KHOA HỌC_ĐỜI SỐNG
1. NGƯỜI CHẾT LÂM SÀNG NÓI GÌ?
Khi bác sĩ khởi động cái cưa phẫu thuật để mở sọ bệnh nhân, một điều đã xảy ra mà không thiết bị theo dõi tinh vi nào ghi nhận được... Reynolds cảm thấy tự "vọt" ra khỏi cơ thể mình. Từ trên vai bác sĩ, chị nhìn xuống ca mổ và thấy ông đang cầm một vật giống như bàn chải đánh răng điện...
Nguồn sáng ở cuối đường hầm
Giữa năm 1991, Pam Reynolds nhận ra rằng mạng sống của chị đang bị đe dọa do một động mạch trong não phình ra. Nhà phẫu thuật người Mỹ Robert Spretzler, giám đốc Viện nghiên cứu thần kinh Barrow ở Phoenix, nói với người phụ nữ 35 tuổi này rằng muốn phẫu thuật động mạch thì người ta phải làm cho tim của chị ngừng đập. Lúc ấy, chức năng của não ngừng hoạt động và chị xem như phải chết trong vòng 1 tiếng. Không còn cách nào khác, Reynolds chấp nhận điều kiện này.
Trong khi Reynolds bị gây mê, những dây dẫn từ một máy luôn phát ra tiếng lách tách được nối vào tai của chị để theo dõi hoạt động của thân não (thân não đóng vai trò trong việc kiểm soát thính giác cũng như những hoạt động không chủ tâm của cơ thể). Ngoài ra, còn nhiều thiết bị theo dõi nhịp tim, hô hấp, nhiệt độ và những dấu hiệu về sự sống khác của bệnh nhân. Tứ chi của Reynolds bị giữ chặt, mắt nhắm nghiền...
Khi Spretzler khởi động cái cưa phẫu thuật để mở sọ của bệnh nhân, một điều gì đã xảy ra mà không thiết bị theo dõi tinh vi nào ghi nhận được... Reynolds cảm thấy tự "vọt" ra khỏi cơ thể của mình. Từ một điểm trên vai của Spretzler, chị nhìn xuống ca mổ và thấy nhà phẫu thuật đang cầm một cái gì đó giống như bàn chải đánh răng điện. Giọng nói của một phụ nữ phàn nàn rằng các mạch máu của bệnh nhân quá nhỏ. Reynolds nhận ra những người này đang thao tác quanh vùng háng của chị.... Chị nghĩ thầm: "Điều này sai rồi, đây là ca phẫu thuật não mà...". Sau đó chị cho rằng có lẽ những gì mà họ đang làm trong sọ của chị đã gây ảo giác này...
Nhưng dù mắt và tai hoàn toàn bị bít kín, những gì mà chị nhận biết trên đã thực sự xảy ra, cái cưa phẫu thuật đúng là giống như bàn chải đánh răng điện. Những nhà phẫu thuật cũng đã thao tác ở háng của chị, họ luồn những ống dò qua những mạch máu ở đây đến tim để nối với máy tim phổi... Cơ thể của Reynolds lúc đó đã không còn máu, các chỉ số từ máy đo cho thấy sự sống đã không còn ở bệnh nhân.
Lúc này, Reynolds cảm thấy mình đang đi xuống một đường hầm hướng về phía nguồn sáng. Ở cuối đường hầm, chị thấy bà nội, những người thân và bạn bè qua đời đã lâu. Thời gian dường như ngừng lại. Sau đó, một người chú đưa chị trở lại cơ thể, bảo hãy trở về nhà và chị cảm thấy như đang lao vào một hồ nước đá. Khi tỉnh dậy, Reynolds kể lại mọi chuyện cho Spretzler nghe. Ông cho biết điều này vượt ra khỏi sự hiểu biết của mình. Và 13 năm sau ngày ấy, Spretzler vẫn không thể nào giải thích được hiện tượng trên.
Thực tế hay ảo giác?
Những tiến bộ y học hiện nay cho phép các bác sĩ hồi sinh những người đang trong giai đoạn đầu của cái chết, hiện tượng được đặt tên là trải nghiệm cận kề cái chết (NDE).
Đầu tiên, các bác sĩ bác bỏ những câu chuyện như vậy. Họ giải thích hiện tượng này là ảo giác, hình thành do các thay đổi trong não đang chết. Tuy nhiên, cách giải thích này còn có điều chưa thỏa đáng. Nhiều người cho rằng những ảo giác như vậy chỉ xảy ra khi não còn có một chức năng nào đó. Trong tình trạng không hoạt động, não giống như một máy tính bị tách rời khỏi các mạch điện, nó không thể gợi ảo giác và không làm được bất cứ điều gì.
Sự hoài nghi về NDE vẫn còn ở nhiều nhà khoa học. Bác sĩ Susan Blackmore, một nhà nghiên cứu người Anh, cho rằng nếu những trường hợp NDE là thật thì toàn bộ những gì thuộc khoa học phải được viết lại. Trong một quyển sách bàn về vấn đề này, bà viết: "Trải nghiệm cận kề cái chết, bao gồm một đường hầm và những gì mà bệnh nhân thấy bên ngoài cơ thể, có thể do những diễn biến thuộc sinh lý học gây ra". Trong khi phẫu thuật não, dưới ảnh hưởng của thuốc mê, các bệnh nhân thỉnh thoảng cho biết họ thấy nhiều điều từ một nhận thức "ngoài cơ thể". Một số người khác cũng tường trình tương tự dưới ảnh hưởng của các chất ma tuý như LSD, thuốc phiện, hasit... Bà kết luận NDE thực sự chỉ là ảo giác do não bị tác động của các chất hóa học...
Còn chuyên gia tim mạch và là nhà nghiên cứu về NDE Michael Saborn, sau khi so sánh những gì Reynolds thấy và nghe với biên bản phẫu thuật của bác sĩ Spetzler, đã tìm thấy rằng trong suốt thời gian ở đường hầm, bệnh nhân đã mất chức năng não. Cũng như một máy tính đã tách khỏi nguồn điện, não của Reynolds đã chết nên nó không thể tạo ảo giác hay bất cứ loại thuốc nào khác. Ông nói: "Chị ta đã có những biểu hiện đầy đủ của một cái chết, không còn máu trong cơ thể và không có dấu hiệu nào của sự sống. Như vậy có phải sự chết đã đến chưa? Nếu đây là cái chết thì giải thích thế nào về những trải nghiệm của chị ta trong suốt thời kỳ đó.
"Tôi có thể nhìn thấy màu sắc, có thể nghe, đồng thời nhận ra những cảm xúc như sợ, thanh thản... Tôi nhận ra tôi đang nằm trên bàn. Tuy nhiên, đó không thực sự là tôi mà chỉ là cơ thể của tôi...".
Barbara Rommer, một bác sĩ ở Bệnh viện Florida, lần đầu tiên tiếp xúc với một bệnh nhân NDE vào đầu thập niên 1970. Kể từ 1994, bà đã phỏng vấn hơn 600 người tự nhận là từng trải nghiệm cận kề cái chết và viết một cuốn sách về chủ đề này. Mặc dù quan điểm của bà không hợp với nhiều đồng nghiệp trong ngành y, nhưng những cuộc phỏng vấn trên đã khiến bà tin rằng có một điều gì đó "sống" sau khi chúng ta chết. Để hiểu rõ hơn tình trạng này, và cũng để đáp ứng yêu cầu của những người mà bà phỏng vấn, Rommer bắt đầu thành lập nhóm sinh hoạt gồm những người từng trải nghiệm cận kề cái chết, để họ chia sẻ với nhau những gì đã trải qua.
Robert Milham, một thành viên của nhóm, đã từng bị suy tim khiến quả tim ngừng đập, cho biết: "... Cơn đau đã qua. Tôi lơ lửng bên trên thân thể tôi và nhìn thấy chính mình đang nằm trên chiếc xe đẩy tay...". Từ một người sống ích kỷ, cái chết thoáng qua khiến Milham trở nên vị tha hơn.
Ken Amick, một nhà thầu nói về những trải nghiệm của ông sau một phản ứng dị ứng khiến ông ngừng thở và cơ thể trở nên tím tái. "Tôi có thể nhìn thấy màu sắc, có thể nghe. Tôi cũng cảm nhận những xúc cảm như sợ, thanh thản... Tôi nhận ra tôi đang nằm trên bàn. Tuy nhiên đó không thực sự là tôi mà chỉ là cơ thể của tôi...".
Theo Rommer, những người trong tình trạng NDE đều thanh thản và không hề cảm thấy cô đơn hay sợ.
Bằng chứng mới, giả thuyết mới
Một số nhà nghiên cứu cho rằng hiện tượng NDE là do sự suy yếu của não, đây không phải là bằng chứng về thế giới bên kia mà là một cái gì đó gây ấn tượng: ý thức không chỉ có ở não.
Trong một nghiên cứu công bố trên một tờ báo y học của Anh vào tháng 12/2001, Pim Van Lommel, chuyên gia tim mạch người Hà Lan, kể lại trường hợp của một bệnh nhân 44 tuổi bị ngừng tim và được cho là chết lâm sàng. Người này được đưa đến bệnh viện bằng xe cứu thương và các bác sĩ đã lấy hàm răng giả của bệnh nhân ra để dễ cài một ống thở vào cuống họng của ông. Sau khi đã qua cơn ngặt nghèo, bệnh nhân được chuyển đến phòng chăm sóc đặc biệt.
Một tuần sau đó, người đàn ông này thấy một y tá ở phòng cấp cứu và nhận ra chính cô đã lấy hàm răng giả của mình. Điều lạ lùng là khi được đưa đến cấp cứu, ông ở trong tình trạng từ hôn mê đến chết lâm sàng. Ông kể lại với điều này với người y tá và mô tả chính xác những chi tiết khác mà ông thấy trong khi cơ thể ông được cho là đã chết.
Trong một nỗ lực nhằm lượng định tần số xuất hiện của NDE, Van Lommel và đồng nghiệp đã phỏng vấn 343 người bị ngừng tim và được cứu sống trở lại. Ông cho biết 18% trong số này có liên quan đến NDE và họ đã mô tả mọi thứ, từ cảm giác yên bình đến các trải nghiệm đầy đủ. Một số nhà nghiên cứu người Anh tại Bệnh viện đa khoa Southampton, trên một tạp chí y học, cho biết họ đã tìm thấy khoảng 11% bệnh nhân đã nhớ lại nhiều điều trong giai đoạn vô thức. 6% trong số những người hồi tỉnh sau một cơn ngừng tim tường trình rằng đã trải qua NDE.
Van Lommel và các nhà nghiên cứu Anh tin rằng những phát hiện này cho thấy ý thức có thể vẫn tồn tại khi não không hoạt động. Họ nói: "Có thể so sánh não với một chiếc tivi. Chương trình tivi không ở trong tivi". Như vậy ý thức ở đâu? Phải chăng nó ở trong mỗi tế bào của cơ thể. Lommel đồng ý với giả thuyết này và cho rằng mỗi ngày trong cơ thể ta có 50 tỷ tế bào chết và được thay thế bằng một số lượng tế bào mới. Chúng ta hầu như không nhận thức được sự thay đổi này. Theo Lommel, có một dạng truyền thông giữa các tế bào của chúng ta - không chỉ là tế bào não mà cả hàng tỷ tế bào khác trong bắp thịt, xương, ruột, da và máu. Chúng "nói chuyện" với nhau trong một mạng lưới nào đó và giữ những trải nghiệm thuộc ý thức của chúng ta...". Nếu điều này là đúng thì các tế bào truyền thông vẫn sống khi một người tuyên bố là đã chết não. Chúng có thể nhận được những sự kiện mà y học không thể giải thích được.
Giải thuyết này có thể đưa chúng ta rời xa cách giải thích về NDE như là bằng chứng của một thế giới bên kia. Nó mở ra chân trời mới cho việc nghiên cứu về sinh lý học cơ thể.
1. MẬT MÃ CHÍNH LÀ Ý NGHĨ CỦA CON NGƯỜI
Bạn nghĩ thế nào nếu có một ngày nào đó trong tương lai sắp tới bạn có thể mở cửa nhà mình hoặc truy cập tài khoản ngân hàng chỉ bằng cách "nghĩ" đến mật mã mở khoá? Chắc bạn cho rằng điều này xa vời quá? Không hẳn là như vậy, mời bạn đọc tiếp những dòng chữ sau đây.
Các nhà nghiên cứu tại trường đại học Carleton, Ottawa, Canada, đang thăm dò việc một thiết bị an ninh sinh học sử dụng tư duy của con người để nhận dạng người đó. Ý tưởng của họ là sử dụng làn sóng não làm khoá mật mã, dựa trên lý thuyết rằng sóng não là "vật thể" đặc biệt của mỗi cá nhân. Dù cùng nghĩ về một điều gì đó giống nhau, nhưng xung điện não đo được vẫn có một vài khác biệt giữa người này với người khác. Một số nhà nghiên cứu tin rằng sự khác biệt này đủ để thiết lập một hệ thống cho phép bạn đăng nhập bằng suy nghĩ của bạn.
Một ý nghĩ được dùng làm mật mã có thể là mọi thứ, từ một đoạn nhạc, ký ức về buổi tiệc sinh nhật vừa qua, hay một bức tranh mà bạn thích. Một cách khác là thiết bị nhận dạng sẽ lần lượt đưa ra cho bạn một trích đoạn nhạc, phim hay bức tranh, sau đó bạn chỉ cần suy nghĩ câu trả lời "Đúng" hay "Sai" và thiết bị cảm ứng sẽ theo dõi hoạt động não của bạn.
Nhà nghiên cứu Carleton Julie Thorpe, người cộng tác cùng với Anil Somayaji và Adrian Chan trong công trình nghiên cứu này nhận xét: "Ai cũng biết có sự khác biệt giữa bộ não của con người và tín hiệu não. Liệu chúng ta có thể quan sát những tín hiệu do con người tạo ra trong đó có hàng trăm hàng nghìn thông tin được mã hoá theo một sự lặp lại nào đó hay không? Đó mới là vấn đề. Chúng tôi cho rằng điều này hoàn toàn có tính cách khả thi".
Hệ thống sẽ có triển vọng trở thành một thiết bị an ninh sinh học mới khác với việc lấy dấu tay, scan nhãn cầu hay nhận dạng khuôn mặt, điều này cho phép người dùng có thể thay đổi mật mã. Nhưng liệu nó có thật khả thi hay không? Hay chỉ là một ý tưởng viển vông khác?
Các nhà nghiên cứu đang nỗ lực chế tạo máy tính có khả năng giao tiếp với não, được đặt tên là BCI, bằng cách rút ra những phần có ý nghĩa của tín hiệu não, được đo bằng một điện não đồ EEG, và dịch chúng thành các câu mệnh lệnh cho phép vô hiệu hoá quyền kiểm soát hay thao tác các thiết bị liên quan. Một khó khăn đối với kỹ thuật BCI chính là việc tín hiệu não là duy nhất, do đó khi một hệ thống có thể nhận dạng một người nào cụ thể, thì những người khác sẽ rất khó có thể thao tác.
Giáo sư Touradj Ebrahimi thuộc Viện kỹ thuật liên bang Thuỵ Sỹ nói: "Tín hiệu não được đại diện bằng tín hiệu EEG của một người, hoàn toàn khác nhau giữa người này với người khác, dù cho họ có cùng nghĩ về một điều nào đó".
Nhưng chính sự riêng biệt của làn sóng não đang gây khó khăn cho các nhà khoa học lại là một yếu tố có giá trị khi cần xây dựng một hệ thống nhận dạng. Một thiết bị an ninh không cần thiết phải dịch ra hay hiểu được tư duy của con người, nó chỉ đơn giản trích ra những đặc điểm và nhận dạng sự giống nhau. Ebrahimi nói: "Một thiết bị sinh trắc học dựa trên não có khả năng rất mạnh tương tự như thiết bị sinh trắc học DNA".
Tuy nhiên, vẫn có một số nhà nghiên cứu còn hoài nghi về việc máy tính có thể nhận dạng một vài hình ảnh đặc biệt trong đầu mỗi người.
Iead Rezek thuộc nhóm nghiên cứu phân tích mẫu tại đại học Oxford, nói rằng ý tưởng này "hay nhưng không thực tế": Rất nhiều thứ diễn ra trong não ở mức độ tế bào, dù mọi thứ thoạt nhìn đều có vẻ như nhau. Rezek nói: "Tín hiệu từ hằng hà sa số các tế bào thần kinh gây nhiễu loạn và trộn lẫn vào nhau ngay lúc chúng ta đang ghi lại mẫu suy nghĩ. Ngược lại, ví dụ như việc nhận dạng qua tiếng nói bằng thiết bị âm thanh là có thể được, vì những người nói đứng cách xa một quãng so với các thiết bị này".
Thậm chí nếu việc nhận dạng được thực hiện thành công, thì theo lời ông Jacques Vidal, chuyên viên BCI và là giáo sư khoa tin học UCLA nói: "Mối liên kết giữa suy nghĩ và não chỉ ở mức gián tiếp rộng lớn". Hơn nữa, điều này còn phụ thuộc vào cách con người ghi nhớ sự kiện. Khó có thể chế tạo thành công một thiết bị có thể tự động nhận dạng sự thay đổi trong tín hiệu của cùng một cá nhân, cùng một sự việc.
Vidal thì lạc quan hơn đối với một hình thức nhận dạng đơn giản, máy tính sẽ tạo ra một sự kích thích, sau đó đo lại tín hiệu phản hồi của não. Mối quan hệ đáp lại có điều kiện này, còn gọi là ERPs, tuỳ thuộc vào các tia sáng màu hoặc các âm thanh đặc biệt hoàn toàn khác nhau đối với mỗi người, nhưng đồng nhất khi lặp lại trên cùng một người. Vidal nói "ERPs có thể được sử dụng cho thiết bị sinh trắc học nhận dạng".
Một kỹ thuật như vậy có thể đem lại nhiều lợi ích từ khả năng thích nghi của não con người. Thay vì cố gắng thụ động nhận dạng một suy nghĩ, một ý tưởng, thì hệ thống có thể dựa vào những yếu tố đáng tin cậy, đó là cách người ta dùng sử dụng phần não phải, sử dụng những phản hồi từ máy tính như một hướng dẫn.
Trong thí nghiệm với loài khỉ, các nhà khoa học nhận thấy động vật và máy tính có thể huấn luyện lẫn nhau một cách hiệu quả. Bác sĩ Reza Shadmehr, giáo sư kỹ thuật thần kinh tại đại học John Hopkins nói: "Khi động vật học cách kiểm soát máy tính, cả tế bào thần kinh của não và các giải thuật của máy tính đều sử dụng sự thay đổi trong tín hiệu giao tiếp. Cả hai kết hợp với nhau thành một bộ giải mã thành công".
Hiện nay nhóm Carleton đang đề xuất một biện pháp chuyển mã đơn giản sử dụng hệ nhị phân - một hình thức gần giống như thiết bị trợ giúp não dành cho những người bị khuyết tật. Một quá trình đăng nhập được thành công chỉ khi bạn có thể xác định được mật khẩu của bạn bằng cách nghĩ đến câu trả lời "Đúng" hay "Sai", tuỳ theo các bức tranh hay đoạn nhạc được trình chiếu tuần tự - một dạng thức gần giống với trò chơi trắc nghiệm trí nhớ bằng 20 câu hỏi.
Nếu việc này có kết quả thì nó vẫn còn vấp phải một số chướng ngại trước khi có thể trở thành thiết bị thay thế cho các thiết bị nhận dạng khác. Để lấy dấu vân tay, đó là một việc dễ dàng, nhưng cách duy nhất để có thể bắt được tín hiệu từ não chỉ bằng cách thông qua một chiếc nón EEG hết sức bất tiện, chiếc nón này có bôi một lớp dầu cảm ứng thông qua da đầu.
Tuy nhiên, cảm ứng hoạt động não ngày càng trở nên thực tế hơn. Một công ty là NeuroSky tuyên bố đã phát triển một thiết bị cảm ứng tế bào thần kinh có thể chuyển hoá làn sóng não thành các tín hiệu điện từ có ý nghĩa, nhưng họ chưa nói rằng khi nào sản phẩm này sẽ được đưa ra thị trường.
Các thiết bị quang học cũng có một lời hứa hẹn khác. Shadmehr nói: "Hiện có nhiều thiết bị được bày bán có thể dùng kỹ thuật quang học để can thiệp vào hoạt động thần kinh ở vị trí ngoài vỏ não. Chúng phóng ra một tia sáng, đo tỉ lệ phản xạ, tỉ lệ phản xạ này cũng thay đổi tuỳ theo tỉ lệ oxy trong máu. Thiết bị này hoàn toàn không tiếp xúc trực tiếp vào đầu".
Ông cũng nói thêm: "Kỹ thuật đo hoạt động não vẫn còn trong giai đoạn sơ khởi. Tuy vậy, nếu chúng ta so với sự thô sơ của các thiết bị ghi nhận tế bào não 40 năm trước do các nhà thần kinh học phát triển để thí nghiệm trên động vật, nhìn lại chặng đường đó, chúng ta thấy rằng tương lai của chúng ta vô cùng sáng sủa".
Tuy vậy, Somayaji cũng cảnh cáo rằng không nên vội vàng vứt bỏ các mật khẩu. Somayaji nói: "Tôi hoàn toàn ngạc nhiên và đầy thích thú nếu một thiết bị an ninh như vậy được thực hiện trong vòng 20 năm tới. Có lẽ sử dụng mật mã bằng ý nghĩ sẽ trở thành sự thật vào một ngày nào đó. Nhưng hiện nay, nó vẫn còn là ý tưởng xa vời".
KIM TỰ THÁP
NÓI ĐẾN KIM TỰ THÁP LÀ Y NHƯ CÁC NHÀ KHOA HỌC NGHĨ NGAY ĐẾN CÁC BỘ ÓC SIÊU PHÀM mà từ trước đến đầu thập niên thế kỷ 21 này vẫn chưa có câu trả lời thích đáng được.
Người Ai Cập có thể tự hào là dân tộc họ có một trí tuệ siêu phàm mà các dân tộc có nền văn minh lâu đời nhất thế giới cũng không làm sao so bì được. Nếu quí bạn đã một lần đặt chân đến lãnh địa này để chiêm ngưỡng các kim tự tháp không khỏi phải băn khoăn tự hỏi: "Thời mà nền kỹ nghệ chưa xuất hiện làm thế nào người Ai Cập Cổ Đại lại dựng lên được công trình vĩ đại có thể nói là phi thường như thế này được ? Họ đã làm bằng cách gì để hoàn thành một công trình vĩ đại có thể nói vô tiền khoáng hậu như vậy ? Phải chăng họ đã hiểu biết về kỹ thuật cũng như về kiến thức toán học nào đó mà nay đã thất truyền để dựng nên các kim tự tháp ?!
Nếu có lần nào ta đứng trước những tháp đài ở Louxor hay Karnak đặc biệt trước các pho tượng khổng lồ ở Menmon - toàn là những pho tượng nguyên cả khối khai thác từ các khu mỏ đá tọa lạc tại vùng Đông Bắc Cairo và từ đó di chuyển đn tận Thèbes cách xa đến 11.200 dặm Anh (miles).
Những bằng chứng cho thấy hiện còn tại đất nước này như những đồ gốm rất tinh vi - trong cùng thời đại đó các nhà khảo cổ thấy trại các quốc gia có nền văn minh của các quốc gia dân tộc khác còn rất thô thiển từ chất lẫn lượng. Nhất là những dụng cụ bằng đá , các hình dáng không giống nhau như bình chứa, các vò chum, chén, đĩa v.v... Ngoài ra người ta còn tìm thấy các đồ kim loại đầy tính nghệ thuật nữa. Các nhà khảo cổ vô cùng ngạc nhiên khi tìm thấy các hầm mõ thời tiền sử đã được khai quật như mỏ vàng nằm về phía Đông sa mạc và tại Sinai một mỏ đồng, cùng một số mỏ quí thạch cứng rắn và hiếm có tại những thung lũng hoang vu nằm tại miền Đông Nam... Tại lưu vực dòng sông Nil có một số hầm đá quí đã được khai thác vào thời đại có sử...
Vào thiên niên kỷ thứ ba tr.CN. là thời kỳ Cựu Đế chến được ghi nhận là nền điêu khắc tương đối hoàn thiện phù điêu thấp luôn cả khắc nổ tròn, như ta thấy pho tượng khổng lồ Đại Nhân Sư tại Gizah hay của các vì vua vào triều đại thứ V tr.CN.
Tại phía Nam kim tự tháp Khéops người ta đã khai quật một chiếc thuyền của nhà Vua Ai Cập, có chiều dài 44 mét. Chiếc thuyền này gồm có 5 cặp chèo cùng hai mái chèo thuộc loại đại bản có dụng bánh lái.
Trên các tranh vẽ trên vách tường nằm về phía Nam trên con lộ dẫn về đền Ounas vào khoảng 2323 Tr. CN cho thấy những cây cột to tướng có mũ hình lá co xp trên một chiếc trượt cổ xưa. Dặc biệt là dưới ngôi đền thờ của một bà Hoàng hậu Hatshespsut tại Detr-el-Bahari là hình ảnh của hai ngôi tháp dài nối đuôi nhau ràng buộc vào nhau bằng một sợi dây thừng to tướng. Hai ngôi tháp này có tên Hatshepsut. Đây là cả một hạm đội gồm 27 chiếc.
Một pho tượng khổng lồ có trọng lượng ngoài sức tưởng tượng gần cả 800 tấn tại phía Bắc của ngôi đền Memnon là con trai của Hapou có tên là Amenhotpe, là một kiến trúc sư thiên tài lúc bấy giờ. Chiếc "Thuyền Tám" to lớn chính do nhà kiến trúc sư này làm ra có kích thước gấp tám lần kích thước của chiếc xà lan. Đóng chiếc thuền tám to lớn đó thì còn khả thi, song làm sao mang pho tượng cực kỳ to lớn kia xuống thuyền rồi khi đến Thebès làm sao mang lên? Đó là một câu hỏi khó mà có thể trả lời được giữa cái thời đại lúc bấy giờ. Đó là chưa nóiđến việc vận chuyển các tháp đài, người Ai Cập Cổ Đại phải làm cách nào để mang đi các khối đá khổng lồ kia ?! Có nhiều lý luận nhưng chẳng có lý thuyết nào được xem là đúng cả!
Việc vận chuyển một pho tươtng vĩ đại khác, đó pho tưởng của viên quan chức đầu tỉnh tên Djehutihotpe bằng xe trượt trong tháp của vị quan này tại El-Bersha. Đây là pho tượng làm bằng thạch cao tuyết có trọng lượng 60 tấn!
Công trình xây dựng một kim tự tháp không phải đơn giản mà là cả một việc làm... có sự tính toán tinh vi, nhất là vấn đề kỹ thuật. NHưng làm sao thực hiện kỹ thuật đó là một số lượng đông đảo các thợ thầy đủ các loại, phải có những nhà khảo sát các mỏ đá, khai thác đá, việc vận chuyển, đồng thời tuyển những người thợ khéo tay, có đầu óc thẩm mỹ v.v... Đó là chưa nói đến những người thợ khác cũng cần thiết không ít.
Như ta thấy từ kim tự tháp vào bậc Djoser đến kim tự tháp lớn tại Gizah vào khoản năm 2550 tr.CN cho thấy có những bước tiến lớn về trình độ nhận thức. Điều ta nên lưu ý về công việc chôn cất của người Ai Cập Cổ đại bao giờ có một định hướng rõ ràng và rất chính xác...
Nhiều giả thuyết về vấn đề cấu trúc kim tự tháp, nhưng rốt cuộc giả thuyết nào cũng bị bác bỏ, chẳng ai biết gì hơn. Ngày nay người ta chỉ nhìn thấy các vết tích của những đường dốc cho thấy đã được dùng cho sự vận chuyển vật liệu đá từ dưới thấp lên tận đỉnh cao. Nhưng rồi cũng bị loại. Có nghĩa là sự nhận xét như vậy chẳng đúng chút nào.
Trên đất nước của Pharaon ờ xứ sở Ai Cập các nơi được dựng lên không phải để cho cáctín đồ đến đó mà thờ lạy. Có nghĩa là những nơi này các Pharaon tạo dựng lên là nhằm bảo tồn bộ máy Vũ Trụ qua sự chăm sóc của các nhá Vua một cách chu đáo, mà nhà Vua được xem được xem là đại diện cho quyền uy trên trái đất. Theo thuyết này của người Ai Cập là con người không cần phải đi lễ đền chùa mà chỉ cần thấm nhuần tính thiếng liêng là thờ kính Đấng Tạo Hóa, đấng tạo sinh ra muôn loài muôn vật bằng nhìn và trọng kính những hình ảnh thiên nhiên quanh mình. Thuyết này bảo con người gần với Thần linh một cách thật đơn giản là giai đoạnđến với cái chết.
Vậy trước khi đạt đến đó thì con người phải chuẩn bị với cái có thể có của mình để được mang chôn theo... hội nhập hoàn toàn với Vũ Trụ.
LÒNG THAM VỌNG CỦA CON NGƯỜI SỰ SỐNG VĨNH CỬU LÀ ĐIỀU TẤT YẾU AI CŨNG MUỐN NHƯ VẬY
Con người lúc nào cũng muốn sống mặc dù lắm lúc... có ý nghĩ không còn muốn sống nữa. Tuy nhiên ý nghĩ "không còn muốn sống" nữa đó cũng chỉ nhất thời trong giây phút bất như ý, sau đó họ lại tiếp tục muốn sống và còn muốn sống vĩnh viễn trên cõi đời này mà họ cho là lắm nỗi ưu phiền!
Các bậc đế vương từ ngàn xưa, không phải riêng đất nước có ông vua tàn bạo nhất trong lịch sử Trung Hoa là Tần Thủy Hoàng luôn luôn muốn được trường sinh bất tử, mà ngay cả các hàng đế vương của xứ sở Ai Cập cũng muốn được sống mãi hoặc bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao họ có sự hiện diện của họ trên thế gian này. Sau khi được hàng giáo sĩ khuyến cáo là cuộc sống trên trần gian này chỉ ngắn ngủi tạm thời, cung đình hiện hữu chẳng qua là một quán trọ... có đó rồi mất đó, mà lăng mộ mới chỉ là trường tồn, vĩnh cửu... Thế là các Pharaon mở kho mang tất cả của cải của triều đình xây phần mộ cho mình... vượt hẳn của các đất tiên vương...
Bắt đầu các Kim Tự Tháp xuất hiện để đặt xác các Pharaon cùng với của cải quí báu nhất trần đời. Các Pharaon tin rằng rồi đây xác của chính mình sẽ được sống dậy nếu biết giữ cho thân xác của mình... không bị rữa nát và linh hồn sẽ trở về nhập vào để tiếp tục sống nắm lại quyền uy trị vì thiên hạ. Các xác của các Pharaon kể từ Hoàng đế Khuphu được vùi vào loại "soude" thiên nhiên được gọi là "narton" (loại "narton" này vốn có ở Ai Cập) sau đó một thời gian ngắn họ mang ra mổ xác lấy cả nội tạng, và luôn cả não bộ mang chôn, còn trơ lại cái vỏ bên ngoài của con người. Và, sau khi rửa ráy sạch sẽ họ dùng hương liệu thơm đặc biệt tẩm vào, nhét đầy cả vỏ cây quế cùng với vỏ hồi vào bụng xác chết. Trước khi khâu lại lành lẹn, họ còn tẩm vào loại thuốc sát trùng để khỏi bị các vi khuẩn xói mòn và làm rữa nát xác ướp. Chưa hết, sau khi hoàn tất việc mổ xác và tẩm ướp xác bằng các nhu liệu đầy hương thơm, họ mang gói vào một tấm vải hàng trăm mét trên mặt sơn phết bằng chất "gelenit" tức khoáng chất chì. luôn cả các chất màu lấy ra từ khoáng vật và thực vật v.v... Trình độ ướp xác của người Ai cập được xem là cao mà lịch sử loài người đã phải công nhận như vậy.
Như trong tạp chí Discover số ra từ tháng 8/97, trong đó có đăng bài "The People of the Bog" của tác giả Shanti Menon nói về "Những Xác Ướp Trong Than Bùn", giúp cho giới khoa học khám phá thên về tác dụng của bùn đối với việc giữ xác được tươi nhuận như Ai Cập thờ cổ đại đã ướp xác các Pharaon. Vào năm 1835 tại Đan Mạch đã tìm thấy xác của một người phụ nữ do một người đào mương phát giác tại một bãi than bùn. Người phụ nữ này bị đóng chặt dưới những cọc gỗ được vót nhọn. Bãi bùn này mà dân địa phương gọi là "Bãi Than Bùn Gundhilde" ở vào thế kỷ thứ 18. Người phụ nữ này bị hải tặc giết chết trên đường về để kết hôn với vì Vua Đan Mạch có tên Hoàng đế Harald Bluetooth Sau khi xác nhận xác chết đó là Nữ Hoàng Gundhilde, Hoàng đế Dăn Mạch Frederick Đệ Lục bèn ra lệnh tổ chức một nghi lễ an táng như nghi lễ triều đình đối v?i một vì vua đương kim băng hà.
Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, than đá trở thành quí hiếm, người dân ở Tây Bắc Âu bắt buộc phải khai thác các mỏ than bùn tại địa phương để thay thế cho than đá ! Nhưng khi mà các phu khai thác mỏ than bùn đó cắt ra từng mãng than đó từ các bãi than bùn dọc theo ven bờ của miền duyên hải, họ bắt đầu phát hiện ra nhiều thi thể mà theo họ mang ra quan sát thì đều bị giết chết, và được bảo quản rất kỹ đến độ mới thoạt nhìn thấy cứ ngở đó là các thi thể này bị chết không bao lâu; đến khi các nhà khảo cổ học xét nghiệm cho biết là các xác này đã chết từ hơn 2000 năm về trước!
Và sau đó những nạn nhân từ thời cổ đại liên tục được phát hiện ở Tây Bắc Âu Châu đặc biệt là ở Đan Mạch và mạn Bác nước Đức. Theo tài liệu này ghi lại từ 2000 đến 2500 năm về trước, người Đức vào thời đại đồ sắt có thói quen thường ném xác người xuống những đầm bùn sau khi đã giết chết chết. Kể từ khoảng thập niên trở lại đây các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến những xác ướp trong than bùn còn lại. Họ phân tích những xác ướp đó như là những xác chết của những nạn nhân trong những vụ án mạng ngày nay. Có nghĩa họ sử dụng phương pháp khảo nghiệm pháp y nhận dạng những tử thi vô thừa nhận. Thoạt đầu người ta nghi ngờ đây là những xác mới bị giết chết gần đây. trước một tử thi quần áo bị nhòe nhoẹt cả bùn, tóc và da vẫn còn nguyên vẹn để cho rằng đây là những cái chết là những cái chết mới đây. Năm 1950, khi các công nhân Đan mạch phát hiện được thi thể của một người đàn ông co quắp tại vũng bùn. Họ đều nghĩ rằng đó là thi thể của một học sinh từ thủ đô Copenhagen vừa mới bị mất tích. Nhưng thật ra, không đúng như vậy và cũng nhờ đó họ mới phát giác điều mà về sau họ được gọi là "Người từ Tollund" mà không biết. Rồi cũng chỉ trong vòng hai năm người ta lại tìm thấy cách đó vài dặm tìm được một xác ướp được gọi là "người về từ Grauballe". Xác ướp này đang nằm dài trên ghế trường kỷ, trên cổ bị cắt đứt một vết dài.
Những xác ướp này được bảo quản một cách tinh vi nhờ trải qua một thời kỳ than bùn hình thành. . . Được biết than bùn này bắt đầu rong rêu chiếm lĩnh một dãy đất thấp, khiến đất nơi này ứ đọng và được acide hóa bảo trì được cho thi thể đó.
Những xác ướp của thời cổ đại Ai Cập mà các Pharaon đã theo lời các giáo sĩ lúc bấy giờ là ướp xác và xây dựng Kim Tự Tháp... để chờ một ngày nào đó linh hồn sẽ trở lại nhập vào xác để sống dậy tiếp tục sống... ngồi lên ngai vàng thống trị thiên hạ. Quan niệm của người Ai Cập cổ đại cũng chẳng khác nào các nhà khoa học hiện đại là làm tái sinh lại tế bào trong xác ướp.
Trong một bài báo được đăng tải trên VNTB nói về việc dùng tế bào gốc của bệnh nhân để níu kéo lại sự sống cho chính họ. Hôm 24-6-2001 các bác sĩ tim mạch của Đại Học Y Khoa thành phố Dusseldorf (Đức) đã công bố kết quả chữa trị một bệnh nhân 46 tuổi VớÙi phương pháp cấy ghép tế bào gốc, bằng cách trích rút tế bào gốc trên cơ thể bệnh nhân, sau đó đem cấy ghép vào tâm thất trái của ngửa người đó để phục hồi chức năng hoạt động của tim, chữa bệnh nhồi máu cơ tim. Cuộc thử nghiệm được tiến hành hồi tháng 3 vừa qua (Mars 2001).
Đây là lần đầu tiên giới chuyên môn đã thành công trong hai lĩnh vực: 1. Họ đã nhận dạng và trích rút được tế bào gốc trên cơ thể con người, chứ không phải lấy ra từ phôi thai. 2. các bác sĩ đã thành công trong việc cấy ghép tế bào gốc này vào bộ phận khác đã bị hư hoại. Qua đó, tế bào sinh sôi phát triển, phục hồi lại chức năng của bộ phận cơ thể nói trên.
Từ nhiều năm nay, việc sử dụng tế bào gốc để chữa trị bệnh là một thách thức chính đối với các nhà khoa học. Tế bào gốc có hai đặc trưng cơ bản : (1) tạo ra tế bào cùng loại. (2) Khi được cấy ghép vào một bộ phận cơ thể đó thì nó sản sinh ra những loại tế bào của bộ phận này.
Giới chuyên môn chia tế bào gốc làm bốn loại. (1) Tế bào gốc đơn chức năng (unipotente) chỉ có thể tạo ra tế bào cùng loại. Ví dụ tế bào gốc của da. (2) Tế bào gốc đa năng (multipotente) có thể sản sinh ra nhiều loại tế bào khác nhau. Ví dụ tế bào gốc của máu trong tủy xương con người: tế bào này chế ra hồng huyết cầu và bạch cầu. (3) Loại tế bào này hiện nay đang gây tranh luận nhiều, đó là tế bào đa năng trích rút từ phôi thai (puripotente). Tế bào gốc puripotente được trích rút ra khi phôi thai mới phát triển được khoảng 40 tế bào. Nó chỉ có thể tạo ra khoảng 200 loại tế bào khác nhau. (4) Tế bào gốc siêu đa năng (totipotente). Chính nó là những tế bào đầu tiên xuất hiện sau khi phôi bào thai phát triển được bốn ngày.
Với kỹ thuật sinh sản vô tính (clone), loại tế bào gốc siêu đa năng có thể phát triển tạo ra được con người hoàn chỉnh. Tuy nhiên việc sử dụng tế bào gốc trích rút từ những phôi thai đã gây tranh luận từ mặt đạo đức y học. Do đó một trong những hướng nghiên cứu của giới chuyên môn là dùng tế bào gốc của chính trên cơ thể bệnh nhân để chữa trị bệnh cho người đó.
CHỌN NGHỀ THEO TÍNH CÁCH
Nếu không phải là người có khả năng giao tiếp tốt, bạn không nên bắt đầu sự nghiệp công danh trong vai trò nhà quản lý. Còn nếu có xu hướng sống nội tâm và rất khó bị kích động, những nghề liên quan đến điều khiển như phi công, tài xế, điều phối viên... sẽ là lựa chọn đúng đắn với bạn.
Để chọn một công việc phù hợp với mình, trước hết bạn cần phải xác định mình là mẫu người như thế nào qua một số tiêu chí sau:
Người hướng ngoại: Luôn có khuynh hướng tiếp cận với thế giới bên ngoài, muốn khám phá những sự kiện đang diễn ra xung quanh; tích cực, năng động, có xu hướng thích mạo hiểm; thường công khai bày tỏ ý kiến của mình; thích tiếp xúc, dễ làm quen và cũng dễ chia tay với mọi người; thích trao đổi quan điểm của mình với những người xung quanh; làm việc tốt trong môi trường tập thể.
Người hướng nội: Có khuynh hướng thu hẹp trong thế giới nội tâm riêng của mình, ít có ấn tượng trước các yếu tố bên ngoài; thường gặp khó khăn khi tạo dựng những mối quan hệ mới, nên thường không có nhiều bạn bè, thích yên tĩnh, cố gắng bảo vệ mình trước tác động của những thông tin mới, có bề ngoài trầm tĩnh, thường ít nói; không thích những bất ngờ; làm việc tốt trong môi trường có một mình.
Tuy nhiên, qua những tiêu chí ban đầu trên, bạn không nên nghĩ rằng người hướng ngoại tốt hơn người hướng nội. Những người hướng ngoại - chính từ những tính cách mạnh mẽ của mình - cũng có những điểm yếu riêng của họ: đó là tính cách dễ bị kích động, hời hợt trong tình cảm, thường ôm đồm, bao biện... Những người hướng nội cũng có các đặc điểm như kiên định, khả năng tư duy sâu, có tình cảm và suy nghĩ sâu sắc.
Con người cũng khác nhau ở mức độ kích thích thần kinh (neurotism) - một phẩm chất xác định độ bền vững tình cảm của họ. Người có mức kích thích thần kinh cao thường dễ nổi nóng, ghen tức, rất dễ nhạy cảm, làm quen với hoàn cảnh mới khó khăn. Người có mức kích thích thần kinh thấp thường có tính trầm tĩnh, ổn định, có lòng tự trọng cao và bình tĩnh trước các tình huống gây stress. Tuy nhiên, mỗi kiểu "neurotism" này cũng có những điểm mạnh và yếu riêng. Người có mức kích thích cao thông thường có tính nhạy cảm, tốt bụng, dễ đồng cảm. Con người họ có thể so sánh như một cây vĩ cầm: chỉ cần chạm nhẹ có thể phát ra những âm thanh du dương. Còn người có mức kích thích thấp thì trong nhiều trường hợp được coi là "có da mặt dày". Họ gợi nhớ đến hình ảnh cái trống: không cảm nhận được những lời gợi ý hay nói kháy, mà cần phải nói thẳng "vào trán" họ. Nhưng những người như vậy lại có khả năng làm việc cao, có thể đứng vững trong bất cứ tình huống nào.
Kết hợp loại cá tính (hướng nội, hướng ngoại) và mức độ kích thích thần kinh, bạn sẽ chọn ra được cho mình một nghề phù hợp:
1. Nếu là người hướng nội và có mức kích thích thần kinh cao, bạn không nên chọn những nghề có liên quan đến những tiếp xúc thường xuyên và lâu dài với mọi người như kinh doanh, quản lý, sư phạm, bán hàng... Hãy chọn vị trí đằng sau chiếc bàn viết hay những nơi làm việc theo tính trực quan, ví như nghiên cứu, sáng tạo, thiết kế, tạo mẫu....
2. Nếu là người hướng ngoại và có mức kích thích thần kinh cao, sẽ không thỏa đáng nếu bạn chọn các nghề liên quan đến điều khiển như phi công, tài xế, điều phối viên... Khi đó bạn sẽ buồn bực vì ít được giao tiếp với mọi người và dễ gây ra những sai lầm, hỏng hóc. Bạn cũng không nên chọn những nghề liên quan đến sản xuất dây chuyền vốn mang tính đơn điệu.
3. Nếu là người hướng nội và mức kích thích thần kinh thấp, bạn nên chọn nghề liên quan đến điều khiển nhưng tránh những công việc cần tiếp xúc với nhiều người (như lãnh đạo, quản lý, sư phạm, phóng viên, hoạt động xã hội...)
4. Nếu là người hướng ngoại và mức kích thích thần kinh thấp, thì những vai trò như quản lý, lãnh đạo, sư phạm, thương gia... rất lý tưởng với bạn. Trong những lĩnh vực yêu cầu mức độ giao tiếp cao với mọi người, bạn sẽ luôn đạt được thành tích tốt.
Dù ở bất kỳ cương vị nào và có tính cách gì, bạn chỉ cần nhớ một số tiêu chí sau: đừng nên vội vàng, cũng đừng nên kìm hãm bản thân mình; tìm cách giảm trạng thái căng thẳng bên trong; hãy nói chậm và không nên cao giọng, không nên hồi hộp trước khi sự kiện nào đó xảy ra; hãy rèn luyện sự tự tin của bản thân; luôn tự đánh giá mình từ vị thế của những người xung quanh, luôn cố gắng kiểm soát được hành vi của mình.
LỊCH SỬ CON SỐ PI
Cuối thế kỷ thứ 20 số Pi đã tính với độ chính xác tơi con số thứ 200 tỉ (200 000 000 000)
Con số Pi tóm tắt một lịch sử về toán học cổ xưa hơn 4000 năm bao trùm Hình học phân tích hay Ðại số.
Các nhà Toán học đã hâm mộ nó từ thời Văn minh Cổ-đại và đặc biệt những người Hy Lạp trong vấn đề hình học.
Tri giá xưa nhất về con số Pi mà con người đã dùng và đã được chứng nhận từ một tấm bảng của người Babylone cổ xưa (thuộc xứ I răc) có chữ hình góc (écriture cunéiforme), được khám phá năm 1936 và tuổi của tấm bảng là 2000 năm trước Thiên Chúa.
Người Ba-bi-lôn tính được con số Pi bằng cách so sánh chu vi của một vòng tròn với đa giác nội tiếp trong vòng tròn đó, bằng 3 lần đường kính vòng tròn. Họ tính phỏng chừng: Pi = 3 + 1/8 (tức là 3,125)
Về sau, những công trình nghiên cứu liên tục:
* Archimède tính được số Pi = 3,142 với độ chính xác là 1/1000. Công thức là: 3 + 10/71 < Pi < 3 + 1/7
Người ta dùng phương pháp Archimède trong 2000 năm.
* Trong Thánh Kinh, khoảng 550 trước TC, đã giấu con số này trong một câu văn mà sau bao nhiêu bộ óc tò mò tìm kiếm mới ra con số Pi = 3,141509
* Khoảng năm 1450, Al'Kashi tính con số Pi với 14 con số lẻ nhờ phương pháp đa giác của Archimède
Ðó là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã tìm được con số Pi với trên 10 số lẻ.
* Năm 1609 Ludolph von Ceulen nhờ phương pháp của Archimède, đã tính được con số Pi với 34 số lẻ mà người ta đã khắc số này trên mộ bia của ông.
* Kế tiếp Ludolph von Ceulen nhờ những công trình nghiên cứu miệt mài của các nhà Toán học:
Newton(1643-1727)
Leibniz(1646-1716)
Grégory (1638-1675)
Euler(1707-1783)
Johann Heinrich Lambert (1728-1777)
Adrien-Marie Legendre (1752-1833)
Carl Louis Ferdinand von Lindemann (1852-1939)
Srinivasa Aiyangar Ramanujan (1887-1920)
Williams Shanks (1812-1882)đã tính năm 1874 với 707 số lẻ
* Phải đợi đến thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 20 thì số Pi đã được tính với độ chính xác là 1000 số lẻ.
** Ngày 19 tháng 9 năm 1995 lúc 0 giớ 29 phút giờ địa phương GMT-04, nhà Toán học Gia Nã Ðại (Canadien) Simon Plouffe đã khám phá cùng với sự hợp tác của Peter Borwein và David Bailey một công thức tính con số Pi đã làm đảo lộn một số ý kiến về số Pi được tính từ trước đến nay.
Công thức này được đặt tên là Công thức BBP cho phép tính các số lẻ của Pi độc lập với nhau, mà mọi người lúc bấy giờ tưởng là không thể tính các số lẻ một cách độc lập được.
** Fabrice Bellard tìm ra hôm thứ hai ngày 22 tháng 9 năm 1997 đã chiếm kỷ lục kiếm tới số lẻ thứ một ngàn tỉ cho con số Pi nhờ công thức BBP của Plouffe và nhờ tự nghiên cứu ra cách tính nhanh hơn.
** Kỷ lục hiện tại do Colin Percival đạt đến số lẻ thứ bốn mươi ngàn tỉ hôm thứ ba tháng 2 năm 1999 bằng cách dùng công thức của Bellard
Colin Percival, mới 19 tuổi lúc bấy giờ đã là sinh viên năm thứ sáu môn Toán tại Ðại học Simon Fraser .
Ngoài ra Colin còn chơi vĩ cầm (violon) với tư cách là một nhạc trưởnng trong ban nhạc senior của Delta Youth Orchestra.
MARIE CURIE (Varsovie 1867- Sallanches 1934)
Bà là người đầu tiên dùng chữ radioactivité (tính phóng xạ)
vì theo hiện tượng của nó.
Bà là người Âu châu đầu tiên đậu bằng Tiến sĩ Khoa học.
Bà là người đầu tiên được giải thưởng Nobel về Vật lý
(1903). Cùng lãnh giải thưởng là Pierre, chồng bà và
Henri Becquerel vì đã tìm ra chất phóng xạ.
Bà là người đàn bà đầu tên nhậm chức Giáo sư Ðại học
là trưởng phòng thí nghiệm Ðại học Sorbonne ở Paris
(1906).
Bà là người đầu tiên được 2 giải thưởng Nobel. Năm
1911 bà được giải thưởng Nobel về Hóa học do sự khám
phá ra cách cô lập chất Radium tinh chất và những hợp
chất của nó.
Bà là người Mẹ của người được giải thưởng Nobel đầu
tiên. Con gái lớn của Bà Irère Joliot-Curie cũng được
giải thưởng Nobel về Hóa học năm 1935.
Bà là người phụ nữ đầu tiên được yên nghỉ trong Ðiện
PANTHEON ở Paris bên cạnh nhà văn Victor Hugo, nhờ
công lao của Bà.
Chất Radium của bà đã tìm ra là chất trị liệu ung thư
(cancer) đã cứu biết bao nhiêu người.
NHƯNG THAY ĐỔI CỦA QUẢ ĐẤT
LTS: Gần đây các nhà khoa học đang báo động chuyện khí hậu đang ấm dần khiến các sông băng trên các dãy núi cao đang bị tan ra. Câu chuyện thực tế dưới đây đề cập đến sự tác động của thiên nhiên vào hai khu vực khác nhau của dãy núi Kilimanjaro tọa lạc giữa quốc gia Kanzania và Kenya.
Phía Nam của dãy núi Kilimanjaro là làng Liyasongoro, nơi các cư dân đang lo lắng khi thấy lượng mưa giảm dần, và nguồn nước từ dãy núi cung cấp cho họ giờ can kiệt. Vào năm 2000, dân làng này đã lâm vào tình trạng hạn hán mất mùa.
Trong khi Lâm viên quốc gia Amboseli, của Kenya, tọa lạc ở phía Bắc của dãy núi Kilimanjaro, lại tràn ngập nước và trở thành đầm lầy, khiến cho nhiều thú vật như hươu cao cổ, linh dương phải rời khỏi lâm viên. Chính sự thay đổi đó, khiến các nhà khoa học lên tiếng báo động rằng nếu như sông băng trên ngọn núi này tiếp tục tan chảy theo một mức độ như hiện tại thì trong vòng 20 năm sắp ngọn núi sẽ không còn đóng băng như trước. Như thế khí hậu ở đây sẽ có một sự thay đổi rất lớn. Bên cạnh đó, những suy luận về băng tan do hiện tượng trái đất bị hâm nóng đang được các nhà khoa học lại đem ra mổ xẻ.
Để hiểu rõ những chuyện xảy đến cho các dân làng cư ngụ trong dãy núi Kilimanjaro như thế nào, và những suy luận nào mà các nhà khoa học vẫn còn bàn cãi, xin mời quý độc giả theo dõi bài viết dưới đây.
Nhiều sự thay đổi ở làng Liyasongoro
Ở ngôi làng Liyasongoro, của người dân Tanzania, tọa lạc ở sườn núi phía Nam trên cao độ 1,700 mét trên dãy núi Kilimanjaro, người ta gọi Minja là "ông lão khôn ngoan". Bởi vì ông Minja là ông lão lớn tuổi nhất trong làng. Ông sống ở làng này đã hơn 60 năm - một khoảng thời gian được xem là dài nếu so với những người Châu Phi khác. Ông nhận thấy thời gian gần đây khí hậu đã thay đổi.
Ông lão Minja nói:
- "Vào mùa mưa lại không có một giọt mưa nào. Trong khi vào mùa khô, chúng tôi không mong đợi những trận mưa, thì trời lại đổ mưa." Ông Minja vẫn còn nhớ vào thời gian khi những người dân Châu Phi đầu tiên đến đây để định cư, họ thường sống quây quần cạnh những sườn núi, gần nơi có nguồn nước trong mát. Nhưng giờ đây những dòng suối chảy từ dãy núi đang trở nên khô cạn, và vùng đất trồng trọt không còn khai khẩn được nữa.
Ông lão Minja kết luận:
- "Tôi nhìn thấy quá nhiều sự thay đổi và những sự thay đổi của thiên nhiên đang di dần đến một chiều hướng xấu."
Khi nghe nói rằng đó là hiện tượng trái đất đang bị hâm nóng, ông lão Minja ngơ ngác vì không hiểu gì đến thuật ngữ này. Nhưng Minja và khoảng một triệu dân đang sinh sống ở dãy núi Kilimanjaro chỉ biết rằng thiên nhiên chung quanh họ đang thay đổi, dẫn đến cuộc sống của họ giờ cũng bị ảnh hưởng lây.
Các chuyên gia thủy lợi của chính phủ cho biết: kể từ năm 1984 lượng mưa mỗi năm ở dãy núi Kilimanjaro đều giảm đi. Cách đây hai năm khu vực này đã bị hạn hán trầm trọng đến nổi mùa màng của ông lão Minja đều bị thất thu. Và đó là lần đầu tiên ông bắt buộc phải đi mua thực phẩm. Vào năm ngoái mùa màng của ông lão Minja trở nên khá hơn nhưng vẫn không thu hoạch được nhiều.
Ở trên đỉnh đồi núi, cách xa các nông trại và làng mạc, rừng nhiệt đới cũng bị đẩy lùi do nạn đốn cây bừa bãi và nạn cháy rừng trong mùa nóng. Và băng tuyết trên đỉnh của ngọn núi Kilimanjaro - ngọn núi cao nhất Châu Phi - đang dần dần tan ra.
Băng tan ở dãy núi Kilimanjaro
Chuyện băng tan trên những ngọn núi đang là mối bận tâm của các nhà khoa học.
Vào năm ngoái, Dave Sprissler và David Luber, hai nhà leo núi người Mỹ cùng nhau tấn công đỉnh núi cao 6,000 mét này. Cả hai nhà leo núi hoạch định sẽ theo con đường phía nam lên đỉnh núi bằng cách trèo qua sông băng Heim. Nhưng họ không thực hiện được ý định. Bản đồ mà họ giữ trong tay, được xuất bản ba năm về trước, đã không còn phù hợp với những thay đổi mà thiên nhiên đang tác động vào ngọn núi. Đó là sông băng Heim đã bị co rút đi phân nửa. Phần khác băng bị vỡ, tan chảy ra, tạo thành một bức tường băng tuyết chận mất cả lối đi.
Dave Sprissler nhận xét:
- "Trước khi đến đây, tôi không tin có chuyện trái đất đang bị hâm nóng.
Nhưng giờ tôi mới thấy đó là sự thật."
Thomas Meela, hướng dẫn leo núi chuyên nghiệp - người từng leo lên đỉnh núi này hàng trăm lần - cũng nói rằng mỗi năm khi leo lên đây, anh đều thấy băng tuyết trên núi lại tan ra một ít, phơi bày những chỏm đá trơ trọi. Nhiều lần, cả đội leo núi của anh bắt buộc phải quay trở lại và tìm con đường khác để leo lên.
Lonnie Thompson là giáo sư địa chất học của trường Đại học Ohio. Ông đã bỏ ra 20 năm để nghiên cứu hiện tượng các sông băng, lẫn sự thay đổi của khí hậu tại núi Kilimanjaro.
Vào năm ngoái ông Thompson đã xuất bản công trình nghiên cứu của ông.
Theo những dữ liệu nghiên cứu, kể từ năm 1979, có khoảng 30% băng tuyết phủ trên ngọn núi đã biến mất. Từ năm 1912 cho đến nay đã có 82% sông băng đã tan chảy.
Thompson lên tiếng báo động:
- "Nếu như lớp sông băng trên ngọn núi Kilimanjaro cứ tiếp tục tan ra với một mức độ như hiện nay, nó sẽ hoàn toàn biến mất vào năm 2020."
Môi sinh bị phá hủy
Không phải chỉ có chuyện băng tan, rừng nhiệt đới tại đây cũng ở trong tình trạng phá hủy. Do mất mát mùa màng, các nông dân trong làng không biết làm gì khác hơn là quay sang việc đốn rừng để kiếm sống.
Một nhà động vật học nhận xét:
- "Một khi những người dân làng vào trong rừng nhiệt đới, họ cứ việc chặt tất cả cây lớn bé ở đó."
Chính vì không biết cách gìn giữ rừng rậm, đã gây ảnh hưởng đến lượng mưa trong khu vực này. Bởi khi một diện tích lớn của rừng rậm bị đốn sạch đi hoặc bị đốt trụi, những phần còn lại của rừng rậm sẽ trở nên khô hơn và có thể bắt cháy dễ dàng hơn. Rừng rậm nhiệt đới là nguồn điều hòa lượng mưa đổ xuống đây.
Trong trận hạn hán của năm 2000, những cơn cháy rừng đã đốt sạch 5,000 héc-ta đất - chỉ còn khoảng 5% rừng nhiệt đới còn tồn tại sau những trận cháy rừng đó. Do đó lượng mưa không còn rơi đều đặn xuống khu vực núi Kilimanjaro, dẫn đến việc nguồn nước không còn chảy đến làng của ông lão Minja.
Ông lão Minja cho biết:
- "Con kênh thủy lợi của chúng tôi đã khô cạn. Do khí hậu trở nên nóng hơn và các đàn muỗi kéo đến. Nên giờ đây, dân làng chúng tôi lại mắc chứng sốt rét."
Trước đây thời tiết ở vùng núi Kilimanjaro thường lạnh lẽo cho nên ít xảy ra chứng sốt rét. Nhưng khi nhiệt độ ở đây bắt đầu ấm lên, những đàn muỗi xuất hiện và mang nhiều dịch bệnh. Nhiều dân làng đã phải bỏ làng ra đi trong nạn hạn hán vào năm 2000. Trong khi các cư dân còn lại trong làng cố xoay sang trồng bắt và đậu để nuôi sống gia đình họ. Một dân làng nói:
- "Vùng đất này thường đem đến một cuộc sống tốt đẹp cho chúng tôi, nhưng giờ đây chúng tôi chẳng thể trồng trọt được, do hạn hán."
Sự khác biệt ở phía Bắc dãy núi Kilimanjaro
Ở một phía khác của dãy núi Kilimanjaro, thuộc xứ sở
Kenya, lại có chuyện khác hẳn. Dù nơi đây cũng không có nhiều cơn mưa rừng, nhưng các cư dân vẫn còn được thiên nhiên cung cấp nguồn nước. Không ai biết tại sao sông băng lại chảy vào vùng đất của Kenya như vậy. Chỉ biết rằng những sông băng trên núi đã tan rã và chảy vào lãnh thổ của Kenya khiến cho Lâm viên quốc gia Amboseli, tọa lạc ở phía Bắc của dãy núi Kilimanjaro, biến thành đầm lầy. Chính vì vậy, nhiều thú vật tại Lâm viên quốc gia Amboseli không thích sống trong đầm lầy như hươu cao cổ, linh dương phải di cư sang nơi khác. Trong khi nhiều con thú khác như voi, và các giống chim lại tụ về đây. Cách đây 10 năm người ta chưa hề thấy loại chim Hồng hạc nhưng hiện nay chúng quy tụ về đây rất đông.
Trước tình trạng này, một nhà động vật học cho rằng nếu như sông băng trên núi chảy tan hết sẽ là một thảm họa cho các dân làng sinh sống ở khu vực núi Kilimanjaro. Bởi vì lúc đó nước sẽ khô cạn đi. Nạn hạn hán sẽ kéo dài, dẫn đến thảm họa là nạn đói rồi bệnh dịch. Nhà khí tượng học và phó chủ tịch của Chương trình Môi sinh Liên Hiệp Quốc Alex Alusa cũng đồng ý rằng vấn đề khí hậu thay đổi là một sự việc cần đáng quan tâm.
Một khi trái đất ngày càng bị hâm nóng, những quốc gia giàu có sẽ thích nghi nhanh với môi trường, trong khi các quốc gia nghèo lại ở gần đường xích đạo sẽ đối diện với những khó khăn do thiên nhiên gây ra.
Những ảnh hưởng có thể xảy ra trong tương lai:
Bangladesh - một nước nghèo khó với số dân đông đúc - sẽ phải đương đầu với lũ lụt, sự dâng cao của mực nước biển và những cơn sóng thần dữ dội.
Thái Lan sẽ gia tăng giá tiền nước để cố xoay xở giải quyết những cơn lụt trầm trọng và nạn hạn hán.
Mực nước sông Nile ở Châu Phi dâng cao có thể khiến cho cá ở đây bị chết và nhận chìm những vùng đất canh tác ở Ai Cập trong làn nước biển. Nếu như nhiệt độ trái đất tăng đến 2 độ C, quốc gia Uganda ở Châu Phi sẽ trở nên quá nóng khiến họ không thể trồng cà phê được. Trong khi khu vực Nam Mỹ sẽ chịu nhiều bệnh tật nhiệt đới do khí hậu trở nên nóng hơn.
Những suy luận quanh việc trái đất bị hâm nóng
Lập luận một khi trái đất đang nóng dần có thể khiến những khối băng ở hai cực Bắc và cực Nam của quả địa cầu sẽ bị phá vỡ và chảy tan vào các đại dương, dẫn đến việc nước biển dâng cao, tàn phá những vùng đất nào thấp hơn mực nước biển, hay những vùng duyên hải, đang được các nhà khoa học xem xét lại.
Gần đây, nhà nghiên cứu về sông băng Ian Joughin ở một Viện nghiên cứu có trụ sở đặt tại California đang đặt nhiều câu hỏi về lập luận này.
Sau khi phân tích các dữ liệu thu được từ vệ tinh nhân tạo, ông Joughin đưa ra kết luận rằng mảng băng khổng lồ nằm dọc theo Biển Ross ở Nam Cực không mất đi 20 tỉ tấn băng vào mỗi năm như nhiều nhà khoa học từng nghĩ. Nhưng thực tế là băng đang được đông đặc đến 26 tỉ tấn vào mỗi năm. Sự dầy lên của những tảng băng này - được tạo thành từ các dòng chảy luân lưu chậm để chuyển các tảng băng đến biển cả - không phải là do trái đất đang bị hâm nóng, mà do chính tác động bên trong của sông băng. Các nhà khoa học càng cố đào bới những bí ẩn trong hiện tượng trái đất đang bị hâm nóng có thể tác động đến các cực của địa cầu, không chỉ muốn tìm hiểu về sự thay đổi của khí hậu, mà cũng muốn hiểu thêm về những phát triển của sông băng ở hai cực - đã có mặt trên trái đất từ mấy trăm ngàn năm trước đây.
Thoạt tiên các chuyên gia về khí hậu đều đồng ý rằng trái đất nóng dần khiến cho khí hậu của địa cầu giờ đây thất thường là do các khí thải từ các cơ sở công nghiệp trên toàn thế giới gây ra hiệu ứng nhà kính. Nhưng trong nhiều thập niên nghiên cứu cho thấy sự thay đổi khí hậu rất bao quát và rộng lớn. Băng tan là điều hiển nhiên được các nhà khoa học công nhận.
Tuy vậy, một giả thuyết khác cho là quả địa cầu đang bị hâm nóng ở một mức độ chậm, ổn định, xem ra không đúng với thực tế. Vào cuối năm ngoái, Viện Khoa học quốc gia Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về những thay đổi đột ngột của khí hậu trong khoảng một hay hai thập niên trong nhiều thế kỷ. Viện khoa học này cho biết lần cuối khí hậu thay đổi là cách đây 11,500 năm khi nhiệt độ trung bình tăng lên đến 10 độ C trong vòng 10 năm.
Các nhà khoa học lo ngại rằng những sự thay đổi bất chợt như vậy có thể gây rối loạn cho dòng chảy Gulf Stream. Với việc thu thập gió nóng từ dòng chảy Gulf of Mexico và đẩy chúng đến Âu Châu, dòng chảy Gulf Stream chịu trách nhiệm chính trong việc điều hòa nhiệt độ ở Anh quốc, vùng đất Scandinavia và những phần khác của Bắc Âu - khiến các vùng đất này ấm hơn so với các khu vực nằm chung đường kinh tuyến ở Bắc Mỹ. Các nhà hải dương học cũng lo sợ rằng những dòng nước chảy ra từ các tảng băng bị tan và lượng mưa gia tăng có thể làm giảm đi độ mặn của nước biển. Như vậy tỷ trọng của các dòng chảy ở Bắc Đại dương sẽ bị giảm đi, dẫn đến việc thay đổi dòng chảy, khiến cho không khí ấm không còn được thổi đến Âu Châu mà lại vào Greenland - vùng đất nằm ở Bắc cực. Các nhà khoa học giờ đây vẫn chưa biết liệu những suy luận này có xảy ra trong thế kỷ tới không?
Suy đoán sự thay đổi khí hậu trong những khu vực đặc biệt có thể đưa đến nhiều sai lạc khác xa với thực tế.
Trên đảo Signy, ngoài khơi của bán đảo Nam cực, một nhóm các khoa học gia đã bỏ ra hơn 20 năm để khám xét hàng chục cái hồ ở đảo này. Bằng cách khoan những lỗ xuống các hồ băng và lấy mẫu nước, các nhà khoa học đã tìm thấy nước trong hồ trở nên ấm hơn 1 độ C so với 15 năm trước - Rõ ràng là nhiệt độ của nước tăng nhanh hơn so với nhiệt độ của không khí, khi trong vòng 40 năm nhiệt độ không khí chỉ mới tăng thêm 1 độ.
Trong khoảng thời gian mà nhiệt độ những chiếc hồ băng tăng lên từ 1 đến 2 độ, thì dân số hải cẩu trên đảo Signy đã tăng từ 0 đến 25,000 con; và số cây trồng ở đảo cũng tăng trưởng rất nhiều.
Nhà nghiên cứu Lloyd Peck, thuộc Viện nghiên cứu Nam cực Anh quốc, nhận xét:
- "Điều này cho thấy bất cứ sự thay đổi nào trong môi trường cũng khiến cho nước biển bị ảnh hưởng nhanh hơn."
Điều đó có nghĩa là khi trái đất nóng dần, Nam cực trở thành vùng đất dễ sinh sống hơn và con người không tốn nhiều năng lượng để giữ ấm. Trong khi đó, miền Bắc Âu Châu có thể trở thành vùng đất bị đóng băng vĩnh cửu.
Khả năng trái đất có thể trở về kỷ băng hà cũng được các nhà khoa học nhắc đến. Trong 10,000 năm qua, trái đất đang ở trong thời kỳ ôn hòa, với khí hậu ổn định. Nhưng dựa vào những phân tích mà các nhà khoa học tìm được từ những tảng băng ở Greenland, con người chúng ta sẽ không còn được hưởng may mắn sống ở thời kỳ ôn hòa nữa. Trong nửa triệu năm, trái đất được thay đổi theo một chu kỳ: tiếp theo sau 10,000 năm nóng là 90,000 năm lạnh. Nếu như chu kỳ này là sự thật thì tiếp theo thời kỳ nóng, trái đất sẽ lâm vào thời kỳ băng hà.
Nhiều nhà khoa học lý luận: Có thể là không khí ô nhiễm từ các khí thải với hiệu ứng nhà kính có thể giảm bớt mối hiểm họa trái đất sẽ quay về thời kỳ băng hà chăng?
Nhiều suy luận vẫn còn được các nhà khoa học thảo luận quanh hiện tượng trái đất đang bị hâm nóng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro