Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

KINH DIEU PHAP LIEN HOA

QUYỂN MỘT

Tôi nghe như vầy: Một thời, Ðức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kỳ Xà Quật, cùng với đại chúng Tỳ Kheo, một vạn hai nghìn người tụ tập. Ðều là A La Hán, các lậu đã hết, chẳng còn phiền não. Sớm được lợi mình, hết những sự ràng buộc trong các cõi, tâm được tự tại. Ðó là những vị đại A La Hán, hàng tri thức trong chúng. Lại có hai nghìn người hữu học và vô học. Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, cùng với quyến thuộc sáu ngàn người tụ hội. Mẹ của La Hầu La là Tỳ Kheo Ni Gia Du Ðà La, cũng cùng với quyến thuộc tụ hội. Bậc đại Bồ Tát gồm tám vạn người, đều không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đắc được Ðà la ni nhạo thuyết biện tài, chuyển bánh xe pháp bất thối chuyển, đã từng cúng dường vô lượng trăm ngàn các Ðức Phật. Ở chỗ các Ðức Phật gieo trồng các gốc công đức. Thường được chư Phật ngợi khen, dùng từ để tu thân, khéo vào huệ của Phật, thông đạt đại trí huệ, đến nơi bờ kia. Danh đồn khắp vô lượng thế giới, có thể độ được vô số trăm ngàn chúng sinh. Tên của các Ngài là: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Ðại Thế, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn Nguyệt, Bồ Tát Ðại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt Ðà Bà La. Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Ðạo Sư .v.v... các vị đại Bồ Tát như vậy, gồm tám vạn người tụ hội.  

                  Lúc đó, có Thích Ðề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn Thiên tử đều tụ hội. Lại có Thiên tử Minh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang. Bốn vị đại Thiên Vương và quyến thuộc một vạn Thiên tử đều tụ hội. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Ðại Tự Tại và quyến thuộc ba vạn Thiên tử đều tụ hội. Chủ thế giới Ta Bà: Phạm Thiên Vương, Thi Khí Ðại Phạm, Quang Minh Ðại Phạm và quyến thuộc một vạn hai ngàn Thiên tử đều tụ hội. Có tám vị Long Vương. Ðó là: Long Vương Nan Ðà. Long Vương Bạt Nan Ðà. Long Vương Sa Già La. Long Vương Hòa Tu Cát. Long Vương Ðức Xoa Ca. Long Vương A Na Bà Ðạt Ða. Long Vương Ma Na Tư. Long Vương Ưu Bát La. Mỗi vị có bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị Khẩn Na La Vương. Ðó là: Pháp Khẩn Na La Vương, Diệu Pháp Khẩn Na La Vương, Ðại Pháp Khẩn Na La Vương, Trì Pháp Khẩn Na La Vương. Mỗi vị có bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị Càn Thát Bà Vương. Ðó là: Nhạc Càn Thát Bà Vương, Nhạc Âm Càn Thát Bà Vương, Mỹ Càn Thát Bà Vương, Mỹ Âm Càn Thát Bà Vương. Mỗi vị có bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị A Tu La Vương. Ðó là: Bà Trĩ A Tu La Vương, Khư La Khiên Ðà A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Ða La A Tu La Vương, La Hầu A Tu La Vương. Mỗi vị với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị Ca Lâu La Vương. Ðó là: Ðại Oai Ðức Ca Lâu La Vương, Ðại Thân Ca Lâu La Vương, Ðại Mãn Ca Lâu La Vương, Như Ý Ca Lâu La Vương. Mỗi vị với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Vua A Xà Thế con của bà Vi Ðề Hi, và bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Hết thảy đều lễ dưới chân Ðức Phật, rồi lui về ngồi một bên. 

                  Bấy giờ, tất cả bốn chúng đều vây quanh Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường tôn trọng tán thán ca ngợi. Vì các Bồ Tát nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Ðức Phật nói Kinh này rồi, bèn ngồi kiết già, nhập tam muội vô lượng nghĩa xứ, thân tâm đều bất động.

                   Lúc đó, trời mưa hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, rải ở trên Ðức Phật và các đại chúng. Khắp hết thảy thế giới của chư Phật, đều có sáu thứ chấn động.

                  Bấy giờ, trong pháp hội các chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, chuyển luân thánh vương, các đại chúng, được chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Ðức Phật.

                  Bấy giờ, Ðức Phật phóng ra luồng hào quang trắng ở giữa chân mày, chiếu soi hết thảy một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông. Dưới thì chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên thì chiếu đến cõi trời Sắc Cứu Kính. Ở thế giới này, đều thấy hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo của các cõi kia. Lại thấy chư Phật đang ở các cõi đó. Và nghe chư Phật giảng kinh thuyết pháp, cũng thấy các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, các vị tu hành đắc đạo. Lại thấy các vị đại Bồ Tát, đủ thứ nhân duyên, đủ thứ tin hiểu, đủ thứ tướng mạo, hành Bồ Tát đạo. Lại thấy chư Phật vào Niết Bàn, sau khi chư Phật vào Niết Nàn, đều đem xá lợi của Phật, đựng thờ trong tháp bằng bảy báu.

                  Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc khởi ý nghĩ như vầy : Nay Ðức Thế Tôn hiện tướng thần thông biến hóa, vì nhân duyên gì, mà hiện điềm lành nầy? Nay Ðức Phật Thế Tôn đang nhập tam muội, là việc ít có không thể nghĩ bàn. Bây giờ nên hỏi ai, ai là người đáp được? Lại nghĩ thế nầy : Ngài Văn Thù Sư Lợi là con của đấng Pháp Vương, đã từng gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ, chắc đã thấy tướng ít có nầy, nay tôi nên hỏi Ngài. Lúc đó, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và các vị trời, rồng, quỷ thần .v.v... đều khởi nghĩ như thế nầy: Tướng quang minh thần thông của Ðức Phật, nay nên hỏi ai?

                  Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn giải quyết tâm nghi của mình, lại quán sát tâm của bốn chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và các chúng hội trời, rồng, quỷ thần .v.v... mà hỏi Bồ Tát Văn Thù, vì nhân duyên gì mà có điềm lành nầy? Tướng thần thông phóng đại quang minh, chiếu phương đông một vạn tám nghìn cõi, đều thấy cõi nước của chư Phật đó trang nghiêm. Do đó, Bồ Tát Di Lặc muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn dùng kệ hỏi rằng:

                  Ngài Văn Thù Sư Lợi!

                  Ðấng Ðạo Sư cớ chi?

                  Phóng quang trắng giữa mày

                  Quang minh chiếu hết thảy.

                  Trời mưa hoa mạn đà

                  Và hoa mạn thù sa

                  Gió thơm hương chiên đàn

                  Khiến vừa lòng đại chúng.

                  Do nhân duyên như vậy

                  Cõi nước đều nghiêm tịnh

                  Mà ở thế giới nầy

                  Có sáu thứ chấn động.

                  Lúc nầy bốn bộ chúng

                  Thảy đều rất vui mừng

                  Thân tâm đều an lạc

                  Ðắc được chưa từng có.

                  Quang minh giữa chân mày

                  Chiếu thẳng về phương đông

                  Một vạn tám nghìn cõi

                  Thảy đều như sắc vàng.

                  Dưới chiếu ngục A tỳ

                  Trên chiếu trời Hữu Ðỉnh

                  Trong tất cả thế giới

                  Các chúng sinh sáu đường.

                  Sinh tử chỗ họ đến

                  Nghiệp duyên thiện và ác

                  Thọ báo tốt và xấu

                  Thảy đều thấy rõ hết.

                  Lại thấy các đức Phật

                  Ðấng Thánh chúa sư tử

                  Ðang diễn nói kinh điển

                  Tối vi diệu bậc nhất.

                  Âm thanh rất thanh tịnh

                  Thốt ra lời êm diệu

                  Giáo hóa các Bồ Tát

                  Vô số ngàn ức vạn.

                  Tiếng phạm âm thâm diệu

                  Khiến người ưa thích nghe

                  Ðức Phật ở mỗi cõi

                  Ðều diễn nói chánh pháp.

                  Dùng đủ thứ nhân duyên

                  Và vô lượng thí dụ

                  Chiếu rõ các Phật pháp

                  Ðể khai ngộ chúng sinh.

                  Nếu người gặp sự khổ

                  Chán sinh già bệnh chết

                  Vì họ nói Niết bàn

                  Dứt hết thảy các khổ.

                  Nếu người có phước báo

                  Từng cúng dường chư Phật

                  Chí cầu pháp thù thắng

                  Vì họ nói Duyên Giác.

                  Nếu có những Phật tử

                  Tu đủ thứ hạnh môn

                  Ðể cầu huệ vô thượng

                  Vì họ nói tịnh đạo.

                  Nầy Bồ Tát Văn Thù!

                  Tôi ở tại nơi đây

                  Thấy nghe như vậy đó

                  Và ngàn ức thứ việc.

                  Như thế nhiều vô số

                  Nay sẽ lược nói ra

                  Tôi thấy cõi nước kia

                  Có Hằng sa Bồ Tát.

                  Tu đủ thứ nhân duyên

                  Ðể cầu chứng Phật đạo

                  Hoặc có vị bố thí:

                  Vàng bạc và san hô.

                  Chân châu ngọc ma ni

                  Xa cừ và mã não

                  Kim cương đồ quý báu

                  Tôi tớ và xe cộ.

                  Trang sức và xe kiệu

                  Ðều hoan hỉ bố thí

                  Hồi hướng quả vị Phật

                  Nguyện đắc được thừa ấy

                  Bậc nhất trong ba cõi

                  Chư Phật thường khen ngợi.

                  Hoặc có những Bồ Tát

                  Dùng xe báu bốn ngựa

                  Lan can và lọng hoa

                  Trang sức đem bố thí.

                  Lại thấy các Bồ Tát

                  Ðem thân thịt tay chân

                  Và vợ con bố thí

                  Ðể cầu vô thượng đạo.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Dùng đầu mắt thân thể

                  Vui thích đem bố thí

                  Ðể cầu Phật trí huệ.

                  Ngài Văn Thù Sư Lợi!

                  Tôi thấy các ông vua

                  Ðều đi đến chốn Phật

                  Hỏi pháp vô thượng đạo.

                  Bèn vui vẻ bỏ nước

                  Và cung điện thần thiếp

                  Cạo bỏ râu và tóc

                  Mà mặc y pháp phục.

                  Hoặc thấy có Bồ Tát

                  Xuất gia làm Tỳ Kheo

                  Một mình ở chỗ vắng

                  Thích đọc tụng kinh điển.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Rất tinh tấn dũng mãnh

                  Vào ở trong rừng sâu

                  Suy gẫm cầu Phật đạo.

                  Lại thấy người lìa dục

                  Thường ở chỗ thanh nhàn

                  Chuyên tu tập thiền định

                  Ðắc được năm thần thông.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Chắp tay trụ thiền định

                  Dùng ngàn vạn bài kệ

                  Khen ngợi các Pháp Vương.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Trí sâu chí kiên cố

                  Tham vấn các đức Phật

                  Nghe rồi đều thọ trì.

                  Lại thấy có Phật tử

                  Ðịnh huệ đều đầy đủ

                  Dùng vô lượng thí dụ

                  Vì chúng diễn nói pháp.

                  Vui thích nói các pháp

                  Giáo hóa các Bồ Tát

                  Phá trừ chúng binh ma

                  Mà đánh vang trống pháp.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Yên lặng ngồi bất động

                  Trời rồng đều cung kính

                  Chẳng vì thế vui mừng.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Tại rừng phóng quang minh

                  Cứu khổ dưới địa ngục

                  Khiến họ vào Phật đạo.

                  Lại thấy có Phật tử

                  Chưa từng có ngủ nghỉ

                  Kinh hành ở trong rừng

                  Siêng cầu chứng Phật đạo.

                  Lại thấy bậc giới đức

                  Oai nghi chẳng thiếu khuyết

                  Thanh tịnh như châu báu

                  Ðể cầu chứng Phật đạo.

                  Lại thấy có Phật tử

                  Trụ vào sức nhẫn nhục

                  Bị kẻ tăng thượng mạn

                  Mắng chưởi và đánh đập.

                  Thảy đều nhẫn thọ được

                  Ðể cầu chứng Phật đạo!

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Lìa bỏ sự giỡn cười.

                  Và quyến thuộc ngu si

                  Gần gũi bậc trí huệ

                  Nhất tâm trừ tạp loạn

                  Nhiếp niệm ở núi rừng.

                  Trải ức ngàn vạn năm

                  Ðể cầu chứng Phật đạo!

                  Hoặc thấy có Bồ Tát

                  Ðồ ăn uống thượng hạng.

                  Và trăm thứ thuốc thang

                  Ðem cúng Phật và Tăng

                  Y tốt quần áo đẹp

                  Trị giá ngàn vạn tiền.

                  Hoặc là y vô giá

                  Ðem cúng Phật và Tăng.

                  Dùng ngàn vạn ức thứ

                  Nhà báu bằng chiên đàn

                  Các giường nệm tốt đẹp

                  Dâng cúng Phật và Tăng.

                  Vườn rừng rất thanh tịnh

                  Hoa quả đều sum sê

                  Có suối chảy ao tắm

                  Cúng dường Phật và Tăng.

                  Như thế đều bố thí

                  Ðủ thứ đồ tốt đẹp

                  Vui vẻ chẳng nhàm chán

                  Ðể cầu vô thượng đạo.

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Ðang nói pháp tịch diệt

                  Ðủ thứ sự giáo hóa

                  Ðộ vô số chúng sinh.

                  Hoặc thấy có Bồ Tát

                  Quán sát các pháp tánh

                  Ðều chẳng có hai tướng

                  Giống như là hư không.

                  Lại thấy có Phật tử

                  Tâm chẳng có chấp trước

                  Lấy đó làm diệu huệ

                  Cầu chứng vô thượng đạo.

                  Ngài Văn Thù Sư Lợi!

                  Lại thấy có Bồ Tát

                  Khi Phật diệt độ rồi

                  Cúng dường Phật xá lợi.

                  Lại thấy có Phật tử

                  Tạo dựng các chùa tháp

                  Nhiều vô số Hằng sa

                  Nghiêm sức khắp cõi nước.

                  Bảo tháp rất cao đẹp

                  Ðến năm ngàn do tuần

                  Bề ngang rộng đồng nhau

                  Dài hai ngàn do tuần.

                  Tại mỗi mỗi chùa tháp

                  Ðều có ngàn tràng phan

                  Màn châu xen thòng xuống

                  Linh báu đều hòa reo.

                  Hết thảy trời rồng thần

                  Người và chẳng phải người

                  Hương hoa và âm nhạc

                  Thường mang đến cúng dường.

                  Ngài Văn Thù Sư Lợi!

                  Các vị Phật tử kia

                  Vì cúng dường xá lợi

                  Trang nghiêm đẹp chùa tháp.

                  Khắp cõi nước tự nhiên

                  Ðẹp đẽ tốt lạ thường

                  Như cây thiên thụ vương

                  Hoa nở khắp hết thảy.

                  Phật phóng luồng hào quang

                  Tôi và cả chúng hội

                  Thấy khắp cõi nước đó

                  Ðủ thứ sự thù diệu.

                  Sức thần thông chư Phật

                  Trí huệ rất hi hữu

                  Phóng một luồng tịnh quang

                  Chiếu khắp vô lượng cõi.

                  Chúng ta thấy như vậy

                  Thật là chưa từng có

                  Mong Phật tử Văn Thù

                  Giải quyết nghi của chúng.

                  Bốn chúng đều trông mong

                  Nhìn Ngài và nhìn tôi

                  Thế Tôn vì cớ gì?

                  Phóng luồng quang minh nầy!

                  Phật tử hãy giải đáp

                  Dứt nghi cho chúng mừng

                  Có những lợi ích gì?

                  Về việc quang minh đó!

                  Phật ngồi tại đạo tràng

                  Ðắc được pháp thâm diệu

                  Vì muốn nói pháp đó

                  Hay là sẽ thọ ký!

                  Hiện bày các cõi Phật

                  Các báu đều nghiêm tịnh

                  Và thấy các Đức Phật

                  Ðây chẳng phải duyên nhỏ.

                  Ngài Văn Thù nên biết!

                  Bốn chúng trời, rồng, thần

                  Thảy đều nhìn trông Ngài

                  Vì sẽ nói những gì? 

                  Bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với đại Bồ Tát Di Lặc và các Ðại sĩ: Các thiện nam tử! Theo sự nghĩ của tôi, nay Ðức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn nói pháp nghĩa lớn.

                  Các thiện nam tử! Tôi ở chỗ chư Phật trong quá khứ, đã từng thấy điềm lành nầy, sau khi Đức Phật phóng quang minh rồi, sẽ nói pháp lớn. Do đó, sẽ biết chắc hôm nay Ðức Phật, hiện quang minh cũng lại như thế, muốn khiến cho chúng sinh đều được nghe biết pháp, mà tất cả thế gian rất khó tin, cho nên thị hiện tướng điềm lành.

                  Các thiện nam tử! Vào thuở quá khứ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn. Lúc đó, có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Diễn nói chánh pháp, ban đầu, giữa, sau cùng, đều lành. Nghĩa lý rất thâm sâu, lời lẽ khéo léo vi diệu, thuần nhất chẳng hỗn tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh tịnh. Vì người cầu Thanh Văn, thì nói pháp bốn diệu đế, độ sinh, già, bệnh, chết, đắc được cứu kính Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật, thì nói pháp mười hai nhân duyên. Vì các Bồ Tát, thì nói sáu Ba la mật, khiến cho đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thành Nhất thiết chủng trí. 

                  Lại có vị Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh. Lại có vị Phật nữa, cũng hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh. Như thế gồm có hai vạn vị Phật, đều đồng hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh, và đồng một họ là Phả La Ðọa. Ngài Di Lặc nên biết ! Ðức Phật đầu tiên, Ðức Phật sau cùng, đều đồng danh hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh, đầy đủ mười hiệu, pháp nói ra trước giữa sau đều lành. Vị Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vị vương tử. Vị thứ nhất tên là Hữu Ý, vị thứ hai tên là Thiện Ý, vị thứ ba tên là Vô Lượng Ý, vị thứ tư tên là Bảo Ý, vị thứ năm tên là Tăng Ý, vị thứ sáu tên là Trừ Nghi Ý, vị thứ bảy tên là Tưởng Ý, vị thứ tám tên là Pháp Ý. Tám vị vương tử nầy, đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều thống lãnh bốn thiên hạ. Khi nghe vua cha xuất gia đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thảy đều xả bỏ ngôi vua cũng theo đi xuất gia, phát tâm đại thừa, thường tu phạm hạnh, đều làm pháp sư, đều đã trồng gốc căn lành nơi ngàn vạn vị Phật.

                  Lúc đó, Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh, nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Nói Kinh nầy rồi, liền ngồi kiết già, ở trong đại chúng nhập vào tam muội vô lượng nghĩa xứ, thân tâm đều bất động.

                  Lúc đó, trời mưa hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, rải khắp ở trên đức Phật và các đại chúng. Khắp các thế giới của chư Phật, đều có sáu thứ chấn động.

                  Lúc đó, ở trong chúng hội, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thác bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương .v.v... các đại chúng đều được chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.  

                  Bấy giờ, Đức Như Lai phóng tướng luồng hào quang trắng, giữa chặn mày chiếu khắp phương đông, một vạn tám ngàn cõi Phật, như những gì nay thấy là các cõi nước của chư Phật. 

                  Ngài Di Lặc nên biết! Lúc đó, trong chúng hội có hai mươi ức vị Bồ Tát thích muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát đó, thấy luồng quang minh chiếu khắp các cõi Phật, được chưa từng có, đều muốn biết quang minh đó, do nhân duyên gì? Thì có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có tám trăm vị đệ tử.

                  Lúc đó, Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh từ tam muội dậy, vì Bồ Tát Diệu Quang mà nói kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, không rời khỏi chỗ ngồi, những người ở trong hội nghe pháp, cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm đều chẳng động, nghe đức Phật nói pháp như bữa ăn trong chốc lát. Lúc đó, trong đại chúng chẳng có một người nào, hoặc là thân, hoặc là tâm sinh lười mỏi.

                  Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh trải qua hai mươi tiểu kiếp nói kinh xong rồi, bèn ở trong đại chúng: Phạm, ma, Sa môn, Bà la môn, và trời, người, A tu la, mà tuyên bố rằng: Vào nửa đêm nay, Như Lai sẽ vào Vô dư Niết Bàn.  

                  Lúc đó, có vị Bồ Tát tên là Ðức Tạng, được Đức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh thọ ký cho Ngài, nói với các Tỳ Kheo rằng: Bồ Tát Ðức Tạng kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Ðức Phật thọ ký xong, vào lúc nửa đêm, bèn vào Vô dư Niết Bàn. Ðức Phật diệt độ rồi, Bồ Tát Diệu Quang trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua hai mươi tiểu kiếp, mới vì mọi người mà diễn nói. Tám người con của Đức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh, đều là đệ tử của Ngài Diệu Quang. Ngài Diệu Quang đều giáo hóa, khiến cho các vị đó kiên cố nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các vị vương tử đó, cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật rồi, đều thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng hiệu là Nhiên Ðăng. 

                  Trong tám trăm vị đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham trước danh lợi, tuy cũng đọc tụng kinh điển, mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, cho nên gọi là Cầu Danh. Do người nầy cũng có gieo trồng các căn lành, nên được gặp vô lượng trăm ngàn ức các Đức Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán. 

                  Ngài Di Lặc nên biết! Lúc đó, Bồ Tát Diệu Quang đâu phải là người nào khác, chính là ta đây, còn Bồ Tát Cầu Danh chính là Ngài đấy. Nay thấy tướng điềm lành nầy, cùng với xưa kia không khác. Cho nên xét nghĩ, hôm nay Đức Như Lai sẽ nói kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.

                  Lúc đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

                  Tôi nhớ đời quá khứ

                  Vô lượng vô số kiếp

                  Có Phật nhân trung tôn

                  Hiệu Nhật Nguyệt Ðăng Minh.

                  Thế Tôn diễn nói pháp

                  Ðộ vô lượng chúng sinh

                  Vô số ức Bồ Tát

                  Khiến vào trí của Phật.

                  Trước khi Phật xuất gia

                  Cũng theo tu phạm hạnh.

                  Phật nói Kinh đại thừa

                  Tên là Vô Lượng Nghĩa

                  Ở trong các đại chúng

                  Mà rộng vì phân biệt.

                  Phật nói Kinh nầy rồi

                  Bèn ở trên pháp tòa

                  Ngồi kiết già nhập định

                  Tên vô lượng nghĩa xứ.

                  Và thấy các trời, người

                  Chúng rồng, thần, Dạ xoa

                  Càn thát, Khẩn na la

                  Ðều cúng dường Đức Phật.

                  Lại thấy các Như Lai

                  Tự nhiên thành Phật đạo

                  Sắc thân như núi vàng

                  Ðoan nghiêm rất đẹp đẽ.

                  Như trong lưu ly sạch

                  Hiện ra tựa vàng thật

                  Thế Tôn trong đại chúng

                  Diễn nói pháp thâm sâu.

                  Mỗi mỗi các cõi Phật

                  Vô số chúng Thanh Văn

                  Vì Phật quang chiếu đến

                  Nên thấy đại chúng kia.

                  Hoặc thấy các Tỳ Kheo

                  Ở trong nơi rừng núi

                  Tinh tấn giữ tịnh giới

                  Như giữ gìn minh châu.

                  Trời mưa hoa mạn đà

                  Trống trời tự nhiên kêu

                  Các trời, rồng, quỷ, thần

                  Cúng dường Nhân trung tôn.

                  Tất cả các cõi Phật

                  Tức thời đều chấn động

                  Phật phóng quang giữa mày

                  Hiện nhiều việc hiếm có.

                  Quang nầy chiếu phương đông

                  Một vạn tám nghìn cõi

                  Hiện sinh tử nghiệp báo

                  Của tất cả chúng sinh.

                  Lại thấy các cõi Phật

                  Dùng các báu trang nghiêm

                  Màu lưu ly pha lê

                  Ðều do Phật quang chiếu.

                  Lại thấy các Bồ Tát

                  Bố thí và nhẫn nhục

                  Số lượng như Hằng sa

                  Ðều do Phật quang chiếu.

                  Lại thấy các Bồ Tát

                  Vào sâu các thiền định

                  Thân tâm lặng chẳng động

                  Ðể cầu vô thượng đạo.

                  Lại thấy các Bồ Tát

                  Biết pháp tướng tịch diệt

                  Ðều ở cõi nước kia

                  Nói pháp cầu Phật đạo.

                  Lúc đó bốn bộ chúng

                  Thấy Phật Nhật Nguyệt Ðăng

                  Hiện sức đại thần thông

                  Tâm họ đều vui mừng.

                  Thảy đều tự hỏi nhau:

                  Việc nầy nhân duyên gì?

                  Thế Tôn của trời người

                  Vừa mới ra khỏi định

                  Khen Bồ Tát Diệu Quang

                  Ông là mắt thế gian

                  Nơi tin của tất cả

                  Phụng trì được pháp tạng.

                  Như pháp của ta nói

                  Chỉ ông chứng biết được

                  Ðức Thế Tôn khen ngợi

                  Khiến Diệu Quang vui mừng.

                  Bèn nói Kinh Pháp Hoa

                  Trọn sáu mươi tiểu kiếp

                  Chẳng rời khỏi toà ngồi

                  Pháp nói ra thâm diệu.

                  Ngài pháp sư Diệu Quang

                  Thảy đều thọ trì được.

                  Phật nói Kinh Pháp Hoa

                  Khiến chúng vui mừng rồi.

                  Tức cũng trong ngày đó

                  Nói với chúng trời người

                  Nghĩa thật tướng các pháp

                  Ðã vì các ông nói.

                  Ta nay trong đêm nay

                  Sẽ vào cõi Niết bàn

                  Các ông hãy tinh tấn

                  Nên xa lìa phóng dật.

                  Chư Phật rất khó gặp

                  Ức kiếp gặp một lần

                  Hết thảy con của Phật

                  Nghe Phật vào Niết bàn.

                  Ai nấy đều buồn khổ

                  Sao Phật diệt sớm thế?

                  Ðấng Pháp Vương Thánh chúa

                  An ủi vô lượng chúng.

                  Nếu lúc ta diệt độ

                  Các ông chớ lo sợ

                  Vị Bồ Tát Ðức Tạng

                  Nơi vô lậu thật tướng.

                  Tâm đã được thông đạt

                  Kế đây sẽ thành Phật

                  Hiệu là Phật Tịnh Thân

                  Cũng độ vô lượng chúng.

                  Ðêm nay Phật diệt độ

                  Như củi hết lửa tắt

                  Phân chia các xá lợi

                  Mà xây vô lượng tháp.

                  Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni

                  Số đông như Hằng sa

                  Lại càng thêm tinh tấn

                  Ðể cầu vô thượng đạo.

                  Vị pháp sư Diệu Quang

                  Phụng trì tạng Phật pháp

                  Trong tám mươi tiểu kiếp

                  Rộng nói Kinh Pháp Hoa.

                  Tám vị vương tử đó

                  Ðược Diệu Quang giáo hoá

                  Kiên cố đạo vô thượng

                  Thấy được vô số Phật.

                  Cúng dường chư Phật rồi

                  Cũng theo tu đại đạo

                  Liên tiếp đều thành Phật

                  Thứ tự mà thọ ký.

                  Thiên Trung Thiên cuối cùng

                  Hiệu là Phật Nhiên Ðăng

                  Là đạo sư trời người

                  Ðộ thoát vô lượng chúng.

                  Vị pháp sư Diệu Quang

                  Có một vị đệ tử

                  Tâm thường hay giải đãi

                  Tham trước về danh lợi.

                  Cầu danh lợi không chán

                  Thường đến nhà giàu sang

                  Bỏ bê đọc tụng kinh

                  Quên mất chẳng thông thuộc.

                  Vì bởi nhân duyên đó

                  Nên gọi là Cầu Danh

                  Cũng tu các nghiệp thiện

                  Ðược thấy vô số Phật.

                  Cúng dường các Đức Phật

                  Theo tu hành đại đạo

                  Ðủ sáu Ba la mật

                  Nay gặp Phật Thích Ca.

                  Sau nầy sẽ thành Phật

                  Hiệu là Phật Di Lặc

                  Rộng độ các chúng sinh

                  Số đông nhiều vô lượng.

                  Phật kia diệt độ rồi

                  Người giải đãi là Ngài

                  Còn pháp sư Diệu Quang

                  Nay chính là thân ta.

                  Tôi thấy Phật Ðăng Minh

                  Ðiềm lành xưa như vậy

                  Nên biết Phật hôm nay

                  Muốn nói Kinh Pháp Hoa.

                  Tướng nay như điềm xưa

                  Là phương tiện chư Phật

                  Nay Phật phóng quang minh

                  Giúp bày nghĩa thật tướng.

                  Các người nay nên biết

                  Chắp tay một lòng chờ

                  Phật sẽ rưới mưa pháp

                  Ðầy đủ người cầu đạo.

                  Những người cầu ba thừa

                  Nếu có chỗ nghi hối

                  Phật sẽ dứt trừ cho

                  Khiến hết chẳng còn thừa.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Phương Tiện thứ Hai

                  Bấy giờ, Ðức Thế Tôn từ tam muội an tường mà dậy, nói với Ngài Xá Lợi Phất: Trí huệ của chư Phật thâm sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được. Vì sao? Vì Phật đã từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, thực hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng đồn khắp, thành tựu pháp thâm sâu chưa từng có, tùy nghi mà nói, ý nghĩa khó hiểu. 

                  Xá Lợi Phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ ví dụ để rộng nói, dùng vô số phương tiện để dìu dắt giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa các sự chấp trước. Tại sao? Vì phương tiện tri kiến Ba la mật của Như Lai đều đã đầy đủ.

                  Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại, lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát, tam muội, vào sâu chẳng có bờ mé, thành tựu tất cả các pháp chưa từng có.

                  Xá Lợi Phất! Như Lai dùng đủ thứ sự khác biệt, khéo léo nói các pháp, lời lẽ êm diệu, khiến cho vừa lòng đại chúng.

                  Xá Lợi Phất! Nói tóm lại, những pháp chính yếu vô lượng vô biên chưa từng có, Phật đều đã thành tựu. 

                  Thôi, Xá Lợi Phất! Ðừng nói nữa. Vì sao? Vì pháp của Phật thành tựu ít có, khó hiểu bậc nhất. Chỉ có Phật với Phật, mới thấu triệt được thật tướng của các pháp. Ðó là : Tướng của các pháp như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, gốc ngọn cứu kính như vậy .v.v...

                   Lúc đó, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng: 

                  Ðấng Thế Hùng khó lường

                  Chư thiên và nhân loại

                  Tất cả loài chúng sinh

                  Chẳng ai hiểu biết Phật.

                  Phật lực vô sở úy

                  Giải thoát các tam muội

                  Các pháp khác của Phật

                  Chẳng ai đo lường được.

                  Vốn từ vô số Phật

                  Ðầy đủ hạnh các đạo

                  Pháp thâm sâu nhiệm mầu

                  Khó thấy khó biết được.

                  Trong vô lượng ức kiếp

                  Hành các đạo đó rồi

                  Ðạo tràng được chứng quả

                  Ta đều đã thấy biết.

                  Quả báo lớn như vậy

                  Ðủ thứ tánh tướng nghĩa

                  Ta và mười phương Phật

                  Mới biết rõ việc đó.

                  Pháp đó chẳng thể bày

                  Lời lẽ tướng tịch diệt

                  Những loài chúng sinh khác

                  Chẳng ai hiểu biết được.

                  Trừ các chúng Bồ Tát

                  Bậc sức tin kiên cố

                  Chúng đệ tử chư Phật

                  Từng cúng dường chư Phật.

                  Tất cả bậc sạch lậu

                  Trụ ở thân cuối cùng

                  Những hạng người như vậy

                  Sức họ chẳng kham được.

                  Nếu như đầy thế gian

                  Ðều như Xá Lợi Phất

                  Suy nghĩ và độ lượng

                  Chẳng dò được Phật trí.

                  Giả sử đầy mười phương

                  Ðều như Xá Lợi Phất

                  Và các đệ tử khác

                  Cũng đầy mười phương cõi.

                  Cùng nghĩ và độ lượng

                  Cũng chẳng hiểu biết được

                  Bích Chi Phật lợi trí

                  Vô lậu thân cuối cùng.

                  Cũng đầy khắp mười phương

                  Số đông như rừng tre

                  Thảy đều chung một lòng

                  Trong vô lượng ức kiếp.

                  Muốn lường Phật thật trí

                  Chẳng biết được ít phần

                  Bồ Tát mới phát tâm

                  Cúng dường vô số Phật.

                  Thấu rõ các nghĩa thú

                  Lại hay khéo nói pháp

                  Như lúa mè tre lau

                  Ðầy khắp mười phương cõi.

                  Nhất tâm dùng diệu trí

                  Trải Hằng sa số kiếp

                  Cùng chung nhau suy lường

                  Chẳng biết được Phật trí.

                  Các Bồ Tát bất thối

                  Số đông như Hằng sa

                  Ðều nhất tâm suy cầu

                  Cũng chẳng thể biết được.

                  Lại nữa, Xá Lợi Phất!

                  Vô lậu chẳng nghĩ bàn

                  Pháp thâm sâu nhiệm mầu

                  Ta nay đã được đủ

                  Chỉ ta biết tướng đó

                  Mười phương Phật cũng thế.

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Lời chư Phật không khác

                  Pháp của Phật nói ra

                  Nên sinh sức tin lớn

                  Pháp Thế Tôn lâu sau

                  Cần phải nói chân thật.

                  Nầy các chúng Thanh Văn!

                  Và người cầu Duyên Giác

                  Ta khiến cho thoát khổ

                  Sớm đắc được Niết bàn.

                  Phật dùng sức phương tiện

                  Mở bày ba thừa giáo

                  Chúng sinh nơi nơi chấp

                  Dẫn dắt họ ra khỏi. 

                  Bấy giờ, ở trong đại chúng có các vị Thanh Văn A La Hán đã sạch các lậu, Ngài A Nhã Kiều Trần Như .v.v... một ngàn hai trăm người, và các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, phát tâm cầu Thanh Văn và Bích Chi Phật, ai nấy đều nghĩ rằng: Hôm nay Ðức Thế Tôn vì cớ gì, mà ân cần khen ngợi pháp phương tiện mà nói như vầy: Pháp của Phật đắc được thâm sâu khó hiểu, lời lẽ nói ra ý thú khó biết, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, không thể hiểu biết được. Ðức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp nầy, đến nơi Niết bàn, mà nay chẳng biết nghĩa đó như thế nào? 

                  Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất biết tâm nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, mới bạch Ðức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Do nhân duyên gì, mà ân cần khen ngợi pháp phương tiện bậc nhất của chư Phật, thâm sâu nhiệm mầu khó hiểu? Con từ xưa đến nay, chưa từng nghe Ðức Phật nói như thế. Nay bốn chúng thảy đều có tâm nghi, ngưỡng mong đức Thế Tôn diễn nói việc đó. Vì sao Đức Thế Tôn ân cần ngợi khen, pháp thâm sâu nhiệm mầu khó hiểu?

                  Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng: 

                  Ðấng Huệ Nhật Ðại Thánh

                  Lâu mới nói pháp nầy

                  Tự nói được như thế

                  Lực vô úy tam muội.

                  Thiền định giải thoát thảy

                  Pháp không thể nghĩ bàn

                  Pháp chứng nơi đạo tràng

                  Chẳng ai có thể hỏi.

                  Tâm con khó dò được

                  Cũng chẳng ai hỏi được

                  Chẳng hỏi mà tự nói

                  Khen ngợi đạo mình hành.

                  Trí huệ sâu vi diệu

                  Chỗ đắc của chư Phật

                  Các La Hán vô lậu

                  Và người cầu Niết bàn.

                  Nay đều sa lưới nghi

                  Vì sao Phật nói thế?

                  Những người cầu Duyên Giác

                  Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni.

                  Các trời rồng quỷ thần

                  Và Càn thát bà thảy

                  Nhìn nhau ôm lòng nghi

                  Chiêm ngưỡng đấng Lưỡng Túc.

                  Việc đó như thế nào?

                  Xin Phật hãy giải nói.

                  Trong hàng chúng Thanh Văn

                  Phật nói con hạng nhất.

                  Nay con nương trí mình

                  Nghi hoặc chẳng hiểu được

                  Ðâu là pháp cứu kính

                  Ðâu là đạo Phật tu?

                  Con từ miệng Phật sinh!

                  Chắp tay chiêm ngưỡng chờ

                  Xin nói pháp vi diệu

                  Liền vì nói như thật.

                  Các trời rồng thần thảy

                  Số đông như Hằng sa

                  Các Bồ Tát cầu Phật

                  Số nhiều đến tám vạn.

                  Và vạn ức cõi nước

                  Chuyển luân thánh vương đến

                  Chắp tay lòng cung kính

                  Muốn nghe đạo đầy đủ.

                  Bấy giờ, Ðức Phật bảo Xá Lợi Phất: Thôi đi! Thôi đi! Ðừng nói nữa. Nếu nói việc đó, thì tất cả trời, người thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.  

                  Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho! Tại sao? Vì vô số trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ chúng sinh, đã từng gặp các đức Phật, các căn đều lanh lợi, trí huệ sáng suốt, nghe đức Phật nói chắc sẽ cung kính tin nhận. 

                  Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng: 

                  Ðấng Pháp Vương vô thượng

                  Xin nói chớ do dự

                  Vô lượng chúng trong hội

                  Có người sẽ kính tin. 

                  Ðức Phật lại bảo Xá Lợi Phất: Thôi đi! Nếu nói việc đó, thì tất cả thế gian trời, người, A tu la, đều sẽ kinh sợ nghi hoặc, Tỳ Kheo tăng thượng mạn sẽ sa vào hầm lớn.

                   Lúc đó, Ðức Thế Tôn nói kệ rằng: 

                  Thôi thôi đừng nên nói

                  Pháp ta diệu khó nghĩ

                  Những kẻ tăng thượng mạn

                  Nghe tất chẳng kính tin. 

                  Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho, nay trong hội nầy, những người như con, có hàng trăm ngàn vạn ức, các vị đó đời đời kiếp kiếp, đã từng tiếp thọ sự giáo hóa của Phật. Những người nầy tất sẽ cung kính tin nhận, lâu dài sẽ an ổn, sẽ đắc được nhiều lợi ích.  

                  Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Ðấng Vô Thượng Lưỡng Túc

                  Xin nói pháp bậc nhất

                  Con là trưởng tử Phật

                  Cúi xin phân biệt nói.

                  Vô lượng chúng hội nầy

                  Sẽ kính tin pháp nầy

                  Phật đời đời đã từng

                  Giáo hóa chúng như thế.

                  Ðều một lòng chấp tay

                  Muốn nghe lời Phật nói

                  Chúng con ngàn hai trăm

                  Và người cầu Phật kia.

                  Xin vì đại chúng nầy

                  Cúi xin phân biệt nói

                  Chúng con nghe pháp nầy

                  Chắc sinh vui mừng lớn. 

                  Bấy giờ, Ðức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất: Ông đã ân cần ba phen thỉnh cầu, lẽ nào không nói, ông hãy lóng nghe và khéo suy xét. Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.

                   Ðức Phật vừa nói lời nầy xong, thì trong hội có các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, cả thảy năm ngàn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi đi. Tại sao? Vì những người nầy tội căn sâu nặng, và những người tăng thượng mạn, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng, có lỗi như thế, cho nên chẳng ở lại. Ðức Thế Tôn yên lặng chẳng ngăn cản họ.

                  Lúc đó, Ðức Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất: Nay chúng của ta đây chẳng còn cành lá, chỉ thuần có chân thật.  

                  Xá Lợi Phất! Những người tăng thượng mạn như thế, đi về cũng tốt. Nay ông hãy khéo lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.  

                  Ngài Xá Lợi Phất nói: Thưa vâng! Ðức Thế Tôn, con thích muốn được nghe. 

                  Ðức Phật bảo: Xá Lợi Phất! Diệu pháp như thế, khi đúng thời, thì chư Phật Như Lai mới nói. Như hoa ưu đàm bát, đúng thời mới hiện.

                  Xá Lợi Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói, chẳng có hư vọng.

                  Xá Lợi Phất! Chư Phật tùy nghi nói pháp ý thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, để diễn nói các pháp, pháp đó chẳng phải suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới biết được. Vì sao? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.

                  Xá Lợi Phất! Tại sao lại nói chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời? Vì chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho chúng sinh, khai mở tri kiến của Phật, để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời, muốn mở bày cho chúng sinh tri kiến của Phật, mà hiện ra nơi đời, muốn khiến cho chúng sinh ngộ tri kiến của Phật, mà hiện ra nơi đời, muốn cho chúng sinh vào được tri kiến của Phật, mà hiện ra nơi đời.

                  Xá Lợi Phất! Ðó là chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.  

                  Ðức Phật bảo: Xá Lợi Phất! Ðức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, làm tất cả những gì, thường vì một việc, đó là mở bày cho chúng sinh ngộ được tri kiến của Phật.

                  Xá Lợi Phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa, mà vì chúng sinh thuyết pháp, chẳng có hai hoặc ba thừa nào khác.

                  Xá Lợi Phất! Hết thảy mười phương chư Phật cũng lại như thế.

                  Xá Lợi Phất! Chư Phật quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp, pháp đó đều vì một Phật thừa, các chúng sinh đó theo chư Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.

                  Xá Lợi Phất! Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện ra đời, cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa, các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.

                  Xá Lợi Phất! Hiện tại chư Phật Thế Tôn, trong mười phương vô lượng trăm ngàn vạn ức các cõi Phật, làm lợi ích an lạc chúng sinh, chư Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa. Các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.

                  Xá Lợi Phất! Chư Phật đó chỉ giáo hóa Bồ Tát, vì muốn chỉ bày cho chúng sinh tri kiến của Phật, muốn cho chúng sinh ngộ được tri kiến của Phật, muốn cho chúng sinh vào được tri kiến của Phật.

                  Xá Lợi Phất! Ta nay cũng lại như thế, biết các chúng sinh có đủ thứ dục niệm, chấp trước nơi thâm tâm, tuỳ theo bản tánh của họ, ta dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ thí dụ sức phương tiện, để vì họ nói pháp.

                  Xá Lợi Phất! Như thế đều vì đắc được một Phật thừa Nhất thiết chủng trí.  

                  Xá Lợi Phất! Ở trong mười phương thế giới còn chẳng có hai thừa, hà huống có ba.  

                  Xá Lợi Phất! Chư Phật xuất hiện ra đời ác năm trược: Kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược. Như thế Xá Lợi Phất! Vào thời kiếp trược loạn, thì chúng sinh cấu nặng, xan tham, đố kị, thành tựu các căn chẳng lành. Chư Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói ba.

                  Xá Lợi Phất! Nếu đệ tử của ta, tự cho mình là bậc A La Hán, Bích Chi Phật, mà chẳng nghe chẳng biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người đó chẳng phải đệ tử của Phật, chẳng phải A La Hán, chẳng phải Bích Chi Phật.

                  Lại nữa, Xá Lợi Phất! Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni đó, tự cho mình đã chứng A la hán, là thân cuối cùng, cứu kính Niết bàn, chẳng còn có chí cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết, những người đó đều là những kẻ tăng thượng mạn. Tại sao? Nếu có Tỳ kheo thật chứng được A la hán, nếu không tin pháp nầy, thì chẳng có lý vậy, trừ khi Phật diệt độ rồi, hiện tiền chẳng có Phật. Tại sao? Vì sau khi Phật diệt độ rồi, người thọ trì đọc tụng, hiểu nghĩa những kinh như vầy, thật là khó có được. Nếu gặp Đức Phật khác, ở trong pháp nầy thì sẽ hiểu rõ.

                  Xá Lợi Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời của Phật nói. Lời của chư Phật Như Lai chẳng có hư vọng, chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa.

                   Bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:

                  Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni

                  Ôm lòng tăng thượng mạn

                  Cư sĩ nam ngã mạn

                  Cư sĩ nữ chẳng tin.

                  Hàng bốn chúng như thế

                  Số đông năm ngàn người.

                  Chẳng thấy rõ lỗi mình

                  Nơi giới có thiếu lủng.

                  Tiếc giữ lầm lỗi mình

                  Người trí nhỏ đã ra

                  Bọn tấm cám trong chúng

                  Ði vì oai Đức Phật.

                  Những người đó phước mỏng

                  Chẳng kham thọ pháp nầy

                  Chúng nay không cành lá

                  Chỉ toàn là chân thật.

                  Xá Lợi Phất khéo nghe!

                  Pháp của chư Phật được

                  Vô lượng sức phương tiện

                  Mà vì chúng sinh nói.

                  Tâm chúng sinh nghĩ gì

                  Làm đủ thứ các việc

                  Bao nhiêu các tính dục

                  Nghiệp thiện ác đời trước.

                  Phật đều biết vậy rồi

                  Dùng các duyên thí dụ

                  Lời lẽ sức phương tiện

                  Khiến tất cả vui mừng.

                  Hoặc nói những khế kinh

                  Cô khởi và bổn sự

                  Bổn sinh, vị tằng hữu

                  Cũng nói các nhân duyên.

                  Thí dụ và trùng tụng

                  Và kinh luận nghị thảy

                  Ðộn căn thích pháp nhỏ

                  Tham trước trong sinh tử.

                  Vô lượng chỗ chư Phật

                  Chẳng hành sâu diệu đạo

                  Bị khổ làm não loạn

                  Vì họ nói Niết Bàn.

                  Ta bày phương tiện đó

                  Khiến vào được Phật huệ

                  Chưa từng nói các ông

                  Sẽ đắc được Phật đạo.

                  Sở dĩ chưa từng nói

                  Vì thời nói chưa đến

                  Nay chính là phải thời

                  Quyết định nói đại thừa.

                  Chín bộ pháp ta đây

                  Thuận theo chúng sinh nói

                  Vào đại thừa làm gốc

                  Vì vậy nói kinh nầy.

                  Có Phật tử tâm tịnh

                  Êm diệu cũng lợi căn

                  Vô lượng chỗ chư Phật

                  Mà hành sâu diệu đạo.

                  Vì các Phật tử đó

                  Nói kinh đại thừa nầy

                  Ta thọ ký người đó

                  Tương lai sẽ thành Phật.

                  Vì giữ gìn tịnh giới

                  Người nầy nghe thành Phật

                  Mừng rỡ khắp toàn thân

                  Phật biết tâm người đó.

                  Cho nên nói đại thừa

                  Nếu Thanh Văn Bồ Tát

                  Nghe pháp của ta nói.

                  Cho đến một bài kệ

                  Ðều thành Phật chẳng nghi.

                  Trong mười phương cõi Phật

                  Chỉ có một thừa pháp.

                  Chẳng hai cũng chẳng ba

                  Trừ Phật phương tiện nói

                  Chỉ dùng tên giả danh

                  Dẫn dắt các chúng sinh.

                  Nói trí huệ của Phật

                  Chư Phật hiện ra đời

                  Chỉ thật một việc nầy

                  Nếu hai chẳng phải chân.

                  Quyết chẳng dùng tiểu thừa

                  Tế độ các chúng sinh

                  Phật tự trụ đại thừa

                  Như pháp của mình được.

                  Ðịnh huệ lực trang nghiêm

                  Dùng để độ chúng sinh

                  Tự chứng đạo vô thượng

                  Pháp đại thừa bình đẳng.

                  Nếu giáo hóa tiểu thừa

                  Cho đến chỉ một người

                  Thì ta đọa xan tham

                  Việc nầy không thể có.

                  Nếu người tin quy Phật

                  Như Lai chẳng dối gạt.

                  Cũng không tham ghen ghét

                  Dứt ác trong các pháp

                  Nên Phật trong mười phương

                  Chẳng có gì sợ hãi.

                  Ta dùng tướng nghiêm thân

                  Quang minh chiếu thế gian

                  Vô lượng chúng tôn kính

                  Vì nói ấn thật tướng.

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Ta vốn lập thệ nguyện:

                  Muốn khiến tất cả chúng

                  Ðồng như ta không khác.

                  Nguyện xưa kia của ta

                  Nay đã đầy đủ rồi

                  Ðộ tất cả chúng sinh

                  Ðều khiến vào Phật đạo.

                  Nếu ta gặp chúng sinh

                  Dùng Phật đạo dạy hết

                  Kẻ vô trí lầm lẫn

                  Mê hoặc chẳng nghe lời.

                  Ta biết chúng sinh đó

                  Chưa từng tu gốc lành

                  Chấp cứng nơi năm dục

                  Vì si ái sinh phiền.

                  Do nhân duyên ác dục

                  Ðọa vào ba đường ác

                  Luân hồi trong sáu nẻo

                  Chịu đủ các khổ độc.

                  Thọ thai hình hài nhỏ

                  Ðời đời thường lớn dần

                  Người đức mỏng phước ít

                  Bị các khổ bức bách.

                  Vào rừng rậm tà kiến

                  Chấp có, hoặc chấp không

                  Nương tựa các kiến này

                  Ðầy đủ sáu mươi hai.

                  Chấp sâu pháp hư vọng

                  Giữ chặt chẳng bỏ được

                  Ngã mạn tự khoe cao

                  Dua nịnh tâm chẳng thật.

                  Trong ngàn vạn ức kiếp

                  Chẳng nghe danh hiệu Phật

                  Cũng chẳng nghe chánh pháp

                  Người như thế khó độ.

                  Cho nên Xá Lợi Phất!

                  Ta vì bày phương tiện

                  Nói hết các khổ đạo

                  Mở bày đạo Niết bàn.

                  Tuy ta nói Niết bàn

                  Ðó cũng chẳng thật diệt

                  Các pháp từ bổn lai

                  Tướng thường tự tịch diệt.

                  Phật tử hành đạo rồi

                  Ðời sau được thành Phật

                  Ta có sức phương tiện

                  Mở bày pháp ba thừa.

                  Nay các đại chúng đây

                  Ðều nên trừ nghi hoặc

                  Lời chư Phật không khác

                  Một chẳng có hai thừa.

                  Quá khứ vô số kiếp

                  Vô lượng Phật diệt độ

                  Trăm ngàn vạn ức Phật

                  Số đông không thể lường.

                  Các Thế Tôn như thế

                  Ðủ thứ duyên thí dụ

                  Vô số sức phương tiện

                  Diễn nói tướng các pháp.

                  Các Thế Tôn đó thảy

                  Ðều nói pháp một thừa

                  Ðộ vô lượng chúng sinh

                  Khiến vào được Phật đạo.

                  Các đấng Ðại Thánh Chúa

                  Biết tất cả thế gian

                  Trời người loại quần sinh

                  Trong thâm tâm ưa muốn.

                  Bèn dùng phương tiện khác

                  Giúp bày nghĩa đệ nhất

                  Nếu có loại chúng sinh

                  Gặp chư Phật quá khứ.

                  Nếu nghe pháp bố thí

                  Hoặc trì giới nhẫn nhục

                  Tinh tấn thiền trí thảy

                  Tu đủ thứ phước huệ.

                  Tất cả những người đó

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Sau chư Phật diệt độ

                  Nếu người tâm tốt lành.

                  Những chúng sinh như thế

                  Ðều đã thành Phật đạo

                  Chư Phật diệt độ rồi

                  Người cúng dường xá lợi.

                  Tạo vạn ức bảo tháp

                  Vàng bạc và pha lê

                  Xa cừ cùng mã não

                  Châu mai khôi lưu ly.

                  Thanh tịnh rộng nghiêm sức

                  Trang trí nơi các tháp

                  Hoặc dùng đá làm chùa

                  Chiên đàn và trầm thủy.

                  Gỗ mật và gỗ khác

                  Gạch ngói bùn đất thảy

                  Nếu ở nơi đồng hoang

                  Chứa đất thành chùa Phật.

                  Cho đến trẻ con chơi

                  Vun cát làm tháp Phật

                  Tất cả những người đó

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Nếu như người vì Phật

                  Kiến tạo các hình tượng

                  Ðiêu khắc thành các tướng

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Hoặc làm bằng bảy báu

                  Vàng thau đồng trắng đỏ

                  Nhôm chì và chất kẽm

                  Sắt gỗ cùng với bùn.

                  Hoặc dùng keo sơn vải

                  Nghiêm sức làm tượng Phật

                  Hết thảy những người đó

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Vẽ họa làm tượng Phật

                  Trăm tướng phước trang nghiêm

                  Tự làm hoặc bảo người

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Cho đến trẻ con chơi

                  Dùng cỏ cây và bút

                  Hoặc là dùng móng tay

                  Mà vẽ họa tượng Phật.

                  Hết thảy những người đó

                  Từ từ tích công đức

                  Ðầy đủ tâm đại bi

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Giáo hóa các Bồ Tát

                  Ðộ thoát vô lượng chúng.

                  Nếu người nơi chùa tháp

                  Tượng báu và tượng vẽ.

                  Dùng hương hoa, phan, lọng

                  Cúng kính mà cúng dường

                  Hoặc khiến người tấu nhạc

                  Ðánh trống thổi sừng ốc.

                  Tiêu, sáo, cầm, đờn sắt

                  Tì bà chụp chã đồng

                  Các tiếng hay như thế

                  Ðem hết để cúng dường.

                  Hoặc dùng tâm vui mừng

                  Ca tụng công đức Phật.

                  Dù chỉ một vài lời

                  Họ đều đã thành Phật

                  Hoặc người tâm tán loạn

                  Cho đến dùng cành hoa.

                  Cúng dường trước tượng vẽ

                  Lần thấy vô số Phật

                  Hoặc có người lễ lạy

                  Hoặc là chỉ chắp tay.

                  Cho đến giơ một tay

                  Hoặc là hơi cúi đầu

                  Dùng để cúng dường tượng

                  Lần thấy vô lượng Phật.

                  Tự thành vô thượng đạo

                  Rộng độ vô số chúng

                  Vào Vô dư Niết bàn

                  Như củi hết lửa tắt.

                  Hoặc người tâm tán loạn

                  Vào đến trong chùa tháp

                  Miệng niệm Nam Mô Phật

                  Họ đều đã thành Phật.

                  Nơi chư Phật quá khứ

                  Tại thế hoặc diệt độ

                  Người nghe được pháp nầy

                  Ðều đã thành Phật đạo.

                  Các Thế Tôn vị lai

                  Số đông không thể lường

                  Các vị Như Lai đó

                  Cũng phương tiện nói pháp.

                  Tất cả các Như Lai

                  Dùng vô lượng phương tiện

                  Ðộ thoát các chúng sinh

                  Vào trí Phật vô lậu.

                  Nếu có người nghe pháp

                  Không ai chẳng thành Phật.

                  Chư Phật vốn thệ nguyện

                  Ta tu hành Phật đạo

                  Muốn hết thảy chúng sinh

                  Cũng đều được đạo nầy.

                  Chư Phật đời vị lai

                  Tuy nói trăm ngàn ức

                  Vô số các pháp môn

                  Thật tế vì một thừa.

                  Chư Phật Lưỡng Túc Tôn

                  Biết pháp thường không tánh

                  Giống Phật từ duyên sinh

                  Vì thế nói một thừa.

                  Pháp đó trụ pháp vị

                  Tướng thế gian thường trụ

                  Biết rồi nơi đạo tràng

                  Ðạo sư phương tiện nói.

                  Chỗ trời người cúng dường

                  Hiện tại mười phương Phật

                  Số đông như Hằng sa

                  Xuất hiện nơi thế gian.

                  Vì yên ổn chúng sinh

                  Cũng nói pháp như thế

                  Biết tịch diệt bậc nhất

                  Vì dùng sức phương tiện.

                  Tuy bày nhiều thừa pháp

                  Thật tế vì Phật thừa

                  Biết các hạnh chúng sinh

                  Nghĩ tưởng trong thâm tâm.

                  Nghiệp nhiễm trong quá khứ

                  Tánh dục sức tinh tấn

                  Và các căn lợi độn

                  Dùng đủ thứ nhân duyên.

                  Thí dụ và lời lẽ

                  Tùy theo phương tiện nói.

                  Nay ta cũng như thế

                  Vì yên ổn chúng sinh.

                  Dùng đủ thứ pháp môn

                  Mở bày nơi Phật đạo

                  Ta dùng sức trí huệ

                  Biết tánh chúng sinh muốn.

                  Phương tiện nói các pháp

                  Ðều khiến được vui mừng

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Ta dùng mắt Phật xem.

                  Thấy sáu đường chúng sinh

                  Bần cùng chẳng phước huệ

                  Vào đường hiểm sinh tử

                  Khổ liên tục chẳng dứt.

                  Chấp sâu nơi năm dục

                  Như trâu mao mến đuôi

                  Bởi tham ái tự che

                  Ðuôi mù chẳng thấy được.

                  Chẳng cầu thế của Phật

                  Và pháp diệt trừ khổ

                  Vào sâu các tà kiến

                  Lấy khổ muốn bỏ khổ.

                  Phật vì chúng sinh nầy

                  Mà sinh tâm đại bi.

                  Xưa ta ngồi đạo tràng

                  Xem cây cũng kinh hành.

                  Trong hai mươi mốt ngày

                  Suy nghĩ việc như vầy:

                  Trí huệ mà ta được

                  Rất nhiệm mầu bậc nhất.

                  Các chúng sinh độn căn

                  Tham vui si làm mù

                  Những loại người như thế

                  Làm sao mà độ được!

                  Lúc đó, có Phạm Vương

                  Và các trời Ðế Thích

                  Bốn Thiên Vương hộ đời

                  Cùng trời Ðại Tự Tại.

                  Và các chúng trời khác

                  Quyến thuộc trăm ngàn vạn

                  Cung kính chắp tay lễ

                  Thỉnh ta chuyển pháp luân.

                  Ta liền tự suy nghĩ:

                  Nếu chỉ khen Phật thừa

                  Chúng sinh đắm nơi khổ

                  Không thể tin pháp nầy.

                  Vì phá pháp chẳng tin

                  Ðọa trong ba đường ác

                  Ta thà không nói pháp

                  Mau vào cõi Niết bàn.

                  Liền nhớ Phật quá khứ

                  Thực hành sức phương tiện

                  Nay ta đắc được đạo

                  Cũng nên nói ba thừa.

                  Suy nghĩ như thế thì

                  Mười phương Phật đều hiện

                  Tiếng phạm an ủi ta:

                  Lành thay Ðức Thích Ca!

                  Ðấng Ðạo sư bậc nhất

                  Ðược pháp vô thượng nầy

                  Thuận theo tất cả Phật

                  Mà dùng sức phương tiện.

                  Chúng ta cũng đều được

                  Pháp tối diệu bậc nhất

                  Vì các loại chúng sinh

                  Phân biệt nói ba thừa.

                  Trí kém ưa pháp nhỏ

                  Chẳng tự tin thành Phật

                  Cho nên dùng phương tiện

                  Phân biệt nói các quả.

                  Tuy là nói các quả

                  Chỉ vì dạy Bồ Tát.

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Ta nghe tiếng của Phật.

                  Rất thanh tịnh nhiệm mầu

                  Xưng Nam Mô chư Phật!

                  Ta lại nghĩ như vầy:

                  Ta ra đời ác trược.

                  Như chư Phật đã nói

                  Ta cũng thuận làm theo

                  Suy nghĩ việc đó rồi

                  Bèn đến vườn Lộc Uyển.

                  Các pháp tướng tịch diệt

                  Không thể dùng lời nói

                  Bèn dùng sức phương tiện

                  Vì năm Tỳ Kheo nói.

                  Gọi là chuyển pháp luân

                  Bèn có tiếng Niết Bàn

                  Cùng với A la hán

                  Tên pháp, Tăng khác biệt.

                  Từ kiếp xưa đến nay

                  Khen ngợi pháp Niết Bàn

                  Dứt hẳn khổ sinh tử

                  Ta thường nói như thế.

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Ta thấy các Phật tử

                  Người chí cầu Phật đạo

                  Vô lượng ngàn vạn ức.

                  Ðều dùng tâm cung kính

                  Ðồng đến chỗ chư Phật

                  Từng theo nghe chư Phật

                  Dùng phương tiện nói pháp.

                  Ta liền nghĩ thế nầy:

                  Sở dĩ Phật ra đời

                  Ðều vì nói Phật huệ

                  Nay đúng là phải thời.

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Người độn căn trí nhỏ

                  Kẻ chấp tướng kiêu mạn

                  Chẳng thể tin pháp nầy.

                  Nay ta vui chẳng sợ

                  Ở trong chúng Bồ Tát

                  Ta bỏ ngay phương tiện

                  Chỉ nói đạo vô thượng.

                  Bồ Tát nghe pháp nầy

                  Lưới nghi đều đã trừ

                  Ngàn hai trăm La Hán

                  Thảy đều sẽ thành Phật.

                  Như chư Phật ba đời

                  Nghi thức nói các pháp

                  Ta nay cũng như thế

                  Nói pháp không phân biệt.

                  Chư Phật hiện ra đời

                  Lâu xa khó gặp được

                  Gặp lúc Phật ra đời

                  Nói pháp nầy khó hơn.

                  Vô lượng vô số kiếp

                  Nghe pháp nầy cũng khó

                  Người nghe được pháp nầy

                  Người đó càng khó hơn.

                  Ví như hoa ưu đàm

                  Tất cả đều ưa thích

                  Ít có trong trời người

                  Ðúng thời mới xuất hiện.

                  Nghe pháp vui mừng khen

                  Cho đến nói một lời

                  Tức là đã cúng dường

                  Tất cả Phật ba đời.

                  Người đó rất ít có

                  Hơn cả hoa ưu đàm.

                  Các ông chớ có nghi

                  Ta là vua các pháp.

                  Nói khắp các đại chúng

                  Chỉ dùng đạo một thừa

                  Giáo hóa các Bồ Tát

                  Không Thanh Văn đệ tử.

                  Xá Lợi Phất các ông!

                  Thanh Văn và Bồ Tát

                  Nên biết diệu pháp nầy

                  Bí yếu của chư Phật.

                  Bởi đời ác năm trược

                  Chỉ ưa chấp các dục

                  Những chúng sinh như thế

                  Quyết chẳng cầu Phật đạo.

                  Người ác đời vị lai

                  Nghe Phật nói một thừa

                  Mê hoặc chẳng tin nhận

                  Phá pháp đọa đường ác.

                  Người hổ thẹn thanh tịnh

                  Quyết chí cầu Phật đạo

                  Ta sẽ vì người đó

                  Rộng khen đạo một thừa.

                  Xá Lợi Phất nên biết!

                  Pháp chư Phật như thế

                  Dùng vạn ức phương tiện

                  Tùy nghi mà nói pháp.

                  Người nào chẳng tu học

                  Không thể hiểu pháp nầy

                  Các ông tức đã biết

                  Chư Phật thầy trong đời.

                  Tùy nghi dùng phương tiện

                  Không nên sinh nghi hoặc

                  Sinh tâm vui mừng lớn

                  Biết mình sẽ thành Phật.         

                  HẾT QUYỂN THỨ NHẤT

QUYỂN HAI

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng: Hôm nay nghe Đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy: Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai.

                  Ðức Thế Tôn! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy: Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao Đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải Đức Thế Tôn vậy. 

                  Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

                  Con nghe tiếng pháp nầy

                  Ðắc được chưa từng có

                  Tâm sinh vui mừng lớn

                  Lưới nghi đều đã trừ.

                  Xưa nay nhờ Phật dạy

                  Chẳng mất nơi đại thừa

                  Tiếng Phật rất ít có

                  Hay trừ khổ chúng sinh.

                  Con đã được sạch lậu

                  Nghe cũng trừ khổ não

                  Con ở nơi hang núi

                  Hoặc dưới cây trong rừng.

                  Hoặc ngồi hoặc kinh hành

                  Thường suy gẫm như vầy:

                  Than ôi! Tự trách mình

                  Sao lại khi dối mình.

                  Chúng ta cũng Phật tử

                  Ðồng vào pháp vô lậu

                  Ðời vị lai chẳng được

                  Diễn nói đạo vô thượng.

                  Sắc vàng ba mươi hai

                  Mười lực các giải thoát

                  Ðồng trong một pháp tánh

                  Mà chẳng được việc nầy.

                  Tám mươi tướng tốt đẹp

                  Mười tám pháp bất cộng

                  Những công đức như thế

                  Mà con đều đã mất.

                  Lúc con kinh hành riêng

                  Thấy Phật trong đại chúng

                  Danh đồn khắp mười phương

                  Rộng lợi ích chúng sinh.

                  Nghĩ mình mất lợi nầy

                  Vì con tự khi dối

                  Con thường nơi ngày đêm

                  Ðều suy nghĩ việc nầy.

                  Muốn hỏi Đức Thế Tôn!

                  Là mất hay chẳng mất?

                  Con thường thấy Thế Tôn

                  Khen ngợi các Bồ Tát.

                  Vì thế nên ngày đêm

                  Con nghĩ về việc nầy

                  Nay nghe tiếng Phật nói

                  Tùy nghi mà nói pháp.

                  Vô lậu khó nghĩ bàn

                  Khiến chúng đến đạo tràng

                  Con vốn chấp tà kiến

                  Làm thầy các Phạm chí.

                  Thế Tôn biết tâm con

                  Trừ tà nói Niết Bàn

                  Khiến con dứt tà kiến

                  Chứng đắc được pháp không.

                  Bấy giờ tâm tự bảo:

                  Ðến được nơi diệt độ

                  Nay mới thật biết rõ

                  Chẳng phải thật diệt độ.

                  Nếu sẽ được thành Phật

                  Ðủ ba mươi hai tướng

                  Chúng trời người Dạ Xoa

                  Rồng Thần đều cung kính.

                  Lúc đó, mới bảo rằng:

                  Vĩnh viễn vào Vô Dư

                  Phật ở trong đại chúng

                  Nói con sẽ thành Phật.

                  Nghe tiếng pháp như thế

                  Nghi hoặc đều đã trừ

                  Vừa nghe Phật nói ra

                  Trong tâm rất sợ nghi.

                  Phải chăng ma giả Phật

                  Nhiễu loạn tâm con chăng

                  Phật dùng đủ thứ duyên

                  Thí dụ khéo nói pháp.

                  Tâm Phật an như biển

                  Con nghe lưới nghi dứt

                  Phật nói đời quá khứ

                  Vô lượng Phật diệt độ.

                  An trụ trong phương tiện

                  Cũng đều nói pháp nầy

                  Phật hiện tại vị lai

                  Số đông không thể lường.

                  Cũng dùng các phương tiện

                  Diễn nói pháp như thế

                  Như Thế Tôn hôm nay

                  Từ sinh đến xuất gia.

                  Ðắc đạo chuyển pháp luân

                  Cũng dùng phương tiện nói

                  Thế Tôn nói thật đạo

                  Ba Tuần làm chẳng được.

                  Thế nên con biết chắc

                  Chẳng phải ma giả Phật

                  Vì con sa lưới nghi

                  Bảo là ma vương nói.

                  Nghe tiếng Phật êm dịu

                  Xâu xa rất vi diệu

                  Diễn xướng pháp thanh tịnh

                  Tâm con rất vui mừng.

                  Nghi hoặc đã dứt hẳn

                  An trụ trong thật trí

                  Con chắc sẽ thành Phật

                  Ðược trời người cung kính.

                  Chuyển pháp luân vô thượng

                  Giáo hóa các Bồ Tát. 

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Nay ta ở trong đại chúng trời người Sa môn, Bà la môn mà nói, xưa kia ta đã từng ở chỗ hai vạn ức vị Phật, vì đạo vô thượng, nên thường giáo hóa ông. Ông cũng theo ta tu học lâu dài, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông, khiến cho sinh vào trong pháp của ta. 

                  Xá Lợi Phất! Xưa ta dạy ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đã quên, mà bèn tự bảo đã được diệt độ. Nay ta muốn khiến cho ông nhớ lại nguyện xưa đã hành đạo, vì các Thanh Văn nói kinh đại thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.

                  Xá Lợi Phất! Ông ở đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên số kiếp không thể nghĩ bàn, cúng dường hàng ngàn vạn ức vị Phật, phụng trì chánh pháp, đầy đủ đạo của Bồ Tát tu hành, sẽ được thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó tên là Ly Cấu, cõi đó bằng phẳng thanh tịnh trang nghiêm, an ổn, giàu có, sung sướng, trời người đông đảo. Dùng lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng dùng giăng bên đường, cạnh lề đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa quả. Ðức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sinh.

                  Xá Lợi Phất! Ðức Phật đó ra đời tuy chẳng phải đời ác, nhưng vì nguyện xưa cho nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là Ðại Bảo  Trang Nghiêm. Vì sao tên là Ðại Bảo Trang Nghiêm? Vì trong cõi nước đó dùng Bồ Tát làm đại bảo. Các Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Toán số ví dụ cũng không thể tính được, ngoài trí lực của Phật ra, không ai biết được. Nếu muốn đi thì có hoa báu đỡ chân. Các vị Bồ Tát đó, chẳng phải mới phát tâm, các Ngài đều đã trồng gốc công đức lâu xa, tu phạm hạnh thanh tịnh, nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chỗ các Đức Phật. Thường được chư Phật khen ngợi, thường tu trí huệ của Phật, đủ đại thần thông, khéo biết tất cả các pháp môn, chân thật không hư dối, chí niệm kiên cố, các Bồ Tát như thế đầy khắp nước đó. Xá Lợi Phất! Ðức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ làm vương tử chưa thành Phật, thì nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Ðức Hoa Quang Như Lai, trải qua mười hai tiểu kiếp, thì thọ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bảo các Tỳ Kheo rằng: Bồ Tát Kiên Mãn kế đây sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cõi nước của Ðức Phật đó cũng lại như thế.

                  Xá Lợi Phất! Phật Hoa Quang đó diệt độ rồi, chánh pháp trụ thế ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp. 

                  Bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

                  Xá Lợi Phất tương lai

                  Thành Phật đấng đại trí

                  Hiệu là Phật Hoa Quang

                  Sẽ độ vô lượng chúng.

                  Cúng dường vô số Phật

                  Ðầy đủ hạnh Bồ Tát

                  Mười lực các công đức

                  Chứng được vô thượng đạo.

                  Qua vô lượng kiếp sau

                  Kiếp tên Ðại Bảo Nghiêm

                  Thế giới tên Ly Cấu

                  Thanh tịnh chẳng dơ bẩn.

                  Dùng lưu ly làm đất

                  Dây vàng giăng bên đường

                  Hàng cây xen bảy báu

                  Thường có hoa quả thật.

                  Các Bồ Tát nước đó

                  Chí niệm thường kiên cố

                  Thần thông Ba la mật

                  Thảy đều đã đầy đủ.

                  Nơi vô số chư Phật

                  Khéo học Bồ Tát đạo

                  Các Ðại Sĩ như thế

                  Do Phật Hoa Quang độ.

                  Khi Phật làm vương tử

                  Bỏ nước xả vinh hoa

                  Ở nơi thân cuối cùng

                  Xuất gia thành Phật đạo.

                  Phật Hoa Quang trụ thế

                  Thọ mười hai tiểu kiếp

                  Chúng nhân dân nước đó

                  Thọ mạng tám tiểu kiếp.

                  Sau khi Phật diệt độ

                  Chánh pháp trụ ở đời

                  Ba mươi hai tiểu kiếp

                  Rộng độ các chúng sinh.

                  Chánh pháp diệt hết rồi

                  Tượng pháp ba mươi hai

                  Xá lợi rộng truyền khắp

                  Trời người đều cúng dường.

                  Sự việc Phật Hoa Quang

                  Ðại khái là như thế

                  Ðấng Lưỡng Túc Tôn kia

                  Tối thắng chẳng ai bằng.

                  Phật đó tức thân ông

                  Nên phải tự vui mừng. 

                  Bấy giờ, bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, đại chúng, thấy Ðức Phật thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tâm rất vui mừng hớn hở vô cùng, ai nấy đều cởi y trên thân, để cúng dường Ðức Phật. Thích Ðề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương, và vô số Thiên tử, cũng đem y trời đẹp, hoa trời mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, cúng dường đức Phật, y trời tung lên bèn trụ ở trong hư không mà tự xoay vòng. Âm nhạc của chư thiên trăm ngàn vạn thứ, cùng một lúc đều tấu lên ở trong hư không, mưa xuống các hoa trời mà nói như vầy: Xưa kia, đức Phật ban đầu chuyển pháp luân ở thành Ba La Nại, cho đến hôm nay mới chuyển pháp luân lớn nhất vô thượng. 

                  Lúc đó, các Thiên tử muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng: 

                  Xưa tại Ba La Nại

                  Chuyển pháp luân bốn đế

                  Phân biệt nói các pháp

                  Sinh diệt của năm uẩn.

                  Nay lại chuyển pháp luân

                  Vô thượng diệu bậc nhất

                  Pháp đó rất thâm áo

                  Ít có người tin được.

                  Chúng con từ xưa nay

                  Thường nghe Thế Tôn nói

                  Chưa từng nghe diệu pháp

                  Thâm diệu như thế nầy.

                  Thế Tôn nói pháp nầy

                  Chúng con đều tùy hỉ

                  Ðại trí Xá Lợi Phất

                  Nay được Phật thọ ký.

                  Chúng con cũng như thế

                  Tất sẽ được thành Phật

                  Trong tất cả thế gian

                  Tôn quý vô thượng nhất.

                  Phật đạo không nghĩ bàn

                  Phương tiện tùy nghi nói

                  Những phước đức con có

                  Ðời nầy hoặc quá khứ.

                  Và công đức gặp Phật

                  Hồi hướng đến Phật đạo.

                   Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Nay con chẳng còn nghi hoặc, ở trước Ðức Phật được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Một ngàn hai trăm vị tâm được tự tại nầy, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường giáo hóa rằng: Pháp của ta hay khỏi sinh già bệnh chết, được cứu kính Niết Bàn. Các vị hữu học vô học nầy, ai nấy cũng đã lìa ngã kiến, thường kiến, và đoạn kiến, cho rằng được Niết Bàn, mà nay ở trước Đức Thế Tôn, nghe những điều chưa nghe, đều sa vào nghi hoặc. Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin vì bốn chúng mà nói nhân duyên đó, khiến cho họ lìa nghi hoặc.

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo Xá Lợi Phất! Trước kia ta đâu chẳng nói, chư Phật Thế Tôn dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ thí dụ phương tiện nói pháp, đều vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác ư? Nói những điều đó, đều vì giáo hóa các Bồ Tát. Nhưng Xá Lợi Phất, nay ta sẽ dùng thí dụ để làm rõ nghĩa nầy, những người có trí do thí dụ mà được hiểu.

                  Xá Lợi Phất! Như quốc ấp tụ lạc, có vị đại trưởng giả, tuổi đã già nua, của cải giàu có vô lượng, có nhiều ruộng vườn nhà cửa và các tôi tớ. Nhà đó rộng lớn, chỉ có một cửa, có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, cho đến năm trăm người, đều ở trong đó. Lầu gác hư mục, tường vách sụp đổ, cột kèo xiêu vẹo, nóc mái nghiêng ngã. Chung quanh cùng một lúc, lửa bỗng nổi lên, thiêu đốt nhà cửa. Các người con của ông trưởng giả, hoặc mười, hai mươi, cho đến ba mươi người, đều ở trong nhà đó. Ông trưởng giả thấy lửa lớn từ bốn phía nổi lên, bèn rất sợ hãi, mà nghĩ như vầy: Tuy ta ở nơi cửa nhà cháy ra ngoài được an ổn, mà các người con của ta đang ở trong nhà lửa, đùa giỡn chẳng hay biết gì, chẳng kinh sợ lửa sẽ đốt thân, rất đau khổ lắm mà chúng chẳng lo lắng, chẳng có ý cầu ra ngoài.  

                  Xá Lợi Phất! Ông trưởng giả đó bèn nghĩ như vầy: Thân và tay của ta, có sức sẽ dùng vạt áo, hoặc bàn ghế từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà đó chỉ có một cửa, mà lại hẹp nhỏ, các người con còn thơ ấu chưa có hiểu biết, ham mê chơi đùa, sẽ bị đọa lạc, hoặc bị lửa thiêu đốt. Ta sẽ vì chúng nói việc đáng sợ. Nhà nầy đã cháy, phải đi ra mau, đừng để bị lửa thiêu hại. Nghĩ như thế rồi, bèn y theo sự suy nghĩ đó, mà bảo các con: Các con hãy mau ra! Người cha tuy thương xót, khéo nói lời dẫn dụ, mà các người con ham vui chơi đùa, chẳng chịu tin nhận, chẳng sợ hãi, chẳng có tâm muốn ra, cũng chẳng biết gì là lửa, gì là nhà, thế nào là mất, cứ chạy đông chạy tây, đùa giỡn nhìn cha mà thôi. 

                  Bấy giờ, ông trưởng giả bèn nghĩ: Nhà nầy lửa đã cháy lớn, nếu ta và các con không ra, thì sẽ bị lửa thiêu. Nay ta phải bày phương tiện, khiến cho các con khỏi bị lửa hại. Cha biết các con, trước kia tâm đều thích đủ thứ đồ chơi quý giá kỳ lạ, ai nấy đều ưa thích, mà bảo rằng: Ở đây có những đồ chơi, ít có khó được, nếu các con không mau ra lấy, chắc sau nầy sẽ buồn ăn năn. Nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, các thứ nay đều ở ngoài cửa, có thể dùng đi dạo chơi. Các con đang ở trong nhà lửa, hãy mau ra đây, tùy ý muốn của các con, cha đều cho các con. 

                  Khi đó, các người con nghe cha nói đồ chơi quý giá, vừa hợp ý mình, nên tâm ai nấy đều dũng mãnh, xô đẩy lẫn nhau, cùng đua đuổi chạy tranh nhau ra khỏi nhà lửa.

                  Khi đó, ông trưởng giả thấy các con ra ngoài được an ổn, đều ở nơi ngã tư đường, ngồi ở nơi đất trống, chẳng còn gì chướng ngại, tâm ông rất thơ thới vui mừng hớn hở. 

                  Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: Lúc nãy, cha có hứa cho chúng con các đồ chơi quý giá, nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, xin cha hãy ban cho. 

                  Xá Lợi Phất! Lúc đó, ông trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn. Xe đó cao rộng, trang trí các thứ báu đẹp, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che phía trên, cũng dùng các trân báu tốt đẹp để nghiêm sức. Dây báu kết thắt các dải hoa rũ xuống. Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, màu da rất sạch, thân hình rất đẹp, có sức lực rất mạnh, bước đi ngay thẳng, mau lẹ như gió, lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ. Tại sao? Vì ông trưởng giả đó, của cải giàu có vô lượng, đủ thứ kho tàng thảy đều tràn đầy. Mà nghĩ rằng: Của cải của ta nhiều vô số, không nên dùng xe nhỏ xấu xí, mà cho các con. Nay những đứa trẻ nầy, đều là con của ta, ta thương chúng nó chẳng có thiên lệch. Ta có xe lớn bằng bảy báu như thế, số nhiều vô lượng, nên dùng tâm bình đẳng mà cho chúng nó, không nên có sự phân biệt. Vì sao? Vì ta dùng của cải nầy, cho khắp tất cả mọi người trong nước, hãy còn không hết, huống gì các người con. Lúc đó, các người con ai nấy đều ngồi xe lớn, được chưa từng có, chẳng phải chỗ trước kia mong đợi.

                  Xá Lợi Phất! Ý của ông thế nào? Ông trưởng giả đó, đồng cho các người con xe trâu báu lớn, có hư vọng chăng?  

                  Xá Lợi Phất nói: Không vậy! Ðức Thế Tôn! Ông trưởng giả đó, chỉ khiến cho các con khỏi nạn lửa, an toàn tính mạng, chẳng phải là hư vọng. Tại sao? Vì nếu được an toàn tính mạng, thì đã được đồ chơi tốt đẹp, huống chi dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

                  Ðức Thế Tôn! Cho dù ông trưởng giả đó, không cho một thứ xe nhỏ nhất nào, cũng chẳng hư vọng. Tại sao? Vì ông trưởng giả đó, trước hết nghĩ rằng: Ta dùng phương tiện, khiến cho các con được ra khỏi, do nhân duyên đó, mà chẳng hư vọng vậy. Hà huống ông trưởng giả biết mình của giàu vô lượng, muốn lợi ích cho các con, mà đồng cho xe lớn. 

                  Ðức Phật bảo Xá Lợi Phất: Lành thay, lành thay! Như lời ông nói, Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như thế, là cha lành của tất cả thế gian, ở nơi sợ hãi suy não lo buồn, vô minh đen tối che đậy, vĩnh viễn hết sạch chẳng còn sót, thảy đều thành tựu vô lượng tri kiến, lực vô sở úy, có sức đại thần thông, và sức trí huệ, đầy đủ phương tiện trí huệ Ba la mật, đại từ bi, thường chẳng lười mỏi, luôn luôn cầu việc thiện, lợi ích tất cả chúng sinh, mà sinh vào nhà lửa tam giới hư mục nầy. Vì độ chúng sinh ra khỏi nạn lửa sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm ba độc mà giáo hóa, khiến cho chúng sinh được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thấy các chúng sinh vì sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não thiêu đốt, cũng vì năm dục tài lợi, mà chịu đủ thứ khổ, lại vì tham trước truy cầu, hiện phải chịu đựng các sự khổ, sau đó thì chịu khổ ở trong địa ngục ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh về cõi trời, hoặc ở nhân gian, thì bần cùng khốn khổ, khổ về thương yêu phải xa lìa, khổ về oán ghét mà gặp nhau, đủ thứ các sự khổ như thế. Chúng sinh đắm chìm ở trong đó, vui mừng dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng sợ hãi cũng chẳng nhàm chán, chẳng cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa tam giới nầy, chạy đông chạy tây, dầu gặp khổ lớn mà chẳng lo lắng.

                  Xá Lợi Phất! Ðức Phật thấy vậy rồi, bèn nghĩ rằng: Ta là cha lành của chúng sinh, nên cứu họ khỏi khổ nạn, ban cho họ vô lượng vô biên trí huệ an vui của Phật, để họ dạo chơi.

                  Xá Lợi Phất! Như Lai lại nghĩ rằng: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông, và sức trí huệ, bỏ đi phương tiện, vì chúng sinh khen ngợi tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, thì chúng sinh không thể do đó mà được độ. Tại sao? Vì các chúng sinh đó, chưa khỏi sinh già bệnh chết lo buồn khổ não, mà bị thiêu đốt ở trong nhà lửa tam giới, làm sao hiểu được trí huệ của Phật.

                  Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia, tuy thân và tay có sức mạnh, mà chẳng dùng đến, chỉ ân cần dùng phương tiện, cố gắng cứu các con ra khỏi nhà lửa, sau đó đều cho xe trân báu lớn. Như Lai cũng lại như thế, tuy có trí lực vô sở úy, mà chẳng dùng đến. Chỉ dùng trí huệ phương tiện, nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sinh, vì chúng sinh mà nói ba thừa: Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa, mà nói rằng: Các ông không nên ưa thích ở trong nhà lửa tam giới, chớ tham sắc thanh hương vị xúc thô hèn. Nếu tham trước thì sinh luyến ái sẽ bị thiêu đốt, các ông hãy mau ra khỏi tam giới, sẽ chứng được ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật và Phật thừa. Nay ta bảo nhiệm việc nầy, tuyệt đối chẳng hư vọng. Các ông hãy siêng tu tinh tấn, Như Lai dùng phương tiện đó, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa.

                  Lại bảo: Các ông nên biết! Pháp ba thừa nầy, đều được các bậc Thánh khen ngợi, tự tại chẳng ràng buộc, chẳng còn nương tựa tìm cầu, ngồi ba thừa đó, dùng vô lậu căn lực giác đạo, thiền định giải thoát tam muội .v.v... mà tự vui sướng, bèn được vô lượng an ổn khoái lạc. 

                  Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sinh bên trong có trí tánh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi tam giới, tự cầu chứng Niết Bàn, đó gọi là Thanh Văn thừa. Như các người con đó, vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

                  Nếu có chúng sinh theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn cầu tự nhiên trí, thích sống một mình ở chỗ vắng vẻ, biết rõ nhân duyên của các pháp, đó gọi là Bích Chi Phật thừa, như các người con kia, vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sinh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tri kiến lực, vô sở úy của Như Lai, thương xót vì sự an vui của vô lượng chúng sinh, làm lợi ích cho trời người, độ thoát tất cả chúng sinh, đó gọi là đại thừa. Bồ Tát cầu thừa nầy, nên gọi là Ma ha tát, như các người con kia, vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

                  Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia, thấy các người con ra khỏi nhà lửa được an ổn, đến nơi chẳng sợ hãi, tự nghĩ của cải giàu có vô lượng, đều đem xe lớn mà cho các con. Như Lai cũng như thế, là cha của tất cả chúng sinh. Nếu thấy vô lượng ức ngàn chúng sinh, do cửa Phật giáo mà ra khỏi đường hiểm khổ sợ hãi của tam giới, thì Phật khiến cho họ được sự an vui của Niết Bàn.

                  Bấy giờ, Đức Như Lai bèn nghĩ: Ta có vô lượng vô biên trí huệ lực vô sở úy .v.v... các kho tàng Phật pháp. Các chúng sinh đó đều là con của ta, đều bình đẳng ban cho đại thừa, chẳng khiến có người được diệt độ riêng, mà đều dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ. Những chúng sinh đó thoát khỏi tam giới, Phật đều ban cho sự vui sướng thiền định giải thoát của chư Phật. Ðều là một tướng một thứ, mà các bậc Thánh khen ngợi, hay sinh vui tịnh diệu bậc nhất. 

                  Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba xe, để dẫn dụ các người con, sau đó chỉ cho một thứ xe lớn, có các báu vật trang nghiêm, an ổn bật nhất, nhưng ông trưởng giả đó chẳng có lỗi hư dối. 

                  Như Lai cũng như thế, chẳng có nói dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sinh, sau đó chỉ dùng đại thừa mà độ thoát. Vì sao? Vì Như Lai có vô lượng trí huệ lực vô sở úy, các kho tàng Phật pháp, hay ban cho tất cả chúng sinh pháp đại thừa, nhưng thọ dụng chẳng hết được. 

                  Xá Lợi Phất! Do nhân duyên đó, nên biết chư Phật vì sức phương tiện, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói ba thừa. 

                  Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

                  Ví như ông trưởng giả

                  Có một ngôi nhà lớn

                  Nhà đó đã lâu đời

                  Mà lại cũ hư nát.

                  Phòng nhà cao nguy hiểm

                  Trụ cột lại gãy mục

                  Nóc nhà đều nghiêng ngã

                  Nền móng đã hư nát.

                  Tường vách đều sụp đổ

                  Bùn đất rơi rớt xuống

                  Tranh lợp rơi tả tơi

                  Kèo đòn tay trật khớp.

                  Bốn phía đều cong vạy

                  Ðầy dẫy những dơ uế

                  Có đến năm trăm người

                  Thảy đều ở trong đó.

                  Chim si, hưu, điêu, thứu

                  Quạ, chim thước, cưu, cáp

                  Ngô công và du diên

                  Loài thủ cung, bá túc.

                  Dứu ly cùng hề thử

                  Các loài độc trùng dữ

                  Ðuổi nhau chạy ngang dọc

                  Ðại tiểu tiện hôi thối.

                  Chảy đầy đồ bất tịnh

                  Các độc trùng bọ hung

                  Bu đậu ở trên đó

                  Cáo sói và dã can.

                  Liếm nhai dày đạp lên

                  Cắn xé những thây chết

                  Xương thịt bừa bãi ra

                  Do đó các bầy chó.

                  Tranh nhau đến giành ăn

                  Ốm đói rất sợ sệt

                  Khắp nơi tìm món ăn

                  Giành giựt cấu xé nhau.

                  Gầm gừ gào sủa rên

                  Nhà đó rất đáng sợ

                  Những cảnh trạng như thế

                  Khắp nơi thảy đều có.

                  Quỷ lị mị, vọng lượng

                  Dạ xoa các ác quỷ

                  Ăn nuốt cả thịt người

                  Các loài trùng dữ độc.

                  Những cầm thú hung ác

                  Ấp cho bú sản sinh

                  Ðều tự giấu gìn giữ.

                  Quỷ Dạ xoa đua đến

                  Tranh giành lấy món ăn

                  Ăn xong no nê rồi

                  Tâm ác nổi hăng lên.

                  Tiếng chúng đánh cãi nhau

                  Thật rất là hãi hùng

                  Loài quỷ Cưu bàn trà

                  Ngồi xổm trên đống đất.

                  Hoặc có lúc hỏng đất

                  Một thước hoặc hai thước

                  Dạo đi qua đi lại

                  Buông lung chơi đùa giỡn.

                  Cầm nắm hai chân chó

                  Ðánh cho la thất thanh

                  Lấy chân đạp trên cổ

                  Khủng bố chó để vui.

                  Lại có các loài quỷ

                  Thân chúng dài to lớn

                  Trần truồng rất xấu đen

                  Thường ở luôn trong đó.

                  Phát ra tiếng hung ác

                  Kêu la tìm thức ăn

                  Lại có các loài quỷ

                  Cổ chúng nhỏ như kim.

                  Lại có các loài quỷ

                  Ðầu chúng như đầu trâu

                  Hoặc là ăn thịt người

                  Hoặc lại ăn thịt chó.

                  Ðầu tóc rối tung lên

                  Tàn ác rất hung hiểm

                  Bị đói khát bức bách

                  Kêu la chạy đuổi theo.

                  Dạ xoa cùng quỷ đói

                  Các chim muôn ác độc

                  Ðói quá chạy bốn bề

                  Rình xem các cửa sổ.

                  Các nạn như vậy đó !

                  Vô lượng việc ghê sợ

                  Vì nhà hư mục đó

                  Thuộc về nơi một người.

                  Người đó vừa ra khỏi

                  Thời gian chưa bao lâu

                  Về sau ngôi nhà đó

                  Lửa bổng nhiên nổi lên.

                  Bốn phía cùng một lúc

                  Lửa ngọn cháy hừng hực

                  Mái nóc và cột kèo

                  Tiếng nổ vang lách tách.

                  Ðổ gãy rơi rớt xuống

                  Tường vách đều sụp đổ.

                  Các loài quỷ thần thảy

                  Ðều lớn tiếng kêu to.

                  Các loài chim điêu thứu

                  Cùng quỷ Cưu bàn trà

                  Hoảng sợ chạy tán loạn

                  Vẫn chẳng chạy ra được.

                  Thú dữ và trùng độc

                  Ẩn núp trong hang lỗ

                  Loài quỷ Tỳ xá xà

                  Cũng đều ở trong đó.

                  Vì phước mỏng đức ít

                  Nên bị lửa bức bách

                  Lại tàn hại lẫn nhau

                  Uống máu và ăn thịt.

                  Những loài thú dã can

                  Thảy đều đã chết trước

                  Các loài thú dữ lớn

                  Giành nhau đến ăn nuốt.

                  Mùi tanh loan khắp nơi

                  Ðầy dẫy cả bốn bề

                  Loài ngô công do diên

                  Cùng với loài rắn độc.

                  Ðều bị lửa thiêu đốt

                  Tranh nhau ra khỏi hang

                  Loài quỷ Cưu bàn trà

                  Bèn bắt lấy mà ăn.

                  Lại có các ngạ quỷ

                  Trên đầu bị lửa thiêu

                  Ðói khát nhiệt não hành

                  Hoảng hốt chạy tán loạn.

                  Nhà đó là như thế

                  Thật là rất hãi hùng

                  Ðộc hại và nạn lửa

                  Nhiều nạn chẳng phải một.

                  Lúc đó ông chủ nhà

                  Ðang đứng ở ngoài cửa

                  Nghe có người nói rằng:

                  Các người con của ông.

                  Trước kia vì dạo chơi

                  Ðến vào trong nhà nầy

                  Thơ bé chẳng biết gì

                  Ham chơi vui đùa giỡn.

                  Ông trưởng giả nghe rồi

                  Hoảng sợ vào nhà lửa.

                  Dùng phương tiện cứu tế

                  Khiến con khỏi thiêu hại.

                  Mà dụ bảo các con

                  Nói các thứ hoạn nạn

                  Các quỷ và độc trùng

                  Nạn lửa cháy lan tràn.

                  Các sự khổ thứ lớp

                  Liên tục mãi không dứt

                  Loài rắn độc ngoan phúc

                  Và các quỷ Dạ xoa.

                  Cùng quỷ Cưu bàn trà

                  Loài dã can chồn chó

                  Chim điêu, thứu, xi, hưu

                  Và loài bá túc thảy.

                  Ðều đói khát khổ sở

                  Thật rất là đáng sợ

                  Ðây là chỗ khổ nạn

                  Lại còn có lửa lớn

                  Các người con chẳng biết

                  Tuy nghe cha dạy bảo.

                  Vì còn ham vui chơi

                  Ðùa giỡn mãi không thôi.

                  Khi đó ông trưởng giả

                  Bèn nghĩ như thế nầy:

                  Các con ta như thế

                  Làm ta thêm sầu não

                  Nay trong nhà lửa nầy

                  Chẳng có điều gì vui.

                  Mà tất cả các con

                  Vẫn đam mê chơi đùa

                  Chẳng nghe lời ta dạy

                  Sắp bị lửa thiêu hại.

                  Ông trưởng giả lại nghĩ

                  Bày ra các phương tiện.

                  Mà bảo các con thảy

                  Ta có đủ các thứ.

                  Ðồ chơi rất quý giá

                  Xe báu rất tốt đẹp

                  Nào xe dê xe hươu

                  Và xe trâu to lớn.

                  Nay để ở ngoài cửa

                  Các con mau ra đây

                  Ta chính vì các con

                  Tạo ra những xe nầy.

                  Tùy ý các con thích

                  Có thể đi dạo chơi

                  Các người con nghe nói

                  Các loại xe như thế.

                  Bèn lập tức dành nhau

                  Ðua chạy ra khỏi nhà

                  Ðến nơi chỗ đất không

                  Lìa khỏi các khổ nạn.

                  Ông trưởng giả thấy con

                  Ðược ra khỏi nhà lửa

                  Ở nơi ngã tư đường

                  Ngồi trên tòa sư tử.

                  Mà tự mừng nói rằng:

                  Nay ta rất vui mừng

                  Những người con nầy đây

                  Ðẻ nuôi dưỡng rất khó.

                  Chúng nhỏ dại chẳng biết

                  Mà đi vào nhà hiểm

                  Nhiều các thứ độc trùng

                  Quỷ lị mị đáng sợ.

                  Lửa lớn cháy mãnh liệt

                  Bốn phía đều nổi dậy

                  Mà các người con nầy

                  Tham trước chơi đùa giỡn.

                  Ta đã cứu chúng nó

                  Khiến cho được thoát khỏi

                  Vì thế các người ơi!

                  Ta nay rất vui mừng.

                  Khi đó các người con

                  Biết cha đã an tòa

                  Ðều đến bên chỗ cha

                  Mà thưa với cha nói :

                  Xin ban cho chúng con

                  Ba thứ xe báu tốt

                  Như trước cha đã hứa

                  Các con mau ra đây.

                  Sẽ cho ba xe báu

                  Tùy ý muốn các con

                  Nay chính là phải thời

                  Xin cha hãy ba cho.

                  Ông trưởng giả giàu có

                  Có rất nhiều kho tàng

                  Nào vàng bạc lưu ly

                  Xa cừ và mã não.

                  Dùng các thứ báu vật

                  Tạo các cỗ xe lớn

                  Tu sửa nghiêm sức đẹp

                  Chung quanh có lan can.

                  Bốn phía đều treo linh

                  Dây vàng thắt với nhau.

                  Mành lưới bằng chân châu

                  Giăng bày ở phía trên

                  Hoa vàng các chuỗi ngọc

                  Khắp nơi thòng rũ xuống.

                  Xen tạp lụa nhiều màu

                  Giăng khắp chung quanh xe

                  Dùng bông tơ mềm mại

                  Ðể làm nệm nằm ngồi.

                  Vải mịn tốt thượng hạng

                  Giá trị đến nghìn muôn

                  Tốt đẹp trắng sạch sẽ

                  Dùng trải ở trên nệm.

                  Có trâu trắng to lớn

                  Mập khỏe nhiều sức mạnh

                  Thân hình rất đẹp đẽ

                  Dùng để kéo xe báu.

                  Rất nhiều kẻ tôi tớ

                  Ði theo hầu bảo vệ

                  Ðem xe báu đẹp đó

                  Ðồng ban cho các con.

                  Các người con lúc đó

                  Rất vui mừng hớn hở

                  Ngồi lên xe báu đó

                  Vui chơi rất khoái lạc

                  Rất tự tại vô ngại.

                  Phật bảo Xá Lợi Phất!

                  Ta cũng lại như thế

                  Chí tôn trong bậc Thánh

                  Là cha của thế gian.

                  Tất cả các chúng sinh

                  Ðều là con của ta

                  Say đắm vui thế gian

                  Chẳng có tâm trí huệ.

                  Ba cõi chẳng yên ổn

                  Giống như là nhà lửa

                  Ðầy dẫy sự thống khổ

                  Thật là đáng sợ hãi.

                  Thường có khổ sinh già

                  Bệnh chết và sầu lo

                  Các thứ lửa như thế

                  Cháy hừng hực chẳng tắt.

                  Như Lai đã lìa khỏi

                  Ngôi nhà lửa ba cõi

                  Ở chỗ yên vắng vẻ

                  Nơi núi rừng hoang dã.

                  Hiện nay ba cõi nầy

                  Ðều là của ta cả

                  Chúng sinh ở trong đó

                  Thảy đều là con ta.

                  Mà nay chơi chỗ nầy

                  Rất nhiều các hoạn nạn

                  Chỉ có một mình ta

                  Có thể cứu hộ được.

                  Tuy Phật đã dạy bảo

                  Mà cũng chẳng tin nhận

                  Vì nơi các dục nhiễm

                  Tâm tham trước sâu dày.

                  Do đó dùng phương tiện

                  Vì chúng nói ba thừa

                  Khiến cho các chúng sinh

                  Biết ba cõi là khổ.

                  Bèn khai thị diễn nói

                  Ðạo ra khỏi thế gian

                  Các người con đó thảy

                  Nếu tâm mà quyết định.

                  Thì đầy đủ ba minh

                  Và sáu thứ thần thông

                  Hoặc chứng được Duyên Giác

                  Và Bồ Tát bất thối.

                  Này ông Xá Lợi Phất!

                  Ta vì các chúng sinh

                  Mà dùng ví dụ nầy

                  Nói một thừa Phật đạo.

                  Nếu các ông có thể

                  Tin nhận lời nói đây

                  Thì tất cả đều sẽ

                  Ðược thành tựu Phật đạo.

                  Thừa nầy tối vi diệu

                  Rất thanh tịnh bậc nhất

                  Ở trong các thế gian

                  Chẳng có pháp nào hơn.

                  Chỗ chư Phật hoan hỉ

                  Tất cả các chúng sinh

                  Nên tán thán khen ngợi

                  Cúng dường và lễ bái.

                  Vô lượng trăm ngàn muôn

                  Các lực và giải thoát

                  Thiền định cùng trí huệ

                  Các pháp khác của Phật.

                  Chứng được thừa như thế.

                  Khiến cho các người con

                  Ngày đêm cùng số kiếp

                  Thường được đi dạo chơi.

                  Với các vị Bồ Tát

                  Cùng với chúng Thanh Văn

                  Ngồi nơi thừa báu nầy

                  Mà thẳng đến đạo tràng.

                  Nhân duyên như vậy đó.

                  Tìm cầu khắp mười phương

                  Chẳng có thừa nào khác

                  Trừ Phật dùng phương tiện.

                  Phật bảo Xá Lợi Phất!

                  Hết thảy lũ các ông

                  Ðều là con của ta

                  Còn ta tức là cha.

                  Các ông trong nhiều kiếp

                  Bị các khổ thiêu đốt

                  Ta đều đã cứu vớt

                  Khiến ra khỏi ba cõi.

                  Tuy trước kia ta nói

                  Các ông được diệt độ

                  Chỉ dứt hết sinh tử

                  Mà thật chẳng diệt độ.

                  Nay việc cần phải làm

                  Chỉ có trí huệ Phật

                  Nếu có Bồ Tát nào

                  Ở trong chúng hội nầy.

                  Mà một lòng lắng nghe

                  Thật pháp của chư Phật

                  Các Đức Phật Thế Tôn

                  Tuy dùng các phương tiện.

                  Giáo hóa các chúng sinh

                  Ðó đều là Bồ Tát.

                  Nếu có người trí nhỏ

                  Chấp sâu nơi ái dục

                  Thì vì những người đó

                  Nói đạo lý khổ đế.

                  Chúng sinh tâm vui mừng

                  Ðắc được chưa từng có

                  Chân thật chẳng sai khác

                  Nếu có chúng sinh nào.

                  Chẳng biết gốc các khổ

                  Chấp sâu vào nhân khổ

                  Chẳng tạm rời bỏ được

                  Bèn vì chúng sinh đó.

                  Dùng phương tiện dạy bảo

                  Nguyên nhân mọi sự khổ

                  Tham dục là gốc rễ

                  Nếu diệt được tham dục.

                  Chẳng còn chỗ nương tựa

                  Dứt sạch hết các khổ

                  Gọi là đế thứ ba

                  Vì chứng được diệt đế.

                  Mà tu hành đạo đế

                  Lìa các khổ ràng buộc

                  Gọi là được giải thoát

                  Người đó nơi pháp gì.

                  Mà đắc được giải thoát

                  Chỉ xa lìa hư vọng

                  Gọi đó là giải thoát

                  Kì thật chưa đắc được.

                  Tất cả các giải thoát

                  Phật nói rằng người đó

                  Chưa thật được diệt độ

                  Vì người đó chưa được.

                  Ðạo quả vô thượng vậy

                  Ý của ta không muốn

                  Khiến cho được diệt độ

                  Ta là đấng Pháp Vương.

                  Tự tại nơi các pháp

                  An ổn các chúng sinh

                  Cho nên hiện ra đời.

                  Này ông Xá Lợi Phất!

                  Pháp ấn của ta đây

                  Vì muốn làm lợi ích

                  Cho thế gian nên nói.

                  Nơi chỗ ông đi qua

                  Chớ có vọng tuyên truyền.

                  Nếu có ai nghe được

                  Tùy hỉ kính thọ trì

                  Nên biết rằng người đó.

                  Là bậc bất thối chuyển

                  Nếu có người tin nhận

                  Kinh pháp vô thượng nầy

                  Thì người đó đã từng.

                  Gặp chư Phật quá khứ

                  Cung kính và cúng dường

                  Cũng nghe được pháp nầy

                  Nếu người nào có thể.

                  Tin nhận lời ông nói

                  Tức như là thấy ta

                  Và cũng như thấy ông

                  Cùng các Tỳ Kheo Tăng.

                  Và các bậc Bồ Tát

                  Phật vì người trí sâu

                  Nói Kinh Pháp Hoa nầy

                  Người thức cạn nghe được.

                  Mê hoặc chẳng hiểu đặng

                  Tất cả hàng Thanh Văn

                  Cùng với Bích Chi Phật

                  Ở trong kinh pháp nầy.

                  Sức họ chẳng hiểu đặng

                  Như ông Xá Lợi Phất

                  Còn ở nơi kinh nầy

                  Dùng lòng tin vào được.

                  Huống là Thanh Văn khác

                  Bao nhiêu Thanh Văn khác

                  Do tin lời Phật nói

                  Mà tùy thuận kinh nầy.

                  Chẳng phải trí của mình.

                  Lại nữa Xá Lợi Phất!

                  Kẻ kiêu mạn giải đãi

                  Chấp trước vào bản ngã

                  Chớ nên nói kinh nầy.

                  Kẻ phàm phu thức cạn

                  Chấp sâu nơi năm dục

                  Nghe chẳng thể hiểu đặng

                  Cũng chớ vì họ nói.

                  Nếu người chẳng tin nhận

                  Mà hủy báng kinh nầy

                  Tức là dứt tất cả

                  Hạt giống Phật thế gian.

                  Hoặc có người nhăn nhó

                  Mà ôm lòng nghi hoặc

                  Ông nên lóng nghe nói

                  Tội báo của người nầy.

                  Nếu Phật còn tại thế

                  Hoặc sau khi diệt độ

                  Nếu có người phỉ báng

                  Kinh điển như thế nầy.

                  Thấy có người đọc tụng

                  Biên chép và thọ trì

                  Bèn khinh khi ghét ghen

                  Mà ôm lòng kết hận.

                  Tội báo của người nầy

                  Nay ông nên lóng nghe

                  Khi người đó mạng chung

                  Đọa vào ngục A-tỳ.

                  Đầy đủ chẵn một kiếp

                  Hết kiếp rồi lại sinh

                  Cứ chuyển sinh như thế

                  Cho đến vô số kiếp.

                  Từ trong địa ngục ra

                  Sẽ đọa làm súc sinh

                  Hoặc làm chó, dã can

                  Thân hình chúng gầy ốm.

                  Ðen thui lại ghẻ lát

                  Bị người thường chọc ghẹo

                  Lại còn phải bị người

                  Nhờm gớm và khinh khi.

                  Thường bị khổ đói khát

                  Xương thịt đều khô héo

                  Lúc sống chịu khốn khổ

                  Chết bị ném ngói đá.

                  Vì dứt mất giống Phật

                  Nên chịu tội báo đó

                  Hoặc sinh làm lạc đà

                  Hoặc sinh vào loài lừa.

                  Thân thường mang chở nặng

                  Còn thêm bị đánh đập

                  Chỉ nhớ nước và cỏ

                  Ngoài ra chẳng biết gì.

                  Vì phỉ báng kinh điển

                  Mà mắc tội như thế.

                  Có khi làm dã can

                  Đi vào trong xóm làng.

                  Thân thể bị ghẻ lát

                  Lại thiếu mất một mắt

                  Bị những đứa trẻ con

                  Đánh đập và liệng ném.

                  Chịu các sự thống khổ

                  Hoặc có khi phải chết

                  Sau khi bỏ thân nầy

                  Bèn thọ làm thân rắn.

                  Thân hình dài to lớn

                  Đến năm trăm do tuần

                  Ngây điếc chẳng có chân

                  Lăn lóc đi bằng bụng.

                  Bị các loài trùng nhỏ

                  Rúc rỉa ăn máu thịt

                  Ngày đêm chịu khổ sở

                  Chẳng có khi nào ngừng.

                  Bởi phỉ báng kinh nầy

                  Mắc tội như vậy đó.

                  Nếu được sinh làm người

                  Các căn đều ám độn.

                  Lùn xấu lại lệch què

                  Ðui điết thêm lưng gù

                  Có nói ra lời gì

                  Chẳng có ai tin nhận.

                  Hơi miệng thường hôi thối

                  Bị quỷ mị dựa nhập

                  Bần cùng rất hạ tiện

                  Thường bị người sai khiến.

                  Nhiều bệnh thân ốm gầy

                  Chẳng có chỗ nương nhờ.

                  Dù nương tựa gần người

                  Mà người chẳng để ý

                  Nếu học được điều gì

                  Thì bèn quên mất hết.

                  Nếu học làm nghề thuốc

                  Theo đúng pháp trị bệnh

                  Mà bệnh người nặng thêm

                  Hoặc có khi mất mạng.

                  Nếu mình có bệnh gì

                  Chẳng ai cứu chữa khỏi

                  Dù có uống thuốc hay

                  Mà bệnh lại thêm nặng.

                  Hoặc có người phản nghịch

                  Cướp giật trộm lấy của

                  Các tội lỗi như thế

                  Hoặc tự mang vạ lây.

                  Những người tội như thế

                  Vĩnh viễn chẳng thấy Phật

                  Là vua trong hàng Thánh

                  Thường nói pháp giáo hóa.

                  Những người tội như vậy

                  Thường sinh chỗ hoạn nạn

                  Tâm cuồng loạn tai điếc

                  Vĩnh viễn chẳng nghe pháp.

                  Ở trong vô số kiếp

                  Nhiều như cát sông Hằng

                  Sinh ra luôn câm điếc

                  Các căn chẳng đầy đủ.

                  Thường ở nơi địa ngục

                  Như dạo xem công viên

                  Ở trong các đường ác

                  Như nhà cửa của mình.

                  Lạc đà lừa heo chó

                  Thường đến những chỗ đó

                  Vì khinh chê kinh nầy

                  Mắc tội nặng như thế.

                  Nếu được sinh làm người

                  Thường đui điếc câm ngọng

                  Bần cùng các tướng suy

                  Dùng để tự trang nghiêm.

                  Bệnh phù thủng khô khát

                  Ghẻ lát và ung thư

                  Các chứng bệnh như thế

                  Dùng làm y phục mặc.

                  Thân thể thường hôi thối

                  Dơ bẩn chẳng sạch sẽ

                  Chấp sâu nơi tướng ta

                  Tăng thêm tánh nóng giận.

                  Và dâm dục hẫy hừng

                  Chẳng chừa loài cầm thú

                  Vì khinh chê kinh nầy

                  Mà mắc tội như thế.

                  Phật bảo Xá Lợi Phất!

                  Người phỉ báng kinh nầy

                  Nếu nói tội lỗi họ

                  Cùng kiếp chẳng hết được.

                  Do bởi nhân duyên dó

                  Ta thường bảo các ông

                  Ðối với người vô trí

                  Ðừng nên nói kinh nầy.

                  Nếu có người lợi căn

                  Có trí huệ sáng suốt

                  Học rộng trí nhớ tốt

                  Tâm mong cầu Phật đạo.

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói

                  Nếu người đã từng thấy

                  Trăm nghìn ức vị Phật.

                  Trồng các gốc căn lành

                  Thâm tâm rất bền vững

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói.

                  Nếu có người tinh tấn

                  Thường tu tâm từ bi

                  Chẳng hề tiếc thân mạng

                  Mới nên vì họ nói.

                  Nếu có người cung kính

                  Chẳng sinh lòng khác biệt

                  Lìa xa các phàm ngu

                  Ở riêng trong núi đầm.

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói

                  Lại nữa, Xá Lợi Phất!

                  Nếu thấy có người nào.

                  Rời bỏ ác tri thức

                  Gần gũi những bạn hiền

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói.

                  Nếu thấy có Phật tử

                  Giữ gìn giới trong sạch

                  Như hạt châu sáng sạch

                  Ham cầu kinh đại thừa.

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói

                  Nếu người chẳng nóng giận

                  Chất trực và diệu hòa.

                  Thường thương xót hết thảy

                  Cung kính các Đức Phật

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói.

                  Lại có các Phật tử

                  Ở trong các đại chúng

                  Thuần dùng tâm thanh tịnh

                  Đủ thứ các nhân duyên.

                  Ví dụ và lời lẽ

                  Nói pháp không chướng ngại

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói.

                  Nếu có vị Tỳ Kheo

                  Vì cầu Nhất thiết trí

                  Cầu pháp khắp bốn phương

                  Chắp tay đảnh lễ thọ.

                  Chỉ vui thích thọ trì

                  Các kinh điển đại thừa

                  Cho đến chẳng thọ trì

                  Một bài kệ kinh khác.

                  Những hạng người như thế

                  Mới nên vì họ nói

                  Như có người chí tâm

                  Cầu xá lợi của Phật.

                  Cầu kinh cũng như thế

                  Được rồi đảnh lễ thọ

                  Người đó lại chẳng có

                  Chí cầu các kinh khác.

                  Cũng chưa từng nghĩ nhớ

                  Kinh điển của ngoại đạo

                  Những hạng người như thế

                  Nên vì họ mà nói.

                  Phật bảo Xá Lợi Phất !

                  Ta nói các sự tướng

                  Của người cầu Phật đạo

                  Cùng kiếp chẳng hết được.

                  Hết thảy những người đó

                  Tức có thể tin hiểu

                  Ông nên vì họ nói

                  Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Tin Hiểu thứ Tư

                  Bấy giờ, Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Mục Kiền Liên, nghe Phật nói pháp chưa từng có. Ðức Thế Tôn thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sinh tâm hi hữu vui mừng hớn hở, bèn từ tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, hở bày vai phải, gối phải đụng đất, một lòng chắp tay, cúi mình cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng: Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng chúng, tuổi đã già nua, tự cho mình đã được Niết Bàn, chẳng kham nhiệm gì nữa, chẳng còn cầu mong quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.  

                  Đức Thế Tôn trước kia nói pháp đã lâu, con ngồi tại tòa thân thể cảm thấy mệt mỏi, chỉ nhớ pháp không, vô tướng, vô tác. Nơi pháp Bồ Tát du hí thần thông, thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sinh, thì tâm chúng con chẳng vui thích. Tại sao? Vì Đức Thế Tôn khiến cho chúng con ra khỏi ba cõi, chứng được Niết Bàn. Hơn nữa, nay chúng con tuổi đã già nua, chẳng sinh tâm niệm ưa thích nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà Đức Phật giáo hóa Bồ Tát. Hôm nay chúng con ở trước Đức Phật, nghe thọ ký cho hàng Thanh Văn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tâm chúng con rất vui mừng được chưa từng có, không ngờ hôm nay hốt nhiên được nghe pháp chưa từng có, rất tự mừng may được lợi lành lớn, vô lượng châu báu, chẳng cầu mà tự được. 

                  Đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin nói ví dụ để làm rõ nghĩa đó. Ví như, có người tuổi còn nhỏ, bỏ cha trốn đi sang nước khác, ở lâu hoặc mười, hai mươi, cho đến năm mươi năm. Người đó tuổi tác đã lớn, lại thêm bần cùng khốn khổ, lang thang khắp bốn phương, để tìm cầu cơm ăn áo mặc, lần lần du hành tình cờ trở về bổn quốc. Người cha từ trước đến nay, tìm con chẳng được, bèn dừng lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông đó rất giàu có, của cải báu vật vô lượng, nào là: Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, trân châu .v.v... các kho tàng của cải thảy đều tràn đầy. Có nhiều tôi tớ, thần tá sử dân, voi ngựa xe cộ, bò dê, nhiều vô số, cho vay thâu vào, lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.

                  Bấy giờ, gã cùng tử đi dạo đến các tụ lạc, trải qua các xóm làng, lần hồi đến thành của người cha ở. Người cha nhớ con, cách biệt con đã hơn năm mươi năm, mà chưa từng nói với ai về việc nầy, chỉ tự suy nghĩ, lòng rất hối tiếc, tự nghĩ mình đã già nua. Có nhiều của cải, vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, mà chẳng có con cái. Một khi chết mất, thì của cải sẽ mất đi, chẳng có người giao phó, cho nên rất ân cần luôn nhớ đến con. Lại nghĩ rằng, nếu ta gặp lại con để giao phó của cải, thì sung sướng biết mấy, chẳng còn sầu lo.

                  Ðức Thế Tôn! Lúc bấy giờ, gã cùng tử làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhà người cha, bèn đứng bên cửa, xa trông thấy người cha ngồi trên giường sư tử, ghế báu đỡ chân. Các vị Bà la môn, Sát đế lợi, cư sĩ thảy, đều cung kính vây quanh. Dùng chuỗi trân châu giá trị ngàn vạn để trang nghiêm thân, các sử dân tôi tớ, tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che phía trên, các hoa phan thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ hoa quý, các báu vật la liệt, phát ra thâu vào, lấy, cho, có đủ thứ việc, nghiêm sức như thế, uy đức rất tôn kính quý trọng. Gã cùng tử thấy cha có thế lực rất lớn, bèn sinh tâm kinh sợ, hối hận về việc đến chỗ nầy, bèn nghĩ thầm rằng: Ông nầy chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật, chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo, có chỗ cho ta ra sức chăm làm, để kiếm được đồ mặc vật ăn. Nếu ở đây lâu, họ sẽ cưỡng ép sai ta làm, nghĩ như thế rồi, bèn mau bỏ chạy đi.

                  Lúc đó, ông trưởng giả giàu có ngồi trên tòa sư tử, nhìn thấy biết là con mình, trong tâm rất vui mừng, bèn nghĩ: Của cải kho tàng của ta, nay đã có người giao phó. Ta thường nhớ đến đứa con nầy mà chẳng thấy, nay nó bỗng nhiên đến đây, rất vừa ý của ta, ta tuy tuổi già, do vì tham tiếc. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại. Lúc đó, kẻ sứ giả chạy mau đến bắt lại, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: Tôi không phạm lỗi gì, sao lại bắt tôi? Người sứ giả càng nhanh qua bắt, cưỡng dắt đem về. Lúc đó, gã cùng tử tự nghĩ, mình chẳng có tội gì mà bị bắt, chắc chắn phải chết, lại càng sợ hãi, ngất xỉu ngã xuống đất. Người cha ở xa trông thấy vậy, bèn nói với sứ giả: Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với nó. Tại sao? Vì người cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm cho con khiếp sợ. Biết rõ là con, bèn dùng phương tiện, chẳng nói với người khác đó là con mình. Người sứ giả nói: Nay ta thả ngươi muốn đi đâu tùy ý. Gã cùng tử vui mừng được chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo, để tìm cầu sự ăn mặc.

                  Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ con mình, bèn bày phương tiện, bí mật sai hai người hình sắc tìu tụy, chẳng có uy đức, bảo họ đi tìm và nói với gã cùng tử, ở đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Nếu gã cùng tử chịu, thì dẫn về cho gã làm. Nếu nó có hỏi sai làm gì, thì nói là thuê hốt phân, chúng ta hai người cũng làm chung với ngươi. Khi đó, hai kẻ sứ giả tìm được gã cùng tử rồi, bèn thuật lại đủ mọi việc như trên.  

                  Bấy giờ, gã cùng tử trước hết hỏi lấy giá cả, liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót mà trách. Lại một ngày khác, ông ở trong cửa sổ, xa trông thấy con, thân thể ốm gầy tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy chẳng sạch. Ông bèn cởi chuỗi ngọc áo tốt mịn màng và đồ trang sức, lại mặc đồ thô rách trỉn dơ, bụi bặm lấm thân, tay phải cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ. Bảo những người làm: Các ngươi phải siêng làm, chớ nên lười nghỉ! Vì dùng phương tiện nên được đến gần người con. Lúc sau lại bảo: Này gã nam tử! Ngươi thường làm ở đây, chớ đi nơi khác nữa, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi. Những đồ cần dùng như: Bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi nan, cũng có kẻ tớ già để sai khiến, nếu cần ta cấp cho. Ngươi nên an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo. Vì sao? Ta tuổi tác đã già lớn, mà ngươi thì trẻ mạnh. Ngươi thường trong lúc làm việc, chẳng có lòng khi dối, lười biếng, nóng giận, than oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó, như các người làm công khác. Từ nay về sau, ngươi như con đẻ của ta.

                  Tức thời, ông trưởng giả bèn đặt tên cho gã cùng tử gọi là con.

                  Bấy giờ, gã cùng tử tuy mừng gặp được việc như thế, song vẫn còn tự cho mình là khách làm công hèn. Vì vậy nên trong suốt hai mươi năm thường sai hốt phân. Sau đó, tâm của gã cùng tử tin dần ra vào chẳng ngại sợ, nhưng chỗ gã ở vẫn nguyên chỗ cũ. 

                  Ðức Thế Tôn! Khi đó, ông trưởng giả bị bệnh, biết mình chẳng bao lâu nữa sẽ chết, bảo gã cùng tử nói : Nay ta có nhiều vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, trong đó bao nhiêu chỗ đáng lấy cho, ngươi phải biết, tâm ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta. Tại sao? Vì nay ta với ngươi chẳng khác biệt, nên gắng dụng tâm đừng để mất đi.

                   Khi ấy, gã cùng tử liền thọ nhận lời dạy bảo, biết các của cải vàng bạc châu báu, và các kho tàng, mà chẳng có ý muốn lấy chừng bữa ăn, song chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm hạ liệt vẫn chưa bỏ được. Lại trải qua ít lâu sau, cha biết con ý chí tạm thông thái, thành tựu chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Ðến giờ sắp chết, ông gọi người con đến, và hội cả thân tộc, quốc vương đại thần, Sát đế lợi, cư sĩ, khi đã hội đến đông đủ, ông bèn tuyên bố rằng: Các vị nên biết, người nầy là con ta, do ta sinh ra trong thành nọ, bỏ ta trốn đi lang thang, khốn khổ hơn năm mươi năm. Nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành nầy, ôm lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha của nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là con của ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết. 

                  Ðức Thế Tôn! Khi ấy gã cùng tử nghe cha nói như thế, bèn rất vui mừng, được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: Ta vốn chẳng có lòng mong cầu, nay kho tàng châu báu nầy tự nhiên mà đến.

                  Ðức Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có, tức là Đức Như Lai, chúng con giống như con của Phật. Ðức Như Lai thường nói chúng con là con.

                  Ðức Thế Tôn! Chúng con vì ba sự khổ, nên ở trong sinh tử chịu các sự nhiệt não mê hoặc vô tri, ưa thích các pháp nhỏ. Ngày nay, Đức Thế Tôn khiến cho chúng con suy nghĩ, dọn trừ phân dơ các pháp hí luận. Chúng con ở trong sự siêng gắng tinh tấn, được đến Niết Bàn giá một ngày, đã được đây rồi, tâm rất hoan hỉ, tự cho đã đủ, bèn tự bảo rằng: Ở trong Phật pháp, do siêng năng tinh tấn nên được rộng nhiều, song Đức Thế Tôn trước biết chúng con tâm hèn tệ, ưa thích pháp nhỏ, liền khiến cho chúng con buông bỏ, Phật chẳng phân biệt nói chúng con sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết Bàn một ngày, cho đã được nhiều rồi, đối với pháp đại thừa nầy chẳng có chí cầu. Chúng con lại vì trí huệ của Như Lai, vì các Bồ Tát mở bày diễn nói, mà tự mình chẳng có chí muốn nơi pháp đó. Tại sao? Vì Ðức Phật biết chúng con tâm ưa thích pháp nhỏ, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con để nói, mà chúng con chẳng biết thật là con của Phật. Nay chúng con mới biết, Đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật, chẳng có lận tiếc. Tại sao? Vì thuở xưa thật là con của Phật, nhưng lại ưa thích pháp nhỏ. Nếu chúng con có tâm thích pháp lớn, thì Phật sẽ vì chúng con nói pháp đại thừa. Ở trong Kinh nầy chỉ nói một thừa, mà xưa kia ở trước các Bồ Tát, Phật chê trách hàng Thanh Văn ưa thích pháp nhỏ, song Đức Phật thật dùng đại thừa giáo hóa, cho nên chúng con nói: Vốn chẳng có tâm mong cầu, mà nay châu báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đến, như chỗ con của Phật đáng được, đều đã được vậy.

                  Bấy giờ, Ngài Ma Ha Ca Diếp muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

                  Chúng con hôm nay

                  Nghe tiếng Phật dạy

                  Vui mừng hớn hở

                  Ðược chưa từng có.

                  Phật nói Thanh Văn

                  Sẽ được thành Phật

                  Kho báu vô thượng

                  Chẳng cầu tự được.

                  Ví như đồng tử

                  Thơ bé chẳng hiểu

                  Bỏ cha trốn đi

                  Xa đến xóm khác.

                  Lang thang các nước

                  Hơn năm mươi năm

                  Người cha buồn nhớ

                  Tìm khắp bốn phương.

                  Tìm kiếm mỏi mệt

                  Ở lại một thành

                  Tạo lập nhà cửa

                  Năm dục tự vui.

                  Nhà đó giàu lớn

                  Nhiều các vàng bạc

                  Xa cừ mã não

                  Chân châu lưu ly.

                  Voi ngựa trâu dê

                  Kiệu cán xe cộ

                  Ruộng vườn tôi tớ

                  Nhân dân rất đông.

                  Lợi tức xuất nhập

                  Khắp đến nước khác

                  Khách thương buôn bán

                  Không đâu chẳng có.

                  Ngàn vạn ức chúng

                  Vây quanh cung kính

                  Ðược bậc vua chúa

                  Thương yêu nhớ tưởng.

                  Quần thần hào tộc

                  Cũng đều tôn trọng

                  Vì bởi duyên ấy

                  Nhiều người lui tới.

                  Giàu sang như thế

                  Có thế lực lớn.

                  Mà tuổi già nua

                  Lại buồn nhớ con.

                  Sớm tối nghĩ ngợi

                  Giờ chết sắp đến

                  Con dại bỏ ta

                  Hơn năm mươi năm.

                  Kho tàng của cải

                  Phải làm sao đây?

                  Khi ấy cùng tử

                  Tìm cầu cơm áo.

                  Xóm nầy xóm khác

                  Nước nầy nước nọ

                  Hoặc có chỗ được

                  Hoặc có chỗ không.

                  Ðói khát ốm gầy

                  Thân sinh ghẻ lát

                  Lần lược trải qua

                  Ðến thành cha ở.

                  Lần lược làm thuê

                  Bèn đến nhà cha

                  Lúc đó trưởng giả

                  Ðang ở trong nhà.

                  Giăng màn báu lớn

                  Ngồi tòa sư tử

                  Quyến thuộc vây quanh

                  Nhiều người hầu hạ.

                  Có người tính toán

                  Vàng bạc châu báu

                  Tài sản xuất nhập

                  Ghi vào sổ sách.

                  Cùng tử thấy cha

                  Giàu sang quý trọng

                  Bảo rằng là vua

                  Hoặc bằng ông vua.

                  Kinh hãi tự trách

                  Sao lại đến đây?

                  Lại tự nghĩ rằng:

                  Nếu ta ở lâu.

                  Sẽ bị ép buộc

                  Cưỡng sai ta làm

                  Suy nghĩ vậy rồi

                  Bèn bỏ chạy đi.

                  Hỏi thăm xóm nghèo

                  Muốn đến làm thuê.

                  Lúc đó trưởng giả

                  Tại tòa sư tử.

                  Xa thấy con mình

                  Yên lặng nhớ biết

                  Bèn sai sứ giả

                  Ðuổi theo bắt lại.

                  Cùng tử sợ la

                  Xỉu ngã xuống đất

                  Người nầy bắt tôi

                  Chắt sẽ phải chết.

                  Cũng vì cơm áo

                  Khiến tôi đến đây

                  Trưởng giả biết con

                  Ngu si hèn hạ.

                  Chẳng tin lời ta

                  Chẳng tin là cha.

                  Bèn dùng phương tiện

                  Sai khiến người khác.

                  Mắt chột lùn xấu

                  Chẳng có uy đức

                  Các ngươi bảo nó

                  Rằng thuê làm mướn.

                  Hốt các phân dơ

                  Trả giá gấp bội

                  Cùng tử nghe rồi

                  Vui mừng theo về.

                  Hốt dọn phân dơ

                  Làm sạch phòng nhà.

                  Trưởng giả trong cửa

                  Thường thấy con mình.

                  Nghĩ con ngu dại

                  Thích làm việc hèn

                  Do đó trưởng giả

                  Mặc đồ cũ rách.

                  Cầm đồ hốt phân

                  Ði đến chỗ con

                  Phương tiện gần gũi

                  Khuyên nhủ siêng làm.

                  Trả giá gấp bội

                  Cho dầu thoa chân

                  Ăn uống đầy đủ

                  Nệm chiếu dày ấm.

                  Khuyên răng như vầy:

                  Ngươi gắng siêng làm

                  Lại dùng lời dụ

                  Ngươi như con ta.

                  Trưởng giả có trí

                  Lần cho ra vào

                  Suốt hai mươi năm

                  Trông coi việc nhà.

                  Chỉ chỗ vàng bạc

                  Trân châu lưu ly

                  Các đồ xuất nhập

                  Ðều khiến cho biết.

                  Vẫn ở ngoài cửa

                  Trong một am tranh

                  Tự nghĩ phận nghèo

                  Ta chẳng có gì.

                  Cha biết tâm con

                  Lần đã rộng lớn

                  Muốn giao của cải

                  Bèn nhóm thân tộc.

                  Quốc vương đại thần

                  Sát lợi cư sĩ

                  Trong đại chúng nầy:

                  Nói là con ta.

                  Bỏ ta ra đi

                  Suốt năm mươi năm

                  Từ khi gặp con

                  Ðã hai mươi năm.

                  Xưa nơi thành nọ

                  Mất đứa con nầy

                  Tìm kiếm khắp nơi

                  Mới đến nơi đây.

                  Của cải ta có

                  Nhà cửa nhân dân

                  Ðều giao cho nó

                  Ðể nó sử dụng.

                  Con nhớ xưa nghèo

                  Ý chí kém hèn

                  Nay ở chỗ cha

                  Ðược nhiều của báu.

                  Cùng với nhà cửa

                  Tất cả của cải

                  Rất đỗi vui mừng

                  Ðược chưa từng có.

                  Phật cũng như thế

                  Biết con thích nhỏ

                  Chưa từng nói ra

                  Các ngươi thành Phật.

                  Chỉ nói chúng con

                  Ðược pháp vô lậu

                  Thành tựu tiểu thừa

                  Thanh Văn đệ tử.

                  Phật bảo chúng con

                  Nói đạo tối thượng

                  Ai tu pháp nầy

                  Sẽ được thành Phật.

                  Con nghe Phật dạy

                  Vì đại Bồ Tát

                  Dùng các nhân duyên

                  Ðủ thứ ví dụ.

                  Bao nhiêu lời lẽ

                  Nói đạo vô thượng

                  Hết thảy Phật tử

                  Theo ta nghe pháp.

                  Ngày đem suy gẫm

                  Tinh tấn tu tập

                  Khi đó chư Phật

                  Thọ ký cho họ.

                  Ông ở đời sau

                  Sẽ được thành Phật

                  Các pháp bí tàng

                  Của tất cả Phật.

                  Chỉ vì Bồ Tát

                  Diễn nói việc thật

                  Mà chẳng vì con

                  Nói đạo chân yếu.

                  Như cùng tử kia

                  Được gần người cha

                  Tuy biết mọi thứ

                  Tâm chẳng mong cầu.

                  Chúng con tuy nói

                  Bảo tàng Phật pháp

                  Tự chẳng chí nguyện

                  Cũng lại như thế.

                  Chúng con nội diệt

                  Tự cho là đủ

                  Chỉ rõ việc nầy

                  Chẳng biết việc khác.

                  Nếu chúng con nghe

                  Tịnh cõi nước Phật

                  Giáo hóa chúng sinh

                  Đều chẳng vui thích.

                  Đó là vì sao?

                  Vì tất cả pháp

                  Thảy đều không tịch

                  Không sinh không diệt.

                  Không lớn không nhỏ

                  Vô lậu vô vi

                  Suy gẫm như thế

                  Chẳng sinh vui thích.

                  Chúng con từ lâu

                  Nơi trí huệ Phật

                  Không tham không chấp

                  Chẳng có chí nguyện.

                  Nơi pháp của mình

                  Cho là cứu kính

                  Chúng con từ lâu

                  Tu tập pháp không.

                  Thoát được hoạn nạn

                  Khổ não ba cõi

                  Ở thân cuối cùng

                  Hữu dư Niết Bàn.

                  Pháp Phật giáo hóa

                  Ðắc đạo chẳng sai

                  Tức đã báo đáp

                  Ân đức của Phật.

                  Chúng con tuy là

                  Các hàng Phật tử

                  Nói pháp Bồ Tát

                  Ðể cầu Phật đạo.

                  Mà nơi pháp đó

                  Tâm chẳng ưa thích

                  Ðạo sư thấy bỏ

                  Vì thấy tâm con.

                  Ban đầu chẳng siêng

                  Nói có lợi thật

                  Như trưởng giả giàu

                  Biết con chí hèn.

                  Dùng sức phương tiện

                  Hòa phục tâm con

                  Sau đó mới giao

                  Tất cả của cải.

                  Phật cũng như thế

                  Hiện việc ít có

                  Biết thích tiểu thừa

                  Dùng sức phương tiện.

                  Ðiều phục tâm con

                  Mới dạy trí lớn.

                  Chúng con hôm nay

                  Ðược chưa từng có.

                  Chẳng phải trước mong

                  Mà nay tự được

                  Như gã cùng tử

                  Ðược vô lượng báu.

                  Thế Tôn con nay

                  Ðắc đạo chứng quả

                  Nơi pháp vô lậu

                  Ðược mắt thanh tịnh.

                  Chúng con từ lâu

                  Giữ giới trong sạch

                  Mới ngày hôm nay

                  Ðược quả báo đó.

                  Pháp của Pháp Vương

                  Lâu tu phạm hạnh

                  Nay được vô lậu

                  Ðại quả vô thượng.

                  Chúng con hôm nay

                  Thật là Thanh Văn

                  Dùng tiếng Phật đạo

                  Khiến thảy đều nghe.

                  Chúng con hôm nay

                  Thật là La Hán

                  Nơi các thế gian

                  Trời người ma Phạm.

                  Khắp trong chúng đó

                  Ðáng thọ cúng dường.

                  Ân lớn Thế Tôn

                  Là việc ít có.

                  Thương xót giáo hóa

                  Lợi ích chúng sinh

                  Vô lượng ức kiếp

                  Ai báo đáp được.

                  Tay chân cung cấp

                  Cuối đầu đảnh lễ

                  Cúng dường tất cả

                  Ðều chẳng báo được.

                  Nếu dùng đầu đội

                  Hai vai mang vác

                  Trải Hằng sa kiếp

                  Hết lòng cung kính.

                  Lại dùng vật ngon

                  Vô lượng y báu

                  Và các tọa cụ

                  Ðủ thứ thuốc thang.

                  Ngưu đầu chiên đàn

                  Và các châu báu

                  Tạo lập chùa tháp

                  Y báu trải đất.

                  Những việc như thế

                  Ðem cúng dường Phật

                  Trải Hằng sa kiếp

                  Cũng chẳng báo được.

                  Chư Phật ít có

                  Vô lượng vô biên

                  Không thể nghĩ bàn

                  Sức đại thần thông.

                  Vô lậu vô vi

                  Vua của các pháp

                  Hay vì hạ liệt

                  Nhẫn nơi việc đó.

                  Hiện tướng phàm phu

                  Tùy họ mà nói

                  Phật nơi các pháp

                  Ðược tự tại nhất.

                  Biết các chúng sinh

                  Ðủ thứ ưa muốn

                  Và những chí lực

                  Tùy sự kham thọ.

                  Dùng vô lượng dụ

                  Vì họ nói pháp

                  Tùy các chúng sinh

                  Căn lành đời trước.

                  Biết đã thành thục

                  Hoặc chưa thành thục

                  Ðủ thứ suy lường

                  Phân biệt biết rõ.

                  Nơi đạo một thừa

                  Tùy nghi nói ra. 

                  HẾT QUYỂN THỨ HAI

QUYỂN BA

 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ngài Ma Ha Ca Diếp, và các vị đại đệ tử: Lành thay, lành thay! Ca Diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai, đúng như lời các ông vừa nói. Như Lai còn có vô lượng vô biên A tăng kỳ công đức, dù các ông trải qua vô lượng ức kiếp, nói cũng không hết được.  

                  Ca Diếp nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nếu có nói ra lời gì đều không hư vọng, trong tất cả các pháp, Phật đều dùng trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói ra, thảy đều đến nơi nhất thiết trí. Như Lai quán sát, biết được chỗ quy về của tất cả các pháp, cũng biết được tâm lý trong thâm tâm của tất cả chúng sinh, thông đạt vô ngại, và thấu rõ rốt ráo hết các pháp, mở bày nhất thiết trí huệ cho chúng sinh.

                  Ca Diếp! Ví như núi sông khe suối đất đai, trong ba ngàn đại thiên thế giới, sinh ra cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu thứ loại tên gọi màu sắc đều khác nhau. Mây dày phủ khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đồng thời đều mưa xuống như nhau, thấm nhuần hết thảy cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc. Cây nhỏ rễ nhỏ, nhánh nhỏ lá nhỏ; cây vừa rễ vừa, nhánh vừa lá vừa; cây lớn rễ lớn, nhánh lớn lá lớn. Các cây lớn nhỏ, tùy theo sự lớn, vừa, nhỏ, mà hấp thụ khác nhau. Một đám mây mưa xuống, mà tùy theo giống loại cây cỏ, mà được sinh trưởng, đơm hoa kết trái, tuy là một mảnh đất sinh ra, một trận mưa thấm nhuần, mà các cây cỏ mỗi thứ, đều có sự khác nhau.

                  Ca Diếp nên biết! Như Lai cũng lại như thế, xuất hiện ra đời như vầng mây lớn, dùng âm thanh lớn, vang khắp thế giới trời người A tu la. Như vầng mây lớn kia, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ở trong đại chúng mà xướng lời nầy: Ta là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Người chưa được độ, thì khiến cho được độ, người chưa hiểu, thì khiến cho được hiểu, người chưa an, thì khiến cho được an, người chưa được Niết bàn, thì khiến cho được Niết bàn. Ðời nầy đời sau, Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhất thiết trí, bậc thấy tất cả, bậc biết đạo, bậc khai mở đạo, bậc thuyết đạo. Các ông: Trời, người, A tu la, đều nên đến đây để nghe pháp. 

                  Bấy giờ, có vô số ngàn vạn ức loại chúng sinh, đều đến chỗ Đức Phật để nghe pháp. Lúc đó, Đức Như Lai quán sát các căn lợi độn, tinh tấn, hay giải đãi, của các chúng sinh đó. Tùy theo sự kham nhận của họ, mà vì họ nói pháp, đủ thứ vô lượng đều khiến cho họ vui mừng mau được lợi lành. Các chúng sinh đó, nghe pháp đó rồi, hiện đời được yên ổn, đời sau sinh vào chỗ tốt lành, được thọ hưởng niềm vui trong đạo, cũng được nghe pháp. Nghe pháp rồi, lìa được các chướng ngại, ở trong các pháp, tùy theo sức của mình kham được, dần dần được vào đạo. Như vầng mây lớn đó, mưa xuống khắp tất cả cây cối lùm rừng, và các cỏ thuốc, tùy theo giống loài mà thấm nhuần đầy đủ, đều được lớn lên. Như Lai nói pháp một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ, tướng sinh diệt, rốt ráo đến nơi Nhất thiết chủng trí. Nếu có chúng sinh nào, nghe được pháp của Như Lai nói, hoặc thọ trì đọc tụng, theo lời nói mà tu hành, thì sẽ được công đức, tự mình chẳng hay biết. Tại sao? Vì chỉ có Như Lai mới biết được, chủng tử sắc tướng thể tánh của chúng sinh đó, nghĩ việc gì, niệm việc gì, tu việc gì, nghĩ thế nào, nhớ thế nào, tu thế nào? Dùng pháp gì để nghĩ, dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì được pháp gì? Chúng sinh trụ đủ thứ các bậc, chỉ có Như Lai thấy được như thật, thấu rõ chẳng có chướng ngại.

                  Như các cây cối lùm rừng cỏ thuốc kia, chẳng tự biết tánh thượng trung hạ. Như Lai biết pháp một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ, tướng sinh diệt, tướng rốt ráo Niết bàn thường tịch diệt, cuối cùng trở về không. Phật biết vậy rồi, bèn quán tâm mong muốn của chúng sinh, mà dìu dắt họ, cho nên chẳng vì họ vội nói Nhất thiết chủng trí.  

                  Ca Diếp! Các ông rất là hi hữu, biết Như Lai tùy nghi nói pháp, hay tin nhận thọ trì. Tại sao? Vì chư Phật Thế Tôn tùy nghi nói pháp, khó hiểu khó biết.  

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

                  Pháp Vương phá các cõi

                  Xuất hiện ra nơi đời

                  Tùy sở thích chúng sinh

                  Nói đủ thứ diệu pháp.

                  Ðức Như Lai tôn trọng

                  Trí huệ rất sâu xa

                  Lâu chẳng nói pháp nầy

                  Không vội vàng nói ra.

                  Người trí nếu nghe được

                  Bèn sinh tâm tin hiểu

                  Kẻ vô trí nghi hoặc

                  Vĩnh viễn mất giống Phật.

                  Do đó, nầy Ca Diếp!

                  Tùy sức họ nói pháp

                  Dùng đủ thứ nhân duyên

                  Khiến họ được chánh kiến.

                  Ca Diếp ông nên biết!

                  Ví như vầng mây lớn

                  Nổi lên trong thế gian

                  Che phủ khắp tất cả.

                  Mây trí huệ đượm nhuần

                  Ánh chớp sáng chói lòa

                  Tiếng sấm vang động xa

                  Khiến chúng sinh vui đẹp.

                  Nhật quang bị che lấp

                  Trên mặt đất mát mẻ

                  Mây giăng phủ mù mịt

                  Như có thể nắm lấy.

                  Trận mưa lớn nhuận khắp

                  Ðều xối xuống bốn phương

                  Nước chảy tuôn vô lượng

                  Thấm ngầm vào lòng đất.

                  Nơi núi sông hang hiểm

                  Chỗ thâm u sinh ra

                  Các cây cối cỏ thuốc

                  Ðủ thứ cây lớn nhỏ.

                  Trăm giống lúa mộng mạ

                  Các thứ mía và nho

                  Nhờ nước mưa đượm nhuần

                  Thảy đều tốt tươi cả.

                  Ðất khô khắp thấm nhuần

                  Thuốc cây đều sum sê

                  Vầng mây kia mưa xuống

                  Nước mưa thuần một vị.

                  Các cây cối lùm rừng

                  Tùy theo sự đượm nhuần

                  Tất cả các cây cối

                  Bậc thượng trung và hạ.

                  Tùy theo tánh lớn nhỏ

                  Thảy đều được lớn lên

                  Thân gốc rễ cành lá

                  Hoa quả đơm đủ màu.

                  Một trận mưa rưới xuống

                  Thảy đều được tươi thấm

                  Theo thể tướng của nó

                  Tánh phân ra lớn nhỏ.

                  Nước đượm nhuần vẫn một

                  Ðức Phật cũng như thế

                  Xuất hiện ra nơi đời

                  Ví như vầng mây lớn.

                  Che trùm khắp hết thảy

                  Ðã xuất hiện ra đời

                  Vì tất cả chúng sinh

                  Phân biệt và diễn nói.

                  Thật tướng của các pháp

                  Ðấng đại Thánh Thế Tôn

                  Nơi chư thiên loài người

                  Trong tất cả chúng hội.

                  Mà tuyên nói lời nầy:

                  Ta là bậc Như Lai

                  Là đấng Lưỡng Túc Tôn

                  Xuất hiện ra nơi đời.

                  Dường như vầng mây lớn

                  Thấm nhuần khắp tất cả

                  Những chúng sinh khô khan

                  Ðều khiến cho lìa khổ.

                  Ðược yên ổn vui sướng

                  Hưởng sự vui thế gian

                  Và sự vui Niết Bàn

                  Hết thảy chúng trời người.

                  Một lòng khéo lóng nghe

                  Ðều nên đến chỗ nầy

                  Hầu hạ đấng vô thượng

                  Ta là bậc Thế Tôn.

                  Chẳng có ai bằng được

                  Vì an ổn chúng sinh

                  Nên xuất hiện ra đời

                  Vì các đại chúng nói.

                  Pháp cam lồ trong sạch

                  Pháp đó thuần một vị

                  Vị giải thoát Niết bàn

                  Dùng một tiếng diệu âm.

                  Diễn xướng nghĩa nhiệm mầu

                  Thường vì pháp đại thừa

                  Mà kết làm nhân duyên

                  Ta xem tất cả chúng.

                  Hết thảy đều bình đẳng

                  Chẳng phân biệt đó đây

                  Cùng với tâm thương ghét

                  Ta chẳng có tham trước.

                  Cũng chẳng có hạn ngại

                  Luôn luôn vì tất cả

                  Bình đẳng mà nói pháp

                  Dù chỉ vì một người.

                  Trong chúng đông cũng thế

                  Thường diễn nói các pháp

                  Từng không việc gì khác

                  Ngồi đứng hoặc đến đi.

                  Thảy đều chẳng mỏi nhàm

                  Ðầy đủ cho thế gian

                  Như mưa thấm nhuần khắp

                  Kẻ sang hèn trên dưới.

                  Người trì giới, phạm giới

                  Oai nghi đều đầy đủ

                  Và chẳng được đầy đủ

                  Kẻ chánh kiến, tà kiến.

                  Lợi căn hoặc độn căn

                  Thảy đều mưa pháp vũ

                  Mà chẳng biết mệt mỏi

                  Hết thảy các chúng sinh.

                  Ai nghe pháp của ta

                  Tùy sức mà lãnh thọ

                  Trụ ở nơi các địa

                  Hoặc ở trong trời người.

                  Làm chuyển luân thánh vương

                  Và các vua Thích Phạm

                  Ðó là cỏ thuốc nhỏ

                  Biết được pháp vô lậu.

                  Sẽ chứng được Niết bàn

                  Khởi sáu phép thần thông

                  Và đắc được ba minh

                  Ở riêng nơi núi rừng.

                  Thường tu hành thiền định

                  Chứng được quả Duyên Giác

                  Là cỏ thuốc bậc trung

                  Cầu pháp nơi Thế Tôn.

                  Ta sẽ được thành Phật

                  Tinh tấn tu thiền định

                  Là cỏ thuốc bậc thượng

                  Lại có các Phật tử.

                  Chuyên tâm cầu Phật đạo

                  Thường tu hạnh từ bi

                  Biết mình sẽ thành Phật

                  Quyết định chẳng còn nghi.

                  An trụ sức thần thông

                  Chuyển pháp luân bất thối

                  Ðộ hóa vô lượng ức

                  Trăm ngàn loài chúng sinh.

                  Hạng Bồ Tát như thế

                  Ðó gọi là cây lớn

                  Phật bình đẳng nói pháp

                  Như nước mưa một vị.

                  Tùy căn tánh chúng sinh

                  Tiếp thọ đều khác nhau

                  Như các cỏ cây kia

                  Ðược đượm nhuần khác nhau.

                  Phật dùng ví dụ nầy

                  Phương tiện mà khai thị

                  Ðủ thứ những lời lẽ

                  Ðể diễn nói một pháp.

                  Nơi trí huệ của Phật

                  Như giọt nước trong biển

                  Ta rưới mưa pháp vũ

                  Ðầy khắp trong thế gian.

                  Nói pháp thuần một vị

                  Tùy sức mà tu hành

                  Như lùm rừng cây kia

                  Cỏ thuốc các cây cối.

                  Tùy theo thân lớn nhỏ

                  Dần dần lớn sum sê

                  Pháp của các Đức Phật

                  Thường chỉ thuần một vị.

                  Khiến cho các thế gian

                  Thảy đều được đầy đủ

                  Thứ tự mà tu hành

                  Ðều đắc được đạo quả.

                  Hàng Thanh Văn Duyên Giác

                  Thường ở nơi núi rừng

                  Trụ thân cuối cùng nầy

                  Nghe pháp được chứng quả.

                  Ðó gọi là cỏ thuốc

                  Thảy đều được lớn lên

                  Nếu các bậc Bồ Tát

                  Trí huệ rất kiên cố.

                  Thấu suốt được ba cõi

                  Cầu chứng tối thượng thừa

                  Ðó gọi là cây nhỏ

                  Mà được tăng trưởng lên.

                  Lại có vị trụ thiền

                  Ðắc được sức thần thông

                  Nghe các pháp không tướng

                  Trong tâm rất vui mừng.

                  Phóng vô số quang minh

                  Ðộ tất cả chúng sinh

                  Ðó gọi là cây lớn

                  Mà được tăng trưởng lên.

                  Như thế nầy Ca Diếp!

                  Pháp của Phật nói ra

                  Ví như vầng mây lớn

                  Dùng nước mưa một vị.

                  Ðượm nhuần nơi hoa người

                  Thảy đều được thành Phật

                  Ca Diếp ông nên biết!

                  Dùng các thứ nhân duyên.

                  Và đủ thứ ví dụ

                  Ðể mở bày Phật đạo

                  Là phương tiện của ta

                  Các Đức Phật cũng thế.

                  Nay ta vì các ông

                  Nói pháp chân thật nhất

                  Các chúng hàng Thanh Văn

                  Ðều chưa thật diệt độ.

                  Sở hành của các ông

                  Ðều là Bồ Tát đạo

                  Nếu từ từ tu học

                  Tất sẽ được thành Phật.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Thọ Ký thứ Sáu 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng, xướng lời như vầy: Ðệ tử Ma Ha Ca Diếp của ta đây, ở đời vị lai, sẽ phụng thờ ba trăm vạn ức các Đức Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, rộng tuyên nói vô lượng đại pháp của các Đức Phật. Ở nơi thân cuối cùng được thành Phật, hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước tên là Quang Ðức, kiếp tên là Ðại Trang Nghiêm. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp lưu lại ở đời cũng hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước trang nghiêm tốt đẹp, chẳng có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc, và đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng phẳng, chẳng có cao thấp, hầm hố gò đống. Ðất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây dùng để giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi đều trong sạch. Bồ Tát ở nước đó, có vô lượng ngàn ức, các chúng hàng Thanh Văn cũng vô số, chẳng có việc ma, tuy có ma và dân ma, nhưng họ đều hộ trì Phật pháp. 

                  Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

                  Bảo các Tỳ Kheo!

                  Ta dùng mắt Phật

                  Thấy Ca Diếp nầy

                  Ở đời vị lai.

                  Trải vô số kiếp

                  Sẽ được thành Phật

                  Ở đời mai sau

                  Cúng dường phụng thờ.

                  Ba trăm vạn ức

                  Chư Phật Thế Tôn

                  Vì trí huệ Phật

                  Tịnh tu phạm hạnh.

                  Cúng dường tối thượng

                  Lưỡng Túc Tôn rồi

                  Tu tập tất cả

                  Trí huệ vô thượng.

                  Nơi thân cuối cùng

                  Sẽ được thành Phật.

                  Cõi đó thanh tịnh

                  Ðất bằng lưu ly.

                  Nhiều các cây báu

                  Thẳng hàng bên đường

                  Dây vàng giăng đường

                  Người thấy vui mừng.

                  Thường tỏa hương thơm

                  Rải các hoa quý

                  Ðủ loại kỳ diệu

                  Dùng để trang nghiêm.

                  Mặt đất bằng phẳng

                  Chẳng có hầm hố

                  Các chúng Bồ Tát

                  Không thể tính kể.

                  Tâm đều nhu hòa

                  Có đại thần thông

                  Phụng trì kinh điển

                  Của các Đức Phật.

                  Các chúng Thanh Văn

                  Thân cuối vô lậu

                  Làm Pháp vương tử

                  Cũng không thể đếm.

                  Dù dùng thiên nhãn

                  Cũng chẳng biết được.

                  Phật đó sống lâu

                  Hai mươi tiểu kiếp.

                  Chánh pháp ở đời

                  Hai mươi tiểu kiếp

                  Tượng pháp cũng trụ

                  Hai mươi tiểu kiếp.

                  Thế Tôn Quang Minh

                  Việc Ngài như thế.  

                  Lúc đó, Ngài Ðại Mục Kiền Liên, Ngài Tu Bồ Ðề, Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên, thảy đều run sợ, một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng tôn nhan của Đức Phật, mắt chẳng tạm rời, bèn cùng nhau đồng thanh nói kệ rằng: 

                  Thế Tôn rất hùng mãnh

                  Pháp Vương của dòng Thích

                  Vì thương xót chúng con

                  Mà ban giọng tiếng Phật.

                  Nếu biết thâm tâm con

                  Ðược Phật thọ ký cho

                  Như dùng cam lồ rưới

                  Trừ nóng được mát mẻ.

                  Như từ nước đói đến

                  Bỗng gặp cỗ tiệc vua

                  Còn ôm lòng nghi sợ

                  Chưa dám tự ăn liền.

                  Nếu được lệnh vua bảo

                  Sau đó mới dám ăn.

                  Chúng con cũng như thế

                  Thường nghĩ lỗi tiểu thừa.

                  Chẳng biết làm thế nào

                  Ðược Phật huệ vô thượng

                  Tuy nghe tiếng của Phật

                  Nói chúng con thành Phật.

                  Tâm còn hoài nghi sợ

                  Như chưa dám ăn liền

                  Nếu được Phật thọ ký

                  Lúc đó mới an vui.

                  Thế Tôn rất hùng mãnh

                  Thường muốn an thế gian

                  Xin thọ ký chúng con

                  Như đói cần bảo ăn. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các đại đệ tử, bèn bảo các Tỳ Kheo rằng: Ông Tu Bồ Ðề nầy, ở đời vị lai, sẽ phụng thờ ba trăm vạn ức Na do tha vị Phật, cúng dường cung kính tôn trọng, khen ngợi, thường tu phạm hạnh, đầy đủ đạo bồ đề. Nơi thân cuối cùng, sẽ được thành Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp tên là Hữu Bảo, cõi nước tên là Bảo Sinh, cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, chẳng có hầm hố cát sỏi gai góc, đồ tiện lợi do bẩn. Hoa báu rải đất khắp nơi đều sạch sẽ. Nhân dân cõi đó, đều ở đài báu lầu các trân quý. Hàng đệ tử Thanh Văn đông vô lượng vô biên, dùng toán số ví dụ cũng không thể biết được. Các chúng Bồ Tát đông vô số ngàn vạn ức Na do tha. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp. Ðức Phật đó, thường ở trong hư không vì đại chúng nói pháp, độ thoát vô lượng Bồ Tát và chúng hàng Thanh Văn.  

                  Khi đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

                  Ðại chúng Tỳ Kheo!

                  Nay bảo các ông

                  Ðều nên một lòng

                  Lóng nghe ta nói.

                  Ðại đệ tử ta

                  Ông Tu Bồ Ðề

                  Sẽ được thành Phật

                  Hiệu là Danh Tướng.

                  Sẽ cúng vô số

                  Vạn ức Đức Phật

                  Tu hành theo Phật

                  Dần đủ đại đạo.

                  Thân cuối cùng được

                  Ba mươi hai tướng

                  Tốt đẹp trang nghiêm

                  Dường như núi báu.

                  Cõi nước Phật đó

                  Nghiêm sạch bậc nhất

                  Chúng sinh thấy được

                  Thảy đều ưa thích.

                  Phật ở nơi đó

                  Ðộ vô lượng chúng

                  Trong pháp hội đó

                  Ðông các Bồ Tát.

                  Thảy đều lợi căn

                  Chuyển bánh xe pháp

                  Nước đó thường dùng

                  Bồ Tát trang nghiêm.

                  Các chúng Thanh Văn

                  Không thể tính kể

                  Ðều được ba minh

                  Ðủ sáu thần thông.

                  Trụ tám giải thoát

                  Có oai đức lớn

                  Phật đó thuyết pháp

                  Hiển hiện vô lượng.

                  Thần thông biến hóa

                  Không thể nghĩ bàn

                  Trời người nhân dân

                  Ðông như Hằng sa.

                  Ðều cùng chắp tay

                  Nghe Phật nói pháp

                  Phật đó sống lâu

                  Hai mươi tiểu kiếp.

                  Chánh pháp ở đời

                  Hai mươi tiểu kiếp

                  Tượng pháp cũng trụ

                  Hai mươi tiểu kiếp.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ Kheo: Nay ta nói với các ông, ông Ca Chiên Diên nầy, ở đời vị lai, dùng các đồ cúng dường, để cúng dường phụng thờ tám ngàn ức Đức Phật, cung kính tôn trọng. Chư Phật diệt độ rồi, xây dựng các tháp miếu cao một nghìn do tuần, bề ngang rộng năm trăm do tuần. Dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, bảy báu tạo thành. Dùng các thứ chuỗi hoa, hương đốt, hương thoa, hương bột, lọng thêu, tràng phan, để cúng đường tháp miếu. Cúng dường như vậy xong rồi, lại cúng dường hai vạn ức Đức Phật, cũng lại như thế. Cúng dường các Đức Phật đó rồi, đầy đủ đạo Bồ Tát, sẽ được thành Phật, hiệu là Diêm Phù Na Ðề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, hoa quý rải trên mặt đất, khắp nơi sạch sẽ, ai thấy cũng hoan hỉ. Chẳng có bốn đường ác: Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la. Trời người rất đông, các chúng hàng Thanh Văn và Bồ Tát, đông vô lượng vạn ức trang ngiêm cõi nước đó. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại hai mươi tiểu kiếp.  

                  Khi đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

                  Các chúng Tỳ Kheo!

                  Ðều một lòng nghe

                  Pháp của ta nói

                  Chân thật không khác.

                  Ca Chiên Diên nầy

                  Sẽ dùng đủ thứ

                  Ðồ cúng tốt đẹp

                  Cúng dường chư Phật.

                  Chư Phật diệt rồi

                  Dựng tháp bảy báu

                  Cũng dùng hoa hương

                  Cúng dường xá lợi.

                  Nơi thân cuối cùng

                  Ðược trí huệ Phật

                  Thành Ðẳng chánh giác.

                  Cõi nước sạch sẽ

                  Ðộ thoát vô lượng

                  Vạn ức chúng sinh

                  Ðều từ mười phương.

                  Ðến để cúng dường

                  Quang minh Phật đó

                  Không ai sánh bằng

                  Phật đó hiệu là.

                  Diêm Phù Kim Quang

                  Bồ Tát Thanh Văn

                  Dứt hết hữu lậu

                  Vô lượng vô số

                  Trang nghiêm nước đó. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: Nay ta nói với các ông, Ðại Mục Kiền Liên nầy, sẽ dùng đủ thứ đồ cúng dường, để cúng dường tám ngàn các Đức Phật, cung kính tôn trọng. Các Đức Phật đó diệt độ rồi, đều xây dựng tháp miếu, cao một ngàn do tuần, bề ngang rộng năm trăm do tuần, dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, bảy báu tạo thành. 

                  Dùng các thứ chuỗi hoa, hương thoa, hương bột, hương đốt, lọng báu, tràng phan, để cúng dường. Việc làm đó xong rồi, lại cúng dường hai trăm vạn ức các Đức Phật, cũng lại như thế. Sẽ được thành Phật, hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp tên là Hỉ Mãn. Nước tên là Ý Lạc. Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, rải các thứ hoa trân châu, khắp nơi đều sạch sẽ, ai thấy cũng đều hoan hỉ. Rất đông trời người, các chúng Bồ Tát và Thanh Văn số đông vô lượng. Phật sống lâu hai mươi bốn tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời bốn mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời bốn mươi tiểu kiếp.  

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng:

                  Ðệ tử ta đây

                  Ðại Mục Kiền Liên

                  Bỏ thân nầy rồi

                  Ðược thấy tám ngàn.

                  Hai trăm vạn ức

                  Chư Phật Thế Tôn

                  Vì thành Phật đạo

                  Cung kính cúng dường.

                  Ở chỗ chư Phật

                  Thường tu phạm hạnh

                  Trong vô lượng kiếp

                  Phụng trì Phật pháp.

                  Chư Phật diệt rồi

                  Dựng tháp bảy báu

                  Cao rộng tốt đẹp

                  Dùng các hương hoa.

                  Kỹ nhạc cúng dường

                  Tháp chùa chư Phật.

                  Dần dần đầy đủ

                  Ðạo Bồ Tát rồi

                  Ở nước Ý Lạc

                  Sẽ được thành Phật

                  Hiệu Ða Ma La

                  Bạt Chiên Ðàn Hương

                  Phật đó sống lâu

                  Hai mươi bốn kiếp.

                  Thường vì trời người

                  Diễn nói Phật đạo

                  Thanh Văn vô lượng

                  Như cát sông Hằng.

                  Có oai đức lớn

                  Ba minh sáu thông

                  Bồ Tát vô số

                  Chí bền tinh tấn.

                  Ðều chẳng thối chuyển

                  Nơi trí huệ Phật.

                  Phật diệt độ rồi

                  Chánh pháp trụ thế.

                  Bốn mươi tiểu kiếp

                  Tượng pháp cũng thế

                  Các đệ tử ta

                  Oai đức đầy đủ.

                  Số đông năm trăm

                  Ðều được thọ ký

                  Ở đời vị lai

                  Ðều được thành Phật.

                  Ta và các ông

                  Ðời trước có duyên

                  Nay ta sẽ nói

                  Các ông khéo nghe.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Hóa Thành Dụ thứ Bảy

                  Ðức Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Về thuở quá khứ, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn. Bấy giờ, có Đức Phật hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Hảo Thành, kiếp đó tên là Ðại Tướng.  

                  Các Tỳ Kheo! Ðức Phật đó diệt độ đến nay rất là lâu xa. Ví như tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người đem mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông, cách một ngàn cõi nước, mới chấm xuống một chút, lớn như hạt bụi. Rồi đi qua một ngàn cõi nước nữa, lại chấm xuống một chút. Như thế, lần lược chấm hết mực mài bằng đất đai, ý của các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó, hoặc thầy toán, hoặc đệ tử của thầy toán, có thể biết được bờ mé của số đó chăng?

                  Không vậy, Đức Thế Tôn.  

                  Các Tỳ Kheo! Cõi nước của người đó đi qua, hoặc chấm mực, hoặc không chấm mực, đều nghiền hết ra làm bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay, lại lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai, xem thuở lâu xa đó như ngày hôm nay. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

                  Ta nhớ đời quá khứ

                  Vô lượng vô biên kiếp

                  Có Phật Lưỡng Túc Tôn

                  Hiệu Ðại Thông Trí Thắng.

                  Như người dùng sức mài

                  Ba ngàn cõi đại thiên

                  Hết tất cả đất đai

                  Thảy đều làm thành mực.

                  Qua khỏi ngàn cõi nước

                  Mới chấm xuống chút mực

                  Lần lược chấm như thế

                  Hết sạch số mực đó.

                  Các cõi nước như thế

                  Chấm mực hoặc không chấm

                  Lại nghiền ra làm bụi

                  Một bụi là một kiếp.

                  Kiếp số lâu xa kia

                  Lại nhiều hơn số bụi

                  Phật đó diệt đến nay

                  Vô lượng kiếp như thế.

                  Trí vô ngại của Phật

                  Biết Phật đó diệt độ

                  Và Thanh Văn Bồ Tát

                  Như thấy nay diệt độ.

                  Các Tỳ Kheo nên biết

                  Trí Phật tịnh vi diệu

                  Vô lậu chẳng vì ngại

                  Thông đạt vô lượng kiếp. 

                  Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng, sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi Đức Phật đó ngồi đạo tràng phá ma quân rồi, sắp được đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà các Phật pháp chẳng hiện ra ở trước, Đức Phật ngồi kiết già như thế một tiểu kiếp, cho đền mười tiểu kiếp, thân và tâm đều bất động, mà các Phật pháp cũng chẳng hiện ra.

                  Bấy giờ, chư thiên cõi trời Ðao Lợi, trước đã vì Đức Phật đó, làm tòa sư tử ở dưới cội bồ đề cao một do tuần. Ðức Phật ngự lên tòa đó, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Phật ngồi lên tòa đó, thì các vị Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, khắp một trăm do tuần. Gió thơm lại đến thổi đi các hoa héo, rồi mưa xuống hoa tươi, cứ như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Đức Phật. Cho đến sau khi Đức Phật diệt độ, vẫn luôn luôn mưa xuống các hoa trời. Bốn vị Tứ Thiên Vương vì cúng dường Đức Phật, mà thường đánh trống trời, còn các vị trời khác thì tấu nhạc trời, trọn mười tiểu kiếp, đến khi Đức Phật diệt độ cũng lại như thế. 

                  Các Tỳ Kheo! Phật Ðại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, các Phật pháp mới hiện ra ở trước, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Đức Phật đó chưa xuất gia, thì có mười sáu người con. Người con thứ nhất tên là Trí Tích. Các người con đều có đồ chơi tốt đẹp, quý báu lạ thường, nghe cha đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bỏ đồ chơi báu lạ, đi đến chốn Phật. Các bà mẹ khóc rơi lệ đi theo tiễn đưa. Ông nội của các vị đó là Chuyển luân thánh vương, với một trăm vị đại thần, và trăm ngàn vạn ức nhân dân khác, đều cùng nhau vây quanh theo đến đạo tràng. Ðều muốn gần gũi Đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Ðến rồi, thảy đều cuối đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu Phật xong rồi, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, nói bài kệ rằng:

                  Thế Tôn oai đức lớn

                  Vì cứu độ chúng sinh

                  Trong vô lượng ức kiếp

                  Nay mới được thành Phật.

                  Các nguyện đã đầy đủ

                  Hay thay lành vô thượng

                  Thế Tôn rất ít có

                  Một phen ngồi mười kiếp.

                  Thân thể và tay chân

                  Vắng lặng yên chẳng động

                  Tâm Phật thường lặng lẽ

                  Chưa từng có tán loạn.

                  Rốt ráo hằng tịch diệt

                  An trụ pháp vô lậu

                  Ngày nay thấy Thế Tôn

                  An ổn thành Phật đạo.

                  Chúng con được lợi lành

                  Rất hớn hở vui mừng

                  Chúng sinh thường khổ não

                  Ðui mù không đạo sư.

                  Chẳng biết đạo dứt khổ

                  Không biết cầu giải thoát

                  Ngày đêm thêm nẻo ác

                  Tổn giảm chúng chư thiên.

                  Từ tối vào nơi tối

                  Trọn chẳng nghe tên Phật

                  Nay Phật được vô thượng

                  Ðạo an ổn vô lậu.

                  Chúng con và trời người

                  Vì được lợi lành lớn

                  Cho nên đều cuối đầu

                  Quy mạng đấng Vô Thượng. 

                  Bấy giờ, mười sáu vị vương tử nói kệ khen Đức Phật rồi, bèn thỉnh cầu Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, đều thưa rằng: Ðức Thế Tôn thuyết pháp được nhiều sự an ổn, thương xót lợi ích các trời người, lại nói bài kệ rằng: 

                  Thế Tôn chẳng ai bằng

                  Trăm phước tự trang nghiêm

                  Ðược trí huệ vô thượng

                  Xin vì thế gian nói.

                  Ðộ thoát cho chúng con

                  Và các loài chúng sinh

                  Vì phân biệt hiển bày

                  Khiến được trí huệ Phật.

                  Nếu chúng con thành Phật

                  Chúng sinh cũng như thế

                  Thế Tôn biết chúng sinh

                  Nghĩ gì trong thâm tâm.

                  Cũng biết họ nguyện gì

                  Lại biết sức trí huệ

                  Ưa muốn và tu phước

                  Nghiệp tạo ra đời trước.

                  Thế Tôn biết cả rồi

                  Nên chuyển pháp vô thượng. 

                  Phật bảo các Tỳ Kheo: Khi Đức Phật Ðại Thông Trí Thắng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm vạn ức thế giới của chư Phật, có sáu thứ chấn động. Trong các cõi nước đó, chỗ tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu đến, mà nay đều sáng rực rỡ. Chúng sinh ở trong đó đều thấy nhau, đều nói rằng: Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh? Và cung điện của chư Thiên, cho đến cung điện của Phạm thiên, trong các cõi đó, đều có sáu thứ chấn động. Quang minh chiếu khắp đầy các thế giới, sáng hơn ánh sáng của chư Thiên.

                  Bấy giờ, ở phương đông năm trăm vạn ức cõi nước, các cung điện của cõi trời Phạm Thiên, có ánh sáng chiếu sáng gấp bội hơn ánh sáng thường. Các vị Phạm Thiên Vương đều nghĩ: Hôm nay, ánh sáng chiếu đến cung điện, từ xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà hiện tướng nầy? Lúc đó, các Phạm Thiên Vương đều đi đến với nhau cùng bàn về việc nầy.  

                  Khi đó, trong chúng có một vị Phạm Thiên Vương tên là Cứu Nhất Thiết, vì các chúng Phạm Thiên mà nói bài kệ rằng: 

                  Các cung điện chúng ta

                  Ánh sáng xưa chưa có

                  Ðây là nhân duyên gì?

                  Thảy đều cùng nhau tìm.

                  Là trời đại đức sinh

                  Hay Phật hiện ra đời?

                  Mà ánh sáng lớn nầy

                  Chiếu khắp trong mười phương. 

                  Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức các cõi nước, cùng với cung điện, ai nấy đều dùng túi y đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến hướng tây để tìm tướng ánh sáng đó. Thấy Đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, tại đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư Thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân, phi nhân .v.v... đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp. 

                  Tức thời, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ Đức Phật, nhiễu trăm ngàn vòng, liền lấy hoa trời rải trên Đức Phật, hoa rải xuống nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cây bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường hoa xong, ai nấy đều đem cung điện dâng lên Đức Phật đó, mà bạch rằng: Xin Đức Phật thương xót lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Đức Phật hãy nhận để ở.

                   Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng tiếng nói bài kệ rằng:

                   Thế tôn rất ít có

                  Khó có thể gặp được

                  Ðủ vô lượng công đức

                  Hay cứu hộ tất cả.

                  Ðại sư của trời người

                  Thương xót nơi thế gian

                  Các chúng sinh mười phương

                  Khắp đều được lợi ích.

                  Chúng con đều đến từ

                  Năm trăm vạn ức cõi

                  Xả bỏ vui thiền định

                  Vì cúng dường đức Phật.

                  Chúng con phước đời trước

                  Cung điện rất tốt đẹp

                  Nay dâng lên Thế Tôn

                  Cúi xin thương nhận ở. 

                  Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều nói: Cúi xin Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp độ thoát chúng sinh, mở đường Niết Bàn.

                   Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ rằng: 

                  Thế hùng Lưỡng Túc Tôn

                  Cúi xin diễn nói pháp

                  Dùng sức đại từ bi

                  Ðộ chúng sinh khổ não. 

                  Bấy giờ, Đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. 

                  Lại nữa, các Tỳ Kheo! Phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Ðại Phạm Vương đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, thảy đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau đi đến bàn về việc nầy.  

                  Lúc đó, trong chúng đó có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Ðại Bi, vì các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng: 

                  Việc nầy nhân duyên gì?

                  Mà hiện tướng như thế

                  Các cung điện chúng ta

                  Ánh sáng chưa từng có.

                  Là trời đại đức sinh

                  Hay Phật hiện ra đời?

                  Chưa từng có tướng nầy

                  Nên cùng một lòng tìm.

                  Qua ngàn vạn ức cõi

                  Theo luồng sáng tìm đến

                  Phần nhiều Phật ra đời

                  Ðộ thoát chúng sinh khổ. 

                  Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, đều mang theo cung điện đi với, ai nấy cũng đều dùng túi đựng đầy hoa trời, cùng đi đến phương tây bắc để tìm tướng đó, thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân. 

                  Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường Đức Phật đó, mà bạch rằng: Cúi xin Đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Đức Phật hãy nhận.

                   Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng:

                  Thánh chúa Thiên Trung Vương

                  Tiếng ca lăng tần già

                  Thương xót các chúng sinh

                  Chúng con nay kính lễ.

                  Thế Tôn rất ít có

                  Lâu xa hiện một lần

                  Một trăm tám mươi kiếp

                  Trải qua chẳng có Phật.

                  Đầy dẫy ba đường ác

                  Chúng chư thiên giảm bớt

                  Nay Phật hiện ra đời

                  Mắt sáng của chúng sinh.

                  Chỗ thế gian nương tựa

                  Cứu hộ thảy mọi loài

                  Cha lành của chúng sinh

                  Thương xót làm lợi ích.

                  Chúng con nhờ phước xưa

                  Nay được gặp Thế Tôn. 

                  Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều bạch rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển bánh xe pháp, độ thoát chúng sinh.

                   Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh mà nói kệ rằng: 

                  Đại Thánh chuyển pháp luân

                  Hiển bày các pháp tướng

                  Độ chúng sinh khổ não

                  Khiến được vui mừng lớn.

                  Chúng sinh nghe pháp nầy

                  Đắc đạo hoặc sinh thiên

                  Các đường ác giảm dần

                  Người khéo nhẫn thêm nhiều. 

                  Bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. 

                  Lại nữa, các Tỳ Kheo! Ở phương nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có tướng điềm lành nầy, ai nấy đều vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau tụ lại luận bàn việc nầy. Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy?  

                  Lúc đó, trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng: 

                  Các cung điện chúng ta

                  Ánh sáng chiếu sáng rực

                  Đây là nhân duyên gì?

                  Tướng nầy phải tìm cầu.

                  Trải qua trăm ngàn kiếp

                  Chưa từng thấy tướng nầy

                  Là trời đại đức sinh

                  Hay là Phật ra đời. 

                  Bấy giờ, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, đều mang theo cung điện của họ, và dùng túi y đựng đầy hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, tìm tướng ánh sáng đó, thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v... thảy đều vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe pháp. 

                  Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân của Đức Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường Đức Phật đó, mà bạch Phật rằng: Cúi xin Phật thương xót, lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Phật hãy nhận ở.

                   Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh nói kệ rằng: 

                  Thế Tôn rất khó gặp

                  Bậc phá các phiền não

                  Qua trăm ba mươi kiếp

                  Nay mới gặp một lần.

                  Các chúng sinh đói khác

                  Đều thấm nhuần mưa pháp

                  Xưa chưa từng gặp Phật

                  Bậc vô lượng trí huệ.

                  Như hoa ưu đàm bát

                  Hôm nay mới gặp được

                  Các cung điện chúng con

                  Nhờ ánh sáng nghiêm sức.

                  Thế Tôn đại từ mẫn

                  Cúi xin hãy nhận ở. 

                  Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả thế gian, chư Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa môn, Bà la môn, đều được an ổn mà được giải thoát.  

                  Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ rằng: 

                  Cúi xin Thiên Nhân Tôn

                  Chuyển pháp luân vô thượng

                  Đánh vang trống pháp lớn

                  Thổi lên ốc pháp lớn.

                  Rưới khắp mưa pháp lớn

                  Độ vô lượng chúng sinh

                  Chúng con đều thỉnh cầu

                  Nói tiếng pháp sâu xa. 

                  Bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. Phương tây nam cho đến phương dưới cũng lại như thế.  

                  Bấy giờ, phương trên có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Thiên Vương, đều tự thấy ánh sánh chiếu sáng rực cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, đều tụ lại cùng nhau bàn về việc đó. Vì nhân duyên gì, mà cung điện của chúng ta có ánh sáng đó?  

                  Lúc đó, ở trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí, vì các chúng Đại Phạm Thiên mà nói kệ rằng: 

                  Nay bởi nhân duyên gì?

                  Các cung điện chúng ta

                  Ánh sáng chiếu sáng rực

                  Trang nghiêm chưa từng có.

                  Diệu tướng lạ như thế

                  Xưa nay chưa nghe thấy

                  Là trời đại đức sinh

                  Hay Phật hiện ra đời? 

                  Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều mang theo cung điện của mình và dùng túi y đựng đầy các hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới để tìm tướng đó. Thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh Đức Phật, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe pháp. 

                  Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cũng dùng để cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường Đức Phật đó, mà bạch rằng: Cúi xin Đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây xin Đức Phật hãy nhận ở.

                   Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng: 

                  Lành thay gặp được Phật

                  Đấng Thánh Tôn cứu đời

                  Thường ở ngục tam giới

                  Độ thoát các chúng sinh.

                  Thiên Nhân Tôn trí khắp

                  Thương xót loài quần mê

                  Khai mở cửa cam lồ

                  Rộng độ hết tất cả.

                  Thuở xưa vô lượng kiếp

                  Trải qua chẳng có Phật

                  Khi Phật chưa ra đời

                  Mười phương thường đen tối.

                  Ba đường ác thêm nhiều

                  A tu la cũng thịnh

                  Chúng chư thiên bớt đi

                  Chết nhiều đọa đường ác.

                  Chẳng theo Phật nghe pháp

                  Thường làm những việc ác.

                  Sắc lực và trí huệ

                  Thảy đều giảm bớt dần

                  Vì tội nghiệp nhân duyên

                  Mất vui cùng tưởng vui.

                  Trụ trong pháp tà kiến

                  Chẳng biết nghi tắc lành

                  Chẳng nhờ Phật hóa độ

                  Thường đọa trong đường ác.

                  Phật là mắt thế gian

                  Lâu xa mới xuất hiện

                  Thương xót các chúng sinh

                  Nên mới hiện ra đời.

                  Vượt khỏi thành chánh giác

                  Chúng con rất sung sướng

                  Và các chúng sinh khác

                  Vui mừng chưa từng có.

                  Các cung điện chúng con

                  Nhờ ánh sáng trang nghiêm

                  Nay đem dâng Thế Tôn

                  Xin hãy thương nhận ở.

                  Nguyện đem công đức nầy

                  Hồi hướng khắp tất cả

                  Chúng con và chúng sinh

                  Ðều trọn thành Phật đạo.

                   Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, được nhiều sự an ổn, được nhiều sự độ thoát.

                   Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói bài kệ rằng:

                   Thế Tôn chuyển pháp luân

                  Ðánh trống pháp cam lồ

                  Ðộ chúng sinh khổ não

                  Mở bày đường Niết Bàn.

                  Cúi xin nhận con thỉnh

                  Dùng âm thanh vi diệu

                  Thương xót mà diễn nói

                  Pháp tu vô lượng kiếp.

                   Bấy giờ, Đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm Thiên Vương trong mười phương, và mười sáu vị vương tử, lập tức ba lần chuyển bánh xe pháp mười hai hành. Dù Sa môn, Bà la môn, hoặc chư Thiên, ma vương, Phạm vương, và các thế gian khác, không thể chuyển được.

                   Ðây là khổ, là khổ tập, là khổ diệt, là đạo diệt khổ, và pháp độ thoát mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tữ ưu bi khổ não diệt.

                  Khi Đức Phật ở trong đại chúng trời người nói pháp đó, thì có sáu trăm vạn ức Na do tha người, vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được giải thoát, đều được thiền định thâm sâu vi diệu, ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát.

                  Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thì có ngàn vạn ức Hằng hà sa Na do tha chúng sinh, cũng vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được giải thoát. Từ đó về sau, các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên không thể tính đếm.

                  Bấy giờ, mười sáu vị vương tử, đều là đồng tử xuất gia làm Sa di, các căn lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh, cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðều bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Vô lượng ngàn vạn ức các đại đức Thanh Văn đó, đều đã thành tựu, Đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe rồi đều cùng tu học.

                   Ðức Thế Tôn! Chúng con chí nguyện đắc được tri kiến của Như Lai, trong thâm tâm nghĩ gì, Đức Phật tự chứng biết.  

                  Lúc đó, tám vạn ức người trong chúng của vua chuyển luân thánh vương dẫn đến, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng xin xuất gia, vua bèn chấp nhận. 

                  Bấy giờ, Ðức Phật đó nhận lời thỉnh cầu của các vị Sa di, trải qua hai vạn kiếp sau, mới ở trong bốn chúng nói kinh đại thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Nói kinh nầy rồi, mười sáu vị Sa di đều vì quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà cùng nhau thọ trì đọc tụng thông thuộc.  

                  Lúc nói kinh đó, thì mười sáu vị Bồ Tát Sa di đều tin nhận thọ trì, trong chúng hàng Thanh Văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra, ngàn vạn ức loại chúng sinh đều sinh tâm nghi hoặc.  

                  Ðức Phật nói kinh đó, suốt tám ngàn kiếp chưa từng thôi nghỉ, nói kinh đó rồi, bèn vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám vạn bốn ngàn kiếp.

                  Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa di, biết Đức Phật nhập thất vắng lặng ở trong thiền định, ai nấy đều lên pháp tòa, cũng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, vì bốn chúng rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị đều độ sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ được lợi ích và vui mừng phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                  Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, rồi từ tam muội dậy, đi đến pháp tòa, ngồi ngay thẳng bảo khắp đại chúng rằng: Mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy, rất là hy hữu, các căn lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức các Đức Phật. Ở chỗ chư Phật thường tu phạm hạnh, thọ trí huệ của Phật, mở bày cho chúng sinh, cũng khiến cho họ được như thế. 

                  Các ông đều phải gần gũi cúng dường các các vị ấy. Tại sao? Vì nếu hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, và các Bồ Tát đó, tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ Tát nầy nói, thọ trì chẳng sinh tâm hủy báng, thì người đó sẽ được trí huệ Vô thượng chánh đẳng chánh giác của Như Lai.

                   Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Mười sáu vị Bồ Tát nầy, thường ưa thích diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Mỗi vị Bồ Tát, giáo hóa sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh. Ðời đời sinh ra đều gặp các vị Bồ Tát nầy, theo các Ngài nghe pháp, thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó, được gặp bốn vạn ức các Đức Phật Thế Tôn, đến nay vẫn chưa hết. 

                  Các Tỳ Kheo! Nay ta nói với các ông: Mười sáu vị Sa di đệ tử của Đức Phật đó, nay đều được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đang nói pháp ở trong cõi nước mười phương. Có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng Bồ Tát, và Thanh Văn làm quyến thuộc.  

                  Hai vị làm Phật ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A Súc, ở cõi nước Hoan Hỉ. Vị thứ hai hiệu là Tu Di Ðỉnh. Hai vị Phật ở phương đông nam, một vị hiệu là Sư Tử Âm, vị thứ hai hiệu là Sư Tử Tướng. Hai vị Phật ở phương nam, vị thứ nhất hiệu là Hư Không Trụ, vị thứ hai hiệu là Thường Diệt. Hai vị Phật ở phương tây nam, vị thứ nhất hiệu là Ðế Tướng, vị thứ hai hiệu là Phạm Tướng. Hai vị Phật ở phương tây, vị thứ nhất hiệu là A Di Ðà, vị thứ hai hiệu là Ðộ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị Phật ở phương tây bắc, vị thứ nhất hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Thần Thông, vị thứ hai hiệu là Tu Di Tướng. Hai vị Phật ở phương bắc, vị thứ nhất hiệu là Vân Tự Tại, vị thứ hai hiệu là Vân Tự Tại Vương. Vị Phật ở phương đông bắc hiệu là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy, vị Phật thứ mười sáu chính là ta Thích Ca Mâu Ni Phật, ở cõi Ta Bà thành quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                  Các Tỳ Kheo! Lúc chúng ta làm Sa di, thì mỗi người giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa chúng sinh, theo ta nghe pháp, vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những chúng sinh đó, nay có người trụ ở bậc Thanh Văn. Ta thường giáo hóa đạo Vô thượng chánh giác, những người đó nhờ pháp nầy, mà dần dần vào Phật đạo. Tại sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu. Vô lượng Hằng hà sa chúng sinh giáo hóa thuở đó, tức là hàng Tỳ Kheo các ông. Sau khi ta diệt độ rồi, ở đời vị lai hàng đệ tử Thanh Văn cũng vậy. Ta diệt độ rồi, lại có đệ tử chẳng nghe kinh nầy, chẳng biết chẳng hay sự tu hành của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được, tưởng là diệt độ sẽ vào Niết bàn.

                   Ta thành Phật ở nước khác, bèn có tên khác, người đó tuy tưởng là diệt độ vào Niết Bàn, mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật được nghe kinh nầy, chỉ dùng Phật thừa mà được diệt độ, chẳng có thừa nào khác, trừ khi các Đức Như Lai phương tiện thuyết pháp. 

                  Các Tỳ Kheo! Nếu Đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, đại chúng lại thanh tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt pháp không, vào sâu thiền định, bèn tụ tập các chúng Bồ Tát và Thanh Văn để nói kinh nầy, thế gian chẳng có hai thừa mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa được diệt độ thôi.

                   Các Tỳ Kheo nên biết! Ðức Như Lai phương tiện sâu vào tánh của chúng sanh, biết chí của họ thích pháp nhỏ, chấp sâu năm dục, vì những người đó nói Niết Bàn, nếu họ nghe thì liền tin nhận thọ trì. 

                  Ví như đường dữ hiểm nạn, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu có đông người muốn đi qua đường hiểm nầy, đến chỗ châu báu. Có một vị Ðạo sư trí huệ sáng suốt, khéo biết rõ tướng thông bít của con đường, dắt mọi người muốn vượt qua hiểm nạn nầy. Mọi người được dắt đi giữa đường lười mỏi, bèn bạch với Ðạo sư rằng: Chúng con rất mệt nhọc, lại thêm sợ sệt không thể đi thêm được nữa, đường ở trước còn dài, nay chúng con muốn lui về. Vị Ðạo sư nhiều phương tiện bèn nghĩ thế nầy: Những người nầy rất đáng thương, sao lại bỏ châu báu mà muốn lui về. Nghĩ như thế rồi, dùng sức phương tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành, bảo mọi người rằng: Các ngươi đừng sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể ở trong đó, làm gì tùy ý. Nếu vào thành đó rất được an ổn, nếu có thể đi thẳng đến chỗ châu báu cũng được.

                   Lúc đó, chúng mỏi mệt tâm rất vui mừng, khen chưa từng có. Nay chúng ta khỏi đường hiểm đó, rất được an ổn. Do đó, mọi người đều vào hóa thành, sinh lòng tưởng rằng đã được độ rất an ổn. Bấy giờ, vị Ðạo sư biết những người đó đã nghỉ ngơi xong, chẳng còn mệt nhọc, bèn diệt hóa thành, bảo với mọi người rằng: Các ngươi hãy đi tới chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn đó do ta hóa làm ra, để dùng nghỉ thôi. 

                  Các Tỳ Kheo! Ðức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông làm đại Ðạo sư, biết các đường hiểm sinh tử phiền não dài xa, nên bỏ, nên vượt qua. Nếu chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa, thì chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gũi, bèn nghĩ như vầy: Phật đạo dài xa, chịu khổ siêng cần lâu mới có thể thành tựu. Phật biết tâm của họ khiếp nhược hạ liệt, bèn dùng sức phương tiện nghỉ ngơi ở giữa đường, nên nói hai Niết Bàn.

                  Nếu chúng sinh trụ ở hai bậc, thì bấy giờ Đức Như Lai bèn nói: Chỗ tu của các ông chưa xong, bậc của các ông gần với trí huệ của Phật. Nên quán sát suy lường Niết Bàn đã được đó, chẳng chân thật vậy, chỉ là sức phương tiện của Như Lai, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba. Như vị Ðạo sư kia, vì dừng lại nghỉ mà hóa làm thành lớn. Biết đã nghỉ rồi, bèn bảo họ rằng: Chỗ châu báu gần đây, thành nầy chẳng thật, do ta hóa làm ra thôi.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

                  Phật Ðại Thông Trí Thắng

                  Mười kiếp ngồi Ðạo tràng

                  Phật pháp chẳng hiện tiền

                  Không được thành Phật đạo.

                  Các trời thần long vương

                  Chúng A tu la thảy

                  Thường mưa các hoa trời

                  Ðể cúng dường Phật đó.

                  Chư Thiên đánh trống trời

                  Và tấu các âm nhạc

                  Gió thơm thổi hoa héo

                  Lại mưa hoa tươi tốt.

                  Trải qua mười tiểu kiếp

                  Mới được thành Phật đạo

                  Chư thiên và người đời

                  Tâm đều mừng hớn hở.

                  Mười sáu người con Phật

                  Ðều cùng với quyến thuộc

                  Ngàn vạn ức vây quanh

                  Ðều đi đến chốn Phật.

                  Ðầu mặt lễ chân Phật

                  Mà thỉnh chuyển pháp luân

                  Thánh sư tử mưa pháp

                  Lợi con và tất cả.

                  Thế Tôn rất khó gặp

                  Lâu xa hiện một lần

                  Vì giác ngộ quần sinh

                  Chấn động hết tất cả.

                  Các thế giới phương đông

                  Năm trăm vạn ức cõi

                  Ánh sáng chiếu Phạm cung

                  Từ xưa chưa từng có.

                  Phạm chúng thấy tướng nầy

                  Tìm đến chỗ đức Phật

                  Rải hoa để cúng dường

                  Và dâng cung điện lên.

                  Thỉnh Phật chuyển pháp luân

                  Dùng kệ khen ngợi Phật

                  Phật biết chưa đến thời

                  Nhận lời ngồi yên lặng.

                  Ba phương và bốn hướng

                  Trên dưới cũng như thế

                  Rải hoa dâng cung điện

                  Thỉnh Phật chuyển pháp luân.

                  Thế Tôn rất khó gặp

                  Xin vì lòng từ bi

                  Rộng mở cửa cam lồ

                  Chuyển pháp luân vô thượng.

                  Thế Tôn tuệ vô thượng

                  Nhận những người kia thỉnh

                  Vì nói các thứ pháp

                  Bốn đế mười hai duyên.

                  Vô minh đến lão tử

                  Ðều từ sinh duyên có

                  Những hoạ hoạn như thế

                  Các ông phải nên biết.

                  Lúc diễn nói pháp đó

                  Sáu trăm vạn ức chúng

                  Ðược hết sạch các khổ

                  Ðều thành A la hán.

                  Nói pháp lần thứ hai

                  Ngàn vạn Hằng sa chúng

                  Chẳng thọ nơi các pháp

                  Cũng đắc A la hán.

                  Từ đó sau đắc đạo

                  Số đông không thể lường

                  Vạn ức kiếp tính đếm

                  Không biết được ngằn mé.

                  Lúc đó mười sáu vị

                  Xuất gia làm Sa di

                  Ðều cùng thỉnh Phật đó

                  Diễn nói pháp đại thừa.

                  Chúng con và quyến thuộc

                  Ðều sẽ thành Phật đạo

                  Nguyện được như Thế Tôn

                  Mắt huệ tịnh bậc nhất.

                  Phật biết tâm đồng tử

                  Tu hành trong đời trước

                  Dùng vô lượng nhân duyên

                  Ðủ thứ các ví dụ.

                  Nói sáu Ba la mật

                  Và các việc thần thông

                  Phân biệt pháp chân thật

                  Ðạo Bồ Tát tu hành.

                  Nói Kinh Pháp Hoa nầy

                  Kệ như cát sông Hằng.

                  Phật đó nói kinh rồi

                  Vào tịnh thất nhập định.

                  Nhất tâm ngồi một chỗ

                  Tám vạn bốn ngàn kiếp

                  Các vị Sa Di đó

                  Biết Phật chưa xuất định.

                  Vì vô lượng ức chúng

                  Nói Phật huệ vô thượng

                  Ai nấy lên pháp tòa

                  Nói kinh đại thừa nầy.

                  Lúc Đức Phật tĩnh lặng

                  Giúp tuyên dương giáo hóa.

                  Mỗi mỗi vị Sa Di

                  Ðộ được các chúng sinh.

                  Khoảng sáu trăm vạn ức

                  Hằng hà sa chúng sinh

                  Phật đó diệt độ rồi

                  Những người nghe pháp đó.

                  Ở tại các cõi Phật

                  Thường sinh chung với thầy.

                  Mười sáu Sa Di đó

                  Ðầy đủ hạnh Phật đạo.

                  Nay hiện trong mười phương

                  Thảy đều thành chánh giác

                  Người nghe pháp thuở đó

                  Ðều ở chỗ chư Phật.

                  Có người trụ Thanh Văn

                  Dần dần vào Phật đạo.

                  Ta là thứ mười sáu

                  Cũng từng vì ông nói.

                  Cho nên dùng phương tiện

                  Dẫn ông đến Phật huệ

                  Do gốc nhân duyên đó

                  Nay nói Kinh Pháp Hoa.

                  Khiến ông vào Phật đạo

                  Cẩn thận chớ kinh sợ.

                  Ví như đường hiểm dữ

                  Xa vắng nhiều thú độc.

                  Lại không có cỏ nước

                  Chỗ mọi người sợ hãi

                  Vô số ngàn vạn chúng

                  Muốn qua đường hiểm này.

                  Ðường đó rất xa xôi

                  Dài năm trăm do tuần

                  Thời có một Ðạo sư

                  Thông minh có trí tuệ.

                  Sáng suốt tâm quyết định

                  Cứu nguy các hoạn nạn.

                  Mọi người đều mỏi mệt

                  Bèn bạch Ðạo sư rằng:

                  Chúng con nay mệt mỏi

                  Nơi đây muốn trở về

                  Ðạo sư nghĩ thế nầy :

                  Bọn nầy rất đáng thương.

                  Sao lại muốn lui về

                  Ðể mất châu báu lớn.

                  Bèn nghĩ tìm phương tiện

                  Nên bày sức thần thông.

                  Hóa làm thành quách lớn

                  Trang nghiêm các phòng nhà

                  Chung quanh có vườn rừng

                  Suối chảy và ao tắm.

                  Cửa lớn lầu gác cao

                  Nam nữ đều đầy dẫy

                  Hóa làm thành đó rồi

                  An ủi họ chớ sợ.

                  Các ông vào thành nầy

                  Ðều được tùy sở thích.

                  Mọi người đều vào thành

                  Tâm đều rất vui mừng.

                  Ðều sinh tưởng an ổn

                  Tự cho đã được độ

                  Ðạo sư biết nghỉ rồi

                  Nhóm chúng mà bảo rằng:

                  Các ngươi nên đi nữa

                  Ðây là hóa thành thôi

                  Thấy các ngươi mỏi mệt

                  Giữa đường muốn lui về.

                  Nên dùng sức phương tiện

                  Ta hóa làm thành nầy

                  Các ngươi gắng tinh tấn

                  Nên cùng đến bảo sở.

                  Ta cũng lại như thế

                  Ðạo sư của tất cả.

                  Thấy những người cầu đạo

                  Giữa đường mà lười bỏ.

                  Không thể vượt sinh tử

                  Phiền não các đường hiểm

                  Nên ta dùng phương tiện

                  Vì nghỉ nói Niết Bàn.

                  Bảo các ông khổ diệt

                  Việc làm đều đã xong

                  Tức biết đến Niết Bàn

                  Ðều được A la hán.

                  Nên mới nhóm đại chúng

                  Vì nói pháp chân thật.

                  Chư Phật dùng phương tiện

                  Phân biệt nói ba thừa.

                  Chỉ có một Phật thừa

                  Chỗ nghỉ nên nói hai

                  Nay vì ngươi nói thật

                  Chỗ ngươi được chẳng diệt.

                  Vì Phật nhất thiết trí

                  Hãy phát đại tinh tấn.

                  Ngươi chứng nhất thiết trí

                  Mười lực các Phật pháp.

                  Ðủ ba mươi hai tướng

                  Mới là chân thật diệt

                  Chư Phật là Ðạo sư

                  Vì nghỉ nói Niết Bàn.

                  Ðã biết nghỉ ngơi rồi

                  Dẫn vào nơi Phật huệ.

                  HẾT QUYỂN THỨ BA

 

 

QUYỂN BỐN

 

 

Bấy giờ, Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, từ Đức Phật nghe trí huệ phương tiện tùy nghi thuyết pháp, và nghe thọ ký quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho các vị đệ tử lớn, lại nghe việc nhân duyên đời trước, và nghe chư Phật có sức thần thông đại tự tại, được chưa từng có, tâm thanh tịnh hớn hở, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân Đức Phật, rồi đứng qua một bên, chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Phật, mắt chẳng tạm rời mà nghĩ như vầy: Ðức Thế Tôn rất kỳ đặc, làm những việc ít có, tùy thuận bao nhiêu chủng tánh thế gian, dùng phương tiện tri kiến mà vì họ thuyết pháp, cứu vớt chúng sinh ra khỏi những chỗ tham trước. Chúng con ở nơi công đức của Phật, không lời lẽ nào mà nói cho hết được, chỉ có Đức Phật Thế Tôn mới biết được nguyện xưa trong thâm tâm của chúng con. 

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Các ông có thấy ông Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử đây chăng, ta thường khen ông ta là người thuyết pháp giỏi bậc nhất, cũng thường khen ngợi ông ta tu đủ thứ công đức, tinh tấn siêng năng hộ trì, trợ giúp tuyên dương pháp của ta, hay ở trong bốn chúng khai thị giáo hóa, khiến cho mọi người được lợi ích vui mừng, giải thích đầy đủ chánh pháp của Phật, khiến cho bậc đồng phạm hạnh được lợi ích rất lớn. Ngoài Đức Như Lai ra, chẳng có ai biện luận bằng ông Phú Lâu Na. Các ông chớ cho rằng, ông Phú Lâu Na chỉ hộ trì tuyên dương pháp của ta thôi, mà trong quá khứ, nơi chín mươi ức chư Phật, cũng hộ trì tuyên dương chánh pháp của chư Phật, trong hàng người nói pháp, ông Phú Lâu Na cũng là bậc nhất, và nơi pháp không của các Đức Phật nói, thấu rõ thông đạt, đắc được bốn trí vô ngại, thường hay suy xét kỹ lưỡng thanh tịnh thuyết pháp chẳng có nghi hoặc, đầy đủ sức thần thông của Bồ Tát, tùy theo thọ mạng, thường tu phạm hạnh. Người ở đời thuở các Đức Phật kia, đều cho rằng ông thật là Thanh Văn, nhưng ông Phú Lâu Na dùng phương tiện đó, lợi ích vô lượng trăm nghìn chúng sinh, và hóa độ số người nhiều vô lượng A tăng kỳ, khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì tịnh cõi Phật, mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sinh.

                  Các Tỳ Kheo! Ông Phú Lâu Na ở nơi bảy Đức Phật, cũng là người thuyết pháp bậc nhất. Nay trong hàng đệ tử của ta, cũng là người thuyết pháp bậc nhất. Nơi các Đức Phật vị lai trong Hiền kiếp, cũng là người thuyết pháp bậc nhất, đều hộ trì tuyên dương Phật pháp. Ðời vị lai, ông Phú Lâu Na cũng hộ trì tuyên dương pháp của vô lượng vô biên các Đức Phật, giáo hóa lợi ích vô lượng chúng sinh, khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì tịnh cõi Phật, nên thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sinh. Dần dần đầy đủ đạo Bồ Tát, trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp, sẽ ở cõi này đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật đó, dùng ba ngàn đại thiên thế giới, nhiều như số các sông Hằng làm một cõi Phật. Ðất bằng bảy báu, mặt đất bằng phẳng như bàn tay, chẳng có núi gò khe suối rạch ngòi. Ðài quán bằng bảy báu đầy dẫy trong đó. Cung điện của chư Thiên ở gần nơi hư không, trời người giao tiếp nhau và thấy được nhau. Chẳng có các đường ác, cũng chẳng có các người nữ. Tất cả chúng sinh đều hóa sinh ra, chẳng có dâm dục, được đại thần thông, thân phóng quang minh, bay đi tự tại, chí niệm vững chắc, tinh tấn trí huệ, thảy đều màu vàng thật, ba mươi hai tướng tự trang nghiêm. Chúng sinh trong cõi nước đó, thường dùng hai thứ ăn uống, một là dùng niềm vui của pháp, thứ hai là dùng niềm vui của thiền định. Có vô lượng A tăng kỳ ngàn vạn ức Na do tha các chúng Bồ Tát, được đại thần thông, bốn trí vô ngại, khéo giáo hóa chúng sinh. Chúng hàng Thanh Văn dù tính toán cũng không biết được số lượng, đều được đầy đủ sáu thần thông ba minh và tám giải thoát. Cõi nước Đức Phật đó, có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như thế, kiếp tên là Bảo Minh, cõi nước đó tên là Thiện Tịnh, tuổi thọ của Đức Phật đó, vô lượng A tăng kỳ kiếp, pháp lưu lại ở đời rất lâu. Sau khi Đức Phật diệt độ, tạo dựng tháp bằng bảy báu, đầy khắp cõi nước đó. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Các Tỳ Kheo lóng nghe

                  Ðạo của Phật tử hành

                  Vì khéo học phương tiện

                  Không thể nghĩ bàn được.

                  Biết chúng ưa pháp nhỏ

                  Mà sợ nơi trí lớn

                  Cho nên các Bồ Tát

                  Làm Thanh Văn Duyên Giác.

                  Dùng vô số phương tiện

                  Ðộ các loài chúng sinh

                  Tự nói là Thanh Văn

                  Cách Phật đạo rất xa.

                  Ðộ thoát vô lượng chúng

                  Thảy đều được thành tựu

                  Tuy tiểu thừa giải đãi

                  Dần sẽ khiến thành Phật.

                  Trong ẩn hạnh Bồ Tát

                  Ngoài hiện là Thanh Văn

                  Ít muốn nhàm sinh tử

                  Thật tự tịnh cõi Phật.

                  Thị hiện có ba độc

                  Lại hiện tướng tà kiến

                  Ðệ tử ta như thế

                  Phương tiện độ chúng sinh.

                  Nếu ta nói đầy đủ

                  Các thứ việc hóa hiện

                  Chúng sinh nghe như thế

                  Tâm bèn sinh nghi hoặc.

                  Nay Phú Lâu Na đây

                  Nơi ngàn ức Phật xưa

                  Siêng tu Bồ Tát đạo

                  Tuyên dương pháp chư Phật.

                  Vì cầu huệ vô thượng

                  Nên nơi chỗ chư Phật

                  Hiện ở trong đệ tử

                  Ða văn có trí huệ.

                  Thuyết pháp vô sở úy

                  Hay khiến chúng hoan hỉ

                  Chưa từng có mệt nhọc

                  Ðể trợ giúp Phật sự.

                  Ðã được đại thần thông

                  Ðủ bốn trí vô ngại

                  Biết các căn lợi độn

                  Thường nói pháp thanh tịnh.

                  Diễn xướng nghĩa như thế

                  Ðộ ngàn ức chúng sinh

                  Khiến trụ pháp đại thừa

                  Mà tự tịnh cõi Phật.

                  Vị lai cũng cúng dường

                  Vô lượng vô số Phật

                  Trợ giúp tuyên chánh pháp

                  Cũng tự tịnh cõi Phật.

                  Thường dùng các phương tiện

                  Thuyết pháp vô sở úy

                  Ðộ chúng không tính được

                  Thành tựu Nhất thiết trí.

                  Cúng dường các Như Lai

                  Hộ trì tạng pháp bảo

                  Sau đó được thành Phật

                  Hiệu là Phật Pháp Minh.

                  Nước đó tên Thiện Tịnh

                  Ðất đai bằng bảy báu

                  Kiếp tên là Bảo Minh

                  Chúng Bồ Tát rất nhiều.

                  Có đến vô lượng ức

                  Ðều có đại thần thông

                  Sức oai đức đầy đủ

                  Ðầy dẫy trong nước đó.

                  Thanh Văn cũng vô số

                  Ba minh tám giải thoát

                  Ðược bốn trí vô ngại

                  Dùng họ để làm Tăng.

                  Các chúng sinh nước đó

                  Ðều đã đoạn dâm dục

                  Chỉ biến hóa sinh ra

                  Thân đủ tướng trang nghiêm.

                  Ăn pháp hỉ thiền duyệt

                  Càng chẳng có nghĩ ăn

                  Chẳng có những người nữ

                  Cũng chẳng có đường ác.

                  Tỳ Kheo Phú Lâu Na

                  Công đức đều viên mãn

                  Sẽ được tịnh độ đó

                  Chúng hiền Thánh rất đông.

                  Vô lượng việc như thế

                  Nay ta chỉ lược nói.

                   Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A la hán tâm tự tại nghĩ như vầy: Chúng ta vui mừng được chưa từng có. Nếu được Đức Thế Tôn đều thọ ký, như các vị đệ tử lớn, thì sung sướng lắm. Ðức Phật biết tâm suy nghĩ của các vị đó, bèn nói với ngài Ma Ha Ca Diếp rằng: Một nghìn hai trăm vị A la hán này, nay ta sẽ lần lượt thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ở trong chúng đây, đệ tử lớn của ta, Tỳ Kheo Kiều Trần Như sẽ cúng dường sáu vạn hai nghìn ức Đức Phật, sau đó sẽ được thành Phật, hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Năm trăm vị A la hán đó, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Ðề Ca Diếp, Ca Lưu Ðà Di, Ưu Ðà Di, A Nậu Lâu Ðà, Ly Bà Ða, Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, Châu Ðà, Sa Già Ðà .v.v... đều sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng một danh hiệu là Phổ Minh.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Tỳ Kheo Kiều Trần Như

                  Sẽ gặp vô lượng Phật

                  Qua A tăng kỳ kiếp

                  Mới thành Ðẳng chánh giác.

                  Thường phóng đại quang minh

                  Ðầy đủ các thần thông

                  Danh đồn khắp mười phương

                  Tất cả đều cung kính.

                  Thường nói đạo vô thượng

                  Nên hiệu là Phổ Minh

                  Cõi nước đó thanh tịnh

                  Bồ Tát đều dũng mãnh.

                  Ðều lên lầu các đẹp

                  Ðến các nước mười phương

                  Dùng đồ cúng vô thượng

                  Cúng dường các Đức Phật.

                  Cúng dường như thế rồi

                  Trong tâm rất hoan hỉ

                  Chốc lát về bổn quốc

                  Có thần thông như thế.

                  Phật thọ sáu vạn kiếp

                  Chánh pháp trụ hơn thọ

                  Tượng pháp lại hơn chánh

                  Pháp diệt trời người lo.

                  Năm trăm Tỳ Kheo này

                  Lần lượt sẽ thành Phật

                  Ðồng hiệu là Phổ Minh

                  Lần lượt thọ ký nhau.

                  Sau khi ta diệt độ

                  Vị đó sẽ thành Phật

                  Thế gian Phật đó độ

                  Cũng như ta ngày nay.

                  Cõi nước đó nghiêm tịnh

                  Và các sức thần thông

                  Chúng Bồ Tát Thanh Văn

                  Chánh pháp và tượng pháp.

                  Kiếp thọ mạng bao nhiêu

                  Ðều đã nói ở trên

                  Ca Diếp ông đã biết

                  Năm trăm vị tự tại.

                  Ngoài các chúng Thanh Văn

                  Cũng sẽ lại như thế

                  Ai chẳng có ở đây

                  Ông nên vì họ nói.

                  Bấy giờ, năm trăm vị A La Hán ở trước Đức Phật được thọ ký rồi, vui mừng hớn hở, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân đức Phật, hối lỗi tư trách rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con thường nghĩ như vầy: Tự cho rằng đã được diệt độ rốt ráo, nay mới biết là người chẳng có trí huệ. Tại sao? Vì chúng con đáng được trí huệ của đức Như Lai, mà tự cho rằng trí nhỏ là đủ.

                  Ðức Thế Tôn! Ví như có người nọ, đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó bạn thân bận việc quan phải đi, bèn lấy hạt châu vô giá, buộc vào trong áo của gã say rồi bỏ đi. Gã đó tỉnh dậy cũng chẳng biết, đi lang thang đến nước khác, vì ăn mặc nên gắng sức mà tìm cầu rất là khốn khổ, được chút ít bèn cho là đủ. 

                  Thời gian sau, người bạn thân lại thấy gã kia bèn nói rằng: Lạ thay anh này! Sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Trước kia, ta muốn khiến cho anh được an lạc, tha hồ thọ hưởng năm dục. Vào ngày tháng năm đó, ta lấy hạt châu vô giá buộc vào trong áo của anh, mà đến bây giờ anh vẫn không biết, để phải cực khổ lo buồn tìm cầu tự sống, rất là ngu si vậy. Nay ông có thể dùng hạt châu báu đó, đổi lấy những đồ cần dùng, thì sẽ được như ý, chẳng còn thiếu thốn. Phật cũng như thế, khi làm Bồ Tát thì giáo hóa chúng con, khiến cho phát tâm Nhất thiết trí, mà chúng con bỏ quên không hay không biết. Tức được quả A la hán, mà tự cho là đã diệt độ. Khổ nhọc sinh sống được ít cho là đủ. Nguyện Nhất thiết trí vẫn còn chẳng mất.

                  Hôm nay Đức Thế Tôn giác ngộ chúng con, bèn bảo rằng: Này các Tỳ Kheo! Chỗ các ông được chẳng phải rốt ráo diệt độ. Từ lâu, ta đã khiến cho các ông trồng căn lành của Phật, dùng phương tiện nên thị hiện tướng Niết Bàn, mà các ông cho rằng thật được diệt độ. 

                  Ðức Thế Tôn! Nay chúng con mới biết thật là Bồ Tát, được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhờ nhân duyên đó, nên chúng con rất vui mừng được chưa từng có.  

                  Bấy giờ, Ngài A Nhã Kiều Trần Như muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Chúng con nghe thọ ký

                  Tiếng an ổn vô thượng

                  Vui mừng chưa từng có

                  Lễ vô lượng trí Phật.

                  Nay ở trước Thế Tôn

                  Tự sám hối lỗi lầm

                  Nơi vô lượng Phật bảo

                  Ðược chút phần Niết Bàn.

                  Như kẻ ngu vô trí

                  Bèn tự cho là đủ.

                  Ví như gã bần cùng

                  Ði đến nhà bạn thân

                  Nhà đó rất giàu có

                  Bày đủ cỗ tiệc ngon.

                  Lấy châu báu vô giá

                  Buộc chặt vào trong áo

                  Yên lặng mà bỏ đi

                  Gã nằm chẳng hay biết.

                  Sau gã đó thức dậy

                  Lang thang đến nước khác

                  Cầu ăn mặc tự sống

                  Sinh sống rất khốn khổ.

                  Ðược ít cho là đủ

                  Càng không muốn đồ tốt

                  Chẳng biết ở trong áo

                  Có châu báu vô giá.

                  Bạn thân cho hạt châu

                  Sau gặp lại gã nghèo

                  Khổ thiết trách gã rồi

                  Chỉ cho chỗ buộc châu.

                  Gã nghèo thấy châu rồi

                  Trong tâm rất vui mừng

                  Giàu có các của cải

                  Tha hồ hưởng năm dục.

                  Chúng con cũng như thế

                  Thế Tôn từ thuở xưa

                  Thường giáo hóa chúng con

                  Khiến trồng nguyện vô thượng.

                  Vì chúng con vô trí

                  Chẳng biết cũng chẳng hay

                  Ðược ít phần Niết Bàn

                  Cho đủ chẳng cầu nữa.

                  Nay Phật giác ngộ con

                  Nói chẳng thật diệt độ

                  Ðược Phật trí vô thượng

                  Ðó mới là thật diệt.

                  Nay con nghe từ Phật

                  Thọ ký việc trang nghiêm

                  Và lần lược thọ ký

                  Khắp thân tâm vui mừng.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học thứ Chín

                  Bấy giờ, Ngài A nan, La Hầu La nghĩ như vầy: Chúng ta ai nấy đều tự nghĩ rằng: Nếu được Đức Phật thọ ký cho, thì chẳng sung sướng lắm sao! Bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước Đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân đức Phật, đều bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con ở nơi đây cũng đáng có phần, chỉ có Đức Như Lai là chỗ nương tựa của chúng con, và chúng con là chỗ thấy biết của hàng trời, người, A tu la. A Nan thường làm thị giả, hộ trì tạng pháp, La Hầu La là con của Đức Phật. Nếu được thấy Đức Phật thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì nguyện cầu của chúng con đã đầy đủ, nguyện vọng của đại chúng cũng viên mãn. 

                  Bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh Văn hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, hở áo vai bên phải, đến trước Đức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, cũng như chỗ nguyện cầu của A Nan và La Hầu La, rồi đứng qua một bên.

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo A Nan rằng: Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sẽ cúng dường sáu mươi hai ức các Đức Phật, hộ trì tạng pháp, sau đó sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức các vị Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, khiến cho thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nước đó tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng lưu ly, kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn. Ðức Phật đó sống lâu vô lượng nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Nếu có người ở trong nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tính toán cũng chẳng biết được. Chánh pháp lưu lại ở đời gấp bội số thọ mạng. Tượng pháp lưu lại ở đời, lại gấp bội chánh pháp.

                   A Nan! Ðức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô lượng nghìn vạn ức các Đức Phật Như Lai, nhiều như số cát sông Hằng, trong mười phương đều khen ngợi, tán thán công đức.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Nay ta trong Tăng nói

                  A Nan người trì pháp

                  Sẽ cúng dường chư Phật

                  Sau sẽ thành chánh giác.

                  Hiệu là Phật Sơn Hải

                  Tuệ Tự Tại Thông Vương

                  Cõi nước đó thanh tịnh

                  Tên Thường Lập Thắng Phan.

                  Giáo hóa các Bồ Tát

                  Nhiều như cát sông Hằng

                  Phật có oai đức lớn

                  Danh đồn khắp mười phương.

                  Sống lâu vô số kiếp

                  Thương xót độ chúng sinh

                  Chánh pháp bội tuổi thọ

                  Tượng pháp bội chánh pháp.

                  Vô số các chúng sinh

                  Nhiều như cát sông Hằng

                  Ở trong Phật pháp đó

                  Trồng nhân duyên Phật đạo.

                   Bấy giờ, tám nghìn người mới phát tâm Bồ Tát ở trong chúng hội, đều nghĩ như vầy: Chúng ta còn chưa nghe các vị đại Bồ Tát được thọ ký như thế. Có nhân duyên gì, mà các hàng Thanh Văn được thọ ký như thế?

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát đó, bèn nói rằng: Các thiện nam tử! Ta và A Nan ở chỗ Đức Phật Không Vương, cùng nhau phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. A Nan thường thích đa văn, ta thường siêng năng tinh tấn, cho nên ta đã sớm thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, còn A Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì tạng pháp của các Đức Phật ở đời vị lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ Tát. Do bổn nguyện xưa như thế, nên hôm nay được thọ ký. A Nan ở trước Đức Phật được nghe Đức Phật thọ ký, và cõi nước trang nghiêm, nguyện cầu đã đầy đủ, trong tâm rất vui mừng được chưa từng có, lập tức, nghĩ nhớ lại tạng pháp của vô lượng nghìn vạn ức các Đức Phật trong quá khứ, thông đạt vô ngại, như hôm nay đã nghe, cũng nhớ biết nguyện xưa.

                   Bấy giờ, Ngài A Nan nói ra bài kệ rằng:

                   Thế Tôn rất hi hữu

                  Khiến con nhớ quá khứ

                  Vô lượng các Phật pháp

                  Như pháp nay đã nghe.

                  Nay con chẳng còn nghi

                  An trụ nơi Phật đạo

                  Phương tiện làm thị giả

                  Hộ trì các Phật pháp.

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo La Hầu La: Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Sẽ cúng dường các Đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của mười thế giới. Thường làm trưởng tử của các Đức Phật, giống như hôm nay vậy. Cõi nước của Đức Phật Ðạo Thất Bảo Hoa đó, rất trang nghiêm. Số kiếp tuổi thọ, giáo hóa đệ tử, chánh pháp tượng pháp, cũng giống như Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác, cũng làm trưởng tử cho Đức Phật đó, sau đó sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.  

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Khi ta làm thái tử

                  La Hầu làm trưởng tử

                  Nay ta thành Phật đạo

                  Thọ pháp làm pháp tử.

                  Ở trong đời vị lai

                  Thấy vô lượng Đức Phật

                  Làm trưởng tử chư Phật

                  Một lòng cầu Phật đạo.

                  Mật hạnh của La Hầu

                  Chỉ ta mới biết được

                  Nay làm trưởng tử ta

                  Thị hiện các chúng sinh.

                  Vô lượng ức nghìn vạn

                  Công đức không thể lường

                  An trụ nơi Phật pháp

                  Vì cầu đạo vô thượng.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy bậc hữu học và vô học hai nghìn người, tâm ý nhu hòa, thanh tịnh vắng lặng, một lòng nhìn Đức Phật.

                   Ðức Phật bảo Ngài A Nan: Ông có thấy bậc hữu học và vô học hai nghìn người đây chăng?

                  - Dạ con đã thấy.

                  - Này A Nan! Những người đó, sẽ cúng dường các Đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng, hộ trì tạng pháp, sau đó đồng thời sẽ được thành Phật, trong cõi nước mười phương, đều đồng một danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Tuổi thọ một kiếp, cõi nước trang nghiêm, hàng Thanh Văn Bồ Tát, chánh pháp tượng pháp, thảy đều đồng nhau.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Hai nghìn Thanh Văn này

                  Nay ở trước mặt ta

                  Thảy đều được thọ ký

                  Vị lai sẽ thành Phật.

                  Cúng dường các Đức Phật

                  Như đã nói ở trên

                  Hộ trì các tạng pháp

                  Sau sẽ thành chánh giác.

                  Trong cõi nước mười phương

                  Ðều đồng một danh hiệu

                  Ðều cùng ngồi đạo tràng

                  Chứng đắc quả vô thượng.

                  Ðồng hiệu là Bảo Tướng

                  Cõi nước và đệ tử

                  Chánh pháp với tượng pháp

                  Ðều đồng chẳng khác biệt.

                  Ðều dùng các thần thông

                  Ðộ chúng sinh mười phương

                  Danh đồn khắp hết thảy

                  Dần dần vào Niết Bàn.

                   Bấy giờ, bậc hữu học và vô học hai nghìn người nghe Đức Phật thọ ký, đều vui mừng hớn hở, bèn nói kệ rằng:

                  Thế Tôn đèn huệ sáng

                  Chúng con nghe thọ ký

                  Tâm vui mừng tràn đầy

                  Như được rưới cam lồ.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Pháp Sư thứ Mười 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ Tát Dược Vương, mà bảo tám vạn Ðại sĩ rằng: Dược Vương! Ông thấy đó, trong đại chúng vô lượng chư Thiên, Long vương, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, và chẳng phải người, và hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, kẻ cầu Thanh Văn, kẻ cầu Bích Chi Phật, kẻ cầu Phật đạo, các loài như thế, đều ở trước Phật, nghe một câu, một bài kệ Kinh Pháp Hoa, cho đến một niệm tùy hỉ, ta đều thọ ký cho họ, sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. 

                  Ðức Phật bảo Dược Vương: Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nào, dù chỉ nghe được một câu, một bài kệ của Kinh Pháp Hoa, mà sinh một niệm tùy hỉ, thì ta cũng thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác cho người đó. Nếu lại có người: Thọ trì, đọc tụng, giải thích, diễn nói, biên chép, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ một bài kệ, mà ở nơi kinh này, cung kính xem như Phật. Cúng dường các thứ hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung kính.

                  Dược Vương nên biết! Những người đó, tức đã từng cúng dường mười vạn ức các Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật thành tựu nguyện lớn, vì thương xót chúng sinh, nên sinh vào thế gian này.

                   Dược Vương! Nếu có người hỏi: Những chúng sinh nào ở đời vị lai sẽ được thành Phật? Thì nên chỉ những người đó ở đời vị lai, tất sẽ được thành Phật. Tại sao? Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì đọc tụng giải thích nói Kinh Pháp Hoa, dù chỉ một câu, hoặc dùng các thứ: Hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, âm nhạc, để cúng dường kinh quyển, chắp tay cung kính, thì người đó, là chỗ đáng chiêm ngưỡng tôn thờ của tất cả thế gian, nên đem đồ cúng dường Như Lai, mà cúng dường cho người đó. Nên biết người đó là đại Bồ Tát, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thương xót chúng sinh mà nguyện sinh vào thế gian này, để rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hà huống là người hay thọ trì, và dùng các thứ cúng dường.

                   Dược vương! Nên biết người đó, tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh, sau khi ta diệt độ, vì thương xót chúng sinh, mà sinh vào đời ác, để rộng nói kinh này. Sau khi ta diệt độ, nếu người thiện nam, người thiện nữ, hay riêng vì một người nói Kinh Pháp Hoa, cho dù một câu, nên biết người đó, là sứ giả của Như Lai, được Như Lai sai khiến, làm việc của Như Lai, hà huống ở trong đại chúng rộng vì người nói.

                   Dược Vương! Nếu có kẻ ác dùng tâm bất thiện, ở trong một kiếp hiện thân ở trước Phật, thường hủy báng mắng chưởi Phật, tội của người đó còn nhẹ. Nếu có người, dùng lời ác hủy báng mắng chưởi người tại gia, hoặc xuất gia, đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì tội đó nặng hơn.

                  Dược Vương! Nếu có người hay trì tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên biết người đó, dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự trang nghiêm cho mình, tức được mang vác trên vai của Như Lai, người đó đến đâu, đều nên hướng người đó làm lễ. Một lòng chắp tay, cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi, dùng hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, cỗ tiệc, tấu các âm nhạc, đem đồ tối thượng trong thế gian, để cúng dường người đó. Nên dùng hoa báu cõi trời rải lên thân người đó, vì người đó là báu tụ trên trời, nên cúng dường như thế. Tại sao? Vì người đó ưa thích thuyết pháp, khiến cho người nghe trong chốc lát, liền được rốt ráo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Nếu muốn trụ Phật đạo

                  Thành tựu trí tự nhiên

                  Luôn siêng năng cúng dường

                  Người thọ trì Pháp Hoa.

                  Có người muốn mau được

                  Nhất thiết chủng trí huệ

                  Nên thọ trì kinh này

                  Và cúng dường người trì.

                  Nếu có người thọ trì

                  Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

                  Đó là sứ của Phật

                  Thương xót các chúng sinh.

                  Những người hay thọ trì

                  Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

                  Xả bỏ cõi thanh tịnh

                  Thương chúng sinh vào đời.

                  Nên biết người như thế

                  Chỗ muốn sinh tự tại

                  Ở trong đời ác này

                  Rộng nói pháp vô thượng.

                  Nên dùng hương hoa trời

                  Và y báu cõi trời

                  Diệu báu tụ trên trời

                  Cúng dường người thuyết pháp.

                  Ðời ác sau ta diệt

                  Người hay trì kinh này

                  Nên chắp tay kính lễ

                  Như cúng dường Thế Tôn.

                  Bày tiệc ngon thượng hạng

                  Và các thứ y phục

                  Cúng dường Phật tử đó

                  Mong được chốc lát nghe.

                  Nếu người ở đời sau

                  Hay thọ trì kinh này

                  Ta phái họ trong đời

                  Làm việc của Như Lai.

                  Nếu ở trong một kiếp

                  Thường ôm lòng bất thiện

                  Nổi giận mà mắng Phật

                  Mắc vô lượng tội nặng.

                  Nếu có người trì tụng

                  Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

                  Chốc lát dùng lời mắng

                  Tội này lại hơn kia.

                  Có người cầu Phật đạo

                  Mà ở trong một kiếp

                  Chắp tay ở trước ta

                  Dùng vô số kệ khen.

                  Do vì khen ngợi Phật

                  Ðược vô lượng công đức

                  Khen tốt người trì kinh

                  Phước này lại hơn kia.

                  Trong tám vạn ức kiếp

                  Dùng sắc thanh diệu nhất

                  Cùng với hương vị xúc

                  Cúng dường người trì kinh.

                  Cúng dường như thế rồi

                  Nếu chốc lát được nghe

                  Thì nên tự vui mừng

                  Nay ta được lợi lớn.

                  Dược Vương! Nay bảo ông

                  Các kinh của ta nói

                  Mà ở trong các kinh

                  Pháp Hoa là bậc nhất.

                  Bấy giờ, Đức Phật lại bảo đại Bồ Tát Dược Vương rằng: Kinh điển của ta nói vô lượng ngàn vạn ức, đã nói nay nói và sẽ nói, mà ở trong các kinh đó, thì Kinh Pháp Hoa khó tin khó hiểu nhất.

                  Dược Vương! Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, không thể phân chia vọng trao cho người, là kinh được các đức Phật giữ gìn bảo hộ. Từ xưa đến nay chưa từng bày nói, mà kinh này lúc Như Lai còn hiện tại, đã có nhiều kẻ oán ghét, huống chi sau khi Như Lai diệt độ.

                   Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, ai hay biên chép thọ trì đọc tụng cúng dường, vì người khác nói bộ kinh này, thì được Đức Như Lai lấy y trùm cho, lại được các Đức Phật ở phương khác hộ niệm cho, người đó có sức tin lớn và sức chí nguyện, các sức căn lành. Nên biết người đó, cùng với Đức Như Lai ở chung, được Đức Như Lai lấy tay rờ đầu người đó.

                   Dược Vương! Bất cứ nơi chốn nào, hoặc có người nói, đọc tụng, biên chép, hoặc có quyển kinh này ở đó, thì nên xây dựng tháp bảy báu cho thật cao rộng trang nghiêm, không cần an trí xá lợi nữa. Tại sao? Vì trong đó đã có toàn thân của Như Lai. Tháp đó nên dùng tất cả các hoa, hương, anh lạc, lọng lụa, tràng phan, âm nhạc, ca xướng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Nếu có ai thấy được tháp này, mà lễ bái cúng dường, thì nên biết những người đó, đều gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Dược Vương! Có nhiều người tại gia, hoặc xuất gia, thực hành Bồ Tát đạo, nếu không thể thấy nghe được người đọc tụng biên chép thọ trì cúng dường Kinh Pháp Hoa này, thì nên biết người đó, chưa khéo hành Bồ Tát đạo. Nếu có người nghe kinh điển này, thì mới khéo thực hành Bồ Tát đạo. Nếu có chúng sinh cầu Phật đạo, nếu thấy hoặc nghe được Kinh Pháp Hoa này, người đó nghe rồi, tin hiểu thọ trì, nên biết người đó, gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. 

                  Dược Vương! Ví như có người khát nước, ở nơi vùng cao nguyên đào khoét tìm nước, thấy đất còn khô, biết nước còn xa, cố gắng đào không ngừng, bèn thấy đất ướt, dần dần đến bùn, tâm người đó biết chắc sắp tới nước. Bồ Tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu, chưa thể tu tập Kinh Pháp Hoa này, thì cách quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác còn xa. Nếu được nghe hiểu suy nghĩ tu tập, thì biết được gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tại sao? Vì tất cả Bồ Tát chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều thuộc nơi kinh này. Kinh này khai mở môn phương tiện, mở bày tướng chân thật. Tạng Kinh Pháp Hoa này sâu xa vững chắc, chẳng ai đến được. Nay Phật vì giáo hóa thành tựu Bồ Tát mà mở bày.

                   Dược Vương ! Nếu có Bồ Tát nghe Kinh Pháp Hoa này, mà kinh hãi hoài nghi sợ sệt, thì nên biết người đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này, mà kinh hãi hoài nghi sợ sệt, thì nên biết người đó là kẻ tăng thượng mạn.

                  Dược Vương! Nếu có người thiện nam, người nữ nào, sau khi Như Lai diệt độ, muốn vì bốn chúng nói Kinh Pháp Hoa này, thì người thiện nam, thiện nữ đó, phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng rộng nói kinh này. Nhà Như Lai là có tâm đại từ bi đối với tất cả chúng sinh. Y Như Lai là tâm nhu hòa nhẫn nhục. Tòa Như Lai là tất cả các pháp không. An trụ ở trong đó, rồi sau đó dùng tâm không giải đãi, mà vì các Bồ Tát và bốn chúng, rộng nói Kinh Pháp Hoa này. 

                  Dược Vương! Ta ở nơi nước khác, sai người biến hóa đến để nghe pháp, và cũng sai Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đến nghe người đó nói pháp. Những người biến hóa đó, nghe pháp tin nhận, tùy thuận chẳng nghịch. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, thì ta rộng sai trời, rồng, quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, đến để nghe nói pháp. Tuy ta ở nước khác, nhưng luôn luôn khiến cho người nói pháp, được thấy thân ta. Nếu ở nơi kinh này, quên mất câu kinh văn, thì ta sẽ vì người đó nói, khiến cho được đầy đủ.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Muốn lìa sự giải đãi

                  Hãy nên nghe kinh này

                  Kinh rất khó được nghe

                  Tin nhận được cũng khó.

                  Như người khát tìm nước

                  Ðào khoét nơi cao nguyên

                  Do thấy đất còn khô

                  Biết rằng nước còn xa

                  Dần thấy đất bùn ướt

                  Biết chắc chắn gần nước.

                  Dược Vương ông nên biết!

                  Tất cả những người đó

                  Không nghe Kinh Pháp Hoa

                  Cách trí Phật rất xa.

                  Nếu nghe sâu kinh này

                  Chắc rõ pháp Thanh Văn

                  Là vua trong các kinh

                  Nghe rồi suy gẫm kỹ.

                  Nên biết những người đó

                  Gần kề trí huệ Phật.

                  Nếu người nói kinh này

                  Nên vào nhà Như Lai

                  Mặc y của Như Lai

                  Ngồi tòa của Như Lai.

                  Trong chúng chẳng sợ sệt

                  Rộng vì phân biệt nói

                  Ðại từ bi làm nhà

                  Y nhu hòa nhẫn nhục.

                  Các pháp không làm tòa

                  Nơi đó vì nói pháp

                  Nếu khi nói kinh này

                  Có người ác khẩu mắng.

                  Như đao gậy gói đá

                  Vì nhớ Phật nên nhẫn.

                  Ta ngàn vạn ức cõi

                  Hiện thân tịnh kiên cố

                  Nơi vô lượng ức kiếp

                  Vì chúng sinh nói pháp.

                  Nếu sau ta diệt độ

                  Người nói được kinh này

                  Ta sai hóa bốn chúng

                  Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni.

                  Và cư sĩ nam nữ

                  Cúng dường pháp sư đó

                  Dẫn đạo các chúng sinh

                  Tập hợp khiến nghe pháp.

                  Nếu có kẻ ác hại

                  Dùng đao gậy ngói đá

                  Thì ta sai hóa nhân

                  Ðể bảo hộ người đó.

                  Nếu người đó nói pháp

                  Một mình nơi chỗ vắng

                  Vắng vẻ chẳng người nghe

                  Ðọc tụng kinh điển này.

                  Bấy giờ ta sẽ hiện

                  Thân thanh tịnh quang minh

                  Nếu quên mất chương câu

                  Vì nói khiến thông lợi.

                  Nếu người đủ đức hạnh

                  Hoặc vì bốn chúng nói

                  Nơi vắng đọc tụng kinh

                  Ðều được thấy thân ta.

                  Nếu người nơi chỗ vắng

                  Ta sai trời long vương

                  Dạ xoa quỷ thần thảy

                  Ðể làm chúng nghe pháp.

                  Người đó thích nói pháp

                  Phân biệt chẳng quái ngại

                  Vì chư Phật hộ niệm

                  Hay khiến đại chúng vui.

                  Nếu gần gũi pháp sư

                  Mau được Bồ Tát đạo

                  Tùy thuận thầy đó học

                  Ðược thấy Hằng sa Phật.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Thấy Bảo Tháp thứ Mười Một 

                  Bấy giờ, ở trước Đức Phật, có tháp bảy báu cao năm trăm do tuần, bề ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất vọt lên, trụ ở trong hư không, đủ thứ các báu vật nghiêm sức rất trang nghiêm. Có năm ngàn lan can, ngàn vạn phòng ốc, vô số tràng phan, dùng để nghiêm sức, chuỗi báu rũ xuống, hàng vạn ức linh báu treo trên tháp, bốn mặt đều tỏa ra hương thơm đa ma la bạt chiên đàn, xông khắp thế giới. Các phan lọng đều dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, mai khôi, bảy báu, hợp lại tạo thành, cao đến cung trời Tứ Thiên Vương. Trời Ðao Lợi mưa xuống hoa trời mạn đà la, để cúng dường bảo tháp. Ngoài ra, các trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, cả thảy ngàn vạn ức chúng, đều đem tất cả hoa, hương, anh lạc, phan lọng, âm nhạc, cúng dường bảo tháp, cung kính tôn trọng khen ngợi.

                  Bấy giờ, trong bảo tháp vang ra âm thanh lớn khen rằng: Lành thay, lành thay! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hay dùng đại trí huệ bình đẳng, để giáo hóa pháp của Bồ Tát, được Phật hộ niệm Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà vì đại chúng nói. Như thế, như thế! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như lời của Ngài nói, đều là chân thật.

                  Bấy giờ, bốn chúng đều thấy bảo tháp lớn trụ ở trong hư không, lại nghe trong tháp vang ra âm thanh, thảy đều được pháp hỉ, lạ chưa từng có, từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, rồi đứng về một bên.

                   Bấy giờ, có đại Bồ Tát tên là Đại Nhạo Thuyết, biết được chỗ nghi ngờ ở trong tâm của tất cả thế gian trời người A tu la, bèn bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì, mà có bảo tháp này từ dưới đất vọt lên, và ở trong đó lại phát ra âm thanh?

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: Trong bảo tháp này có toàn thân của Như Lai, thuở quá khứ về phương đông, qua vô lượng ngàn vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi nước tên là Bảo Tịnh. Trong cõi nước đó, có đức Phật hiệu là Ða Bảo. Ðức Phật đó, khi hành Bồ Tát đạo, có phát thệ nguyện lớn rằng: Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, trong cõi nước mười phương, nơi nào có nói Kinh Pháp Hoa, thì tháp miếu của ta vì nghe kinh này, mà vọt lên hiện ra ở trước, để làm chứng minh, khen ngợi nói: Lành thay!

                  Đức Phật đó thành đạo rồi, khi diệt độ, ở trong đại chúng trời người, bảo các Tỳ Kheo rằng: Sau khi ta diệt độ, ai muốn cúng dường toàn thân của ta, thì nên xây một ngôi tháp lớn. Phật sẽ dùng thần thông nguyện lực, khắp nơi trong mười phương thế giới, nếu chỗ nào có nói Kinh Pháp Hoa, thì bảo tháp đó đều vọt lên ở trước. Toàn thân ở trong bảo tháp khen ngợi nói: Lành thay, lành thay!

                  Đại Nhạo Thuyết! Nay tháp của Đức Ða Bảo Như Lai, vì nghe nói Kinh Pháp Hoa, nên từ dưới đất vọt lên, khen ngợi nói: Lành thay, lành thay!

                   Bấy giờ, Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết nhờ thần lực của Như Lai, nên bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con xin muốn được thấy thân của Đức Phật đó.

                   Ðức Phật bảo đại Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết: Ðức Phật Ða Bảo đó, có nguyện sâu nặng rằng: Nếu bảo tháp của ta, vì nghe Kinh Pháp Hoa, mà hiện ra ở trước các Đức Phật. Nếu có bốn chúng muốn thấy thân của ta, thì Đức Phật đó, phân thân các Đức Phật thuyết pháp trong mười phương thế giới, phải tụ hết lại một chỗ, sau đó thân của ta mới xuất hiện vậy.

                  Ðại Nhạo Thuyết! Phân thân các Đức Phật của ta, đang thuyết pháp trong mười phương thế giới, nay sẽ tụ lại hết. 

                  Ðại Nhạo Thuyết bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng muốn thấy phân thân các Đức Phật của Đức Thế Tôn, để lễ lạy cúng dường. 

                  Bấy giờ, Đức Phật phóng luồng hào quang trắng chiếu phương đông, năm trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa cõi nước chư Phật, các cõi nước đó, đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu, dùng để trang nghiêm. Có vô số ngàn vạn ức Bồ Tát đầy khắp trong cõi nước đó, màng báu lưới báu giăng che khắp ở phía trên. Các Đức Phật cõi nước đó, dùng âm thanh lớn vi diệu để nói các pháp, và thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ Tát, đầy khắp các cõi nước, vì chúng sinh mà nói pháp. 

                  Phương nam tây bắc tứ duy thượng hạ, chỗ nào tướng hào quang trắng chiếu đến, cũng lại như thế. 

                  Bấy giờ, mười phương chư Phật đều nói với chúng Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Hôm nay ta đến thế giới Ta Bà, chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cúng dường bảo tháp của Đức Ða Bảo Như Lai.

                   Bấy giờ, thế giới Ta Bà lập tức biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, dây bằng vàng giăng bày tám ngã đường, chẳng có các tụ lạc thôn xóm, thành ấp biển cả sông ngòi núi rừng ao đầm. Ðốt hương báu lớn, dùng hoa mạn đà la rải khắp trên mặt đất, lại dùng lưới báu và màn lụa giăng che, phía trên treo các linh báu, chỉ vang ra ở trong chúng hội, dời các trời người để ở cõi khác.

                   Bấy giờ, các Đức Phật, mỗi vị đều đem theo một vị đại Bồ Tát, dùng làm thị giả, đến thế giới Ta Bà, đều đến dưới cây báu. Mỗi cây báu cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm. Dưới các cây báu, đều có toà sư tử cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu để nghiêm sức.  

                  Bấy giờ, các Đức Phật đều ngồi kiết già trên tòa sư tử đó, triển chuyển như thế đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, mà phân thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong một phương, vẫn còn chưa hết.

                  Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca vì muốn dung chứa hết thảy phân thân các hóa Phật, nên tám phương kia, mỗi phương đều biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngã quỷ súc sinh và A tu la, lại dời các trời người để ở cõi khác. Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả, thứ lớp trang nghiêm, dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, đủ các thứ báu dùng làm nghiêm sức. Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Ðại mục chân lân đà, núi Thiết vi, núi Ðại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa .v.v... thảy đều làm một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các báu xen nhau làm màn giăng che khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu lớn. Các hoa báu cõi trời rải khắp trên mặt đất. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các Đức Phật phân thân có chỗ ngồi, nên tám phương kia, mỗi phương lại biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều khiến cho thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngạ quỷ súc sinh và A tu la. Lại dời các trời người để ở cõi khác. Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm. Dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu nghiêm sức tốt đẹp. Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Ðại mục chân lân đà, núi Thiết vi, núi Ðại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa thảy, thông làm một cõi Phật. Ðất báu bằng phẳng, các thứ báu xen nhau làm thành màn, giăng che phủ khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các thứ hoa báu cõi trời rải đầy khắp mặt đất.

                  Bấy giờ, các Đức Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni ở phương đông, trong trăm vạn ức Na do tha cõi nước, mỗi vị đang thuyết pháp ở cõi đó, đều tụ tập lại. Như thế lần lượt các Đức Phật trong mười phương, cũng đều tụ tập lại ngồi ở tại tám phương.

                   Bấy giờ, tại mỗi phương đều có bốn trăm vạn ức Na do tha cõi nước, các Đức Phật Như Lai đều đầy khắp trong đó.

                   Bấy giờ, các Đức Phật đều ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, rồi sai thị giả đến thưa hỏi Đức Phật Thích Ca, và đều đưa cho một bó hoa báu, mà dặn dò rằng: Thiện nam tử! Ngươi hãy đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ của Phật Thích Ca Mâu Ni, theo như lời của ta nói rằng: Ðức Thế Tôn ít bệnh, ít khổ não, sức khỏe an vui chăng? Các chúng Bồ Tát Thanh Văn đều an ổn chăng? Dùng hoa báu này rải lên cúng dường Đức Phật, rồi bạch rằng: Ðức Phật đó cũng muốn mở bảo tháp này, các Đức Phật sai sứ đến cũng lại như thế.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy tất cả chư Phật phân thân, đều đã tụ lại, đều ngồi trên tòa sư tử, đều nghe các Đức Phật cùng muốn mở bảo tháp. Bèn từ tòa đứng dậy, trụ ở trong hư không, tất cả bốn chúng đều đứng dậy, chắp tay một lòng nhìn Phật.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tay phải, mở cửa tháp bảy báu vang ra âm thanh lớn, như tháo chốt mở cửa thành lớn.

                  Bấy giờ, tất cả đại chúng trong pháp hội, đều thấy Đức Ða Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong bảo tháp, toàn thân không tán hoại, như nhập thiền định. Lại nghe Đức Ða Bảo Như Lai nói: Lành thay, lành thay! Phật Thích Ca Mâu Ni, xin hãy mau nói Kinh Pháp Hoa, ta vì nghe kinh này mà đến đây.

                  Bấy giờ, bốn chúng thấy Phật đã diệt độ trong quá khứ, vô lượng ngàn vạn ức kiếp nói lời như thế, khen chưa từng có. Ðại chúng đều đem hoa báu cõi trời, tụ lại rải lên trên Đức Phật Ða Bảo, và Phật Thích Ca Mâu Ni.

                  Bấy giờ, Đức Phật Ða Bảo ở trong bảo tháp, chia nửa tòa ngồi cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà nói rằng: Phật Thích Ca Mâu Ni, hãy lên ngồi trên tòa này. Tức thời, Phật Thích Ca Mâu Ni vào trong bảo tháp đó, ngồi kiết già trên nửa tòa đó.

                   Bấy giờ, đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa sư tử trong tháp bảy báu, ai nấy đều nghĩ: Ðức Phật ngồi quá cao xa, xin nguyện Đức Như Lai dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng con đều đến trong hư không.  

                  Tức thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng sức thần thông, tiếp các đại chúng đều đến trong hư không, dùng âm thanh lớn bảo khắp bốn chúng: Ai có thể ở cõi Ta Bà này, mà rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì nay chính là phải thời. Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ vào Niết Bàn, Phật muốn đem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, phó chúc cho mọi người.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Thánh chúa Thế Tôn

                  Tuy diệt độ lâu

                  Ở trong bảo tháp

                  Còn vì pháp đến.

                  Các ngươi thế nào

                  Chẳng siêng vì pháp!

                  Phật đó diệt độ

                  Vô lượng số kiếp

                  Khắp nơi nghe pháp

                  Vì khó được gặp.

                  Nguyện xưa Phật đó

                  Sau khi ta diệt

                  Đến khắp mọi nơi

                  Thường vì nghe pháp.

                  Ta lại phân thân

                  Vô lượng chư Phật

                  Như cát sông Hằng

                  Đến muốn nghe pháp.

                  Và thấy Đa Bảo

                  Như Lai diệt độ

                  Đều bỏ cõi nước

                  Và chúng đệ tử.

                  Trời người rồng thần

                  Các sự cúng dường

                  Khiến pháp trụ lâu

                  Nên đến nơi này.

                  Vì chư Phật ngồi

                  Mà dùng thần thông

                  Dời vô lượng chúng

                  Khiến nước thanh tịnh.

                  Mỗi mỗi vị Phật

                  Đến dưới cây báu

                  Như đất thanh tịnh

                  Hoa sen trang nghiêm.

                  Phật ngồi ở trên

                  Tòa báu sư tử

                  Dưới các cây báu

                  Quang minh nghiêm sức.

                  Như trong đêm tối

                  Ðốt đuốt lửa lớn.

                  Thân tỏa hương thơm

                  Khắp mười phương cõi.

                  Chúng sinh ngửi được

                  Thảy đều vui mừng

                  Ví như gió lớn

                  Thổi nhánh cây nhỏ.

                  Do phương tiện đó

                  Khiến pháp trụ lâu.

                  Bảo các đại chúng:

                  Ta diệt độ rồi.

                  Ai hay thọ trì

                  Ðọc nói kinh này

                  Nay ở trước Phật

                  Tự phát thệ nguyện.

                  Phật Ða Bảo đó

                  Tuy diệt độ lâu.

                  Nhờ thệ nguyện lớn

                  Mà sư tử hống

                  Ða Bảo Như Lai

                  Cùng với thân ta.

                  Tụ tập hóa Phật

                  Sẽ biết ý đó.

                  Các Phật tử thảy

                  Ai hay hộ pháp.

                  Nên phát nguyện lớn

                  Khiến pháp trụ lâu

                  Có người hộ trì

                  Kinh Pháp Hoa này.

                  Tức là cúng dường

                  Ta và Đa Bảo.

                  Phật Ða Bảo đó

                  Trụ trong bảo tháp.

                  Thường du mười phương

                  Ðể vì kinh này

                  Cũng lại cúng dường

                  Các hóa Phật đến.

                  Trang nghiêm quang sức

                  Tất cả thế giới

                  Nếu nói kinh này

                  Tức là thấy ta.

                  Ða Bảo Như Lai

                  Và các hóa Phật.

                  Các thiện nam tử!

                  Hãy suy nghĩ kỹ.

                  Ðây là việc khó

                  Nên phát nguyện lớn

                  Các kinh điển khác

                  Số như Hằng sa.

                  Tuy nói rất nhiều

                  Chưa phải là khó.

                  Nếu cầm Tu Di

                  Ném qua phương khác.

                  Vô số cõi Phật

                  Cũng chưa phải khó

                  Nếu dùng chân tay

                  Ðộng cõi đại thiên.

                  Ném xa cõi khác

                  Cũng chưa phải khó.

                  Nếu đứng trên trời

                  Vì chúng diễn nói.

                  Vô lượng kinh khác

                  Cũng chưa phải khó

                  Nếu Phật diệt độ

                  Ở trong đời khác.

                  Hay nói kinh này

                  Ðó mới là khó.

                  Nếu như có người

                  Tay cầm hư không.

                  Dùng để du hành

                  Cũng chưa phải khó

                  Sau ta diệt độ

                  Nếu tự biên trì.

                  Hoặc khiến người biên

                  Ðó mới là khó.

                  Nếu dùng đại địa

                  Ðể lên bàn chân.

                  Thăng lên Phạm Thiên

                  Cũng chưa phải khó

                  Sau Phật diệt độ

                  Ở trong đời ác.

                  Tạm đọc kinh này

                  Ðó mới là khó.

                  Nếu như kiếp thiêu

                  Gánh vác cỏ khô.

                  Vào trong không cháy

                  Cũng chưa phải khó

                  Sau ta diệt độ

                  Nếu trì kinh này.

                  Vì một người nói

                  Thì mới là khó.

                  Nếu trì tám vạn

                  Bốn ngàn tạng pháp.

                  Mười hai bộ kinh

                  Vì người diễn nói

                  Khiến các người nghe

                  Ðược sáu thần thông.

                  Tuy được như thế

                  Cũng chưa phải khó

                  Sau ta diệt độ

                  Nghe thọ kinh này.

                  Hỏi nghĩa trong kinh

                  Ðó mới là khó.

                  Nếu người nói pháp

                  Khiến ngàn vạn ức.

                  Vô lượng vô số

                  Hằng sa chúng sinh

                  Ðược A la hán

                  Ðủ sáu thần thông.

                  Tuy có lợi ích

                  Cũng chưa phải khó

                  Sau ta diệt độ

                  Nếu hay phụng trì.

                  Kinh Pháp Hoa này

                  Ðó mới là khó.

                  Ta vì Phật đạo

                  Trong vô lượng cõi

                  Từ xưa đến nay

                  Rộng nói các kinh.

                  Mà ở trong đó

                  Kinh này bậc nhất

                  Nếu người hay trì

                  Tức là thân Phật.

                  Các thiện nam tử!

                  Sau ta diệt độ

                  Ai hay thọ trì

                  Ðọc tụng kinh này.

                  Nay ở trước Phật

                  Tự nói lời thề.

                  Kinh này khó trì

                  Nếu ai tạm trì.

                  Ta rất hoan hỉ

                  Chư Phật cũng thế

                  Những người như thế

                  Ðược Phật khen ngợi.

                  Ðó là dũng mãnh

                  Ðó là tinh tấn

                  Ðó gọi trì giới

                  Người hành đầu đà.

                  Thì mau đắc được

                  Phật đạo vô thượng.

                  Hay ở đời sau

                  Ðọc trì kinh này.

                  Ðó thật Phật tử

                  Ở thuần đất lành

                  Sau Phật diệt độ

                  Hay giải nghĩa kinh.

                  Các trời người đó

                  Là mắt thế gian

                  Ở đời sợ hãi

                  Nói trong chốc lát.

                  Tất cả trời người

                  Ðều nên cúng dường.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ Mười Hai 

                  Bấy giờ, Phật bảo các vị Bồ Tát và trời người bốn chúng: Ta ở trong vô lượng kiếp quá khứ, cầu Kinh Pháp Hoa chẳng khi nào lười mỏi. Ở trong nhiều kiếp thường làm vua, phát nguyện cầu vô thượng bồ đề, tâm chẳng thối chuyển, vì muốn đầy đủ sáu Ba la mật, tâm chẳng xan tham, nên siêng thực hành bố thí: Voi ngựa bảy báu, đất nước vợ con, nô tì tôi tớ, đầu mắt tủy não, thân thịt tay chân, chẳng tiếc thân mạng. Thuở đó, nhân dân sống lâu vô lượng. Vì cầu pháp mà xả bỏ ngôi vua, giao phó lại cho thái tử, đánh trống tuyên cáo, cầu pháp khắp bốn phương rằng: Ai có thể vì ta nói pháp đại thừa, thì ta sẽ suốt đời hầu hạ cung phụng người đó.

                   Bấy giờ, có vị tiên nhân đến bạch với vua rằng: Ta có pháp đại thừa tên là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu không làm trái ý của ta, thì ta sẽ vì nhà ngươi mà nói. Vua nghe vị tiên nói rất vui mừng hớn hở, bèn đi theo vị tiên nhân, cung phụng hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu cơm, cho đến dùng thân mà làm giường tòa, thân tâm chẳng biết mệt mỏi, phụng sự như thế trải qua một ngàn năm, vì cầu pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ, khiến cho vị tiên nhân chẳng thiếu thốn gì cả.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Ta nhớ kiếp quá khứ

                  Vì cầu pháp đại thừa

                  Tuy làm vua trong đời

                  Chẳng tham vui năm dục.

                  Ðánh trống khắp bốn phương

                  Ai có pháp đại thừa

                  Nếu vì ta giải nói

                  Ta sẽ làm tôi tớ.

                  Bèn có tiên A Tư

                  Ðến bạch với vua rằng:

                  Ta có pháp vi diệu

                  Hiếm có ở trong đời.

                  Nếu mà tu hành được

                  Ta sẽ vì ngươi nói.

                  Khi vua nghe tiên nói

                  Trong tâm rất vui mừng.

                  Lập tức theo tiên nhân

                  Cung cấp thứ cần dùng

                  Nhặt củi và hái quả

                  Theo lời cung kính dâng.

                  Vì muốn cầu diệu pháp

                  Thân tâm chẳng mệt mỏi

                  Khắp vì các chúng sinh

                  Siêng cầu pháp đại thừa.

                  Cũng chẳng vì thân mình

                  Và cầu vui năm dục

                  Nên làm đại quốc vương

                  Siêng cầu được pháp này.

                  Cuối cùng được thành Phật

                  Nên nay vì ông nói.

                   Phật bảo các Tỳ Kheo: Ông vua thuở đó chính là thân ta, còn vị tiên đó, nay là Ðề Bà Ðạt Ða vậy. Do thiện tri thức Ðề Bà Ðạt Ða, mà khiến cho ta đầy đủ sáu Ba la mật, từ bi hỉ xả, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, được thân màu vàng tía, mười lực, bốn vô sở úy, bốn pháp nhiếp, mười tám pháp bất cộng, thần thông, thành đẳng chánh giác, rộng độ chúng sinh, đều do thiện tri thức Ðề Bà Ðạt Ða vậy.

                   Ðức Phật lại bảo bốn chúng: Ðề Bà Ðạt Ða qua vô lượng kiếp sau này, sẽ được thành Phật, hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Thiên Ðạo. Phật Thiên Vương đó sống lâu ở đời hai mươi trung kiếp. Rộng vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng, đều đắc được quả A la hán. Vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên Giác, nhiều chúng sinh như số cát sông Hằng, phát tâm vô thượng đạo, được vô sinh nhẫn, cho đến bất thối chuyển. Sau khi Phật Thiên Vương đó vào Niết Bàn, chánh pháp lưu lại ở đời hai mươi trung kiếp. Toàn thân xá lợi được tạo dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do tuần, bề ngang rộng bốn mươi do tuần. Chư thiên nhân dân đều dùng các thứ: Hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, âm nhạc, ca xướng, lễ bái cúng dường tháp báu. Vô lượng chúng sinh được quả A la hán, vô lượng chúng sinh ngộ Bích Chi Phật, có nhiều chúng sinh không thể nghĩ bàn phát bồ đề tâm, đến quả vị bất thối chuyển.

                   Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào, nghe Kinh Pháp Hoa Phẩm Ðề Bà Ðạt Ða, mà tâm tin kính thanh tịnh, chẳng sinh tâm nghi hoặc, thì chẳng đọa vào địa ngục ngạ quỷ súc sinh, được sinh ở trước mười phương chư Phật, chỗ được sinh về thường nghe Kinh này. Nếu sinh trong loài người, trên trời, thì được hưởng sự vui thù thắng vi diệu. Nếu sinh ở trước chư Phật, thì được hoa sen hóa sinh.

                   Lúc đó, phương dưới Đức Ða Bảo Thế Tôn, có vị Bồ Tát đi theo tên là Trí Tích, bạch Đức Phật Ða Bảo để trở về bổn quốc, thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Trí Tích rằng: Thiện nam tử! Hãy đợi chốc lát, sẽ có Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi, có thể gặp nhau luận bàn về diệu pháp, rồi hãy trở về bổn quốc.

                  Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen báu ngàn cánh, lớn như bánh xe, những Bồ Tát cùng đến, cũng ngồi trên hoa sen báu. Từ biển long cung Ta Kiệt La, tự nhiên vọt ra trụ ở trong hư không, đi thẳng đến núi Linh Thứu. Từ hoa sen bước xuống, đến ở trước Phật, đầu mặt kính lễ dưới chân hai vị Thế Tôn, làm lễ xong rồi, đến chỗ Bồ Tát Trí Tích cùng nhau thăm hỏi, bèn ngồi qua một bên. Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Ngài đến long cung giáo hóa chúng sinh, số được bao nhiêu? Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Số nhiều vô lượng, không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm đo lường được, hãy đợi chốc lát tự nhiên sẽ biết. Nói chưa dứt lời, thì có vô số Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu, từ dưới biển vọt lên, đến núi Linh Thứu, trụ ở trong hư không. Các vị Bồ Tát đó, đều do Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ Tát, đều cùng đàm luận nói sáu Ba la mật. Họ vốn là hàng Thanh Văn, ở trong hư không nói hạnh Thanh Văn, nay đều tu hành nghĩa không của đại thừa. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Trí Tích rằng: Việc giáo hóa ở trong biển là như thế.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích dùng kệ để khen ngợi rằng: 

                  Ðại trí đức dũng mãnh

                  Hóa độ vô lượng chúng

                  Nay trong đại hội này

                  Ta đều đã thấy hết.

                  Diễn nói nghĩa thật tướng

                  Mở bày pháp một thừa

                  Rộng độ các chúng sinh

                  Khiến mau thành bồ đề. 

                  Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Tôi ở trong biển chỉ thường nói Kinh Pháp Hoa.  

                  Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Kinh này thâm sâu vi diệu, là báu trong các kinh, ít có ở trong đời. Nếu có chúng sinh siêng năng tinh tấn tu hành kinh này, thì mau được thành Phật chăng?

                   Bồ Tát Văn Thù đáp: Có con gái của Long Vương Ta Kiệt La, mới tám tuổi mà trí huệ lanh lợi, khéo biết các căn hành nghiệp của chúng sinh, được Ðà la ni, hay thọ trì pháp bí tàng thâm sâu của các Đức Phật nói, vào sâu thiền định, thấu hiểu thông đạt các pháp, trong khoảng sát na phát tâm bồ đề, được chẳng thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, trong tâm nhớ pháp, miệng diễn nói pháp vi diệu rộng lớn, từ bi đối với tất cả chúng sinh, ý chí nhu hòa, đến được bồ đề. 

                  Bồ Tát Trí Tích nói: Tôi thấy Đức Thích Ca Như Lai trong vô lượng kiếp, làm những việc khó làm, tích lũy công đức, cầu đạo bồ đề chưa từng nghỉ ngơi. Tôi quán ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến chẳng có nơi nào nhỏ như hạt cải, mà chẳng phải là nơi Bồ Tát vì chúng sinh xả bỏ thân mạng, rồi sau đó mới thành tựu đạo bồ đề, tôi không tin cô Long Nữ này, trong chốc lát mà được thành chánh giác.

                   Nói chưa xong thì Long Nữ đột nhiên hiện ra ở trước, đầu mặt lễ kính Đức Phật, rồi đứng qua một bên, bèn dùng kệ khen ngợi rằng:

                   Thông đạt tướng tội phước

                  Chiếu khắp mười phương cõi

                  Pháp thân tịnh vi diệu

                  Ðủ ba mươi hai tướng.

                  Và tám mươi vẻ đẹp

                  Dùng trang nghiêm pháp thân

                  Chỗ trời người kính ngưỡng

                  Rồng thần đều cung kính.

                  Hết thảy loài chúng sinh

                  Chẳng ai không sùng bái

                  Lại nghe thành bồ đề

                  Chỉ Phật chứng biết được.

                  Con nói pháp đại thừa

                  Ðộ thoát chúng sinh khổ.

                   Bấy giờ, Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng: Cô nói chẳng bao lâu cô đắc được vô thượng đạo, đó là việc khó tin. Tại sao? Vì thân người nữ dơ bẩn, chẳng phải pháp khí, sao lại có thể đắc được Vô thượng bồ đề? Phật đạo lâu xa, phải trải qua vô lượng kiếp tinh tấn siêng tu khổ hạnh, tu đủ các Ba la mật, sau đó mới thành. Hơn nữa, thân người nữ có năm điều chướng ngại: Thứ nhất chẳng được làm Phạm Thiên Vương, thứ hai chẳng được làm Ðế Thích, thứ ba chẳng được làm ma vương, thứ tư chẳng được làm Chuyển luân thánh vương, thứ năm không thể thành Phật. Sao thân nữ lại mau được thành Phật?

                   Bấy giờ, Long Nữ có một hạt bảo châu, giá trị ba ngàn đại thiên thế giới, cầm dâng lên Đức Phật, Đức Phật bèn thọ nhận. Long Nữ bảo Bồ Tát Trí Tích và tôn giả Xá Lợi Phất rằng: Tôi cúng hạt bảo châu, Đức Thế Tôn thọ nhận, việc đó có mau chăng ?

                  Ðáp rằng: Rất mau.

                  Long nữ nói: Dùng thần lực của các Ngài để quán sát tôi thành Phật, còn mau hơn việc đó.

                   Lúc đó, trong chúng hội đều thấy Long nữ đột nhiên biến thành thân nam, đầy đủ hạnh Bồ Tát, bèn đi qua phương nam thế giới Vô Cấu, ngồi trên hoa sen báu thành Ðẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, khắp vì hết thảy chúng sinh trong mười phương, mà diễn nói diệu pháp.

                   Bấy giờ, ở thế giới Ta Bà, hàng Bồ Tát Thanh Văn, Thiên Long bát bộ, người, chẳng phải người, đều thấy Long Nữ thành Phật, khắp vì chúng hội trời người ở cõi đó nói pháp, tâm đều hoan hỉ, đều kính lễ Long Nữ. Vô lượng chúng sinh nghe pháp hiểu rõ tỏ ngộ, được không thối chuyển, vô lượng chúng sinh được thọ ký thành Phật. Thế giới Vô Cấu có sáu thứ chấn động. Thế giới Ta Bà có ba ngàn chúng sinh được bất thối chuyển, ba ngàn chúng sinh phát tâm bồ đề, mà được thọ ký. Bồ Tát Trí Tích và Xá Lợi Phất, tất cả chúng hội đều yên lặng tin nhận.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Khuyên Trì thứ Mười Ba 

                  Bấy giờ, đại Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Ðại Nhạo Thuyết, cùng hai vạn vị Bồ Tát quyến thuộc, cùng nhau đồng đến trước Đức Phật phát thệ nguyện rằng: Xin nguyện Đức Thế Tôn, đừng lấy làm lo lắng, sau khi Đức Phật diệt độ, chúng con sẽ phụng trì đọc tụng diễn nói kinh này. Chúng sinh đời ác sau này, căn lành dần dần bớt đi, tăng nhiều thượng mạn, tham lợi cúng dường, tăng trưởng căn chẳng lành, xa lìa giải thoát. Tuy khó có thể giáo hóa, nhưng chúng con sẽ khởi sức nhẫn nhục lớn, đọc tụng kinh này, biên chép giải nói, đủ thứ cúng dường, chẳng tiếc thân mạng.

                  Bấy giờ, năm trăm vị A la hán ở trong chúng, được thọ ký bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện, ở cõi nước khác rộng nói kinh này.

                   Lại có bậc hữu học và vô học hai ngàn người được thọ ký, từ  tòa ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật phát thệ nguyện nói: Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi nước khác, rộng nói kinh này. Tại sao? Vì nhiều người ở thế giới Ta Bà tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, tâm sân hận ô trược siểm khúc chẳng thật. 

                  Bấy giờ, dì của Đức Phật là Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, với các Tỳ Kheo Ni hữu học và vô học sáu ngàn người, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Thế Tôn, mắt chẳng tạm rời. 

                  Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Kiều Ðàm Di rằng: Sao lại buồn rầu mà nhìn Như Lai? Có phải trong tâm ngươi cho rằng, ta không nói đến tên ngươi, thọ ký quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác chăng?

                  Kiều Ðàm Di! Trước ta đã nói tổng quát, tất cả hàng Thanh Văn đều đã thọ ký. Nay ngươi muốn biết thọ ký chăng? Ðời vị lai, ngươi sẽ làm đại pháp sư, ở trong sáu vạn tám ngàn các Phật pháp, và sáu ngàn vị Tỳ Kheo ni hữu học vô học, cũng đều làm pháp sư. Như thế, ngươi dần dần đầy đủ Bồ Tát đạo, sẽ được thành Phật, hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

                  Kiều Ðàm Di! Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến đó, và sáu ngàn vị Bồ Tát, lần lượt thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Bấy giờ, mẹ của La Hầu La Tỳ Kheo ni Gia Du Ðà La, nghĩ như vầy: Ðức Thế Tôn thọ ký, mà riêng chẳng nói đến tên tôi.

                   Phật bảo Gia Du Ðà La rằng: Ngươi ở đời vị lai, trong trăm ngàn vạn ức các Phật pháp tu hạnh Bồ Tát, làm đại pháp sư, dần dần đủ Phật đạo, sẽ được thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Phật đó sống lâu vô lượng A tăng kỳ kiếp.

                   Bấy giờ, Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề và Tỳ Kheo Ni Gia Du Ðà La, cùng với quyến thuộc đều rất hoan hỉ, được chưa từng có, bèn ở trước Đức Phật nói bài kệ rằng: 

                  Ðấng Ðạo sư Thế Tôn

                  An ổn các trời người

                  Chúng con nghe thọ ký

                  Tâm an đã đầy đủ. 

                  Các Tỳ Kheo ni nói kệ xong, bèn bạch Đức Phật nói: Ðức Thế tôn! Chúng con cũng ở nơi cõi nước phương khác, rộng nói kinh này.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhìn tám mươi vạn ức Na do tha các vị đại Bồ Tát. Các vị Bồ Tát đó, đều là chuyển bất thối pháp luân, đắc được các Đà la ni, bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật, một lòng chắp tay mà nghĩ như vầy: Nếu Đức Thế Tôn dạy bảo chúng con thọ trì diễn nói kinh này, thì chúng con sẽ y theo lời Phật dạy, mà rộng tuyên nói pháp này. Lại nghĩ như vầy: Nay Đức Phật yên lặng, chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?

                   Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đó, cung kính thuận theo ý của Đức Phật, và muốn đầy đủ nguyện của mình đã phát ra, bèn ở trước Đức Phật làm sư tử hống, mà phát thệ nguyện rằng: Ðức Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, để khiến cho chúng sinh, thọ trì đọc tụng biên chép ấn tống giải nói kinh này, theo như pháp mà tu hành, nghĩ nhớ chân chánh, đó đều là oai lực của Đức Phật. Xin nguyện Đức Thế Tôn ở nơi phương khác, trông thấy mà bảo hộ.

                   Tức thời, các vị Bồ Tát cùng nhau phát ra tiếng, mà nói kệ rằng:

                   Xin nguyện Phật đừng lo

                  Sau khi Phật diệt độ

                  Trong đời ác sợ hãi

                  Chúng con sẽ rộng nói.

                  Có những kẻ vô trí

                  Miệng ác chưởi mắng thảy

                  Dùng đao gậy đánh đập

                  Chúng con đều nhẫn nhịn.

                  Tỳ Kheo trong đời ác

                  Tà trí tâm siểm khúc

                  Chưa chứng nói đã chứng

                  Tâm ngã mạn đầy dẫy.

                  Hoặc có vị Tỳ kheo

                  Mặc nạp y chỗ vắng

                  Tự cho hành chân đạo

                  Khinh khi người nhân gian.

                  Vì tham trước lợi dưỡng

                  Nói pháp với cư sĩ

                  Ðể người đời cung kính

                  Như lục thông La Hán.

                  Người đó ôm lòng ác

                  Thường nhớ việc thế tục

                  Giả danh A lan nhã

                  Chuyên nói lỗi của người.

                  Mà nói như thế này

                  Các vị Tỳ Kheo đó

                  Vì tham cầu lợi dưỡng

                  Nói luận nghị ngoại đạo.

                  Tự làm kinh điển này

                  Dối gạt người thế gian

                  Vì cầu danh cầu lợi

                  Phân biệt nói kinh này.

                  Thường ở trong đại chúng

                  Muốn hủy báng chúng ta

                  Hướng quốc vương đại thần

                  Bà la môn cư sĩ.

                  Và chúng Tỳ Kheo khác

                  Phỉ báng nói ta ác

                  Người đó kẻ tà kiến

                  Nói luận nghị ngoại đạo.

                  Vì chúng con kính Phật

                  Phải nhẫn các việc ác

                  Họ nói lời khinh khi

                  Các ông đều là Phật.

                  Lời khinh mạn như thế

                  Chúng con đều nhẫn nhịn

                  Trong đời ác kiếp trược

                  Có nhiều việc kinh hãi.

                  Ác quỷ nhập thân họ

                  Mắng chưởi hủy nhục con

                  Chúng con kính tin Phật

                  Phải mặc giáp nhẫn nhục.

                  Do vì nói kinh này

                  Nhẫn các việc khó đó

                  Con chẳng tiếc thân mạng

                  Chỉ tiếc đạo vô thượng.

                  Chúng con đời vị lại

                  Hộ trì Phật phó chúc

                  Thế Tôn sẽ tự biết

                  Tỳ Kheo đời ác trược.

                  Chẳng biết Phật phương tiện

                  Tùy nghi mà nói pháp

                  Miệng ác còn nhăn nhó

                  Thường thấy đuổi họ ra.

                  Xa lìa nơi chùa tháp

                  Những việc ác như thế

                  Vì nhớ lời Phật dạy

                  Nên đều phải nhẫn nhịn.

                  Các xóm làng thành ấp

                  Nếu có người cầu pháp

                  Con đều đến chỗ họ

                  Nói pháp của Phật nói.

                  Con là sứ của Phật

                  Trong chúng đều chẳng sợ

                  Con sẽ khéo nói pháp

                  Xin Phật hãy yên lòng.

                  Con ở trước Thế Tôn

                  Và chư Phật mười phương

                  Phát thệ nguyện như thế

                  Phật tự biết tâm con. 

                  HẾT QUYỂN BỐN

 

 

Quyển Năm

 Phẩm An Lạc Hạnh thứ Mười Bốn 

                  Bấy giờ, đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát đó rất khó có được, vì kính thuận lời Phật dạy, mà phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác hộ trì đọc tụng diễn nói Kinh Pháp Hoa này.

                   Ðức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát làm thế nào để diễn nói được kinh này? Ðức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Nếu đại Bồ Tát ở trong đời ác trược, muốn nói kinh này, thì phải an trụ vào bốn pháp. Một là an trụ vào nơi thực hành, và nơi gần gũi của Bồ Tát, thì có thể vì chúng sinh diễn nói kinh này.

                   Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát thực hành? Nếu đại Bồ Tát trụ ở sức nhẫn nhục, nhu hòa, khéo thuận chẳng thô bạo, tâm cũng chẳng kinh sợ. Hơn nữa, nơi các pháp vô sở hành, mà quán các pháp như thật tướng, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt. Ðó gọi là nơi Bồ Tát thực hành. Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát gần gũi? Ðại Bồ Tát chẳng gần gũi nhà vua, thái tử, đại thần, quan lớn. Chẳng gần gũi với các ngoại đạo, phạm chí, ni kiền tử, và viết sách vở thế tục, đọc ngâm nga sách ngoại đạo, cùng lộ già gia đà, nghịch lộ già gia đà, cũng chẳng gần gũi những kẻ hung ác, giễu cợt, đánh đập lẫn nhau, và na la thảy, các thứ kịch biến hiện. Lại chẳng gần gũi hạng chiên đà la, và kẻ nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới, các luật nghi ác. Những người như thế, hoặc khi họ đến, thì vì họ nói pháp, đừng mong cầu gì cả.

                  Lại nữa, đừng gần gũi với những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, cầu quả vị Thanh Văn, cũng chẳng thăm hỏi. Nếu ở trong phòng, hoặc đi kinh hành, hoặc ở trong giảng đường, thì không nên ở chung với họ. Nếu họ đến, thì tùy nghi nói pháp, đừng mong cầu gì cả.

                   Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đối với người nữ, chẳng sinh ý niệm dâm dục, mà vì họ nói pháp, cũng đừng thích thấy. Nếu vào nhà người, thì chẳng nên nói chuyện cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, cũng đừng gần gũi với năm hạng người bất nam để kết thân giao. Không nên một mình vào nhà người. Nếu có nhân duyên phải một mình vào, thì phải một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, thì không được hở răng cười, chẳng để ngực hở hang, cho đến vì pháp còn chẳng gần gũi, hà huống là việc khác. Không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa di nhỏ bé, cũng không nên cùng thầy. Thường nên ngồi thiền, ở nơi chỗ vắng nên tu nhiếp tâm mình lại. Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là chỗ gần gũi ban đầu. 

                  Lại nữa, đại Bồ Tát quán tất cả các pháp không như thật tướng, không điên đảo, không lay động, không thối lùi, không chuyển, như hư không, chẳng có tự tánh. Tất cả ngôn ngữ đạo đoạn, không sanh, không xuất ly, không khởi, không tên, không tướng, thảy đều không, không lượng, không bờ, không ngại, không chướng, chỉ nhờ nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh ra, cho nên nói: Thường thích quán pháp tướng như thế, đó gọi là chỗ gần gũi thứ hai của đại Bồ Tát.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                   Nếu có Bồ Tát

                  Ở đời ác sau

                  Tâm chẳng sợ hãi

                  Muốn nói kinh này.

                  Nên vào hành xứ

                  Và thân cận xứ.

                  Thường lìa quốc vương

                  Và các vương tử.

                  Ðại thần quan lớn

                  Kẻ ác chế giễu

                  Và chiên đà la

                  Ngoại đạo phạm chí.

                  Cũng chẳng gần gũi

                  Kẻ tăng thượng mạn

                  Tham trước tiểu thừa

                  Người học tam tạng.

                  Tỳ Kheo phá giới

                  Xưng là La Hán

                  Và Tỳ Kheo ni

                  Kẻ thích giỡn cười.

                  Chấp sâu năm dục

                  Cầu được diệt độ

                  Các cư sĩ nữ

                  Ðều chớ gần gũi.

                  Nếu những người đó

                  Dùng tâm cầu đạo

                  Ðến chỗ Bồ Tát

                  Vì nghe Phật đạo.

                  Bồ Tát bèn dùng

                  Tâm không sợ hãi

                  Chẳng mong cầu gì

                  Vì họ nói pháp.

                  Gái góa gái trinh

                  Và người bất nam

                  Ðều chớ gần gũi

                  Ðể kết thân giao.

                  Cũng đừng gần gũi

                  Ðồ tể hàng thịt

                  Thợ săn chài lưới

                  Vì lợi giết hại

                  Bán thịt tự sống

                  Hoặc buôn gái đẹp

                  Những người như thế

                  Chớ nên gần gũi.

                  Hung ác đánh nhau

                  Ðủ thứ đùa giỡn

                  Các dâm nữ thảy

                  Ðều chớ gần gũi.

                  Ðừng ở chỗ vắng

                  Vì nữ nói pháp

                  Nếu khi nói pháp

                  Không được giỡn cười.

                  Vào xóm khất thực

                  Dắt một Tỳ Kheo

                  Nếu không Tỳ Kheo

                  Một lòng niệm Phật.

                  Ðó tức gọi là:

                  Hành xứ, cận xứ

                  Dùng hai nơi này

                  An vui nói pháp.

                  Lại nữa chẳng tu

                  Pháp thượng trung hạ

                  Hữu vi vô vi

                  Pháp thật chẳng thật.

                  Cũng chẳng phân biệt

                  Người nam người nữ

                  Chẳng đắc các pháp

                  Chẳng biết chẳng thấy.

                  Tức đó gọi là:

                  Chỗ Bồ Tát tu

                  Tất cả các pháp

                  Hết thảy đều không.

                  Chẳng có thường trụ

                  Cũng chẳng khởi diệt

                  Ðó gọi bậc trí

                  Chỗ nên gần gũi.

                  Ðiên đảo phân biệt

                  Các pháp có không

                  Là thật chẳng thật

                  Là sinh chẳng sinh.

                  Ở nơi chỗ vắng

                  Tu nhiếp tâm mình

                  An trụ chẳng động

                  Như núi Tu Di.

                  Quán tất cả pháp

                  Hết thảy đều không

                  Giống như hư không

                  Nên chẳng kiên cố.

                  Không sinh không xuất

                  Không động không lùi

                  Thường trụ một tướng

                  Ðó gọi cận xứ.

                  Nếu có Tỳ Kheo

                  Sau ta diệt độ

                  Vào hành xứ này

                  Khi nói kinh này.

                  Chẳng có sợ hãi

                  Bồ Tát có khi

                  Vào nơi yên tĩnh

                  Nhớ nghĩ chân chánh.

                  Theo nghĩa quán pháp

                  Từ thiền định dậy

                  Vì các quốc vương

                  Vương tử thần dân.

                  Bà la môn thảy

                  Khai thị diễn nói

                  Kinh Pháp Hoa này

                  Trong tâm an ổn.

                  Chẳng có sợ hãi

                  Văn Thù Sư Lợi!

                  Ðó gọi Bồ Tát

                  An trụ sơ pháp.

                  Hay ở đời sau

                  Nói Kinh Pháp Hoa.

                  Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, muốn nói kinh này, thì nên trụ vào an lạc hạnh. Nếu miệng diễn nói, hoặc đọc tụng kinh này, thì đừng nên nói lỗi của người, và lỗi của kinh điển, cũng đừng khinh mạn các pháp sư khác, đừng nói tốt xấu thị phi của kẻ khác, đối với hàng Thanh Văn cũng đừng gọi tên của họ, nói lỗi lầm của họ, cũng đừng gọi tên khen ngợi tốt, cũng đừng sinh tâm oán hận, vì khéo tu tâm an lạc như thế. Các người đến nghe pháp chẳng nghịch ý của họ. Nếu họ có vấn nạn, thì đừng dùng pháp tiểu thừa mà đáp, chỉ dùng pháp đại thừa để giải thích, khiến cho họ đắc được Nhất thiết chủng trí.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                   Bồ Tát thường thích

                  An ổn nói pháp

                  Ở chỗ thanh tịnh

                  Mà thí giường tòa.

                  Dùng dầu thoa thân

                  Tắm rửa bụi bặm

                  Mặc y mới sạch

                  Trong ngoài đều sạch.

                  Ngồi yên pháp tòa

                  Tùy hỏi mà nói

                  Nếu có Tỳ Kheo

                  Và Tỳ Kheo ni.

                  Các cư sĩ nam

                  Và cư sĩ nữ

                  Quốc vương vương tử

                  Quần thần sĩ dân.

                  Dùng nghĩa vi diệu

                  Vui vẻ mà nói

                  Nếu có vấn nạn

                  Theo nghĩa mà đáp.

                  Nhân duyên ví dụ

                  Phân biệt diễn nói

                  Nhờ phương tiện đó

                  Khiến họ phát tâm.

                  Dần dần tăng ích

                  Vào trong Phật đạo

                  Trừ tâm lười biếng

                  Và tưởng giải đãi.

                  Lìa các ưu não

                  Từ tâm nói pháp.

                  Ngày đêm thường nói

                  Đạo lý vô thượng.

                  Dùng các nhân duyên

                  Vô lượng ví dụ

                  Khai thị chúng sinh

                  Khiến cho hoan hỉ.

                  Y phục ngọa cụ

                  Ẩm thực thuốc thang

                  Hết thảy các thứ

                  Chẳng mong cầu gì.

                  Chỉ một lòng nhớ

                  Nhân duyên nói pháp

                  Nguyện thành Phật đạo

                  Khiến họ cũng thế.

                  Đó là lợi lớn

                  An vui cúng dường.

                  Sau ta diệt độ

                  Nếu có Tỳ Kheo.

                  Thường hay diễn nói

                  Kinh Pháp Hoa này

                  Tâm chẳng sân hận

                  Các não chướng ngại.

                  Cũng chẳng sầu lo

                  Và người chưởi mắng

                  Lại chẳng sợ hãi

                  Thêm đao gậy thảy.

                  Cũng chẳng đuổi ra

                  Vì nhờ nhẫn nhục

                  Bậc trí như thế

                  Khéo tu tâm mình.

                  Thường trụ an lạc

                  Như ta nói trên

                  Công đức người đó

                  Ngàn vạn ức kiếp.

                  Toán số ví dụ

                  Nói chẳng hết được.

                   Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát, ở đời mạc pháp sau này, khi pháp muốn diệt, thì người thọ trì đọc tụng kinh này, đừng ôm lòng đố kị xiểm nịnh, cũng đừng khinh khi mắng chưởi người học Phật đạo, đừng nói thị phi. Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, người cầu Thanh Văn, người cầu Bích Chi Phật, người cầu Bồ Tát đạo, đừng làm cho họ sinh phiền não, khiến cho họ nghi ngờ, nói với họ rằng: Các ngươi cách đạo rất xa, không khi nào đắc được Nhất thiết chủng trí. Tại sao? Vì các ngươi là những người phóng dật, tu đạo thì giải đãi, lại cũng không nên hí luận các pháp, có sự tranh luận. Nên khởi tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh, với các Đức Như Lai khởi nghĩ như Ðại sư, với các vị đại Bồ Tát trong mười phương, luôn thành tâm cung kính lễ lạy. Đối với tất cả chúng sinh, nên bình đẳng mà nói pháp, bởi do thuận pháp, không nên nói nhiều, không nên nói ít, cho đến người ái mến pháp thâm sâu, cũng không vì họ mà nói nhiều.

                   Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đó, ở đời mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt, người thành tựu an lạc hạnh thứ ba, khi nói kinh này, thì không ai có thể não loạn, được người đồng học tốt, cùng nhau đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến nghe nhận, nghe rồi hay trì, trì rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi thì sẽ biên chép, hoặc khiến cho người biên chép cúng dường kinh quyển, cung kính tôn trọng khen ngợi.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                   Nếu muốn nói kinh này

                  Nên bỏ đố sân mạn

                  Tâm xiểm nịnh tà ngụy

                  Thường tu hạnh chất trực.

                  Chẳng khinh khi kẻ khác

                  Cũng chẳng hí luận pháp

                  Chẳng khiến họ nghi ngờ

                  Rằng ông không thành Phật.

                  Bồ Tát đó nói pháp

                  Thường nhu hòa nhẫn nhục

                  Từ bi với tất cả

                  Chẳng sinh tâm giải đãi.

                  Mười phương đại Bồ Tát

                  Thương chúng nên hành đạo

                  Nên sinh tâm cung kính

                  Ðó là thầy của ta.

                  Với chư Phật Thế Tôn

                  Nghĩ là cha vô thượng

                  Phá được tâm kiêu mạn

                  Nói pháp chẳng chướng ngại.

                  Pháp thứ ba như thế

                  Bậc trí nên một lòng

                  Thủ hộ an lạc hạnh

                  Vô lượng chúng cung kính.

                  Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Ðại Bồ Tát vào đời sau này, khi pháp sắp diệt, có người nào trì Kinh Pháp Hoa này, đối với người tại gia, hoặc xuất gia, đều nên sinh tâm đại bi, đối với những người chẳng phải Bồ Tát, cũng nên sinh tâm đại bi, nên nghĩ như vầy: Người như thế tổn thất rất lớn, đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp, mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu. Người đó tuy chẳng hỏi chẳng tin chẳng hiểu kinh này, khi ta được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ ở đâu, ta cũng dùng thần thông và trí huệ dẫn dắt họ, khiến cho họ được trụ ở trong pháp này.

                   Văn Thù Sư Lợi! Ðại Bồ Tát đó, sau khi Như Lai diệt độ, có ai thành tựu pháp thứ tư này, khi nói pháp này, thì chẳng có lỗi lầm, thường được Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà la môn, cư sĩ thảy, cung kính cúng đường, tôn trọng khen ngợi. Chư thiên vì nghe pháp, nên cũng thường theo hầu vị Bồ Tát đó. Nếu ở trong xóm làng, thành ấp, rừng vắng, có người đến muốn vấn nạn, thì chư Thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ, khiến cho người nghe đều được hoan hỉ. Tại sao? Vì kinh này nhờ thần lực của tất cả chư Phật, quá khứ hiện tại vị lai ủng hộ vậy.

                   Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng cõi nước, cho đến tên kinh còn không thể nghe được, hà huống là được thấy thọ trì đọc tụng.

                   Văn Thù Sư Lợi! Ví như chuyển luân thánh vương có sức mạnh, muốn dùng uy thế để hàng phục các nước, song các ông vua nhỏ chẳng thuận theo mệnh lệnh. Vua chuyển luân bèn đem các thứ binh đi chinh phục. Vua thấy binh chúng ai chiến đấu có công thì rất hoan hỉ, tùy theo công lao mà ban thưởng, hoặc ban cho ruộng đất, nhà cửa, xóm làng, thành ấp, hoặc ban cho quần áo, đồ nghiêm thân, hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa xe cộ, nô tì nhân dân. Chỉ có hạt minh châu trong búi tóc là không cho thôi. Tại sao? Vì chỉ có trên đỉnh của vua mới có hạt minh châu này. Nếu lấy đem cho, thì các quyến thuộc của vua rất kinh ngạc.

                   Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng lại như thế, nhờ sức thiền định trí huệ, mà được cõi nước pháp, là vua trong ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu thuận phục. Các hiền Thánh của Như Lai cùng chiến đấu với ma, ai có công thì tâm cũng hoan hỉ. Phật cũng hoan hỉ vì bốn chúng mà nói các kinh, khiến cho họ được vui mừng, ban cho thiền định giải thoát, căn lực vô lậu các pháp tài, còn ban cho thành Niết Bàn, nói được diệt độ, dẫn đạo tâm ý, khiến cho chúng sinh đều hoan hỉ, mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này.

                   Văn Thù Sư Lợi! Như vua chuyển luân thấy các binh chúng, ai có công lớn thì tâm rất hoan hỉ, bèn đem hạt châu khó tin này, từ lâu để trong búi tóc chẳng tùy tiện cho người, mà nay đem cho. Như lai cũng lại như thế, là đại Pháp vương ở trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, thấy quân hiền Thánh với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau. Có công lao lớn diệt trừ ba độc, ra khỏi ba cõi, phá tan lưới ma. Bấy giờ, Như Lai cũng rất hoan hỉ, Kinh Pháp Hoa này, hay khiến cho chúng sinh đến nhất thiết trí. Tất cả thế gian nhiều oán khó tin kinh này, trước kia chưa từng nói, mà nay nói ra. 

                  Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là thâm sâu nhất, chưa từng ban cho. Như vua chuyển luân sức mạnh kia, từ lâu giữ hạt minh châu, nay mới đem ra cho.

                   Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, là tạng bí mật của chư Phật Như Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là trên hơn hết, giữ gìn từ lâu chưa hề tuyên nói, cho đến hôm nay, mới nói ra cho các ông nghe.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Thường thật hành nhẫn nhục

                  Thương xót hết tất cả

                  Mới nên nói kinh này

                  Kinh này được Phật khen.

                  Ai trì tụng kinh này

                  Ðối với tại, xuất gia

                  Và chẳng phải Bồ Tát

                  Nên sinh lòng từ bi.

                  Những người nào chẳng nghe

                  Cũng chẳng tin kinh này

                  Tức tổn thất rất lớn

                  Khi ta được Phật đạo.

                  Sẽ dùng các phương tiện

                  Vì họ nói pháp này

                  Khiến họ trụ pháp này.

                  Ví như vua chuyển luân

                  Có sức lực mạnh mẽ

                  Thấy lính đánh có công

                  Ban thưởng các báu vật.

                  Voi ngựa các xe cộ

                  Và đồ dùng nghiêm thân

                  Cùng đất đai nhà cửa

                  Xóm làng và thành ấp.

                  Hoặc ban cho y phục

                  Ðủ thứ đồ quý báu

                  Nô tì và của cải

                  Ðều hoan hỉ ban cho.

                  Như có tướng tài giỏi

                  Làm được các việc khó

                  Vua lấy hạt minh châu

                  Trong búi tóc đem tặng.

                  Như Lai cũng như thế

                  Là vua của các pháp

                  Có sức nhẫn nhục lớn

                  Và bảo tạng trí huệ.

                  Dùng sức đại từ bi

                  Theo pháp giáo hóa đời

                  Thấy tất cả mọi người

                  Chịu các sự khổ não.

                  Muốn cầu được giải thoát

                  Chiến đấu với lũ ma

                  Vì những chúng sinh đó

                  Nói ra đủ thứ pháp.

                  Dùng sức đại phương tiện

                  Diễn nói các kinh này

                  Khi đã biết chúng sinh

                  Ðắc được các lực rồi.

                  Cuối cùng mới vì nói

                  Kinh Diệu Pháp Hoa này

                  Như vua mở búi tóc

                  Ban tặng hạt minh châu.

                  Kinh này rất tôn quí

                  Trên hết trong các kinh

                  Ta thường luôn giữ gìn

                  Chẳng tùy tiện nói ra.

                  Nay đúng là phải thời

                  Vì các ông mà nói.

                  Sau khi ta diệt độ

                  Ai mong cầu Phật đạo.

                  Muốn được sự an ổn

                  Nên diễn nói kinh này

                  Và phải nên gần gũi

                  Bốn pháp như đã nói.

                  Ai đọc tụng kinh này

                  Thường chẳng có ưu não

                  Nhan sắc rất tươi thắm

                  Chẳng sinh nhà bần cùng.

                  Chẳng làm kẻ nô tì

                  Chúng sinh đều ưa thấy

                  Như kính mộ hiền Thánh

                  Chư thiên các đồng tử.

                  Cũng nghe sự sai khiến

                  Ðao gậy chẳng hại được

                  Ðộc cũng không thể hại

                  Nếu người ác mắng chưởi.

                  Thì miệng chẳng mở đặng

                  Du hành chẳng sợ sệt

                  Như loài sư tử chúa

                  Trí huệ quang chiếu sáng

                  Như mặt trời chiếu khắp.

                  Nếu như ở trong mộng

                  Chỉ thấy những việc tốt

                  Thấy các Đức Như Lai

                  Ngồi trên tòa sư tử.

                  Các đại chúng Tỳ Kheo

                  Vây quanh diễn nói pháp

                  Lại thấy các rồng thần

                  Và A tu la thảy.

                  Nhiều như cát sông Hằng

                  Ðều cung kính chắp tay

                  Tự thấy chính thân mình

                  Vì chúng sinh nói pháp.

                  Lại thấy các đức Phật

                  Thân tướng sắc vàng tía

                  Phóng vô lượng quang minh

                  Chiếu khắp hết tất cả.

                  Dùng phạm âm thanh tịnh

                  Diễn nói thảy các pháp

                  Phật lại vì bốn chúng

                  Nói diệu pháp vô lượng.

                  Thảy đều thấy thân mình

                  Chắp tay khen ngợi Phật

                  Nghe pháp đều hoan hỉ

                  Mà dùng để cúng dường.

                  Ðắc được Ðà la ni

                  Chứng được trí bất thối

                  Phật biết tâm người ấy

                  Vào sâu nơi Phật đạo.

                  Tức là được thọ ký

                  Thành Chánh đẳng chánh giác

                  Các ông thiện nam tử!

                  Sẽ ở đời vị lai.

                  Ðược vô lượng trí huệ

                  Ðược thành tựu Phật đạo

                  Cõi nước rất nghiêm tịnh

                  Rộng lớn chẳng sánh được.

                  Cũng có đủ bốn chúng

                  Ðều chắp tay nghe pháp

                  Lại thấy chính thân mình

                  Ở trong nơi núi rừng.

                  Tu tập các pháp lành

                  Chứng được các thật tướng

                  Vào sâu nơi thiền định

                  Thấy chư Phật mười phương.

                  Chư Phật thân sắc vàng

                  Tướng trăm phước trang nghiêm

                  Nghe pháp vì người nói

                  Thường có mộng tốt đó.

                  Lại mộng làm Pháp vương

                  Bỏ cung điện quyến thuộc

                  Và năm dục thượng diệu

                  Ði thẳng đến Ðạo tràng.

                  Ở dưới cội bồ đề

                  Ngồi trên tòa sư tử

                  Cầu đạo quá bảy ngày

                  Ðắc được trí chư Phật.

                  Thành đạo vô thượng rồi

                  Bèn chuyển bánh xe pháp

                  Vì bốn chúng nói pháp

                  Qua ngàn vạn ức kiếp.

                  Nói diệu pháp vô lậu

                  Ðộ vô lượng chúng sinh

                  Sau sẽ vào Niết Bàn

                  Như củi hết lửa tắt.

                  Nếu đời ác sau này

                  Nói pháp bậc nhất này

                  Người đó được lợi lớn

                  Như công đức ở trên.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên thứ Mười Lăm 

                  Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đến từ các cõi nước phương khác, số nhiều hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đều đứng dậy chắp tay làm lễ, mà bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Xin Ngài lóng nghe, sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ ở tại thế giới Ta Bà này, siêng năng tinh tấn, hộ trì đọc tụng biên chép cúng dường kinh điển này, sẽ ở cõi này mà vì chúng sinh rộng nói kinh này.

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo các chúng đại Bồ Tát: Thôi đi! Thiện nam tử! Không cần các ông hộ trì kinh này, tại sao? Vì thế giới Ta Bà của ta đây, đã có các đại Bồ Tát nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị Bồ Tát đều có quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Hết thảy những người đó, sau khi ta diệt độ, sẽ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này. Khi Đức Phật nói như thế, thì ba ngàn đại thiên thế giới Ta Bà mặt đất rúng nứt, và trong sự rúng nứt đó, có vô lượng ngàn vạn ức đại Bồ Tát đồng thời vọt lên, các vị Bồ Tát đó, thân đều màu vàng, đủ ba mươi hai tướng, có vô lượng quang minh. Các vị Bồ Tát đó, đều trụ ở trong hư không ở dưới cõi Ta Bà. Các vị Bồ Tát đó, nghe tiếng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói diệu pháp, bèn từ phương dưới mà đến, mỗi vị Bồ Tát đều là đạo sư của đại chúng, ai nấy đều mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng, có vị mang theo quyến thuộc nhiều như số cát năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn, sông Hằng. Hoặc có vị chỉ mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát một sông Hằng, nửa sông Hằng, một phần tư, cho đến một phần ngàn vạn ức Na do tha. Lại có vị mang theo, ngàn vạn ức Na do tha quyến thuộc, hoặc là ức vạn quyến thuộc, hoặc ngàn vạn, trăm vạn, cho đến một vạn, hoặc một ngàn, một trăm, cho đến mười, hoặc có vị chỉ mang theo năm, bốn, ba, hai, một, vị đệ tử. Lại có vị Bồ Tát sống một mình, ưa thích hạnh xa lìa thế gian, hết thảy như thế vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm ví dụ biết được số lượng. Các vị Bồ Tát đó, từ dưới đất vọt lên rồi, đều đến chỗ tháp bảy báu trong hư không của Đức Ða Bảo Như Lai, và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

                   Ðến rồi, ai nấy đều hướng về hai Đức Thế Tôn cuối đầu đảnh lễ dưới chân Phật, và đến dưới các cây báu chỗ của chư Phật, ngồi trên tòa sư tử cũng đều làm lễ, nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay cung kính, dùng đủ thứ pháp khen ngợi của các Bồ Tát để khen ngợi, rồi lui về một bên chiêm ngưỡng hai Đức Thế Tôn. Các vị đại Bồ Tát từ khi mới vọt lên, dùng đủ thứ pháp của các Bồ Tát để khen ngợi Phật, thời gian như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn ngồi yên lặng, bốn chúng cũng đều yên lặng. Thời gian năm mươi tiểu kiếp rất dài, nhưng nhờ thần lực của Phật, mà khiến cho đại chúng cảm thấy như chỉ nửa ngày.

                   Bấy giờ, bốn chúng cũng nhờ thần lực của Đức Phật, cho nên thấy các vị Bồ Tát, của vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước đầy khắp hư không. Trong chúng Bồ Tát đó, có bốn vị đạo sư, một tên là Thượng Hạnh, hai tên là Vô Biên Hạnh, ba tên là Tịnh Hạnh, bốn tên là An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là thượng thủ, là thầy xướng đạo ở trong chúng. Ở trước đại chúng, ai nấy đều chắp tay nhìn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà thăm hỏi rằng: Ðức Thế Tôn ít bệnh, ít phiền não, an lạc hạnh chăng? Những người đáng độ có dễ giáo hóa chăng? Không khiến cho Đức Thế Tôn mệt nhọc chăng?

                   Bấy giờ, bốn vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng:

                   Thế Tôn an lạc

                  Ít bệnh ít não

                  Giáo hóa chúng sinh

                  Ðược chẳng mệt nhọc.

                  Và các chúng sinh

                  Thọ hóa dễ chăng

                  Chẳng khiến Thế Tôn

                  Sinh mỏi nhọc chăng?

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong chúng đại Bồ Tát nói như vầy: Như thế, như thế! Các thiện nam tử, Như Lai an lạc, ít bệnh, ít phiền não, hết thảy các chúng sinh dễ hóa độ, chẳng có mệt nhọc. Tại sao? Vì các chúng sinh đó, đời đời kiếp kiếp đến nay, luôn luôn thọ sự giáo hóa của ta, ở trong quá khứ, họ cũng cung kính tôn trọng các Đức Phật, gieo trồng các căn lành.

                  Những chúng sinh đó, từ khi thấy thân ta, nghe lời của ta nói, thì đều tin nhận vào trí huệ của Như Lai. Những người trước kia tu tập tiểu thừa, nay ta cũng khiến cho họ được nghe kinh này, mà vào trí huệ của Phật. 

                  Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng:

                  Lành thay lành thay!

                  Ðại hùng Thế Tôn

                  Hết thảy chúng sinh

                  Dễ dàng hóa độ.

                  Nghe được chư Phật

                  Trí huệ sâu xa

                  Nghe rồi tin hành

                  Chúng con tùy hỉ.

                   Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ Tát thượng thủ rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, các ông ở trước Như Lai phát tâm tùy hỉ.

                  Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc và tám ngàn chúng Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng, đều nghĩ như vầy: Chúng ta từ xưa đến nay, chẳng thấy chẳng nghe các chúng đại Bồ Tát như thế, từ dưới đất vọt lên, ở trước Đức Thế Tôn chắp tay cúng dường, thăm hỏi Đức Như Lai. 

                  Khi ấy, đại Bồ Tát Di Lặc biết tâm niệm của các vị Bồ Tát, nhiều như số cát tám ngàn sông Hằng, cũng muốn tự mình hiểu rõ điều nghi này, bèn chắp tay hướng về Đức Phật dùng kệ hỏi rằng:

                   Vô lượng ngàn vạn ức

                  Các đại chúng Bồ Tát

                  Xưa kia chưa từng thấy

                  Nguyện Đức Thế Tôn nói.

                  Họ từ nơi nào đến

                  Do bởi nhân duyên gì?

                  Thân lớn đại thần thông

                  Trí huệ không nghĩ bàn.

                  Chí niệm rất kiên cố

                  Có sức nhẫn nhục lớn

                  Chỗ chúng sinh ưa thấy

                  Từ xứ nào mà đến?

                  Mỗi mỗi vị Bồ Tát

                  Ðem theo các quyến thuộc

                  Số đông nhiều vô lượng

                  Như số cát sông Hằng.

                  Hoặc có đại Bồ Tát

                  Ðem sáu vạn Hằng sa

                  Các đại chúng như thế

                  Một lòng cầu Phật đạo.

                  Các đại sư đó thảy

                  Sáu vạn Hằng hà sa

                  Ðều đến cúng dường Phật

                  Và hộ trì kinh này.

                  Ðem năm vạn Hằng sa

                  Hoặc số lượng trội hơn

                  Bốn vạn và ba vạn

                  Hai vạn đến một vạn.

                  Một ngàn một trăm thảy

                  Cho đến một Hằng sa

                  Nửa và ba bốn phần

                  Hoặc một phần ức vạn.

                  Ngàn vạn Na do tha

                  Vạn ức các đệ tử

                  Cho đến số nửa ức

                  Số lượng lại hơn trên.

                  Trăm vạn đến một vạn

                  Một ngàn và một trăm

                  Năm mươi và một mươi

                  Cho đến ba hai một.

                  Đơn độc chẳng quyến thuộc

                  Ưa thích tu một mình

                  Đều đến chỗ đức Phật

                  Số đó lại hơn trên.

                  Các đại chúng như thế

                  Nếu ai muốn tính đếm

                  Trải qua Hằng sa kiếp

                  Không thể biết hết được.

                  Các đại uy đức đó

                  Chúng Bồ Tát tinh tấn

                  Ai vì họ nói pháp

                  Giáo hóa mà thành tựu?

                  Từ ai sơ phát tâm

                  Xưng dương Phật pháp nào

                  Thọ trì hành kinh gì

                  Tu tập Phật đạo nào?

                  Các Bồ Tát như thế

                  Thần thông đại trí lực

                  Bốn phương đất rúng nứt

                  Ðều từ đất vọt lên.

                  Thế Tôn con xưa nay

                  Chưa từng thấy việc này

                  Xin nói chỗ họ đến

                  Tên cõi nước họ ở.

                  Con thường du các nước

                  Chưa từng thấy chúng này

                  Con ở trong chúng này

                  Chẳng quen biết một người.

                  Ðột nhiên từ đất lên

                  Xin nói rõ nhân duyên.

                  Nay trong đại hội này

                  Vô lượng trăm ngàn ức.

                  Các Bồ Tát này thảy

                  Ðều muốn biết việc này

                  Nhân duyên và gốc ngọn

                  Các chúng Bồ Tát đó.

                  Vô lượng, Đức Thế Tôn!

                  Xin nguyện giải chúng nghi.

                  Bấy giờ, các phân thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đến từ vô lượng ngàn vạn ức cõi nước phương khác, ở dưới các cây báu trong tám phương, đều ngồi kiết già trên tòa sư tử. Thị giả của các Đức Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ Tát đó, trong ba ngàn đại thiên thế giới bốn phương, từ dưới đất vọt lên trụ ở trong hư không. Các vị thị giả đều bạch với Phật của mình rằng: Ðức Thế Tôn! Vô lượng vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát đó, từ đâu đến đây? 

                  Bấy giờ, các Đức Phật đều bảo thị giả rằng: Các thiện nam tử! Hãy đợi giây lát, có đại Bồ Tát tên là Di Lặc, được Đức Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ thành Phật, đã hỏi việc đó. Ðức Phật sẽ trả lời, các ông sẽ nhờ đó mà được nghe.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Di Lặc: Lành thay! Lành thay! A Dật Ða mới có thể hỏi Phật việc lớn như thế. Các ông nên cùng một lòng mặc áo giáp tinh tấn, phát tâm kiên cố, nay Như Lai muốn hiển phát diễn nói mở bày trí tuệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức sư tử phấn tấn của chư Phật, sức oai mãnh đại thế của chư Phật. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Hãy một lòng tinh tấn

                  Ta muốn nói việc đó

                  Chớ đừng có nghi hối

                  Trí Phật không nghĩ bàn.

                  Nay ông sinh đức tin

                  Trụ ở trong nhẫn nhục

                  Pháp chỗ xưa chưa nghe

                  Nay đều sẽ được nghe.

                  Nay ta an ủi ông

                  Chớ đừng hoài nghi sợ

                  Lời Phật nói chẳng sai

                  Trí huệ không thể lường.

                  Ðắc được pháp bậc nhất

                  Thâm sâu không phân biệt

                  Như vậy nay sẽ nói

                  Các ông một lòng nghe.

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Bồ Tát Di Lặc: Hôm nay ta ở trong chúng này nói với các ông: A Dật Ða! Các chúng đại Bồ Tát đó, vô lượng vô số A tăng kỳ từ dưới đất vọt lên. Thuở xưa các ông chưa từng thấy, ta ở tại thế giới Ta Bà này, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi, bèn giáo hóa chỉ đạo cho các Bồ Tát đó, điều phục tâm của họ, khiến cho họ phát đạo tâm. Những vị Bồ Tát đó, đều ở dưới thế giới Ta Bà này, trụ ở trong hư không. Nơi các kinh điển họ đều đọc tụng thông thuộc, suy gẫm phân biệt, nghĩ nhớ chân chánh. 

                  A Dật Ða! Hết thảy các vị thiện nam tử đó, chẳng ưa thích ở trong chúng nói nhiều, thường thích ở chỗ yên tĩnh, siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ ngơi, cũng chẳng ở tại nhân gian, cũng chẳng ở trên trời, thường thích trí huệ thâm sâu, chẳng có chướng ngại, cũng thường ưa thích pháp của chư Phật, một lòng tinh tấn cầu trí huệ vô thượng.

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  A Dật Ða nên biết!

                  Các đại Bồ Tát đó

                  Từ số kiếp đến nay

                  Tu tập trí của Phật.

                  Ðều do ta giáo hóa

                  Khiến phát đại đạo tâm

                  Họ đều là con ta

                  Nương trụ thế giới đó.

                  Thường tu hạnh đầu đà

                  Ý thích nơi chỗ vắng

                  Bỏ đại chúng ồn náo

                  Chẳng ưa thích nói nhiều.

                  Các con như vậy thảy

                  Tu học đạo pháp ta

                  Ngày đêm thường tinh tấn

                  Chỉ vì cầu Phật đạo.

                  Trụ ở trong hư không

                  Phương dưới cõi Ta Bà

                  Sức chí niệm kiên cố

                  Thường siêng cầu trí huệ.

                  Nói đủ thứ diệu pháp

                  Tâm họ chẳng sợ sệt.

                  Ta ở thành Già Gia

                  Ngồi dưới cội bồ đề

                  Ðắc được tối chánh giác

                  Chuyển pháp luân vô thượng.

                  Giáo hóa các Bồ Tát

                  Khiến họ sơ phát tâm

                  Nay đều trụ bất thối

                  Ðều sẽ được thành Phật.

                  Nay ta nói lời thật

                  Các ông một lòng tin

                  Ta từ lâu đến nay

                  Giáo hóa đại chúng đó.

                  Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc và vô số các vị Bồ Tát khác, đều sinh tâm nghi hoặc, lạ chưa từng có, bèn nghĩ như vầy: Sao Đức Thế Tôn ở trong thời gian ngắn, mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên A tăng kỳ các đại Bồ Tát như thế, khiến cho họ trụ Vô thượng chánh đẳng chánh giác? Bèn bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Khi Như Lai làm thái tử, ra khỏi cung dòng họ Thích, cách thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Ðạo tràng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm.

                   Ðức Thế Tôn! Sao trong thời gian ngắn mà làm đại Phật sự, dùng thế lực của Phật, dùng công đức của Phật, để giáo hóa vô lượng đại Bồ Tát như thế, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác?

                  Ðức Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát đó, nếu như có người ở trong ngàn vạn ức kiếp, tính đếm cũng chẳng hết được, chẳng biết được bờ mé. Những vị Bồ Tát đó, từ lâu xa đến nay, ở trong vô lượng vô biên chỗ chư Phật, gieo trồng các căn lành, thành tựu đạo bồ đề, thường tu phạm hạnh.

                  Ðức Thế Tôn! Việc như thế, người thế gian khó tin. Ví như: Có người sắc đẹp tóc đen, mới hai mươi lăm tuổi, mà chỉ người trăm tuổi nói đó là con ta, người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi đó, nói là cha ta, sinh đẻ nuôi dưỡng chúng ta, việc đó khó tin.

                  Ðức Phật cũng như thế, từ khi đắc đạo đến nay, chưa được bao lâu, mà các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì Phật đạo mà siêng tu hành tinh tấn, khéo nhập, xuất, trụ, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức tam muội, được đại thần thông, từ lâu tu phạm hạnh, khéo tu tập các pháp lành theo thứ tự, khéo về vấn đáp, là báu trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.

                  Hôm nay, Đức Thế Tôn mới nói, khi đắc được Phật đạo, thì đầu tiên khiến cho các Bồ Tát đó, phát tâm giáo hóa chỉ bày, khiến cho họ hướng về Vô thượng chánh đẳng chánh giác. 

                  Ðức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, mà có thể làm được việc công đức lớn. Tuy chúng con tin Đức Phật tùy nghi nói pháp, những lời Phật nói ra chưa từng hư vọng. Những gì Phật biết thảy đều thông đạt, nhưng những vị mới phát tâm Bồ Tát, sau khi Phật diệt độ, nếu họ nghe lời này, thì họ chẳng tin nhận, mà khởi tâm hủy báng pháp tạo tội nghiệp. Tuy vậy, xin Đức Thế Tôn hãy giải thích nói, để trừ nghi hoặc của chúng con, và các thiện nam tử ở đời vị lai, nghe việc này rồi, cũng không còn nghi hoặc nữa. 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Xưa Phật từ dòng thích

                  Xuất gia gần Già Gia

                  Ngồi dưới cội bồ đề

                  Ðến nay chẳng bao lâu.

                  Các Phật tử đó thảy

                  Số đông không thể lường

                  Lâu đã hành Phật đạo

                  Trụ nơi sức thần thông.

                  Khéo học Bồ Tát đạo

                  Chẳng nhiễm pháp thế gian

                  Như hoa sen trong nước

                  Từ dưới đất mọc lên.

                  Ðều khởi tâm cung kính

                  Trụ ở trước Thế Tôn

                  Việc đó khó nghĩ bàn

                  Làm sao khiến người tin?

                  Phật đắc đạo gần đây

                  Mà thành tựu rất nhiều

                  Xin vì trừ chúng nghi

                  Như thật phân biệt nói.

                  Ví như người thiếu niên

                  Tuổi mới hai mươi lăm

                  Chỉ người già là con

                  Tóc bạc và mặt nhăn.

                  Nói họ là ta sinh

                  Con cũng nói người đó

                  Chính là cha của ta

                  Cha trẻ mà con già

                  Khiến đời không thể tin.

                  Thế Tôn cũng như thế

                  Ðắc đạo chẳng bao lâu

                  Các Bồ Tát đó thảy

                  Chí bền chẳng suy nhược.

                  Vô lượng kiếp đến nay

                  Luôn hành Bồ Tát đạo

                  Khéo về nạn vấn đáp

                  Tâm họ chẳng sợ hãi.

                  Tâm nhẫn nhục quyết định

                  Ðoan chánh có uy đức

                  Ðược mười phương Phật khen

                  Khéo hay phân biệt nói.

                  Chẳng thích ở trong chúng

                  Thường thích nhập thiền định

                  Do vì cầu Phật đạo

                  Trụ hư không phương dưới.

                  Chúng con từ Phật nghe

                  Việc này nên hết nghi

                  Xin Phật vì vị lai

                  Diễn nói khiến họ hiểu.

                  Nếu ở nơi kinh này

                  Có người nghi không tin

                  Tức sẽ đọa đường ác

                  Nay xin Phật giải nói.

                  Vô lượng Bồ Tát đó

                  Sao trong thời gian ngắn

                  Giáo hóa khiến phát tâm

                  Trụ vào bậc bất thối?

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai thứ Mười Sáu  

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo các Bồ Tát, và tất cả đại chúng: Các thiện nam tử! Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.                   

                  Lại bảo đại chúng: Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.                   

                  Lại bảo đại chúng: Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.  

                  Bấy giờ, trong đại chúng Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc làm thượng thủ chắp tay bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của Đức Phật nói, bạch ba lần như thế rồi nói: Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của Đức Phật nói.

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các Bồ Tát ba lần thỉnh không ngừng, bèn bảo rằng: Các ông hãy lắng nghe, sức thần thông bí mật của Như Lai, tất cả thế gian trời người và A tu la, đều cho rằng hôm nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lìa bỏ hoàng cung đến thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Ðạo tràng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Thiện nam tử! Thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Ví như: Năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người nghiền ra thành bụi, đi qua phương đông năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, cứ theo hướng đông làm như thế, hết số hạt bụi đó.

                   Các thiện nam tử! Ý của các ông thế nào? Các thế giới đó, có thể suy nghĩ tính đếm biết được số bao nhiêu chăng?

                   Bồ Tát Di Lặc và hết thảy Bồ Tát, đều bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính đếm mà biết được. Tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, dùng trí huệ vô lậu, cũng không thể suy nghĩ biết được số lượng. Chúng con trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này cũng chẳng biết được.

                  Ðức Thế Tôn! Các thế giới như thế vô lượng vô biên. 

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo đại chúng Bồ Tát: Các thiện nam tử! Nay ta phân minh nói cho các ông nghe, các thế giới đó, hoặc để hạt bụi, hoặc không để, đều nghiền ra thành bụi hết. Một hạt bụi là một kiếp. Từ ta thành Phật đến nay, còn nhiều hơn số đó trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta Bà này thuyết pháp giáo hóa, cũng ở nơi trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước khác, giáo hóa lợi ích chúng sinh.

                   Các thiện nam tử! Trong khoảng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Ðăng, và còn nói Đức Phật đó vào Niết Bàn. Như thế đều dùng phương tiện phân biệt.

                  Các thiện nam tử! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng Phật nhãn quán sát, niềm tin và các căn lợi độn của họ, để độ họ. Nơi nơi tự nói danh tự khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, cũng hiện nói sẽ vào Niết Bàn, lại dùng đủ thứ phương tiện nói pháp vi diệu, khiến cho chúng sinh phát tâm hoan hỷ.

                  Các thiện nam tử! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp tiểu thừa, đức mỏng, trần cấu nặng, thì vì người đó nói: Ta thiếu niên xuất gia, đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nhưng thật ra, ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, nhưng dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ vào Phật đạo, mà nói như thế.

                   Các thiện nam tử! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật, hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác, hoặc nói việc của mình, hoặc nói việc của Phật khác. Những lời nói ra, đều chân thật không hư. Tại sao? Vì Như Lai thấy biết tướng ba cõi như thật, chẳng có sinh tử, hoặc thối, hoặc xuất, cũng chẳng tại thế, hoặc diệt độ, chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác. Chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, những sự việc đó, chỉ có Như Lai mới thấy rõ chẳng có sai lầm. Vì chúng sinh có đủ thứ tánh, đủ thứ dục, đủ thứ hạnh, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt. Phật muốn khiến cho họ sinh các căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, ví dụ, lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp, làm các Phật sự, chưa từng tạm phế bỏ. Như thế, từ khi ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, thọ mạng vô lượng A tăng kỳ kiếp, thường trụ bất diệt.

                   Các thiện nam tử! Thuở xưa ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn chưa hết, lại tăng thêm. Nay chẳng phải thật diệt độ, mà nói là sẽ diệt độ. Như Lai dùng phương tiện đó, để giáo hóa chúng sinh. Tại sao? Vì nếu Phật sống lâu ở đời, thì người đức mỏng chẳng trồng căn lành, bần cùng hạ tiện tham trước năm dục, vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng. Nếu thấy Như Lai thường ở đời chẳng nhập diệt, thì họ sẽ sinh tâm kiêu mạn phóng túng, mà ôm lòng nhàm chán giải đãi, chẳng sinh tâm khó được gặp Phật, chẳng sinh tâm cung kính. Do đó, Như Lai dùng phương tiện nói: Tỳ Kheo nên biết, chư Phật ra đời rất khó được gặp. Tại sao? Vì những người đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc có gặp Phật, hoặc không gặp Phật. Nhờ việc đó mà ta nói rằng: Các Tỳ Kheo! Như Lai khó có thể được gặp, những chúng sinh đó nghe lời như thế, thì sẽ sinh tâm khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng đối với Phật, bèn trồng căn lành. Do đó, tuy Như Lai chẳng thật diệt, mà nói là diệt độ.

                  Lại nữa! Thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, vì độ chúng sinh, đều thật chẳng hư. Ví như vị lương y trí huệ thông đạt, biết luyện chế thuốc, khéo chữa lành các chứng bệnh. Có rất nhiều người con, hoặc mười, hai mươi, cho đến một trăm người. Vì có duyên sự nên đi xa đến nước khác. Các người con sau này uống nhầm thuốc độc, thuốc phát buồn bực điên loạn, lăn lóc trên đất.

                  Bấy giờ, người cha trở về nhà, các người con uống thuốc độc, hoặc có người mất bản tâm, hoặc có người không mất, ở xa trông thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha được bình an trở về. Chúng con ngu si, uống lầm thuốc độc, xin cha hãy cứu chữa, khiến cho chúng con khỏi bệnh sống lâu.

                  Người cha thấy các con đau khổ như thế, bèn y theo các phương pháp, tìm cỏ thuốc tốt, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, đâm giã sàng rồi hòa hợp cho các người con uống, mà nói rằng: Ðây là thuốc hay, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, các con hãy uống đi, thì sớm sẽ hết khổ não, chẳng còn bị bệnh nữa.

                  Trong số các người con, ai không mất bản tâm, thấy thuốc hay đó, sắc hương đều tốt bèn lấy uống, bệnh lành khỏi hẳn. Người mất đi bản tâm, thấy người cha về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, xin cha chữa bệnh, tuy cũng cho thuốc, mà chẳng chịu uống. 

                  Tại sao? Vì chất độc vào sâu mất đi bản tâm. Do đó, thuốc hay thơm ngon, mà cho là không ngon. Người cha bèn nghĩ rằng: Những đứa con này thật đáng thương, vì trúng độc nên tâm điên đảo. Tuy thấy ta vui, xin ta cứu chữa, thuốc hay như thế, mà chẳng chịu uống. Nay ta sẽ bày phương tiện, khiến cho chúng uống thuốc này. Bèn nói như vầy: Các con nên biết, nay ta già nua, thời kỳ chết đã đến, thuốc hay tốt này, nay để ở tại đây, các con có thể lấy uống, đừng có lo lắng là bệnh không lành. Dạy như thế rồi, lại đến nước khác, sai sứ về nói là cha của nhà ngươi đã chết.

                  Bấy giờ, các người con nghe tin cha mất rồi, tâm rất buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy: Nếu cha mình còn sống, thì sẽ thương xót chúng ta, cứu hộ chúng ta. Nay đã bỏ chúng ta mất ở xứ người, chúng ta cô độc, lại chẳng có chỗ nương tựa, thường ôm lòng bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, mới biết thuốc này sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, bệnh độc đều khỏi. Người cha nghe tin con đều đã khỏi bệnh, bèn trở về, khiến cho các người con gặp lại.

                   Các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Có người nào cho rằng, vị lương y đó phạm tội vọng ngữ chăng? Không vậy, Đức Thế Tôn!

                   Ðức Phật nói: Ta cũng như thế, ta thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh mà dùng sức phương tiện, nói là sẽ diệt độ, cũng chẳng có ai có thể nói ta có lỗi nói dối. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Ta thành Phật đến nay

                  Trải qua các kiếp số

                  Vô lượng trăm ngàn vạn

                  ức kiếp A tăng kỳ.

                  Thường nói pháp giáo hóa

                  Vô số ức chúng sinh

                  Khiến vào trong Phật đạo.

                  Vô lượng kiếp đến nay

                  Vì độ hóa chúng sinh

                  Phương tiện hiện Niết Bàn

                  Mà thật chẳng diệt độ.

                  Thường ở đây nói pháp

                  Ta thường trụ nơi đây

                  Dùng các sức thần thông

                  Khiến chúng sinh điên đảo

                  Tuy gần mà chẳng thấy.

                  Chúng thấy ta diệt độ

                  Rộng cúng dường xá lợi

                  Ðều ôm lòng luyến mộ

                  Mà sinh tâm khát ngưỡng.

                  Chúng sinh bèn tin phục

                  Ý chất trực mềm dịu

                  Một lòng muốn gặp Phật

                  Chẳng tự tiếc thân mạng.

                  Khi ta và chúng Tăng

                  Cùng ở tại Linh Thứu

                  Có lúc nói chúng sinh

                  Thường tại đây chẳng diệt.

                  Vì dùng sức phương tiện

                  Hiện có diệt chẳng diệt.

                  Nước khác có chúng sinh

                  Ai cung kính tin ưa

                  Ta lại ở trong họ

                  Vì nói pháp vô thượng.

                  Các ông chẳng nghe đây

                  Cho rằng ta diệt độ

                  Ta thấy các chúng sinh

                  Trôi lăn nơi khổ não.

                  Nên chẳng vì hiện thân

                  Khiến họ sinh khát ngưỡng

                  Do tâm họ luyến mộ

                  Mới hiện thân nói pháp.

                  Sức thần thông như thế

                  Trong A tăng kỳ kiếp

                  Thường ở núi Linh Thứu

                  Và ở các nơi khác.

                  Chúng sinh thấy kiếp tận

                  Khi lửa lớn thiêu đốt

                  Ta cõi này an ổn

                  Trời người thường đầy dẫy.

                  Vườn rừng những lầu các

                  Ðủ thứ báu trang nghiêm

                  Cây báu nhiều hoa quả

                  Nơi chúng sinh dạo chơi.

                  Chư Thiên đánh trống trời

                  Thường tấu các âm nhạc

                  Mưa hoa mạn đà la

                  Rải Phật và đại chúng.

                  Cõi tịnh ta chẳng hoại

                  Mà chúng thấy thiêu sạch

                  Lo sợ các khổ não

                  Như thế đều đầy dẫy.

                  Chúng sinh có tội đó

                  Bởi nhân duyên nghiệp ác

                  Qua A tăng kỳ kiếp

                  Chẳng nghe tên Tam Bảo.

                  Những người tu công đức

                  Tâm nhu hòa chất trực

                  Thảy đều thấy thân ta

                  Ở tại đây nói pháp.

                  Có khi vì chúng đó

                  Nói Phật thọ vô lượng

                  Người lâu mới thấy Phật

                  Thì nói Phật khó gặp.

                  Trí lực ta như thế

                  Huệ quang chiếu vô lượng

                  Thọ mạng vô số kiếp

                  Do tu lâu mà được.

                  Các ông người có trí

                  Chớ nên sinh hoài nghi

                  Hãy đoạn khiến dứt sạch

                  Lời Phật thật không hư.

                  Như lương y phương tiện

                  Vì trị bệnh cho con

                  Thật còn mà nói chết

                  Không thể nói hư vọng.

                  Ta là cha cõi đời

                  Cứu những người khổ nạn

                  Vì phàm phu điên đảo

                  Thật còn mà nói diệt.

                  Do bởi thường thấy ta

                  Mà sinh tâm kiêu ngạo

                  Phóng dật chấp năm dục

                  Ðọa trong ba đường ác.

                  Ta biết rõ chúng sinh

                  Hành đạo chẳng hành đạo

                  Tùy chúng sinh độ được

                  Mà nói đủ thứ pháp.

                  Tự ý thường nghĩ rằng:

                  Làm sao khiến chúng sinh

                  Ðược vào vô thượng đạo

                  Sớm thành tựu thân Phật.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Phân Biệt Công Đức thứ Mười Bảy 

                  Bấy giờ, đại chúng trong đại hội nghe Phật nói số kiếp tuổi thọ lâu dài như thế, thì vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sinh, đều được lợi ích.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Ða! Khi ta nói Như Lai thọ mạng lâu dài như thế, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh được vô sinh pháp nhẫn. 

                  Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Ðà la ni. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo thuyết biện tài vô ngại. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được trăm ngàn vạn ức vô lượng toàn Ðà la ni. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, chuyển được pháp luân bất thối. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của trung thiên thế giới, chuyển được pháp luân thanh tịnh. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của tiểu thiên thế giới, còn tám đời nữa sẽ đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ, còn bốn đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ba tứ thiên hạ, còn ba đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn hai đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một tứ thiên hạ, còn một đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có chúng sinh nhiều như hạt bụi của tám thế giới, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                  Khi Đức Phật nói các vị đại Bồ Tát đó được đại pháp lợi, thì ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, dùng để rải lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu, và rải lên tháp bảy báu tòa sư tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và Đức Ða Bảo Như Lai diệt độ đã lâu, cũng rải lên tất cả các đại Bồ Tát, và bốn bộ chúng.

                  Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, và hương trầm thủy. Ở trong hư không trống trời tự kêu, âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn thứ y trời, thòng rũ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi trân châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý, khắp cả chín phương. Các lò hương báu đốt lên hương vô giá, tự nhiên tỏa khắp để cúng dường pháp hội.

                  Ở phía trên, mỗi vị Phật có các Bồ Tát cầm phan lọng, thứ tự thăng đến trời Phạm Thiên. Các vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca xướng vô lượng bài kệ, để khen ngợi các Đức Phật.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở vai bên phải, chắp tay cung kính hướng về Đức Phật, mà nói bài kệ rằng:

                   Phật nói pháp hi hữu

                  Thuở xưa chưa từng nghe

                  Thế Tôn có thần lực

                  Tuổi thọ không thể lường.

                  Vô số các Phật tử

                  Nghe Thế Tôn phân biệt

                  Nói người được pháp lợi

                  Vui mừng khắp toàn thân.

                  Hoặc trụ bậc bất thối

                  Hoặc được Ðà la ni

                  Hoặc nhạo thuyết vô ngại

                  Vạn ức toàn tổng trì.

                  Hoặc có đại thiên giới

                  Số hạt bụi Bồ Tát

                  Ai nấy đều chuyển được

                  Bánh xe pháp bất thối.

                  Lại có trung thiên giới

                  Số hạt bụi Bồ Tát

                  Ai nấy đều chuyển được

                  Bánh xe pháp thanh tịnh.

                  Lại có tiểu thiên giới

                  Số hạt bụi Bồ Tát

                  Chỉ còn tám đời nữa

                  Sẽ chứng được Phật đạo.

                  Lại có bốn ba hai

                  Tứ thiên hạ như vậy

                  Các hạt bụi Bồ Tát

                  Theo số đời thành Phật.

                  Hoặc một tứ thiên hạ

                  Số hạt bụi Bồ Tát

                  Chỉ còn một đời nữa

                  Sẽ thành Nhất thiết trí.

                  Như thế thảy chúng sinh

                  Nghe Phật thọ lâu dài

                  Ðược vô lượng vô lậu

                  Các quả báo thanh tịnh.

                  Lại có tám thế giới

                  Số hạt bụi chúng sinh

                  Nghe Phật nói thọ mạng

                  Ðều phát tâm vô thượng.

                  Thế Tôn nói vô lượng

                  Pháp không thể nghĩ bàn

                  Nhiều chúng được lợi ích

                  Như hư không vô biên.

                  Mưa hoa trời mạn đà

                  Ma ha mạn đà la

                  Thích Phạm như Hằng sa

                  Ðến từ vô số cõi.

                  Mưa chiên đàn trầm thủy

                  Tấp nập rơi rớt xuống

                  Như chim bay không xuống

                  Cúng rải lên chư Phật.

                  Trống trời trong hư không

                  Tự nhiên vang diệu âm

                  Y trời ngàn vạn thứ

                  Chuyển động rơi rớt xuống.

                  Các lò hương báu đẹp

                  Xông đốt hương vô giá

                  Tự nhiên tỏa khắp nơi

                  Cúng dường các Thế Tôn.

                  Chúng đại Bồ Tát đó

                  Cầm phan lọng bảy báu

                  Cao đẹp vạn ức thứ

                  Thứ tự đến Phạm Thiên.

                  Trước mỗi các Đức Phật

                  Tràng báu treo thắng phan

                  Cũng dùng ngàn vạn kệ

                  Ca ngợi các Như Lai.

                  Ðủ thứ việc như thế

                  Thuở xưa chưa từng có

                  Nghe Phật thọ vô lượng

                  Tất cả đều vui mừng.

                  Danh Phật đồn mười phương

                  Rộng lợi ích chúng sinh

                  Hết thảy đủ căn lành

                  Trợ phát tâm Vô thượng.

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Da! Những chúng sinh nào nghe thọ mạng của Phật lâu dài như thế, cho đến sinh một niệm tin hiểu, thì được công đức chẳng có hạn lượng. 

                  Nếu có người thiện nam, thiện nữ, vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở trong tám mươi vạn ức Na do tha kiếp, thực hành năm Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, trừ Bát Nhã Ba la mật ra, đem công đức này, so sánh với công đức ở trên, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính toán ví dụ, cũng không thể biết được.

                   Nếu người thiện nam, người thiện nữ, có công đức như thế, mà chẳng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì chẳng có lý đó.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Nếu người cầu Phật huệ

                  Trong tám mươi vạn ức

                  Na do tha kiếp số

                  Tu năm Ba la mật.

                  Ở trong các kiếp đó

                  Bố thí cúng dường Phật

                  Và Duyên Giác đệ tử

                  Cùng các chúng Bồ Tát.

                  Ðồ ăn uống hảo hạng

                  Y tốt và đồ nằm

                  Chiên đàn làm tịnh xá

                  Dùng vườn rừng trang nghiêm.

                  Bố thí như thế thảy

                  Ðủ thứ đều tốt đẹp

                  Hết các kiếp số đó

                  Hồi hướng về Phật đạo.

                  Nếu giữ gìn giới cấm

                  Thanh tịnh chẳng thiếu sót

                  Cầu chứng vô thượng đạo

                  Ðược chư Phật khen ngợi.

                  Nếu tu hạnh nhẫn nhục

                  Trụ nơi chỗ điều nhu

                  Nếu kẻ ác nhiễu loạn

                  Mà tâm chẳng lay động.

                  Có những người đắc pháp

                  Bị kẻ tăng thượng mạn

                  Khinh khi làm khổ não

                  Như thế cũng nhẫn được.

                  Nếu lại siêng tinh tấn

                  Chí niệm thường kiên cố

                  Trong vô lượng ức kiếp

                  Một lòng chẳng giải đãi.

                  Lại trong vô số kiếp

                  Trụ ở chỗ vắng lặng

                  Hoặc ngồi hoặc kinh hành

                  Trừ ngủ thường nhiếp tâm.

                  Vì bởi nhân duyên đó

                  Hay sinh các thiền định

                  Tám mươi ức vạn kiếp

                  An trụ tâm chẳng loạn.

                  Ðem phước nhất tâm đó

                  Nguyện cầu vô thượng đạo

                  Con được Nhất thiết trí

                  Hết các bờ thiền định.

                  Người đó trong trăm ngàn

                  Vạn ức vô số kiếp

                  Tu các công đức đó

                  Như ở trên vừa nói.

                  Có thiện nam tín nữ

                  Nghe ta nói thọ mạng

                  Cho đến một niệm tin

                  Phước đây lại hơn kia.

                  Nếu có người chẳng có

                  Tất cả các nghi hoặc

                  Sinh tâm tin chốc lát

                  Phước đây đồng phước kia.

                  Hết thảy các Bồ Tát

                  Vô lượng kiếp hành đạo

                  Nghe ta nói thọ mạng

                  Thì tâm sẽ tin nhận

                  Những người như thế thảy

                  Tin thọ kinh điển này

                  Nguyện con đời vị lai

                  Sống lâu độ chúng sinh.

                  Như Thế Tôn hôm nay

                  Vua trong dòng họ Thích

                  Ðạo tràng sư tử hống

                  Thuyết pháp vô sở úy.

                  Chúng con đời vị lai

                  Ðược tất cả tôn kính

                  Khi ngồi nơi đạo tràng

                  Cũng nói thọ như thế.

                  Nếu có người thâm tâm

                  Thanh tịnh lại chất trực

                  Ða văn hay tổng trì

                  Tùy nghĩa giải lời Phật.

                  Hết thảy người như thế

                  Nơi kinh này chẳng nghi.

                  Lại nữa, A Dật Ða! nếu có người nghe được thọ mạng của Phật lâu dài, mà hiểu rõ nghĩa lý của lời nói, thì người đó được công đức chẳng có hạn lượng, hay sinh ra trí huệ vô thượng của Như Lai, hà huống là rộng nghe kinh này. Hoặc dạy người đến nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc dạy người biên chép, hoặc dùng hương hoa, anh lạc, tràng phan, lọng lụa, dầu thơm, đèn, để cúng dường kinh quyển. Công đức của người đó vô lượng vô biên, hay sinh ra Nhất thiết chủng trí.

                   A Dật Ða! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, nghe ta nói thọ mạng dài lâu, mà thâm tâm tin hiểu, tức là thấy Phật thường ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng với các chúng đại Bồ Tát, Thanh Văn, vây quanh nói pháp. Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng lưu ly, mặt đất bằng phẳng, vàng diêm phù đàn dùng làm tám đường, cây báu thẳng hàng, các đền đài lầu các, đều dùng bảy báu tạo thành, các chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người hay quán như thế, thì nên biết người đó tin sâu hiểu kinh này.

                   Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này, mà chẳng hủy báng, phát tâm tùy hỷ, thì nên biết người đó, đã tin hiểu sâu kinh này, hà huống là người đọc tụng thọ trì, tức là người đó đầu đội Đức Như Lai.

                   A Dật Ða! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chẳng cần vì ta mà tạo dựng chùa tháp, và làm phòng ốc cho chư Tăng, dùng tứ sự cúng dường chúng Tăng. Sở dĩ vì sao? Vì người thiện nam, người thiện nữ đó, thọ trì đọc tụng kinh điển này, là đã xây dựng tháp, tạo lập phòng ốc cho chư Tăng, cúng dường chúng Tăng. Tức là đem Phật xá lợi tạo dựng tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần đến cõi trời Phạm Thiên. Lại treo các phan lọng, và các linh báu, hoa hương, anh lạc, hương bột, hương thoa, hương đốt, các thứ âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, đủ thứ kịch múa, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm khen ngợi, tức là ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, đã từng cúng dường như thế.

                   A Dật Ða! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nghe được kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, tức là tạo dụng phòng ốc cho chúng Tăng. Dùng gỗ chiên đàn đỏ làm các điện đường ba mươi hai sở, cao khoảng tám cây đa la, cao rộng trang nghiêm tốt đẹp, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo trụ ở trong đó. Lại có vườn rừng ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, hang động ngồi thiền, y phục thức ăn uống, giường nệm thuốc thang, tất cả dụng cụ âm nhạc đầy dẫy trong đó. Nhà Tăng lầu các như thế, hàng trăm ngàn vạn ức nhiều vô số. Dùng những thứ đó, hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ Kheo Tăng. Vì lẽ đó mà ta nói, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì đọc tụng, vì người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, cúng dường kinh quyển, không cần tạo lập chùa tháp, và tạo phòng ốc chư Tăng, cúng dường chúng Tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh này, và thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, được công đức tối thắng vô lượng vô biên. Ví như hư không, đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, vô lượng vô biên, công đức của người đó, cũng lại như thế, vô lượng vô biên, sớm đắc được Nhất thiết chủng trí.

                   Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này, vì người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, lại hay tạo dựng tháp và tạo lập phòng ốc chư Tăng, cúng dường khen ngợi chúng Tăng Thanh Văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức bài pháp khen ngợi, để khen ngợi công đức của Bồ Tát. Lại vì người khác, đủ thứ nhân duyên, tùy nghĩa mà giải nói Kinh Pháp Hoa này. Lại hay giữ giới thanh tịnh, và nhu hòa ở chung với nhau, nhẫn nhục chẳng sân hận, ý chí kiên cố, thường thích ngồi thiền, được các thiền định thâm sâu, dũng mãnh tinh tấn, nhiếp các pháp lành, lợi căn trí huệ, khéo đáp các vấn nạn. 

                  A Dật Ða! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hay thọ trì đọc tụng kinh này, lại có các công đức lành như thế, thì nên biết người đó, đã hướng về đạo tràng, gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi dưới bồ đề đạo tràng.

                   A Dật Ða! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chỗ của họ ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, đều nên xây tháp, tất cả trời người, đều nên cúng dường như tháp của Phật.

                   Bấy giờ, Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Nếu sau ta diệt độ

                  Hay phụng trì kinh này

                  Người đó phước vô lượng

                  Như đã nói ở trên.

                  Tức là được đầy đủ

                  Tất cả sự cúng dường

                  Vì xá lợi xây tháp

                  Bảy báu rất trang nghiêm.

                  Nền tháp rất cao rộng

                  Nhỏ dần đến Phạm Thiên

                  Linh báu ngàn vạn ức

                  Gió động vang diệu âm.

                  Lại trong vô lượng kiếp

                  Cúng dường nơi tháp đó

                  Hoa hương các chuỗi ngọc

                  Y trời các âm nhạc.

                  Hương đốt dầu thơm đèn

                  Thường chiếu sáng quanh tháp

                  Vào đời ác mạt pháp

                  Người hay trì kinh này.

                  Tức như trên đã nói

                  Ðầy đủ sự cúng dường.

                  Nếu hay trì kinh này

                  Tức như Phật tại thế

                  Dùng ngưu đầu chiên đàn

                  Làm nhà Tăng cúng dường.

                  Gồm ba mươi hai sở

                  Cao tám cây đa la

                  Thức ăn ngon y đẹp

                  Giường nằm đều đầy đủ.

                  Trăm ngàn chúng ở đó

                  Vườn rừng các ao tắm

                  Kinh hành động ngồi thiền

                  Các thứ đều trang nghiêm.

                  Nếu người tâm tin hiểu

                  Thọ trì đọc tụng biên

                  Và cúng dường kinh quyển

                  Rải hoa thơm hương bột.

                  Hoa tu mạn chiêm bặc

                  A đề mục đa già

                  Ðốt đèn dầu cháy mãi

                  Người cúng dường như thế.

                  Ðược công đức vô lượng

                  Như hư không vô bờ

                  Phước đó cũng như thế.

                  Huống lại trì kinh này

                  Và bố thí trì giới

                  Nhẫn nhục thích thiền định

                  Chẳng sân chẳng chưởi mắng.

                  Cung kính nơi chùa tháp

                  Khiêm nhường các Tỳ Kheo

                  Xa lìa tâm kiêu ngạo

                  Thường suy gẫm trí huệ.

                  Có vấn nạn chẳng sân

                  Tùy thuận làm giải thoát

                  Nếu làm được hạnh đó

                  Công đức không thể lường.

                  Nếu thấy pháp sư đó

                  Thành tựu đức như thế

                  Nên dùng hoa trời rải

                  Y trời che thân họ.

                  Cúi đầu cung kính lễ

                  Tâm sinh nghĩ như Phật

                  Lại nên nghĩ như vầy:

                  Chẳng lâu đến đạo tràng.

                  Ðược vô lậu vô vi

                  Rộng lợi các trời người

                  Chỗ của người đó ở

                  Hoặc kinh hành ngồi thiền.

                  Cho đến nói bài kệ

                  Ðều nên xây dựng tháp

                  Trang nghiêm khiến tốt đẹp

                  Dùng các thứ cúng dường.

                  Phật tử trụ nơi đó

                  Tức là Phật thọ dụng

                  Thường ở tại trong đó

                  Kinh hành và ngồi nằm.

                  HẾT QUYỂN NĂM

 

 

 

QUYỂN SÁU

 

 

 

Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, nghe Kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ, thì đắc được bao nhiêu phước đức? Bèn nói bài kệ rằng: 

                  Sau khi Phật diệt độ

                  Có người nghe kinh này

                  Mà sinh tâm tùy hỷ

                  Ðược bao nhiêu công đức?

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Ða! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và những người có trí khác, hoặc già, hoặc trẻ, nghe kinh này mà tùy hỷ. Từ pháp hội ra đi đến nơi khác. Hoặc tại nhà của chư Tăng ở, hoặc tại chỗ vắng vẻ, hoặc tại thành ấp đường xá, xóm làng ruộng nương, đem sự nghe của mình mà vì cha mẹ, người thân, bạn bè, tri thức, tùy sức mà diễn nói, khiến cho họ nghe rồi mà tùy hỷ, lại đi diễn nói với người khác, người khác nghe rồi cũng tùy hỷ, lại đi diễn nói với người khác nữa, cứ như thế cho đến người thứ năm mươi. 

                  A Dật Ða! Người thiện nam, người thiện nữ, thứ năm mươi đó, tùy hỷ công đức, nay ta nói ra ông nên lắng nghe. Nếu bốn loài sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới, loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài sinh bằng ẩm ướt, loài biến hóa sinh ra, hoặc loài có hình, loài không có hình, loài có nghĩ tưởng, loài không có nghĩ tưởng, loài chẳng có nghĩ tưởng chẳng phải không có nghĩ tưởng, loài không chân, hai chân, loài bốn chân, nhiều chân, như vậy hết thảy loài chúng sinh. Có người cầu phước, tùy theo sự ưa muốn của họ, mà cung cấp cho đầy đủ. Mỗi mỗi chúng sinh đều cấp cho đầy cõi Diêm Phù Ðề: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ mã não, san hô, hổ phách, các thứ châu báu, và voi ngựa, xe cộ, cung điện lầu các làm bằng bảy báu .v.v... Ðại thí chủ đó, bố thí như vậy mãn tám mươi năm rồi, bèn nghĩ như vầy: Ta đã bố thí cho chúng sinh những đồ vui thích, tùy ý sự ưa muốn của họ, nhưng những chúng sinh này đều đã già nua, tuổi đã quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn, sự chết chẳng còn bao lâu. Ta nên dùng Phật pháp để giáo hóa họ. Bèn triệu tập những chúng sinh đó, truyền bá Phật pháp giáo hóa, khiến cho họ được lợi ích sinh tâm hoan hỷ. Nhất thời đều đắc được đạo Tu Ðà Hoàn, đạo Tư Ðà Hàm, đạo A Na Hàm, đạo A La Hán, sạch các hữu lậu, nơi thiền định thâm sâu đều đắc được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý của ông thế nào? Vị đại thí chủ đó, đắc được công đức có nhiều chăng?

                   Bồ Tát Di Lặc bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Công đức của người đó rất nhiều, vô lượng vô biên. Nếu vị thí chủ đó, chỉ bố thí tất cả đồ vui thích, thì công đức đã vô lượng, hà huống khiến cho họ đắc được quả A La Hán.

                   Ðức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Nay ta phân tích rõ cho ông nghe, người đó đem tất cả đồ vui thích, bố thí cho sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới. Lại khiến cho họ đắc quả A La Hán, công đức của người đó, chẳng bằng người thứ năm mươi, nghe một bài kệ Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ công đức, trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cũng chẳng bằng một phần, cho đến tính đếm thí dụ, cũng không thể biết được.

                  A Dật Ða! Như người thứ năm mươi đó, lần lượt được nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, công đức còn vô lượng vô biên A tăng kỳ, hà huống là người đầu tiên ở trong pháp hội, nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ. Phước người này, còn hơn phước người thứ năm mươi, vô lượng vô biên A tăng kỳ, không thể sánh được.

                   Lại nữa, A Dật Ða! Nếu có người vì kinh này, mà đi đến phòng Tăng, hoặc ngồi, hoặc đứng, nghe trong giây lát, thì nhờ công đức đó, mà tái sinh đời sau, được voi ngựa, xe cộ, châu báu, kiệu cáng, đồ thượng hạng và cung điện.

                  Nếu lại có người ngồi ở nơi giảng pháp, có người đến mà khuyên bảo, khiến cho họ ngồi nghe pháp, hoặc phân chia chỗ cho họ ngồi, thì công đức của người đó khi chuyển thân khác, sẽ được chỗ ngồi của trời Ðế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của vua chuyển luân thánh vương.

                  A Dật Ða! Nếu lại có người nói với người khác rằng: Có kinh tên là Pháp Hoa, chúng ta có thể cùng nhau đến nghe, người đó nghe lời bèn đến nghe trong chốc lát. Công đức của người đó chuyển thân sau, được sinh cùng một chỗ với Bồ Tát Ðà La Ni, có lợi căn trí huệ. Trong trăm nghìn vạn đời chẳng bao giờ bị câm, hơi miệng chẳng hôi thối, lưỡi thường chẳng có bệnh tật, miệng cũng chẳng có bệnh tật, răng chẳng dơ, chẳng đen, chẳng vàng, chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng cong. Môi chẳng thòng xuống, cũng chẳng co rút lại, chẳng thô rít, chẳng ung nhọt, cũng chẳng khuyết xấu, cũng chẳng cong vẹo, chẳng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen xạm, chẳng có các sự đáng chê. Mũi chẳng dẹp, cũng chẳng cong. Sắc mặt chẳng đen, cũng chẳng dài hẹp, cũng chẳng cong trũng, chẳng có những tướng khiến cho người thấy chẳng vui. Môi lưỡi răng thảy đều tốt đẹp trang nghiêm, mũi thì cao thẳng. Mặt mày tròn đầy, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, nhân tướng đây đủ. Ðời đời sinh ra đều gặp Phật, nghe pháp tin nhận lời của Phật dạy.

                   A Dật Ða! Ông xem đó, khuyên một người khiến cho họ đến nghe pháp, mà được công đức như thế, hà huống là một lòng nghe giảng, đọc tụng, rồi ở trong đại chúng vì mọi người phân biệt giải nói pháp tu hành.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Nếu người trong pháp hội

                  Ðược nghe kinh điển này

                  Cho đến một bài kệ

                  Tùy hỷ với người nói.

                  Như vậy lần lượt dạy

                  Ðến người thứ năm mươi

                  Người cuối cùng được phước

                  Nay sẽ phân biệt nói.

                  Như có đại thí chủ

                  Bố thí vô lượng chúng

                  Tròn đủ tám mươi năm

                  Tùy ý muốn của họ.

                  Thấy họ tướng già nua

                  Tóc bạc và mặt nhăn

                  Răng rụng hình khô gầy

                  Nghĩ họ chết sắp đến.

                  Nay ta nên dạy họ

                  Khiến cho được đạo quả

                  Bèn dùng phương tiện nói

                  Pháp Niết Bàn chân thật.

                  Ðời đều chẳng lâu bền

                  Như bọt nước ngọn lửa

                  Các ông phải nên biết

                  Sớm sinh tâm nhàm lìa.

                  Mọi người nghe pháp đó

                  Ðều đắc A La Hán

                  Ðầy đủ sáu thần thông

                  Ba minh tám giải thoát.

                  Người năm mươi cuối cùng

                  Nghe bài kệ tùy hỷ

                  Người này phước hơn kia

                  Không thể ví dụ được.

                  Lần lượt nghe như vậy

                  Phước đức còn vô lượng

                  Hà huống trong pháp hội

                  Người đầu nghe tùy hỷ.

                  Nếu khuyên được một người

                  Dẫn họ nghe Pháp Hoa

                  Nói kinh này thâm diệu

                  Ngàn vạn ức khó gặp.

                  Bèn nghe lời đến nghe

                  Cho dù nghe chốc lát

                  Phước báu của người đó

                  Nay sẽ phân biệt nói.

                  Ðời đời miệng chẳng bệnh

                  Răng chẳng thưa vàng đen

                  Môi chẳng dày co thiếu

                  Chẳng có tướng đáng chê.

                  Lưỡi chẳng khô đen ngắn

                  Mũi vừa cao lại thẳng

                  Trán rộng và bằng phẳng

                  Mặt mày rất đoan nghiêm.

                  Khiến người hoan hỷ thấy

                  Hơi miệng chẳng hôi thối

                  Thơm như hoa ưu bát

                  Thường từ miệng toả ra.

                  Nếu đi đến nhà Tăng

                  Muốn nghe Kinh Pháp Hoa

                  Hoan hỷ nghe chốc lát

                  Nay sẽ nói phước đó.

                  Sau sinh trong trời người

                  Ðược voi ngựa xe báu

                  Châu báu và kiệu cáng

                  Và ngồi cung điện trời.

                  Nếu ở nơi giảng pháp

                  Khuyên người ngồi nghe kinh

                  Nhờ phước đó nên được

                  Tòa Thích Phạm chuyển luân.

                  Hà huống một lòng nghe

                  Giải nói nghĩa lý kinh

                  Như lời nói tu hành

                  Phước đó chẳng hạn lượng.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Công Đức Pháp Sư thứ Mười Chín 

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn: Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ công đức đó, trang nghiêm sáu căn đều khiến cho thanh tịnh.

                   Người thiện nam, người thiện nữ đó, mắt thịt cha mẹ sinh ra thấy ba ngàn đại thiên thế giới, trong ngoài hết thảy núi rừng, sông biển, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, cũng thấy tất cả chúng sinh trong đó, và nghiệp nhân duyên quả báo, nơi sinh đều thấy đều biết.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Nếu ở trong đại chúng

                  Chẳng có tâm sợ sệt

                  Nói Kinh Pháp Hoa này

                  Ông lắng nghe công đức.

                  Người đó được tám trăm

                  Công đức mắt thù thắng

                  Nhờ vậy mà trang nghiêm

                  Con mắt rất thanh tịnh.

                  Mắt cha mẹ sinh ra

                  Thấy được ba ngàn cõi

                  Trong ngoài núi Di Lâu

                  Tu Di và Thiết Vi.

                  Và các núi rừng khác

                  Nước biển cả sông ngòi.

                  Dưới đến ngục A Tỳ

                  Trên đến trời Hữu Ðỉnh

                  Các chúng sinh trong đó

                  Hết thảy đều thấy rõ.

                  Tuy chưa được thiên nhãn

                  Sức nhục nhãn như thế. 

                  Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi tai, nhờ tai thanh tịnh, nên nghe được tất cả các thứ tiếng, trong ba ngàn đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, trong đó hết thảy các thứ lời nói âm thanh, đều nghe rõ hết. Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng bò, tiếng xe, tiếng khóc lóc, tiếng vui buồn, tiếng pháp loa, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng người nam, tiếng người nữ, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhân, tiếng hoan hỷ, tiếng không hoan hỷ, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ Xoa, tiếng Càn Thát Bà, tiếng A tu la, tiếng Ca Lâu La, tiếng Khẩn Na La, tiếng Ma Hầu La Già, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ Kheo ni, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích Chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Tai cha mẹ sinh ra

                  Thanh tịnh chẳng ô nhiễm

                  Dùng tai thường này nghe

                  Tiếng ba ngàn thế giới.

                  Tiếng voi ngựa xe trâu

                  Tiếng chuông linh loa trống

                  Tiếng cầm sắt không hầu

                  Tiếng ống tiêu ống địch.

                  Tiếng ca hay thanh tịnh

                  Nghe mà chẳng chấp trước

                  Tiếng vô số loại người

                  Nghe thảy đều hiểu rõ.

                  Lại nghe tiếng chư Thiên

                  Âm thanh ca vi diệu

                  Và nghe tiếng nam nữ

                  Tiếng đồng tử đồng nữ.

                  Trong núi sông hang hiểm

                  Tiếng ca lăng tần già

                  Cộng mệnh các thứ chim

                  Ðều nghe rõ các tiếng.

                  Các thống khổ địa ngục

                  Ðủ thứ tiếng rên la

                  Quỷ đói khát bức bách

                  Tiếng tìm cầu ăn uống.

                  Các A tu la thảy

                  Ở ven cạnh bờ biển

                  Khi chúng cùng nhau nói

                  Vang ra âm thanh lớn.

                  Người giải nói kinh này

                  An trụ vào nơi nghe

                  Nghe xa các tiếng đó

                  Mà chẳng hư căn tai.

                  Trong mười phương thế giới

                  Tiếng cầm thú kêu la

                  Người hay nói pháp đó

                  Hoàn toàn nghe được hết.

                  Trên các trời Phạm Thiên

                  Quang Âm và Biến Tịnh

                  Cho đến trời Hữu Ðỉnh

                  Lời nói và âm thanh.

                  Pháp sư ở tại đây

                  Thảy đều nghe được hết.

                  Chư Phật đấng Ðại Thánh

                  Giáo hóa các chúng sinh

                  Ở trong các đại hội

                  Diễn nói pháp vi diệu.

                  Người trì Kinh Pháp Hoa

                  Hoàn toàn đều nghe được.

                  Ba ngàn đại thiên giới

                  Trong ngoài các thứ tiếng

                  Dưới đến ngục A Tỳ

                  Trên đến trời Hữu Ðỉnh

                  Ðều nghe được tiếng đó

                  Mà chẳng hư căn tai.

                  Vì căn tai thông lợi

                  Ðều phân biệt biết được

                  Người trì Pháp Hoa này

                  Tuy chưa được thiên nhĩ

                  Dùng tai cha mẹ sinh

                  Công đức đã như thế.

                  Tất cả chúng Tỳ Kheo

                  Và chúng Tỳ Kheo ni

                  Hoặc đọc tụng kinh điển

                  Hoặc vì người khác nói.

                  Pháp sư ở tại đây

                  Hoàn toàn đều nghe được.

                  Lại có các Bồ Tát

                  Ðọc tụng kinh pháp này

                  Hoặc vì người khác nói

                  Tuyển tập giải nghĩa kinh.

                  Các âm thanh như thế

                  Hoàn toàn đều nghe được.

                   Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc tụng giải nói, hoặc biên chép, thì thành tựu tám trăm công đức nơi mũi. Dùng căn mũi thanh tịnh đó, ngửi được các thứ mùi hương trong ngoài, trên dưới trong ba ngàn đại thiên thế giới.

                  Hương thơm của hoa tu mạn na, hương thơm hoa xà đề, hương thơm hoa mặc lợi, hương thơm hoa thiềm bặc, hương thơm hoa ba la la, hương thơm hoa sen đỏ, hương thơm hoa sen xanh, hương thơm hoa sen trắng, hương thơm cây có hoa, hương thơm cây có quả, hương chiên đàn, hương trầm thủy, hương đa ma la bạt, hương đa già la, và hàng ngàn vạn thứ hương hòa hợp, hoặc hương bột, hoặc hương viên tròn, hoặc hương xoa. Người trì kinh này, trụ ở nơi này, đều phân biệt được.

                  Lại phân biệt biết được mùi hương của chúng sinh, mùi hương của voi, mùi hương của ngựa, mùi hương của bò dê, mùi hương con trai, mùi hương con gái, mùi hương đồng tử, mùi hương đồng nữ và mùi hương cỏ cây lùm rừng, hết thảy các mùi hương, hoặc gần hoặc xa, đều ngửi được, phân biệt chẳng sai lầm.

                   Người trì kinh này, tuy ở nơi đây, mà cũng ngửi được mùi hương của chư Thiên ở trên trời, mùi hương cây ba lợi chất đa la, câu tì đà la, và mùi hương hoa mạn đà la, mùi hương hoa ma ha mạn đà la, mùi hương hoa mạn thù sa, mùi hương hoa ma ha mạn thù sa, các thứ hương bột chiên đàn, trầm thủy, các thứ hương của các loại hoa. Các mùi hương trời hòa hợp tỏa ra như thế, chẳng có mùi hương nào mà chẳng ngửi biết được.

                  Lại ngửi được mùi hương thân của chư Thiên, mùi hương khi Thích Ðề Hoàn Nhân ở trong Thắng Ðiện, đùa giỡn vui chơi hưởng thụ năm dục, hoặc mùi hương khi ở trong Diệu Pháp Ðường, vì chư Thiên trời Ðao Lợi thuyết pháp, hoặc mùi hương khi ở trong vườn dạo chơi, và mùi hương người nam, người nữ, của các vị trời khác, thảy đều ngửi biết được.

                  Như thế, lần lượt đến trời Ðại Phạm. Trên đến trời Hữu Ðỉnh, mùi hương nơi thân của chư Thiên cũng đều ngửi được, mùi hương đốt của chư thiên, và mùi hương của Thanh Văn, mùi hương của Bích Chi Phật, mùi hương của Bồ Tát, mùi hương thân của chư Phật, cũng đều ngửi được, và biết ở đâu. Tuy ngửi được những mùi hương đó, mà căn mũi chẳng hư, chẳng sai lầm. Nếu muốn phân biệt giải nói cho người khác, thì nhớ nghĩ chẳng quên.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Người đó mũi thanh tịnh

                  Ở trong thế giới này

                  Hoặc vật thơm hay hôi

                  Các thứ đều ngửi được.

                  Tu mạn na xa đề

                  Ða ma la chiên đàn

                  Trầm thủy và hương quế

                  Các thứ hương hoa quả.

                  Và hương các chúng sinh

                  Hương người nam người nữ

                  Người thuyết pháp ở xa

                  Ngửi hương biết chỗ nào.

                  Ðại thế chuyển luân vương

                  Tiểu chuyển luân và con

                  Quần thần các cung nhân

                  Ngửi hương biết chỗ nào.

                  Thân mang các châu báu

                  Và tạng báu trong đất

                  Chuyển luân vương nữ báu

                  Ngửi hương biết ở đâu.

                  Mọi người thân trang sức

                  Quần áo và chuỗi ngọc

                  Và các thứ hương xoa

                  Ngửi hương đều biết rõ.

                  Chư thiên đi hoặc ngồi

                  Ðùa giỡn và thần biến

                  Người trì kinh pháp này

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Các cây hoa quả thật

                  Và dầu tô hương vị

                  Người trì kinh ở đây

                  Biết rõ ở chỗ nào.

                  Nơi núi sâu nguy hiểm

                  Cây chiên đàn nở hoa

                  Chúng sinh ở trong đó

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Núi Thiết Vi biển cả

                  Các chúng sinh trong đất

                  Người trì kinh ngửi hương

                  Ðều biết ở chỗ nào.

                  Nam nữ A tu la

                  Và quyến thuộc của họ

                  Khi đấu tranh vui đùa

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Nơi khoáng dã nguy hiểm

                  Sư tử voi hổ lang

                  Bò hoang trâu nước thảy

                  Ngửi mùi biết chỗ ở.

                  Nếu có người mang thai

                  Chưa biết trai hay gái

                  Vô căn và phi nhân

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Bởi nhờ sức ngửi hương

                  Biết được sự mang thai

                  Thành tựu chẳng thành tựu

                  An lạc sinh quý tử.

                  Bởi nhờ sức ngửi hương

                  Biết nam nữ nghĩ gì

                  Tâm nhiễm dục sân si

                  Cũng biết người tu thiện.

                  Trong đất có kho tàng

                  Vàng bạc các châu báu

                  Ðồ đồng dùng đựng chứa

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Ðủ thứ các chuỗi ngọc

                  Không biết được giá cả

                  Ngửi hương biết tốt xấu

                  Xuất xứ và ở đâu.

                  Các thứ hoa trên trời

                  Mạn đà mạn thù sa

                  Cây ba lợi chất đa

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Các cung điện trên trời

                  Thượng trung hạ khác nhau

                  Các hoa báu trang nghiêm

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Vườn rừng Thắng Ðiện trời

                  Các quán Diệu Pháp Ðường

                  Vui đùa ở trong đó

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Chư thiên hoặc nghe pháp

                  Hoặc khi thọ năm dục

                  Lai vãng đi ngồi nằm

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Y phục thiên nữ mặc

                  Hương hoa quý trang nghiêm

                  Khi đi dạo du hí

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Như vậy lần lượt lên

                  Cho đến trời Phạm Thế

                  Người nhập thiền xuất thiền

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Trời Quang Âm Biến Tịnh

                  Cho đến trời Hữu Ðỉnh

                  Sơ sinh và đến chết

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Các chúng Tỳ Kheo thảy

                  Với pháp thường tinh tấn

                  Hoặc ngồi hoặc kinh hành

                  Và đọc tụng kinh điển.

                  Hoặc dưới cây trong rừng

                  Chuyên tinh tấn ngồi thiền

                  Người trì kinh ngửi hương

                  Ðều biết họ ở đâu.

                  Bồ Tát chí vững chắc

                  Ngồi thiền hoặc đọc tụng

                  Hoặc vì người nói pháp

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Thế Tôn trong mười phương

                  Ðược tất cả cung kính

                  Thương chúng mà nói pháp

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Chúng sinh ở trước Phật

                  Nghe kinh đều hoan hỷ

                  Như pháp mà tu hành

                  Ngửi hương đều biết được.

                  Tuy chưa được vô lậu

                  Pháp sinh tỹ Bồ Tát

                  Mà người trì kinh này

                  Trước được tướng mũi này.

                   Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi. Hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở, và các đồ đắng cay, khi đến căn lưỡi, thì đều biến thành vị thượng diệu như là cam lồ, chẳng có gì mà không ngon. Hoặc dùng căn lưỡi ở trong đại chúng diễn nói pháp thâm sâu vi diệu, khiến cho tâm của người nghe, đều hoan hỷ sung sướng. Lại có các Thiên tử, Thiên nữ, các vị trời Ðế Thích, Phạm Thiên .v.v... nghe được âm thanh diễn nói pháp vi diệu như thế, lời nói có thứ lớp thì đều đến nghe. Và các rồng, rồng nữ, Dạ Xoa, Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà, Càn Thát Bà nữ, A tu la, A tu la nữ, Ca Lâu Na, Ca Lâu Na nữ, Khẩn Na La, Khẩn Na La nữ, Ma Hầu La Già, Ma Hầu La Già nữ, vì nghe pháp mà đến gần gũi cung kính cúng dường. Và Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, thái tử, quần thần quyến thuộc, tiểu chuyển luân vương, đại chuyển luân vương, bảy báu, ngàn người con, quyến thuộc nội ngoại, đều ngồi cung điện đến để nghe pháp. Bởi Bồ Tát đó khéo nói pháp, cho nên các Bà la môn, cư sĩ nhân dân trong nước, suốt đời theo hầu hạ cúng dường.

                   Lại nữa, các vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật, thường ưa thấy vị pháp sư đó. Vị đó ở đâu, thì chư Phật đều hướng về vị đó nói pháp, vị đó đều thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra pháp âm thâm sâu vi diệu.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Căn lưỡi người đó tịnh

                  Trọn chẳng thọ vị dở

                  Người đó ăn những gì

                  Ðều biến thành cam lồ.

                  Dùng tiếng diệu thâm tịnh

                  Trong đại chúng nói pháp

                  Dùng nhân duyên ví dụ

                  Dẫn dắt tâm chúng sinh.

                  Người nghe đều hoan hỷ

                  Sắm các thứ cúng dường.

                  Các trời rồng Dạ Xoa

                  Và A tu la thảy

                  Ðều dùng tâm cung kính

                  Cùng đến để nghe pháp.

                  Người đó diễn nói pháp

                  Hoặc muốn dùng diệu âm

                  Vang khắp ba ngàn cõi

                  Tùy ý bèn đến được.

                  Vua luân vương lớn nhỏ

                  Và ngàn con quyến thuộc

                  Chắp tay tâm cung kính

                  Thường đến nghe thọ pháp.

                  Các trời rồng Dạ Xoa

                  La sát Tỳ xá xà

                  Cũng dùng tâm hoan hỷ

                  Thường thích đến cúng dường.

                  Trời Phạm Thiên ma vương

                  Tự Tại Ðại Tự Tại

                  Hết thảy các Thiên chúng

                  Thường đến chỗ người đó.

                  Chư Phật và đệ tử

                  Nghe người đó nói pháp

                  Thường nhớ mà bảo hộ

                  Hoặc có khi hiện thân.

                   Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được tám trăm công đức nơi thân, được thân thanh tịnh như lưu ly, chúng sinh đều thích thấy. Vì thân người đó thanh tịnh, cho nên chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, khi sinh, khi chết, trên trời, dưới địa ngục, tốt xấu, sinh về chỗ lành, sinh về chỗ dữ, thảy đều hiện ra trong thân người đó. Và núi Thiết Vi, núi đại Thiết Vi, núi Di Lâu, núi đại Di Lâu, hết thảy các núi, và chúng sinh ở trong đó, đều hiện ra trong đó. Dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, hết thảy cảnh giới và tất cả chúng sinh, đều hiện ra ở trong đó. Hoặc hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, đều hiện ra hình bóng ở trong thân người đó.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Nếu người trì Pháp Hoa

                  Ðược thân rất thanh tịnh

                  Tịnh như là lưu ly

                  Chúng sinh đều ưa thấy.

                  Lại tịnh như gương sáng

                  Ðều thấy các hình bóng

                  Bồ Tát nơi thân tịnh

                  Ðều thấy toàn thế giới.

                  Chỉ riêng mình thấy rõ

                  Người khác chẳng thấy được.

                  Trong ba ngàn thế giới

                  Tất cả hữu vô tình

                  Trời người A tu la

                  Ðịa ngục quỷ súc sinh.

                  Các hình bóng như thế

                  Ðều hiện ra trong thân.

                  Cung điện của chư Thiên

                  Cho đến trời Hữu Ðỉnh

                  Núi Thiết và Di Lâu

                  Các biển cả sông ngòi

                  Ðều hiện ra trong thân.

                  Chư Phật và Thanh Văn

                  Phật tử Bồ Tát thảy

                  Hoặc riêng hoặc trong chúng

                  Nói pháp đều hiện ra.

                  Tuy chưa được vô lậu

                  Và pháp tánh diệu thân

                  Dùng thân thanh tịnh thường

                  Tất cả hiện trong đó.

                   Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, mà thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ ý căn thanh tịnh đó, cho đến nghe một bài kệ, một câu, mà thông đạt được nghĩa lý vô lượng vô biên. Hiểu nghĩa lý đó rồi, mà có thể diễn nói một câu kinh, một bài kệ, thậm chí giảng đến một tháng, bốn tháng, cho đến một năm. Các pháp nói ra, tùy theo nghĩa lý đều hợp với thật tướng, chứ chẳng trái ngược với thật tướng, hoặc nói kinh sách thế gian, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp làm ăn, thảy đều hợp với chánh pháp. Sáu đường chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, tâm nghĩ gì, tâm khởi làm những gì, và tâm hí luận, thảy đều biết rõ. Tuy chưa được trí huệ vô lậu, mà căn ý của người đó thanh tịnh như thế. Người đó có suy nghĩ tính toán nói năng đều là Phật pháp, chẳng có gì mà chẳng chân thật, cũng là đạo lý ở trong kinh trước kia Phật đã nói.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Người đó ý thanh tịnh

                  Sáng suốt chẳng vẩn đục

                  Nhờ căn diệu ý đó

                  Biết pháp thượng trung hạ.

                  Cho đến nghe bài kệ

                  Thông đạt vô lượng nghĩa

                  Thứ lớp như pháp nói

                  Tháng bốn tháng một năm.

                  Trong ngoài thế giới đó

                  Tất cả các chúng sinh

                  Hoặc trời rồng và người

                  Chúng dạ xoa quỷ thần.

                  Tất cả trong sáu đường

                  Khởi suy nghĩ những gì

                  Nhờ trì Kinh Pháp Hoa

                  Ðồng thời đều biết rõ.

                  Vô số Phật mười phương

                  Trăm phước tướng trang nghiêm

                  Vì chúng sinh nói pháp

                  Khiến họ nghe thọ trì.

                  Suy gẫm vô lượng nghĩa

                  Thuyết pháp cũng vô lượng

                  Trọn chẳng quên hoặc sai

                  Do nhờ trì Pháp Hoa.

                  Ðều biết tướng các pháp

                  Theo nghĩa nói thứ lớp

                  Rõ danh từ lời lẽ

                  Theo sự biết diễn nói.

                  Người đó nói những gì

                  Ðều là pháp Phật nói

                  Bởi nhờ nói pháp đó

                  Nên trước chúng chẳng sợ.

                  Người trì Kinh Pháp Hoa

                  Ðược căn ý thanh tịnh

                  Tuy chưa được vô lậu

                  Trước có tướng như thế.

                  Người đó trì kinh này

                  An trụ nơi hi hữu

                  Ðược tất cả chúng sinh

                  Hoan hỷ và thương kính.

                  Hay dùng ngàn vạn thứ

                  Lời lẽ rất khéo léo

                  Ðể phân biệt diễn nói

                  Bởi trì Kinh Pháp Hoa.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh thứ Hai Mươi  

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Ðắc Ðại Thế: Ông nay nên biết, nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, thọ trì Kinh Pháp Hoa, nếu có người ác khẩu mắng chưởi phỉ báng, thì sẽ mắc tội báo lớn, như trước đã nói. Người trì Kinh Pháp Hoa được công đức cũng như ở trước đã nói, mắt tai mũi lưỡi đều thanh tịnh.

                   Ðắc Ðại Thế! Vào thuở xa xưa, đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng kỳ không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Ðại Thành.

                   Ðức Phật Uy Âm Vương ở trong cõi nước đó, vì các hàng trời, người, A tu la mà nói pháp. Vì người cầu Thanh Văn nói pháp tứ diệu đế, độ thoát sinh già bệnh chết, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật nói pháp mười hai nhân duyên. Vì các Bồ Tát cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác nói pháp sáu Ba la mật, đạt đến trí huệ cứu kính của Phật.

                   Ðắc Ðại Thế! Ðức Phật Uy Âm Vương đó, thọ bốn mươi vạn ức Na do tha Hằng hà sa số kiếp. Chánh pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của cõi Diêm Phù Ðề, tượng pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của bốn thiên hạ. Ðức Phật đó, lợi ích chúng sinh rồi, sau đó mới diệt độ.

                   Sau khi chánh pháp và tượng pháp diệt rồi, ở cõi nước đó, lại có Phật ra đời cũng hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như thế lần lượt có hai vạn ức đức Phật, cũng đều cùng một hiệu. Sau khi Đức Phật Uy Âm Vương đầu tiên diệt độ rồi, chánh pháp cũng diệt rồi, thì trong thời tượng pháp, hàng Tỳ Kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có một Bồ Tát Tỳ Kheo tên là Thường Bất Khinh.

                   Ðắc Ðại Thế! Do nhân duyên gì mà tên là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ Kheo đó, bất cứ gặp ai, hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Ta rất kính các vị, chẳng dám khinh khi. Tại sao? Vì các vị đều hành Bồ Tát đạo, đều sẽ thành Phật. Mà vị Tỳ Kheo đó, chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ lễ lạy, cho đến ở xa thấy bốn chúng, cũng đều cố đến gần lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật.

                   Ở trong bốn chúng, có người sinh tâm sân hận chẳng thanh tịnh, ác khẩu mắng chưởi nói: Vị Tỳ Kheo vô trí này, từ đâu đến, mà tự nói là tôi chẳng khinh các vị, mà thọ ký cho chúng ta sẽ được thành Phật, chúng ta chẳng nhận lời thọ ký hư vọng như thế. Trải qua nhiều năm như thế, thường bị mắng chưởi mà chẳng sinh tâm sân hận. Thường nói như vầy: Các vị sẽ thành Phật. Khi nói lời đó, thì mọi người hoặc dùng gậy ngói đá đánh ném. Ngài bèn chạy trốn thật xa, mà vẫn lớn tiếng nói: Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Bởi thường nói lời như thế, cho nên hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn gọi Ngài là Thường Bất Khinh. Khi vị Tỳ Kheo đó sắp lâm chung, thì ở trong hư không, nghe đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ Kinh Pháp Hoa, của Đức Phật Uy Âm Vương nói trước kia. Ngài nghe rồi thọ trì, bèn được căn mắt thanh tịnh, căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đều thanh tịnh như đã nói ở trên. Ðược sáu căn thanh tịnh rồi, thì càng tăng tuổi thọ đến hai trăm vạn ức Na do tha tuổi, rộng vì người nói Kinh Pháp Hoa này.

                  Bấy giờ, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn khinh khi vị đó, đặt tên là Thường Bất Khinh, thấy vị đó đắc được sức đại thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, tâm lương thiện. Nghe vị đó nói pháp, đều tin thọ đi theo. Vị Bồ Tát đó, lại giáo hóa hàng ngàn vạn ức chúng, khiến cho họ trụ nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng chung, được gặp hai ngàn ức vị Phật, đều hiệu là Nhật Nguyệt Ðăng Minh. Ở trong pháp đó, thường nói Kinh Pháp Hoa này. Bởi nhân duyên đó, lại được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng hiệu là Vân Tự Tại Ðăng Vương. Ở trong pháp của các Đức Phật đó, đều thọ trì đọc tụng, vì bốn chúng nói kinh điển này, cho nên được mắt thường thanh tịnh, tai mũi lưỡi thân ý các căn đều thanh tịnh. Ở trong bốn chúng nói pháp tâm chẳng sợ hãi.

                   Ðắc Ðại Thế! Ðại Bồ Tát Thường Bất Khinh đó, cúng dường hết thảy các vị Phật như thế, cung kính tôn trọng khen ngợi, trồng các căn lành. Về sau, lại gặp ngàn vạn ức Đức Phật, cũng ở trong pháp của các vị Phật đó, diễn nói kinh này, công đức thành tựu sẽ được thành Phật.

                   Ðắc Ðại Thế! Ý ông thế nào? Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở đó là người nào vậy? Chính là thân ta. Nếu trong đời quá khứ, ta chẳng thọ trì đọc tụng kinh này, chẳng vì người khác diễn nói, thì không thể sớm được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì trước kia, ta ở chỗ các Đức Phật thọ trì đọc tụng kinh này, vì người diễn nói, nên sớm được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Ðắc Ðại Thế! Lúc đó, bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, dùng tâm sân hận khinh tiện ta, cho nên trải qua hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng. Ngàn kiếp ở trong địa ngục A Tỳ thọ đại khổ não, hết tội đó rồi, lại gặp Bồ Tát Thường Bất Khinh, giáo hóa cho họ đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Ðắc Ðại Thế! Ý ông thế nào? Bốn chúng thường khinh khi Bồ Tát Thường Bất Khinh, đâu phải là ai khác, nay ở trong hội này, đó là Bạt Ðà Bà La cả thảy năm trăm vị Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt cả thảy năm trăm vị Tỳ Kheo, Ni Tư Phật cả thảy năm trăm vị cư sĩ nam, đều chẳng thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

                   Ðắc Ðại Thế! Nên biết Kinh Pháp Hoa này, lợi ích rất lớn cho các đại Bồ Tát, khiến cho đạt đến quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bởi thế, các đại Bồ Tát sau khi Như Lai diệt độ, thường hay thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Quá khứ có Phật

                  Hiệu Uy Âm Vương

                  Thần trí vô lượng

                  Dẫn dắt tất cả.

                  Trời người rồng thần

                  Cùng đến cúng dường

                  Phật đó diệt rồi

                  Lúc pháp sắp diệt.

                  Có một Bồ Tát

                  Tên Thường Bất Khinh

                  Khi đó bốn chúng

                  Chấp trước nơi pháp.

                  Bồ Tát Bất Khinh

                  Ði đến chỗ họ

                  Bèn nói lời rằng:

                  Tôi chẳng khinh Ngài.

                  Các Ngài hành đạo

                  Ðều sẽ thành Phật

                  Mọi người nghe rồi

                  Khinh khi mắng chưởi.

                  Bồ Tát Bất Khinh

                  Chịu đựng nhẫn nhục

                  Tội nghiệp hết rồi

                  Khi sắp lâm chung.

                  Nghe được kinh này

                  Sáu căn thanh tịnh

                  Nhờ sức thần thông

                  Tăng thêm tuổi thọ.

                  Lại vì mọi người

                  Rộng nói kinh này

                  Những người chấp pháp

                  Ðều nhờ Bồ Tát.

                  Giáo hóa thành tựu

                  Khiến trụ Phật đạo

                  Bất Khinh mạng chung

                  Gặp vô số Phật.

                  Nhờ nói kinh này

                  Ðược vô lượng phước

                  Dần đủ công đức

                  Sớm thành Phật đạo.

                  Bất Khinh thuở đó

                  Tức là thân ta.

                  Bốn bộ chúng đó

                  Những người chấp pháp

                  Nghe Bất Khinh nói

                  Ông sẽ thành Phật.

                  Bởi nhân duyên đó

                  Gặp vô số Phật

                  Bồ Tát hội này

                  Chúng năm trăm người.

                  Và bốn bộ chúng

                  Thiện nam tín nữ

                  Nay ở trước ta

                  Nghe kinh pháp này.

                  Ta ở đời trước

                  Khuyên những người đó

                  Nghe thọ kinh này

                  Là pháp bậc nhất.

                  Khai thị dạy người

                  Khiến trụ Niết Bàn

                  Ðời đời thọ trì

                  Kinh điển như thế.

                  Ức ức vạn kiếp

                  Không thể nghĩ bàn

                  Nên mới được nghe

                  Kinh Pháp Hoa này.

                  Ức ức vạn kiếp

                  Không thể nghĩ bàn

                  Chư Phật Thế Tôn

                  Diễn nói kinh này.

                  Bởi thế hành giả

                  Sau Phật diệt độ

                  Nghe được kinh này

                  Chớ sinh nghi hoặc.

                  Hãy nên một lòng

                  Rộng nói kinh này

                  Ðời đời gặp Phật

                  Sớm thành Phật đạo.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Thần Lực Của Như Lai thứ Hai Mươi Mốt 

                  Bấy giờ, số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ngàn thế giới, từ dưới đất vọt lên, đều ở trước Đức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật, mà bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con đợi sau khi Phật diệt rồi, chỗ Đức Thế Tôn phân thân ở các cõi nước diệt độ rồi, chúng con sẽ rộng nói kinh này.

                  Tại sao? Vì chúng con cũng muốn tự mình được chân tịnh đại pháp, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, cúng dường kinh này. 

                  Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trước tất cả đại chúng Văn Thù Sư Lợi, vô lượng trăm ngàn vạn ức đại Bồ Tát xưa kia trụ ở thế giới Ta Bà, và các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, hiện sức đại thần thông, bày tướng lưỡi rộng dài lên đến cõi trời Ðại Phạm.

                  Tất cả lỗ chân lông, đều phóng ra vô lượng vô số màu sắc quang minh, chiếu soi khắp mười phương thế giới. Chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu, cũng lại như thế, bày tướng lưỡi rộng dài, phóng ra vô lượng quang minh.

                   Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật ở dưới cây báu, đều hiện thần lực trọn trăm ngàn năm, sau đó mới nhiếp tướng lưỡi lại, đồng thời phát ra tiếng cười nói nhỏ nhẹ, và tiếng gảy móng tay. Hai âm thanh đó, vang đến khắp thế giới của chư Phật trong mười phương, mặt đất đều sáu thứ chấn động.

                   Chúng sinh ở trong đó: Trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, nhờ thần lực của Phật, nên đều thấy thế giới Ta Bà này. Ở dưới vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các cây báu, đều có chư Phật ngồi trên tòa sư tử, và thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với Đức Ða Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo tháp. 

                  Lại thấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức vị đại Bồ Tát, và hàng bốn chúng cung kính vây quanh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ thấy như vậy rồi, thảy đều đại hoan hỷ được chưa từng có. 

                  Lúc đó, chư Thiên ở trong hư không lớn tiếng xướng lên rằng: Qua đây vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi nước Ta Bà, trong đó có vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Hôm nay vì các đại Bồ Tát nói kinh đại thừa, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Các vị nên thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ lạy cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. 

                  Các chúng sinh đó, nghe tiếng nói ở trong hư không rồi, đều chắp tay hướng về thế giới Ta Bà mà nói rằng: Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, dùng các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, phan lọng, và các thứ đồ nghiêm thân, châu báu vật quý giá, đều từ xa rải xuống thế giới Ta Bà.

                   Các thứ vật rải xuống đến từ mười phương, giống như mây tụ lại, biến thành màn báu, che khắp phía trên các Đức Phật. Lúc đó, mười phương thế giới thông đạt vô ngại như một cõi Phật.

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo đại chúng thượng hạnh Bồ Tát: Thần lực của chư Phật như thế, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Nếu ta dùng thần lực đó, trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, để chúc luỹ nói công đức của kinh này, thì không thể nói hết được. Tóm lại, hết thảy tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả việc thâm sâu của Như Lai, đều diễn nói hiển bày ở trong kinh này. Bởi thế, sau khi Như Lai diệt rồi, các ông nên một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, theo như pháp mà tu hành. Dù ở trong cõi nước nào, nếu có người thọ trì đọc tụng, giải nói biên chép, theo như trong kinh nói mà tu hành. Hoặc nơi nào có kinh này, hoặc ở trong vườn, hoặc ở trong rừng, hoặc ở dưới cây, hoặc ở phòng Tăng, hoặc ở nhà cư sĩ, hoặc ở trong Phật điện, hoặc ở hang núi khoáng dã, đều nên xây tháp cúng dường. Tại sao? Nên biết nơi đó tức là đạo tràng, chư Phật từ nơi đó mà đắc được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chư Phật từ nơi đó mà chuyển bánh xe pháp, chư Phật từ nơi đó mà vào Niết Bàn.

                   Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

                  Chư Phật bậc cứu đời

                  Trụ nơi đại thần thông

                  Vì khiến chúng sinh vui

                  Hiện vô lượng thần lực.

                  Tướng lưỡi đến Phạm Thiên

                  Thân phóng vô lượng quang

                  Vì người cầu Phật đạo

                  Hiện việc ít có này.

                  Tiếng chư Phật cười nói

                  Và tiếng gảy móng tay

                  Ðều vang khắp mười phương

                  Ðất sáu thứ chấn động.

                  Sau Phật diệt độ rồi

                  Vì hay trì kinh này

                  Chư Phật đều hoan hỷ

                  Hiện vô lượng thần lực.

                  Bởi chúc luỹ kinh này

                  Khen ngợi người thọ trì

                  Ở trong vô lượng kiếp

                  Không thể nói hết được.

                  Công đức của người đó

                  Vô biên không cùng tận

                  Như mười phương hư không

                  Chẳng biết được bờ mé.

                  Người hay trì kinh này

                  Tức là đã thấy ta

                  Cũng thấy Phật Ða Bảo

                  Và các Phật phân thân.

                  Lại thấy ta hôm nay

                  Giáo hóa các Bồ Tát.

                  Người hay trì kinh này

                  Khiến ta và phân thân

                  Phật Ða Bảo diệt độ

                  Hết thảy đều hoan hỷ.

                  Mười phương Phật hiện tại

                  Và quá khứ vị lai

                  Cũng thấy cũng cúng dường

                  Cũng khiến được hoan hỷ.

                  Chư Phật ngồi đạo tràng

                  Ðắc được pháp bí yếu

                  Người hay trì kinh này

                  Chẳng lâu cũng sẽ được.

                  Người hay trì kinh này

                  Nơi nghĩa của các pháp

                  Danh từ và lời lẽ

                  Nhạo thuyết không tận cùng.

                  Như gió trong hư không

                  Tất cả chẳng chướng ngại.

                  Sau Như Lai diệt rồi

                  Hiểu kinh của Phật nói

                  Nhân duyên và thứ lớp

                  Theo nghĩa nói như thật.

                  Như ánh sáng nhật nguyệt

                  Phá trừ sự tối tăm

                  Người đó tại thế gian

                  Diệt được tối chúng sinh.

                  Dạy vô lượng Bồ Tát

                  Rốt ráo trụ một thừa

                  Cho nên người có trí

                  Nghe rồi được công đức.

                  Sau ta diệt độ rồi

                  Nên thọ trì kinh này

                  Người đó trụ Phật đạo

                  Chắc chắn không còn nghi.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Chúc Lũy thứ Hai Mươi Hai 

                  Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca từ pháp tòa đứng dậy, hiện sức đại thần thông, dùng tay phải rờ đầu vô lượng đại Bồ Tát mà nói rằng: Ta ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác khó được này. Nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên một lòng truyền bá pháp này, khiến cho chúng sinh được nhiều pháp ích. Rờ đầu các vị đại Bồ Tát như thế ba lần, bèn nói rằng: Ta ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác khó được này. Hôm nay phó chúc cho các ông, các ông nên thọ trì, đọc tụng, rộng nói pháp này, khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết. Tại sao? Vì Như Lai có đại từ bi, chẳng có san tham, cũng chẳng có sợ hãi, có thể ban cho chúng sinh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai, trí huệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sinh. Các ông cũng nên theo học pháp của Như Lai, chớ sinh tâm san tham. 

                  Ở đời vị lai sau này, nếu có người thiện nam, người thiện nữ, tin trí huệ của Như Lai, thì nên vì họ diễn nói Kinh Pháp Hoa này, khiến cho họ được nghe biết, vì muốn khiến cho họ đắc được trí huệ của Phật. Nếu có chúng sinh chẳng tin nhận thọ trì kinh này, thì nên đem pháp thâm sâu khác của Như Lai, mà khai thị giáo hóa họ, khiến cho họ được lợi ích sinh tâm hoan hỷ. Nếu các ông làm được như thế, tức là đã báo được ân đức của chư Phật.

                   Lúc đó, các vị đại Bồ Tát nghe Đức Phật nói như thế rồi, thảy đều đại hoan hỷ, khắp toàn thân đều thêm cung kính, khom mình cúi đầu chắp tay hướng về Đức Phật đồng nói rằng: Như lời Đức Thế Tôn dạy, chúng con sẽ phụng hành, xin Đức Thế Tôn đừng có lo lắng.

                  Các vị đại Bồ Tát bạch như thế ba lần, đều cùng nhau nói: Như lời Đức Thế Tôn dạy, chúng con đều sẽ phụng hành, xin Đức Thế Tôn đừng có lo lắng.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khiến cho các Đức Phật phân thân đến từ mười phương, đều trở về nước của các Ngài mà nói rằng: Các Đức Phật hãy trở về chỗ của mình, tháp của Đức Phật Ða Bảo cũng trở về chỗ cũ. Khi nói lời đó, thì vô lượng phân thân chư Phật trong mười phương, ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, và Đức Phật Ða Bảo, cùng với vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát thượng hạnh, Ngài Xá Lợi Phất, hàng Thanh Văn bốn chúng, và tất cả thế gian, trời, người, A tu la, nghe lời Đức Phật nói, thảy đều đại hoan hỷ.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương thứ Hai Mươi Ba 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đến thế giới Ta Bà như thế nào? Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đó, có bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha sự khổ hạnh khó làm? Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy nói ra một ít. Chư Thiên, rồng, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người. Lại có các Bồ Tát từ cõi nước khác đến, và chúng Thanh Văn ở đây nghe được đều rất hoan hỷ.

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: Thuở xưa, trải qua vô lượng số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, có vị Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật đó, có tám mươi ức vị đại Bồ Tát, bảy mươi hai Hằng hà sa chúng đại Thanh Văn. Ðức Phật đó, thọ mạng bốn vạn hai nghìn kiếp, Bồ Tát thọ mạng cũng đồng nhau.

                  Cõi nước đó, chẳng có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, cũng chẳng có các hoạn nạn. Mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng như bàn tay, cây báu trang nghiêm, màn báu che phía trên. Lại có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, bình báu lư hương, khắp trong cõi nước đó. Bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Từ cây đến đài cách một đường tên. Dưới các cây báu đó, đều có các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn ngồi. Ở trên các đài báu, mỗi đài đều có trăm ức chư Thiên diễn tấu âm nhạc, ca xướng, khen ngợi Phật để cúng dường.

                   Bấy giờ, Đức Phật đó vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, và các chúng Bồ Tát, các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, thích tu khổ hạnh, bèn ở trong pháp của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu Phật đạo. Trọn một vạn hai ngàn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân. Ðược tam muội đó rồi, thì tâm rất hoan hỷ, bèn nghĩ như vầy: Ta được tam muội hiện tất cả sắc thân, đều là do nghe Kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức và Kinh Pháp Hoa. Lập tức, nhập vào tam muội đó, ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, bột hương kiên hắc chiên đàn, đầy khắp ở trong hư không, như mây giăng bủa, lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn chiên đàn. Hương đó lục thù giá trị như một thế giới Ta Bà, dùng để cúng dường Đức Phật. Cúng dường như thế rồi, từ tam muội dậy, bèn tự nghĩ rằng: Tuy ta dùng thần lực cúng dường Đức Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường, bèn thoa các thứ hương thơm chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất lực ca, trầm thủy giao hương. Lại uống thiềm bặc, các thứ dầu thơm của hoa. Trọn một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng dầu thơm thoa thân, ở trước Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, dùng y báu trời mà quấn vào thân mình, lại tưới các thứ dầu thơm, dùng sức thần thông nguyện lực mà tự đốt thân, ánh sáng chiếu soi khắp tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.

                   Chư Phật ở trong các cõi nước đó, đồng thời khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ðó mới là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, phan lọng bằng lụa cõi trời, và hương hải thử ngạn chiên đàn, cúng dường các thứ đồ vật như thế, không thể bằng được, nếu đem đất nước vợ con bố thí, cũng chẳng bằng được. 

                  Thiện nam tử! Ðó là bố thí bậc nhất ở trong các sự bố thí, là trên hơn hết, vì dùng pháp cúng dường các Đức Như Lai. Nói lời đó rồi, thảy đều yên lặng. Thân Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, đốt cháy trải qua một ngàn hai trăm năm mới cháy hết. 

                  Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến theo như pháp cúng dường rồi. Sau khi mạng chung, lại sinh vào trong nước của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, sinh ra trong nhà vua Tịnh Ðức, ngồi kiết già, hốt nhiên hóa sinh, bèn vì vua cha mà nói kệ rằng:

                   Nay đại vương nên biết!

                  Con tu hành chốn kia

                  Lập tức được tam muội

                  Hiện tất cả sắc thân.

                  Siêng hành đại tinh tấn

                  Bỏ sự thương tiếc thân

                  Cúng dường Đức Thế Tôn

                  Ðể cầu vô thượng trí.

                   Nói bài kệ đó rồi, bèn bạch vua cha rằng: Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, hiện nay vẫn còn, trước hết con cúng dường Đức Phật rồi, đắc được Ðà la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, lại nghe Kinh Pháp Hoa này, gồm có tám trăm ngàn vạn ức Na do tha, chân ca la, tần bà la, a môn bà, bài kệ.

                   Ðại vương! Nay con sẽ trở lại cúng dường Đức Phật đó. Nói rồi bèn ngồi trên đài bảy báu, thăng lên hư không cao bảy cây đa la, đến chỗ Đức Phật rồi, cúi đầu đảnh lễ, chắp tay lại dùng kệ để khen ngợi Đức Phật:

                   Dung nhan rất xinh đẹp

                  Quang minh chiếu mười phương

                  Trước con từng cúng dường

                  Nay trở lại gặp Phật.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ đó rồi, bèn bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Ðức Thế Tôn vẫn còn ở đời ư?

                   Bấy giờ, Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: Thiện nam tử! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên xếp đặt giường tòa, ta trong đêm nay sẽ vào Niết Bàn. 

                  Lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng: Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp phó chúc cho ông, và các Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng đem ba ngàn đại thiên thế giới bảy báu, các cây báu, đài báu, và cung cấp chư Thiên hầu hạ, thảy đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt độ, hết thảy xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên truyền bá, rộng thiết lập cúng dường, nên xây hàng ngàn ngôi tháp. Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như thế rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn. 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Đức Phật diệt độ, thì rất buồn rầu, thảm não luyến mộ Đức Phật, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn cúng dường thân Phật, để hỏa thiêu thân của Ngài. Sau khi lửa tắt, thu lấy xá lợi, phân chia ra tám vạn bốn ngàn bình báu, xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, cao ba thế giới, biểu sát trang nghiêm, thòng rũ các phan lọng, và treo các linh báu. 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ rằng: Tuy ta cúng dường như thế, tâm vẫn cảm thấy chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá lợi, bèn nói với các Bồ Tát đại đệ tử, và trời rồng dạ xoa, hết thảy tất cả đại chúng, các ông nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta cúng dường xá lợi của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức. Nói lời đó rồi, bèn ở trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, trải qua bảy vạn hai ngàn năm dùng để cúng dường, khiến cho vô số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng A tăng kỳ người phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều khiến cho trụ vào tam muội hiện tất cả sắc thân.

                  Bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A tu la thảy, đều thấy vị Bồ Tát đó chẳng có cánh tay, thì rất buồn rầu bi ai, bèn nói rằng: Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến này, là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt đi cánh tay, thân chẳng còn đầy đủ.

                   Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ nguyện rằng: Tôi xả bỏ cánh tay, tất sẽ được thân sắc vàng của Phật, nếu thật không hư, thì khiến cho cánh tay của tôi hoàn lại như cũ, thệ nguyện vừa xong, thì cánh tay tự nhiên hoàn lại. Bởi do Bồ Tát đó phước đức trí huệ sâu dày, nên được như thế.

                   Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới đều sáu thứ chấn động, trời mưa xuống hoa báu, tất cả trời người được chưa từng có.

                   Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: Ý của ông thế nào? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đâu phải là ai xa lạ, nay là Bồ Tát Dược Vương này vậy, vị đó xả thân bố thí như thế, vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha số lần. 

                  Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm muốn được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân, cúng dường tháp Phật, còn hơn là người dùng đất nước vợ con, và ba ngàn đại thiên thế giới, núi rừng sông ngòi, các châu báu, mà cúng dường. Hoặc lại có người, dùng bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới, để cúng dường Phật và đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, công đức của người đó đắc được, chẳng bằng thọ trì Kinh Pháp Hoa này, cho đến một bài kệ bốn câu, thì phước này thắng hơn phước kia. 

                  Tú Vương Hoa! Ví như nước trong sông ngòi, kinh rạch, thì biển là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Như Lai nói, là sâu rộng lớn nhất. Lại như: Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh là trên hết. Lại như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh pháp, thì kinh này chiếu sáng nhất. Lại như mặt trời chiếu phá mọi sự tối tăm, Kinh này cũng lại như thế, hay phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện. Lại như trong các ông vua, thì vua chuyển luân thánh vương là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh là tôn quý hơn hết.

                   Lại như trời Ðế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba. Kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh. Lại như vua Ðại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Kinh này cũng lại như thế, là cha của tất cả các bậc hiền Thánh học vô học, và những người phát tâm Bồ Tát. Lại như, trong tất cả những người phàm phu, Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, thì Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Phật nói, hoặc Bồ Tát nói, hoặc Thanh Văn nói, thì kinh này là bậc nhất. Có người hay thọ trì kinh này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sinh cũng là bậc nhất. Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, là bậc nhất ở trong tất cả kinh pháp. Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh. 

                  Tú Vương Hoa! Kinh này hay cứu hộ tất cả chúng sinh, kinh này hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa các khổ não, kinh này làm lợi ích rất lớn cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được mãn nguyện. Như hồ nước mát mẻ, hay khiến cho tất cả những người khát khao được hết khát, như người lạnh được lửa, như người trần truồng được quần áo, như người buôn bán gặp chủ, như con gặp mẹ, như người qua sông gặp thuyền, như người bệnh gặp được thuốc, như tối gặp được đèn, như người nghèo gặp của báu, như dân gặp được vua, như khách buôn gặp được biển, như đuốc sáng trừ tối tăm. Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, hay khiến cho chúng sinh lìa tất cả sự khổ, tất cả bệnh khổ, giải thoát tất cả sự trói buộc sinh tử. Nếu người nào được nghe Kinh Pháp Hoa này, hoặc tự biên chép, hoặc khiến cho người biên chép, thì công đức đắc được, dùng trí huệ của Phật suy lường, cũng chẳng biết được bờ mé là bao nhiêu. Nếu biên chép quyển kinh này, mà dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan lọng, y phục, các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu ba ma lợi, để cúng dường, thì công đức đắc được cũng vô lượng.

                   Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, thì cũng đắc được vô lượng vô biên công đức. Nếu có người nữ, nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay thọ trì, khi hết thân nữ này, về sau chẳng thọ lại nữa. Nếu sau khi Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe được kinh này, theo như trong kinh nói mà tu hành, thì sau khi mạng chung, sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, cõi của Đức Phật A Di Ðà, được chúng đại Bồ Tát vây quanh chỗ ở. Sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng bị tham dục làm phiền não, cũng chẳng bị sân hận ngu si làm phiền não, cũng chẳng bị sự kiêu mạn, đố kỵ, các cấu bẩn làm phiền não, được thần thông của Bồ Tát, và vô sinh pháp nhẫn. Ðắc được nhẫn đó rồi, thì căn mắt thanh tịnh, nhờ căn mắt thanh tịnh, nên thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các Đức Phật Như Lai. 

                  Lúc đó, các Đức Phật cùng nhau khen ngợi nói: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì đọc tụng suy gẫm kinh này, vì người khác nói, phước đức đắc được vô lượng vô biên, lửa không thể thiêu đặng, nước không thể ngập chết đặng, công đức của ông ngàn Đức Phật cùng nói, cũng không hết được. Ông nay đã phá được các ma tặc, dẹp tan quân sinh tử, các oán địch khác cũng đều tiêu diệt. 

                  Thiện nam tử! Trăm ngàn các Đức Phật dùng sức thần thông cùng bảo hộ ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai bằng ông, ngoài Như Lai ra, các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát, trí huệ thiền định, cũng chẳng có ai bằng ông. 

                  Tú Vương Hoa! Bồ Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế. 

                  Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ khen ngợi, thì người đó, hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công đức đắc được như trên đã nói. 

                  Bởi thế, Tú Vương Hoa! Ta đem Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, trong năm trăm năm sau, hãy rộng truyền bá khắp cõi Diêm Phù Ðề, đừng khiến cho đoạn tuyệt, đừng để ác ma, dân ma, chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, hết thảy được phương tiện đó. 

                  Tú Vương Hoa! Ông nên dùng sức thần thông giữ gìn kinh này. Tại sao? Vì kinh này là thuốc hay cho những người bệnh ở cõi Diêm Phù Ðề. Nếu người có bệnh mà được nghe kinh này, thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết. 

                  Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, thì nên dùng hoa sen xanh, và đựng đầy hương bột cúng dường rải lên trên người đó. Rải lên rồi, bèn nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ lấy cỏ ngồi ở Ðạo tràng, phá các quân ma, thổi pháp loa, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, lìa khỏi biển sanh già bệnh chết. Bởi thế, người cầu Phật đạo, thấy người thọ trì kinh điển này, thì nên sinh tâm cung kính như thế. Khi Đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát, đắc được Ðà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Ðức Ða Bảo Như Lai ở trong bảo tháp khen Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng: Lành thay! Lành thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, mới có thể hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni việc như thế, lợi ích vô lượng tất cả chúng sinh.

                  HẾT QUYỂN SÁU

QUYỂN BẢY

 

 

 

 

 

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng quang minh từ nhục kế tướng đại nhân, và phóng tướng hào quang trắng ở giữa chặn mày, chiếu khắp phương đông một trăm tám vạn ức na do tha Hằng hà sa các thế giới của Phật. Qua số thế giới đó, có một thế giới tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm, nước đó có vị Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Có vô lượng vô biên đại chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, Đức Phật vì họ mà nói pháp. Luồng hào quang trắng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu sáng khắp cõi nước đó.

                   Bấy giờ, ở trong cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm, có một vị Bồ Tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các gốc công đức, cúng dường gần gũi vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, cho nên thành tựu trí huệ thâm sâu. Ðược diệu tràng tướng tam muội, pháp hoa tam muội, tịnh đức tam muội, tú vương hí tam muội, vô duyên tam muội, trí ấn tam muội, giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn tam muội, tập nhất thiết công đức tam muội, thanh tịnh tam muội, thần thông du hí tam muội, trí cự tam muội, trang nghiêm vương tam muội, tịnh quang minh tam muội, tịnh tạng tam muội, bất công tam muội, nhật toàn tam muội. Ðược hết thảy trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa các đại tam muội như thế.

                   Quang minh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu đến thân Bồ Tát Tú Vương Hoa, lập tức Ngài bèn bạch với Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí rằng: Ðức Thế Tôn! Con phải qua thế giới Ta Bà, để lễ lạy gần gũi cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Tú Vương Hoa, Bồ Tát Thượng Hạnh Ý, Bồ Tát Trang Nghiêm Vương, Bồ Tát Dược Thượng.

                   Bấy giờ, Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bảo Bồ Tát Diệu Âm rằng: Ông chớ khinh cõi nước đó, mà sinh ra tư tưởng thấp kém.

                  Thiện nam tử! Thế giới Ta Bà đó, cao thấp chẳng bằng phẳng, đất đá các núi, sự dơ bẩn xấu ác đầy dẫy. Thân Phật nhỏ bé, các chúng Bồ Tát thân hình cũng nhỏ, mà thân ông cao đến bốn vạn hai ngàn do tuần, thân ta cao sáu trăm tám mươi vạn do tuần. Thân ông đoan chánh bậc nhất, có trăm ngàn vạn phước tướng, quang minh tốt đẹp đặc biệt, cho nên ông đi qua đó, đừng khinh khi cõi nước đó, hoặc Phật Bồ Tát, và cõi nước mà sinh tư tưởng hạ liệt. 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Diệu Âm chẳng lìa khỏi tòa ngồi, thân chẳng lay động, bèn nhập tam muội, nhờ sức tam muội mà đến núi Kỳ Xà Quật, cách pháp tòa chẳng bao xa, hóa ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, dùng vàng diêm phù đàn làm thân, bạc làm lá, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.

                  Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, thấy hoa sen đó, bèn bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Ðó là nhân duyên gì, mà hiện ra cảnh giới tốt đẹp như thế?  Có hàng ngàn vạn hoa sen, dùng vàng diêm phù đàn làm thân, dùng bạc làm lá, dùng kim cang làm nhụy, dùng chân thúc ca bảo làm đài. 

                  Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Ðại Bồ Tát Diệu Âm đó, từ cõi nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát vây quanh, mà đến thế giới Ta Bà này, cúng dường gần gũi lễ lạy ta, và cũng muốn cúng dường nghe Kinh Pháp Hoa.

                  Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Vị Bồ Tát đó trồng căn lành gì, tu công đức gì, mà được sức đại thần thông như thế? Tu hành tam muội gì? Xin hãy vì chúng con nói tên của tam muội đó. Chúng con cũng muốn siêng năng tu hành, tu tam muội đó, mới có thể thấy Bồ Tát đó sắc tướng lớn nhỏ, uy nghi tấn chỉ. Xin Đức Thế Tôn dùng sức thần thông, khi Bồ Tát đó đến thì khiến cho con được thấy. 

                  Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù: Ðức Như Lai Ða Bảo diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà khiến cho vị Bồ Tát đó hiện thân tướng.

                   Bấy giờ, Đức Phật Ða Bảo liền bảo vị Bồ Tát đó: Thiện nam tử! Hãy đến đây, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi muốn thấy thân của ông.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Diệu Âm ở cõi nước kia, ẩn thân cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát cùng nhau đến, các cõi nước đi qua đều có sáu thứ chấn động, thảy đều mưa xuống hoa sen bảy báu, và trăm ngàn thứ nhạc trời, chẳng cổ động mà tự vang lên.

                  Mắt của vị Bồ Tát đó, rộng lớn như lá hoa sen xanh, ví như trăm ngàn vạn mặt trăng hợp lại, diện mạo đoan chánh xinh đẹp, thân màu vàng thật, có vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm, uy đức dũng mãnh, quang minh chiếu sáng, các tướng đầy đủ, thân kiên cố như na la diên. Ngồi trên đài bảy báu thăng lên hư không, cách mặt đất bảy cây đa la, các chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, mà đi đến núi Kỳ Xà Quật thế giới Ta Bà. Ði đến rồi, bước xuống đài bảy báu, đem chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn lạng vàng, cầm đến chỗ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đầu mặt lễ dưới chân Phật, dâng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Ðức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, hỏi thăm Đức Thế Tôn, ít bệnh, ít phiền não, mạnh giỏi, tứ đại điều hòa chăng, việc đời nhẫn được chăng, chúng sinh dễ độ chăng, chúng sinh chẳng nhiều tham dục, sân hận, ngu si, đố kỵ, kiêu mạn chăng, chẳng có kẻ bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa môn, tâm tà kiến bất thiện, chẳng nhiếp năm tình chăng? 

                  Ðức Thế Tôn! Chúng sinh có hàng phục được các ma oán chăng, Đức Ða Bảo Như Lai diệt độ từ lâu, ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng? Lại thăm hỏi Đức Ða Bảo Như Lai, an ổn ít phiền não, kham nhẫn trụ lâu chăng.

                  Ðức Thế Tôn! Nay con muốn thấy thân của Đức Phật Ða Bảo, xin Đức Thế Tôn chỉ cho con, để cho con được thấy. 

                  Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Phật Ða Bảo rằng: Bồ Tát Diệu Âm đây muốn được thấy thân của Ngài.

                  Bấy giờ, Đức Phật Ða Bảo nói với Bồ Tát Diệu Âm rằng: Lành thay! Lành thay! Ông vì cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghe Kinh Pháp Hoa, và gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà đến nơi này. 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Hoa Ðức bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Diệu Âm đó trồng căn lành gì, tu công đức gì mà được thần lực như thế?

                   Ðức Phật bảo Bồ Tát Hoa Ðức rằng: Trong quá khứ có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cõi nước đó tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên là Hỷ Kiến. Bồ Tát Diệu Âm ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười vạn thứ âm nhạc cúng dường Đức Phật Vân Lôi Âm Vương, và dâng lên cúng dường tám vạn bốn ngàn cái bát bằng bảy báu. Nhờ nhân duyên quả báo đó, nên nay được sinh vào cõi nước của Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần thông như thế.

                  Hoa Ðức! Ý của ông thế nào? Thuở đó, Bồ Tát Diệu Âm ở chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Vương, cúng dường âm nhạc và dâng cúng bát báu, đâu phải là người nào khác, nay chính là đại Bồ Tát Diệu Âm này vậy.

                  Hoa Ðức! Bồ Tát Diệu Âm đó, đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các Đức Phật, từ lâu đã trồng công đức, lại gặp Hằng hà sa trăm ngàn vạn ức na do tha các Đức Phật.

                  Hoa Ðức! Ông chỉ thấy thân của Bồ Tát Diệu Âm ở đây, nhưng Bồ Tát đó, hiện đủ thứ thân ở khắp mọi nơi, để vì các chúng sinh diễn nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Ðế Thích, hoặc hiện thân trời Tự Tại, hoặc hiện thân trời Ðại Tự Tại, hoặc hiện thân thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa Môn Thiên Vương, hoặc hiện thân chuyển luân thánh vương, hoặc hiện thân các ông vua nhỏ, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hoặc hiện thân phụ nữ tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ Bà la môn, hoặc hiện thân đồng nam, đồng nữ. Hoặc hiện thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, để diễn nói kinh này. Hoặc trong các địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và nơi các thứ nạn đều cứu giúp, cho đến nơi hậu cung của vua cũng biến làm thân nữ, để diễn nói kinh này.

                  Hoa Ðức! Bồ Tát Diệu Âm đó, hay cứu giúp các chúng sinh ở thế giới Ta Bà. Bồ Tát Diệu Âm đó, biến hóa thị hiện đủ thứ thân hình như thế, ở tại thế giới Ta Bà này, để vì các chúng sinh diễn nói kinh này, nhưng thần thông trí huệ biến hóa của Ngài chẳng có tổn hoại giảm bớt. Bồ Tát đó, dùng bao nhiêu trí huệ chiếu soi thế giới Ta Bà, khiến cho tất cả chúng sinh ai nấy đều biết Phật pháp, ở trong mười phương Hằng hà sa số thế giới cũng lại như thế. Nếu người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì Ngài liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bồ Tát độ được, thì Ngài liền hiện thân Bồ Tát để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp. Tùy nhân duyên đáng được độ, thì Ngài vì họ hiện đủ thứ các thân hình như thế, cho đến đáng dùng sự diệt độ mà độ được họ, thì Ngài cũng thị hiện sự diệt độ.

                  Hoa Ðức! Ðại Bồ Tát Diệu Âm thành tựu sức đại thần thông trí huệ, việc đó là như thế.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Hoa Ðức bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Diệu Âm đó trồng sâu căn lành. Ðức Thế Tôn! Vị Bồ Tát đó trụ vào tam muội gì, mà có sự biến hiện độ thoát chúng sinh như thế?

                   Ðức Phật bảo Bồ Tát Hoa Ðức: Thiện nam tử! Tam muội đó tên là Hiện Tất Cả Sắc Thân. Bồ Tát Diệu Âm trụ vào tam muội đó, mà hay làm lợi ích vô lượng chúng sinh như thế.

                   Khi nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm này, thì tám vạn bốn ngàn người cùng đi đến với Bồ Tát Diệu Âm, thảy đều đắc được tam muội Hiện Tất Cả Sắc Thân. Vô lượng chúng Bồ Tát ở thế giới Ta Bà này, cũng đắc được tam muội và Ðà la ni đó. 

                  Bấy giờ, đại Bồ Tát Diệu Âm cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và tháp của Đức Phật Ða Bảo rồi, bèn trở về nước của Ngài, đi ngang qua các cõi nước đều có sáu thứ chấn động, lại mưa xuống các hoa sen báu, và vang lên trăm ngàn vạn ức đủ thứ âm nhạc. Sau khi về đến nước của Ngài rồi, cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát vây quanh, đi đến chỗ Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Con đã đến thế giới Ta Bà lợi ích chúng sinh, gặp được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và thấy tháp của Đức Phật Ða Bảo, lễ lạy cúng dường. Lại gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, và thấy Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Ðắc Cần Tinh Tấn Lực, Bồ Tát Dũng Thí .v.v... cũng khiến cho tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát này, đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân. Khi nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm lai vãng này, thì có bốn vạn hai ngàn vị Thiên tử, đắc được vô sinh pháp nhẫn, Bồ Tát Hoa Ðức đắc được pháp hoa tam muội. 

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm thứ Hai Mươi Lăm 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý bèn từ tòa ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì, mà được tên là Quán Thế Âm?

                   Ðức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu các khổ não, mà nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng niệm danh hiệu của Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm lập tức quán xem tiếng kêu kia, khiến cho họ đều được giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, do nhờ sức oai thần của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, mà xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì liền được vào chỗ cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì đi tìm cầu: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ châu báu, vào trong biển lớn. Giả sử, có gió bão, thổi thuyền của họ trôi dạt vào nước quỷ La sát. Trong đó, dù chỉ có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì hết thảy những người kia, đều được thoát khỏi nạn quỷ La sát, bởi nhân duyên đó, mà có tên là Quán Thế Âm. Nếu lại có người, bị người khác cầm đao làm hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đao gậy của kẻ kia cầm, bèn gãy ra từng đoạn, mà được giải thoát. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy quỷ Dạ xoa và La sát, muốn đến não hại người, mà nghe họ xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các ác quỷ đó, còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn họ, huống chi lại làm hại. Nếu như lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm xiềng xích, trói buộc thân họ, mà xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì gông cùm xiềng xích đều gãy tan, bèn được giải thoát. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy những kẻ oán tặc. Có một người chủ buôn, đem theo các người buôn bán. Mang theo rất nhiều châu báu quý giá, đi qua con đường hiểm. Trong đó có một người xướng lên rằng: Các thiện nam tử! Chớ có sợ hãi, các ông nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vì vị Bồ Tát đó, hay đem sự vô úy thí cho chúng sinh. Nếu các ông xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì ở nơi oán tặc nầy sẽ được giải thoát. Các người buôn nghe rồi, đều xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, nhờ xưng niệm danh hiệu của Ngài, mà được giải thoát.

                   Vô Tận Ý! Sức oai thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm, rộng lớn như thế. Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi lòng dâm dục. Nếu người nhiều sân hận, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi sân hận. Nếu người nhiều ngu si, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi ngu si. 

                  Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những sức đại oai thần như thế, làm nhiều sự lợi ích, cho nên chúng sinh thường hay niệm. Nếu có người nữ, muốn cầu con trai, mà lễ lạy cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ sinh được con trai phúc đức trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, thì sẽ sinh được con gái đoan chánh xinh đẹp, thuở xưa đã từng trồng gốc công đức, được mọi người kính mến.

                  Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần như thế. Nếu có chúng sinh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước chẳng tổn giảm, cho nên chúng sinh đều hay thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

                   Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì sáu mươi hai ức Hằng hà sa danh hiệu các Bồ Tát, lại suốt đời cúng dường thức ăn uống, quần áo, đồ nằm, thuốc thang. Ý ông như thế nào? Người thiện nam, thiện nữ đó, công đức có nhiều chăng?

                   Vô Tận Ý đáp: Rất nhiều, Đức Thế Tôn!

                   Ðức Phật nói: Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cho đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, ở trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể hết được. 

                  Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, được lợi ích phước đức vô lượng vô biên như thế.

                  Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm vân du thế giới Ta Bà này như thế nào? Vì chúng sinh thuyết pháp như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?

                   Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử! Nếu có những chúng sinh trong cõi nước, đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Phạm Vương độ được, thì liền hiện thân Phạm Vương, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Ðế Thích độ được, thì liền hiện thân Ðế Thích, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Tự Tại độ được, thì liền hiện thân trời Tự Tại, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Ðại Tự Tại độ được, thì liền hiện thân trời Ðại Tự Tại, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân thiên đại tướng quân độ được, họ thì liền hiện thân thiên đại tướng quân, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn độ được, thì liền hiện thân Tỳ Sa Môn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân tiểu vương độ được, thì liền hiện thân tiểu vương, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trưởng giả độ được, thì liền hiện thân trưởng giả, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân cư sĩ độ được, thì liền hiện thân cư sĩ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân tể quan độ được, thì liền hiện thân tể quan, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bà la môn độ được, thì liền hiện thân Bà la môn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ độ được, thì liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà la môn độ được, thì liền hiện thân phụ nữ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ độ được, thì liền hiện thân đồng nam, đồng nữ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, độ được, thì liền hiện ra các thân đó, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Thần Chấp Kim Cang độ được, thì liền hiện thân Thần Chấp Kim Cang, để vì họ nói pháp.

                   Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm đó, thành tựu công đức như thế, dùng đủ thứ thân hình đi khắp trong các cõi nước, để độ thoát tất cả chúng sinh. Bởi thế, các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Ðại Bồ Tát Quán Thế Âm đó, ở trong nạn khẩn cấp sợ hãi, Ngài hay ban cho sự không sợ hãi. Vì thế mà thế giới Ta Bà đều gọi Ngài là bậc bố thí không sợ hãi.

                   Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, bèn cởi chuỗi ngọc các châu báu nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng dâng lên nói rằng: Xin nhân giả hãy nhận xâu chuỗi ngọc châu báu pháp thí này. Lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu thọ nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại bạch với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: Nhân giả hãy thương xót chúng tôi, mà thọ nhận chuỗi ngọc này.

                   Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm nên thương xót Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó. Tức thời, Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót hàng bốn chúng và các trời, rồng, người và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó, chia làm hai phần. Một phần dâng lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng cúng tháp của Phật Ða Bảo.

                   Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại như thế, đi khắp thế giới Ta Bà.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi rằng:

                  Thế Tôn đủ tướng tốt

                  Nay con xin hỏi Ngài

                  Vị kia do duyên gì

                  Tên là Quán Thế Âm?

                  Ðấng đầy đủ tướng tốt

                  Ðáp kệ Vô Tận Ý:

                  Ông nghe hạnh Quan Âm

                  Khéo ứng khắp mọi nơi.

                  Nguyện lớn sâu như biển

                  Kiếp số không nghĩ bàn

                  Hầu nhiều nghìn đức Phật

                  Phát nguyện lớn thanh tịnh.

                  Ta vì ông lược nói

                  Nghe tên và thấy thân

                  Tâm niệm chẳng luống qua

                  Hay diệt khổ các cõi.

                  Nếu người khởi tâm hại

                  Xô rớt hầm lửa lớn

                  Nhờ sức niệm Quán Âm

                  Hầm lửa biến thành ao.

                  Hoặc trôi dạt biển cả

                  Rồng cá các nạn quỷ

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Sóng lớn chẳng ngập chết.

                  Hoặc trên đỉnh Tu Di

                  Bị người xô rớt xuống

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Như mặt trời trên không.

                  Hoặc bị người ác đuổi

                  Ngã xuống núi kim cang

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Chẳng tổn hại mảy lông.

                  Hoặc gặp oán tặc vây

                  Ðều cầm đao làm hại

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Thảy đều khởi tâm từ.

                  Hoặc gặp nạn khổ vua

                  Muốn hành hình sắp chết

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Ðao bèn gãy từng đoạn.

                  Hoặc gông cùm tù ở

                  Tay chân bị xiềng xích

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Tự nhiên được giải thoát.

                  Nguyền rủa các thuốc độc

                  Muốn làm hại thân người

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Trở lại hại người đó.

                  Hoặc gặp La sát dữ

                  Rồng độc các loài quỷ

                  Nhờ sức niệm Quán Âm

                  Thời chúng chẳng dám hại.

                  Nếu thú dữ vây quanh

                  Nanh vuốt nhọn đáng sợ

                  Nhờ sức niệm Quán Âm

                  Chúng vội chạy bỏ đi.

                  Rắng độc cùng bò cạp

                  Hơi độc khói lửa đốt

                  Nhờ sức niệm Quán Âm

                  Nghe tiếng bỏ chạy đi.

                  Mây sấm sét điện chớp

                  Tuôn mưa đá mưa rào

                  Nhờ sức niệm Quán Âm

                  Liền được trời quang tạnh.

                  Chúng sinh bị khốn cùng

                  Vô lượng khổ bức bách

                  Nhờ diệu trí Quán Âm

                  Hay cứu khổ thế gian.

                  Ðầy đủ sức thần thông

                  Rộng tu trí phương tiện

                  Các cõi nước mười phương

                  Không cõi nào chẳng hiện.

                  Ðủ thứ các đường ác

                  Ðịa ngục quỷ súc sinh

                  Khổ sinh già bệnh chết

                  Dần dần đều dứt hết.

                  Quán chân quán thanh tịnh

                  Quán trí huệ rộng lớn

                  Quán bi và quán từ

                  Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

                  Quang thanh tịnh không dơ

                  Huệ nhật phá các tối

                  Hay phục nạn gió lửa

                  Chiếu sáng khắp thế gian.

                  Bi thế giới lôi chấn

                  Ý từ diệu mây lớn

                  Rưới mưa pháp cam lồ

                  Dập tắt lửa phiền não.

                  Kiện tụng nơi quan tòa

                  Trong trận chiến sợ hãi

                  Nhờ sức niệm Quan Âm

                  Các oán địch lui tan.

                  Tiếng diệu Quán Thế Âm

                  Tiếng Phạm tiếng hải triều

                  Hơn hẳn tiếng thế gian

                  Cho nên thường phải niệm.

                  Niệm niệm chớ sinh nghi

                  Quán Thế Âm tịnh Thánh

                  Khi khổ não nạn chết

                  Hay làm nơi nương tựa.

                  Ðủ tất cả công đức

                  Mắt từ trông chúng sinh

                  Biển phước tụ vô lượng

                  Cho nên phải đảnh lễ.

                  Bấy giờ, Bồ Tát Trì Ðịa bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật bạch rằng: Ðức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nghe được Phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nghiệp tự tại phổ môn thị hiện sức thần thông, thì nên biết người đó công đức chẳng ít. Khi Đức Phật nói Phẩm Phổ Môn này, thì có tám vạn bốn ngàn chúng sinh ở trong chúng, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Đà La Ni thứ Hai Mươi Sáu

                  Ðức Phật bảo: Dược Vương! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, cúng dường tám vạn ức na do tha Hằng hà sa các Đức Phật, ý của ông thế nào? Phước báu đó đắc được có nhiều chăng?

                   Rất nhiều, Đức Thế Tôn.

                   Ðức Phật nói: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, hay ở nơi kinh này, cho đến thọ trì bài kệ bốn câu, đọc tụng hiểu nghĩa, theo như lời trong kinh nói mà tu hành, thì công đức rất nhiều.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Dược Vương bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Con nay vì người thuyết pháp, mà nói Chú Ðà la ni, để bảo hộ họ, bèn nói Chú rằng:

                   An nhĩ mạn nhĩ, ma nỉ ma ma nỉ, chỉ lệ giá lê đệ, xa mị, sa lý đa vĩ, chiên đế, mục đế, mục đa lý, sa lý, a vĩ sa lý, tang lý, sa lý, soa duệ, a xoa dụê, a kỳ nị, chiên đế, sa lý, đa la ni, a lô già, bà sa bả, già tỳ xoa nị, nỉ tỳ thế, a tiện đa la, nỉ lý thế a, đàn đa ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ cát lợi biểu đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nỉ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đa la, mạn đa la xoa dạ đa, bưu lâu đa, bưu lâu đa, kiều xá lược, ác xoa la, ác xoa dã, a bà lô, a ma nhược na đa dạ.

                  Ðức Thế Tôn! Thần chú Ðà la ni này, là của sáu mươi hai ức Hằng hà sa các Đức Phật nói. Nếu có kẻ nào xâm hủy vị pháp sư đó, tức là xâm huỷ các Đức Phật vậy.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Bồ Tát Dược Vương nói: Lành thay, lành thay! Dược Vương! Ông vì có tâm thương xót ủng hộ vị pháp sư đó, mà nói Ðà la ni này, rất có lợi ích đối với các chúng sinh.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Dũng Thí bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Con cũng vì ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, mà nói Ðà la ni. Nếu vị pháp sư đó được Ðà la ni này, thì Dạ Xoa, hoặc La sát, hoặc Phú đơn na, hoặc Cát giá, hoặc Cưu bàn trà, hoặc ngạ quỷ .v.v... muốn tìm cầu lỗi lầm của người đó, thì không thể được tiện lợi, bèn ở trước Phật mà nói chú rằng:

                   Ế lệ, ma nha ế lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí, ni vĩ trí ni, chỉ trí ni, niết lệ tê ni, niết lê tê bà để.

                  Ðức Thế Tôn! Thần Chú Ðà la ni này của Hằng hà sa các Đức Phật nói, cũng đều tùy hỉ. Nếu có ai xâm hủy vị pháp sư đó, tức là xâm hủy chư Phật đó vậy.

                   Bấy giờ, Tỳ Sa Môn Thiên Vương hộ đời bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Con cũng vì thương xót chúng sinh, ủng hộ vị pháp sư đó, mà nói Ðà la ni này, bèn nói chú rằng:

                   A lê, na lê, na lê, a na lô, na lý, câu na lý.

                  Ðức Thế Tôn! Con dùng Thần chú này ủng hộ vị pháp sư, con cũng sẽ tự ủng hộ người trì kinh này, khiến cho nội trong một trăm do tuần, chẳng có các sự rủi ro hoạn nạn. 

                  Bấy giờ, Trì Quốc Thiên Vương ở trong hội này, cùng với ngàn vạn ức na do tha chúng Dạ Xoa, cung kính vây quanh đi đến trước Đức Phật, chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng: Ðức Thế Tôn! Con cũng dùng Thần chú Ðà la ni ủng hộ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, bèn nói chú rằng:

                   A già nỉ, già nỉ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đặng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa ni, át để.

                  Ðức Thế Tôn! Thần chú Ðà la ni này của bốn mươi hai ức các Đức Phật nói. Nếu có kẻ nào xâm hại hủy phạm vị pháp sư đó, tức là xâm hại hủy phạm các Đức Phật đó vậy. 

                  Bấy giờ, có các nữ La sát, một tên là Lam bà, hai tên là Tỳ lam bà, ba tên là Khúc sỉ, bốn tên là Hoa sỉ, năm tên là Hắc sỉ, sáu tên là Ða phát, bảy tên là Vô yểm túc, tám tên là Trì anh lạc, chín tên là Cao đế, mười tên là Ðoạt nhất thiết chúng sinh khí. Mười nữ La sát đó, cùng với quỷ tử mẫu và con cái, quyến thuộc của chúng, đồng đến chỗ Đức Phật đồng thanh hướng về Đức Phật bạch rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, khiến cho họ được tiêu trừ rủi ro hoạn nạn. Nếu có kẻ nào rình tìm lỗi lầm của pháp sư, thì khiến cho chẳng được tiện lợi. Bèn ở trước Đức Phật mà nói chú rằng:

                   Y đề lý, y đề mẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu ê, lâu ê, lâu ê, lâu ê, đa ê, đa ê, đa ê, đâu ê, nâu ê.

                  Thà ngồi lên đầu chúng con, chớ đừng não hại vị pháp sư. Nếu Dạ Xoa, hay La sát, hoặc ngạ quỷ, Phú đơn na, Cát giá, Tỳ đà la, Kiền đà, Ô ma lặc già, A bạt ma la, Dạ xoa cát giá, Nhân cát giá, hoặc nhiệt não, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, hoặc đến bảy ngày, hoặc thường nhiệt não, hoặc hình nam, hình nữ, hoặc hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, cho đến ở trong mộng, cũng không cho những loài quỷ đó làm não hại vị pháp sư.

                   Bèn ở trước Đức Phật nói bài kệ rằng:

                   Nếu chẳng thuận chú con

                  Não loạn người nói pháp

                  Ðầu vỡ làm bảy mảnh

                  Như nhánh cây a lê.

                  Như tội giết cha mẹ

                  Cũng như vạ ép dầu

                  Cân đấu lường gạt người

                  Tội Ðiều Ðạt phá Tăng.

                  Xâm phạm pháp sư đó

                  Bị tai ương như thế.

                   Các nữ La sát nói kệ đó rồi, bèn bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ủng hộ người thọ trì đọc tụng tu hành kinh này, khiến cho họ được an ổn, xa lìa các sự hoạn nạn, tiêu trừ các thuốc độc.

                   Ðức Phật bảo các nữ La sát rằng: Lành thay, lành thay! Các ngươi chỉ ủng hộ người thọ trì danh hiệu Kinh Pháp Hoa, mà phước báu đã không thể lường được, hà huống là ủng hộ đầy đủ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, và cúng dường quyển kinh. Hoặc dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương đốt, hương xoa, phan lọng, âm nhạc, đốt các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu hoa tô ma na, đèn dầu hoa thiềm bặc, đèn dầu hoa bà sư ca, đèn dầu hoa ưu bát la hoa, hết thảy trăm ngàn thứ cúng dường như thế.

                  Cao Ðế! Các ngươi và quyến thuộc nên ủng hộ vị pháp sư như thế! Khi Đức Phật nói Phẩm Ðà La Ni này, thì có sáu vạn tám ngàn người đắc được vô sinh pháp nhẫn.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm thứ Hai Mươi Bảy

                  Bấy giờ, Đức Phật bảo các đại chúng rằng: Về đời xa xưa, trải qua vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Ðức, có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn. Hai người con đó, có đại thần lực phước đức trí huệ, từ lâu đã tu hành Bồ Tát đạo, đó là đàn Ba la mật, thi la Ba la mật, sàn đề Ba la mật, tỳ ly gia Ba la mật, thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ xả, cho đến ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, đều thấu suốt thông đạt.

                   Lại đắc được các tịnh tam muội của Bồ Tát, đó là tam muội nhật tinh tú, tam muội tịnh quang, tam muội tịnh sắc, tam muội tịnh chiếu minh, tam muội trường trang nghiêm, tam muội đại oai đức tạng, nơi các tam muội này, cũng đều thông đạt.

                  Bấy giờ, Đức Phật đó muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm, và thương xót chúng sinh mà nói Kinh Pháp Hoa này.

                   Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai người con đến chỗ người mẹ, chắp tay lại bạch rằng: Xin mẹ hãy đi đến chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ bái. Tại sao? Vì Đức Phật đó, đang ở trong tất cả đại chúng trời người nói Kinh Pháp Hoa, chúng ta nên đến đó để nghe. Người mẹ bảo các người con rằng: Cha của các con tin sâu pháp ngoại đạo Bà la môn. Các con nên đến thưa với cha, để chúng ta cùng đi với nhau. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay lại thưa với người mẹ rằng: Chúng con là con của đấng Pháp Vương, mà sinh vào nhà tà kiến này. Người mẹ bảo các người con rằng: Các con nên thương nghĩ đến cha của các con, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha của các con mà thấy được, thì chắc tâm sẽ thanh tịnh, hoặc nghe lời của chúng ta, mà cùng nhau đi đến chốn Đức Phật.

                  Bấy giờ, hai người con vì thương nghĩ đến người cha, mà vọt thân lên hư không cao khoảng bảy cây đa la, hiện các thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi đứng nằm ngồi, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến mất trong hư không, hốt nhiên ở dưới đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất. Hiện các thứ thần thông biến hóa như thế, khiến cho vua cha tâm được thanh tịnh tin hiểu.

                   Lúc đó, người cha thấy thần lực của các người con như thế, bèn sinh tâm đại hoan hỉ, được chưa từng có, bèn chắp tay lại hướng về các người con nói rằng: Thầy của các con là ai? Các con là đệ tử của ai?

                   Hai người con bạch rằng: Thưa đại vương! Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, hiện đang ở dưới cội bồ đề bảy báu, ngồi trên pháp tòa, ở trong tất cả thế gian chúng trời người, diễn nói Kinh Pháp Hoa, là thầy của chúng con, chúng con là đệ tử.

                   Người cha nói với con rằng: Nay cha cũng muốn đi đến gặp thầy của các con, chúng ta cùng đi với nhau. Hai người con bèn từ hư không xuống, đến chỗ người mẹ chắp tay thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ! Phụ vương nay đã tin hiểu, đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con ở nơi Đức Phật đó xuất gia tu đạo. 

                  Bấy giờ, hai người con muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng: 

                  Xin mẹ cho chúng con

                  Xuất gia làm Sa môn

                  Chư Phật rất khó gặp

                  Chúng con theo Phật tu.

                  Như hoa ưu đàm bát

                  Gặp Phật càng khó hơn

                  Khỏi các nạn cũng khó

                  Xin cho con xuất gia. 

                  Người mẹ nói rằng: Cho các con xuất gia, tại sao? Vì Phật khó được gặp.

                   Hai người con bèn thưa với cha mẹ rằng: Lành thay cha mẹ! Xin cha mẹ đi đến chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để gần gũi cúng dường. Tại sao? Vì Phật rất khó gặp được. Như hoa ưu đàm bát la, như rùa một mắt gặp lỗ khúc cây nổi, mà chúng con phước báu đời trước sâu dày, nên sinh ra được gặp Phật pháp, do đó được cha mẹ cho chúng con xuất gia tu đạo. Tại sao? Vì chư Phật rất khó gặp, thời cơ cũng khó gặp.

                  Lúc đó, tám vạn bốn ngàn người đi theo vua Diệu Trang Nghiêm, thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa này. Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt tam muội pháp hoa, Bồ Tát Tịnh Tạng thì ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, đã thông đạt tam muội lìa các đường ác. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi các đường ác. Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, biết được tạng bí mật của chư Phật. Hai người con khéo dùng sức phương tiện như thế để giáo hóa người cha, khiến cho sinh tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp. Vua Diệu Trang Nghiêm với quần thần quyến thuộc, Tịnh Ðức phu nhân với tùy tùng thể nữ, và hai người con của vua cùng với bốn vạn hai nghìn người, đều tụ lại cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật. Ðến rồi, đầu mặt lễ dưới chân Phật và nhiễu Đức Phật ba vòng rồi đứng qua một bên.

                   Bấy giờ, Đức Phật đó vì vua Diệu Trang Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hóa, khiến cho vua được lợi ích hoan hỉ, vua rất vui mừng.

                   Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm và phu nhân cởi chuổi ngọc châu báu nơi cổ, giá trị trăm nghìn lạng vàng rải lên trên Đức Phật, ở trong hư không hóa thành đài báu bốn trụ. Trong đài có giường báu lớn, giăng bày hàng trăm ngàn vạn thứ y trời. Trên đó có Đức Phật ngồi kiết già phóng đại quang minh.

                   Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ như vầy: Thân Phật rất ít có, đoan chánh trang nghiêm đặc thù, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất.

                   Bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bảo bốn chúng rằng: Các ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay đứng ở trước ta chăng! Ông vua này ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, siêng năng tu tập, giúp Phật hoằng dương Phật pháp, sẽ được thành Phật hiệu là Sa La Thụ Vương, cõi nước tên là Ðại Quang, kiếp tên là Ðại Cao Vương. Ðức Phật Sa La Thụ Vương đó, có vô lượng chúng Bồ Tát, và vô lượng hàng Thanh Văn, cõi nước đó bằng phẳng, công đức như thế. Vua Diệu Trang Nghiêm lập tức đem cõi nước giao cho người em, cùng với phu nhân, hai người con, và các quyến thuộc xuất gia tu đạo ở trong Phật pháp.

                   Vua xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn ngàn năm, thường siêng năng tinh tấn, tu hành Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua số đó rồi, đắc được tam muội nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, bèn thăng lên hư không, cao khoảng bảy cây da la mà bạch với Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Hai người con của con đây, đã làm việc Phật sự, dùng thần thông biến hóa chuyển hóa tâm tà của con, khiến cho con an trụ vào trong Phật pháp, được thấy Đức Thế Tôn. Hai người con đây là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành trong quá khứ, lợi ích cho con mà đến sinh vào nhà con.

                  Bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo vua Diệu Trang Nghiêm rằng: Như thế, như thế! Như lời ông nói. Nếu người thiện nam, người thiện nữ, gieo trồng căn lành, thì đời đời gặp thiện tri thức. Thiện tri thức đó hay làm Phật sự, khai thị giáo hóa, khiến cho được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho được vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

                  Ðại vương nên biết! Bậc thiện tri thức là đại nhân duyên, hay giáo hóa khiến cho họ được gặp Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ bề.

                  Ðại vương! Ông có thấy hai người con này chăng, hai người con này đã từng cúng dường, sáu mươi lăm trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng hà sa chư Phật, gần gũi cung kính, ở chỗ chư Phật thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sinh tà kiến, mà khiến cho họ trụ vào chánh kiến. 

                  Vua Diệu Trang Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, mà bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Như Lai rất ít có, do nhờ công đức trí huệ, nên nhục kế ở trên đỉnh phóng ra quang minh chiếu sáng, mắt của Ngài dài và rộng. Có màu sắc xanh biếc, tướng hào quang giữa chặn mày trắng như ngọc kha, răng trắng vừa đều vừa khít, thường có quang minh, môi màu đỏ tươi như quả tần bà. 

                  Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức của Phật như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chưa từng có vậy, pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh, khiến cho được an ổn, vui sướng. Bắt đầu từ nay, con chẳng tùy thuận tâm hành của mình nữa, chẳng sinh tâm tà kiến kiêu mạn sân hận điều ác. Nói như thế rồi bèn lễ Phật lui ra. 

                  Ðức Phật bảo đại chúng: Ý của các ông thế nào? Vua Diệu Trang Nghiêm, đâu phải là ai khác, nay là Bồ Tát Hoa Ðức, còn phu nhân Tịnh Ðức nay là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng, đang ở trước Phật, vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc, nên sinh vào ở trong nước đó. Hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, nay là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng, thành tựu các công đức lớn như thế, đã ở chỗ vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, trồng các gốc công đức, thành tựu các công đức lành không thể nghĩ bàn. Nếu có ai biết được danh hiệu của hai vị Bồ Tát này, thì tất cả thế gian chư thiên nhân dân cũng nên lễ bái.

                   Khi Đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của vua Diệu Trang Nghiêm, thì có tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh.

KINH

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền thứ Hai Mươi Tám 

                  Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, uy đức đồn khắp, cùng với các đại Bồ Tát vô lượng vô biên không thể tính đếm, từ phương đông đến, các cõi nước đi qua thảy đều chấn động. Mưa xuống các hoa sen báu, vang lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ âm nhạc. Cùng với vô số các hàng trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, và chẳng phải người, hết thảy đều vây quanh, ai nấy đều hiện sức thần thông oai đức, đến núi Kỳ Xà Quật ở thế giới Ta Bà.

                   Ðến rồi, đại chúng đều đảnh lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên phải bảy vòng, bèn bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Con ở cõi nước của Đức Phật Bảo Oai Ðức Thượng Vương, xa nghe thế giới Ta Bà này nói Kinh Pháp Hoa, nên con và vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ Tát cùng nhau đến nghe. Xin Đức Thế Tôn hãy vì đại chúng mà nói. Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, làm sao có thể được Kinh Pháp Hoa này?

                   Ðức Phật bảo Bồ Tát Phổ Hiền: Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thành tựu bốn pháp này, thì sau khi Như Lai diệt độ, sẽ được Kinh Pháp Hoa này. Một là được chư Phật hộ niệm, hai là đã gieo trồng các gốc công đức, ba là vào chánh định tụ, bốn là phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh. Người thiện nam, người thiện nữ, thành tựu bốn pháp như thế, thì sau khi Như Lai diệt độ, sẽ được Kinh Pháp Hoa.

                   Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền bạch Đức Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Vào đời ác trược năm trăm năm sau, nếu có người thọ trì kinh điển này, thì con sẽ bảo hộ người đó, trừ diệt mọi tai nạn, khiến cho họ được an ổn, làm cho thiên ma ngoại đạo chẳng được tiện lợi xâm phạm người đó. Nếu ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc có người bị ma mê hoặc, hoặc Dạ Xoa, hoặc La Sát, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Cát Giá, Phú Ðơn Na, Vĩ Ðà La, hết thảy muốn não hại người, thì chẳng được tiện lợi.

                   Người đó, nếu đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, thì lúc đó con sẽ cỡi voi chúa trắng sáu ngà, cùng với chúng đại Bồ Tát, cùng đi đến chỗ người đó mà tự hiện thân, cúng dường bảo hộ an ủi tâm của người đó, và cũng vì cúng dường Kinh Pháp Hoa. Nếu người đó ngồi suy nghĩ về kinh này, thì lúc đó con cũng sẽ cỡi voi chúa trắng, hiện thân ở trước người đó. Nếu người đó ở nơi Kinh Pháp Hoa có quên mất một câu, một bài kệ, thì con sẽ chỉ dạy họ, hoặc cùng đọc tụng với họ, khiến cho họ thông đạt. 

                  Ðức Thế Tôn! Nếu đời sau này, vào đời ác trược năm trăm năm sau, có hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, muốn tu tập Kinh Pháp Hoa này, trong hai mươi mốt ngày, một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà, cùng với vô lượng chúng Bồ Tát, mà tự vây quanh, dùng tất cả thân mà chúng sinh thích thấy, để hiện ra ở trước người đó, mà vì họ nói pháp, khai thị giáo hóa, khiến cho họ được lợi ích, hoan hỉ. Con cũng cho chú Ðà la ni, vì được chú Ðà la ni, nên chẳng có ai có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ mê hoặc nhiễu loạn, con cũng thường bảo hộ người đó. 

                  Xin Đức Thế Tôn nghe con nói chú Ðà la ni này, bèn ở trước Đức Phật mà nói chú rằng: 

                  A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba thiên nỉ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết già đà ni, a tăng kì, tăng già bà già địa, đế lệ a nọa tăng già suất lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa tam ma địa già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đõa lâu đà kiều xá lược a nậu già địa, tân a tỳ cát lợi địa đế.

                  Ðức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nghe được Ðà la ni này, thì nên biết đó là nhờ sức thần thông của Phổ Hiền. Nếu Kinh Pháp Hoa truyền bá ở cõi Diêm Phù Ðề, có người thọ trì, thì nên nghĩ rằng, đều là nhờ sức oai thần của Phổ Hiền. Nếu có người thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giảng giải nghĩa lý của kinh này, và y theo lời nói trong kinh mà tu hành, thì nên biết người đó, thực hành hạnh của Phổ Hiền, ở chỗ vô lượng vô biên các Đức Phật trồng sâu căn lành, được các Đức Như Lai lấy tay rờ đầu. Nếu chỉ biết biên chép, thì người đó sau khi mạng chung, sẽ được sinh về cõi trời Ðao Lợi. Lúc đó, có bốn vạn tám ngàn thiên nữ, tấu lên các thứ âm nhạc đến nghinh tiếp. Người đó bèn đội mũ bảy báu, ở trong các thể nữ vui cười khoái lạc. Hà huống là thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giải nghĩa lý kinh điển, theo như lời nói trong kinh mà tu hành. Nếu có người thọ trì đọc tụng giải nghĩa lý trong kinh, thì sau khi người đó chết đi, sẽ được ngàn vị Phật dũi tay rờ đầu, khiến cho họ chẳng sợ hãi, chẳng đọa vào ba đường ác, bèn được vãng sinh về cõi trời Ðâu Suất, chỗ của Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Di Lặc có ba mươi hai tướng, có các chúng đại Bồ Tát cùng vây quanh, lại có trăm ngàn vạn ức thiên nữ và quyến thuộc, cùng sinh ở trong đó, có các công đức lợi ích như thế.

                  Do đó, người có trí nên một lòng biên chép Kinh Pháp Hoa, hoặc khiến người biên chép, thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, theo như lời nói trong kinh mà tu hành.

                   Ðức Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông để bảo hộ kinh này. Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ rộng truyền bá kinh này ở trong cõi Diêm Phù Ðề, khiến cho chẳng đoạn tuyệt.

                   Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen rằng: Lành thay, lành thay! Phổ Hiền, ông hộ trì giúp kinh này, khiến cho hết thảy chúng sinh được lợi ích an lạc. Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, lòng từ bi sâu rộng, từ lâu xa đến nay phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, hay phát nguyện thần thông đó, bảo hộ kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông, bảo hộ người thọ trì danh hiệu của Bồ Tát Phổ Hiền. 

                  Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, tu tập biên chép Kinh Pháp Hoa này, thì nên biết người đó, tức thấy được Phật Thích Ca Mâu Ni, như từ miệng của Đức Phật được nghe kinh điển này. Nên biết người đó, cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni. Nên biết người đó, được Phật khen lành thay. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy tay rờ đầu. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy y trùm cho.Người như thế, chẳng còn tham trước sự vui của thế gian, chẳng thích xem nghe kinh sách của ngoại đạo nữa, cũng chẳng ưa gần gũi những người đó, và những kẻ ác như đồ tể, kẻ giết loài súc vật heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc người buôn bán nữ sắc.

                   Người đó tâm ý chất trực, có sự nghĩ nhớ chân chánh, có phước đức, người đó chẳng bị ba độc làm não hại, cũng chẳng bị đố kị, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn, làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, hay tu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền.

                  Phổ Hiền! Nếu sau khi Như Lai vào Niết Bàn, năm trăm năm sau, nếu có người thấy người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên nghĩ rằng: Người đó chẳng bao lâu sẽ ngồi ở Ðạo tràng, phá các quân ma, được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chuyển bánh xe pháp, đánh trống pháp, thổi loa pháp, mưa pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử, ở trong đại chúng trời người.

                   Phổ Hiền! Nếu ở đời sau, có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì người đó chẳng còn tham trước y phục, đồ nằm, thức ăn uống, các vật chất. Có nguyện cầu những gì, thảy đều thành tựu, cũng ở trong hiện đời đắc được phước báu.

                   Nếu có người khinh khi phỉ báng nói: Ông là người cuồng, làm những việc vô ích, chẳng có đắc được gì cả. Tội báo như thế đời đời sẽ không có mắt. Nếu có người cúng dường khen ngợi, thì hiện đời sẽ đắc được quả báo lành. Nếu lại có người, thấy người thọ trì kinh này, sinh tâm gây tội lỗi, hoặc thật, hoặc không thật, thì người đó hiện đời mắc bệnh bạch lại. Nếu khinh khi cười người thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì đời đời răng sẽ thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ nhọt máu mủ hôi hám, bụng phình hơi ngắn, các chứng bệnh ác nặng.

                   Do đó, Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh này, thì nên đứng dậy ra xa nghinh tiếp, như cung kính Phật.

                   Khi Đức Phật nói Phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát này, thì có vô lượng vô biên Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, đắc được ngàn vạn ức toàn Ðà la ni, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, đầy đủ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền.

                   Khi Đức Phật nói kinh này, thì Bồ Tát Phổ Hiền và hết thảy các Bồ Tát, Ngài Xá Lợi Phất và các hàng Thanh Văn, cùng trời, rồng, người và chẳng phải người, tất cả đại hội, thảy đều đại hoan hỉ, thọ trì lời của Đức Phật nói, làm lễ rồi lui ra.

                  HẾT QUYỂN BẢY    

NAM MÔ PHÁP HOA HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)

NAM MÔ PHÁP HOA HẢI HỘI CHƯ PHẬT, CHƯ ĐẠI BỒ TÁT, CHƯ HIỀN THÁNH TĂNG. (3 lần)

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

                  Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Đa, thì thấy rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách. 

                  Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như thế. 

                  Xá Lợi Tử! Các pháp đó không tướng, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có Ỷ thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ tập diệt đạo, không có trí huệ, cũng không đắc được.

                  Vì không chỗ đắc, nên Bồ Tát nương vào Bát Nhã Ba La Mật, tâm không quái ngại, vì không quái ngại, nên không có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đạt đến Niết Bàn. Các Đức Phật ba đời, đều nương vào Bát Nhã Ba La Mật, cho nên đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 

                  Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng, trừ được tất cả khổ, chân thật không hư.

                  Cho nên nói chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, bèn nói chú rằng:                   

                  Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)

Vãng Sinh Tịnh Độ Thần Chú

                  Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

Tán Phật

                  Phật A Di Đà thân sắc vàng

                  Tướng tốt quang minh không ai bằng

                  Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di

                  Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển

                  Trong quang minh có vô số hoá Phật

                  Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên

                  Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh

                  Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.

                  Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

                  Nam Mô A Di Đà Phật. (108 lần)

                  Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

                  Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)

                  Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)

                  Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

                  Đệ tử chúng đẳng, tùy thuận tu tập, Phổ Hiền Bồ Tát, thập chủng đại nguyện: 

                  Nhứt giả lễ kính chư Phật

                  Nhị giả xưng tán Như Lai

                  Tam giả quảng tu cúng dường

                  Tứ giả sám hối nghiệp chướng

                  Ngũ giả tùy hỉ công đức

                  Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

                  Thất giả thỉnh Phật trụ thế

                  Bát giả thường tùy Phật học

                  Cửu giả hằng thuận chúng sanh

                  Thập giả phổ giai hồi hướng.

HỒI HƯỚNG

                  Tụng kinh công đức hạnh thù thắng

                  Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng

                  Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh

                  Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang

                  Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não

                  Nguyện được trí huệ hiểu chân thật

                  Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ

                  Đời đời thường hành Bồ Tát đạo

                  Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ

                  Chín phẩm hoa sen là cha mẹ

                  Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh

                  Bồ Tát bất thối làm bạn lành

                  Nguyện đem công đức nầy

                  Hướng về khắp tất cả

                  Đệ tử và chúng sinh

                  Đều trọn thành Phật đạo.

Tam quy y

                  Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

                  Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)

                  Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lỶ đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

                  Nguyện đem công đức này

                  Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh

                  Trên đền bốn ân nặng

                  Dưới cứu ba đường khổ

                  Nếu có ai thấy nghe

                  Liền phát tâm bồ đề

                  Khi xả báo thân nầy

                  Đồng sinh về Cực Lạc.

Hồi hướng công đức

                  Trong sự bố thí, mà đạt đến cảnh giới "Tam luân thể không": Không thấy người bố thí, không thấy kẻ nhận, và không thấy vật thí, thì công đức không thể nghĩ bàn được. Do vậy, để được công đức hoàn toàn thanh tịnh, vô lượng vô biên, cho nên Chùa không ghi tên các vị bố thí, mà chỉ hồi hướng công đức của các vị lên thập phương thường trụ Tam Bảo chứng minh. Nguyện cầu sở nguyện của các vị đều thành tựu, nhất là tương lai quý vị sẽ đạt được trí huệ Bát Nhã, viên mãn quả bồ đề, do công đức ấn tống Kinh điển, cao thượng trên hết các sự bố thí.

                   Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến các bậc Thầy Tổ, và toàn thể tất cả Phật tử đã phát tâm hùn phước ấn  tống, hữu danh hoặc vô danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả quý vị còn sống hoặc đã quá vãng, cùng pháp giới chúng sinh, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ bên kia. 

                  Nam Mô Hộ Pháp Vi Ðà Tôn Thiên Bồ Tát

 

 

 

 

 

 

 

 

Tán Phật

                  Nguyện đem lòng thành kính,

                  Gởi theo đám mây hương.

                  Phảng phất khắp mười phương.

                  Cúng dường ngôi Tam Bảo,

                  Thề trọn đời giữ đạo,

                  Theo tự tánh làm lành,

                  Cùng pháp giới chúng sanh,

                  Cầu Phật từ gia hộ,

                  Tâm Bồ đề kiên cố,

                  Xa bể khổ nguồn mê,

                  Chóng quay về bờ giác.

                  Đấng Pháp Vương vô thượng

                  Ba cõi chẳng ai bằng

                  Thầy dạy khắp trời nguời

                  Cha lành chung bốn loại

                  Quy y tròn một niệm

                  Dứt sạch nghiệp ba kỳ

                  Xưng dương cùng tán thán

                  Ức kiếp không cùng tận.

                  Đảnh lễ

                  Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 Lạy)

                  Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 Lạy)

                  Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 Lạy)

                  Kệ Khai Kinh

                  Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng

                  Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được

                  Nay con thấy nghe được thọ trì

                  Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.

                  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

                  Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro