Nhàm chán - Kính trọng - Nghi ngờ
Nhàm Chán
Tình cảm nếu không tiến sâu vào những trạng thái tâm lý như bình yên, thấu hiểu, chấp nhận, chia sớt, nâng đỡ, tha thứ, trách nhiệm, thì nó sẽ sớm trở thành một thứ nhàm chán.
Bình thường hóa cảm xúc
Khi ta yêu thích một đối tượng nào đó và quyết lòng muốn chiếm hữu mà không thể kiên trì chờ đợi hay không màng đến cái giá phải trả, tức là ta đang bị cảm xúc khống chế. Do những ưu điểm của đối tượng kia đã phản ánh đúng nhu cầu hay sở thích của ta, nên tâm tưởng ta đã không ngừng tái hiện những hình ảnh tuyệt vời ấy lên bề mặt ý thức. Ngoài ra, nó còn phóng đại lên gấp nhiều lần để nâng cao mức thỏa mãn. Trong khi yêu thích mà để cho cảm xúc can thiệp quá nhiều thì chắc chắn cái nhìn của ta về đối tượng sẽ không còn chính xác nữa. Điều này cũng đúng trong trường hợp ta đang tức giận hay ghét bỏ, như câu ngạn ngữ: "Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau trái bồ hòn cũng méo". Dù ta không hề chủ động thêu dệt hình ảnh, thậm chí ta còn không biết tâm tưởng của mình đang thêu dệt, nhưng một khi ta có ý niệm yêu thích và muốn chiếm hữu thì cơ chế tâm thức sẽ tự động tìm cách phóng đại những dữ liệu mà ta đã lưu trữ.
Càng yêu thích ta càng không thể nhìn thấy những khuyết điểm của đối tượng. Nếu có, thì ta cũng không cho đó là vấn đề quan trọng và thậm chí còn thấy nó thật đáng yêu. Nói chung, vì ta muốn đối tượng ấy thuộc về mình, là một phần của cuộc đời mình, nên những gì liên quan đến đối tượng ấy thì ta đều yêu thích hết. Nhưng bản chất của cảm xúc chỉ là một nguồn năng lượng tạm thời để bộc lộ sự yêu thích hay ghét bỏ, nên có lúc nó lên cao trào và có lúc nó xẹp xuống. Nghĩa là cảm xúc dù tốt hay xấu rồi cũng sẽ bão hòa. Nó sẽ trở lại trạng thái bình thường, nên còn được gọi là "bình thường hóa cảm xúc". Nếu ta càng yêu thích cuồng nhiệt thì cảm xúc càng mau chóng bão hòa. Khi ấy, ta sẽ giật mình đến nỗi không tin vào mắt mình, vì
bỗng dưng ta thấy người ấy không còn tuyệt vời như trước nữa. Càng sống lâu họ càng bộc lộ nhiều khuyết điểm mà có thể ta sẽ không chấp nhận nổi. Người ta thường nói hai năm sau hôn nhân thì "bộ mặt thật" của nhau sẽ tự động phơi bày ra. Có thể là do người kia không còn đủ sức để tiếp tục trình diễn hay cố gắng nữa, vì nhu cầu thỏa mãn của họ đã đạt tới đỉnh. Một lý do quan trọng khác, đó là niềm đam mê của ta cũng đã lắng xuống nên ta đã thấy đúng đắn hơn về đối tượng.
Một khi đã bị những khuyết điểm của đối phương tác động, làm cho cảm xúc xấu trong ta phát sinh thì nó sẽ dễ dàng trở thành bức tường ngăn cách. Nó khiến ta không thể đến với họ một cách tự nhiên như trước nữa. Có sự dè dặt và một chút khinh thường. Nếu bức tường ngăn cách ấy quá lớn, đến nỗi cảm xúc không thể trở lại mức yêu thích như cũ thì sự nhàm chán là điều khó có thể tránh khỏi. Dù đối tượng ấy trước sau vẫn giữ nguyên vẹn tính đáng yêu, nhưng vì cảm xúc yêu thích trong ta bị bão hòa hay tự động tăng vọt vượt qua mức đáp ứng của đối tượng ấy, nên ta vẫn rơi vào trạng thái nhàm chán.
Từ nhàm chán đến phản bội nhau là một khoảng cách rất ngắn, nếu mối liên hệ ấy không đề cao ý thức trách nhiệm để ràng buộc. Ta thấy hầu hết những cuộc hôn nhân đổ vỡ đều có những lý do rất chính đáng. Nhưng có một điều rất sâu sắc mà ít ai tiện nói ra đó là do bên này không thể đáp ứng được mức thỏa mãn cảm xúc cho bên kia nữa. Đó là thứ "tai nạn hôn nhân". Bởi không ai có thể lường được sự nhàm chán lại mau chóng thay thế vị trí tình yêu cháy bỏng thuở nào. Vì vậy, ta hãy cảnh giác với kiểu "yêu hết mình". Sự nồng nhiệt ấy thông thường chỉ là sự trá hình của cảm xúc thỏa mãn ích kỷ, nên càng cố gắng thăng hoa cảm xúc thì ta càng tiến gần đến sự nhàm chán nhau. Ta đừng quên, mức cảm xúc thỏa mãn thì vô cùng, còn khả năng phục vụ cảm xúc thì luôn có giới hạn.
Thương sao cho vẹn thì thương
Ngay cả với thực phẩm, y phục, xe cộ, các loại tiêu khiển giải trí, hay vật dụng bình thường mà ta cũng không ngừng thay đổi "gu" yêu thích thì chứng tỏ năng lượng cảm xúc trong ta rất mạnh. Nó rất thường xuyên can dự vào thái độ sống của ta. Hãy cẩn thận và cố
gắng tránh xa, vì cảm xúc rất dễ qua mặt những kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc. Do vậy, sau những trận cảm xúc thuộc dạng "cơn bão" thì ta luôn thấy hối tiếc cho những phản ứng nói năng và hành động của mình. Những cảm xúc thuộc loại cạn thường được thể hiện qua mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý tưởng tượng. Bởi khi các giác quan ấy tiếp xúc với đối tượng thì ta hay có thói quen thể hiện thái độ thích hay không thích ngay lập tức. Có người phản ứng rất nhạy với hình ảnh, có người lại bị dao động mạnh bởi âm thanh. Các nhà quảng cáo dựa vào điểm này mà khai thác cảm xúc khách hàng. Vì khi những hình ảnh và âm thanh hấp dẫn liên tục đập vào mắt và tai thì nó sẽ tự động ghi nhớ trong não bộ. Đến lúc nào đó, nó sẽ hình thành những phản ứng yêu thích bất chợt và bằng mọi giá phải chiếm lấy đối tượng cho bằng được.
Người ta thường nói đàn ông "yêu bằng mắt", còn phụ nữ "yêu bằng tai". Nghĩa là cơ chế cảm xúc của phái nam thường tập trung ở phần thị giác, còn cơ chế cảm xúc của phái nữ thường tập trung ở phần thính giác. Thực tế cho thấy đàn ông luôn xem trọng về sắc đẹp của đối tượng yêu thích; còn phụ nữ lại thích nghe những lời khen ngợi, ca tụng và ngay cả những lời nói dỗ ngọt "có cánh". Nhưng chức năng của tai thường lớn rộng hơn chức năng của mắt, vì mắt luôn bị giới hạn bởi không gian. Cho nên, "yêu bằng tai" thường sâu sắc và cũng hệ lụy nhiều hơn "yêu bằng mắt". Điều này cũng dễ hiểu. Lời nói vừa thể hiện được sự hiểu biết, nghị lực và cả những cung bậc cảm xúc, hoàn toàn có lợi thế hơn sự hấp dẫn đơn điệu của hình thể. Nhưng dù "yêu bằng mắt" hay "yêu bằng tai" thì cũng là những loại tình cảm được xây dựng trên nền tảng của cảm xúc cạn. Nó sẽ dễ dàng thay đổi khi không được tiếp tục cung cấp những hình ảnh và âm thanh như thế nữa, hoặc khi nó đón nhận những hình ảnh và âm thanh khác hấp dẫn hơn. Tình cảm nếu không tiến sâu vào những trạng thái tâm lý như bình yên, thấu hiểu, chấp nhận, chia sớt, nâng đỡ, tha thứ, trách nhiệm... thì nó sẽ sớm trở thành một thứ nhàm chán.
Những người sống bằng những nghề phải thể hiện những cung bậc cảm xúc cao độ, hoặc những người nổi tiếng được rất đông người ngưỡng mộ, thường sở hữu một "kho tàng" cảm xúc khổng lồ từ sự cộng hưởng. Mức độ nhạy cảm đối với cảm xúc tốt hay cảm xúc xấu của họ vì thế cũng hơn hẳn người bình thường. Họ rất dễ nhàm chán những cảm xúc cũ kỹ, luôn mong muốn tìm tới cảm xúc mới lạ và mạnh mẽ hơn. Đây là nguyên nhân đưa tới sự thiếu thủy chung trong
tình cảm hay hôn nhân của những người có cảm xúc quá mạnh. Đôi khi họ thật sự không muốn có sự đổ vỡ. Họ cũng đã cố gắng tìm mọi cách để níu kéo, nhưng họ lại không thể đối đầu mãi với cảm xúc nhàm chán rất khó chịu của mình. Nói chung, người có cảm xúc quá mạnh sẽ rất dễ thua cuộc với chính mình - biết điều không nên làm mà vẫn làm, biết điều nên làm mà vẫn làm không được.
Bây giờ người ta hay dùng chữ "yêu" để chỉ cho việc thỏa mãn xác thân. Làm như tình yêu chỉ có bấy nhiêu đó thôi vậy. Nhan nhản trên khắp các báo đài, người ta luôn đặc biệt quan tâm đến cách "yêu" như thế nào để cho đôi bên được thỏa mãn. Nhưng kết quả thực tế cho thấy, con người ngày nay càng biết cách thăng hoa cảm xúc lên tới đỉnh thì càng mau chóng nhàm chán rồi từ bỏ nhau. Đó là con đường rất sai lầm, sai lầm từ tâm lý đến cả đạo đức. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã từng nhắc nhở: "Thương sao cho vẹn thì thương". Chữ "vẹn" tức là vừa có tình vừa có nghĩa. "Tình" là mang lại những cảm xúc thỏa mãn; còn "nghĩa" là đem tới sự nâng đỡ và chia sớt. Nếu ta tuyên bố thương người nào thì ta phải tự hỏi mình có đủ cả tình lẫn nghĩa không? Tất nhiên, cái nghĩa mới là chất liệu gắn bó lâu dài, còn cái tình vốn rất ngắn ngủi nhưng nó lại là thứ không thể thiếu trong tình yêu. Cụ Nguyễn Du đã thật tinh tế khi khuyên ta phải nên có đủ cả hai.
Tuy nhiên, tâm thức hay cảm xúc của con người cũng sẽ biến đổi theo thời gian. Đến độ tuổi nào đó, nhất là qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời, tự nhiên ta sẽ sống với nhau vì nghĩa nhiều hơn. Nhưng ngay khi còn trẻ mà ta có thể làm được việc ấy, đặt chữ nghĩa trước chữ tình mà vẫn an ổn đi tới, thì chắc chắn tình cảm ấy sẽ tỏa sáng và rất bền chặt.
Nếu biết mình có tính hay nhàm chán thì ngay từ bây giờ ta hãy quyết tâm thực tập chuyển hóa - buông bỏ bớt cảm xúc tốt và chấp nhận những cảm xúc xấu. Ngay khi đón nhận bất cứ cảm giác nào qua các giác quan thì ta cũng chỉ nên nhận diện rõ đối tượng và cảm giác ấy, mà đừng cho thêm vào đó thái độ của mình nếu thấy không cần thiết. Cảm giác nếu không cộng thêm thái độ thích hay không thích thì nó sẽ không biến thành cảm xúc. Trong trường hợp ta đang bị năng lượng nhàm chán thúc đẩy thì hãy cố gắng đừng tin đó là cảm xúc thật mà có những quyết định nông nổi. Ta phải mau chóng dừng lại mọi tranh đấu lao xao bên ngoài, cố gắng tạo ra một môi trường thuận lợi để nhìn lại và làm mới cảm xúc của mình. Dưới ánh sáng
của tỉnh thức, những đòi hỏi nhỏ nhen sẽ tan biến và những năng lượng tích cực như yêu thương hay trách nhiệm sẽ được khơi dậy.
Cảm xúc luôn đóng vai trò khá quan trọng trong việc thể hiện tình cảm và thái độ sống. Tuy nhiên, nếu không được sự tỉnh thức và hiểu biết đúng đắn dẫn đường thì nó sẽ khiến ta trở thành nạn nhân khổ đau của chính mình. Trong đó, sự nhàm chán và phản bội nhau là điều đáng tiếc nhất. Cho nên, người nào có khả năng điều tiết được cảm xúc của mình thì người ấy mới có hy vọng nắm giữ được hạnh phúc lâu bền.
Không đuổi theo cảm xúc Luôn nhìn lại chính mình Đã thương thì phải hiểu Mới vẹn nghĩa trọn tình. Không cao cũng không thấp Không sang cũng không hèn Tất cả đều mầu nhiệm
Bụi đời làm ta quên.
Kính Trọng
Trong bất cứ mối liên hệ tình cảm nào, niềm kính trọng cũng là nền tảng quyết định cho sự tồn tại lâu bền.
Nền tảng mọi liên hệ
Ai trong chúng ta cũng cần được kính trọng, vì khi được kính trọng ta sẽ thấy rõ hơn những giá trị sâu sắc và đích thực của mình. Dù ta đang chịu nhiều thất bại nặng nề, đến nỗi suy sụp niềm tin vào bản thân, nhưng thái độ kính trọng của một ai đó sẽ ngầm nhắc ta nhìn lại những giá trị quan trọng khác của mình. Trong bất cứ mối liên hệ tình cảm nào, niềm kính trọng cũng là nền tảng quyết định nên sự tồn tại lâu bền. Không có sự kính trọng, tình cảm ấy chỉ còn là sự dựa dẫm cảm xúc qua lại mà thôi.
Có những sự kính trọng bị miễn cưỡng trong những nguyên tắc ràng buộc như tuổi tác, vai vế hay địa vị. Tuy nó có thể tạo nên sự điều hợp hữu hiệu trong chừng mực nào đó, nhưng vì thiếu ý thức tự nguyện nên sự kính trọng ấy không phải là chất liệu để nuôi dưỡng mối liên hệ tình cảm lâu bền. Bởi vì bản chất của sự kính trọng phải xuất phát từ lòng chân thành, do thấy được giá trị chân thật của nhau hay sự tương tức sâu sắc với nhau.
Quả thật, càng kính trọng nhiều đối tượng thì thói quen tự hào và kiêu ngạo trong ta sẽ càng bị cô lập và rơi rụng bớt. Niềm kính trọng nếu vượt qua khỏi những khuôn thước định kiến của xã hội, có thể trải lòng với mọi đối tượng dù đó là những kẻ bị liệt vào tầng lớp thấp hay xấu xa, thì không gian bình yên và tự do trong ta sẽ vô cùng rộng lớn. Vì khi kính trọng đối tượng nào là ta đã chính thức thiết lập sự liên kết và tiếp nhận năng lượng từ nơi đối tượng ấy, dù ta không có chủ ý. Huống chi, kính trọng nhau tức là tôn trọng sự có mặt của nhau trong cuộc đời này, đó là cấu trúc cân bằng giữa các cá thể trong vũ trụ.
Đời sống luôn có quá nhiều mối lo toan nên ta ít có cơ hội nhìn lại mình để giữ tâm quân bình và trong sáng. Theo đó, ta cũng dần đánh
mất khả năng nhìn sâu sắc vào bản chất của từng đối tượng để thấy rằng ai cũng đáng kính trọng. Bởi suy cho cùng thì ai cũng có cái hay cái đẹp. Có khi những cái hay cái đẹp của họ đang hiện ra sờ sờ, nhưng vì mắt ta bị nhuộm lên những màu sắc của thành kiến nên ta không thể thấy được. Cũng có khi nó đang tiềm ẩn hay tạm thời bị vài năng lượng tiêu cực che khuất, mà nếu ta không có cái nhìn khám phá và cảm thông thì ta cũng không thể nào phát hiện ra được. Cho nên, ta hãy luôn tự hỏi mình vì sao ta lại thiếu kính trọng đối với người ấy? Tại ta hay tại họ?
Muốn người kính trọng ta thì trước tiên ta phải kính trọng người. Đó là lẽ tự nhiên. Ngoài ra, muốn tạo sự kính trọng đối với mọi đối tượng, ta phải hội đủ hai điều kiện nổi bật: đó là uy lực và ân tình. Không cần phải có quyền lực thì ta mới có uy lực. Đôi khi quyền lực cũng có thể tạo nên sự thất kính, nếu nó bị lạm dụng để răn đe hay uy hiếp kẻ yếu thế. Chỉ cần ta luôn sống trong tỉnh thức, luôn kiểm soát và chịu trách nhiệm cho mọi lời nói hay hành động của mình, luôn giữ được biên giới vừa đủ giữa mình và đối tượng, không gây phiền phức hay xâm phạm vào quyền lợi của họ thì ta sẽ có uy lực. Ân tình cũng là yếu tố quan trọng để tạo nên sự kính trọng. Ân tình là thương yêu đối tượng một cách không vụ lợi, không toan tính, không đòi hỏi quá nhiều, lúc nào cũng dành mọi ưu tiên cho họ, sẵn sàng mở lòng ra chấp nhận và tha thứ những yếu kém vụng về của họ. Đặc biệt là ta luôn tận tình giúp họ vượt qua những khó khăn, hay hướng dẫn họ đi tới con đường sáng đẹp. Một người có thái độ ứng xử như thế thì chắc chắn sẽ được mọi người dành sẵn cho niềm kính trọng rất lớn. Nói chung, người nào có đầy đủ đức và phước - tức khả năng tự tạo ra năng lượng tốt và đem năng lượng tốt để hiến tặng cho mọi người - thì người đó chắc chắn sẽ được nhiều sự kính trọng. Người được nhiều sự kính trọng tức là người được đón nhận năng lượng nuôi dưỡng từ rất nhiều nguồn. Cũng như cây có nhiều rễ cắm sâu vào lòng đất thì nó sẽ không còn lo sợ bị xô ngã bởi phong ba bão táp.
Thương nhau phải kính nhau
Khi ta bắt đầu có sự kính trọng là ta đã bắt đầu có cảm tình với nhau. Cảm tình trong một giới hạn nhất định sẽ là khởi đầu tốt đẹp cho tất cả các mối quan hệ tình cảm. Nếu duy trì được niềm kính trọng trong suốt quá trình sống chung với nhau, thì quan hệ ấy sẽ rất
nhẹ nhàng và dễ dàng vượt qua những đoạn đường cách trở. Vì nhờ kính trọng mà mỗi bên có ý thức giữ gìn phẩm chất của mình, không để cho những năng lượng xấu tự do tràn lấp ra ngoài mà gây phiền nhiễu hay đau khổ cho đối phương.
Tuy nhiên, khi ở gần nhau ta rất dễ thấy những khuyết điểm sâu kín của nhau rồi dần dần thiếu tôn trọng nhau. Vậy làm sao để ta nuôi dưỡng niềm kính trọng lâu bền với nhau?
Trước tiên, ta phải biết rõ bên kia có thật sự kính trọng mình hay không đã. Nếu thấy họ rất thương yêu mà lại ít kính trọng, thì ta hãy khoan quyết định sống chung. Tình thương ấy có thể là lòng thương hại, hay chỉ là thứ cảm xúc thỏa mãn trong nhất thời. Họ thương ta là vì họ có nhu cầu muốn được thương một người nào đó mà thôi. Tình thương ấy tuy dễ mặn nồng, nhưng lại thiếu tính "keo sơn". Chỉ khi nào họ kính trọng ta thật sự thì họ mới có trách nhiệm với tình cảm và cuộc đời ta. Họ sẽ biết nên làm gì và không nên làm gì để ta có hạnh phúc. Vì họ hiểu rằng hạnh phúc của ta và của họ luôn gắn liền với nhau.
Tuy nhiên, khi tình yêu lên cao thì ta lại ít xét đến vấn đề kính trọng. Chỉ khi nào về sống chung thì nhu cầu đó mới hiện ra một cách rõ ràng. Không phải khi yêu là ta không cần được kính trọng. Nhưng vì cảm xúc yêu đương quá mạnh mẽ, nó đã lấn át hết lý trí. Thấy bên kia yêu quý và si mê ta là ta đã thỏa mãn rồi. Đến khi trở thành người của nhau, thay vì tiếp tục phấn đấu nuôi dưỡng tình yêu cho nhau, ta lại bỏ nhiều năng lượng ra để nắm bắt những nhu cầu khác như tích góp tiền bạc hay củng cố địa vị trong xã hội. Vì vậy cảm xúc yêu đương ngày nào mau chóng tuột xuống và nhu cầu được kính trọng lại vọt lên.
Nhưng tiếc thay, niềm kính trọng thường dễ bị phập phều sau khi cơn bão tình đi qua. Bởi trong khi thương yêu, ta đã lỡ đánh mất chính mình và đã để lại những hình ảnh rất tầm thường trong tâm trí người kia rồi. Nói cách khác, trong một tình yêu mà chất liệu si mê hay hệ lụy quá nhiều thì niềm kính trọng sẽ bị phá vỡ. Một khi niềm kính trọng bị phá vỡ thì càng yêu thương ta lại càng đuối sức, càng thấy tình yêu như muốn vuột khỏi tầm tay.
Để cho sự kính trọng gắn liền với thương yêu, điều quan trọng nhất là ta phải biết kiềm chế cảm xúc muốn được thương yêu của
mình. Ta phải biết tăng giảm một cách có ý thức, có trách nhiệm. Đừng để cho người ấy nghĩ rằng tình thương yêu của ta chỉ là sự trá hình của sự đổi chác, của sự đòi hỏi ích kỷ, vì ta không hề quan tâm đến tình trạng hay nhu cầu của họ. Nếu suốt ngày ta cứ quấn vào nhau, không chịu tách rời nửa bước, thì sớm muộn gì tình yêu ấy cũng bị lung lay và đổ vỡ. Vì càng quấn vào nhau thì càng tăng thêm cảm xúc thỏa mãn. Rồi nghiện ngập, đòi hỏi. Khi một bên không đủ đáp ứng thì bên còn lại sẽ kháng cự, bực tức, không chịu nổi và chán chường. Hơn nữa, cứ gắn chặt với nhau như thế thì làm sao ta còn thời gian và năng lực để ít nhất giữ được sự cân bằng của mình, giữ được những cái hay cái đẹp mà mình đang có. Huống chi, trong tình yêu luôn cần tới khả năng sáng tạo và đột phá của đôi bên. Nguồn sống của bản thân còn không có thì làm sao ta có thể chia sẻ cho người khác?
Vì vậy, khi yêu thương ta phải luôn biết rõ sự giới hạn cần thiết của nhau. Có lúc cần đến nhau nhưng cũng có lúc ta cần phải trở về với chính mình. Trở về chính mình để sửa sang lại thân tâm, để ta luôn là nguồn năng lượng dự trữ cho người kia khi họ cần đến. Muốn làm được điều này thì ta phải có đời sống bình an và hạnh phúc khá vững vàng trước khi sáp nhập với người khác. Trong khi chung sống với nhau, ta phải luôn nhớ nuôi dưỡng phẩm chất của riêng mình. Lúc nào thấy tổn thương vì bị thất kính, ta hãy mau chóng trở về chữa lành vết thương của mình trước. Đừng vội vàng truy cứu và cố gắng trừng phạt kẻ khác. Hãy tự hỏi ta đã làm gì khiến cho người kia không còn kính trọng ta như trước nữa. Coi chừng chính thái độ thương yêu bằng cảm xúc quá mạnh mẽ đã tố cáo sự yếu đuối và dựa dẫm trong ta. Điều quan trọng nhất là ta phải luôn giữ được phong độ của mình. Phải luôn giữ vững những điểm son mà người kia đã từng yêu quý và không ngừng chuyển hóa những yếu kém đã từng gây chướng ngại cho liên hệ đôi bên. Muốn có đủ khả năng và thiện chí để làm như vậy, bắt buộc ta phải có một năng lực mạnh mẽ dự trữ. Năng lực ấy chỉ đến từ đời sống có luyện tập, đời sống tỉnh thức.
Kính trọng là nền tảng của đạo đức, là điều kiện không thể thiếu để thiết lập nền hòa bình của nhân loại. Vì khi kính trọng nhau thì những ý niệm lấn lướt hay xâm phạm quyền lợi của nhau sẽ không có cơ hội phát triển. Ta thấy được sự tồn tại của mình có liên quan mật thiết đến sự có mặt của mọi đối tượng, nên ta sẽ dùng sự tử tế và lòng chân thành để đối xử với nhau. Cách đối xử ấy là thuận theo nguyên tắc điều hợp tự nhiên của vũ trụ, mỗi cá thể đều bình đẳng với nhau
vì đều được sinh ra từ một bản thể.
Mỗi khi có thái độ khinh thường ai, ta hãy tự hỏi mình có đang vướng kẹt vào một nhận thức sai lầm, một thành kiến, hay một nhu cầu nào đó với họ mà chưa được thỏa mãn không? Nếu biết được lỗi thuộc về người kia thì ta cũng hãy tự nhắc nhở mình đó chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng thể rất tuyệt vời của họ. Đừng bao giờ quên, chỉ có hành vi xấu xa chứ không bao giờ có con người xấu xa. Mà từ xấu xa đến đáng khinh miệt là một khoảng cách rất lớn. Nó tùy thuộc vào sự hiểu biết và dung lượng trái tim của mỗi người.
Không cao cũng không thấp Không sang cũng không hèn Tất cả đều mầu nhiệm
Bụi đời làm ta quên.
Nghi Ngờ
Mỗi khi phát sinh ý niệm nghi ngờ kẻ khác, dù họ có xấu thật hay không, thì trong tâm ta đã tạo ra một nguồn năng lượng rất độc hại.
Thực tại kỳ bí
Thật khó có thể tin rằng những gì chúng ta thấy trong giây phút hiện tại đều không đúng như chính đối tượng ấy đang là. Đó là lời cảnh báo của khoa học. Chúng ta có đức tin rất lớn nơi những thành tựu khoa học, nhưng khoa học vẫn tự nhận mình còn rất nhiều hạn chế, nhất là sự hoang mang đến khủng hoảng về bản thể học (ontology) của thế giới chúng ta. Khoa học chưa biết một cách chính xác bản chất của mọi hiện tượng thực ra là gì, chúng hội tụ đủ những điều kiện nào để biểu hiện. Immanuel Kant, triết gia người Đức, đã phát biểu: "Cái mà chúng ta biết về thực tại là do chúng hiện lên đúng như trình độ mà chúng ta thấy về nó. Thực tại là chính nó, chúng ta không bao giờ biết được với tính chất của một hiểu biết khoa học". David Bohm, một nhà lượng tử xuất sắc của Mỹ, cũng đồng thuận ý kiến trên và bổ sung rằng: "Các hạt điện tử mà chúng ta (các nhà khoa học) nhìn thấy chợt ẩn chợt hiện và thay đổi cấu trúc liên tục, là do chúng bị điều khiển bởi trường lượng tử (quantum potential)". Theo đây thì trường lượng tử của David Bohm phải có chứa tâm thức, không bị giới hạn bởi không gian và tác động lên nhau tức thì.
Như vậy, những gì mà ta cho là đúng đắn thì chúng chỉ có giá trị tương đối trong nhận thức của con người mà thôi. Và cái đúng ấy lại bị giới hạn thêm một lần nữa bởi trình độ mỗi người và cả sự biến dịch của thời gian. Vì thực tại luôn vận động và liên kết, còn ta lại chủ trương cố định và biệt lập. Cũng như hiểu biết của ta về dòng sông chắc chắn khác xa với hiểu biết của con cá. Và một người đang "khát cháy" nhìn dòng sông cũng không giống với một người đang ngồi trên du thuyền, hay một người muốn kinh doanh thủy điện. Thi sĩ nào đó đã cho rằng: "Chỉ có dòng sông mới hiểu được mình". Nhưng cũng chưa chắc. Chính ta đây cũng đâu hiểu về mình bao nhiêu. Lúc thương ta thấy khác, lúc ghét ta thấy khác, lúc vui ta thấy khác, lúc buồn ta thấy khác. Cái thấy của một nghệ sĩ tất nhiên rất khác với cái
thấy của một doanh nhân; cái thấy của một nhà tâm linh cũng rất khác với cái thấy của một nhà chính trị. Vậy đâu mới là cái thấy đúng đắn nhất? Không có cái thấy nào đúng đắn nhất cả. Sống giữa thế giới tương đối thì ta phải chấp nhận cái thấy tương đối. Đó cũng là lý do tại sao ta chỉ có được hạnh phúc tương đối - thứ hạnh phúc luôn bị điều kiện hóa.
Chỉ khi nào ta có khả năng vượt thoát chính phiền não bảo vệ cái tôi hiểu lầm là biệt lập này, để chấp nhận vạn vật trên khắp vũ trụ đều là thân mạng của mình, thì chừng ấy ta mới có được tầng nhận thức siêu việt và đúng với thực tại.
Nhưng nhìn đúng bản chất thực tại để làm gì? Đó có phải là vấn đề viển vông hay công việc riêng của khoa học không? Không. Mục đích của khoa học cũng nhằm phục vụ cho hiểu biết của con người, giúp cho con người ngày càng tiến gần hơn với sự vận hành của vũ trụ. Dù ta đang quá bận rộn với cuộc sống, ta không có ý muốn tìm hiểu bản thể học của thế giới này để làm gì, nhưng sự thật là chính ta và mọi thứ xung quanh ta đều nằm trong quỹ đạo của nhân quả và duyên sinh vô cùng kỳ bí ấy. Nên càng ít hiểu biết về chân lý ta càng phí tổn năng lực để tranh đấu cho những thứ vận hành trái nghịch với tự nhiên. Càng trái nghịch tự nhiên sẽ càng mau chóng tàn hoại. Đó là cội nguồn của mọi khổ đau.
Ấy vậy mà ta luôn tự cho mình là tài giỏi, đã hiểu biết tất cả, có thể nắm tương lai và hạnh phúc trong bàn tay. Có được bằng tiến sĩ thì sao? Kiến thức ấy có thể giúp ta biết cơn giận từ đâu tới và được điều khiển bởi những nguồn lực nào không? Những hiểu biết về thế giới nội tâm của ta có phải là vấn đề phi thực tế không? Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đời sống của ta không? Hy sinh chừng ấy năm trời chỉ để nắm bắt những thứ còn nằm trong sự may rủi của hoàn cảnh thì chẳng oan ức lắm sao? Oan ức hơn nữa là sống giữa cái giả mà ta ngờ là thật, hay sống giữa cái thật mà ta cứ nghi là giả.
Từ chối sự thật
Truyện cổ Phật giáo Ấn Độ có kể một câu chuyện rất thương tâm. Có một người thương buôn nọ rất giàu có, nhưng vợ chết sớm và để lại cho ông một đứa con trai. Vì bận rộn việc mua bán ở phương xa,
nên ông đành phải nhờ những người làm trong nhà chăm sóc con mình. Một hôm bọn cướp ập tới đốt phá làng, khiến nhiều người mất mạng trong trận hỏa hoạn ấy. Biết con trai mình cũng kẹt trong đám cháy, vị thương buôn ấy đã ngất đi. Sau khi hỏa táng xong, ông lấy chút xương tro của đứa con bỏ vào trong túi gấm. Đi đâu ông cũng mang theo bên người, đêm nào cũng lấy ra kể lể than khóc. Bỗng đêm kia, bên ngoài có tiếng đứa bé xưng là con của ông. Nhưng ông lại nghĩ đó là ma hay là bọn con nít trong làng đến chọc phá, nên kiên quyết không mở cửa. Thật ra, đứa con ông chỉ bị bọn cướp bắt về rừng, còn đứa bé bị cháy đen mà ông đã thương khóc là một đứa bé khác trong làng. Nhưng mãi mãi ông không bao giờ biết được sự thật ấy khi sự nghi ngờ và cố chấp trong ông đã đóng bít cửa trái tim và đẩy đứa con của mình ra đi trong tuyệt vọng.
Cuộc sống luôn có những câu chuyện từa tựa như thế. Có khi chân lý đã đến gõ cửa rồi mà ta cũng không chịu mở cửa. Bởi ta vẫn tin chắc những nhận định của mình là hoàn toàn đúng. Đó là thái độ cố chấp, bám chặt vào những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy cũ kỹ để nhìn vào thực tại mới mẻ. Trong chừng mực nào đó, dĩ nhiên, kiến thức và kinh nghiệm tích lũy là thứ tài sản quý báu của con người. Nhưng nếu ta không biết sử dụng nó một cách đúng đắn và hợp lý, thì nó sẽ trở thành những bức tường vĩ đại định kiến và thành kiến để ngăn cách ta với sự thật. Trong khi mọi sự mọi vật vốn không ngừng vận động và biến đổi. Dù nhìn tướng trạng bên ngoài ta thấy không có gì khác so với trước kia, nhưng thật sự là chúng đã không còn y nguyên như tất cả những gì ta hiểu về chúng.
Cho nên, bám chặt vào hiểu biết của mình mà không dám mở lòng ra để khám phá và học hỏi thêm, tức là ta đã tự đào thải mình ra khỏi sự vận hành tự nhiên của cuộc sống. Tuy ta đang có mặt với thực tại, nhưng ta đã đánh mất thực tại.
Bóng tối nghi ngờ
Khi không hiểu được sự thật thì ta dễ phát sinh thái độ nghi ngờ như một loại phản ứng bảo vệ cái tôi ích kỷ của mình. Bởi hầu hết những nghi ngờ của ta đều cho rằng người kia có thể là kẻ xấu, chứ ít khi nào ta nghi ngờ ngược lại. Trong khi bản chất của sự nghi ngờ chỉ là thái độ thắc mắc, suy đoán, hay thử đặt ra những giả thuyết khác có
thể xảy ra. Nên đó cũng là cơ hội tốt để ta bắt tay vào công trình khám phá thêm sự thật về đối tượng ấy. Nhưng thói quen "kinh điển" của ta là khi nghi ngờ điều gì thì hầu như ta tin chắc đó là sự thật, không muốn tìm hiểu hay khám phá thêm nữa. Thậm chí, khi được cung cấp những thông tin có cơ sở chứng minh rõ ràng để giúp ta hiểu đúng đắn hơn về đối tượng ấy, thì ta cũng không dễ dàng mở lòng ra tiếp nhận. Ta luôn nghĩ: "Dò sông dò biển dễ dò/ Nào ai lấy thước mà đo lòng người". Ta biến lời nhắc nhở nên cẩn thận khi đặt niềm tin thành câu thần chú bất di bất dịch để che đậy sự sợ hãi, yếu đuối và thiếu trách nhiệm của mình. Thế nên, có khi sự thật hiện bày sờ sờ ra đó nhưng ta lại chìm đắm trong những vọng tưởng miên man, rồi rơi vào những nhận thức và phán xét sai lệch.
Càng sống trong điều kiện tiện nghi thì nội lực của ta càng yếu kém. Khả năng quan sát tinh tường để quyết đoán đúng sai hay thật giả của ta không còn nhạy bén như xưa nữa. Ta đã đặt đời sống của mình ở bên ngoài quá nhiều, hy vọng điều kiện hạnh phúc từ những đối tượng khác quá lớn, nên lúc nào ta cũng lo sợ nghịch cảnh sẽ ập tới. Nếu ta từng bị lừa dối, từng lăn xả trong chốn thương trường hay hoạt động chính trị, thì trong ta rất dễ hình thành thói quen cảnh giác với tất cả mọi đối tượng, dù với những người thân yêu. "Không có lửa thì làm sao có khói", ta vẫn thường dùng hình ảnh này để giải mã mọi vấn đề. Trong khi thực tế không có vấn đề nào giống hệt như vấn đề nào. Cũng như khói không nhất thiết phải sinh ra từ lửa, vì ngay cả khí lạnh cũng có thể sinh ra khói kia mà.
Ngay khi người kia không có một tín hiệu nào khả nghi cả, họ rất tốt và dễ thương, ta biết rõ điều ấy nhưng ta vẫn không cưỡng lại nổi cố tật nghi ngờ của mình. Ta nghĩ thà nghi lầm còn hơn là tin lỡ. Đó là một sai sót rất lớn của cơ chế tâm lý. Nếu không chữa trị thì sớm muộn gì nó cũng chuyển sang mức độ nặng hơn như là phán xét hay vu khống. Trong khi một người có nội lực vững vàng thì không bao giờ nghi ngờ người khác làm điều xấu với mình. Vì họ có đủ sức ứng phó một cách bình thản trước mọi biến động.
Lỡ như những nghi ngờ của ta hoàn toàn đúng với sự thật thì sao? Ta mong muốn kết quả nào? Dường như ta đang cố gắng phanh phui những điểm yếu hay những vụng về lầm lỡ của người kia, để ta tránh xa hoặc cổ vũ người khác tẩy chay họ, chứ không phải để hiểu và thương họ hơn. Phần lớn những nghi ngờ của ta đều nhắm vào mục đích thỏa mãn bản ngã, dù có khi ta nhân danh tập thể hay cộng
đồng nào đó để lên tiếng. Vậy có khi nào nhân danh đạo đức hay tình nhân ái mà ta chú ý đến những cái hay cái đẹp để ca ngợi, còn những biểu hiện khả nghi kia ta vẫn im lặng quan sát và tìm cách giúp đỡ không? Tại sao ta không giữ thái độ tôn trọng người ấy dù ta đang có vài nghi ngờ về họ? Tại sao ta không tự hỏi do người ấy rất đáng để ta nghi ngờ hay tại ta mắc chứng bệnh nghi ngờ quá nặng? Tại sao ta không dám đứng ra xin lỗi người ấy khi phát hiện ra mình đã nghi oan cho họ? Thế nên, nghi ngờ thường chỉ làm cho ta yếu đuối và hèn nhát hơn mà thôi.
Ta không hề biết rằng mỗi khi phát sinh ý niệm nghi ngờ kẻ khác, dù họ có xấu thật hay không, thì trong tâm ta đã tạo ra một nguồn năng lượng rất độc hại. Nó vừa đốt sạch năng lượng an lành trong ta, vừa khiến ta đánh mất cơ hội tiếp xúc với sự sống mầu nhiệm. Bởi vì lúc nào ta cũng bận tâm tìm kiếm thêm chứng cớ. Dù ta chưa thốt ra lời nói hay hành động nào để thể hiện sự nghi ngờ, nhưng một khi ta đã hướng tâm tới người kia để gửi sự nghi ngờ tức là ta đã gửi đi một năng lượng xấu. Đúng hơn là ta nợ họ một cảm xúc xấu. Theo "quy luật cân bằng cảm xúc" thì họ sẽ tìm cách trả lại ta một cảm xúc xấu khác tương ứng, nếu họ nhận ra sự nghi ngờ của ta có tính chất xấu. Còn không, vũ trụ cũng sẽ nhờ đối tượng khác trả lại ta một cảm xúc xấu khác. Tệ hại nhất là ta lỡ nghi oan cho một bậc nhân từ, đức hạnh - nơi quy tụ vô số năng lượng an lành của vũ trụ - thì hậu quả sẽ khôn lường. Đó là món nợ cảm xúc khổng lồ, ta và con cháu ta nhiều đời mới trả hết. Cho nên, đừng bao giờ dễ dãi buông ra sự nghi ngờ. Hãy tập tự hối tâm hoặc bày tỏ sự ăn năn trực tiếp khi phát hiện ra mình đã lỡ nghi oan cho ai đó để hóa giải phần nào hậu quả.
Thật ra, nghi ngờ đôi khi là thái độ rất cần thiết. Trong truyền thống thiền tập, các thiền sinh phải tự biết đặt nghi vấn về chính phiền não của mình hay mọi hiện tượng xảy ra ngay trước mắt mà không được tin tưởng tuyệt đối vào kinh nghiệm thành công của những bậc thầy đi trước. "Đại nghi đại ngộ" - nghi ngờ càng lớn giác ngộ sẽ càng lớn. Vì càng nghi ngờ thì sức khám phá càng mạnh mẽ, càng bỏ lại sau lưng những cái thấy đã bị đóng khung. Khi nào bí lắm thiền sinh mới nhờ tới trợ lực của thiền sư bằng những câu hỏi đã được chắt lọc rất kỹ. Nhưng một vị thiền sư đúng nghĩa thì ít khi nào cho một giải đáp rõ ràng cụ thể. Thậm chí, những gợi mở của thiền sư thường rất "lạc quẻ" để đập tan thái độ nhút nhát muốn dựa vào sự hiểu biết của kẻ khác, hoặc để buộc thiền sinh phải ngưng ngay câu hỏi có tính lý thuyết vô bổ ấy. Cuối cùng, thiền sinh cũng phải chịu
khó đối đầu với bức tường nhận thức cũ rích và phiền não của chính mình để tìm lời giải đáp.
Một thiền sinh đúng nghĩa luôn có trách nhiệm với nghi ngờ của chính mình, khi đã đặt ra là phải xông pha đi tìm câu trả lời đúng đắn, chứ không phải quăng ra bỏ đó rồi năm mười năm sau cũng vẫn còn y nguyên như vậy. Cái nghi vấn của thiền sinh luôn nằm trong sự thao thức, nhưng đầy tự do. Nó hoàn toàn khác biệt với căn bệnh nghi ngờ để bảo vệ cái tôi yếu đuối, sợ hãi, vô trách nhiệm của những kẻ có sở thích tìm lỗi lầm ở người khác.
Thắp sáng ngọn đèn thiền
Giữ tâm mãi linh thiêng
Nhìn đời bằng chánh kiến
Thấu suốt cõi lòng đêm.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro