hop dong1
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền hoặc vật; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả tiền hoặc vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lại, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; hợp đồng vay tài sản có thể được giao kết bằng lời nói hoặc bằng văn bản: nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng vay phải được lập thành văn bản, thì phải tuân theo hình thức đó. Cũng theo quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 346, 347) thì thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền; thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính và phải có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền, nêu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.Theo các quy định nay thì thế chấp phải được lập thành văn bản, nhưng phải có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hay không là phụ thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên hoặc do pháp luật quy định. Tuy nhiên, theo Điều 731 Bộ luật Dân sự thì thế chấp quyền sử dụng đất phải đựoc làm thủ tục và đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai. Đồng thời, theo quy định tại các điều: 728, 729, 730 Bộ luật Dân sự, Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có giấy chứn nhận quyền sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật về đất đai, thì có quyền thế chấp quyền sử dụng đất. Đối với đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng được thế chấp tại Ngân hàng Việt Nam, tại các tổ chức tín dụng Việt Nam do Nhà nước cho phép thành lập để vay vốn sản xuất, còn đất ở được thế chấp với các tổ chức kinh tế, cá nhân Việt Nam ở trong nước, Thực tiễn giải quyềt các vụ án về hợp đồng vay tài sản có thế chấp quyền sử dụng đất hiện nay cho thấy hầu hết hợp đồng thế chấp đều được lập thành văn bản, nhưng đại đa số các hợp đồng thế chấp này đều không tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Có trường hợp thế chấp không làm thủ tục và đăng ký tại Ủy ban đất, có trường hợp lại thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp cho cánhân. Khi xét xử những vụ án này, các Tòa án đều xác định hợpđồng thế chấp là vô hiệu, nhưng cách giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu này lại khác nhau. Có Tòa án xác định vô hiệu ở phần thế chấp nên cả hợp đồng vay nợ là vô hiệu, do đó đã xử hủy việc thế chấp giữa hai bên và buộc các bên hòan trả cho nhau những gì đã nhận. Có Tòa án xác định chỉ vô hiệu ở phần thế chấp nên xử hủy việc thế chấp giữa hai bên, đồng thời xử buộcbên có nghĩa vụ phải hòan trả cho bên có quyền tòan bộ tài đã nhận và lãi (do hai bên có thỏa thuận).
Theo quan điểm của cá nhân thôi thì thế chấp chỉ là một biện pháp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự chứ không phải là điều kiện bắt buôc của hợp đồng. Trong hợp đồng vay tài sản, nếu phần thế chấp không đúng quy định của pháp luật thì chỉ vô hiệu ở phần thế chấp và coi hợp đồng vay tài sản đó là giao dịch không có đảm bảo, chứ không phải hợp đồng vay tài sản đó bị vô hiệu. Điều này cũng phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự đó là hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng vô hiệu, nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại của hợp đồng ( Điều 144). Trong trường hợp này, phải xác định hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chính và hiệu lực của nó hòan toàn không phụ thuộc bất cứ một hợp đồng nào khác. Do đó, khi giải quyết những vụ án thuộc loại này, Tòa án phải tính lãi cho người cho vay (nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định), vì có như thế mới đảm bảo quyền lợi của người cho vay và phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng thế chấp, các Tòa án tuyên hủy hợp đồng thế chấp là đúng nhưng cũng cần phải xem xét nếu có đủ căn cứ khẳng định bên thế chấp là người có quyền đối với tài sản thế chấp thì phải kê biên tài sản đó để đảm bảo thi hành án.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro