kẻ đánh cắp tia chớp
1. TÔI TRÓT LÀM CÔ GIÁO DẠY ĐẠI SỐ BỐC HƠI
Nói thật nhé, tôi đâu muốn làm á thần!
Nếu khi đọc sách này, bạn cho rằng một nửa dòng máu chảy trong huyết quản mình thuộc về thần thánh, tôi khuyên bạn hãy đóng sách lại ngay đi. Hãy tin mọi lời dối trá về thân thế của mình từ cha mẹ và sống cuộc đời bình dị như bao người khác.
Mạng á thần như trứng treo đầu đẳng. Đáng sợ lắm! Cái chết đau đớn, kinh khiếp luôn theo sát gót họ gần như mọi lúc mọi nơi.
Nếu bạn là một đứa trẻ bình thường, bạn đọc cuốn sách này vì bạn nghĩ nó là một điều hư cấu, thì thật tuyệt. Tiếp tục đọc nó nhé! Tôi ganh tị với bạn vì bạn có thể giả vờ những chuyện trong cuốn sách này chưa bao giờ xảy ra.
Nếu thấy những gì tả trong sách này giống với mình quá, nếu thấy trực giác, linh tính không chịu ngủ yên, hãy ngừng đọc ngay vì có thể bạn giống chúng tôi. Nếu bạn biết, chẳng chóng thì chày chúng cũng đánh hơi thấy và tìm đến lấy mạng bạn.
Đừng trách tôi không báo trước nhé.
Tên cha sinh mẹ đẻ của tôi là Percy Jackson.
Tôi mười hai tuổi. Vài tháng trước đây, tôi còn là học sinh nội trú tại Học việc Yancy, một trường tư dành cho học sinh cá biệt thuộc khu vực thượng New York.
Tôi có phải là một cậu nhóc “cá biệt” không?
Có, ai cũng biết thế.
Mọi thời điểm trong quãng đời ngắn ngủi và đau khổ của tôi đều chứng minh điều đó. Nhưng mãi đến tháng Năm vừa rồi, mọi chuyện mới bắt đầu tệ hại không chịu nổi. Đó là lúc khối lớp Sáu chúng tôi đi tham quan ở Manhattan. Hai mươi tám nhóc tỳ tâm thần có vấn đề cùng hai giáo viên lên chiếc xe buýt vàng chóe nhắm Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan thẳng tiến. Các mẫu vật trưng bày có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại là mục đích tham quan của ngày hôm đó.
Phải phải, nghe như sắp bị tra tấn vậy. Hầu hết những chuyến tham quan của Học viện Yancy đều thế cả.
Nhưng hôm nay, thầy Brunner dạy tiếng Latinh sẽ hướng dẫn học trò, thế nên lòng tôi tràn ngập hy vọng.
Thầy giáo tôi trạc tuổi trung niên ngồi xe lăn có gắn động cơ. Tóc thầy thưa mỏng, bộ râu quai nón không chăm chút thường xuyên và thầy thường mặc áo khoác cũ sờn ám mùi cà phê. Nhìn qua chẳng ai bảo thầy có gì thú vị nhưng ngược lại, trong giờ học thầy hay kể chuyện, nói đùa và cho học trò chơi nhiều trò bổ ích. Thầy còn có một bộ sưu tập tuyệt vời toàn vũ khí và áo giáp của người La Mã cổ. Vậy nên chỉ mỗi tiết của thầy là tôi không thấy buồn ngủ.
Tôi hy vọng buổi tham quan này suôn sẻ, hay ít nhất cũng không có sự cố gì xảy đến với tôi.
Nhưng hỡi ôi, đó chỉ là hy vọng hão huyền.
Hình như buổi tham quan hay dã ngoại nào tôi cũng gặp chuyện khóc dở mếu dở. Chẳng hạn, trong chuyến thăm chiến trường Saratoga[1] hồi lớp Năm, tôi gặp tai nạn với khẩu đại bác có từ thời Chiến tranh Cách mạng. Thực lòng thì tôi không cố tình nhắm bắn xe buýt của trường. Nhưng dù thanh minh thế nào đi nữa thì tôi cũng bị đuổi học. Còn nữa, hồi lớp Bốn, khi chúng tôi được đến phía sau hậu trường của hồ cá mập ở Thế giới Đại Dương, tôi chẳng may chạm vào cần đòn bẩy trên lối đi hẹp khiến cả lớp phải tập bơi bất đắc dĩ. Chưa hết, trước đó tôi còn… Mà thôi, chắc các bạn đoán ra cả rồi.
Nhưng lần tham quan này, tôi tự hứa với lòng nhất định mình sẽ ngoan.
Suốt quãng đường xuống trung tâm, tôi nghiến răng chịu cảnh nhỏ Nancy Bobofit - mặt đầy tàn nhang, tính hay táy máy - cầm bánh kẹp bơ đậu phộng rưới xốt cà chốc chốc lại đập vào đầu Grover, bạn thân nhất của tôi.
Grover là con mồi ngon xơi của những đứa ngỗ ngược như Nancy. Thằng bạn chí cốt của tôi gầy nhẳng, lúc buồn bực chỉ biết khóc. Chắc chắn nó đúp vài năm rồi vì trong khối lớp Sáu, chỉ mình nó có mụn trứng cá và vài cọng râu thưa. Grover là trẻ tật nguyền. Nó có giấy được miễn học thể dục cả đời vì bị bệnh gì đó ảnh hưởng đến cơ chân. Dáng đi của nó vẹo vọ trông rất tội nghiệp, như thể mỗi bước chân đều làm nó đau đớn. Tuy nhiên, chớ thấy vậy mà tưởng lầm. Mỗi khi căn-tin có món bánh bột ngô nhân thịt, nhìn Grover chạy đua đến đó thì cứ gọi là lác mắt nhé.
Quay lại chuyến tham quan để đời hôm ấy. Nancy Bobofit điềm nhiên đều đặn ném mẩu vụn véo từ cái bánh kẹp vào mái tóc nâu xoăn tít của Grover. Chỉ lát sau, đầu nó dính chi chít đầy mẩu bánh nhỏ. Nhỏ Nancy biết tôi không làm gì được nó vì tôi đang trong thời gian bị theo dõi chặt chẽ bởi từng mắc lỗi trước đó. Trước lúc đi, thầy hiệu trưởng đe rằng tôi sẽ bị đuổi học thẳng thừng nếu gây bất cứ chuyện gì không tốt, làm mọi người xấu hổ hoặc đơn giản chỉ là chọc cười ai đó trong chuyến đi này.
Tôi lẩm bẩm:
- Tớ sẽ lấy mạng con nhỏ cho coi.
Grover cố trấn tĩnh:
- Không sao đâu mà. Tớ thích bơ đậu phộng.
Nó lanh lẹ né mẩu bánh từ tay Nancy vừa bay tới.
- Thế này thì quá lắm.
Tôi đã chực đứng dậy nhưng bị Grover kéo xuống ghế, đoạn nhắc:
- Đang trong thời gian quản chế, chắc cậu biết nếu có xô xát, ai là kẻ phải giơ đầu chịu báng rồi đấy!
Giờ ngẫm lại, tôi ước lần ấy mình hạ đo ván Nancy luôn cho xong. Bị cấm túc trong trường sau giờ học không nhằm nhò gì so với mối họa tôi sắp tự rước vào thân.
Thầy Brunner dẫn đầu đoàn tham quan.
Điều khiển xe lăn đi trước, thầy đưa chúng tôi qua mấy phòng trưng bày rộng thênh thang, đi qua mấy bức tượng tạc từ đá cẩm thạch và dãy tủ kính bày đầy đồ cổ bằng chất liệu gốm màu da cam pha màu đen.
Tôi cực kỳ ngạc nhiên: suốt hai ba ngàn năm qua, sao đồ gốm vẫn chưa bị bể nhỉ?!
Thầy Brunner gọi chúng tôi đến vây quanh cây cột đá cao gần bốn mét. Đầu cột có con nhân sư lớn và kể rằng nó vốn là bia của ngôi mộ cổ, nơi an nghỉ của một bé gái trạc tuổi chúng tôi. Thầy còn kể tỉ mỉ về những hình chạm khắc hai bên cột. Chuyện của thầy khá hay. Tôi muốn nghe lắm nhưng mấy bạn đứng gần cứ nói chuyện riêng hoài. Mỗi lần tôi bực mình quát bảo họ im miệng, cô Dodds đứng canh chừng gần đó lại lừ mắt cảnh cáo tôi.
Cô Dodds người nhỏ thó quê ở Georgia, dạy môn Toán. Dù đã năm mươi tuổi nhưng cô luôn mặc áo da màu đen. Cô nanh nọc và đanh đá, trông như lúc nào cũng sẵn sàng cưỡi xe Harley phân khối lớn đâm thẳng vào tủ đựng đồ của kẻ nào mà cô không ưa. Cô mới dạy chúng tôi được vài tháng do thầy Toán cũ của chúng tôi bị suy nhược thần kinh.
Ngay hôm đầu nhận lớp, cô Dodds đã quý Nancy và coi tôi là tên vô lại. Mỗi khi cô xỉa ngón trỏ cong như móc câu về phía tôi với giọng ngọt như mía lùi: “Nghe này cưng…”, y như rằng tôi bị phạt ở lại sau giờ học cả tháng.
Có lần, sau khi bị cô bắt ngồi đến tận nửa đêm gôm hết phần bài giải trong chồng sách bài tập toàn cũ, tôi bảo Grover: “Chắc cô Dodds không phải là người”. Nó nghiêm trang nhìn tôi, bảo:
- Cậu hoàn toàn đúng.
Thầy Brunner vẫn đang nói về nghệ thuật thể hiện trong cách tổ chức ma chay của người Hy Lạp cổ.
Giọt nước tràn ly đúng lúc Nancy cười khúc khích, nói câu gì đó về hình chạm người thanh niên trần truồng trên cột đá. Không chịu nổi, tôi quay xuống:
- Có câm mồm không thì bảo?
Tôi không chủ tâm quát to như thế.
Cả lớp cười ồ. Thầy Brunner ngừng kể, nói với tôi:
- Trò Jackson vừa nhận xét gì thế?
Mặt tôi đỏ rần:
- Thưa thầy, không ạ
Thầy Brunner chỉ bức tranh khắc trên cột:
- Em thử trình bày nội dung bức tranh này xem.
Nhìn bức điêu khắc, tôi mừng rơn vì biết khá rõ:
- Có phải Kronos đang nuốt các con vào bụng không ạ?
Rõ ràng thầy Brunner chưa thỏa mãn với câu trả lời ấy:
- Phải. Và ông ta đã làm thế vì…
Tôi cố moi óc nhớ bài:
- Vì… thần Kronos là chúa tể của các vị thần và…
- Các vị thần nào?
Tôi nói chữa:
- À không, người khổng lồ Titan. Kronos không tin các con, vốn là các vị thần. Thế nên ông ta nuốt sống các con mình. Đúng không ạ? Nhưng vợ Kronos đã tráo thần Dớt, lúc ấy là hài nhi, bằng một hòn đá rồi giấu con đi. Sau này, thần Dớt khôn lớn đã lừa cha để ông ói ra anh chị em mình…
Đám con gái đứng sau tôi kêu lên:
- Eo ôi!
- … Và thế là xảy ra cuộc chiến lớn, một bên là các vị thần, bên kia là người khổng lồ Titan. Cuối cùng, các vị thần đã chiến thắng.
Có tiếng cười khúc khích trong đám học trò.
Đứng sau lưng tôi, Nancy rỉ tai bạn nó:
- Học cho lắm cũng có mài kiến thức ra ăn được đâu. Sau này đi xin việc làm, chẳng ai yêu cầu: “Xin hãy giải thích tại sao Kronos lại nuốt các con vào bụng” cả!
Thầy Brunner hỏi:
- Trò Nancy Bobofit vừa có ý hay. Tôi xin diễn giải thành câu hỏi để trò Jackson giải thích nhé: Chuyện em vừa kể áp dụng vào thực tiễn như thế nào?
Grover thì thầm:
- Dính chưởng.
Nancy rít lên, mặt nó còn đỏ hơn cả mái tóc đỏ rực trên đầu:
- Câm ngay.
Ít nhất Nancy cũng bị bắt lỗi. Trong trường chỉ mình thầy Brunner luôn phát hiện được những điều bậy bạ mà nó phát ra. Tai thầy chẳng khác dàn ra-đa hiện đại.
Ngẫm nghĩ câu hỏi một lát, tôi nhún vai:
- Thưa thầy, em không biết ạ.
Thầy Brunner có vẻ thất vọng:
- Được rồi. Chuyện này khuyên con người ta không nên cả tin. Thần Dớt cho cha uống rượu pha mù tạt khiến ông nôn ra năm người con của mình vốn là các vị thần bất tử. Họ vẫn sống và trưởng thành ngay trong bụng người khổng lồ Kronos. Các vị thần đánh bại cha, dùng ngay liềm cắt cỏ của Kronos băm ông thành trăm ngàn mảnh nhỏ và rải xuống ngục Tartarus, phần tận cùng của địa ngục. Tôi biết các em mừng vì đã đến giờ ăn trưa. Phiền cô Dodds đưa các em ra ngoài nhé?
Cả lớp tản ra. Đám con gái ôm bụng, còn bọn con trai xô đẩy nhau cười đùa ầm ĩ. Grover và tôi dợm quay ra cửa thì nghe thầy Brunner gọi giật lại:
- Trò Jackson.
Biết ngay mà.
Tôi bảo Grover đi tiếp, đoạn quay lại hỏi:
- Dạ, thầy bảo gì em ạ?
Ánh mắt của thầy thật khó quên. Cặp mắt nâu luôn tập trung nhìn chăm chú ấy hình như đã cả ngàn tuổi và nhìn thấu sự đời.
- Trò phải học cách trả lời các câu hỏi thầy đưa ra chứ!
- Về người khổng lồ ư, thưa thầy?
- Về thực tiễn và cách áp dụng những kiến thức đã học vào đời sống thực tế.
- À, ra thế.
- Thông tin thầy cung cấp vô cùng quan trọng. Thầy mong em hiểu tầm quan trọng lớn lao của nó. Thầy chỉ muốn có được các câu trả lời tốt nhất từ em. Hãy nhớ lấy điều đó, Percy Jackson ạ.
Tôi chạnh lòng. Sao lúc nào thầy cũng thúc ép tôi thế ?!
Phải công nhận những ngày thi môn học của thầy vui cực kỳ. Khi đó, thầy Brunner mặc áo giáp của người La Mã cổ và thét vang: “Nhìn đây”. Tay cầm kiếm chỉ hộp phấn, thầy thách các trò chạy lên bảng, viết tên bất kỳ nhân vật huyền thoại nào của Hy Lạp và La Mã cổ từng được học, kể tên cha mẹ họ và vị thần mà họ thờ phượng. Nhưng khổ nỗi thầy kỳ vọng tôi phải học hành bằng bạn bằng bè, dù biết tôi mắc bệnh khó đọc và chứng mất tập trung. Cả đời tôi chỉ nhận toàn điểm C trở xuống. Không – thầy không chỉ kỳ vọng tôi phải học hành bằng bạn bằng bè. Thầy muốn tôi phải giỏi hơn nữa cơ. Nhớ cả đống tên người và thông tin về họ đã khó, huống hồ thầy còn đòi tôi phải đánh vần cho đúng từng cái tên.
Tôi lí nhí hứa sẽ cố gắng nhiều hơn nữa. Nhưng thầy Brunner chỉ buồn bã nhìn mãi bia đá như thể thầy đang dự đám tang người con gái nọ.
Lát sau, thầy bảo tôi ra ngoài ăn trưa cho kịp.
-O-
Cả lớp tụ tập trên bậc tam cấp của viện bảo tàng ngắm dòng người đi bộ tấp nập trên Đại lộ Số Năm.
Trên trời, một cơn dông lớn dữ dội đang kéo đến. chưa bao giờ tôi thấy đám mây to, đen kịt như thế trên bầu trời thành phố. Không biết có phải tại Trái đất đang nóng lên hay không mà từ Giáng sinh đến giờ, thời tiết khắp bang New York này kỳ lạ lắm: nào bão tuyết khốc liệt, nào lụt lội ghê gớm, nào cháy rừng do sét đánh. Lần này nếu có bão nhiệt đới xuất hiện, tôi cũng không ngạc nhiên.
Hình như không ai để ý đến thời tiết thì phải. Góc kia có mấy thằng con trai đang vãi mẩu bánh cho chim bồ câu ăn. Ở góc này, Nancy đang tìm cách móc túi một bà qua đường và tất nhiên cô Dodds không hề hay biết gì.
Tôi và Grover tách khỏi đám đông và tìm chỗ ngồi trên thành hồ dưới chân đài phun nước. Biết đâu thấy vậy, người qua đường sẽ tưởng hai đứa tôi không phải học sinh của cái trường toàn bọn học dốt, cá biệt mà các trường khác không nhận nên mới dồn cả vào đây.
Grover hỏi:
- Thầy phạt cậu à?
- Không. Đời nào thầy Brunner phạt tớ. Lắm lúc tớ chỉ mong thầy đừng quan tâm tớ quá thế. Tớ đâu phải thiên tài.
Grover im lặng một lúc lâu. Cứ tưởng nó sắp nhận xét một câu thật sâu sắc hay triết lý cao xa để an ủi tôi thì nó lại bảo:
- Tớ xin cậu quả táo có được không?
Tôi đắng hết cả miệng, chẳng thiết ăn bèn cho nó.
Ngắm dòng xe cộ chạy xuống phía cuối Đại lộ Số Năm, tôi nhớ căn hộ của mẹ chỉ cách đây một quãng. Từ Giáng sinh đến giờ chưa gặp được mẹ, giờ tôi chỉ chực nhảy ngay lên taxi về thẳng nhà. Mẹ sẽ ôm chầm lấy tôi, mừng rỡ vì được gặp con nhưng đồng thời bà sẽ thất vọng cho coi. Mẹ sẽ gửi tôi trở lại Học viện Yancy, với lời dặn dò tôi phải cố gắng cho dù tôi đã chuyển đến sáu ngôi trường trong vòng sáu năm[1] và chắc hẳn lần này cũng sẽ bị đuổi học nữa cho coi. Ánh mắt buồn rười rượi của mẹ chắc sẽ làm tôi quỵ mất.
Thầy Brunner ngồi trong xe lăn đậu phía dưới chân dốc dành cho người tàn tật. Thầy vừa đọc tiểu thuyết vừa ăn cần tây. Lưng ghế của thầy có gắn chiếc dù đỏ khiến nhìn từ xa, trông xe lăn giống bàn cà phê di động.
Vừa giở gói giấy bánh kẹp định ăn, tôi đã thấy Nancy Bobofit dẫn mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn đến đứng ngay trước mặt. Chắc nó đã chán móc túi khách du lịch nên đến đây gây sự. Con nhỏ ném phần ăn trưa còn lại vào người Grover:
- Ối, chỉ lỡ tay chứ không cố ý đâu.
Nó quay sang tôi cười phô hàm răng vẩu. Tàn nhang trên mặt nó màu vàng da cam, trông như ai vừa xịt sơn đầy mặt nó vậy.
Tôi cố không nổi nóng. Nhân viên tư vấn tâm lý của trường dặn tôi cả triệu lần rằng: “Nếu gặp chuyện chướng tai gai mắt, hãy đếm đến mười và cố tự chủ”. Nhưng lúc này tôi giận quá nên không nhớ được gì. Hai tai tôi lùng bùng như có ai đánh trống trận bên trong.
Tôi không nhớ là đã chạm vào người Nancy, chỉ thấy loáng cái nó đã ngồi bệt trong hồ nước, hét vang:
- PERCY ĐẨY EM NGÃ.
Không biết từ đâu, cô Dodds đã ở sát ngay cạnh hai thằng tôi.
Có vài đứa học trò thì thào:
- Cậu có thấy không…
- … nước hồ này kỳ quá…
- … hình như nước dâng lên lôi tuột con nhỏ Nancy…
Tôi không hiểu bọn nó nói gì, chỉ biết tai họa lại sắp giáng xuống đầu mình.
Ngay sau khi ngó từ đầu đến chân cô trò cưng, biết Nancy không hề hấn gì và hứa sẽ mua cho nó áo phông của viện bảo tàng ở quầy lưu niệm, bla bla bla, cô Dodds quay ngay sang tôi. Ngọn lửa đắc thắng bừng lên trong mắt cô như thể tôi vừa làm một chuyện cô đã chờ xem suốt mùa hè.
- Nghe này, cưng…
Tôi lúng búng:
- Em biết rồi. Một tháng gôm sách bài tập ạ?
Đó không phải điều cô Dodds muốn nghe.
- Đi theo tôi.
Grover la lên:
- Khoan đã. Lỗi tại em. Chính em đẩy bạn Nancy ạ.
Tôi trố mắt ngạc nhiên nhìn nó. Thật không thể tin nó dám bao che cho tôi. Grover vốn sợ cô Dodds như sợ cọp cơ mà.
Cô Dodds trừng mắt nhìn khiến cằm nó run bần bật.
- Cậu Underwood, tôi lại không nghĩ như vậy.
- Nhưng mà…
- Em ở nguyên đó.
Grover tuyệt vọng nhìn tôi. Tôi bảo nó:
- Không sao đâu. Cảm ơn cậu vì đã cố cứu tớ.
Cô Dodds quát lớn:
- Trò Percy, đi nào.
Nancy Bobofit trề môi đắc thắng.
Tôi nhìn nó với ánh mắt lát-nữa-mày-sẽ-biết-tay-tao. Đẩy nó ngã vào hồ nước được thì có bị rắc rối chút đỉnh cũng đáng. Ước gì tôi nhớ được động tác xô mạnh Nancy xuống nước khi nãy.
Tôi quay lại nhìn cô Dodds, nhưng cô ấy đã không ở đó. Cô ấy đang đứng ở lối vào viện bảo tàng, ở những bậc thang trên cùng, đang kiên nhẫn chờ tôi đi đến.
Sao cô ấy đi đến đó nhanh như vậy nhỉ?
Chuyện ấy thường hay xảy đến với tôi. Chắc thi thoảng não tôi lại ngủ quên. Ngay sau đó, tôi biết mình vừa bỏ lỡ một điều gì đó, như thể một mảnh ghép của trò chơi xếp hình vừa tan vào hư không, để mặc tôi đứng đó nhìn trân vào chỗ trống. Nhân viên tư vấn tâm lý của trường bảo đó một phần là do chứng mất tập trung do hiếu động thái quá: não tôi nhận thức sai về sự vật hiện tượng bên ngoài.
Thực lòng tôi cũng không chắc lắm.
Tôi đi theo cô Dodds.
Đi được nửa bậc thang, tôi ngoái lại nhìn Grover. Mặt tái nhợt, nó hết ngó tôi lại quay sang cầu cứu thầy Brunner. Hình như nó muốn báo cho thầy biết chuyện nhưng thầy đang đắm mình vào cuốn tiểu thuyết trên tay, không để ý gì đến xung quanh.
Tôi quay đầu lại. Cô Dodds một lần nữa lại biến mất. Bây giờ cô ấy lại đang ở trong viện bảo tàng, đứng phía cuối sảnh ra vào, đang vẫy tay giục tôi khẩn trương tiến vào.
Tôi bụng bảo dạ: “Sẽ không có chuyện gì đâu. Chắc cô giáo ép mình đến quầy lưu niệm mua áo phông cho Nancy thôi”.
Nhưng rõ ràng tôi đoán sai bét.
Tôi theo cô vào sâu trong viện bảo tàng. Khi tôi bắt kịp cô, chúng tôi đã trở lại khu trưng bày mẫu vật thời La Mã, Hy Lạp cổ đại. Ngoài chúng tôi ra, phòng trưng bày rộng thênh thang không một bóng người. Cô Dodds đứng khoanh tay cạnh cây trụ đá lớn thờ các vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Từ họng cô phát ra tiếng kêu lạ tai, nghe như tiếng gầm gừ. Dù không có tiếng ấy, hồn vía tôi đã lên mây cả. Chỉ một mình đối mặt với thầy cô đã sợ rồi, đối mặt với cô Dodds đáng sợ gấp nghìn lần. Ánh mắt cô nhìn trụ đá không bình thường, như thể cô chỉ muốn nghiền nó ra cám. - Cậu mang lại rắc rối cho chúng tôi. Tôi cố giữ thân bằng cách chiều theo ý cô: - Dạ, cô dạy phải. Cô Dodds kéo mạnh tay áo khoác da màu đen: - Cậu tưởng lần này tôi để yên sao? Ánh mắt cô còn hơn cả giận dữ. Nó trở nên độc ác vô song. Tôi hốt hoảng nghĩ thầm: “Dù thế nào thì cô Dodds cũng là cô giáo mà. Chẳng lẽ cô ấy nỡ hãm hại mình?” - Thưa cô, em sẽ cố gắng hơn nữa ạ. Có tiếng sấm làm rung chuyển cả tòa nhà. - Này Percy Jackson, ngươi tưởng qua mắt được bọn ta sao? Chẳng chóng thì chày, bọn ta cũng tìm được ngươi. Nếu tự thú, ngươi sẽ bớt đau đớn nhiều đấy. Tôi chẳng hiểu cô đang nói gì. Tôi chỉ lo thầy cô tìm thấy đống kẹo tôi giấu trong phòng ở ký túc xá để thỉnh thoảng lén bán cho các bạn. Hoặc có lẽ họ biết tôi tải bài luận viết về Tom Sawyer trên mạng đem nộp mà không hề đọc chữ nào trong sách và giờ tính trừ phăng điểm của bài luận ấy. Hoặc tệ hơn, họ sẽ bắt tôi phải đọc cuốn truyện dày cộm đó. Cô Dodds rít lên: - Thế nào hả? - Thưa cô, em không… - Ta hết kiên nhẫn với ngươi rồi. Thế rồi, một chuyện quái đản nhất trên đời xảy đến. Chắc đầu óc tôi có vấn đề rồi. Cô Dodds bắt đầu thay hình đổi dạng. Mắt cô đỏ rực như lò than nướng thịt ngoài trời, ngón tay vươn dài biến thành móng vuốt nhọn hoắt. Cô rít lên. Ý tôi là không phải rít giống người đang tức giận, mà như rắn hổ mang bành rít vậy. Áo khoác trên người cô tan chảy biến thành đôi cánh lớn có màng da dày. Cô Dodds không còn là người nữa rồi. Cô biến thành mụ phù thủy nhăn nheo có cánh dơi, móng vuốt sắc nhọn và miệng đầy răng nhọn vàng khè và sắp sửa xé tôi thành từng mảnh nhỏ. Sau đó, cơn ảo giác tiến triển quái dị hơn nữa. Thầy Brunner một phút trước đó còn ngoài cổng viện bảo tàng giờ đã xuất hiện ngay cửa phòng trưng bày, tay giơ cao cây viết. Vừa tung bút lên cao, thầy vừa hô to: - Bắt lấy, Percy! Lập tức, cô Dodds lăn xả vào tôi. Hoảng hốt kêu to, tôi né sang một bên chỉ kịp nghe tiếng móng vuốt vụt trượt nghe vun vút ngay bên tai. Tôi chộp cây bút bi trên không trung nhưng khi chạm tay tôi, nó liến biến thành cây kiếm. Đó chính là cây kiếm bằng đồng mà thầy Brunner thường dùng trong những ngày thi. Mắt long lên tàn độc, cô Dodds phóng vọt về phía tôi. Đầu gối tôi bủn rủn, hai tay run bắn suýt làm rơi thanh kiếm. Cô Dodds gầm lên: - Cho mày chết này. Dứt lời, cô lao thẳng vào tôi. Cơn kinh hoàng hoàn toàn chế ngự tôi. Tôi chỉ làm đúng theo bản năng là vung kiếm lên. Lưỡi kiếm sắc lẻm chém xả vai và xuyên qua người cô như thể thân xác cô làm từ nước. Cô Dodds như lâu đài cát đặt ngay trước quạt công suất cực mạnh. Người cô nổ tung, biến thành bột màu vàng nghệ rồi tan biến ngay trước khi kịp rơi xuống. Dấu vết chẳng còn gì ngoài mùi trứng thối, tiếng kêu giãy chết và âm khí lạnh buốt. Tôi cảm tưởng cặp mắt vằn đỏ vẫn còn đâu đó trên cao đang trừng trừng nhìn tôi. Chỉ còn mình tôi trơ trọi trong phòng trưng bày trống trải, quạnh quẽ. Trong tay tôi có cây bút bi nhỏ. Thầy Brunner biến mất. Ngoài tôi ra, xung quanh không còn ai khác. Tay tôi run bắn. Chắc chắn đồ ăn trong bữa trưa của tôi bị nhiễm nấm gây ảo giác mất rồi. Chẳng lẽ từ đầu đến cuối là do tôi tưởng tưởng ra sao? Tôi trở ra phía ngoài. Trời bắt đầu mưa. Vẫn ngồi bên đài phun nước, Grover lấy sơ đồ viện bảo tàng che đầu cho khỏi ướt. Nancy Bobofit ướt như chuột lột sau khi vùng vẫy dưới hồ nước giờ vẫn đứng đó càu nhàu với mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn của nó. Vừa thấy tôi, nó bảo: - Tao mong cô Kerr đánh cho mày tướp mông ra. Tôi ngạc nhiên: - Ai cơ? - Thằng đần, cô giáo chứ còn ai. Tôi chớp mắt lia lia. Trường tôi có cô giáo nào tên Kerr đâu nhỉ? Tôi hỏi Nancy rằng nó vừa nói nhăng nói cuội gì thế. Nó tròn mắt nhìn tôi, tỏ vẻ chán nản, sau đó chẳng thèm trả lời câu hỏi của tôi. Tôi hỏi Grover có thấy cô Dodds đâu không. Nó bảo: - Ai cơ? Tuy nhiên, nó hơi ngập ngừng và không dám nhìn thẳng tôi. Tưởng nó chòng ghẹo mình, tôi bảo: - Đừng đùa nữa. Tớ hỏi nghiêm túc đấy. Trên trời cao, tiếng sấm nổ rền. Tôi thấy thầy Brunner ngồi bên trên bờ dốc dành cho người tàn tật, bên dưới cây dù màu đỏ. Thầy cắm cúi đọc sách như thể chưa hề nhúc nhích từ đầu buổi đến giờ. Thấy tôi đến bên, thầy ngơ ngác nhìn lên: - À, có phải cây bút của thầy không? Jackson này, lần sau đi học nhớ mang theo dụng cụ học tập nhé. Mãi đến lúc thầy giật bút khỏi tay mình, tôi vẫn chưa nhận ra là mình đang cầm nó. Tôi rụt rè: - Thưa thầy, cô Dodds đâu rồi ạ? Thầy mở to mắt nhìn tôi, vẻ không hiểu: - Cô Dodds nào? - Cô giáo đi cùng bọn em sáng nay ấy ạ. Cô Dodds dạy toán ấy. Thầy nhíu mày ngồi thẳng lưng, nét mặt thoáng lo âu: - Percy này, đoàn tham quan hôm nay không có cô Dodds nào cả. Còn nữa, thầy biết rõ mười mươi Học viện Yancy ta không có nữ giáo viên nào tên Dodds hết. Em có bị làm sao không vậy? 2. Ba bà già đan tất âm phủ Tôi thường gặp nhiều chuyện quái đản, nhưng thường thì cảm giác lạ lẫm qua nhanh, chẳng mấy chốc tôi không còn nhớ gì nữa. Nếu có ảo giác hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần, chắc tôi sẽ không chịu nổi. Suốt năm học ấy, hình như cả trường cố tình hùa nhau đùa tôi thì phải. Họ tỉnh bơ bảo rằng cô Kerr, cô giáo tóc vàng xinh đẹp, người tôi chưa bao giờ gặp cho đến lúc cô lên xe buýt vào cuối buổi tham quan là cô giáo dạy môn đại số từ hồi Giáng sinh đến giờ. Thỉnh thoảng, vì muốn bắt quả tang bạn bè nói dối, tôi vờ vô tình hỏi về cô Dodds nhưng họ chỉ trố mắt nhìn lại như thể tôi bị lẩn thẩn vậy. Vì thế tôi gần như tin lời họ rằng cô Dodds chưa bao giờ có mặt trên đời. Nhưng chỉ gần như thôi. Duy chỉ có Grover không lừa được tôi. Khi nghe tôi nhắc cô Dodds, nó ngần ngừ giây lát rồi mới bảo không có cô giáo nào tên như vậy. Nhưng tôi biết nó nói dối. Rõ ràng có chuyện gì đó không ổn. Lúc ở bảo tàng nhất định có chuyện gì đó bất thường xảy ra. Ban ngày, tôi không có nhiều thời gian nghĩ đến chuyện ấy. Nhưng ban đêm, lắm lúc tôi giật mình toát mồ hôi lạnh choàng tỉnh từ giấc mơ có hình ảnh cô Dodds với móng vuốt sắc nhọn và cánh dơi to tướng. Thời tiết tiếp tục diễn biến bất thường khiến tâm trạng tôi không sao vui lên được. Một đêm một cơn bão lớn đã quét sạch các cửa sổ ở ký túc xá nơi tôi đang ở. Mấy ngày sau, đài loan tin vòi rồng lớn chưa từng thấy xuất hiện ở thung lũng Hudson và tiếp đất cách Học viện Yancy có mười lăm dặm. Một trong những hoạt động hiện tại của môn học lịch sử là đếm số lượng rơi xuống bất thường của các loại máy bay nhỏ do các cơn gió giật bất ngờ gây nên ở khu vực Đại Tây Dương trong năm đó. Từ đó bắt đầu quãng thời gian tôi luôn vô cớ cáu kỉnh và khó chịu, đồng thời lực học đuối dần, điểm D dần thay thế bằng điểm F. Tôi đánh nhau với Nancy và đám bạn nó thường hơn và hầu như tiết nào tôi cũng bị thầy cô tống ra ngoài hành lang. Cuối cung, tôi đã cãi lại thầy Nicoll, thầy giáo dạy môn Ngữ văn khi thầy cứ hỏi đi hỏi lại rằng: tại sao tôi lười học môn thầy quá thế. Tôi ví thầy với “con sâu rượu”, dù tôi không chắc lắm về nghĩa vủa nó. Nhưng nó nghe có vẻ rất hay. Tuần sau đó, thầy hiệu trưởng viết thư gửi mẹ tôi chính thức tuyên bố rằng: Năm học sau, tôi không được mời lại Học viện Yancy nữa. Tôi cay cú nghĩ thầm: “Càng tốt. Thế lại hóa hay.” Tôi nhớ nhà kinh khủng. Tôi muốn được sống với mẹ trong căn hộ bé như cái tổ cò ở khu Thượng New York dù có phải học trường công và nghiến răng nhịn ông cha dượng đáng ghét say sưa cờ bạc tối ngày. Tuy nhiên, Học viện Yancy cũng có thứ làm tôi phải nhớ nhung. Nào cảnh rừng cây tĩnh lặng ngoài cửa số phòng ký túc xá, nào dòng sông Hudson uốn lượn phía xa xa, nào mùi cây thông thoảng bay trong gió. Tôi sẽ nhớ Grover. Nó là bạn tốt tuy có hơi khác người. Tôi lo cho nó lắm: sang năm không có tôi ở bên, không biết nó có trụ nổi không. Còn nữa, tôi sẽ nhớ lớp học tiếng Latinh, nhớ những buổi kiểm tra đầy vui nhộn của thầy Brunner. Tôi sẽ không bao giờ quên người thầy từng đặt niềm tin nơi tôi, nói tôi nhất định sẽ học hành tấn tới. Đến thời điểm ôn thi cuối cấp, tôi chỉ dồn sức học môn Latinh. Tôi chưa quên hôm ở viện bảo tàng, thầy Brunner có bảo môn thầy dạy có tầm quan trọng sống còn với tôi. Dù không hiểu nguyên do, nhưng tôi bắt đầu tin thầy nói đúng. -o- Buổi tối trước ngày thi, tôi nản chí đến nỗi ném cả cuốn Hướng dẫn về Thần thoại Hy Lạp của Cambridge. Từ ngữ như nhảy múa trước mắt, quay vòng vòng quanh đầy tôi. Các chữ cái giống người cưỡi ván trượt, hết lộn lên lại nhào xuống. Tôi không thể nào nhớ được sự khác nhau giữa Chiron[i] và Charon[ii], Polydictes[iii] và Polyphemus[iv]. Còn cách chia động từ tiếng Latinh ư? Quên nó đi. Tôi sốt ruột đi tới đi lui trong phong, cảm giác như cả đàn kiến lửa đang bò trong áo sơ mi. Tôi nhớ nét mặt nghiêm trang và cặp mặt sáng ngàn năm tuổi của thầy Brunner. Tiếng thầy văng vẳng bên tai: “Trò Percy Jackson, tôi chỉ chấp nhận ở em những gì tốt đẹp nhất mà thôi.” Cố trấn tĩnh, tôi cúi xuống nhặt cuốn sách lên. Trước nay, tôi chưa từng nhờ thầy giúp. Có lẽ lần này, nếu tôi hỏi thầy Brunner, thầy sẽ cho lời khuyên hữu ích. Hoặc chí ít tôi cũng có cơ hội xin lỗi trước khi nhận điểm F to tướng cho bài thi Latinh ngày mai. Tôi không muốn rời Học viện Yancy với tâm trạng day dứt khôn nguôi vì đã khiến thầy Brunner nghĩ mình là kẻ thất bại. Hầu như phòng nào cũng tối đen, vắng vẻ, chỉ riêng cửa phòng thầy Brunner hé mở. Ánh đèn từ bên trong hắt ra vắt ngang hành lang kéo dài đến tận cửa lớn. Khi cách cửa phòng thầy ba bước chân, tôi nghe có tiếng nói vẳng ra. Thầy Brunner vừa hỏi câu gì tôi nghe không rõ, chie nghe rõ ràng tiếng Grover trả lời: - ... lo cho Percy, thưa thầy. Tôi sững người. Thường thì tôi không quen nghe lén ai bao giờ. Nhưng giả sử bạn cùng tuổi tôi, tôi thách bạn không nghe nếu biết bạn bạn thân nhất của mình đang nói chuyện với người lớn về chính mình. Tôi nhích lại gần hơn. Tiếng Grover vang lên: - ... một mình trong hè này. Ý em là, bọn “Người Tử Tế” đã có mặt trong trường! Khi ta biết chắc, bọn chúng cũng biết luôn. Thầy Brunner đáp: - Nếu chúng ta giục giã cậu ấy chỉ làm tình hình thêm xấu đi. Ta cần thằng bé chín chắn hơn chút nữa. - Nhưng cậu ấy không còn thời gian nữa. Ngày Hạ chí là hạn chót rồi… - Ta sẽ giải quyết việc này mà không cần đến cậu ấy. Grover này, để thằng bé tận hưởng yên bình được ngày nào hày ngày ấy. - Thưa thầy, nhưng cậu ấy đã nhìn thấy bà ta… Thầy Brunner khăng khăng: - Do tưởng tượng thôi. Sương Mù bao trùm toàn bộ học trò và đội ngũ giáo viên đủ để cậu ấy tin điều ngược lại. - Thưa… Tôi… tôi không thể một lần nữa không hoàn thành nhiệm vụ. - Giộng cậu ấy nghẹn lại, - Ngài cũng biết nếu lần này thất bại, tôi sẽ gặp chuyện gì rồi. Thầy Brunner dịu giọng: - Không có chuyện đó đâu, Grover. Đáng lẽ ta nên để mặc bà ta, không can thiệp. Mà thôi, giờ cậu chỉ việc giữ cho Percy toàn mạng đến mùa thu tới… Cuốn sách giáo khoa môn Thần thoại học tuột khỏi tay tôi, rơi xuống đất nghe đánh “thịch”. Thầy Brunner im bặt. Tim đập như trống làng, tôi nhặt nhanh sách và cắm đầu cắm cổ trở xuống sảnh. Một bóng đen vụt qua khung cửa kinh sáng đèn trước phòng thầy Brunner. Cái bóng cao lớn hơn ông thầy cả đời ngồi xe lăn rất nhiều, nắm lăm lăm trong tay một thứ rất giống cây cung. Tôi đẩy nhanh cánh cửa gần nhất và lẻn vào trong. Mấy giây sau, tôi nghe tiếng lộp cộp-lộp cộp-lộp cộp như có ai dọng súc gỗ xuống sàn vang lên, kế đến là tiếng khụt khịt như thú đánh hơi ngoài cánh cửa phòng tôi đang nấp. Một cái bóng đen sì, cao to dừng ngay trước tấm kính cửa giây lát rồi đi tiếp. Mồ hôi chảy thành dòng xuống cổ tôi. Tiếng thầy Brunner ở đâu đó ngoài hành lang vọng lại nghe lào xào: - Không có gì cả. Từ hồi Đông Chí đến giờ, đầu óc ta làm sao ấy. Grover đáp: - Tôi cũng vậy. Nhưng tôi thề là… Thầy giáo ngắt lời: - Thôi về ký túc xá đi. Ngày mai thi mấy môn liền đấy, nhớ học cho tốt vào. - Ông nhắc chi cho thêm nản vậy. Đèn trong văn phòng thầy Brunner vụt tắt. Tôi đứng chờ trong phòng tối và tưởng thời gian như ngừng trôi. Mãi sau, tôi chuồn ra hành lang và trở về phòng. Grover nằm trên giường, điềm nhiên ôn bài trọng tâm thi trong vở ghi môn Latinh như thể nó chưa xuống giường từ tối đến giờ. Nó nheo mắt: - Vừa đi đâu về thế? Thuộc hết bài chưa mà ung dung quá vậy? Tôi im lặng, không nói không rằng. Grover nhíu mày: - Trông cậu thất thần chưa kìa. Mọi chuyện ổn cả chứ? - Chỉ… hơi mệt thôi. Tôi quay đi để nó không nhìn mặt tôi mà đoán già đoán non và sửa soạn đi ngủ. Tôi không thể hiểu thông tin vừa nghe được dưới nhà. Tôi chỉ ước tất cả đều là thông tin của trí tưởng tượng của riêng tôi mà thôi. Nhưng có một điều quá rõ rang: Thầy Brunner và Grover bí mật nói chuyện với nhau vê tôi. Họ tin chắc tôi sắp gặp nạn. -o- Chiều hôm sau, vừa ra đến cửa phòng thi sau khi làm bài thi môn tiếng Latinh dài ba tiếng, mắt tôi như nhảy múa với những cái tên Hy Lạp và La Mã cổ đại tôi đã viết sai. Toi nghe tiếng thầy Brunner gọi giật lại. Tôi thoáng lo lắng rằng thầy phát hiện đêm qua tôi nghe lén chuyện của thầy nhưng hóa ra tôi lo hão. - Percy này, đừng nản lòng khi phải rời Học viện Yancy nhé. Theo thầy… thế là thượng sách, em ạ. Giọng thầy như an ủi, nhưng câu chữ thầy dùng khiến tôi ngượng chín cả người. Dù thầy rất khẽ khàng, nhưng mấy bạn chưa làm xong bài còn trong phòng nghe thấy hết. Nhỏ Nancy Bobofit nhìn tôi bĩu môi và gửi cái nụ hôn gió chế nhạo. Tôi lẩm bẩm: - Em biết rồi ạ. Thầy hết cho xe chạy lên, lại cho xe chạy đẩy lùi xuống như thể thầy không biết phải nói gì: - Tức là... em không hợp với trường này. Thế nên sớm muộn gì em cũng phải rời trường thôi. Mắt tôi cay xè. Thế đấy! Người thầy tôi kính trọng nhất đứng trước mặt cả lớp và bảo thẳng rằng tôi không có khả năng tiếp tục theo học được nữa. Suốt một năm qua thầy luôn tin tưởng tôi, vậy mà bây giờ thầy bảo số tôi thể nào cũng bị tống cổ khỏi trường. Tôi run rẩy: - Dạ phải. - Không, không phải như em nghĩ đâu. Tôi nói linh tinh gì thế này. Tôi muốn nói là… em không hề bình thường một chút nào. Tôi không hề có ý… Tôi cắt ngang: - Cảm ơn thầy! Cảm ơn thầy đã nhắc em điều đó. - Kìa Percy… Nhưng tôi đã cắm cúi bỏ đi -o- Trong ngày cuối cùng của học kỳ, tôi tống hết quần áo vào va li. Đám con trai cười nói và khoe nhau dự định cho kỳ nghỉ hè sắp đến. Một đứa bảo sẽ thực hiên chuyến đi bộ đường trường xuyên đất nước Thụy Sĩ xinh đẹp. Đứa khác khoe sẽ lái du thuyền ở biển Carribbea cả tháng. Cũng như tôi, chúng đều là tội phạm vị thành niên, chỉ có khác là nhà chúng giàu nứt đố đổ vách. Bố chúng toàn là tổng giám đốc tập đoàn xuyên quốc gia nọ hay đại sứ Hoa Kỳ ở nước kia, hoặc chí ít cũng là một nhân vật nổi tiếng. Còn tôi chỉ là đứa cha căng chú kiết, xuất thân từ một dòng họ chẳng có ai thành danh cả. Bọn bạn hỏi tôi hè định làm gì. Tôi bảo sẽ về Manhattan với mẹ. Tôi giấu chúng chuyện hè này tôi sẽ dắt chó đi dạo thuê để kiếm chút tiền mọn hoặc gõ cửa từng nhà bán phiếu mua báo dài hạn nhằm cung phụng cho thói cờ bạc của cha dượng. Có thế, ông mới cho tôi ăn ngày hai bữa. Nếu may mắn có thời gian rảnh rỗi, tôi sẽ lại ôm đầu lo cháy ruột vì không biết sẽ học ở đâu khi bắt đầu năm học mới. Nghe tôi nói, một đứa trong nhóm đáp: - À, thế cũng hay. Đoạn nó quay sang với mấy đứa kia tán gẫu tiếp như thể cái thằng tôi chưa từng tôi tại trên đời. Tôi sợ nhất là phải từ biệt Grover, nhưng hóa ra tôi lo hão. Nó đã mua sẵn vé xe buýt về Manhattan, cùng chuyến với tôi luôn. Vậy là trên đường quay về thành phố, chúng tôi lại vai kề vai ngồi sát bên nhau. Dọc đường, Grover cứ bồn chồn ngoái nhìn chằm chằm vào lối đi giữa hai hàng ghế để quan sát hành khách trên xe. Tôi nhớ rất rõ mỗi lần rời Học viện Yancy , Grover lại hoảng hốt, nhấp nhổm như ngồi trên chảo lửa như thể nó biết chuyện xấu thế nào cũng đến. Lúc đầu tôi tưởng nó sợ bị trêu chọc. Nhưng trên xe buýt, ai rỗi hơi chòng ghẹo nó chứ. Cuối cùng, chịu không nổi tôi bèn bảo : - Tìm mấy “Người Tử Tế” chứ gì ? Grover giật thót mình : - Cái… cái gì? Cậu vừa nói gì? Tôi bèn nói thật là đã nghe lén nó và thầy Brunner nói chuyện đêm trước ngày thi. Mắt Grover giật liên hồi: - Cậu nghe được gì rồi? - À… có nghe được mấy câu. Mà này, Hạn chót vào ngày Hạ chí nghĩa là gì thế? Grover nhăn như bị: - Thôi mà Percy… Hôm ấy, chẳng qua tớ lo cho câu quá nên mới ra nông nỗi. Ý tớ là cậu ảo tưởng về việc cô giáo dạy toán là ma quỷ đấy. - Nhưng Grover… - Tớ bèn bảo thầy Brunner rằng cậu đang bị căng thẳng quá mức. Bằng chứng là trường làm gì có cô giáo nào tên Dodds, với lại… - Này Grover, cậu nói dối dở lắm. Hai tai nó đỏ lựng như mào gà. Nó lục túi áo lấy tấm danh thiếp nhàu nát, bẩn lem nhem: - Vậy cậu giữ cái này đi. Ngộ nhỡ hè có cần đến tớ thì cứ gọi. Trên tấm giấy nhỏ có dòng chữ hoa kiểu cầu kỳ làm chứng khó đọc của tôi thêm trầm trọng. Mãi sau tôi mới nhìn ra nội dung sau Grover Underwood Người trông giữ ĐỒI CON LAI Long Island , New York 009-0009 - Con lai là... Grover gắt: - Chớ nói to! Đó là địa chỉ nơi tớ ở... trong hè. Tôi buồn nẫu ruột. Hóa ra, Grover có nhà nghỉ dành cho mùa hè. Tôi chưa bao giờ nghĩ nhà nó cũng giàu như đại đa số bọn bạn học trong Học viện Yancy. Mặt tôi như đưa đám : - Ra thế. Vậy trong hè, nếu có muốn ghé dinh thự nhà cậu, tớ gọi số này à? Nó gật đầu: - Hoặc… khi có chuyện, cậu cần tớ giúp. - Hè tớ cần cậu làm gì? Tôi cố tình ăn nói phũ phàng. Màu đỏ lan từ mặt xuống cổ Grover: - Percy này, thực ra là tớ... tớ phải bảo vệ cậu. Tôi trợn mắt nhìn nó. Suốt năm học vừa rồi, tôi phải ẩu đả không biết bao nhiêu lần để bảo vệ Grover khỏi bị bắt nạt. Gần đến ngày chia tay, tôi mất ăn mất ngủ vì lo không có tôi, Grover sẽ sống ra sao khi bắt đầu năm học mới. Và bây giờ nó lại hành động như thể người cần được bảo vệ là tôi ấy. Tôi bèn hỏi nó: - Grover này, chính xác thì cậu đang bảo vệ tớ khỏi cái gì thế? Một âm thanh ken két vang lên bên dưới chân bọn tôi. Khói đen bốc ra từ bảng đồng hồ và cả xe buýt bốc mùi như trứng thối. Bác lái xe lầm bầm nguyền rủa và tấp xe sát lề đường cao tốc. Mấy phút sau, có tiếng loảng xoảng trong khoang chứa động cơ xe. Tài xế bảo tất cả hành khách phải xuống xe ngay. Grover và tôi rời xe như bao người khác. Mấy chục con người đứng lố nhố ven con lộ trải dài tít tắp. Nếu xe không hỏng và không phải bước chân khỏi xe buýt như thế này, chẳng ai để ý xem khu này thuộc địa phận nào. Bên đường phía chúng tôi đứng toàn cây gỗ thích và rác rến do xe cộ qua đường hất xuống. Nhìn qua con đường trải nhựa bốc hơi dưới nắng chang chang sang bên kia đường, tôi chỉ thấy một cửa hàng bán trái cây xây theo kiểu cũ. Hàng hóa trong tiệm trông rất tươi ngon: nào anh đào và táo đỏ như màu máu, nào quả óc chó và mơ tươi mởn, nào rượu táo ướp lạnh đựng trong bình lớn. Tiệm không có khách, chỉ có ba bà già ngồi ở ghế bập bênh bên dưới tán cây gỗ thích, đang đan một đôi vớ lớn tôi chưa bao giờ thấy qua. Vớ gì mà rộng như áo len, nhưng hình dáng đúng là vớ đi chân. Bà ngồi bên phải đan một chiếc, bà ngồi bên trái đan chiếc kia. Bà ngồi giữa ôm chiếc rổ lớn đựng cuộn sợi xanh dương to tướng, trông như cuộn dây điện. Ba bà lão này giống trong chuyện cổ tích: mặt xanh tái, da nhăn nheo như vỏ trái cây héo, tóc bạc cột gọn sau gáy, giấu sau vành khăn lớn in hoa sặc sỡ và cánh tay gầy guộc thò ra từ tay áo váy bằng vải bông bạc phếnh. Nhưng lạ nhất là hình như họ dồn cả sáu con mắt vào tôi. Họ không ngắm hành khách tản ra thành nhiều nhóm mà chỉ nhìn tôi… chằm chằm. Tôi liếc Grover định kể ngày với nó nhưng mặt nó trắng bệnh không còn hột máu. Đầu mũi nó giật giật. - Cậu sao thế Grover? Mà này, để tớ kể cho nghe… - Nói ngay xem ba bà kia có nhìn cậu không? Có hay không? - Có nhìn. Quái đản quá cậu nhỉ? Chẳng lẽ chân tớ đi vừa cặp vớ ấy? - Thôi đừng đùa nữa. Vui lắm đấy mà đùa. Bà già ngồi giữa lôi ra chiếc kéo lớn làm bằng vàng cẩn bạc, hai lưỡi kéo sắc lẻm, sáng loáng. Tôi nghe tiếng Grover thở hào hển. Nó giục: - Mình vào xe đi, nhanh lên. - Cái gì? Trong xe nóng như lò bánh mỳ ấy. - Lên xe ngay đi. Nó mở cửa bước vào nhưng tôi cứ đứng lỳ. Bên kia đường, ba bà già vẫn không rời mắt khỏi tôi. Bà ngồi giữa cắt sợi dây. Tôi xin thề có nghe tiếng “xoạt” từ bên kia đường vọng sang. Hai bà bạn còn lại cuộn đôi vớ to khổng lồ lại, còn tôi phân vân tự hỏi vớ ấy dành cho ai: Kinh Kông hay yêu quái khổng lồ mình đầy lông lá. Bác tài nổ máy. Một đám khói xám phụt ra từ động cơ xe chở khách. Cả chiếc xe rung bần bật, tiếng máy lại nổ giòn. Hành khách reo lên mừng rỡ. Vụt mạnh chiếc mũ mềm vào vô lăng, bác tài khoái chí: - Có thế chứ. Mời bà con lên xe đi. Vừa chạm chân lên sàn xe, tôi bất chợt choáng váng như thể bị cảm nắng. Trông Grover cũng không hơn gì. Nó run cầm cập, hai hàm răng va vào nhau lách cách. - Grover này? - Gì cơ? - Hình như cậu giấu tớ chuyện gì thì phải? Nó đưa ống tay áo lên lau trán: - Percy, lúc nãy cậu thấy gì ở tiệm trái cây? - À, lại ba bà già đó. Họ có gì mà cậu sợ thế? Chắc họ không giống cô... Dodds đâu nhỉ? Nhìn mặt Grover thật khó đoán câu trả lời, nhưng có điều tôi biết chắc ba bà ở tiệm trái cây còn đáng sợ hơn cô Dodds gấp nhiều lần. Nó bảo: - Thì cứ kể xem cậu nhìn thấy những gì. - Bà ngồi giữa lấy kéo cắt sợi dây. Grover nhắm nghiền mắt, tai nó huơ huơ như làm dấu thánh nhưng không phải. Dấu của Grover cổ xưa hơn dấu thánh nhiều. - Vậy, cậu thấy bà ta cắt sợi dây. - Ừ. Thì sao? Miệng hỏi thế nhưng trong lòng tôi biết đó là chuyện nghiêm trọng. Grover cắn ngón tay cái, miệng lẩm bẩm: - Thế này không được. Tớ không muốn kết cục như lần vừa rôi. - Lần vừa rồi? - Sao lúc nào cũng là lớp sáu thế. Không ai qua nổi lớp sáu cả. Tôi bắt đầu phát hoảng vì thấy Grover nói nhảm hoài: - Grover! Cậu huyên thuyên gì vậy? - Khi nào đến bến xe buýt, cho tớ đi cùng cậu về nhà. Cậu hứa đi. Yêu cầu của nó nghe rất kỳ khôi nhưng tôi hứa đại cho xong. - Mê tín vừa thôi, ông mãnh! Sợ điềm gở à? Grover không trả lời. - Này, tớ muốn hỏi về việc cắt dây vừa rồi. Nó ám chỉ có người sắp chết hả cậu? Nó rầu rĩ nhìn tôi như thể vừa chọn xong loại hoa mà tôi thích nhất dùng để phủ lên quan tài cho tôi vậy. [i] Chiron: Vua của các nhân mã, và cũng là một nhân vật uyên bác, thầy đạy của anh hùng Hercules. [ii] Charon: người lái đò sông Mê, đưa các linh hồn vào vương quốc tối tăm của Hades. [iii] Polydictes: là người đứng đầu đảo Seriphos, con trai Magnes và mọt nữ thủy thần vô danh. [iv] Polyphemus: thủ lĩnh của Khổng lồ một mắt, có sức mạnh vô song. Con trai của thần biển Poseidon. 3. Grover không mặc quần Đến lúc thú tội: Xe vừa vào bến, tôi đã bỏ rơi Grover tắp lự. Tôi biết, tôi biết. Làm thế là quá đáng với bạn bè lắm lắm. Nhưng Grover làm tôi sợ muốn chết. Nó nhìn tôi như thể tôi chết từ tám đời, miệng lẩm bẩm: “Biết ngay mà, lần nào cũng thế” và “Sao không ai trụ nổi cho đến hết năm lớp sáu?” Tôi không còn lạ gì Grover. Bàng quang nó hoạt động trên mức bình thường mỗi khi chủ nhân lo âu. Thế nên tôi không ngạc nhiên khi vừa xuống xe buýt, nó bắt tôi hứa phải đợi nó trước khi te te chạy thẳng vào nhà vệ sinh. Thay vì chờ bạn, tôi lấy va li chuồn ra cổng đón taxi về khu Thượng Manhattan. Tôi bảo tài xế: - Khu đông, ngã tư đường một lẻ bốn và đưòng Hoàng Tử. -o- Trước khi giới thiệu độc giả với mẹ tôi, tôi xin có đôi lời. Tên bà là Sally Jackson, người tốt bụng nhất trần đời và là minh chứng sống cho câu triết lý cửa miệng của tôi: Người hiền chẳng bao giờ gặp lành. Mẹ tôi lên năm tuổi cũng là lúc ông bà ngoại tôi tử nạn vì máy bay rơi. Sau đó, bà được ông cậu mang về nuôi nhưng người đó chẳng thèm quan tâm gì đến cô cháu gái. Vì muốn làm tiểu thuyết gia, nên suốt thời gian học trung học, mẹ tôi vừa học vừa đi làm quần quật cốt dành tiền lên đại học dự khóa viết văn. Thế rồi ông cậu bị ung thư khiến mẹ tôi đang học lớp mười hai phải bỏ ngang để ở nhà chăm sóc cậu. Ít lâu sau, ông cậu mất bỏ lại mẹ tôi tứ cố vô thân, không tiền bạc, không bằng cấp. Thời gian ngắn ngủi tươi đẹp nhất của mẹ tôi là lúc gặp cha tôi. Tôi không nhớ tý gì về cha, ngoại trừ cảm giác ấm áp bao trùm. Có thể đó là dấu vết nụ cười ông dành cho tôi. Mẹ không muốn nhắc đến cha vì hễ đả động đến chuyện ấy, mẹ lại buồn vô hạn. Mẹ cũng không có lấy một tấm hình của ông. Chắc bạn đọc cũng hiểu: cha mẹ tôi không cưới xin gì hết. Mẹ bảo cha giàu có và là yếu nhân. Quan hệ của họ được giấu trong vòng bí mật. Thế rồi một ngày kia, cha lên tàu vượt biển Đại Tây Dương trong một chuyến công du khẩn cấp và không bao giờ trở lại. Mẹ bảo cha mất tích ngoài khơi. Không phải chết, chỉ mất tích thôi. Mẹ xoay xỏa đủ mọi nghề, học bổ túc ban đêm lấy bằng tú tài và cố gắng nuôi tôi khôn lớn. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ phàn nàn hay nổi nóng, dù chỉ một lần. Nhưng tôi biết, tôi là một đứa trẻ chẳng dễ nuôi chút nào. Cuối cùng, mẹ lấy dượng Gabe Ugliano, người chỉ đễ chịu trong ba mươi giây đầu gặp mặt, sau đó để lộ ngay bản chất là tay đểu cáng có hạng. Hồi còn bé tí, tôi đã gán cho dượng cái tên “Gabe Cóc Chết”. Xin lỗi vì tôi tả quá thực nhưng dượng Gabe hôi thật cơ. Người ông ta lúc nào cũng có mùi bánh pizza tỏi thiu ủ cả tháng trong quần đùi bẩn. Làm trung gian hòa giải cho tôi và dượng, cuộc sống của mẹ khó nhọc thêm mấy phần: nào là cách Gabe Cóc chết đối xử với bà, nào là nỗi lo vì xung đột giữa cha dượng và con ghẻ có thể bùng nổ bất cứ lúc nào… Đơn cử là chuyện tôi về nhà là minh chứng hùng hồn cho điều đó. -o- Vừa bước qua ngưỡng cửa căn hộ nhỏ xíu, tôi vừa hy vọng mẹ đã đi làm về. Nhưng tôi sớm phải thất vọng vì trong phòng khách chỉ có dượng Gabe đang vui vẻ cùng đám bạn cờ bạc. Tivi mở kênh thể thao ESPN ồn ã. Vỏ bim bim và lon bia rỗng vương vãi khắp mặt thảm. Chẳng buồn nhìn lên, dượng Gabe vừa cắn đầu điếu xì gà, vừa làu bàu: - Mày về đấy à? - Mẹ con đâu ạ? - Đi làm. Mày có tiền không? Thế đấy. Không hề có chuyện dượng niềm nở: “Vào nhà đi con. Mừng con dã trở về. Sáu tháng qua, con sống thế nào?” Cha dượng tôi mập ra trông thấy. Trông ông ta giống con hải mã mú míp ních trong bộ quần áo mua ở cửa hàng đồ cũ. Đầu Gabe Cóc Chết chỉ còn ba cọng tóc lúc nào cũng chải mượt, vắt ngang qua đỉnh đầu hói bóng lưỡng như thể trông cho đẹp trai, bảnh chọe hay gì gì đó. Dù quản lý gian hàng bán đồ điện tử Mega-Mart dưới khu Queens nhưng ông ta hầu như chỉ ngồi nhà. Theo tôi, đáng lẽ dượng phải bị đuổi việc từ lâu rồi mới phải. Ngược lại, dượng cứ lãnh lương tì tì để mua xì gà (thứ làm tôi buồn nôn) và tất nhiên, để uống bia. Lúc nào cũng thấy ông ấy nốc bia. Mỗi khi thấy mặt tôi ở nhà, dượng lại đòi tôi cúng tiền cho xới bạc. Gabe Cóc Chết gọi đó là “Bí mật giữa cánh dàng ông với nhau”, ngụ ý rằng nếu tôi hé môi với mẹ, ông ta sẽ đánh tôi sống dở chết dở. Tôi bảo: - Con không có tiền. Gabe Cóc Chết nhướn đôi lông mày bóng dâu. Ông ta đánh hơi thấy mùi tiền thính như chó săn thấy con mồi. Kể cũng lạ, tôi tưởng mùi hôi thối từ cơ thể ông át mọi mùi khác chứ. - Mày đi tãi từ bến xe về chắc chứn tốn cả hai chục đồng. Chí ít giờ trong túi mày phải còn sáu bảy đồng tiền lẻ. Nhà tao đâu phải nhà nuôi trẻ làm phúc. Muốn sống ở đây phải biết điều chứ. Tao nói có gì trật không, Eddie? Chú Eddie, vốn là quản lý tòa nhà chung cư này, nhìn tôi với vẻ mặt cắn rứt. Nếu tách chú khỏi chiếu bạc này, ai cũng bảo chú không đến nỗi tệ. Chú bảo: - Kìa Gabe, cháu nó vừa chân ướt chân ráo vào nhà mà. Dượng Gabe đay lại: - Nhưng tao nói có đúng không? Eddie vội cúi xuồng đĩa bánh, không dám ngẩng đầu lên. Hai người lạ ngồi cạnh cú cũng im lặng. Tôi móc nắm tiền trong túi ném lên bàn: - Này đây. Cầu cho dượng thua cháy túi. Dượng Gabe gào lên sau lưng tôi: - Này học sinh ưu tú, người ta gửi bảng điểm của mày về đây rồi đấy, con ạ. Học ngu còn ra vẻ ta đây! Tôi sập cửa phòng “mình” đánh rầm. Thực ra, đó không hẳn là phòng riêng của tôi. Trong lúc tôi ở lại trường nội trú, nó là “phòng nghiên cứu” của dượng Gabe. Khốn nỗi ông ta chẳng “nghiên cứu” gì ngoài đống tạp chí xe hơi cũ. Tuy nhiên, cha ghẻ tôi khoái tống táng đồ đạc của tôi vào tủ, “trưng bày” đôi giày cao cổ dính ầy bùn lên bậu cửa sổ và cố hết sức làm phòng này ám mùi nước hoa đàn ông gớm guốc trộn mùi khói thuốc lá và bia thiu chua lòm. Tôi ném va li lên giường. Về nhà thích thật. Có thể nói mùi dượng Gabe còn tệ hơn ác mộng về cô Dodds, tệ hơn cả âm thanh sởn da gà lúc bà già bán trái cây cắt sợi dây xanh. Nghĩ đến đó, tôi thấy tay chân bủn rủn. Tôi nhớ nét mặt hớt ha hớt hải của Grover – cách nó bắt tôi hứa không về nhà nếu không có nó đi cùng. Bất giác tôi rùng mình. Tôi cảm giác người nào... hoặc con gì đang ngó tôi chằm chằm. Có thể ngay lúc này nó đang bò lên cầu thang, móng vuốt ngày càng mọc dài nhọn hoắt. Đúng lúc ấy, tiếng mẹ tôi vang lên : - Percy về đấy à con ? Tôi nhìn mẹ đứng ngay cửa phòng, bao nỗi sợ hãi tan biến mất. Chỉ cần thấy mẹ bước vào phòng, lòng tan an bình, thanh thản ngay. Mắt mẹ lấp lánh và đổi màu dưới ánh đèn. Nụ cười mẹ ấm áp như tấm chăn mềm mại ủ ấm tôi ngày đông giá. Mái tóc nâu dài của mẹ điểm bạc nhưng với tôi, mẹ không bao giờ già. Mỗi khi mẹ nhìn tôi, hình như bà chỉ thấy tôi tốt đẹp mọi bề, không một chút xấu xa. Tôi chưa bao giờ nghe mẹ gắt gỏng hay nặng lời với ai bao giờ, ngay cả với dượng Gabe và tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng : - Trời, Percy của mẹ. Mới từ Giáng sinh đến giờ, con đã cao lớn quá chừng. Áo thun đồng phục của nhân viên cửa hàng kẹo mang dòng chữ “Nước Mỹ Ngọt Ngào” mẹ mang tên người có mùi thơm dễ chịu nhất trên đời. Nó là hỗn hợp mùi của sôcôla, cam thảo và đủ thứ ngọt ngon bày bán trong cửa hàng dưới khu mua sắm Grand Central. Như mọi khi, để đón tôi về nhà, mẹ mang về cho tôi một bịch tướng toàn “hàng mẫu miễn phí”. Hai mẹ con ngồi bên mép giường. Nhìn tôi ăn ngấu nghiến các thanh kẹo dẻo có mùi quả việt quất, mẹ dịu dàng vuốt tóc tôi, bắt tôi kể hết mọi điều tôi chưa viết trong thư. Mẹ không hề đả động đến chuyện tôi bị đuổi học. Dù thế tôi vẫn băn khoăn: liệu tôi thế này có là bình thường chăng ? Liệu tôi có ngoan, có xứng với tình yêu thương của mẹ ? Tôi bảo rằng mẹ hỏi dồn dập như thế, tôi lấy sức đâu trả lời cho kịp: “Thôi mẹ, cứ hỏi người ta hoài!”. Nhưng trong thâm tâm, tôi cực kỳ vui sướng vì lại được ở bên mẹ. Có tiếng dượng Gabe từ phòng ngoài gọi oang oang : - Này Sally, món xúp đậu có chưa? Tôi nghiến răng trèo trẹo. Người tốt bụng, xinh đẹp nhất đời như mẹ tôi xứng đáng lấy được người chồng triệu phú, chứ không phải cơm bưng nước rót cho lão Gabe Cóc Chết kia! Muốn làm mẹ vui, tôi bảo mấy ngày cuối cùng ở Học viện Yancy vui lắm. Tôi còn bảo rằng dù bị đuổi học nhưng tôi không quá buồn bã. Ít nhất thì lần này, tôi cũng trụ được đến gần hết năm. Không những thế, tôi còn có thêm một vài người bạn mới và học tiếng Latinh không tồi. Còn nữa, thật lòng mà nói, mấy vụ đánh nhau không đến nỗi ghê gớm như trong thư thầy hiệu trưởng gửi phụ huynh. Tôi thật sự thích Học viện Yancy lắm và đó là tình cảm tận đáy lòng tôi. Càng kể, tôi càng tin năm vừa qua tôi hoàn toàn vui vẻ. Tôi nghẹn ngào khi nhắc đến thầy Brunner và Grover. Giờ ngồi ôn lại, tôi thấy ngay cả vụ né tránh được bánh kẹp bơ đậu phộng của Nancy Bobofit ném vào người không đến nỗi quá khó chịu. Nhưng khi kể đến chuyến tham quan viện bảo tàng thì... Ánh mắt mẹ tôi như thúc giục tôi kể hết : - Con bảo sao cơ? Cái gì làm con sợ thế? - Thưa mẹ, không có gì ạ. Phải nói dối mẹ, tôi day dứt ghê lắm. Tôi định kể mẹ nghe chuyện cô Dodds, chuyện ba bà già cắt sợi dây xanh nhưng chính tôi cũng thấy chúng thật ngớ ngẩn, không thể xảy ra trong đời thực. Mẹ cắn môi ra chiều suy nghĩ. Bà biết tôi cố giấu nhưng không ép tôi nói thật. - Có quà bất ngờ cho con đây. Mẹ con mình sẽ đi tắm biển. Tôi mở to mắt sung sướng: - Đến Montauk nữa hả mẹ? - Ừ. Mình đi nghỉ ba đêm hai ngày. Cũng căn nhà gỗ cũ. - Khi nào ạ? Mẹ mỉm cười: - Mẹ thay đồ xong, mình đi ngay. Tôi không tin vào tai mình. Hai năm nay mẹ con tôi chưa đi Montauk vì được Gabe bảo nhà không đủ tiền. Chỉ nghĩ đến chuyện được đi biển, lòng tôi náo nức như hồi con thơ bé. Dượng Gabe thò đầu vào cửa gầm lên: Sally, tôi bảo cô nấu nò xúp đậu chứ có yêu cầu nem công chả phượng đâu mà chưa làm, còn ngồi ỳ đó? Tôi chỉ muốn cho ông ta ăn quả thụi nhưng mẹ đã kịp đưa mắt ngăn lại. Tôi hiểu mẹ muốn nhắc tôi “chín bỏ làm mười” cho yên nhà yên cửa cho đến lúc mẹ thu xếp xong đồ đạc cho chuyến đi. Đến lúc ấy, hai mẹ con sẽ được yên thân. Mẹ quay sang dượng Gabe: - Em làm ngay đây. Chẳng là hai mẹ con vừa bàn sẽ đến Montauk vài ngày. Cha ghẻ tôi nheo mắt: - Lại đi à? Cô nói thật không đấy ? Tôi lầm bầm: - Biết ngay mà. Đời nào dượng cho mình đi chơi. Mẹ tôi bình thản : - Dượng đồng ý đấy. Chẳng qua dượng lo chuyện tiền nong thôi. “Lo” ư? “Tức cành hông” thì có! Dượng tức vì phải bớt bia bớt rượu. Mẹ nói thêm: - Con à, Gabriel sẽ không phải làm món súp đậu. Mẹ sẽ làm món xúp đậu bảy lớp cho ông ấy ăn trong những ngày cuối tuần. Ngoài ra còn có xốt guacamole. Kem chua. Toàn món ngon thôi. Mắt Gabe Cóc Chết sáng rực: - Với lại, chi phí chuyến đi biển... trừ vào quỹ may quần áo mới của cô nhé. - Vâng, cứ như thế anh ạ. - Với lại, tối Chủ nhật cô nhớ thu xếp về sớm để kịp nấu bữa tối. Mà này, chớ lấy xe tôi đi lung tung. Chỉ đi từ đây đến Montauk và từ đó về nhà thôi đấy. - Anh yên tâm, mẹ con em sẽ giữ gìn xe cẩn thận. Dượng Gabe gãi cằm: - Tôi chỉ đồng ý nếu cô nhanh tay làm vài món lai rai ngay bây giờ. Với lại bảo thằng nhỏ xin lỗi vì về đúng lúc tôi đang chơi bài làm người ta mất tập trung. Tôi bụng bảo dạ: “Hay để tôi đá trúng “bộ hạ” ông vài phát? Muốn nằm liệt giường rên rỉ cả tuần không?” Nhưng mẹ tôi đã lừ mắt nhìn, nhắc tôi đừng chọ tức dượng. Tôi chỉ muốn hét thật to: “Sao mẹ để ông ta trèo đầu trèo cổ hoài vậy? Ông ta nghĩ gì đâu cần mẹ quan tâm cho mệt xác?” Tôi đành làu bàu: - Con xin lỗi. Con có lỗi vì đã làm dượng mất tập trung trong ván bài cực kỳ quan trọng khi nãy. Mời dượng quay lại xới bạc ngay kẻo mọi người chờ. Gabe Cóc Chết nheo mắt, cố vận hành bộ óc bé như hạt đậu để tìm xem trong giọng nói tôi có chút mỉa mai nào chăng. - Thôi thôi, giờ mày nói gì chả được. Nói đoạn, ông ta quay ra chơi bài. Mẹ tôi bảo: - Cảm ơn con. Ngay khi đến Montauk, mẹ con mình sẽ nói nốt chuyện... bất cứ chuyện gì con chưa kịp nói, nhé? Tôi thoáng thấy ánh lo sợ trong mắt mẹ, hệt như mắt Grover trên xe buýt lúc chiều. Giống Grover, chắc mẹ cũng cảm nhân luồng gió lạnh buốt khác thường vừ vụt qua và linh tính hiểm nguy đang rình rập từng bước chân tôi. Nhưng ngay sau đó mẹ cười xòa khiến tôi cho rằng mình lầm. Đời nào người như mẹ lại có những suy nghĩ u ám như thế. - Mẹ xong ngay bây giờ đây. Mẹ vỗ nhẹ đầu tôi rồi tất tả vào bếp. Hơn tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã sẵn sàng lên đường. Dượng Gabe không làm gi, chỉ quăng vội hành lý lên xe cho mẹ rồi vội vã quay lại với ván bài dở dang. Ông ta luôn miệng chì chiết, rên rỉ vì cuối tuần mẹ không ở nhà nấu đồ ăn nấu sốt, lại còn mang chiếc Camaro đời 78 của ông ta đi những hai ngày. Quăng chiếc túi cuối cùng lên xe, ông ta hầm hè với tôi : - Chỉ cần xe trầy một vết nhỏ thôi là mày liệu hồn tao đấy. Làm như tôi sắp lái xe không bằng. Khổ nỗi cha ghẻ tôi không cần biết. Nếu hải âu trót ị lên lớp sơn mới của xe, ông ta sẽ tìm cách đổ hết tội lên đầu tôi. Nhìn cha dượng đã ngà sau lảo đảo quay vào tòa chung cư, tôi tức không chịu nổi nên vô tình vung tay lên đúng lúc dượng Gabe vừa đến cửa. Tôi làm động tác giống hệt Grover làm lúc trên xe buýt, một kiểu làm dấu đuổi tà gì đó và phẩy tay về hướng Gabe Cóc Chết. Thế là cách cổng sập mạnh, va trúng mông khiến ông ta bay thẳng đến chân cậu thang hệt như bị trúng đạn đại bác. Chắc tại gió to quá, hay tại bản lề cửa bị hư nhưng tôi không nán lại lâu đủ để tìm hiểu rõ nguyên nhân. Leo tót lên xe, tôi giục mẹ đi thật nhanh. -o- Nhà gỗ hai mẹ con thuê nằm trên bãi biển phái nam, gần cuối đảo Long Island. Nhà nhỏ xíu sơn màu tùng lam nhẹ bị lún gần nửa dưới cồn cát. Rèm cửa trong nhà bạc phếch. Khăn trải giường lúc nào cũng dính cát bay từ ngoài vào và tủ kệ đầy mạng nhện. Còn biển thường lạnh buốt đến độ không thể bơi được. Nhưng tôi thích nơi này vô cùng. Hồi tôi còn bé xíu, mẹ đã đưa tôi đến đây. Còn mẹ đến nơi này trước cả khi có tôi. Dù chưa bao giờ mẹ nói ra nhưng tôi biết tại sao bà gắn bó đặc biệt với nơi này. Đây là nơi mẹ gặp gỡ cha tôi. Xe càng đến gần Montauk, mẹ càng trẻ lại. Dấu vết của bao năm tháng nhọc nhằn hằn trên mặt mẹ chợt biến mất. Mắt mẹ đổi màu xanh biếc như màu biển khơi. Xe đến nơi đúng lúc hoàng hôn. Hai mẹ con mở hết cửa sổ và dọn quanh một lượt như mọi khi. Xong xuôi, mẹ con tôi vừa dạo chơi trên bờ biển vừa ném bỏng ngô xanh cho đàn hải âu vờn quanh. Chúng tôi ăn thạch, kẹo bơ cứng màu xanh màu biển cùng đủ loại hàng mẫu miễn phí mẹ mang từ cửa hàng về. Tôi xin có đôi dòng giải thích về thực phẩm màu xanh biển của mẹ. Chẳng là dượng Gabe có lần bảo đồ ăn không thể có màu xanh nước biển. Mẹ và dượng cãi nhau, như bao chuyện nhỏ nhặt khác. Nhưng kể từ đó, mẹ hay tìm thực phẩm màu xanh về ăn: mẹ làm bánh sinh nhật có màu xanh, làm sinh tố xanh từ quả việt quất. Mẹ mua loại tortilla chip làm từ ngô xanh và các loại kẹo xanh từ tiệm về nhà. Dượng Gabe tức điên còn tôi khoái vô cùng. Chọn đồ ăn màu xanh cộng với việc mẹ giữ họ thời con gái, không lấy họ Ugliano của dượng chứng tỏ mẹ không nhất nhất nghe lời ông ta. Tôi cũng giống mẹ ở chỗ rất có cá tính. Thấy màn đêm dần buông, chúng tôi cùng nhóm lửa nướng xúc xích và kẹo marshmallow. Mẹ thủ thỉ kể tôi nghe nhiều chuyện thời thơ ấu của mẹ, cả những chuyện xảy ra trước khi ông bà ngoại tôi mất vì tai nạn máy bay. Mẹ còn kể cho nghe về những cuốn sách mẹ muốn viết một khi mẹ có đủ tiền và nghỉ việc ở cửa hàng kẹo. Cuối cùng, tôi lấy hết can đảm nêu thắc mắc đeo bám tôi mỗi lần đến nghỉ ở Montauk: thắc mắc về cha ruột tôi. Cặp mắt mẹ mơ màng. Chắc bà sắp nhắc lại câu chyện về cha mà tôi nghe nhiều lần nhưng vẫn muốn nghe nữa. - Cha con rất tốt bụng, đẹp trai, cao lớn và có uy lắm. Tuy nhiên, ông cũng rất dịu dàng. Con giống cha ở mái tóc đen bóng và màu mắt xanh lá cây tuyệt đẹp. Tôi đỏ mắt: - Thôi mà mẹ. Mẹ vẫn cười cười, làm như bà biết tôi nghĩ gì. Tôi sẽ ngượng chín nếu phải thú nhân tôi hay ngắm mình trong gương, hình dung mình lớn thêm vài chục tuổi để từ đó có chút khái niệm về diện mạo cha mình. Mẹ tôi lục tung túi kẹo tìm kẹo màu xanh biển: - Giá cha nhìn thấy con lúc này. Hẳn ông sẽ tự hào lắm lắm. Tôi tự hỏi sao mẹ có thể bình thản mà nói thế. Tôi có gì hay ho chứ? Chẳng qua tôi chỉ là học sinh cá biệt vừa mắc chứng hiếu động thái quá vừa bị bệnh khó đọc với tổng kết dưới mức trung bình, đã thế còn phải học lớp sáu những sáu năm và bị đuổi học những sáu lần. - Hồi ấy, con lên mấy? Lúc cha đi ấy? Mẹ tôi đăm đăm nhìn ngọn lửa: - Cha chỉ ở bên mẹ một mùa hè. Ngay trên bãi biển này. Cũng căn nhà gỗ này đây. - Nhưng… lúc con mới sinh, cha có thấy con mà. - Không đâu con. Ông biết mẹ sắp sinh nhưng chưa bao giờ thấy con. Ông có việc phải đi trước khi con chào đời. Tôi định đính chính là: Theo trí nhớ, con biết đôi chút về cha. Cảm giác ấm áp. Và nụ cười của ông. Tôi luôn cho rằng khi tôi mới rời bụng mẹ, hai cha con có gặp nhau. Dù mẹ không trực tiếp công nhận điều đó, tôi vẫn luôn tin nhất thiết đó phải là sự thật. Giờ tôi lại nghe nói là cha chưa bao giờ thấy mặt con… Tự nhiên tôi giận cha quá. Dẫu biết mình vô lý nhưng tôi vẫn bất mãn vì ông đã vượt biển lần ấy, vì ông không có can đảm cưới mẹ tôi. Nếu cha không bỏ rơi hai mẹ con, đâu đến nỗi giờ chúng tôi phải sống chung nhà với Gabe Cóc Chết, tôi đâu phải học nội trú và chỉ được ở bên mẹ lúc nghỉ hè. - Năm tới con lại ở nội trú ư? Mẹ định tìm cho con trường khác à? Mẹ thổi thổi thanh kẹo từ trong đống lửa ra. Giọng bà đầy muộn phiền: - Cũng chưa biết nữa. Chắc... chắc ta phải tính cách thôi. - Mẹ không muốn con ở bên mẹ ư? Tôi hối hận ngay lập tức vì đã trót lỡ lời. Mắt mẹ ầng ậc nước. Bà nắm tay tôi thật chặt: - Ôi, không phải vậy đây Percy. Mẹ... mẹ buộc phải làm thế. Vì điều đó tốt cho con nên mẹ mới phải gởi con đi xa như vậy. Nghe mẹ nói, tôi lại nhớ đến lời thầy Brunner: Tốt nhất tôi nên rời khỏi Học viện Yancy. - Vì con không được bình thường ư? - Con nói như thể đó là điều tồi tệ vậy. Nhưng con đâu biết con trai mẹ đặc biệt vô cùng. Mẹ tưởng Học viện Yancy xa xôi như thế sẽ tốt cho con. Mẹ đã nhầm vì tưởng cuối cùng cũng tìm được chỗ an toàn cho con. - Mẹ nói an toàn là sao? Chẳng lẽ con gặp nguy hiểm gì ư? Khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, ký ức lại ùa về tràn ngập tâm trí tôi. Từ trước đến giờ tôi gặp nhiều chuyện rất kỳ cục và đáng sợ, trong đó có nhiều chuyện tôi chỉ muốn quên phắt. Hồi lớp ba, có một ông mặc áo khoác đen to sù sụ theo dõi tôi ngoài sân chơi. Mãi đế khi thầy cô dọa gọi cảnh sát, ông ta mới gầm lên bỏ đi. Tuy nhiên, không ai tin khi nghe tôi kể rằng dưới vành mũ sùm sụp của hắn chỉ có một con mắt ngay giữa trán. Chưa hết, trước đó rất lâu, hồi tôi học mẫu giáo, đến giờ ngủ trưa cô bảo mẫu vô tình đặt tôi vào cũi có con rắn nằm sẵn trong đó tự lúc nào. Lúc đón con, mẹ tôi thét lên khi thấy toi đang chơi với con rắn dài thậm thượt. Chỉ bằng đôi tay nhr xíu, mũm mĩm, tôi đã thắt nút mình rắn như thắt nút dải ruy băng. Đến tuổi đi học – những chuyện sởn gai ốc luôn xảy ra. Những chuyện cực kỳ nguy hiểm. Và tôi bị buộc phải chuyển trường. Dẫu biết nên kể cho mẹ chuyện ba bà già ở sạp trái cây, chuyện cô Dodds ở viện bảo tàng, nhất là màn ảo giác kỳ cục trong đó tôi phanh thây cô giáo thành tro bụi bằng thanh kiếm dài, thế nhưng tôi lại không dám. Lạ thay, tôi có cảm giác nếu báo tin ấy, chuyến đi Montauk sẽ kết thúc ngay lập tức mà tôi lại không muốn thế chút nào. - Mẹ cố giữ con càng gần mẹ càng tốt. Nhưng mọi người bảo thế là sai lầm. Nhưng còn có một lựa chọn duy nhất: nơi cha muốn gửi con theo học. Nhưng… mẹ không đành lòng làm thế. - Cha muốn gửi con đến trường đặc biệt ư? - Không phải trường. Là trại hè. Tôi không hiểu gì cả. Tại sao người cha không ở bên từ khi tôi chào đời có thể bàn với mẹ chuyện đưa tôi đi trại hè? Va nếu chuyện đi trại hè quan trọng đến vậy, tại sao trước nay mẹ chưa từng đả động đến? Thấy tôi hoang mang, mẹ bảo: - Xin lỗi con, nhưng mẹ không thể nói với con về trại hè. Mẹ… không thể để con đến đó. Làm thế có nghĩa mẹ con ta sẽ vĩnh viễn không còn gặp mặt nhau. - Vĩnh viễn ư? Nhưng con tưởng trại hè chỉ… Mẹ quay mặt đi, chăm cú nhìn đống lửa. Nhìn mặt mẹ, tôi biết chỉ cần tôi hỏi thêm câu nữa, bà sẽ khóc òa. -o- Giấc mơ đêm ấy của tôi sống động như ngoài đời thật. Ngoài biển mưa gió bão bùng. Hai con vật đẹp như tranh vẽ, một con tuấn mã trắng tuyền và con đại bàng lông như dát vàng, đánh nhau dữ dội sát mép sóng. Đại bàng xà xuống, giương móng vuốt to lớn cào rách mũi chú ngựa trắng. Chú ngựa giận dữ chồm lên, vung chân dá cánh đại bàng. Giữa lúc giao tranh, đất trời rung chuyển. Đâu đó sâu trong lòng đất vang lên tiếng gầm ghê rợn xúi giục chúng lao vào nhau cắn xé. Tôi chạy về phía chúng và biết mình nhất định phải can ngăn nhưng không hiểu sao chân tôi chạy rất chậm. Tôi biết cứ đà nay, tôi sẽ không kịp mất. Từ xa, tôi thấy đại bàng nhào xuống mổ lòi mắt chú ngựa bạch. Tôi thét lên: “Đừng!” Tôi giật mình choàng tỉnh. Bên ngoài đang có bão thật. Gió mạnh cỡ này chắc chắn phải có cây đổ, nhà sập chứ chẳng chơi. Ngoài bãi cát không có tuấn mã và đại bàng, chỉ có sấm chớp chốc chốc rực sáng cả bầu trời. Những ngọn sóng cao sáu mét dội vào đụn cát nghe như tiếng đại bác. Mẹ tôi thức giấc sau loạt sấm rền. Bà ngồi dậy, mắt mở to, nhìn tôi âu lo: - Bão nhiệt đới. Tôi biết chuyện này thật điên rồ. Mới đầu hè, biển ở Long Island không bao giờ có bão lớn như thế. Thế nhưng, đại dương dường như đã quên điều đó. Trong tiếng gió hú, tôi nghe có tiếng gầm gừ từ xa vọng tới. Tiếng kêu nghe đau đớn, vật vã làm tôi sởn cả tóc gáy. Sau đó là tiếng động tiến đến gần hơn, nghe như tiếng búa nện trên cát. Một giọng nói tuyệt vọng – ai đó vừa hét vừa đập vào cửa căn nhà gỗ. Mẹ tôi mặc nguyên váy ngủ lao xuống đất, chạy ra mở cửa. Grover ướt như chuột lột hiện trên khung cửa. Nhưng hình như... cậu ta không phải Grover, bạn tôi. Nó hổn hển: - Tôi kiếm hai mẹ con suốt đê. Các người nghĩ sao mà ra đây thế? Mẹ nhìn tôi hoảng hốt. Bà không sợ Grover. Lý do nó đến tìm mới làm bà kinh hãi. Tiếng mẹ gào át cả tiếng mưa: - Percy! Ở trường đã xảy ra chuyện gì? Con đã không kể cho mẹ nghe chuyện gì? Tôi chết sững, mắt nhìn Grover đăm đăm nhưng không hiểu trước mắt mình là cái gì. Nó gào lên: - Những Kẻ Bất Tử! Nó đuổi sát tôi rồi. Cậu chưa kể với mẹ ư? Tôi sốc thực sự khi nghe nó mắng bằng tiếng Latinh. Tôi hiểu nó vừa nói gì nhưng quá kinh ngạc vì không biết bằng cách nào Grover tìm đến tận đây giữa đêm hôm khuya khoắt. Với lại, Grover không mặc quần. Chân nó... chỗ lúc trước là chân nó thì... Mẹ nghiêm khắc nhìn tôi và lần đầu tiên đanh giọng ra lệnh: - PERCY! Nói cho mẹ NGAY. Tôi lắp bắp kể về ba bà già ở sạp trái cây và về cô Dodds. Mẹ nhìn chằm chằm vào tôi, mặt bà tái nhợt như thây ma trong ánh sáng lập loe. Bà chộp lấy túi xách và quăng áo mưa cho tôi: - Ra xe ngay. Cả hai đứa. NHANH LÊN! Grover chạy ra chiếc Camaro. Nói chạy cũng không đúng, nó đang phi nước đại. Phần thân sau lông lá gân guốc của nó rung rung. Giờ tôi mới nhớ nó bảo có bệnh về cơ. Tôi đã hiểu lý do nó chạy thì nhanh nhưng đi bình thường lại như bị tật. Bởi vì chỗ đáng lẽ phải có bàn chân lại thay bằng cặp móng guốc. 4. Mẹ dạy tôi đấu bò Xe xuyên màn đêm, lần theo những con đường thôn quê tối tăm. Gió mạnh quất chiếc Camaro từng hồi. Mưa vụt tới tấp vào kính trước. Không biết mẹ nhìn đường bằng cách nào, chỉ biết mẹ đạp chân ga liên tục. Mỗi khi có chớp, tôi lại quay sang nhìn Grover đang ngồi cạnh mình ở hàng ghế sau và tưởng minh mất trí hoặc tưởng nó mặc quần may bằng thảm lông dài. Nhưng mùi cơ thể nó nhắc tôi nhớ đến những chuyến tham quan trại nuôi gia súc từ hồi mẫu giáo – mùi mỡ lông cừu. Mùi của một đọng vật ẩm ướt ở trang trại. Tôi không nghĩ được câu gì để hỏi, ngoại trừ: - Vậy ra... cậu quen mẹ tôi? Grover liếc nhanh kính chiếu hậu dù bên ngoài không có xe nào sau xe chúng tôi: - Không hẳn. Thật ra thì đây là lần giáp mặt đầu tiên. Tuy nhiên, bà biết tớ đang bảo vệ cậu. - Bảo vệ tớ ư? - Tớ giữ đầu còn trên cổ cho cậu. Đảm bảo cậu không hề hấn gì. Nói thế không có nghĩa tớ giả bộ làm bạn cậu. – Nó nói nhanh. - Tớ thật sự coi cậu là bạn. - Vậy thì... thật ra cậu là gì vậy? - Tớ là gì giờ không quan trọng. - Không quan trọng ư? Từ eo trở xuống, bạn thân nhất của tớ mang lốt lừa... Grover bật ra tiếng kêu chói tai, be... be... be… be…! Dù từng nghe nó kêu như vậy nhưng tôi luôn cho rằng đó là kiểu cười ngượng. Giờ tôi mới biết đó là tiếng kêu be be khó chịu. Nó gào lên: - Dê chứ! - Cái gì? - Từ eo trở xuống, tớ mang lốt dê. - Cậu vừa nói cậu là gì giờ không quan trọng mà. - Be… be… be…! Phải tay thần rừng [i] khác, cậu đã bị giẫm chết dám xúc phạm kiểu đó đấy. - Úi chà! Khoan đã. Thần rừng… ý cậu là như trong thần thoại Hy Lạp thấy Brunner hay kể ư? - Thế cậu tưởng ba bà già bên sạp trái cây là gì? Cô Dodds là gì nào? - Thế nghĩa là cậu công nhận có cô Dodds phải không ? - Tất nhiên là có. - Vậy tại sao... Grover nói tỉnh bơ như không: - Cậu càng biết ít, càng ít quái vật tìm đến cậu. Chúng tôi buông Màn Sương che mắt mọi người và mong cậu tin bọn “Người Tử Tế” chỉ là ảo giác. Nhưng nó không tác dụng. Cậu dần hiểu rõ thân phận của mình. - Thân phận... khoan khoan. Cậu vừa nói gì? Tiếng gầm quái đản vang lên sau xe, gần hơn khi nãy. Thứ đuổi theo bọn tôi không hề chệch hướng. Mẹ tôi bảo: - Giải thích dài dòng lắm, Percy. Giờ nói không kịp đâu. Chúng ta phải đưa con đến chỗ an toàn trước đã. - Sao lại thế? Ai đang lùng bắt con vậy? Nghe giọng Grover, tôi biết nó vẫn còn tự ái vụ tôi gọi nó là lừa: - Ôi dào, đừng có lo. Chỉ là Thần Cai Quản Địa Ngục và vài tên tay sai hèn mọn thôi mà. - Grover, thôi đi! - Xin lỗi cô Jackson! Cô cho xe chạy nhanh hơn chút nữa được không ạ? Tôi cố hiểu chuyện gì đang xảy đến với mình nhưng không thể. Chỉ biết rằng tôi không nằm mơ. Trí tưởng tượng của tôi không quá phong phú. Có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng ra chuyện lạ nhường này. Mẹ cua gấp sang trái. Xe phóng vút trên con đường nhỏ hẹp, hai bên đường là các trang trại tắt đen tối đen, dãy đồi thấp phủ cây xanh, và những tấm biển đề “Mời quý khách chọn dâu tươi” đóng trên cọc rào sơn trắng. Tôi hỏi: - Ta đi đâu thế này? Giọng mẹ căng thẳng như thẻ cố kìm nén nỗi sợ hãi vì tôi : - Đến trại hè mẹ kể hôm nọ. Cha muốn con đến đó. - Nhưng mẹ không muốn cơ mà. Mẹ van vỉ: - Thôi mà con. Đang lúc nước sôi lửa bỏng thế này, đừng vặn vẹo mẹ nữa. Cố gắng hiểu và thông cảm, con ạ. Ba chúng ta đang gặp nguy đấy. - Chỉ vì có bà già cắt sợi dây xanh ư? Grover giải thích: - Họ không phải người thường mà là Nữ thần Định Mệnh. Giờ cậu đã hiểu tại sao họ xuất đầu lộ diện trước mặt cậu chưa? Nhớ là họ chỉ cắt sợi dây khi cậu sắp... có người sắp chết. - Ý cậu là tớ sắp chết ư? - Không. Tớ không nói vậy. Tớ chỉ bảo “có người sắp chết” thôi. - Không, cậu đã dùng rõ ràng từ “cậu”. Ý là nói đến tớ chứ gì. - Tớ nói cậu theo nghĩa là “một người nào đó” Chứ không phải theo nghĩa “cậu”, cậu hiểu không? Mẹ tôi quát: - Hai đứa thôi đi. Bà xoay mạnh vô lăng sang phải. Tôi thoáng thấy bóng đen mẹ vừa cố tránh giờ lùi xa phía sau xe, mất hút vào màn mưa dày đặc. Tôi hỏi: - Cái gì thế? Mẹ làm như không nghe tôi hỏi: - Gần đến đích rồi. Còn khoảng một dặm nữa. Cầu trời phù hộ. Tôi không biết đích đến ở đâu, nhưng tôi thấy chính mình nghiêng người về trước, mong đợi, ao ước cả ba sớm đến được đó. Bên ngoài chỉ có mưa và màn tối. Trước mắt là đồng trống, bức tranh quen thuộc của vùng ven Long Island. Tôi nghĩ về cô Dodds – giây phút cô Dodds biến hình thành quái vật răng nhọn có cánh. Hai chân tôi run rẩy trong nỗi sợ hãi muộn màng. Hóa ra cô ấy không phải là người. Cô ấy đã định xe xác tôi thật. Tôi nhớ cả thấy Brunner… và thanh kiếm thầy đã ném cho tôi. Chưa kịp quay sang hỏi Grover, tóc gáy tôi đã dựng đứng hết cả. Ánh sáng lóe lên đi kèm tiếng nổ “Đùng” đinh tai nhức óc. Xe hơi nổ tung. Tôi nhớ mình bay lên cao, cùng lúc như vừa bị đè nén, nướng trên lửa và xối vòi rồng vào người. Tôi ngã giúi giụi vào lưng ghế trước: - Úi, đau quá. Mẹ hét lên: - Percy! - Con không sao… Tôi rùng mình cố thoát khỏi trạng thái mê mụ. Hóa ra tôi chưa chết. Xe cũng không phải bị nổ, chỉ bị sa xuống mương nhỏ. Một bên xe ngập dưới bùn. Nóc xe rách toác như vỏ trứng. Mưa thả sức dội thẳng vào trong. Sét đánh. Đó là lý do duy nhất cho việc này. Chiếc xe bị thổi bay ra khỏi mặt đường. Cạnh tôi là một đống lù lù bất động: - Grover! Người nó bất động. Máu đang rỉ ra từ khóe miệng. Tôi lắc mạnh cái hông đầy lông lá của nó, bụng bảo dạ: “Đừng chết! Dù có là nửa người nửa thú, cậu vẫn là bạn thân nhất của tớ và tớ không muốn cậu chết!” Chợt nó thều thào: - Thức ăn. Tôi biết Grover còn hy vọng. Mẹ bảo: - Percy này, chúng ta phải… Tiếng gầm gừ quái đản vọng lên phía sau chúng tôi. Tôi nghe như có đàn kiến lửa bò trong xương. - Gừ! Gừ! Gừ! Nghe giống tiếng hai bánh sau quay tít trong bùn. Nhưng tôi biết đó không phải là tiếng bánh xe. Tôi ngoái nhìn. Giữa ánh chớp lòe, nhìn xuyên qua kính trước xe lấm tấm bùn, tôi thấy một bóng đen đứng bên đường đang cúi xuống xe. Nhìn nó, tôi sợ chết khiếp. Trong tối không nhìn rõ mặt nhưng nhất định gã này rất to lớn, trông như cầu thủ bóng bầu dục. Hình như hắn trùm tấm chăn lớn trên đầu. Nửa người phía trên của hắn to bè, thô ráp. Hai cánh tay hắn giơ lên trông giống hai cái sừng. Tôi nuốt khan: - Ai… Cái gì kia… Mẹ đanh giọng ra lệnh: - Percy, ra khỏi xe ngay. Đúng lúc ấy tôi nghe tiếng gừ gừ thật lớn, giống tiếng thú dữ khụt khịt. Tiếng gừ phát ra từ cái đầu trùm khăn. Mẹ tôi lao cả người vào cánh cửa bên phía vô lăng. Cánh cửa kẹt dưới bùn, không mở được. Tôi cố mở cửa ngay cạnh chỗ mình ngồi. Cũng kẹt luôn. Tim tôi đập như trống làng. Trong cơn tuyệt vọng, tôi nhìn lên lỗ hổng trên trần xe. Có khả năng thoát ra từ lối ấy, chỉ tội hai cạnh vết rách kêu xèo xèo và còn bốc khói. Mẹ bảo tôi: - Trèo lên từ lưng ghế sau. Percy, muốn sống con phải chạy thật nhanh. Con có thấy cái cây to kia không? - Mẹ bảo gì cơ? Lại thêm tia chớp nữa. Nhìn qua lỗ thủng trên nóc xe, tôi thấy cái cây mẹ vừa nói tới: một cây thông to lớn, có kích thước bằng với cây-thông-Giáng-sinh-ở-Nhà-trắng đang đứng sừng sững trên sườn ngọn đồi gần nhất. - Cây ấy đánh dấu địa phận của trại hè. Rồi con sẽ thấy ngôi nhà thấp dưới thung lũng. Cứ cắm đầu chạy thẳng đến đừng dừng lại. Nhớ gào to kêu cứu. Khi nào đến cửa hẵng dừng lại. - Mẹ... cũng đi với con nhé! Mặt mẹ xanh xao, ánh mắt buồn bã hệt lúc mẹ đứng ngắm biển. - Không. Mẹ phải đi với con, giúp con dìu Grover nữa chứ! Grover rên rỉ to hơn: - Thức ăn! Gã đầu trùm chăn đang gầm gừ, khịt khịt đi về phía chúng tôi. Khi hắn đến gần, tôi mới biết đầu hắn không trùm chăn. Tôi tưởng vậy vì hai cánh tay hắn cực kỳ to cứ vung vẩy bên mình. Không có chăn mền gì cả. Cái đống to bè, lù lù kia chính là đầu hắn. Còn hai vật nhọn trông như sừng… - Nó không lùng bắt Grover và mẹ. Nó định bắt con. Với lại, mẹ không thể vượt qua ranh giới để vào trại được. - Nhưng… - Đừng nhùng nhằng kẻo không kịp. Đi đi. Mẹ van con đấy! Thế này thì tức thật. Tôi giận mẹ, giận con dê Grover, căm tức quái thú có sừng đang lảo đảo nhắm phía chúng tôi thẳng tiến… trông nó như con bò mộng vậy. Tôi trèo qua người Grover, đẩy cánh cửa ra ngoài mưa: - Cả ba cùng đi. Ra đi mẹ. - Mẹ đã bảo… - Mẹ! Con không bỏ mẹ đâu. Giúp con lôi Grover ra đi. Không chờ mẹ trả lời, tôi bò ra ngoài, kéo Grover từ trong xe ra. Không hiểu sao nó nhẹ bẫng nhưng tôi không thể cõng nó đi xa nếu mẹ không chạy đến đỡ một tay. Hai mẹ con, người khiêng chân, người khiêng đầu Grover bước thấp bước cao leo lên đồi, băng qua bãi cỏ dại tươi tốt cao đến ngang người. Ngoái đầu, lần đầu tiên tôi nhìn rõ quái vật nọ. Hắn cao gần hai mét rưỡi, dáng điệu lừ đừ, tay chân nổi cơ bắp cuồn cuộn như hình ở trang bìa tạp chí Muscle Man. Cơ tay, cơ chân, cơ tàn thân hắn nổi căng như mấy trái bóng rổ dưới làn da đầy gân như dây chão. Hắn mặc độc chiếc quần lót to đùng, trắng lốp kỳ dị không kém nửa người trên của hắn. Lông màu nâu dày và cứng mọc từ rốn và càng lan đến vai càng rậm dày hơn. Cổ hắn là bó cơ phủ lông đỡ cái đầu to khổng lồ. Mũi hắn dài như cánh tay tôi vậy. Hai cánh mũi hắn ươn ướt có xỏ vòng vàng tròn bằng đồng sáng loáng. Cặp mắt hắn dữ tợn và độc ác. Cặp sừng của hắn màu trắng vằn đen nhọn hoắt, nhọn hơn cả đầu bút chì vừa chuốt xong. Tất nhiên tôi nhận diện được quái vật. Ngay từ những tiết học đầu năm, thầy Brunner đã kể về loài này. Nhưng tôi không bao giờ nghĩ nó có thật. Nước mưa làm xốn mắt khiến tôi chớp lia lịa: - Kia là… Mẹ tôi bảo: - Con trai của Pasiphae đang nóng lòng muốn lấy mạng con đấy. - Nhưng đó là quái vật đầu... Mẹ cảnh bảo : - Đó là tên tục của nó. Tên cũng có quyền năng đấy. Cây thông vẫn còn xa quá. Ít nhất còn trăm mét nữa mới đến chỗ nó. Tôi lại ngoái nhìn phía sau. Quái vật đầu bò cúi xuống xe hơi, nhìn qua cửa kính. Thực ra, nói nhìn cũng không đúng: trông giống hít hít, ngửi ngửi hơn. Tôi không hiểu sao hắn phải làm thế vì ba chúng tôi chỉ cách hắn khoảng năm chục bước chân. Grover rên rỉ: - Thức ăn. Tôi vội ngăn: - Suỵt! Yên lặng nào. Mẹ ơi, nó làm gì vậy? Chẳng lẽ nó không thấy mình tít đằng này ư? - Thị lực và thính lực của nó kém lắm. Nó chỉ giỏi đánh hơi thôi. Nhưng nó cũng sắp phát hiện ra ta rồi đấy. Y như rằng, con quái vật gầm lên giân dữ. Nó móc tay vào lỗ thủng trên nóc xe Camaro, nhấc bổng lên khiến khung gầm xe kêu loảng xoảng, đoạn giơ xe lên đầu trước khi ném xuống cuối đường. Xe va mạnh vào mặt đường nhựa và trượt dài một quãng xa trước khi dừng lại hẳn làm tia lửa bắn tung té. Thùng xăng nổ tung. Tó nhớ lời Gabe Cóc Chết hăm dọa: “Chớ làm xước xe, dù chỉ một vết nhỏ…” Rất tiếc vì làm dượng thất vọng đấy! - Percy này, khi thấy mẹ con mình, nó sẽ tấn công ngay. Con cứ chờ đến giây cuối cùng rồi nhảy phất sang hai bên. Khi lao vào mục tiêu nó định hướng kém lắm. Con hiểu chưa? - Sao mẹ biết? - Từ lâu lắm, mẹ đã lo có kẻ tấn công con. Đáng lẽ mẹ phải tiên liệu trước việc này. Giữ con gần mẹ thế này là quá ích kỷ. - Giữ con gần mẹ ư? Nhưng mà… Lại thêm tiếng gầm tức tối, con quái vật đầu bò bắt đầu leo lên đồi. Nó đã thấy chúng tôi. Dù chỉ cách cây thông vài mét, nhưng sườn ở đây dốc hơn, trơn trượt hơn chân đồi. Còn nữa, Grover chẳng nhẹ hơn ký lô gam nào. Quái vật đầu bò tiến đến gần. Chỉ mấy giây nữa nó ở ngay phía trước chúng tôi. Chắc mẹ mệt đứt hơi nhưng bà vẫn cố xốc Grover lên vai: - Đi đi con! Ta chia nhau ra tìm đường thoát! Hãy nhớ lời mẹ dặn. Dù không muốn chia tách, tôi vẫn biết mẹ nói đúng. Chỉ còn cách ấy thôi. Tôi chạy thục mạng sang trái, lập tức quái vật đuổi ngay sau. Đôi mắt đen của nó chứa chất hận thù. Người nó bốc mùi hôi như thịt thối. Nó chúi đầy chuẩn bị húc. Cặp sừng nhọn sắc nhắm vào ngực tôi. Tôi chỉ muốn chạy trốn. Nỗi sợ hãi giục tôi cứ nhắm mắt chạy, muốn ra sao thì ra nhưng cách ấy không được. Sức tôi sao chạy nhanh hơn nó chứ. Thế nên tôi cố bám chân xuống đất, đến phút cuối mới nhảy vọt sang bên cạnh. Quái vật đầu bò lao vút qua hệt như toa tàu chở hàng, miệng rống lên tức tối rồi quay phắt lại. Lần này, nó không nhắm tới tôi mà nhắm đến chỗ mẹ tôi đang đỡ Grover nằm xuống bãi cỏ. Chúng tôi đã lên đến đỉnh đồi. Tôi thấy thung lũng phía dưới hệt như lời mẹ kể, thấy cả căn nhà có đèn sáng lấp lánh trong mưa. Nhưng nơi ấy cách chúng tôi tám chín trăm mét. Chúng tôi sẽ không bao giờ đến đó được. Quái vật gầm gừ, móng vuốt cào đất dưới chân. Hắn chằm chằm nhìn mẹ đang lùi xuống chân đồi, trở lại con lộ nhằm đánh lạc hướng không cho nó đến gần Grover. Mẹ bảo tôi : - Chạy đi con. Mẹ không đi xa hơn được nữa. Chạy đi. Nhưng tôi sợ quá chỉ biết trố mắt đứng nhìn, như thể quái vật sắp húc tôi chứ không phải mẹ. Mẹ tính nhảy sang bên giống mẹ dạy tôi khi nãy nhưng lần này quái vật quyết không bị lừa lần nữa. Nó vươn tay nắm cổ mẹ đúng lúc bà định chay trốn. Hắn nhấc bổng mẹ lên. Hai chân bà quẫy đạp giữa trời. - Mẹ ơi! Nhìn thẳng mắt tôi, mẹ chỉ trăn trối có một câu: - Chạy đi! Thế rồi, quái vật gầm lên cuồng nộ và siết bàn tay nắm cổ mẹ tôi. Trong chớp mắt, mẹ tan vào quầng sáng ngay trước mắt tôi. Bóng mẹ như dát ánh sáng vàng huyền ảo cứ mờ dần. Sau ánh chớp lòe vừa tới, mẹ tôi biến mất. - Không! Cơn giận hoàn toàn đẩy lùi cảm giác sợ hãi. Một sức mạnh mới đốt cháy cơ thể tôi. Nó giống với nguồn năng lượng sục sôi tôi có được khi phải đương đầu với cô Dodds đầy móng vuốt. Quái vật cúi xuống Grover đang nằm bất động trên bãi cỏ, hít ngửi như thể muốn nhấc bổng bạn tôi lên và làm cậu ấy biến mất như đã làm với mẹ tôi. Đừng hòng tôi để hắn làm thế. Tôi cởi áo mưa màu đỏ đang mặc trên người, vừa vẫy vừa gào tướng lên và chạy thẳng đến chỗ nó : - Này! Thằng đần kia! Muốn tao xay mày làm chả không? Món hamburger thịt băm kia! Quái vật giơ nắm đấm to tướng quay sang tôi rống lên. Hơi thở của nó hôi đến nỗi tôi chỉ muốn ăn chay đến hết đời. Tôi nảy ra một ý. Nói ra nghe ngớ ngẩn nhưng giờ không phải lúc kén chọn. Tôi vừa đi giật lùi về phía cây thông, vừa điên cuồng vẫy áo đỏ trước mũi quái vật đầu bò, định bụng đến phút cuối sẽ nhảy bật sang bên. Nhưng chuyện không như tôi tưởng. Nó húc quá nhanh, đồng thời hai tay quơ hai bên không cho tôi nhảy nhót đi đâu hết. Thời gian như ngừng trôi. Hai chân tôi tê cứng. Vì không nhảy sang trái hay phải được, tôi bèn nhảy chồm tới đạp mạnh đầu hắn như đạp bạt lò xo sau đó tung người lên trước khi ngồi phịch lên vai, hai chân quắp cổ nó. Cái quái nào mà tôi lại làm được điều này nhỉ? Tôi không có thời gian tìm hiểu. Tôi chưa kịp chớp mắt, quái vật đã lao đầu vào gốc cây đánh rầm. Cú va chạm suýt làm răng tôi văng cả ra ngoài. Nó lảo đảo lùi lại, cố lắc người cho tôi rơi xuống đất. Nếu không ôm chặt hai sừng, chắc chắn tôi đã bị vưng xuống đất. Sấm chớp vẫn đì đùng như đại bác. Nước mưa tràn vào mắt khiến tôi không thể nhìn rõ. Đã thế mùi thịt thối rữa trên người nó xốc vào mũi làm tôi không sao chịu nổi. Dù cố hết sức thộp cổ tôi nhưng hai cánh ta ngứn cục mịch của nó không với ra sau được. Nó hết giũ mình lại nhảy cỡn lên như trong cuộc đấu bò thực sự. Nếu nó chạy giật lùi, bang người vào gốc cây thì chắc tôi nát nhừ. Nhưng khổ nỗi nó chỉ biết mỗi chiêu di chuyển lên trước. Giờ thì tôi biết thóp nó rồi nhé. Trong lúc đó, Grover bắt đầu rên rỉ. Dù muốn thét to bảo nó im miệng, nhưng tôi không làm được. Vì đang bị xốc nẩy trên cổ bò nên hễ mở miệng định nói, thể nào tôi cũng cắn phải lưỡi. Grover rên rỉ: - Thức ăn. Quái vật guồng chân chạy về phía nó, móng xới tung đất đá xung quanh và chúi đầu chuẩn bị húc. Dù chỉ còn chút hơi tàn, nhưng mối thù quái vật làm mẹ mình biến mất, khiến tôi quên hết mệt nhọc. Giờ nó còn định nhắm vào bạn tôi nữa. Tôi phải ngăn nó bằng được. Cứ nghĩ nó bóp cổ làm mẹ nghẹt thở, sau đó khiến bà biến mất chỉ sau ánh chớp lòe, cơn thịnh nộ sôi sục trong đó. Tôi nắm chặt một bên sừng với cả hai tay và dùng hết sức bình sinh bẻ ngược ra sau. Người con quái vật căng cứng lại, gầm gừ ra bộ ngạc nhiên, rồi thì… “Rắc!” Nó rú lên hất văng tôi ra. Tôi rơi trong tư thế nằm ngửa trên bãi cỏ, đầu đập mạnh vào tảng đá. Tôi ngồi lên khi mắt nảy đom đóm, hai tay nắm chặt chiếc sừng nhọn cỡ bằng con dao to. Quái vật đầu bò lao ngay tới. Không kịp nghĩ ngợi gì, tôi lăn mình qua trái rồi lồm cồm bò dậy còn quái vật lăn lông lốc trước mặt. Tôi đâm thẳng sừng nhọn vào sườn nó, ngay phía trên mạng sườn đầy lông lá. Quái vật gầm lên, quằn quại, tay quơ quào trước ngực và bắt đầu tan rã. Không giống mẹ tôi biến thành luồng sáng vàng, nó biến thành cát bị gió mạnh thổi đi tứ tán, hệt như lúc cô Dodds “bốc hơi”. Con quái vật biến mất không để lại dấu vết. Mưa ngừng rơi. Bão chưa tan hẳn, tuy nhiên đã lùi xa. Tôi ngửi thấy mùi gia súc đâu đây. Hai đầu gối tôi bủn rủn. Đầu tôi đau như thể sắp bị bửa làm đôi. Người tôi mềm nhũn, vừa sợ hãi vừa đau buồn. Tôi vừa thấy mẹ tôi biến mất. Tôi muốn nằm xuống và khóc. Nhưng Grover nằm đó đang chờ tôi cứu mạng. Thế nên tôi cố xốc nó dậy, lảo đảo dìu nó xuống thung lũng, nhắm hướng ngôi nhà còn đang sáng đèn thẳng tiến. Đạp lên bùn lầy, cỏ dại và xuyên qua màn đêm đi về hướng đèn vàng. Tôi vừa đi vừa khóc và gọi tên mẹ, nhưng tôi giữ chặt lấy Grover. Tôi không thể buông nó ra được. Điều cuối cùng tôi nhớ được là tôi khuỵu xuống bậc thềm gỗ, mặt ngửa lên nhìn quạt trần quay tít trên mái hiên, mấy con thiêu thân lượn quanh bóng đèn vàng, nhớ hai khuôn mặt nghiêm nghị: một ông râu quai nón và cô gái dễ thương có mái tóc vàng nhạt uốn lọn như nàng Lọ Lem trong chuyện cổ tích. Hai người họ nhìn xuống toi, cô gái bảo: - Chính là cậu ta. Không thể nhầm được. Người kia đáp: - Khẽ chứ, Annabeth. Cậu ấy còn tỉnh. Đưa vào trong đi. [i] Thần rừng: là thần rừng nửa người nửa dê. 5. Tôi chơi bài pinoch với ngựa Tôi có một giấc mơ rất kỳ lạ: tôi bị lạc vào trại nuôi gia súc đông đảo. Đa phần bọn chúng muốn giết tôi. Số còn lại đòi “thức ăn” liên tục. Chắc chắn tôi tỉnh nhiều lần, nhưng những gì tôi nghe và thấy đều mơ hô thê nên tôi lại thiếp đi. Tôi nhớ được nằm trên giường êm, được bón cho thứ gì có vị giống bỏng ngô rang bơ nhưng lại là bánh ngọt. Cô bé tóc uốn lọn cúi xuống giường, bĩu môi lau thức ăn rớt xuống cằm cho tôi. Vừa thấy tôi mở mắt, bạn ấy hỏi ngay: - Hạ chí năm nay có chuyện gì xảy ra vậy? Tôi thều thào : - Gì cơ? Bạn tóc vàng nhìn quanh như sợ ai nghe lén: - Chuyện gì đang xảy ra? Vật gì bị đánh cắp thế? Chỉ còn mấy tuần nữa là đến hạn rồi. Tôi lí nhí: - Xin lỗi bạn. Tôi không... Có tiếng gõ cửa. Cô bé ấn vội miếng bánh to tướng vào miệng tôi. Lần sau, lúc tôi mở mắt, cô bé không còn ở đó. Một gã tóc bạch kim bảnh trai, vạm vỡ như vận động viên lướt sóng đứng cuối giường nhìn tôi chằm chằm. Mắt anh ta xanh biếc – ít nhất anh ta có hơn chục con mắt - mọc trên má, trán và mu bàn tay. -o- Cuối cùng, khi tôi bình phục, cảm giác lạ lẫm với một mội trường xung quanh tan biến. Thậm chí họ còn thân thiện hơn những nơi tôi từng đến. Tôi ngồi trên ghế xếp ngoài một mái hiên lớn, ngắm nhìn đồng cỏ và dãy đồi xanh phía xa. Gió nhè nhẹ thổi mang theo mùi dâu ngọt lịm. Chân tôi đắp chăn ấm, lưng lót chiếc gối êm. Mọi thứ đều tuyệt, duy chỉ có miệng tôi như bò cạp chiếm làm tổ. Lưỡi vừa hôi vừa đắng nghét hai hàm răng nhức nhối không chừa chỗ nào. Trên mặt bàn cạnh chỗ tôi ngồi có chiếc ly cao. Nước trong ly giống nước táo ép. Trong ly có ống hút và chiếc dù giấy cắm xuyên qua quả anh đào giống Maraschino. Tay tôi yếu đến nỗi suýt làm đổ ly khi vừa kịp nắm lấy nó. Một giọng nói thân quen vang lên: - Cẩn thận chứ! Grover đứng dựa lan can quanh thềm. Hình như cả tuần rồi nó không chợp mắt thì phải. Nó cắp hộp giày dưới nách. Nó mặc quần jean xanh, áo thun màu cam in dòng chứ: TRẠI CON LAI. Grover lấy lại diện mạo cũ, không còn nửa người nửa dê nữa. Vậy có lẽ đêm rồi tôi gặp ác mộng do ăn quá nhiều kẹo xanh biển. Chắc mẹ tôi không sao. Chúng tôi vẫn đang trong kỳ nghỉ, nên rẽ vào thăm người quen của mẹ là chủ nhân ngôi nhà rộng lớn này. Và… Grover bảo: - Cậu đã cứu sống tớ. Không trả hết công ơn trời biển ấy tớ nghĩ ít nhất cũng nên quay lại đồi. Chắc cậu muốn giữ cái này. Nó cung kính đặt hộp giấy vào lòng tôi. Trong hộp là chiếc sừng bò đen vân trắng, gốc sừng lởm chởm do bị bẻ gãy, đầu nhọn của sừng còn dính máu khô. Đó không phải ác mộng. Tôi hồi tưởng: - Con quỷ đầu bò. - Ừm… Percy, nói thế không hay đâu… - Chẳng phải trong thần thoại Hy Lạp, người ta gọi thế là gì? Thứ nửa người, nửa bò là quỷ đầu bò, không đúng sao? Grover sốt ruột đổi tư thế: - Cậu bất tỉnh suốt hai ngày trời. Cậu nhớ được gì nào? - Mẹ tớ! Có thực là… Grover rưng rưng lệ, giống hồi bị bắt nạt trong căng tin trường. Tôi day mặt ra hướng đồng cỏ. Ở đó có nhữngcánh rừng nhỏ, có dòng suối uốn lượng và ruộng đất bát ngát trải tận chân trời. Thung lũng này lọt dưới quần thể đồi phủ cây xanh. Trước mặt chúng tôi là cây thông to lớn mọc sừng sững trên đỉnh đồi. Dù là cái cây đẹp đẽ được tắm mình trong nắng vàng như mật ong, trông nó vẫn ngạo nghễ thế nào ấy. Tất cả chỉ tại mẹ tôi không còn. Đáng lẽ cả thế gian phải chìm trog đêm tối lạnh lẽo. Không có bất cứ thứ gì được khoe sắc tươi đẹp cả. Grover sụt sịt: - Tớ xin lỗi cậu. Tớ kém cỏi, tớ… là thần rừng tệ hạ nhất trên đời. Nó khóc lóc, dậm chân mạnh đến nỗi bàn cân rụng ra. Ý tôi là một bên giày Converse tuột ra vì bên trong nhồi toàn bọt biển, chỉ chừa lỗ cắm móng guốc vào. Nó lẩm bẩm: - Ôi, sông mê Styx! Trời xanh trong chợt vang tiếng sấm rền. Lúc nó vất vả nhét chân trở lại giày, tôi nghĩ bụng: “Thế là rõ rồi nhé.” Grover là thần rừng, nửa người nửa dê. Tôi cam đoan là nếu cạo trọc cái đầu tóc nâu lượn sóng kia, tôi sẽ thấy cả cặp sừng nhỏ xíu. Nhưng tôi chẳng lấy thế làm lạ. Tôi quá đau lòng nên chẳng buồn quan âm đến thần rừng, hay thậm chí là quỷ đầu bò nữa. Tâm chí tôi chỉ còn hình ảnh mẹ bị bóp nghẹt đến đọ tan thành không khí, thành vầng sáng màu vàng dịu. Giờ tôi tứ cố vô thân, là trẻ mồ côi rồi. Tôi sẽ sống với Gabe Cóc Chết ư? Không đời nào. Có lẽ trước mắt tôi sẽ lang thang đầu đường xó chợ ít bữa, sau đó khai man mình mười bảy tuổi để xin đăng lính. Phải nghĩ cách thôi. Grover sụt sịt hoài. Tội nghiệp thằng bé, hay tôi nghiệp con dê, hay thần rừng đáng thương gì đó... Nó co rúm người lại, tưởng tôi sắp trút giận lên người nó bằng cách nện cho nó một trận. Tôi bảo: - Đó không phải lỗi của cậu! - Có mà. Đáng lẽ tớ phải bảo vệ cậu. - Mẹ tớ nhờ cậu trông nom tớ à? - Không, nhưng đó là nhiệm vụ của tớ. Hay ít nhất trước đây tớ được giao công việc ấy. - Nhưng tại sao... Tự nhiên tôi xây xẩm mặt mày, mọi thứ trước mắt đảo lộn cả. - Đừng căng thẳng quá. Đây, cầm chặt vào. Nó giúp tôi giữ chặt cái ly và đưa ống hút vào miệng tôi. Mới nhấp một ngụm, tôi vội nhả ống hút ra ngay vì tưởng mình uống nước táo. Hóa ra, nó không giống nước táo chút nào. Nước này có vị bánh quy sôcôla. Nó giống với vị bánh quy mẹ làm – bánh quy sôcôla màu xanh, mềm mại và nóng hổi với các hạt chip đang tan chảy. Uống chất lỏng đó, người tôi ấm lên, cảm giác khoan khoái và tràn đầy sinh lực. Tôi vẫn đau xé lòng, tâm trạng u ê không vui lên được. Tuy nhiên, tôi có cảm giác được mẹ vuốt má, giúi vào tay chiếc bánh quy như hồi bé và an ủi bảo với tôi rằng rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy. Nháy mắt, tôi đã uống cạn ly nước. Tôi tiếc rẻ nhìn chiếc ly. Rõ ràng, nước tôi vừa uống ấm ấm, thế mà đá dưới đáy ly còn nguyên, không tan. Grover hỏi: - Ngon không? Tôi gật. Giọng nó thèm thuồng làm tôi hối hận vì không mời bạn một miếng: - Nó có vị gì? - Xin lỗi. Đáng lẽ mình nên uống chung. Nó trợn tròn mắt: - Không! Tớ có muốn uống đâu. Chỉ tò mò thôi mà. - Mùi bánh quy sôcôla, thứ mẹ tớ tự tay làm. Nó thở dài: - Cậu thấy trong người thế nào? - Đủ sức quăng con nhỏ Nancy Bobofit ra xa trăm mét. - Thế tốt. Tốt đấy. Nhưng chớ liều uống thứ ấy lần nữa nhé! - Sao lại thế! Nó lấy ly trên tay tôi, nhẹ nhàng đặt lên bàn như người tháo kíp thuốc nổ. - Ta đi thôi. Chiron và Ngài D. Đang chờ. -o- Mái hiên rộng chạy vòng quanh nhà, từ trước ra sau thành vòng khép kín. Cặp chân yếu ớt của tôi gắng sức đi gần hết chiều dài của thềm gỗ. Grover bảo đưa sừng quỷ đầu bò nó cầm cho nhưng tôi cứ ôm khư khư. Tôi đã phải trả giá quá đắt cho món đồ kỷ niệm này nên sẽ giữ nó bên mình, không lúc nào rời. Khi ra đến mé sau nhà, tôi mệt đứt hơi, phải dừng lại để thở. Tôi đoán chắc mình đang ở bờ bắc đảo Long Island. Bởi đứng từ đây, tôi thấy thung lũng trải dài đến bờ biển. Mặt biển lấp lánh cách nhà chừng hai cây số. Tôi không tin vào mắt mình khi ngắm quang cảnh từ đây đến đó. Rải rác trên bãi đất trống là những tòa kiến trúc xây theo lối Hy Lạp cổ: một nhà rạp giữa đồng trống, một khán đài vòng và một đấu trường hình tròn. Chỉ có diều, chúng đều rất mới. Những chiếc cột đá sáng bóng dưới nắng rực rỡ. Trong hố cát rộng gần đó, khoảng chục thiếu niên đang chơi bóng chuyền với các thần rừng. Trên mặt hồ nhỏ có vài chiếc xuồng máy đang lượn vòng. Đằng kia có lũ học trò mặc áo thun màu cam giống áo Grover đuổi nhau đùa nghịch quanh khu nhà gỗ lẩn khuất trong rừng thưa. Tôi còn thấy mấy tấm bia cho người tập bắn cung nữa. Xa xa có mấy người cưỡi ngựa đi xuống con đường mòn. Chắc tôi bị ảo giác hay sao mà thấy vài con ngựa còn mọc cánh nữa. Dưới chân thềm có hai người đang chơi bài ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn. Bạn gái tóc vàng cho tôi ăn bánh ngọt mùi bỏng ngô rang bơ đang dựa lan can của mái hiên ngay cạnh họ. Người quay mặt lại phía tôi có vóc người nhỏ nhưng chắc nịch. Ông này mũi đỏ, mắt ươn ướt và có mái tóc đen bóng, đen đến nỗi gần như chuyển màu tím. Trông ông ta giống mấy bức vẽ thiên thần bé như hài như. Họ gọi là gì nhỉ ? À, tiểu thiên sứ! Nét mặt ông ngây thơ như đứa trẻ đang chơi đùa trong công viên thiếu nhi vụt biến thành đàn ông trung niên. Mặc áo sơ mi sặc sỡ in hình chúa sơn lâm, ông này sẽ rất hợp với xới bạc nhà dượng tôi. Tôi tin chắc riêng về khoản bài bạc, ông ta còn “trên tài” cả dượng tôi nữa kìa. Grover rỉ tai tôi: - Ngài D. đấy. Ông ta trông nom trại này. Nhớ cư xử cho phải phép, nghe chưa? Con bé kia là Annabeth Chase. Tuy chỉ là thành viên của trại nhưng chưa ai ở đây lâu bằng nó. Còn Chiron thì cậu biết rồi... Nó chỉ ông xoay lưng lại phía tôi. Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là ông ta ngồi xe lăn. Sau đó tôi thấy chiếc áo khoác bằng vải tuýt, mái tóc nâu thưa thớt và bộ râu quai nón tua tủa kia quen quá... Tôi gọi to: - Thầy Brunner! Thầy giáo Latinh quay lại nhìn tôi mỉm cười. Cặp mắt ông tinh nghịch giống đôi lần trong lớp, ông bất thần cho lớp làm bài kiểm tra đột xuất, hoặc soạn lựa chọn đúng cho mọi câu hỏi đều là B. - Percy đến đây à? Tốt quá. Đang thiếu tay chơi bài đây. Thầy chỉ tôi ghế bên tay phải Ngài D.. Ồng này lừ mắt nhìn tôi và thở dài sườn sượt: - Dù chẳng muốn nhưng tôi vẫn phải chào mừng cậu đến Trại Con Lai. Đây, cầm bài lên đi. Mà này, đừng tưởng tôi vui đến độ nhảy cỡn lên khi nhìn thấy bản mặt cậu đâu nhé! - Vâng... cảm ơn ạ. Nhìn cặp mắt vằn đỏ của ông ta, tôi vội nhích ghế ra xa. Nhờ chút kinh nghiệm sống chung với dượng Gabe, tôi biết người lớn bia rượu vào hay thích đánh đấm lung tung. Nếu Ngài D. đây làm mặt lạ với rượu, chắc tôi đi bằng đầu. Thầy Brunner gọi cô bé tóc vàng: - Annabeth? Bạn gái bước lên. Thầy Brunner giới thiệu: - Percy, bạn trẻ này chăm sóc em đến khi bình phục đấy. Annabeth thân mến, phiền em xem qua chỗ nghỉ ngơi cho Percy nhé? Tạm thời ta bố trí Percy ở lều Số Mười Một. Annabeth đáp: - Vâng, ngài Chiron. Trạc tuổi tôi, Annabeth cao hơn tôi chừng năm phân nhưng trông khỏe mạnh hơn tôi nhiều. Với làn da rám nắng và tóc vàng uốn lọn, Annabeth gần giống mẫu con gái California tôi hay hình dung, chỉ tội mắt khác hẳn. Đôi mắt xám trông như màu mây lúc trời dông bão: đẹp nhưng dữ dội, thông minh nhưng không hiền cho lắm, như thể cô ấy đang cân nhắc nên ra đòn thế nào để tôi nốc ao lập tức. Annabeth hết nhìn sừng quỷ đầu bò lại nhìn tôi. Tôi thầm mơ người đẹp sẽ trầm trồ: “Trời, bạn hạ quái vật đầu bò cơ à?” hoặc “Ôi, bạn thật dũng mãnh!” hay câu gì tương tự. Ngược lại, Annabeth “bóc mẽ”: - Cậu này nhểu dãi lúc ngủ, xấu quá! Dứt lời, cô đi nhanh xuống bãi cỏ, làn tóc bay trong gió. Cố giữ thể diện, tôi lập tức nói lảng: - Vậy, thầy Brunner... thầy làm việc ở đây ạ? Người trước kia là thầy Brunner bảo: - Đừng một điều thầy Brunner, hai điều thầy Brunner nữa. Ta e đó chỉ là biệt danh. Giờ ta là Chiron. - Nếu thế, em sẽ gọi là thầy Chiron ư! - Không, cứ gọi là bác Chiron được rồi. Tôi chẳng hiểu gì cả, đành quay sang ông quản lý trại: - Vâng ạ. Thưa... chữ D. viết tắt của tên gì ạ? Ông ta ngưng tráo bài, nhìn tôi như thể tôi vừa vô ý ợ rõ to. - Này anh bạn trẻ, tên gọi có quyền năng riêng. Đừng vô duyên vô cớ bói bô bô tên người ta, nghe chưa? - À phải. Em xin lỗi. Ông Chiron, trước là thầy Brunner, xen vào: - Phải nói bác thật lòng vui sướng khi thấy cháu còn sống đến được đây. Đã lâu lắm rồi bác mới tiếp nhận trại viên tiềm năng. Cứ phí hoài thời gian cho hết năm này đến năm khác thật chẳng thích thú gì. - Tiếp nhận ư? - Năm qua bác ở Học viện Yancy là để dẫn dắt, định hướng cho cháu. Hầu như trường học nào cũng có thần rừng của trại. Ngay khi gặp cháu, Grover báo ngay cho bác. Cậu ấy cảm nhận ở cháu có điều gì đó rất đặc biệt nên bác quyết định đến khu thượng Manhatta. Bác thuyết phục thầy giáo dạy tiếng Latinh tạm... nói thế nào nhỉ... lánh mặt một thời gian. Tôi cố nhớ lại ngày đầu năm học. Chưa đầy một năm nhưng tưởng chừng đã lâu lắm, trí nhớ tôi mờ nhạt cả. Tuy nhiên, tôi mang máng nhớ tuần đầu ở Yancy, tôi học tiếng Latinh với một iáo viên khác. Thế rồi, người ấy biến mất không một lời giải thích và thầy Brunner tiếp nhận lớp tôi. - Có nghĩa bác đến Yancy chỉ để dạy cháu thôi ư? Ông Chiron gật đầu: - Thật ra, lúc mới gặp cháu, bác chưa chắc chắn lắm. Bác và mọi người liên lạc vơi mẹ cháu, thông báo trại sẽ theo sát cháu để nếu cần đưa ngay cháu đến đây. Nhưng cháu cần được trang bị kiến thức trước đã. Cũng may mà vào đến trại, cháu vẫn bảo toàn mạng sống. Nhập trại luôn là thử thách đầu tiên đôi với mỗi trại viên. Ngài D. sốt ruột: - Kìa Grover, cậu có định chơi bài không thế? - Dạ có. Nó run rẩy ngồi xuống chiếc ghế thứ tư. Tôi thật không hiểu sao Grover lại sợ cái ông béo quay, lùn tịt mặc áo sơ mi sặc sỡ in hình mấy con hổ vằn vện này. Ngài D. nhìn tôi hồ nghi: - Cậu có biết chơi bài không đã? - Không biết. Ông ta nhắc: - Phải nói là “Không biết, thưa ngài”. Tôi nhắc lại, bụng càng lúc càng không thích người quản lý trại hè: - Không biết, thưa ngài. Ông ta quay sang tôi giảng giải: - Ngoài trò chơi điện tử Pacman và màn chọi cá sấu, bài bạc là một trong những thú tiêu khiển hay nhất loài người từng sáng tạo nên. Theo ta, hễ ai tự xưng là người văn minh đều phải rành luật chơi. Ông Chiron đỡ lời: - Tôi chắc Percy nắm luật chơi nhanh thôi. Tôi nói: - Hai ông làm ơi cho biết đây là đau? Sao cháu phải đến đây? Thầy Brunner, à quên, bác Chiron, sao bác đến Học viện Yancy dạy cháu? Ngài D. bĩu môi: - Đến tôi còn không biết tại sao nữa là. Người quản lý trại chia bài. Mỗi khi một lá bài bay đến chỗ nó, Grover lại co rúm người lại. Bác Chiron nhìn tôi cười thông cảm hệt như hồi còn dạy tiếng Latinh. Không cần biết điểm của tôi tệ cỡ nào, thầy Brunner vẫn coi tôi là học trò cưng. Ông luôn mong tôi có đáp án đúng trong tiết học của mình. Ồng bảo: - Percy này, thế mẹ cháu không kể gì à? Tôi nhớ mắt mẹ buồn thăm thẳm mỗi lúc ngắm biển xanh dào dạt: - Mẹ nói... Bà sợ phải đưa cháu đến Trại này, nhưng đó là ý nguyện của cha cháu. Bà bảo nếu đã đến đây, cháu phải ở lại luôn, không được đi đâu hết. Mẹ muốn hai mẹ con ở với nhau. Ngài D. bảo: - Các bà mẹ giống nhau ở điểm ấy. Chính vì thế họ thường phải chết. Này cậu, xuống bài đi chứ? - Sao cơ ạ? Ông ta nóng nảy giải thích luật chơi. Tôi bèn làm theo. Bác Chiron bảo: - Còn phải giải thích nhiều. Bài học định hướng bình thường của trại tôi e không đủ. - Kiểu như xem phim hướng nghiệp trong trường học ư? - Không. Percy này, cháu đã biết Grover là thần rừng. Cháu vừa (ông chỉ cái sừng trong hộp) hạ quỷ đầu bò. Không phải chuyện nhỏ, đúng không nào? Thực tế là có nhiều thế lực lớn tác động lên đời sống của cháu. Các vị thần mà cháu tưởng chỉ có trong thần thoại Hy Lạp chính là thế lực đó. Họ có thật và hiện còn tồn tại. Tôi trố mắt nhìn ba người ngồi quanh bàn, chỉ chờ có người hét lên: “Không phải thế!”. Nhưng chỉ có ngài D. reo lên: - Tứ quý. Ăn điểm rồi. Ông vừa chặc lưỡi khoái chí vừa tính số điểm cộng. Grover rụt rè hỏi: - Ngài D., nếu ngài không ăn thì cho cháu lon Coca Ăn Kiêng này nhé? - Hả? Ừ, lấy đi. Grover cắn một miếng lon nhôm rỗng nhai lúng búng. Tôi bảo ông Chirron: - Hượm đã. Bác vừa bảo Thượng Đế có tồn tại ư? - Đấng Tối Thượng là vấn đề hoàn toàn khác. Ta sẽ không bàn đến khái niệm trừu tượng đó. - Trừu tượng ư? Bác nói… - Ta nói đến thánh thần, những nhân vật vĩ đại kiểm soát các thế lực tự nhiên và sức mạnh con người. Đó là những vị thần bất tử trên đỉnh Olympia. Rõ ràng vấn đề ta đang bàn tới nhỏ hơn khái niệm về Đấng Tối Thượng nhiều. - Chà, nhỏ quá nhỉ! - Phải. Chính là những vị thần mà ta giới thiệu trong lớp học tiếng Latinh. - Là thần Dớt, nữ thần Hera, thần Apollo… phải không? Một lần nữa lại có tiếng sấm ì ầm dù trời trong xanh không một gợn mây. Ông quản lý nhắc: - Này, nếu là cậu, tôi sẽ không bừa bãi gọi tên thần thánh đâu. - Nhưng có cả kho truyện về họ cơ mà. Họ là... truyền thuyết dân gian dùng để giải thích các hiện tượng thiên nhiên như sấm chớp, hay các mùa trong năm... Hồi khoa học chưa ra đời, người ta mới tin thần thánh. Ngài D. giễu cợt: - Khoa với chả học! Này Perseus Jackson... Tôi nhăn mặt khi ông gọi đúng tên tôi. Tôi có khoe với ai đâu nhỉ? - Hai ngàn năm nữa, người ta sẽ nghĩ gì về thứ cậu gọi là “khoa học” bây giờ? Hả? Họ sẽ bảo đó là bộ đồ thờ của người nguyên thủy. Thế đấy. Ôi, người phàm trần mới đáng yêu làm sao. Cứ như ếch ngồi đáy giếng. Họ tưởng mình tiến bộ, văn minh lắm lắm. Này Chiron, người phàm trần văn minh cỡ nào? Có giống cậu bé này không? Dù không ưa gì Ngài D. nhưng tôi không thể không chú ý cách ông ta gọi tôi là người phàm trần, làm như... ông ta thì không! Riêng điều đó khiến tôi kinh ngạc quá đỗi, nhất là ngay trước mặt tôi, Grover đang ngoan ngoãn phục vụ thú chơi bài của ông và vờ nhai lon nhôm ngon lành để không bị hỏi tới. Ông Chiron bảo: - Cháu muốn tin hay không thì tùy nhưng thực tế bất tử là... còn sống mãi. Có khi nào cháu thoáng nghĩ tới khả năng không bao giờ chết, không bao giờ già yếu chưa? Thần thánh tồn tại, như cháu bây giờ, cho đến đời đời kiếp kiếp. Tôi vừa nghĩ ra câu bông lơn: “Bất tử lợi quá đi!”, nhưng giọng bác Chiron buộc tôi phải suy nghĩ thấu đáo hơn. - Có nghĩa dù người đời có tin hay không, các vị thần vẫn tồn tại? Bác Chiron đồng tình: - Chính xác. Giả sử là thần, cháu có thích được coi là huyền thoại, giống chuyện cổ tích giải thích hiện tượng sấm chớp không? Hoặc giả mai sau, cháu có thích người đời coi Perseus Jackson là huyền thoại nhằm giải thích cách nam thiếu niên nói chung vượt qua nỗi đau mất mẹ? Trống ngực tôi như trống trận. Bác Chiron cố tình khích bác tôi nhưng tôi sẽ không cho ông toại nguyện: - Cháu không thích. Mặt khác, cháu không tin có thần thánh. Ngài D. làu bàu: - Tin đi, trước khi họ nổi giận thiêu đốt cậu ra tro. Grover lắp bắp: - Cháu xin ông… xin ông lượng thứ. Percy vừa mất mẹ. Cậu ấy bị sốc ạ. Ngài D. nhấm nhẳng quăng lá bài xuống bàn: - May mắn gớm nhỉ! Làm công việc khốn khổ này sao chán thế không biết. Phải dạy dỗ đám năm sinh còn không tin có mình trên đời! Ông phấy tay. Tức thì chum rượu hiện ra trên mặt bàn như thể trong nháy mắt. Tia nắng uốn lượn trong không trung tạo thành hình ly nhỏ. Trong ly có sẵn rượu nho đỏ. Tôi há hốc miệng, nhưng ông Chiron còn không buồn rời mắt khỏi quạt bài. Ông chỉ cảnh cáo: - Kìa Ngài D., phải biết kiếm chế chgiờ! Ông quản lý trại nhìn ly rượu vờ ngạc nhiên: - Chết tôi rồi. – Ông ngửa mặt nhìn trời nói lớn. – Chỉ là thói quen cũ thôi mà. Xin lỗi đấy! Sấm lại nổ vang rền. Ngài D. phẩy tay. Ly rượu biến thành lon nước ngọt. Ông thở phào, thích thú mở nắp rồi chơi bài tiếp. Ông Chiron nháy mắt với tôi: - Ngày xưa, ngài D. đây làm cha ông ấy bực mình vì đem lòng yêu nữ thần cây, người đáng lẽ ông ta không nên động vào. - Cái gì cơ? Tôi lẩm bẩm, mắt vẫn không rời lon nước như thể nó là vật thể ngòai vũ trụ. Ông quản lý công nhận: - Đúng vậy. Làm như trừng phạt được ta, cha khoái lắm không bằng! Hình phạt đầu tiên: cấm uống rượu. Thật kinh khủng. Mười năm ấy chẳng khác cực hình! Lần thứ hai thì… Thử hỏi nàng xinh đẹp thế, ta cầm lòng sao đặng? Lần thứ hai, cha nhốt ta ở Đồi Con Lai, trại tiếp nhận mấy đứa hỗn xược như cậu đấy, Percy ạ. Cha bảo ta: “Phải gây ảnh hưởng tốt. Chuyên tâm dạy dỗ lớp trẻ chứ đừng làm hư chúng nhé”. Trời đất! Nói thế mà nghe được. Ngài D. nói năng như đứa trẻ lên ba: hờn dỗi, vùng vằng như trẻ con. Tôi lắp bắp: - Vậy ra… cha ngài là… Ông quản lý kêu trời : - Chiron ơi là Chiron! Tôi tưởng anh dạy gã trai này mọi kiến thức tối thiểu rồi chứ. Cha ta là thần Dớt chứ còn ai nữa! Tôi lục tâm trí tìm chữ D. viết tắt cho tên gì trong thần thoại Hy Lạp: rượu nho, da hổ, nhân viên trại toàn thần rừng... Còn nữa, Grover khúm núm như thể ông ta là chủ nhân của nó. - Vậy ra ngày là thần rượu vang Dionysus. Ngài D. tỏ vẻ chán nản: - Grover, thời nay trẻ con hay nói thế nào? “Phải, có thế cũng không biết” à? - V… vâng ạ. - Vậy thì, thưa anh Percy Jackson, có thế mà anh cũng không biết à? Hay cậu tưởng tôi là Aphrodite? Nhầm tôi với nữ thần của sắc đẹp, tình yêu và dục vọng thì quá thể lắm! - Ngài là thần ư? - Phải rồi, nhóc tì. - Ngài! Là thần! Ông ta quay sang nhìn thẳng mắt tôi. Nhìn lửa, ngọn lửa xanh lè nhảy múa bên trong đôi mắt ấy, tôi biết Ngài D. đang cảnh cáo tôi cho tôi thấy phần nhỏ nhất trong bản tính thực của ông. Trước mắt tôi hiện lên cảnh dây leo của cây nho siết cổ những kẻ không tin vào thần thánh cho đến chết, các chiến binh say xỉn phát điên vì khao khát chiến tranh, những thủy thủ gào thét trong lúc tay họ biến thành vây, mặt họ dài ra thành mõm cá heo. Tôi biết nếu tôi còn làm quá, ông ta sẽ trừng phạt tôi ra trò. Ông ta có thể gieo rắc bệnh tật vào não bộ tôi đủ khiến tôi bị mặc áo trói nằm nhà thương điên đến hết đời. Ông ta gắn giọng: - Này, định thử tôi chắc? - Không! Dạ không, thưa ngài. Ngọn lửa dịu đi. Ông quay sang quạt bài: - Thôi, tôi thắng ván này nhé! - Gượm đã, Ngài D. – Bác Chiron lật ngửa quạt bài xuống bàn, lẩm nhẩm tính điểm. – Ván này phần thắng thuộc về tôi. Tôi những tưởng Ngài D. sẽ cho bác bốc hơi ngay trên xe lăn. Ai dè, ông chỉ thở dài thườn thượt, như thể việc ông ta thua thầy giáo dạy Latinh đã thành lệ. Ông đứng dậy, Grover cũng đứng lên theo. - Mệt rồi. Tôi ngả lưng lấy sức quản trò tối nay. Nhưng trước hết, Grover này, cậu theo ta vào trong bàn lại chuyện trong nhiệm vụ vừa rồi, cậu làm chưa được tốt lắm. Mặt Grover lấm tấm mồ hôi: - V... vâng, thưa ngài. Ngài D. quay sang tôi: - Percy Jackson về lều Mười Một. Và nhớ chính đốn cách cư xử, thái độ cho đúng mực, nghe chưa? Dứt lời, ông bước nhanh vào nhà. Grover thiểu não theo sau, mặt xanh như tàu lá. Tôi quay sang hỏi bác Chiron: - Liệu Grover có sao không? Ông lắc đầu, dù nét mặt thoáng chút âu lo: - Ông bạn già Dionysus không giận ai hết. Chẳng qua ông ta không thích công việc này. Ông bị... nói theo cách của cậu là: bị phạt cấm túc. Thần Dionysus chỉ bất mãn vì còn cả trăm năm nữa, ông ấy mới được phép quay về đỉnh Olympia. - Thế có cung điện trên đỉnh Olympia thật à? - Nghe này, đỉnh Olympia ở xứ Hy Lạp. Nhà của các thần, nơi hội tụ sức mạnh của họ chính là đnh Olympia. Ngày nay, do tôn trọng truyền thống, ta vẫn gọi nơi hội tụ sức mạnh thần thánh là Olympia. Tuy nhiên cung điện đã chuyển sang chỗ khác. Đương nhiên, các thần cũng “chuyển nhà” luôn. - Các thần Hy Lạp đã chuyển đến... Mỹ ư? - Đúng vậy. Họ mang theo trái tim của phương Tây. - Sao cơ ạ? - Cố gắng hiểu đi, Percy. Thế theo cháu, nền Văn minh Phương Tây là gì? Chỉ là khái niệm trừu tượng thôi ư? Không, nó là thế lực sống rất năng động. Nó là tri thức tích lũy từng chiếu sáng nhiều thiên niên kỷ. Các vị thần ta đang nói tới là một phần của nền văn minh ấy. Có người còn bảo họ là cha đẻ của Văn minh Phương Tây, hay ít nhất họ gắn bó quá mật thiết với vần hào quang của nó nên hình ảnh họ luôn chói sáng. Chỉ khi nền Văn minh Phương Tây bị phá hủy hoàn toàn, ảnh hưởng của các vị thần ấy mới mất đi. Xứ Hy Lạp là nơi nhen nhóm ngọn lửa đầu tiên. Sau đó... ta hy vọng trò còn nhớ vì trò đã qua được môn của ta mà... phần tinh túy nhất của nó chuyển tới La Mã. Các vị thần chuyển theo. Có thể tên tuổi thay đổi: chẳng hạn Jupiter thay cho Dớt, Venus thay cho Aphrodite... nhưng vẫn là thần thánh cũ, thế lực cũ. - Rồi họ cũng chết mà. - Chết ư! Không bao giờ. Phương Tây có bao giờ chết? Họ chỉ đổi chỗ thôi: khi ở Đức, lúc ở Pháp hay Tây Ban Nha. Nơi nào ngọn lửa văn minh chói sáng nhất, ở đó có các vị thần. Họ ở Anh quốc cả mấy thế kỷ ấy chứ! Trong ba thiên niên kỷ gần đây nhất, họ đều để lại dấu ấn tại nơi họ trị vì: trong hội hoạ, điêu khắc và kiến trúc. Hãy nhìn những tòa nhà đẹp nhất mà xem. Percy ạ, giờ tất nhiên họ đang ở Mỹ. Hãy nhìn quốc huy của Hoa Kỳ xem: là đại bàng của thần Dớt đó. Cậu có thấy tượng thần lửa Promethe ở trung tâm Rockefeller Center, mặt tiền xây theo kiến trúc Hy Lạp của các tòa nhà trụ sở cơ quan hành chính Hoa Kỳ ở Washington chưa? Thách cháu tìm được một thành phố của Mỹ không có đầy rẫy hình ảnh cư dân đỉnh Olympia đấy! Cháu thích hay không thì tùy vì nhiều người cũng chẳng ưa gì La Mã cổ đại. Nhưng hãy tin bác. Giờ nước Mỹ là trái tim của ngọn lửa thiêng, là cường quốc phương Tây. Thế nên đỉnh Olympia mới ở đây, chúng ta mới ở đây. Tôi như vừa hứng quả bom tấn, đặc biệt là hình như tôi vừa được nhập vào nhóm bác Chiron gọi là “chúng ta”, như thể tôi là thành viên câu lạc bộ gì gì đó. - Bác Chiron, vậy bác là ai? Và cháu... cháu là ai? Ông mỉm cười, nhúc nhích như thể sắp đứng lên rời xe lăn, nhưng tôi biết không bao giờ có chuyện đó. Ai cũng biết Brunner-Chiron bị liệt nửa người, từ eo trở xuống. Bác trầm ngâm: - Ai cũng muốn tìm lời giải cho câu hỏi: “Thực ra Percy là ai?” Nhưng tạm thời chúng tôi sắp xếp một giường trong lều Mười Một cho cháu. Cháu còn gặp nhiều bạn mới, chuẩn bị cho thời khóa biểu dày kín ngày mai. Chưa hết, đên đốt lửa trại tối nay hứa hẹn nhiều điều thú vị. Bác thích sôcôla nhất đấy. Ông đứng lên rời khỏi xe lăn theo cách rất lạ lùng. Tấm chăn tuột khỏi chân, nhưng ông không động đậy. Phần eo phía trên thắt lưng của ông dài mãi, cao lên thêm. Lúc đầu tôi tưởng ông mặc quần lót dài bằng vải nhung trắng, nhưng khi ông cứ cao lên mãi, cao hơn chiều cao bình thường của con người, tôi mới biết bác Chiron không mặc quần lót nhung. Đó là ức của một loài vật toàn cơ và gân được phủ một lớp lông trắng mịn. Xe lăn biến thành chiếc rương kim loại lớn có bánh xe. Chắc chắn phải có phép màu chi đây vì rương nhỏ thế không thể nhét cả thân hình kềnh càng của ông vào được. Ông bước một chân lên trước: chân này có đầu gối xương xẩu và móng guốc cựa to đánh bóng loáng. Chân trước cùng cặp bước lên theo, rồi đến hai chân sau. Chiếc rương trống trơn, chỉ còn cái vỏ sắt bên trong đựng cặp chân người giả. Tôi ngạc nhiên nhìn con ngựa vừa rời xe lăn: một con ngựa đực màu trắng to lớn khác thường. Tuy nhiên, đó không hẳn là ngựa đơn thuần bởi chỗ đầu ngựa là nửa người phía trên của thầy giáo dạy tiếng Latinh nối với phần thân ngựa. Nhân mã Chiron bảo: - Dễ chịu quá đi mất. Bác bị giam trong xe đẩy này lâu đến nỗi mê mụ cả người. Giờ mình đi ngay thôi. Percy, đến gặp gỡ và làm quen với các trại viên khác đi nào 6. Tôi – chúa tể tối thượng trong nhà vệ sinh! Vừa kịp chấp nhận sự thật thầy giáo dạy tiếng Latinh là con ngựa, chúng tôi thăm thú một vòng thật vui vẻ dù tôi cẩn thận không dám đi sau ông. Tôi có kinh nghiệm sau vài lần bị phạt hốt phân ngựa trong lễ diếu hành Macy’s Day nên xin lỗi: với tôi, phía trước mặt nhân mã Chiron đáng tin hơn phía sau nhiều. Hai chúng tôi đi ngang qua bãi bóng chuyền. Mấy bạn cùng cắm trại huýnh nhau. Có người chỉ chỏ sừng quỷ đầu bò trong tay tôi, người khác bảo: “Chính cậu ta đấy.” Hầu hết trại viên lớn hơn tôi. Các thần rừng bạn họ cao lớn hơn Grover. Mọi thần rừng tôi thấy đều mặc áo thun in chữ màu vàng cam “TRẠI CON LAI”, đi lại trên cặp chân trần đầy lông và có móng guốc. Bình thường tôi không hay ngượng nhưng với kiểu nhìn như thể cả đám đang trông đợi tôi trông cây chuối, tôi không thoải mái cho lắm. Tôi ngoái đầu nhìn căn nhà khi nãy. Hóa ra nó lớn hơn tôi tưởng. Nhà có bốn tầng, sơn màu xanh da trời, xung quanh có mái hiên và lan can sơn trắng trông như khu nghỉ dưỡng cao cấp bên bãi biển. Lúc ngó lên ngắm chong chóng gió hình con đại bàng bằng đồng trên nóc nhà, tôi phát hiện một cửa sổ cao nhất của tầng áp mái tối om. Có thứ gì đó làm cửa lay động. Trong một thoáng, linh tính mách bảo tôi đang bị theo dõi. Tôi hỏi nhân mã Chiron: - Cái gì trên kia thế? Nụ cười của ông tắt ngấm khi nhìn theo tay tôi chỉ: - À, chỉ là gác xép thôi mà. - Có ai sống trên đó không? Ông có vẻ muốn chấm dứt ngay đề tài tôi vừa gợi ra: - Không. Chẳng có sinh vật sống nào trên đó cả. Tôi tin bác. Nhưng rõ ràng tôi thấy có thứ làm màn cửa lay động. Giọng vui vẻ của ông pha thêm phần giục giã: - Percy à, ta đi thôi. Bác định cho cháu xem mấy thứ. -o- Khi băng qua mấy ruộng dâu, tôi thấy đám trại viên hái nhiều rổ dâu lớn. Gần đó, có thần rừng dùng ống sậy làm sáo thổi lên giai điệu dìu dặt. Bác Chiron bảo trại này trồng toàn dâu thượng hại cung cấp cho nhiều nhà hàng ở New York và đỉnh Olympia. - Dâu giúp trang trải mọi chi phí. Cái hay ở chỗ hầu như không ai phải chăm sóc, tưới bón gì, cây vẫn trĩu quả. Ông kể giống cây ăn quả này luôn mọc xum xuê ở bất cứ nơi nào có mặt Ngài D. quản lý. Thực ra, nho là thứ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của ông nhưng do ông bị hạn chế trồng nho nên thay vào đó, họ trồng dâu. Tôi ngắm thần rừng thổi sáo. Tiếng nhạc khiến lũ sâu bọ chạy tứ tán khỏi luống dâu, giống người ta chạy hỏa hoạn. Tooi bâng quơ tự hỏi không biết Grover có làm phép bằng tiếng nhạc như vậy chăng? Không biết giờ này cậu ấy còn trong nhà lớn, đứng chịu trận nghe Ngài D. mắng mỏ không. Tôi hỏi bác: - Chắc Grover không bị phạt nặng đâu nhỉ? Cậu ấy làm nhiệm vụ che chở, bảo vệ giỏi lắm. Thật đấy. Chiron thở dài. Ông cởi áo khoác đắp lưng ngựa trông như yên cương vậy. - Cũng tại Grover hay mơ mộng viển vông. Lắm lúc không biết cậu ta căn cứ vào đâu để mơ xa đến thế. Để đạt được mục đích của mình, trước hết Grover phải chứng tỏ tinh thần quả cảm vô song trên cương vị Người Bảo Vệ: tức là tìm được một trại viên và đưa người đó về Đồi Con Lai an toàn. - Nhưng Grover làm được điều đó mà. - Bác đồng ý với cháu. Có điều bác không ở vị trí ban giám khảo. Dionysus và Hội Đồng Bô Lão sẽ quyết định. Bác e họ không cho rằng Grover hoàn thành nhiệm vụ vừa rồi. Suy cho cùng, Grover để lạc mất cháu ở New York. Sau đó đến mẹ cháu gặp chuyện... không may. Còn nữa, Grover bất tỉnh nhân sự để cháu phải dìu vào trại. Hội Đồng buộc phải đặt câu hỏi: Trong sứ mệnh vừa rồi, Grover chứng tỏ lòng quả cảm ở chỗ nào? Tôi chực cãi. Mọi sự cố xảy ra dều không phải lỗi Grover. Thêm vào đó, tôi cực kỳ hối hận. Nếu ở bến xe buýt, tôi không chuồn về trước, Grover đã không bị phạt. - Người ta sẽ cho cậu ấy cơ hội sửa chữa chứ ạ? Chiron nhăn mặt: - Thực ra nhiệm vụ vừa rồi là cơ hội cho Grover sửa chữa lỗi cũ. Sau sự cố đầu tiên cách đây năm năm, Hội Đồng không định giao nhiệm vụ cho Grover nữa. Cả Olympia đều biết thất bại đầu tiên ấy nên ta khuyên Grover nên đợi thêm ít lâu nữa hẵng hay. Tuổi còn trẻ mà... - Grover mấy tuổi ạ? - Hai mươi tám. - Cái gì? Hai mươi tám sao học lớp sáu được? - Tuổi chín chắn của thần rừng gấp đôi con người, Percy à. Nếu người thường học trung học cơ sở ba năm, Grover sẽ học sáu năm. - Thế chán chết được. - Ừ, chán thật. Nói chung, Grover toàn phát triển chậm hơn bạn thần rừng cùng lứa. Đến giờ cậu ấy vẫn chưa thành thạo phép thuật của thần rừng. Thế mà cậu ta cứ nóng lòng thực hiện mơ ước có thể nói quá tầm tay. Giờ có lẽ cậu ấy nên bằng lòng với nghề nghiệp bình dị nào đó… - Thế không công bằng. Vậy chứ lần đầu xảy ra chuyện gì? Có tồi tệ lắm không để đến nỗi Grover bị phạt nặng thế? Chiron quay mặt đi: - Chắc ta phải khẩn trương lên thôi. Nhưng tôi chưa thể dứt câu chuyện ra được. Lòng tôi chộn rộn khi nhân mã Chiron nói đến số phận của mẹ tôi: hình như ông cố tình không dùng chữ chết! Một ý tưởng nhen nhóm trong đầu, một tia hy vọng nhỏ xíu xuất hiện trong tôi. - Bác Chiron này, nếu thần thánh và đỉnh Olympia có thật thì… - Cháu muốn nói gì? - … thì địa ngục cũng có thật ư? Mặt bác tối sầm: - Đúng đấy, cháu à. – Bác ngừng lời để cẩn thận chọn từ ngữ thích hợp. – Sau khi thể xác chết đi, linh hồn cũng phải có nơi để đến chứ. Nhưng từ giờ đến lúc cháu tìm hiểu thêm đôi chút về thế giới thần thánh… bác muốn cháu tạm quên địa ngục đi. - Thế khi nào cháu mới được “hiểu thêm đôi chút” như bác nói? - Bỏ đi, Percy. Ta hãy xem trong rừng có gì nào? -o- Càng đến gần, tôi thấy khu rừng càng như rộng thêm. Rừng ở đây chiếm một phần tư thung lũng. Cây cối cao vút và đan xen dày đặc đến nỗi tôi tưởng đâu ngoại trừ người da đỏ, chưa ai từng đặt chân đến nơi này. Bác Chiron bảo: - Nếu muốn thử vận may thì rừng này khá đông đúc. Nhưng cháu phải mang theo vũ khí. - Rừng này có thú gì? Cháu cần vũ khí gì ạ? - Cứ từ từ, cháu sẽ biết hết thôi. Tối thứ Sáu có trò chơi Cướp Cờ đấy. - Ôi, cháu thích lắm. - Cháu có kiếm với khiên chưa? - Gì cơ ạ? - Vậy là chưa rồi. Bác cũng nghĩ cháu chưa có. Chắc cỡ số năm vừa với cháu. Bác cháu ta sẽ ghé kho vũ khí sau. Tôi dợm hỏi sao trại hè có kho vũ khí làm gì nhưng vì đầu óc đang mải suy nghĩ về quá nhiều điều lạ lẫm xảy đến trong một thời gian ngắn, nên tôi làm thinh theo gót bác Chiron. Chúng tôi tham quan khu tập bắn cung, hồ có nhiều xuồng máy và khu trại ngựa (bác Chiron có vẻ không thích lắm), bãi tập phóng lao, nhà hát và hí trường. Bác Chiron bảo họ đấu kiếm đấu thương ngay tại hí trường. - Đấy gươm và giáo ạ? - Các nhà thách đấu với nhau. Thường thì không chết ai đâu. Nhưng hỗn chiến thì có. Bác Chiron chỉ hí trường lớn giới hạn bằng hàng cột trắng kiểu kiến trúc Hy Lạp xây trên triền đồi trông ra biển. Ở đó bài trí hơn chục chiếc bàn đá, ngoài ra không có mái, tường gì cả. - Thế nhỡ trời mưa thì sao hả bác? Bác nhìn tôi từ đầu đến chân như nhìn người lùn ngoài hành tinh: - Thế trời mưa, cháu có ăn không? Tôi đành im thít. Khu lều trại là điểm đến cuối cùng. Có mười hai căn lều gỗ náu mình ên vạt rừng gần hồ nước. Chúng xếp thành hình chữ U: hai căn ở đáy và mỗi cạnh bên có năm căn. Chắc chắn đó là quần thể kiến trúc kỳ lạ nhất mà tôi từng thấy. Mười hai căn nhà nhỏ na ná giống nhau, ngoài trừ số nhà bằng đồng treo trước cửa: số lẻ treo bên trái, số chẵn treo bên phải. Lều Số Chín có ống khói nhỉ xíu trông như nhà máy thu nhỏ. Lều Số Bốn có cây cà chua leo kín tường và mái đan bằng tranh. Hình như nhà Số Bảy được đúc bằng vàng khối sáng loáng, phản chiếu ánh nắng làm người ta chói mắt. Nhà nào cũng quay mặt ra sân chung rộng bằng sân bóng đá, rải rác tượng kiểu Hy Lạp, đài phun nước, thảm hoa và vài vòng sắt tròn cho người tập bóng rổ. Thấy chúng, tôi háo hức rảo bước nhanh hơn. Ngay giữa sân chung có một hố lớn xây viền đá dùng đốt lửa sưởi. Dù thời tiết chiều nay ấm áp, lửa vẫn cháy âm ỉ trong lò sưởi tập thể ấy. Một cô bé khoảng chín, mười tuổi giữ lửa cháy đều bằng cách dùng que cời đảo than đá cháy đỏ. Hai căn nhà đầu tiên gắn Số Một và Số Hai trông như lăng mộ vua hoặc nữ hoàng. Chúng xây bằng đá trắng theo hình hộp kèm hàng cột nặng nề phía trước. Nhà Số Một lớn và vững chãi nhất. Mấy cánh cửa ra vào bằng đồng sáng loáng có khắc nhiều vệt như chữ viết ngoằn ngoèo. Nhìn từ mọi phía, ta đều thấy như có sét vừa đánh xuống. Nhà Số Hai kiểu dáng tao nhã hơn, hàng cột thanh mảnh hơn được trang trí bằng dây hoa điểm quả lựu. Mấy mặt tường chạm khắc hình công phượng cầu kỳ. Tôi đoán mò: - Thần Dớt và Hera phải không ạ? - Phải. - Sao nhà họ... bỏ trống? - Nhiều nhà không có người ở. Cháu đoán đúng đấy. Chưa ai ngụ trong nhà Số Một và Số Hai cả. Vậy ra mười hai nhà biểu tượng cho mười hai cư dân đỉnh Olympia. Nhưng tại sao một vài nhà bỏ trống? Tôi dừng trước nhà đầu tiên dãy bên trái: nhà Số Ba. Không cao và uy nghi như căn thứ nhất, nhà này dài, thấp và vững chãi. Mấy mặt tường ngoài ốp đá nhám màu xám có gắn vỏ sò và san hô như thể mấy phiến đá ốp này đẽo trực tiếp từ đáy biển. Tôi ngó vào cửa trước mở toang nhưng bác Chiron nhắc: - Ấy chớ! Đừng dại dột thế. Trước khi bị bác kéo ra ngoài, tôi kịp ngửi thấy mùi biển trong nhà, giống hương gió mặn mòi bên bờ biển Montauk. Tường bên trong sáng trắng như bào ngư. Nhà kê sáu giường một trống trải. Ga trải giường bằng lụa sẵn sàng chờ người sử dụng. Tuy nhiên không có dấu hiệu cho thấy có người ở nhà này. Căn nhà trống vắng, cô quạnh đến nỗi tôi lấy làm mừng khi bác Chiron đặt tay lên vai tôi bảo: - Percy, ta đi thôi. Hầu hết những nhà còn lại tấp nập người ra kẻ vào. Nhà Số Năm sơn màu đỏ tươi, có điều thợ sơn quá vụng, trông như thể người ta dùng cả thùng sơn hắt lên tường hoặc dùng tay vốc sơn nước vỗ lên bề mặt tường nhà. Mái nhà có chăng dây kẽm gai. Trên cửa chính treo đầu lợn lòi nhồi rơm. Cặp mắt con thú hoang ấy hình như bám riết lấy tôi. Tôi thấy trong nhà có đám trẻ cả trai lẫn gái mặt mày bặm trợn đang vật tay và cãi vã trong tiếng nhạc rock mở lớn đinh tai nhức óc. Đứa to mồm nhất là con bé chừng mười ba, mười bốn tuổi. Mặc áo thun đồng phục của trại cỡ XXXL rộng thùng thình bên trong, nó trùm áo khoác rằn ri bên ngoài. Tôi mới đứng ngoài cửa chưa đến một giây, nó đã quay qua nhìn tôi gườm gườm và nhếnh mép cười độc địa. Nữ trại viên này gợi tôi nhớ đến Nancy Bobofit, chỉ có điều nó to lớn hơn. Mái tóc rũ rượi của nó màu nâu, không phải màu đỏ như tóc Nancy. Tôi rảo bước tiếp, khéo léo tránh bốn vó móng guốc cứng như thép của bác Chiron. Tôi chợt nhận ra một điều: - Cháu chưa thấy nhân mã nào khác quanh đây. Bác Chiron buồn thiu: - Tiếc là bà con dòng họ bác còn hoang dã, man rợ lắm. Lúc vào rừng hay xem sự kiện thể thao, cháu sẽ thấy họ. Nhưng họ không có mặt ở đây được. - Tên bác là Chiron. Vậy bác có phải… Ông mỉm cười với tôi: - Phải, bác là Chiron mà cháu thấy trong các câu chuyện kể, là thầy dạy Hercules đây. - Nhưng… cháu tưởng Chiron ấy chết lâu rồi chứ? Bác Chiron dừng bước như thể rất chú ý đế câu hỏi vừa rồi: - Thực ra là bác không thể chết, cháu à. Ngày xưa, thần linh cho bác toại nguyện là làm tiếp công việc bác yêu thích. Khi nào nhân loại còn cần, bác còn dạy dỗ các anh hùng cho họ. Để làm như ý mình muốn, bác được nhiều, nhưng cũng mất nhiều lắm. Nhưng cho đến giờ này bác vẫn còn đây, có nghĩa là người ta còn cần đến bác. Tôi ngẫm nghĩ: Phải dạy bảo lũ “nhất quỷ nhì ma” ba ngàn năm chưa bao giờ nằm trong danh sách mười điều đáng mơ ước nhất của tôi. - Thế bác không thấy chán à? - Không, không hề. Thỉnh thoảng có mất tinh thần đôi chút, nhưng buồn chán thì không. - Sao bác mất tinh thần? Bác Chiron lại giả điếc: - Kìa, Annabeth đang chờ. Bạn gái tóc vàng tôi gặp trên Nhà Lớn đọc sách trước cửa nhà cuối cùng dãy trái: nhà Số Mười Một. Thấy chúng tôi đến gần, cô gái ngước nhìn tôi xăm xoi như thể vẫn để bụng chuyện tôi nhểu dãi lòng thòng lúc trước. Dù muốn biết bạn ấy đọc gì, tôi tôi không đọc được tựa sách in ngoài bìa. Chắc bệnh khó đọc của tôi “tái phát” nữa rồi. Tuy nhiên sau đó, tôi thấy chữ ngoài bìa không phải là tiếng Anh. Nó giống kiểu chữ Hy Lạp cổ. Sách có hình ảnh đền đài, tượng và các kiểu cột nhà. Chắc là sách chuyên ngành kiến trúc. Bác Chiron: - Annabeth này, trưa này bác có lớp bồi dưỡng cung thủ giỏi. Cháu tiếp tục hướng dẫn Percy nhé? - Vâng ạ. Bác Chiron hất đầu về phía cửa: - Nhà Số Mười Một đây. Cứ tự nhiên nhé, Percy. Trong số mười hai căn, nhà Số Mười Một giống nhà gỗ trong khu cắm trại nhất. Đặc biệt, nó khá cũ nát: nào then cửa mòn, nào sơn tường màu nâu bong tróc. Trên cửa có một biểu tượng của ngành y: cây cọc gỗ mọc cánh có con rắn quấn quanh. Hình như người ta gọi đó là y hiệu thì phải. Nhà chật như nêm, con gái con trai ở chung và số người vượt quá số giường hiện có. Túi ngủ ngổn ngang dưới sàn nhà. Quang cảnh giống hệt phòng tập thể thao được Hội Chữ Thập Đỏ trưng dụng làm nơi sơ tán. Bác Chiron không vào. Khung cửa quá thấp so với chiều cao quá khổ của bác. Tuy nhiên khi thấy bác, mọi trại viên đều cúi chào lễ phép. - Thôi bác đi đây. Chúc Percy may mắn. Ta sẽ gặp nhau trong giờ ăn tối. Ông khua móng cồm cộp chạy về phía sân tập bắn cung. Ngấp nghé ngoài cửa, tôi nhìn bạn cùng phòng. Chúng không cúi đầu cung kính nữa mà giương mắt nhìn như thầm đánh giá xem tôi “ngầu” cỡ nào. Tôi biết thủ tuch này nhờ kinh nghiệm chuyển trường liên miên. Annabeth nhắc: - Kìa, vào đi chứ. Nghe lời, tôi đi thẳng vào trong và lập tức tự biến mình thành trò cười. Trong đám có tiếng cười khúc khích, nhưng không ai nói gì. Annabeth lên tiếng: - Percy Jackson này, mọi người ở đều ở nhà Số Mười Một đấy. Có tiếng người hỏi: - Trại viên thường hay chưa xác định? Tôi không biết trả lời sao. Annabeth đáp: - Chưa xác định. Cả nhóm rên lên khó chịu. Một bạn trai có vẻ lớn hơn cả nhóm một chút bước lên: - Thôi nào, mọi người. Nhà Số Mười Một là vậy mà. Mừng cậu đến ở chung với bọn này. Chỗ của cậu dưới sàn, ngay chỗ này này. Anh này khoảng mười chín tuổi, trông khá dễ chịu. Anh ta cao lớn, rắn chắc, tóc hớt ngắn và có nụ cười thân thiện. Anh mặc áo rộng, quần soóc, đi xăng đan và đeo dây da xâu năm hạt đất nung năm màu khác nhau. Diện mạo anh bình thường ngoại trừ vết sẹo dài trắng to bản chạy từ mắt phải xuống tận hàm trông như bị rạch mặt vậy. - Percy à, đây là anh Luke. Giọng Annabeth sao là lạ, tôi bèn liếc sang. Xin thề là bạn ấy có ngượng đỏ mặt! Thấy tôi nhìn, Annabeth nghiêm mặt lại: - Tạm thời, Luke sẽ tư vấn cho cậu. Tôi hỏi: - Tạm thời là sao? Luke kiên nhẫn giải thích: - Hiện tại trại chưa xác định danh tánh cậu. Vì không biết xếp cậu vào nhà nào nên cậu sẽ ở đây. Nhà Số Mười Một tiếp nhận mọi trại viên mới hoặc khách đến thăm. Thông thường là thế. Hermes là vị thần của khách thập phương mà. Nhìn khoảnh sàn nhà nhỏ xíu giành cho mình tôi sực nhớ mình chẳng có gì dùng đánh dấu “lãnh thổ”: không hành trang, quần áo, túi ngủ cũng không. Tài sản duy nhất tôi chỉ có sừng của quỷ đầu bò. Vừa định đặt nó xuống, tôi chợt nhớ thần Hermes cũng là thần của lũ trộm cướp. Tôi nhìn quanh từng khuôn mặt bạn cùng phòng: người sưng sỉa, kẻ nghi ngờ, người khác cười ngây ngô. Có người còn nhìn tôi với ánh mắt chờ đợi như thể mong tôi sơ hở để móc túi áo tôi. Tôi hỏi: - Em sẽ ở đây bao lâu? - Hỏi hay đấy. Đến khi người ta xác định danh tánh em. - Việc xác định mất bao lâu? Cả phòng cười ồ lên. Annabeth bảo: - Để tớ đưa Percy xem sân bóng chuyền. - Nhưng tớ xem rồi mà. - Đã bảo đi mà lại. Khi bạn ấy nắm cổ tay tôi lôi ra ngoài, tôi còn nghe tiếng cười trong nhà Số Mười Một rộ lên sau lưng. -o- Đi được vài bước, Annabeth quay sang tôi: - Jackson, tớ tưởng cậu khá hơn cơ đấy! - Cái gì? Cô nàng tỏ vẻ chán nản, hạ thấp giọng rành rọt: - Tớ không tin cậu là người cả trại trông đợi. Tôi cáu thực sự: - Sao cậu cứ mặt nặng mày nhẹ với tớ thế? Tớ đây vừa hạ đo ván quỷ đầu bò... Annabeth sẵng giọng: - Đừng ra vẻ ta đây anh hùng! Cậu có biết cả trại này mơ có cơ hội như cậu không? - Họ thích bị quỷ ăn tươi nuốt sống ư? - Họ mơ giao tranh với quỷ đầu bò mà không được. Cậu tưởng tụi này luyện tập khó nhọc làm gì chứ? Tôi lắc đầu: - Này, nếu thứ đánh nhau với tớ là quỷ đầu bò thật giống trong chuyện thần thoại... - Thì đúng rồi, không là quỷ đầu bò thì là gì. - Tớ tưởng chỉ có một con thôi chứ? - Thì một con chứ mấy. - Nhưng nó chết lâu lắm lắm rồi mà. Thần Theseus giết nó trong mê cung. Vậy... - Percy à, quái vật không chết. Người ta có thể lấy mạng chúng. Nhưng chúng không chết. - Thôi thôi, cậu nói thế ai hiểu cho nổi. - Quái vật khác cậu và tớ ở chỗ không có linh hồn. Cậu chỉ có thể tạm làm cúng tan biến ít lâu. Nếu may mắn, hết đời cậu chúng cũng chưa hồi lại. Tuy nhiên, vì là thế lực ban sơ nên quái vật có thể phục hồi nguyên trạng. Tôi nhớ cô Dodds dạy toán: - Thế giả sử tớ ngẫu nhiên hạ quái vật bằng kiếm thì... - À, Nữ thần Báo Th..., à quên, cô giáo dạy toán của cậu chứ gì? Đúng vậy, mụ ta vẫn còn nhởn nhơ ngoài kia. Việc cậu làm chỉ khiến mụ ta nổi cơn tam bành thôi. - Sao cậu biết cô Dodds? - Tớ nghe cậu nói mơ lúc ngủ. - Hình như cậu vừa gọi tên mụ. Nữ thần Báo Thù, tay sai thần chết Hades chuyên nghề tra tấn hành hạ người ta phải không? Annabeth hốt hoảng nhìn quanh như thể sợ tai họa sắp ụp xuống đến nơi: - Dù vào trại rồi, cậu chớ gọi tên tục của chúng. Chúng tớ dùng danh từ chung là bọn “Người Tử Tế” để gọi bọn chúng. Tôi giả bộ rền rĩ dù trong lòng bất chấp, chẳng mảy may sợ sệt: - Này, có cách nào nói chuyện mà không bị sấm chớp hăm dọa không Annabeth? Tiện thể cho tớ hỏi sao tớ phải ở nhà Số Mười Một? Sao ta phải chen chúc khổ sở trong khi nhà khác thiếu gì phòng trống? Tôi chỉ mấy nhà đầu. Annabeth tái mặt: - Percy không biết rồi. Không ai được chọn nhà cả. Chỗ ở cho trại viên tùy thuộc vào thân thế cả bố mẹ người ấy. Bạn gái tóc vàng mở to mắt nhìn tôi như thể kỳ vọng tôi “thông minh đột xuất”. - Mẹ tớ là Sally Jackson. Bà bán kẹo ở nhà ga trung tâm. Ý tớ là… hồi mẹ còn sống. - Percy, tớ chia buồn khi biết chuyện xảy đến với mẹ cậu. Nhưng ý tớ không phải thế. Tớ muốn nói đến bố cậu kìa. - Bố tớ chết rồi. Tớ còn chưa biết mặt ông. Annabeth thở dài như nghe chuyện nhàm tai: - Bố cậu không chết. - Cậu căn cứ vào đâu mà nói thế? Cậu biết bố tớ ư? - Không, tất nhiên tớ đâu được diễm phúc ấy. - Thế sao cậu bảo... - Cứ nhìn cậu thì biết. Nếu không như bọn tớ, sao cậu đến được đây? - Cậu biết gì về tớ mà nói? Annabeth nhướn lông mày: - Không ư? Cậu chuyển trường liên tục. Tớ cá mười lần thì có đến chín cậu bị đuổi học. - Sao... - Bác sĩ kết luận cậu mắc chứng khó đọc. Có thể thêm bệnh hiếu động thái quá, không thể tập trung. Tôi cố nuốt cục “ngượng” chẹn ngang cổ: - Chẳng liên quan gì cả. - Nếu tổng hợp lại, đó chắc chắn là dấu hiệu báo trước. Khi cậu đọc, có phải chữ nghĩa trôi nổi lung tung không nào? Sở dĩ như vậy vì não cậu lập trình bằng ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại. Còn về chứng hiếu đọng thái quá: cậu hấp tấp bốc đồng, không thể ngồi yên nghe giảng. Nguyên do bởi ký ức về những lần giao tranh trên chiến trường xưa. Hồn cậu lạc trong cuộc hỗn chiến thì tay chân cậu làm sao yên được? Còn về bệnh mất tập trung: thực ra bởi cậu thấy quá nhiều. Mọi giác quan của cậu đều nhạy bén hơn người phàm trần. Tất nhiên, giáo viên muốn đưa cậu đi “chữa trị” vì hầu hết họ đều là quái vật đội lốt người. Họ không muốn bị cậu phát hiện. - Cậu biết rành như vậy... chắc là cậu cũng giống tớ? - Hầu hết trại viên ở đây đều thế. Nếu không giống tụi này, chỉ cần gặp quỷ đầu bò cậu cũng đủ chết, huống hồ còn ăn thức ăn của thần và uống rượu tiên! - Cậu mới nói gì? - Thức ăn đồ uống trại bồi dưỡng cho cậu đó. Con người phàm ăn vào chết ngay. Nó thiêu đốt máu huyết ra tro, biến xương cốt thành cát mịn. Ai sống nổi chứ? Chấp nhận thực tế đi, Percy. Cậu đúng là con lai rồi. Con lai ư? Đầu óc tôi quay cuồng bao thắc mắc, không biết hỏi câu nào trước, câu nào sau. Bất ngờ một giọng khàn khàn la tướng lên: - Chà, có “ma mới”, tụi bay ơi! Tôi quay sang nhìn. Đứa con gái to cao trong căn lều sơn đỏ lem luốc đang đi tới. Nó kéo theo ba đứa bạn to béo, mặt mũi xấu xí đanh đá và mặc áo khoác rằn ri y chang như nó. Annabeth thở dài: - Kìa Clarisse, sao không ở lều lau chùi thương giáo, vũ khí? Con bé cao lớn đáp: - Không cần mày nhắc. Chắc chắn thứ Sáu tao sẽ đè bẹp thứ con gái yếu đuối như mày. Annabeth trả miếng: - Cờ danh dự thuộc về đội tao. Mày không có cơ hội sờ vào đâu. - Thế ư? Tụi tao sẽ xay mày ra cám. Mắt Clarisse giật giật, như thể nó biết sức mình đến đâu nhưng vẫn muốn dọa cho oai. Nó quay sang tôi: - Anh bạn còi xương này là ai thế? - Percy Jackson. Còn đây là Clarisse, con gái thần Ares [i]
Tôi chớp mắt lia lịa:
- Là thần chiến tranh sao?
Clarisse nhếnh mép:
- Sao? Sợ rồi à?
Tôi nhanh chóng lấy lại khẩu khí:
- Sợ gì. Chẳng qua ngửi thấy mùi hôi nên tao hỏi cho chắc.
Clarisse gầm gừ:
- Tụi tao có nghi lễ đón mừng “ma mới” đấy, nhãi ạ.
- Tao không phải nhãi. Tên tao là Percy.
- Mày tên gì, tao không cần biết.
Đi theo tao.
Annabeth cố can ngăn:
- Clarisse này…
- Mày có khôn thì tránh ra, mặc tụi tao.
Annabeth mếch lòng nhưng cô đành mặc kệ. Còn tôi không cần bạn ấy giúp. Là người mới đến, tôi phải tự xoay sở. Có thế từ lần sau chúng mới để tôi yên.
Nhờ Annabeth cầm hộ sừng quỷ đầu bò, tôi xắn tay áo lên. Nhưng Clarisse đã thộp cổ tôi lôi đến căn nhà có hàng cột bên ngoài. Chỉ nhìn qua tôi biết ngay là nhà vệ sinh.
Tôi đấm đá túi bụi. Dù đánh nhau với vô số địch thủ, tôi chưa thấy ai có bàn tay thép như Clarisse. Nó lôi tôi đến nhà vệ sinh nữ, bên trong bài trí dãy bồn chia ngăn. Ở đây hôi không kém gì nhà vệ sinh công cộng trông thành phố. Dù bị Clarisse túm tóc kéo, tôi vẫn kịp nghĩ: Đáng lẽ nhà vệ sinh của thần thánh phải “đẳng cấp” hơn mới phải.
Mấy đứa bạn đi theo Clarisse cười ngặt nghẽo. Tôi cố gom hết sức mạnh như lúc đấu với quỷ đầu bò, nhưng tiếc thay không được.
Clarisse ấn tôi vào một ngăn có bồn cầu:
- Tưởng mày ghê gớm lắm. Ai tưởng mày xuất thân từ “Bộ Tam Vĩ Đại” thì nhầm to. Chắc hôm trước quỷ đầu bò thấy mày đần quá nên cười đến độ không trụ lại nổi.
Bạn nó cười khanh khách.
Annabeth ôm mặt đứng trong góc nhà, quan sát qua kẽ ngón tay.
Clarisse đá gối tôi khuỵu xuống, giúi đầu tôi xuống bồn cầu. Mùi tanh của ống nước han gỉ xộc lên, cộng với mùi... những thứ người ta đùn xuống toa lét.
Tôi cố vươn cổ lên. Nhìn thứ nước bẩn ngầu bọt, tôi thầm quyết tâm: “Mình không thể vục đầu xuống đây. Không đời nào.”
Đúng lúc ấy có chuyện lạ đời. Tôi nghe bụng mình thót lại, nghe tiếng nước lục bục và thấy đường ống nước rung chuyển. Tay Clarisse nắm tóc tôi cợt lỏng hơn. Nước từ bồn cầu bắn vọt lên thành hình vòng cung qua đầu tôi. Điều tiếp theo tôi biết được là tôi bò lồm cồm dưới sàn nhà, còn Clarisse hét váng trời ngay phía sau.
Tôi xoay người nhìn đúng lúc nước phun vọt lần nữa. Nước mạnh như vòi rồng xối thẳng vào mặt Clarisse, mạnh đến nỗi nó ngã ngồi xuống đất. Nước như ở vòi cứu hỏa xịt mãi, đẩy nó lùi vào tận bên trong ngăn tắm có vòi hoa sen.
Clarisse giãy giụa, ngạt thở. Mấy đứa bạn xô tới định cứu nhưng sáu bồn cầu khác đồng loạt phun nước vọt lên xối thẳng vào chúng. Mấy vòi hoa sen cũng tự mở hết cỡ, kết hợp với nhau xịt đám con gái mặc đồ rằn ri trôi ra ngoài cửa nhà tắm trông như rác rưởi bị quét sạch không thương tiếc.
Clarisse cùng đám bạn vừa rời cửa, bụng tôi hết đau quặn và mọi nguồn nước tắt nhanh như khi khởi động.
Khắp nhà vệ sinh ướt át, Annabeth cũng chịu trận. Tuy ướt sũng nhưng bạn ấy không bị đẩy ra cửa. Vẫn đứng như trời trồng ngay chỗ cũ, Annabeth trố mắt nhìn tôi.
Nhìn xuống, tôi thấy trong phòng có mỗi chỗ tôi ngồi không bị ướt. Chỗ khô ráo là thành vòng tròn quanh tôi. Quần áo tôi không dính một giọt nước. Không hề.
Tôi ngước lên, đầu gối run cầm cập.
Annabeth lắp bắp:
- Sao cậu làm được…
- Tớ không biết.
Chúng tôi theo nhau ra cửa. Bên ngoài, Clarisse và ba đứa bạn bò trong đống bùn. Đám đông trại viên hiếu kỳ vây quanh chúng.
Tóc Clarisse rũ rượi xõa xuống mặt. Trong áo khoác rằn ri ướt sũng, người nó bốc mùi hôi như nước cống.
Nó nhìn tôi căm thù:
- Thằng “ma mới” kia, mày chết với tao.
Mua quan tài đi là vừa.
Đáng lẽ nên bỏ ngoài tai, nhưng tôi bảo:
- Muốn súc miệng bằng nước toa lét không, Clarisse? Im miệng đi thì hơn.
Ba đứa bạn nâng Clarisse dậy, lôi nó về nhà Số Năm. Chân nó khua loạn xạ khiến mấy người đứng xem dạt cả ra.
Annabeth trợn mắt nhìn tôi, không hiểu vì sợ hay vì giận tôi giội nước lên bạn ấy.
Tôi hỏi:
- Sao thế? Nghĩ gì nói đại đi.
- Cậu sang đội tớ trong trận Cướp Cờ ngày thứ Sáu nhé?
7. BỮA TỐI BỐC KHÓI
Tiếng lành đồn xa: tin về sự cố nhà vệ sinh lan toàn trại.
Tôi đi đến đâu, người ta cũng chỉ trỏ và rỉ tai nhau về nước bồn cầu !!!
Hoặc có lẽ tôi nhầm: chắc mọi người chỉ nhìn Annabeth ướt lướt thướt.
Bạn ấy chỉ tôi xem vài chỗ nữa: xưởng kim loại có mấy bạn đang tự rèn kiếm, phòng thủ công có thần rừng đang thổi cát đánh bóng bức tượng bằng đá cẩm thạch khổng lồ tạc hình một nhân vật nửa người, nửa dê và bức tường luyện tập. Tường này có hai mảnh rung chuyển mạnh, đá tảng theo nhau lăn xuống như mưa, nham thạch nóng bắn tung tóe. Nếu học viên không leo nhanh sẽ bị bỏng vì nham thạch.
Cuối cùng, chúng tôi trở lại hồ có đường mòn dẫn đến khu nhà ở.
Annabeth nói rõ từng tiếng:
- Tớ phải đi tập. Ăn tối lúc bảy rưỡi. Cứ theo bạn cùng nhà đến sảnh, nghe chưa?
- Annabeth này, tớ xin lỗi vụ toa lét vừa rồi.
- Đừng khách sáo.
- Không phải tại tớ đâu mà.
Thấy ánh mắt nghi ngờ của cô bạn tóc vàng, tôi mới hiểu cơ sự tại tôi cả. Chính tôi điều khiển nước phụt ra từ các thiết bị dọc đường ống gắn trên tường. Tôi không hiểu bằng cách nào nhưng thủ phạm chính là tôi. Bồn cầu biết nhận lệnh tôi. Hóa ra tôi có ảnh hưởng đến chuyện ống nước gì gì đó.
Annabeth bảo:
- Chắc cậu phải nói chuyện với Lời Sấm Truyền thôi.
- Ai cơ?
- Không phải ai. Của một vật thôi. Để tớ báo bác Chiron đã.
Ngó đăm đăm mặt hồ, tôi chỉ mong có người trả lời thẳng câu tôi hỏi, dù chỉ một lần.
Chưa bao giờ bị người khác từ dưới nhìn lên mông mình nên tôi ngượng chín người khi thấy hai bạn gái ngồi gác chân chữ ngũ dưới móng cầu cách tôi khoảng hai chục bước đang ngắm mình. Họ mặc quần jeans xanh dương, áo thun xanh lá cây. Mái tóc nâu bồng bềnh trên vai. Họ mỉm cười vẫy tôi như bạn thân lâu ngày không gặp.
Tôi không biết hay dở ra sao, cũng giơ tay vẫy đáp trả.
Annabeth cảnh cáo:
- Đừng khích lệ họ. Nữ thủy thần mà tán, đàn ông chết như ngả rạ.
Tôi choáng, lặp lại như người mất trí:
- Nữ thủy thần! Tớ xin đủ, hết chịu nổi rồi. Tớ về nhà đây.
Annabeth nhíu mày:
- Percy, cậu vẫn chưa hiểu à? Nhà cậu là đây. Chỉ còn mỗi chỗ này an toàn cho những người như chúng ta thôi.
- Chúng ta là bọn tâm thần có vấn đề phải không?
- “Chúng ta” có nghĩa không phải người phàm. Hay chí ít chỉ một nửa là người thôi.
- Vậy nửa kia là gì?
- Biết rồi còn hỏi.
Tôi muốn thú nhận nhưng lại sợ. Chân tay tôi ngứa ngáy, cảm giác chỉ có mỗi khi nghe mẹ nhắc đến bố.
- Nửa kia là thần thánh, là á thần.
Annabeth gật đầu:
- Cha cậu chưa chết. Ông là cư dân đỉnh Olympia.
- Hoang đường!
- Không có đâu. Trong mọi câu chuyện thần thoại, các thần hay làm gì nhất nào? Họ đi khắp thiên hạ, yêu say đắm người phàm rồi sinh con đẻ cái. Cậu tưởng mấy nghìn năm qua, họ bỏ được cái thói quen thâm căn cố đế ấy ư?
- Nhưng đó chỉ là… - Tôi định nói “chuyện thần thoại”, nhưng chợt nhớ bác Chiron từng bảo hai nghìn năm sau, tôi cũng sẽ trở thành huyền thoại nên lại thôi – Thế nếu bọn ta nửa thần…
- Á thần là tên chính thức. Hoặc con lai.
- Thế bố cậu là ai?
Hai bàn tay nắm cọc hàng rào của Annabeth trắng bệch. Tôi chột dạ, biết mình vừa động đến chủ đề nhạy cảm.
- Bố tớ là giáo sư Học viện Quân sự West Point. Từ hồi còn bé xíu đến giờ, tớ chưa gặp ông ấy. Bố tớ dạy môn lịch sử Hoa Kỳ.
- Vậy ông là người phàm.
- Thế cậu tưởng chỉ nam thần mới đủ tinh tường để tán thưởng vẻ đẹp của người trần thôi ư? Sao cậu trọng nam khinh nữ thế?
- Vậy chứ mẹ cậu là ai?
- Tớ ở Nhà Số Sáu.
- Là sao?
Annabeth tự hào ngẩng cao đầu:
- Bà là Athena, nữ thần của trí tuệ, chiến tranh chính nghĩa và nghề thủ công.
Tôi bụng bảo dạ: “Ra thế. Thảo nào.”
- Thế bố tớ là ai?
- Tớ đã bảo cậu là chưa xác định mà. Chẳng ai biết hết.
- Trừ mẹ tớ, đúng không?
- Chưa chắc. Có phải lúc nào thần thánh cũng nêu danh tánh thật đâu.
- Nhưng bố tớ thì có. Bố yêu mẹ tớ lắm.
Tuy hoài nghi nhìn tôi, nhưng Annabeth không muốn làm tôi cụt hứng:
- Chắc cậu đoán đúng. Có thể ông ấy gửi đến hai mẹ con dấu hiệu nào đó. Cách duy nhất để biết chắc là cha cậu gửi tín hiệu tuyên bố cậu là con đẻ của ông. Tớ từng thấy vài lần như thế.
- Vậy vế ngược lại là cũng có thần thánh không tuyên bố nhận con?
Annabeth rà tay dọc đoạn lan can hồ:
- Các thần bận rộn lắm. Họ có nhiều con nên không phải lúc nào… Nói thẳng là đôi khi họ không quan tâm đến con cái đâu. Họ mặc kệ.
Tôi nhớ bọn trẻ trong nhà thần Hermes, nhà Số Mười Một. Bạn cùng phòng tôi nét mặt rầu rĩ, tuyệt vọng như thể cả đời ngóng trông một cuộc gọi không bao giờ đến. Hồi còn học ở Học viện Yancy, tôi không lạ gì lũ trẻ giống bạn ở chung nhà với tôi bây giờ. Bố mẹ chúng giàu có, đẩy con vào trường nội trú chỉ vì không có thời gian chăm sóc xon. Tôi những tưởng thần thánh phải tốt đẹp hơn đám phụ huynh trọc phú ấy. Ai dè…
- Nói tóm lại, tớ sẽ kẹt ở trại này đến hết đời chứ gì?
- Cũng còn tùy. Nhiều bạn chỉ đến đây nghỉ hè. Chẳng hạn con của Aphrodite
[1]
hay Demeter
[2]
sẽ không có khả năng gì lớn lắm. Quái vật không để ý họ nên họ chỉ cần huấn luyện vài tháng hè sau đó về thế giới phàm trần sống hết năm. Nhưng trong trại có vài người… rời đây sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Chẳng hạn tớ và vài người bạn khác ở đây quanh năm. Ra thế giới người phàm, bọn quái vật sẽ đeo dính chúng tớ. Chúng nhận ra tụi tớ bằng cảm giác, sau đó đến thách đấu. Nói chung, chúng không thèm để ý cho đến khi chúng ta đủ lớn, khoảng mười, mười một tuổi. Đến tuổi ấy, nếu không đến được đây, các á thần sẽ bị giết chết. Tin tớ đi, nếu tớ điểm vài cái tên, rất có thể họ là người quen của cậu. Có người còn không biết mình là con thần thánh. Nhưng chuyện đó rất hiếm hoi.
- Vậy quái vật không đến được đây ư?
Annabeth lắc đầu:
- Không, trừ khi chúng được đem đến giấu ở khu rừng kia hoặc được người trong trại gọi đến.
- Ai muốn gọi quái vật đến hại mình chứ?
- Có người muốn luyện kỹ năng giao chiến. Có người đơn giản thích đùa ác.
- Đùa ác ư?
- Vấn đề ở chỗ: trại kín cổng cao tường, không cho người phàm và quái vật vào. Từ ngoài nhìn vào thung lũng, người phàm trần sẽ thấy không có gì khác thường. Chỉ là nông trại trồng dâu mà thôi.
- Thế cậu ở đây quanh năm ư?
Annabeth gật đầu. Cô bạn tôi kéo sợi dây da giấu trong cổ áo đeo năm hạt đất nung, mỗi hạt một màu. Dây này giống hệt dây trên cổ Luke. Tuy nhiên, dây của Annabeth có thêm vòng tròn bằng vàng khá to.
- Tớ ở đây từ năm lên bảy. Cứ đến tháng Tám, vào ngày cuối cùng của kỳ nghỉ hè hàng năm, mỗi người chúng tớ có thêm một hạt tròn đánh dấu một năm sống sót. Tớ đã ở trại này lâu hơn hầu hết trại sinh, kể cả các đàn anh đàn chị của các Nhà. Mấy anh chị ấy giờ vào vào đại học cả rồi.”
[3]
- Sao bé thế cậu đã đến đây rồi?
Cô bạn tôi móc ngón tay vào vòng tròn bằng vàng, sẵng giọng:
- Không phải việc của cậu, hỏi làm gì?
Tôi bồn chồn đứng trong bầu không khí im lặng nặng nề:
- Cậu không muốn kể thì thôi. Vậy… nếu thích, tớ cứ việc đi khỏi đây chứ gì?
- Đúng vậy, nhưng làm thế là tự sát. Với lại, cậu phải xin phép bác Chiron và Ngài D. Tuy nhiên, từ nay đến cuối hè, họ sẽ không cho phép, trừ khi…
- “Trừ khi” cái gì?
- Trừ khi cậu được giao nhiệm vụ đi điều tra. Nhưng khó có chuyện ấy lắm. Lần gần đây nhất…
Annabeth im bặt.
Nghe giọng bạn, tôi đủ biết lần vừa rồi không suôn sẻ lắm.
- Nhớ lúc trong phòng bệnh, khi cậu cho tớ ăn…
- Thức ăn của thần.
- À, phải. Cậu có hỏi tớ về ngày Hạ chí.
Annabeth chợt căng thẳng:
- Thế ra cậu có biết ít nhiều, phải không?
- À… không. Hồi còn ở trường cũ, tớ có nghe bác Chiron và Grover bàn chuyện ấy. Grover có nhắc đến ngày Hạ chí. Cậu ấy bảo đại loại… ta không còn nhiều thời gian vì đó là hạn chót. Thế nghĩa là gì, cậu có biết thì nói tớ nghe với.
Annabeth nắm chặt hai bàn tay:
- Giá tớ biết thì hay quá. Chiron và nhóm thần rừng biết nhưng không cho tớ hay. Hình như đỉnh Olympia có chuyện chẳng lành… Lần này nghiêm trọng đấy. Lần cuối cùng tớ đến đó, mọi thứ còn êm ả. Vậy mà…
- Cậu đã lên tận đấy rồi ư?
[4]
- “Dân định cư” ở trại này… Chẳng hạn, Luke này, Clarisse này, tớ và mấy bạn khác đến đó tham quan vào ngày Đông chí. Lúc ấy các thần tổ chức họp lớn tổng kết năm.
- Nhưng… cậu đến đó bằng cách nào cơ chứ?
- Đương nhiên xuất phát từ ga xe lửa Long Island rồi. Ga Penn là bến cuối, sau đó đến tòa nhà Empire State, đi thang máy đặc biệt lên tầng thứ sáu trăm. – Cô ấy nhìn tôi như thể tôi chắc chắn phải biết chỗ này – Ôi, cậu là người New York chắc biết rõ chứ hả?
- À phải.
Theo tôi được biết thì tòa nhà Empire State chỉ có 102 tầng. Tuy nhiên, tôi không nói ra.
- Ngay sau lần thăm viếng ấy, thời tiết thay đổi lạ lùng lắm. Làm như các thần đánh nhau thì phải. Kể từ đó, đôi lần tớ nghe các thần rừng xì xầm bàn tán. Có căng tai lên nghe tớ cũng chỉ biết có báu vật bị đánh cắp. Hình như nếu kẻ trộm không đem trả vật ấy trước ngày Hạ chí, sẽ có rắc rối lớn đấy. Khi cậu đến, tớ hy vọng là… Ý tớ là thần Athena hòa thuận với mọi thần, ngoại trừ thần chiến tranh Ares. Tất nhiên, bà và thần biển Poseidon cũng kình nhau nhưng… nếu biết gạt hiềm khích qua một bên, chúng ta
[5]
hợp tác vẫn tốt như thường. Tớ tưởng cậu biết chứ?
*****
[1]
Aphrodite là nữ thần của tình yêu, sắc đẹp và sự sinh nở; và cũng là thần hộ mệnh của thủy thủ.
[2]
Demeter là chị gái của thần Dớt, bà là nữ thần của nông nghiệp, thiên nhiên, mùa màng và sự sung túc.
[3]
Bản tiếng Anh là “ I've been here longer than most of the counselors, and they're all in college. ” Ở đây có chữ “ counselor ”, theo từ điển Oxford ALD 7th thì từ này có một nghĩa là “a person who is in charge of young people at a summer camp”, đại loại là người quản lý lũ trẻ trong trại hè. Trong trường hợp này thì có thể hiểu đó là những người như Luke, huynh trưởng của mỗi Nhà, quản lý trại sinh trong Nhà đó, tổ chức tập luyện cho đàn em, chứ không thể hiểu là Ngài D. hay bác Chiron được hay các thần rừng được. Do đó, dịch từ này là “ nhân viên tư vấn ” như trong sách thì mình thấy không ổn, mà nên là “ huynh trưởng ”. Nên xin được tạm sửa lại câu trên thành “Tớ đã ở trại này lâu hơn hầu hết trại sinh, kể cả các đàn anh đàn chị của các Nhà. Mấy anh chị ấy giờ vào vào đại học cả rồi.”
(Xin nói thêm là khi đọc đến chỗ “ở trại này lâu hơn
mọi
nhân viên tư vấn” khiến mình cảm thấy chỗ này có vấn đề vì từ đầu truyện có thể đoán là Luke và Annabeth vào trại cùng đợt với Thalia, vậy mà Annabeth dám tuyên bố ở trại lâu hơn Luke thì… Ban đầu mình nghĩ là truyện không chặt chẽ nên tính thêm một dấu (-) cho truyện nhưng khi dò lại thì mới biết là lần này mình đã nghĩ oan cho tác giả, nên dấu (-) này chuyển sang cho dịch giả vậy, kaka).
[4]
Câu này trong sách in thiếu, mình bổ sung theo bản tiếng Anh: "You've been to Olympus?"
[5] Bản tiếng Anh là “we” nên dịch thành “họ” như trong sách là sai. Ý Annabeth là “Dù cho cậu có là con ai đi nữa, mẹ tớ vốn đã hòa thuận với rất nhiều thần nên tớ và cậu rất có khả năng hợp tác ăn ý với nhau” 8. GIÀNH CỜ DANH DỰ Mấy ngày sau đó, sinh hoạt của tôi dần đi vào nề nếp, giớng hồi ở trường thường. Chỉ có điều, người hướng dẫn tôi bây giờ là thần rừng, Nữ Thần Cây và nhân mã. Sáng sáng, Annabeth chỉ tôi học tiếng Hy Lạp cổ. Thật lạ đời vì khi trao đổi với nhau về các thần, chúng tôi chia động từ ở thời hiện tại. Về chứng khó đọc của tôi, Annabeth nói đúng. Tôi học tiếng Hy Lạp cổ dễ dàng. Chí ít cũng dễ hơn tiếng Anh. Mới học mấy buổi mà tôi đã đọc được vài câu thơ của đại thi hào Homer và không bị nhức đầu. Thời gian còn lại trong ngày, tôi luân phiên tập nhiều môn thể thao ngoài trời để tìm môn sở trường. Bác Chiron dạy tôi bắn cung, nhưng hai chúng tôi nhanh chóng biết tôi hoàn toàn lóng ngóng với cung nỏ. bác không phàn nàn một câu dù phải nhổ một mũi tên lạc cắm trúng đuôi mình. Chạy bộ thì sao? Cũng chẳng hơn gì. Các cô giáo là Nữ Thần Cây cho tôi “hít khói”. Họ an ủi, bảo tôi chớ buồn rồi kể lý do khiến họ chạy giỏi: đó là nhờ mấy nghìn năm chạy trốn các nam thần phát cuồng vì yêu! Tuy nhiên, tôi vẫn thấy bẽ bàng vì chạy không nhanh bằng cái cây. Đến môn vật thì … “quên đi”. Mỗi lần tôi lò dò ra chiếu, Clarisse lại dần tôi nhừ tử. Nó rít vào tai tôi: - Tưởng con ông nọ bà kia là “ngầu” lắm sao? Tôi chỉ thạo mỗi trò lái xuồng máy. Đó chẳng phải kỹ năng của người hùng. Người ta kỳ vọng ở anh chàng giết quỷ đầu bò nhiều hơn thế. Trại viên và các huynh trưởng theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi hầu mong đoán ra danh tánh cha tôi. Nhưng chẳng dễ dàng gì. Tôi không khỏe mạnh như con thần Ares, không giỏi bắn cung như con thần Apollo. Tôi không khéo tay trong nghề rèn như thần Hephaestus, không biết điều khiển cây nho như thần Dionysus. Luke bảo hình như tôi là con thần Hermes: nghề gì cũng biết nhưng chẳng giỏi nghề nào. Nhưng tôi biết anh chỉ an ủi tôi mà thôi. Chính anh cũng không biết tôi là con ai. Dù thế, tôi vẫn thích trại hè, tôi dần quyến luyến với sương sớm phủ trắng bãi biển, hương dâu thơm lừng mỗi chiều, và tiếng động lạ lẫm từ trong rừng vọng tới hàng đêm. Lúc dùng bữa ở bàn ăn của Nhà Số Mười Một, gạt một phần thức ăn trong đĩa vào lửa, tôi cố tìm mối liên hệ với người cha ruột của mình. Chẳng có gì ngoại trừ cảm giác ấm áp, giống ký ức về nụ cười của cha. Tôi dần thông cảm thái độ chua chát của Luke. Hình như anh hờn giận cha mình. Thôi đành vậy. Thần thánh bận rộn làm nhiều việc vĩ đại. Nhưng chẳng lẽ họ không đủ thời gian gửi một dấu hiệu, chẳng hạn như gọi điện thoại hay tạo tiếng sấm, để nhận con mình? Thần Dionysus tạo lon nước ngọt từ không khí. Chẳng lẽ cha tôi không có khả năng hóa phép biến cho mình cái điện thoại? -O- Chiều thứ Năm, ba ngày sau khi tham gia trại hè, lần đầu tiên tôi học đấu kiếm. Cả Nhà Số Mười Một tập trung tại hí trường rộng lớn, khán đài hình vòng tròn. Luke sẽ hướng dẫn môn kiếm thuật cho anh em. Bài học bắt đầu bằng vài động tác đâm và vung kiếm cơ bản. Chúng tôi dùng bù nhìn nhồi rơm mặc giáp trụ giống chiến binh Hy Lạp cổ để tập. Tôi học không tồi. Tập hồi lâu, tôi biết mình phải làm gì. Sự hồi tưởng về những trận đánh xa xưa cũng khá rõ ràng. Khổ nỗi tôi không tìm được cây kiếm vừa tay mình. Kiếm ở đây hoặc quá nặng, hoặc quá nhẹ, hoặc quá dài. Dù cố hết sức giúp nhưng Luke phải công nhận kiếm trong phòng tập không có cái nào hợp với tôi. Sang phần tập đấu đối kháng, Luke bảo vì đây là lần đầu tiên của tôi nên anh sẽ đấu với tôi. Một bạn cùng phòng bảo: - Chúc may mắn. Luke là tay kiếm cừ nhất. Ba trăm năm qua, chưa ai thắng được anh ấy. - Hy vọng anh ấy nhường tớ. Cậu ta khịt mũi coi thường. Luke chỉ tôi cách che chắn, tránh né và xông tới tấn công. Mỗi lần liều lĩnh xông lên, tôi bầm tím thêm một ít, áo quần rách thêm một mảnh. Luke vụt sống kiếm vào mạng sườn tôi: - Percy, cẩn thận chứ. Đừng tiến xa vội. Vụt xuống! Lao vào! Xỉa đi! Giờ lùi lại! Chém! Đến lúc anh thông báo tạm nghỉ, mồ hôi tôi ướt đầm đìa. Mọi người kéo nhau đến bình làm mát nước uống. Thấy Luke đổ nước lạnh buốt lên đầu, tôi cũng bắt chước. Tôi lập tức thấy khỏe hơn gấp mấy lần. Hai tay tôi mạnh mẽ hơn hẳn. Tay cầm kiếm không thấy ngượng nghịu nữa. Luke hô lớn: - Mọi người tập trung đi. Nếu Percy không phiền, ta đấu thử nhé? Tôi nghĩ thầm: “Tuyệt! Hãy xem Percy bị xử ‘te tua’ trước mặt cả Nhà Số Mười Một nào.” Con cái thần Hermes xúm lại xem. Ai nấy cố nín cười, như thể họ biết thừa sức tôi đến đâu và háo hức chờ Luke “xử lý” cái bao cát tập đấm là tôi ra sao. Luke nói sẽ trình diễn kỹ thuật tước kiếm đối phương. Đấu sĩ sẽ dùng kiếm đè kiếm đối phương xuống khiến đối thủ không còn cách nào khác ngoài thả tay mặc vũ khí rơi xuống đất. Anh nhấn mạnh: - Động tác này khó. Anh em chớ cười Percy vì hầu như ai cũng phải luyện tập vài năm mới thành thạo được. Anh trình diễn chiêu thức ấy thật chậm. Tất nhiên, kiếm rời tay tôi, rơi loảng xoảng xuống đất. Chờ tôi nhặt kiếm xong, anh bảo: - Giờ ta làm như thật. Ta sẽ đấu tập để phân thắng bại. Percy sẵn sàng chưa? Tôi gật đầu. Luke nhường tôi tấn công trước. Không biết bằng cách nào, tôi có khả năng tránh không để Luke tước kiếm. Sau màn dạo đầu, tôi dần quen tay, động tác thuần thục hơn. Mỗi lần anh tấn công, tôi đều biết và chống đỡ hiệu quả. Sau đó, tôi bước lên, xỉa thẳng kiếm ra trước. Luke tránh dễ dàng, nhưng mặt anh biến sắc. Anh nheo mắt và bắt đầu mạnh tay với tôi hơn. Thanh gươm trong tay tôi nặng dần. Tôi giữ thăng bằng không được tốt. Biết mình sẽ thua sau vài giây ngắn ngủi nữa, tôi quyết định liều. Tôi thử động tác tước kiếm đối phương. Lưỡi kiếm của tôi chạm phần gốc kiếm của Luke. Tôi xoay vặn cổ tay, dùng hết sức bình sinh ấn xuống. Keng ! Kiếm của Luke chạm mặt sàn lát đá. Mũi kiếm tôi chỉ cách khuôn ngực trống trải của anh chỉ có vài xăng-ti-mét. Khán giả chết lặng. Tôi hạ kiếm xuống: - Ối, em xin lỗi. Trong một thoáng, Luke sững sờ không thốt nên lời. Luke bật cười: - Xin lỗi ư? Trời đất, có gì phải xin lỗi chứ. Chú làm lại cho anh xem nào. Tôi không muốn chút nào. Luồng sinh lực vừa trào lên bất ngờ đã tắt ngấm. Nhưng Luke năn nỉ mãi. Lần này không thể gọi là giao tranh. Hai kiếm vừa chạm nhau, Luke đã đè chuôi kiếm của tôi, hất nó trượt dài trên nền nhà. Im lặng thật lâu. Có tiếng hỏi trong đám người xem: - Lúc nãy Percy gặp may phải không? Luke quệt mồ hôi trán. Anh chăm chú nhìn tôi như thầm đánh giá: - Có thể. Nhưng nếu Percy có thanh kiếm vừa tay, chưa biết sẽ ra sao… -O- Chiều thứ Sáu, tôi ngồi nghỉ với Grover bên hồ sau khi suýt chết vì tập leo tường. Grover leo vút lên đầu tường nhanh như dê núi, còn tôi suýt bị nham thạch thiêu sống. Áo tôi cháy nham nhở còn bốc khói. Lông trên cánh tay cháy xém cả. Ngồi trên móng cầu ngắm các Nữ Thủy Thần đan rổ dưới nước rất lâu, tôi mới dồn đủ can đảm hỏi Grover về cuộc gặp với Ngài D. hôm nọ. Mặt nó xám ngoét: - Vui lắm. Nói chung tốt cả. - Vậy cậu vẫn tiếp tục công việc lúc trước? Nó ngượng ngập liếc tôi: - Bác Chiron ch… cho cậu hay chuyện tớ muốn có giấy phép Truy Tìm à? - Đâu… có. Tôi định hỏi chứng chỉ quái quỷ gì nghe lạ thế, nhưng nghĩ giờ chưa phải lúc nên lại thôi. - Bác ấy chỉ bảo cậu có nhiều dự định lớn… Bác còn bảo cậu muốn thuyết phục quản lý trại cho phép hoàn tất nhiệm vụ của Người Trông Nom. Thế ông ấy cho phép chưa? Grover quay sang nhìn nhóm Nữ Thủy Thần: - Thần Dionysus chưa đánh giá gì cả. Vì ông chưa quyết định tớ thành công hay thất bại trong vụ của cậu nên số phận hai ta vẫn gắn với nhau không rời. Nếu cậu được giao nhiệm vụ điều tra, tớ sẽ theo bảo vệ cậu. Nếu cả hai toàn mạng trở về, Ngài D. mới kết luận tớ hoàn thành nhiệm vụ. Tôi vui hẳn lên: - Thế cũng được mà. - Be…e…e! Khả năng khác là ông ta sẽ chuyển tớ sang đội lau dọn chuồng ngựa. Khả năng cậu được điều tra xa vời lắm… Với lại nếu được đi, cậu cần gì tớ đi cùng! - Đương nhiên tớ cần chứ. Grover rầu rĩ ngó mặt hồ đăm đăm: - Đan rổ… có nghề hữu dụng thích quá cậu nhỉ? Tôi định an ủi, khen nó nhiều tài nhưng làm thế chỉ khiến nó buồn thêm mà thôi. Tán gẫu về xuồng máy, kiếm thuật xong, chúng tôi quay sang tranh luận về ưu khuyết điểm của các thần. Cuối cùng, tôi hỏi nó về bốn căn nhà bỏ trống. - Nhà Số Tám, màu sáng bạc của thần Artemis. Vì thề giữ trinh tiết suốt đời nên đương nhiên thần Artemis không có con. Nhưng nếu trại không làm nhà cho bà thì không xong đâu. Có Nhà Số Tám, Trại Con Lai sẽ không phải hứng cơn giận dữ của thần Artemis. - Phải phải. Nhưng còn ba lều kia… có phải của Bộ Tam Vĩ Đại không? Grover căng thẳng như thể chúng tôi sắp đụng đến vấn đề nhạy cảm. - Nhà Số Hai của Nữ thần Hera. Giống nhà thần Artemis, Nhà Số Hai chỉ làm cho có. Hera là thần của hôn nhân, vì thế bà sẽ không đi hoang, lăng nhăng với cả đám người phàm. Chuyện ấy đã có chồng bà “phụ trách”. Khi nói tới Bộ Tam Vĩ Đại, người ta ám chỉ ba anh em có thế lực nhất, con người khổng lồ Kronos. - Là Thần Dớt, thần Poseidon và thần Hades. - Chính xác. Chắc cậu cũng biết, đánh bại các người khổng lồ Titan xong, họ chiếm ngai vàng của cha và rút thăm chia quyền cát cứ. Tôi nhớ lại bài đã học: - Thần Dớt được bầu trời, thần Poseidon thống lĩnh biển cả và thần Hades xuống địa ngục. - Ừ. - Thần Hades không có nhà ở đây. - Không. Trên đỉnh Olympia cũng không có ghế của ông ta. Ông ta chỉ loanh quanh dưới địa ngục thôi. Nếu Trại Con Lai có nhà của ông ấy thì… ớn lắm. Cứ thế này lại hơn. - Nhưng theo truyền thuyết, con hai thần Dớt và Poseidon là hằng hà sa số. Sao nhà họ ở đây không có ai? Grover sợ sệt đổi chân: - Khoảng sáu mươi năm trước, sau Thế Chiến Thứ Hai, Bộ Tam Vĩ Đại cùng đồng thuận sẽ không sinh thêm anh hùng nữa. Con cái họ quá hùng mạnh, ảnh hưởng ghê gớm đến tiến trình phát triển của nhân loại, gây nên bao cảnh đầu rơi máu chảy. Cậu biết không, thực chất Thế Chiến Thứ Hai là sự giao tranh của một phe là các con thần Dớt và thần Poseidon đấu với phe bên kia là con của thần Hades. Phe thắng trận là Dớt và Poseidon bắt Hades phải cùng thế sẽ không lăng nhăng với phụ nữ trần gian nữa. Cả ba đều nhìn nước sông Mê Styx mà thề. Sấm nổ từng tràng vang dội. Tôi bảo: - Giống thề độc, cậu nhỉ? Grover gật đầu. - Thế ba anh em họ có giữ lời không? Mặt Grover tối sầm: - Mười bảy năm trước, thần Dớt trót sa đà. Ngôi sao phim truyền hình với mái tóc bồng bềnh làm thần mất ăn mất ngủ. Khi cô bé Thalia, con họ chào đời… Sông Mê Styx vốn nghiêm túc với chuyện thề bồi mà. Do bất tử nên thần Dớt không việc gì, nhưng vì ông ta, cô con gái phải chịu số phận khủng khiếp. - Bất công quá! Đứa con gái đó có tội tình gì đâu. Grover ngần ngừ: - Percy này, con của Bộ Tam Vĩ Đại có quyền năng lớn hơn những con lai khác. Mùi hương từ cơ thể họ cực kỳ mạnh, lôi kéo bọn quái vật đến. Khi biết tin thần Dớt có con gái, Hades chẳng vui vẻ gì khi biết anh mình không giữ lời hứa. Ông ta thả bọn quái vật kinh khiếp nhất nơi tận cùng địa ngục là Tartarus để chúng tìm Thalia hành hạ. Khi cô bé tròn mười hai tuổi, một thần rừng được phái đến trông nom cô bé, nhưng người này chẳng làm được gì. Thần rừng ấy cố đưa Thalia và hai người bạn con lai của cô đến trại. Họ đến rất gần trại, leo lên tận đỉnh đồi. Grover chỉ tay về phía bên kia thung lũng, nơi có cây thông lớn, đúng chỗ tôi quần nhau với quỷ đầu bò: - Ba tên “Người Tử Tế” cùng đàn chó canh địa ngục đuổi theo họ. Bị đuổi sát, Thalia bảo thần rừng đem hai người bạn đến nơi an toàn, để mình cô cầm chân quái vật. Cô bé bị thương, kiệt sức và không muốn sống chui nhủi cả đời như thú hoang trốn thợ săn. Dù không muốn bỏ Thalia nhưng thần rừng nọ không thuyết phục được cô đổi ý nên đành bảo vệ hai người kia. Thế là một mình Thalia quyết chiến đến cùng trên đỉnh đồi. Khi cô chết, thần Dớt thương con vô hạn. Ông biến xác cô thành cây thông. Linh hồn cô tiếp tục bảo vệ ranh giới của trại quanh thung lũng. Chính vì thế mới có tên Ðồi Con Lai. Tôi nhìn không chớp mắt vào cây thông trên đỉnh đồi xa xa. Nghe Grover kể xong, tôi hụt hẫng và mang cảm giác có tội. Một bạn gái trạc tuổi tôi đã hi sinh thân mình để cứu bạn. Trước khi chết, cô đã chiến đấu với cả bầy quái thú. So với cô, chiến tích thắng quỷ đầu bò của tôi chẳng là gì. Tôi tự hỏi... nếu hôm đó tôi hành sự khác đi, liệu tôi có cứu được mẹ mình? - Grover này, trong số anh hùng con thần thánh có ai xuống địa ngục chưa? - Vài người, như Orpheus, Hercules, Houdini chẳng hạn. - Thế có ai làm người chết sống lại chưa? - Chưa. Làm gì có chuyện ấy. Orpheus suýt thành công nhưng... Percy, có thật cậu định… Tôi nói dối: - Ðâu có, tớ chỉ hỏi cho biết thôi. Vậy... luôn có thần rừng đi theo canh chừng cho á thần à? Grover nhìn tôi cảnh giác như thể nó không tin tôi bỏ qua ý tưởng vế Địa ngục: - Không hẳn. Tụi tớ đội lốt người đến nhiều trường học, cố phát hiện Con Lai nào có khả năng trở thành anh hùng sức mạnh hơn người. Nếu tìm được ai đậm mùi con lai, chẳng hạn con cái của Bộ Tam Vĩ Đại, thần rừng chúng tớ sẽ báo cáo bác Chiron. Bác ấy sẽ để mắt đến người đó bởi họ có thể gây rắc rối nghiêm trọng. - Chính cậu phát hiện ra tớ. Bác Chiron bảo cậu thấy tớ đặc biệt. Grover nhìn tôi như thể tôi vừa đưa nó vào bẫy: - Tớ đâu có… Nghe này, đừng theo đuổi suy nghĩ đó nữa. Nếu là con của một trong Bộ Tam Vĩ Đại, cậu sẽ không bao giờ được giao nhiệm vụ. Như thế, tớ sẽ không bao giờ được công nhận là Người Trông Nom. Có thể cậu là con thần Hermes, hoặc vị thần nào ít quyền lực hơn như thần Ganymede chẳng hạn. Vậy nên đừng quá lo, nhé? Tôi cảm giác Grover đang tự an ủi mình. -O- Ăn tối xong, ai nấy háo hức khác thường. Chờ mãi cũng đến cuộc tranh Cờ Danh Dự. Sau khi bát đĩa được dọn sạch, tù và vỏ ốc vang lên. Chúng tôi đứng ngay bên bàn ăn. Mọi người hò reo khi thấy Annabeth và hai người nữa cầm lá cờ bằng lụa chạy vào lều rạp. cờ dài khoảng ba mét bằng lụa bóng màu xám in hình chim lợn đậu trên cây ôliu. Từ cửa đối diện, Clarisse cùng hai bạn nó cũng cầm lá cờ to bằng cờ của Annabeth chạy vào. Chỉ có điều cờ của chúng màu đỏ chói, vẽ hình cây thương nhỏ máu và đầu lợn lòi. Giữa đám đông ồn ào, tôi quay sang Luke nói như hét: - Đó là Cờ Danh Dự à? - Ừ. - Lúc nào đội Athena và đội Ares cũng dẫn đầu ư? - Không hẳn, nhưng thường thì họ thắng. - Thế nếu cờ rơi vào tay Nhà khác thì phải in lại à? Luke cười toe toét: - Rồi cậu sẽ thấy. Trước tiên ta phải giành được một trong hai cờ đã. - Anh theo phe nào? Luke liếc trộm tôi, như thể anh giấu điều gì tôi chưa biết. Trong ánh đuốc bập bùng, vết sẹo làm mặt anh thành hung ác. - Tạm thời Nhà Số Mười Một ta về phe Athena. Tối nay ta sẽ cướp cờ đội Ares. Cậu sẽ phải giúp một tay đấy. Các đội đứng lên nhận đồng minh. Đội Athena liên kết với hai đội đông nhất là Apollo và Hermes. Rõ ràng họ đem quyền lợi đổi sự hỗ trợ, chẳng hạn thời gian sử dụng nhà tắm, làm hộ việc vặt và nhường vị trí tốt trên sân tập… Đội Ares liên kết với các đội còn lại là các Nhà Dionysus, Demeter, Aphrodite và Hephaestus [1] . Con thần Dionysus là vận động viên thực thụ, chỉ có điều họ chỉ có hai người. Con thần Demeter giỏi kỹ năng tự nhiên và hoạt động ngoài trời, nhưng không dũng mãnh cho lắm. Hầu như họ không tham gia hoạt động gì, chỉ ngồi soi mình xuống mặt hồ, chải tóc và tán gẫu. Không phải tôi trọng nam khinh nữ gì đâu vì nhà ấy cả trai lẫn gái đều thế. Con thần Hephaestus không đông, cũng không xinh xắn nhưng cả bốn người họ đều to cao lực lưỡng vì cả ngày làm trong lò rèn. Đối thủ đáng gờm đây! Ðó là chưa kể đến hơn chục đứa con thần Ares vừa to cao nhất, xấu xí nhất và xấu tính nhất vùng Long Island, hay nói đúng hơn là cả hành tinh. Báo Chiron giậm chân xuống nền đá. - Hỡi các anh hùng! Các bạn biết luật rồi đấy. Suối nước là ranh giới. Phạm vi thi đấu là cả khu rừng. Các bạn được dùng mọi vật dụng có phép thuật. Ai cầm cờ phải giơ cao cho mọi người cùng thấy và chỉ tối đa hai người được đi theo bản vệ cờ thôi. Tù binh có thể bị tước vũ khí nhưng không cần trói và nhét giẻ vào miệng. Không được giết hoặc gây thương tích cho đối phương. Tôi sẽ vừa là trọng tài, vừa là cứu thương. Hãy chọn binh khí đi nào! Ông giơ hai tay lên. Lập tức, mặt bàn xuất hiện đủ thứ: mũ giáp kiểu Hy Lạp cổ, kiếm đồng, giáo mác, khiên bằng da bò thuộc bọc kim loại. Tôi trầm trồ: - Chà Chà. Ta sẽ dùng thứ này sao? Luke nhìn tôi như nhìn tên ngớ ngẩn: - Nếu cậu muốn Nhà Số Năm băm cậu làm chả nướng thì đừng dùng. Này, cầm lấy. Bác Chiron bảo cái này vừa với cậu. Cậu sẽ bảo vệ vùng giáp ranh nhé. Khiên của tôi to tướng có in y hiệu phía trước và nặng không thể tả. Dùng nó làm ván trượt tuyết thì tốt, nhưng đừng ai bắt tôi vác khiên này chạy thật nhanh. Tôi đội mũ của đồng minh đội Athena có chùm lông ngựa nhuộm xanh biển trên chóp. Đội Ares và đồng bọn đội mũ có chùm lông vũ màu đỏ. Annabeth hô lớn: - Ðội xanh xung phong! Cả đội hò reo, vung kiếm theo Annabeth theo đường mòn xuống phía nam khu rừng. Ðội đỏ vừa tiến về phương Bắc vừa mắng nhiếc xỉ vả chúng tôi. Tôi vừa cố tránh vấp mũi cây kiếm dài thậm thượt trong tay, vừa ráng đuổi kịp Annabeth: - Này. Bạn ấy chỉ cắm cúi đi. - Cậu định thế nào? Có đồ dùng phép thuật cho tớ mượn không? Annabeth sờ túi như thể sợ tôi ăn trộm: - Coi chừng cây giáo của Clarisse đấy. Ðừng để nó chạm vào cậu. Còn lại thì đừng lo. Ta sẽ lấy được cờ của nhà Ares. Anh Luke giao việc cho cậu chưa? - Canh vùng biên giới. Tớ chẳng hiểu gì cả. - Dễ thôi. Cứ đứng bên suối, xua quân đỏ đi. Phần còn lại để tớ. Ðội Athena luôn có kế hoạch đàng hoàng. Dứt lời, bạn ấy chạy rõ nhanh, bỏ tôi lại với đám bụi mù mịt. Tôi làu bàu: - Ðược lắm. Hân hạnh được cùng đội với cậu. [1] Hephaestus là con trai của thần Dớt và Hera. Thần cai quản lửa và nghề thủ công. Ðêm ấy oi ả lạ thường. Rừng tối om, thỉnh thoảng có bầy đom đóm bay lập lòe. Annabeth bảo tôi đứng bên bờ suối có nước róc rách chảy qua mấy tảng đá lớn. Sau đó, bạn ấy và cả đội tản ra trước khi vào rừng. Ðầu đội mũ sắt cắm lông ngựa, tay cầm tấm khiên to bằng cái mẹt đứng chơ vơ bên suối, tôi thấy mình nực cười hết chỗ nói. Thanh kiếm đồng này, như bao thanh kiếm từng qua tay tôi, lệch lạc thế nào ấy. Chuôi kiếm bọc da thuộc trơn trượt như trái bóng bowling vậy. Chắc đây chỉ là trò chơi đánh trận giả. Ai lại tấn công thật bao giờ. Ý tôi là cư dân Olympia phải ban hành luật lệ đàng hoàng chứ. Từ xa vọng lại tiếng tù và vỏ ốc. Tôi nghe tiếng thúc ngựa, tiếng hò hét trong rừng và cả tiếng kim khí chạm nhau loảng xoảng. Một đồng minh nhà Apollo chạy vụt qua tôi nhanh như hoẵng rồi nhảy qua suối, tiến sâu vào lãnh địa đối phương. Tôi chua chát nghĩ thầm: “Thế đấy. Cũng như trước thôi, có trò vui thì chẳng đến lượt mình!” Chợt có tiếng động làm tôi lạnh sống lưng. Ngay gần chỗ tôi đứng vọng đến tiếng ch́ó dữ gầm gừ. Theo bản năng tự vệ, tôi giơ khiên lên. Một linh cảm lạ mách bảo có con gì đang theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi. Thốt nhiên, tiếng gầm gừ im bặt. Tôi cảm giác nó vội lủi đi chỗ khác. Từ bụi cây bên kia suối, năm chiến binh nhà Ares xông ra. Tiếng la lối, gào thét của chúng xé toạc màn đêm yên tĩnh. Clarisse hét: - Dần nhừ tử thằng cặn bã đó cho tao! Cặp mắt lồi như mắt lợn luộc của nó trợn lên sau hai khe hở của nón sắt. Nó vung cây giáo dài thước rưỡi, lưỡi giáo nhọn sắc sáng loáng. Mấy chị em nó cầm kiếm đồng. Dù đó chỉ là kiếm thường nhưng cũng đủ làm tôi phát hoảng. Năm đứa theo nhau lao qua suối. Xung quanh không có ai để cầu cứu. Tôi chỉ có thể hoặc chạy trốn, hoặc tự vệ, một mình chống trả nửa số “nhân khẩu” của Nhà số Năm. Thấy đứa đầu tiên nhào tới, tôi nhảy sang bên để tránh. Nhưng năm đứa này khôn hơn quỷ đầu bò. Chúng bao vây tôi. Clarisse xỉa mạnh ngọn giáo. Khiên của tôi làm mũi giáo quay xuống đất, nhưng cảm giác đau nhói, râm ran lan khắp người tôi. Tóc tôi dựng hết cả. Cánh tay đeo khiên tê dại, tia lửa bắn tung tóe. Điện giật. Cây giáo lợi hại của Clarisse có điện. Tôi ngã ngửa ra sau. Thêm một đứa nhà Ares cầm chuôi kiếm thúc mạnh ngực tôi khiến tôi lăn lộn dưới đất. Nếu chúng không phí thời gian cười ngặt nghẽo mà xông vào đấm đá tôi thì chắc người tôi đã mềm như thạch. Clarisse xúi: - Cắt tóc nó đi. Túm tóc chặt vào. Tôi cố gượng đứng dậy. Thấy tôi giơ kiếm lên, Clarisse dùng giáo gạt mạnh. Tia lửa điện lóe lên. Giờ cả hai tay tôi đều tê dại. Clarisse khoái trá: - Úi chà, thằng này làm tao sợ chết khiếp. Anh Percy ơi, tha cho em! - Cờ đằng kia. Sao không ra đó mà lấy? Tôi cố giả vờ hằm hè, dọa dẫm nhưng chết nỗi giọng tôi chằng có chút khí thế nào. Đứa khác bảo: - Biết rồi. Nhưng mày không thấy tụi tao không thèm cờ quạt gì à? Tối nay, tao bắt mày phải đền cái tội dám làm cả nhà tao bẽ mặt hôm trước. - Chúng mày tự bôi nhọ thanh danh mình đấy chứ. Có lẽ cãi nhau tay đôi với chúng không phải việc làm khôn ngoan. Hai đứa bèn tiến đến chỗ tôi. Vừa lùi dần tới bờ suối, tôi vừa giơ khiên lên cao nhưng Clarisse nhanh như sóc. Mũi giáo đâm trúng mạn sườn tôi. Nếu không mặc áo giáp che kín ngực, chắc tôi thành món thịt nướng rồi. Tuy nhiên, tôi vẫn bị điện giật mạnh đến độ hai hàm răng suýt rụng khỏi hàm. Một đứa chung nhà với nó lướt lưỡi kiếm cắt ngọt ngang cánh tay tôi, để lại vết thương khá sâu và dài. Nhìn máu mình chảy ròng ròng, tôi chóng mặt, toàn thân thoắt nóng lại lạnh buốt. Tôi cố lý sự: - Luật cấm gây thương tích mà. Một thằng trong bọn Nhà Số Năm lên tiếng: - Xin lỗi đấy. Cùng lắm thì bị phạt, mất bữa tráng miệng tối mai thôi. Nó đẩy tôi ngã ngồi xuống suối. Nước bắn tung lên. Cả bọn cười khả ố. Chắc chắn sau khi cười thỏa thuê, chúng sẽ lấy mạng tôi. Bất ngờ, chuyện lạ xảy đến. Hình như nước làm tôi tỉnh táo, kích thích các giác quan của tôi, hệt như tôi vừa ăn h́ết gói thạch đậu hương cà-phê mẹ cho. Clarisse cùng đồng bọn nhảy xuống nước định thộp cổ tôi nhưng tôi đã đứng vững chờ chúng đến. Tôi đã biết phải làm gì. Tôi đập lưỡi kiếm nằm ngang vào đầu tên chạy trước làm mũ sắt của hắn văng xuống đất. Cú đập mạnh đến nỗi hai tròng mắt hắn rung lên trước khi ngã dúi xuống nước. Thành viên thứ hai và thứ ba của đội quân Xấu Xí xông thẳng đến chỗ tôi. Một tay đập mạnh khiên vào mặt đứa này, tay cầm kiếm của tôi xén ngọt chùm lông trên mũ đứa kia. Cả hai vội lùi lại. Đứa thứ tư run sợ, không dám tiến lên nhưng Clarisse còn hung hăng lắm. Tia lửa điện trên lưỡi giáo của nó kêu lách tách. Ngay khi nó xỉa cây giáo tới, tôi nắm ngay cán giáo đoạn giữa khiên và kiếm của tôi và bẻ gãy dễ dàng như bẻ cành củi khô. - Ối! Đồ ngu! Ðồ giòi bọ hôi thối! Có lẽ nó sẽ còn nói nhiều câu khó nghe hơn nếu tôi không nhanh tay dùng chuôi kiếm thúc mạnh vào trán, ngay giữa hai mắt nó. Cú đẩy làm Clarisse văng giật lùi cách mép nước xa. Vừa lúc đó tiếng hò reo vui mừng dội tới. Luke giương cao cờ của đội đỏ chạy tới vạch ranh giới. Sát cánh bên anh có hai bạn nhà Hermes chạy theo yểm hộ cùng vài đồng minh nhà Apollo chạy sau họ. Vừa chạy, họ vừa đánh đuổi mấy đứa con thần Hephaestus. Đám con thần Ares lồm cồm bò dậy, riêng Clarisse cay cú chết lặng như bị yểm bùa. Nó gào lên: - Lũ lừa đảo. Trò lừa gạt mạt hạng! Chúng cuống cuồng chạy theo Luke nhưng đã quá trễ. Lúc anh cầm cờ chạy sang lãnh địa đội mình cũng là lúc mọi người đổ dồn về suối. Đội chúng tôi ở bờ bên này cùng lúc ồ lên tiếng reo mừng chiến thắng. Lá cờ đỏ mờ đi trước khi biến thành màu bạc. Đầu lợn rừng và cây giáo biến thành y hiệu, biểu tượng của Nhà Số Mười Một. Mọi người bên đội xanh đều đến chúc mừng Luke. Họ công kênh anh trên vai đi vòng quanh. Từ rừng già, bác Chiron vừa chạt nước kiệu tới vừa thổi vò ốc. Cuộc thi kết thúc. Đội tôi chiến thắng. Vừa định theo các bạn ăn mừng chiến thắng, tôi nghe tiếng Annabeth thoảng bên tai: - Cũng không tệ nhỉ, anh hùng! Tôi quay ngoắt sang nhưng không thấy bạn. Tiếng cô hỏi tiếp: - Cậu học ở đâu chiêu thức đấu tay đôi lúc nãy thế? Không khí lay động, Annabeth cầm mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankee hiện ra. Cảm giác giận dữ trong tôi mạnh đến nỗi át cả sự ngạc nhiên trước một Annabeth biết tàng hình. - Cậu dắt mũi tớ. Sở dĩ cậu bảo tớ đứng đây vì biết thể nào Clarisse cũng đến chỗ tớ gây sự. Trong khi đó, cậu phái anh Luke đưa quân tấn công hai bên sườn đối phương. Cậu tính hết từ trước rồi phải không? Annabeth nhún vai: - Tớ đã bảo cậu rồi. Lúc trước tớ có nói nhà Athena luôn có kế sách mà. - Mưu đồ của cậu biến tớ thành mồi ngon của Clarisse! - Đừng nói thế. Tớ ráng hết sức chạy thật nhanh đến cứu cậu. Đúng lúc tớ định nhảy vào… - Cô nhín vai – Cậu đâu cần tớ giúp. Lúc này, Annabeth mới thấy cánh tay tôi bị thương: - Sao cậu làm được thế? - Bị tụi nó rạch chứ còn sao nữa. - Nó khỏi rồi. Cậu nhìn mà xem. Vệt máu biến mất. Chỗ có vết thương há hoác giờ là vết sẹo dài màu trắng. Thậm chí, sẹo cũng đang mờ dần. Sẹo lớn nhỏ dần thành sẹo mảnh và biến mất ngay trước mắt tôi. - Sao… sao lại thế được? Annabeth suy nghĩ rất lung. Cô bạn hết nhìn chân tôi lại nhìn cây giáo gãy của Clarisse rồi ra lệnh: - Percy, cậu lên bờ đi. - Gì cơ… - Làm ngay đi. Vừa đặt chân lên bờ, tôi đã mệt rã rời. Hai cánh tay tôi tê dại. Cảm giác phấn khích tan biến hoàn toàn. Tôi suýt khuỵu xuống, may mà Annabeth đỡ kịp. - Thôi chết, không hay rồi. Tớ không mong… Vậy mà mình cứ tưởng thần Dớt… Tôi định bắt Annabeth giải thích rõ nhưng không kịp. Tiếng chó dữ gầm gừ khi nãy lại nổi lên, lần này nghe gần hơn lần trước. tiếp đến là tiếng tru rờn rợn vang dội khắp rừng già. Tiếng reo phấn khởi im bặt. Bác Chiron thét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ. Mãi giây lát sau tôi mới hiểu trọn nghĩa: - Sẵn sàng chiến đấu! Mang cung cho ta! Annabeth giơ cao thanh kiếm tuốt trần. Ngay trên đống đá tảng sừng sững trước mặt chúng tôi có con chó săn đen trũi, to bằng con tê giác, mắt vằn đỏ như máu, bộ nanh sắc như dao. Mắt nó phóng thẳng về phía tôi. Không ai nhúc nhích ngoại trừ Annabeth. Bạn ấy la lên: - Chạy đi Percy! Annabeth định bước lên che cho tôi nhưng con quái thú nhanh như cắt. Nó nhảy qua đầu Annabeth. Cả khối đen thẫm chỉ có răng nhọn trắng nhởn lao thẳng vào tôi. Tôi ngã ngửa, chỉ kịp thấy hàm răng nhọn cắn ngập tấm áo giáp che ngực mình. Sau đó là một loạt âm thanh xoàn xoạt, nghe như ai xé lần lượt bốn mươi tờ giấy, hết tờ này đến tờ khác. Một vòng tên nhọn cắm phập quanh cổ quái thú. Nó lăn ra chết ngay dưới chân tôi. Tôi còn sống như có phép màu. Tôi sợ không dám nhìn xuống tấm áo giáp tả tơi. Thấy ngực mình ươn ướt, âm ấm, tôi biết mình bị thương nặng. Chỉ chậm một giây thôi là quái thú sẽ biến tôi thành súc thịt vô tri nặng năm chục ký lô. Lo sợ ra mặt, bác Chiron đến bên chúng tôi. Annabeth bảo: - Thật kinh khủng. Đó là con chó ở mười hai tầng địa ngục, nơi trừng phạt những linh hồn tội lỗi. Chúng không thể… đáng lẽ chúng không… Bác Chiron đăm chiêu: - Có người gọi nó lên đây. Nhất định là người trong trại. Luke đi tới. Lá cờ rũ rượi trong bàn tay buông thõng. Niềm vui chiến thắng trong mắt anh tiêu tan. Clarisse gào lên: - Percy làm đấy. Chính nó gọi con chó canh địa ngục. Bác Chiron gắt: - Im lặng nào! Trước sự chứng kiến của mọi người, xác con chó lẩn vào bóng tối, rút xuống đất cho tới khi không còn dấu vết. Annabeth giục tôi: - Cậu bị thương kìa. Xuống nước ngay đi. - Tớ khỏe mà. - Không, xuống đi. Bác Chiron nhìn cậu ấy xem. Tôi mệt muốn xỉu, không muốn lý sự dài dòng, chỉ lầm lũi bước xuống suối. Toàn trại vây quanh tôi. Tức thì, tôi khỏe khoắn hẳn lên. Da thịt rách bươm trên ngực tôi lành lại. Trong đám đông, vài người vụt đưa tay bưng miệng. Tôi cố xin lỗi: - Các cậu, tớ không biết sao lại thế. Xin lỗi… Nhưng mọi người không xem vết thương. Mắt họ dồn về phía thứ gì lơ lửng trên đầu tôi. Annabeth chỉ tay: - Percy, nhìn kìa… Lúc tôi ngửa mặt lên nhìn, dấu hiệu đã mờ dần. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra dấu nguệch ngoạc màu xanh lục lấp lánh sáng và đang xoay tròn kia là cây đinh ba. Annabeth lẩm bẩm: - Cha cậu đấy. Thế này không hay rồi. Bác Chiron tuyên bố: - Thân thế Percy đã được khẳng định. Mọi người vây quanh tôi đều quỳ xuống, ngay cả mấy đứa trẻ nhà Ares. Tất nhiên, nét mặt chúng chẳng vui vẻ gì. Tôi hoang mang cực độ: - Cha tớ là ai? Bác Chiron quả quyết: - Thần Poseidon, thần gây động đất, dông bão và là thần của loài ngựa. Chúng tôi kính cẩn chào đón Perseus Jackson, con trai của Thần Biển Cả. Sao mãi mà không làm tiếp thế? Tớ nhân tiện tìm được phần tiếp theo, để tớ giúp một tay nhé. 9. Tôi được giao nhiệm vụ truy tìm vật báu Sáng hôm sau, bác Chiron bảo tôi chuyển sang nhà Số Ba. Tôi không phải ở chung với ai. Nhà rộng, thừa chỗ bày “của nả” của tôi gồm sừng quỷ đầu bò, một bộ quần áo (ngoài bộ mặc trên người) và đồ dùng vệ sinh cá nhân. Tôi có bàn ăn riêng, muốn làm gì tùy ý, không phải nghe lời ai và khi nào thích cứ việc hô: “Tắt đèn!” Thế nhưng, chưa bao giờ tôi khổ sở hơn bây giờ. Vừa kịp được mọi người chấp nhận, quen với nhà Số Mười Một như nhà mình và sung sướng vì tưởng mình giống bao người khác trong Trại Con Lai, tôi đã bị gạt ra. Giờ ai cũng nhìn tôi như kẻ mang mầm bệnh nguy hiểm, hiếm gặp. Dù không ai nhắc đến con chó canh địa ngục nhưng tôi biết sau lưng tôi họ không ngớt xầm xì về nó. Vụ tấn công làm mọi người sợ hãi. Nó mang thông điệp kép: thứ nhất, khẳng định tôi là con thần biển; thứ hai, cho thấy lũ quái vật sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào để giết hại tôi, thậm chí chúng có thể xuất hiện ở Trại Con Lai, nơi trước nay luôn được coi là an toàn. Các trại viên tìm mọi cách tránh tôi. Sau những gì tôi làm với mấy đứa con nhà Ares trong rừng, nhà Số Mười Một quá khiếp hãi, không dám thực hành với tôi trong giờ kiếm thuật. Thế nên, chỉ còn tôi và Luke đấu tay đôi. Anh bắt tôi tập miệt mài và không ngại “tặng” tôi vài vết bầm tím trong khi thực hành. Lúc đấu tập với tôi bằng kiếm và đuốc cháy từng rực, Luke nói ngay: - Chú phải thành thạo mọi chiêu thức. Giờ lặp lại động tác “chặt đầu rắn” năm mươi lần. Sáng sáng, Annabeth vẫn kèm tôi môn tiếng Hy Lạp cổ nhưng bạn ấy cứ lơ đãng thế nào ấy. Tôi nói một câu, bạn ấy gắt một câu, làm như bị tôi cấu véo không bằng. Hễ học xong, Annabeth lại vừa ra về vừa lẩm bẩm một mình: - Truy lùng? … Poseidon ư? … Thối rữa… Phải lên kế hoạch thôi… Ngay Clarisse cũng giữ khoảng cách an toàn, dù ánh mắt nó dọa sẽ lấy mạng tôi vì tội dám bẻ giáo thần của nó. Giá bị nó chửi bới, đấm đá, tôi lại dễ chịu hơn. Tôi thà ngày nào cũng bị đánh còn hơn bị “nghỉ chơi”. Chắc chắn trong trại có kẻ căm ghét tôi vì một tối về đến nhà, tôi thấy ai đó nhét tờ báo của người phàm qua khe cửa. Đó là tờ New York Daily News, gấp đúng trang Metro. Suốt một tiếng đồng hồ, tôi đánh vật với bài báo. Tôi càng tức, câu chữ càng nhảy múa cuồng loạn hơn. Nội dung bài như sau: Hai Mẹ Con Vẫn Mất Tích Sau Tai Nạn Ô Tô Kỳ Quái “Tin từ Long Island: Một tuần sau khi Sally Jackson và con trai Percy biến mất một cách bí ẩn, vẫn chưa ai tìm được họ. Thứ Bảy vừa qua, người ta tìm thấy chiếc Camaro màu đỏ đời 78 của gia đình họ cháy rụi trên con lộ phía bắc Long Island. Mui xe rách toạc, trục trước bị gãy. Xe bị lật và trượt dài cả trăm mét trước khi bốc cháy. Hai mẹ con nạn nhân đến Montauk nghỉ cuối tuần, nhưng vội vã rời đi vì lý do gì không ai biết. Người ta thấy có vết máu trong xe và tại chỗ xe nổ, ngoài ra không còn dấu vết gì của mẹ con nhà Jackson. Cư dân quanh vùng thôn quê yên tĩnh này cho biết trong khoảng thời gian ước tính xảy ra tai nạn, họ không thấy dấu hiệu gì bất thường. Ông Gabe Ugliano, chồng bà Jackson khẳng định Percy Jackson, con riêng của vợ ông là trẻ hư từng bị tống cổ khỏi nhiều trường nội trú và nhiều lần bộc lộ khuynh hướng bạo lực. Cảnh sát không khẳng định Percy là thủ phạm vụ mất tích của mẹ hắn nhưng do dấu vết máu tại hiện trường, họ không bỏ qua khả năng đây là một vụ trọng án. Dưới đây là ảnh bà Sally Jackson và con trai Percy. Cảnh sát kêu gọi ai biết gì về hai mẹ con Jackson, hãy gọi đến đường dây nóng sau. ” Số điện thoại miễn phí được khoanh tròn bằng mực đen. Vo viên tờ báo quẳng vào xó, tôi nằm vật xuống giường được kê giữa căn nhà trống trải và đau khổ rên lên: - Tắt đèn. Đêm đó, tôi bị ác mộng kinh khủng nhất dày vò. Tôi mơ thấy mình chạy dọc bãi biển trong cơn bão táp kinh hoàng. Lần này, sau lưng tôi là thành phố lớn. Không phải New York. Vùng đô thị rộng lớn, hỗn độn này khác lắm: nào nhà cửa nhấp nhô nối nhau đến tận chân trời, nào hàng cọ cao vút và dãy đồi thấp phía xa xa. Khoảng ba chục thước kể từ mép nước ra giữa biển có hai người đánh nhau. Trông họ giống hai đô vật trên ti vi: cơ bắp cuồn cuộn, râu quai nón dữ tợn và để tóc dài. Họ mặc áo choàng kiểu quý tộc Hy Lạp, vạt áo bay phấp phới. Một người mặc áo viền xanh biển, áo người kia viền xanh lá cây. Họ ôm ghì, vật, húc và đá nhau túi bụi. Mỗi lúc họ lao vào nhau, chớp lóe lên, trời tối hơn và cuồng phong mạnh lên gấp bội. Không hiểu sao tôi thấy nhất định phải can ngăn họ. Nhưng tôi càng cố chạy, gió thổi trước mặt càng mạnh. Cuối cùng, tôi chỉ chạy tại chỗ, hai bàn chân vô vọng guồng trong hố cát. Tôi nghe tiếng ông áo viền xanh biển gào át tiếng gió hú: - Trả tao đây! Trả đây! Chẳng khác nào hai đứa bé lên ba giành nhau đồ chơi. Sóng cao dần lên như bức tường đá xô lên bờ, hất chơi. Sóng cao dần lên như bức tường xô lên bờ, hất đầy cát lên mặt tôi. Tôi gào lên: - Hai người thôi đi! Đừng đánh nhau nữa. Mặt đất rung chuyển. Đâu đó sâu dưới lòng đất vọng lên tiếng cười ghê rợn, quỷ quyệt khiến máu trong người tôi đông lại. Rồi đến giọng nói trầm trầm, rền rĩ: - Xuống đây đi, tiểu anh hùng! Xuống đây với ta. Đất dưới chân nứt toác thành vực thẳm sâu tới lõi quả đất. Tôi trượt chân và bị vực sâu tối nuốt chửng. Giật mình mở mắt rồi mà tôi vẫn cứ ngỡ mình đang rơi. Tôi đang nằm trên giường trong nhà Số Ba. Đồng hồ sinh học mách bảo trời đã sáng, nhưng tôi thấy ngoài trời tối đen. Có tiếng sấm ầm ầm từ bên kia dãy đồi vọng tới. Trời sắp có bão. Riêng chi tiết này không chỉ có trong mơ. Bên ngoài có tiếng lộp cộp của móng guốc gõ lên cánh cửa. - Mời vào. Grover bước vào, nét mặt lo lắng: - Ngài D. muốn gặp cậu. - Có chuyện gì thế? - Ông ấy muốn giết... mà thôi, để ông ấy đích thân thông báo cho cậu. Tôi thay quần áo theo Grover ra ngoài, lòng ngổn ngang trăm mối. Tôi dám chắc lần này bị rầy rà to. Mấy bữa nay, tôi đoán già đoán non thể nào cũng bị gọi lên Nhà Lớn. Sau khi họ khẳng định tôi là con thần Poseidon, riêng sự có mặt của tôi trên đời đã là tội trọng. Chắc các thần đang tranh cãi tìm cách ghê gớm nhất để trừng phạt tôi vì cái tôi còn sống đến ngày hôm nay! Giờ Ngài D. chỉ cần chờ tôi đến, đọc phán quyết của tập thể cư dân đỉnh Olympia nữa là xong. Tôi hỏi Grover liệu có cần mang ô theo không. - Không. Nếu ta không yêu cầu, ở đây không bao giờ mưa. Tôi chỉ bức màn dông bão phía xa: - Thế kia là gì? Nó sợ sệt liếc trộm bầu trời: - Bão chỉ lồng lộn quanh vòng ngoài của trại thôi. Lần nào thời tiết xấu cũng thế hết. Nó nói đúng. Suốt tuần qua tôi ở đây, khoảng trời phía trên Trại Con Lai chưa bao giờ u ám. Có mấy lần tôi nhìn thấy mưa dông, nhưng chúng chỉ chạy vòng quanh thung lũng. Nhưng cơn bão lần này... chắc đổ cửa đổ nhà mất. Ngoài bãi bóng chuyền, bọn trẻ nhà Apollo đang tập thể dục buổi sáng bằng trận đấu tập với nhóm thần rừng. Hai đứa sinh đôi con thần Dionysus len lỏi trong ruộng dâu, làm phép cho cây lớn. Ai nấy vẫn làm công việc hàng ngay, chỉ có điều nét mặt họ cực kỳ căng thẳng. Thi thoảng, họ lo âu ngước lên nhìn mây đen. Grover đưa tôi đến thêm trước Nhà Lớn. Thần Dionysus ngồi trước bàn bày sẵn bộ bàn. Ông mặc áo hổ vằn vện, uống Coke không đường giống hệt ngày đầu tôi gặp ông. Bác Chiron ngồi xe lăn, đối diện ông quản lý trại hè. Họ cùng đánh bài với hai đối thủ tàng hình. Hai quạt bài lơ lửng trong không khí. Không nhìn lên, Ngài D. bảo: - Chà chà, ngôi sao nhí nhà ta đây rồi. Tôi kiên nhẫn đợi. Ngài D. ra lệnh: - Ngồi xuống đi chứ. Đừng có mơ ta quỵ lụy cậu chỉ vì cậu là con lão Ngêu già để râu quai nón. Một chùm tia chớp rạch ngang tầng mây đen. Sấm nổ làm rung chuyển cửa sổ Nhà Lớn. Ông quản lý vờ hoảng hốt: - Ôi, sợ quá đi mất. Bác Chiron tảng lờ bằng cách chăm chú quá mức vào bộ bài. Đứng bên lan can, Grover co rúm người, nhấp nhổm như đứng trên tổ kiến lửa. Hình như hai tay chơi tàng hình chiếm cứ hai ghế trống duy nhất, thế nên tôi đành đứng. Ngài D. nói tiếp: - Nếu được tự quyết định, ta sẽ biến mọi phân tử trong cơ thể cậu bùng cháy. Tụi này sẽ hốt tro đổ đi cho đỡ phiền toái. Tiếc thay, Chiron đây bảo làm thế đi ngược lại sứ mệnh của ta ở trại hè: bảo vệ lũ trẻ hư đốn các người khỏi bị xâm hại. Bác Chiron chêm vào: - Tự bốc cháy là bị tổn hại rồi. - Vớ vẩn. Nó có cảm thấy đau đâu mà nói. Nhưng thôi, ta chấp nhận kiềm chế. Hay là ta biến cậu thành cá heo, thả xuống biển trả về cho cha cậu nhé? Bác Chiron nhắc: - Kìa, Ngài D... Ông quản lý xịu mặt: - Nghe rồi. Vẫn còn một cách. Nhưng nghe ngớ ngẩn lắm. – Ông ta đứng lên. Hay quạt bài của hai nhân vật tàng hình rơi xuống bàn. – Giờ ta lên đỉnh Olympia dự họp khẩn. Nếu lúc ta về mà thằng bé này còn ở đây, ta sẽ biến nó thành cá heo Đại Tây Dương. Mấy người rõ chưa? Này Perseus Jackson, nếu cậu có chút chất xám trong đầu, cậu sẽ thấy ta tình cảm hơn Chiron nhiều. Cứ chờ xem ông ta sắp bắt cậu làm gì. Thần Dionysus búng tay. Không khí quanh ông đặc lại, uốn lượn mờ ảo. Sau khi biến thành bức ảnh, Ngài D. theo gió biến đi, mùi nho chín còn vương lại. Dù cười với tôi, trông bác Chiron khá mệt mỏi và căng thẳng: - Percy, ngồi đi cháu. Cả Grover nữa. Chúng tôi ngoan ngoãn vâng lời. Bác Chiron ngửa bài lên bài. Đáng lẽ bác cầm chắc phần thắng. Nhưng giờ chẳng ai còn lòng dạ chơi bài nữa. Bác hỏi: - Percy này, nói bác nghe xem hôm nọ cháu đã làm gì con chó canh địa ngục? Chỉ nghe nhắc đến, tôi đã rùng mình sợ hãi. Chắc bác Chiron muốn nghe tôi bảo: “Cháu không dùng đến cái móng tay. Nhằm nhò gì con cún mới mở răng mắt ấy. Ngữ nó ăn sáng chẳng bõ dính răng!”. Nhưng tôi không thích nói dối. - Cháu sợ nó lắm. Nếu bác không bắn nó, chắc cháu chết lâu rồi. - Trước khi xong việc, cháu sẽ gặp quái vật ghê gớm hơn thế nhiều. - Xong việc gì ạ ? - Tất nhiên là nhiệm vụ truy tìm trại sắp giao cho cháu. Cháu có nhận không? Tôi liếc trộm Grover, thấy nó ra dấu bảo đồng ý. - Nhưng bác chưa nói đó là việc gì ? Bác nhăn mặt: - Mô tả chi tiết bao giờ cũng là phần khó nhất. Sấm ì ầm vang dội khắp thung lũng. Mây dông tiến đến sát bờ cát. Mưa gió hoành hành cả trên trời lẫn ngoài biển. - Hai thần Poseidon và Dớt đang đánh nhau vì một vật có giá trị... một thứ bị mất cắp, phải không bác? Bác Chiron và Grover nhìn nhau. Bác nhoài người trên xe lăn: - Sao cháu biết? Tôi đỏ bừng mặt. Giá tôi ngậm chặt cái mồm hay nói linh tinh: - Từ Giáng sinh đến giờ, thời tiết thay đổi bất thường, cứ như trời và biển đang giao tranh vậy. Thế rồi trong lúc nói chuyện với Annabeth, cháu nghe bạn ấy nhắc đến kẻ trộm. Còn nữa, cháu nằm mơ mấy lần. Grover bảo: - Biết ngay mà. Bác Chiron bảo: - Yên nào, thần rừng. Mắt nó sáng lên phấn khích: - Nhưng đó là dấu hiệu cho thấy bác phải giao việc cho Percy. Không còn nghi ngờ gì nữa... Bác Chiron vuốt chòm râu thưa: - Chỉ Lời Sấm Truyền mới khẳng định được. Nhưng Percy nói đúng. Mấy trăm năm nay ta chưa thấy cha cháu và thần Dớt cãi nhau to như lần này. Nguyên do: Có báu vật bị đánh cắp. Đó là tia chớp. Tôi cười gượng: - Cái gì ạ ? Bác cảnh báo: - Đây không phải chuyện đùa. Vật này không phải đồ chơi trẻ con. Tia chớp là thanh đồng hình trụ dài hơn nửa mét có phép thuật ghê gớm và hai đầu có gắn thuốc nổ cực mạnh. - Ra thế. Bác Chiron tả chi tiết: - Báu vật bị mất là quyền trượng của thần Dớt. Nó tượng trưng cho sức mạnh của chúa tể các vị thần và là vật chủ. Mọi tia chớp khác đều từ nó mà ra. Các thần Cyclopes chế tạo nó như vũ khí đầu tiên trong cuộc chiến chống lại quân đội khổng lồ Titan. Chính tia chớp này đã bạt đỉnh núi Etna, hất Kronos khỏi ngai vàng. Tia chớp có sức công phá lớn đến độ so với nó, bom nguyên tử của người phàm chỉ là phao tép. - Nó bị mất hả bác? - Bị đánh cắp. - Ai lấy thế? - Cháu. Tôi há hốc miệng. Bác Chiron vội giơ tay trấn tĩnh: - Ít nhất thì thần Dớt cho là thế. Vào lễ Đông chí, trong buổi họp cuối năm của các thần, Dớt và Poseidon có cuộc tranh luận. Như mọi khi, nguyên nhân gây hấn rất vu vơ, đại loại như ai được yêu mến nhất, thảm họa trên không gây chú ý nhiều hơn thảm họa dưới biển... Mải cãi cọ nên phải đến khi tan họp, thần Dớt mới biết tia chớp không cánh mà bay. Kẻ trộm lấy nó ngay trong phòng đặt ngai vàng, ngay trước mũi ông ta. Thần Dớt lập tức chụp mũi rằng Poseidon lấy nó. Đúng là Luật nhà trời cấm các thần chiếm quyền trượng của nhau nhưng Dớt cho rằng cha cháu thuyết phục một á thần, hay còn gọi là anh hùng của loài người, làm việc ấy. - Nhưng cháu không... - Kiên nhẫn nghe cho hết đã. Thần Dớt có lý do để nghi ngờ. Vì lò rèn của các thần Cyclopes dưới đáy biển, Poseidon có chút uy lực với nhóm thợ sản xuất tia chớp cho anh trai. Dớt cho rằng Poseidon lấy vật chủ, bí mật lập kho đạn dược bằng cách lén sản xuất hàng loạt tia sét để chờ dịp lập đổ ngai vàng của Dớt. Điều Dớt chưa dám khẳng định là Poseidon xui anh hùng nào đi trộm báu vật. Đúng lúc đó, Poseidon công khai nhận cháu là con. Suốt dịp nghỉ đông, cháu ở New York nên dễ dàng lén lút đến đỉnh Olympia. Thế nên Dớt tin chắc thần có thể chỉ mặt vạch tên thủ phạm. - Nhưng cháu đã lên đỉnh Olympia bao giờ đâu! Dớt thật hàm hồ hết sức. Cả bác Chiron lẫn Grover sợ sệt nhìn lên trời. Mây không tản ra vùng ngoại vi thung lũng như Grover nói. Tầng mây đen kịt như nắp quan tài tiến thẳng về thung lũng, đe dọa che phủ bầu trời ngay trên đầu chúng tôi. Grover sợ chết khiếp: - Cái cậu này, chưa ai dám nhận xét vua bầu trời là hàm hồ đâu đấy. Bác Chiron gợi ý: - Lần sau, cháu hãy dùng từ kết luận vô căn cứ nhé. Để bác nói tiếp. Ngày xưa, có lần Poseidon định lật đổ Dớt nhưng không thành. Chắc cháu còn nhớ câu hỏi số ba mười tám trong kỳ thi cuối kỳ môn Latinh... Bác nhìn tôi chằm chằm, mong tôi nhớ câu hỏi số ba mươi tám nào đó, nhưng tôi không còn tâm trí đâu để nhớ. Sao có người bảo tôi trộm vũ khí của thần thánh được nhỉ? Đến lấy trộm mẩu bánh pizza trên xới bạc của dượng Gabe, tôi còn bị bắt quả tang nữa là. Tôi moi óc nhớ được một ít: - Hình như chuyện lưới vàng phải không ạ? Thần Poseidon liên kết với nữ thần Hera và mấy thần khác... Họ nhốt thần Dớt, bắt thần hứa sẽ thay đổi thành bậc quân vương đức độ rồi mới thả, đúng không? - Chính xác. Từ đó, Dớt không bao giờ tin Poseidon nữa. Tất nhiên, thần Poseidon không nhận tội trộm tia chớp. Cha cháu cực lực phản đối lời buộc tội ấy. Suốt mấy tháng trời họ cãi nhau không ngớt, ai cũng sợ sắp có binh biến. Sự hiện diện của cháu là giọt nước tràn ly. - Nhưng mới từng này tuổi đầu, sao cháu dám? Grover xen vào: - Percy à, nếu ở địa vị thần Dớt, người có định kiến là em trai định lật đổ mình, sau đó lại nghe tin em phá vỡ lời nguyền các đây mấy mươi năm... biết em mình có con với người trần và nghi em dùng đứa con ấy làm công cụ chốn đối mình... cậu có cảnh giác không? - Nhưng tớ có làm gì đâu. Chắc thần Poseidon, cha tớ... không sai người ăn cắp tia chớp đâu nhỉ? Bác Chiron thở dài: - Bất cứ ai biết suy xét đều đồng tình rằng Poseidon không có tính táy máy. Nhưng Vua Biển quá kiêu hãnh, không thèm thanh minh với Dớt. Vì thế, Dớt lệnh cho Poseidon phải trả báu vật trước ngày Hạ chí. Đó là ngày hai mươi mốt tháng Bảy. Từ nay đến đó chỉ còn mười ngày. Về phần mình, thần Poseidon cũng muốn đúng ngày Hạ chí, Dớt phải xin lỗi vì đã gán tội ăn cắp hèn hạ cho ông. Ta hy vọng tài ngoại giao sẽ cứu nguy thiên hạ: Hera, hay Demeter hay Hestia (Hestia: vị thần của bếp lửa, sự quây quần của mọi thành viên trong gia đình, sức khỏe gia đình và nội trợ... ) sẽ thuyết phục anh em họ nhìn ra lẽ phải. Nhưng sự xuất hiện của cháu như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Dớt nổi cơn thịnh nộ. Nếu ta không tìm tia chớp trả Dớt trước ngày Hạ chí, nhất định sẽ có chiến tranh. Chắc Percy cũng đoán được cuộc chiến này sẽ thế nào rồi chứ? - Tàn khốc lắm ạ? - Hãy tưởng tượng một thế giới hỗn loạn song hành chuỗi thảm họa thiên nhiên. Cư dân đỉnh Olympia bắt buộc, hoặc đứng về phía thần Dớt, hoặc ủng hộ Poseidon. Sẽ có hủy diệt, tắm máu, hàng triệu người chết... Thế giới văn minh phương Tây thành bãi chiến trường. So với nó, cuộc chiến thành Troy chỉ như trận đấu bóng nước. Tôi lẩm bẩm: - Ghê gớm quá! - Và Percy Jackson sẽ là mục tiêu trút giận đầu tiên của Dớt. Mưa rơi. Nhóm chơi bóng chuyền im bặt, kinh ngạc ngẩng mặt nhìn trời. Chính tôi reo rắc mưa bão lên Đồi Con Lai. Vì không ưa một mình tôi, Dớt trừng phạt cả trại hè. Nghĩ đến đây, tôi giận sôi lên. Tôi không thể chống mắt đứng nhìn. Tôi bảo: - Vậy cháu phải tìm tia chớp ngớ ngẩn đem trả cho Dớt ư? - Còn đề nghị hòa giải nào hay hơn việc con trai Poseidon trả báu vật cho Dớt? - Nếu bố cháu không lấy, giờ tia chớp đó ở đâu? Bác Chiron đăm chiêu: - Cái đó bác biết... đó là một đoạn trong lời sấm của ta cách đây mấy chục năm... Giờ ngẫm lại, bác thấy chí lý. Nhưng trước khi bác nói cháu hay, cháu phải chính thức nhận nhiệm vụ, sau đó nghe Nhà Tiên Tri phán bảo. - Sao bác không nói chỗ giấu tia chớp trước? - E rằng nghe xong, cháu sợ đến độ không dám đi nữa. Tôi nuốt khan: - Bác nói đúng. - Vậy nhận lời nhé? Thấy tôi quay sang nhìn, Grover gật lia lịa. Nó thì lo nỗi gì, Chúa tể các thần muốn lấy mạng tôi chứ có lấy mạng nó đâu. - Đồng ý. Thà nhận còn hơn bị biến thành cá heo. - Vậy đến gặp Nhà Tiên Tri luôn đi. Percy Jackson, hãy lên cầu thang, đến gác xép ấy. Nếu khi trở xuống cháu chưa phát điên, ta sẽ bàn tiếp. Cầu thang lên bốn tần lầu kết thúc trước cánh cửa sập từ trần nhà màu xanh lá. Tôi kéo sợi dây. Cửa hạ xuống, thang dây bằng gỗ lách cách hạ xuống. Không khí nực nội bên trong có mùi mốc, mùi gỗ mục và một mùi khó tả... mùi gợi nhớ môn sinh vật thực hành. Đó là mùi của loài bò sát, rắn rết. Tôi nhịn thở bám thang dây leo lên. Căn gác xép bừa bội đồ đạc hư hỏng của chiến binh Hy Lạp cổ: bộ giáp trụ vùi trong đống mạng nhện, vài cái khiên rỉ sét, mấy hòm xiểng lớn bằng da nhằng nhịt giấy dán những chữ như: Ithaka, Quần Đảo Vòng và Vùng Đất Của Các Nữ Vương. Một chiếc bàn dài xếp dầy hũ thủy tinh đựng đồ ngâm dấm: vài móng thú đầy lông, đống tròng mắt vàng khè, to như chén tống và nhiều bộ phận cơ thể của quái vật. Một chiếc cúp bám đầy bụi treo trên tường trông giống đầu rắn nhưng lại có sừng, miệng đầy răng cá mập. Tấm bảng đồng bên dưới đề: Đầu thứ nhất của Hydra, Woodstock, NY, 1969. Cánh cửa sổ, chễm chệ trên ghế đẩu gỗ có ba chân là vật lưu niệm đáng sợ nhất: một xác ướp. Không phải loại quấn vải kín từ đầu đến chân, nó là xác của một phụ nữ đã khô quắt. Người này mặc váy sặc sỡ, loang lổ và đeo rất nhiều chuỗi hạt. Mái tóc dài có ruy băng cột ngang đầu. Người này, nếu không phải da đỏ, chắc chắn là dân hippy. Chỉ có điều bà ta chết từ rất lâu rồi. Da mặt nhăn nheo bám trực tiếp vào xương. Hai hốc mắt trắng dã như thể mắt thật được thay bằng hai viên bi đá trắng. Nhìn bà ta, sống lưng tôi lạnh buốt. Nhưng thế vẫn chưa sợ bằng lúc cái xác đứng lên há miệng ra. Tôi luống cuống tìm cách chạy ra cửa, nhưng cửa khóa chặt. Màn sương màu xanh lá cây tuôn ra từ miệng xác ướp, uốn lượn trên sàn nhà trông như những tua vải mỏng. Tiếng rít chói tai như có hàng ngàn con rắn bò quanh. Có tiếng nói luồn thun thút vào tai, cuộn tròn quanh bộ não tôi: - Ta là linh hồn của Delphi, người phát ngôn mọi tiên đoán của thần tiên tri Apollo, là người triệt hạ Python hùng mạnh. Kẻ tìm lời giải cho số phận kia, hãy lại đây và hỏi ngay đi. Tôi chỉ muốn bảo: “Không, cảm ơn. Tôi đi vệ sinh nhưng vào lộn phòng” rồi chạy biến. Nhưng tôi tự bắt mình bình tâm lại. Xác ướp không sống lại. Có thứ gì đó đội lốt bà ta. Giờ sức mạnh của nó theo màn sương mỏng bao vây tôi. Dù thế, nó không độc ác. Sự hiện diện của nó không làm tôi có cảm giác như lúc ở bên cô Dodds quỷ quyệt hoặc khi đánh nhau với quỷ đầu bò. Cảm giác bây giờ giống lúc tôi thấy ba Nữ thần Báo Thù ngồi đan trước tiệm trái cây bên lề xa lộ: không phải người, cổ xưa và đầy quyền lực. Tuy nhiên, họ không có ý định lấy mạng tôi. Tôi cố gom hết can đảm: - Xin cho biết số phận của cháu? Màn sương dày đặc hơn, thu lại trước mắt tôi rồi đi vòng quanh mặt bàn bày hũ thủy tinh ngâm các bộ phận quái thú. Thốt nhiên, bốn người hiện ra quanh bàn. Họ đang chơi bài. Mặt họ rõ dần. Đó là Gabe Cóc Chết và bạn ông ta. Tôi nghiến răng, nắm chặt hai tay dù biết xơi bạc này không có thực, chỉ là ảo ảnh. Gabe quay sang tôi nói bằng giọng khàn khàn của Nhà Tiên Tri: - Ngươi sẽ đi theo hướng Tây, gặp vị thần tráo trở. Người ngồi bên phải nhìn lên cũng nói bằng giọng đó: - Ngươi sẽ tìm được vật bị đánh cắp và trả nguyên vẹn cho khổ chủ. Người ngồi bên trái ném hai quân bài ra giữa bàn: - Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn. Chú Eddie, quản lý chung cư phán câu cuối: - Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình. Bốn người vụt biến mất. Lúc đầu tôi quá kinh ngạc nên không nói được gì mãi đến lúc màn sương thu nhỏ, tuồn trở lại miệng xác ướp, tôi mới kêu lên: - Gượm đã! Người vừa nói gì? Ai tự xưng là bạn? Cháu không cứu được ai ? Đuôi con rắn nước biến mất trong miệng xác ướp. Bà ta lại ngồi dựa tường như khi nãy. Miệng xác ướp khép lại như thể cả trăm năm nay chưa động đậy. Gác xép lại im lặng, hoang vắng, chẳng có gì ngoài đống kỷ vật bụi bặm. Tôi biết dù có đứng lỳ đến khi mạng nhện chăng đầy người, tôi cũng chẳng biết gì hơn. Giờ lắng nghe Lời Sấm Truyền của tôi đã kết thúc. Bác Chiron hỏi: - Thế nào cháu? Tôi ngồi phịch xuống ghế trước bàn Ngài D. thường chơi bài: - Bà ấy bảo cháu sẽ lấy lại được vật bị mất cắp. Grover nhoài người, háo hức nghe, miệng rau ráu nhai vỏ lon nước ngọt: - Tuyệt quá. Bác Chiron gặng hỏi: - Nhắc lại nguyên văn Lời Sấm Truyền xem nào. Quan trọng lắm đấy. Tai tôi vẫn ù đặc: - Bà ấy... bảo cháu đi về hướng Tây, gặp vị thần tráo trở. Cháu sẽ lấy lại vật bị đánh cắp và trả lại nguyên vẹn cho khổ chủ. Grover bảo: - Tớ biết thừa. Bác Chiron vẫn chưa hài lòng: - Còn gì nữa? Tôi không muốn nói nốt. Bạn nào phản bội tôi? Bạn tôi đếm trên đầu ngón tay. Vậy mà ai nỡ... Câu cuối mới ghê: tôi không cứu được người quan trọng nhất của đời mình. Nhà Tiên Tri này thật lạ đời: giao nhiệm vụ, bắt tôi làm rồi bảo: “Tao nói trước. Thế nào mày cũng thất bại.” Tôi không thể thú nhận sẽ thất bại trước khi lên đường. Tôi bèn nói: - Hết rồi ạ. Bác nhìn tôi chăm chú: - Thế thì tốt. Nên nhớ Lời Sấm Truyền chỉ nước đôi. Đừng quá tin tưởng. Sự thật chỉ phơi bày sau khi mọi sự kết thúc. Tôi đoán bác Chiron biết tôi giấu tin xấu nên cố an ủi thế thôi. Tôi chỉ muốn nói sang chuyện khác: - Giờ cháu đi đâu? Thần nào ở phương Tây vậy bác? - Động não đi, Percy. Nếu hai thần Dớt và Poseidon tự suy kiệt vì chinh chiến, ai là kẻ đục nước béo cò? - Kẻ muốn chiếm ngai vàng. - Giỏi lắm. Người ấy ôm hận đã hàng tỷ năm, không bằng lòng với phần được chia sau lần rút thăm chia quyền cát cứ. Quyền lực của người ấy càng lúc càng mạnh bởi triệu triệu người chết đều gia nhập đội quân của ông ta. Một người căm ghét hai anh trai ép mình thề không được sinh thêm con cái trong lúc cả hai anh đều không giữ lời, đều lén sinh thêm con. Tôi nhớ những giấc mơ và giọng nói vang lên từ trong lòng đất: - Hades, thần cai quản địa ngục. Bác Chiron gật đầu: - Phải, Thần Chết đáng nghi nhất. Mảnh nhôm rơi từ miệng Grover: - Gượm đã! Bác mới nói gì? Bác Chiron nhắc: - Thế cháu không nhớ Nữ thần Báo Tử đuổi theo Percy à? Bà ta theo dõi Percy rất lâu. Sau khi biết số phận của nó, bà ta định giết luôn. Nữ thần Báo Thù chỉ thờ một chúa là Hades thôi. Grover phản đối: - Nhưng Hades vốn căm ghét tất cả các anh hùng. Nếu ông ta biết Percy là con thần Poseidon thì chết… - Thế cháu còn nhớ con chó địa ngục không? Giống ấy chỉ có dưới địa ngục và nhất định có người xấu trong trại gọi nó đến. Từ đó suy ra Hades cài gián điệp vào đây. Ông ta lường trước khả năng Poseidon nhờ con trai minh oan và muốn giết chàng con lai trẻ tuổi này trước khi cậu ta lên đường làm nhiệm vụ. Tôi lẩm bẩm: - Hay thật. Cả hai vị thần hùng mạnh nhất đều nhăm nhe giết cháu. Grover nuốt khan: - Nhưng biết tìm đâu… Giá tia chớp đó đang ở Maine nhỉ? Mùa này, thời tiết ở Maine dễ chịu lắm. Bác Chiron khẳng định: - Nhất định Hades sai tay chân ăn trộm tai chớp. Ông ta giấu nó dưới âm ty và biết thể nào Dớt cũng nghi oan cho Poseidon. Dù không biết chính xác động cơ của vua cai quản địa ngục và lý do ông ta gây nên cuộc chiến phi nghĩa sắp tới, nhưng ta dám chắc một điều. Percy phải xuống âm ty, tìm cho ra tia chớp và phơi bày sự thật ra ánh sáng. Bụng tôi thắt lại. Nhưng lạ nhất là tôi không sợ. Đó là cảm giác lo lắng pha lẫn sự nôn nóng trả thù. Tính đến nay, Hades đã ba lần định giết tôi bằng cách mượn tay Nữ thần Báo Thù, quỷ đầu bò và chó địa ngục. Chính ông ta làm mẹ tôi biến thành tia sáng vàng, giờ còn định gắp lửa bỏ tay người, đổ vấy trọng tội lên đầu cha con tôi. Nhất định tôi phải dạy cho ông ta biết phải quấy. Với lại, mẹ tôi đang ở dưới đó... Phần trí não sáng suốt của tôi lên tiếng: “Này này, cậu mới tí tuổi đầu. Nên nhớ Hades là thần đấy nhé.” Grover run như dẽ. Nó bắt đầu ăn bộ bài như ăn khoai tây bào mỏng chiên giòn. Cậu bạn tội nghiệp phải theo tôi hoàn thành nhiệm vụ lần này nếu muốn được công nhận là Người Trông Nom. Nhưng sao tôi có thể nhờ nó giúp làm nhiệm vụ nguy hiểm này, nhất là khi Lời Sấm Truyền bảo rốt cuộc tôi sẽ thất bại? Đi với tôi có khác nào tự sát. - Nếu biết rõ thủ phạm là Hades, sao ta không báo cho các thần khác? Thần Dớt hoặc thần Poseidon dư sức xuống địa ngục trừng trị vài kẻ xấu cơ mà. - Ta chỉ “nghi”, chưa “biết rõ”. Ngoài ra, nếu các thần nghi ngờ Hades, họ cũng không tự đi lấy tia chớp về được. Nếu không được mời, thần này không vào được lãnh thổ của thần kia. Đó là luật có từ thời khai thiên lập địa. Ngược lại, con lai có đặc quyền riêng. Họ được đi lại tự do, thách đấu với bất cứ ai, miễn là có can đảm và đầy đủ sức mạnh. Không thần nào dám đứng ra chịu trách nhiệm về hành vi của anh hùng, tức con lại. Theo cháu, sao các thần đều hành động thông qua người phàm? - Vì họ thích lợi dụng. - Bác không có ý đó. Bác chỉ muốn nói không phải ngẫu nhiên Poseidon chọn thời điểm này để nhận con, dù biết làm thế rất mạo hiểm. Nhưng ông quá tuyệt vọng, không còn cách nào khác. Ông đang cần cháu đấy. Cha cần ta. Cảm xúc trong tôi tựa kính vạn hoa xoay thật nhanh. Hờn dỗi, biết ơn, hạnh phúc và tức giận đan xen. Suốt mười hai năm qua, thần Poseidon coi như không có tôi trên đời. Bây giờ ông lại cần tôi giúp ngay lập tức. Tôi nhìn thẳng mắt bác Chiron: - Ngay từ đầu bác đã biết cháu là con thần Poseidon, đúng không? - Bác có lý do để đoán già đoán non. Lúc nãy bác đã nói... bác cũng từng nghe Lời Sấm Truyền. Biết bác Chiron giấu nhiều chi tiết của lời tiên đoán tương lai đã nghe lúc trước, nhưng tôi quyết định tạm gác chuyện đó lại. Nói cho cùng, chính tôi cũng không nói hết cơ mà. - Tóm lại, cháu sẽ phải xuống địa ngục gặp trực tiếp thần chết. - Cháu hiểu đúng rồi đấy. - Tìm vũ khí mạnh nhất khắp vũ trụ không đâu có. - Phải. - Phải xong việc trong mười ngày rồi trở lại đỉnh Olympia đúng hôm Hạ chí. - Đúng thế. Tôi quay sang Grover. Nó đang trợn mắt nuốt lá bài Át Rô. Xong xuôi, bạn tôi thều thào: - Tớ có nói với cậu thời tiết mùa này ở Maine dễ chịu chưa? - Cậu không muốn đi cũng không sao. Việc nguy hiểm thế, tớ không đòi cậu phải làm đâu. Nó sợ sệt đổi tư thế ngồi: - À, tớ không sợ nguy hiểm... chẳng qua thần rừng không hợp ở chốn âm ty... Nhưng... Nó lấy hết can đảm đứng dậy, phủi vụn bìa cứng và mảnh lon nhôm rơi trên áo thun: - Percy à, cậu đã cứu mạng tớ. Nếu cậu thực sự muốn tớ đi cùng, tớ sẽ không để cậu thất vọng. Tôi sung sướng đến độ nước mắt rưng rưng dù trong lòng biết con trai mà khóc không anh hùng gì cho lắm. Grover là người bạn duy nhất ở bên tôi lâu hơn vài ba tháng. Tôi không biết thần rừng có “bí kíp” gì khiến các thế lực cõi âm phải chùn tay hay không, nhưng biết có nó đi cùng, tôi vững dạ đôi chút. - Chúng mình sẽ luôn có nhau, Grover ạ. – Tôi quay sang bác Chiron. – Lời Sấm Truyền chỉ bảo nên đi hướng Tây. Cụ thể là đi đâu ạ? - Lối vào cõi âm luôn ở hướng Tây. Giống đỉnh Olympia, nó cũng chuyển địa điểm theo thời gian. Tất nhiên lúc này nó ở Mỹ. - Chính xác là chỗ nào? Bác Chiron có vẻ ngạc nhiên: - Ta tưởng ai cũng biết, đâu cần phải hỏi. Cửa ngõ địa ngục ở Los Angeles. - Ra vậy. Thế mà cháu không biết. Vậy tụi cháu sẽ ra sân bay... Grover thét lên: - Đừng! Cậu bị sao vậy? Từ bé đến giờ, cậu đã đi máy bay chưa mà nói? Tôi ngượng ngập lắc đầu. Mẹ chưa bao giờ cho tôi đi máy bay. Lý do luôn là nhà mình nghèo khó, không có tiền mua vé. Với lại, ông bà ngoại tôi mất vì tai nạn hàng không nên mẹ sợ. Bác Chiron giải thích: - Nghĩ một chút đi nào. Cháu là con Thần Biển, đối thủ đáng gờm nhất của Dớt, Thần Bầu trời. Người thận trọng như mẹ cháu không bao giờ phó mặc mạng con mình cho ngành hàng không đâu. Lên máy bay tức là cháu đến lãnh địa thần Dớt và không bao giờ còn sống đến lúc hạ cánh. Trên trời chớp rạch sáng lòe. Xa xa có tiếng sấm ì ầm vọng tới. Tôi quyết không nhìn lên đám mây dông: - Thì đi đường bộ vậy. - Nên thế. Hai người khác sẽ đi cùng cháu. Grover là một. Người kia xung phong từ trước, chỉ chờ cháu chấp nhận. Tôi giả vờ như không hay biết gì: - Ngạc nhiên chưa. Ai khờ đến độ xung phong làm chuyện này chứ? Không khí sau lưng bác Chiron lay động. Annabeth hiện ra. Lần này mũ lưỡi trai của đội bóng chày NY nhét trong túi quần sau. - Đồ óc đầy tảo biển kia, tớ chờ được giao việc từ lâu lắm rồi. Nữ thần Athena không sùng bái thần Poseidon nhưng nếu cậu quyết đi vì việc nghĩa, người giúp cậu không làm hỏng chuyện chính là tớ. - Quân sư quạt mo đã nói thế, chắc phải có diệu kế? Annabeth đỏ mặt: - Này, có muốn tớ giúp hay không vậy? Sự thật là: Tất nhiên tôi muốn. Phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ chứ. - Vững như kiềng ba chân, đúng chưa nào? Số ba là số đẹp đấy. Bác Chiron bảo: - Tốt quá rồi. Chiều này, ta đưa các cháu đến bến xe buýt ở Manhattan. Sau đó, ba đứa tự lo cho nhau nhé. Chớp lại lóe sáng. Lát sau, mưa như thác đổ xuống cánh đồng cỏ chưa bao giờ biết thời tiết xấu là gì. Bác Chiron nói nhanh: - Đừng chần chừ phí thời gian. Các cháu về chuẩn bị hành lý đi thôi. 10. Tôi phá hỏng chiếc xe buýt cực tốt Việc thu xếp hành trang của tôi chẳng lâu la gì. Grover tìm ba lô cho tôi. Quyết định để sừng quỷ đầu bò ở nhà, tôi chỉ việc nhét thêm một bộ quần áo để thay đổi và bàn chải đánh răng vào đó là xong. Cửa hàng của trại hè cho tôi vay một trăm đô la tiền thường và hai mươi đồng tiền vàng drachma. Tiền này to bằng bánh bích qui, một mặt dập nổi hình các vị thần, mặt kia là tòa nhà Empire State. Bác Chiron bảo để tiện thanh toán trong những giao dịch không thuộc thế giới phàm trần. Tôi chẳng hiểu kiểu giao dịch gì lạ vậy. Bác đưa tôi và Annabeth mỗi người một bình rượu thần và một bịch lớn bánh hình vuông và dặn chỉ dùng trong trường hợp cấp cứu, tức là có ai trong chúng tôi bị thương nặng. Bác dặn đi dặn lại phải dùng cẩn thận vì là thức ăn của thần thánh. Hễ con lai bị thương, ăn uống hai thứ đó sẽ khỏi. Nhưng người trần ăn sẽ chết ngay. Con lai nếu ăn quá nhiều cũng ốm sốt. Dùng quá liều lượng, chúng tôi sẽ cháy ruột cháy gan, hiểu theo nghĩa đen. Annabeth mang theo nón lưỡi trai thần mẹ bạn ấy tặng con gái nhân sinh nhật lần thứ mười hai. Ngoài ra, bạn ấy còn mang cuốn sách kiến trúc bằng tiếng Hy Lạp cổ để đọc khi buồn chán và giấu trong ống tay áo con dao dài bằng đồng. Tôi chỉ ngại máy dò kim loại ngoài bến xe phát hiện và đuổi cổ cả ba. Grover đeo bàn chân giả, mặc quần dài cho giống người trần và đội nón tròn không vành nhỏ xíu che chỏm đầu. Sở dĩ như vậy vì mỗi khi đi mưa, tóc bết xuống sẽ để lộ cặp sừng bé. Ba lô màu cam của Grover đựng đầy mẩu kim loại và táo để ăn vặt cho đỡ buồn miệng. Grover dắt túi áo bộ sáo bằng ống sậy do cha nó tự tay đẽo. Tuy nhiên, nó chỉ biết chơi hai bài: bản Concerto thứ mười hai của Mozart và “Dã Từ Dĩ Vãng” của Hilary Duff. Cả hai đều không hợp với nhạc cụ sáo. Vẫy tay chào tạm biệt mọi người, ngắm bãi dâu, biển cả và Nhà Lớn lần cuối, chúng tôi nhắm cây thông vốn là Thalia, con gái thần Dớt, trên đỉnh đồi Con Lai thẳng tiến. Bác Chiron ngồi xe lăn đợi sẵn. Cạnh bác là anh chàng dáng thể thao tôi từng gặp khi nằm ở phòng bệnh. Grover bảo anh ta là trưởng ban an ninh của trại hè. Anh ta cần có mắt khắp cơ thể để không có gì làm anh ta bất ngờ. Tuy nhiên, hôm nay anh ta mặc quần áo của tài xế nên tôi chỉ thấy mắt trên mu bàn tay, mặt và cổ anh ta. Bác Chiron giới thiệu với tôi: - Argus đây sẽ lái xe đưa các cháu vào thành phố, đồng thời để mắt đến mọi thứ. Chợt có tiếng chân tiến đến gần. Luke cầm đôi giày thể thao chạy lên đồi. Anh thở dốc: - May anh đuổi kịp mấy đứa. Mỗi khi đứng gần Luke, Annabeth lại đỏ mặt. Lần này cũng thế. Luke quay sang tôi: - Anh chỉ muốn chúc các em may mắn. Anh định… em cầm cái này xài đỡ. Anh trao cho tôi đôi giày trông không có gì khác thường. Thậm chí nó cũng bốc mùi như mọi đôi giày cũ khác. Luke kêu lên: - Maia! Cặp cánh chim trắng mọc ra từ gót giày. Tôi giật bắn mình buông tay. Đôi giày bay là là mặt đất một vòng, sau đó cánh cụp lại, biến mất. Grover reo: - Thích quá. Luke tủm tỉm: - Cái này đã giúp anh rất nhiều hồi anh truy tìm quái vật. Quà của cha anh. Chắc em cũng biết hồi này anh có dùng đến nó mấy đâu... Anh chợt buồn hiu. Tôi xúc động không nói lên lời. Luke tình cảm thật, còn đến dã biệt chúng tôi. Mấy ngày gần đây, tôi chỉ ngại anh chạnh lòng vì dù tôi không cố ý, mọi người vẫn để ý đến tôi thay vì tập trung vào anh như trước. Nhưng nhìn xem, anh còn tặng tôi quà quý... Nghĩ đến đây, mặt tôi đỏ không kém mặt Annabeth. - Percy này, bao hy vọng dồn cả vào chú đấy. Vậy nên... chú ráng hạ đo ván vài tên quái vật cho anh, nhớ chưa? Anh bắt tay tôi, xoa mảnh đầu giữa hai sừng của Grover và ôm hôm tạm biệt Annabeth làm cô bé suýt ngất vì sung sướng. Luke đi rồi, tôi bảo Annabeth: - Trông cậu thở ghê chưa kìa. - Tớ đâu có. - Hôm thứ Sáu, cậu nhường cho anh ấy đi giành cờ phải không? - Này Percy, tớ hết chịu nổi cậu rồi đấy. Annabeth vùng vằng xuống chân đồi, chỗ có chiếc SUV trắng đậu bên lề đường. Anh Argus vung vẩy chùm chìa khóa theo sau tôi. Tôi cúi xuống nhặt đôi giày bay, đột nhiên tôi cảm nhận có một điều gì đó thật xấu sắp xảy đến. Tôi nhìn và hỏi bác Chiron: - Cháu không thể sử dụng nó đúng không ạ? Bác ấy lắc đầu bảo: - Luke có ý tốt. Nhưng nói về bầu trời... Đối với cháu mà nói sử dụng nó chẳng khôn ngoan chút nào. Tôi thất vọng nhưng phải công nhận rằng bác ấy nói đúng. Chợt tôi nảy ra một ý: - Grover này, cậu thích giày có phép màu không? Mắt nó sáng rỡ: - Cho tớ à? Chúng tôi bèn xỏ ngày giày vào chân nó. Chuyến bay đầu tiên của anh chàng người dê sắp bắt đầu. Grover hô: - Maia! Lúc cất cánh không hề hấn gì, nhưng chỉ lát sau nó lật nghiêng, ba lô trên vai trượt dài trên cỏ. Hai cặp cánh bé xíu cứ chồm lên nhào xuống như con ngựa bất kham. Bác Chiron nói với theo: - Phải luyện tập. Cháu cần tập ít bữa mới thành thao được. - Ahhhhhh!... Grover bay nghiêng xuống đồi tiến về chiếc xe trông như máy cắt cỏ bị ma nhập. Tôi định chạy theo nhưng bác Chiron đã kéo tay lôi lại. - Nếu có thời gian, bác sẽ huấn luyện kỹ cho cháu, Hercules và Jason đều tập tành rất lâu. - Không sao đâu ạ. Cháu chỉ ước… Tôi im bặt, biết mình vừa suy nghĩ như đứa con hay vòi vĩnh. Tôi ước cha cho tôi một vật màu nhiệm có thể giúp tôi thực hiện nhiệm vụ này: một món đồ hữu dụng như giày biết bay của Luke hay mũ tàng hình của Annabeth. Bác Chiron kêu lên: - Bác đang nghĩ vớ vẩn gì vậy nhỉ? Bác không thể để cháu đi mà thiếu vật này được. Ông lấy cây viết bi trong túi áo đưa cho tôi. Nó bình thường giống cây viết dùng một lần rồi bỏ: mực đen, có nắp đậy giá khoảng ba mươi xu. - À… ừm. Cảm ơn ạ. - Đó là quà của cha cháu, bác giữ lâu lắm rồi. Lúc đó bác không biết người bác chờ đợi là cháu. Nhưng giờ bác đã hiểu trọn vẹn Lời Sấm Truyền. Cháu chính là nhân vật đặc biệt Nhà Tiên Tri nói tới. Nhớ trong chuyến thăm quan Viện Bảo tàng Metropolitan, trước khi cô giáo bốc hơi trước mặt tôi, bác Chiron có ném cho tôi cây viết, sau đó nó biến thành thanh kiếm. Liệu có phải… Tôi mở nắp. Cây bút dài ra, nặng trĩu. Chưa đầy nửa giây sau, trong tay tôi là thanh kiếm đồng sáng loáng hai lưỡi đều sắc ngọt. Chuôi kiếm bằng da có cẩn vàng ròng trang trí. Lần đầu tiên có thanh kiếm vừa tay tôi như vậy. Bác Chiron bảo: - Có một lịch sử dài bi tráng gắn liền với cây kiếm này. Nhưng thôi, cháu không cần biết làm gì. Tên nó là Anaklusmos. Tôi dịch ngay: - Nghĩa là Thủy Triều. Chính tôi cũng ngạc nhiên vì vốn tiếng Hy Lạp cổ của mình. - Khi nào cần lắm hẵng dùng. Kiếm chỉ tác dụng với quái vật. Tất nhiên anh hùng không nên hại người phàm nếu không thật cần thiết. Nhưng kiếm này đặc biệt, nó không hại người trần trong mọi trường hợp. Tôi nhìn lưỡi kiếm sắc chắc chắn chém sắt như chém bùn: - Kiếm sắc thế này sao nó không làm người phàm bị thương được? - Đây là kiếm thần. Sản phẩm từ chính tay người Cyclopes, được tôi trong lòng núi Etna rồi nhúng xuống sông Lethe. Với nó, cháu có thể giết được quái vật hay bất kỳ cơ thể sống nào dưới địa ngục, miễn là chúng chưa kịp ra tay trước. Nhưng lưỡi kiếm chỉ lướt qua cơ thể người phàm như ảo ảnh. Lý do đơn giản là người phàm quá chất phác nên thanh kiếm không giết. Ta nhắc cháu nhớ một điều: Vì là á thần nên cả vũ khí nhà trời lẫn phàm trần đều lấy mạng cháu được. Cho nên cháu phải cẩn thận gấp đôi. - Cảm ơn bác nhắc nhở. - Thôi đậy nắp bút lại đi. Vừa chạm nắp bút, thanh kiếm rút lại thành bút như cũ. Tôi ngại ngần cất bút vào túi áo. Chả là hồi đi học, tôi chúa hay đánh mất bút. - Không có chuyện đó đâu. - Chuyện gì cơ? - Bút này không mất được. Nó có bùa chú nên sẽ trở về túi cháu. Cháu thử đi. Bụng chỉ sợ mất bút quý nhưng tôi cũng thử ném xuống chân đồi. Bút lẩn ngay vào đám cỏ. - Đợi chút đi. Giờ lục túi xem có chưa. Đúng là cây bút có trong túi tôi thật. Tôi thú nhận: - Công nhận bút cực kỳ lợi hại. Như nhỡ người phàm nhìn thấy thì sao ạ? Bác mỉm cười: - Đã có Màn Sương, đừng lo. - Bác nói sao, cháu chưa hiểu. - Trong sử thi Iliad nói rất nhiều về nó. Mỗi khi vật hay thần thánh trà trộn trong thế giới người phàm, họ tạo ra Màn Sương để người phàm không nhận ra. Dù cùng nhìn một sự vật hiện tượng, người phàm nhận thức khác hẳn á thần như cháu. Người phàm chỉ loanh quanh trong cái thực tại bị hạn chế bởi nhận thức của họ. Tôi cất Thủy Triều vào túi. Đến lúc này, tôi mới hiểu hết việc mình sắp làm. Tôi sắp rời Trại Con Lai thật rồi. Cắm cúi nhằm phương Tây thẳng tiến, tôi không thể dựa dẫm vào ai vì không có người lớn giám sát, không kế hoạch cứu viện, thậm chí điện thoại di động cũng không (bác Chiron bảo quái vật sẽ lần theo sóng điện thoại di động để tìm ra tôi. Dùng điện thoại di động chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”). Để xua đuổi quái vật nhằm đến được Địa ngục, tôi chẳng có thứ gì khác ngoài thanh kiếm dắt trong người. - Bác Chiron này... nếu nói các thần bất tử, có nghĩa lịch sử hình thành trước khi có học, phải không ạ? - Thực ra trước họ có bốn kỷ nguyên. Thời của người khổng lồ Titan là kỷ nguyên thứ tư. Có người nhầm gọi đó là Thời kỳ Hoàng kim. Thời ta đang sống trong nền Văn minh phương Tây dưới sự trị vì của thần Dớt là kỷ nguyên thứ năm. - Vậy trước khi có các thần... thế nào ạ? Bác Chiron mím môi: - Dù hồi đó chưa ra đời, bác cũng biết người phàm sống trong u tối và man rợ. Kronos, chúa tể các Titan gọi thời ông trị vì là Thời kỳ Hoàng kim bởi con người vô tư, không cần tri thức. Nhưng đó chỉ là luận điệu tuyên truyền. Vua của người khổng lồ không hề quan tâm đến loài người trừ khi ông ta cần họ làm món khai vị hoặc cần giải trí. Chỉ khi Dớt lên nắm quyền và người khổng lồ nhân hậu là Prometheus mang lửa cho loài người, giống loài của cháu mới tiến bộ. Tuy nhiên sau đó Prometheus bị thần Dớt trừng phạt nặng. Theo thời gian, các thần mới thương yêu loài người. Nhờ đó mới có nền Văn minh phương Tây. - Nhưng các thần không chết. Khi nào nền Văn minh phương Tây còn, các thần cũng còn tồn tại. Thế nên... nếu chẳng may cháu thất bại cũng không phương hại gì lắm, đúng không ạ? Bác Chiron nhìn tôi cười buồn: - Không ai biết Kỷ nguyên của phương Tây kết thúc khi nào. Thần bất tử, khổng lồ Titan cũng sống mãi. Hiện chúng vẫn tồn tại dù phải chui nhủi trong tù ngục, mãi chịu đau đớn và trừng phạt. Chúng suy yếu nhưng chưa chết hẳn. Lạy trời đừng để các thần chịu số phận tàn khốc như bọn Titan bây giờ. Nếu không chúng ta sẽ lại sống cảnh tối tăm và hỗn mang như trong quá khứ. Cháu ạ, ta chỉ có thể tuân theo số phận thôi. - Số phận ư... giá biết số phận đưa ta đến đâu thì hay biết mấy. - Bình tĩnh nào. Giữ cho đầu óc sáng suốt, tỉnh táo. Hãy nhớ cháu sắp ngăn chặn cuộc chiến tranh lớn chưa từng thấy của nhân loại đấy. - Bác nói thế, cháu bình tĩnh sao nổi. Đến chân đồi, tôi quay đầu nhìn lại. Dưới gốc cây thông từng là Thalia, con gái thần Dớt, bác Chiron hiện nguyên hình nhân mã, tay giơ cao cây cung chào tạm biệt. Đúng là nghi lễ tiễn đưa kiểu mẫu của thầy giáo nhân mã. Argus lái xe đưa chúng tôi qua vùng quê thanh bình tiến vào khu vực phía tây Long Island. Dù bên cạnh có Annabeth và Grover trông bình thường như bạn đi chung xe khác, tôi vẫn thấy lạ lẫm khi ra đến đường cái. Sau hai tuần ở Trại Con Lai, tôi đi giữa thế giới thực mà tưởng mình nằm mơ. Tôi trố mắt ngắm nghía từ cửa hàng thức ăn nhanh McDonald’s, từ em bé ngồi sau xe cha mẹ, đến mọi biển quảng cáo từ khu mua sắm. Tôi bảo Annabeth: - Chưa thấy gì, cậu nhỉ? Đi hơn mười dặm vẫn chưa gặp quái vật nào. Nó khó chịu nhìn tôi: - Đúng là óc tảo biển. Nói thế xui xẻo lắm đấy. - Làm ơn nhắc lại giùm. Sao cậu ghét tớ thế? - Đâu ai ghét bỏ gì cậu đâu. - Lại chối rồi. Annabeth cuộn mũ lưỡi trai trong tay: - Nghe này… Đúng ra ta không nên đi với nhau. Cha cậu với mẹ tớ là địch thủ mà. - Nhưng vì sao mới được? Cô bạn chán nản: - Cậu muốn bao nhiêu lý do, tớ có đủ bấy nhiêu. Một là, mẹ tớ từng bắt gặp thần Poseidon đưa người tình vào đền Athena. Hành động như thế cực kỳ thiếu tôn trọng. Hai là, mẹ tớ và cha cậu từng tỉ thí, ai thắng sẽ là thần bảo trợ cho thành Athen. Cha cậu tặng dân chúng suối nước biển ngu ngốc, mẹ tớ tặng cây ôliu. Người ta thích quà của mẹ tớ hơn nên họ lấy tên bà đặt cho thành phố. - Chẳng qua họ thích cây ôliu thôi. - Thôi, bỏ đi. - Nếu mẹ cậu hóa phép ra bánh pizza, tớ ủng hộ liền. - Đã bảo không nói nữa cơ mà. Ngồi sau vô lăng, anh Argus cười toe toét. Anh không nói gì, nhưng một con mắt xanh lơ mọc sau gáy anh nhìn tôi nhấp nháy. Đến khu Queens, đường đông khiến xe chạy chậm. Mãi đến hoàng hôn, xe mới vào địa phận Manhattan. Trời bắt đâu mưa. Anh Argus dừng xe trước bến xe buýt Greyhound ở khu thượng Manhattan, gần căn hộ của mẹ tôi và dượng Gabe. Tờ bướm ẩm ướt dán trên thùng thư có in hình tôi và dòng chữ: BẠN CÓ THẤY CẬU BÉ NÀY ĐÂU KHÔNG? Tôi nhanh tay xé nó đi trước khi Annabeth và Grover để ý đến. Xách hành lý xuống, đứng xem chúng tôi mua vé xong, anh Argus đánh xe về. Lúc đưa xe khỏi bãi đậu, con mắt trên mu bàn tay anh còn mở to nhìn chúng tôi. Nhà tôi ngay gần đây. Nếu như mọi khi, mẹ tôi đi làm về rồi. Ngay lúc này đây, có lẽ Gabe Cóc Chết đang chơi bài và chưa chắc đã nhớ đến bà. Grover đeo ba lô lên vai. Nó nhìn theo hướng tôi đang nhìn: - Thắc mắc lý do mẹ cậu lấy ông Gabe chứ gì? Tôi ngạc nhiên nhìn nó: - Cậu biết đọc suy nghĩ người khác à? Nó nhún vai: - Tớ chỉ biết đọc cảm xúc thôi. Chắc tớ quên chưa thông báo với cậu rằng thần rừng có tài đó. Cậu đang nghĩ về mẹ và cha dượng, đúng không? Tôi gật đầu tự hỏi Grover còn quên kể với tôi những gì nữa. - Vì cậu, bà mới lấy ông Gabe. Cậu vô tình gán tên Gabe Cóc Chết cho ông ta nhưng không hiểu cái gì cũng có nguyên do của nó. Ông ấy hôi thật... rùng cả mình. Đứng đây tớ còn ngửi thấy nữa là. Dù cậu không ở bên ông ta cả tuần, tớ vẫn ngửi thấy mùi của ông ta ám trên người cậu. - Cám ơn lời nhắc nhở. Cảm phiền chỉ giùm nhà tắm công cộng gần nhất. - Cậu nên biết ơn vì điều đó. Cha dượng cậu hôi đến lợm giọng, đủ ngụy trang cho mọi á thần. Chỉ cần ngửi mùi hôi của ông ta trong chiếc Camaro, tớ biết nhờ ông ấy nên cậu không bị phát hiện. Nếu mỗi mùa hè, cậu không ở cạnh ông ta, chắc chắn quái vật lần ra cậu lâu rồi. Mẹ cậu ở với ông ấy để bảo vệ con trai. Bà ấy cực kỳ khôn ngoan đấy. Huy vọng cậu vui khi biết mẹ hẳn yêu mình lắm nên mới ngậm bò hòn làm ngọt sống chung nhà với ông ấy. Tôi không vui, nhưng cố ngăn cảm xúc lộ ngoài mặt. Tôi nghĩ thầm: “Mẹ chưa chết. Mẹ và con sẽ còn gặp nhau.” Cảm xúc tôi lẫn lộn thế, không biết Grover còn đoán được không. Tuy vui vì có hai bạn đi cùng, nhưng tôi biết mình có tội vì không thẳng thắn với họ. Tôi đã không nói thật lý do chính khi nhận nhiệm vụ khó khăn này. Sự thật là tôi không quan tâm đến tia chớp của thần Dớt hay cứu thế giới hoặc thậm chí giúp cha trong lúc khó khăn. Càng nghĩ tôi càng giận cha vì ông chưa bao giờ nhìn mặt con, hay giúp mẹ tôi, hay thực hiện trách nhiệm tài chính bằng cách gửi tiền đóng góp nuôi con. Ông chỉ nhận tôi là con khi cần người giúp việc cho mình. Tôi chỉ quan tâm đến mẹ mà thôi. Nếu Hades không biết phải trái, cố tình bắt mẹ tôi, ông ta phải trả mẹ cho tôi. Lời Sấm Truyền văng vẳng bên tai: Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn. Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình. Tôi thầm ra lệnh: “Câm đi.” Mưa vẫn rơi như trút. Sốt ruột chờ xe chạy, chúng tôi lấy mấy quả táo của Grover chơi tung hứng. Annabeth khéo không thể tả. Bạn ấy có thể dùng đầu gối, khuỷu tay, vai,... hất táo lên cao. Tôi chơi cũng không tồi. Trò chơi kết thúc khi tôi ném trái táo về phía Grover. Nó bay đến miệng cậu ta. Chỉ một cái há miệng thật to của Grover, trái táo biến mất, cả cuống lẫn lõi đều không còn. Grover đỏ mặt tính xin lỗi nhưng tôi và Annabeth mải cãi nhau nên không để ý. Cuối cùng, xe buýt trờ tới. Lúc xếp hàng lên xe, Grover nhìn quanh hít hà. Tôi hỏi: - Sao thế? Nó căng thẳng: - Tớ không biết. Chắc chẳng có gì đâu. Nhưng tôi thấy bất an nên cũng ngoái cổ nhìn. Cuối cùng, lên được xe, tìm được chỗ ngồi phía dưới, tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi lúi húi cất đồ đạc lên giá hành lý. Annabeth bồn chồn vỗ vỗ lưỡi trai của mũ lên đùi. Khi mấy hành khách cuối cùng lên xe, cô bạn bấu chặt đầu gối tôi: - Percy, trông kìa. Bà già vừa lên xe mặc váy nhung nhàu nhĩ, đeo găng tay viền đăng ten, xách túi in hoa, đội sùm sụp mũ len màu cam đan lạ kiểu che gần hết khuôn mặt. Lúc bà ta ngẩng mặt lên, cặp mắt đen lóe sáng khiến tôi hoảng sợ. Chính là cô Dodds, tuy già hơn, nhăn nheo hơn nhưng khuôn mặt độc ác đó tôi không sao nhầm được. Tôi ngây mặt như bị thôi miên trên ghế. Lên sau bà ta còn hai bà nữa, người đội mũ xanh lá cây, người kia mũ tím. Họ giống hệt cô Dodds: tay xương xẩu, đeo túi hoa, mặc váy nhung nhàu nát. Chính là bộ ba Nữ thần Báo Thù độc ác. Ba bà ngồi hàng đầu, ngay sau bác tài. Hai người ngồi hai bên lối đi duỗi thẳng chân ra giữa đường làm thành chữ X. Thoạt trông giống họ duỗi chân cho đỡ mỏi, nhưng tôi hiểu họ muốn nói: “Đừng hòng ra khỏi đây.” Xe rời bến, lăn bánh trên những con phố mưa trơn của Manhattan. Tôi cố giữ để giọng không bị run: - Cô Dodds hồi phục nhanh quá. Sao cậu bảo nằm liệt cả đời? Annabeth cãi: - Tớ có nói nếu cậu gặp may. Nhìn họ đủ biết cậu không gặp may rồi. Grover rên rỉ: - Gặp ba bà một lúc thì mình chết chắc. Annabeth suy nghĩ rất lung: - Đừng lo. Nữ thần Báo Thù, ba quái vật kinh khiếp nhất địa ngục. Không sao. Không sao. Ta cứ chui ra cửa sổ là xong. Grover nhăn nhó: - Cửa không mở. - Hay cửa hậu vậy? Xe không có cửa hậu. Thậm chí nếu có, chúng tôi cũng không thoát được. Đúng lúc đó, xe chạy qua đại lộ số Chín, sắp vào đường hầm Lincoln. - Họ sẽ không tấn công trước mặt mọi hành khách trên xe. Annabeth nhắc: - Mắt người phàm không tinh. Não họ chỉ xử lý thông tin căn cứ những gì thấy qua Màn Sương mà thôi. - Nhưng nếu ba người kia giết chúng mình, họ cũng phải thấy chứ. Annabeth trầm ngâm: - Khó nói lắm. Nhưng ta không nên trông cậy người phàm giúp đỡ. Biết đâu có lối thoát hiểm trên trần xe. Đến đường hầm Lincoln, trong xe tối sầm, chỉ còn đèn phía trên lối đi. Tự nhiên, tiếng mưa rơi im bặt. Cô Dodds đứng dậy. Bằng giọng đều đều như tập từ trước, cô nói với mọi người trong xe: - Tôi phải đi vệ sinh. Bà thứ hai lên tiếng: - Tôi cũng vậy. Bà thứ ba nói theo: - Tôi cũng vậy. Họ theo nhau lần theo lối đi. Annabeth bảo: - Để đó cho tớ. Percy, đội nón của tớ vào. - Cái gì? - Chỉ mình cậu là mục tiêu của họ. Tàng hình rồi theo lối đi lên đầu xe. Cứ mặc họ đi xuyên qua cậu. Biết đâu cậu lên được cửa trên và đi thoát. - Nhưng con hai cậu thì sao? - Rất có thể họ không nhận ra bọn tớ. Nhưng cậu là con của một người trong Bộ Tam Vĩ Đại. Mùi của cậu át hết mùi bọn tớ. - Tớ không bỏ bạn như thế được. Grover bảo: - Đừng lo cho tụi tớ. Đi ngay đi! Tay tôi run bần bật, thấy mình hèn nhát quá. Nhưng tôi vẫn cầm mũ đội lên đầu. Khi nhìn xuống, tôi không thấy người mình đâu nữa. Tôi lò dò đi lên. Sau khi qua được mười hàng ghế, tôi ghé ngồi ghế trống đúng lúc ba Nữ thần Báo Thù đi qua. Cô Dodds dừng lại, hít hít và nhìn thẳng vào tôi. Tim tôi đập loạn xạ. Rõ ràng bà ta không thấy gì. Bà ta và hai người em của mình tiếp tục đi. Không bị phát hiện, tôi đi tiếp lên đầu xe. Xe sắp ra khỏi đường hầm Lincoln. Tôi sắp nhấn núi “Dừng xe khẩn cấp” thì nghe tiếng hét rợn người sau lưng. Ba người kia không còn là ba bà lão già nua nữa. Mặt họ giữ nguyên (chắc không thể xấu hơn được) nhưng toàn thân họ đổi thành màu nâu, da dày lên và mọc cánh dơi. Bàn tay bàn chân họ mọc vuốt như thú dữ. Ba túi xách biến thành ba roi da bốc lửa. Ba Nữ thần Báo Thù vây quanh Grover và Annabeth, vừa quật roi vun vút vừa rít lên: - Nó đâu rồi? Vật đó đâu? Hành khách trên xe thét lên, co rúm trên ghế. Đúng là họ có nhìn thấy chuyện bất thường. Annabeth hét lên: - Cậu ấy không có ở đây. Đi mất rồi. Ba nữ yêu quái mình người cánh dơi giơ roi lên. Annabeth rút dao bằng đồng, còn Grover vơ can nhôm trong túi chuẩn bị ném. Điều tôi làm tiếp theo thật khá bốc đồng và nguy hiểm đến độ đáng được có mặt trên áp phích vinh danh trẻ em hiếu động của năm. Bác tài mất tập trung. Ông nhìn gương chiếu hậu trong xe cố xem chuyện gì. Vẫn tàng hình, tôi nắm vô lăng trong tay ông giật mạnh sang trái. Mọi người kêu la, nghiêng hết sang phải. Tôi hy vọng tiếng vừa nghe thấy chứng tỏ ba Nữ thần Báo Thù vừa va mạnh vào cửa sổ. Bác tài hét lên: - Ấy chớ! Đừng. Trời ơi. Chúng tôi giành nhau vô lăng. Sườn xe va mạnh vào tường trong đường hầm, tia lửa bắn tung tóe cả dặm sau xe. Xe lao nhanh khỏi đường hầm, trở lại màn mưa tầm tã. Người và yêu quái bị quăng quật trong xe. Xe hơi chạy dạt sang hai bên lề đường. Không hiểu bằng cách nào, bác tài tìm được đường thoát cho xe. Xe buýt lao vút trên xa lộ, vượt qua năm sáu ngã tư, cuối cùng lăn bánh trên đường đất vùng nông thôn New Jersey. Không ai tin ngay cạnh New York có loại đường vừa bé vừa lổn nhổn như vậy. Bên trái đường là rừng, bên phải là sông Hudson. Lúc này, hình như bác tài đang mất tay lái khiến xe gần lao xuống sông. Tôi có thêm sáng kiến mới: Kéo thắng dành riêng cho trường hợp khẩn cấp. Xe buýt rít lên, xoay tròn giữa mặt đường nhựa ướt rượt và tông vào gốc cây. Đèn cấp cứu chớp nháy liên tục. Cửa xe bật mở. Bác tài chạy khỏi xe đầu tiên, hành khách cũng chen lấn nhau ra cửa. Tôi nép sau lưng ghế tài xế cho họ ra hết. Ba Nữ thần Báo Thù hoàn hồn. Họ quật roi về phía Annabeth lúc bạn tôi rút dao hét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ, ra lệnh cho họ lùi lại. Grover ném lon rỗng lia lịa. Có lối ra trống trải cho tôi dư sức chạy thoát. Nhưng tôi không bỏ bạn bè. Tôi cởi mũ tàng hình: - Này! Ba Nữ thần Báo Thù quay lại, nhe nanh đe dọa. Lúc này, chạy ra cửa xe là thượng sách. Cô Dodds lom khom đi giữa lối đi, giống hệt lúc đến bên trao bài kiểm tra điểm F cho tôi. Mỗi khi bà ta vụt roi, lửa lại phụt từ dải dây da có gai lởm chởm. Hai người em xấu xí của bà ta nhảy cóc trên hai dãy ghế hai bên, bò về phía tôi như hai con thằn lằn khổng lồ gớm guốc. Cô Dodds nói giọng lè nhè của người miền nam, vùng nào đó phía dưới bang Georgia: - Perseus Jackson. Ngươi đắc tội với các thần. Ngươi phải chết. - Trông bà ghê quá. Sao, hồi này hết dạy toán rồi à? Bà ta gầm lên. Annabeth và Grover rón rén theo sau ba Nữ thần Báo Thù tìm lối ra. Annabeth cầm dao đi trước nhưng tôi không để bạn ấy làm cái việc đáng lý tôi phải làm. Tôi rút bút bi trong túi áo và mở nắp. Thủy Triều vươn dài thành thanh kiếm hai lưỡi sáng loáng. Bà yêu quái khựng lại. Cô Dodds từng nếm trải mùi lợi hại của Thủy Triều nên không thích lần “tái ngộ” này. Mụ rít lên: - Nộp ngay ra đây. Nếu không, ngươi sẽ bị hành hạ đến muôn đời. Tôi khích bác: - Ta không sợ đâu. Annabeth thét: - Percy, coi chừng! Cô Dodds vung roi quấn quanh kiếm Thủy Triều, còn hai bà em hai bên cùng lúc nhào vào tôi. Tay nóng rẫy như bị nhúng vào chì nấu lỏng nhưng tôi quyết không buông kiếm quý. Tôi thúc chuôi kiếm sang trái khiến yêu quái ngã chổng kềnh trên ghế, sau đó chém sang phải. Ngay khi kiếm chạm vào cổ, yêu quái nổ tung, biến thành bụi. Annabeth vật ngửa cô Dodds còn Grover thừa cơ xông vào tước roi da. Nó kêu oai oái: - Ối! Nóng... Nóng quá. Yêu quái bị tôi đánh bằng cán kiếm lại xông đến nhưng tôi đã vung kiếm chém xuống xẻ đôi người mụ. Cô Dodds ráng vung khỏi vòng tay Annabeth siết từ phía sau. Bà ta vừa đấm đá, vừa cào cấu và rít lên kinh khiếp. Nhưng Annabeth không chịu buông tay, còn Grover dùng ngay roi trói chân bà ta. Xong xuôi, cả hai xô bà ta ngã sõng soài giữa lối đi. Bà ta cố gượng dậy nhưng lối đi hẹp không giang cánh được nên đành nằm vật xuống. Bà ta rủa xả: - Thần Dớt sẽ hủy diệt ngươi. Hades sẽ bắt linh hồn ngươi cho xem. Tôi hét lên bằng tiếng Latinh dù không biết mình học những từ ấy khi nào: - Họ đừng hòng làm gì tôi. Sấm vang rền làm rung chuyển xe buýt. Tôi nổi da gà, tóc dựng ngược. Annabeth gào to: - Ra ngoài! Mau! Không cần nhắc, tôi cũng hết muốn ở trong này. Ba chúng tôi vội nhao ra cửa và thấy hành khách, người thì sợ hãi đi tới đi lui, người thì cãi cọ với bác tài. Có người bấn loạn chạy quanh, miệng gào lên: - Thế này thì chết thôi, sống làm sao được. Trước khi tôi kịp đậy nắp bút, một hành khách mặc áo sơ mi hoa sặc sỡ giơ máy chụp hình về phía tôi bắn lia lịa. Grover nhắc: - Hành lý! Tụi mình quên trên… ĐÙNG! Xe buýt phát nổ, lửa phụt từ cửa sổ vỡ hết kính. Hành khách chạy tứ tán tìm nơi ẩn nấp. Sét đánh trúng nóc xe, nhưng tiếng rên căm tức từ trong xe phát ra cho thấy cô Dodds chưa chết. Annabeth bảo: - Chạy thôi. Bà ta gọi cứu viện. Mình đi ngay mới kịp. Ba đứa lao thẳng vào rừng dưới trời mưa tầm tã. Sau lưng xe buýt cháy rừng rực nhưng phía trước trời tối như bưng lấy mắt 11. Cửa hàng bán tượng Đôi khi, biết trên đỉnh Olympia có mười hai vị thần cũng tốt vì khi gặp chuyện xui xẻo, cứ việc đổ lỗi cho họ và sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều. Ví dụ, lúc bỏ xa chiếc xe buýt bị phù thủy tấn công và bị sét đánh bốc lửa dưới màn mưa dày đặc mịt mù, ai cũng bảo họ gặp vận rủi. Tuy nhiên, nếu là con lai, ta biết chắc có thế lực siêu nhiên bám theo ta quậy phá. Với suy nghĩ đó, Annabeth, Grover và tôi lủi thủi xuyên cánh rừng rậm thuộc miền duyên hải Jersey, bỏ lại sau lưng đo thị New York sáng đèn và nhịn thở để không phải ngửi mùi hôi thối bốc lên từ dòng Hudson ô nhiễm nặng. Grover run bần bật, miệng rên be be. Nỗi kinh hoàng làm đồng tử trong đôi mắt dê của nó co lại thành đường kẻ nhỏ: - Ba Nữ thần Báo Thù. Cả ba đến cùng lúc. Chính tôi cũng hoảng sợ không kém, tai chưa hết lùng bùng do tiếng nổ xe buýt vừa rồi. Nhưng Annabeth kéo tay chúng tôi, giục giã: - Nhanh lên! Càng đi xa càng tốt. Tôi nhắc bạn: - Có bao nhiêu tiền ta để cả trên xe. Cả quần áo, thức ăn nữa. Ta mất hết rồi. - Thế sao? Nếu cậu không nhào tới đánh nhau thì đâu đến nỗi… - Thế muốn tớ làm gì đây? Đứng nhìn chúng giết các cậu chắc? - Percy, cậu không cần bảo vệ tớ. Tớ có sao đâu. Grover chen ngang: - Nếu không có cậu, chắc chắn yêu tinh xắt mỏng tụi tớ làm bánh kẹp. Dù thế, tụi tớ vẫn ổn. Annabeth quát: - Dê con, im đi! Grover be lên tiếc rẻ: - Vỏ lon nhôm… Đầy túi lon rỗng giờ mất hết. Ba đứa lội bì bõm trong bùn đặc quánh, xuyên qua rặng cây vặn vẹo bẩn nhơ nhớp có mùi chua như quần áo đẫm mồ hôi chờ giặt. Mấy phút sau, Annabeth đi sát bên tôi, ngập ngừng: - Này, tớ… cảm kích vụ cậu quay lại vì chúng tớ. Cậu dũng cảm thật đấy. - Chúng ta cùng hội cùng thuyền mà. Annabeth đi thêm mấy bước trong im lặng: - Có điều, nếu cậu thiệt mạng… không những mình cậu hẩm hiu mà nhiệm vụ cũng không hoàn thành. Cậu nên nhớ rất có thể đây là cơ hội ra đời cuối cùng của tớ. Cuối cùng, sấm cũng thôi ì ầm. Ánh đèn thành phố lùi xa, mờ dần chỉ còn lại chúng tôi với đêm tối. Nhìn Annabeth, tôi chỉ thấy mái tóc vàng óng. Ngoài ra, không thấy gì khác. - Từ hồi lên bảy đến giờ, cậu chưa rời Trại Con Lai ư? - Chưa… trừ vài lần tham quan ngắn ngủi. Cha tớ… - À, giáo sư môn lịch sử. - Phải. Tớ không ở nhà với cha được. Trại Con Lai mới là nhà tớ. – Annabeth nói nhanh như sợ ai cướp lời. – Trại cho học quanh năm suốt tháng. Thế cũng vui, nói chung gì cũng thích. Nhưng ngoài đời thực mới có quái vật. Chỉ đến lúc ra đời, ta mới được thử sức. Chỉ có lúc ấy, ta mới biết khả năng của mình đên đâu. Nếu không biết Annabeth từ trước, tôi sẽ tưởng cô bé chỉ nói miệng, trong bụng cũng sợ chết đi được. - Cậu múa dao điêu luyện ghê. - Thật không? - Tớ phục lăn mấy người dám cưỡi lên lưng Nữ thần Báo Thù. Tôi đoán Annabeth mỉm cười trong bóng tối. - Để tớ kể cho nghe... lúc trên xe buýt buồn cười lắm cơ... Chẳng biết chuyện bạn ấy định kể buồn cười cỡ nào, nhưng Annabeth buộc phải im lặng vì có tiếng kêu ‘tút tút’ vang lên nghe như tiếng chim cú bị đánh đau. Grover kêu lên: - Các cậu ơi, bộ sáo của tớ còn dùng được. Chỉ cần nhớ bài “Tìm đường đi”, ta sẽ thoát khỏi khu rừng này. Nó thổi vài nốt, nhưng giai điệu kỳ khôi lắm. Đã không tìm được đường ra, tôi thình lình va đầu vào gốc cây, trán nổi cục u to tướng. Vậy nên thêm một dòng vào danh sách những khả năng siêu nhiên tôi không hề có: tài nhìn xuyên qua bóng tối. Sau bao lần ngã vùi ngã dập, tôi vừa chửi rủa vừa đi thêm khoảng hai cây số trong tâm trạng buồn khổ chán ngán trước khi thấy ánh đèn phía trước. Đèn màu từ biển quảng cáo hẳn hoi. Mùi thơm bay đến. Đâu đó có đồ ăn chiên béo ngậy, thơm lừng. Từ khi đến Trại Con Lai, tôi chưa được ăn mấy món bác sĩ khuyên không nên dùng. Hai tuần ở đó, tôi sống lay lắt bằng nho, bánh mỳ, phô mai và thịt nướng khô xác vì mỡ béo đã bị các đầu bếp Nữ Thần Cây lọc hết. Tôi đang thèm bánh hamburger phô mai nhiều thịt gấp đôi bánh thường. Chúng tôi đi tiếp thì gặp con đường nhỏ hai làn xe trống trải chạy giữa rừng. Bên kia đường có trạm xăng đóng cửa, biển quảng cáo cỡ lớn rách bươm quảng bá cho một bộ phim chiếu từ thập niên 90 của thế kỷ trước và một cửa hiệu còn sáng đèn. Chính nó phát ra mùi thơm và ánh đèn màu mời gọi. Đó không phải quán thức ăn nhanh như tôi hình dung. Nó giống mấy cửa hàng ven đường chuyên bán tượng lạ mắt dùng bài trí trong vườn hay bãi cỏ trước nhà, chẳng hạn cây xén tỉa thành hình hồng hạc, tượng người da đỏ bằng gỗ, hay tượng gấu xám bằng xi măng v.v... Nhà chính dài, thấp giống nhà kho nằm giữa vài sào đất bày tượng mẫu. Tôi không đọc nổi chữ uốn bằng đèn neon trên biển hiệu. Vì tôi bị bệnh khó đọc nên chữ thường đã làm tôi khốn đốn, huống hồ dòng chữ bằng đèn màu nhấp nháy này lại viết hoa rất cầu kỳ. Với tôi, trông nó như sau: ATYU MES GDERAN GOMEN MEPROUM. Tôi bối rối: - Chữ quái gì kia? Annabeth lắc đầu: - Tớ không biết. Thấy Annabeth cực kỳ chăm đọc sách, tôi quên bạn ấy cũng mắc chứng khó đọc với chữ thường. Grover dịch: - CÔ E.M CHUYÊN BÁN TƯỢNG TRANG TRÍ VƯỜN Như minh chứng cho biển quảng cáo, cạnh cửa ra vào bày hai tượng chú lùn giữ cửa bằng xi măng. Họ xấu xí, lùn tịt, râu xồm xoàm, vừa cười vừa vẫy tay như sắp chụp hình. Bị mùi bánh hamburger dẫn dụ, tôi nhanh nhẩu sang đường. Grover cảnh giác: - Hượm đã... Annabeth quan sát: - Bên trong có đèn, chắc còn mở cửa. Tôi thèm thuồng: - Có đồ ăn. Annabeth đồng tình: - Ừ, ăn chút cho đỡ đói. Grover cực lực phản đối: - Hai cậu điên à? Nhìn chỗ này xem, ớn chết đi được. Chúng tôi bỏ ngoài tai. Tượng xi măng chen chúc trên khoảnh sân phía trước: nào chim thú, nào trẻ con... thậm chí có cả tượng thần rừng thổi sáo. Grover mới nhìn đã sởn da gà. Nó kêu be be: - Be… be… be… Giống cậu Ferdinand nhà tớ quá! Đến cửa nhà chính, chúng tôi dừng lại. Grover van vỉ: - Đừng vào! Tớ ngửi thấy mùi yêu quái. Annabeth gắt: - Cậu nghẹt mũi từ lúc ngửi mùi Nữ thần Báo Thù rồi. Tớ chỉ thấy mùi bánh thôi. Thế cậu không đói à? Grover khinh thị: - Toàn mùi thịt. Tớ ăn chay mà. Tôi nhắc: - Chay gì đâu. Tớ toàn thấy cậu ăn phô mai enchiladas và lon rỗng. - Không sát sinh là chay rồi. Thôi nào các cậu, ta biến khỏi đây đi. Mắt mấy bức tượng này... cứ nhìn tớ chằm chằm. Rồi cánh cửa được mở ra. Trước mặt chúng tôi là một phụ nữ cao ráo người Trung Đông. Tôi đoán thế vì bà ta mặc váy đen dài từ đầu đến chân chỉ chừa hai bàn tay, tấm mạng lớn trùm kín cả đầu lẫn mặt. Mắt bà lấp lánh sau làn vải mỏng. Hai bàn tay da bánh mật của bà trông già nua nhưng được làm móng rất kỹ và sơn màu trang nhã. Từ đó tôi đoán chắc bà là hoa khôi một thời. Giọng nói bà chủ mang chút âm hưởng của người Trung Đông. - Trời khuya thế này, sao các cháu còn tự ý ra ngoài ? Cha mẹ các cháu đâu? Annabeth mở lời: - À... Cha mẹ chúng cháu... Tôi đỡ lời: - Chúng cháu mồ côi ạ. Bà ta lấy làm ngạc nhiên lắm: - Mồ côi ư? Trời ơi, không thể nào! - Tụi cháu tách ra khỏi đoàn. Chúng cháu làm cho gánh xiếc mà. Ông chủ dặn nếu đi lạc, cứ đến cây xăng này, ông sẽ đợi. Nhưng chắc ông ấy quên, hoặc dặn trạm xăng khác nhưng cháu hiều lầm. Dù ông ấy có nói gì thì giờ chúng cháu bị lạc rồi. Có phải mùi thức ăn không ạ? - Ôi, cháu tôi! Tội nghiệp quá, nhất định các cháu phải đi vào nhà ta nghỉ chân đã. Cứ gọi ta là cô Em. Giờ đi thẳng ra sau nhà nhé. Phòng ăn ở đó đấy. Chúng tôi cảm ơn rồi vào cửa. Annabeth thì thào: - Cậu làm cho gánh xiếc khi nào vậy? - Thì cũng phải nghĩ ra thứ gì chứ. - Đầu cậu nhồi tảo bẹ hay sao thế? Trong nhà chất thêm nhiều tượng nữa. Tượng người ở đây có nhiều tư thế và trang phục, còn nét mặc bộc lộ đủ loại cảm xúc. Tượng chỉ hợp với vườn cực rộng vì chúng toàn to bằng người thật. Nhưng đầu óc tôi chỉ chăm chăm nghĩ đến ăn. Đúng là ngớ ngẩn mới vào nhà lạ chỉ vì đói, nhưng quả thực tính tôi hay nhanh nhẩu đoảng. Với lại, mùi bánh nhà cô Em thơm quá thể. Mùi ấy giống hơi thuốc mê ở phòng nha sĩ: nó khiến bệnh nhân quên hết sự đời. Tôi mê mụ đến nỗi không nghe Grover rên rỉ, không để ý mắt tượng như dõi theo mình và không biết khách vừa vào, cô Em đã vội khóa chặt cửa. Tôi chỉ rốt ráo tìm phòng ăn. Đúng như chủ nhà giới thiệu, nó nằm sau nhà kho dài. Ở đó có quầy thức ăn nhanh cùng lò nướng thịt, máy pha sô đa, dụng cụ nướng bánh quy xoắn và máy chế biến khoai tây chiên pho mát... nói chung đầy đủ như tiệm bán thức ăn nhanh bình thường. Còn nữa, phía trước có kê vài bàn gấp bằng kim loại. Chủ nhà mời mọc: - Các cháu ngồi tự nhiên đi. Tôi trầm trồ: - Thích quá. Grover ngại ngần: - Nhưng... tụi cháu không có tiền. Vừa định thúc khuỷu tay vào sườn, bắt nó im lặng, tôi đã nghe cô Em ngọt ngào: - Không, các cháu đừng ngại. Cô không lấy tiền. Đây là trường hợp đặc biết, đúng không? Cô mời. Các cháu mồ côi mà ngoan ngoãn quá đi thôi. Annabeth cảm động: - Cháu cảm ơn cô ạ. Cô Em bất ngờ đứng im phắc như thể bạn tôi vừa làm gì sai. Nhưng ngay sau đó, bà ta cười xòa như không có chuyện gì xảy ra khiến tôi tưởng mình lầm. - Annabeth ngoan lắm. Mắt cháu tôi màu xám đẹp quá nhỉ? Mãi sau này tôi mới tự hỏi sao bà ta biết tên Annabeth, vì từ lúc vào chúng tôi chưa tự giới thiệu lần nào. Chủ nhà biến ra sau quầy nấu nướng. Nháy mắt sau, bà ta bưng ra ba khay nhựa tú hụ bánh hamburger, sữa hương vani và ly đựng khoai tây chiên cỡ lớn nhất. Tôi ngấu nghiến ăn bánh đến độ không kịp thở. Annabeth mê mải uống sữa. Grover tay bốc khoai tây chiên, mắt liếc tờ giấy nền lót khay như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Chỉ tội nét mặt cậu ấy sợ sệt thế nào. Grover hỏi: - Cái gì kêu xì xì vậy? Tôi lắng nghe nhưng không thấy gì. Annabeth lắc đầu. Cô Em vội nói: - Chắc tiếng mỡ sôi xèo xèo đấy mà. Tai cháu thính quá. - Cháu uống nhiều loại vitamin trợ giúp thính lực mà. Chủ nhà khen: - Chịu khó chưa? Mới bé đã biết tự chăm sóc sức khỏe rồi. Yên tâm đi cháu, không có gì đâu. Cô Em không ăn cũng không bỏ khăn trùm đầu và mặt ngay cả khi nấu nướng. Cô ngồi bên bàn, lồng các ngón tay vào nhau nhìn chúng tôi ăn. Nhai nhồm nhoàm khi có người ngó mình lom lom thật ngại quá, nhất là khi chúng tôi không nhìn rõ mặt cô. Tuy nhiên, ăn xong cái bánh to tướng, tôi thấy mãn nguyện, hơi buồn ngủ và nghĩ đến chuyện hỏi thăm chủ nhà vài câu cho phải phép. Tôi tỏ vẻ quan tâm: - Hình như cô bán... tượng thì phải? - Phải, phải. Tượng người, tượng thú vật... nói chung cô có đủ loại tượng trang trí vườn. Tượng theo đơn đặt hàng cũng có. Hồi này tượng bán chạy lắm. - Dọc đường nhỏ này có nhiều hàng quán không ạ? - Không nhiều lắm. Từ hồi họ làm đường cao tốc ngoài kia... hầu như xe cộ không đi ngả này nữa. Cô phải chiều khách lắm mới trụ lại được đấy. Gáy tôi ngứa ngáy, hình như có người đang nhìn từ phía sau. Ngoái đầu trông, tôi thấy tượng một bạn gái xách giỏ trứng Phục sinh. Chi tiết của tượng hoàn hảo, không giống tượng trang trí vườn thông thường. Nhưng nghệ nhân tạc khuôn mặt bị lỗi thì phải. Trông bạn ấy như đang giật mình, hoặc kinh hoàng. Cô Em buồn xo: - Chắc cháu cũng thấy vài tác phẩm của cô không đẹp. Khá nhiều tượng lỗi. Hàng phế phẩm cô không bán. Khuôn mặt là phần khó nhất cháu ạ. - Tự tay cô tạc tượng ư? - Ừ. Ngày xưa cô có hai em gái giúp kinh doanh, nhưng họ vắn số nên cô đành sống cô quạnh. Giờ cô chỉ biết lấy tượng làm vui. Chính vì vậy cô làm tượng. Có tượng như có bạn trong nhà. Giọng nói nghe thế lương sầu thảm đến nỗi tôi thấy thương cô ta. Tôi không hình dung nổi cảnh sống một mình giữa những bức tượng kỳ quái này. Annabeth ngừng ăn, chăm chú hỏi: - Cô có hai em gái? - Chuyện khủng khiếp lắm, trẻ con không nên nghe. Annabeth biết không, cách đây lâu lắm rồi, ngày cô còn trẻ, có người đàn bà xấu bụng ghen tức cô. Cô có... người yêu, còn con mụ xấu bụng kia định chia duyên rẽ thúy. Mụ bày ra vụ tai nạn khủng khiếp. Hai em gái quyết ở bên cô lúc hoạn nạn nhưng cuối cùng họ phải chết. Nói đúng hơn là biến mất. Mình cô sống sót, nhưng phải trả giá quá đắt cho sự sống còn của mình. Dù không hiểu cặn kẽ câu chuyện của chủ nhà, tôi vẫn thương bà ta. Ăn uống no nê xong, mi mắt tôi nặng dần, đúng là “căng da bụng, chùng da mặt”. Tội nghiệp hai cô em. Ai nỡ hại những người tốt như vậy chứ? Annabeth giật tay gọi tôi tỉnh lại: - Percy, chắc mình đi thôi. Tớ e ông chủ gánh xiếc đang đợi. Giọng bạn ấy căng thẳng. Tôi không hiểu tại sao. Grover nhai giấy lót khay ngon lành. Không hiểu cô Em có thấy lạ không, chỉ biết cô im lặng coi như không biết. Chủ nhà lại khen: - Mắt xám đẹp mê hồn. Lâu lắm rồi cô mới gặp người mắt xám đẹp giống cháu. Bà ta vươn tay định vuốt má Annabeth nhưng bạn ấy đứng vụt dậy: - Chúng mình không nên ở đây. Grover nuốt chửng miếng giấy nến, đứng lên: - Ông chủ đang đợi. Đúng rồi. Tôi không muốn đi. Tôi no nê, dễ chịu. Cô Em rất dịu dàng, tử tế. Tôi muốn ở lại chơi thêm chút nữa. Cô Em van nài: - Đừng mà, các cháu. Hiếm khi cô có khách trẻ con đến chơi nhà. Trước khi đi, các cháu ngồi yên cho cô chụp tấm hình nhé? Annabeth cảnh giác: - Hình gì ạ? - Chỉ một tấm thôi. Ta dùng ảnh các cháu để nặn bộ tượng mới. Tượng trẻ con bán đắt như tôm tươi. Ai cũng thích con nít mà. Annabeth thấy bất an: - Chắc không được đâu ạ. Percy, đi thôi... Tôi khó chịu vì Annabeth giục hoài và không chiều lòng bà chủ tiệm vừa đãi chúng tôi một bữa không lấy tiền. - Được cô ạ. Annabeth này, chỉ đứng cho cô chụp hình, có hại gì đâu? Bà chủ hùa theo: - Bạn cháu nói phải. Có hại gì đâu nào. Tôi biết trong bụng Annabeth thầm phản đối, nhưng bạn ấy vẫn để cô Em dẫn cả ba ra sân bày tượng trước nhà. Cô bảo chúng tôi ngồi xuống ghế đá cạnh tượng thần rừng bằng đá. - Để cô sắp đặt vị trí sao cho đẹp. Cháu gái đứng giữa đi, hai thanh niên đứng hai bên. Tôi nhân xét: - Trời tối thế sao chụp được ạ? - Đủ sáng đấy chứ. Cô vẫn nhìn rõ mặt các cháu đấy thôi. Grover hỏi: - Máy chụp hình đâu ạ? Cô Em lùi lại, ngắm nghía: - Khuôn mặt bao giờ cũng khó nhất. Các cháu cười lên nhé! Cười tươi nào. Liếc bức tượng thần rừng bên cạnh, Grover lẩm bẩm: - Giống cậu Ferdinand quá đi mất. Cô Em nạt nộ: - Grover, quay ra đây! Cô vẫn chưa cầm máy chụp hình. Annabeth thì thầm: - Percy... Linh tính bảo tôi nên nghe lời Annabeth. Nhưng tôi còn mải gắng sức xua cảm giác buồn ngủ. Mắt tôi díp lại vì ăn no và vì giọng nói êm dịu, du dương của chủ nhà. Cô Em bảo: - Xong ngay đây. Bực mình mạng che mặt này ghê, làm ta nhìn không rõ... Annabeth khăng khăng: - Percy, không ổn rồi. Cô Em sắp lật tấm mạng mỏng trùm kín cả đầu lẫn mặt: - Không sao đâu cháu. Tối nay rồng đến nhà tôm, thật tuyệt cú mèo. Có gì đâu mà không ổn? Grover thở hổn hển: - Đúng là cậu Ferdinand rồi. - Ngoảnh mặt đi, đừng nhìn bà ta! Annabeth hét lên, đội ngay mũ lưỡi trai của đội bóng chày New York lên đầu. Hai cánh tay tàng hình của bạn ấy cùng lúc xô tôi và Grover ngã nhào. Tôi dán mặt xuống đất nhìn đôi chân đi xăng đan của cô Em. Tai có tiếng Grover và Annabeth mỗi người bò sang một hướng, nhưng tôi quá mê mụ, đờ đẫn đến độ không thể nhúc nhích. Có âm thanh xì xì, sột soạt lạ tai ngay phía trên chỗ tôi nằm. Tôi lần lần nhìn lên hai bàn tay cô Em tự nhiên biến thành xương xẩu, sần sùi. Móng tay thay bằng vuốt bằng đồng sắc nhọn tự lúc nào. Ánh mắt tôi sắp tiến lên, cao hơn nữa thì Annabeth thét lên: - Đừng! Chớ có nhìn! Tôi lại nghe tiếng sột soạt... tiếng của cả bầy rắn bé xíu ngay phái trên đầu tôi... nó phát ra từ chỗ đáng lẽ phải là đầu cô Em. - Chạy đi! Grover kêu lên. Tôi nghe tiếng nó vừa chạy ngang bãi cỏ vừa niệm bùa chú: “Maia!” để khởi động đôi giày. Tôi bất động. Nhìn trừng trừng bàn tay xương xẩu của cô Em, tôi cố thoát khỏi trạng thái thôi miên mà cô ta đã lôi tôi vào. Mụ nói êm như ru: - Phải hủy hoại khuôn mặt đẹp như tượng này thật uổng phí. Hãy ở lại với ta, Percy. Chỉ cần ngươi ngước nhìn lên là xong. Tôi cưỡng lại ý muốn vâng lời. Thay vì nhìn mụ, tôi dán mắt vào quả cầu pha lê, loại người ta hay bày trong vườn để bói cầu. Bóng đen của “cô Em” hiện trên mặt thủy tinh màu cam. Đầu mụ biến mất, mặt mờ đi thành hình cầu nhợt nhạt. Tóc mụ là bùi nhùi rắn uốn éo, lắc lư. Cô Em. Có nghĩa là cô “M”. Sao tôi đần độn thế không biết. Tôi thầm nhủ: “Nhớ lại đi. Trong cổ tích, Medusa chết như thế nào?” Dù đầu óc mê mụ, ký ức mách bảo tôi rằng: Trong cổ tích, Medusa bị Perseus tấn công lúc ngủ say. Nhưng giờ mụ tỉnh như sáo. Nếu muốn, mụ ta đủ sức dùng móng vuốt cào rách mặt tôi. Giọng Medusa cất lên nghe không giống phù thủy. Giọng mụ mời mọc tôi hãy ngẩng lên nhìn, hãy thương hại một bà già tội nghiệp: - Percy ơi, tại ả Mắt Xám cả đấy. Mẹ Annabeth, mụ Athena chết giẫm biến ta từ cô gái xinh đẹp thành thứ gớm guốc này. Annabeth núp trong rừng tượng, nói với ra: - Đừng nghe lời mụ. Chạy đi, Percy! Medusa gầm gừ: - Câm miệng! – Giọng mụ lập tức mượt như nhung. - Percy, ngươi cũng hiểu tại sao ta phải hủy hoại con nhóc ấy. Nó là con kẻ thù của ta. Ta sẽ nghiền nát tượng nó thành cát bụi. Nhưng Percy yêu quý, riêng ngươi không tội tình gì phải làm thế. Tôi thều thào, cố động đậy đôi chân: - Đừng. - Nói thực đi, ngươi có muốn giúp các thần không? Ngươi có biết làm nhiệm vụ ngu xuẩn này, cái gì đang chờ ngươi phía trước không? Có biết ngươi sẽ ra sao khi đến được địa ngục không? Đừng làm con tốt đen trên bàn cờ của đỉnh Olympia, ngốc ạ. Làm tượng sướng hơn nhiều. Ít đau đớn hơn nhiều. Thật đấy. - Percy, tớ đây! Tôi nghe tiếng vè vè quái đản trên đầu. Hình như có con chim ruồi to đùng, nặng cả trăm ký sắp lao chúi xuống. - Cúi xuống! Tôi ngoái đầu nhìn. Grover bay giữa trời đêm, cánh trắng mọc từ gót giày chấp chới. Tay nó lăm lăm cành cây dài bằng gậy vụt bóng chày. Mắt nhắm tịt, Grover hết nghiêng đầu sang trái lại sang phải như thể nó đoán đường bay chỉ bằng mũi và tai. Nó lại hét inh ỏi: - Cúi xuống! Tớ sẽ hạ mụ ta! Nghe vậy, tôi quyết định phải hành động ngay. Tôi biết Grover lắm mà: Thể nào nó cũng vụt trượt Medusa và phang gậy trúng đầu tôi. Hoảng hồn, tôi lăn người tránh. RẮC! Nếu không nghe Medusa gầm lên tức tối, tôi đã tưởng Grover đập trúng gốc cây. Mụ gầm gừ: - Đồ thần rừng hèn mọn, tao sẽ thêm mày vào bộ sưu tập của tao. Grover hét lên đáp trả: - Ta đánh mụ để trả thù cho cậu Ferndinand. Tôi lồm cồm bò ra xa, nấp sau bức tượng. Vừa lúc Grover xà xuống phang tiếp. - Ái! Medusa la lối, bộ tóc rắn xì xì, nhổ tứ tung. Tiếng Annabeth vang lên ngay bên tôi: - Percy! Giật bắn mình, tôi nhảy dựng lên suýt đá đổ tượng thần lùn giữ của. - Trời đất! Đừng thế chứ. Annabeth cởi mũ, hiện ra trước mặt tôi: - Cậu phải chặt đứt đầu mụ. - Cái gì? Cậu điên à? Ta đi ngay thôi. - Medusa rất độc ác, tàn bạo. Tớ muốn tự tay lấy mạng mụ... nhưng... – Cô bé nuốt khan như thể sắp thú nhận một chuyện khó khăn - ... nhưng vũ khí của cậu lợi hại hơn. Với lại, nếu tớ đến gần sẽ bị mụ băm vằm vì thù mẹ tớ. Cậu... dễ tiếp cận hơn. Giờ là cơ hội của cậu đấy. - Sao cơ? Tớ không thể... - Này, thế cậu muốn mụ biến người vô tội thành tượng ư? Annabeth chỉ tượng đôi tình nhân đang ôm nhau, nạn nhân bị yêu quái biến thành đá. Annabeth nói đúng. Thậm chí nếu Medusa không chết hẳn, tôi vẫn có khả năng làm mụ dừng bàn tay tội ác ít lâu, cứu mạng vài người vô tội, bắt mụ rời xứ New Jersey, nơi người dân đã quá khổ vì tệ nạn. Annabeth lấy quả cầu thủy tinh màu xanh lá cây bày trên bệ gần đó. Cô bé nhìn kỹ trái cầu: - Dùng vật che chắn bề mặt bóng là tốt nhất. Tuy nhiên, mặt cong sẽ làm hình méo mó. Độ chênh lệch sẽ không còn nếu có yếu tố... - Này, cậu có biết nói tiếng người không thế? Annabeth ném cho tôi trái cầu: - Đừng đùa nữa. Cứ nhìn bóng mụ hiện trên mặt thủy tinh. Đừng bao giờ nhìn trực diện. Grover hét toáng lúc bay lơ lửng trên đầu chúng tôi: - Các cậu ơi! Mụ ấy bị ngất. Medusa gầm lên: - Chúng mày chết chắc rồi! Grover nói chữa: - À, chưa ngất. Nói xong, nó bay đi thực hiện thêm cú vụt nữa. Annabeth giục: - Cậu đi ngay đi. Mũi Grover thính thật, nhưng thế nào cũng có lúc lao nhầm chỗ. Tôi lấy bút mở nắp. Lưỡi kiếm đồng dài ra trên tay tôi. Tôi nhằm hướng có tiếng sột soạt và tiếng rắn nhổ phì phì trên đầu phù thủy Medusa lao tới. Tôi căng mắt nhìn trái cầu thủy tinh vì bóng Medusa rất mờ, khó hơn nhìn thẳng mụ. Kia rồi, tôi đã thấy hình phù thủy phản chiến trên mặt thủy tinh màu xanh lục. Grover quay lại chiến đấu tiếp, nhưng lần này nó bay hơi thấp. Thừa cơ, Medusa lôi đầu gập của Grover, khiến nó lao đảo. Nó lộn nhào trên không, va chạm mạnh và ngã lăn vào vòng tay gấu bị hóa đá. Đau quá, nó kêu la: - Úi da! Thấy Medusa định nhào tới chỗ nó, tôi kêu lên: - Này! Mụ quay lại nhìn thẳng vào tôi. Tôi khó nhọc tiến đến, vì một tay xách thanh kiếm dài, tay kia cầm trái cầu dễ vỡ. Nếu mụ tấn công, tôi không dễ gì chống đỡ. Nhưng mụ phù thủy mặc tôi rút ngắn khoảng cách: hai mươi bước rồi mười bước. Đến đây, tôi nhìn rõ mặt mụ in trên quả cầu xanh. Nói đúng ra, mụ không xấu lắm. Chỉ tại mặt cong của quả cầu làm mặt mụ dị dạng, xấu xí hơn. Mụ ngọt ngào: - Percy ơi, người tốt ai nỡ hại bà già. Ta biết cháu tốt bụng, không bao giờ làm thế. Tôi chần chừ, ngây thộn nhìn khuôn mặt quái dị trên mặt thủy tinh. Hai con mắt như có lửa rực cháy khiến hai tay tôi mềm nhũn. Vẫn nằm trong tay tượng gấu, Grover rên rỉ: - Percy, chớ nghe lời mụ. Medusa đắc thắng: - Quá muộn rồi. Mụ giơ móng vuốt lao thẳng vào tôi. Vung kiếm phạt ngang, tôi nghe tiếng XOẠT! rợn người, kèm theo âm thanh nghe như tiếng gió hút vào lòng hang đá sâu thẳm: tiếng thân xác yêu quái tan dần. Trên mặt đất có cái gì đó lăn lông lốc chạm vào chân tôi. Tôi phải gồng mình, gắng sức kiềm chế để không nhìn xuống. Tôi đứng yên, mặc thứ chất lỏng ấm ộc ra vào vớ dưới chân, mặc mấy đầu rắn tí xíu rỉa dây giày. Grover rùng mình: - Ôi ghê quá! Ớn không chịu được. Mắt nó vẫn nhắm tịt nhưng tôi đoán nó nghe tiếng ồng ộc, xèo xèo. Annabeth vừa ngửa cổ nhìn trời, vừa lần từng bước đến chỗ tôi. Nó sờ soạng, nắm tấm màn che mặt của Medusa: - Đứng yên. Cực kỳ cẩn trọng, mắt vẫn không nhìn xuống, nó gói đầu yêu quái bằng miếng vải đen rồi nhặt lên. Thứ chất nhờn xanh lè vẫn nhỏ giọt từ thủ cấp. Bạn ấy hỏi tôi mà giọng run run: - Cậu không sao chứ? Tôi sắp nôn hết bánh hamburger đại tướng nằm trong bụng: - Ừ. Sao cái đầu… không “bốc hơi” như mụ? - Giờ nó là chiến lợi phẩm cho ai chặt rời nó lìa khỏi xác. Cũng giống sừng quỷ đầu bò thôi. Nhưng chớ mở lớp vải bọc. Nó vẫn làm người ta hóa đá được đấy. Grover vừa rên rỉ, vừa leo xuống tượng gấu. Trán nó sưng vều ra. Cái mũ nhỏ màu xanh lá xộc xệnh trên đầu, phô ra một bên sừng bé tí. Hai bàn chân giả tuột khỏi móng guốc. Đôi giày thần bay lơ lửng trên đầu nó. - Lần này cậu là người hùng. Tớ phục cậu sát đất. Grover cười bẽn lẽn: - Trò này không vui lắm. Lúc thẳng tay phang yêu quái thì thích. Nhưng va vào tượng gấu thì… bầm dập lắm. Grover với tay giật đôi giày bay xuống. Tôi đậy nắp, cất kiếm đi. Cả ba chúng tôi bước thấp bước cao quay vào nhà kho. Tìm được mấy bịch nhựa, loại hay đựng thực phẩm, đã cũ tôi bọc kín đầu Medusa. Quẳng bọc giấy xuống bàn lúc nãy cả ba còn ngồi mê mải ăn, chúng tôi kéo ghế ngồi, mệt đến độ nói không ra hơi. Mãi sau tôi bảo: - Thế ra tại thần Athena, bọn ta sém bị phù thủy này hại chết? Annabeth khó chịu lườm tôi: - Tai cha cậu thì có. Cậu không nhớ à? Medusa từng là tình nhân của thần biển Poseidon. Họ hẹn hò nhau ở đền thờ mẹ tớ. Chính vì thế, thần Athena mới biến mụ thành yêu quái. Cả ba chị em, Medusa và hai mụ em định giúp chị thoát khỏi đền thờ, đều bị hóa thành nữ thần tóc rắn. Đó là lý do Medusa muốn băm vằm tớ, nhưng giữ cậu làm tượng. Mụ vẫn còn tơ tưởng đến cha cậu. Có khi nhìn cậu, mụ càng nhớ thần biển hơn. Tôi tức đỏ mặt: - Cãi qua cãi lại hóa ra vì tớ nên ta gặp Medusa sao? Annabeth ngồi thẳng dậy, giả giọng tôi: - “Annabeth này, chỉ chụp hình thôi, có hại gì đâu.” - Thôi không nói nữa. Tớ hết chịu nổi cậu rồi. - Còn cậu thì hiền lắm đấy! Quá quắt vừa thôi. - Cậu... Grover cắt ngang: - Này, thần rừng không bao giờ bị nhức đầu. Vậy mà nghe hai cậu cãi nhau, đầu tớ đang nhức như búa bổ đây. Bây giờ nói xem: Các cậu định xử lý đầu yêu quái thế nào? Tôi nhìn chiến lợi phẩm kinh khiếp trên bàn. Một con rắn nhỏ chui qua lỗ thủng của vỏ bọc bò ngoe nguẩy. Trên túi giấy có dòng chữ: “Chúng tôi đánh giá cao kết quả công việc của bà.” Máu trong huyết quản tôi sôi sục: không chỉ bực Athena, Annabeth mà còn giận tất cả các thần. Vì họ, tôi phải thực hiện cuộc truy tìm này, xe bị nổ tung trên đường đi và vừa đến trại đã đánh nhau hai trận kinh hoàng. Nếu ngày nào cũng thế này, chúng tôi chưa chắc toàn mạng đến được Los Angeles, huống hồ đến đó trước ngày Hạ chí. Lúc nãy, Medusa nói gì với tôi nhỉ? “Đừng làm con tốt đen trên bàn cờ của đỉnh Olympia, ngốc ạ. Làm tượng sướng hơn nhiều.” Tôi đứng bật dậy: - Tớ ra đây một lát? Annabeth gọi với theo: - Percy, cậu định... Tôi lùng sục tìm phòng làm việc của Medusa. Sổ sách kế toán của mụ cho thấy sáu lần chuyển hàng gần nhất đều xuống Âm phủ, trang trí cho vườn của Hades và Persephone. Trong một hóa đơn vận chuyển có ghi địa chỉ thanh toán của địa ngục là DOA Recording Studios, West Hollywood, California. Tôi gấp mẩu giấy cất vào túi áo. Ở máy tính tiền có hai mươi đô la, vài đồng vàng drachma và mấy hóa đơn vận chuyển gửi cho Công Ty Chuyển Phát Nhanh Hermes, mỗi tờ kèm một túi da đựng tiền xu. Tôi lục tung văn phòng, tìm chiếc hộp vừa ý. Trở lại bàn ăn, tôi đóng hộp đầu Medusa, điền hóa đơn vận chuyển như sau: Gửi các thần Đỉnh Olympia Tầng thứ 600, Tòa nhà Empire States New York, NY Cùng những lời chúc tốt đẹp nhất PERCY JACKSON. Grover nhắc: - Họ sẽ cáu tiết và bảo cậu láo xược cho xem. Tôi rót vài đồng drachma vào túi nhỏ. Vừa thắt miệng túi, tôi nghe tiếng lạch xạch như máy tính tiền hoạt động. Kiện hàng bay lên không và biến mất kèm theo tiếng ‘BỤP’. - Tớ cố tình khiến họ nghĩ thế mà. Tôi nhìn Annabeth như muốn thách bạn ấy lên tiếng chỉ trích này nọ. Nhưng Annabeth chỉ làm thinh. Có lẽ bạn ấy ngán biệt tài chọc giận các thần của tôi. Annabeth làu bàu: - Đi thôi. Ta cần lên kế hoạch khác. 12. Lời khuyên của chó xù Đêm ấy thật khốn khổ. Chúng tôi ngủ trong rừng, cách đường chính chừng ba mươi mét, tại một bãi đất trống lầy lội. Thoạt nhìn, ta biết ngay bọn trẻ quanh vùng hay đàn đúm ở đây: mặt đất đầy vỏ lon nước ngọt bẹp dúm và giấy gói đồ ăn nhanh. Chúng tôi mang theo đồ ăn và mấy tấm mền lấy từ nhà “cô Em” nhưng không dám đốt lửa trại hong quần áo ướt. Một ngày đối phó với cả Nữ thần Báo Thù và Medusa khiến chúng tôi mệt lử nên không muốn mời gọi thêm rắc rối. Ba đứa dự định thay nhau ngủ. Tôi tình nguyện thức ca đầu. Vừa đặt mình xuống, Annabeth đã cuộn tròn trong chăn ngáy pho pho. Grover đi giày có cánh bay lên chạc ba thấp nhất của cái cây gần đó, ngồi dựa lưng ngắm bầu trời đêm. Tôi giục nó: - Cứ yên tâm ngủ đi. Có chuyện gì tớ sẽ gọi. Nó gật đầu nhưng không nhắm mắt. - Tôi buồn quá đi mất. - Sao… hối hận vì đi chuyến này rồi ư? Nó chỉ xuống vào đống rác ở dưới đất: - Không phải. Dưới kia kìa. Cả trên trời nữa.Đâu còn ngắm sao được nữa. Cả bầu trời cũng bị ô nhiễm. Thời này làm thần rừng khổ nhất. - Ra thế. Bạn tôi là người bảo vệ môi trường cơ đấy. Nó lườm tôi: - Trên đời chỉ mỗi con người không bảo vệ môi trường. Chẳng mấy lúc giống loài nhà cậu làm thế giới chết ngạt… Thôi, tớ chẳng buồn nói nữa đâu. Nói phải nói quấy với loài người phỏng ích gì chứ. Cứ đà này, tớ hết tìm nổi thần Pan. - Pan là gì? Có phải kem xịt bánh không? Grover hét toáng lên: - Pan cũng không biết à? Là thần đồng quê đó. Thế theo cậu, tớ cần giấy phép truy tìm làm gì? Một cơn gió lạnh xào xạc thổi qua bãi trống, làm át mùi hôi thôi của rác rến và bùn lầy. Gió mang theo hương dâu chín trộn lẫn hương hoa đồng nội và mùi nước mưa ngọt mát... những thứ trước đây từng có trong rừng. Thốt nhiên, cảm giác tiếc nuối man mác dâng ngập lòng tôi, nhưng nếu có ai hỏi tôi tôi không biết trả lời sao. - Kể tớ nghe vụ truy tìm đi. Grover nhìn tôi cảnh giác như thể sợ tôi chế giễu: - Hai ngàn năm trước, Thần Cả Chốn Hoang Sơ biến mất. Một thủy thủ dong buồm ngoài khơi Ephesos nghe tiếng kêu bí ẩn từ bờ biển vọng tới: “Hãy loan tin thần Pan vĩ đại đã qua đời !”. Hung tin lan nhanh trong loài người và họ tin ngay. Kể từ đó, họ tàn phá xứ sở của thần Pan. Đối với thần rừng, thần Pan là vua, là chúa tể. Thần bảo vệ chúng tớ và thế giới hoang dã còn sót lại trên trái đất. Thế hệ nào cũng có thần rừng thề tìm cho được thần Pan, dù chết cũng cam lòng. Họ tìm kiếm khắp nơi, lùng sục những miền hoang sơ, hy vọng tìm nơi thần ở ẩn và đánh thức thần từ giấc ngủ dài. - Có phải cậu cũng muốn đi tìm? - Suốt đời tớ chỉ ấp ủ giấc mơ ấy. Trước đây, cha tớ cũng đi tìm. Cậu Ferdinand noi gương cha… giờ thành bức tượng cậu thấy đằng kia… - Tớ nhớ rồi. Xin chia buồn với cậu. Grover lắc đầu: - Cậu Ferdinand biết trước việc mình làm rất mạo hiểm. Cha tớ cũng thế. Nhưng tớ sẽ thành công. Tớ sẽ là thần rừng đầu tiên còn sống trở về. - Gượm đã… cậu nói đầu tiên còn sống là sao? Nó rút cây sáo sậy trong túi: - Người đi tìm thần Pan chưa ai trở về. Hễ đi là mất luôn. Không ai còn nhìn thấy họ sống sót ở bất cứ đâu. - Từ hai ngàn năm trước đến giờ ư? - Ừ. - Nói riêng về cha cậu, cậu không biết ông ấy gặp chuyện gì ư? - Không. Tôi kinh ngạc: - Sao cậu vẫn muốn đi? Chẳng lẽ cậu tin chắc sẽ tìm được thần Pan? - Tớ bắt buộc phải tin. Ai đi tìm thần cũng vậy. Chỉ có cách đó thần rừng mới không tuyệt vọng khi hàng ngày chứng kiến con người hủy hoại trái đất này. Tớ phải tin thần Pan còn thức tỉnh. Tôi đăm đăm nhìn không trung phủ lớp sương màu da cam. Không thể hiểu tại sao Grover lại theo đuổi giấc mơ khó thành hiện thực đến vậy. Ngẫm lại mình, tôi có khác gì nó đâu. Tôi hỏi: - Ta vào cửa địa ngục bằng cách nào đây? Tớ muốn hỏi khi đấu tranh với thần thánh, liệu ta có cơ hội thắng không? Grover thú nhận: - Tớ không biết. Nhưng khi nãy ở nhà Medusa, lúc cậu đi tìm văn phòng của Medusa, Annabeth bảo… - À phải, mình quên. Annabeth nhìn xa trông rộng mà. - Đừng khắt khe với bạn ấy quá. Dù từ nhỏ đến lớn phải vật lộn với nghịch cảnh, nhưng Annabeth là người tốt. Với lại bạn ấy tha thứ cho tớ chuyện... Giọng Grover nghẹn lại: - Sao cơ? Annabeth tha thứ chuyện gì? Grover thốt nhiên quá chăm chú đến cây sáo. Tôi nhớ lại: - Khoan nhé. Cách đây năm năm, cậu nhận nhiệm vụ trông nom lần đầu. Annabeth ở trại hè vừa đúng năm năm. Bạn ấy không… tớ nhớ là nhiệm vụ lần đầu của cậu không thành… Môi Grover run run. Nếu tôi gặng hỏi, chắn chắn nó sẽ òa lên khóc: - Tớ không nói chuyện ấy được đâu. Quay lại vụ ở nhà Medusa khi nãy, Annabeth và tớ đều cho rằng vụ điều tra này rất lạ. Nhất định có uẩn khúc gì đây. - Còn gì lạ hơn việc tớ bị chụp mũ tội ăn cắp tia chớp trong khi thủ phạm là Hades. - Tớ không nói chuyện đó. Thực tế là ba Nữ thần Báo Thù… ba “Người Tử Tế” không thẳng tay với cậu. Nhớ cô Doods hôm ở bảo tàng không? Sao cô ta phải chờ đến lúc ấy mới giết cậu? Lúc trên xe buýt cũng thế. Ba người họ không hung hăng như mọi khi. - Vậy thế nào mới gọi là “hung hăng”? Tớ còn ớn đến tận xương tủy đây này. Grover lắc đầu: - Họ cứ gào mãi: “Thứ đó đâu? Ở chỗ nào? - Họ hỏi tớ mà. - Có thể cậu đúng… nhưng Annabeth và tớ đều cho rằng họ không tìm cá nhân nào. “Thứ đó đâu?” có nghĩa họ đòi một món đồ gì mà mình không biết. - Vô lý. - Ừ. Nhưng nếu quả thực ta hiểu sai mục đích nhiệm vụ trong khi chỉ có chín ngày tìm tia chớp thì… Nó nhìn tôi hy vọng có lời giải nhưng tôi mù tịt. Tôi nhớ Medusa bảo: Tôi bị các thần lợi dụng. Tôi đang dấn thân vào chốn kinh hoàng đến độ so với nó, bị hóa đá là hồng phúc. Tôi thành thật: - Tớ chưa nói hết với cậu. Tia chớp ra sao, tớ cũng mặc. Tớ xuống địa ngục cốt để cứu mẹ mà thôi. Grover vi vu thổi sáo: - Tớ biết chứ. Nhưng cậu có chắc đó là lý do duy nhất. - Dù gì cũng không phải giúp cha tớ. Ông không đếm xỉa gì đến tớ. Vậy việc gì tớ phải nghĩ đến cha. Từ cành cây cao, Grover nhìn xuống tôi: - Percy này, tớ không thông minh, sắc sảo bằng Annabeth, cũng không can đảm bằng cậu. Nhưng về mặt nhận diện cảm xúc, tớ có biết đôi chút. Cậu mừng vì cha mình còn sống. Cậu sung sướng vì ông công khai nhận con. Có phần nào cậu muốn làm ông tự hào vì mình. Chính vì thế cậu gửi thủ cấp Medusa lên đỉnh Olympia. Cậu muốn trình làng bằng chứng cho thấy con trai ông cũng giỏi như ai. - Không có đâu. Rõ là cảm xúc của thần rừng khác người phàm nên cậu đoán sai bét. Ông ấy nghĩ gì tớ cũng mặc. Grover gác chân lên: - Thôi được rồi, Percy. Sao cũng được mà. - Với lại, tớ có nên công nên trạng gì đâu mà khoe. Nhìn xem, mới đi khỏi New York ta đã kẹt ở đây. Không một xu dính túi, không biết đến hướng tây bằng đường nào. Grover đăm đăm nhìn trời đêm như thể suy nghĩ rất lung về vấn đề tôi vừa nêu: - Thôi để tớ gác lượt đầu cho. Cậu ngủ cho lại sức. Tôi vừa định cãi, nó đã thổi sáo nhạc Mozart dìu dặt và ngọt ngào. Tôi trở mình, mắt cay xè. Mới nghe đoạn ngắn từ bản Concert số 12, tôi đã ngủ thiếp đi. Tôi mơ thấy mình đứng trong hang tối, trước mặt là hố sâu thăm thẳm. Những sinh vật nhỏ xíu màu xám bay thành bức màn dày kín quanh tôi. Không hiểu sao tôi biết những mảng khói phát ra âm thanh rì rầm ấy là linh hồn của người chết. Họ níu quần áo, cố lôi tôi lại nhưng tôi chỉ nóng lòng tiến lên sát mép vực sâu. Tôi chóng mặt khi nhìn xuống dưới. Miệng vực rông hoác, tối đen, rõ là không đáy. Thế nhưng tôi cảm giác có con gì cố trèo lên miệng vực. Nó to lớn và rất độc ác. Một giọng nói vang lên từ bóng đêm sâu thẳm bên dưới. - Anh hùng bé nhỏ, cậu quá yếu ớt, quá trẻ, nhưng có thể cậu sẽ làm được. Giọng nói nghe xa xôi, lạnh lùng và chở nặng hận thù. Tiếng nói ấy vây lấy tôi như bức tượng dày bằng chì, xám xịt và nặng trĩu. - Thằng nhóc kia, bọn chúng làm ngươi mê mụ rồi. Hãy bỏ chúng, theo ta. Ta sẽ cho ngươi thứ ngươi muốn. Một hình bóng mờ ảo bay lơ lửng giữa lòng vực trống trải: mẹ tôi đứng sững trong tư thế lúc bị biến thành cơn mưa vàng. Mặt mẹ nhăn nhó vì đau như thể quỷ đầu bò vẫn còn siết cổ mẹ. Mắt mẹ nhìn tôi như van lơn: “Chạy đi con!”. Tôi cố kêu nhưng không thành tiếng. Tiếng cười lạnh lẽo từ dưới lòng vực. Có một lực vô hình đẩy tôi lên trước. Nếu tôi không bấu chặt chân xuống đất, nó đã lôi tôi xuống dưới. Giọng nói càng thống thiết hơn: - Đưa tia chớp cho ta. Tấn công bọn thần bất trung bất nghĩa. Linh hồn người chết vây quanh thì thào: - Đừng! Tỉnh lại đi! Hình ảnh mẹ tôi mờ dần. Quái vật dưới vực siết chặt lực vô hình quanh người tôi. Đến lúc này tôi mới biết nó không định lôi tôi xuống. Nó muốn níu lấy tôi mà leo lên. Nó lào khào: - Tốt! Tốt lắm! Linh hồn khe khẽ giục: - Dậy đi! Thức tỉnh đi. Có người lay tôi dậy. Tôi choàng tỉnh. Trời sáng bảnh mắt từ lúc nào. Annabeth trêu chọc: - Rồi, thây ma sống lại kìa. Giấc mơ làm tôi run khắp người. Tôi như thấy quái thú dưới vực còn siết chặt ngực mình: - Tớ ngủ bao lâu rồi? Annabeth ném sang bịch bánh khoai chiên giòn lấy từ nhà “cô Em” đêm qua: - Lâu. Tớ chuẩn bị xong bữa sáng rồi đây. Còn Grover thăm thú xung quanh xong. Nhìn này, cậu ấy tìm được bạn. Mắt tôi cay xè, chưa tập trung được. Grover ngồi xếp bằng trên tấm mền. Có con gì lông xù nằm gọn trong lòng nó: Một con thú nhồi bông màu hồng kỳ dị bẩn lem nhem. Không, không phải thú nhồi bông. Nó là chó xù màu hồng. Thấy tôi, nó cảnh giác sủa ăng ẳng. Grover thản nhiên: - Không, cậu ấy không thế. Tôi chớp mắt lia lịa: - Cậu... nói chuyện với chó à? Chú khuyển gầm gừ. Grover đe: - Cậu nói nghe có vẻ coi thường. Nói cho biết nhé: Chú cún này là tấm vé giúp chúng ta đi về hướng tây đấy. Lịch sự với người ta một tí. - Cậu biết nói tiếng thú à? Grover giả điếc: - Giới thiệu với Percy, đây là Gladiola. Gladiola này, đây là Percy. Tôi trợn mắt nhìn Annabeth, hy vọng bạn ấy quát Grover thôi đùa dai với tôi. Nhưng Annabeth cực kỳ nghiêm túc. Tôi nguây nguẩy: - Ai lại chào chó! Quên đi, tớ không chào. Annabeth khăng khăng: - Percy này. Tớ vừa chào Glodiola xong. Giờ đến lượt cậu. Gladiola lại gầm gừ. Tôi đành miễn cưỡng chào nó. Grover kể nó gặp Glodiola trong rừng, bèn bắt chuyện làm quen. Chú cún lông xù này chạy trốn gia đình chủ giàu có. Họ treo giải thưởng hai trăm đô la cho ai bắt được nó. Dù không muốn quay lại nhà đó, nhưng muốn giúp Grover, nó xin sẵn lòng. Tôi hỏi: - Sao Glodiola biết có giải thưởng? - Thì đọc tờ rơi. Có thế cũng hỏi. - Ờ nhỉ! Tớ ngốc thật. Ra chó cũng biết đọc cơ đấy. Annabeth ôn tồn trình bày kế hoạnh: - Vậy ta sẽ trả Gladiola về nhà, lấy tiền mua vé đi Los Angeles. Thế là xong. Tôi nhớ giấc mơ hồi tối: Những linh hồn thì thầm, quái thú dưới vực, khuôn mặt mẹ đúng lúc bị biến thành cơn mưa vàng. Có thể tất cả đều đang ở hướng Tây chờ tôi. Tôi nói trước: - Không đi xe buýt đâu đấy. Annabeth đồng tình: - Ừ, quên vụ xe buýt đi. Bạn ấy chỉ tay xuống chân đồi, nơi có đường ray xe lửa chạy qua. Đêm qua tôi không nhìn thấy trời tối. - Ga xe lửa Amtrak cách đây một cây số. Gladiola bảo trưa nay tàu đi hướng tây sẽ khởi hành. 13.Tôi lao đầu vào chỗ chết. Hai ngày liền,chúng tôi trên tàu Amtrack chạy thẳng về hướng tây, băng qua bao núi đồi, sông suối và những cánh đồng lúa mì gợn sóng màu hổ phách. Dù không bị tấn công lần nào,tôi vẫn không thoải mái.Tôi cảm giác cả ba chạy vòng quanh hộp đồ chơi.Nhiều cặp mắt theo dõi chúng tôi từ bên trên và bên dưới như thể có người đang chờ lúc thuận lợi là ra tay. Tôi cố gắng ẩn mình, càng ít người thấy càng tốt vì ảnh tôi theo nhiều tờ báo đi khắp miền duyên hải phía đông. Tờ Trenton Register News đăng tấm hình khách du lịch chụp tôi vừa chạy từ xe buýt Greyhound.Tôi không tin ở mắt mình: bóng thanh kiếm Thủy triều mờ mờ, trông như tôi đang cầm gậy vụt bóng chày. Ghi chú dưới bức hình có nội dung sau: "Percy Jackson,mười hai tuổi, đang bị cảnh sát truy lùng nhằm làm rõ nguyên nhân mất tích của mẹ cậu bé cách đây hai tuần, lộ diện khi chạy trốn khỏi xe buýt, nơi cậu bé bắt chuyện với mấy cụ già là hành khách trên xe. Jackson vừa xuống, chiếc xe nổ tung trên hương look vắng vẻ miền New Jersey. Dựa theo lời kể của nhiều nhân chứng, Jackson có hai kẻ tòng phạm luôn theo sát cậu bé. Ông Gabe Ugliano, bố dượng cậu bé, treo giải thưởng bằng tiền mặt cho ai bắt được cậu bé." Annabeth trấn an: "Đừng lo.Cảnh sát người phàm không bắt được chúng ta đâu." Nhưng nghe giọng nói,tôi biết chính Annabeth cũng không dám chắc. Suốt ngày hôm đó, tôi như ngồi trên chảo lửa.Nếu không đi tới đi lui hết chiều dài con tàu, tôi lại đứng nhìn cửa kính. Một lần, tôi thấy cả gia đình nhân mã đeo cung tên săn bữa trưa đang phi nước kiệu qua đồng lúa mì.Thấy tôi nhìn, cậu con trai trạc tuổi họp trò lớp hai dính trên mình ngựa con giơ tay vẫy. Tôi nhìn hành khách trong khoang nhưng hình như không ai thấy. Người lớn đi tàu, thường vùi mặt vào tạp chí hoặc chăm chú ngó màn hình máy tính xách tay. Lần khác, lúc sẩm tối,có con gì to lớn chạy xuyên cánh rừng ven đường.Tôi tin chắc mình nhìn thấy sư tử, chỉ có điều ở Mỹ không có sư tử.Hơn nữa con này cực kỳ to lớn. Lông nó vàng óng trong ánh hoàng hôn.Lát sau, nó chạy sâu vào rừng cây rậm rạp và biến mất. Tiền thưởng tìm Gladiola trả cho bọn tôi chỉ đủ mua vé đến Denver.Không thể chơi sang mua vé nằm, bọn tôi đành gà gật trên khoang tàu ngồi. Cổ và gáy tôi tê cứng. Vì Annabeth ngồi ngay bên cạnh, nên tôi cố không nhểu dãi. Grover vừa ngủ, vừa ngáy, vừa nói mơ khiến tôi thức suốt. Có lần nó đạp mạnh khiến hai bàn chân giả rụng ra. Tôi và Annabeth cuống cuồng hắn lại vì sợ lộ tẩy. Annabeth xỏ giày vào chân Grover: - Nói nghe xem, ai nhờ cậu giúp thế? - Sao cậu hỏi vậy? - Lúc cậu ngủ, cậu nói mơ :"Ta không giúp ngươi đâu.". Cậu mơ thấy ai thế? Tôi không định kể nhưng đã hai lần tôi mơ thấy giọng nói của quỷ dưới vực. Nhưng vì lo quá nên cuối cùng tôi tâm sự hết. Annabeth im lặng rất lâu. -Nghe ra thì không phải Hades. Bao giờ ông ta cũng xuất hiện trên ngai vàng màu đen và không bao giờ cười thành tiếng. -Vật ấy đem mẹ tớ ra trao đổi. Không Hades thì ai vào đây? -Theo tớ thì....có thể ông ta bảo:"Giúp ta rời Địa ngục", nếu ông ta muốn cư dân đỉnh Olympia tiêu diệt nhau. Nhưng nếu đã có Tia Chớp trong tay, tại sao ông ta đòi cậu giao nó? Tôi lắc đầu. Giá tôi biết câu trả lời thì hay quá.Tôi nhớ Grover từng bảo hình như ba Nữ Thần Báo Thù đang tìm kiếm thứ gì đó trên xe buýt. Nó ở đâu? Ở đâu? Hình như cảm xúc của tôi ảnh hưởng đến Grover. Nó khụt khịt,lẩm bẩm câu gì đó về rau cỏ rồi lật đầu sang bên kia ngủ tiếp. Annabeth chỉnh mũ, che sừng cho Grover: - Percy này, chớ đổi chắc với Hades.Chắc cậu thừa biết ông ta xảo trá, nhẫn tâm và tham lam vô độ. Lần này, dù ba "Người Tử Tế" ông ta cử lên trần gian không hung hăng, tớ cũng không mắc lừa... - Nói thế có nghĩa trước đây cậu gặp họ rồi ư ? Annabeth chạm tay vào vòng đeo cổ, chỉ năm viên sứ lưu niệm, viên màu trắng có vẽ hình cây thông. - Cứ cho là tớ không ưa gì thần cai quản địa ngục. Cậu đừng như cá cắn câu, mắc mưu ông ta vì muốn cứu mẹ. - Giả sử ở địa vị tớ và Hades lấy cha cậu làm mồi nhử, cậu sẽ làm gì? - Dễ ợt.Tớ mặc ông ấy cho quạ rỉa. - Nói thật hay đùa đấy ? Cặp mắt xám nhìn tôi không chớp. Mặt lạnh lùng y như lúc ở trại hè Annabeth rút kiếm định chém con chó địa ngục. - Cậu không biết chứ cha tớ ghét tớ từ lúc tớ mới lọt lòng mẹ. Ông chưa hề muốn có con bao giờ. Nghe tin có tớ, ông bảo thần Athena mang tớ lên đỉnh Olympia mà nuôi. Ông ấy bận, không chăm sóc được. Nghe vậy mẹ buồn lắm. Mẹ bảo các anh hùng phải do cha hoặc mẹ người phàm nuôi dạy dưới trần. - Nhưng....mẹ cậu không thể đến nhà bảo sanh, đúng không? - Thần Gió Tây Zephyr mang nôi vàng trong đó có tớ thả trước cửa nhà cha. Chắc chắn cha tớ phải biết đó là phép màu. Cũng như người phàm chụp ảnh kỹ thuật số vậy. Nhưng lúc nào ông cũng ca thán rằng tớ là mối phiền toái lớn nhất đời ông. Tớ mới lên năm, ông đã cưới vợ khác, quên hẳn mẹ tớ. Có vợ người phàm và hai đứa con hoàn toàn bình thường, ông ta cố giả vờ như không hề có tớ trên đời. Tôi ngó mông lung ngoài cửa kính. Ánh đèn vàng vọt của thị trấn đang say ngủ trôi dần qua. Tôi muốn an ủi bạn nhưng không biết ăn nói thế nào. - Mẹ tớ lấy một gã vô cùng đê tiện. Grover bảo mẹ bảo vệ tớ....bằng cách dùng khung cảnh gia đình phàm trần làm bình phong che chắn cho con. Chắc cha cậu cũng theo cách ấy. Annabeth mân mê vòng cổ không rời. Cô bé nắm chặt nhẫn vàng đeo cùng năm hạt sứ, loại nhẫn sinh viên tốt nghiệp trường quân sự West Point hay đeo. Tôi đoán chắc nhẫn của cha Annabeth. Nếu giận cha, sao Annabeth còn đeo nó? - Cha bỏ bê, còn dì ghẻ chê tớ quái đản. Bà ly gián, không cho tớ chơi với em cùng cha khác mẹ. Mỗi khi có tình huống nguy hiểm, chẳng hạn yêu quái tấn công, cả hai đều tức tối dồn mắt vào tớ như muốn nói :"Sao ngươi dám bắt người thân cùng chịu nguy hiểm?". Sau này, tớ hiểu cha và mẹ kế không muốn chứa chấp đứa con bất bình thường. Thế nên, tớ bỏ nhà đi luôn. - Năm ấy cậu mấy tuổi ? - Bảy tuổi.Cùng năm tớ đến Trại Con Lai. - Nhưng...cậu không thể đi một mình đến trại hè được. - Đúng vậy.Chẳng ai làm thế một mình cả. Vì luôn dõi theo con nên mẹ hướng dẫn tớ tìm người giúp. Tớ bất ngờ quen hai người bạn sau này giúp tớ rất nhiều....nhưng mọi chuyện kết thúc quá chóng váng. Tôi muốn hỏi sau đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hình như Annabeth đắm mình với chuỗi kỷ niệm buồn, quên hết xung quanh. Tôi biết gặng hỏi chỉ làm bạn ấy buồn thêm. Trong lúc tàu lao nhanh đến Ohio, tôi đành vừa chịu trận tiếng ngáy như kéo gỗ của Grover, vừa ngắm những cánh đồng trải dài tít tắp trong đêm khuya thanh vắng. Đi tàu hết gần hai ngày, tức cuối ngày mười ba tháng Sáu, tám ngày trước Hạ chí, chúng tôi theo tàu đi qua dãy đồi rợp nắng vàng, qua cầu bắt ngang sông Mississippi, tiến vào địa phậm St.Louis. Annabeth say mê ngắm Gateway Arch, cửa ô xây hình vòm ngay lối vào thành. Tôi thấy nó giống quai túi giấy móc bên hông đô thị sầm uất. Cô bạn trầm trồ: - Tớ thích giống họ. - Cái gì? - Xây một cái giống thế. Cậu thấy đền Parthenon chưa, Percy? - Chỉ có trong ảnh thôi. Annabeth nhìn xa xăm: - Sẽ có ngày chính mắt tớ thấy công trình vĩ đại như thế. Tớ sẽ xây dựng tượng đài lớn nhất lịch sử cho các thần. Một kỳ quan sau hàng chục thế kỷ vẫn sừng sững giữa trời. Tôi bật cười: - Cậu á ?Định làm kiến trúc sư à ? Không hiểu sao tôi thấy tức cười. Thật khó hình dung Annabeth ngồi yên cả ngày kẻ kẻ, vẽ vẽ. Hai má bạn tôi đỏ như quả bồ quân. - Ừ, kiến trúc sư thì sao nào? Mẹ Annabeth kỳ vọng con mình kiến tạo, không đập phá như cái ông thần chuyên gây động đất kia. Tôi im lặng nhìn con sông Mississippi chở nặng phù sa, cuồn cuộn nổi sóng. Annabeth vội nói: - Xin lỗi. Tớ quá lời. Tôi năn nỉ : - Chúng ta hợp tác một chút có được không vậy ? Chẳng lẽ cha Poseidon và mẹ Athena chưa từng bắt tay làm chung dự án nào ư? Annabeth phải bình tâm ngẫm nghĩ mới nhớ ra: - Chắc có chứ.... cỗ xe cho thần mặt trời chẳng hạn. Sáng kiến của mẹ tớ, nhưng thần Poseidon biến sóng biển thành đàn bạch mã kéo xe. Sau đó, họ cùng chung tay hoàn tất nó. - Vậy nếu muốn, ta làm chung được mà. Đoàn tàu lao nhanh đến trung tâm thành phố. Annabeth ngắm mãi cho đến khi cửa ô mái vòm khuất sau tòa nhà khách sạn cao ngất. Mãi sau, bạn ấy mới bảo: -Ừ. Tàu dừng trong nhà ga Amtrack tọa lạc giữa lòng thành phố.Loa trên toa thông báo tàu nghỉ hai tiếng trước khi khởi hành đến Denver. Grover vươn vai. Chưa mở mắt, nó đã kêu: -Ăn! Annabeth giục : - Dậy đi, dê con. Ta đi ngắm cảnh thôi. - Ngắm gì? - Gateway Arch. Chắc đây là cơ hội duy nhất leo lên mái cổng vòm của tớ. Cậu có đi không thì nói? Grover và tôi đưa mắt nhìn nhau. Tôi định từ chối :"Không đi đâu", nhưng tốt hơn hết chớ nên để Annabeth đi đâu một mình. Grover nhún vai: - Miễn là quán ăn ở đó không có yêu quái. Gateway Arch (1) cách nhà ga vài dãy nhà. Giờ đã là cuối ngày. Dòng người xếp hành lên đỉnh tham quan đã vãn. Chúng tôi băng qua viện bảo tàng dưới lòng đất, xem xe đẩy và thuyền mành của người da đỏ có từ đầu thế kỷ mười bảy. Tuy không thú vị lắm nhưng nghe Annabeth nhiệt tình thuyết minh về tiến trình xây cổng vòm, được Grover liên tục giúi kẹo vào tay nên tôi cũng thấy hay hay. Tuy nhiên, tôi luôn cảnh giác quan sát đoàn người xếp hàng xem có gì khác thường chăng. Tôi ghé tai Grover hỏi nhỏ: - Cậu ngửi thấy gì không? Nó nhăn mặt bảo: - Không khí dưới lòng đất luôn có mùi yêu quái. Chắc không có gì đáng ngại đâu. Nhưng tôi thấy bất an, bụng bảo dạ đáng lẽ cả ba không nên đến đây. - Này, các cậu biết biểu tượng sức mạnh thần thánh là gì không? Đang đọc về thiết bị xây dựng dùng xây cổng vòm, Annabeth ngẩng lên hỏi: - Là gì? - À, là Hades... Grover đằng hắng: - Ta đang ở giữa chốn đông người.... cậu vừa nhắc đến ông bạn "dưới lầu" phải không? - Ừ, tít tận dưới đó. Có phải ông ta cũng có mũ giống mũ Annabeth? Annabeth đáp: - À, mũ sắt của thần bóng tối. Phải, biểu tượng quyền uy đấy. Hôm các thần họp cuối năm, tức ngày Đông chí, tớ thấy mũ đặt cạnh ghế của Hades. - Ông ta cũng đến à? Annabeth gật đầu: - Ngày tối trời nhất trong năm,ngày duy nhất Hades lên đỉnh Olympia. Nhưng theo tớ biết, mũ của Hades công năng kỳ diệu hơn mũ tàng hình này nhiều.... Grover công nhận: - Nhờ nó, Hades tan vào bóng tối, đi xuyên tường. Không ai chạm tới, nhìn hoặc nghe tiếng ông ta. Đồng thời, Hades biết cách gây nên cơn hoảng loạn ghê gớm đến mức làm người ta phát điên hoặc đứng tim. Thử nghĩ xem, sao có người cực kỳ duy lý vẫn sợ bóng tối? - Nhưng....giả sử lúc này ông ta đội mũ tàng hình có mặt ngay đây, sao ta biết được? Annabeth và Grover lo lắng nhìn nhau: - Không ai biết cả. - Chà, đa tạ. Giờ tới ăn không ngon ngủ không yên rồi đây. Còn kẹo dẻo không? Vừa thấy thang máy bé xíu chạy lên đỉnh mái vòm, tôi giật thót mình. Linh tính mách bảo tôi sắp gay go to. Tôi ghét không gian hẹp lắm. Nếu bị ép vào đó, đầu óc tôi sẽ bấn loạn mất. Chúng tôi bị nhồi vào thang máy có sẵn bà béo ục ịch dắt con chó dữ giống Chihuahua, đeo cổ dề gắn kim cương giả. Tôi tưởng ở đây cấm chó nhưng khổ nỗi thấy nó, không nhân viên nào kêu ca một tiếng. Chúng tôi bắt đầu đi lên. Chưa bao giờ đi thang máy theo đường vòng cung thế này nên tôi hơi buồn nôn. Bà béo hỏi trống không: - Bố mẹ không đi cùng à? Mắt bà ta tròn xoe, răng nhọn và đen như nghiện cà phê. Bà này đội mũ vải jeans, mặc váy may cùng chất liệu chật cứng, ngấn thịt nổi từng cuộn khiến bà ta trông giống quả kinh khí cầu bọc vải. Annabeth đáp: - Họ ở dưới. Sợ độ cao mà. - Ôi, tội nghiệp chưa. Chú khuyển Chihuahua gầm gừ. Bà chủ nhắc: - Thôi nào Sonny, ngoan nào. Mắt chó tròn xoe như mắt chủ: vừa hằn học vừa như nhìn thấu mọi vật. Tôi hỏi: - Tên nó là Sonny ư? - Không. Đáp xong, bà ta cười như thể tôi có nghĩa vụ hiểu cho tường tận. Lên đỉnh mái vòm, gian nhà dành cho khách tham quan đứng ngắm cảnh gọi cho tôi hình ảnh trại giam bé xíu trải thảm đỏ. Bên tường này là dãy cửa sổ tí tẹo nhìn xuống thành phố. Cửa sổ tường bên kia nhìn xuống sông. Tuy phong cảnh đẹp nhưng với tôi, thứ đáng ghét hơn không gian hẹp là một không gian đã hẹp còn lơ lửng giữa trời, cách mặt đất gần ba trăm thước. Tôi chỉ muốn về ngay. Kéo Annabeth và Grover ra cửa, đẩy hai đứa vào xe điện, tôi định chui vào cùng nhưng phát hiện trong xe có sẵn hai người khác. Không còn chỗ cho tôi nữa rồi. Bảo vệ nhắc: - Cậu này đi xe sau. Annabeth kêu lên: - Vậy tụi tôi cũng ra. Chúng tớ cùng đợi với cậu. Biết làm thế phiền mọi người và tốn thời gian, tôi bảo: - Không cần đâu. Đợi tớ ở dưới được rồi. Cả Grover và Annabeth đều lo lắng, nhưng họ đành buông tay để cánh cửa xe xập lại. Xe điện mất hút dưới bờ dốc. Giờ trên khu ngắm cảnh chỉ còn tôi, một cậu bé đi chung với bố mẹ, nhân viên an ninh và bà béo dắt chú khuyển Chihuahua. Tôi ngượng ngập cười xã giao với bà béo. Lúc bà ta cười đáp lễ, đầu lưỡi chẻ đôi lấp ló sau hai hàm răng. Gượm đã. Lưỡi bà ta chẻ đôi. Trước khi tôi kịp kiểm tra lại xem mình có nhìn lầm chăng, con chó dữ đã nhảy xổ về phía tôi sủa ông ổng. Bà béo vỗ về nó: - Chưa đâu, cưng. Giờ chưa phải lúc. Người vô can còn đứng ở đây mà. Cậu bé kêu lên: - Chó! Chó kìa. Bố mẹ cậu bèn kéo con lùi lại. Con Chihuahua nhe nanh dọa tôi, bọt mép trào ra, dính đầy đôi môi thâm xì. Bà béo thở dài: - Thôi được rồi, con trai. Mày thích thì tao chiều. Tôi lạnh cả người: - Bà vừa gọi con Chihuahua này là con trai ư? Bà ta sửa gáy: -Chimera (2) ,không phải Chihuahua.Dễ nhầm quá phải không? Mụ ta xắn tay áo, để lộ cẳng tay đóng vảy xanh lè. Lúc mụ cười, răng biến thành nanh hết. Hai tròng mắt mụ chạy sang hai bên thái dương, giống mắt bò sát. Con chó sủa to hơn. Sau mỗi tiếng sủa, nó phình to ra. Lúc đầu to bằng người, sau to bằng sư tử. Tiếng sủa lớn như hổ rống. Cậu bé hét lên. Bố mẹ cậu lôi tuột con ra cửa, thẳng tới chỗ nhân viên an ninh đang đứng chết sững, kinh hoàng nhìn quái thú. Con Chimera cao đến độ lưng nó chạm nóc nhà. Quái thú đầu sư tử có bờm bết máu khô, mình và bốn chân móng guốc như dê, đuôi là con rắn độc ngoe nguẩy. Con rắn to như con trăn dài ba thước vươn dài từ sau cặp mông lông lá. Vòng cổ đính kim cương giả vẫn trên cổ nó,bảng tên ghi rõ:"CHIMERA,HUNG DỮ, KHẠC RA LỬA, RĂNG CÓ NỌC ĐỘC. NẾU AI TÌM THẤY XIN GỌI ĐÊN TARTARUS, số nội bộ 954." Tôi nhận ra tôi chưa mở nắp cây kiếm. Hai bàn tay tê dại. Chỉ cách bụng dính máu khô của Chimera mười bước chân, tôi biết nếu thấy động nó sẽ lao ngay đến. Bà rắn cười phì phì như tiếng hổ mang bành. - Percy Jackson, hẳn ngươi tự hào lắm. Hiếm khi Dớt cho phép ta mang con trai ta đi tỉ thí với anh hùng. Nhớ lấy. Ta là phù thuỷ Echidna, mẹ của bầy quái thú. Tôi trố mắt nhìn mụ, buột miệng: - Tưởng Echidna là thú ăn kiến chứ? Mụ rống lên, mặt tím bầm giận dữ: - Hễ nghe nói vậy, ta bừng bừng lửa hận. Ta ghét dân châu Úc, đem tên ta đặt cho loài cầm thú quái dị đó. Ngươi dám xúc phạm ta, con trai ta sẽ xé xác ngươi. Chimera xông tới, nhe hàm răng sư tử nhọn hoắt. Tôi nhanh nhẹn nhảy sang bên tránh cú đớp khủng khiếp. Cú nhảy đưa tôi đến cạnh gia đình cậu bé và nhân viên an ninh. Bốn người họ đều kêu cứu inh ỏi, cố mở cửa lối thoát hiểm. Tôi không thể khoanh tay nhìn họ bị hại. Mở nắp bút, tôi chạy sang mé bên kia phòng, miệng hét tướng; - Này, Chihuahua! Quái thú Chimera quay ngoắt, nhanh hơn tôi tưởng. Trước khi tôi kịp vung kiếm, nó há hoác miệng. Sau hơi thở khét lẹt mùi thịt cháy như khói từ lò nướng thịt khổng lồ, một luồng lửa đỏ phụt thẳng vào tôi. Tôi nằm bẹp xuống tránh. Kế đến là khói mù mịt, thảm bốc cháy và hơi nóng thiêu rụi lông mày tôi. Ngay chỗ tôi đứng khi nãy là lỗ hổng toang toác bên sườn cổng vòm. Khói từ kim loại nóng chảy bốc quanh miệng hố. Tôi nhủ thầm:"Chết thật. Mình vừa góp tay phóng hỏa công trình tầm cỡ quốc gia." Kiếm Thủy triều hiện nguyên hình trên tay tôi. Chờ Chimera quay lại, tôi nhắm cổ nó đâm lên. Thật là sai lầm chết người. Lưỡi kiếm đâm trúng vòng cổ, toé lửa. Con vật không hề hấn gì. Tôi loạng choạng cố đứng vững. Nhưng mải tránh miệng sư tử hung hăng, tôi mất cảnh giác với đuôi rắn. Con rắn độc vút đến, cắn phập nanh vào bắp chân tôi. Toàn thân tôi như có lửa thiêu. Tôi cố đâm mũi kiếm vào miệng Chimera nhưng bị đuôi rắn quấn quanh cổ chân, lôi tôi ngã nhào. Kiếm tuột khỏi tay văng đến lỗ thủng khi nãy và rơi xuống dòng Mississippi. Cố đứng dậy được như tôi biết mình thua. Tôi không có vũ khí trong lúc nọc rắn theo máu chạy lên tận ngực. Tôi nhớ bác Chiron bảo kiếm luôn quay về với chủ nhưng túi tôi hiện giờ không có bút. Có lẽ nó rơi quá xa. Có lẽ nó chỉ trở về dưới dạng bút thường. Tôi không biết về nó, chỉ biết tôi không còn sống đến lúc đoán ra. Tôi lùi trở lại lỗ thủng. Chimera gầm gừ tiến đến, miệng thở khói cuồn cuộn. Phủ thủy rắn Echidna đắc thắng: - Thời nay anh hùng sao bì được thời xưa, phải không con trai? Quái thú tru lên.Thấy tôi tơi tả, nó nóng lòng muốn kết liễu tôi cho xong. Liếc nhìn nhân viên an ninh và gia đình cậu bé ,tôi thấy cậu ta núp sau chân bố. Tôi phải bảo vệ họ, chết bây giờ....không phải lúc! Tôi cố nghĩ cách nhưng toàn thân nóng rực. Đầu óc quay cuồng. Tôi không có gươm. Trước mặt tôi là quái thú khạc ra lửa và phù thuỷ mẹ nó. Còn tôi đang run sợ. Không còn chỗ để lùi thêm nữa, tôi đã tiến sát miệng hố. Tít phía dưới kia là dòng sông lóng lánh ánh bạc. Nếu tôi chết, mẹ con quái thú có bỏ đi không? Chúng có tha những người vô tội kia không? Echidna rít lên: - Nếu đúng con thần Poseidon, ngươi đâu sợ nước. Ta thách ngươi nhảy xuống sông đấy. Nếu không chứng minh được nước không làm hại ngươi, ngươi chẳng là cái thá gì cả. Nhảy xuống vớt gươm lên xem nào. Thế mà cứ huênh hoang ta đây con dòng cháu giống. Tôi nghĩ thầm:"Đúng rồi." Tôi nhớ có sách dạy rằng nhảy từ trên cao, khoảng cách bằng toà nhà hai tầng xuống nước, giống như lao thẳng xuống nền nhựa đường. Còn từ độ cao này, da thịt tôi sẽ nát nhừ. Miệng con Chimera đỏ rực, chuẩn bị khạc lửa. Mụ Echidna bảo tôi: - Ngươi không có lòng tin. Không tin tưởng các thần trên trời. Ta không trách nhóc con hèn nhát. Ngươi có sống cũng chẳng làm nên trò trống gì. Thần thánh không giúp gì được ngươi. Nọc độc sắp chạy vào tim rồi. Mụ nói không sai. Tôi sắp chết rồi, hơi thở yếu dần. Không ai cứu nổi tôi, kể cả các thần trên đỉnh Olympia. Tôi lùi tiếp và quan sát dòng sông bên dưới. Tôi nhớ vầng hào quang ấm áp từ nụ cười của cha. Chắc chắn ông đã nhìn mặt tôi. Lúc tôi còn nằm nôi, cha đã ghé thăm tôi rồi. Tôi nhớ cây đinh ba quay tròn trên đầu đêm hội cướp cờ, dấu hiện cho thấy thần Poseidon đã nhận con. Nhưng dưới kia không phải biển, chỉ là sông Mississippi nằm giữa địa phận Hoa Kỳ. Thần biển không có ở đó. - Kẻ mất lòng tin như ngươi đáng chết. Echidna lải nhải, Chimera khạc cột lửa thẳng tới mặt tôi. Tôi cầu xin: - Cha ơi, cứu con. Tôi quay người lao xuống sông trong lúc quần áo bắt lửa và độc tố theo máu đi khắp cơ thể. (1) Gateway Arch: hay còn gọi là Gateway to the West, tọa lạc tại thành phố St.Louis Missouri, là một phần thêm ra của đài tưởng niệm Jefferson National Expansion Memorial,có hình mái vòm, và được xem là biểu tượng của thành phố này. Với chiều cao 192 mét, đây là đài tưởng niệm cao nhất tại Hoa Kỳ. (2) Chimera: có xuất xứ từ vùng Châu Á, là con của quái vật Typhon và Echidna, có họ hàng với chó ba đầu Cerberus và quái vật Hydra. Chimera có khả năng thở ra lửa. 14. Kẻ bị truy nã Tôi thích tự nhận rằng khi cắm đầu lao xuống, tôi ngộ ra chân lý cuộc đời, rằng cái chết không còn đáng sợ v.v..và v.v... Bạn muốn biết sự thật? Tôi kêu không thành tiếng: - AAAAAAAGGGGGGGHHHHHHHH!!! Tôi lao xuống mặt nước với vận tốc xe tải. Gió thổi bạt hơi khiến tôi tưởng hai lá phổi đều nổ tung. Trong mẳt tôi, nhà cửa, đồi núi, tàu bè đều lộn ngược, xiên xéo. TÙM! Bọt nước trắng xóa. Khi chúi xuống vùng nước tối, tôi tưởng đâu mình sắp lao đầu qua ba chục mét nước pha bùn và mãi mãi bị chôn vùi dưới đáy sông. Nhưng lúc va chạm với mặt nước tôi không đau. Giờ tốc độ chìm đang chậm lại, bọt nước luồn qua kẽ tay tôi nhồn nhột. Tôi không gây tiếng động lúc chạm xuống đáy. Một con cá da trơn nhầy nhụa to bằng bố dượng tôi ngue ngoẩy bơi về phía ánh sáng mờ mờ. Phù sa sông Mississippi trộn lẫn cả đống rác rến kinh tởm: nào chai bia rỗng, giày cũ và bịch ni lông. Lúc ấy, tôi nhận ra vài điều. Thứ nhất: Người tôi không dẹp lép như bánh xếp. May mà trước khi nhảy, tôi chưa thành thịt nướng. Nọc độc của Chimera không còn sục sôi trong mạch máu nữa. Tôi còn sống, thế là tốt rồi. Thứ hai: Tôi không ướt. Tuy chân thấy mát lạnh, lửa cháy trên quần áo bị dập tắt nhưng lúc tôi sờ vạt áo, nó vẫn khô. Trông số rác trôi lơ lửng, tôi lấy hộp quẹt ga và nhủ thầm:"Để xem nào." Tôi bật lửa. Tia lửa bắn ra. Một ngọn lửa tí xíu xuất hiện ngay dưới lòng sông Mississippi. Tôi quờ tay vơ mảnh giấy gói hamburger thấm đẫm nước trôi giữa dòng. Lập tức giấy khô cong. Khi gí nó vào lửa, giấy cháy dễ dàng. Tôi vừa buông tay, lửa tắt lịm. Mảnh giấy lại thành mẩu rác nhầy nhụa. Quái đản thật. Nhưng đến lúc đó, tôi để ý thấy điều kì lạ nhất. Tôi vẫn thở. Đang ở đáy sông, tôi vẫn thở bình thường như trên mặt đất. Tôi đứng dậy thấy bùn ngập ngang đầu gối.Đầu gối mềm nhũn, hai tay run rẩy. Đáng lẽ giờ tôi chỉ là một thây ma. Nhưng tôi vẫn sống như thể có....phép lạ. Hình như tôi nghe tiếng phụ nữ. Giọng người này hơi giống mẹ tôi. - Percy, cậu nói gì vậy? Sâu dưới nước, giọng tôi vang vang như trong phòng thu âm và ồm ồm như giọng người lớn: - À...cảm ơn. Con cảm ơn....cha. Không lời đáp. Xung quanh chỉ có rác nối nhau trôi theo dòng, một con cá da trơn to khổng tượng lướt qua và ánh nắng lúc hoàng hôn tít trên cao xuyên qua làn nước chở nặng phù sa biến tất cả thành màu kẹo bơ caremen. Sao cha Poseido cứu tôi? Càng nghĩ sâu xa, tôi càng hổ thẹn. Tất nhiên, từ nhỏ đến lớn tôi gặp may vài lần. Nhưng đối mặt với Chimera... không thể có cơ hội sống. Chắc giờ bốn người dân lành trên cổng vòm đã bị nướng thành than. Không bảo vệ được họ, sao đáng mặt anh hùng chứ? Nhục nhã quá. Người như tôi chắc nên ở dưới này làm bạn với cá, gia nhập cư dân kiếp ăn ở tầng nước đáy. Rạt,rạt! Một chiếc xuồng máy đi qua phía trên đầu tôi, chân vịt khuấy nước phù sa đục ngầu. Cách tôi chưa đầy hai mét là thanh Thuỷ triều, cán cắm sâu xuống bùn. Tiếng phụ nữ êm ái lại cất lên: - Percy, cầm kiếm đi. Cha cậu đặt lòng tin vào cậu đấy. Lần này, tôi biết rõ tiếng nói không vang trong đầu tôi. Tôi không tự tưởng tượng ra nó. Giọng nói âm vang khắp nơi, truyền vào nước như sóng siêu âm của cá heo. -Ai vậy? Đúng lúc ấy, qua ánh sáng mờ mờ, tôi thấy một người phụ nữ và trang phục mang màu của nước trông như bóng ma bập bềnh trôi qua phía trên thanh kiếm. Tóc cô ấy bồng bềnh. Nhìn kỹ tôi thấy mắt cô ấy có màu xanh lục, giống mắt tôi. Tôi nghẹn ngào: - Mẹ đấy ư? - Tuy ta không phải mẹ cháu nhưng số phận mẹ cháu chưa tuyệt vọng như cháu nghĩ đâu. Ta chỉ là sứ giả truyền tin mà thôi. Hãy đến bãi biển Santa Monica. - Sao cơ ạ? - Cha cháu nhắn thế. Trước khi xuống địa ngục, hãy tới bãi biển Santa Monica. Hãy nhớ kỹ, Percy. Ta không thể ở đây lâu. Vì nước quá bẩn nên ta phải đi ngay. Tôi tin chắc đó là mẹ tôi, hay ít nhất là cái bóng của bà. - Nhưng...cô là ai.....Sao cô lại..... Dù muốn hỏi dồn nhưng lời lẽ tắc nghẹn trong cổ họng tôi. Cô ấy với tay về phía tôi. Lập tức làn nước lướt qua mặt tôi như cái vuốt má trìu mến. - Hỡi cậu bé dũng cảm, giờ ta phải đi. Cháu nhất định phải đến Santa Monica. Còn nữa, quà tặng không đáng tin. Giọng cô nhỏ dần: - Quà nào ạ? Khoan đã..... Cô định nói thêm nhưng không thành tiếng. Bóng cô tan vào nước. Nếu đó là mẹ,tôi vừa mất bà lần nữa. Tôi chỉ muốn trầm mình, bỏ xác dưới sông. Nhưng khổ nỗi: tôi không có khả năng chết đuối! Cô ấy bảo: "Cha cậu đặt lòng tin vào cậu đấy." Cô còn khen tôi dũng cảm.... trừ phi cô định dành câu ấy cho con cá đang bơi gần tôi. Tôi lội đến bên nắm lấy cán kiếm. Có thể Chimera và phù thuỷ rắn còn ở trên kia, chờ kết liễu đời tôi. Chắc chắn giờ cảnh sát tràn ngập nơi đó. Họ cố đoán xem ai làm thủng đỉnh mái vòm. Nếu thấy tôi, họ sẽ tạm giữ để thẩm vấn. Tôi đậy nắp, cất bút bi vào túi áo. Tôi thì thầm với dòng sông đen ngòm lần cuối: - Cảm ơn cha. Dứt lời,tôi đạp bùn ngoi lên mặt nước. Tôi ngoi đầu khỏi mặt nước, ngay cạnh vỏ hộp bánh McDonald bập bềnh trôi gần bờ. Cách đó một dãy nhà, tất cả xe cứu thương của thành phố St.Louis nhỏ bé tập trung quanh Gateway Arch. Trực thăng cảnh sát đảo trên đầu. Đám đông hiếu kỳ gợi tôi nhớ Quảng trướng Thời đại trước thời khắc đón chào năm mới. Một cô bé gọi mẹ: - Mẹ ơi! Anh kia từ sông đi lên. Người mẹ nghểnh cổ xem xe cứu thương, lơ đãng trả lời: - Ừ, hay nhỉ. - Nhưng quần áo anh ấy khô. - Ừ, ừ, mẹ biết rồi. Có nữ phóng viên nói trước ống kính: - Theo chúng tôi được biết, đây có lẽ không phải là một vụ khủng bố. Tuy nhiên,các nhà chức trách mới trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra. Như quý vị thấy, tổn hại là rất nghiêm trọng. Chúng tôi đang cố gắng tiếp cận nhóm người sống sót. Họ chứng kiến tận mắt có người ngã từ đỉnh Gateway Arch. Người sống sót! Tôi nhẹ cả người. Chắc nhân viên an ninh và gia đình cậu bé thoát nạn. Hi vọng Annabeth và Grover không sao. Tôi len đám đông để xem sau dãy cảnh sát xếp hành có gì. Một phóng viên khác tường thuật: - ....Một nam thiếu niên. Kênh Năm được biết máy quay an ninh ghi được cảnh cậu bé phát điên ngay trên khu vực dành cho khách tham quan và gây ra vụ nổ lạ lùng. Thật khó tin nhưng theo nguồn tin đáng tin cậy, sự thật đúng như thế. Xin nhắc lại, không có con số thương vong... Tôi lùi lại,đầu cúi gằm. Tôi đi vòng quanh hành rào cảnh sát rất lâu.Đâu đâu cũng thấy cảnh sát mặc thường phục và phóng viên. Sắp tuyệt vọng vì không thấy Annabeth và Gorver, tôi bỗng nghe giọng thân quen: - Perrr-cy! Tôi quay lưng lại và nghẹt thở trong vòng tay Grover: - Tụi tớ tưởng cậu tìm đường khác để đến chỗ Hades rồi. Đứng sau Grover, Annabeth làm mặt giận nhưng chắc chắn thấy tôi, bạn ấy cũng bớt lo. - Vừa rời tụi này năm phút là có chuyện! Có chuyện gì trên ấy thế? - Đại khái là tớ ngã. - Từ độ cao gần hai trăm mét ư? Có ông cảnh sát đứng sau lưng: - Tránh đường! Đám đông rẽ ra. Hai nhân viên y tế đẩy băng ca khẩn trương chạy ra. Tôi nhận ra ngay mẹ cậu bé nọ. Bà ta kể: - Sau đó, một con chó khổng lồ, con Chihuahua rất to khạc ra lửa.... Nhân viên y tế bảo: - Tôi nghe rồi. Bà cứ bình tĩnh. Chồng con bà bình yên vô sự rồi nhé. Thuốc thần kinh bắt đầu có tác dụng đấy. - Tôi không điên! Cậu ra nhảy xuống hố và con quái thú biến mất.-Bà ta nhìn thấy tôi.-Kìa, người kia đúng là cậu ấy! Tôi quay ngoắt đi, đoạn kéo hai bạn theo cùng. Chúng tôi lẩn vào đám đông. Annabeth hỏi dồn: - Chuyện thế nào? Có phải bà ta nhắc đến con Chihuahua trong thang máy không? Tôi kể hết từ đầu chí cuối: nào con Chimera, nào phù thủy Echidna, nào màn trình diễn nhảy từ trên cao của tôi và thông điệp của người phụ nữ dưới đáy sông. - Chà chà, ta sẽ đi Santa Monica! Cha cậu gọi, cậu không thể né được đâu nhá! Annabeth chưa kịp phản ứng thì đúng lúc chúng tôi đi ngang qua một phóng viên truyền hình trực tiếp. Tôi chết sững khi nghe ông ta bảo: - Percy Jackson. Đúng vậy. Kênh Mười Hai được biết nhận dạng thiếu niên gây ra vụ nổ vừa qua trùng khớp mô tả một người trẻ tuổi đang bị giới chức New Jersey truy nã sau vụ tai nạn xe buýt nghiêm trọng ở New Jersey cách đây ba ngày. Người ta tin rằng cậu ta đi về miền Tây. Xin giới thiệu với khán giả hiện ngồi trước màn hình tấm ảnh Percy Jackson. Ba chúng tôi cúi lom khom vòng ra sau xe của đài truyền hình và chạy vào hẻm. Grover bảo: - Việc cần làm ngay. Đi khỏi thành phố. May thay,chúng tôi tới được ga Amtrak mà không bị phát hiện. Cả ba lên tàu trước khi xe lửa chuyển bánh đi Denver. Màn đêm buông xuống, bao phủ con tàu chạy về hướng miền Tây. Chúng tôi bỏ lại phía sau rừng đèn xe cảnh sát sáng rực bầu trời. 15. Thần tốt bụng đãi bánh. Chiều hôm sau, ngày mười bốn tháng Sáu, bảy ngày trước Hạ chí, tàu vào ga Denver. Từ đêm qua, lúc tàu còn ở Kansas tới giờ, ba đứa chưa ăn. Từ lúc rời Trại Con Lai tới giờ: chưa tắm. Chắc chắn trông chúng tôi giống bụi đời. Annabeth gợi ý : - Tìm cách liên lạc với bác Chiron đi. Tớ muốn báo vụ cậu nói chuyện với thần sông. - Ta đâu dùng điện thoại được. - Có ai bảo dùng điện thoại đâu. Suốt nửa tiếng đồng hồ, ba đứa lang thang ở trung tâm thành phố dù tôi không biết Annabeth tìm gì. Ở đây khô và nóng, còn St.Louis thì ẩm ướt. Rặng Rocky vây quanh Denver, sừng sững như ngọn sóng thần sắp ập xuống thành phố. Cuối cùng, chúng tôi tìm được trạm rửa xe tự động vắng khách. Vừa vòng ra sau tránh xa đường lộ* , chúng tôi vừa quan sát xem có xe cảnh sát đi tuần không. Nếu thấy ba thiếu niên tay không lảng vảng gần trạm rửa xe hơi, cảnh sát hạng bét cũng sẽ đoán chúng tôi có ý đồ bất lương. Thấy Grover cầm vòi xịt,tôi hỏi: - Chính xác thì chùng ta đang làm gì đây? Nó làu bàu: - Những bảy mươi lăm xu. Tớ chỉ còn hai đồng hai mươi lăm xu. Annabeth có không? Annabeth đáp: - Đừng nhìn tớ. Nhà ăn đêm qua vét sạch túi tớ rồi. Tôi khoắng túi lấy hai mươi lăm xu, đồng tiền lẻ cuối cùng. Như vậy trong túi tôi còn lại hai đô la và một đồng vàng drachma lấy ở chỗ Medusa. - Tuyệt vời.Theo cách này, tớ không phải bơm nước mỏi rã cả tay. - Tớ không hiểu. Nó bỏ xu vào máy, vặn núm "phun sương". Tôi hỏi Annabeth: - Grover đang làm gì vậy? - Gửi thông điệp Iris.Nữ thần cầu vòng Iris sẽ mang thông điệp tới các thần. Nếu biết nói khéo nhờ thần giúp và nếu thần không bận, nữ thần Iris sẽ giúp cả con lai. - Gọi thần bằng vòi xịt nước ư? Grover chỉ vòi lên trời. Màn sương trắng dày đặc phụt ra: - Trừ khi cậu biết cách tạo cầu vồng nhanh hơn. Đúng như Grover nói, nắng xuyên qua sương nhanh chóng biến thành cầu vòng bảy sắc. Annabeth chìa tay: - Đưa tớ đồng drachma. Tôi ngoan ngoãn nghe lời. Bạn tôi giơ đồng tiền vàng cao quá đầu: - Xin thần nhận chút lòng thành. Cô bé tung đồng tiền vào cầu vồng. Sau khi tan vào ánh sáng vàng, nó biến mất. Annabeth kêu lên: - Đồi Con Lai. Chả thấy gì. Giây lát sau,sau màn sương hiện lên ruộng dâu, eo biển Long Island phía xa như thể chúng tôi đang đứng trên thềm Nhà Lớn vậy. Cạnh lan can quanh thềm, quay lưng lại phía tôi là một thanh niên tóc vàng mặc quần soóc và áo thun da cam. Tay cầm kiếm đồng, anh ra chăm chú quan sát cánh đồng cỏ. Tôi gọi: - Luke! Anh ngạc nhiên quay lại. Luke chỉ cách tôi ba thước chân và màn sương mỏng. Chỉ có điều tôi chỉ nhìn thấy phần cơ thể hiện trên cầu vồng. Nụ cười tươi tắn hiện trên khuôn mặt sẹo: - Percy! Kia có phải là Annabeth không? Ơn trời....các em không sao chứ? Annabeth lắp bắp: - À, ừm... không sao. Cô bé vuốt vuốt vạt áo dính bẩn, hất lọn tóc xõa xuống trán : - Em tưởng bác Chiron... Nụ cười của Luke tắt ngấm : - Bác ấy xuống dãy nhà có việc. Mấy em dưới đó gặp chuyện. Nhưng mà này, các em bình an không? Grover vẫn khoẻ chứ? Grover giơ vòi nước lên cao nghiêng người để Luke nhìn thấy: - Em đây. Ở trại xảy ra chuyện gì thế? Đúng lúc ấy, một chiếc xe hơi Lincoln Continental chạt vào trạm. Tiếng nhạc hip-hop mở hết cỡ phát ra từ đầu máy stereo. Xe chạy vào ngăn bên cạnh, âm bass từ loa trầm rung chuyển mặt đường. Luke hét lên: - Bác Chiron phải...sao ồn thế? Annabeth mừng vì có cớ tránh mặt: - Để em lo. Grover, đi thôi. - Cái gì ? Nhưng.... - Đưa vòi cho Percy rồi ra đây. Grover lẩm bẩm câu gì đó đại loại là con gái khó hiểu hơn cả gấu trúc Tasmanian. Nó đưa vòi cho tôi và đi theo Annabeth. Tôi chỉnh vòi nước sao cho vừa giữ được cầu vòng,vừa nhìn thấy Luke. Luke hét to át tiếng nhạc: - Bác Chiron vừa can một vụ đánh nhau. Tình hình trại khá căng thẳng. Tin mật Dớt và Poseido bất hòa bị tiết lộ. Ban quản lý trại chưa dám chắc ai loan tin gây hoang mang nhưng anh đoán cũng tên cặn bã gọi chó địa ngục bữa trước. Giờ anh em trong trại chia bè phái. Hệt như cuộc chiến thành Troy xưa: các thần Aphrodite và Apollo ủng hộ Poseidon. Athena ủng hộ thần Dớt. Tôi rùng mình khi nghĩ đến khả năng nhà Clarisse ủng hộ cha tôi, dù chỉ là việc nhỏ. Tiếng nhạc ở ngăn bên nhỏ hẳn. Tôi nghe Annabeth và gã trai nào đó cãi nhau bằng ngôn ngữ lạ. Chắc là tiếng Tây Ban Nha. Luke hỏi: - Tình hình em thế nào? Bác Chiron nhớ em lắm đấy. Tôi kể anh nghe gần như mọi chuyện, kể cả giấc mơ của tôi. Gặp anh tôi mừng quá nói luyên thuyên, cảm giác như được về trại hè ít phút. Không biết tôi thao thao cất tuyệt bao lâu nhưng mãi khi máy phun sương kêu "bíp bíp", tôi mới nhớ máy sẽ ngừng trong hơn phút nữa. Luke bảo: - Giá anh được đi với chú nhỉ ? Ở đây, tụi anh không giúp gì được nhiều. Nhưng nghe này, chắc chắn Hades lấy tia chớp. Đông chí vừa rồi ông ta có lên đỉnh Olympia. Anh giám sát một chuyến tham quan và tụi anh thấy ông ấy. - Nhưng bác Chiron bảo các thần không có khả năng tự tay lấy dụng cụ có phép thần của nhau. Luke bối rối ra mặt: - Đúng, đúng. Nhưng ....Hades có mũ sắt tàng hình. Ai dám vào phòng đặt ngai vàng của Dớt lấy trộm tia chớp chứ? Phải tàng hình mới vào được. Cả hai im lặng. Luke như sực nhớ nói chữa: - Này, anh không ám chỉ Annabeth đâu nhé. Anh quen cô bé lâu nên hiểu tính. Annabeth không bao giờ....Nói thực là anh coi Annabeth như em gái. Tôi e Annabeth không thích thế. Tiếng nhạc ở ngăn bên tắt hẳn. Có tiếng đàn ông hoảng hốt la to, tiếng cửa đóng sập và chiếc Lincoln lủi ra khỏi trạm rửa xe. - Chú thử ra xem chuyện gì. À này, còn mang giày anh đưa chú không? Nếu nó giúp được chú, anh cũng mừng. Tôi thấy mình có tội khi phải nói dối: - À...có. Tiện lắm anh ạ. Nước tắt ngấm. Sương bắt đầu tan. Luke nói vội,giọng anh nhỏ dần: - Ở Denver nhớ cẩn thận đấy. Nhắn Grover đừng lo, lần này sẽ suôn sẻ hơn lần trước. Sẽ không ai bị biến thành cây thông đâu. Chỉ cần nó..... Màn sương tan hết. Hình ảnh Luke biến mất. Chỉ mình tôi trơ trọi giữa ngăn rửa xe ướt át. Annabeth và Grover về tới. Họ cười nói hỉ hả. Grover đi lộp cộp bằng móng guốc, tay cầm đôi giày mọc cánh. Nó nhại: - El Diablo ! El Diablo! Annabeth này,lúc nãy cậu nói gì với họ thế? - Lát nữa tớ nói cho nghe. Thấy tôi,bạn ấy đứng sững. Nụ cười tắt ngấm: - Percy, cậu sao thế? Anh Luke nói gì vậy ? Tôi nói dối mà trong lòng buồn và trống trải lạ thường: - Chẳng có gì. Thôi mình đi tìm cái gì ăn trước đã. Mấy phút sau, ba chúng tôi vào quán ăn có ánh đèn vàng vọt chọn một ngăn. Quanh chúng tôi có mấy gia đình vừa ăn hamburger, uống sô-đa và tráng miệng với đồ ngọt. Mãi lâu sau người phục vụ bàn mới đi tới. Chị ấy nghi ngờ nhướn mày hỏi: - Các em là....? Tôi ấp úng: - Chúng em... định gọi món. - Các em có đủ tiền không đã? Môi Grover run run. Tôi chỉ sợ nó kêu be be , hoặc tệ hơn... ăn vải sơn lót nhà. Còn Annabeth trông như sắp ngất xỉu vì đói. Tôi cố nghĩ câu chuyện mủi lòng đem kể với chị phục vụ bàn. Thình lình cả toàn nhà rung chuyển. Tôi tưởng mình đói quá nên chóng mặt. Bên ngoài có chiếc mô tô to bằng voi con thắng gấp bên lề đường. Quán ăn im phăng phắc. Đèn pha xe đỏ rực. Bình xăng xe sơn ngọn lửa cháy, hai bên đeo hai bao súng, nòng súng lấp ló miệng bao. Yên xe bọc da nhưng da này giống da người đem thuộc. Người ngồi trên xe có thể khiến cả chục đô vật vừa chạy vừa gọi mẹ. Ông ta mặc áo thun bó sát, quần jean đen, áo khoác da đen, cạnh đùi dắt con dao găm dài. Sau cặp kính mát màu đỏ to tướng là khuôn mặt hung ác, dữ tợn nhất tôi từng thấy: đẹp trai nhưng quỷ quyệt. Mái tóc đen vuốt sáp bóng mượt và hai má chằng chịt sẹo từ vô số lần đánh nhau. Có điều lạ là tôi thấy ông ta trông quen quen. Ông ta vừa bước vào, một cơn gió khô nóng xộc vào mọi ngõ ngách trong quán. Thực khách như bị thôi miên đứng cả dậy. Nhưng sau cái phẩy tay của ông ta, họ lại ngồi xuống. Mọi người trong quán trò chuyện xôn xao. Chị phục vụ bàn chớp mắt, như thể có người nhấn nút tua lại trong não chị: - Các em có đủ tiền không đã? Tay đua xe lên tiếng: - Tôi đãi. Ông ta vào ngăn chúng tôi.Không gian quá hẹp so với thân hình kềnh càng của ông nên Annabeth phải ngồi nép bên cửa sổ. Ông nhìn chị phục vụ ngạc nhiên nhìn mình: - Cô vẫn còn ở đây sao? Ông chỉ tay, chị ta cứng đờ như khúc gỗ rồi xoay lưng, đi xuống bếp. Ông ta quay sang tôi. Dù không nhìn thấy mắt ông sau cặp kính màu đỏ nhưng trong tôi sôi sục những cảm giác khó chịu. Giận dữ, tức tối, cay đắng. Tôi muốn đấm vào tường, muốn ra ngoài gây sự đánh nhau. Gã này tưởng mình là ai chứ? Ông ta cười nhếch mép: - Ra đây là con lão già Tảo biển? Đáng lẽ tôi phải ngạc nhiên hoặc sợ hãi. Đằng này, cảm giác của tôi giống lúc đối mặt Gabe Cóc Chết. Tôi chỉ muốn vặt đầu gã cho hả giận. - Ông là cái thá gì chứ? Annabeth lườm tôi: - Percy, ăn nói cẩn thận. Ông đây là... Ông ta giơ tay can ngăn: - Không sao đâu. Ta thích người có cá tính. Miễn là phải biết trên biết dưới. Này em họ, biết ta là ai không? Giờ tôi biết vì sao ông ta trông quen quen. Gã có kiểu bĩu môi giống hệt mấy đứa ở nhà số Năm, Trại Con Lai. - Ông là cha của Clarisse. Thần chiến tranh Ares. Thần Ares cười nham nhở, đoạn tháo kính mát. Chỗ của cặp mắt chỉ toàn lửa. Hai hốc mắt bốc cháy như có những vụ nổ hạt nhân bé xíu liên tiếp nối nhau. - Thằng ranh, mày đoán đúng rồi đó. Tao nghe nói mày bẻ giáo của Clarisse. - Nó muốn thế mà. - Chắc vậy. Mày cũng được đấy. Chuyện trẻ con đánh nhau, tao không dính vào. Tao đến đây vì... vì nghe nói mày ghé Denver chơi. Tao định gợi ý mày một chuyện. Chị nhân viên quay lại, bưng theo ba khay đầy bánh hamburger phô mai, khoai tây chiên, hành tây và sữa sô cô la. Ares đưa chị mấy đồng vàng drachma. Chị sợ hãi nhìn: - Nhưng tiền này không.... Ares rút con dao to tướng tẩn mẩn cạo móng tay: - Sao thế, cô em? Hêt hồn, chị cầm tiền vàng đi ra. Tôi bảo: - Ông không được đem dao dọa người. Ares cười hô hố: - Mày giỡn chắc? Tao thích xứ này. Kể từ thời Sparta, Mỹ là nơi tuyệt vời nhất. Ranh con, mày cũng mang vũ khí đấy thôi. Thế giới ngoài kia đầy hiểm hoạ. Nói đến đây ta mới nhớ vụ gợi ý. Mày phải giúp tao một việc. - Tôi tài hèn sức mọn, sao giúp được thần thánh? - Có chứ, giúp ta đỡ phí thời gian vì đôi ba thứ nhỏ nhặt. Tao quên mất tấm khiên ở công viên nước bỏ hoang dưới trung tâm. Chẳng là tao đang vui vẻ với.... nhân tình thì bị phá ngang. Ta bỏ lại khiên ở đó. Giờ mày lấy nó về cho tao. - Sao ông không tự đi mà lấy? Lửa trong mắt ông ta bốc cao hơn: - Cũng cùng lý do tao không biến mày thành chó rồi cán chết bằng chiếc Harley kia. Bởi vì tao không thích. Này Percy Jackson, thần thánh đang cho mày cơ hội khoe mẽ. Hay mày biến thành thằng hèn rồi? - Ông ra ghé sát lại -Hay mày chỉ hung hăng khi có dòng sông đỡ bên dưới, để cha mày còn ra tay cứu mày? Tôi muốn đấm vào mặt gã nhưng không hiểu sao tôi biết gã chỉ chờ có thế. Thần Ares rất biết chọc giận tôi. Nếu tôi nổi khùng xông vào, gã sẽ đắc ý. Tôi quyết không cho gã hả hê. - Tụi tôi không quan tâm vì còn có việc phải làm. Cặp mắt dữ dội của Ares bắt tôi nhìn những thứ tôi không muốn nhìn: nào máy chảy, khói lửa, xác người la liệt khắp chiến trường... - Tao biết việc gì rồi. Lúc mới mất bảo bối, Dớt cử toàn người giỏi nhất đi tìm: Apollo, Athena, Artemis và tao, tất nhiên. Nếu tao không tìm ra món đồ lợi hại đó...- Ares liếm môi như thể ông ta khao khát khi nghĩ tới tia chớp -Nếu tao không tìm được, mày đừng có mong. Tuy nhiên, tao cho mày cớ để nghi ngờ đây. Nói cho biết, chính tao rỉ tai Poseido, khiến cha mày nghĩ ngờ lão Mồm Thối suốt ngày loanh quanh với xác chết. - Ông bảo cha tôi rằng Hades lấy tia chớp ư? - Còn ai vào đây nữa. Chỉ thoáng nhìn tao biết ngay Hades ném đá giấu tay, khiến Dớt tuyên chiến với Poseido. Xét theo một khía cạnh nào đó, mày phải cảm ơn tao. Nhờ tao, mày mới được giao việc này. Tôi làu bàu: - Cảm ơn. - Này, tao hào phóng lắm. Chạy giúp tao việc vặt kia, tao sẽ giúp lộ phí cho mày. Tao sẽ dàn xếp, tìm xe cho chúng mày đi về miền Tây. - Chúng tôi tự lo được. - Phải, chúng mày giỏi. Không tiền, không xe, không biết đối thủ của mình là ai mà đòi tự lo. Thôi giúp tao đi, biết đâu tao sẽ có thông tin mày cần. Về mẹ mày ấy. - Mẹ tôi sao? Gã cười nhăn nhở: - Giờ chịu nghe rồi phải không? Công viên nước cách Delancy chừng hai cây số về phía Tây. Dễ tìm lắm. Nhớ đến Đường Hầm Tình Yêu nhé. Tôi hỏi kháy: - Cái gì khiến ông bỏ cuộc vui giữa chừng? Nó làm ông sợ mất mật phải không? Thần Ares nhe nanh với tôi, nhưng tôi biết trò dọa nạt qua Clarisse rồi. Toàn làm bộ làm tịch, như thể họ che giấu nỗi lo sợ nào đó. - Nhãi con, may mà gặp tao đấy. Vào tay thần khác thì đừng hòng. Không ai khoan dung thói hỗn xược bằng tao đâu. Xong việc nhớ quay lại đây gặp tao. Đừng làm tao thất vọng, nghe chưa? Sau đó, chắc tôi ngất hay bị thôi miên vì khi mở mắt, trong ngăn không còn ai ngoài ba chúng tôi. Tôi tưởng cuộc nói chuyện vừa rồi chỉ có trong mơ nhưng nét mặt Annabeth và Grover cho thấy điều ngược lại. Grover bảo: - Không hay rồi Percy. Thần Ares tìm cậu không phải điềm lành đâu. Tôi ngó cửa sổ. Chiếc xe biến mất. Có thật thần Ares biết thông tin về mẹ hay chỉ đùa cợt trên sự đau khổ của tôi? Giờ ông ta ra đi, cơn giận trong tôi tan biến. Chắc chắn ông này thích làm cảm xúc con người ta rối như mớ bòng bong. Biệt tài của thần Ares là thế: Làm cảm xúc đối phương rối rắm, quay cuồng khiến họ không còn suy nghĩ sáng suốt. - Chắc chỉ là trò chơi khăm. Kệ ông ta. Mình đi thôi. Annabeth cãi: - Không được. Tớ chẳng ưa gì thần Ares nhưng ta không thể phớt lờ thần thành trừ phi muốn rước đại họa vào thân. Ông ta dư sức biến cậu thành loại gặm nhắm. Tôi nhìn bánh hamberger trên bàn. Thốt nhiên, nó không thơm ngậy như tôi tưởng: - Sao ông ta cần chúng mình nhỉ? - Chắc vì năng lực suy tưởng thôi. Thần Ares có sức mạnh. Nhưng chỉ có thế không hơn. Đôi khi sức mạnh cũng phải cúi đầu trước sự thông thái. - Nhưng công viên nước này.... điệu bộ ông ta có vẻ sợ sệt. Cái gì khiến thần chiến tranh phải bỏ chạy như thế? Annabeth và Grover hồi hộp nhìn nhau. Annabeth bảo: - E rằng ta phải tự tìm hiểm lấy. Khi ba chúng tôi tìm thấy công viên nước, mặt trời đã xuống núi. Nhìn biển báo, tôi đoán nơi này từng có tên WATERLAND, nhưng giờ vài chữ đã rách nát, chỉ còn lại chữ WAT R A D. Cửa chính khóa, trên cùng chăng dây kẽm gai. Bên trong, chỗ nào cũng thấy cầu trượt chưa bơm nước, ống trượt lớn nhỏ xoắn vặn nối với mấy bể bơi rỗng và khô. Vẻ cũ cà tờ rơi vương vãi khắp mặt đường nhựa. Màn đêm dần buông khiến nơi này trông buồn thảm và rờn rợn. Tôi nhìn mạng dây kẽm gai chằng chịt bên trên. - Nghe nói Ares đưa bạn gái đến đây du hí. Chắc cô ta cũng thuộc loại "thứ dữ". Annabeth gắt: - Percy, tỏ ra tôn trọng chút đi. - Sao gắt tớ? Tớ tưởng cậu cũng ghét Ares. - Dù gì ông ta cũng là thần. Với lại, tình nhân của ông ấy nóng tính lắm. Grover đế thêm: - Đố ai dám chê diện mạo của bà ta. - Ai mà ghê thế? Echidna chắc? - Không, là Arphrodite, nữ thần tình yêu. - Tớ tưởng bà ta lấy người khác rồi. Nhớ rồi, Hephaestus. - Cậu nói thế làm gì? Thốt nhiên tôi muốn đổi đề tài: - À, ta vào bằng cách nào đây? - Maia! Giày Grover mọc cánh. Bay qua hàng rào, lộn một vòng trên không trung, Grover loạng choạng tiếp đất bên kia cánh cửa. Nó thản nhiên phủi bụi quần như thể đã tính toán cú nhảy từ trước. - Sao, mấy cậu có vào không đây? Annabeth và tôi phải leo cổng theo cách bình thường. Hai đứa thay phiên giữ dây kẽm gai cho nhau tiến từng bước. Bóng tối dần thẫm lại, mênh mông hơn trong lúc chúng tôi tiến sâu vào công viên, xem xét các tụ điểm. Ở đây có đảo "Coi Chừng Bị Cắn Chân", Khu vui chơi "Khéo Đụng Đầu" và góc "Đồ Bơi Của Tôi Rơi Đâu Rồi?" Không thấy yêu quái rình mò. Xung quanh im lặng như tờ. Chúng tôi đến quầy lưu niệm cửa mở toang. Hàng hóa vẫn chất đầy trên kệ:quả cầu tuyết, bút chì, bưu thiếp và dãy móc treo.... Annabeth reo lên: - Quần áo sạch. Tôi nhắc: - Phải. Nhưng cậu không được..... - Thế ư? Nhìn đây. Ôm hết quần áo trên dãy móc dài,Annabeth biến mất trong phòng thay đồ. Mấy phút sau, bạn ấy trở ra với quần soóc in hoa, áo thun đỏ in chữ Waterland và đôi giày thể thao mang tên khu vui chơi. Annabeth đeo trên vai ba lô căng phồng in logo của công viên nước. Rõ ràng bên trong còn rất nhiều quần áo khác. Grover bảo tôi: - Thoải mái đi. Lát sau,cả ba đều ăn mặc như dụng cụ quảng cáo biết đi cho công viên bị xóa sổ từ lâu. Chúng tôi tiếp tục tìm Đường Hầm Tình Yêu. Tôi có cảm giác cả công viên đang nín thở. Cố quên bóng tối ngày càng quánh lại, tôi gợi chuyện: - Vậy.... Ares và Aphrodite có quan hệ với nhau? Annabeth đáp: - Nghe đồn thế. Từ ba ngàn năm trước cơ. - Thế còn chồng Aphrodite? - Cậu biết rồi, thần Hephaestus là thợ rèn. Mới lọt lòng chưa được bao lâu đã bị thần Dớt quẳng từ đỉnh Olympia xuống nên bị tật nguyền, què quặt. Vậy không thể gọi là đẹp trai được. Tuy ông ấy khéo tay nhưng Aphrodite không thích thú gì trí thông minh và tài năng hết. - Bà ấy thích dân đua mô tô. - Đại khái thế. - Hephaestus biết chuyện không? - Biết chứ. Một lần ông dùng lưới vàng bắt cả hai, sau đó mời các thần tới chứng kiến nhằm bêu rếu cặp tình nhân. Từ trước đến giờ, Hephaestus luôn nghĩ cách làm họ xấu hổ. Thế nên muốn gặp nhau họ phải tìm nơi kín đáo, như.... Annabeth dừng phắt lại, nhìn thẳng phía trước. - Như chỗ kia kìa. Trước mặt chúng tôi là hồ cạn khô. Chắc lúc trước là sân trượt băng rất đẹp. Nó hình tròn, đường kính ít nhất năm chục mét. Xung quanh sân trượt bài trí hơn chục tượng thần tình yêu Cupid có cánh bằng đồng giương sẵn cung tên. Đối diện chỗ chúng tôi đứng là đường hầm hun hút, có lẽ là chỗ tháo nước khi hồ đầy. Bảng phía trên đề: HÀNH TRÌNH LY KỲ CỦA TÌNH YÊU - đây KHÔNG phải Đường hầm Tình yêu của cha mẹ bạn. Grover rón rén đến gần mép hồ: - Nhìn kìa. Dưới đáy hồ cạn khô có chiếc thuyền nhỏ sơn màu hồng và trắng. Mui thuyền có dù che. Khắp thuyền vẽ đầy trái tinh xinh xinh. Trên ghế trái có một vật tròn bằng đồng sáng mờ do phải chiếu ánh sáng lúc trời nhập nhoạng: khiên của thần Ares. - Sao dễ thế? Chỉ cần xuống lấy là xong. Annabeth rà đầu ngón tay lên bệ tượng Cupid gần nhất. - Ở đây có khắc chữ Hy Lạp: Êta. Không hiểu.... Tôi hỏi: - Grover này, cậu có ngửi thấy mùi yêu quái không? Grover hít hà: - Không. - Lúc ở Gateway Arch, cậu cũng bảo không có yêu quái. Lần này thì sao? Grover tự ái: - Tớ đã bảo đó là chó địa ngục mà. Tôi lấy can đảm: - Thôi, xin lỗi nhé. Để tớ xuống. - Tớ đi với cậu. Nói thế nhưng Grover có vẻ không hào hứng lắm. Tôi đoán Grover cố xí xoá vụ bỏ tôi lại một mình trên Gateway Arch. - Không, tớ muốn cậu tận dụng tối đa giày bay. Tớ cần cậu hỗ trợ, nhất là lúc có sự cố. Grover ưỡn ngực: - Có tớ đây. Nhưng sự cố nào chứ? - Tớ không biết, chỉ linh tính thế thôi. Annabeth đi với tớ.... - Cậu điên à? Cô bạn nhìn tôi từ đầu đến chân như thể tôi vừa ở cung trăng rơi xuống. Hai má Annabeth đỏ bừng. Tôi quạu: - Sao thế? - Tớ đi với cậu vào Đường Hầm Tình Yêu ư? Ngượng chết được. Nhỡ ai nhìn thấy thì sao? - Làm gì có ai? Nói thế chứ tôi cũng ngượng chín mặt. Sao con gái hay rắc rối thế nhỉ? Tôi bảo Annabeth: - Được rồi. Tớ tự làm lấy. Nhưng thấy tôi bước xuống hồ, bạn ấy cũng đi theo, miệng lẩm bẩm rằng con trai chỉ lắm chuyện lằng nhằng. Chúng tôi đến bên thuyền. Chiếc khiên dựng trên một ghế. Bên kia có khăn quàng cổ bằng lụa. Tôi tưởng tượng thần Ares và Aphrodite trong khung cảnh này: Hai vị thần gặp nhau trong công viên nước bỏ hoang. Tại sao phải thế? Vừa lúc đó tôi nhận thấy chi tiết mà lúc đứng phía trên, tôi không thấy: quanh hồ gắn đầy gương. Tất cả đều chiếu thẳng vào thuyền. Dù nhìn đi đâu, tôi cũng soi gương được. Ra vậy. Trong lúc ân ái mặn nồng, Ares và Aphrodite vẫn ngắm người yêu qua gương. Tôi cầm khăn quàng cổ lên xem.Chất liệu vải mỏng, hồng nhạt thơm mùi hoa hồng hoặc cây nguyệt quế mọc trên núi. Tôi mơ màng cười nụ, suýt áp khăn lên má. Annabeth giật vội, nhét khăn vào túi: - Chớ! Đừng động vào bảo bối tình yêu chứ! - Cái gì? - Đồ óc tảo biển, ấy khiên rồi đi thôi. Tay vừa chạm khiên, tôi biết ngay có sự chẳng lành. Bàn tay tôi vừa xuyên qua một thứ nối khiên với bảng điều khiển của xuồng máy. Tôi tưởng mạng nhện, nhưng khi giơ tay lên nhìn kỹ, hóa ra đó là dây kim loại rất mảnh, mắt thường gần như không nhìn thấy được. Một đoạn dây bẫy. Annabeth ngăn: - Khoan đã. - Không kịp rồi. - Mạn xuồng có chữ Êta, giống như kia. Ta mắc bẫy rồi. Thình lình, bao âm thanh nhất loạt vang lên như thể có hàng ngàn bộ phận đồng thời khởi động. Cả hồ nước biến thành cỗ máy khổng lồ. Grover hét: - Các cậu ơi, coi chừng! Quanh thành hồ hình tròn, tượng Cupid giơ cung ngắm bán. Tôi chưa kịp kêu Annabeth tìm chỗ nấp, họ đã nhả tên. Nhưng họ không bắn chúng thôi mà bắn lẫn nhau: Tượng bên này bắn sang thành hồ đối diện. Những sợi dây kim loại mảnh theo mũi tên găm sang bờ bên kia tạo thành hình hoa thị bằng vàng. Sau đó, những sợi chỉ kim loại nhỏ xíu tự đan vào nhau dệt nên tấm lưới khổng lồ. Tôi phát hoảng: - Ta phải thoát ra. Annabeth đáp: - Không được. Chộp lấy cái khiên, tôi và Annabeth bỏ chạy. Nhưng chạy lên thành hồ dốc và trơn khó hơn đi xuống. Grover giục: - Nhanh lên! Nó cố vạch lưới chừa lỗ hổng cho chúng tôi chui ra nhưng những sợi chỉ vàng tự động quấn lấy bàn tay nó. Đầu các Cupid mở ra. Máy ghi hình từ đó nhô lên. Quanh hồ, đèn pha mọc lên làm chúng tôi lóa mắt. Tiếng loa oang oang: - Truyền hình trực tiếp lên đỉnh Olympia sau một phút.... năm mươi chín giây... năm mươi tám.... - Hephaestus! Tớ ngố quá đi. Êta là chữ H. Thần làm bẫy này để bắt quả tang vợ và thần Ares. Giờ máy quay sắp truyền hình trực tiếp tớ với cậu lên đỉnh Olympia. Mình thành lũ hề mất rồi. Chúng tôi sắp lên đến miệng hồ. Bất ngờ, những tấm gương mở lên như cửa cống. Hàng ngàn con gì bằng kim loại nhỏ xíu tràn vào. Annabeth hét toáng lên. Dòng chảy của những con vật ghê rợn tuồn vào mãi: mình bằng đồng, tám chân khẳng khiu và miệng nhỏ ngáp liên tục. Chúng vây quanh Annabeth và tôi tạo nên âm thanh loảng xoảng. Annabeth kêu la: - Nhện ! A...a...a Tôi chưa từng thấy Annabeth hoảng loạn như thế. Cô bé kinh hoàng ngã ngửa, suýt bị lũ nhện rô bốt chôn vùi nếu tôi không nhanh tay kéo lên và lôi về phía thuyền. Lũ nhện tràn ra từ quanh miệng hồ. Hàng triệu con bò lổm ngổm tới giữa hồ, vây kín chúng tôi. Tôi tìm cách trấn tĩnh bằng cách tự nhủ rằng :Người ta không lập trình lũ nhện với mục đích giết người. Chúng chỉ vây hãm, cắn đớp và biến chúng tôi thành lũ ngốc. Một lần nữa, chúng tôi sa bẫy chuyên dành cho các thần.Rủi thay, Annabeth và tôi không phải thần thánh. Chúng tôi leo lên xuồng. Tôi vung chân đuổi lũ nhện bắt đầu tràn vào lòng xuồng. Tôi gào thét kêu Annabeth giúp đỡ nhưng bạn tôi quá hoảng loạn, ngoài gào thét ra không biết làm gì hơn. Loa lại tiếp tục đếm ngược: - Ba mươi,hai chín.... Lũ nhện nhả tơ kim loại, trói chặt chúng tôi. Sợi tơ rất mảnh, lúc đầu giật dứt dễ dàng. Nhưng sau quá nhiều dây bện lại, đồng thời lũ nhện vẫn tiếp tục tuôn đến. Tôi đá một con bò lên chân Annabeth. Nó quay lại cái một miếng giày thể thao mới tinh của tôi. Đôi giày thần đưa Grover bay là là trên hồ. Nó cố kéo cho lưới nới lỏng ra nhưng không ăn thua. Tôi tự nhủ:"Nghĩ cách đi chứ!" Lối vào Đường Hầm Tình Yêu dưới tấm lưới. Nó là lối thoát nếu không có hàng triệu con nhện máy cản đường. Loa vẫn đếm: - Mười lăm,mười bốn.... Tôi tự hỏi : "Nước. Nước chảy vào đường hầm này đâu ?" Và rồi tôi đã thấy. Mấy ống nước khổng lồ sau hàng gương. Nhện tuôn ra từ đó .Trên tấm lưới, cạnh một tượng thần Cupid là buồng nhỏ gắn cửa sổ kính. Chắc chắn bảng điều khiển trong đó. Tôi gọi lớn: - Grover! Vào buồng đi. Tìn nút ON. -Nhưng.... - Làm đi. Hy vọng ấy thất ngông cuồng nhưng là cơ hội duy nhất. Annabeth vẫn điên cuồng gào thét. Tôi phải tìm cách thoát cho cả hai. Grover vào buồng điều khiển thử vài nút nhấn. - Năm, bốn.... Grover ngẩng lên tuyệt vọng nhìn tôi, giơ cả hai tay. Tôi biết nó đã thử mọi nút nhưng vô vọng. Nhắm mắt, tôi mường tượng cảnh sóng nước, dòng chảy xiết, sông Mississippi. Cảm giác rất đỗi thân quen tràn về. Tôi hình dung mình lôi cả đại dương đến với Denver. - Hai, một, ZERO ! Nước xối ào ào từ miệng ống nước. Dòng chảy ào ạt đổ vào bể nhanh chưa từng thấy, cuốn trôi lũ nhện như quét sạch bụi li ti. Lôi Annabeth lên ghế bên cạnh, tôi vừa thắt dây an toàn cho bạn xong, sóng lớn đã xô mạnh xuồng, hất lũ nhện ra ngoài, làm chúng tôi ướt hết nhưng xuồng không lật. Chiếc xuồng quay đầu, theo nước dâng lên xoay tròn giữa hồ nước xoáy. Dưới nước nhung nhúc lũ nhện máy hỏng. Nhiều con bị sóng đánh vào tường xi măng mạnh đến nỗi chúng vỡ tan tành. Đèn pha tập trung vào hai đứa tôi. Mấy máy ghi hình kêu xè xè, truyền hình trực tiếp lên đỉnh Olympia. Nhưng đầu óc tôi dồn cả vào việc lái xuồng. Tôi muốn nó trôi theo dòng và không va vào tường. Chắc chắn do trí tưởng tượng quá phong phú nên tôi thấy xuồng làm theo ý tôi. Ít nhất cả người lẫn xuồng không bị dập nát thành triệu mảnh. Xuồng xoay vòng lần cuối, lực nước đủ cao đưa chúng tôi xuyên thủng mạng nhện kim loại. Sau đó xuồng quay hướng về đường hầm, đưa chúng tôi lao vút vút vào bóng tối. Annabeth và tôi hét thất thanh, ôm chặt nhau những lúc xuồng đến khúc cua gắt, góc hẹp và lao từ độ dốc bốn mươi lăm độ, băng qua hình vẽ Romeo và Juliet cùng đủ loại tranh ảnh tình tứ khác. Ra khỏi đường hầm, gió đêm thổi bạt tóc chúng tôi. Chiếc xuồng phóng thẳng đến lối ra. Đúng ra, xuồng sẽ xuống đoạn dốc giữa hai Cánh Cửa Tình Yêu rồi dừng an toàn ở hồ nước cuối chặng gần lối ra. Nhưng chúng tôi không gặp may. Cánh Cổng Tình Yêu có khóa dây xích. Trước đó có hai xuồng cũng bị chặn lại sau khi rời đường hầm. Giờ chúng thành chướng ngại vật: một chiếc đầy nước, chiếc kia bể làm đôi. Tôi thét bảo Annabeth: - Tháo dây an toàn đi! - Cậu điên à? Tôi lồng khiên của thần Ares vào cánh tay: - Cậu muốn chết tan xác không ? Ta sẽ nhảy khỏi xuồng. Sáng kiến của tôi đơn giản mà ngông cuồng: Khi xuồng đụng vật cản, chúng tôi sẽ dùng nó làm lò xo nhảy qua cổng. Tôi nghe nói nhiều người gặp tai nạn xe mà thoát chết nhờ cách đó. Họ văng xa cách chỗ xảy ra tai nạn cả mười, mười lăm thước. Nếu may mắn, chúng tôi sẽ ngã vào bể nước. Hình như Annabeth hiểu ý tôi. Khi xuồng đến gần cổng,cô bạn nắm chặt tay tôi. Tôi dặn: - Cứ làm theo tớ! - Không !Cậu trông tớ mà làm! - Cái gì? - Kiến thức vật lý đơn giản ! Theo đường đạn đạo thì....... - Rồi ! Theo cách của cậu đi. Annabeth ngập ngừng, kềm chế rồi hét lên: - Nhảy! RẮC! Annabeth tính đúng. Nếu nhảy theo ý tôi, cả hai sẽ văng mạnh vào cánh cửa. Annabeth tính lực tối đa cho cú nhảy của cả hai. Rủi thay, lực hơi lớn hơn cần thiết một chút. Xuồng chúng tôi đâm sầm vào đống xuồng vỡ. Annabeth và tôi bay giữa trời : qua cánh cổng, qua hồ nước và lao xuống mặt đường nhựa. Con gì túm sau áo tôi. Annabeth la: - Úi! Grover! Lơ lửng giữa trời, một tay nó nắm áo tôi, tay kia lôi cánh tay Annabeth cố không để chúng tôi ngã xuống đường nhưng lực quán tính của chúng tôi quá lớn. Grover than: - Hai người nặng quá. Ta ngã mất. Chúng tôi cùng lao xuống đất.Grover cố hết sức làm giảm lực va chạm từ cú tiếp đất. Ba đứa đâm thủng tấm bìa cứng tạo cảnh chụp hình. Đầu Grover xuyên qua lỗ có cảnh trong phim Noo-Noo và Cá Voi Thân Thiện. Annabeth và tôi nằm sóng soài dưới đất, bị đau nhưng còn sống. Khiên của thần Ares vẫn dính cánh tay tôi. Cách đó chừng ba mươi mét,tại hồ nước cạnh cổng vào, máy quay của thần Cupid vẫn hoạt động. Tôi quay lại nhìn. Sóng ở Đường Hầm Tình Yêu đã dịu lại. Xuồng chúng tôi vỡ tan, bập bềnh gần cổng sắt. Tôi hét lên: - Chương trình đến đây kết thúc. Cám ơn quý vị xem đài ! Chúc ngủ ngon! Hơn chục tượng thần tình yêu Cupid về tư thế ban đầu. Đèn tắt ngóm. Công viên lại im ắng và tối tăm, ngoại trừ tiếng nước nhỏ giọt tong tong ở hồ gần lối ra. Tôi bâng quơ tự hỏi truyền hình trên đỉnh Olympia có nghĩ quảng cáo hay chuẩn bị bình chọn cho show diễn vừa rồi. Tôi ghét bị trêu chọc. Tôi ghét bị lừa bịp. Tôi có cả kho kinh nghiệm đối phó với những tay chuyên đi bắt nạt dám giở những trò đó với tôi. Giơ cao tấm khiên trên cánh tay ,tôi quay sang bảo bạn: - Mình có chút chuyện cần nói với thần Ares. CHƯƠNG 16: ĐƯA NGỰA VẰN ĐẾN VEGAS Thần chiến tranh đợi chúng tôi ngoài bãi xe của tiệm ăn hôm trước. - Chà chà, mấy đứa chưa chết à ? Tôi chỉ trích: - Ông biết đó là bẫy mà còn bảo chúng tôi vào. Thần Ares cười khoái trá: - Chắc lão thợ rèn chưng hửng vì mất công giăng lưới bẫy hai nhóc tì ngu xuẩn. Trên TV, hai đứa trông xinh ra phết. Tôi giúi khiên vào người ông ta: - Đồ đểu! Annabeth và Grover sợ tái mặt. Chộp ngay tấm khiên, thần Ares xoay nó trên không như miếng bột bánh pizza, biến nó thành áo chống đạn. Ông ta khoác áo lên vai. Thần Ares chỉ chiếc xe tải hạng nặng bên kia đường, đối diện quán ăn: - Thấy xe kia không? Mấy đứa sẽ lên xe đó. Xe chạy thẳng đến Los Angeles, chỉ nghỉ một lần khi đến Vegas. Tấm bảng sau xe có dòng chữ: TỔ CHỨC NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ: PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA SỞ THÚ NHẬN ĐẠO. LƯU Ý: THÚ HOANG CÒN SỐNG. Tôi bực mình: - Ông giỡn đấy ư? Thần Ares búng tay, then cửa sau xe rơi ra. - Đi xe miễn phí nhé. Nhãi con đừng ca cẩm nữa. Cầm lấy, trả công cho vụ vừa rồi đây.. Ông ta lấy ba lô bằng vải nylon móc trên tay ga ném cho tôi. Bên trong có mấy bộ quần áo sạch, 20 đô la tiền mặt, túi nhỏ đựng tiền drachma và bịch bánh ngọt Oreos. Tôi cau có: - Đây không thèm mấy thứ vớ vẩn… Grover đỡ lời, đồng thời lừ mắt nhìn tôi đi kèm sắc mặt dữ tợn nhất có thể. - Cảm ơn Ngài. Cảm ơn lắm lắm. Tôi nghiến răng trèo trẹo. Hành động từ chối quà thần ban là sự xúc phạm ghê gớm nhưng tôi căm ghét mọi thứ Ares chạm tay vào. Miễn cưỡng, tôi khoác ba lô lên vai. Dù biết hễ nhìn thầy Ares rồi nổi cáu là vô lí nhưng tôi vẫn ngứa ngáy chân tay, chỉ muốn thoi ông ta một quả vào giữa mặt cho bõ tức. Ông ta nhắc tôi nhớ mọi kẻ từng bắt nạt tôi: Nancy Bobofit, Clarisse, Gabe Cóc Chết, các giáo viên hay mỉa mai và mọi tên đốn mạt ngày đi học dám bảo tôi ngu hoặc cười hô hố lúc tôi bị đuổi học. Ngoái đầu nhìn, tôi thấy trong quán ăn chỉ còn vài thực khách. Chị phục vụ hôm trước mang bánh cho chúng tôi giờ đứng sát cửa sổ lo lắng quan sát. Hình như chị sợ thần Ares ra tay với ba đứa chúng tôi. Chị rủ cả đầu bếp ra xem. Chị vừa rỉ tai ông ta. Đầu bếp gật đầu, lấy máy ảnh chụp cho chúng tôi một kiểu. Tôi nghĩ thầm: “Chán thật, mai ba đứa lại lên báo” Dòng tít tưởng tượng chạy trong đầu tôi: TỘI PHẠM 12 TUỔI ĐÁNH ĐẬP DÃ MAN TAY ĐUA MÔ TÔ KHÔNG PHÒNG VỆ. Tôi cố giữ giọng bình tĩnh: - Ông nợ tôi một chuyện. Lúc trước ông có hứa cho biết tin về mẹ tôi. Ông ta khởi động xe: - Có chắc mày chịu nổi hung tin không? Mẹ mày chưa chết. Đất dưới chân tôi quay cuồng: - Nghĩa là sao? - Nghĩa là khi bà ấy sắp chết, có người đưa bà ấy thoát khỏi tay quỷ đầu bò. Mẹ mày biến thành cơn mưa vàng, đúng chưa? Vậy linh hồn có rời đi chỗ khác. Chưa chết, chỉ bị bắt giữ thôi. - Sao mẹ tôi bị bắt? - Đúng là vắt mũi chưa sạch mà. Phải học binh pháp chứ. Đây là “chiêu” dùng con tin. Bắt người này để khống chế người khác. - Đừng hòng ai khống chế được tôi. Ông ta cười khả ố: - Ghê quá nhỉ? Thôi, ta còn gặp nhau nhiều. Tôi nắm chặt hai tay: - Còn ông chớ tự mãn. Mới thấy tượng Cupid mặc bỉm nghịch cung tên đã quay đầu bỏ chạy. Vậy mà cũng tự xưng là thần chiến tranh. Lửa bốc cháy sau cặp kính mát. Gió nóng thổi bạt hơi tôi, như thể tôi đang đứng từ xa quan sát vụ thử tên lửa hạt nhân: - Percy Jackson, tao chưa xong chuyện với mày đâu. Khi nào đánh nhau nhớ cẩn thận đấy. Ông ta rồ máy, chiếc Harley gầm gào vọt xuống cuối đường. Annabeth nhận xét: - Thế là không khôn ngoan đâu. - Mặc kệ. - Chẳng ai muốn gây thù chuốc oán với thần thánh, với thần Ares thì càng không. Grover chêm vào: - Các cậu ơi, dù không thích ngắt lời, nhưng tớ phải… Nó chỉ quán ăn. Tại quầy thanh toán, hai thực khách cuối cùng đang trả tiền, hai ông mặc áo liền quần có logo trắng giống như logo trên xe tải Tổ chức nhân đạo quốc tế. - Nếu muốn nhờ xe trên sở thú, ta phải nhanh chân lên mới kịp. Dù không thích, nhưng tôi biết ba đứa tôi không còn cách nào khác. Với lại, vãn cảnh Vender thế là đủ lắm rồi. Chúng tôi chạy sang đường, trèo lên cửa sau của xe và đóng chặt cửa. Mùi thối làm tôi bật ngửa: xe này có mùi của ổ mèo con lớn nhất thế giới. Trong xe tối mù. Tôi mở nắp bút, dùng ánh sáng từ kiếm Thủy triều quan sát khung cảnh não nề. Ba chuồng sắt bẩn thỉu xếp thành dãy nhốt ba con thú hoang trông sầu thảm chưa từng thấy: một ngựa vằn, một sư tử đực lông trắng và một con thuộc loài linh dương trông rất lạ. Chuồng sư tử có bao củ cải. Chắc chắn nó không thích ăn thứ đó. Chuồng linh dương và ngựa vằn đều có khay nhôm đựng thịt bò xay. Bờm ngựa vằn dính bết bã kẹo cao su, giống như có người tiêu khiển bằng cách nhai kẹo rồi nhổ bã lên người nó. Sừng linh dương treo bóng bay mừng sinh nhật có dòng chữ ngớ ngẩn: HAY ĂN CHÓNG LỚN. Tất nhiên, không ai muốn đến gần làm sư tử khó chịu. Con vật tội nghiệp cuồng chân trong không gian nhỏ xíu, đi tới đi lui trên miếng vải lót chuồng bẩn thỉu, thở hổn hển bởi không khí ngột ngạt trong xe.. Ruổi bu quanh cặp mắt đỏ lè, xương sườn nhô ra dưới lớp lông trắng toát. Grover phẫn nộ: - Nhân đạo là thế này ư? Nó định nhào ra ngoài, túm cổ lái xe dùng sáo bằng cây sậy vụt hắn nhừ tử . Tôi sẵn sàng tiếp tay cho nó. Rủi thay, xe nổ máy ầm ầm, thùng xe rung chuyển. Nếu chúng tôi không ngồi thể nào cũng ngã. Ba đứa nép trong góc, ngồi trên mấy bao tải đựng thức ăn gia súc mốc xanh mốc đỏ, cố quên mùi thối, ruồi nhặng và cái nóng kinh người. Grover kêu be be bắt chuyện với 3 con thú, nhưng chúng chỉ im lặng buồn bã nhìn nó. Annabeth nóng ruột, định phá chuồng thả thú hoang nhưng tôi phân tích rằng nên chờ xe đến trạm nghỉ đã. Thêm vào đó, chắc chắn sư tử thấy ba chúng tôi ngon lành hơn củ cải. Tìm được hũ nước, tôi đổ đầy cho chúng, sau đó dùng kiếm đồng khều đồ ăn bỏ nhầm chuồng ra ngoài. Tôi cho sư tử ăn thịt, ngựa vằn và linh dương ăn củ cải. Grover dỗ dành linh dương để Annabeth lấy dao cắt bóng bay. Bạn ấy muốn xén lông bờm dính bã kẹo cao su nhưng chúng tôi khuyên chớ nên làm thế vì xe xóc này rất nguy hiểm. Sau khi bảo Grover hứa với chúng sáng mai sẽ giúp, chúng tôi dọn chỗ đi ngủ. Grover nằm co ro trên bao củ cải. Annabeth mở bịch bánh Oreos nhai trệu trạo. Tôi tự ủy tạo tinh thần bằng cách tự nhủ ba đứa đã đi được nửa đường. Hôm nay mới ngày 14 tháng 6, trước ngày Hạ chí – 21/6 những một tuần. Thời gian đang ủng hộ chúng tôi. Mặt khác, tôi không biết cái gì đang đợi mình ở phía trước. Các thần thay nhau đùa bỡn tôi. Ít nhất thần Hephaestus không lén lút: ngang nhiên ghi hình tôi để giải trí. Giờ ống kính ngừng hoạt động, tôi vẫn cảm giác họ theo dõi từng đường đi nước bước của ba chúng tôi. Hóa ra tôi là thằng hề mua vui cho các thần. Annabeth thì thào: - Này, xin lỗi cậu. Chỉ tại lúc ở công viên nước, tớ sợ quá. - Không sao. Cô bạn rùng mình: - Chỉ tại… lũ nhện. - Trong chuyện nữ thần Arachne chứ gì? Bà ấy biến thành nhện thách mẹ cậu thi dệt vải, đúng không? Annabeth gật đầu: - Kể từ đó con thần Arachne tìm con thần Athena trả thù. Mới cách 2 cây số, nhện đã đánh hơi thấy tớ rồi. Tớ ghét cay ghét đắng mấy sinh vật bé xíu, ghê rợn đó. Mà thôi, tớ nợ cậu lần này. - Tụi mình hoạn nạn có nhau mà. Với lại Grover cũng bay đến cứu chứ bộ. Tưởng nó ngủ, ai dè Grover nằm trong góc góp chuyện: - Tớ bay giỏi ra trò, nhỉ? Annabeth và tôi bật cười. Cô bạn lấy bánh bẻ cho tôi một nửa: - À… lúc nói chuyện qua cầu vồng… anh lúc bảo gì cậu thế? Vờ mải ăn, tôi nghĩ cách trả lời sao cho khéo. Từ tối đến giờ, tôi băn khoăn mãi về chuyện ấy: - Luke kể chuyện cậu và anh ấy hồi đó. Anh ấy còn nhắn… lần này Grover không thất bại như lần trước. Không ai bị biến thành cây thông cả. Ánh sáng mờ của cây kiếm không thể soi tỏ mặt người.. Grover kêu be não nề, giọng nó run run: - Đáng nhẽ ngay từ đầu tớ nên kể hết với cậu. Tớ sợ… nếu biết tớ từng thất bại, cậu sẽ không cho tớ đi cùng. - Cậu là thần rừng từng gắng cứu Thalia, con gái thần Dớt? Nó gật đầu, mặt buồn hiu: Tôi quay sang Annnabeth: - Còn hai bạn của Thalia đến trại Con Lai an toàn là cậu và anh Luke, đúng không? Cô bé buông miếng bánh ăn dở: - Như tớ đã nói, con lai mới 7 tuổi đầu không thể đi xa một mình. Mẹ Athena chỉ đường cho tớ tìm người giúp. Lúc ấy Thalia 12, Luke 14. Họ cũng bỏ nhà đi giống tớ. Hai anh chị vui vẻ cho tớ đi cùng. Dù chưa được huấn luyện, Thaila và Luke chống trả yêu quái rất tài tình. Từ Virginia, ba anh em lên phương Bắc mà không có kế hoạch gì rõ ràng. Suốt hai tuần, chúng tớ vừa đi vừa tránh yêu quái cho đến khi Grover tìm được tụi tớ. Grover sụt sịt: - Đáng lẽ tớ phải đưa Thaila về trại an toàn. Chỉ mình Thalia thôi. Lệnh của bác Chiron ngặt nghèo lắm: không được để bất cứ chuyện gì làm chậm tiến trình giải cứu. Nhưng dù biết Hades ráo riết săn lùng Thalia, chị ấy và tớ không thể bỏ mặc Annabeth và Luke. Lúc đầu tớ tưởng mình có khả năng đưa cả ba về trại an toàn. Chính tớ khiến bọn người tử tế đuổi kịp cả nhóm. Tớ sợ quá. Lúc sắp đến trại, tớ quên đường nên cả nhóm đi lạc. Chỉ cần tớ nhanh chân hơn một chút thì… Annabeth mắng: - Thôi đi. Có ai trách cậu đâu nào. Thalia cũng không trách cậu. Grover thống thiết: - Thalia hi sinh thân mình bảo vệ bọn tớ. Tại tớ nên cô ấy mới chết, chính hội đồng kết luận thế mà. - Chỉ vì cậu không bỏ mặc hai người khác? Thật bất công quá! Annabeth thêm vào: - Percy nói đúng. Không có cậu, tớ không còn sống đến hôm nay. Cả anh Luke nữa. Hội Đồng nói gì kệ họ. Grover chưa thôi sụt sịt trong góc tối: - Số tớ cũng may. Thần rừng kém cỏi nhất trần đời tìm được Thalia và Percy, hai con lai hùng mạnh nhất trong vòng 100 năm trở lại đây. Annabeth giữ nguyên chính kiến: - Cậu không kém cỏi. Tớ chưa từng thấy thần rừng nào dũng cảm như cậu. Thử hỏi có thần rừng nào dám xuống địa ngục chưa? Tớ chắc chắn Percy mừng vì có cậu đi cùng. Không cần Annabeth gợi ý, tôi nói rất thành thực: - Phải đấy. Cậu gặp Thalia và tớ không phải nhờ vận may. Cậu là thần rừng tốt bụng nhất. Cậu có tài tìm kiếm bẩm sinh Chính vì thế cậu sẽ tìm được thần Pan. Có tiếng thở phào nhẹ nhõm từ chỗ Grover nằm. Tôi chờ xem nó định nói gì nhưng chỉ thấy nghe tiếng thở sâu và đều hơn. Lát sau, tiếng thở trở thành tiếng ngáy. Nó đã ngủ say. Tôi trầm trồ: - Sao Grover làm được như thế? Annabeth đáp: - Tớ không biết. Nhưng những gì cậu nói với Grover có tác dụng tốt đấy. - Tớ thật lòng mà. Trong lúc xe đi thêm, vài dặm nữa, chúng tôi ngồi lắc lư theo mấy bao thức ăn gia súc.. Ngựa vằn nhai củ cải rào rào. Sư tử ăn hết thịt bò xay, liếm môi nhìn tôi hi vọng. Annabeth vuốt dây đeo cổ như đang suy nghĩ về kế hoạch sắp tới. Tôi hỏi: - Hạt sứ có hình cây thông tượng trưng cho năm đầu phải không? Annabeth ngước lên: - Ừ. Mỗi năm, cứ đến tháng 8, các nhân viên tư vấn của trại chọn một sự kiện quan trọng nhất của mùa hè để vẽ hạt sứ. Tớ có hình cây thông của Thalia, tàu chiến cổ ba tầng chèo bốc cháy, nhân mã mặc váy dạ hội…mùa hè này lạ nhất… - Còn nhẫn kia của cha cậu? - Không phải chuyện của…- Annabeth dừng lại- À, phải. Của cha tớ. - Nếu cậu không muốn kể cũng không sao. Hơi thở Annebeth run rẩy: - Không… được mà. Hai năm trước, cha tớ gửi nó kèm một bức thư. Chiếc nhẫn giống… vật lưu niệm cha giữ để nhớ đến mẹ. Không có bà, ông không thể hoàn tất chương trình tiến sĩ ở Havard… Chuyện dài lắm. Tóm lại. Cha muốn tớ giữ nhẫn. Ông xin lỗi vì lúc trước không lo cho tớ vẹn toàn. Ông còn nói ông rất thương con và nhớ con. Ông muốn tớ quay về sống với ông. - Nếu vậy cha cậu không đến nỗi tệ. - Ừ thì… Rắc rối ở chỗ tớ tin và làm theo lời cha. Đầu năm học, tớ cố gắng về sống ở nhà. Nhưng dì ghẻ không thay đổi. Bà không muốn con ruột bị vạ lây bởi sống chung với đứa quái dị. Thế rồi yêu quái tấn công. Cả nhà to tiếng. Tớ không ở nổi đến kì nghỉ đông. Tớ liên lạc với bác Chiron và quay lại Trại Con Lai ngay lập tức. - Cậu sẽ không bao giờ cố gắng sống bên cha ruột nữa sao? Annabeth tránh nhìn mắt tôi: - Thôi đừng nhắc nữa. Tớ không muốn tự dằn vặt. - Đừng bó tay, phó mặc. Hãy viết thư tay tìm cách liên lạc với cha. Annabeth lạnh lùng: - Cám ơn cậu đã khuyên. Nhưng cha tớ muốn sống với ai là quyền của ông. Và ông đã chọn rồi. Chúng tôi lại im lặng thêm vài dặm nữa. Tôi gợi chuyện: - Nếu có biến trên đỉnh Olympia, mọi thứ sẽ rạch ròi như cuốc chiến thành Troy ư Thần Athena sẽ chống lại thần Poisendon à? Annabeth nhắm mắt, gối đầu lên balô thần Ares cho chúng tôi hồi tối: - Chẳng biết me tớ sẽ làm gì. Chỉ biết tớ sẽ sát cánh bên cậu. - Tại sao? - Vì cậu là bạn tớ, ngố ạ. Còn câu nào ngộ nghĩnh hơn đem ra hỏi nốt đi? Tôi im bặt. May thay, Annabeth không vặn vẹo thêm và ngủ thiếp đi. Muốn theo gương Annabeth không dễ. Xung quanh tôi có tiếng Grover ngáy vang và ánh mắt thèm khát của sư tử trắng. Nhưng cuối cũng, tôi cũng nhắm mắt nằm yên. Mới đầu, ác mộng đêm đó giống vô số cơn ác mộng trước: tôi bị bắt làm bài kiểm tra trong lúc mặc áo trói người điên. Các bạn làm xong đã ra chơi hết. Cô giáo luôn miệng nhắc: “ Trò Percy sao thế? Em có trì độn đến mức không làm được tí gì, phải không? Cầm bút lên đi chứ!” Từ lúc đó, giấc mơ khác với bình thường. Tôi nhìn sang bàn nên thấy một bạn gái cũng mặc áo trói. Cô bé bằng tuổi tôi, để tóc giống ca sĩ nhạc rock, cặp mắt xanh biển dữ dội kẻ viền thật đậm và mũi lấm tấm tàn nhang. Tự nhiên, tôi biết tên bạn ấy là Thalia, con gái thần Dớt. Vừa tìm cách gỡ áo trói, Thalia vừa lườm tôi gắt gỏng: - Làm gì đi chứ, óc tảo biển? Một trong hai ta phải ra khỏi đây. Phiên bản của tôi trong cơn mơ thầm nghĩ: “Bạn ấy nói đúng. Tôi phải trở lại hang, cho Hades thấy tôi cũng thông minh như ai.” Áo trói trên người tôi tan chảy và biến mất. Tôi ngã vật xuống nền lớp học. Giọng cô giá thay đổi, lạnh lùng và độc ác, vọng từ đáy vực sâu: “Percy Jackson, cuộc đổi chác suôn sẻ quá đấy” Tôi trở lại hang tối. Linh hồn người chết vây quanh tôi. Dưới hố sâu vẫn có giọng yêu quái. Nhưng lần này nó không nói với tôi. Tiếng ghê rợn làm người ta bủn rủn chân tay ấy nhắm vào nơi khác. - Nó không nghi ngờ gì sao? Có tiếng nói rất quen vang sau lưng tôi: “Không hề, thưa chúa tể. Hắn cũng ngu dốt như bao đứa khác” Tôi quay đầu nhìn nhưng hình như người vừa nói tàng hình. Sinh vật dưới hố nói vọng lên: - Lừa dối chồng chất lừa dối. Khá lắm. - Thưa chúa tể, chính người mới xứng danh đệ nhất quỷ quyệt. Nhưng làm thế có cần thiết không ạ? Tôi có thể dâng người thứ tôi lấy ngay trước mắt… Sinh vật kia khinh bỉ: - Ngươi ư? Ngươi đã chứng tỏ mình kém cỏi thế nào rồi. Nếu ta không can thiệp, ngươi đã làm hỏng chuyện của ta. - Nhưng… - Bình tĩnh đi, kẻ bầy tôi hèn mọn. Sáu tháng qua, ta thắng lợi lớn. Dớt ngày càng tức tối. Poisendon phải chơi nước cờ tuyệt vọng. Giờ ta sẽ dùng gậy ông đập lưng ông. Ngươi sẽ sớm thỏa nguyện: trả thù đích đáng. Ngày khi hai bảo bối về tay ta… Khoan đã. Hắn đang ở đây. Giọng tên nô tài tàng hình chợt căng thẳng: - Cái gì? Ngài gọi hắn lên ư? Lực ép mạnh mẽ của quái vật vây chặt tôi: - Không. Nhưng hắn giống cha: hay thay đổi, rất khó lường. Thằng ranh ấy tự vào đây. Tên nô tài kêu lên: - Không thể thế được. Giọng nói hằm hè: - Phải, nhưng chỉ đối với kẻ yếu đuối như ngươi thôi. Rồi nó lạnh lùng quay sang tôi: - Thằng con lai kia, ngươi muốn kết thúc nhiệm vụ này chứ gì? Để ta gia ơn cho. Cảnh trong mơ thay đổi. Tôi đứng trong căn phòng có ngai vàng. Tường nhà bằng đá hoa cương đen. Nền nhà bằng đồng. Chiếc ngai khủng khiếp không có người ngồi ghép bằng xương người. Mẹ tôi đứng dưới bục. Bất động trong ánh sáng mờ ảo. Hai tay bà dang rộng. Tôi cố đến gần nhưng không nhấc nổi chân. Những bộ xương mặc giáp trụ của lính Hy Lạp vây quanh tôi. Chúng choàng áo bào gấm bó chặt người tôi, đội vàng nguyệt quế tẩm nọc độc của Chimera làm đầu tôi bỏng rát. Giọng nham hiểm khi nãy cười sằng sặc: “Chào mừng anh hùng bách chiến bách thắng” Tôi giật mình tỉnh giấc. Grover lay vai tôi: - Xe dừng rồi. Hình như họ sắp lên kiểm tra thú hoang. Annabeth nói nhỏ: - Trốn thôi! Bạn ấy thì dễ rồi, chỉ cần đọi mũ tàng hình và biến mất. Grover và tôi phải trốn sau đống bao thức ăn gia súc, hy vọng mình trông giống củ cải để không bị phát hiện! Cửa xe kẹt mở. Ánh nắng chói chang và khí nóng ùa vào. Tài xế phẩy tay trước cái mũ xấu xí: - Trời, kinh quá! Giá mình nhận chở máy móc có phải hơn không. Hắn leo vào trong, rót nước vào 3 đĩa trong 3 chuồng. - Nóng không con? Ông ta hắt nước còn trong xô vào mặt sư tử. Chúa sơn lâm gầm lên giận giữ. - Gầm này! Gầm nữa đi! Núp dưới bao cú cải cạnh tôi, Grover căng thẳng, mặt mày dữ tợn Gã tài xế ném cho linh lương bao tải đựng cái gì giống bí xanh Hắn bĩu môi nhìn ngựa vằn: - Khỏe không, đồ vằn vện? Ít nhất ta cũng tống khứ ngươi ở trạm dừng này. Ngươi thích sân khấu ảo thuật không? Màn diễn sắp tới tuyệt vời. Người ta sẽ cưa ngươi thành 2 khúc. Ngựa vằn trợn mắt sợ hãi nhìn thẳng vào tôi. Không có tiếng nói, nhưng rõ ràng tôi nghe nó bảo: “Cầu xin chúa tể thả con ra” Tôi sững sờ. Có tiếng gõ ngoài thành xe: Cạch! Cạch! Cạch! Tài xế trong thùng xe với chúng tôi la lên: - Eddie, mày muốn gì đây? Giọng bên này- chắc chắn là Eddie- quát nạt: - Maurice, mày vừa nói gì? - Mày gõ làm gì thế? CẠCH! CẠCH! CẠCH! Bên ngoài, Eddie gắt: - Tao gõ lúc nào? Gã Maurice chán nản trở ra, miệng lầm bầm chửi Eddie dở hơi. Một giây sau, Annabeth xuất hiện ngay cạnh tôi. Chắc cô bạn vừa gõ để kéo Maurice ra ngoài. Annabeth bảo: - Doanh nghiệp vận tải này chắc chắn làm ăn phi pháp. Grover góp chuyện: - Rõ rồi - nó dừng lại như lắng nghe - sư tử vừa mách hai gã này buôn lậu thú quý hiếm. Tiếng ngựa vằn vang lên trong đầu tôi: - Đúng vậy đấy . Grover kiên quyết: - Ta phải thả chúng thôi. Nó và Annabeth nhìn tôi chờ đợi. Tôi chỉ nghe tiếng ngựa, còn sư tử thì không. Tại sao thế? Thêm một thứ tôi không biết… Sao tôi chỉ hiểu ngựa vằn? Tôi hoàn toàn mù tịt khi nghe tiếng động vật nói chung… chỉ hiểu mỗi loài da hai màu đên trắng. Tôi chợt nhớ: Ngựa. Annabeth từng bảo thần Poisendon tạo ra giống ngựa Ngựa vằn cùng là ngựa. Có phải vì thế nên tôi hiểu tiếng chúng? Ngựa vằn nói tiếp: - Xin chúa tể mở cửa chuồng cho tôi. Sau đó, tôi sẽ tự lo. Bên ngoài, Eddie và Maurice quát nhau ầm ĩ. Thể nào cãi nhau xong, chúng cũng vào đây hành hạ ba con thú. Tôi dùng kiếm Thủy Triều chém ổ khóa chuồng ngựa vằn. Ngựa xồ ra. Nó quay sang tôi, cúi đầu: - Đa tạ chúa tể. Grover giơ tay ngăn lại, nói gì đó với ngựa. Hình như nó vừa chúc thượng lộ bình an. Vừa lúc đó Maurice thấy ồn nên ló đầu vào. Ngựa vằn nhảy qua đầu hắn xuống đường. Nghe tiếng người hét, tiếng còi xe inh ỏi, chúng tôi chạy ra của vừa kịp thấy ngựa phi nước kiệu giữa đại lộ rộng thênh, hai bên đường toàn khách sạn, sòng bài và biển quảng cáo ne-ôn đủ màu. Chúng tôi vùa thả con ngựa vằn vào giữa đường phố Las Vegas. Maurice và eddie chạy theo ngựa, kéo theo nhóm cảnh sát chạy theo chúng. Cảnh sát quát: - Này! Hai anh phải trình giấy phép nuôi thú quý hiếm. Annabeth bảo: - Giờ ta đi là tiện nhất. Grover đáp: - Thả hai con còn lại trước đã. Tôi chém nốt hai ổ khóa kia. Grover giơ tay, lặp lại câu chúc khi nãy. Tôi bảo hai con vật tội nghiệp: - Chúc may mắn đấy. Linh dương và sư tử ra khỏi chuồng cùng nhảy xuống đường. Vài du khách kêu ré. Có người lùi lại chụp hình lia lịa. Chăc họ nghĩ mấy sòng bài thuê thú về làm xiếc để quảng cáo. Tôi hỏi Grover: - Liệu chúng có sao không? Thú rừng ngoài sa mạc thì sao nhỉ? - Đừng lo. Tớ vừa cho chúng bùa hộ mệnh của thần rừng. - Nghĩa là sao? - Nghĩa là chúng sẽ về rừng an toàn. Chúng sẽ tìm được nước uống, thức ăn,… bất cứ thứ gì chúng cần cho tới khi về được chỗ cũ. - Sao không cho bọn tớ bùa ấy? - Bùa chỉ linh nghiệm với thú hoang dã. Annabeth trêu chọc: - Vậy hợp với một mình Percy. Tôi giãy nảy: - Nói gì thế? Cô bạn cười xòa: - Đùa đấy. Ta đi thôi, tớ hết chịu nổi mùi thối này rồi. Ba đứa bước thấp bước cao đi giữa chiều sa mạc nóng cháy. Nhiệt độ lên đến 37, 38 độ C. Chắc chắn trông chúng tôi giống trẻ bụi đời. Nhưng vì ai cũng quay sang nhìn thú hoang nên không để ý đến bộ ba nhem nhuốc, bơ phờ. Ba đứa đi qua trường quay của hãng phim Monte Carlo và MGM. Ở đây có Kim Tự Tháp, tàu cướp biển và tượng nữ thần tự do. Tuy tất cả chỉ là mô hình thu nhỏ nhưng cũng khiến tôi nhớ nhà vô cùng. Ba đứa không biết mình tìm gì. Thực ra, chúng tôi chỉ mong có chỗ trốn cái nóng chừng vài phút, tìm bánh kẹp và nước chanh và cùng bàn kế hoạch đi tiếp về phương Tây. Lát sau, chúng tôi lạc đến ngõ cụt và đững ngẩn ngơ trước Khách Sạn & Sòng Bài Hoa Sen. Lối vào là bông hoa khổng lồ viền đèn ống. Cánh hoa trang trí đèn nhấp nháy. Không thấy người ta ra vào tấp nập nhưng cửa nhôm bên trong có mở. Hơi từ máy lạnh tỏa ra mang theo mùi hoa thơm ngát: chắc mùi hoa sen nở. Vì chưa thưởng thức hương hoa sen bao giờ nên tôi không dám khẳng định. Thấy chúng tôi, người gác cổng mỉm cười: - Chào các cháu. Sao trông mệt mỏi thế? Muốn vào trong ngồi nghỉ không? Một tuần trở lại đây, tôi trở nên hay nghi ngờ. Giờ hễ thấy bất cứ ai, tôi lại nghĩ nếu không phải yêu quái, chắc chắn là thần thánh. Ai biết đâu được. Nhưng trông người này bình thường. Mới nhìn, tôi dám khẳng định ngay. Còn nữa, biết có người cảm thông với mình, tôi nhẹ nhõm đôi chút. Vậy nên, tôi gật đầu bảo đồng ý. Qua cửa vào bên trong, chúng tôi nhìn quanh. Grover trầm trồ: - Ôi chao! Tiền sảnh là phòng chơi rộng lớn, thiết bị hiện đại, không phải trò Pacman hay bỏ xu tầm thường. Nơi đây có cầu trượt nước trong nhà uốn lượn quanh thang máy bằng kính lên cao ít nhất 40 tầng. Một bên tòa nhà có tường tập leo núi và cầu nhảy Bungee thiết kế trong nhà. Sảnh có nhiều bộ quần áo kèm súng laze cho trò chơi thực tế ảo. Nơi đây bài trí hàng trăm máy video game kèm màn hình cỡ lớn. Nói chung là, trên đời có trò chơi gì, ở đây có hết. Lác đác vài thiếu niên vào chơi. Nơi này không nhộn nhịp như ở chỗ khác. Không ai phải chờ đợi cả. Nơi đây có đội phục vụ bàn và nhiều quầy ăn nhẹ phục vụ nhiều món ngon. - Xin chào! Người trực tầng (tôi đoán thế) niềm nở. Ông ta mặc áo sơ mi hoa sặc sỡ in logo của khách sạn Hoa Sen, diện quần soóc và đi dép lê: - Chào mừng quý vị đến sòng bài Hoa Sen. Chìa khóa phòng đây ạ. Tôi lắp bắp: - Nhưng mà… Ông ta cười xòa: - Đừng lo. Có người thanh toán mọi khoản rồi. Ở đây không thu phụ phí, không đòi tiền boa. Cứ lên phòng trên cùng, phòng 4001. Nếu cần bất cứ thứ gì, chẳng hạn thêm dầu tạo bọt cho bồn tắm nước nóng hay đạn đất sét tập bắn chim câu, cứ việc gọi tiếp tân. Đây là thẻ tín dụng LotusCash dùng trong nhà hàng, các máy chơi game và mọi phương tiện đi lại. Ông ta đưa cho mỗi đứa một thẻ tín dụng màu xanh lá cây. Tôi biết chắc có nhầm lẫn ở đây. Ông này tưởng ba đứa tôi là cậu ấm cô chiêu nhà tỉ phú chắc? Tuy nhiên tôi vẫn nhận thẻ: - Phòng ở đây giá bao nhiêu? Ông ta cau mày: - Ý cháu là sao? - Là…ngộ nhỡ thẻ hết tiền. Ông ta cười vui vẻ: - Cháu cứ đùa. Vui tính ghê. Thôi, chúc vui vẻ nhé. Chúng tôi theo thang máy lên trên phòng. Đó là căn hộ biệt lập trên tầng thượng, có 3 phòng ngủ, một quầy bar chất đầy bánh kẹo, nước ngọt và Bim Bim. Có đường dây nóng gọi phục vụ. Có khăn tắm mềm xốp, nệm nước và gối êm. Có tivi màn hình rộng nối vệ tinh cùng Internet tốc độ cao. Có ban công gắn với bồn tắm nước nóng riêng, và tất nhiên có máy bắn chim câu và súng săn. Người chơi chỉ việc bắn chim bằng đất sét lên bầu trời Las Vegas, sau đó bắn bể chim bằng súng săn. Trò ấy không thể gọi là hợp pháp nhưng khá thú vị. Phong cảnh nhìn từ đây rất đẹp, có thể ngắm sa mạc phía xa. Tuy nhiên, ở phòng này chẳng ai có thời gian đứng ngắm cảnh nữa. Annabeth kêu lên: - Trời ơi! Chỗ này… Grover đỡ lời: - Tuyệt vời. Thích cực kì. Trong tủ có sẵn quần áo vừa người tôi. Tôi cau mày thấy lạ. Nếu họ nhầm tôi với người khác, sao quần áo có cùng cỡ với tôi? Tôi ném ba lô của thần Ares vào sọt rác. Không cần thứ này nữa. Khi nào đi, tôi sẽ mua ba lô mới trong cửa hàng của khách sạn. Tôi đi tắm. Sau một tuần bụi bặm được tắm sạch sẽ sảng khoái biết bao. Mặc quần áo xong, tôi ăn hết gói Bim Bim, uống ba lon nước ngọt Coke. Lâu lắm rồi, tôi mới được dễ chịu thế này. Sâu thẳm trong tâm khảm, tôi day dứt không yên. Có phải đây là một giấc mơ… Nên đi gặp hai bạn bàn cho ra ngô ra khoai. Thôi, cứ tận hưởng thêm chút nữa, bàn bạc sau cũng không muộn. Ra ngoài phòng ngủ, tôi thấy Annabeth và Grover cũng vừa tắm và thay đồ mới. Grover ăn khoai tây chiên, còn Annabeth mải mê xem kênh truyền hình National Geographic. Tôi bảo: - Bao nhiêu kênh hay không xem, lại đi xem kênh này? Cậu có bị sao không vậy? - Kênh này hay quá trời. Grover gật gù: - Dễ chịu quá. Tớ thích chỗ này. Nó phởn chí đến nỗi không biết giày tự mọc cánh, nâng bổng hai bàn chân lên không rồi hạ xuống như cũ. Annabeth hỏi: - Giờ ta làm gì đây? Đi ngủ à? Grover và tôi nhìn nhau cười, cùng móc túi lấy thẻ LotusCash. - Đi chơi thôi. Tôi chưa bao giờ vui đến thế. Sinh ra trong nghèo khó, với tôi, phung phí tiền bạc có nghĩa đến nhà hàng KFC hay McDonald ăn hamburger và thuê băng video về xem. Làm gì dám mơ đến khách sạn năm sao ở Las Vegas. Tôi nhảy bungee dưới sảnh năm, sáu lần, trượt nước một lần, chơi game trượt tuyết trên sườn núi và chơi trò thực tế ảo bắn súng tay đôi với tay bắn tỉa FBI. Tôi thấy Grover mấy lần chuyển trò chơi. Nó thích nhất trò đi săn ngược : hươu nai săn người lỗ mãng. Annabeth thích trò đấu trí và trò chơi giành cho con gái. Ở đây có màn hình 3-D dùng chơi trò kiến thiết cả thành phố. Các tòa nhà chọc trời đua nhau mọc lên trông như thật. Tôi không thích trò đó lắm nhưng Annabeth thực sự mê mẩn. Bất ngờ, tôi phát hiện ra có chuyện không ổn. Có lẽ do anh chàng đúng cạnh tôi, cũng chơi trò đấu súng. Tôi đoán người này bằng tuổi tôi, nhưng quần áo rất lạ lùng. Có lẽ cậu ta là con trai một người thích bắt chước Elvis. Cậu ta mặc quần jeans ống loe, áo thun đỏ, tóc uốn xoăn trông giống con gái xứ New Jersey chuẩn bị đi dạ hội. Lúc cùng chơi bắn tỉa, cậu ta bảo tôi: - Nầy công tử, tớ ở đây hai tuần, chơi mãi trò này vẫn thấy hay. Lập tức, tôi thầm thắc mắc: “công tử” là từ xưa lắm rồi”. Lát sau, tôi lỡ miệng nói tiếng lóng, bảo cậu ta “tinh tướng”. Cậu ta giật mình nhìn tôi như chưa hề nghe tiếng đó bao giờ. Cậu ta tự giới thiệu mình tên là Darrin. Nhưng thấy tôi hỏi nhiều quá, Darrin đâm chán, quay lại chơi tiếp. Tôi gọi: - Darrin này. - Gì? - Giờ là năm mấy? Cậu ta nhíu mày: - Năm trong trò chơi à? - Không. Năm ngoài đời thực. Darrin phải nghĩ giây lát: - 1977. Tôi bắt đầu sợ: - Đừng đùa. Tớ hỏi thật đấy. - Cái cậu này, làm tớ phân tâm quá. Tớ đang chơi dở. Sau đó cậu ta quên hẳn tôi. Tôi trò chuyện với vài người nữa. Cảm giác bất an lớn dần. Họ dán mắt vào màn hình tivi, dính với máy chơi game, hoặc đồ ăn… Tôi gặp một bạn bảo với tôi giờ là năm 1985. Người khác bảo 1993. Nhưng ai cũng bảo họ chỉ ở đây mấy ngày. Tối đa là vài tuần. Họ không biết chính xác và cũng không quan tâm. Tôi giật mình tự hỏi: vậy tôi ở đây bao lâu? Theo tôi nhớ thì chỉ có vài tiếng đồng hồ. Nhưng thực tế có đúng vậy không? Tôi cố nhớ lí do đến đây.Chúng tôi đang trên đường đến Los Angeles. Nhiệm vụ là tìm lối vào địa ngục. Mẹ tôi… trong một thoáng, tôi hoảng hốt vì không nhớ tên bà. Là Sally. Sally Jackson. Tôi phải tìm mẹ. Tôi phải chặn tay Hades trước khi ông ta châm ngòi cho Thế Chiến thứ Ba. Khi tôi tìm thấy Annabeth, cô ấy vẫn mải miết xây nhà. Tôi giục: - Đứng lên đi. Ta đi khỏi đây ngay. Không trả lời. Tôi lay vai cô ấy: - Annabeth! Cô ấy khó chịu nhìn tôi: - Gì? - Ta phải đi. - Đi là thế nào? Cậu nói linh tinh gì thế? Người ta đang xây tháp… - Nơi này là bẫy đấy. Cô bạn không trả lời. Tôi lay lần nữa. Annabeth gắt lên: - Cậu làm gì thế hả? - Nghe kĩ đây: Địa ngục. Nhiệm vụ chưa hoàn thành. - Tôi mà, Percy. Mấy phút nữa thôi. - Này Annabeth, có người từ năm 1977 vẫn ở đây. Họ là trẻ con, mãi không khôn lớn thành người. Nếu ai trót bước chân vào, sẽ phải ở lại suốt đời. - Thế đã sao? Cậu có mơ cũng không có đâu bằng ở đây. Tôi chộp tay bạn, lôi cô khỏi trò chơi. - Này này. Annabeth la lối, đánh tôi túi bụi nhưng xung quanh không ai buồn ngó đến. Họ đắm mình vào thú vui riêng, quên hết sự đời. Tôi xoay mặt Annabeth nhìn thẳng mặt tôi: - Nhện. Lũ nhện khổng lồ, lông lá. Cô bé hơi hoảng và dẫn tỉnh táo lại: - Chết rồi. Ta ở đây lâu chưa? - Tớ không biết. Nhưng phải tìm Grover ngay. Hai đứa tìm mãi. Cuối cùng thấy nó đang chơi trò săn hươu ảo. Hai đứa cùng thất thanh: - Grover! Nó nghiến răng: - Chết này! Chết này! Đồ con người ngốc nghếch chuyên gây ô nhiễm! - Grover! Nó chĩa khẩu súng nhựa về phía tôi lên đạn, làm như tôi là nhận vật trong trò chơi không bằng. Tôi đưa mắt nhìn Annabeth. Cả hai đồng loạt xông vào xốc nách mang nó đi. Lập tức, đôi giày bay mọc cánh lôi chân nó ra phía sau: - Đừng! Tớ mới lên màn cao hơn! Thả tớ ra! Người trực tầng sòng bài Hoa Sen vội đuổi theo: - Quý khách đến nhận thẻ bạch kim ạ? Tôi kiên quyết: - Chúng tôi đi đây. Giọng tha thiết của ông ta làm tôi tin rằng, nếu chúng tôi đi, ông ta sẽ cực kì đau khổ: - Tiếc quá. Chúng tôi mới xây thêm lầu toàn trò chơi dành cho khách có thẻ bạch kim. Ông ta chìa thẻ và tôi muốn cầm lấy ngay. Nếu lấy thẻ, tôi sẽ không bao giờ đi được. Tôi sẽ sống phủ phê trong khách sạn, chơi game suốt đời, vui vẻ suốt đời. Chẳng bao lấu, tôi sẽ quên mẹ, quên nhiệm vụ, thậm chí quên cả tên mình. Tôi sẽ chơi bắn tỉa với công tử Darrin mãi mãi. Grover chìa tay định lấy, nhưng Annabeth cầm tay nó giật lại: - Cảm ơn, nhưng không lấy đâu. Trên đường ra cửa, mùi thức ăn và âm thanh vui tươi từ trò chơi quyến luyến bước chân tôi. Hay là ta cứ ở lại đêm nay… ngủ trên giường cho ra giường, dù chỉ một lần. Lát sau, ba đứa đẩy của sòng bài Hoa Sen, hoảng hốt chạy dọc con phố. Bên ngoài là buổi chiều, tầm giờ lúc vào khách sạn. Nhưng thực ra không phải. Hôm nay thời tiết u ám, chớp rạch ngang bầu trời ngoài sa mạc. Balô của thần Ares lủng lẳng sau lưng tôi. Lạ thật, tôi vứt nó vào thùng rác phòng 4001 rồi cơ mà. Tuy nhiên, đầu óc tôi mải nghĩ chuyện khác. Tôi chạy đến quầy báo gần nhất và nhìn năm trước. Ơn trời, vẫn cùng năm cũ. Sau đó nhìn sang ngày, tôi đọc, ngày 27/6. Chúng tôi đã sống tại sòng bài Lotus trọn 5 ngày. Chỉ còn một ngày nữa là đến Hạ chí. Trong vòng 1 ngày nữa, chúng tôi phải làm cho xong việc được giao. CHƯƠNG 17: Chọn đệm nước thật khó lắm thay Annabeth có ý tưởng táo bạo. Cô bạn đẩy hai thằng thôi lên taxi Vegas, làm như hầu bao tụi tôi rủng rỉnh đầy tiền vậy.Bạn ấy lệnh cho tài xế: - Xin cho đến Los Angeles. Bác tài vừa nhai đầu điếu xì gà, vừa thăm dò: - Gần sáu trăm cây số cơ đấy. Khách đi xa phải trả tiền trước. Annabeth hỏi: - Chú có nhận thẻ tín dụng của sòng bài không ạ? Bác ta nhún vai: - Tùy sòng bài. Nói chung cũng giống thẻ tín dụng thông thường. Nhưng tôi phải quét thẻ trước đã. Annabeth đưa cho bác thẻ Lotuscash của mình. Bác ta nhìn thẻ nghi ngờ. Annabeth mời: - Bác cứ quét đi ạ. Bác tài làm ngay. Máy tính tiền kêu lạch xạch. Đèn bật sáng. Linhsau, dấu vô cực hiện lên cạnh dấu $. Điếu xì gà rớt khỏi miệng bác tài. Ông ngạc nhiên nhìn chúng tôi: - Đến địa điểm nào ở Los Angeles, thưa… Quý Cô? Annabeth ưỡn thẳng lưng. Chỉ nhìn mặt cũng biết bạn ấy thích được gọi là quý cô: - Bác chạy nhanh vào nhé. Vả lại, cứ giữ tiền thừa. Tôi tiếc quá. Đáng lẽ Annabethđừng nói câu đó. Từ đó đến sa mạc Mojave, đồng hồ chỉ tốc độ của xe taxi không bao giờ tụt xuống dưới 170 km/h. Trên đường đi, chúng tôi tha hồ bàn bạc. Tôi kể hai bạn nghe về giấc mơ gần nhất. Nhưng tôi càng cố nhớ, các chi tiết càng mờ nhạt. Hình như sòng bài Hoa Sen làm bộ nhớ của tôi chập mạch mất rồi. Tôi không nhớ giọng tên nô tài dấu mặt ra sao, chỉ biết đó là giọng một người quen. Hắn gọi yêu quái dưới hang là “Chúa tể” gì gì đó… một cách xưng hô hay tên gọi khá đặc biệt. Annabeth gợi ý: - Chúa Tể Thầm Lặng hay Chúa Tể Thịnh Vượng? Cả 2 đều là biệt danh của Hades. Tôi không thấy thuận tai, nhưng chỉ ậm ừ: - Chắc thế… Grover góp lời: - Nghe tả chiếc ngai giống ngai của Hades. Ấy là tớ cũng nghe nói thế. Tôi lắc đầu: - Có điểm không ổn. Căn phòng có chiếc ngai không phải phần chính của giấc mơ. Còn nữa, giọng nói dưới hố… tớ không biết nói thế nào. Chỉ biết nó không giống giọng thần thánh. Annabeth trợn mắt. Tôi hỏi: - Sao thế? - À, không có gì. Tớ chỉ… Không, nhất định là Hades, thần cai quản địa ngục. Có thể ông ta sai tên trộm, tức tên nô tài giấu mặt, lấy tia chớp. Sau đó, có trục trặc… - Trục trặc gì? - Tớ… tớ không biết. Nhưng nếu hắn lấy quyền trượng của thần Dớt từ đỉnh Olympia sau đó các thần thay nhau săn lùng hắn… Trong tình huống đó, thiếu gì chuyện có thể xảy ra. Gặp trở ngại là không thể tránh khỏi. Nếu vậy, tên trộm phải dấu tia chớp hoặc biết đâu đánh mất nó không chừng. Dù gì thì hắn cũng không mang đến trao cho Hades được. Giọng nói trong mơ của cậu nói vậy, đúng không? Nô tài làm hỏng chuyện. Do đó giờ ta đã biết ba Nữ Thần Báo Thù tìm vật gì lúc theo chúng ta lên xe bus. Có lẽ họ tưởng ta đã lấy lại được tia chớp. Tôi không biết bạn mình làm sao nữa: Mặt Annabeth tự nhiên trắng bệch - Giả sử theo họ, tớ lấy được tia chớp. Vậy thì còn xuống địa ngục làm gì? Grover giả định: - Để đe dọa Hades. Hoặc để hối lộ hay gởi tối hậu thư đòi trả mẹ cậu về dương gian. Tôi huýt gió: - Sao Dê có đầu óc đen tối thế? Tính đến cả khả năng ấy cơ à? - Thì có sao? Cảm ơn cậu quá khen. Tôi thấy chưa thỏa đáng: - Nhưng giọng nói dưới hang bảo nó đợi hai bảo bối. Nếu một trong hai có tia chớp, vậy chứ còn lại là gì? Grover mít đặc. Nó lắc đầu. Nhìn tôi như thể bạn ấy biết câu tôi định hỏi, Annabeth im lặng như bảo tôi đừng nói. Tôi hỏi: - Cậu biết thứ dưới vực, trong trường hợp không phải Hades, đúng không? - Percy, đừng đả động đến nó. Bởi vì nếu không phải Hades… Không, nhất định phải là Hades. Xe đi qua công viên nước, rồi cột mốc có đề: Bang California 20km. Tôi cảm giác mình bỏ qua một thông tin đơn giản mà quan trọng, giống lúc bệnh khó đọc tái phát, tôi nhìn một từ hay gặp nhưng không hiểu nghĩa vì một hoặc hai chữ cái trong đó bay đâu mất. Càng suy nghĩ kĩ về nhiệm vụ lần này, tôi càng chắc chắn việc đối mặt với Hades không phải là giải pháp. Hiện còn một việc nữa đang diễn ra, một việc còn nguy hiểm hơn nhiều. Rủi thay, chúng tôi đang lao với tốc độ 170 km/h, bụng chắc chắn rằng Hades trộm tia chớp. Nếu đến đó rồi phát hiện mình sai, ba đứa không kịp sửa lỗi nữa. Ngày Hạ chí sẽ trôi qua, cuộc chiến tranh lớn sẽ bùng nổ. Annabeth an ủi tôi: - Chắc chắn xuống âm phủ là đúng. Trong mơ cậu thấy linh hồn người chết, phải không nào? Chỉ một nơi có linh hồn người chết. Ta đi đúng đường rồi Annabeth cố làm hai thằng tôi vui lên bằng cách trình bày những kế hoạch khôn khéo nhằm đến được vương quốc của thần Chết, nhưng tôi không còn lòng dạ đâu để nghe. Còn quá nhiều yếu tố chưa rõ ràng. Giống học trò lao đầu ôn thi nhưng không biết mình thi môn gì. Tin tôi đi, tôi bị thế nhiều lần rồi. Xe taxi phóng vun vút về hướng Tây. Mỗi cơn gió thổi qua Thung Lũng chết như một linh hồn người quá cố vừa lướt qua. Mỗi lần thắng xe rít lên, tôi lại nhớ tiếng rắn của phù thủy Echidna. Lúc hoàng hôn, bác tài thả chúng tôi ở bãi biển Santa Monica. Nơi này giống hệt cảnh biển Los Angeles trong phim ảnh, có điều mùi hôi bốc lên rất khó chịu. Cửa tiệm mọc lên gần cầu tàu, hàng cọ nối nhau dọc vỉa hè, bụi đời ngủ vạ vật sau đụn cát và dân chơi lướt sóng nướng thịt bằng lửa đốt trong thùng rác. Grover, Annabeth và tôi đi xuống mép nước. Annabeth hỏi: - Giờ ta làm gì đây? Trong ánh hoàng hôn, mặt biển Thái Bình Dương sóng sánh như vàng lỏng. Tôi chạnh nhớ những ngày vui xa xưa lắm, tôi cũng đứng hàng giờ trên bãi tắm Montauk ở đầu kia nước Mỹ, lặng ngắm biển Đại Tây Dương. Chẳng lẽ trên đời lại có một vị thần đủ uy lực kiểm soát đại dương mênh mông này? Ngày đi học, cô giáo dạy 2/3 bề mặt trái đất bao phủ bởi nước. Sao tôi được làm con của nhân vật quyền uy nhường ấy? Tôi bước xuống nước. Annabeth ngạc nhiên: - Percy, cậu làm gì thế? Tôi cứ đi tiếp, nước dâng đến bụng rồi ngực tôi. Bạn ấy nói với: - Cậu không thấy nước ô nhiễm nặng à? Dưới đó bao nhiêu chất độc… Nghe đến đó, đầu tôi ngụp xuống nước. Lúc đầu tôi nhịn thở. Nói chung ai cũng sợ sặc nước, không riêng gì tôi. Cuối cùng, tôi không nhịn được nữa bèn há miệng thở. Tất nhiên, tôi thở bình thường như trên mặt đất. Nhưng các bạn đọc chớ thử làm giống tôi nhé. Tôi đi xuống tiếp. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi vẫn biết xung quanh mình có gì. Tôi cảm giác được chuyển động dưới đáy biển. Thậm chí tôi nhìn rõ dòng chảy nóng và lạnh quyện vào nhau. Có con gì quấn chân tôi. Nhìn xuống, tôi suýt nữa vọt lên mặt nước với tốc độ của một quả tên lửa. Trườn cạnh tôi là con cá mập Mako dài hai mét rưỡi. Nhưng con vật không cắn, nó rúc mõm nép vào tôi như con chó nhà. Tôi rụt rè chạm vây lưng cá. Nó vui vẻ quẫy nhẹ, khuyến khích tôi nắm chặt hơn. Tôi giữ vây cá bằng cả hai tay. Nó bơi vút đi, kéo tôi theo. Nếu độc giả chưa bao giờ cưỡi cá mập, cũng đừng tự tìm cách thử.. Tuy nhiên, phải công nhận cảm giác ấy tuyệt vời hơn bất kì buổi tập trượt băng nào. Cá mập đưa tôi vào vùng nước tối. Nó thả tôi ngay chỗ cát dưới đáy biển sụt xuống thành vực sâu thẳm. Tôi như đứng trên miệng hẻm núi vĩ đại Grand Canyon giữa đêm hôm khuya khoắt. Dù không nhìn rõ lắm nhưng vẫn biết có khoảng trống mênh mông, sâu hun hút dưới kia. Mặt nước sáng mờ mờ cách nơi đây khoảng sáu bảy chục mét. Đáng lẽ tôi đã chết vì sức ép của nước. Nhưng lần này tôi cũng thở bình thường. Tôi bâng quơ tự hỏi liệu sức mình lặn sâu được chùng nào. Chắc tôi có khả năng xuống thẳng đáy biển Thái Bình Dương. Đúng lúc ấy, có thứ gì sáng trắng dưới hố sâu. Càng dâng lên, nó càng sáng hơn. Một giọng nói giống hệt giọng mẹ tôi vang lên: - Percy Jackson! Càng đến gần, hình dáng cô càng rõ hơn. Tôi thấy rõ mái tóc đen bồng bềnh và váy lụa màu xanh lam. Người cô lung linh tỏa sáng, đôi mắt đẹp tuyệt vời hút hồn tôi đến độ tôi không nhìn thấy cô đang ngồi trên lưng cá ngụa.. Cô tiên bước xuống. Cá ngựa và cá mập bơi ra xa cùng chơi trò đuổi bắt. Cô tiên mỉm cười với tôi: - Cháu đến được tận đây rồi ư? Giỏi quá. Tôi không biết hành xử ra sao, chỉ biết cúi đầu cung kính: - Cô có đến sông Misissippi phải không ạ? - Đúng rồi. Ta là Hải Tinh. Nữ thần biển bơi ngược lên sông rất khó khăn nhưng chị em họ ta là nữ Thủy thần tiếp sức cho ta đến gặp cháu. Dù không phục vụ trong triều đình chúa tể Poiseidon, họ vẫn phục vụ vì tôn kính ông.. - Vậy ra, cô là người của triều đình Poseidon? Nữ thần biển gật đầu: - Đã mười mấy năm trôi qua kể từ khi con trai thần biển chào đời. Chúng ta háo hức quan sát từng giai đoạn trưởng thành của cháu. Thốt nhiên tôi nhớ ngày bé rong chơi trên bãi biển Montauk, tôi từng nhìn thấy gương mặt phụ nữ mỉm cười in trên sóng nước, như thể có nhóm con gái rủ nhau soi bóng xuống mặt biển. Trước nay tôi không chú ý lắm đến hiện tượng ấy, cũng như nhiều hiện tượng lạ lùng khác từng xảy đến với tôi từ lúc mới lọt lòng. - Nếu rất chăm lo cho cháu, đáng lẽ cha cháu phải đến đây chứ? Sao cha không trực tiếp dặn dò bảo ban cháu? Một dòng biển lạnh buốt từ đáy biển dâng lên. - Đừng quá khắc nghiệt với Thần Biển. Ông đang bị đẩy đến bên bờ vực của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Thêm vào đó, ông không được phép trực tiếp giúp đỡ cháu. Thần thánh không được bày tỏ sự thiên vị trong tình cảm. - Con ruột cũng không ngoại lệ ư? - Với con ruột lại càng không. Ảnh hưởng của các thần chỉ có thể là gián tiếp. Chính vì thế ta mới đến đây mang theo lời cảnh báo và một món quà. Nữ thần biển chìa tay. Ba hạt ngọc trai hiện ra trong lòng bàn tay. - Cháu sắp vào lãnh địa của Hades. Người trần đến đó và sống sót trở về chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chẳng hạn Orpheus giỏi đàn ca hát xướng, Hercules khỏe phi thường, Houdini mưu trí vượt ngục từ nhà tù Tartarus nằm dưới tầng cuối cùng của địa ngục. Cháu có tài như họ không? - Dạ… không ạ. - Nhưng cháu có thứ khác. Tài năng của cháu mới bắt đầu hé lộ. Lời Sấm Truyền tiên đoán cháu có tương lai huy hoàng nhưng cũng lắm chông gai, miễn là cháu còn sống đến lúc trưởng thành. Chắc chắn thần Poseidon không khoanh tay mặc con mình chết yểu. Vì thế, hãy nhận ba viên ngọc này. Khi gặp nguy khốn, hãy ném một viên xuống đất. - Sau đó thì thế nào ạ? - Tùy thuộc từng hoàn cảnh. Nhưng hãy nhớ : Cái gì của biển phải trả lại cho biển. - Còn lời cảnh báo là gì ạ? Cặp mắt xanh lục của nữ thần Biển lấp lánh: - Sự nghi ngờ và tuyệt vọng giúp Hades có thêm sức mạnh. Ông ta chỉ chờ dịp lừa dối cháu, khiến cháu mất sáng suốt. Khi cháu trong lãnh địa của ông ta, Hades không bao giờ buông tha cho cháu trở về. Hãy vững tin, cháu nhé. Hãy làm theo con tim mách bảo, nếu không cháu sẽ mất hết. Chúc may mắn, Percy Jackson. Nữ thần cưỡi cá ngựa, trở về đáy vực. Tôi nói với theo: - Hượm đã. Lúc còn ở sông, cô nói chớ tin vào quà cáp. Quà nào thế? Giọng nữ thần biển nhỏ dần: - Giã biệt. Cháu phải lắng nghe con tim mình. Tôi chỉ muốn theo cô xuống vực tối xem cung điện của thần Poseidon. Nhưng khi nhìn lên, tôi thấy hoàng hôn gần tắt. Bạn bè tôi đang đợi. Thời gian còn lại quá ít ỏi… Tôi đạp nước, bơi lên. Vừa lên bãi cát, quần áo tôi lập tức khô ráo. Kể Grover và Annabeth nghe xong, tôi cho hai bạn xem các hạt ngọc. Annabeth nhăn mặt: - Cái gì cũng có giá của nó. - Cô ấy cho tớ mà. Cô bạn tôi lắc đầu: - Ý tớ không phải thế. Quà tặng luôn có mặt trái. Rồi cậu xem. Trong tâm trạng lo âu, chúng tôi quay lưng lại với biển. Với mấy đồng bạc lẻ trong ba lô của thần Ares, ba đứa đi xe buýt lên khu tây Hollywood. Chúng tôi đưa bác tài xem mẩu giấy ghi địa chỉ Địa ngục lấy trong phòng “cô Em”, nhưng bác tài bảo chưa từng nghe tên Phòng thu âm DOA bao giờ. Ông ta bảo tôi: - Hình như ta thấy cháu trên TV rồi thì phải. Cháu đóng phim à? - Dạ… cháu đóng thế ạ… đóng thế cho nhiều diễn viên nhí. - Thảo nào. Chúng tôi cảm ơn ông và xuống xe ngay bến sau. Ba đứa vừa đi bộ cả mấy cây số vừa hỏi đường đến DOA. Chẳng ai biết nó ở đâu. Ngay cả trong danh bạ điện thoại cũng không có. Trên đường đi, chúng tôi phải chạy vào ngõ hẻm trốn xe cảnh sát đến hai lần. Tôi chết sững trước cửa hàng bán đồ điện khi thấy trên TV chiếu buổi phỏng vấn một gương mặt quen thuộc : cha ghẻ Gabe Cóc Chết. Đích thân Barbara Walters phỏng vấn ông ta. Chắc giờ cha ghẻ tôi nổi tiếng lắm. Phóng viên lừng danh nói chuyện với ông ngay trong căn hộ của mẹ, giữa lúc ván bài dang dở. Một phụ nữ trẻ măng tóc bạch kim ngồi cạnh, vỗ vỗ bàn tay ông. Giọt nước mắt cá sấu lăn dài trên má ông ta: - Thưa cô Walters, nói thực nếu không có bác sĩ tâm lí Sugar đây, tôi đã suy sụp vì đau khổ. Đứa con riêng của vợ đã lấy đi mọi thứ quý giá đối với tôi. Vợ tôi… xe camaro… xin…lỗi. Cứ nhắc đến nó, tôi không cầm lòng được. Barbara Walters quay sang ống kính: - Trước mắt quý vị là một người đang tan nát cõi lòng. Không thể ngờ một thiếu niên lại gây nên tai họa nhường này. Một lần nữa, chúng tôi đưa lên đây tấm hình mới nhất của kẻ đào tẩu, chụp ở Denver cách đây một tuần. Màn hình hiện lên tấm ảnh chụp tôi, Grover và Annabeth nói chuyện với Ares ngoài quán ăn Colorado. Barbara Walters hào hứng: - Hai thiếu niên kia là ai? Người đang nói chuyện với chúng là ai? Percy Jackson là ai : kẻ sống ngoài vòng pháp luật, tên khủng bố hay nạn nhân bị tẩy não bởi một giáo phái mới? Sau phần quảng cáo, mời quý vị cùng chúng tôi trò chuyện với nhóm chuyên gia tâm lí trẻ em hàng đầu Hoa Kỳ. Grover kéo tôi xềnh xệch. Nếu còn đứng đó, chắc tôi đấm vỡ kính của tiệm đồ điện mất. - Ta đi thôi cậu. Trời chạng vạng tối. Những tay anh chị mặt mày bặm trợn bắt đầu xuống phố tìm thú tiêu khiển. Không sao. Tôi vốn sinh ra và lớn lên ở New York nên không gì hù dọa được tôi. Khổ nỗi, Los Angeles khác hẳn New York. Ở quê nhà, mọi thứ đều gần gũi. Dù thành phố rộng mênh mông, tôi không bao giờ lạc. Đường xá, tàu diện ngầm rất quy củ, chỉ cần nắm nguyên tắc toàn bộ hệ thống là đủ. Chỉ cần không quá đần độn, trẻ con cũng có thể đi lại an toàn.. Los Angeles không giống vậy. Đô thị này vươn ra tứ phía, cảnh vật nhốn nháo, tôi không biết nên đi ngả nào. Nó nhắc tôi nhớ thần Ares : không xứng tầm nhưng thích tỏ ra vĩ đại, muốn được coi là “ngầu” bằng cách phách lối, cư xử quái đản và thích làm khó dễ người khác. Ngày mai đã là Hạ Chí, tìm lối vào địa ngục bằng cách nào đây? Ngoài đường, lũ bụi đời, đại bàng đường phố và vô công rồi nghề nhìn chúng tôi từ đầu đến chân tìm thứ đáng công ăn cướp. Lúc đi ngang qua đầu con hẻm nhỏ, tôi nghe tiếng gọi từ bóng tối: - Này, đứng lại. Tôi ngớ ngẩn làm theo. Ngay lập tức, ba đứa bị bao vây. Một băng nhóm thiếu niên vây lấy chúng tôi. Chúng có sáu tên tất cả: da trắng, quần áo đắt tiền và dáng điệu ngông nghênh. Giống hệt lũ học trò viện Yancy: Con nhà giàu ưa quậy phá. Theo bản năng tự vệ, tôi rút thanh Thủy Triều. Không biết thanh gươm từ đâu ra, bọn du côn lùi cả lại. Riêng tên đầu sỏ, hoặc cực kì đần độn hoặc gan to bằng trời, cầm dao bấm xông đến chỗ tôi. Sai lầm của tôi là vung kiếm chém nó. Thằng lưu manh rú lên. Nhưng vì là người phàm “thứ thiệt”, nên dù bị lưỡi kiếm xuyên qua ngực, nó không hề hấn gì. Nó cúi xuống: - Sao lại… Tôi đoán từ ngạc nhiên chuyển sang giận dữ chỉ mất ba giây nên bảo Grover và Annabeth: - Chạy mau! Đ ẩy hai đứa tránh trước mặt văng ra xa, chúng tôi vắt chân lên cổ liều chạy dọc con phố, không biết đích đến là đâu. Đến ngã tư, chúng tôi cùng rẽ. Annabeth la lên: - Ra đằng kia! Cả dãy nhà chỉ còn một tiệm còn mở, đèn sáng rực cửa kính. Trên cửa ra vào có biển đề: CRTUY’S WRTREBDE ALPACE ĐMỆ NỚ CƯ CRTUYS. Grover đoán: - Đệm nước Crusty ư? Nếu không gặp nguy khốn, tôi không bao giờ vào đây. Lúc này chính xác là tình huống nguy khốn. Chúng tôi chạy ùa vào, nấp sau một cái giường trải nệm nước. Chưa đầy một giây sau, nhóm du côn chạy băng qua cửa. Grover thở hổn hển: - Chúng mắc lừa ta rồi Giọng ồm ồm vang lên ngay sau chúng tôi: - “Chúng” nào? Ba đứa giật nảy mình, quay phắt lại. Sau lưng chúng tôi là một gã hung dữ, tuy ăn mặc bình thường. Hắn cao hai mét mốt, đầu trọc lóc. Da hắn xám xịt, thô ráp, nụ cười lờ đờ và lạnh như nước đá. Dù thấy hắn lừ đừ tiến đến, nhưng tôi có cảm giác hắn cực kì nhanh nhẹn khi cần. Bộ vét thời trang thập niên 70 của hắn chắc lấy từ sòng bài Hoa Sen ! Hắn mặc áo sơ mi hoa mở phanh khoe khuôn ngực trụi lông. Hai ve áo khoác nhung rộng bản, to như đường băng cho máy bay hạ cánh. Tôi không thể đếm nổi quanh cổ hắn có bao nhiêu sợi dây chuyền bạc. Hắn cười lộ hàm răng vàng khè: - Ta là Crusty. Tôi ép mình không bật ra câu: Tên nghe cũng như người vậy. Tôi phân trần: - Xin lỗi đã vào đây. Chúng cháu chỉ định đi ngang qua. Hắn làu bàu: - Trốn bọn lưu manh chứ gì? Tối nào chúng cũng lảng vảng ở đây. Nhờ có chúng, cửa hàng của ta có người ra vào. Này, muốn xem nệm nước không? Tôi chưa kịp nói “Không, cảm ơn”, hắn đã đặt bàn tay hộ pháp, móng dài cáu bẩn lên vai đẩy tôi vào phòng trưng bày hàng. Ở đây có đủ mọi loại giường mọi cỡ với đủ mọi chất liệu, từ gỗ đến vải vóc. Có cả loại giường từ lớn đến cực kì lớn. - Ta thích nhất mẫu hàng này. Bán chạy lắm nhé. Crusty hãnh diện vuốt vuốt mặt giường phủ sa tanh đen, đầu giường gắn sẵn đèn nham thạch. Tấm nệm rung bần bật, trông như miếng thạch đên khổng lồ núng nính. Crusty quảng cáo: - Dễ chịu như ngàn bàn tay xoa bóp. Mấy đứa thử xem. Đừng ngại, lên nằm một giấc cho thoải mái. Ta không phiền đâu mà. Với lại, hôm nay ta nghỉ bán. Tôi ấp úng: - Dạ… chắc tụi cháu không… Grover nằm ngay: - Giường mát xa tự động đấy. Thích quá! Crusty xoa xoa cái cằm sần sùi: - Gần đúng, gần đúng. Tôi thắc mắc: - Sao lại gần đúng? Hắn quay sang Annabeth: - Cháu gái, giúp ta xem thử giường kia, chắc vừa đấy. Cô bạn tôi phản đối: - Nhưng… Hắn vỗ vai, đẩy cô bé đến bên giường hiệu Safari Deluxe: thành giường chạm nổi hình sư tử, chăn in hình báo gấm. Khi Annabeth không chịu nằm, hắn xô mạnh cô bé. Bạn tôi cự nự: - Này! Làm gì thế? Crusty búng tay, niệm chú: - Ergo! Từ hai thành giường, dây thừng lao vút ra trói Annabeth xuống mặt nệm. Grover định ngồi lên, dây thừng từ mặt giường sa tanh lên trói chặt nó xuống nệm. Giọng Grover run bần bật vì máy mát xa: - Không thích! Không thích nữa rồi. Gã khổng lồ quay sang tôi cười nham nhở: - Đã bảo gần đúng rồi mà lại. Tôi định chạy nhưng bàn tay hộ pháp đã túm gáy tôi: - Chà chà, thằng này nhanh thật. Không sao. Tao sẽ tìm ra ngay giường vừa với mày. - Thả bạn tôi ra! - Thả chứ! Nhưng trước hết phải chỉnh cho vừa đã - Nghĩa là sao? - Giường nào cũng dài 2m. Bạn mày lùn quá. Làm chúng vừa với giường là việc nên làm. Annabeth và Grover oằn mình cố tìm cách thoát. Crusty lẩm bẩm: - Số đo không chuẩn khó chịu lắm. Ergo! Từ hai đầu giường, dây thừng lại mọc. Chúng quấn chặt cổ chân và hai nách bạn tôi, kéo căng họ ra. Crusty bảo tôi: - Đừng lo. Chỉ kéo dài thôi mà. Xương sống dài thêm khoảnốnáu phân nữa là chuẩn. Tỉ lệ sống sót là một trên vài triệu. Thấy chưa, thậm chí chúng có khả năng sống là khác. Sao giờ ta không tìm giường hợp với mày nhỉ? Grover gào to: - Percy! Tôi tính toàn thật nhanh. Mình tôi đấu với gã chủ tiệm khác nào trừng chọi đá. Hắn sẽ bẻ gãy cổ tôi trước khi tôi kịp rút kiếm. Tôi gợi chuyện: - Crusty không phải tên thật của ông nhỉ? Hắn thừa nhận: - Đúng ra ta là gã Procrustes. - Procrustes có nghĩa là “kéo dài”. - Phải, nhưng nếu khách hàng vất vả đánh vần chữ Procrustes, buôn bán sẽ không thuận lợi. Crusty dễ đọc hơn - Chí lí, tên nghe rất kêu. Mắt hắn sáng rỡ: - Thật không? - Thật quá đi chứ! Tài năng thiết kế giường cũng tuyệt đỉnh. Dù cười ngoác mang tai, hắn vẫn nắm chặt gáy tôi: - Hễ có dịp, ta lại bảo khách thế, nhưng chẳng ai tán dương tài năng của tao cả. Mày đã thấy ai gắn cố định đền nham thạch vào đầu giường như tao chưa? - Ồ, đọc đáo lắm. - Phải, đúng thế. Annabeth quát tôi: - Percy, cậu làm gì vậy? Tôi bảo Procrustes: - Đừng để ý. Nhỏ đó quá quắt lắm. Gã khổng lồ cười ha hả: - Khách hàng nào chẳng thế. Chưa thấy ai cao đúng 2m, không sai một ly. Đúng là không biết chăm sóc chiều cao. Đã vậy còn kêu ca giường không vừa. - Thế nhỡ có người cao hơn 2m thì sao? - Thiếu gì kẻ đó. Càng dễ chỉnh chứ sao. Bàn tay to bè bè buông gáy tôi. Nhưng tôi chưa kịp động thủ, hắn đã thò tay xuống gầm bàn tính tiền lấy cây rìu lớn: - Chỉ cần phần giữa vừa với giường. Đầu với chân chỗ nào thừa chặt phăng hết. Tôi nuốt khan: - Ra vậy. Rất có óc thẩm mĩ. - Gặp khách hàng thông minh như mày khoái thật. Lực kéo dây thừng mạnh lắm rồi. Annabeth tím tái vì đau. Còn Grover kêu ằng ặc như ngỗng bị bóp cổ. Nhìn thẻ bán hàng trên giường Trăng mật Đặc biệt, tôi cố bình tĩnh hỏi: - Giường này cũng có máy rung phải không? - Chính xác. Thử nằm xem - Thử ngay đây. Chỉ có điều nếu ai to cao bằng ông… chắc máy yếu không rung nổi chứ gì? - Đảm bảo có. - Ông cứ đùa. - Không, thật mà. - Tôi không tin. Hắn ngồi lên mép giường, vỗ vỗ nệm: - Thấy chưa? Tôi búng tay: - Ergo! Quanh người Crusty, dây thừng vươn ra, trói chặt hắn Hắn hét lên: - Làm gì thế hả? Tôi bảo dây thừng: - Chỉnh hắn vào giữa. Dây tự chỉnh theo lệnh tôi. Cả đầu Crusty thò ra khỏi đầu giường này, chân thò ra đầu giường kia. Hắn kêu: - Đừng! Ta chỉ làm thử cho ngươi xem thôi mà. Tôi rút kiếm: - Không điều chỉnh không xong. Tôi không ngại ra tay. Nếu Crusty là người, không đời nào tôi hại hắn. Nhưng nếu là yêu quái, hắn phải biến thành bụi ít lâu là đáng đời. Hắn bảo tôi: - Này, đang có đợt khuyến mãi đấy. Mọi kiểu giường thấp đều hạ giá 30%. Tôi giơ kiếm lên: - Xử lí đầu trước nhé? - Không cần trả tiền trước. Tiền sáu tháng sau không tính lãi. Tôi vung gươm, tiếng mặc cả của Crosty ngưng bặt. Quay sang giường hai bạn, tôi cắt hết dây thừng. Annabeth và Grover đứng dậy. Kêu than, nhăn nhó và bực mình mắng tôi không tiếc lời. Tôi trêu: - Hai cậu cao hơn rồi đấy. Annabeth cau có: - Đùa thế có ngày chết người ta. Lần sau mau lên nghe chưa? Bảng thông báo sau bàn làm việc của Crusty có mẩu quảng cáo cho dịch vụ Phát Chuyển Nhanh Hermes và phần quảng cáo khác cho niên giám điện thoại mới của riêng giới yêu quái trong khu vực Los Angeles. “Niên giám những trang vàng của giới yêu quái đầy đủ thông tin nhất”. Dưới đó có tờ rơi màu vàng của phòng thu âm DOA hứa có thưởng cho ai giao nộp linh hồn con lai. “Chúng tôi luôn tìm kiếm tài năng trẻ!”. Ngay dưới là địa chỉ DOA, kèm theo sơ đồ chỉ dẫn đường tới đó. Tôi giục các bạn: - Ta đi thôi. Grover phàn nàn: - Cho nghỉ chút đi. Cậu quên tụi này vừa bị tra tấn à? - Xuống địa ngục còn thú vị hơn. Cửa vào đó chỉ cách đây một dãy nhà
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro