Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Xanh nửa đêm

Harry dẫn tôi ra khỏi bữa tiệc kỉ niệm ngày thành lập trường của Nhạc viện Hogwarts. Có lẽ đã gần nửa đêm, những khách dự tiệc khác đã ra về gần hết. Trong hơi men chập chờn, tôi vẫn mơ màng thấy những lọn tóc đen hơi đung đưa trước trán Harry, chúng luôn thừa cơ vểnh lên ngay cả khi nó đã cố gắng vuốt keo cho gọn gàng. Cánh tay của nó quàng quanh eo tôi, khiến tôi như bước vào lưới giăng êm ái của một thứ ma thuật không thể nào thoát ra được. Khi nãy trong bữa tiệc, có lẽ bởi quá nóng, Harry đã cởi bỏ áo vest ngoài và chỉ mặc độc một chiếc sơ-mi trắng. Tôi gần như cảm nhận được từng búi cơ rắn rỏi và những đường gân nổi trên tay nó, kết quả của vô số buổi tập gym dù lịch trình công việc ở bệnh viện chưa bao giờ thôi dày đặc. Tưởng tượng ấy khiến tôi ngạt thở. Chỉ khi nó xốc tôi vào ghế phụ lái của xe ô tô, tôi mới có thể hít vào thở ra chút ít, nhẹ nhõm khi cuối cùng cánh tay vững chắc của Harry - và Harry - cũng buông tha mình.

Harry với tay bật radio khi chiếc xe lao vút đi dưới ánh đèn đường vàng vọt. Nó nghe một bản jazz tôi không biết tên. Tôi không thường nghe bất cứ thứ gì ngoài phạm trù cổ điển của mình, và nực cười là ngày còn trẻ, tôi đã từng rất tự hào tuyên bố rằng mình ghét jazz, cái thứ âm nhạc nửa vời chỉ dựa trên sự ngẫu hứng ấy. Harry đang ngâm nga theo giai điệu đó, hẳn nó đã nghe lại nhiều lần. Thậm chí ngày trước nó còn đăng tấm ảnh chụp bản thân ở một jazz bar lên Instagram, đeo kính râm mặt bạc và tay cầm một ly Negroni, với dòng caption đại loại là: "thư giãn cuối tuần cùng thể loại nhạc yêu thích." Tuyệt nhiên chưa một lần tôi thấy nó nhắc về Debussy, về bản Clair de Lune khiến nó rơi nước mắt mỗi khi nghe hòa nhạc trực tiếp ở nhà hát - có lẽ, đó là bí mật mà mãi mãi chỉ mình tôi mới biết được.

"Never knowing my right foot from my left
My hand from my glove
I'm too misty and too much in love..."

Thật kì cục khi tôi lại ở đây, ngồi chung ô tô với Harry và cùng nó nghe một bản tình ca. Chúng tôi đã lâu rồi không nói chuyện. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu hai đứa tìm được chủ đề chung để nói, hoặc một trong hai bị làm phiền bởi cuộc gọi từ một người bạn nhiều chuyện mà chắc chắn sẽ không cúp máy trước mười lăm phút đồng hồ. Sao cũng được, miễn là có thể cứu vãn bầu không khí ngột ngạt này. Tôi len lén nhìn sang Harry, mắt nó vẫn tập trung hướng về phía trước. Những đường nét trên sườn mặt nghiêng nghiêng của nó lấp loáng ẩn hiện trong bóng đêm, đôi lúc đột ngột sáng loà khi chiếc xe đi xuyên qua ánh sáng thẳng đứng của một ngọn đèn đường. Tôi tự hỏi liệu Harry có những suy nghĩ giống tôi không, nó có cảm thấy căng thẳng với bầu không khí của những câu hỏi và lời giãi bày bị đè nén này không, nó có chú ý đến tôi như cái cách tôi nghẹt thở khi nhìn vào cánh tay và bàn tay nó không, hay đối với Harry, tôi chỉ là một người từng quen, một người nó có nghĩa vụ phải hộ tống.

Chúng tôi gặp nhau lần đầu năm lớp Bảy. Trong phòng học nơi người ta hoặc vùi đầu vào sách vở hoặc bàn luận về bóng đá và bộ phim mới ra, Harry là người duy nhất cùng chơi nhạc cổ điển như tôi - nó chơi cello còn tôi chơi vĩ cầm. Kể từ khi gặp nhau lần nữa ở dàn nhạc trường, chúng tôi như hai đầu nam châm đối cực không thể tách rời: lúc nào cũng là Harry bắt chuyện với tôi trước, và lúc nào cũng là tôi đưa nó về nhà nếu hôm đó bố mẹ nó bận. Chúng tôi ngủ lang ở nhà nhau gần như mỗi cuối tuần, cùng nhau tập nhạc, cùng nhau chơi game. Hai gia đình cũng dần quen biết nhau, mỗi khi tôi đến thăm nhà, mẹ nó sẽ ôm tôi và cười bảo: "Con trai bác mau lớn quá!" Năm Harry lên lớp mười hai, bà ấy không còn cho phép nó thường xuyên giao du với tôi - với lí do nó bận phải ôn thi đại học - và liên lạc giữa chúng tôi cứ thế rơi rụng dần. Kể từ lúc Harry chọn đặt nguyện vọng vào trường Y thay vì Nhạc viện thì càng không. Hiện tại, ngay cả khi hai bà mẹ đã trở về thân thiết với nhau vì biết con trai người kia đều đang thành công trong lĩnh vực của mình, mối quan hệ giữa chúng tôi cũng không còn được như xưa nữa.

Thật ra Harry không có nghĩa vụ gì phải làm vậy - hộ tống một gã nửa tỉnh nửa say về nhà an toàn - càng không có nghĩa vụ phải cùng tôi đến bữa tiệc ngay từ đầu. Đó là chủ ý ích kỉ của tôi, bởi tôi muốn được đi cùng Harry. Nếu nó không đến, tôi sẽ kỉ niệm ngày thành lập trường bằng cách chôn chân trong bất cứ nhà hát nào có hoà nhạc Tchaikovsky, dù phải mất bao nhiêu tiếng để đến đó đi chăng nữa. Nhưng Harry đã đồng ý. Đọc tin nhắn đồng ý của nó khiến tôi bất ngờ. Tôi nghĩ nó sẽ bận công việc, hoặc không thì là đi chơi với cô bạn gái tên Ginny của nó.

"Tối nay mày không bận à?"

"Tối nay ở bệnh viện tao không có ca trực. Với cả, nếu tao không đưa mày đi, mày sẽ triệu hồi Tchaikovsky thế chỗ tao mất :))"

Harry biết tôi thích Tchaikovsky vào mùa hè năm mười sáu tuổi. Trong thành phố nóng bức ngột ngạt ấy, khi đã quá chán ngán với ý nghĩ phải đến hai lớp học thêm liền, tôi đã hỏi Harry liệu nó có muốn đi trốn với tôi. Không hẳn là đi trốn. Chúng tôi không phải những vai chính trong một cuốn tiểu thuyết diễm tình nào đó, bởi tôi ngày ấy chỉ coi nó là một đứa bạn - thậm chí là em trai, và lí do duy nhất cho việc "chạy trốn" là vì có một thành phố nơi người ta đang hòa nhạc Tchaikovsky, mặc dù nơi đó cách chỗ chúng tôi tới ba tiếng tàu điện. Chúng tôi đã cúp mọi tiết học để nhảy lên tàu, cả đi cả về mất hơn sáu tiếng đồng hồ, ngồi chôn chân trong nhà hát máy lạnh hơn hai tiếng và lê la trà sữa thêm một tiếng nữa. Kết quả là cả hai cùng bị mẹ mắng cho một trận, nhưng khi nhớ về cái cách Harry ghé sát vào tai tôi trong nhà hát tối đèn, thì thầm rằng sau này nó muốn nghe tôi chơi giao hưởng violin của Tchaikovsky trên sân khấu Carnegie Hall, tôi chưa bao giờ hối tiếc rằng mình đã chạy trốn khỏi ngày hè nóng và dài đó.

Điều bất ngờ là Harry vẫn còn nhớ tôi thích Tchaikovsky sau tám năm, tám năm không hề gọi điện, nhắn tin hay gặp mặt trừ khi có việc cần thiết. Mà "việc cần thiết" ở đây chẳng có gì khác ngoài những buổi họp mặt mẹ chúng tôi sắp xếp với mục đích "thắt chặt tình cảm", trong khi điều họ thực sự muốn là khoe khoang về con trai mình. Ôi chao, Draco nhà chị đi lưu diễn nhiều như vậy mệt lắm, có gì thì cứ ới thằng Harry nhà em một tiếng nhé, thằng bé sẽ khám sức khỏe miễn phí cho. Cảm ơn em, thằng nhóc nhà chị coi vậy mà cũng khoẻ lắm haha, vừa về nước được dăm hôm mà đã có dàn nhạc ở Berlin mời nó đến diễn rồi. Đôi lúc, tôi lại tự hỏi liệu mình đã đạt được ước muốn như mẹ thường nói. Tôi giờ đã thuộc về sân khấu và ánh đèn, có thể chơi giao hưởng violin của Tchaikovsky trong những nhà hát lớn và lộng lẫy nhất. Nhưng đâu đó trong thâm tâm tôi là một cái trũng sâu đã bị khoét đi từ rất lâu về trước. Tôi tham gia những buổi phỏng vấn trên truyền hình và podcast, kể cho người ta nghe cách mình đạt được ước mơ - chăm chỉ, kiên trì, bỏ ngoài tai những lời đàm tiếu miệt thị của những người hàng xóm lớn tuổi luôn cho rằng chỉ có bác sĩ và kĩ sư mới hái ra tiền - nhưng chưa bao giờ trong câu chuyện tôi kể có hình bóng Harry. Tự dưng tôi ước tuổi trẻ của mình từng có Harry. Dù chỉ trong một chốc thoáng qua thôi cũng được.

Đột ngột, chiếc xe cán qua một ổ gà. Mọi thứ tôi tống vào dạ dày như trào ngược lên cổ họng, buộc tôi phải ra hiệu cho Harry dừng xe lại. Nếu Draco Malfoy của vài tiếng trước biết rằng mình hiện tại sẽ loạng choạng gục xuống một góc vỉa hè và nôn thốc tháo ngay trước mặt Harry, có lẽ nó sẽ không nốc nhiều vodka như vậy. Tôi nôn đến khi cổ họng mình bắt đầu bỏng rát, miệng thì đắng và tầm mắt dần trở nên nhoè nhoẹt. Lần đầu tiên trong đời, tôi ước gì mình chỉ là một cọng cỏ ven đường, thật kín đáo và nhỏ bé để Harry không thể chú ý đến, càng không thể tỏ ra lo lắng hay thương hại - điều có lẽ đang hiện rõ trên mặt nó ngay lúc này. Tôi thấy mình thật thảm hại. Tôi không biết Harry nghĩ thế nào, vì đối với nó, tôi vẫn luôn là một người anh, đủ vững chãi và trưởng thành để có thể dựa vào. Harry ngày ấy có đôi mắt xanh to tròn và ngây ngô, làm gì cũng nhất định phải hỏi ý kiến của tôi trước, thích nghe thứ âm nhạc mơ mộng huyền diệu của Debussy, và sẽ đưa ra những ý kiến ngốc nghếch kiểu "Nếu mình nhập học trường phù thủy thì tuyệt biết mấy nhỉ!". Vậy mà bây giờ, khi thấy Harry của tuổi hai mươi lăm - cao mét tám trong chiếc áo sơ mi đầy nam tính - vòng tay đỡ lấy vai mình, tôi mới ngỡ ngàng nhận ra từ khi nào nó đã không còn là đứa trẻ cần được tôi che chở. Và tôi, tôi cũng không còn là thằng bạn cao hơn nó năm xăng-ti, không còn có thể dang tay mình để che chở cho nó nữa.

"Mày có sao không?" Harry hỏi, bằng một chất giọng trầm và ấm hơn giọng nói của đứa bé lưu lại trong kí ức tôi. Bầu trời đêm London chưa bao giờ tịch mịch đến thế, dù cho thành phố phía xa kia vẫn được thắp sáng bởi vô số ánh đèn và biển hiệu, nơi người ta đang đắm chìm trong những bữa tiệc không hồi kết và những rock concert inh ỏi. Họ có lẽ là những người trẻ phóng khoáng và tận hưởng, khác hẳn tôi của hiện tại. Tôi nghĩ về lịch trình tuần sau, lại là một tour lưu diễn cách nơi này nửa vòng trái đất. Nếu tôi hồi cấp ba còn đều đặn liên lạc với Harry, còn ham chơi và thường xuyên rủ rê nó ra ngoài, thì tôi của năm nhất đại học, khi nhận được tin nó chính thức nhập học trường Y, đã vùi đầu vào tập luyện và không cho phép bản thân nghĩ về thằng bạn thuở nhỏ bất cứ giây phút nào. Những giải thưởng lớn và nhỏ, những workshop của Nhạc viện, những lời mời lưu diễn của các dàn nhạc trong và ngoài nước - mọi thứ cứ xảy ra chóng vánh thế. Nhưng dù là vậy, ý nghĩ về Harry vẫn len lỏi vào trí óc tôi khi tôi đang ăn cơm, xem tivi, luyện đàn, hay thậm chí là cả khi đang đứng dưới ánh đèn sân khấu; những cập nhật nhỏ về nó vẫn thi thoảng xuất hiện trên mạng xã hội, tấm hình nó chụp cùng đồng nghiệp ở bệnh viện và những tách cà phê uống dở, tất cả đều in hằn trong tôi suốt tám năm ròng. Tôi đã chưa bao giờ thoát khỏi Harry.

"Draco?"

Lần thứ hai Harry gọi tên tôi. Lí trí tôi bắt đầu cho rằng nó cần phải trốn chạy. Vậy nên, trong một nỗ lực ngu ngốc để trốn chạy, tôi vùng khỏi tay nó, cố tìm một phương hướng để có thể chạy ra xa. Nhưng đôi chân mềm nhũn của tôi không nghe lời. Ngay khi chuẩn bị ngã khụy xuống, tôi cảm giác mình đang rơi trở vào bẫy sập của một ảo vọng êm ái xa vời lần nữa, thứ bẫy sập được sắp đặt hoàn hảo bởi London xanh nửa đêm, ánh đèn đường, hương nước hoa bạc hà, hơi ấm của da thịt và một lồng ngực vững chãi. Tôi nằm trọn trong lòng Harry, mắt ậc nước lên, không biết là vì đau hay vì khóc thật.

"Harry."

Tôi gọi nó giữa những tiếng sụt sịt. Hơi men khiến tất cả mọi thứ trong đầu tôi mờ nhoè, và sau này khi nhớ lại, tôi chẳng hiểu vì sao mình lại gọi tên nó nữa. Nó bật ra như một lẽ hiển nhiên, như thể đó là điều tôi đã luôn muốn nói ra trong suốt mười năm không gặp nhau, hoặc xa hơn thế, trong suốt những tháng ngày chúng tôi ngồi cùng lớp học, cùng tập đàn trong một góc phòng nhạc và đêm đêm lại tỉ tê đủ thứ chuyện trên trời dưới đất qua điện thoại. Harry, Harry, Harry.

"Ừm?"

Harry vẫn cúi xuống, đôi mắt dịu dàng đáng ghét của nó vẫn nhìn tôi, những đốm tàn nhang trên má nó khẽ sáng lên dưới ánh đèn đường. Tôi gần như đã thuộc lòng chúng, từ cái hồi tôi hay ngắm trộm Harry mỗi khi nó ngủ gật trong phòng học và tưởng tượng đám tàn nhang đó như một tấm bản đồ. Ngang, dọc, trái, phải, rồi dẫn về vô định. Tôi ngày ấy đã nghĩ nó có thể đưa hai đứa đến bất cứ đâu. Dù là một thành phố cách chúng tôi ba tiếng ngồi tàu, nơi duy nhất có hoà nhạc Tchaikovsky vào cuối hè, dù là Carnegie Hall nằm ở đất nước cách chúng tôi nhiều dặm, hay là những nơi xa vời và không tưởng nhất. Hẳn là thế, đến bất cứ đâu.

"Nếu hồi trước mày đi với tao... Liệu bây giờ mọi chuyện sẽ khác chứ?"

-

Draco tựa đầu vào cửa kính, để lộ ra cần cổ mảnh mai trắng ngần. Nó đã sớm đỏ ửng lên kể từ lúc em bắt đầu quá chén ở bữa tiệc. Có lẽ vì nóng nên Draco cởi hẳn hai cúc áo sơ mi ra, vệt ửng lan cả xuống xương quai xanh và đường ngực phập phồng của em. Tôi nhìn cảnh tượng ấy phô bày trước mắt mình, cổ họng vô thức nuốt xuống. Dường như ý thức được hành động đáng xấu hổ đó, tôi vội vàng vươn tay bật radio, để tiếng hát của Ella Fitzgerald lấp đầy không gian quá mức yên lặng. Chỉ một lúc sau, bờ vai căng cứng của Draco đã thả lỏng và mắt em hơi nhắm lại, trông em như thể đang suy tư điều gì trong ánh đèn đường lúc ẩn lúc hiện.

Một năm trước, vào buổi họp mặt lần thứ bao-nhiêu-không-nhớ do mẹ tôi đứng ra chủ trì, tôi lần đầu tiên nhận ra Draco đã không còn là người anh trai tôi thường bám theo lúc còn nhỏ. Trong góc tối của nhà hàng nơi các cô gái mặc sundress mát mẻ thường xuyên lui tới, tôi thấy em ngồi lọt thỏm và lạc lõng giữa những đám đông người trẻ đang tụ tập xung quanh. Em chán nản nhún vai và giải thích rằng hai mẹ đã kéo nhau đi shopping, chúng tôi có thể bắt đầu ăn uống trò chuyện trước mà không có hai bà. Trò chuyện gì khi cuộc họp mặt này ngay từ đầu không do chính chúng tôi sắp xếp chứ? Nhưng vì không phải bận bịu trả lời những câu hỏi của hai bà mẹ, đêm ấy tôi đã có nhiều thời gian chú ý đến Draco hơn, mỗi khi em lơ đễnh nhìn ra cửa sổ về phía dãy tường đối diện nơi người ta dán áp phích buổi hòa nhạc sắp tới của Hermione Granger. Đó từng là thần tượng chung của hai chúng tôi, vậy mà bây giờ tôi đã quên gần hết những thông tin ngày xưa thuộc nằm lòng về cô ấy. Tôi bối rối khi biết mình đã đặt mắt quá lâu lên cần cổ của Draco, nơi có vết violin hickey đã thâm tím lại, và có kích cỡ quá mảnh mai so với một người đàn ông bình thường. Lần đầu tiên tôi nhận ra em trông thật gầy, và bờ vai em thì ngày càng nhỏ bé lại. Trong chiếc hoodie rộng thùng thình, trông em chẳng có phong thái gì của một nghệ sĩ độc tấu vừa được BBC phỏng vấn tuần trước. Đột nhiên tôi muốn hỏi Draco rằng liệu thời gian qua em có mệt mỏi, em có khóc, và rằng tôi muốn bảo vệ bờ vai nhỏ gầy đó của em.

Xe rẽ qua một hồ nước lớn, nơi ánh đèn đường đổ xuống mặt hồ như trăm nghìn ngôi sao đổ ánh sáng xuống màn đêm London tĩnh lặng. Misty đã gần đến hồi kết, và ánh nhìn của tôi vẫn chưa dám quay về phía Draco. Tôi nghĩ về bữa tiệc ban nãy. Đó là bữa tiệc kỉ niệm ngày thành lập trường của Nhạc viện Hogwarts, nơi cả hai từng mong ước nhập học nhưng chỉ có Draco là người được vào. Khoảnh khắc nhận được giấy báo trúng tuyển của trường Y, tôi tưởng như cuộc đời mình sẽ chẳng bao giờ liên quan đến nhạc cổ điển nữa. Mọi thứ đã diễn ra như thế suốt tám năm ròng, cho đến chiều hôm qua, khi tôi nhận được tin nhắn từ Draco hỏi rằng tôi có thể hộ tống em đến bữa tiệc không. 

"Người ta bắt phải đi theo cặp cho màn khiêu vũ, mà bạn bè của tao thì bận hết rồi, mày đi với tao được chứ?"

Đêm nay đúng là tôi được nghỉ ca trực ở bệnh viện, nhưng tôi đã có hẹn với Ginny trước. Tôi bắt đầu viện đủ lí do mình có thể nghĩ ra được: nếu tôi từ chối Draco, có lẽ em sẽ kể lại với bác Narcissa, và bác ấy sẽ mách lại với mẹ tôi, và cuối cùng mẹ sẽ gọi điện trách mắng tôi vì không đối đãi tử tế với người bà ấy coi là con trai nuôi - thứ danh xưng bà chỉ gán cho Draco sau khi được tin em thắng một giải thưởng lớn trong giới nhạc cổ điển. Tôi tự trấn an mình bằng mớ logic vớ vẩn đó khi nhắn tin hủy hẹn với Ginny, tự nhủ rằng đưa Draco đến bữa tiệc là một công việc xã giao cần thiết. Nhưng khi tôi thấy Draco đứng chờ mình trước tòa chung cư, lần nữa trông thật nhỏ bé trong bộ vest có lẽ là quá khổ, tôi thấy bản thân không còn có thể cứu vãn bằng bất cứ lí do gì. Nếu được, tôi chỉ muốn quay trở về ngày xưa, ngày chúng tôi chẳng cần có lí do gì để chở nhau đi chơi, để tôi có thể bọc em trong một chiếc chăn bông và đưa cả hai đi thật xa khỏi mọi bộn bề mệt mỏi của thành phố này.

Trong bữa tiệc ở Hogwarts, Draco là tâm điểm của sự chú ý. Như ngày trước, em vẫn kiêu kì nhưng cởi mở, không từ chối lời mời rượu của bất cứ ai cố gắng tới gần mình. Trái ngược với đó, tôi chỉ là một kẻ không liên quan đi theo em với danh nghĩa người hộ tống, dành phần lớn thời gian để thu vào một góc tối, uống mọi ly nước chanh có thể tìm thấy để giữ bản thân không đến gần những chai vodka đầy mời gọi. Sự thật là tôi chỉ muốn say càng nhanh càng tốt. Tôi không muốn phải nhìn về phía những con người vui vẻ và tận hưởng ấy, những con người hoặc có vết violin hickey thật đậm dưới quai hàm hoặc có ngón tay thon và chai sần - những vết tích đáng tự hào của một nghệ sĩ chơi nhạc cụ cổ điển. Cuối cùng thì Draco mới là người say mèm, còn tôi - vẫn tỉnh táo và khổ sở - lại phải làm công việc khó khăn nhất là ôm lấy Draco để đưa em ra xe ô tô. Thật ngạc nhiên là vòng eo em còn nhỏ hơn cả eo Ginny, người vẫn luôn huyên thuyên về tiến trình giảm cân của cô nàng trong tất cả những cuộc hội thoại chúng tôi có. Tôi tự hỏi dạo này Draco có ăn uống đàng hoàng không, hay lại vùi đầu vào luyện tập mà bỏ bê sức khỏe của mình, như em vẫn thường làm ngày còn nhỏ.

Ô tô đột ngột cán qua một ổ gà, khiến cả hai gần như xóc nảy lên. Tôi thấy Draco khẽ kêu lên một tiếng rồi bụm miệng, cố gắng ra hiệu cho tôi dừng xe lại. Em loạng choạng bước xuống đường, ngồi thụp xuống một góc vỉa hè và bắt đầu nôn mửa. Chưa bao giờ tôi thấy bản thân mình bất lực đến thế, với vai trò là một bác sĩ. Tôi chỉ có thể đặt tay mình lên vai Draco, kiên nhẫn chờ cho đến khi em nôn xong. Đôi mắt xám của em kèm nhèm nước và gương mặt em nhăn nhúm đầy khổ sở, giọng khàn hẳn đi sau năm phút nôn mà vẫn chưa có dấu hiệu ngừng. 

Ngày trước, có một lần Draco cũng bị say xe như vậy, vào cái ngày chúng tôi bắt chuyến tàu ba tiếng để đến nhà hát duy nhất có hòa nhạc Tchaikovsky những tuần cuối hạ. Ba tiếng đi em vẫn vui vẻ bình thường, nhưng ba tiếng về quả là một quãng thời gian khổ sở chịu đựng - em đã nôn ra hết số trà sữa táo xanh tống vào bụng hồi chiều khi bọn tôi vừa mới xuống ga. Draco là như vậy, luôn làm gì mình thích mặc kệ sức đề kháng không quá tốt của bản thân. Tôi và em có thói quen ngồi chôn chân trong những nhà hát cả ngày, mặc cho mẹ tôi luôn nhắc nhở rằng nhạc cổ điển chỉ nên là một sở thích ngoài lề chứ không phải mục tiêu nghề nghiệp. Tôi là hình mẫu của bất cứ thằng con trai chuẩn mực nào thời đó: học ban tự nhiên, đứng nhất lớp, định hướng sau này là một trường Đại học Y top đầu. Dù vậy, tôi vẫn chừa ra một ngoại lệ trong cuộc sống khuôn mẫu ấy, và ngoại lệ đó chính là Draco. Khác với những bạn nữ luôn tỏ vẻ ái ngại khi tôi rủ họ đến nhà hát, hoặc chỉ đơn giản là rủ họ cùng nghe một bản nhạc của Debussy, Draco sẽ luôn làm bất cứ điều gì cùng tôi. Em không thích Debussy lắm, thần tượng số một của em là Tchaikovsky, nhưng em vẫn luôn ngồi cạnh tôi trong những buổi hòa nhạc Debussy và đưa cho tôi khăn giấy khi tôi có vô tình rơi nước mắt vào những khúc cao trào. Từ ngày lên Đại học, bước chân vào vòng xoáy của bảy năm bài vở, kì thi cấp giấy phép hành nghề và cuộc săn đuổi việc làm, tôi đã không còn cho phép mình giữ những thói quen xa xỉ đó. Kể từ khi hẹn hò với Ginny thì càng không. Cô ấy thậm chí còn không biết Debussy là ai, và hẳn cô sẽ cười phá lên khi nghe tôi bảo mình thích Prelude to the Afternoon of a Faun nhất trên đời, trêu chọc tôi một chút trước khi xoay chủ đề sang những buổi hội hè phủ kín lịch trình của cô nàng sắp tới. 

Thi thoảng sau này tôi lại mơ thấy Draco, những giấc mơ mà khi tỉnh dậy, tôi vẫn luôn tự hỏi tại sao giờ này mình chưa chết đi. Trong ánh sáng loang loáng chập chờn, tôi thấy em ngồi ghế cạnh mình trong những buổi hòa nhạc của Tchaikovsky, nét mặt dịu đi và đôi mắt hơi khép lại mơ màng, trông em như một nàng thơ vừa bước ra từ bộ phim phương Tây cổ điển. Tôi ngắm nhìn Draco lâu đến mức thuộc nằm lòng từng đường nét trên đó - cần cổ mảnh mai của em, vị trí những nốt ruồi của em, vết violin hickey thâm tím của em. Mọi thứ đột ngột vụt biến mất, và tôi ôm em từ phía sau. Em bật cười hỏi tôi thích em từ khi nào, và tôi sẽ trả lời rằng từ khi tôi thấy vết violin hickey đó vào một chiều tháng Bảy, khi tôi tự hỏi sẽ ra sao nếu mình đặt một nụ hôn lên vết tích đầy tự hào đó và liệu em có vui khi tôi làm thế không. Thật sai lầm khi có những giấc mơ như vậy mặc dù tôi vẫn đang ở bên Ginny, càng sai lầm hơn khi chủ thể của những giấc mơ đó là Draco, người suốt tám năm nay tôi đã không còn giữ liên lạc.

"Mày có sao không?" Cuối cùng tôi cũng cất tiếng hỏi, nhưng đáp lại tôi chỉ là bóng lưng lặng lẽ của Draco. Em vẫn giữ nguyên tư thế ngồi xổm, mặt không bao giờ quay về phía này, không biết vì quá mệt hay vì em không muốn thấy bản mặt của kẻ vừa cán xe vào ổ gà. Mãi một lúc sau em mới loạng choạng đứng dậy, và khi nhìn thẳng về phía tôi, tôi chợt thấy trong mắt em có gì đó như là nỗi sợ. Em vùng khỏi tay tôi như muốn chạy, nhưng cuối cùng lại mất thăng bằng và ngã sụp vào lòng tôi như một sự sắp đặt thần kì của London không giờ sáng.

Hương nước hoa táo xanh nhè nhẹ. Mái tóc rối bời nhưng mềm mại. Thân hình nhỏ nhắn luôn ở quá tầm với ấy giờ lại đang áp vào lồng ngực tôi, đưa mọi thứ trở về đúng quỹ đạo nên có. 

"Nếu ngày đó mày đi với tao... Liệu mọi chuyện bây giờ sẽ khác chứ?"

Thanh âm của Draco vang lên, rồi loãng vào màn đêm tịch mịch trên con phố không bóng người. Tôi nhận ra điều mình đáng lẽ phải biết bấy lâu, rằng từ khi nào, tôi đã trở thành con người nhàm chán mà bản thân xưa kia luôn ghét cay ghét đắng - một kẻ luôn vùi mình vào thứ công việc mình không thích và luôn cười nói với những con người mình không ưa, chỉ vì tôi của ngày đó đã chùn bước trước sự phản đối của mẹ cùng những lời đàm tiếu của hàng xóm gần nhà, một kẻ đã trốn tránh khỏi nhạc cổ điển, đã cố dấn thân mình vào những bản nhạc không quen thuộc hòng quên đi dư âm từ chúng, dù bản thân đôi khi vẫn ngẩn người khi vô tình thấy một tấm poster quảng cáo buổi hòa nhạc sắp tới. Tôi nghe tiếng Draco nức nở, người mang theo dáng hình của thời hoa niên tươi đẹp, mang theo những ước mơ bị vùi lấp của tôi. Và tôi nghe cả tiếng tim mình vỡ nát.

Đáng ra, tôi của ngày đó không nên trốn chạy khỏi những bản nhạc của Debussy, để có thể dũng cảm cầm lên chiếc cello và cùng Draco bước tiếp con đường hai đứa hằng mơ về, để có thể làm em mỉm cười thay vì ngã xuống lề đường và khóc nức nở, để khi bước vào nhà hát cách chúng tôi ba tiếng đi tàu, tôi lại được thấy Draco ở đó, đôi mắt lim dim mơ màng và trên môi nở nụ cười nhẹ nhõm, nụ cười như muốn nói rằng chúng tôi có thể đến bất cứ đâu.

Đêm dài London vẫn dần trôi. Bóng tối dần chuyển mình sang màu xanh nửa đêm, bao trùm lấy thân hình của hai chúng tôi như một giấc mộng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro