p2
PHẨM HƯ KHÔNG HÀNH THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI HAI
Bấy giờ lại có tám vạn Hư Không Hành Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa và Khẩn Na La cúng dường đức Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng ở trong Phật pháp thân tâm yêu thích. Vì cúng dường Phật họ phát khởi tâm dũng mãnh. Vòng khắp ngoài thành Ca Tỳ La tám vạn sáu ngàn do tuần, chư Hư Không Hành Thiên ấy mưa lớn mạn đà la khắp mặt đất dày đến gối người. Họ cúng dường Phật nhiễu Phật ba vòng, nói kệ tán thán đức Phật rằng: ”
“Các căn tịch tĩnh mặt mỉm cười
Cứu hộ tất cả các chúng sanh
Thiện Thệ đầy đủ đại từ bi
Nên làm Thế Tôn Thiên Nhân Sư
Như Lai đại chúng đều an trụ
Ở trong Phật pháp và Niết bàn
Ðạo Sư hạnh trí Lưỡng Túc Tôn
Chúng tôi đầu mặt nay đảnh lễ
Như đêm rằm vầng trăng tròn sáng
Người đời đều lạy trăng giữa sao
Như vậy tất cả các thiên chúng
Thấy Phật mặt cười đều đảnh lễ
Chứa nhóm khối lớn vô lượng phước
Cũng lãi thành tựu thân trí huệ
Ðầy đủ vô lượng oai đức lớn*
Nên tôi đảnh lễ đấng cứu đời
Núi công đức đầy đủ thập lực
Tam đế vô úy lìa tam cấu
Thành tựu mười tám phAp bất cộng
Thấy rõ không nghi đấng Ðạo Sư
Ðầy đủ ba mươi hai tướng tốt
Tám mươi tùy hảo sự trang nghiêm
Tâm Phật thắng thượng như đế Tràng
Nên tôi đảnh lễ đấng vô thượng
Ðã hay cứu cánh sức trì giới
Thiên lực quyết định chẳng khuynh động
Nắm cầm gươm trí huệ tối thượng
Tối thắng dũng kiện hàng thiên ma
Nơi sức trí huệ đến bờ kia
Ðiều ngự Thanh Văn lòng không tiếc
Tâm Phật tịch tĩnh khắp mười phương
Ðộ thoát tất cả chúng Nhân Thiên
Thế Tôn lAé đấng Thiên Nhân Sư
Ðược pháp tịch diệt tối vô thượng
Thưa vâng bạch Thế Tôn tôi nghuyện
Cũng sẽ được pháp thắng diệu ấy
Nguyện tôi cũng sẽ trong Nhân Thiên
Ðược các thế gian tìm mến thích
Như đức Thế Tôn bằng không khác
Biết rõ tâm thích muốn chúng sanh
Nguyện tôi làm lợi cho thế gian
Dùng tâm xót thương tâm đại bi
Nguyện tôi đều độ thoát được những
Chúng sanh đọa biển khổ sanh tử
Nguyện tôi ở trong hang Thiên Nhân
Ðược làm Ðại Ðạo Sư vô thượng
Tôi sẽ giải thoát cõi sanh tử
Những chúng sanh bị trăm thứ khổ”.
Ðức Thế Tôn biết chúng Hư Không Hành Thiên có tâm tín nguyện sâu rộng nên liền mỉm cười. Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“Phật Mâu Ni chẳng phải không duyên
Chiếu sáng ba cõi hiện mỉm cười
Ngưỡng mong Thập Lực nói rõ cho
Vì chúng sanh nào mà mỉm cười
Thấy mặt tối Thắng của Như Lai
Hiện tướng mỉm cười làm chúng mừng
Tất cả đại chúng đều hoài nghi
Xin Phật nói rõ nhân duyên cười
Xin Ðại Ðạo Sư mau nói rõ
Nhân duyên mỉm cười sự lợi ích
Xin dứt trừ lưới nghi cho chúng
Xin vua trong Sa Môn tuyên nói
Ai làm cho Phật hiện mỉm cười
Ai ở nơi Phật bày cúng dường
Khiến ai đạt được đáy sanh tử
Mong đức Thế Tôn trừ nghi cho
Ai ở ngày nay động cung ma
Khiến ma cuồng loạn lòng chẳng an
Ai ở ngày khiến Thiên chúng
Thảy đều vui mừng rất hớn hở
Ngưỡng mong vì tôi mà tuyên nói
Dứt trừ tất cả nghi cho đời
Ðại chúng nếu được nghe Phật nói
Tất cả sẽ đều rất vui mừng”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:
“Hôm nay Mã Thắng bạch hỏi Phật
Việc thọ ký Hư Không Hành Thiên
Ông hỏi nơi Phật lợi ích lớn
Cho vô lượng Trời Người thế gian
Nếu không hỏi nơi đức Thập Lực
Chẳng được nghe nói lời thọ ký
Nay ông bạch hỏi nơi Như Lai
Làm lợi ích lớn cho thế gian
Không Hành Thiên đây nơi đức Phật
Dùng tâm mừng rỡ mà cúng dường
Qua khỏi số kiếp a tăng kỳ
Dứt ttrừ phiền não được làm Phật
Từ nơi thân Này mạng chung rồi
Liền được sanh trời chỗ thù thắng
Chỗ vô lượng ức chư Như Lai
Ðều dung hương hoa để cúng dường
Ở chỗ chư Phật phát đạo tâm
Cũng lại tăng tiến tâm Bồ đề
Bởi nói vô lương nhân thắng diệu
Khen ngợi trí tự nhiên của Phật
Chúng ấy sẽ ở đời vị lai
Chỗ vô lượng vô biên chư Phật
Dùng hương hoa tốt để cúng dường
Cũng nói kệ hay để khen ngợi
Chư Bồ Tát thân na la diên
Cúng dường tán thán chư Phật rồi
Ở đời Như Lai kiếp Hân Hỷ
Ðược thành trí tối thắng vô thượng
Phật ấy hiệu là Hoa Tràng Tôn
Tiếng danh nghe khắp đều kính trọng
Tám vạn chúng thiên thần Không Hành
Ðều đồng một kiếp được thành Phật
Trong cõi Phật ấy không địa ngục
Cũng không ngạ quỉ và súc sanh
Cõi ấy cũng không loài Tu La
Không có tất cả tám điều nạn
Lúc tám vạn Hành Thiên thành Phật
Cõi ấy tất cả nhân dân
Tất cả chúng sanh thọ vô lượng
Quả báo như quả trời Ðao Lợi
Nước ấy chẳng nghe tên ác đạo
Huống là có người tạo nghiệp ác
Thuở ấy chúng sanh đều như pháp
Tất cả đều là chúng điều phục
Phật ấy độ người vô lượng ức
Số ấy đông hơn cát sông Hằng
Tuyên nói pháp vô y vô trước
Thập Lực độ thoát các chúng sanh
Phật ấy nhập đại Niết bàn rồi
Xá lợi lưu bố xây bửu tháp
Mỗi Mỗi Xá lợi của Phật ấy
Trong ấy đều hiện thân tướng Phật
Danh tiếng không hư các thân phần
Vì chúng sanh ấy hiện thân biến
Vô lượng ức số các chúng sanh
Ðều phát tâm vô thượng Bồ đề
Ðạo Sư trí phương tiện như vậy
Thọ ký cho chúng Không Hành Thiên
Tất cả đại chúng nghe thọ ký
Thảy đều vui mừng rất hớn hở ’’
PHẨM TỨ THIÊN VƯƠNG THỌ KÝ THỨ MƯỜI BA
Bấy giờ có chin vạn Tứ Thiên VươngThiên thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La và Hư Không Hành Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đề rất vui mừng hớn hở vô lượng, ở trong Phật pháp thâm tâm tin ưa. Ví như có người ngồi ghe bằng sành vào trong song tự nghĩ rằng: Ghe sành Này chẳng bao lâu sẽ nứt bể, lúc đó chưa chìm phải mau vào bờ để khỏi bị thủy nạn. Chín vạn Tứ Thiên Vương Thiên Này cũng như vậy, họ thầy oai thần của Phật nên khởi lòng tin ưa, vì muốn được Phật pháp nên họ phát tâm dũng mãnh cúng dường Như Lai.
Tứ Thiên Vương và chin vạn trời Tứ Thiên Vương hóa ra chín vạn tướng thất bửu rộng
lớn trang nghiêm nhiều màu sắc đẹp lạ. Trong số ấy có nhiều trướng xích chơn châu, trướng hỏa châu, trướng lưu ly, trướng thiên chơn kim, trướng kim cương châu. Chín vạn trướng thất bửu ấy ở hư không bay nhiễu Phậtba vòng. Lại hóa chín vạn thiên nhạc ở hư không nhiễu Phật ba vòng. Lại hóa những hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ca ca la bà, ma ha ca ca la bà, họ đem hoa trời ấy rải lên đức Phật, lại nhiễu Phật ba vòng, dừng ở một bên chắp tay cung kính nói kệ tán tán Phật:
“Chư Thiên chín vạn ở chỗ Phật
Nhất tâm thích muốn Phật công đức
Không diệu không trầm không tham hối
Không cao không hạ lạy Thế Tôn
Dứt giống sanh tử trụ vô minh
Nhổ gai phiền não xô núi mạn
Giỏi nhổ tên độc chữa ghẻ nhọt
Tinh tấn chẳng lười thân viên mãn
Diệt trừ phiền não giải triền phược
Dứt hết kiết sử rời ôn náo
Không và tướng là Phật hạnh
Tâm không nguyện cầu tất cả cõi
Trừ gốc khát ái bỏ vô minh
Những bốn điên đảo đều xa lìa
Phật biết thiệt tế đời không biết
Phàm phu nghe sợ như săn bẩy
Chúng sanh chấp thân chẳng biết không
Bị tối vô minh ham thế gian
Thấy chơn như xem đời trống rỗng
Hiển chơn trí nên được tịnh nhãn
Bày ngũ ấm không danh sắc không
Giới chẳng phải có xứ cũng vậy
Pháp Này pháp khác chỉ danh tự
Pháp danh tự Phật dạy là không
Như ảo sư hóa làm hình tượng
Không ngã không nhân chúng sanh mạng
Các ấm giới và mười hai xứ
Ðều là ảo hóa lời Phật dạy
Như thợ khéo vẽ hình bạch tượng
Cao thấp màu vóc đều giống hệt
Chỉ gạt mắt ngu thiệt không voi
Pháp giới bình đẳng ngu tự mê
Phật dạy rõ như trái trong tay
Người trí chẳng mê khéo học Phật
Phật đại trí huệ soi sáng đời
Chuyển diệu pháp luân độ chúng sanh
Tôi nguyện giác ngộ đại Bồ đề
Chuyển diệu pháp luân như Phật chuyển
Nơi người thế gian mê mất đường
Tôi sẽ độ họ như Phật độ”.
Ðức Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của chin vạn trời Tứ Thiên Vương và Tứ Thiên Vương nên hiện tướng mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra nhiều tia sáng năm màu. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:
“Phật cười chẳng phải không nhân duyên
Xin Phật nói rõ cớ mỉm cười
Thấy Phật cười đại chúng đều nghi
Ngưỡng mong Thế Tôn giải thích rõ
Ai phá ma quân ai hết nghi
Ai quyết định pháp xin Phật nói
Ai phụng Phật ai cúng Phật
Ðại chúng đều nghi xin Phật nói
Phật nói thọ ký chúng nghe rồi
Sẽ hết nghi ngờ xin Phật nói
Khiến các chúng sanh nương Phật trí
Mau được Bồ đề nên thọ ký”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
“Lành thay Mã Thắng hay hỏi Phật
Duyên cớ mỉm cười ông lắng nghe
vì thương thế gian phải nghe kỹ
Chín vạn chư Thiên ở trước Phật
Lòng tin thanh tịnh đã cúng dường
Nói kệ khen Phật biết pháp không
Quyết định nơi pháp trụ Phật đạo
Họ đã từng cúng tám ức Phật
Vị lai nơi vô lượng ức Phật
Cúng dường cầu được vô thượng đạo
Nơi vô lượng Phật nếu chẳng cúng
Bồ đề thọ kia chẳng ngồi chứng
Ðời vị lai họ đều thành Phật
Ðồng hiệu Ðại Trì Phật Thế Tôn
Chư Phật ấy có chúng Thanh Văn
Tám mươi hộ trì kiến vô ngại
Tất cả chúng sanh Phật độ ấy
Thọ mạng đều tám ức tuổi
Vô số ức Tỳ Kheo đệ tử
Lìa trần cấu trụ tối hậu thân
Phật ấy diệt độ do công đức
Tạo vô lượng tháp trang nghiêm đẹp
Vô lượng ngàn trăm na do tha chúng
Cúng dường chùa tháp lợi người đời
Hoặc phát đại tâm hoặc chứng diệt
Chánh pháp trụ thế thời gian lâu
Ðến tám ức năm do vô lượng
Do tha Bồ Tát trì chánh pháp
Chúng Tứ Thiên Vương được thọ ký
Vì lợi đời thành thục chúng sanh
Ðại chúng nghe rồi rất vui mừng
Hớn hở vô lượng thuận lời Phật”.
PHẨM TAM THẬP TAM THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI BỐN
Bấy giờ có tám ức chư Thiên Ðao Lợi, Thiên Ðế Thích là tối thượng thủ thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên và Tứ Thiên Vương Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng, ở trong Phật pháp thâm tâm tin ưa phát tâm dũng mãnh cúng dưỡng Như Lai, liền hóa làm tám ức lầu gác thất bửu nhiều màu trang nghiêm đẹp lạ, nơi nơi giăng rũ những anh lạc xích châu, lưu ly, hỏa châu, tạp châu. Mỗi lầu gác đều có trăm cấp tràng môn trang nghiêm. Trong mỗi cấp đều có bốn lầu gác nhỏ trang sức cửa nẻo và tòa sư tử, tràng phan lo(ng trướng lọng màn đều bằng thất bửu. Có thiên đồng nữ xinh đẹp đệ nhất hầu nơi lầu gác và tòa sư tử, đánh những nhạc trời. Họ lại hóa làm tám ức xe ngựa thất bửu trang hoàng với những tràng phan lọng báu cõi trời và những âm nhạc trời. Khắp thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần, họ rải những hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ca ca la bà, ma ha ca ca la bà, ba lô sử ca, ma ha ba lô sử ca. Hoa được rải dày đến gối. Thiên Ðế Thích lại hóa làm tám ức y la long tượng, mỗi tượng có tám ức đàu, mỗi đầu tượng đều có sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy ao bông, trong mỗi ao có bảy bông sen đều có ngàn cánh, trong mỗi cánh sen có bảy thiên nữ, mỗi thiên nữ có bảy thị nữ nhiều thứ trang nghiêm. Nơi khoảng cách lầu gác an trí long tượng, xe báu theo sau, cúng dường Như Lai những lầu gác ấy. Họ lại mua các thứ hương trời hoa trời hoa thất bửu để cúng dường Phật. Các tiên nữ ấy hoặc tấu âm nhạc, hoặc ca hoặc vũ, hoặc động chuyển thân tay rải hoa hương cúng dường. Họ lại hóa làm tám ức mã vương trang nghiêm nhiều thứ rồi ngồi lên và đem những vật báu cõi trời rải lên Phật. Lại có tám ức âm nhạc trời ở hư khong tự nhiên hòa tấu. Trên tám ức xe thất bửu, mỗi xe đều có một Hóa thiên nữ. Tám ức thiên nữ ấy hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc động chuyển thân tay rải hoa hương lên Phật cúng dường.
Lúc ấy tám ức chư Thiên Ðao Lợi nghĩ rằng các Hóa thiên nữ cúng dường Như Lai, tất cả các pháp cũng đều như hóa mà đức Như Lai đã từng giảng dạy. Họ biếyt các pháp như ảo hóa rồi, đối với tất cả pháp chă”ng còn hoài nghi. Họ nhiễu Phật ba vòng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua mọ-t phía. Họ biết các pháp như ảo rồi, cũng biết thân mình đồng là ảo hóa, biết những sự cúng dường Như Lai cũng là ảo hóa, pháp của Phật dạy cu’ng như vậy. Ở nơi ảo pháp được không nghi ngờ rồi họ nói kệ tán than đức Phật rằng:
“Những hóa nhân Này dâng cúng dường
Tất cả mọi người cũng như vậy
Ðế Thích chư Thiên và các pháp
Tất cả thảy đều như ảo hóa
Như Lai Ðạo Sư cũng như ảo
Chúng Thanh Văn từ pháp hóa sanh
Nơi lời Phật dạy đều không nghi
Hiểu được thọ ký của Phật nói
Pháp của Như Lai Thế Tôn nói
Phàm phu ngu si chẳng hiểu được
Pháp của Như Lai đã truyền dạy
Tất cả thảy đều như ảo hóa
Nếu hang học nhân và vô học
Chúng điều phục đệ tử của Phật
Những người ấy cũng như ảo hóa
Ở nơi pháp ấy tôi không nghi
Nếu người ưa thích vắng yên lặng
Riêng mình không não như kỳ lân
Chúng ấy tất cả đều như ảo
Ở nơi pháp ấy tôi không nghi
Người hành Phật hạnh Bồ Tát hạnh
Lợi ích chúng sanh chẳng phóng dật
Họ là Bồ Tát con Như Lai
Tất cả thảy đều như ảo hóa
Thiện Thệ Ðạo Sư tự nhiên trí
Thập lực đại bi trí vô lượng
Trí huệ tự tại Thế Gian Tôn
Phật ấy như vậy cũng như ảo
Như pháp Thế Tôn đã từng dạy
Thanh lương tịch tĩnh vô sở y
Pháp được Niết bàn và Niết bàn
Tất cả thứ ấy cũng như ảo
Thiện Thệ như pháp vô sở hữu
Tất cả dường như tánh ảo hóa
Nơi Phật pháp ấy và trí huệ
Trong ấy chúng tôi đều không nghi
Chúng tôi thường nguyện được như Phật
Thấy tất cả pháp dường như ảo
Chúng tôi đi trong cảnh giới Phật
Nguyện được thành Phật khôngcó nghi”.
Ðức Thế Tôn biết tám ức tròi Ðao Lợi thâm tâm tin ưa nên hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật rằng:
“Danh xưng vô tỉ đủ công đức
Như Lai mỉm cười chẳng vô cớ
Ngày nay Như Lai tại sao cười
Ngưõng mong nói rõ trừ nghi cho
Chúng thấy Như lai hiện mỉm cười
Thấy rồi chúng đều có lòng nghi
Ngưỡng mong trừ nghi cho chúng ấy
Khiến chúng chớ ôm lấy lưới nghi
Chúng chư Thiên kia đều mừng rỡ
Tán than Như Lai và cúng dường
Nay Vì ai mà Phật mỉm cười
Xin Phật nói rõ cho chúng mừng
Công đức thanh tịnh như trăng tròn
Ðấng đáng cúng dường xin nói rõ
Lời Phật phán ra nếu họ nghe
Chúng ấy mừng rỡ được thành Phật
Chư Thiên đại chúng dự hội Này
Biét tất cả pháp dường như ảo
Chư Thiên tu học không chướng ngại
Ngưỡng mong Thập Lực nói sự ấy
Tất cả đại chúng nếu trừ nghi
Dùng lòng mừng vui tu thập đạo
Khởi nguyện tăng thượng chẳng hạ liệt
Chúng nghe liền phát tâm dũng mãnh’’.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
“Mã Thắng nay ông hỏi Như Lai
Khéo hạp thời cơ lợi ích lớn
Phật biết chư Thiên mừng vui rồi
Duyên cớ mỉm cười Phật sẽ nói
Ông vì chư Thiên hỏi cớ cười
Dùng tâm thanh tịnh khéo lắng nghe
Chư Thiên đại chúng dự hội Này
Biết tất cả pháp dường như ảo
Vô lượng vô ngại tri kiến tri kiến huệ
Ðời sau lìa tối được làm Phật
Quá khứ lưu chuyển trong sanh tử
Ðã cúng dường Phật như hằng sa
Ở chỗ chư Phật luôn tu tập
Tất cả các pháp dường như ảo
Nay ở chỗ ta cũng dâng cúng
Cũng như các pháp đồng ảo hóa
Họ sâu tin ưa nơi Phật pháp
Ðời đương lai họ sẽ thành Phật
Nơi Phật pháp này họ tu tập
Không có hư mất không chướng ngại
Chư Thiên cúng dường nơi ta rồi
Lại biết các pháp dường như ảo
Trong kiếp Lực Cân ở đòi sau
Ðược thành tối thắng Vô Thượng Giác
Chư Như Lai ấy đều đồng hiệu
Là Nhân Ðà La Tràng Vương Phật
Phật ấy tuyên dạy pháp như ảo
Ðộ thoát vô lượng ức chúng sanh
Vì thế các ông bỏ phóng dật
Tu tất cả pháp dường như ảo
Người chẳng phóng được ta độ
Cho đủ Bồ đề phần pháp vậy
Tinh tấn dường như cứu đầu cháy
Mau cầu tịch diệt đại Bồ đề’’.
PHẨM DẠ MA THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI LĂM
Bấy giờ lại có bốn ức chư Thiên Dạ Ma thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên và Ðao Lợi Thiên cúng dường Phật đươc thọ ký, họ rất vui mừng hớn hơ » vô lượng, ở nơi Phật pháp họ phát khởi lòng tin ưa mà nghĩ rằng: Phật pháp như vậy rất lạ rất diệu. Ai chứng được Phật pháp ấy thì không gì chẳng biết, không gì chẳng thấy, không gì chẳng giản trạch, không gì chẳng chứng nhập. Nơi đã sanh chưa sanh hiện sanh, hoặc đã diệt sẽ diệt hiện diệt, hoặc nghiệp hoặc báo đều biết như thiệt. Rất lạ đức Như Lai có thể biết thế đế và đệ nhất nghĩa, khéo biết hai đế ấy không còn gì khác. Ðức Phật Thế Tôn ở nơi pháp không,
Khéo hay biết hay thấy, khéo biết giản trạch, khéo chứng tương ưng nên gọi là nhất thiết trí. Gì gọi là thế đế? Tất cả thế tục sanh tử hiện hành, ở nơi các pháp ấy đều biết rõ được cả. Ðệ nhất nghĩa đế không có ngôn thuyết, không có người biết, chẳng phải sở hành của tâm, vì là vô tri nên không người hay nói không ai hiển thị, không ai nói dạy, không có ai nghe, vì là không nói nên cũng không người biết, không sanh không hiển bày, không người thấy, không người sắp đặt, không có nắm lấy, không có giác tri, không có năng đáo cũng không sở đáo, không thể gần kề, không thể đo lường, không có kiến lập, không có vứt bỏ, không sở tác không năng tác, không khen không chê, không lợi không suy, không ngợi không bay, không khổ không vui, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải số chẳng phải chẳng số, chẳng phải sáng chẳng phải chẳng sáng, chẳng phải phiền não, chẳng rời phiền não, chẳng phải thế gian, chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải tiến chẳng phải thối, không động không tác, không có hí luận, vượt khỏi hí luận, tướng sắc được nói bất khả đắc, thọ tưởng hành thức cũng bất khả đắc, tướng nhãn bất khả đắc
nhĩ tỉ thiệt thân và ý các tướng ấy cũng bất khả đắc, tướng sắc bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp đều bất khả đắc, tướng nhãn thức bất khả đắc, các tướng nhĩ thức tỉ thức thiệt thức thân thức và ý thức đều bất khả đắc, tướng nhãn xúc bất khả đắc, các tướng nhĩ xúc tỉ xúc thiệt xúc thân xúc và ý xúc đều bất khả đắc, nhãn xúc sanh thọ bất khả đắc, nhĩ tỉ thiệt thân và ý xúc sanh thọ đều bất khả đắc, tướng sắc tư giác bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp tư giác đều bất khả đắc, tướng không bất khả đắc, các giới địa thủy hỏa phong và thức đều bất khả đắc, tướng dục giới bất khả đắc, tướng sắc giới bất khả đắc, tướng vô sắc giới bất khả đắc, tướng hữu vi bất khả đắc, tướng vô vi bất khả đắc. Các tướng như vậy, nếu các pháp ấy được tuyên nói thì không người hay nói, các pháp như vậy như vậy gọi là những pháp bất khả thuyết. Phật pháp tối thắng, chúng sanh phám phu ngu si không học chẳng biết được nên họ nghe đến sanh kinh sợ. Ở nơi Phật pháp vì họ kinh sợ nên bèn thối thất nơi Nhất thiết chủng trí. Chư Thiên và người đời nên phải xót thương các chúng sanh ấy, họ thường ở sanh tử bị nhiều khổ não
Chư Thiên Dạ Ma quan sát các thế gian chúng sanh khổ não rồi, vì được Phật pháp và vié cúng dươéng Như Lai nên phát khởi tâm tinh tấn dũng mãnh, trần thiết đồ cúng dườnghơn trời Ðao Lợi để dâng cúng Phật, cúng dường xong đảnh lễ chân Phật nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán thán đức Phật:
“Phật thấy các ấm đều không tịch
Ở nơi giới nhập cũng như vậy
Các căn tích tụ đều ly tướng
Như Lai như thiệt biết rõ cả
Bực trí thế gian nơi thiệt pháp
Chẳng theo người nghe tự nhiên hiểu
Ðó là thế đế và chon đế
Ngoài đây không còn pháp thứ ba
Như Lai thương xót tất cả loài
Vì lợi thế gian nói tục đế
Như Lai tuyên nói nơi thế gian
Vì các chúng sanh hiển lục đạo
Ðịa ngục súc sanh và ngạ quỉ
Nhân Thiên Tu La đủ sáu đạo
Nhà hạ liệt và nhà thù thắng
Bao nhiêu nhà nghèo và nhà giàu
Các hàng nô bộc và tì sứ
Các giống nam nữ và hai căn
Bao nhiêu sáu đạo ở thế gian
Ðức Phật Thế Tôn đều đã nói
Quan sát các pháp thế tục rồi
Vì lợi ích lời Phật tuyên nói
Chúng sanh ưa thích nơi sanh tử
Chẳng thể rơéi được tám sự đời
Ðó là lợi suy và hủy dự
Các thứ xưng cơ và khổ lạc
Ðược lợi lòng họ liền vui mừng
Thất lợi họ liền sanh sân não
Sáu sự đời kia cũng như vậy
Thế gian đều theo tám sự ấy
Ở trong tục đế mà nói chơn
Kiến thức điên đảo cần phải rõ
Trong chẳng sạch vui nói sạch vui
Trong không có ngã nói có ngã
Trong pháp vô thường nói là thường
Ở trong tướng ấy luôn nắm lấy
Nghe giáo pháp của đức Phật dạy
Họ bèn sợ chê chẳng tin nhận
Chê bai thiệt giáo của Như Lai
Sẽ đọa địa ngục rất khốn khổ
Phàm ngu tham cầu nơi thế lạc
Càng thọ vô biên trăm thứ khổ
Nếu ai được ở trong Phật pháp
Quan sát như vậy chẳng điên đảo
Bỏ rời sanh tử vào Niết bàn
Như rắn kia lột bỏ da cũ
Tất cả các pháp thể tánh không
Không chẳng có tướng đệ nhất nghĩa
Nếu nghe pháp không mà ưa thích
Chắc được vô thượng đại Bồ đề
Như Lai như thiệt nói pháp ấy
Dứt trừ nghi ngờ cho chư Thiên
Ðều phát tâm Vô thượng Bồ đề
Vì độ tất cả chúng sanh vậy
Chư Thiên như vậy phát tâm rồi
Thảy đều mừng vui tâm thanh tịnh
Ðược nghe Phật pháp tối thắng rồi
Chúng chư Thiên đây đều thành Phật”.
Ðức Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của bốn ức Dạ Ma Thiên nên hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ kheo nói kệ hỏi Phật:
“Phật vì thế gian mà mỉm cười
Tất cả chúng đây đều sanh nghi
Ngưỡng mong Thế Tôn nói rõ cho
Khiến tất cả chúng đều mừng rỡ
Ðược nghe thọ ký chư Thiên rồi
Tất cả đại chúng đều hớn hở
Người có trí huệ phát dũng mãnh
Ở trong Phật pháp làm như lời
Hàng chúng thù thắng của Như Lai
Có đủ pháp khí công đức Phật
Lành thay tuyên nói lời đẹp hay
Ðể nhiếp tất cả đại chúng vậy
Nghe Phật công đức long vui mừng
Các đại chúng đây quyết sẽ được
Nghe đức Như Lai thọ ký rồi
Ðúng pháp sẽ siêng tu tinh tấn
Lành thay Thế Tôn Thầy Trời Người
Vì trừ nghi hoặc cho đại chúng
Ngưỡng mong Thế Tôn mau nói rõ
Ðại chúng nhất tâm ưa thích nghe
Trời Dạ Ma kia được thọ ký
Xin đức Thế Tôn mau nói rõ
Các đại chúng đây đều vui mừng
Tất cả đều phát tâm Bồ đề”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:
“Vì lợi thế gian hiện tướng cười
Mã Thắng đúng giờ khéo hỏi Phật
Lợi ích vô lượng các đại chúng
Vì nghe công đức của Như Lai
Các chúng sanh ưa thích tham sân
Không biết ưa nơi công đức Phật
Tâm họ ngu si bị mê loạn
Sẽ chìm mãi trong biển sanh tử
Với Phật chánh pháp nếu tin ưa
Ðã từng thỉnh hỏi nơi Phật trước
Người tương ưng với tâm đại bi
Người Này sẽ được Phật công đức
Nếu thấy chúng sanh bị si não
Người trí với họ sanh lòng thương
Các chúng sanh ấy nghe Phật đức
Ðội lãnh Phật giáo như vòng hoa
Chúng hội của Phật rất thanh tịnh
Nơi chỗ Phật trước đã tu phước
Họ đối với công đức Như Lai
Ðội lãnh như vòng hoa bà sư
Chỗ Phật trước chúng trời Dạ Ma
Ðã tu trì giới trừ tham trước
Nhàm lìa phiền não lòng thanh tịnh
Với chúng sanh khổ sanh lòng thương
Ðã từng gần gũi vô lượng Phật
Số ấy nhiều như cát song Hằng
Họ đã tu tập vô lượng lành
Ðể cầu Vô thượng Bồ đề vậy
Biết chúng sanh chìm trong phiền não
Với chúng sanh khổ sanh lòng thương
Nơi đấng cứu thế đại Ðạo Sư
Bạch hỏi vô lượng pháp môn diệu
Nay Phật Ðạo Sư vì họ nói
Người nghe đều được thành Phật đạo
Biết chúng sanh bị phiền não móc
Vì họ nói pháp thiện thắng diệu
Ðiều Ngự Trượng Phu đại Ðạo Sư
Vì các chúng sanh nói pháp không
Họ nghe pháp của Phật dạy rồi
Các pháp không ấy đều biết rõ
Ðó là không các pháp tướng không
Nói không tự tánh pháp không tướng
Biết rõ các Phật pháp như vậy
Thảy đều an trụ Phật công đức
Chúng ấy cúng dường nơi Như Lai
Như pháp đều tự thọ ký biệt
Ở kiếp tinh tú đời vị lai
Thảy đều được thành vô thượng đạo
Chư Phật như vậy không tăng giảm
Số ấy đầy đủ bốn ức chẵn
Thảy đều đồng hiệu Tịnh Trí Phật
Khai ngộ vô lượng các chúng sanh
Ðại Thiên hằng phục các ma oán
Ðáp lời Mã Thắng đã bạch hỏi
Chúng trời Dạ Ma đã mãn nguyện
Ðại chúng Trời Người đều mừng rỡ”.
PHẨM ÐÂU SUẤT ÐÀ THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI SÁU
Bấy giờ có tám ức Ðâu Suất Ðà Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La nhẫn đến Dạ Ma Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở và nghĩ rằng: Nơi những pháp nào mà đức Thế Tôn thọ ký cho Vô thượng Bồ đề? Là sắc thọ ký, thọ tưởng hành thức được thọ ký Vô thượng Bồ đề? Chư Thiên ấy lại nghĩ rằng: Chẳng phải thọ ký cho sắc, cũng phải thọ ký Vô thượng Bồ đề cho thọ tưởng hành thức. Tại sao? Vì sắc đã chẳng sanh, Bồ đề cũng chẳng sanh, Thế nào sắc vô sanh mà ngộ được Bồ đề vô sanh, như vậy thọ tưởng hành và thức vô hành làm sao ngộ được Bồ đề vô sanh .Sắc đã chẳng diệt Bồ đề cũng chẳng diệt, thế nào sắc bất diệt lại ngộ được Bồ đề bất diệt, như vậy thọ tưởng hành và thức bất diệt làm sao ngộ được Bồ đề bất diệt.
Sắc vô phân biệt, Bồ đề cũng vô phân biệt, thế nào sắc vô phân biệt lại ngộ được Bồ đề vô phân biệt, như vậy thọ tưởng hành và thức vô phân biệt làm sao ngộ được Bồ đề vô phân biệt.
Sắc đã vô nhị, Bồ đề cũng vô nhị, thế nào sắc vô nhị lại ngộ được bồ đề vô nhị, như vậy thọ tưởng hành và thức vô nhị làm sao ngộ được Bồ đề vô nhị.
Sắc đã vô tác, Bồ đề cũng vô tác, thế nào sắc vô tác lại ngộ được Bồ đề vô tác, như vậy thọ tưởng hành và thức vô tác làm sao ngộ được Bồ đề vô tác.
Sắc đã bất khả đắc, Bồ đề cũng bất khả đắc, thế nào sắc bất khả đắc lại ngộ được Bồ đề bất khả đắc, như vậy thọ tưởng hành và thức bất khả đắc làm sao ngộ được Bồ đề bất khả đắc.
Ở trong các pháp bất khả đắc ấy, gì là Phật, gì là Bồ đề, gì là Bồ Tát, gì là thọ ký. Sắc ấm không, thọ tưởng hành thức cũng đều không. Tại sao? Vì tự tánh không vậy. Thế thì Phật không, Bồ đề không, Bồ Tát không,
thọ ký không. Tại sao? Vì tự thể không vậy. Trong tất cả pháp tánh không như vậy, nói rằng Phật ấy là danh là dụng là thế đế, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thuyết. Nói rằng sắc thọ tưởng hành thức cũng chỉ là danh là dụng là thế đế là ngôn thuyết là thi thiết. Người trí ở nơi đây chẳng nên tham trước.
Ví như có người chiêm bao hưởng thọ ngũ dục lạc, lúc thức chẳng thấy sự vui ấy, vì nhớ lại chẳng được vui ngũ dục nên sanh khổ não.
Người an trụ nơi Bồ Tát thừa mà thủ trước, vì chẳng ngộ Bồ đề chẳng chứng Bồ đề nên chẳng được pháp vị ấy. Vì chẳng được pháp vị nên lòng sanh khổ não. Tại sao? Vì các pháp như vậy đều như cảnh mộng chẳng thiệt có. Pháp ấy nghĩa sai biệt, hang phàm phu hiểu biết đều sai khác. Tất cả các pháp phải biết như vầy: Pháp nào là Phật, pháp nào là Bồ Tát, pháp nào là Bồ đề? Các Phật pháp ấy đều bất khả đắc. Phàm phu bất khả đắc, pháp phàm phu cũng bất khả đắc. Thanh Văn bất khả đắc, pháp Thanh Văn cũng bất khả đắc. Bích Chi Phật bất khả đắc, pháp Bích Chi Phật cũng bất khả đắc. Bồ Tát bất khả đắc, pháp Bồ Tát cũng bất khả đắc. Chư Phật
bất khả đắc, pháp chư Phật cũng bất khả đắc, Bồ đề bất khả đắc, Niết bàn cũng bất khả đắc. Trong các pháp như vậy, chúng tôi hiểu rõ không hoài nghi.
Ðâu Suất Ðà Thiên ở trong pháp ấy không nghi ngờ rồi đối với Phật càng kính tin, thích dâng cúng dường. Họ cúng dường hơn trời Dạ Ma, đảnh lễ chân Phật, nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán than đức Phật:
“Nhừng người an trụ Phật công đức
Như Lai vì họ dạy pháp hành
Họ được ba thứ giải thoát môn
Tu hành trong cảnh giới vô đẳng
Không sắc không thọ tưởng hành thức
Không người hay thọ cũng không tâm
Ðây là cảnh giới trí vô ngại
Thiên Nhân Sư thích lìa dục ấm
Bực trí huệ đại trượng phu ấy
Chẳng lấy tưởng phát tâm Bồ đề
Lìa Ấm rồi được thắng thiện căn
Nơi Phật công đức không nghi lự
Chí nguyện Vô thượng đại Bồ đề
Nhưng với Bồ đề lìa thủ trước
Vì vậy nội tâm không lo mừng
Gọi là Phật tử tu thánh đạo
Ðồng Phật thấy pháp đều bình đẳng
Thế nên vô pháp vô sở úy
Người trí ở chỗ thế gian Này
Cầu Phật công đức khởi tu hành
Giản trạch sắc tướng vô sở trước
Vứt bỏ tấ cả tâm có tướng
Nơi ba cõi kia chẳng mong muốn
Quan sát các cõi thảy đều không
Biết được ngũ ấm đều chẳng sanh
Như Lai thọ ký đến Bồ đề
Bồ đề tâm ấy cũng vô sanh
Người nói lời Này không ngu hoặc
Như Lai công đức và sanh tử
Các Phật pháp ấy đều vô sanh
Người biết như vậy là trí huệ
Ðây là chơn thiệt con Như Lai
Nếu biết được các ấm bất diệt
Giới nhập và cùng pháp Như Lai
Phật cùng Bồ đề và thọ ký
Các pháp như vạ-y đều bất diệt
Nếu vì Bồ đề mà tu hành
Phải biết người ấy cũng bất diệt
Vì biết thế gian là bất diệt
Nên cầu Bồ đề chẳng là khó
Năm ấm giới nhập và Bồ đề
Bồ Tát cùng Phật đều vô tác
Biết rõ như vậy là Phật tử
Hay trì chánh pháp của Như Lai
Ấm giới các nhập đều vô giác
Bồ đề cùng Phật và Bồ Tát
Và cùng thọ ký đều vô giác
Người biết như vậy là Phật tử
Ngũ ấm giới nhập tánh không tịch
Phật cùng Bồ đề và thọ ký
Thiệt con của Phật người tu hành
Tất cả cũng đều tự tánh không
Ấm giới các nhập đều hư vọng
Lưỡng Túc Thế Tôn và Bồ đề
Bồ Tát thọ ký cũng hư vọng
Biết rõ như vậy là Phật tử
Chẳng phải y chỉ chẳng y chỉ
Cũng phải pháp có pháp không
Chẳng phải hữu vi và vô vi
Biết rõ như vậy là Phật tử
Thế Tôn thấy thế gian như vậy
Chúng tôi biết tâm Phật như vậy
Nên liền cúng dường lên Như Lai
Cũng cúng tất cả chúng hiền thánh
Chúng tôi khen Phật mà được phước
Chỉ Phật Thế Tôn biết rõ được
Ðem công phước đức Này thí quần sanh
Nguyện đều thành Phật đủ tướng tốt”.
Ðức Thế Tôn biết trời Ðâu Suất Ðà tán thán và thâm tâm tin ưa rồi liền hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:
“Vô Thượng Sĩ được đại thế lực
Do đại bi tâm hiện mỉm cười
Nguyện Phật nói rõ duyên cớ cười
Cho chúng được nghe đều mừng rỡ
Vì thấy Như Lai hiện tướng cười
Nên đại chúng Này đều hoài nghi
Chúng tôi ân cần khắp chiêm ngưỡng
Thảy đều nhất tâm muốn được nghe
Dường như thế gian có người bệnh
Chỉ tưởng y sư và lương dược
Ðại chúng như vậy đối với Phật
Mong muốn được nghe Phật thọ ký
Chúng ấy đều có trí huệ sâu
Chí cầu Bồ đề vô sở trước
Tất cả cung kính đồng chime ngưỡng
Chỉ mong Như Lai nói ký biệt
Thế Tôn nơi đây khởi đại bi
Dùng Phật trí lực dứt lưới nghi
Thế nên đại chúng đều mừng rỡ
Thảy đều nguyện cầu Phật công đức
Nay đúng là lúc Phật thọ ký
Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc
Phật đã từ lâu lìa oán dịch
Nguyện dứt ngoại đạo các tà luận”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã thắng :
“Nay ông thỉnh hỏi nơi Như Lai
Nhân duyên mỉm cười thật đúng lúc
Vì lợi thế gian nên thưa hỏi
Lòng vì lợi ích các chúng sanh
Biết các chúng trời lòng ưa thích
Nên Phật hiện tướng sáng mỉm cười
Chúng trời biết Phật pháp thắng diệu
Nên họ dâng cúng lên Như Lai
Họ đều như thiệt thấy thế gian
Tùy thuận thánh giáo được chứng pháp
Ðã đến ba thứ giải thoát môn
Chẳng phải thế gian mà biết được
Quá khứ đã cúng vô lượng Phật
Cũng đã hỏi Phật nghĩa sâu ấy
Nơi Phật quá khứ đã tu không
Nên ngày hôm nay hiển không nghĩa
Do thiện căn ấy nay tại đây
Họ được gặp gỡ Thích Ca Tôn
Dùng lý không khen đấng Vô Thượng
Làm lợi tất cả các thế gian
Thế gian như đây đều vô sanh
Chư Phật Bồ đề và thọ ký
Bao nhiêu người tu hành Bồ đề
Chúng ấy tất cả đều vô sanh
Chúng sanh đều đồng có pháp Này
Biết như vậy rồi được Bồ đề
Quá khứ đã được tâm Bồ đề
Họ ở nghĩa Này được biết rõ
Thế gian như vậy cũng chẳng diệt
Chúng trời Ðâu Suất khéo thông đạt
Trí sáng chiếu rõ đều không nghi
Nên chúng trời ấy đều làm Phật
Quyết định chắc được chỗ vô y
Nơi pháp chẳng lấy lìa phân biệt
Tất cả thế gian đều vô tác
Nghĩa Này chúng trời hay biết rõ
Tất cả pháp thể lìa tự tánh
Chúng trời lòng sạch không nghi hoặc
Bồ đề và cùng tâm Bồ đề
Tất cả đều không tự tánh không
Chư Thiên Ðâu Suất huệ kiên cố
Thảy đều an trụ vô sở y
Nên được Bồ đề chẳng là khó
Chắc sẽ mau thành trí Vô Thượng
Ở kiếp tinh tú đời vị lai
Sẽ độ thoát được vô biên chúng
Tất cả trời ấy đều thành Phật
Ðồng cùng danh hiệu Trạch Pháp Vương
như Lai đối với chúng trời Này
Biết họ thích ưa nên thọ ký
Tất cả đại chúng nghe Phật nói
Thảy đều hớn hở vừa lòng dạ”.
PHẨM HÓA LẠC THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI BẢY
Bấy giờ có Hóa Lạc Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc bảy ức chúng trời Hóa Lạc thấy A Tu La nhẫn đến trời Ðâu Suất Ðà cúng dường Phật được thọ ký, họ đều mừng vui hớn hở, họ đều vừa lòng được an trụ thiệt tế, ở trong chơn như không có nghi hoặc. Họ đồng đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, đầu mặt lạy chân Phật, chắp tay cung kính khác miệng đồng lời mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như chúng tôi hiểu nghĩa của Phật nói thì tất cả các pháp là chơn thiệt tế, là vô biên tế, là vô ngại tế, là vô trụ tế, là vô tận tế, là bất nhị tế, là phi tế.
Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng thiệt tế là vì chẳng điên đảo vậy, vô biên tế là vì không hạn lượng vậy, vô ngại tế là vì lìa đối trị vậy, vô trụ tế là vì không tự tánh vậy, vô tận tế
là vì vô sanh vậy, bất nhị tế là vì một vị vậy, phi tế là vì chẳng phải có vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tế ấy khắp tất cả chổ, không có một pháp nào mà chẳng phải là thiệt tế.
Bạch đức Thế Tôn!
Nói là Bồ đề cũng là thiệt tế. Những gì là Bồ đề? Tất cả pháp là Bồ đề vì lìa tự tánh vậy. Nhẫn đến năm nghiệp vô gián cũng là Bồ đề. Tại sao? Vì Bồ đề không tự tánh, năm nghiệp vô gián cũng không tự tánh, nên nghiệp vô gián cũng là Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Nói Bồ đề ấy như tánh vô dư Niết bàn, cũng như tánh nghiệp vô gián. Tại sao? Tất cả pháp tức là tánh vô dư Niết bàn, cũng là tánh nghiệp vô gián, thế nên vô dư Niết bàn giới tức là Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh an trụ sanh tử có thể cầu Niết bàn ở trong thiệt tế, không có người an trụ sanh tử cầu Niết bàn. Tại sao? Vì thiệt tế không hai vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi ở nơi đây hiểu rõ không hoài nghi. Nếu ai ở nơi pháp Này không hoài nghi, phải biết người ấy đã ở nơi Phật quá khứ được thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Ðức Thế Tôn nghe Hóa Lạc Thiên Vương và bảy ức chúng trời Hóa Lạc nói thọ ký, vì muốn đại chúng vui mừng nên hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:
“Ðấng thương thế gian hiện mỉm cười
Mà chẳng nói nhân duyên cười ấy
Thiên Nhân Ðạo Sư chẳng không nhân
Hiện tướng mỉm cười phóng tia sáng
Ðã thấy tướng cười của Thế Tôn
Khiến các đại chúng đều hoài nghi
Ngưỡng mong nói duyên cớ mỉm cười
Dứt trừ tất cả những lưới nghi
Chúng ấy nếu được Như Lai nói
Nghe rồi đều sanh lòng hi hữu
Làm sạch chơn lộ cho chúng hội
Làm nhân duyên xu hướng Bồ đề
Nếu có chúng sanh còn hoài nghi
Vì nghi nên khó được Bồ đề
Ngưỡng mong đại trí dứt nghi hoặc
Tinh cần mau chứng đạo vô thượng
Bạch đức Thế Tôn đại chúng Này
Chí cầu Bồ đề lìa những ác
Ðược nghe chư Thiên thọ ký rồi
Quyết định sẽ thành đại Pháp Vương
Nguyện đức Thế Tôn vì xót thương
Dứt trừ tất cả lòng nghi hoặc
Thọ ký Bồ đề cho chư Thiên
Khiến chư đại chúng đều mừng rỡ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:
“Vì thương thế gian nên hiện cười
Mã Thắng nay ông hỏi nơi Phật
Phật đều thọ ký chư Thiên ấy
Các ông đều phải lắng lòng nghe
Bảy ức chúng trời Hóa Lạc Này
Hay tự thọ ký được thành Phật
Trong chúng đã làm sư tử rống
Hay phá ngoại đạo các tà kiến
Thí như hư không mưa đá khối
Chắc nát mặt đất không còn nghi
Phật tử như vậy lìa nghi hoặc
Tự biết chắc sẽ thành Phật đạo
Dường như trời lặng đến đêm tối
Phải biết trăng mọc chắc chẳng lâu
Phật tử như vậy đủ công hạnh
Biết chắc sẽ đủ mười trí lực
Lại như mặt nhật lúc đứng bóng
Nhìn các sắc tượng đều sáng tỏ
Phật tử như vậy đủ công hạnh
Tự biết chắc được Nhất thiết trí
Dụ như mặt nhật đến lúc lặn
Mọi người đều biết mặt nhật ẩn
Phật tử như vậy đều tự biết
Quyết định sẽ được trí tối thắng
Ví như các dòng đều chảy xuông
Người trí biết sẽ về biển cả
Phật tử như vậy đủ huệ sáng
Biết chắc sẽ được thượng Bồ đề
Như người ném đá lên hư không
Quyết chắc rớt xuống không nghi lự
Phật tử như vậy đều tự biết
Chẳng lâu sẽ được Thế Gian Giải
Người trí pháp nhĩ có thấy biết
Vì hiểu rõ pháp chẳng nghi ngờ
Biết mình có phần Phật công đức
Quyết định gần nơi trí tự nhiên
Giả sử na do tha ma chúng
Hiện Phật bảo ngươi chẳng thành Phật
Chẳng ngăn trở được tâm ý họ
Vì đã tự hiểu pháp chơn như
Quyết định ở nơi Phật công đức
Ðều tự nói mình được thọ ký
Nơi sự thọ ký Này của họ
Như Lai đều tùy hỉ tất cả
Chúng trời ấy tu hạnh Bồ Tát
Tự mình biết rõ chẳng do người
Chúng ấy tự nói thành Thiện Thệ
Như Lai ở đây đều tùy hỉ
Thế nên Mã Thắng nếu có người
Muốn được Bồ đề Vô thượng ấy
Ở nơi pháp Này phải siêng cầu
Quyết được tối thắng chỗ an ổn
Tự thành chánh giác ngộ lý sâu
Tùy nghĩa như thiệt đều biết rõ
Thân cận cúng dường thiện trí thức
Họ chứng Bồ đề chẳng là khó
Nếu ai ngàn kiếp tu khổ hạnh
Da thịt gân xương không luyến tiếc
Nếu người hiểu rõ nghĩa lý Này
Phước đây lớn rộng hơn phước trên
Quá khứ bao nhiêu các đức Phật
Vị lai tất cả đấng thương đời
Và cùng hiện tại các Thế Tôn
Ðều y pháp Này thành Phật đạo
Hóa Lạc chư Thiên cúng Phật rồi
Thảy đều tự biết đệ nhất nghĩa
Ðã cùng quá khứ chư Như Lai
Ngộ nghĩa lý Này sẽ thành Phật
Chư Phật chỗ có thắng tam muội
Và cùng hiện tại định đang trụ
Trời ấy được vào cảnh giới Phật
Vì họ đời trược lâu tu tập
Bảy ức Hóa Lạc chúng trời ấy
Ở nơi tam muội không còn nghi
Phật pháp thanh tịnh đã khéo học
Nay nơi Phật đạo hiện tu hành
Vì thế nơi lý sanh tin hiểu
Nên chánh cần cầu rời mé khổ
Phải thường thân cận bực đa văn
Quyết được Vô thượng đại Bồ đề
Nghe Phật tuyên nói diệu pháp rồi
Chư Thiên Hóa Lạc và chúng hội
Thảy đều vui mừng trừ lưới nghi
Chảy rót thẳng đến đại Niết bàn”.
PHẨM THA HÓA TỰ TẠI THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI TÁM
Bấy giờ có Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại thấy A Tu La nhẫn đến chúng trời Hóa Lạc cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở được vừa lòng khác miệng đồng lời bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng trời Hóa Lạc nói thiệt tế, chúng tôi còn chẳng thấy thiệt huống là thấy tế. Tại sao? Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy thiệt mới được nói là thấy tế. Tại sao? Người ấy hành nơi hai chỗ. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân, người ở nơi thừa như vậy, phải vì họ nói hai thứ pháp ấy. Hai pháp ấy chẳng phải chơn cảnh giới.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân ở nơi pháp bất nhị mà chẳng tin chẳng
nhập, dầu người Này có phát tâm trông được Bồ đề, phải biết người Này đi sai đường. Tại sao? Vì nơi Bồ đề chẳng phải đường đi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu Bồ đề, người ấy chẳng thấy có một pháp được giác ngộ. Tại sao? Vì không có chút pháp gì có thể được giác ngộ Vô thượng Bồ đề vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Pháp ấy chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải hữu vi, chảng phải vô vi, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải được hay, chẳng phải được biết, chẳng phải được xả, chẳng phải được tu, chẳng phải được chứng. Nói là Bồ đề ấy, pháp đó chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Pháp khác cũng chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Tại sao? Pháp đó chẳng tạp phiền não chẳng rời phiền não, pháp thể bất khả đắc, vì tánh tự ly vậy.
Pháp Này chẳng cùng pháp đó làm đối trị, pháp đó cũng chẳng cùng pháp Này làm đối trị. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều lìa tướng vậy. Vì thế nên pháp đó chẳng phải được biết, được hay, được xả, được tu, được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Sắc sanh ấy lìa tướng sanh, nó cũng chẳng phải được biết được hay
được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Sắc diệt ấy lìa tướng diệt, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Quá khứ ấy lìa tướng quá khứ, nó cũng chẵng phải biết được hay được xả được tu được chứng. Vị lai và hiện tại cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Hữu vi ấy lìa tướng hữu vi, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Vô vi ấy củng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nhu vậy, nhẩn đến được nhiếp nơi ấm, được nhiếp nơi quá khứ vị lai hiện tại, được nhiếp nơi hữu vi vô vi, tất cả các pháp ấy đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên tất cả pháp ấy chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân như vậy vì cầu Bồ đề phát tâm tu hành, họ đều gọi là người an trụ Bồ Tát thừa”.
Tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại đều nói pháp của mình đã biết rồi, đồng nói kệ tán thán đức Phật:
“Thế Tôn khéo nói tận hữu biên
Vĩnh viễn chẳng thọ thân sáu đạo
Người đời vô trí sợ sanh tử
Phát tâm muốn qua bờ sanh tử
Thể các ấm ấy bất khả đắc
Bởi tánh tướng ấm vốn tự không
Tất cả pháp không đều vô tướng
Vì thế các pháp lìa đối trị
Tự thể tức không chẳng có vật
Không có được biết và xả tu
Cũng là chẳng phải pháp được chứng
Như Lai nói hữu tức phi hữu
Tướng cầu Bồ đề bất khả đắc
Các pháp trợ đạo cũng bất đắc
Lấy tâm cầu Phật bất khả đắc
Tướng Bồ Tát tìm cũng chẳng được
Nắm chặc các tướng hạng ngu si
Bọn họ trông được ngộ Bồ đề
Cảnh giới điên đảo chấp lấy tướng
Chẳng phải đi đúng Bồ đề đạo
Nhập Phật cảnh giới lìa các tướng
Gọi là người trí hành đúng pháp
Lìa xa các tướng và vô tướng
Cũng lìa nơi không và bất không
Người Này ngộ được đạo vô thượng
Chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo
Chẳng phải Thanh Văn mà biết được
Chẳng phải Duyên Giác có thể đến
Tâm được giải thoát tịnh vô cấu
Pháp ấy La Hán được tương ưng
Và cùng tất cả Bích Chi Phật
Chẳng phải cảnh của trí huệ họ
Câu ấy tâm có tướng chẳng biết
Người tu thiên không cũng chẳng hiểu
Nếu có ai hiểu không nói không
Cũng nói các pháp không tự tánh
Họ thọ Phật giáo không chê bai
Ðây gọi là khéo tu không tịch
Ngộ được đạo Bồ đề khó ngộ
Nơi đó Phật là chơn Ðạo sư
Khen Phật Lưỡng Túc Thế Tôn rồi
Liền được vô lượng các công đức
Hồi hướng cho tất cả quần sanh
Thành Phật giác ngộ người chưa ngộ”.
Ðức Phật biết Thiên Vương và tám muơi na do tha trời Tha Hóa Tự Tại sanh lòng sâu tin ưa rồi, vì muốn đại chúng thêm lớn thiện căn nên hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:
“Lưỡng Túc Thế Tôn hiện mỉm cười
Vì biết Tha Hóa tin sâu vậy
Phật chưa tuyên nói nhân duyên cười
Ngưỡng mong Như Lai giải thích cho
Ðại Thánh hôm nay chẳng không nhân
Mà hiện tướng mỉm cười hi hữu
Mong Phật nói rõ duyên cớ ấy
Dứt trừ nghi hoặc cho đại chúng
Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
Nên nay chúng hội đều hoài nghi
Ðấng thương mến tất cả thế gian
Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
Chúng hội thảy đều trái sanh tử
Hiệp chưởng cung kính cầu Niết bàn
Với cớ Phật cười đều hoài nghi
Ðấng Vô Ngại Thuyết xin trừ dứt
Ðại chúng đều tin pháp của Phật
Tâm được hiểu ro’ lìa thủ trước
Ðều có tâm tin sâu tôn trọng
Lành thay Mâu Ni xin nói rõ
Dũng mãnh tinh tấn nơi Phật pháp
Lìa xa lưới nghi lên đường thánh
Tất cả chư Phật đi đường Này
Vì thế xin trừ nghi cho chúng”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:
“Ông vì lợi ích cho đại chúng
Nói kệ hỏi Phật thiệt phải thời
Ðầy đủ biện tài có xảo tiện
Mới hay hỏi được nghĩa mỉm cười
Do hỏi Như Lai tướng mỉm cười
Chắc sẽ lợi ích vô lượng chúng
Do tất cả các chúng hội
Ðều được an trụ thắng Bồ đề
Biết chúng Tha Hóa tin sâu rồi
Nên Phật mới hiện tướng cười sáng
Tất cả tùy thuận Như Lai giáo
Vì cầu Bồ đề tu diệu hạnh
Quan sát thế pháp lìa các tướng
Như thấy dương diệm chẳng chơn thiệt
Người ngu thấy diệm cho là nưuớc
Muốn cầu Bồ đề chớ đồng họ
Phàm phu thủ tướng tham cảnh vui
Vô trí thường sợ nơi vô tướng
Người ngu chấp tướng bỏ chánh lộ
Lìa tướng thì được diệu Bồ đề
Vọng tưởng tư lương pháp hư ngụy
Theo pháp phân biệt liền bị trói
Người trí thấy tướng thảy đều không
Ðược đà la ni thượng tịch diệt
Phàm phu chấp tướng trụ ác tâm
Họ đều vô trí đọa lục đạo
Luân hồi sanh tử bị nhiều khổ
Vì họ ngu si chấp tướng vậy
Chúng sanh trước tướng thấy các ấm
Phật và Bồ đề cùng Bồ Tát
Người trí lìa tướng thấy không rồi
Hay được Bồ đề đại Vô thượng
Những kẽ chấp tướng tăng phiền não
Hay quán vô tướng trừ kiết sử
Nói là kiết sử tức là tướng
Quán kiết vô tướng liền dứt trừ
Nếu người cầu đạo mà phân biệt
Phân biệt nơi đạo là chướng ngại
Người trí dầu là hành nơi dục
Dục ấy tức là vô tướng hành
Các pháp không thể bất khả đắc
Phân biệt các pháp nói là không
Nếu lìa phân biệt được vô tướng
Ðó là Bồ đề không còn khác
Nghe nơi Thiện Thệ nói lời ấy
Ðại chúng trừ nghi được vô úy
Ðảnh thọ lấy pháp Mâu Ni nói
Như người đầu đội hoa chiêm bặc
Chúng trời Tha Hóa được vô úy
Cúng dường nơi Phật rất hơn hết
Họ biết các pháp cảnh giới Phật
Sẽ làm thế gian đại Ðại Sư”.
PHẨM CHƯ PHẠM THIÊN THỌ KÝ THỨ MƯỜI CHÍN Bấy giờ có chín ngàn vạn trời Phạm Chúng thấy A Tu La nhẫn đến trời Tha Hóa Tự Tại cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ ở nơi thiền thế đế lấy hỉ duyệt làm sự ăn ở trong Phật pháp cũng được trí huệ sáng, vì họ đã trồng thiện căn gần gũi cúng dường chư Phật tin sâu thanh tịnh. Ở nơi pháp thậm thâm họ được pháp nhẫn. Chư Phạm Chúng Thiên ấy biết các pháp vô tác phi vô tác, phi sanh phi bất sanh, phi hữu phi bất hữu, phi khởi phi bất khởi, phi diệt phi bất diệt, phi y phi bất y, phi thanh phi trược, phi tắng phi ái, phi hiền phi ngu, phi tri phi bất tri, phi kiến phi bất kiến, phi thọ phi bất thọ, phi trắc ẩn phi bất trắc ẩn, phi vô phi phi vô, phi vật phi phi vật, phi khả đắc phi bất khả đắc, phi khứ phi lai, phi thú phi bấtthú, phi không phi bất không, phi tướng phi bất tướng, phi nguyện phi bất nguyện. Chư Phạm Thiên ấy đối với tất cả pháp lòng không chấp trước, cũng không chỗ trụ. Ở trong phi dụng họ chẳng ý tưởng phi dụng, ở trong phi bất dụng cũng chẳng ý tưởng phi bất dụng. Ở trong ngôn ngữ họ chẳng ý tưởng ngôn ngữ, ở trong phi ngôn ngữ cũng chẳng ý tưởng phi ngôn ngữ. Ở trong hữu tác họ không ý tưởng hữu tác, ở trong vô tác cũng không ý tưởng vô tác. Ở nơi phàm phu họ không ý tưởng phàm phu, ở trong phi phàm phu cũng không ý tưởng phi phàm phu. Ở nơi pháp phàm phu họ không ý tưỏng pháp phàm phu, ở nơi pháp phi phàm phu cũng không ý tưởng pháp phi phàm phu. Ở nơi Thanh Văn họ không ý tưởng Thanh Văn, ở nơi phi Thanh Văn cũng không ý tưởng phi Thanh Văn. Ở nơi pháp Thanh Văn họ không ý tưởng pháp Thanh Văn, ở nơi pháp phi Thanh Văn cũng không ý tưởng pháp phi Thanh Văn. Ở nơi Duyên Giác họ không ý tưởng Duyên Giác, ở nơi phi Duyên Giác cũng không ý tưởng phi Duyên Giác. Ở nơi pháp Duyên Giác họ không ý tưởng pháp Duyên Giác, ở nơi pháp phi Duyên Giác cũng không ý tưởng pháp phi Duyên Giác. Ở nơi Bồ Tát họ không ý tưởng Bồ Tát. Ở nơi phi Bồ Tát cũng không ý tưởng phi Bồ Tát. Ở nơi pháp Bồ Tát họ không ý tưởng pháp Bồ Tát, ở nơi pháp phi Bồ Tát họ không ý tưởng pháp phi Bồ Tát. Ở nơi Phật họ không ý tưởng Phật, ở nơi phi Phật cũng không ý tưởng phi Phật. Ở nơi pháp Phật họ không ý tưởng pháp Phật, ở nơi phi pháp Phật cũng không ý tưởng phi pháp Phật. Ở nơi Niết bàn, họ chẳng ý tưởng Niết bàn, ở nơi phi Niết bàn cũng không ý tưởng phi Niết bàn. Ở nơi pháp Niết bàn họ không ý tưởng pháp Niết bàn, ở nơi pháp phi Niết bàn cũng không ý tưởng pháp phi Niết bàn. Ở nơi sanh tử họ không ý tưởng sanh tử, ở nơi phi sanh tử cũng không ý tưởng phi sanh tử. Chư Phạm Chúng Thiên ấy đối với tất cả thảy đều lìa phân biệt, tâm định thanh tịnh. Họ đã được tâm thanh tịnh nên dùng pháp tịch diệt nói kệ tán thán đức Phật: “Ðại Thánh trí tịch tĩnh rất sâu Tu hành tịch diệt đến bỉ ngạn Diễn nói tịch diệt độ chúng sanh Cũng tự thường hành pháp tịch diệt Bồ dề tịch diệt khéo thanh tịnh Pháp Này là cảnh giới Như Lai Mau được tịch diệt thắng cam lộ Do đó nay được hết sanh tử Hằng nói đạo tịch diệt vi diệu Là chổ sở hành của người trí Ðường bát chánh diệt phiền não trược Cứu vớt tất cả các quần sanh Khéo tu tịch diệt chúng Bồ đề Là chổ sở hành của Phật trước Pháp ấy hay đến thành an ổn Chỗ chứng biết của Phật quá khứ Là pháp tu học của Như Lai Phật giáo hóa thế gian như vậy Nếu người hay hành pháp hữu học Chứng được vô học thắng Bồ đề Nhất tâm xu hướng đạo tịch diệt Các căn tịch tĩnh lâu tu tập Sẽ được làm Phật Thế Gian Giải Sức na la diên độ quần sanh Nếu biết pháp tịch diệt cam lộ Hay hết tất cả tướng sanh tử Ðây là chơn thiệt con Như Lai Tịch diệt hay trừ khổ thế gian Chúng ấy châng bày cúng dường Phật Thắng thượng hi hữu rất khác lạ Nói pháp tịch hết phiền não Nơi những vô tướng tối đệ nhất Thế gian tịch diệt lìa các tướng Nghĩa là tịch diệt tức Niết bàn Chúng sanh luân chuyễn thọ những khổ Vì lìa tịch diệt thủ tướng vậy Các pháp của Phật bất tư nghị Tức là Bồ đề nhất thiết trí Qua khỏi sình lầy đến bờ kia Nên Phật trọn hẳn không nghi lự Nếu người lìa ấm được giải thoát Nơi Phật đại thừa chẳng nguyện ưa Muốn cầu Bồ đề nghĩ diệt độ Nơi năm ấm ấy sanh bố úy Tâm tịnh ly dục cầu Niết bàn Chúng ấy chúng giản trạch như vậy Nơi pháp thủ tướng cảnh phàm phu Ðó là lời dạy của Như Lai Nếu thủ tịch diệt tức bị trói Do đó chẳng được Nhất thiết trí Nếu người ở nơi tướng năm ấm Chẳng sanh lòng giữ cầm thủ trước Họ hay lợi ích pháp Thích Ca Ðây gọi hạnh hỉ lạc vô tướng Hay được chổ vô danh an ổn Ðến được Bồ đề cảnh giới Phật Hàng ma tranh luận diệt phiền nảo Mau được thành tựu Nhất thiết trí Chúng tôi tán thán Vô Thượng Sĩ Chỗ chứng tịch diệt các công đức Chỉ Phật đại trí hay biết rõ Hồi thí chúng sanh nguyện thành Phật”. Lúc ấy chủ thế giới Ta Bà Ðại Phạm thiên Vương biết chư Phạm Thiên tán thán Phật rồi, đối trước Phật đứng thẳng dùng chơn thiệt công đức nói kệ khen ngợi đức Phật: “Pháp Vương đã biết tất cả pháp Chẳng thiệt hư dối như không quyền Cũng như thu vân và chớp nháng Thế nên Ðại Thánh lìa thủ tâm Cũng như trong mộng người quá đói Ăn món cam lộ trăm vị ngon Người mộng đói ăn đều chẳng thiệt Như Lai thấy pháp cũng như vậy Lại như trong mộng người quá khát Ðược uống nước mát lạnh trong sạch Mộng khát uốn nước đều hư vọng Phật thấy các pháp cũng như vậy Không tác không thọ không chúng sanh Không có tác nghiệp và được báo Cũng không được người thọ quả báo Thế Tôn nơi đây không nghi lự Ví như lời hay được người mến Nhưng ngôn ngữ ấy vô khả thủ Cũng không người nói và người nghe Ðại Thánh biết rõ đều chẳng thiệt Như nghe tiếng hay đờn không hầu Tiếng ấy cũng không tánh chơn thiệt Thế Tôn thấy các ấm như vậy Biết ấm không tánh bất khả đắc Dường ngọc ma ni chất tự sạch Cột nó trên áo theo màu đổi Các pháp tự thể vốn thanh tịnh Hư vọng phân biệt thêm điên đảo Ví như áo trắng sạch không dơ Tùy thọ màu nhuộm nhiều biến đổi Các pháp cũng đều tánh tự sạch Tùy chỗ phân biệt mà ô nhiễm Dường như có người nghe tiếng ốc Tìm tiếng ốc ấy từ đâu đến Tiếng ấy chẳng tự chẳng phải tha Ðại Tiên thấy pháp cũng như vậy Như người nghĩ tưởng món ăn ngon Món ấy các duyên hiệp lại thành Món ăn thảy đều không tự tánh Như Lai thấy pháp đều như vậy Vì như đất đá xây làm thành Suy thể của thành không tự tánh Các duyên như vậy thảy đều không Pháp Vương thấy pháp cũng như vậy Ví như có người đánh trống lớn Dầu khiến người nghe lòng mừng rỡ Tiếng trống các duyên thảy đều không Ðại Thánh thấy các pháp cũng như vậy Ví như có người lúc đánh trống Tiếng trống chẳng từ mười phương đến Tiếng dứt cũng chẳng đến mười phương Thế Tôn thấy pháp đều như vậy Người ấy như vậy đánh trống rồi Trống ấy chẳng sanh lòng yêu ghét Cũng chẳng phân biệt tánh các duyên Phật thấy các pháp đều như vậy Lại như người ấy đánh trống hay Tiếng chẳng có ý khiến người mừng Và các duyên kia cũng đều vậỳ Ðạo Sư thấy pháp đều như vậy Như lúc người đánh trống hay kia Trống ấy chẳng sanh tưởng khổ vui Cũng chẳng quan sát tánh các duyên Như Lai thấy pháp đều như vậy Dường như có người đánh trống hay Tiếng chẳng tức duyên chẳng ly duyên Và duyên nhạc kia cũng nhu vậy Mâu Ni thấy pháp đều như vậy”. Ðức Thế Tôn biết chư Phạm Thiên và Phạm Vương thâm tâm kính tín và dùng pháp tịch diệt tán thán đức Phật, lại muốn cho đại chúng sanh thiện căn nên liền hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi Phật: “Ðã thấy Như Lai miệng phóng ra Ánh sáng mỉm cười rất thanh tịnh Thế gian Trời Người các đại chúng Tất cả đều sanh lòng hi hữu Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười Pháp hội đại chúng đều hoài nghi Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai Ân cần mong muốn được lắng nghe Mong Phật khai thị có mỉm cười Dứt trừ lòng nghi của đại chúng Tối Thắng Mâu Ni chẳng không nhân Mà hiện tướng cười rất hi hữu Chư Phật lúc hiện ánh sáng cười Quyết để lợi ích các thế gian Nay vì ai Phật hiện tướng cười Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ Ðại chúng được nghe chắc vui mừng Vì đã được biết duyên cớ vậy Nay đại chúng Này đều chắp tay Nhất tâm chiêm ngưỡng ưa thích nghe Thế nên xin Phật giải thích cho Chắc sẽ trừ dứt những nghi hoặc Ðạo Sư vì các chúng hội Này Xin thương tuyên nói cớ mỉm cười Chúng hội được nghe chắc mừng rỡ Vì đã rửa sạch lưới nghi ngờ Lòng chúng chắc bền đều thanh tịnh Chuyên niệm quí trọng đức Như Lai Ðại chúng chiêm ngưỡng dung nhan Phật Dường như nhìn thấy trăng mới mọc Ðủ tám tiếng hay như Phạm Thiên Nhất tâm khát ngưỡng mong sớm nghe Trời Người đại chúng nghe Phật nói Chắc trừ được nghi trụ chánh pháp Phạm âm diễn nói tương ưng nghĩa Ðược nghe xuất thế pháp rất sâu Phật trí thiện xảo hay vui đẹp Nên khiến đại chúng thêm hớn hở Chúng Này lòng sạch lìa nghi ngờ Ưa thích Như Lai Nhất thiết trí Người tinh tấn dũng mãnh hữu lực Mới có chí cầu vô thượng đạo Thế nên Ðạo Sư thương thế gian Ngưỡng mong giải thích cho chúng mừng Lành thay Thế Tôn lòng bình đẳng Thương xót tất cả các chúng sanh Khiến các đại chúng thêm thiện căn An tâm bất động cầu Phật trí”. Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng: “Thương xót tất cả các thế gian Nên Phật thị hiện tướng cười sáng Ông phải lắng nghe nhân duyên ấy Nghĩa đó rất sâu câu vi diệu Các chúng hội đây nếu được nghe Phát cần tinh tấn tu pháp lành Sẽ làm lợi ích các chúng sanh Nơi pháp của Phật khởi thắng hạnh Các Phạm Thiên đây đều mừng rỡ Ở trong pháp Phật đều không nghi Na do tha kiếp lâu tu hành Dường như số kiếp cát sông Hằng Nơi các cảnh giới đều chẳng trước Lòng như không gian không chướng ngại Dầu thích thường tu Bồ Tát hạnh Mà chẳng mau thủ chứng Bồ đề Chúng ấy lại ở đời vị lai Vô lượng ức kiếp số hằng sa Chúng trời thanh tịnh không nhơ uế Ðược thế lực lớn trụ thế gian Sau đó sẽ thành Nhất thiết trí Làm đại Pháp Vương có oai lực Ðầy đủ công đức hết sanh tử Xem các thế gian đều không tịch Phật ấy như trước lâu tu hành Thọ mạng hạn lượng lâu cũng vậy Lúc chư Phật ấy trụ thế gian Hay cứu độ các chúng sanh khổ Quốc độ Phật ấy không đâu bằng Thế giới nghiêm tịnh rất thạnh vượng Trong vô lượng na do tha kiếp Như Lai diễn nói cũng chẳng hết Cõi nước Phật ấy sự nghiêm tịnh Vô lượng Phật nói cũng chẳng hết Phật ấy đồng hiệu Ðại Trí Lực Quốc độ thảy đồng tên Tối Thắng Vì chúng diễn nói pháp bất động Bất khả tư nghị vô sở y Quốc độ Phật ấy các chúng sanh Thảy đều tu hành các thiện căn Không một chúng sanh còn đời sau Trong vòng sanh tử lại sanh nữa Ðương thời chúng ấy có một khổ Nơi thế gian ấy bèn hiển hiện Chỉ sợ các hành đều vô thường Khiến các chúng sanh khởi nhàm lìa Thuở đó chúng sanh trong cõi ấy Lìa các tướng khổ già bệnh chết Tất cả đều nương một giáo pháp Ðồng chán vô thường tu thắng hạnh Chúng sanh cõi đó đương lúc ấy Tai chẳng còn nghe âm thanh khác Chỉ nghe bất tịnh vô thường khổ Vô ngã tịch diệt không vô tướng Cam lộ Niết bàn và Bồ đề An ổn thanh lương vô thượng lạc Những tiếng thắng diệu như vậy thảy Hằng thường luôn luôn mà được nghe Lúc đó không còn âm vang khác Hoặc cây hoặc vách hoặc đất trống Hoặc là trên không và chùa miếu Chỉ nghe những câu vi diệu ấy Nghe rồi tất cả đều đắc đạo Bèn ở nơi sanh tử được giải thoát Ðều do thần lực của Như Lai Ðủ tám công đức âm thanh diệu Lúc đó không có tâm tạp độc Những là tham dục và sân khuể Cũng không ngu si phát tiếng ác Lời thô bức não đến bên tai Tất cả nhàm trái nơi sanh tử Xu hướng Niết bàn đường thẳng lớn Cõi ấy tất cả đều đúng không Phật và chúng sanh đều diệt độ Ðây là thần lực của Phật ấy Phát chí nguyện rộng chẳng nghĩ bàn Ðã ở quá khứ do tha kiếp Vì cầu Bồ đề tu đạo hạnh Bao nhiêu chúng sanh tại nước ấy Tất cả sẽ đều được làm Phật Chư Phạm Thiên Này phát nguyện rộng Ðều do quan sát câu tịch diệt Ðều được chứng biết nghĩa thậm thâm Hiễu rõ đường cát tường của Phật Chỗ họ tu học đều thông đạt Làm Ðạo Sư tại các thế gian Họ quan sát được chúng sanh không Chẳng sanh lòng giải đãi nhàm mỏi Do đó nhập được các pháp tánh Tu tập Bồ Tát thắng diệu hạnh”. PHẨM QUANG ÂM THIÊN THỌ KÝ THỨ HAI MƯƠI Bấy giờ có năm mươi tám ngàn vạn trời Quang Âm thấy A Tu La nhẫn đến chư Phạm Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay lễ Phật cung kính bạch đức Phật rằng: “ Bạch Ðức Thế Tôn! Có tam muội tên chiếu diệu tất cả pháp. Nếu đại Bồ Tát học tam muội Này thì được quang minh trong tất cả pháp được chứng nhập pháp môn Bồ Tát tạng. Ðại Bồ Tát hiểu biết rõ rồi thì được vô biên biện tài, vô ngại biện tài, tương tục biện tài, nhiều thứ biện tài, mỹ diệu biện tài, chơn thiện biện tài, tương ưng biện tài, giải thoát biện tài, vi tế biện tài, bất cộng biện tài, thậm thâm biện tài, nhẫn đến được biện tài của Như Lai. Bạch đức Thế Tôn! Những gì là chiếu diệu nhất thiết pháp tam muội? Bồ Tát nhập pháp môn Này niệm các giác quán biết tất cả pháp không giác lìa giác, pháp không giác ấy khắp tất cả chỗ, không một pháp nào là hay giác sát. Tại sao? Vì tánh tự lìa vậy. Nếu pháp không tánh thì làm sao hay giác được. Biết tất cả pháp không giác tri rồi nhập vào môn chữ A được biện tài trên. Bồ Tát ấy nhập môn chữ A rồi được vô biên biện tài, chữ A vô biên, chữ A chẳng phải phổ biến, chữ A vô tác, chữ A chẳng phải hữu vi, chữ A chẳng phải thành tựu, chữ A không phải sự, chữ A không sở y, chữ A không động chuyễn, chữ A chẳng phải lược, chữ A chẳng phải quảng, chữ A chẳng phải phân biệt, chữ A chẳng phải các sự thành, chữ A chẳng xuyên qua được, chữ A chẳng phải sắc, chữ A chẳng hiển thị được, chữ A chẳng xem được, chữ A không ai thấy được, chữ A chẳng suy nghĩ được, chữ A tánh bất định, chữ A chẳng phải bị biết, chữ A chẳng phải hay biết, chữ A chẳng lường được, chữ A chẳng tự hiển thị được, chữ A chẳng hiển thị được cái khác, chữ A chẳng phải tư nghị, chữ A chẳng đi, chữ A chẳng đến, chữ A chẳng phải gần, chữ A chẳng phải xa, chữ A chẳng phải ngôn thuyết, chữ A chẳng phải là pháp có thể nói được, chữ A chẳng phải danh, chữ A chẳng phải dụng, chữ A chẳng phải hiện tiền, chữ A chẳng phải che ngăn, chữ A chẳng phải di chuyễn, chữ A chẳng cải đổi được, chữ A chẳng phải sai biệt, chữ A không hai, chữ A chẳng phải sanh, chữ A chẳng phải hư vọng, chữ A chẳng phải chơn thiệt, chữ A bất khả thuyết, chữ A chẳng phải sanh diệt, chữ A chẳng phải thanh tịnh. Chữ A chẳng phải pháp bị tịnh, chữ A chẳng phải chấp trì, chữ A chẳng phải nhiếp lấy cái khác, chữ A chẳng phải vứt bỏ, chữ A chẳng phải vì pháp khác mà làm, chữ A chẳng làm pháp khác, chữ A chẳng sanh, chữ A chẳng diệt, chữ A chẳng hay sanh pháp khác, chữ A chẳng hay diệt pháp khác, chữ A chẳng phải sanh chẳng sanh, chữ A chẳng làm sanh nhân cho pháp sanh cũng chẳng làm duyên bất sanh, chữ A chẳng phải y tựa, chữ A chẳng phải giả chẳng giả, chữ A chẳng phải từ chẳng từ, chữ A chẳng phải hứa chẳng hứa, chữ A chẳng phải khả đắc bất khả đắc, chữ A chẳng phải không bất không, chữ A chẳng phải phân biệt bất phân biệt, chữ A chẳng phải tướng bất tướng, chữ A chẳng phải nguyện bất nguyện. Bạch đức Thế Tôn! Các pháp đều là tướng như vậy đó là vô tướng. Các pháp đều đồng một thiệt đó là vô thiệt, đều đồng một lý thú đó là vô lý thú, đều đồng một nhập đó là vô nhập, đều đồng một giả đó là vô giả, đều đồng một dụng đó là vô dụng, đều đồng một thuyết đó là vô thuyết. Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp vô khởi, vì bất khả đắc vậy. Các pháp chẳng phải có, vì không có vậy. Các pháp vô sanh, vì chẳng sanh vậy. Các pháp vô diệt, vì chẳng diệt vậy. Là pháp vô vi, vì không có tạo tác vậy. Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp đều đồng nhất như, phải biết như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Những pháp bất sanh ấy, thế nào biết được sự dụng của pháp ấy. Thí như có người tác động trong chiêm bao, phải biết các pháp cũng như vậy. Tại sao? Vì sự tác động trong chiêm bao chẳng sanh chẳng khởi cũng chẳng phải có vậy. Chiêm bao dầu chẳng thiệt, mà chẳng phải không giả danh nói là có chiêm bao làm. Tất cả các pháp cũng đều như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Thí như tiếng vang chỉ có giả danh. Các pháp chỉ giả danh cũng như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Dụ như người ảo chỉ là giả danh. Phải biết các pháp cũng chỉ là giả danh như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Thí như dương diệm chỉ là giả danh. Các pháp giả danh cũng như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Như tượng trong gương chỉ có danh dụng. Phải biết các pháp cũng như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Vì vui đẹp kẻ phàm ngu mà nói có sự chiêm bao, sự việc trong chiêm bao đều chẳng phải chơn thiệt, vang ảo diệm ảnh cũng đều như vậy, chỉ có giả danh đều không có sự thiệt . Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi hiểu biết nghĩa ý những pháp được Như Lai tuyên nói ” . Chúng trời Quang Âm nói kệ tán thán đức Phật: “Thế Tôn khéo biết pháp nghĩa Này Và vô biên những thứ pháp khác Như Lai có những hàng Phật tử Ðược tiền của cha thường du hí Người đời ít trí chẳng vào được Vì luôn có tâm chấp ngã vậy Mười phương tâm ngã chẵng thễ được Ngã thễ bổn lai tánh tự không Như dương diệm chẳng phải thiệt nước Ngu si thấy nắng tưởng là nước Ðều do vô trí sanh mê lầm Hư vọng điên đảo chấp ngã nhân Họ mê lầm lời dạy của Phật Nên họ chẳng hiểu nghĩa thú sâu Phàm phu tâm thức như nắng nước Chẳng thể biết được nghĩa các ấm Lòng ưa sanh tử dính tên độc Các căn bị dòng nước mạnh cuốn Ðó đều cứu cánh không tự tánh Vì si che lấp vọng thọ khổ Họ đều mất trí lòng mê loạn Ở trong các khổ sanh tưởng vui Tâm thường điên đảo thuận ba độc Các phiền não ấy rất đáng sợ Tham dục sân khuể và ngu si Các kiết sử Này thường theo dõi Ham thọ vui nên sanh khát ái Ngu si chẳng biết nên thọ khổ Vô trí tùy thuận các phiền não Như người ngu cõng kẻ thù đi Nghe pháp môn không của Phật dạy Lại sợ pháp không mất giải thoát Như người khiếp sợ tay cầm dao Lẽ ra an ổn lại sanh sợ Thế Tôn đại trí chỗ thuyết pháp Ðó là môn chữ A vi diệu Hay sanh trí huệ thắng chơn thiệt Dường như đất bằng mọc cây lớn Hàng phục ma oán vô lượng chúng Hay ngộ Bồ đề diệu an ổn Dùng thuyền bè lớn bát chánh kia Nơi biển sanh tử độ quần sanh Bao nhiêu Phật tử của Thế Tôn Biết rõ giáo pháp của Như Lai Chóng diệt phiền não các oán địch Mau chứng Vô thượng đại Bồ đề Ðã tự giải thoát lìa tâm độc Thấy các kẻ độc cho thuốc trí Ðược đến cứu cánh quả bỉ ngạn Ðược chỗ vô vi rất an vui Tất cả các pháp thảy đều không Những thế ngoại luận vọng phân biệt Người sáng bỏ ác lên đường chánh Ðều do bổn lai tu học lâu Lòng không chấp trước tức giải thoát Các pháp thể tánh tự như vậy Người hay biết rõ được như vậy Thành Phật đại lực na la diên Không có trói buộc không ai trói Các pháp tánh không đều cũng không Chơn như tịch diệt và phi như Chẳng phải cấu uế chẳng phải tịnh Phiền não vô tướng cũng không đoạn Bởi nó bổn lai tánh tự không Biết pháp chơn thiệt được như vậy Người ấy sẽ được Nhất thiết trí Tự chứng giải thoát lại độ người Tất cả chẳng sanh cũng chẳng diệt Thế gian Trời Người đều mê hoặc Như cầm thú kia thấy nắng nước Hư vọng phân biệt sanh thèm khát Tưởng thấy nam nữ thọ khổ não Do nhiều thứ nghiệp sanh các loài Do tâm gây tạo mà sai khác Chúng tôi hiểu Phật pháp như vậy Là diệu cảnh giới của Như Lai Thế nên Như Lai tâm điều phục Các căn tịch tĩnh hay nhẫn nhục Thế Tôn như pháp được cúng dường Thanh tịnh vô cấu hết ô uế Ðầy đủ công đức lìa tối tăm Chỉ Phật hay làm mắt ba cõi Nay tôi khen Phật chỗ được phước Chỉ có đại Ðạo Sư xuất thế Thế Tôn Lưỡng Túc khối công đức Biết được quả báo chúng tôi được Dùng thắng thiện căn vi diệu Này Hồi thí tất cả các quần sanh Nguyện họ ở nơi đời vị lai Ðều được thành tựu Nhất thiết trí”. Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quang Âm thâm tâm tin ưa rồi, và biết họ tu hành biện tài đầy đủ, muốn khiến công đức thiện căn của đại chúng lại sẽ lần lần thắng tấn tăng trưởng, đức Phật liền hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Ðức Phật: “Ðại bi Thiện Thệ chẳng không nhân Mà hiện tướng cười rất hi hữu Vô Thượng Sĩ hay lợi ích đời Chánh giác trí huệ siêu quần sanh Lưỡng túc Thế Tôn khối công đức Thương xót chúng sanh xin tuyên nói Vì ai mà hiện mỉm cười ấy Phóng sáng thù thắng hiển thế gian Tất cả chúng sanh nếu được nghe Tâm ý quyết định sẽ rất mừng Tu hành nghiệp lành chứng quả Phật Ðược lìa sanh tử đến Niết bàn Các chúng Trời Người thế gian Này Bị sanh tử khổ não bức bách Xin độ quần sanh thoát biển khổ Diễn nói bát chánh thuyền bè lớn Chúng đây được nghe Ðại Tiên nói Ðủ tám công đức đạo tối thắng Nơi đây thế gian sanh mừng rỡ Ưa tu nghiệp lành nguyện thành Phật Dũng mãnh tinh tấn có sức lớn Nội tâm thanh tịnh lìa lưới nghi Sẽ truyền pháp của Như Lai nói Là chơn Phật tử thọ thánh giáo Chúng hội tại đây không nghĩ khác Một lòng chiêm ngưỡng đại Cù Ðàm Xin Phật nói bày sự thợ ký Cho chúng quyết đoán lòng nghi hoặc Chắp tay cung kính chánh ý niệm Thảy đều mong miốn được lắng nghe Lành thay xin nói vị cam lồ Những người khát pháp sẽ được uống Tất cả đại chúng tại hội Này Lòng sạch ưa mến thắng công đức Chiêm ngưỡng Phật nhan rất thù thắng Dường như trẻ thơ nhìn mặt mẹ Ðại huệ xin thọ ký chúng trời Giải bày nhân duyên Phật mỉm cười Ðược nghe Như Lai thọ ký rồi Thế gian sẽ được lợi ích lớn Ai ở nơi Phật thêm căn lành Và đã phát nguyện được đầy đủ Ðược tạng công đức thắng vi diệu Nay tôi muốn nghe họ thọ ký Ðại chúng chắc sanh lòng mừng vui Vì được nghe Phật nói thọ ký Quyết định sẽ đủ sức niệm huệ Và được tu hành tam muội định”. Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng: “Lành thay việc hỏi của Mã Thắng Biện tài ứng cơ nay đúng lúc Ðây là thần thông của Như Lai Do đó nay ông sanh trí huệ Vì lợi ích đời nên thêm biện Vì thế nay ông hay hỏi Phật Nay Phật vì họ nói thọ ký Lặng bặt các căn nhất tâm nghe Chúng trời Quang Âm huệ thù thắng Quá khứ đã cúng vô lượng Phật Thấy thế gian Này không ai cứu Phát tâm rộng lớn muốn làm Phật Tu trị thiệt hạnh chơn vi diệu Quyết định sẽ thành Nhất thiết trí Vì các chúng sanh cầu Phật đạo Như mê lạc đường dạy đường chánh Ðược nghe Thế Tôn dạy như vậy Tiếng Phật tối thắng không ngang bằnng Người trí huệ ưa Phật công đức Quyết được cứu cánh đến bờ kia Họ có trí lực biết căn lành Quyết định sẽ được Phật Bồ đề Mừng vui đã phát Bồ đề nguyện Như mẹ sanh trai rất hài lòng Chúng trời vì người cầu Bồ đề Hiển thị đuường chánh chơn xuất thế Trong bất khả thuyết do tha kiếp Tu tập hạnh thắng diệu Bồ Tát Giáo hóa chúng sanh hơn tinh tú Ðã an trí nơi Phật Bồ đề Ðời sau đầy đủ Thế Gian Giải Tự nhiên thành tựu Nhất thiết trí Quốc độ của họ bất khả thuyết Thế giới lớn rộng có trăm ức Các quốc độ ấy rất nghiêm tịnh Vô lượng nhiều thứ thắng trang nghiêm Các chúng sanh trong cõi Phật ấy Không ba ác ác đạo và tám nạn Tất cả đều phát tâm Bồ đề Thảy đều ở bực bất thối chuyễn Trong quốc độ các Như Lai ấy Cũng lại chẳng có pháp Tiểu thừa Chúng sanh thảy đều cầu Phật đạo Bèn được thẳng đến bực bất thối Các chúng sanh trong quốc độ ấy Tất cả thọ mạng đều bằng nhau Tuổi đến mười ức hằng sa kiếp Vì họ được gặp chư Phật vậy Nếu dạy chúng sanh do tha cõi Ðều được chứng nhập tiểu Niết bàn Nếu lại có người dạỳ một người Hoặc nam hay nữ vào Ðại thừa Phước trước so sánh khối đức Này Toán số thí dụ chẳng bằng được Vì thế người đã ở Ðại thừa Phải nên chuyễ dạy cho người khác Mã Thắng nên biết vì cớ ấy Như Lai xuất thế rất là khó Như hoa ưu đàm rất khó gặp Vô biên đại trí nói như vậy Bởi thiện tri thức trí khéo sâu Giỏi biết phương tiện chỉ đường chánh An ổn vô thượng thắng Bồ đề Nếu ai mong cầu phải thân cận Từ miệng Phật nghe lời như vậy Ðầy đủ nghĩa vi diệu thậm thâm Tất cả đại chúng đều vui mừng Hớn hở sung mãn vừa lòng dạ Do tha chư Thiên ở hư không Ðều rải thiên y bay lần xuống Ðầy tiếng mừng khen khắp hư không Kính lễ vô thượng đại thần lực Trí diệu thanh tịnh độ thế gian Hay trừ chúng sanh phiền não nhiệt Phật nói cam lộ dứt ba độc Như thuốc A Dà Ðà tiêu độc Ðược nghe trí huệ dứt kiết sử Thế gian mê hoặc nhiều khổ não Nơi sanh tử ấy sẽ được thoát Vì nghe thắng pháp nơi Phật vậy”. PHẨM BIẾN TỊNH THIÊN THỌ KÝ THỨ HAI MƯƠI MỐT Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Ðại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chân, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người,hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt, hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui. Tại sao vậy? Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy: Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàn và giác ngộ Vô thượng Bồ đề. Ðại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhất thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát Này được năm thứ tự tại: một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Ðại Bồ Tát Này nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Ðạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Ðại Bồ Tát Này nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”. Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật: “Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh Ở nơi Phật pháp đều biết hết Ðầu mặt quy kính Thiên Nhân Sư Các căn tịch tĩnh như tịch diệt Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường Ðấng Mâu Ni đã qua sanh tử Tôi nay tán thán đại Ðạo Sư Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh Cũng lại chẳng có chỗ y trụ Như Lai khéo biết sự vọng tưởng Như nhà ảo thuật biết sự ảo Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn Dụ như hang sâu dột tiếng vang Thế Tôn tri kiến khéo như vậy Tất cả thế gian Trời Người thảy Không có chúng sanh không thọ mạng Cũng lại không nhân không có ngã Ðại trí quan sát tất cả tưởng Rõ thấu ý tưởng đều về không Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ Tất cả thế gian các Trời Người Chẳng lường biết được trí Như Lai Ðạo Sư diễn nói duyên chúng sanh Ðó là từ tâm căn lành lớn Biết rõ tất cả các chúng sanh Không có chúng sanh và thọ mạng giả Nơi đây chúng tôi không cấu trược Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc Thế nên nơi Phật thắng trí huệ Ðấng đáng thọ cúng dâng cúng dường Ở trong mười phương thế giới kia Tìm khổ rốt ráo chẳng có được Như Lai vô thượng trời trong trời Nói duyên chúng sanh phát từ tâm Ðây là lời dạy của Thế Tôn Nay tôi được hiểu cũng như Phật Vì thế tôi đối Thế Gian giải Nay được cúng dường bực đáng cúng Ðã không chúng sanh cũng không khổ Thế nên không có được cứu độ Ðã khiển trừ được lòng ưu muộn Bèn được mừng vui rất hớn hở Phật giáo như vậy bất tư nghị Chúng tôi đã được biết như thiệt Thế nên nay tôi cúng dường Phật Nguyện được trí vô thượng Như Lai Phật ở các loài chẳng thấy khổ Niết bàn cũng lại bất khả đắc Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử Dùng đây lợi ích các thế gian Không khổ không loài không chúng sanh Cũng không Niết bàn để y trụ Biết được Phật pháp như vậy rồi Thế nên chúng tôi nay cúng dường Phật đủ từ bi và hỉ xả Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết Mà lại chẳng thấy có chúng sanh Ðược trụ nơi bốn tâm vô lượng Chẳng thấy có ai là phóng dật Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật Biết được giáo pháp của Phật rồi Nay tôi cúng dường đại Ðạo Sư Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân Quán thân cứu cánh bất khả đắc Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm Mà nói có niệm và thất niệm Thiện Thệ thường nói tu học niệm Ðó là quán thân chánh niệm xứ Nay được cúng dường đấng cứu độ Thế Tôn quán thọ bất khả đắc Vì thọ không có thể tánh vậy Cũng lại quán sát nơi thọ giả Cứu cánh không có tánh chơn thiệt Và quán người tu niệm xứ ấy Cứu cánh cũng lại bất khả đắc Chúng tôi biết Phật pháp như vậy Nay được cúng dường Thiên Nhân Sư Quán tâm và quán tâm số pháp Cứu cánh thể tánh bất khả đắc Cũng lại chẳng thấy có tu niệm Và không ai chánh trụ niệm xứ Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp Người cầu giải thoát phải tu học Chúng tôi biết Phật giáo như vậy Nay được cúng dường Chánh Biến Tri Như Lai chẳng thấy có các pháp Cũng chẳng thấy có người tu pháp Ðại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm Niệm ấy cũng lại tánh tự không Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp Muốn cầu giải thoát phải nên tu Chúng tôi biết Phật pháp như vậy Nay được cúng dường Nhất thiết trí Một niệm xứ còn bất khả đắc Huống lại còn có ba và bốn Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy Các niệm xứ ấy thảy đều không Thế nên thiệt cầu bất khả đắc Cứu cánh không người thọ khổ lạc Chúng tôi biết thánh giáo như vậy Nay được cúng dường Phật Thế Tôn Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập Ðây thì hay làm đường giải thoát Sẽ được ra khỏi biển sanh tử Mà không ai thoát không ai trói Không Phật không giáo không Bồ đề Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng Thế nên nay tôi cúng Ðại Thánh Phật dạy bốn thứ như ý túc Ðường an ổn giải thoát thắng diệu Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh Tu hành đạo Này được Niết bàn Như ý và túc cùng người tu Chơn thiệt quán sát bất khả đắc Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy Nơi đây chúng tôi đều biết cả Tâm trí thanh tịnh không cấu uế Ðều được xa rời các nghi hoặc Dùng đây tức là thượng cúng dường Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng Thế nên diệu trí không ngang sánh Nay tôi đều được dâng cúng dường Ðấng Thế Gian Giải nói ngủ căn Xuất thế được đến giải thoát Cẩn thận chớ lười thường siêng tu Ðó là xu hướng Niết bàn lộ Căn và người tu thảy đều không Cũng không giải thoát và người thoát Nơi đây chúng tôi đều không nghi Thế nên nay được cúng dường Phật Ðạo Sư chỉ dạy năm thứ lực Ðường chánh đến được thành Niết bàn Ðây dứt được hết phiền não phược Khiến người bị trói được giải thoát Thể các lực ấy tánh tự không Phiền não và Phật đều cũng không Chúng tôi nơi đây không nghi lự Thế nên nay được cúng Như Lai Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi Bồ đề phần pháp đạo tối thắng Hay mở sự trói các chúng sanh Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng Không có trói buộc và giải thoát Cũng không ai bị trói được mở Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc Thế nên nay được cúng dường Phật Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo Hiển thị tất cả các quần sanh Ðây là gốc khổ các phiền não Tu học thánh đạo dứt trừ được Cả hai pháp ấy lìa đối trị Ðó là thánh đạo và phiền não Chúng tôi nơi đây đều không nghi Thế nên được cúng đấng đáng cúng Tu xa ma tha và xá na Ðạo ấy hay hết các mé khổ Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ Thể các lực ấy tánh tự không Phiền não và Phật đều cũng không Chúng tôi nơi đây không nghi lự Thế nên nay được cúng Như Lai Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi Bồ đề phần pháp đạo tối thắng Hay mở sự trói các chúng sanh Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng Không có trói buộc và giải thoát Cũng không ai bị trói được mở Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc Thế nên nay được cúng dường Phật Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo Hiển thị tất cả các quần sanh Ðây là gốc khổ các phiền não Tu học thánh đạo dứt trừ được Cả hai pháp ấy lìa đối trị Ðó là thánh đạo và phiền não Chúng tôi nơi đây đều không nghi Thế nên được cúng đấng đáng cúng Tu xa ma tha và xá na Ðạo ấy hay hết các mé khổ Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch Quả xa ma tha và xá na Tất cả thứ ấy thảy đều không Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc Vì thế chúng tôi nay cúng dường Phật nói bất tịnh trị tham dục Từ tâm đối trị các sân khuể Tỳ bà xá na đối trị si Như Lai hiển thị các chúng sanh Ðây đều vô tác không tạm dừng Thế nên không cấu cũng không tịnh Chúng tôi nơi ấy đều không nghi Thường thích cúng dường đại Ðạo Sư Mười nghiệp bất thiện của Phật nói Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác Sát sanh thâu đạo và tà dâm Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu Ỷ ngữ tham dục và sân khuể Tối hậu thứ mười tên tà kiến Phật nói thứ ấy là bất thiện Là nghiệp đạo ác của chúng sanh Ðã không chúng sanh cũng không hại Cả chín nghiệp kia cũng đều không Không có đối trị các thiện ác Vì tự tánh nó vốn không tịch Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi Thế nên nay cúng trí vô thượng Nếu người tu pháp của Như Lai Người ấy tức là chơn Phật tử Người ấy xứ xứ đều thọ vui Hằng thường xa lìa các khổ não Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy An ổn dẫn đạo các quần sanh Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi Nay đều cúng dường đấng đáng cúng”. Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía. Ðức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật: “Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng Vì lợi ích đời hiện mỉm cười Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả Mà hay hóa phục các đại chúng Giỏi hiểu các pháp đại Ðạo Sư Phật hiện tướng cười chẳng không nhân Ðấng Thế Gian Giải lòng không thiếu Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười Các đại chúng đây đều một lòng Không có loạn tưởng ở chánh niệm Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức Chỉ muốn được nghe cung kính đứng Nơi Ðại Luận Sư tự tại Phật Nếu được nghe nói đều vui mừng Giỏi hiểu các pháp trí quyết định Sẽ được làm Phật độ quần sanh Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín Chắc thành đại trí nhất thế gian Lường biết câu cam lộ vi diệu Người Này thấy được khắp mười phương Ai ở trong kiếp đời vị lai Sẽ được làm Phật thường thế gian Ðấng đại Ðạo Sư diệu ngôn từ Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui Nếu ở nơi đấng Ðại Thánh Hùng Mà sanh kính tin lòng tôn trọng Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ Tất cả các ma chẳng động được Nếu hay sanh tín được quyết định Tức là Phật tử từ tâm sanh Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp Do đó đại chúng được trừ nghi Nếu có ai đối với chúng sanh Tâm từ che chở khắp thế gian Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật Bèn được an trụ Nhất thiết trí Ðấng vô thượng trăm phước trang nghiêm Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn Như Lai vì họ hiện tướng cười Mong được nghe Phật lời thiện xảo Âm thanh tám đức rất vi diệu Trước tự được đến nơi thiện đạo Sau hay dẫn dắt các quần sanh Phật pháp vi diệu là như vậy Phật tử an trụ ở trong ấy Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt Chắc được ở lâu tại thế gian”. Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo: “Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười Phật vì lợi ích các thế gian Ông được phước đức vừa lòng mình Phước ấy vô lượng chẳng hết được Người trí mới hay hỏi đúng lúc Do đó lợi lớn các chúng sanh Ông cùng tất cả hàng đại chúng Mừng vui một lòng nghe Phật nói Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây Ở trong pháp Phật đều không nghi Tất cả mừng vui lòng tịnh tín Dùng kệ khen ngợi Phật công đức Trời ấy đã ở đời quá khứ Cúng dường ngàn ức do tha Phật Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa Này Trong tất cả pháp đều không nghi Do các nhân duyên thuở xưa ấy Nay nói được kệ tán thán Phật Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán Hiền kiếp tất cả chư Như Lai Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ Thành Phật đại lực na la diên Giáo hóa chúng sanh bất khả tư Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn Lúc chư Ðại Thánh ấy thành Phật Ðược danh hiệu Phật rất vi diệu Nay ta vì ông nói hiệu ấy Ðồng trong kiếp ấy đều làm Phật Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai Thảy đều cứu độ bất tư nghị Na do tha chúng nhập Niết nàn Các Như Lai ấy diệt độ rồi Ðốt thân lưu bố những Xá lợi Ðem Xá lợi ấy đều xây tháp Ðầy trong quốc độ như rãi hoa Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt Thảy đều lợi ích các thế gian Bất tư nghị do tha chúng sanh Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn Tam thế chư Phật đều tán thán Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy Thì được thiện căn thắng vi diệu Sẽ được thành tựu đạo hữu học Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng Dường như vô lượng nan tư chúng Ðều ở chỗ ta trồng căn lành Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội Ðều do cúng dường Xá lợi ấy Ðược nghe lời Phật như vậy rồi Tất cả đại chúng sanh hi hữu Công đức thắng diệu có oai thần Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ Và hàng đại chúng khắp vui vẻ Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề Ðược biết Như Lai thế lực lớn Thảy đều dảnh lễ chân Thế Tôn”. PHẨM QUẢNG QUẢ THIÊN THỌ KÝ THỨ HAI MƯƠI HAI Bấy giờ có tám ức chúng trời Quảng Quả thấy A Tu La nhẫn đến trời Biến Tịnh cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa lòng vui mừng hớn hở nhập mỗi mỗi pháp môn, từ mỗi mỗi pháp môn được vô lượng môn, nơi tất cả pháp môn được vô lượng biện tài, bất đoạn biện tài, tương ưng biện tài, giải thoát biện tài, vô trước biện tài, vô ngại biện tài, vi tế biện tài, thậm thâm biện tài, chủng chủng biện tài, mỹ diệu biện tài, tương tục biện tài. Ở nơi các biện tài thảy đều biết rồi, chúng trời Quảng Quả ấy đối với Như Lai, kính tin tôn trọng mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có đà la ni tên Vô Lượng Môn. Nếu có Bồ Tát tu tâp đà la ni vô lượng môn ấy, thì được các biện tài bất đoạn V.V…ấy, ở trong tất cả cảnh giới tâm chẳng mê hoặc. Các cảnh giới ấy không có một pháp nào chẳng phải đà la ni. Lúc đại Bồ Tát được đà la ni ấy, ở trong các pháp đều được đà la ni trí biện tài vô ngại. Lúc đại Bồ Tát an trụ đá la ni vô lượng pháp môn ấy thì nhập nơi ngũ ấm, nhập nơi thập nhị xứ, nhập nơi thập bát giới, nhập nơi các căn, nhập nơi tứ đế, thập nhị nhân duyên, nhập nơi chúng sanh, nhập nơi phi chúng sanh, nhập nơi hữu, nhập nơi phi hữu, nhập nơi thủ tưởng, nhập nơi phi thủ tưởng, nhập nơi y nơi phi y,nhập nơi không nhập nơi ngã, nhập nơi tướng nơi phi tướng, nhập nơi nguyện nơi phi nguyện, nhập nơi hữu vi nơi vô vi, tất cả xứ như vậy được bất hoại biện tài. Ðại Bồ Tát ấy nhập trong ngũ ấm được đà la ni. Nghĩa là sắc ấm ấy tức chẳng phải thành tựu, tại sao, vì không có chút sắc pháp được thành tựu, tại sao, vì địa giới tánh chẳng phải thành tựu, thủy giới hỏa giới và phong giới tánh đều chẳng phải thành tựu, tại sa, vì địa giới tánh ly vậy, nếu pháp không có thể tánh thì gọi là chẳng phải thành tựu, thủy hỏa và phong giới tánh tự ly, vì không thể tánh nên chẳng phải thành tựu. Sắc chẳng phải thành tựu như vậy, do vì chẳng phải thành tựu nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại và vị lai, tại sao, vì sắc chẳng phải pháp có nên là bất khả đắc. Nếu sắc đã bất sanh tức laé bất diệt, do vì bất sanh diệt nên tức là bất khả thuyét, lại còn có thuyết như vầy, những sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai, các sắc ấy hòa hiệp gọi là sắc ấm, sắc ấy thể tánh cũng bất khả đắc, nào có quá khứ hiện tại vị lai, thế nên sắc ấm chẳng phải là khả thuyết, thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Vì vậy nhập nơi ấm tức là nhập nơi đà la ni. Do vì nhập đà la ni nên ấm bất khả đắc, vì ấm bất khả đắc nên đà la ni cũng bất khả đắc, do đó mà nhập đà la ni bất khả đắc, chỉ có rieng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thiết, chẳng phải ấm chẳng sắc, chẳng phải nhập nơi sắc, cũng chẳng đà la ni thể tánh khả đắc. Tại sao? Nghiã là ấm v.v…chă »ng phải là tác pháp, vì chẳng phải tải tác pháp nên không có tích tụ. Do vì tích tụ nên giả gọi là ấm, như thế gian nhiều vật liệu tích tụ lại giả gọi là thành là nhà v.v…Các sắc ấy tánh bất khả đắc, không có tích tụ, vì không tích tụ nên là không sắc, cũng hông sắc ấm. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, tánh bất khả đắc không có tích tụ, vì không tích tụ nên không thọ tưởng hành thức, cũng không thọ tưởng hành thức ấm. Nhập nơi các ấm ấy phải biết như các ấm. Nhập nơi nhãn rồi là ai nhập, nghĩa là khổ nhập. Gì là nhãn? Ðó là thanh tịnh tứ đại tạo nên sắc gọi đó là nhãn. Những gì là tư đại? Ðó là thanh ti(nh địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới, địa giới ấy tánh tự ly, đã là tánh tự ly thì là pháp thể bất khả đắc, nó là chẳng phải thành tựu. Như vậy thủy hỏa và phong giới tánh đều tự ly, vì pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải thành tựu. Nhãn nhập chẳng phải thành tựu như vậy nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao?Vì nhãn nhập chẳng phải là vật. Vì chẳng phải là vật nên chẳng sanh chẳng diệt. Nếu chẳng sanh chẳng diệt tức là bất khả thuyết. Như vậy nhãn chẳng sanh diệt, nhập cũng chẳng sanh diệt, vì chẳng sanh diệt nên cũng bất khả thuyết. Phải hiểu biết như vầy: Chỉ là riêng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết. Danh ấy và danh thể cũng tư( tánh ly. Tại sao? Vì không có một pháp gọi là nhãn, gọi là nhập, gọi là khổ. Vì danh bất khả đắc nên nhãn nhập cũng bất khả đắc. Vì nhãn bất khả đắc nên tức là đà la ni nhập. Ðà la ni nhập Này cũng bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly vậy, chỉ là danh dụng giả, chỉ là thế tục, ngôn thuyết thi thiết. Vì thế nên do nhãn nhập mà được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài. Nên biết nhĩ tỉ thiệt thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều như vậy.Nhập nơi giới ấy được đà la ni nhãn, nhãn thể bất khả đắc, giới thể bất khả đắc. Tại sao? Vì nhã ly nhãn tánhvậy, vì giới ly giới tánh vậy. Bởi pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Chẳng thành tựu thì là chẳng sanh chẳng diệt. Vì chẳng sanh diệt nên nó chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai, chỉ là dan h dụng giả, chỉ là thế tục ngôn thuyết thi thiết. Danh ấy ly danh tự tánh, nhẫn đến thi thiết ly thi thiết tự tánh. Nếu pháp không tự tánh bất khả đắc tức là chẳng phải vật. Ðã chẳng phải vật thì chẳng phải thành tựu. Ðã chẳng phải thành tựu thì chẳng sanh chẳng diệt. Bởi bất sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. Nếu chẳng nhiếp ở danh ấy tức chẳng phải tướng cũng chẳng phải tưởng, chẳng phải dụng, chẳng phải giả, chẳng phải hữu vi, chẳng phải khả thuyết, chẳng phải lai chẳng phải khứ, chẳng phải được nói cho người, chẳng phải được hiển thị, chẳng phải được biết, chẳng phải được rõ, chẳng phải đen, chẳng phải trắng, chằng phải nhà cửa. Vì ly nhà cửa vậy, vì chẳng phải đến, chẳng phải được đến vậy, vì chẳng phải được, chẳng phải bị được vậy, vì chẳng phải chứng, chẳng phải được chứng vậy, chẳng phải phàm phu cũng chẳng phải phàm phu địa, chẳng phải Thanh Văn cũng chẳng phải Thanh văn địa, chẳng phải Duyên Giác cũng chẳng phải duyên Giác địa, chẳng phải Bồ Tát cũng chẳng phải Bồ Tát địa, chẳng phải Phật cũng chẳng phải Phật địa, chẳng phải địa cũng chẳng phải phi địa, đây tức là chơn như, chẳng dị như, chẳng phải phi như, tịch diệt vô tướng, chỉ riêng dụng riêng giả. Nói rằng Như Lai chỉ riêng vì thế tục nên nói danh Như Lai, chẳng phải đệ nhất nghĩa mà có Như Lai vậy. Tại sao? Vì pháp ấy bất khả đắc nên không có Như Lai ở nơi giới ấy mà nhập. Phải nên nhập nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý giới pháp giới ý thức giới như vậy. Tất cả giới khác cũng phải biết như vậy. Phải nên rộng nhập pháp giới như vậy. Bạch Thế Tôn! Pháp giới ấy, lúc nói rằng ấm mà chẳng hư hoại bổn tánh của pháp giới ấy, lúc nói nhập lúc nói giới, lúc nói tứ đế, lúc nói thập nhị nhân duyên, cũng đều chẳng hoạibổn tánh thể của pháp giới ấy. Pháp giới tùy theo chỗ được nói tất cả các pháp kiến lập danh tự, đèu chẳng hoại thể tánh của pháp giới ấy. Bạch đức Thế Tôn! Thi như địa tùy theo chỗ nó ở mà làm danh tự sai khác, nhưng chẳng hư hoại bổn tánh của địa giới ấy. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở làm danh tự sai khác mà chẳng hoại bổn tánh pháp giới. Thi như tủy hỏa phong giới cũng vậy. Bạch đức Thế Tôn! Thí như hư không tùy theo chỗ nó ở có tác dụng sai khác mà chẳng hoại thể tánh hư không. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở có tác dụng danh tự sai biệt mà chẳng hoại thể tánh pháp giới. Bạch đức Thế Tôn! Lúc nhập các căn tức là nhập pháp giới? Nói các căn lá nhãn căn nhĩ căn tỷ căn thiệt căn than căn và ý căn, cùng nam nữ căn mạng căn, lạc căn khổ căn hỉ căn ưu căn xả căn, tín căn tinh tấn căn niệm căn định căn huệ căn, vị tri dục tri căn, tri căn tri dĩ căn. Nhãn ấy, nhãn thể bất khả đắc. Căn ấy, căn thể bất khả đắc. Tại sao?Vì nhãn ấy ly nhãn tự tánh vậy. Ðã ly tự tánh thì không pháp thể. Bởi pháp không thể tánh thì nó chẳng phải vật. Bởi chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng thành tựu nên nó chẳng sanh. Bởi chẳng sanh nên chẳng diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng thể nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế chẳng sanh diệt thì nó chẳng phải nhãn cũng chẳng phải nhãn căn thì làm sao có dụng, phải biết như vậy. Bạch đức Thế Tôn!Thí như không quyền hư dối không có vật chỉ có danh tự chỉ có ngôn thuyết. Ở trong địa nhất nghĩa không quyền cũng không có. Nhãn và nhãn căn ấy dường như không quyền hư vọng chẳng phải thiệt mà hiện tướng hư giả dối gạt phàm phu, chỉ có danh tự thi thiết ngôn thuyết, ở trong đệ nhất nghĩa nhãn và nhãn căn đều bất khả đắc. Bạch đức Thế Tôn! Vì như vậy nên ngườo được Nhất thiết trí rồi vì độ chúng sanh mà nói tên là căn. Các căn ấy, ở đệ nhất nghĩa vì tự tánh ly nên căn thể đều không. Vì pháp ấythể kho-ng nên dụng cũng hư vọng chẳng có chẳng thiệt dối gạt phàm phu. Vì ly tự tánh nên chẳng sanh diệt. Vì chẳng sanh diệt nên chẳng được nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế không có thié nó không có danh không có tướng, chẳng phải được nói, chẳng phải được vì người khác nói, chẳng phải sanh chẳng phải bị sanh, chẳng phải đã biết sẽ biết, chẳng phải đã nghe sẽ ngh, chẳng phải biết chẳng phải biết chẳng phải bị biết, chẳng phải đã chứng sẽ chứng, chẳng phải đã được sẽ được, chẳng phải đã thấy sẽ thấy, chẳng phải đã đến sẽ đến, tại sao, vì nó chẳng phải có vậy. Bạch đức Thế Tôn! Thí như có người chiêm bao được vui mừng cười nói mớ đi chơi, người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự vui chơi trong mộng mà tìm chẳng thấy chẳng được. Người ấy đương lúc chiêm bao sự vui chơi ấy còn chẳng có thiệt huống là lúc thức dậy, không bao giờ cảnh mộng ấy lại hoặc thấy hoặc được. Bạch đức Thế Tôn! Các căn như vậy giống cảnh vui chơi trong mộng thiệt bất khả đắc. Vì thế nên tất cả các pháp thể tánh đều bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở nơi tam thế thế bất khả đắc thì nó chẳng thể nói được. Với tất cả các căn phải biết như vậy. Bạch đức Thế Tôn nhập pháp giới là nhập tất cả pháp, nhập tất cả pháp là nhập pháp giới. Bạch đức Thế Tôn!Nhập pháp tứ đế là nhập pháp giới. Những gì là tứ đế? Ðó là khổ tập diệt đạo. Ðức Thế Tôn cũng nói tất cả các pháp thảy đều là không, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải mạng, chẳng phải nhân, chẳng phải tưởng, chẳng phải tướng. Chúng tôi ở nơi pháp ấy chăẳng có nghi lự. Bạch đức Thế Tôn! Vì không chúng sanh nên cũng không có khổ. Tại sao? Vì chúng sanh không nên khổ đế cũng không. Tại sao?Vì không có nhân như vậy nên không có quả như vậy. Vì không có tập nên diệt đế cũng không. Tại sao? Vì không có đạo mà chẳng đoạn tập vậy. Bạch đức Thế Tôn! Ðạo quả ấy là diệt đế. Phiền não tập kia bất khả đắc nên đoạn phiền não diệt cũng bất khả đắc. Do diệt bất khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Không khi nào có đạo như vậy mà không có quả của nó. Bốn thánh đế ấy chỉ là phân biệt hư vông chẳng phải có. Bởi chẳng phải có nên chẳng thể nói được là quá khứ hiện tại vị lai.Nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải tướng chẳng phải tưởng, chẳng phải sắp bày chẳng phải bị sắp bày, chẳng phải nêu chỉ chẳng phải bị nêu chỉ, chẳng phải hiển hiện chẳng phải bị hiển hiện, chẳng phải ngũ ngôn chẳng phải bị ngũ ngôn, chẳng phải ngôn từ chẳng phải bị ngôn từ; chẳng no&i chẳng phải bị nói; chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải biết chă”ng phải bị biết, chẳng phải rõ chẵng phải bị rõ, chẳng phải lường chẳng phải bị lường, chẳng phải thấu chẳng bị thấu, chẳng phải đến chẳng phải bị đến, chẳng phải được chẳng phải bị được, chẳng phải nghe chẳng phải bị nghe, chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải đối chẳng phải bị đối, chẳng phải chứng chẳng phải bị chứng, chẳng phải trắng chẳng phải đen, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải đến chẳng phải đi, chẳng phải cạn chẳng phải sâu, chảng phải trong chẳng phải đục, chẳng phải sợ chẳng phải an.chẳng phải trói chẳng phải mở, chẳng phải ghét chẳng phải thương, chẳng phải phiền não chẳng phải thanh tịnh, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải đường sá chẳng phải chẳng đường sá, chẳng phải hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng phải nhiếp thọ chẳng phải chẳng nhiếp thọ, chẳng phải sanh tử chẳng phải chẳng sanh tử, chẳng phải được chẳng phải chẳng được, chẳng phải chúng sanh chẳng phải chẳng chúng sanh, chẳng phải thọ mạng chẳng phải chẳng thọ mạng, chẳng phải ngã chẳng phải chẳng ngã, chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải chẳng tướng,, chẳng phải nguyện chẳng phải chẳng nguyện, chẳng phải y chẳng phải chẳng y, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải thiệt chẳng phải vọng, chẳng phải vọng tưởng chẳng phải chẳng vọng tưởng, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải nhà chẳng phải chẳng nhà, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải xả chẳng phải tu, chẳng phải sanh tử chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, chẳng phải cảnh giới phàm phu chẳng phải cảnh giới Thanh Văn chẳng phải cảnh giới duyên giác chẳng phải cảnh giới Bồ Tát chẳng phải cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới chẳng phải chẳng cảnh giới, chẳng phải tác chẳng phải bất tác. Nhập vào đế như vậy tức lànhập vào pháp giới. Nhập pháp giới rồi thì được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài. Nhập vào mười hai nhân duyên tức lá nhập vào pháp giới. Vô minh duyên hành hành duyên thức thức duyên danh sắc duyên sắc duyên lục nhập lục nhập duyên xúc xúc duyên thọ thọ duyên ái ái duyên thủ thủ duyên hữu hữu duyên sanh sanh duyên lão tutủ ưu bi khổ não, khối lớn nhiều khổ lớn như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt nhẫn đến sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, khối lớn nhiều khổ diệt. Bạch đức Thế Tôn! Vô minh ấy, vô minh thể bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly. Nếu pháp không có thể tánh thì nó chẳng phải vật. Vì chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng phải thành tựu nên chẳng phải sanh chẳng phải diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì không có danh không có hình không tướng không tưởng cũng chẳng sai biệt. Chỉ là riêng danh riêng giả riêng dụng, chỉ là thế tục chỉ là ngôn thuyết, vì giáo hóa tất cả phàm phu chúng sanh. Vô minh ấy ở trong đệ nhất nghĩa thiệt bất khả đắc. Bởi bất khả đắc nên chẳng phải dụng sai biệt cũng chẳng thể nói được. Bạch đức Thế Tôn! Nếu chỉ là chỉ riêng danh nhẫn đến chỉ riêng thi thiết thì nó chẳng phải thiệt chỉ là hư vọng ngôn thuyết phân biệt, giác quán chẳng phải định chỉ là hí luận. Vô minh ấy nếu không có tự tánh thì làm sao sanh được hành. Vì vô minh đã không nên hành cũng chẳng sanh, bởi chẳng sanh nên nó tức là bất lão bất bệnh bất tử, chẳng lưu chuyển tức là bất sanh. Nếu chẳng sanh thì làm sao có lão tử. Nếu chẳng sanh chẳng tử tức là chư Phật Bồ đề quá khứ hiện tại vị lai chỉ là thế tục danh tự chẳng phải đệ nhất nghĩa. Nói rằng vô minh đó tức là Bồ đề, các chỉ kia cũng vậy. Nhập mười hai nhân duyên như vậy phải biết tức là nhập nơi pháp giới. Bạch đức Thế Tôn! Như Lai bất sanh tất cả pháp cũng bất sanh, vì thế tất cả pháp tức là Như Lai. Như Lai bất diệt tất cả pháp cũng bất diệt, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai, Như Lai vô tướng tất cả pháp cũng vô tướng, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai. Nói tóm lược, vô tướng bất khả đắc như vậy chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải yêu chẳng phải ghét, pháp giới chẳng thể rõ cũng chẳng thể biết. Bạch đức Thế Tôn! Chơn như tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là chơn như, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai. Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tế tức là Như Lai, tất cả pháp tức là thiệt tế, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai. Bạch đức Thế Tôn! Tùy trong pháp nào tức là có Như lai, trong pháp ấy tức là có tất cả pháp, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai được Vô thượng Bồ đề, người ấy là có kiến chấp. Tại sao? Vì Như Lai bất nhị, Bồ đề cũng bất nhị, bất nhị ấy chẳng có thể giác ngộ bất nhị vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói Như Lai chuyễn pháp luân vô thượng, người ấy là có kiến chấp. Tại sao? Vì Như Lai chẳng phải tiến thối vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người,nói Như Lai độ vô lượng chúng sanh, người ấy là có chấp kiến. Tại sao? Vì tất cả pháp thiệt không có chúng sanh nên không có ai được diệt độ vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người nói rằng Như Lai lợi ích vô lượng chúng sanh, người ấy là có kiến chấp. Tại sao? Vì Như Lai chẳng vì lợi ích hay chẳng lợi ích chúng sanh mà xuất thế vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có chúng sanh ở đời vị lai nói rằng Như Lai xả bỏ thọ mạng, chúng sanh ấy là có chấp kiến. Tại sao? Vì pháp giới không có nhiếp thọ cũng không có xả bỏ vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người nói Như Lai nhập vô dư Niết bàn, người ấy là có chấp kiến. Tại sao? Vì pháp giới không có sanh tử cũng không có Niết bàn vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người ở nơi pháp của tôi nói mà có thể quyết định biết, người ấy chẳng còn thối chuyễn nơi Vô thượng Bồ đề. Bạch đức Thế Tôn! Giả sử pháp giới có biến khác, các thiện nam tử thiện nữ nhân có thể tin như vậy, tất định sẽ giác ngộ Vô thượng Bồ đề không có biến đổi”. Tám ức chúng trời Quảng Quả ở nơi Thế Tôn diễn nói pháp của mình được chứng rồi đầu mặt lễ chân Phật, nhiễu Phật ba vòng đứng qua một phía chắp tay đồng thanh nói kệ tán thán đức Phật: “Kính lễ Thiện Thệ đấng biết pháp Ðại Ðạo Sư na la diên lực Thắng Mâu Ni thương yêu tất cả Phương tiện thị hiện nơi chơn thiệt Ðã tự biết rõ tất cả pháp Như thiệt hiển thị các thế gian Cúi lạy thân vô lượng công đức Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng Pháp vi diệu chơn thiệt như vậy Phật nói tương ưng không có khác Thế Tôn đại Y Vương vô thượng Khiến chúng sanh pháp nhãn thanh tịnh Khai diễn tám thứ đường chơn chánh Vì được đại Bồ đề Vô thượng Quy kính thân vô lượng công đức Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng Hiễn thị Bồ đề đạo chánh chơn Quyết định xu hướng đại Niết Bàn Chứng được Vô thượng thắng Bồ đề Tịch diệt an ổn rất kiên cố Ðộ thoát nhiều ức na do tha Chúng sanh luân hồi khổ sanh tử Ðãnh lễ thân vô lượng công đức Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng Quan sát ngũ ấm đều không vô Ấm thể rốt ráo bất khả đắc Ấm ấy tức thể ly chẳng có Chỉ gạt những chúng sanh phàm ngu Thế gian nơi đây bị trói buộc Như khỉ vượn kia bị dính nhựa Người trí nơi đây được giải thoát Du hành không ngại như gió trống Các giới tức thể tánh tự không Tất cả người trí nói như vậy Không ấy cũng không có tự tánh Cứu cánh cầu nó bất khả đắc Phàm phu nơi đây đều bị trói Do vì chẳng biết tánh chơn thiệt Người trí quán sát được giải thoát Nơi tam giới kia vô sở trước Các nhập không thể tự không tịch Tất cả người trí nói như vậy Như nắm tay không giả chẳng thiệt Dối gạt hàng chúng sanh ngu tối Phàm phu vọng sanh lòng thủ trước Ðều do nơi pháp sanh nghi hoặc Trụy lạc sanh tử bị tán hoại Như các nhà buôn chìm biển lớn Các căn ấy tự nó tự không Cứu cánh suy tìm bất khả đắc Ví như trong gương hiện mặt mắt Tượng ấy không thiệt cứu cánh không Phàm phu vô trí chấp tượng ấy Chánh vì chẳng biết pháp chơn thiệt Dường như bầy chim vào lưới bẫy Cũng như trong vực cá mắc câu Chúng sanh không thể lìa tướng sanh Chơn thiệt tìm cầu bất khả đắc Ví như trên vách vẽ hình tượng Cứu cánh không tướng chúng sanh thiệt Phàm phu vô trí nên thử trước Ðều do chẳng biết nghĩa chơn thiệt Người trí quan sát được giải thoát Ví như chim sanh ra khỏi vỏ Nhân duyên sanh pháp đều vô thường Tất cả không tịch lìa phan duyên Ví như trong mộng hưởng thọ vui Hư dối gạt gẫm phàm phu mê Ngu si vô trí bị nó trói Do chẳng tư lương vọng phân biệt Người trí quan sát được giải thoát Như các chim khôn thoát lồng lưới Như Phật công đức bất tư nghị Tất cả các pháp cũng như vậy Các pháp vô tướng như Mâu Ni Pháp thể tịch diệt như Niết bàn Các pháp vô y như Như Lai Nơi tam giới kia chẳng thủ trước Vì thế tất cả người thành Phật Ðều do được biết nghĩa Này vậy Các pháp vô bố như Thế Tôn Chẳng khởi tưởng thân mình thân người Các pháp nan tư như Ðạo Sư Chỉ Phật biết được dắt quần sanh Pháp vô phân biệt như Thiện Thệ Chẳng phải tâm cảnh của phàm phu Là diệu cảnh giới của Như Lai Chỉ Phật Ðại Thánh biết rõ được Nếu có vô trí nói thế này Phật chứng Vô thượng đại Bồ đề Nếu lại có người nói như vầy Thế Tôn đã chuyễn diệu pháp luân Nếu lại có người nhận định rằng Thiện Thệ đã độ vô lượng chúng Họ đều bị kiến chấp trói buộc Vì họ chẳng biết tánh chơn thiệt Nếu người bảo Phật nói lời Này Sát hại hành ấm và cùng mạng Hoặc nói Thập Lực nhập Niết bàn Ðã lợi ích vô lượng chúng sanh Tất cả người ấy đều chấp kiến Bị trói chặt trong rọ của ma Chẳng hiểu biết được pháp chơn như Vì chẳng biết nên chẳng biết Phật Nếu người khéo biết phải chẳng phải Họ biết rõ được Ðại Ðạo Sư Sẽ được khối vô lượng công đức Thành Phật thương xót các thế gian Ðây là chơn như không biến đổi Tất cả các pháp lìa nghi hoặc Ðấng thắng vô thượng trong Trời Người Chúng tôi đã biết nghĩa như vậy Tám ức chúng trời Quảng Quả Này Nơi pháp thảy đều được biết hết Ðối Phật Ðạo Sư tự diễn nói Hiện nội tâm mình tin hiểu rồi Tất cả mừng vui không nghi lự Ðều tự thấy mình sẽ thành Phật Ðây là diệu pháp của Như Lai Họ tự nhận lãnh Phật thọ ký”. Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quảng Quả có đủ thâm tín, ở trong Phật pháp quyết định không nghi, vì muốn đại chúng trồng căn lành nên hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch đức Phật: “Ðạo sư trí huệ núi công đức Chẳng phải không nhân mà mỉm cười Tôi từng nơi Phật thân tự nghe Thế Tôn mỉm cười tất có cớ Như Lai hiện tướng mỉm cười ấy Khiến chúng đều thọ vui thanh tịnh Trời Người Tu La đại Ðạo Sư Ngưỡng mong diễn nói nhân duyên cười Nay thấy Như Lai từ nơi miệng Hiện tướng mỉm cười rất thanh lương Các chúng hội đây đều hoài nghi Nhất tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai Ðại bi tối thắng Thiên Nhân Sư Xin nói cớ cười rất hi hữu Thế gian nếu được nghe Phật nói Quyết định trừ hết lòng nghi hoặc Tám ức chúng trời Quảng Quả ấy Thảy đều diễn nói tự thọ ký Do công đức gì được quả gì Xin nói thành Phật sự thần thông Khai diễn phạm âm rất vi diệu Ðể khắp trừ dứt chúng sanh nghi Tất cả đại chúng nghe Phật nói Thảy đều hớn hở rất vui mừng Ðại chúng chắp tay đều nhất tâm Tịnh tín chiêm ngưỡng cung kính đứng Chúng trời Phật tử đều tư duy Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề Các chúng hội đây có nghi hoặc Xin đức Như Lai trừ dứt cho Chắc sẽ được trí biết phải chẳng Ðầy đủ thành tựu Nhất thiết trí Ðược nghe Như Lai tiếng tám đức Chúng trời không ai chẳng vui mừng Sẽ được hộ trì Như Lai giáo Tùy thuận chánh pháp như thuyết hành Quan sát biết lòng chúng trời rồi Ðại trí Vô thượng nguyện giải nói Do đó đại chúng lòng mừng vui Ở trong Phật pháp được tin hiểu Nay nơi Ðạo Sư nguyện được nghe Chúng trời quá khứ dã tu hành Nếu nhờ Như Lai giải nói rồi Sở nguyện thảy đều được đầy đủ Chúng trời Quảng Quả như pháp hành Chắc được thành tựu Nhất thiết trí Sẽ độ thế gian các chúng sanh Hiển thị thể tánh pháp chơn như”. Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng: “Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ Nay ông hỏi Phật thiệt đúng lúc Phật vì chúng trời Quảng Quả ấy Ở trước đại chúng hiện mỉm cười Nay sẽ vì ông phân biệt nói Ðều phải nhất tâm cùng lắng nghe Nghĩa nhân duyên của tướng mỉm cười Ông và đại chúng sẽ được rõ Như Lai đầy đủ Nhất thiết trí Quan sát nhân duyên có ba thứ Lưỡng Túc Thế Tôn chánh quán rồi Liền hiện mỉm cười thị thế gian Có người thích ở nơi Niết bàn Ít trí cạn nhỏ cầu Thanh Văn Lại có người thích ở yên lặng Chỉ cầu Bồ đề Bích Chi Phật Lại có thích cầu đại Ðạo Sư Thành Phật đại lực na la diên Phật thấy chúng ấy thâm tín rồi Tùy họ sở nguyện mà độ thoát Vì cầu Thanh Văn mà thị hiện Phải biết là tướng cười tối hạ Phải nên biết Phật trung phẩm cười Vì người Bích Chi mà thị hiện Ông phải biết cười thượng phẩm đây Vì chúng trời Này thọ ký Phật Phật giải nói ba nhân duyên cười Ðó là tối hạ và trung thượng Khéo hiểu thế gian thắng Ðạo Sư Thị hiện mỉm cười hiển thoại tướng Phật biết chúng sanh muốn ba thừa Nguyện ưa cầu chứng ba thánh quả Vì cầu Thanh Văn mà hiện cười Tia sáng mỉm cười vào nơi chân Vì cầu Bích Chi Phật thị hiện Phải biết sáng cười nhập vào rún Vì thọ ký Vô thượng Bồ đề Tia sáng cười nhập vào đảnh Phật Mã Thắng Này Ông nên ghi rõ Nhân duyên mỉm cười có ba thứ Vừa rồi Phật hiện tướng sáng cười Sáng ấy nhập vào đảnh của Phật Phải biết mỉm cười hiện sáng ấy Ðều vì thọ ký Vô Thượng Giác Nay Phật sẽ lại vì ông nói Mỉm cười lại có ba nhân duyên Lành thay Mã Thắng và đại chúng Một lòng lặng ý đều lắng nghe Hiện tiền mỉm cười vì cầu Phật Tia sáng phóng ra nhập vào đảnh Tia sáng có lúc dừng ngang lưng Giây lát mất là vì Duyên Giác Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng Tạm thời dừng ở nơi chân Phật Sáng ấy theo thừa mà biến hiện Phải biết là vì người Thanh Văn Nay Phật lại nói cớ mỉm cười Mã Thắng nghe kỹ có ba thứ Ðạo Sư phóng ra các tia sáng Ra rồi vòng quanh nơi mình Phật Tia sáng ra rồi đều rẽ thưa Trở lại tụ mau quanh lưng Phật Lần lần trở lại thêm lớn rộng Cũng lại vòng quanh bên hữu Phật Có sáng đầu dừng sau rộng lớn Lần lần hữu nhiễu quanh thân Phật Sáng ấy đều khắp hết thân Phật Cùng đồng với thân không sai khác Sáng ấy trang nghiêm thân tướng Phật Rực rỡ dường như khối hoàng kim Mâu Ni phóng sáng từ miệng cười Phải biết sáng ấy ký quốc độ Có sáng phóng ra như lọng báu Che khắp trên thân đức Thế Tôn Có sáng như hoa ở hư không Sáng ấy chói rỡ thân Ðạo Sư Sáng ấy tất cả đều hữu triền Ba vòng quanh ngoài thân Nhu Lai Phải biết sáng áy ký thọ mạng Xuất thế đại trí hiện thoại tướng Ba thứ mỉm cười phóng sáng áy Thiện Thệ theo căn hiện sai khác Nay đây Mã Thắng cần nên biết Ðó là ba thứ nhân mỉm cười Thế gian Ðạo Sư hiện thoại tướng Khéo biết chúng sanh sâu tin thích Nay ở trong pháp của Như Lai Các ông nghe đây được trừ nghi Tám ức chúng trời Quảng Quả đây Hiện tiền trước Phật sâu kính tin Nói rộng chánh pháp môn vi diệu Ðều riêng cõi khác được thành Phật Thọ mạng đầy đủ lâu vô lượng Trải do tha kiếp trụ thế gian Thế nên Như Lai hiện thoại tướng Ánh sáng rộng lớn đủ năm màu Chúng trời Quảng Quả thuở quá khứ Ba mươi sáu a tăng kỳ kiếp Thường được gặp gỡ chư Thế Tôn Thân thừa cúng dường tu pháp lành Lại trãi thời gian ba mươi sáu A tăng kỳ kiếp rộng tu hành Chư Ðại Sĩ này trụ thế gian Cúng dường Như Lai chưa từng mỏi Vì tư duy cứu độ các chúng sanh Nên luôn siêng tu cúng dường Phật Cúng dường Thế Ttôn đúng pháp nghi Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề Chúng trời Quảng Quả đời vị lai Sẽ làm được Phật na la diên Thành hiệu Mâu Ni núi công đức Kiếp ấy hiệu là Thắng Kim Tràng Chư Như Lai ấy đều riêng ở Trong quốc độ trang nghiêm thanh tịnh Phật ấy đồng hiệu Nhật Quang Luân Ðầy đủ vô lượng khối công đức Mỗi mỗi Như Lai đều trụ thế Lâu đến vô lượng do tha kiếp Chư Thiện Thệ ấy họp chúng hội Vô lượng vô biên chẳng đếm được Lúc mỗi mỗi Ðạo Sư thành Phật Chỗ có hàng đệ tử Thanh Văn Dầu Phật ở trong do tha kiếp Tính đếm số ấy củng chẳng hết Nếu tất cả toán sư cùng họp Cũng tính chẳng hết số chúng ấy Thuở ấy chỗ có chư Bồ Tát Số đông gấp bội chúng Thanh Văn Thảy đều phát tâm ở Phật thừa Nguyện sẽ thành Nhất thiết trí Ở trong quốc độ thanh tịnh ấy Ðều sẽ được thành Phật thập lực Chư Bồ Tát ấy chỗ tu hành Ðồng như Bỗn Sư không sai khác Chư Như Lai ấy diệt độ rồi Chánh pháp hưng thạnh ở đời lâu Trải đến mười hai na do kiếp Ðược chư Phật tử siêng hộ trì Lúc pháp chư Phật ấy hưng thạnh Kẽ phát tâm vô thượng Bồ đề Số ấy nhiều hơn cát sông Hằng Thảy đều siêng tu Bồ Tát hạnh Chư Thiện Thệ ấy diệt độ rồi Chỗ có tất cả chúng Thanh Văn Chúng ấy thảy đều được Niết bàn Nhiều hơn số cát nơi đại hải Chánh pháp của chư Thế Tôn ấy Ðầy đủ hưng thạnh nơi Thế gian Lợi ích vô lượng các chúng sanh Giáo pháp Phật ấy rất hưnh thạnh Nghe Phật giải nói như vậy rồi Tất cả đại chúng đều tin hiểu Quyết sẽ được thành Phật Thế Tôn Rộng làm lợi ích các quần sanh Bấy giờ chúng hội đều mừng vui Ðầu mặt lễ lạy chân Như Lai Cung kính vô lượng nơi Thiện Thệ Ðúng pháp cúng dường Thiên Nhân Sư Thế nên hớn hở phát tinh tấn Dường như cứu đầu đang bi cháy Thường phải thân cận thiện tri thức Siêng tu Bát Nhã Ba la mật Ðây là hạnh thắng tấn thấy thiệt Tỳ Kheo các ông phải tu tập Sẽ thành Vô thượng Lưỡng Túc Tôn Công đức như núi lợi thế gian”. PHẨM TỊNH CƯ THIÊN TỬ TÁN KỆ THỨ HAI MƯƠI BA Bấy giờ chư Tịnh Cư Thiên Tử biết vô lượng chúng sanh được an trụ Bồ Ðề ở trong Phật pháp không có nghi lự, họ đều vừa ý vui mừng đều riêng nói kệ vi diệu tán thán Phật công đức. Tín Thí Thiên Tử nói kệ tán thán: “Xả thí vợ con yêu Và xả thân được trọng Ðến ngôi vua của cải Tôi lạy đấng Ðàn Ðộ” Lạc Trì Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như Lai bổn trì giới Tất cả không chấp trước Ðược quả đến bờ kia Tôi lạy đấng Giới Ðộ” Lạc Nhẫn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Xưa Phật tu nhẫn nhục Chịu được chặt tay chân Lòng không hề hối não Tôi lạy đấng Nhẫn Ðộ” Lạc Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðấng dũng kiện bất thối Tinh tấn có đại lực Ðã được thượng Bồ Ðề Tôi lạy đấng Tấn Ðộ” Lạc Thiền Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật bổn tu thiền định Thế gian chẳng hay biết Tam tế được bình đẳng Tôi lạy đấng Thiền Ðộ” Oai Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại Hùng nơi Bát nhã Tương tục mà tu hành Chứng được vô tận huệ Tôi lạy đấng Trí Ðộ” Giới Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Bố thí và ái ngữ Lợi hành cùng đồng sự Tứ nhiếp độ chúng sanh Tôi lạy đại Ðạo Sư” Tịnh Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi đại từ bi hỉ Ðêm dài thường tu tập Dùng đây cứu quần sanh Quy mạng Ðại Thuyền Sư” Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðến được hạnh vô tranh Ðiều tâm đại Mâu Ni Ðiều được kẻ chưa điều Tôi lạy Ðiều Ngự Sư” Vô Cấu Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tâm rộng tâm nhu nhuyến Tâm điều và các căn Biết tâm các chúng sanh Tôi lạy đấng biết rõ” Tịnh Ý Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðấng đầy đủ chánh niệm An trị trong kiên huệ Sáng suốt biết rõ ràng Lạy đấng Giác Giác tha” Trang Nghiêm Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Từ lâu tâm Phật tịnh Cũng tịnh Phật quốc độ Và tịnh quần sanh huệ Tôi lạy Tịnh Pháp Vương” Vô Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Sở nguyện không bị hoại Sức hàng phục ma oán Mãn túc các nguyện lớn Vui đẹp chúng chư Thiên” Tốc Doanh Sự Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như Lai mau biết pháp Cũng chóng tịnh chúng sanh Ðã thấy pháp khó thấy Tôi lạy đấng Ứng Cúng “ Kiên Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Xứ xứ đều giải thoát Lìa si không phiền não Ðã đến ở bờ kia Lạy đấng Kiên Cố Lực” Lạc Oai Nghi Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ly dục không các lỗi Trừ tối được lậu cận Thắng phước điền cho đời” Thiện Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn trụ chánh pháp Ðược tam giới cúng dường Một đường an ổn đi Vì thế tôi kính lễ” Vô Ðộng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật như núi tâm kiên cố Chẳng bị gió làm đông Chê khen thường bình đẳng Vì thế tôi kính lạy” Ðắc Bình Ðẳng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại hùng sắc thù thắng Ðủ ba mươi hai tướng Có trí huệ lớn sâu Tôi lạy Ðoan Chánh Trí” Thâm Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðấng đại thân phi thân An trụ pháp chơn như Nói rõ nơi thiệt tế Thế gian không ai bằng” Vô Ðẳng Ngại Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Cứu cánh đồng bất nhị Dũng kiện hay phục ma Chẳng nghi nơi nghĩa sâu Chiếu pháp đến bờ kia“ Hỉ Ý Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hỉ Ý bổn dũng kiện Sở học đều thông lợi Bỏ lìa ba cõi ấy Như rắn thoát da cũ” Ðịnh Ý Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như đèn trong nhà tối Hết dầu nên mất sáng Người trí dứt như vậy Do nghe Phật pháp vậy“ Trụ Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như Lai khắp quan sát Bị dục nó trói buộc Phật đoạn được lưới dục Do cầm gương trí vậy” Ða Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðịnh tâm và định hành Ðịnh oai nghi cảnh giới Phật diệt được phiền não Tôi lạy đấng phục oán” Vô Úy Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: “Học Phật xa ma tha Bồ Tát được danh xưng Vì chánh định dạo dẫn Thành tựu định tâm Phật” Ðịnh Thực Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tịch diệt tất cả pháp Của Ðại Hùng diễn nói Ðấng Ðại Trí hiểu đó Mau thành Phật Như Lai” Thường Quán Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thường quán các chúng sanh Ðều theo Như Lai học Chứng được thắng Bồ đề Ðầy đủ trí huệ lớn” Trì Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật trí Ba la mật Vì Bồ tát tu học Thành bực đại oai đức Thấy được vô lượng pháp” Tạo Quang Thiên Tử nói kệ tán thán: “Người được bất tư quang Sẽ được vui vô cấu Chỗ Như Lai chiếu thế Ðược nghe trí cảnh giới” Vô Cấu Quang Thiên Tử nói kệ tán thán: “Các pháp vô phân biệt Do thiện phương tiện vậy Tu tập trí như vậy Nên thành Diệu Trượng Phu” Vô Sở Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vô trụ không xúc nhiễu Các pháp không chỗ thấy Chẳng thấy có tự tha Phật y chơn thiệt thấy” Trạch Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Các Pháp không quật trạch Ðạo Sư thấy như vậy Vì chúng sanh mà nói Tùy thuận lấy pháp tướng” Vô Y Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Các pháp vô sở y Xa lìa nơi bỉ thử Như Lai hiển hơn thiệt Như am la trong tay” Hư Không Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết pháp như hư không Chẳng sanh cũng chẳng diệt Phật thấy pháp như vậy Nên lìa được thế gian” Vô Tích Tụ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Không cầu cũng không mạn Không giác không bất giác Y chơn không tụ tánh Là Phật thấy thế gian” Tu Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như nhà ảo thuật giỏi Ảo hóa các thứ vật Chẳng thiệt mà thấy thiệt Nên Phật không ai bằng” Hỉ Ngộ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như hình tượng trong gương Dầu thấy mà chẳng thiệt Phật thấy pháp như vậy Chẳng mẻ nơi thế gian“ Trừ nghi Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật như vang theo tiếng Các pháp cũng như vậy Nói nghe đếu chẳng thiệt Là Phật thấy thế gian” Vô Ngại Biện Thiên Tử nói kệ tán thán: “Người an trụ chánh pháp Biện tài thuyết thâm diệu Từ lâu Phật chứng pháp Nên đầy đủ biện tài” Vô Chướng Trí Thiên Tử nói kệ tán thán: “Y chơn không tự tánh Tất cả pháp như vậy Như Lai biết như vậy Nên trừ được tối tăm” Vô Ưu Thiên Tử nói kệ tán thán: “Không ưu cũng không não Không tránh không nhiễu trược Các pháp không cấu nhiễm Phật thấy tánh chơn thiệt “ Hành Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán: “Không lai cũng không khứ Các pháp vô sở hữu Như Lai chơn thiệt thấy Vì đời nói như vậy” Thắng Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Không nhiễm cũng không tịnh Chẳng ngu cũng chẳng trí Các pháp không năng sở Phật thấu biết như thiệt” Ðắc Vô Ngại Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng sáng cũng chẳng tối Chẳng sắc chẳng phi sắc Chẳng được chẳng giải thoát Phật huệ như thiệt thấy” Dũng Mục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng cuộc cũng chẳng khắp Chẳng không cũng chẳng có Như mộng thọ ngũ dục Phật thấy pháp như thiệt” Bất Thuấn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng sanh cũng chẳng diệt Chẳng dừng ở trung gian Mê đó là vô trí Chỉ Phật thấy chơn thiệt” Trụ Không Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng nhân chẳng chúng sanh Chẳng dụng chẳng của đời Theo thuyết nên có dụng Phật hay thấy chơn thiệt “ Trụ Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tất cả pháp được dùng Nó đều không có tướng Các pháp tánh tướng ly Ðạo Sư thấy như vậy“ Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: “Do pháp không vô tướng Thế nên chẳng khởi nguyện Giả đặt có nguyện cầu Chỉ Phật biết như thiệt” Tam Muội Lưu Chú Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðã được môn giải thoát Không có người giải thoát Phiền não gốc cũng không Phật thấy tánh chơn thiệt” Vô Hủy Thiên Tử nói kệ tán thán: “Lìa bỏ tất cả ác Họp những khối công đức Nên Phật không bị chê Cũng không có sự chê” Ðiện Vân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Dường như mây sấm chớp Mưa xuống khắp mặt đất Phật tuôn mưa chánh pháp Sung túc các quần sanh" Bất Ðường Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Lời của Phật vô thượng Hay chuyển chánh pháp luân Sáng thấu lý pháp sâu Ðầy đủ Nhất thiết trí" Cụ Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Không sanh cũng không diệt Các pháp tự tánh không Vì Như Lai khéo biết Nên dạy lại mọi người" Sư Tử Hống Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai sư tử hống Lúc di n nói pháp không Ngoại đạo đều kinh sợ Như thú sợ sư tử" Nghiệp Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán: "Hiện tiền không phóng dật Phật tu thành Bồ đề Ðạo Sư nơi chánh pháp Không dật đến bờ kia" Trụ Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán: "An trụ chẳng phóng dật Tăng ích Phật chánh pháp Thập lực cũng công hạnh Phật pháp bất tư nghị" Vô Phóng Dật Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: "Hội nơi không phóng dật Trợ đạo được sanh thiên Dùng đây cứu quần sanh Phật cũng tự giải thoát" Thành Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán: "Không dật được thành tựu Các cõi nương giải thoát Thanh văn và Bồ tát Ðều từ đây mà học" Bất Dật Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Bao nhiêu các Phật tử Thường hành chẳng phóng dật Hay được Nhất thiết trí Vì khéo quán thế gian" Vô Dật Hộ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Lúc Phật tu Bồ đề Thủ hộ chẳng phóng dật Ðến được thắng Bồ đề Vì đại bi trang nghiêm" Trụ Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nếu trụ chẳng phóng dật Giản trạch pháp nhất tướng Phật tử đại dũng kiện Sẽ được sự nghiệp cha" Lạc Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán: "Dũng kiện ưa chẳng dật Hay phá núi phiền não Ðây đồng dùng Phật trí Mau dứt khối cao mạn" Kiên Trì Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thủ hộ không phóng dật Xưa cầu Nhất thiết trí A tăng kỳ ức kiếp Phật tâm không mỏi mệt" Xa Ma Tha Hiện Tiền Thiên Tử nói kệ tán thán: "Pháp tánh tự tịch diệt Là cảnh giới chư Phật Người trí y đó trụ Hay đến thẳng Bồ đề" Y Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chư Phật y xa ma Y mà chẳng thủ trước Chúng sanh phiền não diệt Như mưa sạch bụi dơ" Trụ Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chư Phật trụ xa ma, Bất động như Thái Sơn Thiên ma chẳng hoại được Tâm tịch nên tôi lạy" Xa Ma Tha Ðiều Phục Thiên Tử nói kệ tán thán: "Xa ma chỗ điều phục Phật tử không chê bai Ức ma chẳng động được Ly dục như La hán" Tu Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại hùng xưa lúc tập Xa ma tha đại định Không ai biết tâm Phật Y đâu được thiền định" Xa Ma Tha Thượng Thủ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật chuyển chánh pháp luân Liền được xa ma tha Pháp khác đều y đó Vì thế được Bồ đề" Lưu Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật nói xa ma tha Ðây là lồng lưới tâm Chúng sanh xa ngục mê Phật dạy hàng phục tâm" Xa Ma Tha Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chư Phật diệu cảnh giới Ðó là xa ma tha Tu đây được vô ngại Thành tựu đại Ðạo Sư" Mãn Túc Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: "Dùng thiền sung mãn tâm Rồi lại tu tập huệ Nên Phật được Bồ đề Lại hay an chúng sanh" Trọng Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chẳng thấy có đạo khác Chỉ ở trong Phật pháp Chứng được đại trí huệ Thành bực Vô Thượng Sĩ" Hân Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật y tỳ xá na Hay thấy tất cả pháp Bồ tát tùy thuần học Thành tựu tự nhiên trí" Sanh Tỳ Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Vì đến trí bờ kia Nên thành đại Y Vương Hiển thị bốn chơn đế Ðều do tỳ xá na" Trụ Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Trụ tì bà xá na Như thiệt biết các pháp Dũng kiện chứng Bồ đề Hay thành đại Ðạo Sư" Tu Tận Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại Sĩ dùng trí huệ Tu tập thắng Bồ đề Chẳng sanh cảnh giới thức Thành tựu đại Ðạo Sư" Lạc Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người trí y chơn thiệt Quan sát pháp như đây Hay được quả vô đẳng Thành Phật hiệu Ðạo Sư" Cần Tập Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Do siêng tu trí huệ Hay lập các khổ hạnh Kia thành khó hàng phục Chẳng bị tà đạo hoại" Tì Bà Xá Ma Thiên Tử nói kệ tán thán: "Bao nhiêu các Phật tử Do quan sát pháp tướng Biết pháp tướng ấy rồi Thành tựu Ðiều Ngự Sư" Tu Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai nơi đêm dài Tu tập thắng trí huệ Hay thành Nhất thiết trí Ðộ thoát vô lượng chúng" Thù Thắng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật tu Nhất thiết trí Thành tựu đại Ðạo Sư Dùng pháp cứu thế gian Vượt khỏi dòng nước xiết" Trụ Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Trụ tì bà xá na Quan sát tất cả pháp Xuất sanh các Phật pháp Ðất sanh cây Ni câu" Trì Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn các Phật tử Nhiếp thọ thắng trí huệ Ðược thượng Bồ đề rồi Hay độ các chúng sanh" Du Hí Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Du hí nói các pháp Ðược Phật vô sở úy Không khiếp cũng không sợ Thắng trí đại mâu ni" Tùy Thuận Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại hùng nơi các pháp Ðều hội tì xá na Quan sát không tự tánh Ðây là Phật Bồ đề" Tì Bà Xá Na Kiên Cố Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chư Phật trí kiên cố Nói pháp không chỗ sợ Xem thấy quần sanh khổ Hay khởi đại bi tâm" Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán: "Do trí đến Bồ đề Có trí hay khéo học Phật được thắng Bồ đề Ðộ thoát các chúng sanh" Tu Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập nói pháp không Người trí ngộ Bồ đề Phá hoại các lao ngục Cũng độ kẻ bị trói" Giải Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Vì Thế Tôn giải không Nên chẳng thấy thân mạng Không duyên không tự tánh Y đây vì đời nói" Không Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Cảnh giới của chư Phật Các pháp tánh tự không Ðại Hùng học trong đó Vì thương cứu chúng sanh" Tín Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai lìa xú uế Bố úy khỏi đã lâu Chẳng trước ở các pháp Như gió không tựa đâu" Lạc Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người tu tập pháp không Hay ưa cảnh giới Phật Tức là cúng dường Phật Cũng thành vô thượng cúng" Không Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán: "Do tu tập pháp không Ðạo Sư hay kiến lập Thông đạt pháp không rời Thành tựu Thế Gian Giải" Hướng Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật biết không một pháp Chẳng là Niết bàn ấy Các pháp đến Niết bàn Ðây là Phật Bồ đề" Không thành Tựu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðã được không tịch định Phật tử được thành tựu Chúng ấy cúng dường Phật Là người tu pháp không" Thú Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Bao nhiêu người quy không Có trí chẳng ngu si Vô trược đoạn phiền não Ly cấu được Bồ đề" Mãn Túc Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật pháp được mãn túc Thành tựu khó hàng phục Bao nhiêu người tu không Hay lợi ích thế gian" Trụ Không Thiên Tử nói kệ tán thán: "An trụ trong Phật pháp Người hay tu không trí Vô lượng các ma chúng Chẳng động được chúng ấy" Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Mừng ưa nơi vô tướng Chẳng trước trong hữu tướng Giản trạch các pháp rồi Phật hay siêu thế gian" Vô Tướng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Lúc tập hành vô tướng Thanh tịnh tịch diệt hạnh Ly tướng chúng sanh thảy Ma chẳng biết chỗ họ" Vô Tướng Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Vô tướng Phật cảnh giới Như Lai tu trong ấy Vô tướng khó chứng hiểu Tôi lạy đấng định hành" Khát Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tất cả đại chúng đây Khát Ba pháp vô tướng Mong cầu Phật Bồ đề Cúng dường Thiên Nhân Sư" Tu Vô Tuớng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai nơi vô tướng Ngày đêm thường tu hành Trời Người và quỉ thần Chẳng biết chư Phật đến" Vô Tướng Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại Hùng trụ vô tướng Tư lương tất cả pháp Ðạo Sư chỗ tu học Vì thế tôi kính lạy" Vô Tướng Du Hí Thiên tử nói kệ tán thán: "Ðại từ hiện du hí Thượng y pháp vô tướng Vì thành thục chúng sanh An trụ trong Phật trí" Vô Tướng Thành Tựu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người khéo tu ly tướng Hay được Phật Bồ đề Cũng hay cúng dường Phật Như con kính mến cha" Cửu Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người mến Phật chánh pháp Tức là tháp chúng sanh Bao nhiêu người ly tướng Ðược ở chỗ của Thầy" Vô Tướng Ðạo Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chúng sanh những chỗ về Y đạo được tế độ Vô trước tịch diệt hạnh Như Lai tối vô thượng" Tín Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người tin hiểu vô tướng Tịch diệt lìa các oán Tôi lạy tất cả Phật Ðấng tự độ độ người" Thú Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn có những nguyện Cầu tìm bất khả đắc Chúng ấy lìa sở tác Là Phật xuất thế gian" Tu Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nơi có chẳng khởi nguyện Tu hành tâm tịch diệt Dứt trừ dây khát ái Là Phật lìa thế gian" Vô Nguyện Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người được đại tinh tấn Nơi có lìa khát ái Những Như Lai tử ấy Ðều lạy cha của mình" Tùng Vô Nguyện Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chúng ấy chẳng khởi nguyện Nơi có mà phá có Dứt rời được dây ái Phật tử lìa chê bai" Vô Nguyện Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: "Vô nguyện được giải thoát Chẳng cầu lìa trói buộc Buông bỏ chẳng khởi nguyện Phật tử giữ oai đức" Xuất Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Xuất ly đồng hoang ưu Nhổ đứt gốc ái nhiễm Chúng ấy lạy Như Lai Ðồng trừ được đói khát" Tất Ðịnh Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người khéo biết hữu khổ Biết thế lạc hư vọng Phật là cha chúng ấy Họ là con Ðại Sư" Hướng Vô nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người nơi hữu thấy khổ Người ấy được điều phục Tôi lạy khéo điều phục Phá hữu Ðiều Ngũ Sư" Siêu Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán: "Vượt khỏi đồng hoang hữu Ðược ở chỗ an ổn Khắp lạy đại Ðạo Sư Ðã phục phiền não oán" Bị Vô Nguyện Khải Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chiến thắng phá oán địch Kẻ tối cường khó phục Hàng các ma chúng rồi Dũng kiện chẳng cầu hữu" Vô Nguyện Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại lực nơi giải thoát Dứt được các dây ma Các hàng Phật tử Này Xem ma như cỏ nhỏ" Quán Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Các hữu quán thân Này Họ hay mến Phật pháp Không thân không tác giả Chúng ấy tùy thuận pháp" Niệm Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Suy niệm nơi thân này Dơ nhớp không thanh tịnh Ðã biết thân như thiệt Kính lạy đại Ðạo Sư" Yểm Hoạn Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Buộc niệm nội nơi thân Xem thấy tướng bất tịnh Họ lìa được thân khổ Ðiều phục nên kính lễ" Xả Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Bỏ thân máu mủ Này Như rắn thoát da cũ Kính lạy nơi phi thân Là thân đại Như Lai" Yểm Ố Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chán ghét thân máu mủ Chẳng sạch rất hôi dơ Bỏ thân bất tịnh Này Quy kính Thiên Nhân Sư" Hoạn Thân Bì Lao Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thân hư rã đáng sợ Phật tử cầu thanh tịnh Chúng ấy đều lạy Phậ Ðược tu thân chánh pháp" Bố Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Xem biết tứ đại Này Dường như rắn độc ác Chúng ấy vượt khỏi thân Kính lạy đại Ðạo Sư" Kiến Thân Quá Thiên Tử nói kệ tán thán: "Hiện tiền thấy thân lỗi Là đượcc mắt trí tuệ Chiếu rõ ba kiếp Này Người trí y Phật huệ" Bất Lạc Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: "Những ai chẳng ưa thân Chẳng dựa ở pháp tướng Không mắc nơi kiết sử Chúng ấy lạy Ðiều Ngự" Ư Hữu Khởi Oán Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nơi hữu tướng oán thù Tu quán phá các hữu Phật tử học như vậy Sanh trí ngộ Bồ đề" Hoại Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nơi hữu thấy lỗi rồi Biết được diệt vô úy Phật tử siêng cầu đạo Ðược hưởng di sản cha" Khí Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu học bỏ các hữu Thích ở đại Niết bàn Tâm định lìa kiết sử Tôi lạy đại Ðạo Sư" Ðoạn Hầu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Dứt trừ gốc rễ hữu Chiếu suốt cõi Ðại Thiên Các con của Thế Tôn Sở học đều thông lợi" Ðộ Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðã qua khỏi biển hữu Cứu tế kẻ cô độc Ở trong ba cõi Này Chúng ấy chẳng tại số" Phá Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật tử người hành đạo Phá được hết tam hữu Họ đã cúng dường Phật Vì giáo hóa chúng sanh" Ư Hữu Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: "Giải thoát được dòng hữu Cứu cánh trụ hậu tế Ðại Hùng xuất thế gian Kính lạy đấng đoạn hữu" Diệt Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Diệt trừ gốc rễ hữu Khỏi hữu đến bờ kia Ðã đoạn nơi hậu thế Thế gian không bằng Phật" Trụ Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai trụ hậu tế Tịch diệt đến bỉ ngạn Nhất thiết trí độ hầu Giác ngộ người chưa ngộ" Ư Hữu Trụ Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật trụ nơi hậu tế Nói rõ nhân ba hữu Chẳng thấy có kiết sở Sau được chẳng sanh hữu" Ðắc Diệt Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: "Biết hữu không tịch rồi Mở được nhân ba hữu Tinh tấn chẳng khiếp nhược Tôi lạy đấng bình đẳng" Ðộ Hữu Ðáo Bỉ Ngạn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Khỏi hữu đến bờ kia Nhổ trừ nguồn gốc hữu Cứu độ các quần sanh Ðạo Sư thương tất cả" Ư Thọ Vô Não Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nơi thọ không cống cao Không tư cũng không lự Thiền sự đều hiểu biết Xem thọ như bóng nước" Giải Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai biết các thọ Bổn Lai không tự tánh Chỉ phàm phu chấp trước Như mộng thọ dục lạc" Quán Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Có trí quán các thọ Hay được nói thiện đạo Chẳng sanh thọ vị lai Như vậy thấy Ðạo Sư" Ly Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Năng thọ và sở thọ Phật thấy không tự tánh Liền nói cho chúng sanh Câu thậm thâm khó biết" Quyết Ðịnh Tri Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Các thọ chỉ thế đế Trong nhất nghĩa không có Như Lai nói chơn thiệt Trừ dứt nghi thế gian" Thiện Giải Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn khéo biết thọ Dường mây trong hư không Ai mê người vô trí Riêng có Phật thiệt hiểu" Thông Ðạt Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai đạt các thọ Hiểu thọ đến bờ kia Biết thọ không ngã sở Thuyết pháp là tối thượng" Ðộ Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn lâu đã khỏi Biển ba thọ khó qua Bỏ rời bùn lầy xấu Phật trí hiện vô thượng" Ðoạn Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðạo Sư nơi các thọ Biết rõ xuất thế gian Lìa khỏi bùn ô nhiễm Chẳng trước chấp các hữu" Tư Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai niệm các thọ Do thọ mà đời khổ Chúng sanh phiền não trói Phật trí chơn thiệt tánh" Giải Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật tâm phục phiền não Cũng hàng các ma oán Y chơn không bị phá Nên Phật hiệu Mâu Ni" Thức Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật biết rõ tâm tưởng Như nhà ảo thuật giỏi Thuật ra các thứ hình Nên Phật hiện Ứng Cúng" Tâm Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại Hùng đã tu hành Dứt được tâm sở duyên Ức kiếp a tăng kỳ Tâm tánh bất khả đắc" Nhiếp Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tháo động khó điều phục Không thể mà ở hang Phật đoạn tâm tốc tật Nên được thọ cúng dường" Giảng Trạch Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật đã giảng trạch tâm Chúng sanh bị tâm trói Phật biết được chơn thiệt Như ảo sư dạy con" Tu Tâm Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Sở hành tâm cảnh giới Ðạo Sư quyết định thấy Như mộng thọ ngũ dục Làm mê kẻ ngu si" Tâm Tự Tại Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðiều phục tác nghiệp rồi Tâm không phân biệt sự Như Lai thấy tâm tướng" Tâm Dũng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nói rằng người tâm dũng Hay phá chúng ma quân Người dùng tâm thấy tâm Quán tâm chẳng mỏi mệt" Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai quán chúng sanh Người kiến lập nơi pháp Dùng tâm biết được tâm Họ là chơn Phật tử" Ðịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Những người phục được tâm Họ hay hành tịch diệt Người ấy lìa trói buộc Chẳng bị ma làm não" Nhu Nhuyến Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tâm dũng kiện nhu nhuyến Ðiều phục các chúng sanh Những người ưa Phật pháp Chẳng chấp trước dục lạc" Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thiện tâm thích thanh tịnh Suy gẫm mà tác nghiệp Nghe Phật Chánh pháp rồi Không còn nghi nghĩa sâu" Trụ Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người tâm xu hướng pháp Rất thích chẳng lui mất Họ là chơn Phật tử Ðã đến chỉ điều phục" Tư Duy Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tư duy nơi pháp giới Cảnh giới nơi cảnh một Nhất pháp giới thanh tịnh Là chỗ học của Phật" Pháp Giới Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán: "Pháp giới được kiến lập Là tâm đại từ bi Trụ được trong nhất tướng Họ là chơn Phật tử" Pháp Giới Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn nói pháp giới Ðó là các Phật độ Ðại sĩ chỗ sở hành Trí ấy bất tư nghì" Pháp Giới Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: "Pháp giới chỗ xuất sanh Trí ấy khó nghĩ bàn Chẳng nghi Phật pháp sâu Cũng biết các căn tánh" Nhập Pháp Giải Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người nhập thâm pháp giải Hiểu pháp không gì bằng Trí lực bất tư nghì Cũng được các điều nguyện" Pháp Giới Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðã được pháp vô úy Là trụ chỗ an ổn Có được sức biện tài Không ai sánh bằng được" Thiện Giải Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai hiểu pháp giới Cũng đạt nhất thiết trí Thị hiện tướng pháp giới Như am la trong tay" Trụ Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn trụ pháp giới Thấy pháp chơn thiệt tánh Chẳng y cũng chẳng ly Chẳng thủ cũng chẳng xả" Pháp Giới Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Như Lai hành pháp giới Tịch tĩnh như hư không Cảnh giới Ðại Mâu Ni Kính lạy từ bi phụ" Quy Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Theo nhiều thứ pháp môn Thế Tôn nói pháp giải Trong các pháp môn ấy Không tâm cũng không sắc" Pháp Giải Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn nói tinh tấn Biết được nơi pháp giải Nhân vì tu tinh tấn Giác trí đến bờ kia" Pháp Giới Sung Mãn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ðại từ dùng chánh pháp No đầy các thế gian Người biết được pháp giới Thì được trụ Bồ đề" Triệt Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán ; "Thế Tôn suốt thâm pháp Nên hay quán thế gian Biết rõ pháp giới rồi Tôi lạy Thiên Nhân Sư" Trụ Trí Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Xứ ấy trên tất cả Trí Như Lai chứng được Pháp giới và mười phương Chỗ đi của Ðạo Sư" Trụ Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Pháp giới là trụ xứ Ðường được đi của trí Trọn tất cả các pháp Ðều hiểu là một tướng" Tri Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế Tôn biết pháp giới Ðã làm một tướng tu Chúng sanh các dục tánh Phật cũng đều biết rõ" Xuất Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Lấy được Nhất thiết trí Gọi là hàng Phật tử Ở chỗ pháp giới Này Chỉ trí biết được thôi" Học Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người tu tập pháp giới An trụ trong Bồ đề Thấu được chỗ tự nhiên Mau thành Phật Như Lai" Phi Xứ Học Thiên Tử nói kệ tán thán: "Người được thấy phi xứ Hay thich Như Lai giáo Ngàn ức chúng ma quân Chẳng mê hoặc được họ" Tri Phi Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thấy biết được phi xứ Người trí được mừng vui Chúng tôi tu chánh giác Ức ma chẳng động được" Thâm Mật Xử thiên Tử nói kệ tán thán: "Khéo học chỗ thâm trí An trụ trong chánh pháp Cưỡi được ma Ba Tuần Như xe đóng ngựa thuần" Thiện Phi Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phi xứ thiện pháp giới Tập học nơi nhất tướng Nếu ma mà não được Phật nói không hề có" Trụ Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thị xứ và phi xứ Chỉ bày người ngu si Như Lai tự giác rồi Lời nói dạy chúng sanh" Thiện Thủ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nhân ấy lấy được sự Và tác nghiệp thuở xưa Chỗ nhân ấy tu nghiệp Thế Tôn đều biết rõ" Xảo Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tham dục và khuể si Phật cũng biết nghiệp nhân Là nhân là nghiệp ấy Như Lai đều biết rõ" Tri Ðương Lai Thiên Tử nói kệ tán thán: "Biết đời đương lai ấy Chúng sanh sở tác nghiệp Nhân ấy sở tác nghiệp Xứ ấy Phật biết rõ" Tư Hiện Tại Thiên Tử nói kệ tán thán: "Khắp đến mười phương cõi Chúng sanh nghiệp và nhân Xứ và nhân nghiệp sự Ðạo Sư đều biết rõ" Lực Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Hoặc nghiệp hoặc là nhân Xứ sở và xuất sanh Như Lai đều biết rõ Nên hiểu Thiên Nhân Sư" Lạc Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nhân nghiệp và xứ sở Trong quả báo ba cõi Kia có sự sở tác Như Lai đều biết rõ" Lực Chư Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nhân nghiệp sở tác sự Báo nhân và nhân duyên Xứ sở tánh tự ly Là chỗ Phật không có" Lực Cát Tường Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nhân nhiệp sở tác sự Xứ nhân duyên thế đế Quả báo được thọ dụng Phật biết nó đều không" Lục Duyệt thiên Tử nói kệ tán thán: "Nhân nghiệp sở tác sự Chỗ nhân duyên tục đế Phật tự biết rõ rồi Nói nó không tự tánh" Lực Du Hí Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nhân duyên sở tác sự Xứ nhân duyên thế đế Chẳng do tự tha sanh Phật biết từ duyên khởi" Lực Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nếu những nhân duyên nghiệp Và quả báo chỉ được Thể tánh nó đều không Phật nói như sư tử" Tùy Thuận Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nếu dùng nghiệp nhân duyên Tăng trưởng các quả báo Ðấng Lượng Túc biết rõ Vì thế Phật vô thượng" Thuận Hành Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập pháp giới ấy Tạo tác những nghiệp ấy Sẽ lại được quả ấy Phật nhãn thấy biết rõ" Lực Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập pháp giới ấy Thành tựu tánh như vậy Phật biết các chúng sanh Như nhìn năm ngón tay" Lực Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập pháp giới ấy Lại gặp bạn như vậy Thân cận nhau như vậy Thắng trượng phu biết rõ" Lực Gia Thiên Tử nói kệ tán thán: "Gia trì nói pháp giới Ðạo Sư biết rõ cả Thân cận nơi các bạn Thế Tôn đều soi thấy" Quyết Ðịnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Giới ấy yếu kỳ ấy Bạn ấy tương ưng ấy Phật đều quyết định biết Nên trừ được nghi hoặc" Chánh Ðịnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Giới ấy tương tục ấy Tùy chỉ ở thế gian Chỉ làm và chỉ được Thắng Nhân đều biết rõ" Học Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Ở trong các giới ấy Ðạo Sư trí biết rõ Trí ấy thể tánh không Thắng trí mới nói vậy" Thừa Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập pháp giới ấy Tùy thời cơ ở đời Phật đều biết như thiệt Nên hiệu Vô Tỷ Thân" Tùy Thuận Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập pháp giới ấy Tùy chỗ được công đức Y nhân và quả báo Phật đều biết không dư" Cộng Giới Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tùy chỗ tu pháp giới Tùy đạo kia được hướng Phật đều biết không thừa Nên được người trí kính" Trí Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tùy pháp giới tu tập Tùy đạo ấy được hướng Phật biết chúng sanh hành Nên hiệu đấng học trí" Hành Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chánh định và tà định Cùng bất định chúng sanh Ở trong ba khối này Phật quyết định biết được" Thừa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nếu chánh định chúng sanh Người kham đến Niết bàn Phật là mặt nhật sáng Soi đời trí vô ngại" Giải Thoát Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nếu có những chúng sanh Trụ nơi khối bất định Ðọa trong các ác đạo Phật cũng dạy Niết bàn" Lực Kỳ Hội Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật ấy chỉ giả danh Lực trí cũng như vậy Và tứ vô úy thảy Chỉ có nghe ngôn thuyết" Kiến Thiệt Thiên Tử nói kệ tán thán: "Không Phật không Phật pháp Cũng không khối trí khác Hiển thị nghĩa đệ nhất Như Lai biết như thiệt" Lực Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: "Trụ nơi sức Phật pháp Nhân đây được vô úy Tự tại tùy sở dục Ðều là hàng Phật tử" Pháp Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thế đế và chơn đế Hiển thị hai đế Này Ở trong chơn đế ấy Ngôn thuyết bất khả đắc" Trí Tôn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Pháp ngôn thuyết đều khác Pháp tướng cũng sai khác Ngôn thuyết ấy vô tướng Phật biết pháp tướng ấy" Hành Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phi xứ chúng bất định Hoặc hướng đến dị đạo Tà định tất cả xứ Mâu Ni đều biết rõ" Tín Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: "Tu tập nơi giới ấy Như khởi tâm tin ưa Thấy tham cho là sạch Mâu Ni đều biết rõ" Bất Tịnh Thừa Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chẳng thiệt vọng phân biệt Tăng trưởng tham dục giới Tin thì đi đạo ấy Mâu Ni biết như thiệt" Từ Thừa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chẳng thiệt vọng phân biệt Tăng trưởng sân khuể giới Tin thì đi đường ấy Mâu Ni biết như thiệt" Thừa Nhân Duyên Ðạo Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chẳng thiệt vọng phân biệt Tăng trưởng ngu si giới Tin thì đi đường ấy Mâu Ni biết như thiệt" Thùa Xả Thiên Tử nói kệ tán thán: "Có người sợ chẳng sống Tăng trưởng lòng tật đố Tin thì tập làm theo Mâu Ni biết như thiệt" Tập Cận Thiên tri Thức Thiên Tử nói kệ tán thán: "Gần bạn tốt bạn xấu Trở lại tăng tịnh tín Hoặc lại tăng ác nghiệp Mâu Ni biết như thiệt" Thức Kiên cố Thiên Tử nói kệ tán thán: "Lưu chuyển trong thế gian Tùy giải được tu tập Tùy thuận tin theo đó Phật biết rõ không dư" Hành Kiên cố Thiên Tử nói kệ tán thán: “Lưu chuyển nơi sanh tử Tu tập hạnh như vậy Tùy thuận tin nơi ấy Phật biết rõ không dư" Tín Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nếu có những chúng sanh Tùy giới được tu tập Phật đều biết rõ cả Nên hiểu Trí Vô Ngại" Căn Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: "Phật biết rõ các căn Tùy theo phương tiện khởi Phan duyên và cảnh giới Tùy chỗ nhập như sanh" Thừa Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Thân bị khổ bức bách Do tham trước khát ái Ðoạn diệt những khát ái Chỉ Phật trí hơn cả" Căn Cảnh Giải Thiên Tử nói kệ tán thán: "Dạy chúng sanh hạ căn Xa lìa nơi sắc ái Dạy lợi căn quán sát Là lời dạy của Phật" Căn Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán: "Hạ căn trụ không nhàn Diệt được các tham dục Chánh quán nơi khát ái Lưỡng Túc Tôn biết rõ" Căn Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán: "Nơi ái dục khởi trước Phật quán vô sở đắc Tri vô tri đều diệt Nên gọi là thắng căn" Bất Ly Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Xa lìa chẳng giận hờn Là lìa đối trị sân Là hạ căn sở hành Phật biết chúng sanh dục" Tín Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Hành từ trừ sân khuể Hay khởi trí chúng sanh Họ diệt được sân khuể Thế Tôn đều biết rõ" Cầu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: "Chẳng sân không lỗi ác Hành từ tánh tịch diệt Tịnh uế bất khả đắc Nên hiệu Thiên Nhân Sư" Căn Thuận Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hành nơi tà phân biệt Vì người nói tà hạnh Mê nặng không phương tiện Phật thấy nên giải thoát” Trí Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tham sân si phiền não Thủ trước nơi sự việc Trái nó thì được trí Vô Thượng Sĩ biết rõ” Ly Trí Ái Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tham sân và ngu si Cùng cảnh sự sáng tối Tánh nó bất khả đắc Ðấng Lưỡng Túc biết rõ” Trì Oai Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chúng sanh chỗ được trí Tùy được trí nhiều ít Theo đó thành trí khí Ðức Như Lai biết rõ” Cầu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Dùng trí biết nơi trí Xa lìa các phiền não Thiên Nhân Sư biết rõ Nên tôi cúi đầu lạy” Nhất Hướng Lạc Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quốc độ và thời tiết Quan sát pháp phương tiện Phiền não uế và tịnh Phật biết nó đều không” Trí Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chúng sanh căn dục tín Thượng trung hạ sai biệt Phược giải và trí huệ Ðều thấy vô giác tri” Căn Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Các căn thượng trung hạ Phiền não trí và thọ Ðiều phục chẳng điều phục Phật nói đều vô tướng” Tu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thiền giải thoát phiền não Chánh thọ tam ma đề Khởi thanh tịnh chúng sanh Như Lai đều biết rõ” Lực Tốc Tật Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì được thiền tịch diệt Nơi các pháp tự tánh Thảy đều biết rõ được Nên hiệu Nhất Thiết trí” Lục Khải Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu pháp và tự tánh Nói được nơi pháp Này Ðược như thiệt chánh thọ Thì chẳng trước ba cõi” Lạc Thực Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phiền não tà phân biệt Phát sanh ra bốn thứ Biết được nghiệp chỗ sanh Nên hiệu đấng Vô Tỉ” Tri Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết được pháp thanh tịnh Ðối trị các phiền não Hay tuyên nói nơi nghiệp Nên hiệu Phật Vô Tỉ” Lực Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi thiền giải thoát khởi Tam ma đề chánh thọ Phiền não và thanh tịnh Phật đều nói hư giả” Lực Sanh Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thiền giải thoát thanh tịnh Tam muội và chánh thọ Từ bất phóng dật sanh Nơi đây Phật biết rõ” Lực Tăng Trưởng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại hùng ở trong đây Ðược nơi thiền khắp chuyển Biết nhập xả vô ngại Như gió thổi hư không” Tri Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi vô số ức kiếp Ở nơi trong các cõi Chẳng bị lỗi ô nhiễm Nên hiệu Thắng Trượng Phu” Trụ Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi vô số ức Phật Ðã từng tu cúng dường Vì cầu đạo vô thượng Do đó tôi quy y” Kiến Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Từng ở đời quá khứ Nhiều thứ cúng dường Phật Nơi các thứ biện tài Thế Tôn đều được cả” Tiền Tế Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Xưa lưu chuyển thế gian Như pháp học như hành Từng thấy vô lượng Phật Nên sâu hiểu được Pháp” Học Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chỗ chư Phật Pháp Vương Ðại Hùng xưa tu hành Ở bên Phật học rồi Nên lạy đấng Biến Tri” Bổn Phương Tiện Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi vô lượng ức kiếp Vô biên chư Phật hành Tu hành thắng tinh tấn Vì cầu Phật trí vậy” Bổn Phương Tiện Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tất cả pháp quyết định Nhiều ức kiếp quan sát Tất cả pháp không nhập Chỉ nói duyên hòa hiệp” Tư Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi vô lượng ức kiếp Ðạo Sư từng tu hành Biết nơi xứ phi xứ Nên hiện Thế Gian Giải” Giảng Trạch Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Trụ nơi xứ phi xứ Quan sát nơi nghiệp nhân Giới căn thiền giải thoát Phật đều biết rõ hết” Quan Sát Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quá khứ từng quan sát Tăng trưởng sức trí huệ Thập Lực đại hùng mãnh Dùng trí quán thế gian” Tiền Tế Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại Hùng bổn tu hành Biết tất cả chúng sanh Tịnh hành bất tịnh hành Nên trị được chúng sanh” Quan Sát Tiền Tế Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Trước quán nơi chúng sanh Quá khứ chỗ sở hành Tin ưa và cùng giới Rồi sau trị chúng sanh” Tín Lực Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nay tôi tin Như Lai Bất khả tư nghị kiếp Quan sát bổn sở hành Tâm đều vô sở trước” Trí Tín Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi vô số ức kiếp Suy Phật xưa sở hành Không một ai có thể Lường công đức Như Lai” Quán Hậu Tế Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như Lai dùng Phật nhãn Quán chúng sanh mười phương Sơ sanh và già chết Nhiều thứ nghiệp tương ưng” Học Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu nhân và với nghiệp Tùy xu hướng Phật đạo Mâu Ni đều biết hết Nên hiệu Nhất thiết trí” Thức Sanh Tử Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu chúng sanh dùng giới Huân tập tạo các nghiệp Chúng sanh và nghiệp tập Phật biết rõ vô giác” Trí Sanh Tử Thiên Tử nói kệ tán thán: “Gần bằng hữu như vậy Gây tạo nghiệp như vậy Xu hướng đạo như vậy Mâu Ni đều biết rõ” Sở Tu Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết được nơi sở tu Tùy theo chỗ tác nghiệp Tác nghiệp như vậy rồi Như Lai đều biết rõ” Sự Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nương nơi sự như vậy Tạo các nghiệp như vậy Phật đều biết được hết Ðều là cảnh giới Phật” Tri Sự Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tùy nơi sự chấp trước Có được chỗ tạo tác Vì Phật biết rõ các căn Nên biết rõ nghiệp ấy” Trí Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc trí hoặc cảnh sự Phật biết nó vọng tưởng Tùy nó như chấp trước Phật cũng biết không dư” Tu Tác Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tùy chấp trước tạo nghiệp Do nơi phiền não vậy Phật đều biết rõ được nó Nên được thế gian quy” Thú Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tùy thú như tạo nghiệp Tùy nghiệp được quả ấy Tùy sở duyên tác nghiệp Phật nhãn đều biết rõ” Phan Duyên Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết được nơi sở duyên Tùy duyên nghiệp thành thục Nơi các thú thọ báo Phật đều biết không mất” Tập Khí Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết ác nghiệp tập khí Thiện nghiệp cũng như vậy Biết quá khứ sở hành Chúng sanh đến trong thú” Nghiệp Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết được ba thứ nghiệp Hiện vị và quá khứ Chúng sanh ở trong thú Trong ấy phàm phu mê” Báo Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Làm ít được báo nhiều Làm nhiều được báo ít Và biết nhiều í thảy Ngoại đạo mê trong đó” Học Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Biết nơi nghiệp thiện báo Cũng biết nghiệp sanh báo Và biết nghiệp hậu báo Phật nhãn đều biết rõ” Tri Hiện Pháp Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc hiện đời tác nghiệp Hiện tại được thọ báo Phật đều biết rõ ràng Phàm phu chẳng hiểu được” Tri Sanh Báo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc tác nghiệp hiện tại Ðời kế được thọ báo Phật đều biết rõ ràng Phàm phu chẳng hiểu được” Tri Hậu Báo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc nghiệp nhiều ức kiếp Rồi sau được thọ báo Hoặc còn quá xa hơn Như Lai đều biết rõ” Tri Nghiệp Bất Thục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc nghiệp được thọ tạo tác Nghiệp duyên ấy chưa thục Chưa được thọ quả báo Như Lai đều biết rõ” Quán Nghiệp Vị Thục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như Lai khéo quán nghiệp Hoặc lúc nghiệp tương ưng Sanh nơi các chúng sanh Thảy đều hay khéo nói” Thiện Tri Nghiệp Thục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nghiệp ấy hoặc thành thục Hay thọ báo đương lai Phật đều biết như thiệt Cũng biết trí ấy không” Nghiệp Thục Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nhất thiết trí rõ thấu Nghiệp khinh và nghiệp trọng Biết được chúng sanh dục Nên được làm Thế Tôn” Tri Nghiệp Khinh Trọng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chúng sanh đến ác đạo Theo nghiệp thấy như vậy Nghiệp ấy hoặc khinh trọng Người trí đều biết rõ” Tri Chúng Sanh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thấy chúng sanh sở hành Và những nghiệp khinh trọng Hùng mãnh tùy thuận biết Ngoại đạo chẳng biết được” Quán Chúng Sanh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quán nơi chúng sanh hành Tuyên nói nơi nghiệp báo Như cả nước sông Hằng Ném muối chừng một lượng” Học Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc thọ nơi tu nghiệp Phật nói nghiệp cứu cánh Cũng báo học vô học Thắng Tiên đã tuyên nói” Lạc Phật Trí Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nhãn chỗ thấy biết Ngu trí trong ba cõi Tùy nghiệp thọ được báo Tôi đảnh lễ Phật trí” Thuyết Nghiệp Tận Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chỗ sanh tử chúng sanh Thế Tôn đại Ðạo Sư Ðều biết rõ không dư Nên lạy trí vô úy” Vô Sở Ðắc Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc nghiệp và sanh tử Chỗ chúng sanh riêng đến Báo ấy như cảnh mộng Lưỡng Túc Tôn đều biết” Cầu Phiền Não Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tham dục sân ngu si Lưỡng Túc Tôn biết hết Dường người mơ khát nước Mơ uống nước mát trong” Ly Phân Biệt Thiên Tử nói kệ tán thán: “Từ nơi phân biệt sanh Tham dục sân ngu si Như chơi đùa trong mộng Quy mạng đấng Thắng Thuyết” Diệt Phân Biệt Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu diệt được phân biệt Thì gọi hết phiền não Như mộng thấy mây tan Thế Tôn hiển hiện đấy” Quan Sát Lậu Tận Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như mộng thấy trời mưa Khởi lậu cũng như vậy Ðại Hùng hay hiển thị Nhân duyên phát khởi lậu” Quan Sát Mộng Tận Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như mộng thấy trời mưa Khởi lậu cũng như vậy Ðại Hùng hay hiển thị Phàm phu mê sanh lậu” Như Tự Tánh Tri Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như mẹ mộng sanh con Sanh rồi con lại chết Sanh mừng cũng sanh buồn Phật thấy đời cũng vậy” Tư Lương Mộng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như mộng thấy chặt đầu Hết lậu cũng như vậy Tự hiểu cũng dạy người Tôi lạy đại Ðạo Sư” Tu Tập Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thấy pháp hay hiểu rõ Như mộng gặp sự mến Xa lìa nó chẳng thiệt Như vậy vui thế gian” Trí Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nghe nơi pháp Như Lai Lấy pháp không tự vui Như trong mộng nói mộng Như vậy hiểu thế gian” Hoan Hỉ Ý Thiên Tử nói kệ tán thán: “Người thiền định hay khiến Trời Người thế gian mừng Quan sát nơi các thú Dường như tượng trong gương” Quyết Ðịnh Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nghe nơi pháp Như Lai Như tiếng đờn không hầu Ðộ Trời Người nghi hối Nên tôi lạy Pháp Vương” Ảo Hỉ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như người làm ảo thuật Mê hoặc các kẻ ngu Người trí trọn chẳng mê Vì biết ảo chẳng thiệt” Trừ Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quán tất cả thế gian Như trong mộng làm ảo Trong ấy tôi không nghi Do nghe Phật pháp vậy” Học Ảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như ảo sư làm ảo Từ nơi ảo chẳng mê Vì biết ảo hư giả Phật thấy đời cũng vậy” Quán Vọng Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vọng tưởng sanh thế gian Ðại Ðạo Sư đều biết Như tinh tấn niệm Phật Trong mộng liền thấy Phật” Diệt vọng Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng phải sự sanh dục Ðều do vọng tưởng khởi Chẳng thiệt vọng khởi dục Thế Tôn biết như thiệt” Thức Giải Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như tiếng vang hang sâu Vang ấy không có thiệt Vì thế chẳng chấp trước Quán thế gian như vậy” Thuyết Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tiếng ấy không có thiệt Mà trong ấy lắng nghe Phật tuyên nói pháp ấy Cứu vớt các phàm ngu” Như Thuyết Hành Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ở trong pháp biệt nghĩa Chúng sanh vọng lấy khác Người ta hành biết pháp Trong ấy trừ nghi hoặc” Thuận Nghĩa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu nghĩa và pháp thiệt Không có ai biết được Không nói cũng không chứng Mâu Ni nói thuyết ấy” Pháp Giả Danh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu nghĩa và pháp thiệt Không có ai biết đưọc Không nói cũng không chứng Mâu Ni nói thuyết ấy” Pháp Giả Danh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phiền não cấu lậu tập Ðều tưởng vọng phân biệt Uế ô và thanh tịnh Chỉ giả danh ngôn thuyết” Phân Biệt Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tất cả chỉ danh tự Gọi phiền não lậu thảy Uế ô và thanh tịnh Là lời dạy của Phật” Vô Y Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi ba cõi chẳng trước Tâm ấy như hư không Lìa ác thiệt phước điền Tôi lạy tâm tịch diệt” Bất Hạ Liệt Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng sắc chẳng không sắc Chẳng dục chẳng Niết Bàn Phật tâm vô sở y Nó như là hư không” Vô Dục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Lìa nơi dục giới ái Sắc vô sắc cũng lìa Giải thoát nơi tham si Ðảnh Lễ đấng Ái Tận” Viễn Ly Ái Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ở trong có không có Phật dứt hẳn xa lìa Chẳng trước chấp ba cõi Ðảnh lễ đấng Tự Tại” Chướng Ái Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chướng che nơi ba cõi Hành nơi trượng phu hành Hay giải thoát chúng sanh Quy mạng đấng Cứu Tế” Giải Thoát Khát Ái Thiên Tử nói kệ tán thán: “Lìa xa các kiết sử Sau đó hết sanh diệt Thân tâm đều thanh tịnh Ðảnh lễ đấng Bình Ðẳng” Tri Tự Tánh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại Hùng hiểu tự tánh Biết trong pháp không sự Không phược cũng không giải Ðảnh lễ đấng Kiến Thiệt” Xuất Ứ Nê Thiên Tử nói kệ tán thán: “Xa lìa bùn ái dục Cũng rời lìa các cõi Không thủ cũng không xả Ðảnh lễ đấng Vô Sanh” Thổ Khí Tư Duyên Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vứt cấu và tư duyên Bỏ tội cũng xa ái Lìa bỏ các chướng ngại Quy mạng Ðại Ðạo Sư” Khí Dục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vứt bỏ lợi bất lợi Vô trước hành quyết định Ra khỏi nơi lưới ma Ðảnh lễ đấng Vô Trước” Lạc Lợi Ích Thiên Tử nói kệ tán thán: “Hoặc tự đạo tha đạo Người xa lìa não nhiệt Ðại Hùng thấy đạo ấy Ðảnh lễ Vô Ngại Kiến” Ðắc Danh Xưng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tương ưng cùng Phật trí Người như thuyết như quán Họ trừ được phiền não Ðảnh lễ Thế Gian Giải” Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quyết định nơi các nghiệp Không ai đương đối được Sư Tử hống vô úy Biển trí rống cũng vậy” Nhất Thiết Xứ Vô Sở Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: “Khéo độ tất cả xứ Xa lìa các tên độc Vô úy chẳng khiếp nhược Tôi lạy đấng Tối Thắng” Vô Sở Hí Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chẳng phải Trời Càn Thát Ma Vương cùng Phạm Vương Có thể nạn hỏi được Nên Phật như sư tử” Sư tử Du Bộ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nơi pháp vô úy Vì hiểu rõ các pháp Vô ngại nên vô trước Không ai nạn hỏi được” Vô Bố Thiên Tử nói kệ tán thán: “Như sư tử ở rừng Không hề có kinh sợ Dẹp phục các cầm thú Giữa rừng rống lớn lên Thế Tôn rống như vậy Kinh bố các ngoại đạo Trời Rồng Càn Thát Bà Chẳng thấy ai đối địch” Nhất Thiết Xứ Siêu Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tất cả trong ba cõi Tất cả đều không có Ai địch nổi nơi Phật Vì thế tôi quy y” Sư Tử Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại trí thất tất cả Nơi các pháp vô úy Thế gian không ai bằng Tôi lạy đấng Vô Úy” Xứng Thuận Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tự biết là chánh giác Như pháp không nạn được Thế gian đều không có Ai có thể nạn được” Trì Tạng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật làm sư tử hống Mở bày các pháp tạng Ức Phạm Thiên nghe nói Ðều phát tâm Bồ Ðề” Thuận Oai Nghi Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chứng ấy được lợi lớn Người thuận Phật oai nghi Pháp tâm Bồ Ðề rồi Quyết làm Thắng Ðạo Sư” Thuận Lạc Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại chúng sanh thuở ấy Ðược nghe Phật pháp rồi Hay phát tâm Bồ Ðề Quyết thành Diệu Trượng Phu” Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðược nghe Phật dạy rồi Thế gian không gì bằn Ngàn muôn ức chúng sanh Phát thắng Bồ đề tâm” Thanh Tịnh Lưu Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nhân Vương nơi đêm dài Khéo tu tập Phật học Nên thân Phật thanh tịnh Ba mươi hai nghiêm tướng” Vô Lậu Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì Phật được vô lậu Mà làm sư tử hống Ðược núi thượng trí huệ Không ai nạn hỏi được” Thuận Chúng Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Trông ba cõi đều không Trời Người A Tu La Nói Phật lậu chẳng hết Nên Phật đủ thập lực” Xảo Tận Lậu Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tất cả những lậu tận Phật đều hết không thừa Không ai vấn nạn được Nên Phật là cha tôi” Thường Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế gian chẳng thể có Ai nạn được Pháp Vương Rằng còn có phiền não Nên là cha tự tại” Tịch Diệt Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật đã dứt tham sân Ngu si và tập khí Cũng diệt ác nghiệp hành Tôi lạy đấng tịch diệt” Phương Tiện Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu dùng phương tiện quán Dứt hết các phiền não Phật trí đã đầy đủ Nên tôi đảnh lễ Phật” Phương Tiện Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðạo Sư chiếu thế gian Xảo huệ không cùng tận Nên dứt hết phiền não Cũng dứt hết tập khí” Tu Tịch Diệt Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì dứt các phiền não Tập khí đều không thừa Do đó Phật đại trí Bất động vô sở úy” Quán Ðạo Lý Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật dứt hết phiền não Và dứt các tập khí Chiếu sáng như đức Phật Thế gian không còn sánh” Ðoạn Sử Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật dứt các tập khí Không có sự tanh hôi Nên Phật Nhất thiết trí Huệ tối thắng trong trời” Trụ Biên Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nay Phật tối hậu thân Ðã dứt nhân duyên sanh Do vì hết các lậu Nên Phật được vô úy” Vô Lượng Trí Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại Hùng dứt chủng tử Ðốt cháy mầm khổ não Khô rụi nhánh dây ưu Tôi lạy đấng ly não” Xuất Khanh Giản Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn Nhất thiết trí Ðã lìa hố vô minh Phật hành đã được tịnh Nên Phật được vô úy” Ðộ Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðã độ biển sanh tử Ðạo Sư việc làm xong Cũng bỏ nơi bờ kia Tự lợi được vô úy” Nhập Niết Bàn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật đã được tịch diệt Phá hết các phiền não Nhẫn đến chút tập khí Thế Tôn thảy đều không” Pháp Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật dựng tràng chánh pháp Xô gãy tràng kiêu mạn Ðại Hùng đã hiển thị Vô Lượng những pháp hạnh” Pháp Tánh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tánh cùng những trí biết Mâu Ni đạt các pháp Bạn lành của quần sanh Tôi lạy biển Tối Thắng” Pháp Sung Thiên Tử nói kệ tán thán: “Khát ưa nơi Phật pháp Nên đuợc vô sở úy Các Phật tử vô trước Mà làm sư tử hống” Cầu Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì cầu các pháp nên Phật tử được phát tâm Và thấy Phật vô úy Có trí cầu Bồ đề” Kháp Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì khát ưa Phật pháp Nên nhiều ức chúng sanh Nghe Phật vô úy rồi Sâu pháp đại tinh tấn” Pháp Khởi Tinh Tấn nói kệ tán thán: “Thấy Phật nói pháp thắng Kiến lập nơi chánh pháp Vô úy bố thí rồi Phật tử cầu Bồ đề” Trì Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Pháp được Thế Tôn nói Thậm thâm khó thấy được Phật tử được nghe rồi Cầu Vô thượng Bồ đề” Vô Lẫn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thân mạng và của cải Phật tử không lẫn tiếc Nghe Phật sư tử hống Ðều cầu diệu Bồ Ðề” Vô Dị Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nghe Phật nói pháp rồi Tâm tư không có khác Ở chỗ Phật vô úy Cầu pháp giữ luật nghi” Vô Dị Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nghe Pháp Vương hống rồi Chẳng đến các dị lộ Xa rời nơi hai thừa Cầu Vô thượng Bồ đề” Cận Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thấy Phật sư tử hống Phật tử được nghe rồi Quyết được thắng Bồ Ðề Sẽ thành thân Như Lai” Cận Biện Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ở chỗ Phật Thế Tôn Ðược nghe biện tài rồi Trong diệu pháp Như Lai Rất sanh lòng mừng vui” Ðắc Biện Tài Thiên Tử nói kệ tán thán: “Lúc Phật hống vô úy Nói pháp chẳng hủy được Lòng tin ưa quyết định Trọn không ý thối chuyển” Thường Hỉ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thập Lực hống vô úy Bao nhiêu các Phật tử Tất cả thời hoan hỷ Tầm thuận cầu Bồ Ðề” Vô Khiếp Nhược Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thường mừng chẳng khiếp nhược Thế Tôn các Phật tử Ưa cầu thắng Bồ đề Vì được nghe lời Phật” Vô Ngại Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chúng ấy tìm Phật tâm Trọn chẳng có thối chuyển Tâm mừng vui vi diệu Vì nghe Phật khéo nói” Xảo Tri Vô Biên Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Do vì tu chánh pháp Khối pháp lành chẳng giảm Ðạo Sư biết phi xứ Chẳng sanh lòng nhàm đủ” Xảo Thuyết Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Tu hành nếu pháp ác Mà chẳng thối giảm đó Thế Tôn biết phi xứ Nên Phật vô sở úy” Pháp Tánh Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: “Pháp ác thể tánh nó Sẽ ô uế pháp lành Nó chẳng ô nhiễm tâm Phật biết là phi xứ” Xảo Tương Ưng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Pháp ác và pháp lành Hai thứ khác chẳng hiệp Phật nói nơi nghĩa ấy Nên Phật là Thầy tôi” Xảo Tri Thiện Bất Thiện Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại Hùng đều biết hết Các pháp chẳng tạp tụ Vì vọng tưởng phân biệt Trong pháp lành mà thối” Như Thuyết Hành Mãn Túc Thiên Tử nói kệ tán thán: “Người hiện hành phiền não Trọn chẳng sanh pháp lành Vì chẳng sanh pháp lành Nên biết chắc thối giảm” Lạc Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu người ưa giải thoát Mà tu hành pháp ác Phật nói họ có chướng Nên Phật Nhất thiết trí” Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Người lòng ưa giải thoát Cần biết sự phiền não Ðại Hùng nói pháp ấy Nên Phật đáng thọ cúng” Kiến Phiền Não Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ði ở trong phiền não Mà chẳng biết phiền não Họ chẳng biết chánh pháp Thiện Thệ nói như vậy Nếu nói làm việc ác Mà chẳng thối pháp lành Chẳng phải khí giải thoát Lời Lưỡng Túc Tôn nói” Ðiều Phục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Lìa dục lìa ồn náo Cũng lìa sân si thảy Như pháp được Phật nói Phải nên tu như vậy Phiền não với pháp lành Ngu si chẳng biết rõ Phật chẳng phải thầy họ Ðại Tiên nói như vậy” Cần Tu Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nói pháp đối trị Ðể trừ phiền não vậy Y theo trừ hết lậu Không ai vấn nạn được” Hướng Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nói pháp như vậy Vì để dứt phiền não Tu theo dứt hết hoặc Không ai nạn vấn được” Phương Tiện Tương Ưng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật là người thuyết pháp Vì các chúng Thanh Văn Tu hành theo được chúng Không ai nạn được Phật” Thú Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nói pháp như vậy Vì muốn dứt phiền não Tu hành theo diệt hoặc Không ai nạn được Phật” Vô Úy Công Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì để dứt phiền não Phật nói bất tịnh quán Hành theo diệt hết hoặc Không ai nạn được Phật” Thiện Phát Tâm Tất Tu Thiên Tử nói kệ tán thán: “Từ tâm dứt sân khuể Tu từ dứt được hoặc Không ai nạn được Phật Thế Tôn được vô úy” Tịnh Mục Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nói tu trí huệ Thì trừ diệt ngu si Nếu tu huệ chẳng diệt Không ai nạn được Phật” Diệt Giác Quán Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì đối trị giác quán Phật nói pháp tức quán Tu theo dứt giác quán Không ai nạn được Phật” Tôn Trọng Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vì dứt trừ ngô ngã Phật nói không tịch diệt Hành theo diệt ngã chấp Không ai nạn được Phật” Tịnh Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thâm tâm tin thanh tịnh Tất cả phiền não hết Tu theo dứt phiền não Không ai nạn được Phật” Thâm Giải Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðối trị và bạn đảng Cầu tìm nơi phiền não Người vô úy nạn Phật Không bao giờ thấy có” Giải Dụng Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn chỉ danh dụng Thử bỉ tận bất tận Người vô úy vấn nạn Họ cũng chỉ giả danh” Ðiều Phục Thân Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Dùng trí khéo hiểu rồi Thân nghiệp được lưu hành Thế Tôn đều biết khắp Nên hiệu Nhất thiết trí” Trí Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thân nghiệp rất thanh tịnh Ðại Hùng đều không thừa Ðấng thương xót quần sanh Tôi lạy Thế Gian Phụ” Thân Nghiệp Giảng Trạch Thiên Tử nói kệ tán thán: “Khéo giảng trạch thân nghiệp Thương xót các chúng sanh Chiếu thế mà tạo tác Nên hiệu Thắng Trượng Phu” Thiện Kiến Thân Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thân nghiệp được thanh tịnh Ðạo Sư đều xem thấy Thương xót các quần sanh Nên hiệu Nhất thiết trí” Thiện Quán Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: “Khéo quán đưọc thanh tịnh Thân nghiệp được tương ưng Vì thương xót quần sanh Thắng Trượng Phu du hành” Thành Tựu Ngữ Ngôn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðủ công đức cam mỹ Rời lìa lời dệt thô Trí huệ vây quanh nhau Như Lai thường diễn nói” Thời Ngữ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Y thời nghĩa tương ưng Xa lìa sự vô ích Lời Phật đều trung thực Chúng sanh vui thọ hành” Thành Tựu Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thương chúng sanh chẳng não Thành tương ưng chẳng trược Chẳng hư hoại nhân quả Phật vốn nói như vậy” Bất Tương Vi Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nhẫn đến vì thân mạng Chưa từng có vọng ngữ Vì thế Phật công đức Nơi đời không chướng ngại” Thiệt Ngữ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật tu nhân thiệt ngữ Vì thế đời chiêm ngưỡng Chí tâm ưa lắng nghe Ðể được Phật pháp vậy” Tùng Thiệt Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn do thiệt ngữ Lần đủ thành Bồ đề Các pháp chơn thiệt tánh Thế Tôn đều biết rõ” Thiệt Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi các pháp hữu vi Như tánh chơn thiệt thấy Thế Tôn đều biết rõ Các pháp chơn thiệt tướng” Giảng Trạch Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nơi mình và nơi người Biết thân khẩu ý nghiệp Bởi trí ấy thanh tịnh Nên hiệu Phật Vô Ðẳng” Quan Sát Ý Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Pháp Vương tâm ý nghiệp Bao nhiêu sự tư lương Thương nhớ nơi chúng sanh Nên tôi lạy Từ Phụ” Xảo Giác Quán Ý Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn chỗ tâm duyên Tâm ấy đều điều thuận Thương nhớ nơi chúng sanh Tôi lạy đấng thương đời” Xảo Phương Tiện Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chúng sanh tâm sở duyên Ý nghiệp chỗ khởi tác Các thứ trí huệ sanh Thế Tôn đều biết rõ” Giải Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ý nghiệp là Phật địa Vì thương nhớ chúng sanh Phương tiện trí thanh tịnh Phật trí không thể tánh” Xảo Trí Quá Khứ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật biết đời quá khứ Nếu người chỗ tạo nghiệp Giới nhẫn tấn định trí Phật đều biết rõ cả” Quan Sát Quá Khứ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quan sát quá khứ hành Biết được nhiều ức Phật Chỗ sở hành quá khứ Vì cầu thắng Bồ đề” Bổn Hạnh Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nhớ biết sự bổn hành Ức kiếp a tăng kỳ Phật tâm vô sở trước Chỗ bổn hành của Phật” Quan Sát Bổn Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “A tăng kỳ ức Phật Ðạo Sư đều từng học Xuất sanh tam muội lực Thành các thứ Phật pháp” Bổn Hành Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vô lượng a tăng kỳ Ðạo Sư tam muội môn Chỗ chư Phật quá khứ Từng học cũng tu hành” Quan Sát Bổn Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Trong sanh tử nhiều lỗi Ứng cúng phi ứng cúng Quán rồi độ chúng sanh Ðộ thoát kẻ mù lòa” Yểm Quá Khứ Thế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Kia đây ăn nuốt nhau Cũng từng vui đùa nhau Cùng giết hại lẫn nhau Thế Tôn đều biết rõ” Tri Vị Lai Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðạo Sư thuở vị lai Trí huệ được vô ngại Chúng sanh tin nghiệp báo Các loài Phật đều biết” Tùng Bổn Hàn Lai Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn nơi quá khứ Trí huệ không chướng ngại Thiện nghiệp tam ma đề Lìa loài biết các loài” Xảo Tri Vị Lai Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nơi thuở vị lai Trí huệ không chướng ngại Chúng sanh chết và sanh Nghiệp báo đều biết rõ” Ly Hữu Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn vua ba cõi Thuyết thắng trong ba đời Phật trí thường vô ngại Khéo biết cảnh giới hữu” Dụng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Chúng sanh chỗ nghiệp hành Và sự thọ quả báo Thứ ấy chỉ giả danh Thế Tôn nói như vậy” Quan Sát Hiện Tại Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn vua hiện tại Trí huệ trọn vô ngại Nơi vô số Phật độ Mâu Ni đều biết rõ” Hiện Tại Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn chánh quan sát Ba đời đều bình đẳng Cứu cánh vô sở hữu Mê hoặc trí phàm phu” Trí Vô Sở Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðạo Sư thấy như vậy Ba đời vô sở trụ Bởi y nơi pháp tánh Nên các pháp vô sự” Giáo Tam Thế Thiên Tử nói kệ tán thán: “Quá khứ và vị lai Ấm sanh tất bại hoại Không sự không tự tánh Ðạo Sư dạy như vậy” Ý Vô Thức Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn nói vô trước Thảy đều không bền chắc Như ảo như dương diệm Nói năng như tiếng vang” Tam Thế Tự Tại Phú Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn nơi tam thế Thường siêng thêm trí huệ Biết các hành như ảo Các căn vô sở trước” Dục Ðáo Bỉ Ngạn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðại Hùng nơi đêm ấy Ðược chứng đại Bồ đề Thế Tôn tinh tấn dục Ðến nay không thối giảm” Dục Tác Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Ðăng chỗ có dục Thường chẳng có thối giảm Các con của Thế Tôn Rất ưa tinh tấn dục” Kiến Lập Dục Tác Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn từ dục khởi Như hoa sen trong nước Chẳng bị đời ô nhiễm Như sen ở trong nước” Dục Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: “Dục và Thế Gian Phụ Hai ấy gọi pháp giới Chẳng hai không hai thể Thế Tôn thảy đều thấy” Tinh Tấn Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán: “Do tinh tấn oai đức Chứng được đại Bồ đề Nơi pháp thị pháp phi Trọn chẳng bỏ tinh tấn” Niệm Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật ở tất cả chỗ Phát tâm đều tùy thuận Nơi pháp thiện pháp ác Phật niệm chẳng tổn giảm” Nhiếp Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Phụ thường nhiếp tâm Biết hành nghiệp chúng sanh Theo chỗ họ tu hành Mà vì họ thuyết pháp” Kính Trọng Bát Nhã Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn biển trí huệ Biên tế bất khả đắc Dầu ức vô số kiếp Phật nói cũng chẳng hết” Học Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán: “Vô Ðẳng Phật Thế Tôn Giải thoát chẳng tổn giảm Giải thoát và người thoát Phật tìm chẳng thể được” Hội Giải Thoát Trí Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn đấng giải thoát Tri kiến khắp giải thoát Hiểu chơn thiệt chẳng giảm Vì biết không tự tánh” Quan Sát Thân Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nơi Phật Nhiên Ðăng Thường tu hành chơn thiệt Ba nghiệp không lỗi lầm Nên hiệu là Như Lai” Thâm Hành Thiên Tử nói kệ tán thán: “Thế Tôn không lỗi lầm Chẳng như chúng sanh khác Biết các pháp tự tánh Phật tự tánh chẳng mê” Ðại Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Phật nơi nhất thiết chủng Tâm niệm chẳng mê hoặc Niệm ấy thường hiện tiền Ví như dầu đầy chén” Tâm Bất Tán Loạn Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nhẫn đến thời gian ngắn Tâm niệm chẳng tán loạn Phật được pháp bất cộng Chúng sanh đều chẳng biết” Thiện Giải Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán: “Nếu có tư lương xả Thiện Thệ không sự ấy Thế Tôn bất cộng pháp Ðức ấy bất tư nghì” Siêu Nhất Thiết Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ở trong ba cõi Này Biết tất cả pháp đó Tất cả không bằng Phật Nên hiệu Nan Hàng Phục” Kiên Trì Thiên Tử nói kệ tán thán: “Ðấng Vô Thượng Kiên Cố Nơi pháp vô sở úy Bằng đồng tất cả Phật Giác ngộ kẻ chưa ngộ”. --- o0o --- PHẨM GIÁ LA CA BA LỢI BÀ LA XÀ CA NGOẠI ÐẠO THỨ HAI MƯƠI BỐN Bấy giờ có tám ngàn người ngoại đạo Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca thấy A Tu La nhẫn đến Tịnh Cư Thiên cúng dường được thọ ký, và nghe tiếng tán thán, họ sanh lòng hi hữu. Họ nghe pháp môn ấy, pháp mà họ chưa hề được nghe, họ sanh nghi tự bạch đức Phật rằng: “Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi nghe pháp mà từ trước chưa được nghe, nghe xong chúng tôi không thích Giá La Ca Ba Lợi Bà la Xà Ca ngoại đạo, cũng chẳng thích tại gia. Ở nơi pháp Này, chúng tôi lại nghĩ lự chẳng kính tin, do vì từ trước chưa hề được nghe. Chúng tôi ở chỗ Cù Ðàm Sa Môn cũng có nhân duyên, do nơi Cù Ðàm làm thần thông biến hóa như vậy, chúng tôi được thấy chư Thiên chư Thần được thân vi diệu, và thấy đại chúng qui phục Cù Ðàm rất đông, nên biết vì Cù Ðàm rất khéo thuyết pháp. Do đó ở nơi Cù Ðàm chúng tôi có chút lòng tin. Cù Ðàm lại vì chúng trời Quảng Quả nói pháp rằng: “Tất cả pháp là Như Lai”. Nơi pháp thuyết ấy chúng tôi rất nghi lự: thế nào tất cả pháp gọi là Như Lai? Chúng tôi ở nơi Cù Ðàm sanh lòng tin như vậy: chỉ có Cù Ðàm biết được ý chúng tôi như vậy như vậy. Xin Cù Ðàm vì chúng tôi mà giải nói cho chúng tôi hiểu nghĩa của pháp ngữ ấy hầu được lìa lưới nghi ’’. Ðức Thế Tôn bảo chúng ấy rằng: “Nay Phật hỏi lại các ông, tùy ý các ông đáp”. Chúng ngoại đạo thưa: “Lành thay Cù Ðàm! Ngài có hỏi chúng tôi xin nói”. Ðức Thế Tôn hỏi: “Các ông có biết thế nào thai nhập bụng mẹ chăng?”. - Thưa Cù Ðàm! trong luận của phái tôi có nói ba thứ nhân duyên hòa hiệp thai nhập bụng mẹ. Ðó là cha mẹ gần nhau sanh tham nhiễm nghĩ đến sự dục, do nghĩ mà hành dục nên thai nhập mà thành thai - Này các ông! Theo ý các ông thế nào, lúc cha mẹ nghĩ tưởng, tham nhiễm ấy có phải từ nơi tâm mẹ mà phát khởi chăng? - Thưa Cù Ðàm! không phải. - Này các ông! Có phải từ mẹ nghĩ tưởng sanh khởi chăng? - Thưa Cù Ðàm! Không phải. - Này các ông! Có phải từ nơi tâm cha phát khởi chăng? - Thưa Cù Ðàm! Không phải. - Này các ông! Có phải từ cha nghĩ tưởng sanh khởi chăng? - Thưa Cù Ðàm! Không phải. - Này các ông!Tham dục ấy của cha có vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Không phải. - Này các ông! Tâm người cha có vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm!Không phải. - Này các ông! Sự phân biệt của cha có vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Không phải. - Này các ông! Thai ấy có phải từ thân trời chết rồi xuống vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải từ thân địa ngục chết rồi đến vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải từ súc sanh chết rồi đến vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải từ ngạ quỉ chết rồi đến vào bụng me chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải từ thân A Tu La chết rồi đến vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải là phi sắc đến vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải là sắc đến vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. - Này các ông! Thai ấy có phải là thọ tưởng hành và thức đến vào bụng mẹ chăng? - Thưa Cù Ðàm! Chúng tôi chẳng biết được. Ðức Thế Tôn bảo chúng ngoại đạo: “Này các ông! Pháp ấy thậm thâm tịch diệt vi diệu Khó lường, khó hiển thị được, chẳng phải cảnh giới tư lương, chẳng phải các ông biết được. Các phái ngoại đạo dị kiến dị nhẫn, ưa muốn dị chủng. Nơi pháp chẳng chánh thì tinh tấn tu hành, nơi trong dị kiến thì quyết định xu hướng. - Này các ông! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân gặp được thiện tri thức thì ở trong pháp thậm thâm sanh được mắt sáng tỏ. Ví như có người đau mắt lòa tối gặp được lương y chữa lành, họ do nơi mắt lành sáng ấy mà hiện đời được thấy những hình sắc từ trước chưa hề thấy. Cũng vậy, Này các ông! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân chẳng có đủ các căn tính v.v…, họ gặp thiện tri thức nên huệ nhãn thanh tịnh, do huệ nhãn nên thấy được thâm pháp. Hàng ngoại đạo các ông từ đêm dài xa xưa bị tà luận dối phỉnh mà sanh dị kiến, ở nơi phi pháp lại cho là thiện pháp, nơi phi giải thoát lại cho là giải thoát, nơi phi xuất thế lại cho là xuất thế. Thấy các ông tự hư hỏng lại làm các ông hư hỏng. Như có người mù bảo người mù khác rằng tôi dẫn anh đi. Người có trí nên biết hai người mù ấy chắc sẽ trụy lạc nơi phi đạo mà bị khổ. Cũng vậy, Này các ông! Hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn thiệt chẳng phải Ðạo Sư mà tự xưng Ðạo Sư, thiệt chẳng phải chánh giác mà tự xưng chánh giác, thiệt chẳng biết đạo xuất thế mà tự xưng là biết, thiệt chẳng thấy đạo xuất thế mà tự xưng là thấy, thiệt chẳng biết chỗ cạn qua mà tự xưng là biết, thiệt chẳng phải giáo sư mà tự xưng là giáo sư, điều họ dạy bảo là tà giáo, là tá giác, là tà xuất, là tà đạo, chẳng biết chỗ cạn tự xưng là biết rồi đưa người, người được đưa qua trở lại càng khốn khổ hơn. Này các ông! Ví như kẻ chăn bò chẳng biết chỗ cạn lùa bầy bò xuống nước, đưa đến chỗ nước sâu giữa dòng bị khốn không ai cứu hộ. Ðó là do kẻ chăn bò chẳng biết chỗ nước cạn vậy. Cũng vậy, Hàng ngoại đạo các ông chẳng phải Ðạo Sư mà tưởng mình là Ðạo Sư, người được độ trở lại bị khốn khổ. Này các ông! Phật là Ðạo Sư thiệt có khả năng hóa đạo, người được hóa độ đều chánh được độ. Phật là chánh giác lời nói chẳng hư, người được Phật giác ngộ đều được chánh ngộ. Phật là năng xuất lời nói chẳng hư, người được dạy xuất thì được chánh xuất. Phật thấy đạo dạy đường chánh cho người. Phật biết chỗ cạn lời nói chẳng hư, người được Phật độ thì được chánh độ. Phật biết pháp giáo hóa hay giáo hóa người. Phật biết Phật pháp hay giác ngộ người. Phật biết pháp xuất khiến người được xuất. Do vì Phật chánh kiến nên hay chánh chỉ bảo người. Phật biết chỗ độ qua được nên hay độ người, người được dắt qua đều được đường tốt. Ngoại đạo các ông, người ưa giải thoát. Phật là Ðạo Sư nay ở trước các ông đây, các ông nên đến. Phật là chánh ngộ hiểu rõ pháp xuất ly, khéo thấy đạo xuất ly nên làm chỗ cạn qua. Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ khéo suy nghĩ đều sanh ưa muốn chánh niệm hiện tiền tâm sẽ lưu chú phát cần tinh tấn, vì chưa chứng pháp khiến được chứng, vì chưa dến được pháp khiến đến được., vì xưa chưa hành đạo khiến tiến hành, vì xưa chưa đến chỗ khiến đến chỗ, vì chưa phục ma khiến hàng phục, vì xưa chưa tìm bạn khiến cầu bạn lữ, vì chưa được pháp phương tiện khiến được pháp phương tiện. Này các ông! Như Phật đã nói ba pháp hòa hiệp được thọ thai. Nay sẽ nói, các ông phải nhất tâm nghe kỹ pháp môn thọ thai. Này các ông! Phật nói mẹ đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm duyên. Phật nói cha, đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm nhân. Phật nói Càn Thát Bà, đó là nghiệp chiêu vời thức. Phật nói Ca La Lã, đó là nghiệp an trí. Phật nói bụng mẹ, đó là chỗ nơi mà nghiệp an trí thức. thức ở nơi bụng rồi thì sanh mạng được tăng trưởng lần lần lớn rộng. Này các ông! Vì như có thuốc rừng rậm nương đại địa mà được tăng trưởng lần lần lớn rộng. Cũng vậy, thức ấy vào bụng mẹ rồi tăng trưởng lớn rộng. Trong bụng mẹ ấy, hài nhi trưởng thành mới được sản sanh, sanh rồi lần tăng, đã được trưởng thành hành tánh thuở đời trước theo chỗ đã chết mà đến, chỗ sở hành quá khứ kia, quen tập phát khởi hiện tại đây. Cái ấy phải là trí mới biết, chẳng phải ngu rõ được. Kết bạn cùng ở thường quan sát luôn mới biết tánh ấy. Các ông lắng nghe đây! Người ấy nếu từ địa ngục chết rồi đến sanh trong loài người đây sẽ có tướng Này mà người trí phải biết: tiếng họ ré lên ồ ề, như tiếng con la, tiếp gấp rút, tiếng kinh sợ, tiếng to tiếng nhỏ lòng thường sợ sệt, luôn luôn run rẩy nổi ốc dựng lông trong chiêm bao phần nhiều thấy lửa cháy lớn, hoặc thấy chạy trên núi, hoặc thấy khối lửa, hoặc thấy nồi chảo nước sôi trào, hoặc thấy có người cầm gậy gộc mà chạy, hoặc thấy thân mình bị mâu xóc đâm, hoặc thấy la sát nữ, hoặc thấy bầy chó dữ, hoặc thấy bảy voi dữ rượt, hoặc thấy mình chạy bốn phương mà không có chỗ nương về, lòng họ ít tin, không có thân hữu. Này các ông! Vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lượt bấy nhiêu, đây gọi là từ địa ngục chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được mà chỉ có trí mới biết. Này các ông! Người ấy nếu từ súc sanh chết rồi đến sanh trong loài người, họ sẽ có những tướng dạng Này, mà người trí phải biết, họ ám độn ít trí lười biếng ăn nhiều, thích ăn bùn đất, tánh họ khiếp nhược, ngôn ngữ chẳng rành, họ thích làm bạn với kẻ ngu, ưa chỗ tối tăm, mến thích nước đục, ưa nhăn cỏ cây, ưa lấy ngón chân đào khoét đất cát, ưa động đầu xua đuổi ruồi lằn, thường cất cao đầu ngáp nhai không, thường ưa có chân tùy nghi nằm trên đất chẳng tránh ô uế, ưa ngửi không, ưa trần truồng, ưa dối trá, nói khác làm khác ưa nói thêm bớt, họ thường chiêm bao thấy lấy bùn trét lên mình, hoặc mộng thấy mình ở đồng ruộng ăn cỏ, hoặc mộng thấy mình bị rắn quắn, hoặc mộng thấy muình vào trong hang núi rừng rậm. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ súc sanh chết đến sanh trong loài người. Trí mới biết chẳng phải ngu lường được. Này các ông! Người ấy nếu từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người thì sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Tóc họ vàng, giận trợn mắt nhìn, thường ưa nhịn đói nhịn khát, tham lam bỏn xẻn ghen ghét, ưa tham ăn tham uống, ưa nói lén người, thân nhiều lông, tròng mắt sáng đỏ, nhiều nghĩ tưởng các thức ăn, ưa muốn tích tụ chẳng muốn chia cho, chẳng thích thấy người lành tốt, thấy tài vật liền sanh lòng trộm cắp nhẫn đến được chút ít cũng liền mừng vui, thường cầu tài lợi, ưa ăn dơ, thấy người có của cải liền ganh ghét, lại ở nơi của người tưởng là của mình, thấy người thọ dùng thì tiếc lẫn, nghe nói ăn ngon thì lòng chẳng ưa, nhẫn đến nơi xóm nơi đường thấy trái cây rụng hay lúa đậu liền sanh lòng tham lượm hái. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật chỉ nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết. Này các ông! Nếu người ấy từ A Tu La chết đến sanh trong loài người sẽ có những tướng sau đây mà người trí phải biết: Họ cao ngạo ngã mạn, ưa giận dữ đấu tranh, oán hận chẳng quên, khởi tăng thượng mạng, thân họ to mạnh, mắt trắng như mắt chó, răng dài lộ ra ngoài, dũng kiện nhiều sức lực hay chiến trận, cũng ưa lưỡng thiệt phá hoại kẻ khác, lòng họ cao ngạo khinh miệt sách luận của người, người khác dầu biết mà họ khéo dùng lời lẽ kín sâu, họ cũng có trí lực và phiền não lực, thích tự dưỡng thân thể. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược những tướng ấy, đây gọi là từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết. Này các ông! Nếu từ loài người chết rồi sanh trở lại trong loài người thì có những tướng như sau mà người trí phải biết: Người ấy hiền trực ưa gần người lành, chê trách kẻ ác, mến tiếc dang vọng nhà mình, đốc hậu thủ kín, ưa thích tiếng tâm và lời khen tặng, mến ưa nghề khéo, kính trọng trí huệ, có tâm tàm sĩ, tâm tánh nhu nhuyến, biết ơn dưỡng nơi các thiện hữu, lòng thuận không trái, ưa xả thí, biết người hay dở, giỏi quan sát người có ích hay vô ích, giỏi đối đáp lãnh hội ngôn nghĩa ấy, giỏi hòa hiệp cùng giỏi trái lìa, giỏi làm sứ giả tuyên truyền ngôn ngữ, nơi các thứ ngôn ngữ giỏi thông đạt ghi nhớ chẳng quên, cũng biết được thị xứ phi xứ. Có vô lượng tướng như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ loài người chết trở lại sanh trong loài người. Chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết. Này các ông! Nếu người ấy từ thân trời chết rồi sanh trong loài người sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Người ấy đoan chánh thích thanh tịnh, hay mang vòng hoa và ướp hương thoa hương nơi thân, thích tắm gội, thọ ngũ dục thì chọn thứ đẹp tốt mà chẳng ưa thứ xấu, ưa âm thanh và ca vũ, thuần giao hữu với các thượng nhân, chẳng kết bạn với hạ nhân, ưa lầu các nhà cao phòng rộng, lòng từ hòa mỉm cười không giận, lời nói dịu dàng đẹp hay khiến người nghe đẹp dạ vui lòng, thích chuổi ngọc và y phục trang sức, thường ưa đi ra vào, bước đi thong dong nhàn nhã, làm việc chuyên cần chẳng biếng lười. Có vô lượng tướng như vậy, nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ thân trời chết rồi sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết. Này các ông! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân muốn siêu thoát các tướng ấy thì phải gần gũi thiện tri thức, thuận theo ý và làm theo chỗ làm của thiện tri thức. Thiện tri thức ấy sẽ thuyết pháp để họ được siêu độ. Này các ông! Người từ địa ngục chết sanh trong loài người ấy, trước đời địa ngục lúc họ làm thân người họ tạo những tội ác, vì họ sân khuể nên giết hại, do nghiệp giết hại ấy dắt họ đọa địa ngục thọ nhiều thứ khổ, sau đó sanh trong loài người vẫn còn tập khí. Người ấy đã biết tướng dạng như vậy rồi cần phải tự biết là mình từ địa ngục đến sanh trong loài người. Vì bỏ lìa nhân duyên địa ngục, người ấy phải tìm thiện tri thức. Gặp được thiện tri thức rồi cung kính thưa sự. Thiện tri thức ấy vì trừ nghiệp sân hại mà dạy nói từ bi và trợ đạo tương ưng từ bi. Do các pháp hành ấy trừ được tập khí tàn thừa nhân duyên địa ngục của người ấy. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ nói Thi la Ba la mật tương ưng từ bi để trừ tội ác sân hại cho người ấy. Lúc người ấy tu từ bi, sáu Ba la mật sẽ đầy đủ thêm lớn phước đức. Này các ông! Người từ súc sanh chết, sanh trong loài người, trước đời súc sanh, lúc làm thân người, họ thật hành quen tập pháp ngu si, do quen tập ngu si bèn làm ác nghiệp, do ác nghiệp ấy sanh trong loài súc sanh, ăn ở chung chạ lâu ngày với các súc sanh, hành động nghi thức súc sanh, nên nay làm thân người vẫn còn những tướng theo tập khí súc sanh. Người ấy phải tự biết sau khi thấy hành tưởng của mình, tôi từ súc sanh chết đến sanh trong loài người đây. Vì bỏ rời nhân duyên súc sanh, họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ngu si. Thiện tri thức dạy họ mười hai nhân duyên. Do pháp nhân duyên ấy mà trừ được ngu si. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ mà dạy Bát Nhã Ba la mật, do đó ngu si thể tánh tự lìa dứt, bèn sanh trí huệ. Này các ông! Người từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người, trước đời làm ngạ quỉ, lúc làm thân người, họ thật hành chứa quen pháp xan tham, do nghiệp lực xan tham sanh trong loài ngạ quỉ, cùng chung với các ngạ quỉ ăn ở, hành động theo nghi thức ngạ quỉ. Người ấy quan sát thấy hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn là ngạ quỉ chết rồi đến sanh trong loài người Này. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp ngạ quỉ, người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp xan tham của người ấy nên thiện tri thức dạy họ pháp bố thí. Nhờ pháp bố thí mà nghiệp xan tham được trừ. Hoặc thiện tri thức dạy họ pháp trợ Bồ đề tương ưng với bố thí, hoặc dạy họ Ðàn na Ba la mật. Người ấy tu Bàn na Ba la mật mà được đủ sáu Ba la mật. Thiện tri thức hoặc dạy họ tất cả pháp đều bình đẳng. Người ấy tu pháp bình đẳng nên được đủ Bát Nhã Ba La mật. Vì tu Bát Nhã ba la mật nên lưu chú xu hướng Nhất thiết trí. Này các ông! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, trước đời A Tu La, lúc làm thân người, họ làm nhiều căn lành mà kiêu mạn, do kiêu mạn mà tạo các nghiệp, do sức nghiệp kiêu mạn tích tập mà sanh trong A Tu La cùng chung ăn ở với chư A Tu La làm những nghiệp A Tu La. Từ A Tu La chết họ sanh trong loài người đây nhưng tập khí nghiệp A Tu La vẫn còn. Người ấy nghe pháp như vậy, quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn từ A Tu La chết rồi sanh trong loài người. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp A Tu La nên người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp kiêu mạn cho người ấy, thiện tri thức dạy họ thánh trụ xứ, do pháp môn Này khiến họ trừ được nghiệp kiêu mạn. Hoặc dạy họ không pháp môn, do đây trừ được nghiệp kiêu mạn ngô ngã mà được trí vô ngã. Hoặc dạy họ nhân duyên hòa hiệp mà có các pháp, do hòa hiệp mà có sở tác. Nếu không hòa hiệp thì không sở tác. Quan sát như vậy thì kiêu mạn và nghiệp đều tiêu trừ. Hoặc dạy các pháp nhất tướng, tu theo đây thì được đủ Bát Nhã Ba la mật mau chứng Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển. Này các ông! Người từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người, lúc đời trước làm thân người, họ tu hành tích tập mười nghiệp đạo lành, do nghiệp lực luôn luôn tu hành tích tập nghiệp đạo lành ấy mà lại sanh trong loài người đây. Người ấy nghe pháp như vậy phải tự biết rằng tôi vốn từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người Này. Vì muốn siêu tập khí nghiệp người, họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ấy, thiện tri thức dạy họ vô thường tưởng để trừ tập khí. Hoặc dạy họ sanh từ lỗi khổ, Niết bàn rất vui. Nghe pháp ấy rồi, người ấy được nhàm sanh tử lỗi khổ mà ưa thích Niết bàn vui. Hoặc dạy họ sáu Ba la mật, do đó hoặc họ có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc dạy họ thiện phương tiện, do đó họ có thể kiên trì sáu Ba la mật mau chứng Nhất trí trọn chẳng thối chuyển. Này các ông! Người từ thân trời chết rồi đến sanh trong loài người, trước đời làm thân trời, lúc làm thân người tu phạm hạnh bố thí trì giới đều mong phước báu tương lai. Tu hành tích tập thiện nghiệp như vậy dài lâu xong trọn, do nghiệp lực ấy sanh thân trời, cùng chư Thiên chung ăn ở quen nghi thức chư Thiên, từ thân trời chết, tập khí pháp hành chư Thiên vẫn còn, khi được thân người rồi, nghe pháp như vậy quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn quyết từ thân trời chết đến sanh trong loài người. Vì muốn siêu tập khí chư Thiên, người ấy phải tìm thiện tri thức. Thiện tri thức ấy dạy họ tu trì phạm hạnh chẳng cầu báo tương lai, dạy cho họ biết cầu phước báu là lầm lỗi, dạy rõ tịnh tu phạm hạnh không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu bố thí chẳng cầu phước báu, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ bố thí không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu trì giới chẳng cầu phước báu tương lai, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ trì giới không chỗ y trước thì công đức vô lượng. Hoặc dạy họ thiện xảo phương tiện, do đó người ấy có hành lục Ba la mật, đầy đủ lục Ba la mật mau chứng Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển. Này các ông! Người từ địa ngục chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để được nghe pháp tam thế chư Phật bình đẳng. Ðược nghe pháp bình đẳng rồi phải phát cần tinh tấn y thành ấp tụ lạc cùng đại chúng chung ở nơi đủ cả bốn bộ chúng cùng nhau luận lượng Phật pháp học vấn nạn đáp, pháp tam thế bình đẳng được hiện ra trước, hiểu tất cả pháp không có tự tánh. Do tu trí hiểu Này mà phiền não lần trừ. Này các ông! Người từ súc sanh chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức gần gũi người đa văn, do gần người đa văn mà trừ lần ngu si. Người ấy dầu gần người đa văn và các kinh luận mà quán tưởng chẳng phải có. Người ấy quán tưởng chẳng phải có rồi tự nhiên hiểu chứng pháp không tự tánh, do đây mà pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền mau chứng Nhất thiết trí chẳng có thối chuyển. Này các ông! Người từ ngạ quỉ chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức tu hành bố thí để trừ xan tham và làm các công đức. Do vì tu xả thí nên tâm họ chằng tich tụ, do đó pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền được nhất tướng, tức là vô tướng. Người ấy do tu trí hiểu vô tướng Này nên mau chứng Nhất thiết trí trọn chẳng thối chuyển. Này các ông! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để cùng chiến đấu với phiền não ma, đó là kiêu mạn. Bấy giờ người ấy nên quán sát “gì là mạn, ai mạn, ai bị khinh mạn, ai do mạn Này mà khởi phiền não xứ, ai bỏ mạn ấy?”. Suy tìm như vậy không có mạn để được, cũng chẳng thấy có ai nhiếp thọ mạn ấy. Người ấy do quán sát nghĩa như vậy nên không có mạn để được, không có người mạn, cảnh giới tương ưng với mạn cũng chẳng có được, cũng chẳng thấy có ai bỏ kiêu mạn. Quan sát như vậy, không một pháp có thể được. Người ấy lại quan sát như vậy: “Do ác nhiếp thọ tự phỉnh thân mình cũng phỉnh thân người”. Lúc quan sát như vậy có thể thấy các pháp không có tự tánh. Do thấy các pháp đều không có tự tánh nên thấy pháp chẳng phải có, do chẳng phải có nên biết chẳng thành tựu, do biết chẳng thành tựu nên biết là chẳng sanh, vì biết là chẳng sanh nên biết là chẳng diệt, đã chẳng sanh diệt thì đó là bất khả thuyết. Nếu hiểu được bất khả thuyết thì nó chẳng phải quá khứ chẳng phải hiện tại chẳng phải vị lai tam thế bất khả đắc. Các pháp đã là tam thế bất khả đắc thì nên biết chưa hề có được có mất, đây là tất cả pháp bình đẳng. Do tất cả pháp bình đẳng nên biết tất cả pháp là chơn như bất biến bất dị, Như Lai cũng là chơn như bất biến bất dị, vì tất cả pháp tức là chơn như. Do đó nên quan sát kiêu mạn được biết người ấy từ thân người đời trước chết rồi lại sanh trong loài người, vì họ có sức tập khí kiêu mạn. Nhẫn đến từ địa ngục chết đến sanh trong loài người do có tập khí kiêu mạn nên biết được tướng ấy. Nếu không tập khí kiêu mạn thì không thể nói được là người ấy từ thân người đến hay nhẫn đến từ trong địa ngục đến. Này các ông! Ðây gọi là trí huệ lìa rời kiêu mạn. Tướng ấy phải do đủ xảo phương tiện mới có thể biết được. Lại do Bát Nhã Ba la mật gia trì nên người ấy mới biết được”. Lúc ấy, tám ngàn người ngoại đạo được nghe đức Phật thuyết pháp liền được vô sanh pháp nhẫn. Chúng ấy được vô sanh pháp nhẫn rồi liền đứng dậy đảnh lễ chân Phật. Họ đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua một phía khác miệng đồng lời nói kệ tán thán đức Phật: “Ðạo Sư kiến lập sức trí huệ Biết các đạo thú chẳng do người Biết các chúng sanh đi các thú Như thấy trái cây cầm trong tay Do các kiến thủ trược thế gian Thí như mây mù chướng hư không Do đây bầy ngu thường lưu chuyển Như bọn người mù lạc đường chánh Thế gian là thường là vô thường Lại nói cũng thường cũng vô thường Lại nói phi thường phi vô thường Họ như voi đui đi vào thành Nói đời hữu biên hay vô biên Nói cũng hữu biên cũng vô biên Nói phi hữu biên phi vô biên Do đây lưu chuyển như chim lồng Lại nói tức thân là thần ngã Hoặc nói ly thân có thần ngã Bị vọng tưởng phân biệt trói buộc như chim sa lưới lòng sanh khổ Lại nói Trời Tự Tại hóa ra Lại nói sanh chẳng phải do nhân Chúng sanh bị kiến thủ che lấp Ví như mây mù che khuất trăng Như trứng trong lồng nở ra chim Theo các lỗ trống thường muốn ra Chúng sanh bị kiến thủ làm ngu Họ chẳng giải thoát như chim lồng Lại để Phạm Vương và Thiên chúa Lại để đồng hài và phụ nhân Lại để phương hải Tỳ Sa Môn Như giặc bị bắt cầu thần linh Dường như kẻ nghèo gặp chủ nợ Cầu lập bảo chứng cùng chủ nợ Như vậy người đời chấp kiến thủ Ngu si cầu trời mong dục lạc Phật thấy chúng sanh y chơn thiệt Như thấy năm ngón trên bàn tay Ở trong các thú chịu trăm khổ Như bọn giặc cướp vào lao ngục Với họ Thế Tôn lòng thương xót Tu các đạo hạnh biết các thú Thế Tôn đã dạy pháp xuất ngục Như vua sanh trai phóng đại xá Thương đời chẳng kể vô số kiếp Tu các khổ hạnh được Bồ đề Kiến thủ phá hoại bọn ngu si Phật dạy cho họ được giải thoát Do đây Thiện Thệ Thiên Nhân Sư Ở trong các pháp được tự tại Chúng tôi kiến thủ nên lạc đường Nơi kiến thủ Phật cứu chúng tôi Do đây Thế Tôn có đại lực Có đủ vô úy không oán đối Giữa chúng đại hống như sư tử Chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy Vì nó hay động cõi Ðại Thiên Cũng dùng pháp ấy chiếu khắp chốn Dùng nó thọ ký các chúng sanh Cũng nguyện chúng tôi gặp gỡ họ”. Ðức Thế Tôn biết chư ngoại đạo đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười phóng ánh sáng. Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật: “Phật thương thế gian hiện mỉm cười Vì thấy các chúng ngoại đạo ấy Ngưỡng mong Như Lai nói cớ cười Phật hiện mỉm cười có nghĩa chi Ðấng khéo hiểu nhân chẳng không nhân Mà hiện mỉm cười phóng ánh sáng Lành thay đấng hiện sáng mỉm cười Ðại chúng chiêm ngưỡng mong Phật nói Ðại chúng tại hội đều hoài nghi Vì thấy Phật hiện ánh sáng cười Tất cả đều như nhìn trăng tròn Nhìn Phật chờ nói cớ mỉm cười Ai tại hôm nay dâng cúng dường Ai ngày nay làm vui từ phụ Nay ai có được Phật công đức Lành thay Ðại Trí xin diễn nói Ðại chúng nghe nói chắc mừng vui Ðều do ngoại đạo được thọ ký Ngưỡng mong Ðạo Sư thương nói cho Ở trong thừa nào họ đắc đạo Lành thay Mâu Ni trừ chúng nghi Do đây đại chúng được mừng vui Một bề đến Phật không thối chuyển”. Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ kheo: “Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ Hay hỏi Như Lai hàng ma oán Thương xót thế gian nói lời ấy Hay hỏi Ðạo Sư Vô Thượng Sĩ Phật sẽ nói sự hiện mỉm cười Ông phải nhất tâm nghe duyên cớ Ông phải vui mừng nghe Phật nói Nay nói nghĩa cớ Phật mỉm cười Tám ngàn ngoại đạo đều điều phục Bỏ các ác kiến trụ thiện kiến Thấy thế gian bị kiến thủ não Họ khởi bi tâm cầu Bồ đề Tất cả kiến thủ đều được bỏ Vì họ đã biết chánh kiến vậy Từ Phật được nghe ký vô ngại Họ đều ưa cầu Nhất thiết trí Chỗ Phật quá khứ được ký rồi Cúng dường Ðại bi Lưỡng Túc Tôn Ðầy đủ chỗ hai ức chư Phật Ðể được lên Vô thượng Bồ đề Chỗ Phật tu thí cũng chẳng thiếu Tu trì tịnh giới tu thiền định Tịnh tu trí huệ phát tinh tấn Nơi c ác quần sanh tu nhẫn nhục Thường tu tập sáu Ba la mật Lựa chọn trí huệ cầu Bồ đề Mã Thắng thỉnh hỏi đấng hàng ma Phát tâm thích cầu Phật Bồ đề Những khổ não ấy do đảng ác Y chỈ trong chỗ có kiến thủ Chúng ấy nay thấy Thắng Ðạo Sư Bỏ các ác kiến đều không thừa Do được thiệt hiểu lời Phật dạy Tùy thuận Phật pháp khởi thâm tín Họ có nhiều ức Phật vị lai Ðều siêng cúng dường cầu Bồ đề Ở đời vị lai kiếp Tinh Tú Ðều được làm Phật đồng một hiệu Hiệu Phổ Văn Phật danh tiếng lớn Phật ấy đại trí độ thế gian Quốc độ Phật ấy rất thanh tịnh Nhiều thứ trang nghiêm không đâu bằng Cõi ấy chúng sanh không ác kiến Thuần cầu Bồ đề quả hiền thánh Cõi ấy chúng sanh không ác thú Thuở ấy cũng không tất cả nạn Tất cả Phật ấy thọ mạng lâu Ðồng trụ thế gian tám vạn tuổi Chúng sanh nghe được danh Phật ấy Ðều được bất thối thượng Bồ đề Nếu những người nữ nghe hiệu Phật Tất cả đều được thân nam nhi Như vậy Thế Tôn đấng hàng ma Ðã thọ ký cho chúng ngoại đạo Tất cả Trời Người nghe thọ ký Thảy đều mừng vui sanh kính tin”. PHẨM LỤC GIỚI SAI BIỆT THỨ HAI MƯƠI LĂM Bấy giờ Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc thấy A Tu La nhẫn đến trời Quảng Quả cúng dường Phật được thọ ký, cũng nghe trời Tịnh Cư nói kệ tán thán Phật, lại thấy ngoại đạo cũng được thọ ký, nhà vua suy nghĩ rằng: Việc ấy hi hữu chẳng nghĩ bàn được. Ðức Thế Tôn rất khéo nói như vậy, tất cả thế gian rồi đều vui mừng. Do ái luyến con trai mình nên Tịnh Phạn Vương đối với đức Phật tình ý rất ân cần. Ðức Thế Tôn nói với Tịnh Phạn Vương rằng: “Pháp của Phật nói, trước giữa sau đều thiện cả, nghĩa ấy sâu xa, vị ấy thuần thiện thanh tịnh không xen tạp thanh bạch không ô nhiễm, nói rõ pháp phạm hạnh. Những phạm hạnh gì? Ðó là pháp môn phân biệt lục giới. Nay vua nên lắng nghe khéo suy nghĩ sẽ vì vua mà nói”. Vua nói: “Lành thay, nay tôi nghe kỹ xin Phật nói cho”. Ðức Phật nói: “Này Ðại Vương! Gì là pháp môn phân biệt lục giới? Này Ðại Vương lục giới được nói đó là trượng phu, lục xúc nhập cũng là trượng phu, thập bát ý thức cảnh giới cũng là trượng phu. Này Ðại Vương! Cớ gì Phật nói lục giới tức là trượng phu? Những gì là lục giới? Ðó là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới. Nói rằng lục giới là trượng phu đó là đây vậy. Cớ gì Phật nói lục xúc nhập gọi là trượng phu? Nhũng gì là lục xúc nhập? Ðó là vì nhãn xúc nhập thấy các sắc, nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy, nhẫn đến vì ý xúc nhập biết các pháp. Nói rằng lục xúc nhập là trượng phu đó là đây vậy Có gì Phật nói mười tám ý thức cảnh giới là trượng phu? Gì là mười tám ý thức cảnh giới? Ðó là nhãn thấy được sắc khả ý do ức Tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc bất khả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc xả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác. Nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy. Nhẫn đến ý biết pháp khả ý, biết pháp xả xứ ý đều ức tưởng phân biệt. Nói rằng thập bát ý thức cảnh giới là trượng phu đó là đây vậy. Này Ðại Vương địa giới có hai thứ: đó là nội và ngoại. Nội địa giới là trong tự thân được có những thứ cứng rắn có được có lấy như là tóc long móng răng da thịt gân xương tủy não ngũ tạng lục phủ đại tiện ngoại địa giới là ngoài thân có những thứ cứng rắn chẳng được chẳng lấy. Này Ðại Vương! địa giới trong thân, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đi đâu. Này Ðại Vương: Có lúc nữ nhân tự phân biệt tôi là nư’ nhân, thấy nam tử kia lại sanh phân biệt kia là nam tử, bèn sanh ý tưởng dục ưa muốn hòa hiệp mà sanh ái nhiễm nơi nam tử ấy. Có lúc nam tử ấy tự phân biệt tôi là nam tử, thấy nữ nhân kia bèn sanh phân biệt kia là nữ nhân rồi sanh ái nhiễm. Nam tử và nữ nhân ấy đều sanh ái nhiễm mà cùng hòa hiệp. Do hòa hiệp mà có ca la lã. Này Ðại Vương! Nam tử phân biệt ấy và sự được phân biệt, cả hai đều bất khả đắc, nam tử và tánh nam tử cũng bất khả đắc, do đó chẳng tương tục mà sanh phân biệt. Phân biệt ấy tự tánh cũng bất khả đắc. Như phân biệt tự tánh bất khả đắc, hòa hiệp và hòa hiệp tư( tánh cũng bất khả đắc, ca la lã và ca la lã tư( tánh cũng bất khả đắc. Nếu tự tánh bất khả đắc thì nó làm sao sanh được yết bồ đàm? Này Ðại Vương! Nhân phân biệt mà sanh ra có thứ cứng rắn ấy. Thứ cứng rắn lúc sanh không có từ đâu đến. Này Ðại Vương! Có lúc thân Này rốt cuộc làm tử thi. Tử thi cứng rắn ấy lúc biến hoại nó chẳng về phương Ðông cũng chẳng về phương Nam phương Bắc phương Tây bốn cạnh trên dưới. Như trên ấy, đó là nội thân địa giới. Này Ðại Vương! Có lúc thế gian đây đều trống rỗng, lại sanh Phạm Thiên cung điện thất bửu. Tướng cứng rán của cung điện ấy lúc sanh không từ đâu đến. Tướng cứng rắn của cung điện thất bửu trời Tha Hóa Tự Tại, trời Hóa Lạc, trời Ðâu Suất, trời Dạ Ma, trời Ðao Lợi, trời Tứ Thiên Vương, lúc sanh không từ đâu đến. Núi Thiết Vi, núi Ðại Thiết Vi cứng rắn, lúc sanh không từ đâu đến. Nhẫn đến núi Tu Di, khắp cõi tam thiên Ðại Thiên, tất cả thứ cứng rắn trong ấy, lúc sanh không từ đâu đến. Ðại địa Này dày một trăm sáu mươi vạn do tuần, lúc sanh không từ đâu đến. Này Ðại Vương! Có lúc thế giới Này hư hoại. Lúc sắp hoại, đại địa hoặc bị lửa cháy nát, hoặc bị nước trôi rã, hoặc bị gió thổi tan. Lúc lửa cháy đại địa Này cho đến khói tro không còn thấy, như dầu tô bị lửa cháy tan biến không sót thừa, như lấy muối bỏ vào nước tiêu tan hết cả. Lúc bị gió thổi hoại cũng không còn sót thừa, như gió mạnh tỳ lam thổi tan mất bầy phi điểu không còn sót thừa. Ðịa giới trong ấy lúc tan diệt cũng không đi đâu. Này Ðại Vương! Ðúng vậy đúng vậy, nội thân địa giới và ngoại thân địa giới, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Lúc nó sanh cũng không lúc nó trụ cũng không. Sanh và trụ hai thời gian thể tánh đều không. Này Ðại Vương! Thủy giới cũng có hai thứ: nội và ngoại. Nội thân thủy giới là những thứ nước, tánh nước, thể nước, hoặc nhuần, tánh nhuần, thể nhuần ở trong thân, như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước miếng, mủ, máu, đàm, mỡ, tủy, sữa, tiểu tiện. Ngoại thân thủy giới là những nước tánh nước thể nước và nhuần tánh nhuần thể nhuần mà thân chẳng được chẳng nhiếp. Này Ðại Vương! Thủy giới trong thân ấy, lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Như líc thấy người yêu thương thì trong mắt chảy nước mà lúc bị khổ trong mắt cũng chảy nước, lúc nghe pháp kính tin nước mắt chảy ra mà bị phong hàn cũng chảy nước mắt, lúc mắt nhặm đỏ cũng vậy. Nước mắt ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đi đâu. Này Ðại Vương có lúc thủy giới trong thân tăng trưởng quá nhiều có thể diệt hỏa giới trong thân. Lúc hỏa giới ấy diệt, nó không đi đến đâu. Có lúc hỏa giới trong thân quá tăng thạnh hay làm khô cạn thủy giới trong thân. Lúc bị đốt cạn, thủy giới ấy đi không đến đâu. Này Ðại Vương! Hỏa giới và thủy giới trong thân ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đi đâu. Lúc sanh nó cũng không, thể tánh nó tự không. Này Ðại Vương!Có lúc thế giới Này hư hoại. Lúc thế giới Này sắp hoại, trong không gian nổi lên ba mươi hai lớp mây đầy trùm trắp tam thiên Ðại Thiên thế giới đến năm trung kiếp mưa lớn không dứt, giọt mưa như tượng vương đái. Sau đó lại trải qua năm trung kiếp mưa thật to lớn, nước ngập đầy đến Phạm Thiên. Này Ðại Vương! Thủy giới to lớn ấy, lúc đầu sanh không từ đâu đến. Này Ðại Vương! Lại có lúc thế giới Này hư hoại. Lúc sắp hoại, trong thế giới Này có hai mặt nhật xuất hiện, bấy giờ suối nguồn sông nhỏ đều khô cạn. Kế đến có bốn mặt nhật xuất hiện, bấy giờ nguồn nước của các sông lớn đều khô hết. Kế đến có năm mặt nhật xuất hiện, bấy giờ nước trong đại hải lần lần khô cạn từ một do tuần, lần lần khô cạn đến mười do tuần, trăm do tuần, ngàn do tuần, vạn do tuần, đến bốn vạn bốn ngàn do tuần đều khô cạn. Bấy giờ nước còn thừa trong đại hải từ bốn vạn do tuần, lần lần còn ba vạn, hai vạn, một vạn, chín ngàn, tám ngàn đến còn một ngàn do tuần, lần lần cạn còn thừa chín trăm tám trăm đến một trăm do tuần, lần lần cạn còn thừa chín mươi đến còn mười do tuần, cạn lần còn thừa chín đến một do tuần, cạn lần còn thừa năm dặm đến mười đa la thọ, chín đến còn một đa la thọ, cạn lần cho đến chỉ còn vũng ướt như dấu chơn. Bấy giờ trong đại hải chỉ còn chút tướng ẩm ướt như lúc trời mưa thoạt ướt thoạt khô. Lần đến lúc trong đại hải hơi nước chỉ còn thắm mặt ngón tay. Này Ðại Vương! Thủy giới ấy lúc lần lần diệt, nó đi chẳng đến đâu, mười phương đều không đến, lúc sanh nó cũng không, lúc trụ nó cũng không, lúc diệt nó cũng không. Tánh thủy giới ây bất khả đắc chỉ có riêng tác dụng thôi. Nhưng tác dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ không có tướng để được. Này Ðại vương hỏa giới cũng có hai thứ: nội và ngoại. Nội hỏa giới là trong thân chỗ có hỏa, hỏa thể, hỏa tướngvà nhiệt, nhiệt thể, nhiệt tướng. Ðó là trong thân có hơi ấm nóng hay làm tiêu hóa thức uống ăn nhập vào số nhiệt độ ấy. Ngoại hỏa giới là những hỏa, thể hỏa, tướng hỏa và hơi ấm nóng ở ngoài thân chẳng lấy chẳng thọ ấy. Này Ðại Vương! Có lúc ca la lã trong bào thai, thân nội hỏa giới tăng thạnh làm thủy giới lần kém nên ca la lã đặc lần cứng lần. Như,đồ kim khí do hỏa lực mà lần cứng rắn. Ca la lã cứng đặc thì gọi là yết bồ đàm. Yết bò- đàm do hỏa lực mà thành tên là ty thi ca. Ty thi ca do hỏa lực mà thành tên là kiên cố. Kiên cố do hỏa lực mà thành mọc ra năm nhánh. Ðúng vậy, Này Ðại Vương! Thủy giới ấy do hỏa giới thành thục như vậy như vậy. Thủy giới ấy lần đặc lần cứng mà thành khối thịt. Này Ðại Vương! Lúc hỏa giới ấy sanh, nó không từ đâu lại, mà có thể đốt tiêu thủy giới. Này Ðại vương! Có lúc trong thân người hỏa giới lần diệt tận. Vì hỏa giới diệt tận nên đồ ăn uống không tiêu hóa mà người bệnh ấy không thể ăn uống được. Vì không ăn uống được nên hỏa giới diệt hết mà người bệnh phải chết. Này Ðại Vương! Hỏa giới lúc diệt, nó chẳng đi đến mười phương. Lúc sanh nó cũng không, lúc diệt nó cũng không, mà hỏa giới ấy từ nào thể tánh nó tự không. Này Ðại Vương! Có thời kỳ thế giới hư hoại. Lúc thế giới hoại hỏa giới ngoài thân tăng thạnh cháy đỏ suốt khắp cả tam thiên Ðại Thiên thế giới. Này Ðại Vương! Lửa ngoài thân ấy, lúc sanh không tưé đâu đến. Này Ðại vương! Lại có lúc khối lửa lớn ấy cháy khắp cõi Ðại Thiên rồi tắt. Lúc lửa ấy diệt, nó chẳng đến đâu, chẳng đến mười phương. Này Ðại Vương! Hỏa giới ngoài thân ấy, lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không, chẳng phải có, chẳng thể được. Chỉ là riêng dụng, nhưng riêng dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ. Này Ðại Vương! Phong giới cũng có hai thứ: nội và ngoại. Gì là phong giới trong thân? Trong thân mình và trong thân người được có phong giới bị thọ bị lấy, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật,, danh tốc tật. Ðó là ở nơi tứ chi là phong, ở nơi tỳ vị là phong đi nơi năm vóc là phong, đi nơi lóng đốt chi phần là phong, hơi thở ra vào cũng là phong. Nói tóm lại, đi khắp trong thân thể đều là phong. Có lúc phong giới trong thân ấy tăng thạnh tập hiệp có thể làm cho thủy giới khô khan, cũng có thể làm tổn giảm hỏa giới, do đó thân người không nhuận trạch cũng không ấm nóng, bụng phình trướng, tay chân co cúng, các mạch máu căng đầy, gân nóng rút giựt rất đau khổ hoặc phải chết. Này Ðại Vương! Phong giới trong thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến. Này Ðại vương! Người bệnh phong ấy hoặc gặp lương y cho đúng thuốc hay nên bệnh phong dứt hết. Lúc phong giới ấy diệt, cũng không đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó diệt cũng không, thể tánh nó tự không.Gì là phong giới ngoài thân? Này Ðại Vương! Ngoài thân được có, thân chẳntg thủ chẳng thọ, thể phong, danh phong, tốc tật, danh tốc tật, đây gọi là phong giới ngoài thân. Này Ðại Vương! Có lúc ngoại phong giới ấy tăng thạnh tập hiệp làm rụng lá gãy nhánh, gãy cây trốc gốc, lở non ngã núi, tan nátthành vi trần, cả cõi Ðại Thiên Này bị gió mạnh ấy thổi lăn chuyển xoay tròn. Như thợ gốm lấy gậy xoay chuyển vòng khuôn, cõi Ðại Thiên Này bị gió thổi xoay tròn cũng vậy. Như chút ít bột mịn bị gió thổi tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên Này bị gió mạnh thổi tan thành vi trần cũng khó thấy được. Như lúc có gió lớn lấy nắm đất rải theo gió bay tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên Này lúc bị gió mạnh thổi tan cũng khó thấy được như vậy. Này Ðại Vương phong giới ngoài thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.Lại như đầu mùa hạ không gió cây cỏ khô héo. Này Ðại Vương! Ngoại phong giới ấy, lúc diệt nó không đi đâu. Phong giới ấy lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không. Này Ðại Vương! Nội phong giới và ngoại phong giới ấy cả hai đều không. Thể tánh nó tự ly, tướng cũng tự ly, tánh cũng bất khả đắc, tướng diệt cũng ly. Tại sao? Vì phong giới ấy chẳng phải tác, không có tác giả vậy. Này Ðại Vương! Gì là hư không giới? Nó cũng có hai thứ: nội và ngoại. Gì là nội hư không giới? Hoặc trong thân mình, hoặc trong thân người được thọ được lấy, đó là hư không, thể hư không, danh hư không, trong thân sanh ra ấy nhập vào số các ấm các xứ và các giới bao nhiêu những lỗ huyệt. Ðây gọi là nội hư không giới. Gì là ngoại hư không giới? Ðó là ngoài thân có chẳng phải sắc, rỗng không nhẫn đến không có lông nhỏ ấy gọi là hư không. Ðây gọi laé ngoại hư không giới. Này Ðại Vương có lúc do nghiệp nhân duyên nên sanh các nhập. Các nhập ấy được sanh rồi vây quanh không giới, bấy giờ được gọi là vào số nội hư không giới. Này Ðại Vương trong mỗi mỗi pháp như vậy suy cầu không một nhãn nhập có thể được, chỉ có tác dụng. Này Ðại Vương do có gì mà không? Vì địa giới thanh tịnh vậy. Như địa giới thanh tịnh nên không, thủy hỏa phong giới thanh tịnh nên cũng không như vậy, nó không từ đâu đến. Này Ðại Vương! Có lúc tất cả các sắc đều hoại diệt làm hư không. Tại sao? Vì hư không giới vô tận vậy. Này Ðại Vương! Chỉ nội hư không giới an trụ bất động. Như vô vi Niết bàn giới an trụ bất động, phải biết hư không giới khắp tất cả chỗ cũng vậy. Này Ðại Vương!Như có người ở đồng hoang trống đào đất làm ao làm giếng. Ý Ðại Vương thế nào, hư không ấy từ đâu đến? - Bạch Thế Tôn! Nó không từ đâu đến. - Này Ðại Vương! Nếu người ấy lấy đất đắp lại. Ý Ðại Vương thế nào, hư không ấy đi đến đâu? - Bạch Thế Tôn! Nó không đi đến đâu. Tại sao? Bạch Thế Tôn! Hư không giới ấy không đến không đi. Tại sao? Vì hư không giới ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy - Này Ðại Vương! Ngoại hư không giới cũng bất động tánh nó không biến đổi. Hư không giới rỗng không chẳng phải là pháp có. Tại sao? Vì hư không giới chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy. Này Ðại Vương! Gì là thức giới? Như nhãn làm chủ phan duyên nơi sắc, vì đối sắc mà biết nên thức sanh ra hoặc biết được xanh vàng đỏ trắng các màu sắc, cũng biết được dài vắn to nhỏ các hình sắc. Tất cả những vật sắc mà nhãn thức thấy được ấy gọi là nhãn thức giới. Cũng vậy, hoặc biết tiếng, biết hương, biết vị, biết xúc, hoặc biết pháp, hoặc biết sáu căn sở duyên sở tri thì gọi đó là nhĩ thức giới đến gọi là ý thức giới. Này Ðại Vương! Lại thức giới ấy chẳng y nương các căn, cũng chẳng y nương nơi giới. Tại sao? Vì chẳng phải địa tịnh sắc làm nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong tịnh làm nhãn nhập. Tại sao? Chẳng phải địa giới thanh tịnh và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong giới thanh tịnh sắc và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập. Tại sao? Vì các pháp vô tri vô liễu biệt vậy, không kham năng vậy, chẳng phải sơ trung hậu vậy, chẳng phải nội ngoại trung gian vậy. Này Ðại Vương: Thức giới ấy biết cảnh trước rồi liền dứt mất chẳng còn sanh lại. Thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không chỗ đến. Này Ðại Vương! Gì gọi là nhãn nhập? Ðó là bốn đại chủng cấu thành sắc thanh tịnh. Các pháp thể tánh nếu là tự không, thì có gì là thanh, có gì là trược. trong các pháp không có tịnh uế thì sao lại ở trong các pháp mà thấy có tịnh uế. Như vậy, Này Ðại Vương! Vì thế nên biết nhãnh nhạ-p quyết định thể tánbh cứu cánh không tịch, tiền tế hậu tế đều bất khả đắc. Tại sao? Vì vị lai chưa đến nên bất khả đắc, quá khứ đã diệt nên cũng bất khả đắc. Vị lai và sự vị lai bất khả đắc. Nhãn xứ ấy cũng bất khả đắc, vì tự tánh ly vậy. Nếu thể tánh bất khả đắc thì cũng không có được tánh nam và tánh nữ. Ðã không có tánh nam và tánh nữ thì nào có ngã ngã sở. Này Ðại Vương! Nếu có ngã ngã sở, đó là cảnh giới ma. Không ngã không ngã sở thì gọi là cảnh giới chư Phật Như Lai. tại sao? Vì tất cả pháp ly ngã ngã sở vậy. Này Ðại Vương! Như thiệt biết rõ nhãn nhập không, nhãn nhập tự tánh không, tại sao? Vì nhãnh nhập ấy tướng nó bất khả đắc, thế nên nhãn nhập ấy thể tánh nó không tịch. Tánh không ấy ly tướng nhãn nhập, đây gọi là vô tướng. Ở nơi tướng không mong cầu nên gọi là vô nguyện. Ðây là ở nơi nhãn nhập ba môn giải thoát hiện ra trước. Này Ðại Vương! Gì là nhĩ nhập giới đến thân nhập giới? Này Ðại Vương! Tất cả pháp ấy đối ba giải thoát môn, hiện tiền quyết định đến pháp giới cứu cánh khắp hư không, chẳng gọi được, chẳng nói được, chẳng dùng được, chẳng chỉ được, không tranh luận, không ngữ ngôn, chẳng đo lường được. Này Ðại Vương! Ðem nhãn đối sắc gọi là điên đảo, nhĩ đối thanh, tỷ đối hương, thiệt đối vị, thân đối xúc, ý đối pháp, gọi là điên đảo. Vì thế các pháp gọi là ý cảnh giới. Này Ðại Vương! Nhãn nhập đối sắc qua thấy lấy dính có ba thứ ngại: ngó thấy cảnh thuận sanh ý tưởng ái luyến, nếu thấy cảnh trái sanh ý tưởng sân khuể, thấy cảnh trung dung sanh ý tưởng không tham không sân, năm nhập kia đối cảnh cũng có ba thứ ngại như vậy, nếu duyên cảnh thuận sanh tâm ái, duyên cảnh nghịch sanh tâm sân, duyên cảnh trung dung sanh tâm ngu hoặc. Cảnh giới như vậy là chỗ sở hành của ý. Vì ý đi khắp nên gọi là ý cảnh giới. Này Ðại Vương! Ý ấy hành nơi sắc thuận thì sanh tham dục, hành nơi sắc trái thì khởi sân nộ, hành sắc trung dung thì khởi ngu si. Như vậy, ý hành nơi thanh hương vị xúc cũng đều có ba sự khởi tham sân si. Nghĩa là ý duyên cảnh thuận ý pháp sanh tham dục, ý duyên cảnh trái ý pháp sanh sân khuể, ý duyên cảnh trung dung ý pháp sanh khởi vô minh ngu si. Này Ðại Vương! Phải như vậy mà biết nơi các căn dường như ảo hóa, biết cảnh giới ấy như mộng. Này Ðại Vương! Như người trong mộng cùng các thể nữ và đại chúng vui vầy. Người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự việc trong mộng nào đại chúng nào các thể nữ. Ý Ðại Vương thế nào, sự việc được thấy trong mộng có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt - Này Ðại Vương! Người ấy đang lúc ở trong mộng cho là thiệt, có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Không phải trí. Tại sao? Ðại chúng và thể nữ được thấy trong mộng cứu cánh là không, cũng là bất khả đắc, huống lại cùng nhau vui vầy. Người ấy chỉ tự khổ nhọc, trọn không có thiêt. - Này Ðại Vương! Các phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy sắc khả ý, mắt thấy sắc rồi sanh lòng chấp trước, sanh chấp trước rồi khởi lòng ái trọng, khởi ái trọng rồi sanh tâm nhiễm trước,sanh nhiễm trước rồi làm nghiệp trước, đó là thân ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp và ý ba nghiệp, tạo nghiệp rồi liền dứt mất, nghiệp ấy dứt rồi nó chẳng y nương. Ở mười phương, nghiệp ấy nhẫn đến lúc lâm chung thức tối hậu diệt thấy việc từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Này Ðại Vương! Người ấy, tự phần nghiệp dứt hết, nghiệp khác hiện ra, giống như từ mộng thức dậy rồi nhớ sự việc trong mộng. Này Ðại Vương! Như vậy, thức tối hậu làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy mà trong phần sanh thức tâm bắt đầu khởi hoặc sanh địa ngục, hoặc sanh súc sanh, hoặc sanh giới diêm ma la, hoặc sanh A Tu La, hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! không có một pháp nào từ đời Này đến đời khác, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả ba 10 đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp, cũng không người thọ báo. Này Ðại Vương! Lúc tối hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp ấy, nghiệp thể tánh không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ, thể tánh thọ không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không.Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Như vậy, tác nghiệp và quả báo không hư mất, không có người tác nghiệp, cũng không có người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không có tướng thì cũng không có nguyện cầu gọi là vô nguyện giải thoát môn. Này Ðại Vương! Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng với không đi chung, đường trước là Niết bàn, xa rời các tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Nên biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người trong mộng đấu với kẻ oán thù. Người ấy thức dậy rồi ghi nhớ cùng kẻ địch đấu nhau. Ý Ðại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy ở trong mộng cho sự ấy là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Không phải là trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có kẻ oán địch, huống là chiến đấu. Người ấy huống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy sắc bát khả ái, lòng họ chẳng vui thích mà sanh chấp trước rội khởi tâm sân khuể làm cho tâm trược loạn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba, miệng bốn, ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt mất. Nghiệp ấy dứt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Này Ðại Vương! Người ấy thấy nghiệp ấy hiện rồi, lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như lúc thức dậy nhớ sự trong mộng. Này Ðại Vương! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên. Do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm bắt đầu khởi, hoặc sanh địa ngục súc sanh ngạ quỉ, hoặc sanh A Tu La Nhân Thiên. Thức trước diệt rồi, sanh phần thức sanh. Sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau nhưng mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi, nó không từ đâu đến, đến lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử cũng không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp á-y, thể tánh nghiệp không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức ấy, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh ấy, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương!Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không nên là vô tướng giải thoát môn.Nếu đã vô tướng thì không có nguyện cầu nên gọi là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như có người ở trong chiêm bao bị quỉ nhiễu não lòng họ kinh sợ. Thức dậy, người ấy ghi nhớ quỉ trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, quỉ được thấy trong mộng có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy ở trong mộng cho là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Không phải là trí. Tại sao? Vì trong mộng quỉ còn không có huống là sợ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại vương! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy xả xứ sắc lòng họ chấp trước rồi tạo nghiệp chấp trước nơi thân ba miệng bốn ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã tạo từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Này Ðại Vương! Người ấy thấy rồi lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, giống như thức dậy nhớ sự việc trong mộng. Này Ðại Vương! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhân Thiên. Thức trước diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tác nghiệp và thọ báo. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, Thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu đã vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người trong mộng thấy nữ nhân đoan chánh đệ nhất trong nước, ở bên nữ nhân ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhân nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt không? - Bạch Thế Tôn không thiệt. - Này Ðại Vương! Trong mộng người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn không phải trí. Tại sao? Trong mộng nữ nhân và âm nhạc cứu cánh đều không huống là vui ngũ dục. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nữ nhân và nghe âm nhạc thích ý sanh lòng nhiễm trước rồi tạo nghiệp nhiễm trước nơi thân ba miệng và ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sinh ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng. Này Ðại Vương! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai nhân duyên nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến trong Nhân Thiên. Thức ấy diệt rồi sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báu đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệpkhông. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả đều có đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! tai nghe ác thanh, sanh khởi ác tâm. Này Ðại Vương! Như người trong mộng thấy nữ nhân đoan chánh đệ nhất trong nước, ở bên nữ nhân ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhân nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự trong mọ-ng là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí, tại sao? Vì thân ái biệt ly được thấy trong mộng ấy cứu cánh không có huống là buồn khóc. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nghe ác thanh liền chấp trước nên sanh lòng chẳng ưa rồi giận hờn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba miệng bốn và ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng. Cũng vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do nhân duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương không một pháp nào từ đời Này đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy, lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương tai nghe xả thanh, khởi xả tướng. Như người trong mộng nghe câu chẳng rõ nghĩa. Thức dậy người ấy ghi nhớ tiếng được nghe trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, tiếng nghe trong mộng có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! không thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy nằm mộng cho là thiệt thì có phải là trí không? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có âm thanh để được, huống là có câu liễu nghĩa câu bất liễu nghĩa. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hang phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ nghe xả thanh bèn chấp trước nên mê hoặc mà tạo nghiệp. Nghiệp được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy sự đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi tâm sanh chấp trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ tiếng câu chẳng rõ nghĩa được nghe trong mộng. Này Ðại Vương! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến, hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thức thọ sanh phần sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng duyệt. Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.Hoại, thể tánh hoại không. Này đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải pháp môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn.Nếu vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! thí như người chiêm bao lấy hương gỗ chiên đàn hoặc hương lá đa ma la và các thứ hương khác để xoa thân mình. Thức dậy người ấy các thứ hương được xoa trong mộng vừa rồi. Ý Ðại Vương thế nào?, sự thấy trong mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có hương huống là xoa thân. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phu ngu si không học chánh pháp, họ ngửi hương thơm bèn mến thích rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi thân ngữ ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất, khi mất, nghiệp ấychẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Như trong chiêm bao thức dậy nhớ hương thơm được ngửi trong mộng. Này Ðại Vương! Tối hậu thức lám chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu sanh khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Này Ðại Vương! Lúc hậu thức diệt gọi là tử số.Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệtnó chẳng đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nóchẳng đến đâu. Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không.Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả phápđều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước, xa rời tướng xa rời nguyện, cứu cánh. Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người chiêm bao thấy cổ mình đeo những tử thi rắn, chó, thây người v.v…Thức dậy, người nhớ cảnh mộng rồi sợ sệt. Ý Ðại Vương thế nào, cảnh mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy chấp lấy tử thi được thấy trong mộng có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng tử thi thì không có, huống là cột nơi cổ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phám phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy thúi xấu thì chấp trước ghét bỏ mà tạo mười nghiệp sân ghét nơi thân khẩu ý? Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ghét bỏ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra? Như thức dậy nhớ sự việc trong mộng. Này Ðại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấymà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp được làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lu&c diê(t cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không.Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh của hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn? không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường đến Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người chiêm bao thấy tỷ căn hoại. Thức dậy, người ấy ghi nhớ mũi mình hư. Ý Ðại Vương như thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy chấp cảnh mộng là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có tỷ căn huống là hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy tỷ căn hoại thì chấp trước lo sợ mà tạo mười nghiệp chấp trước lo sợ nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc đã làm hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng sợ sệt, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra. Như thức dậy nhớ việc trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không một pháp Này từ đời Này đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã tạo và thọ quả báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Lúc hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu tới, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cung không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không.Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. tất cả pháp không là không giải thoát môn.. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường trước là Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện,cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.Này Ðại Vương! Như người mộng thấy mình đói khát được cơm canh ngon tha hồ ăn uống. Thức dậy thấy người ghi nhớ cơm canh ngon được ăn trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có cơm canh huống lại có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy các thức ăn thì chấp trước tham ưa say nhiễm rồi tạo nghiệp tham nhiễm mười thứ nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, nhẫn lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ reươ&c hiện ra trong tâmtưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng tham chấp, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Này Ðại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, thức sanh trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp dã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Lúc hậu thức ấy diệt gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu dến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không.Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không,. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước là Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện, cứucánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giớiu như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng thấy miénh quá đói gặp được dưa đắng, trái câu xa, trái nhâm bà v.v…liền lấy ăn. Thức dậy người ấy ghi nhớ trong mộng ăn những trái đắng. Ý Ðại Vương thế nào, trong mộng người ấy có thiệt ăn trái đắng chăng? - Bạch Thế Tôn! không có thiệt. - Này Ðai Cương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng còn không có trái đắng huống là có ăn. Người ấy luống sự nhọc nhằn, đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mộng thấy bị đói khổ, họ liền chấp trước mà tạo mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu và ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâmchung, tối hậu thức diệt, thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi, trong tâm sanh vọng tưởng, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vậy tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi thác sanh vào sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo, đều chẳng mất hư, không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không.Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi với không trên đường trước, Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như gnười mộng thấy lưỡi mình hư hoại. Thức dậy người ấy ghi nhớ sự trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Ðại Vương! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mọ-ng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải là trí. Tại sao? Vì trong mộng lưỡi còn chẳng có huống là hư hoại. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy thiệt căn hư hoại thì chấp trước sanh long chẳng ưa mà khởi mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt, chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi lòng lo sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp zấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.Hậu thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến; lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh rhế gian không.Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch, tất cả pháp không là không giải thoát môn, không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không trên đường trước Niết bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ đều phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng thấy ôm ấp nữ nhân đẹp nhất nước. Thức dạ-y, người ấy ghi nhớ sự chạm xúc êm dịu trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có gái đẹp, huống là chạm xúc êm diệu.Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu nghu si không học chánh pháp, họ thấy sắc khả ý thì chấp trước mà khởi ái dục sanh lòng nhiễm trước rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi tân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng, người ấy thấy rồi sanh lòng ưa vui, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nghiệp ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đếu đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh không ttừ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhưt nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng tự lấy đồng lá nóng quắn thân mình. Thức dậy, người ấy ghi nhớ trong mộng quấn đồng lá nóng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng còn không có đồng lá huống là có quấn thân mình. Người ấy tự luống nhọc nhằn đều không có thiệt Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy sự kinh sợ thì chấp trước nên sợ hải nên tạo mười nghiệp sợ hải thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, người ấy thấy việc làm hiện trong tâm tưởng liền sợ hải, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Này Ðại Vương! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không tưù đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không tưé đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không.Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thê” tánhNiết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả các pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp tánh, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng thấy thân căn hư hoại chẳng cảm giác khi xúc chạm. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự hư hoại trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh không có thân căn huống là có hư hoại. Người tự ấy luống nhọc nhằn, đều không có thiệt. Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, tự thấy thân căn hư hoại thì chấp trước nên sợ hải rồi tạo mười nghiệp sợ hải nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng?. Người ấy thấy rồi sanh lòng sợ hải, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vật, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần tức tâm sơ khởi vào trong sáu thứ. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đậu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp khôn. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. hoại, thể tánh hoại không. Này Ðại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng thấy nhà ảo thuật hóa ra ngũ dục, tự thấy thân mình hưởng thọ ngũ dục. Thức dậy người ấy ghi nhớ cảnh ngũ dục trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng được thấy là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng nhà ảo thuật còn cứu cánh không có huống là ngũ dục và hưởng thọ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy ảo sư thuật ra ngũ dục thì chấp trước mà ái trọng rồi nhiễm trước, do đó họ tạo mười nghiệp ái nhiễm nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ái nhiễm. Nghiệp trước đã hết, nghiệp khác sanh ra, như mộng thức nhớ cảnh sự trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cung không đến đâu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đầy đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các cann như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phảibiết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng thấy nước lớn cuốn trôi thân mình, vợ con quyến thuộc thấy vậy buồn rầu vô lượng. Thức dậy, người ấy nhớ sự nước trôi và buồn rồi trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mọ-ng cứu cánh không có nước, huống là cuốn trôi và buồn rầu. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy nước cuốn trôi thì chấp trước mà lo buồn rồi tạo mười nghiệp lo buồn nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng buồn sợ, nghiệp trước đã hết, nghiệp sau hiện ra, như người thức dậy nhớ sự cảnh trong mộng . Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau mà có sanh diệt thấy việc làm tưé trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số. Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy lúc tữ không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tư” không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi khọng. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và thọ quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều là đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn? xa rời tường xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy. Này Ðại Vương! Như người mộng thấy mình uống rượu say không còn hay biết, chẳng biết phải trái thiện ác tội phước tôn ty ưu liệt. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự việc trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng? - Bạch Thế Tôn! Không có thiệt. - Này Ðại Vương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng? - Bạch Thế Tôn!Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng cứu cánh còn không có rượu huống là có uống say mê loạn chẳng biết tội phước tôn ti thiện ác phải trái hơn kém. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt. - Này Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy uống rượu mê loạn họ sanh chấp trước mà nhiễm ái rồi tạo mười nghiệp nhiễm ái nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng ái trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhân duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Này Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số. Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũ’ng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Hoại, thể tánh hoại không. Nghiệp được tạo tác và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà cóchớ chẳng phải đệ nhất nghĩa. Này Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế. Này Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ đều phải biết như vậy. ' PHẨM TỨ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU Bấy giờ đức Phật nói với Tịnh Phạn Vương: “Này Ðại Vương! Các pháp như đã nói ở trên phải chuyên tâm tinh tiến quan sát tu hành chớ theo nơi khác. Pháp ấy là Bồ đề của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, hay tự tại siêu việt tất cả thế gian, hay trừ tất cả khát ái hàng phục ngã mạn, diệt trừ tội lỗi, được bình đẳng nơi tất cả pháp. Nó chẳng phải là chỗ của hạng phàm phu, tất cả Thanh Văn chẳng đến được, chẳng phải cảnh giới của tất cả Bích Chi Phật, là chỗ tu hành của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng đắc của tất cả chư Phật. Ở trong pháp ấy, Ðại Vương phải để tâm suy nghĩ rằng: Tôi phải thế nào để được làm mắt sáng ở trong Trời Người, được làm đèn sáng, đuốc lớn, thuyền bè, biết thủy lộ giới là Ðạo Sư, là thương chủ, là đạo thủ ở trong Trời Người. Tôi phải thế nào để tự độ mình rồi lại độ được người, tự đã giải thoát lại giải thoát người, tự được an ổn lại an ổn người, tự chứng Niết bàn lại khiến người chứng Niết bàn. Ðại Vương nên biết chẳng nên quan sát đời quá khứ và trải qua sự giàu mạnh tự tại. Này Ðại Vương! Các căn như ảo, không bao giờ thỏa mãn, cũng không có gì làm nó thỏa mãn được. Cảnh giới như mộng, ở nơi sắc thanh hương vị xúc không biết chán đủ. Này Ðại Vương! Thuở quá khứ có chuyển luân vương tên Vô Biên Xưng có đủ thất bửu oai lực tự tại thống lãnh tứ thiên hạ. Nhà vua ấy ở chỗ đức Phật trước trồng các cội lành nên được thành tựu ý lực nghĩ gì được nấy. Lúc ấy, vua Vô Biên Xưng tự nghĩ ta thử sức phước đức của ta, nay ta tự nương phước đức khiến tất cả cây cối trong bốn thiên hạ Này thường có bông trái dùng hoài không hết. Này Ðại Vương! Vua Vô Biên Xưng ý nghĩ như vậy rồi, khắp bốn thiên hạ tất cả rừng cây trổ bông kết trái xum xuê nhân dân dùng mãi không hết. Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng làm cho tất cả nhân dân trong bốn thiên hạ muốn gì đều được cả không hề trái ý. Nhà vua ấy nghĩ tưởng như vậy rồi, tất cả nhân dân đều được đầy đủ theo chỗ mong cầu. Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khiến khắp bốn thiên hạ đều mưa nước thơm. Liền đó khắp nơi đều mưa nước thơm. Nhà vua ấy thử phước lực của mình nên lại nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ đều mưa hoa đẹp. Liền theo ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi đều mưa hoa đẹp. Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khắp nơi đều mưa y phục đẹp. Liền đó khắp nơi mưa y phục kiếp bối cõi trời Nhà vua ấy lại muốn thử phước lực của mình nên nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ mưa bạc, rồi lại tưởng mưa vàng. Theo đúng ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi mua bạc rồi mưa vàng. Tại sao như vậy? Vì vua Vô Biên Xưng ấy từ quá khứ đã ở nơi tất cả chúng sanh tu cộng nghiệp thiện. Này Ðại Vương! Thuở ấy mặt đất Diêm Phù Ðề dọc ngang đều một vạn tám ngàn do tuần, có sáu mưoi ngàn vạn đại thành. Trung ương có hoàng thành tên Bửu Trang Nghiêm dọc ngang mười hai do tuần, bốn phía bằng phẳng khéo đẹp, đường sá trang nghiêm, ranh giới rành rẽ. Ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ấy có bảy lớp hàng cây Ða La bằng bốn thứ báu là vàng bạc lưu ly và pha lê rất đẹp đáng ưa. Nếu là cây Ða La vàng thì thân cành gốc rễ bằng vàng mà lá bông và trái bằng bạc. Nếu là cây Ða La bạc thì thân cành gốc rễ bằng bạc mà lá bông và trái bằng vàng. Nếu là cây Ða La bằng lưu ly thì gốc rễ thân cành bằng lưu ly mà lá bông và trái bằng pha lê. Nếu là cây Ða La pha lê thì gốc rễ thân cành bằng pha lê mà lá bông và trái bằng lưu ly. Thành Bửu Trang Nghiêm ấy giáp vòng có bảy lớp treo lưới linh lạc báu, lại có màn lưới báu che trùm phía trên. Ngoài thành có bảy lớp hào, mỗi hào sâu nửa do tuần, rộng một do tuần, đáy và bờ hào đều bằng phẳng, đầy nước trong sạch đủ tám đức, chim chóc uống nước ấy. Trong nước hào mọc đầy bốn thứ hoa sen xanh, vàng đỏ và trắng. Ðáy hào trải cát vàng. Bờ hào bằng bốn báu vàng bạc lưu ly và pha lê: bực vàng thì thang bạc, bực bạc thì thang vàng, còn lưu ly và pha lê thì trang sức trên dưới xen lẫn trang nghiêm. Lan can xung quanh hào bày bảy báu trang nghiêm vô tỉ. Mỗi con đường đều có bảy lớp cổng báu, hai bên đường có những cây chuối vàng, bốn bên hào đường sá giáp vòng, nơi hai đầu đều có tọa ngồi bằng bảy báu. Tất cả sự trang nghiêm báu quí ấy đều do phước đức của vua Vô Biên Xưng cảm thành. Xung quanh ngoài thành Bửu Trang Nghiêm có tám vạn rừng vườn. Làm những rừng vườn ấy, vua Vô Biên Xưng không có lòng chấp trước là sở hữu của mình mà cho tất cả nhân dân cùng hưởng. Mỗi khu vườn ấy có tám ao lớn dọc ngang đều nửa do tuần, đầy hoa sen bốn màu. Bờ ao có tám thềm đường bằng bốn báu và cổng ngỏ bảy báu. Hai bên thềm đường có cây chuối vàng Diêm Phù Ðàn trang nghiêm. Trong ao đầy nước tám đức, các loài chim uống nước ấy. Bốn bên ao nhà vua ấy lại cho trồng nhiều hoa đẹp để nhân dân cùng hưởng. Các lưới báu linh lạc báu khắp thành Bửu Trang Nghiêm, lúc gió nhẹ thoảng phát ra tiếng hòa nhã như ngũ âm do nhạc công giỏi trổi lên. Nhân dân trong thành cùng vui chơi theo nhạc điệu ấy. Thuở ấy thành lớn Bửu Trang Nghiêm giàu vui an ổn, nhân dân giàu có no đủ, mọi nơi đều có hoa sen bốn màu đẹp thơm vô tỉ. Một lúc khác, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng:Nay ta sẽ qua châu Tây Cù Ðà Ni. Vua cùng bốn binh chủng cùng bay lên hư không qua Cù Ðà Ni. Chư tiểu Quốc Vương ở châu Tây ấy đều đến phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn muôn năm rồi mang bốn binh chủng lên hư không bay qua châu Ðông Phất Bà Ðề, các tiểu Quốc Vương ở châu Ðông đều phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn vạn năm rồi đem bốn binh chủng lên hư không bay đến châu Bắc Uất Ðơn Việt, nhân dân nơi châu Bắc đều hoan nghênh. Vua Vô Biên Xưng ở lại châu Bắc nhiều trăm ngàn năm cùng quyến thuộc vui vầy. Một hôm vua Vô Biên Xưng nghĩ rằng ta có nghe trời Ðao Lợi ỏ đảnh núi Tu Di, nay ta nên lên đó. Nghĩ như vậy rồi nhà vua ấy ngồi long tượng đem bốn binh chủng bay lên hư không thẳng lên núi Tu Di. Nhà vua ấy hỏi quan hầu cận rằng ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ thế nào? Quan hầu thưa: Tâu Ðại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ đều xoay tròn. Như nhà gốm quay tròn vòng khuôn, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ cũng quay tròn như vậy. Nhà vua ấy bảo quan hầu cho long tượng vương đại hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước. Nhà vua ấy lại hỏi quan hầu: Giờ đây ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ thế nào? Quan hầu thưa: Tâu Ðại Vương! Tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ đều chấn động. Nhà vua ấy nói nay ta muốn đến đánh núi Tu Di, cho long tượng vương Này tiểu hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước. Nhà vua ấy hỏi quan hầu: Giờ đây người thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ thế nào? Quan hầu thưa: Tâu Ðại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn thiên hạ đều chẳng động chẳng chuyển. Nhà vua ấy bảo: Ðã đến đảnh núi Tu Di rồi. Vua ấy cùng bốn binh chủng đến đảnh núi Tu Di. Ðế Thích thấy vua Vô Biên Xưng thì vui mừng đón tiếp và chia nửa tòa ngồi cho cho vua ấy cùng ngồi. Vua Vô Biên Xung tiếp nhận chỗ ngồi rồi cùng Ðế Thích ngự trời Ðao Lợi cả vô lượng năm. Sau đó, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng: Ta nên truất phế Ðế Thích để riêng ta làm Thiên Vương. Vừa nghĩ xong như vậy, nhà vua ấy cùng bốn binh chủng từ trời Ðao Lợi rơi xuống vườn bảy báu ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ở Nam Diêm Phù Ðề. Bấy giờ có dân trong thành ra thấy như vậy vội cấp bảo vào thành. Lúc ấy vua đang ngự trị thành Bửu Trang Nghiêm tên là Tác Ái, nghe có vị Thiên Tử bốn binh chủng từ trên không giáng xuống vườn thất bửu ngoài thành, liền truyền nghiêm xa giá cùng bốn bộ binh chủng xuất thành đến vườn thấy vua Vô Biên Xưng. Vua Tác Ái sai đem các thứ hoa và hương bột hương thoa đến rồi tự trịch y vai hữu quỳ gối hữu chắp tay hướng về vua Vô Biên Xưng mà thưa rằng: Ngài là ai? Vua Vô Biên Xưng nói: Người có từng nghe thuở xa xưa có vua Vô Biên Xưng chăng? Vua Tác Ái và các quan dân đều nói: Chúng tôi có nghe người xưa nói thuở trước có vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn châu thiên hạ. Vua ấy cùng bốn binh chủng bay lên trời Ðao Lợi. Vua Vô Biên Xưng nói: Như chỗ các ngươi đã nghe, vua Vô Biên Xưng chính là ta đây. Từ đó vua Vô Biên Xưng nghe mùi vị đồ ăn uống ở nhân gian lòng chẳng ưa thích chẳng chịu được nên thân tâm trầm trọng hôn mê. Như đem đề hồ để trên cát nóng liền chìm mất chẳng tạm dùng còn, vua Vô Biên Xung ở Diêm Phù Ðề ăn uống các thứ lòng không ưa thích, thân tâm chìm mất cũng như vậy. Vua Tác Ái thấy vua Vô Biên Xưng chẳng chịu được mùi vị đồ ăn uống ở nhân gian nên thân tâm chóng hư hoại chẳng thể sống còn bèn thưa rằng: Ðại Vương có lời gì dặn bảo để tôi truyền lại cho người đời sau. Vua Vô Biên Xưng nói với vua Tác Ái: Nhà vua nên biết từ xưa vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn thiên hạ oai đức tự tại, tùy ý muốn gì đều được như vậy, muốn rừng cây đầy hoa quả thì bông trái có luôn hay trừ khổ cho mọi người. Nhân dân muốn cần gì thì đều được thỏa mãn cả. Ta lại có thể mưa nước thơm, mưa hoa đẹp, mưa y phục báu, mưa bạc trắng, mưa vàng ròng. Ngự trị bốn châu giàu mạnh tự tại. Ta lên trời Ðao Lợi, Ðế Thích chia ngự tọa cùng cai trị cõi trời. Vì lòng tham không chán đủ nên phải từ cung trời rơi xuống Diêm Phù Ðề mà chết. Vua Vô Biên Xưng bảo vua Tác Ái: Các sự việc vừa kể ấy, nhà vua nên truyền nói như vậy và kết luận rằng: Vua Vô Biên Xưng giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán nên phải chết mất. Vua Vô Biên Xưng nói xong thì chết”. Thuật đến đây, đức Phật nói với vua Tịnh Phạn: Vua Vô Biên Xưng ấy tức là thân Phật đây vậy. Này Ðại vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Này Ðại Vương! Vì thế nên phải nhiếp tâm quan sát như vậy, chớ tin nơi khác”. Ðức Thế Tôn nói kệ rằng: “Thường vui pháp tự tại Luôn luôn sách tấn mình Trong tham dục tự tại Lòng phải biết chán lìa Ly dục tự tại rồi Trụ trong pháp tự tại Nếu hàng phục được tâm Thì hàng phục phiền não Hàng phục được phiền não Liền được lìa nghiệp đạo Ðược lìa nghiệp đạo rồi Là tháp chùa thế gian Chẳng bị dục ô nhiễm hiển bày lỗi phiền não Nhớ lợi ích chúng sanh Nên hiệu là tháp chùa Nghe lời tham dục rồi Liền lìa được tham dục Nhất thiết trí tịnh tâm Nên hiệu là tháp chùa Tối thắng đại trượng phu Nhớ dứt lỗi chúng sanh Giải thoát sân cho họ Nên hiểu là tháp chùa Tối thắng đại trượng phu Nhớ dứt si cho chúng Thoát tâm ngu si ấy Nên hiệu là tháp chùa Ðiều ngự thiên nhân sư Nhớ dứt mạn cho chúng Làm tâm chúng sanh sạch Nên hiệu là tháp chùa.” Ðức Phật phán tiếp phán tiếp với vua Tịnh Phạn: “Này Ðại Vương! Thuở xưa quá khứ có Quốc Vương tên là Ðịa Thiên, làm vua đúng pháp, có đủ bảy báu và luân báu, tượng báu, mã báu, minh châu báu, ngọc nữ báu, trưởng giả báu và chủ binh báu. Cha của vua Ðịa Thiên tên là Ðịa Sanh. Sau khi Ðịa Sanh chết, Ðịa Thiên là trưởng tử nên phụ tướng đại thần lấy nước bốn biển rưới đảnh của Ðịa Thiên tôn làm vua, đó là vua Sát Ðế Lợi Quán Ðảnh. Lúc lên ngôi vua rồi, đến ngày rằm trăng tròn ngày thọ trai, vua ÐịaThiên tắm rửa gội đầu cắt cạo râu tóc và móng tay móng chân, mặc y phục mới sạch, dùng vòng hoa chuổi ngọc mũ mão vòng xuyến trang sức thân mình, ngồi trên lầu cao, các thể nữ vây quanh. Liền đó từ phương Ðông có luân bửu bằng vàng đủ ngàn căm giàn trục đều đủ, ánh sáng chói ngời, ngang dọc đều bảy cánh tay, thuần bằng vàng ròng. Thấy kim luân bửu xuất hiện, vua Ðịa Thiên nghĩ rằng: Ta từng nghe người xưa nói nếu vua Sát Ðế Lơi Quán Ðảnh lên ngôi mà kim luân bửu ứng hiện thì sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta có phải là Luân Vương chăng, ta nên thử xem. Vua Ðịa Thiên liền đứng dậy trịch y vai hữu đối luân bửu chắp tay khấn rằng: Luân bửu nên hạ xuống đây. Vua khấn xong, luân bửu liền hạ xuống dừng trước vua. Vua Ðịa Thiên dùng hương thơm thoa tay, mặc y mão đẹp, tay mặt tiếp lấy luân bửu để trong tay trái, tay mặt xoa vuốt luân bửu mà khấn rằng: Nay ngươi nên hàng phục phương Ðông. Kim luân ấy liền bay lên hư không xoay vòng hai bên rồi dừng ở phương Ðông tại con đường chuyuển Luân Vương thuở xưa. Con đường ấy bằng phẳng rải đầy hoa bằng phẳng rải đầy hoa rất khả ái. Chỗ kim luân đi qua mặt đất đều bằng phẳng không có cao thấp. Do phước đức của vua Ðịa Thiên nên những ao suối giếng hồ khô cạn đều đầy nước tám đức, tất cả cây cối đều xum xê tươi tốt đầy trĩu hoa trái. Bấy giờ vua Ðịa Thiên mang bốn binh chủng đi theo luân bửu, nếu luân bửu dừng lại vua và binh chủng cũng dừng theo. Những xứ nhà vua đến, quốc vương và thần dân xứ ấy đồng mang lễ vật ra nghênh đón và phụng hiến cả quốc độ ấy cho vua ngự trị. Vua Ðịa Thiên Chuyển Luân Vương liền bảo rằng: Ta chẳng cần đến quốc độ Này, các ngươi cứ cai trị như xưa, nhưng phải xa lìa những sự sát sanh, cũng chớ trộm cắp, chẳng được tà dâm, không nên vọng ngữ lưỡng thiệt ác khẩu ỷ ngữ, chớ có tham dục giận thù và tà kiến. Các người phải tự mình tu mười nghiệp đạo lành và bảo người khác cùng tu. Nay ta nhận biết các người quy phục nơi ta, tuân lời ta truyền, ta xem các người như con em ta. Các người phải thảo ngay phụng dưỡng cha mẹ sư trưởng và các nhà tu hành. Chớ làm sự phi pháp và sự ác bất thiện, cũng khuyên người làm lành lánh dữ. Nếu được như vậy mới thiệt quốc độ và nhân dân xứ Này qui phục nơi ta. Lần lượt như vậy, vua Ðịa Thiên theo luân bửu hàng phục xong châu Phất Bà Ðề phương Ðông và cả ba châu Nam, Tây, Bắc rồi trở lại Diêm Phù Ðề tại cung thành cũ, kim luân bửu ấy dừng ở bất động tại hư không trên chỗ vua ngự. Lúc ấy cả bốn châu thiên hạ, do phước lực của vua Ðịa Thiên nên đều biến thành bảy báu trang nghiêm, đó là vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não. Ba ác đạo cũng được giải trừ sanh vào đường lành. Toàn cõi không còn tiếng ác, không còn một ai tạo nghiệp ác. Tại sao được như vậy? Ðó là do bổn nguyện lực của vua Ðịa Thiên. Vả lại lúc kim luân bửu xoay lăn đến đâu, cả tứ thiên hạ chẳng cần gieo trồng mà mọi nơi đều mọc đầy những cạnh mễ tự nhiên không có cám trấu. Mọi nơi lại tự nhiên sản xuất y phục báu đẹp từ những cây thiên thọ. Tất cả bệnh hoạn khắp nơi đều tự nhiên lui mất, chỉ trừ ba điều là cầu dục lạc, ăn nuốt và suy già. Tất cả nhân dân đều thọ đủ ngàn muôn tuổi, tất cả những khổ não đều tự nhiên tiêu trừ. Có vô lượng sự hi hữu chẳng thể nghĩ bàn như vậy xuất hiện nơi thế gian sau lúc vua Ðịa Thiên theo luân bửu ngự trị toàn bốn châu thiên hạ. Thời gian lâu về sau, một hôm vua Ðịa Thiên nghĩ rằng: Nơi đây ta thọ hưởng khoái lạc, chẳng biết còn có chốn nào hơn? Vua lại nhớ đã từng nghe trời Ðao Lợi ở đảnh núi Tu Di, sự vui đẹp ở đó thế nào? Vì lòng còn nặng ái dục nên vua Ðịa Thiên chán ghét sự thọ dụng ở nhân gian mà mong muốn sự vui đẹp ở cõi trời, nên vua cùng bốn binh chủng bay lên cung trời Ðao Lợi. Thấy vua Ðịa Thiên đến, Ðế Thích vui mừng đón tiếp và chia chỗ ngự trị cho. Cùng Ðế Thích chia trị cõi trời vô lượng trăm ngàn năm, vua Ðịa Thiên bỗng có ý nghĩ truất bỏ Ðế Thích để mình trọn quyền. Vừa nghĩ như vậy xong, vua Ðịa Thiên và bốn binh chủng từ cung trời Ðao Lợi rơi xuống thành An Ổn nơi Diêm Phù Ðề. Bấy giờ vua Ðịa Thiên vì lâu ngày ăn dùng vật thực thắng diệu cõi trời, nay bỗng đến nhân gian nên chẳng chịu được đồ thô xấu, thân tâm vua bị trầm một, như đem đề hồ đổ trên cát nóng liền chìm mất. Thân tâm quá mệt suy vua Ðịa Thiên nói kệ rằng: Các vua chúa tự tại Chẳng trừ được khát ái Như cỏ khô gặp lửa Thế nên phải bỏ dục Thường làm sự dâm dục Chưa từng có lúc thỏa Như khát uống nước mặn Chẳng bao giờ hết khát Như các dòng về biển Chẳng bao giờ đầy được Ái dục cũng như vậy Chưa bao giờ thỏa đủ Như lửa cháy cỏ cây Không bao giờ thôi đủ Ái dục cũng như vậy Không bao giờ thỏa đủ Như tiếng vang hang sâu Theo tiếng không thôi dứt Nghe tiếng cũng như vậy Không bao giờ thôi dứt Như thùng chứa chất thơm Chứa đựng không chọn lọc Ngửi hương cũng như vậy Không bao giờ chán đủ Như vá múc đồ ăn Không bao giờ thôi đủ Lưỡi nếm các vị ngon Cũng không hề biết đủ Như gương sáng hiện bóng không bao giờ thôi đủ Người hành dục cũng vậy Với dục không chán đủ Như hư không chứa gió Không bao giờ đầy đủ Thân thường ưa chạm xúc Không bao giờ chán đủ Như trong mộng uống nước Chẳng bao giờ trừ khát Y thức duyên các pháp Cũng chẳng hề chán đủ Người tham cầu ái dục Càng thêm lớn ái dục Nhìn xem các sự cảnh Ái luyến chẳng chán đủ Thấy dục tăng khổ não Dường như lửa cháy củi Dứt trừ các ái dục như dùng nước tắt lửa Này Ðại Vương, chớ nghĩ là ai khác, vua Ðịa Thiên thuở xưa ấy chính lá thân Phật đây vậy. Thuở xưa ấy vua Ðịa Thiên giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán đủ nên phải chết mất. Tại sao? Do vì các căn không chán đủ nên sự cảnh không thỏa mãn được. Các ăn như gương soi, sự cảnh như bóng tượng. Các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Ðại Vương phải để tâm nơi pháp Này tự quan sát thật kỹ sâu, chớ theo nơi khác. Pháp Này là vô thượng Bồ đề của chư Phật ba đời. Ðại Vương phải xa rời tất cả giàu mạnh, phải tiêu kiệt tất cả ái dục, lật đổ núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy họa, bình đẳng đối với tất cả pháp. Ðây chẳng phải là địa vị với tất cả phàm phu, chẳng phải đường đi của tất cả hàng Thanh Văn, cũng chẳng phải cảnh giới của tất cả Duyên Giác, mà chính là chỗ đi của tất cả Bồ Tát, là tất cả chứng đắc của tất cả chư Phật Ðẳng Chánh Giác. Ðại Vương phải chú tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng; Ở trong tất cả thế gian thuở vị lai, tôi phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc lớn, làm ánh sáng, làm thuyền bè, làm đạo sư, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm thượng thủ, tự độ và độ người ,tự thoát và giải thoát người, tự an và an cho người, tự được Niết bàn khiến người cũng được Niết bàn. Ðại Vương chớ xem xét sự giàu mạnh tự tại đã có thuở trước. Phải biết các căn như ảo nó chẳng hề chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được. Cảnh giới như mộng, chẳng thể làm thỏa mãn được”. Ðức Phật lại nói với vua Tịnh Phạn: ” Thuở quá khứ có vua tên Ðảnh sanh. Vua ấy có oai đức lớn, có đại thần thông, có oai thế lớn. Vua ấy từ trên đảnh của phụ vương Ô Bô Sa mà sanh ra. Vua từ lâu chứa nhiều căn lành, đã từng thấy vô số chư Phật và tu các thiện căn, cung kính cúng dường chư Phật, tích chứa cội lành, rất được giàu mạnh tự tại trong bốn thiên hạ. Sau khi được quán đảnh lên ngôi vua bảy ngày thì bảy báu hiện ra đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương. Những gì là bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương? Một là kim luân bửu, thuần bằng vàng ròng, đủ ngàn căm, giàn trục đủ, ngang dọc đều bảy cánh tay, tự nhiên hiện đến trước nhà vua. Hai là bạch tượng bửu, đủ sáu ngà, bảy chi chống đất, trắng như núi Tuyết, tự nhiên ứng hiện đến. …………………………………………….………………..Voi và ngựa hai báu ấy, từ sáng sớm đến giờ ăn có thể đi khắp tám phương bốn châu thiên hạ, hết mé các biển rồi trở về chỗ cũ Bốn là minh châu bửu, lớn bằng bắp vế người, thuần lưu ly xanh ánh sáng chiếu ra xung quanh đều một do tuần.. Năm là trưởng giả bửu, giàu có vô lượng, tùy ý vua muốn đều có thể sẵn đủ cả. Sáu là ngọc nữ bửu, đoan trang xinh đẹp tuyệt luân, toàn thân toát ra mùi chiên đàn, hơi miệng sạch thơm, như hoa sen xanh, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, thân sắc mịn màng như lá đồng đỏ. Cả thân mềm dịu như không có xương, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát. Lòng dạ từ bi luôn nói lời nhỏ nhẹ tay chạm đến vua liền hiểu được ý nghĩa của vua. Bảy là chủ binh bửu, tự nhiên xuất hiện, dũng mảnh sách mưu võ lược đệ nhất, biết trước ý nghĩ của vua cả bảy ngày, giỏi điều binh đánh trận. Vua ấy lại có đủ ngàn con trai đoan chánh dũng kiện hàng phục được oán địch. Thuở ấy vua Ðảnh Sanh ngự trị bốn thiên hạ, đúng pháp giáo hóa, khiến bốn thiên hạ giàu vui an ổn, nhân dân đông nhiều, thành ấp tụ lạc gần liền nhau. Toàn cõi không có đá sỏi gai góc mà nhiều châu báu đầy đủ vô lượng, vườn rừng ao suối rất tốt khả ái. Ðó là do vua Ðảnh Sanh an trụ nơi pháp lực mà cảm hiện lành tốt như vậy. Thời kỳ ấy hoặc Người hoặc Trời hưởng thọ dục lạc tối đệ nhất. Ðô thành của vua Ðảnh Sanh ngự tên là A Du Xà. Thành ấy Ðông Tây đều rộng mười hai do tuần, Nam Bắc đều rộng bảy do tuần. Trong thành ngoài thành các thứ trang nghiêm đều đồng như thành Bửu Trang Nghiêm của vua Vô Biên Xung ở trên, cũng như Ðắc Thắng Ðường ở trời Ðao Lợi. Ðảnh Sanh Vương tạo ba bửu điện: Một là Nguyệt Xuất điện, vua ở đó trong mùa Hạ, hai là Tỳ Lưu Ly điện, vua ở đó trong mùa Xuân, Ba là Nhật Oai Ðức Khởi, vua ở đó trong mùa Ðông rét lạnh. Lúc vua cùng ngọc nữ và thể nữ vào điện Nguyệt Xuất thì thân thể vua mát mẻ như ướp thoa hương ngưu đầu chiên đàn. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Tỳ Lưu Ly thì thân vua thư thới như ướp thoa hương lá đa ma la. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Nhật Oai Ðức thì thân vua ấm áp như thoa ướp hương trầm thủy. Vua Ðảnh Sanh ấy theo chỗ thích muốn đều được tùy ý tự tại, khiến các cung điện theo thời tiết mà phát sanh sự cảm xúc vừa ý: tùy ý phát xuất gió, tùy ý phát xuất mưa, các thứ âm nhạc tùy ý vua mà đến, các đồ cần dùng cũng theo ý vua mà xuất hiện. Bấy giờ nơi cung điện mà vua Ðảnh Sanh ngự trọn bảy ngày, trời mưa vàng và bạc. Qua bảy ngày vua nghĩ rằng: Rất là hi hữu chẳng nghĩ bàn được, nghiệp nhân thanh tịnh cảm lấy quả báo như vậy, tùy ý hiện đến đầy đủ theo ý ta muốn, phước đức gây nên như vậy không thể sai lạc. Có ai thấy quả báo Này mà ở nơi sự tu phước đức lại thôi nghỉ. Vua Ðảnh Sanh ngự Diêm Phù Ðề trăm ngàn năm, sau đó vua tự nghĩ rằng nay Diêm Phù Ðề của ta an ổn giàu vui, nhân dân đông đúc và đều quí thuộc nơi ta, trong cung điện ta mưa vàng bạc trọn cả bảy ngày. Giờ đây ta nên qua châu Tây Cù Ðà Ni. Nghĩ xong, vua Ðảnh Sanh cùng quyến thuộc mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến châu Tây Cù Ðà Ni. Vua đã đến rồi ngự trị châu Tây trăm ngàn năm, cũng tác ý mưa vàng bạc, là cho nhân dân đều an ổn giàu vui. Sau đó vua lại mang bốn binh chủng đến ngự trị châu Ðông Phất Bà Ðề trăm ngàn năm cũng khiến toàn châu Ðông giàu vui an ổn. Vua Ðảnh Sanh lại sang ngự trị châu Bắc Uất Ðơn Việt vô lượng ngàn năm, vua hưởng thọ y báu hơn Người mà chưa bằng Trời. Sau đó vua Ðảnh Sanh nghĩ rằng, ta có nghe đảnh núi Tu Di có trời Ðao Lợi, ta nên đến đó quan chiêm coi thế nào. Vua Ðảnh Sanh liền mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến đảnh núi Tu Di. Bấy giờ Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhân cùng ba mươi ba Thiên Vương hợp tại Thiện Pháp Ðường luận sự việc Trời Người. Thấy vua Ðảnh Sanh đến, Ðế Thích đón tiếp chia ngự tòa cùng ngồi. Lúc vua Ðảnh Sanh lên ngự tòa cùng ngồi với Ðế Thích xong liền có mười sự việc thù thắng che chói chư Thiên. Ðó là thọ mạng hơn chư Thiên, dung nhan hơn chư Thiên, danh tiếng hơn chư Thiên, thọ lạc hơn chư Thiên, ngự trị tự tại hơn chư Thiên, thân hình hơn chư Thiên, âm thanh hơn chư Thiên, hơi thơm hơn chư Thiên, vị ăn hơn chư Thiên, chạm xúc mịn dịu hơn chư Thiên. Vua Ðảnh Sanh cùng Ðế Thích hình dung tướng mạo hành động oai nghi đồng nhau không sai khác, ăn uống y phục đồ dùng cũng đồng, chỉ có nhìn nháy là khác nhau thôi. Nhưng chư Thiên phân biệt biết rõ thiên Vương và Nhân Vương sai khác. Rất là lạ lùng hi hữu, Ðế Thích và vua Ðảnh Sanh là Trời và Người mà hình dung tướng mạo lại đồng nhau, đó là sức phước đức tạo ra như vậy, ai lại ở nơi phước đức mà chẳng thích ưa. Vua Ðảnh Sanh ở trời Ðao Lợi vô lượng ngàn năm là tăng thượng tự tại, vua chẳng biết đủ nên sau đó lại nghĩ rằng: nay ta nên một mình làm Thiên Vương cần gì Ðế Thích, ta sẽ truất phế ông ấy. Vừa nghĩ xong như vậy, vua Ðảnh Sanh cùng toàn thể quyến thuộc bốn binh chủng liền rơi xuống Diêm Phù Ðề trong vườn ngoài thành A Tu Xà. Lúc vua Ðảnh Sanh rơi xuống oai quang chiếu sáng khắp mọi nơi làm luốt mất ánh sáng mặt trời. Như lúc mặt trời mọc, mặt trăng bị luốt mất, lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống mặt trời bị luốt mất cũng như vậy. Bấy giờ có người xuất thành thấy như vậy, vội vào phổ cáo cho mọi người trong thành hay rằng: Nay có Thiên Tử cùng bốn binh chủng từ hư không sa xuống vườn ngoài thành. Ðược tin ấy, quốc Vương cùng thần dân chỉnh đốn nghi lễ mang hoa hương kỹ nhạc xuất thành đến khu vườn ấy để tiếp nghinh vua Ðảnh Sanh. Lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống, toàn cõi đất chấn động sáu cách. Vua Ðảnh Sanh vì đã quen hưởng thọ dục lạc cõi trời nên chẳng chịu được hơi hám và đồ dùng ở nhân gian, vua mê mệt nằm trên đất, như tô lạc đề hồ đổ vào cát rất nóng liền tiêu tan. Quốc Vương và thần dân thấy vua Ðảnh Sanh hôn mê nằm trên đất liền kêu hỏi: Ngài là ai? Vua hỏi lại các người có từng nghe nói vua Ðảnh Sanh thuở xưa chăng? Quốc vương và thần dân đáp đã có nghe các bực kỳ cựu thuật rằng có vua Ðảnh Sanh chẳng bỏ thân người đem quyến thuộc và bốn binh chủng bay lên trời. Vua nói Ðảnh Sanh Vương thuở xưa chính là ta đây. Ta cùng bốn binh chủng từ trời rơi xuống vậy. Quốc Vương và thần dân nói kệ hỏi vua rằng: Tôi nghe kỳ cựu nói Xưa có vua oai đức Hiệu là Ðảnh Sanh Vương Có danh tiếng rất lớn Vua mang bốn binh chủng Từ đây bay lên trời Cũng đem cả quyến thuộc Thánh Vương trị đúng pháp Trời Người tuân lời vua Sức vô thường làm hại Mất báo trời chịu khổ Ðảnh Sanh Vương là Ngài Chúng tôi đều chắp tay Cúi đầu lạy chân vua Có sự hi hữu gì Sẽ truyền lại đời sau. Vua Ðảnh Sanh Vương từ trời sa xuống bị khổ nói kệ đáp rằng: Ðảnh Sanh Thánh Vương xưa Thống lãnh bốn thiên hạ Thọ lạc hơn Trời Người Tham không nhàm phải chết Xưa trong cung vua ấy Mưa trân bửu bảy ngày Trị thiên hạ đúng pháp Tham không nhàm phải chết Vua trước cùng Thiên Ðế Chia ngự tọa mà ngồi Vì phát khởi ác niệm Quá tham dục phải đọa Ở trong biển sanh tử Vì vô trí nên chìm Vì say đấm ngũ dục Tham không nhàm phải chết Như khát mộng uống nước Chẳng thể hết khát được Thọ ngũ dục cũng vậy Trọn không hề chán đủ Các chúng sanh trí huệ Dứt trừ tối ngu si Người trí ấy biết đủ Chánh quán sát các loài Trí quán sát các loài Huệ thấy già bệnh chết Dứt trừ các khát ái Bỏ các loài không ham Quán chạm xúc như lửa Thì bỏ được khát ái Quán thọ lạc cũng vậy Biết ái là chẳng lành Như đánh các âm nhạc Căn cảnh giới cũng vậy Dùng thánh giáo điều phục Bỏ được căn tự tánh Tất cả năm loài sanh Sanh ra từ danh sắc Trong ấy thức phân biệt Thì phát sanh tưởng nghĩ Thánh giả chánh quán sát Chẳng tham chấp nghiệp nhân Trí giả đủ sáng suốt Chứng diệt như củi tàn. Vua Ðảnh Sanh nói kệ đáp mọi người xong thì chết. Này Ðại Vương! Vua Ðảnh Sanh thuở xưa ấy chính là thân Phật đây. Ngày xưa Phật từng làm Ðảnh Sanh Chuyển Luân Vương thống lãnh Trời Người oai thế tự tại, vì tham dục không nhàm đủ mà phải chết mất.Vì lẽ ấy nên phải rời bỏ giàu sang kiêu mạn oai thế mà an trụ chẳng phóng dật. Nếu có thể an trụ được nơi hạnh chẳng phóng dật, thì có thể tu các thiện căn. Này Ðại Vương! Nếu chẳng phóng dật lại có thể vào pháp giới bình đẳng. Nếu người lìa được phóng dật thì thành tựu lợi ích. Này Ðại Vương! Hữu vi vô vi giới chẳng phải nam nữ, chẳng phải quá vị hiện tại. Ðại Vương nên ở nơi pháp Này mà an trụ tự tâm, chớ theo giáo pháp khác. Pháp Này là Vô thượng Bồ đề của tam thế chư Phật. Ðại Vương nên xa rời tất cả hào quí, tiêu cạn tất cả biển dục, xô ngã núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy đọa, bình đẳng với tất cả. Ðây chẳng phải chỗ của phàm phu, chẳng phải hàng Thanh Văn làm được, cũng chẳng phải cảnh giới của Duyên Giác. Ðây là công hạnh của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng của chư Phật Chánh Ðẳng Giác. Ðại Vương phải nhiếp tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng: Ðời vị lai ở trong tất cả Nhân Thiên thế gian, ta phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc, làm ánh sáng, làm thuyền, làm hướng đạo, làm thầy, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm vô thượng, tự độ độ người, tự thoát giải thoát người, tự an an ổn người, tự được Niết bàn khiến người được. Ðại Vương chớ quan sát thuở trước đã từng giàu sang tự tại, phải biết các căn như ảo không có chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được, cảnh giới như mộng chẳng thỏa mãn được Này Ðại Vương! Thuở quá khứ có vua hiệu là Ni Di, rõ thấu các pháp, làm vua đúng pháp, trọn chẳng phóng dật, khi vua có làm việc thì rời lìa phóng dật. Vua Ni Di ấy thường quán tam thế bình đẳng, lại quán tất cả pháp cũng như tam thế bình đẳng. Vua ấy quán tất cả pháp quá khứ xa lìa tự tánh, quán vị lai tất cả pháp xa lìa tự tánh, quán hiện tại tất cả pháp cũng xa lìa tự tánh. Quán tất cả pháp bình đẳng rồi, vua ấy ở nơi tất cả pháp chẳng thủ trước. Vua ấy quán tất cả thế gian bị bốn thứ điên đảo nó làm điên đảo: ở trong pháp bất tịnh mà tưởng là tịnh, ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong pháp vô thường mà tưởng là thường, ở trong pháp vô ngã mà tưởng là ngã. Vua quán thế gian rồi tự nghĩ rằng: Thế gian bại hoại đại bại hoại, chúng sanh ở nơi tất cả pháp tự tánh, không tịch mà họ chẳng hay biết. Ta nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp các chúng sanh. Các chúng sanh ấy tùy thuận ta rồi tất sẽ lãnh thọ lời ta dạy. Vua Ni Di dùng bốn nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh rồi liền đem pháp bình đẳng dạy các chúng sanh. Này đại chúng! Tất cả các pháp lìa tự tánh. Nếu tất cả pháp lìa tự tánh thì nó cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tại sao? Vì các pháp ấy tự tánh chẳng phải thiệt vậy. Các pháp đã lìa tự tánh thì các pháp ấy chẳng thể gọi nó lá quá khứ vị lai hiện tại. Vua Ni Di dạy các chúng sanh về pháp tam thế bình đẳng rồi, có tám mươi ngàn vạn na do tha vô lượng trăm ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn. Bấy giờ tại cung trời Ðao Lợi, chư Thiên Tử tụ hội nghị luận rằng: Lành thay lành thay, người nước Diêm Phù Ðề được đại lợi ích. Vua Ni Di hiểu rõ các pháp, làm vua đúng pháp có đủ phương tiện. Ở nơi các chúng sanh điên đảo, vua ấy dùng phương tiện khéo dạy họ pháp chẳng điên đảo Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhân ở cách xa Thiện Pháp Ðường, do thiên nhĩ vói nghe lời các Thiên tử nghị luận, liền đến Thiện Pháp Ðường lên ngự pháp tọa bảo các Thiên Tử rằng: Vua Ni Di ấy thành tựu đầy đủ phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Tại trời Ðao Lợi Này, các Ngài có muốn thấy vua Ni Di ấy chăng? Chư Thiên Tử đồng thưa muốn được thấy. Thiên Ðế liền truyền ngự thần tên Ma Ða Lê rằng: Nhà ngươi nên trang bị ngàn xe báu cõi trời đến Diêm Phù Ðề nước Bệ Ðề A thưa với vua Ni Di rằng: Ðây là ngàn xe báu cõi trời sai đến rước vua, xin vua chớ kinh sợ. Tất cả chư Thiên Ðao Lợi đều muốn được thấy vua. Xin vua lên ngự trên xe báu Này. Lúc thấy vua Ni Di lên xe rồi, thì ngươi hỏi: “Thưa Ðại Vương! Nay tôi đem vua theo đường nào để đi đến trên trời Ðao Lợi? Theo đường chúng sanh an trụ điên đảo mà đi hay theo đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo mà đi. Thiên thần Ma Ða Lê lãnh lịnh Thiên Ðế Thích nghiêm bị ngàn xe báu, tự lên ngồi rồi từ Ðao Lợi Thiên xuống Diêm Phù Ðề đến nước Bệ Ðề A thưa vua Ni Di rằng: Chư Thiên Ðao Lợi đem ngàn xe báu đến rước xin vua chớ nghi sợ. Chư Thiên trên ấy đồng muốn thấy vua. Bấy giờ vua Ni Di lòng không kinh sợ buớc lên xe báu. Vua đã lên rồi, thiên thần Ma Ða Lê lại thưa rằng: Nay tôi phải đem vua đi đường nào, đi đường chúng sanh an trụ điên đảo, hay đi đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo? Vua Ni Di bảo Thiên Thần: Ngài có thể đưa tôi đi khoảng giữa hai đường ấy. Ma Ða Lê liền đem vua đi giữa hai đường ấy. Vua Ni Di bảo Thiên Thần: Ngài nên tạm dừng xe lại, tôi muốn quan sát các chúng sanh điên đảo. Thiên Thần tuân lời dừng xe. Trong thời gian ngắn ấy, vua Ni Di làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ trong thiệt kiến tam muội. Tại sao được như vậy? Vì vua từ lâu đã khéo tu tập bất phóng dật hạnh. Khiến chúng sanh nhập thiệt kiến tam muội rồi sau sẽ đều được vô sanh pháp nhẫn. Ma Ða Lê trọn chẳng hay biết việc làm của vua Ni Di, tiếp tục đưa vua đi đến đảnh núi Tu Di. Từ xa vua thấy rừng rậm xanh tốt liền bảo Thiên Thần:Rừng ấy quyết định là chỗ ở của các chúng sanh chẳng điên đảo. Thiên Thần Ma Ða Lê thưa: Nơi ấy chính là Thiện Pháp Ðường, chư Thiên Ðao Lợi đang chờ được thấy vua, xin vua bước lên chớ sợ. Bấy giờ vua Ni Di lòng chẳng sợ bước lên Thiện Pháp Ðường. Thiên Ðế Thích đón tiếp vua và chia nửa bửu tọa cho vua cùng ngồi. Hai vua ngồi xong. Thiên Ðế Thích ôn nhu nói với vua Ni Di rằng: Ðại vua làm được lợi ích lớn, có thể làm cho Phật pháp thạnh hưng tăng trưởng. Thiên Ðế Thích lại bảo chư Thiên Ðao Lợi rằng: Vua Ni Di Này đầy đủ thành tựu phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong thời gian ngắn, vua Này có thể làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ Phật pháp mà Ma Ða Lê đều chẳng hay biết. Lúc ấy vua Ni Di vì chư Thiên Ðao Lợi mà giảng rộng Phật pháp vi diệu. Làm cho chư Thiên được lợi ích xong, vua thưa với Thiên Ðế Thích rằng: Tôi muốn trở lại Diêm Phù Ðề,. Tại sao? Vì tôi muốn hộ trì chánh pháp của Phật tại Diêm Phù Ðề vậy. Thiên Ðế Thích liền truyền Ma Ða Lê nghiêm bị ngàn cổ xe đưa vua Ni Di về. Về đến Diêm phù Ðề vua Ni Di thành tựu phương tiện đại từ thiện xảo dìu dắt vô lượng chúng sanh an trụ Phật pháp. Này Ðại Vương! Vua Ni Di thuở xưa ấy chính là thân Phật đây vậy. Ðại Vương nên quan sát năng lực của hạnh bất phóng dật khó nghĩ bàn được. Vua Ni Di lên ngồi ngự tọa của Thiên Ðế Thích mà còn chẳng tham trước. Vì thế nên Ðại Vương ở trong Phật pháp phải siêng năng tinh tấn tu các hạnh chẳng phóng dật. Này Ðại Vương! Thế nào gọi là Phật pháp? Này Ðại Vương! Tất cả pháp đều là Phật pháp cả”. Tịnh Phạn Vương nghe lời dạy Này liền bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là Phật pháp, thì tất cả chúng sanh cũng lẽ ra là Phật”. Ðức Phật phán rằng: “Nếu chẳng điên đảo thấy chúng sanh thì chính là Phật vậy”. Này Ðại Vương! Nói là Phật đó, là như thiệt thấy chúng sanh vậy, như thiệt thấy chúng sanh chính là thấy thiệt tế. Thiệt tế chính là pháp giới. Này Ðại Vương! Thiệt tế ấy chẳng thể hiển thị được. Chỉ là danh từ, chỉ là thế tục, chỉ là trong số thế tục, chỉ có ngôn thuyết, chỉ giả đặt để. Phải nhận xét như vậy. Này Ðại Vương! Tất cả pháp vô sanh đây là môn đà la ni. Tại sao đây gọi là môn đà la ni? Ở đây tất cả pháp không động không lay, không lấy không bỏ, đây gọi là môn đà la ni. Này Ðại Vương! Tất cả pháp bất diệt là môn đà la ni. Tại sao bất diệt là môn đà la ni? Trong ấy, tất cả pháp chẳng động chẳng lay, chẳng lấy chẳng bỏ. Môn đà la ni ấy không có tướng mạo, không có tự tánh, không đặt đề được, không tác không tạo, không lai không khứ, không ngã không nhân, không chúng sanh không thọ mạng, không dưỡng dục chẳng phải đối trị, không hình không trạng, không trói không rời, không uế không tịnh, không thương không ghét, không buộc không mở, không xuất không thối, không được không ở, không định không loạn, không tri chẳng phải vô tri, chẳng phải kiến chẳng phải vô kiến, chẳng phải giới chẳng phải phạm, chẳng phải ăn năn chẳng phải không ăn năn, chẳng phải mừng chẳng phải không mừng, chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải định chẳng phải bất định, chẳng phải thiệt chẳng phải đảo, chẳng phải Niết bàn chẳng phải không Niết bàn, chẳng phải ái kiến chẳng phải lìa ái kiến, chẳng phải giải thoát chẳng phải không giải thoát, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải nhìn xem chẳng phải chẳng nhìn xem, chẳng phải nghiệp chẳng phải chẳng nghiệp, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo. Này Ðại Vương! Phải dùng sáu mươi bảy pháp môn để vào tất cả pháp. Này Ðại Vương tự thể các pháp chẳng phải từng có sẽ có hiện có. Như tượng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Này Ðại Vương! Như vang chẳng phải đã sẽ, và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có. Này Ðại Vương! Như dương diệm chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có. Này Ðại Vương như khối bọt nước chẳng bền chắc, nó chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có. Này Ðại Vương! Như mộng thấy nữ nhân đẹp, sự thấy trong mộng chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của sắc thọ tưởng hành thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Này Ðại Vương! Như Thạch Nữ mộng thấy đẻ con trai, sự được thấy trong mộng ấy chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Này Ðại Vương! Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành và thức không có sanh cũng không có diệt, như Niết bàn giới không có sanh không có diệt vậy. Như pháp giới không sanh không diệt, sắc thọ tưởng hành và thức không sanh không diệt cũng như vậy. Này Ðại Vương Tất cả pháp là Như Lai cảnh giới, bất khả tư nghì cũng là Như Lai cảnh giới, bất cộng pháp, cũng là Như Lai cảnh giới, vì chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả phàm phu vậy, cũng chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả Thanh Văn Duyên Giác vậy. Tất cả pháp ấy chẳng phải chê chẳng phải khen, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải giác chẳng phải bất giác, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải thức chẳng phải bất thức, chẳng phải xả chẳng phải bất xả, chẳng phải tu chẳng phải bất tu, chẳng phải thuyết chẳng phải bất thuyết, chẳng phải chứng chẳng phải bất chứng, chẳng phải hiển thị chẳng phải chẳng hiển thị, chẳng phải khả văn chẳng phải chẳng khả văn. Tại sao vậy? Vì pháp ấy không có pháp phò cử được xô ngã được như vậy. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp rời lìa tự tánh vậy. Ðại Vương nay phải an tâm ở trong pháp ấy, sâu quan sát nó chớ tin nơi khác”. Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nghĩ rằng: Ở trong các pháp không có pháp gì để được. Không có pháp ấy chứng được pháp ấy mà gọi là Phật ấy. Các pháp thiệt chẳng có được. Chỉ vì chúng sanh mà đức Phật giả ngôn thuyết thôi. Lúc Phật nói pháp ấy, Tịnh Phạn Vương và bảy vạn Thích chủng được vô sanh pháp nhẫn. Ðức Phật biết hàng Thích chủng được thâm tín rồi liền hiện mỉm cười. Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ hỏi Phật: “Ðấng Ðại Hùng Ðạo Sư Vì đời mà mỉm cười Mong đuốc sáng thế gian Diễn nói sự mỉm cười Thập lực Nhất thiết trí Cớ chi hiện mỉm cười Xin nói cớ cười ấy Dứt lưới nghi thế gian Phật vì hàng Thích chủng Mà hiện tướng mỉm cười Xin mau trừ lưới nghi Của chúng Trời và Người Ðược nghe đức Phật nói Thế gian hết nghi ngờ Lòng họ được hoan hỉ An trụ trong Phật pháp Các con của Thế Tôn Ðược nghe cớ mỉm cười Bền chắc ở thệ nguyện Trí huệ tất thông đạt Ngưỡng mong đấng Ðạo Sư Dứt trừ lòng chúng nghi Chúng được hết nghi rồi Tất được vui lớn rộng”. Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo: “Phật hiện cười tịch diệt Mã Thắng hãy lắng nghe Nay Phật sẽ nói rõ Thích chủng quyết định trí Các pháp bất khả đắc Thích chủng đều biết được Vì thế tâm quyết định An trụ nơi Phật pháp Dòng họ Thích danh tiếng Y cứ vô sở đắc Sẽ được Vô Thượng Giác Biết rõ tất cả pháp Mạng người Này mãn rồi Thích chủng ấy quyết định Ðược sanh nước cực lạc Gần kề Phật Di Ðà Họ ở cực lạc rồi Vô úy thành Bồ đề Hay đến mười phương cõi Cúng đường vô số Phật Ở tại một Phật độ Hay cúng mười phương Phật Vì thương xót chúng sanh Mà cầu đạo vô thượng Du lịch các Phật quốc Cúng dường chư Phật ấy Ðều do thần lực mình Theo chỗ chư Phật mà đến Vô lượng vô số kiếp Cúng dường các Ðạo Sư Với các thứ diệu cúng Sau sẽ thành Phật đạo Mỗi mỗi thành Phật rồi Hay độ vô lượng chúng Khiến được thành Phật đạo Lại giáo hóa chúng sanh Chúng sanh ở nước ấy Ðều sẽ thành Phật đạo Chư Phật Thế Tôn ấy Chẳng độ chúng Thanh Văn Mỗi Phật Thế Tôn ấy Ðều thọ một kiếp tuổi Chánh pháp chư Phật ấy Vô lượng vô số kiếp Chư Phật ấy diệt độ Chư Bồ Tát đại Trí Gìn pháp độ thế gian Ức Vô số ngàn năm Chư đại Bồ Tát ấy Giáo hóa vô lượng chúng Ðặt ở đạo Vô thượng Thuyết pháp đều không tịch Khiến trụ bất phóng dật Tu tập pháp không tịch Hay được Nhất thiết trí Ưa hạnh bất phóng dật Nghe Thế Tôn tuyên nói Thọ ký hàng thích chủng Trời Người đều vui mừng Chí cầu đạo vô thượng”. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Huệ Mạng Xá Lợi Phất: Này Xá Lợi Phất! Ðây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Ông phải nói lại với hàng bất thối chuyển của Bồ Tát. Tại sao vậy? Này Xá Lợi Phất! Tam muội Này chẳng thể nói được. Như Lai ở trong tam muội ấy chẳng được một pháp. Nếu là chẳng được thì nó là chẳng thể giác được. Nếu chẳng thể giác đuợc thì nó là chẳng thể nói được. Nếu chẳng thể nói được thì nó là chẳng thể biết được. Chẳng thể biết được ấy tức là pháp của tam thế chư Phật vậy. Này Xá Lợi Phất! Nay ta phó chúc cho ông, đây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát phải nên thọ trì đọc tụng giảng nói rộng cho người. Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ đại thừa trải qua mười kiếp tu hành năm ba la mật, lìa Bát Nhã Ba la mật, nếu có người được nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát Này thì phước đức lớn hơn. Nếu người tạm nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát Này, nếu lại có người được nghe đây rồi nói cho mọi người thì phước đức càng lớn hơn. Nếu có người trong mười kiếp nghe đây rồi nói cho mọi người, nếu lại có người nhẫn đến trong thời gian một sát na tu tập tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát thì phước đức càng lớn hơn. Vì thế nên Xá Lợi Phất đem kinh Bồ Tát Kiến Thiệt Tam Muội Này vì chư Bồ Tát mà diễn nói chỉ dạy tu hành. Này Xá Lợi Phất! Nếu tu theo tam muội Này thì sẽ được vô sanh pháp nhẫn. Này Xá Lợi Phất! Trong pháp hội đây, chư Bồ Tát được ta thọ ký đạo vô thượng đều được an trụ trong tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Bấy giờ tất cả Bồ Tát Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, Nhân Phi Nhân tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều vui mừng phụng hành. TÂM KINH BÁT NHà BA LA MẬT ĐA Khi ngài Quán Tự Tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách. Này ông Xá lỵ Tử! Sắc chẵng khác Không, Không chẵng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưỡng, Hành, Thức cũng đều như thế. Này ông Xá lỵ Tử! Tướng Không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong “Chân Không” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã ba la mật đa, được đạo quả vô thượng chánh đẵng chánh giác. Cho nên biết Bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư. Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã ba la mật đa, liền nói bài chú ấy rằng: “Yết đế, yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha”. NIỆM PHẬT Thân Phật thanh tịnh tựu lưu ly. Trí Phật sáng ngời như trăng sáng Phật ở thế gian thường cứu khổ. Tâm Phật không đâu không từ bi. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lần) Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (10 lần) Nam mô Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật (10 lần) Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (10 lần) Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần) Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần) Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần) Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (3 lần) CHÚC NGUYỆN Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời thường an lành, Tất cả các thời đều an lành, Xin nguyện Từ bi thường gia hộ. HỒI HƯỚNG Công đức tụng kinh khó nghĩ lường, Vô biên thắng phước đều hồi hướng. Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới, Đều được vãng sinh về cực lạc. Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não, Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ, Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ, Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo. Nguyện sinh Cực lạc cảnh phương Tây, Chín phẩm hoa sen là cha mẹ. Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh, Bồ tát bất thoái là bạn hữu. PHỤC NGUYỆN Kính mong: Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi, Mây từ rợp khắp, nguổn đạo dài lâu, Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa, Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc. Cúi xin: Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh độ. Báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân. Quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy) Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy) Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy) Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sinh, Đều trọn thành Phật đạo. ẤN TỐNG Hiệu Pháp Lạc Huệ Hiệu Phúc Quốc Hiệu Phúc Viên Hiệu Diệu Độ Hiệu Phúc Quang Tự Phúc Viên Hiệu Diệu Lễ Hiệu Diệu Hạnh Tự Phúc Thông
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro