Kiềm chế LP
III.Biện pháp của NHNN 2007
Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. Khi VN chính thức là thành viên của WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). 2007 là năm ảm đạm trong nề Kinh tế Mĩ khi mà đồng đô la xuống giá nghiêm trọng. Sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác trên thế giới chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam.
Đồng tiền mất giá là ấn tượng đáng nhớ nhất trong năm 2007 và đầu năm 2008.
Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng.Tuy nhiên NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND:
+ NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu.
+ Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
+ Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường.
+ Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
+ Tỉ giá linh hoạt với việc nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% vào đầu năm và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%.
Tuy nhiên, mặt trái của chính sách thị trường mở là Ngân hàng nhà nước đã phải cung ra số lượng khổng lồ tiền đồng để mua hết số đô la này, Đồng đô la mất giá, đồng ghĩa với việc tiền Việt lên giá. Người ta lại dồn dập bán đô la để thu tiền Việt. Cung tiền đồng lại phải tăng thêm để giữ tỉ giá hối đoái (VND/USD) khỏi xuống quá thấp, làm cho lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến hết tháng 6/2007 tăng tổng cộng 110%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát. Con số lạm phát lên đến 12.63% so với chỉ số tăng GDP là 8.5% - nghĩa là về thực chất chúng ta tăng trưởng âm.
Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế. Mặc dù ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%, nhưng với biên độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài.
Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD.
1/ Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2/ Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.cụ thể:
- Yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT ngày 25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD...;
- Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các TCTD không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu lực, các TCTD phải điều chỉnh để đáp ứng các quy định trên.
- Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của NHTM khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán nhằm kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức 150% (theo quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%);
- Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các TCTD báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá nhằm phục vụ việc giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu vốn này và có các giải pháp xử lýý? kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn lộ thực hiện đối với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%, giảm dần cho đến thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra, giám sát việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.
- Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
- Tổ chức họp với các NHTM và NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. NHNN đã chỉ đạo các NHTM tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro cao như cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.
- Tiến hành thanh tra tại các TCTD về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.
IV. 2008
Tổng hợp 10 biện pháp điều hành mang đậm dấu ấn năm 2008 của NHNN, góp phần quan trọng thực thi hiệu quả chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt và giữ ổn định thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng.
1. Sử dụng biện pháp phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc để hút tiền về từ lưu thông (Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008).
Biện pháp này tạo nhiều thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng so với biện pháp tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc vì lãi suất tín phiếu cao hơn lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cùng thời điểm và đối tượng mua tín phiếu chỉ là các tổ chức tín dụng có quy mô huy động vốn lớn (số dư vốn huy động bằng VND đến ngày 31/01/2008 trên 1.000 tỷ đồng), trong đó không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân.
Từ ngày 21/10/2008, NHNN đã cho phép các tổ chức tín dụng thanh toán trước hạn tín phiếu NHNN bắt buộc nếu có nhu cầu.
2. Quy định trần lãi suất huy động VND để chấm dứt cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động giữa các tổ chức tín dụng.
Biện pháp này được NHNN áp dụng từ ngày 26/2/2008 đến ngày 15/5/2008.Đây là biện pháp hành chính cần thiết và kịp thời nhằm lập lại trật tự và giữ ổn định thị trường tiền tệ, được Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam rất ủng hộ.Đồng thời, NHNN hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản thông qua công cụ tái cấp vốn.
3. Ban hành cơ chế điều hành lãi suất cơ bản mới.
Sau 6 năm thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, kể từ ngày 19/5/2008, NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với Luật NHNN và Bộ luật Dân sự, trong đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Với cơ chế này, lãi suất cơ bản đã trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ hữu hiệu của NHNN và thu hút sự quan tâm đặc biệt không chỉ của các tổ chức tín dụng mà của cả nền kinh tế.
4. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh linh hoạt chưa từng có.
Trước những diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình kinh tế trong và ngoài nước năm 2008, NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản tới 7 lần, trong đó có 3 lần điều chỉnh tăng (từ mức 8,25%/năm lên 8,75%, 12% và 14%/năm) nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng dư nợ tín dụng; 4 lần điều chỉnh giảm (từ 14%/năm xuống 13%, 12%, 11% và 8,5%/năm) nhằm nới lỏng từng bước chính sách tiền tệ, góp phần ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Với sự điều chỉnh này, mức ấn định lãi suất cho vay tối đa của các TCTD đối với khách hàng đã giảm từ mức 21%/năm xuống 12,75%/năm; mặt bằng lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng hiện nay thấp hơn so với cuối năm 2007.
5. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tín phiếu NHNN bắt buộc phát huy tác dụng đắc lực trong việc thực thi chính sách tiền tệ.
Để hỗ trợ tăng trưởng hợp lý trong bối cảnh kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc (từ 7,8% lên 13%/năm kể từ ngày 1/7/2008) và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (từ 1,2% lên 3,6%/năm kể từ ngày 1/9/2008, lên 5%/năm kể từ ngày 01/10/2008 và lên 10%/năm kể từ ngày 21/10/2008) nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay thấp hơn mức ấn định lãi suất kinh doanh tối đa.
Đến thời điểm hiện nay, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc là 9%/năm và lãi suất tín phiếu NHNN bắt buộc là 4,5%/năm.
6. Biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng được nới rộng tới 3 lần trong năm.
Để tạo sự chủ động, linh hoạt hơn cho các tổ chức tín dụng trong ấn định lãi suất kinh doanh trước diễn biến cung cầu ngoại tệ có nhiều biến động phức tạp, khó lường, trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần nới rộng biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng từ mức ±0,75% lên ±1%, ±2% và ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Đây là tần suất nới rộng chưa từng có từ trước tới nay.
7. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng 2 lần được điều chỉnh tăng với mức độ lớn.
Trước tình trạng nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2008 tăng cao làm ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô, cùng với các biện pháp can thiệp khác, ngày 10/6/2008, NHNN đã điều chỉnh tăng 2% tỷ giá bình quân liên ngân hàng (từ 16.139VND/USD lên 16.461VND/USD). Biện pháp này đã tạo ra mặt bằng tỷ giá mới, góp phần khuyến khích xuất phần và hạn chế hiệu quả nhập siêu.
Cũng với mục đích đó, ngày 25/12/2008, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 3% (lên mức 16.989VND/USD) nhằm tạo ra mặt bằng tỷ giá mới cho năm 2009, góp phần hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu, đảm bảo sự bền vững của cán cân thanh toán quốc tế và hạn chế tâm lý kỳ vọng tỷ giá tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh.
8. Yêu cầu các tổ chức tín dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định xét duyệt hồ sơ đề nghị vay vốn.
Đây là một bước đi quan trọng nhằm tạo sự bình đẳng và minh bạch hơn trong quan hệ tín dụng giữa TCTD và khách hàng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và ngăn chặn suy giảm kinh tế. Cùng với việc quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định xét duyệt hồ sơ đề nghị vay vốn của khách hàng, các TCTD phải nêu rõ căn cứ từ chối và thông báo bằng văn bản cho khách hàng trong trường hợp từ chối cho vay và đồng gửi NHNN chi nhánh trên địa bàn.
9. Thiết lập đường dây nóng tại 4 đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Trước những diễn biến phức tạp của thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại hối trong thời gian qua, từ ngày 1/7/2008, NHNN đã thiết lập đường dây nóng tại 4 đơn vị thuộc NHNN trên địa bàn Thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh để nắm bắt, xử lý kịp thời phản ánh, kiến nghị liên quan đến hoạt động ngân hàng của doanh nghiệp, người dân. Trong 2 tháng đầu thiết lập, đường dây nóng của NHNN đã tiếp nhận lượng thông tin phản ánh rất lớn (hơn 2.000 phản ánh). Những thông tin này đã được NHNN kiểm tra, xử lý kịp thời, trong đó đã yêu cầu tổ chức tín dụng kiểm điểm, kỷ luật, cách chức một số chức danh lãnh đạo và cán bộ, nhân viên có sai phạm.
Biện pháp này đã góp phần quan trọng duy trì ổn định thị trường tiền tệ, ngân hàng, củng cố lòng tin của doanh nghiệp, người dân đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam và được dư luận trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao. Kênh thông tin này không chỉ có ích cho Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành mà còn giúp người dân hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn chủ trương, chính sách và các quy định về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
10. Củng cố vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố.
Năm 2008, vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố được củng cố và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nhất là tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Biện pháp này đã giúp NHNN nắm bắt sát hơn, kịp thời hơn tình hình thực tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong phạm vi cả nước, từ đó có những biện pháp ứng phó, xử lý hiệu quả hơn, đặc biệt là trong những thời điểm thị trường có những diễn biến phức tạp, khó lường.
Năm 2008 là năm đầy “sóng gió” của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nhưng với những bước đi vừa thận trọng, quyết liệt, vừa linh hoạt, táo bạo ngành Ngân hàng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, thách thức chưa từng có để giữ ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an toàn hệ thống, đồng thời góp phần quan trọng kiềm chế thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bước đầu ngăn chặn đà suy giảm kinh tế của nước ta. Tuy có thời điểm thị trường tiền tệ diễn biến không thuận lợi và cũng còn một vài ý kiến chưa đồng thuận cao với các biện pháp điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nhưng có thể thấy kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 có đóng góp quan trọng, thiết thực của ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
III. Biện pháp của NHTƯ 2009
Trong năm 2009 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chuyển hướng điều hành từ ưu tiên kiểm soát lạm phát trong năm 2008 sang chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2009. Từ nửa cuối năm 2009, trước tình hình suy giảm kinh tế đã được ngăn chặn, lạm phát có xu hướng tăng, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá theo hướng nới lỏng, thận trọng.
1. Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với mục tiêu kích cầu, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống.
- Về lãi suất: trong tháng 1 lãi suất huy động được NHNN điều chỉnh giảm từ 8,5% xuống 7%/tháng, so với cuối năm 2008 lãi suất giảm 0,2-1,5%/năm, giao động từ 6.99-7,84%/năm. Nhưng do nhu cầu vốn tăng đến giữa tháng 2 trở đi một số ngân hàng đã tăng lãi suất huy động trong khi đó NHNN vẫn dữ mức lãi suất cơ bản là 7%/năm đến hết tháng 11, và điều chỉnh tăng lên 8%/năm trong tháng 12. NHNN điều chỉnh giảm đưa lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng từ 19,5%/năm xuống 10,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm xuống 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 12%/năm xuống 6%/năm.
-NHNN điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 11%-10%-8%-6%-5%-3%, kỳ hạn 12 tháng trở lên điều chỉnh giảm từ 2% xuống 1%; 2 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ từ 11%-9%-7%.
- Điều chỉnh tăng 3% tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ 16.494 VND/USD (24/12/2008) lên 16.989 VND/USD (25/12/2008); nới rộng biên độ tỷ giá giữa VND với USD từ +/-2% -> +/3% -> +/-5% áp dụng từ ngày 24/3/2009 nhằm giúp tỷ giá biến động hai chiều linh hoạt hơn, bám sát cung-cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng và doanh nghiệp chủ động lập phương án sản xuất kinh doanh trong năm 2009. Chấn chỉnh các Tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối không được sử dụng kết hợp các công cụ phái sinh nhằm mục đích mua bán đôla Mỹ giao ngay với tỷ giá cao hơn trần biên độ do NHNN quy định; tăng cường kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về hoạt động mua bán ngoại tệ và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; chủ động áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, đảm bảo việc chu chuyển ngoại tệ lành mạnh trong nền kinh tế; yêu cầu các NHTM đã được NHNN cho phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ chấm dứt thực hiện nghiệp vụ này kể từ ngày 23/3/2009.
-Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá (đưa tiền ra lưu thông) để kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn thanh toán với kỳ hạn và lãi suất hợp lý: (i) chào mua giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở, từ ngày 21/01/2009, tổ chức 2 phiên/ngày với khối lượng từ 5.000-6.000 tỷ đồng; (ii) tiếp tục giải quyết nhu cầu rút trước hạn tín phiếu NHNN bắt buộc cho các ngân hàng thương mại; (iii) bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế; (iv) đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu tiền mặt trong lưu thông cả về giá trị và cơ cấu mệnh giá; (iv) đảm bảo cho các hệ thống thanh toán vận hành ổn định, an toàn, chính xác.
2. Chỉ đạo các NHTM thực hiện các biện pháp về tín dụng, lãi suất nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các tổ chức, cá nhân, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá, ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội:
NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất 4% cho các dự án trong danh mục ưu tiên; Tích cực triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 và Quyết định số 333/QĐ-TTg ngày 10/3/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh
Chỉ đạo NHTM thực hiện việc cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vốn vay, xem xét điều chỉnh giảm lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng được ký kết tại thời điểm lãi suất cao xuống theo mức lãi suất hiện hành.
3. Xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động về các giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh, xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP và Nghị quyết số 01/NQ-CP. Theo đó, NHNN thực hiện:
- Mở rộng tín dụng có hiệu quả và xử lý việc cơ cấu lại nợ, áp dụng lãi suất cho vay hợp lý.
- Tiếp tục đổi mới chính sách và mở rộng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách.
- Tổ chức thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất và huy động nguồn vốn cho các dự án kích cầu đầu tư.
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với mục tiêu kích cầu.
- Nâng cao chất lượng công tác thống kê phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, tiền tệ.
- Tăng cường thanh tra giám sát và bảo đảm an toàn hệ thống.
- Nâng cao chất lượng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin trong hệ thống ngân hàng.
4. Ban hành Chỉ thị số 06/2008/CT-NHNN ngày 31/12/2008 về thực hiện các biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội:
Phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để chỉ đạo, khuyến khích các NHTM thực hiện các giải pháp tăng cường huy động vốn, mở rộng tín dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật.
Áp dụng lãi suất cho vay hợp lý trong điều kiện sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn.
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vốn vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay và không phạt quá hạn theo cơ chế hiện hành.
5. Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ trong nước và dự báo về tình hình cung - cầu vốn, lãi suất và tỷ giá để thực hiện các giải pháp can thiệp để ổn định thị trường như đưa tiền ra thông qua nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh biên độ tỷ giá, bán ngoại tệ với liều lượng và thời điểm thích hợp. Tăng cường giám sát từ xa và kết hợp với nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của từng NHTM để xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh.
6. Phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt:
NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn ngành tiếp tục triển khai giai đoạn II Chỉ thị 20/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị 05 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ và gia tăng các tiện ích phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Bắt đầu từ tháng 02/2009, NHNN đã cho phép Công ty Cổ phần dịch vụ trực tuyến cộng đồng Việt (Vietunion) thực hiện cung ứng phương tiện thanh toán Ví điện tử Payoo thông qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
7. Hạ nhiệt thị trường vàng
Quyết định cho phép nhập khẩu vàng trong thời điểm nhạy cảm đã được xem như một liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt vàng (trung tuần tháng 11/2009). Trước đó, hoạt động nhập khẩu vàng đã bị tạm ngừng một năm rưỡi.
4 : Giải pháp NHTW kiềm chế lạm phát 2010
Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính, tăng trưởng kinh tế 4,8%, thương mại tăng 11,4%. Kinh tế trong nước tăng trưởng cao (6,78%) nhờ động lực đầu tư (vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,9%), xuất khẩu (25,5%) và tiêu dùng (tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 24,5%); các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo. Trong năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng 6,5% trong năm 2010. Nếu thắt chặt quá, sẽ khiến doanh nghiệp khó khăn, dẫn đến khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5%, và kéo theo đó là nhiều hệ luỵ về an sinh xã hội. Còn nếu tiếp tục nới lỏng sẽ khó có thể đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm ở mức 7%.
Nhìn vào diễn biến lạm phát hai năm 2009, 2010 ở Sơ đồ cho thấy, về cơ bản, tốc độ tăng giá năm 2010 cao hơn 2009 khá nhiều, có đến hơn nửa thời gian trong năm lạm phát cao hơn mức 1%/tháng. Vì vậy, nếu như tỷ lệ lạm phát năm 2009 chỉ là 6,88% thì 2010 tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên mức 11,75%
Ngày 11/02/2010 điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng từ 17.941đ/USD lên mức 18.544 VND/USD (tăng 3,36% so với ngày 10/02/2010). Ngày 21/2/2010, giá xăng được điều chỉnh tăng khoảng 3,6%. Ngày 1/3, nhiều mặt hàng thuộc diện nhà nước quản lý cũng đồng loạt tăng giá. So với tháng 12/2009, CPI của tháng 3/2010 đã lên mức 4,12%, là một dấu hiệu xấu đối với mục tiêu lạm phát, vì thông thường tại Việt Nam, CPI quý 1 sẽ chiếm khoảng một nửa mức tăng giá cả năm.
Lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2010 đem lại mối lo ngại về việc đảm bảo mục tiêu lạm phát đặt ra (dưới 7%). Chính vì vậy, trong cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 3, một mục tiêu quan trọng được đặt ra là ổn định kinh tế và tập trung mạnh vào kiềm chế lạm phát. Để hướng tới mục tiêu này, NHTW tập trung vào biện pháp giảm tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Chính vì vậy, từ tháng 4 đến tháng 8/2010, CPI liên tục tăng rất thấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6).
Lạm phát thấp trong những tháng giữa năm khiến mục tiêu kiểm soát lạm phát dường như đã lơ là hơn, thêm vào đó là một số yếu tố khách quan tác động không có lợi cho lạm phát. Chính sách tiền tệ được triển khai theo hướng nới lỏng hơn:
+ Từ mức tăng chưa đầy 13% vào cuối tháng 7, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được gia tăng nhanh chóng, đến cuối tháng 11/2010 đã đạt mức tăng 22,54% với M2 và 26,31% với tín dụng, so với cuối năm 2009.
+ Ngày 18/8, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên độ tỷ giá ±3%.
Trước diễn biến lạm phát tăng cao vào những tháng cuối năm, một lần nữa, NHNN lại thắt chặt tiền tệ: Ngày 5/11, các lãi suất chủ chốt được điều chỉnh tăng thêm 100 điểm cơ bản. Cung tiền và tín dụng cũng thu hẹp tốc độ tăng, chốt lại cả năm M2 còn tăng 23%,tỷ trọng tiền mặt lưu thông trong tổng phương tiện thanh toán giảm so với các năm trước.
- Bên cạnh đó, NHNN chỉ đạo các TCTD tập trung vốn cho vay đối với xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khắc phục hậu quả thiên tai. Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 27,65% (giảm dần trong 3 tháng cuối năm); tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn tăng 23,2%, cao hơn năm 2009 (18,8%).
Điều hành cụ thể của NHTW 2010
- Về lãi suất: Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8%/năm, Lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 6%/năm.Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở ở mức 7%-8%/năm. Kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm). Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy động VND 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5 - 12%/năm).
- Về tỷ giá: Điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; 2 lần điều chỉnh tỷ giá trong năm 2010: điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng từ ngày 11/02/2010 từ17.941đ/USD lên mức 18.544 VND/USD (tăng 3,36% so với ngày 10/02/2010); ngày 18/8/2010 điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và Đô la Mỹ tăng 2,1%, từ 18.544 VND/USD lên 18.932 VND/USD. Đây là giải pháp nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu, hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của tổ chức cá nhân, đồng thời chủ động giảm áp lực về cầu ngoại tệ trong thời gian tới. Thực hiện các biện pháp ổn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và không khuyến khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong hơn 9 tháng đầu năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.
- Về quản lý thị trường vàng: Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu năm. Đóng cửa sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; điều hành xuất - nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường; ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và cho vay bằng vàng; phối hợp với các bộ, ngành chống đầu cơ, buôn lậu vàng. Giá vàng trong nước tăng bám sát giá thế giới, hiện tượng tâm lý đám đông và đầu cơ có xu hướng giảm.
- Về quản lý hệ thống: Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM; ban hành quy định mới phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ thống TCTD nước ta về tỷ lệ an toàn, cấp giấy phép thành lập và hoạt động NHTM cổ phần, sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD, quản trị kinh doanh của NHTM; giãn tiến độ tăng vốn điều lệ của các TCTD theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP đến cuối năm 2011; Cơ quan Thanh tra giám sát, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố tăng cường thanh tra, kiểm tra các TCTD. Năm 2010, tài sản có của hệ thống TCTD tăng 28%, tỷ lệ an toàn kinh doanh phù hợp với quy định của NHNN, tỷ lệ nợ xấu khoảng 2,5%; tình hình thanh khoản và lãi suất thị trường tiền tệ trong nửa cuối tháng 12 tương đối ổn định.
- Tiếp tục hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay được giải ngân năm 2009 và các khoản cho vay năm 2010 theo Quyết định số 2072/QĐ-TTg ngày 11/12/2009 và Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009; cuối tháng 12, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất khoảng 95.000 tỷ đồng, trong đó cho vay hỗ trợ lãi suất lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 8.000 tỷ đồng, cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách 28.000 tỷ đồng.
- Phối hợp giải pháp trong điều hành chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá, các ngân hàng thương mại (NHTM) sử dụng số vốn dự trữ thanh toán để mua trái phiếu Chính phủ, ngân sách Nhà nước có vốn để đầu tư phát triển, tăng tỷ lệ vốn hóa thị trường vốn và thanh khoản của thị trường tiền tệ.
- Nâng cao tần suất, chất lượng và hiệu quả của công tác truyền thông về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
NHẬN ĐỊNH CHÍNH SÁCH NHTW 2010
Trong tỷ lệ lạm phát 11,75% năm 2010 của Việt Nam, chính sách tiền tệ được xem là không thành công trong việc kiểm soát lạm phát của nền kinh tế. Yếu tố tiền tệ đóng góp tới 4,65% và các yếu tố khác góp 7,1%.
Theo dữ liệu trên, yếu tố tiền tệ đã có một “đóng góp” đáng kể trong sự gia tăng vượt chỉ tiêu (dù đã được điều chỉnh) của lạm phát năm 2010 ( mục tiêu của QH đầu 2010 là 7% sau đó được CP điều chỉnh lên 8%)
III. Các biện pháp kiềm chế lạm phát 2011
1, Công cụ hạn mức tín dụng :
Triển khai Nghị quyết 11, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) đã điều chỉnh mục tiêu trần tăng trưởng tín dụng từ 23% xuống còn 20% trong năm. Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, SBV đã yêu cầu các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác phải kìm hãm tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% trong năm; các tổ chức tín dụng hạn chế cấp tín dụng cho những hoạt động không mang tính sản xuất như bất động sản và chứng khoán xuống dưới 22% trong tổng số tiền cho vay tính đến cuối tháng 6/2011, và 16% tính đến cuối năm 2011. Đồng thời SBV sẽ phạt những tổ chức tín dụng nào không đáp ứng được những mục tiêu trên bằng cách bắt buộc tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
2, Nghiệp vụ thị trường mở :
Ngày 4/5, Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện tăng lãi suất thị trường mở (OMO) từ 13%/năm lên 14%/năm.
Ngày 17/5, Ngân hàng Nhà nước đã bất ngờ tăng lãi suất thị trường mở (lãi suất các ngân hàng thương mại mua bán các loại giấy tờ có giá với Ngân hàng Nhà nước) lên 15%/năm..
Việc tăng lãi suất thị trường mở đã giảm một lượng lớn cung tiền M2.
3, Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu
Ngày 29/4/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng.
Theo Quyết định này, NHNN quy định các mức lãi suất như sau: Lãi suất tái cấp vốn: 14,0%/năm (tăng 1%); Lãi suất tái chiết khấu: 13,0%/năm (tăng 1%); Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng: 14,0%/năm (tăng 1%).
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2011.
Đồng thời, Quyết định số 692/QĐ-NHNN ngày 31/3/2011 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng và quy định lãi suất tái chiết khấu tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN ngày 8/3/2011 hết hiệu lực thi hành.
Đây là lần thứ 4 trong năm NHNN nâng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% vào tháng 11/2010 lên 14% vào tháng 4/2011) và là lần thứ 2 tăng lãi suất tái chiết khấu (từ 7% vào tháng 11/2010 lên 13% vào tháng 4/2011). Việc nâng liên tục các lãi suất chủ chốt càng thể hiện quyết tâm của NHNN trong việc siết chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
4 , Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Theo văn bản số 750/QĐ-NHNN 9/4/2011 . Áp dụng từ ngày 01/05/2011
Ngày 1/6/2011, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục có quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng.
Như vậy, việc tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ sẽ trực tiếp tác động đến chi phí huy động vốn bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng . Với thị trường, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng đồng nghĩa với một lượng vốn bị hút khỏi lưu thông.
5, Ổn định tỷ giá :
Sáng 9.4, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 750/QĐ-NHNN có văn bản quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng USD của tổ chức, cá nhân tại TCTD.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng ban hành Thông tư số 09/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng đôla Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi chung là TCTD). Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động vốn đối với lãi suất huy động tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức (trừ TCTD) là 1,0%/năm. Đối với lãi suất huy động vốn tối đa bằng đô la Mỹ của cá nhân là 3,0%/năm.
Mức lãi suất huy động vốn tối đa quy định tại đây bao gồm cả khoản chi khuyến mãi dưới mọi hình thức và áp dụng đối với phương thức trả lãi cuối kỳ. Đối với các phương thức trả lãi khác phải được quy đổi theo phương thức trả lãi cuối kỳ tương ứng với mức lãi suất huy động vốn tối đa.
Ngoài ra, NHNN yêu cầu các TCTD phải niêm yết công khai lãi suất huy động vốn bằng đô la Mỹ tại các địa điểm huy động vốn (Hội sở chính, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm) theo quy định của NHNN. Nghiêm cấm TCTD thực hiện khuyến mại huy động vốn bằng tiền, lãi suất và các hình thức khác không đúng với quy định của pháp luật và Thông tư này.
Ngày 1.6, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) mới ban hành Thông tư số 14/2011/TT-NHNN quy định trần lãi suất vốn huy động bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng là 2%/năm
Theo đó, đối với lãi suất vốn huy động tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức là người cư trú, tổ chức là người không cư trú hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (trừ tổ chức tín dụng) bị giảm từ mức trước đó là 1%/năm xuống còn 0,5%/năm.
Đối với lãi suất vốn huy động tối đa bằng đô la Mỹ của cá nhân là người cư trú, cá nhân là người không cư trú sinh sống hợp pháp tại Việt Nam giảm từ 3% xuống 2,0%/năm.
Mặt khác, SBV cũng tìm cách hạn chế cho vay bằng ngoại tệ đối với việc nhập khẩu những hàng hóa không thiết yếu (bao gồm tất cả hàng hóa tiêu dùng); giới hạn việc nhập khẩu vàng và chỉ cho phép một số ít công ty được nhập khẩu vàng, cấm kinh doanh vàng miếng trên thị trường.Những động thái có tính quyết liệt của SBV đưa ra là nhằm giảm thiểu những giao dịch đầu cơ tích trữ ngoại tệ và vàng để đảm bảo ổn định tiền đồng VND.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro