hòn đất 5
Phần 5
1
Sau ba phát súng đáp lại lời yêu cầu của Sứ, mọi người trong hang không nghe thấy gì nữa. Họ không rõ những gì đã xảy đến với Sứ ngoài đó nữa. Đứng tại chỗ của mình, tay họ ghìm chặt súng, mắt rưng rưng. Anh Ba Rèn và một số anh em đòi đánh ra giải thoát cho Sứ. Nhưng anh Hai Thép lắc đầu không cho. Hai Thép mím chặt môi, lẩm bẩm:
- Chắc tụi nó giết cô Sứ rồi! Không ai nói sao cả. Nhưng ai cũng nghĩ là Sứ đã hy sinh. Hôm nay, lần đầu tiên trong cuộc chiến đấu, sao người nào cũng cảm thấy mình như vừa mất đi một cái gì hết sức quý giá. Mà đồng thời họ lại như tiếp nhận được một cái gì rất đỗi lớn lao. Trong trái tim của từng người đang cầm súng này vừa chứa nỗi đau, vừa chứa đầy căm oán. Tưởng chừng mỗi trái tim đều đang tuôn ra khắp châu thân những luồng máu nóng sôi, cứ trào lên, trào lên không ngớt. Chưa có ai, dù chỉ một đôi khi, lại được nghe cái tiếng nói tuyệt diệu như tiếng nói của Sứ vừa nói với họ. Chưa có ai, dù chỉ là một lần, mà lòng lại yêu thương nhiều đến thế, căm thù và siết chặt ý chí chiến đấu của mình mạnh đến thế.
Trong hang, Quyên đã khóc. Nhưng bây giờ thì cô không thể khóc nữa. Cô phải gạt nước mắt, vì con Thúy lại bíu lấy cô mà hỏi má nó đi đâu, má nó đi chừng nào về? Quyên lại nói dối con Thúy rằng má nó ra công tác rồi sẽ về thôi. Cô không thể nói thực với cháu mình. "Nó còn bé quá, nó không thể kìm giữ như mình đâu! " Quyên nghĩ thế. Trong hang tối. Quyên ôm cháu, đau đớn nghĩ rằng lần này chắc nó mất mẹ thực rồi. Nâng trên tay mình tấm áo của chị Sứ còn để lại, nước mắt Quyên cứ ứa ra. Cô đưa chiếc áo đó lên miệng day day, dứt dứt. Từ tấm áo, Quyên nghe rõ mùi mồ hôi âm ấm. Mùi vị này sao mà âu yếm, sao mà dịu ngọt, hệt như chính cái thở của chị Sứ thường khi vẫn phả vô mặt Quyên. Chiếc áo bà ba đen này chính mẹ cô đã dệt mót những sợi tơ càng, vừa đủ may một cặp áo, cho cô một chiếc và chị Sứ một chiếc. Chiếc áo của cô thì cô đang mặc trong mình. Mà chiếc áo của chị Sứ thì chị ấy cũng còn đang để lại đây. Lúc ra suối, chị đã cởi đắp cho con. Đêm hôm qua, chắc chị lạnh lắm. "Chị Sứ ơi, mặc chiếc áo má may cho chị em mình một lượt này, em sẽ nhớ chị lắm thôi. Làm sao em quên được chị hồi nhỏ, chị hồi còn con gái, và lúc chị làm người mẹ nuôi con. Thôi thì từ nay em sẽ phải là chị, nuôi má, nuôi con Thúy, em phải là người con gái như chị, người đảng viên như chị, rồi em cũng sẽ phải là một người mẹ như chị vậy! "... Trong cơn thổn thức, tay Quyên mầy mò túi áo chị, đụng nhằm cái thơ. Nhưng hang mờ tối, cô không biết, liền móc ra cất vào túi áo mình. Bên ngoài chợt có tiếng gì lanh lảnh, ồm ồm. Nghe đâu như lại có tiếng loa. Quyên giằng con Thúy ra:
- Con ở đây, dì ra ngoải một chút! Quyên chạy ra hang. Tiếng ồm ồm không còn nữa. Cô gặp Ngạn. Mắt Ngạn long lên coi rất dữ tợn. Anh hổn hển bảo:
- Tụi nó mới bắc loa vô nói là đã chém chị Ba rồi treo lên. Nó lại kêu mình đầu hàng! Quyên kêu "trời ơi! " rồi chạy xổ ra miệng hang. Anh Hai Thép chồm người kéo cô lại. Cô khóc tức tưởi trên vai anh Hai Thép. Bấy giờ Ngạn, anh Ba Rèn và ba bốn anh em khác lại đề nghị cho họ đánh thốc ra. Anh Hai Thép vẫn lắc đầu. Ngạn nói:
- Tôi phải ra, tôi không chịu nổi nữa đâu!
- Tôi cũng vậy,
- anh Ba Rèn xốc cây súng lên
- Tôi chết tôi chịu, chớ nó giết cô Sứ, tôi ở đây tôi chịu không nổi! Anh Hai Thép nói:
- Vì cuộc chiến đấu cần phải giữ vững, tôi nhắc lại, không anh nào được tự ý xông ra hết! Bốn năm người, trong đó có Ngạn và Ba Rèn, đều khựng lại. Anh Hai Thép nói:
- Trở về chỗ của mình ngay đi! Dừng lại một giây, anh dứ dứ bàn tay:
- Trả thù cho Sứ là phải ở đây, là phải đánh thắng trận này! Bốn năm người không ai bảo ai, kẻ trước người sau lặng lẽ lui về chỗ. Quyên cũng đã bớt khóc. Anh Hai Thép đến bên, để tay lên vai cô, khẽ nói:
- Thôi, vô trong hang đi Quyên! Vô trỏng với con Thúy. Đừng khóc nữa em, đừng thèm khóc... Quyên nghe lời anh Hai, cắn cắn ngón tay, bước từng bước một đi vào hang trong. Khi Quyên đi rồi, anh Hai Thép ngồi xuống tảng đá, vê vê bộ râu mép mấy bữa nay không cạo mọc ra rất rậm, nói giọng như thường:
- Tụi này nó bắt đầu đem loa phóng thanh gắn trước hang để chơi cái trò tâm lý chiến. Không dè vừa rồi bị Sứ mượn loa phóng thanh nói chuyện với mình, cổ võ mình; thành ra phản tác dụng ráo trọi. Sứ khá lắm, cứng lắm. Tội nghiệp, Sứ cứ tưởng mình chưa biết nước suối có thuốc độc, Sứ dặn mình đừng uống. Anh em coi, Sứ còn dặn tụi mình đừng buông súng, đừng bao giờ buông súng...
- Còn lâu mình mới buông súng,
- anh Ba Rèn nói
- Trừ phi mình chết hết... Chú Tư Nghiệp bĩu môi:
- Chừng nào mình mới chết hết? Còn một cái be sườn, tôi cũng chơi với nó hết cái be sườn đó. Mà nhắm có chết, mình cũng tháo súng vụt bỏ chớ ai thèm để cho nó lấy!
- Chú Tư nói phải quá! Cháu cũng làm y như chú, nhưng bây giờ chú còn nước cho... cho cháu uống miếng đi, khát quá! Đạt nhỏ nói, rồi ngó chú Tư cười "ngoại giao". Chú Tư Nghiệp bảo:
- Cái thằng uống nước thiệt dữ, uống như trâu uống... Chú Tư Nghiệp trao bi - đông cho Đạt. Đạt cầm bi - đông đưa lên miệng. Trong bi - đông không chảy ra một giọt nước nào cả. Đạt định la:
“ối, ông già chơi không sướng! " Nhưng Đạt ghìm lại không la. Đạt giả đò chép miệng như mới tu xong ngụm nước, rồi cậu chuyển bi - đông qua Tới, nói:
- Anh Tới làm tạm một miếng cho thông cổ đi! Tới bị mắc lừa, đỡ bi - đông kề miệng uống. Đạt nín không được, cười rũ. Tới đỏ mặt, liệng cái bi - đông vô hốc đá. Chú Tư Nghiệp vùng cười ngất, rồi còn hỏi:
- Uống "đã" chưa?
- ổng cho tụi mình uống bi - đông không mà ổng còn hỏi nữa chớ? Chú Tư Nghiệp càng cười lớn:
- Hồi sáng tôi đã nói là hết rồi. Ai biểu mấy ông... Chú Tư Nghiệp đứng tuổi rồi mà lắm khi vẫn cứ gọi bọn nhỏ bằng ông. Chú trước vốn là tín đồ Hòa Hảo, mới cắt tóc và ăn mặn hai năm nay. Con người ấy vừa tin trời phật, nhưng lại rất nghịch ngợm. Sự thật cái bi - đông của chú đã hết nước từ đêm hôm qua. (Đêm hôm qua thì còn một chút, chú đã dốc hết cho thằng Bé). Bây giờ cả hang đều hết không còn một giọt. Cơn khát càng vò xé cổ họng mọi người. Anh Ba Rèn nói:
- Cứ mửng này chắc phải đái mà uống quá!
- Chắc giống la - ve lắm. Hồi kháng chiến có đồng chí mình vượt Côn Đảo, ra giữa biển khát quá cũng phải đái mà uống. Năm Tấn lắc đầu:
- Cái gì chớ thứ la - ve đó tôi không ghé. Thà là nhịn khát. Anh Ba Rèn bảo Năm Tấn:
- ạng sao khó tánh quá? Thời buổi giặc giã đâu phải lúc nào ông cũng ngồi chéo ngoảy sai vợ con pha trà cho ông uống được! Mọi người đều cười. Tới xế chiều, sau khi nhai mấy vốc gạo rang, Ba Rèn khát quá không chịu được, anh ta đái vô bi - đông. Nhân lúc anh Hai Thép đi vào trong, anh cầm bi - đông nước đái lắc lắc, rủ mọi người uống. Chưa ai hưởng ứng theo, anh liều uống trước. Tợp xong một ngụm, anh "khà" một cái ra vẻ khoái chí rồi kêu lên:
- Khá quá, anh em ơi!... Cứ việc làm đi, chết tôi chịu cho. Dần dà có mấy anh cũng uống theo.
Lúc đó, anh Hai Thép đi ra, thấy thế muốn can họ nhưng anh không mở miệng can họ được. Bản thân anh, anh cũng khô khát cả cổ. Với lại, cái chuyện đó đối với anh cũng không có gì là ghê gớm. Năm đen tối, tuy chưa phải đái ra để uống, nhưng có lần anh phải nhịn đói bốn hôm liền, bắt con còng sống nhai rau ráu. Có đêm anh bị cảm nặng trong "cứ" rừng, chính Ba Rèn đây đã cắt máu cho anh bằng một con dao phay. Đêm ấy, trong chòi không đèn đóm, Ba Rèn phải bật lửa xành xạch. Khổ nỗi, cái bật lửa của Ba Rèn lúc đó cũng đã mòn tim, cứ phải rút gòn ở đít. Quẹt phừng lên được một cái thì Ba Rèn lại vội vàng kề dao phay cắt vào sống lưng anh, nặn vọt máu bầm ra. ấy thế mà rồi anh cũng qua khỏi cơn cảm đó. Thuở giờ, người ta nói ăn tấm heo như nói đến một thức ăn tồi tệ, nhưng tấm heo thì anh cũng đã ăn. Cái bàn chân trái bị thương cụt mất hai ngón của anh buộc anh dạo đó mỗi lần mò ra xóm, anh đều phải trần mình lội dưới rạch, vì bọn địch đã có lần nhận được dấu chân anh trên đường đi về xóm, nên chúng lùng anh ráo riết. Kể ra thì còn không biết bao nhiêu gian khổ khác mà anh đã trải qua. Vì vậy,. cái chuyện khát quá phải đái để uống, tuy khiến anh hơi bất nhẫn, nhưng không khiến anh ghê gớm. Nhưng đột nhiên anh sực nhớ mang máng đâu hình như bữa trước anh nhác ngó thấy trên một tảng đá nào đó trong hang còn đọng vài vũng nước. Anh bảo anh em:
- Thôi, đừng uống nữa. Để tôi đi kiếm coi có nước vũng không, may ra... Nói rồi anh đi vào hang, bấm đèn dọi coi từng tảng đá một. Kiếm mãi mới gặp trên một tảng đá hơi trũng mặt, còn đọng lại một vũng nước mưa hàng hai bụm tay. Anh khoát thử một miếng nước đưa lên ngửi. Từ vốc nước bốc lên mùi lá mục, nghe thôi thối. Anh chặc lưỡi nghĩ:
“†n thua gì? " Anh rời tảng đá trở ra kêu người nào khát nhất đi theo anh. Tất cả là năm người trong đó có cả anh Ba Rèn, chú Diệp nhỏ. Riêng anh Năm Tấn thì không đi. Anh ta nói:
- Thôi, mấy ông đi đi, thứ nước thúi hoắc đó, tôi không chơi! Đứng trên tảng đá, anh Hai Thép với tay kéo từng người lên. Anh bấm đèn chỉ vũng nước. Anh Ba Rèn nói:
- Đỡ quá!
- Đoạn anh vỗ vai cậu Diệp học sinh:
- Thôi, nhường cho chú em đẹp trai này làm trước. Diệp nhìn vũng nước vàng màu cà - phê, do dự. Anh Ba Rèn bảo:
- Làm đi chú em, có bịnh tôi chịu cho. Thuở giờ, tôi biết chú em ở Sài Gòn uống rặt lave xá xị, bây giờ lâm cảnh ngặt nghèo, chú em phải nhắp đỡ vài hớp đặng chịu đựng. Còn đánh lâu lắm đa, chú em! Cậu thanh niên học sinh nhoẻn miệng cười, rồi ngoan ngoãn khuỵu hai gối chân, nằm sấp xuống tảng đá. Dưới ánh đèn pin, bộ mặt trắng trẻo của cậu ta nhóng tới bên vũng nước. Cậu thè lưỡi uống ực ực hai ba hớp rồi đứng nhổm ngay dậy. Một tay phủi đít quần "đạc - cơ - rông", một tay cậu ta đưa lên quẹt mép, cười chành bành cái miệng. Anh Ba Rèn nháy mắt hỏi:
- Có khá không bồ?
- Cũng đỡ...
- Thì tôi nói đỡ lắm mà. Tới tôi... Anh Ba Rèn lại nằm sấp xuống y như cậu Diệp. Anh tợp hai hớp, đứng dậy khoát tay bảo người bên cạnh:
- Làm đi!
Người đó cũng làm y như động tác của anh Ba Rèn. Cứ thế lần lượt hết người này tới người khác. Vũng nước phút chốc cạn queo. Cuối cùng, khi đến phiên anh Hai Thép thì nước chỉ còn lấp xấp, thành ra anh phải thè lưỡi liếm. Anh Hai liếm khô chỗ nước đọng, đứng dậy. Chợt anh nghe phía trong vẳng ra iếng thằng Ba Phi ho khúc khắc. Anh Ba Rèn hất hàm về hướng có tiếng ho:
- Tôi đã nói, để cái quân đó chỉ tốn gạo hao nước. Thôi, cứ giao tôi, tối nay tôi đưa nó đi theo ông bà ông vải cho rồi! Anh Hai Thép nói:
- Chưa được, muốn xử nó phải có trên thông qua. Vả lại, để có đủ mặt bà con thì tốt hơn. ạng nóng quá! Giết một thằng, dù thằng đó là ác ôn, cũng phải để quần chúng hỏi tội rõ rành. Có cái là tôi thấy để nó ở hốc hang này không ổn, mình bàn công chuyện nó nghe ráo. Có lẽ tối nay phải dời hai đứa nó vô sâu hơn chút nữa...
- Phải đó, tối nay nên dời nó đi! Ra ngoài, anh Hai Thép gọi Ngạn đến bàn:
- Lát tối, cho một tổ bám ra ngoài coi sao? Với lại kiếm cách leo bẻ một ít dừa. Bẻ được dừa thì đỡ lắm, vừa có nước uống, lại vừa có cái để nhấm nháp. Ngạn bảo để Ngạn đi với Tới và Trọng. Anh Hai Thép hỏi:
- Hai cậu đó leo dừa giỏi không?
- Leo khá.
- Vậy thì được. Nhưng phải hết sức cẩn thận, dò dẫm từng bước. Đêm nay trăng còn tỏ, phải thận trọng mới được.
- Tôi sẽ chú ý, anh đừng lo.
- Ngạn nói. Ngạn day sang anh Ba Rèn cười cười:
- Nè, tụi tôi có công thộp thằng Ba Phi. Có xử thì tôi phải xử nó, chớ việc đó không phải phần anh đâu! Ba Rèn trề môi:
- Chú mà chém chác nỗi gì, chú chém run tay đâu có ngọt bằng tôi được!
- Không, nếu tôi chém, tay tôi không run đâu! Ngạn nói thế và anh đi gọi Tới, Trọng chuẩn bị.
Ba người lột áo ra, buộc ngang đầu. Mỗi người chỉ mặc độc cái quần cụt, thắt mấy băng đạn tôm - xông và mấy quả MK3 nơi sườn. Họ cầm tôm - xông ngồi chồm hổm dưới hốc đá đợi trời tối. Ngạn nhìn cái lối mòn ngoằn ngoèo ngoài miệng hang cứ mỗi lúc một đẫm bóng chiều hôm. Nắng đã tắt từ lâu, và ngày cũng sắp không còn nữa. Xa xa ngoài kia, vườn dừa bỗng rì rào. Những tàu lá dừa ngả sang màu biếc sẫm, lả lay trong gió, trong lúc âm vang của sóng biển vẫn mạnh mẽ, ầm ã. Vườn dừa ngan ngát như đắm mình trong sương khói. Chẳng mấy chốc, cả vườn dừa nổi gió và cái lối mòn ngoằn ngoèo ấy nhòa đi. Đêm tối tràn ngập. Địch bắt đầu bắn súng. Bấy giờ Ngạn nghe tiếng sóng rõ hơn. Anh thấy bóng đêm như cái bàn tay có phép vỗ im được mọi tiếng động nhỏ khác để cho biển, chỉ mỗi mình biển là được cất cao giọng nói. Triệu triệu lớp sóng từ ngàn khơi vỗ vào bờ lộng đó, muôn đời vẫn là cái tiếng nói lớn lao bền bỉ nhất của quả đất. Mấy đêm qua, đêm nào mà Ngạn lại không nghe tiếng biển dội vào, và anh nghe tiếng biển ấm hẳn hơn trước. Anh có cảm tưởng vách hang như là chất da bịt mặt trống, mà sóng dội liên hồi vào đó thì nghe rùng rùng chứ không gầm gào và rền rĩ. Hôm nay mới mười tám tháng chạp âm lịch, nên đêm không đen lắm. Mới vào đêm một chốc, ngoài hang đã tái nhợt. Ngạn lại trông thấy cái lối mòn mờ mờ hiện ra và những tàu lá dừa ngoài kia lại đung đưa, lấp lánh. Ngạn xách súng, nhổm dậy, khẽ nói qua hơi thở:
- Đi được rồi! Tới và Trọng vụt đứng lên. Họ cùng dừng lại miệng hang một giây, rồi mới bước thoắt ra ngoài. Súng cắp nách, Ngạn khom lưng, tay trái đưa ra phía trước. Anh không đi theo lối mòn, mà đi một lối khác, ngang đó. Cả ba lom khom bò vào ven vườn dừa. Họ vào được tới ven vườn một cách êm thấm. Mới lẩn vô vườn được mươi thước, bỗng Ngạn nghe mấy phát ga - răng nổ sát bên. Địch bắt đầu bắn cầm canh. Sau đó, nghe trong vườn tụi lính nói chuyện lào xào, Ngạn rỉ tai Tới và Trọng:
- Nó bắn chầm chìa không có gì đâu! Tới nói:
- Bẻ dừa đi. Bẻ để đây, một chốc mình quẩy về!
- Bẻ thì bẻ! Tới và Trọng chọn hay cây dừa thấp, ở trên chóp loáng thoáng những quày dừa rất sai quả. Hai anh đưa súng cho Ngạn, sửa soạn leo lên, Ngạn khẽ dặn:
- Đợi nó bắn súng hẵng buông xuống, để tụi lính khỏi nghe thấy!
Tới gật đầu. Hai anh leo dừa giỏi, nên không cần có nài. Trong nháy mắt, cả hai đã biến mất trên chót ngọn. Tới và Trọng vặn cuống dừa trèo trẹo. Đợi lúc súng giặc vừa bắng "bóc đùng", hai anh thả dừa rớt xuống. Tiếng dừa rụng bị tiếng súng át mất. Trong vòng ba phát súng nổ, họ buông xuống đất sáu trái. Trái dừa nào rớt xuống, Ngạn cũng lượm gom lại, để một đống. Thấy bẻ nhiều cũng không thể mang hết, Ngạn khẽ vỗ bộp bộp vào thân dừa. Tới và Trọng biết ý, tuột xuống. Ngạn đưa súng lại cho họ. Cả ba để đống dừa ở đấy, men vào vườn sâu hơn chút nữa. Mới đi được vài bước, bỗng Ngạn giơ tay ra sau chặn Tới và Trọng lại. Anh ngó thấy phía trước có ba bốn chấm lửa bằng đầu đũa. Đó là bọn lính đang ngồi buồn hút thuốc. Mùi thuốc lá Thủ bay thoảng tới, găn gắt. Ba người nép mình sau gốc dừa, ngồi thụp xuống. Ngạn chĩa họng súng về hướng đó. Mấy tên địch ngồi rất gần, đến nỗi khi chúng rít thuốc thì đầu những điếu thuốc đỏ rực lên, soi rõ từng cái sống mũi, từng bộ mặt nhờn nhờn của chúng. Những bộ mặt đó lúc biến đi, lúc lại hiện lên. Chợt Ngạn nghe một thằng nói:
- Đ. mẹ, hôm rồi tụi nó bắn đại úy mình té lật ngửa ở miệng hang ngó ớn quá! Liệng gần một ngàn trái MK3 vô đó mà không ăn nhậu chi hết! Một tên khác thở ra:
- Nấn ná ở đây hoài rầu thấy mẹ! Tụi nó núp ở trỏng coi bộ quyết lòng sinh tử với mình quá. Bốn bữa rày, tụi nó "tém" mình gần một trăm đứa chớ ít sao?
- Còn mình chỉ bắt được một đứa phụ nữ. Thiếu tá dụ dỗ nó hết lời mà không ăn thua. Con nhỏ đó mặt mũi hiền lành dễ coi mà thiệt là gan mật! Đưa mi - crô để nó kêu tụi kia đầu hàng thì nó lại kêu tụi kia đừng buông súng. Thiếu tá cho treo nó lên cây dừa rồi bắt bà già nó tới. Ngó thấy bà già, con nhỏ rưng rưng nước mắt. ạng thiếu tá tưởng nó xiêu lòng, hạ dây cho nó xuống, biểu nó kêu gọi tụi trong hang lần nữa, ai dè nó co chân đá cái mi - crô văng đi...
- Ngừng một chút, tên lính tiếp:
- Nói thiệt với tụi bay, lúc trung úy Xăm rút dao chém, sao tao mắc cỡ hết sức...
- Trung úy Xăm chém cô ta không chết mà ổng bị chấn thương ộc máu coi ghê quá! Một tên lính chép miệng:
- Không biết bây giờ chết chưa?
- Ai chết?
- Cái cô đó đó!
- Chết rồi. Nghe đâu mới chết hồi tắt nắng... Ngạn gục mặt xuống bãi cỏ, cổ nghẹn lại. Tên lính lại nói:
- Trung úy Xăm chém bốn dao mới trúng một dao. Lúc đó cổ chưa chết, ông thiếu tá sai treo lên, tính để cổ oằn oại rên la cho tụi Việt cộng trong hang nghe mà thối chí. Nhưng từ đó cho tới chiều, cổ không rên la chi hết.
- Không, hồi gần chết cổ có la. Tao nghe cổ giãy trên dây rồi la với đám dân chúng ngoài xóm lúc đó vừa tràn tới:
- "Cô bác ơi, hãy trả thù cho con! " Cổ la vậy, rồi lại kêu Cụ Hồ, giãy mấy cái nữa mới chết! Đang nói, giọng tên lính bỗng hổn hển:
- Tao chỉ... chỉ kịp nghe vậy... rồi bỗng thấy đám dân chúng hét lên, rần rần xổ tới. Toàn là đờn bà với ông già, con nít. Họ cấu xé, chửi rủa, đánh đạp tụi tao không sợ gì súng ống. Có một bà Thổ vác dao dâu nhào vô tính chém trung úy Xăm. Tụi biệt kích cản lại bị bả chém xoạc vai một thằng. Tụi lính tính bắn bả thì trung úy Xăm kêu:
- "Đừng bắn, đừng bắn! " Nghe nói bà Thổ đó là bà già ruột trung úy Xăm... Còn tao mới hoạn nạn chớ, tao bị họ xô té ngửa, rồi một con mẹ mập ú chạy đạp lên người tao... muốn nín thở. Lúc tao ngồi dậy được thì dân chúng họ đã chặt dây hạ xác cô phụ nữ xuống. Họ cõng bà mẹ cổ và cõng xác cổ chạy đi. Thiếu tá ra lịnh giựt xác lại. ổng la:
- "Tôi bắn mấy người không còn một con đỏ bây giờ! Mấy người bao bọc chôn thây Việt cộng hả? " Dân chúng họ trả lời:
- "Chúng tôi chôn con cháu chúng tôi chớ chúng tôi không biết Việt cộng chi hết! " Họ nói vậy rồi cứ khiêng đi. Thiếu tá phải nhượng bộ, để họ khiêng. Mà không nhượng bộ sao được, họ bất kể súng đạn, cứ rần rần, rần rần!... Lúc đó, tụi tao mà bắn thì thế nào họ cũng có chết, nhưng tụi tao không bắn... Tên lính ngừng nói. Chúng lại im lặng mồi thuốc, hút thuốc. Lát sau, có mấy thằng đứng dậy. Một tên bảo:
- Chưa tới phiên gác, mình thả bậy vô xóm chơi. ở trong xóm có một ông già mù đờn độc huyền hay lắm... Mấy thằng lính đi về phía Ngạn. Anh nín thở, nép sát sau gốc dừa. Chúng đi ngang, nhả khói thuốc bay tạt vào mũi anh. Khi chúng đi khỏi rồi, chỗ ban nãy cũng còn lại vài tên. Một tên thở ra cái "khì":
- Cha... Tết này không biết mình ăn Tết ở đâu đây?
- Tao ngán nhứt là xuống miệt Cà Mau!
- Nói Cà Mau chi cho xa! Mình mà còn láng cháng ở đây, thì Tết này cũng không về được với vợ con đâu!
- Thôi thì ráng né, đừng vô cái hang thảm thiết đó nữa. Hết võng khiêng rồi nghe, mậy!
- Biết làm sao mà né, nó bắt vô mày không vô mà được à? ... Trời ơi, hôm qua tao đi ngang trường học, nghe tụi bị thương nằm đó kêu la dữ quá!
- Tao thấy nghe theo hạ sĩ Cơ thì may ra mới toàn tánh mạng được!
- Chín Cơ hả? Y nói sao? Đến đây hai tên lính cùng hạ thấp giọng, thì thào...
Ngạn không còn nghe rõ chúng nói gì với nhau. Anh nằm im một lát rồi đưa chân khoèo Tới, Trọng, ra ý bảo họ bò lui ra. Ba người lần mò trở lại chỗ để đống dừa ban nãy. Trong bóng tối, họ tước vỏ dừa, hì hục buộc thành cặp. Mỗi người khoác lên cổ mình một cặp, rồi theo đường cũ, đi về phía hang. Suốt quãng đường trở lại hang, Ngạn đau đớn nghĩ:
“Thế là chị Sứ không còn nữa, chị ấy chết thiệt rồi! " Nỗi thương tiếc và căm oán ngập ngụa lòng anh. Trong khi đó, hai quả dừa anh vắt qua cổ cũng một lúc một thêm nặng trĩu.
2
Nơi hốc đá tận cùng mà vợ chồng thằng Ba Phi bị trói bỏ đấy không lúc nào có ánh sáng, dù là thứ ánh sáng hiếm hoi mờ ảo của hang động. Trong hốc hang này, ngày cũng như đêm, chỉ có bóng tối, thứ bóng tối ở chỗ hẹp, tuồng như đặc sệt lại. Mỗi ngày một lần, khi thì Quyên, khi thì Năm Nhớ, đem đến cho vợ chồng tên gián điệp đó những vốc gạo rang. Thỉnh thoảng chúng cũng được uống nước. Quyên nói với chúng:
- ở đây không có nước nhiều đâu! Lúc Quyên đi khỏi, thằng chồng rít lên trong cổ họng:
- Không có nước? Nó không muốn cho mình uống chớ không có! Mụ vợ nín im, lo sợ và rầu rĩ. Thằng Ba Phi lại nói, giọng có pha tiếng cười:
- Mấy bữa rày bị vây siết dữ rồi... Mẹ, chịu không thấu đâu! Sớm muộn gì mấy "ổng" cũng tràn vô hang cho coi! Y còn vỗ về vợ:
- Tao bảo đừng có khóc, đừng có lo, không chết đâu mà sợ! Mấy "ổng" mà tràn được vô hang là mình sống, nhứt định sống! Rồi y gầm gừ:
- Đ. mẹ, chừng đó rồi biết tay tao!... Tao chặt không chừa một đứa. Thứ nhứt là thằng Hai Thép, thằng đó cầm đầu ở đây, rồi tới mấy thằng bắt mình đêm nọ, rồi thằng Ba Rèn, chặt ráo!
- Trời ơi, im đi ông ơi!... Tôi sợ lắm! Tôi sợ tới cùng mấy "ổng" tràn vô mình cũng không còn. Thế nào họ cũng giết mình trước. Nghe vợ nói, thằng chồng im lặng. Câu nói của mụ vợ một lần nữa lại bới lên nỗi lo sợ trong lòng y khiến mấy bữa nay y vẫn phập phồng. "Có thể như vậy lắm. Có thể tụi nó sẽ ra tay xử mình trước lắm! " Mỗi khi nghĩ tới điều đó, đôi khuỷu tay bị trói chặt của y bỗng dưng run lên cầm cập. Nhưng trong nỗi kinh sợ, y vẫn hy vọng được giải thoát. Và y bấu víu lấy hy vọng đó, bằng cái tâm địa bất lương cố hữu của y, bằng tất cả sự căm oán và hằn học lúc nào cũng rắp sẵn, nung nấu. Trong con người thằng chỉ điểm già sói trán này đang diễn ra một tâm trạng đợi chờ thấp thỏm. Khi thì hy vọng thúc y chồm lên, khi thì thất vọng xô y khuỵu xuống. Con cáo cộc mắc bẫy thế nào, y cũng thế ấy. Nhưng còn hơn con cáo, y chẳng những muốn thoát bẫy, mà lại còn muốn cấu xé sau khi xổ ra được. Sự hy vọng cùng sự thất vọng của y lộ ra rõ nhất lúc địch mở các đợt đột kích vào hang. Lúc súng hoặc lựu đạn nổ ầm ầm, là lúc y chồm dậy, khấp khởi. Tay chân y lúc ấy tưởng như sắp mọc móng mọc vuốt. Trong bóng tối xó hang, y không ngớt lấy cẳng hích đùi vợ, tính đâu cái giờ phút thoát bẫy đã đến.
Nhưng khi nghe những phát súng lẻ nổ chắc chắn từng phát một, y lại hoài nghi. Rồi, các đợt đột kích bị đánh bật, trả về cho hang động sự yên tĩnh thường lệ. Đợi mãi vẫn không thấy có ai vào mở trói, lúc đó y lại thất vọng, lại vật lưng vào vách đá mà thở hổn hển. Mỗi lần anh em trong hang phản xung phong thắng lợi là mỗi lần mối hy vọng độc ác giãy giụa trong người thằng Ba Phi bị dập tắt. Và tấn bi kịch của y vẫn hoàn nguyên. Vẫn là vòng dây siết lấy đôi khuỷu tay, vẫn là hốc hang sâu thẳm đầy bóng tối chớ không hé ra được một tia sáng. Song dù là thế, y vẫn chờ đợi. Với hai lỗ tai giảo hoạt, y rình nghe mọi lời nói và mọi tiếng động từ bên ngoài lọt vào. Vì thế, tuy bị giam cầm ở hốc hang trong cùng, nhưng y vẫn biết được phần lớn cái gì đã xảy ra trong bốn ngày đêm quyết chiến. Y đã bắt đầu có cái thói quen nhổm bật dậy kể từ khi loạt súng thứ nhất của bọn giặc nổ ran. Buổi sáng lựu đạn nổ ngót một ngàn trái là một trong những buổi sáng mừng rỡ của đời y. Đêm chặt tay thằng Bé đối với y là một đêm hả hê. Hôm Quyên bị bất tỉnh về những quả lựu đạn MK3 và Năm Nhớ bị trúng độc, y khoái trá. Cả về việc chị Sứ ra đi không trở về hang, y cũng biết. Rồi cái chuyện giặc bắc loa buộc chị Sứ kêu gọi đầu hàng cũng gieo vào lòng y nỗi mừng khấp khởi, nhưng y rất đỗi kinh ngạc và hậm hực khi biết chị Sứ đã nói ngược lại. Không có nước uống, cổ họng y cũng khô khát như ai. Nhưng trong nỗi khổ thiếu nước, lòng y cũng vẫn dấy lên cái hy vọng độc địa là nếu không có nước thì bọn người trong hang này không thể chống trả lâu được. Riêng khi biết rằng chị Sứ có thể chết đi thì y nơm nớp. Không phải lo cho tính mệnh Sứ, mà là lo cho tính mệnh của y:
“Chắc tụi nó giết mình để trả thù! " Đôi khi y cũng không muốn đám người trong hang bị đánh nột quá, vì thế theo sự suy đoán của y, một khi nột quá họ có thể xử tội y trước. Ngày cũng như đêm, y cứ lo quẩn về số phận của vợ chồng y, nhất là của y. Trước sự đe dọa của cái chết. Thằng chỉ điểm ác ôn này có nhiều ý nghĩ diễn biến hết sức lạ lùng. Tất cả mọi ý nghĩ đó đều đen như chính cái bóng tối đang vây quanh y. Đêm nay, giữa lúc mụ vợ thở dài sườn sượt, tên Ba Phi bỗng giật mình thấy có cái chi rọi sang sáng trước mặt. Thì ra đó là ánh nến. Người cầm nến đi xồng xộc về phía y. Mấy bữa nay, trước mắt y chỉ tuyền là bóng tối, nên y bị lóa chưa kịp nhận ra ai, thì đã nghe:
- Đứng dậy! Người nói ấy là anh Hai Thép. Tên Ba Phi vội vã đứng lên. Cả mụ vợ cũng ríu ríu đứng lên theo. Nhưng anh Hai Thép giơ ngón tay ngăn mụ lại bảo mụ cứ ngồi đó. Anh quắc mắt nhìn tên Ba Phi:
- Nghe tao hỏi, mấy bữa nay mày đã thấy ra tội của mày chưa? Như vậy mày đáng chết chưa? Thằng chỉ điểm cúi thấp chiếc đầu hói, im lặng.
- Nói!
- Anh Hai Thép lớn tiếng giục. Bấy giờ, y mới đáp một tiếng cụt ngủn:
- Đáng! Anh Hai Thép gật đầu:
- ờ, đáng chết! Ngừng một giây, anh nhìn y nói tiếp:
- Thôi đi! Tên Ba Phi thoạt nghe thế thì liền đó, hai gối chân y tự nhiên rủn xuống. Nhưng ở phía sau, anh Ba Rèn đã lách tới, lẹ làng đưa cánh tay lực lưỡng xốc ngay nách y dậy. Anh Ba Rèn chợt thấy thằng Ba Phi như không còn có chân nữa. Đôi chân đó giờ cứ như cọng bún, cứ ngoặt ngoẹo rủ xuống. Anh Hai Thép giơ cao ngọn nến soi lối cho Ba Rèn lôi y ra khỏi hốc đá. Mụ vợ Ba Phi lẽo đẽo đi sau, khóc rấm rứt. Anh Ba Rèn vừa lôi xốc thằng Ba Phi đi vừa càu nhàu:
- Thằng này dở quá, chưa chi đã xỉu rồi! Anh Ba Rèn đem nó vào cuối hang. Chỗ này ở gần chỗ để một cái lu mái lớn màu da lươn đựng di cốt sáu đồng chí bị giặc thảm sát. Đó là những xương cốt mà hồi năm ngoái chị em Sứ đã lén lút mò nhặt từ trong bàu rừng. Bọn giặc đập đầu các đồng chí ta bằng cột chèo rồi liệng xác xuống bàu. Ba ngày trời, Sứ và Quyên đi kiếm không gặp. Tới bữa trưa ngày thứ tư, hai cô mò vô rừng tràm thì bỗng nghe tiếng chó hoang tru từng hồi dài. Hai cô lần tới đó, thấy một bầy chó bốn năm con từ dưới bàu chạy lên, mồm ngoạm những cái xương tước thịt lòng thòng. Chính Sứ vác cây tất tả đuổi đánh bầy chó, giật lại từng cái xương, còn Quyên thì xăng quần lội xuống quờ tay mò. Hai người mò hết tất cả những xương dưới bàu, túm vào vải nhựa vác về Hòn giấu. Bấy giờ thì chẳng còn nhận ra là xương của ai nữa. Đồng khởi lên rồi, xương đó mới được đặt vào cái lu mái để ở đây. Xốc thằng Ba Phi quá khỏi cái lu chứa xương một chút, anh Ba Rèn đặt dựa y vào vách đá. Đầu thằng chỉ điểm vẫn ngoẹo xuống. Anh Ba Rèn và anh Hai Thép đứng đợi mãi, một lát sau y mới tỉnh dậy. Hai người lôi y vào tận trong cùng. Lúc trở ra, anh Hai Thép nói với Ba Rèn:
- Tôi coi tụi ác ôn thì đứa nào cũng vậy, ông à! Tụi nó có gan giết người, chớ không có gan chịu chết. Hồi nãy, nó ngỡ mình đem nó đi giết nên nó chết giấc đó!
- Thì thứ đó mà gan góc mẹ gì! Có tài chỉ chọc chớ nhát hít thôi. Hai người ra tới ngoài miệng hang thì Ngạn cũng vừa về tới. Anh liệng cặp dừa xuống đất giữa tiếng vỗ tay hoan hô rôm rốp của mọi người. Tới và Trọng cũng vào đến nơi, tháo cặp dừa trên cổ để xuống. Quyên sờ soạng tìm đến bên Ngạn. Ngạn đứng im hồi lâu mới nặng nhọc nói:
- Chị Ba hy sinh rồi! Tất cả mọi người đều dừng sững lại ở cái động tác của mình. Có những bàn tay đang vỗ trong bóng tối, chợt từ từ để xuống. Ngõ hang bỗng chốc trở nên hết sức im lặng. Anh Hai Thép đến sát bên Ngạn, khẽ hỏi giọng đau đớn:
- Chú lần tới được chỗ cô Sứ chết à?
- Không, chị ấy không còn ở đó nữa. Bà con đã đem chị về xóm rồi. Tụi tôi nghe bọn lính nói chuyện với nhau...
Ngạn ngồi bệt xuống giữa ngõ hang, kể lại với anh em câu chuyện mấy tên lính trò chuyện ban nãy. Đến cuối lúc lặp lại lời chị Sứ gọi bà con, gọi Bác trước lúc giãy mình chết, Ngạn nghẹn ngào không nói được nữa. Quyên vùng khóc nức nở. Cô gục vào vai Ngạn. Đầu cô cứ rung lên trên chiếc vai trần rịn ướt mồ hôi của Ngạn. Mọi anh em đều ứa nước mắt. Nhưng ai cũng cố nén không để bật khóc thành tiếng, dù trước đó, họ vẫn nghĩ là Sứ khó sống được, nhưng họ chưa biết chắc Sứ đã chết và biết chết thế nào. Bây giờ nghe Ngạn kể, họ mới thấy đau đớn thật sự. Và cùng một lúc, ai cũng chợt nhận ra hình như tình yêu mến và sự hiểu biết của bản thân mình trước nay đối với Sứ đều là không đủ. Dường như người con gái đó đang ở trên cao, mà họ còn đứng thấp, nên với lên chưa tới. Đức kiên trinh và cái vẻ đẹp dịu dàng của người con gái đó chừng như bây giờ mới lộ ra hết, mà lại rất gần, rất quen. Kìa, chị đang khẽ mỉm cười và lặng lẽ. Kìa, khuôn mặt trái soan thon thả của chị đang mở to đôi mắt đẹp đẽ chân thật. Kìa là mái tóc óng mượt tươi tốt mà cả Hòn Đất ai cũng lấy làm hãnh diện. Những nét đó từ nay chẳng thể phôi pha trong lòng họ. Những tiếng nói sau cùng của chị cũng không sao tắt được giữa lòng họ. Thế là một lần nữa trong đời, anh Hai Thép cảm thấy tim mình như bị những móng sắc vô hình quào cấu. Anh từ từ đứng dậy, run run nói:
- Các đồng chí thấy không, sống với anh em đồng chí Sứ lo từng miếng cơm giọt nước, hiền lành nhường nhịn tất cả, nhưng giáp mặt với kẻ thù, Sứ thiệt cứng cỏi, thiệt không chịu thua chúng nó một tấc! Sứ dặn chúng ta đừng buông súng, chúng ta phải nhớ lấy. Sứ dặn chúng ta phải trả thù cho Sứ, chúng ta cũng phải nhớ lấy! Dưới ánh nến chập chờn, mọi người không ai bảo ai đều đứng lên, im phăng phắc. Đầu họ hơi cúi xuống. Họ hình dung ra Sứ, nghĩ đến chị với tất cả tình yêu mến. Trong phút đó họ nắm chặt súng, lòng càng riết siết cái quyết tâm chiến đấu tới giọt máu chót... Từ đấy trở đi, không ai khóc nữa. Họ gạt những giọt lệ còn sót lại trên mi mắt. Họ nóng lòng mong đêm qua mau, để rạng ngày địch tấn công vào, họ có cơ hội trả thù cho Sứ ngay lập tức. Anh Ba Rèn nói:
- Vậy mới biết vàng thiệt không sợ lửa. Cô Sứ là vàng thiệt đó, anh em à! Đâu có như thằng Ba Phi ban nãy, chưa chi mà nó đã té chết rồi.
- Chết thiệt à?
- Ngạn hỏi.
- Không, chết giấc thôi! Anh Hai Thép day hỏi Ngạn:
- Bẻ được mấy trái dừa, chú?
- Sáu!
- Bẻ dễ không?
- Cũng dễ. Nhưng ở sát bên vòng vây tụi nó, phải đợi nó bắn súng mới dám buông dừa rớt xuống. Nghe tụi lính nói chuyện không sót một câu. Tụi nó hút thuốc, rít thở phào phào, thấy mặt mũi hết ráo. Coi bộ tụi nó hoang mang dữ. Thằng nào cũng sợ vô hang. Tụi nó gọi cái hang mình đây là cái hang thảm thiết... Anh Hai nói:
- Nó đặt tên như vậy cũng phải, nhưng thảm thiết ở đây là thảm thiết đối với tụi nó, chớ đối với mình thì đây vẫn là hang Hòn Đất thôi. Chú Tư Nghiệp gật đầu
- Phải, tên Hòn Đất nghe hiền khô, vậy mà thằng nào ăn hiếp ăn đáp thì không được, dứt khoát không được! Ngạn nói:
- Nè, trận này có tụi Mỹ theo nữa. Chết một thằng rồi!
- Vậy sao?
- Nghe tụi lính nói ngày hôm qua trực thăng xuống chở thằng Mỹ và mấy thằng sĩ quan ngụy bị thương về rồi. Tụi lính tức lắm, vì mấy thằng Mỹ lái trực thăng từ chối không chịu chở lính bị thương nặng!
- Tụi chó đẻ quá!
- Vậy cho lính nó sáng mắt ra chút đỉnh chớ! Tưởng đi theo Mỹ sướng lắm! Mỹ may ra chỉ có tình nghĩa với chó thôi, chớ cái thứ lính mướn mỗi tháng từ tám trăm tới một ngàn đó bị cụt cẳng đổ ruột thì nó dại gì mà cứu. Có cứu sống cũng là lính bị loại khỏi vòng chiến rồi, đánh chác mẹ gì được! Ngạn nói:
- Tình hình này tôi coi bộ tụi lính thối chí dữ. Phải chi mình vừa đánh vừa kêu gọi cho tụi nó rã tinh thần thì hay quá! Anh Ba Rèn bảo:
- May ra chỉ trông cậy ông Tám Chấn và bà con ngoài xóm làm chuyện đó, chớ mình ở đây dễ thấy thằng nào nhào vô là mình phải "bửa" lật thôi, chớ còn kêu réo gì nữa!
- Không, mình cũng có thể làm được chớ,
- chú Tư Nghiệp nói,
- Phải chi mình có vài cái loa!... Một mặt đánh, một mặt kêu. Như vậy tụi nó mau rã đám hơn.
- Có lý lắm, hay lắm. Nhưng làm sao kiếm được loa?
- Ngạn hỏi. Chú Tư Nghiệp ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Không có loa bằng thiếc thì làm như vậy cũng đặng... Tôi để ý thấy trên nắp cái lu mái đựng hài cốt anh em hy sanh có đậy nhiều tấm mo cau. Lấy mo cau đó làm loa tàm tạm được. Tôi chắc vong linh anh em cũng không buồn phiền gì mình đâu! Ba Rèn bảo:
- Buồn gì, phải chi mình đội mo cau đi đầu hàng thì mấy chả mới buồn, chớ đằng này... Mà chết rồi còn buồn khỉ gì nữa, cha nội!
- ấy, đừng nó vậy chớ Ba Rèn,
- giọng chú Tư trở nên nghiêm trang thật sự
- Anh em khuất rồi thì phải để anh em yên nghỉ, tôi ngại là ngại mình mó máy làm động xác thể anh em, tội nghiệp... Anh Ba Rèn im đi một chốc rồi nói nhỏ, giọng hơi kéo dài ra:
- Sao lóng rày tôi để ý thấy ông đâm mê tín trở lại quá!
- Không phải mê tín, tôi... tôi...
- Chú Tư Nghiệp ấp úng cãi. Anh Hai Thép cười, xua tay:
- Thôi đi!... Anh Tư nói vậy không hẳn là mê tín đâu. Nhưng nếu thấy tấm mo cau đó có thể dùng làm loa, thì cứ lấy làm, không sao. Vong linh anh em đồng chí mình còn mừng nữa chớ không buồn đâu. Anh cứ lấy mo cau đó làm loa đi anh Tư!
- Được, để tôi làm... Nhưng nói là nói... Chú Tư Nghiệp bằng lòng làm loa bằng những tấm mo cau nọ, nhưng vẫn còn tấm tức về câu nói của Ba Rèn. Đối với chữ "mê tín", chú không chịu, mặc dù từ lâu chú vẫn tin có Trời, có Phật. Trong một cuộc nhậu nào đó, đã có lần chú quào sườn nói:
“Nè, giả tỷ trên mặt địa cầu ba ngàn triệu con người đều không tin có Trời, Phật thì vẫn sót một người còn tin nghe đa! " Đoạn, chú Tư trỏ vào ngực mình, nhấn mạnh từng tiếng một:
“Người đó là Tư Nghiệp! " Bây giờ chú Tư Nghiệp không còn ăn chay nữa, vì như chú nói:
“Tôi tu tại bụng, chớ không tu tại miệng. ăn chay cày ruộng đuối lắm, mà mặt lại xanh dờn, coi kỳ quá! " Lạ thay, con người còn tin Trời tin Phật đó lại có cái nguyện vọng hết sức tha thiết là được kết nạp Đảng. Nhiều lần, chú thắc mắc, hỏi anh Hai Thép liệu như chú có thể được vô Đảng không. Anh Hai Thép bảo:
- "Được chớ, nhưng muốn làm người Đảng thì phải thực tế. Người Đảng tôn trọng tín ngưỡng của tín đồ các đạo, nhưng không tin có Chúa, có Phật, có Trời. Cái đó tôi nói thiệt, không giấu giếm ông làm chi. Nhưng tụi tôi tin là có kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Tụi tôi tin là nếu mình đồng lòng đánh Mỹ - Diệm thì mình sẽ sung sướng, nông dân có đất cày, đạo giáo được gìn giữ". Cái gì chớ đánh Mỹ - Diệm thì chú Tư Nghiệp chịu lắm. Nhưng nghe anh Hai Thép nói kiểu người Đảng như thế thì chú nghĩ mình khó vô Đảng được. Bởi vậy chú lấy làm đau khổ. Vì chú chưa rứt được cái này nhưng lại muốn với tới cái kia. Lời nói của anh Ba Rèn vừa rồi tự nhiên khơi lại mối khổ tâm đó của chú, chớ chú không giận anh Ba Rèn. Tánh chú không giận ai lâu. Lát sau, chú đã mò mẫm vào trong hang, thắp nến đi lấy mo cau. Rồi đến sau phiến đá mà mọi đêm mẹ con Sứ vẫn ngủ, chú lựa chỗ cặm nến, và bắt đầu hì hục gò mo cau lại để làm thành những cái loa... Bên trên phiến đá đó, Quyên vừa đặt lưng xuống cạnh con Thúy. Con bé đã ngủ. Nó vẫn chưa hay biết gì về cái chết của mẹ nó. Nằm bên cháu, Quyên mở mắt nhìn lên vòm hang tối đen. Đôi mắt Quyên ráo hoảnh, cay nóng. Cô lăn qua, ôm cháu vào lòng. Trên người con Thúy đêm nay vẫn đắp thêm chiếc áo của mẹ nó. Và dưới lần tay ve vuốt của mình, Quyên thấy mớ tóc xấp xõa trên đầu đứa cháu chừng như cũng đã mọc dày, mướt mượt, hệt như mái tóc chị Sứ ở một ngày xa xôi mà cô mang máng nhớ.
3
Nhà vợ chồng Hai Thép có một cái hầm bí mật. Hầm này nguyên đã sẵn có hồi mấy năm đen tối. Sau khi đồng khởi lên rồi, anh Hai Thép chẳng những không lấp mà còn ra sức củng cố. Hầm trổ miệng ngay giữa nhà, nhưng nó còn có tới ba bốn nhánh ăn thông ra ruộng. Nếu địch có khui miệng, cũng không dễ gì phăng ra được. Mấy hôm nay, anh Tám Chấn ở dưới hầm, đêm đêm anh mới lên thở hít không khí cho khỏe rồi cũng trở xuống đốt nến làm việc. Chiều hôm ấy, vào lúc trời vừa tắt nắng, chị Hai Thép từ ngoài xóm về giậm khẽ mấy gót chân xuống miệng hầm, và dở hầm. Anh Tám Chấn mới trồi lên, chị nghẹn ngào nói:
- Cô Ba Sứ chết rồi! Anh Tám đau đớn lặng đi giây lâu. Lát sau, anh mới khẽ hỏi:
- Chết hồi giấc nào?
- Mới chết hồi nãy, cách đây chừng non một tiếng. Thằng Xăm chém cô ấy. Tụi tôi đã cùng bà con giành được xác cô. Cô Sứ chết làm cả xóm đều khóc, bà con kéo ra đường ùn ùn. Lúc giành giựt xác cô Sứ, đã xảy ra một cuộc ẩu đả giữa tụi tôi và lính.
- Hiện thi thể của Sứ để ở đâu?
- ở nhà má Sáu. Bà con bây giờ đã kéo tới đó đông lắm! Anh Tám Chấn đứng thẳng lên, hai tay choàng qua hai mé miệng hầm, ngó đăm đăm vào khoảng không trước mặt. Chốc sau, anh nói:
- Bây giờ thím phải ra đó ngay. Tổ chức hàng ngũ bà con lại cho chặt chẽ để đưa đám Sứ. Cần phải biến đám tang thành một cuộc biểu tình, đi khắp xóm, nhơn đó mà làm cho bà con căm thù thêm. Chị Hai Thép đáp:
- Tụi tôi cũng tính vậy. Để tôi trở ra ngoài liền... Nói rồi, chị đứng nhổm lên định sửa soạn đậy nắp hầm. Chợt nghe anh Tám Chấn lại bảo:
- Khoan đã!... Thím Hai, theo thím, liệu có thể nào điều động đám tang cô Sứ đi qua cận cửa hang Hòn được không? Chị Hai Thép tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Chi vậy anh? Anh Tám Chấn không đáp, kéo áo chị ngồi xuống. Và anh dặn điều gì rất khẽ, rồi hỏi:
- Sao, thím nhắm liệu bề có được không, nếu được thì rất tốt! Chị Hai Thép im đi một lát rồi mới nói:
- Để tôi bàn với chị em coi, hễ có cơ hội thì kết hợp làm luôn. Thôi, tôi đi nghen anh?
- Thím Hai, thím phải cân nhắc cho kỹ, không nhường bước mà cũng không để căng quá, đừng để xảy ra tình trạng ẩu đả với binh sĩ nữa... Phải tranh thủ lôi kéo họ là chánh... Mà thím nè, mấy đứa nhỏ đi đâu mất hết rồi?
- Tôi gởi tụi nó ở nhà bên rồi. Chị Hai Thép đáp, và khi anh Tám rụt xuống, chị lẹ làng đậy nắp hầm lại, rồi lấy chổi quét qua mấy nhát. Chị Hai Thép ngắm nghía coi lại nắp hầm lượt nữa rồi dựng chổi, bươn bả đi tới nhà mẹ Sáu. Bây giờ trời đã nhập nhoạng. Trước sân và quanh nhà mẹ Sáu, bà con lối xóm đến đông nghịt. Chị Hai Thép đến một lúc thì cuộc tẩn liệm bắt đầu. Khi chị và chị Ba Rèn sắp sửa đặt Sứ vào hòm, mẹ Sáu gác nhẹ đầu Sứ lên đùi, rồi cầm cái lược chải tóc cho con. Mẹ chải kỹ lưỡng, như mọi bữa mẹ vẫn chải cho Sứ. Cũng với chiếc lược thưa bằng sừng trâu đen huyền ấy! Nhưng lần này, mẹ chải rất lâu, chải mãi. Vừa chải mẹ vừa lần gỡ hết các món tóc rối. Chải xong, mẹ bảo chị Hai Thép với giọng tỉnh hẳn:
- Vợ Hai Thép coi phía sau tủ thờ có chai dầu bông bưởi, lấy giùm tao! Con Sứ nó ưa xức thứ dầu đó lắm. Hồi rồi nó kiếm ở đâu đem về để đó, chắc tính xức mà chưa kịp xức...
Chị Hai Thép mò tìm được chai dầu, mở nút, đem lại đưa cho mẹ Sáu. Mẹ Sáu cầm chai dầu, nhểu mấy giọt vào giữa lòng bàn tay, xức lên tóc con gái. Dầu bông bưởi thoảng khắp nhà mùi hương thơm dìu dịu, trinh bạch. Mẹ Sáu xức cạn chai dầu, rồi cầm lược chải lại tóc con lần nữa. Chừng đó mẹ mới bắt đầu bới tóc cho con, nhẹ nhàng và khéo léo. Biết bao lần mẹ đã bới mái tóc ấy, nên mẹ quen lắm. Chiều dài và tính nết của làn tóc ấy ra sao mẹ thuộc lắm. Mẹ Sáu bới cho đứa con mình một đầu tóc thực là khéo. Đầu tóc đó tròn trịa, đầy đặn hơn cả khi Sứ còn sống. Có lẽ đây là cái đầu tóc khéo nhất của Sứ, kể từ thời tóc kẹp đuôi gà của Sứ qua đi, kể từ lúc Sứ biết ham bới tóc và có đủ tóc để bới. Đầu tóc đó được bới khéo như vậy tưởng cũng không lạ. Vì đây là lần cuối cùng mà một người mẹ bới cho con, với đôi bàn tay trút hết tình âu yếm. Bới xong, mẹ Sáu cũng chưa yên tâm rời con ra được. Mẹ với tay ra sau đầu tóc mình, rút chiếc lông nhím đồng, ghim vào đầu tóc con. Còn mớ tóc của Sứ bị thằng Xăm chém đứt hồi trưa, bà con đem về, mẹ nâng đặt lên bàn thờ. Bây giờ, mẹ mới bắt đầu khóc lặng. Bà con nới nhẹ tay mẹ Sáu ra, dìu mẹ đến bên giường. Chị Hai Thép và chị Ba Rèn đỡ lấy Sứ, đặt Sứ vô chiếc hòm sơn màu chu. Bà con chuyền tay nhau những súc vải mùng trắng tinh đắp liệm lên mình Sứ. Khi nắp hòm sắp sửa đậy lại, mẹ Sáu giằng mọi người ra, chạy đến. Nhưng mẹ không còn thấy gì nữa. Trong tiếng nấc của mẹ, nắp hòm đậy xuống, liền mí, và cái hòm bấy giờ hoàn toàn đỏ, đỏ thẫm. Cái hòm trong đó có Sứ đặt giữa sàn gỗ, nơi chị sinh ra và lớn lên, nơi chị đùa giỡn thuở còn tấm bé. Tại đây chị đã khóc, đã cười, đã chơi đánh búng và chuyền đũa. Bây giờ, tại đây chị yên ngủ rồi. Chị ngủ mãi mãi. Nhưng cả cuộc đời hai bảy năm thì chị vẫn để lại, nhất là những giờ phút chót của cuộc đời ấy. Người ta nghe tiếng chị Hai Thép dõng dạc ra lệnh cho bà con ở trong nhà và đứng dài từ bậc thang đổ xuống sân:
- Đốt đuốc lên! Các bà các chị bắt đầu đốt đuốc lá dừa và đuốc rơm đánh vội. Nhiều người, trong đó có cả Cà Mỵ, đang bó túm những vật gì vào vạt áo. Lát sau, ánh đuốc cháy sáng sân nhà. Mẹ Sáu xin cho chôn Sứ bên mộ cha chị. Đáng lẽ bà con đưa Sứ đến thẳng chỗ mộ cha chị dưới chân Hòn thì gần hơn. Nhưng bà con không đi cái lối gần đó. Bà con đưa Sứ đi qua các vườn, đi qua xóm. Đám đưa tang biến thành một cuộc diễu hành đi ngang qua các nhà đi ngang vườn cây, quê hương yêu dấu của người con gái chết. Toán lính tuần đêm đầu tiên bắt gặp đám người đó giữa một khu vườn vú sữa. Chúng thét:
- Giờ thiết quân luật mà mấy người kéo đi đâu rần rần vậy? Thím Ba ú bước sấn lên:
- Mấy người giết con cháu chúng tôi, thì chúng tôi phải đi chôn chớ đi đâu! Tên cầm đầu toán đi tuần nghe nói, đưa hai tay về phía trước:
- Được, cứ đi đi!...
Mấy người biểu tình luôn cũng được nữa. Tên này nói xong, quay lưng khoát tay ra hiệu toán lính giạt ra hai bên. Đoàn người, dẫn đầu là chị Hai Thép và thím Ba ú, lại tràn tới. Đuốc lá dừa trên tay họ cháy kêu lép bép. Đuốc rơm cháy nghe xèo xèo. Mỗi người, ngoài bó đuốc cháy sáng trên tay, họ còn cầm theo một bó đuốc dự trữ, chưa đốt. Đoàn người và lửa đuốc, cứ ồ ồ, phừng phừng, lũ lượt tốp trước, tốp sau nối đuôi cái hòm ghé đầy những vai phụ nữ. Lửa đuốc chiếu cái hòm đỏ chói giữa đường đêm lòa sáng. Lửa đuốc còn rọi óng ánh những mái tóc bạc phơ của các mẹ, rọi bóng nhãy vòm lá trên đó từng chùm vú sữa tím căng da bóng lưỡng. Mẹ Sáu đi ngay sau cái hòm, bên chị Ba Rèn và các mẹ Hòn Đất. Hai chị dìu mẹ. Nhưng mấy lần mẹ gạt tay hai chị ra, bươn tới. Giờ mẹ không khóc. Cuốn theo dòng người ồ ạt, mẹ không còn muốn khóc nữa. Có cái gì cứ nóng sôi trào lên trong bộ ngực già nua lép kẹp của mẹ. Ban nãy, mẹ đau đớn chia lìa con gái. Giờ đây, đi giữa đoàn người, mẹ thấy hình như không phải chỉ có mỗi con của mẹ hy sinh. Biết bao người cùng đi với mẹ đây có chồng con, anh em đã chết hoặc bị đánh dập phổi, dập gan, kẻ không còn chân, người không còn tay. Có biết bao nhiêu thân nhân ruột thịt với họ giờ còn trong lao tù hoặc bị đọa đày ngoài hải đảo! Bảy năm nay cả Hòn Đất không có mấy gia đình thoát khỏi cảnh tang tóc, khảo tra, bức hiếp. Xương người còn đó, máu người còn đây... Không, không phải chỉ có mỗi mình mẹ riêng chịu cảnh ấy, mà là tất cả xóm giềng. Không phải chỉ có mỗi mình mẹ tranh đấu, mà còn có trăm, ngàn người ở Hòn Đất, triệu triệu người ở miền Nam đi tranh đấu. Sóng biển đánh ầm ầm sau lưng mẹ như bảo mẹ hãy dấn lên đau khổ mà đi. Vườn lá rào rào nổi gió như giục giã mẹ thù kia phải trả. Xương đòi xương, máu đòi máu. Không phải chỉ có mẹ và bà con đang đi đày, còn đám con đám cháu của mẹ đang bị vây trong hang kia nữa! Năm ngày đêm ròng rã, đám con cháu đó nhịn đói nhịn khát chống trả quyết liệt. Chỉ có một người bị sa vào tay giặc, nhưng người đó không đầu hàng, người đó là con gái ruột của mẹ. Còn đứa cháu mới mồ côi, còn con rể, còn chồng hai người đàn bà đang đi bên mẹ đổy - chị Hai Thép và chị Ba Rèn - còn thằng Bé con chú Tư Râu, còn bao nhiêu người mà mỗi lần nghĩ tới, thì mẹ thấy yên yên trong dạ. Đoàn người đã kéo tới bên con suối Lươn. Quân giặc đóng trên bờ suối khi nhìn thấy ánh đuốc như một đám cháy lớn trườn về phía chúng, chúng liền la lên và chạy xổ ra. Tên đại úy Cao, chỉ huy tiểu đoàn lính chủ lực vừa ở trong lều chui ra, nhác trông thấy đám người khiêng cái hòm đỏ chói thì gã hiểu ngay. Gã lập tức ra lệnh cho bọn lính cầm súng dàn hàng ngang, chắn lấy một quãng suối. Rồi gã chạy xồng xộc tới trước đoàn người, khoát mạnh tay:
- Không được đi tới! Thím Ba ú bước lên, nhỏ nhẹ:
- ạng à, cháu chúng tôi bị mấy ông giết, phải để chúng tôi đem chôn chớ!
- Thiếu tá cấm chôn ban đêm. Giọng thím Ba ú vẫn nhẹ nhàng:
- ạng à, cháu tôi bị mấy ông giết thế đó, để lâu đâu có tiện!
- Không tiện thì mặc kệ. Việt cộng mà cho chôn là quý rồi!
- Thưa ông, dẫu cháu tôi nó có theo Việt cộng đi nữa thì nó cũng là cháu tôi. Chúng tôi đem chôn nó ở chân Hòn thì có mất mát gì mấy ông đâu? Tội nghiệp, nó bị mấy ông giết cách thảm thiết quá mà!
- Con mẹ mập này ăn nó xốc óc dữ hôn? Đã nói là ban đêm ban hôm, thiếu tá không cho ai léo hánh đi đâu hết, nghe chưa? Thím Ba ú buông tay xuôi lơ, vẻ thất vọng:
- Vậy mà tôi tưởng ông có quyền ở đây, té ra ăn thua ở ông thiếu tá! Thôi được, vậy ông cho tôi gặp thiếu tá để tôi xin ổng! Gã đại úy Cao niễng đầu qua, niễng đầu lại như để nhận dạng thím Ba ú, đoạn gã dằn giọng:
- Đòi gặp thiếu tá đặng đấu tranh hả? Coi bản mặt chị, tôi biết là dân cầm đầu đấu tranh liền mà! Một tên lính nói chen vào:
- ối, cái chị này tôi gặp chị đi biểu tình ở Rạch Giá hoài đây!
- ‰, đừng nói bậy nghe! Tôi đang nói chuyện với ông đại úy, mắc mớ gì anh mà anh xía vô? Thím Ba mắng tên lính xong, lại bóp bóp hai bàn tay nói với tên đại úy, vẫn với giọng nhẹ nhàng như trước:
- ạng làm ơn để chúng tôi được gặp thiếu tá đi, thế nào ổng cũng cho. Mấy ông đánh nhau với Việt cộng trong hang, mấy ông bắt được họ đem giết là đủ rồi, lẽ nào lại không cho chôn?
- Không cho,
- gã nạt.
- Cứ nói dai nhách! Không nhịn được nữa, thím Ba ú thét lên:
- Chẳng cho chúng tôi cũng đi! Rồi bước thoắt qua mặt tên đại úy, thím khoát tay kêu mọi người tiến lên. Đoàn người ồ theo, xô rẹt những tên lính, tràn xuống suối. Gã đại úy gào lên:
- Đứng lại không tôi bắn! Đoàn người vẫn không đứng lại. Họ giơ cao đuốc, lội sồn sộn qua suối. Lòng suối phút chốc sáng rực ánh đuốc. Tên đại úy chạy lại bảo khẽ mấy tên lính:
- "Bắn bổng đi! " Bọn lính tuân lệnh cất cao họng súng bắn "đoành đoành". Dòng người đuốc vẫn lội qua suối, tràn tới bờ bên kia. Chiếc hòm đỏ đã được đưa lên bờ. Chị Hai Thép nói chuyền ra sau:
- Nó bắn bổng, đừng sợ, đi đi! Kinh nghiệm các cuộc đấu tranh đã từng dạy cho mọi người rằng giữa giờ phút này chỉ có tiến chớ không được lùi. Mà họ cũng nghe những phát súng bắn bổng kiểu đó nhiều lần rồi, nên họ vẫn bình tĩnh. Vả lại, mỗi người đi đây đều biết rõ ngoài việc đưa Sứ, họ còn có mục đích khác hết sức quan trọng là nhân lúc kéo tới chân Hòn, một số chị em sẽ chạy đến miệng hang liệng vào đấy những gói cơm, thức ăn và những chai nước mà họ đã chuẩn bị, đã bó chặt và giấu kín trong người từ lúc chạng vạng.
Gã đại úy Cao là một tên đã từng có kinh nghiệm đàn áp các cuộc đấu tranh nên việc hạ lệnh bắn thẳng vào đoàn người gồm cả ngàn phụ nữ này là việc gã rất thận trọng. Đã đôi lần gã suýt chết vì những quả đấm, những gậy gộc hoặc đá cục liệng vào người khi gã cho nổ súng giết chết mấy người trong đoàn biểu tình nọ. Ban đầu, gã cứ ngỡ là nếu bắn một người chết, ngàn người phải chùn lại. Lạ thay, lần nào hễ có một người chết, ngàn người đều tràn tới, đấm đạp, cấu xé vào gã và đồng bọn một cách dữ dội. Nên bây giờ sau sáu phát súng bắn bổng, gã vẫn chưa dám hạ lệnh bắn thật. Hơn nữa, ngay từ hôm tới đây, tên thiếu tá đã căn dặn bọn gã:
“Muốn tiêu diệt được tụi Việt cộng trong hang, cần nhứt là không nên để nổ ra một cuộc đấu tranh chánh trị nào tại đây. Chọc ổ tụi đờn bà thì bê bối lắm!... Có gì mấy anh cũng phải đợi lịnh của tôi! " Hôm đó, gã thầm phục thiếu tá là người sâu sắc, thấy được sự lợi hại. Bây giờ thì ổ đã động, đám đờn bà lộ qua suối ùn ùn không chờ lệnh gì cả, gã biết làm sao được. Chỉ còn cách là gọi điện thoại cho thiếu tá. Nghĩ thế, gã liền chạy tới lều truyền tin, chui vào vớ lấy ống điện thoại quay liên hồi. Bên kia đầu dây vọng lại tiếng ồ ồ ngái ngủ của tên lính trực máy:
- Ai kêu?
- Tôi đây, đại úy Cao ở tiểu đoàn ba đây. Cho tôi nói chuyện gấp với thiếu tá!
- Thiếu tá à, ổng ngủ khò rồi!
- Kêu dậy, kêu ổng dậy!... Dân chúng họ biểu tình tràn qua suối rồi, mau đi! Gã để ống nói nơi tay chờ. Tới năm phút sau, từ bên kia mới có tiếng tên thiếu tá hỏi:
- Sao, dân chúng biểu tình hả?
- Dạ, phải. Họ đòi đem con nhỏ bị chém vô chân Hòn chôn, tôi không cho, họ kéo đại qua suối...
- Bắn dọa cho họ lui ra. Bắn đi!
- Thưa, bắn rồi mà họ vẫn không lui. Thưa, cho phép tôi bắn thiệt may ra...
- Bắn thiệt à... Không, không, rắc rối lắm!... Họ đã qua suối rồi hả, rượt theo, rượt theo ngăn chặn!
- Dạ dạ...
Gã đại úy bỏ ống nói, chạy ra ngoài. Nhưng đã muộn rồi... Đứng trên bờ suối gã chẳng còn thấy bóng một người nào nữa. Những ngọn đuốc cuối cùng đã khuất vào vườn dừa. Chỉ còn thấy ánh đuốc hắt lên lá dừa chập chờn, loang loáng. Khi gã đại úy dẫn một trung đội vượt suối rượt kịp khúc đuôi đoàn người thì cũng đúng vào lúc từ trong đoàn người vút tách ra nhiều cái bóng đen, chạy riết về phía hang Hòn. Đó là những chị em đã được chị Hai Thép giao cho nhiệm vụ đem cơm nước vô miệng hang. Cái bóng vụt lên trước tiên là Cà Mỵ. Một tay cô xách chai nước đã được bó lại bằng rơm, còn tay kia cô xách một gói cơm nếp nén chặt. Cà Mỵ chạy nhào tới, tất tả. Theo sau cô, là những cô những chị khác cũng xách nước xách cơm như cô. Lúc Cà Mỵ chạy gần tới miệng hang, thình lình một phát súng từ trong bắn ra, nổ vang. May cho cô, viên đạn chỉ bay sướt qua tóc. Cô hoảng quá, đứng khựng lại, la ré lên, giọng lơ lớ:
- Tui đây, tui là Cà Mỵ đây, mấy anh ơi!... Tui, tui đem cơm cho mấy anh mà! Trong hang, người vừa bắn phát súng là một du kích. Anh rụng rời chúi mũi súng xuống:
- Trời ơi, Cà Mỵ đó hả? Có sao không?
- Không sao, không sao... Cà Mỵ lắp bắp. Bóng cô lao tới miệng hang. Và cô chuồi nhẹ chai nước, gói cơm vào hang.
- Mấy anh còn đủ không?
- Còn.
- Chị Sứ chết rồi, tụi tui đi đưa chị Sứ đây!
Cà Mỵ chỉ kịp hỏi và nói thế rồi chạy ngược trở ra. Người sau lại tới. Cứ thế mà liệng cơm, liệng chai nước vào. Mỗi một bóng người đều xưng tên, hỏi thăm trong hang ai còn ai mất, rồi chạy đi. Thoáng thấy bóng đen nào, từ trong cũng vẳng ra tiếng nhắn nhủ:
- Nói bà con yên tâm, tụi tôi chỉ bị thương có hai, tụi tôi còn chiến đấu như thường!
- Bà con ngoài đó ráng đấu tranh với tụi nó. Phải đòi bồi thường tài sản bị phá. Phải làm rã ngũ tụi lính. Nhớ nghe, nhớ đấu tranh gắt lên, nghe!
- ờ, nhớ rồi, nhớ rồi! Chợt có tiếng chú Tư Nghiệp thốt lên:
- Trời ơi, ai phải má con Lụa không?
- Phải... phải, tía nó đó hả?... Tôi đây nè, tía nó ơi!... Thôi tôi đi!... Những câu hỏi hấp tấp và những câu trả lời vội vã. Người bên ngoài hỏi dồn người trong hang. Người trong hang nhắn gởi người ở ngoài. Tiếng những chai nước, gói cơm rơi lịch bịch xuống ngõ hang. Rồi tiếng thở hào hển, tiếng chân phụ nữ lụi dụi chạy tới. Cái miệng hang sáng ánh trăng trong phút chốc đổ dồn hết bóng người này tới bóng người khác, mà bóng người nào cũng quen, cũng có kẹp tóc, búi tóc cả. Anh em du kích nhận ra em họ, con họ, vợ họ. Còn từ ngoài trông vào, các chị và các em chỉ thấy hang tối om, thấy những bàn tay chìa ra chụp lấy họ. Tuy vậy, nghe tiếng nói, họ biết liền là chồng mình, là anh mình hay họ hàng lối xóm. Đều là những tiếng người thân thiết với mình cả. Năm ngày qua, họ không gặp mặt nhau, lo lắng cho nhau. Đêm thứ năm này, vầng trăng đã chứng kiến cái cảnh họ gặp nhau. Một nguồn cổ vũ kỳ lạ truyền đến cho từng người, ở trong cũng như ở ngoài, tại cửa hang mà năm ngày năm đêm địch không vào nổi. Những người trong hang lòng náo nức biết rằng mình không cô độc. Những chị em sau khi vội vã chạy đi, họ mang theo cả niềm hy vọng rằng hang sẽ được giữ vững. Họ tin rằng đêm gặp gỡ hôm nay sẽ không phải là đêm cuối cùng. Nhưng khi chị em đã chạy đi hết thì vẫn còn một bóng đen thấp bé ở lại với bóng một con chó chạy quẩn theo. Cái bóng đó tọt vào hang, đụng nhằm anh Ba Rèn. Anh túm lấy, hỏi:
- Ai đây, sao không chạy đi?
- Tui, tui không về, tui có một trái lựu đạn! Anh Ba Rèn chợt kêu:
- Trời ơi, thằng út, thằng út, mấy cha ơi!
- Tui ở lại, tui không về đâu. Thằng út nói thế rồi luồn ra khỏi tay anh Ba Rèn, xớn xác quờ tay đi tới, đụng ai nó ôm nấy, ngọ ngoạy cái đầu trọc xửng bông gáo vô bụng những người đó. Nó cười khúc khích vẻ đắc chí.
- Mấy thím đó về thấy mất tui chắc hoảng hồn dữ!
- út, út, mày đó hả út? Bên trong có nhiều tiếng hỏi mừng rỡ. Thằng út nhận ra anh Năm Tấn. Nó nói:
- Chú Năm hả? Eo ôi, thím Năm ở nhà sợ chú chết rồi cứ thắp nhang vái tối ngày!
- Cái thằng dóc quá!... Nè, anh mày bị thương nằm trong kia, vô thăm anh mày đi! Thằng út đáp, giọng thản nhiên:
- Tui biết rồi, gấp gì, chút xíu vô thăm ảnh. Ba tui cũng biết nữa, ba tui nói đánh giặc bị thương là thường... à, mà quên, tui chốp được của bọn lính một trái "láng", tui có đem theo đây nè. Mai, hễ tụi nó đánh vô, tui rút chốt chia hai! Trong hang mọi người nghe nói đều cười ồ:
- Mày thiệt con nít, chừng nào nột quá mình mới làm vậy, chớ nó còn ở xa thì cứ liệng thôi, chia hai chi cho uổng mạng? Thằng út ậm ờ, nhưng nó nói bọc theo ngay:
- Thì... thì tui nói là gặp nột đó chớ!
- ờ, nếu vậy thì được. Nhưng ở đây không đến nỗi ngặt quá phải chơi vậy đâu, bồ ơi! Hễ tụi nó vô là mình bắn hoặc liệng lựu đạn thôi!
- Vậy thì ngon quá! Thằng út xăng xở nói. Nó chợt hỏi:
- Chị út Quyên đâu mấy chú, chị út Quyên đâu?
- ở trong hang. Chợt thằng út đứng sững lại. Thình lình, mọi người nghe nó khụt khịt mũi liên tiếp mấy cái. Bỗng dưng nó nức nở òa kêu: - "Mấy chú ơi, chị Ba chết rồi... ư... ư ư... " Đứng giữa ngõ hang, nó khóc hù hụ. Ai kéo tay nó dỗ nó cũng vùng ra, càu nhàu, tuồng như giận dỗi mọi người lắm vậy. Rồi cũng như lúc bắt đầu khóc, nó đột ngột ngưng khóc, đưa tay quệt nước mắt, hít mũi rẹt rẹt. Anh Hai Thép kéo tay nó, nói:
- út à, thôi, bây giờ mày ở đây với tụi tao. Nhưng tao dặn sau đây vô trong hang, có gặp con Thúy, mày không được hở miệng nói má nó chết, nghe chưa? Nó mà biết thì nó khóc tụi tao dỗ không xiết đâu... à, còn mày nói mày có một trái láng hả? Đâu, đưa đây, đưa tụi tao cất cho! Thằng út móc trái lựu đạn MK3 lận ở lưng quần cụt ra đưa cho anh Hai Thép. Nó dặn:
- Chú cất giùm tui. Hễ mất thì tui mắc đền chú!
- ừ, mất tao đền trái khác cho mày. Tụi tao có thứ này thiếu gì? Anh em đã lượm gom số lương thực của đồng bào tiếp tế. Họ bấm đèn kiểm lại thấy có tới mười hai chai nước, mười hai gói ốp bẹ chuối cơm nếp, cơm tẻ, và vài cái gói mo cau non bọc sáu bánh thuốc lá giồng, một tút thuốc thơm hiệu Ru - bi. Những ốp bẹ chuối đựng cơm còn in dấu dao rọc tươi rói, rỉ nước. Anh em mở thử ra một ốp thì thấy cơm nếp nén, bên trong còn ấm... Giữa cơm nếp nhét đầy những miếng thịt gà chiên vàng, thơm sực mùi tỏi sả. Anh em reo lên:
- Phen này tươi rồi, nghe! Anh Ba Rèn bảo:
- Tối nay, phải bù lại mới được! Cho anh em ăn no, uống đã khát rồi tính gì thì tính. Sau đó mình hút Ru - bi, phun khói ra ngoài cho tụi lính hửi chơi! Anh Hai Thép nói:
- Ru - bi thì có thể hút, nhưng ăn thì phải dè xẻn và uống đỡ khát thôi. Phải để dành... Có thể tụi nó còn vây mình lâu. Đề nghị giao tất cả những thứ này cho út Quyên giữ, để cô ta trọn quyền phân phối!
- Phải, để út Quyên giữ, nhưng còn thuốc hút tôi lãnh giữ cho! Chú Tư Nghiệp bảo. Mọi người đều cười rộ và đồng ý. Anh Ba Rèn lè lưỡi:
- Nhè ông sâu thuốc mà giao cho ổng thì chết rồi! Chú Tư Nghiệp nghiêm giọng:
- Đừng nói vậy chớ Ba Rèn!... Tui coi trọng của chung chớ có "cá nhơn" cho tui đâu! Ba Rèn cười hà hà.
4
Nỗi đau đớn của bà Cà Xợi hôm nay đã dâng lên tới cực độ. Hồi trưa, thằng Xăm giơ dao chém Sứ, bà xổ lại phía nó. Nhưng bọn lính xô bà ngã xuống, giẫm đạp lên bà khiến bà ngất xỉu... Bà Cà Xợi tỉnh dậy trong buổi chiều tắt nắng. Cà Mỵ chạy về đầu bù tóc rối, khóc và báo cho bà hay là Sứ đã chết. Cà Mỵ nói xong lại chạy đi. Chỉ còn lại mỗi mình bà sờ soạng trên bộ vạt tre, giữa gian nhà trống trước trống sau gió giật vách lá hai bên xành xạch, xành xạch. Mãi một lúc, bà mới ngồi nhổm dậy được. Đôi con mắt bà đờ ra long lanh nắng quái. Đầu tóc vàng sém của bà xổ tung, mà những tia nắng chiều rọi lên, làm mớ tóc đỏ hoe hoe như nhuốm ánh lửa. Rồi khi hết nắng, và đêm nhòa tối, bà vẫn ngồi im không cục cựa. Bóng tối từ ngoài tràn vào phủ kín bóng bà. Đến lúc trăng lên, bóng bà Cà Xợi lại hiện ra, nhưng không phải ngồi trên bộ vạt tre nữa, mà là đứng dưới đất. Người mẹ Khơ - me đau khổ đó trong cách đứng coi cũng lạ. Đôi chân bà hơi doạng ra, hai bàn chân châu các ngón vào, bám bíu trên đất nền nhà khô nứt những đường kẻ. Hai cánh tay bà như dán sát vào nách, và bóng bà nổi rõ hơn, hơi chúi về phía trước. Trông như cái cây sắp đổ. Bà Cà Xợi đứng rất lâu. Có thể là bà đứng như vậy chừng non tiếng đồng hồ. Thình lình, bà bước ra khỏi nhà, vẫn cái dáng người ngã tới phía trước ấy, mà đi. Bà mò mẫm đi trên con đường đất dẫn tới ngã ba Sĩ - lỳ. Dọc đường, có khi bà chới với, loạng choạng, hoặc ngã giúi xuống, rồi lại lò mò đứng lên, lại đi. Cái hôm bà đến tiệm thím Ba ú mua rượu, bận về bà cũng vấp ngã. Nhưng lần đó, và những lần trước đó, không khi nào bà vấp ngã nhiều như hôm nay. Hôm nay, bà Cà Xợi đau đớn đến điên dại thật rồi. Thằng con bà, sau một thời gian vắng xa Hòn Đất, nay trở về đã chém một cô con gái mà người Khơ - me lẫn người Việt trên Hòn đều yêu mến. Cô con gái đó và mẹ của cô lại là người ơn lớn của bà Cà Xợi. Hai mươi năm về trước, trong một đêm khuya sương giá, hai mẹ con đã dìu bà về nhà, bảo bọc cho bà sinh ra Cà Mỵ. Hồi đó, mới mười tuổi mà cô gái ấy đã có tấm lòng nhân hậu rồi. Bà quên sao được nó đã tiếp sức cho mẹ nó đưa bà về nhà. Đêm ấy, bà còn nhớ hai mẹ con đầu trùm khăn vì trời lạnh. Bà nhớ lắm. Khi anh Thạch Kha chết đi, gia đình mẹ Sáu đều thương bà, thương con Cà Mỵ, hết lòng đùm bọc cho cả hai mẹ con. ›n lớn của gia đình mẹ Sáu, bà Cà Xợi vẫn ghi trong dạ. Bà không biết lấy gì mà đền đáp cho được. Thỉnh thoảng, bà cùng con Cà Mỵ tới tiếp mẹ Sáu vét mương, làm vườn hay vào ngày mùa thì gặt lúa, đập lúa phụ. Cái ơn kia chưa trả được bao nhiêu, thì nay, thằng con tàn ác do bà đẻ ra đã chém sả xuống thân cô con gái làm ơn cho bà dạo nọ. Thằng Xăm giết chết Sứ, đó là cái lý do khiến người đàn bà Khơ - me già nua chất phác này đêm nay lảo đảo, đi không vững. Nhưng bà Cà Xợi đi đâu, bà muốn đi đâu? Nào ai biết được. Chỉ biết rằng bà đang đi vất vả, trên con đường có trăng và không lấy gì lồi lõm cho lắm... Bà đang đi những bước đau khổ. Nhưng rồi cái bóng của bà, dưới ánh trăng, cũng lọ mọ hiện tới được chỗ ngã ba Sĩ Lỳ.
Tại ngã ba, khi bà đi thẳng, lúc ấy mới lộ ra ý định của bà. Bà muốn đi lại nhà mẹ Sáu. Nhưng bà đi mò mẫm, rụt rè và sợ hãi. Tới khoảng vườn xoài, bà không dám đi giữa lối, mà tạt vào mé vườn, lẩn qua sau các gốc xoài. Không biết bà đi tới nhà mẹ Sáu mất bao lâu. Chỉ biết khi tới đó, bà đã trông thấy bà con tụ tập đông đảo lắm rồi. ấy chính là lúc mọi người sắp liệm Sứ. Bà Cà Xợi không hề trông thấy cái cảnh mẹ Sáu âu yếm chải tóc, bới tóc cho con, đứa con gái thuở lên mười đã có lần tận lực dìu bà Cà Xợi từ đồng rạ về nhà nó. Bà không nhìn thấy cảnh ấy, vì bà có dám đặt chân vào tới cái sân đông nghịt người đó đâu! Bà len lén ngồi thụp sau một bụi khóm, ở vệ đường. Tại đó, bà có nghe thấy tiếng khóc của mẹ Sáu từ trong nhà vẳng ra. Bà run lên khi nghe tiếng khóc ấy. Và bà đưa tay bưng kín mặt. Khi các ngọn đuốc cháy rực giữa sân, chiếu sáng đến tận chỗ bà, bà hoảng hồn, mọp sát xuống. Lát sau, lúc bà con Hòn Đất người đuốc rầm rộ kéo đi, bà ngó thấy cái hòm đỏ chói và mái tóc bạc óng của mẹ Sáu sau kẽ hở của bàn tay mình và kẽ hở của những lá khóm nhú gai sắc. Bà nín thở nhìn cái hòm, trái tim trong lồng ngực lép kẹp của bà thắt lại tưởng như không sao đập tiếp được nữa. Bởi vì bà biết rất rõ cô gái nằm trong cái hòm đó chính là Sứ. Nay Sứ đã nằm im, đã chết. Bà nhắm nghiền mắt lại.
Cho dù bà nhiều lần từng nói thằng ác ôn đó không phải là con của bà, nhưng rõ ràng nó chính là con của bà, vì chính bà đã sinh ra nó. Trời ơi, cái đêm hôm ấy mới oi ả làm sao! Những bức tường của ngôi nhà nền đúc phông - tô ấy mới dày kín làm sao! Tại đó, bà nằm rã rượi mồ hôi, bụng đau như xé, oằn oại mãi tới khuya mới đẻ lọt ra đứa bé, là thằng Xăm... Đám người đuốc đã lũ lượt kéo đi mút đuôi rồi. Có cả con Cà Mỵ của bà cũng đi nữa. Trong bụi khóm, mấy lần bà Cà Xợi nhấp nhổm muốn chạy theo họ, nhưng bà không dám. Lần này thì bà không dám đi theo họ thật. Cà Mỵ thì khác. Còn bà, bà thấy mình là kẻ có tội, không phải mới bây giờ, nhưng bây giờ thì ghê gớm hơn, trực tiếp hơn, do đó bà không sao dám cất chân đi theo họ cho được.
Họ đã đi hết rồi. Lửa đuốc chập chờn trên những lá cành phía trước, cuối cùng khuất hẳn. Cái sân sáng lửa ban nãy giờ lại mờ tối, bàng bạc ánh trăng. Chỉ còn lại một mình bà Cà Xợi ngồi bệt sau bụi khóm. Bên kia hàng khóm nhô lá nhọn sắc như những thanh kiếm, hiện mờ mờ cái khoảnh sân, cái bậc thang, cái gian nhà sàn vách ván hãy còn leo lét cháy một thếp đèn mỡ cá. Bà Cà Xợi mở to mắt ngó gian nhà trân trân, bắt đầu từ những nấc bậc thang năm xưa, nơi đó, người con gái Việt mới chết đã có lần ráng sức dìu bà lên. Năm xưa, trong gian nhà leo lét ánh đèn đó, bà đã sinh ra con Cà Mỵ, giữa lúc mẹ Sáu rút ra trong miệng bà những cọng rạ nhừ nát. Rồi cũng tại đây, anh Thạch Kha đến đón bà về. Xăm ơi, bọn mày ác quá, mày gieo tang tóc cho cái nhà đã đùm bọc mẹ mày trong cơn khốn đốn! Mày đã về hùa với cha mày mà giẫm đạp lên trái tim mẹ mày rồi đó! Mày là con dao độc ác cứa đứt mẹ mày ra khỏi mọi người! Vì mày mà mẹ mày phải lẩn trốn trong đêm tối, không dám chạm mặt với bà con.
- "Sao ả - rặt đâu không vật mày đi cho rồi! Tao cầu ả - rặt vật mày chết, để có đau tao chỉ đau mỗi một lần, khỏi bị cứa dứt như vầy nữa! " Bà Cà Xợi nguyền rủa đứa con của mình. Rồi bà chới với đứng dậy, vẹt lá khóm đi ra. Bà đi vào sân nhà mẹ Sáu, bụng nghĩ phải lên tắt thếp đèn đó mới được, để vậy hao mỡ quá. Tới chân bậc thang bắc lên sàn nhà, bà đưa tay rờ rẫm bậc thang, như thể kiếm vật gì đánh rơi. Cứ đặt chân leo lên mỗi bậc thang là bà lại rờ rẫm, như vậy. Lâu sau bà mới lên đến sàn, lần tới cái cửa bỏ ngỏ. Tới cửa, bà nhìn thấy ngọn đèn trên ban thờ vờn qua vờn lại trước gió. Đồng thời bà trố mắt và rú lên khi trông thấy bên cạnh thếp đèn buông rủ một mớ tóc đen nhánh. Bà chỏi hai bàn tay về phía mớ tóc, đi giật lùi, rồi vùng chạy xuống thang. Bỗng nhiên, ngực bà như bị những đôi giày đinh ban trưa tiếp tục giẫm mạnh. Bà nín thở một cái, và ngã xuống ở bậc thang cuối cùng. Vào khoảng gần nửa đêm, mẹ Sáu và những bà con đi chôn Sứ về tới nhà gặp bà Cà Xợi nằm dưới bậc thang. Mọi người lấy làm lạ, vực bà lên nhà, cởi áo xống, đánh gió cho bà. Mẹ Sáu đưa mắt lặng lẽ nhìn đầu tóc vàng sém của bà Cà Xợi rồi ngoảnh đi nơi khác. Mẹ ngồi trân trân một lúc, môi bậm chặt. Bỗng mẹ đứng dậy đi vào bếp. Lát sau, mẹ trở ra, cầm một củ gừng già đưa cho chị Hai Thép. Chị Hai Thép cầm củ gừng, liếc thấy mắt mẹ rân rấn. Nhưng mẹ vẫn cắn chặt môi, không nói một tiếng nào cả. Chị Hai Thép nhai củ gừng cho dập ra, xát mạnh lên lưng bà Cà Xợi. Sau đó, chị dùng cái sống lược cạo sồn sột. Thím Ba ú giựt tóc cho bà. Không bao lâu, đã nghe bà rên khe khẽ. Mọi người đã cứu được bà tỉnh dậy. Nhưng khi tỉnh dậy, hoàn hồn nhớ ra mọi việc và sực trông thấy mẹ Sáu, bà Cà Xợi vụt nhào từ trên ván xuống, lết tới, sụp dưới chân mẹ Sáu mà lạy. Bà vừa lạy vừa khóc ròng.
- Bà Sáu lấy cây dao cắt cổ tui đi...!
Mẹ Sáu ngồi trơ ra đó. Rồi mẹ cũng khóc mùi. Chị Hai Thép lôi bà Cà Xợi ra, đỡ bà trên tay. Chị nói:
- Bà Sáu không giết thím đâu... Thím đừng lạy đừng khóc nữa. Bà Sáu với lối xóm đây có thù là thù thằng Xăm, thù thằng Mỹ - Diệm chớ không thù bà Cà Xợi đâu.
- Tui phải giết thằng Xăm! Bà Cà Xợi chồm dậy la lớn. Những ngón tay đen đúa của bà co quắp lại. Mắt bà mở trừng trừng nhìn ra ngoài cửa. Thím Ba ú nói:
- Thôi bây giờ tôi đưa thím về nhà nghỉ, nghe?
- Tui đi, mình ên tui đi được!
- Không, tôi đưa thím đi... Thím Ba ú vừa nói vừa nắm tay bà Cà Xợi dắt đi. Thím đưa bà đi được một đỗi thì gặp Cà Mỵ cũng đang hoảng hốt chạy tìm mẹ. Thím bảo Cà Mỵ:
- Con Mỵ đưa má bây về nghỉ! Phải coi chừng, má bây mới xỉu nữa đó!
Cà Mỵ dìu mẹ về tới nhà thì gà trong xóm đã gáy rộn. Nhưng Cà Mỵ biết đêm chưa tàn. Đấy là gà ngủ được một giấc, mở mắt thấy ánh trăng ngỡ trời sáng nên cất tiếng gáy. Cà Mỵ đặt mẹ lên vạt xong, cô ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào chân vạt. Cô gục đầu xuống, đôi tay khoanh nơi gối, nghĩ tới chị Sứ, nghĩ tới cuộc gặp gỡ tại hang Hòn ban nãy, nghẹn ngào căm tức thằng Xăm. Khác với mẹ mình, Cà Mỵ không đến nỗi đau đớn như thế. Mức độ đau đớn của cô có khác. Cô căm tức nhiều hơn và thương chị Sứ không biết để đâu cho hết. Sau cái chết của chị Sứ, giờ đây Cà Mỵ càng sẵn sàng lao mình vào bất cứ việc gì để hỗ trợ cho cuộc chiến đấu trong hang, để báo thù cho chị Sứ, đồng thời như là để chuộc lại mọi tội lỗi mà thằng anh tàn bạo của cô đã gieo xuống đất này. Cà Mỵ ngồi im tới trăng lặn. Giờ này gà đã te te gáy sáng thật. Cô đứng dậy, đến đằng nhà chị Hai Thép. Cà Mỵ vừa ra khỏi nhà thì thằng Xăm mò đến. Cùng đi với hắn có tên lính hộ vệ người bé nhỏ, đôi mắt láo liên. Đây là lần thứ hai thằng Xăm ghé qua nhà mẹ. Đầu hắn vẫn đội sụp cái kết ba rèm. Lưỡi trai vải phía trước muốn che hết cái trán vốn đã ngắn của hắn, chỉ để lộ ra hai tròng mắt trắng giã. Thằng Xăm đi nghiêng nghiêng, vai trái hơi xệ xuống, không nhúc nhích. Tên lính loắt choắt đi trước vào nhà. Thằng Xăm chưa vào.
Trong lúc trời đất còn mờ mờ chưa tỏ hẳn, hắn đứng giữa sân, niễng đầu nhìn lu nước, nhìn gian nhà trống trước trống sau... Hắn lắng tai nghe tiếng gió giật chái lá xành xạch. Trước mặt hắn cây sua đũa với vòm lá thưa loang loáng hơi sương lâu lâu lại rụng xuống vài bông trắng. Những cái bông sua đũa êm ái chạm mặt đất, không phát ra một tiếng động. Đâu đây xông vào mũi thằng Xăm mùi bùn non quăng quăng của một cái ao mới cạn. Những cái đó, từ tiếng gió giật, từ cánh hoa rụng trong đêm tàn, từ mùi bùn, tất cả hình như gieo vào lòng thằng biệt kích ác ôn nỗi trắc ẩn. Đứng lại mảnh sân nhà hiu quạnh của người mẹ, thằng biệt kích chừng như mới bắt đầu có lại được cái cảm giác thông thường của con người.
Nhưng không chịu nổi lâu với cảnh đó, hắn quay phắt, đi lục xục vào nhà. Bà Cà Xợi đã thức dậy, ngồi trên bộ vạt, chân thõng xuống. Bà biết có thằng Xăm về, vì tên lính hộ vệ vào trước đã cho bà hay. Thằng Xăm vào nhà, đi tới đi lui. Hắn dừng lại trước mặt bà Cà Xợi hỏi:
- Tụi nó đánh má có đau không? Bà Cà Xợi không đáp. Thằng Xăm đi tới đi lui, cánh tay trái vẫn ngay đơ:
- Mà má đi theo mấy con mẹ đờn bà Hòn Đất làm chi... Phải không có má ở đó, tui ra lệnh bắn té hết! Đứng lại giữa nền nhà giờ đã sáng ra, hắn đưa tay mặt bợ cánh tay trái bị thương, hậm hực nói:
- Cái con Sứ đó cứng cổ quá, chém ba dao không đứt. Đồ đờn bà ngu, theo Việt cộng chi cho chết thảm thiết. Con mẹ của nó bạc đầu mà cũng vậy. Biểu khuyên lơn con, không chịu là không... Nè, má biết hôn, tụi trong hang gần chết hết rồi. Không cơm ăn, không nước uống, chịu sao thấu... Chút nữa ráo ráo sương, tui cho lính chất rơm ớt đốt hang nữa, cho thằng nào con nào ở trỏng cũng phải chun ra hết... Nghe thằng Xăm nói, bà Cà Xợi vẫn nín thinh. Thỉnh thoảng bà liếc mắt nhìn nó. Cái liếc nhìn của bà sáng nay trông dễ sợ. ánh mắt bà vừa tỉnh táo, vừa dài dại. Thằng Xăm chợt hỏi:
- Má nè, con Mỵ đâu rồi?
- Nó đi vô xóm! Thằng Xăm ngồi lên bộ ván giữa, ngã người nằm xuống. Hắn ngó lên góc nhà giây lâu bỗng nhổm người dậy:
- Lần này tiêu diệt hết Việt cộng rồi, tôi đóng bót ở đây. Ruộng vườn của ông già, tôi lấy lại ráo. Ai làm ruộng phải nộp lúa ruộng, ai làm vườn phải nộp tiền vườn. Mấy năm rồi, ai giựt thì bây giờ phải nộp thoái, không được thiếu một hột lúa! Bà Cà Xợi nghe hắn nói, ngồi im một chốc mới thốt:
- Thằng Xăm mày nói đóng bót vậy chớ có chắc không? Xăm chỏi chân bật đứng ngay lên:
- Chắc chớ. Nhứt định là tôi đóng bót, cất nhà lại đàng hoàng. Má với con Mỵ cứ ở không ăn, khỏi nắn nồi, đươi đát chi cho cực. Lâu lâu tôi cho xe đưa hai người lên Rạch Giá chơi. Tôi biểu vợ tôi sắm cho con Mỵ nhiều quần áo tốt. Con Mỵ mà sửa soạn vô coi ngộ lắm...
- Thì để coi coi...
- Bà Cà Xợi nói giọng như thường. Đoạn bà bước xuống bộ vạt, đi ra sau chuồng gà bắt luôn hai con gà mái tơ trói lại. Bà xách hai con liệng giữa nhà nói:
- Xăm à, mày với chú lính đây ở lại ăn cơm nghe?
- Được, được! Vẻ mặt thằng Xăm hớn hở hẳn lên. Hắn lột cái kết ba rèm trên đầu liệng xuống ván. Rồi hắn co giày khẽ đá hai con gà, khen:
- Hai con gà này mập đây! Hắn vui vẻ móc bóp, lấy một tờ bạc hai trăm đưa tên lính:
- Hai Nhỏ, mày đi mua rượu. Coi ở tiệm có gì nhậu được cứ mua thêm! Thằng lính Hai Nhỏ rón cầm tờ bạc. Thằng Xăm tháo cái bi - đông ở lưng đưa cho nó, dặn rằng phải mua hai bi - đông rượu, chớ một bi - đông thì không thể nào uống đủ. Thằng lính Hai Nhỏ đi ngay. Đi tới cửa nó sực nhớ cây súng trên bộ ván, quay lại tính lấy. Thằng Xăm khoát tay:
- Cứ đi đi, để súng đây tao coi cho. Không lẽ Việt Cộng ở trong hang lòn ra tới đây giựt súng sao mà sợ! Tên Hai Nhỏ đi rồi, thằng Xăm vẫn tiếp tục sống trong trạng thái vui vẻ. Có lẽ đời hắn dạo gần đây chưa bao giờ được vui như vậy. Bà Cà Xợi nhóm bếp, bắc cái trã đất lên nấu nước. Thằng Xăm nói:
- ở xứ Hòn này xài cái gì cũng bằng đất dở quá. Để rồi mua xong nhôm chảo sắt mà nấu. ở trên Rạch Giá bây giờ đâu có ai xài thứ nồi om trã đất này nữa! Bà Cà Xợi cầm con dao dâu kề và cổ con gà, nghe hắn nói thế thì dừng dao ngó xuống. Bà nhổ thêm mấy cái lông nơi cổ gà rồi kề lưỡi dao vào cắt. Con gà hấp him đôi mắt, kêu khe khé trong cuống họng. Máu ở cổ gà phì ra, nhểu toong toong xuống cái ơ đất kê bên dưới. Thằng Xăm ngồi chồm hổm một bên coi. Hắn buột miệng lẩm bẩm:
- Coi giống máu ở cổ con Sứ nhểu xuống hôm qua quá. Lần này, bà Cà Xợi bủn rủn muốn buông dao. Tim bà thắt lại, nhưng bà cố nén, cầm dao cắt cổ nốt con gà thứ hai. Thằng Xăm thì vẫn ở trong cái tâm trạng vui vẻ.. Hắn giúp bà Cà Xợi một tay, vặt lông gà. Bà Cà Xợi lặng thinh làm gà. Một con gà đem luộc nước dừa xiêm, một con đem rang muối. Hai món này người Khơ - me rất ưa. Một mình bà đứng trông hai bếp. Một bếp bà bắc cái ơ đổ tràn nước dừa, một bếp bà bắc cái nồi om đất. Trong nồi đã có bỏ muối hột và lót vỉ tre. Đợi muối bắt đầu nóng chảy trong nồi, bà Cà Xợi mới đặt con gà đã nhỏ hết nước lên vỉ, rồi đậy kín nắp vung. Bà trông coi hai cái bếp rất kỹ, mắt nhìn nước dừa sủi tăm và tai lắng nghe tiếng muối nổ lắc xắc. Có lẽ trong suốt đời mình, chưa có khi nào bà Cà Xợi nấu nướng chăm chú, cẩn thận như buổi sáng hôm nay. Lúc tên lính Hai Nhỏ xách hai bi đông rượu về, thì lát sau gà cũng đã luộc và rang xong. Con gà luộc chín mọng. Con gà rang khô se. Bà Cà Xợi xé gà xếp vun hai vịm nhỏ, đâm muối ớt và xắc chuối cây trộn ghém. Bà bày đầy chiếc mâm gỗ cũ kỹ mòn mép, dọn lên bộ ván giữa. Trong bữa ăn, bà Cà Xợi không ăn mấy. Bà uống rượu từng chén, ép thằng Xăm và tên lính cùng uống. Đây là bữa đầu tiên bà Cà Xợi ăn chung mâm với con. Thằng Xăm với tên lính Hai Nhỏ nốc rượu ừng ực, ăn thịt gà ngốn ngấu. Hai bi đông rượu đều cạn, nhưng gà thì còn lại hơn nửa con. Bà Cà Xợi nói:
- Để dành cho con Mỵ! †n xong, tên Hai Nhỏ lăn ra ngủ. Thằng Xăm ngồi nói bâng quơ vài câu rồi cũng ngã ra ván quờ tay chụp cái kết vải đậy mặt. Lát sau hắn cất tiếng ngáy khò khò... Bây giờ thì bà Cà Xợi đã đến đứng sát bên bộ ván thằng Xăm ngủ. Tay phải bà xách cây dao dâu. Tay trái bà run rẩy kéo nhẹ cái kết "ba rèm" trên mặt thằng Xăm ra. Mắt hắn vẫn nhắm nghiền, bộ mặt hắn bóng loáng, nhờn nhờn. Bộ mặt này trước kia đã có lúc bà Cà Xợi ghì sát vào lòng, hôn hít. Đôi môi này trước đã ngoạm bú vú bà chùn chụt. Nay bộ mặt ấy thay đổi quá. Hồi đó nó còn là một đứa trẻ thơ. Nay nó là một thằng biệt kích, một kẻ đã từng mổ bụng, moi mật và ăn gan người. Hồi đó nó chả biết gì. Thế mà bây giờ nó biết sống chết cố dựng lại ngôi nhà trên chính cái nền nhà của cha nó bị nông dân phá sụp. Người ơn của mẹ nó thì nó chém chết không thương tiếc, rồi còn bảo con gà bị cắt cổ nhểu máu như thế nào thì người bị nó chém cũng nhểu máu như vậy.
Mẹ nó vốn xuất thân là một người nắn nồi đất, thế mà bây giờ nó nói nồi đất chẳng ra gì, sánh với nồi nhôm. Nó chẳng biết mẹ nó ngày xưa sống được là nhờ những cái nồi đất ấy. Nó cũng chẳng cần biết có nồi đất thì người nghèo như mẹ nó mới nấu được cơm, và có nồi đất thì mới cất được rượu nếp nồng nàn mà nó vẫn ưa uống hơn cả. Thằng Xăm là đứa biết và không biết một cách rất có ý thức về mọi điều đó. Tuy nhiên có lúc, hắn còn biết nghĩ đến một điều là nghĩ về mẹ và em gái hắn. Mặc dù điều này cũng rất đỗi mỏng manh, nhưng chính bởi cái đó nên đã ba lần bà Cà Xợi giơ dao lên rồi lại từ từ hạ xuống. Khốn thay cái bản năng duy nhất có thể cho phép thằng Xăm thoát hiểm cũng lung lay nốt, vì những tội lỗi trên kia đã choáng phủ tất cả, xóa đi tất cả, không để cho người mẹ còn nhận được hắn là con của mình nữa. Cho nên sau những phút chần chừ, do dự, bà Cà Xợi dựng con dao dâu vào vách và chạy ra khỏi nhà. Hồi lâu, giữa lúc thằng Xăm và tên lính hãy còn ngủ thì có hai bóng người lẻn vào cửa sau. Đó là hai du kích còn náu lại ngoài xóm...
Một anh du kích đứng cầm trái lựu đạn gác cửa, còn một anh cầm mã tấu phăm phăm đi riết vào chỗ thằng Xăm ngủ. Thằng Xăm chết ở nhát mã tấu chém phụp xuống đất nặng và gọn. Đầu hắn đứt lìa văng ra cách cái cổ đang phun máu của hắn chừng nửa gang tay. Tên lính Hai Nhỏ nghe động giựt mình choàng dậy, chụp súng. Nó cũng liền bị anh du kích chém đổ ngay xuống ván. Nhát mã tấu này ăn xếch từ dưới lẹm cằm lên tới mang tai tên lính xấu số. Lưỡi mã tấu mắc dính trong đó, anh du kích loay hoay mất một lúc, mới nhấc ra được.
5
Nắng trưa đã rọi thẳng xuống đỉnh các ngọn dừa. ánh nắng in thành vệt trên những đống rơm chất dài trong vườn. Cạnh đó, mấy bao bố chứa ớt khô và vôi bột mà bọn giặc mới vác từ suối đến cứ xếp chồng lên nhau. Đợi mãi chẳng thấy trung úy Xăm đâu, tên thiếu úy Ba ra lệnh cho bọn lính bắt đầu đội rơm lên đầu, chia thành hai cánh, men vào hai bên mép miệng hang. Trông những tên lính vác rơm thật buồn cười. Chúng đi rón rén như kẻ trộm, mặc dù hai khẩu đại liên của chúng đặt trong mé vườn đã được nạp đạn, chĩa nòng vào miệng hang để đề phòng bất trắc. Bọn lính nối đuôi nhau đi mỗi lúc một xa. Khi chúng đi vào tới vạt cỏ ống che khuất đến lưng, thì chỉ còn thấy những đống rơm biết đi, xô đẩy, hêu hêu trên đầu ngọn cỏ. Chúng đến hai bên mé hang, hất rơm trên đầu xuống thành hàng đống dài, vàng lóa. Những thằng lính vác bao ớt bột, vôi bột men ra sau cũng đã đi được nửa đường. Sau rốt tên thiếu úy gọi mấy thằng lính vác sào tre dài lêu đêu, vàng óng, xông vào. (Những cây tre này chúng vừa đốn hồi sáng ngoài bãi tre. Và do đó bà con đã kéo tới chỗ tên thiếu tá làm ầm lên. Khi tên thiếu tá chịu xuất tiền bồi thường thì những thằng lính mới vác tre đi được.) Vào đến miệng hang, tên thiếu úy Ba một mặt cho lính chạy vào xóm kiếm thằng Xăm, một mặt cho rạch mấy bao vôi, ớt. Chúng đổ rắc vôi và ớt bột vào tất cả các bó rơm rồi dùng sào tre xiên qua các bó rơm đó, đẩy tới miệng hang. Rơm mới đùn tới miệng hang thì súng từ trong bắn xổ ra. Rơm khô bị những viên đạn nóng rẫy cọ sát, ngún khói và trong nháy mắt cháy bùng lên. Tên thiếu úy nằm rạp xuống cỏ từ nãy giờ thấy thế liền bật cười hô hố. Hắn co chân đạp gió lia lịa, la lên:
- Tốt lắm, tụi nó mồi lửa giùm mình. Đẩy rơm vô, đẩy rơm vô nữa đi!
Bọn lính cầm sào tre ra sức đẩy rơm tới giữa miệng hang. Lát sau miệng hang đùn đầy rơm, bộn bề, xù xụ. Rơm khô bén lửa cháy phừng lên giữa buổi trưa nắng chang chang. Súng bên trong cũng im bặt không bắn ra nữa. Bọn lính tiếp tục dùng sào đẩy rơm vào miệng hang. Tên thiếu úy vẫn nằm xoài trên cỏ. Theo lệnh hắn, những tên xạ thủ súng máy nằm bên cạnh đã đặt tay lên cò súng, sẵn sàng quét đạn về phía miệng hang nếu có ai từ trong đó vụt chạy ra. Tên thiếu úy chòi chòi hai gót giày giữa khoảng không, đắc chí bảo:
- Đ. mẹ, khói ớt mà chịu gì nổi? Trận này chuột phải bò ra khỏi hang thôi. Hễ thằng nào vọt ra, tụi bây quét liền cho tao! Những tên xạ thủ súng máy mím môi chờ đợi. Nhưng chúng chưa thấy bóng một người nào ra cả. Chỉ có đám lính đứng lố nhố gần miệng hang vụt chạy lùi trở lại. Tên thiếu úy hỏi lớn:
- Cái gì, cái gì mà chạy? Bọn lính không đáp. Thằng nào thằng nấy cứ ôm ngực ho sặc sụa, chạy thoái lui. Thì ra rơm cháy lên, nhưng khói không chịu lùa vào hang. Luồng khói trắng xám bốc từ đống rơm cháy bị gió trong hang lồng ra, cuồn cuộn tạt qua hai bên miệng hang. Bọn lính đứng gần đó bị luồng khói độc địa phả vào mặt. Chúng hít phải hơi ớt và vôi bột, chịu không nổi, vùng chạy trối chết. Nước mắt, nước mũi trên mặt chúng chảy giàn giụa cả ra. Có thằng bị khói ớt xông lên cay buốt tận đỉnh đầu, đứng không vững phải ngồi khuỵu xuống. Có thằng mắt mở ra không được. Vừa đi vừa quờ tay như bị mù. Tên thiếu úy Ba ức lắm, nhỏm dậy chạy lại coi. Hắn cũng liền bị khói phả vào mặt, ho sằng sặc và quay lui. Những luồng khói không ngừng miết vào hai mép hang, lùa theo. Hệt như ở trong đó có người đang quạt thốc khói ra vậy. Nhưng kỳ thực trong đó nào có ai quạt. Lỗi lầm này là cũng bởi tại bọn giặc quá ngu xuẩn mà thôi. Trong một cái hang đã có sẵn khối thể khí, nay lại dồn vào, tất nó không nhận thêm. Ban sáng khi bọn lính đi cướp rơm của bà con trong xóm có để lộ ý định xông hang thì nhiều bà con đã cười thầm trong bụng rồi. ạng Tư Đờn đã nói với bọn lính:
- Tui tiếc chi ba cọng rơm, mấy người muốn lấy rơm đem xông Việt cộng thì cứ lấy. Tui chỉ e không ăn thua gì đâu!
- Sao không ăn thua?
- Không xông nổi đâu! Một tên bảo:
- Thôi, đi vác rơm đi tụi mày, ở đó nói lần khân với ổng làm chi, ổng mù, chuyện giặc giã làm sao ổng biết được! Chúng không dè ông Tư Đờn biết rõ. ạng biết không thể nào xông khói vô hang được, nên ông mới nói thế. Bây giờ lời nói của ông đã được chứng thực. Khói cứ vẫn bay ngược trở ra. Tên thiếu úy mắt nhắm mắt mở bảo bọn lính:
- Như vậy không xong. Tụi bây phải vác sào chỏi đống rơm đó vô miệng hang sâu sâu một chút mới được. Ba bốn thằng lính cầm sào tre, mon men lại gần miệng hang vừa đi vừa tránh khói thổi tạt vô mặt. Chúng đứng lóm thóm tạt đó một chút rồi liều mạng nhảy đại ra trước miệng hang, cầm sào đẩy rơm vào lia lịa. Đống rơm đang cháy bị đẩy vào sâu hơn. Bọn lính đẩy xong vội vàng chạy lùi về. Nhưng lần này tên thiếu úy và cả bọn lính đều thất vọng. Khói trong miệng hang vẫn cứ cuồn cuộn bay ra. Một tên lính dụi mắt càu nhàu:
- Gẫm ra ông già mù trong xóm nói phải. Khói không chịu bay vô mà ăn thua mẹ gì!
- Anh Ba à, nhắm không êm thì mình rút về tính kế khác, chớ láng cháng ở đây...
- Phải đó, ở đây không nên, rủi tụi nó trong hang xổ ra mình trở tay không kịp! Tên thiếu úy Ba tức giận quát lớn:
- Không nên, không nên cái con c...
Tụi nó ra thì sanh tử với tụi nó, không rút đi đâu hết thảy! Hắn lại chửi thề thêm một câu nữa, rất tục. Rủi thay, giữa lúc hắn nổi giận thì từ trong mé vườn có một tên lính hớt hải chạy ra. Đó là tên lính ban nãy theo lịnh hắn vào xóm kiếm thằng Xăm. Tên này chạy đến nơi, mặt xanh mét không còn một giọt máu. Nói như muốn đứt thở:
- Trung... trung úy chết rồi! Tên thiếu úy Ba chưng hửng, chưa kịp hỏi thì tên lính lại hổn hển nói:
- Thằng Hai Nhỏ cũng chết... Trung úy với thằng Hai Nhỏ bị chém. Trung úy đứt đầu. Châu cha, máu chảy đầy một bộ ván...
- Ai chém? Bắt được chưa? Mà chém ở đâu?
- Tại nhà bà già của trung úy. Chưa biết ai chém. Tôi bước vô thấy hai người nằm, ruồi bu đầy cổ, chớ không thấy có ai ở đó hết!
- Thôi chết mẹ rồi, Việt cộng trong xóm bắt đầu ám sát rồi!
- Tao nghi... Mặt tên thiếu úy tái hẳn lại. Hắn hỏi:
- Cho thiếu tá hay chưa? Tên lính đáp:
- Rồi, tôi chạy lên cho ổng hay rồi?
- ổng nói sao?
- ổng đương nhậu, buông rớt bể cái ly...
Tên thiếu úy không hỏi thêm gì nữa. Hắn liền ra lịnh bỏ cuộc un hang. Bọn lính vứt sào tre, không màng tới đám rơm còn đang cháy hù hù. Tất cả kéo nhau qua khoảng đất trống. Những tên lính bị chảy nước mắt và những tên lính không bị chảy nước mắt, tất cả đều bị cái tin rùng rợn kia làm cho chân tay bủn rủn. Đây là lần đầu tiên bọn lính biệt động hoang mang run sợ nhất. Lâu nay thằng Xăm gây cho chúng lòng cuồng tín cao độ. Bọn chúng vẫn tin rằng hễ có mặt thằng Xăm trong trận đánh phá nào thì trận đánh phá đó ắt phải kết quả. Chúng tin rằng đi theo thằng Xăm thì chúng chỉ giết được người khác chớ người khác không bao giờ giết được chúng. Lâu nay thằng Xăm là tiếng reo hò thúc giục chúng xông vào tội ác. Khi phát hiện trên đồng nước một bóng cán bộ nào thì hắn chạy sải tới như ngựa, hạ lệnh rượt đến cùng, dù là đồng nước ấy ngập tới gối, dù người cán bộ đó ở cách xa hằng ba bốn cây số. Đi biệt kích, hắn thường đánh thức bọn chúng dậy giữa đêm mưa và nói rằng chỉ có đi trong đêm mưa mới đánh được Việt cộng. Ban đầu bọn chúng còn rụt rè chưa dám ăn thịt người, thì thằng Xăm nhai nghiến ngấu, luôn miệng bảo trên đời không có thịt con nào ngon hơn thịt con người. Đối với phụ nữ, trừ mẹ và em gái, hắn có thể hiếp bất cứ ai. Sau lúc hiếp hắn còn cắn vú họ, hút máu, và nói rằng máu đàn bà bổ hơn máu đàn ông. Hắn là một đứa như thế. Và chính nhờ thế hắn mới được Ngô Đình Diệm phong là một trong sáu anh hùng của quân đoàn bốn, trấn cứ tại miền Tây Nam bộ. Đại đội biệt kích của hắn chả khác gì con rắn độc, mà hắn là cái đầu. Bây giờ đầu rắn bị chặt rời nên mình rắn là bọn biệt kích kia cũng tức khắc oằn oại.
Trên mặt tên thiếu úy Ba, vẻ hùng hổ đã chết lặng, nhường chỗ cho nỗi hoảng sợ hiện lên là da mặt mỗi lúc một xanh tái. Từ khoảng đất trống dẫn tới mé vườn, hắn đi vấp ngã mấy lượt. Đôi tên biệt kích còn ngó ngoái lại miệng hang. Hôm nay đứa nào cũng thấy trong người rã rời. Cái tin thằng Xăm bị chết một cách đột ngột cùng cuộc un hang thất bại gieo vào lòng chúng nỗi chán ngán đến mệt mỏi. Sau lưng chúng, đống rơm ở miệng hang đã cháy rụi. Khói trắng bay là là ra tới khoảng đất trống. Đống tro rơm trên miệng hang bỗng sụp xuống và phần trên miệng hang lộ ra. Cả bọn kéo về tới bên bờ suối. Tên thiếu tá cũng có mặt ở đó. Khi biết việc đốt hang thất bại, hắn lầm bầm chửi tục, mặt quạu quọ. Từ đêm qua tới nay hắn toàn gặp chuyện rắc rối. Mấy hôm trước dân Hòn Đất còn im lặng. Thế mà từ sau khi hắn xuống lệnh giết chết một người con gái thì ngay đêm đó hắn bắt đầu phải đối phó với bao nhiêu vụ. Nào là dân chúng biểu tình ban đêm, nào là dân chúng bắt bọn lính đốn tre dẫn tới chỗ hắn, đòi hắn phải bồi thường. Rồi thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch hun hang do hắn bày ra đã hỏng bét. Sau khi chửi thề, hắn nói với tên thiếu úy Ba:
- Thôi được, un hang không được thì sẽ lấp hang. Về vụ này tôi nghi trung úy Xăm và thằng Hai Nhỏ bị con mẹ đằng Thổ chém. Nghe nói con mẻ điên...
- Thưa thiếu tá, tôi cũng nghi vậy. Đâu có ai vô đó... Con mẹ đó coi ghê lắm, phải bắt con mẻ mới được!
- Nó trốn rồi. Tự nãy giờ cho lính kiếm giáp xóm mà không gặp. Tôi tính bắt con nhỏ đằng Thổ lai em của trung úy Xăm đem về khảo thử, nhưng dân chúng họ cự dữ quá, họ giựt con nhỏ đó lại...
- Thưa thiếu tá, tụi dân chúng ở đây coi bản mặt đứa nào cũng lầm lầm lì lì. Chắc phải "mổ" vài đứa cho tụi nó hoảng mới được! Tên thiếu tá không đáp, đưa cánh tay đen nhánh lên nhìn đồng hồ. Hắn nói:
- Gần hai giờ rồi. Bây giờ các anh cho lính tới vác xác hai người đem chôn đi. Tôi còn phải lại trường học coi số lính bị thương hổm rày ra sao. Nghe nói họ rên la dữ quá. Đ. mẹ, kêu trực thăng rát cổ họng mà chớ có tới một chiếc. Bộ bị Việt cộng bắn rớt hết rồi sao không biết?...
Tên thiếu tá nói xong, quay lưng kêu bọn lính đi với mình vào xóm... Tại cái trường học mà ngay từ hôm đầu tiên bọn chúng đã vứt tất cả bàn ghế ra sân, tên thiếu tá đứng trước một cảnh tượng khủng khiếp. Trên những tấm vải bạt xám trải đất, bọn lính bị thương nằm chật hết không còn một chỗ trống. Những thân hình xám xịt, hôi hám buộc đầy bông băng cứ ngọ ngoạy tay chân, quờ qua quờ lại. Trên vải bạt vương đầy những miếng bông dán máu khô sẫm và những lớp vải băng tuột ra lòng thòng, giây máu giây đất trông rất bẩn. Bọn lính bị thương chửi rủa luôn miệng và rên rỉ đủ kiểu khác nhau tùy theo thương tích của từng tên. Chúng rên hư hư như trẻ con khóc. Chúng chắc lưỡi hoặc rít dài. Có tên thở hộc hộc và có những tên từ cuống họng chợt phát ra tiếng ơ ớ như người nằm mê gặp mộng dữ, muốn rú lên mà không rú được. Tại đây chỉ còn lại bọn lính bị thương nặng. Bọn bị thương nhẹ có hy vọng tiếp tục cầm súng đã được chở đi hồi trưa hôm qua, cùng chuyến trực thăng đổ xuống lấy xác tên Mỹ. Tên thiếu tá chau mày trước những hình hài lăn lộn, đang rên rỉ và chửi rủa. Mấy tên nằm ở góc ngoài chẳng biết có thấy thiếu tá của chúng đứng đấy hay không, mà chúng cứ lôi tên thiếu tá ra chửi. Nghe chửi một lúc, tên thiếu tá nóng mặt hất hàm bảo bọn lính:
- Tụi bây biểu nó câm miệng đi, không thôi tao xổ cho một băng đạn bây giờ! Một tên lính chạy sấn vào nạt lớn:
- Im đi, làm gì mà cứ rống lên vậy. Thiếu tá bắn chết mẹ hết bây giờ!
- Đ. mẹ, thiếu tá, thiếu tá đâu? Thiếu tá đâu? Mấy tên lính càng chửi dữ rồi chồm tới phía cửa, muốn chụp chân tên lính vừa nói. Tên lính hoảng sợ rụt chân, lui lại. Bọn bị thương gào lên như xé họng. Chúng bò nhoài ra phía cửa hông ngôi trường, chửi xối xả vào mặt tên thiếu tá, bảo rằng chính hắn đã bắt chúng đi chết bỏ vợ bỏ con. Tên thiếu tá đứng yên cúi nhìn mấy tên lính bị thương đang chồm về phía mình. Hắn thét:
- Câm, tao biểu câm miệng! Nhưng bọn này cũng không ngớt lời nguyền rủa. Chúng còn hăm nếu chúng mà chết, chúng sẽ bắt hồn tên thiếu tá đi theo. Một bàn tay dài ngoẵng của tên lính đã vớ lên tới mũi giày da đen cao cổ bám đầy bụi của tên thiếu tá. Tên thiếu tá nháy mắt bảo tên lính mang tôm - xông đứng gác tại cửa.
- Bắn nó cho tao! Tên lính kéo khẩu tôm - xông ra khỏi vai. Nhưng rồi tên lính ấy cứ đứng trơ ra, miệng há hốc, ngón tay đặt nơi cò súng cứ run lẩy bẩy. Nó không bắn được. Tên thiếu tá không đợi nữa. Hắn thò tay mở bao súng, rút khẩu côn 12 chĩa xuống cái đầu băng bó đỏ lòm dưới chân mình bắn "đẹt" ngay một phát. Người lính bị thương chúi đầu xuống, hai bàn tay đang ôm lấy ống giày tên thiếu tá từ từ buông rời ra. Sau khi giết chết tên lính, tên thiếu tá quay mũi súng sang tên lính cầm tiểu liên tôm - xông, nghiến hàm răng vàng lóa:
- ‰, sao biểu bắn mày không bắn mậy? Tên lính không đáp. Nhưng khẩu tôm - xông trong tay tên lính tự nhiên cũng chĩa vào người tên thiếu tá. Hai họng súng đều run run. Tên thiếu tá bỗng tái mặt. Hắn thấy đôi mắt tên lính bây giờ đỏ ngầu, và bàn tay trái của tên lính nắm chặt lấy băng đạn tôm - xông còn đầy ắp. Lát sau, tay súng ngắn tên thiếu tá từ từ hạ xuống. Hắn vừa đưa mắt nhìn tên lính, vừa cho súng vào bao. Tên lính thì vẫn cứ chĩa họng súng vào người hắn. Đến mấy giây sau, tên lính mới chúc mũi súng, khoác mạnh vào vai. Rời cái trường học cứ văng vẳng tiếng rên la, tên thiếu tá nghĩ:
“Mình phải giết thằng này mới được. Nếu không, nó sẽ bắn mình. " Tên lính cũng mấy lần liếc nhìn tên thiếu tá:
“Thế nào nó cũng trả thù. Có dịp là mình phải bắn hạ nó trước! " Trên đường đi, hai tên cùng một lúc đoán đúng bụng dạ và ý định của nhau. Tới gần bốn giờ chiều, một chuyến máy bay trực thăng của giặc đến Hòn Đất. Giữa tiếng sóng biển, động cơ trực thăng vẫn vọng rõ, nghe hù hù, ở bên trên tiếng sóng. Đến lúc người Hòn Đất nghe tiếng động cơ ầm ầm thì ngước mắt lên, họ đã trông thấy tất cả có sáu chiếc từ phía biển bay vào. Gồm có bốn chiếc trực thăng hai động cơ mà bấy giờ bà con đã quen gọi là "sâu rọm" và hai chiếc loại một động cơ được gọi là "cán gáo". Cái hình thù của những chiếc trực thăng này nom rất quái đản. Nó gieo cho bà con nông dân thuần phác cái ấn tượng về sự bất lương, vừa thô bạo lại vừa rất đỗi ma mị. Trên vòm trời xanh ngăn ngắt, những hình thù đó hiện ra ngọ ngoạy lủi tới, đe dọa mọi người. Khi chúng bay qua khỏi bờ biển trào sóng lập tức cả sáu chiếc đều sà xuống thấp. Những cái chong chóng to lớn ở gần đầu và gần đuôi chúng quay tít, kêu lạch bạch, tưởng chừng như chúng sắp sửa đổ xuống đến nơi.
Nhưng không, chúng vẫn đang bay. Có điều là chúng bay thấp, nên vườn lá liền chuyển động. Những tàu lá dừa gặp phải trận gió cuộn lốc, lúc oằn xuống, lúc cong vút lên. Vườn vú sữa, vườn măng cụt, vườn li - ki - ma bỗng rào rào, vật vã. Tất cả mọi chiếc còn đẫm ánh mặt trời bị thổi riệt, bay lật ngược ra sau thân cành. Đàn trực thăng nặng nề sà qua những vườn quả đó, nơi màu xanh mươn mướt của cây lá tiếp giáp với màu xanh sẫm của biển chiều. Những con quái vật này rít rống, rền rĩ bay qua trên đầu những trái măng cụt nâu rám, trái vú sữa tím ửng, trái mãng cầu ta xanh phơn phớt và như có rắc phấn. Chúng bay qua Hòn Đất nín lặng, bấy giờ ở miệng hang còn lơ lửng vài làn khói rơm yếu ớt, mong manh như những sợi chỉ. Đàn trực thăng bay qua khỏi Hòn Đất một đỗi bỗng vòng trở lại ruộng trống. Lần này đầu máy bay trực thăng nhủi xuống. Tiếng động cơ nổ ầm ầm, vang rền. Trông chúng giống như những con cá lóc bơi vội, mà những chong chóng trên thân thì lại giống như những cái vây cá đang quạt. Cửa hông sáu chiếc máy bay đều đã mở hoác và bắc sẵn thang. Mấy tên lính Mỹ ló đầu ra các cửa sổ ấy, ngó xuống. Tên Mỹ nào cũng đeo kính đen lớn, mặt đỏ gay. Sáu chiếc trực thăng lần lượt hạ xuống mặt ruộng. Những gốc rạ liền vật vã, cơ hồ như sắp bị nhổ bật cả lên. Khi những chong chóng trực thăng lạch bạch quay chậm lại thì bọn lính trong vườn ùa chạy ra. Hai tên Mỹ từ trên máy bay bước xuống thang, đi về phía chúng. Hai tên Mỹ xì xồ nói gì, rồi có mấy tên lính chạy trở vào ven vườn. Bọn lính còn lại đi đến chỗ các máy bay đậu, leo lên thang. Chúng khuân trong máy bay ra rất nhiều bao xi - măng, một số thùng sắt sơn xám, và cuối cùng là một cái chân máy chiếu bóng cùng những cái loa lớn. Tên thiếu úy tâm lý chiến bộ mặt vênh váo chạy lộp bộp đến bên thằng lính vác cái chân chả ba. Hắn rờ rẫn cái chân máy chiếu bóng, nói với lũ lính:
- ý kiến của tao đã được bên trên chấp thuận. Hay lắm, máy móc và phim đã tới. Anh em sẽ được coi xi - nê!
- Hát bóng hả thiếu úy?
- Phải, hát bóng! Bỗng phía sau lưng, một tên lính thở dài:
- Non nước này mà còn hát bóng. Vui vẻ gì mà hát! Tên thiếu úy nghe lọt tai câu nói. Hắn trề môi:
- ‰, không phải chiếu cho tụi bây coi đâu. Đây là chiếu cho tụi Việt cộng và dân chúng coi, hiểu chưa?
- Sao lại chiếu cho Việt cộng và dân chúng coi, thưa thiếu úy?
- Tụi bây khờ quá, đánh với Việt cộng mà đánh bằng súng không đâu có được, phải đánh bằng cả tâm lý nữa chớ. Để tao nói cho nghe, bộ phim này là bộ phim của Huê - kỳ, gay cấn lắm, quay cảnh Huê - kỳ đánh với Trung cộng và Bắc Cao tại một trái núi Huê - kỳ đánh tan trái núi đó tụi Trung cộng và Bắc Cao chết không còn một mạng... Tên thiếu úy dừng lại tự trỏ vào ngực:
- Sáng kiến của tao đó nghe. Tao yêu cầu trên cho đem chiếu bộ phim đó trước cửa hang để tụi Việt cộng trong hang coi đặng rủn chí. Chừng chiếu sẽ dồn dân Hòn Đất tới coi nữa, cho nó ngán... Bọn lính tấm tắc:
- Vậy thì hay lắm! Một tên vọt miệng khen:
- ờ, chiếu cái tuồng đó chắc tụi nó ớn. Thiếu úy có sáng kiến thiệt. Hèn chi thiếu úy theo ngành tâm lý chiến là phải! Tên thiếu úy được khen phổng mũi. Hắn lấy giọng nghiêm trang:
- Đánh với Việt cộng phải đánh vậy mới được chứ. Nè, mà tao dặn, tụi bây biết vậy thôi. Không được đi nói rum nghe chưa? Bọn lính bảo là sẽ không nói với ai. Chúng hè hụi khiêng vác đồ đạc vô vườn. Bọn này đi vô tới vườn thì gặp số lính bị thương cũng được võng ra tới. Tất cả có đến ngót năm mươi tên, mình mẩy băng bó, đứa nằm cong mình như con tôm, đứa nằm ngoẻo đầu trên mặt võng. Những chiếc võng ấy đi tới đâu là đem theo mùi hôi thối và tiếng rên la tới đó. Trên mặt ruộng ngả chiều, bọn lính khiêng võng đi xồng xộc. Võng bố cứ oặt òa oặt oẹo đưa đẩy thân hình các tên lính đang oằn oại kia không chút thương xót. Trong bọn lính cáng võng có những tên ngồm ngoàm cạp một trái mãng cầu ta hoặc một trái vú sữa mà chúng nhặt được trong vườn. Mặt các tên lính đó coi hám ăn, hau háu. Trông chúng mới thản nhiên làm sao, trông chúng vẫn như thường. Nhưng dù thế, chúng cũng còn ra sức khiêng vác bọn bị thương. Chỉ có bọn Mỹ mới thực là lạnh nhạt. Phần lớn chúng đều ngồi trên máy bay đã đậu im. Chỉ có hai tên xuống lúc nãy, giờ đứng trên khoảng đồng, miệng ngoạm điếu thuốc dài non gang tay, phì phèo. Cả hai đều đứng xoạc chân, một tay khoanh nơi ngực, một tay thỉnh thoảng lại giật phắt điếu thuốc ra khỏi mép. Khi những chiếc võng oặt oẹo tiến tới, chúng khẽ nhấc cặp kính đen đeo mắt xuống để nhìn. Rồi cả hai tên như cùng một lúc đứng nánh ra, đưa bàn tay phẩy ngang mũi. Từng chiếc võng cứ thế nặng nề đi qua cùng với tiếng rên và mùi hôi thối. ở một vài chiếc võng thấy nhễu xuống những giọt gì, không rõ là máu hay là mủ, hay là nước rỉ vàng. Hai tên Mỹ ngoảnh mặt chỗ khác, rít thuốc, khạc nhổ lia lịa xuống ruộng.
Đám lính khiêng võng lần lượt đi qua. Những tên đi đầu sau khi trút bọn bị thương lên sàn máy bay, giờ đã quành lại. Chúng kéo lệt bệt đôi chân giày của chúng và lôi xệch những chiếc võng không trên ruộng rạ. Sáu chiếc trực thăng bắt đầu nổ máy trở lại. Đầu tiên động cơ gầm gừ làm cho máy bay như rùng mình nhất loạt. Sau đó chúng mới gầm lớn hơn, lớn hơn nữa. Những cái chong chóng gỗ ép nãy giờ rũ cụp xuống, nay lại dửng lên, từ từ quay. Chong chóng quay nhanh dần, nhanh dần rồi sau cùng chỉ thấy vun vút, loang loáng và phát ra tiếng ù ù, lạch bạch. Lúc máy bay sắp cất cánh, tên thiếu tá ra tới. Hắn bắt tay hai tên Mỹ đứng dưới ruộng, nói chuyện với chúng. Trong câu chuyện, đôi khi hắn cau mày. Mặt hai tên Mỹ thì cứ khinh khỉnh. Thằng trung úy Mỹ vừa nói bằng cái giọng nghẹt mũi vừa hút thuốc, hút hết điếu này hắn lại mồi điếu khác. Về sau một tên Mỹ trên máy bay thò tay ra cửa sổ ngoắc và la:
- Quick, quick! Hai tên Mỹ quay lưng chạy về phía máy bay. Tên thiếu tá chạy theo đến bên chiếc máy bay "cán gáo" mà hai tên Mỹ vừa leo lên. Tên trung úy Mỹ thò đầu ra, vẫy tay chào hắn. Hắn đứng khựng, mái tóc chải ốp xửng lên, cứng còng trước cơn gió cuộn của các cánh quạt trực thăng. Sau cùng hắn giơ cả hai cánh tay ra, nói lên:
- If you please, if you please. Tên trung úy nhếch miệng cười, gật gật đầu. Hắn khoát tay ra ý bảo tên thiếu tá lùi ra. Tên thiếu tá vội đi giật lùi. Máy bay bắt đầu nổ máy mạnh hơn. Cặp thứ nhất bốc thân mình khỏi mặt đất. Chúng bay lên từng cặp một. Tên thiếu tá nãy giờ như đứng giữa trận giông khô. Đồng rạ dưới chân hắn chấp chới muốn bứt gốc bay lên hết cả. Lúc những bụi rạ ấy đứng yên lại như cũ thì lạ thay, có những bụi không cất lên. được nữa. Màu rạ mới trước vàng tươi, nay chợt xám ngoét. Không phải chỉ có chỗ trực thăng hạ, cũng không phải những bụi rạ này bị sức gió thô bạo của những cái chong chóng trực thăng kia xô bẹp. Đây là do những mùi máu hôi thối từ các võng nhểu xuống ban nãy, cộng thêm ánh nắng hắc của ngày tàn, nên mấy bụi rạ đó mới sinh thối lây, rủ nhẹp xuống. Tên thiếu tá theo cái lối mòn rạ cũ đó mà đi vô vườn. Trong lúc sáu chiếc trực thăng một lần nữa ầm ã chở những tên lính hấp hối sà ngang vườn cây Hòn Đất, bay ra biển.
Tên trung úy ngồi ló đầu ra cửa sổ máy bay. Sau làn kính râm màu xám nhợt, hắn nhìn thấy sóng biển chạy trườn vào bờ, rồi sóng ấy sủi trào, giạt trở lại. Hắn còn nhìn thấy bãi cát dợn lên lăn tăn, dấu vết của nước triều cùng ngày tháng. Và kia, những cái cọc nò nhô khỏi mặt biển không ngớt bị sóng vỗ vã. Một cái nhà trại cất trên những cột to phơi đầy lưới, chung quanh bồng bềnh vài chiếc ghe và xuồng. Trại nò với hàng rào cách khoảng ấy gợi tên trung úy nhớ tới những cái tháp đèn và những phù tiêu trên một cửa biển nào đó mà hắn đã có dịp đi qua. Đấy là ranh giới cuối cùng đã đặt ra cái hòn xanh thẳm rất đỗi xa lạ kia ở lại sau lưng hắn. Những chiếc trực thăng bay tới với tốc độ mau hơn. Giữa tầng không, bấy giờ chợt hiện ra mấy cụm mây khói đen trĩu nước và biển bên dưới hình như đã bắt đầu sôi sục. Sóng biển trong nháy mắt chuyển từ màu xanh mênh mông trở thành màu chì xám xịt. Tên thiếu úy rụt đầu vào, hạ tấm cửa kính dày xuống, lẩm bẩm.
- Trời xấu rồi!
- Có lẽ sắp mưa. Tên thượng sĩ ngồi bên nói. Tên thượng sĩ nói xong đứng bật dậy khỏi ghế da, ghé mắt dòm xuống mặt biển chao sóng, miệng thì thào, run run:
- Thưa trung úy, chúng ta ra tay đi thôi!
- Còn gần bờ lắm! Tên trung úy đáp và đưa tay lên xem đồng hồ. Hắn bảo:
- Năm phút nữa.
Cánh tay đeo đồng hồ của tên trung úy đặt lên tấm kính cửa sổ, rờ rờ. Mấy ngón tay múp míp mọc đầy những sợi lông vàng xoăn của hắn lướt trên mặt kính ngọ ngoạy, bồn chồn. Từ khi bốc lên khỏi mặt đất, thân máy bay rung chuyển không ngớt. Những người lính bị thương nặng nằm trên sàn máy bay càng thêm vật vã. Tiếng rền rĩ của họ bị động cơ ầm ầm lấn át không còn nghe thấy gì nữa. Thân máy bay rung chuyển bắt máu từ các vết thương họ chảy ộc ra. Trường hợp chấn thương này mới ghê gớm hơn cả mọi trường hợp chấn thương khác. Nó không va xốc mạnh, nó chỉ đánh động từ từ, với nhịp độ đều đều mà không dứt. Nó là sức máy, vì vậy nó lâu bền một cách độc ác. Máu của từng người lính bị xốc cho chảy ra, lúc đầu còn ri rỉ, về sau cứ tuôn ồng ộc. Sàn máy bay làm bằng chất nhựa đỏ rám mặt sạn bây giờ ướt sũng máu. Và máu đó tìm chỗ chảy. Qua các đường hở nơi bậc thang, máu nhểu giọt, hòa vào cơn mưa đã bắt đầu giăng kín bầu trời, bay xiên xuống mặt biển trắng mịt như sương như khói. Tên trung úy Mỹ đứng dậy bỏ chân bước ngang mình bọn lính bị thương nằm nơi sàn. Hắn rẽ ngoặt vào buồng đặt máy vô tuyến điện thoại. Lát sau hắn trở ra, bước vụt qua mình các tên lính. Hắn bảo tên thượng sĩ:
- Bắt đầu đi!
Tên thượng sĩ cởi áo, rón gót giày bước tới sát vách máy bay. Hắn rùn chân nắm chặt lấy một cái vòng sắt coi giống như cái "vô - lăng" xe có quấn đầy dây cáp, thòi ra nơi vách. Tên thượng sĩ đưa mắt liếc nhìn bọn lính nằm dưới sàn nhựa lần nữa, rồi nghiến răng xoay mạnh cái vòng sắt. Dây cáp tuồn tuột tháo ra. Lớp sàn bỗng nhiên trụt hẳn xuống, trống hoác một lỗ vuông vức độ hai thước cạnh. Bảy tám tên lính bị thương vụt chuồi người theo khoảng sàn nhựa vừa há ra đó, bay hắt đi. Còn vài tên không nằm đúng trên khoảng sàn, lập tức bị tên trung úy Mỹ co giày đạp hất xuống. Có tên chỉ kịp kêu "trời ơi! " rồi lọt thỏm xuống ngay. Tên sau rốt, lọt cả người xuống rồi, nhưng hai tay với kịp, cố bám rị lấy thành sàn. Thằng trung úy co giày định hất đôi tay ấy ra. Nhưng không biết nghĩ sao, hắn lại khom lưng cúi nhìn bàn tay người lính đang cố bấu víu lấy mép sàn. Đôi bàn tay của người lính lóng cóng, các đốt rã rời buông dần, buông dần từng phân sàn nhựa. Cuối cùng không cưỡng nổ sức gió bên dưới, mấy ngón tay đó buông hẳn. Đám lính dẫu bị thương nặng mấy, lúc rớt xuống biển họ cũng chợt tỉnh lại. Vì nước biển chiều mưa âm ấm đã lay dậy sức sống cuối cùng trong ngót năm mươi cái cơ thể đớn đau. Chính làn nước biển đã giúp họ hiểu ra những phút giây khốn đốn nhất của đời họ. Khi biết rằng đây là cái chết thật sự, những con người đó bơi lội giãy giụa một cách tuyệt vọng trong sóng. Máu hòa vào với nước biển. Và nước biển mặn lại xát vào các vết thương trên người họ. Không mấy chốc họ đều đuối sức. Những lớp sóng màu chì lần lượt nhận họ chìm xuống. Những người cố vùng vẫy nhất rốt cuộc cũng bị sóng đánh gục. Tất thảy bốn mươi sáu người lính bị thương đều chìm nghỉm xuống mặt biển chiều hôm đang gầm gào, xám xịt mưa dông.
6
Hạ sĩ Cơ nhấc ly rượu uống một hơi. Ba người lính bảo an trạc tuổi anh ta cũng nhấc ly lên uống. Họ đặt mấy cái ly xuống ván, thò tay rón lấy mỗi người một thớ khô mực xé để trên đĩa. Mưa rơi trên mái quán thím Ba ú mỗi lúc một nặng hạt. Tự nãy giờ thím Ba đứng ngoài cửa nhìn trời. Thấy trời đổ mưa to, thì thím mừng lắm. Ngay từ lúc mây khói đen bay nhanh và gió trở ngọn lành lạnh, thím đã bảo bụng:
“ờ, mưa đi ông, làm ơn mưa dùm một trận lớn cho anh em tôi trong hang nhờ coi! " Sau khi nướng xong mực cho mấy người lính "cảm tình", thím Ba ra đứng luôn tại cửa. Đặt hai bàn tay xòe hết ngón nơi cạnh sườn, thím ngóng nhìn cụm mây đen kịt. Chưa bao giờ thím trông đợi trời mưa như bữa nay. Khi mưa rắc hạt xuống mái nhà, thím lại mong tiếng rơi của nó hãy nặng hơn.
- ạng trời làm coi được quá mấy cậu ơi! Thím bước vô nhà và nói với bốn người lính như vậy. Hạ sĩ Cơ bảo:
- Chẳng biết mấy ổng ở trỏng có hứng được nước mà uống hay không?
- Được chớ!
- Thím Ba ú nói nho nhỏ.
- Phải, không khát đâu. Hễ có mưa là nước chảy lọt vô kẽ hang, thiếu chi! Hạ sĩ Cơ nói:
- Mọi khi ra gần giêng ít khi có mưa lớn lắm! Thím Ba ú cười tủm tỉm, nói giọng nửa giỡn nửa thật:
- Thì mọi năm có như vậy đâu... Tôi gẫm ông trời ổng ủng hộ cho Việt cộng đó a mấy cậu!
Một anh lính ngồi ở trong ngó châm bẩm những giọt mưa trên mái nhà tí tách rơi xuống cái rãnh ngoài cửa bấy giờ đã có nước cuộn chảy và nổi nhiều chiếc bong bóng nhỏ xíu. Người lính ấy nói:
- Còn tôi, hễ ngó trời mưa là tôi rầu thúi ruột. Hồi giữa cái năm tôi bị bắt lính thì mái nhà tôi đã rệu quá cỡ. Lớp lá "cần đốp" thì giỏi gì một năm cũng phải lợp lại. Đằng này chịu đựng gần hai năm, chịu sao thấu? Rầu nhứt là mưa đêm, vợ la con khóc, vác chiếu chạy tới góc nào cũng đều bị dột. ở trong nhà không khác chi ở ngoài sân. Nên ông trời ổng đổ mưa là ổng hại tôi. Giờ tôi ngồi đây chớ vợ con ở nhà không biết chừng bị ướt ráo trọi rồi cũng nên... Người lính dừng lại. Hai ngón tay anh ta se sẽ thớ khô, nói tiếp:
- ở chỗ tôi lá lợp nhà mắc lắm. Hồi thời bình lái lá ở miệt Thứ chở lên còn dễ. Bây giờ giặc giã, khi lên khi không, mà bây giờ lái lá có chở lên cũng phải bán cho nhà vựa, chủ vựa là mấy lão hội đồng xã mua của lái với giá hai ngàn một thiên, bán ra hai ngàn tám, ba ngàn sấp lên. Vợ con tôi đào tiền đâu ra mà mua?... Kẹt lắm, ở xứ tôi kẹt lá lắm!
- Xin lỗi vậy chớ xứ cậu ở đâu?
- Thím Ba ú hỏi.
- ở Chắc - cà - đao, trong khu trù mật! Thím Ba ú liếc nhìn người lính:
- Chắc - cà - đao thì tôi biết... Nhưng... nhưng mà... Thím nói tới đó, liền hạ thấp giọng hỏi vừa đủ để người lính nghe:
- Cậu... cậu tính đi mà lại đi về khu trù mật nữa sao?
- Không, không, khu trù mật đó bể rồi... Bể hồi tháng chín! Thím Ba mới vỡ lẽ:
- ạ, ạ... ra vậy...
Trong lúc bên ngoài mưa tầm tã, thím Ba khi bước xuống đất, khi ngồi lên ván, đong rượu rót rượu. Hết khô thì thím chế rượu đó ra đĩa, nướng khô bằng ngọn lửa rượu chờn vờn, tim tím. Hết dấm thì thím sớt dấm. Mọi việc đó thím lo chu tất, gọn gàng. Mấy người lính đều khoan khoái, song cũng vẻ hơi cóm róm. Họ xuýt xoa miệng, xoắn đôi bàn tay vào nhau hoặc rờ rẫm đưa lướt tay tới lui trên đùi. Xem ra họ có vẻ sung sướng lắm, chừng như trong cuộc đời làm lính mướn khổ nhục của họ thì cái buổi chiều mưa lạnh được ngồi nhâm nhi này không phải dễ kiếm. Mà cũng không phải người chủ quán nào cũng đối xử tử tế như thím Ba đây. Nên trong sự khoan khoái cóm róm kia của họ còn có sự cảm động. Gần một tuần lễ ở đây, họ đã tới quán thím Ba năm bảy lượt. Đầu tiên là hạ sĩ Cơ, về sau hạ sĩ Cơ rủ rê dắt thêm họ. Hôm kia hạ sĩ Cơ đã ngỏ ý với thím Ba là họ muốn bỏ trốn, nhờ thím mối mang giúp đỡ họ lọt qua Vàm Răng, thì thế nào họ cũng kiếm cách về được nhà ở Mặc - cần - dưng, Ba - dầu, Vĩnh - hanh và Chắc - cà - đao. Nên bữa chiều nay họ lại tới quán. Mấy người lính tiếp tục uống rượu. Thím Ba ú cứ đưa tay rờ mép cái đĩa khô mãi một lúc rồi mới nói:
- Tôi thấy mấy cậu đi cực khổ, bỏ vợ bỏ con thì tôi cũng bứt rứt, nên tôi có hứa giúp mấy cậu. Hứa là hứa vậy, chớ thiệt ra cũng ăn thua ở mấy cậu thôi... Không biết mấy cậu đã quyết ý chưa, tôi cũng ngại... Hạ sĩ Cơ vội bảo:
- Thím đừng ngại, tụi tôi nhứt quyết rồi mà. Xin thím giúp cho được sớm chừng nào tốt chừng nấy. Hồi nãy thím không thấy trực thăng nó tới chở tụi bị thương bay khẳm đừ đó sao. Nếu mà thím thiệt lòng muốn tụi tôi thoát khỏi cảnh đó thì thím phải giúp tụi tôi mới được!
- Đành là tôi giúp... nhưng mấy cậu phải dứt khoát không do dự...
- Dứt khoát chớ, bộ thím không tin tụi tôi sao?
- Người lính quê ở Chắc - cà - đao nói.
Thím Ba ú bèn cười. Lát sau thím buông rời hai ngón tay khỏi mép đĩa, nghiêng người sang hạ sĩ Cơ nói ghé vào tai anh ta:
- Thôi được, ngày mai trời sụp tối, cậu Chín dắt anh em lại ngã ba đây, tôi đợi...
- Dà!
- Nhớ nghe, mấy cậu phải y hẹn. Nếu trật vuột thì không có dịp nào nữa đâu, tôi đã...
- Được rồi, được rồi! Hạ sĩ Cơ gật đầu liên tiếp hai ba cái. Thím Ba ú lại rỉ tai anh ta:
- Cậu dặn anh em là phải giữ kín. Tôi tin ở cậu...
- Không sao, thím đừng lo! Hạ sĩ Cơ uống thêm một ly nữa rồi bước xuống đi ra cửa. Thấy cơn mưa đã ngơn ngớt, anh nói:
- Thôi, uống hết chỗ rượu đó rồi về anh em! Ba người lính uống cạn ba ly rượu. Họ bước ra đứng nơi cửa, lóng nhóng rồi kẻ trước người sau chạy vụt ra đường. Sực nhớ lời chị Hai Thép mới căn dặn, thím Ba còn níu áo hạ sĩ Cơ dặn thêm:
- Về vụ súng ống, có thêm cây nào nữa thì càng hay, nhưng khó quá thì thôi nghe, không nên lấn cấn lâu, dễ lộ. Cứ vác bốn cậu bốn cây cho chắc... Nhớ sụp tối ra ngã ba, tôi đợi mấy cậu ở đó... Bà con có gom góp được ít tiền cho mấy cậu làm lộ phí, đừng lo... Hạ sĩ Cơ nghe vậy thì cúi thấp đầu, mắt hấp háy. Anh ta khẽ nói:
- Thôi tôi về nghen thím! Anh bước thoắt ra cửa, bấu mũi giày lên mặt đường đất trơn nhẫy, chệnh choạng chạy theo ba người lính phía trước. Chốc sau, anh đã đuổi kịp họ. Trong cơn mưa dịu bớt, anh vừa nhanh chân bước vừa lào phào nói cho ba người lính bạn anh biết những điều mà thím Ba ú vừa nói với anh. Cơn mưa ngớt, nay lại đổ ào xuống, lớn hơn. Bốn người lính lại chạy, tay giơ lên, chới với. Mưa mỗi lúc một to. Thoáng thấy bóng cây me lờ mờ hiện ra sau màn mưa giăng, hạ sĩ Cơ chỉ tay nói:
- ở đó có nhà của ông già mù. Rán tới đó đụt. Họ chạy riết tới cây me. Bốn người dừng đứng dưới gốc me, rũ rũ quần áo một lúc rồi chạy vô nhà ông Tư Đờn. ạng già đang ngồi nứt vành cái rổ xúc, nghe tiếng giày lộp bộp thì biết ngay là lính. ạng còn phân biệt được đó là tiếng giày bố nữa, nên biết chắc là lính bảo an. Đứa cháu gái khoảng mười hai mười ba tuổi ở trong bếp chạy ra, đứng quệt quệt tay vào ống quần hỏi:
- Mấy ông kiếm gì?
- Không, ghé đụt mưa chút mà em! Một anh lính đáp và day sang nói với ông Tư:
- Bác làm ơn cho tụi tôi đụt nhờ nghe bác! ạng Tư vẫn buộc cái vành rổ:
- Mấy ông cứ đụt! Đứa con gái liếc mắt ngó họ rồi chạy vào bếp. Bốn người lính ngồi chồm hổm dưới đất, khoanh tay rế, ngó coi ông Tư nứt vành rổ. Một anh tấm tắc:
- Bác đương cái rổ xúc này khéo quá!
- Tôi đương vụng chớ không đặng khéo đâu! ạng Tư thoái thác. Anh lính hơi cụt hứng, xẽn lẽn. Nhưng anh lại cố hỏi thêm:
- Như bác đương một ngày được mấy cái
- Có nan sẵn thì hai cái! ạng Tư đáp gọn lỏn. Hỏi câu nào ông trả lời câu đó chớ không trả lời hơn.
- Bác đương rổ như vậy kiếm ăn đủ không? ạng Tư từ từ ngước cặp mắt tối đục:
- Không đủ thì cũng phải đủ chớ ông. Tật nguyền như tui thì làm bữa nào đong gạo bữa nấy. Đâu thể bằng thiên hạ được...
- Tụi tôi đi đây cũng chỉ đủ ăn gạo như bác thôi, chớ sung sướng khỉ gì! ạng già nghe nói chợt buông lỏng cọng mây trên tay:
- Mấy ông nói tui nghe không lọt. Thân già tàn tật như tui bì sao được với mấy ông kia chớ. Mấy ông còn đủ tay chân, cầm súng rong ruổi, tháng tháng lãnh lương, rồi thường khi còn kiếm được con gà con qué, mà mấy ông nói không sung sướng. Tui nghe không lọt...
- Nói bác không tin, chớ tụi tôi cực lắm...
- Tui biết mấy cậu cực, cực mà đi tới đâu cũng có thịt trâu, thịt gà ăn... Hạ sĩ Cơ buồn rầu chắc lưỡi:
- Bác ơi, bác đừng nhiếc tụi tôi chi tội nghiệp. Tụi tôi không phải như mấy thằng bắn trâu bắt gà của bà con đâu! ạng Tư mò kiếm cọng mây, tiếp tục xỏ buộc vành rổ:
- Tui đâu dám nhiếc mấy ông. Mà tui cũng đâu biết là ông lính nào bắt gà, ông lính nào không bắt gà... Tui chỉ biết lính mấy ông cốt tử là hay bắn trâu, bắt gà. Mới hôm qua đây bắt con gà mái đẻ của tui còn nằm trên ổ, cháu tui chạy theo giành hết sức mà giành không lại.
- Tụi nó khác, tụi tôi khác bác à. Tụi tôi trước cũng là dân ruộng, chết đói thì chết chớ không giựt đồ của cô bác đâu!
- Mấy ông nói vậy thì tui biết vậy chớ tui đâu biết hơn được!...
- Tụi tôi nói thiệt mà!
- Thôi thì tui cũng cho là mấy ông nói thiệt. Kể như bây giờ mấy ông còn tử tế, nhưng tui e đi hoài kiểu này thế nào mấy ông cũng làm ẩu. Đi lính "quốc gia" mà không giựt đồ, tui không tin! Bốn người lính ngó nhau, không biết nói năng sao với ông Tư nữa!
Mưa bên ngoài vẫn tầm tã. Trời tối mịt. ạng già bỗng dịu giọng và đổi cách xưng hô:
- Mưa lớn quá, trời tối chưa mấy cậu?
- Tối rồi! ạng Tư réo cháu:
- Tím ơi, đốt đèn đi con! Con bé ở trong bếp đang thổi lửa phù phù. Hồi sau nó rón rén bưng thếp đèn mỡ cá đi ra, đặt lên chõng tre. Rồi nó dọn đĩa chén. Nghe đứa cháu quơ đũa rột rẹt, ông Tư buông cái rổ hỏi bốn người lính:
- Mấy cậu ăn cơm chưa?
- Dạ rồi!
- Tưởng chưa thì ở ăn cơm. Tui kêu con nhỏ nó nấu!
- Dạ, cảm ơn bác, tụi tôi ăn rồi! ạng Tư Đờn đứng dậy, khom lưng, tự đấm vào lưng mình thùm thụp. ạng quơ bàn tay tới trước thành chõng, ngồi lên. Con Tím đưa cho ông nó đôi đũa và chén cơm mới bới. ạng cầm đũa xới xới cơm trong chén. Bỗng ông dụi đầu đũa xuống chén, im đi một chốc rồi hỏi:
- Vậy trước khi đi đây mấy cậu là dân ruộng?
- Dạ phải.
- Hạ sĩ Cơ đáp.
- Sao không ở nhà mần ruộng, đi đây chi? ạng Tư hỏi xong, chậm rãi và cơm. Con Tím gắp chỗ cá nạc trong tô canh chua bỏ vào chén cho ông. Tô canh này đặt phía bên ông Tư. Hình như đứa cháu gái nấu tô canh cho riêng ông nó ăn. Thấy nó chỉ nhỏ nhẻ ăn với cá kho. Giữa lúc hai ông cháu ăn cơm, một anh lính thấy cây đờn độc huyền treo nơi vách thì bước tới coi. Anh ta khều sợi đồng bật lên tiếng kêu thánh thót, thốt nói:
- Cây đờn này tiếng tốt quá! ạng Tư vẫn lặng thinh và cơm. Nhưng đôi con mắt tối đục của ông chợt hướng về phía sợi dây đờn còn ngân rung chưa dứt. ạng bảo, giọng nghiêm trang:
- Cậu nào đờn được thì lấy xuống đờn chơi, đừng khều phá! Anh lính được dịp bợ cây đờn xuống, ra ngồi ngoài bậc cửa lẩy tăng lăng. Anh ta cũng quào được mấy câu vọng cổ. Tiếng đờn nhấp nhem của người lính nghe cứ lẩng cẩng, lúc dài ra thậm thượt, lúc lại hẫng đi như người bị nấc. ạng Tư ăn cơm xong, mưa vẫn không ngớt. ạng bước xuống mò kiếm một cọng tre, ngồi xổm gối trên manh đệm, xỉa răng. Hai hố mắt ông ngó ra ngoài trời mưa tối đen. Dường như ông chỉ lắng nghe tiếng mưa rơi chớ không màng tới tiếng đờn của người lính. Anh lính quào hoài có mấy câu ý chừng cũng ngượng. Anh nói ướm:
- Nghe nói bác đờn hay lắm. Bác đờn nghe chơi! ạng Tư như sực tỉnh, ngước mắt hỏi:
- Cái gì? Tui đờn é à?
- Phải, bác đờn đi, bác đờn đi!
- Hạ sĩ Cơ cũng khẩn khoản. ạng già nín thinh hồi lâu, mới nói:
- Ngón đờn của tui không tươi đâu...
- Không, tụi tôi biết bác đờn hay lắm, bác đờn cho con em đây nó ca cái bản gì mà "đề cờ đề cờ" đó đi! Trời còn mưa dữ quá, tụi tui chửa về được đâu! ạng già vẫn khước từ:
- Thiệt... không nói giấu gì mấy cậu, đời tui nghèo cực không thôi, nên chữ đờn của tui không đặng tươi. Người ta chê chữ đờn tui nghe nó ai oán lắm!... Mặc dù ông Tư từ chối, hạ sĩ Cơ vẫn bợ cây đờn trên tay người lính nọ, trao lại cho ông. ạng Tư sợ cây đờn rớt, bèn rút gối chân xuống, ôm cây đờn vào lòng. ạng đưa tay run run rờ lướt trên thân đờn hồi lâu, chép miệng nói:
- Tối hôm nọ cũng có mấy cậu lính tới biểu tui đờn cho mấy cậu nghe. Thấy họ ăn nói tử tế như mấy cậu, mà lại cứ nài nỉ hoài, tui mới đờn... Về sau họ tới nghe chật nhà, bỏ cả canh gác tuần phòng sao đó nên ông đại úy kiếm về chửi bới om sòm. ạng đuổi mấy cậu lính về, quát tháo tui:
“ạng già, tôi cấm ông không được tụ tập quyến rũ lính tới đờn ca nữa nghe! " Tui thưa:
“Bẩm ông, tui đâu có tụ tập quyến rũ mấy cậu. Từ đầu tui đã nói với mấy cậu là tui không đờn, nhưng mấy cậu cứ một mực khăng khăng bắt tui đờn cho mấy cậu nghe, buộc lòng tui mới đờn... " ạng đại úy hăm tui:
“Từ rày trở đi ông đừng đờn nữa, không thì tôi đập nát cây đờn của ông đa! " Tui mới thưa:
“Dạ, từ rày mấy cậu mà có rủ tui cũng không đờn nữa! " ạng Tư kể và bàn tay gầy guộc của ông không ngớt rờ rẫm vuốt ve thân đờn. Coi tuồng như cây đờn nay còn nằm trong lòng ông là sự may mắn lắm vậy.
- Bây giờ bác cứ việc đờn đi, khỏi sợ. ạng đại uý "ngoẻo" hồi hôm kia rồi.
- Tui có nghe. Tui nghe đồn ổng bị bắn chết trước miệng hang... phải không?
- Phải, chết trước miệng hang!
- Vậy cái ông mới lên thay ổng thì sao. Nhắm có đòi đập bể đờn tui nữa không? Giọng hỏi ông già bấy giờ chợt như có náu tiếng cười. Mấy người lính nói:
- Không đâu, thằng cha trung úy mới lên thay này nó không chú ý đâu!
- Vậy thì được, để tui đờn mấy cậu nghe! ạng Tư nói rồi liền vặn trục đờn kèn kẹt. ạng rút cây găm tre ở cuối thân đờn, cất tiếng gọi cháu:
- Tím ơi, rửa chén rồi chưa con?
- Chút xíu nữa ngoại ơi!
- ờ, rửa rồi ra đây ngoại biểu. ạng già quắp cây găm đờn trong năm ngón tay, ngồi đợi. Bốn người lính ngồi nhích tới. Lát sau con Tím nhong nhong đi ra. ạng Tư nghe bước chân nó, liền giơ tay:
- Ngồi xuống đây con. Ngoại đờn, con ca bản Nam ai cho mấy cậu này nghe.
Đứa cháu gái nghe ông nó bảo thế thì mặt lộ vẻ không vui. Nó với tay kéo cái đuôi tóc nhỏ xíu như cái đuôi mèo ra trước ngực, nói ngủng ngẳng:
- Con hổng ca đâu! ạng Tư cười, bảo mấy người lính:
- Mấy cậu thấy không. Nó còn giận vụ con gà mái đẻ đó! Rồi ông nói nhỏ nhẻ với cháu:
- Ca đi con. Mấy cậu lính đây tử tế chớ không phải như tụi hôm qua đâu. Mấy cậu... cũng nghèo như mình... Con Tím chẳng nói chẳng rằng, nó với cái khăn sọc vắt trên vai ông lau đôi bàn tay nhỏ ướt nước. Lau rồi, nó vắt khăn lên vai ông nó như cũ. Dưới ánh đèn mỡ cá chập chờn, nó mở to mắt nhìn chằm chằm xuống đệm. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn mấy người lính. ánh mắt của con Tím hơi dịu bớt vẻ hằn học. Khuôn mặt của nó coi sáng sủa, nhưng da mặt bị rỗ huê lấm tấm (Chắc là dấu vết của một trận đậu mùa khủng khiếp nào đó để lại). ạng già biết chắc cháu mình thế nào cũng sẽ hát, nên một tay cầm trục đờn, một tay cầm găm ông bắt đầu dạo vô. Khi những ngón tay khô gầy của ông xeo nhẹ cây găm, tức khắc sợi dây đồng chợt như rùng mình nức nở. Khúc dạo vô chưa chi nghe đã rưng rưng, thê thiết. Con Tím như bị tiếng đờn của ông nó thu hút. Đôi mắt con bé từ từ ngước lên, long lanh sáng rực. Nó nhìn ra đêm mưa rơi, và bàn tay bé nhỏ của nó bỗng bíu chặt lấy vạt áo mốc cời của người ông. Chữ đờn cuối cùng của khúc nhạc dạo chợt ngắt ngang. Bàn tay cầm trục của ông Tư co quắp lại, giật bắn lên. Còn bên tay cầm găm của ông thì cất qua khỏi sợi dây đờn lúc ấy đang ngân cao vời vợi. Không khí gian nhà bỗng như lắng xuống. Con Tím liền cất tiếng ca: Khi vâng ơ... chiếu chỉ ra đề cờ...
Cây găm trong tay ông Tư cũng liền lẩy đờn rất nhanh. Chữ đờn của ông dìu đưa tiếng ca của đứa cháu bay theo: Từ chàng đi ơ... thiếp bặt tin đợi chờ Như hồng nhạn cao phi Sông Hớn ơ... bơ vơ... Não nùng tiếng ngẩn ngơ Má phấn ơ... duyên phai lợt Hồng nhan luống đợi chờ Trướng lý đành để dính lại bụi trần nhơ... Tiếng ca của con Tím nghe non nớt quá, mà tiếng đờn của ông Tư lại là tiếng đờn già dặn của cả một đời người sáu mươi năm tủi cực đau thương dồn nén. Sự khác biệt đó tạo nên một mối tương phản lạ lùng: ... Kìa cờ ai tiếng trống gióng xa xa ấy hay là chiếu chỉ triệu chồng ta... Chốn giang biên chàng có hay chăng là Giọng ca của con Tím chấp chới: Từ chàng ra chốn cung đao... Thiếp trông tin chàng như cá trông sao... Sợi dây đờn bây giờ không lẻ loi nữa. Dường như không phải chỉ có mỗi mình nó trên thân đờn nữa mà là có rất nhiều sợi. Đây thật không thể nói là ngón đờn tươi hay không tươi, ai oán hay không ai oán. Đây là tiếng đờn chạnh lòng chạnh dạ, buộc người xa vợ phải nhớ vợ, ai xa con sẽ nhớ con. Đây là sợi tơ đồng réo gọi tình thương nhớ làng quê, nhớ sông nước bến bờ, nhớ mồ mả tổ tiên. Bốn người lính đều cúi đầu, tóc phủ xõa gối. Trong lúc tiếng đờn vẫn cứ khắc khoải vẳng lên những chữ đờn ly biệt, bồn chồn. Ngoài trời mưa vẫn không ngừng rơi. ánh đèn mỡ cá lù mù rọi những hạt mưa ngoài cửa đang bay xiên, loang loáng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro