Ke tam xuong LL
“Xương là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không
lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của
những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì
chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt
không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”
Trích Kẻ tầm xương – tiểu thuyết đầu tiên trong series tiểu thuyết trinh
thám về nhân vật Lincoln Rhyme
I
VUA MỘT NGÀY
Thực tại ở New York
quá hùng mạnh khiến cho quá khứ phải biến mất.
JOHN JAY CHAPMAN
MỘT
10:30 PM thứ Sáu đến 3:30 PM thứ Bảy
Cô chỉ muốn ngủ.
Máy bay hạ cánh chậm hai tiếng và hành khách xếp hàng dài dằng dặc
để đợi lấy hành lý. Xe phục vụ đưa đón họ đã về được một tiếng. Còn
bây giờ họ đang đợi taxi.
Cô đứng trong hàng người, thân hình mảnh dẻ nghiêng đi dưới sức
nặng của chiếc máy tính xách tay. John đang huyên thuyên về lãi suất
và những cách thức điều chỉnh hợp đồng, nhưng tất cả những gì cô có
thể nghĩ tới là 10:30 thứ Sáu, mình muốn ráo mồ hôi và ăn uống gì đấy.
Nhìn vào dòng chảy vô tận của những chiếc Yellow Cab. Có điều gì
đó ở màu sắc và sự giống nhau của những chiếc xe gợi cho cô nhớ tới
bọn côn trùng. Cô rùng mình vì cảm giác bò trườn ghê sợ mà cô vẫn
nhớ từ hồi còn bé ở trên núi, khi cô và anh trai nhìn thấy một con lửng
gan dạ bị giết hay đang cố kháng cự lại tổ kiến lửa đỏ, cô đã nhìn
chằm chằm vào một khối chân cẳng và thân thể ẩm ướt, quằn quại.
T.J. Colfax lê chân về phía trước khi chiếc taxi tạt vào lề đường và
phanh kít lại. Người lái xe mở cốp nhưng vẫn ngồi trong xe. Họ phải tự
xếp đồ, việc đó làm
John khó chịu. Anh đã quen được người khác làm cho mọi thứ.
Tammie Jean không quan
tâm; đôi khi cô vẫn ngạc nhiên vì thấy mình có thư ký đánh máy và lập
hồ sơ giúp. Cô ném vali vào cốp xe, đóng lại và trèo vào trong xe.
John vào sau cô, sập cửa, nhăn bộ mặt béo phị vào cái đầu hói của
anh ta, cứ như nỗ lực cho cái túi đựng bộ vét của anh ta vào cốp xe đã
làm anh ta kiệt sức.
“Đến Bảy mươi hai Đông trước”, John lầm bầm qua lớp kính chắn.
“Sau đó đến Upper West Side1”, T.J. nói thêm. Lớp kính chắn Plexi
giữa hàng ghế đầu và hàng ghế sau xước xát đến mức cô gần như
không thấy người tài xế.
Chiếc taxi lao bắn khỏi vỉa hè và nhanh chóng chạy trên đường cao tốc
hướng về phía Manhattan.
“Xem kìa”, John nói, “kia là lý do tại sao lại đông người đến thế”.
Anh chỉ vào một bảng quảng cáo chào mừng các đoàn đại biểu đến dự
hội nghị hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Sẽ có khoảng mười nghìn
khách đến thành phố. T.J. ngước nhìn tấm bảng – những người da đen,
da trắng và châu Á, vẫy tay và tươi cười. Tuy vậy vẫn có điều gì đó
không ổn trong bức tranh. Tỷ lệ và màu sắc đã bị phai. Các khuôn mặt
trông có vẻ nhợt nhạt.
T.J. nói thầm: “Bọn ba bị.”
1 Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm
giữa Công viên
Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)
Họ chạy trên con đường cao tốc rộng rãi, trông bóng loáng và có màu
vàng không dễ chịu dưới ánh sáng đèn đường. Chạy qua khu Cảng Hải
quân cũ, qua những chiếc cầu cảng của Brooklyn.
Cuối cùng John cũng ngừng nói, lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt
đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những
khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi trên các bậu cửa đá nâu
trông ra đường. Họ hình như đã bị hôn mê trong cái nóng.
Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. Cô không
ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe không mở được. Cô vươn qua người
John. Cửa sổ bên anh cũng hỏng. Và đó là lúc cô nhận thấy xe không
có khoá cửa.
Cả tay nắm cửa cũng không có.
Tay cô lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì – cứ như ai đó đã cắt nó
đi bằng cưa
máy.
mất.
“Gì vậy?” John hỏi.
“À, cánh cửa… Ta mở cửa thế nào bây giờ?”
John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất hiện
rồi biến
“Này!” John gõ vào tấm kính chắn. “Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta
đang đi đâu
thế này?”
“Có lẽ ông ta định qua Queensboro”, T.J. nói. Qua cầu đường sẽ dài
hơn nhưng không phải trả phí qua hầm. Cô ngồi dịch lên và gõ nhẫn
vào tấm kính Plexi.
“Ông định qua cầu đấy à?” Người lái xe lờ đi.
“Này!”
Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.
“Chết tiệt”, John hét lên. “Ông định đưa chúng tôi đi đâu? Harlem. Tôi
cá là hắn ta định đưa chúng ta đến Harlem.”
T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe đang chạy song song với họ và
chậm rãi vượt lên. Cô đập thật mạnh vào cửa sổ.
“Cứu!” Cô gào to. “Làm ơn đi…”
Người lái xe liếc cô một lần, rồi lần nữa, vẻ không bằng lòng. Anh ta
giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đã đột ngột quặt vào
đường nhánh xuống Queens, vòng vào một con phố và chạy dọc theo
một khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ đã phải chạy với tốc độ hơn sáu
mươi dặm2 một giờ.
“Ông đang làm cái trò gì thế?”
T.J. đập vào tấm kính chắn. “Chạy chậm lại. Chúng ta đang ở đâu?”
2 Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một
trăm km một giờ.
“Ôi, trời ơi, không”, John thì thầm. “Nhìn kìa.” Người tài xế đã đeo
một chiếc mặt nạ trượt tuyết. “Ông muốn gì?” T.J. hét lên.
“Tiền à? Chúng tôi sẽ đưa tiền cho ông.” Nhưng phía trước xe vẫn im
lặng.
T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của cô và lôi chiếc máy tính xách tay
màu đen ra. Cô ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa
sổ. Kính vẫn còn nguyên
vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ đã làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi
hướng và suýt
đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.
“Tiền? Bao nhiêu? Tôi sẽ đưa cho ông rất nhiều tiền!” John lắp bắp,
nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của anh ta.
T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm một lần nữa. Cú phang mạnh đến
nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.
Cô thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay cô. “Mẹ
kiếp…”
Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh trên đường và
dừng lại trên một ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.
Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay hắn là một khẩu súng lục nhỏ.
“Đừng, xin ông”, cô van xin.
Hắn ta đi ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy
xước. Hắn đứng đó khá lâu trong khi cô và John lùi lại phía sau, dựa
vào cánh cửa đối diện, thân thể
đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn
đường và nhìn họ
thật gần.
Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong không trung. T.J. co rúm người.
John thét lên một tiếng.
Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh
đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. Hắn ta quay lại và nhìn lên
trong khi một con nhện khổng lồ màu da cam đang trải mình phía bên
trên thành phố.
Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng
thư ký Liên
Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại
nhất thế giới.
Người lái xe quay lại chiếc taxi. Hắn ta kéo tay nắm cửa với một tiếng
động lớn và từ từ mở cửa.
Một cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi
Như thế thì chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định nói về
khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: “Anh ta nói Ba mươi bảy gần
Mười một. Chỉ có thế thôi.”
Những người báo tin thường không biết rõ hướng tới hiện tượng vụ án.
Đã toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy
một bệ cỏ cao. Cô đang tìm theo vạch – cách gọi của những người làm
việc tại hiện trường vụ án – một sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. Cô
nghiêng đầu nói vào cái mic kẹp trên ve bộ đồng phục màu xanh hải
quân của cô.
“5885. Không tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các anh có yêu cầu gì thêm
không?” Người trực tổng đài nói qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: “Không cần
gì tại đó nữa,
5885. Nhưng có một điều… người báo tin nói anh ta hi vọng nạn nhân
đã chết. Nghe rõ.” “Trung tâm, xin nhắc lại.”
“Người báo tin này nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì lợi ích của
chính nạn nhân. Nghe rõ.”
“Nghe rõ.”
Hy vọng nạn nhân đã chết?
Sachs leo qua một dây xích rũ xuống và tìm một khoảng trống khác.
Không có gì. Cô muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ,
và quay trở lại với Deuce,
khu tuần tra thường xuyên của cô. Đầu gối cô bị đau và cô đang nóng
như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. Cô muốn lẻn vào
Ban quản lí Cảng, nói chuyện với các chàng trai và uống một hộp trà
đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 – chỉ cách đó một, hai giờ đồng hồ – cô
có thể đã dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown3 và chuẩn bị
đi tập.
Nhưng cô không, không thể thì đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. Cô
tiếp tục đi: dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu
đất hoang và một khu vườn nhiều cây cối khác.
Ngón tay trỏ rất dài của cô thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng,
qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao trên đầu. Cô gãi mạnh khi
chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm một lúc nữa. Mồ hôi chảy
dọc trán cô buồn buồn và cô gãi lông mày.
Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được.
Khi Sachs đi sâu hơn vào bụi cây, cô cảm thấy sự bất ổn đầu tiên
trong buổi sáng hôm nay.
Ai đó đang nhìn mình.
Gió nóng thổi xào xạc trên những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua
lại Đường hầm Lincoln. Cô nghĩ tới điều mà một sĩ quan tuần tra
thường làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau
mình, trong tầm dao, mà mình không hề hay biết.
Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình… Cô quay lại
thật nhanh.
Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi.
Trèo lên một đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs – ba mươi mốt
tuổi – gần được ba mươi mốt, mẹ
cô chắc sẽ nói thế – đã bị viêm khớp. Cô được thừa kế chứng bệnh
đó từ ông ngoại, cũng
rõ ràng như cô đã nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh
đẹp cũng như sự
3 Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan,
Thành phố New York.
nghiệp từ cha (màu tóc đỏ thì tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại
thêm một cơn đau nhói khi cô đi qua một bức rèm được tạo thành từ
các bụi cây chết khô cao ngất. Cô may mắn dừng lại khi chỉ cách cái
vách sâu ba mươi feet4 đúng một bước chân.
Phía dưới cô là một cái khe tối tăm – cắt sâu xuống nền đá của West
Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu đi lên
phía bắc.
Cô hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách không xa nền đường sắt. Cái gì thế?
Một vòng tròn đất mới lật, một nhánh cây nhỏ cắm bên trên? Trông nó
giống
như…
Ôi! Lạy chúa!
Một cảnh tượng làm cô rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên,
châm vào da
của cô như một làn sóng lửa. Cô kìm nén được cái phần nhỏ nhoi
trong cô, cô muốn quay đi chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề
trông thấy gì.
Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân.
Cô chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền
đường. Cô vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng cô đã
kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này.
Nếu chạm vào đó, cô có thể xoá mất dấu tay hắn để lại. Được, ta làm
cách khó vậy. Thở thật sâu để nén cơn đau khớp, cô bắt đầu trèo
xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của cô – đôi giày được đánh
bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới – vào những
khe đá nứt. Cô nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới
nấm mồ.
“Ôi, trời…”
Đó không phải là một nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là một cánh
tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và
bàn tay thò ra ngoài. Cô nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt
đã bị bóc sạch và một chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly
cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.
Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.
Cô đào bới làm cho đất bắn tung toé, cô nhận thấy những ngón tay
chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong.
Điều đó nói với cô rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất
cuối cùng hất vào mặt.
Và có thể vẫn còn sống.
Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen
của cô trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, cô đào đến tóc và
vầng trán phía dưới, vầng trán đã xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục
đào cho tới khi cô có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng đã
bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong một
vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.
Không phải là một phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là một người
đàn ông trên năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín anh ta.
4 Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây
là khoảng 10m.
Lùi lại phía sau, cô không thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải
đường tàu. Cô không thể nghĩ được điều gì khác trong gần một phút.
Ngoài việc nếu bị chết như thế thì sẽ ra sao.
Sau đó: Nào, em yêu. Em đã tự dẫn mình đến hiện trường vụ án và em
là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường.
Em biết phải làm gì chứ:
ADAPT
A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.
D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng. A là Assess: đánh giá
hiện trường vụ án.
P là….
P là gì nhỉ?
Cô nghiêng đầu nói vào mic. “5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi
gặp 10-29 trên đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười một.
Giết người, nghe rõ. Cần thám tử, CS5, xe bus, và bác sĩ pháp y.
Nghe rõ.”
“Đã rõ, 5885. Nghi phạm đã bị bắt chưa, nghe rõ?” “Không có nghi
phạm.”
“Năm-tám-tám-năm, nghe rõ”
Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận
xương. Một chiếc nhẫn không phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn
nhúm… Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy
dọc cơ thể cô. Amelia Sachs đã từng bơi với rắn trong những con sông
khi đi nghỉ hè và đã từng huênh hoang một cách chân thực rằng, cô
không có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping6 từ cây cầu cao một trăm
feet. Nhưng cứ để cô nghĩ về sự giam cầm… nghĩ tới việc bị rơi vào
bẫy, hoàn toàn bất động thì cơn hoảng loạn sẽ tóm lấy cô như bị sốc
điện. Đó là lí do vì sao Sachs đi nhanh và lái xe như chớp.
Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta… Cô nghe thấy một
tiếng động và ngẩng đầu. Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.
Những mẩu giấy vụn bay tung trên đường ray. Những đám bụi bay
quanh cô như những con ma giận dữ.
Sau đó là tiếng rền rĩ nhỏ…
5 CS: Khám nghiệm hiện trường.
6 Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn
hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.
Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao một feet chín, thấy mình đang
đối diện với một chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak,
một khối sắt đỏ, trắng và xanh đang lao tới với tốc độ mười dặm một
giờ.
“Dừng lại ngay!” Cô hét lên. Người kỹ sư lờ cô đi.
Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu
cho anh ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ
sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.
“Anh không đi qua đây được”, cô nói với anh ta.
Anh ta hỏi ý cô là gì. Cô nghĩ anh ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn
tàu lớn như
vậy.
“Đây là hiện trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ.”
“Thưa quý cô, tôi không hề nhìn thấy hiện trường vụ án nào cả.”
Nhưng Sachs không nghe. Cô đang nhìn lên khoảng trống trong chuỗi
xích bên
phía tây của cây cầu tàu phía trên, gần Đại lộ Mười một.
Chỉ có thể có một cách để đưa xác chết đến đây mà không bị phát
hiện – đỗ xe ở Đại lộ Mười một và kéo xác qua một con đường hẹp
dẫn đến vách đá. Còn trên Đại lộ Ba mươi bảy, chỗ giao lộ, hắn ta có
thể bị phát hiện từ hai tá cửa sổ của các căn hộ.
“Đoàn tàu này, thưa ngài. Xin cứ để nó đấy.” “Tôi không thể để nó ở
đây được.”
“Vui lòng tắt động cơ.”
“Chúng tôi không tắt động cơ của những con tàu kiểu này. Lúc nào
chúng cũng
chạy.”
“Và hãy gọi điện cho điều phối viên. Hay ai đó. Yêu cầu họ dừng cả
các đoàn tàu
đi về phía nam.”
“Chúng tôi không được làm thế.”
“Ngay bây giờ. Tôi có thể lấy số của chiếc xe đó, được không?”
“Chiếc xe?”
“Tôi khuyên anh nên làm ngay”, Sachs quát.
“Cô định làm gì, thưa quý cô? Gắn phiếu phạt tôi chắc?”
Nhưng Amelia Sachs đã lại trèo lên trên bức tường đá, các khớp
xương đáng thương của cô kêu cót két, môi cô cảm thấy vị bụi đá vôi,
đất sét và mồ hôi của chính mình. Cô chạy về phía con đường cô vừa
nhìn thấy từ dưới kia, sau đó quay lại, nghiên cứu Đại lộ Mười một và
Trung tâm Javits ở bên kia đường. Gian đại sảnh đầy người – những
người đến xem và báo chí. Một biểu ngữ khổng lồ tuyên bố Chào
mừng các đại biểu Liên Hiệp Quốc! Nhưng sáng hôm nay, khi con phố
vắng người, tên tội phạm có thể dễ dàng tìm thấy một nơi đỗ xe ở đây
là kéo cái xác đến đường ray mà không bị phát hiện. Sachs chạy tới
Đại lộ Mười một, nghiên cứu đại lộ sáu làn xe đang tắc nghẽn.
Làm thôi!
Cô khó nhọc vượt qua một biển xe hơi, xe tải và chặn làn đường đi lên
phía bắc. Mấy người lái xe cố chạy vớt, cô đã phải xé hai phiếu phạt
và sau cùng cô kéo thùng rác ra giữa phố như một chiến lũy để đảm
bảo những người dân lương thiện thực hiện nghĩa vụ công dân của họ.
Cuối cùng thì Sachs cũng đã nhớ ra quy tắc tiếp theo trong các quy tắc
ADAPT
của sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ án.
P là Protect: bảo vệ hiện trường vụ án.
Âm thanh của những chiếc còi xe giận dữ bắt đầu tràn ngập bầu trời
buổi sáng mờ sương, sau đó được thay thế bằng những tiếng thét giận
dữ hơn của các tài xế. Một lúc sau, cô nghe tiếng còi hụ tham gia ầm ĩ
khi những chiếc xe khẩn cấp đầu tiên lao tới.
Bốn mươi phút sau, nơi này tràn ngập cảnh phục và các điều tra viên,
có đến vài chục người – đông hơn vụ diễn ra tại Hell’s Kitchen rất
nhiều, bất kể là nguyên nhân cái chết có khinh khủng hơn đến mấy.
Nhưng Sachs đã học được từ những cảnh sát khác, đây là một vụ
nóng, một vụ thu hút báo giới – nạn nhân có thể là một trong những
hành khách đến sân bay JFK7 đêm trước, bắt taxi vào thành phố. Họ
có thể không bao giờ về được đến nhà.
“CNN8 đang theo dõi.” Một người mặc cảnh phục thầm thì.
Vì thế Amelia Sachs không ngạc nhiên khi thấy Vince Peretti tóc vàng,
giám đốc IRD9, bộ phận theo dõi đơn vị hiện trường vụ án, trèo qua
hàng rào và dừng lại lúc anh ta phủi bộ vét trị giá cả nghìn đô la của
mình.
Cô ngạc nhiên khi thấy anh nhận ra cô và ra hiệu cho cô, một nụ cười
giả tạo xuất hiện trên khuôn mặt sắc nét của anh ta. Cô nhận ra rằng cô
sẽ nhận được một cái gật đầu cảm ơn về hành động Cliffhanger10 vừa
rồi. Bảo vệ dấu tay trên cái cầu thang đó, các chàng trai. Có thể sẽ có
cả khen ngợi. Trong giờ tuần tra cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng
ở Đội Tuần tra. Ra đi với ánh hào quang của sự vẻ vang.
Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới. “Sĩ quan tuần tra, cô không phải là
lính mới, đúng không? Giả định của tôi đúng chứ?”
“Tôi xin lỗi, thưa ngài?”
“Cô chắc không phải lính mới, tôi giả định thế.”
7 JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.
8 CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin
tức nổi tiếng của
Mỹ.
9 IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận
Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.
10 Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.
Cô không phải lính mới, không tuân theo quy tắc, mặc dù cô mới có ba
năm phục vụ, khác với hầu hết các sĩ quan tuần tra khác ở độ tuổi cô;
họ đã có chín hay mười năm phục vụ. Sachs bị lỡ mất mấy năm trước
khi vào học viện. “Tôi không biết ngài định hỏi gì.”
Anh ta trông bực tức, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt. “Cô là sĩ quan
đầu tiên có mặt tại hiện trường, đúng vậy không?”
“Vâng, thưa ngài”
“Vì sao cô lại chặn Đại lộ Mười một? Cô nghĩ gì vậy?”
Cô nhìn dọc theo con phố rộng vẫn đang bị cái thùng rác chiến lũy của
cô chặn lại. Cô đã quen với tiếng còi nhưng giờ mới nhận ra là nó rất
ồn, dòng xe kéo dài tới vài dặm.
“Thưa ngaì, nhiệm vụ đầu tiên của một sĩ quan là bắt nghi phạm, thẩm
vấn mọi nhân chứng, bảo vệ…”
“Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. Cô chặn phố để bảo vệ hiện
trường vụ án à?” “Vâng thưa ngài. Tôi không nghĩ rằng nghi phạm sẽ
đỗ xe tại giao lộ. Hắn ta có
thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ trên kia. Ngài nhìn thấy chứ,
trên kia? Đại lộ
Mười một có thể là lựa chọn tốt hơn.”
“Được. Nhưng đó là một sự lựa chọn sai lầm. Không có dấu chân ở
phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân đi lên cầu thang tới Đai
lộ Ba mươi bảy.”
“Tôi đã chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa.”
“Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?” Anh ta
hỏi. “Vì sao cô lại chặn đoàn tàu?”
“Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng một đoàn tàu đi qua hiện trường có thể
làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó.”
“Hay cái gì đó, sĩ quan?”
“Tôi diễn đạt ý mình không được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là…” “Còn
sân bay Newark thì sao?”
“Vâng thưa ngài.” Cô nhìn quanh tìm sự giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần
đó, nhưng họ đang bận phớt lờ người bị quở trách. “Chính xác thì
Newark là thế nào?”
“Sao cô không đóng cửa nó luôn đi?”
Ồ, tuyệt vời. Một bài học. Đôi môi Julia Roberts của cô căng lên
nhưng cô nói vừa phải. “Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể
là…”
“Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa
lộ Long
Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương
cách trốn chạy.”
Cô hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày
của anh ta cao hơn.
“Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra.” Anh ta tiếp tục. “Từ giám
đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc,
giám đốc triển lãm..” Anh ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. “Chúng
ta đã phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu
của một thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side.
Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà cô chặn lại
cách chỗ đó một trăm feet và trên đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả
Bão Eve cũng không ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của
Amtrak.”
“Tôi chỉ nghĩ rằng…”
Peretti cười. Vì Sachs là một phụ nữ đẹp – trong những năm tháng
“chìm đắm” của cô trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian
cô đã làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle – nên
viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho cô.
“Tuần tra viên Sachs” – anh ta liếc nhìn bảng tên trên ngực cô, được
dán một cách đơn giản trên chiếc áo chống đạn hiệu American Body
Armor – “một bài học. Nhiệm vụ tại hiện trường vụ án là một việc đòi
hỏi sự cân bằng. Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau
mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta không
thể làm điều đó. Tôi nói điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho
cô”.
“Trên thực tế, thưa ngài”, cô nói cộc cằn. “Tôi sắp chuyển khỏi Đội
Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay.”
Anh ta gật đầu, cười vui vẻ. “Thế thì nói đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có
phải cô
quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?”
“Đúng vậy, thưa ngài”, cô nói một cách dứt khoát. “Không có sai lầm
nào trong việc đó cả.”
Anh ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét
bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.
Ôi, làm ơn đi…
“Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy đi. Cô sẽ điều khiển giao
thông đến khi đường thông. Cô có nghe rõ tôi nói không?”
Không “vâng, thưa ngài”, hay “không, thưa ngài”, hay bất kỳ sự khẳng
định nào khác, cô đi ra Đại lộ Mười một và bắt đầu chậm chạp di
chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào đi ngang cô cũng cau
có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.
Còn một tiếng nữa. Mình chịu được.
HAI
Với một cú vẫy cánh ngắn, con chim ưng đỗ xuống rìa cửa sổ. Ánh
sáng bên ngoài, vào giữa buổi sáng, thật rực rỡ và không khí có vẻ
nóng dữ dội.
“Mày đây rồi”, người đàn ông thầm thì. Sau đó anh ta ngẩng đầu khi
nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.
“Có phải ông ta không?” Anh hét về phía cầu thang. “Phải không?”
Lincoln Rhyme không nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con
chim xoay đầu, một động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim
ưng nó lại thật lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. Một miếng
thịt đang đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị
vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động
khiến ta nhớ tới loài rắn chứ không phải loài chim. Con chim ưng thả
miếng thịt vào cái miệng đang ngửa lên của một con chim non màu
xanh lông lá. Ta đang nhìn, Rhyme nghĩ, vào một tạo vật sống duy nhất
ở New York mà không có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa
Trời.
Anh nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang. “Có phải ông
ta không?”Anh hỏi Thom.
Người thanh niên trả lời: “Không.”
“Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng không?”
Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim đã quay lại rồi. Nhìn này,
có vết máu trên bậu cửa sổ của anh. Anh thấy không?”
Con chim ưng cái dần xuất hiện trong tầm nhìn. Xanh xám như một con
cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.
“Chúng luôn đi cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời không nhỉ?” Thom
tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”
Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, anh chàng này đang cúi cái eo
lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ
vấy bẩn.
“Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên đang bị kẹt, điều này làm
Rhyme khó
chịu.
“Một người khách.”
“Một người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. Anh cố nhớ lại người khách
cuối cùng
đã ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? Một phóng viên,
có thể, hay một người họ hàng xa. À, Peter Taylor, một trong những
chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng cô
ấy tất nhiên không phải là người-khách.
“Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của anh ta là mở cửa sổ. Sự
thỏa mãn tức thì. Tuổi trẻ.
“Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và nói cho tôi biết đấy là ai.”
“Lạnh quá.’
“Cậu đang làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ.
Tôi sẽ
giảm điều hòa.”
“Chúng ta ở đây trước”, Thom nói, nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên.
“Con chim chuyển đến khi đã biết rất rõ về anh.” Con chim ưng nhìn
về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế.
Chúng vẫn đậu trên thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình trên
những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.
Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?” “Lon Sellitto”.
“Lon?”
Hắn ta làm gì ở đây thế?
Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này thật lộn xộn."
Rhyme không thích phải bận bịu dọn dẹp. Anh không thích sự hối hả,
không thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà anh cảm thấy thực sự
khó chịu. Anh thấy thoải mái ở đây, thực sự như vậy. Căn phòng này,
anh gọi là văn phòng của anh, nằm trên tầng hai của ngôi nhà theo
phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công
viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như
từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi anh nhắm mắt, chơi một trò
chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng.
Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như
Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực trong ti vi. Cái bóng đèn
phủ bụi, một cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già,
nhựa mủ và vải bọc ghế.
Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau. Con chim ưng
kia.
“Tôi không muốn gặp hắn ta. Nói với hắn ta tôi bận.”
“Và một cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. Không, anh ta là một cầu
thủ bóng chày, đúng không? Thực sự anh phải để tôi dọn dẹp. Anh
không bao giờ nhận ra một chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi
có người nói cho anh hay.”
“Nói cho anh hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này
nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn
không?”
Lộn xộn…
Thom đang nói về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng anh ta ám chỉ
cả sếp của
mình.
Tóc Rhyme đen và dày như tóc một thanh niên mới hai mươi tuổi –
mặc dù anh
gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt
gội. Mặt anh lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và anh
có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy không ngừng trong
tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài,
cả ở chân lẫn tay, và anh mặc bộ quần áo suốt một tuần – một bộ
pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt anh hẹp, nâu đậm và nằm trên một
khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng nói với anh, trông giàu tình cảm
và có thể coi là đẹp trai.
“Họ muốn nói chuỵen với anh”, Thom tiếp tục. “Họ nói đó là việc rất
quan trọng.” “Ừ, hoan hô họ”
“Anh không gặp Lon cả năm nay rồi.”
“Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp hắn ta lúc này? Cậu có làm
cho con chim sợ không? Tôi sẽ rất bực nếu cậu làm nó sợ.”
“Quan trọng đấy, Lincoln.”
“Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu đã nói thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể
đã gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu đang ở ngoài.”
“Anh tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”
“Không”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ
gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu đã kiểm tra tin nhắn chưa?”
Thom nói: “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”
“Ông ta nói ông ta sẽ đến vào tầm giữa buổi sáng."
“Bây giờ là mười một giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm
kiếm cứu nạn vội. Anh thấy thế nào?”
“Cậu có dùng điện thoại không?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta
đã gọi đến khi cậu đang nghe máy.”
“Tôi có nói chuyện với…”
“Tôi có nói gì không?” Rhyme hỏi. “Giờ thì cậu tức giận rồi. Và tôi có
nói là cậu không được dùng điện thoại không? Cậu được dùng chứ.
Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến
khi cậu đang nghe điện thoại.”
“Không, ý anh là sáng hôm nay phải thật tệ hại.”
“Lại nữa rồi. Cậu biết không, người ta có một thứ – gọi là chờ cuộc
gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại một lúc. Tôi mong là chúng ta
có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của
hắn ta nữa, anh chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”
“Hỏi họ xem.”
“Tôi đang hỏi cậu.”
“Họ muốn gặp anh. Tôi chỉ biết thế thôi.” “Có điều gì đó r… ất quan…
trọng.”
“Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của
mình. Cậu ta đang mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát
hoa xanh, thắt đẹp không chê vào đâu được. Khi thuê Thom một năm
trước, Rhyme đã nói cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu
ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó.
Rhyme không biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta
ở lại, nhưng đúng là có thế thật. Không một người nào trước Thom làm
được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.
“Được rồi, họ nói với cậu những gì?”
“Tôi nói với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm anh ăn mặc tươm tất khi
họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”
“Cậu đã nói thế. Không hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.”
Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng một. “Lên
thôi, thưa các quí ông.”
“Họ nói gì đó với cậu, đúng thế không?” Rhyme nói. “Cậu giấu tôi.”
Thom không trả lời còn Rhyme nhìn hai người đang lại gần. Khi họ vào
phòng, Rhyme nói trước. Anh nói với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu đã
chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”
Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là anh đã thấy quá đủ ánh nắng mặt
trời.
Câm lặng.
Miếng băng dính hôi hám dán trên miệng làm cô không thể nói được,
nó làm cô cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng đang bó chặt cổ tay
cô. Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của hắn đang bóp
chặt bắp tay cô.
Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn cô đi theo một hành
lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ
đang ở trong tầng hầm của một tòa nhà văn phòng. Cô chẳng biết là ở
đâu.
Nếu mình có thể nói chuyện với hắn…..
T.J. Colfax là một tay chơi. Một kẻ gớm ghiếc trên tầng ba của
Morgan Stanley11. Một nhà đàm phán.
Tiền? Mày cần tiền? Tao sẽ đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống
tiền. Cô đã nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt hắn ta,
tựa như cô có thể thực sự đẩy ngôn ngữ vào đầu óc hắn.
Làm ơn đi, cô thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ
hưu trí của mình để đưa cho hắn. Ôi, làm ơn đi…
Cô nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại không nhìn pháo hoa, lôi
họ ra khỏi taxi, còng tay họ. Hắn ném họ vào cốp và lái xe đi. Đầu tiên
qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau
đó là một đoạn đường êm, rồi lại xóc. Cô nghe thấy tiếng vèo vèo khi
xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại
và người tài xế ra khỏi xe, hình như hắn ta mở một cánh cổng hay mấy
cánh cửa. Hắn cho xe vào ga ra, cô nghĩ thế. Toàn bộ âm thanh của
thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại
từ những bức tường xung quanh.
Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo cô ra. Hắn giật chiếc nhẫn
kim cương từ ngón tay cô và đút vào túi. Sau đó, hắn dẫn cô đi qua
những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt
đã phai nhạt nhìn cô chằm chằm, một tên đồ tể, một
11 Morgan Stanley: Một công ty dịch vụ tài chính toàn cầu ở Thành
phố New York.
con yêu tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ trên lớp vữa nát vụn.
Kéo cô xuống tầng hầm tối và ném cô xuống sàn. Hắn đi lộp cộp lên
gác, bỏ cô lại trong bóng tối, bao quanh là một mùi ghê đến phát ốm –
mùi thịt thối, rác rưởi. Cô nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được một chút,
và khóc lóc rất nhiều. Cô bất ngờ tỉnh dậy khi nghe một tiếng động lớn.
Một tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.
Nửa giờ trước hắn lại đến chỗ cô. Dẫn cô ra cốp xe và lái đi khoảng
hai mươi phút. Tới đây. Dù cô chẳng biết đây là chỗ nào.
Giờ thì họ đang bước trong một căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở
giữa phòng là một cái cổng đen dày; hắn còng tay cô vào đấy, sau đó
tóm chân cô kéo thẳng ra trước, đẩy cô ngồi dậy. Hắn quỳ xuống và
trói chân cô bằng một sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; hắn
đeo đôi găng da. Sau đó hắn đứng lên, nhìn cô rất lâu, cúi xuống và
phanh áo cô. Hắn vòng ra sau cô, và rồi cô thở gấp, cảm thấy bàn tay
hắn trên vai cô, dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.
Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính. Biết được điều gì sẽ xảy đến.
Hai bàn tay đi xuống dưới cánh tay cô, sau đó vòng xuống dưới và
vòng qua phía trước thân người cô. Nhưng hắn không chạm vào ngực
cô. Không, khi hai bàn tay đan
lưới trên làn da cô. Hắn chọc và vuốt ve xương sườn cô. T.J rùng mình
cố thoát ra. Hắn
tóm lấy cô chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận sự
đàn hồi của xương.
Hắn đứng dậy. Cô nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng một lúc lâu,
chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang
máy. Rồi cô thốt ra một tiếng làu bàu kinh sợ vì một tiếng động ngay
phía sau cô. Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng cô
chẳng thể nhận ra. Cô cố quay lại xem hắn định làm gì nhưng không
được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe một âm thanh nhịp nhàng, lặp đi lặp
lại. Âm thanh ấy đưa cô trở lại nhà mẹ cô.
Xoẹt. Xoẹt.
Sáng thứ Bảy, trong một căn nhà nhỏ ở Bedford, Tennessee. Đó là
ngày duy nhất mẹ cô không đi làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn
nhà. T.J. sẽ thức dậy khi mặt trời đã chiếu nắng nóng và chạy xuống
nhà để giúp mẹ. Xoẹt. Cô khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi cô
nghe âm thanh đó và tự hỏi vì sao hắn lại quét nhà cẩn thận với những
nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.
Anh thấy sự ngạc nhiên và không thoải mái trên khuôn mặt họ.
Điều mà ta không thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án
mạng của
Thành phố New York.
Lon Sellito và anh chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, không phải Ernie) ngồi
xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của anh ra hiệu cho họ
ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, không thoải mái.
Ryhme đã thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên
thám tử không giấu được cú sốc của mình. Banks thì không có tiêu chí
nào để so sánh với những gì anh ta nhìn thấy, nhưng anh ta vẫn bị sốc
như thường. Căn phòng nhếch nhác, một kẻ
du mục đang nghi ngờ nhìn họ. Mùi thì quá chắc chắn – mùi nội tạng
đang bao quanh một tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.
Anh lấy làm tiếc là đã để họ lên.
“Sao anh không gọi điện trước hả, Lon?” “Anh sẽ bảo chúng tôi đừng
đến.”
Đúng thật.
Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.
“Không, Thom, chúng tôi sẽ không cần đến cậu.” Anh chợt nhớ là
chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì không.
Đồ Martha Stewart1 chết tiệt.
Im lặng một lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – một cựu chiến binh hai
mươi năm – nhìn vào một cái hộp cạnh giường và bắt đầu nói. Điều
anh ta định nói lập tức bị chặn lại khi anh ta nhìn thấy những cái bỉm
dành cho người lớn.
Jerry Banks nói: “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát
trẻ tuổi này cạo râu thật kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm trên
tóc anh ta trông thật duyên dáng! Lạy Chúa tôi, anh ta không thể quá
mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ
trung, Rhyme nghĩ.
“Cuốn nào vậy?”
“À, hướng dẫn về hiện trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là
cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”
“Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc
nó không?” “Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nói nhanh.
Một chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime2 còn lại
đang dựa vào một bức tường trong phòng.
“Tôi không biết anh và Lon là bạn bè”, Banks nói thêm.
“À, Lon không cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức
ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi nói với cậu rằng những vết
thương này tôi đã bị cùng Lincoln Rhyme?”
Sellitto không cười. Được thôi, mình có thể cho hắn ta ít thứ để cười
hơn nếu hắn ta muốn. Viên thám tử có thâm niên đang lục lọi trong
chiếc cặp của anh ta. Hắn ta có cái gì trong ấy nhỉ?
“Các anh đã cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách nói chuyện.
“Có một động từ cho cậu đấy”, Rhyme nói và nhìn đồng hồ.
1 Martha Stewart: Chủ bút một tờ báo gia đình, một kiểu chị Thanh
Tâm ở Mỹ.
2 The Scences of the Crime: Những hiện trường vụ án.
“Chúng tôi không phải cộng sự của nhau”, Sellito nói. “Tôi làm ở Ban
Án mạng, anh ta là giám đốc IRD.”
“Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là một trong
những công việc uy tín nhất trong sở.
“Ừ”, Rhyme nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của anh
sẽ tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.
Bằng một giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito
nói: “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’
“Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.
Thom cau có, nhưng Sellitto không nhận thấy sự mỉa mai này. Mà đúng
hơn là lờ đi. Anh ta nói: “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần
giúp đỡ.”
Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.
“Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó
là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù không phải như vậy. Cô
cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của anh quá hoàn hảo (nếu thêm một vết
sẹo, có lần cô đã đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm
nay sự hiện diện đầy nhục cảm của cô lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ,
anh tự hỏi. Buổi sáng anh thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình
và tự nhiên muốn viết cho cô một lá thư, lá thư đó vẫn còn ở trên màn
hình máy tính vào lúc này. Anh đang lưu nó vào đĩa. Sự im lặng tràn
ngập cả căn phòng khi anh nhập lệnh vào máy tính bằng một ngón tay.
“Lincoln?” Sellitto hỏi.
“Vâng, thưa ngài. Sự giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”
Banks vẫn giữ nụ cười không đúng chỗ trên mặt anh ta khi anh ta ngọ
nguậy đầy khó chịu trên ghế.
“Tôi sắp có một cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme nói. “Một cuộc hẹn.”
“Một bác sĩ.”
“Thật không?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan sự im lặng lại vừa
tràn ngập căn
phòng.
Không chắc lắm là cuộc nói chuyện đang đi đến đâu, Sellitto hỏi: “Anh
thế nào?” Banks và Sellitto không hỏi tới sức khỏe của anh khi họ tới.
Đó là câu hỏi mọi
người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể sẽ rất
phức tạp, và gần
như chắc chắn là sẽ khó chịu.
Anh nói đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn anh? Betty?” “Chúng tôi đã li
dị”, Sellitto nói nhanh.
“Thế à?”
“Cô ta được ngôi nhà còn tôi thì một nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn,
đậm người với một giọng vui vẻ giả tạo, cứ như anh ta đa nói điều này
trước đó, và Rhyme nói rằng
có một chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà anh
chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, anh cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy
cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là một con ngựa thồ. Anh ta là một
trong khoảng một trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và đã từng
giữ vị trí này nhiều năm – anh ta lên hạng vì có công trạng thực sự chứ
không phải chỉ vì thâm niên. Anh ta làm việc tới tám mươi giờ một tuần.
Rhyme không hề biết anh ta đã lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ
cùng làm việc.
“Giờ anh đang sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng một cuộc nói
chuyện xã giao sẽ làm họ kiệt sức và biến đi.
“Brooklyn. Tại Heights. Đôi khi tôi đi bộ đi làm. Anh biết chế độ ăn
kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề không phải ăn kiêng. Mà là
tập luyện.”
Anh ta trông không béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm
rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.
Banks nói: “Vậy, anh nói đó là một bác sĩ. Để cho…”
“Một dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.”
“Chúc may mắn.”
“Cám ơn cậu rất nhiều”
Giờ là 11:36. Đã quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều không thể
tha thứ đối với người làm trong ngành y.
Anh nhìn thấy Banks ngó chân anh hai lần. Anh tóm được cậu bé lần
thứ hai và không ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt.
Rhyme nói: “Tôi sợ rằng tôi không có thời gian để giúp đỡ các anh.’
“Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng không?” Lon Sellitto hỏi bằng một
giọng cứng rắn mà anh ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện
bịa đặt của những nghi phạm giết người.
Thom xuất hiện ở cửa với một ấm cà phê. “Đồ ngốc”, Rhyme buột
miệng.
“Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.” “Thom đối xử với tôi như một
đứa trẻ.” “Nếu đúng thế”, anh chàng trợ lý trả miếng.
“Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi sẽ uống ít sữa
mẹ.”
“Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom nói. Và anh ta cũng khiến
mặt Rhyme ửng đỏ.
Ánh mắt Banks lại quét một lần nữa trên cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta
nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng hiện tượng teo cơ đã chấm dứt
không lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của anh
đã làm anh kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là một nhân viên vật lý
trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như một thằng ngốc, nhưng
những lần khác lại tỏ ra như một con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt
Rhyme
thực hiện các bài tập ROM1 thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo
góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được anh ta áp dụng
vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ
suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay anh bằng những chu kỳ dang
khép cố định. Bài tập ROM không phải phép màu nhưng nó tạo ra
một chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối
sức và giữ cho máu lưu thông. Với một người mà hoạt động cơ bắp chỉ
giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi thì
tình trạng của Lincoln Rhyme không phải là tệ.
Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU2 màu đen, rắc rối,
nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác,
những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với một chiếc máy
tính và một màn hình treo trên tường.
Cuộc đời của anh chàng đã bị trói buộc, trước đó rất lâu, một nhân
viên trị liệu đã nói với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những anh chàng
giàu có. Những anh chàng may mắn.
Sellitto nói: “Sáng nay có một vụ giết người ở West Side.”
“Chúng tôi nhận được báo cáo về một số người đàn ông, phụ nữ vô
gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks nói. “Đầu tiên chúng tôi
nghĩ có thể là một trong số họ. Nhưng không phải vậy”, cậu ta nói
thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là một trong những người đêm qua.”
Rhyme tỏ vẻ trống rỗng trước khuôn mặt lấm chấm của chàng trai.
“Những
người?”
“Anh ta không xem thời sự”, Thom nói. “Nếu cậu nói về vụ bắt cóc thì
anh ta chưa nghe đến.”
“Anh không xem thời sự?” Sellitto cười phá. “Ở SOB3 anh đọc bốn
tờ báo một ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi đi làm về.
Blaine nói với tôi một đêm anh gọi cô ấy là Katie Couric4 trong khi làm
tình.”
“Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme nói một cách khoa trương, giả dối.
Thom nói thêm: “Văn học luôn là tin mới.”
Rhyme lờ cậu ta đi.
Sellitto nói: “Một người đàn ông và một phụ nữ đi công tác từ Bờ Biển
về. Lên một chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. Không bao giờ về đến
nhà.”
“Có báo cáo lúc khoảng mười một giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo
hướng BQE1 tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi
ghế sau. Có vẻ họ đã thử đập cửa sổ. Đập kính. Không người nào có
thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”
1 ROM: Một dạng bài tập kéo dãn cơ.
2 ECU (viết tắt của Environment Control Unit): Thiết bị Điều khiển
Môi trường.
3 SOB (viết tắt của Son of a Bitch): Một cách nói khinh bỉ về cơ quan
trước đó của
Rhyme.
4 Katherine Anne (Katie) Couric: Sinh năm 1975 tại Arlington,
Virginia, một nhà báo, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ.
“Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn rõ tay tài xế
không?” “Không”.
“Hành khách nữ?”
“Không có dấu hiệu gì của cô ta.”
11:41. Rhyme đang điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán
chết”, anh lầm bầm một cách trống rỗng.
Sellitto thở dài não nề.
“Tiếp đi, tiếp đi”, Rhyme nói.
“Anh ta đeo chiếc nhẫn của cô ta”, Banks nói. “Ai đeo cái gì?”
“Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy anh ta sáng nay. Tay anh ta đeo
chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”
“Cậu chắc đấy là nhẫn của cô ta chứ?”
“Có tên viết tắt của cô ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”
“Thế là anh có một đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn anh biết hắn
ta đã bắt được người phụ nữ và cô ta vẫn còn sống”.
“Đối tượng gì?” Thom hỏi.
Sellitto nói khi Rhyme lại lờ cậu ta đi: “Đối tượng chưa biết.”
“Nhưng anh biết hắn làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân
không?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái
nhẫn của cô ta ấy mà?”
“Tôi chịu.”
“Lóc hết da trên ngón tay anh ta. Hết sạch. Đến tận xương.’ Rhyme
nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “Hắn ta thông minh đấy chứ?” “Vì sao lại là
thông minh?”
“Để đảm bảo là không ai dám đến lấy chiếc nhẫn đi. Nó đầy máu,
đúng không?” “Kinh lắm.”
“Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi thì AIDS, viêm gan. Kể cả
nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng sẽ bỏ qua món chiến lợi phẩm đó.
Tên cô ta là gì, Lon?”
Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, anh này mở cuốn
sổ ghi chép của mình.
“Tammine Jean Colfax. Cô ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám
tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”
1 BQE: Đường cao tốc Brooklyn-Queen ở New York.
Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. Một dạng nhẫn biểu tượng
của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt
nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. Không có tí mùi quân đội nào
ở cậu ta. Sẽ không ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale1.
Một thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này đang đi về đâu?
Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay đang run lẩy bẩy.
Bằng một động tác nhỏ, Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn trên bảng điều
khiển ECU của công ty Everest & Jennings2 được kẹp ở bàn tay trái
của anh và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân một lệnh chỉnh giảm điều
hòa nhiệt độ. Anh thường không mất công kiểm soát những thứ như lò
sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh
sáng, máy tính và cái khung lật trang của anh. Nhưng khi phòng quá
lạnh thì anh bị sổ mũi. Và đó là sự tra tấn thực sự đối với một anh
chàng như anh.
“Không có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi. “Chẳng có gì.”
“Anh là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.
“Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn anh nghiên cứu
báo cáo hiện trường vụ án.”
Một tiếng cười nữa. “Tôi? Đã ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo hiện
trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể nói gì với anh?”
“Anh có thể nói cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’ “Bây giờ ai là giám
đốc IRD?”
“Vince Peretti.”
“Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để anh ta đọc đi.”
Một khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn anh.”
“Chúng tôi là ai?”
“Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của anh.”
“Thế còn, Đại úy Peretti sẽ cảm thấy ra sao với lá phiếu không tín
nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như một cô bé.
Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí.
Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty
thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New
Scotland Yard. Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo
của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám
định Pháp y của CRC Press3. Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y
Quốc tế.
1 Yale: Đại học Yale, nơi Banks tốt nghiệp; đây là một cách nghĩ chế
nhạo về Banks.
2 Công ty Everest & Jennings: Một công ty chế tạo giường bệnh và hệ
thống hỗ trợ của
Rhyme.
3 CRC Press: Tên một nhà xuất bản chuyên về Pháp y.
“Nhìn chúng này”, Rhyme nói. “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng
thì phủ đầy bụi.”
“Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao anh không ngồi dậy
mà dọn dẹp cái chuồng lợn này đi?”
Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra một tràng cười mà chính bản thân
anh cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của anh đã trượt chân và sự
khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc anh cảm thấy tiếc vì
anh và Sellitto đã rời xa nhau. Sau đó anh dập tắt ngay cái cảm giác
đó. Anh càu nhàu: “Tôi không giúp anh được. Xin lỗi.”
“Chúng ta có một hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng
tôi…” “Hội nghị nào?”
“Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. Sẽ có
hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. Anh có nghe về việc vừa
diễn ra ở London hai ngày trước không?”
“Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.
“Có kẻ đã cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị
trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây.
Ông ta không muốn có một tiêu đề kinh khủng nào đó trên tờ Bưu
điện.”
“Có một vấn đề nhỏ”, Rhyme nói nghiêm khắc. “Đó là cô Tammie
Jean sẽ không còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.”
“Jerry, nói cho anh ta thêm một vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của anh
ta đi nào.” Banks đã chuyển sự chú ý từ chân Rhyme sang chiếc
giường của anh, thứ mà –
như chính Rhyme đã phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là
bảng điều khiển.
Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng
như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách
nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống trên đường tàu Amtrak
gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười một. Đúng ra là chúng tôi tìm thấy
anh ta đã chết. Anh ta đã bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn
lên và nói thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”
Có nghĩa là không có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí không rõ ràng.
Anh chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những
gì anh ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà anh ta có thể trưởng
thành để thoát khỏi nó, hoặc là không. Lincoln Rhyme tin rằng bản thân
anh chưa bao giờ trẻ cả.
“Đạn có rãnh xẻ không?” Rhyme hỏi. “Sáu đường gân và đường xẻ,
xoáy trái.”
“Vì thế hắn tìm cho mình một khẩu Colt”, Rhyme nói và liếc nhìn sơ đồ
hiện trường vụ án một lần nữa.
“Anh nói hắn”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là
chúng.” “Cái gì?”
“Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân
chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks nói, chỉ vào sơ đồ hiện trường
vụ án.
“Có dấu chân nào trên cầu thang không?”
“Không có gì. Nó đã bị lau đi. Chúng đã làm rất tốt. Dấu chân đi ra
huyệt và quay lại cầu thang. Nói chung là phải có hai tên mới có thể
kéo được nạn nhân. Anh ta nặng hơn một trăm pound1. Một người
không thể làm được việc đó.”
“Tiếp đi.”
“Chúng kéo anh ta tới huyệt, vứt anh ta xuống, bắn và chôn anh ta, sau
đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”
“Bắn anh ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.
“Đúng thế. Không hề có vết máu quanh cầu thang và trên đường đến
huyệt.” Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng anh nói: “Các anh
cần tôi làm gì?”
Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được một
điều huyền bí, Linc. Một mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.”
“Thì sao?” Đây là một hiện trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ
vật lý đều có ý nghĩa.
“Đúng hơn là điều đó thực sự kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn đi.
Tôi sẽ để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom
đang gắn tập báo cáo vào khung lật trang.
“Tôi không có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.
“Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme
không trả lời. Anh đang nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di
chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng một mm. Một chiếc đũa thần
bằng cao su lật trang giấy.
Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.
“Ai chịu trách nhiệm về hiện trường?”
“Chính Peretti. Khi anh ta biết rằng nạn nhân là một trong những hành
khách taxi, anh ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”
Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng một phút, những từ ngữ thiếu sáng
tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm anh quan tâm. Rồi chuông cửa
reo và trái tim anh nhảy lên vì một cơn rùng mình. Ánh mắt anh hướng
đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy rõ ràng là thời gian đùa bỡn đã
chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức đi xuống cầu thang.
Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân
viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme.
“Đấy là bác sĩ Berger”, Thom nói qua máy đàm thoại nội bộ. Cuối
cùng. Sau bao nhiêu lâu.
“Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi sẽ phải đề nghị các anh ra về. Thật vui
khi gặp lại anh.” Một nụ cười. “Một vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.”
1 Pound: Một pound tương đương với 453,59g. Ở đây tương đương
với bảy mươi lăm kg.
Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng anh sẽ đọc qua báo cáo chứ,
Lincoln? Nói cho chúng tôi những gì anh nghĩ chứ?”
Rhyme nói: “Chắc rồi”, sau đó ngả đầu xuống gối. Những người
bệnh như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể
kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba
chiếu. Nhưng Rhyme đã tránh xa các thiết bị đeo trên đầu. Giờ đây,
khi chỉ còn rất ít sự sung sướng nhờ các giác quan còn lại, anh không
muốn tước đi sự thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô
la của mình. Những người khách đã làm anh mệt. Không chỉ buổi trưa,
mà lúc nào anh cũng buồn ngủ. Cơ cổ anh run rẩy vì đau đớn.
Khi Sellitto và Banks đã ra đến cửa, Rhyme nói: “Lon, đợi đã.” Viên
thám tử quay lại.
“Có một điều anh nên biết. Anh mới chỉ tìm thấy một nửa hiện trường
vụ án. Hiện trường quan trọng chính là nửa còn lại – hiện trường chính.
Nhà hắn ta. Đó là nơi hắn sẽ
đến. Và sẽ rất khó tìm.”
“Sao anh lại nghĩ rằng còn một hiện trường khác?”
“Vì hắn ta không bắn nạn nhân dưới huyệt. Hắn bắn anh ta ở chỗ kia –
tại hiện trường chính. Và đấy có thể là nơi hắn giữ người phụ nữ. Đó sẽ
là một tầng hầm hay một nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai.
Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ –
“hắn ta không muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó
không phải là một nơi yên tĩnh và riêng tư.”
“Có thể hắn dùng ống giảm thanh.”
“Không có dấu màng ngăn cao su hay bông trên viên đạn”, Rhyme
ngắt lời. “Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?”
Banks phản đối. “Ý tôi
là, không hề có máu vương ở hiện trường.”
“Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố.
“À, vâng”, Banks trả lời, nở một nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà anh
biết?”
“Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với một viên đạn cỡ .32. Ít khi
chết người nếu không trúng não. Với một nạn nhân cỡ như vậy, đối
tượng có thể dẫn anh ta đi bất cứ đâu hắn muốn. Tôi nói đối tượng, số
ít vì chỉ có một đối tượng thôi.”
Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thì thầm,
như thể anh ta đang gỡ mìn.
Rhyme thở dài. “Đế giày là một. Chúng do một người đi hai vòng để
lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân đi về phía bắc có cùng độ sâu
như những dấu chân đi về phía nam. Như thế là hắn ta không vác một
khối lượng hai trăm pound đi theo đường này và không vác khi đi
đường kia. Nạn nhân có phải đi chân đất không?”
Banks lật nhanh ghi chép của mình. “Đi tất.”
“Được rồi, thế thì thủ phạm đi giày của nạn nhân trong chuyến đi dạo
thông minh của hắn tới cầu thang và ngược lại.”
“Nếu hắn không đi xuống cầu thang thì làm thế nào hắn tới được
huyệt?”
“Hắn tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.”
“Nhưng không có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.”
“Nhưng có những đường hầm chạy song song với đường ray”,
Rhyme tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của một vài nhà kho cũ dọc Đại
lộ Mười một. Một kẻ gangster tên là Owney Madden đã cho đào
chúng trong thời kỳ cấm rượu để hắn có thể chuyển rượu whisky lậu
lên các đoàn tàu từ nhà ga Trung tâm New York đi Albany hay
Bridgeport.”
“Thế tại sao không chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm
vì có thể bị nhìn thấy khi kéo anh chàng đi qua gầm cầu?”
Đã hết kiên nhẫn. “Anh biết hắn đang nói gì với chúng ta đúng không?”
Banks định nói, nhưng sau đó lắc đầu.
“Hắn phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme nói. “Hắn cần ai
đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao hắn để tay nạn nhân trên không.
Hắn đang vẫy chúng ta. Để được
chúng ta chú ý. Xin lỗi, các anh có thể có một đối tượng nhưng hắn lại
quá thông minh để
có thể là hai. Có một cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy
đến đó và thử tìm dấu tay. Sẽ không có gì đâu. Nhưng các anh phải
làm đúng như thế. Báo chí, các anh biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt
đầu xuất hiện… Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ thì
cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”
“Có?”
“Đừng quên hiện trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, anh phải tìm bằng
được nó. Và nhanh lên.”
“Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”
Rhyme nói tất nhiên anh sẽ đọc và thấy họ tin vào điều nói dối đó.
Hoàn toàn tin.
BA
Ông ta có cách hành xử bên giường bệnh tốt nhất mà Rhyme từng biết.
Và nếu ai đó có kinh nghiệm về cách hành xử bên giường bệnh thì đó
chính là Lincoln Rhyme. Anh đã thử tính một lần và thấy anh từng gặp
bảy mươi tám bác sĩ có bằng cấp trong vòng ba năm rưỡi qua.
“Cảnh đẹp đấy chứ”, Berger nói, nhìn ra cửa sổ. “Đúng không? Đẹp
thật.”
Mặc dù do chiều cao của cái giường mà Rhyme chẳng hề nhìn thấy gì
ngoài bầu trời mù sương phía trên Công viên Trung tâm. Nó – và
những con chim – về cơ bản là những gì anh nhìn thấy từ khi chuyển từ
bệnh viện phục hồi chức năng cuối cùng về đây khoảng hai năm rưỡi
trước. Phần lớn thời gian anh buông rèm cửa.
Thom đang bận lật ông chủ của mình – công việc này giúp giữ sạch
phổi – sau đó thông bàng quang cho Rhyme, điều này cần phải làm
cách sáu, bảy giờ một lần. Sau chấn thương cột sống, cơ thắt có thể bị
kẹt trong trạng thái mở hay trạng thái đóng. Rhyme may mắn vì cơ thắt
của anh bị kẹt đóng – may mắn, với điều kiện có ai đó ở bên để mở
chiếc ống nhỏ thiếu cộng tác đó bằng một cái que thông và kem K-Y
bốn lần trong ngày.
Bác sĩ Berger quan sát quy trình này một cách chuyên nghiệp về
phương diện lâm sàng và Rhyme không hề để ý tới vấn đề thiếu riêng
tư. Một trong những việc làm đầu tiên mà một kẻ tàn phế cần phải
vượt qua là sự e ngại. Khi mà việc che cơ thể lúc tắm rửa, di chuyển
hay khám nghiệm được thực hiện với những nỗ lực nửa vời thì những
kẻ tàn phế nghiêm trọng, thực sự tàn phế, rất tàn phế không quan tâm.
Tại trung tâm phục hồi chức năng đầu tiên của Rhyme, sau khi một
bệnh nhân đi dự tiệc hay đi hò hẹn đêm trước về, tất cả những người
cùng phòng sẽ lăn xe tới giường anh ta để kiểm tra nước giải, đó là
phong vũ biểu chỉ mức độ thành công của cuộc đi chơi. Một lần
Rhyme đã chiếm được sự kính trọng mãi mãi của những người tàn tật ở
cùng bệnh viện khi anh cho ra đến một nghìn bốn trăm ba mươi cc.
Anh nói với Berger: “Bác sĩ hãy nhìn rìa cửa mà xem. Tôi có thiên thần
hộ mệnh của riêng mình.”
“Ồ, diều hâu à?”
“Chim ưng. Thường thì chúng làm tổ cao hơn. Tôi không hiểu vì sao
chúng lại chọn sống cùng với tôi.”
Berger liếc nhìn những con chim rồi rời khỏi cửa sổ, lại hạ rèm xuống.
Chim chóc không làm ông ta quan tâm. Ông ta không to lớn nhưng
trông gọn gàng, một người tập chạy, Rhyme đoán thế. Ông ta trông
khoảng gần năm mươi nhưng mái tóc đen chưa hề có sợi bạc và đẹp
trai như một phát thanh viên truyền hình.
“Đúng là một cái giường.” “Ông thích nó chứ?”
Cái giường của hãng Clinitron, một hình chữ nhật to tướng. Đó là một
cái giường có đệm không khí – chất lỏng và có gần một tấn hạt bọc
silicon. Không khí nén được thổi
qua các hạt này và chúng đỡ cơ thể Rhyme. Nếu anh có thể có cảm
giác, anh sẽ cảm thấy như mình đang trôi nổi.
Berger đang uống cà phê do Rhyme ra lệnh cho Thom đem đến. Anh
ta đem nó lên, đảo mắt thì thầm trước khi mời: “Có phải chúng ta đang
quá xã giao không vậy?”
Người bác sĩ hỏi Rhyme: “Anh đã từng là cảnh sát, có đúng anh nói với
tôi thế không?”
“Đúng. Tôi là giám đốc giám định pháp y của NYPD23.” “Anh bị bắn
à?”
“Không. Tìm kiếm trên hiện trường vụ án. Mấy người công nhân tìm
thấy một xác chết tại công trường xây dựng ga tàu điện ngầm. Đấy là
một cảnh sát tuần tra trẻ tuổi, bị mất tích sáu tháng trước – chúng tôi có
một kẻ giết người hàng loạt chuyên bắn cảnh sát. Tôi được yêu cầu xử
lý riêng vụ này và khi tôi đang tìm kiếm ở đó thì một thanh rầm sập
xuống. Tôi bị vùi trong bốn giờ.”
“Thực sự là có ai đó lang thang tìm giết cảnh sát à?”
“Giết ba người và làm bị thương một người. Thủ phạm cũng là một
cảnh sát. Dan
Sherperd. Một trung úy trong Đội Tuần tra.”
Berger liếc nhìn vết sẹo hồng trên cổ Rhyme. Một dấu hiệu tiêu biểu
của chứng liệt tứ chi – một vết cắt mờ đế đưa ống thông khí vào cổ
họng và giữ ở đó vài tháng sau tai nạn. Đôi khi là vài năm, đôi khi là
mãi mãi. Nhưng Rhyme – với bản chất ương bướng cùng với những nỗ
lực hết mình của các bác sĩ trị liệu – đã có thể dứt bỏ được ống thông
khí. Giờ thì anh có hai lá phổi mà anh cá là có thể giúp anh lặn dưới
nước đến năm phút.
“Như vậy là chấn thương cổ.” “C4.”
“À, vâng.”
C4 là khu phi quân sự của chấn thương cột sống. Một SCI24 phía trên
đốt sống cổ thứ tư có thể đã giết anh. Dưới đốt sống cổ thứ tư thì anh
có thể hồi phục một phần bàn tay và cánh tay, nếu không nói là chân.
Chấn thương đốt sống cổ thứ tư không mấy nổi tiếng giúp anh sống
nhưng bị liệt hẳn tứ chi. Anh hoàn toàn không còn sử dụng được tay
chân. Cơ ổ bụng và cơ liên sườn gần như mất hết khả năng và anh chủ
yếu thở bằng cơ hoành. Anh có thể cử động đầu và cổ, nhúc nhích vai
một chút. Sự may mắn duy nhất là chiếc rầm gỗ sồi rơi xuống đã bỏ
qua một sợi thần kinh vận động độc nhất, nhỏ xíu. Điều đó cho phép
anh động đậy ngón đeo nhẫn bên tay trái.
Rhyme đã không kể cho bác sĩ nghe về vở diễn của cuộc đời anh trong
năm tiếp sau tai nạn đó. Một tháng nứt sọ: những chiếc kẹp kẹp những
cái lỗ khoan vào đầu anh để kéo cột sống anh thẳng lại. Mười hai tuần
dùng một thiết bị bao quanh đầu như vầng hào quang – một cái tạp dề
nhựa và một giàn giáo thép bọc quanh đầu giữ cho cổ bất động. Để
giúp phổi anh tiếp tục bơm không khí, một ống thông khí lớn được
dùng trong suốt
23 NYPD (viết tắt của New York Police Department): Sở Cảnh sát
New York.
24 SCI (viết tắt của Spinal Cord Injury): Chấn thương cột sống.
một năm, sau đó là một bộ kích thích dây thần kinh cơ hoành. Que
thông. Phẫu thuật. Tắc ruột do liệt, những chỗ loét nội tạng, quá căng
thẳng và làm giảm nhịp tim, nằm nhiều biến chứng thảnh lở nằm, co
cứng cơ vì mô bắt đầu co lại và đe dọa lấy mất khả năng cử động quý
báu của ngón tay, những cơn đau ảo khiến ta điên dại – cảm giác bỏng
và đau ở đầu các chi vốn không còn cảm giác.
Tuy vậy anh đã nói với Berger về tiến triển mới nhất. “Mất phản xạ tự
phát.”
Gần đây vấn đề này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Tim đập
mạnh, huyết áp quá cao, những cơn đau đầu dữ dội. Những thứ này
có thể xuất hiện chỉ vì một nguyên nhân đơn giản như táo bón.
Chuyên gia SCI của Rhyme, bác sĩ Peter Taylor trở nên lo lắng về tần
suất của những lần đột quỵ. Lần cuối cùng – khoảng một tháng trước –
nguy hiểm tới mức Taylor đã phải hướng dẫn Thom xử lý tình huống
mà không đợi cấp cứu đến và bắt người trợ lý phải nạp số điện thoại
của bác sĩ vào danh mục quay số nhanh. Taylor đã cảnh báo rằng, điều
đó đủ nguy hiểm và có thể dẫn đến trụy tim hay đột quỵ.
Berger lắng nghe với một chút thông cảm, sau đó nói: “Trước khi
chuyển sang công việc này, tôi chuyên về tình hình lão khoa. Chủ yếu là
công việc thay khớp và hông. Tôi không biết nhiều về thần kinh. Cơ hội
hồi phục ra sao?”
“Bằng không, tình trạng này là vĩnh viễn”, Rhyme nói, có vẻ hơi vội
vàng. Anh nói thêm: “Bác sĩ hiểu vấn đề của tôi, đúng không?”
“Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi muốn nghe anh nói điều đó.”
Lắc đầu để tự dọn dẹp mấy sợi tóc nổi loạn, Rhyme nói: “Ai cũng có
quyền tự
sát.”
Berger đáp: “Tôi nghĩ tôi không đồng ý với điều này. Trong hầu hết các
xã hội, có
thể anh có quyền lực nhưng không có quyền. Khác nhau đấy.”
Rhyme cười cay đắng. “Tôi chẳng phải là nhà triết học. Nhưng tôi thậm
chí cũng chẳng có quyền lực. Chính vì thế mà tôi cần đến bác sĩ.”
Lincoln Rhyme đã đề nghị bốn bác sĩ giết anh. Tất cả đều từ chối. Anh
nói, cũng được, anh sẽ tự làm và đơn giản là không ăn nữa. Nhưng quá
trình tự loại bỏ mình cho đến chết trở thành sự tra tấn thuần túy. Nó
làm cho dạ dày anh đau dữ dội và tạo ra những cơn đau đầu khủng
khiếp. Anh không thể ngủ được. Vậy là anh bỏ ý định và sau đó trong
một cuộc nói chuyện kinh khủng, anh đã yêu cầu Thom giết mình.
Chàng thanh niên gần phát khóc – lần đầu tiên cậu ta thể hiện nhiều tình
cảm đến thế – và nói cậu ta ước gì mình có thể làm được. Cậu ta có
thể ngồi nhìn Rhyme chết, cậu ta có thể từ chối không cứu sống anh.
Nhưng cậu ta không thể giết anh được.
Thế rồi có một phép màu. Nếu có thể gọi như vậy.
Sau khi cuốn The Scenes of the Crime được xuất bản, phóng viên bắt
đầu xuất hiện để phỏng vấn anh. Một bài báo – trên Thời báo New
York – có đoạn trích dẫn cay độc dưới đây của tác giả Rhyme:
“Không, tôi không có dự định viết thêm cuốn sách nào nữa. Thực tế,
dự án lớn tiếp theo của tôi sẽ là tìm cách tự sát. Đây thực sự là một
thách thức. Tôi đã cố gắng tìm ai đó có thể giúp được tôi trong suốt
sáu tháng qua.”
Dòng chữ chấn động này đã thu hút sự chú ý của dịch vụ tư vấn của
NYPD và một số người trước đây đã biết Rhyme, nhất là Blaine
(người đã nói với anh rằng anh là đồ điên khi tính đến điều đó, anh phải
ngừng việc chỉ nghĩ về bản thân anh đi – giống như khi họ còn ở với
nhau – và bây giờ, khi mà cô đã đến, cô nghĩ cô cần nói rằng, cô sắp
tái hôn).
Trích dẫn này cũng thu hút sự chú ý của William Berger, người một
đêm đột ngột gọi điện cho anh từ Seattle. Sau một vài phút trao đổi xã
giao,Berger nói ông ta đã đọc bài báo về Rhyme. Sau một khoảng lặng
trống rỗng, ông hỏi: “Anh đã bao giờ nghe nói đến Hội Bến mê chưa?”
Rhyme đã được nghe. Đó là một nhóm ủng hộ chết tự nguyện không
đau đớn mà anh đã cố gắng theo đuổi trong nhiều tháng. Hội này nguy
hiểm hơn rất nhiều so với Con đường An lạc hay Hội Độc cần25.
“Những người tình nguyện của chúng tôi bị truy nã để thẩm vấn về hàng
chục vụ tự tử có trợ giúp trên toàn quốc”, Berger giải thích. “Chúng tôi
phải cố giữ bí mật.”
Ông ta nói ông ta muốn xem xét yêu cầu của Rhyme. Berger không
đồng ý hành động nhanh chóng và họ đã có một vài cuộc trao đổi
trong bảy hoặc tám tháng qua. Hôm nay là buổi gặp mặt đầu tiên của
họ.
“Vậy là anh không có cách nào để tự mình vượt qua, phải không?”
Vượt qua…
“Nếu như kiểu của Gen Harrod thì không. Và cũng có phần không
được chắc chắn
lắm.”
Harrod là một thanh niên sống ở Boston, một người tàn tật, anh ta
muốn tự tử.
Không tìm được người giúp đỡ, cuối cùng anh ta quyết định tự làm
bằng cách duy nhất mà anh ta có thể. Với một chút khả năng kiểm soát
mà anh ta có, anh ta đốt căn hộ của mình, khi căn hộ cháy anh ta lái
chiếc xe lăn vào trong đám cháy và tự thiêu. Anh ta chết vì bỏng độ
ba.
Vụ này thường được những người ủng hộ quyền được chết đưa ra như
ví dụ về thảm kịch mà luật chống quyền được chết không đau đớn có
thể gây ra.
Berger cũng biết vụ này và lắc đầu thông cảm. “Không, như thế thì
không ai muốn chết.” Ông ta phân tích cơ thể Rhyme, đám dây dẫn và
bảng điều khiển. “Kỹ năng cơ học của anh ra sao?”
Rhyme giải thích về ECU – Bộ điều khiển E&J do ngón tay đeo nhẫn
của anh vận hành, bộ điều khiển bằng cách hút và thổi cho miệng anh,
những cái cần điều khiển bằng cằm, một máy tính đọc chính tả có thể
đưa ra màn hình các từ anh đọc.
“Nhưng mọi thứ phải được người khác thiết lập cho anh, đúng không?”
Berger hỏi. “Ví như ai đó phải đến cửa hàng, mua khẩu súng, giương
lên, lên cò và nối nó vào bộ điều khiển của anh.”
“Đúng thế.”
25 Con đường An lạc, Hội Độc cần: Tên của những hội ủng hộ việc
chết theo ý muốn.
Làm cho người đó cảm thấy có tội âm mưu giết người, cũng như ngộ
sát. “Thiết bị của anh thế nào?” Rhyme hỏi. “Hiệu quả không?”
“Thiết bị nào?”
“Anh dùng gì? Hừm, để làm việc đó ấy mà?”
“Rất hiệu quả. Tôi chưa bị bệnh nhân nào than phiền cả.”
Rhyme nháy mắt và Berger cười. Rhyme cười với ông ta. Nếu anh
không thể cười vì cái chết thì anh còn cười vì điều gì được nữa?”
“Anh xem đi.”
“Anh đem nó theo à?” Hy vọng bừng lên trong tim Rhyme. Lần đầu
tiên sau nhiều năm anh cảm nhận được cảm giác ấm áp đó.
Bác sĩ mở chiếc ca táp của ông ta ra – lấy ra một chai rượu mạnh, hành
động của ông ta hơi mang vẻ nghi lễ. Một lọ thuốc nhỏ. Một chiếc túi
nhựa và một băng cao su.
“Thuốc gì vậy?”
“Seconal. Không còn ai kê nữa. Ngày xưa tự tử dễ dàng hơn nhiều.
Những em bé này chắc chắn sẽ làm tốt, không cần thắc mắc. Giờ đây
thì không thể nào tự giết mình được với những thứ thuốc an thần hiện
đại. Halcion, Librium, Dalmane, Xanax… Anh có thể sẽ ngủ rất lâu
nhưng rồi cuối cùng thì anh cũng sẽ tỉnh lại.”
“Còn cái túi?”
“À, cái túi.” Berger nhặt nó lên. “Đây là biểu tượng của Hội Bến mê.
Tất nhiên là phi chính thức – không giống như logo của chúng ta. Nếu
thuốc và rượu mạnh chưa đủ, chúng ta sẽ dùng đến cái túi. Trùm lên
đầu, buộc sợi dây cao su quanh cổ. Chúng tôi cho vào đó một ít đá vì
sau mấy phút nó sẽ khá nóng.”
Rhyme không thể rời mắt khỏi bộ ba dụng cụ. Cái túi, sợi dây cao su
dày như tấm tạp dề của thợ sơn. Chai rượu rẻ tiền và lọ thuốc là loại
thông thường, anh nghĩ.
“Thật là một ngôi nhà đẹp”, Berger nhình quanh và nói. “Phía tây Công
viên
Trung tâm…. Anh có nhận trợ cấp tàn tật không?”
“Có một ít. Tôi còn tư vấn cho cảnh sát và FBI26. Sau tai nạn, công ty
xây dựng đền bù cho tôi ba triệu đô la. Họ thề rằng họ không có trách
nhiệm gì nhưng rõ ràng có một quy tắc luật pháp quy định rằng một
người liệt toàn thân động thắng trong bất kỳ vụ kiện nào chống lại các
công ty xây dựng, bất kể đó là lỗi của ai. Ít nhất nếu nguyên đơn đến
tòa để bày trò.”
“Rồi anh viết cuốn sách đó, đúng không?”
“Tôi nhận được một ít tiền từ đó. Không nhiều. Đó là một cuốn ‘bán
khá chạy’. Chưa phải là cuốn bán chạy nhất.”
Berger nhặt một cuốn The Scene of the Crime, lật qua. “The Scene of
the Crime
nổi tiếng. Nhìn này.” Ông ta cười. “Ở đây có đến bốn mươi, năm mươi
hiện trường?”
“Năm mươi mốt.”
Rhyme nhớ lại – trong trí nhớ và trí tưởng tượng của anh, vì anh đã viết
cuốn sách sau vụ tai nạn – tất cả các hiện trường vụ án xưa cũ của
Thành phố New York mà anh có thể nhớ được. Một số vụ được giải
quyết, một số không. Anh viết về Nhà máy Bia Cũ, một căn phòng
khét tiếng tại Five Points, nơi mười ba vụ giết người không liên quan
đến nhau đã xảy ra trong một đêm vào năm 1839. Viết về Charles
Aubridge Deacon, người đã giết mẹ mình vào ngày Mười ba tháng Sáu
năm 1863, trong một cuộc nổi loại chống quân dịch thời kỳ Nội chiến.
Hắn đổ cho những người cựu nô lệ đã giết bà và gây ra một cơn thịnh
nộ chống lại người da đen. Viết về vụ giết người vì cuộc tình tay ba của
kiến trúc sư Stanford White bên trên Khu vườn Quảng trường
Madison và về sự mất tích của Thẩm pháp Crater. Về George
Metesky, kẻ đánh bom mất trí trong những năm 1950 và Murph Lướt
sóng, kẻ ăn trộm viên kim cương Ngôi sao Ấn Độ.
“Vật liệu xây dựng thế kỷ XIX, những dòng chảy ngầm, trường đào
tạo quản gia”, Berger trích dẫn, lật qua các trang sách, “nhà tắm đồng
tính, nhà thổ khu Chinatown27, nhà thờ Chính thống giáo Nga… Làm
thế nào anh biết được tất cả những điều đó về thành phố?”
Rhyme nhún vai. Trong những năm lãnh đạo IRD, anh đã nghiên cứu
rất nhiều về thành phố, nhiều như anh từng nghiên cứu về ngành pháp
y. Lịch sử, chính trị, xã hội học, cơ sở hạ tầng của thành phố. Anh nói:
“Các nhà hình sự học không tồn tại trong chân không. Anh càng biết
nhiều về môi trường, anh càng ứng dụng tốt hơn…”
Vừa nghe thấy âm hưởng nhiệt tình trong giọng nói của mình, anh đột
ngột dừng
lại.
Tự giận dữ với bản thân vì đã bị mắc bẫy dễ như vậy. “Làm hay lắm,
bác sĩ Berger”, Rhyme nói đầy căng thẳng. “Nào. Hãy gọi tôi là Bill.
Làm ơn đi.”
Rhyme không có ý định trệch đường ray lần nữa. “Tôi nghe điều này
nhiều lần rồi.
Hãy lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi và viết ra tất cả những lý
do vì sao tôi nên tự tử. Sau đó, lại lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn
nhụi khác và viết ra tất cả lý do vì sao tôi không nên. Những từ như
kiểu năng suất, hữu ích, thú vị, thách thức sẽ hiện trong đầu. Những từ
đao to búa lớn. Những từ đáng giá cả mười đô la. Chúng chẳng có ý
nghĩa chết tiệt gì với tôi cả. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thể cầm được một
cái bút chì của nợ lên để mà cứu rỗi tâm hồn mình.”
“Lincoln”, Berger mềm mỏng nói tiếp. “Tôi cần đảm bảo anh là ứng cử
viên phù hợp cho chương trình.”
“Ứng cử viên? Chương trình? À, sự độc tài của học thuyết quyền
được chết không đau đớn”, Rhyme cay đắng nói. “Này bác sĩ, tôi đã
quyết định rồi. Tôi muốn làm việc này ngay hôm nay. Thực sự là ngay
bây giờ.”
“Vì sao lại là hôm nay?”
Ánh mắt Rhyme trở lại với đám chai lọ và cái túi. Anh thì thầm: “Sao lại
không? Hôm nay là ngày nào? Hai mươi ba tháng Tám? Cũng là một
ngày tốt để chết như những ngày khác thôi mà.”
Ông bác sĩ mấp máy đôi môi mỏng. “Tôi phải có thời gian nói chuyện
với anh, Lincoln. Nếu tôi được thuyết phục là anh thực sự quyết tâm
tiến hành…”
“Tôi muốn”, Rhyme nói. Như mọi lần, anh nhận ra rằng ngôn từ của
chúng ta yếu ớt đến đâu khi không có điệu bộ cơ thể hỗ trợ. Anh thực
sự muốn đặt tay mình lên tay Berger hay nhấc bàn tay mình lên cầu xin.
Không cần xin phép, Berger lấy trong túi ra một gói Marlboros và cái
bật lửa. Ông ta lấy chiếc gạt tàn kim loại gấp trong túi và mở nó ra. Bắt
tréo đôi chân gầy guộc. Ông ta trông giống như một chàng công tử bột
trong phòng hút thuốc của một trường đại học hàng đầu. “Lincoln, anh
hiểu vấn đề của chúng ta ở đây, đúng không nào?”
Chắc chắn rồi, anh hiểu. Đó chính là lý do vì sao Berger đến đây và vì
sao một trong những bác sĩ của Rhyme chưa “làm nhiệm vụ”. Đem một
cái chết không thể tránh khỏi đến ngay lập tức là một chuyện; gần một
phần ba số bác sĩ hành nghề điều trị cho những bệnh nhân không thể
qua khỏi đã kê hoặc cho kê những đơn thuốc quá liều. Phần lớn các
công tố viên làm ngơ trước điều đó, trừ khi chính bác sĩ tiết lộ – như
trường hợp của Kevorkian.
Nhưng còn một người liệt tứ chi? Người bán thân bất toại? Người liệt
toàn thân? Người tàn tật? Ồ, đó lại là chuyện khác. Lincoln Rhyme
năm nay bốn mươi tuổi. Anh không còn phải dùng máy thở, nếu không
vì một số gen ẩn nào đó trong dòng họ Rhyme thì không có lý do y học
nào khiến anh không thể sống đến tám mươi tuổi.
Berger nói thêm: “Tôi xin phép được thô lỗ một chút, Lincoln. Tôi cần
đảm bảo rằng đây không phải là một cái bẫy.”
“Một cái bẫy?”
“Các công tố viên. Trước đây tôi cũng đã từng mắc bẫy.”
Rhyme cười. “Chưởng lý New York là một người bận bịu. Ông ta sẽ
không mất công nghe trộm một người tàn tật đang tìm cho mình một
người ủng hộ quyền được chết không đau đớn đâu.”
Liếc nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án.
… cách nạn nhân khoảng mười feet về phía tây nam, tìm thấy vài thứ
trên một đống cát trắng: một cuộn sợi đường kính khoảng sáu cm, bắt
đầu phai màu. Sợi đã được phân tích trong máy X-quang tán xạ năng
lượng và cho thấy có chứa A2 B5 (Si, Al)8 O22 (OH)2. Không tìm
thấy nguồn, không phân biệt được sợi. Mẫu đã đuợc gửi tới văn phòng
PERT28 của FBI để phân tích.
28 PERT: Nhóm Phản ứng Vật chứng.
“Tôi phải thận trọng”, Berger nói tiếp. “Việc này là cả sự nghiệp của
tôi. Tôi đã hoàn toàn từ bỏ ngành lão khoa. Nói chung, đó không chỉ là
công việc. Tôi quyết định dành cuộc đời mình để giúp người khác chấm
dứt cuộc đời họ.”
Bên cạnh cuộn sợi còn tìm thấy hai mẩu giấy cách đó khoảng ba
inch29. Một mẩu là loại giấy báo bình thường, trên đó có mấy từ “3:00
PM” in với phông chữ Times Roman bằng loại mực in báo thương
mại thông thường. Mẩu giấy kia có vẻ như là góc của một trang sách
trên đó có in số trang “823”. Phông chữ Garamond và được ghi ngày.
Phân tích ALS30 và phân tích ninhydrin31 tiếp theo không cho thấy
dấu vết in hằn trên mặt giấy. Không thể phân loại được.
Có vài điều hối thúc Rhyme. Thứ nhất là cuộn sợi. Vì sao Peretti lại
không biết được ngay đó là gì nhỉ? Cái đó thật rõ ràng. Và vì sao
những vật chứng này – những mẩu giấy và cuộn sợi – lại nằm cạnh
nhau? Ở đây có gì đó không ổn.
“Lincoln?” “Tôi xin lỗi.”
“Tôi đang nói là… Anh không phải nạn nhân bỏng đang chịu cơn đau
không thể chịu đựng nổi. Anh không phải là người vô gia cư. Anh có
tiền, anh có tài năng. Việc tư vấn cho cảnh sát của anh… việc đó giúp
được rất nhiều người. Nếu anh muốn, anh có thể có… một cuộc sống
hữu ích phía trước. Một cuộc đời dài.”
“Dài, đúng. Thế mới là vấn đề. Một cuộc đời dài.” Anh cảm thấy mệt
vì phải tỏ ra có thái độ cư xử tốt. Anh nói: “Nhưng tôi không muốn
một cuộc đời dài. Đơn giản thế thôi.”
Berger chậm rãi nói: “Nếu có bất kỳ một cơ hội nhỏ nhất nào mà anh
lại tiếc nuối về quyết định của mình, thì, xem nào, tôi là người phải sống
với nó. Không phải anh.”
“Ai mà có thể chắc chắn về một điều gì đó tương tự được?” Ánh mắt
anh lại quay về với bản báo cáo.
Tìm thấy được một con ốc kim loại bên trên các mẩu giấy. Đó là một
con ốc hình lục lăng, trên đầu có đóng các chữ “CE”. Dài hai inch,
xoắn theo chiều kim đồng hồ, đường kính 15/16 inch.
“Mấy ngày tới tôi bận”, Berger nhìn đồng hồ nói. Đó là một chiếc
Rolex. Hừm, cái chết luôn sinh lời. “Giờ thì chúng ta có khoảng một
tiếng. Hãy nói chuyện một lúc, sau đó anh có một ngày nghỉ ngơi và tôi
sẽ quay lại.”
29 Inch: Một icnh tương đương với 2.54 cm.
30 ALS: Xem phần phụ lục.
31 Ninhydrin: Xem phần phụ lục.
Điều gì đó hối thúc Rhyme. Một cơn ngứa điên người – lời nguyền của
tất cả những người liệt tứ chi – mặc dù trường hợp này là một cơn
ngứa trí tuệ. Kiểu ngứa ngáy ám ảnh cả cuộc đời anh.
“Này bác sĩ, làm ơn giúp tôi một chút, được không? Bản báo cáo ở
kia. Anh có thể lật qua nó, được không? Tìm cho tôi bức hình của một
con ốc.”
Berger ngần ngại. “Một bức hình?”
“Một bức hình Palaroid chụp lấy ngay. Nó phải được gắn đâu đó ở
cuối. Cái khung lật trang này chậm quá.’
Berger nhấc bản báo cáo ra khỏi cái khung và lật trang giúp Rhyme.
“Ở đó. Dừng.”
Anh nhìn vào bức hình và một cảm giác khẩn cấp khó chịu chiếm lấy
anh. Ôi, không phải ở đây, không phải lúc này. Làm ơn đi, không.
“Tôi xin lỗi, anh có thể lật lại trang lúc nãy được không?” Berger lật lại.
Rhyme không nói gì, chăm chú đọc. Những mẩu giấy…
3:00 PM… trang 823
Tim Rhyme đập mạnh, đổ mồ hôi trán. Anh nghe tiếng ù ù trong tai.
Đây là một tiêu đề bài báo trong một tờ báo khổ nhỏ. MỘT NGƯỜI
CHẾT KHI NÓI CHUYỆN VỚI BÁC SĨ TỬ THẦN…
Berger chớp mắt. “Lincoln? Anh ổn chứ?” Đôi mắt từng trải của người
đàn ông quan sát Rhyme thật kỹ lưỡng.
Cố gắng tỏ ra bình thường nhất có thể, Rhyme nói: “Tôi hiểu, bác sĩ, tôi
xin lỗi. Nhưng tôi cần làm mấy việc.”
Berger chậm rãi gật đầu, không chắc chắn lắm. “Cuối cùng thì vụ này
không được ổn lắm, phải không?”
Cười. Lãnh đạm. “Tôi băn khoăn không biết có thể yêu cầu ông quay
lại đây sau vài giờ nữa đươc không?”
Cẩn thận. Nếu ông ta cảm nhận được mục đích, ông ta sẽ coi anh là
loại không muốn tự sát, lấy lại đám chai lọ và cái túi nhựa của ông ta
rồi bay về xứ Starbucks.
Mở cuốn sổ hẹn ra, Berger nói: “Ngày hôm nay không được. Ngày
mai… Không. Tôi sợ rằng sớm nhất là thứ Hai. Ngày kia.”
Rhyme ngần ngừ. Chúa ơi… Sự mong chờ cuối cùng đã gần như nằm
trong tay anh, điều mà anh mơ tới hằng ngày trong mấy năm qua. Có
hay không?
Quyết định.
Cuối cùng, Rhyme nghe thấy mình nói: “Được. Thứ hai.” Cố nặn ra
một nụ cười vô vọng.
“Chính xác thì vấn đề là gì?”
“Một người cùng làm với tôi trước kia. Anh ta muốn có lời khuyên của
tôi. Tôi chưa thực sự quan tâm tới điều đó, như tôi cần phải làm. Tôi
phải gọi cho anh ta.”
Không, đó chẳng phải là liệt phản xạ, đó là một cơn lo lắng.
Lincoln Rhyme cảm thấy điều gì đó mà lâu lắm anh chưa hề cảm thấy.
Anh đang cực kỳ vội vàng.
“Ông có thể gọi Thom lên đây được không? Tôi nghĩ cậu ta ở dưới
nhà, trong
bếp.”
“Vâng, tất nhiên rồi. Rất vui lòng.”
Rhyme có thể nhìn thấy điều gì đó khác thường trong mắt Berger. Cái
gì vậy? Có
thể. Gần như là sự thất vọng. Khi tiếng chân người bác sĩ nhỏ dần dưới
cầu thang, Rhyme hét lên với chất giọng trầm như bom nổ: “Thom?
Thom!”
“Gì vậy?” Giọng người thanh niên trả lời.
“Gọi cho Lon. Bảo anh ta quay lại đây. Ngay bây giờ.”
Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Đã quá trưa. Họ chỉ còn chưa đầy ba giờ
nữa.
BỐN
“Hiện trường vụ án bị dàn cảnh”, Lincoln Rhyme nói.
Lon Sellitto phanh áo khoác, để lộ một chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ. Anh ta
đang ngửa lưng về phía sau, khoanh tay, dựa vào một cái bàn đầy sách
báo.
Jerry Banks cũng đã quay lại, đôi mắt xanh nhợt của anh ta đang nhìn
vào mắt
Rhyme; cái giường và bảng điều khiển không còn làm anh ta quan tâm
nữa.
Sellitto nghiêm nghị. “Vậy đối tượng định nói gì với chúng ta?”
Trên hiện trường vụ án, đặc biệt là những vụ giết người, đối tượng
thường chơi đùa với PE32 hòng lừa điều tra viên. Một số tên khá thông
minh, nhưng phần lớn không như vậy. Chẳng hạn một người chồng
đánh vợ mình đến chết rồi tạo hiện trường như vụ cướp – mặc dù anh
ta chỉ nghĩ tới việc ăn trộm đồ nữ trang của cô ta – mà vẫn để lại chiếc
vòng cổ vàng và chiếc nhẫn kim cương hồng của mình trong ngăn kéo.
“Điều thú vị”, Rhyme nói tiếp. “Không phải là điều đã xảy ra, Lon. Mà
là điều sẽ
xảy ra.”
Sellitto nghi ngờ hỏi: “Điều gì khiến anh nghĩ vậy?” “Những mẩu giấy.
Chúng có nghĩa là ba giờ chiều nay.” “Hôm nay?”
“Nhìn này!” Hất đầu về phía bản báo cáo, một cái hất đầu thiếu kiên
nhẫn.
“Mẩu giấy đó nói ba giờ chiều”, Banks chỉ ra. “Nhưng mẩu kia chỉ có
số trang. Tại sao anh nghĩ như thế có nghĩa là hôm nay?”
“Đấy không phải là số trang.” Rhyme nhướn mày. Họ vẫn chưa hiểu.
“Logic! Lý do duy nhất khi bỏ lại dấu vết là để nói gì đó với chúng ta.
Nếu đúng như vậy thì 823 phải có ý nghĩa gì khác hơn là số trang, vì
chẳng có dấu hiệu gì để chỉ ra nó được lấy từ cuốn sách nào. Và nếu
đó không phải là số trang thì sẽ là gì được?”
Im lặng.
Điên tiết. Rhyme quát lên: “Đấy là ngày tháng. Tám hai mươi ba. Ngày
Hai mươi ba tháng Tám. Điều gì đó sẽ xảy ra lúc ba giờ chiều nay. Còn
bây giờ, một cuộn sợi? Đấy là abestos33.”
“Abestos?” Sellitto hỏi.
“Trong bản báo cáo? Công thức? Đó là hornblende34. Silicon
dioxide. Đó là
abestos. Vì sao Peretti lại gửi nó cho FBI thì tôi không hiểu. Như vậy
thì sao. Chúng ta có
32 PE (viết tắt của Physical Evidence): Vật chứng – Xem phần phụ
lục.
33 Amiăng: Tên một nhóm các khoáng chất có trong tự nhiên dưới
dạng sợi và được sử dụng trong một số ngành công nghiệp.
34 Hornblende: Tên một loại khoáng chất.
abestos trên lòng đường ray, nơi mà không thể có được. Và chúng ta
có một con ốc sắt với phần đầu hoen gỉ nhưng phía dưới thì không.
Điều đó có nghĩa là con ốc này đã được vặn ở đâu đó rất lâu và mới
được tháo ra.”
“Có thể nó được moi từ dưới đất lên”, Banks đề xuất. “Khi hắn ta đào
huyệt?” Rhyme nói: “Không. Ở Midtown nền đá rất gần với mặt đất,
điều đó có nghĩa là
tầng ngậm nước cũng vậy. Tất cả đất từ Phố Ba mươi tư lên tới khu
Harlem chứa đủ nước
để làm oxy hóa sắt trong vòng vài ngày. Nếu bị chôn, nó sẽ phải gỉ
hoàn toàn chứ không chỉ phần đầu. Không phải, nó đã được tháo ra ở
đâu đó, được đem tới hiện trường và được bỏ lại đó. Còn cát… Nào,
cát trắng làm gì trên đường tàu ở Midtown Manhattan? Thành phần đất
ở đây là đất mùn, phù sa, đá vôi, nền cứng và đất sét mềm.”
Banks bắt đầu nói nhưng Rhyme đột ngột cắt lời anh ta. “Và tất cả
những thứ đó được tập hợp lại để làm gì? Ồ, nghi phạm của chúng ta,
hắn định nói điều gì đó với chúng ta. Chắc chắn là thế. Banks, còn cánh
cửa để vào thì sao?”
“Anh đã đúng”, người thanh niên nói. “Họ tìm thấy một cánh cửa cách
huyệt khoảng một trăm feet về phía bắc. Bị phá từ bên trong. Anh cũng
đúng về dấu tay. Chẳng có gì. Cũng chẳng có vết lốp xe hay dấu vết
nào.”
Một cuộn abestos bẩn, một con ốc, một tờ báo rách… “Hiện trường?”
Rhyme hỏi. “Vẫn nguyên trạng chứ?” “Đã giải phóng rồi.”
Lincoln Rhyme, một kẻ tàn tật với lá phổi của tên sát nhân, ầm ĩ thở hắt
ra, đầy kinh tởm. “Ai mắc sai lầm này?”
“Tôi không biết”, Sellitto nói, vẻ không thuyết phục. “Có thể là người
chỉ huy giám sát.”
Đó là Peretti, Rhyme hiểu. “Giờ thì các anh kẹt với những gì các anh
có.”
Bất kỳ dấu vết nào để chỉ ra kẻ bắt cóc là ai và hắn đang mưu tính điều
gì hoặc đã nằm trong báo cáo, hoặc đã vĩnh viễn biến mất; đã bị chân
của cảnh sát, người đến xem và nhân viên đường sắt giẫm lên. Đào bới
– hỏi han dân cư xung quanh hiện trường vụ án, phỏng vấn nhân
chứng, thu thập chứng cứ, những công việc truyền thống của thám tử
– được tiến hành một cách nhàn nhã. Nhưng hiện trường vụ án phải
được khảo nghiệm “như sét đánh”, Rhyme thường hạ lệnh cho sĩ quan
của mình ở IRD. Anh đã đuổi việc vài kỹ thuật viên CSU35, những
người di chuyển không được nhanh như anh yêu cầu.
“Có phải Peretti tự xử lý hiện trường không?” Anh hỏi. “Peretti và toàn
thể bộ sậu.”
“Toàn thể bộ sậu?” Rhyme hỏi chế giễu. “Toàn thể bộ sậu là cái gì?”
Sellitto nhìn Banks, người trả lời: “Bốn kỹ thuật viên ảnh, bốn người lấy
dấu. Tám nhân viên tìm kiếm. Bác sĩ khám nghiệm ME.”
“Tám nhân viên tìm kiếm hiện trường vụ án?”
35 CSU (viết tắt của Crime Scene Unit): Đơn vị Khám nghiệm Hiện
trường.
Trong khám nghiệm hiện trường vụ án, có một đường cong dạng
chuông. Hai sĩ quan được xem là hiệu quả nhất khi khám nghiệm hiện
trường giết người. Một mình, anh có thể bỏ qua vài thứ, ba người trở
lên anh còn đánh mất nhiều thứ hơn. Lincoln Rhyme luôn khám nghiệm
hiện trường một mình. Anh để nhân viên lấy dấu vân tay, dấn chân,
chụp ảnh, quay phim. Còn anh luôn tự mình đan lưới.
Peretti. Khoảng sáu, bảy năm trước Rhyme đã thuê người thanh niên
này, con trai một chính trị gia giàu có và anh ta đã chứng tỏ được mình
là một thám tử hiện trường tốt, rất sách vở. Đơn vị khám nghiệm hiện
trường luôn được coi là một nơi béo bở và thường phải xếp hàng khá
dài để vào được đơn vị. Rhyme luôn thích thú khi được rút ngắn hàng
người đợi này bằng cách cho họ xem album ảnh gia đình – một bộ sưu
tập những bức ảnh hiện trường vụ án kinh khủng nhất. Một số sĩ quan
tái mặt, một số khác cười khẩy. Một vài người trả lại cuốn album,
nhướn lông mày như muốn hỏi, Thì sao? Và đó lại là những người mà
Lincoln Rhyme sẽ thuê. Peretti là một người như vậy.
Sellitto hỏi một câu. Rhyme thấy người thám tử này đang nhìn anh.
Sellitto nhắc lại: “Anh sẽ cùng chúng tôi làm vụ này chứ, Lincoln?”
“Làm việc với anh?” Lincoln vừa ho vừa cười. “Không được đâu, Lon.
Không. Tôi chỉ đưa ra cho các anh vài ý tưởng thôi. Anh có chúng rồi
đấy. Dùng chúng đi. Thom, gọi Berger cho tôi.” Anh đang nuối tiếc
việc lùi cuộc gặp mặt đối mặt với bác sĩ tử thần. Có thể vẫn chưa quá
muộn. Anh không thể chịu đựng nổi ý nghĩ phải chờ thêm một, hai ngày
nữa cho sự ra đi của mình. Và thứ Hai… Anh không muốn chết vào
thứ Hai. Điều này xem ra quá tầm thường.
“Hãy nói làm ơn đi.” “Thom!”
“Được rồi”,. người trợ lý trẻ tuổi nói, giơ hai tay đầu hàng.
Rhyme liếc nhìn vào một điểm trên chiếc bàn đầu giường của anh, cái
lọ, những viên thuốc và cái túi nhựa đã được đặt ở đó – quá gần,
nhưng lại giống với tất cả những thứ khác trong cuộc đời này, hoàn
toàn nằm ngoài tầm với của Lincoln Rhyme.
Sellitto gọi một cuộc điện thoại, nghiêng đầu khi cuộc gọi thông. Anh ta
tự giới thiệu. Chiếc đồng hồ trên tường chỉ 12:30.
“Vâng, thưa ngài.” Giọng viên thám tử trầm xuống thành tiếng thì thầm
kính trọng. Thị trưởng, Rhyme đoán. “Về vụ bắt cóc ở sân bay
Kennedy. Tôi đã nói chuyện với Lincoln Rhyme… Vâng, thưa ngài,
anh ta đã có một vài ý tưởng về việc này.” Viên thám tử bước về phía
cửa sổ, nhìn chằm chằm con chim ưng một cách trống rỗng và đang cố
gắng giải thích một điều không thể giải thích cho người đàn ông đang
điều hành thành phố bí ẩn nhất thế giới này. Anh ta dập máy và quay lại
phía Rhyme.
“Ông ta và cả sếp muốn có anh, Linc. Họ đòi riêng anh. Chính
Wilson.”
Rhyme cười. “Lon. Nhìn quanh phòng xem. Nhìn tôi đây! Có giống
như là tôi đang làm vụ này không?”
“Không phải một vụ bình thường, không. Nhưng đây là một vụ không
bình thường lắm, phải không nào?”
“Tôi xin lỗi. Tôi không có thời gian. Người bác sĩ lúc nãy. Việc điều trị.
Thom, cậu đã gọi ông ta chưa?”
“Vẫn chưa. Sẽ gọi ngay bây giờ đây.”
Thom nhìn Sellitto. Đi về phía cửa, bước ra ngoài. Rhyme biết cậu ta
sẽ không gọi. Thế giới này thật tệ hại.
Banks chạm tay vào một vết sẹo cạo râu hình chấm và ngắt lời: “Hãy
nói cho chúng tôi một vài suy nghĩ của anh. Làm ơn đi. Kẻ nghi phạm
đó, hắn…”
Sellitto xua tay để cậu ta im lặng. Anh ta vẫn nhìn Rhyme.
Ôi, đồ đê tiện, Rhyme nghĩ. Sự lặng im ngày xưa cũ. Chúng ta thường
ghét nó đến đâu và luôn vội vàng để lấp đầy nó. Biết bao nhiêu nhân
chứng và nghi phạm đã ẩn nấp dưới những sự im lặng nóng bỏng, dày
đặc như thế này. Đúng, anh và Sellitto đã từng làm việc với nhau rất ăn
ý. Rhyme hiểu chứng cứ còn Sellitto hiểu con người.
Hai người lính ngự lâm. Và nếu có người thứ ba, thì đó là Sellitto im
lặng tinh khiết đầy nghiêm nghị.
Ánh mắt của viên thám tử chìm sâu vào bản báo cáo hiện trường vụ án.
“Lincoln, theo anh nghĩ điều gì sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều nay?”
“Tôi không có ý tưởng gì”, Rhyme tuyên bố. “Không phải thế chứ?”
“Rẻ tiền quá, Lon. Tôi sẽ trị anh đấy.”
Cuối cùng, Rhyme nói. “Hắn ta sẽ giết cô ấy – người phụ nữ trên chiếc
taxi. Và giết một cách rất tệ hại, tôi đảm bảo với các anh đấy. Một
kiểu có thể sánh ngang với chôn sống.”
“Chúa ơi”, Thom thì thầm phía ngoài cửa.
Vì sao họ lại không để anh yên? Liệu có tốt hơn không khi anh nói cho
họ biết về cơn đau anh đang cảm thấy ở cổ và trên vai? Hay là những
cơn đau ma quái – yếu hơn nhiều và khó chịu hơn nhiều – đang lang
thang khắp cơ thể xa lạ của anh? Về sự kiệt sức mà anh phải chịu
đựng hằng ngày khi cố gắng để làm mọi thứ, sự thực là thế. Về sự vô
vọng lớn nhất – việc phải trông cậy hoàn toàn vào người khác?
Có thể anh sẽ nói với họ về con muỗi bay vào phòng tối qua và châm
chích đầu anh suốt một tiếng đồng hồ; Rhyme chóng cả mặt khi cứ
phải gật đầu để xua nó đi cho tới khi con côn trùng đáp xuống tai anh,
chỗ mà anh chấp nhận cho nó đốt, vì đó là chỗ mà anh có thể dụi
xuống gối cho đỡ ngứa.
Sellitto nhướn mày.
“Hôm nay”, Rhyme thở dài. “Một ngày. Thế thôi.”
“Cảm ơn, Linc. Chúng tôi nợ anh.” Sellitto kéo chiếc ghế lại gần
giường. Ra hiệu cho Banks làm theo. “Còn bây giờ. Cho tôi biết suy
nghĩ của anh. Trò chơi của thằng khốn này là gì?”
Rhyme nói: “Đừng nhanh quá như thế. Tôi không làm việc một mình.”
“Một kỹ thuật viên của IRD. Người giỏi nhất trong phòng thí nghiệm.
Tôi muốn anh ta ở đây với những thiết bị cơ bản. Và chúng ta hãy sẵn
sàng với đội chiến thuật. Cấp cứu. Và tôi muốn có vài số điện thoại.”
Rhyme hạ lệnh, liếc nhìn chai Scotch trên ngăn kéo của mình. Anh nhớ
lại chai rượu mạnh Berger có trong bộ đồ nghề của ông ta. Không đời
nào anh lại ra đi bằng cái thứ rác rưởi rẻ tiền đó. Buổi Ra đi Cuối cùng
của anh ít nhất sẽ phải là loại Lagavulin mười sáu năm hay Macallan
được để vài chục năm. Hoặc – mà sao lại không nhỉ? – cả hai.
Banks rút điện thoại di động. “Số loại nào? Chỉ cần…” “Số cố định.”
“Ở đây?”
“Tất nhiên là không phải rồi”, Rhyme quát lên.
Sellitto nói: “Ý anh ta là anh muốn người khác gọi điện thoại. Từ Đại
Bản
Doanh36.”
“Ồ.”
“Gọi vào thành phố”, Sellitto ra lệnh. “Bảo họ cho ta ba đến bốn điều
phối viên.” “Lon”, Rhyme hỏi. “Ai là người khám nghiệm tử thi ngày
hôm nay?”
Banks nuốt vào một nụ cười. “Những Chàng trai Dũng cảm.”
Một cái liếc mắt của Rhyme tước bỏ nụ cười khỏi khuôn mặt anh ta.
“Thám tử
Bedding và Saul, thưa ngài”, chàng thanh niên vội nói.
Nhưng sau đó ngay cả Sellitto cũng nhăn mặt. “Những Chàng trai
Dũng cảm. Mọi người đều gọi họ thế cả. Anh không biết họ đâu, Linc.
Họ làm trong Nhóm Đặc nhiệm Điều tra Trọng án của thành phố.”
“Thứ nhất là họ trông hơi giống nhau”, Banks giải thích. “Thứ hai là kết
quả của họ cũng hơi buồn cười.”
“Tôi không muốn bọn diễn viên hề.”
“Không, họ giỏi đấy”, Sellitto nói. “Những điều tra viên hiện trường tốt
nhất của chúng tôi. Anh có biết con quái vật đã bắt cóc cô bé tám tuổi
ở Queens năm ngoái không? Bedding và Saul đã điều tra đấy. Họ thẩm
vấn toàn bộ vùng lân cận – thu được hai nghìn hai trăm lời khai. Điều
đó giúp chúng tôi cứu được cô bé. Khi chúng tôi được biết nạn nhân
sáng nay là hành khách từ sân bay JFK, sếp Wilson đã phái họ đi.
“Giờ họ đang làm gì?”
“Chủ yếu là nhân chứng. Quanh đường ray. Và đánh hơi xung quanh
tìm người lái xe và chiếc taxi.”
Rhyme quát Thom ở phía cuối hành lang: “Cậu đã gọi cho Berger
chưa? Không, tất nhiên là cậu chưa gọi. Cậu có hiểu từ ‘bất tuân
thượng lệnh’ không? Ít nhất hãy tỏ ra
36 Đại Bản Doanh (nguyên văn là Big Building): Cách gọi One Police
Plaza (sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York) của cảnh sát New
York.
có ích một chút. Hãy đưa cái báo cáo hiện trường vụ án lại gần hơn và
lật trang đi.” Anh hất đầu về phía cái khung lật trang. “Cái của nợ này
là của Edsel đấy.”
“Chẳng phải hôm nay chúng ta đang có tâm trạng vui vẻ hay sao?”
Người trợ lý đối đáp.
“Nâng nó cao lên. Tôi bị lác đến nơi rồi.” Anh đọc khoảng một phút,
rồi nhìn lên.
Sellitto đang nói điện thoại, nhưng Rhyme ngắt lời anh ta. “Bất kể là
điều gì sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều nay, nếu chúng ta có thể tìm được nơi
hắt ta đang nói tới thì đó cũng sẽ là một hiện trường vụ án. Tôi cần ai
đó khám nghiệm chỗ này.”
“Tốt”, Sellitto nói. “Tôi sẽ gọi Peretti. Ném cho anh ta một cái xương.
Tôi biết là mũi anh ta sẽ vểnh lên vì chúng ta đang đi rón rén quanh anh
ta.”
Rhyme gầm gừ. “Tôi có càn đến Peretti đâu?”
“Nhưng anh ta là chàng trai vàng của IRD”, Banks nói.
“Tôi không muốn anh ta”, Rhyme cằn nhắn. “Sẽ có ai đó khác mà tôi
muốn.” Sellitto và Banks nhìn nhau. Viên thám tử lớn tuổi hơn cười,
xoa tay một cách vô
nghĩa vào chiếc áo sơ mi nhàu nát của anh ta. “Bất cứ người nào anh
muốn, Linc, anh sẽ
có người đó. Hãy nhớ rằng hôm nay anh là vua.”
Nhìn chằm chằm vào con mắt mờ đục.
T.J. Colfax, kẻ trốn chạy có mái tóc đen từ vùng đồi Đông Tennessee,
tốt nghiệp Trường Quản trị Kinh doanh, Đại học New York, một
người buôn bán tiền tệ nhanh như chớp, vừa bơi ra khỏi giấc mộng sâu.
Mái tóc rối bù của cô vướng vào gò má, mồ hôi chảy thành dòng trên
mặt, cổ và ngực.
Cô thấy mình đang nhìn vào một con mắt đen – một cái lỗ trong một
ống hoen gỉ, đường kính khoảng sáu inch, một cái đĩa truy cập nhỏ đã
được lấy ra từ đó.
Cô hít thứ không khí mốc meo vào mũi. Miệng cô vẫn đang bị dán
chặt, có vị nhựa, chất hồ dán cay. Đắng.
Còn John? Cô băn khoăn. Anh ta đâu rồi? Từ chối không nghĩ tới tiếng
nổ lớn trong tầng hầm đêm qua. Cô lớn lên ở Đông Tennessee và cô
biết tiếng súng nghe như thế nào.
Làm ơn đi, cô cầu nguyện cho sếp. Hãy để anh ta bình an.
Bình tĩnh nào, cô nổi giận với chính mình. Mày lại sắp khóc rồi đấy,
mày nhớ điều gì đã xảy ra mà. Trong tầng hầm, sau tiếng súng nổ, cô
đã mất phương hướng hoàn tàn, suy sụp, thổn thức trong cơn hoảng
loạn và gần như bị chết ngạt.
Đúng rồi. Bình tĩnh.
Nhìn vào con mắt đen trên cái ống. Tưởng như nó đang nháy mắt với
mày. Con mắt của thiên thần hộ mệnh.
T.J. ngồi trên sàn, bị hàng trăm đường ống, những đường ống dẫn,
những đường cáp điện ngoằn ngoèo như rắn bao quanh. Nóng hơn cả
bữa ăn tối tại nhà anh cô, nóng hơn cả cái ghế sau chiếc Nova của Jule
Whelan mười năm trước. Nước nhỏ xuống, stalactite37 rơi xuống từ
những cái xà nhà trên đầu cô. Khoảng nửa tá bóng đèn màu vàng
nhỏ xíu là nguồn chiếu sáng duy nhất. Trên đầu cô – ngay trên đỉnh đầu
– là một cái biển báo. Cô không thể đọc được nó một cách rõ ràng, dù
cô có thể nhìn thấy đường viền đỏ. Phía sau cái thông điệp gì đó có
một dấu chấm than to tướng.
Cô cố thử lại một lần nữa, nhưng cái còng giữ cô chặt quá, chọc cả
vào xương. Từ cổ họng cô dâng lên một tiếng hét tuyệt vọng, tiếng kêu
thét của thú vật. Nhưng miếng băng dính dày trên miệng cô và tiếng ồn
ào không nghỉ của máy móc đã nuốt mất âm thanh đó; không ai có thể
nghe thấy tiếng của cô.
Con mắt đen tiếp tục nhìn chằm chằm. Mày sẽ cứu tao, đúng không?
Cô nghĩ.
Bất ngờ, sự im lặng bị phá vỡ bởi một tiếng lanh lảnh, một cái chuông
sắt, ở rất xa. Như cánh cửa của một con tàu bị sập lại. Tiếng động đến
từ cái lỗ trên miệng ống. Từ con mắt thân thiện của cô.
Cô thúc còng vào cái ống và cố đứng dậy. Nhưng cô không thể di
chuyển được quá vài inch.
Được rồi, không hoảng loạn. Thư giãn. Mày sẽ ổn thôi.
Đó chính là lúc cô nhìn thấy cái biển báo trên đầu. Trong khi cố thả
lỏng, cô đã đứng thẳng lên được một chút và nghiêng đầu sang một
bên. Điều đó khiến cô có thể nhìn thấy rõ hơn các từ.
Ôi không, Chúa trong tim con… Và nước mắt lại rơi.
Cô hình dung ra mẹ cô, tóc buộc ngược phía sau, khuôn mặt tròn, mặc
bộ đồ ở nhà màu xanh – vàng râu ngô, thì thầm: Ổn thôi, con yêu.
Đừng lo lắng gì.”
Nhưng cô không tin những lời đó. Cô tin vào điều mà biển báo đó nói.
Rất nguy hiểm! Hơi siêu nóng dưới áp suất cao. Không nhấc đĩa ra
khỏi ống. Gọi
Edison Hợp nhất để truy cập. Rất nguy hiểm.
Con mắt đen mở nhìn cô, con mắt mở vào trái tim của đường ống dẫn
hơi nước. Nó nhìn thẳng vào phần thịt màu hồng trên ngực cô. Từ đâu
đó tít ở sâu trong cái ống xuất hiện một tiếng kim loại đập vào kim loại,
những người công nhân đang đập búa, vặn chặt lại những mối nối cũ.
37 Stalactite: Thạch nhũ.
Trong khi Tammie Jean Colfax khóc lóc, cô nghe thấy một tiếng va
đập nữa. Sau đó là một tiếng rên từ xa, rất nhẹ. Và qua hàng lệ, cô
thấy hình như cuối cùng con mắt đen đã nhấp nháy.
NĂM
“Tình hình là như thế này”, Lincoln Rhyme tuyên bố. “Chúng ta có một
nạn nhân bị bắt cóc và thời điểm là ba giờ chiều nay.”
“Không có việc đòi hỏi tiền chuộc”, Sellitto thêm vào phần tóm tắt của
Rhyme, sau đó anh ta quay đi để trả lời cuộc điện thoại gọi đến.
“Jerry”, Rhyme nói với Banks, “tóm tắt cho họ biết về hiện trường vụ
án sáng nay”.
Trong căn phòng tối tăm của Lincoln Rhyme đang có nhiều người lượn
lờ hơn lúc nào hết. Ồ, sau tai nạn, thỉnh thoảng bạn bè cũng đến mà
không báo trước (tất nhiên khả năng Rhyme ở nhà là rất cao), nhưng
anh đã không ủng hộ việc này. Và anh cũng không trả lời điện thoại,
ngày càng ẩn dật hơn, trôi dần vào sự cô đơn. Anh dành nhiều thời gian
cho việc viết sách và khi không còn cảm hứng để viết thêm cuốn nào
nữa, thì anh đọc. Khi chán đọc đã có phim thuê, truyền hình trả tiền và
âm nhạc. Rồi sau đó anh bỏ cả ti vi và dàn âm thanh, chuyển sang
ngắm nghía hàng giờ liền các phiên bản in nghệ thuật mà người trợ lý đã
treo lên bức tường đối diện chiếc giường nằm. Cuối cùng, những bức
tranh này cũng được hạ xuống.
Cô độc.
Đó là tất cả những gì anh cầu xin, và bây giờ thì anh nhớ nó biết bao.
Jim Polling đang đi lại, trông có vẻ căng thẳng. Lon Sellitto là sĩ quan
phụ trách vụ án, nhưng những sự kiện như thế này cần có một đại úy
chỉ huy và Polling đã tình nguyện làm việc đó. Vụ này là một quả bom
hẹn giờ và có thể phá tung sự nghiệp trong nháy mắt, do đó sếp và đội
truyền thông của sở sẵn sàng để anh ta đứng ra chắn đạn. Họ sẽ thực
hành môn nghệ thuật tạo khoảng cách và khi máy quay phim hoạt
động, những cuộc họp báo của họ sẽ được rắc đầy những từ như kiểu
ủy quyền, chỉ định và nhận lời khuyên của… Họ sẽ nhanh chóng liếc
sang Polling khi có những câu hỏi khó khăn. Rhyme chẳng thể hình
dung được tại sao bất kỳ cảnh sát nào trên thế giới cũng có thể tình
nguyện làm công việc đó trong một vụ như thế này.
Polling là một người kỳ lạ. Một con người nhỏ bé đã tự khai phá
đường đi cho mình qua khu vực Bắc Midtown như một trong những
thám tử điều tra các vụ giết người thành công và nổi tiếng nhất thành
phố. Nổi tiếng nóng tính, anh ta đã gặp rắc rối nghiêm trọng khi giết
chết một nghi phạm không có vũ khí. Nhưng thật kỳ lạ là anh ta lại có
thể khôi phục sự nghiệp của mình bằng cách kết thúc thành công vụ
Shepherd – vụ giết cảnh sát hàng loạt, vụ mà Rhyme bị thương. Được
thăng cấp đại úy sau lần bắt bớ rất công khai này, Polling trải qua một
trong những thay đổi khó khăn nhất của cuộc đời – từ bỏ
chiếc quần jeans xanh và những bộ vét Sears38 để đổi lấy những bộ
vét sang trọng của
Brooks Brothers (hôm nay anh ta mặc một bộ Calvin Klein màu xanh
hải quân) – và bắt
đầu cuộc leo trèo lì lợm của mình lên một góc văn phòng xa hoa ở One
Police Plaza.
Một sĩ quan khác đang dựa vào cái bàn gần đó. Tóc húi cua, vóc dáng
cao chắc chắn, Bo Haumann là một đại úy và chỉ huy ESU39. Đội đặc
nhiệm SWAT40 của NYPD.
38 Sears: Một thương hiệu bình dân.
39 ESU (viết tắt của Emergency Services Unit): Đơn vị Phản ứng
nhanh.
Banks kết thúc phần giới thiệu tóm tắt của mình đúng lúc Sellitto kết
thúc cuộc điện đàm của anh ta. “Những Chàng trai Dũng cảm.”
“Có thêm thông tin gì về chiếc taxi không?” Polling hỏi. “Không có gì.
Họ vẫn đang đập bụi.”
“Có bất kỳ dấu hiệu gì chứng tỏ cô ta ngủ với ai đó mà cô ta không
nên hay không?” Polling hỏi. “Có thể là một thằng bạn trai thần kinh?”
“Không. Không có bạn trai. Chỉ hẹn hò bình thường với mấy anh
chàng. Trông có vẻ như không có ai theo đuổi.”
“Không có ai gọi điện đòi tiền chuộc?” Rhyme hỏi. “Không.”
Chuông cửa reo. Thom ra mở cửa.
Rhyme nhìn về phía những giọng nói đang lại gần.
Một khoảnh khắc sau đó, người trợ lý dẫn một sĩ quan cảnh sát mặc
cảnh phục lên cầu thang. Từ xa trông cô ta có vẻ rất trẻ, nhưng khi lại
gần anh áng chừng cô ta khoảng ba mươi tuổi. Cô ta cao và có vẻ đẹp
“vênh váo” của những người đàn bà trên trang bìa của các tạp chí thời
trang.
Chúng ta nhìn người khác theo cách tự nhìn chính mình, vì thế sau tai
nạn, Lincoln Rhyme rất ít khi nghĩ về mọi người từ phương diện cơ thể
của họ. Anh quan sát chiều cao của cô, cái hông gọn gàng, mái tóc đỏ
rực. Người khác có thể nhìn những đặc điểm này và nghĩ, đẹp quá.
Nhưng với Lincoln Rhyme, ý nghĩ này không đến. Điều làm anh ấn
tượng là cái nhìn trong mắt cô.
Không có sự ngạc nhiên – rõ ràng rồi, chắc ai đó đã báo trước anh là
người tàn tật
– nhưng là cái gì đó khác. Một biểu hiện mà trước đó anh chưa hề nhìn
thấy. Tựa như hoàn cảnh của anh lại làm cô thấy thoải mái. Hoàn toàn
trái ngược so với phản ứng của mọi người. Như thể cô đi vào phòng và
cô đang thư giãn.
“Sĩ quan Sachs?” Rhyme nói.
“Vâng thưa ngài”, cô nói, tự ngăn được mình trước khi chìa tay ra.
“Thám tử
Rhyme.”
Sellitto giới thiệu cô với Polling và Haumann. Cô cũng đã biết hai người
này, ít nhất qua uy tín của họ nếu không phải vì điều gì khác nữa, giờ thì
ánh mắt cô lại càng tỏ ra thận trọng.
Cô quan sát căn phòng, bụi bặm, tăm tối. Liếc nhìn một trong những
bức ảnh nghệ thuật. Nó bị mở ra lưng chừng, nằm dưới gầm bàn.
Nighthawks41, tác giả Edward Hopper.
40 SWAT (viết tắt của Special Weapon And Tactics): Đội Chiến
thuật và Vũ khí Đặc nhiệm.
41 Nighthawks: Đại bàng đêm, tác giả Edward Hopper (1882 –
1967), một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.
Những người cô đơn ngồi bên bàn ăn lúc tối muộn. Một trong những
bức tranh cuối cùng bị dỡ xuống.
Rhyme giải thích ngắn gọn về thời hạn ba giờ chiều. Sellitto gật đầu bình
thản nhưng Rhyme có thể nhìn thấy một thoáng gì đó trong ánh mắt cô,
cái gì nhỉ? Sự sợ hãi? Ghê tởm?
Jerry Banks, những ngón tay đang lúng túng với cái nhẫn học sinh chứ
chẳng phải một cái đai đám cưới, ngay lập tức bị vẻ đẹp của cô hấp
dẫn và nở một nụ cười tươi hơn bình thường. Nhưng cái liếc mắt đáp
lời duy nhất của Sellitto đã cho thấy rõ ở đây không hề có việc mối mai
nào cả. Và có lẽ sẽ không bao giờ có.
Polling nói: “Có thể đây là một cái bẫy. Chúng ta tìm thấy chỗ hắn
muốn dẫn ta đến, bước vào và ở trong là một quả bom.”
“Tôi nghi ngờ điều đó”, Sellitto nhún vai nói. “Vì sao lại tạo ra tất cả
những rắc rối đó? Nếu anh muốn giết một tên cớm thì anh chỉ việc đi
tìm lấy một tên và bắn hắn chết toi.”
Một khắc im lặng lúng túng khi Polling nhìn thoáng từ Sellitto sang
Rhyme. Suy nghĩ đó tập hợp được từ vụ Shepherd; chính trong vụ đó
Rhyme bị thương.
Nhưng sự lỡ lời này chẳng có nghĩa lý gì với Rhyme, anh tiếp tục: “Tôi
đồng ý với Lon. Nhưng tôi sẽ nói với tất cả nhóm S&S42 và nhóm
HRT43 phải đề phòng mai phục. Anh chàng của chúng ta có vẻ đang
viết ra quy tắc riêng cho mình.”
Sachs nhìn bức tranh của Hopper một lần nữa. Rhyme dõi theo ánh
mắt cô. Có thể những người trong bữa ăn tối không thực sự cô đơn,
anh ngẫm nghĩ, thì trông họ đều rất hài lòng.
“Ở đây ta có hai loại vật chứng”, Rhyme nói tiếp. “Vật chứng chuẩn.
Những thứ mà nghi phạm không muốn bỏ lại. Tóc, lông, sợi, vân tay,
có thể là máu, dấu giày. Nếu ta có thể tìm đủ vật chứng loại này – và
nếu ta may mắn – chúng có thể dẫn ta đến hiện trường thứ nhất. Đây là
nơi hắn ta sống.”
“Hay là hang ổ lẩn trốn của hắn”, Sellitto gợi ý. “Một chỗ ở tạm.”
“Một nơi ẩn nấp an toàn?” Rhyme gật đầu đăm chiêu. “Chắc là anh
đúng đấy, Lon. Hắn cần một nơi để hành động.” Anh tiếp tục: “Sau đó
là những vật chứng được cố ý để lại. Ngoài hai mẩu giấy – nói với
chúng ta ngày tháng – chúng ta có một con ốc, một cuộn asbestos và
cát.”
“Một cuộc săn tìm kho báu chết tiệt”, Haumann gầm gừ, vuốt mớ tóc
cắt ngắn của mình. Anh ta trông vẫn giống anh chàng trung sĩ tập sự mà
Rhyme còn nhớ.
“Điều đó đồng nghĩa với việc tôi có thể báo cáo lên cấp trên là ta có
khả năng tìm được nạn nhân đúng lúc?” Polling hỏi.
“Tôi nghĩ thế, có thể.”
42 S&S: Tìm kiếm và giám sát.
43 HRT (viết tắt của Hostage Rescue Team): Nhóm Giải cứu con tin.
Viên đại úy gọi điện thoại và đi về phía góc phòng để nói chuyện. Khi
dập máy anh ta càu nhàu: “Thị trưởng. Sếp đang ngồi với ông ấy. Sẽ
có một cuộc họp báo sau một tiếng nữa và tôi sẽ phải đến đó để đảm
bảo cái của quý của họ vẫn còn trong quần và được kéo khóa. Tôi còn
có gì để nói thêm với họ nữa không?”
Sellitto liếc nhìn Rhyme, anh lắc đầu. “Chưa có gì đâu”, viên thám tử
nói.
Polling cho Sellitto số di động của anh ta và đi ra, đúng hơn là chạy ra
khỏi cửa.
Một khắc sau, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, hói, gầy guộc
thư thả đi lên gác. Mel Cooper là một người mà lúc nào cũng có vẻ
ngớ ngẩn, một nhân vật hàng xóm luộm thuộm trong một vở hài kịch
tình thế. Đi sau anh ta là hai cảnh sát trẻ khênh cái rương nồi hấp và hai
chiếc va li trông có vẻ nặng cả nghìn pound. Hai viên sĩ quan đặt món
hàng nặng nề của mình xuống và ra về.
“Mel.”
“Thám tử.” Cooper đi tới chỗ Rhyme và siết chặt cánh tay vô dụng của
anh. Sự tiếp xúc vật lý duy nhất trong ngày với những người khách của
anh, Rhyme ghi nhận. Anh và Cooper đã từng làm việc cùng nhau
trong nhiều năm. Có bằng hóa hữu cơ, toán và vật lý, Cooper là
chuyên gia cả trong lĩnh vực nhận dạng – lấy dấu tay, DNA, tái tạo
pháp lý – và phân tích vật chứng.
“Nhà hình sự học hàng đầu thế giới hôm nay thấy thế nào?” Cooper
hỏi anh. Rhyme cảm thấy một sự giễu cợt thiện ý. Danh xưng này được
báo chí gắn cho
anh mấy năm trước, sau khi một bản tin gây ngạc nhiên về việc FBI đã
chọn anh – một cảnh sát thành phố – làm tư vấn cho việc thành lập
PERT của họ. Không thỏa mãn với “nhà pháp y hàng đầu”, các phóng
viên đã gọi Rhyme là “nhà hình sự học”.
Thuật ngữ này thực ra đã tồn tại nhiều năm, đầu tiên được dùng tại Mỹ
cho Paul Leland Kirk44 huyền thoại, người điều hành Trường Hình sự
học của Đại học California ở UC Berkeley. Ngôi trường được sếp
August Vollmer huyền thoại hơn thành lập và là ngôi trường đầu tiên
thuộc loại này ở nước Mỹ. Gần đây tên gọi đó trở thành mốt, và khi
các kỹ thuật viên trên toàn quốc rụt rè làm quen với các cô gái tóc
vàng tại những buổi tiệc cocktail, họ giới thiệu mình là các nhà hình sự
học thay vì là những nhà khoa học pháp y.
“Ác mộng của mọi người”, Cooper nói, “anh vào taxi nhưng hóa ra lại
có một thằng khùng đang lái xe. Cả thế giới đang quan sát Quả Táo
Lớn45 vì cái hội nghị đó. Tôi sẽ lấy làm lạ nếu họ không lôi anh ra khỏi
chỗ nghỉ hưu vì việc này.”
“Mẹ anh thế nào?” Rhyme hỏi.
“Vẫn than phiền về mọi cơn đau nhức. Vẫn khỏe hơn tôi.”
44 Paul Leland Kirk (1902 – 1970): Nhà hóa học, nhà khoa học pháp
lý nổi tiếng của
Mỹ.
45 Quả Táo Lớn: Tên lóng của New York.
Cooper sống với người phụ nữ lớn tuổi đó trong một ngôi nhà ở
Queens, nơi anh ta sinh ra. Niềm đam mê của anh ta là khiêu vũ dạ hội
– tango là hàng độc của anh ta. Cớm thường đàm tiếu trong IRD về xu
hướng giới tính của anh ta. Rhyme không quan tâm đến cuộc sống cá
nhân của các nhân viên của mình nhưng cũng đã ngạc nhiên như những
người khác khi gặp Greta, bạn gái lâu năm của Cooper, một phụ nữ
Bắc Âu lộng lẫy dạy toán tại Columbia.
Cooper mở cái rương lớn lót nhung. Anh ta lấy ra các bộ phận của ba
cái kính hiển vi lớn và bắt đầu lắp ráp.
“Ồ, điện trong nhà.” Anh ta thất vọng liếc nhìn ổ cắm, đẩy cái kính
gọng kim loại cao hơn lên mũi.
“Vì đây là một ngôi nhà mà, Mel.”
“Tôi đã giả định rằng anh sống trong một cái phòng thí nghiệm. Liệu
điều đó có quá ngạc nhiên không?”
Rhyme nhìn chăm chăm các thiết bị, màu đen và màu xám, bầm dập.
Giống như những thiết bị anh đã từng ở cùng trong hơn mười lăm năm.
Một cái kính hiển vi tiêu chuẩn và một cái dùng ánh sáng phân cực.
Cooper mở những cái va li, trong đó có nhiều loại chai lọ, bình và thiết
bị thí nghiệm của một Thầy Phù thủy. Trong một thoáng, ngôn từ trở lại
với Rhyme, những ngôn từ đã từng là một phần trong vốn từ vựng hằng
ngày của anh. Những cái ống lấy máu chân không EDTA46, acetic
acid, orthotolidine, thuốc thử luminol, Magna-Brush, hiện tượng màu
tím Ruhemann…
Người đàn ông gầy gò nhìn quanh phòng. “Giống hệt như văn phòng
trước kia của anh. Làm thế nào mà anh có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở
đây? Ví dụ, tôi muốn có một ít không gian ở đây.”
“Thom.” Rhyme hướng đầu về phía cái bàn ít bừa bộn nhất.. Họ bỏ
sang bên các loại báo, tạp chí, sách và để lộ ra cái mặt bàn mà Rhyme
đã không nhìn thấy nhiều năm qua.
Sellitto nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án. “Chúng ta gọi đối tượng là
gì nhỉ? Ta vẫn chưa có số cho vụ này.”
Rhyme liếc nhìn Banks. “Chọn một số đi. Số nào cũng được.” Banks
đề nghị: “Số trang. Ừ, ý tôi là ngày tháng.”
“Đối tượng 823. Tốt như bất kỳ số nào khác.” Sellitto viết con số này
vào bản báo cáo. “Vâng, cho tôi xin lỗi? Thám tử Rhyme?”
Đó là giọng của nữ cảnh sát tuần tra. Rhyme quay về phía cô. “Tôi
phải quay lại Đại Bản Doanh vào buổi trưa.”
“Sĩ quan Sachs…”, anh đã ngay lập tức quên mất cô. “Cô là sĩ quan
đầu tiên đến hiện trường sáng nay à? Chỗ vụ giết người gần đường
ray.”
46 EDTA: Tên viết tắt của hợp chất hóa học
ethylenediaminetetraacetic acid.
“Đúng thế. Tôi đã nhận cuộc gọi.” Cô nói với Thom.
“Tôi ở đây, thưa sĩ quan.” Rhyme lạnh lùng nhắc cô, cố gắng kiểm soát
cơn nóng giận. “Đằng này.” Khi người ta nói với anh qua người khác,
qua những người khỏe mạnh, anh tức giận.
Cô xoay đầu lại rất nhanh và anh biết bài học đã được tiếp thu. “Vâng,
thưa ngài”, cô nói. Trong giọng cô có sự mềm mại, nhưng trong mắt cô
là băng giá.
“Tôi đã giải ngũ. Cứ gọi tôi là Lincoln.”
“Liệu anh có thể làm ơn chấm dứt chuyện này, được không?” “Thế
nghĩa là sao?” Anh hỏi.
“Lý do anh đưa tôi đến đây. Tôi xin lỗi. Tôi đã không suy nghĩ. Nếu
anh muốn xin lỗi bằng văn bản, tôi sẽ viết. Có điều là tôi đã bị muộn
cho nhiệm vụ mới và tôi không có
cơ hội gọi điện cho chỉ huy của tôi.”
“Xin lỗi?” Rhyme hỏi.
“Vấn đề là tôi không hề có kinh nghiệm thực tế về hiện trường vụ án.
Tôi chỉ là dân nghiệp dư.”
“Cô đang nói gì thế?”
“Chặn đoàn tàu và phong tỏa Đại lộ Mười một. Chính vì lỗi của tôi mà
ngài thượng nghị sĩ đã không kịp phát biểu ở New Jersey và một vài
quan chức cao cấp Liên Hiệp Quốc không đến kịp cuộc họp từ sân
bay Newark.”
Rhyme chặc lưỡi. “Cô có biết tôi là ai không?”
“À. Tôi cũng có nghe về anh. Tôi nghĩ là anh đã…” “Đã chết?” Rhyme
hỏi.
“Không, ý tôi không phải như vậy.” Dù ý cô đúng là như vậy. Cô
nhanh chóng nói tiếp: “Tất cả chúng tôi đều dùng sách của anh trong
học viện. Nhưng chúng tôi không nghe nhiều về anh. Ý tôi là về chuyện
cá nhân…” Cô nhìn lên bức tường và căng thẳng nói: “Theo suy nghĩ
của tôi, như một sĩ quan đầu tiên đến hiện trường, tốt nhất là phải chặn
đoàn tàu và phong tỏa đường phố để bảo vệ hiện trường. Và đó chính
là điều tôi làm, thưa ngài…”
“Gọi tôi là Lincoln. Và cô là…” “Tôi…”
“Tên cô?” “Amelia.”
“Amelia. Từ gốc là nữ phi công à?” “Không. Một cái họ.”
“Amelia, tôi không muốn một lời xin lỗi. Cô đúng và Vince Peretti đã
sai.”
Sellitto nhúc nhích khi thấy sự vô ý đó, nhưng Lincoln Rhyme không
quan tâm. Cuối cùng thì anh là một trong số vài người trên thế giới có
thể vẫn cứ nằm ườn ra ngay
cả khi tổng thống Mỹ bước vào phòng. Anh tiếp tục: “Peretti khám
nghiệm hiện trường như thể Thị trưởng đang nhòm qua vai anh ta, và
đó là cách thức số một để làm hỏng việc. Anh ta có quá nhiều người,
anh ta hoàn toàn sai lầm khi cho đoàn tàu và các phương tiện giao
thông chuyển động; anh ta không bao giờ được giải phóng hiện trường
sớm như anh ta đã làm. Nếu chúng ta giữ được đường ray, biết đâu
chúng ta lại chẳng tìm thấy một hóa đơn thẻ tín dụng với một cái tên ở
đó. Hay là một dấu vân tay thật đẹp.”
“Có thể”, Sellitto tế nhị nói. “Nhưng giữ điều đó cho chúng ta thôi.”
Khi ra mệnh lệnh im lặng, ánh mắt anh ta quay về phía Sachs, Cooper
và Jerry Banks trẻ tuổi.
Rhyme phì ra một nụ cười bất kính. Sau đó quay lại phía Sachs, anh
bắt gặp cô đang nhìn chân và cơ thể anh dưới tấm chăn màu vàng mơ,
như Jerry Banks sáng nay. Anh nói với cô: “Tôi gọi cô đến đây để xử
lý hiện trường tiếp theo cho chúng tôi.”
“Cái gì?” Lần này thì không phải nói qua người phiên dịch.
“Làm việc cho chúng tôi”, anh nói ngắn gọn. “Hiện trường vụ án tiếp
theo.” “Nhưng…” Cô cười. “Tôi đâu có phải là IRD. Tôi thuộc Đội
Tuần tra. Tôi chưa
bao giờ làm công việc xử lý hiện trường.”
“Đây là một vụ bất thường. Như chính thám tử Sellitto đã nói với cô.
Nó thực sự là kỳ quặc. Đúng không, Lon? Đúng, nếu đó là một vụ cổ
điển, chúng tôi không cần cô. Nhưng trong vụ này chúng tôi cần một
cặp mắt mới.”
Cô liếc nhìn Sellitto, anh ta chẳng nói gì. “Tôi chỉ… Tôi hoàn toàn
không giỏi việc này. Tôi chắc đấy.”
“Được rồi”, Rhyme kiên nhẫn nói. “Sự thật nhé?” Cô gật đầu.
“Tôi cần ai đó có gan dừng cả đoàn tàu trên đường ray để bảo vệ hiện
trường và chịu đựng được rắc rối sau đó.”
“Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội, thưa ngài, Lincoln. Nhưng…” Rhyme
nói ngắn gọn. “Lon.”
“Sĩ quan”, viên thám tử càu nhàu với Sachs, “cô không có lựa chọn
nào ở đây. Cô đã được phân công vào vụ này để trợ giúp tại hiện
trường vụ án.”
“Thưa ngài, tôi phải phản đối. Tôi đã chuyển khỏi Đội Tuần tra. Ngày
hôm nay. Tôi được chuyển vì lý do sức khỏe. Quyết định đó có hiệu
lực cách đây một giờ.”
“Lý do sức khỏe?” Rhyme hỏi.
Cô ta chần chừ, rồi lại miễn cưỡng nhìn chân anh. “Tôi bị viêm khớp.”
“Đúng thế à?” Rhyme hỏi.
“Viêm khớp mãn tính.” “Tôi rất tiếc.”
Cô nhanh chóng tiếp tục: “Tôi nhận cuộc gọi sáng nay vì ai đó bị ốm
phải nằm ở nhà. Tôi không định làm việc đó.”
“Đúng thế, được rồi. Tôi cũng có chương trình khác”, Lincoln Rhyme
nói. “Giờ thì ta hãy nghiên cứu một số bằng chứng.”
SÁU
“Con ốc.”
Nhớ lại nguyên tắc nghiên cứu hiện trường vụ án cổ điển: Phân tích
bằng chứng bất thường nhất đầu tiên.
Thom liên tục xoay xoay cái túi nhựa trên tay khi Rhyme nghiên cứu cái
đinh vít, nửa gì nửa không. Cùn. Mòn.
“Anh chắc về dấu vân tay chứ? Anh đã dùng, chất thử vi hạt chưa? Đó
là loại tốt nhất cho các vật chứng bị tiếp xúc với các nguyên tố.”
“Đúng”, Mel Cooper khẳng định.
“Thom”, Rhyme hạ lệnh, “bỏ cái tóc này khỏi mắt tôi! Trả nó lại chỗ
cũ. Tôi đã nói với cậu chải lại nó sáng nay rồi”.
Người trợ lý thở dài và chải mớ tóc đen rối bù. “Cẩn thận”, anh ta thầm
thì oán giận với ông chủ của mình và Rhyme lại hất đầu một cách thô
bạo, làm cho tóc càng rối hơn. Amelia Sachs sưng sỉa ngồi ở góc
phòng. Chân cô đặt dưới ghế trong tư thế xuất phát của vận động viên
chạy nước rút, và chắc chắn là cô ta trông như thể đang chờ tiếng súng
xuất phát.
Rhyme quay lại với con ốc.
Khi còn lãnh đạo IRD, Rhyme bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu. Ví dụ
như chỉ mục sơn xe hơi liên bang hay hồ sơ thuốc lá BATF47. Anh
thiết lập hồ sơ tiêu chuẩn đạn, sợi, vải, lốp xe, giày, công cụ, dầu xe,
dầu hộp số. Anh dành hàng trăm giờ biên soạn các danh mục, đặt chỉ
mục và tham chiếu chéo.
Dù vậy, ngay cả trong thời kỳ cầm quyền mê đắm của Rhyme, IRD
cũng chưa bao giờ lập catalog cho dụng cụ. Anh băn khoăn tại sao lại
không làm như vậy, anh tự giận mình vì không dành thời gian để làm,
và còn tức giận Peretti hơn nữa vì anh ta cũng không nghĩ tới điều đó.
“Ta phải gọi cho tất cả các nhà sản xuất và buôn bán ốc vít khu Đông
Bắc. Không, cả nước. Hỏi xem họ có làm loại ốc nào như thế này
không và họ bán nó cho ai. Hãy gửi fax các bản miêu tả và ảnh của
con ốc cho nhân viên điều phối của chúng ta ở Phòng Truyền thông.”
“Quỷ thật, có thể phải là hàng triệu”, Banks nói. “Từng cửa hàng Ace
Hardware và siêu thị Sears trên toàn quốc.”
“Tôi không nghĩ vậy”, Rhyme trả lời. “Đó phải là một dấu tích có ý
nghĩa. Hắn sẽ không để nó lại nếu nó vô dụng. Nguồn cung cấp những
con ốc này chắc cũng có hạn thôi. Tôi cá với anh đấy.”
Sellitto gọi điện và ngẩng lên sau vài phút. “Tôi đã có điện thoại viên
cho anh rồi đây, Lincoln. Bốn người. Chúng tôi lấy danh sách các nhà
sản xuất ở đâu?”
47 BAFT (viết tắt của Bereau of Alcohol, Tobacco, Firearms and
Explosives): Cục Phụ trách các vấn đề về rượu, thuốc lá, vũ khí và
chất nổ, một tổ chức của chính phủ Mỹ.
“Cho nhân viên tuần tra đến Phố Bốn mươi hai.” Rhyme trả lời. Thư
viện công cộng. Ở đó họ có danh bạ điện thoại của các công ty. Trước
khi lấy được nó, hãy để điện thoại viên của chúng ta dùng Những
Trang Vàng Kinh Doanh.”
Sellitto nhắc lại vào điện thoại.
Rhyme nhìn đồng hồ. Một giờ ba mươi. “Còn bây giờ là sợi abestos.”
Trong một khoảnh khắc, từ này rực sáng trong đầu anh. Anh cảm thấy
choáng váng – nơi mà không thể cảm thấy choáng váng được. Abestos
thì có gì quen thuộc nhỉ? Điều gì đó mà anh vừa mới đọc hay nghe
được – mới đây thôi, mặc dù Lincoln Rhyme không còn tin tưởng vào
cảm nhận thời gian của mình nữa. Khi ta nằm đông cứng một chỗ từ
tháng này qua tháng khác, thời gian trôi đi chậm chạp gần như chết.
Anh có thể nghĩ tới một số thứ mà anh đã đọc được cách đây hai năm.
“Ta biết gì về abestos?” Anh đăm chiêu. Không ai trả lời câu hỏi này,
nhưng không quan trọng; anh sẽ tự trả lời. Như anh vẫn thường thích
làm. Abestos là một phân tử phức hợp, polime sillic. Nó không cháy,
vì giống như kính, nó đã bị oxy hóa hoàn toàn.
Khi anh khám nghiệm hiện trường vụ án của những vụ giết người ngày
trước – làm việc với các nhà pháp y học, nhân chủng học và các bác sĩ
nha khoa – Rhyme thường thấy mình ở trong các tòa nhà được bao
bọc abestos. Anh nhớ cái vị đặc biệt của những chiếc mặt nạ họ phải
đeo trong khi dọn dẹp abestos ở ga tàu điện ngầm City Hall ba năm
rưỡi trước, tại đó nhân viên tìm thấy xác của một trong những cảnh sát
bị Dan Shepherd giết và vứt vào phòng máy nổ. Khi Rhyme chậm
chạp cúi xuống để nhặt sợi từ chiếc áo khoác màu xanh dương nhạt
của viên sĩ quan, anh nghe thấy tiếng gãy và tiếng rắc của thanh xà gỗ
sồi. Chiếc mặt nạ có thể đã cứu anh không bị ngạt thở đến chết trong
đám bụi bặm và bùn đất xung quanh.
“Có thể hắn đưa cô ta đến một công trường phá dỡ”, Sellitto nói. “Có
thể”, Rhyme đồng ý.
Sellitto ra lệnh cho người trợ lý trẻ tuổi của mình. “Gọi EPA48 và Sở
Môi trường
Thành phố. Tìm xem có công trường phá dỡ nào đang được tiến hành
ngay lúc này không.”
Viên thám tử gọi điện.
“Bo”, Rhyme gọi Haumann, “đội của cậu đã sẵn sàng triển khai chưa?”
“Sẵn sàng chiến đấu.” Viên đội trưởng ESU khẳng định. “Dù vậy tôi
vẫn phải nói rằng chúng tôi chỉ có một nửa lực lượng vì phải phục vụ
cho hội nghị của Liên Hiệp Quốc. Họ bị Ủy ban Mật vụ và An ninh
của Liên Hiệp Quốc mượn.”
“Tôi đã có vài thông tin về EPA ở đây.” Banks ra hiệu cho Haumann
và họ đi ra góc phòng. Họ dẹp sang bên một vài chồng sách. Khi
Haumann trải một trong những tấm bản đồ chiến thuật New York của
ESU lên bàn, có thứ gì đó rơi xuống nền nhà.
48 EPA (viết tắt của Environmental Protection Agency): Cục Bảo vệ
Môi trường.
Banks nhảy dựng lên. “Chúa ơi.”
Từ góc nhìn nơi anh đang nằm, Rhyme không thể thấy cái gì vừa bị rơi.
Haumann chần chừ một giây, sau đó cúi xuống để nhặt lên một đoạn
xương sống đã bạc màu và đặt nó lên mặt bàn.
Rhyme cảm thấy ánh mắt vài người nhìn anh nhưng anh không nói gì về
khúc xương. Haumann cúi người nhìn tấm bản đồ, Banks cũng vậy,
đang nghe điện thoại và cung cấp cho Haumann thông tin về các công
trường thu dọn abestos. Viên chỉ huy đánh dấu chúng bằng bút sáp. Có
vẻ như có rất nhiều công trường, tản mát ở khắp năm quận của thành
phố. Tình hình không mấy khả quan.
“Ta phải tiếp tục khoanh vùng gọn hơn. Xem nào, cát”, Rhyme nói với
Cooper. “Phóng đại lên xem. Nói cho tôi biết anh nghĩ gì.”
Sellitto chuyển cái phong bì đựng vật chứng cho kỹ thuật viên, anh này
đổ những thứ bên trong vào một cái khay khám nghiệm tráng men.
Chất bột lóng lánh để lại một đám mây bụi nhỏ. Ở giữa có một hòn đá,
đã bị bào mòn, nó lăn vào giữa đống cát.
Cổ họng Lincoln Rhyme nghẹn lại. Không phải vì những gì anh thấy –
anh vẫn chưa biết anh đang nhìn vào cái gì – nhưng vì một xung thần
kinh đứt đoạn phóng ra từ não anh và tắt ngấm nửa đường khi đến
cánh tay phải vô dụng, thúc bách cầm lấy một cái bút chì và thử. Lần
đầu tiên trong thời gian khoảng một năm, anh cảm thấy sự thúc bách
đó. Điều này suýt làm anh phát khóc và niềm an ủi duy nhất của anh là
ký ức về cái lọ nhỏ đựng Seconal, cái túi nhựa mà bác sĩ Berger mang
theo, những hình ảnh bay lượn trong phòng như thiên thần hộ mệnh.
Anh hắng giọng. “Lấy thử dấu tay đi.” “Cái gì?” Cooper hỏi lại.
“Hòn đá.”
Sellitto nhìn anh dò hỏi.
“Hòn đá ở đó không hợp”, Rhyme nói. “Táo và cam. Tôi muốn biết vì
sao. Lấy dấu đi.”
Sử dụng một cái kẹp có đầu bằng sứ, Cooper nhấc hòn đá lên và
nghiên cứu nó. Anh ta đeo kính, dùng chiếc đèn PoliLight chiếu vào
hòn đá – bộ đèn có ắc quy lớn như ắc quy xe hơi với một cây đũa thần
gắn ở đó.
“Chẳng có gì”, Cooper nói. “VMD?”
VMD, lắng chân không kim loại là kỹ thuật hiển thị vân tay ẩn trên
những bề mặt không xốp. Nó làm bay hơi vàng hay kẽm trong một
buồng chân không có chứa đối tượng cần kiểm tra; kim loại sẽ phủ lên
dấu vân tay ẩn, làm thấy rõ hoa tay và những điểm đỉnh.
Nhưng Cooper không đem theo máy VMD. “Vậy thì anh có gì?”
Rhyme hỏi, vẻ không vui.
“Sudan đen, thuốc tráng phim ổn định, iodine, amido đen, DFO và
thuốc nhuộm chữa bỏng, Magna-Brush.”
Anh ta còn đem theo ninhydrin để phát hiện dấu tay trên những bề mặt
xốp và khuôn Keo Siêu dính cho những bề mặt nhẵn. Rhyme nhớ lại
những tin tức chấm động đã tràn qua cộng đồng giám định vài năm
trước: Một kỹ thuật viên làm việc trong phòng thí nghiệm giám định của
quân đội Mỹ ở Nhật bản đã dùng Keo Siêu dính để sửa chiếc máy
quay bị vỡ của mình và vô cùng ngạc nhiên khi thấy khói bốc lên từ
chất keo dính đã làm hiện ra dấu tay tốt hơn phần lớn các loại hóa chất
được tạo ra cho mục đích này.
Đó chính là phương pháp Cooper sử dụng. Dùng một cái kẹp, anh ta
đặt hòn đá vào một hộp thủy tinh nhỏ và rỏ một ít keo vào cái đĩa nóng
đặt bên trong. Vài phút sau, anh ta lấy hòn đá ra.
“Ta có gì đó rồi đây này”, anh ta phủ một lớp bụi UV bước sóng dài
lên hòn đá và dùng đèn PoliLight soi vào nó. Có thể nhìn thấy rõ ràng
một dấu vân tay. Đúng trung tâm. Cooper chụp ảnh nó bằng một cái
máy Palaroid CU-5, tỷ lệ 1:1. Anh ta đưa bức ảnh cho Rhyme.
“Đưa nó lại gấn hơn tí nữa.” Rhyme liếc mắt khi xem bức ảnh. “Đúng
rồi! Hắn ta đã xoay nó.”
Dấu vân tay xoay – xoa ngón tay lên một bề mặt – tạo ra ấn tượng
khác so với khi nhặt vật thể đó lên. Đó là một khác biệt rất nhỏ – ở
chiều rộng giữa các đường vân tại những điểm khác nhau của sơ đồ
vân tay – nhưng là sự khác biệt mà Rhyme có thể nhìn thấy rất rõ.
“Nhìn này, cái gì đây?” Anh đăm chiêu. “Đường kẻ này.” Có một dấu
hiệu hình vòng cung mờ nhạt bên trên dấu vân tay.
“Nó trông giống như là…”
“Đúng thế”, Rhyme nói, “móng tay của cô ấy. Thường thì ta sẽ không
có dấu hiệu này. Nhưng tôi cá là hắn đặt hòn đá để người ta nhặt nó.
Nó để lại một vết hằn nhờn dầu. Giống như vân tay.”
“Vì sao hắn làm thế?” Sachs hỏi.
Lại phật ý vì xem ra chẳng có ai hiểu ra vấn đề nhanh như mình, Rhyme
cục cằn giải thích: “Hắn nói với ta hai điều. Thứ nhất, hắn muốn ta biết
nạn nhân là phụ nữ. Trong trường hợp ta không liên kết được cô ta với
các xác sáng nay.”
“Hắn làm thế để làm gì?” Banks hỏi.
“Trộn đỗ với thóc.” Rhyme nói.”Để làm ta toát thêm ít mồ hôi. Hắn
cho ta biết có một người phụ nữ đang gặp nguy hiểm. Hắn đánh giá
nạn nhân – như tất cả chúng ta làm
– kể cả khi chúng ta nói là chúng ta không làm vậy.” Rhyme tình cờ
nhìn vào tay Sachs. Anh ngạc nhiên khi thấy rằng, một người phụ nữ
đẹp như Sachs mà các ngón tay lại xấu
tệ hại. Bốn đầu ngón tay dán băng Band-Aid và mấy ngón khác bị gặm
đến tận thịt. Lớp biểu bì ở một ngón bị phủ một lớp máu nâu. Anh còn
nhận thấy da dưới lông mày cô bị
viêm đỏ, do bị kéo, anh đoán. Và một dấu xước cạnh tai cô. Tất cả
những thói quen tự hủy hoại. Có hàng triệu cách để phê, ngoài thuốc
và rượu Armagnac.
Rhyme nói: “Có một điều nữa hắn nói với chúng ta mà tôi đã cảnh báo
trước với các anh. Hắn biết chứng cứ. Hắn đang nói. Đừng quan tâm
đến những vật chứng pháp lý thông thường. Tôi cũng sẽ không để lại
gì. Tất nhiên đó là điều hắn nghĩ. Nhưng chúng ta sẽ tìm thấy gì đó. Tôi
cá là chúng ta sẽ thấy.” Đột nhiên Rhyme nhăn mặt. “Bản đồ! Ta cần
bản đồ. Thom!”
Người trợ lý buột miệng: “Bản đồ nào?” “Cậu biết ý tôi nói cái bản đồ
nào mà.” Thom thở dài. “Tôi chịu, Lincoln.”
Nhìn ra cửa sổ và nói, một nửa là với chính mình, Rhyme đăm chiêu.
“Cầu vượt qua đường ray, đường hầm buôn rượu lậu và những cánh
cửa ra vào, abestos – đều là những thứ cũ. Hắn thích New York lịch
sử. Tôi muốn bản đồ Randel.”
“Ở đâu?”
“Hồ sơ nghiên cứu cho cuốn sách của tôi. Còn ở đâu được nữa hả?”
Thom lục lọi trong đống cặp hồ sơ và lấy ra một bản sao của một tấm
bản đồ
Manhattan dài, nằm ngang. “Cái này à?”
“Cái đó, đúng rồi!”
Đó là Khảo sát của Randel, vẽ năm 1811 cho các ủy viên Hội đồng
thành phố quy hoạch mạng lưới phố xá của Manhattan. Tấm bản đồ
được in ngang, với Công viên Battery, phía nam, bên trái và Harlem,
phía bắc, sang phải. Vẽ theo cách này, hòn đảo tạo thành một con chó
đang nhảy lên, cái đầu hẹp của nó ngẩng lên, chuẩn bị tấn công.
“Gắn nó lên đây. Tốt.”
Trong khi viên trợ lý làm, Rhyme nói: “Thom, chúng ta sẽ cử cậu làm
đại diện. Đưa cho anh ta một cái phù hiệu bóng loáng hay cái gì đó đi,
Lon.”
“Lincoln”, cậu ta lắp bắp.
“Chúng tôi cần cậu. Nào. Chẳng phải là lúc nào cậu cũng muốn trở
thành Sam
Spade49 hay Kojak50 đó sao?”
“Chỉ là Jury Garland51 thôi.” Người trợ lý đáp lời.
“Thế thì là Jessica Fletcher52 vậy. Cậu sẽ viết hồ sơ. Làm đi, lấy cái
bút Mont
Blanc lúc nào cũng dính trong túi áo cậu ra đi.”
Chàng thanh niên đảo mắt khi cậu ta lấy cái bút Parker ra và nhặt một
cuốn sổ màu vàng từ chồng sách vở dưới một cái bàn.
49 Sam Spade: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay
truyện tranh.
50 Kojak: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện
tranh.
51 Jury Garland: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay
truyện tranh.
52 Jessica Beatrice Fletcher: Một nhân vật hư cấu trong series chương
trình truyền hình của Mỹ: Murder, she wrote.
“Không, tôi có ý hay hơn”, Rhyme tuyên bố. “Treo một trong những
bức tranh kia lên. Những bức tranh nghệ thuật ấy. Xoay ngược nó lại
rồi viết ra mặt sau bằng bút đánh dấu. Viết thật to vào. Để tôi còn đọc
được.”
Thom chọn bức tranh hoa huệ tây của Monet, dán lên tường.
“Trên cùng”, nhà hình sự học nói, “viết ‘Đối tượng 823’ sau đó kẻ bốn
cột. ‘Ngoại hình. Nơi ở. Phương tiên đi lại. Khác.’ Đẹp rồi. Giờ thì bắt
đầu thôi. Chúng ta biết gì về hắn ta?”
Sellitto nói: “Phương tiện đi lại… Hắn ta có chiếc Yellow Cab.”
“Đúng thế. Và trong cột ‘Khác’ cần thêm hắn ta biết quy trình khám
nghiệm hiện trường.”
Sellitto nói: “Điều đó có thể có nghĩa là hắn đã từng gặp chuyện rắc
rối.” “Thế nghĩa là gì?” Thom hỏi.
“Có nghĩa là hắn có thể có tiền án.” Viên thám tử giải thích. Banks nói:
“Ta có cần thêm là hắn có khẩu Colt cỡ .32 không?” “Mẹ kiếp, có”,
sếp của anh ta khẳng định.
Rhyme đóng góp: “Và hắn biết về FRs…” “Cái gì?” Thom hỏi.
“Vân ma sát – dấu vân tay. Cậu biết đấy, đó là những đường vân trên
bàn tay và chân chúng ta để tạo ma sát. Và viết thêm là có thể hắn ta
có khả năng hành động từ một
nơi ẩn nấp an toàn. Tốt lắm, Thom. Nhìn cậu ta này. Cậu ta quả là một
người thực thi
pháp luật nhà nòi.”
Thom đỏ mặt, rời khỏi bức tường, phẩy mạng nhện vương trên chiếc
áo sơ mi. “Đây rồi, anh em”, Sellitto nói. “Hình ảnh đầu tiên của chúng
ta về Ngài 823.”
Rhyme quay về phía Mel Cooper. “Còn bây giờ là cát. Chúng ta có
thể nói gì về nó nhỉ?”
Cooper kéo cái kính lên vầng trán nhợt nhạt của anh ta. Anh ta đổ một
mẫu vào thanh trượt, đẩy nó xuống dưới cái kính hiển vi ánh sáng phân
cực rồi điều chỉnh núm điều khiển.
“Hừm. Lạ thật. Không thấy có khúc xạ đúp.”
Kính hiển vi phân cực cho thấy khúc xạ đúp của tinh thể hay sợi và một
số vật liệu khác. Cát bãi biển có tính khúc xạ đúp lớn.
“Thế thì không phải cát”, Rhyme lẩm bẩm. “Đó là một thứ bị xay
nhỏ… Anh có thể nhận dạng cá thể được không?”
Nhận dạng cá thể… Mục tiêu của nhà hình sự học. Phần lớn vật chứng
có thể được nhận dạng. Nhưng ngay cả khi ta biết được đó là gì, nó có
thể xuất phát từ hàng trăm hay hàng nghìn nguồn. Vật chứng đã được
nhận dạng cá thể là một thứ mà chỉ có thể xuất phát từ một nguồn hay
một số lượng nguồn rất hạn chế. Một dấu vân tay, một hồ
sơ DNA, một mẩu sơn vừa vào chỗ tróc trên xe của nghi phạm giống
như một mảnh của một bức tranh đố ghép hình.
“Có thể”, kỹ thuật viên trả lời. “Nếu tôi có thể xác định được đó là cái
gì.” “Bột kính nghiền?” Rhyme gợi ý.
Kính về bản chất là cát bị nung chảy nhưng quá trình chế tạo kính đã
thay đổi cấu trúc tinh thể. Bột kính nghiền không khúc xạ đúp. Cooper
cẩn thận nghiên cứu mẫu.
“Không, tôi không nghĩ đó là kính. Tôi không biết nó là cái gì. Giá mà
tôi có
EDX53 ở đây.”
Một công cụ thông dụng trong phòng thí nghiệm hình sự là kính hiển vi
quét điện tử kết hợp với một thiết bị tia X phân tán năng lượng; nó xác
định thành phần hóa học của các mẫu dấu vết được tìm thấy tại hiện
trường vụ án.
“Tìm cho anh ta một cái”, Rhyme ra lệnh cho Sellitto, sau đó nhìn
quanh phòng. “Chúng ta cần thêm thiết bị. Tôi muốn có thêm cả thiết bị
lấy dấu vân tay chân không kim loại. Và GC-MS54.” Một loại máy
sắc ký khí dùng để phân tách các hợp chất thành những nguyên tố
thành phần và quang phổ kế ánh sáng để nhận dạng từng nguyên tố.
Những thiết bị này cho phép các nhà hình sự học kiểm tra một mẫu
chưa biết với khối lượng nhỏ tới một phần triệu g và tìm kiếm nó trong
một cơ sở dữ liệu hàng trăm nghìn
các hợp chất đã biết, được phân loại theo nhận dạng và tên nhãn hiệu.
Sellitto gọi điện tới phòng thí nghiệm CSU thông báo danh mục thiết bị
cần thiết. “Nhưng ta không thể đợi tới khi có đồ, Mel. Anh phải làm
theo cách truyền thống
thôi. Nói cho tôi thêm một chút về cái thứ cát rởm của chúng ta nào.”
“Nó lẫn một ít bụi. Có đất mùn, những đốm thạch anh, chất feldspar và
mica. Có rất ít mảnh lá cây và thực vật phân rã. Một số đốm có thể là
bentonite.”
“Bentonite.” Rhyme thỏa mãn. “Đó là tàn tro núi lửa mà các nhà xây
dựng sử dụng trong hồ xi măng khi họ đào móng trong những vùng có
nước của thành phố, nơi nền đá ở rất sâu. Dùng chống xói mòn. Vậy
chúng ta phải tìm những công trường xây dựng gần nước, có thể ở phía
nam Phố Ba mươi tư. Phía Bắc, vùng đó nền đá khá gần mặt đất nên
họ không cần dùng hồ xi măng.”
Cooper xê dịch thanh trượt. “Nếu phải đoán, tôi sẽ nói rằng đó chủ
yếu là calcium. Đợi chút, ở đây có gì đó dạng sợi.”
Cái núm lại bị xoay và Rhyme sẽ trả mọi thứ để có thể được nhìn vào
cái ống ngắm kia. Nhớ lại tất cả những buổi tối anh dán mắt vào cái
viền ống ngắm cao su màu xám, quan sát sợi hay những mẩu vỏ bào
kim loại trôi ra trôi vào tiêu điểm.
“Ở đây còn mấy thứ nữa. Hạt lớn. Ba lớp. Một giống như cái loa kèn.
Sau đó là hai lớp calcium. Màu sắc hơi khác nhau. Những mẩu khác
trong suốt.”
53 EDX (viết tắt của Energy dispersive X-ray spectroscopy): Một
phương pháp phân tích trong ngành hóa học.
54 GC-MS: Xem phần phụ lục.
“Ba lớp?” Rhyme giận dữ quát lên. “Của nợ, đấy là vỏ sò.” Anh cảm
thấy bực tức với bản thân. Anh phải nghĩ tới điều đó chứ.
“Đúng rồi, nó đấy.” Cooper gật đầu. “Tôi nghĩ là con hàu.”
Những bãi hàu quanh thành phố chủ yếu nằm ngoài bờ biển Long
Island và New Jersey. Rhyme đã hy vọng là nghi phạm hạn chế khu
vực địa lý cần tìm kiếm trong Manhattan – nơi nạn nhân được tìm thấy
sáng nay. Anh lẩm bẩm: “Nếu hắn mở rộng ra cả thành phố thì việc tìm
kiếm là vô vọng.”
Cooper nói: “Tôi đang nhìn thấy một thứ khác. Tôi nghĩ đấy là đá vôi.
Rất cổ. Dạng hạt.”
“Có thể là bê tông.” Rhyme gợi ý. “Có thể. Đúng.”
“Thế thì tôi không hiểu vỏ sò”, Cooper nói thêm, vẻ trầm ngâm.
“Những bãi sò quanh New York đầy bùn và thực vật. Thứ này bị trộn
lẫn với bê tông và thực sự là
không hề có chất gì liên quan đến thực vật.”
Bất thình lình Rhyme quát lên: “Cạnh! Cạnh của cái vỏ sò ấy như thế
nào, Mel?” Nhân viên kỹ thuật nhìn vào ống ngắm: “Đứt đoạn, không
bị mòn. Nó bị tán vụn
dưới áp lực. Không bị nước bào mòn.”
Ánh mắt Rhyme trượt sang tấm bản đồ Randel, quét từ phải sang trái.
Tập trung vào vùng mông con chó đang nhảy.
“Có rồi!” Anh hét lên.
Năm 1913, F.W. Woolworth xây một cấu trúc sáu mươi tầng đến bây
giờ vẫn còn mang tên ông, bọc gốm, được bao phủ bởi miệng máng xối
và điêu khắc gothic. Trong suốt mười sáu năm, đó là tòa nhà cao nhất
thế giới. Vì nền đá ở khu vực này của Manhattan nằm cách Broadway
ba mươi mét, những người công nhân đã phải đào đường trục rất sâu
để neo tòa nhà. Không lâu sau khi động thổ, những người công nhân
đã tìm thấy thi hài của nhà công nghiệp Manhattan, Talbott Soames,
người bị bắt cóc năm 1906. Xác của ông ta bị chôn trong một bãi dày,
một thứ trông giống như cát nhưng thực ra là vỏ sò bị nghiền nát, một
việc mà báo chí lá cải đã làm ầm ĩ, nhắc đến sự đam mê của nhà tư
bản đối với đồ ăn ngon. Vỏ sò rất phổ biến dọc theo mũi thấp phía
đông Manhattan
đến mức chúng được sử dụng để lấn biển. Đó cũng là lý do Phố
Pearl55 lại được đặt tên
như vậy.
“Cô ta ở đâu đó trong khu trung tâm.” Rhyme tuyên bố. “Có thể ở phía
đông. Cũng có thể gần phố Pearl. Cô ta đang ở dưới lòng đất, sâu
khoảng năm đến mười lăm feet. Có thể là một công trường xây dựng,
có thể là một tầng hầm. Một tòa nhà cũ hay một đường hầm.”
“Kiểm tra chéo bản đồ của EPA đi Jerry”, Sellitto ra lệnh. “Những chỗ
họ dọn dẹp abestos.”
55 Pearl: Ngọc trai.
“Trên phố Pearl? Không có gì.” Viên sĩ quan trẻ nâng tấm bản đồ mà
anh ta và Haumann đang nghiên cứu lên. “Có khoảng ba tá công
trường phá dỡ – ở Midtown, Harlem và Bronx. Nhưng ở trung tâm
không có gì.”
“Abestos… abestos…”, Rhyme lại trầm ngâm. Có gì đó rất quen ở
đây. Đã là 2:05.
“Bo, ta phải đi thôi. Hãy đưa người của anh tới đó và bắt đầu tìm kiếm.
Tất cả các tòa nhà dọc theo Phố Pearl. Cả Phố Water nữa.”
“Trời”, viên cảnh sát thở dài, “thế thì rất nhiều.” Anh ta ra đến cửa.
Rhyme nói với Sellitto: “Lon, tốt hơn là anh cũng nên đi. Sẽ là cuộc
chạy đua sát nút đấy. Họ cần tất cả những nhân viên truy tìm mà họ có
thể có. Amelia, tôi muốn cả cô cũng đi.”
“Nhưng này, tôi đang nghĩ xem…”
“Sĩ quan”, Sellitto quát, “đây là mệnh lệnh…”.
Một ánh hồng nhạt đảo qua khuôn mặt xinh đẹp của cô. Rhyme hỏi
Cooper: “Mel, anh đến đây bằng xe bus à?” “RRV56”, anh ta trả lời.
Những chiếc xe bus thành phố dành cho hiện trường vụ án lớn là những
chiếc xe tải lớn – chứa đầy thiết bị và vật tư phục vụ cho việc thu nhập
chứng cứ, được trang bị tốt hơn phòng thí nghiệm của những thành phố
nhỏ. Nhưng khi Rhyme điều hành IRD, anh đã đặt mua những chiếc xe
phục vụ hiện trường vụ án nhỏ hơn – những chiếc xe kiểu wagon – với
những thiết bị thu nhập và phân tích cơ bản nhất. Những chiếc RRV
trông bình thường nhưng Rhyme đã bắt Phòng Vận chuyển gắn cho
chúng động cơ turbo của Đội Cảnh sát Cơ động. Chúng thường vượt
xe của Đội Tuần tra để đến hiện trường trước; đã có lần sĩ quan đầu
tiên đến hiện trường lại là những kỹ thuật viên hiện trường dày dạn. Đó
chính là giấc mơ của mọi công tố viên.
“Đưa chìa khóa cho Amelia.”
Cooper đưa chìa khóa cho Sachs, cô lườm anh, sau đó ra khỏi phòng
và chạy xuống cầu thang. Ngay cả tiếng bước chân của cô nghe cũng
có vẻ giận dữ.
“Được rồi, Lon. Anh nghĩ gì?”
Sellitto nhìn hành lang trống rỗng và lại gần Rhyme. “Anh thực sự muốn
có P.D
cho vụ này à?” “P.D?”
“Ý tôi là cô ta. Sachs. P.D là biệt hiệu.” “Cho cái gì?”
“Đừng nói điều đó với cô ta. Bỏ cô ta đi. Cha cô ta là một cảnh sát
tuần tra trong bốn mươi năm. Đó là lý do vì sao cô ta được gọi là P.D
(Con gái cớm tuần tra).”
56 RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản
ứng nhanh.
“Anh không nghĩ rằng tôi nên chọn cô ta?”
“Không. Tôi không nghĩ thế. Vì sao anh lại muốn cô ta?”
“Vì cô ta đã trèo xuống một bờ ngăn cao ba mươi feet để bảo vệ hiện
trường vụ án. Cô ta phong tỏa đại lộ chính và đường ray của Amtrak.
Đó là sáng kiến.”
“Thôi nào, Linc. Tôi biết hàng chục cảnh sát đã làm như thế.”
“Được rồi, cô ta là người tôi muốn.” Rhyme ném cho Sellitto một cái
nhìn nghiêm nghị, nhắc nhở anh ta, tế nhị không tranh cãi, về những
điều khoản trong thỏa thuận của họ.
“Điều tôi muốn nói là”, viên thám tử nói nhỏ, “tôi vừa mới nói chuyện
với Polling. Peretti đang cay cú vì bị gạt sang một bên và nếu – không,
tôi nói là khi nào – hắn biết ai đó trong Đội Tuần tra đi xử lý hiện
trường thì khi đó sẽ rắc rối to.”
“Chắc là vậy”, Rhyme nói nhẹ nhàng, vẫn nhìn vào tấm áp phích hồ sơ,
“nhưng tôi có cảm giác đó là ngày ít rắc rối nhất của chúng ta”.
Và anh ngửa cái đầu mệt mỏi của mình xuống chiếc gối dày phía dưới.
BẢY
York.
Chiếc xe lao nhanh vào khe núi tăm tối, bẩn thỉu của Phố Wall, trung
tâm New
Ngón tay Amelia Sachs nhẹ nhàng nhảy múa trên vô lăng khi cô cố
gắng hình
dung nơi T.J. Colfax có thể bị giam giữ. Việc tìm kiếm cô ta xem ra vô
vọng. Quận Tài chính mà cô đang tiến đến gần, chưa bao giờ trông nó
lại lớn đến vậy, đầy những ngõ ngách, đầy những miệng cống, đầy
những cửa ra vào và những tòa nhà lấm tấm những ô cửa sổ màu đen.
Quá nhiều chỗ để giấu con tin.
Cô nhớ lại cái cảnh mà cô đã nhìn thấy, một bàn tay thò ra từ lỗ huyệt
bên cạnh đường ray. Chiếc nhẫn kim cương trên ngón tay máu me,
xương xẩu. Sachs nhận ra kiểu nữ trang đó. Cô gọi chúng là những
chiếc nhẫn an ủi – kiểu nhẫn mà những cô gái giàu có, cô đơn hay mua
cho mình. Kiểu nhẫn mà cô sẽ đeo nếu cô giàu có.
Lao nhanh xuống phía nam, vượt qua những người đưa tin đi xe đạp và
những chiếc taxi.
Ngay cả trong buổi chiều chói chang này, dưới ánh mặt trời bực bội,
đây vẫn cứ là vùng kinh khủng của thành phố. Những tòa nhà tỏa bóng
râm kinh dị và bị bao phủ bởi bóng tối khủng khiếp như máu khô.
Sachs rẽ với tốc độ bốn mươi, trượt bánh xe trên mặt đường nhựa
mềm như bọt biển và lại nhấn ga để tăng tốc độ lên sáu mươi.
Động cơ hết ý, cô nghĩ. Và quyết định thử xem chiếc xe sẽ tuyệt như
thế nào khi điều khiển với tốc độ bảy mươi.
Nhiều năm trước, trong khi cha cô ngủ – ông thường làm ca từ ba giờ
tới mười một giờ – thiếu nữ Amie Sachs thường lấy chìa khóa chiếc
Camaro của ông, nói với mẹ là cô đi mua đồ và hỏi xem mẹ có muốn
mua gì ở cửa hiệu thịt lợn Fort Halminton hay không. Trước khi mẹ cô
kịp trả lời: “Không, nhưng con đi tàu thôi, không được lái xe đâu nhé”,
thì cô bé đã biến mất ngoài cửa, khởi động xe và lao về phía tây.
Về nhà sau ba tiếng, không có thịt lợn, Amie sẽ lẩn lên cầu thang để rồi
phải đối mặt với người mẹ đang vô cùng giận dữ với trò tiêu khiển của
con gái mình, bà sẽ lại giảng giải cho cô về nguy cơ mang thai và
chuyện đó sẽ phá hoại cơ hội kiếm hàng triệu đô la bằng nghề người
mẫu nhờ khuôn mặt xinh đẹp của cô như thế nào. Rồi cuối cùng, khi
biết được rằng cô không ngủ lang đâu đó mà chỉ lái xe với tốc độ một
trăm dặm một giờ trên đường cao tốc Long Island, bà lại càng giận dữ
và tiếp tục giảng giải cho cô về việc làm hỏng mất khuôn mặt xinh đẹp
và chuyện đó sẽ phá hoại cơ hội kiếm hàng triệu đô la bằng nghề người
mẫu như thế nào.
Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn nữa khi cô có bằng lái xe.
Còn bây giờ thì Sachs đang bị kẹp giữa hai chiếc xe tải hai tầng, hy
vọng không hành khách hay tài xế nào lại tự nhiên mở cửa. Trong nháy
mắt, cô đã vượt qua họ.
Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta…
Lon Sellitto xoa khuôn mặt béo tròn của anh ta bằng những ngón tay
chuối nắn và không buồn để ý đến việc lái chiếc Indy 500. Ông nói
chuyện với đối tác của mình về vụ án như một kế toán viên nói về bảng
cân đối lỗ lãi. Còn Banks, anh ta không đắm đuối nhìn trộm đôi mắt và
cặp môi của Sachs nữa mà bắt đầu nhìn tốc kế mỗi phút một lần.
Họ trượt đi trong một cú cua điên dại khi qua cầu Brooklyn. Cô lại
nghĩ về việc giam giữ người phụ nữ, hình dung ra những chiếc móng tay
dài, lịch thiệp của T.J. khi cô gõ tay mình lên vô lăng. Cô ta lại hiện lên
trong tâm trí cô, hình ảnh đó không chịu biến mất: một cánh tay như
nhánh cây thò ra khỏi lỗ huyệt ẩm ướt. Một cái xương máu me.
“Anh ta có vẻ hơi điên điên”, cô đột nhiên nói, để đổi hướng suy nghĩ.
“Ai?” Sellitto hỏi.
“Rhyme.”
Banks thêm: “Hỏi tôi đây này, anh ta trông giống em của Howard
Hughes57.” “Đúng, điều đó làm tôi thấy ngạc nhiên”, viên thám tử lớn
tuổi hơn công nhận.
“Trông không ổn lắm. Đã từng là một anh chàng đẹp trai. Nhưng mọi
người biết đấy. Sau
tất cả những gì anh ta phải trải qua. Làm thế nào mà cô lại lái xe như
thế, Sachs, cô là cảnh sát tuần tra à?”
“Khi tôi bị chỉ định. Họ không yêu cầu. Họ nói với tôi.” Giống như anh
vừa làm xong, cô nghĩ. “Anh ta có thực sự giỏi như thế không?”
“Rhyme? Giỏi hơn thế. Hầu hết các anh chàng CSU ở New York xử lý
khoảng hai trăm cái xác một năm. Tối đa. Rhyme làm gấp đôi. Ngay
cả khi anh ta điều hành IRD. Ví dụ như Peretti, anh ta là người tốt
nhưng anh ta chỉ ra ngoài hai tuần một lần và chỉ ở những vụ lên báo.
Cô không nghe thấy tôi nói điều đó đấy chứ, sĩ quan?”
“Không. Thưa ngài.”
“Nhưng Rhyme thì tự khám nghiệm hiện trường. Có khi anh ta không
khám nghiệm hiện trường thì anh ta ra ngoài và đi dạo.”
“Làm gì?”
“Chỉ đi dạo thôi. Ngắm nghía mọi thứ. Anh ta đi bộ hàng cây số. Đi
khắp thành phố. Mua bán, nhặt nhạnh, sưu tập các thứ.”
“Những thứ gì?”
“Tiêu chuẩn chứng cứ. Bùn đất, thức ăn, tạp chí, nắp tròn đậy trục
bánh xe, giày, sách y học, thuốc, cây cối… Anh ta sẽ tìm và ghi chúng
vào mục lục. Cô biết đấy – khi có vật chứng nào đó xuất hiện anh ta
có thể sẽ có ý tưởng rõ ràng hơn về việc thủ phạm có thể đã ở đâu hay
hắn ta đang làm gì. Nếu cô tìm anh ta, có thể anh ta sẽ ở Harlem hay
Lower East Side hay Hell’s Kitchen.”
“Cảnh sát từ trong máu?”
57 Howard Robard Hughes (1905 – 1976): Phi công, nhà tư bản công
nghiệp, đạo diễn, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Mỹ.
thế.”
“Không. Cha anh ta là nhà khoa học ở phòng thí nghiệm quốc gia hay
gì đó kiểu
“Rhyme học ngành đó à? Khoa học ấy?”
“Đúng. Học ở Champaign-Urbana, nhận được một, hai cái bằng nào
đấy. Hóa học
và lịch sử. Mà tôi thì chẳng hiểu tại sao. Ông cụ nhà anh ta mất từ khi
tôi biết anh ta, trời ạ, có thể đã mười lăm năm rồi. Và anh ta thì chẳng
có anh chị em gì cả. Anh ta lớn lên ở Illinois. Vì thế mà có tên là
Lincoln.”
Cô muốn hỏi anh ta đã lập gia đình chưa, nhưng lại thôi. Cô hỏi: “Anh
ta có thực sự là cái thứ…”
“Cô cứ nói đi, sĩ quan.” “Củ chuối?”
Banks phá lên cười.
Sellitto nói: “Mẹ tôi có cách diễn đạt thế này. Bà nói ai đó ‘có đầu óc’.
Câu ấy mô tả đúng Rhyme. Anh ta là người có đầu óc. Có lần một cậu
kỹ thuật viên ngu ngốc đã phun luminol – cái chất thử máu ấy – lên một
dấu vân tay, thay vì dùng ninhydrin. Làm hỏng hết dấu vân tay. Rhyme
đuổi việc anh ta ngay lập tức. Lần khác, một cảnh sát đi giải tại hiện
trường và giật nước bồn cầu. Trời ạ, Rhyme phát khùng, nói với anh ta
xuống ngay tầng hầm và đem tất cả những gì có ở chỗ chắn cống lên.”
Sellitto cười. “Tay cảnh sát, cũng là dạng có cấp bậc, nói: ‘Tôi sẽ
không làm việc đó, tôi là trung úy.’ Và Rhyme đáp: ‘Đã nghe. Còn bây
giờ anh là thợ sửa ống nước.’ Tôi có thể kể mãi được. Mẹ kiếp, sĩ
quan, cô đang chạy với tốc độ tám mươi đấy à?”
Họ lao qua Đại Bản Doanh và cô đau đớn nghĩ, đó là chỗ đáng ra bây
giờ mình đang có mặt. Gặp các sĩ quan thông tin đồng sự, ngồi trong
lớp đào tạo, hít thở không khí có điều hòa.
Chúa ơi, nóng. Nóng, bụi bặm, nóng châm chích, nóng thiêu đốt. Giờ
tệ hại của thành phố. Tâm trạng bùng phát như dòng nước màu xám
phụt ra từ những cái vòi cứu hỏa ở Harlem. Hai Giáng sinh trước, cô
và bạn trai có một ngày nghỉ lễ ngắn – từ mười một giờ tối đến nửa
đêm, thời gian rỗi trùng nhau duy nhất mà những ca trực của họ cho
phép – trong một buổi tối lạnh bốn độ. Cô và Nick, ngồi ở Trung tâm
Rockefeller, bên ngoài, gần sân trượt băng, cùng uống cà phê và rượu
brandy. Họ đồng ý rằng chẳng thà chịu một tuần lạnh giá còn hơn là
một ngày tháng Tám nóng bức.
Cuối cùng, khi đang lao nhanh trên phố Pearl, cô nhìn thấy trạm chỉ huy
của Haumann. Để lại một dấu phanh trượt dài gần tám feet, Sachs đưa
chiếc RRV vào giữa xe của anh ta và chiếc xe bus EMS.
“Mẹ kiếp, cô lái xe siêu quá.” Sellitto chui ra. Vì một lý do nào đó
Sachs thấy vui khi nhìn dấu tay đầy mồ hôi của Jerry Banks để lại, hiện
rõ trên kính cửa sổ khi anh ta mở cửa hậu của xe.
Các sĩ quan EMS và đồng phục của Đội Tuần tra ở khắp nơi, có đến
năm mươi hay sáu mươi người. Và còn những người khác đang đến.
Có vẻ như toàn bộ tâm trí của One Police Plaza đang tập trung vào
trung tâm New York. Tự nhiên Sachs nảy ra ý nghĩ
nếu ai đó muốn một vụ ám sát hay chiếm Biệt thự Gracie hay một lãnh
sự quán nào đó, thì có lẽ bây giờ là lúc thích hợp nhất.
Haumann chạy đến chỗ chiếc xe. Anh ta nói với Sallitto: “Chúng tôi
đang khám từng nhà, xem xét từng công trường xây dựng trên Phố
Pearl. Chẳng ai biết gì về công trường dọn asbestos và không ai nghe
thấy tiếng kêu cứu cả.”
Sachs sửa soạn ra khỏi xe, nhưng Haumann nói: “Không, sĩ quan.
Nhiệm vụ của cô là ở lại đây với chiếc RRV.”
Cô vẫn bước ra.
“Vâng, thưa ngài. Ai ra lệnh đó vậy?”
“Thám tử Rhyme. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy. Cô phải gọi điện đến
Trung tâm khi cô ở CP58.”
Haumann đi khỏi. Sallitto và Banks vội vàng chạy tới trạm chỉ huy.
“Thám tử Sallitto”, Sachs gọi.
Anh ta quay lại. Cô nói: “Tôi xin lỗi, thưa thám tử. Vấn đề là ai là
người chỉ huy giám sát của tôi? Tôi phải báo cáo với ai?”
Anh ta nói ngắn gọn: “Cô báo cáo cho Rhyme.”
Cô phá lên cười: “Nhưng tôi không thể báo cáo với anh ta.” Sallitto
nhìn cô trống rỗng.
“Ý tôi là, ở đây không có vấn đề gì như kiểu trách nhiệm hay sao? Luật
pháp? Anh ta là dân thường. Tôi cần ai đó, một cái khiên, để tôi còn
báo cáo.”
Cuối cùng, Sellitto nói: “Nghe này, sĩ quan. Tất cả chúng ta đều báo
cáo với Lincoln Rhyme. Tôi không quan tâm anh ta là dân thường hay
anh ta là sếp hay tên Thập Tự Chinh khốn kiếp. Hiểu chưa?”
“Nhưng…”
“Nếu cô muốn than phiền, làm văn bản đi và ngày mai hãy làm.”
Và anh ta đi mất. Sachs nhìn theo anh ta một lúc rồi sau đó quay lại
chiếc ghế trước của xe, gọi điện đến Trung tâm báo cáo cô đang
10-8459 tại hiện trường. Chờ chỉ thị.
Cô cười nhăn nhó khi giọng một phụ nữ vang lên: “Mười-bốn, 5885.
Hãy chú ý. Thám tử Rhyme sẽ liên lạc lại sớm. Nghe rõ.”
Thám tử Rhyme.
“Mười-bốn, nghe rõ.” Sachs trả lời và nhìn ra đằng sau chiếc xe, băn
khoăn không hiểu trong cái vali đen có gì.
58 CP (viết tắt Commanding Post): Trạm chỉ huy
59 10-84: Tên một mẫu biểu thủ tục hành chính cảnh sát.
2:40.
Điện thoại nhà Rhyme reo. Thom trả lời. “Điều phối viên từ sở chỉ
huy.” “Nối máy đi.”
Điện thoại tải loa bắt đầu hoạt động. “Thám tử Rhyme, anh không nhớ
tôi nhưng tôi làm việc cho IRD khi anh còn ở đấy. Dân thường. Làm
chi tiết điện thoại. Emma
Rollins.”
“Tất nhiên, tôi nhớ. Các con cô thế nào, Emma?” Rhyme nhớ lại một
người phụ nữ da đen to béo, vui vẻ, làm hai công việc để nuôi năm đứa
con. Anh nhớ những ngón tay chuối mắn của cô bấm nút mạnh đến nỗi
đã có lần cô làm hỏng một chiếc điện thoại công.
“Jeremy sẽ vào đại học sau hai tuần nữa và Dora vẫn đóng kịch, hoặc
nó nghĩ là nó đang đóng kịch. Bọn trẻ con thì đều ổn cả.”
“Lon Sellitto gọi cho cô, đúng không?”
“Không. Tôi biết anh làm vụ này và tôi đã đuổi vài cô cậu đi làm 911.
Emma sẽ làm việc này, tôi nói với họ thế.”
“Cô có gì cho chúng tôi nào?”
“Chúng tôi đang lập danh mục những công ty sản xuất ốc vít. Và một
cuốn sách liệt kê những nơi họ bán buôn. Và đây là thứ chúng tôi tìm
được. Đó là nhờ những chữ cái. Những chữ cái đóng trên con ốc. CE.
Họ chế tạo riêng cho Công ty Con Ed.”
Quý thật. Tất nhiên rồi.
“Chúng được đánh dấu như thế vì chúng có kích thước khác với phần
lớn ốc vít do công ty này bán – đường kính mười lăm inch sáu phần
mười, và thân dài hơn hầu hết các con ốc khác. Đó là công ty
Michigan Tool và Die ở Detroit. Họ dùng chúng trong những đường
ống cũ chỉ có ở New York. Những đường ống được làm sáu mươi,
bảy mươi năm trước. Cách các thành phần của đường ống gắn với
nhau làm cho chúng phải được gắn thật chặt. Phải gắn chặt hơn cô dâu
chú rể trong đêm tân hôn, anh chàng ấy nói với tôi thế. Cố làm tôi đỏ
mặt.”
“Emma, tôi yêu chị. Chị sẽ trực, đúng không?” “Chắc chắn rồi.”
“Thom!” Rhyme hét. “Cái điện thoại này không dùng được. Tôi phải tự
gọi điện. Chức năng kích hoạt bằng tiếng nói trong máy tính, tôi sử
dụng nó, được không?”
“Anh đã bao giờ đặt mua nó đâu.” “Tôi chưa?”
“Chưa.”
“Vậy thì tôi cần nó.”
“Nhưng chúng ta không có.”
“Làm gì đi. Tôi muốn gọi điện thoại.”
“Tôi nghĩ là có bộ ECU điều khiển bằng tay ở đâu đó.” Thom đào bới
trong một cái hộp cạnh tường. Anh ta tìm thấy một màn hình điện tử
nhỏ, cắm một đầu vào điện thoại và đầu kia vào que điều khiển gắn
cạnh má Rhyme.
“Cái này kinh quá.”
“Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có. Nếu chúng ta gắn hồng
ngoại lên trên lông mày anh như tôi gợi ý thì anh đã có thể gọi điện
thoại sex từ cách đây hai năm rồi.”
“Nhiều dây dợ quá thể”, Rhyme quát.
Cổ anh bất ngờ đau thắt và làm rơi cái điều khiển ra khỏi tầm với. “Mẹ
kiếp.” Chính phút đó, Lincoln thấy nhiệm vụ – chưa nói đến sứ mệnh
của họ – tự nhiên
có vẻ bất khả thi. Anh kiệt sức, cổ anh đau, đầu anh. Nhất là mắt anh.
Chúng nhức nhối –
và điều đó càng làm anh đau đớn hơn – anh có nhu cầu khẩn thiết dụi
lưng bàn tay lên đôi mắt đang nhắm. Một cử chỉ thư giãn nhỏ xíu mà
phần còn lại của thế giới làm hằng ngày.
Thom đặt lại cái cần điều khiển. Rhyme lấy lại được kiên nhẫn từ đâu
đó và hỏi người trợ lý: “Cái này hoạt động thế nào?”
“Có một màn hình. Anh thấy nó trên bộ điều khiển chứ? Chỉ cần dịch
cần điều khiển tới con số anh cần quay, đợi một giây và nó đã được
nhớ. Sau đó, quay số tiếp theo giống như thế. Khi có được bảy số, ấn
cái cần vào đây để gọi.”
Anh thử. “Không hoạt động.” “Phải tập chứ.”
“Chúng ta không có thời gian!”
Thom càu nhàu: “Tôi trả lời điện thoại hộ anh quá lâu rồi đấy.”
“Được rồi”, Rhyme hạ giọng – đó là cách anh xin lỗi. “Tôi sẽ tập sau.
Cậu có thể gọi tới Con Ed giúp tôi được không? Tôi cần nói chuyện
với giám sát viên.”
Sợi dây làm cô đau, cái còng làm cô đau nhưng chính tiếng động lại
làm cô hoảng sợ nhất.
Tammie Jean Colfax cảm thấy mồ hôi của cả cơ thể đang chảy trên
mặt cô, ngực cô, tay cô khi cô cố kéo sợi xích của cái còng tay tới lui
trên một con ốc gỉ. Cổ tay cô tê dại, nhưng có vẻ cô đã cắt được một
phần sợi xích.
Cô dừng lại, kiệt sức và bẻ tay xuôi ngược để không bị chuột rút. Cô
lại lắng nghe. Đó là tiếng công nhân đang bắt ốc và đóng các cấu kiện
lại với nhau. Những tiếng búa cuối cùng. Cô hình dung họ đang kết
thúc công việc trên đường ống và chuẩn bị về nhà.
Đừng đi, cô gào thầm. Đừng bỏ tôi. Chừng nào họ còn làm việc, cô
còn được an
toàn.
Tiếng đập cuối cùng, sau đó là sự im lặng tuyệt đối. Ra khỏi đó thôi,
con gái. Nào.
Mẹ ơi…
T.J. khóc mất vài phút, nghĩ về gia đình cô ở Đông Tennessee. Mũi cô
dính đặc, nhưng khi bắt đầu ngạt, cô hỉ mũi thật mạnh và cảm thấy
được rất nhiều nước mắt và nước mũi. Sau đó cô lại thở được. Điều
đó làm cô cảm thấy tự tin. Sức mạnh. Và cô tiếp tục cưa.
“Tôi hiểu sự khẩn cấp của ngài, thưa thám tử. Nhưng tôi không biết tôi
có giúp được gì cho ngài không. Chúng tôi dùng ốc vít khắp nơi trong
thành phố. Đường ống dầu, đường ống gas…”
“Được rồi”, Rhyme nói cộc lốc và hỏi giám sát viên của Con Ed tại trụ
sở chính của công ty trên Phố Mười bốn. Các chị có dùng asbestos để
cách nhiệt đường ống không?”
Một chút ngần ngừ.
“Chúng tôi đã dọn tới chín mươi phần trăm loại này đi rồi”, người phụ
nữ nói chắc chắn. “Chín mươi nhăm”.
Người ta có thể khó chịu đến mức ấy được ư. “Tôi hiểu. Tôi chỉ cần
biết asbestos còn được dùng bọc đường ống ở đâu nữa không thôi.”
“Không”. Cô ta nói một cách cứng rắn. “Vâng, không bao giờ dùng
cho điện. Chỉ cho hơi nước và đó là phần nhỏ nhất trong dịch vụ của
chúng tôi.”
Hơi nước!
Đó là tiện ích ít nổi tiếng nhất và hiếm hoi nhất của thành phố. Con Ed
đun nước lên một nghìn độ sau đó thổi nó qua mạng đường ống
hàng trăm dặm nằm dưới Manhattan. Luồng hơi nước nóng bỏng
được đun lên rất nóng – khoảng ba trăm tám mươi độ – và lao qua
thành phố với tốc độ bảy mươi lăm dặm một giờ.
Rhyme nhớ lại một bài báo. “Có phải tuần trước các chị có chỗ bị
thủng đường ống không?”
”Vâng, thưa ngài. Nhưng không có asbestos bị rò rỉ. Chỗ này đã được
dọn nhiều năm trước.”
“Nhưng trong các đường ống của các chị ở khu trung tâm vẫn còn
asbestos, đúng không?”
Cô ta ngần ngừ. “À…”
“Chỗ ống thủng ấy ở đâu?” Rhyme nhanh chóng tiếp tục. “Broadway.
Cách Chambers một khối nhà lên phía bắc.” “Có phải có một bài trên
tờ Thời báo nói về điều đó?” “Tôi không biết. Có thể. Vâng.”
“Bài báo ấy có nhắc đến asbestos không?”
“Có”, cô ta khẳng định, “nhưng nó chỉ nói là trước đây việc ô nhiễm
asbestos đã từng là vấn đề.”
“Đường ống thủng ấy… đã chạy qua hay có chạy qua phía nam Phố
Pearl không?”
“Để tôi xem. Có, nó có chạy qua đó. Ở Phố Hanover. Phía bắc.”
Anh hình dung ra T.J. Colfax, người phụ nữ có những ngón tay thon và
móng tay dài, sắp phải chết.
“Và hơi nước sẽ được bơm lại lúc ba giờ?” “Đúng thế. Bất kỳ lúc nào.”
“Không được.” Rhyme quát. “Có người đã can thiệp vào đường ống.
Các chị không được bơm hơi nước!”
Cooper ngẩng đầu lên khỏi cái kính hiển vi của mình. Nhân viên giám
sát nói: “À, tôi không biết…”
Rhyme quát Thom. “Gọi Lon, bảo anh ta là cô ấy trong một tầng hầm
ở Phố
Hanover và Phố Pearl. Phía bắc.” Anh nói với cậu ta về hơi nước. “Gọi
đội cứu hỏa đến đấy nữa. Mặc quần áo chống nhiệt.”
Rhyme quát vào điện thoại. “Gọi đội công nhân! Ngay bây giờ! Họ
không được bơm hơi nước lại. Họ không thể!” Anh nhắc lại từng từ
một cách trống rỗng, ghê tởm sự tưởng tượng kỳ dị của mình, trong đó
hình ảnh về da thịt một người phụ nữ chuyển thành màu hồng, rồi đỏ,
sau đó bị xé nát dưới đám mây hơi nước trắng, dữ dội, nóng bỏng cứ
quay vòng không kết thúc.
Cái bộ đàm trong xe kêu lục cục. Lúc này là 2:57 theo đồng hồ của
Sachs. Cô trả lời cuộc gọi.
“5885, nghe rõ…”
“Quên thủ tục đi, Amelia”, Rhyme nói. “Chúng ta không có thời gian
đâu.” “Tôi…”
“Chúng tôi nghĩ rằng mình đã biết cô ấy đang ở đâu. Phố Hanover và
Phố Pearl.”
Cô liếc nhìn qua vai và thấy mấy chục sĩ quan ESU đang ra sức chạy
đến một tòa nhà cũ.
“Anh có muốn tôi…”
“Họ sẽ tìm cô ấy. Còn cô hãy sẵn sàng khám nghiệm hiện trường.”
“Nhưng tôi có thể giúp…”
“Không. Tôi muốn cô ra sau xe. Ở đó có một cái va li đánh dấu 02.
Hãy đem nó theo. Và trong một cái hộp nhỏ có một chiếc đèn
PoliLight. Cô đã thấy nó trong phòng
tôi. Mel đã dùng nó. Lấy cả chiếc đèn nữa. Trên cái va li đánh dấu 03
cô sẽ thấy cái tai
nghe và mic. Cắm nó vào bộ đàm Motorola của cô rồi đi tới tòa nhà
chỗ những sĩ quan làm việc. Gọi lại cho tôi khi cô đã trang bị đủ. Kênh
ba mươi bảy. Tôi sẽ dùng điện thoại cố định nhưng cuộc gọi của cô sẽ
được chuyển đến tôi.”
Kênh ba mươi bảy. Tần số cho các nhiệm vụ đặc biệt trên toàn thành
phố. Tần số ưu tiên.
“Cái gì?…” Cô hỏi. Nhưng bộ đàm không trả lời.
Cô có một cây đèn halogen dài màu đen đeo ở thắt lưng nên cô để
chiếc đèn pha mười hai volt cồng kềnh lại xe, vơ chiếc đèn PoliLight và
cái va li nặng trịch. Nó phải nặng tới hai mươi lăm pound. Đúng là thứ
mà đám khớp xương của nợ của mình đang cần. Cô nắm tay, nghiến
răng lại vì đau, chạy vội tới chỗ giao lộ.
Sellitto chạy như muốn đứt hơi về phía tòa nhà. Banks chạy theo họ.
“Cô nghe thấy chưa?” Viên thám tử già hỏi. Sachs gật đầu.
“Nó đấy à?” Cô hỏi.
Sellitto gật đầu về phía con đường. “Hắn phải đưa cô ta theo lối này.
Dưới sảnh có trạm bảo vệ.” Họ đang chạy trên con đường rải sỏi phủ
bóng râm, nóng như thiêu, bốc mùi nước tiểu và rác rưởi. Cạnh đó là
những cái thùng rác màu xanh, méo mó.
“Đằng kia”, Sellitto quát. “Mấy cái cửa kia kìa.”
Các nhân viên cảnh sát chạy tản ra. Ba trong số bốn cánh cửa bị khóa
chặt từ bên
trong.
Cánh cửa thứ tư đã được mở bằng xà beng và giờ nó bị khóa bằng
xích. Khóa và
dây xích vẫn còn mới.
“Đây rồi!” Sellitto vươn tay chạm vào cánh cửa, hơi ngần ngừ. Có thể
anh ta nghĩ đến dấu tay. Sau đó, anh ta nắm lấy tay nắm và giật mạnh.
Cánh cửa hé mở mấy inch nhưng sợi xích giữ nó lại. Anh ta cho ba sĩ
quan mặc đồng phục đi vòng cổng trước để xuống tầng hầm từ bên
trong. Một người cảnh sát nhặt một viên sỏi trên đường và bắt đầu đập
vào nắm đấm cửa. Vài cú đập mạnh, thêm vài cú nữa. Anh ta nhăn mặt
khi tay đập phải cánh cửa, máu phun ra từ ngón tay rách toạc của anh
ta.
Một nhân viên cứu hỏa ôm dụng cụ Halligan chạy tới – đó là một tổ
hợp giữa cuốc chim và xà beng. Anh ta ấn một đầu vào sợi xích và kéo
tung ổ khóa. Sellitto nhìn Sachs chờ đợi. Cô chằm chằm nhìn lại.
“Được rồi, đi thôi sĩ quan!” Anh ta quát lên. “Cái gì?”
“Anh ta không nói với cô à?”
“Ai?” “Rhyme.”
Khỉ thật, cô quên cắm tai nghe. Cô lần mò tìm kiếm, cuối cùng cũng
cắm được nó vào. Và nghe thấy: “Amelia, cô…”
“Tôi đây.”
“Cô có ở tòa nhà không?” “Có.”
“Vào trong đi. Họ đã khóa hơi nước nhưng tôi không biết có còn kịp
hay không. Hãy đem theo nhân viên y tế và một sĩ quan ESU. Hãy vào
phòng nồi hơi. Có lẽ cô sẽ
nhìn thấy cô ta ngay, Colfax ấy. Hãy đến gần cô ta, nhưng đừng đi
thẳng từ cửa đến chỗ cô ta. Tôi không muốn cô làm mất dấu chân nào
mà hắn ta có thể để lại. Hiểu chứ?”
“Vâng.” Cô gật đầu dứt khoát, không nghĩ rằng anh ta không nhìn thấy
cô. Ra hiệu cho nhân viên y tế và một sĩ quan ESU đi theo, Sachs
bước vào cái hành lang bẩn thỉu, bóng tối khắp nơi, tiếng rên rẩm của
máy móc, nước nhỏ giọt.
“Amelia”, Rhyme gọi. “Có.”
“Chúng tôi đang nói tới một cuộc phục kích ở đây. Từ những gì mà tôi
biết về hắn ta lúc này, tôi không nghĩ như vậy. Như thế thì phi lý.
Nhưng cứ sẵn sàng tay súng nhé.”
Phi lý.
“Được rồi.”
“Đi thôi! Nhanh lên!”
TÁM
Một cái hang âm u. Nóng bức, đen tối và ẩm ướt.
Ba người họ nhanh chóng đi dọc theo hành lang bẩn thỉu về phía cánh
cửa duy nhất mà Sachs có thể nhìn thấy. Một cái biển viết PHÒNG
NỒI HƠI. Cô đi sau viên sĩ quan ESU được trang bị đầy đủ áo giáp
chống đạn và đội mũ bảo hiểm. Nhân viên y tế đi sau cùng.
Khớp ngón phải và vai cô nhói lên dưới sức nặng của chiếc va li. Cô
chuyển nó sang tay trái, suýt thì đánh rơi và phải điều chỉnh lại cái tay
cầm. Họ đi tiếp về phía cánh cửa.
Đến nơi, viên sĩ quan SWAT lao vào trong và chĩa súng quanh căn
phòng sáng lờ mờ. Chiếc đèn pin gắn ở nòng súng chiếu một tia sáng
nhợt nhạt vào những luồng hơi nước. Sachs ngửi thấy mùi ẩm mốc. Và
một thứ mùi khác, ghê sợ.
Cách. “Amelia?” Giọng nói như tiếng nổ của Rhyme làm cô hết hồn.
“Cô đang ở đâu thế, Amelia?”
Tay run run, cô vặn tiếng nhỏ đi. “Bên trong”, cô hổn hển.
“Cô ta còn sống không?”
Sachs đung đưa trên hai chân, nhìn chằm chằm vào cảnh tượng đó. Cô
nhìn nghiêng, không chắc chắn mình đang nhìn gì. Rồi cô hiểu ra.
“Ôi, không.” Cô thì thầm. Cảm thấy buồn nôn.
Mùi thịt luộc kinh khủng thoảng quanh cô. Nhưng đó vẫn chưa phải là
điều tệ hại nhất. Cũng không phải là hình ảnh da của người phụ nữ, đỏ
tươi, gần như màu cam, bị tróc ra từng mảng lớn. Hay khuôn mặt bị lột
hết da. Không, điều kinh dị nhất là cái góc do cơ thể T.J. Colfax tạo
ra, tay chân và thân hình vặn xoắn khi cô ta cố thoát khỏi luồng hơi
nóng tàn phá.
Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân…
“Cô ta còn sống không?” Rhyme nhắc lại.
“Không.” Sachs thầm thì. “Tôi không thấy có cách nào… không.”
“Căn phòng đã an toàn chưa?”
Sachs nhìn viên sĩ quan, người đã nghe thấy cuộc điện đàm và gật đầu.
“Hiện trường an toàn.”
Rhyme nói với cô: “Tôi muốn sĩ quan ESU ra ngoài, sau đó cô và nhân
viên y tế xem xét cô ta.”
Cô nôn khan một lần nữa vì mùi thịt rồi ép mình kiểm soát phản xạ. Cô
và nhân viên y tế đi theo đường chéo tới chỗ đường ống. Anh ta
nghiêng người về phía trước một cách vô cảm rồi sờ tay vào cổ người
phụ nữ. Anh ta lắc đầu.
“Amelia?” Rhyme hỏi.
Xác chết thứ hai trong ca trực. Cả hai trong cùng một ngày. Nhân viên
y tế nói: “DCDS60.”
Sachs gật đầu, nói vào mic: “Đã chết. Khẳng định chết tại hiện trường.”
“Chết do bỏng?” Rhyme hỏi.
“Có vẻ như thế.”
“Bị trói vào tường?”
“Đường ống. Bị còng, tay sau lưng. Chân bị trói bằng dây phơi. Miệng
bị dán băng dính. Hắn đã mở đường ống hơi nước. Cô ta chỉ cách đó
có mấy bước. Chúa ơi!”
Rhyme tiếp tục: “Cho nhân viên y tế đi ra theo đường các vị đã vào.
Ra đến cửa. Để ý bước chân.”
Cô làm theo, vừa nhìn vào cái xác. Làm sao mà da lại có thể đỏ thế
được nhỉ? Như cua luộc.
“Được rồi, Amelia. Cô sẽ khám nghiệm hiện trường. Mở cái va li ra.”
Cô không nói gì, vẫn tiếp tục nhìn.
“Amelia, cô có đứng ở cửa không?... Amelia?”
“Cái gì?” Cô quát lên.
“Cô có đứng ở cửa không?”
Giọng của anh ta bình tĩnh quá thể. Hoàn toàn khác biệt với giọng nói
xỏ xiên, đòi hỏi mà cô còn nhớ trong phòng ngủ. Bình tĩnh… và còn gì
đấy khác nữa. Cô không biết là gì.
“Có. Tôi đang đứng ở cửa. Anh biết đấy, chuyện này thật điên rồ.”
“Cực kỳ điên khùng”, Rhyme đồng ý, gần như vui vẻ. “Cái va li đã mở
ra chưa?” Cô bật mở nắp và nhìn vào trong. Kìm và kẹp, một cái
gương quay trên một cái
cán, những viên bông, thuốc nhỏ mắt, kéo răng cưa, ống hút, bàn xẻng,
dao mổ… Những thứ này là cái gì?
… Ống thổi bụi, vải màn, phong bì, màng lọc, chổi lông, kéo, những
cái túi bằng nhựa và bằng giấy, những cái hộp sắt, chai lọ – năm phần
trăm nitric acid, ninhydrin, silicone, iodide, đồ lấy dấu vân tay.
Không thể được. Cô nói vào mic: “Tôi không nghĩ là anh tin tôi, thám
tử. Tôi thực sự không biết gì về công việc khám nghiệm hiện trường.”
Mắt nhìn về cơ thể bị tàn phá của người phụ nữ. Nước nhỏ xuống từ
cái mũi đã bị lột da của cô ta. Một khoảng màu trắng – xương – chìa
ra trên má. Còn khuôn mặt cô ta bị biến dạng thành một kiểu cười đau
khổ. Giống hệt như nạn nhân sáng nay.
60 DCDS: Xem phần phụ lục.
“Tôi tin cô, Amelia”, anh ta nói một cách thô bạo. “Còn bây giờ thì đã
mở va li ra chưa?” Anh đã bình tĩnh và giọng anh ta nghe… thế nào nhỉ.
Đúng rồi, đúng cái tông ấy. Quyến rũ. Anh ta nói như một người tình.
Mình ghét hắn ta, cô nghĩ. Thật sai trái khi ghét một người tàn tật.
Nhưng mình căm ghét hắn ta.
“Cô đang trong tầng hầm, phải không?” “Vâng, thưa ngài.”
“Nghe này, cô phải gọi tôi là Lincoln. Chúng ta sẽ rất hiểu nhau khi vụ
này kết
thúc.”
Tối đa là khoảng sáu mươi phút.
“Cô sẽ thấy mấy sợi dây cao su trong va li, nếu như tôi không nhầm.”
“Tôi thấy mấy sợi.”
“Đeo chúng quanh giày của cô. Chỗ gót chân ấy. Nếu có bị lẫn lộn dấu
chân thì cô
sẽ biết dấu nào là của cô.” “OK. Đã xong.”
“Lấy mấy cái túi vật chứng và phong bì. Bỏ vào túi cô khoảng một tá.
Cô có biết dùng đũa không?”
“Anh vừa nói gì?”
“Cô sống ở thành phố, đúng không? Cô có bao giờ tới Phố Mott
chưa? Để ăn món thịt gà của Tướng Tso61? Mì nguội, có vị vừng?”
Bụng cô dâng lên khi nghe nói đến thức ăn. Cô cố không nhìn người
phụ nữ đang đung đưa trước mặt mình.
“Tôi biết dùng đũa”, giọng cô lạnh băng.
“Hãy nhìn vào va li. Tôi không chắc có có tìm thấy chúng không. Họ
luôn để chúng ở đấy khi tôi khám nghiệm hiện trường.”
“Tôi chẳng thấy đôi nào.”
“Thế thì cô tìm mấy cái bút chì vậy. Cho chúng vào túi. Bây giờ thì cô
sẽ đan lưới. Từng inch một. Cô sẵn sàng chưa?”
“Đã sẵn sàng.”
“Đầu tiên nói cho tôi biết cô nhìn thấy gì?”
61 Món thịt gà của Tướng Tso: Đây là món gà chiên ngọt tẩm gia vị
thường thấy tại các nhà hàng Trung Quốc ở Mỹ. Có một giả thuyết
không chắc chắn cho rằng, tên gọi của món ăn này xuất phát từ câu
chuyện: vợ của Tướng Tso – tên là Zuo Zongtang (1812-
1885), một vị tướng người Hồ Nam dưới triều nhà Thanh – đã chế
biến món ăn này, dâng lên chồng mình và các cộng sự của ông, nó trở
thành đặc sản của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
“Một căn phòng lớn. Khoảng hai mươi nhân ba mươi. Đầy ống gỉ. Nền
xi măng nứt. Tường gạch. Mốc.”
“Có cái hộp nào không? Có gì trên sàn không?”
“Không, chẳng có gì. Trừ những cái ống, hộp dầu, nồi hơi. Có cát – vỏ
sò, một đống cát bị văng ra từ vết nứt trên tường. Và có thứ gì đó màu
xám nữa…”
“Thứ gì đó?” Anh ta chớp lấy. “Tôi không nhận ra từ này. Thứ gì là cái
gì?”
Một cơn giận bùng lên trong cô. Cô bình tĩnh lại và nói: “Đấy là
asbestos, nhưng không phải gói bùi nhùi như sáng nay. Đây là dạng
tấm bị vỡ vụn.”
“Tốt. Còn bây giờ là lần quét thứ nhất. Cô đang tìm kiếm dấu chân và
bất kỳ dấu vết nào mà hắn để lại cho chúng ta.”
“Anh nghĩ hắn có để lại thêm à?”
“Ồ, tôi cá đấy”, Rhyme nói. “Đeo kính vào và dùng đèn PoliLight đi.
Đi thấp. Đan lưới khắp phòng. Từng inch một. Cô biết cách đan lưới
chứ?”
“Biết.”
“Như thế nào?”
Cô nổi giận. “Không cần phải kiểm tra tôi.” “À, thế thì đùa với tôi đi.
Như thế nào?”
“Tiến và lùi theo một hướng. Sau đó tiến và lùi theo hướng vuông góc.”
“Từng bước một, bước không dài quá một foot.” Cô không biết điều
này. “Tôi biết”, cô nói.
“Làm thôi.”
Cây đèn PoliLight tỏa ra thứ ánh sáng ma quái từ thế giới khác. Cô
biết cái đó gọi là ALS, nó làm cho dấu tay, tinh dịch, máu và một số
dấu giày tỏa sáng. Ánh sáng xanh màu mật rực rỡ làm cho những cái
bóng nhảy nhót múa may và đã mấy lần cô suýt nữa bắn vào một hình
thù đen ngòm mà hóa ra lại là một con ma bóng tối.
“Amelia?” Giọng Rhyme sắc ngọt. Cô lại giật bắn mình. “Có? Cái gì?”
“Cô có nhìn thấy dấu chân nào không?”
Cô tiếp tục nhìn chăm chăm xuống sàn. “Tôi, à, không. Tôi có nhìn
thấy mấy vệt trên đất. Hay là cái gì đó.” Cô co rúm lại khi nghe những
lời nói sơ suất này. Nhưng Rhyme, không giống Peretti sáng nay,
không để ý. Anh ta nói: “Vậy à. Sau đó hắn đã quét đi rồi.”
Cô ngạc nhiên. “Đúng thế, là nó! Vết chổi. Làm sao mà anh biết
được?”
Rhyme cười – âm thanh làm Sachs gai người trong cái nấm mồ này –
rồi nói: “Hắn đủ thông minh để xóa dấu vết của mình vào buổi sáng
hôm nay; không có lý do gì để ngừng lại. Anh chàng này giỏi đấy.
Nhưng chúng ta cũng giỏi. Làm tiếp đi.”
Sachs cúi xuống, khớp xương cô đang bốc lửa, cô bắt đầu tìm kiếm.
Cô tìm từng bước chân trên sàn. “Không có gì ở đây. Hoàn toàn
không có gì.”
Anh nhận thấy dấu hiệu muốn chấm dứt trong giọng nói của cô.
“Chúng ta mới bắt đầu thôi, Amelia. Hiện trường vụ án có ba chiều.
Hãy nhớ điều đó. Hãy bắt đầu từ điểm cách xa luồng hơi nước nhất và
tìm từng inch một.”
Cô từ từ đi vòng quanh con rối ghê sợ ở giữa phòng. Cô nghĩ về trò
chơi Maypole
– cây nêu ngày mùng Một tháng Năm cô đã từng chơi trong những lần
vui chơi trên phố Brooklyn lúc cô mới khoảng sáu, bảy tuổi, khi cha cô
tự hào đem phim về nhà. Đi vòng quanh thật chậm. Đấy là một căn
phòng nhỏ nhưng có hàng nghìn chỗ để tìm kiếm.
Vô vọng… Không thể.
Nhưng không phải như vậy. Trên gờ tường, cách sàn nhà khoảng sáu
feet, cô tìm thấy nhóm chứng cứ tiếp theo. Cô bật ra một tràng cười
nhanh. “Tôi tìm được gì rồi này.”
“Một cụm chứ?”
“Đúng thế. Một mảnh gỗ lớn màu đen.” “Đũa.”
“Cái gì?” Cô hỏi.
“Dùng bút chì đi. Lấy bút chì để nhặt nó lên. Nó có bị ướt không?”
“Mọi thứ ở đây đều ướt.”
“Chắc chắn rồi, phải thế mà. Hơi nước. Cho nó vào trong túi vật chứng
bằng giấy. Nhựa sẽ giữ bọn vi khuẩn lại và trong cái nóng như thế này
thì vi khuẩn sẽ hủy hoại dấu vết trên vật chứng. Ở đó còn gì nữa?” Anh
hăng hái hỏi.
“Đó là, tôi không biết, lông. Tôi nghĩ thế. Ngắn, đã được cắt. Một nắm
lông.” “Rời nhau hay bị dính vào da?”
“Rời nhau.”
“Trong va li có một cuộn băng dính rộng. Nhãn 3M. Dùng nó để lấy
lông lên.” Sachs nhặt gần hết nắm lông lên, đặt chúng vào cái phong bì
giấy. Cô nghiên cứu
chỗ gờ tường quanh nắm lông. “Tôi thấy có mấy vết bẩn. Trông như gỉ
sắt hay là máu.” Cô nghĩ nên soi chỗ đó bằng đèn PoliLight. “Chúng
phát sáng.”
“Cô có thể làm bài thử giả định máu không?” “Không.”
“Cứ giả sử đó là máu. Có thể là máu của nạn nhân không?”
“Không giống thế. Chỗ này quá xa và không dẫn đến chỗ xác cô ta.”
“Nó có dẫn đến đâu không?”
”Có vẻ như vậy. Tới một viên gạch trên tường. Viên gạch này lỏng lẻo.
Trên đó không có dấu tay. Tôi sẽ đi sang bên cạnh. Tôi – ôi Chúa ơi!”
Sachs hổn hển, vội lùi lại
khoảng một hoặc hai feet, bị vấp và suýt ngã.
“Cái gì thế?” Rhyme hỏi.
Cô nghiêng người ra phía trước, không tin vào mắt mình. “Amelia. Nói
với tôi nào.”
“Một cái xương. Một cái xương máu me.”
“Xương người?”
”Tôi không biết”, cô trả lời. “Làm sao mà tôi…? Tôi không biết.” “Vụ
giết người vừa rồi?”
“Có vẻ thế. Dài khoảng hai inch và hai inch đường kính. Trên đó vẫn
còn máu với thịt. Nó bị cưa đứt. Thằng khốn nào có thể làm thế
được…”
“Đừng cuống lên.”
“Nếu hắn lấy cái xương này từ nạn nhân khác thì sao?”
“Thì chúng ta lại càng phải tìm ra hắn thật nhanh. Amelia, cho nó vào
túi đi. Túi nhựa để đựng xương.”
Trong khi cô đang làm, anh ta hỏi: “Có dấu tích dàn cảnh nào khác
không?” Anh ta có vẻ lo lắng.
“Không.”
“Chỉ có thê thôi à? Lông, một cái xương và một mảnh gỗ. Hắn không
thể để cho việc đó quá dễ dàng, đúng không?”
“Tôi có cần đem nó về… văn phòng của anh không?”
Rhyme đang cười. “Hắn muốn chúng ta đem nó đi. Nhưng chưa đâu.
Ta vẫn chưa xong. Hãy tìm hiểu thêm chút nữa về Đối tượng 823 nào.”
“Nhưng ở đây chẳng có gì.”
“Ồ, có đấy Amelia. Ở đó có địa chỉ và số điện thoại của hắn, hy vọng
và cảm hứng của hắn. Mọi thứ đếu ở quanh cô.”
Cô điên người vì giọng lưỡi giáo sư của anh ta nhưng vẫn giữ im lặng.
“Cô có đèn không?”
“Tôi có cái đèn halogen được cấp…”
“Không”, anh ta càu nhàu. “Đèn pin được cấp chiếu quá hẹp. Cô cần
cây đèn mười hai volt có vùng chiếu rộng hơn.”
“Thế à, tôi không đem theo rồi”, cô phản ứng. “Liệu tôi có phải quay
lại lấy không?”
“Không có thời gian đâu. Kiểm tra đường ống đi.”
Cô tìm kiếm khoảng mười phút, leo lên trần nhà, và dùng cây đèn rất
sáng soi vào những điểm mà có lẽ chưa từng được soi sáng trong cả
năm mươi năm rồi. “Không, tôi chẳng nhìn thấy gì cả.”
“Quay ra cửa đi. Nhanh lên.”
Cô ngần ngừ rồi quay lại. “Được rồi. Tôi đang ở đây.”
“Bây giờ thì nhắm mắt lại. Cô ngửi thấy gì nào?”
”Mùi? Có phải anh vừa nói mùi không?” Anh ta có điên không nhỉ?
“Lúc nào cũng phải ngửi không khí ở hiện trường vụ án. Nó có thể nói
với cô nhiều điều.”
Cô vẫn mở mắt và hít vào. Cô nói: “Nhưng tôi không biết tôi đang ngửi
thứ gì?” “Đó không phải câu trả lời được chấp nhận.”
Cô thở ra một cách bực tức và hy vọng tiếng rít có thể đến ống nghe
của anh ta vừa ầm ĩ vừa rõ ràng. Cô nhắm chặt hai mắt, hít vào và lại
cảm thấy buồn nôn. “Mùi mốc, mùi nước nóng từ đám hơi nước.”
“Cô không biết nó từ đâu đến. Cứ tả nó thôi.” “Nước nóng. Mùi nước
hoa của người phụ nữ.” “Cô có chắc đấy là nước hoa của cô ta
không?” “À, không.”
“Cô có dùng nước hoa không?” “Không.”
“Nước hoa dùng sau khi cạo râu thì sao? Nhân viên y tế? Sĩ quan
ESU?”
“Tôi không nghĩ vậy. Không.” “Tả nó xem.”
“Khô. Như rượu gin.”
“Đoán thử xem, mùi nước dùng sau khi cạo râu của đàn ông hay nước
hoa phụ
nữ.”
Nick dùng gì nhỉ? Arrid Extra Dry?
“Tôi không biết”, cô nói. “Loại đàn ông.” “Đi đến chỗ cái xác đi.”
Cô liếc nhìn đường ống, sau đó nhìn xuống sàn. “Tôi…”
“Đi đi”, Lincoln Rhyme nói.
Cô đi. Da bị lột trông giống như gỗ bulô đỏ và đen. “Ngửi cổ cô ta
xem.”
“Nó… Ý tôi là, không còn nhiều da ở đó nữa đâu.”
“Tôi xin lỗi, Amelia, nhưng cô phải làm thế. Ta phải xem đó có đúng là
nước hoa
của cô ta không?”
Cô làm theo, hít vào. Nôn khan, suýt nôn thốc ra.
Mình sẽ nôn mất, cô nghĩ. Giống như lần mình và Nick trong cái đêm ở
Pancho, say mềm vì hỗn hợp rượu rum đông lạnh chết tiệt. Hai cảnh
sát cứng cựa uống cạn thứ đồ uống nhạt thếch có con cá kiếm nhựa
màu xanh bơi lội bên trong.
“Cô có ngửi thấy mùi nước hoa không?” Nó đến rồi… lại nôn khan.
Không. Không được! Cô nhắm mắt, tập trung vào các khớp xương
đau nhức của mình. Phần đau nhất – đầu gối. Và thật thần kỳ, cơn
buồn nôn lại qua đi. “Đó không phải là nước hoa của cô ta.”
“Tốt. Có thể anh chàng của chúng ta đủ kiêu ngạo để bôi thật nhiều
nước hoa dùng sau khi cạo râu. Đó có thể là dấu hiệu của giai tầng xã
hội. Hoặc có thể hắn muốn che giấu thứ mùi gì đó mà hắn có thể để lại.
Tỏi, xì gà, cá, whisky. Ta sẽ phải xem. Giờ thì nghe thật kỹ đây,
Amelia.”
“Cái gì?”
“Tôi muốn cô là hắn ta.”
Ồ. Thằng điên thối tha. Đúng là thứ mình cần.
“Tôi thực sự không nghĩ rằng ta có thời gian cho việc này.”
“Không bao giờ có đủ thời gian cho khám nghiệm hiện trường”, Rhyme
dịu dàng nói tiếp. “Nhưng điều đó không ngăn được chúng ta. Chỉ cần
đi vào trong đầu hắn. Cô đã nghĩ theo cách chúng ta nghĩ. Giờ tôi muốn
cô nghĩ theo cách hắn nghĩ.”
“Vậy à. Tôi phải làm thế nào?”
“Hãy dùng trí tưởng tượng. Đó là lý do Chúa đem nó đến cho chúng
ta. Rồi, giờ cô là hắn. Cô đã còng và bịt miệng cô ta. Cô đưa cô ta
đến căn phòng ở đó. Cô còng cô ta vào đường ống. Cô dọa cô ta. Cô
đang tận hưởng điều đó.”
“Làm sao anh biết hắn tận hưởng điều đó?”
“Cô đang tận hưởng. Không phải là hắn. Làm sao mà tôi biết được? Vì
chẳng có ai lại đâm đầu vào ngần ấy rắc rối để làm những việc anh ta
không thấy thích. Giờ thì cô biết đường rồi. Trước kia cô đã tới đây
chưa?”
“Sao anh lại nghĩ thế?”
“Cô cần kiểm tra trước – để tìm một chỗ hoang vắng với một đường
ống dẫn trong hệ thống hơi nước. Và để lấy những thứ manh mối mà
hắn để lại trên đường ray.”
Sachs bị thôi miên bởi giọng nói êm ái, nhỏ nhẹ của anh ta. Cô hoàn
toàn quên mất rằng cơ thể của anh ta đã bị hủy hoại. “Ồ. Đúng rồi.”
“Cô tháo bỏ nắp đường ống dẫn hơi. Cô nghĩ gì vậy?” “Tôi không biết.
Tôi chỉ muốn làm cho xong. Ra ngoài.”
Nhưng những lời nói đó chưa kịp bật ra khỏi miệng cô trước khi cô
nghĩ: Sai rồi. Rồi cô không ngạc nhiên khi nghe tiếng Rhyme tặc lưỡi
trong tai nghe. “Cô có thực sự
nghĩ thế không?” Anh ta hỏi.
“Không. Tôi muốn nó kéo dài.”
“Đúng! Tôi nghĩ đó đúng là điều cô muốn. Cô đang nghĩ xem hơi nước
sẽ làm gì cô ta. Cô còn cảm thấy gì nữa?”
“Tôi…”
Một ý nghĩ hình thành trong đầu cô. Mờ nhạt. Cô nhìn thấy người phụ
nữ đang vật lộn để thoát thân. Nhìn thấy thứ gì đó khác nữa… một ai
đó khác nữa. Hắn, cô nghĩ. Đối tượng 823. Nhưng hắn thì sao? Cô
gần như hiểu ra. Cái gì… cái gì? Nhưng đột nhiên ý nghĩ tan biến. Mất
hút.
“Tôi không biết”, cô thì thầm.
“Cô có cảm thấy vội vàng không? Hay cô đang thấy thích những điều
mình đang
làm?”
“Tôi đang vội. Tôi phải đi. Cảnh sát sẽ tới đây bất cứ lúc nào. Nhưng
tôi vẫn…” “Cái gì?”
“Suỵt”, cô ra lệnh. Rồi quét căn phòng lần nữa, tìm kiếm bất cứ thứ gì
có thể gieo
mầm lại cho ý nghĩ vừa biến mất trong đầu cô.
Căn phòng đang bơi, một đêm đen đầy sao. Những vòng xoáy của
bóng tối và khoảng cách, ánh sáng vàng vọt. Chúa ơi, đừng để con bị
ngất.
Có thể hắn…
Kia! Đúng rồi. Ánh mắt Sachs chạy theo đường ống dẫn hơi. Cô đang
nhìn vào một cái nắp nằm sâu trong hốc tường tối của căn phòng. Đó
có thể là một chỗ trốn tốt hơn cho cô gái – ta không thể nhìn thấy nó từ
ô cửa nếu ta đi ngang qua – và cái nắp thứ hai chỉ có bốn con ốc trên
đó, không phải tám, như cái hắn đã chọn.
Tại sao không phải cái ống kia? Rồi cô chợt hiểu.
“Hắn không muốn…Tôi chưa muốn bỏ đi vội vì tôi còn muốn để mắt
tới cô ta.” “Sao cô nghĩ vậy?” Anh ta hỏi, bắt chước lời lẽ của cô vài
phút trước đó.
“Có một cái ống khác mà tôi có thể xích cô ta vào, nhưng tôi đã chọn
một cái ở chỗ trống trải.”
“Để cô có thể nhìn thấy cô ta?” “Tôi nghĩ thế.”
“Tại sao?”
“Có thể để chắc chắn là cô ta không chạy mất. Có thể để bảo đảm là
miệng cô ta đã được dán chặt… Tôi không biết.”
“Tốt. Amelia. Nhưng điều đó nghĩa là gì? Chúng ta sử dụng sự việc
này như thế
nào?”
Sachs nhìn quanh phòng để tìm kiếm chỗ hắn ta có thể nhìn cô gái rõ
nhất mà
không bị trông thấy. Hóa ra đó là khoảng bóng tối giữa hai thùng dầu
đốt nóng.
“Đúng rồi!” Cô phấn khích nói, nhìn xuống nền nhà. “Hắn đã ở đây”.
Quên mất trò chơi đóng vai. “Hắn đã quét nhà.”
Cô quét khu vực đó bằng ánh sáng xanh mật của chiếc đũa thần
PoliLight.
“Không có dấu chân”, cô nói đầy thất vọng. Nhưng khi cô nhấc cây
đèn lên để tắt nó đi, một vết mờ mờ tỏa sáng trên một cái thùng.
“Tôi có dấu tay rồi!” Cô tuyên bố. “Một dấu tay?”
“Anh sẽ nhìn thấy cô gái rõ hơn nếu anh vươn người ra trước và dựa
vào cái thùng. Đó là điều hắn đã làm. Tôi chắc chắn thế. Có điều, thật
kỳ quặc. Lincoln. Nó bị…
biến dạng. Tay hắn ấy.” Cô rùng mình khi nhìn vào bàn tay ác quỷ.
“Trong vali có một bình xịt dán nhãn DFO. Đó là thuốc nhuộm huỳnh
quang. Phun nó vào chỗ dấu tay, chiếu đèn PoliLight vào đó rồi chụp
ảnh bằng máy Polaroid tỷ lệ 1:1.”
Khi xong việc, cô báo với Lincoln. Anh ta nói: “Còn bây giờ hút bụi
chỗ giữa hai cái thùng. Nếu ta may mắn hắn có thể đánh rơi một sợi tóc
hay cắn móng tay.”
Thói quen của mình, Sachs nghĩ. Đó là một trong những thứ phá hoại
sự nghiệp người mẫu của cô – móng tay dây máu, hàng lông mày lo
lắng. Cô đã cố thử, thử và thử ngừng lại. Nhưng cuối cùng đành đầu
hàng, chán nản, điên cuồng vì chỉ một thói quen nhỏ nhặt đã làm thay
đổi hẳn định hướng cuộc đời cô.
“Cho bộ lọc chân không vào túi.” “Túi giấy?”
“Đúng rồi, túi giấy. Giờ đến thi thể, Amelia.”
“Cái gì?”
“À, cô phải xử lý thi thể.”
Tim cô chùng xuống. Ai đó khác chứ, làm ơn đi. Để ai đó khác làm
việc ấy đi. Cô nói: “Nhưng không được làm trước khi khám nghiệm
pháp y. Đó là quy định.”
“Hôm nay không có quy định, Amelia. Chúng ta sẽ đặt quy tắc cho
mình. Đội khám nghiệm pháp y sẽ nhận cô ta sau chúng ta.”
Sachs lại gần người phụ nữ. “Cô biết quy trình chứ?”
“Vâng.” Cô bước lại gần cơ thể bị hủy hoại.
Rồi đông cứng. Cánh tay chỉ cách lớp da nạn nhân vài inch.
Tôi không làm được. Cô rùng mình. Tự nhủ phải tiến lên. Nhưng cô
không thể; cơ bắp không tuân lệnh.
“Sachs, cô có đấy không?” Cô không thể trả lời.
“Tôi không làm được…Chỉ đơn giản thế thôi. Không thể. Tôi chịu.”
“Sachs?”
Và rồi cô nhìn sâu vào trong con người mình, bằng cách nào đó cô
nhìn thấy cha mình, mặc đồng phục, khom thấp người trên vỉa hè nóng
bức, lồi lõm ở Phố Bốn mươi hai Tây, vòng tay ôm một kẻ say rượu
hèn hạ để đưa anh ta về nhà. Rồi cô nhìn thấy Nick của cô lúc anh
đang cười và uống bia với một tên cướp máy bay trong quán rượu khu
Bronx, kẻ sẽ lập tức giết anh nếu hắn biết anh là cảnh sát chìm. Hai
người đàn ông trong cuộc đời cô, làm việc họ cần phải làm.
“Amelia?”
Hai hình ảnh đó lấp loáng trong ý nghĩ của cô, và vì sao chúng làm cô
bình tĩnh lại, hay sự bình thản đó đến từ đâu, cô không thể biết. “Tôi
đây”, cô trả lời Lincoln Rhyme và làm công việc như cô đã được huấn
luyện. Cạo móng tay, chải lấy lông và tóc
– trên đầu và trên mu. Tường thuật với Rhyme những gì cô làm lúc cô
thực hiện điều đó.
Lờ đi đôi nhãn cầu mờ đục… Lờ đi phần thịt đỏ ngầu.
Cố lờ đi cái mùi đó.
“Lấy quần áo của cô ta”, Rhyme nói. “Cắt mọi thứ. Trước hết lót phía
dưới một tờ báo để lấy tất cả các mảnh vụn rơi ra.”
“Tôi có cần kiểm tra túi không?”
“Không, ta sẽ kiểm tra ở đây. Gói các thứ vào giấy.” Sachs cắt cái váy
và chiếc áo dài tay ra, quần áo lót. Cô vươn tay định lấy cái mà cô
tưởng là chiếc áo ngực, đang đung đưa trước ngực người phụ nữ. Cảm
giác thật kỳ lạ, nó như rã ra trong tay cô. Sau đó, như bị một cái tát,
cô nhận ra mình đang cầm thứ gì và cô thét lên. Không phải vải, mà là
da.
“Amelia? Cô ổn chứ?”
“Vâng!” Cô hổn hển. “Tôi ổn.”
“Hãy tả lại những thứ hắn dùng để giam hãm cô ta.”
“Miệng bị dán băng dính, rộng hai inch. Còng số tám loại chuẩn để
còng tay, dây phơi để trói chân.”
“Soi đèn PoliLight vào cơ thể cô ta. Hắn có thể đã dùng bàn tay trần
để chạm vào người cô ta. Tìm dấu tay xem.”
Cô làm theo. “Không có gì.”
“Được rồi. Bây giờ thì cắt sợi dây phơi – nhưng không cắt vào nút,
được chứ. Cho nó vào túi. Túi nhựa.”
Sachs làm theo. Sau đó Rhyme nói: “Ta cần cái còng.” “Được rồi. Tôi
có chìa khóa còng đây.”
“Không. Amelia. Đừng mở còng”
“Cái gì?”
“Cơ chế khóa còng là một trong những cách tốt nhất để lấy dấu vết từ
nghi phạm.” “Thế thì làm thế nào để tôi tháo nó ra mà không cần chìa?”
Cô cười.
“Trong va li có một lưỡi cưa sắt.” “Anh muốn tôi cưa cái còng à?”
Rhyme dừng một chút rồi nói: “Không, không phải cái còng đâu,
Amelia.”
“Thế thì anh muốn tôi làm gì…Anh không nói nghiêm túc đấy chứ? Nói
nghiêm túc đấy chứ? Tay cô ta?”
“Cô phải làm.” Anh ta khó chịu vì sự ngần ngại của cô.
Được rồi, thế thôi. Sellitto và Polling đã chọn một thằng khùng làm
cộng sự. Có thể sự nghiệp của họ sẽ gặp rắc rối, nhưng mình sẽ không
đi theo họ.
“Quên đi.”
“Amelia, đó chỉ là một cách thu thập vật chứng thôi mà.”
Vì sao anh ta lại nói nghe có lý đến vậy? Cô gắng sức nghĩ ra một lý
do. “Cái còng sẽ dính đầy máu nếu tôi cắt…”
“Tim cô ta ngừng đập rồi. Ngoài ra…”, anh ta nói như một đầu bếp
trên truyền hình, “máu đã bị nấu đông lại rồi.”
Bụng cô lại dâng đầy lên.
“Nào, Amelia. Đến chỗ cái va li đi. Lấy cái cưa. Trên nắp ấy.” Anh ta
lãnh đạm nói thêm: “Làm ơn.”
“Thế thì vì sao anh lại bắt tôi cạo móng tay cô ta? Tôi có thể đem về cả
bàn tay cho anh cơ mà!”
“Amelia, ta cần cái còng. Ta phải mở nó ra ở đây và ta không thể đợi
đội khám nghiệm pháp y được. Cần phải làm việc này.”
Cô quay lại cửa. Tháo sợi dây, nhấc cái cưa trông xấu xí ra khỏi hộp.
Cô nhìn chăm chăm vào người phụ nữ đang đông cứng ở giữa phòng
trong tư thế bị tra tấn.
“Amelia? Amelia?”
Bên ngoài, bầu trời vẫn bao phủ bởi thứ không khí vàng vọt, tù đọng.
Những ngôi nhà bên cạnh bị bọc bởi lớp xút như những cái xương bị
thiêu cháy thành than. Nhưng Sachs lại chưa bao giờ vui như lúc này,
khi được ở ngoài không khí của thành phố. Va li khám nghiệm hiện
trường ở một tay, tay kia là chiếc cưa sắt, cái tai nghe câm lặng đong
đưa quanh cổ cô. Sachs bỏ qua đám đông cảnh sát và những người tò
mò đang nhìn cô, đi thẳng về phía chiếc xe.
Khi đi ngang qua Sellito, cô đưa cho anh ta cái cưa mà không buồn
dừng lại, đúng ra là quẳng nó cho anh ta. “Nếu Rhyme thực sự muốn
làm việc đó, nói với anh ta là anh ta có thể xuống đó mà tự làm lấy.”
II
NGUYÊN TẮC LOCARD
Trong đời thực, anh chỉ có một cơ hội tại hiện trường vụ án giết người.
VERNON J. GEBERTH
TRUNG ÚY CHỈ HUY (ĐÃ NGHỈ HƯU) SỞ CẢNH SÁT NEW
YORK
CHÍN
4:00 PM đến 10:15 PM thứ Bảy
“Tôi đang gặp rắc rối, thưa ngài.”
Người đàn ông ngồi phía bên kia của chiếc bàn làm việc trông giống
như hình mẫu lý tưởng về ngài phó chánh thanh tra cảnh sát một thành
phố lớn trong một chương trình truyền hình. Mà đấy chính là cấp bậc
của ông ta. Tóc trắng, xương hàm trông cá tính, kính gọng vàng, tư thế
tuyệt hảo.
“Vấn đề gì vậy, sĩ quan?”
Phó Chánh thanh tra Randolph C. Eckert nhìn dọc theo cái mũi dài của
ông với một cái nhìn mà Sachs lập tức nhận ra; việc chấp nhận bình
quyền của ông ta có nghĩa là phải đối xử nghiêm khắc với các nữ sĩ
quan như các nam sĩ quan.
“Tôi có khiếu nại, thưa ngài”, cô căng thẳng nói. “Ngài đã nghe về vụ
bắt cóc trên một chiếc taxi rồi chứ ạ?”
Ông gật đầu. “À, vụ đã đưa cả thành phố vào tình trạng khó hiểu.”
Cô tin rằng đó là trò nhảy dây bình thường ở trường học, nhưng không
muốn sửa lời của ngài phó chánh thanh tra.
“Cái hội nghị chết tiệt của Liên Hiệp Quốc”, ông ta tiếp, “cả thế giới
đang theo dõi. Thật không công bằng. Người ta không nói đến tội ác ở
Washington. Hay Detroit. Ừ, họ có nói về Detroit thật. Còn Chicago.
Không bao giờ. Không, chính New York là nơi người ta chõ mũi vào.
Năm ngoái Richmond, Virginia có tỷ lệ giết người tính trên đầu người
nhiều hơn chúng ta. Tôi đã điều tra rồi. Và tôi thà nhảy dù không có vũ
khí vào Trung tâm Harlem còn hơn là mở cửa sổ trong lúc lái xe qua
khu Đông Nam thủ đô vào bất kỳ ngày nào.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tôi hiểu rằng người ta tìm thấy cô gái đã chết. Có trên tất cả các báo.
Bọn nhà báo này…”
“Ở trung tâm. Vừa mới xong.” “Thật đáng tiếc.”
“Vâng, thưa ngài.”
“Chúng chỉ giết cô ta thôi ư? Thế thôi ư? Không có yêu cầu tiền chuộc
hay gì đó
à?”
“Tôi không nghe nói gì về tiền chuộc cả.” “Khiếu nại của cô là gì?”
“Tôi là sĩ quan đầu tiên tại hiện trường một vụ giết người có liên quan
sáng nay.”
“Cô là sĩ quan tuần tra?” Eckert hỏi.
“Tôi đã là sĩ quan tuần tra. Tôi dự kiến được thuyên chuyển sang
Phòng Quan hệ công chúng từ trưa nay. Để tham gia khóa đào tạo.”
Cô giơ hai bàn tay dán băng Band- Aids lên, rồi thả chúng rơi xuống
đùi. “Nhưng họ bắt cóc tôi.”
“Ai?”
“Thanh tra Lon Sellitto, thưa ngài. Đại úy Haumann. Và Lincoln
Rhyme.” “Rhyme?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Không phải anh chàng gánh vác IRD mấy năm về trước đấy chứ?”
“Vâng, thưa ngài. Đúng là anh ta.”
“Tôi tưởng anh ta đã chết rồi.”
Những kẻ tự phụ như thế chẳng bao giờ chết. “Vẫn còn sống khỏe
mạnh, thưa ngài.”
Ngài phó chánh thanh tra nhìn ra ngoài cửa sổ. “Anh ta không còn
phục vụ trong lực lượng nữa. Thế anh ta liên quan gì đến chuyện này?”
“Chắc là cố vấn, thưa ngài. Đây là vụ của Lon Sellitto. Đại úy Polling
làm giám sát. Tôi chờ đợi lần thuyên chuyển này đã tám tháng. Nhưng
họ bắt tôi khám nghiệm hiện trường. Trước đây, tôi chưa bao giờ khám
nghiệm hiện trường. Nó chẳng có ý nghĩa gì và nói thực là tôi ghét bị
bắt phải làm việc mà mình chưa được đào tạo.”
“Hiện trường vụ án?”
“Rhyme ra lệnh cho tôi khám nghiệm toàn bộ hiện trường vụ án. Tự
tôi.”
Eckert không hiểu. Những ngôn từ đó không được chấp nhận. “Tại
sao một dân thường lại ra lệnh được cho sĩ quan mặc cảnh phục làm
bất cứ điều gì?”
“Ý kiến cá nhân của tôi, thưa ngài”. Cô kéo cần. “Ý tôi là, tôi sẽ giúp
đỡ đến một mức độ nào đó. Nhưng tôi không sẵn sàng xẻ thịt nạn
nhân…”
“Sao?”
Cô chớp mắt như thể ngạc nhiên vì ông ta không nghe ra. Cô kể lại
chuyện cái
còng.
“Chúa trên thiên đường, họ nghĩ cái quái quỷ gì vậy? Xin lỗi đã nói
tiếng Pháp.
Chẳng lẽ họ không biết là cả nước đang theo dõi hay sao? Suốt cả
ngày trên CNN phát vụ bắt cóc này. Cắt tay cô ta? Cô có đúng là con
gái của Herman Sachs không?”
“Đúng thế.”
“Một sĩ quan giỏi. Một sĩ quan xuất sắc. Tôi đã trao tặng bằng khen
cho ông. Đó thực sự là một cảnh sát khu vực mẫu mực. Nam
Midtown, đúng không?”
“Hell’s Kitchen. Khu của tôi.” Khu cũ của tôi.
“Herman Sachs có lẽ đã ngăn chặn được nhiều tội ác hơn cả một sư
đoàn cảnh sát làm trong một năm. Chỉ cần làm mọi việc bình ổn, cô
biết đấy.”
“Đúng là cha tôi. Chắc rồi.”
“Tay cô ta?” Eckert khịt mũi. “Gia đình cô gái sẽ kiện chúng ta. Ngay
khi họ phát hiện ra điều đó. Người ta kiện chúng ta vì mọi thứ. Có một
tên hiếp dâm kiện chúng ta vì hắn bị bắn vào chân khi đang cầm dao
lao vào một sĩ quan. Luật sư của hắn ta đưa ra cái lý thuyết gọi là ‘lựa
chọn ít chết chóc nhất’. Thay vì bắn, ta phải phang hắn hay dùng gậy.
Hay phải hỏi chúng một cách lịch sự, tôi không biết. Tôi chắc phải
cảnh báo sếp và Thị trưởng về việc này. Tôi sẽ gọi vài cuộc, sĩ quan.”
Ông ta nhìn lên đồng hồ treo tường. Hơn bốn giờ một chút. “Phiên của
cô hôm nay hết rồi, phải không?”
“Tôi phải tới nhà ở của Lincoln Rhyme. Đó là nơi chúng tôi làm việc.”
Cô nghĩ đến cái cưa sắt. Cô lạnh lùng nói. “Thực ra là phòng ngủ của
anh ta. Đó là trung tâm chỉ huy của chúng tôi.”
“Phòng ngủ của một dân thường là trung tâm chỉ huy của cô?”
“Tôi đánh giá cao tất cả những gì ngài có thể làm, thưa ngài. Tôi đã đợi
lần thuyên chuyển này rất lâu rồi.”
“Cắt tay cô ta. Lạy Chúa lòng lành!”
Cô đứng dậy, đi ra cửa và đi vào một trong những cái hành lang mà
sắp sửa trở thành nhiệm vụ mới của cô. Có điều cảm giác nhẹ nhõm
đến với cô muộn hơn cô mong đợi.
Hắn đứng cạnh khung cửa sổ kính vỏ chai, nhìn xuống một đàn chó
hoang đang rình mò trên bãi đất bên kia phố.
Hắn đang ở tầng một của tòa nhà cũ kỹ này, tòa nhà kiểu liên bang
được lát đá cẩm thạch, xây dựng từ những năm 1800. Được bao
quanh bởi những bãi đất trống và những tòa nhà – một số đã bị bỏ
hoang, một số được thuê mặc dù phần lớn là bị chiếm dụng bất hợp
pháp – tòa nhà cũ kỹ này đã bị bỏ không trong nhiều năm.
Kẻ Tầm Xương nhặt mẩu giấy ráp lên và tiếp tục đánh. Hắn nhìn xuống
cái sản phẩm thủ công của mình. Sau đó lại nhìn ra ngoài cửa sổ.
Tay hắn xoay trong những chuyển động tròn đều chính xác. Mẩu giấy
ráp nhỏ xíu khẽ kêu suỵt, suỵt… Như tiếng một người mẹ đang nựng
con.
Một thập kỷ trước, trong những ngày đầy hứa hẹn của New York,
một nghệ sĩ điên khùng đã chuyển đến ở đây. Ông ta chất đầy những
thứ đồ cổ vỡ nát và gỉ sét vào tòa nhà hai tầng nhớp nháp này. Những
cái chấn song sắt uốn, những gờ tường hình vương miện, những ô kính
hình vuông bẩn thỉu chằng chịt như tơ nhện, những cột trụ nứt nẻ. Một
vài tác phẩm của nghệ sĩ này vẫn còn được treo trên tường. Những
bức bích họa trên lớp vữa cũ: những bức tranh tường chẳng bao giờ
được hoàn thành vẽ những người công nhân, trẻ em, những đôi tình
nhân đầy lo lắng. Những khuôn mặt tròn trịa, vô cảm – chủ đề con
người – những cái nhìn trống rỗng như thể linh hồn đã bị lôi ra khỏi cơ
thể nhẵn nhụi của họ.
Người họa sĩ chưa bao giờ quá thành công, thậm chí là sau những ý
tưởng tiếp thị cứng rắn nhất – vụ ông ta tự sát – và ngân hàng đã tịch
thu tòa nhà này mấy năm trước.
Suỵt…
Kẻ Tầm Xương tìm thấy nơi này vào năm ngoái và hắn ta ngay lập tức
nhận ra rằng đó chính là nhà mình. Sự cách biệt của khu nhà hàng xóm
chắc chắn rất quan trọng đối với hắn ta – và rõ ràng đó là điều cần
thiết. Nhưng còn nhiều sự hấp dẫn khác, riêng tư hơn: khu đất trống
bên kia phố. Trong một lần đào bới vài năm trước, máy xúc đã đào lên
được nhiều xương người. Hóa ra đó là một trong những nghĩa trang cũ
của thành phố. Những bài báo viết về việc này cho rằng, những nấm
mồ có thi hài không chỉ của những người New York Liên bang và
Thuộc địa mà còn cả của những người da đỏ Manate và Lenape.
Lúc này hắn đặt sang một bên thứ mà hắn đang mài bằng giấy ráp –
một khối xương bàn tay tinh tế – rồi nhặt lên một khúc xương cổ tay
mà hắn ta đã rất thận trọng tách ra từ xương khuỷu và xương ngón
đêm trước khi ra sân bay Kennedy để bắt những nạn nhân đầu tiên.
Nó đã được phơi khô hơn một tuần và đã bong gần hết thịt, nhưng vẫn
phải cố gắng lắm mới tách được các nhóm xương gắn kết với nhau.
Chúng tách nhau ra với một tiếng rơi tõm nhạt nhòa, như tiếng cá quẫy
trên mặt hồ.
Ồ, bọn cớm, chúng giỏi hơn hắn trông đợi rất nhiều. Hắn đã theo dõi
khi chúng tìm kiếm trên Phố Pearl, băn khoăn không hiểu chúng có tìm
ra nơi hắn giấu người phụ nữ từ sân bay không? Hắn ngạc nhiên khi
thấy chúng chạy đến đúng tòa nhà. Hắn đoán chúng chỉ có thể cảm
nhận được manh mối sau hai hay ba nạn nhân. Tất nhiên là chúng
không cứu được cô ta. Nhưng chúng có thể. Chỉ cần sớm một, hai
phút là mọi chuyện đã khác đi.
Cũng giống như nhiều thứ khác trong cuộc đời.
Xương thuyền, xương lưỡi liềm, xương móc câu, xương đầu…những
chiếc xương đan chéo vào nhau như cái vòng đố ghép hình kiểu Hy
Lạp, tách rời nhau ra dưới sức mạnh ngón tay hắn. Hắn nhặt những
mẩu thịt và gân ra khỏi chúng. Hắn chọn một mẩu đa giác lớn hơn –
chỗ đã từng là gốc ngón tay cái – và lại bắt đầu mài.
Suỵt…
Kẻ Tầm Xương nheo mắt nhìn ra ngoài và hình dung hắn nhìn thấy một
người đàn ông đang đứng bên cạnh một trong những ngôi mộ cũ. Đó
chắc là hình dung của hắn vì người đàn ông đó đội một cái mũ chơi
bowling và mặc bộ quần áo vải gabardine màu vàng nhạt. Anh ta đặt
mấy bông hồng cạnh bia mộ và quay đi, vừa đi vừa phải tránh xe ngựa
trên con đường dẫn tới một cây cầu uốn cung tao nhã bên trên nhánh
hồ Collect ở Phố Canal. Anh ta đến thăm ai vậy? Cha mẹ? Một người
anh em? Gia đình người đó có thể bị chết vì lao phổi hay một trong
những đợt dịch cúm đã tàn phá thành phố vừa qua…
Vừa qua?
Không, tất nhiên là không phải vừa qua. Một trăm năm trước… đó là
ý hắn.
Hắn nheo mắt và nhìn thêm lần nữa. Không có dấu hiệu nào của xe
ngựa hay ngựa. Hay của người đàn ông đội mũ chơi bowling. Mặc dù
trông họ thực như bằng xương bằng thịt.
Bất kể là họ thực đến đâu.
Suỵt, suỵt.
Quá khứ lại tràn về. Hắn nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trước đây,
những điều xảy ra sau đó, cứ như chúng xảy ra lúc này. Hắn có thể
kiểm soát điều đó. Hắn biết là hắn có thể.
Nhưng khi nhìn ra cửa sổ thì hắn nhận ra rằng, tất nhiên là chẳng có
tương lai cũng như quá khứ. Không dành cho hắn. Hắn trôi ngược xuôi
theo thời gian, một ngày, năm năm, một trăm năm hay hai trăm năm,
như chiếc lá khô trong ngày trời gió.
Hắn nhìn xuống đồng hồ. Đến giờ phải đi rồi.
Đặt khúc xương lên mặt lò sưởi, hắn rửa tay kỹ càng – như một bác sĩ
phẫu thuật. Sau đó, hắn lăn chiếc lô phủi lông thú vật trên áo khoảng
năm phút để làm sạch hết bụi xương hay bụi bẩn hay lông cơ thể có thể
dẫn cớm đến chỗ hắn.
Hắn đi qua một bức tranh vẽ dở một tên đồ tể mặt tròn mặc một cái
tạp dề màu trắng máu me để tới chỗ nhà để xe ngựa. Kẻ Tầm Xương
bắt đầu chui vào taxi nhưng lại thay đổi ý định. Bất định là cách phòng
thủ tốt nhất. Lần này hắn sẽ đi xe ngựa… chiếc sedan, chiếc Ford.
Hắn khởi động, lái xe vào phố, đóng và khóa cửa ga ra phía sau hắn.
Không có trước đây hay sau này…
Khi hắn đi ngang qua nghĩa địa, một đàn chó ngẩng lên nhìn chiếc Ford
rồi quay lại ẩu đả trong bụi cây, tìm chuột và làm ầm ĩ khi tranh nhau
nước trong cái nóng không thể chịu đựng nổi.
Không có sau đó hay bây giờ…
Hắn lấy ra chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi găng tay từ trong túi, đặt
chúng xuống ghế bên cạnh trong khi lao ra khỏi khu dân cư cũ. Kẻ
Tầm Xương đi săn mồi.
MƯỜI
gì.
Có thứ gì đó trong phòng đã thay đổi, nhưng cô chưa thể xác định
ngay được nó là
Lincoln Rhyme nhìn thấy điều ấy trong mắt cô.
“Chúng tôi nhớ cô, Amelia”, anh ta bẽn lẽn nói. “Chuyện vặt vãnh à?”
Cô tránh không nhìn anh ta. “Rõ ràng không có ai nói với chỉ huy mới
của tôi là
hôm nay tôi sẽ không đi làm. Tôi nghĩ ai đó phải nói chứ.” “À, ừ.”
Cô đang nhìn vào tường, dần dần hiểu ra điều đó. Ngoài những thiết bị
căn bản mà
Mel Cooper đã đem đến, trong phòng còn có cái kính hiển vi điện tử
quét với bộ phận chiếu X-quang, các bộ ống kính nổi và hot-stage để
thử kính, một kính hiển vi so sánh, một ống đo biến thiên mật độ để thử
đất và cả trăm ống nghiệm, bình, lọ, hóa chất.
Ở giữa phòng là niềm tự hào của Cooper – một máy sắc ký khí điều
khiển bằng máy tính và một bộ phổ kế thường thấy. Và một cái máy
tính khác, nối mạng với bộ xử lý trung tâm của chính Cooper tại phòng
thí nghiệm ở IRD.
Sachs bước qua những sợi cáp trườn xuống dưới cầu thang – nguồn
điện trong nhà cũng ổn, đúng, nhưng dòng điện quá nhỏ trong ổ cắm
phòng ngủ. Với những bước đi tao nhã, đã được luyện tập ấy, Rhyme
thấy cô thật đẹp. Chắc chắn là người phụ nữ đẹp nhất trong sở cảnh
sát.
Trong một khoảnh khắc, anh thấy cô thật hấp dẫn. Người ta nói rằng
tình dục là trong đầu ta và anh thấy đúng. Cắt dây không cắt đứt được
sự thèm muốn. Anh nhớ lại, vẫn còn một chút kinh hoàng về một đêm,
sáu tháng sau tai nạn. Anh và Blaine đã thử. Chỉ để xem điều gì sẽ xảy
ra, họ nói vậy, chỉ thử thôi mà. Không có vấn đề gì lớn.
Hóa ra lại là chuyện lớn. Trước hết, tình dục là một chuyện rắc rối,
nhưng khi ta thêm vào phương trình này cả ống và túi thông tiểu thì ta
phải có sức khỏe tốt, tính hài hước và nền tảng tốt hơn người khác.
Nhưng chủ yếu điều làm anh cụt hứng rất nhanh là vẻ mặt của cô. Anh
nhìn thấy nụ cười gắng gượng, khó khăn trên mặt Blaine Chapman
Rhyme, nụ cười nói rằng cô làm việc đó chỉ vì thương hại và điều đó
đâm thủng tim anh. Hai tuần sau anh nộp đơn li dị. Blaine có phản đối
nhưng cô đã ký ngay đợt đầu.
Sellitto và Banks đã quay lại và đang sắp xếp vật chứng do Sachs thu
thập. Cô nhìn họ làm, chỉ hơi có vẻ quan tâm.
Rhyme nói với cô: “Đơn vị Ngầm chỉ tìm được tám chứng cứ không
hoàn chỉnh khác, nhưng chúng lại thuộc về hai người công nhân bảo trì
trong tòa nhà.”
“Thế à.”
Anh gật đầu mạnh. “Chỉ có tám.”
“Anh ta đang khen cô đấy.” Thom giải thích. “Tận hưởng đi. Nhiều
nhất thì cô cũng chỉ nhận được từ anh ấy ngần ấy thôi.”
“Không cần phiên dịch, Thom, nhưng cảm ơn.”
Cô trả lời: “Tôi vui vì đã giúp được.” Cảm thấy vui.
Ồ, cái gì thế nhỉ? Rhyme đã nghĩ cô sẽ lao vào phòng và ném cái túi vật
chứng lên giường anh. Có thể là cả cái cưa, thậm chí cả cái túi nhựa
đựng hai bàn tay hư hại của nạn nhân. Anh đã chờ bị đánh gục, lôi khỏi
sàn đấu; người ta hiếm khi bỏ găng tay khi họ đánh nhau với một kẻ tàn
tật. Anh đã nghĩ về cái nhìn trong mắt cô khi cô gặp anh, có thể đó là
bằng chứng của một sự giống nhau mơ hồ nào đó giữa họ.
Nhưng không, giờ anh thấy là anh đã sai. Amelia cũng giống như những
người khác – xoa đầu anh và tìm lối ra gần nhất.
Trong phút chốc, trái tim anh đông cứng. Anh nói như thể đang nói với
lớp mạng nhện giăng trên trần và những bức tường phía xa. “Chúng tôi
đang nói về thời hạn cho nạn nhân tiếp theo, thưa sĩ quan. Không có vẻ
gì là có thời gian xác định cả.”
“Điều chúng tôi nghĩ là”, Sellitto nói tiếp, “bất kể tên quái vật này có kế
hoạch gì cho nạn nhân tiếp theo thì điều đó cũng đang diễn ra. Hắn
không biết chính xác khi nào nạn nhân sẽ chết. Lincoln nghĩ có thể hắn
đang chôn vài tên khốn ở đâu đó, nơi mà có rất ít không khí”.
Mắt Sachs nheo lại một phút khi nghe câu này. Rhyme nhận thấy điều
đó. Chôn sống. Nếu ta phải có một nỗi sợ hãi, nó giống như bất cứ thứ
gì.
Câu chuyện của họ bị hai người đàn ông mặc bộ vét màu xám làm gián
đoạn. Họ lên cầu thang và đi vào phòng như thể họ sống ở đây.
“Chúng tôi có gõ cửa”, một người nói. “Chúng tôi có bấm chuông”,
người kia nói. “Không ai trả lời.”
Họ khoảng bốn mươi tuổi, một người cao hơn một chút nhưng cả hai
đều có mớ tóc màu cát như nhau. Họ cùng nở một nụ cười giống nhau
và trước khi giọng nói lè nhè vùng Brooklyn kịp phá hỏng hình ảnh mà
Rhyme đã nghĩ: Những anh chàng nhà quê. Một người có lớp bụi tàn
nhang kiểu trung thực với Chúa trên sống mũi nhợt nhạt của anh ta.
“Các quý ông.”
Sellitto giới thiệu Những Chàng trai Dũng cảm: hai thám tử Bedding và
Saul, nhóm điều tra. Kỹ năng chính của họ là đi vận động – phỏng vấn
những người sống gần hiện trường vụ án để tìm nhân chứng và dấu vết.
Đây là một nghệ thuật nhưng Rhyme chưa bao giờ học được, và không
có ý định học. Anh hài lòng với việc phát hiện sự thật trần trụi và
chuyển chúng cho các sĩ quan như họ, những người khi được trang bị
các dữ liệu này sẽ trở thành cái máy sống phát hiện nói dối có thể phá
tan những câu chuyện bịa đặt hay nhất của nghi phạm. Không ai trong
số họ cảm thấy chuyện phải báo cáo với một thường dân ốm liệt
giường là kỳ quặc.
Saul, viên thám tử cao hơn, người có tàn nhang nói: “Chúng tôi tìm thấy
ba mươi
sáu…”
“tám, nếu anh tính cả hai thằng nghiện. Nhưng anh không tính. Tôi thì
có.” “… đối tượng. Đã phỏng vấn tất cả bọn họ. Không may mắn
lắm.”
Vèo.”
“Hầu hết họ đều mù, điếc hay quên. Anh biết đấy, như lệ thường.”
“Không có dấu hiệu gì của chiếc taxi. Chúng tôi đã lùng sục ở West
Side. Zero.
Bedding: “Nhưng cho họ biết tin tốt đi.” “Chúng tôi tìm được một nhân
chứng.”
“Một nhân chứng?” Banks phấn chấn hỏi. “Tuyệt vời.”
Rhyme, kém nhiệt tình hơn nhiều, nói: “Tiếp đi.”
“Vào khoảng thời gian nạn nhân chết sáng nay ở gần đường tàu.”
“Anh ta nhìn thấy một người đàn ông đi dọc theo Đại lộ Mười một,
rẽ…” “Bất thình lình, anh ta nói thế…”, Bedding, mặt không tàn nhang
nói thêm.
“… và đi qua một con đường dẫn tới cầu vượt đường sắt. Hắn đứng
đó một lúc…” “Nhìn xuống.”
Rhyme bị điều đó làm cho lo lắng. “Không có vẻ giống như anh chàng
của chúng
ta. Hắn quá thông minh để bị nhìn thấy như vậy.”
“Nhưng…”, Saul tiếp tục, giơ một ngón tay lên và liếc nhìn đối tác của
mình. “Chỉ có một cửa sổ trong toàn khu vực mà từ đó ta có thể nhìn
thấy chỗ ấy.” “Và đó là chỗ nhân chứng của ta đứng.”
“Dậy sớm, cầu Chúa phù hộ cho quả tim anh ta.”
Trước khi nhớ lại là anh đang bực mình với cô, Rhyme hỏi: “Amelia, cô
thấy thế
nào?”
bảy.”
“Xin lỗi?” Cô chuyển sự chú ý khỏi cửa sổ.
“Đúng”, Rhyme nói. “Cô đã khóa Đại lộ Mười một, không phải Đại lộ
Ba mươi
Cô không biết phải trả lời thế nào nhưng ngay lập tức Rhyme quay trở
lại với hai
anh em sinh đôi. “Miêu tả?”
“Nhân chứng của chúng ta không thể nói được nhiều.” “Say khướt
rồi.”
“Anh ta nói đó là một anh chàng nhỏ người. Không có màu tóc. Chủng
tộc…”
“Có lẽ là người da trắng.” “Mặc gì?” Rhyme hỏi.
“Thứ gì đó tối màu. Anh ta chỉ nói được đến thế.” “Và làm gì?” Sellitto
hỏi.
“Tôi trích dẫn: Hắn ta chỉ đứng đấy và nhìn xuống. Tôi nghĩ là hắn ta sẽ
nhảy. Anh biết đấy, vào đầu tàu. Nhìn đồng hồ mấy lần.”
“Sau đó bỏ đi. Nhân chứng nói hắn ta tìm kiếm gì đó xung quanh.
Trông có vẻ như không muốn bị ai nhìn thấy.”
Hắn ta làm gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Xem nạn nhân chết? Hay đó là
lúc trước khi hắn chôn xác, kiểm tra xem nền đường có ai không?”
Sellitto hỏi: “Đi bộ hay lái xe?”
“Đi bộ. Chúng tôi đã kiểm tra tất cả các bãi đỗ xe...” “Và ga ra.”
“... trong vùng lân cận. Nhưng nơi đó gần trung tâm hội nghị nên chỗ
đỗ xe ngập đến tận tai. Có nhiều chỗ đỗ đến nỗi nhân viên bãi đỗ đứng
ngoài phố, cầm cờ vàng để
vẫy cho xe vào.”
“Nhưng do hội nghị nên đến bây giờ một nửa bãi đỗ đã đầy xe. Chúng
tôi có một danh sách khoảng chín trăm biển số.”
Sellitto lắc đầu. “Các anh theo tiếp vụ này nhé...” “Đã nhận”, Bedding
nói.
“... nhưng tôi dám cá là đối tượng không để xe trong bãi.” Viên thám
tử nói tiếp. “Hay mua vé để xe.”
Rhyme gật đầu đồng tình và hỏi: “Tòa nhà ở Phố Pearl?”
Một người hay cả hai anh em sinh đôi đồng thanh: “Điều tiếp theo trong
danh sách của chúng tôi. Chúng tôi đang trên đường.”
Rhyme nhìn thấy Sachs đang xem đồng hồ, cái đồng hồ đeo trên cổ tay
trắng trẻo gần những ngón tay hồng hào của cô. Anh yêu cầu Thom
thêm những đặc điểm mới đó của nghi phạm vào sơ đồ hồ sơ.
“Anh có muốn phỏng vấn anh chàng đó không?” Banks hỏi. “Anh
chàng đứng cạnh đường ray ấy.”
“Không, tôi không tin tưởng nhân chứng”, Rhyme nói đầy kiêu hãnh.
“Tôi muốn quay lại với công việc.” Anh nhìn Mel Cooper. “Lông, máu,
xương và một mẩu gỗ. Cái xương đầu tiên”, Rhyme hạ lệnh.
Morgen62...
Monelle Gerger trẻ tuổi mở mắt và chậm rãi ngồi dậy trên chiếc giường
đệm trũng. Suốt thời gian hai năm ở Greenwich Village, cô không thể
làm quen được với buổi sáng.
Thân hình tròn trịa hai mươi mốt tuổi của cô nghiêng về phía trước và
luồng ánh sáng tàn nhẫn buổi sáng tháng Tám chiếu thẳng vào đôi mắt
lờ mờ của cô. “Mein Gott63...”
62 Morgen: Ngày mai (tiếng Đức).
63 Mein Gott: Lạy Chúa (tiếng Đức).
giờ...
Cô rời câu lạc bộ lúc năm giờ, về nhà lúc sáu giờ và làm tình với Brian
đến bảy
Giờ là mấy giờ nhỉ?
Sáng sớm, cô chắc chắn thế.
Cô nhăn mặt nhìn đồng hồ. Ôi. 4:30. Không phải früh morgens64 lắm.
Cà phê hay đi giặt đồ?
Vào khoảng thời gian này cô thường lang thang tới Dojo để ăn sáng với
bánh kẹp
nhân rau và ba cốc cà phê đặc. Ở đó, cô gặp những người cô biết,
những người đi chơi đêm như cô – những người trong trung tâm thành
phố.
Nhưng vừa rồi cô đã bỏ đi nhiều thứ, những thứ đồ trong nhà. Vì thế,
cô mặc hai cái áo phông lụng thụng để giấu đi thân hình tròn trịa của
mình, đeo năm sáu chuỗi xích quanh cổ và nhặt giỏ đồ bẩn, đổ Wisk65
vào.
Monelle tháo ba con ốc đang chặn cửa. Cô nhấc giỏ đồ bẩn lên và đi
xuống cái cầu thang tối tăm của khu chung cư. Cô dừng lại ở tầng hầm.
Irgendwas stimmt hier nicht66.
Cảm thấy không ổn, Monelle nhìn quanh cầu thang không người, hành
lang tối
tăm.
Có cái gì đó khang khác thì phải?
Ánh sáng, đúng rồi! Những cái bóng đèn trong hàng lang đã bị cháy.
Không – cô
nhìn kỹ hơn – chúng đã bị mất. Bọn trẻ con mất dạy lấy trộm mọi thứ.
Cô chuyển tới đây, Deutsche Haus – vì về nguyên tắc, đây là nơi cư trú
cho các nhạc công và nghệ sĩ Đức. Nhưng hóa ra đấy chỉ là một tòa
nhà bẩn thỉu, giá thuê quá cao ở khu East Village, giống như tất cả các
tòa nhà cho thuê khác ở đây. Sự khác biệt duy nhất là cô có thể chửi
rủa người quản lý bằng tiếng mẹ đẻ của cô.
Cô đi tiếp qua cánh cửa tầng hầm vào phòng đốt rác, tối tăm đến mức
cô phải sờ soạng lần đường dọc theo bờ tường để chắc chắn không bị
vấp vào rác thải trên sàn nhà.
Đẩy cửa mở ra, cô bước vào lối hành lang dẫn đến phòng giặt đồ. Có
tiếng lê bước. Tiếng bước chân lướt nhanh trên sàn.
Cô quay lại thật nhanh nhưng không nhìn thấy gì ngoài những cái bóng
bất động. Mọi tiếng động mà cô nghe thấy là tiếng xe cộ, tiếng rên rỉ
của một tòa nhà cũ kỹ.
Đi qua bóng tối lờ mờ. Đi qua những chồng hộp và đám bàn ghế cũ
hỏng. Những dây cáp ngầm bị bao bọc bởi lớp bụi nhớp nháp.
Monelle tiếp tục đi đến phòng giặt đồ. Ở đây cũng chẳng có bóng đèn.
Cô cảm thấy không thoải mái, nhớ đến một điều gì đó đã
64 Früh morgens: Sớm sủa lắm (tiếng Đức).
65 Wisk: Tên một loại bột giặt.
66 Irgendwas stimmt hier nicht: Có gì đấy không ổn (tiếng Đức).
không xảy ra với cô trong nhiều năm. Đi bộ cùng cha cô theo con
đường hẹp bên ngoài Lange Strasse, gần Obermain Brücke, trên
đường đến vườn bách thú. Lúc đó chắc cô năm hay sáu tuổi gì đó. Bất
ngờ cha bóp vai cô, chỉ về phía cây cầu và kể với cô, giọng đầy nghiêm
trọng, về những người khổng lồ độc ác đói bụng đang đi phía dưới.
Khi họ đi qua cầu về nhà, ông nhắc cô phải đi nhanh. Lúc này cô cảm
thấy một gợn sóng của cơn hoảng loạn đang dựng lên theo cột sống lan
tới tận mái tóc vàng hoe cắt ngắn của cô.
Thật ngu xuẩn. Người khổng lồ ư…
Cô tiếp tục đi xuống lối hàng lang tăm tối, lắng nghe tiếng rền rền của
mấy thứ thiết bị điện. Xa hơn nữa, cô nghe thấy bài hát của những
người anh em thù hận ở Oasis67.
Phòng giặt đồ tối om.
Được, nếu những cái bóng đèn này mà cháy nữa, thì thế là hết. Cô sẽ
chạy lên gác, đập cửa phòng Herr Neischen cho tới khi hắn phải bỏ
chạy. Cô sẽ cho hắn ta một trận vì những cái bản lề gãy ở cửa trước,
cửa sau và vì những đứa trẻ lu bù bia bọt mà hắn ta không bao giờ
đuổi ra khỏi cửa. Cô cũng sẽ cho hắn ta một trận vì những cái bóng
đèn cháy này nữa.
Cô thò tay vào trong và bật công tắc.
Ánh sáng chói chang. Ba cái bóng đèn lớn cháy sáng như mặt trời cho
thấy một căn phòng bẩn thỉu nhưng trống rỗng. Monelle đi tới chỗ bốn
cái máy giặc và vứt đồ trắng vào một cái, đồ màu vào một cái. Cô
chọn ra mấy đồng hai mươi lăm cent, nhét chúng vào khe và kéo cần
gạt.
Chẳng thấy gì.
Monelle lắc lắc cái cần gạt. Rồi đá vào cái máy giặc. Không có phản
ứng. “Chết tiệt. Cái tòa nhà gottverdammte68 này.”
Sau đó cô nhìn thấy dây điện. Thằng ngu nào đó đã rút dây điện khỏi
máy. Cô biết đấy là ai rồi. Neischen có một thằng con trai mười hai
tuổi, là thủ phạm của hầu hết các vụ rắc rối quanh tòa nhà. Năm ngoái
khi cô đang khiếu nại một vụ gì đó thì thằng trời đánh này đã cố đá cô.
Cô nhặt sợi dây lên, bò xuống, vươn ra sau chiếc máy và tìm ổ điện.
Cô cắm
phích.
Và cảm thấy hơi thở của một người đàn ông nơi cổ mình.
Nein69!
Hắn ta đứng kẹp giữa bức tường và mặt sau cái máy giặt. Gào lên một
tiếng, cô
thoáng thấy một cái mặt nạ trượt tuyết và bộ quần áo đen khi cánh tay
hắn ta kẹp chặt tay cô như một hàm răng thú vật. Cô mất thăng bằng
và hắn dễ dàng hất cô ra phía trước. Cô
67 Oasis (Ốc đảo): Một nhóm nhạc rock của Anh.
68 Gottverdammte: Chết tiệt (tiếng Đức).
69 Nein: Không (tiếng Đức).
ngã xuống nền nhà, đập mặt vào nền bê tông và nuốt tiếng thét đang
thành hình trong cổ họng.
Hắn ngồi lên cô ngay lập tức, gí chặt tay cô xuống sàn, dán một miếng
băng dính dày màu xám vào miệng cô.
Hilfe70!
Nein, bitte nicht71. Bitte nicht.
Hắn không to lớn nhưng khỏe. Hắn dễ dàng lật cô nằm sấp xuống và
rồi cô nghe thấy tiếng lạch xạch của chiếc còng khóa cổ tay mình.
Sau đó hắn ta đứng lên. Một lúc lâu im lặng, chẳng có tiếng động gì
ngoài tiếng nước nhỏ giọt, tiếng thở hổn hển của Monelle, tiếng động
của một động cơ nhỏ đâu đó trong tầng hầm.
Cô chờ đợi một bàn tay sờ soạng cơ thể mình, xé toang quần áo mình.
Cô nghe tiếng hắn ta ra cửa nhìn để chắc chắn họ chỉ có một mình.
Ồ, hắn được riêng tư hoàn toàn, cô biết, điên cuồng với chính cô; cô là
một trong số ít những người thuê nhà sử dụng phòng giặt quần áo.
Phần lớn họ tránh sử dụng vì nó rất trống trải, rất gần với cửa hậu và
cửa sổ, rất xa sự giúp đỡ.
Hắn quay lại và lật ngửa cô ra. Thì thầm điều gì đó cô không nghe rõ.
Rồi: “Hanna.”
Hanna? Nhầm rồi. Hắn nghĩ mình là người khác. Cô lắc đầu thật mạnh,
cố làm hắn hiểu điều đó.
Nhưng sau đó, khi nhìn vào mắt hắn, cô ngừng lại. Ngay cả lúc hắn
đeo mặt nạ trượt tuyết, rõ ràng là có điều gì đó không đúng. Hắn bực
mình. Hắn quét cơ thể cô, lắc đầu. Hắn nắm những ngón tay đeo găng
của hắn quanh cánh tay bụ bẫm của cô. Bóp mạnh vai cô, véo một véo
mỡ. Cô rùng mình vì đau.
Đó chính là điều cô nhìn thấy: sự thất vọng. Hắn bắt được cô nhưng lúc
này hắn không chắc là hắn có muốn cô hay không.
Hắn cho tay vào túi và chầm chậm rút tay ra. Tiếng động của con dao
tựa như cơn sốc điện. Nó khởi đầu cho một cơn thổn thức.
Nein, nein, nein!
Tiếng thở xẹt qua kẽ răng hắn nghe như cơn gió thổi qua hàng cây
trong mùa đông. Hắn cúi xuống cô, suy nghĩ.
“Hanna”, hắn thì thầm. “Mình làm gì bây giờ?”
70 Hilfe: Cứu tôi (tiếng Đức).
71 Nein, bitte nicht: Làm ơn, đừng (tiếng Đức).
Thế rồi hắn đột nhiên quyết định. Hắn cất con dao đi và kéo cô đứng
dậy, dắt cô ra phía hành lang qua cửa hậu – cánh cửa có ổ khóa bị
hỏng mà cô đã từng bắt Herr Neischen phải sửa.
MƯỜI MỘT
Nhà hình sự học là một con người của thời kỳ Phục Hưng.
Anh ta phải có kiến thức về thực vật học, địa lý, đạn đạo học, y học,
hóa học, văn học và nghề kỹ sư. Nếu anh ta hiểu thực tế – ví dụ như
tàn tro có chứa nhiều stronti có thể phát tích từ các đám cháy trên
đường cao tốc, rằng faca trong tiếng Bố Đào Nha có nghĩa là “con
dao” và những người Ethiopia khi ăn tối không dùng dụng cụ ăn mà chỉ
dùng tay phải, rằng viên đạn với vết xẻ nòng kiểu lốm đốm, xoay bên
phải, không thể được bắn ra từ một khẩu súng ngắn Colt – nếu anh ta
biết được những điều đó, anh ta có thể đưa ra những liên kết đặt nghi
phạm vào hiện trường vụ án.
Một lĩnh vực mà tất cả các nhà hình sự học đều biết là giải phẫu. Và
đó chắc chắn là chuyên môn của Lincoln Rhyme, vì anh đã giành ba
năm rưỡi để tìm hiểu về logic quanh co của xương và dây thần kinh.
Lúc này anh đang nhìn túi vật chứng lấy được từ phòng nồi hơi mà
Jerry Banks đang đung đưa trên tay và tuyên bố: “Xương chân. Không
phải xương người. Vì thế không phải của nạn nhân tiếp sau.”
Đó là một vòng xương đường kính khoảng hai inch, bị cưa đều đặn.
Trên những đường cưa do lưỡi cưa để lại vẫn còn vết máu.
“Một con thú cỡ vừa”, Rhyme tiếp tục. “Một con chó lớn, hay cừu, dê.
Tôi đoán là cái xương này có thể đỡ khối lượng khoảng một trăm
pound. Tuy vậy cứ thử để chắc chắn đó là máu động vật. Vì nó vẫn có
thể là máu nạn nhân.”
Đã có những tên tội phạm dùng xương để đánh hay đâm chết nạn
nhân. Bản thân Rhyme đã gặp ba trường hợp tương tự; vũ khí được
dùng là xương đầu gối bò, một cái xương chân hươu và trong một
trường hợp khó chịu lại chính là xương khuỷu tay của nạn nhân.
Mel Cooper thực hiện phép thử thẩm thấu gel để tìm nguồn gốc máu.
“Chúng ta phải đợi một lúc mới có kết quả”, anh ta giải thích, vẻ có lỗi.
“Amelia”, Rhyme nói, “chắc cô giúp được chúng tôi. Hãy dùng kính lúp
và xem xét thật kỹ cái xương. Nói xem cô thấy gì?”.
“Không phải kính hiển vi à?” Cô hỏi. Anh nghĩ cô sẽ phản đối nhưng
cô lại đi tới chỗ cái xương, tò mò nhìn nó.
“Phóng đại nhiều quá”, Rhyme giải thích.
Cô đeo kính lên và cúi xuống cái khay tráng men màu trắng. Cooper
bật cây đèn hình cổ ngỗng lên.
“Những vết cắt”, Rhyme nói. “Chúng mấp mô hay phẳng?” “Chúng
khá là phẳng.”
“Một cái cưa khỏe.”
Rhyme băn khoăn không biết con thú có còn sống khi hắn làm việc đó
hay không. “Cô thấy gì bất thường không?”
Cô nhìn chăm chăm một lúc vào cái xương, nói nhỏ: “Tôi không biết.
Tôi không nghĩ thế. Nó trông chỉ giống như một khúc xương bình
thường.”
Chính lúc đó Thom đi ngang qua và nhìn vào cái khay. “Đó là dấu vết
của các vị à? Buồn cười thật.”
“Buồn cười”, Rhyme nói. “Buồn cười?” Sellitto hỏi: “Anh có ý kiến gì
chăng?”
“Chẳng có ý kiến gì.” Anh ta cúi xuống ngửi khúc xương. “Đây là osso
bucco.”
“Cái gì?”
“Chân bê. Tôi đã nấu món này cho anh một lần rồi, Lincoln. Món osso
bucco. Món chân bê om.” Anh ta nhìn Sachs và nhăn mặt. “Anh ta chê
nó nhạt.”
“Mẹ kiếp.” Sellitto kêu to. “Hắn mua cái này ở cửa hàng thực phẩm!”
“Nếu ta may mắn thì...”, Rhyme nói, “hắn mua nó ở cửa hàng thực
phẩm của
hắn”.
Cooper khẳng định phép thử kết tủa cho thấy âm tính với máu người
trên mẫu
được Sachs đem về. “Có thể đó là máu bò”, anh ta nói. “Nhưng hắn
định nói gì với chúng ta nhỉ?” Banks hỏi.
Rhyme không biết. “Hãy tiếp tục đi. À, có gì trên khóa móc và xích
không?”
Cooper nhìn vật nằm trong cái túi nhựa giòn. “Giờ không còn ai khắc
tên nhãn hiệu lên xích nữa. Như vậy ở đây ta không may mắn rồi. Cái
khóa này là loại hàng trung bình của Secure-Pro. Nó không an toàn
lắm và chắc chắn không phải loại chuyên nghiệp. Phải mất bao lâu để
phá nó?”
“Mất ba giây”, Sellitto nói.
“Thấy chưa. Không có số thứ tự. Người ta bán nó ở tất cả các cửa
hàng kim khí trên cả nước.”
“Khóa chìa hay khóa số?” Rhyme hỏi. “Khóa số.”
“Gọi cho nhà sản xuất. Hỏi họ xem nếu ta tháo tung nó ra rồi khôi phục
lại tổ hợp số từ lẫy khóa, điều đó có cho ta biết được nó nằm trong
đợt hàng nào và đi đến đâu
không?”
Banks huýt sáo. “Ôi giời, xa quá.”
Cái nhìn của Rhyme làm mặt anh chàng đỏ lựng. “Sự nhiệt tình trong
giọng nói của anh cho thấy, thưa thám tử, anh đúng là người phù hợp
để làm việc đó.”
“Vâng, thưa ngài.” Chàng trai trẻ tuổi nhấc điện thoại di động. “Tôi làm
đây.” Rhyme hỏi: “Có vết máu trên xích không?”
Sellitto nói: “Của một trong những người của ta. Anh ta tự làm mình bị
thương khá nặng lúc phá khóa.”
“Như vậy là nó đã bị ô nhiễm.” Rhyme cau có. “Anh ta cố cứu cô ấy
thôi”, Sachs nói với Rhyme.
“Tôi hiểu. Anh ta rất tốt bụng. Nhưng nó vẫn bị ô nhiễm rồi.” Rhyme
nhìn lại về phía cái bàn cạnh Cooper. “Dấu tay?”
Cooper nói anh ta đã kiểm tra và chỉ thấy mỗi dấu vân tay của Sellitto
trên dây
xích.
“Được rồi, mẩu gỗ Amelia tìm được. Kiểm tra dấu tay xem.”
“Tôi làm rồi”, Sachs nói nhanh. “Tại hiện trường.”
P.D., Rhyme nhớ lại. Cô nàng không có vẻ giống như biệt hiệu. Những
người đẹp ít khi thế.
“Hãy thử vũ khí hạng nặng xem, để cho chắc chắn”, Rhyme nói và ra
lệnh cho
Cooper. “Dùng DFO hoặc ninhydrin. Sau đó chiếu nit-yag.” “Cái gì?”
Banks hỏi.
“Tia laser neodymium:yttrium aluminum garnet.”
Kỹ thuật viên làm mẩu gỗ sủi bọt bằng một thứ chát lỏng từ lọ xịt nhựa
và chiếu tia laser lên đó. Anh ta đeo kính và xem xét nó một cách cẩn
trọng. “Không có gì.”
Anh ta tắt đèn và xem xét cẩn thận miếng gỗ. Nó là một miếng gỗ dài
khoảng sáu inch, màu tối. Trên đó có một vết bẩn, giống như nhựa
đường và bị dính đầy bụi. Anh ta cầm nó bằng một cái kẹp.
“Tôi biết Lincoln thích dùng đũa”, Cooper nói. “Nhưng khi đến Ming
Wa72 tôi luôn gọi dĩa.”
“Anh có thể làm vỡ tế bào”, nhà hình sự học càu nhàu. “Tôi có thể.
Nhưng tôi không làm vỡ”, Cooper đáp lời.
“Loại gỗ gì?” Rhyme băn khoăn. “Có cần chạy máy phân tích tàn tro
không?” “Không cần, đó là gỗ sồi. Chắc chắn thế.”
“Có dấu cưa hay bào gì không?” Rhyme vươn người ra trước. Bất ngờ
cổ anh bị co thắt, không thể chịu đựng nổi những cơn đau cơ vì chuột
rút. Anh hổn hển, nhắm mắt và xoay cổ, cố gắng kéo dãn cơ. Anh cảm
thấy bàn tay mạnh mẽ của Thom xoa bóp vùng cổ. Cuối cùng thì cơn
đau cũng bớt.
“Lincoln?” Sellitto hỏi. “Anh ổn chứ?” Rhyme thở sâu: “Tốt rồi. Không
có gì đâu.”
“Đây này.” Cooper đem khúc gỗ lại phía giường, đeo kính phóng đại
lên mắt cho
Rhyme.
Rhyme kiểm tra mẫu vật. “Bị cắt theo hướng của thớ gỗ bằng cưa
khung. Vết cắt rất không đều. Vì thế tôi đoán đây là một cây cột hay
xà nhà được xẻ hơn một trăm năm trước. Có lẽ là cưa hơi nước. Đưa
nó lại gần hơn một chút đi, Mel. Tôi muốn ngửi nó.”
Anh ta để mẩu gỗ dưới mũi Rhyme.
“Có tẩm creozot – dung dịch than-nhựa đường. Dùng để bảo vệ gỗ
trước khi các công ty xẻ gỗ xử lý áp suất. Làm cầu tàu, ụ tàu, tà
vẹt…”
“Có thể lại có kẻ hâm mộ đường sắt”, Sellitto nói. “Hãy nhớ đến
đường ray sáng
nay.”
“Có thể”, Rhyme ra lệnh. “Kiểm tra ép tế bào đi, Mel.”
72 Ming Wa: Một nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.
Anh ta dùng kính hiển vi xem xét mẩu gỗ. “Nó được ép rất tốt. Nhưng
ép dọc theo thớ. Không phải ngược lại. Không phải tà vẹt. Đấy là cột
chống hay cọc đỡ. Mang trọng lượng…”
Một khúc xương… một cái cột gỗ cũ…
“Tôi thấy trong gỗ có bụi. Điều đó có nói với chúng ta thứ gì không?”
Cooper trải một tờ báo lớn lên bàn, xé bìa đi. Anh ta cầm mẩu gỗ trên
tờ báo và chải một ít bụi từ khe nứt trên mẩu gỗ. Anh ta xem xét những
chấm nhỏ trên tờ giấy trắng
– một chòm sao ngược.
“Anh có đủ để thử biến thiên mật độ không?” Rhyme hỏi.
Trong phép thử biến nhiệt mật độ, bụi được đổ vào một cái ống chứa
những chất lỏng có trọng lượng riêng xác định, khác nhau. Đất sẽ phân
rã ra và mỗi hạt sẽ lơ lửng ở lớp chất lỏng có trọng lượng riêng tương
ứng. Rhyme đã thiết lập một thư viện rất đầy đủ hồ sơ biến thiên mật
độ của đất từ cả năm khu. Không may là phép thử này chỉ có tác dụng
khi ta có đủ một lượng đất nhất định; Cooper không nghĩ rằng họ có
đủ đất. “Ta có thể sử nhưng sẽ phải dùng tất cả mẫu. Và nếu nó không
có tác dụng, ta chẳng còn gì cho các phép thử khác.”
Rhyme bảo anh ta xem xét bằng mắt thường trước rồi phân tích nó trên
GC-MS. Tay kỹ thuật viên chải một ít đất vào bàn trượt. Anh ta nhìn
nó vài phút qua kính
hiển vi. “Lạ thật, Lincoln. Đó là đất bề mặt. Với mức độ thực vật cao
bất thường. Nhưng dưới dạng rất lạ. Bị thối rữa và phân hủy rất nặng.”
Anh ta ngẩng lên và Rhyme nhận thấy những vệt màu đen phía dưới
mắt anh ta vì tỳ vào ống ngắm. Anh nhớ rằng sau nhiều giờ làm việc
trong phòng thí nghiệm, những vệt đen này nổi lên khá rõ và một kỹ
thuật viên giám định thường ra khỏi phòng thí nghiệm ở IRD để được
chào đón với dàn
hợp xướng Rocky Raccoon73.
“Đốt nó lên”, Rhyme ra lệnh.
Cooper đặt một mẫu vào thiết bị GC-MS. Cái máy rùng rùng sống dậy
và phát ra tiếng xì xì. “Đợi một, hai phút.”
“Trong khi ta chờ”, Rhyme nói, “cái xương… tôi vẫn băn khoăn về cái
xương. Soi nó bằng kính hiển vi xem nào, Mel”.
Copper cẩn thận đặt khúc xương vào dưới kính hiển vi. Anh ta nghiên
cứu nó rất kỹ càng. “Ồ, có thứ gì đây này.”
“Cái gì?”
“Rất nhỏ. Trong suốt. Đưa cho tôi cái kẹp cầm máu”, Cooper nói với
Sachs, hất đầu về phía một cái kẹp bấm. Cô đưa nó cho anh ta và anh
ta cẩn trọng tìm kiếm trong phần tủy của khúc xương. Anh ta nhặt thứ
gì đó lên.
“Một mẫu cellulose tái chế”, Cooper tuyên bố.
“Là giấy bóng kính”, Rhyme nói. “Cho tôi biết thêm đi.”
73 Rocky Raccoon: Chồn Đá, một bài hát nổi tiếng của The Beatles.
“Có dấu bị kéo và giật. Tôi có thể nói hắn ta không cố tình để nó lại;
không có cạnh nào bị cắt. Nó không mâu thuẫn với giấy bóng kính
bền”, Cooper nói.
“Không mâu thuẫn.” Rhyme cau có. “Tôi không thích kiểu phòng vệ
của hắn.” “Chúng ta phải phòng vệ, Rhyme.” Cooper tươi tỉnh nói.
“Liên quan đến. Khuyến nghị. Tôi đặc biệt ghét không mâu thuẫn.”
“Rất nhiều khả năng”, Cooper nói. “Khả năng gần nhất của tôi là giấy
bóng kính ở cửa hàng thịt hay cửa hàng thực phẩm. Không phải Saran
Wrap. Chắc chắn không phải giấy gói của một thương hiệu vô danh.”
Jerry Banks từ hàng lang đi vào phòng. “Tin xấu. Công ty Secure-Pro
không giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra
chúng ngẫu nhiên.”
“À.”
“Nhưng điều thú vị là họ nói họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi
của cảnh sát về sản phẩm của họ và anh là người đầu tiên nghĩ tới việc
truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã.”
“Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?” Rhyme càu nhàu và
quay về phía
Mel Cooper, anh ta đang lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS.
“Gì thế?”
“Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa.
Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng
nhiều mẫu hơn.”
Rhyme bảo anh ta làm. Ánh mắt anh quay lại phía khúc xương. “Mel,
con vật bị giết lâu chưa?”
Mel xem xét vài mảnh nhỏ dưới kính hiển vi điện tử.
“Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ
thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng.”
“Như thế là hắn mới mua nó”, Rhyme nói.
“Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó”, Sellitto đề xuất.
“Không”, Cooper nói. “Nó không bị đông lạnh. Không có vết biểu bì
bị tinh thể băng phá hoại. Và nó không ở trong tủ lạnh quá lâu. Không
bị khô; tủ lạnh hiện đại làm thức ăn bị khô.”
“Dấu vết tốt đấy”, Rhyme nói. “Hãy điều tra thêm một chút đi.”
“Điều tra thêm?” Sachs cười. “Ý anh nói là chúng ta sẽ gọi điện cho tất
cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai
bán xương bê không à?”
“Không”, Rhyme nói. “Mà là trong hai ngày qua.” “Anh có cần gọi
Những Chàng trai Dũng cảm không?”
“Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem cô ấy còn
làm việc không? Và nếu không, gọi cô ấy quay lại văn phòng cùng với
những điều phối viên khác
để họ làm ngoài giờ. Đưa cho cô ấy danh sách tất cả các cửa hàng
thực phẩm trong thành
phố. Tôi cá là anh chàng của chúng ta không mua thực phẩm cho gia
đình bốn người, vì thế nói với Emma giới hạn danh sách xuống những
người chỉ mua dưới năm thứ.”
“Lệnh bắt?” Banks hỏi.
“Hễ có ai đó giật mình, ta sẽ có lệnh bắt”, Sellitto nói. “Nhưng cứ thử
không có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực sự cộng
tác. Người ta nói với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra.”
“Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai đã mua chân bê?” Sachs
hỏi. Cô không còn lơ đãng như trước. Trong giọng nói của cô đã có
chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu sự khó chịu của cô có phải là triệu
chứng của điều mà chính anh đôi khi cũng tự cảm thấy – gánh nặng của
bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình sự học không phải là có
quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.
“Kiểm tra máy quét”, Rhyme nói. “Họ đăng ký giao dịch bán hàng trên
máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, nói đi. Tôi thấy hình
như có điều gì đó trong đầu cậu? Nói ra đi. Lần này tôi không đẩy cậu
đi Siberia nữa đâu.”
“Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng một chuỗi mới có
máy quét, thưa ngài”, viên thám tử trẻ tuổi nói. “Có hàng trăm cửa
hàng riêng lẻ và hàng thịt không có máy quét.”
“Ý hay. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ không đến một cửa hàng nhỏ. Hắn sẽ
mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân.”
Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và nói với Emma những gì họ
cần làm. “Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem”, Rhyme
nói với Cooper.
Người kỹ thuật viên đặt mẫu nhỏ này vào kính phân cực, sau đó đặt
máy ảnh
Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là một tấm ảnh màu, một
chiếc cầu vồng với một vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu
tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng nói lên điều gì với họ, nhưng có thể so
sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng một
nguồn gốc hay không.
Rhyme nảy ra một ý nghĩ. “Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn
trương.” “Tới đây?” Sellitto hỏi.
“Chúng ta sẽ chuẩn bị một chiến dịch.” “Anh chắc chứ?” Viên thám tử
hỏi. “Đúng thế! Tôi cần họ ngay.”
“Được rồi.” Anh ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.
“Còn bây giờ những dấu vết để lại khác thì sao – mấy sợi lông mà
Amelia tìm
thấy.”
Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính
hiển vi đối
pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào một đối tượng, luồng
ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn một chút – lệch pha – sao cho
mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.
“Không phải của người”, Cooper nói. “Tôi có thể nói ngay với anh như
vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, không phải lông phía dưới.”
Ý anh ta là nó từ bộ lông của động vật.
“Con gì? Chó?”
“Con bê?” Banks đề xuất, một lần nữa đầy sự nhiệt tình và trẻ trung.
“Kiểm tra vảy”, Rhyme ra lệnh. Ý anh là những vảy nhỏ tạo thành lớp
vỏ ngoài sợi lông.
Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que
nhỏ đầy vảy hiện ra trên màn hình. “Nhờ anh đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở
dữ liệu không?”
Ở IRD, Rhyme đã tập hợp một bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh
các loại lông khác nhau. “Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn
thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà anh cho chúng
vào máy tính được?”
“Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG.”
Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ đã vượt qua
Rhyme. Thật lạ lùng...
Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về
điều anh đã băn khoăn cả ngày – câu hỏi cứ hiện lên: Vì sao lại có
những dấu vết? Con người thật tuyệt vời nhưng trên hết đó chỉ là – một
con thú. Một con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ
nhưng luôn luôn hành động có lý do – một động cơ đẩy con thú đến
với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme không tin vào sự
tình cờ, hay sự ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng
có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và anh biết phải có lý
do gì đó để Đối tượng 823 nói chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu
như vậy.
Cooper gọi: “Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị
cạo.”
“Dấu vết kiểu gì vậy?” Banks nói. “Có hàng triệu con chuột trong thành
phố. Nó không dẫn tới chỗ nào cả. Hắn định nói gì với chúng ta vậy?”
Sellitto nhắm mắt một khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs
không nhận thấy cái gì đó. Cô đang tò mò liếc nhìn Rhyme. Anh ta
ngạc nhiên là cô không nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng
anh ta không nói gì. Anh thấy không có lý do gì phải chia sẻ phần kiến
thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.
Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu hắn nhớ
không nhầm, trong số đó có thiên thần nhỏ bé O’Connor, là vợ của
một người nhập cư cần cù, người đã xây một căn nhà giản dị gần Phố
Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.
Chính nhờ sự dũng cảm của người phụ nữ không may mắn này mà
cảnh sát phát hiện ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt
có dòng máu Đức – Do Thái và được kính trọng trong một cộng đồng
gần gũi ở đó cô, chồng cô và sáu đứa con nhỏ của họ (một đứa đã mất
khi sinh) sinh sống.
Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo
biển hạn chế tốc độ dù hắn biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông
New York không chặn ai lại vì một lý do nhỏ như lái xe vượt quá tốc
độ.
Hắn dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên một tấm bảng dán thông
cáo của
Liên Hợp Quốc khác. Mắt hắn nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười,
nhạt nhẽo – như
những khuôn mặt ghê sợ được vẽ trên tường của khu nhà lớn – rồi nhìn
ra xa, thành phố quanh hắn. Đôi khi hắn thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và
thấy những tòa nhà thật to lớn, những mái đua bằng đá thật cao, kính
thật phẳng, những chiếc xe thật đẹp và con người thật tầm thường.
Thành phố mà hắn biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và
bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh
có ở khắp nơi – một số tên chỉ mới mười hay mười một tuổi – có thể
đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ đi với đồng hồ và ví tiền của ta... đó chính
là thành phố của Kẻ Tầm Xương.
Đôi khi hắn thấy mình trong tình trạng này – lái chiếc xe Taurus XL
màu bạc thật bảnh của mình trên con đường nhựa êm ái nghe đài
WNYC74 và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt
đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố không cho ta rẽ
phải khi có đèn đỏ.
Hắn nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng
tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức không ai có thể nghe thấy sự chống cự
của Hanna.
Đèn xanh.
Tất nhiên đó là một sự kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ đã thoát
khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu trên phố vào buổi tối,
không có quý ông đi kèm; và ngày nay thì điều này còn đặc biệt hơn
nữa. Nhưng vào cái đêm không may mắn ấy, Hanna không còn lựa
chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc
lát. Đứa con út của cô bị sốt và chồng cô đang thành tâm cầu nguyện
trong nhà thờ gần đó, cô lao vào bóng đêm đi mua thuốc đắp cho cái
trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, cô nó với con gái cả
của mình.
“Đóng cửa thật chặt con nhé. Mẹ sẽ về sớm.”
Nhưng, Chúa ơi, lời nói của cô không thành hiện thực. Ngay sau đó cô
gặp James
Schneider.
Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này
– gần nơi hắn chôn nạn nhân đầu tiên – là Hell’s Kitchen, khu West
Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland,
ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty
quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.
Hắn ngửi thấy mùi phân bón và không ngạc nhiên khi bống dưng nhìn
thấy một con ngựa lồng lên trước mặt.
Sau đó hắn nhận thấy con vật đó không phải là ma quỷ từ những năm
1800 mà là con ngựa được thắng vào một chiếc xe ngựa hai bánh chạy
trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa
của họ đặt ở đây.
Hắn cười với chính mình. Mặc dù đó là một âm thanh ghê rợn.
Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì đã xảy ra, vì chẳng có một
nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá rõ ràng sự
khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ đang cố chống cự vào con
đường nhỏ, đâm cô, ý định dã man của hắn ta là chưa giết ngay cô ta
mà chỉ khuất phục cô, đó là thói quen của hắn. Nhưng với sức mạnh
trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình
chắc chắn sẽ phải
74 WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New
York.
trở về với những đứa con còn non nớt của cô đã làm con quái thú thật
ngạc nhiên khi cô liên tục tấn công hắn; cô đấm liên tục vào mặt hắn,
rứt tóc trên đầu hắn.
Ngay lập tức cô thoát được và từ miệng cô vang lên tiếng thét khủng
khiếp. Schneider hèn nhát đánh cô thêm một, hai cú nữa rồi bỏ chạy.
Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó cô
đã chết trên tay một viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.
Câu chuyện trên xuất hiện trong một cuốn sách lúc này đang nằm trong
túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York75. Hắn không thể
giải thích được sự hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với
hắn. Nếu phải miêu tả mối quan hệ của hắn với cuốn sách, hắn có thể
nói hắn nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình
trạng rất tốt, một hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và
vật ban phước lành cho hắn. Hắn tìm thấy nó trong một nhánh nhỏ của
thư viện công cộng và hắn đã thực hiện một trong những vụ ăn cắp
hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra
khỏi tòa nhà.
Hắn đọc trong chương nói về Schneider hàng trăm lần và gần như đã
thuộc lòng. Lái xe thật từ từ. Họ đã gần đến nơi.
Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể không
còn sức sống của cô, anh ta nhìn vào mặt cô: lần cuối trước khi người
ta đưa cô đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người
chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và anh ta nhận thấy trên
gò má trắng như sứ của cô có vết thâm tím mang hình một biểu tượng
lạ lùng. Đấy là một biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và
một dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía trên.
Cảnh sát nói rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để
lại khi hắn đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử đã nhờ đến sự giúp
đỡ của một nghệ sĩ và anh ta đã phác thảo một hình ảnh bản gốc (Bạn
đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta đã thẩm vấn một số thợ kim
hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ một số người đã mua
chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý
ông đã mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài sự nghi ngờ, vì một người
là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong một trường
đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là một người đàn ông mà từ lâu
cảnh sát đã nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là
James Schneider.
Quý ông này đã từng có ảnh hưởng trong một số tổ chức từ thiện của
Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội
Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm
của cảnh sát khi một vài người lớn tuổi trong các nhóm nói trên biến
mất không lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị
kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra, ông ta biến mất khỏi
tầm ngắm.
Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết một cách tàn bạo, có một cuộc truy
tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn không
tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp
khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa
75 Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.
ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hắn không hề e sợ; một
thảm kịch thực sự, chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát
tàn khốc đã xảy đến với thành phố đang nằm trong bàn tay ghê tởm
của hắn.
Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố nhỏ. Hắn mở
cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào một đường
hầm dài.
Sau khi chắc chắn nơi này không có ai, hắn đi ra sau xe. Hắn mở cốp
và lôi Hanna ra. Cô ta đầy thịt, béo, như một cái bao vải mềm oặt.
Hắn lại càng giận dữ và lôi cô ta xềnh xệch xuống một đường hầm rộng
khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy trên đầu họ. Hắn
nghe tiếng cô ta khò khè và đã định giơ tay tháo miếng băng dán miệng
thì hắn cảm thấy cô ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển
vì phải cố gắng kéo cô ta, hắn đặt cô ta xuống nền đường hầm và nới
lỏng miếng băng dính dán trên miệng cô ta. Không khí yếu ớt nhỏ giọt
vào trong. Cô ta có bị ngất không? Hắn lắng nghe tim cô ta. Hình như
nó vẫn đập tốt.
Hắn cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân cô ta, nghiêng về phía trước và
thầm thì: “Hanna, kommen Sie mit mir mit76”, Hanna, Goldschmidt...”
“Nein”, cô ta lẩm bẩm, giọng cô ta nhỏ dần rồi im bặt.
Hắn cúi gần hơn, tát nhẹ vào mặt cô ta. “Hanna, cô phải đi cùng tôi.”
Và cô ta hét lên: “Mein name ist micht Hanna77.” Rồi đánh trúng hàm
hắn.
Một chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu hắn và hắn nhảy sang bên
cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm
dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng hắn chạy rất nhanh theo cô. Hắn
bắt được cô khi cô chạy chưa được mười thước78. Cô ngã rất mạnh,
hắn ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.
Hắn nằm nghiêng khoảng một phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở,
tóm áo cô ta vì cô ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, cô ta cố
gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có – hai chân, cô ta nhấc chân
đạp rất mạnh vào tay hắn. Một cơn đau nhói xuyên suốt người hắn và
làm găng tay hắn tuột ra. Cô ta lại nhấc chân lên, hắn thoát được gọt
giày của cô ta chỉ vì cô ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi
nếu trúng chắc chắn hắn sẽ gãy xương.
“So nicht!79” Hắn gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng
cô ta, bóp mạnh cho tới khi cô ta quằn quại van xin, rồi không còn
quằn quại van xin được nữa. Cô ta giật giật vài cái rồi bất động.
Khi hắn nghe tim cô ta thì tiếng đập đã rất yếu. Lần này là thật. Hắn
nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo cô qua đường hầm để chỗ cái cột
trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng cô. Khi cô tỉnh
lại, bàn tay hắn lang thang trên cơ thể cô. Đầu tiên cô kinh ngạc sau đó
co rúm lại khi hắn chăm chút phần thịt sau tai cô. Khuỷu tay cô,
76 Kommen Sie mit mir mit: Đi với tôi (tiếng Đức).
77 Mein Name ist micht Hanna: Tao không phải Hanna (tiếng Đức).
78 Thước (yard): Thước Anh, tương đương với 0,914m.
79 So nicht: Thôi đi (tiếng Đức).
quai hàm cô. Trên người cô không có nhiều chỗ làm hắn thích động
chạm. Cô ta như cái bị thịt... điều này làm hắn thấy ghê tởm.
Nhưng phía dưới lớp da... Hắn nắm chân cô thật chặt. Đôi mắt cô mở
to nhìn hắn lần tìm trong túi lấy ra một lưỡi dao. Không một chút chần
chừ, hắn luồn con dao xuyên qua da cô sâu, tới tận đoạn xương màu
vàng trắng. Cô thét lên qua lớp băng dính, một tiếng khóc điên dại, đá
thật mạnh nhưng chân đã bị trói chặt. Thích không, Hanna? Cô gái sụt
sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế hắn phải nghiêng tai xuống tận chân cô để nghe
tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đi đưa lại trên đoạn xường.
Kí... t...
Rồi hắn cầm tay cô.
Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát cô thảm hại lắc đầu, âm thầm van
xin. Ánh mắt hắn rơi xuống cánh tay mập mạp của cô, và nhát cắt tiếp
theo cũng thật sâu.. Cả người cô cứng lại vì đau. Thêm một tiếng thét
man dại, câm lặng nữa. Một lần nữa hắn cúi đầu như một nhạc sĩ, lắng
nghe tiếng lưỡi dao cạo trên xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít... Một lúc
sau hắn nhận ra cô đã bất tỉnh.
Cuối cùng hắn cũng dứt được mình ra và đi về phía chiếc xe. Hắn đặt
những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe một cây chổi và cẩn
thận quét hết dấu chân của họ. Hắn lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại,
vẫn để động cơ chạy và đi xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh
xe.
Hắn dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn cô ta, chỉ nhìn không
thôi. Bất ngờ, một nụ cười thoáng hiện trên môi Kẻ Tầm Xương. Hắn
ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên đã xuất hiện. Một tá
những cặp mắt nhỏ tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá... Có vẻ chúng đang
nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với một chút tò mò... và có thể cả đói
nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của hắn; Chúa biết, những hình ảnh
đó cũng đủ rõ ràng.
MƯỜI HAI
“Mel, nghiên cứu chỗ quần áo của Colfax xem. Amelia, cô làm ơn giúp
anh ấy một tay, được chứ?”
Cô vui vẻ gật đầu với anh ta, kiểu gật đầu lịch sự. Rhyme nhận ra là
anh đã khá giận cô.
Theo sự hướng dẫn của kỹ thuật viên, cô đeo găng tay cao su, nhẹ
nhàng mở đống quần áo, đặt phía dưới một tờ báo lớn và dùng bàn
chải lông ngựa chải vải. Mấy mảnh vụn nhỏ rơi xuống. Cooper dùng
băng dính nhặt chúng lên và soi dưới kính hiển vi.
“Không có gì nhiều”, anh ta báo cáo. “Hơi nước đã xóa hầu hết dấu
vết. Tôi thấy một ít đất, không đủ để làm D-G. Đợi chút... Tuyệt vời.
Tôi có một, hai sợi vải. Nhìn chúng này...”
Tôi chịu, Rhyme giận dữ nghĩ.
“Màu xanh hải quân, vải pha len và acrylic, tôi đoán thế. Nó không đủ
thưa để làm thảm và không cong. Như vậy đây là vải quần áo.”
“Trời nóng thế này chắc hắn sẽ không đi tất dày và mặc áo len. Mặt nạ
trượt tuyết?”
“Tôi cũng cá vậy”, Cooper nói.
Rhyme suy tư: “Như vậy hắn đã rất nghiêm túc trong việc cho ta cơ hội
cứu họ. Nếu hắn nghiêng về việc giết chóc, việc họ nhìn thấy hắn hay
không cũng không quan trọng.”
Sellitto thêm: “Còn có nghĩa là thằng khốn này nghĩ hắn có thể chạy
thoát. Không hề có ý định tự sát. Chỉ cho chúng ta thêm một ít quyền
lực đàm phán nếu hắn bắt con tin khi ta tóm hắn.”
“Tôi thích sự lạc quan của anh, Lon ạ”, Rhyme nói.
Thom ra mở cửa khi nghe tiếng chuông, một khắc sau Jim Polling leo
lên cầu thang, trông có vẻ phờ phạc và mệt nhọc. Được rồi, phải chạy
qua chạy lại giữa các cuộc họp báo, văn phòng ngài thị trưởng và tòa
nhà kiểu liên bang đã làm anh ta ra nông nỗi này.
“Cá hồi tệ quá”, Sellitto nói với anh ta. Sau đó giải thích cho Rhyme:
“Jimmy của chúng ta là một trong những người đi câu cá thực thụ. Tự
mắc mồi và làm những thứ khác. Còn tôi, tôi lên thuyền dự dạ hội với
sáu lon bia và tôi thấy vui.”
“Ta phải tóm thằng khốn này trước rồi nghĩ tới cá mú sau.”, Polling nói,
uống ly cà phê Thom để lại trên bậu cửa sổ. Anh ta nhìn ra ngoài và
chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy hai con chim lớn đang nhìn mình.
Anh ta quay lại phía Rhyme và giải thích vì có vụ bắt cóc mà anh ta đã
phải hoãn chuyến đi câu cá ở Vermont. Rhyme chưa bao giờ đi câu –
chưa bao giờ có thời gian hay xu hướng tìm cho mình bất kỳ mối quan
tâm nào khác – nhưng anh thấy ghen tị với Polling. Sự bình yên khi câu
cá hấp dẫn anh. Đó là môn thể thao mà anh có thể chơi một mình. Thể
thao của người tàn tật thường là những môn đối mặt. Đối kháng.
Chứng minh cho cả thế giới... và cho chính mình. Bóng rổ, xe
lăn, tennis, cuộc chạy marathon. Rhyme quyết định nếu anh cần phải
chơi môn thể thao nào thì sẽ là câu cá. Dù quăng dây câu bằng một
ngón tay có thể vẫn nằm ngoài tầm của công nghệ hiện đại.
Polling nó: “Báo chí gọi hắn ta là tên bắt cóc hàng loạt.” Nếu đúng thế,
Rhyme suy tư.
“Thị trưởng đang phát điên. Muốn gọi cho những nhân viên FBI. Tôi
đã thuyết phục sếp không làm gì trong vụ này. Nhưng chúng ta không
thể đánh mất thêm một nạn
nhân nữa.
“Chúng tôi sẽ cố hết sức” Rhyme chua cay nói.
Polling hớp một ngụm cà phê đen và đến gần chiếc giường.
“Anh ổn chứ, Lincoln?”
Rhyme nói: “Ổn cả.”
Polling đánh giá anh thêm một chút nữa, sau đó gật đầu với Sellitto.
“Hãy tóm tắt cho tôi. Chúng ta sẽ có một cuộc họp báo nữa, trong
vòng nửa tiếng. Cậu đã thấy cuộc họp trước chưa? Nghe những câu
hỏi của nhà báo chưa? Chúng ta nghĩ gia đình nạn nhân cảm thấy thế
nào khi cô ta bị hấp đến chết?”
Banks lắc đầu. “Trời ạ.”
“Tôi suýt chút nữa đánh thằng khốn đó.”, Polling nói.
Ba năm rưỡi trước, Rhyme nhớ lại, trong vụ điều tra sát hại cảnh sát,
viên đại úy này đã đập vỡ máy quay mới của nhân viên quay phim khi
một phóng viên hỏi rằng, có phải Polling quá xông xáo trong cuộc điều
tra vì nghi phạm, Dan Shepherd, là nhân viên trong lực lượng hay
không?
Polling và Sellitto đi về phía góc phòng và viên thám tử báo cáo với
anh ta. Khi viên đại úy xuống cầu thang, Rhyme nhận ra, sự sôi nổi của
anh ta không còn được một nửa.
“Được rồi”, Cooper tuyên bố. “Ta có được một sợi tóc. Trong túi cô
ta.”
“Nguyên một cọng?” Rhyme hỏi, không hy vọng nhiều lắm và không
ngạc nhiên khi thấy Cooper thở dài. “Xin lỗi, không có chân tóc.”
Không có chân tóc đi cùng, sợi tóc không được xem như chứng cứ cá
nhân; nó còn chưa chắc đã phải là một loại vật chứng. Ta không thể
dùng nó để kiểm tra DNA và gắn nó với một nhân vật cụ thể nào.
Nhưng nó vẫn có giá trị thử nghiệm tốt. Nghiên cứu nối tiếng của
Canadian Mounties mấy năm trước kết luận rằng nếu tóc để lại hiện
trường trùng với tóc của nghi phạm, thì xác suất hắn là người để lại sợi
tóc chỉ khoảng 4.500/1. Vấn đề của tóc là ta không thể tìm được nhiều
thông tin về chủ nhân của nó. Không thể xác định giới tính qua tóc,
cũng không thể xác định chính xác chủng tộc. Chỉ có thể ước lượng
qua tóc của trẻ vị thành niên. Không thể tin được màu tóc vì các loại
thuốc nhuộm và màu trang điểm, và ai cũng rụng mỗi ngày mấy chục
sợi tóc nên không thể nói được nạn nhân có bị hói đầu hay không.
“So sánh với tóc nạn nhân xem. Đếm kích thước và so sánh màu tóc
gốc’, Rhyme ra lệnh.
Một khắc sau, Cooper ngẩng đầu lên khỏi kính hiển vi, nói, “Không
phải tóc của
Colfax.”
“Miêu tả?” Rhyme hỏi.
“Nâu nhạt. Không xoăn nên tôi có thể nói không phải người da đen.
Màu tóc gốc nói rằng không phải người châu Á.”
“Vậy là người da trắng”, Rhyme nói, gật đầu về phía sơ đồ trên tường.
“Khẳng định điều nhân chứng đã nói. Tóc hay lông trên cơ thể?”
“Có rất ít biến đổi trong phân bố đồng dạng hạt màu tóc. Tôi sẽ nói đó
là tóc.” “Chiều dài?”
“Ba cm.”
Thom hỏi anh ta có cần thêm vào hồ sơ là tóc tên bắt cóc màu nâu hay
không. Rhyme nói không. “Ta sẽ đợi thêm những chứng cứ chắc chắn
hơn. Chỉ cần viết là
ta biết hắn đeo mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân. Cạo móng tay có
gì không, Mel.” Cooper xem xét dấu vết nhưng không tìm thấy gì hữu
ích.
“Dấu tay mà cô tìm thấy. Trên tường ấy. Hãy nhìn nó đi. Amelia, cô
cho tôi xem, được không?”
Sachs ngần ngừ một chút, sau đó đem bức hình Polaroid ra chỗ anh ta.
“Con quái vật của cô”, Rhyme nói. Đó là một bàn tay to lớn, biến
dạng, thực sự kỳ quái, không có những đường rẽ nhánh và xoắn ốc
thanh lịch của vân tay mà là hình hoa văn lốm đốm với những đường
thẳng nhỏ xíu.
“Một bức tranh tuyệt đẹp – cô gần như là Edward Weston80 rồi,
Amelia. Nhưng đáng tiếc đấy không phải là bàn tay. Kia không phải
vân tay. Đấy là găng tay. Da. Đã cũ. Đúng không, Mel?”
Tay kỹ thuật viên gật đầu.
“Thom, hãy viết là hắn có một đôi găng tay cũ”, Rhyme nói với những
người khác. “Chúng ta bắt đầu có vài ý tưởng về hắn. Hắn không để lại
dấu vân tay của hắn ở hiện trường. Nhưng hắn để lại dấu găng tay.
Nếu tìm thấy đôi găng tay do hắn sở hữu, chúng ta vẫn có thể đưa hắn
vào hiện trường. Hắn nhanh trí. Nhưng chưa thật thông minh.”
bụi?”
Sachs hỏi: “Những tên tội phạm thông minh mặc đồ gì?”
“Đồ da lộn vải bông”, Rhyme nói. Sau đó hỏi: “Cái túi lọc đâu? Của
máy hút
Tay kỹ thuật viên đổ những thứ trong bộ lọc hình nón – trông như bộ
lọc trong
máy pha cà phê – ra một tờ giấy trắng.
Vật chứng dấu vết...
80 Edward Henry Weston (1886 - 1958): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng
người Mỹ.
Công tố viên, các nhà báo và quan tòa thích những chứng cứ rõ ràng.
Những đôi găng đẫm máu, dao, những khẩu súng vừa nhả đạn, các
bức thư tình, tinh dịch và dấu vân tay. Nhưng chứng cứ yêu thích của
Rhyme là dấu vết – bụi hay những thứ phát sinh từ hiện trường vụ án,
rất dễ bị bọn tội phạm bỏ qua.
Nhưng máy hút bụi không hút được gì hữu ích.
“Được rồi”, Rhyme nói. “Ta tiếp tục nào. Hãy nhìn cái còng tay.”
Sachs cứng người khi Cooper mở cái túi nhựa và đổ chiếc còng lên
một tờ báo. Như Rhyme đã dự kiến, có rất ít máu. Bác sĩ lưu động từ
văn phòng giám định y khoa đã dùng cái cưa sắt, sau khi luật sư của
NYPD fax giấy phép đến Phòng Giám Định Y khoa.
Cooper xem xét cái còng rất cẩn thận. ”Hãng Boy & Keller. Loại hạng
bét. Không có số thứ tự.” Anh ta phun chrome với DFO lên đó và
chiếu đèn PoliLight. ”Không có có dấu tay, chỉ có một vết bẩn dây từ
găng tay.”
“Mở nó ra xem sao.”
Cooper dùng chìa khóa đa năng mở còng. Anh ta dùng khí nén rửa
kính thổi vào ổ
khóa.
“Cô vẫn giận tôi đấy à, Amelia?” Rhyme nói. “Về vụ hai bàn tay ấy.”
Câu hỏi làm cô bất ngờ. “Tôi không giận.” Cô nói sau một lúc. “Tôi
nghĩ thế là
không chuyên nghiệp. Cái điều anh bảo tôi làm.” “Cô có biết Edmond
Locard là ai không?” Cô lắc đầu
“Một người Pháp. Sinh năm 1877. Ông ta sáng lập Viện Hình sự học
của trường Đại học Tổng hợp Lyon. Ông ta phát minh ra một quy tắc
mà tôi luôn tuân thủ khi điều hành IRD. Nguyên tắc Trao đổi của
Locard. Ông ta nghĩ rằng bất cứ khi nào hai người tiếp xúc với nhau,
một thứ gì đó từ một người sẽ được trao đổi với người khác và ngược
lại. Có thể là bụi, tế bào da, bùn đất, sợi, mạt kim loại. Nhưng việc
trao đổi này có xảy ra
– vì thế chúng ta có thể bắt được nghi phạm.”
Câu chuyện này chẳng làm cô quan tâm tí nào.
“Cô may mắn đấy”, Mel Cooper nói với Sachs mà không nhìn lên.
“Anh ta đã định bắt cô và bác sĩ xem xét những thứ trong dạ dày của
cô ta đấy.”
“Điều đó có thể có ích”, Rhyme nói, tránh ánh mắt cô. “Tôi thuyết
phục anh ta thôi đấy”, Cooper nói.
“Khám nghiệm tử thi”, Sachs nói và thở dài, tựa như chẳng có điều gì
mà Rhyme nói có thể làm cho cô ngạc nhiên.
Tại sao, thậm chí cô ta còn chẳng ở đây nữa, anh giận dữ nghĩ. Đầu óc
cô ta lơ lửng cách đây hàng nghìn dặm.
“À”, Cooper nói. “Tôi tìm thấy gi này. Tôi nghĩ đó là một mẩu găng
tay.” Cooper đặt mẩu nhỏ lên kính hiển vi. Xem xét nó.
“Da. Nhuộm đỏ. Một mặt được đánh bóng.”
“Màu đỏ, thế là tốt”, Sellitto nói. Với Sachs, anh ta giải thích: “Quần áo
của bọn chúng càng man dại, càng dễ tìm ra chúng. Họ không dạy cô
điều này trong học viện, tôi cá là như thế. Lúc nào đó tôi sẽ kể cô nghe
chúng tôi đã tóm cổ Jimmy Plaid, trong băng nhóm của Gambino như
thế nào. Cậu còn nhớ chuyện đó chứ, Jerrry?”
“Ta có thể phát hiện cái quần đùi đó cách hàng dặm”, viên thám tử trẻ
tuổi nói. Cooper nói tiếp: “Da đã bị khô. Không có nhiều dầu trong
hạt. Anh đúng khi nói
đôi găng đã cũ.”
“Da gì vậy?”
“Tôi sẽ nói đấy là cừu non. Chất lượng cao.”
“Nếu đôi găng tay mới, điều đó có thể có nghĩa là hắn ta giàu”, Rhyme
lẩm bẩm. “Nhưng vì đấy là găng cũ, hắn có thể tìm thấy chúng hoặc
mua hàng dùng rồi. Có vẻ là không thể suy luận được từ đồ phụ kiện
của nghi phạm 823. Được rồi, Thom, thêm vào hồ sơ đôi găng tay da
cừu đó. Ta còn có thêm gì nữa nhỉ?”
“Hắn sử dụng nước hoa dùng sau dao cạo râu”, Sachs nhắc anh.
“Tôi quên mất. Tốt. Có thể dùng để che giấu mùi khác. Đôi khi bọn tội
phạm cũng làm thế. Viết đi, Thom. Nó có mùi như thế nào, Amelia?
Cô tả xem nào.”
“Không. Như rượu gin.”
“Dây phơi thì sao?” Rhyme hỏi.
Cooper xem xét sợi dây. “Trước đây tôi từng thấy loại này rồi. Dây
nhựa. Bện từ vài tá dây nhỏ làm từ sáu tới mười loại nhựa khác nhau
và một – không phải, hai sợi dây kim loại.”
“Tôi muốn có nhà sản xuất và nguồn.”
Cooper lắc đầu. “Không được. Quá chung chung.” “Mẹ kiếp”, Rhyme
lẩm bẩm. “Nút thắt thì sao?”
“Đây là thứ khác thường. Rất hiệu quả. Xem nó được quấn vòng hai
lần như thế nào này. Dây là từ nhựa PVC là loại dây khó thắt nút nhất,
nhưng cái nút này không tuột được.”
“Họ có cơ sở dữ liệu nút thắt ở trung tâm không nhỉ?” “Không”
Không thể tha thứ được, anh nghĩ.
“Thưa ngài?”
Rhyme quay về phía Banks.
“Tôi đã từng lái thuyền buồm...” “Ở Westport”, Rhyme nói.
“À, thật ra là đúng như vậy. Sao anh biết?”
Nếu ta điều tra pháp lý về xuất xứ của Jerry Banks, kết quả sẽ là
Connecticut. “Đoán mò ấy mà.”
“Nó không thuộc hàng hải. Tôi không nhận ra nó.”
“Thật tốt khi biết điều đó. Treo nó lên kia đi.” Rhyme hất đầu về phía
bức tường, bên cạnh tấm hình Polaroid của miếng giấy bóng kính và
bức tranh của Monet. “Ta nghiên cứu nó sau.”
Chuông cửa reo và Thom biến đi mở cửa. Rhyme cảm thấy một chút
tệ hại khi nghĩ đó là bác sĩ Berger trở lại để nói với anh rằng ông ta
không còn quan tâm đến việc trợ giúp anh trong “dự án” của họ nữa.
Nhưng tiếng bốt giẫm nặng nề nói với Rhyme ai đang đến.
Những sĩ quan của Đội Đặc nhiệm, tất cả đều to lớn, tất cả đều u ám,
mặc đồng phục chiến đấu, lịch sự vào phòng, gật đầu chào Sellitto và
Banks. Họ là những người đàn ông hành động và Rhyme cá là phía sau
hai mươi con mắt bất động kia là mười phản ứng rất tệ hại trước hình
ảnh một người đàn ông phải nằm ngửa vĩnh viễn.
“Các quý ông, các anh đã biết về vụ bắt cóc tối qua và cái chết của
nạn nhân chiều nay”, anh tiếp tục nói bằng một giọng khẽ khàng nhưng
chắc chắn. “Nghi phạm của chúng ta có một nạn nhân khác. Chúng tôi
có một số dấu vết cho vụ này và tôi cần các anh đến mấy nơi quanh
thành phố để lấy vật chứng. Lập tức và đồng thời. Mỗi người, một
chỗ.”
“Ý anh là...”, một sĩ quan để ria mép hỏi không chắc chắn, “không có
yểm trợ?”. “Anh sẽ không cần đến.”
“Với tất cả sự tôn trọng, thưa ngài. Tôi không có ý định tham gia vào
bất cứ tình huống chiến thuật nào mà không có yểm trợ. Ít nhất phải có
một công sự chứ.”
“Tôi không nghĩ sẽ có đấu súng. Mục tiêu là chuỗi những cửa hàng
thực phẩm lớn trong thành phố.”
“Cửa hàng thực phẩm?”
“Không phải tất cả. Chỉ cần một cửa hàng nằm trong chuỗi các cửa
hàng J&G’s, ShopRite, Food Warehouse,...”
“Chính xác là chúng tôi sẽ làm gì?” “Mua chân bê.”
“Cái gì?”
“Một gói từ mỗi cửa hàng. Tôi e là tôi phải yêu cầu các anh tự trả tiền,
thưa các quý ông. Nhưng thành phố sẽ thanh toán cho cách anh. Ồ,
mà chúng tôi cần nó càng sớm càng tốt.”
Cô nằm nghiêng, bất động.
Mắt cô đã quen với bóng tối lờ mờ của đường hầm và cô có thể nhìn
thấy những con vật khốn khiếp đang lại gần hơn. Cô đặc biệt để mắt
đến một con.
Chân Monelle đau ghê gớm, nhưng cơn đau chính lại nằm ở cánh tay,
chỗ hắn cắt sâu vào da thịt. Vì tay bị còng ra sau nên cô không nhìn
thấy vết thương, không biết mình chảy bao nhiêu máu. Nhưng chắc là
rất nhiều; cô cảm thấy rất uể oải và có thể cảm nhận được vết thương
rỉ máu dinh dính trên tay và bên sườn.
Có tiếng cào – những cái móng hình kim cào trên nên xi măng. Những
khối màu nâu xám hối hả lao trong bóng tối. Những con chuột cống
tiếp tục giật cục đi về phía cô. Chúng phải có đến hàng trăm con.
Cô bắt mình nằm im và theo dõi con chuột đen. Schwarzie, cô đặt tên
cho nó. Nó đứng ngay trước mặt, đi tới đi lui, nghiên cứu cô.
Monelle Gerger đã đi vòng quanh thế giới hai lần khi cô mới mười chín
tuổi. Cô đi nhờ xe dọc Sri Lanka, Campuchia và Pakistan. Đi qua
Nebraska, nơi những người đàn bà nhìn bộ ngực không áo lót và
những cái vòng đeo lông mày của cô với vẻ khinh miệt. Đi qua Iran, nơi
những người đàn ông nhìn cánh tay trần của cô như lũ chó động đực.
Cô ngủ trong công viên thành phố ở Thành phố Guatemala và ở ba
ngày với lực lượng nổi loạn ở Nicaragua lúc bị lạc đường khi đến khu
bảo tồn động vật hoang dã.
Nhưng chưa bao giờ cô hoảng sợ như lúc này.
Mein Gott.
Và điều cô hoảng sợ nhất chính là điều cô sắp làm với bản thân mình.
Một con chuột chạy tới gần, thân thể màu nâu của nó lao tới trước, lùi
lại sau, rồi lại tiến lên mấy inch. Bọn chuột đang sợ, cô nghĩ vậy, vì
chúng chuyển động giống bò sát hơn bọn gặm nhấm. Một cái mũi rắn,
cái đuôi rắn. Và những cặp mắt đỏ ngầu khốn khiếp.
Đằng sau đó là Schwarzie, to gần bằng một con mèo nhỏ. Nó đứng
trên hai chân sau nhìn thứ làm nó phấn khích. Quan sát. Chờ đợi.
Thế rồi con chuột con tấn công. Vội vàng trên bốn cái chân nhọn hoắt,
lờ đi tiếng thét bị bóp nghẹt của cô, nó lao tới, nhanh và thắng. Nhanh
như sóc, nó rứt một miếng thịt từ cái chân bị cắt của cô. Vết thương
nhói lên như bị bỏng. Monelle kêu ré lên – vì đau, và vì giận dữ. Tao
không cần mày. Cô đạp gót giày rất mạnh lên lưng nó với một tiếng rắc
khô khốc. Nó giãy một cái rồi nằm im.
Một con khác xông lên cổ cô, rứt một miếng rồi chạy lui, nhìn chằm
chằm vào cô, nháy nháy mũi như thế nó đang liếm mép, hưởng thụ mùi
vị của cô.
Dieser Schmerz81...
Cô rùng mình vì cơn đau rát tỏa ra từ vết cắn. Dieser Schmerz! Đau
quá! Monelle bắt mình nằm im.
Kẻ tấn công tí hon định lao lên lần nữa, nhưng rồi động đậy và quay đi.
Monelle biết tại sao. Schwarzie cuối cùng đã tiến lên hàng đầu. Nó đi
lấy cái nó muốn.
Tốt, tốt.
81 Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).
Nó là con chuột cô đang chờ đợi. Vì có vẻ như nó không quan tâm
đến máu thịt cô; cách đây hai mươi phút nó đã tới gần, phấn khích với
miếng băng dính màu bạc dán trên miệng cô.
Con chuột bé hơn vội vàng chạy đến nhập đàn khi Schwarzie tiến lên
trên những cái chân tí hon, bẩn thỉu. Dừng lại. Lại tiến lên. Sáu feet,
năm.
Rồi ba.
Cô nằm im như chết. Thở thật nhẹ hết mức có thể, sợ hơi thở của mình
sẽ làm con chuột sợ hãi.
Schwarzie dừng lại. Rồi tiến lên. Sau đó dừng hẳn. Cách đầu cô hai
feet. Không được động đậy.
Lưng nó vồng cao, môi nó liên tục đưa đẩy trên hàm răng nâu vàng.
Nó tiến lên thêm một foot nữa và dừng lại, mắt đảo điên. Ngồi dậy,
xoa hai cái chân đầy móng vuốt vào nhau, rồi lại tiến lên.
Monelle Gerger giả chết.
Chỉ còn sáu inch nữa thôi. Vorwärts82!
Nào!
Thế rồi nó đến sát mặt cô. Cô ngửi thấy mùi rác rưởi và dầu mỡ trên
cơ thể nó, mùi phân, mùi thịt thối. Nó đánh hơi và cô cảm thấy những
cái râu của nó cù mũi cô buồn không chịu nổi khi những cái răng nhỏ
xíu thò ra khỏi miệng và bắt đầu gặm miếng băng dính.
Nó gặm quanh miệng cô tới năm phút. Có lúc, một con chuột khác
xông tới, cắn vào mắt cá chân của cô. Cô nhắm mắt và cố quên cơn
đau. Schwarzie đuổi nó đi rồi đứng trong bóng tối nghiên cứu cô.
Vorwärts, Schwarzie! Nào!
Nó từ từ quay lại chỗ cô. Lệ ròng ròng trên má, Monelle miễn cưỡng
hạ thấp miệng mình xuống cho nó.
Gặm, gặm… Nào!
Cô cảm thấy hơi thở nóng bức, ghê tởm của nó trong miệng mình khi
nó cắn xuyên qua lớp băng dính và bắt đầu rứt ra những miếng nhựa
lớn lấp loáng màu bạc. Nó kéo những mẫu nhựa từ miệng ra, tham lam
kẹp chúng giữa hai chân trước.
Không hiểu đã đủ lớn chưa? Cô tự hỏi. Phải thế thôi. Cô không thể
chịu nổi nữa.
Cô chậm rãi nhấc đầu lên, từng mm một. Schwarzie nháy mắt và
nghiêng về phía trước, vẻ tò mò.
82 Vorwärts: Lên đi (tiếng Đức).
Monelle há rộng miệng và nghe thấy âm thanh tuyệt vời khi miếng băng
dính rách toang. Cô hít không khí thật sâu vào phổi. Cô lại thở được
rồi!
Và cô đã có thể kêu cứu.
“Bitte, helfen Sie mir!83”
Schwarzie lùi lại, giật mình vì tiếng hú dựng tóc gáy của cô, đánh rơi cả
miếng băng dính bạc quý báu của nó. Nhưng nó không chạy xa. Nó
dừng và quay lại, đứng lên hai chân sau béo mập.
Lờ đi cái cơ thể gù đen ngòm của nó, cô đá cái cột mà cô đang bị trói
vào. Bụi và bùn đất rơi xuống như một màn tuyết nâu nhưng cây cột gỗ
không động đậy. Cô la hét cho tới khi họng bỏng rát.
“Bitte!84”
Dòng xe cộ nhớp nháp nuốt chửng âm thanh đó.
Bất động một lúc. Sau đó Schwarzie bắt đầu đi lại phía cô. Lần này nó
không đi một mình. Một đàn chuột gian xảo đi theo nó. Run rẩy, căng
thẳng. Nhưng cương quyết tiến lên khi ngửi thấy mùi máu hấp dẫn của
cô.
Xương và gỗ, gỗ và xương.
“Mel, anh có gì đằng kia thế?” Rhyme hất đầu về phía cái máy tính gắn
với máy
GC-MS. Cooper đang thử lại chỗ bụi họ tìm thấy trong mẫu gỗ. “Vẫn
rất giàu nitrogen. Vượt ngưỡng.”
Ba lần thử riêng biệt, kết quả như nhau. Kiểm tra chẩn đoán cho thấy
thiết bị làm việc tốt. Cooper suy tư rồi nói: “Nhiều nitrogen như vậy thì
có thể là nơi sản xuất súng hoặc đạn dược.”
“Thế thì phải là Connecticut, không phải Manhattan.” Rhyme nhìn đồng
hồ. 6:30. Ngày hôm nay thời gian trôi thật nhanh. Ba năm rưỡi qua nó
trôi mới chậm làm sao. Anh cảm thấy như anh đã thức nhiều ngày liền.
Viên thám tử trẻ tuổi miệt mài trên tấm bản đồ Manhattan, đẩy miếng
xương đốt sống nhợt nhạt vừa rơi xuống nền nhà lúc nãy sang một bên.
Cái đĩa đó là do một chuyên gia cột sống của Rhyme, Peter Taylor, để
lại. Trong một lần gặp trước với anh ta. Người bác sĩ lành nghề đã
khám cho anh, sau đó ngồi vào chiếc ghế mây kêu sột soạt và lấy thứ
gì đó trong túi ra.
“Thời gian để diễn và nói”, người bác sĩ nói. Rhyme liếc nhìn bàn tay
mở rộng của Taylor.
83 Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).
84 Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).
“Đây là đốt sống thứ tư. Giống như đốt sống ở cổ anh. Cái đốt sống bị
vỡ. Anh có thấy mẩu đuôi bé ở đây không?” Tay bác sĩ xoay khúc
xương lại một lúc rồi hỏi. “Anh nghĩ gì khi anh nhìn thấy nó?”
Rhyme kính trọng Taylor – người không đối xử với anh như một đứa
trẻ hay thằng dở hơi hay sự bất tiện lớn – nhưng ngày hôm đó anh
không có tâm trạng chơi trò gây cảm hứng. Anh không trả lời.
Taylor vẫn nói tiếp: “Vài bệnh nhân của tôi nghĩ nó giống như con cá
đuối. Một số khác cho rằng đó là tàu vũ trụ. Hoặc một cái máy bay.
Hay xe tải. Bất cứ lúc nào tôi hỏi câu này, người ta thường so sánh nó
với cái gì đó to lớn. Không ai nói: ‘Ồ, một mẩu calcium và magnesium.’
Thấy không, họ không thích ý tưởng là một thứ gì đó rất tầm thường
như thế lại biến cuộc sống của họ thành địa ngục.”
Rhyme nhìn lại ông ta với vẻ nghi ngờ nhưng ông bác sĩ tóc bạc, điềm
tĩnh này là một tay cứng rắn với các bệnh nhân SCI nên ông ta lịch sự
nói: “Đừng làm tôi cụt hứng chứ, Lincoln.”
Taylor đưa cái đĩa lại gần mặt Rhyme. “Anh nghĩ rằng không công
bằng khi một thứ nhỏ thế này có thể đem đến cho anh nhiều đau khổ
đến vậy. Nhưng quên nó đi. Quên nó đi. Tôi muốn anh nhớ những điều
trước khi xảy ra tai nạn. Những điều tốt và điều xấu trong cuộc đời
anh. Hạnh phúc, khổ đau… Anh có thể cảm thấy những điều này lần
nữa.” Khuôn mặt ông bác sĩ chuyển thành bất động. “Nhưng thành
thực mà nói, tất cả những gì tôi đang nhìn thấy lúc này là một kẻ đang
đầu hàng.”
Taylor để khúc xương lại trên cái bàn đầu giường. Có vẻ như tình cờ.
Nhưng sau đó Rhyme nhận thấy trong hành động này có sự tính toán.
Mấy tháng qua, khi Rhyme đang cố quyết định có nên tự tử hay
không, anh thường nhìn cái đĩa nhỏ đó. Nó đã trở thành biểu tượng cho
luận điểm của Taylor – luận điểm ủng hộ cuộc sống. Nhưng cuối cùng
phía này đã thua; những lời nói của ông bác sĩ, có đúng đến đâu chăng
nữa cũng không thể vượt qua được gánh nặng của những cơn đau, đau
đầu và kiệt sức mà Lincoln Rhyme phải chịu đựng ngày này qua ngày
khác.
Lúc này anh tránh nhìn chiếc đĩa – quay sang Amelia Sachs – và nói:
“Tôi muốn cô nghĩ lại về hiện trường một lần nữa.”
“Tôi đã nói với anh mọi thứ tôi nhìn thấy.”
“Không phải là nhìn thấy. Tôi muốn biết tất cả những gì cô cảm thấy.”
Rhyme nhớ lại hàng nghìn lần anh khám nghiệm hiện trường. Đôi khi
phép màu cũng xảy ra. Anh có thể nhìn ngó xung quanh và bằng cách
nào đó các ý tưởng về đối tượng sẽ đến với anh. Anh không thể giải
thích được nó như thế nào. Những nhà hành vi học nói về việc lập hồ
sơ như thể chính họ là người sáng chế ra nó. Nhưng các nhà hình sự
học đã lập hồ sơ từ hàng trăm năm nay. Đan lưới, đi ở chỗ hắn đã đi,
tìm những thứ hắn để lại, nghĩ ra hắn sẽ đem gì theo – và ta sẽ rời khỏi
hiện trường với một hồ sơ rõ ràng như một bức chân dung.
“Nói tôi biết”, anh hỏi. “Cô cảm thấy gì?”
“Khó chịu. Căng thẳng. Nóng bức.” Cô nhún vai. “Tôi không biết, tôi
thực sự không biết. Xin lỗi.”
Nếu có thể di chuyển, Rhyme đã nhảy ra khỏi giường, nắm lấy vai cô
mà lắc. Hét lên: Nhưng cô biết tôi đang nói gì mà! Tôi biết là cô biết.
Tại sao cô không làm việc với tôi?… Tại sao cô lờ tôi đi?
Nhưng anh hiểu ra một điều gì đó… Hiểu rằng cô đã ở đó, trong cái
tầng hầm ngột ngạt. Cúi người xuống cơ thể bị phá nát của T.J. Ngửi
thứ mùi ghê tởm. Anh nhìn thấy điều đó trong ngón tay cái bị cậy đến
bật máu của cô, anh nhìn thấy điều đó trong cách cô giữ một khoảng
cách lịch sự giữa họ. Cô ghê tởm việc có mặt trong cái tầng hầm kinh
khủng đó và cô căm thù anh vì anh nhắc nhở cô rằng, một phần của cô
vẫn còn ở đó.
“Cô đã đi ngang qua phòng”, anh nói.
“Tôi thực sự không nghĩ rằng tôi có thể giúp gì thêm.”
“Chơi thôi mà”, anh nói, cố dẹp cơn giận. Anh cười. “Nói cho tôi biết
cô nghĩ gì?” Khuôn mặt cô bất động và cô nói: “Chỉ là… những ý nghĩ.
Những ấn tượng thì ai
cũng có.”
“Nhưng cô đã ở đó. Mọi người thì không. Nói cho chúng tôi nghe đi.”
“Kiểu như… rất đáng sợ.” Cô nói và cảm thấy hối tiếc vì những từ ngữ
vụng về.
Nghiệp dư.
“Tôi cảm thấy…”
“Ai đó đang nhìn cô?” Anh hỏi.
Điều đó làm cô ngạc nhiên. “Đúng. Chính xác là thế.”
Rhyme cũng đã từng cảm thấy như vậy. Nhiều lần. Anh cảm thấy điều
đó ba năm rưỡi trước, khi cúi mình xuống cơ thể đang phân hủy của
người cảnh sát trẻ tuổi, nhặt một sợi vải trên bộ cảnh phục. Anh chắc
chắn có ai đó ở gần. Nhưng chẳng có ai – chỉ là một cái rầm gỗ sồi lớn
chọn đúng khoảnh khắc đó để gầm lên, tăng tốc và rơi trúng đốt sống
cổ thứ tư của Lincoln Rhyme với sức nặng của cả quả đất.
“Cô còn nghĩ gì nữa, Amelia?”
Cô không chống cự nữa. Môi cô thư giãn, mắt cô trôi theo bức tranh
Nighthaws – những người ăn tối, cô đơn hay đơn độc một cách mãn
nguyện. Cô nói: “Được rồi, tôi nhớ là tôi nói với chính mình: ‘Trời ạ,
chỗ này cổ thật.’ Nó giống như những bức tranh mà ta nhìn thấy ở đó
các nhà máy trong giai đoạn chuyển giao thế kỷ. Và tôi…”
“Đợi đã”. Rhyme quát lên. “Hãy nghĩ về điều này xem. Cổ xưa…”
Ánh mắt anh lướt qua tấm bản đồ Randel Survey. Trước đó anh đã
nhận xét về sự quan tâm của nghi phạm về New York lịch sử. Tòa nhà
nơi T.J. chết cũng là một tòa nhà cổ. Và đường hầm nơi họ tìm thấy
xác chết đầu tiên cũng vậy. Tàu hỏa Trung tâm New York đã từng
chạy trên mặt đất. Có quá nhiều tai nạn gây thương vong đến mức Đại
lộ Mười một được đặt tên là Đại lộ Death và tuyến đường sắt cuối
cùng bị bắt buộc phải đi ngầm.
“Và Phố Pearl”, anh lẩm bẩm một mình, “là con đường vòng chính của
New York trước kia. Vì sao hắn lại quan tâm đến những thứ đồ cổ?”.
Anh hỏi Sellitto: “Terry Dobyns còn làm việc cho chúng ta không?”
“Ồ, anh chàng bác sĩ tâm thần? Còn. Chúng tôi cùng làm một vụ năm
ngoái. Nhân tiện, anh ta có hỏi anh. Nói là anh ta có gọi điện một, hai
lần, và anh không bao giờ…”
“Được rồi, được rồi, được rồi”, Rhyme nói. “Gọi anh ta đến đây. Tôi
muốn anh ta suy nghĩ về khuôn mẫu của 823. Còn bây giờ, Amelia, cô
còn nghĩ gì nữa?”
Cô nhún vai nhưng tỏ ra rất lãnh đạm. “Chẳng có gì.” “Không có?”
Thế thì cô có giữ lại cảm giác của mình không? Anh băn khoăn, nhớ lại
điều gì đó mà Blaine có nhắc tới một lần khi nhìn thấy một người phụ
nữ đẹp bước đi trên Đại lộ Năm: Hàng càng đẹp càng khó mở.
“Tôi không biết…Được rồi, tôi nghĩ tôi có nhớ một việc tôi đã nghĩ
đến. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó không giống như một
quan sát, thế nào nhỉ, chuyên nghiệp.”
Chuyên nghiệp…
Thật tệ hại khi tự mình đặt tiêu chuẩn cho mình, phải không Amelia?
“Hãy cứ nghe xem thế nào”, anh nói với cô ta.
“Khi anh nói với tôi hãy giả vờ tôi là hắn? Và tôi tìm thấy chỗ mà hắn
đứng để nhìn cô ta?”
“Tiếp tục đi.”
“Tôi nghĩ…” Trong một khoảnh khắc có vẻ như lệ sắp tràn lên đôi mắt
đẹp của cô, anh nhận thấy chúng có sắc xanh óng ánh. Ngay lập tức
cô kiểm soát được mình. “Tôi băn khoăn không biết cô ta có nuôi chó
không. Cô Colfax ấy mà.”
“Chó? Tại sao cô lại băn khoăn về điều đó?”
Cô ngừng lại một lát rồi nói: “Bạn tôi… vài năm trước. Chúng tôi có
nói chuyện mua một con chó khi, đúng hơn là nếu, chúng tôi dọn đến ở
với nhau. Tôi luôn muốn có một con. Một con chó giống collie. Thật
buồn cười. Đó là giống chó mà bạn tôi cũng rất thích. Thậm chí trước
cả khi chúng tôi biết nhau.”
“Một con chó.” Tim Rhyme nổ bục như một con ruồi lao đầu vào cửa
kính mùa hè. “Và?”
“Tôi nghĩ rằng người phụ nữ đó…” “T.J.” Rhyme nói.
“T.J.” Sachs tiếp tục. “Tôi chỉ nghĩ thật buồn nếu cô ta có con vật cưng
nào mà không thể về nhà và chơi đùa với chúng nữa. Tôi không hề nghĩ
về chồng hay bạn trai cô ta. Tôi chỉ nghĩ về bọn thú cưng.”
“Nhưng vì sao lại là ý nghĩ đó? Chó, những con vật cưng? Tại sao?”
“Tôi không biết tại sao.”
Im lặng.
Cuối cùng cô nói: “Tôi hình dung tôi nhìn cô ta bị trói ở đó…Và tôi
nghĩ cách hắn đứng tránh sang một bên để nhìn cô ta. Đứng giữa
những cái thùng dầu. Giống như hắn đứng nhìn một con vật ở một bãi
chăn được rào kín.”
Rhyme nhìn những sơ đồ sóng hình sin trên màn hình máy tính GC-MS.
Thú vật…
Nitrogen…
“Phân!” Rhyme kêu lên.
Mọi người quay lại nhìn anh.
“Đấy là phân.” Nhìn chằm chằm vào màn hình.
“Đúng, tất nhiên rồi!” Cooper vò đầu nói. “Toàn nitrogen. Đấy là phân
bón. Và là loại phân bón cũ.”
Thình lình Rhyme có cảm giác về một trong những khoảnh khắc mà
trước đây anh đã gặp. Một ý nghĩ vừa lao vào đầu anh. Hình ảnh của
những con cừu.
Sellitto hỏi: “Anh ổn chứ?”
Một con cừu, lang thang trong phố. Giống như hắn đứng nhìn một con
vật… “Thom”, Sellitto nói, “anh ấy ổn chứ?”
… ở một bãi chăn được rào kín.
Rhyme có thể hình dung ra con vật vô tư. Một quả chuông treo trên
cổ, hàng chục con khác theo sau.
“Lincoln”, Thom nói một cách gấp gáp, “anh đang đổ mồ hôi đấy, anh
ổn chứ?” “Suỵt…”, nhà hình sự học ra lệnh.
Anh cảm thấy cơn ngứa lan xuống mặt. Cảm hứng và trụy tim; triệu
chứng giống nhau một cách kỳ lạ. Nghĩ, nghĩ đi…
Xương, cột trụ gỗ và phân bón…
“Rồi!” Anh thì thầm. Con cừu Judas85, dẫn đàn của mình đến chỗ
chết.
“Trại chăn nuôi”, Rhyme nói với cả phòng. “Cô ta bị nhốt ở trong một
trại chăn
nuôi.”
85 Judas: Tên một nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa
Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.
MƯỜI BA
“Nhưng ở Manhattan không có cái trại chăn nuôi nào cả.”
“Trước đây, Lon ạ”, Rhyme nhắc anh ta. “Những thứ cổ xưa làm hắn
phấn khích. Làm cho máu hắn chảy. Ta phải nghĩ đến những trại chăn
nuôi cũ. Càng cũ càng tốt.”
Khi nghiên cứu để viết cuốn sách của mình, Rhyme đã đọc về một vụ
giết người mà tên tội phạm quý tộc Owney Madden bị kết tội: bắn chết
một đối thủ bán rượu lậu ngay bên ngoài nhà hắn tại Hell’s Kitchen.
Madden không bao giờ bị kết án – dù sao đi nữa cũng không phải vì
một vụ án mạng ngoại lệ. Hắn đứng lên, bằng một giọng Anh đầy nhịp
điệu, hắn đã giảng bài cho phòng xử án về sự phản bội. “Toàn bộ vụ
này là do đối thủ của tôi vu cáo, những người đã nói dối về tôi. Thưa
quý tòa, các ngài có biết điều đó khiến tôi nhớ đến cái gì không? Trong
khu tôi sống, ở Hell’s Kitchen, những đàn cừu được dẫn qua phố đến
lò mổ trên Phố Bốn mươi mốt. Ngài có biết ai dẫn dắt chúng không?
Không phải chó, không phải người. Mà là một trong số chúng. Một
con cừu Judas với một cái chuông đeo quanh cổ. Nó dẫn đàn cừu đi
trên con đường đó. Nhưng sau đó nó dừng lại và những con còn lại sẽ
vào trong. Tôi là một con cừu vô tội và những nhân chứng chống lại
tôi, chúng là những con cừu Judas.”
Rhyme tiếp tục. “Banks, gọi điện cho thư viện. Họ chắc sẽ có một nhà
sử học.” Viên thám tử trẻ tuổi mở điện thoại di động và gọi. Giọng anh
ta hạ thấp dần khi
nói. Sau khi nói điều mình cần, anh ta dừng lại và nhìn vào tấm bản đồ
thành phố.
“Gì vậy?” Rhyme hỏi.
“Họ đang tìm ai đó. Họ có…”, anh ta cúi đầu khi có người trả lời và
lặp lại yêu cầu của mình.
Anh ta bắt đầu gật đầu và nói với cả phòng: “Tôi có hai chỗ… không
phải, ba.” “Ai đấy?” Rhyme cục cằn hỏi. “Cậu đang nói chuyện với ai
đấy?”
“Người phụ trách việc lưu trữ của thành phố… Ông ta nói trước đây
có khoảng ba trại chăn nuôi chính tại Manhattan. Một ở West Side,
quanh Phố sáu mươi…Một ở
Harlem, trong những năm 1930 hoặc 1940. Và một ở Lower East
Side trong thời kỳ Cách
mạng.”
“Ta cần địa chỉ, Banks. Địa chỉ!” Lắng nghe.
“Ông ta không chắc chắn.”
“Sao ông ta lại không tìm được. Nói với ông ta tìm đi.”
Banks trả lời: “Ông ta nghe thấy ngài nói rồi, thưa ngài… Ông ta nói: Ở
đâu? Tìm chúng ở đâu? Khi đó họ vẫn chưa có Những Trang Vàng.
Ông ta đang nhìn vào cổ xưa…”
“Bản đồ dân số của khu vực thương mại không có tên phố”, Rhyme
càu nhàu. “Rõ ràng quá, cứ để ông ta đoán.”
“Đúng là ông ta đang làm thế. Ông ta đang đoán.” Rhyme nói: “Ta cần
ông ta đoán nhanh lên.” Banks lắng nghe, gật đầu.
“Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì?”
“Quanh Phố Sáu mươi và Mười.” Viên sĩ quan trẻ tuổi nói. Một
khắc sau: “Lexington gần sông Harlem…và sau đó…trang trại
Delancey ở đâu? Có phải gần phố Delancey không?...”
“Tất nhiên rồi. Từ Tiểu Ý con đường đi thẳng xuống sông Đông. Rất
nhiều khu vực. Hàng dặm. Ông ta có thể thu hẹp lại một chút, được
không?”
“Quanh Phố Catherine. Lafayette…Walker. Ông ta không chắc.”
“Gần tòa án”, Sellitto nói và bảo Banks. “Gọi đội của Haumann. Chia
họ ra. Khám xét tất cả ba khu vực.”
Viên thám tử trẻ tuổi gọi điện, sau đó ngẩng đầu lên. “Giờ thì sao?”
“Chúng ta đợi”, Rhyme nói.
Sellitto càu nhàu: “Tôi ghét phải đợi.”
Sachs hỏi Rhyme: “Tôi dùng điện thoại của anh, được không?” Rhyme
hất đầu về phía cái bàn đầu giường.
Cô ngần ngừ. “Anh có cái nào ở ngoài kia không?” Cô chỉ ra phía
hàng lang.
Rhyme gật đầu.
Với một dáng đi hoàn hảo, cô bước ra khỏi phòng ngủ. Anh có thể
nhìn thấy cô trong tấm gương ở hành lang, khoan thai gọi cuộc điện
thoại quý giá. Ai vậy? Anh băn khoăn. Bạn trai, chồng? Trung tâm
chăm sóc ban ngày? Vì sao cô lại chần chừ trước khi nhắc đến “người
bạn” của cô, lúc cô nói với họ về con chó giống collie? Chắc là có một
câu chuyện đằng sau, Rhyme đoán thế.
Người cô gọi không có ở đó. Anh thấy mắt cô biến thành những viên
cuội màu xanh thẫm khi không thấy ai trả lời. Cô ngẩng đầu lên và bắt
gặp Rhyme đang nhìn cô qua tấm gương bụi bặm. Cô quay lưng lại.
Điện thoại trượt xuống cái giá đỡ và cô quay lại phòng anh.
Yên lặng trong năm phút. Rhyme không có một cơ chế mà ai cũng có
để làm giảm tình trạng căng thẳng. Anh là một người tính khí thất
thường khi anh còn đi lại được, điều đó làm cho mọi sĩ quan trong IRD
phát khùng. Lúc này, mắt anh đang hăng hái quét trên tấm bản đồ
Randel khi Sachs đưa tay lên mũ tuần tra để gãi đầu.
Mel Cooper vô hình đang sắp xếp vật chứng, bình tĩnh như một bác sĩ
phẫu thuật. Tất cả, trừ một người trong phòng, đều nhảy bật lên khi
nghe điện thoại của
Sellitto reo. Anh ta nghe, mặt mũi nhăn nhó.
“Được rồi!” Một trong những sĩ quan của Haumann đang ở Phố Mười
một và Sáu mươi. Họ nghe thấy tiếng thét của phụ nữ ở đâu đó quanh
đấy. Họ không biết chắc chắn là ở đâu. Họ đang tìm kiếm từng nhà.”
“Đi giày chạy của cô vào”, Rhyme ra lệnh cho Sachs.
Anh thấy mặt cô xịu xuống. Cô nhìn điện thoại của Rhyme, như thể nó
có thể đổ chuông với một cuộc gọi ân xá từ văn phòng Thị trưởng vào
bất kỳ lúc nào. Sau đó nhìn Sellitto, lúc này đang cúi người trên bản đồ
chiến thuật ESU của West Side.
“Amelia”, Rhyme nói, “ta đã mất một người. Thế là quá tệ. Nhưng
chúng ta không phải mất thêm ai nữa.”
“Nếu anh nhìn thấy cô ấy”, cô thì thầm. “Nếu mà anh nhìn thấy hắn làm
gì với cô
ấy…”
“Ồ, nhưng tôi có thấy, Amelia”, anh nói đều đều, ánh mắt anh nghiêm
khắc và
thách thức. “Tôi thấy điều gì xảy đến với T.J. Tôi đã nhìn thấy điều gì
xảy đến với những cơ thể bị để cả tháng trong cốp xe nóng nực. Tôi
nhìn thấy điều mà nửa cân C4 làm với tay, chân và mặt. Tôi đã khám
nghiệm đám cháy tại Happy Land. Hơn tám mươi người bị bỏng đến
chết. Chúng tôi chụp ảnh Polaroid mặt nạn nhân hoặc những gì còn lại
của họ để gia đình họ nhận dạng – vì chẳng có một ai sau khi đi qua
những hàng xác chết đó mà không bị điên. Ngoại trừ chúng tôi. Chúng
tôi không có lựa chọn nào khác.” Anh hít vào, chống lại cơn đau đang
tràn qua cổ. “Thấy không, nếu cô muốn tồn tại được trong cái ngành
này, Amelia… Nếu cô muốn tồn tại trong cuộc đời, cô phải học được
cách bỏ qua người đã chết.”
Từng người một trong phòng dừng công việc mình đang làm và nhìn về
phía họ. Không một lời xã giao từ Amelia Sachs. Không một nụ cười
lịch sự. Trong một
khắc, cô thử tạo ra cái nhìn trở nên bí ẩn. Nhưng nó chỉ trong suốt như
thủy tinh. Cơn
giận của cô – không tương xứng với những nhận xét của anh ta – chọc
giận lại cô; khuôn
mặt dài của cô gập lại vì một sức mạnh đen tối. Cô hất mớ tóc đỏ lười
biếng sang bên và nhặt cái tai nghe trên bàn. Cô dừng lại phía trên cầu
thang và nhìn anh ta với cái nhìn khinh miệt, nhắc nhở Rhyme rằng,
chẳng có gì lạnh lùng hơn một nụ cười lạnh lùng của người phụ nữ đẹp.
Và vì lý do nào đó, anh thấy mình đang nghĩ: Chào mừng cô quay trở
lại, Amelia.
hình?”
“Anh có gì vậy? Anh có bánh kẹo, anh có một câu chuyện, anh có
những bức
Scruff ngồi trong quán rượu phía East Side, Manhattan, Đại lộ Ba – với
thành phố
thì nó giống như khu mua bán nhỏ ở vùng ngoại thành. Đó là một quán
rượu bẩn thỉu, sắp sửa tràn ngập đám dân công sở trẻ nửa mùa.
Nhưng lúc này nó là nơi trú ngụ của những người dân địa phương ăn
mặc tồi tàn, ăn bữa tối với món cá đáng ngờ và món sa lát héo rũ.
Một người đàn ông gầy gò, có làn da giống như gỗ mun lốm đốm mặc
áo sơ mi rất trắng và bộ vét màu xanh lá. Anh ta nghiêng lại gần Scruff
hơn. “Anh có tin, anh có mã bí mật, anh có thư không? Anh có phân
không?”
“Này. Ha”
“Anh không cười khi anh nói: ha”, Fred Dellray nói, thực ra là D’Ellret
vài thế hệ trước. Anh ta cao sáu feet bốn, hiếm khi cười ngay cả với
chuyện đùa Jabberwocky và là nhân viên sáng giá trong văn phòng FBI
ở Manhattan.
“Không đâu. Tôi không cười.”
“Thế thì anh có gì?” Dellray bóp chặt đầu mẩu điếu thuốc đang ở bên
tai trái.
“Mất thời gian đấy ông bạn”, Scruff, một người đàn ông thấp bé, vừa
gãi mái tóc nhờn của mình vừa nói.
“Nhưng anh không có thời gian đâu. Thời gian rất quý báu, thời gian
đang trôi đi, và thời gian là thứ mà anh. Không. Có.”
Dellray cho bàn tay to lớn của mình xuống dưới gầm của cái bàn có hai
ly cà phê bên trên, bóp đùi Scruff thật mạnh đến nỗi hắn phải rên rỉ.
Sáu tháng trước, anh chàng trắng trẻo, nhỏ thó đó bị tóm khi đang cố
bán mấy khẩu M16 tự động cho mấy tên điên cánh hữu, mà họ – bất
kể có phải như thế hay không
– lại là nhân viên mật của BATF.
Tất nhiên nhân viên an ninh liên bang không muốn Scruff, một của nợ
nhỏ thó tóc nhờn. Họ muốn bắt những kẻ cung cấp súng cho anh ta.
ATF86 đã lội ngược dòng khá xa nhưng không tìm được gì đáng giá,
vì thế họ giao anh ta cho Dellray, nhân viên quản lý đặc tình Numero
Uno số một của Cục, để xem anh ta có đem lại lợi ích gì không?
Nhưng cho tới lúc này, anh ta vẫn chỉ tỏ ra là một gã khó chịu, một thứ
chuột bọ gầy nhẳng, mà rõ ràng chẳng có tin tức, mã bí mật, thậm chí
là phân cho nhân viên liên bang.
86 ATF: Viết tắt của BATF.
“Cách duy nhất anh có thể thoát án, mọi bản án, là anh phải cung cấp
cho chúng tôi thứ gì đó vừa đẹp lại vừa dính. Chúng ta đồng ý vụ này
chứ?”
“Lúc này thì tôi chẳng có quái gì cho các anh, đó là điều tôi đang nói.
Ngay lúc
này.”
“Không đúng, không đúng. Mày đã có gì đó rồi. Tao có thể nhìn thấy
điều đó trên
mặt mày. Đúng là mày biết điều gì đó, thằng hâm.”
Chiếc xe bus đỗ xịch bên ngoài, tiếng phanh hơi rin rít. Một đám người
Pakistan trèo ra khỏi cửa.
“Anh bạn, cái hội nghị khốn kiếp của Liên Hiệp Quốc”, Scruff lẩm
bẩm, “họ đến đây làm chó gì thế? Thành phố này đã quá đông rồi. Cái
lũ ngoại quốc ấy.”
“Hội nghị khốn kiếp. Đồ chết đói, đồ đê tiện”, Dellray cắn cảu. “Mày
có gì phản đối hòa bình thế giới thế?”
“Chẳng có gì.”
“Thế thì nói cho tao điều gì đó hay ho đi.” “Tao chẳng biết điều gì hay
ho cả.”
“Mày đang nói chuyện với ai đây?” Dellray độc ác nhăn mặt. “Tao là
loài thằn lằn. Tao có thể cười vui vẻ, nhưng tao cũng có thể chơi trò
bóp cẳng đấy.”
“Đừng anh bạn, đừng”, Scruff ré lên. “Mẹ kiếp, đau quá. Thôi ngay
đi.”
Nhân viên quầy bar nhìn họ và một cú liếc ngắn của Dellray buộc anh
ta quay lại công việc đánh bóng cốc chén của mình.
“Được rồi, có lẽ là tao biết một việc. Nhưng tao cần giúp đỡ. Tao
cần…” “Bóp thêm tí nữa phải không?”
“Mẹ mày. Con mẹ mày.”
“Ồ, đó là một cuộc nói chuyện rất thông minh”, Dellray đáp trả. “Mày
nói như bọn trong mấy bộ phim tệ hại, mày biết đấy, người tốt và kẻ
xấu cuối cùng cũng gặp nhau. Như Stallone gặp kẻ khác. Và tất cả mọi
điều chúng có thể nói với nhau là ‘con mẹ mày’,
‘không, con mẹ mày’, ‘không, con mẹ mày cơ’. Bây giờ thì mày nói
tao nghe điều gì đó hữu ích. Đồng ý không?”
Và nhìn chằm chằm Scruff cho đến khi anh ta đầu hàng. “Ok, đây. Tôi
tin anh đấy, anh bạn. Tôi…”
“Rồi. Rồi. Rồi. Mày có gì?”
“Tôi vừa nói chuyện với Jackie. Anh biết Jackie chứ?” “Tao biết
Jackie.”
“Và hắn nói với tôi.”
“Hắn nói gì với mày?”
“Hắn nói với tôi là nếu tôi có đến đó, đến hoặc đi đâu đó trong tuần
này, đừng có đi bằng máy bay.”
“Vậy thì cái gì đến hoặc đi? Lại thêm 16s nữa à?”
“Tôi nói với anh rồi, anh bạn. Tôi chẳng có gì cả. Tôi chỉ nói với anh
điều
Jackie…”
“Nói với mày.”
“Đúng rồi, anh bạn. Rất chung chung, anh biết chứ?” Scruff mở to mắt
nhìn
Dellray. “Tôi có cần nói dối anh không?”
“Đừng có bao giờ đánh mất phẩm giá”, viên đặc vụ long trọng cảnh
cáo, chỉ ngón tay cứng như đá vào ngực Scruff. “Bây giờ, có gì ở sân
bay? Sân bay nào? Kennedy? La Guardia?”
“Tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là có tin đồn sẽ có ai đó ở sân
bay. Ai đó
rất tệ.”
về.”
“Cho tao cái tên.” “Không có tên.” “Jackie ở đâu?”
“Không biết. Nam Phi. Tôi nghĩ thế. Có thể ở Liberia.”
“Tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì?” Dellray bóp điếu thuốc của anh ta
lần nữa. “Tôi đoán có khả năng sắp có điều gì đó xảy ra, anh biết đấy,
như kiểu lại có hàng
“Mày đoán.” Scruff rúm người, nhưng Dellray không có ý định tiếp tục
tra tấn anh
chàng nhỏ thó này thêm nữa. Anh ta đã nghe thấy chuông báo động:
Jackie – tên buôn vũ khí mà cả Cục đã biết đến khoảng một năm – có
thể nghe được điều đó từ một trong những khách hàng của hắn ta,
những người lính ở châu Phi và Trung Âu, những đơn vị dân quân ở
Mỹ, về một tên khủng bố sẽ tấn công sân bay. Thường thì Dellray
không nghĩ về điều đó, ngoại trừ vụ bắt cóc ở sân bay JFK đêm qua.
Anh ta không chú ý lắm đến điều này – đó là việc của NYPD. Nhưng
lúc này anh lại nghĩ đến vụ nổ lựu đạn không thành công tại cuộc họp
của UNESCO ở London hôm trước.
“Anh chàng của mày không nói thêm gì nữa à?”
“Không, anh bạn ạ. Không còn gì nữa. Mà này, tôi đói. Chúng ta có
thể ăn gì
chứ?”
”Nhớ tao nói gì với mày về phẩm giá không? Đừng rên rỉ nữa”. Dellray
đứng dậy.
“Tao phải gọi điện.”
Chiếc RRV phanh kít trên Phố Sáu mươi.
Sachs nhặt chiếc vali khám nghiệm hiện trường, cây đèn PoliLight và
cây đèn pin mười hai volt to tướng.
“Các anh đến đúng lúc chứ?” Sachs hỏi một binh sĩ ESU. “Cô ấy có
sao không?”
Đầu tiên không ai trả lời. Sau đó cô nghe thấy tiếng thét.
“Có chuyện gì thế?” Cô lẩm bẩm, chạy đứt hơi về phía một cánh cửa
lớn vừa bị ESU phá vỡ. Cảnh cửa mở ra một con đường rộng dẫn
xuống một tòa nhà gạch đã bị bỏ hoang. “Cô ấy vẫn còn ở đó?”
“Đúng thế.”
“Tại sao?” Amelia Sachs bị sốc, hỏi lại. “Họ bảo chúng tôi không được
vào.”
“Không được vào? Cô ấy đang gào thét kìa. Các anh không nghe thấy
à?”
Viên cảnh sát ESU nói: “Họ bảo chúng tôi đợi cô.”
Họ. Không, không phải là họ. Lincoln Rhyme. Thằng khốn.
“Chúng tôi chỉ phải tìm cô ta thôi”, viên sĩ quan nói. “Cô là người phải
vào trong.” Cô bật tai nghe. “Rhyme!” Cô quát. “Anh ở đâu?”
Không trả lời…Đồ hèn nhát.
Bỏ qua người đã chết… Đồ chó. Giận dữ như lúc cô vừa chạy xuống
cầu thang nhà anh ta mấy phút trước, nhưng lúc này cơn giận dữ tăng
gấp đôi.
Sachs liếc nhìn ra sau và nhận thấy một nhân viên y tế đang đứng cạnh
chiếc xe
EMS.
toàn.”
“Anh kia, đi với tôi.”
Anh ta bước tới một bước và nhìn thấy cô rút súng. Anh ta dừng lại.
“Ấy, từ từ đã”, nhân viên y tế nói. “Tôi không đi cho tới khi khu này
được an
“Đi ngay! Đi thôi!” Cô quay ngoắt lại, chắc là anh ta nhìn thấy nhiều
nòng súng
hơn anh ta muốn. Anh ta nhăn mặt và vội vã chạy theo cô.
Từ phía dưới lòng đất họ nghe tiếng kêu: “Aiiiii! Hilfe!” Sau đó là tiếng
thổn thức. Lạy Chúa. Sachs bắt đầu chạy về phía cánh cửa tối tăm,
cao mười hai feet, bên
trong tối như hũ nút.
Cô nghe thấy giọng anh ta trong đầu mình: Cô là hắn ta, Amelia. Cô
nghĩ gì vậy?
Biến đi, cô thầm nói.
Nhưng Lincoln Rhyme không biến mất.
Cô vừa là tên giết người vừa là kẻ bắt cóc, Amelia. Cô sẽ đi đâu, cô
sẽ chạm vào
cái gì?
nào…
Quên đi! Tôi đến để cứu cô ta. Mặc kệ hiện trường vụ án… “Mein
Gott! Nàm ơn đi. Có ai không? Nàm ơn giúp tôi!”
Đi thôi, Sachs. Chạy nhanh! Hắn không có ở đây. Mày an toàn rồi.
Cứu cô ta đi, đi
Cô tăng nhịp bước, dây lưng khí tài của cô kêu lanh canh theo từng
bước chạy. Khi chạy được khoảng hai mươi feet trong đường hầm, cô
dừng lại. Tự tranh luận. Bên nào thắng cô cũng không thích.
“Ôi, mẹ kiếp”, cô quát lên. Cô đặt cái vali xuống rồi mở ra. Cô nói với
nhân viên y tế: “Này, tên anh là gì?”
Chàng thanh niên căng thẳng trả lời: “Tad Walsh. Ý tôi là, điều gì đang
xảy ra thế?” Anh ta nhìn vào bóng tối.
“Ôi… Bitte, helfen Sie mir!”
“Yểm trợ cho tôi”, Sachs thầm thì.
“Yểm trợ cho cô? Đợi chút, tôi không làm đâu.” “Cầm lấy súng đi,
được không?”
“Tôi yểm trợ cho cô khỏi cái gì mới được chứ?”
Nhét khẩu tự động vào tay anh ta, cô quỳ xuống. “Chốt an toàn mở rồi
đấy, cẩn
thận.”
Cô nhặt hai đoạn băng cao su, bọc giày. Lấy lại súng, cô bảo anh ta
làm theo. Tay run rẩy, anh ta đeo băng cao su vào.
“Tôi nghĩ…”
“Im lặng. Có thể hắn vẫn còn ở đây.”
“Đợi chút, thưa cô”, nhân viên y tế thầm thì. “Cái này không có trong
phần công
việc của tôi.”
“Của tôi cũng chẳng có. Cầm lấy đèn này.” Cô đưa cho anh ta cái đèn
pin.
“Nhưng mà nếu hắn ở đây, có thể hắn sẽ bắn vào chỗ sáng. Ý tôi là,
nếu là tôi, tôi sẽ bắn như vậy.”
“Thế thì nâng cao nó lên. Trên vai tôi đây này. Tôi sẽ đi trước. Và nếu
có ai đó dính đạn, người ấy sẽ là tôi.”
“Lúc ấy thì tôi làm gì?” Tad hỏi như một cậu bé.
“Tôi sẽ chạy như điên”, Sachs lầm bầm. “Giờ thì theo tôi. Và giữ đèn
cho chắc
vào.”
Tay trái kéo lê cái va li CS, súng giương trước mặt, cô nhìn xuống nền
đất khi
bước vào trong bóng tối. Cô lại nhìn thấy vết chổi quen thuộc, giống
như tại hiện trường lúc trước.
“Bitte nicht, bitte bicht, bitte…”, một tiếng thét ngắn, sau đó im lặng.
“Có chuyện quái quỷ gì ở đây thế?” Tad thầm thì.
“Suỵt”, Sachs ngăn lại.
Họ bước đi từ từ. Sachs thổi vào các ngón tay đang nắm chặt khẩu
Glock – để làm khô mồ hôi – và thận trọng ngắm nhìn những mục tiêu
ngẫu nhiên là những cây cột gỗ,
bóng tối và bỏ qua những thứ máy móc bị cây đèn pin không ổn định
trong tay Tad chiếu sáng.
Cô không tìm thấy dấu chân nào.
Tất nhiên là không rồi. Hắn thật thông minh.
Nhưng ta cũng thông minh, cô nghe thấy Lincoln nói trong đầu. Cô bảo
anh ta câm đi.
Giờ thì đi chậm hơn.
Năm feet nữa. Dừng lại. Rồi chậm chạp tiến lên phía trước. Cố không
để ý đến tiếng rên la của cô gái. Cô lại cảm thấy nó – cái cảm giác bị
theo dõi, những móng vuốt trơn trượt của cái nhìn sắt đá đang theo dõi
mình. Áo giáp không thể chống lại được đạn vỏ kim loại. Một nửa bọn
người xấu dùng đạn Black Talons – vì thế một phát súng vào tay hay
vào chân cũng giết chết anh ngon lành như một phát vào ngực. Mà còn
đau đớn hơn rất nhiều. Đã có lần Nick nói với cô rằng, một trong
những viên đạn như vậy có thể xé tung cơ thể; một trong những đồng
sự của anh đã chết trên tay anh khi bị hai viên đạn ác hiểm này bắn
trúng.
Phía trên và đằng sau…
Nghĩ đến anh, cô nhớ lại một đêm, nằm dựa vào lồng ngực vững chãi
của Nick, nhìn ngắm khuôn mặt Italia đẹp trai của anh trên gối, khi anh
kể cho cô nghe về cuộc tấn công giải cứu con tin – “Nếu ai đó bên
trong muốn hạ anh khi anh đi vào, hắn sẽ làm điều đó từ phía trên và
đằng sau…”
“Mẹ kiếp.” Cô khom người quỳ xuống, quay người lại, chĩa khẩu
Glock lên trần, sẵn sàng nhả hết băng đạn.
“Gì thế?” Tad rúm người lại thầm thì. “Gì thế?”
Cảm giác trống rỗng tóm lấy cô.
“Không có gì.” Hít thở thật sâu, cô đứng dậy. “Đừng làm thế.”
Có tiếng ríu rít đằng trước họ.
“Lạy Chúa”, giọng nói the thé của Tad lại vang lên. “Tôi ghét chuyện
này.”
Thằng cha này tệ thật, cô nghĩ. Mình biết thế vì hắn cứ nói ra mọi điều
mà chính mình cũng muốn nói ra.
Cô ngừng lại. “Chiếu đèn vào đây. Phía trước.” “Ôi, lạy Chúa tôi…”
Sachs ngay lập tức hiểu được đám lông mà cô tìm thấy tại hiện trường
lần trước là gì. Cô nhớ đến cái nhìn mà Sellitto và Rhyme trao đổi với
nhau. Anh ta biết điều đối tượng đã chuẩn bị. Anh ta biết điều này sẽ
xảy ra với cô ta – nhưng anh ta vẫn bắt đội ESU phải đợi. Cô lại càng
ghét anh ta hơn.
Trước mặt họ là một cô gái tròn trĩnh nằm vạ vật trên sàn nhà, giữa
một vũng máu. Cô ta nhìn về phía ánh sáng bằng ánh mắt đờ đẫn rồi
ngất đi. Vừa lúc đó, một con chuột
đen khổng lồ – to như một con mèo nhà – bò lên bụng cô ta rồi tiếp
tục hướng về phía cổ họng. Nó nhe những chiếc răng bẩn thỉu, chuẩn bị
cắn vào cằm cô gái.
Sachs nhẹ nhàng nâng khẩu Glock cồng kềnh lên, bàn tay trái cô đỡ
báng súng. Cô ngắm thật cẩn thận.
Bắn súng cũng giống như hít thở.
Hít vào, thở ra. Bóp cò.
Đó là lần đầu tiên cô bắn kể từ lúc bắt đầu đi làm. Bốn phát. Con
chuột khổng lồ đang đứng trên ngực cô gái nổ tung. Cô bắn một con
khác ở phía sau trên sàn và một con nữa, trong cơn hoảng loạn nó đã
lao về phía Sachs và anh chàng nhân viên y tế. Những con khác lặng lẽ
biến mất, như nước thấm xuống cát.
“Lạy Chúa”, anh chàng nhân viên y tế nói. “Cô có thể bắn cả cô ta
đấy.” “Cách ba mươi feet ư?” Sachs nói. “Khó lắm.”
Máy bộ đàm lên tiếng và Haumann hỏi có phải họ bị bắn hay không.
“Không”, Sachs trả lời. “Chỉ bắn vài con chuột thôi.”
“Nghe rõ.”
Cô lấy chiếc đèn pin từ anh chàng nhân viên y tế, chiếu nó xuống thấp
và tiến lên phía trước.
“Ổn rồi”, Sachs nói. “Em sẽ ổn thôi.” Cô gái mở mắt, quay đầu sang
hai bên. “Bitte, bitte…”
Trông cô ta rất nhợt nhạt. Đôi mắt xanh của cô ta dán vào mắt Sachs,
cứ như cô ta sợ phải nhìn ra chỗ khác. “Bitte, bitte, nàm ơn đi...”
Cô ta điên dại khóc lóc rồi bắt đầu sụt sùi và run rẩy vì hoảng sợ khi
anh chàng nhân viên y tế băng những vết thương cho cô ta.
Sachs đỡ mái đầu vàng óng, đầy máu của cô gái, nựng nịu: “Em sẽ ổn
thôi, em bé, em sẽ ổn thôi…”
MƯỜI BỐN
Trong văn phòng, cao phía trên trung tâm Manhattan, nhìn xuống khu
Jersey. Những thứ vớ vẩn trong không khí càng làm cho buổi hoàng
hôn trở nên tuyệt đẹp.
“Ta phải làm.” “Không thể được.”
“Phải làm”, Fred Dellray nhắc lại và nhấp một ngụm cà phê – tệ hơn cả
cà phê của nhà hàng mà Scruff và anh ta vừa ngồi cách đây một lúc.
“Lấy của họ đi. Họ sẽ chấp nhận.”
“Đây là một vụ của địa phương”, đặc vụ FBI, người phó phụ trách văn
phòng Manhattan đáp lời. ASAC là một người đàn ông kỹ tính, người
không thể hoạt động nằm vùng – vì chỉ cần nhìn thấy anh ta, người ta sẽ
nghĩ ngay, ô kìa, đặc vụ FBI.
“Đây không phải vụ địa phương. Họ coi nó như vụ địa phương thôi.
Nhưng đây là một vụ lớn.”
“Chúng ta bị mất tám mươi người vào vụ Liên Hiệp Quốc.” “Nhưng
việc này có liên quan”, Dellray nói. “Tôi chắc chắn.”
“Thế thì ta sẽ thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Để
mọi người…Thôi nào, đừng có nhìn tôi thế.”
“Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc? Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc? Này, anh có biết từ mâu thuẫn nghĩa là gì không?... Billy, anh
đã xem tấm ảnh chưa? Hiện trường vụ án sáng nay ấy? Một cái tay thò
lên khỏi mặt đất, ngón tay bị lột hết da? Cái thằng khốn bệnh hoạn đó
vẫn còn lang thang ngoài kia.”
“NYPD vẫn tiếp tục cung cấp thông tin cho ta”, ASAC nói. “Ta sẽ để
Chuyên gia về Hành vi trực điện thoại nếu họ muốn.”
“Lạy Chúa trên Thánh giá thiêng liêng. ‘Chuyên gia về Hành vi trực
điện thoại’? Ta phải tóm thằng sát nhân ấy, Billy. Bắt hắn đi. Không
phải đoán xem hắn định làm trò gì.”
“Nói lại tôi nghe xem đặc tình của anh đã nói gì?”
Nếu một hòn đá có kẽ nứt thì Dellray sẽ nhận ra và không để nó có cơ
hội liền lại. Giờ là lúc tăng hỏa lực: nói về Scruff và Jackie ở
Johannesbug hoặc Monrovia và những lời đồn đại trong vụ buôn lậu vũ
khí về điều gì đó đang diễn ra tại sân bay New York trong tuần này
nên phải tránh xa chỗ đó ra. “Đấy là hắn ta”, Dellray nói. “Chắc chắn
thế.”
“NYPD đã thành lập nhóm đặc nhiệm.”
“Không phải Đội Chống khủng bố (A-T). Tôi đã gọi điện. Chẳng có
người nào trong A-T biết tí gì về chuyện này. Đối với NYPD thì: khách
du lịch bị giết có nghĩa là quan hệ công chúng kém. Tôi muốn vụ này,
Billy.” Sau đó Fred Dellray nói hai từ mà anh ta chưa bao giờ thốt ra
trong suốt tám năm làm mật vụ chìm. “Làm ơn.”
“Anh có căn cứ gì không?”
“Ôi giời, hỏi vớ vẩn”, Dellray nói, chỉ tay như một thầy giáo quở trách
học sinh. “Xem nào, chúng ta đã có một bộ luật chống khủng bố thật là
bảnh. Nhưng nếu anh thấy thế vẫn chưa đủ, chắc anh còn muốn quyền
hạn pháp lý? Tôi sẽ cho anh quyền hạn pháp lý. Trọng tội Bang. Bắt
cóc. Tôi có thể lý luận rằng thằng khốn ấy lái taxi nên nó có thể ảnh
hưởng đến thương mại liên bang. Chúng ta không phải chơi những cái
trò ấy chứ, phải không Billy?”
“Anh chẳng nghe gì cả, Dellray. Tôi có thể trích dẫn Luật Hoa Kỳ ngay
khi đang ngủ, cảm ơn anh. Tôi muốn biết nếu chúng ta làm vụ này,
chúng ta sẽ nói gì để mọi người hài lòng? Vì anh hãy nhớ rằng, sau khi
đối tượng này quậy phá chúng ta phải tiếp tục làm việc với NYPD. Tôi
sẽ không đưa đại ca của tôi đi chiến đấu với đại ca của họ mặc dù tôi
có thể làm thế. Bất kỳ lúc nào tôi muốn. Lon Sellitto đang điều tra vụ
án và anh ta là người tốt.”
“Một tay trung úy?” Dellray khịt mũi nghi ngờ. Anh ta cầm điếu thuốc
gắn sau tai đưa lên mũi ngửi.
“Jim Polling chịu trách nhiệm.”
Dellray ngửa người ra sau, giả vờ hoảng sợ. “Polling? Chàng Adolph
Nhí? Cái anh chàng Polling luôn dọa dẫm: Mày có quyền im lặng vì tao
sắp đập vỡ mẹ cái đầu mày ra. Anh ta đấy à?”
ASAC không đáp lại. Anh ta nói: “Sellitto giỏi. Một con người thực
sự. Tôi đã làm việc với anh ta trong hai đội đặc nhiệm OC.”
“Tên này đang giết người lung tung và rất có thể hắn ta sẽ mở đường
lên trên.” “Nghĩa là gì?”
“Trong thành phố có thượng nghị sĩ, có hạ nghị sĩ, có lãnh đạo Nhà
nước. Tôi cho rằng hắn ta giết những người vừa rồi chỉ là để thực tập.”
“Anh đã nói chuyện với Chuyên gia về Hành vi mà không cho tôi biết?”
“Đó là điều tôi đánh hơi thấy.” Dellray sờ mũi.
ASAC thở ra. “Người đưa tin là ai?”
Dellray không cho rằng Scruff là người đưa tin đáng tin cậy, nghe cứ
như trích đoạn trong tiểu thuyết của Dashiell Hammett87.
Phần lớn bọn đưa tin đều là những bộ xương, có nghĩa là bọn trộm vặt
gầy nhẵng, kinh tởm. Hoàn toàn phù hợp với Scruff.
“Hắn là đồ mạt rệp”, Dellray công nhận. “Nhưng Jackie, anh chàng mà
hắn nghe được tin thì rất chắc chắn.”
“Tôi biết anh muốn vụ này, Fred. Tôi hiểu.” ASAC nói với một chút
thông cảm. Vì anh ta biết chắc chắn đằng sau yêu cầu của Dellray là gì.
87 Dashiell Hammet (1894 – 1961): Một nhà văn người Mỹ nổi tiếng
với tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn. Ông được coi là cây bút viết
truyện thám xuất sắc mọi thời đại.
Kể từ khi còn là một cậu bé ở Brooklyn, Dellray đã muốn làm cớm.
Kiểu cớm gì không quan trọng, chỉ cần anh ta có thể dành hai mươi tư
giờ trong ngày để mà làm cớm. Nhưng ngay sau khi vào cục, anh ta đã
tìm được nghề nghiệp đích thực của mình – cớm chìm.
Cùng với cộng sự thẳng thắn và thiên thần hộ mệnh của mình là Toby
Dolittle, Dellray đã đưa nhiều tên tội phạm vào tù với thời gian rất dài –
tổng cộng lên tới cả nghìn năm (“Này Toby-o, bọn chúng gọi mình là
Đội Thiên Niên Kỷ đấy”, có lần anh ta đã tuyên bố với người cộng sự
của mình như vậy). Mấu chốt thành công của Dellray là biệt hiệu của
anh ta, “Kỳ nhông”. Biệt hiệu này được đặt cho anh ta khi chỉ trong
vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, anh ta đóng giả một tên nghiện say
thuốc trong tiệm ma túy tại Harlem và ngay sau đó là một quan chức
Haiti trong buổi dạ tiệc tại tòa lãnh sự Panama, với một chiếc băng đỏ
vắt chéo qua ngực và giọng nói Haiti không sai biệt tí nào. Họ
thường xuyên được điều sang làm việc cho ATF và DEA88, đôi khi
cho cả các sở cảnh sát. Ma túy và vũ khí là chuyên môn của họ, mặc
dù thỉnh thoảng họ cũng làm vài vụ
buôn lậu.
Sự mỉa mai của nghề cớm chìm là anh càng giỏi thì anh càng về hưu
sớm. Tin đồn sẽ lan truyền, vì thế những ông lớn, những tên tội phạm
đáng giá khó bị bịp hơn. Dolittle và Dellray thấy mình không còn làm
nhiều ngoài hiện trường nữa mà chuyển sang quản lý đặc tình và mật
vụ. Đó chẳng phải là sự lựa chọn hàng đầu của Dellray – chẳng có gì
khiến anh ta phấn khích hơn đường phố – đường phố vẫn lôi anh ta
khỏi văn phòng thường xuyên hơn tất cả các đặc vụ khác trong Cục.
Chưa bao giờ anh ta nghĩ tới chuyện chuyển đổi.
Cho tới hai năm trước – một buổi sáng tháng Tư ấm áp ở New York.
Đúng lúc Dellray chuẩn bị rời văn phòng để bắt chuyến bay ở sân bay
La Guardia thì anh ta nhận được cuộc gọi của trợ lý giám đốc Cục từ
Washington. FBI là một mớ hỗn độn các thứ bậc và Dellray chẳng hình
dung ra vì sao chính ông lớn lại gọi điện. Cho tới khi anh ta nghe thấy
giọng nói u sầu của giám đốc điều hành cho biết tin Toby Dolittle cùng
trợ lý công tố viên đến từ Manhattan có mặt ở tầng trệt của tòa nhà liên
bang Thành phố Oklahoma vào buổi sáng hôm ấy, chuẩn bị cho buổi
hỏi cung mà Dellray sẽ đến.
Ngày hôm sau thi thể của họ được đưa về New York.
Đó cũng là ngày Dellray nộp lá đơn RFT-2230 đầu tiên của mình đề
nghị được thuyên chuyển sang A-T của Cục.
Với Fred Dellray, người luôn coi thường mọi vấn đề liên quan đến
chính trị và triết học, vụ đánh bom này lại là tội ác của mọi tội ác. Anh
ta cho rằng lòng tham và sự thác loạn chẳng phải là những thói quen
xấu của người Mỹ – này, những thói quen đó được khuyến khích ở
khắp mọi nơi, từ Phố Wall cho tới Capital Hill. Và nếu như những kẻ
làm ăn bằng lòng tham và sự thác loạn đôi khi vượt quá biên giới của
luật pháp thì Dellray sẵn sàng theo họ đến cùng – nhưng anh ta chẳng
bao giờ làm việc đó chỉ vì lòng thù hận cá nhân. Còn giết người vì niềm
tin của họ – mẹ kiếp, giết cả trẻ con trước khi chúng biết mình tin điều
gì – lạy Chúa, đó là nhát dao đâm vào trái tim đất nước. Ngồi
88 DEA: Cơ quan phòng chống ma tuý.
một mình trong căn hộ hai phòng thoáng đãng của mình ở Brooklyn sau
đám tang của
Toby, Dellray có quyết định đó chính là loại tội ác mà anh ta muốn săn
đuổi.
Nhưng không may là tiếng tăm của Kỳ nhông đã vượt trước anh ta.
Cớm chìm giỏi nhất của Cục giờ đây là người quản lý tốt nhất của họ,
điều hành mật vụ và đặc tình của cả vùng East Coast. Các sếp của anh
ta không thể để anh ta chuyển sang một trong những phòng ban yên ả
hơn của FBI. Dellray là một truyền thuyết nhỏ hơn, người đã đem đến
những vụ thành công lớn nhất mới đây của Cục. Vì vậy, yêu cầu tha
thiết của anh ta bị từ chối với sự tiếc nuối lớn.
ASAC biết rõ về câu chuyện của Dellray, và lúc này anh ta nói rất
chân thành: “Fred, tôi ước tôi có thể giúp được anh. Tôi xin lỗi.”
Nhưng trong những lời nói đó, Dellray lại thấy vết nứt đã rộng hơn.
Con Kỳ nhông biến màu, nhìn chăm chăm vào ông chủ của mình. Anh
ta ước mình vẫn còn chiếc răng vàng giả. Gã đàn ông đầu đường xó
chợ Dellray là một thằng cha khó trị, có cái nhìn hung dữ của một tay
anh chị. Trong cái nhìn đó chứa đựng một thông điệp mà bất kỳ tên
giang hồ nào cũng hiểu ngay tức khắc: Tao đã hầu mày, giờ đến lượt
mày hầu tao.
Cuối cùng thì ASAC cũng ấp úng nịnh bợ: “Chỉ là chúng tôi cần có thứ
gì đó?” “Thứ gì đó?”
“Móc”, ASAC nói, “chúng tôi cần một cái móc.”
Ý anh ta là một lý do để lôi vụ này ra khỏi NYPD. Chính trị, chính trị,
chính trị mẹ nó ấy.
Dellray cúi đầu, nhưng đôi mắt, nâu như xi giày, không rời ASAC một
mm. “Billy, sáng nay hắn lóc da tay nạn nhân. Đến tận xương. Rồi chôn
sống anh ta.”
Hai tay chống cằm, ASAC chậm rãi nói: “Tôi có một ý. Phó thanh tra
NYPD. Tên là Eckert. Anh biết ông ta chứ? Ông ta là bạn tôi.”
Cô gái nằm trên cáng, nhắm mắt, tỉnh táo, nhưng váng vất. Vẫn nhợt
nhạt. Ống tiếp đường gắn vào cánh tay. Sau khi được tiếp đường, cô
đã suy nghĩ mạch lạc hơn và bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên, sau
mọi chuyện vừa rồi.
Sachs quay lại những cánh cổng địa ngục và đứng đó nhìn xuống khung
cửa màu đen. Cô bấm bộ đàm gọi Lincoln Rhyme. Lần này thì anh ta
trả lời.
“Hiện trường trông thế nào?” Rhyme hỏi một cách tự nhiên.
Cô trả lời cộc lốc. “Chúng tôi đã đưa cô ấy ra, nếu như anh quan tâm.”
“À, tốt. Cô ta thế nào?”
“Không ổn.”
“Nhưng còn sống chứ?” “Gần chết.”
“Cô tức giận vì bọn chuột, phải không Amelia?”
Cô không trả lời.
“Vì tôi không cho người của Bo vào ngay. Cô còn đó không, Amelia?”
“Tôi ở đây.”
“Có năm yếu tố làm ô nhiễm hiện trường”, Rhyme giải thích. Cô nhận
thấy anh ta lại chuyển sang cách nói chậm rãi, đầy quyến rũ. “Thời tiết,
gia đình nạn nhân, đối tượng,
những kẻ săn tìm đồ lưu niệm. Nhưng yếu tố cuối cùng là tệ hại nhất.
Cô đoán xem đó là
gì?”
“Nói tôi nghe.”
“Cảnh sát. Nếu tôi để ESU vào, họ có thể phá hủy mọi dấu vết. Giờ thì
cô biết cách xử lý hiện trường rồi. Tôi cá là cô giữ mọi thứ trong tình
trạng tốt.”
Sachs cần phải nói: “Tôi không nghĩ là cô ấy sẽ hồi phục như xưa sau
vụ này. Lũ chuột bò đầy lên người cô ấy.”
“Đúng. Tôi có thể hình dung ra bọn chúng. Đấy là bản chất của chúng
mà.”
Bản chất của chúng…
“Nhưng năm hay mười phút thì có khác biệt gì đâu. Cô ấy…”
Cách.
Cô tắt bộ đàm, đi ra chỗ Walsh, anh chàng nhân viên y tế. “Tôi muốn
phỏng vấn cô ta. Cô ta có quá váng vất không?”
“Không đến mức thế. Chúng tôi đã gây mê tại chỗ cho cô ấy – để
khâu những vết rạch và vết cắn. Khoảng nửa tiếng nữa cô ấy cần
thuốc giảm đau.”
Sachs mỉm cười và quỳ xuống cạnh cô gái: “Chào em, em thế nào?”
Cô gái, béo nhưng rất đẹp, gật đầu.
“Tôi hỏi em vài câu, được không?”
“Được. Nàm ơn. Em muốn chị tóm được hắn.”
Sellitto đến và bước thong thả đến chỗ họ. Anh ta mỉm cười với cô gái,
người nhìn lại anh ta bằng ánh mắt trống rỗng. Anh ta đưa cho cô ta
xem cái thẻ mà cô ta không thèm quan tâm và xưng danh.
“Cô ổn chứ, thưa cô?” Cô gái nhún vai.
Đổ mồ hôi ròng ròng trong cái nóng oi bức, Sellitto gọi Sachs sang một
bên. “Polling đến đây chưa?”
“Không nhìn thấy anh ta. Có thể anh ta ở nhà Lincoln.”
“Không, tôi vừa gọi điện đến đó. Chắc anh ta phải đến ngay Tòa Thị
chính.” “Có chuyện gì thế?”
Sellitto hạ giọng, khuôn mặt bềnh bệch của anh ta nhăn nhúm. “Chuyện
tệ hại –
liên lạc của chúng ta đúng ra phải được mã hóa an toàn. Nhưng bọn
nhà báo khốn kiếp
không hiểu đã làm thế nào mà giải mã được. Chúng nghe thấy chúng ta
không vào ngay để cứu nạn nhân.” Anh ta hất đầu về phía cô gái.
“Ừ. Chúng ta không vào ngay”, Sachs cay nghiệt trả lời. “Rhyme bảo
ESU chờ tôi
đến.”
Viên thám tử cau mày. “Trời ơi, tôi hy vọng họ không ghi lại được câu
đó. Ta cần
Polling để kiểm soát thiệt hại.” Anh ta gật đầu với cô gái. “Cô phỏng
vấn cô ta chưa?”
“Chưa. Tôi vừa bắt đầu.” Với một chút tiếc nuối, Sachs bấm nút bộ
đàm và nghe giọng nói khẩn cấp của Rhyme.
“… cô có đấy không? Cái thứ chết tiệt này không…” “Tôi đây”,
Sachs lạnh lùng nói.
“Có chuyện gì thế?”
“Nhiễu sóng, chắc thế. Tôi đang ở cùng nạn nhân.”
Cô gái chớp mắt khi nghe cuộc trao đổi và Sachs mỉm cười.
“Chị không nói chuyện một mình”, cô chỉ cái mic. “Trụ sở cảnh sát.
Tên em là
gì?”
“Monelle. Monelle Gerger.” Cô ta nhìn cánh tay bị cắn xé xủa mình,
kéo lớp băng
bó và kiểm tra vết thương.
“Phỏng vấn cô ta nhanh”, Rhyme hạ lệnh, “sau đó khám nghiệm hiện
trường.”
Lấy tay che mic, cô thì thầm giọng gắt gỏng với Sellitto: “Làm việc với
ông này khó chịu quá. Thưa ngài.”
“Đùa với anh ta đi, sĩ quan.”
“Amelia!” Rhyme quát. “Trả lời tôi đi!”
“Chúng tôi đang phỏng vấn cô ấy, được chưa?” Cô đáp trả.
Sellitto hỏi: “Cô có thể nói chúng tôi biết điều gì xảy ra được chứ?”
Monelle bắt đầu nói, một câu chuyện rời rạc về phòng giặt là của khu
chung cư tại
East Village. Hắn đã nấp đợi cô.
“Khu chung cư nào?” Sellitto hỏi.
“Deutsche Haus. Ông biết đấy, ở đó chủ yếu là sinh viên và người nhập
cư Đức.” “Sau đó chuyện gì đã xảy ra?” Sellitto hỏi tiếp. Sachs nhận
thấy mặc dù viên thám
tử to lớn trông có vẻ thô lỗ hơn, xấu tính hơn Rhyme, nhưng thực ra
anh ta lại là người tử
tế.
“Hắn ném tôi vào cốp xe và chở đến đây.” “Cô có nhìn thấy hắn ta
không?”
Cô gái nhắm mắt lại. Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nói cô không
nhìn thấy;
hắn ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân, đúng như
Rhyme đã đoán.
“Und89 găng tay.”
“Cô tả lại đôi găng tay đi.”
Màu tối. Cô ta không nhớ chính xác là màu gì. “Có điều gì bất thường
không? Tên bắc cóc ấy?”
“Không. Hắn là người da trắng. Em có thể chắc với chị như thế.” “Cô
có nhìn thấy biển số của chiếc taxi không?” Sellitto hỏi. “Was90?” Cô
gái hỏi lại bằng tiếng mẹ đẻ.
“Cô có nhìn thấy…”
Sachs nhảy dựng lên khi Rhyme cắt ngang. “Das Nummernschild91.”
Nghĩ thầm: Thế quái nào mà anh ta biết hết mọi thứ được nhỉ? Cô nhắc
lại câu đó, cô gái lắc đầu sau đó hé mắt nhìn. “Ý anh là gì, taxi?”
“Chẳng phải là hắn lái chiếc Yellow Cab hay sao?” “Taxi? Nein.
Không. Một chiếc xe bình thường.” “Nghe thấy không, Lincoln?”
“Rồi. Anh chàng của chúng ta có chiếc xe khác. Hắn cho cô ta vào
cốp xe, có nghĩa đó không phải là xe van hay loại hatchback.”
Sachs nhắc lại câu đó. Cô gái gật đầu. “Giống như chiếc sedan.”
“Cô có ý tưởng gì về chất liệu hay màu sắc không?” Sellitto tiếp tục.
Monelle trả lời. “Tôi nghĩ là màu sáng. Có thể là màu bạc hay màu
xám. Hoặc là, màu gì ý nhỉ? Nâu sáng.”
“Màu be.”
Cô ta gật đầu.
“Có thể là màu be”, Sachs nói thêm hộ Rhyme.
Sellitto hỏi: “Có gì trong cốp xe không? Bất kỳ thứ gì? Dụng cụ, quần
áo, va li?” Monelle nói không có gì. Cốp xe trống rỗng.
Rhyme hỏi. “Trong cốp xe có mùi gì không?”
Sachs chuyển tiếp câu hỏi. “Tôi không biết.”
“Mùi dầu mỡ?”
“Không. Nó có mùi… sạch sẽ.”
89 Und: Và (tiếng Đức).
90 Was: Cái gì (tiếng Đức).
91 Das Nummernschild: Loại xe (tiếng Đức).
“Thế thì có thể là xe mới”, Rhyme đoán.
Trong một khắc, Monelle bật khóc. Sau đó cô ta lắc đầu. Sachs cầm
tay cô ta và cô ta tiếp tục. “Chúng tôi đi rất lâu. Có vẻ như rất lâu.”
“Em làm tốt lắm, em bé ạ”, Sachs nói.
Giọng Rhyme cắt ngang. “Bảo cô ta cởi quần áo ra.” “Cái gì?”
“Cởi quần áo cô ta ra.” “Không đâu.”
“Bảo nhân viên y tế đưa cho cô ta cái áo choàng dài. Ta cần quần áo
của cô ấy, Amelia.”
“Nhưng”, Sachs thì thầm. “Cô ấy đang khóc.”
“Làm ơn đi”, Rhyme khẩn khoản nói. “Quan trọng lắm đấy.”
Sellitto gật đầu và Sachs, môi mím chặt, giải thích cho cô gái chuyện
quần áo và thấy ngạc nhiên khi Monelle gật đầu. Hóa ra cô ta cũng
đang rất muốn thoát khỏi bộ quần áo đẫm máu. Để cô ta được riêng
tư, Sellitto ra chỗ khác nói chuyện với Bo Haumann. Monelle mặc
chiếc áo choàng do nhân viên y tế đưa và một thám tử chìm bọc cô ta
lại bằng cái áo khoác thể thao của anh ta. Sachs cho chiếc quần bò và
cái áo phông vào túi.
“Tôi lấy được rồi”, Sachs nói vào máy bộ đàm.
“Bây giờ thì cô ta phải cùng đi khám nghiệm hiện trường với cô”,
Rhyme nói. “Cái gì?”
“Nhưng phải chắc là cô ta đi sau cô. Để cô ta không làm ô nhiễm vật
chứng.”
Sachs nhìn người phụ nữ trẻ tuổi đang nằm trên cáng lăn cạnh hai chiếc
xe bus
EMS.
“Cô ấy không có khả năng làm việc đó đâu. Hắn đã cắt cô ấy đến tận
xương. Cô
ấy bị mất máu và bị chuột cắn.”
“Cô ta có đi lại được không?”
“Có thể. Nhưng anh có biết cô ấy vừa trải qua điều gì không?”
“Cô ta có thể dẫn cô đi theo đường họ đã đi. Cô ta có thể nói với cô,
nơi hắn đã
đứng.”
“Cô ấy phải được cấp cứu. Cô ấy mất rất nhiều máu.”
Một chút ngần ngừ. Anh ta nói, vẻ vui mừng: “Hỏi cô ta xem.”
Nhưng sự vui mừng của anh ta đầy giả tạo, điều mà Sachs nghe thấy
chỉ là sự nôn
nóng. Cô có thể nói Rhyme là người không quen với việc chiều chuộng
người khác, là người không phải chiều chuộng người khác. Anh ta là
người quen với việc làm theo cách của mình.
Anh ta dai dẳng: “Chỉ cần đan lưới một lần thôi.”
Chết mẹ anh đi, Lincoln Rhyme. “Việc này…”
“Quan trọng. Cô biết mà.”
Từ đầu dây bên kia chẳng có gì.
Cô đang nhìn Monelle. Sau đó cô nghe thấy một giọng nói, không,
giọng nói của chính cô đang nói với cô gái: “Chị sẽ xuống dưới kia tìm
chứng cứ. Em có đi với chị không?”
Ánh mắt của cô gái đâm sâu vào tim cô. Lệ tuôn trào: “Không, không,
không. Em không đi đâu. Bitte nicht, oh, bitte nicht…”
Sachs gật đầu, nắm chặt tay cô gái. Cô bắt đầu nói vào mic, lên tinh
thần để đáp lại phản ứng của anh ta. Nhưng Rhyme làm cô ngạc nhiên
khi nói: “Được rồi, Amelia. Thế thì thôi. Chỉ cần hỏi cô ta khi họ đến
đó thì chuyện gì xảy ra?”
Cô gái kể lại cô đã đá hắn như thế nào và chạy vào đường hầm kề
bên.
“Em đá hắn lần nữa”, cô nói với một chút hài lòng. “Đánh hắn rơi cả
găng tay. Sau đó hắn nổi điên và bóp cổ em. Hắn…”
“Không đeo găng tay?” Rhyme thốt lên.
Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nói: “Vâng.”
“Dấu tay, tuyệt vời!” Rhyme hét, giọng anh ta lạc đi trong mic. “Chuyện
ấy xảy ra lúc nào? Cách đây bao lâu?”
Monelle đoán khoảng tiếng rưỡi trước.
“Chết tiệt”, Rhyme lầm bầm. “Dấu tay trên da chỉ tồn tại khoảng một
tiếng hoặc chín mươi phút là cùng. Cô có lấy được dấu tay trên da
không, Amelia?”
“Tôi chưa bao giờ làm.”
“Thế hả. Thế thì giờ cô sẽ làm. Nhưng nhanh lên. Trong va li CS có
một cái gói dán nhãn Kromekote. Lấy một cái thẻ ra.”
Cô tìm thấy một chồng thẻ bóng nhoáng, kích thước năm nhân bảy,
trông giống giấy ảnh.
“Có rồi. Tôi có cần phun bụi vào cổ cô ấy không?”
“Không. Đè cái thẻ, mặt bóng xuống dưới, lên da cô ta, chỗ mà cô ta
nghĩ hắn đã chạm vào. Giữ nó khoảng ba giây.”
Sachs làm theo, trong khi đó Monelle nhìn vô định lên trời. Sau đó,
theo chỉ thị của Rhyme, cô phun bụi kim loại lên tấm thẻ bằng ống thổi
Magna-Brush.
“Thế nào?” Rhyme sốt ruột hỏi.
“Không tốt. Có hình dạng của ngón tay, nhưng không thấy vân tay rõ
ràng. Tôi vứt nó đi được chứ?”
“Không bao giờ vứt đi bất kỳ thứ gì từ hiện trường vụ án, Sachs”,
Rhyme lạnh lùng lên lớp. “Đem nó về, đằng nào tôi cũng muốn xem
nó.”
“Có một việc mà em nghĩ là em quên”, Monelle nói. “Hắn chạm vào
em?” Sachs dịu dàng hỏi: “Ý em là hắn quấy rối em. Hiếp dâm?”
“Không, không. Không theo kiểu tình dục. Hắn chạm vai em, mặt,
mông, tai em. Khuỷu tay. Hắn bóp em. Em không hiểu vì sao?”
“Anh nghe thấy chứ, Lincoln? Hắn chạm vào cô ấy. Nhưng có vẻ việc
đó không làm cho hắn được thỏa mãn.”
“Ừ.”
“Und… em quên một việc nữa.” Monelle nói. “Hắn nói được tiếng
Đức. Không tốt lắm. Giống như hắn có học ở trường. Và hắn gọi em là
Hanna.”
“Gọi cô ấy là gì?”
“Hanna”, Sachs nhắc lại vào mic. “Em có biết vì sao không?” Cô hỏi
cô gái. “Không. Nhưng hắn chỉ gọi em thế thôi. Hắn có vẻ thích gọi cái
tên ấy.” “Anh nghe được chứ, Lincoln.”
“Có, tôi nghe được. Giờ thì khám nghiệm hiện trường. Thời gian đang
bị lãng phí
đấy.”
Khi Sachs đứng lên, Monelle bất ngờ vươn tay nắm lấy cổ tay cô.
“Chị… Sachs, chị có phải người Đức không?”
Cô mỉm cười trả lời. “Lâu lắm rồi. Vài thế hệ trước.”
Monelle gật đầu. Cô ép tay Sachs lên má: “Vielen Dank92. Cám ơn
chị, Sachs.
Danke schön93.”
92 Vielen Dark: Cảm ơn nhiều (tiếng Đức).
93 Danke schön: Cảm ơn (tiếng Đức).
MƯỜI LĂM
Ba cây đèn halogen của ESU bật sáng, chiếu luồng ánh sáng trắng ma
quái vào đường hầm tăm tối.
Đơn độc tại hiện trường, Sachs nhìn xuống sàn trong một khắc. Có gì
đó đã thay đổi. Gì vậy?
Cô lại rút súng, khom người xuống. “Hắn ở đây”, cô thầm thì, bước ra
sau một cây
cột.
“Cái gì?” Rhyme hỏi.
“Hắn đã quay lại. Lúc nãy ở đây có mấy con chuột chết, giờ chúng đâu
hết rồi.” Cô nghe tiếng Rhyme cười.
“Có gì buồn cười vậy?”
“Không, Amelia. Bạn bè chúng đem xác chúng đi rồi.” “Bạn bè
chúng?”
“Có một vụ ở Harlem. Một cái xác bị cắt rời, phân rã. Có rất nhiều
xương bị giấu
trong một vòng tròn lớn xung quanh thân thể. Sọ trong cái trống dầu,
ngón chân cái ở dưới đống lá… Nó làm cho cả khu hoảng loạn. Báo
chí viết về những người thờ phụng quỷ Sa tăng, những kẻ giết người
hàng loạt. Nhưng cuối cùng, thủ phạm là ai, cô biết không?”
“Chịu”, cô căng thẳng nói.
“Chính là nạn nhân. Đó là một vụ tự tử. Chồn hôi, chuột và sóc đã xử
lý thi hài. Như chiến lợi phẩm. Không ai biết vì sao nhưng chúng thích
đồ lưu niệm của chúng. Còn bây giờ, cô đang ở đâu?”
“Phía dưới đoạn đường dốc.” “Cô thấy gì?”
“Một đường hầm rộng. Hai đường hầm bên cạnh, hẹp hơn. Trần nhà
phẳng, được chống bằng cột gỗ. Các cây cột đều bị mòn và có khía.
Sàn nhà bằng bê tông cũ, phủ đầy
bụi.”
“Và phân bón?”
“Trông giống thế. Ở giữa, ngay trước mặt tôi là cây cột mà cô ta bị trói
vào.” “Cửa sổ?”
“Không có. Cũng không có cửa.” Cô nhìn xuyên qua đường hầm rộng,
nền nhà biến vào một vũ trụ đen cách hàng nghìn dặm. Cô cảm thấy
nanh vuốt của sự thất vọng. “Quá rộng! Diện tích phải khám nghiệm
quá rộng.”
“Amelia. Thư giãn đi.”
“Tôi sẽ không tìm được bất cứ thứ gì ở đây.”
“Tôi biết việc này có vẻ quá sức. Nhưng hãy nhớ rằng chỉ có ba loại
vật chứng chúng ta quan tâm. Vật thể, vật chất trên cơ thể và ấn tượng.
Thế thôi. Nếu cô nghĩ thế thì sẽ bớt nản chí.”
Nói thì dễ.
“Còn hiện trường cũng không rộng như vẻ bề ngoài. Chỉ cần chú ý vào
những nơi họ đi qua. Đến chỗ cây cột đi.”
Sachs đi trên con đường. Mắt nhìn xuống.
Đèn ESU sáng chói nhưng chúng cũng làm cho những cái bóng lộ rõ
hơn, cho thấy vài chỗ tên bắt cóc có thể lẩn trốn. Một cơn lạnh chạy
dọc sống lưng cô. Đừng rời xa, Lincoln, cô miễn cưỡng nghĩ. Tôi bực
mình, chắc chắn rồi, nhưng tôi muốn nghe thấy anh. Hơi thở hay gì đó.
Cô dừng lại, chiếu đèn PoliLight lên sàn nhà. “Mọi thứ bị quét sạch sẽ
rồi à?” Anh ta hỏi. “Đúng vậy. Giống như vụ trước.”
Áo giáp siết ngực cô, mặc dù cô đã mặc áo ngực thể thao, áo lót và
cũng nóng như bên ngoài, nhưng ở trong này thì không thể chịu đựng
được. Da cô nhức nhối và cô cảm thấy thèm được thò tay dưới áo để
gãi ghê gớm.
“Tôi đến chỗ cột rồi.”
“Hút bụi chỗ ấy để tìm dấu vết.”
Sachs bật máy Dustbuster94. Cô ghét tiếng ồn. Nó át đi tiếng bước
chân đến gần, tiếng bóp cò súng, tiếng rút dao. Tự nhiên cô miễn
cưỡng nhìn ra sau lưng, một lần, hai lần. Suýt đánh rơi máy hút bụi khi
tay cô lần tìm khẩu súng.
Sachs nhìn vào dấu vết do cơ thể của Monelle để lại trên lớp bụi. Mình
là hắn ta. Mình kéo cô ta theo. Cô ta đá mình. Mình vấp…
Monelle chỉ có thể đá theo một hướng, ngược với phía đường dốc. Đối
tượng không bị ngã, cô ta nói thế. Có nghĩa là hắn đã tiếp đất bằng
chân. Sachs bước sâu vào bóng tối khoảng một, hai thước.
“Trúng rồi!” Sachs hô lên. “Gì thế? Nói tôi nghe?”
“Dấu chân. Hắn bỏ qua một chỗ không quét.”
“Không phải dấu chân của cô ta chứ?”
“Không. Cô ấy đi giày chạy. Còn đây là loại giày đế phẳng. Giống như
giày dạ hội. Hai dấu giày rất rõ. Chúng ta sẽ biết hắn đi giày cỡ nào.”
“Không, dấu giày không nói với ta về cỡ chân. Đế giày có thể to hay
bé hơn phần trên. Nhưng nó vẫn có thể nói với ta điều gì đó. Trong va
li CS có máy in tĩnh điện. Đó là
94 Dustbuster: Tên một loại máy bút hụi cầm tay.
một cái hộp nhỏ với một cây đũa bên trên. Sẽ có mấy tờ giấy acetate
bên cạnh. Tách giấy ra, đặt acetate lên dấu chân và quét cây đũa lên
trên.”
Cô tìm thấy thiết bị đó và in được hai bức hình dấu chân. Thận trọng
cho chúng vào một cái phong bì giấy.
Sachs quay lại chỗ cây cột. “Ở đây có vài cọng từ cái chổi.” “Từ cái
gì?...”
“Xin lỗi”, Sachs nói nhanh. “Ta không biết những cái cọng đó từ đâu
rơi ra. Một mẩu cọng rơm. Tôi đang nhặt nó lên và cho nó vào túi.”
Ngày càng sử dụng bút chì thành thạo hơn. Này, Lincoln, đồ khốn nạn,
có biết ta sẽ làm gì để ăn mừng ngày xa rời vĩnh viễn hiện trường vụ án
không? Ta sẽ đi ăn đồ Tàu.
Những ngọn đèn halogen của ESU không chiếu được trong
đường hầm mà Monelle đã chạy vào. Sachs ngừng lại ở ranh giới
sáng tối, rồi lao vào trong bóng tối. Chùm sáng của cây đèn quét trên
nền nhà phía trước cô.
“Nói với tôi đi, Amelia.”
“Không nhìn thấy gì nhiều. Hắn quét cả ở đây. Lạy Chúa, hắn đã tính
trước mọi
điều.”
“Cô nhìn thấy gì?” “Chỉ có dấu trên đất.”
Mình chặn cô ta lại. Vật cô ta xuống. Mình phát khùng. Điên cuồng.
Mình bóp cổ
cô ta…
Sachs nhìn xuống nền nhà.
“Có gì đó ở đây này – dấu đầu gối. Khi hắn bóp cổ cô ta chắc chắn là
hắn phải kẹp eo cô ta. Dấu đầu gối trái của hắn và hắn bỏ qua không
quét.”
“Dùng máy in tĩnh điện đi.”
Cô làm theo, lần này đã nhanh hơn. Đã quen với thiết bị. Khi đang đưa
bản in vào phong bì thì có gì đó khiến cô chú ý. Một vết nữa trên đất.
Cái gì thế nhỉ?
“Lincoln… Tôi đang nhìn một chỗ ở đây,… có vẻ như cái găng đã bị
rơi ở đây. Khi họ đánh nhau.”
Cô bấm đèn PoliLight. Và không thể tin vào mắt mình. “Một dấu tay.
Tôi có một dấu vân tay!”
“Sao?” Rhyme ngạc nhiên hỏi. “Không phải của cô ta đấy chứ?”
“Không, không thể là dấu tay cô ấy. Tôi có thể nhìn thấy bụi chỗ cô ấy
nắm. Tay cô ấy lúc nào cũng bị còng. Đây là chỗ hắn nhặt găng tay.
Có thể hắn nghĩ hắn đã quét nhưng vẫn bỏ quên mất chỗ đó. Một cái
dấu tay, to, đẹp hết ý!”
“Rắc bụi, chiếu sáng và chụp ảnh cỡ một-một thằng chó ấy đi.”
Cô chỉ cần chụp hai lần là có được tấm hình Polaroid rõ nét. Cô thấy
mình như vừa nhặt được tờ một trăm đô la ngoài phố.
“Hút bụi chỗ đó rồi quay lại chỗ cây cột. Đan lưới đi”, anh nói với cô.
Cô chậm rãi đi tới lui trên sàn nhà. Từng foot một.
“Nhớ nhìn lên trên”, anh ta nhắc cô. “Đã có lần tôi tóm được thủ phạm
chỉ nhờ một sợi tóc trên trần nhà. Hắn nạp đạn .357 vào khẩu .38 và
phản lực đã thổi một sợi tóc của hắn dính lên phào trần.”
“Tôi đang tìm. Đây là mái ngói. Bẩn thỉu. Chẳng có gì khác. Chẳng có
chỗ nào để giấu. Không gờ tường, không khung cửa.”
“Thế còn dấu tích dàn cảnh?” Anh hỏi. Tới, lui. Năm phút trôi qua.
Sáu, bảy.
“Có thể lần này hắn không để lại gì”, Sachs đề xuất. “Có thể Monelle
là nạn nhân cuối cùng.”
“Không”, Rhyme nói chắc chắn.
Sau đó phía sau cây cột, một chớp sáng lọt vào mắt cô. “Có gì đấy
trong góc… Đúng rồi. Chúng đây rồi.” “Chụp ảnh trước rồi hãy động
vào nó.”
Cô chụp ảnh, sau đó dùng bút chì nhấc lên một búi vải trắng. “Đồ lót
phụ nữ.
Ướt.”
“Tinh dịch?”
“Tôi không biết”, cô nói. Băn khoăn không hiểu anh ta có bắt cô ngửi
không. Rhyme ra lệnh. “Thử đèn PoliLight. Protein sẽ phát sáng.”
Cô nhặt cây đèn, bật lên. Chỗ vải tỏa sáng, nhưng chất lỏng thì không.
“Cho nó vào túi. Túi nhựa. Còn gì nữa?” Anh ta thiết tha hỏi.
“Một cái lá. Dài, mỏng, một đầu nhọn.”
Nó bị cắt đã lâu, khô và ngả sang màu nâu.
Cô nghe tiếng Rhyme thở dài thất vọng. “Có khoảng tám nghìn loại cây
lá rụng ở
Manhattan”, anh ta giải thích. “Không có ích mấy. Có gì phía dưới cái
lá?” Vì sao anh ta lại nghĩ phía dưới có gì?
Nhưng hóa ra lại có. Một mẩu giấy báo. Một mặt trắng trơn, mặt bên
kia in các tuần trăng.
“Mặt trăng?” Rhyme trầm ngâm. “Có chữ gì không? Thử phun
ninhydrin và quét sáng thật nhanh xem sao?”
Chùm sáng cây đèn PoliLight không phát hiện được gì. “Tất cả chỉ có
vậy.”
Một khắc im lặng. “Những manh mối đó được đặt trên cái gì?” “Ồ. Tôi
không biết.”
“Cô phải biết.”
“À, trên nền nhà”, cô trả lời thăm dò. “Bụi bặm.” Chúng còn được đặt
trên cái gì nữa nhỉ?
“Có giống bụi quanh đấy không?”
“Có.” Sau đó cô nhìn kỹ hơn. Khỉ thật, có khác. “À, không hẳn thế.
Nó khác
màu.”
Anh ta lúc nào cũng đúng.
Rhyme ra lệnh: “Cho vào túi. Túi giấy.”
Khi cô đang xúc lên. Anh ta nói: “Amelia?” “Sao?”
“Hắn không ở đấy đâu”, Rhyme nói chắc chắn. “Tôi đoán thế.”
“Tôi nghe thấy có gì đó trong giọng cô.”
“Tôi ổn”, cô nói ngắn gọn. “Tôi đang ngửi không khí. Tôi ngửi thấy mùi
máu. Mùi
mốc và nấm. Và cả mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.” “Giống lần
trước?”
“Đúng thế.” “Đến từ đâu?”
Vừa ngửi không khí, Sachs vừa đi theo hình xoắn ốc, lại là Maypole,
cho tới khi cô đi đến một cây cột gỗ khác.
“Ở đây. Đúng là chỗ này có mùi rõ nhất.”
“Chỗ này là cái gì, Amelia. Cô vừa là chân, vừa là mắt của tôi. Cô nhớ
chứ?”
“Một trong những cái cột gỗ ấy. Như cái cột mà cô ấy bị trói vào.
Cách đó khoảng mười lăm feet.”
“Có thể hắn đã dựa vào đấy. Có dấu tay, dấu chân gì không?” Cô
phun ninhydrin lên đó và chiếu sáng.
“Không. Nhưng mùi rất mạnh.”
“Lấy một mẫu từ cái cột, chỗ có mùi mạnh nhất. Có cái MotoTool
trong vali. Màu đen. Một cái khoan tay. Hãy dùng mũi khoan lấy mẫu
– giống như mũi khoan lỗ – và gắn nó vào máy khoan. Có một thứ gọi
là cái bàn cặp. Đó là…”
“Tôi có một cái máy khoan bàn”, cô nói cộc lốc. “Ồ”, Rhyme nói.
Cô khoan ra một mẫu cột gỗ, sau đó lau mồ hôi trán. “Cho nó vào túi
nhựa?” Cô hỏi. Anh ta đồng ý. Cô cảm thấy choáng váng, cúi đầu
xuống để lấy hơi. Trong này chẳng có tí không khí nào cả.
“Còn gì nữa không?” Rhyme hỏi. “Không còn gì mà tôi có thể nhìn
được.”
“Tôi tự hào vì cô, Amelia. Hãy đem kho báu của cô về đây nào.”
MƯỜI SÁU
“Cẩn thận tí chứ”, Rhyme quát. “Tôi là chuyên gia cơ mà.” “Mới hay
cũ đấy?”
“Suỵt”, Thom nói.
“Ôi trời, vì Chúa. Lưỡi dao cạo, mới hay cũ đấy?” “Đừng thở... À, đây
rồi. Nhẵn như mông em bé.” Họ không khám nghiệm mà trang điểm.
Thom đang cạo râu cho Rhyme, lần đầu tiên trong tuần. Anh ta cũng
gội đầu và chải tóc ngược ra sau cho Rhyme.
Nửa tiếng trước, trong khi đợi Sachs vá chứng cứ trở về, Rhyme đã
bảo Cooper ra khỏi phòng khi Thom khéo léo dùng K-Y thông đường
tiểu cho anh và nối lại ống. Sau khi xong việc, Thom nhìn anh và nói:
“Trông anh tệ lắm. Anh có thấy thế không?”
“Tôi không quan tâm. Sao tôi lại phải quan tâm chứ?” Bất ngờ phát
hiện ra anh có quan tâm.
“Cạo râu, được không?” Chành thanh niên hỏi. “Ta không có thời
gian.”
Sự quan ngại thực sự của Rhyme là nếu bác sĩ Berger thấy anh chỉnh tề
quá, có thể ông ta sẽ không muốn tiếp tục vụ tự tử. Một bệnh nhân
nhếch nhác là bệnh nhân đã nản lòng.
“Và tắm rửa nữa.” “Không.”
“Lincoln, chúng ta đang có khách đấy.”
Cuối cùng thì Rhyme cũng càu nhàu: “Được rồi.” “Và thay luôn bộ
pyjama chứ? Anh thấy thế nào?” “Có gì không ổn đâu?”
Lúc này, sau khi được tắm rửa, mặc quần bò và áo sơ mi trắng,
Rhyme lảng tránh cái gương người trợ lý đang giơ trước mặt anh.
“Cất nó đi.”
“Tốt hơn rất nhiều.”
Lincoln Rhyme nhạo báng khịt mũi. “Tôi sẽ đi dạo một chút trước khi
họ đến”, anh tuyên bố và ngả đầu lên gối. Mel Cooper quay sang nhìn
anh với vẻ mặt khó hiểu.
“Trong đầu anh ấy”, Thom giải thích. “Đầu anh?”
“Tôi tưởng tượng”, Rhyme tiếp. “Một trò ảo thuật”,Cooper nói.
“Tôi có thể đi qua bất cứ khu vực lân cận nào tôi muốn mà không bao
giờ bị trấn lột. Leo núi nhưng không bao giờ mệt. Trèo núi nếu tôi
muốn. Đi bát phố trên Đại lộ Năm. Tất nhiên là những thứ tôi nhìn thấy
chưa chắc đã có ở đó. Nhưng thế thì đã sao? Sao trên trời cũng thế
mà.”
“Như thế nào?” Cooper hỏi.
“Ánh sáng của các vì sao mà ta đang nhìn thấy có tuổi thọ hàng nghìn
hay hàng triệu năm. Khi chúng đến được Trái Đất thì những ngôi sao
đã dịch chuyển. Chúng không còn ở chỗ mà ta nhìn thấy chúng nữa.”
Rhyme thở dài vì cơn mệt mỏi lan tỏa khắp người. “Tôi cho rằng trong
số chúng có cả những vì sao đã cháy hết và biến mất.” Anh nhắm mắt.
“Hắn làm mọi thứ khó khăn hơn đây.”
“Không nhất thiết”, Rhyme trả lời Lon Sellitto.
Sellitto, Banks và Sachs vừa từ hiện trường trại chăn nuôi trở về.
“Đồ lót, mặt trăng và cây cối”, Jerry Banks bi quan nhưng vui vẻ nói.
“Chính xác là bản đồ đường đi.”
“Cả bụi bẩn nữa”, Rhyme nhắc, anh luôn coi trọng bùn đất. “Anh có ý
tưởng gì về ý nghĩa của chúng không?” Sellitto hỏi. “Vẫn chưa”, Rhyme
nói.
“Polling đâu nhỉ?” Sellitto lẩm bẩm. “Anh ta vẫn chưa trả lời tin nhắn.”
“Không thấy anh ta đâu”, Rhyme nói.
Một bóng người xuất hiện trên ô cửa.
“Vẫn sống và hít thở”, một giọng nam trung mượt mà vang lên.
Rhyme gật đầu ra hiệu cho một người đàn ông lênh khênh vào phòng.
Trông anh ta có vẻ ủ rũ, nhưng khuôn mặt gầy guộc của anh ta nở một
nụ cười ấm áp, trông có vẻ không hợp cảnh. Terry Dobyns là đại diện
tiêu biểu của Phòng Khoa học Hành vi của NYPD. Anh ta học cùng
với các nhà hành vi học của FBI ở Quantico, có bằng tâm lý học và
khoa học pháp y.
Nhà tâm lý học này yêu opera và bóng bầu dục. Khi Lincoln Rhyme
tỉnh dậy trong bệnh viện ba năm rưỡi trước đây, Dobyns ngồi cạnh
anh, nghe vở Aïda trên máy Walkman. Anh ta dành ba giờ sau đó
để thực hiện phiên tư vấn đầu tiên trong rất nhiều phiên tư vấn về chấn
thương của Rhyme.
“Giờ thì tại sao tôi lại nhớ đến cuốn sách nói về những người không trả
lời điện thoại?”
“Để sau hãy phân tích tôi, Terry. Cậu đã nghe về đối tượng của chúng
ta rồi chứ?”
“Một chút”, Dobyns nói, quan sát Rhyme. Anh ta không phải bác sĩ
nhưng anh ta hiểu về cơ thể học. “Cậu ổn chứ, Lincoln? Trông hơi
xanh xao đấy.”
“Hôm nay tôi có chỉnh trang chút”, Rhyme thừa nhận. “Tôi có ngủ trưa.
Cậu biết tôi lười thế nào rồi chứ.”
“Ừ, rồi. Cậu là người gọi tôi dậy vào lúc ba giờ sáng để hỏi vài câu về
tội phạm và không hiểu vì sao tôi lại ở trên giường. Có chuyện gì thế?
Cậu đang tìm hồ sơ à?”
“Bất kỳ thứ gì cậu có thể nói với chúng tôi đều có ích.”
Sellitto tóm tắt tình hình cho Dobyns, người mà theo ký ức của Rhyme
hồi còn làm việc cùng nhau, không bao giờ ghi chép nhưng vẫn nhớ
được mọi thứ trong cái đầu tóc đỏ sậm của anh ta.
Nhà tâm lý học đi đến trước bản sơ đồ treo trên tường, thỉnh thoảng
liếc nhìn nó trong khi lắng nghe viên thám tử nói.
Anh ta giơ một ngón tay lên chặn Sellitto. “Nạn nhân, nạn nhân… Tất
cả bọn họ đều được phát hiện dưới lòng đất. Bị chôn, trong tầng hầm,
trong đường hầm của trại chăn nuôi.”
“Đúng thế”, Rhyme khẳng định. “Tiếp đi.”
Sellitto tiếp tục nói về vụ giải cứu Monelle Gerger.
“Tốt, được rồi”, Dobyns nói một các trống rỗng. Sau đó ngừng, rồi
quay lại nhìn sơ đồ trên tường lần nữa. Anh ta giạng chân, tay chống
nạnh, nhìn chăm chăm vào những thông số rời rạc về Đối tượng 832.
“Nói tôi nghe suy nghĩ của anh đi, về việc hắn thích những cổ xưa ấy.”
“Tôi không biết điều đó có đem lại gì không. Cho tới nay thì những
manh mối về hắn đều có liên quan đến New York lịch sử. Vật liệu xây
dựng từ hồi đầu thế kỷ, trại chăn nuôi, hệ thống hơi nước.”
Bất ngờ Dobyns tiến lên và gõ vào tờ giấy. “Hanna. Nói tôi nghe về
Hanna.” “Amelia?” Rhyme hỏi.
Cô nói với Dobyns việc đối tượng đã gọi Monelle Gerger là Hanna mà
không có một lý do rõ ràng nào cả. “Cô ấy nói hắn thích gọi cái tên đó.
Và nói với cô ấy bằng tiếng
Đức.”
“Và hắn cũng tranh thủ sờ soạng cô ta, đúng không?” Dobyns nhận
xét. “Taxi, sân bay – an toàn đối với hắn. Nhưng nấp trong phòng giặt
là… Hắn ta chắc chắn phải có động lực thực sự để bắt một người
Đức.”
Dobyns xoáy một búi tóc rối bù quanh ngón tay, ngồi phịch xuống một
cái ghế mây và duỗi chân trước mặt.
“Được rồi, thử cái này xem. Dưới lòng đất… đó là chìa khóa. Nó nói
với tôi rằng hắn là người đang giấu giếm điều gì đó và khi tôi nghe điều
này tôi bắt đầu nghĩ đến chứng loạn thần kinh.”
toán.”
“Hắn ta không có vẻ cuồng loạn”, Sellitto nói. “Hắn cực kỳ bình tĩnh và
tính
“Không phải chứng loạn thần kinh theo nghĩa ấy. Đây là một kiểu rối
loạn tâm lý.
Triệu chứng biểu hiện khi có một chấn thương xảy ra trong cuộc đời
bệnh nhân và vô thức chuyển đổi chấn thương này thành một thứ khác.
Đó là một cố gắng bảo vệ bệnh nhân. Với việc chuyển đổi truyền thống
của chứng cuồng loạn, anh sẽ thấy những triệu chứng bệnh lý – buồn
nôn, đau đớn, liệt. Nhưng tôi nghĩ ở đây chúng ta đang xử lý vấn đề có
liên quan. Sự phân tách – đó là tên chúng tôi gọi khi phản ứng của
chấn thương ảnh hưởng đến tư duy chứ không phải thể xác. Chứng
quên cuồng loạn, các trạng thái điên, bỏ nhà lang thang. Đa nhân
cách.”
“Jekyll và Hyde95?” Mel Cooper vờ là một gã đồng tính, đấm Banks.
“À, tôi không nghĩ hắn thực sự có bệnh đa nhân cách”, Dobyns nói
tiếp. “Đây là một triệu chứng rất hiếm thấy. Những trường hợp đa nhân
cách truyền thống thường là người trẻ tuổi và có chỉ số IQ thấp hơn
anh chàng của các cậu.” Anh ta hất đầu về phía tấm áp phích hồ sơ
trên tường. “Hắn ta khéo léo và thông minh. Một kẻ tấn công rõ ràng
và có tổ chức.” Dobyns nhìn ra ngoài cửa sổ một lát. “Thú vị thật đấy,
Lincoln. Tôi nghĩ đối tượng của cậu khoác lên mình một nhân cách
khác khi nó phù hợp với hắn ta – khi hắn ta muốn giết người – và đó là
điều rất quan trọng.”
“Vì sao?”
“Hai lý do. Thứ nhất, điều đó nói cho ta vài điều về nhân cách chính
của hắn. Hắn là một người được đào tạo – có thể trong công việc, có
thể khi đi học – để giúp người khác, không phải làm họ tổn thương.
Một thầy tu, một luật sư, chính trị gia, nhân viên hoạt động xã hội. Thứ
hai, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là hắn đã tìm được cho mình một bản đồ
chi tiết. Nếu các anh tìm ra nó là gì, có thể các anh sẽ tìm được manh
mối dẫn tới hắn.”
“Bản đồ chi tiết kiểu gì?”
“Có thể hắn đã muốn giết chóc từ lâu rồi. Nhưng hắn không hành động
cho tới khi hắn tìm cho mình một hình mẫu. Có thể là một cuốn sách
hay bộ phim. Hoặc ai đó hắn biết. Nếu đó là người mà hắn có thể bị
đánh đồng cùng, ai đó mà tội ác của họ đã cấp cho hắn giấy phép giết
chóc. Còn chỗ này thì tôi thấy có vẻ hơi khập khiễng…”
“Tiếp đi”, Rhyme nói: “Tiếp đi.”
“Sự đam mê đối với lịch sử của hắn nói với tôi rằng nhân vật của hắn là
ai đó trong quá khứ.”
“Đời thực?”
“Tôi không chắc. Có thể là tưởng tượng, có thể không phải. Hanna,
bất kể cô ta là ai, phải là một nhân vật trong một câu chuyện đâu đó.
Cả ở Đức. Hay là người Mỹ gốc Đức.”
“Cậu có biết điều gì đó có thể làm hắn ra như vậy?”
95 Jekyll và Hyde: Hai nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Louis
Stevenson. Nói về sự rối loạn đa nhân cách của con người.
“Freud nói đó là – còn gì được nữa? – xung đột tình dục trong giai
đoạn Oedip96. Ngày nay, mọi người nhất trí rằng sự vấp váp mang
tính phát triển chỉ là một trong những nguyên nhân – bất kỳ chấn
thương nào cũng có thể dẫn đến điều đó. Và nó không nhất thiết chỉ là
một sự kiện duy nhất. Có thể là nứt vỡ nhân cách, một loạt thất vọng
về cuộc sống cá nhân hay sự nghiệp. Khó nói.” Mắt anh ta chăm chú
nhìn hồ sơ. “Nhưng tôi rất hy vọng cậu sẽ tóm được hắn, Lincoln. Tôi
rất muốn được làm việc với hắn trong mấy tiếng đồng hồ.”
“Thom, cậu ghi lại cả chưa?” “Rồi, bwana.”
“Nhưng có một câu hỏi”, Rhyme bắt đầu.
Dobyns ngoảnh lại. “Tôi sẽ nói đấy chính là câu hỏi, Lincoln: Vì sao
hắn để lại manh mối, đúng thế không?”
“Đúng vậy. Tại sao?”
“Nghĩ xem hắn đã làm gì… Hắn đang nói chuyện với cậu. Không dông
dài, rời rạc như Con trai của Sam hay sát thủ Zodiac97. Hắn không bị
tâm thần phân liệt. Hắn đang giao tiếp – bằng ngôn ngữ của cậu. Ngôn
ngữ pháp y. Vì sao?” Đi đi lại lại, mắt anh ta nhìn lên tấm áp phích.
“Tất cả những gì tôi có thể đoán lúc này là hắn muốn chia sẻ tội lỗi.
Giết chóc đối với hắn rất khó khăn. Sẽ dễ dàng hơn nếu hắn lôi chúng
ta vào. Nếu chúng ta không cứu được nạn nhân thì họ chết, một phần
là do lỗi của chúng ta.”
“Nhưng thế thì tốt, đúng không?” Rhyme hỏi. “Thế có nghĩa là hắn sẽ
tiếp tục cho chúng ta những manh mối có thể giải đoán. Nếu không,
nếu câu đó quá khó, hắn sẽ không chia sẻ được gánh nặng.”
“Ừ, đúng vậy”, Dobyns nói, nụ cười đã tắt. “Nhưng vẫn còn những yếu
tố khác
nữa.”
Sellitto đưa ra câu trả lời: “Tăng cường hoạt động liên tục.” “Đúng thế”,
Dobyns khẳng định.
“Làm sao hắn có thể tấn công thường xuyên hơn được?” Banks lẩm
bẩm. “Ba giờ
một lần chưa đủ nhanh hay sao?”
“Hắn sẽ tìm được cách”, nhà tâm lý học nói tiếp. “Chủ yếu là hắn sẽ
nhắm tới nhiều nạn nhân.” Đôi mắt nhà tâm lý học nheo lại. “Thế nào
Lincoln, cậu ổn chứ?”
Trán nhà hình sự học lấm tấm mồ hôi, anh ta liếc mắt nhìn. “Mệt. Quá
nhiều điều phấn khích trong một ngày cho một kẻ tàn tật già nua.”
96 Oedip: Hay còn gọi là Hội chứng Oepidus theo lý thuyết của nhà
tâm lý học người Áo Zigmud Freud. Hội chứng này được đặt tên theo
tên nhân vật Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là nhân vật đã giết
cha mình là Laius, và kết hôn với mẹ mình, Jocasta.
Theo lý thuyết này, hội chứng đó thường xuất hiện trong giai đoạn trẻ
từ ba đến năm tuổi.
Đứa trẻ sẽ cảm thấy ham muốn về giới tính đối với mẹ, là người khác
giới và mong muốn cái chết của cha, là người cùng giới.
97 Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.
“Một điều cuối cùng. Hồ sơ của nạn nhân rất quan trọng trong tội ác
hàng loạt. Nhưng ở đây chúng ta gặp các giới tính, tuổi tác, và tấng lớp
kinh tế khác nhau. Tất cả đều da trắng nhưng hắn chủ yếu đi săn trong
ao da trắng nên điều này không có ý nghĩa nhiều về mặt thống kê. Với
những gì ta đã biết, ta không thể lần ra được vì sao hắn lại chọn những
người này. Nếu cậu có thể lần ra, cậu sẽ đi trước hắn.”
“Cám ơn, Terry”, Rhyme nói. “Ở lại một lúc nữa nhé.” “Được thôi,
Lincoln. Nếu cậu muốn.”
Sau đó Rhyme hạ lệnh. “Hãy xem vật chứng từ hiện trường trại chăn
nuôi. Chúng ta có gì nhỉ? Đồ lót?”
Mel Cooper gom những cái túi do Sachs đem về từ hiện trường. Anh
ta nhìn một cái túi đựng đồ lót. “Loại D’Amore của hãng thời trang
Katrina”, anh ta tuyên bố. “Bông một trăm phần trăm, dây chun. Vải
dệt tại Mỹ. Cắt và may tại Đài Loan.”
“Chỉ cần nhìn mà anh đã biết ngay ư?” Sachs ngạc nhiên hỏi. “Không,
tôi đọc thôi”, anh ta trả lời, chỉ vào cái mác.
“Ồ…”
Mấy viên cảnh sát cười rộ.
“Có thể hắn nói với chúng ta rằng, hắn đã bắt được một người phụ nữ
khác chăng?” Sachs hỏi.
“Có khả năng.” Rhyme nói.
Cooper mở cái túi. “Tôi không biết chất lỏng đó là gì. Tôi sẽ đo sắc
ký.”
Rhyme bảo Thom giơ mẩu giấy có tuần trăng lên. Anh thận trọng
nghiên cứu nó. Một mẩu giấy như vậy là một bằng chứng xác lập cá
thể tuyệt vời. Anh có thể nối nó với tờ báo mà nó bị xé ra và liên kết
chứng với nhau chặt chẽ như dấu tay. Tất nhiên vấn đề ở đây là họ
không có tờ báo nguyên bản. Anh tự hỏi, không biết họ có thể tìm
được nó hay không. Đối tượng có thể hủy nó ngay sau khi hắn xé mẩu
giấy. Nhưng Lincoln Rhyme vẫn thiên về ý nghĩ rằng hắn không làm
thế. Anh muốn hình dung ra nó ở đâu đó. Đang đợi anh tìm thấy. Theo
cách mà anh luôn hình dung ra bằng chứng gốc: một mẩu sơn xe hơi bị
cào rớt, một ngón tay bị mất móng, cái nòng súng bắn ra viên đạn súng
trường được tìm thấy trong cơ thể nạn nhân. Những nguồn này – luôn
ở gần đối tượng – có nhân cách riêng của chúng trong trí óc Rhyme.
Chúng có thể hống hách hay độc ác.
Hay bí hiểm.
Tuần trăng.
Rhyme hỏi Dobyns liệu đối tượng của họ có động cơ nào để hắn hoạt
động theo chu kỳ hay không.
“Không. Giờ không phải là lúc trăng tròn. Tới hôm nay mới được bốn
ngày.” “Như thế mặt trăng ở đây có ý nghĩa khác.”
“Có thể ngay từ đầu nó cũng không có nghĩa là mặt trăng”, Sachs nói.
Vui vẻ, mà hoàn toàn có cơ sở, Rhyme nghĩ. Anh nói: “Ý hay đấy,
Amelia. Có thể hắn nói về những vòng tròn. Về mực. Về giấy. Về hình
học. Hành tinh…”
Rhyme nhận ta cô đang nhìn anh. Có thể cô vừa nhận thấy anh đã cạo
râu và chải tóc, thay quần áo.
Tâm trạng của cô ta là gì? Anh tự hỏi. Giận anh, hay không quan tâm?
Anh không đoán được. Lúc này Amelia cũng bí ẩn như Đối tượng 823.
Tiếng bíp của máy fax vang lên trong hành lang. Thom ra ngoài và quay
lại với hai tờ giấy.
“Từ Emma Rollins”, anh ta nói. Anh ta giơ tờ giấy lên để Rhyme có thể
nhìn thấy. “Bản khảo sát các cửa hàng thực phẩm của chúng ta. Trong
hai ngày qua có mười
một cửa hàng ở Manhattan bán chân bê cho những khách hàng mua ít
hơn năm món hàng.” Anh ta bắt đầu viết lên tờ áp phích, sau đó quay
lại nhìn Rhyme: “Tên các cửa hàng?”
“Tất nhiên rồi. Ta cần nó để sau này còn tham chiếu chéo.” Thom viết
lên bản hồ sơ.
B’way & 82nd,
ShopRite
B’way & 96th, Anderson Foods
Greenwich & Bank, ShopRite
2nd Ave., 72nd-73nd,
Grocery World
Battery Park City,
J&G’s Emporium
1709 2nd Ave., Anderson Foods
34th & Lex.,
Food Warehouse
8th Ave. & 24th, ShopRite
Houston & Lafayette, ShopRite
6th Ave. & Houston,
J&G’s Emporium
Greenwich & Franklin, Grocery World
“Như thế là cả thành phố còn gì”, Sachs nói. “Kiên nhẫn”, Lincoln
Rhyme bồn chồn nói.
Mel Cooper đang xem xét sợi rơm mà Sachs tìm được. “Chẳng có gì
đặc biệt.” Anh ta ném nó sang một bên.
“Nó còn mới không?” Rhyme hỏi. Nếu nó còn mới, họ có thể tham
chiếu chéo tới những cửa hàng vừa bán chổi, vừa bán chân bê trong
một ngày.
Nhưng Cooper nói: “Tôi đã nghĩ tới điều này rồi. Khoảng sáu tháng
hoặc lâu hơn.” Anh ta bắt đầu lắc các bằng chứng dấu vết trong đống
quần áo của cô gái Đức xuống một tờ báo.
“Có mấy thứ ở đây”, anh ta nói trong khi soài người trên tờ báo. “Bụi
bẩn.” “Có đủ để phân tích biến thiên mật độ không?”
“Không. Thực ra chỉ là ít bụi. Có thể là từ hiện trường.”
Cooper xem xét phần còn lại của những thứ mà anh ta chải ra được từ
đám quần áo máu me.
“Bụi gạch. Sao lại lắm gạch thế?”
“Từ bọn chuột bị tôi bắn. Tường chỗ đó bằng gạch.” “Cô bắn chúng?
Tại hiện trường?” Rhyme cau mày.
Sachs chống cự: “Vâng, đúng thế. Nhưng chúng bò đầy trên người cô
ấy.”
Tức giận, nhưng anh bỏ qua. Chỉ nói: “Đủ các thứ ô nhiễm sinh ra lúc
bắn súng. Chì, thạch tín, carbon, bạc…”
“Đây này… một mẩu da màu đỏ. Từ găng tay. Và… ta có một mẩu
sợi. Một mẫu
khác.”
Các nhà hình sự học rất thích sợi. Đó là một nhúm sợi nhỏ xíu, rất khó
nhìn thấy
bằng mắt thường.
“Tuyệt vời”, Rhyme nói. “Còn gì nữa?”
“Và đây là ảnh hiện trường”, Sachs nói, “và dấu tay. Một trên cổ họng
cô gái và một ở chỗ hắn nhặt găng tay”. Cô giơ chúng lên.
“Tốt”, Rhyme nói và xem xét chúng cẩn thận.
Trên khuôn mặt cô tỏa sáng ánh hào quang của một chiến thắng miễn
cưỡng – một cơn sốt chiến thắng, mặt trái của việc căm thù bản thân vì
là một kẻ không chuyên.
Rhyme đang nghiên cứu tấm ảnh Polaroid thì anh nghe thấy tiếng bước
chân trên cầu thang và Jim Polling đến. Anh ta vào phòng ra vẻ ngạc
nhiên khi nhìn thấy Lincoln Rhyme được chỉnh trang và bước đến chỗ
Sellitto.
“Tôi vừa ở hiện trường vụ án”, anh ta nói. “Các bạn đã cứu được nạn
nhân. Làm rất tốt.” Anh ta gật đầu về phía Sachs, ra ý là anh ta tính cả
cô trong đó. “Nhưng thằng khốn đó lại tóm được người khác rồi à?”
“Hoặc chuẩn bị tóm”, Rhyme lẩm bẩm, vẫn chăm chăm nhìn tấm ảnh.
“Chúng tôi đang nghiên cứu manh mối”, Banks nói.
“Jim, tôi đang cố tìm anh”, Sellitto nói. “Tôi đã thử gọi đến cả văn
phòng Thị trưởng.”
“Tôi làm việc với sếp. Phải van lạy để xin thêm vài tay tìm kiếm. Tôi
kiếm được thêm năm mươi người nữa từ đội an ninh cho Liên Hiệp
Quốc.”
“Đại úy, có vài chuyện ta cần bàn. Chúng ta đang có vấn đề. Điều gì
đó xảy ra tại hiện trường cuối cùng…”
Một giọng nói cho tới lúc này chưa ai nghe thấy vang lên trong phòng.
“Vấn đề? Ai có vấn đề? Ở đây chẳng có vấn đề gì cả, đúng không?
Không hề có vấn đề nào hết.”
Rhyme nhìn lên, một người đàn ông cao gầy trên ngưỡng cửa. Anh ta
đen tuyền, mặc bộ vét nực cười màu xanh lá và đôi giày bóng loáng
như hai tấm gương màu nâu. Tim Rhyme chùng xuống. “Dellray.”
“Lincoln Rhyme. Người hùng của New York. Chào Lon. Cả Jim
Polling nữa này, công việc thế nào, anh bạn?”
Phía sau Dellray là nửa tá đàn ông và phụ nữ. Rhyme biết ngay tức
khắc vì sao đặc vụ liên bang lại có mặt ở đây. Dellray nhìn lướt những
sĩ quan có mặt trong phòng, sự chú ý của anh ta bùng lên một khắc khi
thấy Sachs rồi tan biến.
“Anh muốn gì?” Polling hỏi.
Dellray nói: “Các vị vẫn chưa thấy sao? Các vị đã bị loại. Chúng tôi
đến tiễn chân các vị. Đúng thế, thưa ngài. Đóng cửa ổ đề.”
MƯỜI BẢY
Một người trong chúng ta.
Đó là cách Dellray nhìn Lincoln Rhyme khi anh ta bước vòng quanh
giường. Vài người đã làm thế. Bại liệt là một câu lạc bộ trong đó họ tổ
chức dạ hội với chuyện đùa, những cái gật đầu, nháy mắt. Anh biết là
tôi mến anh mà, vì tôi sẽ trêu đùa với anh.
Lincoln Rhyme biết rằng thái độ này sẽ biến mất nhanh chóng.
“Nhìn này”, Dellray vừa nói vừa chỉ Clinitron. “Cảnh trong Star Trek.
Chỉ huy
Riker, lên tàu ngay.”
“Biến đi, Dellray”, Polling nói. “Đây là vụ của chúng tôi.” “Tình hình
bệnh nhân của ta ra sao, bác sĩ Crusher?”
Viên đại úy tiến lên phía trước, viên đặc vụ FBI cao kều cúi người
xuống. “Dellray, anh nghe tôi nói không? Biến đi.”
“Ái chà, Rhyme, tôi sẽ cố kiếm cho mình một cái giường thế này. Nằm
xem thế nào cũng không tệ. Nghiêm chỉnh đấy, Lincoln, anh thế nào?
Mấy năm rồi còn gì.”
“Họ có gõ cửa không?” Rhyme hỏi Thom. “Không, họ chẳng buồn gõ
cửa.”
“Các anh không gõ cửa”, Rhyme nói. “Thế thì tôi khuyên các anh nên
đi ra.”
“Tôi có giấy phép đây”, Dellray lẩm bẩm, búng búng vào tờ mớ giấy tờ
trong túi áo ngực.
Móng tay trỏ của Amelia Sachs cậy ngón tay cái của cô tới mức gần
bật máu. Dellray nhìn quanh phòng. Rõ ràng là anh ta bị ấn tượng bởi
phòng thí nghiệm
ngẫu hứng của họ nhưng lại nhanh chóng che đậy cảm giác đó. “Xin
lỗi. Chúng tôi tiếp
quản vụ này.”
Trong hai mươi năm làm cảnh sát, chưa bao giờ Rhyme gặp tình huống
tiếp quản bắt buộc như vụ này.
“Mặc mẹ nó, Dellray”, Sellitto bắt đầu. “Anh chuyển vụ này rồi mà.”
Viên đặc vụ quay khuôn mặt đen bóng của mình lại cho tới khi anh ta
nhìn xuống viên thám tử.
“Chuyển? Chuyển? Tôi không hề nghe gì về vụ này. Anh có gọi điện
cho tôi không?”
“Không.”
“Thế thì ai thả xu98?”
“Thế thì…”, Sellitto ngạc nhiên, liếc nhìn Polling. Anh ta nói: “Các anh
có tư vấn. Đó là mọi thứ chúng tôi phải gửi cho anh.” Lúc này anh ta
cũng đang chống chế.
“Tư vấn. Được đấy. Này, mà nó được chuyển thế nào nhỉ? Có phải
bằng Pony Ex- press99 không? Hay qua đường bưu điện? Nói tôi
nghe, Jim, tư vấn qua đêm thì có ích lợi gì cho một chiến dịch đang
triển khai?”
Polling nói: “Chúng tôi không thấy nhu cầu.”
“Chúng tôi?” Dellray hỏi nhanh. Như một phẫu thuật gia tìm thấy một
khối vi u. “Tôi thấy không cần thiết”, Polling vặc lại. “Tôi nói với ngài
Thị trưởng nên giữ
vụ này như một vụ của địa phương. Chúng tôi kiểm soát được nó. Giờ
thì biến đi,
Dellray.”
“Và anh nghĩ anh có thể làm xong nó cho kịp bản tin mười một giờ?”
Rhyme giật mình khi Polling quát: “Chúng tôi nghĩ gì không phải việc
của anh, khốn kiếp. Vụ chết tiệt này là của chúng tôi.” Anh biết tính khí
nổi tiếng của viên đại úy, nhưng chưa bao giờ được chứng kiến.
“Thực… ra, bây giờ thì vụ chiết tiệt này là của chúng tôi.” Dellray đi
ngang qua cái bàn đặt thiết bị của Cooper.
Rhyme nói: “Đừng làm thế, Fred. Chúng tôi đang nắm được thằng cha
này. Hãy làm việc cùng chúng tôi, nhưng đừng lấy vụ này. Đối tượng
không giống với bất kỳ kẻ nào anh đã gặp.”
Dellray mỉm cười. “Hãy xem, tin mới nhất mà tôi nghe được từ vụ ‘chết
tiệt’ này là gì? Các anh để một thường dân xét nghiệm pháp y.” Viên
đặc vụ ném một cái nhìn về phía chiếc giường Clinitron. “Các anh để
một cảnh sát tuần tra đi khám nghiệm hiện trường. Các anh bắt quân
lính đi mua thực phẩm.”
“Tiêu chuẩn chứng cứ, Frederick”, Rhyme nghiêm khắc nhắc
nhở. “Đấy là
SOP100.”
98 Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý nói người nào chỉ điểm.
99 Pony Express: Nói kháy, một dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ,
dùng ngựa Pony để vận chuyển.
100 SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.
Dellray trông có vẻ thất vọng. “Nhưng đó là ESU, Lincoln? Tiền của
người nộp thuế cả đấy. Rồi còn cưa người ta ra, cứ như trong Texas
Chainsaw101 vậy…”
Thế quái nào mà tin này lại rò rỉ ra được? Tất cả mọi người đã thề là sẽ
bảo vệ bí mật vụ cưa cắt này rồi cơ mà.
“Rồi tôi còn nghe nói quân của Haumann tìm thấy nạn nhân nhưng
không vào cứu cô ta ra ngay, đúng không? Kênh Năm có mic trên đó.
Nghe được cô ta kêu gào tới năm phút trước khi các anh cho người
vào.” Anh ta ném cho Sellitto một cái liếc nhăn nhở. “Lon, bạn tôi, đây
có phải là vấn đề mà ta vừa nói đến không?”
Họ đã đi khá xa, Rhyme nghĩ. Họ đã cảm nhận được hắn, bắt đầu học
được ngôn ngữ của hắn. Bắt đầu nhìn thấy hắn. Với một chút ngạc
nhiên anh hiểu ra rằng, một lần nữa anh đang làm những gì anh yêu
thích. Sau bao nhiêu năm. Nhưng bây giờ có người muốn tước đoạt
điều đó từ anh. Cơn giận dữ dâng lên trong anh.
“Lấy vụ này đi, Fred”, Rhyme gầm gừ. “Nhưng đừng gạt chúng tôi ta.
Đừng làm
thế.”
“Các anh đã mất hai nạn nhân”, Dellray nhắc.
“Chúng tôi chỉ mất một”, Sellitto sửa lại. Anh ta nhìn Polling lúc này
đang cáu
kỉnh. “Chúng tôi chẳng làm gì được với nạn nhân đầu tiên. Anh ta là
quân bài đã hạ.”
Dobyns đứng khoanh tay, quan sát cuộc cãi vã. Nhưng Jerry Banks
nhảy vào: “Chúng tôi đã nắm được cách thức hoạt động của hắn.
Chúng tôi sẽ không để mất thêm ai nữa.”
“Các anh sẽ đánh mất nếu các anh tiếp tực để đội ESU ngồi nghe nạn
nhân la hét.” Sellitto nói: “Đó là…”
“Quyết định của tôi”, Rhyme nói. “Của tôi.”
“Nhưng anh là dân thường, Lincoln. Như vậy, không thể là quyết định
của anh được. Đó có thể là gợi ý của anh. Đó có thể là khuyến nghị
của anh. Nhưng tôi không nghĩ đó là quyết định của anh.”
Dellray lại chuyển sự chú ý sang Sachs. Mắt nhìn cô, anh ta nói với
Rhyme: “Anh bảo Peretti đừng khám nghiệm hiện trường? Thật ngạc
nhiên đấy, Lincoln. Sao anh lại làm một điều như thế nhỉ?”
Rhyme nói: “Tôi giỏi hơn anh ta.”
“Peretti không hài lòng lắm đâu. Không hề. Anh ta và tôi đã nói chuyện
với
Eckert.”
Eckert? Phòng Truyền thông? Ông ta dính dáng gì ở đây?
Anh đã hiểu ra khi liếc nhìn Sachs, nhìn vào đôi mắt xanh được bao
bọc bởi những lọn tóc đỏ rối bù đang cố tình lảnh tránh ánh mắt anh.
Rhyme đóng đinh cô bằng một cái nhìn mà cô nhanh chóng lờ đi. Và
anh nói với
Dellray: “Xem nào… Peretti? Chẳng phải anh ta là người đã cho thông
xe qua chỗ đối
101 Texas Chainsaw: Cưa máy Texas, một bộ phim kinh dị.
tượng đứng nhìn nạn nhân đầu tiên của hắn? Chẳng phải anh ta là người
giải phóng hiện trường trước khi chúng tôi có cơ hội thu thập được một
dấu vết quan trọng nào đó? Hiện trường mà Sachs của tôi ở đây đã
nhìn thấy trước là phải chặn đường giao thông. Sachs của tôi đã làm
đúng trong khi Vince Peretti và những người khác làm sai hết. Đúng
thế, cô ấy đúng.”
Cô nhìn chăm chăm ngón tay cái, cái nhìn cho thấy một cảnh tượng
quen thuộc, rồi cho tay vào túi lấy ra một tờ giấy thấm quấn quanh
ngón trỏ đẫm máu.
Dellray tổng kết: “Đáng ra các anh phải gọi cho tôi ngay từ đầu.”
“Cút đi ngay”, Polling lầm bầm. Có gì đó xuất hiện trong mắt anh ta và
anh ta cao giọng. “Cút ngay khỏi đây!” Anh ta gào lên.
Một người bình tĩnh như Dellray cũng phải giật mình lùi lại phía sau vì
nước bọt bắn ra từ miệng viên đại úy.
Rhyme nhăn mặt vì Polling. Rất có thể họ sẽ cứu vớt được chút gì
trong vụ này, nhưng sẽ hỏng hết nếu Polling lên cơn giận. “Jim…”
Viên đại úy lờ anh đi. “Cút!” Anh ta quát lên lần nữa. “Các anh không
được lấy vụ này!” Mọi người trong phòng đầu giật bắn mình, Polling
lao lên, tóm ve áo màu xanh lá của viên đặc vụ FBI rồi dồn anh ta vào
tường. Sau một khắc im lặng ngạc nhiên, Dellray đẩy viên đại úy ra,
đơn giản chỉ bằng một ngón tay và móc chiếc điện thoại di động. Anh
ta đưa nó cho Polling.
“Gọi cho Thị trưởng. Hay sếp Wilson.”
Polling lùi xa ra khỏi Dellray theo bản năng – người thấp luôn giữ một
khoảng cách với người cao. “Nếu anh muốn vụ này, anh có mẹ nó rồi
đấy.” Viên đại úy bước ra cầu thang và đi xuống. Cửa trước sập mạnh.
“Lạy chúa, Fred”, Sellitto nói, “làm việc với bọn tôi. Chúng ta có thể
tóm thằng khốn đó.”
“Chúng ta cần A-T của Cục”, Dellray nói, giọng anh ta nghe đầy thuyết
phục. “Các anh chưa nhìn từ góc độ khủng bố.”
“Góc độ chống khủng bố nào?” Rhyme hỏi.
“Hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc. Đặc tình của tôi nói, có tin đồn
rằng có gì đó xảy ra tại sân bay. Chỗ hắn ta tóm nạn nhân.”
“Tôi không cho rằng hắn ta là khủng bố”, Dobyns nói. “Bất kể điều gì
diễn ra trong con người hắn đều có động cơ tâm lý. Không có vấn đề ý
thức hệ.”
“Nhưng, sự thật là Quantico và chúng tôi nghĩ về hắn theo một cách.
Tôi đánh giá cao việc các anh nghĩ khác. Nhưng đây là cách chúng tôi
xử lý vụ này.”
Rhyme đầu hàng. Sự mệt mỏi làm anh nản chí. Anh ước gì sáng nay
Sellitto và viên trợ lý mặt sẹo của anh ta không đến đây. Anh ước gì
anh không gặp Amelia Sachs. Anh ước gì anh không mặc cái áo sơ mi
bảnh bao ngớ ngẩn này, nó chỉ làm anh thấy nghẹt cổ và tạo ra cảm
giác như không có gì dưới nó.
Anh nhận thấy Dellray đang nói với mình.
cứ.”
“Xin lỗi?” Rhyme nhướn mày.
Dellray hỏi: “Ý tôi là, liệu chính trị có thể là động cơ của hắn không?”
“Tôi không quan tâm tới động cơ”, Rhyme trả lời. “Tôi chỉ quan tâm tới
chứng
Dellray nhìn vào cái bàn của Cooper một lần nữa. “Như vậy vụ này là
của chúng
tôi. Mọi người nhất trí chứ?”
“Lựa chọn của chúng tôi là gì?” Sellitto hỏi.
“Các anh hỗ trợ người tìm kiếm cho chúng tôi. Hoặc các anh có thể
dừng hoàn toàn. Tất cả chỉ còn lại có thế. Giờ thì, nếu các anh không
phiền, chúng tôi lấy vật chứng được rồi chứ?”
Banks ngần ngừ.
“Đưa cho họ đi”, Sellitto ra lệnh.
Viên cảnh sát trẻ tuổi nhặt những cái túi đựng vật chứng thu lượm được
từ hiện trường mới đây lên, cho chúng vào trong một cái túi nhựa to.
Dellray chìa tay ra. Banks nhìn vào những ngón tay gầy guộc rồi ném
cái túi xuống bàn, sau đó đi ra góc xa của căn phòng – phía cảnh sát.
Lincoln Rhyme là khu phi quân sự phân cách họ, Amelia Sachs đứng
như trời trồng cạnh chân giường của Rhyme.
Dellray nói với cô: “Sĩ quan Sachs?”
Sau một khoảng lặng cô trả lời, mắt vẫn nhìn Rhyme: “Có?”
“Trưởng ban Eckert muốn cô đi cùng chúng tôi để báo cáo về các hiện
trường vụ án. Ông ta có nói gì đó về việc cô sẽ bắt đầu công việc mới
vào thứ Hai.”
Cô gật đầu.
Dellray quay lại phía Rhyme và chân thành nói: “Anh đừng lo, Lincoln.
Chúng tôi sẽ tóm được hắn. Lần sau anh sẽ được nghe là hắn đã bị bêu
đầu ngoài cổng thành phố.”
Anh ta gật đầu ra hiệu cho những cộng sự của mình, họ đang đóng gói
vật chứng và đi xuống cầu thang. Từ ngoài hành lang, Dellray gọi
Sachs. “Cô đi luôn chứ, sĩ quan?”
Cô đứng đó, hai tay nắm vào nhau như một cô học trò tại buổi dạ hội
mà cô ta thấy hối hận vì đã đến.
“Tôi đi ngay.”
Dellray biến mất dưới cầu thang.
“Bọn quái vật”, Banks lẩm bẩm, vứt quyển sổ ghi chép của mình xuống
bàn. “Không thể tin được, phải không?”
Sachs đung đưa trên gót chân.
“Amelia, cô nên đi thì hơn”, Rhyme nói. “Xe đang đợi cô.” “Lincoln.”
Cô lại gần giường.
“Được rồi”, anh nói. “Cô làm điều cô phải làm.”
“Tôi chẳng có gì liên quan đến khám nghiệm hiện trường”, cô buột
miệng. “Tôi không bao giờ thích.”
“Và cô sẽ không còn phải làm nữa. Như mong muốn, phải không
nào?”
Cô đã bắt đầu đi ra cửa, nhưng quay lại và thốt lên: “Anh chẳng quan
tâm đến cái gì khác ngoài chứng cứ, đúng không?”
Banks và Sellitto bồn chồn, nhưng Sachs lờ họ đi. “Này, Thom, cậu
tiễn Amelia, được không?”
Sachs tiếp tục. “Với anh đây chỉ là trò chơi, đúng không? Monelle…?”
“Ai?”
Mắt cô tóe lửa. “Đó. Thấy chưa? Anh còn không nhớ cả tên cô ta.
Monelle Gerger. Cô gái trong đường hầm... cô ấy chỉ là một phần
trong câu đố của anh. Chuột bọ bò đầy người cô ấy, còn anh nói: ‘Đấy
là bản chất của chúng? Đấy là bản chất của chúng? Cô ấy sẽ không
bao giờ trở lại được như xưa, còn anh thì chỉ quan tâm đến mấy thứ
chứng cứ quý báu của anh?”
“Khi những nhân chứng còn sống”, anh lên giọng đều đều, dạy dỗ, “vết
cắn của loài gặm nhấm chỉ là những vết thương bề mặt. Ngay khi
những con vật đó nhỏ nước dãi vào cô ta là cô ta đã phải tiêm phòng
dại. Vậy thì thêm mấy vết cắn nữa cũng có quan trọng không?”
“Sao anh không hỏi ý kiến cô ấy?” Nụ cười của Sachs lúc này khác đi.
Nó trở nên độc địa, như nụ cười của những hộ lý và trợ lý trị liệu,
những kẻ căm ghét người tàn tật. Họ lúc nào cũng lượn quanh khu hồi
phục chức năng với kiểu cười như vậy. Ừ, đằng nào thì anh cũng
không thấy hài lòng với cô Amelia Sachs lịch sự; anh muốn một người
nóng tính...
“Trả lời tôi đi chứ, Rhyme. Thực sự thì vì sao anh lại muốn tôi?
“Thom, vị khách của chúng ta không còn được chào đón nữa. Cậu làm
ơn...” “Lincoln”, người trợ lý nói.
“Thom”, Rhyme cáu kỉnh, “tôi đang bảo cậu làm việc đấy”.
“Vì tôi chẳng biết cái con khỉ gì, đúng không?” Sachs buột miệng.
“Chính thế đấy! Anh không muốn một kỹ thuật viên CS thực sự vì lúc
đó anh sẽ không có quyền. Còn tôi, anh có thể bắt tôi đi ra đây, ra kia.
Tôi làm đúng những thứ anh cần, không hề than vãn hay oán trách.”
“À, binh biến...”, Rhyme nói, ngước mắt lên trần nhà.
“Nhưng tôi không phải lính. Ngay từ đầu tôi đã không muốn thế.”
“Tôi cũng không muốn. Nhưng giờ thì ta ở đây. Trên giường với nhau.
Ồ, ít nhất là một người trong chúng ta.” Anh biết, nụ cười lạnh lùng của
anh băng giá gấp nhiều lần nụ cười lạnh lùng nhất của cô.
“Vì sao, Rhyme, anh chỉ là một đứa trẻ hỗn xược được nuông chiều
mà thôi.” “Này sĩ quan, hết giờ rồi đấy”, Sellitto quát.
Nhưng cô vẫn tiếp tục: “Anh không còn làm công việc khám nghiệm
hiện trường được nữa, tôi lấy làm tiếc về điều đó. Nhưng anh đang làm
ảnh hưởng tới cuộc điều tra chỉ vì muốn ve vuốt lòng tự ái của mình và
tôi nói như thế thật vớ vẩn.” Cô vơ lấy chiếc mũ tuần tra và lao ra khỏi
phòng.
Anh nghĩ sẽ có tiếng sập cửa rất mạnh, có thể cả tiếng kính vỡ. Nhưng
chỉ có một tiếng va nhẹ, rồi im lặng.
Khi Jerry Banks nhặt cuốn sổ của mình lên và lần giở nó với vẻ tập
trung thái quá, Sellitto nói: “Lincoln, tôi xin lỗi. Tôi...”
“Không sao”, Rhyme nói, ngáp thật dài, hy vọng làm cho trái tim nhức
nhối của anh bình ổn. “Hoàn toàn không sao.”
Mấy viên cảnh sát đứng cạnh cái bàn gần như trống trơn trong sự im
lặng đáng sợ, sau đó Cooper nói: “Gói ghém đi thôi.” Anh ta nhấc hộp
kính hiển vi lên bàn, bắt đầu tháo ống ngắm với sự chăm chút của một
nhạc công đang tháo cây kèn saxophone của mình.
“Được rồi, Thom”, Rhyme nói. “Mặt trời lặn rồi đấy. Cậu có biết thế
nghĩa là gì không? Các quầy bar mở cửa.”
Phòng chiến trận của họ thật ấn tượng. Nó vượt xa phòng ngủ của
Rhyme.
Ba tá đặc vụ, máy tính và bảng điện tử như trong phim của Tom
Clancy chiếm nửa tầng trong tòa nhà liên bang. Các đặc vụ trông như
luật sư hay nhân viên ngân hàng đầu tư. Sơ mi trắng, cà vạt. Bảnh bao
là từ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Amelia Sachs đứng giữa phòng, nổi
bật trong bộ đồng phục màu xanh hải quân, thấm đầy máu chuột, bụi
bẩn và tế bào của đám súc vật đã chết hàng trăm năm.
Cô đã hết run rẩy vì cuộc cãi vã với Rhyme và mặc dù đầu óc cô quay
cuồng với hàng nghìn điều cô muốn nói, ước gì cô đã nói, cô bắt mình
tập trung vào những gì đang diễn ra xung quanh.
Một đặc vụ cao mặc bộ vét xám không chê vào đâu được đang hội ý
với Dellray – hai người đàn ông cao lớn, cúi đầu nghiêm nghị. Cô tin
rằng anh ta là Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng Manhattan,
nhưng cô không chắc chắn lắm; quan hệ với FBI của một nhân viên
Đội Tuần tra cũng không nhiều hơn của nhân viên tạp vụ hay là nhân
viên bán bảo hiểm. Anh ta trông có vẻ thiếu hài hước, có năng lực và
luôn luôn nhìn lên tấm bản đồ Manhattan to tướng treo trên tường.
Perkins gật đầu mấy lần khi Dellray báo cáo với anh ta, sau đó anh ta
bước đến chỗ cái bàn gỗ ép, trên đó đầy những cặp tài liệu, nhìn xuống
nhóm đặc vụ và bắt đầu nói.
“Mọi người làm ơn chú ý… Tôi vừa nói chuyện với giám đốc và
chưởng lý tại Washington. Tất cả chúng ta đều biết về đối tượng tại sân
bay Kennedy. Đây là một hồ sơ không bình thường. Bắt cóc, không có
yếu tố tình dục, thường thì đó không phải động cơ giết người hàng loạt.
Trên thực tế, đây là đối tượng đầu tiên của loại này mà chúng ta bắt
gặp tại Quận Nam. Tính đến khả năng có quan hệ với những sự kiện
tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này, chúng ta đang phối hợp với trụ sở
trung tâm, Quantico và văn phòng Tổng thư ký. Chúng ta được quyền
hoàn toàn chủ động trong vụ này. Mức ưu tiên cao nhất.”
SAC nhìn Dellray đang nói: “Chúng ta tiếp quản vụ này từ NYPD
nhưng chúng ta sẽ dùng họ làm lực lượng hỗ trợ và nguồn nhân lực.
Chúng ta có một sĩ quan hiện trường vụ án tại đây để báo cáo về hiện
trường.” Ở đây, giọng Dellray khác hẳn. Không còn là ngày Nhặng
nữa.
“Cô đã đăng ký vật chứng chưa?” Perkins hỏi Sachs.
Sachs thừa nhận cô chưa làm. “Chúng tôi bận cứu nạn nhân.”
Điều này làm SAC khó chịu. Nếu không khi xử án, những vụ ngon ăn
thường bị đình trệ vì không đăng ký vật chứng. Đó là điều đầu tiên mà
luật sư của tội phạm tóm lấy.
“Nhớ làm trước khi ra về.” “Vâng, thưa ngài.”
Vẻ mặt Rhyme thật tệ khi anh ta đoán mình ton hót với Eckert và buộc
họ phải đóng cửa. Thật tệ…
Sachs của tôi nghĩ ra, Sachs của tôi bảo toàn hiện trường…
Cô lại cậy móng tay. Thôi đi, cô nhủ thầm như cô vẫn thường làm, và
lại tiếp tục chọc móng tay vào thịt. Cảm giác đau đớn thật tốt. Đó là
điều mà bác sĩ trị liệu không bao giờ hiểu.
SAC nói: “Đặc vụ Dellray? Anh có thể báo cáo với mọi người cách
chúng ta sẽ làm không?”
Dellray nhìn lướt qua SAC và các đặc vụ khác rồi tiếp tục: “Tại thời
điểm này chúng ta có đặc vụ hiện trường đánh tất cả các nhóm khủng
bố chính trong thành phố và theo đuổi bất kỳ manh mối nào mà chúng
ta có để dẫn chúng ta đến nơi ở của đối tượng. Tất cả CI, tất cả đặc vụ
ngầm. Điều đó có nghĩa ta sẽ làm tổn thương một số chiến dịch hiện tại,
nhưng chúng tôi quyết định nó xứng đáng với rủi ro.”
“Việc của chúng ta ở đây là phản ứng nhanh. Các anh sẽ được chia
thành từng nhóm sáu đặc vụ và sẵn sàng truy đuổi với bất cứ manh mối
nào. Các anh phải sẵn sàng cứu con tin và hỗ trợ tấn công chiến lũy.”
“Thưa ngài”, Sachs nói.
Perkins ngẩng lên, nhăn mặt. Rõ ràng không ai có quyền làm gián đoạn
buổi báo cáo trước phần hỏi đáp được phép. “Có việc gì thế, sĩ
quan?”
“À, tôi chỉ có chút băn khoăn. Còn nạn nhân thì sao, thưa ngài?”
“Ai? Cô gái người Đức? Cô nghĩ chúng ta phải thẩm vấn cô ta lần nữa
à?” “Không, thưa ngài. Ý tôi là nạn nhân tiếp theo.”
Perkins trả lời: “Tất nhiên chúng ta luôn nhận thức được là có thể sẽ có
những mục tiêu khác.”
Sachs nói tiếp: “Hắn đã có rồi.”
“Thật không?” SAC liếc nhìn Dellray đang nhún vai. Perkins hỏi Sachs:
“Làm sao cô biết?”
“À, chính xác thì tôi không biết, thưa ngài. Nhưng hắn ta đã để lại
manh mối ở hiện trường cuối cùng và hắn sẽ không làm thế nếu hắn
không có nạn nhân khác. Hoặc đang chuẩn bị bắt một nạn nhân.”
“Đã ghi nhận, thưa sĩ quan”, SAC tiếp tục. “Chúng ta sẽ huy động mức
nhanh nhất có thể để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với họ.”
Dellray nói với cô: “Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất ta nên tập trung chủ
yếu vào con quái vật.”
“Thám tử Sachs…”, Perkins bắt đầu.
“Tôi không phải thám tử, thưa ngài. Tôi là sĩ quan Đội Tuần tra.”
“Được rồi”, SAC tiếp tục, nhìn chồng tài liệu. “Nếu có thể, hãy cho
chúng tôi một số điểm chính, sẽ rất hữu ích.”
Ba mươi đặc vụ nhìn cô. Có hai phụ nữ.
“Cứ nói cho chúng tôi nghe những gì cô nhìn thấy”, Dellray nói, cắn
một điếu thuốc chưa đốt giữa hai hàm răng tuyệt đẹp.
Cô đưa cho họ tóm tắt về những lần tìm kiếm của cô tại hiện trường
cùng kết luận của Rhyme và Terry Dobyns. Hầu hết các đặc vụ cảm
thấy lo lắng về phương thức MO102 kỳ lạ của đối tượng.
“Như một trò chơi chết tiệt”, một đặc vụ lẩm bẩm.
Một người hỏi liệu trong những manh mối đó họ có thể giải mã được
thông điệp chính trị nào không?
“Thưa ngài, thực sự chúng tôi không cho rằng hắn là kẻ khủng bố”,
Sachs khăng
khăng.
Perkins chuyển sự chú ý đặc biệt của mình sang Sachs. “Cho phép tôi
hỏi, sĩ quan,
cô công nhận là hắn thông minh, đúng không?” “Rất thông minh.”
“Hắn có thể bịp hai lần không?”
“Ý của anh là gì?”
“Cô... Tôi phải nói rằng NYPD nghĩ hắn là một trường hợp tâm thần.
Ý tôi là nhân cách tội phạm. Nhưng có phải hắn đủ thông minh để
khiến cô nghĩ thế hay không? Trong khi có thể điều gì khác đang diễn
ra.”
“Điều gì?”
“Manh mối hắn để lại chẳng hạn. Có thể là nghi binh?”
“Không, thưa ngài. Đó là hướng dẫn”, Sachs nói. “Dẫn chúng tôi đến
chỗ nạn
nhân.”
102 MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.
“Tôi hiểu”, Thomas Perkins nhanh trí nói. “Nhưng hắn cũng có thể làm
thế để đưa chúng ta ra xa mục tiêu của hắn, đúng không nào?”
Cô chưa nghĩ tới điều này. “Tôi cho rằng cũng có thể.”
“Sếp Wilson cũng đang cố lấy người từ nhóm phục vụ an ninh cho Liên
Hiệp Quốc để làm vụ bắt cóc này. Đối tượng có thể đang làm mọi
người bị phân tán để hắn tự do thực thi sứ mạng thực sự của hắn.”
Sachs nhớ lại là trước đây cô cũng có những ý tưởng tương tự khi nhìn
thấy những nhân viên tìm kiếm trên Phố Pearl. “Và mục tiêu đó có thể
là Liên Hiệp Quốc?”
“Chúng tôi nghĩ vậy”, Dellray nói. “Bọn tội phạm đứng đằng sau vụ
đánh bom
UNESCO ở London có thể muốn thử lại lần nữa.”
Có nghĩa là Rhyme đang đi theo hướng hoàn toàn sai. Ý nghĩ này làm
gánh nặng của cô nhẹ đi đôi chút.
“Sĩ quan, giờ cô có thể kiểm tra từng chứng cứ cho chúng tôi chứ?”
Dellray đưa cho cô bảng danh sách mọi thứ cô tìm được và cô đọc
từng hạng mục. Khi nói chuyện, cô nhận thấy những hoạt động sôi sục
quanh mình – vài đặc vụ nhận điện thoại, một số đứng thì thầm với
người khác, số khác ghi chép. Nhưng khi nhìn vào bảng danh sách, cô
nói thêm: “Tôi có lấy được một dấu vân tay của hắn tại hiện trường
cuối cùng”, cô nhận thấy căn phòng tuyệt đối im lặng. Cô nhìn lên. Mọi
khuôn mặt trong văn phòng đều nhìn chăm chăm vào cô như một cơn
sốc vừa đi qua – nếu như đặc vụ liên bang còn có khả năng bị sốc.
Cô bất lực nhìn Dellray, anh ta đang ngẩng đầu lên. “Có phải cô bảo
cô vớ được một dấu tay?”
“Vâng, đúng như thế. Hắn bị rơi găng tay khi vật lộn với nạn nhân cuối
cùng, khi nhặt lên tay hắn quét xuống sàn.”
“Ở đâu?” Dellray hỏi nhanh.
“Lạy Chúa”, một đặc vụ kêu lên. “Sao cô chẳng nói gì?” “À, tôi…”
“Tìm đi. Tìm nó ngay đi!” Một người khác kêu lên.
Tiếng xì xầm lan khắp phòng.
Tay run run, Sachs lục lọi trong cái túi đựng vật chứng và đưa cho
Dellray bức hình Polaroid chụp dấu tay. Anh ta giơ nó lên, nhìn thật
cẩn thận. Đưa cho một người mà cô đoán là chuyên gia về dấu tay
xem. “Tốt”, đặc vụ này nói. “Chắc chắn là loại A.”
Cô biết dấu tay được phân thành các loại A, B và C, và phần lớn các
cơ quan thực thi pháp luật không chấp nhận loại thấp hơn. Nhưng niềm
kêu hãnh của cô về kỹ năng tìm kiếm vật chứng của mình đã bị đập tan
bởi sự chê bai mang tính tập thể của họ khi cô đã không nhắc tới điều
đó sớm hơn.
Và mọi thứ bắt đầu nhất loạt diễn ra. Dellray chuyển nó cho một đặc
vụ, người này vội chạy đến chỗ một cái máy tính phức tạp ở góc văn
phòng và đặt nó lên một bề mặt cong lớn của một cỗ máy có tên gọi
Optic-Scan. Một đặc vụ khác bật máy tính và gõ
lệnh trong khi Dellray vội vàng nhấc điện thoại. Anh ta sốt ruột giậm
chân, và cúi đầu như thể có ai đó ở đầu dây bên kia đang trả lời điện
thoại.
“Ginnie, Dellray đây. Vụ này rất xương đấy, nhưng tôi cần anh cắt tất
cả các yêu cầu AFIS103 từ khu Đông Bắc để làm cái tôi gửi cho anh
đây… Tôi có Perkins ở đây. Anh ấy đồng ý rồi, nếu thế chưa đủ tôi sẽ
gọi cho người ở Washington… Việc có liên quan đến Liên Hiệp
Quốc.”
Sachs biết AFIS được các sở cảnh sát toàn quốc sử dụng. Chính là hệ
thống
Dellray lúc này đang dừng lại.
Đặc vụ ngồi máy tính nói: “Quét rồi. Chúng tôi đang gửi đi.” “Sẽ mất
bao lâu?”
“Mười, mười lăm phút.”
Dellray ép các ngón tay bẩn thỉu vào nhau. “Làm ơn, làm ơn, làm ơn
đi.”
Xung quanh cô là một cơn lốc các hoạt động. Sachs nghe những giọng
nói về vũ khí, trực thăng, xe hơi, các nhà đàm phán chống khủng bố.
Gọi điện thoại, gõ bàn phím, trải bản đồ, kiểm tra súng ngắn.
Perkins đang nghe điện, nói chuyện với những người giải cứu con tin
hoặc Thị trưởng, hoặc Giám đốc. Có thể là tổng thống. Ai biết được?
Sachs nói với Dellray: “Tôi không biết là dấu tay lại quan trọng đến
thế.”
“Luôn là chuyện lớn. Ít nhất là khi có AFIS. Trước kia ta chỉ lấy dấu
tay để diễn. Để nạn nhân và báo giới biết là chúng ta có làm gì đó.”
“Anh đùa a?”
“Không, không đùa tẹo nào. Ví dụ Thành phố New York. Cô đi tìm
khan – tức là khi cô chẳng có đối tượng nào – cô đi tìm khan theo kiểu
thủ công, một kỹ thuật viên sẽ mất năm mươi năm để xem hết thẻ dấu
tay. Không đùa đâu. Còn tìm tự động? Mười lăm phút. Thường thì cô
sẽ nhận dạng được đối tượng với xác suất khoảng một, hai phần trăm.
Giờ ta đạt được gần hai mươi, hai mươi hai phần trăm. Ồ, dấu tay quý
như vàng đấy. Cô nói cho Rhyme biết chưa?”
“Anh ta biết, chắc chắn thế.”
“Thế mà anh ta không khua khoắng tất cả mọi người à? Ôi trời ơi, anh
chàng này đang trượt dốc.”
“Này, sĩ quan”, SAC Perkins gọi, giữ tay trên điện thoại. “Tôi muốn cô
điền luôn thẻ đăng ký vật chứng. Tôi muốn chuyển vật chứng cho
PERT.”
PERT. Sachs nhớ Lincoln đã từng là người được Cục thuê để làm việc
này. “Tôi sẽ làm. Chắc chắn rồi.”
“Mallory, Kemple, đưa chỗ vật chứng này đến văn phòng và đưa cho
vị khách của chúng ta vài tờ biểu đăng ký vật chứng. Cô có bút không,
sĩ quan?”
103 AFIS: Xem phần phụ lục.
“Có.”
Cô đi theo hai sĩ quan sang một văn phòng nhỏ, căng thẳng bấm cây
bút bi trong khi họ đi tìm kiếm và quay lại với một xấp biểu đăng ký vật
chứng do Cục ban hành. Cô ngồi xuống, mở gói.
Giọng nói vang lên đằng sau cô là của Dellray phiền muộn. Một nhân
cách đang cố gắng bật ra. Trên đường đến đây, ai đó đã gọi anh ta là
Kỳ nhông và cô đang dần hiểu ra lý do.
“Chúng tôi gọi Perkins là Dict Lớn. Không phải là ‘dick104’ như cô
hiểu đâu.
‘Dict’ như trong từ điển ấy. Nhưng đừng lo cho anh ta. Anh ta thông
minh, hơn thế nữa dây của anh ta có thể giật đến tận Washington, là
chỗ cần giật trong những vụ như thế này.” Dellray đưa điếu thuốc là lên
mũi ngửi, tựa như đó là điếu xì gà hảo hạng. “Cô biết không sĩ quan,
cô gian như cáo khi làm điều cô đang làm đấy.”
“Là gì?”
“Ra khỏi Ban Tội phạm Nguy hiểm. Cô không muốn nó đâu.” Khuôn
mặt đen đúa gầy gò, bóng nhoáng, chỉ có chút nếp nhăn ở mắt, lần đầu
tiên trông có vẻ chân thành kể từ khi cô gặp anh ta. “Việc tốt nhất cô
từng làm, là chuyển sang Phòng Quan hệ Công chúng. Ở đó cô sẽ có
ích và công việc không biến cô thành bụi. Chắc chắn đấy là điều sẽ xảy
ra. Công việc biến cô thành bụi.”
Một trong những nạn nhân cuối cùng chịu sự áp bức điên loạn
của James Schneider, chàng trai trẻ tuổi tên là Ortega, đến Manhattan
từ Thành phố Mexico, nơi bạo loạn chính trị (cuộc nổi dậy của một kẻ
theo thuyết dân túy bắt đầu trước đó một năm) đã làm cho công việc
làm ăn trở nên khó khăn. Tuy nhiên, doanh nhân tham vọng này đã biến
mất khi tới thành phố chưa được một tuần. Người ta thấy anh ta lần
cuối cùng là trước cửa một quán rượu ở khu West Side, các cơ quan
chức năng ngay lập tức nghi ngờ rằng anh ta lại là một nạn nhân khác
của Schneider. Đáng buồn điều đó lại là sự thực.
Kẻ Tầm Xương lượn xe trên phố khoảng mười lăm phút quanh Đại
học New York, Quảng trường Washington. Rất nhiều người lang thang
ngoài phố, nhưng chủ yếu là trẻ con. Sinh viên theo các khóa học hè.
Trẻ trượt ván. Không khí vui vẻ, lạ thường. Ca sĩ, nghệ nhân tung
hứng, nhào lộn. Những thứ đó làm hắn nhớ đến “bảo tàng” dưới Phố
Bowery, rất phổ biến trong những năm 1800. Đó tất nhiên không phải
là những bảo tàng mà chỉ là những con đường có mái vòm, ở đó tràn
ngập những buổi trình diễn hài kịch tục tĩu, triển lãm quái vật, những tên
liều mạng và những người bán dạo bán đủ mọi thứ từ bưu ảnh của
Pháp cho tới những mẩu gỗ trên Thánh giá thiêng liêng.
Hắn ta đi chậm lại hai lần nhưng không có ai cần đi taxi, hoặc đủ tiền
để đi taxi. Hắn quay về phía nam.
104 Dick: Dương vật.
Schneider buộc đá vào chân Señor Ortega105 và lăn anh ta xuống
dưới cầu cảng ra sông Hudson để nước và cá sẽ biến cơ thể anh ta
thành xương. Thi thể được tìm thấy hai tuần sau khi anh ta biến mất và
người ta chẳng có cách nào biết được nạn nhân bất hạnh còn sống
hoặc hoàn toàn tỉnh táo khi bị vứt xuống nước hay không. Tuy nhiên,
người ta vẫn nghi ngờ như vậy. Vì Schneider đã tàn bạo cắt ngắn dây
trói để cho mặt của Señor Ortega chỉ cách mặt nước vài inch – tay
anh ta chắc chắn đã điên loạn khua khoắng khi anh ta nhìn tầng không
khí cứu tinh bên trên.
Kẻ Tầm Xương nhìn thấy một chàng thanh niên bệnh hoạn đứng trên
vỉa hè. AIDS, hắn nghĩ. Nhưng xương cốt của mày còn mạnh khỏe –
và thật hoàn mỹ. Xương cốt của mày sẽ sống mãi... Anh ta không cần
đi taxi và khi xe đi ngang qua, Kẻ Tầm Xương thèm thuồng nhìn anh ta
qua kính chiếu hậu.
Hắn quay lại đúng lúc để vòng xe tránh một người đàn ông đứng tuổi
vừa bước xuống đường, cánh tay gầy gò của ông ta giơ ra gọi xe.
Người đàn ông nhảy lui, nhanh hết mức có thể, và chiếc taxi phanh kít,
vượt qua ông ta rồi dừng lại.
Người đàn ông mở cửa sau xe nghiêng người vào trong. “Anh phải nhìn
xem mình đi đâu chứ.” Ông ta nói câu này như một lời hướng dẫn.
Không chút giận dữ.
“Xin lỗi”, Kẻ Tầm Xương nói, vẻ hối lỗi.
Người đàn ông đứng tuổi ngần ngừ một chút, nhìn quanh phố nhưng
không thấy chiếc taxi nào khác. Ông ta trèo vào xe.
Cánh cửa đóng sập.
Nghĩ: già và gầy. Da chắc trượt trên xương như lụa. “Đi đâu đấy?” Hắn
nói.
“East Side.”
“Có ngay”, hắn nói trong khi trùm chiếc mặt nạ trượt tuyết lên đầu và
đánh tay lái sang phải. Chiếc xe lao về phía tây.
105 Señor Ortega: Ngài Ortega.
III
CON GÁI CỚM TUẦN TRA
Đảo lộn, đảo lộn, đảo lộn! Đó là châm ngôn của New York... Xương
cốt của tổ tiên chúng ta không được phép nằm yên trong một phần tư
thế kỷ, và một thế hệ con cháu đang cố tình dỡ bỏ tất cả những di vật
của những người đi trước.
PHILIP HONE
THỊ TRƯỞNG NEW YORK, NHẬT KÝ, 1845
MƯỜI TÁM
10:15 PM thứ Bảy đến 5:30 AM Chủ nhật
“Rót thêm đi, Lon.”
Rhyme uống bằng ống hút, Sellitto uống bằng cốc. Cả hai đều uống
whisky không pha. Viên thám tử ngồi trên chiếc ghế mây kêu kin kít và
Rhyme cho rằng anh ta trông hơi giống Peter Lorre trong phim
Casablanca.
Terry Dobyns đã về sau khi đưa ra vài nhận định tâm lý gay gắt về
bệnh tự yêu bản thân và về những người được chính phủ liên bang thuê
mướn, Jerry Banks cũng đã ra về. Mel Cooper đang vất vả tháo và
đóng gói thiết bị của anh ta.
“Này Lincoln, ngon quá.” Sellitto nhấp ly whisky Scotch của mình.
“Mẹ kiếp, tôi làm gì có tiền mua cái thứ này. Nó bao nhiêu tuổi?”
“Tôi nghĩ loại này khoảng hai mươi năm.”
Viên thám tử nhìn chất rượu nâu óng. “Quý thật, nếu đây là đàn bà, thì
cô ta đã trưởng thành, rồi thì sau đó.”
“Nói tôi nghe một chuyện, Lon. Polling? Cơn điên của anh ta ấy mà.
Câu chuyện đó là thế nào nhỉ?”
“Bé Jimmy?” Sellitto cười. “Giờ thì anh ta đang gặp rắc rối. Anh ta là
người can thiệp để loại Peretti ra khỏi vụ này và giữ nó xa tầm tay của
FBI. Thực sự là anh ta liều mạng. Anh ta cũng đòi cả anh, việc này tốn
chút công sức. Cần phải tác động mấy chỗ. Tôi không phải nói anh.
Chỉ là một thường dân trong một vụ nóng thế này.”
“Polling yêu cầu tôi à? Tôi tưởng đấy là sếp.”
“Đúng. Nhưng Polling làm thầy dùi cho ông ta ngay từ đầu. Anh ta gọi
ngay khi nghe về vụ bắt cóc và ở hiện trường lại có mấy vật chứng
ma.”
Và anh ta muốn có mình? Rhyme băn khoăn. Thật lạ. Rhyme không có
liên hệ gì với Polling suốt mấy năm qua – từ vụ giết cảnh sát mà anh bị
thương. Polling làm vụ này và cuối cùng cũng tóm được Dan Shepherd.
“Cậu có vẻ ngạc nhiên”, Sellitto nói.
“Về việc anh ta yêu cầu tôi? Có chứ. Chúng tôi không hợp nhau lắm. Ít
nhất là trước đây.”
“Sao lại thế?”
“Tôi 13-43106 anh ta.”
Mẫu đơn khiếu nại của NYPD.
“Năm, sáu năm trước khi anh ta còn là một viên thiếu úy, tôi thấy anh
ta thẩm vấn nghi phạm ngay tại hiện trường đã được bảo vệ. Làm nó bị
ô nhiễm. Tôi nổi đóa. Cho
106 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như một động từ.
chuyện này vào báo cáo và nó được trích dẫn trong một lần đánh giá
nội bộ của anh ta –
lần anh ta bắn nghi phạm không có vũ khí.”
“Thế à, thế thì tôi nghĩ cậu đã được tha thứ, vì anh ta đã rất cần cậu.”
“Lon, làm ơn gọi điện giúp tôi được chứ?”
“Tất nhiên.”
“Không”, Thom vừa nói vừa lấy chiếc điện thoại trên tay viên thám tử.
“Cứ để anh ta tự làm.”
“Tôi không có thời gian học sử dụng nó.” Rhyme nói, hất đầu về phía
thiết bị quay số ECU mà Thom đã nối lúc trước.
“Anh không dành thời gian. Khác biệt lớn đấy. Anh gọi cho ai?”
“Berger”
“Không, anh sẽ không gọi”, Thom nói. “Muộn rồi.”
“Tôi đã nhìn đồng hồ”, Rhyme lạnh lùng trả lời. “Gọi cho ông ấy. Ông
ấy ở One
Police Plaza.”
“Không.”
“Tôi bảo cậu gọi cho ống ấy.”
“Đây.” Người trợ lý quăng một mẩu giấy xuống cạnh bàn ở xa nhưng
Rhyme có thể đọc dễ dàng. Chúa có thể tước của Lincoln Rhyme
nhiều thứ, nhưng Ngài đã ban tặng cho anh đôi mắt của một chàng trai.
Anh quay số điện thoại bằng cằm và cái cần điều khiển. Dễ hơn anh
nghĩ nhưng anh cố tình rình rang và lầm bầm khi làm. Bực mình, Thom
lờ anh đi và xuống cầu thang.
Berger không có nhà. Rhyme bỏ máy, điên tiết vì không thể dập được
điện thoại thật mạnh.
“Có vấn đề à?” Sellitto hỏi. “Không”, Rhyme càu nhàu.
Ông ta đâu nhỉ? Rhyme bực mình nghĩ. Muộn rồi. Lúc này Berger phải
về phòng khách sạn rồi mới đúng. Rhyme bị châm chọc bởi một cảm
giác lạ lùng – ghen tị vì ông
bác sĩ tử thần của anh đang giúp người khác được chết.
Sellitto bất ngờ nhẹ nhàng chép miệng. Rhyme ngước nhìn. Viên cảnh
sát đang ăn thanh kẹo. Anh quên mất rằng đồ ăn sẵn là thực đơn chính
của anh chàng khổng lồ này khi họ còn làm việc với nhau. “Tôi đang
nghĩ. Anh nhớ Bennie Ponzo không?”
“Đội đặc nhiệm OC, mười năm trước?” “Có.”
Rhyme thích làm việc với tội phạm có tổ chức. Bọn này là đội chuyên
nghiệp. Hiện trường vụ án đầy thách thức. Nạn nhân cũng hiếm khi vô
tội.
“Ai thế?” Mel Cooper hỏi.
“Một tay giết thuê từ Bay Ridge”, Sellitto nói. “Anh có nhớ sau khi ta
tóm hắn, bánh kẹp kẹo.”
Rhyme cười, gật đầu.
“Chuyện thế nào?” Cooper hỏi.
Sellitto nói: “Được rồi. Khi đó chúng tôi ở Central Booking. Lincoln,
tôi và mấy người nữa. Và Bennie, cậu nhớ không, một anh chàng to
lớn, hắn đang ngồi gập cong người, đói meo. Bất ngờ hắn nói: ‘Này
chúng mày, tao đói. Tao muốn một cái bánh kẹp kẹo.’ Chúng tôi nhìn
nhau ngơ ngác, rồi tôi hỏi: ‘Bánh kẹp kẹo là cái gì?’ Hắn nhìn tôi như
thể tôi vừa rơi trên Sao Hỏa xuống rồi nói: ‘Thế mày nghĩ nó là cái mẹ
gì? Mày lấy thanh kẹo Hersey, mày kẹp nó vào giữa hai miếng bánh mì
rồi chén. Đấy là bánh kẹp kẹo.”
Họ cười vang. Sellitto đưa thanh kẹo cho Cooper, anh ta lắc đầu, sau
đó đưa cho Rhyme. Tự nhiên anh thấy muốn cắn một miếng. Một năm
nay rồi anh chưa được ăn chocolate. Anh tránh những thức ăn loại này
– đường, kẹo. Những thức ăn rắc rối. Những thứ nhỏ nhặt trong cuộc
đời trở thành gánh nặng lớn nhất, những thứ làm anh kiệt sức và đau
khổ nhất. Được, anh sẽ chẳng bao giờ còn được đi lặn hay leo núi
Alps. Thế thì sao? Bao nhiêu người khác cũng chẳng làm những trò
này. Nhưng mọi người đều đánh răng. Và đến nha sĩ, hàn răng, đón tàu
về nhà. Mọi người xỉa răng để moi một mẩu lạc giắt trong răng hàm ra
khi không ai để ý.
Tất cả mọi người, trừ Lincoln Rhyme.
Anh lắc đầu với Sellitto và hút một hơi dài whisky Scotch. Ánh mắt anh
quay lại màn hình máy tính, nhớ tới bức thư tạm biệt anh đang viết cho
Blaine khi Sellitto và Banks làm anh bị gián đoạn sáng hôm đó. Anh
vẫn còn muốn viết thêm một vài bức thư.
Người mà anh dừng không viết cho nữa là Peter Taylor, chuyên gia cột
sống. Phần lớn thời gian, Rhyme và Taylor không nói chuyện về tình
hình bệnh nhân mà họ nói về cái chết. Ông bác sĩ này là người phản đối
kịch liệt việc chết tự nguyện có trợ giúp. Rhyme thấy anh nợ ông ta một
bức thư giải thích vì sao anh quyết định tự tử.
Và Amelia Sachs?
Con gái cớm tuần tra cũng sẽ nhận được một lời nhắn, anh quyết định
thế. Người tàn tật rộng lượng, người tàn tật tử tế, người tàn tật sắt
đá…
Người tàn tật chẳng là gì nếu không tha thứ…
Amelia thân mến:
Amelia thân mến của tôi: Amelia:
Sĩ quan Sachs thân mến:
Vì chúng ta đã có vinh dự được làm việc cùng nhau, tôi muốn nhân dịp
này để nói rằng mặc dù tôi coi cô là tên Judas phản bội nhưng tôi đã
tha thứ cho cô. Hơn nữa, tôi chúc cô thành công trong sự nghiệp tương
lai của cô với tư cách là kẻ hôn đít báo chí…
“Chuyện của cô ta như thế nào, Lon? Sachs ấy mà.”
“Ngoài việc cô ta có tính cách kinh khủng mà tôi không biết ra?” “Cô
ta kết hôn chưa?”
“Không. Khuôn mặt và dáng người như thế thì chắc chắn anh sẽ nghĩ
cô ta đã có một anh chàng đẹp giai nào đó rồi. Nhưng cô ta thậm chí
còn chưa có người yêu. Chúng
tôi nghe nói vài năm trước cô ta có một anh chàng, nhưng chẳng bao
giờ cô ta nói đến
chuyện đó.” Anh ta hạ giọng: “Có tin đồn cô ta là ô môi. Nhưng tôi
không biết gì hơn thế
– cuộc sống xã hội của tôi chỉ là bắt gái ở hiệu giặt đồ vào tối thứ Bảy.
Này, có tác dụng
đấy. Tôi còn nói gì được nữa?”
Cô phải học cách bỏ qua người đã chết...
Rhyme nghĩ về vẻ mặt cô khi anh nói điều đó với cô. Như thế là thế
nào nhỉ? Sau đó anh thấy giận dữ với bản thân vì đã tốn thời gian nghĩ
đến cô. Và làm thêm một hớp whisky lớn nữa.
Chuông cửa reo, sau đó là tiếng chân bước trên cầu thang. Rhyme và
Sellitto nhìn ra cửa. Tiếng giày bốt của một người đàn ông cao lớn,
mặc quần bó do thành phố cấp và đội chiếc mũ bảo vệ màu xanh
dương. Một trong những cảnh sát chọn lọc của NYPD. Anh ta đưa
cho Sellitto một chiếc phong bì kềnh càng và quay xuống cầu thang.
Viên thám tử mở phong bì. “Hãy nhìn chúng ta có gì này.” Anh ta đổ
những thứ bên trong ra bàn. Rhyme bực dọc ngước lên. Ba hoặc bốn
tá túi nhựa đựng chứng cứ, tất cả đều dán nhãn. Những cái túi đựng
một mẩu giấy bóng kính từ túi đựng chân bê mà họ đã gửi đội ESU đi
mua.
“Một tin nhắn từ Haumann.” Anh ta đọc: “Gửi: L. Rhyme, L. Sellitto.
Từ: B. Haumann, TSRF.”
“Cái quái gì thế?” Cooper hỏi. Sở cảnh sát là tổ của các loại chữ viết
tắt và rút gọn. RMP – tuần tra di động từ xa, thực ra là xe tuần tra.
IED – thiết bị nổ ứng tác, tức là một quả bom. Nhưng TSRF là một
chữ viết tắt mới. Rhyme nhún vai.
Sellitto tiếp tục đọc, vừa đọc vừa chặc lưỡi. “Đội đặc nhiệm chiến
thuật siêu thị. Về việc: Chân bê. Lần tìm kiếm toàn thành phố phát hiện
được bốn mươi sáu đối tượng, tất cả đều bị bắt và bị vô hiệu hóa với
nỗ lực tối thiểu. Chúng tôi đã đọc cho chúng nghe quyền của mình và
chuyển chúng đến nơi giam giữ là nhà bếp của mẹ sĩ quan
T.P.Giancarlo. Sau khi thẩm vấn, nửa tá nghi phạm sẽ được chuyển
cho các anh giám hộ. Đã được đun nóng ba trăm năm mươi độ trong
ba mươi phút.”
Rhyme cười. Sau đó thêm một ngụm whisky, thưởng thức mùi vị. Đó là
một điều anh sẽ nhớ, hơi thở ám khói của rượu. (Mặc dù trong sự bình
yên của giấc ngủ vô cảm, làm thế nào mà ta nhớ được điều gì đó?
Giống như chứng cứ, lấy đi tiêu chuẩn tối thiểu, thế là anh chẳng còn gì
để đánh giá sự mất mát của mình; anh sẽ mãi mãi an toàn.)
Cooper xòe mấy mẫu ra. “Bốn mươi sáu mẫu giấy bóng kính. Mỗi
chuỗi siêu thị và các cửa hàng độc lập lớn một mẫu.”
Rhyme nhìn các bản mẫu. Những thứ này rất tốt để phân loại. Phân
loại đơn lẻ giấy bóng kính có thể là một công việc rất khó khăn – mẩu
giấy được tìm thấy trong manh mối xương bê chưa chắc đã trùng với
các mẫu giấy này. Tuy nhiên, vì các công ty
mẹ thường mua vật tư tương đồng cho các cửa hàng trong chuỗi của
họ, anh có thể biết
823 mua thịt bê ở chuỗi nào và thu hẹp được các khu vực sinh sống
của hắn. Có thể anh
phải gọi nhóm vật chứng của Cục và…
Không, không. Nên nhớ: bây giờ đấy là vụ chiết tiệt của họ.
Rhyme ra lệnh cho Cooper: “Gom chúng lại và gửi cho những người
anh em liên bang của chúng ta.”
Rhyme định tắt máy tính nhưng ngón tay đôi khi vụng về của anh lại
bấm nhầm nút. Loa phóng thanh phát ra một tràng thanh khóc dài ầm ĩ.
“Mẹ kiếp”, Rhyme lầm bầm khó chịu. “Máy móc chết tiệt.”
Không thoải mái với cơn giận bất ngờ của Rhyme, Sellitto liếc nhìn cốc
của mình và đùa: “Quỷ thật, Rhyme, rượu ngon thế này chắc phải làm
anh say đấy.”
“Tin mới đây”, Thom chua chát trả lời. “Anh ta say rồi.”
Hắn đỗ xe gần một đường ống thoát nước khổng lồ.
Lúc trèo ra khỏi xe, hắn có thể ngửi thấy mùi nước hôi thối, nhầy nhụa,
chín nẫu. Họ đang ở trong một ngõ cụt dẫn đến một ống dẫn nước thải
rộng chạy từ Xa lộ West Side xuống sông Hudson. Ở đây không ai có
thể nhìn thấy họ.
Kẻ Tầm Xương quay xe lại, tận hưởng cảnh tượng người tù nhân lớn
tuổi của hắn. Như hắn đã tận hưởng cảnh tượng cô gái bị hắn trói
trước đường ống hơi nước. Và cánh tay lắc lư cạnh đường ray sáng
sớm ngày hôm nay.
Nhìn chăm chăm vào đôi mắt đang hoảng sợ. Người đàn ông này gầy
hơn hắn nghĩ. Tóc bạc hơn. Tóc rối bù.
Cơ thể già nhưng xương cốt trẻ…
Người đàn ông co rúm tránh xa hắn, hai cánh tay bắt chéo phòng vệ
trước bộ ngực lép của ông ta.
Mở cửa xe, Kẻ Tầm Xương gí súng lục vào xương ngực người đàn
ông.
“Xin ông”, tù nhân của hắn thì thầm, giọng ông ta run run. “Tôi không
có nhiều tiền nhưng ông có thể lấy hết. Ta có thể ra máy ATM. Tôi
sẽ…”
“Ra ngoài.”
“Xin ông đừng hại tôi.”
Kẻ Tầm Xương lấy đầu ra hiệu. Người đàn ông yếu đuối kinh hoàng
nhìn quanh rồi tiến lên phía trước. Ông ta đứng bên cạnh xe, rúm ró,
hai tay vẫn khoanh trước ngực, nổi gai ốc mặc dù trời nóng gay gắt.
“Sao ông làm thế?”
Kẻ Tầm Xương lùi lại và tìm chiếc còng tay trong túi. Vì đeo găng tay
dày nên phải mất vài giây hắn mới tìm thấy sợi xích crom. Khi lôi chiếc
còng tay ra, hắn nghĩ hắn có nhìn thấy một chiếc thuyền bốn buồm chạy
trên sông Hudson. Dòng chảy ngược ở đây không mạnh như sông
Đông, nơi các con tàu phải tốn rất nhiều thời gian để đi từ cầu tàu
East, Montgomery và Out Ward lên phía Bắc. Hắn liếc mắt. Không
phải, từ từ đã – đấy không phải thuyền buồm mà chỉ là một chiếc tàu
có động cơ sang trọng, đầy đám thị dân trưởng giả.
Vươn đôi tay bị còng ra trước, người đàn ông tóm chặt áo kẻ bắt giữ
mình. “Xin ông. Tôi đang đến bệnh viện. Vì thế tôi mới gọi ông. Tôi bị
đau ngực.”
“Câm mồm.”
Bất ngờ, người đàn ông chộp lấy mặt Kẻ Tầm Xương, hai cánh tay đồi
mồi nắm lấy cổ và vai hắn bóp mạnh. Một cơn đau lan tỏa từ chỗ
móng tay màu vàng của ông ta đâm vào. Với một cơn bực tức bùng
phát, hắn giằng tay nạn nhân ra và thô bạo còng tay ông ta.
Dán một miếng băng dính vào miệng người đàn ông. Kẻ Tầm Xương
kéo ông ta trên con đường bờ sông trải sỏi tới miệng ống, đường kính
khoảng bốn feet. Hắn dừng lại, xem xét người đàn ông.
Lột mày đến tận xương thật là dễ.
Xương cốt… chạm vào nó. Nghe tiếng nó.
Hắn nhấc tay người đàn ông lên. Hai con mắt kinh hoàng nhìn lại hắn,
môi ông ta run rẩy. Kẻ Tầm Xương vuốt ve những ngón tay của người
đàn ông, bóp chặt những đốt ngón tay ông ta trong những đốt ngón tay
hắn (ước gì hắn có thể tháo găng tay, nhưng hắn không dám). Sau đó
hắn nhấc bàn tay người đàn ông lên, áp chặt nó vào tai.
“Gì thế?...”
Bàn tay trái hắn nắm ngón tay út của người tù nhân và từ từ kéo cho
đến khi hắn nghe thấy tiếng xương kêu lách cách. Một âm thanh ngọt
ngào. Người đàn ông kêu thét lên, nhưng tiếng hét bị dập tắt qua miếng
băng dính. Và rơi xuống đất.
Kẻ Tầm Xương kéo ông ta đứng thẳng dậy và dẫn người đàn ông
bước đi vấp váp xuống tới miệng ống. Hắn đẩy người đàn ông lên phía
trước.
Họ nổi lên phía dưới một cây cầu cảng cũ kỹ, mục nát. Một nơi kinh
tởm, vung vãi đầy xác thú vật và cá đang thối rữa, rác rưởi trên những
hoàn đá, và lớp bùn tảo bẹ mà xanh xám. Dưới nước là một đám rong
biển nổi lên, chìm xuống, chất thành đống như một người béo phì. Mặc
dù cả thành phố đang phải chịu cái nóng buổi tối, nhưng dưới này lại
lạnh như một ngày tháng Ba.
Señor Ortega…
Hắn dìm người đàn ông xuống sông, còng ông ta vào trụ cầu cảng, bóp
cho cái còng siết chặt vào cổ tay ông ta lần nữa. Khuôn mặt xám ngoét
của người đàn ông còn cách mặt nước khoảng ba feet. Kẻ Tầm Xương
thận trọng đi trên những hòn đá trơn tuột về phía ống cống. Hắn quay
lại, ngừng một chút để nhìn, rồi tiếp tục nhìn. Hắn không quan tâm liệu
cớm có tìm được những nạn nhân khác hay không. Hanna, người đàn
bà trên taxi. Nhưng người này, Kẻ Tầm Xương hy vọng chúng không
kịp thời tìm được ông ta. Thực sự là họ đừng nên tìm thấy ông ta. Để
hắn có thể quay lại sau một hoặc hai tháng, kiểm tra xem con sông
thông minh này có cọ sạch được bộ xương hay không.
Quay lại con đường trải sỏi, hắn tháo mặt nạ và để lại manh mối cho
hiện trường tiếp theo, cách nơi hắn đỗ xe không xa. Hắn giận dữ, điên
cuồng với bọn cớm, vì vậy lần này hắn giấu manh mối đi. Và hắn còn
để lại một điều ngạc nhiên đặc biệt. Một thứ mà hắn đã luôn giữ cho
chúng. Kẻ Tầm Xương quay lại chỗ chiếc taxi.
Gió thổi nhẹ, mang theo mùi của con sông ô nhiễm. Tiếng xào xạc của
cỏ, và như thường lệ, cả tiếng xoẹt của xe cộ.
Nghe như tiếng giấy ráp cọ trên xương.
Hắn dừng lại và lắng nghe âm thanh đó, ngẩng đầu như thể hắn đang
nhìn lên hàng tỷ ngọn đèn của các tòa nhà, kéo dài ra phía bắc như một
thiên hà hình chữ nhật. Đúng lúc đó xuất hiện một người phụ nữ chạy
rất nhanh trên đường chạy cạnh đường cống và thiếu chút nữa thì va
vào hắn.
Mặc quần soóc và áo thể thao tím, người phụ nữ tóc nâu gầy gò nhảy
sang bên để tránh đường hắn. Cô ta dừng lại, thở hổn hển, lâu mồ hôi
trên mặt. Dáng đẹp – bắp thịt căng đầy – nhưng không xinh. Mũi
khoằm, miệng rộng, da lem nhem.
Nhưng phía dưới thì…
“Anh không được… Anh không nên đỗ xe ở đây. Đây là đường
chạy…”
Giọng nói cô ta nhỏ dần khi nỗi sợ hãi dâng lên trong ánh mắt cô, ánh
mắt chuyển từ mặt hắn sang chiếc taxi, rồi tới chiếc mặt nạ trượt tuyết
vo viên trong tay hắn.
Cô ta biết hắn là ai. Hắn mỉm cười khi nhìn thấy xương đòn của cô ta
nổi rõ lên. Mắt cá chân phải của cô ta hơi xê dịch, chuẩn bị chạy đi.
Nhưng hắn tóm được cô
ta trước. Hắn vờ cúi xuống để chặn cô ta. Cô ta thét lên một tiếng, hạ
tay xuống để cản hắn, Kẻ Tầm Xương liền đứng vụt dậy, đánh khuỷu
tay vào thái dương cô. Một tiếng cắc vang lên như tiếng vụt thắt lưng.
Cô ta ngã vật xuống sỏi, nằm im. Hoảng sợ, Kẻ Tầm Xương quỳ sụp
xuống đỡ lấy đầu cô ta. Hắn ta rên rỉ: “Không, không, không…” Giận
dữ với chính mình vì đánh quá mạnh, thực sự đau khổ vì hắn có thể đã
làm vỡ một hộp sọ hoàn hảo nằm phía dưới mái tóc rối bù và một
khuôn mặt tầm thường.
Amelia Sachs điền thêm một thẻ COC107 nữa rồi đề nghị giải lao. Cô
tạm dừng, đi tìm máy bán hàng tự động và mua một cốc cà phê có mùi
vị kinh khủng. Cô quay lại cái văn phòng không cửa sổ, nhìn những
chứng cứ mà cô thu lượm được.
Có thể vì những điều cô phải trải qua để thu thập chứng cứ – các khớp
xương của cô đau nhức và cô vẫn còn rùng mình mỗi khi nghĩ đến cảnh
tượng thi thể bị chôn sáng nay, một cánh tay máu me, cảnh tượng da
thịt lủng lẳng của T.J. Colfax. Cho đến hôm nay thì vật chứng không có
ý nghĩa gì với cô. Vật chứng chỉ là những bài học chán ngán trong
những buổi chiều mùa xuân buồn ngủ ở học viện. Vật chứng là toán
học, là những đồ thị và biểu đồ, là khoa học. Nó chết.
107 COC: Xem phần phụ lục.
Không, Amelia Sachs sẽ là cảnh sát của công chúng. Tuần tra, xử lý
bọn du côn, dọn dẹp ma túy. Truyền bá sự tôn trọng pháp luật – như
cha cô đã làm. Hay nhét chúng vào. Như Nick Carelli đẹp trai, cựu
chiến binh năm năm, ngôi sao của Tội phạm Đường phố, cười cả thế
giới với nụ cười mày có vấn đề gì thế? của anh.
Đó là con người mà cô muốn trở thành.
Cô nhìn cái lá khô giòn màu nâu mà cô tìm thấy trong đường hầm bãi
chăn gia súc. Một trong những manh mối 823 để lại cho họ. Và cái
quần lót. Cô nhớ ra đặc vụ liên bang đã lấy vật chứng trước khi
Cooper khám nghiệm xong bằng cái máy... Tên nó là gì nhỉ? Sắc ký
khí? Cô tự hỏi chất lỏng trên lớp vải bông đó là gì?
Nhưng những ý nghĩ đó dẫn cô đến Lincoln Rhyme và anh ta lại là
nhân vật mà cô không hề muốn nghĩ tới lúc này. Cô tiếp tục đăng ký
nốt những vật chứng còn lại. Mỗi thẻ COC có những dòng kẻ trống để
liệt kê danh sách những người quản lý vật chứng, theo thứ tự từ lúc
phát hiện được trên hiện trường cho tới khi xử án. Sachs đã có vài lần
chuyển giao vật chứng và tên cô cũng xuất hiện trên các tấm thẻ COC.
Nhưng đó là lần đầu tiên A. Sachs, NYPD 5885 nằm ở dòng đầu tiên.
Cô nhấc cái túi nhựa đựng chiếc lá lên lần nữa.
Hắn đã sờ vào chiếc lá này. Hắn. Kẻ đã giết T.J. Colfax. Kẻ cầm cánh
tay mập mạp của Monelle Gerger và cắt sâu vào đó. Kẻ lúc này đang
tìm kiếm nạn nhân khác – nếu như hắn chưa tóm được một ai.
Kẻ chôn sống người đàn ông sáng ngày hôm nay, khi anh ta vẫy tay
cầu xin lòng nhân từ mà anh không bao giờ nhận được.
Cô nghĩ tới Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Con người khi giao tiếp,
ai cũng sẽ chuyển cho người khác thứ gì đó. Dù lớn hay nhỏ. Và hầu
hết mọi người lại không biết đến điều này.
Liệu 823 có để lại gì trong cái lá này không? Một tế bào da? Một giọt
mồ hôi? Thật ngạc nhiên khi cô cảm thấy sự rung động của niềm phấn
khích, của nỗi sợ hãi, như thể tên sát nhân đang ở ngay đây, trong căn
phòng nhỏ xíu thiếu không khí này cùng với cô.
Quay lại với những tấm thẻ COC. Cô điền chúng trong khoảng mười
phút và khi hoàn thành chiếc thẻ cuối cùng thì cánh cửa bật mở làm cô
giật mình. Cô quay lại.
Fred Dellray đứng trong khung cửa, bộ vét màu xanh lá của anh ta xộc
xệch, chiếc áo sơ mi được hồ cứng lúc này nhàu nát. Những ngón tay
lần sờ điếu thuốc lá cài ở tai. “Ra ngoài một, hai phút được không, sĩ
quan. Thời điểm thanh toán đã tới. Tôi nghĩ cô cũng muốn có mặt ở
đó.”
Sachs đi theo anh ta vào một hành lang ngắn, cách anh chàng đang
nhảy cẫng lên này hai bước.
“Đã có kết quả AFIS.” Dellray nói.
Phòng chiến sự trông bận bịu hơn bao giờ hết. Các đặc vụ không mặc
áo vét lượn lờ bên bàn làm việc. Họ đều được trang bị vũ khí – những
khẩu Sig-Sauer và Smith & Weson tự động, mười mm và .45s. Nửa tá
đặc vụ đặc đang tập hợp quanh màn hình máy tính bên cạnh máy
Opti-Scan.
Sachs không thích cách Dellray lấy vụ này, nhưng cô buộc phải công
nhận đằng sau cái vẻ ngoài của một anh chàng mê nhạc jazz dẻo mỏ,
Dellray là một cảnh sát rất giỏi. Các đặc vụ – trẻ cũng như già – đến
hỏi ý kiến anh ta và anh ta kiên nhẫn trả lời họ. Anh ta giật điện thoại,
phỉnh phờ hoặc nhiếc móc người phía đầu dây bên kia để có được thứ
anh ta cần. Thi thoảng, anh ta nhìn quanh căn phòng đang sôi sục và
gầm lên: “Ta sẽ tóm được cái thằng khốn đó chứ? Chắc chắn rồi, ta sẽ
tóm được nó”. Và mọi người ném cho anh ta những cái nhìn khó chịu,
nhưng đều công nhận nếu có ai bắt được hắn, người đó phải là Dellray.
“Đây rồi, có rồi đây”, một đặc vụ nói.
Dellray quát: “Tôi muốn có một đường dây mở đến DMV108 New
York, Jersey và Connecticut. Cả bộ phận Cải tạo và Tuần tra. INS
nữa. Bảo họ chờ yêu cầu nhận dạng. Những người khác phải đợi.”
Các đặc vụ tỏa ra và bắt đầu gọi điện thoại. Màn hình máy tính có tín
hiệu.
Cô không thể tin rằng Dellray lại có thể thực sự chắp tay cầu nguyện.
Im lặng tuyệt đối trong phòng.
“Có hắn rồi!” Đặc vụ đang ngồi bên bàn phím la lên.
“Không còn nghi phạm nữa rồi”, giọng Dellray như hát, anh ta cúi nhìn
màn hình. “Mọi người nghe đây. Ta có tên rồi: Victor Pietrs. Sinh ở
đây, năm 1948. Cha mẹ hắn ta đến từ Belgrade. Như vậy là chúng ta
có mối liên hệ với người Serbia. Nhận dạng được New York D of C
cung cấp. Đã có tiền sử buôn ma túy, tấn công, có một vụ giết người.
Đã lĩnh án. Được rồi, nghe này – có bệnh án tâm thần, ba lần bị buộc
nhập viện. Bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần Bellevue và Manhattan.
Ngày ra viện cuối cùng là ba năm trước. LKA Washington Heights.
Anh ta nhìn lên. “Ai làm việc với các công ty điện thoại?” Vài đặc vụ
giơ tay.
“Gọi điện đi”, Dellray ra lệnh. Năm phút dài như vô tận.
“Không có ở đây. Không có trong danh bạ điện thoại New York.”
“Chẳng có gì ở New Jersey, một đặc vụ khác nói.
“Connecticut, không có gì.”
“Mẹ kiếp”, Dellray lầm bầm. “Đảo tên lên xem. Thử các tổ hợp khác
nhau. Tìm cả những số điện bị cắt do không trả tiền.’
Trong mấy phút, giọng nói dâng khắp nơi như thủy triều lên.
Dellray đi đi lại lại như điên, và Sachs hiểu ra vì sao người anh ta lại
khẳng khiu như vậy.
108 DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.
Bất ngờ một đặc vụ la lớn: “Tìm thấy hắn rồi”. Mọi người quay đầu lại
nhìn.
“Tôi đang liên lạc với New York DMV109”, một đặc vụ khác gọi.
“Họ đã tìm thấy hắn. Tin đang đến đây… hắn lái taxi. Dùng bằng giả.”
“Sao tin này lại chẳng làm mình ngạc nhiên nhỉ?” Dellray lẩm nhẩm.
“Mình phải nghĩ tới điều đó mới phải. Tổ ấm ở đâu?”
“Morningside Height. Cách con sông một khối nhà.” Nhân viên đặc vụ
viết địa chỉ, giơ nó lên cao khi Dellray đi qua lấy. “Tôi biết khu này.
Hầu hết bị bỏ hoang. Rất nhiều bọn buôn ma túy.”
Một đặc vụ khác nhập địa chỉ vào máy tính của anh ta. “Được rồi, đã
kiểm tra… Một ngôi nhà cũ. Thuộc về một ngân hàng. Chắc hắn thuê
nhà.”
“Anh cần HRT chứ?” Một đặc vụ gọi từ phía bên kia căn phòng đang
sôi sục. “Tôi có Quantico đang nghe điện đây.”
“Không còn thời gian”, Dellray tuyên bố. “Ta dùng đội SWAT trực
chiến. Bảo họ chuẩn bị đi.”
Sachs hỏi: “Thế còn nạn nhân tiếp theo thì sao?” “Nạn nhân tiếp theo
nào?”
“Hắn đã tóm được ai đó. Hắn biết ta đã có manh mối được khoảng
một, hai tiếng. Hắn đã bắt được nạn nhân tiếp theo rồi. Một lúc trước.”
“Không có báo cáo mất tích”, một đặc vụ nói. “Nếu hắn tóm được họ,
có thể họ đang ở nhà hắn.”
“Không, họ sẽ không ở đó.” “Sao không?”
“Họ sẽ thu nhặt quá nhiều vật chứng.” Cô nói. “Lincoln Rhyme nói hắn
có một nơi ẩn nấp an toàn.”
“Được rồi, khi bắt được hắn, hắn sẽ nói cho ta biết họ ở đâu.” Một
đặc vụ khác nói: “Ta phải thật thuyết phục.”
“Đi thôi”, Dellray gọi. “Này mọi người, hãy cám ơn sĩ quan Amelia
Sachs. Cô ấy là người tìm thấy dấu vân tay và lấy được nó.”
Cô đỏ mặt. Cô có thể cảm thấy điều đó và căm thù nó. Nhưng cô
không thể giúp được mình. Khi nhìn xuống, cô thấy giày của mình có
những đường lạ lẫm. Liếc mắt nhìn, cô nhận ra mình vẫn còn đeo
những dải băng cao su.
Khi ngẩng lên cô nhìn thấy căn phòng đầy đặc vụ liên bang trông
nghiêm nghị đang kiểm tra vũ khí và đi ra cửa khi họ liếc nhìn cô. Như
người thợ rừng nhìn khúc gỗ mới đốn, cô nghĩ.
109 New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New
York.
MƯỜI CHÍN
Năm 1911, thảm họa khủng khiếp giáng xuống thành phố của chúng ta.
Ngày Hai mươi lăm tháng Ba, hàng trăm công nhân nữ đang làm việc
hăng say trong một xưởng may, một trong nhiều xưởng may nổi tiếng
với tên gọi “Cửa hiệu mồ hôi” ở Greenwich Village, trung tâm
Manhattan.
Những người chủ của công ty đam mê lợi nhuận tới mức họ không cho
các cô gái đáng thương này những tiện nghi sơ đẳng nhất mà các nô lệ
còn được hưởng. Họ cho rằng không thể tin tưởng để công nhân được
nhanh chóng đi vệ sinh, vì thế họ khóa kỹ xưởng may và xưởng cắt.
Kẻ Tầm Xương lái xe về tòa nhà của hắn. Hắn đi qua một xe cảnh sát,
nhưng hắn luôn nhìn thẳng về phía trước. Cớm không bao giờ chú ý tới
hắn.
Trong ngày định mệnh đó, đám cháy bắt đầu từ tầng tám của tòa nhà,
chỉ trong vòng vài phút đã lan ra khắp nhà máy. Những người công
nhân trẻ tuổi gắng sức thoát ra ngoài. Tuy nhiên, cửa khóa nên họ
chẳng thể thoát ra. Nhiều người chết tại chỗ và nhiều người khác vì quá
sợ lửa đã lao ra ngoài không trung, cách mặt sỏi một trăm feet và chết
khi va vào nền đất mẹ cứng rắn.
Có một trăm bốn mươi sáu nạn nhân trong trận hỏa hoạn Triangle
Shirtwaist. Tuy nhiên, cảnh sát đã rất ngạc nhiên khi không thể tìm
được một nạn nhân, một người phụ nữ trẻ, Esther Weinraub, người mà
một vài nhân chứng nhìn thấy, đã tuyệt vọng nhảy ra khỏi cửa sổ tầng
tám. Không cô gái nào cùng nhảy sống sót. Phải chăng điều kỳ diệu đã
xảy đến với cô? Vì thực tế là khi thi thể nạn nhân được xếp ngoài phố
để gia đình tới nhận diện, người ta không tìm được cô Weinraub tội
nghiệp.
Có những báo cáo về một con ma cà rồng, một người đàn ông vác
một cái túi lớn ra khỏi hiện trường đám cháy. Cảnh sát rất giận dữ vì đã
có người xâm phạm thi thể thiêng liêng của người phụ nữ vô tội, tới
mức họ bắt đầu một cuộc tìm kiếm âm thầm nhằm vào người đàn ông.
Sau vài tuần, những nỗ lực của họ đã đem lại kết quả. Hai người dân
sống ở Greenwich Village khai báo rằng họ đã nhìn thấy một người đàn
ông vác một túi nặng “trông như một tấm thảm” trên vai và rời khỏi
hiện trường. Cảnh sát nắm được dấu vết của hắn và theo hắn đến phía
tây thành phố, ở đó họ phỏng vấn những người láng giềng và biết được
người đàn ông phù hợp với mô tả là Jame Schneider, kẻ vẫn đang tự
do.
Họ thu hẹp phạm vi tìm kiếm tới một nơi đổ nát tại con ngõ nhỏ ở
Hell’s Kitchen, cách bãi chăn trên Phố Sáu mươi không xa. Khi họ tiến
vào, một mùi hôi thối kinh khủng chào đón họ…
Hắn đang lái xe qua chỗ đám cháy Triangle – có thể sự vô thức đã dẫn
hắn đến đây. Tòa nhà Asch – một cái tên mỉa mai cho cấu trúc trước
kia là nhà máy định mệnh – đã biến mất, và mảnh đất đó lúc này là một
phần của Đại học New York. Quá khứ và hiện tại… Kẻ Tầm Xương
không ngạc nhiên khi nhìn thấy những nữ công nhân mặc áo khoác lao
động trắng, những vệt lửa và làn khói ngột ngạt, rơi xuống chết quanh
hắn ta như những bông tuyết.
Khi tấn công vào nơi ở của Schneider, những nhà chức trách thấy một
cảnh tượng mà ngay cả những người dày dạn nhất trong số họ cũng
phải chóng mặt vì hoảng sợ. Thi thể của Esther Weinbraun đáng
thương – (hay là những gì còn lại) – được tìm thấy dưới tầng hầm.
Schneider đang thích thú hoàn thành nốt công việc dang dở của đám
cháy, chậm rãi lóc thịt người phụ nữ bằng những công cụ quá ghê tởm
để có thể kể ra ở đây.
Cuộc tìm kiếm ở nơi ghê rợn này dẫn đến việc khám phá ra một căn
phòng, bên ngoài tầng hầm, chứa đầy xương cốt đã vị lóc hết thịt.
Dưới giường của Schneider, một cảnh sát tìm thấy cuốn nhật ký mà kẻ
điên khùng ghi lại những hành động ác quỷ của hắn. “Xương” –
Schneider viết – “là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay
đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những
thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay
nấu chín, thì chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý.
Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”
Những lời văn điên loạn ghi lại những thí nghiệm khủng khiếp của hắn
để tìm ra cách thức hiệu quả nhất nhằm lóc thịt ra khỏi xương nạn
nhân. Hắn thử nấu chín thi thể, đốt, dùng dung dịch kiềm, cho súc vật
ăn và dìm nước.
Nhưng có một phương pháp được hắn yêu thích nhất cho hành động
rùng rợn này. “Cách tốt nhất, theo kết luận của tôi” – (tiếp tục nhật ký
của hắn) – “là chôn thi thể xuống đất màu và để Tự nhiên làm nốt phần
công việc buồn chán. Đó là phương pháp tốn thời gian nhất nhưng lại
gây ít nghi ngờ nhất vì không bốc mùi. Tôi thích chôn các cá thể còn
sống, lý do thì tôi không thể nói chắc chắn”.
Bên trong căn phòng cho tới nay vẫn còn là bí mật, người ta tìm thấy
thêm ba thi thể nữa, trong tình trạng tương tự. Những cánh tay xiên
xẹo, những khuôn mặt mong chờ của các nạn nhân tội nghiệp chứng tỏ
họ đã thực sự còn sống khi Schneider lấp những xẻng đất cuối cùng
lên sự tột cùng đau khổ của họ.
Chính những mưu đồ đen tối đó khiến cho các nhà báo đặt cho
Schneider một cái tên làm hắn nổi tiếng mãi cho tới sau này – “Kẻ tầm
xương”.
Hắn lái xe đi tiếp, suy nghĩ của hắn trở lại với người phụ nữ đang nằm
trong cốp xe, Esther Weinraub. Khuỷu tay gầy guộc của cô ta, xương
đòn thanh tú của cô ta như đôi cánh chim. Hắn tăng tốc, thậm chí vượt
hai đèn đỏ. Hắn không thể chờ đợi thêm nữa.
“Tôi không mệt”, Rhyme cáu kỉnh.
“Mệt hay không mặc kệ, anh phải nghỉ ngơi.” “Không, tôi muốn uống.”
Những chiếc va li đen nằm cạnh tường, chờ đợi các sĩ quan từ Đồn
Mười hai chuyển giúp về phòng thí nghiệm IRD. Mel Cooper đang vác
hộp kính hiển vi xuống dưới cầu thang. Lon Sellitto vẫn ngồi trên chiếc
ghế mây, nhưng anh ta không nói nhiều. Anh ta vừa kết luận rằng,
Rhyme Lincoln không hề say.
Thom nói: “Tôi chắc là huyết áp của anh lại lên đấy. Anh cần phải nghỉ
ngơi.” “Tôi muốn uống”.
Quỷ tha ma bắt cô, Amelia Sachs, Rhyme nghĩ. Mà không hiểu vì sao.
“Anh phải bỏ đi. Uống chẳng có ích gì cho anh cả.”
Được rồi, tôi đang bỏ, Rhyme lặng lẽ đáp lời. Bỏ hẳn. Thứ Hai. Không
cần kế hoạch mười hai bước; chỉ là kế hoạch một bước.
“Rót cho tôi cốc nữa”, anh ra lệnh. Nhưng không thực sự muốn.
“Không.”
“Rót ngay cho tôi!” Rhyme cáu kỉnh. “Không.”
“Lon, làm ơn rót tôi cốc nữa, được chứ?”
“Tôi…”
Thom nói: “Anh ta không được uống thêm nữa. Khi tâm trạng như thế
này, thật không thể chịu nổi anh ta. Chúng ta sẽ không đầu hàng anh
ta”.
“Cậu từ chối tôi à? Tôi có thể đuổi cậu đấy.” “Thoải mái đi.”
“Lạm dụng người tàn tật! Tôi sẽ cho cậu ra tòa! Bắt hắn ta ngay, Lon.”
“Lincoln”, Sellitto xoa dịu. “Bắt hắn ta!”
Viên thám tử ngạc nhiên vì sự hằn học trong lời nói của Rhyme.
“Này anh bạn, cậu làm ơn nhẹ nhàng hơn một chút, được không?”
Sellitto nói. “Ôi, lạy Chúa”, Rhyme rên rỉ. Anh bắt đầu rên ầm ĩ.
Sellitto buột miệng: “Gì thế?” Thom im lặng, nghi ngờ theo dõi.
“Gan của tôi.” Rhyme nhăn nhó. “Có thể là xơ gan.”
Thom quay lại, giận dữ. “Tôi không vào tròng với cái trò ấy đâu. Được
chưa?” “Không, không ổn…”
Giọng một phụ nữ vang lên từ ô cửa: “Chúng ta không có nhiều thời
gian.”
“… tí nào.”
Amelia Sachs vào phòng, nhìn những cái bàn trống. Rhyme cảm thấy
trên môi mình dính nước bọt. Anh quá tức giận. Vì cô nhìn thấy nước
dãi. Vì anh đã mặc chiếc áo sơ mi trắng bảnh bao đó chỉ vì cô. Và vì
anh tuyệt vọng muốn được cô đơn, mãi mãi, cô đơn trong sự yên bình
bất động – nơi anh là hoàng đế. Không phải vua một ngày. Mà là
hoàng đế mãi mãi.
Nước bọt chảy ra cù anh buồn buồn. Anh cố co gân cổ đang rất đau
đớn, thử liếm khô môi. Thom khéo léo rút một tờ giấy lau trong hộp,
lau khô miệng và cằm cho ông chủ của mình.
“Sĩ quan Sachs”, Thom nói. “Xin chào. Một ví dụ tiêu biểu của sự
trưởng thành. Ta không thấy điều đó nhiều ngay lúc này.”
Cô không đội mũ, áo choàng xanh để hở cổ. Mái tóc đỏ dài của cô thả
rơi xuống cổ. Mái tóc này không làm ai gặp khó khăn khi phân tích
dưới kính hiển vi.
“Mel cho tôi vào”, cô nói, hất đầu về phía cầu thang. “Quá giờ đi ngủ
của cô phải không, Sachs?”
Thom vỗ vai. Cử chỉ có nghĩa là phải biết cư xử chứ. “Tôi vừa ở văn
phòng FBI”, cô nói với Sellitto.
“Tiền thuế của chúng ta thế nào rồi?” “Họ tóm được hắn rồi.”
“Cái gì?” Sellitto hỏi. “Đơn giản thế thôi hả? Lạy Chúa. Họ biết chuyện
ấy rồi à?”
“Perkins vừa gọi cho Thị trưởng. Hắn là tài xế taxi. Hắn sinh ra ở đây,
nhưng cha hắn là người Serbia. Vì vậy họ nghĩ hắn đang đòi công lý với
Liên Hiệp Quốc, hay cái gì đó. Có giấy vàng. Và cả vấn đề về tâm
thần. Lúc này Dellray và nhóm SWAT liên bang đang đến đấy.”
“Họ làm thế nào nhỉ?” Rhyme hỏi. “Tôi đoán đó là nhờ dấu tay.” Cô
gật đầu.
“Tôi nghĩ rằng điều này quá rõ ràng. Nói tôi nghe, họ quan tâm tới nạn
nhân tiếp theo đến đâu?”
“Họ có quan tâm”, cô nói đều đều. “Nhưng chủ yếu là họ muốn tóm
đối tượng.” “À, đấy là bản chất của họ. Để tôi đoán xem. Họ nghĩ họ
sẽ moi ra chỗ nạn nhân
tiếp theo sau khi họ tóm được hắn.”
“Anh nói đúng.”
“Chắc cần chút cố gắng đấy”. Rhyme nói. “Tôi có thể đưa ra nhận định
này mà không cần đến sự chỉ dẫn của Tiến sĩ Dobyns và phân tích
hành vi. Thế nào Amelia, điều gì làm cô thay đổi ý định vậy? Sao cô
quay lại?”
“Bởi vì bất kể Dellray có xích được hắn hay không thì tôi cũng không
nghĩ chúng ta còn thời gian để chờ đợi. Ý tôi là, để cứu nạn nhân tiếp
theo.”
“Ồ, nhưng chúng ta đã bị giải tán, cô chưa nghe à? Đóng cửa, phá
sản.” Rhyme nhìn màn hình máy tính tối om cố xem xem tóc anh có
được chải không?
“Anh đầu hàng?” Cô hỏi.
“Sĩ quan”, Sellitto bắt đầu, “ngay cả khi chúng ta muốn làm gì đó,
chúng ta cũng không có vật chứng. Đó là liên kết duy nhất…”
“Tôi có.” “Cái gì?”
“Tất cả. Dưới cầu thang, trong xe RRV.”
Viên thám tử nhìn ra ngoài cửa sổ.
Sachs tiếp tục: “Từ hiện trường cuối cùng. Từ tất cả mọi hiện trường.”
“Cô có nó?” Rhyme hỏi. “Sao thế được?”
Nhưng Sellitto cười phá: “Mẹ kiếp, Lincoln, cô ta cướp chúng.”
“Dellray không cần tới chúng”, Sachs chỉ ra. “Trừ khi dùng cho việc xử
án. Họ đã có đối tượng, chúng ta sẽ cứu nạn nhân. Cũng được, phải
không?”
“Nhưng Mel Cooper vừa về rồi.”
“Không, anh ta dưới cầu thang. Tôi bảo anh ta đợi.” Sachs bắt tréo
tay. Cô nhìn đồng hồ. Quá mười một giờ. “Ta không có nhiều thời
gian”, cô nhắc lại.
Anh cũng nhìn đồng hồ. Chúa ơi, anh mệt. Thom nói đúng; cả năm nay
chưa bao giờ anh thức khuya như vậy. Nhưng anh thấy ngạc nhiên –
không, đúng hơn là bị sốc – khi thấy rằng ngày hôm nay anh có thể
giận dữ, khó xử hay bị đâm trộm bởi những rắc rối vô cảm, nhưng
những giây phút vừa qua không hề đặt lên tâm hồn anh một gánh nặng
nóng bỏng nào cả. Như chúng vẫn vậy, trong suốt ba năm qua.
“Được rồi, hết ý.” Rhyme bật một tràng cười. “Thom? Thom! Chúng ta
cần cà phê. Suất đúp. Sachs, đưa những mẫu giấy bóng kính đó đến
phòng thí nghiệm cùng với bức ảnh Polaroid của mẩu giấy mà Mel nhặt
được từ cái xương bê. Tôi muốn có kết quả so sánh phân cực sau một
giờ nữa. Và gọi cái bóng của anh đến đây đi, Lon. Cái anh chàng có
tên như cầu thủ bóng chày ấy.”
Chiếc xe tải màu đen lao nhanh trên phố.
Đây là đường vòng tới chỗ tên tội phạm nhưng Dellray biết anh ta đang
làm gì; các chiến dịch chống khủng bố phải đi đường vòng, tránh những
con phố lớn, những con phố thường bị đồng phạm của chúng giám sát.
Dellray, ngồi phía sau chiếc xe đi đầu, đang siết chặt dây khóa dán
Velcro của chiếc áo chống đạn. Còn mười phút nữa là họ đến nơi.
Anh ta nhìn những căn hộ đang bị hỏng, những lô đất đầy rác rưởi khi
họ chạy ngang qua. Lần cuối cùng, Dellray đến khu vực đổ nát này là
khi anh còn là Rastafarian Peter Haile Thomas đến từ Queens. Dellray
mua một trăm ba mươi bảy pound cocaine của một gã Puerto Rican
nhỏ thó, nhưng anh chàng này đến phút cuối lại quyết định ăn cướp
người mua hàng của mình. Hắn cầm chỗ tiền nhử mồi của Dellray, chĩa
súng vào háng Dellray và bình thản bóp cò như thể đang nhặt một mớ
rau. Cạch, cạch, cạch. Đạn thối. Toby Dolittle và nhóm yểm trợ nhanh
chóng hạ tên khốn và đồng bọn trước khi hắn kịp hồi tỉnh, để lại cho
Dellray một sự choáng váng vì thực tế đầy mỉa mai là anh ta suýt bị giết
vì tên tội phạm thực sự tin vào màn kịch của viên điệp vụ – tin rằng anh
ta là tên buôn ma túy, không phải cớm.
“ETA110, còn bốn phút’, người lái xe nhắc.
110 ETA: Dự kiến thời gian đến nơi.
Vì lí do nào đó, ý nghĩ của Dellray quay về với Lincoln Rhyme. Anh ta
lấy làm tiếc đã xử tệ như vậy khi tiếp quản vụ này. Nhưng anh ta
không có nhiều lựa chọn. Sellitto là người gan lì còn Polling là đồ điên
– mặc dù Dellray có thể xử lý được họ. Rhyme là người làm cho anh
thấy khó xử nhất. Sắc như dao cạo (quỷ thật, chính là nhóm của anh ta
tìm thấy dấu tay của Pietrs, dù họ đã không khai thác nó đúng lúc).
Ngày xưa, trước tai nạn, ta đã không thể đánh bại được Lincoln
Rhyme nếu như anh ta không muốn bị đánh bại. Cũng chẳng thể nào
lừa được anh ta.
Lúc này thì Rhyme là một thứ đồ chơi hỏng. Thật buồn khi điều tệ hại
đó xảy ra cho anh ta, khi anh ta nên chết nhưng lại còn sống. Dellray
đã vào phòng của anh ta – phòng ngủ của anh ta – và đã chơi anh ta
một vố thật đau. Đau hơn mức cần thiết.
Có thể anh ta sẽ gọi. Anh ta có thể….
“Giờ diễn”, người lái xe thông báo và Dellray quên hết mọi thứ về
Lincoln
Rhyme.
Chiếc xe rẽ vào con phố nơi Pietrs sống. Hầu hết những con phố khác
mà họ đi qua đều đầy những người dân nhễ nhại mồ hôi cầm chai bia
hay điếu thuốc lá, cố gắng có được một, hai ngụm không khí mát mẻ.
Nhưng con phố này thì tăm tối và vắng vẻ.
Chiếc xe từ từ dừng lại. Khoảng hai tá đặc vụ trong bộ đồ chiến thuật
đen trèo ra khỏi xe, xách những khẩu H&K được gắn ống ngắm laser
và đèn chiếu sáng. Hai người vô gia cư nhìn họ; một người giấu nhanh
chai wisky mạch nha Colt 44 vào trong áo.
Dellray liếc nhìn cửa sổ trong tòa nhà của Pietrs; nó tỏa ra ánh sáng
vàng nhợt
nhạt.
Người lái xe lùi chiếc xe đầu tiên vào chỗ đỗ xe trong bóng tối và thì
thầm với
Dellray: “Perkins đấy.” Gõ vào tai nghe của anh ta. “Anh ta đang nói
chuyện với giám đốc. Họ muốn biết ai là người chỉ huy cuộc tấn công?”
“Là tôi”, con Kỳ nhông cáu kỉnh. Anh ta quay lại nhóm của mình. “Tôi
muốn giám sát toàn bộ con phố và các ngõ hẻm. Thiện xạ, ở đây, ở
đây và ở đây. Và tôi muốn mọi người sẵn sàng năm phút trước khi tấn
công. Tất cả rõ chưa?”
Xuống cẩu thang, tiếng gỗ kêu cót két.
Tay hắn ôm lấy cô, hắn dẫn người phụ nữ đang nửa tỉnh nửa mê vì cú
đánh vào đầu xuống tầng hầm. Tới chân cầu thang, hắn quăng cô
xuống nền nhà bụi bặm và nhìn cô chăm chăm.
Esther…
Mắt cô ngước lên nhìn hắn. Tuyệt vọng, van xin. Hắn không hề nhận
thấy. Những gì hắn thấy chỉ là cơ thể cô. Hắn bắt đầu cởi quần áo cô,
bộ quần áo chạy thể dục màu tía. Không thể tin được là bây giờ phụ
nữ lại có thể ra khỏi nhà với bộ quần áo như đồ lót. Hắn không nghĩ
Esther Weinbraub là một con điếm. Cô ta là một công nhân, may áo sơ
mi với giá một xu năm cái.
Kẻ Tầm Xương quan sát xương đòn của cô ta nhô ra nơi cổ họng.
Trong khi người đàn ông khác có thể nhìn ngực và núm vú tối màu của
cô ta, hắn ta nhìn chỗ lõm vào của chuôi ức và những chiếc xương
sườn tỏa ra từ đó như những cái chân nhện.
“Anh làm gì vậy?” Cô ta hỏi, vẫn còn lảo đảo vì cú đánh vào đầu.
Kẻ Tầm Xương nhìn cô ta thật kỹ, nhưng thứ mà hắn thấy không phải
là một người phụ nữ không còn trẻ, mắc bệnh chán ăn, mũi quá rộng,
môi quá dày với làn da như cát bẩn. Hắn nhìn thấy phía dưới những thứ
không hoàn thiện này chứa đựng vẻ đẹp hoàn hảo của cấu trúc cơ thể
cô ta.
Hắn săn sóc thái dương cô, nhẹ nhàng xoa vuốt nó. Đừng để nó bị nứt,
làm ơn
đi…
Cô ta ho làm cho hai lỗ mũi nở rộng – dưới này khói mù mịt, mặc dù
hắn gần như
không nhận thấy chúng.
“Đừng đánh tôi nữa”, cô ta thì thầm, đầu lắc lư. “Đừng đánh tôi. Làm
ơn”.
Hắn lấy dao trong túi ra, cúi xuống và cắt đồ lót của cô ta. Cô ta nhìn
thân thể lõa lồ của mình.
“Anh muốn à?” Cô ta nói gần đứt hơi. “Được, anh có thể chơi tôi.
Được.” Khoái lạc thân xác, hắn nghĩ… Không đúng rồi.
Hắn kéo cô ta đứng lên và cô ta giãy ra khỏi hắn như điên rồi tập tễnh
chạy ra cánh cửa nhỏ ở gần tầng hầm. Không phải chạy, không thực
sự cố tẩu thoát. Chỉ sụt sùi,
vươn tay ta vẫy về phía cửa.
Kẻ Tầm Xương, nhìn cô ta, bị mê hoặc bởi cái dáng đi chậm chạp,
đáng thương của cô ta.
Ô cửa, đã từng mở hướng ra một đường máng đổ than, giờ đây dẫn
đến một đường hầm chật hẹp nối với tầng hầm của một tòa nhà bị bỏ
hoang cạnh đó.
Esther cố đến được cánh cửa kim loại và kéo nó mở ra. Cô ta trèo
vào bên trong. Chưa đến một phút sau hắn ta nghe thấy tiếng la thét
rền rĩ. Nối tiếp là những
tiếng thét đứt hơi, giật giọng: “Trời ơi, không, không, không…” Còn
những tiếng la hét khác, chìm đắm trong tiếng gào kinh hoàng.
Rồi từ đường hầm cô ta chạy ra, đã nhanh hơn, phủi tay khắp người
như thể cô ta đang cố gắng giũ bỏ những thứ cô ta vừa nhìn thấy.
Đến với ta nào, Esther.
Loạng choạng trên nền nhà bụi bặm, nức nở.
Đến với ta.
Chạy thẳng tới bệnh nhân của hắn, những cánh tay chờ đợi, ôm chầm
lấy cô. Hắn siết chặt người đàn bà như thể họ là tình nhân, cảm thấy
chiếc xương đòn tuyệt diệu dưới ngón tay mình, và từ từ kéo người
đàn bà điên dại quay lại cửa đường hầm.
HAI MƯƠI
Tuần trăng, chiếc lá, thứ đồ lót quỷ quái, bụi. Cả nhóm đã quay lại
phòng ngủ của Rhyme, trừ Polling và Haumann; để đại úy chỉ huy tham
gia vào một chiến dịch rõ ràng là không hợp lệ, một thử thách quá lớn
đối với lòng trung thành của NYPD.
“Cậu đã G-C chất lỏng trên đồ lót rồi phải không, Mel?”
“Phải làm lại thôi. Chúng ta đã bị cắt ngang trước khi có kết quả.”
Anh ta thấm một mẫu chất lỏng và bơm nó vào máy sắc ký khí. Khi
chạy máy, Sachs giả vờ nhìn vào các đỉnh và đáy của đồ thị đang hiện
lên trên màn hình.Giống như chỉ số chứng khoán. Rhyme nhận ra cô
đang đứng gần anh, hình như cô lân la lại gần khi anh không nhìn. Cô
hạ giọng nói. “Tôi…”
“Vâng?”
“Tôi đã lỗ mãng hơn tôi nghĩ. Ý tôi là lúc trước. Tôi rất nóng tính. Tôi
không hiểu sao tôi lại như thế. Nhưng tôi đã làm vậy.”
“Cô nói đúng", Rhyme nói.
Họ dễ dàng chấp nhận ánh mắt của nhau và Rhyme nghĩ tới những lúc
anh cùng Blaine nói chuyện nghiêm chỉnh. Khi nói, họ luôn tập trung
vào một vật nằm giữa họ – một con ngựa sứ do cô sưu tầm, một cuốn
sách, một chai vang Merlot hay Chardonnay gần cạn.
Anh nói: “Tôi có cách khám nghiệm hiện trường không giống với các
nhà hình sự khác. Tôi cần một người không có định kiến. Nhưng tôi
cũng cần người biết tự suy nghĩ.”
Những phẩm chất đối nghịch mà người ta tìm thấy ở những cặp tình
nhân hoàn hảo. Mạnh mẽ và yếu đuối, cân bằng nhau.
Cô nói: “Khi tôi nói chuyện với Eckert, tôi chỉ muốn được chuyển công
việc. Đó là tất cả những gì tôi muốn. Không bao giờ tôi nghĩ rằng câu
chuyện có thể đến tai nhân viên của Cục và họ lại lấy mất vụ này.”
“Tôi biết.”
“Tôi vẫn để mình giận dữ. Tôi xin lỗi.”
“Đừng thụt lùi, Sachs. Tôi cần có ai đó nói với tôi rằng, tôi là đồ ngốc
khi tôi ra vẻ như vậy. Thom làm thế. Nên tôi thích cậu ta.”
“Đừng có lấy lòng tôi, Lincoln.” Thom nói với lại, từ phía phòng bên
kia.
“Chưa có ai nặng lời với tôi. Lúc nào họ cũng nâng như nâng trứng. Tôi
ghét bị như thế.”
“Có lẽ gần đây không mấy người đến nói chuyện với anh.” Một lúc
sau, anh nói: “Đúng thế.”
Trên màn hình máy sắc ký khí – phổ kế những đỉnh và đáy đã thôi
không chuyển động và trở thành một trong những chữ ký nhiều vô hạn
độ của thiên nhiên. Mel Cooper
gõ bàn phím và đọc kết quả. “Nước, dầu diesel, phosphate, sodium,
dấu vết của khoáng chất… không hiểu nó có ý nghĩa gì.”
Thông điệp gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Là chiếc quần lót? Là chất lỏng?
Anh nói: “Tiếp tục đi, tôi muốn xem chỗ bẩn.”
Sachs đem cái túi đến chỗ anh. Nó đựng ít cát màu hồng, có một ít đất
sét và đá
cuội.
“Gan bò”, anh tuyên bố. “Hỗn hợp đá và cát. Ở ngay bên trên
nền đã của
Manhattan. Có lẫn sodium silicate không?”
Cooper chạy máy sắc ký khí. “Có. Nhiều lắm.”
“Thế thì ta phải tìm một nơi ở trung tâm, cách mép nước khoảng mười
lăm thước…” Rhyme cười to khi thấy cái nhìn ngạc nhiên của Sachs.
“Chẳng có phép lạ gì đâu. Tôi chỉ làm bài tập ở nhà thôi. Các nhà thầu
thường trộn sodium silicate với gan bò để gia cố nền đất trước khi đào
móng ở những khu vực nền đá sâu gần nước. Điều đó có nghĩa là nó
phải ở trung tâm. Còn giờ hãy xem cái lá”.
Cô giơ cái túi lên.
“Chẳng hiểu nó là cái gì”, Rhyme nói. “Tôi cho là mình chưa bao giờ
nhìn thấy cái lá nào như vậy. Không phải ở Manhattan.”
“Tôi có một danh mục các trang web về nghề làm vườn”, Cooper nói,
vẫn nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Tôi phải lướt web một tí.”
Rhyme đôi lúc cũng lên mạng, lang thang Internet. Cũng như với sách
vở, phim ảnh và áp phích, mối quan tâm của anh với Internet cuối cùng
cũng tiêu tan. Có thể vì thế giới của chính anh đã quá ảo, mà mạng thì
cũng vậy, rốt cuộc lại trở thành một nơi đau khổ đối với Rhyme.
Màn hình của Cooper nhấp nháy, nhảy múa khi anh ta bấm những
đường siêu liên kết và thâm nhập vào trang web. “Tôi đang tải mấy file
về. Có lẽ mất khoảng mười đến hai mươi phút.”
Rhyme nói: “Được rồi. Những manh mối còn lại mà Sachs tìm thấy…
Những manh mối không phải được để lại. Những thứ khác. Chúng có
thể nói cho ta biết hắn đã ở đâu. Hãy xem thử vũ khí bí mật của chúng
ta, Mel.”
“Vũ khí bí mật?” Sachs hỏi. “Chứng cứ dấu vết.”
Đặc vụ Fred Dellray tổ chức đợt xâm nhập mười người. Hai đội cộng
thêm nhóm S&S. Mấy đặc vụ mặc áo chống đạn đứng trong bụi cây
đổ mồ hôi như tắm. Bên kia phố, trên tầng gác một tòa nhà bỏ hoang
bằng đá nâu, nhóm S&S có máy nghe trộm và máy quay hồng ngoại
chiếu vào nhà nghi phạm.
Ba thiện xạ nằm trên mái nhà cùng những khẩu Remingtons vĩ đại, lên
đạn và sẵn sàng. Một người quan sát cầm ống nhòm quỳ cạnh họ như
những bà mụ.
Dellray – mặc áo gió FBI và quần bò thay vì bộ vét màu xanh lá
Leprechaun –
đang lắng nghe qua tai nghe.
“Giám sát báo cáo chỉ huy. Chúng tôi đã có kết quả hồng ngoại trong
tầng hầm. Dưới đó có người đang đi lại.”
“Cảnh tượng thế nào?” Dellray hỏi. “Không nhìn thấy gì. Cửa sổ bẩn
quá,”
“Một mình hắn? Có nạn nhân ở đó không?” Có thể sĩ quan Sachs nói
đúng; lúc này chắc hắn đã tóm được ai đó rồi.
“Không biết. Chúng tôi chỉ thu được chuyển động và nhiệt.”
Dellray cử một sĩ quan khác chạy qua bên cạnh ngôi nhà. Họ báo cáo:
“Không có bóng dáng ai ở tầng một và tầng hầm. Ga ra bị khóa.”
“Thiện xạ?” Dellray hỏi. “Báo cáo.”
“Xạ thủ một báo cáo chỉ huy. Tôi đã chiếm được cửa trước. Hết.”
Những ngưới khác đã vào hành lang và một phòng ở tầng một. “Sẵn
sàng.” Dellray rút khẩu tự động ra.
“Được rồi, ta có giấy tờ”, Dellray nói. Có nghĩa là giấy phép. Họ
không cần phải gõ cửa. “Đi nào! Nhóm một, nhóm hai dàn trận, dàn
trận, dàn trận.”
Nhóm đầu tiên phá cửa trước bằng một thanh gỗ trong khi nhóm thứ
hai có cách thức văn minh hơn là phá cửa sổ sau nhà rồi mở chốt. Họ
tràn vào, Dellray đi theo sĩ quan cuối cùng trong nhóm một vào căn nhà
cũ kỹ, bẩn thỉu. Mùi thịt thối thật kinh khủng, và Dellray, mặc dù đã
quá quen với những hiện trường vụ án cũng phải nuốt khan, cố gắng
không nôn thốc nôn tháo.
Nhóm thứ hai chiếm được tầng trệt, sau đó xông lên cầu thang tới
phòng ngủ, trong khi nhóm thứ nhất chạy xuống tầng hầm, tiếng giày
nện ầm ầm trên cầu thang gỗ.
Dellray chạy xuống tầng hầm bốc mùi ghê sợ. Anh ta nghe thấy tiếng
cửa bị phá đâu đó phía dưới và nghe tiếng thét: “Không động đậy! Đặc
vụ liên bang đây. Đứng im. Đứng im. Đứng im!”
Nhưng khi đến cửa tầng hầm, anh ta nghe thấy vẫn tiếng đặc vụ đó cáu
kỉnh quát nhưng với giọng hoàn toàn khác. “Quái quỷ gì thế này? Ôi,
lạy Chúa.”
“Mẹ kiếp”, một đặc vụ khác nói. “Kinh quá!”
“Thối như cứt”, Dellray la lên, bị nghẹt thở khi bước vào trong. Cố
gắng nuốt khan vì mùi quá kinh khủng.
Một xác người nằm trên sàn, chảy ra một thứ nước đen. Cổ họng bị
cứa đứt. Anh ta đã chết, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà nhưng thân
hình anh ta trông có vẻ động đậy
– phồng lên, dịch chuyển. Dellray sởn gai ốc, anh ta chưa bao giờ miễn
dịch được với cảnh tượng nhung nhúc những côn trùng. Số lượng giòi
bọ cho thấy nạn nhân chết ít nhất
đã được ba ngày.
“Vì sao hồng ngoại lại dương tính?” Một đặc vụ hỏi.
Dellray chỉ một con chuột cùng những vết răng chuột và cạnh mạng
sườn sưng vù của nạn nhân. “Chúng chắc chỉ loanh quanh đâu đây. Ta
làm gián đoạn bữa trưa của chúng.”
“Chuyện gì xảy ra vậy? Một nạn nhân đã hạ được hắn?” “Anh nói gì
thế?” Dellry cáu kỉnh.
“Không, phải hắn đấy ư?”
“Không, đó không phải là hắn ta”, Dellray nổi giận, mắt nhìn vết
thương trên thân thể nạn nhân.
Một người trong nhóm nói với vẻ nghiêm trọng.: “Này Dellray. Đúng là
hắn đấy. Ta có ảnh hắn. Chính hắn là Pietrs.”
“Tất nhiên đấy là thằng Pietrs chết tiệt. Nhưng hắn không phải đối
tượng của chúng ta. Không hiểu à?”
“Không, ý cậu là gì?”
Mọi thứ trở nên rõ ràng với anh ta. “Thằng khốn.”
Điện thoại của Dellray rung làm anh ta nhảy lên. Anh ta mở nó ra, nghe
khoảng một phút. “Cô ta làm cái gì? Cứ như là tôi cần lắm… Chưa,
vẫn chưa tóm được thằng khốn đó.”
Anh ta nhấn phím tắt, chỉ ngón tay giận dữ vào hai đặc vụ SWAT.
“Các cậu đi với
tôi.”
“Có gì thế, Dellray?”
“Chúng ta sẽ có một chuyến viếng thăm. Khi đến đó chúng ta sẽ như
thế nào?”
Hai đặc vụ nhìn nhau, cau mày. Nhưng Dellray đã có câu trả lời:
“Chúng ta sẽ không tử tế chút nào cả.”
Mel Cooper đổ những thứ bên trong phong bì lên một tờ báo. Dùng
kính lúp kiểm tra đám bụi. “Được rồi, có bụi gạch. Và một ít đá kiểu
khác. Tôi nghĩ là đá cẩm thạch.”
Anh ta để một mẩu lên thanh trượt và xem xét nó dưới kính hiển vi.
“Đúng rồi, đá cẩm thạch. Màu hồng.”
“Trong đường hầm ở bãi chăn, chỗ cô tìm thấy cô gái người Đức ấy,
có tí đá cẩm thạch nào không?”
“Không”, Sachs trả lời.
Cooper gợi ý có thể chúng từ nơi ở của Monelle, chỗ cô ta bị Đối
tượng 823 bắt. “Không, tôi biết khu Deutsche Haus. Đó chỉ là mấy tòa
nhà East Village được
chuyển đổi. Loại đá tốt nhất ở đó chỉ là đá hoa được đánh bóng. Có
thể, chỉ có thể thôi,
đây là một mẩu từ hang ổ của hắn. Nó có gì đặc biệt không?”
“Dấu đục.” Copper nói, vẫn đang cúi mình trên kính hiển vi, “Thế à,
tốt. Có rõ không?”
“Không rõ lắm. Không đều.”
“Như vậy là máy cắt đá hơi nước cũ.” “Ừ, tôi đoán thế.”
“Viết đi, Thom.” Rhyme chỉ thị, hất đầu về phía tấm áp phích. “Trong
nhà hắn có đá cẩm thạch. Cẩm thạch cũ.”
“Nhưng tại sao ta lại phải quan tâm đến nơi ẩn nấp an toàn của hắn
nhỉ?” Banks vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ. “Đặc vụ liên bang sẽ đến đây
bất kỳ lúc nào.”
“Thông tin không bao giờ đủ, đúng không, Banks. Nhớ lấy điều đó. Ta
còn gì nữa
nào?”
“Một mẩu găng tay nữa. Da màu đỏ. Cái gì thế này?” Anh hỏi Sachs,
cô đang giơ
cái túi nhựa đựng mẩu gỗ lên.
“Mẫu nước hoa dùng sau khi cạo râu. Chỗ hắn chạm vào cột.” “Tôi có
phải đọc lại bài cũ không?” Cooper băn khoăn.
“Để tôi ngửi thử đã”, Rhyme nói.
Sachs đưa cái túi lại chỗ anh. Trong đó là một mẩu gỗ nhỏ hình tròn.
Cô mở túi và anh ngửi không khí bên trong.
“Tuyệt. Sao mình có thể bỏ qua được nhỉ? Thom, viết thêm là anh bạn
của chúng ta dùng nước hoa bán trong cửa hàng.
Cooper tuyên bố: “Ta có thêm một sợi lông nữa.” Kỹ thuật viên gắn nó
lên kính hiển vi so sánh. “Rất giống với thứ ta tìm thấy trước đây. Có
thể từ cùng một nguồn. Lincoln, cái này cho anh đấy. Tôi có thể nói nó
giống nhau. Màu nâu.”
“Đoạn cuối bị cắt hay gãy tự nhiên?” “Bị cắt.”
“Tốt rồi. Ta có kết luận về màu tóc”, Rhyme nói.
Thom viết màu nâu đúng lúc Sellitto nói: “Đừng viết vội.” “Sao thế?”
“Rõ ràng đây không phải màu nâu”, Rhyme tiếp. “Tôi nghĩ…”
“Thứ gì đó nhưng không thể là màu nâu. Màu vàng, màu cát, đen,
đỏ…”
Viên thám tử giải thích: “Trò rất cũ. Cậu đến một ngõ phố, lấy mấy sợi
tóc trong cửa hiệu cắt tóc. Vứt chúng quanh hiện trường.”
“Ồ”, Banks cất điều này vào đâu đó trong bộ óc đầy nhiệt huyết của
anh ta. Rhyme nói: “Được rồi. Đám sợi.”
Cooper đưa nó vào kính hiển vi phân cực. Anh ta nói trong khi điều
chỉnh các nút vặn: “Khúc xạ đúp .053.”
Rhyme thốt lên: “Nylon 6. Trông nó thế nào, Mel?”
“Rất thưa. Mặt cắt dạng thùy. Xám nhạt.” “Thảm.”
“Được rồi. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu.” Một lúc sau anh ta ngẩng
đầu lên. “Sợi
Hampstead Textile 118B.”
Rhyme thở dài, vẻ chán nản. “Sao thế?” Sachs hỏi.
“Vải bọc cốp xe thông dụng nhất nước Mỹ. Có ở hơn một trăm loại xe
trong suốt năm mươi năm. Vô vọng… Mel, có gì trong cái sợi ấy
không? Dùng SEM111 nhé.”
Kỹ thuật viên bật kính hiển vi điện tử quét. Màn hình bật lên ánh sáng
xanh dương
– xanh lá ma quái. Mẩu sợi trông như một sợi dây khổng lồ.
“Có gì đây này. Tinh thể. Rất nhiều. Họ dùng titanium dioxide để làm
cho thảm mất độ bóng. Có thể là nó đấy.”
“Đốt nó lên. Quan trọng đấy.”
“Không đủ, Lincoln. Tôi sẽ phải đốt tất cả sợi.” “Thế thì đốt đi.”
Sellitto tế nhị nói: “Mượn chứng cứ liên bang là một chuyện. Còn phá
hủy nó? Tôi không biết, Lincoln. Nếu như có xử án…”
“Ta phải làm.’
“Trời ơi”, Banks nói.
Sellitto miễn cưỡng gật đầu và Cooper gắn mẫu vào máy. Chiếc máy
rít lên. Một lúc sau màn hình nhấp nháy, các đồ thị cột hiện ra. “Đây
này, đây là phân tử polyme chuỗi dài. Nylon. Nhưng đường sóng nhỏ
này là thứ khác. Chlorine, chất tẩy… Đó là chất giặt tẩy.”
“Nhớ rằng cô gái Đức nói chiếc xe có mùi sạch sẽ. Hãy tìm xem đó là
loại gì.” Rhyme nói.
Cooper nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu tên thương hiệu. “Sản phẩm
của Pfizer Chemicals. Nó được Baer Automotive Products bán với
thương hiệu Tidi-Kleen ở Teterboro.”
“Tuyệt hảo!” Lincoln Rhyme la lên. “Tôi biết công ty này. Họ bán sỉ
cho các đội xe. Phần lớn là các công ty cho thuê xe. Đối tượng của ta
dùng xe thuê.”
“Hắn không đủ điên để lái một chiếc thuê đến hiện trường gây án, đúng
không?” Banks hỏi.
“Xe đánh cắp”, Rhyme lẩm bẩm, như thể người thanh niên hỏi anh hai
cộng hai bằng mấy. “Và nó sẽ có biển xe ăn cắp. Emma vẫn làm với
chúng ta chứ?”
“Giờ này chắc cô ta về nhà rồi.”
111 SEM: Xem phần phụ lục.
“Gọi cô ta dậy, bảo cô ta tìm kiếm kẻ đánh cắp của Hertz, Avis,
National và
Budget.”
“Sẽ làm”, Sellitto nói, dù không thoải mái lắm, có thể vì anh ta ngửi
thấy mùi vật chứng liên bang bị hỏa thiêu đang phảng phất trong không
khí.
“Dấu chân?” Sachs hỏi.
Rhyme nhìn bức hình tĩnh điện do cô đem về.
“Giày bị mòn kiểu khác thường. Hãy xem phần đế giày dưới ngón chân
cái bị vẹt đi này?”
“Ngón quặp?” Thom nói thành tiếng.
“Có thể, nhưng lại không thấy phần mòn tương ứng của gót chân.”
Rhyme nghiên cứu vết chân. “Tôi nghĩ có thể hắn ta là người đọc
sách.”
“Một người đọc sách?’
“Cô ngồi xuống ghế ở kia”, Rhyme nói với Sachs. “Cúi xuống bàn, vờ
như đang đọc sách.”
Cô ngồi xuống, rồi ngẩng lên hỏi: “Và?” “Giả vờ lật trang đi.”
Cô làm theo, một vài lần. Lại ngẩng lên.
“Tiếp tục đi. Cô đang đọc Chiến tranh và hòa bình.”
Tiếp tục lật trang, đầu cô hơi cúi. Sau một lúc, không nghĩ ngợi, cô bắt
tréo chân. Phần tiếp xúc duy nhất với mặt đất là cạnh ngoài của chiếc
giày.
Rhyme chỉ ra điều này. “Đưa nó vào hồ sơ đi Thom. Nhưng đánh dấu
hỏi.” “Giờ hãy xem đường vân.”
Sachs nói cô không lấy được được dấu tay tốt, dấu tay họ có thể dùng
nhận dạng đối tượng. “Nó vẫn trong tòa nhà kiểu liên bang.”
Nhưng Rhyme không quan tâm đến dấu tay đó. Mà là dấu tay
khác, dấu
Kromekote mà Sachs lấy được trên da cô gái người Đức. Anh muốn
xem nó.
Không quét được”, Cooper tuyên bố. “Thậm chí không được loại C.
Tôi sẽ không phát biểu gì nếu như tôi phải có ý kiến.”
Rhyme nói: “Tôi không quan tâm đến nhận dạng. Tôi quan tâm đến
đường này.” Đó là một đường hình trăng lưỡi liềm nằm ngay giữa ngón
tay.
“Cái gì thế?” Sachs hỏi.
“Tôi nghĩ là vết sẹo”, Cooper nói. “Từ một vết cắt cũ. Rất sâu. Có vẻ
sâu đến tận xương.”
Rhyme nhớ lại những dấu vết và dị dạng trên da mà anh đã nhìn thấy
trong nhiều năm qua. Thời gian trước, khi công việc còn chưa phải chủ
yếu là sắp xếp giấy tờ và gõ bàn phím, thì có thể đoán được một người
làm nghề gì chỉ nhờ nhìn tay anh ta: những ngón tay biến dạng vì đánh
máy, những vết đâm của máy khâu và kim khâu da, vết mực
và dấu quản bút trên tay người ghi tốc ký và kế toán viên, những mẩu
giấy từ xưởng in, những vết sẹo của người cắt khuôn, những vết chai
khác biệt từ các loại hình lao động chân tay khác nhau….
Nhưng vết sẹo kiểu này chẳng nói với họ điều gì.
Ít nhất là chưa phải lúc này. Chưa phải tới lúc họ có được bàn tay của
nghi phạm để kiểm tra.
“Còn gì nữa? Dấu đầu gối. Tốt. Cho ta biết hắn mặc gì. Giơ nó lên đi,
Sachs. Cao lên. Quần thụng. Có vết ly rất sâu, vì thế đó là sợi tự nhiên.
Với thời tiết thế này thì tôi nghĩ rằng đó là vải bông. Không phải len.
Ngày nay người ta không mặc quần thụng lụa nhiều nữa.”
“Nhẹ, không phải vải bông chéo”, Cooper nói.
“Bộ đồ thể thao”, Rhyme kết luận. “Thêm điều đó vào hồ sơ của ta đi,
Thom.” Cooper quay lại màn hình máy tính và nhập thêm dữ liệu.
“Không may mắn lắm
với cái lá. Không trùng hợp với bất cứ thứ gì ở Smithsonian112.”
Rhyme ngả đầu xuống gối? Họ còn được bao nhiêu thời gian? Một
giờ? Hai giờ? Mặt trăng. Bụi bẩn. Nước biển…
Anh liếc nhìn Sachs đang đứng một mình ở góc nhà. Cô cúi đầu, mái
tóc đỏ dài xuôi xuống nền nhà. Cô đang nhìn một cái túi chứng cứ, vẻ
mặt nghiêm nghị, hoàn toàn tập trung. Không biết bao nhiêu lần Rhyme
đã đứng trong tư thế ấy, gắng sức để…
“Tờ báo!” Cô la lớn, ngẩng nhìn. “Cái mẩu giấy báo đâu rồi?” Ánh mắt
cô đầy phấn khích khi tìm kiếm trên những mặt bàn. “Báo hôm nay?”
“Gì thế, Sachs?” Rhyme hỏi.
Cô giật tờ Thời báo New York từ Jerry Banks và nhanh chóng lướt
qua.
“Thứ chất lỏng… từ đồ lót”, cô nói với Rhyme. “Có thể là nước biển
được không?”
“Nước muối?” Cooper cúi nhìn đồ thị GC-MS. “Tất nhiên rồi! Nước,
natrium và những khoáng chất khác. Dầu và phosphate. Đó là nước
biển bị ô nhiễm.”
Mắt cô gặp mắt Rhyme và họ đồng thanh nói: “Thủy triều!”
Cô giương tờ báo, đã được lật đến bản đồ thời tiết. Nó có sơ đồ tuần
trăng giống với sơ đồ được tìm thấy tại hiện trường. Phía dưới là sơ đồ
thủy triều. “Còn bốn mươi phút nữa thủy triều lên.’
Mặt Rhyme nhăn nhó vì khó chịu. Anh chưa bao giờ giận chính mình
đến thế. “Hắn sẽ dìm chết nạn nhân. Họ đang ở dưới một cầu cảng ở
trung tâm.” Anh nhìn vô vọng vào bản đồ Manhattan với bờ biển dài
nhiều dặm. “Sachs, đến lúc đua xe rồi. Cô và Banks đo theo hướng
tây. Lon, sao anh không đi về hướng đông? Vòng quanh cảng South
Street. Còn Mel, nghĩ xem cái lá là cái quái quỷ gì thế!”
112 Smithsonian: Cơ sở đào tạo quốc gia của Mỹ, với nhiều viện
nghiên cứu và bảo tàng.
Một con sóng thình lình vỗ vào đầu ông đang gục xuống ngực.
William Everett mở mắt và phì mạnh chỗ nước lạnh ngắt từ mũi ra. Nó
lạnh như đá và ông cảm thấy trái tim đau yếu của mình đập thình thịch
khi nó gắng sức bơm luồng máy ấm trong cơ thể ông.
Ông suýt ngất đi lần nữa, như lúc tên khốn đó bẻ ngón tay của ông.
Rồi ông tỉnh lại, nghĩ đến người vợ quá cố của mình – và các lý do cho
những lần họ đi du lịch cùng nhau. Họ đến Giza. Và đến Guatemala.
Nepal. Teheran (một tuần trước khi đại sứ quán bị chiếm).
Chiếc máy bay của hãng hàng không Đông Nam Trung Quốc hỏng
một trong hai động cơ, sau một giờ cất cánh từ Bắc Kinh, Evelyn cúi
đầu, trong tư thế khẩn cấp, chờ chết nhưng mắt vẫn đọc một bài báo
trong tờ tạp chí trên máy bay. Bài báo cảnh báo không nên uống chè
nóng ngay sau bữa ăn. Sau đó, khi ngồi trong quán rượu Raffles ở
Singapore, bà đã kể lại cho ông nghe chuyện này. Họ đã cười như
điên, cười đến chảy cả nước mắt.
Ông nghĩ tới ánh mắt lạnh lùng của tên bắt cóc. Răng, đôi găng tay thô
thiển của
hắn.
Bây giờ, trong cái nhà mồ ướt át ghê rợn này, một cơn đau không chịu
nổi trườn
theo tay ông lên tới cằm.
Do ngón tay gãy hay cơn suy tim? Ông băn khoăn. Có thể là mỗi thứ
một chút.
Everett nhắm mắt cho tới khi cơn đau dịu đi. Ông nhìn xung quanh. Cái
cống nơi ông bị còng nằm dưới một cầu cảng hôi thối. Một vành gỗ thò
từ bờ rìa cầu cảng xuống mặt nước, lúc này còn cách nó khoảng sáu
inch. Ánh sáng từ những con thuyền trên sông và những nhà máy của
Jersey phản chiếu trên rạch nước hẹp. Nước đã ngập tới cổ ông và
mặc dù nóc cầu cảng còn ở cách đầu ông mấy feet, nhưng cái còng tay
giữ chặt ông tại chỗ.
Cơn đau tràn qua ngón tay ông, đầu Everett giãy giụa trong cơn hấp
hối, rơi xuống nước khi ông ngất đi. Nước đầy mũi và cơn ho khốn
khổ khiến ông tỉnh lại.
Mặt trăng kéo nước dâng cao thêm. Với một tiếng oạp ẩm ướt, cái
cống bị tách khỏi dòng sông bên ngoài. Căn phòng tối om. Ông nghe
thấy tiếng gầm gừ của những con sóng và tiếng rên rỉ đau đớn của
chính mình.
Ông biết mình đã chết, biết mình chẳng thể giữ đầu cao hơn mặt nước
nhầy nhụa được quá vài phút nữa. Ông nhắm mắt, úp mặt vào cây cột
đen đúa, trơn tuột.
HAI MƯƠI MỐT
“Tiến thẳng vào trung tâm, Sachs”, giọng Rhyme vang lên trong máy bộ
đàm.
Cô nhấn ga chiếc RRV, đèn đỏ nhấp nhoáng khi họ lao vào thành phố
theo Xa lộ
West Side. Lạnh như băng, cô tăng tốc lên tám mươi113.
“Được, tuyệt”, Jerry Banks nói.
Đếm ngược. Phố Hai mươi ba, Hai mươi, một cú ngoặt cháy đường
gần bến phà chở rác trên Phố Mười bốn. Khi họ lao qua Village, quận
bán thịt, một chiếc xe lao từ phố bên cạnh ra chèn đường cô. Thay vì
đạp phanh, cô đánh mạnh tay lái vọt qua vỉa hè trung tâm như kỵ sĩ
vượt rào, kéo theo câu chửi thề phều phào của Banks và một tiếng còi
hơi rền vang của chiếc xe tải trắng vừa kịp hoành tráng quay ngoắt lại.
“Ối chà”, Amelia Sachs thốt lên và quay lại làn đường đi về phía nam.
Cô nói với
Rhyme: “Anh nói lại đi. Tôi bỏ mất đoạn này.”
Giọng nói yếu ớt của Rhyme vang lên trong tai nghe của cô: “Vào trung
tâm là tất cả những gì tôi có thể nói với cô. Cho tới khi chúng tôi tìm ra
ý nghĩa của chiếc lá.”
“Chúng tôi đang đến Battery Park City”.
“Còn hai mươi nhăm phút nữa thuỷ triều sẽ lên”, Banks nhắc nhở.
Có thể đội của Dellray sẽ xác định được vị trí chính xác của hắn ta. Họ
có thể lôi Ngài 823 vào một con hẻm nào đó với một túi táo. Nick có
nói với cô về cách họ thuyết phục bọn tội phạm “hợp tác”. Lấy một túi
hoa quả đập vào bụng chúng. Rất đau. Mà không để lại dấu vết. Khi
đang ở tuổi trưởng thành, cô không thể nghĩ được rằng cảnh sát có thể
làm như vậy. Nhưng giờ thì cô đã thấy được sự khác biệt.
Banks đập vai cô. “Kia. Có mấy cái cầu cảng cũ” Gỗ thối, bẩn thỉu.
Những nơi chốn rùng rợn.
Họ phanh kít, nhảy ra khỏi xe, chạy tới mép nước. “Anh có đấy không,
Rhyme?”
“Nói với tôi nào, Sachs. Cô ở đâu?”
“Một cái cầu cảng phía bắc Battery Park City.”
“Tôi vừa được Lon báo cáo về từ phía đông. Anh ta không tìm thấy
gì.”
“Vô vọng lắm”, cô nói. “Có khoảng một tá cầu cảng. Cả một đoạn
đường đi bộ nữa... Còn cảng tàu cứu hoả, bến phà và cầu cảng ở
Battery Park... Ta cần đến ESU.”
“Ta không có ESU mà, Sachs. Họ không còn ỏ phe ta nữa rồi.” Hai
mươi phút nữa là thuỷ triều lên.
Mắt cô đảo quanh mép nước. Vai cô trĩu nặng vì bất lực. Tay cầm
súng, cô lao về phía con sông. Jerry Banks chạy ngay theo sau.
113 Tốc độ tám mươi: Hơn một trăm năm mươi km một giờ.
“Cho tôi thứ gì đó về cái lá đi, Mel. Phỏng đoán, gì cũng được. Bịa ra
đi.” Bồn chồn lo lắng, Cooper nhìn từ kính hiển vi lên màn hình máy
tính.
Tám nghìn loại lá cây ở Manhattan.
“Nó không có cấu trúc tế bào giống với bất kỳ thứ gì cả.” “Nó già rồi”,
Rhyme nói. “Bao nhiêu tuổi?”
Cooper lại nhìn vào cái lá. “Đã biến thành xác ướp. Tôi có thể đoán
khoảng một trăm năm, hoặc ít hơn thế một chút.”
“Những thứ gì có thể tuyệt chủng trong một trăm năm qua?”
“Cây cối không bị tuyệt chủng trong một hệ sinh thái như Manhattan.
Chúng luôn tái sinh.”
Một tiếng binh vang lên trong đầu Rhyme. Anh gần nhớ ra điều gì đó.
Anh vừa thích vừa ghét cảm giác này. Anh có thể tóm lấy ý nghĩ như
tóm một con ruồi bay chậm. Hoặc nó có thể biến mất hoàn toàn, làm
anh cụt hứng.
Mười sáu phút nữa là thuỷ triều lên.
Ý nghĩ đó là gì nhỉ? Anh nhắm mắt, cố nắm bắt lấy nó... Cái gì thế nhỉ?
Nghĩ đi!
Cầu cảng... những con tàu... bốc dỡ... hàng hoá. Bốc dỡ hàng hoá.
Mắt anh bật mở. “Mel, đấy có phải cây trồng không?”
“Ôi, quỷ thật. Tôi đi tìm những trang về cây hoang dại, không phải loại
cây trồng.” Anh ta gõ máy tính quá lâu.
“Thế nào?”
“Chờ đã, chờ đã. Đây là danh sách mã nhị phân đã được mã hoá.”
Anh ta quét nó. “Linh lăng, lúa mạch, củ cải đường, yến mạch, thuốc
lá...”
“Thuốc lá! Thử nó xem.”
Cooper bấm chuột và hình ảnh chậm chạp hiện ra trên màn hình.
“Đúng nó!”
“Tháp trung tâm Thương mại Thế giới.” Rhyme tuyên bố. “Mảnh đất
phía bắc đã từng được dùng để trồng thuốc lá. Thom, phần nghiên cứu
cho cuốn sách của tôi – tôi
muốn tấm bản đồ từ những năm 1740. Và cả tấm bản đồ mới mà Bo
Haumann đã dùng
để tìm những nơi đang dọn dẹp asbestos. Đặt chúng lên bàn, cạnh
nhau.”
Người trợ lý tìm thấy tấm bản đồ cũ trong tập hồ sơ của Rhyme. Anh
ta dán chúng lên bức tường gần giường. Được vẽ một cách thô thiển,
tấm bản đồ cũ đã cho thấy phần phía bắc của thành phố – một cụm
phía dưới hòn đảo – là các trang trại. Có ba cầu tàu thương mại trên
sông, khi đó còn chưa được gọi là Hudson mà là sông Tây. Rhyme
nhìn vào bản đồ thành phố hiện tại. Tất nhiên là khu đất nông nghiệp đã
biến mất, các cầu tàu
cũng vậy, nhưng bản đồ hiện tại cho thấy một cái cầu tàu bị bỏ hoang ở
đúng vị trí một cầu cảng cũ của nhà xuất khẩu thuốc lá.
Rhyme cố gắng vươn người tới trước để đọc tên phố gần đó. Anh đã
định quát Thom đưa bản đồ lại gần hơn thì từ phía cầu thang, anh nghe
thấy một tiếng la lớn đấy giận dữ dưới nhà và cánh cửa bật tung vào
bên trong. Kính vỡ tan.
Thom xuống cầu thang.
“Tôi muốn gặp anh ta.” Có giọng nói nhát gừng tràn ngập hành lang.
“Chỉ là...” Người trợ lý bắt đầu.
“Không. Không phải chờ một phút. Không phải chờ một giờ. Mà là
ngay. Mẹ kiếp. Bây giờ.”
“Mel”, Rhyme thì thầm, “giấu chứng cứ ngay, tắt máy.” “Nhưng...”
“Làm đi!”
Rhyme lắc đầu thật mạnh, giằng rời cái míc trên tai nghe. Nó rơi xuống
cạnh chiếc giường Clinitron. Tiếng bước chân nện ầm ầm trên cầu
thang.
Thom là tất cả những gì có thể để câu giờ nhưng những người khách là
ba nhân viên FBI, hai người trong số họ cầm súng. Họ từ từ đẩy anh ta
giật lùi để lên cầu thang.
Chúa phù hộ cho anh ta, chỉ trong năm giây, Cooper đã tháo tung cái
kính hiển vi điện tử và đang bình thản tháo dỡ linh kiện với một sự quan
tâm quá mức khi FBI lên hết cầu thang và lao vào phòng Rhyme.
Những cái túi đựng vật chứng đã được nhét xuống gầm bàn và phủ lên
bằng tạp chí Địa lý Quốc gia.
“À, Dellray”, Rhyme hỏi, “Tìm được đối tượng rồi chứ?” “Sao anh
không nói với chúng tôi?”
“Nói với các anh cái gì?”
“Rằng dấu tay ấy là đồ giả.” “Có ai hỏi tôi đâu?”
“Đồ giả?” Cooper ngạc nhiên hỏi.
“Thực ra thì đó là dấu tay thật”. Rhyme nói như thể đó là điều rõ ràng.
“Nhưng không phải của đối tượng. Anh chàng của chúng ta cần một
chiếc taxi để đi câu. Và thế là hắn ta gặp – tên hắn ta là gì nhỉ?”
“Victor Pietrs”, Dellay lẩm bẩm và kể lại câu chuyện về người lái taxi.
“Rất hay”, Rhyme nói với một chút ngưỡng mộ thực sự.
“Nhặt một anh chàng Serbia có tiền án và vấn đề về tâm thần. Tôi
không hiểu hắn phải mất bao lâu để tìm ứng viên này. Tuy nhiên, 823
giết ngài Pietrs tội nghiệp và ăn trộm taxi của anh ta. Cắt một ngón tay.
Hắn giữ nó và nghĩ nếu chúng ta tới quá gần, hắn sẽ để lại hiện trường
một dấu tay rõ đẹp để lừa chúng ta. Tôi đoán việc này đã phát huy tác
dụng.”
Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Còn mười bốn phút.
“Sao anh biết?” Dellray nhìn những tấm bản đồ trên nhà Rhyme, nhưng
ơn Chúa, anh ta không quan tâm đến chúng.
“Dấu tay đã khô và nhăn nheo. Tôi đoán thi thể cũng tệ hại. Anh tìm
thấy nó trong tầng hầm phải không? Tôi đoán đúng chứ? Nơi anh
chàng của chúng ta thích giấu nạn nhân.”
Dellray lờ anh đi và đánh hơi quanh phòng y như một con chó săn
khổng lồ. “Anh giấu chứng cứ của chúng tôi ở đâu?”
“Chứng cứ? Tôi không biết anh nói gì. Nói đi, anh có phá cửa nhà tôi
không? Lần trước anh vào mà không gõ cửa. Lần này thì anh phá
cửa.”
“Này Lincoln, tôi đã có ý định xin lỗi anh rồi đấy...” “Anh thật rộng
lượng, Fred.”
“Nhưng giờ thì tôi sắp tóm cổ anh.”
Rhyme nhìn chiếc tai nghe có ống nói đang lủng lẳng trên nền nhà. Anh
hình dung giọng Sachs thỏ thẻ trên tai nghe.
“Trả chứng cứ cho tôi, Rhyme. Anh không biết là anh đang gặp rắc rối
thế nào
đâu.”
“Thom”, Rhyme chậm rãi nói, “đặc vụ Dellray làm tôi giật mình đánh
rơi cái tai
nghe máy Walkman. Cậu giúp tôi treo nó vào thành giường, được
chứ?”.
Người trợ lý đoán ý rất nhanh. Anh ta để chiếc mic cạnh đầu Rhyme,
khỏi tầm mắt
Dellray.
“Cảm ơn”, Rhyme nói với Thom. Rồi nói thêm. “Cậu biết đấy tôi vẫn
chưa được tắm. Tôi nghĩ đến lúc rồi, cậu thấy thế nào?”
“Tôi đang băn khoăn không biết lúc nào thì anh yêu cầu”. Thom nói,
như một diễn viên bẩm sinh.
“Rhyme, nói đi. Lạy Chúa, anh đang ở đâu?”
Thế rồi cô nghe thấy một giọng nói trong tai nghe. Giọng của Thom.
Rỗng tuếch, khoa trương. Có gì đó không ổn.
“Tôi vừa mua miếng bọt biển mới đấy”, Thom nói. “Trông cũng được
đấy”, Rhyme trả lời.
“Rhyme?” Sachs cáu kỉnh. “Chuyện quái gì thế?”
“Mười bảy đô la đấy. Phải tốt chứ. Tôi sẽ lật anh lại đấy?
Những giọng nói khác vang lên trong tai nghe, nhưng cô không phân
biệt được. Sachs và Banks đang chạy theo mép nước, nhìn xuống
những chiếc cầu cảng vươn
ra dòng nước màu nâu xám của sông Hudson. Cô ra hiệu để Banks
dừng lại, gập người
cho đỡ cơn chuột rút dưới mỏ ác, nhỏ nước bọt xuống sông. Cố gắng
lấy lại hơi thở.
Cô nghe tiếng nói qua tai nghe: “... không lâu đâu. Các vị thứ lỗi cho
chúng tôi.” “...chúng tôi sẽ đợi, anh không phản đối chứ?”
“Tôi phản đối", Rhyme nói. "Tôi muốn được riêng tư một chút?”
“Rhyme, anh có nghe tôi nói không?” Sachs tuyệt vọng gọi. Anh ta làm
cái trò quái quỷ gì vậy nhỉ?
“Không. Không có riêng tư gì cho bọn trộm vật chứng.”
Dellray! Anh ta đang ở trong phòng Rhyme. Thế thì xong rồi. Xong đời
nạn nhân. “Tôi muốn lấy lại vật chứng”, viên đặc vụ cáu kỉnh nói.
“Thế à, thứ mà anh có được chỉ là toàn cảnh một người đàn ông tắm
bằng bọt biển thôi, Dellray.”
Banks định nói, nhưng cô vẫy tay bảo anh ta im lặng. Mấy người nói
vài câu cô không hiểu.
Tiếng quát tháo giận dữ của viên đặc vụ.
Sau đó là giọng nói bình thản của Rhyme: “... Anh biết không Dellray,
trước kia tôi hay đi bơi lắm. Ngày nào cũng bơi.”
“Ta còn chưa đến mười phút”, Sachs thì thầm. Sóng vẫn bình thản vỗ
bờ. Hai con tàu lặng lẽ lướt qua.
Dellray lầm bẩm gì đó.
“Tôi thường bơi ở sông Hudson. Sông lúc đó sạch hơn bây giờ nhiều.
Ý tôi là nước rất sạch.”
Đường truyền có vấn đề. Anh nói lảng đi.
“...cầu cảng cũ. Cái cầu cảng mà tôi thích không còn nữa. Chỗ đó
trước đây từng là nhà của Hudson Dusters. Băng đảng đó, anh có nghe
nói về bọn chúng không? Từ những năm 1890. Phía bắc của Battery
Park City bây giờ. Trông anh có vẻ buồn chán. Mệt mỏi vì phải nhìn
mông thằng tàn tật rồi ư? Chưa à? Hợp với anh à? Cái cầu nằm giữa
North Moore và Chambers. Tôi sẽ nhảy xuống nước, bơi quanh cầu
cảng...”
“North Moore và Chambers!” Sachs la lớn. Quay ngoắt lại. Họ bỏ qua
nó vì họ đã đi quá sâu xuống phía nam. Nó cách chỗ hiện tại của họ
khoảng một phần tư dặm. Cô có thể nhìn thấy những cọc gỗ màu nâu
lở loét, một miệng cống lớn ngập nước thuỷ triều. Còn được bao lâu
nữa? Chẳng còn mấy. Họ chẳng còn cách gì cứu được ông ta.
Cô giật tai nghe và chạy nhanh ra xe, Banks chạy theo sau. “Cậu biết
bơi không?” Cô hỏi.
“Tôi ấy hả? Chỉ một, hai vòng trong bể bơi câu lạc bộ thôi.” Họ không
làm được rồi.
Sachs dừng bất ngờ, vòng nhanh xe lại, nhìn con phố vắng vẻ.
Nước dâng gần đến mũi ông.
Một con sóng nhỏ vỗ vào mặt William Everett đúng lúc ông hít vào,
dòng chất lỏng mặn chát cháy vào cổ họng ông. Ông ho sặc sụa, phát
ra âm thanh trầm đục, ghê rợn. Vặn vẹo. Nước tràn vào phổi. Ông tuột
tay khỏi cây cột của cầu cảng chìm xuống nước, co cứng người rồi lại
cố ngoi lên lần nữa, rồi lại chìm xuống.
Không, lạy Chúa... làm ơn đừng để con...
Ông lắc cái còng tay thật mạnh, cố gắng thoát ra. Chỉ có thể là phép
màu thì những bắp thịt đáng thương của ông mới có thể uốn cong con
ốc khổng lồ mà ông bị còng vào.
Ông xì nước trong mũi ra, đầu gục gặc trong cơn hoảng loạn. Trong
một khắc, phổi ông được thông thoáng trở lại. Cơ cổ cháy bỏng – đau
như ngón tay gãy của ông – vì ông phải ngửa đầu ra sau để tìm lớp
không khí mỏng manh ngay bên trên mặt.
Ông được nghỉ một lát.
Rồi một con sóng nữa, cao hơn... Và thế là hết.
Ông không thể chiến đấu được nữa. Đầu hàng. Về với Evelyn, nói lời
tạm biệt...
William Everett buông xuôi. Ông bập bềnh dưới mặt nước rác rưởi,
đầy đồ thải và cọng rong biển.
Rồi kinh hoàng tỉnh lại. Không, không...
Hắn đang ở đây. Tên bắt cóc. Hắn quay lại.
Everett nhao lên mặt nước, hít thêm nước vào phổi, tuyệt vọng tìm
cách thoát ra. Người đàn ông chiếu ánh sáng chói vào mắt Everett và
chìa con dao về phía ông.
Không, không...
Dìm ông chưa đủ, hắn còn muốn đâm ông chết. Không nghĩ ngợi gì,
Everett lao về phía hắn. Nhưng tên bắt cóc biến xuống nước… và sau
đó, soạt một tiếng, tay Everett được tự do.
Ông già quên phắt những lời từ biệt thầm lặng, lao như điên lên mặt
nước, gấp gáp hít không khí, giật tung mảnh băng đang dán miệng. Hổn
hển, nhổ nước. Đầu ông đập mạnh vào nền cầu cảng gỗ sồi ở phía
trên, nhưng ông cười lớn. “Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa...”
Sau đó, xuất hiện một khuôn mặt khác… Cũng trùm đầu, trong tay là
một ngọn đèn sáng chói và Everett chỉ kịp nhận ra huy hiệu của NYPD
trên bộ quần áo ướt sũng của người đàn ông. Họ không cầm dao mà là
kìm sắt cắt. Một người nhét miếng cao su đắng ngắt vào miệng Everett
và ông hít vào một hơi oxy mát rượi đến kinh ngạc.
Người thợ lặn vòng tay ông quanh anh ta, họ cùng nhau bơi đến rìa cầu
cảng. “Hít thật sâu nào, một phút nữa là ta thoát khỏi đây.”
Ông hít căng hai lá phổi chật hẹp, nhắm mắt, cùng người thợ lặn ngụp
sâu xuống làn nước được chiếc đèn vàng của người đàn ông chiếu sáng
một cách ma quái. Chuyến
đi ngắn nhưng thật khổ sở, ngụp thẳng xuống ngoi lên trên qua lớp
nước mờ đục, vẩn bụi. Có lúc ông trượt khỏi tay người thợ lặn, họ tách
rời nhau trong một khắc. Nhưng với một cú quạt nước, William Everett
quay lại. Sau buổi tối hôm đó, bơi một mình trên dòng nước bập bềnh
của sông Hudson chỉ còn là chuyện nhỏ.
Cô không có ý định bắt taxi. Xe bus của sân bay cũng quá tối.
Nhưng Pammy đã quá mệt mỏi vì thiếu ngủ – cả hai người đã thức suốt
từ năm giờ sáng – và cô cảm thấy bồn chồn. Con bé phải được đi ngủ
ngay, nó đã rúc vào chăn với chai Hawaii Punch của nó. Ngoài ra,
chính Carole cũng không thể đợi tới khi họ đến Manhattan – cô chỉ là
một cô gái gầy gò vùng Trung Tây, người chưa bao giờ rời Ohio trong
bốn mươi mốt năm, và cô đang ao ước được nhìn thấy Quả Táo Lớn.
Carole lấy hành lý của cô và họ đi về phía cửa ra. Cô kiểm tra để chắc
chắn mình không quên gì khi đi khỏi nhà Kate và Eddie buổi chiều hôm
đó.
Pammy, gấu Pooh, ví, chăn, va li, ba lô màu vàng.
Đủ hết.
Bạn bè đã cảnh báo cô về thành phố. Eddie nói: "Họ sẽ xô đẩy cậu.
Bọn trộm ví, móc túi...”
"Đừng chơi bài ngoài phố”, Kate nói thêm, như mẹ dặn con.
"Trong phòng khách nhà tớ mà tớ còn không chơi bài”, Carole cười,
nhắc bạn mình. "Thế thì sao tớ lại chơi bài trên đường phố của
Manhattan?”
Nhưng cô trân trọng sự quan tâm của họ. Gì thì gì, cô cũng đã tới nơi,
một người đàn bà goá và một đứa con ba tuổi, đến thành phố lộn xộn
nhất Trái Đất để tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc – chưa bao giờ cô
nhìn thấy nhiều người nước ngoài, quỷ thật, nhiều người ở một chỗ cùng
lúc như ở đây.
Carole tìm được điện thoại công cộng và gọi cho khách sạn để kiểm
tra đăng ký của mình. Nhân viên trực đêm nói phòng đó đã sẵn sàng
và đang chờ họ. Anh ta sẽ gặp cô sau khoảng bốn mươi nhăm phút
nữa.
Họ đi qua cánh cửa tự động, không khí mùa hè làm họ sốc đến ngột
thở. Carole dừng lại, nhìn quanh. Một tay nắm chặt tay Pammy, tay kia
chiếc va li cũ kỹ. Cái ba lô màu vàng nặng trịch đè trĩu trên vai cô.
Họ xếp hàng cùng những hành khách khác để chờ taxi trên bến đỗ.
Carole liếc nhìn tấm bảng quảng cáo bên kia đường cao tốc, nó viết
Chào mừng các đoàn đại biểu Liên Hiệp Quốc!. Tấm bảng được trang
trí tệ hại, nhưng cô vẫn nhìn nó một lúc lâu; một người trên đó giống
Ronnie.
Một thời gian, sau khi anh mất, khoảng hai năm trước, hầu như mọi thứ
đều gợi cho cô nhớ tới người chồng đẹp trai có kiểu tóc húi cua của
mình. Cô lái xe qua McDonald và nhớ anh thích Big Macs. Những
diễn viên trong phim chẳng giống anh chút nào, nhưng họ có thể có
cách nghiêng đầu giống anh. Đọc tờ rơi quảng cáo máy cắt cỏ, cô nhớ
anh thích cắt cỏ cho mảnh sân nhỏ xíu cuả họ ở Arlington Heights.
Nước mắt lại trào ra. Và cô quay lại dùng Prozac114 hay
imipramine115. Nằm cả tuần trên giường. Miễn cưỡng chấp nhận đề
nghị của Kate, đến nhà của cô ấy và Eddie một đêm. Hay một tuần.
Hay một tháng.
Nhưng cô không khóc nữa. Cô đến đây để bắt đầu cuộc đời mới. Sự
đau khổ giờ đã ở lại phía sau.
Lắc mái tóc màu vàng sẫm khỏi bờ vai đẫm mồ hôi, Carole đẩy
Pammy và đá túi hành lý lên phía trước khi hàng người nhúc nhích. Cô
nhìn quanh, cố tìm một chút gì đó của Manhattan. Nhưng cô chẳng
nhìn được gì ngoài xe cộ chạy trên đường, những cái đuôi mây bay và
một biển người, taxi, ô tô. Hơi nước bốc lên từ lỗ cống như những con
ma ghê rợn, trời đêm lẫn lộn đen, vàng và mù sương.
Được rồi, thế nào mình cũng nhìn thấy thành phố ngay thôi. Cô hy vọng
Pammy đã đủ lớn để có những ký ức đầu tiên về cảnh tượng thành
phố.
"Con có thích chuyến phiêu lưu của chúng ta không, con yêu?”
"Phiêu lưu. Con thích phiêu lưu. Con muốn uống Waiin Punch. Mẹ làm
ơn cho con một ít được không?”
Làm ơn... Từ này mới đây. Cô bé lên ba bắt đầu học cách bắt mạch
cha mẹ. Carole cười: "Mẹ sẽ mua cho con ngay thôi.”
Cuối cùng thì họ cũng có xe. Cốp xe bật mở và Carole quăng hành lý
vào trong, dập nắp. Họ trèo vào ghế sau và đóng cửa.
Pammy, gấu Pooh, ví...
Người lái hỏi: “Ta đi đâu?” Carole cho anh ta địa chỉ khách
sạn Midtown
Residence, cô phải hét qua tấm kính ngăn Plexi.
Chiếc xe nhập dòng xe cộ. Carole dựa lưng và để Pammy ngồi trong
lòng mình. “Ta có đi qua trụ sở Liên Hiệp Quốc không?” Cô hỏi.
Nhưng người đàn ông đang tập trung để chuyển làn đường và không
nghe thấy cô. “Tôi đến tham dự hội nghị", cô giải thích. “Hội nghị Liên
Hiệp Quốc.”
Vẫn không thấy trả lời.
Cô tự hỏi có phải anh ta không thạo tiếng Anh hay không. Kate cảnh
báo cô rằng tất cả tài xế ở New York đều là người nước ngoài. (“Lấy
mất việc làm của người Mỹ”, Eddie gầm gừ. “Nhưng đừng để tôi nói
đến chuyện này.”). Cô không nhìn rõ người lái xe qua tấm kính ngăn
xước xát.
Có thể anh ta chỉ không thích nói chuyện.
Họ quành vào một con đường cao tốc khác – và bất thình lình, nó kia
rồi, ngay trước mặt cô, đường chân trời góc cạnh của thành phố. Chói
loà. Như những đồ pha lê mà Kate và Eddie sưu tập. Một cụm khổng
lồ những khối nhà màu xanh dương, màu vàng,
114 Prozac: Một loại thuốc giảm đau.
115 Imipramine: Một loại thuốc an thần.
màu bạc nằm giữa hòn đảo và một cụm khác bên trái. Nó to hơn tất cả
những gì mà Carole đã từng nhìn thấy trong đời; trong một khoảnh
khắc, hòn đảo trông như một con tàu khổng lồ.
“Nhìn kìa, Pammy, chúng ta đến đó đấy, trông thật đẹp, phải không
con?”
Một khắc sau, quang cảnh biến mất khi chiếc xe ra khỏi đường cao tốc
và quành thật nhanh xuống phía cuối đoạn đường dốc. Sau đó xe chạy
trên những con phố nóng bức, trống trải, bị bao bọc bới nhưng toà nhà
xây bằng gạch.
Carole nghiêng người ra trước. “Có đúng đường này đi về thành phố
không?” Lại không trả lời.
Cô đập mạnh vào lớp kính ngăn Plexi. “Anh có đi đúng đường không
đấy? Trả lời tôi. Trả lời tôi đi!”
“Mẹ ơi, có chuyện gì thế?” Pammy nói và bắt đầu khóc. “Anh đi đâu
thế?” Carole quát.
Nhưng người đàn ông cứ vẫn lái xe – bình thản, đèn đỏ nào cũng
dừng, không bao giờ vượt quá giới hạn tốc độ cho phép. Và khi hắn rẽ
vào một bãi đỗ xe trống trải phía
sau một nhà máy tối tân, bỏ hoang, hắn vẫn bật đèn xi nhan đúng luật.
Ôi không... không!
Hắn đeo chiếc mặt nạ trượt truyết rồi ra khỏi xe. Đi lại phía sau, hắn
đưa tay mở cửa. Nhưng rồi hắn ngần ngại trong giây lát, cánh tay thõng
xuống. Hắn cúi xuống, mặt đối diện cửa xe và gõ vào cửa kính.
Một lần, hai lần, ba lần. Như gọi bọn thằn lằn trong gian nuôi bò sát ở
vườn bách thú. Hắn nhìn người mẹ và cô con gái một lúc lâu trước khi
mở cửa.
HAI MƯƠI HAI
“Cô làm thế nào hả, Sachs?”
Đứng cạnh sông Hudson hôi thối, cô nói chuyện với Rhyme qua máy
bộ đàm. “Tôi nhớ là tôi có nhìn thấy cảng tàu cứu hoả ở Battery Park.
Họ kiếm mấy người thợ lặn và đến chỗ cầu cảng chỉ trong ba phút.
Trời ạ, anh phải xem cái tàu ấy chạy! Một ngày nào đó tôi cũng muốn
lái thử một cái.”
Rhyme kể với cô về người lái xe taxi cụt ngón.
“Thằng chó chết!” Cô nói, tặc lưỡi ghê tởm. “Con chồn ấy lừa tất cả
chúng ta.” “Không phải tất cả chúng ta”, Rhyme rụt rè nhắc cô.
“Tức là Dellray đã biết tôi lấy chứng cứ. Anh ta có tìm tôi không?”
“Anh ta nói anh ta quay về toà nhà kiểu liên bang. Có thể để quyết định
xem bắt ai trong chúng ta trước. Hiện trường ở đó thể nào, Sachs?”
“Tệ lắm”, cô báo cáo. “Hắn đỗ xe trên sỏi...” “Tức là không có dấu
chân.”
“Còn tệ hơn thế. Thuỷ triều làm dâng nước trong ống cống và chỗ hắn
đỗ xe bây giờ đang ngập nước.”
“Quỷ thật”, Rhyme lẩm bẩm.” Không dấu vết, không dấu tay, chẳng có
gì. Họ sẽ để ông ta trong bệnh viện một, hai ngày.”
“Ông ta không nói cho chúng ta biết thông tin gì ư?”
Sachs đến chỗ Banks. Anh ta đang phỏng vấn William Everett.
“Hắn không to lắm”, người đàn ông nghiêm trọng nói, cẩn thận quan
sát thanh nẹp bó bột được nhân viên y tế buộc vào tay mình. “Hắn ta
không được khoẻ lắm, không phải là người có cơ bắp. Nhưng hắn
khoẻ hơn tôi. Tôi tóm hắn nhưng hắn kéo tay tôi ra.”
“Mô tả?” Banks hỏi.
Everett nhớ lại bộ quần áo tối màu và chiếc mặt nạ trượt tuyết. Đó là
tất cả những gì ông có thể nhớ được.
“Tôi phải nói với cậu một việc”, Everett giơ cánh tay băng bó của mình
lên. “Hắn rất ác. Tôi đã nói với cậu là tôi tóm lấy hắn. Tôi không nghĩ
ngợi gì – đơn giản là tôi đã hoảng loạn. Nhưng hắn đã lên cơn điên
thực sự. Vì thế hắn bẻ ngón tay tôi.”
“Trả thù à?” Banks hỏi.
“Tôi đoán thế. Nhưng đó không phải là phần kỳ quặc.” “Không?”
“Kỳ quặc là hắn lắng nghe.”
Viên thám tử trẻ tuổi ngừng viết. Nhìn sang Sachs.
“Hắn ép tay tôi thật chặt vào tai hắn và bẻ ngón tay tôi khi nó gáy.
Như thế hắn lắng nghe. Và thích thú.”
“Anh có nghe thấy không, Rhyme?”
“Có. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta. Thế nhưng tôi vẫn
không biết điều này nghĩa là gì. Ta sẽ phải suy nghĩ về nó.”
“Có dấu hiệu nào của vật chứng không?” “Vẫn chưa.”
“Đan lưới đi Sachs. À, mà lấy cả... của nạn nhân.”
“Quần áo? Tôi đã bảo ông ta rồi. Tôi – Rhyme, anh ổn chứ?” Cô nghe
thấy tiếng
ho.
Đường truyền bị đứt ngay tức khắc. Một giây sau anh trở lại. “Anh có
đấy không,
Rhyme? Mọi việc ổn chứ?”
“Ổn cả”, anh nói nhanh. “Đi thôi. Đan lưới đi.”
Cô khảo sát hiện trường đang được những ngọn đèn halogen của ESU
soi sáng. Thật khó chịu. Hắn đã ở đây. Hắn đã đi trên con đường trải
sỏi cách đây vài feet. Nhưng bất kể hắn có để lại vật chứng gì thì
chúng đã nằm sâu mấy inch dưới làn nước mờ đục. Cô chậm rãi kiểm
tra nền đất. Lui và tới.
“Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Manh mối có thể đã bị cuốn đi mất rồi.”
“Không đâu, hắn quá thông minh để không tính đến thuỷ triều. Manh
mối sẽ ở trên chỗ đất khô đâu đó.”
“Tôi có một ý”, cô bất ngờ nói. “Anh đến đây đi.” “Cái gì?”
“Khám nghiệm hiện trường cùng tôi, Rhyme.” Im lặng.
“Rhyme, anh nghe tôi nói không?” “Cô đang nói với tôi đấy à?” Anh
hỏi.
“Anh trông giống như De Niro116. Anh không diễn giỏi như De Niro.
Anh biết không? Một cảnh trong phim Taxi Driver?”
Rhyme không cười. Anh nói: “Lời thoại là: Mày đang nhìn tao đấy à?
chứ không phải nói với tao.”
Sachs tiếp tục, không chút bối rối. “Tới đây đi. Khám nghiệm hiện
trường với tôi.” “Tôi sẽ sải đôi cánh của mình. Không, tốt hơn là tôi sẽ
tự phóng tôi ra đó. Thần
giao cách cam, cô biết rồi đấy.”
“Đừng đùa nữa. Tôi nghiêm chỉnh đấy.” “Tôi...”
“Chúng tôi cần anh. Tôi không thể tìm được manh mối để lại.”
“Nhưng mà chúng sẽ ở đó. Cô chỉ cần cố thêm chút nữa thôi.” “Tôi
đan lưới hai lần rồi.”
“Thế thì cô đã khoanh vùng hơi hẹp. Thêm vài feet nữa và tiếp tục đi.
823 vẫn chưa kết thúc đâu, không phải bây giờ.”
“Anh đang đánh trống lảng đấy. Đến đây và giúp tôi với.”
“Bằng cách nào?” Rhyme hỏi. “Tôi làm việc ấy bằng cách nào?”
“Tôi có một người bạn cũng gặp khó khăn”, cô bắt đầu, “và anh ta...”.
116 Robert Mario De Niro, Jr.: Nam diễn viên đã hai lần giành được
giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ, đạo diễn, nhà sản xuất
phim. Ông được coi là một trong những diễn viên vĩ đại và có ảnh
hưởng nhất mọi thời đại.
chắn.
“Ý cô là, anh ta là một người tàn tật”, Rhyme chỉnh lại. Mềm mỏng
nhưng chắc
Cô tiếp tục: “Sáng nào người sĩ quan phụ tá cũng đặt anh ấy vào xe lăn
và anh ấy
tự lái xe đi khắp nơi. Đi xem phim, đi...”
“Những cái xe lăn ấy...”, giọng Rhyme uể oải vang lên. “Không có tác
dụng gì với
tôi...”
Cô ngừng nói.
Anh tiếp tục: “Vấn đề không phải ở chỗ tôi bị thương. Vấn đề là nếu
tôi lên xe lăn
sẽ rất nguy hiểm. Nó có thể...” – anh ngần ngại – “làm cho mọi chuyện
xấu đi”. “Tôi xin lỗi. Tôi không biết.”
Một lúc sau anh nói: “Tất nhiên là cô không biết.” Hỏng mất vụ này rồi.
Ôi trời. Người anh em...
Nhưng Rhyme không có vẻ gì tệ hơn sau lời nói hớ của cô. Giọng anh
ta vẫn đều đặn, vô cảm. “Nghe này, cô phải tiếp tục tìm kiếm. Đối
tượng của chúng ta đang khiến mọi thứ khó khăn hơn. Nhưng không
phải là không thể... Tôi có một ý. Hắn là người dưới lòng đất, đúng
không? Có thể hắn sẽ chôn chúng.”
Cô nhìn lên hiện trường.
Có thể ở kia... Cô nhìn thấy một ụ đất và lá cây trong một khóm cỏ
cao gần con đường trải sỏi. Trông có gì bất ổn, cái ụ đất trông có vẻ
như mới được đắp lên.
Sachs quỳ xuống cạnh nó, cúi đầu và dùng một cái bút chì gạt lá ra.
Cô quay mặt sang trái, thấy mình đang nhìn vào một cái đầu vươn cao,
đầy răng
nanh... vũ khí.
“Lạy Chúa tôi”, cô hét lớn, vấp ngã ra sau, phệt mông xuống đất, vội
vàng lần tìm
Không...
Rhyme thét lên: “Cô không sao chứ?”
Sachs ngắm mục tiêu và cố gắng giữ vững, khẩu súng trên hai tay run
rẩy. Jerry
Banks chạy tới, khẩu Glock của anh ta đã được rút ra. Anh ta dừng lại.
Sachs lồm cồm đứng dậy, nhìn vào thứ trước mặt họ.
“Trời ạ”, Banks thì thầm.
“Một con rắn – thật ra là bộ xương rắn”, Sachs nói với Rhyme. “Con
rắn chuông. Mẹ kiếp.” Cô cất súng. “Nó được gắn vào một cái bảng.”
“Một con rắn?Hay đấy.” Giọng Rhyme có vẻ tò mò.
“Đúng rồi. Thực sự là thú vị”, cô lẩm bẩm. Cô đeo đôi găng cao su và
nhấc những cái xương bị cuộn tròn. Cô lật ngược nó lại. "Sự biến hình"
“Cái gì?”
"Nhãn dán dưới đế. Tên cửa hàng bán thứ này, tôi đoán thế. 604
Broadway.”
Rhyme nói: “Tôi sẽ bảo Những Chàng trai Dũng cảm của chúng ta
kiểm tra xem. Chúng ta có gì nhỉ? Nói tôi nghe về manh mối đi.”
Chúng nằm phía dưới con rắn. Trong một cái túi. Tim cô đập mạnh khi
quỳ xuống bên cái túi.
“Một cuốn sách bằng diêm”, cô nói.
“Được rồi, có thể hắn nghĩ tới việc đốt nhà. Trên đó có in gì không?”
“Không. Nhưng có vết bẩn gì đó. Như dầu bôi trơn Vaseline. Có điều
nó bốc
mùi.”
“Tốt, Sachs – luôn phải ngửi thử vật chứng mà ta không chắc chắn
lắm. Có điều
cần chính xác hơn.”
Cô cúi xuống gần hơn.”Ối...” “Thế là không chính xác.” “Có thể là lưu
huỳnh.”
“Có thể có gốc nitrate. Chất nổ. Tovex117. Có phải màu xanh dương
không?”
“Không, trắng như sữa.”
“Thậm chí nó có thể sai bét, tôi hình dung đó là loại chất nổ thứ cấp.
Loại ổn định. Còn gì nữa không?”
“Một mẩu giấy nữa. Có gì đó ở đây.”
“Cái gì, Sachs? Tên hắn, địa chỉ của hắn, thư điện tử?”
“Giống như giấy từ một tờ tạp chí. Tôi thấy một bức ảnh đen trắng
nhỏ. Giống như một phần của toà nhà nhưng không nhìn thấy được là
phần nào. Dưới đó có một dòng ngày tháng. Ngày Hai mươi sáu tháng
Năm năm 1906.”
“Năm, hai mươi, không-sáu. Không hiểu có phải mã gì không. Hay là
một địa chỉ. Tôi phải nghĩ thêm về điều này. Còn gì nữa không?”
Cô nghe thấy anh ta thở dài.”Được rồi. Về thôi, Sachs. Mấy giờ rồi
nhỉ? Lạy Chúa tôi, gần một giờ sáng rồi. Lâu lắm rồi tôi không thức
muộn thế này. Về thôi, để xem ta có gì.”
Trong tất cả các khu của Manhattan, Lower East Side là nơi ít thay đổi
nhất trong lịch sử thành phố.
Tất nhiên là nhiều thứ đã biến mất. Những bãi chăn thả. Những toà nhà
kiên cố của John Hancock và những người nổi tiếng trong chính quyền
thời đó. Der Kolek, hồ nước ngọt lớn (cái tên Hà Lan của nó cuối cùng
bị biến thành “The Collect”, miêu tả chính xác hơn thì là một cái ao ô
nhiễm khủng khiếp). Khu Five Points nổi tiếng – trong những năm
1800 là dặm vuông nguy hiểm nhất trên thế giới – nơi mà chỉ một toà
nhà cho
117 Tovex: Một loại chất nổ dạng gel nước.
thuê, như toà nhà Gates of Hell đổ nát, có thể là nơi chứa chấp tới hai,
ba trăm tên giết người mỗi năm.
Nhưng vẫn còn lại hàng nghìn toà nhà cũ – những toà nhà cho thuê từ
thế kỷ XIX và những ngôi nhà khung xây kiểu thuộc địa, những ngôi
nhà hàng phố bằng gạch kiểu liên bang trước đó, những hội trường
Baroque, một vài toà nhà công cộng kiểu Ai Cập được xây dựng theo
lệnh của viên Nghị sĩ tha hoá Fernando Wood. Một số khác đã bị bỏ
hoang, mặt tiền của chúng bám đầy cây cỏ, sàn nhà bị lũ cây non ương
bướng làm nứt vỡ. Nhưng nhiều toà nhà vẫn còn được sử dụng; đó là
mảnh đất tội lỗi của Tammany Hall, của xe đẩy và công xưởng khổ sai,
toà nhà định cư Phố Henry, những vở hài kịch tục tĩu của Minsky và
Yiddish Gomorra nổi tiếng – tên mafia người Do Thái. Khu vực sinh ra
những hình thái như vậy không thể chết một cách dễ dàng.
Khu vực này chính là nơi Kẻ Tầm Xương, lái chiếc taxi chở người phụ
nữ gầy gò và cô con gái của cô ta đến.
Thấy cảnh sát đang theo dõi mình, James Schneider lại trườn xuống
đất, như một con rắn, tìm kiếm nơi ẩn nấp – người ta nghi ngờ là ở
trong những căn phòng của rất nhiều toà nhà cho thuê của thành phố
(mà độc giả có thể tình cờ nhận ra là “nhà trọ” vẫn còn đang rất thịnh
hành). Và hắn im hơi lặng tiếng suốt mấy tháng.
Khi lái xe về nhà, Kẻ Tầm Xương thấy quanh mình không phải là
Manhanttan của những năm 1990 – những quán ăn nhanh Hàn Quốc,
những cửa hàng bánh sừng bò ướt át bẩn thỉu, những cửa hiệu cho
thuê phim khiêu dâm, những cửa hàng quần áo trống rỗng – mà là một
thế giới mộng mơ của những người đàn ông đội mũ quả dưa, những
người phụ nữ mặt váy phồng sột soạt, viền và gấu dây đầy bùn bẩn
ngoài phố. Những chiếc xe độc mã và tam mã, không khí tràn ngập
mùi khí metal đôi khi dễ chịu, đôi khi thật kinh tởm.
Nhưng có động cơ xuẩn ngốc, không mỏi mệt nào đó bên trong thúc
giục hắn phải làm mới bộ sưu tập của mình, ép hắn ra khỏi nơi lẩn trốn
để tìm kiếm một người công dân lương thiện nữa; một thanh niên mới
tới thành phố để hợc đại học.
Lái xe qua Quận Mười tám nổi tiếng, nơi đã từng là chỗ trú ngụ của
gần mười lăm nghìn người, bị nhồi nhét vào một nghìn khu nhà đổ nát.
Khi mọi người nghĩ tới thế kỷ XIV, họ nghĩ tới màu nâu đỏ – màu của
những bức ảnh chụp thời đó. Nhưng không phải vậy, Manhattan xưa
kia có màu đá. Với làn khói bụi làm nghẹn thở, sơn tường đắt giá và
ánh sáng mờ mờ, thành phố hình thành từ nhiều sắc độ của màu xám và
màu vàng.
Schneider lẩn lút theo sau chàng trai và chuẩn bị tấn công. Nhưng cuối
cùng lương tâm của thần May mắn lên tiếng. Hai cảnh sát đã xuất hiện
đúng lúc. Họ nhận ra Schneider và đuổi theo. Tên sát nhân chạy sang
phía đông, chạy qua kỳ quan thiết kế khi đó, cầu Manhattan, cây cầu
được xây xong vào năm 1909 hai năm trước khi sự việc này xảy ra.
Nhưng hắn dừng lại giữa đường khi nhìn thấy cảnh sát chạy tới từ phía
Brooklyn; họ đã nghe thấy tiếng huýt còi và tiếng súng từ những đồng
nghiệp phía Manhattan.
Schneider, không mang vũ khí, lại bị pháp luật bao vây nên chỉ còn
cách trèo lên thành cầu. Hắn hét lên những câu chỉ trích cảnh sát điên
loạn, kết tội họ đã phá hoại cuộc đời hắn. Từ ngữ của hắn ngày càng
điên loạn hơn. Lúc cảnh sát lại gần, hắn nhảy từ thành cầu xuống sông.
Một tuần sau, một người hoa tiêu phát hiện ra thi thể hắn trên bờ đảo
Welfare, gần Hell Gate. Chẳng còn lại gì nhiều, vì cua cáy và rùa đã
làm việc rất
cần cù. Chúng chẳng để lại cho Schneider chút gì ngoài những khúc
xương mà hắn đã từng tôn thờ.
Hắn đánh chiếc taxi vào con phố trải sỏi East Van Brevoort, và dừng
lại trước một toà nhà. Hắn kiểm tra hai sợi dây bẩn thỉu mà hắn đã
chăng thấp dưới cửa để bảo đảm rằng không có ai vào nhà. Một
chuyển động bất ngờ làm hắn giật mình và hắn lại nghe thấy tiếng gầm
gừ sâu trong cổ họng của những con chó, mắt chúng màu vàng, răng
màu nâu, cơ thể lấm tấm sẹo và vết lở loét. Hắn lần tay tìm khẩu súng
ngắn nhưng chúng bất ngờ quay đi, vừa sủa ăng ẳng vừa đuổi theo một
con mèo hay con chuột trong ngõ.
Hắn không nhìn thấy ai trên vỉa hè nóng bức. Hắn mở khoá cửa nhà để
xe ngựa, sau đó quay về xe và lái nó vào ga ra, đỗ bên cạnh chiếc
Taurus.
Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu
thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công
dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những
trang viết của hắn có một điều chắc chắn là (nếu như những tuyên bố
của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng
liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục
hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy
vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với
một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình
những ân huệ.
Hắn dừng lại, gạt mồ hôi ra khỏi miệng. Cái mặt nạ trượt tuyết làm hắn
ngửa. Hắn kéo người phụ nữ và đứa con gái ra khỏi cốp xe, vào gạt
ra. Cuối cùng thì hắn cũng còng được họ.
“Thằng khốn nạn!” Cô ta rống lên. “Không được động vào con tao.
Mày mà động vào nó, tao giết mày.”
Hắn ôm chặt quanh ngực cô ta và dán miệng cô ta lại. Sau đó hắn cũng
làm thế với đứa bé con.
“Thịt da có thể khô héo và yếu ớt” – (tên tội phạm viết bằng nét chữ
thô bạo nhưng chắc chắn ) – “xương cốt là phần khỏe nhất của cơ thể.
Da thịt chúng ta có già đi, nhưng xương cốt chúng ta luôn trẻ mãi. Đó
là mục tiêu cao quý của tôi, tôi không hiểu tại sao lại có người muốn
tranh cãi với nó. Tôi làm điều tử tế cho tất cả bọn họ. Giờ đây họ bất
tử. Tôi giải phóng họ. Tôi đã lấy họ đến tận xương”.
Hắn kéo họ xuống tầng hầm và đẩy mạnh người phụ nữ xuống sàn nhà,
đứa con gái ở cạnh cô ta. Buộc còng tay của họ vào tường bằng dây
phơi. Sau đó quay lên cầu thang.
Hắn nhặt chiếc ba lô màu vàng của cô ta ở sau xe taxi, đi qua một cánh
cửa gỗ bắt vít vào phòng chính của toà nhà. Hắn định vứt chúng vào
góc nhà nhưng vì một lý do nào đó hắn lại thấy tò mò về những đồ vật
này. Hắn ngồi xuống trước một bức bích hoạ – một bức tranh vẽ tên
đồ tể, một tay cầm dao, một tay cầm khúc thịt bò.
Hắn đọc nhãn hành lý. Carole Ganz. Carole với chữ E. Tại sao lại thừa
một chữ? Hắn băn khoăn. Cái va li chẳng có gì ngoài quần áo. Hắn lục
lọi cái ba lô. Hắn thấy tiền ngay lập tức. Phải có đến bốn, năm nghìn
đô la. Hắn nhét lại nó vào ngăn kéo khoá.
Có một tá đồ chơi trẻ con: búp bê, hộp màu nước, một gói đất nặn, bộ
đồ chơi Mr. Potato Head118. Trong đó còn có một máy chơi nhạc
dòng Discman đắt tiền, nửa tá đĩa CD và cái đài đồng hồ du lịch hiệu
Sony.
Hắn nhìn mấy bức ảnh. Ảnh Carole và đứa con. Trong hầu hết các
bức ảnh, người phụ nữ trông rất sầu não. Một số, trông cô ta có vẻ vui
hơn. Không có ảnh nào có cả Carole và chồng dù cô ta đeo nhẫn
cưới. Nhiều bức ảnh là hai mẹ con với một cặp – một người đàn bà to
béo mặc bộ đồ bà già cũ kỹ và một người đàn ông hói, để râu, mặc áo
sơ mi vải flanenl.
Kẻ Tầm Xương nhìn rất lâu vào bức hình đứa bé con.
Số phận của Maggie O'Connor đáng thương, một cô bé mỏng manh
chưa đấy tám tuổi, đặc biệt bất hạnh. Vận đen của cô bé, như cảnh sát
phỏng đoán, là cô bé đã bắt gặp James Schneider khi hắn đi phi tang
một trong những nạn nhân của mình.
Một cô bé, cư dân khu “Hell's Kitchen” nổi tiếng, ra ngoài nhổ lông
đuôi ngựa. Trong khu vực nghèo khó này của thành phố có rất nhiều
súc vật chết. Bọn trẻ ở đây đã quen với việc đan lông đuôi ngựa thành
nhẫn và vòng đeo cổ – đồ nữ trang duy nhất mà những đứa trẻ cù bơ
cù bất như nó có thể dùng để trang điểm cho mình.
Da và xương, da và xương.
Hắn đặt bức ảnh lên bệ lò sưởi, cạnh đống xương nhỏ mà hắn đang
làm dở sáng nay và một số thứ hắn ăn trộm ở cửa hàng nơi hắn tìm
thấy con rắn.
Người ta ngờ rằng Schneider đã thấy Maggie gần hang ổ của hắn
chứng kiến cảnh tượng rùng rợn khi hắn giết một trong những nạn nhân.
Hắn hạ cô bé nhanh hay chậm, điều này ta không đoán được. Nhưng
không giống như những nạn nhân khác của hắn, những người mà cuối
cùng thi thể của họ cũng được tìm thấy – thi thể của Maggie O'Connor
yếu đuối không bao giờ được tìm thấy.
Kẻ Tầm Xương xuống cầu thang.
Hắn giật tấm băng dính trên miệng người mẹ, người phụ nữ hổn hển hít
không khí, nhìn hắn với cơn giận dữ lạnh lùng. “Mày muốn gì?” Cô ta
the thé hỏi. “Cái gì?”
Cô ta không gầy như Esther nhưng, ơn Chúa, cô ta không giống Hanna
Goldschmidt chút nào. Hắn có thể nhìn thấy thật nhiều tâm hồn cô ta.
Hàm dưới hẹp, xương đòn. Và qua lần váy mỏng màu xanh, dấu
xương chậu – một kết nối của xương chậu, đốt háng và xương mu.
Những cái tên nghe như những vị thần La Mã.
Con bé con vặn vẹo người. Hắn nghiêng người ra trước và đặt tay lên
đầu nó. Xương sọ không phát triển từ một miếng xương duy nhất mà
từ tám miếng xương riêng biệt, và đỉnh đầu nối lên như những mảnh
tam giác trên mái vòm sân Astrodome. Hắn chạm vào xương chẩm và
xương đỉnh của đầu con bé. Và hai mảnh xương nhạy cảm, ưa thích
của hắn quanh hốc mắt – xương bướm và xương sàng.
118 Mr. Potato Head: Một loại đồ chơi của Mỹ gồm một mô hình củ
khoai tây bằng nhựa có thể được trang trí bằng những bộ phận khác
nhau như tai, mắt để tạo ra một khuôn mặt. Đồ chơi này được George
Lerner sáng chế năm 1949, do Công ty Hasbro sản xuất
và phân phối lần đầu tiên vào năm 1952.
“Thôi đi!” Carole lắc đầu giận dữ. “Tránh xa con bé ra.”
“Suỵt...” Hắn đưa ngón tay đeo găng của mình lên môi. Hắn nhìn con
bé con, nó đang khóc và ép chặt người vào mẹ.
“Maggie O'Connor”, hắn thủ thỉ, nhìn khuôn mặt con bé. “Maggie bé
bỏng của
ta.”
Người phụ nữ giận dữ nhìn hắn.
“Con có mặt không đúng lúc, đúng nơi rồi. Con đã nhìn thấy ta làm gì
rồi?”
Trẻ trung đến tận xương cốt.
“Mày đang nói gì thế?” Carole thì thầm. Hắn chuyển sự chú ý sang cô.
Kẻ Tầm Xương luôn băn khoăn về người mẹ của Maggie O'Connor.
“Chồng cô đâu?”
“Anh ấy chết rồi.” Cô cục cằn nói. Sau đó nhìn đứa con và nói nhẹ
nhàng hơn.
“Anh ấy bị giết hai năm trước. Này, chỉ cần thả con gái tôi thôi. Nó
không thể nói bất cứ điều gì về anh với người khác. Này anh kia... anh
có nghe tôi nói không? Làm gì thế?”
Hắn tóm tay Carole và nhấc lên.
Hắn gập xương bàn tay, chỗ cổ tay. Các đốt ngón tay – những ngón
tay nhỏ xíu. Bóp vào xương.
“Không, đừng làm thế. Tôi không thích thế. Làm ơn đi!” Giọng cô vang
lên trong cơn hoảng loạn.
Hắn mất tự chủ và không thích cảm giác này chút nào. Nếu hắn muốn
thành công ở đây, với các nạn nhân, với kế hoạch của hắn thì hắn phải
chiến thắng sự ham muốn đang xâm chiếm hắn – cơn điên đang kéo
hắn sâu hơn vào quá khứ, lẫn lộn ngày đó và bây giờ.
Trước đây và sau đó...
Hắn cần đến tất cả trí tuệ và sự khéo léo của mình để kết thúc những gì
hắn đã bắt
đầu.
Và lúc này... lúc này...
Cô ta thật nhỏ nhắn, cô ta thật hoàn hảo. Hắn nhắm mắt và hình dung
lưỡi dao cào
trên xương ống chân cô ta sẽ hát lên như mã vĩ của một cây đàn violin
cổ.
Hắn thở gấp gáp, mồ hôi đổ như tắm.
Cuối cùng, khi mở mắt hắn thấy mình đang nhìn vào đôi giày của cô.
Hắn không có nhiều xương chân trong tình trạng tốt. Những người vô
gia cư bị hắn bắt trong mấy tháng qua... họ đều bị còi xương và loãng
xương, ngón chân họ bị những đôi giày không vừa chân làm hỏng.
“Tôi muốn thoả thuận với cô”, hắn nghe thấy mình đang nói. Cô nhìn
xuống con gái. Đang ép chặt hơn vào người cô.
“Tôi sẽ thoả thuận. Tôi sẽ để cô đi nếu cô để tôi làm mấy việc.”
“Việc gì?” Carole thầm thì. “Cho tôi bóc da cô.”
Cô chớp mắt.
Hắn thầm thì. “Cho phép tôi. Làm ơn đi? Một chân. Chỉ một chân thôi.
Nếu cô làm thế tôi sẽ để cô đi.”
“Cái gì...?”
“Đến tận xương.”
Cô hoảng sợ nhìn hắn chằm chằm. Nuốt nước bọt.
Điều đó có ý nghĩa gì? Hắn nghĩ. Kiểu gì thì cô ta cũng đã gần đó lắm
rồi, thật gầy, thật góc cạnh. Đúng là có gì đó khác biệt ở cô ta – không
như những nạn nhân khác.
Hắn cất khẩu súng ngắn và lấy dao trong túi. Mở nó ra với một tiếng
động làm giật
mình.
cô.
Cô không động đậy, ánh mắt cô trượt xuống đứa con gái. Quay lại
phía hắn. “Mày để bọn tao đi?”
Hắn gật đầu: “Cô chưa nhìn thấy mặt tôi. Cô không biết đây là đâu.”
Một lúc lâu. Cô nhìn quanh tầng hầm. Cô lẩm nhẩm một cái tên. Ron
hay Rob.
Mắt vẫn nhìn hắn, cô giơ chân ra và đưa về phía hắn. Hắn kéo giày ra
khỏi chân
Hắn nắm lấy chân cô. Xoa nắn những mạch máu dễ vỡ.
Cô ngửa người ra sau, những sợi gân nổi lên trên cổ cô thật đẹp. Mắt
cô nhắm
chặt. Hắn chăm sóc da cô bằng lưỡi dao.
Tay nắm chắc con dao.
Cô nhắm mắt, hít vào và phát ra một tiếng khóc yếu ớt. “Làm đi”, cô
thầm thì. Và xoay mặt con bé ra chỗ khác. Ôm nó thật chặt.
Kẻ Tầm Xương hình dung ra cô trong bộ quần áo thời Victoria, váy
lồng đăng ten đen. Hắn thấy ba người họ ngồi với nhau ở Delmonico
hay đi trên Đại lộ Năm. Hắn nhìn thấy Maggie nhỏ bé cùng với họ, mặc
bộ váy diêm dúa, đang dùng gậy đánh vòng khi họ đi qua cầu Canal.
Ngày đó và bây giờ…
Hắn đặt lưỡi dao hoen gỉ vào vòng cung chân cô. “Mẹ ơi!” Con bé hét
lên.
Có điều gì đó trong người hắn bật ra. Hắn bàng hoàng một lúc vì khiếp
sợ điều hắn đang làm. Sợ chính hắn.
Không! Hắn không thể làm điều đó. Không phải với cô ta. Với Esther
hay Hanna thì được. Hay với người tiếp theo. Nhưng không phải cô ta.
Kể Tầm Xương lắc đầu buồn bã và chạm bàn tay vào gò má cô. Hắn
lại dán miệng cô bằng băng dính và cắt sợi dây buộc chân cô.
“Nào”, hắn lẩm bẩm.
Cô vùng vẫy hết sức nhưng hắn giữ chặt đầu cô và kẹp mũi cô cho tới
khi cô ngất đi. Sau đó hắn vác cô lên vai và đi lên cầu thang, thận trong
nhấc các túi bên cạnh lên. Rất cẩn thận. Hắn không muốn nó rơi. Lên
cầu thang. Chỉ dừng lại một lần để nhìn Maggie O’Conner bé nhỏ, tóc
quăn đang ngồi trên bụi bẩn, tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn hắn.
HAI MƯƠI BA
Anh ta tóm họ ngay trước nhà Rhyme.
Nhanh như rắn, Jerry Banks đang bê cạnh sườn, như một món quà từ
Santa Fe. Dellray và hai đặc vụ bước từ trong ngõ ra. Anh ta tuyên bố
với vẻ thoải mái: “Có
tin mới đây, bé yêu. Cô đã bị bắt vì tội ăn cắp chứng cứ đang thuộc sự
quản lý của chính
phủ Mỹ.”
Lincoln Rhyme đã nhầm. Dellray không hề về tòa nhà kiểu liên bang.
Anh ta theo dõi chỗ ở của anh.
Banks đảo mắt. “Bình tĩnh nào, Dellray. Chúng tôi đã cứu được nạn
nhân.”
“Con giai, con làm được việc thật tốt rồi đấy. Nếu không, chúng ta sẽ
kết án con tội giết người.”
“Nhưng chúng tôi cứu được ông ta”, Sachs nói. “Còn anh thì không.”
“Vớ vẩn.”
“Còng quý cô trẻ tuổi này lại”, con Kỳ nhông bất ngờ nói với đặc vụ
lực lưỡng đứng cạnh anh ta.
Cô bắt đầu. “Chúng tôi tìm thấy thêm manh mối, đặc vụ Dellray. Hắn
đã bắt được một nạn nhân khác. Tôi không biết chúng ta còn bao
nhiêu thời gian.”
“À, còn phải mời cả anh bạn này tới dự tiệc cùng chúng ta nữa chứ.”
Dellray hất đầu về phía Banks. Một nữ đặc vụ FBI đang tiến lại chỗ
anh ta, còn anh ta có vẻ như đang nghĩ đến việc đánh nhau với cô ta.
Dellray nói vui vẻ: “Đừng, đừng, đừng. Cậu không muốn thế đâu.”
Banks miễn cưỡng chìa tay ra.
Sachs giận dữ nở một nụ cười lạnh lùng với viên đặc vụ.
“Chuyến đi đến
Morningside Heights của anh thế nào?”
“Hắn đã giết chết chàng lái taxi ấy. Các chàng trai PERT của chúng tôi
đang lồm cồm khắp nhà như giòi bò trong phân.”
“Và đó là tất cả những gì họ sẽ tìm thấy”, Sachs nói. “Đối tượng này
biết về hiện trường vụ án tốt hơn anh và tôi.”
“Về trung tâm.” Dellray tuyên bố, hất đầu về phía Sachs. Cô có quyền
được yên lặng. Cô có…”
“Được rồi’, một giọng nói vang lên phía sau họ. Sachs quay lại và nhìn
thấy Jim Polling đang sải bước lên vỉa hè. Cái áo thể thao thùng thình,
tối màu anh ta đang mặc thật nhàu nát. Giống như là anh ta đã mặc nó
khi đi ngủ, mặc dù khuôn mặt u ám của anh ta nói rằng đã mấy ngày
nay anh ta chưa được ngủ. Có thể nhìn thấy bộ râu cả ngày chưa được
cạo và mái tóc thực sự rối bù của anh ta.
Dellray chớp mắt một cách khó chịu, không phải viên cảnh sát làm anh
ta thấy bất ổn mà là thân hình cao lớn của chưởng lý quận Nam đang ở
phía sau Pollong. Và sau nữa là SAC Peskins.
“Được rồi, Fred. Để họ đi.” Giọng nói của viên chưởng lý.
Con Kỳ nhông nói bằng giong nam trung của phát thanh viên chương
trình âm nhạc đài FM: ”Cô ta lấy trộm vật chứng, thưa ngài.Cô ta...”
“Tôi chỉ làm vài phân tích pháp y thôi”, Sachs nói. “Nghe này...”,
Dellray bắt đầu.
“Không”, Polling nói, hoàn toàn làm chủ. Không hề có âm
hưởng giận dữ. “Không, chúng tôi không nghe.” Anh ta quay sang
Sachs và cáu kỉnh: “Còn cô thì đừng cố làm trò.”
“Không, thưa ngài. Xin lỗi, thưa ngài.”
Viên chưởng lý nói với Dellray: ”Fred, anh hành động theo suy luận và
đã thất bại. Đó là sự thật.”
“Một đầu mối tốt”, Delllray nói.
“Chúng tôi thay đổi hướng điều tra”, viên chưởng lý tiếp tục.
Perkins nói: “Chúng tôi đã họp với giám đốc và với phòng Nghiên cứu
Hành vi. Chúng tôi quyết định rằng hướng điều tra của các thám tử
Rhyme và Sellitto là đúng.”
“Nhưng đặc tính của tôi biết chắc rằng điều gì đó đã xảy ra tại sân bay.
Và đó không phải là thứ mà anh ta thích lắm.”
“Chúng ta sẽ quay lại chuyện đó, Fred”, viên chưởng lý nói cộc lốc.
“Bất kể là tên khốn này muốn gì thì nhóm của Rhyme cũng đã cứu
được nạn nhân.”
Nhứng ngón tay dài ngoẵng của Dellray cuộn lại thành nắm đấm,
nhưng sau đó lại mở ra: “Tôi đánh giá cao việc này, thưa ngài.
Nhưng...”
“Đặc vụ Dellray, chúng tôi đã quyết định rồi.”
Khuôn mặt đen bóng – thật hăng hái khi anh điều binh khiển tướng
trong toà nhà kiểu liên bang – lúc này ủ rũ, dè dặt. Trong một khắc,
anh chàng mê nhạc jazz biến mất. “Vâng, thưa ngài.”
“Con tin gần đây nhất có thể bị chết nếu thám tử Sachs không can
thiệp”, viên chưởng lý nói.
“Là sĩ quan Sachs, thưa ngài”, cô chỉnh lại. “Vả lại phần lớn là nhờ
Lincoln
Rhyme. Tôi chỉ là tay sai của anh ta thôi. Có thể nói như vậy.”
“Vụ này trả về thành phố”, viên chưởng lý tuyên bố. “A-T của Cục vẫn
tiếp tục xử lý mối liên hệ với người đưa tin liên quan tới khủng bố
nhưng với số lượng người ít hơn. Tất cả những thông tin mà họ có
được đều phải chuyển cho các thám tử Rhyme và Sellitto. Dellray, anh
phải chuyển người sang để họ sử dụng cho bất kỳ nỗ lực tìm kiếm,
theo dõi hay giải cứu con tin nào. Hoặc bất cứ thứ gì họ cần. Anh hiểu
chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tốt. Ạnh nên tháo còng cho các sĩ quan này ngay.”
Dellray bình tĩnh mở khóa còng và thả nó vào túi mình. Anh ta đi ra chỗ
một chiếc xe lớn đậu gần đó. Khi Sachs nhặt cái túi đựng vật chứng
lên, cô nhìn thấy anh ta đứng một mình bên rìa một vệt sáng đèn
đường, đằng sau xe của anh ta, ngón tay trỏ vuốt vuốt điếu thuốc. Cô
có một chút cảm thông với nhân viên liên bang này, sau đó cô quay lại
chạy lên cầu thang, hai bậc một, theo sau Jerry Banks và con rắn
chuông của anh ta.
“Tôi nghĩ ra rồi. À, hầu hết.”
Sachs bước và phòng Rhyme đúng lúc anh đưa ra tuyên bố này. Anh
ta khá hài lòng với bản thân.
“Mọi thứ, trừ con rắn và cái mớ hỗn độn này.”
Cô giao vật chứng mới cho Mel Cooper. Căn phòng lại được chuyển
đổi, những cái bàn được chất đầy lọ thủy tinh, cốc thí nghiệm, hộp tròn
đựng thuốc, thiết bị phòng thí nghiệm và những cái hộp. Không nhiều
như ở trụ sở FBI nhưng với Amelia Sachs, kỳ lạ thay nó lại khiến cô
thấy như đang ở nhà.
“Nói tôi nghe”, cô nói.
“Ngày mai là Chủ Nhật… xin lỗi – hôm nay là Chủ nhật. Hắn sẽ đốt
một nhà thờ.” “Làm thế nào mà anh nghĩ ra được?”
“Ngày tháng.”
“Trên mẩu giấy? Nó có ý nghĩa gì?”
“Cô đã bao giờ nghe nói tới những người vô chính phủ chưa?”
“Những người Nga nhỏ bé mặc áo choàng mang theo những quả bom
trông như quả bóng bowling phải không?” Banks nói.
“Từ một anh chàng đọc truyện tranh” Rhyme khô khan nhận xét.
“Cội-rễ-truyện- tranh-sáng-thứ-Bảy của anh ta đang thể hiện đây,
Banks. Chủ nghĩa vô chính phủ là một phong trào xã hội cũ kêu gọi loại
bỏ chính phủ. Một người vô chính phủ – Enrico Malatesta – có tuyên
ngôn ‘tuyên truyền bằng hành động’. Dịch ra là giết người và gây lộn
xộn. Một trong những kẻ theo gót ông ta, một người Mỹ tên là Eugene
Lockworthy, sống ở New York. Một buổi sáng Chủ nhật, hắn ta khóa
cửa một nhà thờ ở Upper East
Side119 ngay sau khi buổi lẽ bắt đầu và đốt nơi đó. Giết mười tám
người đi lễ.”
“Và nó xảy ra vào ngày Hai mươi tháng Năm năm 1906?” Sachs hỏi.
“Đúng.”
“Tôi sẽ không hỏi làm thế nào mà anh nghĩ ra được.”
Rhyme nhún vai. “Rõ ràng quá. Đối tượng của chúng ta thích lịch sự,
đúng không? Hắn cho ta vài que diêm để nói với ta rằng, hắn lên kế
hoạch cho một vụ hỏa
119 Upper East Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm
giữa Công viên
Trung tâm ở sông Đông.
hoạn. Tôi vừa nghĩ tới những vụ cháy nổi tiếng của thành phố –
Triangle Shirtwaist, Crystal Palace120, du thuyền Tướng Slocum… tôi
xem lại ngày tháng – Ngày Hai mươi tháng Năm là đám cháy nhà thờ
First Methodist.”
Sachs hỏi: “Nhưng ở đâu? Cũng chỗ nhà thờ ấy?”
“Tôi nghĩ là không phải”, Sellitto nói. “Bây giờ chỗ đó là một cao ốc
thương mại,
823 không thích những chỗ mới. Tôi có một vài người dự phòng nhưng
ta không chắc là
hắn sẽ đi nhà thờ.”
“Và chúng ta nghĩ”, Rhyme nói thêm, “hắn sẽ đợi cho tới khi buổi lễ bắt
đầu.” “Vì sao?”
“Có một điều, vì đó là cách Lockworthy đã làm”, Sellitto tiếp tục.
“Hơn nữa, chúng tôi cũng nghĩ tới điều Terry Dobyns nói với chúng ta –
tăng tiền cược. Nhiều nạn
nhân hơn.”
“Như vậy là ta có thêm chút thời gian. Cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”
Rhyme nhìn lên trần nhà. “Rồi, có bao nhiêu nhà thờ ở Manhattan?”
“Hàng trăm cái.”
“Nghe hoa mỹ lắm, Banks. Ý tôi là – chúng ta tiếp tục xem xét manh
mối. Hắn sẽ phải thu gọn còn vài cái thôi.”
Tiếng chân bước trên cầu thang. Lại là hai anh em sinh đôi.
“Chúng tôi gặp Fred Dellray ở ngoài kia.”
“Anh ta chẳng thân mật chút nào.” “Hay vui vẻ.”
“Ôi trời, nhìn này.” Saul – Rhyme tin rằng đó là Saul ; anh ta quên mất
ai là người có tàn nhang – hất đầu về phía con rắn. “Trong một đêm,
tôi đã phải nhìn thấy thứ này nhiều hơn là tôi muốn rồi đấy.”
“Rắn?” Rhyme hỏi.
“Chúng tôi đến Metamorphosis. Đó là…”
“… một chỗ rất ghê rợn. Có gặp ông chủ ở đấy. Một anh chàng kỳ
quặc. Các anh chắc cũng đoán được.”
“Để râu dài lắm. Chúng tôi ước là mình không đến đấy tối đó”,
Bedding tiếp. “Họ bán dơi nhồi bông và côn trùng…”
“Dài tới năm inch.”
“… và có những con quái vật như con này.” Sachs hất đầu về phía con
rắn. “Bọ cạp, rất nhiều bọ cạp.”
120 Crystal Palace: Cung điện Pha Lê, một địa danh ở New York.
“Thôi được, khoảng một tháng trước họ bị đột nhập và đoán thử xem
cái gì bị mất? Một bộ xương rắn chuông.”
“Họ có báo không?” Rhyme hỏi. “Có.”
“Nhưng tổng giá trị tài sản mất cắp chỉ khoảng một trăm đô la. Vì thế
Larceny không muốn lôi tất cả mọi người vào, các anh biết đấy.”
“Nhưng nói với họ.”
Sachs gật đầu. “Con rắn không phải là thứ duy nhất bị mất. Kẻ trộm
còn lấy đi mấy chục cái xương.”
“Xương người à?” Rhyme hỏi.
“Đúng. Người chủ nghĩ điều đó thật hài hước. Những con côn trùng...”
“Quên năm inch đi, một số con dài tới tám inch. Dễ.”
“...chúng trị giá ba, bốn trăm. Nhưng tất cả vật chứng bị lấy là con rắn
và xương.” “Có xương nào đặc biệt không?”
“Một nhóm. Giống như mẫu Whitman của anh.” “Hắn ta nói thế, không
phải chúng tôi.”
“Chủ yếu là xương nhỏ. Tay và chân. Và xương sườn, có thể là cả hai
cái.” “Anh ta không chắc lắm.”
“Có báo cáo hiện trường nào không?” “Cho xương bị đánh cắp?
Không đâu.”
Những Chàng trai Dũng cảm lại đi ra, vào thành phố, tới hiện trường
cuối cùng để điều tra khu vực lân cận.
Rhyme băn khoăn về con rắn. Có phải nó cho họ biết địa điểm không?
Nó có liên quan đến đám cháy Nhà thờ First Methodist không? Nếu
bọn rắn chuông là đặc thù của Manhattan thì những công trình phát
triển thành phố đã từ lâu đóng vai trò Thánh Patrick và đã quét dọn
chúng ra khỏi đảo rồi. Hắn có chơi chữ rắn hay chuông không?”
Bất ngờ Rhyme tin rằng anh ta đã hiểu ra. “Con rắn là dành cho chúng
ta.” “Chúng ta?” Banks cười.
“Một cái tát vào mặt.” “Mặt ai?”
“Tất cả những ai đang tìm hắn. Tôi nghĩ đây là một chuyện đùa độc
địa.” “Tôi không cười quá to đâu”, Sachs nói.
“Câu của cô khá là buồn cười đấy.” Banks nhăn mặt.
“Tôi nghĩ chúng ta khá hơn hắn tưởng và hắn không thích điều này. Hắn
phát điên và hắn đổ nó sang cho chúng ta. Thom, thêm điều này vào hồ
sơ của chúng ta đi. Hắn đang nhạo báng chúng ta.”
Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh ta nghe và trả lời. “Emma thân
yêu. Cô có gì thế?” Anh ta gật đầu trong khi ghi chép. Sau đó ngẩng
lên và thông báo. “Những tên trộm xe cho thuê. Hai chiếc Avis đã biến
khỏi chỗ của chúng ở Bronx trong tuần qua, một chiếc ở Midtown.
Chúng để ở ngoài vì màu không đúng: đỏ, xanh và trắng. Không có tính
dân tộc. Bốn chiếc Hertz bị đánh cắp. Ba chiếc ở Manhattan – một
chiếc từ địa điểm của họ ở trung tâm East Side, một chiếc từ Midtown
và một chiếc từ Upper West Side. Hai cái màu xanh và – có thể đây là
nó – một cái màu nâu. Nhưng chiếc Ford bạc bị lấy từ White Plains.
Đó là sự bầu chọn của tôi.”
“Đồng ý”, Rhyme tuyên bố. “White Plains.”
“Làm sao anh biết?” Sachs hỏi. “Monelle nói có thể nó màu be hay
màu bạc.”
“Vì anh chàng của chúng ta đang ở trong thành phố”, Rhyme giải thích,
“và nếu hắn ta lấy một thứ to như một chiếc xe hơi thì hắn sẽ làm việc
đó càng xa hang ổ của hắn càng tốt. Một chiếc xe Ford, anh vừa nói
thế à?”
Sellitto hỏi Emma, sau đó ngẩng lên. “Taurus. Kiểu của năm nay. Nội
thất màu xám tối. Biển số không trùng.”
Rhyme gật đầu. “Thứ đầu tiên mà hắn thay đổi sẽ là biển số xe. Hãy
cảm ơn cô ấy và bảo cô ấy chợp mắt một chút. Nhưng đừng rời điện
thoại quá xa.”
“Tôi có gì này, Lincoln”, Mel Cooper gọi. “Gì thế?”
“Mớ hỗn độn. Tôi đã chạy nó qua cơ sở dữ liệu thương hiệu.” Anh ta
bật màn hình. “Tham chiếu chéo… Xem nào, phù hợp nhất có lẽ là
Kink-Away. Đó là loại thuốc duỗi tóc được bán trong cửa hàng.”
“Không phù hợp lắm về mặt chính trị, nhưng có ích. Điều này đưa ta
đến Harlem, các anh có nghĩ thế không? Thu hẹp số lượng nhà thờ một
cách đáng kể.” Banks đang lướt qua mục buổi lễ tôn giáo trong danh
bạ của ba tờ báo thành phố. “Tôi đếm được hai mươi ba.”
“Buổi lễ sớm nhất là lúc nào?”
“Ba nơi làm lễ lúc tám giờ. Sáu nơi lúc chín giờ. Một nơi vào lúc chín
rưỡi. Còn lại vào mười hay mười một giờ.”
“Hắn ta sẽ đến nhà thờ làm lễ đầu tiên. Hắn đã cho chúng ta vài giờ để
tìm kiếm chỗ này rồi.”
Sellitto nói. “Tôi sẽ bảo Haumann tập hợp các anh chàng ESU của
chúng ta lại.” “Còn Dellray thì sao?” Sahcs nói. Cô hình dung ra viên
đặc vụ đáng thương đứng
một mình trong góc phố phía bên ngoài. “Hắn ta thì sao?” Sellitto lẩm
bẩm.
“À,cho anh ta nhập cuộc với. Anh ta muốn bắt thằng cha kia lắm đấy.”
“Perkins nói anh ta sẽ phải giúp đỡ”, Banks khuyến nghị. “Cô thực sự
muốn có hắn ư?” Sellitto nhăn nhó hỏi.
Sachs gật đầu. “Chắc chắn.”
Rhyme đồng ý. “Được rồi, anh ta có thể chỉ huy các nhóm S&S của
liên bang. Tôi muốn mỗi nhà thờ có một nhóm ngay lập tức. Tất cả các
lối vào. Nhưng họ phải đứng cách đó thật xa. Tôi không muốn đánh
động hắn. Ta có thể bắt quả tang hắn.”
Sellitto nhận một cuộc gọi. Anh ta ngẩng lên, mắt nhắm. “Lạy Chúa.”
“Ồ, không”, Rhyme lẩm bẩm.
Viên thám tử lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và gật đầu. “Trung tâm
nhận được một cuộc gọi 911 từ nhân viên trực đêm mở một khu nào
đó? Khách sạn Midtown Residence? Một người phụ nữ và con gái cô
ta gọi cho anh ta từ La Guardia, nói rằng họ sẽ bắt đầu lên taxi đến.
Một lúc trước; nhưng họ lại không đến. Biết tin tức về vụ bắt cóc, anh
ta nghĩ anh ta nên gọi điện. Tên cô ta là Carole Ganz. Đến từ
Chicago.”
“Quỷ thật”, Bank lẩm bẩm. “Có cả một đứa bé gái. Chắc là ta phải
dừng hết taxi ngoài phố cho tới khi tóm được hắn.”
Rhyme vô cùng mệt mỏi. Đầu anh điên đảo. Anh nhớ lại lúc khám
nghiệm hiện trường tại một nhà máy sản xuất bom. Nitroglycerin rơi ra
từ một ít thuốc nổ thấm vào chiếc ghế bành mà Rhyme phải tìm kiếm
dấu vết trên đó. Nitroglycerin làm cho ta đau đầu dữ dội.
Màn hình máy tình của Cooper nhấp nháy. “Thư điện tử”, anh ta nói và
mở thông điệp. Anh ta đọc những dòng chữ nhỏ xíu.
“Họ đã phân cực tất cả các mẫu giấy bóng kính mà ESU thu thập
được. Họ cho rằng mẩu giấy chúng ta tìm thấy trên khúc xương ở hiện
trường Phố Pearl là từ cửa hàng thực phẩm ShopRite. Giống nhất với
loại giấy bóng kính mà họ sử dụng.”
“Tốt”, Rhyme nói. Anh hất đầu về phía tấm áp phích. “Gạch bỏ tất cả
cửa hàng thực phẩm trừ ShopRite đi. Ta còn những địa điểm nào.”
Anh nhìn Thom xóa tên các cửa hàng, chỉ để lại bốn. B’way & 82nd
Greenwich & Bank
8th Ave. & 24th
Houston & Lafayette
Side.”
“Như thế là ta còn lại Upper West Side, West Village, Chelsea và
Lower East
“Nhưng hắn có thể đến bất cứ đâu để mua.”
“Chắc chắn là hắn có thể rồi, Sachs. Hắn có thể mua chúng ở White
Plains khi hắn
ăn trộm xe. Hay ở Cleveland khi đi thăm mẹ hắn. Nhưng nghe nay, có
một điểm là bọn thủ phạm cảm thấy thoải mái với sự lừa dối của chúng
và chúng không còn quan tâm đến
việc che giấu dấu vết nữa. Những kẻ ngu xuẩn – hay lười biếng – ném
khẩu súng còn bốc khói xuống hố rác ngay sau nhà mình và vui vẻ biến
đi. Những kẻ thông mình ném nó vào một thùng Spackle rồi vứt vào
Hell Gate. Những kẻ xuất sắc lẻn vào nhà máy lọc dầu và làm nó bốc
hơi trong lò nóng năm nghìn độ. Nghi phạm của chúng ta thông minh,
chắc chắn rồi. Nhưng hắn cũng giống như tất cả các tên tội phạm khác
trong lịch sử thế giới. Hắn cũng có giới hạn. Tôi cá là hắn nghĩ chúng ta
không có thời gian hay ý định tìm kiếm hắn hay hang ổ của hắn vì chúng
ta quá bận bịu với những manh mối để lại. Nhưng tất nhiên là hắn hoàn
toàn sai lầm. Đó chính xác sẽ là cách chúng ta tìm ra hắn. Còn bây giờ,
hãy xem liệu ta có đến gần được hang ổ của hắn hay không? Mel, có gì
trong quần áo của nạn nhân từ hiện trường vừa rồi không?”
Những đợt sóng thủy triều đã giặt sạch hầu hết mọi thứ trên quần áo
của William
Everett.
“Cô nói là họ có đánh nhau, phải không Sahcs? Nghi phạm và ông
Everett này.” “Không hắn là một vụ đánh nhau. Everett tóm áo hắn.”
Rhyme tặc lưỡi. “Chắc là tôi mệt rồi. Nếu tôi nghĩ đến việc đó thì tôi đã
bảo cô cạo móng tay ông ta. Kể cả khi ông ta chìm dưới nước thì vẫn
có một chỗ...”
“Đây này, cô nói và chìa ra hai cái túi nhựa.” “Cô có cạo?”
Cô gật đầu.
“Nhưng sao lại hai túi?”
Nhấc lần lượt từng cái lên, cô nói: “Tay phải, tay trái.”
Mel Cooper bật cười. “Ngay cả anh cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc
dùng hai túi cho hai tay. Ý hay tuyệt.”
Rhyme gầm gừ. “Phân tích hai tay có khả năng cùng có giá trị giám
định.”
“Ôi trời”, Cooper vẫn cười. “Thế có nghĩa là anh ta nghĩ đó là một ý
tuyệt vời và anh ta tiếc rằng mình không phải là người đầu tiên nghĩ ra
nó.”
Kỹ thuật viên nghiên cứu chỗ cạo móng tay. “Ở đây có ít gạch.”
“Chẳng có tí gạch nào quanh ống cống hay ngoài hiện trường”, Sachs
nói. “Nó bị gãy vụn. Nhưng có cái gì dính vào đó. Tôi không biết đấy
là thứ gì.”
Banks hỏi: “Có thể là từ đường hầm chỗ bãi chăn không? Ở đó có rất
nhiều gạch, đúng không?”
“Và tất cả xuất phát từ cô Annie Oakley121 đây”. Rhyme nói, buồn
bã hất đầu về phía Sachs. “Không, nhớ lại đi, thủ phạm đã bỏ đi trước
khi cô ta rút súng sáu.” Sau đó anh nhăn nhó, thấy mình cố vươn ra
phía trước. “Mel, tôi muốn xem mẩu gạch đó. Trên kính hiển vi. Có
cách nào không?”
121 Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.
Cooper nhìn ra chỗ máy tính của Rhhyme. “Tôi nghĩ ta có thể làm gì
đó.” Anh ta kéo một sợi cáp từ cổng video của chiếc kính hiển vi tới
máy tính của anh ta và sau đó đào bới trong cái va li. Anh ta lôi ra một
sợi cáp to, dây màu xám. “Đây là cáp nối tiếp”. Anh ta kết nối hai máy
tính với nhau và truyền một phần mềm gì đó sang chiếc Compaq của
Rhyme. Sau năm phút, Rhyme phấn chấn nhìn được đúng những gì mà
Cooper đang nhìn qua ống ngắm kính hiển vi của anh ta.
Đôi mắt của nhà hình sự học quét qua mẩu gạch, đã được phóng đại
khổng lồ. Anh cười thành tiếng. “Hắn ta đã tự đánh bẫy mình. Có thấy
những đốm trắng màu trắng dính vào mẩu gạch không?”
“Cái gì đấy?” Sellitto hỏi.
“Trông giống như hồ dán”, Cooper đề xuất.
“Chính xác. Từ cuộn băng dính làm sạch lông thú vật trên quần áo.
Những tên tội phạm thực sự cẩn thận dùng thứ này để xóa sạch dấu
vết khỏi quần áo chúng. Nhưng chúng bị phản pháo. Vài mẩu hồ rơi ra
khỏi cuộn băng dính và dính vào quần áo của hắn. Như vậy ta biết đó
là từ nơi ẩn nấp an toàn của hắn. Chính mẩu hồ giữ sạch mẩu gạch lại
cho tới khi móng tay của Everett nhặt nó lên.”
“Mẩu gạch ấy có nói cho ta biết điều gì không?” Sachs hỏi.
“Nó đã cũ. Và đắt tiền – gạch rẻ tiền rất xốp có trộn chất làm đầy. Tôi
nghĩ chỗ của hắn có thế là một cơ quan hay tòa nhà của ai đó rất giàu
có. Tòa nhà ít nhất đã một trăm năm. Có thể cổ hơn.”
“À, đây rồi”, Cooper nói. “Có vẻ là một mẩu găng tay nữa. Nếu thứ
này cứ tiếp tục phân rã thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có dấu vân
tay của hắn thôi.”
Màn hình của Rhyme nhấp nháy và một khắc sau anh nhận thấy có một
mẩu da nhỏ xuất hiện trên màn hình. “Có thứ trông buồn cười này”,
Cooper nói.
“Không phải màu đỏ”, Rhyme nhận xét. “Như mẩu kia. Mẩu này lại
màu đen. Cho nó qua máy GC-MS xem.”
Cooper thử, sau đố gõ lên màn hình của anh ta. “Đó là da. Nhưng
thuốc nhuộm khác. Có thể nó đã bị dây bẩn hoặc phai màu.”
Rhyme nghiêng người về phía trước, căng thẳng, nhìn kỹ mẩu da trên
màn hình và anh nhận ra mình gặp rắc rối. Rắc rối nghiêm trọng.
“Này, anh ổn chứ?” Sachs chính là người thốt lên.
Rhyme không trả lời. Cổ và cằm anh bắt đầu rung bần bật. Một cảm
giác như cơn rối loạn tràn lên từ cạnh cột sống đã gãy của anh và lan
lên đầu. Sau đó, tựa như bộ điều chỉnh nhiệt được bật lên, cơn lạnh và
gai ốc biến mất, anh bắt đầu toát mồ hôi. Mồ hôi túa ra trên mặt anh và
cù anh buồn phát điên.
“Thom!” Anh thì thầm. “Nó đến đấy.”
Sau đó anh thở hổn hển, cơn đau đầu dâng lên và lan tỏa theo thành
hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, lắc đầu, làm bất cứ điều gì có thể để
ngăn chặn cơn đau không thể chịu đựng được. Nhưng chẳng có ích gì.
Đèn trong phòng nhấp nháy. Cơn đau dữ dội tới mức
phản ứng của anh là chạy trốn khỏi nó, chạy trên đôi chân bại liệt đã
không nhúc nhích được trong nhiều năm.
“Lincoln!” Sellitto la lớn.
“Nhìn mặt anh ấy kìa”, Sachs hổn hển, “nó đỏ rực”.
Còn tay anh thì trắng bệch như ngà voi. Cả người anh dước kinh độ
C4122 thần kỳ đang trắng bệch. Máu của Rhyme, trong một sứ mệnh
tuyệt vọng, sai lầm là phải đến được chỗ nó nghĩ nó cần đến, đang dồn
lên những ống mao dẫn trên não anh, khiến chúng dãn ra, đe dọa làm
nổ tung những mạch máu yếu ớt.
Dù cơ đột quỵ càng ngày càng tệ hại hơn, nhưng Rhyme vẫn biết được
Thom đang vươn trên người anh, kéo tung cái chăn ra khỏi giường.
Anh vẫn biết Sachs tiến về phía trước, đôi mắt xanh dương tỏa sáng
của cô co lại vì lo lắng. Điều cuối cùng anh nhìn thấy trước khi bóng tối
trùm xuống là con chim ưng đang tung bay ra khỏi bờ tường trên đôi
cánh to lớn của nó, bị giật mình vì những hoạt động rối loạn bất ngờ
trong phòng, tìm kiếm sự quên lãng dễ dàng trong làn không khí nóng
bỏng bên trên những con phố trống vắng của thành phố.
122 C4: Đốt sống C4.
HAI MƯƠI BỐN
Khi Rhyme ngất đi, Sellitto là người đầu tiên chạy tớ chỗ cái điện thoại.
“Quay 911 gọi EMS”, Thom ra lệnh. “Sau đó quay số này. Quay số
nhanh. Đó là
Peter Taylor, chuyên gia cột sống của chúng tôi.” Sellitto gọi điện.
Thom quát: “Tôi cần giúp đỡ. Có ai đó không?”
Sachs đứng gần nhất. Cô gật đầu, bước lại phía Rhyme. Viên trợ lý ôm
dưới nách người đàn ông bất tỉnh nhân sự và kéo anh ta nằm cao hơn.
Anh ta giật tung chiếc áo sơ mi và ấn tay vào lồng ngực nhợt nhạt, vừa
làm vừa nói. “Những người còn lại, làm ơn đi ra chỗ khác.”
Sellitto, Banks và Cooper vẫn ngần ngừ trong giây lát rồi bước ra
ngoài. Sellitto đóng cánh cửa phía sau họ.
Một chiếc hộp màu be xuất hiện trên tay viên trợ lý. Bên trên nó có
mấy cái công tắc và núm xoay, một sợi dây nối từ đó ra một chiếc đĩa
phẳng được người trợ lý đặt lên ngực Rhyme và dán xuống.
“Bộ kích thích thần kinh cơ hoành. Nó giúp anh ta thở.” Anh bật máy.
Thom quấn cái vòng đo huyết áp và cánh tay trắng như thạch cao của
Rhyme. Sachs nhận thấy ngay từ đầu là cơ thể anh ta gần như không
có nếp nhăn. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi nhưng cơ thể anh ta là của
một thanh niên hai mươi nhăm tuổi.
“Sao mặt anh ấy lại đỏ thế? Trông anh ta giống như sắp nổ tung.”
“Đúng thế”, Thom nghiêm trọng nói, lôi bộ dụng cụ bác sĩ từ dưới cái
bàn đầu giường. Anh mở nó ra rồi tiếp tục đo huyết áp. “Mất phản
xạ... Sự căng thẳng ngày hôm nay. Tinh thần và thể chất. Anh ấy không
quen với nó.”
“Anh ta nói suốt là bị mệt.”
“Tôi biết. Nhưng tôi không thường xuyên chú ý. Suỵt. Tôi phải nghe
đã.” Anh ta cắm ống nghe vào tai, thổi căng chiếc vòng đo huyệt áp và
từ từ xả khí. Nhìn đồng hồ. Hai cánh tay anh ta vững như đá. “Tâm
trương một trăm hai mươi lăm. Mẹ kiếp.”
Lạy Chúa, Sachs nghĩ. Anh ta sẽ bị đột quỵ mất.
Thom hất đầu về phía cái túi đen. “Chị tìm một chai nifedipine. Rồi mở
một cái ống rò ra.” Trong khi cô tìm kiếm, Thom tụt chiếc quần pyjama
của Rhyme xuống, vơ lấy một cái ống thông tiểu cạnh giường, xé luôn
cái túi nhựa đựng nó. Anh ta bôi chất K-Y vào một đầu rồi nâng cái
dương vật nhợt nhạt của Rhyme lên., nhẹ nhàng nhưng nhanh chóng
nhét chiếc ống thông vào trong.
“Đây là một phần của vấn đề. Áp lực trong ruột và bang quang cơ thể
gây ra đột quỵ. Hôm nay anh ấy uống nhiều hơn mức cho phép.”
Cô mở kim tiêm dưới da ra, nhưng nói: “Tôi không biết tiêm.”
“Tôi sẽ làm.” Anh ta ngẩng lên nhìn cô. “Tôi muốn nhờ cô… cô không
thấy phiền khi làm việc này chứ? Tôi không muốn ống bị xoắn.”
“Được chứ. Chắc chắn rồi.” “Cô cần găng tay không?”
Cô đi găng tay, thận trong nắm lấy dương vật của Rhyme bằng tay trái,
tay phải giữ ống. Đã rất, rất lâu rồi cô mới chạm vào chỗ đó của đàn
ông. Da mềm mại và cô nghĩ thật lạ lùng khi gần như trung tâm của sự
tồn tại của người đàn ông lúc nào cũng mềm như lụa.
Thom tiêm thuốc rất thành thục. “Nào, Lincoln…”
Có tiếng còn hụ vẳng lại từ xa.
“Họ gần đến nơi rồi.” Cô nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Nếu ta không làm anh ấy tỉnh lại ngay bây giờ thì họ cũng chẳng giúp
được gì.” “Phải bao lâu thuốc mới có tác dụng?”
Thom liếc nhìn Rhyme đang vô cảm, nói: “Nó phải có hiệu lực ngay
bây giờ. Nhưng nếu liều cao quá anh ấy có thể bị sốc.” Viên trợ lý cúi
xuống và lật mi mắt Rhyme ra. Đồng từ xanh lơ đờ đẫn, không tập
trung.
“Không tốt rồi.” Anh ta lại đo huyết áp. “Một trăm năm mươi. Chúa
ơi.” “Nó giết anh ta mất”, cô nói.
“Ồ. Không vấn đề gì.”
“Cái gì?” Amelia Sachs choáng váng thì thầm.
“Anh ấy không quan tâm đến cái chết.” Anh thoáng nhìn cô như thể cô
vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. “Anh ấy chỉ không muốn bị bại liệt hơn bây
giờ.” Anh chuẩn bị một mũi tiêm khác. “Có thể anh ấy đã bị rồi. Ý tôi
nói là một cơn đột quỵ. Điều đó làm anh ấy hoảng sợ.”
Thom cúi người về phía trước và tiêm thêm một liều thuốc nữa.
Tiếng còi hụ đã rất gần. Cả tiếng còi xe. Xe hơi có thể chặn đường xe
cấp cứu, không hề có ý định vội vã tránh đường – một đặc thù về
thành phố làm cho Sachs giận giữ.
“Cô có thể lấy ống thông ra được rồi.”
Cô thận trong rút cái ống ra. “Tôi có cần...” Cô hất đầu về phía túi
nước tiểu. Thom cố nở một nụ cười yếu ớt. “Đó là việc của tôi.”
Vài phút trôi qua. Xe cứu thương có vẻ như không động đậy, nhưng
rồi đột nhiên một giọng nói vang lên trong loa phóng thanh và tiếng còi
hụ lại gần hơn.
Bất thình lình Rhyme động đậy. Đầu anh lắc nhẹ. Sau đó ngẩng lên cúi
xuống, dựa vào gối. Tông màu đỏ rực trên da anh đã nhạt bớt.
“Lincoln, anh nghe tôi nói không?” Anh rên rỉ: “Thom...”
Rhyme đang run rẩy dữ dội. Thom lấy chăn đắp cho anh.
Sachs thấy mình đang vuốt mái tóc rối bời của Rhyme. Cô lấy khăn
thấm mồ hôi trên trán anh.
Tiếng bước chân thình thịch trên cầu thàng và hai nhân viên y tế lực
lưỡng của EMS xuất hiện, tiếng bộ đàm khụt khịt. Họ chạy vội vào
phòng, đo huyết áp Rhyme và kiểm tra bộ kích thích thần kinh. Một
giây sau, bác sĩ Peter Taylor lao vào phòng.
“Peter”, Thom nói. “Là mất phản xạ.” “Huyết áp.”
“Giảm rồi. Nhưng tệ lắm. Trên một trăn năm mươi.” Ông bác sĩ nhăn
mặt.
Thom giới thiệu Taylor với các nhân viên y tế của EMS. Họ có vẻ chào
mừng vì đã có chuyện gia ở đây và lùi lại khi Taylor đến gần giường.
“Chào bác sĩ.” Rhyme run rẩy nói.
“Hãy kiểm tra mắt đã nào.” Taylor chiếu đền vào đồng tử Rhyme.
Sachs nhìn mặt ông bác sĩ để thăm dò phản ứng và cô thấy lo lắng vì
vẻ mặt nhăn nhó của ông ta.
“Không cần máy kích thích thần kinh làm gì”, Rhyme thầm thì.
“Cậu và lá phổi của cậu, đúng không?” Ông bác sĩ hỏi chế giễu. “Được
rồi, cứ để nó đấy một lúc, sao lại không nhỉ? Chỉ cho tới khi ta biết
chắc chuyện gì đang xảy ra.” Ông ta nhìn Sachs. “Có thể cô nên đợi
dưới nhà.”
Taylor cúi xuống gần hơn và Rhyme nhận thấy những giọt mồ hôi đang
lấm tấm trên đầu ông ta, dưới lớp tóc mỏng.
Ông bác sĩ khéo léo lật mi mắt và nhìn vào một đồng tử, sau đó là
đồng tử còn lại. Ông ta đo huyết áp cho Rhyme, ánh mắt xa xắm vẻ
tập trung cao độ của những bác sĩ trong giây phút quan trọng.
“Đang trở lại bình thường”, ông ta tuyên bố. “Nước tiểu thế nào?”
“Bảy trăm cc”, Thom nói.
Taylor quắc mắt. “Coi thường mọi thứ rồi à? Hay chỉ là uống quá
nhiều?”
Rhyme quắc mắt nhìn lại: “Chúng tôi bị rối trí, thưa bác sĩ. Tối nay tôi
bận quá.” Taylor nhìn theo hướng đầu của Rhyme và đảo mắt quanh
phòng, ngạc nhiên như
thể ai đó đã đưa trộm thiết bị vào khi ông không nhìn. “Tất cả những
thứ này là gì?” “Họ không cho tôi nghỉ hưu nữa.”
Vẻ mặt nhăn nhó của Taylor biến thành nụ cười. “Đúng lúc đấy. Tôi đã
chạy theo cậu vài tháng để bắt cậu phải làm gì đó với cuộc sống của
mình. Còn tình hình bụng dạ thế nào?”
Thom nói: “Khoảng mười hai, mười bốn giờ.” “Cậu vô tâm quá”,
Taylor rầy la.
“Không phải lỗi của cậu ta”, Rhyme càu nhàu. “Cả ngày hôm nay nhà
tôi có rất nhiều người.”
“Tôi không muốn nghe thanh minh”, ông bác sĩ quát lại. Đó chính là
Peter Taylor, người không bao giờ nói chuyện với Rhyme qua bất kỳ ai
và không bao giờ cho bệnh nhân bắt nạt ông.
“Chúng ta cần chăm sóc mọi thứ một chút.” Ông đi đôi găng tay phẫu
thuật, cúi xuống thân hình Rhyme. Những ngón tay ông bắt đầu làm
việc trên bụng Rhyme và bắt các cơ quan nội tạng phải làm công việc
của mình. Thom nhấc chăn và lấy bỉm dùng một lần.
Một lát sau, việc đã xong và Thom vệ sinh cho ông chủ.
Taylor bất ngờ nói: “Tôi hy vọng cậu đã bỏ cái thứ vớ vẩn ấy đi rồi
chứ?” Nghiên cứu Rhyme một cách kỹ lưỡng.
Cái thứ vớ vẩn ấy...
Ý ông ta là vụ tự tử. Liếc nhìn Thom, Rhyme nói: “Cũng không nghĩ
đến nó được một lúc.”
“Tốt.” Taylor nhìn vào các thiết bị trên bàn. “Đây là việc mà cậu phải
làm. Có thể
Sở sẽ lại trả lương cho cậu đấy.”
“Tôi không nghĩ là tôi có đủ sức khỏe.” “Đầu cậu thế nào?”
“Có thể dùng một tá cuốc chim để mô tả nó. Cổ tôi cũng thế. Bị hai lần
chuột rút là rất tệ hại trong ngày hôm nay.”
Taylor đi ra sau chiếc giường Clinitron, ấn các ngón tay của ông vào
hai bên cột sống của Rhyme, chỗ mà – Rhyme nghĩ, mặc dù tất nhiên là
anh chưa bao giờ nhìn thấy chỗ đó – có những vết sẹo rõ ràng từ
những cuộc phẫu thuật mà anh phải chịu đựng trong những năm qua.
Taylor thành thục xoa bóp cho Rhyme, ấn sâu vào những sợi cơ căng
cứng trên cổ và vai anh. Cơn đau từ từ biến mất.
Anh cảm thấy những ngón tay cái của bác sĩ dừng lại ở chỗ mà anh
đoán là đốt xương sống bị vỡ.
Còn tàu vũ trụ, con cá đuối...
“Một ngày nào đó họ sẽ chữa được”, Taylor nói. “Một ngày nào đó,
nó sẽ chẳng tệ hơn là gãy chân. Cậu nghe tôi. Tôi tiên đoán điều đó.”
Mười lăm phút sau, Peter Taylor xuống cầu thang và góp mặt với
những viên cảnh sát đang đứng trên vỉa hè.
“Anh ta ổn chứ?” Amelia Sachs lo lắng hỏi.
“Huyết áp giảm rồi. Chủ yếu là cậu ta cần được nghỉ ngơi.”
Bác sĩ, một người đàn ông trông rất bình thường, chợt nhận ra rằng
mình đang nói chuyện với một phụ nữ tuyệt đẹp. Ông vuốt lại mái tóc
muối tiêu đang mỏng dần và phóng một cái nhìn vào thân hình yểu điệu
của cô. Ánh mắt ông chuyển sang những chiếc xe đặc nhiệm đỗ trước
nhà và hỏi: “Cậu ta giúp các bạn vụ nào vậy?”
Sellitto lưỡng lự, như tất cả những thám tử khác trước câu hỏi tương tự
của một thường dân. Những Sachs đoán Taylor và Rhyme rất gần gũi
nên cô nói: “Những vụ bắt cóc. Ông có nghe nói về chúng không?”
“Vụ tay lái xe taxi? Có trên tất cả các báo. Thế là tốt cho cậu ấy. Công
việc là thứ tốt nhất có thể đến với cậu ấy. Cậu ấy cần bạn bè và cậu ấy
cần mục đích.”
Thom xuất hiện bên trên cầu thang. “Anh ấy nói cám ơn, Peter. Thực
ra anh ấy không nói cám ơn. Nhưng ý anh ấy thế. Ông biết anh ấy
mà.”
“Với tôi thế là được”, Taylor hỏi, giọng ông ta lúc này hạ xuống, đầy
toan tính. “Cậu ta còn định nói chuyện với họ nữa không?”
Và sau khi Thom nói “không”, có cái gì đó trong giọng điệu anh ta nói
với Sachs là anh ta đang nói dối. Cô không biết điều đó là gì và nó có
thể quan trọng đến đâu. Nhưng nó làm cô khổ sở.
Định nói chuyện với họ?
Nhưng có vẻ như Thom không lừa được Taylor. Ông ta nói: “Ngày
mai tôi quay lại, xem cậu ấy thế nào.”
Thom nói anh ta đánh giá cao việc đó và Taylor khoác túi lên vai rồi đi
khỏi.Viên trợ lý ra hiệu cho Sellitto. “Anh ấy muốn nói chuyện với anh
một lúc.” Viên thám tử nhanh chóng đi lên cầu thang. Anh ta biến mất
vào trong phòng, sau khoảng vài phút anh ta và Thom cùng đi ra ngoài.
Sellitto lúc này cũng nghiêm trang liếc nhìn cô. “Đến lượt cô đấy.” Va
hất đầu về phía sau cánh cửa.
Rhyme nằm trên cái giường khổng lồ, tóc rối bù, mặt đã hết đỏ, tay
không còn trắng bệch. Căn phòng bốc mùi nội tạng khắm khú. Trên
giường đã có vải trải giường mới và anh đã được thay quần áo mới.
Lần này là một bộ Pyjama màu xanh lá như bộ véc của Dellray.
“Đây là bộ pyjama màu xấu xí nhất mà tôi từng nhìn thấy”, cô nói. “Vợ
cũ của anh mua đấy à?”
“Làm thế nào cô đoán ra? Quà tặng kỷ niệm ngày cưới. Xin lỗi vì đã
làm cô sợ.” Anh ta nói, không nhìn vào cô. Anh ta bỗng có vẻ ngại
ngùng và điều này làm cô khó chịu. Cô nghĩ đến cha mình trong phòng
tiền phẫu thuật ở viện Sloan-Kettering trước khi họ đưa ông vào một
cuộc phẫu thuật mang tính thăm dò mà sau đó ông không bao giờ tỉnh
lại.
“Xin lỗi?” Câu hỏi của cô thật đáng sợ. “Đừng làm trò khỉ ấy nữa,
Rhyme.”
Anh ngắm nhìn cô khoảng một phút rồi nói: “Hai người sẽ ổn thôi.”
“Hai chúng tôi?”
“Cô và Lon. Tất nhiên là cả Mel nữa. Và Jim Polling.” “Ý anh là gì?”
“Tôi rút lui.” “Anh cái gì?”
“Quá nặng nề đối với một hệ thống cũ kỹ. Tôi sợ là như thế.”
“Nhưng anh không thể rút lui dược.” Cô vẫy tay về phía tấm áp phích
Monet. “Hãy nhìn tất cả những thứ mà chúng ta tìm được về 823.
Chúng ta gần hắn lắm rồi.”
“Thề thì các bạn càng không cần đến tôi nữa. Tất cả những gì các bạn
cần là một chút may mắn.”
“May mắn? Phải mất mười mấy năm mới tóm được Bandy. Còn tên
giết người
Zodiac thì sao? Còn Người Sói?”
“Chúng ta có thông tin tốt. Thông tin chắc chắn. Cô sẽ tìm được những
manh mối tốt. Cô sẽ tóm được hắn, Sachs. Thiên thần may mắn của cô
sẽ cất tiếng trước khi họ đưa cô sang Phòng Quan Hệ Công chúng.
Tôi có cảm giác Đối tượng 823 đang trở nên tự mãn; thậm chí hắn có
thể bị tóm ngay ở nhà thờ.”
“Trông anh ổn lắm”, một lát sau cô nói. Mặc dù trông anh ta không hề
ổn tí nào. Rhyme cười. Sau đó nụ cười nhạt đần. “Tôi rất mệt. Và đau.
Quỷ thật, tôi nghĩ là
tôi thấy đau ở những chỗ mà bác sĩ bảo tôi không thể cảm thấy đau.”
“Làm như tôi nói đi. Ngủ một lúc.”
Anh cố tạo ra một nụ cười nhạo báng nhưng giọng anh rất yếu. Cô
ghét phải nhìn thấy anh như thế. Anh ho nhẹ, nhìn xuống cái máy kích
thích thần kinh, nhăn mặt như thể anh cảm thấy ngượng ngùng vì mình
phải phụ thuộc vào máy móc. “Sachs,… tôi không nghĩ là chúng ta sẽ
tiếp tục làm việc cùng nhau. Tôi chỉ muốn nói rằng trước mắt cô là sự
nghiệp sáng lạng, cô có những lựa chọn đúng đắn.”
“Được rồi, tôi sẽ quay lại và gặp anh sau khi đá đít hắn.”
“Tôi cũng muốn thế. Tôi rất mừng vì hôm qua sĩ quan đầu tiên lại là cô.
Tôi không muốn đan lưới cùng ai khác. »
“Tôi…”
“Lincoln”, một giọng nói vang lên. Cô quay lại và nhìn thấy một người
đàn ông đang đứng ngoài cửa, Ông ta tò mò nhìn quanh phòng, để ý
đến tất cả các loại thiết bị.
“Ở đây trông có vẻ phấn khích quá nhỉ?”
“Chào bác sĩ”, Rhyme nói. Mặt anh ta tươi lên thành một nụ cười.
“Làm ơn, vào nhà đi.”
“Bác sĩ William Berger, còn đây là Amelia Sachs.”
Nhưng Sachs có thể thấy cô không còn tồn tại trong vũ trụ của Lincoln
Rhyme nữa. Tất cả những gì còn lại cần được nói – và cô cảm thấy có
điều gì đó, rất nhiều điều – phải đợi. Cô đi ra cửa. Thom, đang đứng ở
hành lang bên ngoài, đóng cửa sau lưng cô, và luôn đúng mực, ngừng
lại gật đầu để cô đi trước anh ta.
Khi Sahcs bước vào màn đêm nóng bức, cô nghe thấy một giọng nói
gần đó. “Xin
lỗi.”
Cô quay lại và thấy bác sĩ Peter Taylor đứng một mình dưới gốc cây
bạch quả.
“Tôi nói chuyện với cô một phút, được không?”
Sachs đi theo Taylor lên vỉa hè cách đó mấy nhà.
“Vâng?” Cô hỏi. Ông ta dựa vào bức tường đá và lại vô thức vuốt tóc.
Sachs nhớ lại không biết bao nhiêu lần cô đã dọa nạt được những
người đàn ông chỉ bằng một lời nói hay cái liếc mắt. Cô nghĩ, ý nghĩ
thường xuyên đến với cô: Quyền lực của sắc đẹp mới vô dụng làm sao.
“Cô là bạn cậu ấy, đúng không?” Ông bác sĩ hỏi cô. “Ý tôi là cô làm
việc với cậu ấy nhưng cô cũng là bạn cậu ấy chứ.”
“Chắc rồi. Tôi đoán thế.”
“Người đàn ông vừa vào nhà. Cô biết ông ta là ai không?” “Tôi nghĩ là
Berger. Ông ta là bác sĩ.”
“Ông ta có nói ông ta đến từ đâu không?” “Không.”
Taylor ngẩng nhìn cửa số phòng ngủ của Rhyme trong một khắc. Ông
hỏi: “Cô có biết Hội Bến mê không?”
“Không, ồ, đợi đã… đó là nhóm ủng hộ chết theo yêu cầu, đúng
không?”
Taylor gật đầu. “Tôi biết tất cả bác sĩ của Lincoln. Và tôi lại chưa bao
giờ nghe nói đến Berger. Tôi vừa nghĩ không biết ông ta có phải là một
trong số họ không?”
“Cái gì?”
Anh ta vẫn nói chuyện với họ…
Như vậy họ nói về chuyện ấy.
Cô có cảm giác mình trong trạng thái không trọng lượng vì bị sốc.
“Anh ấy có…
trước đây anh ấy có nói nghiêm túc về chuyện này không?”
“Ồ, có chứ.” Taylor thở dài, nhìn lên bầu trời đêm mờ sương. “Có
chứ.” Rồi ông nhìn vào tấm thẻ ghi tên của cô. “Sĩ quan Sachs, tôi đã
nói chuyện hàng giờ, thuyết phục cậu ta từ bỏ ý định ấy. Hằng ngày.
Nhưng tôi cũng đã làm việc với những bệnh nhân bại liệt nhiều năm và
tôi biết họ bướng bỉnh thế nào. Có thể cậu ta sẽ nghe cô. Chỉ vài lời
thôi… Tôi đang nghĩ… Cô làm được không?...”
“Ồ, quỷ tha ma bắt, Rhyme”, cô lẩm bẩm, bắt đầu rời vỉa hè và chạy,
không để ông bác sĩ nói hết câu.
Cô đã ở cổng ngôi nhà đúng lúc Thom định đóng cửa. Cô đẩy cửa, đi
ngang qua anh ta. “Tôi quên cuốn nhật ký tuần tra.”
“Của cô?...”
“Tôi quay lại ngay.”
“Cô không thể lên trên đó. Anh ấy đang có bác sĩ.” “Tôi chỉ cần một
giây thôi.”
Cô đã ở cầu thang, trước khi Thom đuổi theo.
Chắc anh ta biết đó là trò nói dối nên đã bước hai bậc một. Nhưng cô
đã vượt trước và đẩy tung cửa phòng Rhyme trước khi người trợ lý leo
hết các bậc cầu thang.
Cô bước vào trong, làm cả Rhyme và ông bác sĩ giật mình. Ông ta
đang đứng dựa lưng vào bàn, khoanh tay trước ngực. Cô đóng rồi
khóa cửa. Thom bắt đầu đập cửa. Berger quay lại phía cô với một nét
nhăn nhó, tò mò trên mặt.
“Sachs”, Rhyme buột miệng. “Tôi phải nói chuyện với anh.” “Về cái
gì?”
“Về anh.” “Để sau.”
“Để sau là bao lâu, Rhyme?” Cô mỉa mai hỏi. “Ngày mai? Tuần sau?”
“Ý cô là gì?”
“Anh muốn tôi sắp xếp lịch hẹn, một tuần sau từ thứ Tư? Liệu anh có
làm được không? Anh có còn đó nữa không?”
“Sachs…”
“Tôi muốn nói chuyện với anh. Một mình.” “Không.”
“Thế thì chúng ta sẽ dùng biện pháp mạnh.” Cô bước tới chỗ Berger,
“Ông đã bị bắt. Vì tội âm mưa giết người có trợ giúp.” Chiếc còng tay
sáng loáng lên. Cách, cách, luông sáng bạc siết chặt cổ tay ông ta.
Cô đoán đây là một nhà thờ.
Carole Ganz nằm trên nềm nhà dưới tầng hầm. Một tia sáng lạnh lẽo
xiên chéo trên tường, chiếu sáng một bức hình Chúa Jesus bầu bĩnh và
một chồng truyện Sách Vàng Kinh Thánh mốc meo. Một nửa tá ghế
nhỏ xinh – cho học sinh ngoại khóa ngày Chủ nhật, cô đoán – được
đặt giữa phòng.
Chiếc còng và miếng băng dính dán miệng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Hắn
còn buộc cô vào đường ống gần tường bằng một sợi dây phơi dài
khoảng bốn feet.
Trên cái bàn cao gần đó, cô có thể nhìn thấy đỉnh của một chiếc bình
thủy tinh lớn.
Nếu làm nó rơi xuống, cô có thể dùng mảnh thủy tinh cắt sợi dây phơi.
Cái bàn có vẻ nằm ngoài tầm với nhưng cô lật nghiêng ngừoi và bắt
đầu bò như một con sâu về phía nó.
Điều này làm cô nhớ tới Pammy lúc còn nhỏ, nó xoay vòng trên
giường, giữa cô và Ron; cô nghĩ tới con gái, một mình trong tầng hầm
kinh khủng và bật khóc.
Pammy, gấu Pooh, ví.
Trong một giây, một giây ngắn ngủi, cô thấy mình yếu đuối. Cô ước gì
mình chưa bao giờ rời Chicago.
Không, không được nghĩ thế nữa! Đừng tiếc nuối cho chính mình! Đó
là một việc hoàn toàn đáng làm. Mày làm thế vì Ron. Và cho cả bản
thân mày nữa. Anh sẽ tự hào vì mày. Kate đã nói với cô như vậy hàng
nghìn lần. Và cô tin.
Cố thêm một lần nữa. Cô dịch chân tới gần bàn hơn. Lảo đảo, không
thể nào suy nghĩ chính xác được.
Cổ họng cô rát bỏng vì khát. Vì bụi và mốc trong không khí.
Cô bò ra xa hơn một chút, sau đó lật nghiêng, cố lấy hơi, nhìn lên trên
bàn. Trông có vẻ vô vọng. Có ích gì chứ? Cô nghĩ.
Không hiểu Pammy nghĩ gì.
Thằng khốn! Carole nghĩ. Vì thế tao sẽ giết mày.
Cô vặn vẹo, cố dịch xa hơn trên nền nhà. Nhưng thay vào đó, cô mất
thăng bằng và ngã ngửa. Cô thở hổn hển, cô biết điều gì sắp đến!
Không! Cổ tay bị gãy của cô phát ra một tiếng kêu lớn. Cô gào lên
qua lớp băng dính. Ngất đi. Khi tỉnh lại, cơn buồn nôn xâm chiếm lấy
cô.
Không, không, không… Nếu nôn cô sẽ chết. Với miếng băng dính trên
miệng, sẽ là kết thúc.
Nén nó xuống. Nén nó xuống. Nào. Mày làm được. Đây rồi… cô nôn
khan một lần. Lần nữa.
Không được! Kiểm soát nó. Trào lên họng.
Kiểm soát… Kiểm soát nó…
Rồi cô cũng làm được. Thở bằng mũi, cô tập trung tư tưởng vào Kate,
Eddie và Pammy, cái ba lô màu vàng đựng tất cả tài sản quý giá của
cô. Nhìn thấy nó, chụp ảnh nó dưới mọi góc độ. Cả cuộc sống của cô
nằm trong nó. Cuộc sống mới của cô.
Ron, em không muốn làm hỏng chuyện này. Em đến đây vì anh, anh
yêu… Cô nhắm mắt. Nghĩ: Thở sâu. Hít vào, thở ra.
Cuối cùng thì cơn buồn nôn cũng qua đi. Một lát sau, cô thấy khá hơn
và mặc dù cô đang khóc lóc vì cơn đau nơi cổ tay bị gãy, nhưng cô
vẫn cố gắng vặn vẹo để bò được tới chỗ cái bàn. Một foot. Hai.
Cô cảm thấy đỉnh đầu và vào chân bàn. Cô mới chỉ bám được vào nó
và không thể di chuyển xa hơn được nữa. Cô ngửa đầu lấy đà, đập
mạnh vào chân bàn vài lần. Cô nghe tiếng cái bình đổ khi bị xê dịch
trên mặt bàn. Cô nhìn lên.
Một phần của cái bình thò ra ngoài mặt bàn. Carole ngửa đầu và đập
vào chân bàn lần cuối.
Không! Cô đã đẩy chân bàn ra ngoài tầm với. Cái bình nghiêng đi một
chút nhưng rồi lại đứng thẳng. Carole co người, cố gắng làm chùng sợi
dây phơi nhưng không thể.
Mẹ kiếp. Ôi mẹ kiếp! Khi tuyệt vọng ngẩng đầu lên nhìn cái bình bẩn
thỉu, cô nhận ra rằng nó đựng đầy chất lỏng và thứ gì đó trôi nổi bên
trong. Cái gì thế nhỉ?
Cô bò lùi về phía tường một, hai feet và nhìn lên.
Thứ bên trong trông giống cái bóng điện. Không, không phải là cả cái
bóng điện mà chỉ có dây tóc và đế, được xoắn vào đui đèn. Một sợi
dây dẫn chạy từ đui đèn ra khỏi cái bình đến một trong những cái đồng
hồ định giờ mà ta hay dùng để tắt bật đèn khi đi nghỉ. Nó trông giống
như…
Một quả bom! Giờ thì cô đã nhận ra mùi xăng thoang thoảng. Không,
không…
Carole bắt đầu lăn lộn tránh xa cái bàn nhanh hết mức có thể, nghẹn
ngào vì tuyệt vọng. Cạnh tường có một tủ hồ sơ. Nó sẽ bảo vệ cho cô.
Cô giơ hai chân lên cao sau khi
cảm thấy một cơn hoảng loạn lạnh người và vội vàng gỡ chúng ra. Cử
động này làm cô
mất thăng bằng. Cô kinh hoàng nhận ra rằng mình bị lật ngửa thêm một
lần nữa. Ồ, dừng lại. Đừng… Cô cố gắng bình tĩnh, hoàn toàn bất
động một lúc lâu, run rẩy trong lúc cố gắng dồn trọng lượng cơ thể về
phía trước. Nhưng sau đó cô tiếp tục lăn, ngã đèn lên cánh tay bị còng,
cổ tay gãy của cô chịu sức nặng của toàn cơ thể. Có một thoáng đau
đớn cùng cực, và ơn phước, cô lại ngất đi lần nữa.
HAI MƯƠI LĂM
“Không đời nào, Rhyme. Anh không thể làm thế.”
Berger lo lắng quan sát. Rhyme cho rằng trong công việc của mình, ông
ta đã từng nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng điên rồ xảy ra vào những lúc
như thế này. Vấn đề lớn nhất của Berger không phải là những người
muốn chết, mà là những người muốn tất cả những người còn lại phải
sống.
Thom đập cửa.
“Thom”, Rhyme gọi. “Được rồi. Cậu cứ để chúng tôi một mình.” Sau
đó nói với Sachs. “Chúng ta đã nói lời chia tay rồi mà. Tôi và cô. Còn
đây là một cách tồi tệ để phá hỏng một sự ra đi hoàn mỹ.”
“Anh không thể làm thế.”
Ai là người thổi còi? Có thể là Peter Taylor. Ông bác sĩ này chắc đã
đoán được anh và Thom nói dối.
Rhyme nhìn thấy ánh mặt cô lướt qua ba đồ vật trên bàn. Những thứ
quà tặng của Magi: rượu cô nhắc, những viên thuốc và cái túi nhựa. Có
thêm sợi dây cao su giống như những sợi dây Sachs dùng buộc giày.
(Đã bao nhiêu lần anh từ hiện trường vụ án về nhà và thấy Blaine nhìn
chăm chăm vào những sợi dây buộc giày chồng mình, và hoảng sợ?
“Mọi người sẽ nghĩ rằng chồng em không có tiền mua giày mới. Anh ấy
phải lấy dây chun buộc để đế giày không bị rơi ra. Thật đấy, Lincoln!).
“Sachs, tháo còng cho bác sĩ đây. Và lần cuối cùng, tôi mời cô ra khỏi
nhà.”
Cô cười lên một tiếng. “Tôi xin lỗi. Đây là một hành vi phạm pháp ở
Thành phố
New York. Công tố viên quận có thể biến nó thành tội giết người nếu
ông ấy muốn thế.”
Berger nói: “Tôi chỉ nói chuyện bình thường với bệnh nhân.”
“Đó là lý do vì sao tôi danh chỉ là âm mưu giết người. Cho tới lúc này.
Có thể chúng tôi sẽ đưa tên và dấu tay của anh qua NCIC. Để xem
chúng tôi tìm được gì.”
“Lincoln”, Berger nói nhanh, vẻ lo lắng. “Tôi không thể…”
“Chúng tôi sẽ giải quyết việc này”, Rhyme nói. “Sachs, làm ơn đi.”
Đứng giạng chân, hai tay chống nạnh, khuôn mặt lộng lẫy của cô đầy
vẻ độc đoán. “Đi thôi”, cô quát viên bác sĩ.
“Sachs, cô không biết điều này quan trọng đến thế nào đâu.” “Tôi sẽ
không cho phép anh tự giết chết mình.”
“Cho phép tôi?” Rhyme vặc lại. “Cho phép tôi? Chính xác là vì sao tôi
lại cần đến sự cho phép của cô?”
Berger nói: “Này cô,… sĩ quan Sachs, đấy là quyết định của anh ấy và
quyết định này hoàn toàn có ý thức. Lincoln là người hiểu biết hơn tất
cả những bệnh nhân tôi đã từng xử lý.”
“Bệnh nhân? Ý ông là nạn nhân?”
“Sachs!” Rhyme buột miệng, cố gắng giấu sự tuyệt vọng trong giọng
nói. “Mất cả năm tôi mới tìm được người trợ giúp đấy, cô biết không?”
“Có thể vì điều đó không đúng. Đã bao giờ anh nghĩ thế chưa? Sao lại
là bây giờ, Rhyme? Ngay giữa vụ án?”
“Nếu tôi lên cơn một lần nữa và bị đột quỵ. Tôi có thể mất toàn bộ khả
năng giao tiếp. Tôi có thể có ý thức trong bốn mươi năm nữa nhưng
không thể cử động. Và nếu tôi chưa bị tê liệt não, sẽ chẳng có một ai
trong cả vũ trụ chịu rút phích cắm. Ít nhất là lúc này, tôi vẫn còn có thể
truyền đạt quyết định của mình.”
“Nhưng tại sao?” Cô buột miệng.
“Sao lại không?” Rhyme trả lời. “Nói tôi nghe. Sao lại không?”
“Được rồi…” Có vẻ như đối với cô những luận chứng chống lại việc tự
sát quá rõ ràng tới mức cô cảm thấy khó mà nói được thành lời. “Là
vì…”
“Vì sao, Sachs?”
“Thứ nhất, vì hèn nhát.”
Rhyme cười. “Cô có muốn tranh luận không, Sachs? Muốn không?
Được rồi. Hèn nhát là điều cô nói. Điều đó dẫn ta đến với ngài Thomas
Browne: Khi cuộc sống kinh khủng hơn cái chết, những người dũng
cảm nhất sẽ sống. Can đảm đối mặt với muôn vàn khó khăn… Một
luận cứ cổ điển ủng hộ sự sống. Nhưng nếu điều đó đúng thì tại sao lại
đánh thuốc mê bệnh nhân khi phẫu thuật? Bán aspirin để làm gì? Sao
lại phải bó bột cánh tay bị gãy? Hà cớ gì mà Prozac lại là loại thuốc
được kê nhiều nhất ở Mỹ? Xin lỗi, nhưng đau đớn chẳng có gì là tốt
đẹp cả.
“Nhưng anh không đau đớn.”
“Cô định nghĩa thế nào là đau đớn, Sachs? Không có cảm giác cũng có
thể là đau đớn chứ.”
“Anh có thể cống hiến rất nhiều. Hãy xem anh biết những gì. Mọi thứ
về pháp y, mọi thứ về lịch sử.”
“Luận cứ cống hiến xã hội. Một luận cứ phổ biến.” Anh liếc nhìn
Berger nhưng viên bác sĩ giữ im lặng. Rhyme thấy ông ta tập trung sự
quan tâm vào khúc xương trên bàn – một chiếc đĩa bạc thếch từ một
đốt sống. Ông ta nhặt nó lên, xoa vuốt nó bằng đôi bàn tay bị còng của
mình. Ông ta từng là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, Rhyme nhớ lại.
Anh tiếp tục nói với Sachs: “Nhưng ai nói là chúng ta bắt buộc phải
cống hiến gì đó cho cuộc đời? Ngoài ra, kết cuộc có thể là tôi đóng
góp điều gì đó không tốt. Tôi cũng có thể gây tác hại nữa chứ. Cho
bản thân tôi hay cho ai đó.”
“Nhưng cuộc sống là thế.”
Rhyme cười. “Nhưng tôi chọn cái chết, không phải cuộc sống.”
Sachs trông không thoải mái khi cô phải vắt óc suy nghĩ. “Chỉ có
điều… cái chết không tự nhiên. Cuộc sống thì có.”
“Không? Freud sẽ không đồng ý với cô. Ông ta đã từ bỏ nguyên tắc
khoái lạc và bắt đầu cảm thấy còn có một sức mạnh khác – sự hung
dữ phi tình dục bản năng, đó là
cách mà ông ta gọi nó. Làm việc để tháo gỡ nhưng kết nối mà chúng ta
tạo dựng trong cuộc sống. Sự phá hoại của chính chúng ta là một sức
mạnh thiên nhiên hoàn hảo. Mọi thứ đều chết; còn gì để tự nhiên hơn
điều đó?”
Một lần nữa cô lại phải động não.
“Được rồi”, cô nói. “Cuộc sống đối với anh thách thức hơn với nhiều
người khác. Nhưng tôi nghĩ… mọi thứ mà tôi nhìn thấy ở anh nói với
tôi rằng anh là một người thích thác thức.”
“Thách thức? Để tôi nói cô nghe về thách thức. Tôi nằm với ống thông
phổi trong suốt một năm. Cô có nhìn thấy vết sẹo mở khí quản này trên
cổ tôi không? Rồi nhờ các bài tập thở áp suất dương – và với sức
mạnh ý chí vĩ đại nhất mà tôi có thể có – tôi đã thoát ra được cái máy
đó. Trên thực tế, tôi có lá phổi hoàn toàn bình thường. Chúng khỏe
như phổi của cô. Đối với một người tàn tật C4, đó là trường hợp điển
hình, Sachs ạ. Điều nay tiêu tốn của tôi tám tháng cuộc đời. Cô có hiểu
tôi nói gì không? Tám tháng chỉ để xử lý một chức năng động vật rất
cơ bản. Tôi không nói đến việc vẽ Nhà thờ Sistine hay chơi violin. Tôi
chỉ mới nói về sự hít thở chết tiệt ấy thôi.”
“Nhưng anh có thể khá hơn. Năm tới, họ có thể tìm ra cách chữa.”
“Không. Không phải năm sau. Không phải mười năm nữa.”
“Anh không biết việc đó. Chắc chắn là họ đang nghiên cứu.”
“Chắc chắn là như thế. Cô có muốn biết không? Tôi là một chuyên gia.
Cấy mô thần kinh bào thai vào mô hỏng để thúc đẩy việc tái tạo theo
trục.” Những ngôn từ đó phát ra một cách dễ dàng từ đôi môi thật đẹp
của anh ta. “Không có hiệu quả đáng kể. Một vài bác sĩ sử dụng
phương pháp hóa học tại vùng bị ảnh hưởng để tạo ra những loài cấp
cao. Những dạng thức thấp của sự sống cho thấy kết quả khá tốt. Nếu
là một con ếch thì lúc này chắc tôi đã đi lại được. Thôi được, hy vọng
là thế.”
“Như vậy là vãn có người nghiên cứu chuyện đó?” Sachs hỏi.
“Tất nhiên rồi. Nhưng không ai trông đợi có bước đột phá trong
khoảng hai mươi hay ba mươi năm.”
“Nếu họ đã trông đợi”, cô đối đáp, “thì khi đó sẽ chẳng còn là đột phá
nữa, đúng thế không?”
Rhyme cười. Cô ấy giỏi thật.
Sachs hất lọn tóc đỏ khỏi mắt và nói: “Sự nghiệp của anh là thực thi
pháp luật, nhớ chứ. Tự tử là bất hợp pháp.”
“Đó còn là tội lỗi nữa”, anh đáp lời. “Những người da đỏ Dakota tin
rằng hồn ma của những kẻ tự tử bị kéo lê mãi mãi xung quanh cái cây
mà họ tự treo cổ. Nhưng điều này có dừng được việc tự tử không?
Không. Họ chỉ dùng những cái cây bé hơn.”
“Biết không, Rhyme. Đây là luận cứ cuối cùng của tôi.” Cô hất đầu về
phía
Berger, và nắm lấy sợi xích còng. “Tôi mượn và đăng ký ông ta. Phản
biện lại nó đi.” “Lincoln”, Berger căng thẳng nói, mắt ông ta hoảng
loạn.
Sachs nắm vai ông bác sĩ và dẫn ông ta ra cửa. “Đừng. Đừng làm thế.”
Ông ta nói.
Nhưng Sachs đã mở cửa và Rhyme gọi với ra: “Sachs, trước khi cô
làm thế, trả lời tôi mấy câu.”
Cô dừng lại. Một tay để trên tay nắm cửa. “Một câu hỏi.”
Cô quay lại.
“Cô đã bao giờ muốn làm thế chưa? Tự tử?” Cô mở khóa cửa với một
tiếng tách lớn.
Anh nói: “Trả lời tôi đi!”
Sachs không mở cửa. Cô đứng quay lưng lại phía anh. “Không. Không
bao giờ.” “Cô có hạnh phúc với cuộc sống của mình không?”
“Giống như những người khác thôi.” “Cô có bao giờ bị trầm cảm
không?”
“Tôi không nói thế. Tôi nói tôi chưa bao giờ muốn tự tử.”
“Cô có nói với tôi là cô thích lái xe. Những người thích lái xe thường
thích lái xe nhanh. Cô cũng thế, đúng không?”
“Đúng thế, đôi khi.”
“Tốc độ nhanh nhất của cô là bao nhiêu?” “Tôi không biết.”
“Trên tám mươi?”
Một nụ cười không đồng tình. “Đúng.” “Trên một trăm?”
Cô chỉ ngón tay cái lên trên.
“Một trăm mười? Một trăm hai mươi?” Anh hỏi, cười vì quá ngạc
nhiên. “Đã có lần lên một trăm sáu mươi tám.”
“Trời ơi, Sachs. Cô thật là ấn tượng. Được rồi, lái xe nhanh như thể thì
cô có nghĩ là có thể, chỉ có thể thôi, sẽ có chuyện gì đó xảy ra? Tay
đòn hay trục xe có thể gãy, lốp có thể nổ, một vết dầu trên đường?”
“Cũng khá an toàn. Tôi không điên.”
“Khá an toàn. Nhưng lúc lái xe nhanh như lái máy bay cỡ nhỏ thì cũng
không an toàn tuyệt đối. Đúng không?”
“Anh đang mớm cung đấy.”
“Không, tôi không mớm cung. Theo ý kiến của tôi nhé. Cô lái xe nhanh
thì cô phải chấp nhận rằng cô có thể gặp tai nạn và chết, đúng không?”
“Có thể”, cô nhượng bộ.
Berger, tay bị còng phía trước, sốt ruột theo dõi, tay vẫn mân mê chiếc
đĩa xương sống màu vàng nhạt.
“Như vậy, cô cũng đến rất gần giới hạn đó rồi, đúng không? À, cô biết
tôi nói về điều gì rồi chứ. Tôi biết là cô hiểu – ranh giới giữa nguy cơ tử
vong và chắc chắn tử vong. Thấy không, Sachs, nếu cô đem cái chết
theo mình thì rất dễ bước qua ranh giới đó. Một bước ngắn là đến với
chúng.”
Cô cúi đầu, khuôn mặt cô trở nên bất động khi mái tóc che lấp đôi mắt
của cô.
“Bỏ qua người đã chết”, anh thầm thì, cầu mong cô đừng đem Berger
đi, biết rằng anh đã tới rất gần để đẩy cô vượt qua ranh giới. “Tôi nói
đến chuyện rất nhạy cảm. Cô muốn theo người chết đến đâu? Hơn một
chút, Sachs ạ. Nhiều hơn một chút rất nhiều.”
Cô chần chừ. Anh biết anh đã đến rất gần trái tim cô.
Cô giận dữ quay lại phía Berger, nắm lấy sợi dây còng. “Đi thôi.” Đẩy
ông ta ra
cửa.
Rhyme gọi theo: “Cô biết tôi nói gì, đúng không?” Cô dừng lại lần nữa.
“Đôi khi… sự việc xảy ra, Sachs ạ. Đôi khi cô không thể trở thành
người mà cô
phải trở thành, cô không thể có thứ mà cô phải có. Và cuộc sống luôn
thay đổi. Có thể chỉ một chút, có thể là rất nhiều. Và đến một lúc nào
đó, không còn đáng để tiếp tục chiến đầu, sửa những sai lầm.”
Anh nhìn họ đứng đó, bất động ở ô cửa. Căn phòng im lặng một cách
đáng sợ. Cô quay lại và nhìn anh.
“Cái chết chữa lành sự cô đơn”, Rhyme tiếp tục. “Nó chữa khỏi chứng
căng cơ. Chữa khỏi những cơn ngứa.” Giống như trước đó cô nhìn
chân anh, lúc này anh liếc nhanh những ngón tay nát nhừ của cô.
Cô thả tay khỏi chiếc còng của Berger và đi về phía cửa sổ. Những
giọt lệ trên má cô lấp lánh trong ánh sáng vàng ngoài phố.
“Sachs, tôi thấy mệt mỏi”, anh nói một cách chân thành. “Tôi không thể
nói với cô là tôi mệt mỏi đến thế nào. Cô biết cuộc sống khó nhọc như
thế nào khi bắt đầu với. Hàng núi gánh nặng. Rửa ráy, ăn uống, bài tiết,
gọi điện thoại, cài cúc áo, gãi mũi… Rồi thì hàng nghìn thứ khác. Và
sau đó nữa.”
Anh im lặng. Sau một lúc lâu, cô nói: “Chúng ta sẽ thỏa thuận.” “Gì
thế?”
Cô hất đầu về phía tấm áp phích. “823 đang giữ người mẹ và đứa
bé… Giúp chúng tôi cứu họ. Chỉ họ thôi. Nếu anh đồng ý, tôi sẽ cho
ông ta một giờ để nói chuyện riêng với anh.” Cô liếc nhìn Berger. “Với
điều kiện sau đó ông ta phải biến khỏi thành phố.”
Rhyme lắc đầu. “Sachs, nếu tôi bị đột quỵ, nếu tôi không còn giao tiếp
được nữa…”
“Nếu điều đó xảy ra”, cô nói đều đều, “nếu anh không còn nói được
một lời, thỏa thuận của chúng ta vẫn còn nguyên giá trị. Tôi sẽ bảo đảm
để các anh có một giờ đồng hồ với nhau”. Cô lại khoanh tay, đứng
giạng chân, một hình ảnh yêu thích về Amelia Sachs đối với Rhyme.
Anh ước anh có thể nhìn thấy cô ở đường tàu sáng nay, lúc chặn đoàn
tàu. Cô nói: “Đó là điều tốt nhất tôi sẽ làm.”
Một khoảnh khắc trôi qua. Rhyme gật đầu. “Được rồi. Thỏa thuận.”
Anh nói với
Berger: “Thứ Hai?”
“Được rồi, Lincoln. Cũng được.” Berger, vẫn còn đang run rẩy, cảnh
giác nhìn Sachs khi cô mở còng. Có vẻ như ông ta sợ cô sẽ đổi ý. Khi
được tự do, ông ta nhanh chóng đi ra cửa. Rồi nhận ra rằng mình vẫn
đang cầm mẩu xương đốt sống, ông ta quay lại và đặt nó – gần như
cung kính – bên cạnh báo cáo hiện trường vụ án giết người đầu tiên
buổi sáng hôm nay.
“Sướng như lợn vầy bùn”, Sachs nhận xét, thả người xuống chiếc ghế
mây kêu răng rắc. Đó là Sellitto và Polling, sau khi cô nói với họ rằng
Rhyme đã đồng ý với vụ này thêm một ngày nữa.
“Đặc biệt là Polling”, cô nói. “Tôi nghĩ anh chàng nhỏ bé này sẽ ôm lấy
tôi. Đừng nói với anh ta là tôi gọi anh ta như thế. Anh cảm thấy thế
nào? Trông anh khá hơn đấy.” Cô nhấp một ngụm whisky và đặt trả
chiếc cốc vào cái bàn cạnh giường, bên cạnh tủ của Rhyme.
“Không tệ.”
Thom đang thay ga giường. “Anh đổ mồ hôi như tắm”, cậu ta nói.
“Nhưng chỉ bên trên cổ”, Rhyme nói. “Ý tôi là đổ mồ hôi.”
“Đúng thế à?” Sachs hỏi.
“Đúng thế. Như thế đấy. Nhiệt kế phía dưới đã nổ. Tôi không bao giờ
phải dùng đến nước hoa cho tứ trụ.”
“Trụ?”
“Các chỗ lõm”, Rhyme cằn nhằn. “Nách. Viên trợ lý thứ nhất của tôi
không bao giờ nói nách. Anh ta nói: ‘Lincoln, tôi sẽ cầm trụ nhấc anh
lên.’ À, và: ‘Nếu anh muốn nôn, thì cứ thoải mái đi, Lincoln.’ Anh ta tự
gọi mình là ‘săn sóc viên’. Anh ta viết cả từ này vào lý lịch. Tôi không
hiểu vì sao tôi lại thuê anh ta. Chúng tôi rất mê tín, Sachs ạ. Chúng tôi
nghĩ rằng gọi thứ gì đó bằng một cái tên khác có thể làm nó thay đổi.
Tội phạm. Thủ phạm. Nhưng người trợ lý đó, anh ta chỉ là một ý tá bị
ngập trong phân đến tận nách. Đúng không, Thom? Chẳng có gì phải
ngượng ngùng. Đó là một nghề cao thượng. Hỗn loạn nhưng cao
thượng.”
“Tôi lớn nhanh trong sự hỗn loạn. Vì thế mà tôi làm việc cho anh.”
“Cậu là gì? Trợ lý hay săn sóc viên?”
“Tôi là một vị thánh.”
“Ha, đối đáp rất nhanh. Tiêm cũng rất nhanh. Cậu ta đem tôi trở về từ
cõi chết. Hơn một lần rồi.”
Rhyme đột nhiên hoảng sợ, anh lo rằng Sachs đã nhìn thấy anh trần
truồng. Mắt chăm chú nhìn vào hồ sơ thủ phạm, anh hỏi: “Nói xem tôi
có nợ cô một lời xin lỗi nào không, Sachs? Cô có đóng vai Clara
Barton123 không đấy?” Anh căng thẳng chờ câu trả lời của cô, không
biết là anh còn có thể nhìn nữa không nếu cô đã trông thấy.
“Không”, Thom trả lời. “Một mình tôi cứu anh. Không muốn bất cứ
linh hồn nhạy cảm nào bị tổn thương bởi đôi mông xập xệ của anh.”
Cảm ơn Thom, anh nghĩ. Sau đó quát: “Giờ thì biến đi. Chúng tôi phải
bàn về vụ án, Sachs và tôi.”
“Anh cần phải ngủ một chút.”
“Tất nhiên là tôi cần. Nhưng chúng tôi vẫn phải bàn về vụ này. Chúc
ngủ ngon, chúc cậu ngủ ngon.”
Sau khi Thom ra về, Sachs rót một ly Macallan. Cô cúi đầu ngửi mùi
rượu hơi oi
khói.
“Ai tiết lộ?” Rhyme hỏi. “Peter?” “Ai?” Cô hỏi.
“Bác sĩ Taylor, người của SCI.”
Cô cố tỏ ra chần chừ để anh biết đó chính là Taylor. Cuối cùng cô nói:
“Ông ấy rất
quan tâm đến anh.”
“Tất nhiên là ông ta quan tâm. Đó là vấn đề… Tôi muốn ông ta quan
tâm ít đi một chút. Ông ta có biết về Berger không?”
“Ông ấy nghi ngờ.”
Rhyme nhăn mặt. “Nghe này, nói với ông ta Berger chỉ là một người
bạn cũ. Ông ta… Sao?”
Sachs chậm rãi thở ra, như thể thổi khói thuốc từ đôi môi mọng của cô.
“Anh không chỉ muốn tôi để anh tự tử mà anh còn muốn tôi nói dối với
người có thể thuyết phục anh đừng làm việc đó.”
“Ông ấy không thuyết phục được tôi đâu”, Rhyme đáp lời. “Thế thì sao
anh muốn tôi nói dối?”
Anh cười. “Cứ để bác sĩ Taylor hoàn toàn không biết gì trong vài ngày
nữa.” “Được rồi”, cô nói. “Lạy Chúa, anh là người rất khó xử lý đấy.”
Anh nhìn cô thật gần. “Sao cô không nói điều đó với tôi?” “Điều gì?”
“Ai là người chết? Những người mà cô vẫn chưa bỏ qua?”
“Họ, rất nhiều.”
123 Clara Barton (1821 – 1912): Nữ y tá người Mỹ, nhà nhân đạo,
người sáng lập Hội
Chữ thập đỏ Mỹ.
“Ví dụ?”
“Đọc báo mà xem.” “Thôi nào, Sachs.”
Cô lắc đầu, uống cạn ly whisky Scotch với nụ cười nhạt nhòa trên môi.
“Không, tôi không nghĩ thế.”
Anh coi sự im lặng của cô là do miễn cưỡng phải nói chuyện thân mật
với một người mà cô mới được biết có một ngày. Mọi việc nghe có vẻ
mỉa mai, nếu tính đến việc cô ngồi cạnh một tá ống thông tiểu, một ống
kem K-Y và mộthộp Depends. Dù vậy anh vẫn không thúc ép và
không nói thêm gì nữa. Vì thế anh ngạc nhiên khi bất ngờ cô ngẩng lên
và buột miệng, “Chỉ là… chỉ là, ôi quỷ thật.” Khi cơn nức nở bắt đầu,
cô đưa tay lên mặt, gạt nửa chai whisky Scotch hạng nhất đổ lênh láng
ra sàn.
HAI MƯƠI SÁU
“Không thể tin được em lại kể điều đó với anh.” Cô ngồi cuộn mình
trên ghế, chân co lên, đôi giày chuyên dụng được tháo ra. Lệ đã khô,
mặc dù cô vẫn còn đỏ ửng như màu của mái tóc.
“Tiếp đi”, anh khuyến khích.
“Anh chàng mà em đã kể với anh? Bọn em định cùng nhau mua một
căn hộ.”
“Ồ, cùng với một con chó giống collie. Em không nói đó là một anh
chàng. Bạn trai của em à?”
Người tình bí mật? Rhyme băn khoăn. “Anh ấy đã từng là bạn trai của
em.”
“Anh đã nghĩ có thể đó là người cha đã mất của em.”
“Không. Đúng là cha em đã mất – ba năm trước. Bị ung thư. Nhưng
gia đình em biết điều đó sẽ đến. Nếu điều đó làm em phải sẵn sàng thì
em nghĩ em đã sẵn sàng. Nhưng còn Nick…”
“Anh ấy bị giết?” Rhyme dịu dàng hỏi.
Nhưng cô không trả lời. “Nick Carelli. Một người trong hàng ngũ của
chúng ta. Một cảnh sát. Một thám tử, cấp ba. Làm việc trong nhóm
Tội phạm Đường phố.”
Cái tên nghe quen quen. Rhyme không nói gì để cô tiếp tục.
“Bọn em sống với nhau một thời gian. Đã nói đến chuyện hôn nhân.”
Cô ngừng lại, có vẻ như đang sắp xếp lại ý nghĩ như sắp xếp lại các
tấm bia trong trường bắn. “Anh ấy là mật vụ. Vì thế bọn em giữ bí mật
về mối quan hệ của mình. Anh ấy không thể để tin đồn lan trên phố
rằng bạn gái anh ấy là cảnh sát.” Cô hắng giọng. “Rất khó giải thích.
Anh biết không, bọn em có… một thứ đó giữa hai người. Đó là… điều
đó không thường xuyên xảy ra với em. Quỷ thật, điều đó chưa bao giờ
xảy ra trước Nick. Bọn em có mối quan hệ thực sự sâu sắc. Anh ấy
biết em phải làm cảnh sát và đó không phải là vấn đề đối với anh ấy.
Em cũng nghĩ như vậy về công việc cớm chìm của anh ấy. Như một
dạng… bước sóng. Anh biết đấy, như lúc anh vừa hiểu được hoàn
toàn về một người nào đó? Anh đã bao giờ cảm nhận được điều em
đang nói không? Với vợ anh?”
Rhyme mỉm cười nhợt nhạt. “Anh có cảm thấy. Đúng thế. Nhưng
không phải với Blaine, vợ anh.” Và đó là tất cả những gì anh muốn nói
về vấn đề này. “Hai người gặp nhau thế nào?” Anh hỏi.
“Bài giảng nhiệm vụ tại học viện. Khi có người đứng lên và nói cho anh
nghe những nhiệm vụ mà đơn vị của họ thực hiện. Nick giảng bài về
công tác mật vụ. Anh ấy rủ em đi chơi ngay lập tức. Lần hẹn hò đầu
tiên của bọn em là ở Rodman’s Neck.”
“Trường bắn?”
Sachs gật đầu, sịt mũi. “Sau đó bọn em tới nhà mẹ anh ấy ở Brooklyn
và ăn mì ống, uống một chai Chianti. Bà véo em rất mạnh và nói em
quá gầy để có thể có con. Bắt em ăn hai suất cannoli. Bọn em về nhà
em và tối hôm đó, anh ấy đã ở lại. Lần hẹn hò đầu
tiên đáng kể đấy chứ? Từ đó, bọn em gặp nhau thường xuyên. Chắc
chắn sẽ nên chuyện, Rhyme ạ. Em cảm thấy thế, chắc chắn mọi chuyện
sẽ tốt đẹp.”
Rhyme nói: “Chuyện gì xảy ra?” “Anh ấy…”
Một ngụm lớn. “Chuyện là anh ấy đã lợi dụng. Cả quãng thời gian em
biết anh
ấy…”
“Thế à?”
“Ăn trộm. Trộm lớn. Em không hề có bất kỳ manh mối nào. Không
một manh mối
khốn kiếp nào. Anh ấy giấu nó ở vài ngân hàng quanh thành phố. Anh
ấy lấy khoảng hai trăm nghìn đô la.”
Lincoln im lặng một lúc. “Anh xin lỗi, Sachs. Ma túy?”
“Không. Chủ yếu là đồ dùng. Đồ điện tử, ti vi. Và quần áo. Họ gọi đó
là Liên kết
Brooklyn. Báo chí.”
Rhyme gật đầu. “Đó là lý do anh nhớ đến nó. Có khoảng gần một tá
người liên quan, đúng không? Tất cả đều là cảnh sát.”
“Chủ yếu. Một số người của ICC124 nữa.” “Chuyện gì xảy ra với cậu
ấy? Nick ấy?”
“Anh biết chuyện gì xảy ra khi cớm xử cớm rồi. Họ đánh anh ấy nhừ
tử. Nói rằng anh ấy chống cự, nhưng em biết là không phải. Gãy ba
xương sườn, hai ngón tay, mặt nát nhừ. Bị kết án nhưng anh ấy vẫn bị
tù hai mươi đến ba mươi năm.”
“Vì tội chiếm đoạt tài sản?”
“Anh ấy tự làm một, hai vụ. Dùng súng đập một lái xe, bắn người kia.
Chỉ để dọa anh ta thôi. Em biết là chỉ để dọa anh ta. Nhưng quan tòa
đã quăng anh ấy đi.” Cô nhắm mắt, mím môi thật chặt.
“Khi anh ấy bị bắt, bên Nội vụ theo anh ấy rất chặt. Họ kiểm tra điện
thoại. Bọn em rất thận trọng trong việc gọi điện cho nhau. Anh ấy nói
thỉnh thoảng bọn tội phạm nghe trộm điện thoại của anh ấy. Nhưng vẫn
có mấy cuộc gọi đến chỗ em. Bên Nội vụ bám theo em luôn. Vì thế
Nick gạt em ra. Ý em là anh ấy phải làm thế. Nếu không em sẽ xuống
dốc luôn cùng anh ấy. Anh biết bên Nội vụ rồi đấy – lúc nào cũng là
những tên thợ săn phù thủy.”
“Chuyện gì xảy ra?”
“Để thuyết phục họ rằng em chẳng là gì đối với anh ấy… thì anh ấy đã
nói vài câu về em.” Cô nuốt khan, mắt nhìn xuống nền nhà. “Khi bên
Nội vụ thẩm vấn, họ hỏi anh ấy về em. Nick nói: ‘ À, P.D. Sachs? Tôi
có chơi cô ta vài lần. Hóa ra cô ta cũng vớ vẩn. Nên tôi đá cô ta.” Cô
ngửa đầu ra sau, lấy tay lau nước mắt. “Biệt hiệu? P.D.”
“Lon có nói với anh.”
124 ICC (viết tắt của International Criminal Court): Tòa án Hình sự
Quốc tế, một tòa án xử tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại
và diệt chủng.
Cô nhăn mặt. “Ông ấy có nói nó nghĩa là gì không?” “Con gái cớm
tuần tra. Từ cha em.”
Cô cười uể oải. “Nó khởi đầu như thế đấy. Nhưng đó không phải là
cách kết thúc. Trong cuộc điều tra, Nick nói em là thứ vớ vẩn đến mức
nó phải có nghĩa là ‘săn bướm’, bởi vì có lẽ em thích con gái hơn. Anh
đoán xem điều này lan truyền trong sở nhanh đến thế nào.”
“Chỗ đó có cùng mẫu số mà, Sachs.”
Cô hít một hơi dài. “Em thấy anh ấy ở tòa vào cuối cuộc điều tra. Anh
ấy nhìn em một lần và… em không thể tả được điều gì trong mắt anh
ấy. Thực sự là cõi lòng tan nát. Anh ấy làm điều đó để bảo vệ em.
Nhưng vẫn cứ… Anh đã đúng, anh biết không. Về sự cô đơn.”
“Anh không có ý…”
“Không”, cô nói mà không cười. “Em đánh anh, anh đánh em. Thế là
công bằng. Và anh đúng. Em ghét sự cô đơn. Em muốn ra ngoài, em
muốn gặp ai đó. Nhưng sau Nick, em đã mất hứng thú với tình dục.”
Sachs cười chua chát. “Mọi người đều nghĩ rằng có ngoại hình như em
là tuyệt vời. Em có thể chọn anh chàng của mình, đúng không? Thật vớ
vẩn. Những thằng cha mời em đi chơi là những thằng cha muốn chơi
em. Thế nên em đầu hàng. Tự làm còn dễ hơn. Em ghét điều đó, nhưng
dễ hơn”
Cuối cùng thì Rhyme đã hiểu phản ứng của cô khi lần đầu tiên nhìn thấy
anh. Cô thoải mái với anh vì đấy là người đàn ông không phải là mối đe
dọa đối với cô. Không thúc ép tình dục. Một người mà cô không phải
phòng ngự. Có thể có một chút tình đồng nghiệp nữa – như thể họ
cũng thiếu mất một loại gen thiết yếu.
“Em biết đấy”, anh đùa, “anh và em, ta cần đến với nhau và không
được có chuyện gì”.
Cô cười. “Thế thì kể cho em nghe về vợ anh. Hai người lấy nhau được
bao lâu?” “Bảy năm. Sáu năm trước tai nạn. Và một năm sau đó.”
“Và cô ấy bỏ anh?”
“Không. Anh bỏ cô ấy. Anh không muốn cô ấy cảm thấy có lỗi trong
việc này.” “Anh quá tốt.”
“Cuối cùng thì anh cũng làm cô ấy bỏ đi được. Anh là một tên khốn.
Em mới chỉ nhìn thấy mặt tốt của anh thôi.” Một lúc sau, anh hỏi. “Câu
chuyện của Nick… có liên
quan gì tới lý do em bỏ Đội Tuần tra không?”
“Không. Thực ra là có.” “Chim bị tên sợ cây cong?”
Cuối cùng cô gật đầu. “Cuộc sống ngoài phố giờ khác rồi. Đó là thứ
đã làm cho Nick như vậy. Thứ làm biến đổi anh ấy. Nó không còn
giống như khi cha em đi tuần trong khu của ông nữa. Khi đó mọi thứ
tốt hơn.”
“Ý em là nó không giống như những câu chuyện cha kể cho em nghe?”
“Có thể”, cô nhượng bộ. Sachs ngồi thụp xuống ghế. “Bệnh than?
Đúng như thế nhưng không nghiêm trọng đến mức như em giả bộ.”
“Anh biết”, Rhyme hỏi.
“Anh biết? Sao anh biết được?”
“Anh chỉ cần nhìn vào chứng cứ và rút ra một số kết luận.”
“Đó là lý do anh theo vụ của em cả ngày? Anh biết là em giả vờ?”
“Anh theo vụ của em”, anh nói, “vì anh biết em giỏi hơn em nghĩ”. Cô
nhìn anh thăm dò.
“À Sachs này, em làm anh nhớ đến chính mình.” “Thế ư?”
“Để anh kể cho em nghe một chuyện. Anh làm công việc khám nghiệm
hiện trường được gần một năm thì nhận được một cuộc gọi từ Đội
Trọng án. Có một người chết trong một ngõ hẻm ở Greenwich Village.
Tất cả trung sĩ chỉ huy đã ra ngoài nên anh được chọn để khám nghiệm
hiện trường. Lúc đó, anh nhớ anh mới hai mươi sáu tuổi. Anh tới đó,
kiểm tra và phát hiện ra người chết là giám đốc Sở Y tế và Nhân đạo
của thành phố. Lúc đó xung quanh ông ta có rất nhiều ảnh Palaroid.
Chắc em đã nhìn thấy vài tấm ảnh đó – ông ta đã đến một trong những
hộp đêm S&M125 trên Phố Washington. À, anh quên không nói, khi
họ tìm thấy ông ta thì ông ta mặc một bộ váy ngắn màu đen và đi
đôi tất chân mắt lưới.
Thế là anh bảo vệ hiện trường. Bất ngờ ông đại úy xuất hiện và đi qua
dây chắn. Anh biết ông ấy có ý định làm cho những tấm ảnh đó biến
mất trên đường đến phòng vật chứng nhưng anh lại ngây thơ tới mức
không quan tâm đến những tấm ảnh – anh chỉ quan tâm đến việc ai đó
đi ngang qua hiện trường.”
“Peretti là bảo vệ hiện trường vụ án.”
Rhyme tặc lưỡi. “Thế là anh không cho ông ấy vào. Lúc ông ấy đứng
ngoài hàng rào quát tháo thì một nhân viên của Sở đến và cố gắng kết
thúc sự việc. Anh nói không với ông ấy. Ông ấy cũng bắt đầu quát tháo
anh. Hiện trường phải được giữ nguyên cho tới khi IRD xong việc, anh
nói với họ thế. Đoán thử xem cuối cùng là ai đến?”
“Thị trưởng?”
“Gần đúng. Phó Thị trưởng.”
“Và anh bắt cả họ phải đứng ngoài.”
“Không ai vào được hiện trường, trừ bên chụp ảnh. Tất nhiên cái giá
mà anh phải trả là sáu tháng làm nhân viên in ấn. Nhưng bọn anh bắt
được thủ phạm nhờ vào một vài manh mối và dấu vân tay trên một bức
hình Palaroid – hóa ra đấy là bức hình được tờ Bưu điện in trên trang
nhất. Giống như việc em làm sáng hôm qua, Sachs ạ. Chặn tàu và xe
trên Đại lộ Mười một.”
“Em không nghĩ tới điều đó”, cô nói. “Em chỉ làm thôi. Sao anh lại nhìn
em thế?”
125 Hộp đêm S&M: Hộp đêm ở đó có các trò bạo dâm và khổ dâm.
“Nào, Sachs. Em biết là em cần ở đâu mà. Ngoài phố. Tuần tra, Các
vụ Trọng án, IRD, không quan trọng… Nhưng Phòng Quan hệ Công
chúng ư? Ở đó em sẽ thối rữa. Đó là công việc tốt đối với một số
người, nhưng không phải dành cho em. Đừng đầu hàng nhanh thế.”
“Ồ, thế còn anh thì không đầu hàng à? Còn Berger thì sao?” “Với anh
mọi chuyện hơi khác.”
Cái nhìn của cô dò hỏi. Đúng thế không? Rồi cô đi quanh tìm khăn
giấy. Khi quay lại ghế, cô hỏi: “Anh không đem xác chết nào theo anh
đấy chứ?”
“Cũng có khi. Nhưng giờ chúng đã được chôn cất rồi.” “Kể em nghe
đi.”
“Chẳng có gì cả đâu, thật đấy…”
“Không đúng. Em thấy thế. Nào, em đã kể cho anh nghe chuyện của
em rồi.”
Anh cảm thấy một cơn ớn lạnh lạ lùng. Anh biết đấy không phải cơn sai
lệch phản xạ. Nụ cười của anh biến mất.
“Rhyme, kể đi”, cô dai dẳng. “Em muốn nghe.”
“Được rồi, có một vụ vài năm trước”, anh nói. “Anh đã phạm sai lầm.
Một sai lầm tệ hại.”
“Kể em nghe.” Cô rót cho hai người thêm một ngấn whisky Scotch
nữa.
“Đó là một cuộc gọi nội địa báo giết người – tự sát. Một cặp vợ chồng
trong một căn hộ ở Chinatown. Ông ta bắn vợ, rồi tự sát. Anh không
có nhiều thời gian khám nghiệm hiện trường; anh làm rất nhanh. Và anh
phạm một sai lầm cũ rích – anh đã biết trước mình sẽ tìm thấy gì trước
khi anh bắt đầu tìm kiếm. Anh tìm thấy một ít sợi vải mà anh không biết
đặt vào đâu nhưng anh giả định rằng cặp vợ chồng này đã lôi nó vào.
Anh tìm thấy mảnh đạn nhưng không so nó với khẩu súng tìm được tại
hiện trường. Anh nhận thấy phương cách nạp đạn tự động nhưng
không đan lưới để tìm vị trí chính xác của khẩu súng. Anh tìm xong, ký
giấy rồi về văn phòng.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Hiện trường bị dàn cảnh. Thực ra, đó là một vụ cướp của giết người.
Tên tội phạm chưa rời căn hộ.”
“Cái gì? Hắn vẫn ở đó?”
“Sau khi anh ra về hắn bò từ gầm giường ra và bắt đầu bắn. Hắn giết
chết một nhân viên pháp y và làm bị thương một người trợ lý. Hắn chạy
ra phố và bắn nhau với mấy cảnh sát tuần tra chạy đến khi nghe gọi
10-13. Tên tội phạm bị bắn – sau đó cũng đã chết – nhưng hắn giết
chết một cảnh sát và làm bị thương người khác. Hắn cũng bắn một gia
đình vừa ra khỏi nhà hàng Trung Quốc gần đó. Dùng đứa con làm lá
chắn.”
“Ôi, trời ơi.”
“Colin Stanton là tên người cha. Ông ta không hề bị thương và ông ta
là một bác sĩ quân y – EMS nói ông ta đã có thể cứu được vợ và cả
hai đứa con nếu ông ta cố gắng
cầm máu, nhưng ông ta đã quá hoảng loạn và cứng đơ người. Ông ta
cứ đứng, nhìn họ chết dần trước mắt mình.”
“Lạy chúa, Rhyme. Nhưng đó không phải lỗi của anh. Anh…” “Để anh
kể nốt. Đó vẫn chưa phải là đoạn kết.”
“Chưa ư?”
“Người chồng về nhà – ở phía bắc New York. Ông ta bị suy nhược
thần kinh và phải vào bệnh viện tâm thần một thời gian. Ông ta thử tự
tử. Đầu tiên ông ta tự cắt cổ tay mình bằng một mảnh giấy – bìa tạp
chí. Sau đó ông ta lẻn vào thư viện và tìm thấy một cốc nước trong
phòng tắm của người thủ thư, đập nó ra và dùng mảnh kính vỡ cứa vào
cổ tay. Người ta đã khâu lại vết thương cho ông ta và giữ ông ta trong
bệnh viện tâm thần khoảng một năm. Cuối cùng thì người ta cũng thả
ông ra. Khoảng một tháng sau khi ra viện, ông ta lại thử lần nữa. Lần
này thì dùng dao.” Rhyme lạnh lùng nói thêm. “Lần này thì có kết quả.”
Anh biết về cái chết của Stanton nhờ một tờ cáo phó được fax từ nhân
viên điều tra đột tử ở Albany tới Phòng Quan hệ Công chúng của
NYPD. Ai đó đã gửi nó cho Rhyme bằng đường công văn nội bộ với
một tờ giấy vàng dán kèm: FYI – có thể anh sẽ quan tâm, người sĩ
quan đó viết.
“IA điều tra nội bộ. Lỗi chuyên môn. Họ đập cổ tay anh. Anh nghĩ họ
có thể đuổi việc anh.”
Cô thở dài và nhắm mắt trong giây lát. “Và anh nói với em là anh
không thấy có lỗi trong chuyện này?”
“Hết rồi.”
“Em không tin anh.”
“Anh đã chịu án rồi, Sachs ạ. Anh sống với những xác chết này một
thời gian. Sau đó anh bỏ chúng đi. Nếu không, làm sao anh tiếp tục làm
việc được.”
Sau một lúc lâu, cô nói: “Khi em mười tám tuổi, em bị phạt. Vì chạy
quá tốc độ. Em chạy với tốc độ chín mươi ở chỗ chỉ được phép chạy
bốn mươi.”
“Rồi.”
“Cha em nói, ông sẽ cho em vay tiền nộp phạt, nhưng em phải trả lại
ông. Có lãi. Nhưng anh biết ông còn nói gì với em nữa không? Ông nói
bố sẽ đánh đòn nếu con vượt đèn đỏ hay lái xe không cẩn thận. Nhưng
chạy nhanh thì ông hiểu. Ông nói với em: ‘Bố biết cảm giác của con,
con yêu ạ. Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.’”, Sachs nói
với Rhyme. “Nếu em không thể lái xe, nếu em không thể chuyển động,
có thể em cũng sẽ làm điều đó. Tự tử.”
“Anh đã từng đi bộ khắp nơi”, Rhyme nói. “Anh lái xe không nhiều.
Không có xe suốt hai mươi năm. Em có xe gì?”
“Chẳng phải là thứ mà một người Manhattan kiêu kỳ như anh sẽ lái
đâu. Một chiếc Chevy. Mác Camaro. Đó là xe của cha em.”
“Ông đã cho em một cái máy khoan hơi? Để sửa xe, anh đoán thế?”
Cô gật đầu. “Và một máy hàn hơi. Một bộ tạo khe bugi. Cờ lê bánh
cóc – món quà sinh nhật lần thứ mười ba của em.” Cười nhẹ nhàng.
“Chiếc Chevy ấy, thật là một chiếc xe với núm tay lỏng. Anh có biết
đấy là gì không? Một chiếc xe Mỹ. Đài, quạt và công tắc điện đều lỏng
lẻo và hạng bét. Nhưng bộ giảm xóc thì như đá, nhẹ như thùng trứng
và em lúc nào cũng qua mặt được BMW126.”
“Anh đoán là em đã làm rồi.” “Một, hai lần gì đấy.”
“Xe hơi có địa vị trong thế giới của người tàn tật”, Rhyme giải thích.
“Bọn anh ngồi – hay nằm – trong khu cách ly của Viện Phục hồi Chức
năng và nói chuyện về
những thứ bọn anh có thể lấy được từ công ty bảo hiểm. Xe tải kiểu xe
lăn thật là đỉnh.
Sau đó là xe điều khiển bằng tay. Tất nhiên là những thứ đó chẳng giúp
gì cho anh.” Anh liếc mắt, kiểm tra bộ nhớ thuần thục của mình. “Anh
không đi xe đã nhiều năm. Anh không nhớ lần cuối là khi nào cả.”
“Em có một ý”, Sachs bất ngờ nói. “Trước khi ông bạn của anh – bác
sĩ Berger – quay lại, để em đưa anh đi một vòng. Hay có vấn đề? Ngồi
dậy? Anh nói là xe lăn không giúp được anh.”
“À, không, xe lăn không thành vấn đề. Nhưng còn xe hơi? Anh nghĩ
chắc là được.” Anh cười. “Một trăm sáu mươi tám? Dặm một giờ?”
“Hôm ấy là một ngày đặc biệt”, Sachs nói và nhớ lại. “Điều kiện tốt.
Không có cảnh sát giao thông.”
Điện thoại reo và Rhyme tự trả lời. Đó là Lon Sellitto.
“Chúng tôi đã có các nhóm S&S ở tất cả các nhà thờ mục tiêu trong
khu Harlem. Dellray chịu trách nhiệm về việc này – anh ta trở thành
một tín đồ thực sự rồi. Anh không còn nhận ra anh ta nữa đâu. Ồ, mà
tôi còn có thêm ba mươi cảnh sát tuần tra và hàng tá nhân viên anh ninh
Liên Hiệp Quốc để đến bất cứ nhà thờ nào mà chúng ta có thể bỏ qua.
Nếu hắn không xuất hiện, chúng tôi sẽ càn quét tất cả các nhà thờ vào
lúc bảy rưỡi, trong trường hợp hắn lẩn được vào mà chúng tôi không
phát hiện ra. Tôi nghĩ chúng ta sẽ tóm được hắn, Linc ạ.” Viên thám tử
nói, nhiệt tình một cách đáng nghi ngờ so với một cảnh sát của Đội
Trọng án Thành phố New York.
“Được rồi, Lon. Khoảng tám giờ tôi sẽ cử Amelia tới Trung tâm chỉ
huy của anh.” Họ dập máy.
Thom gõ cửa trước khi vào phòng.
“Như thể cậu ta sẽ bắt được chúng ta trong tư thế tế nhị.” Rhyme cười
thầm. “Không lý do gì nữa”, anh ta nói. “Đi ngủ. Ngay bây giờ.”
Đã 3:00. Từ lâu rồi, Rhyme đã không còn cảm giác kiệt sức. Anh đang
bay lượn ở đâu đó. Phía trên cơ thể mình. Anh băn khoăn không hiểu
có phải mình gặp ảo giác hay không.
126 BMW: Một thương hiệu xe nổi tiếng của Đức.
“Được rồi, thưa mẹ”, anh nói. “Sĩ quan Sachs sẽ ngủ lại đêm nay,
Thom. Cậu làm ơn lấy giúp một cái chăn.”
“Anh nói gì?” Thom quay lại phía anh. “Một cái chăn.”
“Không, trước đó cơ.” Người trợ lý hỏi. “Cái từ ấy?” “Tôi không biết.
‘Làm ơn’?”
Mắt Thom mở to vì cảnh giác. “Anh ổn chứ? Anh có muốn tôi gọi
Peter Taylor quay lại không? Hay cha cả của Tu viện Columbia? Bác
sĩ phẫu thuật?”
“Thấy thằng khốn này làm phiền tôi chưa?” Rhyme nói với Sachs. “Hắn
không biết là hắn gần đến lúc bị đuổi việc thế nào rồi đâu.”
“Gọi dậy lúc mấy giờ?”
“Sáu giờ ba mươi là ổn,” Rhyme nói.
Khi anh ta đi khỏi, Rhyme hỏi: “Này, Sachs, em có thích nghe nhạc
không?” “Em thích.”
“Loại nào?”
“Nhạc cổ, dòng doo-wop, Motown… Còn anh thì sao? Anh trông có
vẻ giống một anh chàng cổ điển.”
“Em thấy cái tủ chỗ kia chứ?” “Cái này hả?”
“Không, cái khác cơ. Phía bên phải. Em mở nó ra.”
Cô làm theo và há miệng vì ngạc nhiên. Cái tủ quả là một căn phòng
chứa tới gần nghìn đĩa CD.
“Giống như cửa hàng bán đĩa127?”
“Có một bộ dàn, em thấy nó trên giá không?”
Cô lướt nhẹ tay trên dàn máy Harmon Cardon dính đầy bụi.
“Đắt hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của anh”, Rhyme nói. “Anh không
dùng nó
nữa.”
“Sao lại không?”
Anh không trả lời mà nói: “Em cho đĩa gì đó vào đi. Điện còn cắm
không? Thế à?
Tốt. Em chọn nhạc đi.”
Một khắc sau, cô bước ra khỏi tủ và đi lại ghế sofa khi Levi
Stabbs128 và Four
Tops129 bắt đầu hát về tình yêu.
127 Nguyên văn: Tower Records: Chuỗi cửa hàng bán băng đĩa.
128 Levi Stabbs (tên thật là Levi Stubbles): Sinh năm 1936, một ca sĩ
người Mỹ, được biết tới như ca sĩ chính của nhóm nhạc R&B The Four
Tops nổi tiếng của Motown.
Phải đến một năm rồi mới lại có âm nhạc vang lên trong nhà, Rhyme
nghĩ. Anh im lặng, cố gắng trả lời câu hỏi của Sachs vì sao anh lại
ngừng nghe nhạc. Nhưng anh không thể.
án.
Sachs dọn tài liệu và sách ra khỏi ghế. Nằm lên đó và lần giở cuốn
Hiện trường vụ
“Tặng em một cuốn được không?” Cô hỏi. “Em cứ lấy mười cuốn.”
“Anh sẽ…”, giọng cô chợt ngừng lại.
“Ký sách cho em?” Anh cười. Cô cười với anh. “Anh điểm chỉ, được
không? Các
nhà phân tích nét chữ không bao giờ cho em xác suất trùng lặp nét chữ
quá tám mươi phần trăm. Nhưng còn dấu tay? Bất kỳ chuyên gia dấu
vân tay nào cũng có thể khẳng định đó là dấu tay của anh.”
Anh nhìn cô đọc chương một. Mắt cô rũ xuống. Cô gập sách. “Anh
làm cho em một việc, được không?” Cô hỏi.
“Việc gì?”
“Đọc cho em nghe…”
“Đọc cho em nghe. Thứ gì đó trong sách. Khi Nick và em còn bên
nhau…”, giọng cô nhạt dần.
“Sao cơ?”
“Khi Nick và em còn ở bên nhau, nhiều lần Nick đọc cho em nghe
trước khi bọn em ngủ. Bất cứ thứ gì: sách, báo, tạp chí… Một trong
những thứ em nhớ nhất.”
“Anh đọc rất dở”, Rhyme thú nhận. “Anh đọc như thể anh đang trích
dẫn báo cáo khám nghiệm hiện trường. Nhưng anh có trí nhớ… khá là
tốt. Để anh kể em nghe về vài hiện trường vụ án, được không?”
“Thật không?” Cô nằm ngửa, cởi chiếc áo khoác màu xanh hải quân và
tháo cái áo giáp chống đạn hiệu American Body Armor, vứt nó sang
một bên. Phía trong cô mặc một chiếc áo phông nhàu nát và dưới đó là
áo lót ngực thể thao. Cô lại mặc chiếc áo khoác rồi nằm lên ghế, kéo
chăn. Xoay người sang bên rồi nhắm mắt.
Rhyme giảm ánh sáng bằng điều khiển từ xa.
“Anh luôn thấy ngạc nhiên với hiện trường chết chóc”, anh bắt đầu.
“Chúng giống như những đền thờ. Chúng ta luôn quan tâm đến nơi
chôn cất người chết hơn là nơi họ được sinh ra. Ví dụ như John
Kennedy. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến thăm kho sách Texas ở
Dallas. Em nghĩ có bao nhiêu người hành hương đến một phòng sản
phụ ở Boston?”
Rhyme ngả đầu vào chiếc gối mềm mại quý phái “Anh có làm em chán
không?”
129 Four Tops: Nhóm tứ tấu vocal Mỹ, hát các thể loại doo-wop,
jazz, nhạc soul, R&B, disco, nhạc hiện đại và nhạc trình diễn.
“Không”, cô nói. “Làm ơn đừng dừng lại.”
“Em có biết điều làm anh luôn băn khoăn là gì không, Sachs?” “Nói
cho em biết đi”
“Điều đó làm anh ngạc nhiên nhiều năm rồi – Tinh thần Hiệp sĩ. Hai
nghìn năm trước. Còn bây giờ, có một hiện trường vụ án mà anh thích
khám nghiệm. Anh biết em sẽ
nói: Nhưng chúng ta biết bọn tội phạm rồi cơ mà. Có phải như vậy
không? Điều mà
chúng ta thực sự biết được là những gì nhân chứng nói với chúng ta.
Em có nhớ là anh đã nói – đừng bao giờ tin nhân chứng. Có thể những
câu chuyện trong Kinh thánh là không hề có thực. Bằng chứng đâu?
Phải là chứng cứ vật lý. Móng tay, máu, mồ hôi, ngọn giáo, chữ thập,
giấm ăn. Dấu dép và dấu vân tay.”
Rhyme hơi nghiêng đầu sang trái và tiếp tục kể chuyện về những hiện
trường vụ án và chứng cứ cho tới khi ngực Sachs phập phồng đều đặn,
hơi thở của cô làm những sợi tóc đỏ nhẹ nhàng bay. Ngón tay anh lần
tìm nút tắt đèn trên bộ điều khiển ESU, và rồi anh cũng nhanh chóng
chìm vào giấc ngủ.
Ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh xuất hiện trên bầu trời.
Hoàn toàn tỉnh táo, Carole Ganz có thể nhìn thấy lớp kính lõi lưỡi thép
bên trên đầu cô. Pammy, con yêu... Rồi cô nghĩ tới Ron. Và tất cả tài
sản của cô còn đang ở trong cái tầng hầm kinh khủng ấy. Tiền bạc,
chiếc ba lô màu vàng...
Cô nghĩ tới Pammy.
Có thứ gì đó làm cho cô gián đoạn giấc ngủ chập chờn, bất ổn. Gì vậy
nhỉ? Cơn đau ở cổ tay? Nó giật giật khủng khiếp. Cô xoay người một
chút. Cô...
Tiếng rống khó chịu của đàn organ và giọng hát của dàn đồng ca lại
ngập tràn trong phòng.
Đó là thứ đã đánh thức cô. Âm nhạc. Làn sóng âm nhạc ập tới. Nhà
thờ không bị bỏ hoang. Có người ở đây. Cô mỉm cười. Có ai đó sẽ...
Điều này nhắc cô nhớ tới quả bom.
Carole nhìn qua khe tủ hồ sơ. Nó vẫn còn đó, bập bềnh ngoài cạnh
bàn. Nó mang hình dáng thô thiển của một quả bom thật sự và một thứ
vũ khí giết người – không giống những dụng cụ sáng bóng, dễ thương
mà ta vẫn thấy trên phim ảnh. Băng dính quấn xộc xệch, dây dẫn bị
bóc vỏ nham nhở, xăng vẩn đục… có thể chỉ là bom xịt, cô nghĩ. Trong
ánh sáng ban ngày, trông nó không có vẻ nguy hiểm lắm.
Âm nhạc lại vang lên. Nó vang lên ngay trên đầu cô. Kèm theo tiếng lê
chân. Cửa đóng lại. Sàn nhà gỗ kêu kẽo kẹt khi mọi người đi lại. Bụi
bay ra từ rầm nhà.
Giọng hát đang vang lên nửa câu bỗng ngừng lại. Một giây lát sau, họ
lại bắt đầu
hát.
Carole đạp chân, nhưng ở đây nền nhà bằng bê tông, tường gạch. Cô
cố hét lên
nhưng âm thanh bị miếng băng dính dán miệng nuốt chửng. Buổi diễn
tập vẫn tiếp tục, tiếng nhạc nghiêm trang, đầy sinh lực lan xuống tận
tầng hầm.
Sau mười phút, Carole kiệt sức ngã vật xuống sàn. Mắt cô lại nhìn về
phía quả bom. Lúc này đã sáng hơn và cô có thể nhìn thấy cái đồng hồ
hẹn giờ.
Carole nhăn mặt. Cái đồng hồ hẹn giờ!
Đó không phải là một quả bom thối. Kim định giờ đặt ở mức 6:15.
Kim đồng hồ lúc này chỉ 5:30.
Bò xa hơn ra phía sau tủ hồ sơ, Carole lấy đầu gối đập vào thành tủ
kim loại. Nhưng bất kỳ tiếng động yếu ớt nào phát ra đều ngay tức
khắc bị tan biến trong tiếng rền vang của bài hát Sweet Low, Sweet
Chariot từ trên cao vọng xuống, đang ngập tràn tầng nhà thờ.
IV
ĐẾN TẬN XƯƠNG
Các vị thần chỉ chối từ một thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.
ARISTOTLE
HAI MƯƠI BẢY
5:45 AM Chủ nhật đến 7:00 PM thứ Hai
Mùi hương làm anh tỉnh giấc. Như mọi khi.
Và – cũng giống như rất nhiều buổi sáng – anh không vội vàng mở mắt
mà giữ nguyên vị trí nửa nằm, nửa ngồi của mình, cố gắng suy đoán
xem mùi hương không quen thuộc đó là gì.
Mùi không khí buổi bình minh? Giọt sương trên những con phố bóng
như dầu? Mùi vữa ẩm? Anh cố gắng phân biệt mùi hương của Amelia
Sachs nhưng thấy rằng mình không thể.
Ý nghĩ của anh bỏ qua cô và tiếp tục. Mùi gì thế nhỉ? Chất tẩy rửa?
Không phải.
Một thứ hóa chất từ phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Cooper?
Không, anh nhận ra được tất cả những thứ mùi đó. Đó là… à, đúng
rồi… mùi bút viết bảng.
Đến lúc này anh đã có thể mở mắt – sau khi liếc nhìn Sachs vẫn đang
ngủ để chắc chắn là cô chưa bỏ đi – và thấy mình đang nhìn vào tấm
áp phích Monet treo trên tường. Mùi tỏa ra từ đó. Không khí nóng
bức, ẩm thấp của buổi sáng tháng Tám này đã làm giấy khô đi và mùi
xuất phát từ đó.
• Hiểu biết quy trình khám nghiệm hiện trường
• Có thể có tiền án
• Hiểu biết về dấu vân tay
• Súng = Colt .32
• Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường
• “Cổ xưa” hấp dẫn hắn
• Gọi một nạn nhân là “Hanna”
• Biết tiếng Đức cơ bản
• Thích những chỗ dưới lòng đất
Những con số nhợt nhạt trên đồng hồ chỉ 5:45. Ánh mắt anh quay lại
chỗ tấm áp phích. Anh không thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ thấy những hoa
văn xám trên nền trắng tuyệt đối. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bầu
trời buổi sáng cũng đủ để đọc được phần lớn các từ.
• Đa nhân cách
• Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư
• Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?
• Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân
• Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra
Những con chim ưng đã tỉnh giấc. Anh cảm thấy những tiếng đập cánh
run rẩy bên ngoài. Ánh mắt Rhyme quay lại với tấm áp phích. Trong
văn phòng của anh ở IRD, anh treo khoảng một tá bảng trắng và trên
đó anh ghi lại những đặc tính quan trọng nhất của nghi phạm trong
những vụ án lớn. Anh nhớ lại: đi lại, ngắm nghía, suy nghĩ về những
người mà họ mô tả.
Những phân tử sơn, bùn, phấn hoa, lá cây…
• Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.
Nghĩ tới tên trộm đá quý gian xảo mà anh và Lon tóm mười năm trước.
Tại Central Booking, tên trộm rụt rè nói họ sẽ không bao giờ tìm được
những thứ hắn lấy từ những vụ trước đó, nhưng nếu họ xem xét lệnh ân
xá, hắn sẽ nói cho họ biết hắn giấu ở đâu. Rhyme trả lời: ” Được rồi,
bọn tao có một chút rắc rối khi tìm xem chúng ở đâu.”
“Chắc chắn rồi”, tên trộm nói.
“Xem này”, Rhyme nói. “bọn tao đã biết tới bức tường đá trong phòng
đựng than của một ngôi nhà nông thôn kiểu thuộc địa trên sông
Connecticut. Cách Long Island Sound khoảng năm dặm về phía bắc.
Tao chỉ chưa biết là ngôi nhà này ở bờ phía đông hay bờ phía tây của
dòng sông mà thôi”.
Khi câu chuyện lan ra ngoài, câu nói mà mọi người dùng để mô tả nét
mặt của tên trộm lúc đó là: mẹ kiếp, chắc chắn là mày phải đến đấy rồi
chứ.
Có thể đấy chính là phép thuật, Sachs ạ. Anh nghĩ.
• Ít nhất một trăm năm tuổi, có thể là một biệt thự hay cơ
quan
Anh nhìn lướt tấm áp phích một lần nữa rồi nhắm mắt, ngả đầu xuống
chiếc gối tuyệt vời của mình. Đúng lúc đó anh cảm thấy choáng váng.
Giống như có ai đó tát vào mặt mình. Cơn sốc lan lên đầu anh như lửa
cháy. Mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tấm áp phích.
• “Cổ xưa” hấp dẫn hắn
“Sachs!” Anh la lên. “Dậy ngay!”
Cô giật mình và ngồi dậy. “Cái gì? Gì thế...?” Cổ xưa, cổ xưa, cổ
xưa...
“Anh sai mất rồi”, anh nói cộc lốc. “Có vấn đề rồi.”
Đầu tiên cô nghĩ đó là vấn đề sức khỏe, vì thế cô nhảy khỏi ghế, vớ lấy
túi cứu thương của Thom.
“Không, manh mối cơ, Sachs, manh mối... Anh hiểu sai.” Hơi thở của
anh gấp gáp, anh nghiến răng trong lúc suy nghĩ.
Cô mặc quần áo, ngồi thẳng dậy, những ngón tay cô tự động đưa lên
gãi đầu. “Gì vậy, Rhyme? Điều gì vậy?”
“Nhà thờ. Có thể nó không phải ở Harlem.” Anh nhắc lại. “Anh sai
rồi.”
Giống như với thủ phạm giết gia đình Colin Stanton. Trong ngành hình
sự học, ta có thể xác định chính xác hàng trăm manh mối, nhưng manh
mối mà ta bỏ qua lại khiến cho người ta mất mạng.
“Mấy giờ rồi?” Cô hỏi.
“Hơn sáu giờ kém mười lăm một chút. Lấy tờ báo đi. Lịch biểu lễ nhà
thờ.” Sachs tìm thấy tờ báo, lướt qua. Sau đó cô ngẩng lên. “Anh nghĩ
gì vậy?”
“823 đam mê những thứ cổ xưa. Nếu hắn muốn một nhà thờ cổ của
người da đen thì có thể ý hắn không phải là khu phố trên. Philip Payton
thành lập công ty bất động sản
Mỹ-Phi tại Harlem năm 1900. Còn có hai khu người da đen nữa trong
thành phố. Khu
trung tâm, chỗ tòa án hiện nay và San Juan Hill. Ở đây chủ yếu là
người da trắng... Ôi quỷ thật, anh đang nghĩ gì vậy nhỉ?”
“San Juan Hill ở đâu?”
“Phía bắc Hell’s Kitchen. West Side. Nó được đặt tên để tôn vinh tất
cả những người lính da đen đã chiến đấu trong cuộc chiến Mỹ – Tây
Ban Nha.”
Cô đọc lướt qua tờ báo.
“Các nhà thờ trong khu trung tâm”, cô nói. “Nếu ở khu Battery Park
thì ở đó có viện Seamen. Có một nhà thờ tại đây, họ có làm lễ. Chúa
ba ngôi. Thánh Paul.”
“Đó không phải khu của người da đen. Xa hơn nữa về phía bắc và
phía đông.” “Nhà thờ Trưởng lão trong khu Chinatown.”
“Có nhà thờ Tin lành hay Phúc âm nào khồng?”
“Không, không có gì ở khu này. Đây… ôi, quỷ thật.” Ánh mắt cam
chịu, cô thở dài. “Ôi, không.”
Rhyme hiểu ra. “Lễ chào mặt trời.”
Cô gật đầu: “Tín lành Bánh thánh… Không, Rhyme có một lễ hát
Thánh ca bắt đầu lúc sáu giờ sáng. Đại lộ Năm mươi chin và Mười
một.”
“Đó là San Juan Hill! Gọi cho họ đi!”
Cô vơ lấy điện thoại và quay số. Cô đứng cúi đầu, nhíu mày trong lúc
lắc đầu. “Trả lời đi, trả lời đi… Quỷ thật. Máy ghi âm. Mục sư chắc đã
rời khỏi văn phòng.” Cô nói vào ống nghe. “Đây là NYPD. Chúng tôi
có lý do để tin rằng trong nhà thờ của ngài có bom. Hãy sơ tán càng
nhanh càng tốt.” Cô dập máy, rồi đi giày.
“Đi đi, Sachs. Em phải tới đó ngay. Ngay bây giờ.” “Em?”
“Chúng ta ở gần đó hơn đồn gần nhất. Sau mười phút là em tới đó rồi.”
Cô chạy ra cửa, vừa chạy vừa đeo thắt lưng thiết bị vào eo.
“Anh sẽ gọi điện cho đồn.” Anh nói với theo khi cô nhảy xuống cầu
thang, tóc như một đám mây đỏ quấn quanh đầu. “Sachs này, nếu em
muốn lái xe thật nhanh thì bây giờ là lúc đấy.”
Chiếc xe RRV trượt bánh trên Phố Tám mươi mốt, lao nhanh về phía
tây.
Sachs lao đến ngã tư ở Broadway, trượt bánh và va phải chiếc máy
bán báo Bưu điện New York, hất nó bắn qua cửa sổ hiệu Zabar trước
khi cô điều khiển được chiếc xe. Cô nhớ tới tất cả các loại thiết bị
khám nghiệm hiện trường vụ án chở phía sau. Một chiếc xe nặng mông,
cô nghĩ; không được quặt khi đang chạy với tốc độ năm mươi.
Sau đó chạy dọc Broadway. Phanh lại ở ngã tư. Nhìn phải, nhìn trái.
Không có gì. Nhấn ga!
Cô thoát ra Đại lộ Chín tại trung tâm Lincoln và sau đó chạy xuống
phía nam. Mình chỉ…
Quỷ tha ma bắt!
Lốp xe rít lên khi bị phanh gấp. Phố bị cấm.
Một dãy rào cản chặn Đại lộ Chín để chuẩn bị cho hội chợ đường phố
buổi sáng nay. Một khẩu hiệu viết Đồ thủ công mỹ nghệ của tất cả các
dân tộc. Tay trong tay,
chúng ta là một.
Ôi trời… quỷ tha ma bắt Liên Hiệp Quốc. Cô lùi lại một nửa khối nhà
và tăng tốc độ lên năm mươi trước khi lao vào dây rào chắn đầu tiên.
Rẽ tung những chiếc bàn gấp bằng nhôm và giá bày hàng gỗ, cô rẽ một
đường qua hội chợ không người. Sau hai khối
nhà, chiếc xe lao qua rào cản phía nam và cô rẽ về hướng tây sang Phố
Năm mươi chín, lao lên vỉa hè một đoạn nhiều hơn cô muốn.
Có một nhà thờ cách đó khoảng một trăm thước.
Giáo dân đứng trên bậc cầu thang – cha mẹ, một cô bé con mặc bộ
váy diềm màu trắng hồng, những cậu bé mặc vét tối màu và áo trắng,
tóc nhuộm bạc hay tạo thành những núm lạ mắt.
Từ dưới cửa sổ đường hầm, một đám khói xám nhỏ đang bốc lên. Cô
đạp cần ga chạm sàn, động cơ gầm rú.
Vớ lấy máy bộ đàm. “RRV Hai gọi Trung tâm, nghe rõ?”
Đúng lúc cô nhìn xuống chiếc bộ đàm Motorola để xem âm thanh đã
được vặn lên hết cỡ hay chưa, một chiếc Mercedes lớn lao ra khỏi
ngõ, đúng đường đi của cô.
Một cái liếc nhìn rất nhanh gia đình đang ngồi trong xe, mọi người mắt
mở to vì sợ hãi khi người cha đạp phanh.
Sachs theo bản năng đánh mạnh tay lái sang trái, đưa chiếc xe sang
trạng thái trượt có điều khiển. Nào, nào, cô van xin những cái lốp xe…
bám vào, bám vào, bám vào! Nhưng mặt đường nhựa trơn trượt đã bị
mềm đi dưới sức nóng của mấy ngày qua và bị phủ sương. Chiếc xe
trôi trên đường như đi tàu cánh ngầm.
Đuôi xe va mạnh vào đầu chiếc Mercedes với tốc độ năm mươi dặm
một giờ. Sau một tiếng động lớn, chiếc 560 cắt đứt sườn bên trái của
chiếc xe thùng. Những chiếc va li khám nghiệm hiện trường bay lên
không, mở tung và đổ những thứ bên trong ra phố. Những người đi
nhà thờ cúi xuống tránh mảnh kính vỡ, nhựa và kim loại.
Túi khí tung ra và phồng lên làm Sachs giật mình. Cô lấy tay che mặt
khi chiếc xe thùng nhảy tung qua một dãy xe hơi, qua một cửa hiệu báo
và trượt trên đường cho tới khi dừng hẳn, lộn ngược. Báo và túi đựng
vật chứng trên mặt đất như những người lính dù tí hon.
Bị dây an toàn treo lộn ngược, tóc che kín mắt, Sachs gạt máu chảy ra
từ vết thương trên trán và môi, cố gắng mở khóa. Nó chặt cứng. Xăng
nóng chảy vào xe và chảy theo tay cô buồn buồn. Cô rút con dao gấp
ở túi sau, mở ra và cắt dây an toàn. Chút nữa bị rơi vào con dao, cô
nằm đó, thở hổn hển, ngạt vì khói xăng.
Nào cô bé, ra thôi. Ra nào!
Cửa xe bị kẹt, phía sau của chiếc xe thùng đã bị bẹp nên cũng không
có đường thoát. Sachs bắt đầu đạp cửa sổ. Kính không vỡ. Cô co
chân đạp thật mạnh vào lớp kính chắn gió đã bị nứt. Không ảnh hưởng
gì, ngoại trừ việc cô suýt bong gân chân.
Súng!
Cô sờ vào hông; khẩu súng đã rơi khỏi bao và lăn lóc đâu đó trong xe.
Cảm thấy làn mưa xăng nóng bỏng trên tay và trên vai, cô tìm kiếm
điên cuồng trong đám giấy và thiết bị khám nghiệm hiện trường vương
vãi trên nóc xe.
Sau đó cô nhìn thấy khẩu Glock nặng nề của mình gần cái chao đèn.
Cô phủi nó và nhắm vào cửa bên.
Làm đi. Bên ngoài thoáng, vẫn chưa có ai đến xem.
Sau đó cô ngần ngừ. Liệu lửa nòng có làm xăng bắt cháy không?
Cô giữ khẩu súng cách xa bộ đồng phục thấm xăng của cô hết mức có
thể, suy nghĩ. Rồi bấm cò.
HAI MƯƠI TÁM
Năm phát, theo hình sao. Mặc dù vậy kính của chiếc General Motors
vẫn y nguyên.
Ba phát nữa, nổ inh tai trong không gian chật hẹp của chiếc xe thùng.
Nhưng kính vẫn không vỡ.
Cô tiếp tục đạp. Cuối cùng cánh cửa sổ bung ra bên ngoài thành một
dòng thác những viên băng nhỏ màu xanh. Đúng lúc cô vừa lăn ra
ngoài, nội thất của chiếc xe thùng nổ.
Cởi hết áo chỉ để lại áo phông, cô ném áo khoác và áo chống đạn
ngấm xăng, ném tai nghe có mic sang bên cạnh. Cảm thấy mắt cá lung
lay nhưng cô vẫn lao về cửa chính của nhà thờ, chạy qua những người
đi lễ và dàn đồng ca đang chạy trốn. Tầng trệt đầy khói. Gần đó, một
phần của nền nhà bị gợn sóng, nóng lên và bùng cháy.
Bất ngờ vị mục sư xuất hiện, bị ngạt khói, nước mắt ròng ròng. Ông ta
kéo theo một người phụ nữ bất tỉnh. Sachs giúp ông ta đưa người phụ
nữ ra cửa.
“Tầng hầm ở đâu?” Cô hỏi. Ông ta ho dữ dội, lắc đầu.
“Ở đâu?” Cô quát lên, nghĩ tới Carole Ganz và đứa con nhỏ của cô.
“Tầng hầm?”
“Đằng kia, nhưng…”
Phía bên kia nền nhà đang bốc cháy.
Sachs gần như không nhìn thấy nó, khói quá dày. Một bức tường đổ
xuống trước mặt họ, những cái rầm và cột nhà cũ đằng sau nó kêu lách
tách, phun ra những tia lửa và những luồng khí nóng vào căn phòng mù
mịt khói. Cô ngần ngại một chút, rồi bắt đầu đến cửa tầng hầm.
Mục sư nắm tay cô. “Đợi đã.” Ông ta mở kho và lấy một bình cứu
hỏa, giật khóa bảo vệ . “Đi thôi.”
Sachs lắc đầu. “Ông không phải đi. Ông cứ kiểm soát khu vực này.
Nói với lính cứu hỏa là có một sĩ quan cảnh sát và một nạn nhân khác
đang ở dưới tầng hầm.”
Lúc này thì Sachs đang tăng tốc.
Khi ta di chuyển…
Cô nhảy qua lỗ thủng lớn trên nền nhà. Nhưng khói làm cho cô đánh
giá sai khoảng cách tới bức tường, nó gần hơn cô tưởng nên cô va phải
bức vách gỗ và ngã ra sau, lăn tròn khi tóc cô quét qua ngọn lửa, một
vài lọn tóc bắt lửa. Nôn khan vì hít phải mùi, cô dập lửa và cố gắng
đứng lên. Nền nhà, đã bị ngọn lửa phía dưới làm yếu đi, vỡ ra dưới
chân làm cô ngã đập mặt xuống nền gỗ sồi. Cô cảm thấy lưỡi lửa dưới
tầng hầm đang liếm cánh tay và cổ tay mình khi cô giật tay về.
Lăn ra khỏi rìa lỗ thủng, cô đứng dậy và với tay đến cái nắm tay của
cửa xuống tầng hầm. Bất ngờ cô dừng lại.
Này cô bé, nghĩ cho kỹ vào! Hãy cảm nhận cánh cửa trước khi mở.
Nếu bên trong quá nóng và mày lại để oxy lọt vào trong căn phòng
siêu nóng, nó sẽ bùng nổ và hơi phản hồi sẽ thiêu cháy mày ngay. Cô
chạm vào gỗ. Nóng như thiêu.
Sau đó cô nghĩ: thế mình có thể làm được gì khác nào?
Nhổ nước bọt vào tay, cô nắm rất nhanh cái tay nắm cửa, xoay cho nó
mở và thả tay ra trước khi bàn tay kịp bị bỏng.
Cánh cửa mở tung, một đám mây khói và tia lửa cuồn cuộn trào ra.
“Có ai trong đó không?” Cô gọi và bắt đầu đi xuống.
Những bậc thang dưới cùng đang cháy. Cô phun một lượt carbon
dioxide rồi nhảy xuống tầng hầm ẩm mốc. Cô đạp gãy bậc thang gần
cuối cùng, chúi người về phía trước. Bình cứu hỏa rơi loảng xoảng
xuống nền nhà khi cô nắm vội lấy tay vịn cầu thang, vừa đúng lúc
không để chân bị gãy.
Kéo mình ra khỏi bậc thang gãy, Sachs liếc nhìn qua làn khói mịt mù.
Dưới này khói không đến nỗi quá tệ – nó bay lên trời cao – nhưng còn
lửa thì lại bốc cháy quanh cô.
khói.
Bình cứu hỏa lăn xuống dưới cái bàn đang cháy. Quên nó đi! Cô chạy
qua đám
“Có ai không?” Cô la lớn. Không ai trả lời.
Sau đó cô nhớ ra thủ phạm 823 thường dùng băng dính; hắn thích
những nạn nhân
câm lặng.
Cô đá tung một cánh cửa nhỏ và ngó vào trong phòng nồi hơi. Có một
cánh cửa dẫn ra ngoài nhưng rác thải cháy đã chặn nó lại. Phía trong là
một bình nhiên liệu, lúc này đang bị ngọn lửa bao vây.
Nó sẽ không nổ, Sachs nhớ lại bài học từ học viện – bài giảng về hỏa
hoạn. Dầu nhiên liệu không nổ. Đá rác rưởi sang một bên và đẩy cửa
mở ra. Dọn đường rút lui cho mình. Sau đó mới đi tìm người phụ nữ và
đứa bé.
Cô chần chừ, nhìn những lưỡi lửa đang liếm quanh thùng dầu nhiên liệu.
Nó sẽ không nổ, nó sẽ không nổ đâu.
Cô bắt đầu tiến lên phía trước, lần bước ra cửa.
Nó sẽ không...
Thùng nhiên liệu bất thình lình nổ bục như một lon soda và nứt đôi ở
đoạn giữa. Dầu phụt lên không trung, bùng cháy thành một đám bọt
màu cam khổng lồ. Một bể lửa đang thành hình trên nền nhà và chảy
về phía Sachs.
Nó không nổ. Được rồi. Nhưng lại cháy không tệ chút nào. Cô nhảy
lùi qua cửa, đóng sập nó lại. Đường rút lui của cô thế là hết.
Đi giật lùi về phía cầu thang, ho sặc sụa, người cúi thấp, cố gắng tìm
kiếm bất kỳ một dấu vết nào của Carole Ganz và Pammy. Liệu 823 có
thay đổi quy luật hay không?
Liệu hắn ta có bỏ qua tầng hầm và đưa những nạn nhân này lên tầng
gác mái của nhà thờ hay không?
Rắc...
Cô ngẩng đầu lên nhìn rất nhanh. Một thanh rầm gỗ sồi, bốc lửa đùng
đùng bắt đầu rơi xuống.
Sachs nhảy sang một bên với tiếng thét lớn nhưng bị vấp rồi ngã ngửa,
nhìn lên một thanh gỗ khổng lồ đang lao thẳng xuống mặt và ngực cô.
Cô giơ hai tay lên đỡ theo bản năng.
Một tiếng động ầm ĩ phát ra khi thanh gỗ hạ cánh trúng chiếc ghế học
sinh trường
Chủ nhật. Nó dừng lại cách đầu cô chỉ vài inch. Cô bò ra và đứng lên.
Nhìn quanh phòng, nhìn xuyên qua lớp khói đang đen dần.
Quỷ thật. Không, mình sẽ không đánh mất thêm một nạn nhân nào
nữa. Sặc sụa, Sachs quay lại chỗ đống lửa và lần bước tới góc phòng
mà cô chưa kiểm tra.
Lúc cô đang chạy tới trước, một cẳng chân thò ra từ phía sau tủ hồ sơ
ngáng ngã
cô.
Tay bay tới trước, Sachs sấp mặt tiếp đất, chỉ cách bể dầu cháy vài
cm. Cô lăn
nghiêng, rút súng và chĩa nó vào khuôn mặt hoảng loạn của một người
phụ nữ tóc vàng đang cố gắng ngồi dậy.
Sachs gỡ băng dính ra khỏi miệng cô ta và người phụ nữ nhổ ra một
bãi nước nhầy màu đen. Cô ta nôn khan một lúc, phát ra những âm
thanh trầm, chết chóc.
“Carole Ganz?” Cô ta gật đầu.
“Con gái chị đâu?” Sachs la lớn.
“Không có… ở đây. Tay tôi! Cái còng.”
“Không còn thời gian đâu. Đi nào.” Sachs lấy dao cắt dây, giải phóng
mắt cá chân cho Carole.
Sau đó cô nhìn thấy một chiếc túi nhựa đang nóng chảy đối diện với
bức tường gần cửa sổ.
Manh mối để lại! Những manh mối nói cho ta biết đứa bé gái đang ở
đâu. Cô bước lại chỗ nó. Nhưng với một tiếng nổ inh tai, phòng nồi hơi
đứt làm đôi, phun ra một làn sóng cao sáu inch dầu sôi lên sàn nhà,
bao vây chiếc túi. Nó tan biến tức khắc.
Sachs nhìn nó trong giây lát rồi cô nghe thấy tiếng thét của người phụ
nữ. Cả cầu thang lúc này đang cháy. Sachs đá bình cứu hỏa ra khỏi
gầm cái bàn đang âm ỉ cháy. Cái tay cầm và vòi phun đã nóng chảy,
không thể cầm vỏ bình kim loại vì quá nóng. Cô dùng dao cắt một
mảnh áo khoác đồng phục và nắm cổ chiếc bình cứu hỏa nóng rẫy ném
lên trên những bậc cầu thang đang bốc cháy. Nó dừng lại trong một
khắc, giống như một con ky sau đó rơi xuống dưới.
Sachs rút khẩu Glock và khi cái trục đỏ lăn được nửa đường, cô bắn
hết một băng.
Chiếc bình cứu hỏa nổ tung; những mảnh vỏ vỡ bay qua đầu họ. Một
đám mây hình nấm carbon dioxide và bột xuất hiện trên cầu thang,
ngay lập tức dập tắt phần lớn ngọn lửa.
“Đi thôi!” Sachs la lớn.
Họ cùng nhau nhảy ra hai bậc cầu thang một, Sachs mang trọng lượng
của cả người cô và một nửa của người phụ nữ, cùng nhau lao qua cửa
vào hỏa ngục của tầng
trệt. Họ bám vào tường lần mò bước ra cửa, trong khi đó phía trên họ,
những cánh cửa sổ kính màu vỡ tan tạo ra một cơn mưa mảnh vụn
nóng bỏng – thân hình nhiều màu sắc của
Jesus và Mathew, Mary và Chúa Trời – xuống hai tấm lưng cúi gập
của hai người phụ nữ đang trốn chạy.
HAI MƯƠI CHÍN
Bốn mươi phút sau, Sachs đã được xoa thuốc, băng bó, khâu và thở
nhiều oxy nguyên chất đến mức cô có cảm giác mình đang say thuốc.
Cô ngồi bên cạnh Carole Ganz. Họ đang nhìn những gì còn lại của nhà
thờ. Thực ra chẳng còn lại gì ở đó. Chỉ là hai bức tường, thật lạ kỳ là
một phần của tầng ba, vươn lên không gian phía bên trên đống tro tàn
và mảnh vỡ trong tầng hầm, quang cảnh giống như trên mặt trăng.
“Pammy, Pammy…” Carole rên rỉ, sau đó nôn khan rồi nhổ. Cô ta
cầm chiếc mặt nạ oxy của mình đưa lên mặt, ngửa người ra sau, mệt
mỏi và đau đớn.
Sachs xem xét miếng giẻ tẩm cồn mà cô đang lau máu trên mặt. Đầu
tiên chúng có màu nâu còn bây giờ bắt đầu chuyển sang màu hồng.
Những vết thương không thực sự nghiêm trọng – một vết cắt trên trán,
những vết bỏng độ hai trên cánh tay và cẳng tay. Môi cô không còn
hoàn mỹ nữa, môi dưới đã bị cắt rất sâu trong vụ đâm xe, vết rách phải
khâu ba mũi.
Carole bị ngạt khói và gãy cổ tay. Một cái nẹp tạm thời bọc lấy cổ tay
trái của cô ta, cô ta nâng nó, đầu cúi xuống, nói qua hàm răng nghiến
chặt. Mỗi hơi thở là một tiếng khò khè đầy đe dọa. “Thằng khốn ấy.”
Ho. “Vì sao… lại là Pammy? Vì sao vậy? Một đứa trẻ ba tuổi!” Cô ta
gạt những giọt nước mắt giận dữ bằng mu bàn tay không bị thương.
'“Có thể hắn ta không muốn làm hại con bé. Cho nên hắn chỉ đưa một
mình cô đến nhà thờ.”
“Không”, cô ta giận dữ quát. “Hắn không quan tâm đến nó. Hắn là đồ
bệnh hoạn! Tôi nhìn thấy cách hắn ta nhìn con bé. Tôi sẽ giết hắn. Tôi
sẽ giết chết hắn.” Ngôn từ ác nghiệt biến cơn ho thành ác nghiệt hơn.
Sachs nhăn mặt vì đau. Cô lại vô thức chọc móng tay vào đầu ngón tay
bỏng rát. Cô lấy cuốn nhật ký tuần tra. “Chị có thể kể lại cho tôi những
gì xảy ra, được không?”
Giữa những cơn ho sâu trong họng và tiếng nức nở, Carole kể lại cho
cô câu chuyện về vụ bắt cóc.
“Chị có muốn tôi gọi điện cho ai đó không?” Sachs hỏi. “Chồng chị
chẳng hạn.” Carole không trả lời. Cô ta kéo đầu gối lên tới cằm, tự ôm
lấy mình, khò khè một
cách nặng nhọc.
Bằng cánh tay phải bị bỏng, Sachs bóp chặt bắp tay người phụ nữ và
nhắc lại câu
hỏi.
“Chồng tôi…”, cô ta nhìn Sachs với cái nhìn khủng khiếp. “Chồng tôi
chết rồi.” “Ồ, tôi xin lỗi.”
Thuốc an thần làm Carole cảm thấy lảo đảo, một nữ nhân viên y tế đưa
cô vào
nghỉ trong xe cứu thương.
Sachs nhìn lên, thấy Lon Sellitto và Jerry Banks đang chạy lại phía cô
từ nhà thờ cháy trụi.
“Lạy chúa, sĩ quan.” Sellitto đang khảo sát cảnh thương vong trên phố.
“Bé gái sao rồi?”
Sachs gật đầu: “Hắn ta vẫn giữ con bé.” Banks nói : “Cô ổn chứ?”
“Không có gì nghiêm trọng.” Sachs nhìn về phía chiếc xe cấp cứu.
“Nạn nhân, Carole, cô ta không còn tiền, không có chỗ nghỉ ngơi. Cô
ta đến đây để làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Tôi nghĩ anh có thể gọi vài
cú điện thoại, được không thám tử? Để xem họ có bố trí được gì cho
cô ta một thời gian không?”
“Tất nhiên rồi”, Sellitto nói.
“Có để lại manh mối gì không?” Banks hỏi. Anh ta nhăn mặt khi chạm
phải dải băng trên lông mày phải của mình.
“Mất rồi”, Sachs nói. “Tôi có nhìn thấy chúng. Ở dưới tầng hầm.
Không lấy được chúng đúng lúc. Cháy và bị lấp mất tiêu rồi.”
“Ôi, trời.” Banks lẩm bẩm. “Chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé đây?” Anh
ta nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé?
Cô đi lại chỗ chiếc xe thùng IRD và tìm thấy cái tai nghe. Cô đeo nó
vào và đã định yêu cầu gọi cho Rhyme nhưng sau đó chần chừ rồi ngắt
mic. Cô có thể nói gì với
anh được? Cô nhìn nhà thờ. Khám nghiệm hiện trường thế nào được
khi không có hiện
trường.
Cô đứng chống nạnh, nhìn chăm chăm vào đống tro tàn khổng lồ đang
âm ỉ của tòa nhà, rồi cô nghe thấy một âm thanh mà cô không quen.
Một âm thanh rền rĩ của máy móc. Cô không để ý thấy nó cho tới khi
cô thấy Lon Sellitton dừng phủi bụi trên chiếc áo sơ mi. Anh ta nói:
“Tôi không thể tin chuyện này.”
Cô quay về phía con phố.
Một chiếc xe hòm lớn màu đen đỗ cách đó một dãy nhà. Một chiếc
cầu thủy lực chìa ra ngoài, bên trên có thứ gì đó. Cô liếc nhìn. Có vẻ
như một con rô bốt phá bom. Cái cầu hạ xuống vỉa hè và con rô bốt
lăn bánh.
Cô cười lớn.
Chiếc máy kỳ quặc quay về phía họ và bắt đầu chuyển động. Chiếc xe
lăn làm cô nhớ tới một chiếc Pontiac Thunderbird, màu đỏ kẹo. Đó là
kiểu xe lăn chạy điện, bánh sau nhỏ, ắc quy lớn và động cơ lắp bên
dưới.
Thom đi bên cạnh nhưng chính Lincoln Rhyme lái xe – hoàn toàn kiểm
soát, cô châm biếm nhận thấy – bằng một cọng rơm ngậm trong miệng.
Kỳ lạ là chuyển động của anh trông lại trang nhã. Rhyme ghé vào chỗ
cô và dừng lại.
“Được rồi, anh đã nói dối”, anh bất ngờ nói.
Cô thở dài. “Về cái lưng của anh? Khi anh nói anh không dùng được
xe lăn?” “Anh đang thú nhận mình nói dối. Em sẽ điên lên đấy, Amelia.
Thế thì cứ điên
lên đi rồi vượt qua nó.”
“Anh có nhận ra là, khi tâm trạng tốt anh gọi em là Sachs, còn lúc nào
tâm trạng tệ hại anh gọi em là Amelia không?”
“Tâm trạng anh không tệ”, anh cáu kỉnh.
“Anh đúng là rất tệ đấy”, Thom đồng ý. “Anh ta rất ghét bị bắt quả
tang.” Người trợ lý hất đầu về phía chiếc xe lăn. Cô nhìn về phía đó.
Nó được công ty Action chế tạo, hiệu Storm Arrow130. Anh ta cất nó
trong kho dưới nhà trong khi lại kể ra câu chuyện thảm hại của mình.
Ồ, vì thế tôi sẽ để anh ta chịu đựng.”
“Không bình luận, Thom, cảm ơn cậu. Tôi đang xin lỗi, được
chưa?Tôi. Xin.
Lỗi.”
“Anh ta có nó mấy năm rồi”, Thom tiếp tục. “Học điều khiển nó bằng
cách thổi
với hút. Điều khiển bằng cọng rơm đó. Anh ta thực sự rất giỏi chuyện
này. Và anh ta lúc nào cũng gọi tôi là Thom. Tôi chưa bao giờ được
goi bằng họ.”
“Tôi rất mệt khi bị nhìn ngó”, Rhyme nói một cách thành thực. “Vì thế
tôi lái xe nữa.” Sau đó nhìn cánh môi rách của cô, anh hỏi. “Có đau
không?”
Cô chạm tay vào miệng, lúc này nó đã bị bẻ cong thành nét nhăn nhó.
“Nhức kinh khủng.”
Rhyme nhìn sang bên: “Chuyện gì xảy ra với cậu thế, Banks? Cạo râu
trên trán
à?”
“Đâm đầu vào xe cứu hỏa.” Anh chàng nói và lại sờ vào chỗ dải băng.
“Rhyme”, Sachs bắt đầu, không cười nữa. “Chẳng có gì ở đây cả. Hắn
ta có đứa
bé còn em không kịp lấy được vật chứng để lại”
“À, Sachs, bao giờ cũng có thứ gì đó. Hãy tin vào lý thuyết của Ngài
Locard.”
“Em nhìn thấy chúng cháy hết, manh mối ấy. Và nếu còn lại gì đó thì nó
cũng bị chôn dưới hàng tấn mảnh vỡ rồi.”
“Thế thì ta sẽ tìm kiếm những manh mối mà hắn không định để lại. Ta
sẽ cùng khám nghiệm hiện trường, Sachs ạ. Em và anh. Đi thôi.”
Anh thổi hai hơi ngắn vào cọng rơm và tiến lên phía trước. Họ tiến tới
gần nhà thờ thêm ba mét thì bất ngờ cô nói. “Đợi đã.”
Anh phanh lại.
“Anh bắt đầu lơ đễnh rồi đấy, Rhyme. Buộc ít dây cao su vào bánh xe
đi chứ. Anh không muốn nhầm dấu vết của anh với dấu vết của tội
phạm đấy chứ?”
“Chúng ta nên bắt đầu từ đâu?”
“Ta cần mẫu tro”, Rhyme nói. “Có mấy hộp sơn sạch ở sau xe. Xem
em có tìm được một hộp không?”
Cô nhặt một cái hộp từ chỗ xác chiếc RRV.
“Em biết lửa phát ra từ đâu không?” Rhyme hỏi.
130 Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.
“Cũng biết.”
“Lấy một mẫu tro – khoảng một, hai hộp – càng gần chỗ phát lửa càng
tốt.”
“Được rồi”, cô nói, trèo lên một bức tường gạch cao năm feet – tất cả
những gì còn lại ở mặt phía bắc của nhà thờ. Cô nhìn xuống cái hố bốc
khói dưới chân mình.
Một nhân viên cứu hỏa gọi: “Này sĩ quan, chúng tôi vẫn chưa dọn sạch
khu này đâu. Nguy hiểm đấy.”
“Không nguy hiểm như lần trước tôi đến đây”, cô trả lời. Răng cắn quai
hộp sơn, cô bắt đầu trèo xuống.
Khi Lincoln Rhyme nhìn cô, anh như đang nhìn thấy chính mình, ba
năm rưỡi trước, lúc cởi áo vét để trèo xuống công trường xây dựng ở
cửa vào của ga tàu điện ngầm gần Tòa Thị chính. “Sachs”, Rhyme gọi.
Cô quay lại. “Cẩn thận đấy. Anh đã nhìn thấy chiếc RRV còn lại những
gì. Anh không muốn mất em hai lần trong một ngày đâu.”
Cô gật đầu và biến mất qua bờ tường.
Sau vài phút, Rhyme quát Banks: “Cô ấy đâu rồi?” “Tôi không biết.”
“Ý tôi là cậu đi xem cô ấy thế nào, hiểu không?”
“Ồ, tất nhiên rồi.” Cậu ta đi ra chỗ bức tường, nhìn qua. “Ổn chứ?”
Rhyme hỏi.
“Lung tung lắm.”
“Tất nhiên là lung tung. Cậu có nhìn thấy cô ấy không?” “Không.”
“Sachs?” Rhyme la lớn.
Có tiếng gỗ kẽo kẹt khá lâu, sau đó là tiếng chạm. Bụi bốc lên.
“Sachs? Amelia?”
Không có tiếng trả lời.
Đúng lúc anh định gửi nhóm ESU vào tìm cô thì họ nghe thấy giọng của
cô. “Tôi lên đây.”
“Jerry?” Rhyme gọi.
“Sẵn sàng”, viên thám tử trẻ tuổi trả lời.
Chiếc hộp bay từ dưới tầng hầm lên. Banks dùng một tay bắt nó.
Sachs trèo ra khỏi tầng hầm, chùi tay vào quần, nhăn mặt.
“Ổn chứ?” Cô gật đầu.
“Bây giờ thì khám nghiệm cái ngõ”, Rhyme ra lệnh. “Chỗ này lúc nào
cũng có xe cộ đi lại nên hắn sẽ không muốn đỗ xe ở phố khi hắn lôi cô
ta vào trong. Đó là chỗ hắn đỗ
xe. Dùng cái cánh cửa ở ngay đây.”
“Làm sao anh biết?”
“Có hai cách để mở những cánh cửa khóa – không dùng chất nổ, thế
thôi. Khóa và bản lề. Cánh cửa này đã bị bắt vít bên trong nên hắn
tháo ốc bản lề. Thấy không, hắn không thèm bắt chúng lại đủ chặt khi
hắn bỏ đi.”
Họ bắt đầu từ cánh cửa và đi dần ra phía sau một khe núi, tòa nhà
đang âm ỉ bốc khói nằm phía bên phải họ. Di chuyển từng foot một,
Sachs chiếu đèn PoliLight lên lớp sỏi. “Anh muốn tìm vết lốp xe”,
Rhyme nói. “Anh muốn biết xe tải của hắn đỗ ở đâu.”
“Ở đây”, cô nói, kiểm tra mặt đất. “Dấu lốp. Nhưng em không biết lốp
trước hay lốp sau. Hắn có thể lùi xe.”
“Nó mờ hay rõ? Vết lốp ấy?” “Hơi mờ.”
“Thế thì là lốp trước.” Anh cười vẻ mặt hoang mang của Sachs. “Em là
chuyên gia về xe cộ, Sachs. Lần sau em thử vào trong xe, khởi động
xem thử em có xoay tay lái
một chút trước khi đi không nhé. Để kiểm tra xem lốp có thẳng hướng
hay không. Vết lốp
trước luôn mờ hơn vết lốp sau. Còn bây giờ, chiếc xe bị mất là chiếc
Ford Taurus những năm 1997. Chiều dài của nó là 195,7 inch từ đầu
đến đuôi, khoảng cách giữa hai bánh là
108,5 inch. Khoảng cách từ tâm bánh sau đến cốp xe khoảng bốn
mươi lăm inch. Đo khoảng cách ấy rồi hút bụi đi.”
“Nào Rhyme, sao anh biết được tất cả những thứ ấy?” “Vừa tra cứu
sáng nay. Em lấy quần áo nạn nhân chưa?”
“Rồi. Cả móng tay và tóc nữa. Mà Rhyme này, còn điều này nữa: đứa
bé tên là Pammy nhưng hắn gọi nó là Maggie. Giống như hắn đã làm
với cô gái người Đức – hắn gọi cô ta là Hanna, nhớ không?”
“Ý em là nhân cách khác của hắn làm như thế”, Rhyme nói. “Anh băn
khoăn không biết ai là nhân vật trong vở kịch nhỏ của hắn.”
“Em sẽ hút bụi quanh cửa nữa”, cô tuyên bố. Rhyme nhìn cô – mặt bị
rạch, tóc rối bù, vài chỗ bị cháy sém. Cô hút bụi phía dưới cửa và
đúng lúc anh định nhắc cô là hiện trường vụ án có ba chiều thì cô đã
khua máy hút bụi lên lần theo khung cửa.
“Có thể hắn nhìn vào trong trước khi đưa cô ta vào”, cô nói và bắt đầu
hút bụi cả bậu cửa sổ.
Đó chính là mệnh lệnh tiếp theo của Rhyme.
Anh lắng nghe tiếng động của máy hút bụi Dustbuster. Nhưng anh dần
dần tan biến. Vào quá khứ, mấy giờ trước.
“Em đang…”, Sachs bắt đầu. “Suỵt…”, anh nói.
Như những lần dạo anh đã đi, như những buổi hòa nhạc anh đã dự,
như rất nhiều cuộc trao đổi anh đã có, Rhyme trượt sâu dần vào tâm
thức của mình. Và khi anh tới một
nơi – anh cũng không biết đó là nơi nào – anh thấy không chỉ có một
mình anh. Anh hình
dung ra một người đàn ông thấp bé đeo găng tay, mặc bộ quần áo thể
thao tối màu, đeo
mặt nạ trượt tuyết. Trèo ra ngoài chiếc xe Ford Taurus, tỏa mùi chất
tẩy rửa và mùi xe mới. Người phụ nữ – Carole Ganz – nằm trong cốp
xe, đứa con gái của cô bị giữ trong một tòa nhà xây bằng đá cẩm thạch
hồng và gạch đắt tiền. Anh nhìn thấy người đàn ông kéo người phụ nữ
ra khỏi xe.
Điều đó thật là rõ ràng. Gần như là ký ức.
Bật bản lề, mở cửa ra, kéo cô ta vào, trói lại. Hắn bắt đầu đi ra nhưng
rồi dừng lại. Hắn đến một nơi mà từ đó hắn có thể nhìn lại và thấy rõ
Carole. Giống như hắn đã nhìn xuống người đàn ông mà hắn đã chôn
cạnh đường ray buổi sáng hôm qua.
Giống như hắn đã xích Tammie Jean Colfax vào đường ống giữa
phòng. Để hắn có thể nhìn cô thật rõ.
Nhưng mà vì sao? Rhyme băn khoăn. Vì sao hắn ta lại nhìn? Để đảm
bảo nạn nhân không thể trốn chạy? Để đảm bảo hắn không để lại thứ
gì? Để…
Mắt anh bật mở; hình ảnh của thủ phạm 823 biến mất. “Sachs! Có nhớ
hiện trường Coltfax không? Chỗ em tìm thấy dấu găng tay?”
“Có chứ.”
“Em nói hắn nhìn cô ta, đó là lý do hắn xích cô ta ở chỗ thoáng. Nhưng
em không biết tại sao. Được rồi, anh đã nghĩ ra. Hắn nhìn nạn nhân vì
hắn phải nhìn.”
Vì đấy là bản chất của hắn.
“Ý anh là gì?” “Nào!”
Rhyme hút mạnh ống hút hai lần để xoay chiếc xe lăn Arrow ngược lại.
Sau đó thổi thật mạnh và anh tiến lên phía trước.
Anh lăn xe đến vỉa hè, hút mạnh để dừng xe. Anh liếc mắt nhìn xung
quanh. “Hắn muốn nhìn nạn nhân, anh cá là hắn cũng muốn nhìn giáo
dân nữa. Từ một chỗ nào đó mà hắn nghĩ là an toàn. Chỗ mà hắn
không buồn quét trước khi bỏ đi.”
Anh đang nhìn qua phố, tập trung vào một vị trí hẻo lánh, thuận lợi
trong khu nhà:
hàng hiên ngoài đường của một nhà hàng đối diện nhà thờ. “Đằng kia!
Quét nó thật sạch vào, Sachs.”
Cô gật đầu, nạp một băng đạn mới vào khẩu Glock, lấy chiếc túi đựng
vật chứng, một cặp bút chì và cái máy hút bụi. Anh nhìn thấy cô chạy
qua phố và thận trọng đi lên cầu thang, vừa đi vừa kiểm tra các bậc
thang. Hắn đã ở đây, cô nói to. “Có vết găng tay, và cả dấu giày – nó
bị mòn giống như cái dấu giày kia.”
Đúng rồi! Rhyme nghĩ. Ồ, cảm giác thật dễ chịu. Mặt trời ấm áp,
không khí, những người xem. Và sự phấn khích của cuộc săn đuổi
Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.
Được rồi, nếu chúng ta di chuyển nhanh hơn, chúng ta có thể.
Rhyme tình cờ nhìn vào đám đông và thấy có mấy người nhìn anh chằm
chằm. Nhưng còn nhiều người nhìn Amelia Sachs hơn.
Cô mải mê khoảng mười lăm phút tại hiện trường và khi quay lại cô giơ
chiếc túi nhỏ đựng vật chứng.
“Em tìm thấy gì thế, Sachs? Giấy phép lái xe của hắn? Giấy khai sinh?”
“Vàng”, cô mỉm cười nói. “Em tìm được một ít vàng.”
BA MƯƠI
“Nào mọi người”, Rhyme nói. “Ta phải xử lý vụ này thôi. Trước khi
hắn đưa đứa bé đến hiện trường tiếp theo. Ý tôi nói là di chuyển!”
Thom chuyển Rhyme từ xe lăn lên giường, nhanh chóng nhấc anh lên
một tấm bảng trượt rồi thả anh xuống chiếc giường Clinitron. Sachs
nhìn vào chiếc thang nâng cái xe lăn được gắn vào một trong những cái
tủ trong phòng ngủ – đó là cái tủ anh không muốn cô mở ra khi anh chỉ
cho cô bộ dàn và đĩa CD.
Rhyme nằm yên một lúc, thở sâu vì đã quá nỗ lực.
“Manh mối đã bị mất”, anh nhắc lại với họ. “Chẳng có cách nào giúp ta
biết được hiện trường tiếp theo ở đâu. Vậy chúng ta sẽ đánh quả lớn –
hang ổ của hắn.”
“Cậu nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy chỗ đó ư?” Sellitto hỏi.
Ta có lựa chọn nào khác không nhỉ? Rhyme nghĩ nhưng không nói gì.
Banks vội vàng đi lên cầu thang. Anh ta không vào phòng trước khi
Rhyme buột miệng. “Họ nói gì? Nói tôi nghe. Nói tôi nghe.”
Rhyme biết mảnh vàng Sachs tìm được nằm ngoài khả năng của phòng
thí nghiệm ngẫu hứng của Mel Cooper. Do đó, anh đã yêu cầu viên
thám tử trẻ tuổi chạy nhanh đến phòng thí nghiệm tại văn phòng PERT
của FBI để phân tích nó.
“Nửa tiếng nữa họ sẽ gọi cho chúng ta.”
“Nửa tiếng?” Rhyme lầm bầm. “Họ có ưu tiên cho nó không?”
“Chắc chắn là họ sẽ ưu tiên. Dellray đang ở đấy. Anh phải gặp anh ta.
Anh ta ra lệnh dừng tất cả các vụ khác lại và nói nếu báo cáo luyện
kim đó không được đưa ngay cho anh thì họ sẽ rắc rối to – anh biết
cách anh ta nói thế nào rồi đấy.”
“Rhyme”, Sachs nói. “Cô Ganz còn kể một chuyện chắc cũng quan
trọng. Hắn ta nói hắn sẽ để cô ấy đi nếu cô ấy đồng ý cho hắn vụt
chân.”
“Vụt da chân?” “Lóc da chân.”
“À, lột da131 chân”, Rhyme chữa lại.\
“Ồ. Nhưng hắn chẳng làm gì. Cô ta nói là có vẻ như cuối cùng hắn
cũng không thể bắt bản thân hắn cắt vào chân cô ấy được.”
“Như ở hiện trường đầu tiên – người đàn ông cạnh đường tàu.” Sellitto
khuyến
nghị.
“Hay thật…”, Rhyme trầm ngâm. “Tôi nghĩ hắn cắt ngón tay nạn nhân
để không
ai dám ăn trộm chiếc nhẫn. Nhưng có thể không phải như vậy. Hãy
xem hành vi của hắn: Cắt đứt ngón tay người lái taxi và đem nó theo.
Cắt tay chân cô gái người Đức. Ăn trộm
131 Lột da – Flail (vụt) và flay (lột da): Từ đồng âm khác nghĩa, một
cách chơi chữ.
xương và bộ xương rắn. Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay Everett… Có
gì đó trong cách hắn nhìn nạn nhân. Cái gì đó mang tính…”
“Giải phẫu.”
“Chính xác đấy, Sachs.”
“Ngoại trừ cô Ganz”, Sellitto nói.
“Quan điểm của tôi là”, Rhyme nói. “Hắn có thể cắt chân cô ta mà vẫn
giữ cô ta còn sống cho chúng ta. Nhưng có gì đó ngăn hắn lại. Cái gì
vậy?”
Sellitto nói: “Cô ta có gì khác biệt? Không thể chỉ vì cô ta là phụ nữ.
Hoặc cô ta là người ngoại tỉnh. Cô gái Đức cũng vậy.”
“Có thể hắn không muốn làm đau cô ta trước mặt đứa con gái”, Banks
nói. “Không”, Rhyme nói dứt khoát, “lòng thương không phải là thứ
hắn có.” Sachs bất ngờ nói: “Nhưng có một điều khác biệt – cô ấy là
một bà mẹ.”
Rhyme xem xét điều này. “Cũng có thể. Mẹ và con gái. Không đủ sức
nặng để hắn thả họ ra. Nhưng đủ để ngăn hắn không tra tấn cô ta.
Thom, viết vào nhé. Với một dấu hỏi.” Anh hỏi Sachs: “Cô ta có nói gì
thêm về ngoại hình hắn không?”
Sachs lật cuốn sổ.
“Vẫn như trước”, cô đọc, “mặt nạ trượt tuyết, thân hình nhỏ bé, găng
tay đen, hắn…”
“Găng tay đen?” Rhyme nhìn lên tờ giấy trên tường. “Không phải màu
đỏ à?” “Cô ấy nói là màu đen. Em đã hỏi lại xem cô ấy có chắc
không.”
“Mẩu da khác cũng có màu đen, đúng không, Mel? Có thể đó chính là
đôi găng tay. Thế thì miếng da đỏ ở đâu ra?”
Cooper nhún vai: “Tôi không biết nhưng ta tìm thấy một, hai miếng.
Như vậy đó là thứ gần gũi với hắn.”
Rhyme nhìn vào những cái túi vật chứng. “Ta còn tìm được gì nữa
nhỉ?”
“Dấu vết ta hút được trong ngõ và trên bậc cửa.” Sachs đổ túi lọc bụi
ra một tờ báo và Cooper dùng kính lúp để soi. “Chẳng có gì hết”, anh
ta tuyên bố. “Chủ yếu là đất. Một ít khoáng chất. Đá phiến diệp thạch
mica vùng Manhattan. Chất feldspar132.”
Những thứ này có khắp nơi trong thành phố. “Tiếp tục đi.”
“Lá cây mục. Thế thôi.”
“Còn quần áo của cô Ganz thì sao?”
Cooper và Sachs mở tờ báo ra và xem xét dấu vết.
132 Feldspar: Tên của nhóm các khoáng chất tạo thành đá và tạo
thành sáu mươi phần trăm lớp vỏ Trái Đất.
“Chủ yếu là đất”, Cooper nói. “Vài mẩu trông giống như đá.” “Tuyệt!”
Rhyme la lớn. Nói với Cooper: “Đốt nó lên đi. Chỗ đất ấy.”
Cooper đặt một mẩu vào máy GC-MS. Họ nóng lòng chờ đợi kết quả.
Cuối cùng thì màn hình máy tính cũng nhấp nháy. Tấm lưới trên màn
hình gợi nhớ khung cảnh mặt trăng.
“Được rồi, Lincoln. Thú vị đấy. Tôi đọc thấy có chất tannin và…”
“Sodium carbonate?”
“Ngạc nhiên chưa?” Cooper cười. “Sao anh biết?”
“Người ta dùng nó trong các xưởng thuộc da thế kỷ XVIII và XIX.
Tannic acid xử lý da sống còn kiềm làm cho nó chắc hơn. Như thế là
nơi ẩn nấp an toàn của hắn ở gần một xưởng thuộc da cũ.”
Anh cười. Không thể dừng được. Anh nghĩ: Mày có nghe tiếng bước
chân không,
823? Chúng ta đang theo sau mày đấy.
Mắt anh lướt sang tấm bản đồ Randel Survey. “Vì chúng bốc mùi nên
không ai muốn có xưởng thuộc da trong khu của họ, do đó ủy ban
thành phố đã hạn chế chúng. Tôi biết một vài nơi ở bên Lower East
Side. Và ở West Greenwich Village – khi nó thực sự còn là một khu
làng, khu ngoại ô thành phố. Sau đó là phía West Side trong những
năm
1950 – gần đường hầm ở bãi chăn, nơi ta tìm thấy cô gái người Đức.
Ồ, cả ở Harlem
trong những năm 1900.”
Rhyme nhìn danh sách những cửa hàng thực phẩm – vị trí những
cửa hàng ShopRite có bán chân bê. “Chelsea bị loại. Không có thuộc
da ở đây. Harlem cũng vậy – không có cửa hàng ShopRite ở đây. Như
vậy còn lại West Village, Lower East Side hay Midtown West Side –
lại là Hell’s Kitchen. Có vẻ hắn thích chỗ này.”
Chỉ khoảng mười dặm vuông, Rhyme đánh giá sơ bộ. Từ ngày đầu tiên
đi làm anh đã nhận ra rằng trốn ở Manhattan còn dễ hơn ở North
Woods.
“Tiếp tục đi. Còn hòn đá trong quần áo của Carole thì sao?” Cooper
đang cúi xuống kính hiển vi. “Được rồi. Có rồi.” “Chuyển sang cho tôi
đi, Mel.”
Màn hình máy tính của Rhyme hoạt động trở lại, anh ngắm nghía những
mảnh đá và tinh thể, trông như những thiên thạch kim cương.
“Di chuyển nó đi”, Rhyme hạ lệnh. Ba vật chất bám dính lấy nhau.
“Mẩu bên trái là đá cẩm thạch hồng”, Cooper nói. “Giống như mẫu đá
trước đây ta tìm thấy. Ở giữa, thứ màu xám…”
“Là vữa. Và cái kia là đá cát kết nâu.” Rhyme tuyên bố. “Nó từ một
ngôi nhà kiểu liên bang, như Tòa Thị chính năm 1812. Chỉ có mặt tiền
được lát đá cẩm thạch; phần còn lại là đá cát kết nâu. Họ làm thế để
tiết kiệm chi phí. À, họ làm thế để tiền mua đá cẩm thạch có thể tìm
được đường vào túi. Còn bây giờ, chúng ta có gì nữa nhỉ? Tàn tro.
Thử tìm chất phát hỏa xem.”
Cooper đưa mẫu tro vào máy GC-MS. Anh ta nhìn chăm chăm vào
đường cong xuất hiện trên màn hình.
Xăng mới được lọc, có chứa phẩm màu và chất phụ gia của nhà sản
xuất, mang tính đặc thù và có thể lần ngược tới một nguồn duy nhất nếu
các lô xăng khác nhau không bị trộn lẫn ở trạm mà tội phạm mua xăng.
Cooper nói xăng tuyệt đối trùng với loại bán ở các trạm bảo dưỡng xe
hơi Gas Exchange.
Banks vớ lấy Những Trang Vàng và mở ra. “Ta có sáu trạm xăng ở
Manhattan. Ba trạm trong nội thành. Một ở Đại lộ Sáu và Houston,
một ở Delancey, 503 East. Một ở Đại lộ Mười chín và Tám.”
“Đại lộ Mười chín quá xa về phía Bắc”, Rhyme nói. Anh nhìn bảng hồ
sơ. “East
Side hay West Side. Ở đâu nhỉ?”
Cửa hàng thực phẩm, xăng…
Một thân hình gầy guộc bất ngờ lấp đầy cánh cửa.
“Tôi vẫn được mời dự tiệc ở đây đấy chứ?” Frederick Dellray hỏi.
“Còn tùy”, Rhyme đáp lời. “Xem anh có đem quà đến không?”
“À, tha hồ mà quà.” Viên đặc vụ nói, vẫy cái phong bì có trang trí hình
tròn quen thuộc của biểu tượng FBI.
“Anh có bao giờ gõ cửa không, Dellray?” Sellitto hỏi. “Mất thói quen
đó rồi, anh biết đấy.”
“Vào đi”, Rhyme nói. “Anh có gì nào?”
“Không biết chắc lắm. Chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Nhưng mà tôi biết
gì nào?” Dellray đọc qua báo cáo rồi nói: “Tony Farco ở PERT, nhân
tiện anh ta gửi lời
chào anh đấy, Lincoln, đã phân tích mẫu vật chứng mà các cậu tìm
thấy. Hóa ra đấy là một lá vàng. Có thể khoảng sáu mươi đến tám
mươi năm tuổi rồi. Anh ta còn thấy mấy sợi cellulose dính ở đó nên anh
ta nghĩ nó rơi ra từ một cuốn sách.”
“Tất nhiên rồi! Phần mạ vàng đầu trang”, Rhyme nói.
“Anh ta còn tìm thấy mấy hạt mực trên đó. Anh ta nói, tôi trích dẫn
nhé: ‘Nó không phải không nhất quán với loại mực Thư viện Công
cộng New York dùng để đóng dấu ở đầu sách’. Anh ta nói thật khôi
hài, phải không?”
“Một cuốn sách thư viện”, Rhyme trầm ngâm.
Amelia Sachs nói: “Một cuốn sách bìa da đỏ của thư viện.”
Rhyme nhìn cô chăm chăm. “Đúng rồi!” Anh la lớn. “Đó chính là gốc
của những miếng da đỏ. Không phải găng tay. Đó là một cuốn sách mà
hắn luôn mang theo. Có thể là Kinh Thánh của hắn.”
“Kinh Thánh?” Dellray hỏi. “Anh nghĩ hắn là một kẻ cuồng tôn giáo hay
sao?” “Không phải là Kinh Thánh đó, Fred. Banks, gọi lại cho thư viện
đi. Có thể đó
chính là cách hắn mài mòn đôi giày của hắn – trong phòng đọc. Tôi
biết, đoán thế là quá
xa. Nhưng chúng ta không có nhiều lựa chọn. Tôi muốn có danh sách
tất cả các cuốn sách cổ bị lấy cắp từ các nơi trong phạm vi Manhattan
trong năm qua.”
“Sẽ làm.” Chàng thanh niên xoa xoa vết sẹo cạo râu khi anh ta gọi đến
nhà Thị trưởng, thẳng thừng xin phép ngài liên hệ với giám đốc thư viện
công cộng và nói với ông ta những gì họ cần.
Nửa tiếng sau, máy fax reo chuông và nhả ra hai trang giấy. Thom kéo
giấy ra khỏi máy. “Ôi trời, ngón tay của độc giả thành phố này dính
quá”, cậu ta nói khi đem nó đến cho Rhyme.
Tám mươi tư cuốn sách có tuổi đời năm mươi năm hoặc lâu hơn đã
biến khỏi các chi nhánh của thư viện công cộng trong vòng mười hai
tháng qua, ba mươi lăm cuốn ở Manhattan.
Rhyme lướt qua danh sách. Dickens, Austen133, Hemingway,
Dreiser134… Sách về âm nhạc, triết học, rượu vang, phê bình văn
học, truyện cổ tích. Giá của những cuốn sách này thấp đến mức đáng
ngạc nhiên. Hai mươi, ba mươi đô la. Anh nghĩ rằng không cuốn nào
trong số này là bản in lần thứ nhất, nhưng có lẽ bọn trộm không biết
điều này.
Anh tiếp tục lướt qua danh sách. Không có gì. Không có gì. Có thể
là… Và rồi anh nhìn thấy nó.
Crime in Old New York, tác giả Richard Wille Stephans, do Bountiful
Press xuất bản năm 1919. Giá của nó được liệt kê là sáu mươi lăm đô
la, và nó bị đánh cắp từ chi nhánh Phố Delancey của Thư viện Công
cộng New York chín tháng trước. Nó được mô tả là có kích thước
năm nhân bảy inch, được bọc bằng da dê mềm, bìa sau phủ cẩm thạch,
gáy mạ vàng.
“Tôi muốn một bản. Tôi không quan tâm làm sao mà có được. Cho ai
đó đến Thư viện Quốc hội nếu cần.”
Dellray nói: “Để tôi lo vụ này.”
Cửa hàng thực phẩm, xăng, thư viện…
Rhyme cần quyết định. Có khoảng ba trăm nhân viên tìm kiếm – cảnh
sát, quân đội bang và đặc vụ liên bang – nhưng họ sẽ bị trải siêu mỏng
nếu như họ phải tìm cả West Side và East Side của khu trung tâm New
York.
133 Austen: (1775 – 1817): Tiểu thuyết gia người Anh. Xã luận và
cách sử dụng điệu nghệ ngôn ngữ tự do gián tiếp và mỉa mai đã làm
cho Austen trở thành một trong những tiểu thuyết gia được tôn trọng và
có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học Anh.
134 Dreiser: Theodore Herman Albert Dreiser (1871 – 1945), tác giả
người Mỹ thuộc trường phái tự nhiên, nổi tiếng vì sự gai góc, mạnh
bạo.
Anh nhìn lên bảng hồ sơ.
Nhà máy ở West Village phải không? Rhyme lặng lẽ hỏi 823. Liệu mày
có đánh cắp sách và mua xăng ở East Side để lừa bọn tao không? Hay
đó thực sự là khu của mày? Không, vấn đề không phải là mày thông
minh đến đâu, mà là mày nghĩ mày thông minh đến đâu. Mày tự tin về
chuyện bọn tao không thể tìm những mảnh li ti của mày đến mức nào,
những mảnh nhỏ mà Ngài Locard bảo đảm với bọn tao là mày sẽ phải
để lại?
Cuối cùng Rhyme ra lệnh. “Đi tìm ở Lower East Side. Quên West
Village đi. Đưa tất cả mọi người tới đó. Tất cả lính của Bo, tất cả lính
của anh nữa, Fred. Đây là thứ mà các anh cần tìm: một ngôi nhà lớn
kiểu liên bang gần hai trăm năm tuổi, mặt tiền đá cẩm thạch hồng, hai
bên và phía sau là đá cát kết nâu. Có thể đã từng là một biệt thự hay
một tòa nhà công cộng. Có một cái ga ra hoặc nhà để xe ngựa bên
cạnh. Một chiếc Taurus sedan hay Yellow Cab qua lại trong vài tuần
qua. Thường xuyên hơn vào những ngày gần đây.”
Rhyme nhìn Sachs.
Bỏ qua người đã chết…
Sellitto và Dellray gọi điện.
Sachs nói với Rhyme: “Em cũng đi.” “Anh không trông chờ điều gì
khác.”
Khi cánh cửa đóng lại phía dưới nhà, anh thì thầm. “Chúc may mắn,
Sachs. Chúc may mắn.”
BA MƯƠI MỐT
Ba chiếc xe tuần tra chậm rãi chạy dọc theo những con phố của Lower
East Side. Hai tên cớm trong một xe. Ánh mắt tìm kiếm.
Một lát sau, hai chiếc xe độc mã đen xuất hiện… ý hắn là hai chiếc
sedan. Không được đánh dấu, nhưng ánh đèn tìm kiếm dưới gương
chiếu hậu bên trái đã không để lại chút nghi ngờ nào về việc họ là ai.
Hắn biết họ sẽ thu hẹp vùng tìm kiếm, tất nhiên là như vậy, chỉ là vấn
đề thời gian trước khi họ tìm thấy nhà hắn. Nhưng hắn bị sốc khi thấy
họ ở gần như vậy. Và đặc biệt hắn khó chịu khi mấy tên cớm đã ra
khỏi xe và kiểm tra chiếc Taurus màu bạc đỗ trên phố Canal.
Làm thế quái nào mà chúng tìm được xe ngựa của hắn? Hắn biết rằng
ăn trộm xe có rủi ro rất lớn nhưng hắn nghĩ phải mất vài ngày Hertz mới
biết đến chiếc xe bị mất cắp. Mà kể cả họ có phát hiện được thì hắn
chắc chắn rằng cớm sẽ không bao giờ liên kết hắn với kẻ trộm. Chà,
họ giỏi đấy chứ.
Một trong những tên cớm có ánh mắt độc ác liếc nhìn chiếc xe của
hắn.
Nhìn thẳng về phía trước, Kẻ Tầm Xương chậm rãi rẽ vào Phố
Houston, biến mất trong một đám đông xe taxi khác. Nửa tiếng sau,
hắn bỏ rơi chiếc taxi, chiếc Hertz Taurus, đi bộ về nhà.
Maggie bé nhỏ ngước nhìn hắn.
Con bé đang hoảng sợ, nhưng nó đã không khóc nữa. Hắn băn khoăn
không biết có nên giữ con bé hay không. Kiếm cho mình một đứa con
gái. Nuôi nấng nó. Ý nghĩ này xuất hiện trong đầu hắn chỉ một khoảnh
khắc rồi biến mất.
Không, sẽ có quá nhiều câu hỏi. Ngoài ra, còn có điều gì đó ghê rợn
trong cái cách con bé nhìn hắn. Trông con bé có vẻ già trước tuổi. Nó
sẽ luôn nhớ hắn đã làm những gì. Ồ, nhưng có thể nó sẽ nghĩ đó chỉ là
giấc mơ. Nhưng rồi một ngày nào đó, sự thực sẽ lộ ra. Luôn luôn là
vậy. Có giấu thế nào chăng nữa, sự thực vẫn sẽ lộ ra.
Không, hắn không thể tin con bé nhiều hơn hắn tin bất cứ ai khác. Cuối
cùng thì bất cứ linh hồn tội nghiệp nào cũng có thể làm hại hắn. Mày có
thể tin tưởng sự căm thù. Mày có thể tin tưởng xương cốt. Tất cả
những thứ còn lại chỉ là sự phản bội.
Hắn quỳ xuống cạnh Maggie và bóc miếng băng dính khỏi miệng cô
bé. “Mẹ ơi!” Con bé gào khóc. “Cháu muốn mẹ!”
Hắn không nói gì, chỉ đứng đó và nhìn xuống con bé. Nhìn vào hộp sọ
mỏng manh của nó. Những cánh tay mỏng manh của nó.
Nó la hét như còi báo động.
Hắn lấy đôi găng tay. Những ngón tay của hắn lơ lửng trên đầu con bé
trong giây lát. Sau đó hắn vuốt ve mớ tóc mềm mại của nó. (“Có thể
lấy được dấu tay trên da thịt, nếu lấy trong vòng chín mươi phút sau khi
tiếp xúc (Xem KROMEKOT) nhưng chưa có
ai lấy được và tái tạo lại dấu vân tay từ tóc người.” Lincoln Rhyme,
Vật chứng, xuất bản lần thứ tư, New York: Forensic Press, 1994.)
Kẻ Tầm Xương chậm rãi đứng dậy và leo lên cầu thang, vào một
phòng khách lớn trong tòa nhà, đi qua những bức vẽ trên tường –
những người công nhân, những người phụ nữ và trẻ em đang nhìn chằm
chằm. Hắn nghiêng đầu lắng nghe tiếng động mờ nhạt phía bên ngoài.
Sau đó lớn dần – tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng. Hắn vơ vũ
khí và vội vã chạy ra phía sau tòa nhà. Mở chốt cánh cửa rồi bất thình
lình đẩy nó mở tung, hắn đã ở tư thế hai tay giương súng.
Một đàn chó hoang đang nhìn hắn. Chúng nhanh chóng quay trở lại với
cái thùng rác vừa bị chúng lật đổ. Hắn đút súng vào túi và quay lại
phòng khách.
Hắn lại thấy mình đứng cạnh ô cửa sổ kính chai, nhìn ra bãi tha ma cũ.
Đúng rồi. Đằng kia! Lại có một người đàn ông mặc đồ đen đứng trong
nghĩa địa. Phía xa, bầu trời bị đâm thủng bởi cây cột buồm của những
con thuyền cao tốc và thuyền buồm đang đậu trên sông Đông dọc theo
bờ Out Ward.
Kẻ Tầm Xương cảm thấy một nỗi buồn nặng trĩu. Hắn băn khoăn
không hiểu có phải vừa xảy ra thảm kịch gì hay không. Có thể là đám
cháy lớn năm 1776 vừa mới phá hủy hầu hết những tòa nhà ở
Broadway. Hay dịch sốt vàng da năm 1795 đã tàn sát cộng đồng
người Ireland. Hay đám cháy trên du thuyền tướng Slocum năm 1904
vừa giết chết hơn một nghìn phụ nữ và trẻ em, tàn phá khu kiều dân
Đức ở Lower East Side.
Hoặc hắn đang cảm thấy những thảm kịch sắp diễn ra.
Sau vài phút, tiếng la hét của Maggie đã lắng xuống, thay vào đó là
những âm thanh của thành phố xưa, tiếng gầm của động cơ hơi nước,
tiếng chuông leng keng, tiếng súng nổ, tiếng vó ngựa cộng hưởng trên
những con đường trải sỏi.
Hắn tiếp tục nhìn, quên đi những tên cớm đang theo dấu hắn, quên đi
Maggie, chỉ còn nhìn hình ảnh ma quái đang trôi trên phố.
Ngày đó và bây giờ.
Mắt hắn tập trung ra ngoài cửa sổ một lúc lâu, lạc lối vào một thời đại
khác. Vì thế hắn không nhận thấy những con chó hoang, chúng đã đi
qua cánh cửa hậu hắn để mở tung. Chúng nhìn hắn qua ô cửa phòng
khách và chỉ dừng lại một thoáng trước khi quay lại và lặng lẽ nhảy ra
phía sau ngôi nhà.
Mũi hếch lên ngửi mùi, tai lắng nghe những tiếng động của một nơi
chốn xa lạ. Nhất là tiếng khóc lóc yếu ớt vang lên từ đâu đó bên dưới
chúng.
Đó là dấu hiệu của sự tuyệt vọng, khi mà những Chàng trai Dũng cảm
cũng phải tách nhau ra.
Bedding tìm kiếm khoảng nửa tá khu nhà quanh Delancey, Saul ở xa
hơn về phía nam. Sellitto và Banks, ai cũng có khu vực tìm kiếm của
mình, cùng với hàng trăm sĩ quan, đặc vụ FBI và quân nhân khác. Họ
đang tìm kiếm từng nhà, hỏi về một người đàn ông nhỏ bé, một đứa trẻ
kêu khóc, một chiếc Taurus màu bạc, một tòa nhà kiểu liên bang bị bỏ
hoang, mặt tiền là đá cẩm thạch, phần còn lại là đá cát kết nâu.
Hả? Ý anh muốn nói cái gì, kiểu liên bang?... Có nhìn thấy đứa bé
không à? Anh hỏi tôi có nhìn thấy một đứa bé ở Lower East Side
không ư? Này Jimmy, cậu có nhìn thấy đứa bé nào quanh đây không?
Ít nhất là không phải trong sáu mươi giây vừa qua?
Amelia Sachs đang thả lỏng người. Cô đòi được tham gia nhóm của
Sellitto, nhóm đi đến cửa hàng ShopRite ở Đông Houston, nơi đã bán
chân bê cho thủ phạm 823. Và đến trạm xăng đã bán xăng cho hắn.
Thư viện nơi hắn chôm cuốn Crime in Old New York.
Nhưng họ không tìm thấy manh mối gì ở đây và tản ra như những con
sói ngửi thấy quá nhiều mùi. Mỗi con chọn lấy một lãnh địa để tự nhận
là của mình.
Sachs khởi động chiếc RRV mới để đến một khối nhà khác, cô cảm
thấy sự bất ổn quen thuộc khi khám nghiệm hiện trường trong mấy
ngày qua: quá nhiều chứng cứ, quá nhiều sân phải bao. Cảm thấy sự
vô vọng của nó. Ở đây, trên những con phố nóng bức, khó chịu, rẽ
nhánh thành hàng trăm con phố và ngõ khác, chạy qua hàng nghìn ngôi
nhà – tất cả đều đã cũ – việc tìm kiếm nơi ẩn nấp cũng có vẻ bất khả
thi như tìm kiếm một sợi tóc như Rhyme đã kể với cô, bị dính lên trần
nhà do sức giật của khẩu ổ quay .38.
Cô định đến từng con phố, nhưng thời gian trôi đi và khi cô nghĩ đến
đứa bé bị chôn dưới hầm sắp chết, cô bắt đầu tìm kiếm nhanh hơn, lao
trên các con phố, nhìn sang hai bên để tìm tòa nhà bằng đá cẩm thạch
hồng. Sự hoài nghi làm cô đau đớn. Cô có bỏ qua tòa nhà nào vì quá
vội vàng không? Hay cô cần lái xe nhanh như chớp và qua nhiều phố
hơn?
Tiếp tục. Một khối nhà, thêm khối nữa. Vẫn chẳng có gì.
Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu
thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công
dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những
trang viết của hắn có một điều chắn chắn là (nếu như những tuyên bố
của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng
liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục
hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy
vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với
một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình
những ân huệ.
Ngón tay trái của Lincoln Rhyme động nhẹ và chiếc khung lật trang
giấy màu vỏ hành của cuốn Crime in Old New York, cuốn sách được
hai nhân viên liên bang đem tới mười phút trước, dịch vụ này được
cung cấp nhờ phong cách không thể bắt chước của Fred Dellray.
“Thịt da tan biến và cơ thể yếu đuối – (tên tội phạm viết bằng nét chữ
thô thiển nhưng đều đặn) – xương cốt là phần mạnh nhất của cơ thể.
Có thể thịt da chúng ta già cỗi, nhưng xương cốt chúng ta luôn tươi trẻ.
Đó là mục đích cao quý của tôi, nó vượt qua tôi và làm sao mà ai đó
lại có thể tranh luận về nó được. Tôi ban ơn cho họ. Tất cả bọn họ giờ
đã bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi chiếm hữu họ đến tận xương.”
Terry Dobyns đã đúng. Chương Mười: “James Schneider: Kẻ Tầm
Xương”, là bản thiết kế cho hành vi của Đối tượng 823. MO giống hệt
nhau – lửa, động vật, nước, luộc sống. 823 lảng vảng ở những nơi
Schneider đã đến. Hắn nhầm một khách du lịch người Đức với Hanna
Goldschmidt, một người nhập cư đầu thế kỷ, và hắn đã bị lôi kéo đến
khu dân cư người Đức để tìm kiếm nạn nhân. Và hắn gọi Pammy Ganz
bé nhỏ bằng một cái tên khác – Maggie. Rõ ràng hắn nghĩ rằng cô bé
là O’Connor, một trong những nạn nhân của Schneider.
Trong cuốn sách có một bức tranh khắc acid rất tệ, được bọc bằng
giấy, minh họa
James Schneider ma quái đang ngồi trong tầng hầm, ngắm nghía cái
xương chân.
Rhyme nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ Randel Survey của thành phố.
Xương cốt…
Rhyme nhớ lại một hiện trường vụ án mà anh đã một lần khám nghiệm.
Anh được gọi đến một công trường xây dựng ở Lower Manhattan, nơi
máy xúc phát lộ ra một cái sọ người nằm cách mặt đất vài feet trong
một khu đất trống. Ngay lập tức Rhyme thấy rằng cái sọ đã rất cũ và
anh mời nhà pháp y nhân chủng học tham gia vào vụ này. Họ tiếp tục
đào và phát hiện thêm một số xương và sọ người nữa.
Một nghiên cứu nhỏ cho thấy năm 1741 có một cuộc nổi loạn của
nô lệ ở Manhattan, một số nô lệ – và những người da trắng theo chủ
nghĩa bãi nô – đã bị treo cổ trên một hòn đảo nhỏ ở Collect. Hòn đảo
này trở thành một pháp trường treo cổ. Một vài nghĩa địa không chính
thức và mỏ đất sét đã được tìm thấy trong khu vực.
Collect là ở chỗ nào nhỉ? Rhyme cố nhớ lại. Gần nơi giao nhau giữa
Chinatown và
Lower East Side. Nhưng khó nói được chắc chắn vì cái ao đã bị lấp
rất lâu rồi. Nó đã là…
Đúng rồi! Anh nghĩ, tim đập mạnh. Collect bị lấp đi vì nó đã ô nhiễm
tới mức ủy ban thành phố coi nó là nguy cơ lớn đối với sức khỏe. Một
số nơi gây ô nhiễm chính là những xưởng thuộc da phía Đông.
Đã khá thuần thục với bộ quay số, Rhyme không quay nhầm số nào và
chỉ cần một lần anh đã gọi được cho Thị trưởng. Tuy nhiên, người thư
ký nói hiện giờ ông ta đang ăn sáng với Liên Hiệp Quốc. Nhưng khi
Rhyme xưng tên, người thư kí nói. “Xin chờ một phút, thưa ngài.”
Không phải chờ lâu đến thế, anh đã được nói chuyện với một người
đàn ông vừa nói miệng vừa đầy thức ăn: “Nói đi, thám tử. Công việc
của các anh có cái mẹ gì hay không?”
“5885, nghe rõ.” Amelia Sachs trả lời máy bộ đàm. Rhyme nghe thấy
sự bực dọc trong giọng nói của cô.
“Sachs.”
“Không hay rồi.” Sachs nói với anh. “Chúng ta không gặp may.” “Anh
nghĩ anh đã tóm được hắn rồi.”
“Cái gì?”
“Khối nhà sáu trăm, East Van Brevoort. Gần Chinatown.” “Làm sao
anh biết?”
“Thị trưởng vừa giúp anh liên lạc với giám đốc Hội Sử học. Ở đó có
một khu khai quật khảo cổ. Một nghĩa địa cũ. Đối diện với chỗ trước
đây từng là một xưởng thuộc da. Ở đó trước đây đã có mấy ngôi biệt
thự kiểu liên bang. Anh nghĩ hắn ở gần đấy.”
“Em đi đây.”
Anh nghe thấy tiếng lốp xe rít lên, sau đó là tiếng còi hụ.
“Anh đã gọi cho Lon và Haumann”, anh nói thêm. “Họ cũng đang trên
đường tới
đó.”
“Rhyme”, giọng nói khẩn cấp của cô vang lên. “Em sẽ cứu cô bé ra.”
À, em có một trái tim nhân hậu của một cảnh sát, Amelia, một trái tim
chuyên
nghiệp, Rhyme nghĩ. Nhưng em vẫn chỉ là lính mới. “Sachs?” Anh nói.
“Vâng?”
“Anh đã đọc cuốn sách ấy. 823 đã chọn một kẻ xấu xa làm hình mẫu
cho hắn. Một kẻ thực sự xấu xa.”
Cô không nói gì.
“Điều anh định nói là”, anh tiếp tục, “bất kể cô bé có ở đó hay không,
nếu em tìm thấy hắn và hắn phản ứng, em phải hạ hắn ngay.”
“Nhưng ta có thể bắt sống hắn, hắn có thể dẫn ta đến chỗ cô bé. Ta
có thể…” “Không, Sachs. Nghe anh này. Em hạ hắn. Khi có bất kỳ
dấu hiệu nào cho thấy
hắn lấy vũ khí, bất kỳ thứ gì… em hãy hạ hắn.”
Tiếng tĩnh điện loạt xoạt. Sau đó anh nghe thấy giọng nói bình thản của
cô. “Em đang ở East Van Brevoort, Rhyme ạ. Anh đã đúng. Trông
giống như chỗ của hắn.”
Mười tám chiếc xe không số, hai xe thùng ESU và chiếc RRV của
Sachs tụ tập gần một con phố ngắn, hoang vắng ở Lower East Side.
East Van Brevoort trông như ở Sarajevo. Các tòa nhà bị bỏ hoang,
một vài tòa nhà đã bị đốt trụi. Phía đông con phố là một bệnh viện đổ
nát, mái của nó đã trũng xuống. Bên cạnh là một cái hố lớn trên mặt
đất, không có dây chắn, với tấm biển Cấm vào có đóng dấu của Tòa
án Quận – một khu khai quật khảo cổ mà Rhyme đã nhắc đến. Một
con chó gầy giơ xương đã chết nằm trong ống máng, bị chuột gặm.
Ở giữa bên kia phố là một ngôi nhà mặt tiền cẩm thạch, màu hồng nhạt
với một nhà xe bên cạnh, trông khả dĩ hơn một chút so với những ngôi
nhà đổ nát dọc Van Brevoort.
Sellitto, Banks và Haumann đứng cạnh chiếc xe thùng ESU trong khi
một tá sĩ quan khác đang mặc áo giáp chống đạn và kiểm tra những
khẩu M-16. Sachs đi cùng họ, không hỏi han, nhét mớ tóc vào mũ bảo
hiểm và bắt đầu mặc áo giáp.
Sellitto nói: “Này Sachs, cô không phải là lính chiến thuật.”
Kéo dây chiếc áo khóa dán Velcro xuống, cô nhìn chằm chằm vào
viên thám tử, lông mày nhướn cao, cho tới khi anh ta chịu nhượng bộ:
“Được rồi, nhưng cô ở hàng chặn hậu. Đó là mệnh lệnh.”
Haumann nói: “Cô sẽ ở Nhóm Hai.”
“Vâng, thưa ngài. Tôi chịu được việc này.”
Một sĩ quan ESU đưa cho cô khẩu súng máy MP-5. Cô nghĩ tới Nick
– cuộc hẹn hò của họ ở trường bắn tại Rodman’s Neck. Họ tập bắn
súng tự động trong hai giờ, bắn theo hình chữ Z qua cửa, nạp đạn
nhanh bằng cái kẹp đạn hình quả chuối và tháo súng M-
16 để lau sạch cát. Nick thích bắn từng loạt ngắn nhưng Sachs không
thích hỏa lực hỗn loạn của những thứ vũ khí lớn cho lắm. Cô đề nghị
một trận đấu giữa chúng với khẩu Glock và đã thắng anh ba lần liên
tiếp từ khoảng cách mười lăm feet. Anh cười và hôn cô say đắm khi
những vỏ đạn cuối cùng văng ra, nảy trên nền trường bắn.
“Tôi dùng súng của mình thôi”, cô nói với viên sĩ quan ESU.
Những Chàng trai Dũng cảm chạy tới, lom khom như thể sợ xạ thủ bắn
tỉa. “Chúng tôi có tin đây. Chẳng có ai ở đây. Khu này…”
“Hoàn toàn trống rỗng.”
“Cửa sổ nhà hắn đều bị chặn. Lối vào phía sau…” “Đi theo ngõ. Cửa
mở.”
“Mở?” Haumann hỏi, nhìn các sĩ quan của mình.
Saul khẳng định: “Không những không khóa mà mở.” “Bẫy à?”
“Chúng tôi không nghĩ vậy. Nhưng không có nghĩa là…”
“Không có gì.”
Sellitto hỏi: “Trong ngõ có cái xe nào không?” “Không.”
“Hai cửa vào. Một cửa chính đằng trước…”
“Trông có vẻ đóng chặt. Cửa vào thứ hai là của nhà để xe. Cửa kép,
đủ rộng cho hai xe. Dùng khóa xích.”
“Nhưng đều nằm trên sàn cả.”
Haumann gật đầu: “Như vậy có thể hắn vẫn ở trong nhà.”
“Có thể”, Saul nói, “nói cho anh ta nghe chúng ta nghĩ chúng ta nghe
thấy gì.” “Rất nhỏ. Có thể là tiếng khóc.”
“Có thể là tiếng la hét.” Sachs hỏi: “Cô bé?”
“Có thể. Nhưng đã ngừng. Làm sao mà Rhyme nghĩ ra chỗ này?”
“Các cậu nói tôi nghe đầu óc anh ta làm việc như thế nào?”, Sellitto
nói.
Haumann gọi một chỉ huy của mình lại và ra lệnh. Ngay sau đó, hai
chiếc xe thùng của ESU lao tới ngã tư đường và chặn cả hai đầu phố.
“Nhóm Một, cửa trước. Lấy mìn phá cửa. Cửa gỗ nên để mìn thấp
xuống, được chứ? Nhóm Hai, vào ngõ. Nghe tôi đếm đến ba, rõ
chưa? Vô hiệu hóa nhưng có thể cô bé còn trong đó nên phải nhìn
phông trước khi siết cò. Sĩ quan Sachs, cô chắc là cô muốn làm việc
này chứ?”
Một cái gật đầu chắc chắn.
“Được rồi, các chàng trai, cô gái. Đi tóm hắn thôi.”
BA MƯƠI HAI
Sachs và năm sĩ quan khác trong Nhóm Hai chạy vào một con ngõ
nóng như điên đã bị những chiếc xe của ESU phong tỏa. Những cây
cỏ dại mọc lởm chởm đang ngoi lên khỏi lớp đá cuội và làm nứt nẻ nền
móng, sự tiêu điều hoang vắng làm Sachs nhớ lại ngôi mộ bên cạnh
đường ray sáng hôm qua.
Anh ta hy vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân…
Haumann đã ra lệnh cho các sĩ quan leo lên nóc những tòa nhà xung
quanh, cô nhìn thấy nòng những khẩu Colt của họ dựng đứng lên như
những chiếc ăng ten.
Cả nhóm dừng lại ở cửa sau. Những người đồng sự nhìn cô khi cô
kiểm tra những sợi băng cao su đeo trên giày. Cô nghe thấy một người
trong số họ thì thầm điều gì đó về sự mê tín.
Sau đó cô nghe thấy trong tai nghe.
“Nhóm trưởng Nhóm Một ở cửa trước, mìn đã cài. Chúng tôi sẵn
sàng, nghe rõ.” “Nghe rõ, nhóm trưởng Nhóm Một. Nhóm Hai?”
“Nhóm Hai, vào vị trí. Nghe rõ?”
“Nghe rõ, nhóm trưởng Nhóm Hai. Hai nhóm, tấn công nhanh. Nghe
tôi đếm đến
ba.”
Kiểm tra vũ khí lần cuối.
“Một…”
Lưỡi tôi chạm vào một giọt mồ hôi đọng ở vết thương đang sưng trên
môi cô.
“Hai…”
Được rồi, Rhyme bọn em vào đây.
“Ba!”
Tiếng nổ nghe rất dịu, một tiếng bốp từ xa, và sau đó các nhóm di
chuyển. Nhanh.
Cô chạy sau những sĩ quan ESU khi họ luồn vào trong và tản ra, những
chiếc đèn pin gắn trên nòng súng quét ngang dọc với những tia sáng
chói lóa như ánh sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Sachs thấy chỉ có
mình cô khi những người còn lại trong nhóm tản ra, kiểm tra tủ, giá
quần áo và bóng tối phía sau những bức tượng lố bịch đầy trong căn
nhà.
Cô quay vào góc. Một khuôn mặt nhợt nhạt lờ mờ hiện ra. Một con
dao…
Tim đập thình thịch. Tư thế sẵn sàng chiến đấu, súng giương cao. Cô
ấn mạnh cò súng trước khi cô nhận ra rằng mình đang nhìn vào một
bức vẽ trên tường. Một tên đồ tể ghê rợn mặt tròn, một tay cầm dao,
tay kia là một miếng thịt.
Người anh em…
Hắn chọn một chỗ tuyệt vời để làm nhà.
Những sĩ quan ESU lộp cộp lên cầu thang, khám xét tầng một và tầng
hai.
Nhưng Sachs lại tìm kiếm một thứ khác.
Cô tìm thấy một cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Nó hé mở. Được rồi.
Tắt đèn. Phải nhìn qua trước đã. Nhưng cô nhớ lại điều Nick từng nói:
không bao giờ ngó vào góc ở tầm đầu hay ngực – đó chính là nơi hắn
chờ đợi ta. Quỳ xuống. Hít thật sâu. Nhìn!
Không có gì. Đen ngòm. Trở lại nơi ẩn nấp.
Lắng nghe…
Đầu tiên cô không nghe thấy gì. Sau đó chắc chắn có tiếng gãi. Tiếng
loảng xoảng. Âm thanh thở gấp gáp hay tiếng khụt khịt.
Hắn đang ở trong đó và đào lối ra!
Cô nói vào mic: “Tôi thấy có động tĩnh dưới tầng hầm. Cần yểm trợ.”
“Nghe rõ.”
Nhưng cô không đợi được. Cô nghĩ đứa bé đang ở dưới đó với hắn.
Cô bắt đầu bước xuống cầu thang. Dừng lại và lắng nghe. Sau đó cô
nhận ra mình đang đứng với nửa thân dưới hoàn toàn không có bảo vệ.
Cô nhảy xuống sàn nhà, tiếp đất với tư thế lom khom trong bóng tối.
Thở sâu.
Còn bây giờ, hành động thôi!
Cây đèn halogen trên tay trái cô xuyên một tia sáng chói lòa khắp căn
phòng. Nòng súng nhắm vào giữa chiếc đĩa trắng đang đong đưa từ
trái sang phải. Chiếu luồng sáng xuống thấp. Hắn cũng có thể đang lom
khom. Nhớ lại điều Nick nói với cô: bọn tội phạm không biết bay.
Chẳng có gì. Không một dấu hiệu của hắn. “Sĩ quan Sachs?”
Một sĩ quan ESU đang đứng trên đầu cầu thang.
“Ôi, không”, cô lầm bầm khi luồng sáng chạm vào Pammy Ganz, đang
cứng người trong góc tầng hầm.
“Đừng di chuyển”, cô nói với người lính đặc nhiệm.
Cách cô bé vài inch là một đàn chó hoang gầy gò, đang hít ngửi mặt,
ngón tay, chân của cô bé. Đôi mắt mở to của cô bé nhìn hết con chó
này sang con chó khác. Khuôn ngực nhỏ bé của bé phập phồng, nước
mắt chan hòa trên mặt. Miệng bé há ra, cái lưỡi nhỏ xinh của nó như
thể đã dính chặt vào vành môi bên phải.
“Cứ ở trên đó”, cô nói với người lính đặc nhiệm. “Đừng làm chúng sợ.”
Sachs ngắm nhưng không bắn. Cô có thể giết chết hai, ba con nhưng
những con còn lại có thể hoảng loạn và vồ lấy cô bé. Một con thôi
cũng có thể bẻ gãy cổ cô bé chỉ bằng một cái lắc đầu.
“Hắn có dưới đó không?” Sĩ quan ESU hỏi.
“Không biết. Anh gọi bác sĩ tới đây. Chỉ đứng ở đầu cầu thang thôi.
Đừng ai xuống.”
“Rõ.”
Đầu ruồi súng của cô trượt từ con chó này sang con khác. Sachs chậm
rãi tiến lên phía trước. Từng con một, lũ chó cảm nhận được cô và rời
khỏi Pammy. Cô bé con chỉ là chút thức ăn; Sachs là thú săn mồi.
Chúng gầm gừ, chân trước run rẩy trong khi chân sau duỗi thẳng, sẵn
sàng nhảy lên.
“Cháu sợ”, Pammy rít lên, thu hút sự chú ý của lũ chó.
“Suỵt, cháu yêu”, Sachs dỗ dành. “Đừng nói gì cả. Yên lặng nào.”
“Mẹ. Cháu muốn mẹ cháu!” Tiếng gào khóc của cô bé làm lũ chó phát
khùng. Chúng nhảy nhót tại chỗ, vung vẫy những cái mũi méo mó sang
hai bên, gầm gừ.
“Từ từ, từ từ…”
Sachs bước sang trái. Lúc này lũ chó đối mặt với cô, nhìn từ mắt xuống
cánh tay cô đang duỗi ra và khẩu súng. Chúng tách làm hai bầy. Một
bầy vẫn ở gần Pammy. Bầy kia đi vòng quanh Sachs, cố tấn công bên
sườn cô.
Cô luồn vào giữa cô bé và ba con chó gần nhất.
Khẩu Glock được nâng lên hạ xuống, một con lắc. Những con mắt đen
của chúng dán vào khẩu súng đen bóng.
Một con chó vàng ghẻ lở gầm gừ và bước sang bên phải Sachs. Cô bé
con đang thút thít: “Mẹ ơi…”
Sachs di chuyển chậm rãi. Cô cúi xuống, kẹp tay vào áo cô bé và kéo
nó ra sau cô. Con chó vàng tiến lại gần hơn.
“Xùy…”, Sachs nói. Vẫn tiến lại gần hơn. “Cút đi!”
Những con chó đằng sau con chó vàng căng thẳng khi nó nhe bộ răng
vàng lởm
chởm.
“Cút con mẹ mày đi!” Sachs gầm lên rồi đập nòng khẩu Glock vào mũi
con chó.
Con chó chớp mắt vì mất tinh thần, ré lên và chạy lên cầu thang.
Pammy gào lên khiến những con chó khác phát điên. Chúng bắt đầu
đánh nhau, tạo ra một cơn lốc xoáy răng và nước bọt. Một con
Rottweiler135 đầy sẹo ném một con chó lai xuống sàn như một búi giẻ
đầy bụi ngay trước mặt Sachs. Cô giẫm mạnh chân cạnh vật thể gầy
còm màu nâu và nó nhổm lên, chạy vụt lên cầu thang. Những con chó
khác đuổi theo nó như lũ chó săn đuổi một con thỏ.
Pammy bắt đầu nức nở. Sachs quỳ xuống cạnh cô bé và dùng cây đèn
quét tầng hầm lần nữa. Không có dấu hiệu gì của tên tội phạm.
135 Rottweiler: Một giống chó lớn có nguồn gốc từ Đức.
“Ổn rồi, cháu yêu.Chúng ta sẽ về nhà ngay thôi. Cháu sẽ ổn thôi.
Người đàn ông ở đây? Cháu còn nhớ ông ta không?
Cô bé gật đầu. “Ông ta đi chưa?”
“Cháu không biết. Cháu muốn mẹ.”
Sachs nghe tiếng những sĩ quan khác báo cáo. Tầng một và tầng hai an
toàn. “Chiếc xe và chiếc taxi?” Sachs hỏi. “Có dấu hiệu gì không?”
Một người lính nói: “Chúng không có đây. Chắc là hắn đã đi rồi.”
Hắn không ở đó, Amelia. Như thế là phi logic.
Từ trên cầu thang một sĩ quan gọi: “Tầng hầm an toàn chưa?” Cô nói:
“Tôi sẽ kiểm tra, chờ chút.”
“Chúng tôi xuống đây.”
“Không được”, cô nói. “Chúng ta có một hiện trường vụ án khá sạch
sẽ và tôi muốn giữ nó được như thế. Chỉ cần đưa nhân viên y tế xuống
đây để kiểm tra cô bé.”
Một nhân viên y tế trẻ, tóc màu cát đi xuống rồi quỳ xuống cạnh
Pammy.
Chính lúc đó Sachs nhìn thấy một dấu vết dẫn tới phía sau tầng hầm –
tới một cánh cửa sắt thấp sơn đen. Cô đi tới đó, tránh không giẫm lên
đường để bảo vệ dấu chân, rồi cô quỳ xuống. Cánh cửa khép hờ và có
vẻ như có một đường hầm phía bên kia, tối tăm nhưng không hoàn
toàn đen kịt, dẫn tới một tòa nhà khác.
Một đường thoát. Thằng khốn.
Cô dùng xương nắm tay trái đẩy cánh cửa mở rộng hơn. Nó không
kêu rên rỉ. Cô ngó vào trong đường hầm. Có ánh sáng mờ mờ cách đó
hai mươi, ba mươi feet. Không có cái bóng chuyển động nào.
Nếu Sachs nhìn thấy thứ gì trong bóng mờ tối thì đó là thân hình biến
dạng của T.J. đang đung đưa trên đường ống màu đen, là cơ thể tròn
trịa, yếu ớt của Monelle Gerger lúc con chuột đen trèo lên cổ họng cô
ta.
“5885 báo cáo Trung tâm”, Sachs nói vào mic. “Nói đi, nghe rõ”,
Haumann trả lời cộc lốc.
“Tôi thấy một đường hầm dẫn tới một tòa nhà phía nam tòa nhà của thủ
phạm. Cho người bọc lót cửa lớn và cửa sổ đi.”
“Sẽ làm, nghe rõ.”
“Tôi sẽ vào”, cô nói với anh ta.
“Vào đường hầm? Chúng tôi sẽ cho người yểm trợ cô, Sachs.”
“Không. Tôi không muốn hiện trường bị ô nhiễm. Chỉ cần cho người
để ý đến cô
bé.”
“Nói lại xem nào.”
“Không. Không cần yểm trợ.” Cô tắt đèn và bắt đầu bò.
Tất nhiên trong học viện không có khóa học xử lý chuột cống. Nhưng
những điều Nick nói với cô về việc bảo vệ hiện trường không thân
thiện quay lại với cô. Giữ súng gần người, không chĩa quá xa, vì có thể
sẽ bị đánh bật ra. Ba bước – à, lê chân – tới trước, dừng lại. Nghe
ngóng. Thêm hai bước. Dừng lại. Nghe ngóng. Lần sau bốn bước.
Đừng làm điều gì có thể đoán trước được.
Quỷ thật, tối quá.
Nhưng mùi gì thế nhỉ? Cô sởn gai ốc vì kinh tởm khi ngửi thấy thứ mùi
nóng nực, kinh khủng.
Nỗi sợ bị giam cầm bao lấy cô như một đám khói dầu và cô phải dừng
lại một lúc, tập trung vào bất kỳ thứ gì ngoài bức tường. Cơn hoảng
loạn trôi qua nhưng mùi thì kinh khủng hơn. Cô nôn khan.
Yên nào, cô bé. Yên nào!
Sachs kiểm soát được phản xạ và đi tiếp.
Tiếng gì thế nhỉ? Thứ gì đó như điện. Tiếng rù rì, dâng lên rồi chìm
xuống.
Mười feet nữa là hết đường hầm. Qua ô cửa, cô có thể nhìn thấy một
tầng hầm lớn thứ hai. Âm u, mặc dù không tối như tầng hầm nhốt
Pammy. Ánh sáng lọt vào qua một cái cửa sổ nhờn dầu. Cô thấy
những hạt bụi bay lượn trong bóng tối.
Không, không được cô bé. Cô giữ súng trước mặt quá xa. Chỉ một cú
đánh ra xong. Kéo nó lại gần mặt. Giữ trọng tâm thấp và lùi ra sau!
Tay để ngắm bắn, mông giữ thăng bằng.
Cô đến được chỗ ô cửa.
Cô lại nôn khan, cố gắng dập tắt âm thanh. Hắn có đợi mình không
nhỉ?
Thò đầu ra, nhìn thật nhanh. Mày có mũ bảo hiểm. Nó sẽ chống được
mọi thứ trừ đạn bọc kim loại hay Teflon, nhớ rằng hắn chỉ có khẩu .32.
Súng nữ.
Được rồi. Nghĩ đã. Xem nhìn bên nào trước?
Cẩm nang tuần tra không giúp được gì còn Nick thì không có lời
khuyên nào trong lúc này. Tung đồng xu vậy.
Sang trái.
Cô thò đầu ra thật nhanh, nhìn sang trái. Rồi thụt vào đường hầm. Cô
không nhìn thấy gì. Một bức tường trống, bóng tối.
Nếu hắn đứng phía bên kia chắc chắn hắn đã thấy mày và có vị trí
nhắm bắn tốt.
Được rồi, kệ mẹ nó. Cứ đi thôi. Nhanh lên.
Khi ta di chuyển…
Sachs nhảy lên.
… chúng không thể bắt được ta.
Cô nặng nề rơi xuống sàn, lăn tròn. Xoay người lại.
Một hình người trốn trong bóng tối trên bức tường bên phải, phía dưới
cửa sổ. Nhắm mục tiêu, cô chuẩn bị bắn. Nhưng rồi đông cứng.
Amelia Sachs thở dốc. Ôi, trời ơi…
Cô không thể rời mắt khỏi thân thể một người phụ nữ bị dựng đứng
vào tường.
Từ eo trở lên, cô ta là người gầy gò, tóc màu nâu tối, một khuôn mặt
gầy hốc hác, ngực nhỏ, tay xương xẩu. Ruồi bâu kín làn da cô ta –
tiếng vù vù mà Sachs đã nghe thấy.
Còn từ eo trở xuống, cô ta…chẳng có gì. Những chiếc xương hông
máu me, xương đùi, xương sống, bàn chân…Toàn bộ thịt đã bị hòa tan
trong một bể tắm ghê sợ bên cạnh cô ta – một món thịt hầm kinh
khủng, màu nâu đậm, những khúc thịt trôi nổi bên trong. Có thể là dung
dịch kiềm hay acid. Khói làm mắt Sachs cay sè, trong khi sự khủng
khiếp – và cơn giận dữ – sôi sục trong tim cô.
Tội nghiệp…
Sachs xua đuổi một cách vô nghĩa lũ ruồi đang túi bụi bay vào mặt kẻ
đột nhập
mới.
Cánh tay người phụ nữ đang thư giãn, bàn tay ngửa lên trên như thể cô
ta đang
trầm tư. Mắt nhắm. Bộ quần áo chạy thể thao đang nằm cạnh cô ta.
Cô ta không phải là nạn nhân duy nhất.
Một bộ xương khác – đã bị lóc sạch thịt – nằm cạnh một cái bể chứa
tương tự, cũ hơn, không còn chất acid kinh khủng nhưng bị bao bọc
bởi lớp cặn máu và thịt đen sì. Bộ xương không có cẳng tay và cánh
tay. Và đằng sau nó là một bộ xương khác – nạn nhân này bị chặt nhỏ,
những cái xương bị lóc thịt kỹ lưỡng, rửa sạch và đặt cẩn thận trên sàn.
Một chồng giấy ráp được xếp cạnh xương sọ. Những đường cong tao
nhã của cái đầu bóng loáng lên như một chiếc cúp.
Rồi cô nghe thấy ở phía sau.
Một hơi thở. Mờ nhạt nhưng không thể nhầm lẫn. Tiếng khò khè của
không khí sâu trong họng.
Cô quay lại, tự giận dữ với bản thân vì sự bất cẩn của mình.
Chỉ có tầng hầm trống rỗng nhìn cô. Cô quét tia sáng trên sàn nhà bằng
đá, vì vậy không hiện dấu chân rõ như nhà của 823 bên cạnh.
Một hơi thở nữa. Hắn ở đâu? Ở đâu?
Sachs khom người xuống thấp hơn, chiếu tia sáng sang bên, lên
xuống… Không có gì cả.
Hắn ở chỗ chết tiệt nào nhỉ? Đường hầm khác? Một lối thoát ra phố?
Cô nhìn xuống nền nhà một lần nữa và phát hiện một thứ mà cô nghĩ là
dấu vết mờ nhạt dẫn vào vùng bóng tối của căn phòng. Cô đi theo nó.
Dừng lại. Nghe ngóng. Hơi thở?
Có. Không.
Cô quay lại một cách ngu ngốc, nhìn lần nữa vào người phụ nữ đã
chết.
Nào!
Quay lại nhìn lần nữa. Đi dọc nền nhà.
Chẳng có gì. Làm sao mình nghe thấy nhưng không thể nhìn thấy hắn?
Bức tường phía trước cô kín mít. Không có cửa hay cửa sổ. Cô lùi lại,
về phía những bộ xương.
Từ đâu đó, lời nói của Rhyme quay lại với cô. “Hiện trường vụ án có
ba chiều.”
Bất thình lình Sachs nhìn lên, chiếu tia sáng trước mặt cô. Hàm răng
của một con chó giống Doberman136 khổng lồ phản xạ ánh sáng về
phía cô – những miếng thịt màu xám đong đưa. Cách đó khoảng hai
feet trên bờ tường cao. Nó đang chờ đợi cô, như một con mèo hoang.
Trong một khắc, không ai động đậy. Hoàn toàn chết cứng.
Sau đó Sachs cúi đầu xuống theo bản năng. Trước khi cô kịp giương
súng, nó lao mình vào mặt cô. Hàm răng của nó cắn vào chiếc mũ.
Ngậm chặt sợi dây trong miệng, nó giật điên cuồng, những muốn bẻ cổ
cô khi họ cũng ngã xuống, bên cạnh cái thùng đựng đầy acid. Khẩu
súng bay khỏi tay cô.
Con chó vẫn giữ chặt mũ bảo hiểm của cô trong khi chân sau của nó
nhảy lên, hai hàm răng thọc sâu vào áo giáp, vào bụng và vào đùi cô.
Cô đấm nó thật mạnh nhưng nó giống như một khúc gỗ trì độn; nó
không hề cảm thấy cú đánh.
Thả chiếc mũ bảo hiểm ra, nó lùi lại, sau đó lao vào mặt cô. Cô đấm
tay trái vào mắt nó khi nó ngoạm cánh tay cô. Cô cảm thấy những
chiếc răng kẹp vào da mình, cô lôi con dao gấp trong túi ra và thọc
vào xương sườn con chó. Một tiếng tru chói tai, nó lăn ra khỏi người
cô và lao thẳng ra cửa.
Sachs nhặt khẩu súng ngắn và ngay lập tức đuổi theo nó, quờ quạng
chạy trong đường hầm. Cô lao ra ngoài để nhìn thấy con thú đang lao
thẳng tới chỗ Pammy và nhân viên y tế, anh này đang đứng chết cứng
khi nhìn thấy con Doberman lao lên không trung.
Sachs quỳ xuống bắn hai phát. Một phát trúng đầu con chó, phát thứ
hai đập vào bức tường gạch. Con chó ngã vật xuống thành một đống
thịt run rẩy dưới chân nhân viên y tế.
136 Doberman: Một giống chó địa phương (Mỹ).
“Tiếng súng”, cô nghe thấy tiếng nói trong bộ đàm và khoảng nửa tá
lính đặc nhiệm lao xuống cầu thang, kéo con chó ra và dàn hàng quanh
cô bé.
“Được rồi!” Sachs la lớn. “Là tôi đấy.” Nhóm đặc nhiệm đứng lên.
Pammy đang la hét: “Con chó chết rồi… Cô ấy giết nó.” Sachs cất
súng và nhấc cô bé lên hông mình.
“Mẹ ơi!”
“Cháu sẽ gặp mẹ ngay thôi”, Sachs nói. “Các cô sẽ gọi cho mẹ cháu
ngay.”
Lên trên cầu thang, cô đặt Pammy xuống sàn và quay sang một sĩ quan
ESU đang đứng gần đó. “Tôi đánh mất chìa khóa còng rồi. Anh làm ơn
tháo cho cô bé, được chứ? Mở nó ra một tờ báo sạch, gói nó vào giấy
và cho tất cả vào một cái túi nhựa.”
Viên sĩ quan đảo mắt. “Nghe này người đẹp, đi tìm lính mới mà ra
lệnh.” Anh ta bước ra chỗ khác.
“Anh lính”, Bo Haumann quát, “anh sẽ làm những gì cô ấy nói.” “Thưa
ngài”, anh ta chống trả, “tôi là lính đặc nhiệm.”
“Tin mới đây”, Sachs lầm bầm, “bây giờ anh là dân khám nghiệm hiện
trường.”
Carol Ganz nằm trong phòng ngủ màu be rất đậm, nhìn lên trần nhà,
nghĩ tới thời gian khoảng vài tuần trước khi cô, Pammy và nhóm bạn
ngồi quanh đám lửa trại ở Winsconsin tại nhà của Kate và Eddie, nói
chuyện, kể chuyện, hát.
Giọng của Kate không hay lắm, nhưng Eddie thì có thể trở thành ca sĩ
chuyên nghiệp. Anh ấy chơi được ghita. Anh ấy hát bài Tapestry của
Carole King cho mình cô nghe và Carole vừa thì thầm hát vừa khóc.
Cô nghĩ, có thể, chỉ là có thể thôi, cô đã thực sự để cái chết của Ron
lại phía sau và tiếp tục cuộc sống của mình.
Cô nhớ tới giọng của Kate đêm đó: “Khi ta giận dữ, cách duy nhất để
xứ lý nó là gói nó lại và quẳng đi. Đưa nó cho ai đấy. Cậu có nghe thấy
không? Đừng giữ nó bên trong cậu. Cho nó đi.”
Lúc này cô đang giận dữ. Điên cuồng.
Một đứa trẻ – một thứ rác rưởi không có suy nghĩ – đã lấy mất chồng
cô, bắn vào lưng anh. Còn bây giờ, một thằng điên nào đó đã bắt con
gái cô. Cô những muốn nổ tung. Cô đã phải dùng toàn bộ ý chí để
không cho phép mình ném các thứ vào tường và tru lên như chó sói.
Cô nằm trên giường và thận trọng đặt cổ tay bị gãy của mình lên bụng.
Cô đã uống Demerol, nó giúp giảm đau nhưng cô không thể ngủ được.
Cô không làm gì ngoài việc ở trong nhà cả ngày, cố gắng liên lạc với
Kate và Eddie, chờ tin tức của Pammy.
Cô cứ hình dung ra Ron, hình dung ra cơn giận của cô, thực sự hình
dung cô đang cho nó vào trong một cái hộp, gói ghém cẩn thận, đóng
dấu…
Rồi điện thoại reo vang. Cô nhìn nó một lát rồi nhấc máy.
“Tôi nghe.”
Carole lắng nghe một nữ cảnh sát nói với cô là họ đã tìm thấy Pammy,
rằng con bé đang trong bệnh viện nhưng nó ổn. Một lát sau, Pammy
nói vào điện thoại và cả hai cùng vừa khóc vừa cười.
Mười phút sau, cô đã trên đường đến bệnh viện Manhattan, ngồi ở ghế
sau một chiếc xe cảnh sát màu đen.
Thực sự là Carole đã chạy hết tốc lực theo hành lang dẫn tới phòng
Pammy và thấy ngạc nhiên khi bị một cảnh sát đứng gác chặn lại. Như
vậy là họ vẫn chưa bắt được thằng khốn ấy ư? Nhưng cô chỉ cần nhìn
thấy con gái mình, cô đã quên hắn ta, quên nỗi sợ hãi khi ở trong chiếc
taxi và cái tầng hầm ghê rợn. Cô vòng tay ôm đứa con gái bé bỏng của
mình.
“Ôi, con yêu, mẹ nhớ con! Con ổn chứ? Ổn cả chứ con?” “Cô ấy, cô
ấy giết con chó…”
Carole quay lại và nhìn thấy một người nữ cảnh sát cao, tóc đỏ đang
đứng gần đó, người đã cứu cô ra khỏi tầng hầm của nhà thờ.
“… nhưng không sao vì nó muốn ăn thịt con.”
Carole ôm lấy Sachs: “Tôi không biết phải nói gì… Tôi chỉ… Cảm ơn
cô. Cảm ơn
cô.”
“Pammy ổn rồi”, Sachs quả quyết với cô. “Vài vết xước… không có gì
nghiêm
trọng… và con bé bị ho một chút.”
“Bà Ganz?” Một thanh niên vào phòng, đem theo vali và chiếc ba lô
màu vàng của cô. “Tôi là thám tử Banks. Chúng tôi có hành lý của bà
ở đây.”
“Ôi, ơn Chúa.”
“Có bị mất gì không?” Anh ta hỏi cô.
Cô nhìn cẩn thận chiếc ba lô. Tất cả các thứ đều ở đó. Tiền, con búp
bê của Pammy, gói đất nặn, bồ đồ chơi Mr. Potato Head, đĩa CD, cái
đài đồng hồ… Hắn chẳng lấy gì cả. Từ từ đã…” Anh biết không, tôi
nghĩ là có mất một tấm hình. Tôi không chắc lắm. Tôi nghĩ tôi có nhiều
hơn thế này. Nhưng các thứ quan trọng thì ở đây cả.”
Viên thám tử đưa cô ký vào tờ biên lai.
Một bác sĩ nội trú trẻ tuổi vào phòng. Anh ta đùa với Pammy về con
gấu Pooh của con bé trong lúc đo huyết áp.
Carole hỏi anh ta: “Khi nào thì chúng ta đi được?”
“À, chúng tôi chỉ giữ cháu ở đây vài ngày. Chỉ để đảm bảo rằng….”
“Vài ngày? Nhưng con bé ổn mà.”
“Con bé hơi bị viêm phế quản nên tôi muốn theo dõi. Và…”, anh ta hạ
giọng. “Chúng tôi cũng có một chuyên gia về chuyện lạm dụng. Chỉ để
chắc chắn hơn.”
“Nhưng ngày mai con bé phải đi với tôi. Đến những buổi lễ của Liên
Hiệp Quốc. Tôi đã hứa với nó rồi.”
Người nữ cảnh sát nói thêm: “Tốt hơn là để con bé được bảo vệ ở
đây. Chúng tôi vẫn chưa biết thủ phạm – tên bắt cóc – ở đâu. Chúng
tôi sẽ cử một sĩ quan trông cháu.”
“Vậy thì chắc là được. Tôi có thể ở lại với cháu một lúc, được không?”
“Chắc chắn rồi”, bác sĩ nội trú nói. “Chị có thể ở lại qua đêm. Chúng
tôi sẽ đem một chiếc giường trẻ em đến.”
Sau đó Carole được ở một mình với con gái. Cô ngồi xuống giường và
vòng tay quanh đôi vai hẹp của con bé. Cô có một chút khó chịu khi
nhớ lại hắn, tên điên khùng ấy, đã chạm vào Pammy như thế nào. Ánh
mắt của hắn khi hắn hỏi cô xem liệu hắn có được lột da cô hay
không… Carole sởn gai ốc và bắt đầu khóc.
Pammy là người đưa cô trở lại thực tại. “Mẹ ơi, kể chuyện cho con
nghe… Không, không, hát bài gì đó cho con nghe. Hát bài hát bạn bè
đi mẹ. Làm ơn mà!”
Lấy lại bình tĩnh, Carole hỏi: “Con muốn nghe bài đấy à?” “Vâng ạ!”
Carole đặt con bé vào lòng mình, bắt đầu hát bài You’ve got a friend
bằng cái giọng khàn khàn. Pammy hát theo cô từng đoạn.
Đó là một trong những bài hát ưa thích của Ron và mấy năm qua, từ
khi anh mất, cô không thể nghe hết vài đoạn trong bài hát mà không ứa
nước mắt.
Ngày hôm nay, cô và Pammy đã cùng nhau hát hết bài hát này, khá
đúng nhạc, mắt ráo lệ và cười vui.
BA MƯƠI BA
Cuối cùng thì Amelia Sachs cũng về đến căn hộ của cô ở
Caroll Gardens, Brooklyn.
Cách nhà cha mẹ cô đúng sáu khối nhà, nơi mẹ cô đang sống. Vừa
bước vào trong nhà, cô bấm nút quay số nhanh chiếc điện thoại trong
bếp.
“Mẹ. Con đây. Con sẽ đưa mẹ đi Plaza ăn bữa trưa. Thứ Tư. Đó là
ngày nghỉ của
con.”
“Để làm gì? Để ăn mừng nhiệm vụ mới của con? Phòng Quan hệ Công
chúng thế
nào? Không thấy con gọi điện.”
Một nụ cười thoáng qua. Sachs nhận ra mẹ cô không hề biết cô đã làm
gì trong hơn một ngày qua.
“Mẹ có xem thời sự không ạ?”
“Mẹ à? Mẹ là người hâm mộ bí mật của Brokaw137 mà, con biết
đấy.” “Mẹ có nghe về kẻ bắt cóc mấy ngày vừa rồi không?”
“Ai mà không biết… Con định nói gì với mẹ thế, con yêu?” “Con có tin
nội bộ sốt dẻo đây.”
Và cô kể cho người mẹ đang kinh ngạc của cô câu chuyện – về việc
cứu sống các nạn nhân, về Lincoln Rhyme, và với một chút chỉnh sửa,
về những hiện trường vụ án.
“Amie, cha con sẽ rất tự hào.”
“Thế thì báo ốm thứ Tư mẹ nhé. Plaza. Được chứ?”
“Quên nó đi, con yêu. Tiết kiệm tiền chứ. Mẹ có bánh quế và đồ ăn
của hiệu Bob
Evans138 trong tủ lạnh. Con có thể đến đây.”
“Không đắt lắm đâu mẹ ơi.” “Không đắt lắm ư? Cả gia tài đấy.”
“Thế thì thế này”, Sachs nói, cố tỏ ra tự nhiên, “mẹ thích Pink Teacup,
đúng không?”
Một quán nhỏ ở West Village bán món trứng và bánh kếp ngon nhất
vùng East
Cost với giá gần như cho không.
137 Brokaw (Thomas John Brokaw – sinh năm 1940 tại Webster,
South Dakota): Phóng viên truyền hình nổi tiếng người Mỹ. Trước đó
làm các bộ phim tài liệu tin tức được chiếu thường xuyên cho mạng
truyền hình NBC, cựu phát thanh viên của NBC News, tổng biên tập
chương trình NBC Nightly News with Tom Brokaw.
138 Bob Evans: Một công ty dịch vụ, xử lý và bán lẻ thực phẩm có trụ
sở chính tại Columbus, Ohio. Công ty điều hành hai chuỗi nhà hàng ăn
tối ở Mỹ, gồm có Bob Evans Restaurants và Mimi.
Ngừng một lát. “Nghe được đấy.”
Đó là chiến lược mà Sachs sử dụng thành công trong nhiều năm nay.
“Con phải nghỉ chút, mẹ ạ. Ngày mai con gọi lại.”
“Con làm việc nhiều quá. Amie, cái vụ này của con… không nguy hiểm
chứ?”
“Con chỉ làm bên kỹ thuật thôi mà mẹ. Hiện trường vụ án. Chẳng có gì
an toàn hơn được.”
“Họ chỉ định đúng con!” Người mẹ nói. Sau đó nhắc lại: “Cha con
chắc sẽ rất tự hào về con.”
Họ cúp máy và Sachs vào phòng ngủ, thả mình xuống giường.
Sau khi rời khỏi phòng của Pammy, Sachs đến thăm hai nạn nhân còn
sống sót khác của thủ phạm 823. Monelle Gerger, băng bó lốm đốm
và đã được tiếp đầy huyết thanh phòng dại, đã được ra viện và trở về
với gia đình ở Frankfurt “nhưng chỉ đến cuối mùa hè”, cô ta cứng rắn
nói, “không phải đi luôn, chị biết đấy”. Và cô chỉ vào bộ dàn và bộ sưu
tập CD trong căn hộ đổ nát ở khu Deutsche Haus để chứng minh rằng
không có thằng điên nào ở New World có thể xua được cô ra khỏi
thành phố.
William Everette vẫn còn trong bệnh viện. Ngón tay gãy tất nhiên
không phải là vấn đề nghiêm trọng nhưng tim ông lại có vấn đề. Sachs
ngỡ ngàng khi biết được ông có một cửa hiệu ở Hell’s Kitchen nhiều
năm trước và nghĩ có thể ông biết cha cô. “Tôi biết tất cả cảnh sát tuần
tra”, ông ta nói. Cô cho ông ta xem bức hình một người đàn ông mặc
cảnh phục trong ví cô. “Tôi nghĩ thế, tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ
thế.”
Những cuộc gặp gỡ chỉ có tính xã giao nhưng Sachs vẫn đem theo nhật
ký tuần tra. Tiếc là cả hai nạn nhân chẳng thể nói cho cô biết thêm điều
gì về nghi phạm 823.
Lúc này trong căn hộ của mình, Sachs đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô
nhìn thấy những cây bạch quả và cây phong rung rinh trong cơn gió
mạnh. Cô cởi bỏ bộ cảnh phục, gãi ngực – chỗ lúc nào cũng ngứa như
điên vì bị ép chặt dưới lớp áo giáp chống đạn. Cô mặc chiếc áo
choàng tắm.
Thủ phạm 823 không nhận được nhiều cảnh báo nhưng chừng đó cũng
đủ. Nơi ẩn nấp tại Van Brevoort đã được rửa sạch hoàn toàn. Mặc dù
chủ nhà nói hắn chuyển đến đã khá lâu – tháng Một vừa rồi (với một
giấy chứng minh giả, không ai ngạc nhiên về điều này) – 823 đã để lại
tất cả những gì hắn đem đến, kể cả rác rưởi. Sau khi Sachs khám
nghiệm hiện trường, Phòng Mật vụ NYPD đã đến hút bụi tất cả các
mặt phẳng có ở đó. Nhưng các báo cáo ban đầu hoàn toàn không
đáng khích lệ.
“Có vẻ cả khi đi ị hắn cũng đeo găng tay”, Banks báo cáo với cô.
Một đơn vị Cơ động đã tìm thấy chiếc xe hơi và chiếc taxi. Nghi phạm
823 đã ranh mãnh đỗ chúng gần Đại lộ D và Phố Chín. Sellitto đoán
chỉ cần bảy, tám phút là các băng nhóm địa phương đã bóc chiếc xe
chỉ còn khung. Bất kỳ vật chứng nào có thể còn trong xe lúc này đã
nằm trong khoảng một tá cửa hàng phụ tùng quanh thành phố.
Sachs xoay người quanh bồn tắm và thấy tin mới. Chẳng có gì liên
quan tới vụ bắt cóc. Tất cả các câu chuyện đều xoay quanh những buổi
lễ khai mạc của hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc.
Cô nhìn chằm chằm vào Bryan Gumbel139, nhìn chăm chú Tổng thư
ký Liên Hiệp Quốc, các nhà ngoại giao đến từ Trung Đông, chăm chú
hơn nhiều so với mức độ quan tâm của cô. Thậm chí cô còn đọc cả
quảng cáo như là cô muốn học thuộc chúng.
Vì có một điều mà chắn chắn là cô không muốn nghĩ tới: thỏa thuận của
cô với
Lincoln Rhyme.
Thỏa thuận rất rõ ràng. Lúc này Carole và Pammy đã an toàn, đến lượt
cô vào cuộc. Cho anh một giờ riêng với bác sĩ Berger.
Giờ là ông ta, Berger… Cô không hề thích vẻ ngoài của ông bác sĩ đó.
Ta có thể nhìn thấy một cái tôi lớn tướng trong thân hình rắn chắc, khỏe
mạnh của ông ta, trong đôi mắt lẩn tránh của ông ta. Mái tóc đen của
ông ta được chải một cách hoàn hảo. Quần áo đắt tiền. Tại sao Rhyme
lại không thể tìm được ai đó như Kevorkian140? Ông ta có vẻ
mưu mô, nhưng ít nhất trông ông ta còn giống một người ông thông
thái.
Mí mắt cô sụp xuống.
Bỏ qua người đã chết…
Thỏa thuận là thỏa thuận. Nhưng mà quỷ tha ma bắt, Rhyme…
Được rồi, cô không thể để anh ta ra đi mà không thử lần cuối. Anh ta
đã tóm được cô trong phòng ngủ của anh ta. Cô đã bối rối. Không
nghĩ ra được lý lẽ nào thực sự tốt. Thứ Hai. Cô còn có thời gian đến
ngày mai để thuyết phục anh ta không làm việc đó. Hoặc ít nhất là đợi
một thời gian. Một tháng. Quỷ thật, một ngày.
Cô có thể nói gì với anh ta? Cô viết ra những lý lẽ của mình. Viết một
bài diễn văn
ngắn.
Mở mắt ra, cô trèo ra khỏi giường để tìm cây bút và mấy tờ giấy. Mình
có thể… Sachs cảm thấy ớn lạnh, hơi thở của cô rít lên trong phổi như
gió thổi bên ngoài. Hắn mặc bộ đồ đen, chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi
găng tay đen như dầu.
Thủ phạm 823 đang đứng giữa phòng ngủ của cô.
Cánh tay cô theo bản năng vươn tới cái bàn đầu giường – khẩu Glock
và con dao.
Nhưng hắn đã sẵn sàng. Chiếc xẻng vung lên thật nhanh và đập vào
cạnh đầu cô. Ánh sáng vàng bùng lên trong mắt cô.
139 Bryan Gumbel (Bryan Charles Gumbel): Một nhân vật trên truyền
hình Mỹ cho các chương trình tin tức và thể thao. Ông ta nổi tiếng với
mười lăm năm làm việc như người đồng dẫn chương trình The Today
Show của đài NBC.
140 Kevorkian (Jack Kevorkian): Ông được ghi nhận là người công
khai tuyên truyền cho quyền được chết của bệnh nhân thập tử nhất sinh
thông qua cái chết nhẹ nhàng, ông tuyên bố đã hỗ trợ ít nhất một trăm
ba mươi bệnh nhân làm việc này. Câu nói nổi tiếng của ông là: “Chết
không phải là phạm tội.”
Cô quỳ cả hai chân, hai tay, một bàn chân đá vào lồng ngực làm cô
ngã quỵ, và cô cố vùng vẫy để thở. Cô cảm thấy tay cô đã bị còng ra
sau, một đoạn băng dính dán trên miệng cô. Chuyển động nhanh, hiệu
quả. Hắn lật ngửa cô ra; chiếc áo choàng tắm mở tung.
Giận dữ khua chân, gắng sức như điên hòng dứt đứt sợi dây còng.
Một cú đánh nữa vào dạ dày. Cô nôn khan nhưng vẫn cảm thấy hắn
giơ tay nắm lấy mình. Tóm dưới nách cô, hắn kéo cô ra cửa sau và đi
vào một khu vườn lớn kín đáo phía sau căn hộ.
Ánh mắt hắn vẫn trên mặt cô, thậm chí không buồn nhìn núm vú của
cô, cái bụng phẳng, xương mu với vài sợi lông xoăn màu đỏ của cô. Cô
có thể sẵn sàng cho hắn những thứ đó nếu điều đó có thể cứu được
mạng sống của cô.
Nhưng không, chẩn đoán của Rhyme là đúng. Tình dục không phải
động cơ của
823. Trong đầu hắn còn có thứ gì khác. Hắn ném thân hình mảnh dẻ
của cô xuống một bụi hoa và cây lá dày, mặt ngửa lên trời, khuất tầm
mắt hàng xóm. Hắn nhìn quanh, lấy hơi. Hắn nhặt cái xẻng lên và thọc
lưỡi xẻng xuống đất.
Amelia Sachs bắt đầu khóc.
Anh dụi gáy vào gối.
Hành vi mang tính bắt buộc, một bác sĩ đã nói với anh như vậy sau khi
quan sát hành vi này của anh – một ý kiến Rhyme không yêu cầu hay
mong muốn. Rhyme nghĩ việc dụi đầu vào gối của anh cũng giống như
việc Amelia Sachs dùng móng tay bóc thịt ngón tay.
Anh thả lỏng cơ cổ, xoay xoay đầu trong khi nhìn lên tấm áp phích treo
trên tường. Rhyme tin rằng toàn bộ câu chuyện về sự điên rồ của người
đàn ông đó đang nằm trước mặt anh. Trong những dòng chữ viết tay
màu đen, mấp mô – và những khoảng trống giữa các từ. Nhưng anh
chưa thể đọc được đoạn kết của câu chuyện. Tạm thời thì chưa.
thích.
Anh nhìn một lần nữa vào những manh mối. Chỉ còn vài thứ vẫn chưa
được giải
Vết sẹo trên ngón tay. Nút buộc.
Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.
Vết sẹo đối với họ là vô ích nếu như họ không có được một nghi phạm
để có thể
kiểm tra ngón tay. Chẳng có gì may mắn trong việc nhận dạng kiểu nút
buộc – chỉ có ý kiến của Banks cho rằng đó không phải là nút buộc
kiểu hải quân.
Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu rẻ tiền thì sao? Giả sử phần lớn thủ
phạm không xịt nước hoa khi bắt cóc, vì sao hắn lại làm khác? Rhyme
chỉ có thể kết luận rằng hắn làm thế để át đi một thứ mùi khác, dễ lộ
hơn. Anh điểm qua các khả năng: Thức ăn, rượu, hóa chất, thuốc lá…
Anh cụp mắt xuống và nhìn sang phải.
Những điểm đen trong hố mắt xương xẩu của con rắn nhìn về phía
chiếc giường Clinitron. Đó là một trong những manh mối không phù
hợp. Nó chẳng có mục tiêu gì, ngoài việc nhạo báng họ.
Bất chợt có điều gì đó nảy ra trong anh. Sử dụng cái khung lật trang,
anh chậm rãi lật lại cuốn Tội phạm ở New York xưa. Đến chương nói
về James Schneider. Anh tìm thấy đoạn văn mà anh vừa nhớ ra.
Một bác sĩ thần kinh nổi tiếng (người thực hành môn “tâm lý” đã được
báo chí nhắc đến rất nhiều trong thời gian vừa qua) cho rằng ý
định thực sự của James Schneider không phải là hãm hại nạn nhân
của hắn. Mà thực sự – người bác sĩ giàu kinh nghiệm đó cho rằng – tên
tội phạm đang tìm cách báo thù những người mà hắn cho là có hại: sở
cảnh sát thành phố và có thể là cả xã hội.
Ai mà biết được gốc gác sự thù hận của hắn nằm ở đâu? Có thể giống
như dòng sông Nile cổ xưa, không ai trên thế giới biết được nó bắt
nguồn từ đâu; có thể chính bản thân hắn cũng không hay biết. Tuy vậy,
một lý do có thể được tìm thấy trong một sự kiện ít người biết đến là,
James Schneider khi còn nhỏ, lúc mới mười tuổi, đã nhìn thấy cha mình
bị cảnh sát lôi đi, để rồi chết trong nhà tù vì tội cướp giật và sau đó ông
ta đã được chứng minh là vô tội. Sau lần bắt bớ không may đó, mẹ cậu
bé sống cuộc sống đường phố và bỏ rơi đứa con, đứa bé lớn lên trong
sự bảo trợ của bang.
Có phải ngẫu nhiên mà tên điên đó gây ra những tội ác này để cười
vào mặt chính ngành cảnh sát đã vô ý làm tan nát gia đình hắn không?
Chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ biết được.
Tuy nhiên, điều có vẻ rõ ràng nhất là, cùng với việc chế nhạo sự bất lực
của những người bảo vệ công dân, James Schneider – “Kẻ Tầm
Xương” – đã ném sự trả thù lên chính thành phố cũng như những nạn
nhân vô tội của hắn.
Lincoln ngửa đầu lên gối và nhìn lại bản hồ sơ trên tường.
Đất nặng hơn tất cả mọi thứ.
Chính là đất, bụi từ một lõi sắt, và nó không giết người bằng cách chặn
không khí vào phổi mà bằng cách nén chặt các tế bào cho tới khi
chúng chết đi vì nỗi hoảng loạn.
Sachs ước gì cô đã chết. Cô cầu nguyện được chết. Thật nhanh. Từ
nỗi sợ hãi hay cơn đau tim. Trước khi xẻng đất đầu tiên rơi xuống mặt
cô. Cô cầu xin điều đó, khẩn thiết hơn Lincoln Rhyme cầu xin những
viên thuốc và cốc rượu của anh.
Nằm trong nấm mồ mà tên tội phạm đã đào sẵn trong sân sau nhà
mình, Sachs cảm nhận được đất màu, dày đặc và đầy giun, đang dịch
chuyển dần trên người cô.
Hắn từ từ chôn cô một cách tàn bạo, chỉ hất xuống từng xẻng đất nhỏ,
cẩn thận rắc xuống xung quanh cô. Hắn bắt đầu từ chân cô. Đến bây
giờ hắn đã đến ngực cô, đất luồn vào trong áo choàng tắm và quanh
bầu vú của cô như những ngón tay của người tình.
Nặng dần, nặng dần, ép chặt, trói lấy phổi cô; mỗi lần thở, cô chỉ hít
vào được một chút không khí. Hắn dừng lại một, hai lần để nhìn cô, rồi
lại tiếp tục.
Hắn thích nhìn…
Tay bị trói ở dưới, cổ căng cứng để giữ cho đầu cao hơn làn sóng triều
của đất.
Thế rồi ngực cô bị chôn kín hoàn toàn. Vai, rồi cổ họng. Đất lạnh leo
lên làn da mặt cô nóng bỏng, chèn quanh đầu làm cô không thể động
đậy. Cuối cùng, hắn cúi xuống và giật miếng băng dính ra khỏi miệng
cô. Sachs định hét lên thì hắn đổ một ít đất vào mặt cô. Cô sởn gai ốc,
ho sặc sụa vì đất đen. Có tiếng rung trong tai, và vì một lý do nào đó,
cô nghe thấy một bài hát đã lâu lắm rồi, từ thuở ấu thơ The green
leaves of summer, một bài hát mà cha cô đã bật đi bật lại trên máy thu.
Một bài hát buồn bã, ám ảnh. Cô há miệng lần nữa và lại nhận được
một cốc đầy đất.
Bỏ qua người đã chết…
Rồi cô bị lấp kín.
Tuyệt đối yên lặng. Không có tiếng ho hay tiếng thở hổn hển – đất là
chất hàn hoàn hảo. Trong phổi cô không còn không khí, không thể tạo
ra bất kỳ tiếng động nào. Im lặng, trừ giai điệu ma quái của tiếng gầm
ngày càng lớn lên trong tai cô.
Rồi áp lực trên mặt cô biến mất khi cơ thể cô tê cứng, tê cứng như cơ
thể của
Lincoln Rhyme. Đầu cô ngừng hoạt động.
Bóng tối, bóng tối… Không một lời nào của cha cô. Chẳng có gì từ
Nick… Không có những ước mơ đổi số từ số năm sang số bốn để
đẩy đồng hồ tốc độ lên ba con số.
Bóng tối.
Bỏ qua…
Sức nặng đè lên cô, đẩy, đẩy xuống. Cô chỉ còn nhìn thấy một hình
ảnh: cánh tay thò ra từ nấm mộ buổi sáng hôm qua, vẫy vẫy cầu xin sự
may mắn. Khi không có chỗ cho sự may mắn.
Vậy gọi cô đi theo. Rhyme, em sẽ nhớ anh. Bỏ qua…
BA MƯƠI TƯ
Thứ gì đó đập vào đầu cô. Rất mạnh. Cô cảm thấy cú đánh mạnh
nhưng không thấy đau.
Gì thế, gì thế nhỉ? Cái xẻng của hắn? Một viên gạch? Có thể là trong
một thoáng lòng tốt của 823, hắn cho rằng cái chết từ từ như thế này là
quá sức chịu đựng đối với bất kỳ ai và hắn tìm cổ họng cô để cắt đứt
mạch máu.
Một cú nữa, rồi một cú nữa. Cô không mở được mắt nhưng cô cảm
nhận được ánh sáng đang bừng lên quanh cô. Màu sắc. Và không khí.
Cô phun đám đất trong miệng ra và lấy hết sức mình hít vào một hơi
thở mong manh. Bắt đầu ho ầm ĩ, nôn khan, nhổ bọt.
Cô mở choàng mắt, và qua làn lệ cô nhìn thấy Lon Sellitto người đầy
bùn đất đang quỳ bên trên cô, bên cạnh là hai nhân viên y tế EMS, một
người đang móc đất trong miệng cô bằng những ngón tay đeo găng cao
su và lôi ra đám nhầy nhụa, người thứ hai chuẩn bị sẵn sàng mặt nạ oxy
và một thùng nước màu xanh.
Sellitto và Banks tiếp tục đào, hắt đất ra xung quanh bằng những cánh
tay lực lưỡng của họ. Họ kéo cô lên, vứt lại chiếc áo choàng tắm như
một lớp da bị lột bỏ. Sellitto, người đàn ông bỏ vợ, trong trắng nhìn ra
chỗ khác khi choàng chiếc áo khoác của anh ta lên vai cô. Tất nhiên,
chàng thanh niên Jerry Banks có nhìn, nhưng cô vẫn thấy quý anh ta
như thường.
“Các… anh… có?” Cô khò khè nói, nhưng lập tức dừng lại vì một
cơn ho nổ phổi. Sellitto nhìn Banks một cách trông đợi, anh ta trông
kiệt sức hơn. Anh ta chắc đã
cố hết sức lúc đuổi theo thủ phạm. Viên thám tử trẻ tuổi lắc đầu: “Hắn
chạy mất rồi.” Ngồi thẳng dậy, cô thở bình oxy một lúc.
“Làm thế nào?” Cô khò khè. “Làm thế nào các anh biết được?”
“Rhyme”, anh ta trả lời. “Đừng hỏi tôi làm thế nào. Anh ấy ra lệnh
10-13 cho tất cả mọi người trong đội. Khi anh ấy biết chúng tôi ổn,
anh ấy bảo chúng tôi tới đây càng sớm càng tốt.”
Sau đó tình trạng tê liệt trôi qua, nhanh như chớp. Và lúc này cô mới
thực sự nhận thấy điều gì đã diễn ra. Cô đánh rơi chiếc mặt nạ oxy, lùi
lại trong cơn hoảng loạn, lệ tuôn trào, cất tiếng khóc thảm thiết, cơn
hoảng loạn của cô lớn dần, lớn dần. “Không, không, không….”
Tự tát vào mặt, vào đùi, cố gắng phủi đi nỗi kinh hoàng đang bám chặt
lấy cô như một bầy ong nhiều vô kể.
“Trời ơi, trời ơi… Không…”
“Sachs?” Banks lo lắng hỏi. “Này, Sachs?”
Viên thám tử lớn tuổi hơn ra hiệu cho cộng sự của mình đi chỗ khác.
“Ổn thôi.” Anh ta ôm lấy cô khi cô bò bốn chân trên mặt đất, nôn mửa
kịch liệt, nức nở, nức nở, bóp chặt đất giữa các ngón tay như thể cô
muốn bóp chết nó.
Cuối cùng, Sachs cũng bình tĩnh lại và ngồi trên đôi chân trần của cô.
Cô bắt đầu cười, đầu tiên thật dịu dàng, sau đó lớn dần, lớn dần, điên
dại, cô ngỡ ngàng khi thấy bầu trời rộng lớn hơn và trời đang mưa –
những cơn mưa mùa hè nặng hạt – thế mà cô đã không nhận ra.
Quàng tay quanh cổ anh. Mặt áp vào mặt anh. Họ ngồi như thế một
lúc lâu. “Sachs... Ôi, Sachs.”
Cô rời khỏi chiếc giường Clinitron và thả người xuống cái ghế bành cũ
ở góc phòng. Sachs – mặc quần thể thao bông màu xanh hải quân và
áo phông của trường Cao
đẳng Hunter – ngồi lọt thỏm xuống ghế và đong đưa đôi chân tuyệt
đẹp của cô như một
nữ sinh.
“Sao lại là chúng ta hả, Rhyme? Vì sao hắn lại đuổi theo chúng ta?”
Giọng cô vẫn thì thầm, khàn khàn vì bụi đất mà cô vừa nuốt phải.
“Vì những người hắn bắt cóc không phải nạn nhân thực sự. Chúng ta
mới là nạn
nhân.”
“Chúng ta là ai?” Cô hỏi.
“Anh không chắc. Có thể là xã hội. Hay là thành phố. Liên Hiệp Quốc.
Cảnh sát.
Anh đọc lại cuốn kinh thánh của hắn – chương viết về James
Schneider. Em có nhớ giả thuyết của Terry về việc vì sao hắn để lại
manh mối không?”
Cô nói: “Như thể biến chúng ta thành kẻ đồng loã. Để chia sẻ tội lỗi.
Để cho hắn giết người dễ dàng hơn.”
Rhyme gật đầu, rồi nói: “Nhưng anh vẫn không nghĩ đó là lý do thực
sự. Anh nghĩ manh mối là cách hắn dùng để tấn công chúng ta. Mỗi
nạn nhân đã chết là một mất mát đối với chúng ta.”
Mặc bộ đồ cũ, tóc buộc túm ra sau, lúc này trông Sachs đẹp nhất
trong hai ngày qua. Nhưng mắt cô vô hồn. Có thể cô ấy đang sống lại
cái ký ức với từng xẻng đất, anh nghĩ. Và Rhyme thấy ý nghĩ về việc cô
bị chôn sống nặng nề tới mức anh phải nhìn đi chỗ khác.
“Hắn có gì để chống lại chúng ta?” Cô hỏi.
“Anh không biết. Cha của Schneider bị bắt nhầm và chết trong nhà tù.
Thủ phạm của chúng ta? Ai mà biết được vì sao? Anh chỉ quan tâm
đến vật chứng...”
“... không phải động cơ.” Amelia Sachs nói nốt câu.
“Nhưng vì sao hắn lại theo chúng ta nhanh như thế?” Banks hỏi, hất
đầu về phía
Sachs.
“Chúng ta tìm thấy hang ổ của hắn và cứu được cô bé. Tôi không nghĩ
hắn lại
muốn chúng ta đến sớm thế. Có thể hắn bực mình. Lon, chúng ta cần
có bảo mẫu hai mươi tư trên hai mươi tư giờ, cho tất cả chúng ta. Có
thể hắn sẽ biến mất một thời gian sau khi chúng ta cứu được cô bé,
nhưng hắn vẫn loanh quanh đâu đó và gây thêm tội ác. Anh và Jerry,
tôi, Cooper, Haumann, Polling, tất cả chúng ta đều nằm trong danh
sách của hắn, chắn chắc thế. Trong lúc này, chúng ta phải đưa lính của
Peretti đến chỗ Sachs.
Tôi chắc là hắn đã dọn sạch nhưng có thể còn thứ gì đó. Hắn phải rời
đi nhanh hơn hắn dự tính nhiều.”
“Tốt nhất là em tới đó”, Sachs lên tiếng. “Không”, Rhyme nói.
“Em phải khám nghiệm hiện trường.”
“Em phải nghỉ ngơi một chút”, anh ra lệnh. “Đó mới là điều em phải
làm, Sachs. Em không phản đối anh nói chứ, trông em tệ lắm đấy.”
“Đúng rồi, sĩ quan”, Sellitto nói. “Đó là mệnh lệnh. Tôi yêu cầu cô nghỉ
hết ngày hôm nay. Chúng tôi có hơn hai mươi đặc vụ liên bang nữa.”
“Tôi có một hiện trường vụ án ở sân sau nhà mình mà tôi lại không
được khám nghiệm nó?”
“Đúng”, Rhyme nói, “tóm lại là như thế”.
Sellitto đi ra cửa. “Có vấn đề gì không, sĩ quan?” “Không, thưa ngài.”
“Nào, Banks, ta còn có việc phải làm. Cô cần đi nhờ không Sachs?
Hay họ vẫn giao xe cho cô?”
"Không, cảm ơn, tôi có xe dưới nhà rồi", cô trả lời.
Hai viên thám tử đi ra. Rhyme nghe thấy giọng nói của họ vọng lại từ
đại sảnh. Sau đó, cửa đóng và họ đi hẳn.
Rhyme thấy đèn trần đang bật sáng. Anh bấm vài lệnh và điều chỉnh
ánh sáng mờ
đi.
Sachs vươn vai.
“Được rồi”, cô nói, đúng lúc Rhyme hỏi: “Thế nào đây?” Cô nhìn đồng
hồ. “Muộn rồi.”
“Đúng thế.”
Cô đứng dậy, đi lại chỗ cái bàn nơi cô để chiếc ví. Cô nhặt ví lên, mở
ra, tìm chiếc
gương nhỏ và bắt đầu xem xét vết cắt trên môi. “Trông cũng không tệ
lắm”, Rhyme nói.
“Như quỷ nhập tràng”, cô nói, vẻ kích động. “Sao họ không dùng chỉ
khâu có màu tươi hơn chứ?” Cô để chiếc gương sang bên, vắt chiếc ví
lên vai. “Anh vừa kê lại giường”, cô nhận ra. Nó được kê lại gần cửa
sổ hơn.
“Thom làm đấy. Anh có thể nhìn xuống công viên nếu anh muốn.” “Thế
à. Thế thì tốt.”
Cô bước lại gần cửa sổ. Nhìn xuống.
Ồ, vì Chúa, Rhyme nghĩ thầm. Nói đi chứ. Có chuyện gì được nhỉ?
Anh buột miệng thật nhanh: “Em có muốn ở lại không? Ý anh là, muộn
rồi. Nhóm Mật vụ còn hút bụi nhà em mấy tiếng nữa.”
Anh cảm thấy sự hy vọng bùng nổ trong anh. Được rồi, giết nó đi, anh
nghĩ, giận dữ với chính mình. Cho tới khi cô nở một nụ cười thật tươi.
“Em cũng muốn thế.”
“Tốt quá.” Hàm anh nổi gai ốc vì adrenaline. “Tuyệt vời. Thom!”
Nghe nhạc, uống chút whisky Scotch. Có thể anh sẽ kể cô nghe vài vụ
án nổi tiếng. Nhà sử học trong anh cũng tò mò về người cha của cô, về
công việc của cảnh sát những năm 1960 và 1970. Về đồn cảnh sát vô
danh ở khu Nam Midtown ngày xưa.
Rhyme la lớn: “Thom! Lấy ít khăn trải giường. Cả chăn nữa. Thom!
Anh không biết cậu ta đang làm cái quái gì nữa. Thom!”
Sachs định nói gì đó nhưng người trợ lý đã xuất hiện ngoài cửa và gắt
gỏng: “Chỉ cần quát một lần là được rồi, anh biết chứ, Lincoln.”
“Amelia ở lại đêm nay. Cậu đem giúp mấy cái chăn và gối vào đi văng,
được không?”
“Không, không phải đi văng nữa chứ”, cô nói. “Ngủ trên đó như nằm
trên đá ấy.
Sự từ chối của cô đâm vào người Rhyme như một lưỡi dao. Anh buồn
bã nghĩ: Phải mấy năm rồi mình mới có được cảm xúc ấy. Cam chịu,
nhưng anh vẫn cười và nói: “Dưới nhà có một phòng ngủ. Thom sẽ sửa
soạn cho em.”
Nhưng Sachs đã để ví xuống. “Được rồi, Thom. Anh không phải
chuẩn bị gì đâu.” “Không sao mà.”
“Được rồi. Chúc ngủ ngon, Thom.” Cô đi ra cửa.
“Thế à, tôi...” Cô cười.
“Nhưng…”, anh ta bắt đầu, nhìn cô rồi quay sang Rhyme, anh đang
nhăn mặt, lắc
đầu.
“Chúc ngủ ngon, Thom”, cô nói một cách kiên quyết. “Cẩn thận không
vấp đấy.”
Và cô chậm rãi đóng cửa khi anh ta quay lại hành lang. Nó đóng lại với
một tiếng cạch lớn.
Sachs tháo giày, cởi quần áo. Cô mặc chiếc áo lót dây và quần lót
rộng thùng thình. Cô trèo lên chiếc giường Clinitron rồi nằm cạnh
Rhyme, thể hiện tất cả quyền năng mà người phụ nữ đẹp nắm giữ khi
ngủ cùng một người đàn ông.
Cô nằm cuộn tròn và cười.” Đúng là một cái giường hết ý.” Cô nói,
vươn người như một con mèo. Mắt vẫn nhắm, cô hỏi.”Anh không phản
đối chứ?”
“Tất nhiên là anh không phản đối.” “Rhyme?”
“Sao?”
“Kể em nghe về cuốn sách của anh, được chứ? Những hiện trường vụ
án khác?”
Anh bắt đầu kể về một tên giết người hàng loạt ranh mãnh ở Queens,
nhưng chưa đầy một phút cô đã ngủ say.
Rhyme nhìn xuống và thấy ngực cô đang áp vào ngực anh, đầu gối cô
gác lên đùi anh. Một sợi tóc phụ nữ vương trên mặt anh, lần đầu tiên
sau nhiều năm. Nó cù anh buồn buồn. Anh hoàn toàn quên mất điều
đó. Với một người thường xuyên sống trong quá khứ, với trí nhớ tốt
như thế, anh rất ngạc nhiên khi thấy mình không thể nhớ tốt như thế,
anh rất ngạc nhiên khi thấy mình không thể nhớ được chắc chắn lần
cuối cùng mình có được cảm giác này là lúc nào. Điều anh nhớ là sự
lộn xộn của những buổi tối với Blaine, anh nghĩ, trước khi tai nạn xảy
ra. Anh nhớ rằng anh đã chịu bị cù buồn, không gạt những lọn tóc ra
chỗ khác để không làm vợ mình thức giấc.
Còn bây giờ, tất nhiên anh sẽ không thể gạt những lọn tóc của Sachs
sang chỗ khác, thậm chí, nếu chính Chúa Trời ra lệnh. Nhưng anh cũng
không nghĩ đến việc gạt nó đi. Ngược lại, anh muốn cảm giác đó kéo
dài cho tới khi cả vũ trụ tan tành.
BA MƯƠI LĂM
Sáng hôm sau, Lincoln Rhyme lại ở một mình. Thom đã đi mua sắm và
Mel Cooper đang ở phòng thí nghiệm IRD tại trung tâm. Vince Peretti
đã làm xong công việc khám nghiệm hiện trường tại khu biệt thự ở East
Van Brevoort và nhà của Sachs. Họ tìm được rất ít manh mối mặc dù
Rhyme cho rằng đó là do thủ phạm quá thông minh chứ không phải do
tài năng không ổn định của Peretti.
Rhyme đang đợi báo cáo hiện trường vụ án. Nhưng cả Dobyns và
Sellitto đều tin rằng 823 đã trốn bặt – ít nhất là tạm thời. Trong mười
hai giờ qua, không có vụ tấn công cảnh sát và nạn nhân nào bị bắt cóc.
Người canh phòng cho Sachs – một sĩ quan tuần tra to lớn từ MTS –
đã cùng đi với cô tớ gặp bác sĩ tai mũi họng tại bệnh viện ở Brooklyn;
đất có ảnh hưởng lớn đến họng của cô. Rhyme cũng có vệ sĩ – một sĩ
quan mặc cảnh phục từ Đồn Hai mươi, đóng ngay trước khu nhà của
anh – một cảnh sát thân thiện mà anh đã biết nhiều năm qua, người
Rhyme rất thích tranh luận về ảnh hưởng của than bùn đến việc sản
xuất whisky ở Ireland và Scotland.
Rhyme đang rất vui. Anh gọi xuống dưới nhà qua máy liên lạc nội bộ.
“Tôi có hẹn với bác sĩ trong một, hai giờ tới. Cậu có thể cho ông ta
lên.”
Viên cảnh sát nói, anh ta sẽ làm theo.
Bác sĩ William Berger bảo đảm với Rhyme rằng lần này ông ta sẽ đến
đúng giờ.
Rhyme ngả đầu xuống gối và nhận ra trong phòng không chỉ có mình
anh. Trên gở cửa sổ, những con chim ưng đang bước đi. Õng ẹo một
cách hiếm thấy, chúng có vẻ bất ổn. Một cơn đau nữa lại đến. Cửa sổ
của Rhyme cho thấy bầu trời yên bình, nhưng anh tin tưởng lũ chim.
Chúng là dụng cụ đo khí áp chính xác.
Anh nhìn lên cái đồng hồ treo trên tường. Đã 11:00. Như hai hôm
trước, anh đang chờ sự xuất hiện của bác sĩ William Berger. Cuộc đời
là thế, anh nghĩ: trì hoãn hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng với
chút may mắn, ta vẫn đến được nơi ta cần đến.
Anh xem ti vi khoảng hai mươi phút, tìm kiếm tin tức về những vụ bắt
cóc. Nhưng tất cả các đài đều đưa tin đặc biệt về ngày khai mạc hội
nghị Liên Hiệp Quốc. Rhyme thấy những tin tức này buồn chán và
quay lại với Matlock141, rồi chuyển sang kênh CNN với nữ phóng
viên xinh đẹp đứng bên ngoài toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc, cuối
cùng anh
tắt máy.
Chuông điện thoại reo, anh làm một loạt động tác phức tạp để nhấc
máy. “Tôi
nghe.”
Một khoảng im lặng trước khi giọng một đàn ông vang lên:
“Lincoln, đúng
không?” “Đúng.”
“Jim Polling đây. Anh thế nào?”
Rhyme nhận ra rằng từ sáng sớm hôm qua anh đã không gặp viên đại
uý, ngoại trừ chương trình tin tức hội nghị tối hôm qua, lúc anh ta nhắc
vở cho Thị trưởng và sếp Wilson.
“Ổn rồi. Có tin gì về thủ phạm của ta không?” Rhyme hỏi.
“Chưa có gì. Nhưng chúng ta sẽ tóm được hắn.” Một khoảng im lặng
nữa. “Này, anh ở nhà có một mình à?”
“Ừ.”
Một khoảng im lặng lâu hơn. “Tôi đến, được chứ?”
“Chắc rồi.”
“Nửa tiếng nữa, được chứ?”
“Tôi sẽ ở đây”, Rhyme vui vẻ nói.
Anh ngả đầu xuống gối, ánh mắt anh lướt qua sợi dây phơi buộc nút
treo bên cạnh tấm áp phích. Vẫn chưa có câu trả lời về cái nút buộc.
Đó là – anh cười thành tiếng vì câu đùa – là phần còn thừa. Anh thấy
khó chịu với ý tưởng bỏ vụ này mà không phát hiện ra
141 Matlock: Chương trình truyền hình pháp luật của đài ABC, Mỹ.
đó là kiểu nút thắt nào. Rồi anh chợt nhớ ra Jim Polling là người câu cá.
Có thể anh sẽ nhận ra...
Polling, Rhyme trầm ngâm. James Polling...
Cái cách viên đại uý dai dẳng yêu cầu Rhyme tham dự vụ án thật là
buồn cười. Cách anh ta đấu tranh để giữ anh trong vụ này thay vì
Peretti – người sẽ là lựa chọn tốt hơn, về mặt chính trị cho Polling. Nhớ
lại cái cách anh ta nổi giận với Dellray khi viên đặc vụ này cố chiếm lấy
vụ điều tra từ NYPD.
Bây giờ anh nghĩ tới việc đó, toàn bộ sự liên quan của Polling vào vụ
này là một điều bí ẩn. 823 không phải là loại tội phạm mà anh tự
nguyện – ngay cả khi anh muốn có một vụ ngon lành để thêm vào lý
lịch công việc. Quá nhiều rủi ro để mất nạn nhân, quá nhiều cơ hội cho
báo chí – và giới quan chức – đánh hơi anh để làm thịt.
Polling... nhớ lại cách anh ta lao vào phòng anh, kiểm tra tiến độ công
việc rồi bỏ
đi.
Tất nhiên rồi, anh ta báo cáo cho Thị trường và sếp. Nhưng – một ý
nghĩ bất ngờ
vụt hiện trong đầu Rhyme – liệu Polling còn báo cáo cho ai đó khác
hay không?
Ai đó muốn tìm hiểu về cuộc điều tra? Có thể chính là hắn? Nhưng làm
thế nào mà Polling có quan hệ với 823? Có vẻ như... Thế rồi điều đó
khiến anh sợ hãi.
Liệu Polling có thể là thủ phạm không?
Tất nhiên là không. Thật lố bịch. Nực cười. Ngay cả không tính đến
động cơ và phương tiện, ta vẫn còn câu hỏi về cơ hội. Viên đại úy đã ở
đây, trong phòng của Rhyme, khi mấy vụ bắt cóc diễn ra...
Nhưng có phải thế không?
Rhyme nhìn lên bản hồ sơ treo trên tường.
Quần áo tối màu và chiếc quần dài bông nhàu nát. Polling mặc quần áo
thể thao tối màu suốt mấy ngày qua. Nhưng thế thì sao? Nhiều người
cũng làm thế...
Cánh cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại. “Thom?”
Không có tiếng trả lời. Người trợ lý sẽ không trở lại sau vài giờ nữa.
“Lincoln?”
Ồ không. Quỷ thật. Anh bắt đầu quay số bằng bộ ECU.
9-1-
Cằm anh đấy con trỏ sang số 2. Tiếng bước chân dưới cầu thang.
Anh thử quay số lại, nhưng trong cơn tuyệt vọng anh đẩy thanh điều
khiển ra khỏi tầm với.
Jim Polling vào phòng. Rhyme đã hy vọng người lính canh sẽ gọi anh
trước. Nhưng tất nhiên là anh chàng cảnh sát tuần tra sẽ để viên đại úy
mà không cần suy nghĩ.
Cái áo khoác tối màu của Polling mở phanh ra và Rhyme nhìn thấy
khẩu tự động anh ta đeo bên hông. Anh không biết liệu đó có phải
súng anh ta được cấp hay không. Nhưng anh biết Colt.32 là loại súng
trong danh sách vũ khí cá nhân được chấp nhận của NYPD.
“Chào Lincoln”, Polling nói. Anh ta trông rõ ràng có vẻ bất ổn, cảnh
giác. Anh ta nhìn khúc xương sống trắng bệch.
“Cậu thế nào, Jim?” “Không tệ.”
Polling là người ưa hoạt động. Liệu vết sẹo trên ngón tay có thể là dấu
tích của nhiều năm quăng dây câu? Hay một sự cố với con dao săn?
Rhyme cố nhìn nhưng Polling vẫn đút tay trong túi. Anh ta có giấu gì
trong đó không? Một con dao?
Chắc chắn Polling hiểu về hiện trường vụ án và pháp y – anh ta biết
làm thế nào để không để lại vật chứng.
Cái mặt nạ trượt tuyết? Nếu Polling là thủ phạm, chắc chắn anh ta phải
đeo mặt nạ
– vì một trong những nạn nhân sau này có thể nhìn thấy anh ta. Và
nước hoa dùng sau khi cạo râu... Nếu nghi phạm thực sự không dùng
nước hoa dùng sau khi cạo râu mà chỉ đem theo một lọ để phun ra hiện
trường khiến họ tin rằng hắn có dùng? Như vậy, khi Polling tới đây,
không dùng tí nước hoa nào, sẽ chẳng có ai nghi ngờ anh ta.
“Anh có một mình thôi à?” Anh ta hỏi. “Trợ lý của tôi...”
“Viên cảnh sát dưới nhà nói anh ta sẽ đi vắng một lúc.”
Thân hình Polling nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh, tóc màu cát. Lời nói của
Terry Dobyns trở lại trong đầu anh: một người hữu ích, thẳng thắn. Một
nhân viên hoạt động xã hội, luật sư, nhà chính trị. Người hay giúp đỡ
kẻ khác.
Như một cảnh sát.
Rhyme đang băn khoăn liệu anh sắp phải chết hay chưa. Và thấy sốc
khi nhận ra mình không muốn. Không phải kiểu này, không phải theo
điều kiện của người khác.
Polling tiến về phía chiếc giường.
Nhưng anh chẳng thể làm được gì. Hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhân
từ của người đàn ông này.
“Lincoln”, Polling nói, vẻ nghiêm trọng.
Ánh mắt họ gặp nhau và một cảm giác về sự liên kết như luồng điện
chạy qua người họ. Những tia lửa khô khốc. Viên đại úy nhìn nhanh ra
cửa sổ. “Anh cũng đang băn khoăn, đúng không?”
“Băn khoăn?”
“Lý do tôi muốn anh vào vụ này.” “Tôi nghĩ đó là vì tính cách của tôi.”
Viên đại uý không cười.
“Vì sao anh lại muốn tôi, Jim?”
Các ngón tay của viên đại uý đan vào nhau. Mảnh dẻ, nhưng mạnh mẽ.
Bàn tay của một người câu cá, môn thể thao có vẻ hiền lành, nhưng
mục tiêu lại là lôi con vật tội nghiệp ra khỏi nhà của nó, mổ bụng nó
bằng một lưỡi dao sắc ngọt.”
“Bốn năm trước, vụ Shepherd. Chúng ta làm cùng nhau.” Rhyme gật
đầu.
“Những người công nhân tìm thấy xác viên cảnh sát đó trong ga tàu
điện ngầm.”
Tiếng răng rắc, Rhyme nhớ lại, như âm thanh của tàu Titanic đang chìm
trong phim A night to remember. Sau đó là tiếng nổ như tiếng súng khi
thanh rầm rơi xuống cái cổ không may mắn của anh, và bụi đất bao
trùm lấy anh.
“Và anh tự khám nghiệm hiện trường, như mọi khi.” “Đúng thế.”
“Anh có biết chúng tôi kết án Shepherd thế nào không? Chúng tôi có
một nhân chứng.”
Một nhân chứng? Rhyme chưa được nghe điều đó. Sau vụ tai nạn, anh
đã mất hết tất cả manh mối liên quan đến vụ án, ngoại trừ việc
Shepherd đã bị kết án và ba tháng sau đã bị một kẻ tấn công đâm đến
chết trên đảo Riker. Tên này không bao giờ bị bắt.
“Một nhân chứng”, Polling nói tiếp. “Hắn có thể đặt Shepherd với vũ
khí giết người vào nhà một nạn nhân.” Viên đại úy tiến lại gần giường
hơn, đứng khoanh tay. “Chúng tôi có nhân chứng một ngày trước khi
phát hiện cái xác cuối cùng – cái xác dưới tàu điện ngầm. Trước khi tôi
yêu cầu anh khám nghiệm hiện trường.”
“Anh nói gì thế, Jim?”
Mắt viên đại úy cắm xuống sàn.
“Chúng tôi không cần anh. Chúng tôi không cần báo cáo của anh."
Rhyme im lặng.
Polling gật đầu. “Anh hiểu điều tôi nói chứ? Tôi đã rất muốn bắt tên
Shepherd đó... Tôi muốn có một vụ thật chặt chẽ. Và anh biết là báo
cáo hiện trường vụ án của
Lincoln Rhyme sẽ làm điều gì với luật sư bảo vệ rồi đấy. Nó làm cho
bọn họ sợ mất
mật.”
“Nhưng Shepherd có thể vẫn bị kết án mà không cần đến báo cáo về
hiện trường dưới tàu điện ngầm của tôi.”
“Đúng thế, Lincoln. Nhưng còn tệ hơn thế nữa. Anh biết không tôi
được bên thiết kế giao thông cho biết chỗ đó không an toàn.”
“Ga tàu điện ngầm. Và anh vẫn để tôi khám nghiệm hiện trường trước
khi họ chống lại nó?”
“Shepherd giết cảnh sát.” Mặt Polling nhăn nhúm vì ghê tởm. “Tôi rất
muốn bắt được hắn. Tôi sẽ làm mọi thứ để tóm hắn. Nhưng...” Anh ta
lấy tay che mặt.
Rhyme im lặng. Anh nghe thấy tiếng răng rắc của thanh rầm, tiếng nổ
tung của gỗ gãy. Sau đó là tiếng xào xạc của đám bụi xung quanh anh.
Sự bình an ấm áp, lạ lùng trong cơ thể lúc trái tim anh phập phồng vì
hoảng sợ.
“Jim...”
“Chính vì thế tôi muốn anh vào vụ này, Lincoln. Anh thấy không?” Một
cái nhìn khốn khổ xuất hiện trên khuôn mặt cứng rắn của viên đại úy;
anh ta nhìn chằm chằm vào đốt xương sống trên bàn. “Tôi vẫn được
nghe những câu chuyện nói rằng cuộc đời anh coi như đã vứt đi. Anh
đang bị bỏ phí ở đây. Định tự tử. Tôi thấy có lỗi kinh khủng. Tôi muốn
trả lại anh một phần cuộc sống.”
Rhyme nói: “Và anh đã sống với điều này suốt ba năm rưỡi qua?”
“Anh biết tôi rồi đấy, Lincoln. Mọi người biết tôi. Tôi bắt được ai đó,
hắn phản ứng lại, hắn sẽ toi. Tôi đã chơi rắn với vài tên, tôi không dừng
lại tới khi thằng khốn bị đóng gói rồi dán nhãn. Tôi không kiểm soát
được điều đó. Tôi biết là đôi khi tôi đã quá tay với mọi người. Nhưng
chúng là tội phạm – hay ít nhất là nghi phạm. Chúng không phải người
của tôi, chúng không phải cảnh sát. Điều này xảy ra với anh... là tội ác.
Là quá sai.”
“Tôi không phải lính mới”, Rhyme nói. “Tôi không phải khám
nghiệm hiện trường nếu tôi nghĩ nơi đó không an toàn.”
“Nhưng...”
“Không đúng lúc chăng?” Một giọng nói khác vang lên ngoài cửa.
Rhyme ngẩng lên, nghĩ rằng sẽ trông thấy Berger. Nhưng đó là Peter
Taylor, ông ta đang lên cầu thang. Rhyme nhớ là ông ta đã đến đây
ngày hôm nay để chăm sóc bệnh nhân sau khi bị mất phản xạ. Anh
cũng nghĩ rằng ông bác sĩ sẽ lại cho anh một bài về Berger và Hội Bến
mê. Anh thì không có tâm trạng cho việc này; anh muốn có thời gian ở
một mình – để tiêu hoá lời thú tội của Polling. Lúc này, nó cũng chỉ nằm
đó, tê liệt như chính bắp đùi của Rhyme. Nhưng anh nói: “Vào nhà đi,
Peter.”
“Cậu có hệ thống an ninh rất buồn cười, Lincoln ạ. Người bảo vệ hỏi
tôi có phải là bác sĩ không rồi anh ta cho tôi lên. Sao thế? Vậy luật sư
và kế toán bị đá đít à?”
Rhyme cười. “Tôi chỉ cần một giây thôi.” Rhyme quay lại với Polling.
“Số phận thôi, Jim ạ. Điều xảy ra với tôi ấy mà. Tôi chỉ ở không đúng
nơi và không đúng lúc thôi. Thỉnh thoảng điều đó vẫn xảy ra.”
“Cảm ơn, Lincoln.” Polling đặt tay lên vai Rhyme và bóp nhẹ.
Rhyme gật đầu, và để tránh sự biết ơn không dễ dàng, anh giới thiệu
hai người với nhau. “Jim, đây là Peter Taylor, một trong những bác sĩ
của tôi. Còn đây là Jim Polling, chúng tôi đã từng làm việc với nhau.”
“Rất vui được gặp anh”, Taylor nói, chìa tay phải ra. Đó là một cử
động dài và ánh mắt Rhyme nhìn theo nó, vì một lý do nào đó anh nhận
ra vết sẹo hình vành trăng sâu trên ngón tay trỏ của Taylor.
“Không!” Rhyme la lớn.
“Vậy mày cũng là cớm.” Taylor nắm chặt tay Polling trong khi hắn thọc
ba lần lưỡi dao đang được hắn nắm chắc bên tay trái vào ngực viên đại
úy, xuyên qua kẽ xương sườn với sự tinh tế của một bác sĩ phẫu thuật.
Chắc chắn là hắn không phạm đến chiếc xương quý giá.
BA MƯƠI SÁU
Chỉ với hai bước dài Taylor đã đến bên chiếc giường. Hắn vớ lấy bộ
điều khiển
ECU đang nằm dưới ngón tay Rhyme và ném nó đi.
Rhyme lấy hơi để thét gọi. Nhưng tên bác sĩ nói: “Hắn cũng chết rồi.
Tên cớm.” Hất đầu về phía cửa, chỉ người cận vệ dưới nhà. Taylor
thích thú nhìn Polling đang giãy giụa như một con thú gãy lưng, phun
máu ra nền nhà và lên tường.
“Jim!” Rhyme gào lên. “Không, ôi, không...”
Hai bàn tay viên đại uý ôm lấy lồng ngực bị rạch nát của anh ta. Tiếng
ằng ặc đáng sợ của anh ta tràn ngập căn phòng, cộng với tiếng đế giày
đập như điên dại xuống sàn khi anh ta chết. Cuối cùng, anh ta giật bắn
người một lần nữa rồi nằm yên. Hai con mắt mờ đục, lấm tấm máu của
anh ta nhìn lên trần nhà.
Quay lại phía Rhyme, hắn nhìn chằm chằm vào anh khi đi vòng quanh
chiếc giường. Đi vòng quanh, dao trên tay. Hơi thở lạnh lùng.
“Ông là ai?” Rhyme thở hổn hển.
Taylor từ từ tiến lại gần hơn, đặt các ngón tay lên tay Rhyme và bóp
xương vài lần, có thể mạnh, có thể đau, có thể không. Bàn tay hắn lần
xuống ngón tay đeo nhẫn bên trái của Rhyme. Hắn nhấc nó ra khỏi bộ
điều khiển ECU và chăm sóc nó bằng lưỡi dao đang nhỏ máu. Thọc
đầu nhọn con dao vào móng tay.
Rhyme cảm thấy một cơn đau mờ nhạt, một cảm giác buồn nôn. Sau
đó đau hơn. Anh thở hổn hển.
Sau đó, Taylor nhận thấy điều gì đó và cứng đờ người. Hắn thở hổn
hển. Cúi người ra trước. Nhìn chằm chằm vào cuốn sách Crime in Old
New York trên chiếc giá lật trang.
“Ra thế... Mày tìm được nó đấy... Ồ, bọn cớm chắc phải tự hào lắm vì
có mày trong đội ngũ, Lincoln Rhyme ạ. Tao đã nghĩ phải mất nhiều
ngày thì bọn mày mới tìm được ngôi nhà. Tao nghĩ lúc đó Maggie đã bị
lũ chó xé nát rồi.”
“Sao ông lại làm thế?” Rhyme hỏi.
Nhưng Taylor không trả lời, hắn đang cẩn thận xem xét Rhyme, lẩm
bẩm như nói với chính mình: “Trước đây, mày không được giỏi thế này,
mày biết không? Ngày xưa ấy mà. Khi đó mày bỏ qua nhiều thứ quá,
đúng không? Ngày xưa ấy mà.”
Ngày xưa... ý hắn ta là gì?
Hắn lắc lắc cái đầu hói, tóc hoa râm – không phải nâu – và liếc nhìn
cuốn sách pháp y của Rhyme. Có sự thừa nhận trong mắt hắn và
Rhyme dần dần hiểu ra.
“Ông đọc sách của tôi”, nhà hình sự học nói. “Ông nghiên cứu nó.
Trong thư viện, đúng không? Chi nhánh thư viện công cộng gần nhà
ông?”
Cuối cùng thì 823 cũng là một kẻ đọc sách.
Vì thế hắn biết quy trình khám nghiệm hiện trường của Rhyme. Vì thế
hắn quét chúng cẩn thận, vì thế hắn đeo găng tay khi sờ vào những bề
mặt mà hầu hết bọn tội phạm không nghĩ là sẽ để lại dấu tay, vì thế hắn
phun nước hoa dùng sau khi cạo râu tại hiện trường – hắn biết chính
xác Sachs sẽ tìm kiếm thứ gì.
Và tất nhiên cẩm nang đó không phải là cuốn duy nhất hắn đọc.
Cả Scenes of The Crime nữa. Cuốn này cho hắn ý tưởng về những
manh mối để lại
– những manh mối New York cổ xưa. Những manh mối chỉ Rhyme
mới có thể giải mã.
Taylor nhặt đĩa có đốt xương sống mà hắn đưa cho Rhyme tám tháng
trước lên. Hắn lơ đãng xoay xoay nó giữa các ngón tay. Và Rhyme
nhìn thấy món quà, khi đó thật cảm động, nhưng giờ hoá ra lại là một
lời nói đầu thật kinh khủng.
Mắt hắn không tập trung, nhìn xa xăm. Rhyme nhớ lại trước đây anh đã
nhìn thấy điều đó – khi Taylor khám cho anh trong những tháng qua.
Anh đã xem điều đó là sự tập trung của một bác sĩ nhưng giờ anh hiểu,
đó là sự điên loạn. Khả năng kiềm chế mà anh đang cố duy trì dần biến
mất.
“Nói cho tôi biết”, Rhyme hỏi. “Vì sao?”
“Vì sao à?” Taylor thầm thì, lướt tay trên chân Rhyme, ấn thử lần nữa,
đầu gối, da, mắt cá chân. “Vì mi rất tuyệt vời, Rhyme ạ. Độc đáo. Mi
là người không có điểm yếu.”
“Ý ông là gì?”
“Làm sao có thể trừng phạt được một người đang muốn chết? Nếu ta
giết hắn, ta đã làm điều hắn muốn. Vì thế ta phải làm cho mi muốn
sống.”
Cuối cùng thì câu trả lời cũng đến với Rhyme.
Ngày xưa...
“Đồ giả phải không?” Anh thầm thì. “Bản cáo phó từ nhân viên điều tra
đột tử ở
Albany. Chính ông viết nó.”
Collin Stanton. Bác sĩ Taylor chính là Colin Stanton.
Người đàn ông có gia đình bị tàn sát ngay trước mắt ông ta, trên những
con phố của khu Chinatown. Người đàn ông đứng đó, tê liệt trước thi
thể của vợ và hai đứa con, nhìn họ mất máu cho đến chết, ghê sợ khi
không dám lựa chọn cứu ai trong số họ.
Mi bỏ qua nhiều thứ. Ngày xưa.
Miếng ghép cuối cùng đã vào đúng chỗ, nhưng quá muộn.
Việc hắn nhìn các nạn nhân: T.J. Colfax, Monelle và Carole Ganz. Hắn
chấp nhận nguy cơ bị bắt để đứng lại và nhìn họ – đúng như Stanton
đứng nhìn gia đình mình, nhìn họ đã chết dần. Hắn muốn báo thù nhưng
hắn lại là bác sĩ, hắn đã thề không bao giờ giết người, vì thế để có thể
giết chóc hắn phải trở thành tổ tiên tinh thần của chính mình – Kẻ Tầm
Xương, James Schneider, một tên điên loạn của thế kỷ XIX, người có
gia đình bị cảnh sát làm tan nát.
“Sau khi ra khỏi nhà thương điên, ta quay lại Manhattan. Ta đọc báo
cáo điều tra về việc mi đã bỏ qua tên giết người tại hiện trường vụ án
như thế nào, hắn thoát khỏi căn hộ đó ra sao. Ta biết ta phải giết mi.
Nhưng ta không thể. Ta không biết vì sao... Ta cứ đợi, đợi điều gì đó
xảy ra. Rồi sau đó, ta tìm thấy cuốn sách. James Schneider... Hắn đã
trải qua chính xác những gì mà ta đã trải qua. Hắn đã làm được, ta
cũng làm được.”
Ta sẽ lóc họ đến tận xương.
“Bản cáo phó”, Rhyme nói.
“Đúng thế. Chính ta viết nó trên máy tính. Fax nó đến NYPD để họ
không nghi ngờ. Sau đó, ta trở thành một người khác. Bác sĩ Peter
Taylor. Mãi về sau ta mới nhận ra vì sao ta chọn cái tên này. Mi nghĩ ta
được không?” Stanton nhìn lên tấm bảng trên tường. “Câu trả lời ở
đó.”
Rhyme nhìn qua hồ sơ.
• Biết tiếng Đức cơ bản
“Schneider”, Rhyme nói, thở dài mệt mỏi. “Tiếng Đức là thợ may142.”
Stanton gật đầu. “Ta đã ở thư viện hàng tuần, đọc về chấn thương cột
sống và sau đó gọi điện cho mi, nói rằng ta được SCI Columbia giới
thiệu. Ta định giết mi ngay từ lần đầu tiên, lóc từng rẻo thịt của mi ra,
để cho mi mất máu đến chết. Sẽ phải mất vài giờ, thậm chí vài ngày.
Nhưng chuyện gì xảy ra?” Mắt hắn mở to.” Ta thấy mi muốn tự giết
mình.”
Hắn cúi xuống gần Rhyme. “Lạy Chúa, ta vẫn nhớ lần đầu tiên ta nhìn
thấy mi. Đồ khốn kiếp. Mi chết rồi. Thế là ta biết ta phải làm gì – ta
phải là cho mi muốn sống. Ta phải cho mi mục tiêu để sống.”
Tức là hắn bắt ai không quan trọng. Ai cũng được. “Thậm chí ông
không quan tâm nạn nhân sống hay chết.”
“Tất nhiên là không. Điều tao muốn là bắt mi cố cứu họ.”
“Nút thắt”, Rhyme hỏi, nhìn thấy là vòng dây phơi treo cạnh tấm áp
phích. “Đấy là mũi khâu phẫu thuật.”
Hắn gật đầu.
“Tất nhiên rồi. Còn vết sẹo trên tay ông?”
“Ngón tay ta?” Hắn nhăn mặt. “Làm sao mi... Cổ cô ta! Mi lấy dấu tay
trên cổ Hanna. Ta biết là có thể. Ta không nghĩ đến điều đó.” Tự giận
mình. “Ta đập vỡ cốc trong thư viện của nhà thương điên”, Stanton
tiếp tục. “Để tự cắt cổ tay. Ta bóp cho đến khi nó vỡ tan.” Hắn cà
điên dại vào vết sẹo trên ngón tay trỏ.
“Những người đã chết”, Rhyme nói đều đều. “Vợ và các con ông. Đó
là tai nạn. Một tai nạn khủng khiếp, đáng sợ. Nhưng không phải là cố
tình. Đó là một sự sai lầm. Tôi rất lấy làm tiếc cho ông và cho họ.”
Bằng một giọng ngân nga, Stanton quở trách: “Có nhớ mi đã viết gì
không?... Trong lời mở đầu cuốn sách giáo khoa của mi?” Hắn trích
dẫn một cách chính xác. “Một nhà hình sự học biết rằng mỗi hành động
đều có hậu quả. Sự hiện diện của tội phạm làm biến đổi mọi hiện
trường vụ án, bất kể nó mờ nhạt đến đâu. Chính vì thế chúng ta có thể
phát hiện, định vị được bọn tội phạm và nắm được công lý.” Stanton
nắm tóc Rhyme và kéo đầu anh ra phía trước. Họ chỉ cách nhau vài
inch. Rhyme có thể ngửi thấy hơi thở của tên điên loạn, thấy được
những giọt mồ hôi trên làn da màu xám. “Được rồi, ta là hậu quả cho
những hành động của mi.”
“Ông sẽ đạt được điều gì? Ông có giết tôi thì tôi cũng không tệ hơn
bây giờ.”
142 Thợ may: Tailor, đọc như Taylor, có nghĩa là thợ may.
“Ồ, nhưng ta chưa giết ngươi. Chưa đâu.” Stanton thả tóc Rhyme ra,
lùi lại.
“Mi có biết ta sẽ làm gì không?” Hắn thầm thì. “Ta sẽ giết tay bác sĩ
của ngươi, Berger. Nhưng không theo cách giết của hắn. Ồ, không
thuốc ngủ, không rượu. Ta sẽ xem hắn có thích chết theo cách truyền
thống không. Sau đó là bạn mi, Sellitto. Còn sĩ quan Sachs? Cả cô ta
nữa. Cô ta là người may mắn đấy. Nhưng lần sau ta sẽ tóm được cô
ta. Một lần chôn cất cho cô ta nữa nhé. Tất nhiên cả Thom nữa. Nó sẽ
chết ngay ở đây, trước mặt mi. Ta sẽ lóc nó đến tận xương... đẹp đẽ
và chậm rãi.” Hơi thở của Stanton gấp gáp. “Có thể ta sẽ chăm sóc nó
ngay hôm nay. Khi nào thì nó về nhỉ?”
“Tôi đã sai lầm. Đó là...” Bất ngờ Rhyme ho dữ dội. Anh hắng giọng,
cố lấy lại hơi thở. “Đó là lỗi của tôi. Ông làm gì tôi cũng được.”
“Không. Không phải là mi. Đó là...”
“Làm ơn di. Ông không thể...” Rhyme lại bắt đầu ho. Cơn ho biến
thành những cơn rung toàn thân. Anh không thể điều khiển được mình
nữa rồi.
Stanton nhìn anh.
“Ông không thể làm đau họ. Tôi sẽ làm điều gì đó...” Giọng của Rhyme
gấp gáp. Đầu anh lật ra sau, mắt lồi ra.
Hơi thở của Lincoln Rhyme ngừng hẳn. Đầu anh lắc lư, vai rung bần
bật. Gân cổ cứng như dây thép.
“Rhyme!” Stanton gào lên.
Sùi bọt mép, môi phun nước bọt, Rhyme giật người một lần, hai lần
như thể một cơn động đất tràn qua cơ thể mềm oặt của anh. Đầu anh
rơi ra sau, khoé miệng rỉ máu.
“Không!” Stanton hét lên. Ấn tay vào ngực Rhyme. “Mi không được
chết!” Viên bác sĩ lật mí mắt Rhyme, nhìn thấy toàn lòng trắng.
Stanton mở tung hộp cứu thương của Thom và lấy mũi tiêm huyết áp
dưới da, tiêm thuốc. Hắn ném cái gối khỏi giường và kéo Rhyme nằm
thẳng ra. Hắn lật ngửa đầu Rhyme, lau môi và áp miệng hắn vào miệng
Rhyme, thỏi mạnh vào hai lá phổi đã tê liệt của Rhyme.
“Không!” Stanton phát khùng. “Ta không cho mi chết! Mi không được
chết.” Không một chút phản hồi.
Một lần nữa. Hắn kiểm tra đôi mắt bất động. “Nào! Nào!”
Một lần hà hơi nữa. Đập vào bộ ngực bất động.
Sau đó hắn lùi lại, chết cứng vì hoảng loạn và sốc, nhìn, nhìn chằm
chằm người đàn ông đang chết trước mặt hắn.
Cuối cùng hắn cúi xuống và thổi thật sâu vào miệng Rhyme lần cuối
cùng.
Và đúng vào lúc Stanton nghiêng đầu, ghé tai để lắng nghe một âm
thanh yếu ớt của hơi thở, bất kỳ tiếng thở ra yếu ớt nào, Rhyme phóng
về phía trước như một con rắn đang mổ. Anh cắn chặt răng vào cổ
Stanton, xé tung động mạch cảnh và cắn môi vào một phần xương
sống của người đàn ông.
Đến tận...
Stanton gào lên vào quờ quạng vật ra sau, kép Rhyme ngã khỏi giường
và rơi đè lên hắn. Họ nằm trên sàn. Máu nóng phun ra, ngập trong
miệng Rhyme.
... xương
Lá phổi của anh, hai lá phổi sát thủ của anh, đã không có không khí
suốt một phút, nhưng anh từ chối không nhả ra để lấy hơi, bỏ qua cơn
đau đớn khủng khiếp bên trong má, nơi làn da mềm mại bị anh cắn đến
chảy máu để làm cho cơn đột quỵ do mất phản xạ của anh đến nhanh
hơn. Anh gầm gừ trong cơn giận dữ – tưởng tượng cảnh Amelia Sachs
bị chôn dưới đất, tưởng tượng cảnh hơi nước phun lên cơ thể T.J.
Colfax – anh lắc đầu, cảm thấy tiếng lạo xạo của xương và sụn.
Stanton lại gào lên, đập dữ dội vào ngực Rhyme. Đạp chân để thoát
khỏi con quái vật đã cắm chính nó vào hắn ta.
Nhưng không thể thoát khỏi hàm răng của Rhyme. Dường như tinh
thần của tất cả các cơ bắp thịt đã chết trong cơ thể anh dồn cả lên hai
hàm răng.
Stanton bò tới cái bàn đầu giường và cố với được con dao của hắn.
Hắn đánh mạnh vào Rhyme. Một lần, hai lần. Nhưng những nơi duy
nhất hắn có thể với tới là tay chân của nhà hình sự học. Cơn đau là thứ
làm người ta tê liệt, nhưng cơn đau lại là thứ Rhyme hoàn toàn miễn
dịch.
Hai hàm răng anh nghiến chặt hơn, tiếng thét của Stanton tắt ngấm lúc
khí quản hắn đứt rời. Hắn thọc dao sâu vào tay của Rhyme. Con dao
bị chặn lại khi chạm đến xương. Hắn bắt đầu rút nó ra để đâm lần nữa,
nhưng cơ thể của tên điên loạn đột nhiên đông cứng rồi quẫy mạnh,
một lần, hai lần, và hoàn toàn mềm oặt.
Stanton đổ vật xuống sàn, kéo theo Rhyme. Đầu nhà hình sự học đập
bộp xuống nền gỗ sồi. Nhưng anh không buông tha. Anh bám chặt,
tiếp tục nghiến ngấu cổ của người đàn ông, lắc, xé thịt như con sư tử
đói say máu và điên loạn bởi sự khoái lạc vô biên của cơn khát thèm
được thoả mãn.
V
KHI TA DI CHUYỂN, CHÚNG KHÔNG THỂ BẮT ĐƯỢC TA
Nghĩa vụ của người bác sĩ không chỉ là kéo dài cuộc sống, mà còn là
chấm dứt sự khổ đau.
BÁC SĨ JACK KEVORKIAN
BA MƯƠI BẢY
7:15 PM đến 10:00 PM thứ Hai
Khi Sachs bước vào phòng anh thì mặt trời đã sắp lặn.
Cô không mặc đồ thể thao. Cũng không phải cảnh phục. Cô mặc quần
bò và chiếc áo khoác màu xanh lá cây. Trên khuôn mặt xinh đẹp của
cô có vài vết sẹo mà Rhyme không nhận thấy, mặc dù anh đoán với
những sự kiện trong ba ngày qua thì những vết thương này không phải
tự có.
“Ái chà”, cô nói trong khi đi vòng quanh phần sàn nhà nơi Stanton và
Polling đã chết. Chỗ đó đã được lau sạch bằng chất tẩy rửa – khi tên
tội phạm đã vào trong quan tài thì pháp y trở thành thừa thãi – nhưng
vết bẩn thì thật khổng lồ.
Rhyme nhìn Sachs dừng lại và lạnh lùng gật đầu chào bác sĩ William
Berger, ông ta đang đứng cạnh ô cửa sổ của con chim ưng với chiếc
va li bên cạnh.
“Anh tóm được hắn rồi, đúng không?” Cô hỏi, hất đầu về phía vết
máu. “Ừ”, Rhyme nói. “Hắn toi rồi.”
“Một mình anh?”
“Cũng không công bằng lắm”, anh nói. “Anh phải cố kìm chế mình.”
Phía bên ngoài, mặt trời đang xuống thấp, đổ thứ ánh sáng rực rỡ
xuống thắp sáng những ngọn cây và đường viền của những toà nhà tinh
tế dọc theo Đại lộ Năm phía bên kia công viên.
Sachs liếc nhìn bác sĩ Berger, ông này nói: “Lincoln và tôi vừa có cuộc
trao đổi
nhỏ.”
“Đúng thế ư?”
Một khoảng im lặng thật dài.
“Amelia”, anh bắt đầu. “Anh sẽ tiến hành thôi. Anh quyết định rồi.”
“Em thấy rồi.” Đôi môi tuyệt đẹp của cô, đang bị những mũi khâu nhỏ
xíu làm
hỏng, hơi mím lại một chút. Đó là phản ứng duy nhất của cô. “Anh biết
không, em rất ghét khi bị anh đem tên riêng ra gọi. Em rất ghét.”
Làm thế nào mà anh giải thích được cho cô biết rằng cô là lý do chính
để anh chọn cái chết cho mình? Buổi sáng hôm đó, khi thức dậy và có
cô bên cạnh, anh buồn bã nhận ra rằng rồi cô sẽ bước xuống giường,
mặc quần áo và đi ra cửa – trở lại với cuộc sống riêng của cô, cuộc
sống bình thường. Vì sao, câu chuyện tình của họ đã kết thúc – nếu
như anh dám nghĩ về họ như một đôi tình nhân. Việc cô tìm thấy một
anh chàng Nick khác để yêu chỉ là vấn đề thời gian. Vụ 823 đã chấm
dứt, và không có nó để liên kết họ lại thì cuộc sống của họ sẽ trôi ra
rất xa nhau. Điều đó là chắc chắn.
Ồ, Stanton thực sự thông minh hơn anh nghĩ. Rhyme đã bị lôi kéo tới
bờ vực của thế giới thực thêm một lần nữa và, đúng thế, anh đã vượt
qua nó, rất xa.
Sachs, anh nói dối đấy. Đôi khi ta không thể bỏ qua những người đã
chết. Đôi khi ta phải cùng đi với họ...
Hai bàn tay nắm chặt, cô đi về phía cửa sổ. “Em đã cố gắng nghĩ ra
một lý lẽ đủ mạnh mẽ để thuyết phục anh đừng làm điều đó. Anh biết
đấy, một điều thực sự hấp dẫn. Nhưng em không thể. Tất cả những gì
em có thể nói là em không muốn anh làm điều đó.”
“Thoả thuận là thoả thuận, Sachs ạ.”
Cô nhìn Berger. “Mẹ kiếp, Rhyme.” Bước tới phía giường, cô quỳ
xuống. Cô đặt tay lên vai anh, vuốt tóc trên trán cho anh. “Nhưng anh
làm cho em một việc nhé.”
“Việc gì?”
“Cho em một vài giờ.”
“Anh không thay đổi ý định đâu.”
“Em hiểu. Chỉ cần hai giờ thôi. Có một việc anh cần phải làm trước
đã.”
Rhyme nhìn Berger. Ông ta nói: “Tôi không thể ở lại lâu hơn được nữa,
Lincoln. Máy bay của tôi... Nếu anh muốn đợi thì một tuần nữa tôi có
thể quay lại...”
“Được rồi, bác sĩ...”, Sachs nói. “Tôi sẽ giúp anh ấy.” “Cô?” Ông bác
sĩ nghi ngờ hỏi.
Cô miễn cưỡng gật đầu. “Vâng.”
Đó là bản chất của cô. Rhyme có thể thấy rất rõ điều đó. Anh nhìn vào
đôi mắt xanh của cô, tràn lệ nhưng thật trong sáng.
Cô nói: “Khi em bị... khi hắn chôn sống em, Rhyme ạ, em không cử
động được. Không một ly. Trong một khắc, em rất mong được chết.
Không phải sống nữa, chỉ làm sao để chấm dứt điều đó. Em hiểu cảm
giác của anh.”
Rhyme chậm rãi gật đầu rồi nói với Berger: “Được rồi, bác sĩ. Anh có
thể để lại... Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ?”
“Đồ dùng cá nhân được không?” Berger đề xuất. “Ông có thể để nó
trên bàn, ở đằng kia.”
“Cô chắc chứ?” Ông ta hỏi Sachs. Cô lại gật đầu.
Người bác sĩ để những viên thuốc, chai brandy và cái túi nhựa lên
chiếc bàn đầu giường. Sau đó ông ta lục lọi trong va li. “Tôi sợ tôi
không có dây chun. Buộc cái túi.”
“Được rồi”, Sachs nói, nhìn xuống đôi giày của cô. “Tôi có vài sợi.”
Sau đó Berger đi lại gần giường, đặt tay lên vai Rhyme. “Tôi chúc anh
tự giải thoát bình yên”, ông ta nói.
“Tự giải thoát”, Rhyme châm biếm nói khi Berger đi khỏi. Sau đó nói
với Sachs: “Còn bây giờ, anh cần làm gì nhỉ?”
Cô quay xe lúc đang chạy với tốc độ năm mươi dặm một giờ, trượt
mạnh trên đường và êm ả chuyển sang số bốn.
Gió thốc vào qua cửa sổ mở rộng, thổi tóc họ bay tung. Gió dữ dội
nhưng Sachs chưa bao giờ nghe nói tới chuyện lái xe mà đóng cửa sổ.
“Thế thì không phải là kiểu Mỹ rồi”, cô tuyên bố và vượt ngưỡng một
trăm dặm một giờ.
Khi ta di chuyển...
Rhyme cho rằng sẽ sáng suốt hơn nếu họ lái xe trong bãi tập của
NYPD nhưng anh không ngạc nhiên khi Sachs tuyên bố đó là đường
chạy vớ vẩn; cô đanh bại nó ngay trong tuần đầu tiên tại học viện. Vậy
là họ chạy ra Long Island, câu chuyện về lý do để “đối phó” với
cảnh sát Hạt Nassau của họ đã sẵn sàng, vì họ đã luyện
qua và nó có vẻ đáng tin.
“Vấn đề của xe có năm số là số cao nhất không phải là số nhanh nhất.
Đó là số chạy đường trường, em thì không quan tâm đến tiết kiệm xăng
và đường trường”. Sau đó cô nắm lấy tay trái anh đặt chiếc núm tròn
màu đen, trùm tay cô lên tay anh, về số.
Động cơ gầm lên và họ vọt lên tốc độ một trăm hai mươi dặm một giờ,
những ngôi nhà và hàng cây lao qua vun vút, những con ngựa đang ăn
cỏ trên cánh đồng lo lắng ngẩng lên nhìn theo vệt đen của chiếc
Chevrolet đang lao qua.
“Đỉnh quá, phải không Rhyme?” Cô nói to. “Hết ý, hơn cả sex. Hơn
mọi thứ”. “Anh cảm thấy sự chuyển động”, anh nói. “Anh nghĩ là anh
cảm thấy được. Ở
ngón tay anh.”
Cô cười. Anh tin rằng cô siết chặt tay anh trong bàn tay cô. Cuối cùng
họ cũng chạy hết đoạn đường vắng, xung quanh lại đông người. Sachs
miễn cưỡng giảm tốc độ, quay xe hướng về phía vầng trăng lưỡi liềm
vừa mọc trên thành phố xa xa, gần như vô hình trong không khí tháng
Tám ngột ngạt.
“Thử chạy với tốc độ một trăm năm mươi xem sao”, cô đề nghị.
Lincoln Rhyme nhắm mắt, thả mình vào trong gió, mùi cỏ mới cắt và
tốc độ.
Đó là buổi tối nóng nhất trong tháng.
Từ điểm quan sát mới của mình, Lincoln Rhyme có thể nhìn xuống
công viên, nhìn ngắm những kẻ lập dị ngồi trên ghế đá, những người
chạy bộ kiệt sức, các gia đình ngồi quây quần quanh khói của chiếc
bếp nướng thịt đang lụi tàn như những kẻ sống sót sau một cuộc chiến
thời trung cổ.
Thom đã cho đĩa CD vào máy – khúc khoan thai bi tráng cho đàn dây
của Samuel Barber143. Nhưng Rhyme nở một nụ cười chế giễu, tuyên
bố rằng điệu nhạc này là một lời chia buồn sáo rỗng và ra lệnh cho cậu
ta thay nó bằng Gershwin144.
143 Samuel Osborne Barber (1910 – 1981): Nhà soạn nhạc opera,
nhạc cho piano và nhạc giao hưởng người Mỹ.
144 George Gershwin (1898 – 1937): Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ
dương cầm người Mỹ.
Amelia Sachs lên cầu thang, vào phòng ngủ của anh và nhận thấy anh
đang nhìn ra ngoài. “Anh nhìn gì vậy?” Cô hỏi.
“Những người nóng bỏng.”
“Và những con chim? Lũ chim ưng?” “À, đúng rồi, chúng nó ở kia.”
“Cũng nóng bỏng chứ?”
Anh nhìn con chim đực. “Anh không nghĩ thế. Hình như chúng nó
vượt lên trên điều đó”.
Cô đặt cái túi xuống chân giường và nhấc thứ bên trong ra, một chai
brandy đắt tiền. Anh nhắc cô về chai whisky Scotch nhưng cô nói cô
sẽ góp phần rượu. Cô đặt nó bên cạnh những viên thuốc và cái túi
nhựa. Trông như một người vợ chuyên nghiệp vui tươi, vừa từ
Balducci’s145 về nhà đem theo hàng đống rau dưa và đồ biển nhưng
lại có
quá ít thời gian để nấu nướng.
Cô còn mua thêm ít đá, theo yêu cầu của Ryhme. Anh nhớ Berger đã
nói đến sức nóng của cái túi. Cô mở nút chai Courvoisier146, rót cho
mình một ly và đổ đầy cái cốc vại của anh, đưa ống hút vào miệng cho
anh.
“Thom đâu?” Cô hỏi anh. “Ra ngoài”
“Anh ta có biết không?” “Có.”
Họ cùng nhấm nháp rượu.
“Anh có muốn em nhắn gì cho vợ anh không?”
Rhyme suy nghĩ một lúc lâu: chúng ta có nhiều năm để chuyện trò với ai
đó, để giãi bày và khoác lác, để nói về khát vọng, sự giận dữ và những
nỗi hối tiếc – và than ôi, chúng ta đã lãng phí những khoảnh khắc đó
như thế nào. Còn Amelia Sachs, anh mới biết cô có ba ngày và họ đã
cùng thổ lộ tâm tình nhiều hơn những gì anh và Blaine đã làm trong gần
một thập kỷ.
“Không”, anh nói. “Anh đã gửi mail cho cô ấy.” Anh cười thầm. “Thực
sự là một món quà của thời đại chúng ta, phải nói là như thế.”
Uống thêm một chút rượu, vị đắng se se lan tỏa trong miệng anh. Êm
hơn, mờ mịt hơn, nhẹ nhàng hơn.
Sachs cúi xuống giường, chạm cốc với anh.
“Anh có một ít tiền”, Rhyme bắt đầu. “Anh chuyển cho Blaine và Thom
phần lớn. Anh…”
145 Balducci’s: Một trong những công ty thực phẩm đặc biệt lớn nhất
ở Mỹ với mười cửa hàng thực phẩm, bốn nhà hàng và có di sản từ năm
1916.
146 Courvoisier: Một loại rượu cô nhắc.
tay.
Nhưng cô khiến anh im lặng bằng một nụ hôn lên trán và cái lắc đầu.
Có tiếng lóc cóc nhẹ nhàng của đá cuội khi cô đổ những viên Seconals
nhỏ xíu ra
Rhyme nghĩ một cách máy móc: Tia reagent thử màu Dille-Koppanyi.
Thêm một
phần trăm cobalt acetate vào chất đang khám nghiệm sau đó là
năm phần trăm isopropylamine trong metanola. Nếu chất này là thuốc
an thần, tia reagent sẽ chuyển sang màu xanh tím rất đẹp.
“Ta phải làm thế nào?” Cô hỏi, nhìn những viên thuốc. “Em thực sự
không biết”. “Hòa với rượu”, anh đề xuất.
Cô thả chúng vào cốc vại của anh. Chúng nhanh chóng tan ra.
Chúng thật mong manh. Như những giấc mơ mà chúng tạo ra.
Cô dùng ống hút khuấy cho tan. Anh nhìn những móng tay xướt xát
của cô nhưng điều đó cũng không làm anh buồn. Đêm nay là đêm của
anh, và đó là đêm của niềm vui.
Bất chợt Lincoln Rhyme nhớ lại thời thơ ấu của mình, ở ngoại ô Illinois.
Anh chẳng bao giờ uống sữa. Mẹ đã phải mua cho anh ống hút tráng
mùi bên trong để dỗ anh uống. Mùi dâu tây, mùi chocolate. Anh không
nghĩ đến chúng cho tới lúc này. Đó là một phát minh vĩ đại, anh nhớ lại.
Anh luôn chờ suất sữa buổi chiều của mình.
Sachs đẩy ống hút đến gần miệng anh hơn. Anh ngậm nó vào môi. Cô
đặt tay lên tay anh.
Ánh sáng hay bóng tối, âm nhạc hay sự im lặng, những giấc mơ hay sự
nhập định của giấc ngủ không mộng mị? Ta sẽ thấy gì?
Anh bắt đầu uống. Vị chẳng có gì khác với rượu thường. Có thể hơi
đắng hơn một chút. Nó giống như…
Phía dưới nhà có tiếng đập cửa thình thình. Dùng cả chân lẫn
tay, có lẽ thế. Cả tiếng người la hét.
Anh nhả ống hút. Nhìn ra phía cầu thang. Cô nhìn anh, nhăn mặt.
“Em ra ngoài xem thế nào”, anh nói với cô.
Cô biến mất dưới cầu thang và một khắc sau đã quay lại, trông có vẻ
không vui. Lon Sellitto và Jerry Banks theo sau. Rhyme nhận thấy viên
thám tử trẻ lại làm trò đồ tể trên mặt anh ta bằng dao cạo râu. Chắc
chắn là anh ta cần học cách kiểm soát nó.
Sellitto nhìn cái túi và cái chai. Ánh mắt anh ta quay sang Sachs, nhưng
cô khoanh tay nhìn lại, thầm ra lệnh cho ông ta ra về. Đây không phải
vấn đề cấp bậc, cái nhìn nói với viên thám tử rằng điều đang diễn ra ở
đây không phải việc của ông ra. Mắt Sellitto nhận thông điệp, nhưng
ông ta không hề có ý định bỏ đi.
“Lincoln, tôi cần nói chuyện với anh.”
“Nói đi, nhưng nhanh lên, Lon. Chúng tôi đang bận.”
Viên thám tử nặng nề ngồi xuống cái ghế mây. “Một giờ trước, một
quả bom đã phát nổ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Ngay cạnh phòng tiệc.
Trong bữa tối chào đón các đại biểu của hội nghị hòa bình.”
“Sáu người chết, năm mươi tư người bị thương”, Banks nói thêm. “Hai
mươi người trong số họ bị thương rất nghiêm trọng.”
“Trời ơi”, Sachs thầm thì.
“Kể cho anh ấy đi”, Sellitto lầm bầm.
Banks tiếp tục: “Liên Hiệp Quốc đã thuê khá nhiều nhân viên thời vụ
phục vụ hội nghị. Tội phạm là một trong số họ – một nhân viên tiếp tân.
Khoảng nửa tá nhân chứng nhìn thấy cô ta đeo một cái ba lô đi làm và
để nó trong kho cạnh phòng tiệc. Cô ta để nó ở đấy, trước khi có tiếng
nổ. Đội công binh cho rằng phải có tới hai cân C4 hay Semtex”.
Sellitto nói: “Linc, quả bom, đó là một cái ba lô màu vàng, nhân
chứng nói như vậy.”
“Màu vàng? Sao nghe quen thế nhỉ?”
“Bộ phận nguồn lực của Liên Hiệp Quốc nhận định nhân viên tiếp tân
đó là Carole
Ganz.”
“Người mẹ”, Rhyme và Sachs đồng thanh.
“Đúng thế. Người phụ nữ được các vị cứu trong nhà thờ. Có điều
Ganz là tên giả.
Tên thực của ả là Charlotte Willoughby. Ả là vợ Ron Willoughby. Có
thấy gì không?” Rhyme nói không.
“Tin này được đưa khoảng hai năm trước. Anh ta là trung sĩ quân đội,
được giao nhiệm vụ phục vụ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên
Hiệp Quốc tịa Miến Điện”.
“Tiếp đi”, nhà hình sự học nói.
“Willoughby không muốn đi – anh ta nghĩ một người Mỹ không nên
mặc quân phục UN và không nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai ngoài Quân
đội Mỹ. Ngày nay nó là vấn đề cánh hữu rất lớn. Chưa được một tuần
thì anh ta đã bị một tên du côn ở Rangoon bắn chết. Bị bắn vào lưng.
Anh ta trở thành người tử vì đạo của phe bảo thủ. Bên chống khủng bố
nói là vợ anh ta đã được một nhóm quá khích ở ngoại ô Chicago chiêu
mộ. Vài sinh viên tốt nghiệp Đại học Chiacago hoạt động bí mật.
Edward và Katherine Stone”.
Banks tiếp tục câu chuyện. “Chất nổ được giấu trong gói đất nặn trẻ
em, cùng với những thứ đồ chơi khác. Chúng tôi nghĩ ả sẽ đem cô bé
theo cùng để nhân viên an ninh ở lối vào phòng tiệc không để tâm đến
đất nặn. Nhưng Pammy vẫn ở trong bệnh viện nên ả không còn vỏ
bọc, ả đã bỏ qua phòng tiệc và để nó trong nhà kho. Nhưng như
thế cũng đã đủ thiệt hại rồi.”
“Thoát rồi à?”
“Đúng thế. Không để lại một dấu vết.”
“Đứa bé con thì sao?” Sachs hỏi. “Pammy?”
“Đi rồi. Ả đã cho cô bé xuất viện đúng lúc vụ nổ xảy ra. Không có dấu
vết gì của
họ.”
Rhyme nói: “Còn nhóm khủng bố?”
“Nhóm ở Chicago? Chúng cũng biến mất. Có một hang ổ ở
Wisconsin147 nhưng nó cũng đã bị xóa sạch. Chúng ta không biết
chúng ở đâu.”
“Thế thì đó là tin đồn mà đặc tình của Dellray nghe được”.
Rhyme cười. “Carole là người tới sân bay. Chẳng liên quan gì đến thủ
phạm 823”.
Anh thấy Sellitto và Banks đang nhìn mình chằm chằm. Ồ, lại là cái trò
im lặng này.
“Quên đi, Lon.” Rhyme nói, cảm nhận thật rõ ràng cái cốc bên cạnh
mình, đang tỏa hơi ấm đón chào. “Không được đâu.”
Viên thám tử lớn tuổi kéo chiếc áo phông, vẻ khúm núm. “Mẹ kiếp, ở
đây sao lạnh thế, Lincoln. Chúa ơi, cậu thử nghĩ xem. Có hại gì đâu?”
“Tôi không giúp được đâu.”
Sellitto nói: “Có một tin nhắn. Carole viết và gửi tới Tổng thư ký trong
phong bì nội bộ. Lải nhải về việc chính phủ thế giới đang tước bỏ
quyền tự do của Mỹ. Những thứ vớ vẩn kiểu thế. Nhận trách nhiệm
về vụ đánh bom ở London và nói sẽ có thêm những vụ khác. Ta cần
tóm chúng, Linc.”
Banks mặt sẹo nói, tỏ vẻ quan trọng: “Cả Tổng thư ký và Thị trưởng
đều mời anh. SAC Perkins nữa. Nếu anh cần thuyết phục thêm, sẽ có
người từ Nhà Trắng gọi tới. Nhưng chúng tôi chắc là anh không cần,
phải không thám tử?”
Rhyme không nhận xét gì về sai lầm liên quan đến chức vụ của anh.
“Nhóm PERT của Cục cũng đã sẵn sàng. Fred Dellray nắm vụ này và
anh ta mời – trân trọng, anh ta dùng đúng từ ấy – anh ta trân trọng mời
anh phụ trách vấn đề pháp y. Hiện trường vụ án thì vẫn còn y nguyên,
ngoại trừ việc người ta đã đưa những người bị thương đi.”
“Thế thì nó không còn nguyên vẹn nữa”, Rhyme cáu kỉnh. “Cực kỳ ô
nhiễm rồi.” “Càng có thêm lý do để chúng tôi cần anh”, Banks liều
mạng, thêm câu “thưa
ngài” để xoa dịu cái nhìn của Rhyme.
Rhyme thở dài, nhìn cái ly và ống hút. Sự bình yên đã tới quá gần. Và
cả đau đớn. Vô hạn.
Anh nhắm mắt. Trong phòng không một tiếng động.
Sellitto nói: “Nếu chỉ có mình ả thì không sao. Nhưng ả còn có cô bé
nữa, Lincoln. Hoạt động bí mật, với một bé gái? Anh có biết là cuộc
đời cô bé sẽ ra sao không?”
Anh sẽ chết với tôi vì câu này đấy, Lon.
Ryhme tựa đầu xuống gối. Cuối cùng anh mở bừng mắt. Anh
nói: “Sẽ phải có vài điều kiện”
“Nói đi, Linc.”
147 Wisconsin: Một bang nằm gần trung tâm lục địa Bắc Mỹ.
“Thứ nhất”, anh nói. “Tôi không làm việc một mình.” Rhyme nhìn về
phía Amelia Sachs.
Cô ngần ngừ một thoáng, sau đó mỉm cười và đứng dậy, nhấc cốc
brandy pha thuốc lên. Cô mở rộng cửa sổ, hắt thứ chất lỏng màu vàng
nâu vào làn không khí nóng nực, chín nẫu phía bên trên con ngõ cạnh
tòa nhà. Trong lúc ấy, chỉ cách đó vài feet, con chim ưng ngẩng lên,
nghiêng đầu giận dữ nhìn cử động của cánh tay cô, rồi quay lại cho
những đứa con đang đói meo của nó ăn.
PHỤ LỤC
Trích từ: Từ điển thuật ngữ, Lincoln Rhyme, Chứng cứ vật lý, xuất bản
lần thứ tư. New York: Forensic Press, 1994. Đã được phép in lại.
Nguồn sáng thay thế (ALS): Bất kỳ loại bóng đèn nào có cường độ
sáng cao với bước sóng và màu sắc ánh sáng khác nhau, được sử dụng
để hiển thị những dấu vân tay ẩn, một số loại dấu tích và chứng cứ sinh
học.
Hệ thống nhận dạng dấu vân tay tự động (AFIS): Một trong những hệ
thống được máy tính hóa để quét và lưu trữ dấu vân tay.
Birefringence (khúc xạ đúp): Sự khác biệt giữa hai giá trị khúc xạ do
một số loại tinh thể hiển thị. Có ích trong việc nhận dạng cát, sợi và bụi
bẩn.
Thẻ đăng ký vật chứng (COC): Một bản ghi chú của những người đã
sở hữu một vật chứng từ lúc thu được nó lên hiện trường vụ án cho tới
khi đưa nó ra tòa.
COD: Nguyên nhân tử vong.
Mẫu đối chứng: Vật chứng thu được tại hiện trường vụ án từ những
nguồn đã biết, được sử dụng để so sánh với vật chứng từ một nguồn
chưa biết. Ví dụ: máu, lông, tóc của nạn nhân là mẫu đối chứng.
DCDS: Chết tại hiện trường.
Kiểu thử biến thiên mật độ (D-G): Một kỹ thuật so sánh các mẫu đất
để xác định xem chúng có xuất xứ từ một nơi hay không. Phép đo
bằng cách thả những mẫu đất vào các ống chứa chất lỏng có giá trị mật
độ khác nhau.
Nhận dạng DNA: Phân tích và lập biểu đồ cấu trúc gen trong tế bào
của những loại chứng cứ sinh học nhất định (ví dụ: máu, tóc, tinh dịch)
nhằm mục tiêu so sánh với mẫu đối chứng từ nghi phạm đã biết. Quy
trình bao gồm tách và so sánh các đoạn DNA – deoxyribonucleic acid
– đơn vị tạo dựng cơ bản của nhiễm sắc thể. Một số loại nhận dạng
DNA đưa ra xác suất chứng cư xuất phát từ một cá nhân nhất định chỉ
bằng vài phần trăm triệu. Còn được gọi là “nhận dạng gen” – hay còn
bị gọi sai là “lấy vân tay DNA” hay “lấy vân tay gen”.
Nhà nhân chứng học pháp y: Một chuyên gia về khung xương, trợ
giúp các nhà điều tra hiện trường vụ án trong việc đánh giá và nhận
dạng hài cốt, khai quật mộ.
Nha sĩ pháp y: Một chuyên gia răng miệng, hỗ trợ các nhà điều tra hiện
trường vụ án trong việc nhận dạng nạn nhân nhờ nghiên cứu những di
cốt của răng và phân tích các chứng cứ vết cắn.
Vân: Những đường nổi lên của da trên ngón tay, bàn tay và bàn chân,
mỗi người có hình dáng vân riêng biệt, duy nhất. Những dấu vân tại
hiện trường vụ án có thể được phân loại thành: (1) nhựa (để lại trên các
vật thể dễ bị ảnh hưởng như mát tít); (2) vật chứng (do da bị phủ các
chất lạ như bụi hay máu để lại); (3) ẩn (do da bị dính chất nhờn của cơ
thể như dầu hay mồ hôi để lại, thường không thấy được bằng mắt
thường).
Sắc ký khí/phổ kế khối lượng (GC-MS): Hai thiết bị được sử dụng
trong phân tích pháp y để xác định các chất chưa biết như ma túy hay
vật chứng đã tồn tại. Chúng thường được kết nối với nhau. Sắc ký khi
tách các thành phần của chất, sau đó đưa chúng sang phổ kế khối
lượng, thiết bị này xác định chính xác từng thành phần.
Lưới: Cách phổ biến được sử dụng để tìm kiếm chứng cớ, theo đó
nhân viên tìm kiếm khắp hiện trường theo một chiều (ví dụ từ trên
xuống dưới), sau đó đi khắp hiện trường theo hướng vuông góc (tây –
đông).
Tàn thuốc súng (GSR): Vật chất – cụ thể là barium và antimony – rơi
rớt trên tay và quần áo của người bắn súng. GSR sẽ ở lại trên da người
trong vòng sáu tiếng nếu không bị cố tình rửa trôi hay vô ý cọ sạch bởi
sự tiếp xúc quá mức khi tội phạm bị bắt, bị còng (rủi ro cao hơn nếu
tay bị còng ra sau lưng).
Nhận dạng vật chứng: Xác định loại hay lớp vật chất của một chứng
cứ. Khái niệm này khác với “nhận dạng cá thể” là việc xác định nguồn
duy nhất của vật chứng. Ví dụ, một mẩu giấy báo được tìm thấy tại
hiện trường vụ án có thể được nhận dạng là loại giấy in họa báo nhưng
có thể được nhận rõ là một mẩu trùng khớp với phần bị mất từ một
trang bị xé trong một số nhất định của một tờ họa báo của nghi phạm.
Nhận dạng cá thể, tất nhiên có giá trị chứng minh khác với nhận dạng
vật chứng.
Nhận dạng cá thể: Xem “Nhận dạng vật chứng”
Vết xám: Phần da nạn nhân đã tử vong bị thâm tím, biến màu do máu
bị đông và sẫm lại sau khi chết.
Nguyên tắc trao đổi của Locard: Được Edmond Locard, một nhà
hình sự học người Pháp đưa ra. Lý thuyết này cho rằng luôn có sự trao
đổi vật chứng giữa tội phạm và hiện trường vụ án hay nạn nhân, bất kể
chứng cứ này có thể là nhỏ bé hay khó phát hiện đến đâu.
Phổ kế khối lượng: Xem “Sắc ký khí”.
Ninhydrin: Hóa chất làm hiển thị dấu vân ẩn trên những bề mặt xốp
như giấy, bìa
và gỗ.
Vật chứng (PE): Trong luật hình sự, PE tham chiếu tới những thực thể
được trình
tại tòa để hỗ trợ khẳng định của bị đơn hay công tố viên về việc một
tuyên bố nào đó là đúng sự thật. Vật chứng bao gồm: các đối tượng vô
tri vô giác, các chất của cơ thể và các dấu ấn (như dấu tay).
Thử máu có cơ sở: Số lượng bất kỳ các kỹ thuật hóa học sử dụng để
xác định có máu vương tại hiện trường hay không, ngay cả trong
trường hợp mắt thường không nhìn thấy được. Những phép thử phổ
biến nhất là dùng luminol và orthotolidine.
Kính hiển vi điện tử quét (SEM): Một thiết bị bắn các hạt electron vào
mẫu vật chứng cần nghiên cứu và chiếu hình ảnh thu được lên màn hình
máy tính. Với SEM, có thể nhận được độ phóng đại mười vạn lần so
với độ phóng đại năm trăm lần của kính hiển vi thông thường. SEM
thường được gắn khối tia X tán sắc năng lượng (EDX), có thể xác định
được các chất có trong mẫu khi kỹ thuật viên quan sát.
Dàn cảnh: Nỗ lực của tội phạm nhằm sắp xếp lại, thêm hay bỏ bớt
chứng cứ khỏi hiện trường vụ án để tạo ấn tượng rằng tội ác do hắn
hay do ai đó khác gây ra sẽ không thể tìm thấy.
Chứng cứ dấu tích: Những mẩu vật chất nhỏ, đôi khi siêu nhỏ như bụi,
chất xơ và
sợi.
Đối tượng: Nghi phạm chưa được xác định.
Máy làm lắng chân không kim loại (VMD): Phương tiện hữu hiệu nhất
hiển thị
dấu vân ẩn trên những bề mặt nhẵn. Vàng hay kẽm được làm bốc hơi
trong một buồng chân không bao bọc một lớp kim loại mỏng lên đối
tượng cần được quan sát, do đó làm hiển thị dấu vân.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
Tôi mang ơn Peter A. Micheels, tác giả cuốn The Detectives – và E.
W. Count, tác giả cuốn Cop Talk, những cuốn sách của họ không chỉ
hữu ích cho tôi khi nghiên cứu mà còn là những cuốn sách tuyệt hay.
Cảm ơn Pam Dorman, sự biên tập khéo léo của anh có mặt khắp nơi
trong câu chuyện này. Và tất nhiên, cảm ơn người đại diện của tôi,
Deborah Schneider… Nếu thiếu chị thì tôi có thể làm được gì đây? Tôi
chân thành cảm ơn Nina Salter ở Calmann-Lévy vì những nhận xét của
cô trong những bản thảo đầu tiên của cuốn sách này, và cảm ơn
Karolyn Hutchinson tại REP ở Alexandria, Virginia vì sự giúp đỡ vô giá
liên quan đến xe lăn và những thiết bị khác dành cho người bị liệt. Tôi
cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Teddy Rosenbaum – bản thân cô cũng là
một thám tử – vì công việc biên tập của cô. Các sinh viên nghiên cứu
về thực thi pháp luật có thể băn khoăn về cấu trúc của NYPD và FBI
được giới thiệu trong cuốn sách này; việc thay đổi sơ đồ tổ chức hoàn
toàn do tôi tự làm. À, tất nhiên – nếu ai đó muốn đọc cuốn Crime in
Old New York có thể sẽ gặp đôi chút khó khăn để tìm được nó. Đây
là một tác phẩm hư cấu, dù tôi có được nghe nói tới sự tồn tại của một
cuốn như thế nhưng đã bị ăn trộm khỏi Thư viện Công cộng New
York – bởi một hay vài người chưa rõ danh tính.
Jeffery Deaver
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro