Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ki uc nguoi linh

Ở về phía thượng nguồn, phía sau chúng tôi, là vùng Kulikovo, nơi mà 6 thế kỷ trước, quân Nga đã đánh bại quân bộ lạc Mông Cổ Mamai. Còn ở trước chúng tôi, cách một khu phân tuyến rộng 300m, là bọn rợ Hitle mà chúng tôi phải tiêu diệt. Ngày 14 tháng 11 năm 1942, trung đoàn chúng tôi được lệnh đột phá và chiếm tuyến phòng ngự của quân Đức. Về cơ bản thì đây là một trận trinh sát chiến đấu: dù vào lúc đó, những người lính không được cho biết về chiến thuật của chỉ huy, chúng tôi không có nhận thức được về sự thật này. Không có pháo binh yểm trợ, chúng tôi ào lên vị trí địch, trong khi đó bọn Fritz – để chống lại bước tiến của trung đoàn chúng tôi- buộc phải bắn bằng tất cả các loại hoả lực, và như vậy làm lộ vị trí của chúng. Đó là yếu tố cần thiết để các chỉ huy xác định chính xác vị trí các mục tiêu cho cuộc phản công sắp tới. Và dĩ nhiên, chúng tôi thất bại trong việc xuyên thủng tuyến quân Đức nhưng đã thành công trong việc xác định hoả lực quân địch. Chúng tôi mất nhiều người trong trận đánh, khi kết thúc, ở tuyến trận địa của chúng tôi chỉ còn đúng một tiểu đoàn trấn giữ.

Bức tranh tổng thể của trận đánh đầu tiên trở nên rõ ràng hơn trong đêm đó, khi trận đánh kết thúc, tôi với những người sống sót đứng nhìn gần khu phân tuyến. Đó là một đêm mưa phùn. Trời trở rét. Trong bóng tối, chúng tôi có thể nghe tiếng đá vỡ lạo xạo dưới chân. Và khi trăng lên, dưới ánh sáng lạnh lẽo, là một quần thể hàng trăm bức tượng mang dáng vẻ con người - những người lính chết cứng trong đá. Một số thì nằm ngửa một cách thẳng thớm, số khác thì xoắn người, vặn vẹo. Người thì ngồi nhổm với cánh tay giơ cao, như thể giục giã đồng đội tiếp tục tấn công. Những khuôn mặt hoá đá với cặp mắt mở trừng trừng và miệng như đang hét. Nhiều thi thể khác chất chồng trên dây kẽm gai, đè bẹp chúng sát đất với sức nặng của chính họ, làm lộ rõ một lối đi đến chiến hào bọn Quốc Xã. Tâm trí của con người không thể hiểu thấu được cảnh đó, khó chấp nhận cái quần thể đông cứng đó là sự thật cuộc sống. Như thể nếu ai đó đột ngột bật camera lên và những khung hình đông cứng có thể bắt đầu chuyển động.

Tuyết bắt đầu rơi. Trận bão tuyết đã che đi những cảnh tượng kinh khủng của cuộc chiến khỏi mắt chúng tôi. Đến sáng, mặt đất như được phủ lên một tấm chăn trắng khổng lồ. Một tấm vải liệm. Và bấy giờ tất cả những gì có thể thấy chỉ là một thảo nguyên trải dài: không vết gợn, thanh thản. Như thể sự trong sạch nguyên thuỷ trị vì một cách bất diệt ở nơi đây. Và điều đó kéo dài đến tận ngày 19 tháng 11.

Phần lớn số đồng đội học sinh sỹ quan của tôi đã hi sinh trong trận đánh đầu tiên đó, là tiền đề cho cuộc phản công thắng lợi của chúng tôi ở khu vực Stalingrad. Tôi tự hỏi Khismatullin có thể biết được rằng họ muốn làm gì trong cuộc đời không? Anh ấy, cũng đã hi sinh trong trận chiến.

Sáng ngày 19 tháng 11 năm 1942, hàng tảng đất to đột ngột bị bẻ vụn từ những bức tường lạnh lẽo của các chiến hào; mặt đất dưới chân lắc lư như thể là một miếng cao su lớn;và không khí cũng rung lên, kích động bởi những thứ gì đó to lớn, một lực vô hình, như muốn xé màng nhỉ và phổi chúng tôi. Lúc đó, qua vùng-đất-không-người, mặt đất nổ tung, văng lên hàng cột sỏi đất lớn lên không trung và rơi xuống như một chiếc khăn trùm đen nặng nề, tối tăm lên chiến hào quân Đức: tiếng súng quân ta, cô đặc vào một tiếng gầm đầy sát khí đơn độc, những sứ giả của cuộc phản công mong đợi từ lâu ở Stalingrad.

Chúng tôi muốn hét lên “Hurrah!” nhưng chỉ phát ra được những âm thanh như “a-a-a…”. Mọi âm thanh rung chuyển! Và thật là lố bịch khi nghe những tiếng be be đó của chính mình và người khác: chúng tôi tốt hơn là nên im lặng khi đại bác lên tiếng! Trong lúc đó, tấm rèm đen từ đất cát vỡ vụng vẫn bao trùng lên chiến tuyến bọn Quốc Xã: “Chưa đủ phải không?” một ý nghĩa chợt đến, “pháo thủ của chúng ta lãng phí quá nhiều đạn, họ phải tiết kiệm một ít!”. Nhưng có lẽ, làm quá một tý so với cái cách quanh đây là tốt hơn.

Tiếng gầm của đại bác đột nhiên ngớt đi. Vào phút đó, từ vùng tuyết sau chúng tôi, hàng trăm chiếc tăng xuất hiện và băng về phía trước, vượt qua chiến hào của chúng tôi. Sau khi nằm xuống và chờ chúng vượt qua chiến hào, chúng tôi nhảy lên: Suvorov, chỉ huy pháo đội mang máy ngắm, tôi, nòng, Fuat Khudaibergenov, giá đỡ, số 4, chân đế và số 5, đạn. Chúng tôi chạy thẳng vào bức tường đầy bụi đen đang chậm chạp rơi xuống.

Chúng tôi vượt qua tuyến phòng thủ của bọn Nazi, nhưng ở đó không còn gì cả trừ đất đá và khói. Không còn bất kỳ một người sống nào! Tốt, có vẻ như sự hi sinh của những đồng đội chúng tôi năm ngày trước đây không phải là vô giá trị: biết được vị trí của hoả lực địch quân, pháo binh phe ta hôm nay đã quét sạch các mục tiêu, và cuộc phản công thắng lợi. Chúng tôi không thể thấy thi thể của quân địch: chúng đã bị chôn vùi trong trận pháo kích.

Tôi nhớ đám quân Rumani đầu hàng mà không chống cự, hô “Antonescu kaputt! Stalin gut! Rus Kamerad gut!” và tiếp tục chơi bài Katiusha (một bài hát Nga rất phổ biến – NV) bằng đàn organ-hơi. Ngựa của họ cũng rất tuyệt: đẹp và chải chuốt. Những bộ yên cương làm bằng da tốt, không cốt yên hoặc vòng cổ mà chỉ là những tấm đai dày và rộng. Thùng xe (ngựa) thì trang trí theo kiểu người Gypsy. Một số trông rất sang trọng với cửa sổ, rèm và chạy bằng bánh cao su. Sư đoàn bộ binh chúng tôi tức khắc chuyển thành kỵ binh! Mọi người đều có một con ngựa! Nhưng sang ngày hôm sau bọn ngựa phải bị bỏ lại.

Đám pháo thủ chúng tôi quyết định thay lũ ngựa lùn Mông Cổ bằng ngựa kéo xe của Rumani. Nhưng ngay hôm sau đã thay ngược trở lại: họ vui mừng thấy đám ngựa Mông Cổ bị bỏ rơi đó không hề chán nản mà vẫn chạy cùng, như những chú chó trung thành. Lông lá, nhỏ bé, tiều tuỵ và ít chăm sóc, lũ ngựa Mông Cổ rất dai sức và phục vụ chúng tôi đến cuối cuộc chiến. Trong khi bọn ngựa nòi Rumani lần lượt bị bỏ lại. Dù đẹp và đỏm dáng, chúng quá mỏng manh cho chiến tranh.

Bạn đã từng thấy một con ngựa bị thương chưa? Tôi đã thấy. Đó là con ngựa tôi đã cưỡi được vài cây số, cho đến khi một quả đạn nổ cạnh chúng tôi. Tôi rớt xuống sau khi lộn vài vòng trong không trung. Khi đó tôi thấy con vật: chân trước cố chống lên, cử động giật cục như đang nhảy; toàn thân nó đẫm mồ hôi, các cơ rung lên với một cố gắng vô vọng. Con vật tội nghiệp không hiểu rằng nó không thể đứng dậy được nữa. Mũi nó phập phồng, hồng hồng và thấm đẫm máu. Nó rên rĩ như người, và nhìn tôi với cặp mắt mở to, nó khóc. Tôi đứng gần đó nhưng không đủ nghị lực để bắn. Vài người lính già đã dừng lại và chấm dứt sự đau đớn cho con ngựa tội nghiệp. Họ rút khẩu carbine dí vào tai nó và bắn. 

Tôi đang khóc khi viết những dòng này. Chú ngựa đã chết đó nghĩ gì khi nó nhìn tôi với cặp mắt mở tròn? Rằng con người là một giống loài bệnh hoạn, một quái trạng của tạo hoá? Không, quan điểm này chỉ được biết bởi chính con người. Ở thời khắc sau cùng, con ngựa đã mong đợi ở tôi – một con người – sự giúp đỡ và bảo vệ

Vùng Kalach bên bờ sông Đông được giải phóng bởi lực lượng tăng. Lũ bộ binh chúng tôi chỉ tiến vào thị trấn đã đựơc tự do đó một ngày sau. Chúng tôi không tham gia vào chiến dịch đó, chúng tôi chỉ đi qua vùng này thôi. Trước khi vào Kalach, khi đơn vị chúng tôi đang hành quân kéo dài trên xa lộ -  vài tay cưỡi ngựa, những người khác thì đi bộ – đột nhiên chúng tôi nghe tiếng hét…

- “Máy bay oanh tạc”

Máy bay nào? Hôm nay trời mù sương! Rồi tôi nghe tíêng động cơ ro ro. Tôi thấy bọn chúng: những chiếc máy bay ném bom bụng phệ của bọn Đức, bay thấp dưới 100m. Chúng ngay trên dòng người của chúng tôi, thảy xuống những món đồ của thần chết.

Bom rơi như mưa trên lộ, nhưng chúng không nổ liền. Trong vài giây, tôi cố chạy lên phía trước, nhảy qua những người nằm chúi xuống đất khi nghe báo động. Tôi chạy tránh hoặc nhảy qua những quả bom vừa rơi xuống, có chừng mười quả trước mặt tôi. Tôi nghe những tiếng nổ phía sau – tiếng ầm vang liền nhau, vụn đất rơi trên đầu.

Đột nhiên, trong đầu tôi loé lên rằng tôi phải chuyển hướng chạy, nên quẹo phải rời khỏi con đường. Và tôi đã làm như vậy. Nhưng ngay lúc đó, trứơc mặt tôi, tôi thấy một vật kim loại bự lăn tròn trong hào. Tôi không có thời gian để đi vòng qua nó. “Nó rơi xuống bao lâu rồi?” tôi tự hỏi “mình có làm được không?”. Tôi cảm thấy bực bội khi  nhảy qua nó bởi vì tôi thấy mình chậm quá, như thể có một khối nam châm lớn đang hút tôi lại. Sau chừng nửa phút, tôi chạm được đến đất. Có thứ gì đó bay qua đầu tôi và rớt xuống phía trước. Tôi nhảy qua. Cái gì vậy? Một cái đầu ngựa cùng với dây cương: tôi nhận ra đó là con ngựa của trung đội trưởng. Tôi nhào xuống và dán người sát đất, tìm một chỗ trú ẩn. Sức nổ xé tan chiếc ba lô sau lưng tôi và ném nó đi. Đờ đẫn, tôi chệch choạng đứng lên, ho và nôn mửa như muốn dốc ruột ra. Đất đen quanh tôi – hoàn toàn không còn tuyết – những mẫu chân tay đẫm máu, mùi cháy khét, tai tôi đau nhứt.

Chiếc cầu qua sông Đông, vốn được lính tăng dùng để đột kích vào làng, đã bị không quân Đức phá huỷ: chúng tôi qua sông trên mặt băng trơn nhẵn, hầu như không thể đi. Nặng nề với nòng, với giá đỡ, chân đế của khẩu cối, chúng tôi hoàn toàn có thể làm vỡ băng – đặc biệt nếu ai đó bị trượt ngã – và tất cả sẽ kết thúc trong dòng nước lạnh lẽo. Chúng tôi được lệnh mang đầy đất trong mũ, trong vạt áo khoát và ném chúng ra phía trước, mỗi người đi cách nhau 5m. Bằng cách đó, chúng tôi lần lượt vượt qua lớp băng mỏng manh, lấp lánh.

Mặt băng võng xuống dưới chân chúng tôi, đe doạ sẽ vỡ bất kỳ lúc nào. Chung quanh tôi chỉ nghe những tiếng thở nặng nề và những tiếng càu nhàu khe khẽ. “Yên nào”, “Cậu đi nặng như voi ý!”,”Cẩn thận”. Cây cầu ở gần đấy. Đội công binh sửa trên đó trông như một bầy kiến. Xe hơi, xe ngựa dồn cứng trước cầu và vẫn còn rất nhiều đang đi đến. Pháo cũng phải chờ công binh sửa các nhịp cầu hỏng, vì lớp băng quá mỏng để có thể đi qua được. Nhưng còn chúng tôi, bộ binh thì đã sẵn sàng bên tả ngạn. Thiết giáp của chúng ta ở đâu nhỉ? Trên tất cả các ngả đường từ sông Đôn đến thị trấn – trong chiến hào, trong mương rãnh, dọc đường – chúng tôi thấy nhiều xác quân Nazi và những khí tài hỏng của chúng. Lực lượng tăng-thiết giáp hoạt động rất tuyệt.

Chúng tôi đến Kalach vào lúc rạng đông. Những con phố vắng là chứng nhân cho các phi vụ ác liệt của quân địch. Mọi thứ đồ đạt, của cải, bị bỏ lại – rơi vãi chung quanh. Những cánh cửa sổ mở toang, kính vỡ ở khắp nơi. Dường như bọn Fritz nhảy qua cửa sổ xuống đường. Ở đằng kia, mọi người có thể thấy một xác lính Đức mặc áo dài, tựa vào bậu cửa…

Quân địch ở đâu nhỉ? Cách đó tám kilomét là Illarionovskaia, một ngôi làng lớn. Tiểu đoàn trưởng Dudko và chính uỷ Alexander Chetkasov cho gọi tôi và một anh Mayorov nào đó, một học sinh sỹ quan trường Không ảnh Orsk (Orsk Aerial Photography School). Chúng tôi được lệnh rằng chúng tôi có 4 tiếng đồng hồ để đến đó, tìm hiểu xem bọn Đức có đó không và báo cáo lại. Mayorov lớn hơn tôi chừng 2,3 tuổi, một tay tráng kiện, chắc nịch và tầm thước. Anh ấy được giao chịu trách nhiệm. 

Để tiết kiệm thời gian, chúng tôi quyết định là sẽ đi xa chừng nào có thể trên chiếc xe đạp lấy được. Lúc đó là 8h chiều. Chúng tôi đạp tốc lực trên đường mòn vẹt bởi bọn Đức rút lui, vượt qua những chốt tiền tiêu và biến vào bóng tối.

Một lát chúng tôi đến một ngã ba đường. Tôi không biết Mayorov thế nào, còn ở trường bộ binh Tashkent, họ dạy chúng tôi những điều cơ bản về một cuộc trinh sát đêm: vì thế khi anh bạn đồng sự quyết định rằng chúng tôi nên chia ra và mỗi người đi một lối, tôi thuyết phục anh ấy rằng như vậy quá nguy hiểm. Nếu bọn Đức đang chiếm ngôi làng và đội tuần tra của chúng ở đâu đó gần đây thì sao? Tôi cho rằng cả hai con đường đều đến làng Illarionovskia nhưng từ các hướng khác nhau, và sẽ tốt hơn nếu hai người cùng đi trước-sau, như vậy người đi sau có thể yểm hộ cho người đi trước. Nhưng Mayorov không nghe.

“Cậu sợ à?” anh ấy lên giọng hỏi. Bấy giờ, tôi không có cách nào hơn là tuân lệnh, bởi tôi không muốn bị cho là một kẻ non gan, và cũng vì mệnh lệnh không phải là thứ để tranh cãi.

“Chúng ta sẽ gặp lại ở đây!” Mayorov gầm gừ,” nếu thấy xe của tôi còn ở đây thì đợi tôi chừng 15,20 phút, không hơn”. Và sau đó anh ấy chọn đi một lối và tôi lối còn lại…

            Tình hình đột nhiên trở nên vô vọng. Nếu bọn Đức còn trong làng, thì chúng sẽ đặt lính gác: ẩn nấp, nguỵ trang và nằm chờ. Còn tôi thì đi thẳng về bọn chúng, lộ rõ và không có yểm trợ: không phải như một tay trinh sát mà như một người tù chuẩn bị ra thẩm vấn – một con mồi dễ dàng cho quân địch. Trong giây lát chúng có thể xuất hiện ở quanh đây, trói gô tôi mà không có ai phía sau bắn chúng.

Tôi cầm quả lựu đạn chống tăng ở tay trái, để có thể rút chốt an toàn bằng tay phải. Tôi sẽ không để chúng bắt sống tôi. Nhưng tôi thấy bất an với hành động “trinh sát” điên khùng này.

Gợm đã, Mansur!  Ngộ nhỡ trực giác của mi sai, và đúng ra là chỉ có một con đường đến Illarionovskai thì sao? Như vậy rõ ràng là quyết định phân chia ra của Mayarov là đúng. Đầu óc tôi xoay sang những khả năng khác, tất cả đều xì xào “Hãy sẵn sàng hi sinh, nhưng phải giữ tinh thần, và chuẩn bị cho mọi điều”.

Tôi nằm xuống đất và cố tính xem tôi có thể thấy bao xa từ đây – có lẽ chừng 200m. Thảo nguyên phía trước tôi phủ đầy tuyết. Tôi không nghe thấy âm thanh gì đáng ngại (Tôi biết đất truyền âm tốt). Và đây là cách tôi đi: cứ mỗi 200m, tôi áp tai vào đất, lắng nghe một chút, rồi nhổm dậy, đi và rồi lại nằm xuống…

Đột nhiên tôi nghe tiếng ngựa ợ hơi. Mi thật may mắn, Mansur ạ! Phát hiện ra kẻ thù trước là cứu được mạng! Tôi trườn về phía trước vài mét như một con rắn, khẩu tiểu liên và lựu đạn sẵn sàng.

Tôi thấy hai người đàn ông trên lưng ngựa. Nhưng lũ ngựa không phải loại dành cho kỵ binh mà ngựa kéo xe. Tôi bối rối. Cả hai người đó đều đội ushanki (mũ lông trùm tai truyền thống của người Nga-NV), vậy họ không phải là bọn Nazi. Họ phi rất chậm và nói chuyện khe khẽ. Có thể chúng là bọn Politsai (lực lượng cảnh sát bản địa do Đức dựng nên – NV)? Nhưng tôi không thấy mang vũ khí. Bấy giờ họ đã đến trước mặt tôi.

“Đứng lại, giơ tay lên!” họ dừng lại và giơ tay ngay lập tức. “Các ông là ai? Từ đâu đến và đi đâu?”. Hai tay đó im lặng, nhìn tôi một cách nghi ngại. Tôi tiến gần họ, tay lăm lăm khẩu tiểu liên. Khi nhìn thấy bộ quân phục Hồng quân, họ bắt đầu luyến thoắng: rằng họ từ làng Illarionovskaia và rằng bọn Đức đã thiết lập phòng thủ ở đó. Tôi lục soát và tin rằng họ nói thật, tôi gửi họ về trung đoàn để báo cáo. Còn tôi thì quay trở lại nơi Mayorov và tôi để xe đạp lại. Tôi chờ Mayorov, nhưng anh ấy đã không trở lại dù 20 hay 40 phút ….

Khoảng 5 ngày sau, chúng tôi tiến công vào làng Illarionovskaia. Khi bọn Đức đã bị đá ra ngoài, chúng tôi tìm thấy thi thể đầy thương tích của Mayorov gần sở chỉ huy bọn Nazi. Anh nằm úp mặt. Trên đầu còn một lớp lót nhưng không thấy nón. Áo khoát cho thấy dấu vết của thắt lưng (anh ấy có một cái thắt lưng rất rộng theo kiểu Rumani) và chân vẫn còn giày, xà cạp. Những tù nhân của bọn Đức chứng nhận rằng anh đã không hé nửa lời trong các cuộc thẩm vấn và sau đó anh bị bắn chết. Chúng tôi chôn anh trên một quả đồi nhỏ phía bên phải ngoài làng. Anh sinh ra ở vùng Oriol.

Sau khi trận bom mà tôi đã kể trước đây, chúng tôi rời tàu, đại đội hành quân từ ga Filonovo về phía sông Đon. Trong suốt cuộc hành quân chúng tôi không nhận được chút bánh mì nào, bởi vì bộ phận hậu cần bị lạc và không tìm được chúng tôi. Anh em rất đói, đến nỗi tôi bắt đầu nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị chết đói hơn là bị bắn bởi quân Nazi. Đói lả, mọi người đều nản lòng. Chúng tôi yếu đến mức không còn sức để chửi bộ phận hậu cần. Trước đó, anh em mong sớm qua sông Đon và có mặt ở tiền phương. Nhưng giờ thì đầu óc tôi quay mòng mòng! Giá mà lúc đó là mùa hè, tôi sẽ kiếm vài thứ cỏ và rễ nào đó để ăn. Tôi chắc chắn sẽ tìm được chúng dù đây là thảo nguyên chứ không phải là rừng Siberi..

Sau khi chúng tôi đến điểm tập kết, ở sông Đôn, sỹ quan quân nhu, một thượng sỹ (có lẽ bản gốc là starshina-chức chuẩn úy quân nhu. Danngoc), đột nhiên lại xuất hiện. Dù rất mừng đã tìm thấy được chúng tôi, anh ta, tuy thế vẫn rất lo lắng: vì lỗi của mình mà cả một đại đội bị bỏ đói cả tuần. Lúc đầu, tôi tưởng anh ta chả mang theo tý bánh mỳ nào bởi vì trước đây trông anh thường béo tốt hồng hào, còn bây giờ thì hốc hác và tái nhợt, rõ ràng là yếu đi bởi đói, chỉ đủ sức lê bước thôi. Nhưng lũ ngựa của anh thì khoẻ mạnh, béo đến nức vai, kéo theo một toa xe hai bánh lớn, nặng trĩu.

Tay thượng sỹ lê vào giữa đám – đang nằm mê mệt trên mặt đất – mời đến nhận bánh mỳ, đường, makhorka. Chúng tôi có thể nghe thấy mùi bánh mỳ đen trong toa xe, và bắt đầu đến. Tuy chả ai còn đủ sức để gắt gỏng, nhưng chúng tôi vẫn quyết định là sẽ ăn trước rồi chửi anh ấy sau!

Mỗi người được một ổ bánh. Viên thượng sỹ vội giải thích rằng anh đã phải cho ngựa ăn bánh mỳ. Chúng tôi không trách, bọn ngựa trông béo tốt, và nếu không có bánh mỳ chúng không thể kéo xe. Thực vậy, nếu chúng chết thì toàn bộ bánh mỳ chắc mất, dù gì thì tay thượng sỹ cũng là một người được!

Anh ta cắt một mẩu bánh nhỏ từ ổ bánh và khuyên chúng tôi làm theo anh.  Anh bảo chúng tôi không nên ăn quá 100g cho lần đầu, không thì sẽ bị đau dạ dày. “Này các cậu, đừng ăn tham quá” anh ấy nói “sẽ bị đau đấy! Các cậu chỉ nên mút từng tý, như ăn kẹo ấy, từng mẫu một thôi!”. Pavel Suvorov gật đầu đồng tình: “Thượng sỹ nói đúng, anh ấy biết mình đang nói gì”.

Không khí ẩm uớt của đầu tháng 11 loang đầy mùi chua của bánh mỳ đen. Chúng tôi gần như thở ra bánh mỳ. Dạ dày từng người tham gia vào việc hấp thụ nó. Cuộc sống trở lại với chúng tôi, mang lại cảm xúc cho từng người, và nhớ rằng chúng tôi đã gần chết như thế nào. Chúng tôi cười nhạo tay thượng sỹ với vẻ mặt lo sợ khi nhìn thấy chúng tôi nằm thẳng cẳng trên đất. Và cũng cười vì một anh quân nhu béo tốt ngày nào giờ trơ xương như mọi người. “Tôi không đụng tới bánh mỳ”, anh nói, vui vẻ với lương tâm trong sạch “tôi no, nhưng cả đại đội đói!!”. Giờ thì mọi việc ổn cả và chúng tôi có một buổi tiệc thực sự.

Nhưng lại có việc không vui. Tôi muốn ăn thêm một miếng nữa nhưng ổ bánh trong giỏ của tôi biến mất. Tôi không tin vào mắt mình! Mọi người trong đại đội trở nên kích động. Tiếng la lối của anh em tới tai tiểu đoàn trưởng. Lúc đó chỉ huy là đại uý Feodor Gridasov. Anh ấy lùn, tóc cắt ngắn và mặt đỏ như thể anh mới vừa từ bania (tức nhà tắm hơi kiểu Nga – NV) ra. Anh luôn đeo huân chương Cờ đỏ (Order of the Red Banner ??) trên ngực. Gridasov đã bị thương, sau một thời gian trong bệnh viện, anh vừa trở về trung đoàn chúng tôi. Tiểu đoàn trưởng hỏi việc gì đang xảy ra. Bất đắc dĩ, chúng tôi thuật lại. “Tên vô lại đó sẽ bị bắn tại chỗ!”, anh tháo bao súng và lấy khẩu súng ngắn ra.

Mọi người trong đại đội vớ lấy ba lô và giốc ngược mọi thứ bên trong ra áo mưa. Chỉ còn một cái còn cài, và chủ nó dường như lo lắng phải mở nó ra. Hiểu rằng số mệnh đã định, anh ta cuối đầu tránh những cái nhìn thấu xương của chúng tôi. Anh bắt đầu (mở) khi nghe viên đại uý lên đạn súng lục. “Soát cái đó!”, tiểu đoàn trưởng trỏ vào cái ba lô. Tôi chen qua Nikolai (nên của người ăn cắp), đẩy hắn sang bên, theo lệnh của tiểu đoàn trưởng, cúi xuống ba lô và ngay tức khắc đưa tay vào trong ba lô. Ở đó, những ngón tay tôi nhận thấy có hai ổ bánh mỳ. Mọi người chờ đợi trong yên lặng. Tôi đứng dậy: lập nghiêm rồi báo cáo: “Không thấy ổ bánh bị mất!”.

Trong giây phút, gương mặt đại uý thoáng qua vẻ bối rối, nhưng rồi mất ngay, và trong mắt anh, tôi đọc được “Good man!” (chỗ này em không dịch vì để vậy hay hơn-Tieungoclang). Anh bỏ súng lại vào bao và không một lời, quay bước về lại sở chỉ huy.

Anh em trong đại đội nhẹ nhõm thở phào. Không ai nói gì thêm về ổ bánh bị mất, và mỗi người cắt một mẫu bánh của họ, cho vào áo tôi. Còn Nikolai thì lấy tay che mặt, nằm yên cạnh đồ đạt của anh xuống vài tiếng đồng hồ. Một người đã bị kết án với một cái chết thổ thẹn đã được tha thứ….

Hai hay ba tuần sau đó, Nikolai bị thương nặng ở phổi do một mảnh đạn pháo. Chúng tôi có thể nghe tiếng rít không khí khi chúng vào ra ở ngực anh ấy. Chuyện đó xảy vào một một đêm sau sự kiện làng Illarionovskaia. Không có quân y trong tiểu đoàn chúng tôi. Sau trận đánh, chúng tôi tự thu nhặt và mang thương binh đến các bệnh xá, vốn thường nằm gần trung đoàn bộ – hơi xa, theo ý tôi! Bất hạnh thay, lúc ấy đại đội lại bị bỏ đói 24 giờ, và chúng tôi lại sốt ruột nằm chờ cấp dưỡng đến, khi đó tôi lại được lệnh mang thương binh về tuyến sau.

Trời sụp tối rất nhanh, tôi đeo đai của chiếc cáng tải thương tự chế có gắn ván trượt vào người. Tôi lập tức lên đường, chậm chạm kéo theo người bị thương nằm sóng xoài, trong khi đầu óc miên man nghĩ về việc bao giờ thức ăn đến và khi nào tôi trở về. Nikolai vẫn bất tỉnh. Ván trượt dưới cáng tải thương gây ra tiếng động rào rào khi đi qua tuyết, vì vậy tôi chỉ có thể xác định anh ấy còn sống không khi dừng lại. Tôi dừng và lại dừng, cứ mỗi lần lại lắng nghe tiếng rít ở ngực người lính bị thương: anh ấy vẫn chưa chết. Tôi tự ép mình phải đi vòng qua những chiến hào và hố đạn pháo. 

Đêm xuống, tôi bắt đầu nghĩ rằng tất cả những cố gắng này là vô nghĩa, vì thương binh sẽ chết trước khi tôi kịp đưa anh đến trạm phẫu, khi đó đột nhiên tôi nghe tiếng gọi:

- “Mansur…”.

Tôi dừng lại. Phải chăng tôi tưởng tượng? Không! Nikolai tỉnh lại.

Tôi cố cửi dây đai và đi lại chỗ anh ấy:

- “Masur, bắn tôi đi … hoặc để mặc tôi lại nếu anh không thể… tôi làm anh kiệt sức mất…”

Nhưng lời anh ấy như làm tăng sức mạnh của tôi! Tôi tròng đai vào và tiến lên, không hề dừng lại, như thể tôi trốn chạy khỏi những suy nghĩ tối tăm đáng thổ thẹn: như tôi đã thú nhận, đầu chuyến đi, đâu đó trong óc tôi, có hi vọng rằng Nikolai sẽ chết và tôi có thể thoát khỏi gánh nặng này, rằng tôi có thể quay lại đúng lúc để có được một suất ăn nóng hổi. Tại sao điều xấu và điều tốt lẫn lộn trong tôi?! 

Tôi trông có vẻ kinh khủng trong đêm tối: răng nhe ra, thở khò khè, mắt như nhảy ra khỏi hốc. Nhưng tôi quyết đưa Nikolai đến trạm phẫu dù còn sống hay chết! Tôi không thể nói rằng tôi đã cứu sống anh ấy lần thứ hai bởi vì một sự ưa thích biệt lệ với anh. Chỉ là tôi cố gắng để có một lương tâm trong sạch, quyết tâm chiến thắng con quỷ tồi tệ – điều mà tôi ghét – đang có trong tôi!

Tôi như chìm ngỉm trong khe núi chen đầy những đơn vị thuộc tuyến sau. Mùi thức ăn ngon hoà lẫn với mùi phân ngựa, mùi khí đốt, mùi cỏ khô sộc vào mũi, làm đấu óc tôi choáng váng! Khi đến được khu hầm trú ẩn, tôi thấy được ánh sáng hắt ra từ những ô cửa nhỏ. Tôi thử vào một trong số các hầm, cửa mở ra: tôi hỏi với một giọng khản đặc rằng tôi có thể đưa thương binh vào đây không.

 “Trung đoàn nào?”. Một tay hộ lý có gương mặt mập bự đứng trước mặt tôi hỏi 

-         “1034” Tôi trả lời

-         “Vậy thì anh phải đi tiếp thôi, đây là trung đoàn 1026” và cánh cửa nặng nề đóng sầm lại.

Đột nhiên tôi thấy rã rời, không thể kéo Nikolai đi cho dù chỉ một bước. Anh ấy đang rên rỉ và nói cuồng. Tôi tiếp tục đi. Tôi có thể làm gì với tay quan liêu kia? Tôi những muốn nã một phát đạn vào cái trán hẹp của hắn: nhưng khi đó tôi sẽ đối mặt với một phiên toà quân sự và một phát đạn để đổi lại!

Đến một hầm trú ấn khác (những hầm này vốn được bọn Nazi dựng lên, đẹp). Tôi gõ cửa và lại một tay hộ lý khác xuất hiện, một làn hơi đầy mùi vị bao quanh. Tôi hỏi:

-         “ Trạm xá nào đấy”

-         “1036” anh ta trả lời

-         “Chúng ta đúng chỗ rồi” Không chút lưỡng lự, tôi nói dối ngay “ đây là một thương binh nặng!” ---(ghi chú: trung đoàn Mansur thật ra là 1034)

Tôi bước sải vào trong hầm, không nhìn lại phía sau, đến đứng cạnh một cái bàn như thể  là chủ chỗ này. Những cô y tá mang Nikolai vào, anh vẫn còn nằm trên cáng.

-         “Cho tôi chút gì để ăn với” tôi nói.

Một đĩa cháo lúa mạch đặc, nóng, thơm ngát đặt ngay trước mặt tôi. Tôi ăn và ngủ gục ngay trên chiếc bàn đó.

Họ đánh thức tôi dậy khi trời vẫn còn tối vì biết rằng tôi phải về lại đại đội trước lúc rạng đông. Tôi đã ăn sạch phần cháo nên họ cho tôi nửa ổ bánh mỳ để đi đường. Tôi nghe tiếng gọi:

-  “Mansur, lại đây…”.

Tôi đến góc xa nhất của căn hầm: Nikolai của tôi vẫn còn sống! 

Còn nói về xe nhà bếp, có một tay anh nuôi tại tiểu đòan bộ binh chúng tôi, một tay chuẩn hạ sĩ (lance coporal – khó dịch quá vì không có trong QĐ VN) có cái họ ngộ ngĩnh: ‘Tsibulia’, trong tiếng Ukraina có nghĩa là ‘củ hành’. Tên của anh ta là Kuzma. Cánh bộ binh chúng tôi, khi nhận phần cháo đặc của mình, thườngcười trêu anh ta, trêu chọc cái họ của anh, cái họ dường như quá hợp với công việc của anh: ‘Kuzma, nói thật cho chúng tớ xem! Cậu tự chế ra cái tên ấy cho mình là có mục đích, để các thủ trưởng sẽ ban cho cậu một vị trí ấm áp, nơi cậu có thể chén thả cửa tùy thích phải không?’ Thành thạo đảo cái muôi cháo, anh ta trả lời, ‘Ô, mấy anh chàng này! Giá như tên của tớ khác đi, tớ hẳn đã không phải hùng hục làm cái công việc như nô lệ này!’ 

Khi Tsibulia chia cháo cho chúng tôi, anh ta có thể phân biệt chính xác – thậm chí cả trong bóng tối – anh lính có tính cách ra sao đang đứng trước mặt: ‘Tớ có thể nhìn thấu qua cậu, và tớ biết rằng cậu chưa nhận được phần cháo!’ Tay binh nhì xấu hổ và không thốt nổi lời nào. Một tay lính khác đi tới với chiếc cà mèn thiếc: khẩu súng trường lấp lánh, chiếc xẻng của anh ta sắc như lưỡi dao cạo, vì thế có thể sử dụng trong chiến đấu như một thanh kiếm; trong balô anh ta có hai quả lựu đạn chống tăng và đầy một cơ số đạn; anh ta mệt lử và hốc hác, giống như một nông dân quen lao động cực nhọc. Trong trường hợp ấy, Tsibulia khá hào phóng với món cháo và múc cho anh một suất thứ hai. Rồi kế tiếp là một anh chàng ‘bảnh bao’: anh ta khóac một chiếc áo chòang sĩ quan và đeo một chiếc dây lưng sĩ quan còn mới, rộng bản, có lẽ chôm chỉa được ở đâu đó; thắt lưng anh ta đeo một khẩu Parabellum lấy được của bọn Đức; còn trên đầu là chiếc mũ lông Astrakhan. Thay vì một cà men lính theo quy định, chàng ‘bảnh bao’ có một cái hộp kim lọai tháo từ bao đựng mặt nạ phòng độc của Đức, có thể chứa ít nhất bốn suất cháo. Với một thái độ nghiêm nghị anh ta đứng trước mặt anh nuôi với ‘cái xô’ ấy và yêu cầu: ‘Đổ đầy vào!’ Tsibulia không tranh cãi với anh ta, nhưng lặng lẽ đổ vào chỉ một phần cháo, mặt luôn giữ một vẻ lạnh lùng với anh chàng ‘bảnh bao’ kia. Anh kia không nhúc nhích mà khăng khăng: ‘Tại sao, hả đồ chó, mày có cả chảo đầy thế kia mà!’ ‘Ừ, chỗ cháo này chắc chắn còn nhiều hơn cả mớ óc trong đầu của ku em đấy!’ Chúng tôi cười nghiêng ngả, đến nỗi quân Đức nghe thấy thế liền bắn sang mấy lọat đạn. Trên ngực áo khóac của Tsibulia ta có thể thấy một chiếc huy chương. Anh ta có quyền tự hào về nó, anh ta thực sự xứng đáng nhận nó, vì anh ta đã hành động như một anh hùng… 

Đó là vào một ngày bộ chỉ huy sư đoàn lệnh cho đại đội chúng tôi tiến công quân địch, để “nắn thẳng” một địa đoạn chiến tuyến. Trong đêm, dưới hoả lực hỗ trợ của pháo binh, chúng tôi bò đến sát chiến hào quân Fritz và ào lên tấn công; đánh cận chiến. Quân ta hi sinh rất nhiều – bởi phe địch đông hơn chừng 3 lần – tôi đã tưởng chừng như cả đại đội sẽ bị xoá sổ, như theo mệnh lệnh số 227 “Không lùi!” của Tổng tư lệnh tối cao (Mệnh lệnh số 227 của Stalin ban hành tương tự như mệnh lệnh “Trụ vững” của Hittler vào mùa đông 1941. Trong đó, mọi binh sỹ tiền tuyến bị cấm rút lui, và được giám sát bởi các đơn vị đặc biệt, vốn có quyền bắn bỏ những ai định làm như vậy – ND). 

Vào thời khắc định mệnh đó, một phép màu đã xảy ra. Chúng tôi nghe thấy tiếng tiểu liên ở sau lưng quân địch, và lập tức tất cả bọn Nazi biến mất khỏi chiến hào! Sau đó, chúng tôi rất ngạc nhiên thì nhận ra rằng, chính Tsibulia – tưởng như đang ngủ trong chiếc xe ngựa hậu cần hai bánh của anh ta – đã thâm nhập vào tuyến địch. Thì ra, bọn ngựa bị những phát đạn nổ gần làm hoảng sợ đã phi thẳng về chiến hào kẻ thù, mang theo tay anh nuôi đang ngủ gà gật. Khi Tsibulia tỉnh dậy, nhận ra tình thế, và anh bắn ngay vào quân Fritz, với hi vọng rằng, ít ra, đổi mạng mình với giá đắt nhất: chính hành động anh hùng đó đã mang lại cho Tsibulia huy chương Vì lòng dũng cảm. 

Là bí thư chi bộ đại đội, tôi phải làm tròn cái nhiệm vụ không mấy vui vẻ của mình: thu thập thẻ quân nhân từ các tử sỹ. Lúc đó, tôi quay lại và nhanh chóng cửi ba lô ra khỏi thi thể anh ta. Nhưng tôi không thể hiểu nổi cái vật nặng gì đã đập vào đầu anh chàng Siberia này, chắc chắn đó không thể là một bộ phận nào đó của khẩu cối. Tôi lật tấm bạt của anh lên và kinh hoàng nhận ra rằng đó là một chiếc máy khâu (máy may) xách tay! Tôi cảm thấy đau khổ. Ôi, nguyên nhân thật sự của cái chết là đây! Tay Siberia này là một chiến binh quả cảm với cái đầu lạnh và mạnh mẽ. Nhưng là một người dân, anh cũng là một người công nhân tốt và là một người đàn ông tử tế với gia đình. Với anh, chiếc máy khâu chính là biểu tượng của sự phồn thịnh. Anh muốn mang nó về sau chiến tranh để tặng cho vợ.

Tôi nhớ lại cuộc sống trước chiến tranh: một chiếc máy hát, hay một chiếc xe đạp là đã đủ hiếm rồi, còn với máy khâu, thì chỉ có hai cái cho toàn bộ dân làng tôi! Và giờ đây, một trong những cái máy khâu đó, thật kỳ lạ, đã giết chết người đàn ông Siberia này: vì tôi không tìm thấy một vết thương nào trên người anh. Chẳng qua là anh bị trượt chân khi đang vận động và ngã xuống. Tôi đã không nói với ai trong đại đội về tai nạn này – vì không muốn người đã khuất bị chì chiết hay bị phán xét một cách khắc nghiệt – nhưng có lẽ tôi đã sai? Bởi lẽ đây có thể là một bài học tốt cho mọi người.

Lữ đoàn tăng số 69 tham gia chiến đấu ở cùng khu vực của sư đoàn bộ binh 293 chúng tôi. Bên lính tăng đã có một khoảng thời gian khó khăn. Quân Đức tăng cường mạnh mẽ cho lực lượng chống tăng đang phòng thủ và những chiếc tăng phe ta phải chịu đựng thêm nhiều quả đạn xuyên giáp. Một trong số chúng bắn trúng chiếc tăng mà đại đội tôi theo tùng thiết. Chiếc xe bùng cháy dữ dội như thể làm bằng gỗ. Một lính tăng nhảy ra, người anh bị bén lửa từ đầu đến chân, hét lên “ Cứu lấy đại tá!”. Anh nhào xuống tuyết và lăn tròn, cố dập tắt lửa trên người. Trong khi vẫn cố hét: “Này anh em, hãy cứu lấy đại tá!”.

Mọi người cố chạy vòng chiếc tăng bị cháy. Nó có thể nổ tung trong vòng vài giây. Tôi muốn  thoát ra như mọi người khác. Tôi phải nhanh lên – đây không phải là việc chậm buổi uống trà hay gì khác – mà tôi đang trong một trận chiến. Bộ óc láu cá của tôi nghĩ đến một lý lẽ bào chữa: những người chạy trước tôi có nhiều thời gian để cứu người bị mắc kẹt hơn, bởi một chiếc tăng thường sẽ nổ tung chỉ sau hai hoặc ba phút bắt lửa. Nhưng lương tâm tôi lại ở phía khác, nó bảo rằng: “Đừng để mất giây nào cả, hãy leo lên chiếc tăng!”. Trí óc tôi thì bác lại: “Không thể! Không thể kịp”. Nhưng lương tâm đã chiến thắng, và tôi đã cảm thấy sức nóng cùng tiếng rít sèo sèo của vỏ sắt chiếc xe dưới đôi găng ẩm ướt. Thật nan giải. Tôi không thể trèo lên và thấy không có thanh kẹp hay một mấu lồi nào để bám. Nhưng đã quá trể để dừng lại, tôi nhảy lên cho đến khi thấy có thể xoay sở được chỗ trèo. 

Từ cửa sập trên đỉnh, một màn khói nóng, cay xè sộc vào mặt tôi. Lúc đó, đôi bàn tay của người lính tăng bị kẹt túm chặt lấy áo khoát của tôi. Tôi cúi xuống, đưa tay vào sâu hơn – như vậy dễ lôi ông ấy ra khỏi cái cửa hẹp hơn – nhắm chặt mắt và quay mặt sang nơi khác: dù sao cũng không thể nhìn thấy gì qua làng khói dày đặc. Cuối cùng (chưa bao giờ có một thân người nào cho tôi cảm giác nặng như vậy), tôi lôi được ông ra và chúng tôi nhào xuống lớp tuyết êm ái. Vâng, rất êm ái, nhưng chúng tôi không thể ở đấy! Viên đại tá bị gãy cả hai chân. Tôi lôi ông xa chiếc tăng chừng nào có thể được, chừng 20, 30 mét. Vụ nổ thật dữ dội. Tháp pháo bị bắn tung lên chừng 5 thước trong không trung, lộn vòng và đâm sầm xuống đất. Những mảnh kim loại tung toé lên trời. Vị đại tá ôm lấy tôi: “Ôi con trai ta! Ta sẽ không quên đâu! Tên con là gì? Abdulin? Ta sẽ không quên! Mà này, hãy giữ khẩu súng ngắn này…”. Vài tay lính tải thương chạy đến, đưa ông lên cáng trượt và kéo ông về phía sau ….

Ba mươi năm sau, nguyên soái Oleg Losik, người trong những ngày đó chiến đấu trong thành phần của quân đoàn cơ giới 4 bên cạnh sư bộ binh 293, đã giúp tôi xác định danh tánh viên đại tá: Chính uỷ tiểu đoàn G.V. Provanov của Lữ tăng số 69.

Chắc chắn rằng chúng tôi đã không chiến đấu vì những tấm huy chương. Khi tôi trèo lên chiếc tăng đang cháy, tôi không nghỉ gì về việc thưởng công. Tôi chỉ nghĩ rằng “ Ta sẽ phải làm được trước khi nó nổ!”. Tuy nhiên, đồng đội tôi (một trong số họ, Ivan Yevstigneyev, vẫn sống ở một làng thuộc quận Sterlitamak của Bashkiria, anh ấy phục vụ trong cùng một trung đoàn và vẫn nhớ sự kiện đó) chúc mừng tôi, mong chờ tôi được nhận một tấm huy chương  (có luật tặng thưởng cho người đã cứu chỉ huy khỏi tình trạng nguy hiểm tính mạng – ND). Sau chiến tranh, tôi mang hi vọng sẽ tìm thấy lại được vị đại tá đó, hay ít ra, biết được ông đã như thế nào. Cho đến năm 1975, tôi nghe rằng người của lữ tăng 69 tin là Provanov chết trong chiếc xe cháy và khẳng định không tìm thấy thi thể ông. Lúc đó, vị đại tá bị mất tích được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Tôi đồ chừng rằng người của quân chủng, sau trận chiến, đến khám xét qua loa những gì còn lại của chiếc tăng, đưa ra kết luận rằng vị chính uỷ tiểu đoàn đã bị thiêu cháy bên trong. Nhưng thật sự việc gì xảy ra với ông sau khi chúng tôi tách ra, khi những người lính cứu thương đưa ông lên cáng thương và đi về phía trạm xá? Phải chăng ông bị pháo bắn trúng? Ông bị tan xác sau khi thoát khỏi một cái chết trong chiếc tăng cháy? Hoặc ông chết do mất nhiều máu? Và trong trường hợp sau, ít ra họ cùng tìm thấy những giấy tờ chứng thư của ông chứ?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: