Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hồi 2: Xứ Nùng - CHƯƠNG 12: NÚI RỪNG THƯỢNG THIÊN

"Đường về non núi ai hoài
Bóng cô gái trẻ phiêu diêu tìm chồng"

Nơi rừng thiêng nước độc, suốt năm qua tồn tại một con quỷ mang đến hai linh hồn, cốt vật và cốt người đã hòa chung làm một, bởi thế sở hữu một sức mạnh vượt bậc các thánh thần. Điểm yếu lớn nhất chính là thiếu phần xác người để chọn ký gửi linh hồn. Vòng Kim Cang kia chỉ có khả năng chế ngự được linh hồn, giả sử như con quỷ tìm được kẻ hợp mạng để nhập, vòng Kim Cang kia sẽ vô hiệu lực với con quỷ, nó sẽ đường đường chính chính thâm nhập vào đời sống người bản. Lúc ấy thực thực hư hư sẽ làm cho cả làng mất đi sự đoàn kết, nghi nghờ lẫn nhau vì sẽ chẳng biết đâu mới là người, đâu mới là quỷ.

Cốt vật là một con bò sát, loài rắn hổ mang trải qua chín mươi chín lần lột xác. Luôn chui mình xuống tầng đất ở những bãi mồ mả ăn thịt người mới vừa qua đời, uống máu người mới chết. Tiếp diễn lâu dần, đã gia tăng âm khí trong người rồi hóa tinh. Hồn rắn nhập vào cây bạch đàn, những sợi rễ chùn lên đất mặt và quấn lấy những loài như chuột, rết, bọ cạp, cóc nhái, ếch thậm chí kể cả loài rắn.

Khi đã hấp thụ đủ mộc khí, huyết khí của những loài côn trùng, bò sát ban đầu đã mạnh lại càng mạnh hơn thế. Đã tồn tại hàng trăm năm qua, luôn gieo rắc lên sự sống người dân tộc Tày, Nùng cơn lo hãi. Có tên Mộc Cốt Xà, vốn ban đầu nơi núi rừng này chỉ có một con quỷ làm nhiễu loạn đời sống người dân. Họ đã đắc tội lớn với một cô gái tên Đắc Thị Hoa, Nương là tên thường ngày mẹ nuôi cô thường hay gọi, và đỉnh điểm người đó cũng chính là mẹ chồng của Nương, vậy nên dân chúng hay gọi cô là Hoa Nương. Nỗi căm thù phực lửa trong đôi mắt của Hoa Nương năm đó, cô đã hòa làm một với Mộc Cốt Xà. Thể ra sức mạnh lại tăng vượt trội, Hoa Nương biết sử dụng vu thuật, bùa phép, con quỷ cốt xà có yêu khí mạnh. Cũng đã có nhiều thầy pháp, thầy mo, đụng độ với con quỷ sở hữu khí lực hùng mạnh này, vậy nên chưa một ai, chưa một ai hoàn toàn đủ năng lực triệt hạ được nó. Ngược lại sau những trận pháp bão bùng, họ còn phải đổi lại là một cái chết.

Cả cánh rừng chìm sâu vào bóng đêm giăng phủ khắp bốn bề. Gió nhẹ đưa từng luồng khí lạnh thổi trong các lùm cây bên đường. Khói hương minh mạc là đà chuyển di, làm trắng xóa cánh rừng lúc trời đêm quạnh quẽ. Hình ảnh một cô gái từ miền xuôi, đang lội bước lên đến miền ngược tìm chồng qua các đoạn đường trải dốc lêu nghêu. Tay phải cô ấy đeo vòng Kim Gia từ khi nào được con Mận gửi giao. Các vì hằng tinh nhập nhoạng sáng lóa kín bầu trời. Cũng đã tối rồi, giờ có đi tiếp lỡ chẳng may gặp kẻ nào quấy phá thì phiền toái. Tố Nhi tìm một gốc cây thân lớn tựa người xuống đánh một giấc.

Mới đó đã qua canh ba, Tố Nhi trong vô thức đang từ từ gión tay lột bỏ vòng Kim Gia. Được nữa chừng cô đường đột tỉnh dậy, ngó nhìn quanh quất nơi rừng đêm nước đục. Đâu đó ẩn khuất trong một chỗ tối tăm nào đó, cô cứ có một trực giác như ai đang nhìn chằm chằm mình từ phía xa. Những lúc ấy, Tố Nhi ngó ngàng tứ nơi bốn hướng để dò xét tình hình với cảm nhận thấu tâm can. Nhưng không tìm thấy điều gì bất thường ngoài tiếng vang núi rừng xào xạc của những nhành cây, cành lá. Hay tiếng gió hiu hiu mang nỗi buồn man mác đến cô gái ai hoài về người chồng thất lạc. Vẻ đêm buồn rười rượi, nhưng loáng thoáng đâu đây cô cảm thấm có sự nguy hiểm đang rập rờn từ mọi gốc khuất, khe ngách mà mắt thường như Tố Nhi chẳng thể thấy tỏ hiện trạng của nơi đó.

Cô đứng lên khỏi mặt đất tiếp tục dò xét loanh quanh. Một bóng người hiện thoắt cái ngang qua Tố Nhi như một cơn gió phi tới. Tố Nhi có chút sợ hãi trong lòng, một tay liền nắm chặt chiếc vòng Kim Gia trên cổ tay phải, sợ nó rớt mất, sợ nó không còn để hộ mệnh.

Tố Nhi chẳng biết rằng, giờ này Gia Họa có đang tìm mình như cô đang tìm anh ấy hay không? Anh ta có đang nghĩ đến cô hay không? Cô có một chút mất niềm tin cho cuộc hành trình tìm lại Gia Họa. Cũng đã lâu vậy rồi, anh ấy cũng không đi tìm cô hay sao? Lỡ như đến đó rồi, người làng lại bảo anh ấy không còn ở đây, cô không biết cảm xúc lúc ấy của mình nên vui hay nên buồn. Đã dốc sức quyết sống mái phen này để tìm chồng dẫu biết những bước mà bản thân đang giẫm lên, là những lần tiến về hướng nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng cũng bởi vì quá thương chồng, Tố Nhi đã bất cần nguy nan phủ khắp nơi nao trên mảnh đất rừng Thượng Thiên này, cô quyết tâm với lòng, phải tìm cho ra Gia Họa, tìm cho ra chồng mình.

Không lí nào, cô lại xuất hiện trong đôi mắt của mẹ con Mận, phải có điều gì đó bà ta mới có thể nhìn thấy được viễn cảnh cuộc đời cô. Bản thân cô bây giờ rất muốn biết thế tiếp đó nữa, liệu có được tương ngộ hay không? Cô rất muốn biết, nhưng bà ấy đã mất kể từ lúc Mận 12 tuổi. Nếu như bà ấy còn sống, cô rất muốn hỏi xem người đàn bà đó về Gia Họa lúc này.

Lẽ nào sau tất cả, cô sẽ tìm được chồng mình, có như thế mới được sự nhìn thấu trước tương lai, mà bà ta giao chiếc vòng đó cho con Mận, để nó giao đến tay mình. Đây cũng là một sự giúp đỡ, giúp cho Tố Nhi an toàn về miền non núi tìm chồng. Giả sử như đoạn đường tìm Gia Họa vô nghĩa, bà ta có lẽ đã có một câu trả lời khác, thay vì lại tiểu di bảo với con Mận về chiếc vòng hộ mệnh này. Có chăng, niềm tin tìm được Gia Họa thật sự tồn tại.

Rừng đêm u tịch và quạnh hiu, nhang khói trải qua vài giấc đã tàn. Từ phía sau lưng Tố Nhi không hề hay biết, rằng sau một thân cây, có một nửa gương mặt ló dạng. Người đó chính là Hoa Nương, từ xa cũng không thể nhận dạng rõ được toàn thể ả ta, chỉ thấy thấp thoáng trong màn đêm có phần mông muội. Với lại, lúc ban nãy, Hoa Nương đã dùng chiêu trò sai khiển làm cho Tố Nhi phải tự bản thân lột gỡ chiếc vòng Kim Gia. Nhằm với mục đích chọn xác gửi hồn, thế nhưng đã chẳng thành do Tố Nhi kịp thời rời khỏi giấc, nên đã cản ngăn được tai họa của người dân tộc Nùng. Dù chỉ ló một con mắt hoàng kim, có tròng bên trong là một đường kẻ sọc thẳng đen lay láy. Bất toại ý nguyện, Hoa Nương hóa thành một con rắn xám ngoét, dài mười phân, thân rắn bóng nhẫy và thon thon, trườn trượt xuyên vào lùm cây gần đó rồi biến mất trong thầm lặng.

Sáng hôm sau ở tại bản người Nùng. Cũng đã một tuần sau ngày lễ cưới của Thiền Linh và Phạm Lư, giờ họ cũng đã nên vợ thành chồng. Ở lối sống nơi đây, có một nét truyền thống của tục cưới hỏi người Nùng, để thành vợ chồng, hai bên trai gái sẽ phải giữ lấy một món đồ để làm tin của người bạn đời, vật đó cũng thể như là minh chứng cho cặp song phi đẹp này. Phạm Lư đã làm một chiếc vòng đeo tay bằng hạt Tràm cho Thiền Linh lấy vật đó làm tin, còn cô thêu tên của anh ấy lên một tấm khăn tay để làm tin cho hôn nhân này.

Hôn sự kia diễn ra không bao lâu, thầy Thiển đã qua đời trong khi hôm nọ ông vẫn còn khỏe mạnh, phải chăng cuộc đời vốn vô thường, nay như thế này, ngày mai ta sẽ khác. Trước đó, ông đã chỉ dạy cho Phạm Lư về các cách thức thờ âm binh. Cũng từ lúc đó, cậu dấn chân vào khoảng thời gian khổ luyện thờ âm binh.

Âm binh, chính là những linh hồn không được phép đầu thai chuyển kiếp, chết vất vưởng từ nơi rừng hoang phiêu diêu đến các trấn thị thành. Bởi do khi đã là hồn ma lang thang, chết không ai cúng kiến, nơi nương tựa, được gọi là ma đói, trong giới kinh Phật còn được gọi là ngạ quỷ. Hễ những đâu có cúng thí thực, bọn ngạ quỷ sẽ lũ lượt kéo nhau đến xơi. Tuy nhiên, đồ cúng chẳng có là bao nhiêu nhưng ngạ quỷ lại một lúc càng nhiều hơn.

Tận dụng điều này, các thầy pháp đã triệu tập chúng về và cho ăn đầy đủ, dùng phép dần dần sai khiển họ phục tùng làm theo mệnh lệnh bằng bùa pháp. Thường những linh hồn được các thầy pháp triệu tập rất cang cường, hung tợn. Được các thầy pháp triệu tập làm âm binh. Tuy nhiên, âu cũng có nhược điểm, sẽ có những lúc các âm binh sẽ phản lại nếu không được cho ăn đầy đủ, nếu thầy pháp không đủ công lực cũng có thể bị âm binh quật cho đến chết, hay làm không đúng quy cách. Bởi vậy, luyện âm binh là con dao hai lưỡi, nguy hiểm luôn kề cận. Cũng có những lúc cho đến cuối đời người, các thầy phù thủy bị quật cho đến chết.

Trước hết luyện mắt nhìn thấy ma, mắt phải tuyệt nhiên nhìn thấy những vong linh mới có thể sai khiển được chúng. Cứ tối, Phạm Lư phải ngồi ba giờ liền, mắt nhìn chuyên chú vào ngọn nến cháy chập chờn đang từng lúc một rã sáp ngắn đi, dù cho là một giây, Phạm Lư cũng không được phép chợp mắt, bởi nếu như vậy, mọi công sức của ngày hôm nay sẽ không thành công cho giai đoạn khởi đầu ấy. Có những lúc cậu như muốn từ bỏ bởi sự áp lực của việc luyện mắt, hai nhãn cầu đỏ ngầu như muốn nổ tung. Việc này cứ tiếp diễn ngày qua tháng nọ, cho đến khi ánh mắt Phạm Lư có chạm trực tiếp vào ánh nắng mặt trời cũng chẳng bị tổn hại.

Kế đó là luyện âm khí, phải là người mang trong mình nửa âm nửa dương mới có thể trở thành một thầy thờ âm binh khiển tướng. Những khi canh 2, Phạm Lư phải xách trong tay một xô nước, tìm đến bãi tha ma, nơi quy tụ khí âm cực thịnh.

Sau khi tìm đến nơi mả mồ người Nùng chôn cất. Phạm Lư sẽ phải đổ tất cả trong xô ra đất rồi đặt người nằm sóng soài lên trên vũng nước đó. Phải trước những lúc gà cất tiếng gáy rền vang, cậu phải quay trở về lại căn lán. Tuy nhiên trên đường về, tuyệt nhiên không được phép gặp bất cứ một ai, và bất cứ một ai cũng không được phép gặp cậu, hay có bất kì vật nào đó rơi vào trong xô. Bằng không mọi công sức của ngày hôm nay sẽ đổ biển cả. Công đoạn này tiếp diễn sau ba mươi ngày, sẽ thành công bước này. Thế nhưng đâu có chuyện dễ dàng như vậy. Ngày mười lăm trong lúc xách xô về, cậu đã gặp một người đàn bà, ngày hai mươi bảy, một chiếc lá khô rơi vào. Thành thể ra hai ngày đó cậu đã thất bại. Nhưng sau cùng, Phạm Lư cũng đã hoàn thành công đoạn thứ hai và bắt đầu chuyển sang bước ba. Ấy vậy, những ngày còn mới đầu luyện khí âm, lúc ngã mình muốn thảm nước trong khu vực mả mồ người chết, vì phải ở một mình, cậu có chút run sợ ngào ngạt trong người. Khi ấy, cậu không thể chợp mắt để ngủ cho qua hết đêm nay, cũng bởi do nỗi sợ phải mỗi mình ở một nơi tối tăm, quạnh quẽ. Loanh quanh bãi tha ma cậu ở, là những thân cây cao vạn trượng mọc chen nhau để sống sót tại địa điểm nhiều khí âm vây ám. Cậu cứ nhắm mắt thắt chân mày, mong rằng trời nhanh hừng ánh rạng đông đầu ngày mới. Thế nhưng những lúc đó, làn gió bấc thổi dạt về miền non núi, lướt qua những nhành cây cành lá uyển chuyển lên những tiếng rền vang núi rừng Đông Bắc. Nó tuồng như đã trở thành một thứ âm thanh của riêng nơi này. Sự vắng lặng đến đáng sợ, và rồi âm vang đột ngột réo rắt vào tâm điểm con người của Phạm Lư. Thế rồi sau mọi thứ, bỗng đâu đâu cậu cũng nghe thấy tiếng oán khóc, tiếng cười khúc khích của những âm hồn nơi tha ma. Ngày đầu như vậy, cậu còn rất sợ hãi. Nhưng phía sau luôn có sự khuyến khích, động viên tinh thần cho cậu, là Thiền Linh. Nhờ vậy, cậu đã quen dần ở những ngày sau, mà dễ dàng vượt qua được những ngày rùng rợn kia, đó cũng chính là lúc âm khí ngấm sâu vào người Phạm Lư, giờ đây, cậu trở thành người nửa âm, nửa dương. Đôi tai có thể nghe được tiếng oán thán của các vong linh, đáp ứng đủ yêu cầu để đường hoàng bước chân vào ranh giới ma quỷ.

Kế đến, đó là triệu tập các hồn ma, dùng chú thuật để khiển sai chúng. Thầy Thiển đưa cậu vào một căn phòng luôn luôn khóa kín kẽ. Đó là phòng thờ âm binh, lần đầu bước chân vào nơi âm u, quái dị này, mọi mặt bốn vách gỗ nhà sàn được hắt sáng một ánh đèn đỏ từ trên dạ xuống. Nơi cao nhất của căn phòng là một chiếc đầu lâu, phía hai bên là hai mảnh xương sườn người. Thầy Thiển cho cậu hay, xương người kia, ông đã lấy từ bên dưới huyệt mộ của một kẻ bị thiên lôi giáng chết, phía dưới mặt đất là một bát lư đồng to.

Thầy Thiển lấy ra ba chén rượu và một con dao, với sống dao phẳng lì. Thầy Thiển chuyền con dao sang tay Phạm Lư, bảo cậu ấy những gì phải làm ngay lúc này. Khi đã hiểu ý của thầy, Phạm lư nuốt nước bọt đầy lo lắng, rồi dứt khoát trích vào đầu ngón tay lấy ba giọt máu nhỏ vào mỗi chén rượu đã bày sẵn. Tiếp đó, thắp một nén hương, làm một nghi lễ gọi hồn ma núi. Mỗi tối là một nén hương và lễ thức cho đến sau mười ba ngày, âm binh đã triệu tập đầy đủ, thì lúc đó, Phạm Lư đã chính thức trở thành thầy phù thủy thờ âm binh, cơ cầu nghiệp của Giáp gia. Có một điều lạ thường thầy Thiển nhìn thấy trong Phạm Lư rằng cậu sẽ học mọi thứ nhanh hơn người bình thường, kể cả việc triệu quân. Người ta sẽ phải mất đến một trăm ngày luyện âm khí, một trăm ngày thắp hương gọi hồn.

Sau lúc Phạm Lư hoàn toàn có thể gánh vác bản, cũng là phút giây cuối đời của thầy Thiển. Lẽ chăng, chỉ khi tìm được người hàn gắn với nghiệp này, cũng là lúc chẳng còn nhiệm vụ ở hạ giới này, phần còn lại để cho Phạm Lư, cũng chăng là bởi cơ trời đã định, đã ấn sẵn từ lâu. Phạm Lư nghiêm chỉnh ngồi vào bàn ghế, mắt đắm chìm vào các trang sách học thuật, luyện chú. Cả một kho tồn bùa chú của gia đình họ Giáp để lại, giờ một người không cùng chung huyết thống lại xem được nó, và đang sở hữu nó, của những gì lúc chết mà thầy Thiển đã để lại cho cậu.

Thấy Phạm Lư cứ mải đắm chìm vào nó, Thiền Linh bước lại gần Phạm Lư trong lặng thầm không tiếng, tay bưng dĩa sành màu vàng đục, phía ngoài vành được khắc họa tiết một con chim cắt, bên trên đựng quả mắc mật. Thiền Linh nhẹ nhàng đặt vào bàn. Phạm Lư với tay lấy một quả, mắt chưa chẳng dứt khỏi sách cổ thuật. Dường như ngay lúc này, tâm trí của cậu đã bị nuốt chửng bởi các trang sách viết lên những loại bùa, loại thuật ngàn xưa.

Bỗng một thằng nào đó tầm mười chín tuổi, dáng dấp vừa phải chạy bước lên cầu thang, dáng vẻ hớt hải dừng ngay nơi cửa chính căn nhà sàn thở hồng hộc một lúc rồi mới cất lời:

- Thầy Lư ơi, có một cô gái nào đó muốn tìm gặp ạ. Cô ấy nói muốn gặp một người đàn ông mà cách đây được cứu bởi một ông lão. Mà gần đây, người duy nhất được thầy Thiển cứu chỉ có thầy Lư, vậy nên con đoán là thầy.

(còn nữa)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro