Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 1 - Atlantis

IDENITY
LOST PARADISE.
LTHT
   CHƯƠNG 1.

                           
                    Trên một hòn đảo xa xôi nằm sát về phía đông nam của lục địa Aceland. Thật khó mà tin được nó có tồn tại, nơi mà các tiên Elf, một trong hai chủng tiên đầu tiên trên thế giới chọn ngụ cư ở đây. Đáng nói đây chính là hòn đảo bí mật mà trước đó một tiên nữ nhánh Thánh V (nhánh tiên còn lại) đã dẫn những đứa con của mình lánh nạn, trong cuộc chiến tranh Địa Đàng PW II. Và giờ tiên Elf cũng như vậy, họ đang gánh phải một tai nạn diệt vong toàn chủng, bị gán một cái mác ngoài giá thú  “ Giống loài phản nhân loại “. Bất kì kẻ nào mang đôi tai nhọn đều có thể rước họa vào thân, họa vô đơn chí, mà nhận phải cái bản án của tử thần, không thì chỉ có kiếp làm nô lệ xê dịch, dời qua đổi lại, chẳng bao giờ ngóc đầu lên nổi. Thời gian đã một mực thoi đưa, nó đã dệt lên những tấm vải giờ cũng đã bạc màu, những đứa trẻ trên nôi kia ấy, giờ đã thành những cụ già tay chống. Nhưng đối với Elf, họ vẫn phải trốn chui trốn nhủi mỗi lần đặt chân đến vùng ngoại, chưa bao giờ họ lại giống một con chuột như bây giờ, lúc thúc lôi thôi, mà đi từng bước thật chậm rãi, hoặc phải thật tức thì!. Giá như! Họ có thể đeo chuông lên những con mèo đi bằng hai chân thì hay biết mấy! Họ lảo đảo qua những con phố vắng người nhất của vùng Elios cận biển phương đông, chỉ được mua những thứ cần thiết cho tập thể - đảo Atlantis không phải là nơi có tất cả mọi thứ cho họ. Nhưng lành thay trong giai đoạn đen tối nhất của toàn lục địa sau đó, mặc cho tên chúa tể hắc ám AC Dalit cùng với đội quân muddles của hắn trỗi dậy, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho tất cả, bất cứ đâu chúng đi qua, đến cỏ cũng khó mà mọc được - thì giờ đây, lũ chuột núp ở nơi xa lại an toàn quá đỗi.

Ở thành trì cuối cùng của nhân loại Cổ Loa ( Calos theo cách đọc của các chủng tộc khác ) . Nơi cuối cùng, cũng là tia hy vọng còn sót lại duy nhất của toàn thể. Người Âu Lạc ở đây, đón nhận bất cứ thành ý nào từ các chủng - miễn là cùng chống lại đội quân hắc ám. Họ có một vũ khí mà họ rất lấy đỗi làm tự hào, mà ưỡn ngực cao đầu tuyên bố đanh thép :

“ Nó sẽ bắn chết cha thằng nào dám bén      mảng vào đây ! “

Một câu nói hết sức mang tính bông đùa của họ, nhưng thật vậy ! Nó được gọi là nỏ thần Kim Quy - một mũi vô hạn tên - vậy ra là họ đâu có đùa !

Ban đầu, nó rất hiệu quả, một lần kéo cung là ngàn mũi tên bay phất theo, một cơn mưa tên ập xuống đầu lũ xâm lăng. Họ tăng cường, bằng cách đổ dầu xuống những đường ống thoát nước, nó len ra các rảnh xung quanh, hay đổ trực tiếp xuống đầu quân địch, khiến chúng nhớp nháp đôi khi trượt. Họ đốt cháy đầu tên và bắn đi, khiến lửa lan ra như bỉ ngạn nhìn từ trên cao - việc này còn được con gọi là “Con mắt lửa của Thần Helion”. Có lần còn kéo hai lần tên liên tiếp, khiến cho bất cứ kẻ nào công thành cũng chịu chung một số phận. Họ đã đẩy lùi được chúng, và làm chậm hắn một thời gian… Song với đó, việc hợp tác đã mang lại cho phe nhân loại những khả năng chưa bao giờ có, biết bao nhiêu nước cờ đã được sử dụng, và họ gần như đã chiếu phất được tướng.

Nhưng càng về sau :
Chà ! Tôi phải thừa nhận rằng nó vẫn rất tốt, khá chắc là hạ được rất nhiều tên. Nhưng rồi, cũng chẳng thể nào thay đổi cái thực tại khắc nghiệt khi ấy - không thể giết được tên thủ lĩnh! Một dấu hỏi to tướng, mà bất cứ ai cũng khó lòng mà trả lời cho đặng. Ta bên trong thì đang dần cạn kiệt, cả lương thực và cả người. Ta đã dùng đến cả những đứa trẻ mới lên 13 và 14, thậm chí ! Cả nam lẫn nữ - thì bên ngoài, lũ muddles lại mọc lên như nấm, lũ goblin chúng thậm chí làm trại sinh nở ngay giữa đất ta - hai cách dùng từ “Thậm chí” sao mà quá đỗi cay nghiệt. Đứng trước ngưỡng cửa thua cuộc, một sự cứu nguy đã đến kịp thời.

“Một lá thư, ai đã giao đến lá thư này ?”

“Thưa các ngài, là một con bồ câu.”

“Nó đến từ hướng nào ?”

“Từ đông nam, đậu trên cửa sổ trong khi các ngài đang bàn “

“Xàm ngôn! Đông nam làm gì có ai sinh sống, chắc chắn đây là bẩy “

“Tôi e là có, thưa ngài ngài Harvan XVII “

“Tôi cũng không nghĩ hắn thích bồ câu”

“Vậy ta có làm theo không? Dù sao ta cũng đâu còn cách nào khác ! Có ai muốn cụng ly lần cuối không ?”

“Không!”

“Ta sẽ làm điều đó, sau khi bùm cái này “

“Vậy là, đã được quyết định “

                                   Không còn thủ lĩnh, đội quân muddles như rắn không đầu, chúng buộc nhận cái thất bại toàn diện. Và giờ đây, thời kỳ đen tối đã qua, nhưng kể cả như vậy - chẳng ai dám chắc một thời kỳ khác sẽ tốt hơn là bao. Mặc dù, phe chiến thắng đã đoán già đoán non được danh tính của bức thư - nhưng rốt cuộc, cũng chẳng có chuyện gì khác diễn ra. Một lần nữa, sự minh chứng với thành kiến về họ đã bị phủ nhận.

Atlantis 25/6/1039 Sau PW-II
            
                                      Trong một cái nhìn vào cửa sổ phòng học, nắng xuyên qua những ô cửa trắng tinh như không khí, tôi tự hỏi là ai đã lau nó sạch đến như vậy? mong rằng mấy con chim không bị lừa, nhất là chim ruồi và chim rõ kiến. Ôi chao, hình như đã có một con cú ! Nó làm gì ở đây vào buổi sáng này cơ chứ ! Mà kệ đi. Ở đây, thật dễ dàng thấy được những ánh mắt đầy triển vọng, những mái tóc rối ban sớm, và những vần trán cao. Còn cái đó, hình như là trán dồ thì phải ! Tội cho cô gái buộc nơ hồng ấy. Và đầy rẫy, những thuật ngữ khó hiểu lấp đầy trên bảng kia - thì ra giờ này là tiết của bà cô đó. Ơ kìa ! một cậu bé đang ăn nhồm nhoàm cái bánh cam được phủ đầy mật, nó đang nấp dưới gầm ghế, như thể phải trốn một cuộc đi săn - hay nó sợ bị dành lấy thức ăn như lũ mèo ? mà vội vã không ngừng - trước khi, một con thú lớn hơn bất giác kêu to.

“Bob, Bob đâu!” một tiếng nói giòn giã đột ngột vang lên. “ Trò hãy mau đọc chú ngôn trắng nhánh bảo hộ ” Cô Marryna vẫn đang hối hả thúc giục, ánh mắt lướt qua từng hàng một .” Trò đâu rồi, ta nhớ là ta vẫn gặp em vào giờ giải lao kia mà. “

Nhưng rồi chẳng có động tĩnh gì.

Từ phía sau, một anh bạn có mái tóc trắng, đôi mắt lấp lửng đầy tinh nghịch. Không báo trước, nó dán một cú vào lưng đứa trẻ lom khom  vẫn còn đang bận bĩu, một cái đau điếng, khiến nó giật nảy người tức khắc hét lên.

“Là tên khốn nào thế !” Mặt nó nghệch ra, nhận phải không ít ánh mắt, chẳng khác những mũi tên vô hình nhắm đến kẻ vụng về. Bối rối, nó lật đật đứng dậy, vội che đi dấu tích của bữa ăn bằng ống tay áo màu vàng sáp. Nó chẳng mong cái yếm nâu của nó tuột ra đâu! Vì cái thứ cộm lên kia là đầu tàu của mọi chuyện.

Nó ngước mắt lên bảng, một bóng người đang trừng mắt nhìn, nó nheo mắt nhìn rõ, nếu không, nó lại tưởng là tử thần nào đó trong truyện bước ra. Cô Maryyna mang một bộ choàng đen, lướt tha lướt thướt kéo lê mỗi khi di chuyển, mái tóc đen nhòm, rũ xuống đôi tai nhọn và cả sau lưng. Nhưng người lại trắng phệt, ánh mắt có phần dịu dàng, vẫn thanh tao như mới 23 - chẳng đủ lấp vào đâu.

“Trò hãy, mau đọc chú ngôn trắng” Cô Marryna nói .” Nhánh bảo hộ, ngay cho tôi trò Bob! Nếu không ? Trò sẽ bị phạt u như kỹ ” Bà ta vẫn đang chờ đợi.

Bob ấp a ấp ủng trong miệng, mắt nó nhìn xung quanh như tìm sự trợ giúp, có mấy ngón tay đang chỉ về phía trước, trên cái bảng, và độ cao đó chắc là dòng đầu. Khốn thay, trong đầu nó giờ giống mấy bức tường trắng kia.

“San, ta, San ta…San cờ ta ma tiu.” Bob nói, cố đọc theo cái kiểu nó hiểu, những tiếng cười đã vội vả vang lên, có cái lí nhí, có cái cười to, làm nó vô cùng xấu hổ mà không dám đọc tiếp, làn chữ kia, giờ chẳng khác nào dòng suối rune chảy xiết, mà nó khó dám thọt chân vào.

Lành thay thế nào, thiếu niên tóc trắng ban nãy, đang âm thầm nhắc bài nó, nó cố lóng tay nghe, mà dáng người như cái cây bị gió quật. Cô giáo vẫn đang âm thầm theo dõi, tóc trắng cố nhắc lại nhiều lần, và mỗi lần lại lớn hơn, nó vẫn thì thảo nói, nhưng Bob chẳng nghe thấy là bao, khuôn mặt cậu ta đầy vẻ hoảng sợ, tay áp vào chỗ cộm siết chặt, vì nó đang tuột dần bên trong cái quần yếm. Cái bức bối tích tụ vào kẻ nhắc bài, từng chút một, khá chắc cậu ta cũng không kiên nhẫn là mấy, những lần sau đó như đang quát. Hết sức tóc trắng quyết định giải tỏa.

“Là Sancta Mater, tutela et benedictio mihi esto. Đồ ngốc”

Một chú ngôn vang lên, tiếng hét làm giật mình mấy kẻ bận tâm, sau đó một tiếng khô khốc từ tốn, sự nứt vỡ lan dần ra các tấm kính, những vẻ mặt đầy lo lắng hiện hữu. Trước đó, thật may là đã lan đến chỗ con cú, làm nó rớt một cái “Bịch” xuống đất. Chà! có lẽ nó vẫn còn sống. Và cái ta sợ nhất đã đến, mấy tấm kính bật ra, nó lao vào nhau vội vỡ rụng rời, cái âm thanh lã tả của thủy tinh, hòa với cái tiếng rít của mấy tấm còn lại chưa vỡ, như con thú gầm rú tông cao, làm đám học sinh hét toán lên, vội vã lập tức đoạn ra ngoài, ai nấy chạy.

“Các trò mau di chuyển ra ngoài” Cô Marryna thản thốt nói, vẩn cố giữ bình tĩnh, cái mảng áo choàng phất che cho mấy cái đầu chậm chạp : “Còn đứng đó làm gì, muốn bị kính đâm vào đầu hả”

Một học sinh nói: “Trời ơi cái quái quỷ gì xảy ra thế”.

Khi tất cả đã ra ngoài, chấn động khi nảy đã nguôi đi, vẩn thấy mấy khuôn mặt ngây ra đâm vào trong, nhìn lấy đặng đoán xem chuyện gì đã diễn ra. Cô Marryna, khép hai tay vào trong ống áo, khạc giọng tuyên bố. “ Các em có thể về sớm, hôm nay. Dù sao chúng ta cũng không thể học với tình trạng này”

Ánh mắt đầy lo lắng, hoảng loạn rung ở vai, Cô lắc người một cái và bận thút thít ở mũi :

” Cô sẽ nói với Thầy Sorandel về sự việc ngày hôm nay, ta mong rằng, các trò, không cần phải hoảng loạn, mấy tấm kính đã quá cũ rồi, và thời tiết dạo này không tốt cho chúng mấy”.

Thế là tiết học hôm nay kết thúc, tên nhát gan Bob đã chạy bon một mạch về nhà.

Như thường lệ, cậu bé tóc trắng khi nãy luôn đi về nhà cùng cô bạn thời thơ ấu của mình, họ luôn trò chuyện trên đường đi và dám cá là hôm nay sẽ có nhiều chuyện để nói hơn thường lệ.

“CÓ KẺ CẦM VIẾT VÀ VIẾT RA NHỮNG LỜI VÔ NGHĨA.”
“CÓ KẺ CẦM VIẾT VÀ THỔI HỒN VÀO TỪNG TRANG GIẤY.”

“Cậu có nghĩ vậy không, Zeno?”

“Ai mà biết. Mà bồ vẫn còn đọc cái cuốn sách nhảm nhí đó à, Leina?” Zeno nói. “Nó chả đáng để đọc, tôi cảm thấy như nó chỉ nói về mấy điều ai ai cũng biết, và cố tình nhồi nhét văn chương cho thật màu – để kiếm tiền đút túi những ai thích trang điểm.”

Xong, cậu liền đứng khựng lại đôi chút. Trên con đường xung quanh, phần lớn là các bụi hoa Violet nhỏ nhắn màu lam tím nối liền nhau, nhưng đôi khi lại có các bụi hoa mười giờ đủ màu xen kẽ, trông thật thích mắt. Phía xa kia là một bức tranh màu xanh thẳm trải dài, và trên cái đồng bằng cỏ ấy khó mà thiếu vài cái cây đơn lẻ. (Nếu mỗi ngày mà đi trên đường này đến trường và cả lúc về thì tôi có lẽ đã không nghỉ học.)

“À, mình đúng rồi. Nó nhảm nhí thật.”

Leina nghe xong liền phản ứng gay gắt. Nào, một người thích sách như cô bé lại để yên cho bạn mình như vậy – tay còn đang ôm một quyển mà.

“Này, bồ không nên nói vậy. Nếu con người chịu để ý đến mấy điều rõ là bình thường, thì đôi khi lại hay biết mấy! Nhưng rõ là phải có mấy người tô sơn bằng văn vào thì họ mới đôi phần chú ý đến – như bức tường màu xám xịt, kể cả có cho nó vài cái lỗ thì chỉ cần sơn màu khác thì bồ sẽ thấy ngay.”

Zeno trang trí một gương mặt bơ phờ, đôi mắt màu xanh đầy nhạt nhẽo, hai tay bận vắt sau đầu, chẳng mấy quan tâm.

“Bồ vẫn đến đọc sách của cái thư viện đó sao!” Zeno nói. “Nó đầy bụi và thật sự chả có đứa con trai trong lớp nào bén mặt đến đó – toàn những trang giấy nhốt những điều rụng rờn. Thế mà lại còn thằng nhóc bạch tạng như bị câm ngồi lì ở đó nữa. Đáng sợ chết đi được.”

Leina vừa đi vừa nói, mái tóc mượt óng phấp phới trong gió, nét mặt rõ phản đối cậu bạn mình: “Những quyển sách đó, chúng được giữ lại để truyền thừa cho chúng ta, bồ biết rõ mà. Và đừng nói xấu bồ Zero như vậy. Cậu ấy có vẻ ít nói, nhưng không phải là người xấu – giống như bồ.”

Zeno đáp ngay đầy thách thức, giọng điệu khó mà để yên cho được đường đường là Zeno ta đây. Lại phải thua con ma ở cái thư viện cũ: “Phải, phải, để tôi nói với thầy Gai, tâm ý của bồ thật cao đẹp, sáng như trang giấy bìa – rằng bồ sẽ đến cái thư viện cũ mèm ấy để dọn dẹp mỗi cuối tuần nhé.” Zeno nháy mắt.

Leina nghe xong liền buột miệng thốt ra: “Đồ khốn.”
Như một thói quen, sau đó lại dịu dàng mà nhè nhẹ: “Oh, xin lỗi nhưng đừng làm vậy. Bồ biết rõ tôi luôn có kế hoạch mỗi cuối tuần mà, và đừng biến thầy Gai, cả bồ Zero như thể không thể dọn dẹp được vậy – nghe chưa!”

Trong ánh mắt cô bé mang chút bâng khuâng, như đang thầm suy nghĩ, ngón tay phải đang nô đùa búi tóc bên trái, được một lúc rồi nói: “Thầy ấy đúng là hơi già một chút. À không, quá già luôn – tóc thì trắng phao, râu thì dài tới qua túi áo, chân đi chập chễ và phải dùng đến cây gậy làm bằng gỗ sồi cứng nhất – nhưng thầy ấy vẫn còn khỏe lắm!”

Zeno gật đầu đầy đồng ý.
“Rõ là như vậy,” Zeno nói. “Thắng được cái ngưỡng pháp sư hệ vật lý như Thầy Sorandel trong trò chơi vật tay thì đâu phải hạng xoàng.” Ý cậu ta không phải Thầy Sorandel không biết dùng phép, mà bởi bản thân từng bị ông ấy đánh đòn. Và hễ mà nhắc đến chuyện này thì cái uất hận đó lại ùa về không xiết, mà hóa thành cái giọng mỉa mai, đầy chế giễu cho kẻ xui xẻo nào nhận phải.

“Tôi cá là kế hoạch cuối tuần của bồ nói chung, và cả bọn con gái nói riêng, thì đi ngắm cảnh là phụ – chính là tụ lại như bầy quạ, mà không ngừng nói xấu người khác. Và tôi cá hơn lần nữa là, kể cả có phải đánh đổi cái khứa móng chân đâm vào rảnh da tôi, rằng tôi mà là chủ đề số hai thì khó ai mà bì được đến số một.”

Leina lập tức biện minh: “Không phải vậy, nhưng nếu bồ nói chúng tôi là đàn thiên nga – vậy thì được.”
Rõ là cô bé không phản biện Zeno mà chỉ đang cố khăng khăng mình không phải loài quạ. Có đi khắp vùng Atlantis này thì cũng chả tìm thấy được bóng nữa là – nên bị gán thành loài đen đúa thì thật quá đỗi đụng đến lòng tự trọng (của con gái).

“Thật vậy sao… xin lỗi, tôi nhầm,” Zeno nói. “Nhưng các bồ khó mà là đàn thiên nga cho được. Ít nhất là cho đến khi con ma kia hiện nguyên hình, hay không còn ở đây, hoặc nó chịu ra nắng mà nhận lấy cái làn da mới, thì các bồ mới hẳn sáng cửa – ấy là tôi chưa tính đến tôi. Nếu châm chút mà cho các bồ là thiên nga đi chăng nữa thì cũng là loài chim đầy miệng lưỡi, và các bồ chỉ làm điều đó ngay lớp học trong giờ giải lao thôi.”

“Đừng buộc tội chúng tôi như thế, chứ. Chúng tớ nói về rất nhiều thứ,” Leina trả đũa. “Không phải bất nhóm người nào tụ lại cũng chỉ để nói xấu người khác. Nó không phải là chủ đề mà có thể nói xuyên suốt được. Ít nhất là đối với những cô gái Atlantis chúng tôi, sẽ không thể nói nhiều hơn việc tán thưởng. Và đừng hòng chúng tôi nói ra mình tán thưởng ai! Nếu như phải ví dụ, thì sẽ có vài điều khác cho bồ mà biết lấy.”

“Ví dụ như thứ gì?!” Zeno nói giọng đầy thách thức. “Bồ biết rõ cái tính tôi mà, nếu bồ đã nói ‘nếu như’ thì làm sao mà tôi lại không hỏi thêm cho được. Mặc cho chẳng quan tâm, thì cũng phải làm cho họng của bồ trở nên khô khốc.”

“Đó là thói xấu, Zeno,” Leina đáp. “Tôi không phải là giáo viên mà bồ cứ hỏi là phải tìm từ ngữ để trả lời! Như hôm nay – tiết Lịch sử thì bồ ngồi im, mắt lim dim ngáy ngủ. Đến tiết Dạy Thanh Lịch (tự đề xuất!) cũng của Thầy Foden thì sao? Tôi đoán là Thầy ấy sẽ suy nghĩ lại về việc có nên mở lớp lần nữa hay không! Rõ là do bồ với cái tính cứ tưng tửng, mà ngừng hỏi không thôi. Cái cà vạt thì đeo ngang cổ, còn bồ thì đeo ở đâu? Ngang hông à? Sẵn nói tới cà vạt, thì cái màu hồng chấm bi của Thầy Foden là tôi lấy làm thích nhất. Nhưng do tôi đã nói ‘nếu như’ thì tôi sẽ cố mà nói. Chẳng có gì khó bằng việc đoán xem việc quái gở tiếp theo mà bồ sẽ làm là gì! Chuyện đó là ít nói nhất. Ai mà đoán cho được. Hoặc Cô Marryna đã mua thêm bao nhiêu chai nước hoa. Và cả… chàng trai nào quyến rũ nhất học viện – chính là chuyện được bàn tán sành sỏi nhất! Đôi khi lại bông đùa như bồ Bob đã tăng bao nhiêu, lần trước tôi đã đoán là bốn rưỡi, và tôi mong mình đúng, để được vinh danh là cô gái với đôi mắt sắc sảo nhất.”

“Bồ ấy tăng thêm 5 mina, nhưng đừng nói thêm gì về chuyện này nữa,” Zeno nói đầy chán trường. “Nếu nó mà được viết thành một đoạn văn thì sao! Rõ như ban ngày là chả ai muốn đọc phải, và nếu như… nếu như… sao nhỉ… Lỡ như ai đọc qua nó rồi, họ sẽ phải thốt lên…”

Sau đó Zeno chống tay trái nạnh ngang hông, lùi mặt về sau, diễn vẻ bối rối, hước cầm lên cao rồi nhanh chóng ngước xuống – cùng cặp mắt chừng lên, miệng mấp máy, nói dứt khoát: “Đồ khốn khổ! Nó thật vô nghĩa, ai mà lại muốn trả 1 đồng vàng và dành thời gian quý báu của mình cho nó chứ.”

Leina lập tức nhận thấy trò cười của Zeno sắp bắt đầu, hoặc là trò quái gở mới cũng không hay! Zeno tiếp tục khẳng giọng, giọng đanh đá: “Tên khốn HT đã khẳng định nó hay, rồi chào mừng ta mua trong quầy hàng đầy thứ quái dị của lão – một cái mũ xanh chóp nhọn lắm chuyện, một cái hũ hấp thụ tai ương đã gần đầy đến miệng, lợn cợn chất màu nước đen tà ác sẽ lắc lư mỗi khi người khác đi ngang làm rung rinh các sạp trải ở góc đường. Một cái bập bênh bằng gỗ cho lũ trẻ chơi mà lực hai bên không cân xứng. Và cuối cùng là quyển sách bìa xanh mà hắn lấy làm tự hào gọi đó là ‘Idenity’ – cũng là cái thứ trông bình thường nhất ở đây! Lão ta rõ là gian thương, đến nổi cái áo chùm cũng không ra hồn mà xác xơ như cái lá thiếu diệp lục, bàn tay nhăn nheo, da thì đống lớp nổi sần lên – đặt ngang bụng và hạ người cung kính mà chào hàng ta, đáng lẽ ta phải nhận ra trò đó mới phải! Vì rõ ánh mắt của lão đầy láo cá với cái cặp chân mày nửa hư nửa thực bị cháy xém (chắc bị người ta đốt quầy mà lão cố mà cứu lấy đây!).”

Leina không nhịn được cười, cô bé thút thít cho hay – thật may là cậu ta không cố nhét mình vào trò nào nữa, không bị biến thành cái danh ngữ nào khác của bồ ta trong câu chuyện rõ ràng là biếm họa. Đoạn lỡ đang là thiên nga lắm mồm mà đột ngột biến thành người bán rong già nua vẫn còn tốt hơn là quạ đen hóa thành tên bán dạo, trông rõ là hợp! Cô bật tiếng cười lớn cuối cùng rồi nói:

“Thôi nào, Zeno! Mấy trò của bồ lúc nào cũng có tác dụng gây cười – nếu như không đem người khác ra xào nấu trong cái nồi đầy gia vị bên trong đầu bồ.”

Rồi quay mặt sang cậu bé, nhận ra cậu ta đã nói một cái tên viết tắt trước đó, liền gặng hỏi đồng thời không quên la mắng:

“Nhưng mà HT là ai vậy? Có phải là biệt danh bồ đặt cho ai nữa không? Bồ vẫn không ngừng đi cái trò ấy nhỉ! Hết Cô Marryna là phù thủy gái già – Thầy Foden là tắc kè lòe lẹt – rồi đến cả Bob (bạn thân) là bánh bao mập ú… bây giờ lại đến ai đi nữa?”

Zeno đáp trống rỗng: “Ai mà biết! Chắc là tên viết tắt của một tên xui xẻo nào đó, mà đoán nghĩa chắc là ‘hoang tưởng’. Tôi đã tả rõ rồi kia mà. Chắc là thiếu khuôn mặt.”
Zeno nhết hai chân mày lên, mở mắt to hết cỡ, miệng thì nhe nanh, hai tai còn động đậy đủ dọa mấy đứa trẻ con.

Leina mặt đầy ngơ ngác, giọng mang chút đề phòng: “Đừng trù ẻo người khác như vậy! Bồ biết cái mỏ của bồ vong thế nào kia mà! Tôi nghĩ nó chỉ nói ra điều xấu thì thành, còn điều tốt thì không hay ngược lại? Bồ thật sự xứng đáng với một bộ luật cấm nói mới.”

Zeno sững người lại, không đồng ý: “Đừng nhắc về chuyện đó nữa, đó chỉ là tai nạn.”

“Chỉ là tai nạn thôi sao?” Leina nói. “Ý bồ là vô tình làm hỏng hết số kính trong lớp do đã đọc chú ngôn trắng để nhắc bài cho Bob khi bồ ấy quên sao?”

“Tất cả là lỗi tại tên Bob mập ú đó,” Zeno biện minh. “Đã không học bài lại còn ăn vụng bánh cam trong tiết học của Cô Marryna – phù thủy gái già – nên mới xảy ra chuyện. Có mỗi cái câu chú ngôn hộ mệnh:

‘Sancta Mater, tutela et benedictio mihi esto.’”

Chưa kịp nói xong, Leina lập tức dùng tay bịt miệng Zeno lại. Cậu bé vẫn đang thều thào và một cái tay còn lại cũng đến. Tức khắc không hiểu chuyện gì nhưng trong đầu Zeno đã có một ý nghĩ khác.

Zeno vẫn cố nói nhưng lần này những con gió không bị mất kẹt bởi hẻm đá toàn bộ – và đủ để nghe thấy. “Bồ làm gì vậy? Bộ… tính nói gì đó hả?!… Có chắc là quan trọng không?”

“Bồ biết tớ đang làm gì mà!” Leina nói. “Nếu bồ không muốn nghe thì thôi vậy!”

Cậu thì thào, đôi khi lắp bắp: “Không, không… đương nhiên là có.” Zeno nói, hai tay cứ không yên, một tay định gạt ra giải phóng cho cái miệng nhưng lại không, rồi tiếp tục thì thào: “Nhưng chuyện này đến nhanh quá – à mà cũng không nhanh lắm! Nhưng tôi cần thời gian suy nghĩ… à không, là bình tĩnh… được rồi...Đã sẵn sàng, bồ có thể tiếp tục.”

Leina đưa môi sát tai cậu, làm vành tai đỏ hẳn lên. Ánh mắt xanh cậu ta trong veo mà ngó trời, ngó trăng – dường như tâm trí đang áp về tai trái.

“Cái mỏ của bồ vong lắm,” Leina nói. “Đừng đọc tùy tiện như vậy, biết chưa!”

Cái tiếng “Biết chưa” giống như thuốc tỉnh ngủ. Nó làm cho mặt cậu ta chắc là đã tỉnh hơn (nhìn cũng được, chỉ có điều hơi giống bức tượng). Sau đó Leina rời đi ngay, cô đã nán lại quá lâu ở đây, hướng rẽ về nhà mình. Rồi ở đoạn đường ấy chỉ còn mình Zeno, đương nhiên là vẫn đứng như vậy. Phải hơn một lúc sau, ở phía xa kia, ở tận bên kia trong cái nhà hình cây nấm, người ta mới nghe thấy tiếng hét:

“Thủy tổ ơiiiiiiiii!”

Là Bob đang cắn táo.
“Là ai vậy?” Bob nói. “Chắc là lũ chó cắn nhau.” Rồi cắn thêm một miếng lớn.

Zeno hét lớn, trùng hợp một cơn gió lớn thổi đến làm mấy con bướm, ong xung quanh đang lấy mật hoa bay trốn. Lá cây và cánh hoa bứt tóc lả lướt xung quanh, rồi một lá hoa nhạt hồng rơi trên đầu Zeno. Cậu nhặt lấy, lặng lẽ nhìn đôi chút:

“Chết tiệt, mày cũng chọc quê tao!”

Sau đó hước một cái, ngoảnh mặt, rồi dậm chân đi về hướng bên phải, có căn nhà gỗ giữa đồng cỏ trống với cái dãy thang trông thật đắc khách. Gió vẫn rì rào chen chúc nhau mà thổi làm mấy bộ đồ đang phơi ngoài rào bay phấp lên, nhưng chả có cái nào bay đi cả – rõ là có ai đó sống ở đây buộc lại vì đã quá quen với trò đùa của Thần gió. Căn nhà có lấm tấm cửa sổ bằng kính nhưng đầy bụi bám đến nổi không thể thấy bên trong. Cảnh quan bên ngoài còn có vài cây hoa hướng hoàng hôn hơi ỉu đặt trước cửa (và đó là tất cả).

“Cạch!” – Mở cửa.
“Cót két.”
Đóng cửa.
“Cót két.”

“Chết tiệt,” Zeno nói. “Nếu cánh cửa này mà được ở phòng văn nghệ thì tao cá là mày sẽ được làm nhạc cụ mới.”

Bỗng một tiếng nói vang lên từ phía trong, giọng trầm lắng, chậm rãi và đầy uy quyền, rõ là của ai đó hẳn phải rất thông thái:

“Gì đó, Zeno, có phải ta nghe thấy trò chửi tục không?”

Từ trong nhà Thầy Sorandel bước ra, chùm lên cái áo chùng xanh nhạt trong trang phục xám dài, tóc mang hai màu của thời gian (xám trắng), bộ râu dài thật hùng vĩ, đôi mắt sáng như sao trời. Chiếc mũi hơi khoằm như dãy núi, đeo một chiếc nhẫn gắn viên tinh thể trắng ở ngón trỏ phải, lặng lẽ bước từng bước ra, trông thật uy nghiêm vốn có.

“Này trò Zeno, sau trò lại tùy tiện chửi tục như vậy. Ta đã nhắc bao nhiêu lần! Ấy mà trò không bỏ cái tật đó đi.”

Zeno gật đầu chào, hai tay diễn trò cung kính, giọng đầy trang trọng đáp:
“Xin lỗi Thầy Sorandel. Đáng lẽ trò nên kiểm tra xem có ai ở đây không trước khi thả chữ. Nhưng thưa Thầy Sorandel yêu quý! Sau thầy lại quý hóa đến đây mà đột nhập vào nhà của một học sinh ưu tú như em vậy, thưa Thầy.”

“Ưu tú?” Sorandel nói. “Ý trò là vẫn sau khi đã làm vỡ hết kính trong phòng học vì nhắc bài cho bạn? Đó không phải là lý do chữa cháy tốt, em phải biết rõ điều đó.”

Zeno giương ánh mắt long lanh, thậm chí nheo mắt, tỏ vẻ thuần khiết. Hai tay chắp sau lưng, chân phải xoay nhè nhẹ dưới mặt đất khiến nó thành một lỗ nhỏ bằng gót chân.

“Thưa thầy, mọi thứ chỉ là tai nạn. Ánh mắt này có lừa dối Thầy khi nào đâu! Không tính đến cái chuyện hôm bữa…”

“Được rồi, Zeno,” Sorandel nói. “Vậy còn thùng rác chưa đổ sạch, nhật ký không viết, nhìn mấy cái cửa sổ kìa… và cả hãy nhìn xem…”

Thầy đưa tay về hướng bụi hoa hướng hoàng hôn, rõ là chỉ tội Zeno.

“Em nghĩ mấy cây hoa này sẽ sống được bao lâu, nếu em không tưới nước thường xuyên? Ta cá là mấy ngày nữa nó cũng sẽ đi như chính cái tên của nó.”

Thầy Sorandel hậm hự đi đến bụi hoa đã ỉu. Mặt đất phía dưới thì rõ là khô. Thầy dùng tay nhè nhẹ sờ lên bề mặt chúng, ánh mắt như đắm chìm vào trong từng cánh. Thầy ngước xuống ngửi hương một hơi thật dài, trông lão thật thỏa mãn.

“Này, nhìn xem, Zeno. Sau em lại bỏ quên những vẻ đẹp này.”

“Thưa thầy,” Zeno nói, “em có tưới chứ! Chỉ là tưới hơi trễ, khoảng 11 giờ tối, là em tự động ra ngoài tưới cho nó mà, và chắc là nó cũng thích.”

“Ý em là sao?” Sorandel hỏi. “Lý do thế nào mà lại tưới vào giờ trễ như vậy? Và làm gì mà phải thức khuya đến thế?”

“Không có gì thưa thầy, em chỉ đùa thôi,” Zeno đáp.

Thầy Sorandel bước đến cậu bé, tay phải đặt nhẹ lên vai, trao cho cậu ánh nhìn trìu mến.

“Được rồi, có lẽ đã đủ cho hôm nay. Ta chỉ đến để kiểm tra các cuộc sống một mình của học sinh như em thế nào, và ta rất lấy lời khen cho em – ít nhất là vẫn ổn. Lần sau đừng nhắc bài bạn nữa, hãy nhớ mấy tấm kính không thể tự sạch và mấy cây hoa này không thể tự mọc chân mà đi lấy nước. Bây giờ ta cần đến nhà của cậu bạn thân của em, Bob, để nói vài thứ.”

Zeno liền đáp:
“Thưa thầy, nếu đã đến nhà Bob thì thầy nên kiểm tra các vách tường và dưới gầm giường nhé. Thầy có thể tìm thấy rất nhiều thứ ở đó.”

“Có thể là thứ gì?” Sorandel gặng hỏi.

“Trăm nghe không bằng mắt thấy, thưa Thầy,” Zeno nói. “Em cá là Bob sẽ không cho thầy đến phòng ngủ, vậy nên hãy nói là Zeno nhờ ta đến lấy lại cuốn tập mà em đã mượn để chép bài. Và nhân lúc bồ ấy vào phòng, Thầy hãy cố mà đi theo sau.”

“Được rồi,” Sorandel nói. “Ta sẽ ghi nhớ, nhưng em đừng giở trò quái gở, có những thứ tư mật không nên đụng đến.”

“Em biết,” Zeno đáp.

Nói xong, Thầy Sorandel lặng lẽ đi về hướng nhà Bob. Có thể từ đây thấy một cái nhà hình cây nấm màu cam, đặt cạnh bìa rừng Sylvan ở phía tây – một cánh rừng đã rất già, trải dài hơn 540 stadion dọc về phía bên phải lục địa đảo Atlantis.

“Này, đừng quay lưng đi như vậy,” Zeno nói. “Thầy thực sự sẽ khóc nếu đọc phải nó!”

Thầy Sorandel lập tức quay người lại:
“Ý em là gì? Thầy sẽ phải đọc cái gì không đúng sao?”

“Trang 17, dòng cuối ấy,” Zeno đáp.

Thầy Sorandel liền quay người về phía trước, đang bận làm gì đó mờ ám. Thầy lấy trong cái túi áo ra một quyển tập rõ là nhật ký của ai đó vì nó còn ghi chữ “Memory” màu xanh in lớn trên cái bìa to tổ bố, bên ruột trong thì lép hơn phân nửa. Cá là ai đó đã dùng nó để gấp máy bay giấy. Thầy vội vã lật các trang, vừa lật vừa không quên làm ướt đầu ngón tay bằng lưỡi. Khi đến trang 17, ánh mắt liền đọng lại; cuối trang có cái dòng chữ viết đẹp như Rune.

Ngày 21 tháng 3 – Thầy Sorandel trông thật buồn cười với cái kiểu tóc mới. Cả lớp đã lén cười, lũ con gái thậm chí dành ra cả giờ giải lao chỉ để nói về nó (đương nhiên là họ vừa cười vừa nói). Bob còn nói nó như cái chổi mà tớ hay quét nhà. Còn tôi, Zeno – đẹp trai thấy nó rất phong cách (theo kiểu quái đản của bầy cừu)…

Thầy Sorandel liền quay lại, cái chân mày phải đã hướng lên, ngón tay đeo nhẫn liền có cái bia.
“Như thế là quá quách đấy! Đó là kiểu tóc chứng minh cho công việc thử nghiệm đầy gian nan của ta, phải là ta – và chính là ta.”

“Ý Thầy là bùm?” Zeno đáp. “Bùm-bùm, và có chắc đó không phải là tất cả gì Thầy nhận được sau khi nhồi đầu vào mấy lọ hóa chất và mấy cái nguyên liệu đầy kỳ lạ, với mấy trang giấy công thức cũ xèm còn bị cháy một góc gần phân nửa?”

“Đó chính là lý do,” Thầy Sorandel nói. “Dù sao đi chăng nữa, các trò không nên nói vậy về các giáo viên, và đặc biệt là về Sorandel. Oh… phải, phải, chính là ta. Lần sau, nếu ta còn gặp phải mấy điều tương tự, em sẽ phải vệ sinh lớp trong một tháng liên tục. Đó là hình phạt dành cho kẻ luôn bày đầu mấy trò quá quách.”

“1 tháng liên tục?” Zeno nói đầy phản đối. “Thầy có chắc là mình không nhầm lẫn ở đâu không? Rõ ràng là Thầy đột nhập vào nhà học sinh mà trộm đi cuốn nhật ký – biết rõ là nó chứa toàn điều tương tự.”

“Phải, và em biết luật đó,” Thầy Sorandel nói một chút đe dọa. “3 lần bị bắt vi phạm nội quy thì bị phạt. Hôm nay em đã hai lần rồi: một lần làm vỡ kính, và lần hai là viết xấu về ta. Đáng lẽ ta nên tính 2 điểm cho lần thứ hai – nhưng Sorandel thông thái thì luôn biết tìm mà bắt cái lỗi còn lại. Đừng để cái đuôi nào của em bị lộ ra quá dễ dàng, vì nó sẽ rất chán đối với ta. Và điều cuối cùng là – chúc em may mắn.”

“Thầy ấy đã thành công tạo ra lọ thuốc bùm quái đản và đáng ghét,” Zeno nghĩ thầm.

“A,” Zeno nói, “nhưng ít nhất Thầy cũng phải trả lại cuốn nhật ký cho em. Nếu không thì mấy trang giấy ghi xấu còn lại thì không được tính.”

“Được rồi, của em đây,” Thầy Sorandel nói, xong đó đưa lại cuốn nhật ký cho Zeno. “Ta nghĩ em nên thay cuốn nhật ký khác. Ta không thích mấy cuốn sách hay tập mà chỉ có vài trang, và nhật ký thì ngày nào cũng phải ghi, để… à, không có gì… Ý ta là nên lưu giữ lại ký ức.”

Buổi trưa xế hôm đó, Zeno đang bận đi đến cái nhà trên cây phía tận trong rừng như đã hẹn. Trên đường, cậu còn nhảy chân sáo, rồi vô tình nhớ đến Bob khi vấp té (cá là cậu nghĩ nếu mập hơn sẽ ít đau hơn rồi nhớ đến). Cậu liền ghé ngang, nhận thấy Thầy Sorandel còn ở đó, và âm thầm núp gọn sang bên cửa sổ cạnh bên.

“Nhà của cậu ta như nhà dành cho mấy gã thích ăn lập dị. Ai mà chả biết cậu ta rõ thích nó: một cây nấm lớn màu cam – tôi mong rằng có độc – và một cái bụng ham ăn sẽ đến mất trí vào một ngày nào đó. Cá là cậu ta sẽ ăn nó nếu có thể. Cũng không ít lần mình ngó qua đây mà vẫn bất ngờ sao bồ ta lại làm được căn nhà như vậy cơ chứ!”

Bỗng có tiếng từ trong nhà thoát ra. Zeno ngước lên cửa sổ, hai mắt đặt ngang thành.

“Thưa thầy, em… em, lần sau không dám nữa, mong Thầy bỏ qua!” Bob đang cầu xin Thầy Sorandel với ánh mắt đầy tha thiết.

Zeno nhìn lén qua ô cửa thì thấy cậu ta đang đứng nép vào tường, mặc cái quần yếm nâu hai dây thắt lên vai như thường lệ, áo trong màu xám nhạt, hai tay đỡ cái xô nước đội trên đầu đã một thời gian. Tay cậu ta run run, vì Zeno biết cậu khá khỏe. Còn Thầy Sorandel thì đang ngồi trên cái ghế dài làm bằng gỗ sồi mà Bob đã tự tay làm lấy. Thầy lâu lâu lại dùng cổ tay lau nhè nhẹ trên thành ghế, vẻ mặt đầy thích thú. Phía dưới mặt đất là đống rác thừa: lõi táo đỏ, vỏ chuối, vỏ hạt hướng dương… chồng lên nhau cao gần một gang tay, cùng đống giấy bị vò nát bên cạnh đủ nhiều để viết về ai đó nếu bạn đang tức giận.

“Đống rác đó còn nhiều hơn mình nghĩ,” Zeno nghĩ thầm. “Ấy thế nào mà một người xây căn nhà nấm cho thật đẹp mà lại không đảm bảo an toàn thực phẩm.” Cậu cười khúc khích, nhưng vẫn đủ nhỏ để không bị nghe thấy.

Bên trong, Thầy Sorandel đã chú ý đến vài mẩu giấy. Thầy nhặt lên và mở ra xem thử cậu ta viết gì bên trong. Ai biết trúng thưởng nhằm thứ gì đó thú vị, có lẽ trong đầu Thầy ấy nghĩ đó là nhật ký bí mật nên Bob mới vò nát (một bí mật, ta luôn thích những bí mật), hoặc là bức tranh cậu vẽ xấu (chuyện này bình thường), thậm chí thư tình Bob định viết cho ai nhưng không dám (cho Zeno chăng? Thầy ấy nghĩ không, chắc là cô bé vùng bên).

“Thầy ấy đang lắc đầu, kỳ này Bob chết chắc rồi sao?” Zeno tiếp tục nghĩ thầm.

Giấy vò đầu tiên – Thầy Sorandel mở ra và thấy cũng lấm tấm chữ. Thầy ngước lên nhìn Bob, sắc mặt hiện rõ hai chữ hài lòng, vì cho rằng kiểu người chẳng bao giờ đọc sách như Bob mà lại có thể viết ra nhiều như vậy, mặc cho nó được ghi bừa bộn, chữ lí tí rõ xấu, thậm chí đôi khi sai chính tả. Thầy Sorandel cố gắng đọc, hai mắt chùng xuống, rồi cuối cùng không được, liền ngước lên nhìn Bob, chân mày hướng lên trên, rồi tiếp tục đọc. Nhưng với đôi mắt đã ngoài trăm, lông mày trắng còn rủ xuống, khó mà ai ở độ tuổi này đọc cho được. Thầy lấy một cái kính gọng tròn được vắt gọn gàng bên túi áo trái, nép vào cùng đôi ba thứ khác như sổ nhỏ, sô cô la… rồi đeo lên.

“Có lẽ ta nên dùng một chút quang dịch để sáng mắt sau khi bùm cái này,” Sorandel nghĩ. Sau đó, Thầy dang đôi bàn tay khắc khoải trên mặt giấy. Chiếc nhẫn đeo ở ngón trỏ lập tức phát sáng, các chữ cái trên mảnh giấy trắng khấp khểnh liền trở nên rõ ràng và đẹp đẽ, chúng trốc giấy mà thoát bay lên, xếp thành hàng chữ lơ lửng:

> Gửi Zeno khốn kiếp, bồ là đồ đáng ghét, tôi ghét cậu, rất rét, rất rét, bồ là đồ thối tha, 3 trợn, đồ, đồ chim sa cá lặn (bị gạch), đồ mắt xanh không phải xanh lục, đồ đồ ăn bị thiêu, bồ là thứ mà ai ai cũng ghét kể cả Leina, là thứ gì mà nó có hai cực s và n, rồi dính dán đến tôi chứ ai muốn chơi với bồ…

Xong, nó trở lại như thường.

Thầy Sorandel ngước mắt nhìn về phía Bob đôi chút, cũng không quá ngạc nhiên. Chắc là bị Zeno chọc ghẹo quá mức nên đành giải tỏa hết vào mấy trang giấy. Vẫn thấy ánh mắt Bob đôi khi liếc nhìn đầy bối rối, hai tay vẫn giữ xô nước nhưng đã run nhiều hơn trên cẳng tay tròn trịa.

“Được rồi, bỏ xô nước xuống đi, nhưng vẫn phải úp mặt vào tường.”

Bob nghe xong mừng lắm, vẻ mặt đầy hí hửng. Cậu liền bỏ phăng cái xô đã đày cậu cả buổi. Ai mà ngờ cái xô mà cậu hay dùng để ngâm chân mình, thường dùng muối biển và tro gỗ, đôi khi lại có hương thảo, xô thơm khiến cậu rơi vào bế tắc đôi tay, nhưng cậu ta bỏ xuống ngay tức thì, nước còn văng ra đôi chút, thật may không rơi vào đống rác, không thì thật khó để mà dọn dẹp.

Zeno bên ngoài dường như đã biết gì đó. Cậu lén ngoi đầu lên cao hơn để nhìn kỹ, nhưng lại chú ý thấy chi tiết mực trên một tờ giấy vò đặt trên bàn mà Thầy chưa đụng đến – quả giống tờ giấy mà cậu ta đã vẽ Thầy Sorandel môi hồng và má đỏ, kẹp trong cuốn tập mà đã cho Bob mượn. Đáng ra nó nên ở đó, chứ không phải ở đây bây giờ. Đáng nói hơn, cậu còn ghi tên mình vào mỗi trang giấy, kể cả giấy nháp, nên nếu bị phát hiện thì khó chối được. Cậu lo lắm, cứ ngó lên ngó xuống không yên.

Mẫu giấy thứ hai là một hình vẽ màu: một cậu bé tóc trắng dài rụ rưỡi đến chân, đôi mắt xanh vẽ lớn hết cỡ, thậm chí còn cố vẽ thêm chi tiết ánh sáng cho thật giống, đính kèm vùng thâm đen quanh mắt, trông cố làm nó trở nên buồn cười. Rõ ràng Bob vẽ người đó, vì trong toàn bộ đám con nít vùng này không ai có đôi mắt xanh màu trời trong như vậy.

“Em có thể quay mặt lại, Bob,” Thầy Sorandel nói. “Hãy ngồi lên ghế để hai ta nói chuyện. Ta biết em không thể đứng đó mãi.”

Bob từ tốn ngồi trên ghế đối diện, khuôn mặt như không hiểu chuyện gì đang diễn ra, nhưng trong lòng thì vui như nở hoa, không còn vừa đứng vừa bị la. Khi nghĩ kỹ lại, tâm trí cậu liền rối rắm. Ai mà chả biết Thầy Sorandel yêu quý Zeno thế nào, đám con trai luôn nói cậu ta là trò ruột nhất của Thầy, sau bồ Jack – một cậu con trai cao ráo và lịch sự.

Bob ngồi chưa ấm chỗ thì một tiếng đổ vỡ đột ngột vang lên từ phía ngoài cửa sổ, khô khốc – rõ là cái chậu bằng gốm bị vỡ. Hai thầy trò bên trong liền chú ý. Thầy Sorandel bước nhanh lại gần cửa sổ, trong lúc đó, phía ngoài, Zeno cúi người xuống thấp, cố nép mình vào tường. Thầy dùng cặp mắt lão xem xét xung quanh, không thấy gì bất thường. Ánh mắt dần ngước xuống chỗ Zeno đang nấp, phía dưới cái chậu cây rỗng vẫn còn nằm dưới chân cậu.

Đột nhiên, một con sóc nâu từ đâu nhảy đến, đứng lên thành cửa, kêu tiếng éc éc bé tí của loài gặm nhấm, rồi như thể chả có gì nó cần, nó lập tức nhảy đi ngay. Thầy Sorandel thấy thế liền quay vào trong và đóng cửa sổ lại.

“Đó là lý do ta không thích xây nhà gần bìa rừng đó, Bob,” Thầy nói. “Mấy con sóc này luôn lục lọi mọi thứ tứ tung hẳn lên!”

Khi Thầy vừa trở về chỗ cũ, đang áo choàng dài chưa kịp nép gọn gàng:

“Thầy đã xem mấy mẫu giấy bị vò đó sao?” Bob nói. “Em xin lỗi, chỉ là một chút tức giận nho nhỏ, lần sau em không làm vậy nữa đâu! Thật mà!” Cậu nói trong miệng, cứ le lé, ậm ực không thôi.

Thầy Sorandel ân cần bảo, cứ như hiểu được nỗi lòng cậu:
“Tất cả các em đều là học trò giống nhau, nhưng em nói phải, Bob. Thầy biết trong đó có những gì. Lúc nhỏ Thầy cũng hay làm vậy, nhưng không vò nát và vứt dưới gầm giường nhiều đến nổi thành đống bao giờ. Nếu có gì không phải, trò nên nói ngay, giữ lòng ậm ực dễ gây sứt mẻ tình bạn. Việc em vứt bừa lung tung, lỡ bị Zeno phát hiện thì ấy chết là phải.”

Bên ngoài, ai đó đang cố lóng tai nghe nhưng chắc không nghe rõ. Giọng bên trong, một chút thì thầm nhỏ xíu, rồi lại lên cao, thật khó hiểu nếu không ở gần.

“Em cũng sợ bị phát hiện nè, Thầy… ấy chết là phải,” Zeno thầm với chính mình. Thứ duy nhất cậu nghe được là “cái gì đó bị phát hiện”.

Bên trong, Bob vẫn ngơ ngác, tưởng bị rầy thêm, nhưng ngược lại, khuôn mặt cậu tươi tỉnh hơn hẳn, vẫn còn lo lắm.

“Em phải làm thế nào, thưa Thầy?” Cậu nói với vẻ ngây thơ đầy cường điệu. Khuôn mặt hơi ngốc khó mà khiến Sorandel tin rằng cậu sẽ nhanh hiểu.

“Thì trò cứ nói như trong giấy thôi! Ý thầy là em hãy soạn trước từ ngữ trong giấy hoặc trong đầu, rồi hẳn nói, đừng dùng mấy lời không tốt. Hãy nói mình không muốn bị bồ chọc, và đó là tất cả. Hoặc như cách của chúng ta, dùng tâm trí để thay lời.”

Bob vẫn suy nghĩ, dường như hiểu điều gì đó nhưng không chắc chắn, khuôn mặt rõ ngốc hơn, hoặc ngây thơ đến kỳ lạ khi bận tập trung.

“Được rồi, đến đây thôi,” Thầy Sorandel nói. “Hãy nhớ giữ vệ sinh nhà cửa thật sạch, hôm sau ta sẽ đến kiểm tra. Chắc chắn là – hôm sau.”

Nói xong, Thầy định rời đi, đôi chân đã đứng trước cánh cửa tròn, gợi nhớ căn nhà của những sinh vật nhỏ bé nhưng đầy can đảm, sống ở các ngọn đồi cỏ, nổi tiếng vì lòng hiếu khách (nhưng không phải quá nhiều khách, ngoại trừ 14)

Rồi đột ngột quay vào trong, làm Bob đang đứng lên nửa chừng lại vội ngồi xuống, trông thật tức cười. Thầy như muốn nói gì đó đáng trông đợi, ánh mắt còn đang tìm từ ngữ phù hợp, giọng chỉ lớn hơn một tiếng thì thầm quen thuộc:

“Và hãy thêm vào câu: bồ là đồ vô trách nhiệm nữa nhé – luôn làm mấy trò nguy hiểm khiến Thầy phải lo lắng túc trực. Ta cá khi trò nói câu này, Zeno sẽ nghĩ khác về em. Điều cuối cùng, quan trọng nhất – đừng nói là ta nói dù thế nào nữa nhé.” Thầy nháy mắt.

Thầy Sorandel đã đi khuất tầm mắt không lâu thì một tiếng nói vang lên từ cánh cửa sổ phía nhà – không phải của lũ chim đôi lúc bay đến mà Bob hay cho ăn, và quan trọng hơn là… nói tiếng người.

“Này, Bob Mun!”

Bob tiến đến mở cửa sổ đã đóng—thì lập tức Zeno nhảy lên, đứng chắn lấp đầy cánh cửa. Bob nảy cả người, ai đời lại muốn người ấy xuất hiện như vậy, nhưng cách xuất hiện của Zeno thì… đúng kiểu chỉ Zeno mới làm được.

“Bồ viết cái gì về tui vậy?” Zeno hỏi, giọng nửa đe nửa dò xét. “Tôi là tôi nghe rõ đấy nhé, đừng dấu tôi điều chi!”

“Đâu… đâu có gì?” Bob ngập ngừng. “Chỉ là nhật ký thường ngày thôi, và bồ biết đó—tôi thường ăn trên giường, không có khăn lau, nên xé giấy tạm. Không phải là viết xấu bồ rồi vò nát để giấu đâu. Ai đời lại thủ tiêu như vậy! Và… bồ rất thông minh, bồ biết đó.”

Zeno vẫn còn tò mò lắm với tính khí cậu ta. Dù phía dưới cằm Thầy Gai có nốt ruồi, cậu vẫn phải xem cho bằng được. Bạn thân từ nhỏ, Bob hiểu điều đó hơn ai hết. Zeno trèo qua cửa sổ vào trong, thay vì dùng cửa chính như một tên trộm thực thụ. Cậu vội đi đến tờ giấy vò mà mình đã vẽ, nhưng không thấy nữa, rồi ngồi lên chiếc ghế mà Thầy Sorandel vừa ngồi trước đó, hơi ấm vẫn còn chưa nguội. Cậu vắt chân vào nhau, ngả người về phía sau, ánh mắt dò xét không thôi, trông thật… quá quách và đáng kể.

“Đưa tôi mau lên, bồ, đừng giấu diếm tôi điều chi. Tôi muốn đoán thử bồ đã ăn gì bằng cách xem vết chùi trên giấy—tôi là chuyên gia trong mấy vụ này đấy!”

“Bồ là chó sao! Không… thật sự không có gì,” Bob ấp úng. “Có lẽ ta nên đi đến điểm hẹn, đương nhiên là… đi cùng nhau.”

Cậu tiện thể quơ tay lấy mảnh giấy giấu vào lòng bàn tay phải. Hai mảnh giấy khó mà không chú ý được, nhưng tiểu xảo nút bù nào có qua mắt Zeno-đến con ong nhỏ bay ngang cậu còn biết nó có mấy ngăn ở bụng. Zeno liền nắm lấy tay Bob, cố giữ chặt rồi kéo lại, mặc cho Bob dùng sức giữ lấy. Những ngón tay như muốn luồn vào trong giật lấy tức khắc. Cứ như trận chiến kéo co cách điệu.

“Nó là thứ gì vậy?” Zeno hỏi. “Tôi không thể đoán nếu bồ cứ giữ như vậy. Chắc là bồ viết về tôi nhiều lắm, tôi không muốn thấy bồ vẽ tôi rồi lấy nó mà lau đâu nhé!”

“Chỉ là… ờm…” Bob lúng túng. “Chỉ là một chút tình cảm tôi viết về bồ thôi. Bồ biết tôi luôn ngưỡng mộ sự thông minh và can đảm của bồ, và cả… nói chung là nhiều thứ lắm!”

Zeno nghe xong liền rút tay lại, từ bỏ ý định giật lấy, ngửa người về ghế, im lặng hơn đôi ba phút. Bob lập tức nhét giấy vào túi quần một cách luộm thuộm. Zeno đã không còn giật lấy, nhưng Bob vẫn lo lắm, khó mà biết cậu bạn sẽ làm gì. Có lẽ cậu ta cầu nguyện: làm ơn, đừng bại lộ, kể cả có phải đánh đổi việc ăn sáng ít hơn—ba cái bánh bao thay vì sáu như thường.

Một lúc sau, Bob nhớ lời Thầy Sorandel dặn. Cậu cũng ậm ực nhiều lần lắm, như lần Zeno đề nghị chơi trò rút dây ngắn, dây dài để bắt ai đó xui xẻo phải ở lại dọn vệ sinh lớp học; cậu ta cắt toàn bộ đều là dây ngắn và bắt Bob và vài người khác phải rút thăm đầu - rồi cậu ta thì đoạn đi mất. Lại một ngày khác, chơi Bài Old Maid, cậu ta luôn chọn hướng ngồi mà phải cho Bob rút, rồi làm đủ trò để cậu phải lấy thẻ Joker, mà hiệu quả trông thấy: Bob thua liền chục ván, thua nhiều đến độ được gọi là Joker Bob - nên sau này khi chơi, Bob luôn ngồi ngược lại Zeno, không thì nhất quyết không chơi.

Ấy, lại hơn nữa, Zeno có tính khí thất thường; đoạn có việc gì, lần sau cậu ta lại làm nhiều trò mới hơn ai mà chịu cho được. Cũng như lần trêu Cô Marryna là Phù thủy gái già 2000 Dame. Nếu có Thầy Sorandel, thì tăng thêm 300 trong cái trò bài quái vật mà cậu ta đọc được trong quyển sách Trò Chơi Hay Nhất Thế Kỷ, đến tác giả cũng không có nổi một cái tên mà chỉ viết tắt là HT (tên HT là tên khốn nào chứ, Bob nghĩ). Và cậu ta toàn chọn Giáo Viên làm bài mạnh nhất, khá chắc ý cậu ta là đáng sợ, và là bạn thân cậu ta; Bob (là mình) nào có thoát được cái trò ấy: bị vẽ hình rồi được gán ghép mang khả năng tên là “CHỊU ĐẤM ĂN XÔI”, ý thể là bị tấn công càng nhiều thì càng mạnh, mà cậu ta khoái chí nói đó là Ace Card.

Đáng sợ hơn, Cô Marryna thậm chí không tức giận mà còn rất khoái chí vì mình được ghép chung với Thầy Sorandel. Rõ là có việc lạ kỳ khiến đám học trò khác nửa ngờ nửa ngẩn, rồi tung tin đồn là Zeno đã khiến cô bị như vậy. Đám con gái thì chắc biết điều gì đó, nhưng họ chẳng hề nói ra được nửa lời, mặc cho có tra hỏi ngày qua ngày. Vụ đó nổi lắm, đến khi bộ bài mà Bob gọi là Bộ bài ác quỷ xuất hiện, như thể mọi người nghĩ Bob là cái bia để đấm, và họ không nghĩ là sẽ đau. Đương nhiên, Bob đã ăn vài cái, và nó đôi khi đến nổi họ tưởng Bob không đau và sẽ mạnh hơn, mà thật sự không cố ý, cũng do thằng Zeno làm như thật trên cái bàn học của cậu ta mỗi lúc tùy hứng.

Cho đến khi Thầy Gai tịch thu vào một ngày Hạ Chí, trong cái thư viện cũ mèm, trong buổi sinh hoạt đọc sách hè, do cậu ta thay vì đọc sách thì bày trò trên bàn đó và làm ồn ào không xiết, và đương nhiên Leina, người thích đọc sách, không thích điều đó. Nó bây giờ được giữ bởi Bồ Zero trắng phệt, người nhỏ con, ít nói nhưng rất tốt tính, cái người mà Zeno nói là sẽ lấy lại cho bằng được, kể cả phải vượt qua con Ma trong cái thư viện cũ mà cậu ta gọi là kế hoạch - Giải cứu Ace Card. Mà thật ra, cậu ta thất bại vì thật sự chả ai đoán được Zero đã giấu cái thứ quái quỷ đó ở đâu.

Bob vẫn còn thở phào sau khi nó bị tịch thu, mà trùng hợp làm sao, cậu ta nhớ mãi khoảnh khắc đó lúc Thầy Gai đoạn lấy bộ bài. Trước đó, trời đầy mây đen hệt như những gã khổng lồ sẵn sàng lao đến hù chết ai có tâm hồn sợ sệt (trong đó có Bob), nhưng thần kỳ làm sao nó bay hết; gió ngào ngạt thổi nó đi, dù đã được đoán trước là sẽ có mưa lớn ở phía Tây vùng đất Atlantis này, bằng Tháp thời tiết ở phía Đông trung tâm tháp trụ lớn mà bấy lâu nay vẫn uy tín. Ấy vậy nên đám học sinh lại càng sợ Zeno, và ai biết cậu ta còn có thể làm việc gì nữa - như hôm nay, cậu ta đã làm vỡ kính trong phòng, mặc dù có vẻ không đeo vòng cổ chứa phiến đá tinh thạch, mà chỉ có người đủ tuổi mới được trao cho.

“Zeno, nếu không có gì, ta đi thôi. Đừng để mọi người chờ,” Bob nói.

Zeno vuốt tóc, vuốt cằm, vắt chân chéo, đung đưa đôi khi, tỏ vẻ bâng khuâng. Cuối cùng, cậu tặng Bob một cái nhìn sâu, chăm chú. Ánh mắt họ chạm nhau: một bên như muốn dò xét cả thế giới bên trong, một bên run sợ, mồ hôi hột lấm trên trán và thái dương.

“Không được!” Zeno nói. “Bồ mập ú quá, tôi từ chối. Với lại, vườn hồng này đã có ai vào hay chưa? Tôi xin thưa, vườn này đã có Cầu Linh vào rồi.”

Bob sững lại, như đóng băng. Não cậu hoạt động nhanh, nghĩ thầm: “Cậu ta thật sự dành thời gian để suy nghĩ ý nghĩa tên của Leina… Leina – Cầu Linh (Cây cầu linh hồn).” Cậu thở phào, thoát nạn.

Nhanh chóng, Bob đưa ngón tay tỏ ý: “Cho tôi một phút.” Rồi vào trong, lấy cây chổi sợi cỏ cứng và cái thùng gỗ nghiêng, quét đống rác vào thùng. Zeno quay mặt ngang chỗ khác, cậu quét thật nhanh. Khi quay lại, Bob tiếp tục quét nốt, tiện thể bỏ hai mảnh giấy vào thùng. Sàn nhà trông sạch sẽ hẳn.

“Được rồi, bồ. Ta nên đến điểm hẹn với mọi người, đừng để họ chờ lâu.”

“Xin lỗi, Bồ,” Zeno đáp. “Tôi biết vì tôi quá đẹp trai, lại còn đôi mắt xanh long lanh như bầu trời. Mỗi khi nhớ về tôi, hãy nhìn bầu trời. Buổi tối thì ngủ nhé! Và đừng quên dọn vệ sinh cây nấm của bồ. Nó sẽ là thức ăn dự trữ nếu có chuyện gì xảy ra với chúng ta.”

Nơi sâu vào là điểm hẹn trước đó, mà đám trẻ đã cùng nhau làm một căn nhà trên cây Tule lớn nhất ở đây, với cái mác cũng không ít tuổi, mà Zeno đã một mực gọi đó là Ông Cây Già - và chúng nó mừng thay là chỉ còn mỗi việc trang trí, do Leina và một cô bạn gái tên là Lilith trang trí nữa là xong. Trong đoạn đường đi này, làm sao thiếu được những cái cây sồi già, táo đỏ, cây lá kim,... chen chúc nhau mà sống; rể thì mọc nhào lên trên mặt đất to lớn như đàn rắn xanh rêu quấn lấy nhau, không ít cành cây còn rũ xuống nằm la liệt trên mặt đất mà những đứa trẻ khó mà bỏ qua cho được - những cây hoa và quả dại mọc xung quanh, thậm chí um tùm như mọng đỏ và thù lù mọc rải rác, chính là món ngon mà Bob thích nhất. Một người sành ăn thì luôn dừng lại để hái, rồi cuộn vạt áo lại mà luồn vào quần tạo ra cái hốc để bỏ vào sẵn, nhâm nhi trên đường.

Lại trên đoạn đường ấy, cũng khó mà thiếu được tiếng kêu: Hú… rồi lại… Hú… thật dài của anh bạn Zeno. Nếu trong một bài văn mà tả bạn em có tính cách đặc biệt gì, thì nếu là Bob cũng khó mà bỏ điều đáng chú ý này. Đoạn ấy, hơn nữa, là vùng này không có sói sống lang thang ở rừng, mà chúng sống thanh cao hơn ở vùng đồng bằng và cũng không dữ như sói thường, hay đáng sợ hơn là Wilder người sói. Thế nên, chỉ cần nghe tiếng kêu phát ra từ trong rừng thì biết rõ ngay đó là Zeno, vì chẳng ai làm điều kỳ cục này mà thật không thèm dừng lại đôi phút.

“Này, bồ Zeno, đừng làm mấy việc như vậy nữa,” Bob phàn nàn. “Cậu không cần một tí không gian dịu dàng của khu rừng à? Hãy dừng lại và lóng tai lắng nghe nó đôi chút thôi, rồi cậu sẽ thấy.”

“Thật sao?” Zeno đáp, rồi Bob gật đầu lia lịa, miệng vẫn nhai quả dại.

“Ấy thế mà không biết sao?” Zeno nói. “Bạn của tôi, tôi làm thế là có lý do chính đáng. Tôi đang đánh thức khu rừng dậy vì giờ đã quá xế—và có lẽ họ đang mắt nhắm mắt mở cũng không chừng.”

Rồi Zeno lại hú dài, khiến Bob rợn người, mấy quả dại rơi vãi, cậu vội cúi nhặt lên. Rồi mấy quả nữa lại rơi, mất cả buổi chỉ để nhặt.

“Bồ làm đều này để làm gì? Khu rừng thức dậy để làm gì?” Bob hỏi, giọng nhồm nhàm đầy ắp đồ ăn.

“Tôi muốn khu rừng âm thầm quan sát chúng ta,” Zeno trả lời. “Họ phải thức để xem chúng ta, như những khán giả xem các nhân vật trong câu chuyện đi hết hành trình. Và bồ sẽ là hình mẫu của cậu bé to tướng nhút nhát rồi sẽ can đảm không thôi.”

“Bồ đang làm khu rừng trở nên đáng sợ,” Bob nói. “Ít nhất là đối với tôi. Cậu biết chúng ta thường làm gì ở khu rừng này mà—rất nhiều thứ, và… tôi không nghĩ họ thích tất cả điều đó. Nhưng chí ít lời khen của bồ cũng không tồi. Cho đến tối nay, tôi mong rằng cái cây vải cạnh nhà, nơi tôi xả nước hằng ngày, đừng đi bằng hai chân và bóp cổ tôi khi tôi đang ngủ.”

Zeno nghe vậy liền lớn tiếng: “Đồ khốn!”

Bob hơi giật mình, nhận ra mình vừa nói điều gì không nên. Khó mà thoát khỏi cái ngưỡng tự trọng của cậu bạn, mặc dù bản thân luôn tạo ra mấy trò quái đản.

“Bồ tưới nước cho nó thường xuyên, mà tuần trước bồ đãi tôi mâm quả vải trên cái cây bé tẹo đó,” Zeno nói. “Tôi đã nghi rồi, cái cây chưa đầy 2 m, thân thì như cái điếu cày của Thầy Gai, vậy mà ra xum xuê trái, nước của cậu giàu chất dinh dưỡng quá, hé, nhóc mập ú.”

Nói xong, Zeno nhảy lên phía sau Bob, hai chân kẹp chặt vùng bụng cậu, một tay bám vào cổ, tay còn lại nắm chặt rồi xoay xoay trên đầu Bob. Rồi bóp hai má cậu như hai cái bánh bao ép vào nhau, nhân hồng phấn giữa hai bên.

“Dừng lại đi,” Bob nói. “Zeno, là do bồ yêu cầu tôi hái cho bồ mà! Bồ còn nói ‘Wow thật thần kỳ Ét… ÉtSơLằn gì đó’ mà tôi còn chẳng hiểu nghĩa gì. Tôi có biết gì đâu? Tôi cũng ăn thôi, nhớ không?”

Bob cố giữ thân mình, tay trái nhấc tay Zeno ra, tay phải giữ hốc chứa quả dại sợ rơi mất. Zeno dừng lại đôi chút, suy nghĩ, rồi ra khỏi người Bob, đặt tay trái lên vai cậu, gương mặt đã hài lòng.

“Cậu cũng có ăn, vậy chúng ta huề nhau,” Zeno thản nhiên nói. “Vì tôi cũng hay xả nước ở đó.”

Zeno đi về phía trước, vai lắc lư theo nhịp, chân bước rộng, miệng huýt sáo, phát ra âm thanh ộp ẹp chói tai. Bob không hài lòng, tóc xù, hai má đỏ hẳn, mép miệng cong rõ là tức giận.

“Này, đứng lại Zeno, chúng ta chưa huề đâu! Tôi phải khoáy đầu cậu cho thật đã mới huề được.”

“Được, đương nhiên được,” Zeno đáp. “Nếu bồ có thể bắt được tôi chỉ bằng đôi chân củ cải đó.”

Sau đó, liền chạy tức khắc hướng về phía cây Tule già cỗi, có căn nhà nhỏ phía trên và một cái thang dây rủ xuống. Bob lập tức đuổi theo; thật khó mà đuổi theo ai nếu tay cứ phải cố giữ cái hốc, nhưng cũng thật khó mà bỏ cho được. Ai đời lại muốn bỏ nắm trái cây dại ngon lành, và đã nghe câu chuyện Rừng Thức Dậy của Zeno, mà cũng không thể bỏ ra vì sẽ bị mách thầy nếu mà không tôn trọng thức ăn - điều đó còn tệ hơn là ăn rồi mà xả rác trong nhà.

Nên cậu bụm tất cả lại vào hai bàn tay, hốc hết vào miệng há rộng, rồi vừa chạy vừa nhai. Nhìn vào Zeno phía trước, cậu ta còn cố nhai mạnh hơn nữa; hai tay giờ đã thong thả kéo đò, nhưng làm thế nào mà đuổi theo được thì là một câu chuyện khác.

Zeno đến trước cái thang dây đầu tiên, cách Bob cỡ hơn chục mét; cậu chưa leo lên ngay mà đợi cho cậu bạn mình đến gần hơn, khoảng hơn thước dây, thì đôi chân liền nhanh nhẽo phóng lên, tay nắm chặt thanh gỗ ngang, rồi đoạn tẩu lên trên trong tức khắc. Đối với một người hay phá phách thì chuyện này chả nhằm nhò gì.

Đối với Bob, chuyện này cũng chả khó là gì, mặc dù Zeno luôn gọi cậu là mập ú, nhưng thật cậu ta không đến thế, chỉ có hơn cái gọi là có da có thịt; nhưng nếu so bì tốc độ với cậu bạn mình thì thật quá đáng. Cậu ta trèo lên sau, cố gắng tăng tốc, ánh mắt dường như rất kiên định. Zeno lại một lần nữa dừng lại khi đã đến thanh gỗ cuối cùng và ngước xuống nhìn bạn mình một cái - nhưng có nào hay được, Bob lần này có vẻ rất cố gắng, đã thoát nhanh đến gần chân cậu. Bị bạn nắm lấy tức khắc, Zeno lấy làm ngạc nhiên nhưng nhanh trí tháo chiếc xăng đan phải ra, làm nó rơi ngay mặt Bob, làm cậu ta càng hăng hơn nữa, nhưng cậu đã lên căn nhà trước.

Bob cuối cùng cũng trèo lên được; hai tay đã đặt ngang thành, rồi ngước mặt lên, cậu ta sững sờ, nhận không ít sự ngạc nhiên, quên phăng đi cái chuyện rượt đuổi Zeno, vội phải thốt ra một cách không thể nào ngây thơ hơn được nữa:

“Thật đẹp.”

Trên căn nhà gỗ mà cả đám đã làm, bản thân cậu có công nhiều nhất; cậu ta luôn làm mấy món đồ bằng gỗ trước đó, nhưng đây là cái lớn nhất mà cậu đã làm: có mái suông, có 3 mảnh tường gỗ, được lắp thật công phu, 2 cửa sổ hai bên, và phía trên còn có một đài quan sát nhỏ. Cậu nhìn xung quanh, thấy có cả 3 bồ: Leina, Jack, Lilith, mang trang phục tối giản trắng và viền xanh thường lệ của Atlantis, chẳng khác nào mấy thiên sứ, nhưng áo không dài lộng gió - đang đứng nhìn cậu ta, rõ là đang đợi, làm cậu ta hơi ngại ngùng; và cả cậu bạn Zeno đang ngồi trên cái ghế xoay mà xoay không dứt.

Các tường gỗ được trang trí bắt mắt, đeo trên mình các dòng hoa có đủ màu sắc; và một cái bàn lớn được phủ bởi một tấm vải trắng, ở giữa có thứ gì nhô lên trông thật có khiếu, làm người khác tò mò. Cậu vẫn ngơ ngác với tư thế như vậy, rồi một tiếng gọi tên cậu ta làm hãi, giật mình đôi chút, suýt té ngược trở xuống, nhưng đôi tay đã cứu ngược trở lại.

“Bồ có lên không, Bob?” Jack hỏi. “Hay để tôi giúp? Bồ biết hôm nay là ngày đặc biệt mà.” Jack nháy mắt rõ là đẹp trai.

“Được rồi, tôi có thể tự lên, dù sao cũng không thể nói là không biết! Ý tôi là tôi không thể để người khác nghĩ đến hôm nay là ngày gì mà cũng không biết? Đúng là đồ ngốc, đại loại vậy.”

Sau khi cậu đứng hoàn tất trên căn nhà gỗ, liền bận phủi bụi do đã bị ngã lúc cố rượt anh bạn phía trước. Cậu chỉ đang ngước mặt xuống mà không chú ý đến trước mặt, hoặc quá ngại ngùng để phải làm điều đó; dù sao cũng phải ngửa mặt lên thì lập tức nghe thấy tiếng hát đồng thanh của đám bạn đang đứng trải hàng xung quanh cậu, vỗ nhịp, rồi dìu cậu vào trong một cách đáng quý.

Những tiếng ca tiếp tục vang lên, là tiếng hát chung của hội bạn, du dương trong không khí – làm cậu ta trông thật hạnh phúc và đồng thời càng thêm xấu hổ.

“Lành thay – lành thay ngày Bob sinh ra trên mảnh đất linh thiêng này!”

“Là một đứa trẻ có tâm hồn tươi sáng, thích cười và làm người khác cười.”

“Cậu có thể nhát gan bây giờ, nhưng lớn lên sẽ không ai can đảm bằng cậu.”

“Đúng, đất của ta sẽ có vị anh hùng mới!”

“Hoan hô – hoan hô – hoan hô!”

“Vị anh hùng khiến kẻ xấu ngã ngựa khi nghe tên.”

“Vị anh hùng mang lại điều hân hoan vốn cố.”

“Vị anh hùng cứng cỏi như sắt thép và vững vàng như núi cao!”

“Hoan hô – hoan hô – hoan hô!”

“Bạn của tôi, đừng buồn mỗi lúc thất bại, tôi biết bạn sẽ làm được.”

“Bạn có thể bước bằng chân trần nhưng đội chiếc mũ vàng.”

“Đừng từ bỏ giấc mơ của bạn, nhưng đừng cố giữ nó cho riêng mình.”

“Hoan hô – hoan hô – hoan hô!”

“Hãy chia sẻ với nhau, và ta sẽ cùng sống!”
“Hãy chia sẻ với nhau, và ta sẽ cùng sống!”
“Hãy chia sẻ với nhau, và ta sẽ cùng sống!”

“Hoan hô – hoan hô – hoan hô!”

Sau khi tiếng hát cuối ngân lên, giai điệu mộc mạc vẫn âm ỉ trong đầu Bob. Không chỉ chứa tình yêu đồ ăn, nơi ấy còn có một ngăn thật lớn, chứa tình cảm bạn bè dành cho cậu, rộng đến mức bất cứ hốc tủ, hốc cây nào cũng khó chứa hết.

“Cảm ơn,” Bob đầy chan chứa: “Các cậu là món quà tốt nhất đối với tôi bây giờ, tôi đâu cần cái thứ nhô lên trên bàn đó nữa. Đâu phải vì bất cứ thứ gì mà ta phải chơi với nhau, ý tôi là ta là bạn bè, và, và đó là tất cả những gì tôi muốn nói.”

Bob nói trong giọng như mắc nghẹn, nước mắt trào ra, nhỏ lệ rơi xuống; cậu dùng tay cố vội lau đi hình ảnh yếu đuối chút ít này của bản thân. Trước mặt cảnh tượng như vậy, khó mà ai trả lời nhanh bằng cậu bạn thân nhất.

“Đừng mít ướt như vậy,” Zeno nói: “Bob mun-bồ không thể biết chúng tôi đã chuẩn bị điều gì đó phía sau! Hơn nữa, cho dù bồ có biết rõ là thứ gì đi chăng nữa thì cũng hãy làm ngơ mà cố tỏ ra cho bất ngờ, để khoảnh khắc này đừng quá nhạt nhẽo mà dễ bị lãng quên.”

Sau đó, cậu bé nín khóc, hai má vẫn còn đỏ; cậu dường như đã nhận ra Zeno đã cố tình rống lên nhằm thông báo cho các bạn còn lại chuẩn bị thật nhanh, cậu ta thì tìm cách câu giờ cho đặng. Ấy mới biết rõ tình cảm của bạn bè dành cho cậu, thậm chí phải làm khùng làm điên (như Zeno thì là chuyện thường ngày, nên được phân công việc này thì chắc cậu ta khoái dữ lắm). Đám trẻ đứng xung quanh cái bàn tròn, nhưng chưa mở tấm vải ra ngay, mà còn dường như đang đợi một ai khác.

“Bồ có mời bồ đó không, Leina?” Bob nói.

“Đương nhiên là có,” Leina đáp: “Nhưng tôi không biết bồ ấy có đến không? Bồ ấy còn nói là sao bọn mình lại đến mời bồ ấy lận hai lần, bộ định đánh úp tôi hay sao? Chắc phải có chuyện gì đó thì bồ ấy mới phải trả lời - thường thì chỉ gật đầu hay lắc đầu thôi. Nhưng bồ ấy đa nghi lắm, nhưng tôi vẫn nghĩ bồ ấy sẽ đến, vì bồ đó, Bob, cậu là người cố bắt chuyện nhiều nhất với bồ ấy mà rõ là muốn làm bạn, nên tôi hy vọng bồ ấy sẽ đến. Chỉ hy vọng thôi, nhưng có còn hơn không.”

Nói xong, Leina vẫn còn hoài nghi về câu nói của Zero lúc đó, và vội sao lại chú ý đến khuôn mặt khác lạ của Zeno như đã làm điều gì đó không đúng đắn: mời hai lần, và lần sau là Leina, vậy lần đầu là một người khác. Nhưng lại khó mà là Zeno được, vì cậu ta có vẻ không thích bồ ấy thì làm sao lại chủ động đến mời người ta cho được. Nghĩ thầm thì không, nhưng Leina vẫn không hoàn toàn tin được cậu bạn Zeno.

“Các bồ đang nói về Zero sao?” Lilith nói: “Nếu là bồ ấy, thì tôi cảm thấy hơi bí ẩn; sống một mình trong thư viện với Thầy Gai, và không đến lớp học, thật khó mà không nghe phải vài tin đồn khác lạ về cậu ta.”

“Vậy là các bồ muốn mời cậu bạn đó đến. Tôi nghe nói bồ ấy còn chả có được một đứa bạn; thật mà nói thì chả có đứa trẻ nào muốn đến gần cậu ta, chứ chưa nói là kết thân,” Jack nói - một anh chàng lớn hơn hẳn 1 tuổi, cao ráo, khuôn mặt đầy sáng lạn, và như Thầy Sorandel nói thì bồ Jack đầy lịch thiệp, khác hẳn so với Zeno đầy năng động, quá phách, hiện rõ trên từng milimet trên khuôn mặt cậu ta.

Zeno thì chả nói gì, chỉ ngồi trên cái ghế xoay mà xoay xoay cố tình né ánh mắt đầy dò xét của Leina. Cả đám vẫn đang ngồi đợi, đã nói về đủ thứ chuyện thì bỗng nghe một âm thanh phát ra, giống tiếng da thịt bị áp mạnh vào mặt gỗ phẳng. Đám trẻ quay ngược sang thì thấy một bàn tay trắng phao, đến cả móng tay bám vào thành, nửa cái đầu tóc trắng như tuyết, thậm chí còn trắng hơn cả Zeno; tệ hơn nữa là gió còn thổi làm cho tiếng lá khô cứ xì xào, gió thoảng qua đám trẻ khiến da phải nổi cộm trước mái tóc trắng thì cứ như sống dậy. Rõ là đáng sợ, đám trẻ hét lên.

— Ahhhhhhhhhhhhh.

Thêm một cái tay trắng nữa đặt trên thành.

— Ahhhhhhhhhhhhh.

“Sao các bồ lại không nói khu rừng này có ma chứ? Là tên khốn nào lại đưa ra ý tưởng làm nhà trên cây ở đây vậy.” Leina nói lớn bất chấp hoảng sợ.

“Là bồ chứ ai,” Bob ấp a ấp úng nói: “Bồ nói muốn xây căn cứ cho nhóm chúng ta, rồi nói nên tìm chỗ cho nó thật bí mật, mà lại chọn cái cây lớn nhất, bí mật dữ rồi đó, giờ thấy chưa! Đâu phải cái gì lớn cũng tốt.”

Zeno thì hoàn toàn không sợ, cậu ta còn cười khúc khích trước dáng vẻ sợ sệt của đám bạn, có lẽ cậu ta đã nghĩ ra trò chơi thử thách lòng can đảm vào một hôm không trăng nào đó. Cậu ta ngừng xoay cái ghế rồi bước đến chỗ thành ngang, hai đứa con gái thấy vậy thì ôm hẳn vào nhau, mắt tựa như cầu nguyện. Thấy vậy, Jack nhìn Bob một cái, dường như cả hai biết điều gì rồi nhưng lắc đầu nhè nhẹ. Gió thì vẫn cứ thổi, tiếng lá cây mỗi lúc càng xào xạc mạnh hơn, tiếng chân trần của Zeno áp trên mặt càng khiến đám bạn sợ hơn nữa. Bỗng một cái đùng, cả đám đang ngồi hét lên, làm Zeno quay mặt lại thì chỉ là cái ghế xoay mà cậu đã ngồi ngã ngang. Zeno nhìn đám bạn, chắc chắn rằng tất cả đã nhìn cậu ta, rồi đưa một ngón tay trỏ lên trước môi biểu thị hãy im lặng, cả đám gật đầu lia lại. Zeno quay trở lại, khuỵu chân xuống một chút, bước đến chậm rãi thật có khiếu mà hù dọa. Đến trước thành, rồi ngước xuống một cái đầy lặng lẽ, rồi lại phì cười như bắt được kho báu xong, quay sang đám bạn, nói cái tông giọng dõng dạc đầy tự hào:

“Chỉ là con ma của khu rừng này muốn tham gia tiệc sinh nhật của Bob. Lúc nãy tôi hú lên, nên nó mới biết mà đến đấy. Thấy tôi tài không!”

Cả đám nghe xong liền hoảng loạn hơn nửa, mắt nhắm mắt mở không muốn nhìn. Lilith ngó lên một cái rồi lại áp vào người Leina, Jack với Bob thì đã ôm trầm nhau từ khi nào, hai má áp vào nhau, miệng đồng thời nuốt nước bọt. Tệ hơn mấy lời rùng rợn của Zeno thì vẫn chưa có phanh mà dừng lại.

“Con ma này đánh răng tốt đấy,” Zeno nói: “Hai nanh của nó sáng trưng à, tóc cũng gọi là mượt đấy, gội đầu bằng bông bưởi hay sao, thơm mà trắng quá!”

Sau đó Bob nói với giọng nửa ngập ngừng, lắp bắp rồi lại gấp gáp:

“Sao bồ… lại… lại mời nó đến đây vậy? Mấy trò của bồ ngày càng trở nên quái đản… không… phải lúc nãy… bồ hú lên là để nhắc các bạn còn lại chuẩn bị nhanh… hơn sao!”

“Đúng, Bob mun,” Zeno đáp: “Nhưng tôi đâu có nói là anh bạn này không nghe phải mà sinh lòng tham dự. Chắc là bồ này tưởng là bữa tiệc của quái vật, vì tôi đã rống lên theo tiếng người sói. Ấy thế mới biết bạn cậu tài năng nhường nào, ai đời một đứa con nít lại rủ rê được anh bạn đã chết từ mấy kiếp này cơ chứ.”

“Mấy kiếp… bồ nói gì vậy, Zeno?” Leina nói hoảng loạn một chút trước thông tin thật khó mà muốn nghe: “Đáng sợ quá! Bồ mau mau làm gì đó đi chứ!”

Con ma mà Zeno nói, ngước lên nửa thân người, đám trẻ đang sợ hãi lại vô tình hét lên mà chưa cần nhìn rõ, một cái thật lớn làm mấy con chim, sóc bay phải trốn vội.

— AHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHHH

Lớn đến nổi vang đến chỗ Thầy Sorandel đang ngồi trên cái gốc cây ở bìa rừng, đang hút cái tẩu thuốc màu đen, khắc họa thêm vài chi tiết lượn sóng; rõ là đồ của Thầy Gai vẫn đang phì phà thích thú thấy rõ.

“Chắc là lại là thằng Zeno nữa, mấy cái trò quái đản mới, tuổi già này còn hơi đâu mà… mà…”

Chưa nói xong thì một giọng nói từ không gian vang lên:

“Mà còn hơi vào cái thư viện cũ có ông thầy rõ là phong độ ở đó, và ở trong học tủ số 25 trên cái bàn làm việc cạnh cửa sổ, kế bên là cái tủ số 26 mở toang đầy lá thuốc phiện.”

Một con thiên nga màu xám từ đâu bay đến, nó lao xuống đứng bên cạnh, vỗ hai cánh thật mạnh làm mấy cái vòng tròn bằng khối mà Thầy Sorandel đã thổi tan mất.

“Ấy chết, ấy chết… Tôi cứ nhầm mãi là số 22,” Thầy Sorandel nói: “Nên cứ lục mãi mà không thấy, đến khi tôi thấy hộc tủ 26 mở ra thì tôi biết ngay là bên 25.”

“Sao Thầy lại không kiểm tra 27 mà lại kiểm tra 25?” Con thiên nga xám nói: “Tôi biết rõ Thầy thích số 7 kia, đến nỗi một số vật dụng đều có 7 cái không hơn.”

Thầy Sorandel nghe xong vẫn phải làm thêm một hơi nữa rồi mới đáp lại:

“Ấy là bạn đã lâu năm, mà sao tôi lại không biết được, cái ngưỡng của Thầy đầy lém lỉnh và biết cách hưởng thụ. Là ngửa người về phía sau trên cái ghế, phía dưới có trải một cái gối lông phải thật mềm, một chân đặt lên bàn mà chẳng muốn bỏ giày, tay trái thì cầm tủ thuốc, tay phải thì bỏ lá thuốc vào, mà ma sát hai ngón tay lại mà tạo lửa, ấy nói chung là cho nó tiện.”

Con thiên nga lập tức hóa thành hình một lão đã già, râu ria đã có đủ, tay trái cầm cây gậy sồi mà chống, mặc cái áo choàng màu trắng, pha xám nhạt, vẻ ngoài cũng chả khác gì Sorandel, có điều mũi thì chả có khoằm, và đeo dây chuyền có tinh thể trắng làm mặt chứ không phải nhẫn.

“Vậy mà lâu nay tôi cứ tưởng Thầy chả biết gì về tôi mặc cho đã quen nhau hơn thập kỷ, cái áo choàng trắng mà Thầy đã tặng cho tôi này, nó vẫn còn tốt lắm, ít nhất là cho một lão già như tôi. Nên vậy tôi biết rõ tình cảm Thầy dành cho tôi, nó chuyển từ trắng sang xám… ý tôi là nó đậm hơn rồi! Vậy cơn gió nào đem Thầy đến để lấy cắp cái tẩu của tôi.”

Nghe xong, Thầy Sorandel lại hút một hơi nữa rồi hẳn đáp, lão già này thích ra mặt; mấy cái đồ vùng ngoại thì Thầy ta rõ mà thích, nhưng lại không mua bất kỳ thứ gì ngoại trừ cái quán bán sôcôla ở ngoại vùng phía đông Xích Quỷ, mà mỗi lần Thầy ta đến thì mua hẳn cả đống, chả biết bao nhiêu, nhưng mỗi lần mà về lại Atlantis thì người ta tưởng Thầy mập lên. Rõ là dấu vào trong cái áo đầy túi.

“Thầy thật khéo mà đùa, cái áo choàng trắng chuyển sang màu xám là do thời gian đã qua lâu rồi, ấy ý biểu thị là Thầy đã già… ý tôi là càng thông thái. Phải, đã rất lâu rồi nhưng cái tính vẫn không đổi như tên của Thầy vậy, Thầy Gai ạ, sao Thầy không gắn cái tẩu trên cây gậy?”

Thầy Sorandel hít một hơi nữa, rồi lão thở ra cái khói trắng mà từ hai bên tai thoát ra, sau đó là cái vòng tròn khói lớn nhất mà lão cố tạo ra bằng miệng bay đi; nó vừa bay lên cao thì một con nhạn bay qua và làm hỏng, khiến lão giật mình đôi chút, rồi đưa gấp cái tẩu cho Thầy Gai mà dúi vào không xiết.

“Còn về cái tẩu này,” Sorandel nói: “Ấy là tôi mượn, nhưng nào lại có gặp Thầy! Tôi lấy thuốc thì tôi đổi sôcôla cho Thầy, ấy là huề nhé.”

Nói xong, Thầy Sorandel mở một bên áo trái ra, hốc cái tay vào túi giữ ở đó như đặng đong đếm còn bao nhiêu.

“Thầy chắc là có không, Thầy Sorandel?” Thầy Gai nói: “Một tẩu thuốc này chắc cũng phải được một mớ đấy!”

“Một lòng bàn tay là đủ,” Sorandel nói: “Tôi lấy lá thuốc của Thầy cũng bằng lòng bàn tay này đấy, khó mà Thầy chịu thiệt đâu! … Đương nhiên là không tính về giá.”

Thầy Sorandel nắm lấy một lòng bàn tay đầy thỏi sôcôla quấn ngoài bằng giấy bạc màu vàng, đưa đến bàn tay đã ngửa sẵn của Thầy Gai, nhưng lại cố quấu tay lại, đặng giữ lại đôi ba thỏi.

“Móng tay Thầy dính bùn là rõ, Thầy Sorandel,” Thầy Gai nói.

Sorandel nghe xong liền hướng mắt đến, vô tình dạng tay ra, theo thói quen để xem móng tay 5 ngón tay đều thẳng và không còn ngọn núi nào, thì đã làm rơi toàn bộ số thỏi kẹo mà mình cố giấu. Ấy biết bị phát hiện, Thầy Sorandel lập tức giật tay lại phía mình.

“Dạo này tay tôi hơi đổ mồ hôi, mà tôi hay để quên khăn tay, nên nó cứ hay trơn trượt mà cũng bám dính.”

Nói xong, Thầy Sorandel liền dúi tay vào túi áo bên phải, cố nhét miếng vải góc xám của cái khăn tay đã thú tội bên ngoài vào.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro