khoa hoc
Di tích thần kỳ Mayas
Ở gần đài thiên văn Thành cổ Mayas, có "Giếng thánh" được cư dân nơi đây coi là rất linh thiêng. Từ năm 1524 đến năm 1627, đại giáo chủ người Bồ Đào Nha - Đitigow coi sóc khu vực Yucatan, khi giới thiệu về lịch sử nơi đây ông ta đã nói: "Mỗi khi xảy ra đại hạn, các thầy hành lễ đều lập đàn tế thần ở giếng này. Khi cầu xin mưa thuận gió hòa người ta tiến hành nghi lễ long trọng, thả bé trai bé gái vào giếng để làm vật hiến tế".
Trong rừng rậm cách đài thiên văn này không đầy 100m, có một cái giếng giống hệt giếng này. Nhìn bề ngoài, nó cũn giống như giếng thánh, độ sâu của nước cũng như nhau, trong nước lấp lánh ánh nâu và màu đỏ của máu. Không có gì phải nghi ngờ, hai giếng này có cùng niên đại nhưng rất nhiều học giả chỉ nhắc tới Giếng thánh, còn cái giếng phát hiện được ở trong rừng rậm họ biết rất sơ sài. Giá trị thần bí của nó chỉ được xác nhận khi người ta dựng trên Kim Tự Tháp Sthyllo nằm đúng trung điểm của đường thẳng này, khoảng cách giữa hai giếng đến đỉnh đài thiên văn bằng nhau, đều là 984 thước Anh (thước Anh hoặc thước Mỹ bằng 0,914m).
Kim Tự Tháp Sthyllo cũng giống như đài thiên văn, đều được giành cho việc biểu thị sự thiêng liêng của thần thánh, giống như "rắn Daynmao" - Hình ảnh con rắn này thấy ở mọi kiến trúc cổ đại Mayas. Người Mayas đặc biệt yêu thích rắn. Từ xa xưa cho đến hiện nay, rắn luôn luôn là động vật có đời sống ẩn náu, bò sát mặt đất, nhưng với người Mayas - những con người có tình cảm đặc biệt với loài rắn, lại chắp thêm đôi cánh cho rắn để có khả năng bay lượn trên không.
Trong truyền thuyết của người Mayas, Khulelkotel là một vị thần có râu dài, mặc áo choàng trắng đến từ một quốc gia phương Đông. Thần dạy người Mayas các kiến thức khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, định ra luật pháp rất nghiêm ngặt. nghe nó, dưới sự chỉ đạo của ngài, ngô do người Mayas trồng to như bắp chân, bông thì có nhiều màu. sau khi dạy cho người Mayas thuần thục kỹ thuật trồng trọt vị thần ấy lại ra đi. Người Mayas rất kính trọng vị thiên sứ này, họ tin tưởng nhất định ngài sẽ quay lại.
Bên cạnh đài thiên văn nơi đây tại sao lại có những cái giếng này? Chúng được dùng để làm gì? Nhưng bí ẩn khó hiểu của nền văn hóa Mayas cho đến nay chúng ta vẫn chưa hiểu được. Trong truyền thuyết, thần linh của các đại giáo sỹ, luật sư, quan tòa và các nhà khoa học đã đến với người Mayas. Thần mang theo một nguyện vọng trong sáng, thần cũng khẳng định sẽ dạy cho những người Mayas nghèo khó, chưa được khai hóa những tri thức văn minh biết chế tạo xe để thoát khỏ cảnh đi bộ, vác nặng. Nhưng các nhà khảo cổ vẫn chưa phát hiện dấu tích nào có liên quan đến vấn đề này.
Palenque nằm trong khe núi một vùng hoang vắng thuộc huyện Mexico. Hơn 10 thế kỷ qua, người nơi đây chưa từng quan tâm đến ngôi điện thần bị đổ sụp hoang phế. Những năm 50 thế kỷ XX, các nhà khảo cổ học đã đến đây dọn dẹp điện thần này, khai quật được một tấm đá nặng, khắc đầy hoa văn.
Hình khắc trên tấm đá vừa khoa trương vừa thần kỳ, một người giống như đang lái xe ô tô, 2 tay nắm vào một vật giống như tay lái, xung quanh là các loại hình hoa trang sức. Theo cánh giải thích đó, đây là bức tranh biểu thị trí tưởng tượng vô cùng phong phú của người Mayas.
Trải qua năm tháng, tất cả đã thay đổi, chúng ta không thể làm rõ được vì sao những người thợ điêu khắc Mayas thời đó có thể chế tạo ra những hoa văn mày bây giờ mới có thể xuất hiện. Đó là một phi công vũ trụ, cầm tay lái, hai mắt nhìn thẳng về phía trước. Đây đích thực là tác phẩm của người Mayas, vì hình dáng viên phi công được khắc giống hệt người Mayas. Cũng có thể người Mayas nghĩ rằng có ngày họ có thể bay lượn trên bầy trời. KHi điêu khắc, những người thợ Mayas đã làm cho đường ống xả uốn lượn thành một kiểu trang trí, đồng hồ, các vật hình vuông, các ống đều đã được xử lý một cách phóng đại và cũng là nghệ thuật. Nhưng tất cả đều nhìn được rất rõ ràng: Công cụ vận tải có phần đầu thì nhọn, phần đuôi thì to đùng,các bộ phận như anten, đồng hồ, vòi, ống,... đều được miêu tả một cách sinh động. Nghe nói, bức ảnh chụp tác phẩm này, khi được gửi tới hãng hàng không Mỹ, họ đã kinh ngạc không khỏi thốt lên: "Người Mayas thật vĩ đại"
Tổng hợp từ net . sách 1001 bí ẩn
Những điều chưa biết về Trái Đất
Loài thực vật nào trên trái đất đã sống đến vài ngàn năm tuổi? Khu vực hạn hán nhất trên thế giới là ở đâu, hạn hán đến mức độ nào? Cho đến nay con người đã phát hiện ra bao nhiêu vàng khắp thế giới? Và còn nhiều điều khám phá thú vị khác nữa...
1. Nhiệt độ trong lòng Trái đất là bao nhiêu?
Cứ sâu thêm 1km thì nhiệt độ trái đất lại tăng thêm 36 độ Fahrenheit (tức là 20 độ C). Người ta ước tính điểm gần tâm Trái đất nhất độ nóng ít nhất là 7000 độ Fahrenheit (3,870 độ C).
2. Sao Thổ là hành tinh duy nhất có vành đai bao quanh?
Chính xác là vành đai bao quanh Sao Thổ nhìn thấy rõ nhất. Sao Mộc, sao Thiên Vương và sao Hải Vương cũng có vòng đai bao quanh nhưng rất mờ và khó nhận biết. Thậm chí Trái đất có thời kì cũng có vành đai bao quanh - thực chất là những thiên thạch sượt qua trong không gian.
Sao Thổ không phải là hành tinh duy nhất có vành đai bao quanh
3. Mỗi ngày trung bình thế giới sử dụng bao nhiêu nước?
Khoảng 400 tỷ gallon (tương đương 1816 tỷ lít).
4. Loài thực vật nào ở Bắc Phi có thể sống đến vài nghìn năm?
Đó là loài cây bụi Creosote, sống ở sa mạc Mojave, Sonoran, và sa mạc Chihuahuan vùng Bắc Phi. Theo phân tích các-bon phóng xạ thì loài thực vật này đã có mặt trên trái đất từ lúc chúa Jesu ra đời. Một số cây đã có trên 1000 năm tuổi.
5. Khu vực nào hạn hán nhất trên trái đất?
Đó là vùng Arica ở nước Chile. Mỗi năm thành phố này chỉ nhận được 0,76 mm nước mưa. Với lượng mưa ít ỏi đó, tính ra phải mất một thế kỉ thì mới đủ nước rót đầy một tách cà phê.
Mùa màng ở vùng Arica, Chile - khu vực hạn hán nhất trên trái đất
6. Hồ nào lớn nhất trên thế giới?
Xét về kích thước và khối lượng nước thì đó là hồ Caspian, nằm giữa đông nam châu Âu và Tây Á.
7. Điểm khô nào sâu nhất trên thế giới?
Đó là bờ biển Chết ở Trung Đông, nằm dưới mặt nước biển khoảng 400 m. Đứng thứ 2 là địa điểm mang tên "Vùng nước xấu" thuộc Thung Lũng Chết bang California, cách mặt nước biển 86m.
"Vùng nước xấu" ở Thung Lũng Chết, điểm khô đứng thứ 2 về độ sâu so với mặt nước biển, sau bờ biển Chết
8. Trên bề mặt trái đất diện tích lục địa là bao nhiêu?
Diện tích mặt đất khoảng 510,1 triệu km vuông, còn lại là sông hồ, biển và đại dương.
9. Kể tên 3 quốc gia có nhiều núi lửa hoạt động nhất trong lịch sử?
Đó là Indonesia, Nhật Bản và Mỹ, theo thứ tự giảm dần.
Indonesia là quốc gia nhiều núi lửa nhất trên thế giới
10. Cho đến nay con người đã phát hiện ra bao nhiêu vàng trên trái đất?
Hơn 193,000 m khối (tương đương 231,625 tấn). Nếu gom tất cả lại tạo thành hình khối, thì số vàng đó sẽ giống như tòa nhà cao 7 tầng.
TH
Bí ẩn về thành cổ ở sa mạc
Nhìn khắp vùng sa mạc rộng mênh mông một màu cát vàng dường như không thể tìm thấy chân trời, ban ngày nhiệt độ cao nhất có thể lên đến hơn 40 độ C, buổi tối lại có thể hạ xuống -40 độ C. Một vùng đất như vậy đến động vật cũng không dám đặt chân đến thử hỏi có ai muốn đến định cư trên vùng đất khắc nghiệt này?
Thật kỳ diệu, năm 1862 nhà khảo cổ học người Pháp, Me Dawallgai lần đâu tiên phát hiện ra mấy trăm thành cổ bị chìm lắng suốt hơn 1000 năm ở phía Bắc sa mạc lớn Syrian. Từ những vương pháp, điện miếu cao vút với tường rộng và trên lớp nham thạch đá trắng rải trên nền đất chúng ta không dễ nhận thấy sự phồn vinh xưa kia của những thành cổ này. Chỉ qua những đường phố hoang tàn tĩnh mịch với những trận bão cát bay tứ tung và những gian nhà bị cát vùi mất một nửa chúng ta có thể nhận thấy đây là một "Thành phố chết".
Theo sử sách ghi chép, hơn 6000 năm trước, đây là trục giao thông từ Syrian đến các nước ở phương Tây và phương Đông, là một trong những vùng đất phát sinh nền văn minh cổ đại. Một thành phố phát triển thịnh vượng như vậy, tại sao nhân loại lại bỏ quên khiến cho nó trở thành "Thành phố chết" như hôm nay?
Một nhà khảo cổ học cho rằng, có thể do nguyên nhân suy thoái kinh tế. Vào năm 611, vua Parsian đánh hạ Antiosz, cắt đứt con đường giao thông đến các nước phương Tây khiến các thương nhân hay đi qua vùng đất này phải chuyển đường. Thương phẩm ở đây không thể lưu thông nên nền kinh tế bị trì trệ, thành cổ cũng vì vậy mà từ cảnh hưng thịnh đi đến suy vong.
Có nhà khảo cổ học lại không đồng tình với quan điểm đó, họ cho rằng nguyên nhân kinh tế không ảnh hưởng lớn đến sự suy vong của thành cổ, mà cho rằng nước vẫn là tài sản quý báu nhất. Tuy thành cổ có hệ thống sông ngòi, kênh mương đan chằng chịt, có nhiều bể chứa nước nhưng nếu trời không mưa thì nước trở thành vấn đề quan trọng đảm bảo sự sinh tồn hay diệt vong đối với người dân nơi đây. Thêm vào đó, đế quốc La Mã cách vùng đất này không xa, đế quốc Bizantine cũng đang ngày càng phồn vinh, một số lượng lớn dân số trong thành cổ chuyển đến nơi khác sinh sống là điều không thể tránh khỏi. Cùng với dòng chảy thời gian, thành cổ này cũng trở thành hoang tàn.
Vậy nguyên nhân nào khiến những con người đó đến xây dựng thành quách giữa sa mạc? Đối với môi trường khắc nghiệt xung quanh thành cổ, họ giải quyết vấn đề sinh tồn như thế nào? Đối với họ mà nói, lo cuộc sống ở đây đã không phải là đơn giản, vậy họ làm sao còn sáng tạo được kỳ tích xây dựng thành cổ? Những nghi vấn này thực tại khiến nhiều nhà khảo cổ chưa giải thích được mà từng bước chờ đợi những chứng cứ thực tế mới để tìm câu trả lời.
Có phải Mặt trăng vô danh?
Các thiên thể quay quanh các hành tinh trên một quỹ đạo nhất định đều được gọi là mặt trăng. Chúng cũng có tên riêng, như các mặt trăng của sao Thiên Vương mang tên các nhân vật trong vở kịch của Shakespeare: Desdemona, Juliet, Rosalind, Calinban và Sycorax... Nhưng mặt trăng của Trái đất dường như lại vô danh.
Sự thật không phải như thế.
Các mặt trăng trong hệ Mặt trời của chúng ta được Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) đặt tên theo những đặc điểm nổi bật của chúng. Thậm chí, miệng núi lửa trên tiểu hành tinh Eros còn mang cái biệt danh... chẳng giống ai: Lolita - cái tên liên quan đến ái tình.
Một vài năm trước đây, có hai cô bé học sinh Australia gửi thư tới tạp chí New Scientist cho biết họ đã phát hiện mặt trăng không có tên và họ quyết định gọi nó là Dijon. Nhưng cái tên này đã nhanh chóng bị quên lãng.
Đương nhiên mặt trăng có một cái tên, đó chỉ là vì không có ai sử dụng nó ngoài các nhà thơ.
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã đặt tên tất cả những vật thể trên trời mà họ nhìn thấy và các hành tinh của hệ Mặt trời được đặt tên theo các vị thần của họ, chẳng hạn Jupiter (sao Mộc - thần mưa), Saturn (sao Thổ - thần nông), Mars (sao Hoả - thần chiến tranh), Venus (sao Kim - thần vệ nữ)... Mặt trời được gọi là Apollo (thần Mặt trời) theo tiếng Hy Lạp và Phoebus theo tiếng La Mã.
Mặt trăng được gọi là Artemis theo tiếng Hy Lạp và Diana (thần săn bắn) hay Luna theo tiếng La Mã. Từ cái tên Luna này, chúng ta có tính từ Lunar, chỉ đặc tính của mặt trăng, để phân biệt với các mặt trăng của các hành tinh khác.
Do Luna là mặt trăng duy nhất chúng ta có thể nhìn thấy được bằng mắt thường, người ta quen gọi nó là Mặt trăng. Chính vì vậy, khi một người nào nói đến mặt trăng là nói đến Luna.
Những sắc thái kỳ diệu của vầng trăng
Nói đến ánh trăng người ta thường liên tưởng đến màu trắng bạc và cho rằng những cảm nhận khác nhau về màu là do xúc cảm gây nên. Thật ra điều này không phải do xúc cảm, mà là do những phản ứng quang học khác nhau trong thời gian ánh trăng.
Từ thập niên 1960, các nhà thiên văn học đã sử dụng những loại phim ảnh cực nhạy để làm sáng tỏ về màu trăng. Mặt trăng chỉ hoàn toàn trắng vào ban ngày. Điều này là do màu xanh da trời được hoà vào màu vàng chính của mặt trăng.
Trong những ngày có trăng, vào buổi chiều hoặc sẩm tối, màu xanh da trời yếu đi, mặt trăng trở nên vàng hơn, và đến một lúc nào đó sẽ gần như vàng tuyền. Khi hoàng hôn tắt hẳn, trăng lại trở nên trắng vàng. Trong thời gian còn lại của đêm, trăng giữ màu vàng sáng.
Vào mùa Đông, trong những đêm trời quang đãng, khi trăng lên cao có vẻ trắng hơn. Nhưng khi xuống gần tới chân trời, trăng lại có màu đỏ và cam.
Nếu quanh mặt trăng có những đám mây hồng cam, ánh trăng chuyển sang màu lá cây pha xanh lơ. Sự tương phản màu sắc như vậy được thấy rõ hơn trong những ngày trăng lưỡi liềm. Sự tương phản giảm bớt khi trăng đầy thêm. Nhìn qua ánh sáng nến vốn có màu sắc hơi đỏ, trăng cũng sẽ có màu xanh lá cây pha xanh lơ.
Thị giác cũng bị đánh lừa. Nếu bạn nhìn vào một đống lửa màu cam khoảng nửa tiếng, sau đó nhìn lên mặt trăng, bạn sẽ thấy nó có màu lam.
Mặt trăng cũng như Mặt trời, khi ở vị trí thấp gần sát đường chân trời, chúng có màu vàng cam, đôi khi đỏ sậm như màu máu. Đó là do sự khúc xạ các chùm tia sáng trong khí quyển và cũng do trạng thái của chính khí quyển.
Cũng có một trường hợp khác ánh trăng mang sắc máu. Đó là ánh trăng sau nguyệt thực. Vì ánh trăng là do sự phản chiếu ánh sáng Mặt trời. Trong thời gian nguyệt thực, Trái đất che khuất mặt trăng. Bầu khí quyển của Trái đất phân tán tia xanh nhiều hơn tia đỏ. Trong thời gian Trái đất bắt đầu ra khỏi vùng che mặt trăng, những tia đỏ đi đến mặt trăng nhiều hơn. Khi bắt đầu chấm dứt nguyệt thực, mặt trăng nhận được tia đỏ nhiều hơn và phản chiếu về Trái đất một màu đỏ úa. Sau đó ánh trăng từ từ trở lại như bình thường.
Đó là những thay đổi của ánh trăng nhìn từ Trái đất. Qua sự phân tích các tia hồng ngoại và tử ngoại, các nhà khoa học còn tìm thấy những sự thay đổi màu sắc khác, ngay trên bề mặt mặt trăng. Từ những miệng núi lửa đã ngưng hoạt động từ lâu đến các vùng khác trên mặt trăng, do ảnh hưởng của các loại quặng kim loại, cũng có nơi tương đối xanh, có nơi tương đối đỏ.
Mặt trăng chuyển động với vận tốc bao nhiêu kilomet trong một phút?
Nếu cung cấp cho bạn một vài con số, các bạn sẽ dễ dàng tính toán đó là một con số khổng lồ. Giả thiết rằng quỹ đạo của Mặt trăng là hình tròn, sau đó tính khoảng thời gian mà Mặt trăng chuyển động hết một vòng lấy phút làm đơn vị, ta có thể tính ra được tốc độ chuyển động của Mặt trăng.
Các con số cơ bản: khoảng cách trung bình Trái đất - Mặt trăng là 388.400 km, thời gian Mặt trăng chuyển động hết một vòng quỹ đạo là 27,32166 ngày (tức là 27 ngày giờ 43 phút). Có người hỏi thế liệu từ tuần trăng tròn đến tuần trăng tròn mới có phải là 29 ngày rưỡi không? Đúng vậy. Thời gian để trăng tròn so với thời gian để Mặt trăng đi hết một vòng trên quỹ đạo đi có dài hơn.
Nếu cho quỹ đạo của Mặt trăng tròn so với thời gian để Mặt trăng đi hết một vòng quỹ đạo thì có dài hơn.
Nếu cho quỹ đạo của Mặt trăng là hình tròn thì khoảng đường đi trên quỹ đạo của Mặt trăng sẽ là 384.400 km x 2 x 3,1414 = 2.415.256 km. Nếu đổi khoảng thời gian Mặt trăng di chuyển hết một vòng ra đơn vị phút ta có: 27,321256 x 24 x 60 = 39343 phút. Dựa vào các số liệu này ta có thể tính ra tốc độ chuyển động của Mặt trăng trên quỹ đạo sẽ là:
2415256 : 39343 = 61,38 km hoặc 1023 m/s
Tốc độ này nhanh gấp 3 lần tốc độ chuyển động của Trái đất trên quỹ đạo (là 340 m/s). Tuy nhiên, đó chỉ là tốc độ trung bình, vì quỹ đạo của Mặt trăng lại có hình elip, thực tế tốc độ chuyển động của Mặt trăng lúc nhanh lúc chậm; lúc ở gần Trái đất nhất tốc độ chuyển động của Mặt trăng là 64,85 km/s, còn lúc ở xa Trái đất nhất tốc độ chuyển động của Mặt trăng sẽ là 58,10 km/s.
Trên Mặt trăng có núi lửa hoạt động hay không?
Từ năm 1969 trở lại đây, con người từng 8 lần lên Mặt trăng (bao gồm cả hai lần lên Mặt trăng không có người) và đã mang về vài triệu gram vật phẩm từ Mặt trăng. Theo những phân tích và nghiên cứu về các vật phẩm, nham thạch trên Mặt trăng đã giúp mọi người hiểu ra rằng đá nham thạch cấu tạo thành Mặt trăng chủ yếu là đá silicat và đá huyền vũ. Mọi người đều biết rằng, đá huyền vũ là loại đá nham thạch được tạo thành từ các loại đá nóng chảy ra do núi lửa phun ra rồi ngưng kết lại mà thành. Xét tới sự phân bố rộng rãi của đá nham thạch thuộc loại đá huyền vũ trên Mặt trăng, chúng ta có thể biết được Mặt trăng đã từng có các hoạt động núi lửa vô cùng sinh động và rộng rãi.
Theo những phân tích về tuổi hình thành của đá nham thạch trên Mặt trăng, và kết hợp với những nghiên cứu địa chất khác trên Mặt trăng, chúng ta còn có thể đưa ra sự miêu tả đại thể về lịch sử hình thành trước đây của Mặt trăng.
Mặt trăng được hình thành khoảng 4,6 tỷ năm trước. Khi mới hình thành, nó được ngưng tụ lại từ những vật chất ở trạng thái rắn, nhưng về sau, trải qua một đợt nóng chảy khá phổ biến khiến cho các vật chất cấu thành khác có sự điều chỉnh và phân chia nặng nhẹ ở một mức độ nhất định. Nhưng thời gian của giai đoạn nóng chảy không dài nên ít lâu sau nó bị nguội đi và hình thành một lớp vỏ ngoài ở thể rắn khá hoàn chỉnh. Sau đó, Mặt trăng bị các đợt tấn công liên tục của các sao Băng lớn nhỏ đến từ không gian vũ trụ. Từ vô số hố sao Băng còn lưu lại đến bây giờ có thể thấy nó đều có đường kính rất lớn, hơn nữa khoảng cách giữa hai hố lại rất gần nhau. Có thể tưởng tượng ra rằng, lúc đó tần suất va đập của sao Băng là rất cao.
Khoảng 4,1 tỷ năm trước, trên Mặt trăng xảy ra hiện tượng núi lửa hoạt động với quy mô lớn lần đầu tiên. Dịch nham thạch phun ra với số lượng lớn còn gây ra các hoạt động có cấu tạo rộng lớn, hình thành các mạch núi lớn nhất trên bề mặt Mặt trăng như mạch núi Yabinin và một số bồn địa lõm xuống dài hơn 1000 km, cao 3 ~ 4 km. Về sau các hoạt động dịch nham thạch yếu dần đi, mãi đến khoảng 3,9 tỷ năm trước, Mặt trăng lại xảy ra một đợt biến động lớn.
Một số hành tinh nhỏ vốn khá gần với "hệ Trái đất - Mặt trăng" đã va đập vào Mặt trăng, từ đó để lại một vết thương lớn trên bề Mặt trăng - đó là biển Trăng. Sự kiện va đập lần này một lần nữa khiến cho núi lửa phun ra rộng hơn, dịch nham thạch phun ra tràn đầy vào biển Trăng ở những chỗ lõm thấp xuống. Thời gian hoạt động của dịch nham thạch lần này kéo dài vài trăm, mãi đến khoảng 3,15 tỷ năm trước mới dần dần lắng xuống. Từ đó về sau, các hoạt động bên trong Mặt trăng cũng giảm dần, chỉ ngẫu nhiên còn một số núi lửa với quy mô nhỏ phun trào. Sự công phá của sao Băng tuy vẫn chưa dừng lại nhưng bất kể sao Băng lớn nhỏ như thế nào hay tần suất công phá ra sao đều đã giảm đi rõ rệt. Vì vậy, bộ mặt của Mặt trăng không còn những biến đổi lớn nữa.
Vậy thì, hiện nay Mặt trăng có núi lửa vẫn còn hoạt động hay không? Có thể nói rằng, căn cứ vào nhiều đợt thăm dò vũ trụ của con người đối với Mặt trăng, đến nay vẫn chưa phát hiện ra nhưng chứng cứ về Mặt trăng có những ngọn núi lửa còn hoạt động. Song từ năm 1787 trở lại đây, con người đã nhiều lần quan sát thấy trên bề măt Mặt trăng có lúc bỗng xuất hiện các tia sáng thần bí, các tia sáng này thường kéo dài trong khoảng 20 phút, có tia sáng còn kéo dài vài giờ đồng hồ. Theo thống kê, hơn 200 năm trở lại đây con người đã quan sát thấy hàng ngàn lần loại tia sáng này. Rốt cục các tia sáng được hình thành như thế nào? Đến nay mọi người vẫn còn xôn xao bàn luận nhưng vẫn chưa rút ra được kết luận nào cả. Trong đó, có một số người cho rằng, có lẽ nó là những phản ứng của hoạt động phun trào trên bề mặt Mặt trăng, là kết quả của các hạt bụi trong khi phun trào phản xạ lại ánh sáng Mặt trời. Nếu điểm này là chính xác thì chứng tỏ rằng các hoạt động núi lửa trên Mặt trăng vẫn chưa hoàn toàn ngừng hẳn, tuy không còn dịch nham thạch phun trào nữa nhưng sự phun khí liên quan đến núi lửa thỉnh thoảng vẫn xảy ra.
Một ngày" trên Mặt trăng dài bao nhiêu?
Nếu tàu vũ trụ đưa bạn đi du lịch trên Mặt trăng, khi bạn hạ xuống đây, giả dụ nơi mà bạn hạ cánh bắt đầu là buổi đêm, vậy thì bạn phải trải qua một khoảng thời gian dài dằng dặc trên Mặt trăng mới có thể nhìn thấy Mặt trời , khỏng thời gian này gần bằng 15 ngày trên Trái đất.
Rốt cục "một ngày" trên Mặt trăng dài bao nhiêu? Các nhà thiên văn học cho biết, "một ngày" trên Mặt trăng bằng những 29,5 ngày trên Trái đất.
Trái đất tự chuyển động tạo nên sự giao nhau giữa ban ngày và ban đêm, mặt mà nó hướng về Mặt trời là ban ngày và ngược lại, mặt nó quay lại Mặt trời là ban đêm. Mỗi lần giao nhau như vậy sẽ là một ngày trên Trái đất.
Mặt trăng cũng tự chuyển động, mặt mà nó hướng về Mặt trời cũng là ban ngày, mặt quay lại Mặt trời cũng là ban đêm. Nhưng Mặt trăng tự chuyển động chậm hơn nhiều so với Trái đất, phải cần thời gian là 27,3 ngày trên Trái đất, cho nên "một ngày" trên Mặt trăng dài hơn nhiều so với một ngày trên Trái đất.
Một chu kỳ tự chuyển động của Mặt trăng là 27,3 ngày trên Trái đất, vậy thì tại sao một ngày trên Mặt trăng lại bằng 29,5 ngày trên Trái đất chứ không phải là 27,3 ngày?
Thực ra một bên của Mặt trăng đang tự chuyển động, bên kia vẫn đang quay quanh Trái đất, còn Trái đất lại đang quay xung quanh Mặt trời. Sau khi Mặt trời chuyển động một vòng, Trái đất cũng quay một khoảng trên quỹ đạo xung quanh Mặt trời, vì vậy sau 27,3 ngày, lẽ ra Mặt trăng đối diện với điểm đó của Mặt trời thì bây giờ lại không đối diện với Mặt trời nữa mà lại còn quay thêm một góc nữa mới có thể đối diện với Mặt trời, khoảng thời gian này là 2,25 ngày, cộng 27,3 ngày với 2,25 ngày thì chẳng phải là xấp xỉ 29,5 ngày sao?
Tại sao lại có nhật thực và nguyệt thực? Dapan
Mặt trăng chuyển động quanh Trái đất, đồng thời, Trái đất lại kéo Mặt trăng quay quanh Mặt trời. Nhật thực và nguyệt thực là kết quả sinh ra từ hai sự vận động này. Khi Mặt trăng chuyển động đến giữa Trái đất và Mặt trời, hơn nữa ba thiên thể này cùng nằm trên một đường thẳng hay gần như một đường thẳng thì Mặt trăng sẽ che khuất ánh sáng Mặt trời và xảy ra nhật thực; Khi Mặt trăng chuyển động đến Mặt trời mà Trái đất quay lại với Mặt trời, mặt khác cả ba thiên thể này cùng nằm trên một đường thẳng hoặc gần như một đường thẳng, Trái đất sẽ che khuất ánh sáng Mặt trời và xảy ra nguyệt thực.
Do vị trí của người quan sát trên Trái đất không giống nhau và sự khác nhau giữa khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất nên nhật thực và nguyệt thực nhìn thấy cũng không giống nhau. Nhật thực có toàn thực (nhật thực toàn phần), hoàn thực, toàn hoàn thực và thiên thực; Nguyệt thực có toàn thực (Nguyệt thực toàn phần) và thiên thực (Nguyệt thực một phần).
Khi xảy ra nhật thực, Mặt trăng sẽ che khuất Mặt trời và để lại bóng dưới Trái đất. Nơi đứng trên Trái đất bị bóng của Mặt trăng quét qua sẽ hoàn toàn không nhìn thấy Mặt trời, đây gọi là nhật thực toàn phần, còn nơi mà đứng trên Trái đất bị nửa bóng Mặt trăng quét qua, chỉ nhìn thấy một phần Mặt trời bị Mặt trăng che khuất gọi là nhật thực bán phần. Có lúc do khoảng cách của Mặt trăng và Trái đất không giống nhau nên khi xảy ra nhật thực, cái bóng của Mặt trăng không tới được mặt đất, vậy thì trong khu vực bị các đường bóng Mặt trăng kéo dài bao vây, con người còn có thể nhìn thấy rìa của Mặt trời, có nghĩa là Mặt trăng chỉ che khuất phần trung tâm của Mặt trời. Hiện tượng này được gọi là nhật thực một phần. Trước và sau giai đoạn nhật thực toàn phần và một phần còn có thể nhìn thấy nhật thực bán phần.
Trong những trường hợp còn khó hơn, trước quá trình nhật thực, do sự thay đổi về khoảng cách từ Mặt trăng tới điểm quan sát, nên có một số nơi có thể nhìn thấy nhật thực toàn phần, có một số nơi có thể nhìn thấy nhật thực một phần, đây gọi là hoàn toàn thực.
Khi xảy ra nguyệt thực, một phần Mặt trăng ăn khớp vào bóng của Trái đất được gọi là nguyệt thực một phần, còn khi toàn bộ Mặt trăng ăn khớp vào bóng của Trái đất thì hiện tượng đó được gọi là nguyệt thực toàn phần.
Có quy luật mà chúng ta nên nhớ đó là: nhật thực luôn xảy ra vào ngày sóc của tháng mới, còn nguyệt thực luôn xảy ra vào ngày ngày vọng khi trăng đầy.
Thông thường trong một năm xảy ra ít nhất 2 lần nhật thực, có lúc cũng có thể xảy ra 3 lần, nhiều nhất là 5 lần, nhưng rất ít khi xảy ra. Nguyệt thực mỗi năm xảy ra khoảng 1 - 2 lần, nếu lần nguyệt thực đầu tiên xảy ra vào tháng 1 của năm thì trong năm đó có thể có 3 lần nguyệt thực.
Đầu năm nào cũng có hiện tượng nhật thực, song không có nguyệt thực là điều thường thấy, cứ khoảng 5 năm lại có một năm không có nguyệt thực.
Tuy nhật thực xảy ra nhiều lần hơn nguyệt thực nhưng tại sao cơ hội chúng ta nhìn thấy nguyệt thực nhiều hơn?
Đối với toàn bộ Trái đất, số lần xảy ra nhật thực hàng năm rõ ràng nhiều hơn nguyệt thực, nhưng đối với một nơi nào đó trên Trái đất thì cơ hội nhìn thấy nguyệt thực lại nhiều hơn nhật thực. Đó là vì khi mỗi lẫn xảy ra nguyệt thực, ½ số người trên Trái đất đều có thể thấy, còn khi xảy ra nhật thực thì chỉ những người ở những vùng tương đối chật hẹp mới có thể thấy.
Nhật thực toàn phần càng khó nhìn thấy hơn, đối với một nơi nào đó, cứ khoảng bình quân 200 ~ 300 năm mới gặp một lần. Ở Thượng Hải, ngày 22 tháng 7 năm 2009 có thể nhìn thấy một lần nhật thực toàn phần, trong khi ở Bắc Kinh phải đợi đến ngày 2 tháng 9 năm 2035 mới có thể nhìn thấy được.
Mặt trời là thiên thể như thế nào?
Trên Trái đất, hàng ngày chúng ta đều nhìn thấy Mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây, Mặt trời chiếu sáng Trái đất, mang lại ánh sáng và nhiệt cho chúng ta. Mặt trời là thiên thể trung tâm trong hệ Mặt trời, và cũng là một hành tinh có khoảng cách gần với Trái đất của chúng ta nhất. Khoảng cách trung bình của nó với Trái đất là 149.600.000 km, đường kính là 1,39 triệu km, gấp 109 lần đường kính của Trái đất, thể tích gấp Trái đất 1,3 triệu lần, trọng lượng gấp 330.000 lần so với Trái đất, mật độ bình quân là 1,4 gram/cm3.
Mặt trời cũng đang tự chuyển động, chu kỳ tự chuyển động trên vùng quỹ đạo bề mặt Mặt trời là khoảng 25 ngày, càng tiếp cận chu kỳ 2 cực thì thời gian càng dài, ở khu 2 cực là khoảng 35 ngày. Nguyên tố phong phú nhất trên Mặt trời là Hiđro, tiếp đó là Heli, ngoài ra còn có cacbon, oxy và các kim loại khác, gần như là giống các nguyên tố hoá học cấu tạo nên Trái đất, chỉ khác nhau về tỉ lệ.
Mặt trời là một quả cầu lớn và rất nóng, tầng ngoài của nó chủ yếu do 3 lớp cấu tạo thành, đó là quang cầu, sắc cầu và quầng sáng bao quanh Mặt trời, những lớp này tạo thành bầu khí quyển của Mặt trời.
Thông thường hình tròn của Mặt trời mà chúng ta nhìn thấy được gọi là quang cầu, nó có độ dày khoảng 500.000 m, ánh sáng Mặt trời chói mắt chính thức là được phát ra từ tầng quang cầu này.
Sắc cầu ở bên ngoài quang cầu, là một tầng ở giữa bầu khí quyển Mặt trời, nó có độ cao kéo dài khoảng vài triệu mét, nhiệt độ từ vài ngàn độ C tăng lên tới vài vạn độ C. Khi xảy ra nguyệt thực toàn phần, tia sáng mạnh phát ra từ quang cầu bị Mặt trăng che khuất, chúng ta sẽ nhìn thấy tầng khí có màu đỏ tối này, vì vậy người ta gọi tầng này là tầng sắc cầu hay sắc cầu. Quầng sáng bao quanh Mặt trời là tầng ngoài cùng của bầu khí quyển Mặt trời, tầng này có thể kéo dài bằng vài lần bán kính Mặt trời, thậm chí có lúc còn xa hơn thế. Nó được cấu thành chủ yếu từ các nguyên tử điện ly cao và các điện tử tự do, mật độ rất thưa thớt. Tầng trong của quầng sáng bao quanh Mặt trời còn gọi là nội miên có nhiệt độ tới một triệu độ C. Độ lớn và hình dạng của quầng sáng bao quanh Mặt trời có liên quan tới các hoạt động của Mặt trời. Mặt trời hoạt động với chu kỳ lớn, quầng sáng bao quanh Mặt trời có hình tròn, hoạt động nhỏ. Quầng sáng bao quanh Mặt trời teo nhỏ lại ở 2 cực Mặt trời. Độ sáng của nội miện bằng khoảng 1/1.000.000 độ sáng của quang cầu, nó bằng với ánh sáng Mặt trăng vào các tối ngày 15, 16 âm lịch.
Trước đây khi các nhà thiên văn học quan sát các sắc cầu thì ngoài việc quan sát ánh sáng đơn sắc thông thường, họ còn có thể quan sát thời gian nhật thực toàn phần, còn khi quan sát quầng sáng Mặt trời thì trước đây chỉ có thể quan sát khi nhật thực toàn phần, nhưng hiện nay có thể dùng "máy nhật miện" để thường xuyên quan sát. Vài năm gần đây, việc quan sát bằng vệ tinh nhân tạo đã chứng tỏ rằng khí thể quầng sáng bao quanh Mặt trời đang không ngừng khuếch tán ra bên ngoài do nhiệt độ tăng cao, các dòng hạt phun ra hình thành nên gió Mặt trời.
Ngoài ra, ở bên ngoài rìa Mặt trời còn có lớp khí phát ra ánh sáng màu hồng giống như ngọn đuốc, đây gọi là tai lửa Mặt trời. Có lúc nó phóng xạ ra với tốc độ rất lớn, có thể đạt tới tốc độ cao vài trăm ngàn kilômét, sau đó lại rơi xuống tầng sắc cầu. Số lần xuất hiện của sắc nhĩ bằng với hắc tử, mỗi chu kỳ khoảng 11 năm. Bình thường chúng ta không nhìn thấy được bằng mắt thường, chỉ có các nhà thiên văn dùng kính viễn vọng sắc cầu hoặc kính phản ánh sáng hay khi nhật thực toàn phần thì mới có thể nhìn thấy nó được.
Vì sao Mặt trời lại không bị cháy hết?
Chúng ta không phải lo chuyện không đâu là sợ Mặt trời sẽ bị cháy hết, ít ra cũng phải đến 5 tỷ năm nữa nó vẫn chưa cháy hết.
Chúng ta nói là Mặt trời bị đốt cháy, nhưng sự cháy của Mặt trời không hề giống sự cháy của một tờ giấy. Khi ta đốt một tờ giấy, nhiệt độ sẽ tăng cao, nhiệt độ cao lại xúc tiến sự cháy. Còn sự cháy của Mặt trời không hề giống như vậy. Do nhiệt độ ở trung tâm Mặt trời rất cao làm các chất khí của Mặt trời (phần lớn là hiđro) sẽ tiến hành các phản ứng nhiệt hạch, nguồn năng lượng nguyên tử này sẽ phát ra dưới dạng ánh sáng. Trong một giây ở Mặt trời có 600 triệu tấn hiđro biến thành Heli là "Tro" của sự cháy. Nếu lượng hiđro của Mặt trời mất đi như vậy, liệu ngày tàn của nó có còn xa không?
Một giây Mặt trời mất đi 6 triệu tấn hiđro, con số này tương đương với việc đánh đắm một vạn tàu chiến trong một giây, đó là một tốc độ kinh người. Nếu lượng hiđrô của Mặt trời có khối lượng gấp 33 vạn lần khối lượng cháy hết, thì Mặt trời sẽ biến thành một ngôi sao khổng lồ. Đương nhiên ngày mà Mặt trời biến thành ngôi sao đỏ thì cũng là ngày hủy diệt của Trái đất. Nhưng điều đó đòi hỏi một thời gian dài không ít hơn 5 tỷ năm lúc mà Mặt trời biền thành một ngôi sao đỏ, thì từ trung tâm cho đến ngoài Mặt trời vẫn còn một lượng rất lớn hiđrô.
Mặt trời có chuyển động không?
Mặt trời vừa chuyển động theo một quỹ đạo vừa tự quay quanh một trục, ở xích đạo. Mặt trời tự quay với chu kỳ 25 ngày / 1 vòng, còn ở các cực có chu kỳ là 35 ngày. Chuyển động là chỉ sự di chuyển của thiên thể trên một đường vĩ tuyến nào đó, để cho rõ hơn, ta lấy Trái đất và Mặt trăng làm ví dụ. Trọng tâm của hai thiên thể là Trái đất và Mặt trăng chuyển động đối nhau trên hai quỹ đạo. Nhưng vì trọng tâm chung của hệ là đặt ở Trái đất nên trông tựa hồ như chỉ có Mặt trăng chuyển động quanh Trái đất.
Vậy Mặt trời chuyển động như thế nào? Chúng ta biết rằng Mặt trời là một ngôi sao trong hệ Ngân Hà gồm hơn một tỷ ngôi sao lớn nhỏ cũng như vô số các tinh vân và tập hợp các sao tạo thành một xoáy ốc mà ở trung tâm hệ dày đến mười vạn năm ánh sáng. Mặt trời là ngôi sao cách trung tâm hệ Ngân hà khoảng 3 vạn năm ánh sáng, tức là Mặt trời cách trung tâm Ngân hà khoảng 1/3 kích thước của hệ Ngân hà. Mặt trời chuyển động và kéo theo nó cả các hành tinh. Mỗi giây chuyển động với vận tốc 250 km, di chuyển một vòng hết 220 triệu năm.
Mặt trời được hình thành khoảng 5 tỷ năm trước đây, cũng như các chòm sao Lập Hộ (còn gọi là chòm sao Orion), nó được sinh ra từ một khối khí bụi. Cũng có thể có một vài ngôi sao lớn anh em khác được sinh ra cùng với Mặt trời. Thế nhưng Mặt trời đã chuyển động 20 vòng và do đó, các ngôi sao anh em cùng sinh ra đã thoát ly khỏi Mặt trời.
Các nguyên tố Mặt trời là gì?
Heli là một trong những nguyên tố nhẹ nhất trên Trái đất, chỉ đứng sau Hydro. Trong bảng chu kỳ các nguyên tố hoá học, nó xếp vị trí thứ hai, ký hiệu là He. Tiếng Anh viết là "Helium", bắt nguồn từ chữ Hy Lạp "Helios", nghĩa là "Mặt trời", Heli cũng được gọi là nguyên tố Mặt trời.
Thực chất Heli có quan hệ gì với Mặt trời?
Điều này bắt đầu từ một lần nhật thực toàn phần xảy ra vào ngày 18 tháng 8 năm 1868. Lúc đó, một nhà khoa học người Pháp tên là Sali đến Ấn Độ để quan sát nhật thực toàn phần, ông phát hiện ra trong quang phổ của tai lửa Mặt trời có một đường màu vàng rất sáng và không thể đối chiếu với những đường màu vàng trong quang phổ của các nguyên tố đã biết khác.
Ngày hôm sau, ông một lần nữa đi quan sát Mặt trời với tâm trạng thấp thỏm không yên, điều khiến ông vừa hứng thú vừa kinh ngạc là: đường màu vàng lạ đó vẫn ở vị trí ban đầu. Thế là Sali lập tức viết thư gửi cho viện khoa học Pháp, báo cáo kết quả quan sát của mình.
Nhà khoa học người Anh Lokie khi tiến hành quan sát ở vùng đất này cũng đã phát hiện ra đường màu vàng đó. Ngày 20 tháng 10 ông cũng đã viết thư gửi cho viện khoa học Pháp, báo cáo kết quả quan sát của mình.
Thật là một sự trùng hợp! Hai bản báo cáo liên quan đến cùng một sự việc, gửi đến viện khoa học Pháp vào cùng một thời gian. Cùng ngày 26 tháng 10, bản báo cáo đã được tuyên bố trong cuộc hội nghị. Lúc đó, đường màu vàng được cho là một nguyên tố mới không tồn tại trên Trái đất mà Mặt trời có riêng, thế là mọi người gọi nó là Helium, tức là nguyên tố Mặt trời.
Nguyên tố Mặt trời được tìm thấy trên Trái đất, lúc đó đã là chuyện của 27 năm sau.
Tháng 2 năm 1895, nhà hoá học nổi tiếng người Anh Rolan đang bận trắc nghiệm các tính chất vật lý của nguyên tố hoá học Acgông (Ar). Acgông là nguyên tố ông mới phát hiện năm trước và cũng là một nguyên tố có tính trơ. Bạn của ông có ý nhắc nhở ông rằng trước đây khi có người làm thí nghiệm về quặng Ytơri và Urani cũng đã từng có được một số khí thể không phải là chất dẫn cháy, vừa không phải là chất tự nhiên. Ông hãy chú ý một chút, khí thể này phải chăng chính là Acgông. Rolan cảm thấy lời nhắc nhở của bạn mình rất có lý. Khi ông dùng kính phân ánh sáng kiểm tra khí thể có được từ quặng Ytơri và Urani, ông đã phát hiện thấy đây căn bản không phải là nguyên tố Acgông. Trong quang phổ của nó có một đường màu vàng sáng và vài đường có màu sắc khác, nó căn bản không giống với đường quang phổ của Acgông.
Lúc đầu, Rolan cho rằng, đường màu vàng lạ này được phát ra từ nguyên tố Natri, có thể trong khi làm thí nghiệm, ông đã trộn lẫn những chất giống như muối vào. Sau khi kiểm tra tỉ mỉ và làm lại thí nghiệm, đường màu vàng lạ đó vẫn ở chỗ cũ. Để làm rõ nguồn gốc xuất xứ của đường màu vàng, ông đặt vài hạt muối kiềm vào trong ống thuỷ tinh của khí thể quặng Ytơri và Urani để xem đường màu vàng có trùng khớp với đường vàng trước đây không. Kết quả là, trong quang phổ khí thể đồng thời xuất hiện đường như màu vàng đại diện cho Natri (Na) và đường màu vàng khó hiểu đó.
Lúc này, Rolan nghĩ đến đường màu vàng mà Sali và Lokie phát hiện trong quang phổ 27 năm trước, lẽ nào trong quặng Ytơri và Urani trên Trái đất cũng có nguyên tố Mặt trời.
Qua hàng loạt thí nghiệm nghiệm chứng thì sự việc cuối cùng đã được làm sáng tỏ, nguyên tố Mặt trời và khí thể có được trong quặng Ytơri và Urani rõ ràng là cùng một nguyên tố - Helium (He).
Chúng ta cho rằng loài vật không có tư duy, ấy vậy mà những khả năng kỳ diệu do tự nhiên và đấu tranh sinh tồn ban tặng cho chúng lại khiến ta phải vắt óc suy nghĩ để tìm hiểu.
Kỷ lục ngủ:
Hoẵng chỉ ngủ 4 tiếng một ngày đã được coi là kỷ lục, vậy mà giờ đây các nhà khoa học còn phát hiện ra rằng cá heo Dall không bao giờ biết ngủ. Ngược lại, có một số loài sinh vật sinh ra chỉ... để ngủ. Đầu tiên phải kể đến loài mèo với 14 tiếng mỗi ngày. Còn loài gấu nâu ở dãy Pyrenees (Pháp) ngủ suốt mùa Đông dài lạnh giá. Không chịu thua, loài macmốt ngủ liền 6 tháng. Tuy nhiên, kỷ lục về ngủ lại thuộc về một con lừa và thú túi đuôi quấn châu Phi vì chúng dành những 80% thời gian sống để ngủ, tức là 19 giờ mỗi ngày.
Kỷ lục về cân nặng và kích cỡ
Nước là môi trường sống của các động vật to lớn nhất. Dài nhất là loài sứa khổng lồ: 75 mét (bằng 16 chiếc xe buýt nối đuôi nhau). Sau đó phải kể đến cá voi xanh: 35 mét. Đứng thứ ba là loài cá nhám voi khổng lồ dài 18 mét từ đầu tới đuôi. Gần gũi với chúng ta hơn phải kể đến cá sấu, trăn, cá đuối cũng nằm trong "top ten" về chiều dài với 8 mét. So với những loài kể trên, hươu cao cổ và voi, mặc dù cộng thêm cả chiếc cổ và cái vòi dài ngoằng, cũng chỉ thuộc hàng tép riu: một con hươu cao cổ với cái cổ dài nhất cũng chỉ được 6 mét, còn voi đành chịu thua với 4 mét cả vòi. Nếu xét về trọng lượng, vô địch thuộc về loài cá voi xanh. Con nặng nhất có thể lên tới 190.000 kg, tương đương với trọng lượng của 30 con voi cộng lại. Đứng thứ hai là cá nhám voi (40.000 kg). Những chú voi khổng lồ chỉ xếp hàng thứ ba vì chỉ nặng có 6.000 kg. Ngoài ra, tê giác và hà mã cũng có cân nặng đáng kể, 3.000 kg mỗi con.
Kỷ lục về tuổi thọ
Dường như tạo hoá đã lấy phần sống của loài côn trùng phù du để cộng thêm cho loài rùa. Chẳng thế mà trong khi loài côn trùng này chỉ sống được vỏn vẹn một ngày thì lão rùa già lại sống được những 150 tuổi. Còn kỷ lục sống lâu nhất của loài chim thuộc về loài hải âu: nó chỉ chịu chùng cánh khi đã sống 80 năm.
Động vật nhiều cơ nhất
Ai cũng nghĩ rằng loài ngựa sống suốt cuộc đời chỉ biết chạy phải phá kỷ lục về số lượng cơ bắp. Trên thực tế, một con ngựa bình thường có 1.200 dây cơ. Tuy nhiên, kỷ lục thuộc về loài sâu với 2.000 cơ tập trung trong các đốt vòng. Điều này giải thích vì sao chúng có thể vặn vẹo hay quay người dễ dàng đến thế.
Động vật nhiều răng nhất
"Cười hở mười cái răng", điều này chỉ đúng với con người. Một con cá sấu chỉ cần "hé miệng cười duyên" cũng để lộ ra 120 chiếc răng. Trong suốt cuộc đời, một con cá sấu có hơn 3.000 chiếc răng, tức là răng của nó rụng đi mọc lại tới 25 lần. Tuy nhiên, kỷ lục nhiều răng lại thuộc về cá mập khi nó có bộ trang sức gồm 3.000 chiếc răng trắng xoá mà bất kỳ một hãng sản xuất kem đánh răng nào cũng phải thèm muốn. Ngay cả khi một chiếc bị rụng, một chiếc khác chờ sẵn nơi đúng vị trí đó và sẽ mọc ngay. Cứ như vậy, trong suốt cuộc đời, cá mập có 20.000 chiếc răng. Kỷ lục về chiếc răng to và nặng nhất thuộc về loài voi. Trọng lượng của bộ răng sữa của voi cũng nặng tới 4 kg. Còn mỗi chiếc răng hàm dưới của hà mã cũng nặng tới 4 kg. Không nhiều, không to, không nặng như răng cá mập, voi hay hà mã, nhưng răng của loài hải sư lại khiến người ta phải nhớ đến vì nó dài 80 centimét, bằng chiều cao của một em bé 5 tuổi.
Động vật phàm ăn nhất
Dẫn đầu danh sách các con vật phàm ăn là voi. Mỗi ngày một chú voi trưởng thành ngốn hết 200 kg cỏ khô, uống hết 200 lít nước. Tiếp theo, phải kể đến kền kền và sư tử, mỗi bữa chúng có thể ăn liền một mạch hết 40 kg thức ăn. Khỉ lại nổi tiếng vì ăn nhanh, chúng có thể xơi một mạch 50 quả chuối. Về phần mình, mỗi ngày chim cổ đỏ ngốn hết 4,3 m sâu (bằng chiều dài một chiếc ô tô). Cá sấu cũng không kém phần đặc biệt trong chuyện ăn uống: không kể đến những con mồi sống, cá sấu có thể ăn cả đá. Xét về khả năng nhịn ăn, họ nhà rắn phải được gọi là vua: mỗi năm chỉ cần ăn 8 - 10 bữa ăn cũng đủ cho chúng rồi; một con trăn có thể nhin đói suốt 12 tháng liền, nhưng ngay khi gặp phải một chú linh dương chân đen, nó có thể xơi tái cả 60 kg này.
Kỷ lục về thời gian mang thai
Con vật chửa đẻ ngắn nhất là thú có túi ở châu Mỹ: 12 ngày. Tiếp theo là chuột: 3 tuần. Đây cũng là lý do vì sao trên thế giới này có lắm chuột đến thế. Chiếm thứ ba là thỏ: một tháng và có thể đẻ 5 - 12 con mỗi lần. Con vật chửa đẻ lâu nhất là tê giác: 1 năm 6 tháng 20 ngày và voi châu Á: 2 năm 1 tháng. Nhưng kỷ lục lại thuộc về loài kỳ nhông đen sống ở vùng núi Alpes (Pháp): 3 năm 2 tháng và 20 ngày.
Thời gian giao phối ngắn nhất
Thời gian giao phối ngắn nhất thuộc về loài linh dương nhỏ và voi: một lần "chăn gối" của hai loài này chỉ vỏn vẹn có 10 và 20 giây. Thời gian mỗi lần dành cho "chuyện ấy" của khỉ maki ở Madagascar là 2 giờ. Tuy nhiên, kỷ lục lại thuộc về loài chuột nhắt: 12 giờ.
Chính vì lý do này, sau khi giao phối với con cái, một chú chuột đực chỉ sống thêm được 5 - 10 ngày. Kỷ lục về số lần giao phối thuộc về loài sư tử: nó có thể làm "chuyện ấy" 86 lần mỗi ngày. Còn bọ ngựa cái lại khiến người ta phải tròn mắt vì nàng xơi tái bạn tình sau khi thoả mãn. Có lẽ đấy là kinh nghiệm xương máu để anh bạn nhện hàng xóm rút kinh nghiệm. Để tránh bị nhện cái ăn thịt, nhện đực tìm cho mình một lối thoát: dâng cho người tình một con mồi. Và trong khi người tình còn bận đánh chén thì chàng ta hoạt động. Và đến khi nhện cái nhận ra thì... sự đã rồi. Chó sói nổi tiếng là hung tợn nhưng lại là loài vật dịu dàng nhất trong chuyện "phòng the". Còn loài vật chung thuỷ nhất là sóc: một chú sóc đực xám có thể chung sống 18 năm liền với một người tình duy nhất.
Kỷ lục về khứu giác
Nếu ai nói với bạn rằng chó là loài vật thính mũi nhất thì đừng tin. Chó chỉ đứng hàng thứ ba về khả năng nhận ra mùi từ xa mà thôi. Phá kỷ lục trong lĩnh vực này là bướm đêm. Một con ngài đực có thể ngửi thấy mùi cách nó 11 km. Sau đó phải kể đến rái cá biển, có thể nhận ra mùi khói ở cách nó 8 km. Còn cá mập thì có thể phát hiện được mùi của một giọt máu nhỏ hoà tan trong 115 lít nước. Chó thì đứng hàng thứ ba về phát hiện mùi ở độ xa, nhưng lại dẫn đầu danh sách về con vật phân biệt được nhiều mùi: 100.000 mùi khác nhau (một chuyên gia ngửi mùi cũng chỉ phân biệt được 3.000 mùi)
Kỷ lục về xây tổ
Loài vật xây tổ to nhất là đại bàng: các nhà khoa học đã phát hiện ra ở Ecosse một chiếc tổ sâu 4,5 mét do chính chim đại bàng làm bằng mỏ và móng chân. Kỳ công nhất là chiếc tổ của loài chim én: để xây xong một chiếc tổ, chim én phải bay đi bay lại 1.000 lần, dùng mỏ lấy bùn trộn với rãi làn nguyên vật liệu. Còn hải ly gặm đứt một khúc gỗ sồi đường kính 20 centimet trong chưa đầy 1 đêm để xây tổ.
Kỷ lục về thính giác
Tiếng kêu khoẻ nhất thuộc về loài cá voi xanh. Người ta tính được rằng giọng nói của nó có thể đạt tới cường độ âm thanh của một tên lửa đưa tàu con thoi vào vũ trụ. Mặt khác. Vì có một cái tai rất thính, cá voi xanh có thể giao tiếp với đồng loại ở bên kia đại dương. Tiếng kêu của một chú khỉ có thể được nghe thấy trong chu vi 15 km. Còn chim diệc sao nằm trong sách Guiness với tiếng "hót" giống một con bò đang rống và phát đi xa 4 km. Nếu muốn yên tĩnh, tốt nhất là nên ở gần địa phận của thỏ: để báo hiệu nguy hiểm, loài vật này chỉ dùng chân sau đập đập vài cái xuống đất. Về phần mình, cá heo vẫn không ngừng là đối tượng của nhiều nghiên cứu vì ngôn ngữ của chúng rất đa dạng và kì bí. Đặc biệt, thính giác của chúng phát triển hơn chúng ta gấp 10 lần: chúng có thể nghe được siêu âm trong khi con người thì không thể.
Kỷ lục về thị giác
Các loài chim săn mồi có cái nhìn sắc nhất: chim cắt di cư có thể nhận ra một con bồ câu ở khoảng cách là 8 km; đại bàng có thể phát hiện ra một con thỏ rằng từ trên độ cao 3.000 mét. Động vật có mắt to nhất là mực thẻ khổng lồ: thuỷ tinh thể của nó có đường kính là 38 centimét... bằng đường kính một quả bóng rổ. Ở động vật có vú, ngựa giật kỷ lục có mắt to nhất (đường kính là 5,5 centimét) và quả không sai khi người ta nói rằng ngựa nhìn thấy chúng ta to gấp 7 lần kích cỡ thực của chúng ta. Loài vật được biết đến với đôi mắt đẹp nhất là giống sò St. Jacques. Dọc trên tấm áo khoác của mình, giống sò này có hai dãy mắt gồm rất nhiều cặp mắt nhỏ xanh màu nước biển; số lượng mắt của chúng ngày càng tăng theo tuổi tác của chúng.
Động vật chạy nhanh nhất
Huy chương vàng xứng đáng được trao cho loài báo với vận tốc 101 km/h. Huy chương bạc thuộc về linh dương với 98,16 km/h còn hoẵng chỉ giành được huy chương đồng với vận tốc 98 km/h.
Những phát minh nổi bật năm 2006
2006 là một năm đầy sôi động trong lĩnh vực công nghệ. Nintendo phát minh trò chơi video cho phép người tham gia điều khiển bằng đũa thần, một loại xe hơi mới được sáng chế để có thể chạy 5.060km với chỉ 3,8 lít ga, robot học cách lái xe, dù làm bằng sợi nano không bao giờ ướt..., nhưng chỉ YouTube mới có thể đem đến phương tiện mới cho hàng triệu người cùng học tập, giải trí và trải nghiệm những cung bậc tình cảm khác nhau. Các đoạn video "cây nhà lá vườn" không hay, không trau chuốt nhưng thực tế và gần gũi. Bởi thế mà đoạn phim về những siêu sao nổi tiếng như Paris Hilton và P. Diddy vẫn không hấp dẫn bằng chuyện một anh chàng và con mèo con xinh xắn còn ngái ngủ đang cố khiêu vũ nhưng thất bại. YouTube đã khơi gợi và khuyến khích mọi người bày tỏ, tâm sự về những vui buồn trong cuộc sống. Xuất phát từ một đoạn video về một chuyến đi đến sở thú hồi tháng 4 năm ngoái, dịch vụ này hiện có sự góp mặt của 100 triệu đoạn video và thu hút thêm 70.000 người dùng mới mỗi ngày. Đó là lý do tạp chí danh tiếng Time bình chọn danh hiệu Phát minh Xuất sắc nhất của năm 2006 cho dịch vụ chia sẻ video You Tube.
Dù không ướt
Dù thường được dùng để che mưa, thế nhưng nó thường mang theo những giọt nước phiền toái khi đi vào nhà, ngay cả với những cây dù tốt nhất. Xuất phát ý tưởng từ hình ảnh những giọt nước lăn tròn trên lá sen, những nhà phát minh của công ty Pro-Idee (Anh) đã cho ra đời mẫu dù NanoNuno có thể khô ráo chỉ sau một cái giũ, do đó bạn không phải lo việc phải để dù ngoài cửa vì sợ làm ướt nhà. Bề mặt của cây dù này được làm bằng vải nhân tạo polyester theo công nghệ nano chống nước, nên nó sẽ không để lại một giọt nước nào trong nhà bạn. Sản phẩm hiện được bán với giá 95 USD.
Máy vệ sinh thực phẩm
Người nội trợ sẽ không còn ám ảnh vấn đề ngộ độc thực phẩm khi trong bếp có chiếc máy làm sạch thực phẩm Lotus - có thể biến nước máy bình thường thành nước ôxy hóa loại bỏ hoàn toàn chất độc và vi khuẩn bám trên rau cải và trái cây. Máy sử dụng điện tíchđể xử lý nước bằng khí ozone nên trong nước sẽ có một dạng ôxy giống như chất khử trùng tự nhiên không có hại cho thực phẩm.
Thiết bị tìm kiếm đồ vật dễ thất lạc
Giữa những bộn bề lo toan của cuộc sống, cũng có lúc bạn rơi vào tình cảnh không thể nhớ nổi đã đặt những vật dụng thường dùng ở đâu trong chính ngôi nhà mình. Để giúp bạn tránh "la làng" hay cầu khẩn để tìm được món đồ quen thuộc mà bạn đang cần gấp, nhà phát minh Loc8tor cho ra bộ thiết bị Loc8tor. Với bộ thiết bị này, bạn gắn nhãn phát tần số radio vào món đồ vật dễ bị quên nhất của bạn như chìa khóa hay găng tay, và khi cần tìm kiếm, bạn chỉ việc nhấn nút trên Loc8tor là thiết bị sẽ chỉ ngay cho bạn hướng tìm đến chỗ của đồ vật đó, trong khi miếng nhãn sẽ phát ra tiếng bíp để giúp bạn tìm ra nó. Giá của sản phẩm khoảng 190 USD.
Robot đạp xe
Nặng chỉ 4,9kg với chiều cao khiêm tốn 0,5m, robot Murata Boy độc đáo ở chỗ có thể chạy xe đạp. Nhờ vào các bộ cảm biến con quay hồi chuyển trong thân và camera trên đầu, "anh chàng" này không chỉ có thể giữ thẳng lưng mà còn có thể nhìn chăm chú về phía trước để đảm bảo đạp xe trên đường thẳng. Một bộ cảm biến siêu âm trong ngực sẽ giữ cho robot không va vào tường, và công nghệ không dây cho phép anh ta giao tiếp với máy tính để đạp đi trên những cung đường ngoằn ngoèo. Và nếu đường đi gập ghềnh, bộ cảm biến va chạm sẽ phát hiện rung động để Murata Boy có thể giữ thăng bằng và tiếp tục ngồi đạp xe. Đây là thành quả trí tuệ của Công ty Murata Manufacturing
Chạy 5.060 km với chỉ 3,8 lít ga
Với khả năng chạy 3.145 dặm (5.060 km) chỉ với một gallon (3,8 lít) ga, chiếc Mark V làm bằng sợi carbon nặng 36kg đã thắng cuộc trong giải đua xe tiết kiệm nhiên liệu Supermileage năm 2006 ở bang Michigan (Mỹ), cho nhóm sinh viên cơ khí Canada thuộc Đội đua Supermileage Đại học British Columbia. Chiếc xe của họ có phần thân dưới cong, một động cơ 54 cc cực kỳ tiết kiệm nhiên liệu. Khi điều khiển xe, người lái phải chịu khó ngã mình về sau.
Giường lơ lửng trên không
Đó là chiếc giường Floating Bed độc đáo giống như trong phim khoa học viễn tưởng, do nhà thiết kế Janjaap Ruijssenaars sáng chế. Bí mật của chiếc giường không chân cao 40 cm này nằm ở một bộ nam châm đẩy tương hợp gắn bên trong giường và bên dưới sàn nhà, cùng với dây thép mỏng để cố định vị trí của 4 góc. Lực từ đã được ứng dụng một cách thông minh để đảm bảo chiều cao ổn định cho chiếc giường và nó có thể chịu được tải trọng đến 900kg. Giá 1,5 triệu USD của phát minh này có thể khiến giới thượng lưu phải đắn đo.
Hộ lý trong bệnh viện
Tới đây, robot có thể trở thành trợ lý đắc lực của y tá trong việc nâng bế người bệnh. Với hệ thống cảm biến cho phép nhìn, ngửi và nghe ngóng môi trường xung quanh, "hộ lý" Ri-Man được trang bị 320 khớp nối chịu lực trên ngực và cánh tay để cảm nhận chính xác vị trí của đối tượng cần được bồng ẵm. Người máy này hiện có thể nâng trọng lượng khoảng 40 kg trở lại. Tuy nhiên, các nhà sáng chế Viện nghiên cứu Vật lý và Hóa học Nhật Bản dự định sẽ cải tiến các motor để tăng thêm sức mạnh ở hai cánh tay của Ri-Man mà không cần phải tăng kích cỡ như thế hai tay của nó sẽ vẫn na ná như của người.
Tàu chạy năng lượng mặt trời
Vào cuối tháng này, chiếc tàu Sun21, có chiều dài 14m, sẽ rời thành phố Seville (Tây Ban Nha) hướng đến Miami rồi New York (Mỹ), mà không đem theo một giọt nhiên liệu nào. "Đứa con tinh thần" của nhà phát minh MW-Line này không có cánh buồm cũng như thùng nhiên liệu, mà chỉ có 2 động cơ điện chạy bằng pin sạc bởi tế bào quang điện. Ban ngày, các tấm pin mặt trời trên mái che sẽ tạo ra nhiều điện năng hơn mức tiêu thụ của con tàu, và phần năng lượng dư thừa sẽ được lưu trữ để sử dụng vào ban đêm. Tàu chạy với vận tốc tương đương như các du thuyền ( 2,5m/giây-3m/giây). Thủy thủ đoàn gồm 5 người Thụy Sĩ sẽ nỗ lực phá kỷ lục với chuyến đi 11.265km trong 5 tháng để chứng minh tiềm năng tuyệt vời của năng lượng mặt trời.
Đèn nhắc tiết kiệm điện
Nếu trong nhà có treo chiếc đèn hình bông hoa màu bạc này, bạn có thể an tâm gia đình mình sẽ không rơi vào tình trạng xài điện "quá tay" bởi ngoài tính năng cung cấp nguồn sáng nó còn có nhiệm vụ giám sát toàn bộ quá trình sử dụng năng lượng trong ngôi nhà. Khi nhận thấy mức tiêu thụ năng lượng thấp, đèn sẽ tự bung ra giống như một bông hoa đang nở để khích lệ gia chủ. Nhưng nếu bạn bắt đầu phung phí điện, các cánh hoa sẽ tự khép lại. Nhà sản xuất Static của Thụy Điển đã sáng chế ra kiểu đèn này để nâng cao ý thức tiết kiệm điện qua đó góp phần bảo vệ môi trường xanh.
Dây thoát hiểm
Để giúp nhân viên cứu hỏa bảo toàn tính mạng, FDNY (Mỹ) đã thiết kế hệ thống an toàn cá nhân gọn nhẹ (khoảng 3kg tính luôn bộ quần áo) dễ sử dụng và đặc biệt giúp thoát hiểm nhanh trong những tình huống nguy kịch. Sợi dây đi kèm dài 15 m có thể chịu nhiệt đến 860 độ C nhưng điểm độc đáo của hệ thống là bộ phận đòn đẩy cho phép người dùng điều chỉnh tốc độ hạ mình xuống.
Máy hút nước trong không khí
Nạn nhân trong các vùng bị thiên tai hoặc binh lính hoạt động trong sa mạc sẽ an tâm hơn về vấn đề nước uống khi có chiếc máy này bởi mỗi ngày nó có thể cung cấp đến 1.900 lít nước lấy từ không khí. Cơ chế hoạt động của chiếc máy trông khá cồng kềnh này không được tiết lộ nhưng nó sử dụng hệ thống hóa học tương tự như quá trình muối hấp thu hơi ẩm từ không khí.
Nước tồn tại khắp mọi nơi và hằng ngày chúng ta cần một lượng nước khổng lồ. Tuy nhiên "nền tảng của sự sống" này đến từ đâu, cho đến nay vẫn chưa được tìm hiểu rõ ràng.
Có hai khả năng được đề cập đến. Giả thiết thứ nhất: Trái đất "rỉ" nước thông qua các đám mây khí. Giả thiết thứ hai: các thiên thạch đã mang nước đến trái đất trong quá trình va đập của chúng vào trái đất. Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất được giả thiết nào đúng.
Giả thiết 1: Trong quá trình hình thành các thế hệ ngôi sao, những đám mây khí liên tục được làm giàu bởi những thành phần nặng như bụi và nước. Trong một số đám mây bụi liên tục hình thành các ngôi sao mới và bao quanh những ngôi sao này là những "đĩa khí" của chúng ta được hình thành trước khoảng 5 tỷ năm trước. Những vòng khí và bụi của hệ mặt trời lúc mới hình thành lớn gấp 10 lần hệ mặt trời của chúng ta ngày nay.
Cùng với thời gian trong các vòng khí, những "hòn đá" dần được hình thành thông qua việc gắn kết dần những phần nhỏ và mảnh vỡ tạo nên tiền đề cho một ngôi sao. Thông qua việc va đập và cọ sát, những tiểu hành tinh này lại tiếp tục gắn kết với nhau thành những hành tinh lớn hơn. Cuối cùng chúng hình thành nên các hành tinh lớn như sao Thổ, sao Kim, Trái đất và sao Hỏa.
Những hành tinh nguyên thủy này không chỉ chứa bụi mà còn chứa cả băng. Những hạt nước đầu tiên tồn tại ở các hành tinh chính là những đám mây khí. Thế nhưng phần lớn chúng mất đi khi các tiểu hành tinh còn nóng đỏ. Chúng bay hơi trở lại vũ trụ. Tuy nhiên trái đất liên tục nguội dần đi và các núi lửa phun ra các đám mây khí kết hợp với các khí khác như CO2, mê tan và amôniac. Cuối cùng, trái đất cũng đủ lạnh để hơi nước trong không khí ngưng tụ lại biến thành những đám mây, những trận mưa rồi nước ngấm dần xuống đất và tạo nên biển, sông, hồ...
Giả thiết 2: Đa số các nhà khoa học cho rằng, riêng trái đất lạnh thôi sẽ không có đủ nước tạo thành biển như ngày nay. Nước phải đến từ một nguồn khác nữa. Một lý thuyết được đưa ra: Nước đến từ các tảng thiên thạch có bán kính hàng km bay xung quanh trái đất lúc bắt đầu hình thành. Khi chúng rơi xuống trái đất, nước chứa trong đó được dự trữ dưới dạng băng. Cũng có những chứng minh cho lý thuyết này: Những "hố bom" khổng lồ trên mặt trăng và trên đó vẫn có những cơn gió lạnh mang hơi nước. Các nhà thiên văn học tiến hành nghiên cứu sự hình thành của mặt trăng cho thấy nước vẫn đang tồn tại ở đó dưới dạng băng.
Nước - một trong những thành phần quan trọng nhất của sự sống vốn vô cùng quen thuộc với chúng ta hằng ngày. Nhưng để tìm cách giải thích đúng đắn và khoa học cho sự tồn tại của nước trên trái đất và đối với sự sống vẫn còn là câu hỏi lớn mà loài người chúng ta vẫn còn phải tiếp tục đi tìm lời giải đáp.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro