A Runner From Death (Part 9)
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đã sớm thức dậy trước khi ánh mặt trời có thể ló dạng trên những miền đất khô cằn của Ethiopia và nhanh chóng lên đường đến với điểm cuối của cuộc hành trình.
Đêm hôm qua tôi và Hohenjun có cùng một giấc mơ, chúng tôi lại đi tới chiếc thuyền trắng trên mặt biển vô ngần ấy, nhưng không đồng hành cùng nhau. Tôi không rõ liệu đó có phải là một điềm báo không, liệu nó có đáng tin hơn những giọng thì thầm trong tâm trí tôi không, nhưng điều kỳ lạ là chúng tôi đều cảm nhận được có ai đó đang nhìn vào chúng tôi trong giấc mơ, và bằng một ánh nhìn chăm chú, nghiền ngẫm vô hại chứ không phải là một sự ác cảm thường thấy nào đó.
Để đến được Mikhan ở Kenya, nơi nằm gần với thành phố Lamu và có tầm nhìn thoáng ra Ấn Độ Dương, chúng tôi cần băng qua Khe Nứt Gregory của Thung Lũng Giãn Tách Lớn; và điều này có nghĩa là chúng tôi đã bỏ qua cơ hội để khám phá một trong những hệ thống đứt gãy địa chất lớn nhất trên thế giới, cùng vô số các bí ẩn về nguồn cội của con người và thiên nhiên. Chúng tôi để qua một bên những sự chú ý về các hóa thạch lâu đời nhất của loài người là nhóm các Australopithecus afarensis, những thung lũng đầy rẫy núi lửa với Kilimanjaro là nơi mà nhóm người ngoài hành tinh Sitnavak bị giam cầm, và cả những bộ xương của người khổng lồ được chôn dưới hồ Victoria và Turkana nữa. Vậy thì Mikhan với tư cách là địa điểm cuối cùng, nó có điều gì để thu hút chúng tôi đến thế?
Thực tế là dù rằng có đi hỏi những bộ não thông tuệ nhất về lĩnh vực này trên thế giới hiện tại, và tất nhiên là bao gồm cả các Nhà Thần Bí Học, thì vẫn sẽ không một ai có thể trả lời được câu hỏi trên—ít nhất là trong vô số những người mà tôi đã biết thì không một ai có thể. Bởi lẽ chính họ cũng chẳng biết đến Mikhan, không ai biết, và cũng không bản đồ nào đánh dấu địa điểm của nó.
Nó là một thành phố nằm ngay trung tâm của vùng hoang mạc nhỏ dị biệt được bao quanh bởi những vùng đất thấp ven biển của Kenya, nơi mà những người Ai Cập, Ả Rập, Oman và Swahili đã thay nhau chiếm đóng qua các thời kỳ trước đây. Nhưng đến hiện tại, nơi này chỉ còn là một chốn hoang vắng lạ thường, bất chấp cho tính giá trị lịch sử phi thường của nó—rằng phế tích ở nơi đây đã tồn tại trong cùng một nhịp thở của thời đại với Xirabreşkê, hay mười một địa danh nổi tiếng khác của Tas Tepeler như hay từ Thời Đồ Đá Mới của Thổ Nhĩ Kỳ.
Đáng lẽ ra mọi ánh nhìn của những nhà sử học và khảo cổ học đều phải luôn hướng tới đây mới đúng, và phải chăng giới Thần Bí có yểm lên nơi đây một thứ kết giới tách biệt nào đó để khiến nó vô hình trong mắt người thường thì cũng cần có những người giám sát của hiệp hội túc trực mới phải. Ấy vậy mà nơi đây hoàn toàn không có sự hiện diện của bất kỳ ai, là thực sự trống vắng và tĩnh mịch.
Nó dường như chỉ thật sự được biết đến bởi một ai đó khi anh bạn Samuel của chúng tôi vô tình đi tới địa điểm này trong một chuyến viễn hành tới Phương Đông của anh ấy cách đây bốn trăm năm, và anh ấy đã dành hơn bốn mươi năm tại đây để nghiên cứu các dấu vết lịch sử, cũng như cố gắng tìm ra một lời giải đằng sau sự 'mờ ảo' của nó trong mắt thế giới ngoài kia.
Tôi vẫn còn nhớ rõ ràng rằng Samuel đã đưa ra kết luận về một nền văn minh cổ đại đã tồn tại trên mảnh đất này trong khoảng 14.000 năm đến 9.000 năm trước. Và theo những mảnh di vật, phong cách xây dựng và hoa văn mà Samuel đã phân tích, có vẻ như người Ai Cập Cổ Đại bằng một cách nào đó đã đi đến đây đầu tiên, sau đó xây dựng một thành phố nhỏ bao quanh các phế tích còn sót lại. Sự bành trướng của Đế Chế Swahili đã đuổi những người Ai Cập viễn xứ ở đây rời khỏi Mikhan, và trong năm thế kỷ tiếp theo, người Oman và Ả Rập cũng làm những điều tương tự. Tất cả đều giao nhau ở Mikhan, và do đó, phải có một bí mật nào đó ở đây đủ lớn để khiến nhiều thế lực phải tranh giành lẫn nhau.
Nhưng rồi đột nhiên mọi thứ bị ngắt quãng đột ngột, trước thời điểm chuyển giao ở giữa thế kỷ XVI và sau thời điểm đó cứ như bị ngăn cách hoàn toàn. Mọi tài liệu ghi chép, những câu chuyện kể, và thậm chí là cả những khu chiếm đóng hay người dân... mọi thứ liên quan tới Mikhan đều biến mất khỏi thế gian như thể nó chưa từng tồn tại. Không ai đặt chân đến đây, không ai biết đến nơi này. Và ngay cả những tổ chức lớn mạnh như HIệp Hội cũng không hề có một sự chú ý nào.
Sự vắng lặng chỉ diễn ra vài chục năm từ khi những người Ả Rập ở Mikhan biến mất cho đến lúc Samuel vô tình lạc tới nơi đây, nhưng sẽ không có một lời giải thích nào hợp lý cho việc mọi người theo bản năng tự nhiên mà bỏ qua sự hiện diện của nơi đây, đặc biệt là trong thời đại khai phá những vùng đất này. Mặt khác, sự biến mất trong dòng lịch sử của Mikhan lại còn là một câu hỏi lớn hơn nữa.
Bạn tôi có được tất cả các thông tin này sau gần một nửa thế kỷ nghiên cứu tại đây, tại chính nơi duy nhất còn lưu giữ các vết tích để chứng minh rằng nó tồn tại. Và cái tên Mikhan chẳng qua là một từ được lặp đi lặp lại rất nhiều trong những văn tự còn sót lại của nền văn minh cổ đại kia, vậy nên Samuel đã dùng từ ngữ ấy để gọi cho cả thành phố và vùng đất.
Hohenjun suy đoán rằng mọi câu trả lời cho những điều ấy đều nằm ở Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng nằm ở trung tâm thành phố—nơi mà Samuel chưa từng đặt chân vào bởi một dự cảm bất án mãnh liệt đã không ngừng mách bảo anh ấy.
Samuel kể lại cho chúng tôi toàn bộ sự việc một cách chi tiết tình hình khi ấy bởi anh đã ghi chép tất cả nghiên cứu của mình rất cẩn thận. Và điểm bất thường đầu tiên chính là cấu trúc kỳ lạ của Osolek. Cao khoảng một trăm mét, với hình dáng rất hoàn hảo, góc cạnh sắc nét và không hề có dấu hiệu mài mòn của thời gian—toàn bộ khung kiến trúc đều tuyệt hảo như thế nó chỉ mới được hoàn thành cách đó không lâu, và sự hoàn hảo của nó cực đoan đến mức Samuel gần như không thể nhìn thấy các lằn ranh phân biệt giữa những cục đá tảng, chúng khít nhau như một thể thống nhất. Và nếu phải so sánh về độ tinh xảo, thì Kim Tự Tháp Giza ở Ai Cập có lẽ cũng chẳng thể nào sánh kịp một góc của nó.
Hơn thế nữa, mặc dù nó được gọi là Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng, nhưng cái tên ấy không ám chỉ tới việc nó được tạo ra từ quá trình trầm tích hàng triệu năm của sự tích tụ và nén chặt những phần xương của Coccolithophores dưới đáy biển, lẽ tự nhiên là Đá Phấn tự nhiên cũng không thể được dùng cho những công trình khổng lồ như thế này. Trên thực tế, thứ vật liệu cấu thành nó chính là một loại đá nào đó giống với Đá Vôi Tura đã được dùng để xây nên lớp vỏ ngoài của hầu hết các Kim Tự Tháp ở Ai Cập; nhưng nó có màu xám tự nhiên và cũng có đầy đủ các tính chất mềm dẻo, hay cứng và bền khi cần thiết nhờ các mạng tinh thể hình sao mười hai cánh đan vào nhau dày đặc, được tạo thành bởi một loại nguyên tố hóa học ngoài hành tinh. Thực sự khó có thể tin được là một loại đá như thế có thể tồn tại trên đời dưới con mắt của một nhà khoa học. Và nếu không phải được làm từ 'đá phấn trắng', vậy điều gì đã khiến chúng tôi gọi nó bằng cái tên như vậy?
Đáp án nói ra trông sẽ thật nực cười và chẳng ai có thể tin nổi, nhưng sự thực là dựa trên những xét nghiệm, Kim Tự Tháp này đã tồn tại từ rất lâu trước khi những người Mikhan cổ đặt chân đến đây, bọn họ chỉ là những người phát hiện, mà không phải kiến tạo. Họ phát hiện ra và bảo tồn nó, thờ cúng nó như nơi ở của một Vị Thần. Nhưng nó đã sẵn ở đó, lâu đời hơn Thảm Họa Núi Lửa Toba của Kỷ Đệ Tứ xảy ra 75.000 năm trước, và xa hơn cả khi một trong những tổ tiên của loài người là Dinkʼinesh trở thành một hóa thạch vào 3,2 triệu năm trước đó nữa. Nếu phải sử dụng một sự kiện để mô tả về thời đại mà nó thuộc về—như vậy, đó chỉ có thể là vụ va chạm Yucatán! Chính vì thế nên nó mới thật không tin nổi, chúng tôi gọi Kim Tự Tháp này là 'Đá Phấn Trắng' bởi lẽ nó đã tồn tại từ những năm cuối cùng trong Kỷ Creta—một ai đó tạo ra nó, nhưng chắc chắn không phải con người, mẹ thiên nhiên hay kể cả là những chủng ngoài hành tinh!
Con người không tồn tại trong thời đại đó, mẹ thiên nhiên không thể đẽo gọt và di chuyển những tảng đá một cách có chủ đích, và người ngoài hành tinh thì không thể đến Trái Đất trước Đại Tân Sinh bởi cái xác nằm dưới đáy Thái Bình Dương chưa biến mất cho đến cuối Đại Trung Sinh vào 67 triệu năm trước!
Không có lời giải đáp cho niên đại phi thường của nó là một chuyện, nhưng đó chưa phải là tất cả khi nói về sự quái lạ của Kim Tự Tháp Osolek, bởi thứ đã khiến cho Samuel sinh lòng cảnh giác và không dám đặt chân vào bên trong, chính là vì mọi loại ma thuật của anh ấy đều bị triệt tiêu ngay khi tiếp cận đến bề mặt của những lớp đá, dù chúng có được tích tụ bao nhiêu lớp kết câu đi chăng nữa. Theo như anh ấy đã kể, ở Mikhan còn có nhiều công trình nhỏ như đền thờ và nhà ở cũng được xây dựng bằng loại đá xám đó, nhưng anh ta vẫn có thể tác động tới chúng một cách thông thường. Vậy nên điều đặc biệt nằm ở bản thân Kim Tự Tháp, chứ không phải là thành phần của nó.
Khi nghe đến đây, cả ba bọn tôi đều nhất trí rằng Kim Tự Tháp Osolek là một kết giới đang phong ấn một thứ gì đó bên trong—tương tự với điều mà chúng tôi đã gặp phải ở Thánh Đường Giáo Hội N'lahyii năm xưa. Mà nếu như ngay cả một người với nhiều năm kinh nghiệm như Samuel cũng không tài nào phát hiện được các dấu vết ma thuật được yểm lên đó, thì hẳn nó phải là thứ nằm ngoài khả năng tiếp nhận của con người, hoặc, cũng có thể là nó được tạo dựng từ bí thuật giấc mơ hay những tà thuật trong các cuốn sách cấm. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng cần phải đến đó mới có thể xác định được.
.
Sự thay đổi trong khí hậu khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn nhiều sau khi vượt qua những dãy núi ở Khe Nứt Gregory. Chúng tôi đón nhận những cơn mưa đầu tiên sau nhiều tháng liền sống trong khô cằn.
Và khi tiếp tục tiến bước, xa về phía trước trong tầm mắt, tôi đã có thể lờ mờ thấy rõ một vùng hoang mạc nhô cao, nổi bật giữa những dải đất màu xanh—vậy ra đó chính là Mikhan. Với một chút kích động không chờ đợi được vì mong muốn khám phá, chúng tôi đã tăng nhanh bước chân của mình để vượt qua những khu rừng nhiệt đới ẩm, và chỉ nửa ngày sau là đã tiếp cận với thành phố ở trung tâm, nơi được bao quanh bởi những từng thành bằng đá giờ đây đã sụp đổ phần lớn.
Kim Tự Tháp Đá Phấn Trắng đã hiện ra trước mặt, và chúng tôi chỉ dùng một giờ ngắn ngủi để đi quanh thành phố trước khi dừng lại tại quảng trường được lát đá xám đối diện với mục tiêu của chuyến đi—Osolek. Những kiến trúc Ai Cập cổ và Swahili rất đáng xem xét, các bảng văn tự từ thiên niên kỷ trước đó cũng là một món khó có thể bỏ qua, nhưng thật sự thì bài nghiên cứu của anh bạn quá cố của chúng tôi đã chi tiết đến mức chúng tôi chẳng còn gì để xem xét nữa.
Nghi vấn duy nhất của tôi chính là tại sao cách sắp xếp của các tòa nhà dường như đi theo những vòng xoắn ốc, với kiến trúc của các bên từng xâm lược nơi đây được phân biệt rõ ràng. Điều này có nghĩa là sau khi đuổi những người đã đến đây trước đó đi khỏi thành phố, hoặc bắt giết, thì những người đến sau cũng không cho xây dựng lại trên những kiến trúc sẵn có, mà thay vào đó, họ đã tạo ra thêm những vòng ngoài để sinh sống. Thật khó hiểu. Dù vậy, tôi đã tạm bỏ qua nó để tập trung vào Kim Tự Tháp Osolek cùng với Hohenjun.
Chúng tôi sớm xác định được rằng không có dấu vết của cả ma thuật, bí thuật lẫn tà thuật trên cấu trúc của Osolek, và cũng lần nữa xác nhận lại những điều mà Samuel đã nói—điều rõ ràng cho thấy thứ này hiện nằm ngoài khả năng hiện tại của cả hai; và ngay cả những giọng nói vẫn luôn gào thét thì cũng bỗng dưng im bặt đi khi chúng tôi bước vào Mikhan.
Cực kỳ lạ thường.
Chúng tôi cần phải quyết định xem nên làm gì. Thật sự có an toàn không nếu bước vào đó? Thông thường thì những giọng nói, hoặc sự nhạy cảm với những điều bí ẩn của chúng tôi sẽ có thể giúp đưa ra một chút phán đoán nào đó. Nhưng mọi thứ bỗng im ắng đến lạ khiến chúng tôi bối rối, phân vân không biết nên làm gì.
Tôi lấy bộ dụng cụ khảo cổ của mình ra để thử nghiên cứu, trong khi Hohenjun cứ đi đi lại lại quanh Osolek, và quan sát những bệ đền thờ chỉ chính xác bốn phía Đông Tây Nam Bắc nằm cách phần chân của Kim Tự Tháp chỉ vài mét.
Sau một lúc không thu hoạch được bất cứ điều gì, tôi thấy Hohenjun đã quay trở lại và ngồi cạnh tôi. Thấy tôi ngước nhìn, anh ấy liền bảo:
"Thu hoạch được gì chứ?"
"Không hề. Tôi chưa bao giờ thấy một loại cấu trúc tinh thể nào phức tạp như thế này."
"Hừm. Thế thì anh cần phải quyết định thôi, bởi tôi đã tìm ra lối đi vào bên trong Kim Tự Tháp rồi. Anh nghĩ chúng ta nên dừng lại, hay đi tiếp? Dù sao thì đến đây cũng đã là mở mang tầm mắt, còn nếu tiếp tục khám phá thì chắc chắn ta sẽ phải đối mặt với một mối nguy hiểm chắc chắn là lớn hơn nhiều so với Hydrafon, Zurvan-Angra Mainyu, Dak'Maat hay là cả lũ Rohongo mà chúng ta đã chống lại cách đây không lâu."
"Anh đã tìm được lối đi rồi sao? Chỉ trong thời gian ngắn như vậy?" Tôi ngạc nhiên hỏi, đó là điều mà Samuel đã dành ra hàng thập kỷ mà vẫn chưa thể tìm ra, nhưng Hohenjun đã giải quyết nó chỉ trong vòng vài chục phút.
"Không cần ngạc nhiên như thế, Samuel sở dĩ không thể tìm ra được lối đi, là bởi vào lúc đó anh ấy chưa trở thành một Người Ngủ Mơ. Bốn ngôi đền chính là lối đi, tôi đoán ra được là vì trong những căn phòng đá nhỏ chỉ bằng đầu người ấy có phủ xuống một loại bí thuật cực kỳ phức tạp nhằm che giấu những mô hình Pylon, mà nếu không sở hữu lượng Tương Quan Thần Bí đủ lớn, thì sẽ không thể thấy nó được. Và khi tôi nói là 'đủ lớn' thì nó có nghĩa là chỉ mình chúng ta có thể.
Như anh đã biết đấy, Pylon là cánh cổng vào đền thờ thần trong tôn giáo Ai Cập, đồng thời cũng mang ý nghĩa 'xua đuổi tà mà' hoặc 'trấn áp các lực lượng hỗn loạn'—có lẽ nền văn minh cổ Mikhan chỉ đơn giản là xây dựng Osolek, và ban đầu đã có một lối đi vào bên trong, dù sao thì thi thoảng người ta vẫn cần phải kiểm tra sự ổn định các kết cấu thuật thức kết giới. Nhưng khi người Ai Cập đến đây và nhận thấy bí mật bên trong Kim Tự Tháp, họ đã che dấu lối đi và tạo ra các cổng Pylon như vừa là vật trấn giữ trật tự, vừa là cánh cổng mở ra con đường."
"Khoan đã... nếu đúng như lời anh nói thì điều đó có nghĩa là một Người Ngủ Mơ đã xây dựng bốn bệ thờ này trong quá khứ sao?"
"Tôi khá chắc là như thế."
"Nhưng nếu anh ta là một Người Ngủ Mơ, thì anh ta cũng không nên tin vào các Vị Thần trong trí tưởng tượng của con người mới đúng. Thay vì sử dụng những vật biểu tượng như Pylon, sử dụng các ký tự Ulqthe sẽ hiệu quả hơn nhiều."
Rõ ràng là cũng đang thắc mắc về điều đó, Hohenjun lắc đầu, biểu thị rằng chính anh cũng không rõ.
"Đó là điều mà tôi vẫn còn chưa rõ. Nhưng được rồi, tạm thời hãy bỏ qua nó một bên đi, chúng ta cần phải quay lại với vấn đề ban đầu chứ? Nên dừng, hay đi tiếp? Mà thực ra thì theo những gì đã phân tích, tôi nghĩ là nơi này cũng sẽ không giúp được gì cho mộng tưởng trước kia của chúng ta đâu."
Có phải ý anh ấy là đang khuyên tôi dừng lại hay không? Hohenjun cho tôi đưa ra quyết định, đó là vì anh đang tôn trọng suy nghĩ của tôi. Giọng nói của anh ấy rõ ràng vẫn mang theo một chút không bỏ, cũng phải thôi, làm sao có thể dễ dàng như vậy thì bỏ qua được giấc mơ mà mình đã theo đuổi mấy chục năm?
Nếu tiến tiếp thì sẽ rất nguy hiểm. Nhưng có lẽ tôi nên khiến cho điểm kết thúc này thật viên mãn, có lẽ tôi nên chấp thuận—"Hãy cùng—"
"Được rồi, hãy dừng lại ở đây thôi." Một tiếng vỗ tay vang lên ngay sau lưng, cùng một giọng nói bất chợt ngắt lời tôi, khiến chúng tôi giật mình và bật dậy.
Hình dạng của người đàn ông vừa cất tiếng nói hiện rõ trong mắt tôi.
Cao ráo, gầy nhưng rắn chắc, toàn thân toát ra một vẻ rất bí ẩn. Anh ta mặc một bộ trang phục trang nhã rất có phong cách của những quý tộc Châu Âu vào khoảng đầu thế kỷ XX đổ về trước với một bộ tây phục màu đen, áo khoác dài quá gối che đi phần nửa chiếc quần âu, áo sơ mi trắng nằm gọn dưới một lớp vest nhẹ bên ngoài với phần cổ được điều chỉnh gọn gàng bởi chiếc cà vạt đen, tay đeo găng và chân đi một đôi giày da được đánh bóng; tạo thành một sự bất cân xứng kỳ lạ giữa chốn di tích cổ ở hoang mạc này.
Khuôn mặt anh ta già dặn, nhưng chỉ trạc tuổi chúng tôi, với mái tóc có pha một chút màu lam đậm được chải vuốt gọn ra phía sau và chỉ thả xuống một vài sợi bên phải vầng trán rộng, đôi mắt đen sắc sảo cùng chiếc mũi cao đã hoàn toàn lộ rõ sự thông tuệ, nhạy bén, và vô cùng nghiêm nghị của anh ấy.
Anh ấy nhìn chúng tôi nghiền ngẫm, với một nụ cười mỉm. Và chỉ một cái liếc nhìn như vậy là trong tâm tôi lại trào dâng một thứ cảm xúc thân thiết khôn cùng, giống như khi tôi đã gặp Hohenjun lần đầu tiên, giống như khi tôi đã chạm mặt Samuel ở Ngọn Hải Đăng Willdex, nhưng lớn hơn, hơn như thế rất nhiều lần. Còn ánh mắt đó... chắc chắn rằng anh ta chính là người đã nhìn chăm chú vào chúng tôi trong giấc mơ lúc trước.
Tôi biết điều này có nghĩa là gì, và hẳn Hohenjun cũng biết.
Thực vậy, chỉ một giây ngay sau là bạn tôi đã lên tiếng: "Anh là một Người Ngủ Mơ? Và tại sao anh lại ở đây? Hơn nữa, câu nói đó có ý gì?"
"Andervista Hohenjun và Ahravain Christoph. Đúng vậy, tôi đúng là một Người Mộng Mơ Thực Tại, giống như hai người, và các anh có thể gọi tôi là Estiatl'Exrekór, hoặc đơn giản hơn thì Quan Kịch Giả cũng được. Vài ngày trước, tôi có xuất hiện trong giấc mơ của các anh vì biết được hai người đã quyết định đi tới Mikhan này, tôi chỉ là muốn nhìn qua một chút. Về phần những câu hỏi còn lại... các anh có muốn chuyển chỗ chứ? Dù sao thì, cũng không nên cứ đứng ở đây mãi mà phải không?" Anh ta đáp, giọng nói vẫn trầm ấm, rất thoải mái.
Mọi cử chỉ và giọng điệu của anh ấy như có ma lực, khiến cho sự đề phòng hay không thích ứng vốn có nhanh chóng bị xua tan. Hohenjun nhìn tôi, sau đó nhìn lại người tự xưng là Quan Kịch Giả, gật đầu nói: "Chuyển đến đâu?"
Estiatl không đáp, thay vào đó, anh ấy vỗ nhẹ đôi tay của mình, ngay lập tức khiến khung cảnh xung quanh chúng tôi thay đổi.
Chúng tôi đang ở một không gian trắng, không nhìn thấy giới hạn, cả ba ngồi trên những chiếc ghế bành và trước một bàn trà, đối diện nhau. Trong khi Estiatl cầm lấy ấm trà với những hoa văn thoạt nhìn đã được chế tác từ đầu thế kỷ XVIII, tôi không nhịn được và hỏi: "Chúng ta đang ở đâu?"
"Bên ngoài những trang sách."
"Ngoài những trang sách?"
"Đúng vậy, hoặc là ngoài những giấc mơ của các Ar'absus nếu các anh muốn một cách hình dung dễ hiểu hơn. 'Trang sách' là một góc nhìn trực quan dưới bản chất vĩ độ của tôi, vậy nên tôi vẫn hay có thói quen gọi như vậy. Nào, hai người uống trà chứ?"
"Cảm ơn. Vậy nơi đây nằm ngoài mọi vĩ độ của hiện thực và những giấc mơ?"
"Về cơ bản là vậy. Tôi nghĩ rằng ở đây thì chúng ta có thể trò chuyện một cách thoải mái, nếu tôi cứ tự do đi lại ở dưới kia, sẽ có rất nhiều người chú ý." Estiatl vừa nhâm nhi tách trà vừa giảng giải cho chúng tôi. "Về phần tôi là ai? Như trước đó đã nói, tôi là Quan Kịch Giả, và để các anh dễ hiểu hơn, thì tôi cũng là một sứ thần, giống như Icaltha, chỉ là Vị Thần của tôi có vĩ lực còn vượt xa hệ thứ của Đấng Nguyên Sơ mà Icaltha thờ phụng.
Tôi đoán là các anh có rất nhiều câu hỏi, nhưng xin lỗi, tôi chỉ có thể giải đáp cho các anh những điều nhất định. Không phải vì tôi muốn che giấu, cũng không phải nó là những cấm kỵ hay gì, chỉ đơn giản là bây giờ chưa phải lúc."
"Thế thì những điều còn lại mà tôi đã hỏi, anh có thể trả lời hết được sao?" Hohenjun tiếp lời.
"Được. Nếu các anh thắc mắc rằng tại sao tôi ở đó, thì tôi có thể nói ngắn gọn là mình đang chờ đợi một Người Ngủ Mơ khác, còn tôi xuất hiện, chính là vì ngăn cản các anh mở ra cánh cổng của Kim Tự Tháp. Đương nhiên, một phần cũng là vì tôi muốn gặp cả hai người nữa, các bạn của tôi ạ.
Các anh không thể bước vào trong đó, vì chỉ có cái chết man rợ chờ đợi phía trước, Kim Tự Tháp đó là một trong mười bảy bức màn của thời đại, cất giữ những bí mật sâu thẳm nhất của Trái Đất từ Tiền Cambri. Rồi sẽ có lúc có người đến đó và mở cổng, nhưng chưa phải là bây giờ, và cho đến khi thời điểm ấy xảy ra, không ai được phép đi vào đó.
Dù vậy, số phận xem ra đã đưa các anh đến đây, tựa như Samuel de Myrtillière cũng từng đến và số phận đã khiến anh ta nảy ra một ý tưởng điên rồ đã đưa anh ta trở thành một trong số chúng ta vào sau này. Nhưng rõ ràng là các anh không thể tìm được bất cứ điều gì khác tại đây nữa, vậy nên điều đó cũng có nghĩa là các anh đến đây để được gặp tôi. Vì lẽ đó, tôi hiện giờ sẽ hóa thân thành người giải đáp, giúp các anh giải hoặc những nghi vấn của mình. Yên tâm đi, các anh có thể hỏi, vì điều mà các anh muốn nhất tôi cũng đã có lời giải đáp, bởi suy cho cùng thì tôi cũng mang cái danh Exrekór mà phải không?—ngay cả những tiếng thì thầm cũng sợ hãi chúng tôi."
Tôi có thể cảm nhận được ba luồng cảm xúc ngay khi lời nói của Estiatl kết thúc. Sự tự tin chắc chắn của anh ấy, sự bất ngờ của tôi trước lời tuyên bố, và cả sự kích động dữ dội của Hohenjun nữa. Bạn tôi quay phắt qua nhìn tôi bằng một đôi mắt rung động mãnh liệt, tôi hiểu những điều mà anh muốn truyền tải. Con đường đen tối ngỡ như đã không có lối ra giờ lại lóe lên những tia sáng chói lòa phía trước, và anh ấy chờ đợi câu trả lời của tôi, bởi anh đã hứa sẽ cùng tôi mở ra một hành trình mới để bỏ lại mọi thứ phía sau. Một lần nữa, anh ấy lại đưa quyền quyết định cho tôi—đó là Hohenjun mà tôi biết, người bạn thân nhất của tôi.
Mặc dù tôi đã nói biết bao nhiêu lần rằng ý muốn của anh cũng chính là mong muốn của Ahravain Christoph này...
Sau khi nhận được cái gật đầu đồng thuận của tôi, gần như ngay lập tức, bạn tôi đã nêu ra những nghi vấn mà anh ấy đã ngày đêm chờ đợi để được giải thoát khỏi sự giày vò của chúng:
"Vậy xin anh hãy cho tôi biết, liệu có còn cách nào khác để thoát khỏi án tử của một Hogog ngoài việc trở thành Sứ Thần hoặc Thần Tộc, hay làm sao để chúng tôi có thể trở thành một phần tử trong số đó? Và liệu có cách nào, để thoát khỏi những giấc mơ đáng nguyền rủa đó hay không? Chúng tôi được chọn để nhìn thấy, nhưng rốt cuộc thì còn có ý nghĩa nào to lớn hơn đối với chúng tôi nữa?—Vì dù là những người được chọn, nhưng không một ai trong số chúng tôi thực sự muốn được biết về những góc khuất của thế giới này! Làm ơn, nếu anh biết mọi điều, vậy thì hãy giúp chúng tôi trả lời tất cả chúng đi!"
Với mỗi một câu nói thốt ra như thế, Hohenjun lại càng kích động hơn, như thể bộc phát, phá nát xiềng xích, và cho đến cuối cùng thì anh ấy đã đứng dậy khỏi chiếc ghế bành, đưa người hướng về vị Quan Kịch Giả kia.
Đáp lại cho điều đó, Estiatl uống hết phần nước trà còn lại trong tách, đặt nhẹ nó xuống và thản nhiên trả lời: "Được thôi. Nếu anh muốn, tôi sẽ cho anh tất cả câu trả lời..."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro