Chương 20: Jotnar ở Jotunheim
Cặp mắt màu nâu socola nheo lại. Rèm mi dày hạ xuống theo động tác, cong vút, gần như biến mất dưới cái nắng vàng ươm tựa mật ong tràn vào qua lối cửa sổ. Con ngươi đen rung lên vì căng thẳng, khiến thằng nhóc chợt nghĩ hóa ra người cận thị khi không có kính lại khổ sở đến vậy. Đôi mắt to tròn thường ngày nay chỉ còn một nửa, trông dại hẳn ra, bọng mắt sưng đỏ cũng gồ lên thấy rõ, như đang thách Fred tiếp tục trò giấu kính anh trai.
Có lẽ Percy đã biết thằng nhóc chính là thủ phạm trộn mất "cặp mắt thứ hai" của mình, nên mới nhìn nó chằm chằm như thế, cái nhìn dữ dội giống má tới nỗi Fred vô thức nuốt nước miếng. Percy lắm mồm nhưng ít khi nào thét ra lửa như má chúng, anh ba nó chủ yếu kêu la trong tuyệt vọng vì không có đứa em nào (hoặc thằng anh nào) chịu nghe lời mình nói, trừ lúc có chuyện cần dùng anh làm bia đỡ đạn. Thế nên, một khi Percy đã tức đến nỗi trông y hệt má khi bà nổi giận, thì không có chuyện đứa em ngay kế anh được yên.
Percy vẫn tiếp tục nhìn. Không biết mấy nốt mụn mới mọc trên trán Fred làm anh phải ngó nó kỹ hơn, tạm gác chuyện cái kính lại, hay trên mặt có dính gì mà thằng nhóc chẳng biết. Cặp mắt nâu bởi vì cứ nhìn như thế, không chớp cũng không lọc qua hai thấu kính phân kỳ nọ, bắt đầu ngân ngấn lệ. Màng nước trong suốt như tấm màng bọc lấy củng mạc, mống mắt cùng đồng tử, thêm khoé mắt cũng đỏ chẳng kém bọng mắt, khiến Percy nom như sắp khóc tới nơi.
Godric ơi, lần cuối cùng nó chọc thằng anh cận thị này phát khóc, cả ba lẫn má đều xúm vào phạt nó, đánh mắng đủ cả, khiến Charlie chẳng liên quan gì cũng phải rùng mình ớn lạnh chung.
Percy chớp mắt. Một dòng nước chảy dài xuống gò má anh từ khóe bên phải, gợi nhắc thêm rõ ràng về cảnh ngộ xưa kia của nhóc Fred bảy tuổi. Nhưng Percy này không mếu máo chực khóc, mà càng lúc anh càng nhăn dữ hơn, ấn đường và sống mũi chun lại trông giống con khỉ đến lạ.
Fred ngập ngừng lên tiếng:
"Ờ, anh Percy à?"
Mắt Percy mở to. Đồng tử nở ra, anh giật mình lùi lại, những lọn tóc đỏ thẫm đón nắng hửng màu gì đó đẹp hơn đống tóc cam như củ gừng của nó nhiều.
Anh la lên, to tướng như đang mắc kẹt trong bóng tối:
"Fred? Là em đó hả?"
"Không, em là Ron." Fred theo phản xạ nói đùa, đoạn cũng giật mình thảng thốt, lưng đập vào bức tường phía sau: "Anh đang đùa đấy phỏng? Bộ anh cận nặng tới mức không nhận ra em là ai hả?"
Anh ba nó mơ hồ gãi gãi tóc gáy mới cạo, móng tay cào vào tóc cứng sột soạt sột soạt đã tai phải biết. Mắt híp lại thành đường mỏng dính, như thể Percy muốn biết chắc nó đúng là Fred rồi mới mở miệng:
"Xin lỗi, anh cứ tưởng em là hình thêu trên tường. Thế người thật hả?"
Fred há hốc miệng:
"Tất nhiên rồi. Mắt mũi anh kèm nhèm quá đấy, đi khám lại đi."
Percy không nói gì, dụi dụi mắt. Củng mạc vằn tia máu, phát rát nên được vì nhìn không kính quá lâu. Nước mắt sinh lý cũng theo đó chảy ra từ bên mắt trái, lăn xuống gò má.
Bấy giờ, Fred mới nhớ ra độ cận của anh nó lớn cỡ nào. Cạnh kính trắng đục thấy rõ, dày gần nửa lóng tay, tưởng đâu vỡ ra từ một Thần Hộ Mệnh hữu hình, không cận như nó đeo vào thì trời đất quay cuồng, mí mắt giật liên hồi như muốn nổ. Fred chẳng hiểu sao anh trai lại thích học đến mức tự hại mắt mình tới thế. Rõ ràng, cửa sổ tâm hồn nên được mở toang, phô bày những điều đẹp đẽ nhất của một người thay vì bị "cầm tù" bởi kính và gọng.
Day day hốc mắt, Percy khó chịu nói:
"Chuyện đó để sau đi, quan trọng là giờ anh chẳng thấy kính đâu cả, em có biết đâu không? Anh nhớ đã để trên bồn rửa mặt mà tự nhiên mất tiêu."
"Chắc anh nhớ nhầm thôi," Tránh chọc Percy khó chịu thêm - tin nó đi, niệm phép khi nhìn người thành họa tiết thêu là một việc rất kinh dị đấy - Fred giả vờ ngây thơ nêu giả thuyết. "Thay vì tìm đồ trong lúc mù dở thế này, sao anh không sai Kreacher tìm cho? Chỉ một búng tay là lão kiếm được liền."
"Sirius đòi ăn thêm nên Kreacher bận lắm," Percy chớp mắt liên tục, đáp.
Fred thở phào nhẹ nhõm, đồng thời cũng rên rỉ. Chẳng phải ngay cả người dạy chúng đối xử công bằng với mọi chủng tộc cũng muốn có gia tinh giúp việc giặt ủi sao? Ở đây chúng có sẵn một lão gia tinh muốn được làm việc đến chết, thế mà anh trai nó lại không muốn quấy rầy lão ấy? Lạy Godric, có phải Percy bị mấy gã vận động vì quyền gia tinh ảnh hưởng không? Mấy tên cứ khăng khăng rằng gia tinh bị nô dịch và phải giải phóng tụi nó khỏi đời lao khổ ấy? Má dưới mồ sẽ khóc mất thôi.
Thở dài đánh thượt, Fred quàng tay qua vai anh nó, cảm giác hơi lạ, nhưng thằng nhóc vẫn đẩy Percy lại chỗ ghế sofa. Ấn anh xuống ghế, thằng nhóc tuyên bố như thể nó là vị cứu tinh trời ban của anh trai:
"Được rồi, anh cứ ngồi đi, để em đi kiếm cho."
"Cảm ơn?"
Percy ngập ngừng nói, không biết có sinh vật nào đó đang giả dạng thằng em quậy phá, hay hôm nay thằng nhóc uống nhầm thuốc không biết chừng.
Nó chưa bao giờ tỏ ý muốn giúp đỡ anh một cách nhẹ nhàng như thế. Thông thường, thằng nhóc phải cười vào mặt Percy cái đã, rồi vòi vĩnh đòi thứ gì đó làm thù lao (chủ yếu là công việc nhà, Fred ghét sắp xếp mọi thứ gọn gàng lắm - với nó, hỗn loạn mới vui) trước khi chịu "ra tay nghĩa hiệp".
Không biết gì về sự hoang mang của anh trai, Fred chạy ngay đến chỗ nó giấu kính Percy. Số 12 Quảng trường Grimmauld - tuy bị ép dẹp lép giữa nhà số 11 và 13 - rộng lớn vô cùng, với trên dưới mười phòng ngủ cùng các phòng bọn trẻ con chưa nghe nói đến bao giờ như phòng tiệc, sảnh khiêu vũ (có rất nhiều nhạc cụ được cất giữ ở đây) cùng vô số cầu thang, Percy mù dở cỡ đó, lạng quạng ngã gãy cổ như chơi.
Khi nó chạy ngang qua phòng ăn, George la lên:
"Fred, chạy đâu đấy?"
"Tìm kính cho Percy!" Nó đáp nhanh, không dừng lại ló đầu vào bếp mà nhảy lên cầu thang, sải chân bước hai bậc một. George kinh hoàng kêu lên: "Cái gì cơ?"
Sirius đã đứng ở cửa bếp từ khi nào không hay, chìa một đĩa đồ ăn về phía nó:
"Ăn pudding không Fred, ngon lắm đấy."
"Dạ thôi ạ." Loạng choạng giữ thăng bằng sau khi lỡ bước quá dài, đứa lớn hơn trong cặp sinh đôi trả lời. Đoạn, nó dừng lại, trong tư thế chân thấp chân cao ngoái lại nói với anh họ: "À, Percy cần thay kính mới ấy anh, ảnh mù rồi!"
Percy trong phòng khách kêu ré lên:
"Anh không có mù!"
"Sắp rồi!"
Hét vọng lại, thằng nhóc nghịch ngợm để mặc hai ông anh tranh cãi chuyện khám mắt – nó nghe tiếng anh họ la bài hải vì anh ba nó nhìn cái bánh pudding thành mảng tường vỡ, chạy tới trước một căn phòng nằm trong góc phía Đông tầng bốn, trên cửa là phù điêu mấy con gấu tí hon, nom có vẻ hòa thuận. Nó không biết căn phòng dùng làm gì, nhưng ngay cả Kreacher cũng không ngó ngàng mà để cho phủ bụi thì hẳn từ lâu đã chẳng có ai lui tới nơi này.
Bởi thế, Fred rất tự tin giấu kính của anh trai trong phòng này. Percy sẽ không đời nào tính đến nước đi này, trừ phi anh có khả năng đọc suy nghĩ. Đương nhiên, là em trai, Fred thừa biết Percy còn lâu mới thành thục được phép Chiết Tâm Trí Thuật. Đến mình bị gì ổng còn không muốn công nhận, nói chi đến soi xét đầu óc người khác?
Phòng khá lớn, ba cửa sổ lận, cửa nào cũng đóng rèm kín mít, chỉ có chút ánh sáng le lói xuyên qua khe rèm nhỏ xíu ở ô cửa sổ chính giữa, khiến căn phòng vốn đã đầy bụi bay lơ lửng vì bị bước chân Fred khuấy động, nay càng thêm phần mờ ảo xám xịt. Có một chiếc giường với bốn cọc mùng giống như trong ký túc xá Gryffindor, nằm ngang với mấy ô cửa sổ, tuy bụi phủ dày đến mất cả màu sắc ban đầu, nhưng mọi thứ – từ ga trải, gối, chăn, đến tấm mùng – đều vẫn nguyên vẹn, chẳng thấy lấy một vết chuột gặm.
Fred giấu kính Percy trong ngăn kéo dưới cùng của cái kệ nhỏ cạnh giường. Kệ có tổng cộng ba ngăn kéo, bên trên có một cái đèn ngủ kiểu cổ, dường như đến từ thế kỷ trước. Nếu không phải cần giữ bí mật với Percy về chốn bí mật này, hẳn nó đã mang cây đèn xuống cho anh nó. Percy rất giỏi và thích lịch sử, dùng thứ này làm quà sinh nhật anh cũng không quá tệ. Cúi xuống – ôi thật là, dạo này cao lên không ít nên giờ cúi thấp như vậy Fred lại thấy đau lưng, thằng nhỏ kéo ngăn dưới cùng ra.
Trong đó, lẫn giữa những đồ đạc lỉnh kỉnh là cặp kính quý báu của anh nó.
Fred nhặt cặp kính ra, hà hơi rồi lau vào áo cho sạch bụi.
Nó toan rời đi, nhưng có thứ trong đống đồ đạc vừa rơi ra đã níu nó lại.
Đó là một bức ảnh phù thủy.
Tuy đã cũ và ố lỗ chỗ, nhưng thằng nhóc vẫn nhìn ra có những ai trong bức ảnh: cả bầy bảy đứa con nít, trùng hợp giống với anh em tụi nó. Độ tuổi cũng giảm dần từ trái đếm sang, lần lượt có một Ravenclaw đang vần vò thứ gì như mandrake nhồi bông, cậu bé bên cạnh lại gây ấn tượng với lọn tóc mai tết bím. Kế bên chúng là hai anh em tóc đỏ đang chí chóe, cậu em nhỏ cứ dùng bàn tay bé xíu hất tung cặp kính của anh trai. Cuối cùng, là một cậu bé tóc vàng đang bị hai bé gái sinh đôi trèo lên đầu lên cổ, chỉ có thể bất lực kêu ca gì đó không rõ.
Ôi chao, sao ba đứa trẻ cuối cùng giống Percy và hai đứa nó thế nhỉ?
Fred vừa nghĩ vừa so sánh bàn tay của mình với đứa bé tóc đỏ nhỏ hơn. Lạ nhỉ, sao tay Fred lại có thể bao trọn cặp kính của Percy như không thế? Thằng lỏi nhớ nó còn bé lắm mà?
Lật mặt sau bức ảnh, Fred thấy một bức ảnh khác bị kẹp dít vào, trong hình là ba phù thủy nhỏ trạc tuổi bảy đứa trẻ kia: một nữ sinh tới từ nhà Đại Bàng, một cô bé nom quen đến lạ, đứa cuối cùng thì phụng phịu níu váy cô chị lớn nhất, giống hệt Ginny mỗi khi các anh quay trở lại trường. Anh tư của cô bé loay hoay tách ảnh ra, phát hiện có thứ gì như bạc nóng chảy xuống.
Thứ bạc lỏng ấy chạm xuống sàn nhà đầy bụi bặm thì vỡ tung ra thành từng hạt li ti lấp lánh, bao trùm căn phòng bỏ hoang. Chớp mắt, xung quanh thằng lỏi đã trở nên nhiều sức sống hơn, thứ gì nom cũng sang trọng, kể cả ông già ngồi bên mép giường cũng vậy.
Khoan.
Cái-quái-gì-cơ?
Fred nhảy dựng lên khi phát hiện tay nó xuyên qua mũi ông già như thể ông ta chỉ là một hồn ma. Nhưng quả thực, ông ta trông rất cao quý, từ chiếc áo choàng may đo theo kiểu cũ, cây gậy chống bịt bạc và đôi mắt xanh kiêu hãnh, ngay cả khi ông có cúi đầu, Fred vẫn nhìn ra được sự tự tin và vênh váo quen tới lạ trong đôi mắt đó.
"Xin chào?" Nó ngập ngừng, huơ tay trước mặt ông già. Cơn đau đầu của gia đình lặp lại, lần này to hơn, nó hét lên ầm ĩ: "XIN CHÀO! ÔNG CÓ NGHE THẤY CHÁU KHÔNG Ạ?"
Ông già không trả lời nó, chậm chạp rờ theo những khuôn mặt nhỏ nhắn bừng sức sống trong hai bức ảnh – mà rõ ràng tóc đỏ còn cầm đây. Ông ta cứ nghiền ngẫm, như thể đang cố tìm ra sự tương đồng nào đó trong hai bức ảnh. Rồi, ông chỉ nhìn những đứa bé tóc đỏ. Fred đánh bạo ló đầu vào, trông thấy nước ảnh sáng và mới hơn thứ nó giữ nhiều, bởi thế mà thằng nhóc giật mình thon thót.
Hai đứa bé tóc đỏ và cô bé trông quen quen khá giống nhau. Đứa lớn có đôi mắt biếc xanh xinh đẹp, còn đứa bé có ngũ quan từa tựa người còn lại.
Nhưng quan trọng hơn, với tư cách là đứa chỉ sinh sau Percy một năm bốn tháng, nó nhận ra thằng bé đầu to mắt cận nọ giống anh trai mình thời thơ ấu đến cỡ nào. Cũng đôi mắt to tròn, lúc nào cũng cứ nheo nheo lại, tạo cảm giác hơi khó gần. Cũng mái tóc đỏ, những đốm tàn nhang ít ỏi rải rác trên sống mũi, cùng cái kiểu mọt sách cận thị không dây với đời. Ngoại trừ một bên tóc xoăn, một tóc bên thẳng và kính có hơi khác nhau, thì cả hai giống như anh em sinh đôi vậy.
Nhưng Percy làm gì có anh em sinh đôi nào?
Fred biết rõ chứ. Không chỉ vì nó lớn lên cùng Percy, mà còn vì ngay từ khi mới chập chững biết đi, nó và George đã chạy theo Percy rồi. Một đứa trẻ gần ba tuổi so với cặp song sinh khi đó thì lớn biết chừng nào. Tụi nó sẽ lạch bạch đi theo anh như vịt con cả ngày, giương cặp mắt thơ ngây thâu trọn từng việc anh trai làm vào trong tâm trí, từ việc đọc sách tranh (dù Percy đã biết cái chữ mù gì đâu), lững thững đi trong nhà, cũng như sẵn lòng nhường tráng miệng của mình, chỉ để dỗ hai đứa phá hoại ngừng khóc.
Với chúng, anh Percy giống như người khổng lồ vậy – nhưng theo nghĩ tích cực. To lớn, gì cũng biết, biết cả những chuyện cổ tích Muggle mà anh chưa từng kể cho Ron hay Ginny, chỉ dành cho chúng mà thôi. Nhưng giờ đây người khổng lồ đó đã nhỏ đi rồi. Fred chợt nhận ra. Nó dễ dàng vòng tay sau lưng Percy để trộm cặp kính anh để ở phía bên kia bồn rửa mặt, phải khom lưng để đỡ anh, chính anh cũng phải ngước lên để nói chuyện với nó.
Giống như người khổng lồ từng một mình đương đầu với các vị thần Asgard mà không ngán sợ ai, giờ đây lại nhỏ bé hơn cả khi ở quê nhà y[1].
Bây giờ Percy chỉ cao đến cằm Fred. Nó thấy cả đỉnh đầu anh, thay vì chỉ tóc gáy đỏ au. Nó không còn là thằng em đáng yêu khi nhảy lên người Percy nữa, vì nó làm ảnh đau lưng.
"Đừng bao giờ thôi quan sát gia đình của mi, nhóc à."
Ông già đột ngột cất giọng lãng đãng mơ hồ như giọng cụ Ollivander. Fred giật mình thối lui vài bước, thủ thế chuẩn bị đánh lộn. Nhưng ông già không nhúc nhích, ngồi bên mép giường mà rù rì.
"Nếu không, những gì mi có về họ chỉ còn là ký ức, và băn khoăn tại sao họ lại bỏ rơi mi."
Căn phòng sóng sánh ánh bạc tự bao giờ, giống hệt một cái Tưởng Ký khổng lồ.
"Ông đang nói cái khỉ gì vậy?"
Ông già nói to, giọng khào khào đầy đờm:
"Ta đang cho mi lời khuyên đấy, thằng chắt hỗn xược. Ta vẫn luôn không thể hiểu được. Ta đã nuôi dạy chúng theo cách tốt nhất, thay má chúng yêu thương chúng, vậy mà không chỉ Ursa, cả Callidora, cả Charis đều ruồng rẫy ta. Chưa một lần, chúng trở về thăm cha, chỉ biết gửi bức ảnh chết tiệt này về."
Ồ.
Fred không quen ai tên là Ursa, nhưng nó từng nghe các anh nhắc đến Callidora và Charis – họ là má của bác Harfang và chú Humphrey. Nếu ông già này thực sự là cha họ, và còn kêu nó là chắt thì...
"Hai em thấy cái lỗ này chứ?"
Chỉ vào một vết cháy ngẫu nhiên nào đó trên tấm thảm thêu, Sirius có vẻ cao hứng nói với cặp sinh đôi. Hai đứa gật gù qua loa, không chú tâm lắm.
"Tên bà nội các em đã từng ở đây. Nhưng nhiều năm trước, khi bà bỏ trốn với ông nội các em, chính cha bà đã xóa bà khỏi tấm thảm, và từ mặt con gái."
Anh lia tay theo đường chỉ vàng, dừng lại ở cái tên Arcturus Black II. Anh kể, ngay cả ông sơ Phineas Nigellus của anh, cha của ông cố tụi nó (Fred và George suýt cắn vào lưỡi, bởi có bận tụi nó trêu vị Hiệu trưởng khó tánh này cả buổi khi thấy cụ đi thăm một bức tranh khác), cũng kinh ngạc trước hành động ấy. Không một ai trong gia đình nghĩ ông nỡ xóa tên đứa con ông yêu nhất.
Bởi từ khi vợ mất, ông chẳng đi bước nữa, quyết định ở vậy chăm sóc ba cô con gái. Sirius Black II, anh cả của Arcturus, thương em, nên đã để cả bốn cha con tới sống tại đây, số 12 Quảng trường Grimmauld, ngôi nhà tổ chỉ dành cho gia đình trưởng tộc. Bởi vậy, chuyện ông cố tụi nó yêu thương các con thế nào, người nhà Black ai cũng biết cả. Có người giả thuyết ông giận quá hóa thẹn, đã để cú sốc khi hay tin dữ quyết định thay mình.
Cũng có giả thuyết – cái này là ông nội của Sirius kể cho cháu nghe trước giờ đi ngủ, nên nghe cũng hơi mùi chém gió – Arcturus muốn để con đi, không để con bị gia tộc kìm chân mà bỏ lỡ nhân duyên tốt đẹp.
Septimus Weasley là một người đàn ông tốt. Ngay cả Abraxas Malfoy cũng từng nói ông nội tụi nó như vậy.
"Có thể nói, chúng ta đang tái hiện lại cảnh gia đình ông bà cố năm xưa vậy," Sirius gật gù sau khi ném hết tin này đến tin khác vào mặt hai đứa sinh đôi, mặc kệ chúng tiếp nhận những tin đó thế nào, "Đúng là nhân duyên tốt đẹp nhỉ, Forge, Gred?"
Fred nhìn lên trần nhà, nghiền ngẫm.
Thế ra ông già trông như phần thưởng của Nữ thần Hồ này là ông cố nó thật đấy à?
Sao mà...
Nhìn vào thái độ bực dọc của ông già, nó đoán được ông ta đã sống cô đơn từ khi Charis kết hôn đến khi chết già. Nếu ông ta thực sự yêu thương các con mình như Sirius kể, tại sao ngay cả những đứa con tuân theo chủ nghĩa máu thuần vô địch cũng bỏ rơi Arcturus, chỉ gửi cho ông ta mỗi bức ảnh của mấy đứa cháu? Trong ngăn kéo, nó không thấy có bức thư nào.
Phải chăng, Arcturus không yêu thương con cái như chính ông ta và gia đình điên rồ này tưởng tượng?
"Ông có chắc là ông thực sự yêu họ mình không?"
Ngón tay Arcturus khựng lại trên khuôn mặt nhỏ bé đang nhăn nhó lần thứ một nghìn của Arthur. Ông ta hỏi ngược lại:
"Mi có ý gì?"
"Thì, bà Callidora có vẻ là người sống tình cảm, thế mà chẳng bao giờ bà ấy về thăm hay viết cho ông, hẳn ông phải làm gì ghê gớm lắm mới các bà ấy mới chạy vội như thế chứ?"
"Ta mà lại không yêu mấy đứa con... ấy à?" Arcturus nói như mỉa mai, "Ta cho chúng mọi thứ tốt đẹp nhất, ta làm việc muốn loà cả mắt để chúng có thể muốn gì được nấy, không bao giờ thấy mình thua thiệt với bọn nhóc nhà Sirius, thế vẫn chưa đủ sao?"
Fred nhớ đến những tấm thiệp mới gửi đi tối hôm qua, buột miệng hỏi:
"Vậy sinh nhật của bà nội tôi là ngày bao nhiêu?"
"Cái gì?"
"Món ăn yêu thích nhất của bà Charis thì sao?"
Arcturus quát:
"Việc gì ta phải nhớ những thứ vớ vẩn đó? Có gia tinh lo là được rồi!"
Chắt của ông vẫn tiếp tục:
"Ông có thường xuyên tan làm đúng giờ không? Một ngày ông gặp con mình được mấy tiếng? Có nổi hai giờ không? Họ có hoà hợp với gia đình bác mình không? Bà cố Hesper có thực sự hài lòng với việc gia đình em chồng chuyển đến không? Có tới hai gia đình ở đây là việc chưa từng có tiền lệ kia mà?"
"Ta... không biết."
Rốt cuộc, Arcturus chẳng trả lời được câu nào. Ba nó từng nói, trẻ con không chỉ cần được cung cấp đầy đủ nhu cầu cơ bản, mà còn phải được dạy dỗ đúng cách, thường xuyên được gặp ba má chúng, ở bên họ, cùng họ vun đắp tình cảm. Đứa trẻ nào không được như vậy sẽ nảy sinh cảm giác bị bỏ rơi, và dễ dàng bị người xấu lừa gạt, bởi nó khát khao được ai đó yêu thương, chỉ một chút quan tâm thôi cũng đủ khiến nó tin tưởng đi theo người ta đến cùng.
Có lẽ thời gian ba chị em Callidora sống ở đây cũng không vui vẻ lắm, chỉ cần có cơ hội là đi thẳng ra khỏi nhà, không bao ngoảnh lại.
Sau này, khi lớn hơn rồi, Fred còn để ý năm sinh của bác Aquila nó có vấn đề. Chẳng phải năm đó má bác mới có mười bảy thôi sao?
"Giờ thì, tất thảy đều chết cả rồi. Biết mấy chuyện đó thì có tác dụng gì chứ? Mọi thứ chấm hết rồi, nhóc ạ."
"Không, chưa hết đâu," Thằng nhóc rít lên qua kẽ răng, "Tôi không biết ông là ma hay chỉ là ký ức, nhưng ông phải đi sang thế giới bên kia, hỏi con gái ông chuyện quái gì đã xảy ra với họ suốt thời thơ ấu, tới nỗi sẵn sàng vứt bỏ ông. Dù có bị đày xuống địa ngục thì cũng phải lết tới thiên đàng mà hỏi!"
Arcturus, lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt đứa chắt, sững sờ khủng khiếp. Nhưng ông ta không nổi cơn tam bành như nó tưởng, mà hoàn toàn im lặng.
Mấy giây sau, ông ta đã đổi sang vẻ mỉa mai lạ lùng:
"Đúng là nòi phản bội dòng máu chỉ biết mấy thứ ngu ngốc của bọn chưa tiến hóa hết. Phù thủy không tin thiên đàng và địa ngục, chúng ta chỉ tin Folkvang và Valhalla[2] mà thôi."
Fred khịt mũi:
"Thế thì ông phải lết lâu phết ông cố ạ, vì cháu tin chắc ông đã chết già, còn Hel thì khó tánh bỏ xừ[3], như ông sơ vậy."
"Chà, để xem đã."
Buông lại những từ cuối cùng như thế, Arcturus Black II vỡ tung thành hàng ngàn hạt bụi bạc mịn như cát.
Nhưng sự biến mất này cũng ồn ào dễ sợ, khiến cả nhà xộc vào phòng.
Ai nấy đều có vẻ hoảng sợ (nhắc nhở không vui: ba má tụi nhỏ chết trong một-vụ-nổ), đặc biệt là Percy. Dù không có kính và mũi chảy máu – Fred cá là anh đã tông tường vài lần khi vội chạy đến đây, anh vẫn tới chính xác vị trí của nó trong phòng, vội ôm nó sau khi xác nhận đứa em nghịch ngợm còn sống.
"Thôi nào, em đã chết đâu." Nói giọng đùa bỡn, Fred vòng tay ôm lại anh nó, lần đầu tiên chú ý anh thực sự nhỏ bé thế nào. "Em bé hơn anh mà, không dám tạch trước anh đâu."
Percy đá vào chân nó:
"Vớ va vớ vẩn. Bảo đi tìm giúp anh mà lại ở đây phá hoại, kính anh đâu rồi?"
Anh cao giọng, nhưng Fred vẫn nghe ra chút run rẩy rất ư là kín đáo ở anh. Nó không chỉ ra cái chi tiết ấy, chỉ mở gọng kính, đặt lên mặt Percy.
"Đây rồi!"
Percy đeo kính trông vẫn quen hơn, dù bé Perce mắt sáng hồi xưa cũng rất được cặp sinh đôi yêu thích.
George nhướn mày:
"Anh cầm cái gì đấy?"
"À, cái này hả, ảnh hồi nhỏ thôi ấy mà. Nhưng không phải của tụi mình, của người lớn cơ. Dòm ba coi anh Percy, trông ba y chang anh."
Fred kể sơ qua chuyện nó đã gặp, khiến mọi người há hốc miệng. Regulus cực kỳ sửng sốt:
"Anh cũng từng nghe chuyện từng có hai gia đình cùng sống ở đây, nhưng căn phòng này... Anh chưa bao giờ tìm thấy nó."
Kreacher lắp bắp:
"Kreacher cũng... cũng chưa từng thấy. Kreacher đã nghĩ mọi người đã dọn dẹp phòng của ngài Arcturus II như đã dọn dẹp phòng của các con gái ông... Nó chỉ biết phòng cô Ginny đang ở chính là... chính là phòng cũ của bà nội cô ấy..."
"Thật sao Kreacher? Tuyệt quá!"
Ginny reo lên đầy phấn khích, ôm chầm lấy con gia tinh. Ron vội gỡ em gái ra:
"Kìa Gin, đừng làm thế, Kreacher vỡ tim chết bây giờ."
Sirius xoa cằm:
"Anh cũng chưa thấy căn phòng này bao giờ. Có lẽ ông cố Arcturus đã ẩn nó đi, để chỉ có máu thịt của ông ấy mới mở ra được thôi. Và Fred, bằng cách nào đó, đã phá vỡ "phong ấn" ở đây."
"Vậy em lấy phòng này được không?"
"Cũng được."
Kreacher lúng búng chen vào:
"Ơ, thưa cậu, hình như phép thuật gia tinh hổng có tác động vào phòng này được, coi bộ cậu sẽ phải tự dọn dẹp đấy ạ."
Fred la bài hải.
Percy lắc đầu ngán ngẩm với nó, đồng thời vớ lấy một cây chổi không biết ở đâu ra, chống nó xuống sàn hào hùng như Arthur rút Excalibur, bảo nó:
"Đừng có lười biếng! Ông cố không để lại căn phòng này cho chúng ta chỉ để nó bị phủi bụi đâu. Nhấc cái mông dậy dọn dẹp đi, không ông cố trên thiên đàng sẽ khóc đấy!"
Fred giãy nảy:
"Còn lâu, ổng xuống Hel lây bệnh ghẻ[4] rồi."
"Em mà cũng biết thần thoại Bắc Âu à?" Percy chun mũi, "Lạ thật đấy."
Chộp lấy cái chổi, thằng nhóc vừa quét vừa phàn nàn:
"Em có phải đồ ngu đâu. Em còn biết dù có là anh thì cũng sẽ đến Valhalla nữa kìa."
"Fred!"[5]
Nhân tiện, sau khi nai lưng dọn dẹp, Fred phát hiện ra có một món quà ý nghĩa hơn cả thứ nó đã dành cả tuần để lựa.
Một lá bùa hộ mệnh.
---
[1] Các Jotnar thường được gọi không chính xác là giant – người khổng lồ.
Jotnar sinh sống ở Jotunheim, vùng đất tách biệt với thế giới của các vị thần và con người bằng rào cản khó vượt qua như đồi núi, vùng nước lớn hoặc rừng. Trong fic này, rào cản đó là núi. Nhân vật trong fic được mô tả theo diễn viên phim, nên Fred và George cao hơn Percy rất nhiều.
[2] Valhalla và Folkvang là nơi các chiến binh sẽ đến sau khi tử trận. Những phụ nữ đã có một cuộc đời oanh liệt cũng sẽ đến Folkvang.
[3] Hel là chỗ mọi người sẽ đến sau khi chết.
[4] Hel, chủ nhân cùng tên của Hel, có một nửa là phụ nữ, một nửa là đống ghẻ.
[5] Fred từng so sánh Percy với Jotnar => Percy oách xà lách đến nỗi Odin phải bỏ qua chủng tộc mà thu nhận ổng.
Nhưng Percy không biết Fred nghĩ như vậy, tưởng thằng em bảo mình hèn nên quát nó.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro