kham pha bi an
Bài 1: Bí ẩn về những chiếc “que bay” Theo www.sggp.org.vn - 3 năm trước
Bạn hãy thử tưởng tượng về những vật có kích thước từ 5cm cho tới 3m, có một vài cánh nhỏ dọc theo thân và bay lượn trên không trung với vận tốc không thể hình dung nổi? Đó không phải là chim, là máy bay hay bất cứ một loài côn trùng nào khác. Những hình thù bay bí ẩn này vẫn được gọi là “que bay” (flying rod). Rất có khả năng, chúng bay đến từ vũ trụ, cũng có thể chúng là một dạng sự sống nào đó trên trái đất mà khoa học vẫn chưa được biết đến.
Những phát hiện đầu tiên
Hiện tượng về những chiếc “que bay” bắt đầu được biết đến vào ngày 5-3-1994. Anh em nhà Escamillo, Jose và Manuel đã ghi được một đoạn phim dài 16 phút về một UFO (vật thể bay không xác định) trên bầu trời bang New-Mexico. Đó là một vật thể kỳ lạ có hình dài đang lao trên trời với vận tốc không thể tin nổi. Tuy nhiên, phát hiện ra nó lại là chuyên gia UFO học Clifford Stone, người được anh em nhà Escamillo (cũng là những chuyên gia UFO học với 30 năm kinh nghiệm) mang đến cho cuộn phim để nghiên cứu. Còn thuật ngữ “que bay” lại thuộc về tác giả Manuel - người gọi như vậy lần đầu tiên về vật thể bí ẩn này. Thông thường, các “que bay” có hình dáng dài, tương tự một điếu thuốc với những cánh nhỏ dọc theo thân. Theo giả thuyết, chúng dịch chuyển được là nhờ những cái cánh này và kích thước có thể từ vài cm cho tới 5m.
Chẳng bao lâu sau phát hiện đầu tiên này, các bằng chứng về sự tồn tại của các “que bay” bắt đầu xuất hiện trên khắp thế giới - từ Anh, Canada, Nhật cho tới Mexico. Chúng còn được phát hiện trong những cảnh phim thời sự từ Hàn Quốc, trong những băng hình cũ của quân đội… Những vật thể kỳ lạ này còn tình cờ được ghi nhận trong một cuốn phim tài liệu của hãng “National Geographic” - trong một số cảnh phim còn nhận thấy rõ một “que bay” xuất hiện từ phía dưới mặt nước biển và lao lên bầu trời. Người ta còn nhìn thấy rõ nước đã rẽ ra khi vật thể này bay lên. Có lẽ “que bay” này đã được quay một cách hoàn toàn tình cờ bởi không thể ghi nhận chúng bằng mắt thường với tốc độ bay không thể tin được như vậy.
Những giả thuyết về “que bay”
Vậy “que bay” thực chất là gì? Hiện đang tồn tại vô số những giả thuyết về điều này. Những người có xu hướng tìm tòi sự can thiệp của người ngoài hành tinh thì cho rằng, “que bay” là các robot do thám của một nền văn minh ngoài trái đất. Ví dụ “UFO Magazine”, tạp chí rất có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng dị thường, từng cho đăng tải một bài báo với nhan đề “Que bay - công cụ theo dõi từ các thế giới khác?”. Minh chứng cho giả thuyết này chính là những bức ảnh “que bay” được chụp từ trên quỹ đạo gần trái đất bởi các camera tàu con thoi của NASA. Còn phải kể đến những đặc tính kỳ lạ của que bay, như tốc độ mà chúng có thể di chuyển trên không trung. Khó có thể cho rằng, những sinh vật cấu thành từ xương thịt như các cư dân trên trái đất lại có khả năng thực hiện được những hành vi như vậy.
Tuy vậy, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng, “que bay” là một dạng sự sống trên trái đất mà chúng ta chưa được biết đến. Về chuyện chúng ta chưa từng bắt gặp chúng từ trước năm 1994 có thể giải thích một cách đơn giản: chúng không thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Xem xét kỹ các băng hình, nhiều nhà nghiên cứu đã đi đến một kết luận đầy ngạc nhiên: có khả năng những vật thể này có trí tuệ. Nhiều đoạn phim cho thấy các “que bay” rất uyển chuyển trong việc tránh các chướng ngại vật, cho dù đang bay với tốc độ rất cao. Nhiều quan sát khác cho thấy “que bay” tập hợp thành cả nhóm, chứng tỏ chúng không xa lạ với cuộc sống bầy đàn.
Những nghi vấn về hiện tượng “que bay”
Liên quan đến bất cứ một hiện tượng bất thường nào đều tồn tại vô số nghi vấn. Về lĩnh vực này, “que bay” luôn được xếp ở hàng đầu. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các đoạn phim ghi lại hình ảnh “que bay”, người ta phát hiện gần một nửa trong số đó chưa thể khẳng định được tính xác thực. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các “que bay” giả chính là lỗi của phim, cũng có khi là do những loài côn trùng thông thường nhất. Đã có nhiều trường hợp côn trùng bay với tốc độ lớn qua ống kính camera có thể gây ra những ngộ nhận kiểu này, như một con chuồn chuồn chẳng hạn.
Một nhà nghiên cứu “que bay” người Mexico đã nhanh chóng nổi danh vì thành tích ghi nhận được rất nhiều vật thể bay kỳ lạ này mà… không cần bước ra khỏi nhà. Phương pháp của ông thực ra rất đơn giản: ngồi xem truyền hình và ghi lại các chương trình, sau đó nghiên cứu kỹ những đoạn băng này ở chế độ quay chậm. Kết quả ông ta đã phát hiện ra rất nhiều bằng chứng về sự tồn tại của các “que bay” tại khắp nơi trên trái đất chúng ta - từ Mexico cho tới Hàn quốc. Cho tới giờ, các chuyên gia vẫn chỉ biết giơ tay thừa nhận và họ vẫn chưa có một khái niệm chính xác về thực chất của những “que bay” xuất hiện trên vô số đoạn phim. Dù thế nào thì các “que bay” vẫn đang tồn tại xung quanh chúng ta và con người chưa có được một công cụ cảm nhận cần thiết để phát hiện ra chúng.
Những cơn mưa kỳ lạ
Ngày 21/5/1921, hàng nghìn con ếch nhái, cá rơi xuống Gibraltar trong môt trận giông bão... Ngày 4/3/1998, một trận mưa ở Shirley, Croydon, phía Nam London (Anh Quốc) đã mang theo cả một lượng lớn ếch nhái đã chết.
Các nhà khí tượng giải thích đó là do hiện tượng vòi rồng từ một ao hồ nào đó. Tuy nhiên, đây không chỉ có loại cá, ếch nhái từ một ao hồ nhất định.
Ngày 23/10/1947, chỉ sau một trận mưa bác sĩ Bajkov nhìn thấy nhiều loại cá chết lẫn sống nằm la liệt trên một con đường ở Biloxi, Mississippi, nơi ông đang ăn sáng trong một tiệm cà phê.
Ngày 27 và 28/5/1984 hàng tá cá bơn và cá ốt-me được phát hiện thấy trong các vườn ở phía Đông nước Anh sau một trận mưa lớn. Trong suốt đêm đó người ta không hề thấy một cột nước nào bốc lên từ sông Thames.
Một đêm náo nhiệt vào năm 1917, sinh viên Ester Hallio và một người bạn học tên là Finish ở trong một ngôi nhà tại Helsinki (Phần Lan) bỗng nghe tiếng lẻng xẻng, khi ra ngoài họ phát hiện có 2 cái khuy áo trên sàn nhà; và vài phút sau họ lại thấy những đồng tiền xu rơi xuống.
Những người quanh vùng cũng đã chứng kiến được những hiện tượng tương tự. Những vụ rơi kim loại hoặc những vật thể khác cũng xảy ra ở Wellinton (New Zealand) tháng 3/1963 khi những đồng tiền xu và đá rơi xuống một ngôi nhà trong 3 ngày liền trước sự chứng kiến của 600 người. Tại Ramsgate, Kent (Anh), năm 1968, có từ 40 đến 50 đồng xu rơi xuống trong vài phút. Tại Galax, tiểu bang Virginia (Mỹ) ngày 12 và 14 tháng 7 năm 1978 có khoảng 400 chiếc đinh rơi xuống trong 3 ngày
Bí ẩn về nguồn gốc rừng rậm Sahara
Sa mạc Sahara của châu Phi là sa mạc lớn nhất thế giới, ở đó dường như không có thảm thực vật, không có nước mà chỉ nhìn thấy một màu vàng của cát.
Mấy chục năm trước, người ta luôn cho rằng, thời kỳ cổ đại xa xưa ở đây là vùng biển cả mênh mông. Trái đất sau mấy triệu năm tiến hóa, biển cả biến mất, nơi đây biến thành vùng sa mạc ngày nay. Nhưng gần đây, Trung tâm nghiên cứu Địa lý và Chủng tộc của Liên hợp quốc đã dùng các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất khoan thăm dò tầng sâu của sa mạc Sahara. Qua phân tích tỷ mỷ của máy tính, họ đã đưa ra kết luận: Sahara trong thời đại cổ đại xa xưa là khu rừng nhiệt đới, phủ định hoàn toàn thuyết về biển cả. Kết luận này có tính đột phá, tạo cảm hứng cho các nhà khoa học và đã thu hút ngày càng nhiều nhà khoa học đến Sahara khảo sát.
Một nhóm khảo sát người Italia, năm 1982 đã đến khảo sát vùng lòng chảo Vakibiedug ở giữa sa mạc Sahara. Họ đã nhìn thấy những hình tượng rất rõ về các loài động vật như hươu cao cổ, voi, tê giác, hà mã, cá sấu được vẽ trên tấm vải thô hóa thạch được tìm thấy dưới đáy một con sông đã cạn từ lâu. Tại đây, các nhà khảo cổ học còn phát hiện được các di chỉ của loài người ở thời đại đồ đá cũ, các bức họa về con người, động vật còn nguyên vẹn. Những gì các nhà khảo cổ tìm được cho thấy: Đã từng có nền văn hóa cổ xuất hiện tại Sahara hoặc ít ra có một nền văn hóa đã ảnh hưởng đến tận vùng đất này.
Các nhà khảo cổ Đức đã dùng máy tính tiến hành nghiên cứu tỷ mỷ các bức họa. Kết quả nghiên cứu khiến người ta ngạc nhiên: Trong bức họa do máy tính vẽ lại có hai loại người: một da trắng, một da đen. Người da trắng sử dụng rìu, búa, các con vật họ nuôi là dê, cừu. Còn người da đen sử dụng cung tên, các con vật họ nuôi đa số là súc vật.
Điều gì khiến loài người từ bỏ quê hương mình? Và cá gì đã hủy diệt nền văn minh thực vật xanh? Trong quá trình tiến hóa của Trái đất đã từng xảy ra biết bao sự kiện mà chúng ta không thể tưởng tượng được. Sahara cũng không phải là ngoại lệ. Vậy điều bí ẩn đó là gì
Bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu
Cháy mãi là một chuyện, còn cháy trong gió mưa lại là bí ẩn lớn hơn nhiều.
Học giả Saint Augustin (354-430) đã mô tả về một ngọn đèn vĩnh cửu trong ngôi đền Isis (Ai Cập). Điều khó hiểu nhất là nó nằm ở phần không có mái che, bất chấp gió mưa. Tương tự như thế, ngọn đèn ở Edessa (Syrie) đã cháy suốt 500 năm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Năm 1300, lý thuyết “dầu đặc biệt” được soi rõ phần nào, khi nhà nghiên cứu Marcus Grecus viết trong tác phẩm Liber Ignum (Sách lửa) rằng một số ngọn đèn vĩnh cửu có dùng nhiên liệu đặc biệt.
Đó không phải là dầu mà chỉ là một loại bột mịn được tạo ra từ những “con sâu phát sáng”, nhưng là loại sâu gì thì Marcus không biết và bí ẩn mãi mãi bị chôn vùi. Marcus chỉ nói rằng “ta đã quan sát sợi bấc, nó dài bằng cánh tay ta. Rất lâu sau đó, ta quay lại và thấy chiều dài của nó vẫn thế, chẳng có ai thay bấc mới hay trút thêm bột”.
Năm 1401, trong mộ phần Pallas (con trai vua Evandra - La Mã), người ta tìm được một ngọn đèn vĩnh cửu và cho rằng nó đã cháy được 2.600 năm. Để dập tắt nó, theo các bậc cao niên, chỉ có cách đập vỡ tất cả hoặc trút ngược “dầu” của nó.
Năm 1450, một nông dân ở Padoue (Italy), trong lúc cày xới cánh đồng của mình đã tìm được một cái bình bằng đất nung, kế đó là hai bình nhỏ bằng kim loại, một bằng vàng và một bằng bạc. Trong hai hũ này là một loại chất nhờn kỳ lạ, nửa như dầu nửa như mật ong. Bên trong cái bình bằng đất nung là một cái bình đất nung khác đựng một ngọn đèn vĩnh cửu vẫn đang cháy. Bị chôn dưới đất (không biết từ bao giờ) và cháy trong điều kiện ít ôxy như vậy, đó quả là một bí ẩn.
Năm 1610, nhà nghiên cứu Ludovicius Vives khẳng định ông đã từng nhìn thấy một ngọn đèn vĩnh cửu (cháy qua 1.500 năm) và bị đám thợ gốm đập vỡ.
Nhà sử học Cambden (Anh) vào năm 1586 cũng nhắc về một ngọn đèn vĩnh cửu tại phần mộ của Constantius Chlorus, cha của Costantin Đại Đế. Chlorus qua đời năm 306 ở Anh và từ đó, có một ngọn đèn vĩnh cửu được đặt trong phần mộ của ông.
Ở Tây Ban Nha, cũng có một ngọn đèn vĩnh cửu được tìm thấy tại Cordone vào năm 1846.
Linh mục Evariste - Regis Huc (1813-1860) là người rất thích du ngoạn ở châu Á và đã tìm được một ngọn đèn bất tử như vậy ở Tây Tạng vào năm 1853.
Đền thờ Iris - nơi được coi đã từng lưu giữ
1 ngọn lửa bất diệt
Các phát hiện nói trên chứng tỏ những ngọn đèn kỳ bí này không phải là sản phẩm của riêng Hy Lạp, Ai Cập hay La Mã.
Nhà hóa học Brand (Hambourg - Đức) vào năm 1669 nhận định những ngọn đèn vĩnh cửu này cháy lâu như thế là do phốt pho. Người khác lại cho rằng chúng cháy lâu là do không cần không khí, ngược lại, nếu tiếp xúc với không khí chúng sẽ tắt. Nếu quả ý kiến này là đúng, thì lẽ nào người xưa đã biết kỹ thuật hút chân không? Vả chăng, lửa cháy không cần ôxy là chuyện hết sức khó hiểu.
Những cuộc tranh luận này buộc người ta quay về một bí ẩn khác: kỹ thuật chiếu sáng của người Ai Cập.
Trên các đường phố Ai Cập cổ, người ta dùng đèn dầu và đuốc. Nhiên liệu là những cặn bã có nhiều chất béo và chất nhờn. Nhưng ở những hầm mộ được đào sâu vào núi đến 100 mét thì các nô lệ và nhà điêu khắc đã làm việc với ánh sáng gì?
Trong các hầm mộ này, không hề có dấu vết của ngọn đèn hay ngọn đuốc nào. Vậy phải chăng người Ai Cập đã dùng các loại gương để phản chiếu ánh sáng mặt trời? Nhưng các loại “gương” thời ấy chỉ bằng bạc, và chỉ có thể phản chiếu 40% ánh sáng, nghĩa là ở độ sâu vài chục mét, bóng tối sẽ lại bao phủ hoàn toàn.
Một phát hiện chấn động đã làm thế giới khảo cổ bàng hoàng: tại đền Hator ở Denderah được xây dựng cách đây hơn 4.200 năm, có những bức vẽ cho thấy người Ai Cập “đã sử dụng những dụng cụ kỳ lạ trông như bóng đèn điện ngày nay!”. Phải chăng đây chính là kỹ thuật ánh sáng bí ẩn.
Nhà khoa học Erich Von Daniken (Đức) đang cố công tái tạo những bóng đèn to tướng này trong phòng thí nghiệm, nhưng vẫn chưa tìm được cốt lõi của vấn đề. Các nhà Ai Cập học cũng chào thua, vì rõ ràng thời ấy chưa có điện.
Vậy, những ngọn đèn ấy được thắp sáng bằng gì? Giải được bài toán này, chúng ta cũng sẽ có câu trả lời cho bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu.
Những vòng tròn kỳ lạ trên cánh đồng
Các nhà khoa học thực tế đã bắt đầu quan tâm đến các vòng tròn bí ẩn này từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Chúng xuất hiện nhiều nhất trong các cánh đồng ngũ cốc của nước Anh và chỉ hiện ra vào ban đêm, thậm chí chỉ trong vài phút! Chúng thường được kết hợp với sự xuất hiện của các vật thể bay không xác định (UFO). Đã có được một số khám phá kỳ lạ khiến người ta liên tưởng đến sự hiện diện của trí thông minh ngoài trái đất.
Người ta gọi chúng là “crop circles”, tức là vòng tròn hình thành trên cánh đồng, các hình họa biến đổi từ các môtíp tròn đơn giản đến các biểu tượng hình học rộng lớn và phức tạp. Vòng tròn cổ xưa nhất chính thức được ghi chép trong tạp chí Nature (Anh) vào thế kỷ XIX. Từ năm 1980, riêng ở nước Anh đã xuất hiện khoảng 800 vòng tròn bí hiểm ấy. Và khoảng 9.000 vòng tròn được ghi nhận trên khắp thế giới trong 30 năm sau.
Theo dòng thời gian, các vòng tròn này ngày càng trở nên phức tạp hơn. Ban đầu chỉ là những vòng tròn đơn giản, nhưng sau đó biến thành các hình ảnh rất phức tạp. Chúng có mặt ở một số quốc gia trồng trọt ngũ cốc như Australia, Nhật, Nga, Canada, Pháp, Mỹ, kể cả trên các bề mặt khác như mặt tuyết của dãy núi Hymalaya. Miền Nam nước Anh dường như đặc biệt thuận lợi để quan sát hiện tượng này.
Mặc dù con số các vòng tròn gia tăng không ngừng trên thế giới, nhưng 90% vòng tròn này xuất hiện cách vùng Stonehenge, ở miền Nam nước Anh, chưa đầy 65 km. Một số vòng tròn còn hiện diện trên các vùng đất quân sự bị cấm, như Salisbury, cũng ở nước Anh.
Trên các cánh đồng liên quan, các thân cây trồng không bị cắt hay bứt. Chúng đổ nghiêng rồi sau đó được bện lại thật tinh xảo theo một vòng xoắn ốc. Khi đó là các vòng tròn đồng tâm, chiều của xoắn ốc ngược lại trong mỗi vòng tròn kế tiếp. Phân tích hóa học những loại ngũ cốc bị đổ nghiêng trong một số vòng tròn cho thấy các thân cây trồng này chịu được một nhiệt độ dữ dội trong khoảng vài giây. Phân tích một vòng tròn ở Anh cho thấy sự có mặt của 10 nguyên tố phóng xạ hiếm mà trong các loài thực vật thông thường không có. Đó là: Lead 208, Europium 146, Tellurium 119 m, Lodine, Bismuth 205, Vanadium 48, Protectinum 230, Ytterbium 169, Rhodium 102.
Các nguyên tố phóng xạ này không tồn tại trong trạng thái tự nhiên, mà phải có máy gia tốc cộng hưởng từ hay các lò phản ứng hợp nhất để tổng hợp chúng. Từ năm 1993, các phân tích càng được củng cố thêm. Các bi sắt cực nhỏ được phát hiện trong tuyệt đại đa số các vòng tròn. Các viên bi sắt này luôn được phát hiện bên trong các vòng tròn chứ không bao giờ ở bên ngoài.
Sự gian trá hay trò đánh lừa?
Tháng 9/1991, hai nghệ sĩ tên là Douglas Bower và David Chorley tuyên bố với báo chí chính họ là tác giả của gần 200 vòng tròn trong khoảng thời gian 15 năm. Họ còn chứng minh kỹ thuật tạo tác của họ trước các ống kính camera! Nhưng chứng cứ này hoàn toàn không có sức thuyết phục. Bởi lẽ, họ không thể giải thích làm thế nào mà các vòng tròn này xuất hiện gần như đồng loạt tại nhiều quốc gia, như Anh, Mỹ, Nga, v.v... Ngoài ra, họ cũng không giải thích được làm thế nào mà họ thực hiện được các hình ảnh có chiều ngang gần 700 mét trong thời gian chỉ một đêm? Cuối cùng nên nhấn mạnh rằng, những chữ tượng hình xuất hiện trong mọi nước, kể cả ở Canada hay Nhật Bản.
Ngược lại, chắc chắn từ sau năm 1991, sự chứng minh được truyền thông rộng rãi của David Chorley và Douglas Bower đã làm dậy lên nhiều cuộc so tài về lĩnh vực này. Thậm chí một số kẻ giả mạo còn được các kênh truyền hình cũng như các tạp chí lớn khích lệ. Như tờ The Guardian đã tổ chức một cuộc so tài tạo tác các “crop circles”! Nhưng dù sao, qua những cuộc thi này, các nhà khoa học càng thấy rõ sự khác biệt rất lớn giữa các vòng tròn của con người và các “crop circles” thật. Tuy nhiên, ngày nay qua phân tích hóa học các thân cây trồng trong một số “crop circles” đã cho thấy chúng không phải là tác phẩm của con người.
Bằng chứng của một cuộc sống thông minh ngoài hành tinh?
Nếu đi từ nguyên tắc rằng những hình vẽ này không có nguồn gốc từ thiên nhiên hay con người trái đất, thì chúng ta chỉ còn một khả năng: đó là do bàn tay của người ngoài hành tinh! Nhưng tại sao họ tìm đến trái đất để gây chú ý bằng các hình vẽ này để cuối cùng bỏ đi vội vã như thế?
Một số người nhìn thấy trong đó các thông điệp, số khác cho đó là sự trợ giúp về công nghệ. Nhằm mục đích gì? Sự thật là nhiều vòng tròn hiện diện gần Avebury và Stoehenge chắc chắn đã kích thích nhiều người có được một cách lý giải mang tính siêu nhiên hay phản tự nhiên. Người ta không thể chối bỏ rằng các vòng tròn này hiện đang tồn tại và kết quả phân tích chúng thể hiện một bí ẩn to đùng. Ngày nay, chúng không còn là những vòng tròn đơn giản và không còn chỉ duy nhất xuất hiện trong các cánh đồng ngũ cốc, mà chúng đã bắt đầu xuất hiện trong các ruộng lúa, khu rừng thông và trên những ngọn núi phủ tuyết ở Thổ Nhĩ Kỳ. Không thể nào có người rỗi hơi leo lên đỉnh núi ngập tuyết để vẽ nên các hình tròn kỳ bí đó mà đùa với thiên hạ. Trước những yếu tố đó, chúng ta đành để thời gian trả lời...
Bí ẩn hiện tượng ướp xác tự nhiên ở Colombia
40 năm trước đây, các thợ đào huyệt ở một ngôi làng Colombia đã mở một số quan tài cũ ra và nhận thấy: những xác người bên trong đã khô quắt lại và còn nguyên hình dáng. Làm thế nào những thi thể đó vẫn còn nguyên vẹn đến nay đang là một điều bí ẩn đối với các nhà khoa học.
Phát hiện này đã biến nghĩa trang San Bernado thành một điểm dừng chân cho khách du lịch, nơi họ có thể chiêm ngưỡng những xác ướp được cất trong hòm kính: tóc, răng và móng chân, tay vẫn còn nguyên vẹn. Một dòng chữ ở bên trên có ghi: "Hỡi Chúa, hãy cho họ được yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng".
Những xác ướp được phát hiện khi công nhân mở nắp quan tài để chuyển thi thể sang bình đựng di cốt, một thủ tục thông thường để dọn chỗ trong các nghĩa địa ở Colombia. Các nhà khoa học vẫn chưa tìm được cách giải thích kín kẽ cho việc những xác ướp ở nghĩa trang San Bernardo, nằm ở một thung lũng màu mỡ cách thủ đô Bogota 72 km về phía tây nam, không bị phân rã mà lại héo khô như vậy.
Người dân địa phương cho rằng hợp chất hoá học trong đất ở khu vực, sự phân huỷ loài quả bản xứ nhiều gai gọi là guatila, và khí hậu khô cằn đã giúp bảo quản những thi thể này.
Sự lựa chọn bí ẩn của tự nhiên
Nếu tự nhiên là một cô gái thì người ấy sẽ có 2 tay trái và 2 chân phải - một cơ thể không cân đối. Thật vậy, các phân tử không thể thiếu cho sự sống, các axit amin của protein hoặc đường của ADN, chỉ tồn tại trong một hình dạng không gian duy nhất, chỉ bên phải hoặc chỉ bên trái của hai hình đối nhau qua gương.
Nếu đã tồn tại dạng này, thì dạng kia sẽ không có trong tự nhiên nữa. Tại sao vậy? Có lẽ lời giải ẩn chứa trong từ trường của các ngôi sao.
Từ lâu, vấn đề “cùng tay” của tự nhiên đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà sinh vật học và hóa học, bởi hình dáng của các phân tử sẽ quyết định đến hiệu quả sử dụng của nó. Chẳng hạn, một số loại dược phẩm chỉ có thể sử dụng các phân tử trái, hay phải mà thôi. Louis Pasteur cũng từng cố gắng tạo ra hình dạng của axit tatric có trong nước nho, nhưng vô ích.
Giải thích cho vấn đề cùng phía này, một số nhà sinh học cho rằng, trước kia, số các phân tử phải và trái bằng nhau, rồi tự nhiên đã lựa chọn để chỉ giữ lại một dạng duy nhất, Tuy nhiên họ không có bằng chứng thực nghiệm về điều này. Nhiều nhà hóa học khác lại tin là sự sống chỉ xuất hiện trong một môi trường đã bất đối xứng lớn. Chẳng hạn, sự trùng đôi của ADN là không thể có trong một môi trường mà các phân tử phải và trái bằng nhau.
Như vậy sự thật cần được tìm ra theo cách khác, đó là các lực bên ngoài tác động vào phân tử. Mới đây, hai nhà nghiên cứu thuộc phòng thí nghiệm từ trường ở Grenoble (Pháp) Geert Rikken và Ernst Raupach, đã lựa chọn ánh sáng và từ trường để làm việc này.
Từ lâu người ta đã biết rằng để nhận biết các phân tử trái và phải, cách tốt nhất là dùng máy chiếu. Bởi sự hút ánh sáng phụ thuộc vào những đặc tính điện của phân tử, hay hình dạng không gian của chúng. Bằng việc phối hợp rất hợp lý giữa ánh sáng và từ trường, Rikken và Raupach đã thành công khi làm mất cân bằng một nhóm các phân tử hóa học ban đầu, gồm các phân tử phải và trái với số lượng như nhau. Các phân tử này hút ánh sáng khác nhau trong điều kiện có từ trường song song với tia sáng. Kết quả là cân bằng bị phá vỡ, các phân tử được tạo ra hoặc chỉ cùng phải, hoặc cùng trái. Từ trường càng mạnh thì sự mất cân bằng càng lớn.
Từ phát hiện này, các nhà nghiên cứu cho rằng rất có thể dạng “tay một phía” - phân tử cùng phải hoặc cùng trái - đã xuất hiện trong các ngôi sao (nơi có từ trường mạnh hơn hàng triệu lần so với trong thí nghiệm và hàng nghìn tỷ lần so với trên trái đất).
Nghiên cứu còn dẫn tới một khám phá thú vị khác. Đó là chỉ cần tạo sự vượt trội rất nhỏ về số lượng của một loại so với loại kia (một phân tử trái được thêm trên 1.000 phân tử phải có trước), thế cũng đủ để làm đảo lộn trật tự các phân tử. Kết quả là chúng đều ở một phía của gương.
Tuy nhiên, để chứng minh được tầm quan trọng của hiện tượng này, hai nhà nghiên cứu còn phải làm được việc tương tự với những phân tử chuyển hóa, như các axit amin. Vấn đề đặt ra ở đây là thiếu phương tiện và một số người phản đối, bởi theo họ, thí nghiệm này đụng chạm đến “nguồn gốc của sự sống”.
Bí ẩn xung quanh cuốn di cảo Voynich thế kỷ 13
Cuốn sách khổ 14,6 cm x 21,6 cm, gồm 232 trang giấy da cừu. Nét chữ đều chằn chặn, không tẩy xóa, kể cả các hình minh họa. Hẳn người viết đã cân nhắc rất kỹ trước khi đặt bút. Có điều, đó là một kiểu chữ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, còn những hình vẽ thực vật và động vật lại không hề giống với những gì chúng ta thấy trên mặt đất.
Nguồn gốc của cuốn sách cũng không rõ ràng. Một tài liệu lịch sử viết năm 1666 cho hay, nó được Hoàng đế Rudolf II (1552-1612) của Đức mua với giá cao khủng khiếp: 600 thùng vàng. Vị vua này đoán rằng cuốn sách bí hiểm được nhà bác học và tiên tri Roger Bacon (1220-1292) viết ra, và trong đó hẳn chứa những kiến thức kỳ lạ, những lời sấm về tương lai.
Cuốn sách được viết bằng bút lông với nét chữ đều đặn, chính xác và sạch sẽ kỳ lạ. Ký tự thoáng nhìn như chữ latinh, nhưng kỳ thực đó là một kiểu chữ chưa từng có trong lịch sử chữ viết nhân loại. Một số hình vẽ trông giống người và cây cỏ, nhưng lại không phải vậy.
Cuốn sách nổi tiếng này hiện được giữ như một báu vật tại Đại học Yale (Mỹ). Nó còn có tên là "Bản cảo Voynich" . Các nhà nghiên cứu ký tự cổ hàng đầu thế giới đã vắt óc để tìm ra những "điểm yếu" của văn bản. Điểm yếu ở đây được hiểu là các đoạn chữ mà những ký tự xuất hiện có quy luật. Trong kỹ thuật giải mã chữ, những điểm yếu này là chìa khóa để mở bí mật của một ngôn ngữ. Cũng bằng cách này, nhà ngôn ngữ học Mỹ Herbert Yardley đã giải được nhiều đoạn mã trong các công hàm ngoại giao mật của Nhật Bản, dù ông không giỏi tiếng Nhật. Tuy nhiên lần này, Yardley không tìm ra được những tín hiệu lặp lại thường thấy ở một ngôn ngữ trong Bản cảo Voynich. Theo Yardley, cái được viết trong bản cảo này có thể không phải ngôn ngữ mà chúng ta biết, hoặc nó đã được mã hóa nhiều lần một cách tài tình đến nỗi không thể lần ra được nữa.
Sự việc không dừng lại ở đó. Ở trang cuối của cuốn sách, có một đoạn được viết bởi chữ của một người khác, có lẽ là một lời nhận xét. Nét chữ mờ mịt, rối rắm, hầu như không thể đọc được. Nhưng sau nhiều năm mày mò, Giáo sư William R. Newbold, Đại học California (Mỹ), tin rằng trong đó có một đoạn tiếng latinh: A mihi dabas multas portas. Newbold khẳng định, nội dung cuốn sách đã được mã hóa nhiều lần. Có thể tác giả đã ghép hai hoặc ba chữ cái latinh thành một chữ cái theo cách nào đó. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dừng lại ở đây mà không thể giải thêm được gì nữa.
Gần đây nhất, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng tại Đại học Yale, Giáo sư Brumbaugh, cho rằng Bản cảo Voynich được viết bằng một bảng mã gồm 26 ký tự. Con số này trùng lặp với số chữ cái latinh ( liệu đây có phải là một sự ngẫu nhiên?). Có điều, mọi giải pháp latinh hóa những ký tự này, rồi thay vào các dòng chữ viết tay trong bản cảo, đều tạo ra các đoạn chạy không theo quy luật, và có vẻ không mang một ý nghĩa gì. Brumbaugh cho rằng, có lẽ nội dung cuốn sách đã được mã hóa theo hệ ngôn ngữ khác latinh. Đến nay, Bản cảo Voynich vẫn còn là một bí ẩn.
Bí ẩn về người cụt đầu
Roger Scarberry, cùng vợ và 2 người bạn - Steve và Mary, sẽ không bao giờ quên được buổi tối ngày hôm đó. Trên xa lộ 62 từ Tây Virginia đến Point Pleasant ( Mỹ ), giữa bóng tối dày đặc, xuất hiện 2 đốm tròn đỏ lừ. Khi xe chạy đến gần, họ kinh hãi nhận ra đó là 2 tròng mắt đặt trên cổ của 1 sinh thể cụt đầu ...
Quái vật hình người cao khoảng 1m9. Nó có 2 tay và 1 màng cánh rộng. Nó đứng thẳng trên 2 chân giữa đại lộ, nhìn chằm chằm vào chiếc xe hơi đang tiến lại gần. Trong khoảnh khắc ấy, Roger đã quyết định lạng 1 cú nguy hiểm để tránh con quái vật và nhấn ga hết cỡ để trốn chạy. Quái vật dang rộng đôi cánh và huỳnh huỵch đuổi theo chiếc xe, vừa đuổi vừa rú lên những tiếng đáng sợ. Lúc chiếc xe tiến vào địa phận Point Pleasant, quái vật đột nhiên lẩn mất dạng vào bóng tối bên vệ đường. Ngay đêm đó, Roger đã đến đồn cảnh sát, nhưng mọi cuộc tìm kiếm đều không đưa lại được thông tin gì về " người không đầu". Sự kiện xảy ra vào đêm 15/11/1966.
Hàng trăm nhân chứng
Trong 2 năm 1966-1967, cảnh sát khu vực Point Pleasant đã được hàng trăm nhân chứng kể lại rằng họ nhìn thấy người không đầu nhiều lần ở xa lộ 62. Câu chuyện sau đó đã xuất hiện nhiều lần trên báo chí, gây tâm lí tò mò và sợ hãi dai dẳng. Không hiểu sao, năm 1967, người không đầu đột nhiên biến mất, cùng lúc với 1 tai hoạ làm sập cầu Silver-Bridge ở Point Pleasant. Phải chăng sự biến mất bí ẩn của người không đầu liên quan đến vụ việc này
Keel đã liên hệ sự xuất hiện của người bướm với hàng loạt sự kiện bí hiểm xảy ra tại Point Pleasant trong 2 năm 1966-1967. Theo Keel, người bướm đêm - hay người không đầu- có thể là 1 dạng sinh thể ngoài hành tinh. Ông cũng đưa ra giả định rằng, người không đầu là 1 sinh thể chiều không gian khác, đã " vô tình " lọt vào toạ độ không gian - thời gian của chúng ta.
Ngủ lịm hàng chục năm - một hiện tượng chưa được giải thích
Do bị tưởng nhầm là đã chết, cô bé Nazira Rustemova (4 tuổi, người Kazakstan) từng bị chôn sống. Được đưa ra khỏi mộ, Nazira chìm vào một giấc ngủ dài 16 năm rồi mới đây đột nhiên tỉnh dậy. Cơ thể của cô (vốn thay đổi rất ít trong thời gian hôn mê) bỗng lớn lên từng ngày để nhanh chóng trở thành cơ thể một phụ nữ trưởng thành.
Đó là một trong những trường hợp mắc chứng hôn thụy, cho đến nay vẫn là một bí ẩn đối với khoa học. Những người bị chứng hôn thụy có thể ngủ hàng tháng trời, thậm chí vài chục năm. Trong thời gian đó, cơ thể họ hầu như không có sự thay đổi. Sau khi tỉnh giấc, quá trình trao đổi chất được tăng tốc khiến cho cơ thể lớn nhanh trông thấy, y như trong truyện cổ tích. Ở một số bệnh nhân, còn xuất hiện nhiều khả năng kỳ lạ mà trước khi hôn mê họ chưa hề có. Nazira Rustemova là một trường hợp điển hình.
Lúc mới sinh, Nazira là một cô bé khỏe mạnh, cơ thể phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác. Gần đến sinh nhật lần thứ 4, đột nhiên cô bé bị đau đầu dữ dội, không thuốc nào làm giảm được. Sau mỗi cơn đau, cô bé lại lịm đi. Một buổi sáng, khi vào đánh thức con, cha mẹ Nazira thấy cô bé nằm bất động trên giường. Các bác sĩ ở bệnh viện huyện khẳng định Nazira đã chết mà không rõ nguyên nhân.
Sau khi mai táng cho Nazira, ông và bố cô bé nằm mộng thấy có người bảo rằng Nazira chưa chết mà đã bị chôn sống. Người cha trở lại nghĩa địa, lật ván áo quan lên để kiểm tra. Ông sửng sốt nhận thấy xác con gái đã nằm sát vào một góc chứ không ở vị trí chính giữa như lúc hạ huyệt. Lớp vải liệm quấn quanh cô bé bị nhàu và đôi chỗ có vết cào xước. Ông vội vàng bế con về nhà.
Hai tuần liền, gia đình Nazira tìm mọi cách để đánh thức cô bé nhưng vô hiệu. Khi biết tin, Bộ Y tế Liên Xô đã chuyển Nazira lên Matxcơva để nghiên cứu. Cô bé được đặt trong lồng kính suốt 16 năm cho đến ngày bừng tỉnh.
"Suốt thời gian đó, tôi không hề ngồi dậy lần nào" - Nazira nhớ lại - "Mặc dù nằm bất động nhưng tôi vẫn nhận biết được mọi chuyện xảy ra chung quanh mình. Thậm chí có lần tôi còn ngửi thấy hương thơm thoang thoảng đặc trưng của vùng thảo nguyên quê tôi. Một hôm, tôi nghe thấy tiếng chuông điện thoại réo rất lâu. Mãi mà không có ai nhấc máy; thế là tôi quyết định đứng dậy để nói chuyện điện thoại..."
Sau khi tỉnh dậy, Nazira được các bác sĩ giữ lại để tiếp tục kiểm tra sức khỏe trong mấy tháng rồi mới về nhà.
Trong 16 năm ngủ lịm, người Nazira chỉ dài thêm 30 cm mặc dù vẫn tiếp nhận thức ăn qua hệ thống ống dẫn nối với dạ dày. Tuy nhiên, khi tỉnh lại, cơ thể cô phát triển nhanh như thổi. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ một cô bé, Nazira đã có một cơ thể phát triển như mọi cô gái 20 tuổi khác.
Trong mấy ngày đầu, Nazira đã phục hồi khả năng khẩu ngữ, có thể giao tiếp với mọi người mà không quên từ nào. Thậm chí, cô còn nói được 4 ngoại ngữ, trong đó có tiếng Latinh (một ngôn ngữ hiện rất ít người biết) và tự nhấc mình khỏi mặt đất nhẹ nhàng như bay. Tuy nhiên, sau đó mấy năm, những khả năng này biến mất. Nazira quên cả tiếng mẹ đẻ (tiếng Kazakstan), chỉ còn nhớ duy nhất tiếng Nga.
Lời nguyền - Truyền thuyết hay điều có thật đã được mã hoá
Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh kim tự tháp có liên quan đến lời nguyền?
Vào thế kỷ 17 và 18, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp. Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh run lên vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh.
Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình. Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để… xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nan y bí hiểm, y học thời đó bó tay.
Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray “cung tiến” cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng. Một nhà khoa học về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp (mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành, khả ái)…
Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập và những nơi khác trên thế giới.
Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau:
Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted (nước Anh) vào khoảng tháng 5/1827. Hắn bị hành hình. 50 năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày “làm cảnh” ở phòng làm việc. Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vận y phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?). Kilmer đã kiểm soát nhà cửa nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho cha Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất.
Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người...
Phải chăng lời nguyền đã bao phủ lên tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương “Hy vọng” là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất: mất cả người lẫn của. Sau đó tai ương giáng xuống hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Tiếp đến, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo mất ngôi.
Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên là do một loại vi khuẩn “chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật. Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá.
Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến, và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến" này có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền
Bí mật của “ảnh gương
Khi thấy chính mình đang ngồi trong chiếc ghế kế bên, người phụ nữ 75 tuổi bất giác mỉm cười thú vị. Phiên bản thứ hai của bà ngồi im, mặc một chiếc váy quen thuộc – chiếc váy mà bà thường mặc thời 17 tuổi, nhoẻn miệng với “chủ nhân”. Hình ảnh kéo dài nhiều giây đồng hồ. Sáu giờ sau, bà được đưa vào bệnh viện vì một cơn đột quỵ trầm trọng.
Một thợ cơ khí 35 tuổi lại thấy cuộc gặp gỡ vị khách câm lặng của anh chẳng hay ho chút nào. Khi phát hiện ra hình ảnh của mình, hai đầu gối anh mềm nhũn ra, chân run lẩy bẩy. Phiên bản thứ hai của anh đứng sừng sững trước mặt, ngay tại nơi làm việc, vác trên vai một hộp đựng đồ nghề và nhìn anh trừng trừng. Người ta lập tức đưa anh vào bệnh viện ngay khi nghe kể về ảo ảnh đó. Khám nghiệm của bác sĩ cho thấy: anh thợ này có sức khoẻ hoàn hảo. Suốt về sau, bệnh án mỏng của anh cũng chỉ có một điểm đáng chú ý rằng một ngày nọ, anh lại nhìn thấy hình ảnh của chính mình.
Hiện tượng ảo ảnh về chính bản thân mình, còn gọi là ảnh gương. “Phiên bản” của các nhân chứng thường ngồi trong những góc bàn trống hoặc xuất hiện dưới dạng ảnh treo trên tường, hay nhìn trân trối vào “phiên bản thứ nhất” từ một nhóm người đông đúc trên quảng trường, hay kỳ lạ hơn, lủng lẳng vắt vẻo trên một cột đèn đường nào đó!
Ngành tâm lý học cho đến nay đã ghi nhận chính thức 70 trường hợp gặp gỡ ảnh gương như vậy. Nhưng các chuyên gia cho rằng số lượng thật sự lớn hơn gấp nhiều lần, bởi những ai gặp hiện tượng “nhân đôi” đó thường sợ người xung quanh cho là họ mắc bệnh điên và giấu kỹ tâm sự của mình.
Nhận xét bước đầu của các nhà tâm lý học: Có thật
Các chuyên gia hoàn toàn không nghi ngờ sự tồn tại của hiện tượng ảnh gương kỳ lạ. Nhà tâm lý học Bernd Frank, người đã chữa bệnh suốt 17 năm cho 7 người mắc triệu chứng ảnh gương, khẳng định: “Bộ não của chúng ta thỉnh thoảng cũng có những bước nhảy bất ngờ và đột ngột mà chúng ta chưa rõ tại sao”.
Tháng 12/2000, tạp chí chuyên ngành Medical Tribune cảnh báo: không nên coi chuyện ảnh gương là nhỏ, ví dụ những người nào từng nhìn thấy bản thân mình bị chết và treo lủng lẳng trên một cành cây thường rất dễ sa vào con đường tự tử.
Điều khiến mọi người kinh ngạc qua lời miêu tả của nhân chứng là họ cảm nhận về phiên bản thứ hai của chính mình rất chi tiết và sống động. Mặc dù luôn ý thức được về nét siêu thực của “vị khách”, “chủ nhà” vẫn tin rằng họ có một mối quan hệ bí hiểm với nhân vật ảo kia.
Một số người còn cảm nhận ảnh gương rõ ràng hơn chính bản thân mình. Sau này, họ thường nhớ lại rằng cơ thể họ tại những giây phút gặp gỡ kinh hãi thường trống rỗng, lạnh lùng như đã kiệt máu, trong khi chính nhân vật kia mới chứa đựng toàn bộ sự sống của cả hai.
Nhận dạng “ảnh gương”
Trên toàn thế giới, nhóm hoạt động tích cực nhất về hiện tượng này là các nhà nghiên cứu Anh. Họ đã xem xét, nghiên cứu, thí nghiệm với hiện tượng kỳ bí này và đăng kết luận trên tạp chí British Journal of Medical Psychology:
- Nhân vật thứ hai xuất hiện hết sức đột ngột. Chỉ trong một số ít trường hợp, nhân chứng trước đó một chút có cảm giác là có người đứng cạnh hoặc sau lưng mình.
- Ảnh gương thường xuất hiện trong màu xám với những đường nét tương đối nhoà. Nhưng không ít trường hợp, chúng hiện lên rất rõ ràng như những bức tường tranh màu sống động. Không nhân chứng nào có thể nhớ rằng “người kia” có bóng hay không.
- Thường thì phiên bản thứ hai câm lặng và chỉ nhìn phiên bản thứ nhất trân trối. Trong một số trường hợp, chúng chuyển động như hình ảnh soi gương của nhân chứng, hành động hoặc biểu lộ những cử chỉ tương tự như nhân chứng trong những tình huống bất ngờ, đòi hỏi phản xạ bản năng.
- Ảnh gương thường xuất hiện ngoài tầm tay với và sẽ biến mất khi nhân chứng tìm cách sờ tới hoặc đến gần chúng.
- Đại đa số ảnh gương xuất hiện lúc hoàng hôn hay lúc sớm mai. Một số trường hợp chỉ xuất hiện một hoặc hai lần trong cả cuộc đời. Một số người khác lại gặp tới 5-6 lần, trong khoảng thời gian kéo dài
Một nạn nhân có khối u trong khu vực hypophyse của não kể rằng anh đã phải chung sống với ảnh gương suốt 7 năm trời. Người sốt phát ban nhiều khi cũng có cảm giác như một cơ thể thứ hai đang nằm cạnh mình trên giường. Những ai bị liệt nửa người thỉnh thoảng cũng kể về hiện tượng đó…
Nhà văn người Pháp Guy de Maupassant đã bị ảnh gương hành hạ suốt thời gian ông phải nằm bẹp trên giường vì bệnh giang mai.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân gây ra hiện tượng ảo ảnh này thường là các căn bệnh như tâm thần phân liệt, trầm cảm, thác loạn…, đặc biệt là những cơn đột quỵ hoặc căn bệnh ung thư tại khu vực hypophyse của não.
Nhà tâm lý học người Mỹ Geo Krizek của Bệnh viện St. Elizabeth tại Washington vừa thông báo rằng những tai nạn gây ảnh hưởng trầm trọng đến bán cầu não phải thường cũng có khả năng thổi lên những hình ảnh kỳ quái đó. Một trong những bệnh nhân của ông được đưa vào bệnh viện năm 15 tuổi sau một tai nạn giao thông với triệu chứng chảy máu trong bán cầu não phải. Vài năm sau, anh quay lại gặp Krizek vì đã gặp ảnh gương của anh ngay giữa phố, thậm chí đã nói chuyện với “người đó” trong suốt 15 phút.
Ảnh gương xuất hiện nhiều nhất ở nhóm người mắc chứng bệnh đau nửa đầu. Một nữ bệnh nhân 42 tuổi kể rằng thỉnh thoảng lại thấy một thân hình nữa của bản thân chị nằm bên cạnh. Trong những lúc như vậy, chỉ cảm thấy rất rõ ràng: nó ấm áp và mọi đường nét đều y hệt thân hình “thứ nhất” của chị.
Tài liệu ngành y ghi lại rằng cả những người mắc bệnh động kinh cũng thường phải chiêm ngưỡng bản thân mình kiểu ấy. Tác giả của Tội ác và trừng phạt, nhà văn Nga Dostoievski đã viết một cuốn tiểu thuyết có tựa đề Bản thể thứ hai, và trong những tác phẩm khác, thường các nhân vật chính của ông cũng luôn nhìn thấy ảnh gương bí hiểm: những bóng người xám xịt, không màu, đối mặt với nạn nhân trong ánh sáng mờ ảo của hoàng hôn hoặc sớm mai. Các chuyên gia phỏng đoán rằng nhà văn đã miêu tả những bức tranh xuất phát từ tâm hồn ông, thúc ép và hành hạ bản thân ông: người ta đồn rằng Dostoievski mắc bệnh động kinh.
Ảo ảnh, “con đẻ” của kiệt sức
Trong khi ảo ảnh của những người mắc bệnh đau nửa đầu hoặc bệnh động kinh thường xuất hiện sau những quầng sáng rực rỡ, thì ở những người khoẻ mạnh, chúng xuất hiện bất ngờ, không hề báo trước. Nỗi căng thẳng gay gắt về tình cảm, những sợ hãi hoặc những tình huống kiệt sức thường đã đủ cho ảnh gương bước vào thế giới chúng ta.
BS Dirk Arenz của Bệnh viện Thần kinh Andernach (Đức) giải thích: “Khi những giác quan mệt mỏi vì làm việc quá sức, hiện thực bên ngoài sẽ nhạt nhoà đi, những hình ảnh chỉ huy nội tại trồi lên, nắm quyền chỉ huy và… lao ra ngoài”. Tới lúc đó, theo BS Erich Kasten của Đại học Tổng hợp Magdeburg, trung tâm não bộ lưu trữ hình ảnh của chính bản thân bệnh nhân trong tình trạng quá mệt mỏi sẽ liên tục được kích hoạt và làm nảy sinh hiệu ứng nhân đôi ảo.
Việc trung tâm não bộ đóng một vai trò nhất định trong việc xuất hiện ảnh gương cũng đã được chứng minh qua số phận ngược chiều của những bệnh nhân Alzheimer. Theo thời gian, trung tâm não của họ ngày càng bị phá huỷ. Hậu quả là nạn nhân một ngày kia sẽ đứng trước gương và tự hỏi: kẻ lạ mặt nào đang nhìn ta trong gương kia?
Hiện thời, nhà tâm lý học Bernd Frank thừa nhận: “Chúng ta chỉ có thể lắng nghe, an ủi và cảm thông với họ”.
Những bí ẩn về thế giới phù thủy
Người ta cho rằng buổi bình minh của văn minh nhân loại tràn ngập ma thuật của các phù thủy, lễ hiến tế, các nghi thức cầu xin trời đất. Đó là thời kỳ hoàng kim của các phù thủy.
Quyền năng phù thủy
Các trò pháp thuật phù thủy rất thịnh hành ở các nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc. Trong một tài liệu cách đây hàng trăm năm của một du khách người Ả rập mô tả rất kỹ buổi hành lễ ở Trung Hoa. Trước đám đông người, một phù thủy dùng một quả cầu gỗ có buộc dây thừng và ném nó lên trời. Quả cầu bay cao và biến mất hút, chỉ còn sợi dây treo lơ lửng. Phù thủy sai một cậu bé bám vào sợi dây để leo lên trời. Chỉ ít phút sau, cậu bé cũng biến mất. Tộc trưởng suy nghĩ và nói một điều gì đó với phù thủy, lập tức phù thủy dùng dao cắt đứt dây, cắt rời từng phần cơ thể của cậu bé rơi xuống đất. Quang cảnh đẫm máu làm cho những người chứng kiến kinh hãi. Nhưng sau đó, tộc trưởng lầm rầm khấn vái một điều gì đó, các bộ phận của cậu bé dính vào nhau và cậu ta sống lại như bình thường. Buổi hành lễ kết thúc trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến.
Kinh Mật tông Phật giáo nói đến việc các pháp sư tạo ra những đám đông và làm biến mất họ từ hàng nghìn năm trước. Những người theo môn phái tu luyện này thừa nhận sức mạnh của bùa chú, pháp thuật và cho rằng chúng góp phần tạo nên niềm tin tôn giáo. Những tài liệu hàng nghìn năm ghi nhận vua Pàla (Ấn Độ cổ) "bằng pháp thuật của mình đã tạo ra thuốc trường sinh phân phát cho mọi người để những người già 100 tuổi có thể trẻ lại". Những lễ nghi của dòng Mật tông thường được giữ kín nhưng không bao giờ thiếu việc niệm thần chú, biểu diễn màn nhảy múa tôn giáo và thiền định, trong đó các pháp sư (giống với vai trò của các phù thủy) sẽ cầm trịch các buổi hành lễ đó.
Người ta cho rằng các bài thuốc chỉ có thể mang lại tác dụng khi được các pháp sư đọc thần chú gọi là mantra. Đó là tuyệt kỹ chỉ có các phù thủy mới làm được. Người ta cho rằng, các âm thanh mantra sẽ làm ma quỷ sợ hãi, biến đi trong phút chốc. Nếu gặp nguy hiểm thì nên sử dụng các thần chú này.
Màn ảo thuật hấp dẫn
Các buổi hành lễ của phù thủy không thể thiếu được những vũ điệu được gọi là múa phù thủy. Đó là các vũ điệu nhằm kích động thần kinh của những người tham gia. Người ta dùng các động tác tay, chân, lắc lư đầu và các đạo cụ như chuông, bát hương để tạo ảo giác với những người chứng kiến.
Tại Ai Cập cổ đại người ta dùng các pháp thuật để chiếm được niềm tin của công chúng. Một pháp thuật gia nổi tiếng thời đó là westcar Papyrus (1.700 năm trước CN) đã biểu diễn màn chặt đầu và nối lại nguyên vẹn cho nạn nhân. Những thầy tu cao cấp ở Hy Lạp thời đó trong các buổi hành lễ ở đền thờ thường dùng pháp thuật mở cửa đền và đốt sáng các ngọn đuốc mà không cần đến các công cụ.
Ở châu Phi, phù thủy thường là phụ nữ già xấu xí, sống độc thân. Họ thường hoạt động bí mật vào ban đêm và cũng không ý thức được các hành động của mình. Họ bị coi là một mối đe dọa đối với cộng đồng vì người ta cho rằng các tai họa như ốm đau, đói kém, mất mùa, thiên tai là do các phù thủy gây ra theo yêu cầu của kẻ thù. Tại Gana, người ta làm một khu làng để giam giữ, cách ly những người làm nghề phù thủy nhằm tránh tai họa. Ở Nam Mỹ, các bộ tộc da đỏ thường có các phù thủy để làm phép trị bệnh. Họ tổ chức buổi nhảy múa quanh đống lửa và dùng pháp thuật lấy trong miệng người bệnh ra các bộ phận bị mắc bệnh.
Thời xa xưa, các pháp thuật phù thủy đã xuất hiện tại Việt Nam. Thầy phù thủy có nhiều quyền năng kỳ lạ: có thể gọi âm binh, luyện bùa, ngải để biến người ta thành u mê. Phù thủy có thể sai khiến âm binh đi làm việc đồng áng ban đêm như tát nước, tấn công trả thù người khác. Những thầy phù thủy mỗi khi điều khiển âm binh xong phải có lễ khao quân, nếu không âm binh sẽ phản lại. Chỉ được sai âm binh vào buổi đêm và thu lại trước khi trời sáng nếu không sẽ gặp họa. Nếu làm lộ thiên cơ, âm binh sẽ đánh trả thầy.
Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học, người ta đã lý giải được nhiều pháp thuật của phù thủy chỉ là những màn ảo thuật hoặc cách tạo ra các tác động tâm lý. Nhưng dù sao, phù thủy và các pháp thuật của họ vẫn là một thế giới bí ẩn đầy hấp dẫn. Nó là chất liệu cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, mà điển hình nhất là thế giới phù thủy của cậu bé Harry Potter .
Trên thế giới, duy nhất có lễ hội phù thủy được tổ chức vào ngày 1/5 hằng năm tại thành phố Gossnal (Đức). Có hàng trăm phù thủy ở khắp các châu lục về đây trình diễn những màn pháp thuật do họ luyện được. Ở đây có một viện bảo tàng về các dụng cụ của phù thủy qua các thời kỳ. Hà Lan có trường dạy các pháp thuật phù thủy, sau khi tốt nghiệp các phù thủy sẽ được cấp chứng chỉ. Giá của khóa học khá đắt, hơn 2.000 euro. Một trong những yêu cầu của các phù thủy là không được dùng pháp thuật để hại người và phải tuân thủ theo pháp luật.
Vụ mất tích bức tượng thần Mặt trời ở đảo Rhodes
Đảo Rhodes nằm trên biển Égée, phía Tây cách Hy Lạp (đất liền) 4.500m, phía Bắc cách Thổ Nhĩ Kỳ 19.000m. Đảo Rhodes thuộc lãnh thổ Hy Lạp có diện tích 14.000km2 với dân số hơn 7.000 người
Đảo Rhodes được xem là một trong những nơi khởi nguồn của nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Trong truyền thuyết, thần thoại, ở thời kỳ cổ đại xa xưa, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh giành ngôi vị giữa các vị thần Hy Lạp, thần Zeus trở thành chúa tể của các vị thần. Thần Zeus bèn phân lãnh địa cho các vị thần khác nhưng quên phân lãnh địa cho thần Mặt trời Apollon - người đã tìm ra thiên cung. Đến khi thần Apollon quay về, thần Zeus ban cho thần Apollon một tảng đá nằm sâu dưới biển Égée. Tảng đá vui vẻ nhô lên mặt biển đón thần Mặt trời đến cư trú. Thần Apollon rất hài lòng về lãnh địa mình được phân, thần đã dùng tên con gái Rhodes (con gái của nữ thần Tình yêu) đặt tên cho đảo. Ba người con trai của thần Mặt trời Apollon là Caminos, Maunosos, Limgos cũng được phong trên đảo này và mỗi ngày đều tự xây dựng vương quốc của riêng mình. Cuộc sống trên đảo Rhodes rất phồn vinh sung túc, đã thu hút các nước lớn như Athènes, Sparta, Macedonia, Ba Tư, La Mã lần lượt xâm lược phá hoại nhiều thành trì. Đến năm 227 trước Công nguyên, các thành phố trên đảo Rhodes một lần nữa bị trận động đất rất mạnh phá hủy.
Ba thành trì khác trên đảo sau khi bị động đất phá hủy không được xây dựng lại mà chỉ dựng lên những làng mạc tiêu điều gần đó nên vẫn bảo tồn được những nền tường trụ đá. Chỉ có thành Rhodes - nơi cứ trú của thần Mặt trời Apollon gần như được xây dựng lại và mở rộng nên không nhìn thấy dấu vết của vụ động đất phá hủy thành năm xưa. Ở đây chỉ thấy được những nét phồn hoa hiếm có xưa kia của thành phố này qua nhiều vặn vật khai quật dược như bức tường đá cẩm thạch, đầu tượng thần Apollon được tạc vào thế kỷ II và bức tượng khỏa thân nữ thần Tình yêu Aphrodite được tạc vào thế kỷ I. Nhưng bức tượng đồng vị thần Apollon được xem là "Đại kỳ tích thứ 7 của thế giới" thì không biết bị mất tích từ lúc nào
Quá trình đúc tượng thần Mặt trời được diễn ra khoảng thế kỷ V trước Công nguyên. Khi người Ba Tư xâm lược đảo Rhodes, toàn bộ cư dân trên đảo rút về bảo vệ thành Limgos nằm đầu mũi phía Đông của đảo. Cuối cùng họ đã đánh lui được cuộc tiến công của người Ba Tư. Sau khi đánh thắng quân xâm lược Ba Tư, người ta đã đem toàn bộ số vũ khí giặc bỏ lại nung thành sắt. Nhà điêu khắc Litas đã đúc bức tượng đồng thần Mặt trời Apollon và đặt ở bến cảng hùng trấn lãnh hải. Bên cạnh đó nhà triết học La Mã cùng thời với thần Apollon tên là Antipot cũng được xem là "Đại kỳ tích thứ 7 của thế giới".
Trong trận động đất mạnh cách đây hơn 2.200 năm, bước tượng lớn thần Mặt trời đã bị sụp đổ. Có người nó, bức tượng đổ không thể đúc lại được và và thế kỷ VII đã bị nung đúc thành các loai khí giới khác. Nhưng có người lại nói bức tượng đồng đã bị mất trộm, bọn hải tặc đã bị chìm thuyền khi gặp bão trên biển. Bây giờ hậu thế chỉ có thể tưởng tượng mô hình bức tượng qua những lời ghi chép tóm tắt trong sử sách mà thôi. Bức tượng nữ thần Tự do ở New York (Mỹ) được đúc trên cơ sở liên tưởng mô hình tượng thần Mặt trời với tư thế tay cầm bó đuốc, đầu đội vương miện, tỏa ánh hào quang như ánh Mặt trời.
Bí ẩn con tàu ma "Người Hà Lan bay"
Con tàu của ông ta lướt đi trên đại dương như một bóng ma nhẹ bẫng nên ông ta có biệt danh là "người Hà Lan bay". Không có điều gì chắc chắn về ông ngoại trừ ông ta là người Hà Lan và là thuyền trưởng của một con tàu ma. Những điều khác về ông ta đều mờ ảo và đen thẫm như làn nước biển đêm bởi những cái chết đeo bám cho kẻ xấu số nào nhìn thấy "người Hà Lan bay"!
Từ huyền thoại...
Huyền thoại về "người Hà Lan bay" đã có từ lâu. Nhiều người đi biển nói rằng, vị thuyền trưởng tài ba người Hà Lan này trong một chuyến đi dọc qua mũi Hảo Vọng đã được thông báo sẽ có một cơn bão biển xuất hiện. Mặc cho sự kinh hãi của hành khách, mặc cho gió biển gào thét xé nát cột buồm, sóng đập gẫy thành tàu nhưng viên thuyền trưởng vẫn nhất quyết giữ vững hải trình. Một số thuỷ thủ và hành khách quá sợ hãi và quyết tâm nổi dậy để chuyển hướng tàu vào bờ, nhưng viên thuyền trưởng đã nhanh chóng đánh gục thủ lĩnh cuộc nổi dậy và ném xác hắn xuống biển, miệng không ngừng nguyền rủa... Vào đúng lúc xác kẻ xấu số chạm mặt nước, thì "Raaắcc!" con tàu đã bị bão biển nghiền nát. Viên thuyển trưởng gào lên trong điên dại: "Ta thề bán linh hồn cho quỷ dữ nếu sống qua cơn bão này!". Và, đó cũng là điểm khởi đầu về một bóng ma huyền thoại: "người Hà Lan bay"...
Người đi biển tin rằng con tàu ma của "người Hà Lan bay" lướt đi không cần gió. Nó trông rất giản dị và đột ngột xuất hiện trước các thuyền khác, ra dấu hiệu chỉ đường rồi đột ngột biến mất để con thuyền đi theo mắc phải những lạch cạn. Có nhiều người thề sống thề chết là họ đã từng trông thấy con tàu ma, thậm chí nhìn thấy cả "người Hà Lan bay". Họ nói bóng ma huyền thoại này luôn để đầu trần, mặt mũi rầu rĩ, bàn tay ông đang bấu lấy bánh lái trên boong tàu và cầu xin Thượng đế tha ông ta tội bất kính. Huyền bí hơn, người ta còn nói rằng toàn bộ thuỷ thủ đoàn của "người Hà Lan bay" là những bộ xương di động đang cần mẫn làm việc. Phải chăng đó là chỉ là huyền thoại???
...đến những ghi chép
Câu chuyện "người Hà Lan bay" kích thích mạnh mẽ sự tò mò của mọi người, nhưng nó thực tế hơn nhiều so với hình ảnh sinh ra từ trí tưởng tượng của một số nhà văn. "Con tàu ma" đã nhiều lần được ghi nhận ngay cả trong thế kỷ 20...
Một trong những ghi chép đầu tiên về "người Hà Lan bay" và con tàu của ông ta đã được một thuyền trưởng người Anh ghi lại vào năm 1835 tại bờ biển phía Nam châu Phi. Toàn bộ thuỷ thủ trên tàu Anh quốc khi tránh bão bỗng thấy một con tàu nhẹ nhàng lướt trên những con sóng đang gào thét dữ dội. Nó hướng thẳng về phía con tàu của người Anh và khi tất cả mọi người nghĩ rằng hai con tàu sẽ đâm vào nhau thì con tàu ma... biến mất.
Ngày 11/7/1881, tàu H.M.S Bacchante thuộc Hạm đội hải quân Hoàng gia Anh đang đi qua cực Nam châu Phi thì thấy con tàu của "người Hà Lan bay". Một sĩ quan trên tàu đó chính là vua George V sau này - đã ghi lại lời kể của viên hoa tiêu khi anh này nhìn thấy tàu "người Hà Lan bay" trong đêm tối: "Tôi thấy con tàu sáng rực một màu đỏ, nó đứng im lìm trong sóng biển rất mạnh". Sau đó vài ngày, viên hoa tiêu xấu số đã ngã từ cột buồm xuống biển.
Vào một ngày tháng 3/1939, rất nhiều người ở dọc bờ biển phía Nam châu Phi đã nhìn thấy "con tàu ma". Con tàu có vóc dáng kiến trúc của thế kỷ 17, được ghi nhận ở Báo cáo thường niên của Thực dân Anh tại Nam Phi lúc đó: "Giữa lúc trời lặng sóng, con thuyền bỗng đột ngột xuất hiện ở bãi biển Glencairn. Mặc cho mọi người chỉ trỏ bàn tán về xuất xứ của con tàu theo kiểu cổ, một lúc sau con tàu bỗng dần tan biến ra một cách đầy bí hiểm như sự xuất hiện lạ lùng của nó".
Ghi nhận cuối cùng về con tàu của "người Hà Lan bay" là vào năm 1942, tại Cape Town - Nam Phi. Bốn nhân chứng cho biết họ đã nhìn thấy con tàu cổ đi vào vịnh Table và... biến mất. Và còn nhiều ghi chép nữa liên quan đến con tàu của "người Hà Lan bay" như một hạm đội tàu ngầm của Đức đã gặp nó giữa tâm một cơn bão giữ dội ở vùng biển châu Phi trong Thế chiến II. Tuy nhiên những ghi chép đó không ghi cụ thể thời gian và địa điểm con tàu xuất hiện. Con tàu của "người Hà Lan bay" vẫn đang được che phủ bởi một màn sương biển bí ẩn...
...và trở lại với huyền thoại
Cho đến bây giờ nhiều người đã viết về "người Hà Lan bay". Một số người cho rằng huyền thoại này bắt nguồn từ một sự kiện có thực. Họ cho biết tên của vị thuyền trưởng đó là Vanderdecken, Van Demien, Van Straaten hoặc Van der Decken. Vào năm 1641, vị thuyền trưởng người Hà Lan quyết định thành lập một công ty tên là Đông Ấn tại mũi Hảo Vọng. Trên đường trở về, ông đã gặp bão cách mũi Hảo Vọng không xa, con tàu bị xé thành từng mảnh, toàn bộ thuỷ thủ và thuyền trưởng tử nạn. Trước khi bị cơn sóng khổng lồ vùi xuống biển, viên thuyền trưởng người Hà Lan đã hét lên một lời nguyền át cả gió bão: "Ta sẽ còn đi quanh vùng biển này cho tới ngày tận thế!" Từ câu chuyện bi thương trên, người ta tin rằng trong mỗi cơn bão ở mũi Hảo Vọng, nếu chú ý bạn có thể nhìn thấy con thuyền của "người Hà Lan bay". Tuy nhiên người ta cũng vô cùng sợ hãi bởi họ tin rằng nếu ai nhìn thấy vị thuyền trưởng xấu số đó sẽ gặp tai hoạ
Những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử
Danh tính thực sự của "chúa trộm nhân từ" Robin Hood, nhân vật chính trong bộ phim đình đám cùng tên tại khu vực Bắc Mỹ, là một trong số những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử loài người.
Ai là Robin Hood?
Trong những câu chuyện dân gian của người Anh, Robin Hood là một kẻ sống ngoài vòng pháp luật có khả năng bắn cung siêu phàm. Hood chuyên cướp tài sản của vua quan và những tên nhà giàu xấu xa rồi phân phát lại cho người nghèo.
Sự tồn tại của một tên cướp nhân hậu sống trong rừng có lẽ đáng tin cậy hơn câu chuyện một vị vua huyền thoại với thanh gươm thần. Tuy nhiên, việc tìm kiếm Robin Hood trong suốt chiều dài lịch sử đã dẫn đến hàng loạt khả năng. Người ta tìm thấy hàng loạt nhân vật có thể là Robin Hood, trong đó có hai cái tên là Robert Hod và Robert Hood. Cuộc tìm kiếm trở nên phức tạp vì cái tên “Robin Hood” cuối cùng lại đồng nghĩa với “kẻ sống ngoài vòng pháp luật” như trong trường hợp William Le Fevre. Theo ghi chép của toà án thời trung cổ, một kẻ sống ngoài vòng pháp luật mang tên William Le Fevre cũng khá nổi tiếng. Họ của người này sau đó lại được đổi thành Robehod. Thực hư về Robin Hood lại càng trở nên mơ hồ khi các tác giả của câu chuyện cổ lại thêm những nhân vật khác vào ví dụ như hoàng tử John.
Những xác ướp tại Trung Quốc
Trong khi khai quật tại thung lũng Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện hơn 100 xác ướp có niên đại khoảng 2000 năm. Tuy nhiên, giáo sư Victor Mair của trường Đại học Pennsylvania tại Mỹ hết sức ngạc nhiên khi tìm thấy một số xác ướp có tóc vàng, mũi dài được trưng bày tại một bảo tàng. Vì vậy, năm 1993, Mair quay lại đây để thu thập mẫu ADN. Kết quả phân tích đã xác nhận dự đoán của ông: Những xác ướp tại thung lũng Tarim có nguồn gốc từ châu Âu. Trong khi các tài liệu Trung Hoa cổ từ thế kỉ một trước Công nguyên ghi nhận sự tồn tại của những nhóm cư dân có nguồn gốc châu Âu thì lại không hề có chi tiết nào đề cập đến sự biến mất của họ tại đây.
Sự mất tích của đội quân La Mã
Sau khi đội quân của tướng La Mã Marcus Licinius Crassus bị những người Parthia tại Ba Tư đánh bại, truyền thuyết kể lại rằng một nhóm nhỏ tù binh La Mã đã trốn thoát. Họ lang thang qua sa mạc và cuối cùng bị quân đội người Hán bao vây. Sử gia Trung Quốc Ban Gu sống ở thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên đã miêu tả lại cuộc chạm trán với một đội quân lạ chiến đấu theo “thế trận vảy cá” đặc trưng của quân đội La Mã. Một nhà sử học tại Đại học Oxford, Anh so sánh các ghi chép cổ và cho rằng đội quân La Mã mất tích từng xây dựng thị trấn nhỏ mang tên Liqian gần sa mạc Gobi. (Liqian là cách viết từ “La Mã” trong tiếng Trung). Các thí nghiệm ADN đang được tiến hành để làm rõ giả thiết này và hy vọng sẽ giải đáp những bí ẩn của đội quân La Mã này
Sự biến mất của nền văn minh thung lũng Indus
Indus là một nền văn hóa trải tồn tại từ năm 2500 tới 1500 trước Công nguyên với dân số khoảng 5 triệu người. Khu vực sinh sống của người Indus trải dài từ phía tây Ấn Độ đến Afghanistan. Đây là nền văn minh lâu đời nhất từng được biết đến ở Ấn Độ. Sự sụp đổ đột ngột và bí ẩn của nó có thể được so sánh với sự suy vong của đế chế Maya vĩ đại. Phải đến năm 1922, các cuộc khai quật mới phát hiện ra di tích của một nền văn hóa phát triển cao với một hệ thống thoát nước phức tạp và nhà tắm sạch sẽ. Điều kì lạ là không có bất cứ bằng chứng khảo cổ nào về quân đội, nô lệ, xung đột xã hội hay những thói xấu vẫn phổ biến ở những xã hội cổ đại tại đây.
Bản thảo Voynich
Bản thảo Voynich có lẽ là cuốn sách khó đọc nhất trên thế giới. Di vật 500 năm tuổi này được tìm thấy vào năm 1912 tại một thư viện ở Rome, Italy bao gồm 240 trang minh họa và được viết bằng một thứ ngôn ngữ chưa từng được biết đến. Việc không thể giải mã được những văn tự này khiến có người cho rằng đây chỉ là một trò đùa. Nhưng một phân tích thống kê lại cho thấy bản thư tịch này hoàn toàn tuân theo cấu trúc và quy luật cơ bản của một ngôn ngữ thực sự.
Bí ẩn những con tàu ma
Hàng thế kỷ nay, sự thật về những con tàu ma vẫn luôn là nỗi ám ảnh của những người đi biển. Số phận và nguyên nhân biến mất đầy bí hiểm của những thủy thủ đoàn như thế nào?... có lẽ vẫn sẽ là một ẩn số không có lời giải.
“Tôi là người duy nhất còn sống sót….”
Vào khoảng những năm 40 của thế kỷ trước, sự biến mất đầy bí hiểm của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu Urang Medana của Hà Lan được cho là một bí ẩn lớn nhất trong lịch sử ngành hàng hải thế giới.
Ở thời điểm đó, một vài trạm rada của Anh đặt tại Singapore và Sumatra (Indonesia) thông báo có nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu Urang Medana của Hà Lan với nội dung: “SOS… SOS tất cả đã chết… tôi là người duy nhất còn sống sót…”, tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có một câu duy nhất là “Tôi đang chết dần”, rồi kết thúc bằng một sự im lặng đến ghê rợn
Các cuộc tìm kiếm cứu hộ nhanh chóng được thiết lập và đã cho kết quả. Con tàu được tìm thấy tại vịnh Malacca, cách nơi phát tín hiệu trước đó khoảng 80 km. Khi bước chân lên Urang Medana, ngay lập tức các nhân viên cứu hộ phải sởn gai ốc trước cảnh tượng kinh hoàng trước những cái chết một cách bất thường của toàn bộ thủy thủ đoàn.
Vị thuyền trưởng nằm ngay tại tại vị trí điều khiển, còn các sĩ quan và thuỷ thủ thì nằm rải rác khắp nơi trên tàu. Một nhân viên điện đài có lẽ là người đã phát ra tín hiệu cấp cứu, đã chết trong trạng thái làm việc. Ngay đến con chó trên tàu phải nhận một cái chết hết sức bất thường khi mõm của nó vẫn còn đang nhe nanh như đe dọa ai.
Điểm chung duy nhất là trên khuôn mặt của tất cả mọi người đều hiện rõ một nỗi sợ hãi khủng khiếp. Càng kỳ lạ hơn, không hề có bất kỳ một dấu hiệu tổn thương nào trên tất cả các tử thi. Giả thuyết về một vụ tấn công của cướp biển ngay lập tức bị loại bỏ bởi toàn bộ những thứ có giá trị trên tầu đều còn nguyên vẹn.
Tuy nhiên, trong suốt chiều dài của thế kỷ 20, đây vẫn chưa phải là thảm hoạ duy nhất.
Vào năm 1955, trên biển Thái Bình Dương người ta còn tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Mỹ mang tên MB Elip cũng có những hiện tượng tương tự. Trên tàu, nước ngọt và đồ ăn dự trữ vẫn còn nguyên vẹn, các phương tiện cứu hộ vẫn chưa hề được sử dụng, vậy mà không có lấy một bóng người.
Khoảng 5 năm sau, trên biển Đại Tây Dương cũng xuất hiện hai chiếc thuyền buồm của Anh trôi dạt. Năm 1970, tất cả thuỷ thủ đoàn cùng với con tàu trở hàng của Anh mang tên Minton đột ngột mất tích một cách lạ lùng mà cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Rồi đến năm 1973, một tai nạn đã xảy ra và làm đắm chiếc tàu đánh cá Anna của Na Uy. Những thủy thủ trên những con tàu khác gần đó vô tình chứng kiến vụ tai nạn lấy làm lạ khi sự việc diễn ra, họ không thấy có bất kỳ ai trên boong tàu.
Giọng nói từ biển khơi
Trong lịch sử ngành hàng hải, sự mất tích kỳ lạ của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu nổi tiếng Maria Chelesta luôn được nhắc đến như một bí ẩn vĩ đại nhất của đại dương. Vào tháng 12/1872, thuỷ thủ trên tàu Jea Grasia của Anh bất ngờ gặp một chiếc thuyền buồm di chuyển một cách không bình thường. Đến khi tiến lại gần, họ rất đỗi ngạc nhiên khi trên boong thuyền Chelesta không có bóng dáng của con người mà vô lăng lái lại không được cố định.
Một hoa tiêu và hai thuỷ thủ người Anh quyết định thâm nhập vào con thuyền này để tìm hiểu tình hình. Không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của con người. Vật giá trị nhất mà họ tìm được chính là cuốn nhật ký đi biển, trong đó ngày cuối cùng được đặt bút có đề ngày 24/11/1872 (con thuyền được tìm thấy vào ngày 02/12).
Con thuyền này được đưa về eo biển Gibraltar của Anh để các chuyên gia giàu kinh nghiệm điều tra bí ẩn đã xảy ra với nó, tuy nhiên mọi nỗ lực đều trở nên vô vọng.
Năm 1937, nhà vật lý của Liên Xô là Vladimir Suleykin đã đưa ra một giả thuyết được cho là tương đối thuyết phục. Trong một hành trình trên biển Kaspi trên tàu thuỷ văn Taimưr, một nhà khoa học đi cùng Vladimir Suleykin đã thực hiện thí nghiệm với một quả cầu thám không chứa đầy khí hydro: khi quả cầu này được đưa đến gần ai thì người đó bỗng xuất hiện một cảm giác đau buốt trong màng nhĩ, còn khi đưa ra xa cảm giác đau đớn đó dần tan biến.
Vladimir Suleykin liền để ý tới hiện tượng lạ lùng này để rồi không lâu sau đó đưa ra nhận định của mình trên báo chí rằng, gió thổi qua các cơn sóng trong những ngày biển động đã tạo ra trong không khí các dao động sóng hạ âm mà tai con người không nghe thấy. Sóng hạ âm này rất có hại đối với con người. Trong dải tần thấp hơn 15 héc, sóng hạ âm không chỉ gây tổn thương cho màng, mà còn gây rối loạn hệ thần kinh trung ương và ảnh hưởng đến thị giác. Ở dải tần dưới 7 héc, sóng hạ âm đôi khi gây tử vong đối với con người. Như vậy, nơi nào xuất hiện bão thì ở đó xuất hiện sóng hạ âm. Hiệu ứng này được V. Suleikyn gọi là “âm thanh của biển cả”.
Liệu con người đã tìm ra được bí mật của những con tàu ma xấu số? Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến những cái chết vô cùng bí hiểm của các thủy thủ trên tàu?
Sóng âm gây chết người ?
Trong các nghiên cứu về tác động vật lý của sóng hạ âm có cường độ lớn đối với cơ thể sống, người ta đã phát hiện một hiện tượng đáng kinh ngạc.
Thí nghiệm trên các loài động vật cho thấy, chúng đều có một cảm giác lo lắng, sợ hãi không rõ nguyên nhân. Thí nghiệm trên cơ thể một số người tình nguyện cũng cho kết quả tương tự: họ đều cảm thấy đau đầu, lo lắng với một nỗi sợ hãi khủng khiếp không rõ nguyên nhân.
Theo giáo sư Gavro người Pháp, âm thanh ở tần số 7 héc có thể gây tử vong. Trong thời gian xuất hiện bão trên biển, sóng hạ âm dao động từ 15 héc xuống đến gần 6 héc. Như vậy, cường độ dao động càng thấp thì nguy cơ tử vong đối với con người là khó có thể tránh khỏi, khi đó, họ sẽ phải hứng chịu một cái chết với nỗi khiếp sợ và kinh hoàng không rõ nguyên nhân. Hơn nữa, nếu thân và cột buồm của tàu cộng hưởng trở thành nguồn sóng hạ âm thứ sẽ càng tác động mạnh mẽ lên con người, làm họ mất lý trí để rồi nhảy ra khỏi tàu để trốn chạy hoảng loạn. Không phải vô cớ mà trên nhiều chiếc thuyền, những chiếc cột buồm bị gãy và hỏng trong khi thời tiết được dự báo là không có gió to.
Truyền thuyết về tàu ma xuất hiện từ đâu?
Chúng ta ít nhiều đều đã từng nghe danh một con tàu đã đi vào truyền thuyết với tên gọi “Người Hà Lan bay”. Một con tàu ma không có bóng người. Bất kỳ ai chẳng may gặp nó đều sẽ phải hứng chịu những bất hạnh kinh khủng.
Theo truyền thuyết, trong một cơn bão lớn, viên thuyền trưởng Van Staaten đã vô cùng khó khăn để điều khiển tàu vòng qua được mũi Hảo Vọng. Trong cơn hỗn loạn, toàn bộ thủy thủ trên tàu đều yêu cầu thuyền trưởng quay trở lại. Không thèm để ý đến đề nghị của đa số mọi người, Van Staaten trong cơn tức giận đã bắt đầu phỉ báng chúa trời và tuyên bố rằng sẽ đổ bộ vào mũi Hảo Vọng, thậm chí có phải bơi cho đến ngày chúa tái lâm. Ngay lập tức, một giọng nói khủng khiếp từ trên trời vang lên để đáp trả lời phỉ báng đó: “Được, vậy thì các người hãy bơi đi”. Kể từ đó, con tàu trở thành điềm gở cho bất kể ai vô tình hay cố ý nhìn thấy nó.
Một biên niên sử buồn…
Sự biến mất bí ẩn của con người và các con tàu vẫn tiếp tục trong thế kỷ 21. Liệu có phải, những trường hợp đó đều có liên quan đến “giọng nói từ biển khơi” hay không may chạm trán với “người Hà Lan bay”?
Năm 2003, máy bay thuộc Cục bảo vệ bờ biển Autraulia đã tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Indonesia gần bờ biển nước này. Tàu vẫn trong tình trạng hoạt động tốt, khoang chứa đầy cá, thế nhưng trên tàu lại không có một bóng người. (trước đó, tàu ra khơi với 14 thuỷ thủ
Năm 2006, Cục bảo vệ bờ biển Sardinhia (Italia) nhận thấy một chiếc thuyền buồm hai cột mang tên “Bel Amika” bị trôi dạt tự do mà không có người trên đó. Trên thuyền vẫn còn thức ăn thừa và những tấm bản đồ địa lý của Pháp. Cảnh sát đã nghi ngờ chiếc thuyền đã được những kẻ buôn lậu sử dụng để vận chuyển ma tuý. Tuy nhiên giả thuyết này ngay sau đó bị bác bỏ khi họ sử dụng chó nghiệp vụ để điều tra. Cùng năm đó, cũng cách Australia không xa, người ta lại tìm thấy chiếc tàu chở dầu Yan Seng cũng không có bóng người.
Năm 2007 một chiếc tàu dài 12 m trống không có tên “Kaz II” được tìm thấy khi đang trôi dạt ở vùng biển Đông Bắc Australia. Điều lạ là động cơ của tàu vẫn đang hoạt động, một máy tính xách tay và hệ thống định vị toàn cầu GPS, một bàn ăn đã dọn sẵn. Tất cả các phương tiện cứu hộ vẫn còn nguyên trên tàu. Cánh buồm vẫn được căng lên nhưng đã bị rách nát
Năm 2008, Cục an ninh biển Nhật Bản thông báo phát hiện một chiếc xà lan đang trôi dạt không có tên có số hiệu và người trên boong.
Kỳ bí thôn bát quái của hậu duệ Gia Cát Lượng
Nhiều nhà khoa học chuyên nghiên cứu về môi trường và kiến trúc trên thế giới đang tập trung khảo sát một mô hình thôn trang kỳ bí theo bố cục bát quái ở Trung Quốc.
Thôn này có tên là thôn Gia Cát hay Bát Quái, tọa lạc tại thị trấn Lan Khê, tỉnh Triết Giang, được mệnh danh là "Trung Quốc đệ nhất thôn". Đây cũng chính là trung tâm sinh sống của hậu duệ Khổng Minh Gia Cát Lượng nổi tiếng thời Tam Quốc.
Dựa theo Bát quái trận đồ lập nên thôn
Vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300), hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Lượng là Gia Cát Đại Sư bắt đầu lập thôn Bát Quái tại Lan Khê, Triết Giang.
Theo sử chép, Gia Cát Lượng từng lập ra một trận pháp thần kỳ gọi là Bát trận đồ, biến ảo khôn lường, uy lực vô cùng, từng vây khốn cả 10 vạn tinh binh của đại tướng Đông Ngô Lục Tốn
Gia Cát Đại Sư đã vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào Bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo Cửu cung bát quái.
Thôn lấy cái hồ lớn (chung trì, nửa nước nửa đất) hình thái cực làm trung tâm, 8 con đường từ hồ toả ra thành "nội bát quái".
Phía ngoài thôn lại đắp 8 tòa núi nhỏ hình thành "ngoại bát quái" bao bọc. Các sảnh, đường, nhà ở phân bố dọc theo 8 đường. Gia Cát Đại Sư trước khi qua đời có để di huấn là không được thay đổi nguyên dạng.
Trải qua hơn 800 năm dâu bể, lượng người trong thôn tăng lên nhiều, nhưng tổng thể cửu cung bát quái không hề thay đổi
Trong thôn có đền thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc đều là kiến trúc cổ đời Minh, Thanh rất độc đáo.
Con cháu Gia Cát đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ "không làm lương tướng, tất làm lương y" nên nhiều đời theo nghề thuốc.
Trong thôn có cả Nhà triển lãm trung y dược, vườn thảo dược... Nơi đây, riêng đời Minh, Thanh đã có 5 tiến sĩ, 11 cử nhân, hàng trăm tú tài. Các chuyên gia, học giả Trung Quốc đang đề nghị đổi Lan Khê thành TP Võ Hầu.
"Đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi"
Theo nhiều nhà nghiên cứu, kiến trúc bát quái này có công năng phòng vệ và cải tạo môi trường rất cao. Thôn Gia Cát đặc biệt mát mẻ, sạch sẽ, thông thoáng.
Nhà kiến trúc Từ Quốc Bình cho rằng, kiểu kiến trúc của thôn này hoàn toàn khác với phong cách thôn trang truyền thống Trung Quốc, không lấy trung tuyến làm chủ mà bức xạ ra 8 hướng.
Các nhà trong thôn mặt đối nhau, đuôi liền nhau, đường nối nhau, rất thoáng mà kỳ thực kín đáo. Địa hình xung quanh nhìn giống như cái nồi, bốn phía cao, giữa thấp. Người ngoài vào thôn, nếu không có người quen dẫn đường thì lẩn quẩn không biết lối ra.
Nhà thư pháp Gia Cát Cao Phong, cháu đời thứ 42 của Gia Cát Lượng cho biết, trong thôn "đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi".
Năm 1925, chiến tranh ác liệt, quân đội của Quốc dân đảng là Tiêu Kính Quang đánh nhau với quân phiệt Tôn Truyền Phương 3 ngày dữ dội sát bên thôn Bát Quái nhưng không có viên đạn nào lọt vào thôn.
Khi quân Nhật tấn công xuống phía nam, đại quân kéo qua đại lộ Long Cương nhưng không phát hiện ra thôn này. Duy có 1 lần máy bay Nhật ném bom trúng 1 phòng trong thôn
Chiếc gương giết người hàng loạt
Đầu năm 2007, nhà khoa học Mỹ - Tiến sĩ Waine tuyên bố với giới báo chí: Ông đã giải mã được bí ẩn của chiếc “Gương soi ma quỷ” từng gây tai họa cho người Pháp suốt hơn 200 năm qua.
Hồi tháng 11/1977, Hiệp hội sưu tập đồ cổ nước Pháp mở một cuộc họp báo bất thường, công bố trước cộng đồng xã hội một tin “lạnh sống lưng”: Cảnh báo tất cả những người sưu tập và đam mê chơi đồ cổ tuyệt đối không nên tìm kiếm, mua, lưu giữ chiếc gương soi cổ trên khung gỗ của nó có khắc chữ “Louis Alvarez 1743”, bởi nó là một chiếc “gương ma quỷ” giết người hàng loạt, suốt hơn 200 năm qua đã có tới 38 người Pháp “bất đắc kỳ tử” vì soi nó!
Lịch sử đầy tội ác
Chiếc gương kể trên được xuất xưởng năm 1743, mà Louis Alvarez là tên của người thợ gương chế tác ra nó, và cũng là nạn nhân đầu tiên của nó. Chỉ hai ngày sau khi hoàn thành chiếc gương này, người thợ lành nghề nổi tiếng đang khoẻ mạnh bình thường bỗng lảo đảo chúi đầu gục xuống ngay trong nhà xưởng.
Pháp y khám nghiệm tử thi cho hay, Alvarez chết vì chứng tràn máu não (Cerebral hemorhage). Khi đó không ai nghi ngờ và liên hệ giữa sự kiện “bất đắc kỳ tử” này của người thợ gương với chiếc gương soi bất bình thường do chính ông ta làm ra. Chiếc gương về sau được đưa ra bày bán tại cửa hàng tạp hoá và thế là nó bắt đầu cuộc lữ hành dài dặc gieo rắc tội ác.
Tesemer là một ông chủ cửa hàng kinh doanh bột mì tại thành phố cảng Mareseille. Một hôm ông tới cửa hàng tìm sắm quà mừng sinh nhạt cho người vợ yêu, ngước lên bất chợt nhìn thấy chiếc gương soi lồng trong khung gỗ chạm khắc vô cùng tinh xảo đặt nơi tầng trên cùng tủ hàng, ông ta mê quá liền móc hầu bao mua luôn, không mặc cả.
Ngay tối hôm đó, trong phòng khách ngôi biệt thự lộng lẫy của mình, Tesemer trịnh trọng châm sáng 25 cây nến trên mâm bánh gatô sinh nhật, đoạn bê hộp quà ra. Người vợ yêu quý hồi hộp chứng kiến và chờ đợi Tesemer rón rén nhẹ nhàng bóc lớp giấy bọc, để lộ ra chiếc hộp các-tông xinh xinh, mở nắp và lấy ra chiếc gương soi lồng khung chạm khác vô cùng tinh xảo, bất giác vỗ tay reo lên đầy kinh ngạc. Rồi bà tưởng thưởng cho chồng một nụ hôn thắm thiết.
Lúc này, Tesemer thuận tay đưa chiếc gương lên soi và nở nụ cười mãn nguyện với mình. Bỗng ông cảm thấy ớn lạnh toàn thân, rùng mình và đầu óc đột nhiên đê mê, mọi cảnh vật trước mắt chông chênh, chao đảo. Bà vợ tá hoả vội ôm đỡ lấy ông và cố dìu ông tới giường đặt nằm xuống. Nhưng Tesemer nhanh chóng chìm vào giấc hôn mê sâu, sáng sớm hôm sau, khi bác sĩ được mời vừa đặt chân vào phòng, thì Tesemer ngoẹo đầu ngừng thở.
Qua chẩn đoán cho hay ông chết bởi cơn tràn máu não bột phát lúc 7giờ 30 sáng ngày 3/6/1743, khi mới 31 tuổi. Người vợ trẻ quá đau buồn không muốn nhìn thấy vật lại nhớ tới người, liền đem tất cả những đồ riêng tư của chồng sinh thời cho, tặng người khác hoặc nhờ bán tống bán tháo,và chiếc gương định mệnh ấy cũng thất lạc kể từ đó
22 năm sau, tức năm 1765, người ta lại thấy chiếc gương “yêu quái” đó tái xuất hiện, và nó thuộc quyền sở hữu của vị Biên tập viên trẻ của một nhà xuất bản, mới 35 tuổi, tên là Armold, ông ta mua được chiếc gương tại một hàng xén vỉa hè Paris, và đem về treo trên chiếc đinh tường ngay phía đầu giường nằm của mình trong buồng ngủ.
Về sau, tại nhà xuất bản nọ bàn tán xôn xao về sự “mất tích” của Armold, vì không thấy ông đi làm mấy ngày liền. Người sốt ruột nhất là ông chủ nhà xuất bản, liền cử người tới tận nhà riêng của Armold tại khu chung cư tìm, nhưng cánh cửa bị khoá. Mời bà quản lý toà nhà tới dùng chìa khoá riêng mở cửa, vừa bước vào bỗng mọi người la hoảng đứng sững khi thấy Armold nằm sóng soài trên sàn phòng ngủ.
Mọi thứ cho thấy ông đang cạo râu thì xảy ra chuyện. Cảnh sát tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác nhận Armold đột tử khi đang chuẩn bị cạo râu sau khi tắm, giám định pháp y chứng thực nguyên nhân dẫn tới tử vong là... tràn máu não!
Ba cái chết bất ngờ xoay quanh một vật thể là chiếc gương soi vẫn chưa đủ đánh động sự cảnh giác của mọi người, mà suy cho cùng thì những sự kiện “bất đắc kỳ tử” hàng ngày diễn ra trong bệnh viện hay ngoài xã hội có vô số, mà chiếc gương ma quỷ này sau khi giết chết người chủ mới cũng lại một lần nữa bặt tung tích luôn.
Sáu năm sau, Henry, một ông chủ cửa hàng đồ cổ khi dạo khu chợ mua bán đồ cũ bỗng bắt gặp một chiếc gương soi thật tinh xảo, rất đẹp, và ông ta mua được với giá quá rẻ mạt, đem về bày trong cửa hàng đồ cổ của mình với hy vọng bán lại được với giá cao.
Chính ngọ ba ngày sau đó, khi Henry ngồi trong cửa hàng bắt chân chữ ngũ vừa nhâm nhi tách cà phê nóng vừa lơ đãng đưa mắt qua cửa nhìn dòng người qua lại trên đường phố, hưởng thụ khoảnh khắc thoải mái sau bữa cơm trưa, nhưng chỉ hai tiếng đồng hồ sau, khi bà vợ Henry tới cửa hàng tìm chồng có công chuyện, bà ta bỗng tá hoả khi thấy Henry nằm phủ phục gục mặt trên bàn, nửa tách cà phê chưa uống hết đổ nghiêng chảy trên mặt bàn.
Bà vợ hốt hoảng kêu người đưa Henry tới bệnh viện cấp cứu, nhưng rồi chỉ chưa đầy 20 phút sau, bác sĩ bước ra lắc đầu cho hay: Nạn nhân đã tử vong! Nguyên nhân dẫn tới đột quỵ là tràn máu não. Henry hưởng thọ 47 tuổi.
Một người bạn thân của Henry tới dự đám tang, ông này vốn cũng từng là bạn thân của Biên tập viên Armold đã qua đời mấy năm trước, trong đám tang vô tình ông ta nhìn thấy và nhận ra chiếc gương “Alverez 1743”, bất giác biến sắc mặc, và mồ hôi lạnh, chân tay run lẩy bẩy, bởi mấy năm trước khi dự tang lễ Armold ông cũng bắt gặp chiếc gương này, ông ta bỗng giật mình liên hệ cái chết của hai ông bạn mình với chiếc gương, bởi nguyên nhân dẫn tới cái chết đột ngột đều là... tràn máu não!
Trong đó liệu có mối liên hệ nhân - quả gì không? Tuy chẳng có chứng cứ xác thực nào, nhưng theo lời khuyên của ông bạn này, gia đình của Henry đã vứt bỏ chiếc gương. Và kể từ đó bắt đầu những tin đồn về chiếc gương “ma quỷ Alvarez 1743” lan truyền khắp nước Pháp.
Thế rồi loáng cái gần 70 năm nữa trôi qua, khi hồi ức về chiếc gương “ma quỷ” này đã nhạt nhoà trong đầu óc mọi người, thì điều bất hạnh lại dội xuống đầu ông Hanmer và vợ ông là bà Juna.
Bà bác sĩ ngoại khoa Juna một lần dạo chợ trời đã mua được chiếc gương cổ này, bởi màu sắc khung gương rất hợp với màu sắc bàn viết của bà, và sau khi mua về bà luôn đặt trên bàn viết trước mặt. Ông Hanmer thấy vợ có vẻ yêu thích chiếc gương liền nói vui rằng bà khuân “đồ đồng nát” về nhà mà cứ coi như của quý, nhưng bà Juna bảo: Đây là chiếc gương cổ thật xinh xắn, đặt trên bàn viết rất hài hoà, thích hợp.
Ngay sau đó đã xảy ra chuyện đau lòng cả hai ông bà nối tiếp nhau lảo đảo ngã gục xuống sàn nhà, người thân phát hiện vội vã đưa ông bà tới bệnh viện cấp cứu, nhưng cả hai đều trút hơi thở cuối cùng trên đường trước khi tới bệnh viện, nguyên nhân dẫn tới tử vong đều là tràn máu não!
Tới lúc này, chiếc gương soi trên khung gỗ điêu khắc tinh vi có chạm hàng chữ “Alvarez 1743” chính thức được mọi người quan tâm, cảnh giác xa lánh.
Cuộc bàn cãi bất tận - không hồi kết
Suốt một thời gian dài cả năm sau đó, xoay quanh chiếc gương soi hung thần này lại có thêm hơn 20 người nữa từ 22 tới 57 tuổi bị chết tức tưởi không rõ nguyên nhân, mà hầu hết trước khi đột tử đều rất khoẻ mạnh, không nghiện ngập thứ gì có hại cho sức khoẻ như rượu, thuốc lá v.v... họ đều chết chỉ trong vòng ba ngày tiếp xúc, sử dụng chiếc gương và nguyên nhân dẫn tới “bất đắc kỳ tử” là hoàn toàn giống nhau.
Trong số nạn nhân có một số người vì không biết sự tình nên mua phải chiếc gương “ma quỷ”, nhưng cũng có người xuất phát từ lòng hiếu kỳ và cả “cứng bóng vía”, không mê tín dị đoan, cố ý lấy thân mình ra kiểm nghiệm, kết quả là chuốc lấy bi kịch sát thân. Chẳng lẽ đây là chiếc gương có khả năng giết người hàng loạt? Dân tình bàn tán xôn xao, mỗi người nói một phách, nhưng tựu chung không một ai mạo hiểm lấy thân mình ra kiểm chứng lần nữa.
Người lâm nạn cuối cùng cũng là vị nạn nhân thứ 38 của chiếc gương ma quỷ: Tiến sĩ Smith. Là một nhà khoa học kỳ cựu, nên ông không tin trên đời này có tồn tại cái gọi là “yêu ma quỷ quái” (demons and ghosts), lại càng không tin có chiếc “gương ma quỷ”. Theo ông thì chắc chắn là trong chiếc gương này có chứa một điều bí ẩn gì đó chưa khám phá ra được, và ông quyết tâm nghiên cứu “tìm cho ra nhẽ”.
Tháng 5/1997, sau nhiều ngày truy tìm vất vả, cuối cùng tiến sĩ Smith mới tiếp cận được chiếc gương “Alvare 1743” nọ, đã từ lâu lắm nó được cất kỹ, gắn “xi” trong một chiếc tráp gỗ dầy, người chủ bán chiếc gương giấu trong tráp này cảnh báo vị Tiến sĩ khoa học rằng, tốt nhất là không nên sử dụng nó. Nghe xong tiến sĩ Smith cảm ơn lòng tốt của ông ta, nhưng vẫn làm theo ý mình.
Đem chiếc tráp về tới nhà, Smith nóng lòng muốn biết diện mạo chiếc gương ra sao, liền vội vã bật nắp tráp, cẩn thận nâng chiếc gương được bọc bằng vuông lụa hồng. Chiếc gương cổ tràn đầy màu sắc truyền kỳ, tới lúc này nó đã trải qua mấy trăm năm trầm luân, khung gỗ quý chạm khắc tinh xảo vốn sáng bóng màu sơn thì bây giờ đã ngả bạc, thậm chí có đôi chỗ đã bong tróc, mặt gương cũng đã hơi mờ, không còn bóng bẩy thần thái như xưa.
Xem ra đây chẳng qua chỉ là một chiếc gương cổ tầm thường. Tiến sĩ Smith quan sát, xăm soi rất kỹ và chẳng phát hiện ra điều gì khác lạ, ông lật mặt gương đưa lên soi, thấy hình ảnh mờ mờ, liền tìm mảnh vải mềm lau thật sạch mặt gương, rồi sao vào thấy khuôn mặt mình hiện lên rất rõ.
Smith xem với chiếc gương rất lâu cũng chẳng thấy cơ thể có biểu hiện gì khác, xem ra những lời đồn đại về chiếc gương chỉ là “xạo” mang tính hù doạ, nên Smith cảm thấy chẳng còn hứng thú tới việc nghiên cứu, khám phá sự bí ẩn của chiếc gương, chán nản thảy chiếc gương trên mặt bàn.
Nhưng chuyện không kết thúc đơn giản tại đó, vào buổi trưa ngày thứ ba, đang ngồi trong thư phòng bỗng Smith cảm thấy hoa mắt nhức đầu, đứng dậy định ra tủ với chai nước khoáng và chiếc cốc, liền bước chệnh choạng rồi ngã vật xuống mặt bàn, người nhà phát hiện vội quýnh quáng gọi xe cấp cứu đưa ông tới bệnh viện, nhưng ông xua tay ngăn lại.
Smith lấy hết hơi sức dặn dò người nhà, rằng hãy bọc thật kỹ chiếc gương, không để nó tiếp tục trôi nổi hại người ngoài xã hội, đúng là trong chiếc gương có chứa một bí mật nào đó.
Theo lời trăng trối của Tiến sĩ Smith, người nhà của ông đã niêm phong cất kỹ chiếc gương. Cái chết của tiến sĩ Smith đã đủ thúc giục Hiệp hội sưu tập đồ cổ nước Pháp khẩn cấp tổ chức buổi công bố báo chí gây chấn động dư luận lần ấy. Họ cho rằng cần phải thông báo cho nhiều người biết sự thật để tránh bị làm hại.
Chiếc gương này đã khiến rất nhiều nhà khoa học quan tâm đặc biệt, nhưng ám ảnh bởi lịch sử khủng khiếp của nó, nên không nhà khoa học nào cả gan giữ nó bên mình để tiến hành nghiên cứu. Họ đua nhau đưa ra những phán đoán của mình, nhưng đều vô phương chứng thực.
Ngay từ thời Trung cổ đã có rất nhiều học giả tin rằng gương soi giống như một tấm sắt từ (ferromagnet), có khả năng hấp thụ mọi hơi độc chung quanh và làm cho độc tố mỗi lúc một tích tụ càng dầy trên bề mặt. Có thể chính vì truyền thuyết này mà cho tới ngày nay không ít người châu Âu đều mê tín: Người ta khi ốm đau không nên soi gương, bởi hơi độc do người ốm thở ra sẽ bám chặt trên bề mặt gương rồi bốc hơi lên dần, sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ của mọi người bình thường chung quanh.
Nhưng cách nói này rất thiếu chứng cứ khoa học, về căn bản không thể đứng vững. Bởi nếu đúng là mặt gương có khả năng hấp phụ hơi độc, thì chỉ cần xối rửa bằng nước lạnh là có thể hoà tan, làm sạch hết. Ngoài ra, tại sao chỉ có riêng chiếc gương này là có sức sát thương mạnh đến vậy, mà mấy trăm năm đã trôi qua, sức mạnh đáng nguyền rủa của nó vẫn không thuyên giảm?
Đối với câu hỏi này, các nhà khoa học Nga đã nêu ra cách giải thích mới mẻ: Họ cho rằng, chiếc gương này không chỉ có khả năng hấp phụ chất hoá học hữu hình, mà còn có thể hấp phụ các “Năng lượng thông tin” vô hình. Vật chất hữu hình có thể dễ dàng gột rửa, nhưng năng lượng vô hình thì vô phương rũ bỏ được.
Nói cách khác là chiếc gương này có “năng lực trí nhớ” nhất định, chính là loại năng lượng gì đó đã tích tụ trong gương mấy trăm năm qua, khi ở điều kiện đặc định nào đó chúng sẽ được giải phóng ra, nên làm nhiều người mất mạng đến vậy.
Còn về câu hỏi: Tại sao hàng vạn hàng triệu chiếc gương to nhỏ khác không có năng lượng giết người, mà chỉ riêng chiếc gương cổ này là có loại năng lượng đáng sợ đó, câu trả lời rất khác biệt nhau, không có sức thuyết phục.
Ngoài ra còn có rất nhiều cách đoán định khác, có người nêu ý kiến cần kiểm tra xem khi tráng gương người ta có thêm vào chất phụ gia độc hại nào không, nhưng không nhà khao học nào làm thí nghiệm xác minh cách nói đó.
Thời gian càng trôi đi thì bức màn bí mật bao trùm lên chiếc gương ma quỷ này càng dày thêm, nó kích phát sự kính nể và sợ hãi đối với cuộc sống tiềm ẩn trong lòng mọi người, họ không còn nhìn nhận chiếc gương soi này bằng con mắt của nhà khoa học nữa, mà tin rằng bên trong nó có chứa đựng một sức mạnh siêu nhiên đáng sợ nào đó, và đây là một chiếc “gương ma”, đích thực!
Câu chuyện này về sau còn được đạo diễn điện ảnh dàn dựng quay thành loại phim kinh dị đưa lên màn bạc, và để thoả mãn sự hiếu kỳ của khán giả, đạo diễn và ê kíp làm phim cố tình “thêm dấm thêm ớt”, “vẽ rắn, thêm chân”, khiến chiếc gương càng bị “ma quỷ hoá” đến đỉnh điểm.
Cuối cùng, câu chuyện kinh dị này vượt Đại Tây Dương lan truyền sang Mỹ, đã kích thích mạnh tính hiếu kỳ của giới khảo cổ học nước này, trong đó có tiến sĩ Waine. Và tháng 4/2005, ông ta đã thực hiện chuyến bay thẳng tới Paris.
Chân tướng hư ảo
Việc Tiến sĩ Waine đệ đơn xin phép Hiệp hội Sưu tập đồ cổ Pháp, muốn tiến hành điều tra nghiên cứu chiếc “gương ma”, một lần nữa khơi dậy lòng hiếu kỳ của dân chúng đối với chiếc gương “đáng nguyền rủa” này, họ đầy lòng hoài nghi đổ dồn ánh mắt vào cái ông Tiến sĩ người Mỹ coi thường cái chết này, một mặt họ mong đợi Waine có thể khám phá, giải đáp được câu đố bí ẩn “rối bòng bong” ẩn chứa trong lòng họ suốt mấy trăm năm qua, mặt khác cũng khiến một số người lo lắng niềm tin thiêng liêng vào lời nguyền mà họ gửi gắm vào chiếc gương ma quỷ này bị vạch trần, phá vỡ.
Chuyện Waine có trở thành kẻ bị hại thứ 39 không, bỗng trở thành tiêu điểm chú ý của giới truyền thông và dân chúng. Nhưng Hiệp hội đồ cổ nước Pháp sau nhiều lần bàn thảo cân nhắc, đã quyết định từ chối lời đề nghị của Tiến sĩ Waine, bởi họ không muốn phải chứng kiến thêm một bi kịch mới nữa.
Waine hơi thất vọng nhưng không thối chí, ông quyết định tìm tới người cháu nội của Tiến sĩ Smith, chàng trai này bị thuyết phục bởi lòng chân thành và quyết tâm vì khoa học của Tiến sĩ Waine, tuy nhiên anh ta vẫn không an tâm, đã nhiều lần nhấn mạnh với Waine về cái chết “bất đắc kỳ tử” của ông nội mình.
Thấy Tiến sĩ Waine vẫn không tỏ ra nao núng trước lời “cảnh tỉnh”, cuối cùng anh ta đã đem chiếc tráp gỗ có đựng chiếc gương được niêm phong kỹ giao cho Tiến sĩ Waine. Thực ra, tấn bi kịch mấy năm trước dày vò mọi người thân trong gia đình tiến sĩ Smith rất nhiều, họ không muốn giữ lại chiếc gương sát nhân trong nhà mình chút nào, nhưng tuân theo lời trăng trối thiết tha của Tiến sĩ Smith, họ đành giữ lại và bảo quản rất kỹ lưỡng chiếc gương này.
Cuối cùng Tiến sĩ Waine theo chân chàng trai bước xuống tầng hầm chứa đồ và tận mắt nhìn thấy chiếc tráp gỗ niêm phong rất cẩn thận, bám đầy bụi bặm, bên trong có đặt chiếc gương ma quỷ.
Tiến sĩ Waine đặt chiếc tráp gỗ đựng gương vào chiếc va-ly du lịch, từ biệt gia đình tiến sĩ Smith đáp máy bay trở về Mỹ.
Tiến sĩ Waine mang chiếc tráp đựng gương về thẳng nhà riêng, đặt trong phòng thí nghiệm. Khi ông nóng lòng định bật nắp chiếc tráp, bỗng bà Maria vợ ông từ ngoài đẩy cửa xộc vào, khóc lóc yêu cầu hãy dừng ngay hành động điên rồ đó lại. Sau khoảnh khắc bối rối, Tiến sĩ Waine quay ra dỗ dành khuyên giải và nói rõ mục đích việc làm của mình cho Maria nghe, bà hơi nguôi ngoai và gạt nước mắt rời phòng thí nghiệm.
Nhưng thật lạ là bà “bước đi một bước giây giây lại dừng”, ngoái cổ lại nhìn chồng với ánh mắt bịn rịn, nuối tiếc như trong giờ phút vĩnh biệt! Dường như linh tính báo cho bà hay: Waine chồng bà sẽ chết là điều không thể tránh khỏi trong tương lai rất gần.
Sự quấy rầy của Maria đã phá vỡ sự yên tĩnh của Tiến sĩ Waine, ông ngồi thừ trước bàn nhìn đăm đăm vào chiếc tráp gỗ đựng gương, chần chừ suy ngẫm có nên mở nắp tráp hay không. Nhưng trách nhiệm của một nhà khoa học giàu kinh nghiệm đã thúc giục tiến sĩ Waine bình tĩnh trở lại.
Tiến sĩ Smith đã chết vào ngày thứ ba sau khi tiếp xúc, nghiên cứu chiếc gương, vậy thì cho dù mình không thoát khỏi số phận hẩm hiu chăng nữa, cũng nhất định phải tranh thủ, khoảng thời gian ngắn ngủi 72 giờ đồng hồ để khám phá bằng được điều bí ẩn chứa đựng trong chiếc gương này.
Chiếc gương “ma” bao năm ngủ kỹ trong bóng tối đầy bụi bặm cuối cùng đã nhìn thấy lại ánh sáng mặt trời, nó chỉ là một chiếc gương cổ bình thường loang lổ phai màu theo thời gian, nhưng Tiến sĩ Waine không dám khinh suất chủ quan, ông nhẹ nhàng lật qua lật lại chiếc gương, săm soi quan sát rất kỹ lưỡng từng phần một, từ hoa văn chạm trổ trên khung gương tới mặt gương, dựa vào kinh nghiệm khảo cổ lâu năm, ông nhận định rằng, tuổi của chiếc gương không “cổ kính” tới mức như lời đồn đại bấy lâu, và thế là ông bắt tay tiến hành giám định, quả nhiên cho thấy tuổi của chiếc gương này chưa quá 100 năm.
Điều này có nghĩa là mặt gương đã bị ai đó thay mới vào! Như vậy xem ra bí mật không phải chứa đựng ở mặt gương, vì vậy Waine đổ dồn ánh mắt hoài nghi vào chiếc khung gương bằng gỗ được chạm khắc tinh vi. Chẳng lẽ chiếc khung gỗ xinh xắn này lại là hung thủ giết người hàng loạt?
Suốt một buổi sáng ngày đầu tiên qua đi, sự nghiên cứu của Tiến sĩ Waine đối với chiếc gương vẫn chưa có tiến triển gì đáng kể, còn vợ ông, bà Maria lòng dạ như có lửa đốt, cứ đi đi lại lại phía ngoài cửa phòng thí nghiệm, chính điều đó khiến ông càng thêm rối ruột, khó tập trung. Bỗng trong óc ông loé lên một ý nghĩ lạ lùng, ông vui sướng tới mức muốn hét lên, vỗ bàn đứng bật dậy, vội đẩy cửa chạy ra ngoài như bị ma đuổi.
Chạng vạng tối, Tiến sĩ Waine rời thư viện có trường đại học quay về nhà, ông cố kìm nén niềm vui phơi phới trong lòng. Nếu như sự suy đoán của ông là chính xác, thì bí mật về chiếc gương “ma quỷ” này sẽ sớm được khám phá, giải mã.
Bà Maria thấy một ngày đằng đẵng qua đi mà tiến sĩ Waine chồng bà không hề hấn gì, lòng đã khấp khởi mừng thầm, thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn không yên tâm, nên khi thấy ông Waine quay về, bà cứ xoắn xuýt bám theo sau.
Khi tiến sĩ Waine móc chìa khoá vừa mở toang cánh cửa phòng thí nghiệm, bà vội chen lên trước nhìn vào, bỗng bà ré lên một tiếng hét kinh hoàng, không dám bước thêm vào. Bởi bà nhìn thấy hai con chuột bạch thí nghiệm nhốt trong lồng sắt đặt trước chiếc gương đã chết đứ đừ tự bao giờ! Xem ra chiếc gương “ma” lại một lần nữa tác yêu tác quái!
Mà Maria túm chặt tay Tiến sĩ Waine, không cho ông bước vào, tiến gần tới chiếc gương. Ông phải hứa với bà rằng mình sẽ hết sức cẩn trọng không tiếp cận đối diện với mặt gương, mới tạm “xua” được bà ra khỏi phòng thí nghiệm. Sau đó với cử chỉ đầy hưng phấn và tự tin, tiến sĩ Waine bước vào phòng và bắt tay giải phẫu khám nghiệm hai con chuột bạch đã chết, khi mổ phanh phần trong não chúng tích đầy máu đọng, thì ra chúng cũng bị chết vì chứng tràn máu não!
Tiến sĩ Waine dùng lưỡi dao cực sắc gọt trên khung gỗ chiếc gương lấy một vài mẩu dăm gỗ làm mẫu hoá nghiệm, sau đó lại cất kỹ chiếc gương vào trong tráp gỗ, bọc lại cất vào một chỗ kín, người ngoài không dễ nhìn thấy.
Sáng hôm sau, Tiến sĩ Waine mang mẩu dăm gỗ tới một cơ quan nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhờ hoá nghiệm, phân tích giám định, sau đó trở về nhà ông hồi hộp chờ đợi kết quả trắc nghiệm. Quả nhiên đúng như dự đoán của Tiến sĩ Waine, chiếc khung gỗ của gương “ma” được chế tác bằng một loại gỗ rất hiếm gặp - gỗ cây coura, mà loại cây này đã bị tuyệt chủng từ hơn 100 năm trước.
Theo tài liệu ghi chép thì loại gỗ cây coura này có chứa một loại chất cực độc, khi hứng luồng ánh sáng tự nhiên càng mạnh chiếu dọi vào thì chất độc từ gỗ càng bay hơi tạo thành luồng khí độc, khiến mạch máu não của người hít phải chỉ sau một thời gian ngắn bị tắc nghẽn, nứt vỡ, dẫn tới chứng tràn máu não, đột tử!
Lần này chính thói quen khi làm việc đã cứu mạng cho tiến sĩ Waine. Thường ngày khi thao tác thực nghiệm trong phòng thí nghiệm ông có thói quen kéo đóng kín rèm cửa sổ, bởi vậy ánh sáng tự nhiên chiếu vào phòng rất yếu, nên khí độc từ khung gỗ bay hơi rất yếu, nhưng khi Waine rời khỏi phòng thí nghiệm, để thoáng khí, bà Maria đã mở toang tất cả các rèm cửa sổ, ánh sáng mặt trời ùa vào phòng, làm khí độc từ khung gỗ thoát ra nhiều, dẫn tới cái chết của 2 con chuột bạch.
Điều bí ẩn cuối cùng đã được khám phá! Nhưng khi Tiến sĩ Waine rất đỗi vui mừng chuẩn bị tổ chức cuộc họp báo lớn công bố “Bộ mặt thật của chiếc gương ma”, bỗng ông tá hoả khi phát hiện chiếc tráp gỗ có chứa chiếc gương ma đã không cánh mà bay! Tuy FBI ngay lập tức nhảy vào cuộc, tiến hành điều tra truy lùng, nhưng cho tới nay vẫn không có kết quả.
Bởi không có hiện vật gốc, nên Tiến sĩ Waine vô phương chứng minh được mẫu dăm gỗ là được tước từ khung chiếc gương ma ấy, do đó sự giải thích của ông vẫn bị phản bác, hoài nghi. Và chiếc “gương ma” giết người hàng loạt cho tới nay vẫn là một điều bí ẩn, cả loạt án mạng trong mấy trăm năm qua có liên quan tới chiếc gương “Alvarez 1743” vẫn còn là các vụ án mờ
Bóng ma chó đen
Chuyện về hồn ma chó đen rất phong phú ở Anh. Nhưng những câu chuyện tưởng như chỉ là đồn đại dân gian lại có nguồn gốc từ những sự kiện có thật
Sự xuất hiện những bóng ma đa dạng phong phú khác nhau từ vùng này sang vùng khác nhưng được miêu tả giống nhau rằng chúng có kích cỡ như 1 con bê với đôi mắt lồi, to và bộ lông đen bù xù.
Nhà nghiên cứu văn hóa Theo Brown chia hiện tượng hồn ma chó đen thành ba loại riêng biệt A,B,C:
(A) tồn tại 1 dạng thay đổi hình thù của quỷ chó;
(B) tồn tại 1 loại chó đen cỡ như con bê và có bộ lông xù;
(C) tồn tại 1 con chó xuất hiện đúng thời điểm diễn ra những hoạt động lễ hội cổ xưa tại những vùng đất đặc biệt.
Theo tín ngưỡng của nhiều địa phương thì việc nhìn thấy những con chó đen sẽ là điềm báo cho cái chết, đặc biệt là khi nhìn thấy ở những khu nghĩa địa trong khuôn viên nhà thờ hay Kirk Grim (Kirk là từ “nhà thờ” theo tiếng Scotland) - nơi liên quan đến vật hiến tế.
Phiên bản 1: “Bóng ma chó đen” và những hiện tượng thiên nhiên
Tại vùng Suffolk, có một chiếc chong chóng gió ở khu chợ Bungay miêu tả 1 chú chó đen và một ánh chớp sấm sét. Nó là ký ức về 1 sự kiện xảy ra ngày 4/8/1957
Vào khoảng giữa tầm 9 hay 10 giờ sáng, trong lúc những giáo dân của Bungay đang tập trung tại nhà thờ, một cơn bão bỗng đổ đến bất ngờ. Bầu trời đen kịt lại khiến cho nhà thờ bị chấn động một chút. Từ giữa cơn bão, một con chó đen đột ngột xuất hiện đúng ở đó. Con chó phóng cả thân hình chạy về phía nhà thờ khiến cho tất cả giáo dân hoảng loạn và bỏ chạy loạn xạ. Nó lao vào hai người đang quỳ cầu nguyện, giết chết họ gần như ngay lập tức và làm cho một người khác co quắp vì lửa thiêu.
Cách đó 7 dặm ở Blythburgh, trong khoảng thời gian tương tự, một con chó đen khác (hoặc một hiện tượng khác) cũng bất ngờ xuất hiện tại khu nhà thờ giáo dân trước khi cơn bão tương tự ập đến. Con chó đã tấn công 3 người và làm họ chết, thậm chí nó còn để lại những vết cháy sém (như của sấm chớp) trên cửa Bắc nhà thờ, đến giờ vẫn còn thấy rõ vết tích.
Cả hai hiện tượng trên đều liên quan đến những điều kiện thời tiết, được chứng thực bởi việc một người bị thiêu và những vết sém trên cửa nhà thờ.
Phiên bản 2: Chó đen - kẻ bảo vệ
Khác với phiên bản 1, lần này những bóng ma chó đen có vẻ nhân từ, tốt bụng hơn khi chúng lại đi giúp đỡ con người.
Một ví dụ trong cuốn sách của Augustus Hare “In My Solitary Life” đã thuật lại chi tiết về câu chuyện mà ông đã nghe từ một người đàn ông có tên Johnnie Greenwood, ở Swancliffe. Hôm ấy, dù trời rất tối, ông Johnnie vẫn phải băng qua rừng cách Swancliffe 1 dặm. Có điều lạ là khi đến lối đi vào rừng thì một con chó đen cứ đi theo ông. Nó cứ chạy bên cạnh ông cho đến tận khi ông ra khỏi khu rừng an toàn, sau đó thì nó biến mất rất nhanh cũng như khi nó đến vậy.
Nhưng sau đó, khi trở về nhà, ông ấy vẫn phải đi trên con đường mòn của khu rừng và lần này con chó đó cũng lại đi theo ông cho đến khi ông ra khỏi rừng thì mới biến mất (???)… Vài năm sau đó, có hai tên tù đã thú nhận chúng đã định cướp và giết ông Johnnie (để diệt khẩu) vào một buổi tối ở trong rừng nhưng sự xuất hiện của một con chó đen rất lớn đã ngăn chặn hành động điên rồ của chúng.
Phiên bản 3: Chó đen - lính canh gác
Những bóng ma chó đen được đồn đại rằng chúng cũng hay viếng thăm những nơi rất đặc biệt như pháp trường hoặc những khu nghĩa địa. Người ta thường nhìn nó như 1 linh hồn trừng phạt những tội ác.
Một sự việc được đồn đại cách đây rất lâu như thế này:
Năm 1751, có một con chó đen cứ hay lảng vảng quanh khu vực ở Tring, Hertfordshire - nơi người ta kết án tử hình một người phụ nữ vì bà bị nghi ngờ có phép thuật phù thủy. Ông hiệu trưởng trường làng ở đó còn trông thấy 1 con chó đen cứ hay đến chỗ đặt giá treo cổ. Nó được miêu tả là rất to lớn, lông xù, có những chiếc răng dài, sắc nhọn, có tai và đuôi dài còn đôi mắt rực ánh lửa rất đáng sợ.
Câu chuyện này đã được ghi chép lại sau đó như là lần đầu tiên có sự xuất hiện của một con chó đen khi người phụ nữ bị thiêu.
Cuối cùng là một bất ngờ quen thuộc: Bạn có biết, bóng ma chó đen từng xuất hiện trong siêu phẩm Sherlock Holmes?
Tháng 3 năm 1901, nhà văn Conan Doyle (1859-1930) - tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Sherlock Holmes, lúc ấy vừa trở lại từ Nam Châu Phi (nơi ông bị nhiễm căn bệnh thương hàn).
Doyle quyết định đi nghỉ dưỡng tại bờ biển Norfolk để có thể nghỉ ngơi dài ngày và đi chơi gôn cùng ông bạn thân thiết Bertram Fletcher Robinson (người đã thu thập những câu chuyện lạ cho Doyle viết). Tại đây, nhà văn được bạn kể về một câu chuyện khác về Black Shucks – con quỷ dữ của vùng Norfolk. Nó luôn gây kinh hoàng cho những nạn nhân của mình.
Được truyền cảm hứng từ truyền thuyết này, nhà văn đã sáng tạo nên một trong những kỳ truyện bí hiểm hay vào loại bậc nhất của Sherlock Holmes: câu chuyện “Hound of the Baskervilles”(1902). Doyle và người cộng sự của mình đã ở lại khách sạn Royal Links (vùng Cromeris) rất lâu để bàn về dàn ý cho câu chuyện.
Theo như truyền thuyết thì con quỷ dữ vùng Norfolk - Black Shucks để lại dấu vết của nó bên ngoài ngọn đồi trên đất của lâu đài Cromer vùng Cromeris.
Phần lớn những mô tả của Doyle về lâu đài Baskervilles trong truyện Holmes rất khớp, đúng với lâu đài Cromer trong truyền thuyết về con chó đen bí ẩn.
Bí mật về thành trì ngầm ở Cappadocia
Năm 1963, tại làng Drinkuer ở cao nguyên Cappadocia! cách cố đô Ankara - Thổ Nhĩ Kỳ 360km về phía Đông Nam, một nông dân khi đào đất trong vườn nhà vô tình phát hiện ra một cửa hang.
Nếu đi sâu vào hang qua 8 tầng hành lang có thể nhìn thấy một thành ngầm còn nguyên vẹn. Hai bên đường hầm đan xen ngang dọc được xây dựng vô số nhà ở, có nhà thờ, ngõ ngách, giếng nước và phòng cất giữ lương thực, thậm chí còn có cả nhà ngầm chuyên làm nơi mai táng. Trong hang có 52 lỗ thông gió hướng lên mặt đất được ngụy trang rất tinh vi, mấy địa đạo làm lối thoát hiểm được cấu tạo rất kỳ diệu.
Theo dự tính, thành ngầm quy mô như vậy có thể bảo đảm an toàn cho 2 vạn người sống trong đó. Cách đây 2 năm, một mê cung có quy mô giống như thành ngầm Cappadocia! ở gần Kemeckli cũng đã được khai quật. Điều khiến người ta bất ngờ ở đây là: 2 thành ngầm này chính là một chỉnh thể nối liền nhau thông qua một địa đạo dài 10km.
Đến nay, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được 36 thành ngầm với các quy mô khác nhau. Thành ngầm nhỏ có thể gọi là làng ngầm đủ để làm chỗ ở cho mấy chục gia đình, còn lớn nhất vẫn là 2 thành ngầm có quy mô như thành phố được nối liền với nhau ở cao nguyên Cappadocia!. Hiện nay công tác khai quật vẫn đang được tiến hành, theo dự tính có khoảng hơn 100 thành ngầm sẽ được tìm thấy.
Trước khi phát hiện ra thành ngầm, ở Cappadocia! các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng nghìn giáo đường ngầm trong tầng nham thạch. Các giáo đường này được đục ở trong các ngọn núi đá nhỏ hoặc trên các vách đá cao. Có những giáo đường khá khang trang, nham thạch được đục rất công phu điệu nghệ thành cổng vòm, hình trụ, hình chóp. Từng tấc trên bề mặt và các cột đá đều được trang trí điêu khắc những bức họa và hoa văn. Chúng được vẽ rất sống động, minh họa những câu chuyện trong Kinh thánh và cả những truyền thuyết dân gian cũng như tôn giáo phương Đông. Thậm chí đến cả đồ dùng gia đình như đàn tế, bàn ăn, ghế tựa, giường ngủ trong phòng đọc sách, phòng ngủ và các bếp của các đạo sỹ sống ở đây đều được làm bằng đá.
Vậy, các thành đá ngầm này được hình thành như thế nào, những đồ dùng bằng đá trong các phòng đã được chế tạo như thế nào?
Với trình độ lao động thủ công thuần túy mà những người thợ thời đại đó đã đục được các gian phòng lớn như vậy trong núi đá vôi rất cứng? Lẽ nào do tinh thần kiên trì họ đã chiến thắng sức mạnh thiên nhiên, và trải qua nhiều thế hệ họ mới hoàn thành các công trình này. Nhưng, cũng có thể do các ngọn núi lửa có quy mô lớn ở Cappadocia! thời kỳ cổ đại phun nham thạch hình thành các đường hầm. Sau đó, con người đục đào thiết kế thêm mới tạo thành các thành ngầm này. Đó chính là kết quả tác động gữia sức mạnh của con người kết hợp với sức mạnh của thiên nhiên.
» Khám phá » 1001 bí ẩn
RSS
Bí mật về thành trì ngầm ở Cappadocia!
Cập nhật lúc 10h03' ngày 07/05/2006
Bản in
Gửi cho bạn bè
Phản hồi
//
Xem thêm: bi, mat, ve, thanh, tri, ngam, o, cappadocia
Năm 1963, tại làng Drinkuer ở cao nguyên Cappadocia! cách cố đô Ankara - Thổ Nhĩ Kỳ 360km về phía Đông Nam, một nông dân khi đào đất trong vườn nhà vô tình phát hiện ra một cửa hang.
Các cột đá đều được trang trí điêu khắc những hoa văn
(Ảnh: cromwell-intl)
Nếu đi sâu vào hang qua 8 tầng hành lang có thể nhìn thấy một thành ngầm còn nguyên vẹn. Hai bên đường hầm đan xen ngang dọc được xây dựng vô số nhà ở, có nhà thờ, ngõ ngách, giếng nước và phòng cất giữ lương thực, thậm chí còn có cả nhà ngầm chuyên làm nơi mai táng. Trong hang có 52 lỗ thông gió hướng lên mặt đất được ngụy trang rất tinh vi, mấy địa đạo làm lối thoát hiểm được cấu tạo rất kỳ diệu.
Theo dự tính, thành ngầm quy mô như vậy có thể bảo đảm an toàn cho 2 vạn người sống trong đó. Cách đây 2 năm, một mê cung có quy mô giống như thành ngầm Cappadocia! ở gần Kemeckli cũng đã được khai quật. Điều khiến người ta bất ngờ ở đây là: 2 thành ngầm này chính là một chỉnh thể nối liền nhau thông qua một địa đạo dài 10km.
Đến nay, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được 36 thành ngầm với các quy mô khác nhau. Thành ngầm nhỏ có thể gọi là làng ngầm đủ để làm chỗ ở cho mấy chục gia đình, còn lớn nhất vẫn là 2 thành ngầm có quy mô như thành phố được nối liền với nhau ở cao nguyên Cappadocia!. Hiện nay công tác khai quật vẫn đang được tiến hành, theo dự tính có khoảng hơn 100 thành ngầm sẽ được tìm thấy.
Trước khi phát hiện ra thành ngầm, ở Cappadocia! các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng nghìn giáo đường ngầm trong tầng nham thạch. Các giáo đường này được đục ở trong các ngọn núi đá nhỏ hoặc trên các vách đá cao. Có những giáo đường khá khang trang, nham thạch được đục rất công phu điệu nghệ thành cổng vòm, hình trụ, hình chóp. Từng tấc trên bề mặt và các cột đá đều được trang trí điêu khắc những bức họa và hoa văn. Chúng được vẽ rất sống động, minh họa những câu chuyện trong Kinh thánh và cả những truyền thuyết dân gian cũng như tôn giáo phương Đông. Thậm chí đến cả đồ dùng gia đình như đàn tế, bàn ăn, ghế tựa, giường ngủ trong phòng đọc sách, phòng ngủ và các bếp của các đạo sỹ sống ở đây đều được làm bằng đá.
Vậy, các thành đá ngầm này được hình thành như thế nào, những đồ dùng bằng đá trong các phòng đã được chế tạo như thế nào?
Với trình độ lao động thủ công thuần túy mà những người thợ thời đại đó đã đục được các gian phòng lớn như vậy trong núi đá vôi rất cứng? Lẽ nào do tinh thần kiên trì họ đã chiến thắng sức mạnh thiên nhiên, và trải qua nhiều thế hệ họ mới hoàn thành các công trình này. Nhưng, cũng có thể do các ngọn núi lửa có quy mô lớn ở Cappadocia! thời kỳ cổ đại phun nham thạch hình thành các đường hầm. Sau đó, con người đục đào thiết kế thêm mới tạo thành các thành ngầm này. Đó chính là kết quả tác động gữia sức mạnh của con người kết hợp với sức mạnh của thiên nhiên.
Ảnh: cromwell-intl
Như vậy, những cư dân sống sớm nhất trong các thành ngầm này là ai? Chắc chắn họ không phải thổ dân mà là người ở vùng đất xa xôi khác đến đây lánh nạn. Sở dĩ họ chọn Cappadocia! bởi vùng đất này hoang vắng không có dấu chân người nên không gây sự chú ý của người bên ngoài. Dân trong làng lúc đầu dùng đá xây dựng nhà cửa, nhưng sau đó họ phát hiện ra không nhà nào vững chắc bằng nhà được đục trực tiếp bằng đá, lúc đầu là ngoài bề mặt núi đá, sau đó họ dần xây dựng vào trong lòng núi và mở rộng ra thành ngầm.
Thời kỳ đế quốc Byzantine, chỉ có vùng Cappadocia! là nơi luôn an toàn. Những tín đồ Cơ đốc và giáo sỹ thành kính các nơi đều tìm về Cappadocia! lánh nạn. Do vậy, vùng Cappadocia! bỗng nhiên trở thành một thánh địa, những người muốn tu đạo, truyền đạo hay muốn cư trú tất yếu phải xây dựng nhiều giáo đường, viện tu đạo và các làng ngầm đã khiến cho quy mô các thành ngầm không ngừng được mở rộng
Cuối thế kỷ XII hoặc đầu thế kỷ XIII, đế quốc Byzantine dần bị diệt vong. Người Cappadocia! bắt đầu trốn chạy bốn phương, cũng có thể họ chạy đến miền Tây cùng sống với người Cơ đốc giáo, cũng có thể họ đổi tôn giáo đến sống chung với những người Đạo Hồi ở những thôn làng Ả Rập,.. Thực ra, từ cuối thế kỷ XVII, một vị sứ giả của Vua Louis XIV nước Pháp đã phát hiện ra các thành trì ngầm và giáo đường trên cao nguyên Cappadocia!. Ông quay về châu Âu tuyên bố phát hiện quan trọng này nhưng không ai tin, mọi người còn cho rằng ông bị điên. Không đầy một thế kỷ sau, số người phát hiện ra các thành trì và giáo đường ngầm càng nhiều thì cũng là lúc vùng Cappadocia! dần trở nên nổi tiếng. Những tín đồ hành hương về đất thánh đông như trảy hội, các nhà khảo cổ học cũng tốn không biết bao công sức với vùng đất này. Tuy nhiên, các thành trì ngầm đã được xây dựng như thế nào và cư dân sớm nhất sinh sống ở đây từ đâu đến rồi họ đi đâu cho đến nay vẫn là một bí ẩn chưa có lời giải đáp.
Bí ẩn về những năm cuối cùng của voi mamút
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro