Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

HÔN PHỐI LÀ MỘT Bí TíCH?

HÔN PHỐI LÀ MỘT Bí TíCH?

Lm PHAOLÔ NGUYEN NGỌC THỬ

Nguyên giáo sư Giáo luật Ðại chủng Viện Long Xuyên

HỎI: Trong thế giới văn minh tục hoá hôm nay, còn bao nhiêu phần trăm các tín hữu tin rằng hôn phối là một bí tích cho mình?    

THƯA: 

1. Câu hỏi xem ra cực kỳ hóc búa. Vì  Họa hổ họa bì nan họa cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm . Sông sâu khó dò, lòng người lại càng khó dò hơn nữa. Vì vậy, thử dò xem và đo lường trọng lượng bí tích của hôn phối trong lòng trí của các tín hữu sống trong thế giới văn minh tục hoá xem ra là một việc làm khù khờ, một việc ruồi bu, hay ít ra cũng bị người đời đánh giá là việc làm của  Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì . Làm công việc này là một thử thách và là một thách thức, chẳng khác nào:

 Dùng lòng tay đong nước biển, 

Lấy gang tay đo chín tầng trời, 

Dùng cái thưng mà lường xem bụi đất, 

Lấy cân bàn cân móc mà cân thử núi đồi 

                                                           (Is 40,12).

Nhưng không có gì cũng không có ai cấm làm thử, vì  sẽ học thêm được không ít thì nhiều, không nhiều thì ít những gì mình chưa học hoặc chưa biết. Ðây là việc làm của một học giả. Còn hơn nữa, chúng ta hãy nghe và hãy làm theo lời khuyên của thánh Phaolô:  Hãy thử coi tất cả: điều gì tốt thì lo giữ lại  (1Tx 5,21).

2. Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam có nữ (St 1,27) phối hợp thành vợ chồng và ra lệnh không được tự ý phân chia (Mt 19,6). Lúc ban đầu, nhân loại còn gìn giữ cách nghiêm túc. Bằng chứng là ông Adong cả trong các cuộc tham quan dài hạn chu du thiên hạ, khi trở về bà Eva kiểm tra lại cũng vẫn còn đủ tổng số trừ một xương sườn, chứng tỏ ông Adong đã không lấy mất cái nào để làm đồ sính lễ cho một hôn phối khác (St 2,22) và vẫn vậy cho đến khi ông mất vào tuổi trăm thứ chín trăm ba mươi (St 5,5). Nhưng thời nay ta thấy thiên hạ thay vợ đổi chồng như thay áo đổi nón, trong một thứ hợp đồng dễ dãi  Chúa ngự  trời cao thấy thế bật cười  (Tv 2,4), về cái sự loài người tự ý tục hoá điều Chúa làm ra là điều thánh thiêng, và hẹn họ ngày quang lâm sẽ làm rõ.

3. Giáo Hội Công giáo đã luôn luôn cứ theo luật Chúa không hề sai chạy. Trong huấn giáo của Giáo Hội, người ta đọc được những nguyên tắc lý thuyết vững như kiềng ba chân được nhiều thời đại thử thách mà không suy suyển. Giáo Hội Chúa Kitô được Chúa ban cho bảy bí tích, không hơn không kém (CÐ/Trentô, trong DS 860,1310,1601; x. GLGHCG 1113 và 1210) trong đó phép hôn phối là một (can. 1055,§1). Ðối với các tín hữu, hôn phối phải đồng thời là bí tích và khế ước, thiếu một trong hai là không có hôn phối Kitô giáo (can.1055, §2). 

4. Hình ảnh của hôn phối nhìn xuyên qua các thời kỳ lịch sử. 

4.1. Trong Cựu Ước. 

Cội nguồn nguyên thuỷ hướng về hôn phối Kitô giáo là giao ước giữa Thiên Chúa và dân riêng của Người (Xh 24,7-8, cách riêng Hs 3,21-22), là hình ảnh và biểu tượng của mầu nhiệm liên kết giữa Ðức Kitô và Giáo Hội trong Tân Ước, là hình ảnh của cặp vợ chồng Kitô hữu (Ep 5,32). Trong thời đại Cựu Ước, người ta bắt đầu thấy những mầm móng thánh thiêng trong hôn phối của Abraham và Sarah, của Tobia và Sara nêu gương cho các vợ chồng sống hôn phối có tính tôn giáo mỗi ngày càng hoàn bị hơn cho đến thời đại Tân Ước. 

4.2. Trong Tân Ước. 

4.2.1. Ðức Kitô nhập thể giáng trần. Ngài chỉnh lý tình trạng xuống cấp của pháp lý và tu đức hôn phối vào hạ tuần Cựu Ước cho chuẩn, đúng theo thánh ý của Thiên Chúa (Mt 19,4-6; 5,27 và 32) qua cách cư xử của một người cha nhân từ (x. Ðối với người đàn bà ngoại tình Ga 8,3-9; đối với người đàn bà tội lỗi tại nhà ông Simon Lc 7,36-59). Các thánh tông đồ áp dụng giáo thuyết của Chúa Giêsu một cách vừa tự nhiên vừa siêu phàm. Ðặc ân của thánh Phaolô là một luật trừ, một luật phá lệ chớ không phải một thứ trái luật (contra legem, contra jus). 

4.2.2. Thiên niên kỷ thứ nhất. 

Không có nghi thức riêng. Có hôn phối của những người Kitô hữu, nhưng không có nghi thức Kitô giáo. Hôn phối được cử hành tại tư gia chớ không phải tại nhà thờ, và các Giám Mục và linh mục được mời tham dự chớ không bắt buộc tham dự cách chủ động hay thụ động gì cả. Nhưng phải chú ý một điều là hôn phối được trói buộc  trong Thiên Chúa . Từ thế kỷ VII đến thế kỷ X, bắt đầu có một pháp chế cho hôn phối như sau: Giáo Hội quản lý và công khai hóa hôn phối, cấm hôn phối lén lút (CÐ/Lantran IV, 1215) và đòi sự công khai hóa bởi sự hiện diện của linh mục.

4.2.3. Thời kỳ Trung Cổ (Thế kỷ IX-XIV). 

Dường như không có thêm gì lạ, cho đến thời kỳ Phục Hưng và Cải Cách, vì các tác giả lớn, kể cả thánh Tôma tiến sĩ, đều mất trước khi bắt tay vào khâu hôn phối, hoặc trân trọng khâu thần học hơn là lãnh địa của hôn phối cách riêng.

4.2.4. Công đồng Trentô (1546-1563).

Sắc lệnh TAMETSI (khóa 25, trong DS 1813) coi các hôn phối lén lút kể từ nay là bất thành phép. Linh mục không có phép (năng quyền) mà cứ chứng hôn sẽ bị đình chỉ. Sắc lệnh tuyên bố là hôn phối của các tín hữu là một bí tích, và liên kết khế ước tự nhiên và bí tích là hai thực thể lại với nhau. Các qui định lớn của CÐ Trentô về hôn phối vẫn không thay đổi cho đến hôm nay, kể cả trong các điều khoản căn bản của bộ giáo luật. Có thể giải thể hôn phối khi hai đối tác đều không có rửa tội, bởi đặc ân thánh Phaolô (c. Can. 1143-1146) hay một người có rửa tội công giáo và một người không rửa tội, bởi đặc ân thánh Phêrô gọi là đặc ân đức tin (c. Can. 1148-1149) hay hôn phối thành nhận chưa hoàn hợp, bởi hồng ân của Ðức Giáo Hoàng (can. 1142), nhưng hôn phối thành nhận (ratum) và hoàn hợp là vô phương tháo gỡ (can. 1141). Xin nói thoáng qua là dường như nố hôn phối nào có bí tích thì cho việc giải thể sẽ gặp nhiều rắc rối phiền phức hơn và cách chung là bị bế tắc hoàn toàn. 

5. Bí tích tính của hôn phối. 

Xét nên ghi, không lựa chọn và không xếp thứ tự, một số quan niệm cần nắm vững và sử dụng đúng cách. - Học hỏi về tính bí tích của hôn phối không phải là học hỏi về bí tích hôn phối, vì là hai quan niệm khác nhau và hai đối tượng khác nhau. - Xét về mặt giáo luật, hôn phối thành phép vừa là khế ước, vừa là bí tích, và đó là điều bắt buộc (can. 1055, §2), và hôn phối thành nhận (ratum, có bí tích và đồng thời là thành toại (consummatum) thì bất khả tháo gỡ (can. 1141). - Hôn phối chỉ đầy đủ và đầy tròn khi sự tự do của việc đầu tư nhân bản và sự tự do của niềm tin gặp nhau đúng nơi hẹn. Ðó là một sự nhất trí của hai đối tác là yếu tố làm nên sự quyết định có giá trị của hôn phối, và đức tin của họ là điều kiện đòi buộc để bước vào sự hiện thực của bí tích hôn phối. - Có những vợ chồng tương lai chỉ có rửa tội, với một mớ giáo lý hoặc không giáo lý nào cả, vẫn quan niệm là việc đầu tư hôn phối của họ chỉ được chứng kiến cách nghiêm chỉnh tại nhà thờ và chấp nhận một số qui luật đạo đức về hôn phối, cách riêng là sự chung thuỷ. Ðối với phô kẻ này, tính bí tích của hôn phối có ba cấp: - Tính bí tích nhìn qua sự đầu tư nhân bản (một hiện thực và quyền tự nhiên được ban cho mọi người), - tính bí tích nhìn qua bí tích toàn thể của Giáo Hội (theo CÐ/Vat. II, Giáo Hội chăm nom hôn phối bằng cách lo cho nó về phần nhân bản và hướng nó về lý tưởng Phúc Âm), - và tính bí tích nhìn qua bí tích có tính Kitô giáo và tính Giáo Hội (theo Ep. 5,32, đó là hôn phối bí tích và là hiện thực ân sủng biến bí tích nhân bản trở thành dấu hiệu của sự kết hiệp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội).

MỘT THẮC MẮC

Ðó là một tư tưởng ngoại du (extravagans) hỏi rằng có thể nói khế ước là bí tích trong nố hôn phối giữa hai tín hữu không? Khó mà trình bày rõ ràng một tương quan giữa khế ước (luật pháp) và bí tích (thần học), vì trước đó phải nhìn luật pháp là để phục vụ con người và đức tin là nguyên lý của bí tích Kitô giáo. Nói rằng có bí tích hôn phối là đúng. Nhưng nói rằng hôn phối nào (tự bản thể là khế ước) cũng là bí tích là không đúng. Và một tư tưởng gia nghiêm chỉnh biết tự trọng sẽ không bao giờ đánh liều tuyên bố khẳng định và chủ trương như vậy mà không sợ bị tổn thương đến uy thế của mình. Sự liên kết cần thiết  giữa khế ước (sự đầu tư của vợ chồng) và bí tích sẽ không bao giờ đi tới một sự đồng nhất hóa toàn vẹn. Thật sự mà nói, bí tích hôn phối cần có khế ước. Nhưng khế ước tự nó vẫn có giá trị, tuy không khoác lên mình tính bí tích của hôn phối. Bởi vì theo ngạn ngữ thần học, ân sủng không làm hư hoại thiên nhiên, nhưng giả định có nó, điều trị nó và nâng cao nó lên để hoàn tất nó. Ðó là hướng đi để tìm một câu trả lời thỏa đáng cho thắc mắc nêu trên, mà tại đây và bây giờ (hic et nunc) chúng tôi còn thiếu tư liệu để làm việc.

6. Nghĩ sao về sự dân chúng muốn có một nghi thức nào đó, một khoảng  thời gian cử hành nào đó tại nhà thờ, dẫu cho họ là công giáo, hay không công giáo, có rửa tội hay không có rửa tội? - Người không có rửa tội ước ao đến nhà thờ, vì nơi đây có khung cảnh thích hợp và đẹp để quay phim giả bộ, có cô dâu đội lúp, có những yếu tố có vẻ tôn giáo làm cảnh vv... Ðó chỉ là một thứ ý nhị (folklore) dân gian hay một đua đòi hoặc là một niềm tin tôn giáo tiềm ẩn để cho Chúa Thánh Linh làm việc tùy quan niệm của mỗi người. - Thường thường, cho tất cả, có ý muốn như trên là vì phong cảnh đẹp để quay phim, chụp ảnh kỷ niệm hôn phối, vì không có ảnh chụp ở nhà thờ, người ta cảm thấy còn thiếu một cái gì đó, chưa đủ để giữ lại ngày hạnh phúc nhất của đời mình, vì trong bầu không khí của nhà thờ người ta cảm thức được phối ngẫu bởi một thứ gì vững mạnh hơn, chính thức hơn, vì từ nhà thờ sẽ là một chấm dứt và một khởi điểm cho cuộc đời mới của mình.

7. KẾT LUẬN. Trả lời bằng con số X% hay Y% là một phiêu lưu, là dối trá. Ðể đưa đến một câu hầu-như-phúc-đáp, chúng ta đã nói là đức tin là nguyên lý của bí tích Kitô giáo. Vậy để hôn phối có tính bí tích đôi vợ chồng tương lai phải có đức tin như thế nào, và tôn giáo của họ thật sự là thứ tôn giáo tối thiểu nào? Không có thước nào để đo đức tin, không có cân nào để cân đức tin. Giáo luật chỉ đòi có hôn phối khế ước (trao đổi sự ưng thuận) của hai người có rửa tội để đương nhiên là có bí tích (can. 1055, §2), chớ không đòi đức tin tỏ ra bên ngoài đến mức độ nào. Vậy chúng ta có thể nói đức tin đòi ở đây là một thứ đức tin có tính tôn giáo đó thôi, không có kèm theo những tính từ. Nhưng đức tin là sản phẩm của tôn giáo. Vậy tôn giáo tối thiểu của các đôi vợ chồng nói đây phải như thế nào? Ðó là một thứ tôn giáo bình dân, một di sản Kitô giáo, gồm thói quen, giáo lý hoà nhập thích nghi theo tình hình thay đổi tuỳ theo địa thế (thành thị hay thôn quê, Nam hay Bắc vv...). Tôn giáo bình dân là một thứ hòa nhập của đức tin vào một dân tộc hay một nhóm người, kết liền một dân tộc với Thiên Chúa, thích nghi có giới hạn, theo một cái gì đó mà mình coi đó là model mà không đòi hỏi thêm cho phiền phức vô ích. Nhưng tôn giáo bình dân và đức tin Kitô giáo có thể làm giàu cho nhau, nếu chúng kết hợp làm một với các hiện thực được từ muôn thuở in vào con tim của con người, các hiện thực đó là lao động, tình yêu, lễ lạy, sự chết. Bởi vì đối với tôn giáo bình dân, hôn phối là bí tích của tình yêu nhân bản, bí tích của một biến cố tự nhiên và là sự thiết lập của một gia đình mới. Cả trong tôn giáo bình dân này, đôi vợ chồng cũng ao ước tình yêu của họ và các chiếc nhẫn cưới họ đeo cũng được chúc phúc. - Ðể kết cho phần kết luận này, chúng ta sẽ nói là để làm hôn phối, một thứ đức tin nào đó có tính tôn giáo và một thứ tôn giáo có tính bình dân cũng tạm đủ (có còn hơn không) để cho phép làm hôn phối tôn giáo. Ðếm và tính theo kiểu này, số người tín hữu quan niệm rằng hôn phối là một bí tích cho mình sẽ là một con số khá an ủi. Như vậy, chúng ta đã trả lời bằng một nhận xét chung hơn là bằng một con số cụ thể không sao làm được.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: