan-Hỉ thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở Quan-Thược thế-giới, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là bại hoại tướng, là như phố-khí, là ngã sở thành, là chư-thú-thân, là sát lưu chuyển, là chúng ác môn, là tánh khổ, là khả-khí-xả, là vô vị, là lai khứ.
Chư Phật-tử ! Ở Quan-Thược thế-giới, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là hành, là phẩn độc, là hòa hiệp, là thọ chi, là ngã tâm, là tạp độc, là hư xưng, là oai-vị, là nhiệt-não, là kinh hãi.
Chư Phật-tử ! Ở Quan-Thược thế-giới, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là vô tích tập, là bất khả đắc, là diệu dược, là bất khả hoại, là vô trước, là vô lượng, là quảng đại, là giác phần, là ly nhiễm, là vô chướng ngại.
Chư Phật-tử ! Ở Quan-Thược thế-giới, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là an ổn hạnh, là ly dục, là cứu cánh thật, là nhập nghĩa, là tánh cứu cánh, là tịnh hiện, là nhiếp niệm, là thu giải thoát, là cứu tế, là thắng hạnh.
Chư Phật-tử ! Về tứ thánh-đế, ở Quan-Thược thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Ở Chấn-Âm thế-giới, về khổ thánh-đế, hoặc gọi là dấu-lỗi, là thế-gian, là sở y, là ngạo mạn, là tánh nhiễm trước, là dòng chảy mau, là chẳng vui được, là che dấu, là mau diệt, là khó điều.
Chư Phật-tử ! Ở Chấn-Âm thế-giới, về khổ-tập thánh-đế, hoặc gọi là cần chế phục, là tâm thú, là năng phược, là tùy niệm khởi, là đến hậu biên, là cộng hòa hiệp, là phân biệt, là môn, là phiêu động, là ẩn che.
Chư Phật-tử ! Ở Chấn-Âm thế-giới, về khổ-diệt thánh-đế, hoặc gọi là vô y xứ, là bất khả thủ, chuyển hườn, là ly tránh, là tiểu, là đại, là thiện tịnh, là vô tận, là quảng bác, là vô đẳng giá.
Chư Phật-tử ! Ở Chấn-Âm thế-giới, về khổ-diệt-đạo thánh-đế, hoặc gọi là quan sát, là năng tồi địch, là liễu tri ấn, là năng nhập tánh, là nan địch đối, là vô hạn nghĩa, là năng nhập trí, là hòa hiệp đạo, là hằng bất động, là thù thắng nghĩa.
Chư Phật-tử ! Về tứ thánh-đế, ở Chấn-Âm thế-giới có bốn trăm ức mười ngàn danh từ như vậy, tùy tâm ý của chúng-sanh khiến họ điều-phục.
Chư Phật-tử ! Như cõi Ta-Bà này nói tứ thánh-đế có bốn trăm ức mười ngàn danh hiệu, cũng vậy, mười phương tất cả vô-lượng, vô-biên, bất-khả-thuyết thế-giới, tận pháp-giới hư-không-giới, trong mỗi thế-giới nói tứ thánh-đế đều có bốn trăm ức mười ngàn danh từ, tùy tâm ý của chúng-sanh khiến họ được điều-phục.
*******************************
Phẩm Quang Minh Giác
Thứ chín
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, từ dưới lòng hai bàn chưn, phóng ra trăm ức tia sáng chiếu khắp Ðại-thiên thế-giới : trăm ức Diêm-Phù-Ðề, trăm ức Phất-Bà-Ðề, trăm ức Cù-Gia-Ni, trăm ức Uãt-Ðơn-Việt, trăm ức đại-hải, trăm ức Luân-Vi-Sơn, trăm ức Bồ-Tát thọ sanh, trăm ức Bồ-Tát xuất gia, trăm ức Như-Lai thành chánh giác, trăm ức Như-Lai chuyển pháp luân, trăm ức Như-Lai nhập niết-bàn, trăm ức Tu-Di-Sơn, trăm ức Tứ-Vương-Thiên, trăm ức Ðao-Lợi-Thiên, trăm ức Dạ-Ma-Thiên, trăm ức Ðâu-Suất-Thiên, trăm ức Hóa-Lạc-Thiên, trăm ức Tha-Hóa-Thiên, trăm ức Sơ-Thiền-Thiên, trăm ức Nhị-Thiền-Thiên, trăm ức Tâm-Thiền-Thiên, trăm ức Tứ-Thiền-Thiên, nhẫn đến trăm ức Sắc-Cứu-Cánh-Thiên. Tất cả vật cảnh trong Ðại-Thiên thế-giới đều được quang-minh của Thế-Tôn soi sáng hiển hiện cả.
Như nơi đây hiện thấy đức Thế-Tôn ngồi tòa Liên-Hoa-Tạng-Sư-Tử, mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát vây quanh. Trong trăm ức Diêm-Phù-Ðề khác, cũng đều có Như-Lai an-tọa như thế cả.
Do thần lực của Phật, trong mười phương, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ đức Phật ngự : Ðông-phương Kim-Sắc thế-giới có Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát, Nam-phương Diệu-Sắc thế-giới có Giác-Thủ Bồ-Tát, Tây-phương Liên-Hoa-Sắc thế-giới có Tài-Thủ Bồ-Tát, Bắc-phương Chiêm-Bặc-Hoa-Sắc thế-giới có Bửu-Thủ Bồ-Tát, Ðông-bắc-phương Ưu-Bát-La-Hoa-Sắc thế-giới có Bồ-Tát Công-Ðức-Thủ, Ðông-nam-phương Kim-Sắc thế-giới có Mục-Thủ Bồ-Tát, Tây-nam-phương Bửu-Sắc thế-giới có Tinh-Tấn-Thủ Bồ-Tát, Tây-bắc-phương Kim-Cang-Sắc thế-giới có Pháp-Thủ Bồ-Tát, Hạ-phương Pha-Lê-Sắc thế-giới có Trí-Thủ Bồ-Tát, Thượng-phương Bình-Ðẳng-Sắc thế-giới có Hiềm-Thủ Bồ-Tát.
Lúc đó, trong tất cả trăm ức đạo-tràng, nơi chư Phật ngự, trăm ức Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng thời ứng thinh nói kệ rằng :
Nếu có ai thấy Phật
Giải-thoát lìa hữu lậu
Chẳng tham trước thế-gian
Người này chẳng chứng đạo.
Nếu ai biết Như-Lai
Thể-tướng vô-sở-hữu
Tu tập được rõ ràng
Người này mau thành Phật.
Nếu thấy thế-giới này
Tâm được chẳng dao-động
Với Phật-thân cũng vậy
Sẽ thành bực Thắng-Trí.
Nếu với Phật cùng Pháp
Ðược tâm trọn bình đẳng
Chẳng móng khởi nhị niệm
Sẽ lên bực Nan-Tư.
Nếu thấy Phật và thân
Bình đẳng mà an-trụ
Vô trụ vô sở nhập
Sẽ thành bực Nam-Ngộ.
Sắc, Thọ không có số
Tưởng, Hành, Thức cũng vậy
Nếu biết được như đây
Sẽ là Ðại-Mâu-Ni.
Kiến chấp thế, xuất thế
Tất cả đều vượt khỏi
Mà hay khéo biết pháp
Sẽ thành bực Ðại-Quang.
Nếu nơi đấng Toàn-Trí
Phát sanh tâm hồi hướng
Thấy tâm không chỗ sanh
Sẽ được bực Hồng-Danh.
Chúng-sanh không có sanh
Cũng lại không có hoại
Nếu được trí như vậy
Sẽ thành vô-thượng-đạo.
Trong một : hiểu vô-lượng
Trong vô-lượng : hiểu một
Rõ kia sanh lẫn nhau
Sẽ thành vô-sở-úy.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu ra ngoài thế-giới này suốt đến mười phương, mỗi phương đều chiếu mười quốc-độ. Trong những cõi đó, tất cả vật cảnh từ Diêm-Phù-Ðề đến Sắc-Cứu-Cánh-Thiên đều được chói sáng, và đều có đức Phật ngự trên tòa sư-tử như ở cõi này.
Do thần-lực của đức Phật, mười phương đều có một đại Bồ-Tát cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật, cũng chính là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v...
Bấy giờ, ở trước mỗi Như-Lai, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng thời ứng thinh nói kệ rằng:
Chúng-sanh không trí-huệ
Tham-ái đâm thương độc
Vì cứu họ nên Phật
Cầu Bồ-Ðề vô-thượng.
Thấy các nơi các pháp
Ðều xa rời hai bên
Ðạo thành trọn chẳng thối
Chuyển pháp luân vô đẳng.
Bất-khả-tư-nghì kiếp
Tinh-tấn tu các hạnh
Vì độ các chúng-sanh
Là nguyện lực của Phật.
Ðạo-sư hàng quân ma
Dũng-kiện không ai hơn
Quang-minh diễn diệu-nghĩa
Từ-bi nên như vậy.
Dùng tâm-trí-huệ kia
Phá các chướng phiền não
Một niệm thấy tất cả
Là thần lực của Phật.
Ðánh trống lớn chánh pháp
Giác ngộ mười phương cõi
Ðều khiến đến bồ-đề
Sức tự-tại như vậy.
Chẳng hoại vô-biên cảnh
Mà đi ức cõi nước
Với cõi không trệ trước
Kia tự-tại như Phật.
Chư Phật như hư-không
Rốt ráo thường thanh-tịnh
Nghĩ nhớ lòng hoan hỉ
Kia các nguyện đầy đủ.
Trong mỗi mỗi địa ngục
Trải qua vô-lượng kiếp
Vì cứu độ chúng-sanh
Mà nhẫn được khổ này.
Chẳng tiếc nơi thân mạng
Thường hộ các phật-pháp
Vô ngã tâm điều nhu
Hay được đạo Như-Lai.
Lúc đó quang-minh của đức Phật chiếu quá mười phương thế-giới, rồi chiếu suốt trăm thế-giới ở mỗi phương trong mười phương. Nơi các thế-giới ấy đều có Như-Lai ngự tòa sư-tử như ở tại đây, và do thần-lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, tức là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười Phật-sát-vi-trần-số Bồ-Tát đồng đến chỗ Phật.
Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :
Phật rõ pháp như huyễn
Thông đạt không chướng ngại
Tâm tịnh lìa tham chấp
Ðiều phục các chúng-sanh.
Hoặc có thấy sơ sanh
Sắc đẹp như núi vàng
Trụ thân tối hậu này
Làm mặt nguyệt nhơn loại
Hoặc thấy Phật kinh hành
Ðủ vô-lượng công-đức
Niệm huệ đều thiện xảo
Bước đi Ðại-Sư-Tử.
Hoặc thấy mắt xanh biếc
Quan-sát khắp mười phương
Có lúc hiện vui cười
Vì thuận lòng quần chúng.
Hoặc thấy sư tử hống
Thân thù thắng vô tỉ
Thị hiện tối hậu sanh
Nói lời đều chơn thật.
Hoặc có thấy xuất gia
Giải thoát những hệ phược
Tu tập hạnh chư Phật
Thường thích quán tịch diệt.
Hoặc thấy ngồi đạo-tràng
Rõ biết tất cả pháp
Ðến bờ công-đức kia
Phiền não si đã hết.
Hoặc thấy thắng thượng phu
Ðầy đủ tâm đại-bi
Chuyển pháp luân vi diệu
Ðộ vô-lượng chúng-sanh.
Hoặc thấy sư tử hống
Oai quang rất thù-đặc
Siêu tất cả thế-gian
Thần thông lực vô đẳng
Hoặc thấy tâm tịch tịnh
Như ngọn đèn tắt hẳn
Hiện các loại thần thông
Ðấng thập lực như vậy.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu khỏi trăm thế-giới, suốt đến khắp ngàn thế-giới ở mỗi phương trong mười phương. Nơi mười phương thế-giới này cũng đều có đức Phật ngự đạo-tràng giữa chúng hội mười-phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương đều có một đại Bồ-Tát, chính là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật ngự.
Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :
Phật nơi pháp thậm thâm
Thông đạt không ai sánh
Chúng-sanh không thấy được
Phật tuần tự khai thị
Ngã tánh chưa từng có
Ngã sở cũng không tịch
Cớ sao chư Như-Lai
Lại được có thân thể
Ðấng giải-thoát Minh-Hạnh
Vô-số vô-đẳng luân
Các nhơn lượng thế-gian
Tìm lỗi không thể được.
Phật chẳng phải những loại
Uẩn, xứ, giới, sanh tử
Số pháp vẫn không thành
Nên hiệu Nhơn-Sư-Tử.
Tánh Phật vốn không tịch
Trong ngoài đều giải-thoát
Rời tất cả vọng niệm
Pháp vô-đẳng như vậy.
Thế tánh thường bất động
Không ngã không đến đi
Mà hay giác ngộ đời
Vô-biên đều điều phục.
Thường thích quán tịch diệt
Một tướng không có hai
Tâm Phật không tăng giảm
Hiện vô-lượng thần lực.
Chẳng làm hạnh nghiệp báo
Nhơn duyên của chúng-sanh
Mà rõ thấu vô ngại
Ðấng Thiện-Thệ như vậy.
Tất cả loài chúng-sanh
Lưu chuyển trong mười phương
Như-Lai không phân biệt
Ðộ thoát vô-biên loại.
Chư Phật thân Kim-Sắc
Chẳng cõi khắp các cõi
Tùy chúng-sanh sở thích
Diễn thuyết pháp tịch diệt.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá ngàn thế-giới, suốt khắp mười ngàn thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nơi những thế-giới này cũng đều có đức Phật ngự nơi đạo-tràng giữa chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần-lực của Phật, mỗi phương trong mười phương đều có một đại Bồ-Tát, chính là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát, cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, đồng câu hội đến chỗ đức Phật ngự.
Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :
Phát khởi tâm đại-bi
Cứu hộ các chúng-sanh
Thoát hẳn chúng nhơn thiên
Nên làm việc như vậy.
Lòng thường tin ưa Phật
Tâm đó không thối chuyển
Gần gũi chư Như-Lai
Nên làm việc như vậy.
Chí thích công-đức Phật
Tâm đó trọn không thối
Trụ nơi huệ thanh-lương
Nên làm việc như vậy.
Trong tất cả oai-nghi
Thường nhớ công-đức Phật
Ngày đêm không tạm dứt
Việc như vậy nên làm.
Quán tam thế vô-biên
Học công-đức của Phật
Thường không lòng nhàm mỏi
Việc như vậy nên làm.
Quán thân như thiệt-tướng
Tất cả đều tịch diệt
Lìa ngã, không chấp ngã
Việc như vậy nên làm.
Bình-đẳng quán chúng-sanh
Chẳng móng niệm phân biệt
Vào nơi cảnh chân thật
Việc như vậy nên làm.
Bưng cả vô-biên cõi
Uống hết tất cả biển
Thần-thông đại trí lực
Việc như vậy nên làm.
Tư duy các quốc-độ
Tướng sắc và phi sắc
Ðều biết được tất cả
Việc như vậy nên làm.
Vi-trần mười phương cõi
Một trần là một Phật
Ðều biết được số đó
Việc như vậy nên làm.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá mười ngàn thế-giới, suốt khắp đến trăm ngàn thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nỏi đó đều có đức Phật ngự giữa đạo-tràng chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật.
Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :
Nếu dùng oai đức, sắc, chủng tộc
Ðể thấy đấng Ðiều-Ngự trong đời
Ðây là mắt bịnh thấy điên đảo
Người này chẳng biết pháp tối thắng.
Như-Lai sắc, hình những tướng tốt
Tất cả thế-gian chẳng lường được
Ức na-do kiếp đồng nghĩ lường
Sắc tướng, oai-đức chuyển vô biên.
Như-Lai chẳng lấy tướng làm thể
Chính là pháp tịch diệt vô tướng
Thân tướng oai nghi đều đầy đủ
Thế-gian tùy thích đều được thấy.
Phật pháp vi diệu khó lường được
Tất cả ngôn thuyết chẳng đến được
Chẳng phải hòa hiệp, bất hòa hiệp
Thể tánh tịch diệt không các tướng.
Phật thân vô sanh ngoài hí luận
Chẳng phải uẩn tụ, pháp sai biệt
Ðược sức tự-tại thấy quyết định
Sở hành vô úy lìa ngôn thuyết.
Thân tâm đều bình đẳng
Trong ngoài đều giải thoát
Nhiều kiếp trụ chánh niệm
Vô trước, không hệ-phược.
Bực tâm sạch sáng suốt
Sở hành không nhiễm trước
Trí nhãn đều cùng khắp
Rộng lớn lợi chúng-sanh.
Một thân là vô-lượng
Vô-lượng lại là một
Rõ biết các thế-gian
Hiện hình khắp tất cả.
Thân này không từ đâu
Cũng không nơi tích tụ
Vì chúng-sanh phân biệt
Thấy Phật có nhiều thân.
Tâm phân biệt thế-gian
Tâm này vô sở hữu
Như-Lai biết pháp này
Thấy thân Phật như vậy.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Thế-Tôn chiếu quá trăm ngàn thế-giới, suốt đến trăm vạn thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nơi đó đều có đức Phật ngự đạo-tràng chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật ngự.
Bấy giờ, trước mỗi đức Phật, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát đồng ứng thinh nói kệ rằng :
Như-Lai rất tự-tại
Siêu thế vô-sở-y
Ðủ tất cả công-đức
Ðộ thoát nơi các cõi.
Không nhiễm cũng không trước
Vô-tưởng vô-y-chỉ
Thể tánh không thể lường
Ai thấy cũng ca ngợi.
Quang-minh khắp thanh-tịnh
Trần lụy đều rửa bỏ
Bất-động lìa hai bên
Ðây là trí Như-Lai.
Thân tâm lìa phân biệt
Thời với tất cả pháp
Thoát hẳn những nghi trệ.
Trong tất cả thế-gian
Nơi nơi chuyển pháp-luân
Vô-tánh vô sở chuyển
Ðạo Sư phương tiện nói.
Nơi pháp không nghi lầm
Tuyệt hẳn những hí luận
Chẳng sanh tâm phân biệt
Là niệm Phật Bồ-đề.
Rõ biết pháp sai biệt
Chẳng chấp trước ngôn thuyết
Chẳng có một cùng nhiều
Ðây là thuận lời Phật.
Trong nhiều không một tánh
Một cũng không có nhiều
Bỏ cả hai như vậy
Khắp vào Phật công-đức.
Chúng-sanh và quốc-độ
Tất cả đều tịch-diệt
Vô-y vô phân biệt
Vào được Phật bồ-đề.
Chúng-sanh và quốc-độ
Ðồng dị đều chẳng được
Khéo quan-sát như vậy
Là biết nghĩa phật-pháp.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá trăm vạn thế-giới suốt đến một ức thế-giới ở mỗi phương trong mười phương. Nơi đó đều có đức Phật ngự giữa chúng hội mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội đến chỗ Phật ngự.
Bấy giờ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, ở trước mỗi đức Phật, đồng thời ứng thinh nói kệ rằng :
Trí huệ vô đẳng pháp vô-biên
Vượt biển hữu lậu đến bờ kia
Thọ lượng quang-minh đều vô tỉ
Phương-tiện-lực của đấng công-đức.
Bao nhiêu phật-pháp đều rõ ràng
Thường quán tam-thế không nhàm mỏi
Dầu duyên cảnh-giới không phân biệt
Ðây phương-tiện của bậc nan-tư.
Thích quán chúng-sanh vốn vô-sanh
Khắp thấy các loài vốn không loài
Hằng trụ thiền-tịch chẳng hệ lụy
Ðây phương tiện của Vô-Ngại-Huệ.
Khéo léo thông đạt tất cả pháp
Chánh-niệm siêng tu đạo niết-bàn
Thích nơi giải-thoát lìa bất bình
Ðây phương tiện của bực tịch-diệt.
Hay khuyên người hướng Phật bồ-đề
Ðến nhứt-thiết-trí như pháp-giới
Khéo dạy chúng-sanh vào đế-lý
Ðây phương tiện ngươwi trụ tâm Phật.
Phật chỗ thuyết pháp đều thuận vào
Trí huệ quảng đại không chướng ngại
Tất cả xứ hành đều bước lên
Phương tiện tu tập của Tự-Tại.
Hằng trụ niết-bàn như hư-không
Tùy tâm hóa hiện đều cùng khắp
Ðây tựa vô tướng mà làm tướng
Phương tiện của bực Ðáo-Nan-Ðáo.
Sáng tối ngày tháng và năm kiếp
Thế-giới thỉ chung là thành hoại
Như vậy nhớ nghĩ đều rõ biết
Ðây phương tiện của Thời-Số-Trí.
Tất cả chúng-sanh có sanh diệt
Sắc phi-sắc cùng tưởng phi-tưởng
Bao nhiêu danh tự đều rõ biết
Ðây phương tiện của bực Nan-Tư.
Thời quá khứ, hiện-tại, vị-lai
Bao nhiêu ngôn thuyết đều rõ được
Mà biết ba thời đều bình đẳng
Ðây phương tiện của Vô-Tỷ-Giải.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá một ức thế-giới, suốt khắp mười ức thế-giới, ở mỗi phương, trong mười phương. Nơi đó đều có đức Phật ngự giữa đạo-tràng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần lực của đức Phật, mỗi phương đều có một vị đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... đều cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu hội nơi Phật ngự.
Bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát, ở trước mỗi đức Phật, đồng ứng thinh nói kệ rằng :
Khổ hạnh lớn khó đều tu tập
Ngày đêm tinh cần không nhàm trễ
Ðã độ khó độ sư tử hống
Ðộ khắp chúng-sanh là hạnh Phật.
Chúng-sanh lưu chuyển biển ái-dục
Vô-minh che đậy rất khổ ngặt
Chí-Nhơn dũng mãnh đều dứt trừ
Thệ nguyện như vậy là hạnh Phật.
Thế-gian phóng dật say ngũ dục
Phân biệt sai lầm chịu những khổ
Phụng hành Phật-giáo đều nhiếp tâm
Nguyện độ chúng-sanh là hạnh Phật.
Chúng-sanh chấp ngã vào sanh tử
Cầu tột mé kia không thể được
Khắp thờ chư Phật được diệu pháp
Vì họ giảng pháp là hạnh Phật.
Chúng-sanh bơ vơ bịnh khổ vây
Thường trôi nẻo ác khởi ba độc
Ngọn lửa hừng lớn luôn đốt cháy
Tịnh tâm động chúng là hạnh Phật.
Chúng-sanh mê lầm mất chánh đạo
Thường đi đường tà vào nhà tối
Vì họ thắp sáng đèn chánh pháp
Luôn luôn soi sáng là hạnh Phật.
Chúng-sanh trôi chìm biển hữu lậu
Khổ lo không bờ chẳng ở được
Vì họ sửa sang đại pháp thuyền
Ðều khiến thoát khổ là hạnh Phật.
Chúng-sanh vô tri chẳng thấy cội
Mê lầm cuồng si trong hiểm nạn
Phật thương xót họ xây pháp-kiều
Khiến trụ chánh niệm là hạnh Phật.
Thấy các chúng-sanh ở đường hiểm
Khổ già bịnh chết luôn bức ngặt
Tu các phương tiện không hạn lượng
Thệ độ tất cả là hạnh Phật.
Nghe pháp tin hiểu không nghi lầm
Rõ tánh không tịch chẳng kinh sợ
Tùy hình lục đạo khắp mười phương
Cứu khắp quần mê là hạnh Phật.
Lúc bấy giờ, quang-minh của đức Phật chiếu quá mười ức thế-giới, suốt khắp đến trăm ức thế-giới, ngàn ức, vạn ức, trăm ngàn ức, na-do-tha ức, trăm na-do-tha ức, ngàn na-do-tha ức, trăm ngàn na-do-tha ức, nhẫn đến vô số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận pháp-giới, hư-không giới, tất cả thế-giới ở mười phương. Nơi mỗi thế-giới từ Diêm-Phù-Ðề đến Sắc-Cứu-Cánh Thiên mọi vật cảnh đều được hiển hiện. Nơi mỗi Diêm-Phù-Ðề đều có đức Phật ngự giữa đạo-tràng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát.
Do thần-lực của đức Phật, mỗi phương đều có một đại Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát v.v... đều cùng mười phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng câu-hội đến chỗ Phật ngự.
Bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát ở trước mỗi đức Phật, đều ứng thinh nói kệ rằng :
Một niệm quán khắp vô-lượng kiếp
Vô khứ vô lai cũng vô trụ
Như vậy rõ biết việc ba thời
Siêu xuất phương tiện thành thập lực.
Mười phương vô tỉ hồng danh tốt
Lìa hẳn các hạnh thường hoan hỉ
Khắp đến trong tất cả quốc-độ
Vì người tuyên dương pháp như vậy.
Vì lợi chúng-sanh cúng-dường Phật
Ðúng ý nguyện được quả tương tợ
Với tất cả pháp đều thuận biết
Khắp trong mười phương hiện thần-lực.
Tối sơ cúng Phật ý nhu nhuẫn
Nhập đại thiền định quán pháp tánh
Khuyên khắp chúng-sanh phát đạo tâm
Do đây mau thành quả vô thượng.
Mười phương cầu pháp lòng không đổi
Vì tu công-đức cho đầy đủ
Hai tướng có không đều dứt trừ
Người này thấy Phật đúng chơn thật.
Qua khắp các cõi nước mười phương
Nói rộng diệu pháp hưng lợi ích
Trụ nơi thật tế chẳng động dao
Công-đức người này đồng với Phật.
Pháp luân vi-diệu của Phật dạy
Tất cả đều là bồ-đề phần
Nếu được nghe rồi ngộ pháp tánh
Người như đây là thường thấy Phật.
Chẳng thấy thập lực không như huyễn
Dầu thấy nhưng chẳng thấy như lòa
Phân biệt chấp tướng chẳng thấy Phật
Rốt ráo lìa chấp mới thấy Phật.
Chúng-sanh tùy nghiệp đều sai khác
Mười phương trong ngoài khó thấy hết
Thân Phật vô ngại khắp mười phương
Chẳng thể thấy hết cũng như vậy.
Như trong không-giới vô-lượng cõi
Không lai không khứ khắp mười phương
Sanh thành diệt hoại vô-sở-y
Phật khắp hư-không cũng như vậy.
***************************************************************************
Phẩm Bồ Tát Vấn Minh
Thứ mười
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Giác-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tâm-tánh vốn là một, sao lại thấy có các thứ sai khác ? Những là :
Ðến đường lành nẻo dữ, căn thân có đủ có thiếu, thọ sanh đồng và khác, đẹp-đẽ cùng xấu-xí, nào vui nào khổ, nghiệp không biết tâm, mà tâm cũng chẳng biết nghiệp, thọ không rõ báo mà báo cũng chẳng rõ thọ, tâm chẳng biết thọ mà thọ cũng không biết tâm, nhơn không biết duyên mà duyên cũng chẳng biết nhơn, trí chẳng biết cảnh mà cảnh cũng chẳng biết trí.
Giác-Thủ Bồ-Tát nói kệ để đáp :
Nay ngài hỏi nghĩa này
Vì Liễu-ngộ quần-mông
Cứ tánh kia, tôi đáp
Xin ngài lóng nghe cho.
Các pháp không tác dụng
Cũng không có thể tánh
Vì thế nên các pháp
Ðều chẳng biết được nhau.
Ví như nước trong sông
Các dòng đua nhau chảy
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại cũng như đống lửa
Ðồng thời phát ngọn to
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại như gió lớn thổi
Xao động các cảnh vật
Chúng đều chẳng biết nhau
Các pháp cũng như vậy.
Lại như các địa-giới
Xây vần nương tựa nhau
Các pháp cũng như vậy.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân
Tâm-ý sáu tình-căn
Do dây thường lưu-chuyển
Nhưng vẫn không năng-chuyển.
Pháp-tánh vốn vô-sanh
Trong đây không năng hiện
Cũng không vật sở-hiện.
Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân
Tâm-ý sáu tình-căn
Tất cả rỗng vô-tánh
Vọng phân-biệt mà có.
Cứ đúng lý quan-sát
Tất cả đều vô-tánh
Pháp-nhãn bất-tư-nghì
Ðây là thấy chơn thật.
Hoặc vọng hay chẳng vọng
Hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt
Thế-gian cùng xuất-thế
Chỉ là giả ngôn-thuyết.
Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Tài-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Ðức Như-Lai tùy thờI-gian như thế-nào, cũng như tùy mạng-sống, tùy thân-thể, tùy hành-vi, tùy hiểu-biết, tùy ngôn-luận, tùy sở-thích, tùy phương-tiện, tùy tư-duy, tùy quan-sát của chúng-sanh như thế nào, mà hiện thân Phật để giáo-hóa điều-phục các chúng-sanh ấy ?
Tài-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Ðây là cảnh của bực
Ða-Văn thích tịch-diệt,
Nay tôi vì ngài đáp
Xin ngài chú ý nghe.
Phân biệt quán nội-thân
Trong đây gì là ta ?
Nếu hiểu được như vậy
Thời biết ta không.
Thân này là giả tạo
Chỗ trụ không nơi chỗ
Người thiệt-biết thân này
Trong đây không chấp trước.
Nơi thân khéo quan-sát
Tất cả đều thấy rõ
Biết pháp đều hư-vọng
Chẳng khởi tâm phân-biệt.
Mạng sống nhơn gì có
Rồi nhơn gì tan mất
Khác nào vòng lửa xây
Ðầu đuôi chẳng biết được.
người trí hay quan-sát
Có tướng đều vô-thường
Các pháp, không, vô-ngã
Lìa hẳn tất cả tướng.
Các báo, tùy nghiệp sanh
Giả dối như giấc mơ
Luôn luôn thường diệt hoại
Như trước, sau cũng vậy.
Những pháp thấy ở đời
Chỉ do tâm làm chủ,
Tùy hiểu chấp lấy tướng
Ðiên-đảo chẳng đúng thật.
Những ngôn-luận trong đời
Ðều do phân biệt cả
Chưa từng có một pháp
Ðược vào nơi pháp-tánh.
Sức năng-duyên, sở-duyên
Sanh ra những pháp-tướng
Chóng diệt, chẳng tạm dừng
Niệm niệm đều như vậy.
Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Bửu-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Tất cả chúng-sanh đồng có tứ-đại, không ngã, không ngã-sở, tại sao lại có những sự khác biệt, như khổ vui, tốt xấu, ưa trong chuộng ngoài, thọ ít hưởng nhiều, hoặc hiện báo, hoặc hậu báo. Nhưng trong pháp-giới vẫn không tốt xấu ?
Bửu-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Cứ theo nghiệp đã tạo
Sanh quả báu như vậy
Ðều không có tác-giả
Ðây là lời chư Phật.
Như mặt gương sáng sạch
Tùy theo cảnh đối tượng
Hiện bóng sai khác nhau
Nghiệp tánh cũng như vậy.
Cũng như ruộng gieo giống
Chúng đều chẳng biết nhau
Tự nhiên mọc lên cây
Nghiệp tánh cũng như vậy.
Như nhà ảo thuật giỏi
Ở tại ngã tư đường
Hiện ra những sắc-tướng
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Như người gỗ máy móc
Hay vang ra các tiếng
Nó không ngã ngã-sở
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Cũng như giống chim bay
Từ trứng nở sanh ra
Tiếng kêu không đồng nhau
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Ví như trong thai-tạng
Căn thân đều thành-tựu
Thể-tướng không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Lại như ở địa-ngục
Bao nhiêu là sự khổ
Kia đều không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Như vua Chuyển-luân-vương
Có đủ bảy thứ bảo
Chỗ đến không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy.
Lại như các thế-giới
Lúc đại-hỏa cháy tan
Lửa này không từ đâu
Nghiệp-tánh cũng như vậy
Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Ðức-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chỗ giác-ngộ của Ðức Như-Lai chỉ là một pháp duy-nhứt, sao lại bảo là vô-lượng-pháp, hiện vô-lượng cõi, hóa vô-lượng-chúng, diễn vô-lượng âm, thị vô-lượng thân, biết vô-lượng tâm, hiện vô-lượng thần-thông, có thể chấn động khắp vô-lượng thế-giới, thị-hiện vô-lượng sự thù-thắng trang-nghiêm, hiển-thị vô-biên nhiều loại cảnh-giới. Nhưng trong pháp-tánh các tướng sai-biệt này đều bất-khả-đắc.
Ðức-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Nghĩa của Phật-tử hỏi
Rất sâu khó rõ được
Người trí biết nghĩa này
Thường chứa công-đức Phật.
Như đất chỉ một tánh
Mọi loài ở riêng chỗ
Ðất không nghĩ đồng khác
Pháp chư Phật như vậy.
Cũng như một đại-hải
Ngàn vạn lượng sóng trào
Nước biển vẫn duy nhứt
Pháp chư Phật như vậy.
Cũng như gió một tánh
Thổi động tất cả vật
Gió không nghĩ đồng khác
Pháp chư Phật như vậy.
Cũng như mây sấm lớn
Mưa khắp cả mọi nơi
Nước mưa vẫn không khác
Pháp chư Phật như vậy.
Cũng như mặt đất kia
Mọc lên nhiều mầm mộng
Mặt đất chỉ là một
Pháp chư Phật như vậy.
Mặt nhựt không mây mờ
Chiếu sáng khắp mười phương
Quang-minh không sai khác
Pháp chư Phật như vậy.
Như mặt nguyệt trên cao
Mọi nơi đều nhìn thấy
Mặt nguyệt vẫn một chỗ
Pháp chư Phật như vậy.
Ví như Ðại-Phạm-Vương
Ứng hiện khắp đại-thiên
Thân ngài vẫn không khác
Pháp chư Phật như vậy.
Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Mục-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như-Lai phước-điền đồng một không sai khác, sao lại thấy chúng-sanh bố-thí được của quả-báo chẳng đồng? Những là :
Nhiều loại sắc, nhiều loại thân, nhiều loại căn, nhiều loại nhà, nhiều loại chủ, nhiều loại quyến thuộc, nhiều loại quan-chức, nhiều loại công-đức, nhiều loại trí-huệ.
Nhưng đức Phật đối với họ, tâm Phật thường bình-đẳng, không có quan-niệm riêng khác ?
Mục-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Như tất cả vẫn là một
Theo giống mọc mầm khác
Ðất không ý thân sơ
Phật phước-điền cũng vậy.
Lại như nước một vị
Nhơn đồ đựng có khác
Phật phước-điền vẫn một
Do tâm người thành khác.
Như nhà ảo thuật khéo
Làm mọi người hoan-hỉ
Phật phước-điền cũng vậy
Khiến chúng-sanh kính vui.
Như vua có tài trí
Hay khiến nhơn-dân mừng
Phật phước-điền cũng vậy
Khiến chúng đều an-vui.
Như mặt gương sáng sạch
Theo hình mà hiện bóng
Phật phước-điền cũng vậy
Tùy tâm được báo khác.
Như thuốc A-gìa-đà
Trị được tất cả độc
Phật phước-điền cũng vậy
Dứt các hoạ phiền não.
Như lúc mặt trời mọc
Chiếu sáng khắp thế-gian
Phật phước-điền cũng vậy
Phá trừ những tối tăm.
Như mặt nguyệt tròn sáng
Chiếu khắp cõi đại-địa
Phật phước-điền cũng vậy
Bình-đẳng với tất cả.
Ví như gió tỳ-lam
Chấn-động khắp đại địa
Phật phước-điền cũng vậy
Ðộng chúng-sanh ba cõi.
Như đại hỏa nổi lên
Ðốt cháy tất cả vật
Phật phước-điền cũng vậy
Ðốt tất cả hữu-vi.
Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Cần-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Phật-giáo là một, chúng-sanh được thấy biết, cớ sao không liền đều dứt trừ tất cả phiền-não hệ-phược mà được xuất-ly ? Nhưng nơi chúng-sanh, sắc, thọ, tưởng, hành và thức, năm uẩn, dục, sắc, vô-sắc, ba cõi, vô-minh, tham-ái đều không sai khác. Như thế thời Phật-giáo, đối với chúng-sanh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích ?
Cần-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Phật-tử khéo lóng nghe
Nay tôi cứ thiệt đáp
Hoặc có mau giải-thoát
Hoặc có khó xuất-ly.
Nếu muốn cầu dứt trừ
Vô-lượng những lỗi ác
Nên ở trong Phật-pháp
Dũng-mãnh thường tinh-tấn.
Ví như chút ít lửa
Ðốt ướt thời chóng tắt
Ở nơi trong Phật-pháp
Người giải-đãi cũng vậy.
Như cọ cây lấy lửa
Chưa cháy mà nghỉ luôn
Thế lửa liền tắt nguội
Người giải-đãi cũng vậy.
Như người cầm nhựt châu
Chẳng dùng vật tiếp bóng
Trọn không thể được lửa
Người giải-đãi cũng vậy
Như ánh nắng quá chói
Trẻ nít nhắm đôi mắt
Tự nói sao không thấy
Người giải-đãi cũng vậy
Như người không tay chân
Muốn dùng cỏ làm tên
Bắn phá cả đại-địa
Người giải-đãi cũng vậy
Như lấy một đầu lông
Muốn chấm khô đại hải
Người giải-đãi cũng vậy
Không thể dứt hoặc nghiệp.
Lại như kiếp-hỏa nổi
Muốn tắt với ít nước
Ở nơi trong Phật-pháp
Người giải-đãi cũng vậy.
Như người ngó hư-không
Ngồi yên không giao-động
Nói mình bay đi khắp
Người giải-đãi cũng vậy.
Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Pháp-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Như lời đức Phật dạy : Nếu có chúng-sanh thọ-trì Chánh-pháp thời đều có thể dứt trừ tất cả phiền-não ?
Nhưng cớ sao có người thọ-trì chánh-pháp lại tùy thế-lực của tham, sân, si, mạn, tùy thế-lực của phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm ... xoay chuyển không rời nơi tâm. Người hay thọ-trì pháp, cớ sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền-não ?
Pháp-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Phật-tử khéo lóng nghe
Thật nghĩa ngài đã hỏi
Vì chẳng phải đa-văn
Mà vào được Phật-pháp.
Như người trôi giữa dòng
Sợ chìm mà chết khát
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như trần-thiết vật thực
Chẳng ăn phải đói
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như người giỏi dược-phương
Chẳng cứu được bịnh mình
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như người đếm châu báu
Tự mình vẫn nghèo nàn
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như người ở vương-cung
Mà tự chịu đói rét
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như điếc tấu âm-nhạc
Người nghe mình chẳng nghe
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như mù họa hình tượng
Người thấy mình chẳng thấy
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Ví như nhà hàng-hải
Mà tự chết trong biển
Nơi pháp chẳng tu-hành
Ða-văn cũng như vậy.
Như ở ngã tư đường
Giảng nói những điều tốt
Mà tự không thật-đức
Chẳng tu cũng như vậy.
Lúc đó, Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Trí-Thủ Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Trong phật-pháp, trí-huệ là trên tất cả. Cớ sao với các chúng-sanh, đức Phật hoặc ca ngợi sự bố-thí, sự trì-giới, hoặc ca ngợi sự nhẫn-nhục, sự tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ-bi, hỉ xả ... , mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải-thoát, thành vô-lượng chánh-đẳng chánh-giác ?
Trí-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Phật-tử rất hi-hữu
Biết rõ tâm chúng-sanh
Xin lóng nghe tôi đáp
Những nghĩa ngài đã hỏi.
Chư Phật thuở quá-khứ
Hiện-tại và vị-lai
Không có nói một pháp
Mà chứng được đạo-quả.
Phật biết tâm chúng-sanh
Tánh phận đều chẳng đồng
Tùy chỗ họ đáng thọ
Theo đó mà thuyết pháp.
Vì kẻ tham, khuyên thí
Vì người lỗi, khen giới
Nhiều sân, thời khuyên nhẫn
Giải-đãi, thời khuyên siêng.
Loạn tâm phải tu-định
Ngu-si trau trí-huệ
Bất-nhơn phải từ-mẫn
Giận-hại khuyên rèn bi.
Lo rầu thời ngợi hỉ
Chấp trước lời khen xả
Tuần tự tu như vậy
Lần đủ các phật-pháp.
Như trước xây nền móng
Rồi sau tạo nhà cửa
Thí và giới cũng vậy
Là gốc hạnh Bồ-Tát.
Ví như dựng thành quách
Ðể bảo hộ dân chúng
Nhẫn và tấn cũng vậy
Phòng hộ chư Bồ-Tát.
Ví như Ðại-Lực-Vương
Cả nước đều ngưỡng vọng
Ðịnh huệ cũng như vậy
Chỗ tựa của Bồ-Tát.
Cũng như vua chuyển-luân
Ban vui cho nhân-loại
Từ bi và hỉ xả
Làm Bồ-Tát an vui.
Lúc đó Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát rằng : 'Phật-tử ! Chư Phật chỉ do một đạo mà được giải-thoát. Cớ sao hiện nay thấy tất cả phật-độ lại có nhiều sự không đồng, những là :
Thế-giới, chúng-sanh-giới, thuyết-pháp, điều-phục, thọ-lượng, quang-minh, thần-thông, chúng-hội, giáo-nghĩa, pháp-trụ v.v... đều sai khác nhau.
Không có vị nào chẳng đủ tất cả phật-pháp mà được thành vô-thượng bồ-đề ?
Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Thưa ngài ! Pháp thường vậy
Pháp-Vương pháp duy-nhất
Tất cả chư Như-Lai
Một đạo mà giải-thoát.
Thân của tất cả Phật chỉ là một pháp-thân
Nhứt-tâ, nhứt trí-huệ
Lực vô-úy cũng vậy.
Như trước đến bồ-đề
Bao nhiêu tâm hồi hướng
Ðược cõi nước như vậy
Chúng-hội và thuyết-pháp.
Tất cả các cõi Phật
Trang-nghiêm đều viên-mãn
Tùy chúng-sanh hạnh khác
Thấy chẳng đồng như vậy
Cõi Phật cùng thân Phật
Chúng hội và ngôn thuyết
Các phật-pháp như vậy
Chúng-sanh chẳng thấy được.
Tâm ý đã thanh-tịnh
Hạnh-nguyện đều đầy đủ
Người sáng suốt như vậy
Mới được thấy nơi đây.
Tùy chúng-sanh tâm thích
Và cùng sức nghiệp-quả
Thấy sai khác như vậy
Do oai thần của Phật.
Cõi Phật vô-sai-biệt
Không ghét cũng không thương
Chỉ tùy tâm chúng-sanh
Thấy có khác như vậy.
Do đây nơi thế-giới
Chỗ thấy đều sai khác
Chẳng phải chư Như-Lai
Bực Ðại-Tiên có lỗi.
Tất cả các thế-giới
Người đáng được giáo-hóa
Thường được thấy Thế-Tôn
Pháp chư Phật như vậy.
Lúc đó chư Bồ-Tát nói với Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Chúng tôi đã tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi. Xin ngài dùng diệu-biện-tài diễn sướng những cảnh-giới của Như-Lai:
Những gì là cảnh-giới của Phật ? Những gì là nhơn của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự nhập vào của cảnh-giới Phật ? Những gì là trí của cảnh-giới Phật ? Những gì là pháp của cảnh-giới Phật ? Những gì là ngôn-thuyết của cảnh-giới Phật ? những gì là sự hiểu biết của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự chứng của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự hiện ở của cảnh-giới Phật ? Những gì là sự rộng lớn của cảnh-giới Phật ?
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói kệ đáp rằng :
Như-Lai cảnh-giới sâu
Lượng đó khắp hư-không
Tất cả chúng-sanh vào
Mà thật không chỗ nhập.
Như-Lai cảnh-giới sâu
Bao nhiêu nhơn thắng diệu
Ức kiếp thường tuyên nói
Cũng lại chẳng thể hết.
Tùy tâm trí huệ mình
Khuyến tấn đều khiến lợi
Ðộ chúng-sanh như vậy
Là cảnh-giới chư Phật.
Những cõi nước thế-gian
Tất cả đều theo vào
Trí thân không có sắc
Chẳng phải kia thấy được.
Chư Phật trí tự-tại
Tam-thế không chướng ngại
Cảnh-giới huệ như vậy
Bình-đẳng như hư-không.
Pháp-giới chúng-sanh-giới
Rốt ráo không sai khác
Tất cả đều rõ biết
Ðây là cảnh-giới Phật.
Trong tất cả thế-giới
Bao nhiêu những âm-thinh
Phật-trí đều tùy rõ
Cũng không có phân-biệt.
Chẳng phải thức biết được
Chẳng phải tâm cảnh-giới
Tánh đó vốn thanh-tịnh
Khai-thị các quần-sanh.
Chẳng nghiệp chẳng phiền-não
Không vật không trụ-xứ
Không chiếu không sở-hành
Bình-đẳng đi thế-gian.
Tất cả tâm chúng-sanh
Khắp ở trong ba thời
Như-Lai nơi một niệm
Tất cả đều rõ thấu.
Lúc bấy giờ trong cõi Ta-Bà này, tất cả chúng-sanh, bao nhiêu pháp sai-biệt, nghiệp sai-biệt, thế-gian sai-biệt, thân sai-biệt, căn sai-biệt, thọ sanh sai-biệt, trì-giới quả sai-biệt, phạm-giới quả sai-biệt, quốc-độ quả sai-biệt, do thần-lực của Phật thảy đều hiện rõ.
Phương đông, trăm ngàn ức na-do-tha vô-số, vô-lượng, vô-biên, vô-đẳng, bất-khả-số, bất-khả-xưng, bất-khả-tư, bất-khả-lượng, bất-khả-thuyết, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới, bao nhiêu chúng-sanh pháp sai-biệt, đều do thần-lực của Phật mà hiển hiện rõ ràng.
Những phương Nam, Tây, Bắc, Ðông-Bắc, Ðông-Nam, Tây-Nam, Tây-Bắc, thượng, hạ, cũng đều như vậy.
***************************************************************************
Phẩm Tịnh Hạnh
Thứ mười một
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ Trí-Thủ Bồ-Tát hỏi Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát : 'Phật-tử ! Bồ-Tát làm thế nào thân, ngữ, ý, ba nghiệp được không lỗi lầm? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được chẳng tổn hại ? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được không thể bị hủy hoại ? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được chẳng dao động ? Thân, ngữ, ý ba nghiệp được thù-thắng ? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được vô nhiễm ? Thân, ngữ, ý, ba nghiệp được trí dẫn đạo ?
Bồ-Tát làm thế nào được sanh-xứ đầy đủ ? Chủng-tộc đầy đủ ? Gia-thế đầy đủ ? Sắc-thân đầy đủ ? Tướng mạo đầy đủ ? Niệm đầy đủ ? Huệ đầy đủ ? Hạnh đầy đủ ? Vô-úy đầy đủ ? Giác-ngộ đầy đủ ?
Bồ-Tát làm thế nào được thắng-huệ ? Ðược đệ-nhứt-huệ ? Ðược tối-thượng-huệ ? Ðược tối-thắng-huệ ? Ðược vô-lượng-huệ ? Ðược vô-số-huệ ? Ðược bất-tư-nghì-huệ, Ðược vô-giữ-đẳng-huệ ? Ðược bất-khả-lượng huệ ? Ðược bất-khả-thuyết huệ ?
Bồ-Tát làm thế nào được : nhơn-lực, duyên-lực, dục-lực, phương-tiện-lực, sở-duyên-lực, căn-lực, quan-sát-lực, xa-ma-tha-lực, tỳ-bát-xá-na-lực, tư-duy-lực ?
Bồ-Tát làm thế nào được : uẩn thiện-xảo, xứ thiện-xảo, giới thiện-xảo, duyên-khởi thiện-xảo, dục-giới thiện-xảo, sắc-giới thiện-xảo, vô-sắc-giới thiện-xảo, quá-khứ thiện-xảo, vị-lai thiện-xảo, hiện-tại thiện-xảo ?
Bồ-Tát làm thế nào khéo tu tập : niệm giác-phần, trạch-pháp giác-phần, tinh-tấn giác-phần, hỉ giác-phần, xả giác-phần, không giác-phần, vô-tướng giác-phần, vô-nguyện giác-phần ?
Bồ-Tát làm thế nào được viên-mãn : đàn ba-la-mật, thi ba-la-mật, sằn-đề ba-la-mật, tỳ-lê-gia ba-la-mật, thiền-na ba-la-mật, tỳ-lê-gia ba-la-mật, thiền-na ba-la-mật, bát-nhã ba-la-mật, từ, bi, hỉ, xả ?
Bồ-Tát làm thế nào được thập lực : xứ-phi-xứ trí-lực, quả-vị hiện-tại nghiệp-báo trí-lực, căn thắng liệt trí-lực, chủng-chủng giới trí-lực, chủng-chủng giải trí-lực, nhứt-thiết-chí-xứ-đạo trí-lực, thiền giải-thoát tam-muội nhiễm tịnh trí-lực, túc-trụ-niệm trí-lực, vô-chướng-ngại thiên-nhãn trí-lực, đoạn chư tập trí-lực ?
Bồ-Tát làm thế nào thường được sự thủ-hộ cung kính cúng-dường của : Thiên-Vương, Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-thát-bà-Vương, A-tu-la-Vương, Ca-lâu-la-Vương, Khẩn-na-la-Vương, Ma-hầu-la-già-Vương, Nhơn-Vương, Phạm-Vương ?
Bồ-Tát làm thế nào được mình là những chỗ : y-tựa, cứu-độ, chỗ về, chỗ đến, là đuốc, là sáng, là soi, là dẫn đạo, thắng đạo, phổ đạo cho tất cả chúng-sanh ?
Ðối với tất cả chúng-sanh, Bồ-Tát làm thế nào là : đệ-nhứt, là lớn, là thắng, là tối-thắng, là diệu, là cực-diệu, là thượng, là vô-thượng, là vô-đẳng, là vô-đẳng-đẳng ?
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát bảo Trí-Thủ Bồ-Tát : 'Lành thay Phật-tử ! nay ngài vì muốn nhiều lợi-ích, nhiều an-ổn, thương xót thế-gian, lợi-lạc thiên-nhơn mà hỏi những nghĩa như vậy.
Phật-tử ! Nếu Bồ-Tát khéo dụng tâm thời được tất cả công-đức thắng-diệu, nơi phật-pháp được tâm vô-ngại, được trụ nơi đạo của tam-thế chư Phật, trụ theo chúng-sanh hằng không bỏ rời, đều có thể thông-đạt đúng các pháp-tướng, dứt tất cả điều ác, đầy đủ tất cả điều lành, sẽ được hình sắc đệ-nhứt như Phổ-Hiền, đầy đủ tất cả hạnh-nguyện, với tất cả pháp đều được tự-tại, sẽ là đạo-sư thứ hai của chúng-sanh.
Phật-tử ! Bồ-Tát dụng tâm thế nào mà có thể được tất cả thắng-diệu công-đức ?
Phật-tử lóng nghe đây :
Bồ-Tát ở nhà, nên nguyện chúng-sanh, biết nhà tánh không, khỏi sự bức ngặt.
Hiếu thờ cha mẹ, nên nguyện chúng-sanh, kính thờ chư Phật, hộ dưỡng tất cả.
Vợ con hội họp, nên nguyện chúng-sanh, oán thân bình-đẳng, lìa hẳn tham trước.
Nếu được ngũ-dục, nên nguyện chúng-sanh, nhổ mũi tên dục, rốt ráo an-ổn.
Kỹ nhạc tụ hội, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, rõ nhạc chẳng thật.
Nếu ở cung thất, nên nguyện chúng-sanh, vào nơi thánh-địa, trừ hẳn uế-dục.
Lúc đeo trang-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tư-trang giả, đến chỗ chơn thật.
Lên trên lâu-các, nên nguyện chúng-sanh, lên lầu chánh-pháp, thấy suốt tất cả.
Nếu có bố-thí, nên nguyện chúng-sanh, bỏ được tất cả, lòng không ái trước.
Chúng-hội tu-tập, nên nguyện chúng-sanh, xả những tụ pháp, thành nhứt-thiết-trí.
Nếu ở ách nạn, nên nguyện chúng-sanh, tùy ý tự-tại, chỗ làm vô-ngại.
Lúc bỏ cư-gia, nên nguyện chúng-sanh, xuất-gia vô-ngại, tâm được giải-thoát.
Vào tăng già-lam, nên nguyện chúng-sanh, diễn-thuyết các thứ pháp không tranh cãi.
Ðến đại, tiểu sư, nên nguyện chúng-sanh, khéo thờ sư-trưởng, tập làm điều lành.
Cầu xin xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, được pháp bất-thối,lòng không chướng-ngại.
Thoát bỏ tục nhãn, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu căn lành, bỏ những tội ách.
Cạo bỏ râu tóc, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn phiền-não, rốt ráo tịch-diệt.
Ðắp y ca-sa, nên nguyện chúng-sanh, lòng không nhiễm trước, đủ đạo đại-tiên.
Lúc chánh xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, đồng Phật xuất-gia, cứu hộ tất cả.
Tự quy-y Phật, nên nguyện chúng-sanh, nối thạnh Phật-chủng, phát tâm vô-thượng.
Tự quy-y Pháp, nên nguyện chúng-sanh, sâu vào kinh-tạng, trí-huệ như biển.
Tự quy-y Tăng, nên nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, tất cả vô-ngại.
Lục thọ học giới, nên nguyện chúng-sanh, khéo học nơi giới, chẳng làm điều ác.
Thọ Xà-Lê dạy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ oai-nghi, chỗ làm chơn thật.
Thọ Hòa-Thượng dạy, nên nguyện chúng-sanh, vào trí vô-sanh, đến chỗ vô-y.
Thọ giới cụ-túc, nên nguyện chúng-sanh, đủ các phương-tiện, được pháp tối-thắng.
Nếu vào nhà cửa, nên nguyện chúng-sanh, lên nhà vô-thượng, an-trụ bất-động.
Nếu trải giường tòa, nên nguyện chúng-sanh, trải mở pháp lành, thấy tướng chơn thật.
Chánh thân đoan tọa, nên nguyện chúng-sanh, ngồi bồ-đề toà, tâm không tham trước.
Lúc ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, căn lành kiên-cố, được bực bất-động.
Tu hành nơi định, nên nguyện chúng-sanh, dùng định phục tâm, rốt ráo không thừa.
Nếu tu pháp quán, nên nguyện chúng-sanh, thấy lý như thật, trọn không tranh cãi.
Xả ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, quan-sát hành pháp, đều quy tan mất.
Lúc để chân đứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm được giải-thoát, an-trụ bất động.
Nếu cất chân lên, nên nguyện chúng-sanh, khỏi biển sanh-tử, đủ các pháp lành.
Lúc mặc quần dưới, nên nguyện chúng-sanh, mặc những căn lành, đầy đủ hổ thẹn.
Chỉnh áo cột giải, nên nguyện chúng-sanh, kiểm thúc căn lành, chẳng để tan mất.
Nếu mặc áo trên, nên nguyện chúng-sanh, được căn lành lớn, đến bờ pháp kia.
Ðấp tăng-già-lê, nên nguyện chúng-sanh, vào ngôi đệ-nhứt, được pháp bất-động.
Tay cầm nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, đều được diệu-pháp,rốt-ráo thanh-tịnh.
Lúc nhăn nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, tâm-ý điều tịnh, nhai các phiền-não.
Lúc đại tiểu tiện, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tham sân si, dẹp trừ điều tội.
Việc rồi đến nước, nên nguyện chúng-sanh, trong pháp xuất-thế, qua đến mau chóng.
Rửa ráy thân nhơ, nên nguyện chúng-sanh, thanh-tịnh điều nhu, rốt ráo không nhơ.
Xối nước trên tay, nên nguyện chúng-sanh, được tay thanh-tịnh, thọ trì phật-pháp.
Dùng nước rửa mặt, nên nguyện chúng-sanh, được tịnh pháp-môn, trọn không nhơ bợn.
Tay cầm tích-trượng, nên nguyện chúng-sanh, lập hội bố-thí, bày đạo như Phật.
Tay cầm ứng khí, nên nguyện chúng-sanh, thành-tựu pháp-khí, thọ trời người-cúng.
Bước chân lên đường, nên nguyện chúng-sanh, đến chỗ Phật đi, vào nơi vô-y.
Nếu ở nơi đường, nên nguyện chúng-sanh, hay đi đường Phật, hướng pháp vô-dư.
Theo đường mà đi, nên nguyện chúng-sanh, noi tịnh pháp-giới,tâm không chướng ngại.
Thấy lên đường cao, nên nguyện chúng-sanh, khỏi hẳn ba cõi, tâm không khiếp nhược.
Thấy xuống đường thấp, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý khiêm hạ lớn căn lành Phật.
Thấy đường quanh co, nên nguyện chúng-sanh, bỏ đạo bất chánh, trừ hẳn ác-kiến.
Nếu thấy đường thẳng, nên nguyện chúng-sanh,tâm ý chánh-trực,không dua không dối.
Thấy đường nhiều bụi, nên nguyện chúng-sanh, xa lìa bụi bặm, được pháp thanh-tịnh.
Thấy đường không bụi, nên nguyện chúng-sanh, thường tu đại-bi, tâm ý nhuần thấm.
Nếu thấy đường hiểm, nên nguyện chúng-sanh, trụ chánh pháp-giới, lìa những tội nạn.
Nếu thấy chúng-hội, nên nguyện chúng-sanh, nói pháp thậm-thâm, tất cả hòa hiệp.
Nếu thấy trụ lớn, nên nguyện chúng-sanh, lìa tâm chấp ngã, không có phẩn hận.
Nếu thấy tòng-lâm, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và nhơn, chỗ nên kính lễ.
Nếu thấy núi cao, nên nguyện chúng-sanh, căn lành siêu thoát, không thể tột đảnh.
Lúc thấy cây gai, nên nguyện chúng-sanh, chóng được cắt bỏ, những gai tam độc.
Thấy cây lá rậm, nên nguyện chúng-sanh, dùng định giải thoát, để làm che chói.
Nếu thấy hoa nở, nên nguyện chúng-sanh, các pháp thần-thông, như hoa đua nở.
Nếu thấy cây hoa, nên nguyện chúng-sanh, tướng tốt như hoa, đủ ba mươi hai.
Nếu thấy trái hột, nên nguyện chúng-sanh, được pháp tối-thắng, chứng đạo bồ-đề.
Nếu thấy sông lớn, nên nguyện chúng-sanh, được dự pháp-lưu, vào Phật-trí-hải.
Nếu thấy bờ đầm, nên nguyện chúng-sanh, chóng ngộ diệu-pháp, nhứt vị của Phật.
Nếu thấy ao hồ, nên nguyện chúng-sanh, ngữ-nghiệp hoàn-toàn, hay khéo diễn-thuyết.
Nếu thấy giếng nước, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ biện tài, diễn tất cả pháp.
Nếu thấy suối chảy, nên nguyện chúng-sanh, thêm lớn phương-tiện, thiện căn vô-tận.
Nếu thấy kiều-lộ, nên nguyện chúng-sanh, rộng độ tất cả, dường như cầu đò.
Nếu thấy nước chảy, nên nguyện chúng-sanh, được ý nguyện lành, rửa nhơ phiền-não.
Thấy dọn vườn tược, nên nguyện chúng-sanh, trong vườn ngũ dục, dọn sạch cỏ ái.
Thấy rừng vô-ưu, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tham-ái, chẳng còn lo sợ.
Nếu thấy công viên, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu hạnh lành, đến Phật bồ-đề.
Thấy người nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, trang-nghiêm thân đẹp, ba mươi hai
tướng.
Thấy không nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ những trang-sức, đủ hạnh đầu-đà.
Thấy người ham vui, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, ưa thích chẳng bỏ.
Thấy không ham vui, nên nguyện chúng-sanh, trong sự hữu-vi, lòng không ưa thích.
Thấy người vui sướng, nên nguyện chúng-sanh, thường được an vui, thích cúng-dường
Phật.
Thấy người khổ-não, nên nguyện chúng-sanh, được căn-bổn trí, dứt trừ sự khổ.
Thấy người mạnh khỏe, nên nguyện chúng-sanh, vào chơn-thật-huệ, trọn không bịnh
Khổ.
Thấy người tật bịnh, nên nguyện chúng-sanh, biết thân không tịch, lìa sự tranh cãi.
Thấy người xinh đẹp, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, thường kính thường tin.
Thấy người xấu-xí, nên nguyện chúng-sanh, với điều bất thiện, chẳng ưa chẳng thích.
Thấy người báo ơn, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, hay biết ơn đức.
Thấy người bội ơn, nên nguyện chúng-sanh, với kẻ làm ác, chẳng trả thù oán.
Nếu thấy Sa-Môn, nên nguyện chúng-sanh, điều-nhu tịch-tịnh, rốt ráo đệ-nhứt.
Thấy Bà-La-Môn, nên nguyện chúng-sanh, giữ trọn phạm-hạnh, lìa tất cả ác.
Thấy người khổ hạnh, nên nguyện chúng-sanh, y nơi khổ hạnh, đến bực rốt ráo.
Thấy người hạnh tốt, nên nguyện chúng-sanh, giữ bền chí-hạnh, chẳng bỏ Phật-đạo.
Thấy mặc giáp-trụ, nên nguyện chúng-sanh, thường mặc giáp lành, đến pháp vô-sư.
Thấy không võ-trang, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tất cả, những nghiệp bất-thiện.
Thấy người luận nghị, nên nguyện chúng-sanh, đều dẹp phá được, tất cả dị-luận.
Thấy người chánh-mạng, nên nguyện chúng-sanh, được mạng thanh-tịnh, không dối
giả dạng.
Nếu thấy Quốc-vương, nên nguyện chúng-sanh, được làm pháp-vương, thường chuyển
chánh-pháp.
Nếu thấy vương-tử, nên nguyện chúng-sanh, từ pháp hóa-sanh, mà làm phật-tử.
Nếu thấy trưởng-giả, nên nguyện chúng-sanh, xét đoán sáng suốt, chẳng làm điều ác.
Nếu thấy đại-thần, nên nguyện chúng-sanh, hằng giữ chánh-niệm, tập làm điều thiện.
Nếu thấy thành quách, nên nguyện chúng-sanh, được thân kiên cố,tâm không hèn nhát.
Nếu thấy kinh-đô, nên nguyện chúng-sanh, công-đức đồng nhóm, lòng luôn vui vẻ.
Thấy ở rừng vắng, nên nguyện chúng-sanh, đáng được trời người, ca ngợi kính ngưỡng.
Vào xóm khất thực, nên nguyện chúng-sanh, nhập thâm pháp-giới, tâm không chướng
ngại.
Ðến cửa nhà người, nên nguyện chúng-sanh, vào trong tất cả, cửa nhà phật-pháp.
Vào nhà người rồi, nên nguyện chúng-sanh, được vào phật-thừa, ba thời bình-đẳng.
Thấy không thí-xả, nên nguyện chúng-sanh, thường chẳng bỏ rời, pháp công-đức lớn.
Thấy người thí-xả, nên nguyện chúng-sanh, được bỏ lìa hẳn, khổ ba ác-đạo.
Nếu thấy bát không, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý thanh-tịnh, trống sạch phiền-não.
Nếu thấy bát đầy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ trọn vẹn, tất cả thiện-pháp.
Nếu được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, cung-kính tu hành, tất cả phật-pháp.
Chẳng được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, chẳng làm tất cả,những điều bất thiện.
Thấy người hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, đủ hạnh hổ-thẹn, che giữ căn-thân.
Thấy không hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, lìa bỏ không thẹn, trụ đạo đại-từ.
Ðược thực phẩm ngon, nên nguyện chúng-sanh, đều được mãn nguyện, không lòng
tham muốn.
Ðược thực phẩm dở, nên nguyện chúng-sanh, ai cũng đều được, pháp-vị tam-muội.
Ðược vật thực mềm, nên nguyện chúng-sanh, huân-tập đại-bi, tâm ý nhu nhuyến.
Ðược vật thực cứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm không nhiễm trước, dứt hết tham ái.
Nếu lúc ăn cơm, nên nguyện chúng-sanh, ăn món thiền-duyệt, pháp-hỉ no đủ.
Lúc thọ mùi vị, nên nguyện chúng-sanh, được Phật hương-vị, cam-lộ đầy đủ.
Lúc ăn cơm xong, nên nguyện chúng-sanh, việc làm đều xong, đủ những phật-pháp.
Nếu lúc thuyết-pháp, nên nguyện chúng-sanh, biện-luận vô-tận, tuyên rộng pháp yếu.
Lúc ra khỏi nhà, nên nguyện chúng-sanh, thâm nhập phật-trí, khỏi hẳn ba cõi.
Nếu lúc xuống nước, nên nguyện chúng-sanh, vào nhứt-thiết-trí, rõ ba thời đồng.
Tắm rửa thân thể, nên nguyện chúng-sanh, thân tâm không nhơ, trong ngoài sáng sạch.
Mùa nắng nóng độc, nên nguyện chúng-sanh, bỏ lìa khổ não, tất cả đều hết.
Hết nắng vừa mát, nên nguyện chúng-sanh, chứng pháp vô-thượng, rốt ráo mát mẻ.
Lúc đọc tụng kinh, nên nguyện chúng-sanh, thuận lời Phật dạy, tổng trì chẳng quên.
Nếu được thấy Phật, nên nguyện chúng-sanh, được vô-ngại-nhãn, thấy tất cả Phật.
Lúc ngắm kỹ Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều như Phổ-Hiền, xinh đẹp nghiêm tốt.
Lúc thấy tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tôn-trọng như tháp, thọ trời người cúng.
Cung kính xem tháp, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và người, cùng nhau chiêm
ngưỡng.
Ðảnh lễ tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trời người, chẳng thấy đảnh được.
Ði nhiễu tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tu hành không trái, thành nhứt-thiết-trí.
Nhiễu tháp ba vòng, nên nguyện chúng-sanh, siêng cầu phật-đạo, lòng không biếng trễ.
Khen công-đức Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều đủ công-đức, ca-ngợi vô-tận.
Khen tướng-hảo Phật, nên nguyện chúng-sanh, thành tựu phật-thân, chứng pháp
vô-tướng.
Nếu lúc rửa chân, nên nguyện chúng-sanh, đủ sức thần-túc, chỗ đi vô-ngại.
Ngủ nghỉ phải thời, nên nguyện chúng-sanh, thân được an-ổn, lòng không động loạn.
Ngủ vừa tỉnh-giấc, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trí-giác, ngó khắp mười phương.
Phật-tử ! Nếu chư Bồ-Tát dụng tâm như vậy thời được tất cả công-đức thắng-diệu. Tất cả thế-gian : chư thiên, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn, càn-thát-bà, a-tu-la v.v... nhẫn đến tất cả Thanh-Văn, Duyên-Giác không thể làm lay động được.
***************************************************************************
Phẩm Hiền Thủ
Thứ mười hai
Hán Dịch:Đại-Sư Thật-Xoa-Nan-Đà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-Tát nói hạnh thanh-tịnh không trược loạn đại công-đức rồi, vì muốn hiển-thị công-đức của bồ-đề tâm, nên nói kệ hỏi Hiền-Thủ Bồ-Tát :
Nay tôi đã vì chư Bồ-Tát
Nói hạnh thanh-tịnh Phật đã tu
Ngài cũng nên ở trong hội này
Diễn đạt tu hành công-đức lớn.
Lúc đó Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ đáp :
Lành thay xin ngài lóng nghe đây
Những công-đức đó chẳng lường được
Nay tôi tùy sức, nói ít phần
Như một giọt nước trong biển lớn.
Nếu có Bồ-Tát sơ phát tâm
Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ-đề
Công-đức của kia không ngằn mé
Không thể cân lường, chẳng gì sánh.
Huống là vô-lượng vô-biên kiếp
Tu đủ địa, độ, các công-đức
Mười phương tất cả chư Như-Lai
Đều cùng ngợi khen chẳng hết được.
Vô-biên công-đức lớn như vậy
Nay tôi trong đây nói ít phần
Ví như chân chim vạch không gian
Và như hạt bụi trên đại địa.
Bồ-Tát phát tâm cầu bồ-đề
Chẳng phải không nhơn, không có duyên
Với Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin
Do đây mà sanh tâm rộng lớn.
Chẳng cầu ngũ dục và ngôi vua
Chẳng mong giàu, vui, danh tiếng lớn
Chỉ vì dứt hẳn khổ chúng-sanh
Lợi ích thế-gian mà phát ý.
Thường muốn lợi lạc các chúng-sanh
Trang-nghiêm cõi nước, cúng-dường Phật
Thọ trì chánh-pháp, tu trí-huệ
Vì chứng bồ-đề mà phát tâm.
Thâm tâm, tin, hiểu thường thanh-tịnh
Cung kính, tôn trọng tất cả Phật
Nơi Pháp và Tăng cũng như vậy
Chí-thành cúng-dường mà phát tâm.
Thâm tín nơi Phật và phật-pháp
Cũng tin phật-tử đạo tu hành
Và tin vô-thượng đại bồ-đề
Do đây Bồ-Tát phát tâm nguyện.
Tin là đạo nguồn, mẹ công-đức
Nuôi lớn tất cả những pháp lành
Dứt trừ lưới nghi, khỏi vòng ái
Khai thị niết-bàn, đạo vô-thượng.
Tin không nhơ bợn, lòng thanh-tịnh
Là cội cung kính, trừ kiêu mạn
Cũng là pháp-tạng đệ-nhứt-tài
Là tay thanh-tịnh thọ thiện hạnh.
Tin hay ban cho, không bỏn-sẻn
Tin hay hoan-hỉ vào phật-pháp
Tin hay thêm lớn trí, công-đức
Tin quyết-định được bực Như-Lai.
Tin khiến lục-căn sạch, sáng, lẹ
Tin sức kiên-cố không bị hư
Tin hay dứt hẳn cội phiền-não
Tin hay chuyển hướng Phật công-đức.
Tin nơi cảnh-giới không chấp trước
Xa lìa các nạn, được vô-nạn
Tin hay vượt khỏi các đường ma
Thị-hiện đạo giải-thoát vô-thượng.
Tin là giống công-đức không hư
Tin hay sanh trưởng cây bồ-đề
Tin hay thêm lớn trí tối-thắng
Tin hay thị-hiện tất cả Phật.
Cứ theo công-hạnh nói thứ đệ
Tin là hơn hết, rất khó được
Ví như trong tất cả thế-gian
Mà có như ý diệu-bửu-châu.
Nếu thường tin thờ nơi chư Phật
Thời hay trì giới và tu-học;
Nếu thường trì-giới và tu học
Thời hay đầy đủ các công-đức.
Giới hay khai phát gốc bồ-đề
Học là siêng tu bực công-đức,
Nơi giới và học thường thuận làm
Thời được chư Phật luôn khen ngợi.
Nếu thường tin phụng nơi chư Phật
Thời hay trần-thiết cúng-dường lớn
Nếu hay trần-thiết cúng-dường lớn
Người này tin Phật bất-tư-nghì.
Nếu thường tin phụng nơi tôn-pháp
Thời nghe phật-pháp không nhàm đủ
Nếu nghe phật-pháp không nhàm đủ
Người này tin pháp bất-tư-nghì.
Nếu thường tin phụng thanh-tịnh tăng
Thời được tín tâm bất-thối-chuyển
Nếu được tín-tâm bất-thối-chuyển
Người này tín-lực không dao-động.
Nếu được tín-lực không dao-động
Thời được lục-căn sạch sáng-lẹ
Nếu được lục-căn sạch sáng-lẹ
Thời hay xa lìa ác-tri-thức.
Nếu hay xa lìa ác-tri-thức
Thời được gần gũi thiện-tri-thức
Nếu được gần gũi thiện-tri-thức
Thời hay tu tập quảng-đại-thiện.
Nếu hay tu tập quảng-đại-thiện
Người này được thành nhơn-lực lớn
Nếu người được thành nhơn-lực lớn
Thời được thù-thắng quyết-định giải.
Nếu được thù-thắng quyết-định giải
Thời được chư Phật thường hộ-niệm
Nếu được chư Phật thường hộ-niệm
Thời hay phát khởi bồ-đề-tâm
Nếu hay phát khởi bồ-đề-tâm
Thời hay siêng tu Phật công-đức
Nếu hay siêng tu Phật công-đức
Thời được sanh vào nhà của Phật.
Nếu được sanh ở nhà chư Phật
Thời khéo tu-hành phương-tiện lớn
Nếu khéo tu-hành phương-tiện lớn
Thời tâm tin ưa được thanh-tịnh.
Nếu được tâm tin ưa thanh-tịnh
Thời được tâm tăng-thượng tối-thắng
Nếu được tâm tăng-thượng tối-thắng
Thời thường tu tập ba-la-mật
Nếu thường tu tập ba-la-mật
Thời được trọn đủ pháp đại-thừa
Nếu được trọn đủ pháp đại-thừa
Thời hay đúng pháp cúng-dường Phật.
Nếu hay đúng pháp cúng-dường Phật
Thời được tâm niệm Phật bất-động
Nếu được tâm niệm Phật bất-động
Thời thường thấy được vô-lượng Phật.
Nếu thường thấy được vô-lượng Phật
Thời thấy Như-Lai thể thường-trụ
Nếu thấy Như-Lai thể thường-trụ
Thời biết được pháp trọn bất-diệt.
Nếu biết được pháp trọn bất-diệt
Thời được biện-tài vô-chướng-ngại
Nếu được biện-tài vô-chướng-ngại
Thời hay khai diễn vô-biên pháp.
Nếu hay khai diễn vô-biên pháp
Thời hay từ-mẫn độ chúng-sanh
Nếu hay từ-mẫn độ chúng-sanh
Thời được tâm đại-bi kiên-cố.
Nếu được tâm đại-bi kiên-cố
Thời hay mến ưa pháp thâm-diệu
Nếu hay mến ưa pháp thâm-diệu
Thời hay xa lìa lỗi hữu-vi.
Nếu hay xa lìa lỗi hữu-vi
Thời lìa kiêu-mạn và phóng-dật
Nếu lìa kiêu-mạn và phóng-dật
Thời hay kiêm-lợi tất cả chúng.
Nếu hay kiêm-lợi tất cả chúng
Thời ở sanh-tử không mỏi nhàm
Nếu ở sanh-tử không mỏi nhàm
Thời được dũng kiện không ai hơn.
Nếu được dũng kiện không ai hơn
Thời hay phát khởi đại thần-thông
Nếu hay phát khởi đại thần-thông
Thởi biết hạnh tất cả chúng-sanh.
Nếu biết hạnh tất cả chúng-sanh
Thời hay thành-tựu các quần-sanh
Nếu hay thành-tựu các quần-sanh
Thời được trí khéo nhiếp chúng-sanh.
Nếu được trí khéo nhiếp chúng-sanh
Thời hay thành tựu pháp tứ-nhiếp
Nếu hay thành tựu pháp tứ-nhiếp
Thời cho chúng-sanh lợi vô-hạn
Nếu cho chúng-sanh lợi vô-hạn
Thời đủ phương-tiện trí tối-thắng
Nếu đủ phương-tiện trí tối-thắng
Thời trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng.
Nếu trụ đạo dũng-mãnh vô-thượng
Thời hay xô dẹp những ma-lực
Nếu hay xô dẹp những ma-lực
Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma.
Nếu hay vượt khỏi cảnh tứ-ma
Thời được đến nơi bực bất-thối
Nếu được đến nơi bực bất-thối
Thời được pháp-nhẫn vô-sanh lớn.
Nếu được pháp-nhẫn vô-sanh lớn
Thời được chư Phật thọ-ký cho
Nếu được chư Phật thọ-ký cho
Thời tất cả Phật hiện ra trước.
Nếu được chư Phật hiện ra trước
Thời rõ mật-dụng thần-thông lớn
Nếu rõ mật-dụng thần-thông lớn
Thời được chư Phật thường nhớ tưởng.
Nếu được chư Phật thường nhớ tưởng
Thời dùng Phật-đức tự trang-nghiêm
Nếu dùng Phật-đức tự trang-nghiêm
Thời được thân đoan-nghiêm diệu-phước.
Nếu được thân đoan-nghiêm diệu-phước
Thời thân chói sáng dường núi vàng
Nếu thân chói sáng dường núi vàng
Thời đủ ba mươi hai tướng hảo.
Nếu đủ ba mươi hai tướng hảo
Tám mươi tùy hảo đồng nghiêm-sức
Nếu đủ tùy hảo đồng nghiêm-sức
Thời thân sáng chói vô-hạn-lượng.
Nếu thân sáng chói vô-hạn-lượng
Thời được quang-minh bất-tư-nghị
Nếu được quang-minh bất-tư-nghị
Quang-minh này hiện những liên-hoa.
Những quang-minh từ liên-hoa hiện
Có vô-lượng Phật ngự trên liên-hoa
Thị-hiện mười phương đều khắp cả
Đều hay điều-phục các chúng-sanh.
Nếu hay điều-phục các chúng-sanh
Thời hiện vô-lượng thần-thông-lực.
Nếu hiện vô-lượng thần-thông-lực
Thời trụ bất-tư-nghị cõi nước,
Thời diễn thuyết bất-tư-nghị pháp
Khiến bất-tư-nghị chúng hoan-hỉ.
Thời dùng sức trí-huệ, biện-tài
Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa.
Nếu dùng sức trí-huệ, biện tài
Tùy tâm chúng-sanh mà giáo-hóa
Thời dùng trí-huệ làm tiên-đạo
Thân, ngữ, ý, thường không lầm lỗi.
Nếu dùng trí-huệ làm tiên đạo
Thân ngữ ý thường không lầm lỗi
Thời nguyện-lực tất được tự-tại
Tùy theo các loài mà hiện thân.
Nếu nguyện-lực ấy được tự-tại
Tùy theo các loài mà hiện thân
Thời lúc tùy chúng, mà thuyết-pháp
Ấm-thinh tùy loại, khó nghĩ bàn
Thời với tâm tất cả chúng-sanh
Một niệm biết cả không thừa sót.
Nếu với tâm tất cả chúng-sanh
Một niệm biết cả không thừa sót.
Thời biết phiền-não không từ đâu
Trọn không còn chìm trong sanh-tử.
Nếu biết phiền-não không từ đâu
Trọn không còn chìm trong sanh-tử
Thời được thân công-đức pháp-tánh
Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian.
Nếu được thân pháp-tánh công-đức
Dùng pháp oai-lực hiện thế-gian
Thời được thập-địa, mười tự-tại
Tu-hành các độ, thắng giải-thoát
Thời được quán-đảnh đại thần-thông
Trụ nơi tối-thắng các tam-muội.
Nếu được quán-đảnh đại-thần-thông
Trụ nơi tối thắng các tam-muộI
Thời khắp mười-phương chỗ chư Phật
Đáng thọ quán-đảnh được thắng-vị
Thời được tất cả Phật mười phương
Tay lấy cam-lộ rưới trên đảnh
Thời thân đầy khắp như hư-không
An-trụ bất-động khắp mười-phương.
Nếu thân đầy khắp như hư-không
An-trụ bất-động khắp mười-phương
Thời chỗ sở-hành không ai bằng
Chư thiên, người đời chẳng biết được.
Bồ-Tát siêng tự-tại hạnh đại-bi
Nguyện độ tất cả đều trọn vẹn
Nếu ai nghe thấy mà cúng-dường
Đều làm cho họ được an-lạc.
Thần-lực của chư Bồ-Tát kia
Pháp-nhãn toàn vẹn không thuyết giảm
Những đạo diệu-hạnh thập thiện thảy
Thắng bửu vô-lượng đều khiến hiện.
Như báu kim-cang trong đại-hải
Do oai-lực này sanh các báu;
Không tăng, không giảm, cũng vô-tận
Công-đức của Bồ-Tát cũng vậy.
Hoặc có quốc-độ không có Phật
Bồ-Tát nơi đó hiện thành Phật,
Nếu có quốc-độ chẳng biết Pháp
Nơi đó Bồ-Tát thuyết diệu-pháp.
Không có phân-biệt, không công-dụng
Trong khoảng một niệm khắp mười-phương
Như mặt nguyệt sáng chiếu khắp nơi
Vô-lượng phương-tiện độ quần-sanh.
Ở trong mười-phương các thế-giới
Niệm niệm thị-hiện thành phật-đạo
Chuyển chánh pháp-luân vào tịch-diệt
Nhẫn đến xá-lợi phân bố rộng.
Hoặc hiện Thanh-Văn cùng Độc-Giác
Hoặc hiện thành Phật khắp trang-nghiêm
Như vậy khai-diễn pháp ba thừa
Rộng độ chúng-sanh vô-lượng kiếp.
Hoặc hiện thân đồng-nam đồng-nữ
Trời rồng nhẫn đến a-tu-la,
Cùng với ma-hầu-la-già thảy
Tùy chúng sở-thích đều khiến thấy.
Chúng-sanh hình tướng đều chẳng đồng
Hành-nghiệp, âm-thinh cũng vô-lượng
Tất cả như vậy đều hiện được
Hải-ấn tam-muội oai-thần lực.
Nghiêm-tịnh bất-tư-nghị quốc-độ
Cúng-dường tất cả chư Như-Lai
Phóng-đại quang-minh vô-lượng-biên
Độ thoát chúng-sanh cũng vô-hạn.
Trí-huệ tự-tại, bất-tư-nghị
Ngôn-từ thuyết-pháp không chướng ngại
Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền-định
Trí-huệ, phương-tiện, thần-thông thảy.
Tất cả như vậy đều tự-tại
Do Phật hoa-nghiêm tam-muội lực.
Trong một vi-trần nhập tam-muộI
Thành-tựu vi-trần tất cả định,
Mà vi-trần kia cũng không thêm
Nơi một hiện khắp vô-biên cõi.
Trong một trần kia, nhiều quốc-độ
Hoặc là có Phật, hoặc không Phật,
Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh-tịnh
Hoặc cõi rộng lớn, hoặc hẹp nhỏ
Hoặc có cõi thành, hoặc là hoại
Hoặc cõi chánh-trụ, hoặc bàng-trụ,
Hoặc như ánh-nắng giữa đồng-trống
Hoặc như lưới Thiên-Đế trên trời.
Như chỗ thị-hiện trong một trần
Tất cả vi-trần đều như vậy,
Đây là những thánh-nhơn cao cả
Tam-muội, giải-thoát thần-thông-lực.
Nếu muốn cúng-dường tất cả Phật
Nhập nơi tam-muội khởi thần-thông
Hay dùng một tay khắp đại-thiên
Cúng khắp tất cả vô-số Phật.
Bao nhiêu hoa đẹp ở mười-phương
Hương thoa, hương bột, báu vô-giá
Đều từ trong tay xuất hiện ra
Cúng-dường chư Phật ngự đạo-thọ.
Bửu-y vô-giá, xen hương-diệu
Bửu tràng-phan, lọng đều xinh đẹp
Vàng rồng làm hoa, ngọc làm màn
Tất cả đều từ trong tay hiện.
Bao nhiêu vật tốt ở mười-phương
Đáng đem phụng-hiến đấng vô-thượng
Trong tay tất cả đều hiện đủ
Trước cây bồ-đề cúng chư Phật.
Tất cả kỹ-nhạc ở mười-phương
Chung, cổ, cầm, sắc đủ các loại
Đồng tấu hòa nhã âm-thinh diệu
Đều từ bàn tay xuất hiện ra.
Bao nhiêu tán tụng ở mười-phương
Ca ngợi thiệt-đức của chư Phật
Như vậy các thứ diệu ngôn-từ
Đều từ bàn tay mà khai-diễn.
Bồ-Tát tay mặt phóng tịnh-quang
Trong quang rưới ra nước thơm sạch
Rưới khắp mười-phương các quốc-độ
Cúng dường tất cả Chiếu-Thế-Đăng.
Lại phóng quang-minh diệu trang-nghiêm
Xuất-sanh vô-lượng hoa-sen báu
Hoa này hình sắc đều rất đẹp
Dùng đây cúng-dường lên chư Phật.
Lại phóng quang-minh hoa trang-nghiêm
Các thứ diệu-hoa họp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang-minh hương trang-nghiêm
Các thứ diệu-hương họp làm trướng,
Rải khắp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang-minh mạt-hương tốt
Các thứ mạt-hương họp làm trướng
Rải khăp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang-minh y trang-nghiêm
Các thứ y phục họp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang-minh bửu trang-nghiêm
Các thứ diệu-bửu họp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang liên-hoa trang-nghiêm
Các thứ liên-hoa họp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang anh-lạc trang-nghiêm
Các thứ chuỗi-ngọc họp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười-phương
Cúng-dường tất cả đấng Đại-Đức.
Lại phóng quang-minh tràng trang-nghiêm
Bửu-tràng rực-rỡ đủ màu đẹp
Các loại vô-lượng đều rất tốt
Dùng dây trang-nghiêm các phật-độ.
Các thứ báu đẹp lọng trang-nghiêm
Những phan lụa đẹp treo rủ xuống
Lạc báu ma-ni, diễn phật-âm
Đem đến kính-dâng cúng chư Phật.
Tay hiện đồ cúng bất-tư-nghị
Như vậy cúng-dường một Đạo-Sư
Nơi tất cả Phật đều như vậy
Đây là thần-lực của Đại-Sĩ.
Bồ-Tát trụ trong môn tam-muội
Các thứ tự-tại nhiếp chúng-sanh
Đều đem pháp công-đức đã làm
Vô-lượng phương-tiện để chỉ dạy.
Hoặc dùng môn cúng-dường Như-Lai
Hoặc dùng môn nhẫn-nhục bất-động
Hoặc dùng môn khổ-hạnh tinh-tấn
Hoặc dùng môn thiền-định tịch-tịnh,
Hoặc dùng môn trí-huệ quyết rõ
Hoặc dùng môn phương-tiện tu-hành
Hoặc dùng môn phạm-trụ, thần-thông
Hoặc dùng môn tứ-nhiếp lợi-ích,
Hoặc dùng môn phước-trí trang-nghiêm
Hoặc dùng môn nhơn-duyên, giải-thoát
Hoặc dùng môn căn, lực, chánh-đạo
Hoặc dùng môn Thinh-Văn giải-thoát,
Hoặc dùng môn Độc-Giác Thanh-tịnh
Hoặc dùng môn Đại-Thừa tự-tại
Hoặc dùng môn Vô-Thường những khổ
Hoặc dùng môn vô-ngã vô-thọ,
Hoặc dùng môn bất-tịnh, ly-dục
Hoặc dùng môn diệt-tận tam-muội.
Tùy theo chúng-sanh bịnh chẳng đồng
Đều dùng pháp-dược để đối-trị.
Tùy theo chúng-sanh tâm sở-thích
Đều dùng phương-tiện khiến đầy đủ.
Tùy theo chúng-sanh hạnh sai-biệt
Đều dùng chước khéo khiến thành tựu.
những tướng tam-muội thần-thông ấy
Tất cả trời người chẳng lường được.
Có diệu tam-muội tên tùy-lạc
Bồ-Tát trụ đây, khắp quan-sát
Tùy nghi thị-hiện độ chúng-sanh
Đều khiến vui lòng theo chánh-pháp.
Trong thời-gian, nạn cơ-cẩn, tai
Ban cho thế-gian đồ cần thiết
Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ
Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích :
Hoặc cho những vật uống, ăn ngon
Y-phục, tư-trang, những vật tốt
Cả đến ngôi vua, đều xả được
Khiến kẻ ưa thí theo chánh-pháp.
Hoặc dùng tướng-hảo trang-nghiêm thân
Y-phục thượng-diệu, chuỗi ngọc báu
Tràng hoa nghiêm-sức, hương thoa thân
Oai-nghi đầy đủ, độ hàm thức.
Tất cả thế-gian chỗ ưa chuộng
Sắc tướng, dung-nhan, và y-phục
Tùy nghi hiện đủ, vui lòng họ
Khiến kẻ ưa sắc theo chánh-pháp.
Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu
Ấm-thinh diệu Câu-chỉ-la thảy
Những thứ phạm-âm đều đầy đủ
Tùy lòng họ thích vì thuyết-pháp.
Tám vạn bốn ngàn các pháp-môn
Chư Phật dùng đây độ chúng-sanh
Bồ-Tát cũng theo pháp sai-biệt
Tùy nghi theo đời mà hóa độ.
Chúng-sanh khổ, lạc, lợi, suy thảy
Những việc thật hành của thế-gian
Đều hay ứng hiện đồng với họ
Dùng đây phổ-độ các chúng-sanh.
Tất cả thế-gian những khổ hoạn
Sâu rộng không bờ như đại-hải
Đồng sự với họ đều chịu được
Khiến họ lợi ích được an vui.
Có người chẳng biết pháp xuất ly
Chẳng cầu giải-thoát lìa ồn náo
Vì họ Bồ-Tát hiện thí xả
Thường ưa xuất-gia tâm tịch-tịnh.
Nhà là chốn tham ái, ràng buộc
Muốn khiến chúng-sanh, đều khỏi lìa
Nên hiện xuất-gia được giải-thoát
Với các dục lạc không ưa thích.
Bồ-Tát hiện làm mười công-hạnh
Cũng làm tất cả pháp đại-nhơn
Làm hạnh chư Tiên đều không sót
Vì muốn chúng-sanh được lợi ích.
Nếu có chúng-sanh thọ vô-lượng
Phiền-não vi-tế thích đầy đủ
Trong đó Bồ-Tát được tự-tại
Hiện thọ các khổ : già, bịnh, chết.
Hoặc kẻ tham-dục, sân, ngu-si
Lửa mạnh phiền-não luôn hừng cháy
Bồ-Tát thị-hiện già, bịnh, chết
Khiến chúng-sanh đó đều điều-phục.
Như-Lai thập-lực, vô-sở-úy
Cùng với mười tám pháp bất-cộng
Tất cả vô-lượng các công-đức
Đều đem thị-hiện độ chúng-sanh.
Thọ-ký, giáo-hóa và thần-túc
Đều là sức tự-tại của Phật
Chư Đại-Sĩ kia đều thị-hiện
Hay khiến chúng-sanh đều điều-phục.
Bồ-Tát đem các môn phương-tiện
Tùy thuận thế-pháp độ chúng-sanh
Ví như liên-hoa chẳng dính nước
Tại thế như vậy, khiến người tin.
Là vua văn tài, học uyên-bác
Ca vũ, luận bàn, người đều thích
Tất cả kỹ-thuật trong thế-gian
Như nhà ảo-thuật đều hiện đủ.
Hoặc làm trưởng-giả, chủ trong ấp
Hoặc làm thương mãi, người buôn bán
Hoặc làm quốc-vương cùng quan lớn
Hoặc làm lương-y, nhà hùng-biện.
Hoặc làm cây to giữa cánh đồng
Hoặc làm thuốc hay, những kho báu
Hoặc làm bửu-châu như-ý-vương
Hoặc đem chánh-đạo dạy chúng-sanh.
Nếu thấy thế-giới mới thành lập
Chúng-sanh chưa có vật cần dùng
Bấy giờ Bồ-Tát làm công-thợ
Vì họ bầy ra các nghề nghiệp.
Chẳng làm vật bức-não chúng-sanh
Chỉ nói chuyện thế-gian lợi-ích
Các luận : chú-thuật, dược-thảo thảy
Tất cả như vậy đều nói rành.
Thắng-hạnh của tất cả tiên-nhơn
Trời người, mọi loài đều tín-ngưỡng
Những pháp khổ-hạnh khó làm đó
Bồ-Tát tùy-nghi đều làm được.
Hoặc làm ngoại-đạo người xuất-gia
Hoặc ở núi rừng tự cần khổ
Hoặc để mình trần, không y-phục
Mà làm sư-trưởng của chúng kia.
Hoặc hiện những hạnh tà-mạng thảy
Tập làm phi-pháp cho là thắng
Hoặc hiện oai-nghi, làm phạm-chí
Ở trong chúng kia làm thượng-thủ.
Hoặc chịu ngũ-nhiệt, phơi dưới nắng
Hoặc giữ giới bò, chó và nai
Hoặc mặc áo rách, phụng-thờ lửa
Vì độ chúng kia, làm sư-trưởng.
Hoặc hiện yết-kiến các thiên-miếu
Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng
Ắn củ, trái thảy, đều hiện làm
Nơi đó thường suy pháp tối-thắng.
Hoặc hiện ngồi xổm, hoặc co chơn
Hoặc nằm cỏ gai, hoặc trên tro
Hoặc nằm trên chày, cầu xuất-ly
Mà ở chúng kia làm sư-thủ.
Như vậy các phái, các ngoại đạo
Quan-sát ý-giải cùng đồng-sự
Hiện làm : khổ-hạnh đời chẳng kham
Khiến họ xem thấy đều điều-phục.
Chúng-sanh mê-lầm bẩm tà-giáo
Trụ nơi ác-kiến, thọ những khổ
Vì họ, phương-tiện, nói diệu-pháp
Đều khiến được hiểu lý chơn-thật.
Hoặc theo chú-ngữ nói tứ-đế
Hoặc giỏi mật-ngữ nói tứ-đế
Hoặc dùng tiếng người nói tứ-đế
Hoặc Trời mật-ngữ nói tứ-đế.
Phân-biệt văn-tự, nói tứ-đế
Quyết-định nghĩa-lý, nói tứ-đế
Khéo phá nơi người, nói tứ-đế
Chẳng bị dao-động, nói tứ-đế,
Hoặc tiếng bát-bộ, nói tứ-đế
Hoặc tất cả lời, nói tứ-đế
Tùy ngôn-âm thế-gian hiểu được
Diễn thuyết tứ-đế, khiến giải-thoát.
Tất cả bao nhiêu các phật-tử
Đều nói như vậy đủ tất cả
Biết cảnh-giới lời bất-tư-nghị
Đây là thuyết-pháp tam-muội-lực.
Có thắng tam-muội tên an-lạc
Hay khắp cứu độ các quần sanh
Phóng đại quang-minh bất-tư-nghị
Khiến ai được thấy đều điều phục.
Quang-minh đã phóng tên thiện-hiện
Nếu có ai gặp quang-minh này
Tất được lợi-ích chẳng luống uổng
Nhơn đây được thành trí vô-thượng,
Bồ-Tát trước hiện nơi chư Phật
Hiện Pháp, hiện Tăng, hiện chánh-đạo
Cũng hiện tháp Phật và hình tượng
Vì thế nên thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên chiếu-diệu
Chói lấn tất cả sáng chư Thiên
Bao nhiêu ám-chướng đều tiêu-trừ
Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích.
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến cầm đèn sáng cúng-dường Phật
Do dùng đèn sáng cúng-dường Phật
Được thành thế-gian Vô-Thượng-Đăng.
Thắp những đèn dầu và đèn tô
Cũng thắp các thứ đuốc sáng tỏ
Những ngọn nến báu thơm đẹp nhất
Dùng đây cúng Phật được quang này.
Lại phóng quang-minh tên tế-độ
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ phát tâm đại thệ-nguyện
Độ thoát quần-sanh trong dục-hải
Thời hay vượt qua bốn dòng nước
Bước đến thành vô-ưu giải-thoát.
Nơi những đường đi ngang sông lớn
Xây cất cầu đò và thuyền bè
Quở rầy hữu-vi khen tịch-tịnh
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên diệt-ái
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến họ xa lìa cảnh ngũ-dục
Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát.
Nếu hay bỏ lìa cảnh ngũ-dục
Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát
Thời hay dùng Phật pháp cam-lồ
Rưới tắt thế-gian những khát-ái.
Bố-thí ao, giếng, và khe suối
Chuyên cầu bồ-đề đạo vô-thượng
Quở trách ngũ-dục, khen thiền-định
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên hoan-hỷ
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến họ ái-mộ Phật bồ-đề
Phát tâm nguyện chứng vô-sư-đạo.
Tạo lập Như-Lai tượng đại-bi
Tướng hảo trang-nghiêm, ngự liên-tòa
Luôn khen những công-đức tối-thắng
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên ái-nhạo
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến lòng họ mến kính chư Phật
Mến kính tôn-pháp mến kính tăng;
Nếu tâm thường kính mến chư Phật
Kính mến Pháp và kính mến Tăng
Thời ở trong chúng-hội Như-Lai
Thành được pháp-nhẫn sâu vô-thượng.
Khai-ngộ chúng-sanh số vô-lượng
Khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng-Bửu
Và dạy phát tâm tự-tại công-đức
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên phước-tụ
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến họ thật hành nhiều bố-thí
Dùng đây nguyện cầu đạo vô-thượng.
Lập hội đại bố-thí vô-hạn
Ai đến cầu xin đều thỏa mãn
Chẳng để lòng họ còn thấy thiếu
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên cụ-trí
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến nơi một pháp, trong một niệm
Đều hiểu vô-lượng các pháp-môn.
Ví các chúng-sanh phân-biệt pháp
Nhẫn đến quyết-liễu nghĩa chơn-thật
Khéo nói pháp nghĩa không thiếu bớt
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên huệ-đăng
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến biết chúng-sanh tánh không-tịch
Tất cả các pháp vô-sử-hữu.
Diễn-thuyết các pháp không, vô-chủ
Như huyễn, như diệm, trăng dưới nước
Cũng như giấc mơ, cùng bóng tượng
Do đây được thành quang-minh này.
Phóng quang-minh tên pháp-tự-tại
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến được vô-tận đà-la-ni
Tổng-trì tất cả các phật-pháp,
Cung-kính cúng-dường người trì-pháp
Cung-cấp hầu-hạ chư thánh-hiền
Đem chánh-pháp thí cho chúng-sanh
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên năng-xả
Quang này giác-ngộ kẻ xan-tham
Khiến biết tài vật là vô-thường
Thường thích bố-thí lòng không nhiễm.
Lòng keo-kiết khó điều, được điều
Biết của như mộng, như mây nổI
Thêm lớn tâm bố-thí thanh-tịnh
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên trừ-nhiệt
Quang này giác-ngộ kẻ phạm giới
Khiến họ thọ-trì giới thanh-tịnh
Phát tâm nguyện chứng đạo vô-sư.
Khuyên đắc chúng-sanh thọ-trì giới
Mười nghiệp đạo lành đều thanh-tịnh
Lại khiến phát hướng bồ-đề tâm
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên nhẫn-nghiêm
Quang này giác-ngộ kẻ sân hận
Khiến họ lìa sân, trừ ngã-mạn
Thường thích pháp nhu-hòa nhẫn-nhục.
Chúng-sanh bạo ác khó nhẫn được
Vì bồ-đề nên tâm chẳng động
Thường thích chánh-pháp-ngợi đức nhẫn-nhục
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên dũng-mãnh
Quang này giác-ngộ kẻ giải-đãi
Khiến họ thường đối với Tam-Bảo
Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi.
Nếu họ thường đối với Tam-Bảo
Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi
Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma
Mau thành bực bồ-đề vô-thượng.
Khuyến hóa chúng-sanh khiến tinh-tấn
Thường siêng cúng-dường ngôi Tam-Bảo
Lúc pháp sắp diệt chuyên ủng-hộ
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên tịch-tịnh
Quang này giác-ngộ kẻ loạn tâm
Khiến họ xa lìa tham, sân, si
Tâm chẳng dao động được chánh-định,
Xa lìa tất cả ác-trí-thức
Luận đàm vô-nghĩa, hạnh tạp nhiễm
Khen ngợi thiền-định, hạnh tịch-tịnh
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên huệ-nghiêm
Quang này giác-ngộ kẻ ngu mê
Khiến họ chứng lý, hiểu duyên khởi
Lục căn, trí-huệ đều thông đạt,
Nếu hay chứng lý, hiểu duyên-khởi
Lục-căn, trí-huệ đều thông đạt
Thời được pháp tam-muội nhựt-đăng
Trí-huệ sáng tỏ thành phật-quả,
Của ngoài, trong thân đều hay xả
Vì đạo bồ-đề cầu chánh-pháp
Nghe xong, chuyên cần vì chúng nói
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên phật-huệ
Quang này giác-ngộ các hàm-thức
Khiến thấy vô-lượng vô-biên Phật
Đều ngự trên bửu-tọa liên-hoa.
Khen Phật oai-đức và giải-thoát
Ngợi Phật tự-tại vô-hạn-lượng
Hiển thị phật-lực và thần-thông
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên vô-úy
Quang này chiếu đến kẻ sợ hãi
Quỷ-mị bắt giữ, những độc hại
Tất cả đều khiến mau trừ diệt,
Hay ban vô-úy cho chúng-sanh
Gặp kẻ não-hại đều khuyên ngăn
Chẩn-tế kẻ cô cùng ách-nạn
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên an-ổn
Quang này chiếu đến người tật bịnh
Khiến trừ tất cả sự khổ đau
Đều được sự vui trong chánh-định,
Ban cho thuốc hay cứu các bịnh
Diệu-bửu sống lâu, hương thoa thân
Tô, dầu, sữa, mật làm thức ăn
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên kiến-Phật
Quang này giác-ngộ người sắp chết
Khiến, tùy nhớ tưởng, thấy Như-Lai
Mạng chung được sanh cõi nước Phật,
Thấy kẻ lâm-chung khuyên niệm Phật
Lại chỉ tượng Phật bảo nhìn ngắm
Khiến đối với Phật rất kính ngưỡng
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên lạc-pháp
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến nơi chánh-pháp luôn mến thích
Lóng nghe, diễn thuyết và biên chép,
Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết
Khiến người cầu pháp ý thỏa-mãn
Mến thích chánh-pháp siêng tu tập
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên diệu-âm
Quang này khai-ngộ chư Bồ-Tát
Hay khiến các tiếng trong ba cõi
Người đều nghe là tiếng của Phật,
Dùng âm-thinh lớn ca ngợi Phật
Bố-thí lạc, linh các âm nhạc
Khiến kháp thế-gian nghe tiếng Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Phóng quang-minh tên thí cam-lộ
Quang này khai-ngộ tất cả chúng
Khiến bỏ tất cả hạnh phóng-dật
Tu hành đầy đủ các công-đức,
Nói pháp hữu-vi chẳng an-ổn
Vô-lượng khổ-não đều đầy khắp
Hằng thích ca ngợi vui tịch-diệt
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên tối-thắng
Quang này khai-ngộ tất cả chúng
Khiến ở chỗ Phật khắp lóng nghe
Giới, định, trí-huệ pháp tăng thượng,
Thường thích ca ngợi tất cả Phật
Thắng-giới, thắng-định, thắng trí-huệ
Đó là vì cầu đạo vô-thượng
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên Bửu-nghiêm
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến được bửu-tạng vô-cùng tận
Dùng đây cúng-dường chư Như-Lai,
Đem các loại bửu-châu thượng-diệu
Dâng lên chư Phật và tháp Phật
Cũng khiến ban cho kẻ nghèo thiếu
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên hương-nghiêm
Quang này giác-ngộ tất cả chúng
Khiến người nghe pháp lòng vui đẹp
Quyết-định sẽ thành công-đức Phật,
Hương tốt quý giá dùng thoa đất
Cúng-dường tất cả đấng Tói-Tôn
Cũng dùng xây tháp và tượng Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên tạp trang-nghiêm
Bửu-tràng, phan lọng số vô-lượng
Thắp hương, rải hoa, tấu âm-nhạc
Thành ấp trong ngoài đều khắp cả,
Đem những kỹ-nhạc vi-diệu ấy
Cùng những hương, hoa, phan, lọng đẹp
Các thứ trang-nghiêm cúng-dường Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên nghiêm-khiết
Khiến mặt đại-địa đều bằng phẳng
Trang-nghiêm tháp Phật và chỗ ấy
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên đại-vân
Hay khởi mây thơm hay nước thơm
Nước thơm rưới tháp và đình viện
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên nghiêm-cụ
Khiến người thiếu áo được thượng-phục
Vật tốt nghiêm thân đem bố-thí
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên thượng-vị
Hay khiến kẻ đói được mỹ-thực
Các thứ ăn ngon đem bố-thí
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên đại-tài
Khiến kẻ nghèo cùng được của báu
Đem vật vô-tận cúng Tam-Bảo
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên nhãn-thanh-tịnh
Hay khiến kẻ mù được ngó thấy
Đem đèn cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên nhĩ-thanh-tịnh
Hay khiến kẻ điếc được nghe rõ
Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên tỹ-thanh-tịnh
Xưa chưa nghe hương, đều được nghe
Đem hương cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên thiệt-thanh-tịnh
Hay dùng tiếng tốt ca ngợi Phật
Trừ hẳn lời nói thô và ác
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên thân-thanh-tịnh
Kể năm căn thiếu khiến hoàn cụ
Đem thân lễ Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên ý-thanh-tịnh
Khiến kẻ quên-lãng được chánh-niệm
Tu-hành tam-muội đều tự-tại
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên sắc-thanh-tịnh
Khiến thấy Phật-sắc bất-tư-nghị
Đem những diệu-sắc trang-nghiêm tháp
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên thinh-thanh-tịnh
Khiến biết thinh-tánh vốn không tịch
Quán thinh duyên-khởi, như tiếng vang
Do đây được thành quang-minh ấy.
Lại phóng quang-minh tên hương-thanh-tịnh
Khiến vật hôi nhơ đều thơm sạch
Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề
Do đây được thành quang-minh ấy.
Lại phóng quang-minh tên vị-thanh-tịnh
Hay trừ tất cả độc trong vị
Hằng cúng Phật, Tăng cùng cha mẹ
Do đây được thành quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên xúc-thanh-tịnh
Hay khiến thô-nhám đều dịu mềm
Đao, mâu, kiếm, kích trên rơi xuống
Đều khiến biến làm tràng hoa đẹp,
Bởi xưa từng ở giữa đường sá
Thoa hương, rải hoa, trải y-phục
Rước đưa chư Phật đi trên đó
Vì thế nay được quang-minh này.
Lại phóng quang-minh tên pháp-thanh-tịnh
Hay khiến tất cả những chưn lông
Đều diễn diệu-pháp bất-tư-nghị
Ai nghe pháp này đều vui hiểu,
Nhơn duyên sanh ra, vốn vô-sanh
Pháp-thân của Phật, chẳng phải thân
Pháp-tánh, thường-trụ như hư-không
Do thuyết nghĩa trên được quang ấy.
Những môn quang-minh như đã thuật
Hằng-hà sa-số vô-hạn-lượng
Đều từ chưn lông Đại-Tiên phóng
Mỗi quang công-dụng đều sai-biệt.
Như một chưn lông phóng quang-minh
Vô-lượng vô-số như hằng-sa
Tất cả chưn lông đều như vậy
Đây là Đại-Tiên tam-muội-lực.
Như bổn-hạnh xưa, được quang-minh
Tùy ai, túc duyên, đồng tu-hành
Nay phóng quang-minh nên như vậy
Đây là Đại-Tiên trí tự-tại.
Thuở xưa đồng tự-tại nơi phước-nghiệp
Và người mến thích hay tùy-hỉ
Thấy kia thật hành cũng vui theo
Nay nơi quang này đều được thấy.
Nếu ai tự tu các phước-nghiệp
Cúng-dường chư Phật vô-lượng-số
Nơi công-đức Phật thường nguyện cầu
Được quang-minh này làm giác-ngộ.
Như kẻ sanh-manh chẳng thấy trời
Chẳng phải mặt trời không mọc lên
Những người mắt tỏ đều thấy rõ
Riêng theo phận mình làm công việc,
Quang-minh Bồ-Tát cũng như vậy
Người có trí-huệ đều thấy cả
Phàm-phu tà-tín, kẻ mê-si
Nơi quang-minh này không thấy được.
Ma-ni cung-điện và xe kiệu
Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng
Người có phước-đức tự nhiên đủ
Ngườ không phước-đức chẳng ở được.
Bồ-Tát quang-minh cũng như vậy
Người có trí sâu đều chiếu đến
Tà-tín, hiểu-kém, kẻ phàm ngu
Chẳng thể thấy được quang-minh ấy.
Nếu ai nghe quang này sai biệt
Hay sanh lòng tin sâu, thanh-tịnh
Dứt hẳn tất cả các lưới nghi
Mau thành tràng công-đức vô-thượng.
Có thắng tam-muội hay xuất-hiện
Quyến-thuộc trang-nghiêm đều tự-tại
Tất cả mười-phương các quốc-độ
Phật-tử chúng-hội không sánh kịp.
Có diệu liên-hoa, quang trang-nghiêm
Lượng bằng tam-thiên đại-thiên giới
Thân ngài đoan-tọa khắp liên-hoa
Đây là tam-muội thần-thông-lực.
Lại có mười cõi vi-trần-số
Liên-hoa xinh đẹp bao vòng quanh
Chúng Phật-tử ngồi trên hoa đó
Trụ nơi tam-muội oai-thần-lực.
Đời trước thành-tựu nhơn-duyên lành
Tu-hành đầy đủ Phật công-đức
Những chúng-sanh này quanh Bồ-Tát
Cùng nhau chấp tay nhìn không chán.
Như mặt nguyệt giữa các tinh-tú
Bồ-Tát trong chúng cũng như thế
Công-hạnh Bồ-Tát pháp như vậy
Vào nơi tam-muội oai-thần-lực.
Như sự thị-hiện ở một phương
Các chúng phật-tử cùng vây quanh
Trong tất cả phương đều như vậy
Trụ nơi tam-muội oai-thần-lực.
Có thắng tam-muội tên phương-võng
Trụ đây Bồ-Tát rộng khai-thị
Trong tất cả phương khắp hiện thân
Hoặc hiện nhập-định hoặc xuất-định,
Hoặc ở phương Đông nhập chánh-định
Rồi ở phương Tây nhập chánh-định
Rồi ở phương Đông mà xuất-định,
Hoặc ở phương khác nhập chánh-định
Rồi ở phương khác mà xuất-định,
Nhập xuất như vậy khắp mười-phương
Đây gọi Bồ-Tát tam-muội-lực.
Cùng tận phương Đông các quốc-độ
Chư Phật Như-Lai vô-lượng-số
Đều hiện trước Phật thân-cận cả
Trụ nơi tam-muội tịch bất-động,
Nhưng nơi phương Tây các thế-giới
Chỗ của tất cả chư Phật ngự
Đều hiện từ nơi tam-muội xuất
Sắm sửa vô-lượng đồ cúng-dường.
Cùng tận phương Tây các quốc-độ
Chư Phật Như-Lai vô-lượng-số
Đều hiện trước Phật thân-cận cả
Trụ nơi tam-muội tịch bất-động,
Những nơi phương Đông các thế-giới
Chỗ của tất cả chư Phật ngự
Đều hiện từ nơi tam-muội xuất
Sắm sửa vô-lượng đồ cúng-dường.
Như vậy mười-phương các thế-giới
Bồ-Tát vào khắp không bỏ sót
Hoặc nhập tam-muội tịch bất-động
Hoặc hiện cung-kính cúng-dường Phật.
Ở trong nhãn-căn nhập chánh-định
Nơi trong sắc-trần từ định xuất,
Thị-hiện sắc-tánh bất-tư-nghị
Tất cả trời người chẳng biết được;
Ở trong sắc-trần nhập chánh-định
Nơi nhãn xuất-định, tâm chẳng loạn
Thuyết nhãn, vô-sanh và vô-khởi
Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.
Ở trong nhĩ-căn nhập chánh-định
Nơi trong thinh-trần từ định xuất
Phân biệt tất cả tiếng ngữ ngôn
Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.
Ở trong thinh-trần nhập chánh-định
Nơi nhĩ xuất định, tâm chẳng loạn
Thuyết nhĩ, vô-sanh và vô-khởi
Tánh không, tịch-diệt và vô-tác.
Ở trong tĩ-căn nhập chánh-định
Nơi trong hương-trần từ định xuất
Khắp được tất cả thượng-diệu hương
Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.
Ở trong hương-trầm nhập chánh-định
Nơi tỉ, vô-sanh và vô-khởi
Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.
Ở trong thiệt-căn nhập chánh-định
Nơi trong vị-trần từ định xuất
Khắp được tất cả những thượng-vị
Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.
Ở trong vị-trần nhập chánh-định
Trong thiệt xuất-định, tâm chẳng loạn
Nói thiệt, vô-sanh và vô-khởi
Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.
Ở trong thân-căn nhập chánh-định
Nơi trong xúc-trần từ định xuất
Khéo hay phân-biệt tất cả xúc
Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.
Ở trong xúc-trần nhập chánh-định
Trong thân xuất-định, tâm chẳng loạn
Thuyết thân, vô-sanh và vô-khởi
Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.
Ở trong ý-căn nhập chánh-định
Nơi trong pháp-trần từ định xuất
Phân biệt tất cả các pháp-tướng
Chư Thiên, thế-nhơn chẳng biết được.
Ở trong pháp-trần nhập chánh-định
Nơi ý xuất định, tâm chẳng loạn
Thuyết ý, vô-sanh và vô-khởi
Tánh : không, tịch-diệt và vô-tác.
Trong thân đồng-tử nhập chánh-định
Trong thân tráng-niên từ định xuất
Trong thân tráng-niên nhập chánh-định
Trong thân lão-niên từ định xuất,
Trong thân lão-niên nhập chánh-định
Trong thân thiện-nữ từ định xuất,
Trong thân thiện-nữ nhập chánh-định
Trong thân thiện-nam từ định xuất,
Trong thân thiện-nam nhập chánh-định
Thân tỳ-kheo-ni từ định xuất
Thân tỳ-kheo-ni nhập chánh-định
Trong thân tỳ-kheo từ định xuất,
Trong thân tỳ-kheo nhập chánh-định
Thân học vô-học từ định xuất,
Thân học vô-học nhập chánh-định
Thân Bích-Chi-Phật từ định xuất,
Thân Bích-Chi-Phật nhập chánh-định
Hiện thân Như-Lai từ định xuất,
Nơi thân Như-Lai nhập chánh-định
Trong thân chư Thiên từ định xuất,
Trong thân chư Thiên nhập chánh-định
Trong thân đại-long từ định xuất,
Trong thân đại-long nhập chánh-định
Trong thân Dạ-xoa từ định xuất,
Trong thân Dạ-xoa nhập chánh-định
Trong thân quỷ-thần từ định xuất,
Trong thân quỷ-thần nhập chánh-định
Trong một chưn lông từ định xuất,
Trong một chưn lông nhập chánh-định
Tất cả chưn lông từ định xuất,
Tất cả chưn lông nhập chánh-định
Trên đầu một lông từ định xuất,
Trên đầu một lông nhập chánh-định
Trong một vi-trần từ định xuất,
Trong một vi-trần nhập chánh-định
Tất cả vi-trần từ định xuất,
Trong tất cả trần nhập chánh-định
Trong đất kim-cang từ định xuất,
Trong đất kim-cang nhập chánh-định
Trên cây ma-ni từ định xuất,
Trên cây ma-ni nhập chánh-định
Trong quang-minh Phật từ định xuất,
Trong quang-minh Phật nhập chánh-định
Ở trong sông biển từ định xuất,
Ở trong sông biển nhập chánh-định
Ở trong lửa lớn từ định xuất,
Ở trong lửa lớn nhập chánh-định
Nơi gió xuất định tâm chẳng loạn,
Ở trong phong-đại nhập chánh-định
Ở trong địa-đại từ định xuất,
Ở trong địa-đại nhập chánh-định
Nơi Thiên-cung-điện từ định xuất,
Nơi Thiên-cung-điện nhập chánh-định
Hư-không xd tâm chẳng loạn,
Đây gọi bực vô-lượng công-đức
Tam-muội tự-tại khó nghĩ bàn.
Mười-phương tất cả chư Như-Lai
Trong vô-lượng kiếp nói chẳng hết,
Tất cả Như-Lai đều cùng nói
Chúng-sanh nghiệp báo khó nghĩ bàn.
Chư long biến-hóa, Phật tự-tại
Bồ-Tát thần-lực cũng khó nghĩ
Muốn dùng ví-dụ để hiển bày
Trọn không có dụ để dụ được;
Nhưng những người trí-huệ thông-đạt
Nhơn thí-dụ để hiểu nghĩa đó.
Hàng Thinh-Văn trụ bát giải-thoát
Những sự biến hiện đều tự-tại :
Có thể một thân hiện nhiều thân
Lại hiệp nhiều thân thành một thân;
Ở giữa không gian nhập hỏa-định
Đi, đứng, nằm, ngồi giữa hư-không
Trên thân phun nước dưới tuôn lửa
Trên thân tuôn lửa dưới tuôn nước
Như thế đều nơi trong một niệm
Các môn tự-tại vô-lượng-biên;
Thinh-Văn chẳng đủ đại từ-bi
Chẳng vì chúng-sanh cầu phật-đạo
Còn hiện được thần-thông vô-lượng
Huống là Phật Bồ-Tát đại-lực !
Như mặt nhựt, nguyệt trên hư-không
Bóng tượng cùng khắp cả mười-phương
Trong nước ao hồ, đầm, chậu, chén
Sông ngòi, biển lớn đều hiện cả.
Bồ-Tát sắc tượng cũng như vậy
Hiện khắp mười-phương bất-tư-nghị;
Đều do tam-muội sức tự-tại
Chỉ có Như-Lai là chứng biết.
Như trong nước trong, bóng vũ-khí
Các loại sai khác không xen tạp
Kiếm kích, cung tên, loại rất nhiều
Mão giáp xe cộ chẳng phải một,
Tùy kia bao nhiêu tướng sai khác
Nước trong hiện rõ tất cả bóng
Nhưng nước vốn tự không phân biệt
Bồ-Tát tam-muội cũng như vậy.
Trong biển có thần tên Thiện-Ấm
Tiếng thần, thuận hết loài trong biển
Bao nhiêu ngôn ngữ đều hiện rõ
Khiến tất cả chúng đều vui đẹp.
Hải-thần có đủ tham, sân, si
Mà còn khéo hiểu tất cả tiếng
Huống là tổng-trì tự-tại-lực
Mà chẳng khiến được chúng vui mừng !
Có một phụ-nữ tên Biện-Tài
Cha mẹ cầu trời mà sanh nàng
Có ai lìa ác, thích chơn-thiệt
Vào trong thân nàng sanh diệu-biện.
Nàng ấy có tham dục, sân, si
Còn cho người theo có biện tài,
Huống là Bồ-Tát đủ trí-huệ
Mà chẳng cho chúng được lợi-ích !
Như nhà aỏ-thuật biết ảo-pháp
Hiện được nhiều loại cùng nhiều vật
Giây lát hiện làm ngày tháng năm
Thành ấp giàu có rất an vui,
Thuật-gia có đủ tham-sân-si
Còn biến hóa được vui thế-gian
Huống là thiền-định, sức giải-thoát
Mà chẳng khiến được chúng vui mừng !
Lúc trời cùng tu-la chiến đãu
Tu-la thua trận đồng chạy trốn
Vũ-khí, xe cộ và quân lữ
Đồng thời trốn mất không kiếm được,
Tu-la có đủ tham-sân-si
Còn hay biến-hóa bất-tư-nghị
Huống bực thần-thông vô-úy-lực
Biến hiện tự-tại đâu lường được !
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn có tượng-vương
Lúc nó biết Thiên-Đế muốn đi
Tự hóa đủ ba mươi hai đầu
Mỗi đầu đều đủ sáu ngà trắng,
Trên mỗi ngà đều có bảy ao
Mỗi ao đầy nước, thơm, trong sạch
Trong mỗi ao nước thơm trong ấy
Có bảy hoa sen rất xinh đẹp,
Trên mỗi hoa sen xinh đẹp ấy
Đều có bảy ngọc-nữ cõi trời
giỏi nghề đờn ca trổi âm-nhạc
Cùng với Thiên-Đế đồng vui chơi,
Voi ấy hoặc lại bỏ bổn hình
Tự hóa thân nó như chư Thiên
Oai nghi đi đứng như trời thiệt
Nó có sức thần-biến như vậy.
Tượng-vương có đủ tham-sân-si
Còn hiện thần-thông được như vậy
Huống bực đầy đủ trí phương tiện
Mà nơi tam-muội chẳng tự-tại.
Như A-tu-la biến thân hình
Chưn đạp đáy biển kim-cang-tế
Nước biển tột sâu ngập nửa thân
Đầu cao ngang đỉnh núi Tu-Di;
Tu-la có đủ tham-sân-si
Còn hiện được thần-thông to lớn
Huống bực phục-ma Chiếu-Thế-Đăng
Mà không tự-tại oai-thần-lực !
Trời cùng Tu-la lúc đánh nhau
Thiên-Đế thần-lực bất-tư-nghị
Tùy theo số chúng để cùng đấu,
Hiện thân bằng số để cùng đấu,
Các A-tu-la tự nghĩ rằng :
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn đến đánh ta
Tất sẽ bắt tinh-tấn trói tay chơn
Do đây chúng nó đều lo lắng,
Đế-Thích hiện thân có ngàn mắt
Tay cầm kim-cang tuôn lửa ngọn
Mặc giáp cầm gậy rất oai-nghiêm
Tu-la trông thấy đều sợ chạy.
Thiên-Đế chỉ do chút phước-đức
Còn dẹp phá được oán-địch lớn
Huống bực đại-bi cứu tất cả
Đủ công-đức lại chẳng tự-tại !
Trong trời Đao-Lợi có thiên-cổ
Từ nghiệp báo trời mà cảm ra
Lúc biết chư Thiên ham phóng-dật
Trên không tự-nhiên vang tiếng này :
'Tất cả ngũ-dục đều vô-thường
'Như bọt nước kia, tánh hư giả
'Các cõi như mơ, như ánh nắng
'Như trăng trong nước, như mây nổi,
'Phóng-dật là oán, là khổ não
'Là đường sanh-tử, chẳng mát-mẻ
'Nếu ai ham say việc phóng-dật
'Lọt vào miệng cá lớn sanh-tử;
'Những cội gốc khổ của thế-gian
'Tất cả thánh-nhơn đều nhàm sợ,
'Ngũ-dục hoại diệt các công-đức
'Các ngài phải thích pháp chơn-thật.
Tam-thập tam-thiên nghe tiếng trống
Cùng dắt nhau lên Thiện-Pháp-Đường,
Thiên-Đế vì họ giảng diệu-pháp
Đều khiến thuận đạo, trừ tham ái.
Tiếng trống vô-hình không thấy được
Còn hay lợi-ích chúng chư Thiên
Huống bực Đại-Từ hiện sắc-thân
Mà chẳng tế-độ loài hàm-thức !
Trời cùng Tu-la lúc đánh nhau
Chư Thiên phước-đức thù-thắng-lực
Thiên-cổ vang tiếng bảo chư Thiên :
Các ngài chẳng nên có kinh sợ !
Chư Thiên được nghe tiếng trống này
Đều hết lo sợ thêm thế-lực
Lúc đó Tu-la lòng sợ khiếp
Bao nhiêu binh tướng kéo chạy lui.
Cam-lộ diệu định, như thiên-cổ :
Hằng vang tiếng hàng ma, tịch-tịnh
Đại-bi xót thương cứu tất cả
Khiến khắp chúng-sanh dứt não-phiền.
Thiên-Đế ứng khắp các thiên-nữ
Chín mươi hai na-do-tha thân
Khiến chư thiên-nữ đều tự bảo
Thiên-Vương chỉ cùng ta riêng vui.
Như khắp ứng với chư thiên-nữ
Trong Thiện-Pháp-Đường cũng như vậy
Hay trong một niệm hiện thần-thông
Đều đến trước mặt mà thuyết pháp.
Thiên-Đế có đủ tham, sân, si
Hay khiến quyến-thuộc đều hoan-hỷ
Huống bực phương-tiện đại-thần-thông
Mà chẳng khiến được chúng vui-đẹp !
Tha-Hóa-Tự-Tại đại Thiên-Vương
Ở trong cõi dục được tự-tại
Dùng hoặc-nghiệp khổ, làm rọ lưới
Cột trói tất cả hạng phàm-phu.
Thiên-Vương kia có tham, sân, si
Với chúng-sanh còn được tự-tại
Huống bực đủ cả mười trí-lực
Mà chẳng khiến được chúng đồng hành !
Đại-thiên thế-giới Đại-Phạm-Vương
Tất cả chỗ ở của Phạm-thiên
Đều hay hiện thân ngồi ở trước
Diễn thông tiếng phạm-âm vi-diệu.
Đại-Phạm-Vương kia ở thế-gian
Thiền-định, thần-thông còn như ý
Huống đấng xuất thế-gian vô-thượng
Mà thiền giải-thoát chẳng tự-tại !
Ma-Hê-Thủ-La trí tự-tại
Đại-hải long-vương lúc làm mưa
Có thể phân-biệt đếm từng giọt
Ở trong một niệm biết rõ-ràng.
Bực vô-lượng kiếp siêng tu học
Được trí-giác bồ-đề vô-thượng
Há lại chẳng được trong một niệm
Biết khắp tất cả tâm chúng-sanh !
Chúng-sanh nghiệp-báo bất-tư-nghị
Dùng sức đại-phong, khởi thế-gian
Biển rộng, núi to, thiên cung-điện
Các báu, quang-minh, muôn vật loại,
Cũng hay nổi mây cùng mưa lớn
Cũng hay làm tan những vân-khí
Cũng hay thành-thục loài ngũ-cốc
Cũng hay an-lạc các chúng-sanh;
Đại-phong chẳng học ba-la-mật
Cũng chẳng học Phật các công-đức
Còn làm thành việc bất-tư-nghị
Huống bực đầy đủ những hạnh-nguyện
Nam-tử nữ-nhơn các thứ tiếng
Ấm-thinh của tất cả chim muông
Tiếng biển gào, sông chảy, sấm nổ
Đều hay vừa đẹp ý chúng-sanh.
Huống bực biết tiếng, tánh như vang
Đến được biện-tài diệu vô-ngại
Ứng khắp chúng-sanh mà thuyết pháp
Mà chẳng khiến được chúng-sanh mứng !
Biển có pháp hi-kỳ đặc biệt
Bình-đẳng ấn tượng tất cả cảnh
Bửu-vật, thế-gian, và muôn dòng
Dung nạp tất cả không chống đối.
Vô-tận thiền-định, bực giải-thoát
Là bình-đẳng ấn cũng như vậy
Phước-đức, trí-huệ, các diệu-hạnh
Khắp tu tất cả không nhàm đủ.
Đại-hải Long-vương lúc du-hí
Nơi nơi chốn chốn được tự-tại
Nổi mây trùm khắp cả bốn châu
Mây đó đủ những màu trang-nghiêm,
Đệ-lục Tha-Hóa-Tự-Tại thiên
Nơi đó màu mây như chơn-kim,
Mây trời Hóa-Lạc màu xích-châu,
Mây trời Đâu-Suất màu sương tuyết,
Mây trời Dạ-Ma màu lưu-ly,
Mây trời Đao-Lợi màu mã-não,
Trời Tứ-Vương-Thiên màu pha-lê,
Trên mặt Đại-Hải màu kim-cang,
Cõi Khẩn-Na-La màu diệu-hương,
Chỗ ở chư Long màu liên-hoa,
Chỗ ở Dạ-Xoa màu bạch-nga,
Trong A-Tu-La màu sơn-thạch,
Châu Uất-Đơn-Việt màu vàng lửa,
Trong Diêm-Phù-Đề màu thanh-bửu,
Hai châu kia màu tạp trang-nghiêm,
Tùy chúng sở-thích mà ứng đó.
Và lại Tha-Hóa-Tự-Tại thiên
Trong mây chớp sáng như nhựt-quang,
Trên trời Hóa-Lạc như nguyệt-quang,
Trên Đâu-Suất thiên vàng diêm-phù,
Trên Dạ-Ma thiên màu kha-tuyết,
Trời Đao-Lợi sáng màu lửa vàng,
Trên Tứ-Vương-thiên màu các báu,
Trong Đại-Hải kia màu xích-châu,
Chỗ Khẩn-na-la màu lưu-ly,
Chỗ Long-Vương ở màu bửu-tạng,
Chỗ Dạ-xoa ở màu pha-lê,
Trong A-tu-la màu mã-não,
Châu Uất-Đơn-Việt màu hỏa-châu,
Trong Diêm-Phù-Đề màu đế thanh,
Nơi hai châu kia tạp trang-nghiêm
Như màu của mây chớp cũng vậy.
Tha-Hóa sấm nổ như phạm-âm,
Hóa-Lạc Thiên như tiếng đại-cổ,
Đâu-Suất Thiên như tiếng xướng chánh-pháp,
Dạ-Ma Thiên như tiếng thiên-nữ,
Nơi trên trời tam-thập-tam kia
Như âm-thinh của Khẩn-na-la,
Nơi cõi Tứ-Vương thiên hộ thế
Như tiếng của thần Càn-thác-bà,
Trong biển như tiếng hai núi chạm,
Trong Khẩn-na-la tiếng tiêu địch,
Trong thành Long-Vương tiếng tần-già,
Chỗ Dạ-xoa ở tiếng Long-nữ,
Nơi A-Tu-La tiếng trống trời,
Ở trong nhơn-loại tiếng hải-triều.
Tha-Hóa-Tự-Tại mưa diệu-hương
Các thứ tạp hoa dùng trang-nghiêm
Hóa-Lạc-thiên mưa hoa đa-la
Mạn-đà-la hoa và rưới hương,
Trên Đâu-Suất thiên mưa ma-ni,
Đầy đủ các thứ bửu trang-nghiêm,
Bửu-châu trong tóc như nguyệt-quang
Y-phục thượng-diệu màu chơn-kim,
Trời Dạ-Ma mưa tràng phan lọng
Tràng-hoa, hương thoa đồ nghiêm-sức
Y thượng-diệu màu xích chơn-châu
Và cùng các thứ kỹ nhạc tốt,
Đạo-Lợi thiên mưa châu như-ý
Hương kiên-hắc trầm-thủy, chiên-đàn
Uất-kim, kê-la, đa-ma thảy
Hoa đẹp nước thơm xen nhau rưới,
Trong thành Trí-Vương mưa thức ngon
Đủ sắc, hương, vị thêm sức khỏe
Cũng mưa vô-lượng các diệu-bửu
Tất cả đều do Long-vương làm.
Và lại nơi trong đại-hải kia
Mưa tuôn chẳng dứt như trục xe
Lại mưa vô-tận tạng đại-bửu
Cũng mưa các thứ đồ trang-nghiêm,
Xứ Khẩn-na-la mưa anh-lạc
Y-phục màu liên-hoa và bửu
Hương mạt-lợi và bà-sư-ca
Các thứ âm-nhạc đều đầy-đủ,
Trong thành chư Long mưa xích-châu,
Thành Dạ-xoa mưa ma-ni quang,
Trong A-Tu-La mưa dao gậy
Dẹp trừ tất cả những oán địch,
Châu Uất-Đơn-Việt mưa anh-lạc
Cũng mưa vô-lượng hoa thượng-diệu,
Phất-Bà, Cù-Gia hai châu kia
Đều mưa các món đồ trang-nghiêm,
Diêm-Phù-Đề mưa nước trong sạch
Thấm nhuần mọi nơi thường phải thời
Nuôi lớn cây hoa quả và thuốc
Thành thục tất cả những lúa mạ.
Như vậy vô-lượng diệu trang-nghiêm
Các thứ mây, chớp và sấm, mưa,
Long-Vương tự-tại đều làm được
Mà thân chẳng động, chẳng phân-biệt.
Long-Vương ở trong biển thế-gian
Còn hay hiện được sức nan-tư
Huống bực vào biển pháp công-đức
Mà chẳng hiện được đại thần-biến !
Môn giải-thoát của chư Bồ-Tát
Tất cả ví-dụ không lệ được
Nay tôi tạm dùng các ví-dụ
Lược nói Bồ-Tát tự-tại-lực.
Trí-huệ đệ-nhứt, huệ quảng-đại,
Trí-huệ chơn-thiệt, huệ vô-biên,
Thắng-huệ và dùng huệ thù-thắng,
Pháp môn như vậy nay đã nói.
Pháp này hi-hữu rất kỳ-đặc
Nếu người nghe xong lãnh thọ được
Hay tin, hay thọ, hay khen nói
Việc làm như vậy rất là khó.
Tất cả phàm-phu ở thế-gian
Người tin pháp này rất là khó
Nếu ai siêng tự-tại phước thanh-tịnh
Do nhơn lành xưa mới tin được.
Quần-sanh trong tất cả thế-giới
Ít ai muốn cầu Thanh-Văn thừa
Người cầu Độc-Giác lại càng ít
Người hướng Đại-Thừa rất khó gặp.
Người hướng Đại-Thừa còn là dễ
Tin được pháp này lại khó hơn
Huống lại trì tụng vì người nói
Đúng pháp tu-hành hiểu chơn thật.
Hoặc người đem Đại-thiên thế-giới
Đầu đội một kiếp thân chẳng động
Việc người này làm chưa là khó
Người tin pháp này mới là khó.
Hoặc người tay bưng mười quốc-độ
Đứng giữa không-gian trọn mười kiếp
Việc người này làm chưa là khó
Tin được pháp này mới là khó.
Nơi mười cõi vi-trần số chúng
Cho vật sở-thích trọn một kiếp
Phước-đức người này chưa là thắng
Người tin pháp này mới tối-thắng.
Nơi mười cõi vi-trần số Phật
Đều kính cúng thờ trọn một kiếp
Nếu tụng trì được phẩm kinh này
Phước này tối-thắng hơn người trước.
Lúc Hiền-Thủ Bồ-Tát nói kệ này rồi, thập phương thế-giới chấn-động sáu cách, cung ma ẩn khuất, ác đạo thôi dứt. Thập phương chư Phật đều hiện ra trước đồng đưa tay hữu xoa đảnh ngài và đồng tiếng khen : 'Lành thay ! Ông khéo nói pháp này. Chúng tinh-tấn tất cả đều tùy-hỷ'.
***************************************************************************
Phẩm Thăng Tu Di Sơn Ðảnh
Thứ mười ba
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, do nơi thần-lực của đức Như-Lai, thập phương tất cả thế-giới, trong mỗi Diêm-Phù-Ðề, đều thấy đức Phật ngự dưới cội cây bồ-đề, đều có Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật mà thuyết pháp, tất cả đều cho rằng mình luôn đối trước Phật.
Ðức Phật chẳng rời dưới cây bồ-đề, mà thăng lên đảnh núi Tu-Di, hướng đến điện của Ðế-Thích.
Lúc đó Thiên-Ðế ở trước điện Diệu-Thắng thấy vọi Phật đến, liền dùng thần-lực trang-nghiêm điện này; trần-thiết tòa sư-tử Phổ-quang-minh tạng, đều dùng diệu-bửu làm thành : mười ngàn từng cấp cao vọi trang-nghiêm, mười ngàn lưới vàng giăng che phía trên, mười ngàn thứ màn, mười ngàn thứ lọng bày trí giáp vòng, mười ngàn lụa màu thắt tụi thòng rủ, mười ngàn chuỗi bửu-châu xen kết, mười ngàn y-phục trải trên tòa, mười ngàn Thiên-tử, mười ngàn Phạm-Vương đứng hầu sau trước, mười ngàn ánh sáng chiếu rực.
Thiên-Ðế chấp tay cúi mình cung kính nghinh tiếp Ðức Phật mà bạch rằng : 'Lành thay đức Thế-Tôn ! Lành thay đức Thiện-Thệ ! Lành thay đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Ðẳng-Giác ! xin Phật xót thương vào điện này !'.
Ðức Phật nhận lời vào điện Diệu-Thắng. Trong tất cả thế-giới ở mười phương đều đồng như vậy cả.
Do thần-lực của đức Phật, bao nhiêu tiếng nhạc trong các cung điện đều im bặt.
Thiên-Ðế liền tự nhớ đến những căn lành của đức Phật đã tu thời quá-khứ, nên nói kệ rằng :
Ca-Diếp Như-Lai đủ đại-bi
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Câu-Na-Mâu-Ni thấy vô-ngại
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Câu-Lưu-Tôn Phật như núi vàng
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Tỳ-Xá-Phù Phật sạch ba hoặc
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Thi-Khí Như-Lai lìa phân biệt
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Tỳ-Bà-Thi Phật như trăng tròn
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Phất-Sa Phật đạt đệ-nhứt nghĩa
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Ðề-Xá Như-Lai biện vô-ngại
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Ba-Ðầu-Ma Phật tịnh vô-cấu
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Nhiên-Ðăng Như-Lai quang-minh lớn
Trong những cát-tường rất vô-thượng
Phật ấy từng đến cung-điện này
Thế nên chốn này rất cát-tường.
Như Ðạo-Lợi Thiên-Vương trong thế-giới này, do thần-lực của Như-Lai, nói kệ ca ngợi công-đức của mười đức Phật thời quá-khứ, trong thế-giới ở mười-phương, chư Thiên-Ðế cũng ca ngợi công-đức của chư Phật như vậy.
Lúc đức Thế-Tôn ngự kiết-già trong điện Diệu-Thắng, thoạt nhiên điện này rộng rãi bằng chỗ ở của tất cả chư Thiên. Thập phương thế-giới cũng đều như vậy.
***************************************************************************
Phẩm Tu Di Ðảnh Kệ Tán
Thứ mười bốn
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật, từ ngoài trăm phật-sát vi-trần-số quốc-độ, mười-phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng một phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đồng vân tập đến. Mười đại Bồ-Tát là : Pháp-Huệ Bồ-Tát, Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, Thắng-Huệ Bồ-Tát, Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát, Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát, Thiện-Huệ Bồ-Tát, Trí-Huệ Bồ-Tát, Chơn-Thiệt-Huệ Bồ-Tát, Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát, Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát. Cõi nước của các ngài theo thứ-tự là : Nhơn-Ðà-La-Hoa thế-giới, Ba-Ðầu-Ma-Hoa thế-giới, Bửu-Hoa thế-giới, Ưu-Bát-La-Hoa thế-giới, Kim-Cang-Hoa thế-giới, Diệu-Hương-Hoa thế-giới, Duyệt-Ý-Hoa thế-giới, A-Lô-Hoa thế-giới, Na-La-Ðà-Hoa thế-giới, Hư-Không-Hoa thế-giới. Chư Phật ngự trị nơi đó theo thứ tự là : Thù-Ðặc-Nguyệt-Phật, Vô-Tận-Nguyệt Phật, Bất-Ðộng-Nguyệt Phật, Phong-Nguyệt Phật, Thủy-Nguyệt Phật, Giải-Thoát-Nguyệt Phật, Vô-Thượng-Nguyệt Phật, Tinh-Tú-Nguyệt Phật, Thanh-Tịnh-Nguyệt Phật, Minh-Liễu-Nguyệt Phật.
Chư Bồ-Tát này đến đảnh-lễ chơn Phật, rồi tùy phương đến, đều riêng hóa hiện tòa sư-tử Tỳ-lô-giá-na-tạng mà ngồi kiết-già trên đó.
Như chư Bồ-Tát vân tập đến đảnh núi Tu-Di nơi thế-giới này, thập-phương thế-giới cũng đều như thế cả, đến danh hiệu, quốc-độ và chư Phật cũng đồng.
Lúc đó đức Thế-Tôn, từ nơi các ngón của hai chưn phóng trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp trong cung của Ðế-Thích ở mười phương thế-giới, Phật và đại-chúng đều hiển hiện cả.
Pháp Huệ Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Phật phóng tịnh quang-minh
Thấy khắp tất cả Phật
Ðảnh núi Tu-Di-Vương
Ở trong điện Diệu-Thắng.
Tất cả Thiên-Ðế-Thích
Thỉnh Phật vào cung-điện
Ðều nói mười kệ hay
Ca ngợi chư Như-Lai.
Trong các đại hội ấy
Bao nhiêu chúng Bồ-Tát
Ðều từ mười-phương đến
Hóa tòa mà an-tọa.
Bồ-Tát trong hội đó
Danh hiệu đồng chúng tôi,
Những cõi từ đó đến
Danh-tự cũng vẫn đồng;
Bổn-quốc chư Như-Lai
Hồng-danh đều cũng đồng,
Bồ-Tát nơi bổn Phật
Tịnh tu hạnh vô-thượng.
Ðại chúng nên quan-sát
Như-Lai tự-tại-lực
Tất cả Diêm-Phù-Ðề
Ðều nói Phật tại đấy.
Chúng tinh-tấn nay thấy Phật
Trụ nơi đảnh Tu-Di
Thập-phương cũng như vậy
Như-Lai tự-tại-lực.
Trong mỗi mỗi thế-giới
Phát tâm cầu phật-đạo
Nương nơi nguyện như vậy
Tu tập hạnh bồ-đề.
Phật dùng nhiều thân hình
Du hành khắp thế-gian
Pháp-giới không chướng ngại
Không ai trắc lượng được.
Huệ-quang hằng chiếu khắp
Ðời tối đều trừ diệt,
Tất cả không sánh bằng
Thế nào lường biết được !
Nhứt-Thiết-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Giả-sử trăm ngàn kiếp
Thường thấy đức Như-Lai
Chẳng y chơn-thật nghĩa
Mà quán đấng Cùu-Thế,
Người này chấp lấy tướng
Thêm lớn lưới mê lầm
Giam trói ngục sanh tử
Ðui mù, chẳng thấy Phật.
Quan-sát nơi các pháp
Ðều không có tự-tánh
Tướng nó, vốn sanh-diệt
Chỉ là danh thuyết giả.
Tất cả pháp vô-sanh
Tất cả pháp vô-diệt
Nếu hiểu được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền.
Pháp-tánh vốn không tịch
Vô-thủ, cũng vô-kiến
Tánh không, tức là Phật
Chẳng thể nghĩ lường được.
Nếu biết tất cả pháp
Thể tánh đều như vậy
Người này thời chẳng bị
Phiền-não làm nhiễm trước.
Phàm phu thấy các pháp
Chỉ chuyển theo tướng giả
Chẳng rõ pháp vô-tướng
Do đây chẳng thấy Phật.
Ðức Phật lìa ba thời
Các tướng đều đầy đủ
Trụ nơi vô-sở-trụ
Cùng khắp mà bất-động.
Tôi quán tất cả pháp
Thảy đều được rõ ràng
Nay thấy đức Như-Lai
Quyết-định không nghi ngờ.
Pháp-Huệ trước đã nói
Như-Lai chơn-thiệt tánh,
Tôi từ đó rõ biết
Bồ-đề khó nghĩ bàn.
Thắng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Như-Lai đại trí-huệ
Hi-hữu không sánh bằng
Tất cả những thế-gian
Tư-duy chẳng đến được.
Phàm-phu vọng quan-sát
Chấp tướng chẳng đúng lý
Phật lìa tất cả tướng
Chẳng phải họ biết được.
Kẻ vô-tri mê lầm
Vọng chấp tướng ngũ-uẩn
Chẳng biết chơn-tánh kia
Người này chẳng thấy Phật.
Rõ biết tất cả pháp
Ðều không có tự-tánh
Hiểu pháp-tánh như vậy
Thời thấy Lô-Xá-Na.
Vì do tiền-ngũ-uẩn
Có hậu-uẩn tương-tục
Rõ biết nơi tánh này
Thấy Phật khó nghĩ bàn.
Ví như báu trong tối
Không đèn thời chẳng thấy
Phật-pháp không người nói
Dầu huệ chẳng biết được.
Cũng như mắt bị lòa
Chẳng thấy màu xinh đẹp
Như vậy tâm bất-tịnh
Chẳng thấy các phật-pháp.
Lại như mặt trời sáng
Kẻ mù không thấy được
Tâm không có trí-huệ
Trọn chẳng thấy chư Phật.
Nếu chữa hết bịnh lòa
Bỏ lìa lòng tưởng sắc
Chẳng thấy nơi các pháp
Thời thấy được Như-Lai.
Nhứt-Thiết-Huệ đã nói
Chư Phật Bồ-Ðề pháp
Tôi nghe lời ngài nói
Ðược thấy Lô-Xá-Na.
Công-Ðức-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười-phương rồi nói kệ rằng :
Các pháp không chơn-thật
Vọng chấp là chơn-thật
Cho nên các phàm-phu
Luân-hồi ngục sanh-tử.
Nơi ngôn từ thuyết pháp
Tiểu trí vọng phân-biệt
Vì thế sanh chướng-ngại
Chẳng rõ được tự-tâm.
Chẳng rõ được tự-tâm
Ðâu biết được chánh-đạo
Họ do huệ điên-đảo
Thêm lớn mọi điều ác.
Chẳng thấy các pháp không
Hằng thọ khổ sanh-tử
Người này chưa có được
Pháp-nhãn thanh-tịnh vậy.
Xưa kia tôi thọ khổ
Vì tôi chẳng thấy Phật,
Nên phải tịnh pháp-nhãn
Xem kia chỗ đáng thấy.
Nếu được thấy nơi Phật
Thời tâm không chấp lấy
Người này thời thấy được
Pháp của Phật đã biết.
Nếu thấy Phật chơn-pháp
Thời gọi bực đại-trí
Người này có tịnh-nhãn
Hay quan-sát thế-gian.
Không thấy chính là thấy
Hay thấy tất cả pháp
Nơi pháp nếu có thấy
Ðây thời là không thấy.
Tất cả các pháp-tánh
Không sanh cũng không diệt
Lạ thay đấng Ðạo-Sư
Tự-giác hay giác-tha.
Ngài Thắng-Huệ đã nói
Pháp của Như-Lai ngộ
Chúng tôi nghe Ngài nói
Biết được Phật chơn-tánh.
Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Nếu trụ nơi phân-biệt
Thời hư thanh-tịnh nhãn
Thêm ngu-si, tà-kiến
Trọn chẳng thấy được Phật.
Nếu rõ được tà-pháp
Như thiệt chẳng điên-đảo,
Biết vọng vốn tự chơn
Thấy Phật thời thanh-tịnh.
Có thấy, thời là nhơ
Ðây thời chưa phải thấy
Xa lìa các kiến chấp
Như vậy mới thấy Phật.
Pháp ngôn-ngữ thế-gian
Chúng-sanh vọng phân-biệt
Biết thế đều vô-sanh
Mới là thấy thế-gian.
Nếu thấy 'thấy thế-gian'
'Thấy' là tướng thế-gian
Như thiệt đồng không khác
Ðây gọi người chơn-kiến.
Nếu thấy đồng không khác
Nơi vật chẳng phân-biệt
Thấy này lìa phiền-não
Vô-lậu được tự-tại.
Chỗ chư Phật khai thị
Tất cả pháp phân-biệt
Ðây đều chẳng thể được
Vì pháp-tánh thanh-tịnh.
Pháp-tánh vốn thanh-tịnh
Vô-tướng như hư-không
Tất cả không năng thuyết
Người trí quán như vậy.
Xa lìa nơi pháp-tưởng
Chẳng thích tất cả pháp
Ðây cũng không chỗ tu
Thấy được Ðại-Mâu-Ni.
Như ngài Ðức-Huệ nói
Ðây gọi là thấy Phật;
Chỗ có tất cả hạnh
Thể-tánh đều tịch-diệt.
Lúc đó Thiện-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Hi-hữu đại dũng-kiện
Vô-lượng chư Như-Lai
Ly-cấu tâm giải-thoát
Tự độ hay độ người.
Tôi thấy Thế-gian-Ðăng
Như thật chẳng điên-đảo
Như trong vô-lượng kiếp
Bực đủ trí chỗ thấy.
Tất cả hạnh phàm-phu
Ðều mau về diệt tận
Tánh nó như hư-không
Nên nói là vô-tận.
Người trí nói vô-tận
Ðây cũng không chỗ nói.
Vì tự-tánh vô-tận
Ðược có nan-tư tận.
Trong chỗ nói vô-tận
Không chúng-sanh được có
Biết chúng-tánh như vậy
Thời thấy Ðại-Danh-Xưng.
Không thấy nói là thấy
Vô-sanh nói chúng-sanh
Hoặc thấy, hoặc chúng-sanh
Rõ biết không thể-tánh.
Năng-kiến cùng sở-kiến
Kiến-giả đều khiển trừ,
Chẳng hoại nơi chơn-pháp
Người này rõ biết Phật.
Nếu người rõ biết Phật
Và pháp của Phật nói
Thời hay chiếu thế-gian
Như Phật Lô-Giá-Na.
Chánh-giác khéo khai thị
Ðạo một pháp thanh-tịnh,
Ðại-Sĩ tinh-tấn huệ
Diễn nói vô-lượng pháp.
Hoặc có hoặc không có
Tưởng niệm này đều trừ
Như thế thấy được Phật
An-trụ nơi thiệt-tế.
Lúc đó Trí-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :
Tôi nghe pháp tối-thắng
Liền sanh trí-huệ quang
Chiếu khắp mười-phương cõi
Ðều thấy tất cả Phật.
Trong đây không chút vật
Chỉ có danh-tự giả
Nếu chấp có ngã nhơn
Thời là vào đường hiểm.
Những phàm-phu chấp trước
Chấp thân là thiệt có
Phật chẳng phải sở-thủ
Họ trọn chẳng thấy được.
Người này không huệ-nhãn
Chẳng thể thấy được Phật
Ở trong vô-lượng kiếp
Lưu chuyển biển sanh-tử.
Hữu-tránh nói sanh-tử
Vô-tránh là niết-bàn
Sanh-tử và niết-bàn
Cả hai chẳng nói được.
Nếu theo danh-tự giả
Chấp lấy hai pháp này
Người này không đúng thật
Chẳng biết Phật diệu-đạo.
Nếu móng tưởng như vầy :
'Ðây Phật, đây tối-thắng'
Ðiên-đảo chẳng phải thật
Chẳng thấy được Chánh-giác.
Biết được thật thể này
Tướng chơn-như tịch-diệt
Thời thấy đấng Chánh-Giác
Vượt khỏi đường ngữ-ngôn.
Ngôn ngữ nói các pháp
Chẳng hiển được thiệt-tướng
Bình-đẳng mới thấy được
Như pháp, Phật cũng vậy.
Thời quá-khứ chư Phật
Vị-lai và hiện-tại
Dứt hẳn gốc phân-biệt
Thế nên gọi là Phật.
Chơn-Thật-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :
Thà thọ khổ địa-ngục
Ðược nghe hồng-danh Phật
Chẳng thích vô-lượng vui
Mà chẳng nghe danh Phật.
Sở-dĩ nơi thời xưa
Chịu khổ vô-số kiếp
Lưu chuyển trong sanh-tử
Vì chẳng nghe danh Phật.
Với pháp chẳng điên-đảo
Mà hiện chứng như thật
Lìa các tướng hòa hiệp
Gọi là Vô-Thượng-Giác.
Hiện chẳng phải hòa hiệp
Khứ, lai cũng như vậy
Tất cả pháp vô-tướng
Ðây là chơn-thể Phật.
Nếu quán được như vậy
Các pháp nghĩa thậm-thâm
Thời thấy tướng chơn thật
Pháp-thân của chư Phật.
Nơi thật thấy chơn-thật
Chẳng thật thấy chẳng thật
Hiểu rốt ráo như vậy
Cho nên gọi là Phật.
Phật-pháp chẳng giác được
Rõ đây gọi 'giác pháp'
Chư Phật tu như vậy
Một pháp bất-khả-đắc.
Biết do một nên nhiều
Biết do nhiều nên một
Các pháp không chỗ tựa
Chỉ do hòa hiệp khởi.
Không năng-tác, sở-tác
Chỉ từ nghiệp tưởng sanh
Tại sao biết như vậy
Vì khác đây không có.
Tất cả pháp vô-trụ
Ðịnh-xứ bất-khả-đắc
Chư Phật trụ nơi đây
Rốt ráo không dao động.
Vô-Thượng-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mườI phương rồi nói kệ rằng :
Ðấng đại-thừa vô-thượng
Xa lìa tưởng chúng-sanh
Không có ai hơn được
Nên hiệu là Vô-Thượng.
Chỗ chư Phật đã được
Vô-tác, vô-phân-biệt
Thô-thần-thông vô-sở-hữu
Vi-tế cũng như vậy.
Cảnh chư Phật sở-hành
Trong đó không có số
Là chơn-pháp của Phật.
Như-Lai quang chiếu khắp
Diệt trừ những tối-tăm
Quang này chẳng có chiếu
Cũng chẳng phải không chiếu.
Nơi pháp không chỗ chấp
Không niệm cũng không nhiễm
Không trụ không xứ sở
Chẳng hoại nơi pháp-tánh.
Trong đây không có hai
Cũng lại không có một
Bực đại-trí thấy đúng
Kheó an-trụ thật lý.
Trong không, không có hai
Không hai cũng như vậy
Tam-giới tất cả không
Là chỗ thấy chư Phật.
Phàm-phu không hay biết
Phật khiến trụ chánh-pháp
Các pháp vô-sở-trụ
Ngộ đây thấy tự thân.
Chẳng thân mà nói thân
Chẳng khởi mà hiện khởi
Không thân cũng không thấy
Là Phật-thân vô-thượng.
Như ngài Thật-Huệ nói
Chư Phật diệu pháp-tánh
Nếu người nghe pháp này
Sẽ được thanh-tịnh-nhãn.
Lúc đó Kiên-Cố-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật quan-sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Vĩ-đại ! quang-minh lớn
Bực vô-thượng dũng kiện
Vì lợi ích quần-sanh
Mà xuất hiện thế-gian.
Phật dùng tâm đại-bi
Quan-sát khắp chúng-sanh
Thấy ở trong ba cõi
Luân-hồi thọ nhiều khổ.
Chỉ trừ đấng Chánh-Giác
Ðấng Ðạo-Sư đủ sức
Tất cả các Trời Người
Không ai cứu hộ được.
Nếu chư Phật Bồ-Tát
Chẳng xuất hiện thế-gian
Thời không một chúng-sanh
Có thể được an-lạc.
Như-Lai đẳng-chánh-giác
Và các chúng Thánh Hiền
Xuất hiện ở thế-gian
Cho chúng-sanh được vui.
Nếu ai thấy Như-Lai
Vì được lợi hành lớn
Nghe hiệu Phật sanh tin
Thời là tháp thế-gian.
Chúng tôi thấy Như-Lai
Vì được lợi ích lớn
Nghe diệu-pháp như vậy
Ðều sẽ thành Phật-đạo.
Chư Bồ-Tát quá-khứ
Do thần-lực của Phật
Ðược huệ-nhãn thanh-tịnh
Rõ cảnh-giới chư Phật.
Nay thấy Lô-Xá-Na
Càng thêm thanh-tịnh-tính
Phật-trí không ngằn mé
Diễn thuyết chẳng thể hết.
Thắng-Huệ Bồ-Tát thảy
Và tôi Kiên-Cố-Huệ
Trong vô-số ức kiếp
Cũng nói chẳng thể hết.
**************************************************************************
Phẩm Thập Trụ
Thứ mười lăm
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ Pháp-Huệ Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật, nhập Bồ-Tát vô-lượng phương tiện tam-muội. Do sức tam-muội, ngoài ngàn phật-sát vi-trần-số thế-giới ở mười-phương, có ngàn phật-sát vi-trần-số Phật đều đồng hiệu là Pháp-Huệ và đồng hiện đến bảo Pháp-Huệ Bồ-Tát rằng :
'Lành thay ! lành thay ! Thiện-nam-tử ! Ông hay nhập Bồ-Tát Vô-Lượng phương-tiện tam-muội này.
Thiện-nam-tử ! Trong mười-phương, ở mỗi phương đều có ngàn phật-sát vi-trần-số chư Phật đều dùng thần-lực đồng gia-hộ ông.
Lại nguyện-lực và thần-lực của đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai đây, cùng năng-lực thiện-căn của ông đã tu, nhập tam-muội này, khiến ông thuyết pháp, vì để tăng-trưởng phật-trí, vì thâm nhập pháp-giới, vì khéo rõ chúng-sanh-giới, vì sở nhập vô-ngại, vì sở hành vô-chướng, vì được vô-đẳng phương-tiện, vì nhập nhứt-thiết-trí-tánh, vì giác tất cả pháp, vì biết tất cả căn, vì hay thọ-trì diễn-thuyết tất cả pháp : chính là phát khởi mười bực trụ của Bồ-Tát.
Thiện-nam-tử ! Ông nên thừa thần-lực của Phật mà diễn-thuyết pháp thập trụ ấy !'
Lúc đó chư Phật liền ban cho Pháp-Huệ Bồ-Tát trí vô-ngại, trí vô-trước, trí vô-đoạn, trí vô-si, trí vô-dị, trí vô-thất, trí vô-lượng, trí vô-thắng, trí vô-giải-đãi, trí vô-đoạt. Tại sao vậy ? Vì năng-lực của tam-muội này pháp-nhĩ như vậy.
Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Pháp-Huệ Bồ-Tát.
Pháp-Huệ Bồ-Tát liền xuất định nói với chư Bồ-Tát rằng :
'Chư Phật-tử ! Trụ-xứ của Bồ-Tát rộng lớn đồng với hư-không-giới.
Phật-tử ! Bồ-Tát trụ nơi nhà tam-thế chư Phật.
Nay tôi sẽ nói về chỗ trụ của Bồ-Tát ấy.
Chư Phật-tử ! Chỗ trụ của Bồ-Tát có mười bực mà tam-thế chư Phật đã nói, sẽ nói và hiện đương nói.
Ðây là mười bực trụ :
Sơ-phát-tâm-trụ, Trị-địa-trụ, Tu-hành-trụ, Sanh-quý-trụ, Cụ-túc phương-tiện-trụ, Chánh-tâm-trụ, Bất-thối-trụ, Ðồng-chơn-trụ, Pháp-vương-tử-trụ, Quán-đảnh-trụ.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát phát-tâm-trụ ?
Vị Bồ-Tát này thấy Phật hình dung đoan-nghiêm xinh đẹp có oai-lực lớn, hoặc thấy thần-túc, hoặc nghe thọ-ký, hoặc nghe giảng dạy, hoặc thấy chúng-sanh chịu những sự quá khổ, hoặc nghe phật-pháp rộng lớn của Như-Lai mà phát bồ-đề-tâm, cầu nhứt-thiết-trí.
Vị Bồ-Tát này duyên mười pháp khó được mà phát tâm. Ðây là mười pháp khó được :
Trí biết rõ thị-xứ phi-xứ, trí biết rõ thiện-ác nghiệp báo, trí biết rõ căn tánh thắng-liệt, trí biết rõ các loại tri giải sai-biệt, trí biết rõ các cảnh-giới sai-biệt, trí biết rõ tất cả chí-xứ-đạo, trí biết rõ các thiền giải-thoát tam-muội, trí túc-mạng vô-ngại, trí thiên-nhãn vô-ngại, trí tam-thế lậu-tận.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp. Ðây là mười pháp :
Siêng cúng-dường Phật, thích ở sanh-tử, chủ-trương dìu dắt thế-gian khiến trừ ác nghiệp, thường đem pháp thắng-diệu dạy bảo, ca ngợI pháp vô-thượng, học công-đức của Phật, sanh ở trước Phật luôn được nhiếp thọ, phương-tiện diễn nói tam-muội tịch-tịnh, ngợi khen xa lìa sanh-tử luân-hồi, làm chỗ quy-y cho chúng-sanh đang bị khổ.
Vì sao phải khuyên học mười pháp này. Vì muốn vị Bồ-Tát này, ở trong phật-pháp, tâm thêm rộng lớn, có nghe được pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là bực Bồ-Tát trị-địa-trụ ?
Vị Bồ-Tát này đối với chúng-sanh phát mười thứ tâm :
Tâm-lợi-ích, tâm đại-bi, tâm an-lạc, tâm an-trụ, tâm lân-mẫn, tâm nhiếp-thọ, tâm thủ-hộ, tâm đồng với mình, tâm là thầy, tâm làm đạo-sư.
Chư Phật-tử ! nên khuyên vị Bồ-Tát này học mười thứ pháp :
Tụng tập học rộng, rảnh rang tịch-tịnh, gần thiện tri-thức, nói lời hòa vui, nói tất biết-thời, lòng không khiếp sợ, rõ thấu các nghĩa, tu hành đúng pháp, xa lìa ngu-mê, an-trụ bất-động.
Do học mười pháp trên đây, vị Bồ-Tát này đối với chúng-sanh, thêm lớn đại-bi, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát tự-tại hành-trụ ?
Vị Bồ-Tát này dùng mười hạnh để quan-sát tất cả pháp :
Quán tất cả pháp vô-thường, tất cả pháp khổ, tất cả pháp không, tất cả pháp vô-ngã, tất cả pháp vô-tác, tất cả pháp vô-vị, tất cả pháp bất-như-danh, tất cả pháp vô-xứ-sở, tất cả pháp rời phân-biệt, tất cả pháp không kiên thiệt.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :
Quan-sát chúng-sanh giới, pháp-giới, thế-giới, quan-sát địa-giới, thủy-giới, hỏa-giới, phong-giới, quan-sát dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới. Vì muốn vị Bồ-Tát này được trí huệ sáng tỏ, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát sanh-quý-trụ ?
Vị Bồ-Tát này từ thánh-giáo sanh, thành-tựu mười pháp :
Trọn chẳng thối chuyển nơi Phật-đạo, sanh lòng tin sâu thanh-tịnh, khéo quan-sát pháp, rõ biết chúng-sanh, quốc-độ, thế-giới, nghiệp-hạnh, quả-báo, sanh-tử, niết-bàn.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :
Rõ biết tất cả phật-pháp thời quá-khứ, thời vị-lai, thời hiện-tại; tu tập tất cả phật-pháp thời quá-khứ, vị-lai, hiện-tại; viên-mãn tất cả phật-pháp quá-khứ, vị-lai, hiện tại; biết rõ tất cả Phật bình-đẳng. Ðây là vì muốn cho vị Bồ-Tát này được thăng tiến, nơi trong tam-thế tâm được bình-đẳng, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát cụ-túc phương-tiện-trụ ?
Vị Bồ-Tát này trọn đủ mười pháp :
Căn lành tu tập đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, lợi ích tất cả chúng-sanh, an-lạc tất cả chúng-sanh, ai-mẫn tất cả chúng-sanh, độ-thoát tất cả chúng-sanh, khiến tất cả chúng-sanh lìa những tai nạn, khiến tất cả chúng-sanh thoát khổ sanh-tử, khiến tất cả chúng-sanh phát-sanh tịnh-tín, khiến tất cả chúng-sanh đều được điều-phục, khiến tất cả chúng-sanh đều chứng niết-bàn.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :
Biết chúng-sanh vô-biên, vô-lượng, vô-số, biết chúng-sanh bất-tư-nghị, vô-lượng-sắc, bất-khả-lượng, biết chúng-sanh không, vô-sở-tác, vô-sở-hữu, vô-tự-tánh.
Vì muốn vị Bồ-Tát này, tâm lại càng tăng-thắng hơn không bị nhiễm trước, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát chánh-tâm-trụ ?
Vị Bồ-Tát này nghe mười pháp tâm định chẳng động :
Nghe khen Phật hay chê Phật, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen pháp hay chê pháp, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen Bồ-Tát hay chê Bồ-Tát, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe khen hay chê công-hạnh của vị Bồ-Tát, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh hữu-lượng hay vô-lượng, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh hữu-cấu hay vô-cấu, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói chúng-sanh dễ độ hay khó độ, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói pháp-giới hữu-lượng hay vô-lượng, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói pháp-giới có thành có hoại, đối với phật-pháp tâm định chẳng động. Nghe nói phật-pháp hoặc có hoặc không, đối với phật-pháp tâm định chẳng động.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :
Tất cả pháp vô-tướng, tất cả pháp vô-thể, tất cả pháp chẳng thể tự-tại, tất cả pháp vô-sở-hữu, tất cả pháp không chơn-thiệt, tất cả pháp không, tất cả pháp vô-tánh, tất cả pháp như huyễn, tất cả pháp như mộng, tất cả pháp vô-phân-biệt.
Vì muốn vị Bồ-Tát này tâm lại càng thêm tăng-tiến được chẳng thối chuyển vô-sanh-pháp-nhãn. Có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát bất thối-trụ ?
Vị Bồ-Tát này nghe mười pháp kiên-cố bất-thối :
Nghe có Phật hay không có Phật, nghe có pháp hay không pháp, nghe có Bồ-Tát hay không Bồ-Tát, nghe có Bồ-Tát hạnh hay không Bồ-Tát hạnh, nghe có Bồ-Tát tu hành được xuất-ly hay chẳng xuất-ly, nghe quá-khứ có Phật hay không Phật, nghe vị-lai có Phật hay không Phật, nghe hiện-tại có Phật hay không Phật, nghe Phật trí hữu-tận hay vô-tận, nghe tam-thế là một tướng hay chẳng phải một tướng, đối với trong phật-pháp tâm đều chẳng thối chuyển cả.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp quảng đại :
Nói một chính là nhiều, nói nhiều chính là một; văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy nơi văn, chẳng có chính là có, có chính là chẳng phải có, vô-tướng chính là tướng, tướng chính là vô-tướng, vô-tánh chính là tánh, tánh chính là vô-tánh.
Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng-tiến, nơi tất cả pháp khéo hay xuất-ly, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát đồng-chơn-trụ ?
Vị Bồ-Tát này trụ mười hạnh nghiệp :
Thân-hạnh không lỗi, ngữ-hạnh không lỗi, ý-hạnh không lỗi, tùy ý thọ sanh, biết chúng-sanh các thứ dục, biết chúng-sanh các thứ tri-giải, biết chúng-sanh các thứ cảnh-giới, biết chúng-sanh các thứ nghiệp, biết thế-giới thành hoại, thần-túc tự-tại vô-ngại.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :
Biết tất cả phật-sát, động tất cả phật-sát, trì tất cả phật-sát, quán tất cả phật-sát, đến tất cả phật-sát, du-hành vô-số thế-giới, lãnh-thọ vô-số phật-pháp, hiện thân biến-hóa tự-tại, nói ra tiếng quảng-đại biến mãn, trong một sát-na thừa sự cúng-dường vô-số Phật.
Vì muốn vị Bồ-Tát này tăng-tiến, hay được thiện-xảo đối với tất cả pháp, có được nghe pháp liền tự hiểu hẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát pháp-vương-tử-trụ ?
Vị Bồ-Tát này khéo biết mười pháp :
Khéo biết chúng-sanh thọ sanh, khéo biết phiền-não hiện khởi, khéo biết tập-khí tương-tục, khéo biết chỗ làm phương-tiện, khéo biết vô-lượng-pháp, khéo biết các oai-nghi, khéo biết thế-giới sai biệt, khéo biết những việc của thế-gian trước thế-gian sau, khéo biết diễn thuyết đệ-nhứt-nghĩa.
Chư Phật-tử ! Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười pháp :
Pháp-Vương xứ thiện-xảo, Pháp-Vương xứ quỷ-độ, Pháp-Vương xứ cung-điện, Pháp-Vương xứ thu-nhập, Pháp-Vương xứ quan-sát, Pháp-Vương xứ quán-đảnh, Pháp-Vương lực-trì, Pháp-Vương vô-úy, Pháp-Vương minh-tẩm, Pháp-Vương tán thán.
Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng tiến tâm không chướng-ngại, có được nghe pháp liền tự hiểu chẳng do người khác dạy.
Chư Phật-tử ! Thế nào là Bồ-Tát quán-đảnh-trụ ?
Vị Bồ-Tát này được thành-tựu mười thứ trí :
Chấn-động vô-số thế-giới, chiếu diệu vô-số thế-giới trụ-trì vô-số thế-giới, qua đến vô-số thế-giới, nghiêm-tịnh vô-số thế-giới, khai-thị vô-số chúng-sanh, quan-sát vô-số chúng-sanh, biết căn-tánh của vô-số chúng-sanh, khiến vô-số chúng-sanh thu nhập, khiến vô-số chúng-sanh điều-phục.
Vị Bồ-Tát này thân và thân-nghiệp, thần-thông biến hiện, quá-khứ trí, vị-lai trí, hiện-tại trí, thành-tựu phật-độ tâm cảnh-giới, trí cảnh-giới, tất cả đều chẳng thể biết được, nhẫn đến Pháp-Vương-Tử Bồ-Tát cũng chẳng biết được.
Vị Bồ-Tát này nên khuyên học mười thứ trí của Như-Lai :
Tam-thế-trí, phật-pháp-trí, pháp-giới vô-ngại-trí, phật-giới vô-biên-trí, sung-mãn nhứt-thiết thế-giới-trí, phổ-chiếu nhứt-thiết thế-giới-trí, trụ-trì nhứt-thiết thế-giới-trí, tri nhứt-thiết chúng-sanh-trí, tri nhứt-thiết pháp trí tri vô-biên chư Phật trí.
Vì muốn khiến vị Bồ-Tát này tăng trưởng nhứt-thiết chủng-trí, có được nghe pháp liền tự hiểu, chẳng do người khác dạy.
Lúc bấy giờ, do thần-lực của đức Phật trong mười phương, mỗi phương đều một vạn phật-sát vi-trần-số thế-giới sáu thứ chấn-động. Mưa thiên-hoa, tràng-hoa, thiên mạt-hương, thiên tạp-hương, thiên bửu-y, thiên bửu-vân, thiên trang-nghiêm cụ. Những kỹ-nhạc trời tự-nhiên hòa tấu. Phóng thiên quang-minh và âm thinh vi-diệu.
Như ở thế-giới này, thập-phương thế-giới, nơi điện Thiên-Ðế-Thích nói pháp thập-trụ và hiện thần-biến cũng như vậy cả.
Lại do thần lực của Phật, mười phương đều có một vạn phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát đến nơi đây và đồng nói rằng : 'Lành thay ! Lành thay ! Này Phật-tử ! Ngài khéo nói pháp này.
Chúng tôi đồng tên Pháp-Huệ, quốc-độ đồng hiệu Pháp-Vân, Như-Lai ở các cõi đó đều hiệu Diệu-Pháp, Nơi pháp-hội của Thế-Tôn chúng tôi cũng giảng thuyết thập-trụ, câu văn nghĩa lý và chúng-hội quyến-thuộc cũng đồng như nơi đây, không có tăng giảm.
Chúng tôi thừa thần-lực của đức Phật mà đến nơi pháp-hội này để chứng-minh.
Lúc đó Pháp-Huệ Bồ-Tát, thừa oai-lực của Phật, quan-sát mười phương khắp cùng pháp-giới, rồi nói kệ rằng :
Thấy thân vi-diệu đấng Thắng-Trí
Tướng-hảo đoan-nghiêm đều đầy đủ
Tôn trọng như vậy rất khó gặp
Bồ-Tát dũng-mãnh sơ-phát-tâm.
Thấy đại thần-thông không ai bằng
Nghe lời thọ ký và dạy bảo
Các loài chúng-sanh khổ vô-lượng
Do đây Bồ-Tát sơ-phág-tâm.
Nghe chư Như-Lai đấng Phổ-Thắng
Tất cả công-đức đều thành-tựu
Ví như hư-không chẳng phân biệt
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm
Tam-thế nhơn-quả gọi là xứ
Tự-tánh chúng ta là phi-xứ
Muốn đều rõ biết nghĩa chơn thật
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tất cả hữu-vi các hạnh-đạo
Mỗi mỗi đều có chỗ nơi đến
Ðều muốn rõ biết thể-tánh đó
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tất cả thế-giới các chúng-sanh
Tùy nghiệp trôi lăn không tạm dứt
Muốn được thiên-nhãn đều thấy rõ
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Trong đời quá-khứ đã từng có
Thể-tánh như vậy, tướng như vậy
Muốn đều rõ biết túc-trụ kia
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tất cả chúng-sanh những phiền-não
Tương-tục, hiện khởi, và tập-khí
Muốn đều rõ biết rốt ráo hết
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tùy những chúng-sanh chỗ an-lập
Các môn đàm luận đường ngữ ngôn
Như thế-đế đó đều muốn biết
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tất cả các pháp lìa ngôn thuyết
Tánh không tịch-diệt vốn vô-tác
Muốn đều rõ thấu chơn-nghĩa này
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn đều chấn-động mười phương cõi
Nghiên úp tất cả những đại-hải
Ðầy đủ chư Phật đại thần-thông
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn một chưn lông phóng quang-minh
Chiếu khắp mười phương vô-lượng cõi
Trong mỗi quang-minh giác tất cả
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn đem nan-tư vô-lượng cõi
Ðể trong bàn tay mà chẳng động
Rõ biết tất cả như huyễn hóa
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn dùng một lông chấm nước biển
Tất cả đại-hải đều làm cạn
Mà đều phân-biệt biết số kia
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Quá-khứ vị-lai vô-lượng kiếp
Tất cả thế-gian tướng thành hoại
Ðều muốn thấu rõ cùng biên-tế
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tam thế tất cả chư Như-Lai
Tất cả Ðộc-Giác và Thanh-Văn
Muốn biết hết cả những pháp đó
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Vô-lượng vô-biên các thế-giới
Muốn dùng một lông đều cân nổI
Như thể tướng kia đều biết rõ
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Vô-lượng vô-số Luân-Vi-sơn
Muốn khiến đều vào trong chơn lông
Lớn nhỏ của kia đều biết rõ
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn dùng một diệu-âm tịch-tịnh
Khắp ứng mười phương tùy loại diễn
Như vậy đều khiến sáng sạch rõ
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Ngôn ngữ của tất cả chúng-sanh
Một lời diễn nói đều hết cả
Ðều muốn rõ biết tự-tánh kia
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Ngôn âm thế-gian đều nói cả
Khiến họ đều hiểu chứng tịch-diệt
Muốn được như vậy diệu-thiệt-căn
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn khiến mườI phương những thế-giới
Có tướng thành hoại đều được thấy
Mà đều biết từ phận-biệt sanh
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Tất cả mười phương những thế-giới
Vô-lượng Như-Lai đều sung-mãn
Ðều muốn rõ biết Phật-pháp kia
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Các loại biến-hóa vô-lượng thân
Tất cả thế-giới vi-trần thảy
Ðều muốn rõ thấu từ tâm khởi
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại
Vô-lượng vô-số chư Như-Lai
Muốn nơi một niệm đều rõ biết
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn diễn thuyết đủ một câu pháp
A-tăng-kỳ kiếp không cùng tận
Mà khiến văn nghĩa đều chẳng đồng
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Mười phương tất cả các chúng-sanh
Tùy tướng họ lưu-chuyển sanh diệt
Muốn nơi một niệm đều rõ thấu
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Muốn dùng thân, ngữ và ý-nghiệp
Ðến khắp mười phương không chướng ngại
Rõ biết tam-thế đều không-tịch
Bồ-Tát do đây sơ-phát-tâm.
Bồ-Tát phát tâm như vậy rồi
Khiến nên qua đến mười phương cõi
Cung-kính cúng-dường chư Như-Lai
Do đây khiến được không thối chuyển.
Bồ-Tát dũng mãnh cầu Phật-đạo
Ở nơi sanh-tử chẳng mỏi-nhàm
Vì kia ca ngợi khiến thuận lành
Như vậy khiến kia không thối chuyển.
Mười phương thế-giới vô-lượng cõi
Ðều ở trong đó làm Tôn-Chủ
Vì chư Bồ-Tát nói như vậy
Do đây khiến kia không thối chuyển.
Tói-thắng, tối-thượng, tối-đệ-nhứt
Pháp thậm-thâm, vi-diệu, thanh-tịnh
Khuyên chư Bồ-Tát nói cùng người
Dạy như vậy khiến lìa phiền-não,
Tất cả thế-gian không bằng được
Nơi chẳng thể khuynh-động dẹp phục
Vì Bồ-Tát kia thường ca ngợi
Dạy như vậy khiến chẳng thối-chuyển.
Phật là thế-gian Ðại-Lực-Chủ
Ðầy đủ tất cả những công-đức
Khiến các Bồ-Tát trụ trong đó
Dùng đây dạy làm Thắng-Trượng-Phu,
Nơi vô-lượng vô-biên chư Phật
Ðều được qua đến để gần gũi
Thường được chư Phật luôn nhiếp thọ
Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.
Bao nhiêu những tam-muội tịch-tịnh
Thảy đều diễn đạt không còn thừa
Vì Bồ-Tát kia nói như vậy
Do đây khiến kia chẳng thối-chuyển.
Dẹp trừ vòng sanh-tử các cõi
Mà chuyển diệu-pháp thanh-tịnh luân
Tất cả thế-gian không chỗ chấp
Vì các Bồ-Tát nói như vậy.
Tất cả chúng-sanh đọa ác-đạo
Vô-lượng khổ nặng làm bức ngặt
Làm chỗ quy-y cứu hộ họ
Vì các Bồ-Tát nói như vậy.
Ðây là 'Bồ-Tát phát-tâm-trụ'
Nhứt hướng chí cầu vô-thượng-đạo,
Như tôi đã nói pháp dạy bảo
Tất cả chư Phật cũng như vậy.
Thứ hai : 'Bồ-Tát trị-đĩa-trụ'
Phải nên phát khởi tâm như vầy :
Mười phương tất cả những chúng-sanh
Nguyện đều thuận theo lời Phật dạy,
Tâm đại-bi, lợi-ích, an-lạc,
Tâm an-trụ, xót-thương, nhiếp-thọ,
Tâm thủ-hộ chúng-sanh đồng mình,
Tâm làm thầy và tâm đạo-sư,
Ðã trụ tâm thắng-diệu như vậy
Kế khiến tụng tập cầu học rộng
Thường thích tịch-tịnh, chánh tư-duy
Gần-gũi tất cả thiện-tri-thức.
Nói lời hòa vui, lìa thô cứng
Nói tất cả biết thời, không e sợ
Rõ thấu nghĩa lý làm đúng pháp
Xa lìa ngu mê tâm bất động :
Ðây là sơ-học bồ-đề hạnh
Làm được hạnh này : Chơn-Phật-tử
Nay tôi nói chỗ kia nên làm
Như vậy Phật-tử phải siêng học.
Thứ ba : 'Bồ-Tát tu-hành-trụ'
Thường y phật-giáo siêng quan-sát
Các pháp vô-thường, khổ, và không
Cũng không ngã nhơn, không động-tác.
Tất cả các pháp chẳng đáng ưa
Không đúng danh-tự, không xứ-sở
Không chỗ phân-biệt, không chơn thiệt
Người quán như vậy gọi Bồ-Tát.
Kế, khiến quan-sát chúng-sanh giớI
Và cũng quan-sát nơi pháp-giới
Thế-giới sai biệt trọn không thừa
Nơi kia đều nên khuyên quan-sát.
Thập phương thế-giới và hư-không
Bao nhiêu địa, thủy, cùng hỏa, phong
Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới
Ðều khuyên quán-sát đến cùng tận.
Quán-sát cõi kia đều sai khác
Và thể-tánh nó, đều rốt ráo
Dạy siêng tu hành được như vậy
Ðây thời gọi là chơn Phật-tử.
thứ tư : 'Bồ-Tát sanh-quý-trụ'
Từ các thánh-giáo mà xuất sanh
Rõ thấu các cõi không chỗ có
Vượt qua pháp kia sanh pháp-giới.
Tin Phật kiên-cố, chẳng thể hoại
Quán pháp tịch-diệt, tâm an-trụ
Tùy những chúng-sanh đều rõ biết
Thể-tánh hư-vọng không chơn thiệt.
Thế-gian, sát-độ, nghiệp và báo
Sanh-tử, niết-bàn đều như vậy
Phật-tử nơi pháp quán như vậy
Từ Phật thân sanh, gọi Phật-tử.
Quá-khứ vị-lai và hiện-tại
Trong đó bao nhiêu những phật-pháp
Rõ biết chứa họp và viên-mãn
Tu học như vậy khiến rốt ráo.
Tam-thế tất cả chư Như-Lai
Hay tùy quán-sát đều bình-đẳng
Các thứ sai biệt bất-khả-đắc
Người quán như vậy đạt tam-thế.
Như tôi tán dương ca ngợi đó
Là những công-đức đệ-tứ-trụ
Nếu hay y pháp siêng tu hành
Mau thành Phật bồ-đề vô-thượng.
Ðây đến Bồ-Tát trụ thứ năm
Hiệu là 'cụ-túc-phương-tiện-trụ'
Vào sâu vô-lượng phương-tiện khéo
Phát-sanh nghiệp công-đức rốt ráo.
Bồ-Tát chỗ tu các phước-đức
Ðều vì cứu hộ các quần-sanh
Chuyên tâm làm lợi-ích an-lạc
Một mặt xót thương khiến độ thoát.
Vì tất cả đời trừ các nạn
Dẫn thoát sanh-tử, khiến vui mừng
Mỗi mỗi điều-phục không để sót
Ðều khiến đủ đức hướng niết-bàn.
Tất cả chúng-sanh vô-lượng-biên
Vô-lượng, vô-số, bất-tư-nghị
Nhẫn đến bất-khả-xưng-lượng thảy
Nghe lãnh Như-Lai pháp như vậy.
Ðây là Phật-tử đệ-ngũ-trụ
Thành-tựu phương-tiện độ chúng-sanh
Ðấng đại-trí viên-mãn công-đức
Ðem pháp như vậy để khai-thị.
Thứ sáu : 'chánh-tâm-viên-mãn-trụ'
Nơi pháp tự-tánh không mê hoặc
Chánh-niệm tư-duy, rời phân-biệt
Tất cả trời người chẳng động được.
Nghe khen chê Phật, cùng Phật-pháp
Bồ-Tát và cùng Bồ-Tát hạnh
Chúng-sanh hữu-lượng hoặc vô-lượng
Hữu-cấu vô-cấu, độ khó dễ,
Pháp-giới lớn nhỏ và thành hoại
Hoặc có hoặc không, lòng chẳng động
Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại
Nhớ kỹ tư-duy hằng quyết-định.
Tất cả các pháp đều vô-tướng
Vô-thể, vô-tánh, không, vô-thiệt
Như ảo, như mộng, rời phân-biệt
Thường thích được nghe nghĩa như vậy.
Thứ bảy : 'Bất-thối-chuyển Bồ-Tát'
Nơi Phật, phật-pháp, bồ-tát-hạnh
Hoặc có, hoặc không, xuất, chẳng xuất
Dầu nghe thuyết ấy không thối-chuyển.
Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại
Tất cả chư Phật có cùng không
Phật-trí hữu-tận hoặc vô-tận
Tam-thế một tướng các thứ tướng.
Một tức là nhiều, nhiều là một
Văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy văn
Như vậy tất cả xoay vần thành
Bực bất-thối nên vì chúng nói.
Hoặc pháp có tướng và vô-tướng
Hoặc pháp có tánh và vô-tánh
Các thứ sai biệt thuộc lẫn nhau
Người này nghe được rồi rốt ráo.
Thứ tám : 'Bồ-Tát đồng-chơn-trụ'
Thân ngữ ý hạnh đều đầy đủ
Tất cả thanh-tịnh không có lỗi
Tùy ý thọ sanh được tự-tại.
Biết những chúng-sanh lòng sở-thích
Các thứ ý-giải đều sai khác
Và kia chỗ có tất cả pháp
Thập-phương quốc-độ tướng thành hoại,
Ðến được diệu thần-thông mau chóng
Trong tất cả chỗ tùy niệm qua
Nơi chư Phật được nghe diệu-pháp
Khen ngợi tu hành không lười mỏi,
Rõ biết tất cả các phật-độ
Chấn-động, gia-trì và quán-sát
Vượt qua phật-độ vô-lượng-số
Du hành thế-giới vô-biên-số.
Vô-số diệu-pháp đều hỏi han
Chỗ muốn thọ thân đều tự-tại
Ngôn âm thiện-xảo đều sung mãn
Chư Phật vô-số đều thờ kính.
Thứ chín : 'Bồ-Tát vương-tử-trụ'
Hay thấy chúng-sanh thọ sanh khác
Phiền-não hiện, tập, đều biết cả
Chỗ làm phương tiện đều khéo rõ,
Các pháp đều khác, oai-nghi khác
Thế-giới chẳng đồng, thuở trước sau
Như kia thế-tục, đệ-nhứt-nghĩa
Ðều khéo biết rõ không có thừa,
Chỗ Pháp-Vương thiện-xảo an lập
Tùy nơi chỗ kia có diệu-pháp
Pháp-Vương cung-điện hoặc thu nhập
Và trong nơi đó quan-sát thấy,
Pháp-Vương chỗ có pháp quán-đảnh
Thần-lực, gia-trì, không khiếp sợ
Yên nghỉ cung thất, và ngợi khen
Ðem đây dạy bảo Pháp-Vương-Tử.
Như vậy vì nói đều hết cả
Mà khiến tâm kia không chấp trước
Nơi đây rõ biết tu chánh-niệm
Tất cả chư Phật hiện ra trước.
Thứ mười : 'Quán-đảnh chơn-phật-tử'
Thành mãn pháp tối-thượng đệ-nhứt
Thập phương vô-số các thế-giới
Ðều hay chấn-động quang chiếu khắp,
Trụ trì, qua đến, cũng không thừa
Thanh-tịnh trang-nghiêm đều đầy đủ
Khai thị chúng-sanh vô-hạn số
Quan-sát căn-tánh đều biết cả.
Phát tâm điều-phục cũng vô-biên
Ðều khiến thu-hướng đại bồ-đề
Tất cả pháp-giới đều quan-sát
Thập phương quốc-độ đều khiến đến.
Nơi đó, thân và thân hành-động
Thần-thông biến hiện khó lường được
Tam-thế phật-độ các cảnh-giới
Nhẫn đến Vương-Tử không rõ được.
Pháp-giới vô-ngại vô-biên trí
Sung mãn nhất-thiết thế-giới-trí
Chiếu-diệu thế-giới trụ-trì trí
Rõ biết chúng-sanh chư pháp-trí
Và biết chánh-giác vô-biên trí
Như-Lai vì nói đều đủ cả.
Thập-trụ Bồ-Tát như vậy thảy
Ðều từ Như-Lai pháp hóa-sanh
Tùy kia chỗ có công-đức hạnh
Tất cả trời người chẳng lường được.
Quá-khứ, vị-lai và hiện-tại
Phát tâm cầu Phật số vô-biên
Thập-phương quốc-độ đều sung-mãn
Ðều sẽ được thành nhứt-thiết-trí.
Tất cả quốc-độ không ngằn mé
Thế-giới chúng-sanh pháp cũng vậy
Hoặc, nghiệp, sở-thích đều khác biệt
Nương đó mà phát bồ-đề tâm.
Ban đầu một niệm cầu Phật-đạo
Chúng-sanh thế-gian và nhị-thừa
Hết sức suy gẫm còn chẳng biết
Huống là bao nhiêu công-đức khác.
Thập-phương tất cả các thế-giới
Dùng một lông đều cân nhắc được,
Người đó biết được phật-tử này
Công-hạnh hướng đến Phật đại-trí.
Thập phương chỗ có những biển lớn
Ðều dùng sợi lông chấm khiến cạn,
Người đó biết được phật-tử này
Công-đức tu hành trong một niệm.
Tất cả thế-giới nghiền làm bụi
Ðều phân-biệt được biết rõ số,
Người như vậy mới có thể thấy
Ðạo tu hành của Bồ-Tát này.
Thập phương chư Phật trong tam-thế
Tất cả Ðộc-Giác và Thinh-Văn
Ðều dùng tất cả diệu biệt-tài
Khai thị sơ phát bồ-đề tâm.
Phát tâm công-đức chẳng lường được
Sung-mãn tất cả cõi chúng-sanh
Chúng trí cùng nói không hết được
Huống là bao nhiêu diệu-hạnh khác.
***************************************************************************
Phẩm Phạm Hạnh
Thứ Mười Sáu (1)
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ Chánh Niệm Thiên Tử bạch Pháp Huệ Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Trong tất cả thế giới, chư Bồ Tát y theo giáo pháp của Như Lai nhuộm y xuất gia, thế nào mà được phạm hạnh thanh tịnh, từ địa vị Bồ Tát đến đạo vô thượng bồ đề?'
Pháp Huệ Bồ Tát nói: 'Nầy Phật tử! Ðại Bồ Tát lúc tu phạm hạnh, nên dùng mười pháp làm cảnh sở duyên để tác ý quan sát.
Ðây là mười pháp: thân, thân nghiệp, ngữ, ngữ nghiệp, ý, ý nghiệp, Phật, Pháp, Tăng và giới.
Nên quan sát như vầy: Thân là phạm hạnh ư? Nhẫn đến giới là phạm hạnh ư?
Nếu thân là phạm hạnh, phải biết phạm hạnh thời là chẳng phải thiện, là phi pháp, là lộn đục, là hôi xấu, là bất tịnh, là đáng nhàm, là trái nghịch, là tạp nhiễm, là tử thi, là nhóm trùng.
Nếu thân nghiệp là phạm hạnh, thời phạm hạnh là hành, trụ, tọa, ngọa, là ngó bên nầy bên kia, là co, duỗi, cúi, ngước.
Nếu ngữ ngôn là phạm hạnh, thời phạm hạnh là âm thinh, gió thở, là môi, lưỡi, cuống họng, là thổ nạp, ngăn buông, là cao thấp, trong đục.
Nếu ngữ nghiệp là phạm hạnh, thời phạm hạnh là thưa chào hỏi thăm, là nói lược nói rộng, là nói dụ nói thẳng, là lời khen lời chê, là lời an lập, lời tùy tục, lời hiển liễu.
Nếu ý là phạm hạnh, thời phạm hạnh là giác, là quán, là phân biệt, ức niệm, tư duy, là ảo thuật, là ngủ mơ.
Nếu ý nghiệp là phạm hạnh, thời phạm hạnh là tư tưởng lạnh nóng đói khát, khổ vui, lo mừng.
Nếu Phật là phạm hạnh, thời sắc là Phật? hay thọ, tưởng, hành, thức là Phật? Tướng hảo hay thần thông là Phật? Nghiệp hạnh hay quả báo là Phật?
Nếu pháp là phạm hạnh, thời tịch diệt hay niết bàn là pháp? Bất sanh hay bất khởi là pháp? Bất khả thuyết hay vô phân biệt, vô sở hành, bất hiệp tập, bất tùy thuận, vô sở đắc là pháp?
Nếu Tăng là phạm hạnh, thời Dự Lưu Hướng hay Dự Lưu Quả la Tăng? Nhứt Lai Hướng hay Nhứt Lai Quả là Tăng? Bất Hoàn Hướng hay Bất Hoàn Quả, Vô Sanh Hướng hay Vô Sanh Quả là Tăng? Tam minh hay lục thông là Tăng?
Nếu giới là phạm hạnh, thời đàn tràng là giới, hay hỏi thanh tịnh là giới? Dạy oai nghi hay tam yết ma là giới? Hoà Thượng hay A Xà Lê là giới? Thế phát là giới, hay đắp y ca sa, hay khất thực, hay chánh mạng là giới?
Quan sát như vậy, nơi thân không sở thủ, nơi tu không sở trước, nơi pháp không sở trụ, quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không tịch, không người tác nghiệp, không kẻ thọ báo, đời nầy chẳng dời động, đời kia chẳng cải đổi. Như vậy, trong đây pháp nào gọi là phạm hạnh? Phạm hạnh từ chỗ nào đến? Là sở hữu của ai? Thể là gì? Do ai làm? Là có? Là không? Là Sắc? Là phi sắc? Là thọ? Là phi thọ? Là tướng? Là phi tướng? Là hành? Là phi hành? Là thức? Là phi thức?
Quan sát như vậy, vì pháp phạm hạnh bất khả đắc, vì pháp tam thế đều không tịch, vì ý không thủ trước, vì tâm không chướng ngại, vì sở hành vô nhị, vì phương tiện tự tại, vì thọ pháp vô tướng, vì quán pháp vô tướng, vì biết phật pháp bình đẳng, vì đủ tất cả phật pháp. Như đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Lại phải tu tập mười pháp, chính là mười trí lực của Như Lai. Phải quan sát mỗi trí lực. Trong mỗi trí lực có vô lượng nghĩa đều phải hạn hỏi. Sau khi nghe phải khởi tâm đại từ bi, quan sát chúng sanh mà chẳng bỏ lìa, tư duy các pháp không có thôi dứt, thật hành nghiệp vô thượng không cần quả báo, rõ biết cảnh giới như ảo mộng, như bóng vang, như biến hóa.
Nếu Bồ Tát nào được tương ứng với quán hạnh như vậy, ở trong các pháp chẳng sanh hai kiến giải, tất cả phật pháp mau được hiện tiền. Lúc sơ phát tâm liền được a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Biết tất cả pháp tức là tâm tự tánh, thành tựu huệ thân giác ngộ chẳng do người khác.
********************************************
Phẩm Sơ Phát Tâm Công Ðức
Thứ mười bảy
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ, Thiên-Ðế-Thích bạch Pháp-Huệ Bồ-Tát rằng :
Thưa Phật-tử ! Bồ-Tát sơ phát bồ-đề tâm được bao nhiêu công-đức ?
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói :
Nghĩa đó rất sâu, khó nói, khó biết, khó phân-biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó làm, khó thông-đạt, khó tư-duy, khó đạt-lượng, khó thu nhập.
Tuy nhiên, thừa oai-thần của đức Phật, tôi sẽ nói cho ông.
Này Phật-tử ! Giả sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở mười phương trọn một kiếp; rồi sau đó dạy họ thọ-trì ngũ-giới thanh-tịnh. Cứ theo ý ông, công-đức của người này nhiều chăng ?
Thiên-Ðế thưa : 'Công-đức của người này, trừ Phật ra, không ai có thể lường được.'
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Này Phật-tử ! Công-đức của người này đem so với công-đức sơ-phát-tâm của Bồ-Tát chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ngàn na-do-tha ức, một phần số, một phần ca-la, một phần toán, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.
Giả sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong mười vô-số thế-giới ở mười phương trọn trăm kiếp, rồi sau đó dạy họ đều tu thập-thiện. Cúng-dường như vậy trọn trăm ngàn kiếp rồi dạy trụ tứ-vô-lượng-tâm. Cúng-dường trọn ức kiếp rồi dạy trụ tứ-vô-sắc-định. Cúng-dường trọn trăm ức kiếp rồi dạy trụ quả Tu-Ðà-Hoàn. Cúng-dường trọn ngàn ức kiếp, rồi dạy trụ quả A-La-Hán. Cúng-dường trọn trăm ngàn na-do-tha ức kiếp, rồi dạy trụ Bích-Chi-Phật.
Này Phật-tử ! Cứ theo ý của ông, công-đức của người này có nhiều chăng ?
Thiên-Ðế thưa : 'Công-đức của người này, trừ Phật ra, không ai có thể lường được.'
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Này Phật-tử ! Công-đức của người này đem so với công-đức sơ-phát-tâm của Bồ-Tát chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ngàn na-do-tha ức, một phần số, một phần ca-la, một phần toán, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.
Giả-sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong mười vô-số thế-giới ở mười phương trọn trăm kiếp, rồi sau đó dạy họ đều tu thập-thiện. Cúng-dường như vậy trọn ngàn kiếp rồi dạy tứ-thiền. Cúng-dường như vậy trọn trăm ngàn kiếp rồi dạy tứ-vô-lượng-tâm. Cúng-dường trọn ức kiếp rồi dạy trụ tứ-vô-sắc-định. Cúng-dường trọn trăm ức kiếp rồi dạy trụ quả Tu-Ðà-Hoàn. Cúng-dường trọn ngàn ức kiếp rồi dạy trụ quả Tư-Ðà-Hàm. Cúng-dường trọn trăm ngàn ức kiếp, rồi dạy trụ quả A-Na-Hàm. Cúng-dường trọn trăm ngàn na-do-tha ức kiếp, rồi dạy trụ Bích-Chi-Phật.
Này Phật-tử ! Cứ theo ý của ông, công-đức của người này có nhiều chăng ?
Thiên-Ðế thưa : 'Công-đức của người này chỉ có Phật là biết được thôi.'
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Này Phật-tử ! Công-đức của người này đem so với công-đức của Bồ-Tát sơ-phát-tâm chẳng bằng một phần trăm, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.
Tại sao thế ? Này Phật-tử ! Tất cả chư Phật lúc sơ-phát-tâm, chẳng phải chỉ vì đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong mười vô-số thế-giới ở mười phương trải qua trăm kiếp, nhẫn đến trăm ngàn na-do-tha kiếp mà phát bồ-đề tâm. Cũng chẳng phải chỉ vì giáo-hóa những chúng-sanh ấy tu ngũ-giới, thập-thiện, tứ-thiền, tứ-không, nhẫn đến khiến trụ nơi quả A-La-Hán và Bích-Chi-Phật mà phát bồ-đề tâm. Chính là vì khiến Chủng-tánh Như-Lai chẳng dứt, vì đầy khắp tất cả thế-giới, vì độ thoát tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới, vì biết rõ cả sự thành hoại của tất cả thế-giới, vì biết rõ chúng-sanh cấu tịnh trong tất cả thế-giới, vì biết rõ sở-thích, phiền-não, tập-khí của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ sự chết đây sanh kia của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ căn tánh phương-tiện của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ tâm hành của tất cả chúng-sanh, vì trí biết rõ tam-thế chúng-sanh, vì biết rõ cảnh-giới bình-đẳng của tất cả Phật, vì những điều trên đây mà phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Này Phật-tử ! Giả-sử có người trong một khoảng một niệm có thể qua khỏi phương đông vô-số thế-giới, đi luôn như vậy trọn vô-số kiếp, số thế-giới của người này đã trải qua khó có ai biết được.
Người thứ hai, trong một niệm có thể qua khỏi tất cả thế-giới của người thứ nhứt đã trải qua trong vô-số kiếp, người này cũng đi luôn mãi trọn vô-số kiếp.
Cứ lần lượt tuần-tự như vậy đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy. Thế là trong mười phương có cả thảy trăm người. Số thế-giới của trăm người này đã trải qua còn có thể biết được tế-hạn.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát vô-thượng bồ-đề tâm, không ai có thể biết tế-hạn được.
Này Phật-tử ! Tại sao vậy ? vì Bồ-Tát phát bồ-đề tâm không có tế-hạn. Nghĩa là vì muốn biết rõ thập-phương tất cả thế-giới, muốn biết diệu thế-giới tức là thô thế-giới, và thô tức là diệu, thế-giới ngửa tức là thế-giới úp, và úp tức là ngửa, tiểu thế-giới tức là đại thế-giới và đại tức là tiểu, thế-giới rộng tức là thế-giới hẹp và hẹp tức là rộng, một thế-giới tức là bất-khả-thuyết thế-giới và bất-khả-thuyết tức là một, bất-khả-thuyết thế-giới vào trong một thế-giới và một thế-giới vào trong bất-khả-thuyết, uế thế-giới tức là tịnh thế-giới, và tịnh tức là uế, muốn biết trong đầu một sợi lông tất cả thế-giới tánh sai-biệt, trong tất cả thế-giới một đầu lông một thể-tánh, muốn biết trong một thế-giới xuất-sanh tất cả thế-giới, muốn biết tất cả thế-giới không thể-tánh, muốn dùng một niệm mà biết hết tất cả thế-giới rộng lớn mà không chướng-ngại. Vì cớ trên đây mà phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Lại ví-dụ : giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết kiếp số thành hoại trong vô-số thế-giới ở phương Ðông, cứ niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp.
Người thứ hai trong khoảng một niệm có thể biết tất cả kiếp số của người thứ nhứt đã biết trong vô-số kiếp, rồi niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp.
Cứ tuần tự tăng lên đến người thứ mười, chín phương kia cũng như vậy.
Thế là có cả thảy trăm người. Kiếp số thành hoại của tất cả thế-giới trong mười phương qua sự hiểu biết của trăm người này, còn có thể biết được ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát chẳng phải chỉ vì biết sự thành hoại của bao nhiêu thế-giới đó mà phát tâm vô-thượng bồ-đề. Mà vì muốn biết rõ sự thành hoại của tất cả thế-giới không thừa không sót nên phát tâm.
Nghĩa là muốn biết kiếp dài tức là kiếp ngắn, ngắn tức là dài, dài ngắn bình-đẳng, một kiếp bình-đẳng với vô-số kiếp, vô-số với một củng vậy, kiếp có Phật bình-đẳng với kiếp không Phật, không với có cũng vậy, trong kiếp một Phật có bất-khả-thuyết Phật, trong kiếp bất-khả-thuyết Phật có một Phật, hữu-lượng kiếp bình-đẳng với vô-lượng kiếp, vô-lượng kiếp bình-đẳng với hữu-lượng kiếp, hữu-tận kiếp bình-đẳng với vô-tận kiếp, vô-tận với hữu-tận cũng vậy, bất-khả-thuyết kiếp bình-đẳng với một niệm, một niệm bình-đẳng với bất-khả-thuyết kiếp, tất cả kiếp vào phi-kiếp, phi-kiếp vào tất cả kiếp. Vì muốn trong một niệm biết hết kiếp số thành hoại của tất cả thế-giới trong ba thời quá-khứ, vị-lai và hiện-tại, nên phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Ðây gọi là sơ-phát-tâm đại-thệ trang-nghiêm trí thần-thông rõ biết tất cả kiếp.
Lại ví-dụ : 'Giả-sử có người, trong khoảng một niệm có thể biết những tri-giải sai biệt của tất cả chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Ðông. Niệm niệm biết rõ như vậy mãn vô-số kiếp.
Người thứ hai trong khoảng một niệm có thể biết những tri-giải của tất cả chúng-sanh mà người thứ nhứt đã biết trọn vô-số kiếp. Lần lượt tuần-tự đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.
Những tri-giải riêng biệt của tất cả chúng-sanh trong mười phương như vậy, còn có thể biết được ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải vì chỉ muốn biết bao nhiêu tri-giải của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà vì muốn biết những tri-giải của các chúng-sanh trong tất cả thế-giới.
Nghĩa là Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề, vì muốn biết tất cả tri-giải sai-biệt vô-biên, tri-giải sai-biệt của một chúng-sanh bình-đẳng với tri-giải của vô-số chúng-sanh, vì muốn được trí phương-tiện biết rõ bất-khả-thuyết tri-giải sai-biệt, muốn biết rõ mỗi mỗi tri-giải sai-biệt của tất cả chúng-sanh trọn vẹn không thừa sót, muốn biết rõ tri-giải thiện, bất-thiện, quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, muốn biết rõ tri-giải tương-tợ và chẳng tương-tợ, muốn biết rõ tất cả tri-giải tức là một tri-giải, một tri-giải tức là tất cả tri-giải, muốn biết được sức tri-giải của Như-Lai, muốn biết rõ sự sai-biệt của hữu-thượng-giải, vô-thượng-giải, hữu-dư-giải, vô-dư-giải, đẳng-giải, bất-đẳng-giải, hữu-y-giải, vô-y-giải, cộng-giải, bất-cộng-giải, hữu-biên-giải, vô-biên-giải, sai-biệt-giải, vô-sai-biệt-giải, thiện-giải, bất-thiện-giải, thế-gian-giải, xuất-thế-gian-giải, muốn được vô-ngại ở nơi tất cả diệu-giải, đại-giải, vô-lượng-giải, chánh-vị-giải, muốn dùng vô-lượng phương-tiện biết rõ trọn vẹn thập-phương tất cả chúng-sanh-giới, mỗi chúng-sanh có nào là tịnh-giải, tế-giải, thô-giải, muốn biết rõ trọn vẹn thâm-mật-giải, phương-tiện-giải, phân-biệt-giải, tự-nhiên-giải, tùy-nhân-khởi-giải, tùy-duyên-khởi-giải.
Vì muốn được như trên đây mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng chắnh-đẳng chánh-giác.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm, có thể biết căn tánh sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong vô-số thế-giới phương Ðông, niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp.
Người thứ hai, trong một niệm, có thể rõ biết tất cả sự biết về căn-tánh chúng-sanh trọn vô-số kiếp của người thứ nhứt.
Lần lượt tuần-tự đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.
Những căn-tánh sai-biệt của bao nhiêu chúng-sanh trong bao nhiêu thế-giới của trăm người đó rõ biết trọn vô-số kiếp, còn có thể biết được ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì biết bao nhiêu căn-tánh đó, mà chính vì muốn biết rõ trọn vẹn những căn-tánh sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới. Nói rộng ra, nhẫn đến muốn biết trọn vẹn tất cả lưới căn-tánh mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những chỗ sở-thích của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Ðông, niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp. Tuần tự nới rộng đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy. Chỗ sở-thích của thập phương chúng-sanh này còn có thể biết được ngằn mé.
Công-đức thiện-căn của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát-tâm chẳng phải vì chỉ để biết chừng ấy sở-thích của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà chính là vì muốn biết tất cả sở-thích của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những phương-tiện của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Ðông. Tuần tự nới rộng như vậy nhẫn đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.
Những loại phương-tiện cùng thập phương chúng-sanh đó còn có thể biết được ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát-tâm chẳng phải vì để biết bao nhiêu phương-tiện của thập phương chúng-sanh đó, mà chính là để biết trọn vẹn những phương-tiện của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những tâm sai-biệt của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Ðông. Nới rộng nhẫn đến những tâm sai-biệt của những chúng-sanh trong thập-phương thế-giới, còn có thể biết ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì để biết ngần ấy tâm sai-biệt, mà chính vì để biết trọn vẹn những tâm sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những nghiệp sai-biệt của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Ðông. Nới rộng nhẫn đến những nghiệp sai-biệt của những chúng-sanh trong thập phương thế-giới, còn có thể biết ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì để biết những nghiệp sai-biệt của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà chính là vì để biết rõ trọn vẹn những nghiệp sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới và cả tam-thế.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm, có thể biết những phiền-não của chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Ðông. Lần lượt nới rộng nói đến người thứ mười và chín phương kia, còn có thể biết được ngằn mé.
Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì để biết những phiền-não của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà chính vì để biết rõ trọn vẹn những phiền-não sai-biệt của những chúng-sanh trong tất cả thế-giới.
Nghĩa là muốn biết rõ trọn vẹn nhửng phiền-não nhẹ, nặng, chủng-tử hiện-hành, tất cả chúng-sanh có vô-lượng phiền-não, các loại sai-biệt, các loại giác-quán để đói trị sạch tất cả những tạp-nhiễm.
Muốn biết trọn vẹn phiền-não y tựa vô-minh, phiền-não tương-ưng với ai, để dứt kiết-sử phiền-não của tất cả loài.
Muốn biết trọn vẹn tham-phần, sân-phần, si-phần và đẳng-phần phiền-não, để dứt căn-bổn phiền-não.
Muốn biết trọn vẹn ngã phiền-não, ngã-sở phiền-não, ngã-mạn phiền-não, để giác-ngộ hết tất cả phiền-não.
Muốn biết trọn vẹn từ điên-đảo phân-biệt sanh ra căn-bổn phiền-não, tùy phiền-não, nhơn thân-kiến sanh sáu mươi hai kiến chấp, để điều-phục tất cả phiền-não.
Muốn biết trọn vẹn cái phiền-não, chướng-phiền-não, để phát tâm đại-bi, tâm cứu hộ dứt tất cả phiền-não khiến tất cả trí-tánh thanh-tịnh.
Vì muốn được như vậy mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm đem các thứ thượng-vị ẩm-thực, y-phục, hoa hương, phan lọng, tăng-già-lam, cung-điện thượng-diệu, màn-trướng báu, những tòa sư-tử trang-nghiêm và những diệu-bửu cung kính cúng-dường vô-số chư Phật phương Ðông và những chúng-sanh trong vô-số thế-giới, luôn trọn vô-số kiếp và cũng khuyên những chúng-sanh đó đồng cúng-dường Phật. Ðến khi chư Phật nhập diệt đều xây tháp cao rộng trang-nghiêm để thờ xá-lợi và hình tượng của Phật trọn vô-số kiếp. Chín phương kia cũng đều như vậy.
Này Phật-tử ! Công-đức của người trên đây, theo ý ông, có nhiều chăng ?
Thiên-Ðế thưa : 'Công-đức đó chỉ có đức Phật là biết được thôi'.
Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Công-đức đem sánh với công-đức của Bồ-Tát sơ-phát-tâm không bằng một phần trăm, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.
Nới rộng như thế tuần-tự đến người thứ mười. Công-đức cúng-dường của tất cả người trên đây cũng không bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà đối với công-đức của Bồ-Tát sơ-phát-tâm.
Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ hạn cúng-dường bao nhiêu đức Phật như vậy, mà chính vì để cúng-dường thập-phương tam-thế tất cả chư Phật.
Bồ-Tát phát tâm này rồi, có thể biết tất cả quá-khứ chư Phật lúc mới thành chánh-giác đến lúc nhập niết-bàn, có thể tin bao nhiêu thiện-căn của tất cả vị-lai chư Phật, có thể biết bao nhiêu trí-huệ của tất cả hiện-tại chư Phật.
Tam-thế chư Phật có bao nhiêu công-đức, Bồ-Tát này có thể tin được, thọ được, có thể biết, có thể tu, có thể được, có thể chứng, có thể trọn nên, có thể cùng chư Phật bình-đẳng một tánh.
Tại sao vậy ? Bồ-Tát này vì chẳng dứt phật-chủng mà phát tâm, vì đày khắp tất cả thế-giới, vì độ thoát tất cả chúng-sanh, vì biết rõ sự thành hoại của tất cả thế-giới, vì biết rõ sự cấu-tịnh của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ ba cõi thanh-tịnh của tất cả thế-giới, vì biết rõ sở-thích, phiền-não, tập-khí của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ tất cả chúng-sanh chết đây sanh kia, vì biết rõ căn-tánh phương-tiện của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ tâm hành của tất cả chúng-sanh, vì trí biết rõ tam-thế của tất cả chúng-sanh.
Vì những điều trên đây mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Do phát tâm nên thường được tất cả tam-thế chư Phật ức-niệm, sẽ được vô-thượng bồ-đề. Liền được tất cả tam-thế chư Phật ban diệu-pháp. Liền cùng tất cả tam-thế chư Phật thể-tánh bình-đẳng. Ðã tu pháp trợ-đạo của tất cả tam-thế chư Phật. Trang-nghiêm phật-pháp bất cộng của tất cả tam-thế chư Phật. Ðược trọn vẹn trí-huệ thuyết pháp của tất cả tam-thế chư Phật.
Tại sao vậy ? Vì phát tâm như đây sẽ được thành Phật.
Nên biết người này đồng với tam-thế chư Phật, bình-đẳng với cảnh-giới của chư Phật, bình-đẳng với công-đức của chư Phật, được trí-huệ chơn-thật một thân cùng vô-lượng thân rốt ráo bình-đẳng của chư Phật.
Lúc vừa phát tâm liền được thập phương tất cả chư Phật đồng khen ngợi, liền có thể thuyết pháp giáo-hoá điều-phục chúng-sanh trong tất cả thế-giới, liền có thể chấn-động tất cả thế-giới, liền có thể chiếu sáng tất cả thế-giới, liền có thể dứt diệt những khổ ác đạo của tất cả thế-giới, liền có thể nghiêm-tịnh tất cả quốc-độ, liền có thể thị-hiện thành Phật trong tất cả thế-giới, liền có thể khiến tất cả chúng-sanh đều được vui mừng, liền có thể vào tất cả pháp-giới-tánh, liền có thể được trí-huệ quang-minh của tất cả Phật.
Bồ-Tát sơ-phát-tâm đây chẳng phải cầu được một ít trong tam-thế, như là Phật, phật-pháp, Bồ-Tát, bồ-tát-pháp, Ðộc-giác, độc-giác-pháp, Thinh-văn, thinh-văn-pháp, thế-gian, thế-gian-pháp, xuất-thế-gian, xuất-thế-gian-pháp, chúng-sanh, chúng-sanh-pháp, mà chỉ cầu được nhứt-thiết-chủng-trí, nơi các pháp-giới, tâm không chấp trước.
Lúc bấy giờ, do thần-lực của Phật, mười phương đều mười ngàn phật-sát vi-trần-số thế-giới chấn-động sáu cách, mưa hoa trời, hương trời, tràng hoa trời, y-phục trời, báu-trời, đồ trang-nghiêm-trời, trỗi kỹ-nhạc trời, phóng quang-minh trời và âm-thinh trời.
Lúc đó, mười phương, đều qua khỏi ngoài mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có mười ngàn phật-sát vi-trần-số Phật đồng hiệu Pháp-Huệ, và đều hiện thân ra trước Pháp-Huệ Bồ-Tát mà bảo rằng :
Lành thay ! Lành thay ! Này Pháp-Huệ ! Nay ông có thể thuyết được pháp đó. Chúng thế-gian ở mười phương, đều mười ngàn phật-sát vi-trần-số chư Phật cũng thuyết pháp đó.
Lúc ông thuyết pháp đó, có mười ngàn phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề. Chư Phật chúng thế-gian đều thọ-ký cho họ : qua khỏi ngàn bất-khả-thuyết vô-biên kiếp, đồng xuất thế thành Phật trong một kiếp và đồng hiệu Thanh-Tịnh-Tâm Như-Lai, thế-giới khác nhau.
Chư Phật chúng thế-gian sẽ hộ-trì pháp này, khiến chư Bồ-Tát thời vị-lai, người chưa nghe đều được nghe.
Như ở Ta-Bà thế-giới này, trên đảnh Tu-di thuyết pháp như vậy khiến các chúng-sanh nghe pháp thọ hóa, mười phương trăm ngàn ức-na-do-tha vô-lượng, vô-biên, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới cũng nói pháp này giáo-hóa chúng-sanh. Bồ-Tát thuyết-pháp đồng tên Pháp-Huệ. Ðều do thần-lực của Phật, nguyện-lực của Phật, vì muốn hiển-thị phật-pháp, vì dùng trí-quang chiếu khắp, vì muốn khai xiển thật nghĩa, vì khiến chứng được pháp-tánh, vì khiến hội chúng đều hoan-hỷ, vì muốn khai thị nhơn phật-pháp, vì được tất cả Phật bình-đẳng, vì rõ pháp-giới vô-nhị, nên thuyết-pháp như vậy.
Lúc đó Pháp-Huệ Bồ-Tát quan-sát khắp tất cả chúng-hội mười phương thế-giới, muốn đều thành-tựu các chúng-sanh, muốn đều trừ sạch những nghiệp quả báo, muốn đều khai hiển thanh-tịnh pháp-giới, muốn đều nhổ trừ căn-bổn tạp-nhiễm, muốn đều tăng-trưởng tín giải rộng lớn, muốn đều khiến biết rõ căn-tánh vô-lượng chúng-sanh, muồn đều khiến biết pháp tam-thế bình-đẳng, muốn đều khiến quan-sát niết-bàn-giới, muốn tăng-trưởng thiện-căn thanh-tịnh của mình, thừa oai-lực của Phật mà nói kệ rằng :
Vì lợi thế-gian phát đại tâm
Tâm đó khắp cùng cả mười phương
Chúng-sanh, quốc-độ pháp tam-thế
Phật và Bồ-Tát biển tối-thắng.
Rốt ráo hư-không khắp pháp-giới
Chỗ có tất cả những thế-gian
Như các Phật-pháp đều qua đến
Phát tâm như vậy không thối-chuyển.
Từ-niệm chúng-sanh không tạm bỏ
Lìa những não hại khắp nhiêu ích
Quang-minh chiếu thế làm sở-quy
Thập-Lực hộ niệm khó nghĩ bàn.
Thập phương quốc-độ đều đến vào
Tất cả hình sắc đều thị-hiện
Như Phật phước trí rộng vô-biên
Tùy thuận tu nhơn không chấp trước.
Có cõi ngửa, hoặc nghiêng, hoặc úp
Thô diệu rộng lớn vô-lượng thứ
Bồ-Tát một khi phát đại-tâm
Ðều qua đến được không chướng-ngại.
Bồ-Tát thắng hạnh bất-khả-thuyết
Ðều siêng tu tập vô-sở-trụ
Thấy tất cả Phật lòng mến thích
Khắp vào biển pháp sâu của Phật.
Thương xót ngũ-thú các quần-sanh
Khiến trừ cấu uế khắp thanh-tịnh
Nối thạnh phật-chủng chẳng đoạn-tuyệt
Dẹp dứt cung ma không có thừa.
Ðã trụ Như-Lai bình-đẳng tánh
Khéo tu vi-diệu phương-tiện-đạo
Nơi Phật cảnh-giới sanh tín-tâm
Ðược Phật quán đảnh tâm không trước.
Nhớ nghĩ báo ân cho đức Phật
Lòng như kim-cương chẳng bị ngăn
Có thể chiếu rõ công-hạnh Phật
Tự-nhiên tu tập hạnh bồ-đề.
Các loài sai-biệt vô-lượng tưởng
Nghiệp quả và tâm cũng chẳng một
Nhẫn đến căn-tánh các loại khác
Một khi phát tâm đều thấy rõ.
Tâm đó rộng lớn khắp pháp-giới
Vô-y, vô-biến, như hư-không
Xu-hướng phật-trí, không sở-thủ
Rõ chắc thiệt-tế lìa phân-biệt.
Biết tâm chúng-sanh không sanh-tưởng
Rõ thấu các pháp không pháp-tưởng
Dầu khắp phân-biệt mà vô-biệt
Ức na-do cõi đều qua đến.
Vô-lượng chư Phật diệu-pháp-tạng
Tùy thuận quan-sát đều vào được
Căn hạnh chúng-sanh đều biết cả
Ðến chỗ như vậy là như Phật.
Nguyện lớn thanh-tịnh hằng tương-ưng
Thích cúng-dường Phật không thối-chuyển
Trời người thấy đó không nhàm chán
Thường được chư Phật chỗ hộ niệm.
Tâm đó thanh-tịnh vô-sở-y
Dầu quán thâm-pháp mà chẳng chấp
Tư-duy như vậy vô-lượng kiếp
Ở trong tam-thế không sở trước.
Tâm đó kiên-cố khó chế ngăn
Ðến Phật bồ-đề không chướng-ngại
Chí cầu diệu-đạo trừ mê hoặc
Ði khắp pháp-giới chẳng khổ nhọc.
Biết pháp ngữ ngôn đều tịch-diệt
Chỉ vào chơn-như tuyệt dị-giải
Chư Phật cảnh-giới đều thuận quán
Ðạt nơi tam-thế tâm vô-ngại.
Bồ-Tát mới phát tâm rộng lớn
Có thể qua khắp mười phương cõi
Pháp-môn vô-lượng bất-khả-thuyết
Trí-quang chiếu khắp đều sáng tỏ.
Ðại-bi rộng độ rất không sánh
Từ-tâm cùng khắp đồng hư-không
Mà với chúng-sanh chẳng phân-biệt
Thanh-tịnh như vậy đi thế-gian.
Thập phương chúng-sanh đều an-ủy
Tất cả chỗ làm đều chơn-thật
Hằng dùng tịnh-tâm lời chẳng khác
Thường được chư Phật đồng gia-hộ.
Quá-khứ chỗ có đều ghi nhớ
Vị-lai tất cả đều phân-biệt
Thập phương thế-giới khắp vào trong
Ðể độ chúng-sanh khiến ra khỏi.
Bồ-Tát đầy đủ diệu trí-quang
Khéo rõ nhơn-duyên không có nghi
Tất cả mê hoặc đều dứt trừ
Như vậy mà đi nơi pháp-giới.
Ma-Vương cung-điện đều dẹp phá
Chúng-sanh màn lòa đều trừ dứt
Lìa những phân-biệt tâm chẳng động
Khéo rõ cảnh-giới của Như-Lai.
Lưới nghi tam-thế đều đã trừ
Ðối với Như-Lai sanh tịnh-tín
Do tin được thành trí bất-động
Do trí thanh-tịnh hiểu chơn-thiệt.
Vì khiến chúng-sanh được xuất ly
Tận thời vị-lai khắp lợi-ích
Mãi mãi cần khổ tâm chẳng nhàm
Nhẫn đến địa-ngục cũng an-thọ.
Phước trí vô-lượng đều đầy đủ
Chúng-sanh căn dục đều rõ biết
Và những nghiệp-hạnh đều biết cả
Theo sở-thích họ vì thuyết-pháp.
Rõ biết tất cả không vô-ngã
Từ-niệm chúng-sanh thường không bỏ
Dùng một đại-bi vi-diệu âm
Vào khắp thế-gian mà diễn-thuyết.
Phóng đại quang-minh các mầu sắc
Chiếu khắp chúng-sanh trừ đen tối
Trong quang Bồ-Tát ngồi liên-hoa
Vì chúng xiển-dương pháp thanh-tịnh.
Nơi đầu một lông hiện các cõi
Chư đại Bồ-Tát đều sung mãn
Chúng-hội trí-huệ sai-khác cả
Ðều rõ biết được tâm chúng-sanh.
Thập phương thế-giới bất-khả-thuyết
Một niệm đi khắp hết tất cả
Lợi ích chúng-sanh cúng-dường Phật
Nơi chỗ chư Phật hỏi thâm-nghĩa.
Nơi chư Như-Lai tưởng là cha
Vì lợi chúng-sanh tu giác-hạnh
Trí-huệ thiện-xảo thông pháp-tạng
Vào nơi thâm-trí không sở-trước.
Tùy thuận tư-duy nói pháp-giới
Trải vô-lượng kiếp chẳng cùng tận
Trí dầu khéo vào không xứ sở
Không có mỏi nhàm không sở-trước.
Sanh trong nhà tam-thế chư Phật
Chứng được Như-Lai diệu pháp-thân
Khắp vì quần-sanh hiện các sắc
Ví như thuật-gia làm tất cả.
Hoặc hiện mới tu hạnh thù-thắng
Hoặc hiện sơ-sanh và xuất-gia
Hoặc hiện dưới cây thành bồ-đề
Hoặc vì chúng-sanh hiện nhập diệt.
Bồ-Tát trụ nơi pháp hi-hữu
Là Phật-cảnh chẳng phải nhị-thừa
Thân ngữ ý tưởng đều đã trừ
Các thứ tùy nghi đều hiện được.
Bồ-Tát chỗ được các phật-pháp
Chúng-sanh tư-duy phát cuồng loạn
Trí nhập thiệt-tế tâm vô-ngại
Khắp hiện Như-Lai sức tự-tại.
Ðây ở thế-gian không sánh bằng
Huống là lại thêm hạnh thù-thắng
Dầu chưa đầy đủ nhất-thiết-trí
Ðã được Như-Lai tự-tại-lực.
Ðã trụ nhứt-thừa đạo rốt-ráo
Sâu vào pháp vi-diệu tối-thượng
Khéo biết chúng-sanh thời, phi-thời
Vì lợi-ích nên hiện thần-thông.
Phân thân đầy khắp tất cả cõi
Phóng tịnh quang-minh trừ đời tối
Ví như Long-Vương khởi đại-vân
Khắp tuôn mưa mầu đều đầy thấm.
Quan-sát chúng-sanh như ảo-mộng
Do nghiệp-lực nên thường lưu chuyển
Ðại-bi xót thương đều cứu vớt
Vì nói vô-vi tịnh pháp-tánh.
Phật-lực vô-lượng đây cũng vậy
Ví như hư-không vô-lượng-biên
Vì khiến chúng-sanh được giải-thoát
Ức kiếp siêng tu không mỏi nhọc.
Quan-sát tư-duy diệu công-đức
Khéo tự-tại hạnh đệ-nhứt vô-thượng
Nơi các thắng-hạnh luôn chẳng bỏ
Chuyên niệm sanh thành nhứt-thiết-trí.
Một thân thị-hiện vô-lượng thân
Tất cả thế-giới đều đầy khắp
Tâm đó thanh-tịnh vô phân-biệt
Một niệm khó nghĩ, sức như vậy.
Nơi các thế-gian chẳng phân-biệt
Nơi tất cả pháp không vọng-tưởng
Quán sâu các pháp mà chẳng lấy
Hằng cứu chúng-sanh không sở-độ.
Tất cả thế-gian chỉ là tưởng
Ở trong các thứ đều sai khác
Biết cảnh-giới tưởng hiểm và sâu
Vì hiện thần-thông để độ thoát.
Ví như thuật-gia sức tự-tại
Bồ-Tát thần-biến cũng như vậy
Thân khắp pháp-giới và hư-không
Tùy tâm chúng-sanh đều được thấy.
Năng sở phân-biệt lìa cả hai
Tạp nhiễm thanh-tịnh không sở-thú
Hoặc phược hoặc giải trí đều quên
Chỉ nguyện khắp ban vui quần-chúng.
Tất cả thế-gian chỉ tưởng lực
Dùng trí mà vào tâm vô-úy
Tư-duy các pháp cũng như vậy
Suy cầu tam-thế bất-khả-đắc.
Hay vào quá-khứ trọn thời trước
Hay vào vị-lai trọn thời sau
Hay vào hiện-tại tất cả chỗ
Thường siêng quan-sát không chỗ có.
Tùy-thuận niết-bàn pháp tịch-diệt
Trụ nơi vô-tránh vô-sở-y
Tâm như thiệt-tế không gì sánh
Chuyên hướng bồ-đề trọn chẳng thối.
Tự-tại những thắng hạnh không thối khiếp
An trụ bồ-đề chẳng động lay
Phật và Bồ-Tát cùng thế-gian
Cùng tận pháp-giới đều sáng tỏ.
Muốn được tối-thắng đạo đệ nhứt
Là vua giải-thoát nhứt-thiết-trí
Nên phải mau phát bồ-đề tâm
Hết hẳn hữu-lậu lợi quần-sanh.
Xu-hướng bồ-đề tâm thanh-tịnh
Công-đức rộng lớn bất-khả-thuyết
Vì lợi quần-sanh nên khen thuật
Phật-tử các ngài nên nghe kỹ.
Vô-lượng thế-giới đều làm bụi
Trong mỗi hạt bụi vô-lượng cõi
Mỗi cõi chư Phật đều vô-lượng
Ðều hay thấy rõ không sở-thủ.
Khéo biết chúng-sanh không sanh-tưởng
Khéo biết ngữ-ngôn không ngữ-tưởng
Nơi các thế-giới tâm vô ngại
Ðều khéo biết rõ không sở-trước.
Tâm đó rộng lớn như hư-không
Việc trong tam-thế đều rõ suốt
Tất cả nghi-hoặc đều dứt trừ
Chánh-quán phật-pháp không sở-thủ.
Mười phương vô-lượng các quốc-độ
Một niệm qua đến lòng vô-trước
Liễu đạt thế-gian những pháp khổ
Ðều trụ vô-sanh chân-thiệt-tế.
Vô-lượng nan-tư chỗ chư Phật
Ðều đến hội đó để lễ Phật
Thường làm thượng-thủ hỏi Như-Lai
Bồ-Tát thật-hành những nguyện-hạnh.
Tâm thường nhớ đến Phật mười phương
Mà không sở-y không sở-thủ
Hằng khuyên chúng-sanh trồng thiện-căn
Trang-nghiêm quốc-độ khiến thanh-tịnh.
Tất cả chúng-sanh trong ba cõi
Dùng vô-ngại-nhãn đều quan-sát
Bao nhiêu tập tánh những căn giải
Vô-lượng vô-biên đều thấy rõ.
Chúng-sanh sở-thích đều rõ biết
Như vậy tùy nghi vì thuyết pháp
Nơi những nhiễm tịnh đều thông đạt
Khiến kia vô-số những tam-muộI
Bồ-Tát một niệm đều vào được
Trong đó tưởng trí và sở-duyên
Ðều khéo biết rõ được tự-tại.
Bồ-Tát được trí rộng lớn này
Mau đến bồ-đề không sở-ngại
Vì muốn lợi ích các quần-sanh
Mọi nơi tuyên dương đại-nhơn pháp.
Khéo biết thế-gian kiếp dài ngắn
Một tháng nửa tháng và ngày đêm
Quốc-độ riêng biệt tánh bình-đẳng
Thường siêng quan-sát chẳng phóng-dật.
Ðến khắp mười phương các thế-giới
Mà nơi phương xứ không sở-thủ
Nghiêm-tịnh quốc-độ đều không thừa
Mà chẳng phân biệt là nghiêm-tịnh.
Chúng-sanh thị-xứ hoặc phi-xứ
Và đến những nghiệp hoặc báo khác
Tùy thuận tư-duy vào Phật-lực
Nơi đây tất cả đều rõ biết.
Tất cả thế-gian những căn tánh
Những thứ nghiệp-hạnh vào ba cõi
Lợi-căn và trung cùng hạ-căn
Tất cả như vậy đều quan-sát.
Tịnh cùng bất-tịnh những tri-giải
Thắng, liệt và trung đều thấy rõ
Công-hạnh chỗ đến của chúng-sanh
Ba cõi tương-tục đều thuyết được.
Thiền-định giải-thoát các tam-muội
Nhiễm-tịnh nhơn khởi đều chẳng đồng
Và cùng đời trước khổ vui khác
Tịnh tu phật-lực đều hay thấy.
Chúng-sanh nghiệp hoặc nối các loài
Dứt các loài này được tịch-diệt
Những pháp hữu-lậu trọn chẳng sanh
Và tập chủng kia đều rõ biết.
Như-Lai phiền-não đều trừ hết
Ðại-trí quang-minh chiếu thế-gian
Bồ-Tát ở trong Phật thập-lực
Dầu chưa chứng được cũng không nghi.
Bồ-Tát ở trong một chưn lông
Niệm khắp mười phương vô-lượng cõi
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thế-gian
Các thứ nghiệp hạnh đều rõ biết.
Trong một vi-trần vô-lượng cõi
Vô-lượng chư Phật và Phật-tử
Các cõi riêng khác không tạp loạn
Như một, tất cả đều thấy rõ.
Nơi một chưn lông thấy mười phương
Hết Hư-không-giới các thế-gian
Chẳng có một nơi không có Phật
Cõi Phật như vậy đều thanh-tịnh.
Ở trong chưn lông thấy cõi Phật
Lại thấy tất cả các chúng-sanh
Tam-thế sáu loài đều chẳng đồng
Ngày, đêm, giờ, tháng có phược giải.
Ðại-trí như vậy các Bồ-Tát
Chuyên tâm xu-hướng ngôi Pháp-Vương
Nơi cảnh Phật trụ thuận tư-duy
Mà được vô-biên đại-hoan-hỷ.
Bồ-Tát phân thân vô-lượng ức
Cúng-dường tất cả chư Như-Lai
Thần-thông biến-hiện thắng vô-tỉ
Chỗ Phật sở-hành đều trụ được.
Với vô-lượng Phật đều mến khen
Bao nhiêu pháp-tạng đều say nếm
Thấy Phật nghe pháp siêng tu hành
Như uống cam-lộ lòng vui đẹp.
Ðã được Như-Lai thắng tam-muội
Khéo vào các pháp trí tăng-trưởng
Tín tâm bất động như Tu-Di
Làm tạng công-đức cho quần-sanh.
Từ-tâm rộng lớn khắp chúng-sanh.
Ðều nguyện mau thành nhứt-thiết-trí
Mà luôn vô-trước, không sở-y
Lìa các phiền-não được tự-tại.
Trí rộng lớn thương xót chúng-sanh
Nhiếp khắp tất cả đồng với mình
Biết không, vô-tướng, không chơn thật
Mà lòng tu hành không lười trễ.
Bồ-Tát phát tâm lượng công-đức
Ức kiếp ca ngợi không hết được
Vì xuất-sanh các đức Như-Lai
Và quả Thinh-văn quả Ðộc-giác.
Mười phương quốc-độ các chúng-sanh
Ban cho an-vui vô-lượng-kiếp
Khuyên trì ngũ giới và thập thiện
Tứ-thiền, tứ-tâm, các định-xứ.
Lại trọn nhiều kiếp ban an vui
Khiến dứt phiền-não thành La-Hán
Những phước-đức đó dầu vô-lượng
Nhưng chẳng bằng công-đức phát tâm.
Lại dạy ức chúng thành duyên-giác
Ðược hạnh vô-tránh đạo vi-diệu
Ðem đó sánh với bồ-đề tâm
Toán-số thí-dụ không bằng được.
Một niệm qua được trần số cõi
Như vậy đi mãi vô-lượng kiếp
Số những cõi đó còn tính được
Công-đức phát tâm chẳng thể biết.
Quá-khứ, vị-lai và hiện tại
Bao nhiêu kiếp-số vô-lượng-biên
Những kiếp số này còn biết được
Công-đức phát tâm chẳng thể lường.
Do tâm bồ-đề khắp mười phương
Bao nhiêu phân-biệt đều biết cả
Một niệm tam-thế đều thấu tỏ
Vì lợi-ích vô-lượng chúng-sanh.
Thập phương thế-giới những chúng-sanh
Ý muốn, tri-giải và phương tiện
Ðến hư-không-giới đều lường được
công-đức phát tâm khó lường biết.
Bồ-Tát chí nguyện khắp mười phương
Từ-tâm lợi khắp các quần-sanh
Ðều khiến tu-hành Phật công-đức
Thế nên sức đó không ngằn mé.
Chúng-sanh : muốn, hiểu, lòng sở-thích
Căn-tánh, phương-tiện, hạnh riêng biệt
Nơi trong một niệm đều rõ biết
Nhứt-thiết-trí-trí tâm đồng đẳng.
Tất cả chúng-sanh các hoặc nghiệp
Ba cõi tương-tục không tạm dứt
Những ngằn mé này còn biết được
Công-đức phát tâm khó nghĩ bàn.
Phát tâm hay lìa nghiệp phiền-não
Cúng-dường tất cả chư Như-Lai
Nghiệp hoặc đã lìa tương-tục dứt
Khắp trong bình-đẳng đời được giải-thoát.
Một niệm cúng-dường vô-biên Phật
Cũng cúng vô-số các chúng-sanh
Ðều dùng hương hoa và tràng đẹp
Tràng phan lọng báu y-phục tốt.
Thức ngon tòa báu chỗ kinh-hành
Các thứ cung-điện đều nghiêm tốt
Tỳ-Lô-Giá-Na diệu bửu-châu
Như-ý ma-ni phát sáng chói,
Như vậy niệm niệm đem cúng-dường
Trọn vô-lượng kiếp bất-khả-thuyết
Người đó phước-tụ dầu lại nhiều
Chẳng bằng phát tâm công-đức lớn.
Ðã nói bao nhiêu những ví-dụ
Không có bằng được bồ-đề-tâm
Bởi vì tam-thế chư Như-Lai
Ðều từ phát tâm này mà có.
Phát tâm vô-ngại không chừng ngằn
Muốn cầu lượng đó không thể được
Nhứt-thiết-trí-trí nguyện tất thành
Bao nhiêu chúng-sanh đều độ trọn.
Phát tâm rộng lớn đồng hư-không
Sanh những công-đức đồng pháp-giới
Công-hạnh phổ-biến không khác : 'như'
Trọn lìa chấp-trước bình-đẳng : 'Phật'.
Tất cả pháp-môn đều vào cả
Tất cả quốc-độ đều qua được
Tất cả trí-cảnh đều thông-đạt
Tất cả công-đức đều thành-tựu.
Tất cả năng-xả luôn tương tục
Tịnh các giới-phẩm không sở-trước
Ðầy đủ vô-thượng công-đức lớn
thường siêng tinh-tấn bất-thối-chuyển.
Vào thâm thiền-định thường tư-duy
Trí-huệ rộng lớn đồng tương-ưng
Ðây là bực Bồ-Tát tối-thắng
Xuất sanh tất cả đạo Phổ-Hiền.
Tam-thế tất cả chư Như-Lai
Ðều dùng tam-muội đà-la-ni
Thần-thông biến-hóa đồng trang-nghiêm.
Mười phương chúng-sanh vô-biên-lượng
Thế-giới hư-không cũng như vậy
Phát tâm vô-lượng hơn số kia
Do đây hay sanh tất cả Phật.
Bồ-đề tâm là gốc thập-lực
Cũng là gốc tứ-biện vô-úy
Và mười tám phật-pháp bất-cộng
Tất cả đều từ phát tâm được.
Chư Phật thân sắc-tướng đoan-nghiêm
Nhẫn đến diệu-pháp-thân bình-đẳng
Trí-huệ vô-trước đáng cúng-dường
Ðều do phát tâm mà được có.
Tất cả Ðộc-Giác Thinh-Văn thừa
Sắc-giới tứ-thiền tam-muội lạc
Và vô sắc-giới tứ định-xứ
Ðều do phát tâm làm cội gốc.
Tất cả Trời người tự-tại vui
Nhẫn đến các loài các thứ vui
Tinh-tấn, định, huệ, căn, lực thảy
Tất cả đều do sơ-phát-tâm.
Từ nhơn phát khởi tâm rộng lớn
Thời hay tu-hành lục-độ hạnh
Khuyên các chúng-sanh tự-tại chánh-hạnh
Ở trong tam-giới thọ an-vui.
Trụ Phật-trí vô-ngại thiệt nghĩa
Bao nhiêu diệu-hạnh đều khai mở
Hay khiến vô-lượng các chúng-sanh
Ðều dứt hoặc nghiệp hướng niết-bàn.
Trí-huệ sáng chói như tịnh-nhựt
Các hạnh đầy đủ như trăng tròn
Công-đức luôn đầy như biển-cả
Không nhơ không ngại đồng hư-không.
Khắp phát vô-biên nguyện công-đức
Ðều ban vui tất cả chúng-sanh
Tận thuở vị-lai y nguyện hạnh
Thường siêng tu tập độ chúng-sanh.
Vô-lượng đại-nguyện khó nghĩ bàn
Nguyện khiến chúng-sanh đều thanh-tịnh
Không, vô-tướng, vô-nguyện, vô-y
Do vì nguyện-lực đều hiển rõ.
Rõ pháp tự-tánh như hư-không
Tất cả tịch-diệt đều bình-đẳng
Pháp-môn vô-số bất-khả-thuyết
Vì chúng-sanh nói không sở-trước.
Thập phương thế-giới chư Như-Lai
Ðều đồng tán-thán sơ-phát-tâm
Tâm này vô-lượng đức trang-nghiêm
Ðến được bờ kia đồng với Phật.
Như số chúng-sanh ngần ấy kiếp
Nói công-đức đó chẳng thể hết
Bởi ở nhà lớn của Như-Lai
Các pháp thế-gian không dụ được.
Muốn biết tất cả các phật-pháp
Phải nên mau phát bồ-đề-tâm
Tâm này hơn hết trong công-đức
Tất được Như-Lai vô-ngại-trí.
Chúng-sanh tâm hành đếm biết được
Quốc-độ vi-trần cũng đếm được
Ngằn mé hư-không có thể lường
Phát tâm công-đức không lường được.
Xuất-sanh tam-thế tất cả Phật
Thành-tựu thế-gian tất cả vui
Tăng-trưởng tất cả thắng công-đức
Dứt hẳn tất cả các nghi hoặc.
Khai-thị tất cả diệu cảnh-giới
Trừ hết tất cả các chướng-ngại
Thành-tựu tất cả cõi thanh-tịnh
Xuất-sanh tất cả trí Như-Lai.
Muốn thấy thập-phương tất cả Phật
Muốn ban vô tận công-đức tạng
Muốn diệt chúng-sanh tất cả khổ
Phải nên mau phát bồ-đề-tâm.
**********************************************************************
Phẩm Minh Pháp
Thứ mười tám
Hán Dịch:Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Lúc bấy giờ Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát bạch Pháp-Huệ Bồ-Tát rằng : 'Thưa Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát sơ-phát bồ-đề-tâm, thành tựu vô-lượng công-đức như vậy, đủ trang-nghiêm lớn, lên Phật-thừa, vào chính-vị Bồ-Tát, bỏ những pháp thế-gian, được pháp xuất-thế của Phật, được tam-thế chư Phật nhiếp-thọ, quyết định đến chỗ vô-thượng bồ-đề rốt ráo.
Chư Bồ-Tát đó ở trong phật-giáo, tu-tập thế nào khiến chư Phật đều hoan-hỷ, vào chỗ trụ của chư Bồ-Tát, tất cả đại-hạnh đều được thanh-tịnh, bao nhiêu đại-nguyện đều khiến đầy đủ, được tạng rộng lớn của Bồ-Tát, tùy chỗ đáng hóa độ thường vì thuyết-pháp mà luôn chẳng bỏ hạnh ba-la-mật, chúng-sanh sở-niệm đều làm cho được giải-thoát, nối thạnh phật-chủng khiến chẳng đoạn-tuyệt, thiện-căn phương-tiện thảy đều chẳng luống ?
Thưa Phật-tử ! Chư Bồ-Tát đó dùng phương-tiện gì có thể sẽ viên-mãn được những pháp đó ? Xin xót thương tuyên nói cho đại-chúng, trong hội này đều muốn nghe.
Và như chư đại Bồ-Tát thường siêng tu-tập dứt trừ tất cả vô-minh hắc ám, hàng phục ma oán, chế các ngoại-đạo, rửa sạch hẳn tất cả tâm nhơ phiền-não, đều có thể thành-tựu tất cả thiện-căn, ra khỏi hẳn tất cả ác thú các nạn, tu tập tất cả cảnh-giới đại-trí, thành-tựu tất cả bực Bồ-Tát, các ba-la-mật, tổng-trì, tam-muội, lục thông, tam-minh, tứ-vô-sở-úy, công-đức thanh-tịnh, trang-nghiêm tất cả quốc-độ chư Phật, và những tướng hảo, thân-hạnh, ngữ-hạnh, tâm-hạnh đều thành-tựu đầy đủ, khéo biết lực, vô-úy, bất-cộng, nhứt-thiết-chủng-trí và cảnh-giới sở-hành của tất cả chư Phật Như-Lai, vì muốn thành thục tất cả chúng-sanh tùy tâm sở-thích của họ mà lấy phật-độ, tùy căn, tùy thời diễn thuyết vô-lượng pháp, phật-sự rộng lớn, và vô-lượng-pháp công-đức khác, những hạnh, những đạo và những cảnh-giới thảy đều viên-mãn, mau bình-đẳng với công-đức của Như-Lai, nơi chư Như-Lai lúc tu bồ-tát-hạnh trong trăm ngàn vô-số kiếp chứa họp pháp-tạng đều thủ-hộ được và khai-thị diễn thuyết được, các ma ngoại-đạo không thể làm ngại hư, nhiếp-trì chánh-pháp không cùng tận, lúc thuyết-pháp ở tất cả thế-giới được Thiên, Long, Bát-Bộ, Nhơn-Vương, Phạm-Vương, nhẫn đến Như-Lai Pháp-Vương thảy đều thủ-hộ, tất cả thế-gian cung-kính cúng-dường, thường được chư Phật hộ-niệm, tất cả Bồ-Tát cũng đều ái-kính, được sức thiện-căn thêm lớn pháp lành, khai diễn pháp-tạng rất sâu của Như-Lai, nhiếp-trì chánh-pháp để tự trang-nghiêm. Công-hạnh thứ đệ của tất cả Bồ-Tát, trong mong ngài đều diễn thuyết cho.
Lúc đó Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này ma nói kệ rằng :
Ðấng Ðại-Danh-Xưng khéo diễn thuyết
Công-đức sở thành của Bồ-Tát
Sâu vào vô-biên hạnh rộng lớn
Ðầy đủ thanh-tịnh trí vô-sư.
Nếu có Bồ-Tát sơ-phát-tâm
Thành-tựu bực phước-đức trí-huệ
Vào vô-sanh-vị siêu thế-gian
Trọn được pháp bồ-đề vô-thượng.
Lại kia thế nào trong phật-giáo
Kiên-cố siêng tu càng thêm hơn
Khiến chư Như-Lai đều hoan-hỷ
Trụ-địa của Phật mau được vào.
Nguyện hạnh thanh-tịnh đều đầy đủ
Và được tạng trí-huệ rộng lớn
Thường hay thuyết pháp độ chúng-sanh
Mà tâm vô-y và vô-trước.
Bồ-Tát tất cả bình-đẳng-la-mật
Ðều khéo tu-hành không khuyết giảm
Chúng-sanh sở-niệm đều cứu-độ
Thường trì phật-chủng khiến chẳng dứt.
Chỗ làm kiên cố chẳng luống bỏ
Tất cả công thành được xuất-ly
Như chư Bồ-Tát chỗ tu hành
Ðạo thanh-tịnh kia nguyện tuyên nói.
Phá hẳn tất cả tối vô-minh
Hàng phục các ma và ngoại-đạo
Bao nhiêu cấu uế đều trừ sạch
Ðược gần Như-Lai bực đại-trí.
Lìa hẳn ác-đạo các hiểm nạn
Tu tập cảnh đại-trí thù-thắng
Ðược sức diệu-đạo gần đức Phật
Tất cả công-đức đều thành-tựu.
Chứng được Như-Lai trí tối-thắng
Trụ ở vô-lượng các quốc-độ
Tùy tâm chúng-sanh mà thuyết-pháp
Và làm các phật-sự rộng lớn.
Thế nào mà được các diệu-đạo
Khai diễn Như-Lai chánh-pháp-tạng
Thường hay thọ-trì các phật-pháp
Không ai hơn được, không ai bằng.
Thế nào vô-úy như sư-tử
Chỗ làm thanh-tịnh như trăng-tròn ?
Thế nào tu tập công-đức Phật
Dường như liên-hoa chẳng dính nước ?
Lúc đó Pháp-Huệ Bồ-Tát nói với Tinh-Tấn-Huệ Bồ-Tát rằng : 'Lành thay Phật-tử ! Nay ngài muốn được nhiều lợi-ích, nhiều an-vui, nhiều ơn huệ, thương xót thế-gian chư thiên và loài người mà hỏi hạnh thanh-tịnh của Bồ-Tát tu tập như vậy.
Thưa Phật-tử ! Ngài trụ thiệt-pháp, phát đại-tinh-tấn, tăng-trưởng bất-thối, đã được giải-thoát, có thể hỏi như trên đây, đồng với đức Như-Lai.
Ngài lóng nghe khéo suy nghĩ, nay tôi thừa oai-lực của đức Phật mà nói phần ít trong vấn đề đó.
Thưa Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, phải lìa si tối, tinh-tấn gìn giữ chớ có phóng dật.
Ðại Bồ-Tát trụ mười pháp sau đây gọi là chẳng phóng dật :
Một là giữ gìn giới cấm; hai là xa lìa ngu-si, tâm bồ-đề thanh-tịnh; ba là lòng thích ngay thẳng rời điều dua phỉnh; bốn là siêng tu căn lành không thối-chuyển; năm là luôn khéo tư-duy tâm của mình đã phát; sáu là chẳng thích gần-gũi tất cả phàm-phu tại-gia hay xuất-gia; bảy là tu những nghiệp lành mà chẳng mong cầu quả báo thế-gian; tám là lìa hẳn nhị-thừa mà thật hành bồ-tát-hạn; chín là thích tu-tập điều lành chẳng để đoạn tuyệt; mười là luôn khéo quan-sát sức tương-tục của mình.
Ðại Bồ-Tát trụ bất-phóng-dật thời được diều thanh-tịnh dưới đây :
Một là thật hành đúng như lời nói; hai là niệm-trí được thành-tựu; bình-đẳng là trụ nơi thâm định chẳng trầm chẳng điệu; bốn là thích cầu phật-pháp không lười bỏ; năm là theo pháp được nghe quan-sát đúng lý sanh diệu trí-huệ; sáu là nhập thâm thiền-định được phật-thần-thông; bảy là tâm bình-đẳng không cao hạ; tám là tâm không chướng-ngại đối với chúng-sanh loại thượng trung hạ, bình-đẳng lợi-ích như đại-địa; chín là nếu thấy chúng-sanh nhẫn đến một phen phát bồ-đề-tâm thời tôn trọng kính thờ xem như hoà-thượng; mười là đối với hòa-thượng và a-xà-lê thọ-giới, chư Bồ-Tát, các thiện-tri-thức, các pháp-sư luôn tôn trọng kính thờ.
Bồ-Tát trụ bất-phóng-dật phát đại-tinh-tấn, khởi chánh-niệm, sanh-thắng-nguyện, tu hành chẳng dứt, tâm không y tựa tất cả pháp, hay siêng tu tập pháp thậm-thâm, vào môn vô-tránh them tâm quảng-đại, có thể thuận biết rõ vô-biên phật-pháp, khiến chư Phật đều hoan-hỷ.
Bồ-Tát lại có mười pháp sau đây có thể làm cho chư Phật hoan-hỷ :
Một là tinh-tấn bất-thối; hai là chẳng tiếc thân mạng; bình-đẳng là không mong cầu lợi-dưỡng; bốn là biết tất cả pháp đều như hư-không; năm là khéo quan-sát vào khắp pháp-giới; sáu là biết các pháp-ấn lòng không ỷ-trước; bảy là luôn phát đại-nguyện; tám là thành tựu nhẫn-trí; chín là quan-sát pháp lành của mình lòng không tăng giảm; mười là y vô-tác-môn tu những tịnh hạnh.
Lại có mười pháp sau đây có thể làm chư Phật hoan-hỷ :
An-trụ bất phóng-dật; an-trụ vô-sanh-nhẫn; an-trụ đại-từ; an-trụ đại-bi; an-trụ đầy đủ các môn ba-la-mật; an-trụ đại-hạnh; an-trụ đại-nguyện; an-trụ xảo phương-tiện; an-trụ dũng mãnh lực; an-trụ trí-huệ, quan-sát tất cả pháp đều vô-trụ, như hư-không.
Có mười pháp sau đây làm cho Bồ-Tát mau nhập các địa :
Một là khéo viên-mãn hai hạnh phước và trí; hai là có thể trang-nghiêm đạo ba-la-mật; bình-đẳng là trí-huệ sáng suốt chẳng tùy tha-ngữ; bốn là kính thờ thiện-hữu luôn không bỏ lìa; năm là thường hành tinh-tấn không giải-đãi; sáu là khéo an-trụ Như-Lai thần-lực; bảy là tu các căn lành chẳng sanh mỏi nhọc; tám là thâm-tâm lợi-trí dùng pháp đại-thừa để tự trang-nghiêm; chín là đối với pháp-môn của các địa tâm không trụ; mười là đồng một thể-tánh với thiện-căn phương-tiện của tam-thế chư Phật.
Bồ-Tát lúc sơ-trụ-địa phải khéo quan-sát tùy nơi mình, có tất cả pháp-môn, có thậm-thâm trí-huệ, tùy nhơn đã tu, tùy quả đã được, tùy cảnh-giới mình, tùy lực dụng mình, tùy chỗ thị-hiện của mình, tùy mình phân biệt, tùy mình đã được, đều khéo quan-sát biết tất cả pháp đều là tự-tâm mà không sở-trước. Biết được như vậy vào bồ-đề-địa hay khéo an-trụ.
Bồ-Tát đó suy nghĩ rằng : chúng ta phải nên mau vào các địa. Vì nếu chúng ta trụ trong các địa thành-tựu công-đức rộng lớn như vậy. Ðã đủ công-đức thời lần lần vào phật-địa. Ðã trụ phật-địa thời có thể làm vô-biên phật-sự rộng lớn. Do đây nên phải thường siêng tu tập không thôi nghỉ, không mỏi nhọc. Dùng đại công-đức mà tự trang-nghiêm vào bồ-tát-địa.
Có mười pháp dưới đây làm cho Bồ-Tát chỗ thật hành thanh-tịnh :
Một là xả hết của cải để làm vừa ý chúng-sanh; hai là trì-giới thanh-tịnh không hủy phạm; ba là nhu hòa nhẫn nhục không cùng tận; bốn là siêng tu các hạnh trọn chẳng thối chuyển; năm là do chánh-niệm không mê loạn; sáu là phân biệt rõ biết vô-lượng pháp; bảy là tu tất cả hạnh mà không sở-trước; tám là tâm bất động dường như núi Tu-Di; chín là rộng độ chúng-sanh dường như cầu đò; mười là biết tất cả chúng-sanh cùng chư Phật đồng một thể-tánh.
Bồ-Tát đã được hạnh thanh-tịnh lại được mười pháp tăng thắng dưới đây :
Một là chư Phật phương khác đều hộ-niệm; hai là thiện-căn tăng thắng siệu-việt đẳng cấp; ba là khéo lãnh thọ được sức gia-trì của Phật; bốn là thường được thiện-nhơn làm chỗ nương tựa; năm là an-trụ tinh-tấn hằng chẳng phóng-dật; sáu là biết tất cả pháp bình-đẳng không khác; bảy là lòng luôn an-trụ đại-bi vô-thượng; tám là quan-sát các pháp đúng thật xuất sanh diệu-huệ; chín là khéo có thể tu hành phương-tiện thiện-xảo; mười là có thể biết sức phương-tiện của Như-Lai.
Bồ-Tát có mười nguyện thanh-tịnh như dưới đây :
Một là nguyện thành-thục chúng-sanh không mỏi nhàm; hai là nguyện thật hành đủ điều lành để nghiêm tịnh thế-giới; ba là nguyện thừa sự Như-Lai luôn kính trọng; bốn là nguyện hộ-trì chánh-pháp chẳng tiếc thân mạng; năm là nguyện dùng trí quan-sát vào các phật-độ; sáu là nguyện cùng các Bồ-Tát đồng một thể-tánh; bảy là nguyện vào cửa Như-Lai rõ tất cả pháp; tám là nguyện người thấy sanh tin đều được lợi-ích; chín là nguyện thần-lực trụ thế tận-kiếp vị-lai; mười là nguyện đủ phổ-hiền-hạnh tu tập môn nhứt-thiết-chủng-trí.
Bồ-Tát trụ mười pháp sau đây làm cho những đại-nguyện đều được viên mãn :
Một là lòng không nhàm chán; hai là đủ đại trang-nghiêm; ba là nhớ nguyện lực thù-thắng của chư Bồ-Tát; bốn là nghe các phật-độ đều nguyện vãng-sanh; năm là thâm-tâm lâu dài tận kiếp vị-lai; sáu là nguyện trọn thành-tựu tất cả chúng-sanh; bảy là trụ tất cả kiếp chẳng lấy làm nhọc; tám là thọ tất cả khổ chẳng sanh nhàm lìa; chín là nơi tất cả vui lòng không tham trước; mười là thường siêng gìn giữ pháp-môn vô-thượng.
Lúc Bồ-Tát đầy đủ những nguyện như vậy, liền được mười vô-tận-tạng sau đây :
Vô-tận-tạng thấy khắp chư Phật, vô-tận-tạng tổng-trì chẳng quên, vô-tận-tạng quyết rõ các pháp, vô-tận-tạng đại-bi cứu hộ, vô-tận-tạng các môn tam-muội, vô-tận-tạng phước-đức rộng lớn làm thỏa mãn lòng chúng-sanh, vô-tận-tạng trí-huệ rất sâu diễn tất cả pháp, vô-tận-tạng báo được thần-thông, vô-tận-tạng trụ vô-lượng kiếp, vô-tận-tạng vào vô-biên thế-giới.
Bồ-Tát đã được mười tạng vô-tận thời đầy đủ phước-đức, trí-huệ thanh-tịnh, tùy nghi mà thuyết-pháp với chúng-sanh.
Với các chúng-sanh, thế nào là Bồ-Tát tùy nghi mà thuyết-pháp ?
Bồ-Tát biết chỗ làm của họ, biết nhơn-duyên của họ, biết tâm hành của họ, biết sở-thích của họ.
Bồ-Tát đối với người nhiều tham dục thời thuyết bất-tịnh, với người nhiều sân hận thời thuyết đại-từ, với người nhiều ngu-si thời dạy họ siêng quan-sát, với người ba độc đồng đều, thời thuyết pháp-môn thành-tựu thắng-trí, với người ưa thích sanh-tử thời thuyết ba sự khổ, với người chấp-trước thời thuyết không-tịch, với người giải-đãi thời thuyết tinh-tấn, với người ngã-mạn thời thuyết pháp bình-đẳng, với người nhiều dua phỉnh thời thuyết tâm chất-trực, với người thích tịch-tịnh thời thuyết pháp rộng, khiến họ được thành-tựu.
Bồ-Tát tùy nghi thuyết-pháp như vậy.
Lúc Bồ-Tát thuyết-pháp : văn liên-thuộc nhau, nghĩa không sai lầm, quan-sát pháp trước sau dùng trí phân-biệt, thẩm định phải quấy, chẳng trái pháp-ấn, thứ-đệ kiến-lập vô-biên hạnh-môn khiến các chúng-sanh dứt tất cả nghi ngờ, khéo biết căn-tánh và giáo pháp Như-Lai, chứng chơn-lý, biết pháp bình-đẳng, dứt những pháp-ái, trừ tất cả chấp, thường nhớ chư Phật không rời nơi lòng, rõ biết âm-thinh thể-tánh bình-đẳng, nơi các ngôn thuyết tâm không chấp-trước, khó nói ví dụ không trái nghịch nhau, đều khiến được ngộ tất cả chư Phật, tùy nghi khắp hiện trí-thân bình-đẳng.
Bồ-Tát vì các chúng-sanh mà thuyết-pháp như vậy thời tự mình tu tập tăng-trưởng nghĩa lợi, chẳng bỏ các độ, trang-nghiêm đầy đủ đạo ba-la-mật :
Lúc bấy giờ Bồ-Tát vì khiến lòng chúng-sanh được thỏa mãn, trong ngoài đều rời bỏ không còn chấp trước, đây thời là tu đàn ba-la-mật.
Giữ đủ các giới cấm mà không sở trước, lìa hẳn ngã-mạn, đây là tu thi ba-la-mật.
Ðều có thể nhẫn thọ tất cả sự khổ hại, tâm bình-đẳng đối với chúng-sanh không hề xao động, ví như đại-địa hay chở tất cả, đây là tu nhẫn ba-la-mật.
Với những công hạnh thường tu không lười trễ, không thối chuyển, thế-lực dũng-mãnh không bị chế phục, nơi các công-đức không lấy không bỏ mà có thể đầy đủ tất cả trí-môn, đây là hay tu tinh-tấn ba-la-mật.
Không tham trước cảnh ngũ dục, đều thành-tựu được các thứ-đệ định, luôn chánh tư-duy, chẳng trụ chẳng xuất mà có thể tiêu diệt tất cả phiền-não, xuất sanh vô-lượng môn tam-muội, thành-tựu vô-biên thần-thông, nghịch thuận thứ-đệ nhập các tam-muội, nơi một tam-muội nhập vô-biên tam-muội, biết rõ cảnh-giới của tất cả tam-muội cùng trí-ấn chẳng chống trái nhau, có thể mau vào nơi bực nhứt-thiết-trí, đây là hay tu thiền ba-la-mật.
Nơi chư Phật nghe pháp thọ-trì, gần thiện trí-thức kính thờ chẳng mỏi, thường thích nghe pháp không nhàm đủ, tùy pháp đã được thọ mà tư-duy đúng lý, nhập chơn tam-muội lìa rờI những thiên-kiến, khéo quán-sát các pháp, được thiệt-tướng-ấn, rõ biết đạo vô-công-dụng của Như-Lai, thừa phổ-môn-huệ, nhập nơi môn nhứt-thiết-chủng-trí, trọn được thôi nghỉ, đây là hay tu bát-nhã-ba-la-mật.
Thị-hiện tất cả công nghiệp thế-gian, giáo-hóa chúng-sanh không nhàm mỏi, tùy sở thích của họ mà hiện thân, tất cả chỗ thật-hành đều không nhiễm trước, hoặc hiện phàm, hoặc hiện Thánh, việc làm thời hoặc hiện sanh-tử hoặc hiện niết-bàn, khéo hay quán-sát tất cả việc làm, thị hiện tất cả những sự trang-nghiêm mà chẳng tham trước, vào khắp các loài để độ chúng-sanh, đây là hay tu phương-tiện ba-la-mật.
Trọn thành-tựu tất cả chúng-sanh, trọn trang-nghiêm tất cả thế-giới, trọn cúng-dường tất cả chư Phật, trọn thông đạt pháp vô-chướng-ngại, trọn tu hành khắp cả pháp-giới-hạnh thân hằng trụ, trọn trí rõ vị-lai kiếp, trọn biết tất cả tâm niệm, trọn giác-ngộ lưu-chuyển hoàn-diệt, trọn thị-hiện tất cả quốc-độ, trọn chứng được Như-Lai trí-huệ, đây là hay tu nguyện ba-la-mật.
Vì đủ thâm-tâm-lực nên không tạp nhiễm, vì đủ thâm-tín-lực nên kh6ng bị khuất-phục, vì đủ đại-bi-lực nên không hề mỏi nhàm, vì đủ đại-từ-lực nên sở-hành bình-đẳng, vì đủ tổng-trì-lực nên có thể dùng phương-tiện trì tất cả nghĩa, vì đủ biện-tài-lực nên khiến tất cả chúng-sanh hoan-hỷ đầy đủ, vì đủ ba-la-mật-lực nên trang-nghiêm đại-thừa, vì đủ đại-nguyện-lực nên trọn chẳng đoạn-tuyệt, vì đủ thần-thông-lực nên xuất-sanh vô-lượng, vì đủ gia-trì-lực nên khiến tin hiểu lãnh thọ, đây là hay tu lực ba-la-mật.
Biết hành-giả tham-dục, biết-hành-giả sân hận, biết hành-giả ngu-si, biết hành-giả đẳng-phần, biết hành-giả tu học địa, trong một niệm biết vô-biên hạnh chúng-sanh, biết vô-biên tâm chúng-sanh, biết tất cả pháp chơn-thật, biết môn pháp-giới, sức giác-ngộ khắp cả của chư Như-Lai, đây là hay tu trí ba-la-mật.
Như vậy, lúc Bồ-Tát thanh-tịnh các môn ba-la-mật, lúc viên-mãn các môn ba-la-mật, lúc chẳng rời bỏ các môn ba-la-mật, trụ trong đại-trang-nghiêm bồ-tát thừa, tùy sở niệm đều vì tất cả chúng-sanh mà thuyết pháp, khiến họ tăng trưởng tịnh-nghiệp để được độ thoát. Người đọa ác-đạo thời dạy họ phát tâm. Người ở trong nạn thời khiến họ tinh-tấn. Chúng-sanh nhiều tham, chỉ cho pháp vô-tham. Chúng-sanh nhiều sân, thời khiến thật bình-đẳng. Chúng-sanh chấp-kiến thời vì nói duyên-khởi. Chúng-sanh cõi dục thời dạy họ lìa tham sân và pháp ác bất-thiện. Chúng-sanh cõi sắc, thời vì họ tuyên thuyết tỳ-bát-xá-na. Chúng-sanh vô-sắc-giới, thời vì họ tuyên thuyết trí-huệ vi-diệu. Với hàng nhị-thừa thời dạy hạnh tịch-tịnh. Với người thích đại-thừa thì thuyết thập-lực quảng-đại trang-nghiêm.
Như thuở xa xưa, lúc sơ-phát-tâm, thấy vô-lượng chúng-sanh đọa các ác-đạo, thời đại-sư-tử-hống nói rằng : Tôi sẽ dùng các pháp môn tùy nghi để độ thoát họ.
Bồ-Tát đầy đủ trí-huệ như vậy, có thể rộng độ thoát tất cả chúng-sanh.
Thưa Phật-tử ! Bồ-Tát đầy đủ trí-huệ như vậy làm cho tam-bảo-chủng trọn chẳng đoạn tuyệt. Vì Bồ-Tát dạy các chúng-sanh phát tâm bồ-đề nên có thể làm cho phật-chủng chẳng dứt. Vì thường khai xiển pháp tạng cho chúng-sanh nên có thể làm cho pháp-chủng chẳng dứt. Vì khéo thọ-trì giáo-pháp không trái nghịch nên có thể làm cho tăng-chủng chẳng dứt.
Và lại vì đều hay ca ngợi tất cả đại-nguyện nên có thể làm cho phật-chủng chẳng dứt. Vì phân biệt diễn thuyết môn nhơn duyên nên có thể làm cho pháp-chủng chẳng dứt. Vì thường siêng tu tập sáu pháp hòa kính nên có thể làm cho tăng-chủng chẳng dứt.
Lại vì ở trong ruộng chúng-sanh gieo hột giống Phật nên có thể làm cho phật-chủng chẳng dứt. Vì hộ-trì chánh-pháp chẳng tiếc thân mạng nên có thể làm cho pháp-chủng chẳng dứt. Vì thống-lý đại-chúng không mệt mỏi nên có thể làm cho tăng-chủng chẳng dứt.
Lại vì đối với giáo-pháp và cấm-giới của tam-thế chư Phật đều phụng-trì trọn vẹn lòng chẳng bỏ lìa, nên có thể làm cho chủng-tử Phật, Pháp, Tăng vĩnh viễn chẳng đoạn-tuyệt.
Bồ-Tát nối thạnh tam-bảo như vậy, tất cả việc làm không có lỗi, bao nhiêu công-hạnh đều đem hồi-hướng nhứt-thiết-trí, do đây nên ba nghiệp kh6ng có tỳ vết. Vì ba nghiệp thân, ngữ và ý không tỳ vết nên những điều thiện đã làm, những công-hạnh đã làm, giáo-hóa chúng-sanh, tùy nghi thuyết-pháp, nhẫn đến một niệm đều không sai lầm, đều tương ưng với phương-tiện trí-huệ, đều đem hồi-hướng nơi nhứt-thiết-chủng-trí không để luống qua.
Bồ-Tát tu tập thiện-pháp như vậy,niệm niệm đầy đủ mười điều trang-nghiêm dưới đây :
Một là thân trang-nghiêm, vì tùy theo các chúng-sanh đáng được điều-phục mà thị-hiện. Hai là ngữ trang-nghiêm, vì dứt tất cả nghi ngờ khiến họ đều hoan-hỷ. Ba là tâm trang-nghiêm, vì trong một niệm nhập các tam-muội. Bốn là phật-sát trang-nghiêm, vì tất cả thanh-tịnh lìa những phiền-não. Năm là quang-minh trang-nghiêm, vì phóng vô-biên-quang chiếu khắp chúng-sanh. Sáu là chúng-hội trang-nghiêm, vì nhiếp khắp chúng-hội đều làm cho hoan-hỷ. Bảy là thần-thông trang-nghiêm, vì tùy tâm chúng-sanh mà tự-tại thị-hiện. Tám là chánh-giáo trang-nghiêm, vì có thể nhiếp tất cả người thông-huệ. Chín là niết-bàn địa trang-nghiêm, vì một chỗ thành đạo cùng khắp mười phương đều không thừa. Mười là xảo thuyết trang-nghiêm, vì tùy xứ tùy thời tùy căn-khí chúng-sanh mà thuyết-pháp.
Bồ-Tát thành-tựu trang-nghiêm như vậy, ở trong niệm niệm thân, ngữ và ý không luống qua, đều đem hồi-hướng nhứt-thiết-trí. Nếu có chúng-sanh nào thấy Bồ-Tát này thời cũng kh6ng luống qua, vì tất sẽ thành vô-thượng bồ-đề vậy.
Với Bồ-Tát này, nếu ai được nghe tên, hoặc cúng-dường, hoặc ở chung, hoặc ghi nhớ, hoặc theo xuất-gia, hoặc nghe thuyết-pháp, hoặc tùy hỉ thiện-căn, hoặc có lòng vọng kính phục, nhẫn đến ca ngợi truyền dương danh tự, thời tất cả sẽ đều được vô-thượng bồ-đề.
Ví như vị thuốc thiện-kiến, ai thấy thuốc này thời tất cả bịnh độc đều tiêu trừ.
Cũng vậy, Bồ-Tát thành-tựu pháp này, nếu chúng-sanh nào thấy Bồ-Tát thời các độc phiền-não đều được dứt trừ và tăng-trưởng thiện-pháp.
Bồ-Tát trụ trong pháp này, siêng năng tu tập, dùng ánh sáng trí-huệ dứt trừ si tối; dùng sức từ-bi dẹp phục quân ma; dùng trí-huệ lớn và sức phước-đức chế các ngoại-đạo; dùng kim-cang-định dứt trừ tất cả tâm nhơ phiền-não; dùng sức tinh-tấn họp các căn lành; dùng những sức thiện-căn tịnh phật-độ mà xa lìa tất cả ác-đạo và các nạn; dù
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro