Khai Niem Van Ban
XUNG QUANH CÁC KHÁI NIỆM VĂN BẢN
Khi con người giap tiếp hàng ngày với nhau, người ta có thể dùng cử chỉ, điệu bộ, ký hiệu để trao đổi thông tin, nhưng phương tiện cơ bản nhất vẫn là ngôn ngữ. Suy cho cùng, không có tư tưởng, tình cảm, ý chí, nguyện vọng nào của con người lại không thể hiện qua ngôn ngữ. Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ mang tính hoàn chỉnh nhất, trọn vẹn nhất. Chính vì vậy, văn bản cũng là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều học giả và cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm này.
1. Các khái niệm về văn bản
Cho đến nay, văn bản được dùng với nhiều phạm vi, góc độ khác nhau. Với nghĩa thông thường, văn bản là tên gọi chỉ những tài liệu, bài viết được in ấn, lưu hành hang ngày trong giao tiếp (một bài báo, một công văn, một tập tài liệu, một quyết định,...). Với nghĩa là một thuật ngữ ngôn ngữ học, văn bản là một trong những đơn vị phức tạp, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau. Có thể hệ thống hóa một số cách định nghĩa về văn bản như sau:
a, Hướng thiên về nhấn mạnh hình thức
- ... Văn bản được xét như một lớp phân chia được thành những khúc đoạn (L. Hjelmslev, 1953).
- Văn bản được hiểu ở bậc điển thể là phát ngôn bất kỳ có kết thúc và có liên kết, có tính chất độc lập và đúng về ngữ pháp (W. Koch, 1966).
- Văn bản là một chuỗi nối tiếp của các đơn vị ngôn ngữ được làm thành bởi một dây chuyền của các phương tiện thế có hai chắc diện (trục dọc và trục ngang - DQB chú (R.Haweg, 1968).
- Văn bản là thuật ngữ để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sụ kiện giao tiếp (N.Nunan, 1983).
b, Hướng thiên về nhấn mạnh mặt nội dung
Văn bản là điều thông báo viết có đặc trưng là tính hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và thái độ nhất định của các tác giả đối với điều được thông báo... Về phương diện cú pháp, văn bản là một hợp thể gồm nhiều câu (có khi là một câu) liên kết với nhau bởi ý và bằng các phương tiện từ vựng - ngữ pháp (L.M Loseva, 1980).
- Văn bản như là một đơn vị ngữ nghĩa: Một đơn vị không phải của hình thức mà là của ý nghĩa (M. Halliday, 1976).
- Hành vi nói năng hoặc một loạt hành vi nói năng mạchlacj do một cá nhân thực hiện trong tình huống nhát định - là văn bản (nói hoặc viết) (E. Coseriu).
c, Hướng tổng hợp
- Văn bản là:
1) Một quảng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do cấu trúc, đề tài- chủ đề, v.v...của nó, hình thành nên một đơn vị, loại như một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường, v.v...
2) Văn học: Trước hết được coi như một tài liệu viết, thường đồng nghĩa với sách.
3) Trong phân tích diễn ngôn, đôi khi được đánh đồng với ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì được dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn được dùng bao gồm cả văn bản (Bách khoa thư ngôn ngữ và ngôn ngữ học, 1986).
- Văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy. (Trần Ngọc Thêm, 2006).
- Văn bản - đó là sản phẩm của quá trình sáng tạo lời mang tính cách hoàn chỉnh, được khách quan hóa dưới dạng tài liệu viết, được trau truốt văn chương theo loại hình tài liệu ấy, là tác phẩm gồm tên gọi (đầu đề) và một loạt đơn vị riêng (những thể thống nhất trên câu) hợp nhất lại bằng hững liên hệ khác nhau về từ vựng, ngữ pháp, logic, tu từ, có một hướng nhất định và một mục tiêu thực dụng (I.R. Galperin,1981).
- Văn bản là một loại đơn vị được làm thành một khúc đoạn lời nói hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài... loại như một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường...(Diệp Quang Ban).
- Văn bản là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung, thống nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp. Dạng tồn tại điển hình của văn bản là dạng viết (Nguyễn Quang Ninh, 1994).
d, Hướng phân biệt văn bản và diễn ngôn
- Chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học (translinguistique) là diễn ngôn (discourse) tương tự với văn bản (texte) do ngôn ngữ học nghiên cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy còn sơ bộ) như là một đoạn lời nói hữu tận bất kỳ, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại đoạn lời này gắn bó với những nhân tố văn hóa khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ (Barthe, 1970).
- Văn bản là một chuỗi ngôn ngữ lý giải được ở mặt hình thức, bên ngoài ngữ cảnh. Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích (Cook, 1989).
- Diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thường cấu thành một chỉnh thể, có tính mạch lạc, kiểu như một bài thuyết giáo, tranh luận, truyện vui hoặc truyện kể (Crystal, 1992).
- Văn bản là một chỉnh thể của một sản phẩm viết để diễn đạt trọn vẹn ý kiến về một vấn đề hoặc một hệ thong vấn đề. Ngôn bản là chỉnh thể một sản phẩm - nói để diễn đạt trọn vẹn ý kiến về một vấn đề hoặc một hệ thống vấn đề.
- Văn bản/ngôn bản là loại lời lớn nhất (Hồ Lê, 1996).
2. Xác định khái niệm văn bản
Từ những điểm tổng kết có tính sơ lược xung quanh thuật ngữ văn bản trên, có thể thấy khái niệm văn bản của các học giả có một số điểm chung. Để thuận tiện cho việc tìm hiểu văn bản trên nhiều phương diện, có thể hiểu: Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, được tạo lập bởi sự liên kết các câu, các đoạn văn... tạo thành một đơn vị hoàn chỉnh về nội dung và hình thức và hướng tới một mục đích giao tiếp nhất định.
Cách hiểu này nhằm nêu các đặc trưng của văn bản:
- Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong nói hay viết hằng ngày.
- Văn bản (văn bản ở đây nói về loại văn bản thông dụng, bình thường, điển hình) phải là sự liên kết của nhiều câu và có thể nhiều đoạn văn.
- Văn bản phải có tính trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức (văn bản phải biểu thị một chủ đề thống nhất, hoàn chỉnh). Đây là điểm quan trọng nhất của khái niệm văn bản.
- Mỗi văn bản phải có một mục đích giao tiếp nhất định. Mục đích này chi phối bản thân hoạt động giao tiếp và sự tổ chức văn bản.
- Những đặc điểm trên tạo cho văn bản một tính độc lập, nghĩa là sự tồn tại và nhận hiểu văn bản có thể hoàn toàn không lệ thuộc ngữ cảnh.
Trên đây là những yêu cầu và cũng là những điểm nổi bật của văn bản, phân biệt những đơn vị tương tự văn bản nhưng không phải là văn bản.
Đoạn văn là một bộ phận của văn bản. Mỗi đoạn văn của một văn bản có tính độc lập tương đối. Nếu tách đoạn văn ra khỏi văn bản thì đoạn văn đó có tư cách như một văn bản nhỏ; còn đoạn văn nằm trong văn bản thì từng đoạn văn vẫn luôn luôn có sự liên kết với các đoạn văn khác.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro