sơn hà bất dạ thiên (120-end)
Chương 120
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tặng nàng thược dược ghi lời ái ân
Sau một khoảng dài im lặng, Chu Tử Thư hết sức căng thẳng, cậu nói:
"Thật ra cũng không phải việc gì ghê gớm. Tháng trước, Phi kỵ úy phủ Kim Lăng Thôi Hiểu lên kinh thành tìm đệ, muốn đệ giúp hắn tháo gỡ một phiền phức nhỏ. Đệ không biết rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra, nên mới sai người đến Kim Lăng điều tra cụ thể."
Cung Tuấn lặng im một thoáng, hỏi: "Tại sao hắn tìm đến đệ?"
Chu Tử Thư: "Đệ với Thôi Hiểu từng biết nhau từ xưa."
"Xưa là xưa thế nào?"
Chu Tử Thư ngập ngừng, cậu rất muốn biện minh cho bản thân, nhưng lúc này quả thật cậu đang đuối lí.
Hồi lâu sau, Chu Tử Thư bỗng vặn hỏi: "Làm sao sư huynh biết đệ phái người đi Kim Lăng?" Cậu chĩa mũi dùi về phía Cung Tuấn.
Câu hỏi ấy khiến Cung Tuấn phải nhìn cậu bằng ánh mắt ngạc nhiên. Có lẽ chính Chu Tử Thư cũng không phát hiện, nếu tình huống này xảy ra vào thời điểm ba năm trước, chắc chắn cậu không thể nói chuyện với CungTử Phong bằng thái độ này. Nhưng giờ đây, cậu chẳng những dám nói, mà còn dõng dạc hùng hồn như thể không biết mình sai ở đâu.
Cung Tuấn giải thích: "Vì có người hầu cận của ta về Kim Lăng làm việc, tình cờ gặp Diêu Tam trên đường."
Chu Tử Thư không ngờ nguyên nhân lại là thế, cậu cứ tưởng...
"Đệ tưởng ta cố ý theo dõi đệ à?"
Chu Tử Thư ngẩng phắt đầu đầy kinh ngạc.
Lạ thay, Cung Tuấn không hề tức giận. Cứ như thể cơn giận đã trôi qua từ lâu, chàng chỉ cười một tiếng.
Chuyện Chu Tử Thư nghi ngờ và không tin tưởng chàng, Cung Tuấn không còn xa lạ nữa. Chỉ có điều, chàng không nghĩ mình hỏi chuyện thẳng thắn và bình tĩnh như vậy mà Chu Tử Thư lại tưởng mình sai người giám sát cậu.
"Ta cố ý theo dõi đệ ư?"
Cung Tuấn mỉm cười, khẽ "ồ" một tiếng. Rồi bất chợt, những lời chất vấn dồn dập tung ra: "Phi kỵ úy Kim Lăng Thôi Hiểu? Hắn quen biết đệ trong hoàn cảnh nào? Năm nào, tháng nào, ở đâu, tại sao lại quen? Hắn là quan ở phủ Kim Lăng, đệ lớn lên ở Cô Tô từ nhỏ, số lần sang Kim Lăng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Dù hắn có quen ta đi chăng nữa thì cũng không thể nào quen đệ, Chu Tử Thư – Đường Cảnh Tắc. Vậy mà hắn lặn lội đến tận Thịnh Kinh để nhờ vả đệ? Hắn cậy vào đâu để cho rằng đệ nhất định sẽ giúp hắn..." "Sư huynh!"
Chu Tử Thư choáng váng. Hai hàm răng nghiến chặt, cậu trân trân ngước nhìn Cung Tuấn.
Cung Tuấn im bặt.
Ánh mắt run rẩy của Chu Tử Thư tràn ngập sự van lơn, như muốn nói: Sư huynh, xin huynh đừng ép đệ...
CungTử Phong, huynh đừng bức ép đệ nữa!
Muôn lời chất vấn và bức bách của Cung Tuấn lạc đi trong ánh mắt Chu Tử Thư.
Cung Tuấn lẳng lặng nhìn chàng trai trẻ trước mặt mình. Một lúc sau, chàng mới khẽ khàng hỏi: "Vì sao em không chịu nói với ta?" Nghe câu ấy, Chu Tử Thư bỗng thở phào nhẹ nhõm.
Với hiểu biết của cậu về CungTử Phong, CungTử Phong nhất định sẽ bỏ qua chứ không buộc cậu phải nói thật.
CungTử Phong là vầng Tuấng sáng tỏ, là gió mát đại ngàn, là chính nhân quân tử đích thực. Từ xưa tới nay Chu Tử Thư vẫn biết, sư huynh của cậu không bao giờ trở mặt hoàn toàn với ai, cũng không bao giờ trải lòng với ai. Tối nay CungTử Phong đã rất khác so với mọi khi, chàng bộc lộ quá nhiều cảm xúc. Cảm xúc cháy bỏng như ngọn lửa bừng bừng bị kiềm nén dưới vẻ bề ngoài dửng dưng và trấn tĩnh. Chu Tử Thư sợ hãi tột độ, cậu sợ Cung Tuấn dồn mình vào đường cùng thật.
Nhưng Cung Tuấn không làm thế đâu.
Có lẽ cậu đang ỷ được cưng chiều mà kiêu ngạo, ỷ có chỗ dựa nên không sợ hãi. Nhưng Chu Tử Thư biết, Cung Tuấn sẽ không làm thế.
Bất ngờ, Cung Tuấn siết lấy tay cậu. Những ngón tay thuôn của chàng thít chặt cổ tay Chu Tử Thư, thít mạnh đến mức cậu đau cả tay. Theo bản năng, Chu Tử Thư ngước lên. Chàng Cung Tuấn lịch thiệp hơn người đang cười với cậu thật âu yếm, giọng chàng mới êm ái và dịu dàng xiết bao: "Những việc xảy ra ở phủ Kim Lăng, dù có bị vùi sâu đến mấy cũng không giấu nổi Lang Gia Cungthị."
Chu Tử Thư tròn mắt.
Cung Tuấn: "Nếu xảy ra ở nơi khác thì không bàn đến, nhưng đã diễn ra ở
Kim Lăng thì dầu việc lớn hay nhỏ, hệ trọng hay vặt vãnh, hễ Lang Gia Cungthị muốn biết thì kiểu gì cũng biết được, chỉ tốn chút công sức mà thôi. Tiểu sư đệ đã bao giờ tò mò xem rốt cuộc năm năm về trước, Lương Bác Văn đến Kim Lăng hết lần này đến lần khác để tìm kiếm sự hỗ trợ của ai chưa? Tại sao một Phi kỵ úy lục phẩm mà cũng dám tìm đệ kể công, đòi hỏi đệ phải giúp đỡ hắn?"
"Đệ không..."
Cung Tuấn ngắt lời cậu: "Nếu Lương Bác Văn muốn cầu viện thật thì ông ấy có vô số người để nhờ vả! Xa không nói, Phủ doãn Kim Lăng bấy giờ là bạn thân lâu năm của Lương Bác Văn. Ấy là chưa kể, muốn tỏ tường thánh ý, đi thăm dò tin tức từ quan lại địa phương phỏng có ích chi? Phải hỏi quan kinh thành, hỏi những quan lớn trong kinh thành mới được. Phó Vị – Phó Hi Như cũng là một trong Tứ nho thiên hạ giống Lương Bác Văn, là chỗ quen biết lâu năm. Tại sao ông ấy không tìm đến Phó Hi Như? Dù Phó Hi Như có không biết đi chăng nữa, thì đã có học trò của Phó Hi Như là Cung Tuấn CungTử Phong – con cháu Lang Gia Cungthị, Thượng thư bộ Hộ, bề tôi được hoàng đế rất đỗi tin yêu. Nếu Lương Bác Văn cất lời nhờ cậy tiên sinh, CungTử Phong há có thể chối từ? Có lí nào ta lại không ra tay tương trợ? Nhưng ông ấy chưa từng làm thế."
Sau một thoáng im lặng, Cung Tuấn thở dài thườn thượt, tiếng thở dài dường như vô tận: "Bởi, ông ấy không muốn liên lụy đến bất cứ ai có thể bị vạ lây!"
"Đệ có biết tại sao Chung Thái Sinh sống hàng bao nhiêu năm như thế, bỗng dưng hoàng thượng bắt ông ấy phải chết không?"
Chu Tử Thư sững sờ, đây chính là nỗi Tuấn trở của cậu bấy lâu nay!
Cung Tuấn chỉ cần liếc mắt là biết Chu Tử Thư đang nghĩ gì, chàng cười khẽ: "Vì một ngôi sao băng đấy."
Chu Tử Thư ngỡ ngàng: "Sao băng?"
"Năm Khai Bình thứ hai mươi tư, ngày mùng bốn tháng tám, có một ngôi sao băng lớn như quả đào xông ra khỏi cung Tử Vi, lao vào cung Thái Vi, vượt qua đầu Đế tinh, rơi về phía Đông Nam, bay xuyên qua hai mươi hai vì sao trong cung Thiên Thị." Cung Tuấn nói, "Lúc ấy, Thánh thượng đang thổ nạp tu tiên trong đài Đăng Tiên, bỗng thấy đèn trường minh lụi tắt mấy ngọn, người lập tức triệu Giám chính Khâm Thiên Giám vào cung gặp mặt."
Nhịp thở của Chu Tử Thư nghẹn lại, dòng ghi chép mà cậu đọc được trong Khởi Cư chú của hoàng đế cách đây bốn năm bỗng bật ra trong đầu.
"Mùng bốn tháng tám năm Khai Bình thứ hai mươi tư, có ngôi sao băng lớn như trái đào rơi về phía Đông Nam. Đang đêm, Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân vào cung diện thánh."
Vậy những gì xảy ra sau đó...
Cung Tuấn: "Ba ngày sau, Thiếu Khanh Đại lý tự Tô Ôn Duẫn vào cung yết kiến, thánh quân đại xá thiên hạ, ban thưởng cho chúng sinh."
Chu Tử Thư: "Chuyện đó thì có liên quan gì đến Tô Ôn Duẫn?"
Cung Tuấn nhìn sâu vào mắt cậu: "Ta đã từng nói với tiểu sư đệ, trên đời, phàm những việc mà Thánh thượng muốn thực hiện mà không thể thực hiện, luôn cần có người thay ngài ra tay. Kim long quăng thanh đao vào màn đêm, nơi nào lưỡi đao vút qua, nơi ấy máu đào lênh láng. Kim long chỉ quăng đao, tự lưỡi đao có sức xẻ vàng chém ngọc chứ có can hệ gì tới kim long?"
Chu Tử Thư run lẩy bẩy, chỉ vài câu của CungTử Phong đã tháo gỡ mọi nghi vấn khiến cậu đau đầu suốt bao năm nay.
Lòng cậu như có ngọn đuốc bùng cháy, lửa ngùn ngụt thiêu rụi cậu thành tro, Chu Tử Thư thấy miệng lưỡi khô ran, cảm giác nôn nóng, bất an ngập tràn trong từng hơi thở.
Chu Tử Thư: "Chỉ đơn giản thế thôi ư?!"
Cung Tuấn: "Đúng, chỉ đơn giản thế thôi."
Một khi có người vén màn, Chu Tử Thư có thể mường tượng ra ngay những nút thắt trong câu chuyện. Hiển nhiên, cậu cũng nhận ra rằng: "Chỉ vì một ngôi sao băng mà hoàng đế liền cho là điềm gở rồi lấy mạng Chung Thái Sinh?!" Cậu không tài nào lí giải được, không thể nào hiểu nổi tại sao trên đời lại có người sát hại ai đó chỉ vì một ngôi sao băng.
Cung Tuấn hỏi ngược lại: "Đệ phải tự vấn xem vì sao sau hai mươi tư năm, hoàng thượng mới bắt Chung Thái Sinh phải chết!" Chu Tử Thư nín thinh không trả lời được.
Cung Tuấn cũng không nói gì.
Hồi lâu sau, Chu Tử Thư mới lẩm bẩm: "Bởi vì, ông ấy là minh quân."
Là người đứng đầu trong Tứ nho thiên hạ, Chung Thái Sinh có danh vọng cực kì cao. Hoàng đế nhân từ giữ mạng cho ông ta, nên giành được lòng kính yêu của Nho sinh khắp thiên hạ.
"Giờ đệ đã biết chân tướng năm ấy, biết việc khiến Lương Bác Văn hao tâm tổn sức kiếm tìm suốt nửa năm là gì." Cung Tuấn ngừng lại một thoáng mới hỏi: "Tiểu sư đệ, đệ còn muốn biết gì nữa?"
Chu Tử Thư ngây dại nhìn Cung Tuấn, ruột gan cồn cào. Cậu muốn nói, nhưng cứ hễ định nói thì hai môi mím chặt. Sự ngập ngừng rối rắm của cậu được thâu hết vào mắt Cung Tuấn. Trông Cung Tuấn bình thản lắm, nhưng bàn tay chàng đã bóp nghiến cây quạt từ lâu.
Khi sự giằng co đi vào bế tắc, Chu Tử Thư chợt nhớ lại một câu Cung Tuấn vừa nói.
Tại sao Lương Bác Văn không nhờ cậy những người bạn cũ?
Bởi, ông ấy không muốn liên lụy đến bất cứ ai có thể bị vạ lây!
Rốt cuộc mình muốn biết điều gì, rốt cuộc mình muốn làm điều gì?
Việc mình khao khát được biết!
Việc mình mong mỏi thực hiện!
Chu Tử Thư: "Sư huynh, huynh chớ ép đệ." Cung Tuấn ngây người.
Chu Tử Thư nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt chàng, nhắc lại từng câu, từng chữ: "Sư huynh, huynh đừng bức bách đệ nữa." Tiếng cậu thật sắt đá và dứt khoát, nhưng ánh mắt lại khẩn khoản mong chờ, ầng ậng nước mắt như đang làm nũng. Cậu mong manh tựa ảo ảnh trong một giấc chiêm bao, dường như Cung Tuấn chỉ cần chạm mạnh thôi là tan mất.
Cung Tuấn làm sao không mềm lòng cho được?
Sử ký có câu: "U mê vì lợi lộc."
CungTử Phong chợt nghĩ, thế này là u mê vì sắc đẹp mới phải!
Mắt Cung Tuấn vô thức lia xuống làn môi Chu Tử Thư. Chu Tử Thư còn chưa nhận ra thì bất ngờ, chàng đã lấy tay bị kín hai mắt cậu. Tầm nhìn bỗng bị che khuất, trong bóng tối, Chu Tử Thư nghe rõ mồn một tiếng thở của mình giao hòa với tiếng thở của Cung Tuấn, quyện thành một thể.
Cậu không biết Cung Tuấn đang làm gì, nhưng cậu cảm nhận được ánh nhìn cháy bỏng của chàng.
Chu Tử Thư vội vàng gọi: "Sư huynh?" Cậu không đủ can đảm để hất tay Cung Tuấn ra.
Ánh mắt Cung Tuấn ngấu nghiến đôi môi Chu Tử Thư, thậm chí chàng đã sáp lại gần, suýt thì ấp môi mình lên làn môi ấy. Nhưng Cung Tuấn đã kịp kìm lại, chàng chuyển hướng, chỉ hôn lên mu bàn tay của mình thôi. Giây phút Cung Tuấn đặt môi hôn, cả người Chu Tử Thư căng cứng. Hơi thở ấm nồng của chàng phả lên mí mắt cậu qua từng kẽ ngón tay. Chu Tử Thư nghe thấy tiếng thì thầm pha lẫn ý cười êm ru và dịu ngọt của Cung Tuấn.
"Được rồi, không ép em đâu." Chu Tử Thư quên cả thở.
Sau đó, bằng chất giọng trong ngần như nước suối reo vang trên bờ đá, bài thơ "Tuấn Vị" được chàng khe khẽ ngâm lên: "Dòng sông Vị với sông Tuấn, thuỷ triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Khắp vùng con gái con trai, hoa lan mới bẻ cầm tay trao lời..."
"Lại nhân dịp ấy vui cười, tặng nàng thược dược ghi lời ái ân."
Lúc ra khỏi phủ Thượng thư, Chu Tử Thư không có can đảm ngoái đầu lại. Cậu biết, CungTử Phong đang cầm đèn lồng dõi mắt nhìn cậu đi.
Khi về đến phủ Thám hoa, nét mặt Chu Tử Thư thay đổi ngay tức khắc. Điệu bộ rơm rớm nước mắt làm nũng ở phủ Thượng thư đã biến mất trong nháy mắt. Cậu biết phải làm thế nào để ứng phó với CungTử Phong, dù cậu không có cách nào đấu trí lại với người đàn ông này, cậu cũng biết làm sao mới có thể thoát thân thuận lợi.
Chu Tử Thư bước xăm xăm vào thư phòng, giở giấy mực, muốn viết lại hết những gì nghe được, biết được hôm nay lên giấy. Nhưng khi cầm bút lên, ngón tay cậu run lẩy bẩy, không tài nào hạ nổi bút.
Chu Tử Thư nắm lấy cổ tay phải cho vững.
Hồi lâu sau, cậu giơ tay lên bịt mắt mình.
Sau tấm màn đen đặc, cậu không biết Cung Tuấn đã nhìn vào đâu, cũng không biết biểu cảm của Cung Tuấn khi ấy thế nào. Thế nhưng, khi nụ hôn đặt xuống trên mu bàn tay CungTử Phong, hình như nó thiêu đốt tới tận đáy lòng cậu.
"CungTử Phong..."
Khi tên chàng bật ra khỏi bờ môi, Chu Tử Thư giật mình thảng thốt. Cậu không ngờ mình sẽ vô thức gọi tên Cung Tuấn. Lúc hồi thần, Chu Tử Thư cúi đầu xuống, phát hiện trên tờ giấy Tuyên chi chít ba chữ...
"CungTử Phong"
Chu Tử Thư thẫn thờ ngồi trên ghế, không nói nổi một lời.
||
Lời tác giả:
Anh Cunghàng xóm: Đáng yêu thế này thì không ép em đâu. Vả lại chỉ có điều ta muốn biết, chứ không có điều ta không thể biết.
Tiểu Thư Lang: Đêm nay mất ngủ QAQ.jpg
Chú thích
Nếu bạn nào thắc mắc thì câu này của Chu Tử Thư thực chất không phải khen Triệu Phụ sáng suốt. Ý Chu Tử Thư là ông ta quá khôn khéo trong việc thu phục lòng người. Phần đông thiên hạ, kể cả tầng lớp trí thức ở địa phương, đều không biết rõ những gì xảy ra trong chính trường (đã đề cập trong truyện vài lần) và họ dễ nghĩ Triệu Phụ nhân từ nên tha cho Chung Thái Sinh. Những người hiểu ý đồ Triệu Phụ, như các quan kinh thành chẳng hạn, thì không bao giờ nói ra. Và thế là chỉ còn số ít những người như Lương Bác Văn, thà chết cũng phải rửa oan cho Chung tướng.
------oOo------
Chương 121
Nguồn: EbookTruyen.Net
Thiên tai thú dữ CungTử Phong 1
[1] Gốc dùng "hồng thủy mãnh thú" – ví những thứ tai họa làm người ta sợ hãi Chu Tử Thư thao thức cả đêm. Giờ Tý, trời mưa như thác đổ. Ngoài song cửa, bèo lục bình lao đao trong cơn mưa sầm sập đến tận hừng đông.
Hôm sau, Tiết độ sứ Liễu Châu Tần Tự được triệu về kinh.
Ba năm trước, Hữu thị lang bộ Hộ Tần Tự phạm tội giám sát ty Độ Chi thiếu hiệu quả, bị hoàng đế đày đến Liễu Châu làm Tiết độ sứ ngũ phẩm. Liễu Châu dù không trù phú như Giang Nam nhưng cũng là một vùng dồi dào sản vật và đông đúc dân cư. Trong thời gian Tần Tự giữ chức Tiết độ sứ Liễu Châu, miền này mưa thuận gió hòa, tức là vừa gặp thiên thời địa lợi lại thêm nhân hòa, nên anh ta được triệu về Thịnh Kinh.
Hôm đó, Triệu Phụ gặp Tần Tự ở điện Thùy Củng.
Tần Tự đã ba mươi sáu tuổi, ba năm trước khi rời kinh anh ta vẫn chưa để râu, giờ dưới cằm đã có một chòm râu nhỏ khá mượt, trông mặt mũi cũng thay đổi đôi phần. Thấy Triệu Phụ, anh ta không nhiều lời mà báo cáo ngay những việc đã làm ở Liễu Châu trong ba năm qua, cùng với những điều quan sát được về dân cư bản địa.
Triệu Phụ nghe say sưa, thấy chòm râu của Tần Tự, ông ta cảm khái: "Tần Vu Đức cuối cùng cũng già rồi!"
Những người thân quen đều biết Tần Tự là một người không chấp nhận sự già cỗi bao giờ. Trước giờ anh ta luôn tự nhận là hào hoa phong nhã. Thế nên suốt ba mươi năm nay, giữa thời đại rất nhiều quan lại chuộng để râu và coi đó là đẹp, anh ta chưa một lần nuôi râu. Thậm chí khi bị hỏi, anh ta còn lấy Cung Tuấn ra làm lá chắn: "Thượng thư đại nhân có để râu bao giờ! Thế mới gọi là phong lưu tiêu sái, phiêu diêu tựa tiên!
Nhưng hai tháng trước, sau khi Cung Tuấn sai người gửi thư ám chỉ với anh ta rằng sắp đến lúc có thể về Thịnh Kinh, Tần Tự liền cố tình nuôi râu.
Giờ được nghe Triệu Phụ nhận xét thế, Tần Tự xúc động rơm rớm nước mắt, anh ta muốn nói đôi lời nhưng rồi lại thôi, chỉ vái dài, thưa: "Thần đã ba mươi sáu tuổi rồi ạ."
Triệu Phụ thâm thúy nhìn anh ta: "Đời người chẳng có được mấy lần ba năm, chỉ tiếc trẫm và ngươi sắp không được gặp nhau nữa."
Tần Tự nghe thế thì cả kinh, anh ta cứ tưởng mình lỡ miệng chỗ nào, hoặc tiểu xảo gây lòng thương cảm của mình đã bị hoàng đế phát hiện. Lưng lạnh toát, Tần Tự cười chua chát, thầm nhủ thông minh quá lại ngã vì thông minh.
May mắn thay, vừa rời cung thì anh ta nhận được chiếu lệnh của Triệu Phụ, thăng Tiết độ sứ Liễu Châu Tần Tự làm Đô bộ trướng sử ty Ngân Dẫn, bậc tam phẩm. Tần Tự cảm động rơi lệ, nhận chỉ. Không lâu sau, rất nhiều người quen cũ đến viếng thăm Tần phủ, chúc mừng niềm vui được thăng chức của anh ta.
Tuy Tần Tự phải đi U Châu nhậm chức ngay, nhưng anh ta cũng kiên trì tiếp đãi các quan đến thăm để thắt chặt quan hệ.
Hai ngày sau Tần Tự mới hết bận. Anh ta sai người mua một hộp điểm tâm từ Thái Kỳ trai để đến phủ Thượng thư bộ Hộ gặp Cung Tuấn.
Tần Tự dâng hộp điểm tâm lên.
Cung Tuấn liếc nhìn: "Điểm tâm Thái Kỳ trai đó hả?"
Tần Tự: "Trước giờ hạ quan vẫn thích ăn điểm tâm Thái Kỳ trai. Ba năm trước ở đình Thập Lý ngoài kinh thành, Thượng thư đại nhân tặng cho hạ quan một hộp, hương vị thơm ngon tuyệt vời ngày ấy vẫn in đậm trong lòng hạ quan đến tận bây giờ. Hôm nay được trở về kinh thành, hạ quan liền mua để nếm lại, cũng muốn chia sẻ món ngon với đại nhân."
Cung Tuấn giữ Tần Tự ở lại phủ dùng bữa, hai người trò chuyện với nhau thật vui vẻ.
Tần Tự thể hiện lòng trung thành của mình với Cung Tuấn, nhận được ám chỉ của Cung Tuấn, anh ta không trù trừ nữa, mấy hôm sau khởi hành đến U Châu nhậm chức luôn.
Quay vào phòng, Cung Tuấn nhìn hộp điểm tâm, sai quản gia: "Gửi điểm tâm này sang cho Đường đại nhân." Quản gia gật đầu vâng lệnh.
Chưa đi được hai bước, quản gia đã được Cung Tuấn gọi lại. Cung Tuấn cầm hộp điểm tâm nhẹ bỗng lên, mở tầng thứ nhất. Trong tầng này là bánh Bạch Đường Vạn Thọ, bánh Tuyết Nhi và bánh Tảo Nhi. Xem đến tầng thứ hai, trong tầng này đựng bánh hoa sen, bánh xốp vỏ giòn và bánh xốp nhân hoa quả.
Cung Tuấn yên lặng một thoáng, nhẹ nhàng gõ hai cái rồi cạy tấm gỗ dưới đáy tầng hộp thứ hai ra. Giữa hai tầng đáy hộp chính là bản dập Minh Kính thiếp duy nhất còn sót lại của Thư thánh3 thời xưa, cầm lên ngửi thử vẫn còn mùi bánh ngọt, chắc sẽ ám một lúc lâu.
[3] Tức nhà thư pháp lừng danh CungHi Chi (303-361) Cung Tuấn than: "Phung phí của trời!
Quản gia thấy bức Minh Kính thiếp cũng choáng ngợp, nghĩ thầm: Tần đại nhân quả là không tiếc báu vật!
Cung Tuấn cất bức Minh Kính thiếp vào ngăn kép của hộp rồi đưa cho quản gia: "Mang sang cho Đường đại nhân đi."
Quản gia ngỡ ngàng: "Kìa công tử?" Trên đời lấy đâu ra một bức thư pháp ngàn vàng khó đổi thế này.
Cung Tuấn nghiêm túc nói: "Bảo đệ ấy rằng đây là tấm lòng của ta, dặn đệ ấy phải thưởng thức cẩn thận."
Quản gia đành mang hộp điểm tâm Thái Ký trai sang phủ Thám hoa.
Cung Tuấn dặn thế nào thì ông ta phải nói đúng y như vậy. Mặc dù rất muốn bảo Chu Tử Thư rằng trong hộp này có một bức thư pháp của chính Thư thánh, nhưng quản gia không dám trái lệnh Cung Tuấn. Lúc về phủ Thượng thư, quản gia cứ lưỡng lự mãi, sợ Chu Tử Thư không phát hiện ra bức thư pháp mà vứt chiếc hộp đi.
Nhưng lúc này Chu Tử Thư còn đang thấp thỏm không yên.
Ba ngày trước, ở phủ Thượng thư, Cung Tuấn đã ngâm bài thơ "Tuấn Vị" cho cậu nghe. Từ bấy đến giờ, giọng nói trầm bổng dịu êm của chàng lúc nào cũng quanh quẩn bên tai cậu, khiến Chu Tử Thư trằn trọc mất ngủ không thôi. Suốt cả ba ngày, Chu Tử Thư ra sức né tránh Cung Tuấn, không hề đến gặp chàng. May mà hiện giờ Chu Tử Thư làm việc ở Ngự Sử đài nên họ chỉ xuất hiện cùng nhau khi lên triều. Cung Tuấn đường đường là quan nhị phẩm, Chu Tử Thư chỉ là quan tứ phẩm, nếu không cố tình thì rất khó chạm mặt nhau.
Giờ nhận được quà của CungTử Phong, Chu Tử Thư hết sức cảnh giác, làm gì có chuyện ăn bừa?
Cậu thậm chí chẳng dám động vào một miếng bánh nào!
Tỉ mẩn phỏng đoán ý đồ của Cung Tuấn, Chu Tử Thư nhấc mấy khay bánh ra khỏi hộp gỗ, rồi ngồi ngơ ngác trong thư phòng, chăm chú nhìn cái hộp. Một lúc lâu cậu mới giật mình như sực nhớ điều gì, bèn kiểm tra xem hộp có ngăn kép không. Vừa mới kiểm tra...
"..." Chu Tử Thư cầm bức Minh Kính thiếp lên mà mặt lạnh tanh.
Tuy không sưu tầm danh tác của người nổi tiếng và cũng không rõ giá trị thực của bức thư pháp này, nhưng làm sao Chu Tử Thư không biết vật này quý giá nhường nào? Chớ kể là đem tặng, chỉ cần phát hiện thôi cũng phải dâng vào cung để nhập kho riêng của hoàng đế, gìn giữ như báu vật quốc gia!
Vật này mà huynh cũng dám tàng trữ làm của riêng hả CungTử Phong?!
Còn đưa cho cậu nữa?!
Cái củ khoai bỏng tay này, Chu Tử Thư không dám nhận.
Sáng sớm ngày kế, sau khi tan triều, Chu Tử Thư cố ý nán lại ngoài cung để chờ. Thấy cỗ xe ngựa treo đèn "Thượng thư bộ Hộ" đi ra khỏi cổng cung, Chu Tử Thư liền đón đầu xe ngay. Cung Tuấn kinh ngạc vén rèm, thấy Chu Tử Thư, chàng mỉm cười: "Sao bỗng dưng tiểu sư đệ có can đảm đến gặp ta thế?"
Chu Tử Thư: "..."
"Có can đảm" đến gặp huynh là sao hả, đã bao giờ ta không dám đâu? Chu Tử Thư bê hộp quà, đưa cho Cung Tuấn bằng hai tay: "Hôm qua ta mới viết một bản tự thiếp, muốn nhờ Thượng thư đại nhân đánh giá, chỉ điểm đôi điều."
Cung Tuấn nhướng mày: "Gửi Thượng thư đại nhân hả?"
Chu Tử Thư không hiểu ý chàng: "...Vâng?"
Cung Tuấn đanh mặt, dõng dạc nói: "Giữa ban ngày ban mặt, có trời đất chứng giám, ngay trước chốn hoàng cung mà ngươi cũng dám cả gan biếu xén bản quan? Bản quan nhớ Đường đại nhân làm việc ở Ngự sử đài kia mà? Phải chăng gương sáng cũng có vết nhơ? Đường đại nhân muốn hối lộ bản quan sao?"
Chu Tử Thư bị chàng trách cứ thì thần người ra.
Cung Tuấn vươn tay: "Lên đây đi."
Nghe răn dạy một hồi mà Chu Tử Thư ngơ ngơ ngác ngác. Lên xe rồi, Cung Tuấn mới cầm tay cậu, mở hộp gỗ ra. Đương nhiên trong hộp không phải tự thiếp do Chu Tử Thư viết mà là bản Minh Kính thiếp kia. Cung Tuấn thở dài: "Đã tặng đệ rồi, sao còn trả lại làm chi?"
Chu Tử Thư muốn rụt tay về, nhưng bàn tay mát rượi của Cung Tuấn đã ấp vào lòng bàn tay cậu. Rõ ràng đương độ nắng gắt cuối thu, vậy mà bàn tay chàng chẳng khác nào chủ nhân của nó, cảm giác mát dịu gợi lên cốt cách rắn rỏi mà thanh cao. Chu Tử Thư không kiềm được ý muốn ủ ấm bàn tay chàng, cậu không nỡ đẩy nó ra, khiến cõi lòng chàng nguội lạnh.
Chu Tử Thư vô cùng đắn đo. Hồi lâu, cậu mới lí nhí nói: "Vật này quý quá, đệ không dám nhận."
Cung Tuấn nhận ra hết sự chật vật của cậu: "Nếu đệ gửi nó cho Thượng thư đại nhân, thì gọi là hối lộ thượng cấp. Còn nếu đưa cho sư huynh thì không hề gì."
Chu Tử Thư lập tức nói: "Đệ gửi cho sư huynh mà."
Cung Tuấn nắm chặt tay cậu, cười phá lên: "Sư huynh không nhận đâu, cảm ơn ý tốt của tiểu sư đệ."
Chu Tử Thư: "!!!"
CungTử Phong, huynh còn chơi trò này nữa à?!
Chu Tử Thư có cảm tưởng mình sắp bị Cung Tuấn trêu đến phát điên rồi, cậu làm gì có cửa thắng CungTử Phong cơ chứ! Lúc này, cậu chỉ muốn hất quách tay CungTử Phong ra, kệ cho chàng lạnh. Ấy thế mà CungTử Phong lại đan tay mình vào tay cậu, ngón tay chàng tỉ mỉ mân mê. Sự đụng chạm ấm nồng dịu nhẹ làm bừng lên sức nóng rạo rực nơi da dẻ họ tiếp xúc với nhau, trái tim Chu Tử Thư như được hơ trên ngọn lửa. Cậu cố gắng bám víu lấy giới hạn của bản thân, rồi lại không nỡ đẩy người ta ra, cậu sợ người đàn ông này sẽ nhìn cậu bằng ánh mắt thất vọng một lần nữa.
Khi sự giằng co và sốt ruột trong Chu Tử Thư lên tới đỉnh điểm cũng là lúc phu xe chợt bẩm: "Đại nhân, đến Ngự Sử đài rồi."
Bàn tay mân mê của Cung Tuấn khựng lại một thoáng, rồi như thể không nghe thấy gì, chàng cứ tiếp tục vuốt ve tay cậu.
Chu Tử Thư thì như trút được gánh nặng, cậu hất tay Cung Tuấn ra, hấp tấp xuống xe như đi trốn. Cậu quay lại, thi lễ với Cung Tuấn: "Hạ quan xin cáo từ trước." Nói đoạn, Chu Tử Thư rảo bước chạy biến đi.
Cung Tuấn bỗng bật cười, tự giễu: "Mình giống thiên tai thú dữ thế kia à?" Chàng lắc đầu, chẳng biết nói gì hơn: "Về bộ Hộ."
Buổi trưa, Chu Tử Thư đang ngồi đờ đẫn ở Ngự sử đài thì bỗng có quan sai mang chiếc hộp gỗ đến.
Chu Tử Thư: "..."
Thôi bỏ đi, khỏi trả lại nữa. Huynh đã khăng khăng giúi tiền cho ta, mất gì đâu mà không nhận!
Là Gián nghị đại phu kiêm Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn, Chu Tử Thư đương nhiên phải quán xuyến công việc thuộc ty Ngân Dẫn. Cậu viết tấu chương trình lên, không bao lâu, Triệu Phụ liền hạ chỉ triệu hồi Mai Thắng Trạch và CungTiêu về làm Đô bộ lang trung ty Ngân Dẫn, thành thuộc hạ của Chu Tử Thư.
Ý chỉ của Triệu Phụ như cơn mưa rào sau chuỗi ngày nắng hạn, Đường
Thận mừng rỡ vô cùng. Cậu càng vững tin hơn vào lời Cung Tuấn – phải tin tưởng vào vị hoàng đế này. Dù ông ta ngày ngày luyện đan, ngày ngày tu tiên, ông ta vẫn tốt hơn vô vàn vị hoàng đế khác.
Vì ông ta nhìn thấu triều đình này!
Mấy hôm sau, Mai Thắng Trạch và CungTiêu sẽ về Thịnh Kinh nhận lệnh. Cùng lúc đó, ở Nam Kinh Tích Tân phủ nước Liêu xa xôi, lái buôn trà Kiều Cửu đang bưng một đống lễ vật đến bái phỏng Tả Bình chương chính sự phủ Tích Tân Tiêu Châm.
Thấy Kiều Cửu, thoạt tiên Tiêu Châm còn làm bộ dửng dưng. Phải đến lúc thấy đống quà cáp Kiều Cửu bưng tới, lão ta mới hí hửng ra mặt.
Tiêu Châm lệnh cho gia nô cất lễ vật đi, đuổi người hầu kẻ hạ lui hết, chỉ chừa lại mỗi Kiều Cửu.
Tiêu Châm giễu cợt: "Quả nhiên Gia Luật Cần và Gia Luật Xá Ca coi chúng ta như quân cờ, mặc sức lợi dụng! Ngươi có biết chuyện gì đã xảy ra trong đại trướng hôm nay không?"
Kiều Cửu giật mình: "Chuyện gì?"
Tiêu Châm: "Chẳng phải thích khách kia đã khai chủ mưu giấu tay là Cungtử Thái bảo Gia Luật Ẩn sao? Nhưng đến giờ Gia Luật Cần vẫn không tung tin đấy ra. Ta cứ tưởng Nhị hoàng tử không định rêu rao việc đấy. Rốt cuộc, hôm qua hoàng đế bệ hạ bỗng nhiên bị đột quỵ, mãi tận sáng nay mới tỉnh lại, bấy giờ Nhị hoàng tử mới tố cáo vụ ám sát."
Tiêu Châm đã biết thân phận của Kiều Cửu, thậm chí lão ta còn bị Tô Ôn Duẫn mua đứt. Tô Ôn Duẫn tóm được điểm yếu của lão, lại hứa hẹn đủ đường ngon ngọt, vừa dọa dẫm vừa dụ dỗ bằng lợi ích. Sẵn mối hận với Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Cần, hiển nhiên Tiêu Châm hả hê đóng vai gian thần ngay.
Kiều Cửu suy đi tính lại. Về nhà, hắn bèn viết thư gửi tới U Châu.
Trong thư chỉ có một dòng ngắn ngủi...
"Trai cò tranh nhau, làm ngư ông thế nào?"
||
24/4/2021: Ban đầu để "phong lưu tiêu sái" là "phong lưu phóng khoáng", bỗng hôm nay đọc mấy bài thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi thấy dùng từ "tiêu sái", tìm thêm vài bài nữa của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ cũng thấy các cụ có vẻ thích từ này, bèn dùng theo thử xem sao.
Mình nghĩ "phóng khoáng" hơi thiếu nét "thoát tục" so với "tiêu sái", song "tiêu sái" cũng có nhiều nghĩa, ở đây mình nghĩ nên hiểu theo nghĩa thoát tục, không vướng bụi trần, không bị bó buộc, thì gần với vế thứ 2 nhất. Quả thật là một từ rất hợp để nhận xét CungTử Phong. Mạc Thần Hoan có dùng từ này trong một vài đoạn khác, nhưng mình không muốn dùng "tiêu sái" bừa bãi nên chọn những từ khác tùy theo ngữ cảnh cho dễ hiểu.
Chú thích
Gốc: 雨打浮萍. Gợi tâm trạng mông lung về cuộc đời, số phận (vì bèo lục bình nhỏ mà mưa thì dữ dội)
------oOo------
Chương 122
Nguồn: EbookTruyen.Net
Đường đảng
Ba ngày sau, bạn thân cùng trường của Chu Tử Thư – Mai Thắng Trạch, và Bảng nhãn cùng khoa – CungTiêu, đều về đến kinh thành.
Bốn năm trước, ba người cùng đề tên bảng vàng, vinh quang hãnh diện không sao kể xiết. Hiện giờ, địa vị, chức tước của mỗi người đã khác xa nhau, vừa gặp lại đã bùi ngùi xúc động. Trong bốn năm nay, Chu Tử Thư thuận lợi lên như diều gặp gió, CungTiêu sau hai năm im ắng cũng được hoàng đế khen thưởng nhờ lập công trong quá trình xây dựng quan đạo Ninh Châu. Chỉ riêng Mai Thắng Trách bị vạ lây trong sự việc ty Độ Chi hai năm về trước, đường làm quan mãi lận đận hẩm hiu.
Khi gặp Mai Thắng Trạch, thoạt tiên Chu Tử Thư không nhận ra nổi bạn mình.
Sững người hồi lâu, Chu Tử Thư thương cảm nói: "Thắng Trạch huynh, sao tóc mái huynh đã điểm bạc thế này?"
Mai Thắng Trạch nhìn Chu Tử Thư, cười gượng gạo: "Những đắng cay ta nếm trải, Cảnh Tắc làm sao thấu!"
Thoạt tiên khi Mai Thắng Trạch bị biếm trích đến vùng sâu vùng xa, anh ta còn biết tìm thú vui trong tháng ngày khổ ải. Ở Quốc Tử Giám không có ai am hiểu ngâm thơ, vẽ tranh bằng Mai Thắng Trạch. Thế nên, anh ta sáng tác mấy bài thơ, từ thuật lại tình cảnh bị biếm trích đầy tiếc nuối và xót xa của mình. Ngạc nhiên thay, những tác phẩm này lại gây được tiếng vang trong văn đàn. Nào ngờ chưa được một năm, người vợ kết tóc của Mai Thắng Trạch mất vì khó sinh, chỉ để lại cho anh ta một mụn con thơ.
Năm tiếp theo, con trai Mai Thắng Trạch cũng chết yểu vì bệnh tật. Không thể chịu nổi cú sốc ấy, anh ốm thập tử nhất sinh, suýt nữa thì đi theo vợ con.
Chính vì thế, Mai Thắng Trạch chưa đến tuổi hăm bảy mà hai bên mái đã pha sương, già cỗi như ông lão bảy chục.
Ba người tụ họp ở lầu Tế Hà, rồi Chu Tử Thư mời hai anh bạn tới phủ chơi.
Sau khi họ vào thư phòng, Chu Tử Thư mới nói: "Thắng Trạch huynh và Đại Nhạc huynh có biết lần này Thánh thượng điều hai người đến U Châu nhậm chức Đô bộ lang trung ty Ngân Dẫn để làm gì không?"
Vừa nghe thế, CungTiêu và Mai Thắng Trạch liếc nhau, hiểu ám chỉ của Chu Tử Thư: "Ý Cảnh Tắc là, hoàng thượng có mục đích ngầm khác ư?" Chu Tử Thư cười, chậm rãi giải thích.
CungTiêu và Mai Thắng Trạch chỉ biết võ vẽ về ty Ngân Dẫn, họ đều phỏng đoán rằng ty Ngân Dẫn có thể liên quan đến ty Độ Chi hai năm về trước. Mặc dù vậy, bọn họ không thể ngờ rằng hoàng đế không phái mình đến U Châu để phụ giúp Tần Tự và làm việc cho ty Ngân Dẫn, mà là để đảm nhận trọng trách thăm dò quân tình nước Liêu!
Hai người choáng ngợp vô cùng, nín lặng hồi lâu.
Thế rồi hùng tâm tráng chí bỗng trỗi dậy trong ngực họ. Hai mắt sáng ngời, Mai Thắng Trạch thốt lên: "Có bao giờ tưởng tượng nổi, Mai Thắng Trạch này còn có cơ may góp sức vào vĩ nghiệp mà Cảnh Tắc đang dựng xây? Cảnh Tắc, không, Đường đại nhân, hạ quan nhất định sẽ không phụ lòng trông đợi của đại nhân, nhất định mã đáo thành công!" CungTiêu cũng chắp tay: "Hạ quan tuân lệnh đại nhân!"
Không lâu sau, họ khởi hành đến U Châu.
Trước khi họ đi, Tần Tự cũng đến U Châu nhậm chức Đô bộ trướng sử của ty Ngân dẫn. Anh ta và CungTiêu, Mai Thắng Trạch đều thuộc Đô bộ, nhưng kỳ thực chức quan của họ không giống nhau. Tần Tự là quan dưới quyền Cung Tuấn, anh ta đến U Châu với trọng trách riêng. Với thánh chỉ mà Triệu Phụ ban cho, Tần Tự cầm theo quan ấn của Cung Tuấn, tự tin tới U Châu.
Vừa xuất hiện, vị quan tân nhiệm Tần Tự đã thổi một luồng gió mới khắp toàn cõi Tây Bắc.
Bắt đầu từ giờ, toàn bộ lương thưởng của toàn thể quân Tây Bắc sẽ được phân phát dưới hình thức ngân khế thay vì vàng bạc thật.
Lệnh vừa ban hành đã gây rúng động toàn quân, từ tướng đến lính đều hết sức hoang mang. Bản thân Lý Cảnh Đức cũng tức ứa mề với thánh chỉ này của triều đình. Hắn dẫn quân xông vào ty Ngân dẫn, trói gô Tần Tự lại. Tần Tự phải chịu bó tay với viên tướng càn quấy này, chỉ biết lấy thánh chỉ của Triệu Phụ và quan ấn của Cung Tuấn ra: "Lý tướng quân, ngươi tính làm phản hay sao?"
Lý Cảnh Đức thấy hai thứ kia thì nheo mắt, đoạn hắn nhắm tịt lại, ngoảnh mặt đi vờ như không thấy. Hắn hừ một tiếng, nói: "Bản tướng làm phản ư? Tần Tự, ta nói cho ngươi biết, ngươi đừng hòng ngậm máu phun người! Trước hết ngươi giải thích đi, tại sao không phát bạc cho quân sĩ của bản tướng? Lúc các ngươi dùng giấy để phát lương cho quân sĩ, ông đây đã lờ đi rồi, dù sao thì vũ khí, lương thực vẫn tới tay quân sĩ." Hơn nữa, vì giấy chỉ có thể dùng để mua lương thực và vũ khí nên cũng giảm được tình trạng tham ô trong quân đội, Lý Cảnh Đức hết sức hài lòng. "Nhưng giờ các ngươi không buồn phát cả bạc nữa, thì còn ai bằng lòng theo ông đây đánh giặc?"
Mắt Tần Tự tóe lửa: "Ta không thể giải thích rõ cho ngươi được!"
Lý Cảnh Đức: "Á à, lại còn nổi cáu cơ đấy. Ngươi khinh bản tướng dốt nát nên không thèm giải thích với bản tướng chứ gì?" Tần Tự lườm hắn: Ngươi biết rồi thì tốt.
Lý Cảnh Đức còn muốn gây khó dễ thì bỗng dưng có một đội lính xông vào ty Ngân dDẫn. Lý Cảnh Đức đang bực hết cả mình, nhưng thấy người dẫn quân, hắn lại nuốt nước bọt, hỏi: "Lão Trình đến đây có việc gì?"
Trình tướng quân cũng đến cạn lời với hắn: "Nếu không phải vì ngươi dẫn quân xộc vào ty Ngân dẫn thì còn lâu ta mới bị Đại nguyên soái sai đi bắt ngươi về! Có thả Tần đại nhân ra ngay không? Rồi theo ta về tạ tội với Đại nguyên soái."
Nghe đến ba chữ Đại nguyên soái, Lý Cảnh Đức đành bó tay quy hàng.
Bọn họ về rồi, Tần Tự tức điên người: "Lũ giặc cỏ, quân cướp đường! Bọn cặn bã này không xứng làm quan!"
Tần Tự uất đến nỗi đập phá tan tành đồ đạc trong phòng. Nhưng nếu đặt Cung Tuấn vào vị trí của anh ta, chàng sẽ không nổi giận đâu. Trái lại, Cung Tuấn sẽ ngẫm xem ý nghĩa ẩn khuất đằng sau sự việc này là gì. Chẳng hạn như việc Lý Cảnh Đức dẫn tư binh đến ty Ngân Dẫn bắt bớ, dù có người mật báo thì Trình tướng quân cũng không thể di chuyển ngay từ doanh trại Tây Bắc đến nhanh như thế được.
Ắt phải có điều bí ẩn.
Ra khỏi ty Ngân Dẫn, Lý Cảnh Đức hơi bất bình: "Lão Trình này, đành rằng là diễn kịch, nhưng ông phải giữ cho ta tí thể diện chứ! 'Bắt' là bắt thế nào? Trước mặt bao nhiêu quan văn ở đấy, sao ông không bảo là 'mời' ta về?"
Trình Phi lườm hắn: "Nếu ta không quở trách ngươi ngay trước mặt Tần Tự, ngươi có tin chỉ cần ngoảnh mặt đi một cái là hắn ngáng chân ngươi ngay không? Bọn quan văn giảo quyệt cỡ nào, ngươi còn lạ gì nữa? Đại nguyên soái sai ngươi dẫn quân tới làm loạn để thể hiện sự bất mãn của đại doanh Tây Bắc chúng ta với chính sách ngân khế của ty Ngân dẫn lần này, chứ có bảo ngươi trói nghiến Tần đại nhân lại đâu? Ngươi muốn tạo phản thật đấy à?"
Lý Cảnh Đức vò mớ râu quai nón rậm rạp, nhờ có đống râu mà đôi má đỏ au của hắn mới không lộ: "Dào ôi, ta chỉ thấy ngứa mắt với tên Tần Tự đó thôi mà. Ông đây không trói được CungTử Phong, chẳng lẽ không trói được thuộc hạ của hắn sao?"
Trình Phi: "Ngươi muốn làm gì ta chẳng cản, nhưng ngươi không được phép làm hỏng đại sự. Việc ngân khế, Đại nguyên soái đã có chỉ thị đặc biệt, phải hỗ trợ ty Ngân dẫn hoàn thành cho bằng được. Hôm nay ngươi có mặt ở đây là để tỏ thái độ, giữ cho lòng tướng sĩ không nguội lạnh. Chờ một khoảng thời gian nữa khi ngân khế được phổ biến khắp nơi, các tướng sĩ hiểu được lợi ích của ngân khế, họ sẽ không gây rối nữa."
Lý Cảnh Đức thở dài: "Hầy, nhưng ông đây cũng muốn biết ngân khế là thứ gì mà!"
Quả nhiên, ban đầu khi nghe tin triều đình không phát tiền bạc mà chỉ phát giấy, tướng sĩ phản ứng cực kì dữ dội. Không biết vì sao, sau khi việc Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức dẫn quân náo loạn ty Ngân dẫn truyền đi, tình thế sôi sục trong quân đội đã được xoa dịu. Sau nửa tháng, ty Ngân dẫn đột nhiên mở Ngân khế trang bộ Binh ở khắp ba mươi sáu phủ Đại Tống.
Đến lúc ấy, các tướng sĩ mới thấu hiểu sự sắp đặt kì công của ty Ngân dẫn.
Tòng quân ai biết ngày về? Nghìn vàng khôn đổi tin quê thư nhà.
Tuy Đại Tống và Liêu kí hiệp ước hòa bình, nhưng hai nước chỉ không khai chiến chính thức chứ những giao tranh quy mô nhỏ vẫn diễn ra thường xuyên. Tỷ như năm ngoái, nước Liêu đột nhiên dẫn quân xâm lược, vây thành U Châu suốt hai tháng. Trong trận chiến ấy, mấy nghìn tướng sĩ của doanh trại Tây Bắc đã thiệt mạng!
Các tướng sĩ đều là những người rời xa quê hương để tòng quân. Hầu hết bọn họ chỉ có một thân một mình, họ thường giấu lương đi lính do triều đình phát trên người chứ không thể gửi về cho gia đình được. Muốn gửi thư từ và tiền bạc về nhà, họ chỉ có thể đợi tín sứ của quân đội mỗi tháng. Nhưng cách muôn núi nghìn trùng, chưa chắc đã gửi đến nơi!
Nếu bỏ mạng sa trường, thành hương hồn liệt sĩ, có bao nhiêu bạc đi chăng nữa cũng ích gì đâu?
Sau khi ty Ngân Dẫn mở Ngân khế trang bộ Binh trên phạm vi toàn quốc, ngân khế mà những người lính kiếm được có thể gửi thẳng vào ty Ngân Dẫn U Châu, khai rõ muốn chuyển về phủ nào, gửi cho gia đình nào. Sau đó, người nhà có thể đến Ngân khế trang bộ Binh ở địa phương để lĩnh bạc.
Việc này được hoàn thành, triều đình trên dưới đều tán dương nhiệt liệt.
Quan nào gặp Cung Tuấn cũng chúc mừng chàng. Cungđại nhân khiêm tốn lắm, chàng chỉ cười lịch thiệp, đáp: "Toàn là công lao của Tần đại nhân ấy mà."
Sau buổi chầu, Triệu Phụ cũng vui mừng khôn xiết. Buổi trưa, ông ta cho đòi Cung Tuấn vào, hỏi: "Trước khi trẫm nhắm mắt, có thể thấy cảnh thịnh thế mà Tử Phong hứa hẹn với trẫm không?"
Cung Tuấn vái dài, ngạc nhiên hỏi ngược lại: "Bệ hạ vạn tuế thiên thu, người muốn chợp mắt ngủ trưa đấy chăng?"
Triệu Phụ cười ha hả, chỉ vào Cung Tuấn mà nói với Quý Phúc: "Coi CungTử Phong này, hiểu lòng trẫm lắm."
Thực hiện việc "dùng giấy làm tiền" ở lãnh thổ Đại Tống là điều Cung Tuấn từng hứa với hoàng đế trước khi lập ra ty Ngân Dẫn. Cuối cùng hôm nay, họ đã bước được bước đi đầu tiên. Vạn sự khởi đầu nan, chỉ một việc nhỏ bé này thôi mà mất những hai năm trời!
Cung Tuấn giơ cao hốt ngọc, kính cẩn đứng giữa điện Thùy Củng. Ánh mặt trời rọi qua cửa sổ lưu ly, Triệu Phụ cười sung sướng mãi, nhưng nhìn Cung Tuấn đứng trong điện, nụ cười của ông ta tắt dần. Im lặng một thoáng Triệu Phụ nói: "Tử Phong, ngươi đi theo trẫm đã mười hai năm rồi nhỉ."
Cung Tuấn: "Bẩm bệ hạ, thần đỗ Trạng nguyên năm mười bảy tuổi, hiện giờ thần hai mươi chín."
Triệu Phụ cảm thán: "Đúng là mười hai năm, không nên kéo dài đến lúc ba mươi tuổi!"
Cung Tuấn kinh ngạc ngước mắt nhìn hoàng đế. Hiện giờ chàng không thể đoán được ý nghĩa ẩn sau câu nói của Triệu Phụ.
Lúc rời khỏi điện Thùy Củng, Quý Phúc nhanh nhẹn đi ra ngoài, đuổi kịp Cung Tuấn. Lão ta cười khanh khách: "Nô tỳ chúc mừng Cungtướng công, chúc mừng Cungtướng công."
Cung Tuấn giật mình, chợt hiểu ra, chàng nghiêng mình với Quý Phúc: "Đa tạ Quý tổng quản."
"Ấy chết, ấy chết." Những nếp nhằn hằn sâu hơn trên gương mặt Quý Phúc khi lão cười. Lão nhìn quanh quất, thì thào: "Long thể Thánh thượng khang kiện lắm, Cungtướng công đừng lo."
Sau khi xuất cung, Cung Tuấn đi kiệu ngang qua Ngự Sử đài. Tự dưng chàng nhớ mấy ngày trước Chu Tử Thư còn bảo mình rằng "Con đường làm quan của sư huynh chắc cũng gập ghềnh". Chàng bật cười, âu yếm lẩm bẩm: "Đã nói với em từ lâu rồi, đường làm quan của ta bằng phẳng lắm. Em xem, sư huynh nhà em thăng chức đến nơi rồi đây này."
Xưa nay có câu người tính không bằng trời tính, hoàng đế muốn anh lên chức trong năm nay, anh đừng mong lần lữa sang năm sau.
Tuy thế, hiện giờ mọi việc vẫn chưa được công khai. Sau khi xuất cung,
Cung Tuấn không đến điện Cần Chính và hiển nhiên cũng không đến bộ Hộ. Chàng sai phu kiệu đi sang Khâm Thiên Giám, rồi ở đó đến giờ Thân mới về.
Công việc của ty Ngân Dẫn được hoàn thành hết sức tốt đẹp, các quan của ty đều được ban thưởng. Dư Triều Sinh vừa về Thịnh Kinh đã được thưởng lớn, bèn xúc động nói với những người thân tín: "Từ lúc ta về kinh hai năm trước, mọi việc cứ như được trời phù hộ."
Khi ty Độ Chi gặp sự cố thì Dư Triều Sinh đang làm Phó khảo ở trường thi
Hội nên tránh được một kiếp; giờ thì bỗng dưng anh ta vớ công việc ở ty Ngân dẫn, dù chưa động tay vào bất cứ chuyện gì, khi ty Ngân dẫn làm nên đại sự, anh ta cũng được ban thưởng theo.
Người thân tín của Dư Triều Sinh nói: "Ấy là vận làm quan của đại nhân rất thuận lợi."
Dư Triều Sinh suy nghĩ một chút: "Cũng không phải thế. Thánh thượng phái ta đến U Châu làm Tả Phó ngự sử ty Ngân dẫn, thứ nhất là để kiềm chế sự đắc thắng của Cungđảng, không để Cungđảng nắm quyền một mình, thứ hai là để nâng vị thế của Đường Cảnh Tắc lên, khiến hắn ta chỉ giữ chức quan tứ phẩm mà ngang hàng với cả ta. Có lẽ, vì hắn mà ta được nhờ. Ngươi để ý xem, tháng trước Thánh thượng vừa thăng chức hai viên quan cho hắn, phái đến U Châu. Mai Thắng Trạch và CungTiêu, chẳng phải là vây cánh Đường đảng đang ngấm ngầm trỗi dậy đó sao?
||
Lời tác giả:
Dư Triều Sinh: Chúng mi chính là bè lũ Đường đảng!
Mai Thắng Trạch & CungTiêu: Đường đảng hả? Đúng rồi, chúng ta chính là "Đường" đảng đây. Sao nào, ông là "Muối" đảng phỏng?
Chú thích
[1] Gốc dùng "一封家书抵万金", trong đó "家书抵万金" (Lá thư nhà
đáng giá nghìn vàng) là một câu thơ trong bài "Xuân vọng" của Đỗ Phủ.
------oOo------
Chương 123
Nguồn: EbookTruyen.Net
CungTử Phong: Con quá chén thật
Có câu: tham lam mà độc ác, cùng một giuộc với lũ sói đỏ tàn hại.
[1] Tả bản tính loài sói xám (lang). Sói đỏ là sài.
Trong lúc Chu Tử Thư không hề hay biết, cậu đã bị Dư Triều Sinh vẽ hẳn cho một đảng phái riêng gọi là Đường đảng. Không thể phủ nhận rằng khả năng đánh hơi của Dư Triều Sinh quá nhạy bén, ngang ngửa với người thầy Từ Bí của anh ta. Ngoài mặt, chuyến này CungTiêu và Mai Thắng Trạch đến làm việc ở ty Ngân Dẫn chẳng hề liên quan đến Chu Tử Thư. Hai người bọn họ thuộc Đô bộ của ty Ngân Dẫn, thượng cấp trực tiếp của họ đáng lẽ phải là Tần Tự.
Nhưng chỉ dựa vào quan hệ trên mức bình thường giữa Chu Tử Thư và họ, Dư Triều Sinh đã phát hiện, hoàng đế không phái hai người ấy đến U Châu nhằm phụ giúp Tần Tự mà để bố trí thêm hai trợ thủ đắc lực cho Chu Tử Thư.
Hiện giờ, CungTiêu và Mai Thắng Trạch đang ở U Châu. Hàng ngày, họ phải thực hiện chức trách của ty Ngân Dẫn – bận bịu quản lí ngân khế và hỗ trợ điều hành Ngân khế trang bộ Binh ở ba mươi sáu phủ trên toàn quốc. Song song với đó, cả hai còn phải bí mật liên lạc với các thám tử được phái sang nước Liêu.
Công cuộc theo dõi nước Liêu không hề đơn giản chút nào.
Hai người mới đến U Châu đã nhận được tình báo của Kiều Cửu về việc vua Liêu bị đột quỵ, Nhị hoàng tử nước Liêu nhân cơ hội khuấy động tình hình. Bề ngoài, CungTiêu và Mai Thắng Trạch là quan đồng cấp, nhưng người có tiếng nói quyết định vẫn là CungTiêu. Anh ta rất quyết đoán, ra lệnh cho Kiều Cửu chớp thời cơ, hỗ trợ Tiêu Châm xâm nhập sâu hơn vào nội bộ nhóm quan thuộc phe Nhị hoàng tử, khai thác thêm nguồn tin tình báo.
Một tháng sau, tin tình báo từ nước Liêu gửi về tới tấp.
Tin tình báo thông thường đều được CungTiêu, Mai Thắng Trạch xử lí, chỉ khi có việc khẩn cấp, họ mới bí mật gửi về Thịnh Kinh để Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn quyết định.
Cứ thế, chẳng mấy chốc một tháng đã trôi qua, tháng Mười lại tới.
Mùng bảy tháng Mười năm Khai Bình thứ ba mươi mốt là lễ đại thọ của Triệu Phụ. Năm ngoái, ông ta tổ chức thọ yến vô cùng long trọng, quan lại ba mươi sáu phủ gửi quà mừng thọ về từ hàng tháng trước dịp lễ. Năm nay mọi thứ đã thay đổi khi Triệu Phụ bỗng dưng bắt đầu ăn chay niệm phật. Đầu tháng Chín, ông ta ban bố một chỉ lệnh trong buổi triều, gọi là "Tư kỷ chiếu2".
[2] Ngẫm về bản thân
"Trẫm ở ngôi ba mươi mốt năm qua, không mong mỏi kiến tạo nên thành tựu gì vẻ vang, chỉ mong không phạm phải lầm lỗi. Nhưng than ôi, sông Hoàng Hà hằng năm dâng nước gây ngập lụt, làm bách tính đôi bờ khốn đốn lầm than; đất đai mất trắng, biết cất nhà nơi đâu? Trẫm là con của trời cao, là hóa thân của rồng, làm sao an giấc đặng?"
"...Trẫm quyết định, lễ thọ đản năm nay không tổ chức xa hoa nữa. Các địa phương tiết kiệm chi tiêu, lòng trẫm mừng vui khôn xiết."
Con người Triệu Phụ xưa nay chẳng dễ gì mà đoán được. Đột nhiên ông ta chán làm thọ yến cầu kì, khiến toàn thể bộ Lễ cất công chuẩn bị suốt nửa năm nay không biết đường nào mà lần. Tuy thế, chuyện này cũng chẳng có gì to tát. Năm ngoái, mùng bảy tháng Mười là thọ đản của hoàng đế, đâu có ai nhớ một ngày trước đó là sinh nhật Cung Tuấn?
Giờ thì ngay cả Triệu Phụ cũng nhớ đến. Trong điện Thùy Củng, ông ta cười bảo: "Sang năm Tử Phong ba mươi tuổi rồi. Trẫm nhớ hôm nay là sinh nhật ngươi phải không?"
Gần đây Triệu Phụ rất hay nhắc đến chuyện này, ông ta ưa nói về tuổi tác.
Thường thì các hoàng đế càng già càng kiêng kị người khác nhắc đến chủ đề tuổi thọ. Kể cả các cụ già bình dân cũng không thích đả động tới vấn đề này. Ấy thế mà Triệu Phụ cứ phải khác người. Càng tu tiên niệm phật, ông ta càng muốn bàn về tuổi thọ. Loại trẻ măng như Chu Tử Thư, Triệu Phụ chẳng buồn nói. Còn như Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn, rồi cả Tả tướng Kỷ Ông Tập, Hữu tướng CungThuyên, các quyền thần trong triều hiện nay, ai cũng phải nghe Triệu Phụ nhắc một lần.
Cung Tuấn: "Muôn tâu bệ hạ, hôm nay đúng là sinh nhật thần."
Triệu Phụ suy nghĩ một lúc: "Sinh nhật thì nhất định phải kỉ niệm thật vui mới được."
Thế là khi Cung Tuấn còn đang làm việc ở bộ Hộ chưa về, phần thưởng của Triệu Phụ đã lũ lượt đổ về phủ Thượng thư. Thế nhưng lĩnh chỉ xong, Cung Tuấn lại rời phủ Thượng thư sang tư dinh của Phó Vị, nơi Chu Tử Thư và Phó Vị đã bày sẵn tiệc mừng sinh nhật chàng.
Thầy trò ba người chén tạc chén thù. Cuộc vui tưng bừng dưới ánh Tuấng, có gió mát đủng đỉnh dạo qua, phảng phất như bức thư họa huyền ảo.
Những năm gần đây Phó Vị đang biên soạn một bộ sách, tháng trước đã viết đến phần cuối rồi. Nhưng sau năm năm, ông đã không còn là Đại nho Phó Hi Như mà Chu Tử Thư gặp gỡ ngày xưa nữa. Hai bên tóc mái ông càng ngày càng nhiều sợi bạc hơn.
Phó Vị xúc động: "Năm tháng chẳng từ một ai, trông mái đầu bạc phơ của ta này, năm ngoái còn che bớt đi được, năm nay chả hiểu sao tóc bạc mọc như măng xuân sau mưa, vò một cái là xổ ra cả mớ. Than ôi, vi sư già khú đế rồi. Trông hai đứa bây đương độ hào hoa phong nhã, nước mắt lão già này cứ trào cả ra. Ôn Thư, lấy cho ta cái khăn tay."
Bây giờ tiểu đồng Ôn Thư túc trực bên Phó Vị hàng ngày, chăm sóc ông mọi lúc.
Nghe Phó Vị nói xong, Ôn Thư đồng tử lẩm bà lẩm bẩm "Mắt ngài ráo hoảnh thế kia cơ mà", nhưng vẫn rút chiếc khăn tay từ trong tay áo ra đưa cho Phó Vị.
Phó Vị làm bộ như thất vọng lắm, ông quệt quệt mấy giọt nước mắt vô hình rồi mới ngẩng đầu nhìn hai đệ tử.
Chu Tử Thư dở khóc dở cười: "Sao bỗng dưng tiên sinh lại nói thế? Trong lòng con, tiên sinh chẳng khác gì ngày xưa cả. Vẫn nhanh nhẹn minh mẫn, có già đi tí nào đâu."
Phó Vị: "Thì sao? Chỉ cho mỗi hoàng thượng hở ra là chê người khác già, không cho ta được than thở hử?"
Giờ Chu Tử Thư mới hiểu, hóa ra Phó Vị suốt ngày bị Triệu Phụ ca bài "Ái khanh già rồi đấy" nên mới trút nỗi bực dọc này lên cậu và Cung Tuấn. Chu Tử Thư đành chịu ông.
Cậu cũng biết dạo này Triệu Phụ rất hay cho vời các quan vào gặp rồi hỏi han chuyện tuổi tác. Tiếc là Chu Tử Thư còn non quá nên Triệu Phụ chưa bao giờ gọi cậu hết. Ngay cả Tô Ôn Duẫn cũng bị tuyên triệu đến vài lần. Trong các quyền thần và tâm phúc của hoàng đế, chỉ còn mỗi Chu Tử Thư chưa được hưởng niềm vinh hạnh này. Có lúc Chu Tử Thư cảm tưởng mình bị Triệu Phụ bỏ quên mất, nhưng ngay sau đó Triệu Phụ sẽ cho vời cậu vào cung, ân cần hỏi chuyện mấy câu, xua tan nghi ngờ của cậu.
Vinh dự chưa viếng thăm Chu Tử Thư nay đã được Phó Vị ban phát tận nơi.
Thầy trò hai người tán gẫu với nhau, Phó Vị bèn kể về một bài từ tuyệt hay vừa xuất hiện trong văn đàn gần đây.
"Tác giả của bài từ ấy là một viên Tham tướng, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ chẳng biết nổi hai chữ đại tự." Phó Vị cố tình dừng ngay khúc hồi hộp, cười bí ẩn: "Xong Cảnh Tắc biết sao không?" Không đợi Chu Tử Thư trả lời, ông đã hấp tấp tiết lộ đáp án: "Tham tướng ấy là tay võ biền chẳng được học hành, nhưng nghe đồn vợ mới cưới của gã là tài nữ nức tiếng trong vùng."
Chu Tử Thư ăn ý phụ họa theo: "Còn có chuyện như thế kia ạ?"
Phó Vị: "Viên 'Tham tướng' ấy sáng tác được nhiều bài thơ, bài từ hay lắm. Khéo quá, phủ vi sư cũng có tác phẩm mới nhất của anh ta. Nhưng mà để ở đâu ý nhỉ..." Phó Vị ngoái lại hỏi: "Này nhóc tiểu đồng, con để nó đâu rồi?
Ôn Thư đồng tử vô tội nói: "Tiên sinh, cất sách là việc của Phủ Cầm đồng tử kia mà, làm sao con biết được!"
Phó Vị: "Cái thằng cu tiểu đồng này, lí do lí trấu quá thể, sai mi đi tìm sách thì cứ đi đi. Thôi thì Cảnh Tắc đi cùng nó, giúp thằng nhóc ngờ nghệch này tìm tập thơ đấy được không?"
Chu Tử Thư lấy làm lạ, cậu liếc nhìn Phó Vị rồi đứng lên đáp: "Vâng."
Đoạn, Chu Tử Thư và Ôn Thử đồng tử liền đi vào Điêu Trùng thư trai của Phó Vị.
Tạm thời, phòng khách chỉ còn hai thầy trò Phó Vị và Cung Tuấn.
Vừa nãy khi Chu Tử Thư và Phó Vị chuyện trò, Cung Tuấn chỉ lặng lẽ uống rượu và lắng nghe. Chàng cười mỉm, chẳng phụ họa theo câu nào, như thể chỉ lắng nghe thôi là đủ. Giờ Chu Tử Thư đã đi tìm sách, Phó Vị huơ huơ đôi đũa trước mặt trò cưng. Cung Tuấn đưa mắt lên nhìn tiên sinh nhà mình.
"Tiên sinh cố ý để Cảnh Tắc tránh mặt vì việc gì thế?"
Giọng Phó Vị ồm ồm: "Ta để nó tránh mặt đi bao giờ, con đừng có nói linh tinh."
Cung Tuấn cười: "Người nghĩ Cảnh Tắc không biết thật à?"
Phó Vị: "Gớm, hai đứa bây giờ lớn tướng, cánh cứng rồi, tiên sinh còn quản được tụi bây đâu." Đùa xong, nét mặt Phó Vị bỗng nặng nề hẳn. Ông đặt đũa xuống, nhìn học trò mình.
Hai mươi tư năm về trước, Phó Vị tình cờ ghé thăm Kim Lăng trong chuyến du ngoạn Giang Nam.
Khi ấy, Tứ nho thiên hạ lừng danh đã có tên Phó Vị. Vì thế khi ông đến chơi Kim Lăng, Lang Gia Cungthị gửi thiếp mời Phó Vị đến phủ, mở tiệc thết đãi vị đại nho này.
Phó Vị cũng là con cháu thế gia đại tộc, nhưng dòng họ Phó đã neo người từ thời ông cha ông, cảnh nhà sa sút, không được vinh hiển bằng thuở xưa. Dầu vậy, lạc đà gầy còn hơn ngựa béo, dòng họ ông vẫn có tiếng tăm ở vùng Bắc Trực Lệ, tuy chẳng sánh nổi với nhà họ Vương. Phó Vị là trụ cột trong nhà, được Lang Gia Cungthị mời, đương nhiên ông mừng rỡ và ngạc nhiên lắm, bèn sửa soạn đi dự tiệc.
Thế gia Giang Nam, cầu con nước chảy, vườn tược tinh xảo.
Sau bữa tiệc, Phó Vị được người ta dẫn đi dạo chơi vãn cảnh trong vườn. Hai người đang cười nói thì bỗng gặp một cậu bé trai vô cùng xinh xắn, ăn vận đẹp đẽ, đang chăm chú ngắm nghía một đóa hoa giữa vườn. Phó Vị đứng cạnh đó nhìn bao lâu, đứa bé trai cũng ngắm hoa bấy nhiêu lâu.
Phó Vị hiếu kỳ hỏi: "Cháu đang ngắm gì thế?"
Đứa bé trai ngẩng lên nhìn ông rồi ngó sang thúc phụ đứng kế bên, ngoan ngoãn lễ phép vái chào, thưa: "Cháu đang ngắm hoa."
Phó Vị: "Vì sao chỉ ngắm một đóa hoa mà cháu ngắm lâu đến vậy?"
Đứa bé đáp: "Ban đầu cháu chỉ định ngắm một lát thôi, nhưng rồi cháu phát hiện quý khách đang ngắm nhìn cháu. Cháu ngắm hoa, quý khách ngắm cháu, có thể ví như đang thưởng thức một bức họa, cháu không thể làm mất nhã hứng của ngài được. Vậy, thưa quý khách, ngài đang ngắm gì thế ạ?" Nói xong, cậu bé ngước đôi mắt đen láy trong veo, tò mò nhìn Phó Vị.
Phó Vị bất ngờ quá đỗi. Sau khi nghe nói cậu bé đó là Cung Tuấn – con trưởng của nhà họ Vương, Phó Vị nằng nặc đòi nhận cậu bé làm học trò. Thoạt tiên nhà họ Cungcũng hơi khó xử, nhưng Phó Vị cứ ở lì dưới Kim Lăng, cuối cùng chính Cung Tuấn đã đồng ý bái Phó Vị làm thầy.
Cung Tuấn: "Con ngắm hoa như ngắm tranh, tiên sinh lại ngắm con như ngắm tranh. Có lẽ đây là duyên phận mà Nhị thúc tổ thường nhắc tới." Vì thế, Cung Tuấn trở thành đồ đệ của Phó Vị.
"Không ngờ, chớp mắt đã qua hai mươi tư năm." Phó Vị bùi ngùi, "Hầy, sao ta cứ nhắc mãi những chuyện xưa cũ làm chi không biết!" Cung Tuấn đưa mắt nhìn tiên sinh nhà mình.
Chuyện hồi năm tuổi đương nhiên chàng vẫn còn nhớ như in, dù sao cái tài đã trông qua là nhớ của chàng thì quá nổi tiếng rồi. Ngày ấy tuy là thần đồng lừng danh, nhưng giờ ngẫm lại, cũng phải công nhận tác phong thuở bé của Cung Tuấn hơi khác người. Xưa nay Cung Tuấn không bao giờ thích đề cập đến chuyện quá khứ của bản thân. Tỷ như chuyện sau khi bái Phó Vị làm thầy, lúc học viết, chàng từng tập viết một nghìn chữ đại tự trong cả một ngày, rồi mệt quá ngủ li bì. Tỉnh lại, chàng mới phát hiện mặt mình lem luốc mực, mất hết cả phong độ!
Cung Tuấn hảo tâm nhắc nhở: "Tiểu sư đệ sắp về rồi."
Phó Vị chững lại. Hồi lâu sau, ông nhìn Cung Tuấn, giọng nghiêm nghị và đầy ắp âu lo: "Mấy ngày trước, Cảnh Tắc có tặng cho ta một bức tranh. Tranh vẽ cực kì có hồn, nhưng nó khiến vi sư lo lắng quá thể. Tử Phong... Rốt cuộc sư đệ con định làm gì?"
Cung Tuấn sững người, dường như chàng đã đoán ra gì đó, bèn hỏi: "Tranh gì vậy thầy?"
Phó Vị trầm ngâm, nói: "Một bức tranh hoa điểu, vẽ cảnh trăm chim đua tiếng, biển hoa dập dờn. Giữa bầy chim có một con phượng hoàng lượn vòng trên không trung, giữa muôn hoa có một bông mẫu đơn ngạo nghễ trước vạn vật. Quả là một tuyệt tác, mà người vẽ lại chính là Họa si Lâm Cửu Đức xứ Thục. Đã hơn mười năm nay ta chưa gặp ông ta, tài vẽ của ông ta còn xuất chúng hơn xưa." Cung Tuấn nhíu mày.
Phó Vị biết chàng đã hiểu ý mình: "Tranh trăm chim chầu phượng là một bức tranh bình thường, nhưng thực ra thời tiên đế đã từng có bức tranh như thế... Thuở ấy, người vẽ tranh chính là tiên thái tử." Phó Vị thở dài: "Hồi đó ta là thầy dạy thư họa cho tiên thái tử, chỉ điểm cho ngài dăm câu, cũng có chút tình thầy trò."
Những năm gần đây Phó Vị tập trung nghỉ ngơi dưỡng sức, không tranh không đoạt, giấu kín bản lĩnh.
Nhưng hơn mười năm về trước, ông đã từng là Hữu tướng đầy quyền uy của triều đình.
Người khác có thể không nhận ra khát khao mà Chu Tử Thư nung nấu, nhưng Phó Vị hiểu rất rõ. Ông thở dài: "Cứ tưởng nó sẽ không làm gì cho Lương Bác Văn, hoặc là nhiều năm quá rồi, có làm gì cũng vô nghĩa. Ai ngờ nó vẫn khắc ghi trong tâm khảm. Sao nó có thể ngờ nghệch và dại dột thế cơ chứ!" Mắng vậy, song thái độ Phó Vị rõ ràng có ý ngợi khen. Ông vê chòm ria mép, "Tuy nhiên sư đệ con hành động thế là cực kì nguy hiểm! Con có biết rốt cuộc nó muốn làm gì không? Chẳng lẽ nó định lật lại bản án của lão già Chung Thái Sinh?"
"Con chẳng biết."
Phó Vị ngẩn người, mãi sau ông mới giật mình: "Con không biết ư?!" Cung Tuấn nhìn ông, hỏi ngược: "Vì sao tiên sinh lại cho rằng con nhất định phải biết tiểu sư đệ muốn làm gì và đang làm gì?"
Phó Vị đứng lên đi qua đi lại một hồi. Ông ngoái đầu, vẫn không tin: "Làm sao mà con không biết cơ chứ?"
CungTử Phong, con mà lại không biết sao?
Lắm mưu nhiều kế như con, có thể chấp nhận chuyện tiểu sư đệ làm những điều vượt khỏi tầm mắt mình ư?
Cung Tuấn nâng ly, dốc một hơi cạn sạch. Có lẽ đã quá chén nên chàng không kiềm chế cảm xúc của mình nữa, thả cương cho nhiệt huyết bừng lên cùng men say. Lúc này, trông chàng ngời ngời như vầng Tuấng sáng. Cung Tuấn cười ngạo nghễ: "Con cần gì phải biết điều em ấy muốn làm?"
Phó Vị: "Hả?"
"Con chỉ cần biết, bất kể em ấy làm gì, con sẽ không rời mắt khỏi em ấy. Vì em ấy, mọi chướng ngại phía trước con sẽ san phẳng. Vì em ấy, mọi phiền nhiễu sau lưng con sẽ dẹp sạch. Như thế chẳng tốt sao?"
Phó Vị đứng sững như trời trồng. Ông ngồi phịch xuống ghế: "Tình cảm mi dành cho sư đệ mi, quả nhiên là thế!" Cung Tuấn cười khẽ.
Hôm nay, Phó Vị nói chuyện bức tranh với chàng, đâu phải chỉ để hỏi chàng xem Chu Tử Thư muốn làm gì, mà còn để dò thử lòng dạ của chàng với Chu Tử Thư nữa. Lí nào chàng lại không hay? Chẳng thà cứ thuận nước đẩy thuyền, vả lại...
Nói trắng ra rồi đấy, thì đã làm sao?
Mãi lâu sau, Cung Tuấn mới thực lòng than: "Hôm nay con quá chén thật!"
||
Manh: TvT đi chơi về phấn khởi quá nên quyết định chuốt nốt cái chương này. Edit xong lâu rồi mà chỉnh lên chỉnh xuống mấy bận mới tạm hài lòng. Đã lựa chọn câu từ hết sức kĩ càng để thể hiện tâm tình của sư huynh rồi đó. Các chị em có thấy thòng tim hơm? Ai mà bày tỏ thế này mình có yêu luôn hơm? _(:3」z)_
Chú thích
Trích truyện Chó sói ở nước Trung Sơn, kể vể Đông Quách tiên sinh, một nhà Mặc học (trường phái Mặc gia mình đã từng giới thiệu). Ông này biết bản tính loài sói xám (lang) hung tàn, nhưng vì tư tưởng Mặc gia thương xót mọi loài nên ông cứu chó sói. Con sói không chết lại đòi ăn thịt ông. Nhờ mưu của một ông già khác mà Đông Quách tiên sinh mới thoát nạn. Trung Sơn Lang trở thành thành ngữ chỉ phường vong ân phụ nghĩa. Câu gốc của MTH: 所谓性贪而狠, 党豺为虐 (Tui có cảm giác như câu này thiếu vế ??).
Gốc: 老淚橫流 – thành ngữ chỉ nỗi buồn của người già
------oOo------
Chương 124
Nguồn: EbookTruyen.Net
Em ấy biết chắc rồi
Khi Chu Tử Thư đi tìm sách về, Phó Vị không thấy sách mà cũng chẳng thấy bóng dáng tiểu đồng Ôn Thư: "Tiểu đồng tử lại tót đi đâu chơi thế?"
Chu Tử Thư cười, biện bạch thay cho Ôn Thư đồng tử: "Tiên sinh nhớ nhầm rồi, chúng con tìm mãi mà không thấy tập thơ, Ôn Thư bèn gọi Phủ Cầm đồng tử đến mới biết cuốn sách kia đã không còn ở trong thư phòng tiên sinh. Mấy hôm trước lúc ngắm hoa, tiên sinh đã để nó lại trong vườn hoa. Thế nên, Ôn Thư và Phủ Cầm đi tìm sách với nhau, còn con thì quay về đây trước."
Không lâu sau, quả nhiên Ôn Thư đồng tử và Phủ Cầm đồng tử mang sách quay về.
Phó Vị mở tập thơ ra, bình phẩm với hai học trò một phen. Đoạn ông chỉ Cung Tuấn, bảo Chu Tử Thư: "Sư huynh con vừa bảo nó say kìa."
Cung Tuấn nâng chén uống tì tì, cứ như thể chẳng nghe thấy lời Phó Vị.
Chu Tử Thư: "Sư huynh say đấy à?" Cung Tuấn nhìn cậu, cười nhẹ tênh.
Phó Vị phất tay áo: "Thôi thôi, hôm nay dừng ở đây. Con dìu sư huynh con về nhà nó đi, kẻo ngày mai cả thành Thịnh Kinh lại đồn ầm lên rằng Thượng thư bộ Hộ say rượu rồi nằm bệt ngoài đường cái. Ê mặt lắm, lão phu không kham nổi đâu!"
Chu Tử Thư lập tức đến bên, xốc nách Cung Tuấn, dìu chàng ra khỏi Phó phủ.
Cung Tuấn có vẻ đã say mèm, vừa lên xe ngựa, hai mắt chàng nhắm nghiền, đầu ngật sang một bên, chẳng mấy chốc thì ngả lên vai Chu Tử Thư. Chu Tử Thư cứng đờ cả người, vội vén mành xe ra lệnh cho xà ích: "Về phủ Thượng thư trước."
Suốt chặng đường, Cung Tuấn nhắm mắt ngủ say sưa, Chu Tử Thư không dám nhúc nhích một phân, chỉ sợ đánh thức chàng. Khi đến phủ Thượng thư, quản gia đã chờ sẵn ngoài cổng.
Chu Tử Thư: "Hình như sư huynh say rượu, nên ta đưa huynh ấy về."
Quản gia giật mình, ngạc nhiên nhìn Cung Tuấn đang gối đầu lên vai Chu Tử Thư. Ông từ tốn hành lễ, nói: "Phiền Đường công tử quá." Quản gia nhanh nhẹn sai người ra đỡ Cung Tuấn vào nhà, bấy giờ Chu Tử Thư mới lên xe về phủ.
Nhưng cậu không ngờ, cổng chính phủ Thượng thư vừa khép, CungTử Phong "xỉn quắc cần câu" bỗng mở bừng mắt, đứng thẳng dậy.
Quản gia thấy thế thì nhủ thầm, "quả nhiên".
Quản gia khăn gói theo Cung Tuấn từ thuở chàng mới chuyển lên Thịnh
Kinh. Hầu hạ chàng hơn mười năm nay, chưa một lần nào ông thấy Cung Tuấn say hết. Thứ nhất, tửu lượng của Cung Tuấn cao ngất, đố ai chuốc say nổi chàng. Thứ hai, Cung Tuấn là con người cực kì thận trọng, chàng kị nhất là để vuột quyền kiểm soát vào tay kẻ khác. Cho nên, chàng không bao giờ có những hành vi như nốc say bí tỉ.
Cung Tuấn thò tay vào ngực áo, rút ra một cuốn cầm phổ mỏng dính. Đây là cuốn cầm phổ mà Chu Tử Thư đã tranh thủ bỏ tọt vào lòng chàng nhân lúc chàng thiêm thiếp ngủ trên xe ngựa. Có lẽ nó là quà sinh nhật tuổi hai mươi chín của chàng đây.
Cuốn cầm phổ này là bản còn sót lại từ triều đại trước, có giá trị liên thành.
Cung Tuấn lặng ngắm cuốn cầm phổ, trút tiếng thở dài buồn rười rượi.
Chàng ra lệnh: "Nấu canh giải rượu đi."
[1] Tức là giá trị rất lớn, xuất phát từ chuyện một ông vua đòi đổi mấy tòa thành lấy một viên ngọc.
Quản gia kinh ngạc: "Công tử say ạ?" Trông chàng nào có giống người say rượu? Hai mắt sáng sủa, bước đi vững vàng thế kia cơ mà.
Cung Tuấn lắc đầu, nụ cười thoáng trên môi.
"Say đâu phải tại rượu, say tại mình đấy thôi!"
Khi Chu Tử Thư về đến phủ, thư đồng Phụng Bút vẫn giữ nguyên đèn đợi chủ. Vì hôm sau còn phải lên triều sớm nên Chu Tử Thư nhất định sẽ đi ngủ trước giờ Tuất. Ngửi thấy mùi rượu trên người Chu Tử Thư, Phụng Bút chu đáo hỏi: "Công tử dùng canh giải rượu nhé?"
"... Ừ."
Chỉ một lát sau, Phụng Bút đã bưng theo bát canh giải rượu Diêu đại nương nấu sẵn, đặt lên bàn trong thư phòng. Tay phải cầm cuốn sách, Chu Tử Thư xem sách trong yên lặng, nhưng mãi chẳng lật sang trang. Một lúc lâu sau, Phụng Bút nhắc: "Công tử, canh nguội rồi kìa."
Chu Tử Thư giật mình, khẽ "Ờ" một tiếng, với tay lấy bát canh.
Phụng Bút la lên hoảng hốt: "Công tử, đấy là ống đựng bút, cậu cầm nhầm rồi!"
Như sực tỉnh giữa cơn mê, Chu Tử Thư bỗng hoàn hồn. Cái ống đựng bút bằng sứ men xanh trượt khỏi tay cậu, rơi xuống sàn vỡ tan tành. Phụng Bút cuống quýt dọn dẹp, còn Chu Tử Thư cứ há hốc miệng. Lát sau, cậu bảo: "Ngươi ra ngoài trước đi."
Phụng Bút ngơ ngơ ngác ngác, bèn hót hết mảnh vỡ rồi mang ra khỏi thư phòng.
Chu Tử Thư đặt cuốn sách đã xem suốt nửa canh giờ mà không đọng lại một chữ nào xuống. Những ngón tay cậu siết chặt rồi lại duỗi căng ra. Cậu hít một hơi thật sâu.
Chưa bao giờ cậu nghĩ...
Hóa ra sư huynh lại có tình cảm với cậu!
Không. Có lẽ phải tính từ một tháng trước, từ cái đêm trong phủ Thượng thư – đêm CungTử Phong hôn lên mắt cậu qua mu bàn tay. Trước đêm đó, ý niệm đấy chưa từng lóe lên trong đầu cậu, hay đúng hơn, chưa bao giờ cậu dám nghĩ về nó. Nhưng đúng vào đêm hôm ấy, cậu bỗng đoán ra tất cả. Vì thế, cậu chạy bán sống bán chết khỏi chàng, cậu tìm mọi cách lẩn tránh Cung Tuấn. Cậu dối mình, dối người, tự vỗ về bản thân rằng mình nghĩ quá lên thôi, đời nào lại có chuyện như vậy.
Thế nhưng hôm nay ở Phó phủ, cậu đã nghe thấy hết. Ván đã đóng thuyền, cậu không thể tiếp tục dối lừa bản thân nữa.
CungTử Phong gần đến tuổi nhi lập mà vẫn chăn đơn gối chiếc, không phải vì chàng "bất lực", không phải vì chàng không tìm được người con gái mình đem lòng ngưỡng mộ, mà bởi vì chàng thích nam giới, vì chàng chưa tìm thấy người con trai khiến chàng rung động!
Trống ngực đổ dồn, những cái cớ Chu Tử Thư có thể viện ra đã cạn kiệt. Nhận thức đến quá đột ngột làm chấn động cả thể xác lẫn tinh thần cậu.
Nửa năm trước ở phủ U Châu, cậu đã thuyết phục Tô Ôn Duẫn rằng Cung Tuấn không đồng tính. Nhưng Tô Ôn Duẫn nào hay, chính bản thân cậu cũng lung lay trước lí lẽ của anh ta.
Chu Tử Thư nhắm mắt, không suy nghĩ thêm nữa. Thế nhưng rèm mi vừa khép, CungTử Phong lại choán hết tâm trí cậu.
Chu Tử Thư bưng bát canh giải rượu lên tu một hơi cạn sạch để rồi càng chếnh choáng hơn. Cậu say đến nỗi mê man cả thần trí, vậy mà vẫn không tài nào ngủ nổi.
Thế là Chu Tử Thư thức trắng đến tận bình minh.
Ngày kế, sau buổi triều, Chu Tử Thư chỉ làm việc nửa buổi rồi xin nghỉ.
Trên triều, cậu đã trộm nhìn Cung Tuấn từ xa. Hiện giờ hai người không làm việc cùng một nơi, cơ hội gặp mặt vốn rất ít ỏi. Chỉ cần lúc lên triều cẩn thận không chạm mặt thì sẽ không xảy ra chuyện gì lạ kì. Trông Cung Tuấn vô cùng thản nhiên, thái độ vẫn rất bình thường. Có lẽ chàng không biết cậu đã nghe thấy hết tâm sự của mình tối qua.
Cứ tránh né thế hai ngày, trung tuần tháng Mười, Chu Tử Thư nhận được một phong thư nhà từ Cô Tô.
Người viết thư là đại bá phụ Đường cử nhân của Chu Tử Thư. Đầu tiên ông chúc mừng Chu Tử Thư thăng chức, rồi kể vài chuyện trong nhà họ Đường, chẳng hạn như chuyện tháng trước Đường phu nhân bị ốm nặng, may mà gặp được danh y mát tay. Ông nhắn Chu Tử Thư không cần lo lắng.
Mãi đến cuối thư, Đường cử nhân mới viết: "Đầu tháng Chín, Nhị hoàng tử điện hạ đến phủ Cô Tô nhậm chức Phòng ngự sứ. Phủ doãn đại nhân mở tiệc đón mừng điện hạ từ phương xa tới, bỉ nhân cũng hết sức vinh hạnh khi được dự tiệc. Cách đây mấy hôm, phủ Cô Tô thành lập một cơ quan lạ tên là Ngân khế trang bộ Binh. Cứ tưởng rằng chẳng liên quan gì đến Đường gia, ai ngờ ngày mùng sáu, Nhị điện hạ ra quyết định mở rộng Ngân khế trang bộ Binh, mời hương thân, phú hào Cô Tô chung tay góp sức." Đọc đến đây, Chu Tử Thư hơi bất ngờ.
Ngân khế trang bộ Binh là thứ mà người ngoài không thể biết, thậm chí Tô Ôn Duẫn, Dư Triều Sinh cũng không dám khẳng định mình hiểu bản chất của nó. Riêng Chu Tử Thư lại nắm quá rõ về ty Ngân Dẫn. Hai năm về trước, các quyền thần trong triều đình nhen nhóm ý định nhân rộng việc "dùng giấy làm tiền" dưới vỏ bọc là ty Độ Chi, nhưng cuối cùng kế hoạch đó đã thất bại thảm hại. Hiện giờ, vỏ bọc mới của chính sách "tiền giấy" đã trở thành ty Ngân Dẫn, hay đúng hơn là Ngân khế trang bộ Binh.
Công cuộc nhân rộng Ngân khế trang bộ Binh diễn ra hết sức suôn sẻ, từ Cung Tuấn, Chu Tử Thư đến các quan trực thuộc ty Ngân Dẫn đều được hoàng đế ban thưởng. Sau khi Ngân khế trang bộ Binh được thiết lập, chính sách "tiền giấy" sẽ chính thức đi vào hoạt động. Mức độ thay đổi được khống chế hoàn toàn bởi Cung Tuấn. Tự chàng sẽ chọn mặt gửi vàng, rồi thúc đẩy chính sách này vào đúng thời cơ và địa điểm phù hợp nhất.
Nhưng cớ sao tự dưng Nhị hoàng tử Triệu Thượng lại đòi nhúng tay vào việc của Ngân khế trang bộ Binh?
Bụng Chu Tử Thư đầy ắp hoài nghi. Mấy ngày sau, hay tin hai hoàng tử khác cũng mong muốn làm nên công trạng ở nơi mình được cử đến, Chu Tử Thư mới sực ngộ ra: Triệu Thượng chưa chắc đã biết vai trò của Ngân khế trang bộ Binh là gì, anh ta chỉ nóng lòng lập chiến tích để khiến hoàng đế phải nhìn mình với cặp mắt khác xưa, hòng đánh bại hai huynh đệ. Thế rồi, anh ta chấm trúng Ngân khế trang bộ Binh.
Chuyện này chẳng nghiêm trọng mấy, nhưng cũng chẳng nhỏ nhặt gì cho cam.
Dù sao Triệu Thượng là hoàng tử hẳn hoi chứ không phải một Phòng ngự sứ Cô Tô tôm tép. Nếu quả thực anh ta muốn can thiệp vào Ngân khế trang bộ Binh, e rằng không ai dám ngăn cản. Ngộ nhỡ Triệu Thượng khui ra bí mật nào quan trọng thì vấn đề chẳng còn là chuyện anh ta vuột mất cơ may tranh ngôi hoàng đế, mà là cục diện Cung Tuấn đổ mồ hôi, sôi nước mắt xây đắp suốt hai năm ròng có nguy cơ sụp đổ trong gang tấc.
Chu Tử Thư biết phải báo chuyện này cho Cung Tuấn ngay, nhắc chàng đề phòng một chút, nhưng khổ nỗi, hiện giờ cậu không đào đâu ra can đảm để đến gặp Cung Tuấn. Cậu không thể nào nói "không" với sư huynh, nhưng cũng không thể chấp nhận tình cảm của chàng được.
Vắt óc suy nghĩ, Chu Tử Thư nảy ra một ý tưởng.
Cậu cố tình nghe ngóng và nắm được tin Triệu Phụ vời Cung Tuấn vào cung nhân một ngày nọ. Sau khi tan làm, tranh thủ lúc Cung Tuấn chưa về phủ, Chu Tử Thư tất tả qua đó viếng thăm.
Quản gia nói: "Bẩm Đường công tử, công tử nhà chúng tôi vẫn chưa về, mời cậu vào phòng khách ngồi đợi."
Chu Tử Thư là khách quen của phủ Thượng thư, hai sư huynh đệ còn hay ăn cơm với nhau nữa. Nhà rất gần nhau, họ đi lại cực kì thuận tiện. Mọi khi cũng hay có tình huống Chu Tử Thư đến mà Cung Tuấn chưa về, nên quản gia không mấy bận tâm, toan dẫn Chu Tử Thư vào phủ luôn.
Ai ngờ lần này Chu Tử Thư cứ ngập ngà ngập ngừng, cậu nói: "Hôm nay ta còn có việc, nếu sư huynh chưa về thì thôi, ta không quấy rầy nữa. Ta có phong thư gửi sư huynh, phiền ông chuyển giúp ta nhé." Quản gia ngẩn người, nhận lấy lá thư.
Nửa canh giờ sau, Cung Tuấn về phủ. Nghe chuyện Chu Tử Thư đến tận cổng rồi mà không vào nhà, chàng nhướng một bên mày, bóc thư ra đọc. Thấy Chu Tử Thư ám chỉ với mình rằng Nhị hoàng tử hình như muốn nhúng tay vào việc của Ngân khế trang bộ Binh ở phủ Cô Tô, Cung Tuấn giật mình. Chàng chăm chú nhìn phong thư, im lặng rất lâu.
Mãi sau, Cung Tuấn mới thở dài: "Đệ ấy cố ý."
Quản gia đứng cạnh đó, không hiểu gì hết.
Cung Tuấn hỏi: "Hôm nay lúc đệ ấy tới phủ thì mặc quan bào hay thường phục?"
Quản gia đáp: "Quan bào ạ."
Cung Tuấn: "Ngươi thấy đấy, nếu đệ ấy muốn ghé chơi thật thì mặc quan bào sang đây làm gì? Đệ ấy vốn không muốn chờ lâu, chỉ cần trao thư thôi là được. Rõ ràng đệ ấy biết thừa là ta đi vắng nên mới chuẩn bị sẵn một lá thư." Dừng một thoáng, Cung Tuấn bỗng đứng bật dậy, kinh ngạc quá đỗi:
"Việc hệ trọng cỡ này, làm sao đệ ấy chỉ nhắn với ta bằng một lá thư được? Kể cả mấy hôm nay đệ ấy vẫn lảng tránh ta đi chăng nữa, nhưng gặp chuyện lớn đệ ấy tất phải biết nặng nhẹ, không thể qua loa như thế."
Đi tới đi lui trong sảnh, Cung Tuấn quả quyết: "Nhất định em ấy biết mất rồi. Em ấy biết chắc chứ không phải phỏng đoán hay nghi ngờ. Sao bỗng dưng em ấy lại chắc mười mươi thế nhỉ?"
Hồi lâu, Cung Tuấn dở khóc dở cười: "Hóa ra tối đó em ấy đã nghe thấy!"
Ngày kế, sau khi tan làm, Chu Tử Thư vừa về đến phủ, đang ăn tối với Đường Hoàng thì Phụng Bút bỗng xộc vào phòng: "Công tử, Cungđại nhân tới."
Đôi đũa trên tay Chu Tử Thư rớt "lạch cạch" xuống bàn: "Cungđại nhân nào cơ?"
Phụng Bút lạ lùng nhìn Chu Tử Thư: "Cung Tuấn, Cungđại nhân."
Chu Tử Thư nói ngay tức thì: "Bảo ta bị ốm, không tiện tiếp khách!" Vừa dứt lời, Chu Tử Thư đã lẩm bà lẩm bẩm: "Không được, ai mà lừa nổi ông tổ nghề lừa như CungTử Phong! Muốn lừa huynh ấy thì phải tự lừa mình trước tiên. Mình ốm thật, ốm rất nặng, ốm liệt giường liệt chiếu rồi."
Dứt câu, Chu Tử Thư chạy vọt ra khỏi phòng khách, ba chân bốn cẳng phi về phòng mình. Mới chạy nửa đường, cậu đã lật đật quành lại: "Đường Hoàng, son của em đâu?"
Đường Hoàng phát hoảng vì chuỗi hành động như chớp giật của Đường
Thận, phải mất một lúc, con bé mới ngơ ngác bảo: "Ở... ở trong phòng?"
Chu Tử Thư: "Anh mượn một tí nhé."
Đường Hoàng: "Hả?"
Chu Tử Thư lao như tên bắn đến khuê phòng cô em gái, mở tung tráp đựng đồ trang điểm lượm ngay một hộp son. Rồi cậu lại cuống cuồng phóng về phòng mình, tót lên giường nằm đắp chăn.
Ngoài cổng nhà, CungTử Phong mặc quan bào đỏ thẫm, dựa vào kiệu chờ đợi trong im lặng. Tay chàng cầm một cây quạt gấm, nhịp nhịp vào lòng bàn tay, trông rất mực khoan thai, nhã nhặn.
Phụng Bút chạy ra ngoài cổng, thưa: "Cungđại nhân, công tử nhà con bị ốm, không tiếp khách được ạ."
Cung Tuấn sốt sắng lo âu: "Tiểu sư đệ bị ốm cơ à? Thế thì ta càng phải vào thăm đệ ấy. Dẫn đường mau."
Phụng Bút còn muốn nói thêm cơ, nhưng vừa ngẩng đầu thì vấp phải ngay nụ cười hiền từ ấm áp của Cungđại nhân. Biết điều, nó ngậm miệng, ngoan ngoãn dẫn đường cho chàng.
Công tử à, không phải tại Phụng Bút vô dụng đâu, có thay ai đi chăng nữa cũng thế cả thôi!
||
Quên chương trước không post mấy bình luận hài hước trên Tấn Giang:
1. "Anh Vương, anh đã ba mươi tuổi, thành chú Cungrồi, sao anh vẫn chưa tóm được Tiểu Thư Lang vậy?"
Manh: MTH gọi Cung Tuấn là 隔壁老王 – Lão Cunghàng xóm hoặc Lão Cung(mà mình vẫn để là anh Vương), nên bạn độc giả này mới trêu anh đã thành "lão" Cungthật rồi.
2. "Anh Cungđã thành đại phù thủy rồi" – Bạn nào hóng Cherry Magic thì biết rồi đấy xD
Chú thích
Cụm "giá trị liên thành" vẫn còn phổ biến với lại tui bí từ nên để nguyên thế nhé.
Gốc: 酒不醉人人自醉 – Một câu trong truyện Thủy Hử.
Chỗ này tác giả dùng "ngựa Kỳ Ký" (đã từng nhắc đến ở chương 21), hiểu là thiên lý mã hoặc nhân tài. Không chắc ý câu này là Cung Tuấn sẽ chọn một nơi phù hợp nhất để tiến hành cải cách, hay chọn người phù hợp nhất để thực thi cải cách.
------oOo------
Chương 125
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tấm chân tình của ta
Phụng Bút dẫn Cung Tuấn đi thẳng tới cửa phòng ngủ của Chu Tử Thư.
May mà nhóc thư đồng còn biết điều, tuy khiếp oai CungTử Phong nên không dám từ chối dẫn đường, nhưng đến cửa phòng, nó vẫn gõ cửa, nhắc nhở Chu Tử Thư: "Công tử, Cungđại nhân đến rồi. Tiểu nhân vào đây."
Cửa vừa được đẩy ra, nắng liền ùa vào phòng. Khói thơm lững lờ, sương trắng nghi ngút – hương huân sực nức được đốt trong phòng là một loại gỗ đàn hương dễ sinh khói. Phụng Bút trông mà khiếp vía, rõ ràng vừa nãy trong phòng chẳng có gì, sao tự dưng bây giờ lại mù mịt khói chứ? Công tử đang làm gì vậy trời?
Chu Tử Thư nằm bẹp trên giường, ho khù khụ: "Vào đi."
Phụng Bút thi lễ, nghiêng mình mời Cung Tuấn vào nhà.
Cung Tuấn đứng trước cửa nhìn căn phòng đầy khói, đoạn mỉm cười và bước lên thềm vào trong.
Căn phòng hết sức yên ắng, thi thoảng mới nghe tiếng ho của Chu Tử Thư. Diện tích phòng không lớn, nhưng trông có vẻ rộng ra nhờ đám khói mịt mùng. Cung Tuấn lần theo tiếng Chu Tử Thư để đến bên giường. Chàng cúi nhìn, mặt Chu Tử Thư đỏ bừng bừng, cậu đang che tay lên miệng muốn nhịn ho, nhưng vẫn ho dữ dội. Sau cơn ho, Chu Tử Thư nhấc tay lên, lòng bàn tay đỏ chói.
Cung Tuấn sợ điếng người, chàng cuống quýt lại gần rồi bỗng đứng im.
Ngó đôi mắt tỉnh như sáo sậu của Chu Tử Thư, Cung Tuấn vừa buồn cười vừa bó tay với cậu.
Chu Tử Thư ngọ nguậy dựng người dậy, nói: "Đệ chẳng may bị cảm mà tự dưng bệnh nặng quá, không xuống giường đón tiếp sư huynh được. Sư huynh mau về đi, đừng để đệ lây bệnh cho huynh."
Cung Tuấn đáp rất chân tình: "Tiểu sư đệ nói nghe lạ chưa kìa? Ta với đệ chẳng những cùng cảnh xa quê, mà còn là sư huynh đệ đồng môn. Thân là đàn anh của đệ, giờ đệ ốm đau thế này, ta nỡ lòng nào bỏ mặc đệ?"
Chu Tử Thư nghĩ bụng: Huynh là đàn anh của ta? Rõ ràng huynh có chịu làm đàn anh của ta đâu nào!
Cung Tuấn ngồi xuống giường, ngắm đôi gò má hây hây, lại ngó xuống lòng bàn tay đỏ lừ của Chu Tử Thư.
Bị chàng săm soi như thế, Chu Tử Thư không dám thở mạnh vì sợ CungTử Phong phát hiện ra chỗ bất thường. Cậu cố ý làm khói mù mịt cả phòng cốt là để cản trở tầm nhìn, hòng che đậy cái việc mình giả vờ ốm. Khốn nỗi, cậu quên béng đi mất là bây giờ cậu nhịn thở thì cũng ngừng ho luôn, tức là một trời một vực với cái lúc ho sù sụ ban nãy.
Hồi lâu, Cung Tuấn mới vươn tay tới.
Tim Chu Tử Thư hẫng một nhịp.
Cung Tuấn xoa lên má cậu, những ngón tay mân mê.
Bị chàng sờ má, nhịp tim Chu Tử Thư tăng vọt, kể mà không thoa son e mặt cậu cũng đỏ lựng cả lên. Cung Tuấn vuốt má Chu Tử Thư một lát, giơ tay lên xem rồi chìa ra cho Chu Tử Thư nhìn, cười bảo: "Đỏ này."
Chu Tử Thư: "..."
Cung Tuấn tỏ ra thật ân cần, lời giải thích của chàng không thể nào hợp lí hơn: "Lẽ nào vừa nãy ho ra máu, bất cẩn để dính cả lên mặt?"
Chu Tử Thư: "..."
Em van ngài đừng nói nữa!
Rõ là bịt tai trộm chuông! Trò lừa cỏn con bị lật tẩy, Chu Tử Thư quyết định nhắm mắt giả đò ngủ phứt, vờ như không nghe thấy gì cả. Cung Tuấn trông vậy cũng không nói gì, chỉ cười rồi lại vuốt ve gương mặt Chu Tử Thư. Từ đôi mày thanh mảnh, chàng mơn trớn vành tai Tuấng trắng xinh xinh, rồi lướt xuống đôi môi Chu Tử Thư. Chàng mới chạm nhẹ, Chu Tử Thư đã vội vàng ngoảnh mặt đi, mặc tay chàng chơ vơ giữa chừng.
Khoảnh khắc ấy, Cung Tuấn sững người. Chàng ngồi lặng thinh, đoạn buông tiếng thở dài thườn thượt.
"Tiểu sư đệ."
Chu Tử Thư không dám trả lời. Cung Tuấn lại gọi: "Tiểu sư đệ." Chu Tử Thư vẫn nín thinh.
Qua một lúc, giọng Cung Tuấn trầm hơn, chàng thì thầm từng tiếng vững chãi: "Đường Cảnh Tắc."
Tim Chu Tử Thư căng như dây đàn, cậu mơ hồ cảm thấy một ánh nhìn hừng hực bủa vây lấy mình. Cậu he hé mắt, trông thấy Cung Tuấn đang nhìn mình thật điềm tĩnh, đáy mắt chàng phẳng lì không gợn sóng. Trái tim Chu Tử Thư quặn thắt, cậu đã lẩn tránh suốt bao nhiêu ngày trời, lánh mặt lâu đến thế, nhưng cuối cùng vẫn không thể trốn được.
Chu Tử Thư se sẽ đáp: "Dạ..."
Cung Tuấn: "Em có nhìn thấy không?"
Chu Tử Thư: "Thấy gì cơ ạ?"
Cung Tuấn bình thản nói: "Tấm chân tình của ta."
Mắt Chu Tử Thư căng ra, môi hé mở nhưng không bật ra nổi một tiếng trả lời.
Thấy biểu cảm của Chu Tử Thư, mọi thứ đã sáng tỏ với Cung Tuấn. Chàng bật cười tự giễu, nói: "Dĩ nhiên em hiểu chứ. Như lần đầu tiên mình gặp nhau ấy, em biết thừa ta là ai, vậy mà em vờ như không biết." Chàng đặt một tay lên ngực Chu Tử Thư. Cách tấm chăn mỏng manh, Chu Tử Thư có cảm giác bàn tay ấy khiến trái tim cậu ngừng đập. "Em đang sợ ta đấy ư?"
Chu Tử Thư im thin thít.
Cung Tuấn: "Hay em đang sợ chính bản thân mình?!"
Bí mật dưới đáy lòng bị người ấy bóc toạc, Chu Tử Thư run bắn: "Sư huynh!"
Cung Tuấn đặt ngón trỏ lên môi Chu Tử Thư, khẽ khàng "suỵt" một tiếng. "Em không cần phải nói gì đâu, ta hiểu hết mà. Em đã dành cả mấy ngày trời để nói với ta câu trả lời của em rồi còn gì. Chẳng qua từ đầu đến cuối, ta vẫn không dám tin và chẳng đành lòng tin đấy thôi." Cung Tuấn mỉm cười hiền hậu, nhưng ai dám bảo đó là nụ cười của niềm vui? Chàng cố gắng nói với cậu bằng giọng tươi tỉnh nhất: "Ta có bắt ép em đâu nào?"
Khi chàng nhìn cậu như thế, cõi lòng Chu Tử Thư tê buốt, cậu khát khao được cất tiếng thanh minh rằng "Sư huynh, đệ không hề nghĩ thế", nhưng lời lẽ cứ nghẹn ứ lại. Ngón tay Cung Tuấn đặt trên môi cậu như núi Ngũ Hành đè trên mình Tôn Ngộ Không, nóng đến nỗi trái tim cậu bỏng rẫy, nóng đến nỗi khóe mắt cậu cay sè.
Cung Tuấn thẫn thờ buông tiếng thở dài. Chàng dùng ngón tay bị son nhuộm đỏ, tỉ mỉ viền theo chân mày Chu Tử Thư. Cử chỉ của chàng đầy nâng niu và quyến luyến, như người phu quân vẽ lông mày cho nương tử.
"Điểm trang, thủ thỉ nhìn chàng hỏi: đậm nhạt mi em đẹp mấy phần?"
"Nếu đã ốm thì cứ nghỉ ngơi cho khỏe, chớ lao lực làm chi."
Đoạn, Cung Tuấn đứng dậy rồi đi ngay. Chu Tử Thư nằm thần ra trên giường một lúc lâu, thình lình cậu bật dậy, tông cửa xông ra đuổi theo Cung Tuấn. Nhưng Cung Tuấn đi nhanh quá, Chu Tử Thư chỉ do dự một lúc mà kiệu chàng đã khuất dạng. Đứng trước cổng phủ, Chu Tử Thư thẫn thờ nhìn đầu hẻm vắng tanh. Cậu thậm chí còn nghĩ tới việc chạy sang phủ Thượng thư ngay tức thì. Cậu muốn phân trần với Cung Tuấn rằng dẫu hai người bọn họ không thể bên nhau, chàng vẫn cứ là CungTử Phong mà cậu kính trọng nhất, ngưỡng mộ nhất.
Nhưng Chu Tử Thư không dám đi.
Hôm sau, khi chưa bắt đầu buổi chầu, Chu Tử Thư lặng lẽ sang tòa điện dành cho các quan lớn nhất phẩm và nhị phẩm. Cậu rướn cổ tìm Cung Tuấn, nhưng các đại thần lần lượt bước ra hết mà bóng dáng CungTử Phong vẫn biệt tăm biệt tích. Đến lúc vào triều, Chu Tử Thư lại ngóng tìm, song càng chẳng thấy tăm hơi Cung Tuấn.
Chu Tử Thư phỏng đoán: Lẽ nào sư huynh xin nghỉ ở nhà, không lên triều?
Sau buổi triều, Chu Tử Thư không đến Ngự Sử đài mà đi tới điện Cần
Chính. Cậu tần ngần đứng ngoài cửa mãi rồi mới gõ cửa đi vào. Gian nhà này là nơi làm việc của Cung Tuấn và Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. Hôm nay, chỗ ngồi của Cung Tuấn trống không, nhưng Mạnh Lãng thì có trong phòng. Thấy Chu Tử Thư, ông ta ngạc nhiên lắm: "Ô kìa Đường đại nhân? Bản quan nhớ bây giờ ngươi đâu còn làm việc ở điện Cần Chính." Nói xong, Mạnh đại nhân đảo mắt: "Tìm Cungđại nhân phỏng?"
Chu Tử Thư nhắm mắt nói: "Vâng, hạ quan có việc cần nói với Hộ bộ Thượng thư đại nhân."
Mạnh Lãng nào biết khúc mắc quanh co giữa sư huynh đệ nhà bọn họ, ông ta cười hà hà: "Thế thì không may rồi, chẳng nhẽ ngươi không biết, tối qua Cungđại nhân dâng tấu vào cung tâu rằng phải về quê thăm người thân và đã rời thành ngay trong đêm?"
Chu Tử Thư: "Hả?!"
Đi đến tận nha môn bộ Hộ, rồi sang phủ Thượng thư, đáp án mà Chu Tử Thư nhận được cũng y hệt.
CungTử Phong đã rời kinh về Kim Lăng thật rồi!
Chu Tử Thư tê liệt, ngồi phịch xuống ghế, ngây ra như phỗng.
"Huynh ấy giận mình rồi, nhất định là huynh ấy giận mình rồi."
"Nhưng mình có làm gì sai đâu cơ chứ? Lẽ nào mình thật sự nên đến với huynh ấy? Nhưng... nhưng như vậy không đúng mà!"
Một ngày sau, Chu Tử Thư tự nhủ: "Mình chưa làm gì sai hết cả, mình chỉ không nỡ từ chối thẳng mặt sư huynh thôi."
Thêm một ngày trôi qua, Chu Tử Thư lại nghĩ: "Không, mình sai rồi. Dù thế nào đi chăng nữa mình cũng không nên giả ốm để lừa huynh ấy, còn cố tình bôi son vờ như ho ra máu. Lúc đó thấy thế, có lẽ huynh ấy đau lòng lắm."
Rồi ba ngày nữa lại trôi qua, Chu Tử Thư hoàn toàn tỉnh ngộ, cậu ân hận ghê gớm: "Huynh ấy tốt với mình xiết bao. Rõ ràng biết mình đang điều tra cái chết của Lương tiên sinh và vụ cung biến ba mươi mốt năm về trước, thế mà huynh ấy lại giúp mình chứ không hề tố giác hay ngăn cản. Huynh ấy nói với tiên sinh rằng huynh ấy muốn san phẳng mọi chướng ngại phía trước vì mình, dẹp sạch mọi phiền nhiễu sau lưng vì mình. Còn mình thì cứ khăng khăng giấu giếm huynh ấy rồi tưởng thế là đúng."
"Sư huynh ơi..."
"CungTử Phong ơi!"
Giang Nam, Kim Lăng, Lang Gia Cungthị.
Từ mười hai năm trước, khi Cung Tuấn đỗ Trạng Nguyên rồi lên làm quan ở Thịnh Kinh, ngoài trừ dịp Tết, chàng hiếm khi quay về phủ Kim Lăng, càng hiếm khi về lâu đến vậy. Đám trẻ con nhà họ Cungcậy núi cao hoàng đế xa, hai quyền thần CungThuyên, Cung Tuấn – những người xưa nay nghiêm nhất nhà – đều vắng mặt, chúng thường xuyên bày trò nô nghịch, bài vở chỉ làm cho xong chứ chẳng chuyên tâm cố gắng.
Xui cho chúng, Cung Tuấn bỗng dưng lại về nhà.
Lũ nhóc tì đứa nào đứa nấy nhăn nhó, một bầy áo đen lít nhít, ăn cơm nói sai một câu thôi cũng bị bắt làm thêm một bài, thực sự là khổ không thể tả.
Tứ thúc nhà họ Cung– CungTuệ cầm một ấm trà Bích Loa Xuân hạng nhất sang viện của Cung Tuấn, hai chú cháu vừa nhâm nhi trà, vừa gẫu chuyện với nhau.
CungTuệ tự biết mình chỉ là thương nhân, lòng dạ không lắt léo như những người làm quan, không thể cân não với bọn họ, vì thế, ông đi thẳng vào vấn đề luôn: "Tử Phong này, con về nhà đã năm ngày nay, sao còn chưa hồi kinh? Trong triều rảnh rang lắm hay sao?" Mi còn ở đây, chớ kể lũ cháu chắt khốn đốn, đến cả người làm chú như ta cũng chẳng thoải mái chút nào!
Cung Tuấn: "Lâu lắm có dịp về nhà, tứ thúc chê con nán lại lâu quá ư?" Trông mặt chàng đến là rầu rĩ.
CungTuệ thầm mắng "Cái thằng này lại diễn", nhưng ngoài miệng thì bảo: "Đời nào ta lại nghĩ thế! Chẳng qua bình thường con bận rộn hằng bao nhiêu việc, sao lần này lại có nhiều thời gian thư nhàn để về nhà nghỉ ngơi thế?"
"Cũng không hoàn toàn là nghỉ ngơi."
CungTuệ ngạc nhiên: "Hả?"
Cung Tuấn nhả ra hai chữ: "Cô Tô."
CungTuệ nhạy bén nắm bắt được ngay, ông hạ giọng, thì thầm nói:
"Chẳng nhẽ con về chuyến này có liên quan đến việc Nhị hoàng tử đang thực hiện ở Cô Tô?" CungTuệ cũng biết đôi điều về Ngân khế trang bộ Binh nên mới nhanh chóng liên tưởng đến tình huống ở Cô Tô như vậy.
Cung Tuấn cười thản nhiên, không đáp lời.
Chỉ cần thế là CungTuệ hiểu mục đích về nhà của Cung Tuấn. Bề ngoài là về quê thăm người thân, nhưng thật ra chàng đang ngấm ngầm cài cắm thuộc hạ vào phủ Cô Tô. Thôi được rồi, thế thì ông càng không thể đuổi khéo chàng, đành bắt lũ trẻ con nếm mùi gian nan thêm ít lâu nữa vậy.
Bỗng CungTuệ nhớ ra: "À, con với Đường Cảnh Tắc thế nào rồi hả? Cũng hai năm rồi đấy, sao chẳng thấy động tĩnh gì thế?" Thật không giống mi tẹo nào!
Bàn tay nhấc chén trà của Cung Tuấn khựng lại một thoáng, chàng nhìn xuống, nói: "Lần này con về, cũng có phần vì em ấy."
CungTuệ: "Hả?"
Cung Tuấn: "Lúc nào cũng quấn quýt như sam, nếu không có sự tương phản thì làm sau em ấy biết con quan trọng với em ấy đến nhường nào?"
CungTuệ là người thông minh, nhất là trong tình trường thì ông là tay lão luyện. Nghe cháu mình nói thế, lại thêm biểu hiện của CungTử Phong trong mấy ngày về nhà, ông liền sáng tỏ, bèn cười bảo: "Tử Phong nói thế cũng đúng đấy. Nhưng mà đánh đổi vậy con có nỡ không? Ở thành Thịnh Kinh xa xôi, e là tiểu sư đệ nhà con đang mong nhớ con đến nỗi cơm nước chẳng màng, chỉ ước ao được bay vút tới Kim Lăng tìm con. Con nhất quyết để mặc nó thế sao?"
Cung Tuấn thở dài, đặt chén trà xuống.
"Nỡ với chả không nỡ, quyết với chả không quyết, rồi như thế nào? Rõ ràng em ấy cũng phải lòng con, làm sao con lại không nhận ra tình ý trong mắt em ấy? Nhưng em ấy cứ mãi không chịu vỡ lẽ, còn không muốn thừa nhận nữa."
Dễ gì được thấy CungTử Phong trút bầu tâm sự thế này, tứ thúc trầm trồ, thích thú chiêm ngưỡng cho đã mắt.
Cung Tuấn liếc ông, điềm đạm gọi: "Tứ thúc à."
CungTuệ rụt cổ, tằng hắng một cái rồi đứng dậy: "Ta chợt nhớ cửa hàng còn có việc, đi đã nhé." Ông ra tới cổng viện thì bỗng nghe tiếng Cung Tuấn gọi lại. CungTuệ ngoái đầu: "Hở? Tử Phong còn việc gì sao?"
Cung Tuấn trầm ngâm, nói: "Mười ngày nữa con sẽ về kinh."
CungTuệ ngẩn người: "Được."
Rời khỏi khu nhà của Cung Tuấn, CungTuệ khoái chí lắm: "Nỡ à?
Quyết à? Rõ rành rành là xót hết cả ruột đấy còn gì!"
||
Hương là gỗ thơm, huân là cỏ thơm nhá
Đây là hai câu cuối bài thơ閨意-近試上張水部 tức Ý khuê phòng – Gần đi thi, dâng quan thuỷ bộ họ Trương. Dịch giả: .
------oOo------
Chương 126
Nguồn: EbookTruyen.Net
Công chúa An Định
Cuối tháng mười, Triệu Phụ lại đổ bệnh, các buổi triều tiếp tục bị hoãn.
Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân và hòa thượng Thiện Thính ngày ngày cầu đảo cho hoàng đế trong cung Phúc Ninh. Trong hoàng cung, đâu đâu cũng thấy đạo sĩ tóc búi mũi trâu mặc đạo bào với hòa thượng đầu trọc lốc khoác tăng y.
Lần này do bệnh tình trầm trọng, ngoài các đại thần nhất phẩm ra, Triệu Phụ không gặp bất kì quan viên nào hết. Chớ kể tới Chu Tử Thư, ngay cả Tô Ôn Duẫn cũng chưa được thấy mặt rồng.
Hôm đó, Chu Tử Thư từ Ngự Sử đài về đến nhà thì thấy kế toán Lâm, Diêu Tam và Đường Hoàng đang đối chiếu sổ sách.
Thấy Chu Tử Thư, ba người liền đưa sổ sách cho cậu kiểm tra. Lật bừa một hồi, Chu Tử Thư ngạc nhiên khi phát hiện lợi nhuận quý này gần gấp đôi so với bình thường. Cậu bèn gọi Đường Hoàng vào thư phòng hỏi kĩ càng, mới biết chỗ lợi nhuận dôi ra đấy không đến từ tăng doanh thu mà đến từ giảm giá thành.
"Suy cho cùng, em nghĩ, sản nghiệp lớn nhất của nhà mình chính là Bách Bảo Các. Hiện giờ lầu Tế Hà đã có mặt ở Cô Tô, Kim Lăng và Thịnh Kinh, còn chuẩn bị mở thêm một chi nhánh nữa ở Thịnh Kinh. Nhưng Bách Bảo Khác không giống với lầu Tế Hà. Rất khó để triển khai Bách Bảo Các ở nơi khác, bởi chỉ ở thành Thịnh Kinh mới có nguồn khách hàng dồi dào cỡ này. Em cứ băn khoăn mãi xem làm thế nào mới giảm được chi phí, rồi em nghĩ không có gì hay hơn là cứ thuê thêm người làm."
Chu Tử Thư đã hiểu ý định của em gái mình, nhưng cậu vẫn hỏi: "Thuê thêm người làm, chẳng phải sẽ đội chi phí nhân công lên sao?"
Đường Hoàng: "Nhưng hiệu suất cũng cao hơn hẳn." Con bé lấy một chiếc bàn tính, gảy lạch xạch mấy phát, minh họa cho Chu Tử Thư xem: "Mình lấy xưởng ngọc lưu ly làm ví dụ nhé, bình thường chúng mình đã cố gắng chia nhỏ công việc hết mức có thể cho các thợ thủ công rồi. Giả sử mình để một người thợ chuyên môn điều chế nguyên vật liệu, hiển nhiên anh ta có thể điều chế ra rất nhiều, nhưng mỗi ngày chỉ có thể sản xuất tối đa một thùng nguyên vật liệu thôi. Nhưng nếu mình phân công một thợ mài đá Lăng Tử, một thợ khác pha trộn vật liệu, một thợ nữa chuyên phụ trách kiểm tra thành phẩm, thì trong một ngày ba người bọn họ có thể sản xuất ra ba thùng nguyên liệu. Lợi nhuận từ hiệu suất này sẽ cao hơn tiền công mình phải trả cho ba người thợ."
Ở cái tuổi đôi tám, Đường Hoàng đã trổ mã thành thiếu nữ, chẳng còn bóng dáng cô nhóc thoăn thoắt, hùng hổ đánh đuổi bọn du côn, bảo vệ hàng nước quả hồi xưa ở thôn Triệu gia. Thế nhưng trong mắt Chu Tử Thư, em gái mình đã trưởng thành, mạnh mẽ hơn cả trước.
Trầm ngâm hồi lâu, Chu Tử Thư hỏi: "Thế có tìm được cái hồi trước mình nhờ Diêu đại ca tìm không?"
Đường Hoàng lắc đầu nuối tiếc: "Không ạ. Em sợ ở Đại Tống không có, hoặc chưa ai phát hiện ra. Phải sang Liêu tìm thử mới được."
Hai anh em bàn bạc thêm một lúc, chúc nhau ngủ ngon rồi ai về phòng nấy.
Chu Tử Thư đương nhiên sẽ không kể cho Đường Hoàng chuyện mình cắt đặt thám tử nằm vùng ở nước Liêu, dù rằng như thế chưa thể tính là lạm dụng của công để làm việc tư được. Kiều Cửu vốn là nhà buôn, nhờ hắn để ý tìm kiếm hộ bên Liêu không khó, nhưng Chu Tử Thư không có ý định đấy.
Tuy vậy, Chu Tử Thư không ngờ rằng cậu và Đường Hoàng chỉ mới nhắc đến nước Liêu tối đó, thì sáng sớm hôm sau đã có mật báo khẩn vượt tám trăm dặm gửi về Thịnh Kinh.
Chết mất hai con ngựa thần tốc, quan sai truyền tin mới mang được mật báo đến hoàng cung trong tình trạng kiệt sức. Đầu giờ chiều, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn nhận được mật hàm của CungTiêu. Trong mật hàm chỉ vẻn vẹn một câu ngắn ngủn, nhưng hai người bọn họ đọc xong thì bàng hoàng, nhìn nhau mà không dám tin.
Ngày tiếp theo, giấy đã không còn gói nổi lửa.
Ba ngày trước, tại Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, vua Liêu bắt quả tang công chúa An Định thông dâm với Tứ hoàng tử Gia Luật Long Chân. Gia Luật Long Chân bị biếm khỏi hoàng cung. Công chúa An Định bị vua Liêu sai người đánh một trăm roi, tan xương nát thịt. Sau đó, vua Liêu phái sứ đoàn đến chất vấn Đại Tống, chỉ dăm hôm nữa sẽ tới thành Thịnh Kinh.
Công chúa An Định chính là nàng công Triệu Phụ gả sang nước Liêu vì mục đích hòa thân một năm về trước.
Cửu Cunggia qua đời từ lâu, quận chúa ở Cungphủ chẳng bao giờ được Triệu Phụ ngó ngàng tới. Lần duy nhất được vua nhớ tới thì nàng bị bắt làm dâu nước Liêu. Triệu Phụ phong nàng làm công chúa, ban phong hiệu là "An Định". Nào ngờ "an định" đâu chưa thấy, họa lớn đã ập lên đầu.
Triệu Phụ đang ốm bệnh không thể lên triều, nhưng ông ta cho vời các tướng công vào cung, bàn bạc trong cung Phúc Ninh rất lâu.
Bước ra khỏi cổng cung Phúc Ninh, Tả tướng Kỷ Ông Tập đứng lặng trước cửa điện, ngẩng đầu, chăm chú ngước nhìn bầu trời xanh bao la bát ngát. Hữu tướng CungThuyên đi ngang qua bèn dừng bước, hỏi: "Kỷ tướng đang ngắm gì thế?"
Kỷ Ông Tập thu ánh mắt: "Chỉ nhìn vu vơ thôi, Cungtướng đừng để ý." Sau lưng hai người, Trần Lăng Hải, Từ Bí cũng đi ra khỏi điện.
Kỷ Ông Tập thở dài thườn thượt, phất tay áo ra về.
Màn đêm buông xuống, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn cùng tiến cung, báo cáo thực hư chuyện công chúa An Định dâm loạn hậu cung nước Liêu.
Triệu Phụ nằm ngả người trên gối dựa, mắt lim dim lắng nghe Chu Tử Thư trình bày.
Chờ Chu Tử Thư nói xong hết, giọng nói khào khào ốm yếu của ông ta mới cất lên: "Theo ý Cảnh Tắc thì thật ra cháu gái trẫm chưa chắc đã mắc tội gì; những kẻ rắp tâm gắp lửa bỏ tay người thì cớ nào chúng cũng viện ra được. Cháu gái trẫm chỉ là cái cớ để một số kẻ diệt trừ Tứ hoàng tử nước Liêu thôi phải không?"
Chu Tử Thư im thít, không hề hé môi.
Triệu Phụ: "Phỉ Nhiên, ngươi nói xem?"
Đôi mắt hoa đào diễm lệ liếc xuống, Tô Ôn Duẫn cúi đầu hành lễ, thẳng thắn tâu: "Công chúa An Định là công chúa của Đại Tống ta. Việc công chúa có phạm phải điều cấm thật hay không, ngoài bản thân công chúa đã mất và thị nữ bị ban chết theo thì chỉ còn Tứ hoàng tử bị biếm làm thứ nhân biết rõ. Thực hư giờ đã vô nghĩa, thần cho rằng việc trọng yếu nhất hiện nay là hai ngày nữa, sứ Liêu sẽ có mặt ở kinh thành."
Triệu Phụ khép hàng mi, nhẹ nhàng nói: "Hoàng đế nước Liêu có bốn hoàng tử, giờ mất một, chỉ còn lại ba. Thế là lại giống trẫm." Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn cúi đầu im re.
Hai ngày sau, sứ thần nước Liêu tới kinh thành.
Triệu Phụ vẫn không lên triều được, nhiệm vụ tiếp sứ lại đặt lên vai Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. May mà lần này vua Liêu không phái hoàng tử nào đi theo, nên ba hoàng tử Đại Tống đang vắng mặt không cần về kinh gấp để tiếp sứ giả.
Chu Tử Thư dĩ nhiên cũng bị Triệu Phụ gài vào đoàn đón sứ. Còn Tô Ôn Duẫn, vì từng lộ mặt ở nước Liêu nên hôm sứ Liêu vào kinh thành, anh ta cáo ốm ở nhà, không bước chân ra khỏi cửa.
Sứ giả nước Liêu đến kinh đô Đại Tống lần này còn kênh kiệu, phách lối gấp mấy lần một năm về trước.
Cách đây một năm, nước Liêu cậy binh hùng tướng mạnh, chủ động tấn công thành U Châu rồi ngang nhiên quy kết toàn bộ trách nhiệm cho Đại Tống. Lần đó, phía Liêu danh bất chính, ngôn bất thuận; song lần này, sứ Liêu đã có lí do thích đáng. Hành vi của công chúa An Định khiến vua Liêu nổi trận lôi đình; các sứ giả nước Liêu vừa trông thấy Mạnh Lãng đã bừng bừng phẫn nộ: "Lũ người Tống chúng bay tạ lỗi thế đấy hả? Hèn chi có cô công chúa dâm đãng quá thể! Hành vi của người Tống thật đáng phỉ nhổ!"
Các quan nước Tống nghe thế, có ai lại không giận sôi gan ứa mề? Nhưng sứ Liêu ngạo mạn quá, đến Mạnh Lãng cũng không có cách nào trị họ.
Mạnh Lãng ra sức vỗ về cho sứ Liêu nguôi giận, chỉ chờ long thể Triệu Phụ khá hơn rồi vấn an ông ta, đặng hỏi xem nên giải quyết việc này thế nào.
Hôm đó, tiễn sứ Liêu xỉ vả không ngớt miệng xong, Mạnh Lãng về điện Cần Chính, thở vắn than dài: "Biết tính sao bây giờ!"
Chu Tử Thư đi theo sau ông ta, chỉ biết cúi đầu, trong lòng cũng cảm thấy hết sức nan giải.
Ngày kế, Chu Tử Thư không rỗi rãi, cậu tiếp tục đi theo Mạnh Lãng đến dịch quán tiếp đón sứ Liêu.
Lần này đoàn sứ nước Liêu sang Tống không có mặt Gia Luật Cần, thay vào đó là một viên quan miền Nam tên là Tiêu Chương. Tiêu Chương ăn nói rất xấc xược với Mạnh Lãng, không thèm coi quan lớn như Mạnh Lãng ra gì. Mạnh Lãng căm tức đã lâu, sau khi Tiêu Chương chất vấn đến lần thứ hai thì Mạnh Lãng mỉm cười, chắp tay nói: "Xin hỏi sứ Liêu, công chúa An Định của Đại Tống ta hiện ở nơi nào?"
Tiêu Chương sững người, nói: "Công chúa dâm loạn hậu cung, dĩ nhiên phải bị hoàng đế Đại Liêu ta đánh chết, quẳng thây ra khỏi cung từ lâu rồi."
Mạnh Lãng dấn lên một bước, cả giận: "Công chúa của Đại Tống ta há có thể để người khác tùy ý trừng phạt? Kể cả đã làm dâu nước Liêu, công chúa phạm trọng tội cũng phải giao cho bộ Hình Đại Tống điều tra xét xử. Dù tình huống xấu đến mấy đi chăng nữa, tại sao tiên thể của công chúa lại không còn? Nghe tiếng mà không thấy người, chết mà chẳng thấy xác, chỉ dựa vào mỗi câu 'công chúa dâm loạn hậu cung' của vua Liêu mà đòi lấp liếm cho qua chuyện? Thế gian làm gì có đạo lí đấy!"
Tiêu Chương: "Ngươi...!"
Mạnh Lãng nói: "Bản quan xin cáo từ trước, mong rằng ngày mai, sứ Liêu có thể giải thích tường tận sự tình." Nói xong, ông ta phẩy tay áo ra về.
Các quan Tống cũng theo Mạnh Lãng rời khỏi dịch quán, lúc đi còn quắc mắt lườm sứ Liêu cho hả mối căm hờn.
Chu Tử Thư cũng bắt chước họ, cậu vờ như trút căm giận, lườm một lượt đoàn sứ Liêu hơn mười người. Ánh mắt cậu thoáng chững lại ở một người đàn ông trẻ tuổi đứng đằng sau Tiêu Chương. Chỉ thấy sau khi Mạnh Lãng phẩy tay áo bỏ đi, Tiêu Chương đã cúi đầu thì thầm gì đó bên tai người thanh niên kia.
Tuy không có gì kì lạ, nhưng Chu Tử Thư cứ có cảm giác Tiêu Chương đang hỏi ý kiến người đó.
Tình huống này vô cùng quen thuộc, sau khi về nhà vắt óc suy ngẫm, linh quang bỗng lóe lên trong đầu Chu Tử Thư...
Nửa năm trước lúc cậu bí mật xâm nhập nước Liêu, Kiều Cửu nói chuyện với cậu y hệt thế mà!
Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu Chu Tử Thư. Trời tối, cậu bí mật đến phủ Tô Ôn Duẫn. Tô Ôn Duẫn thấy cậu thì phải cạnh khóe ngay mới chịu:
"Đường đại nhân ghé thăm hàn xá, thật là vinh hạnh cho bản quan biết mấy. Có việc gì mà rồng phải đến nhà tôm thế này?"
Chu Tử Thư không vòng vo, kể luôn về người thanh niên bắt gặp ở dịch quán và suy đoán của mình.
Tô Ôn Duẫn biến sắc, anh ta trầm ngâm một chốc mới nói: "Nước Liêu hiếm quan lớn còn trẻ lắm. Ở nước Liêu, viên sứ giả Tiêu Chương đã ngang hàng với đại quan tam phẩm rồi. Không một quan Liêu nào có phẩm cấp cao hơn ông ta mà dưới tuổi ba mươi cả. Kẻ đó ắt không phải quan Liêu." Hai người liếc nhau.
Chu Tử Thư: "Thế là hoàng tử nào đây?"
Tô Ôn Duẫn: "Ngươi mô tả tướng mạo của y cho ta coi."
Chu Tử Thư: "Da dẻ trắng trẻo, diện mạo thanh tú sáng sủa, không vạm vỡ, dũng mãnh như các quan người Liêu khác mà hơi giống thư sinh Đại Tống chúng ta. Nhưng khí chất người này âm u quỷ quyệt, trông hai đầu mày lồ lộ vẻ tàn ác, có lẽ tay đã vấy nhiều máu đây."
Tô Ôn Duẫn sửng sốt, cười giễu cợt: "Thế thì dễ là Nhị hoàng tử nước Liêu Gia Luật Xá Ca rồi!"
Chu Tử Thư gấp gáp hỏi: "Tại sao y lại tới đây?"
Tô Ôn Duẫn im lặng suy nghĩ rất lâu rồi mới ngẩng lên hỏi: "Lúc nãy ngươi nói, sứ Liêu đến kinh đô để hỏi tội Đại Tống chuyện công chúa An Định. Ngoài ra, họ còn yêu sách gì khác không?"
"Cũng chỉ loanh quanh chuyện cắt đất đền tiền. Cắt đất thì không đời nào, đền tiền hẵng còn đang bàn thảo. Ngoài những việc đó ra..." Ngừng một thoáng, Chu Tử Thư thốt lên: "Nước Liêu còn muốn cưới thêm một công chúa?"
Gia Luật Xá Ca bí mật đến Thịnh Kinh, chẳng nhẽ lại vì vua Liêu muốn cưới thêm công chúa?
Chu Tử Thư nghĩ mãi mà không ra lời giải đáp, Tô Ôn Duẫn cũng bế tắc.
Nhưng khi Chu Tử Thư chuẩn bị về, Tô Ôn Duẫn hỏi: "À, Đường đại nhân, hôm nay ở dịch quán, có phải Mạnh đại nhân ra oai rất hùng hồn, không thèm e sợ sứ Liêu nữa không?"
Chu Tử Thư cả kinh. Vừa nãy trong lúc nói chuyện với Tô Ôn Duẫn, cậu không hề đề cập đến tình hình ở dịch quán hôm nay.
Tô Ôn Duẫn thấy Chu Tử Thư lặng thinh là biết đáp án. Anh ta nói bằng giọng khinh khỉnh: "Ngươi không tò mò xem tại sao à?"
Chu Tử Thư: "Tại sao thế?"
"Một năm trước, Mạnh Lãng đột nhiên được tiếp sức là vì có người lén lút về Thịnh Kinh làm chỗ dựa cho ông ta. Bây giờ chẳng nhẽ còn lí do nào khác?" Tô Ôn Duẫn khinh bỉ hừ một tiếng, "Gã đó lại lẻn về đây rồi chứ còn gì."
||Chú thích
Gốc: 牛鼻子道士 – đạo sĩ mũi trâu. Hán ngữ Đại Tự điển giải thích là búi tóc đạo sĩ giống mũi trâu. Vài lí giải khác là hình Thái Cực có hai chấm âm-dương giống mũi con trâu; hoặc Lão Tử – ông tổ Đạo giáo gắn liền với hình ảnh cưỡi con trâu đen.
------oOo------
Chương 127
Nguồn: EbookTruyen.Net
Lại đây, Cảnh Tắc
Hôm sau, Chu Tử Thư liền gặp Lý Cảnh Đức trong nhóm quan tiếp đón sứ giả.
Lý tướng quân lại cạo sạch bộ râu quai nón, ăn vận như quan văn, núp sau lưng Mạnh Lãng. Thấy Chu Tử Thư, hắn nháy mắt ra hiệu, nhưng không cố ý bắt chuyện với cậu.
Chu Tử Thư thở dài trong bụng: Coi Lý Cảnh Đức kìa, giờ cũng biết cẩn thận rồi đấy! Suy cho cùng thì hắn bị Chu Tử Thư lợi dụng cũng là lợi dụng, mà bị Mạnh Lãng lợi dụng cũng vẫn là lợi dụng. Hơn nữa, bất cứ lúc nào hắn cũng có thể chụp bao tải cho Mạnh Thượng thư ăn đòn, nhưng hắn không thể chụp bao tải nện Chu Tử Thư một trận được. Thế nên lần này hắn tìm thẳng tới Mạnh Lãng luôn chứ không vòng qua Chu Tử Thư nữa.
Hôm nay, sứ thần hai nước lại hậm hực ra về.
Sau khi tan làm, Chu Tử Thư tiếp tục đến phủ Tô Ôn Duẫn. Lần này cậu đã ghi nhớ đặc điểm trên gương mặt của viên quan người Liêu trẻ tuổi kia: "Tai y rất mỏng, mắt trái to hơn mắt phải một chút, má phải có một nốt ruồi bé màu đen."
Tô Ôn Duẫn liếc xéo cậu: "Đường đại nhân có tài trông là nhớ, chứ ta làm gì có đâu."
Ngụ ý, anh ta mới gặp Gia Luật Xá Ca một lần ở phủ Tích Tân, làm sao nhớ tường tận thế được.
Chu Tử Thư cũng cảm thấy việc này cần cân nhắc kĩ hơn. Cậu đang nghĩ kế để Tô Ôn Duẫn không phải mạo hiểm đi gặp mà vẫn kiểm chứng được xem người nọ có đúng là Gia Luật Xá Ca không, thì Tô Ôn Duẫn đã cười khẩy, nói: "Đương nhiên, đúng là trên má phải Gia Luật Xá Ca có nốt ruồi đen nhỏ."
Chu Tử Thư kinh ngạc: "Chẳng phải Tô đại nhân vừa bảo mình không có khả năng gặp một lần là nhớ sao?"
Tô Ôn Duẫn điềm nhiên hỏi ngược lại: "Thì sao? Đúng là ta không có khả năng thấy một lần đã nhớ, nhưng chẳng lẽ ta không thể nhớ rằng trên mặt Gia Luật Xá Ca có một nốt ruồi con à?"
Chu Tử Thư: "..."
Cái tên này hãm thế cơ chứ lại!
Nếu chắc chắn gã thanh niên đó chính là Gia Luật Xá Ca, thì Chu Tử Thư đã có sẵn đối sách cho tình huống hiện tại.
Chu Tử Thư bí mật tìm Lý Cảnh Đức, đi thẳng vào vấn đề: "Trong đám sứ giả nước Liêu có Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca."
Lý Cảnh Đức kinh hãi, xoa cái cằm nhẵn thín: "Thật ư?"
Chu Tử Thư: "Thật. Nhưng hạ quan muốn hỏi tướng quân câu này trước tiên. Lần này tại sao tướng quân lại về Thịnh Kinh?"
Lý Cảnh Đức im lặng. Đoạn hắn nói: "Thật ra, việc ta về Thịnh Kinh để thực hiện không liên quan đến chuyện sứ thần nước Liêu tới kinh thành. Việc này cũng không dính dáng đến ngươi, Đường đại nhân đừng hỏi làm gì. Chẳng qua vừa khéo gặp phải bọn quan Liêu mặt trơ trán bóng nên bản tướng mới quyết định nán lại. Đợi đến khi chúng cuốn xéo, ta lại về U Châu."
Lý Cảnh Đức về kinh vì việc quan trọng khác ư?
Mối hoài nghi nhoáng lên trong lòng Chu Tử Thư, cậu chắp tay nói: "Nghe ý tướng quân thì hẳn việc cần thực hiện đã hoàn thành, ngài nán lại Thịnh Kinh chỉ vì đoàn sứ Liêu. Nếu đã vậy, kì thực hạ quan có một kế sách..."
Màn đêm buông xuống, Chu Tử Thư lặng lẽ vào cung, đến bái kiến hoàng đế ở cung Phúc Ninh.
Khí sắc Triệu Phụ đã khá hơn nhiều, ông ta ngồi ăn cháo tổ yến trên chiếc giường nghỉ. Sau khi nghe Chu Tử Thư trình bày xong, Triệu Phụ húp thêm một miếng cháo rồi mới nhẹ nhàng đặt bát ngọc xuống. Tiếng chiếc bát con bằng bạch ngọc tinh xảo chạm lên mặt chiếc bàn lùn bằng gỗ sưa nghe mới thanh làm sao.
Triệu Phụ cảm thán: "Hình như người Liêu rất thích phái sứ thần đến Đại Tống ta giữa mùa đông khắc nghiệt."
Chu Tử Thư cúi đầu, bĩnh tĩnh đáp: "Nước Liêu ở phương Bắc, vào đông băng đóng dày ba xích cản trở việc đi xa. Đại Tống ta sở hữu toàn vùng Trung Nguyên, rộng đất đai, giàu của cải; cứ độ đông về, cảnh sắc mỗi nơi một khác biệt. Người Liêu trót đem lòng ngưỡng mộ cũng đáng thứ tha." Triệu Phụ nghe thế thì cười phá lên.
Lúc rời cung, Chu Tử Thư chưa đi được mấy bước đã bị ai đó ngăn lại.
Cậu dừng bước nhìn người đó, đoạn cung kính vái chào: "Bái kiến Lý đại nhân."
Người vừa xuất hiện chính là Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân.
Lý Tiêu Nhân là Giám chính Khâm Thiên Giám bậc tam phẩm, xem như cao hơn Chu Tử Thư một bậc. Tuy nhiên, hiện nay Chu Tử Thư là quan tứ phẩm mà địa vị thực chất đã ngang bằng với tam phẩm rồi. Lý Tiêu Nhân đáp lễ, đôi mắt tí hin của y ngấm ngầm săm soi Chu Tử Thư, y cười: "Đường đại nhân vừa mới đi ra từ tẩm cung của Thánh thượng đấy à?"
"Đúng vậy."
Lý Tiêu Nhân ra chiều ân cần: "Lần này bệ hạ không may trúng phong hàn, bệnh một cái là không dậy nổi, quả tình hạ quan lo mất ăn mất ngủ. May mà bệ hạ là chân long chi tử, được trời cao phù hộ nên đã hóa hiểm thành an, long thể khang kiện." Lý Tiêu Nhân dừng lại một chút rồi mới nói tiếp: "Lâu rồi không gặp Cungđại nhân nhỉ, Cungđại nhân còn ở Kim Lăng chưa về sao?"
Người Chu Tử Thư phút chốc cứng đờ, cậu nói: "Vẫn chưa."
Trông Lý Tiêu Nhân có vẻ thất vọng lắm, nhưng y nhanh chóng nối tiếp câu chuyện với Chu Tử Thư. Vốn Lý Tiêu Nhân chỉ là một đạo sĩ mũi trâu, xuất thân từ quán Thanh Vân, núi Hoài Chỉ. Sau này, nhờ chiếm được lòng tin yêu của Triệu Phụ, y mới leo lên được chức Giám chính Khâm Thiên Giám. Chữ nghĩa trong bụng y chẳng đong nổi một đấu, nhưng luận về phỉnh nịnh thì y đích thị là tay cao cường.
Y đang muốn xây dựng quan hệ với Chu Tử Thư, mà Chu Tử Thư cũng có ý đó.
Hai người bắt nhịp với nhau, trò chuyện đến là vui vẻ.
Hàn huyên được một khắc, đằng xa bỗng có vị hòa thượng mặt mũi tròn trịa, khoác tăng bào, được thái giám dẫn đến chỗ này. Lý Tiêu Nhân chợt im bặt; hòa thượng kia tới trước mặt hai người, khoan thai thi lễ với Lý Tiêu Nhân và Chu Tử Thư, chào: "Lý đạo hữu." Đoạn ông ta nhìn về phía Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư gật đầu khẽ: "Hạ quan là Gián nghị Đại phu ở Ngự Sử đài, Chu Tử Thư."
Hòa thượng Thiện Thính mặt mày hòa nhã, nói năng thong thả: "Đường đại nhân."
Chu Tử Thư: "Bái kiến Thiện Thính đại sư."
Thiện Thính quan sát nơi đầu mày Chu Tử Thư một hồi, Chu Tử Thư cho là ông ta muốn nói với mình điều chi, nào ngờ thoáng cái, ông ta đã lia mắt đi chỗ khác, nói với Lý Tiêu Nhân: "Lý đạo hữu cũng định vào cung Phúc Ninh cầu phúc cho bệ hạ đấy à?"
Lý Tiêu Nhân: "Chính thế."
"Chi bằng vào cùng nhau nhé?"
Lý Tiêu Nhân cười giả tạo: "Thế thì dĩ nhiên là hay quá."
Hai người cùng nhau bái biệt Chu Tử Thư, tiến về cung Phúc Ninh.
Hôm sau, khi đến dịch quán, Chu Tử Thư không còn thấy bóng dáng Lý
Cảnh Đức trong nhóm quan lại nữa. Không có Lý Cảnh Đức làm chỗ dựa, Mạnh Lãng bỗng đâm sợ sệt, ông ta bèn kiếm cớ rời khỏi dịch quán, trì hoãn sự việc sang ngày mai.
Về phần mình, Lý Cảnh Đức giục ngựa phi hết tốc lực về U Châu. Ngay khi đến thành U Châu, hắn không về đại doanh Tây Bắc mà đến ty Ngân Dẫn, triệu CungTiêu tới gặp. CungTiêu nghĩ bụng, mình có làm gì đắc tội đấng sát thần đâu cơ chứ? Thế mà chỉ thấy Lý Cảnh Đức ngoáy tai, hỏi: "Nghe Đường đại nhân bảo, công việc ty Ngân Dẫn đều do ngươi phụ trách đúng không?"
CungTiêu cả kinh, anh ta không biết phải trả lời thế nào hết.
Lý Cảnh Đức không phải là quan trong ty Ngân Dẫn, hắn là Chinh Tây nguyên soái. Việc bọn họ gài mật thám vào nước Liêu có thể nói cho Lý Cảnh Đức không? Liệu Lý Cảnh Đức đã biết đến đâu rồi?
Lý Cảnh Đức thấy thế thì hiểu ngay. Hắn vỗ bàn, tức tối quát: "Chẳng lẽ bản tướng quân lừa ngươi sao? Đương nhiên là chính miệng Đường Cảnh Tắc – Đường đại nhân nói thế với ta rồi!"
CungTiêu: "... Đúng là do hạ quan phụ trách."
Lý Cảnh Đức vào thẳng vấn đề: "Nhị hoàng tử nước Liêu hiện giờ đang ở đâu?"
CungTiêu nghĩ thầm: Lý tướng quân thế mà lại biết mật thám quan trọng nhất bọn họ gài vào nước Liêu chính là Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm dưới trướng Nhị hoàng tử. Xem ra, Lý Cảnh Đức quả nhiên nắm được nội tình.
Vì thế anh ta đáp: "Gia Luật Xá Ca đang ở Nam Kinh Tích Tân phủ."
"Hắn tới Thịnh Kinh rồi!"
"Sao cơ?!"
Lý Cảnh Đức đảo mắt, ngoắc CungTiêu, ghé tai nói: "Ngay cả Tiêu Châm cũng không biết, xem chừng y hành động rất bí mật, không muốn hé lộ cho bất cứ ai. Gia Luật Xá Ca lẻn đến Thịnh Kinh thì tất có âm mưu. Chẳng phải, lũ hoàng tử nước Liêu càng đấu đá càng hăng máu, thậm chí thí mạng công chúa An Định nước ta như con cờ sao? Tội gì chúng ta không chiều theo ý chúng? Chiếu theo tình hình này, chi bằng ta cứ tiết lộ hành tung của Gia Luật Xá Ca. Ở nước Liêu, ai căm thù Gia Luật Xá Ca nhất? Nào là Cungtử Thái bảo Gia Luật Ẩn bị cách chức cho về vườn, nào là Tam hoàng tử Gia Luật Hàm sau lưng lão ta, rồi cả Cungtử Thái sư Gia Luật Định nữa. Cungđại nhân, ngươi biết phải làm thế nào chưa?"
CungTiêu ngỡ ngàng nhìn Lý Cảnh Đức, anh ta không ngờ Lý tướng quân chẳng những dũng mãnh mà còn mưu lược, có thể nghĩ ra cách gậy ông đập lưng ông này.
CungTiêu lập tức nói: "Hạ quan đã rõ!" Lý Cảnh Đức hài lòng gật đầu.
Tại thành Thịnh Kinh, Gia Luật Xá Ca đang âm thầm bày mưu tính kế với sứ giả nước Liêu – Tiêu Chương ở dịch quán. Y không hề hay biết có một phong thư mật đã theo xe chở trà lên đường đến phủ Tích Tân nước Liêu, gửi tới tận tay thuộc hạ của y – Tả Bình chương chính sự Tiêu Châm.
Ba ngày sau, không biết từ đâu, tin Gia Luật Xá Ca vắng mặt ở phủ Tích Tân bị đồn ầm khắp cả Nam Kinh.
Tiêu Châm hốt hoảng đến tìm Gia Luật Cần, báo cáo chuyện này cho ông ta. "Gia Luật đại nhân, có thật là Nhị điện hạ không còn ở phủ Tích Tân không? Chẳng phải mấy hôm trước điện hạ bị thương trong lúc săn thú nên đến Tích Tân dưỡng bệnh sao?"
Gia Luật Cần nghe thế thì kinh hãi: "Đâu ra lời đồn đại ấy?"
Tiêu Châm phán đoán: "Nhị điện hạ không ở đây thật ư?"
Gia Luật Cần cuống cuồng nói: "Thật! Gay go rồi, điện hạ đến phủ Tích Tân từ một tháng trước, mượn cớ dưỡng bệnh để kịp thời lánh khỏi phủ Lâm Hoàng, nhờ đó tránh được chuyện Tứ hoàng tử và công chúa An Định. Giờ tin tức này mà lan tới Thượng Kinh, dù bệ hạ có không hỏi tới thì cũng bị Gia Luật Hàm, Gia Luật Định bắt thóp, chúng sẽ chất vấn tung tích Nhị điện hạ. Việc này hết sức hệ trọng, ngươi làm tốt lắm, ta phải đi tìm Nhị điện hạ đây."
Tiêu Châm quýnh lên: "Dù thế nào không thể phá hỏng đại sự của Nhị điện hạ!"
Ngày hai bảy tháng mười, thành Thịnh Kinh đón trận tuyết đầu mùa.
Sứ thần nước Liêu vẫn ở lại dịch quán, yêu cầu nước Tống đưa ra lời giải thích rõ ràng.
Ra khỏi Ngự sử đài, Chu Tử Thư xòe chiếc ô giấy dầu, đang định bước vào tuyết thì có kiệu của quan Ngự sử Đại phu Lưu Đỗ Sơn đi ra từ cổng. Ngự sử Đại phu là quan tam phẩm, Lưu Đỗ Sơn coi như thượng cấp trực tiếp của Chu Tử Thư. Chu Tử Thư lập tức dừng bước, chắp tay hành lễ về phía kiệu của Lưu đại nhân.
Từ khe hở mành kiệu, Lưu Đỗ Sơn nhìn thấy Chu Tử Thư, ông bèn cất cao giọng: "Dừng kiệu."
Chu Tử Thư ngạc nhiên ngó ông ta. Lưu Đỗ Sơn xốc mành kiệu lên, cười hỏi: "Đường đại nhân về nhà đấy hả?"
Chu Tử Thư: "Bẩm đại nhân, đúng thế ạ."
Lưu Đỗ Sơn nhìn tuyết rơi, than: "Trận tuyết này khá lớn đấy, sao Đường đại nhân không ngồi kiệu?"
Chu Tử Thư cười ái ngại: "Chẳng lẽ đại nhân đang chế nhạo hạ quan đấy ư? Đại Tống có quy định, quan tam phẩm trở lên mới được ngồi kiệu."
Lưu Đỗ Sơn sửng sốt: "Ta quên khuấy đi thật."
Chuyện này chẳng trách Lưu Đỗ Sơn được, trên triều đình có ai không biết Chu Tử Thư là quan tứ phẩm mà quyền hành ngang hàng tam phẩm đâu? Chẳng qua vì cậu còn quá trẻ, Triệu Phụ không thể tùy tiện thăng cấp cho cậu, nên ông ta mới cố tình phái Dư Triều Sinh làm Tả Phó ngự sử ty Ngân Dẫn cùng cấp với Chu Tử Thư, để thông qua đó ngầm nâng bậc quan của cậu lên.
Lưu Đỗ Sơn: "Thật ra Ngự sử đài cũng gần nha môn bộ Hộ, hay là Đường đại nhân đợi một lúc xem, có khi về chung với Cungđại nhân được đấy?"
Chu Tử Thư kinh ngạc: "Sư huynh đã về rồi ư?!"
Lưu Đỗ Sơn cười tươi, quả nhiên, cậu Chu Tử Thư này và CungTử Phong rất thân thiết với nhau, mở miệng ra là gọi "sư huynh" ngay tắp lự.
Lưu Đỗ Sơn: "Trưa nay lúc đến điện Cần Chính làm việc, bản quan tình cờ gặp Cungđại nhân, hình như Cungđại nhân mới từ Kim Lăng về. Tuyết mau lắm đấy, Đường đại nhân có thể sang bộ Hộ tìm Cungđại nhân luôn cũng được."
Chu Tử Thư thi lễ, Lưu Đỗ Sơn hạ mành kiệu, cỗ kiệu được khiêng đi.
Từ vòm trời trên cao, tuyết lông ngỗng hối hả trút xuống. Gió trong tuyết lạnh buốt xương, nhưng trái tim Chu Tử Thư đang nóng bừng cả lên theo nhịp đập thổn thức. Cậu nắm chặt cán ô, đắn đo mãi dưới trời tuyết, rồi mới nghiến răng hạ quyết tâm, xoay gót cất bước tới nha môn bộ Hộ. Chu Tử Thư lấy hết can đảm đến nha môn bộ Hộ, nào ngờ quan sai lại báo rằng:
"Thượng thư đại nhân vào cung từ nửa canh giờ trước, hiện vẫn chưa về. Giờ đã hết thời gian làm việc rồi, hôm nay chắc Thượng thư đại nhân không về bộ Hộ nữa đâu."
Ngọn lửa rục rịch trong lòng Chu Tử Thư bị trận tuyết lớn giội cho tịt ngóm.
Cậu lẩm bẩm "À" một tiếng, giương chiếc ô giấy dầu, lủi thủi ra về.
Tuyết trắng tinh mịn nhẹ nhàng rơi trên tán ô. Tuyết rơi êm ru, bỗng chốc cả thế giới chìm trong tĩnh mịch. Khi Chu Tử Thư về đến nha môn Ngự sử
đài, đã thấy xa xa có một cỗ kiệu đậu trước cổng. Chu Tử Thư chỉ liếc một cái rồi lia mắt đi, cúi đầu ngắm lớp tuyết dày lên dần trên mặt đất, cõi lòng phẳng lặng đượm nỗi mất mát.
Đến cổng Ngự sử đài, một tiếng nói khoan thai cất lên, nghe trong mượt và xiết bao ấm áp. Tim Chu Tử Thư nảy đánh thịch một cái, trong một thoáng ngẩn ngơ, cậu cứ ngỡ là mình nghe lầm, bèn tiếp tục tiến bước như cũ. Giọng nói kia lại cất lên, lần này loáng thoáng ý cười: "Tiểu sư đệ."
Chu Tử Thư bất giác ngoảnh đầu lại. Dưới màn tuyết liên miên trắng xóa, CungTử Phong khoác tấm áo hồ cừu trắng muốt như tuyết, đứng tựa bên cỗ kiệu, mỉm cười nhìn cậu. Hoa tuyết rơi như điểm tô cho mái tóc dài đen óng ả của chàng, vừa trong trẻo vừa tươi mát, trắng đen lấp lánh, hào hoa phong nhã đến sững sờ.
Chu Tử Thư ngơ ngác, cậu thần người nhìn Cung Tuấn ở cách mình không xa.
Trông dáng vẻ của cậu, Cung Tuấn thầm thở dài, làm sao không xót xa cho đặng.
Chàng vươn tay, nhẹ giọng bảo: "Lại đây, Cảnh Tắc."
Chu Tử Thư vẫn đứng lặng yên như thể không nghe thấy gì, cũng không đi đến bên chàng.
Cung Tuấn quan sát cậu, ánh mắt không gợn sóng. Thật lâu sau, cuối cùng chàng cũng đầu hàng. Cung Tuấn thở dài thườn thượt, bước tới dắt tay Chu Tử Thư, giương ô thay cậu, dẫn Chu Tử Thư về trong kiệu.
Không khí ấm áp trong kiệu khiến Chu Tử Thư sực tỉnh, cậu phát hiện mình đã ngồi cạnh Cung Tuấn tự bao giờ. Không gian trong kiệu khá hẹp, Cung Tuấn vẫn chưa buông tay cậu.
Theo bản năng, Chu Tử Thư muốn cựa mình khỏi cái nắm tay ấy: "Sư huynh..." Cậu bỗng im bặt, Chu Tử Thư không ngờ mình còn chưa động đậy, CungTử Phong đã chủ động thả tay cậu ra.
Chu Tử Thư từ từ ngước nhìn Cung Tuấn.
Cung Tuấn mỉm cười với cậu như mọi khi, dịu dàng bảo: "Đúng lúc đi ngang qua Ngự sử đài mà tuyết rơi nặng hạt quá, muốn tiện đường chở đệ đi một đoạn."
||
Cảm giác phong độ đợt này sa sút T~T
Lời tác giả:
Tiểu Thư Lang: Sư huynh của ta... huynh ấy... không thích ta nữa ư?
Chú thích
Chỗ này tác giả dùng từ "有毒" , là kiểu toxic
------oOo------
Chương 128
Nguồn: EbookTruyen.Net
Chiến thuật của CungTử Phong
Ôi cuối cùng cũng xong cái chương này! Tận hưởng nhé các đồng chí
Chu Tử Thư rầu rĩ: "Cảm ơn sư huynh đã cho đệ đi nhờ."
Cung Tuấn: "Có gì to tát đâu."
Không gian trong kiệu bất giác trở nên yên tĩnh, không ai nói với ai câu nào. Cuối cùng Chu Tử Thư lên tiếng trước: "Lần nay sư huynh về Kim Lăng lâu thế, phải chăng có việc khẩn phát sinh?"
Mấy ngày đầu quả thật Chu Tử Thư tưởng Cung Tuấn giận cậu nên mới về Kim Lăng để lánh mặt. Nhưng tầm năm, sáu ngày sau thì cậu nghĩ thông, Cung Tuấn hiển nhiên không thể rời kinh đơn giản như thế được. CungTử Phong về Kim Lăng là chuyện bình thường, nhưng chàng không đời nào đi một mạch mười ngày chỉ vì chuyện tình cảm.
Cung Tuấn liếc Chu Tử Thư, đã bao giờ chàng thôi say mê dáng vẻ vừa thông minh lại vừa thận trọng của cậu đâu? Chàng đáp bằng một cái tên: "Ngân khế trang bộ Binh Cô Tô."
Chu Tử Thư ngỡ ngàng: "Hóa ra sư huynh về Kim Lăng vì chuyện đó ư?" Cung Tuấn hỏi ngược lại: "Không phải vì chuyện ấy thì còn vì chuyện gì?"
Chu Tử Thư im bặt.
Cậu cứ tưởng Cung Tuấn tức giận về Kim Lăng vì những gì cậu nói. Giờ xem ra, chuyện chẳng hề liên quan đến cậu. Cung Tuấn đã có ý định về Kim Lăng từ đầu, chàng mượn cớ về quê thăm nhà để bí mật hành động, đó mới thực sự là mục đích của chàng.
Cảm giác chua chát vọt lên, nghẹn ứ trong ngực cậu. Biết Cung Tuấn không về quê vì giận mình, Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm. Nhưng huynh ấy không bỏ đi vì mình, vậy trong suốt mười ngày vắng huynh ấy, mình ở Thịnh Kinh nhung nhớ, nghĩ ngợi miên man là sao đây? Và, có thật là CungTử Phong... chẳng mảy may bận lòng chuyện mười ngày trước không?
Lòng Chu Tử Thư rối như tơ vò, bao nhiêu tâm tư tình cảm chỉ chực tuôn trào trên môi, vậy mà cậu chẳng cất nổi thành lời.
Cung Tuấn xốc màn kiệu: "Hình như đến Thái Kỳ trai rồi này."
Chu Tử Thư: "Dạ?"
"Nhớ hồi năm năm trước tiểu sư đệ mới đến Thịnh Kinh, ta hay mua bánh ngọt Thái Kỳ trai cho đệ. Hồi đó đệ mới lớn có ngần này, hẵng còn con nít." Cung Tuấn dành cho Chu Tử Thư cái nhìn thật dịu dàng. Trong ánh mắt chàng, niềm ái mộ đã nhường chỗ cho sự bao dung và xúc động. Chàng sai phu kiệu: "Đi mua ít bánh ngọt về đây."
Cỗ kiệu dừng lại, phu kiệu nhanh nhẹn mua một gói bánh ngọt nóng hổi dâng lên Cung Tuấn.
Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ vẫn thích ăn bánh ngọt chứ?"
Chu Tử Thư đáp theo bản năng: "Thật ra đệ chẳng thích ăn bánh ngọt bao giờ."
Cung Tuấn sửng sốt: "Thế à... Hồi đó ta thấy tiểu sư đệ nhận rất nhiều, cứ tưởng rằng đệ thích." Chàng đóng gói bánh lại, cười khẽ: "Ra vậy, chẳng qua là bởi ta cho. Được người lớn cho nên không dám khước từ, tiểu sư đệ đành phải ăn hết lần này đến lần khác nhỉ?"
Chu Tử Thư tròn mắt, cậu bỗng nhận ra mình lại lỡ lời rồi.
Người khác nghe Chu Tử Thư nói thế chắc sẽ chẳng nghĩ ngợi nhiều, còn Cung Tuấn lại hiểu rằng hồi xưa, Chu Tử Thư nhận hết bánh ngọt chàng đưa chẳng qua vì muốn làm vui lòng chàng, không dám từ chối ý tốt. Giờ Cung Tuấn muốn giữ thể diện cho Chu Tử Thư nên mới nói giảm thành vì "người lớn cho".
Cung Tuấn cất bánh ngọt vào ngăn ngầm trên kiệu, nhắm mắt dưỡng thần, không nói chuyện nữa.
Ngoài cửa sổ, tuyết càng lúc càng dày, chẳng hiểu vì sao, tốc độ của phu kiệu cũng lề rề hơn hẳn so với bình thường.
Lòng Chu Tử Thư bồn chồn lo âu, cuối cùng, cậu không kiềm chế nổi nữa, bèn cất tiếng gọi: "Sư huynh à..."
Cung Tuấn dường như không nghe thấy.
"Sư huynh ơi..."
Cung Tuấn vẫn nhắm nghiền hai mắt.
Chu Tử Thư nghiến răng: "Tử Phong sư huynh!"
Cung Tuấn mở choàng mắt, ngạc nhiên nhìn cậu: "Gì thế?"
Chu Tử Thư: "Huynh vẫn còn giận đệ."
Cung Tuấn tròn mắt ngạc nhiên: "Ta giận đệ bao giờ?"
Chu Tử Thư: "... Không giận thật ư?"
"Dĩ nhiên là không rồi."
Cỗ kiệu tiếp tục tiến về phía trước, đang đi thì xóc một cái, mu bàn tay hai người tình cờ đụng vào nhau. Nhiệt độ cơ thể Chu Tử Thư xưa nay vẫn khá cao, trong khi tay CungTử Phong thì hơi lạnh. Khi da thịt chạm nhau, Chu Tử Thư ngây người, cậu chưa kịp phản ứng, Cung Tuấn đã lặng lẽ dịch tay ra chỗ khác.
Bỗng chốc, trái tim Chu Tử Thư như chìm vào hố băng, cậu có cảm giác một thùng nước lạnh căm vừa dội xuống đỉnh đầu cậu giữa trời đông giá buốt, rét cóng cả người.
Chu Tử Thư thảng thốt nhận ra, sau khi trở về từ Kim Lăng, sư huynh thay đổi mất rồi. Sư huynh... hình như không thích cậu nữa.
Từng phân cảnh kí ức vụt lên trước mắt cậu.
Năm năm trước, lần đầu gặp gỡ bên ao sen, cậu khéo mồm khéo miệng dùng hết sức mình tiếp cận chàng, chỉ để lưu lại một ấn tượng khó phai.
Kể từ đó, chính chàng dẫn cậu đi từng bước vào bể quan trường sâu hun hút, thay cậu phạt bỏ mọi chông gai dọc đường.
Huynh ấy là CungTử Phong kia mà, làm sao huynh ấy không biết mình vẫn lợi dụng huynh ấy chứ! Huynh ấy đã biết từ sớm rồi.
Thoạt đầu, cậu cố gắng bám lấy chàng vì cậu cần bàn đạp, cậu muốn mượn sức chàng để một bước lên trời. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, cậu kính trọng sư huynh, ngưỡng mộ sư huynh, cậu không thể sống cạn tàu ráo máng. Thế là cậu bắt đầu thật tâm xem chàng như người huynh trưởng, như người chí hữu của bản thân.
Người thương cậu nhất trên đời này, ngoài CungTử Phong ra thì còn có thể là ai?
Trên lầu Hư Cực, chàng vấn lòng cậu: "Đồng môn là bằng, đồng chí là hữu."
Tại thành Thứ Châu, chàng không quản đường xa cực nhọc, vòng tay ôm cậu vào lòng, cứu cậu khỏi cơn nước sôi lửa bỏng.
CungTử Phong từng say mê một bức tranh. Chàng coi nó như báu vật mà nâng niu trân trọng, không tài nào xa lìa. Tuy vậy suốt bao năm qua, chàng chưa từng hạ quyết tâm định đoạt số phận bức tranh ấy. Khi đó, Chu Tử Thư chỉ nghĩ sư huynh của mình có bí mật. Giờ đây rốt cuộc cậu đã sáng tỏ, bức tranh kia chính là cậu, mà người yêu tranh thì chính là Cung Tuấn.
Cung Tuấn đem lòng yêu cậu đã lâu, nhưng nẻo đường này nhọc nhằn quá, chàng không nỡ bắt cậu nếm trải cùng mình, thế nên chàng cứ gắng nhịn trong thầm lặng chứ không bao giờ thể hiện ra.
Vì mình mà huynh ấy phải dằn lòng suốt ngần ấy năm. Mình đã không làm được gì thì chớ, lại còn hết lần này đến lần khác làm huynh ấy tổn thương.
Huynh ấy hỏi mình: Em có thấy tấm chân tình của ta không?
Hai mắt Chu Tử Thư bỗng cay sè.
Cậu đã thấy từ lâu lắm rồi mà. Năm năm qua, dẫu ngày hay đêm, từng phút từng giây, cậu vẫn luôn thấy tấm chân tình CungTử Phong dành trọn cho cậu!
"Sư huynh..."
Cung Tuấn nhắm mắt y như cũ, không hề trả lời.
Chu Tử Thư nóng ruột hô lên: "Sư huynh!"
Cung Tuấn định bụng nghe gọi thêm tiếng nữa thì mở mắt liền. Có câu một vừa hai phải, đùa dai quá chỉ tổ phản tác dụng, phen này còn phải ủ mưu dần dần.
Chu Tử Thư sẽ sàng gọi: "CungTử Phong..."
Cung Tuấn hơi bất ngờ, chàng nhận ra hình như trò đùa này đi quá xa rồi.
Chàng đang định mở mắt, thì bỗng dưng có luồng nhiệt nóng hổi áp lên má. Đến giờ phút này còn mưu mẹo nào mà ủ? Cung Tuấn mở bừng mắt. Chu Tử Thư bối rối không dám nhìn chàng, môi cậu mím chặt, ngón tay rụt hết vào trong ống tay áo.
Thật ra ngay lúc đặt môi hôn, Chu Tử Thư đã hối hận rồi.
Nếu đúng là Cung Tuấn không thích cậu thì hành động này chỉ tổ khiến mối quan hệ giữa hai người hỏng bét.
Quả nhiên, sau cái hôn, Cung Tuấn không hề tỏ ra vui sướng. Chàng nhìn cậu mà tuyệt nhiên không bộc lộ chút cảm xúc nào. Trước ánh mắt của chàng, trống ngực Chu Tử Thư đập thình thịch, cậu cắn răng, phân trần: "Sư huynh đừng để bụng, tại đệ đường đột. Đệ cũng... đệ cũng không ngờ.
Xin sư huynh chớ bận lòng ."
"Ta không nên bận lòng ư?"
Chu Tử Thư: "Vâng, xin sư huynh đừng tức giận..."
Cung Tuấn bỗng bật cười, chàng nhẹ nhõm thốt lên: "Ta mà lại không nên bận lòng? Không bận lòng kiểu gì mới được đây!"
"Đường Cảnh Tắc, em là của ta rồi nhé."
Chu Tử Thư kinh ngạc ngẩng lên nhìn Cung Tuấn. Cậu chưa kịp thấy rõ, một nụ hôn cháy bỏng đã sà tới, lấp kín hết thảy ngôn từ.
Dường như mọi thứ đã được an bài sẵn như nó vốn thế, Cung Tuấn mơn man bờ môi Chu Tử Thư, hôn thật nâng niu. Chàng hôn như thể đó là lẽ đương nhiên, là đạo lí đất trời không di dịch được, tự nhiên và nhuần nhuyễn đến ngỡ ngàng. Chu Tử Thư được hôn mà ngay đơ cả người, chẳng biết phải làm gì nữa.
Rất lâu sau, Cung Tuấn mới thả Chu Tử Thư ra, ngón tay chàng không thôi mân mê bờ môi cậu.
"Ta mừng quá."
Chu Tử Thư há hốc miệng, không nói được chữ nào.
Cung Tuấn thành tâm thổ lộ: "Vốn dĩ ta đã thôi mong mỏi, đã thôi ước ao xa vời. Có ngờ đâu bỗng dưng em lại nói thế, làm thế... Cảnh Tắc à, em bảo ta phải kìm lòng bằng cách nào đây? Thật đấy, ta không kìm nổi lòng mình đâu." Dứt câu, chàng liền cúi đầu hôn cậu tiếp, nhưng có bàn tay đã ngăn chàng lại ngay tức thì.
Cung Tuấn ngẩn người, tiện môi thơm chụt vào lòng bàn tay Chu Tử Thư, hếch mắt: "Sao?"
Cơn sốc đã qua, bộ não thông thái của Chu Tử Thư cuối cùng cũng vận hành trở lại.
Rõ ràng mình mới nói mỗi một câu mà CungTử Phong đã phản ứng như vậy, hoàn toàn không để mình có cơ hội bắt bẻ. Đó đâu phải phản ứng của người hết thích mình? Cái thái độ hờ hững lạnh tanh vừa nãy đâu?
Chu Tử Thư hơi ngứa miệng rồi đấy. Cậu nghiến răng nghiến lợi lườm chàng, hỏi: "Sư huynh này, tự dưng ta có một thắc mắc nho nhỏ, huynh vui lòng giải đáp hộ ta chứ?"
Cung Tuấn: "Ồ, thắc mắc gì?"
"Sao hôm nay sư huynh thờ ơ với ta thế hả?"
Cung Tuấn ngạc nhiên: "Thờ ơ ư? Làm gì có, sao tiểu sư đệ lại nói vậy?"
Chu Tử Thư: "..."
"Sư huynh vừa mới bảo, vốn dĩ huynh đã thôi mong mỏi, không định bàn lại..." Chu Tử Thư ngập ngừng một thoáng mới nói tiếp, "Không định bàn lại chuyện ấy với ta nữa kia mà."
Cung Tuấn thở dài, ánh mắt chàng thiết tha: "Đúng thế, chỉ là ta không ngờ rằng tiểu sư đệ cũng phải lòng ta đấy thôi."
Chu Tử Thư: "..."
Chu Tử Thư: "Vậy ta hỏi một câu nữa, sư huynh bảo hôm nay tuyết rất to, vì tiện đường nên huynh mới ghé qua cho ta đi nhờ đúng không?"
Cung Tuấn mỉm cười, nhìn Chu Tử Thư không chớp mắt, chừng như chàng đã biết Chu Tử Thư định nói gì tiếp, nhưng chàng không quan tâm, chỉ dịu dàng "Ừ" một tiếng.
Chu Tử Thư tức tối: "Huynh tiện đường đâu ra? Chắc sư huynh không biết, trước khi gặp huynh, ta vừa mới từ nha môn bộ Hộ về. Quan sai bộ Hộ bảo huynh vào cung đó! Huynh tiện đường, huynh tiện đường chỗ nào? Tiện đường kiểu gì từ hoàng cung đến Ngự sử đài cho ta đi nhờ hả?"
Cung Tuấn ngạc nhiên và sung sướng quá đỗi: "Tiểu sư đệ đến nha môn bộ Hộ à? Tìm ta đúng không?"
Chu Tử Thư: "..."
Chu Tử Thư thẹn quá, cáu um: "CungTử Phong!!!"
Cung Tuấn ôm chầm lấy cậu, cười phá lên, chẳng còn xíu tác phong tự tại văn nhã nào của công tử thế gia. Trên gương mặt chàng dâng tràn niềm hạnh phúc, một niềm hạnh phúc không gì kìm giữ nổi. Tiếc thay, niềm vui sướng của Cungđại nhân chẳng thể kéo dài mãi, kiệu đi chậm mấy, chung quy cũng đến điểm dừng.
Chu Tử Thư cựa mình ra khỏi vòng tay chàng ngay tức thì, thoăn thoắt xuống kiệu đi về nhà. Mới đi được một bước đã nghe tiếng Cung Tuấn gọi theo từ đằng sau: "Tiểu sư đệ."
Chu Tử Thư quay lại, Cung Tuấn vén màn kiệu lên, cười với cậu âu yếm.
"Đóa thược dược ta tặng em, em có thấy không?" Chu Tử Thư ngây người.
Dòng sông Vị với sông Tuấn, thủy triều vào khoảng mùa xuân dẫy đầy. Khắp vùng con gái con trai, hoa lan mới bẻ cầm tay trao lời...
Chắc là vui thú mênh mông, rủ nhau sánh bước đi chung hai người... Lại nhân dịp ấy vui cười, tặng nàng thược dược ghi lời ái ân.
Cung Tuấn cười phởn phơ, lần này chàng không phải sợ cậu biết nữa, nói thẳng với phu kiệu ngay trước mặt Chu Tử Thư: "Không cần đi chậm như hồi nãy đâu, cứ đi như bình thường ấy."
Phu kiệu: "Vâng."
Chu Tử Thư: "..."
Thế là một mình CungTử Phong ung dung lướt đi, Chu Tử Thư ngơ ngơ ngẩn ngẩn trở về nhà. Một canh giờ sau, Chu Tử Thư ngẩng mặt lên trời thở dài: "CungTử Phong ơi là CungTử Phong, thế quái nào mà ta lại tin trò xí gạt của huynh chứ!
Và thế là Đường đại nhân đã dùng trải nghiệm của bản thân để chứng minh cho toàn thể quần chúng nhân dân một chân lý: Cứ hễ CungTử Phong nói thì đến cái dấu chấm câu cũng cấm được tin!
||
Manh: Tôi sẽ phong cho Đường Cảnh Tắc làm Anh hùng xạ điêu. Chỉ có em mới hạ gục được con chim "điêu" chúa CungTử Phong.
Lời tác giả:
Tiểu Thư Lang: Thật quá đáng! CungTử Phong huynh quá đáng lắm!
Lão Vương: Thực lòng mà nói sự việc hôm nay đâu có nằm trong kế hoạch của ta, là do em yêu ta quá đấy thôi tiểu sư đệ à. Tiểu Thư Lang: ???? Ta quá yêu huynh ư ????
Lão Cung(nuối tiếc): Đúng đó. Ta còn cả đống chiến thuật chưa kịp rờ tới, em đã ngoan ngoãn cắn câu mất tiêu rồi.
Chọt zô chọt zô
------oOo------
Chương 129
Nguồn: EbookTruyen.Net
Thượng thư Tả bộc xạ
Sáng sớm hôm sau, Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng cầm hốt ngọc, đóng bộ quan bào đỏ thẫm tinh tươm, sải bước tiến vào chính điện điện Sùng Chính.
Điện Sùng Chính là nơi toàn thể các quan đợi trước khi vào triều. Các quan nhất, nhị phẩm thì ở chính điện, còn quan tam phẩm, tứ phẩm chia nhau ra ở hai điện tả hữu. Mạnh Thượng thư vừa vào điện đã thấy một nhân vật lâu rồi mới gặp lại. Trông cái con người này, lại nghĩ đến việc sắp phải tới dịch quán giả vờ lịch sự với đám sứ Liêu, Mạnh đại nhân nhức hết cả đầu.
Nhưng bộ Lễ với bộ Hộ xưa nay vẫn bị ghép chung với nhau. Thượng thư hai bộ dùng chung một gian làm việc ở điện Cần Chính. Ngay cả lúc lên triều, ông ta cũng phải đứng cạnh CungTử Phong!
Mạnh đại nhân bĩu môi, bước tới cười tươi: "Cungđại nhân về lúc nào đấy?"
Câu này rõ rành rành là khách sáo, Mạnh Lãng chỉ nói cho có lệ. Ông ta có ngờ đâu, CungTử Phong lại đứng lên vái chào rất đoan chính, rồi điềm đạm nói: "Mạnh đại nhân, ta vừa mới về sáng hôm qua."
Mạnh đại nhân phát khiếp với sự tử tế này, ông ta săm soi từ đầu đến chân Cung Tuấn.
CungTử Phong bị làm sao vậy? Đang yên đang lành, tự dưng lại biến thành trang quân tử khiêm nhường, hòa nhã lễ độ thế này?
Không ai đánh kẻ đang cười, Mạnh Lãng đành phải nói: "Về rồi là tốt, lâu lâu không gặp Cungđại nhân, nhớ đáo để." Một câu không thể gượng gạo hơn! Mạnh Lãng nói nhớ mà nghe giọng chẳng có tí nhớ nhung nào, chỉ rặt thái độ khách sáo.
Thế mà Cung Tuấn lại đáp: "Được Mạnh đại nhân ưu ái thế, Phong cảm thấy vinh hạnh tột bậc."
Mạnh Lãng: "..."
Không, hôm nay ngươi xơi lộn phải thuốc gì mà nói chuyện tử tế vậy CungTử Phong?
Dù sao thì Mạnh Lãng cũng đường đường là quan lớn nhị phẩm, từng kinh qua bao thăng trầm trong quan trường; một lúc sau, Mạnh Lãng bèn thử dò hỏi: "Hôm nay Cungđại nhân có vẻ tươi vui nhỉ?"
Cung Tuấn xúc động thốt lên: "Không ngờ Mạnh đại nhân nhận ra cơ đấy! Quả nhiên hễ con người ta gặp chuyện đáng mừng thì tinh thần cũng phơi phới theo. Ngại quá."
Mạnh Lãng: "???" CungTử Phong, ngươi cư xử bình thường chút coi!
Đến khi lên triều, cuối cùng Mạnh Lãng cũng biết CungTử Phong gặp chuyện gì đáng mừng.
Vừa bắt đầu buổi chầu, hoàng đế đã truyền lệnh trước toàn thể quần thần, thăng Cung Tuấn làm Thượng thư Tả bộc xạ, kiêm chức Thượng thư bộ Hộ và Chỉ huy sứ ty Ngân Dẫn, quan hàm nhất phẩm. Lệnh vừa ban, cả điện Tử Thần im phăng phắc. Bá quan ai nấy cúi đầu, thái độ hết sức điềm tĩnh. Ở phía sau trong hàng ngũ quần thần, Chu Tử Thư nghe chỉ lệnh mà choáng váng, bất giác ngẩng lên.
Trong điện chầu, không một ai trong các quan động đậy. Kể cả thúc tổ CungThuyên của CungTử Phong cũng đứng im lìm, điềm nhiên hướng mắt xuống gạch vàng trên nền điện.
Cung Tuấn tiến lên một bước, hành lễ tạ ơn, lĩnh chỉ.
Sau đó, Triệu Phụ tiếp tục truyền lệnh, thăng Thượng thư bộ Lại Triệu Vận làm Thượng thư Hữu bộc xạ.
Triệu Phụ cười bảo: "Cungkhanh, Triệu khanh đều là bề tôi tâm phúc, là cánh tay đắc lực của trẫm. Giao Thượng thư tỉnh cho hai vị ái khanh, trẫm rất yên tâm, không còn gì phải lo nghĩ."
Cung Tuấn và Triệu Vận cùng tiến lên, tạ ơn, lĩnh chỉ.
Tan triều, chúng quan lập tức xúm lại chúc mừng Cung Tuấn và Triệu Vận.
Triệu Vận ngoài năm mươi tuổi, ông là Tiến sĩ từ đời tiên đế và cũng là lão thần của Triệu Phụ. Tuy việc ông được thăng lên hàng nhất phẩm có hơi bất ngờ, nhưng xét công lao tận tụy hết lòng với Đại Tống của ông thì việc ấy cũng là hợp lẽ. Còn Cung Tuấn thì khác. Quốc khố ngày nay được sung túc dồi dào, không thể thiếu công lao của Thượng thư bộ Hộ là chàng. Nhiệm vụ phía ty Ngân Dẫn thành công rực rỡ, sự thăng tiến của chàng là điều mọi người có thể lường trước. Tuy nhiên, không một ai nghĩ rằng chàng sẽ lên nhất phẩm trước ba mươi tuổi.
Đây chính là câu trả lời của Triệu Phụ.
Sau tuổi ba mươi, không một ai hoài nghi chuyện Cung Tuấn thành quan nhất phẩm.
Nhưng trước ba mươi tuổi chàng đã được thăng quan, thì đó là sự ban ơn của Triệu Phụ, và cũng là sự tin sủng không gì sánh nổi mà hoàng đế dành cho chàng.
Tuy nhiên bên cạnh đó, Triệu Phụ còn thăng chức cho Triệu Vận – một hành động rất đáng suy ngẫm.
Cung Tuấn là cháu ruột của Hữu tướng CungThuyên, Triệu Vận là hảo hữu cùng trường với Tả thừa Trần Lăng Hải.
Sau khi tất cả các quan chúc mừng xong, Cung Tuấn và CungThuyên cùng nhau đi tới điện Cần Chính. Hữu tướng đương thời cất tiếng thở dài, ngước nhìn bầu trời mênh mông, xúc động: "Phong vân biến ảo trên triều đình càng ngày càng khó lường."
Cùng ngày hôm đó, một bức mật thư được gửi khẩn cấp đến Thịnh Kinh, đưa vào dịch quán của sứ Liêu.
Sứ giả nước Liêu là Tiêu Chương nhận được mật hàm thì tá hỏa, vội vàng đi gặp Gia Luật Xá Ca, dâng thư lên cho y. "Điện hạ, phải hành động thế nào đây? Gia Luật Cần đại nhân gửi thư từ phủ Tích Tân, việc ngài ra khỏi nước Liêu không biết bị kẻ nào phát hiện rồi đồn đại lung tung. Nếu truyền tới Thượng Kinh thì Thái sư đại nhân kiểu gì cũng không tha, ông ta sẽ đòi truy tìm ngài cho bằng được mất."
Gia Luật Xá Ca sửng sốt: "Làm sao lại ra nông nỗi này?!"
Tháng trước Gia Luật Xá Ca bị thương trong lúc đi săn, bèn đến Nam Kinh Tích Tân phủ để dưỡng thương, nhân đó mà tránh được vụ tư thông giữa Tứ hoàng tử và công chúa An Định. Chuyện y không ở phủ Tích Tân mà lộ ra thì chẳng khó để Cungtử Thái sư Gia Luật Định liên hệ y với sự việc. Mặc dù Gia Luật Định chướng mắt Tứ hoàng tử và chẳng buồn quan tâm dù Tứ hoàng tử có chết ngắc đi chăng nữa, song nếu việc này có thể giúp lão nắm thóp Gia Luật Xá Ca, thì còn lâu lão mới chịu nhả.
Gia Luật Xá Ca cẩn thận đọc thư của Gia Luật Cần mấy lần liền rồi nhắm mắt lại. Khi đôi mắt y mở ra, nó đã mang một ánh nhìn tàn nhẫn: "Bản điện hạ sẽ về Liêu trước."
Tiêu Chương: "Thế còn chuyện cưới thêm công chúa Đại Tống thì sao?"
Gia Luật Xá Ca: "Không hề gì, chẳng qua là bớt đi một con tốt mà thôi."
Tiêu Chương gật đầu: "Vâng. Huống hồ, chưa chắc công chúa nước Tống nào cũng ngu xuẩn như công chúa An Định. Điện hạ mới hứa hẹn bừa mấy câu, ả ta đã khăng khăng một lòng, chết ngóp xác cũng chẳng hiểu đầu đuôi."
Gia Luật Xá Ca mỉm cười: "Tiêu đại nhân."
Tiêu Chương sởn tóc gáy, vội vàng quỳ mọp xuống hành lễ: "Thần lỡ mồm, xin điện hạ xá tội."
Gia Luật Xá Ca tỏ ra thương tiếc: "Thật ra An Định chưa hẳn đã là cô gái tệ, chỉ tiếc rằng cô ta là con gái mà thôi." Thoáng chốc, một gương mặt kiều diễm ngời ngời bỗng hiện lên trong suy nghĩ của Gia Luật Xá Ca, làm bùng lên ham muốn và khát khao chiếm hữu của y. Y dằn xuống ngay tức khắc.
"Nghiệp lớn chưa thành, hơi đâu mà nghĩ đến những điều tầm phào này chứ?"
Tiêu Chương nghe vậy, lòng trào dâng niềm phấn khích, thầm nghĩ mình thờ đúng chủ rồi.
Gia Luật Xá Ca: "Lần này đến nước Tống cũng có thu hoạch. Vua Tống không phải kẻ hồ đồ bất tài như các ngươi tưởng đâu, chẳng qua ông ta già cả nên càng phải phòng bị cẩn thận hơn. Nghe nói năm nay ông ta bắt đầu sùng đạo Phật, e là chẳng còn mấy thời gian. Tuy nhiên, cần phải hết sức lưu ý ba tên hoàng tử và bọn tâm phúc của ông ta."
Tiêu Chương: "Trước khi về Đại Liêu, thần nhất định sẽ nghe ngóng kĩ lưỡng."
Gia Luật Xá Ca: "Lý Cảnh Đức thì khỏi phải bàn, hắn là hiểm họa khổng lồ với Đại Liêu chúng ta. Ngoài ra còn tên CungTử Phong, cái ty Ngân Dẫn của hắn cũng hơi khả nghi đấy."
"Thần đã rõ."
Ngay trong hôm đó, Gia Luật Xá Ca rời khỏi thành Thịnh Kinh, đi thâu đêm lên Tây Bắc.
Chu Tử Thư đã báo việc này cho Mạnh Lãng từ sớm, hỏi ý ông ta xem có nên cầm chân Gia Luật Xá Ca không, chí ít là tạm thời phong tỏa thành để Gia Luật Xá Ca không thể dễ dàng rời kinh, giống như tình huống cậu gặp phải hồi trước ở phủ Tích Tân vậy. Thế nhưng khi nghe tin này, thoạt tiên Mạnh Lãng giật mình, xong ông ta hỏi kĩ Chu Tử Thư xem tin tức có chuẩn hay không. Khi đã chắc chắn, ông ta lại bảo: "Khỏi cần."
Chu Tử Thư thầm kinh ngạc, bỗng cậu nghĩ ngay tới một chuyện, bèn nói: "Đại nhân nhìn xa trông rộng, hạ quan không thể sánh bằng." Thả cho Gia Luật Xá Ca trở về sẽ đem lại hai lợi ích.
Thứ nhất, Gia Luật Xá Ca chính là trụ cột của đoàn sứ thần nước Liêu, cầm chân y ở Đại Tống không có tác dụng gì hết. Giờ y đi rồi, viên quan người Liêu không mấy mưu trí như Tiêu Chương sẽ chẳng còn gì đáng ngại. Một khi vắng mặt Gia Luật Xá Ca tài trí song toàn, Mạnh Lãng đối phó với sứ Liêu dễ như trở bàn tay.
Lợi ích thứ hai thật ra có liên quan đến Chu Tử Thư. Mạnh Lãng không biết rằng Chu Tử Thư cài thám tử vào ngay dưới trướng Gia Luật Xá Ca. Nếu Gia Luật Xá Ca bị Cungtử Thái sư hãm hại rồi thất thế trong triều đình nước Liêu, thì toàn bộ những gì nhóm Chu Tử Thư đổ mồ hôi sôi nước mắt sắp đặt sẽ thành công cốc.
Chu Tử Thư nhất thời quên khuấy việc này, hôm nay được cảnh tỉnh, cậu cũng thấu hiểu rằng phải thả Gia Luật Xá Ca đi bằng mọi giá, thậm chí phải giúp y trở về nước Liêu thật suôn sẻ.
Nghĩ thông suốt, Chu Tử Thư ngó ra đằng sau Mạnh Lãng, chợt thấy chiếc bàn vốn thuộc về Cung Tuấn hiện giờ trống không. Cậu lấy làm lạ, hỏi: "Từ giờ Cungđại nhân không ở đây nữa à?"
Mạnh Lãng đang ủ mưu đối phó với sứ Liêu, nghe thế thì quay sang hỏi: "Lẽ nào Đường đại nhân không biết sáng nay sư huynh nhà ngươi vừa lên chức Thượng thư Tả bộc xạ, hàm nhất phẩm, từ rày lãnh đạo toàn thể Lục bộ Thượng thư?"
Chu Tử Thư: "Dĩ nhiên là biết rồi."
Mạnh Lãng: "Quan nhất phẩm trong điện Cần Chính đều có nhà làm việc riêng. Từ nay e rằng bản quan phải chung phòng với Thượng thư bộ Công Viên Mục Viên đại nhân."
Chu Tử Thư cười ngượng nghịu, cáo từ ra về.
Cậu chưa ra khỏi điện Cần Chính thì có quan sai chạy đến trước mặt, cung kính hỏi: "Ngài có phải Chu Tử Thư Đường đại nhân không ạ?"
Chu Tử Thư ngạc nhiên nói: "Đúng rồi."
"Tiểu nhân phụng mệnh Cungtướng công chờ đại nhân ở đây. Cungtướng công thấy đại nhân vào phòng Mạnh đại nhân mãi mà không ra nên đoán rằng có việc quan trọng cần bàn bạc. Đúng lúc bộ Hộ có việc, Cungtướng công đi trước, dặn dò tiểu nhân đưa thiếp mời này cho đại nhân." Chu Tử Thư nhận tấm thiếp mời, quan sai khấu đầu hành lễ rồi mới lui đi.
Chu Tử Thư mở thiếp ra xem, không ngờ trong tấm thiệp mạ vàng khắc hoa kẹp một đóa thược dược ép khô. Dưới những cánh hoa là chữ viết tay theo lối tiểu Khải tao nhã tột bậc của CungTử Phong, trên nền giấy trắng, hàng chữ đen tuyệt đẹp ghi...
Nhành hoa ta gửi tặng mình, Lưu Kỳ hẹn gặp mong mình chớ quên.
CungTử Phong
Lòng rạo rực, Chu Tử Thư thầm mắng: CungTử Phong khinh suất quá thể, giữa chốn đông người, lại còn ở ngay điện Cần Chính mà huynh ấy cũng dám đưa thứ này cho mình? Không sợ người ta phát hiện hay sao!?
Chu Tử Thư tức tối, lắc đầu, cẩn thận đút thiếp mời vào ngực áo. Trước khi đi, cậu không phát hiện rằng một người khá có duyên với cậu đã nhìn thấy cậu từ xa. Song chưa kịp chào hỏi, Chu Tử Thư đã bước ra khỏi cổng chính điện Cần Chính.
Dư Triều Sinh đi tới gian làm việc của Từ Bí, vái chào rồi thưa: "Hiến Chi bái kiến tiên sinh. Vừa nãy Hiến Chi gặp Chu Tử Thư Đường đại nhân trong sân, liền nhớ tiên sinh từng nói, học trò và Đường Cảnh Tắc có chút duyên phận. Mỗi lần cậu ta ra về là học trò lại đến. Thoạt tiên học trò cứ nghĩ là đùa, hôm nay mới thấy quả thật rất trùng hợp."
Từ Bí đặt quyển tấu xuống, cười bảo: "Duyên phận giữa con với cậu ta đúng là không mỏng. Hiện giờ một người là Tả Phó ngự sử ty Ngân Dẫn, một người là Hữu Phó ngự sử ty Ngân Dẫn. Đó chẳng phải duyên phận sao?"
Dư Triều Sinh: "Hôm nay trên triều, không ngờ Thánh thượng lại thăng
CungTử Phong làm Thượng thư Tả bộc xạ."
Từ Bí: "Từ trước đã có điềm báo rồi."
"Tiên sinh?"
"Giờ con là Tả Phó ngự sử ty Ngân Dẫn, tức là người chịu trách nhiệm với ty Ngân Dẫn chỉ ngay sau CungTử Phong. Thế con có hiểu, rốt cuộc ty Ngân Dẫn của con có vai trò gì không?"
Dư Triều Sinh ngẫm nghĩ hồi lâu: "Xin tiên sinh chỉ điểm."
Từ Bí cười: "Làm sao lão phu biết đây? Chuyện này hoàng thượng chưa bao giờ cho phép người của lão phu nhúng tay vào. Nhưng mà việc thế gian hay những biến chuyển trên triều đình chỉ loanh quanh trong vài kiểu thôi, cũng không bao giờ nảy sinh từ hư không, mọi sự đều có điềm báo. Mất ty Độ Chi, ty Ngân Dẫn mới xuất hiện. Thế, ty Độ Chi từng theo đuổi điều gì?"
Dư Triều Sinh kinh hãi thốt lên: "Hóa ra ty Ngân Dẫn là vậy, học trò xin thụ giáo!"
Hai thầy trò nói chuyện thêm một lúc rồi mới tạm biệt nhau.
Hoàng hôn buông xuống, sau một thoáng do dự, cuối cùng Chu Tử Thư vẫn cầm thiếp mời, mặc nguyên quan phục, đi theo địa chỉ trên thiếp mời ra ngoại ô kinh thành, tìm thấy tòa trạch viện đẹp đẽ và u tĩnh. Cậu đứng trước nhà, nhìn cánh cổng chính không mấy đặc sắc, ngạc nhiên nói: "Đây là nơi sư huynh muốn mình đến sao?"
Bèn ngước nhìn lên: Lưu Kỳ tiểu viện.
Bốn chữ trên tấm biển mang khí chất trong ngần như Tuấng tỏ, nét bút vun vút như sao băng, đúng là chữ của CungTử Phong.
Chu Tử Thư mới đứng ngoài cửa một lát thì cánh cổng tiểu viện Lưu Kỳ được mở ra từ bên trong. Một cậu trai có vẻ là người hầu chạy đến, nói: "Bái kiến Đường công tử. Công tử đợi trong phủ đã lâu, mời Đường công tử vào theo tiểu nhân."
Chu Tử Thư được người hầu dẫn vào cổng, nhưng sau khi cậu bước vào thì người hầu không hề đi theo.
Chu Tử Thư lấy làm lạ, quay lại nhìn cậu ta.
Người hầu nói: "Tiểu nhân chỉ đưa đến đây thôi. Mời Đường công tử." Nói xong, cánh cổng kẽo kẹt khép lại sau lưng Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư trở tay không kịp, đành phải quay đầu lại, ngắm nhìn tòa trạch viện tuyệt đẹp này.
||Chú thích
Tui chém đó TvT gốc có 8 chữ thôi: 以花赠君, 流淇相见. Chữ 君 (quân) chắc nhiều bạn biết rồi, tiếng gọi vợ gọi chồng đó.
------oOo------
Chương 130
Nguồn: EbookTruyen.Net
Đường đại nhân xin nghỉ
Sau khi vào nhà một mình, cậu thấy những tảng đá hoa cương khổng lồ kì vĩ được bày biện ở khắp nơi.
Chu Tử Thư ngồi đợi ở sảnh chờ ngoài cổng một lát mà không thấy bóng dáng Cung Tuấn đâu. Hết cách, cậu đành tiến vào lâm viên.
Bước qua cổng nguyệt môn bên trái, Chu Tử Thư thấy một hồ nước rộng lớn, sóng biếc mênh mông. Hồ bắt đầu từ chỗ giữa cây cầu, rồi mở rộng khắp về mạn Đông. Chu Tử Thư chẳng có chỗ nào để đi, bèn men theo hồ mà tiến bước.
Khu nhà thứ hai có một tấm biển, tên đề ba chữ "Túy nguyệt đường."
Khỏi cần nói, đây cũng là nét chữ của CungTử Phong. Chu Tử Thư ngẩng lên nhìn một lúc: "Túy nguyệt tần trung thánh, mê hoa bất sự quân1?"
Thường cùng với nguyệt say sưa. Cỏ hoa ham thú, việc vua chẳng màng.
Một khắc đã trôi qua mà Cung Tuấn vẫn biệt tăm biệt tích. Chu Tử Thư đứng trong vườn một lát rồi bắt đầu đi tìm chàng: "Sư huynh ơi, sư huynh ở đâu rồi?"
Tòa dinh thự nhà họ Cungở phủ Kim Lăng khổng lồ quá, Chu Tử Thư ở chơi một ngày một đêm mà vẫn chưa đi hết. Còn tiểu viện Lưu Kỳ chỉ rộng cỡ một phần tư dinh thự nhà họ Cungthôi. Hồi trước Cung Tuấn là quan nhị phẩm, bây giờ là quan lớn nhất phẩm, trạch viện của chàng phải tuân theo quy định mặt tiền ba gian, chiều sâu năm khung. Tiểu viện Lưu Kỳ đương nhiên không thể vượt quá giới hạn.
Chẳng mấy chốc Chu Tử Thư đã tìm hết một vòng khu nhà mà vẫn không thấy Cung Tuấn đâu.
Cậu biết ngay CungTử Phong đang chơi trò ú tim với mình rồi, không thì làm gì có chuyện cậu không tìm thấy chàng chứ?
Chu Tử Thư cũng đến cạn lời với chàng, không thèm đi tìm nữa. Cậu kiếm một băng ghế đá trong vườn rồi ngồi xuống.
"Huynh có ra đây không thì bảo?"
"Sư huynh?"
"CungTử Phong!"
Bỗng sau lưng có tiếng giày giẫm lên thảm cỏ, Chu Tử Thư vội vã ngoái lại, nhưng vẫn bị chậm một nhịp. Hai tay Cung Tuấn bịt kín mắt cậu từ đằng sau.
"Kìa sư huynh..." Chu Tử Thư giật mình thốt lên.
Cung Tuấn cúi xuống thầm thì bên tai Chu Tử Thư: "Đáng lẽ ta định đi ra từ sớm cơ, mỗi tội lúc đi tìm ta trông em vừa sốt ruột vừa xinh đẹp quá, ta ngắm muốn mòn con mắt, nên mới trốn thêm một lúc đấy."
Chu Tử Thư: "..."
Cậu ngọ nguậy cựa mình ra khỏi tay chàng, mặt đanh lại, còn Cung Tuấn thì cứ cười hà hà.
Chu Tử Thư vờ như có tâm sự: "Từ hồi ta nói thẳng với sư huynh, sư huynh thay đổi hẳn."
Cung Tuấn không hiểu: "Nói thẳng cái gì cơ?"
"... Thì nói thẳng ý."
Cung Tuấn sực tỉnh: "Nói thẳng là em phải lòng ta ấy hả?"
Chu Tử Thư nghiến răng cành cạch, tự nhận mình không đọ lại CungTử Phong, đành ráng nói lảng sang chuyện khác. Cậu ra chiều hờn dỗi: "Trong lòng ta, sư huynh từng sánh với người trời lạc bước nhân gian, ngỡ như chàng tiên trên cung Quảng, chỉ có thể ngước nhìn mà chẳng thể chạm tới. Thế mà giờ đây tác phong của sư huynh chẳng hề đàng hoàng, còn đâu phong thái bay bổng như tiên thuở nào."
Cung Tuấn thở dài: "Hóa ra tiểu sư đệ say mê ta đến thế, thậm chí còn xem ta như thần tiên. Nói vậy, có khi em mới là người thích ta trước ấy nhỉ?" Ngừng một thoáng, Cung Tuấn nói như đinh đóng cột: "Tất nhiên phải thế rồi."
Chu Tử Thư: "..."
CungTử Phong kia, bản lĩnh đổi trắng thay đen của huynh luyện ở lò nào thế hả?
Thấy Chu Tử Thư vừa tức tối vừa buồn bực, năm lần bảy lượt không nói lại mình, lòng Cung Tuấn phơi phới. Chàng phì cười, vòng tay ôm eo Chu Tử Thư. Chu Tử Thư vỗ lên tay chàng, Cung Tuấn ngạc nhiên hỏi: "Sao thế tiểu sư đệ?"
Chu Tử Thư: "Ta còn phải đi."
Cung Tuấn: "Cũng phải hôn trộm người ta nữa nhỉ?"
Chu Tử Thư: "..."
Chu Tử Thư hết dám nói thêm câu nào. Cậu được Cung Tuấn dắt đi dạo chơi khắp mọi ngóc ngách trong tiểu viện Lưu Kỳ. Lúc hai người vừa đến trạch viện thì mặt trời mới ngả về Tây, bầu trời hẵng còn sáng. Đến khi họ dạo chơi xong thì Tuấng đã lên lưng chừng trời, ánh Tuấng vời vợi đầy ắp trong không gian, rót lên hồ nước mênh mông giữa tòa viện, phản chiếu thành vầng sáng lấp lánh.
"Lâm viên Giang Nam chú trọng vào sự biến chuyển của cảnh vật theo từng bước đi, tiểu sư đệ là người Cô Tô, hẳn cũng am tường nguyên tắc này."
Chu Tử Thư là con nhà nghèo, cậu chưa bao giờ ở nhà vườn cả, nhưng
Lương Tụng thì có. Thế nên, Chu Tử Thư cũng học hỏi đôi chút về lĩnh
vực này. Nhà Cung Tuấn không rộng mênh mông, nhưng khắp nơi đều có cảnh. Ở bất cứ điểm nhìn nào trong vườn ta cũng có thể bắt gặp những khung cảnh khác biệt, hiển nhiên đây là thành quả của sự sắp đặt kì công.
Càng giá trị hơn là...
Chu Tử Thư ngẩng đầu, trông về tấm biển trên ngôi đình nhỏ giữa hồ nước.
"Phác Thạch"
Chu Tử Thư: "Áp tùng do vị đắc, phác thạch tạm năng lưu4. Cả tấm biển này cũng do sư huynh đề đấy ư?"
Tả cảnh tuyết nhỏ, không đủ sức nặng để vít cây tùng, chỉ phủ trên đá được trong chốc lát.
Khắp tiểu viện Lưu Kỳ, từng khoảnh sân mái đình, biển tên của nơi nào cũng mang nét bút CungTử Phong! Sự dụng tâm đến vô cùng của chàng hiện hữu ở khắp chốn.
Chu Tử Thư bỗng hiểu ra ý nghĩa của tiểu viện Lưu Kỳ đối với Cung Tuấn. Cung Tuấn không nói gì cả, chỉ dắt tay cậu đi vào đình Phác Thạch. Trên chiếc bàn tròn trong đình, cơm rượu thơm ngon đã được bày biện sẵn, toàn là những món yêu thích của Chu Tử Thư.
Yên vị rồi, Cung Tuấn mới hỏi: "Nguồn gốc cái tên của ngôi đình này, tiểu sư đệ đã tìm ra được rồi. Thế còn những chỗ khác thì sao?"
Cả hai người đều có tài xem một lần là nhớ, Chu Tử Thư nhắm mắt hồi tưởng, rồi giải thích tuần tự những tên đình, tên viện khác. "Tản Tuyết môn, chắc là lấy từ câu 'bất kiến nhật nguyệt toàn, đãn kiến tản tuyết câu'5 đúng không? Hương Hàn đường, hẳn từ câu 'Diễm tĩnh như lung nguyệt, hương hàn vị trục phong'6..."
[5] Hiểu là hết những tháng ngày mưa dầm (trời âm u mịt mù không thấy mặt trời, mặt Tuấng) thì tuyết đã lại tới. Trích một bài thơ nói về thiên tai dồn dập [6] Tả hoa lê đẹp như Tuấng giữa mây mù, ngay cả trong gió hương thơm cũng không phai.
Chu Tử Thư ung dung phân tích rành rọt, rõ là: trước hoa dưới nguyệt, rượu ngon cùng người. Có cơn gió mát thoảng qua, Cung Tuấn chưa uống đã ngà ngà say.
Sau khi Chu Tử Thư nói xong, Cung Tuấn mới bảo: "Gần đúng hết rồi đấy."
Chu Tử Thư hoài nghi: "Có chỗ nào sai ư?"
Cung Tuấn: "Không chỗ nào sai đâu, nhưng cái quan trọng nhất thì chưa thấy tiểu sư đệ nhắc đến."
Chu Tử Thư suy nghĩ mãi, đắn đo hồi lâu mới nhớ ra thứ mình chưa nói.
Nhưng ngẫm một lát, cậu bảo: "Tiểu viện Lưu Kỳ, gốc gác hai chữ 'Lưu Kỳ' chẳng khó tìm, nhưng... tại sao sư huynh lại chọn cái tên 'Lưu Kỳ' cho trạch viện này?"
Bí bỉ tuyền thủy, diệc lưu vu kỳ7.
[7] Sông Tuyền cuồn cuộn chảy đi, lướt xuôi nhập với sông Kỳ xa xa (TQP). Ví người con gái nước Vệ lấy chồng phải theo chồng.
Trích từ bài thơ "Tuyền thủy" trong phần Bội phong, Kinh Thi.
Bản thân bài thơ này không phải vấn đề gì to tát, nó là một bài thơ hay về niềm nhớ thương sâu đậm. Vấn đề nằm ở chỗ, bài thơ này viết về nỗi nhớ nhà của người con gái nước Vệ lấy chồng xa quê! CungTử Phong đi lấy chồng xa? CungTử Phong đau đáu nỗi oán khuê phòng như cô gái nước Vệ?
Chu Tử Thư rùng cả mình.
... Cái quái gì vậy trời!
Cung Tuấn nom khá buồn lòng, chừng như muốn nói gì đó mà chẳng thể cất lời, thở dài thườn thượt.
Chu Tử Thư thấy vậy thì hiểu ngay, đằng sau hai chữ "Lưu Kỳ" chắc là cả một câu chuyện đây. Cậu quan tâm hỏi: "Sư huynh sao thế?"
"Thực ra cái tên Lưu Kỳ không phải do ta đặt."
"Ồ?"
"Em đoán không sai đâu, làm gì có chuyện ta lấy hai chữ 'Lưu Kỳ' đặt tên cho tòa trạch viện này chứ. Tác phẩm của tiên sinh đấy." Cung Tuấn khoan thai thở dài, kể: "Mười mấy năm trước, tiên sinh biết ta xây ngôi viện này nên hứng chí đến tham quan, rồi chủ động đặt tên cho nó luôn. Hồi ấy, người lấy câu 'bí bỉ tuyền thủy, diệc lưu vu kỳ' để trêu ta, rằng Tử Phong, con ở xa quê, vì nhung nhớ cố thổ nên mới xây trạch viện này. Cảm nỗi nhớ quê chân tình da diết, hãy gọi nó là Lưu Kỳ đi!"
Cung Tuấn nhìn Chu Tử Thư: "Người trên ban, chẳng dám chối. Ta lấy đâu ra can đảm mà khước từ đây?"
Chu Tử Thư nghĩ bụng: Huynh mà không muốn thật, chẳng nhẽ Phó tiên sinh bắt ép huynh được sao?
Nhưng điệu bộ rầu rầu ủ ê của Cung Tuấn quả là trăm năm khó gặp, Chu Tử Thư không nỡ dời mắt. Bị sắc đẹp hớp hồn, cậu nhìn chàng mê mẩn rồi lơ mơ gật đầu theo.
Cung Tuấn chỉ vào tảng đá Thái Hồ kì vĩ giữa hồ nước: "Vì lẽ đó mà khi tìm được khối đá Quật Lung thượng hạng này, ta tuyệt nhiên không dám để lộ, chỉ sợ tiên sinh trông thấy. Tảng đá này đến giờ vẫn chưa có tên, tiểu sư đệ có bằng lòng đặt tên cho nó không?
Chu Tử Thư hồi thần: "Ta ư?"
Cung Tuấn nhoẻn cười, nụ cười của chàng dạt dào niềm hân hoan, cả người cứ lâng lâng vui sướng.
Chàng âu yếm hỏi: "No bụng chưa?"
Chu Tử Thư ngẩn ra, ngẩng lên nhìn chàng. Hồi lâu sau cậu mới đáp: "Đã no rồi."
Cung Tuấn dắt tay cậu, dẫn Chu Tử Thư đi qua hành lang lượn vòng uốn khúc. Họ băng qua mặt hồ dập dềnh sóng biếc, vòng qua tảng Quật Lung thạch để tới một gian nhà bên rìa hồ nước. Một nửa gian nhà vươn ra ngoài mặt hồ, chỉ cần chống cửa sổ lên là có thể hòa mình vào khoảng không gian xanh mênh mông trời nước.
Bên cửa sổ kê chiếc án thư rất dài, mặt bàn bày đủ loại giấy mực bút nghiên.
Cung Tuấn nắm tay Chu Tử Thư đến cạnh bàn. Chàng cẩn thận trải phẳng giấy Tuyên rồi bắt đầu mài mực. "Tiểu sư đệ, đặt tên cho nó nhé?"
Chu Tử Thư nhìn chàng một hồi, rồi ngoảnh mặt trông ra ngoài cửa sổ, ngắm nghía tảng đá Thái Hồ lởm chởm.
Mãi lâu sau, cậu mới đặt bút viết hai chữ.
"Ôn Ngọc".
Chu Tử Thư được đích thân CungTử Phong dạy viết. Mặc dù những con chữ toát lên khí phách thuộc về cậu, nhưng sâu thẳm bên trong, dấu ấn của CungTử Phong luôn hiện hữu ở khắp mọi nơi.
Thấy hai chữ này, trái tim Cung Tuấn rung động mãnh liệt. Chàng thôi mài mực, ngẩng lên hỏi: "Hai chữ 'ôn ngọc' lấy từ đâu thế?"
Chu Tử Thư nhìn chàng, từ tốn đáp: "Chàng ôi! Em nhớ thiết tha. Tính chàng như ngọc ôn hòa dễ thương. Ở nhà ván chàng đương tạm trú... Khiến lòng em sầu khổ rối bời8."
Bài thơ là lời khen chồng và nỗi nhớ chồng của người chinh phụ nước Tần. Nhà ván là nơi ở của người Nhung (kẻ thù của người Tần), nên cụm từ này ám chỉ cuộc chiến với người Nhung.
Cung Tuấn sải bước đến bên, vòng tay ôm chầm lấy cậu. Chàng ấp Chu Tử Thư trong lòng, giọng chàng rủ rỉ như làn gió phớt qua thảm cỏ trong đêm xuân: "Tan làm em mới tới đây, sao vẫn còn mặc quan bào thế?"
Chu Tử Thư: "Sư huynh tặng ta một nhành thược dược, hẳn có lời muốn thổ lộ cùng ta."
Cung Tuấn cười dịu dàng: "Quan bào bất tiện đủ đường, ta giúp tiểu sư đệ cởi áo có được không?"
Chu Tử Thư siết chặt nắm tay, lặng thinh không đáp. Cung Tuấn cầm tay cậu, dẫn Chu Tử Thư tới bên giường. Chàng tháo thắt lưng của Chu Tử Thư, cởi tấm áo bào đỏ thẫm. Khi chàng chuẩn bị cởi nốt lớp áo trong của Chu Tử Thư, cậu chợt níu lấy tay chàng.
Cung Tuấn ngẩng lên nhìn cậu.
"Lòng ta chất chứa muôn vàn tâm sự, vì sư huynh, vì rất nhiều người."
Cung Tuấn dịu dàng hôn cậu: "Còn lòng ta, chỉ chứa mình em thôi."
Chu Tử Thư ngây người nhìn Cung Tuấn, trong vô thức, cậu thôi giữ lấy bàn tay của chàng.
Ngoài song nước chảy miên man, gió len buồng trúc, thổi tung xống áo rải rác trên nền nhà. Màn giường đã được Cung Tuấn thả xuống từ lâu, suốt cả đêm tiếng ngâm nga chẳng hề ngơi nghỉ, dâng tới tận cùng hạnh phúc sướng sung.
Hôm sau, khi trời còn chưa sáng, quản gia phủ Thượng thư đã cầm triều phục của Cung Tuấn đợi ngoài cửa. Cung Tuấn rón rén xuống giường, Chu Tử Thư liền giật mình tỉnh giấc. Cậu muốn đứng dậy nhưng phần eo lưng đau ghê gớm. Chu Tử Thư xuýt xoa, rõ ràng tối qua có đau đâu, sao sáng nay chỗ nào cũng nhức thế nhỉ?
Cung Tuấn giữ vai cậu, nhấn Chu Tử Thư nằm xuống giường: "Nghỉ đi đã, hôm nay để ta báo ốm cho em."
Chu Tử Thư vẫn còn mơ màng ngái ngủ, chỉ nghĩ là đồng nghiệp xin nghỉ hộ nhau bình thường thôi chứ chẳng nghĩ xa xôi, thế là gật đầu rồi ngủ tiếp.
Cung Tuấn thay triều phục rồi lên triều ngay.
Lại nói, lúc CungTử Phong mới đến điện Sùng Chính cũng không có ai thấy lạ, nhưng đó là trước khi chàng nói với Thống sự thái giám rằng: "Đường đại nhân bị ốm nhẹ, hôm nay không vào triều."
Chàng vừa dứt câu thì Hữu tướng CungThuyên là người đầu tiên trong chính điện quay ra nhìn Cung Tuấn. Các quan lớn khác chẳng phản ứng gì, chỉ có Tả tướng Kỷ Ông Tập nghe xong lại suy ngẫm, rồi kinh ngạc lẩm bẩm: "Hóa ra là thế à?" Không lâu sau, Hữu thừa Từ Bí cũng chợt hiểu.
Người thường, ai mà nghĩ ra đủ điều chỉ từ một câu nói như vậy? Chỉ có mấy vị quyền thần cáo già đã ngầm phỏng đoán chuyện Cung Tuấn thích nam giới mới nghiền ngẫm ra được thôi.
Việc này như ngọn gió thoảng qua mặt hồ, làm gợn lên một đợt sóng lăn tăn rồi êm ngay. Phần lớn mọi người chẳng hề phát hiện.
Nhưng Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ là ai kia chứ? Trong buổi triều, vì Cung Tuấn đã lên hàng nhất phẩm nên chỗ đứng của chàng càng sát phía trên hơn, Triệu Phụ có thể thấy rõ từng cử chỉ của chàng. Ông ta ngạc nhiên lắm, tan triều bèn hỏi Đại thái giám Quý Phúc: "Ngươi trông CungTử Phong mà xem, hôm nay mặt mày rất tươi tỉnh, khác hẳn bình thường."
Quý Phúc nhủ thầm: Khác ư? Khác chỗ nào không biết, rõ ràng trông hệt như mọi khi mà.
Nhưng Quý Phúc khôn ngoan có thừa, lão ta bèn đi dò la xem hôm nay CungTử Phong đã làm những gì, có gì bất thường không. Kết quả là lão hỏi ra được chuyện chàng xin nghỉ hộ Chu Tử Thư. Quý Phúc làm gì nghĩ sâu xa được, lão bèn nghiêm chỉnh tâu hết lên cho Triệu Phụ. Nghe xong, Triệu Phụ sửng sốt mất một lúc mới nói: "Ngay đến trẫm cũng không nhận ra cơ à?"
Mặt trời lên cao ba sào, Chu Tử Thư mới tỉnh ngủ.
Quần áo sạch được sắp sẵn trong phòng, cơ thể cậu cũng vô cùng khoan khoái. Chu Tử Thư hồi tưởng trong giây lát, bỗng ý thức được rằng tối qua Cung Tuấn đã tự tay lau rửa sạch sẽ cho cậu. Mặt đỏ phừng, cậu mặc quần áo xong rồi khẩn trương đến Ngự Sử đài.
Chu Tử Thư vừa tới nơi, một người lính gác quá ngạc nhiên khi thấy cậu đã hỏi: "Đường đại nhân, không phải hôm nay ngài xin nghỉ hay sao?"
Bộ não choáng váng của Chu Tử Thư bấy giờ mới khởi động lại, cậu nhớ đến lời Cung Tuấn nói với cậu sáng nay.
Tức thì Chu Tử Thư xây xẩm mặt mày.
... Vương, Tử, Phong!!!
||Chú thích
Bài thơ Tặng Mạnh Hạo Nhiên của Lý Bạch. Dịch giả: Trần Trọng San.
Gốc: 三间进深五架. Từ 架này là đơn vị đo đạc trong kiến trúc cổ. Tài liệu kiến trúc mình bó tay nên tạm để thế nhé.
Chỗ này mình nghĩ hẳn là Cung Tuấn chơi chữ để trêu Chu Tử Thư. Cả hai người cùng nói chữ 会, nhưng Chu Tử Thư dùng với nghĩa "sẽ làm gì đó", còn Cung Tuấn lại dùng nghĩa "biết làm gì đó".
Trích bài "Tiểu tuyết" của Lý Hàm Dụng thời Đường.
[5] Trích một bài thơ nói về thiên tai của Khương Đặc Lập thời Tống.
[6] Trích bài "Lê hoa" của Tiễn Khởi thời Đường.
[8] Trích "Tiểu nhung", Kinh Thi – Tạ Quang Phát dịch.
------oOo------
Chương 131
Nguồn: EbookTruyen.Net
Ba bức thư nhà
Vì đã báo ốm, Chu Tử Thư trong bộ quan bào nhăn nhúm lại ba chân bốn cẳng chạy về nhà
Mấy hôm trước Diêu Tam đã đi Ninh Châu xử lí việc hậu cần cho Bách Bảo
Các, chỉ có Đường Hoàng và Diêu đại nương ở nhà. Hai người thấy Chu Tử Thư thì đều ngạc nhiên lắm. Đường Hoàng: "Anh không phải đi làm ở nha môn à?" Cô bé nghĩ ngợi, "Hình như hôm nay đâu phải ngày nghỉ?"
Chu Tử Thư trả lời qua quýt: "Hôm nay có việc nên anh về sớm." Mới đi được hai bước, cậu bỗng quay phắt lại: "Hai người không thắc mắc vì sao anh đi cả đêm hôm qua không về à?"
Đường Hoàng cười, hỏi ngược lại: "Sao phải thắc mắc? Chiều hôm qua, Thượng thư đại nhân sai người sang nhà mình, nhắn rằng anh muốn ở lại uống rượu với ngài ấy bên phủ Thượng thư, rồi nghỉ ở đó luôn. Anh à, có phải anh chưa bao giờ qua đêm ở phủ Thượng thư đâu, còn lạ nỗi gì?"
Chu Tử Thư: "..."
Về đến thư phòng, Chu Tử Thư giận sôi: "Khá khen cho huynh đấy CungTử Phong, thì ra huynh đã tính cả rồi!"
Chu Tử Thư đỡ trán thở dài, bụng bảo dạ, so thủ đoạn có mà cả đời này cậu chẳng thắng nổi CungTử Phong, trớ trêu thay, phần đời còn lại của cậu đã cột chặt với chàng mất rồi. Nghĩ thế, cậu đâm ra hơi hối hận, không biết bây giờ đổi ý còn kịp không nhỉ...
Có kịp hay không thì Chu Tử Thư không biết, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, cậu đã hết sạch cơ hội.
Chu Tử Thư vẫn chưa biết chuyện của mình với Cung Tuấn đã bị các quyền thần trong triều đoán trúng phóc. Sáng sớm hôm sau, cậu lên triều. Vừa tan buổi chầu, Đại thái giám Quý Phúc đã tìm đến cậu. Cung Tuấn đang bị Hữu tướng CungThuyên giữ lại nói chuyện. Đứng từ xa, chàng thấy Chu Tử Thư được Quý Phúc dẫn đi, liền mỉm cười đầy thâm ý.
CungThuyên thấy thế cũng liếc nhìn bóng lưng Chu Tử Thư, ngầm hiểu ngay: "Không yên tâm hả?"
Cung Tuấn ngạc nhiên: "Không yên tâm chuyện gì ạ?"
CungThuyên: "Thánh thượng không tự dưng triệu Đường Cảnh Tắc tới điện Thùy Củng. Hôm qua khi con xin nghỉ hộ nó trước mặt bao người, ta đã đoán được. Nếu Thánh thượng sai người dò hỏi, e cũng đoán ra thôi.
Con không sợ nó gặp Thánh thượng thì ấp úng không biết nói gì, khiến Thánh thượng nổi giận sao?"
Cung Tuấn cười ung dung, hỏi ngược lại: "Thúc tổ nghĩ vì sao con lại thích em ấy?"
"Ồ, vì sao thế?"
"Em ấy sẽ không bao giờ để con phải lo lắng. Em ấy là Đường Cảnh Tắc. Có thể vươn tới địa vị ngày hôm nay, chỗ dựa thực thụ của em ấy hoàn toàn không phải con đâu."
CungThuyên sững người.
Phía Chu Tử Thư, cậu được dẫn vào điện Thùy Củng. Trên đường đi, Chu Tử Thư vắt óc suy nghĩ mà vẫn không biết Triệu Phụ cho gọi cậu có việc gì. Chẳng lẽ có vấn đề mới phát sinh nên Triệu Phụ muốn cậu xử lí? Dám cá chuyện này có liên quan đến ty Ngân Dẫn, hoặc liên quan đến việc Nhị hoàng tử Triệu Thượng ở phủ Cô Tô. Nhẽ nào Triệu Thượng can thiệp vào Ngân khế trang bộ Binh ở Cô Tô rồi?
Vào tới điện Thùy Củng, Chu Tử Thư tiến lên thi lễ, cúi đầu im lặng. Ai ngờ Triệu Phụ cũng chẳng nói gì cả, chỉ nheo mắt cười với cậu.
Đứng hầu kế bên, Quý Phúc hết sức ngỡ ngàng.
Kể từ ngày Thái hậu băng hà, rất hiếm khi tâm trạng hoàng đế tốt thế này. Ngỡ như Triệu Phụ đã trở về với khoảng thời gian một năm trước, lúc tinh thần ông ta hẵng còn phấn chấn, không dành cả ngày trời nghe Hòa thượng Thiện Thính tụng niệm kinh Thiền, mắt lim dim, tay gõ mõ, khiến người ta không tài nào đoán nổi suy nghĩ của ông ta.
Chu Tử Thư cảm nhận được ánh nhìn chăm chú của Triệu Phụ, cậu lấy làm lạ, chẳng hiểu rốt cuộc mình đã làm gì mà bị gọi đến đây. Nhưng Triệu Phụ chưa nói gì thì tất nhiên cậu không thể mở miệng.
Một lúc lâu sau, tiếng Triệu Phụ khoan thai cất lên: "Trẫm vẫn nhớ Cảnh
Tắc vừa cập quan năm nay nhỉ."
Chu Tử Thư: "Vâng."
"Đã hai mươi tuổi, sao còn chưa thành gia?"
Chu Tử Thư thót tim, cậu trộm nghĩ đến một khả năng, nhưng chẳng dám suy nghĩ sâu xa.
Triệu Phụ thở dài: "Các ngươi ấy à, toàn để trẫm phải sốt ruột thay thôi! Phỉ Nhiên đã hai mươi sáu, cũng chẳng thiết lập gia đình. Tháng trước trẫm gọi hắn vào hỏi, ngươi đoán xem hắn bảo gì? Hắn nói cả thành Thịnh Kinh này chẳng có cô gái nào hắn ưng, đến công chúa của trẫm hắn cũng chẳng vừa mắt!"
Chu Tử Thư nghe mà giật mình, cậu dè dặt quan sát nét mặt Triệu Phụ. Chuyện Tô Ôn Duẫn dám nói với hoàng đế rằng mình không kết hôn vì chưa thích cô nương nào thì cậu tin, nhưng cậu không tin Tô Ôn Duẫn dám thốt ra câu đến công chúa cũng không xứng với anh ta. Hẳn là Triệu Phụ vui miệng thì nói thế thôi, nhưng ông ta đã dám nói vậy với Chu Tử Thư thì đủ thấy ông ta tin sủng Tô Ôn Duẫn đến mức nào.
"Cảnh Đức cũng làm trẫm nhọc lòng lắm. Phu nhân hắn đã qua đời từ năm ngoái, trẫm bảo hắn kiếm người khác đi, hắn lại bảo có con nối dõi rồi thì sao phải tái giá."
Giờ thì Chu Tử Thư đã hiểu Triệu Phụ muốn nói gì, cậu cúi mặt, chỉ ước được rúc quách đầu xuống sàn gạch cho rồi.
Triệu Phụ nhoài người lên bàn để dòm xuống cái ót Chu Tử Thư cho gần hơn, giọng ông hiền từ pha ý trêu chọc: "Hôm nay trẫm rất muốn biết lí do Cảnh Tắc chưa thành hôn là gì. Cả sư huynh ngươi nữa, sao hai chín rồi vẫn chưa lập gia đình?"
Chu Tử Thư hoảng hốt, cậu cúi gằm mặt, lớn tiếng đáp: "Thần, thần không biết."
Triệu Phụ cười phá lên.
Chu Tử Thư bối rối quá thể. Triệu Phụ cười xong lại nhìn Chu Tử Thư, trông cậu lúng túng, ngượng nghịu như thế, ánh nhìn của ông bỗng toát lên sự yêu chiều của người lớn tuổi đối với người trẻ tuổi. Ông nói một cách thân tình: "Mười năm trước khi biết tâm sự của Tử Phong, trẫm đã rất lo lắng. Trẫm biết tính tình Tử Phong lắm chứ, nếu hắn thật lòng thích ai, kiểu gì cũng rút ruột rút gan cho người ấy. Nhỡ thích phải người tâm địa xấu xa thì chẳng phải khủng khiếp lắm sao? Giờ biết người đó là ngươi, trẫm cũng yên tâm. Không ngờ trước khi nhắm mắt xuôi tay trẫm có thể thấy các ngươi nên duyên, không còn phải lo âu nữa." Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn Triệu Phụ.
Triệu Phụ khoát tay: "Trẫm đã triệu ngươi tới lại còn trêu ngươi, tất nhiên phải có thưởng. Phần thưởng đã được chuyển tới phủ Thượng thư rồi."
Chu Tử Thư thi lễ, cung kính thưa: "Thần tạ ơn bệ hạ."
"Lui đi."
Bước ra khỏi cổng chính điện Thùy Củng, Chu Tử Thư đứng im một lát rồi mới cất bước. Giữa hoàng cung khổng lồ, dáng người bé nhỏ trong màu áo đỏ sải bước qua cánh cổng cung điện nặng nề, nhịp chân của cậu vững vàng ung dung, ẩn chứa lòng kiên định và sự quả quyết, không hề do dự.
Sau khi Chu Tử Thư đi, Quý Phúc đang khom mình đứng hầu mé bên lại lén lút ngước nhìn Triệu Phụ.
Theo Triệu Phụ hơn năm mươi năm, có đôi lúc lão cảm thấy mình hiểu vị vua này, có lúc lão lại thấy rất mơ hồ. Ví dụ như vừa nãy, Quý Phúc không thể biết nổi những lời Triệu Phụ nói với Chu Tử Thư là thật lòng hay giả dối. Quý Phúc nghĩ, Đường Cảnh Tắc ắt hẳn cũng không hiểu, thậm chí ngay cả CungTử Phong e cũng chỉ biết than "ý vua khó lường".
Nhưng Quý Phúc có một lợi thế so với Cung Tuấn và Chu Tử Thư. Sau khi Chu Tử Thư đi, hoàng đế mân mê cái chén sứ men xanh ấm áp, nói như thể đang độc thoại: "Trẫm thích bọn họ hơn rồi đấy."
Quý Phúc ghi tạc câu này vào lòng, định bụng lúc rảnh sẽ từ từ suy ngẫm.
Hoàng đế nói lễ vật vua ban đã được chuyển tới phủ Thượng thư, nhưng Chu Tử Thư thật tình chẳng có lòng nào mà ngó đến. Hôm nay, lúc tan làm ở Ngự sử đài, từ đằng xa cậu đã trông thấy kiệu quan nhất phẩm của Thượng thư Tả bộc xạ chờ sẵn ngoài cổng. Đường đại nhân nguýt một cái, vênh mặt lướt qua, không buồn liếc vào bên trong.
Cung Tuấn xuống kiệu, gọi: "Cảnh Tắc."
Chu Tử Thư chẳng đoái hoài đến chàng, tiếp tục tiến bước.
Cungđại nhân thở dài thườn thượt: "Thế là vẫn giận rồi." Mưu việc, phải biết kết hợp cứng rắn và ôn hòa.
Là người cực kì sáng suốt, Cungđại nhân dĩ nhiên sẽ không thêm dầu vào lửa, chàng thả cho Chu Tử Thư nguôi giận hai hôm.
Đến ngày thứ ba, Phó Vị bỗng dưng gửi thiếp mời cho hai học trò, nói rằng mình mới kiếm được bức tranh rất đẹp, gọi cả hai đến phủ cùng thưởng thức. Chu Tử Thư không thể từ chối, đành phải đến Phó phủ vào buổi tối. Khi cậu đến nơi, CungTử Phong đã an tọa trong phòng khách.
Chu Tử Thư tảng lờ, lẳng lặng ngồi xuống phía đối diện Cung Tuấn.
Chu Tử Thư: "Tiên sinh ơi, tranh ở đâu thế ạ?"
Phó Vị: "Tranh à? Đương nhiên là có tranh rồi. Ôn Thư đồng tử đâu, mau lấy bức họa kia đến đây."
Ôn Thư đồng tử mau mắn chạy vào thư phòng, cầm một quyển tranh đến. Tranh không dài lắm, Ôn Thư cầm hai đầu quyển tranh, căng nó ra. Vừa thấy bức họa, Chu Tử Thư không khỏi kinh ngạc, bụng sinh nghi. Khi xem phần lạc khoản, Chu Tử Thư không nhịn được cười: "Hóa ra là danh tác của Điêu Trùng trai chủ, quả nhiên là một bức tranh tuyệt vời."
Điêu Trùng trai chủ Phó Hi Như vuốt chòm râu, cười khà khà: "Cảnh Tắc cũng cảm nhận được cái diệu kì trong bức họa này hử? Khá lắm khá lắm, gu thưởng thức độc đáo đấy, còn Tử Phong thấy sao?" Chu Tử Thư cũng trộm ngó Cung Tuấn.
Cung Tuấn chỉ nhìn bức tranh vài giây, rồi chàng quay sang mỉm cười với Phó Vị: "Tiên sinh hay tin từ đâu thế?" Chu Tử Thư ngẩn người.
Phó Vị lúng túng đáp: "Sao ta chả hiểu con nói gì thế nhỉ?"
Cung Tuấn: "Mấy hôm vừa rồi Thánh thượng không triệu người vào cung, tất chẳng phải Thánh thượng. Người cũng không thân với Kỷ tướng, Từ tướng, cũng chẳng phải họ luôn." Cung Tuấn dừng lời, đoạn than thở: "Thì ra là Nhị thúc tổ."
Phó Vị: "..."
Chu Tử Thư cũng bừng tỉnh: "..."
Trời ơi, đúng là chuyện tốt im ỉm trong nhà, chuyện xấu đồn xa nghìn dặm!
Phòng khách lặng im như tờ, kim rơi còn nghe tiếng.
Bỗng Phó Vị nói: "Hầy, vi sư quan tâm hai đứa mi thì có làm sao? Thế nào, tụi mi vẫn tính giấu giếm ta phải không? Chúng mi đều là đệ tử của ta, chuyện đại sự bực này mà không thưa với thầy trước thì có hợp lễ phép, hợp lễ giáo không?"
Chu Tử Thư nhủ thầm: Chuyện đồng tính của con với CungTử Phong là thứ trái với lễ phép nhất trần đời còn gì!
Chu Tử Thư: "Là lỗi của Cảnh Tắc ạ."
Phó Vị được tiếp oai, ông phê bình Cung Tuấn luôn: "Còn con, tại sao phải dối vi sư, con toan tính gì thế hử?"
Cung Tuấn khẽ nhếch mày, nhưng thấy Chu Tử Thư đang cúi đầu nhận khuyết điểm, chàng lại cười mỉm, chắp tay hành lễ theo: "Học trò sai rồi ạ." Đoạn chàng bảo: "Thế này giống bái cao đường ra phết nhỉ." Phó Vị ngớ người.
Chu Tử Thư cũng ngơ ngác. Đến lúc định thần, cậu nổi cơn tam bành: "CungTử Phong!"
Phó Vị càng ngạc nhiên hơn, ông đã bao giờ thấy CungTử Phong hành xử thế này đâu? Hồi lâu sau, ông vân vê chòm ria mép, lòng rất đỗi vui mừng và thanh thản.
Chỉ chốc lát, cơm nước đã được dọn lên, ba thầy trò dùng bữa trong phủ. Lúc ăn cơm, Phó Vị tán gẫu với hai sư huynh đệ một thôi một hồi, nhưng dẫu sao ông đã có tuổi, chẳng bao lâu sau Phó Vị đã đi nghỉ trước.
Chu Tử Thư và Cung Tuấn cùng tản bộ trong hoa viên Phó phủ, dần dần,
Chu Tử Thư phát hiện: "Huynh đang dẫn ta ra hồ đấy ư?"
Cung Tuấn: "Đúng ra mà nói, tiểu sư đệ à, là ngôi đình trên hồ kia."
Hai người nhanh chóng băng qua lớp lớp rừng trúc bóng hoa, tới trước ngôi đình. Năm năm trước, Chu Tử Thư lần theo tiếng đàn đặt chân tới nơi đây, gặp một chàng "Phủ Cầm đồng tử". Ngày ấy từ biệt vội vã, cả hai đâu có ngờ đến kết quả ngày hôm nay.
Chu Tử Thư tức cảnh sinh tình, lòng bùi ngùi xúc động.
Cung Tuấn bất ngờ ôm choàng lấy cậu từ phía sau, làm Chu Tử Thư sững người. Cậu đang định ngọ nguậy, đôi môi man mát của Cung Tuấn đã sà xuống, hôn lên chỗ cổ hở ra.
"Yên nào."
Chu Tử Thư nín thở: "Sư huynh..." "Sao không gọi ta là Phủ Cầm đồng tử nữa?" Chu Tử Thư im re.
Cung Tuấn cười rất trầm: "Ba ngày rồi mà em vẫn còn dỗi ta ư?"
Chu Tử Thư: "Ta nào dám giận dỗi sư huynh."
"Thế là đang dỗi đấy còn gì. Đã ba ngày trôi qua, đời ta còn được mấy lần ba ngày cho em giận dỗi đâu?"
Chu Tử Thư thoáng giật mình. Trong thâm tâm, cậu nghĩ hẳn Cung Tuấn đang ám chỉ chuyện tuổi tác. Thật ra chàng nói đúng lắm, Cung Tuấn lớn hơn Chu Tử Thư những chín tuổi. Trước đây Chu Tử Thư không hề bận tâm về vấn đề này, song giờ đây, nghe giọng điệu mất mát của chàng, Chu Tử Thư bỗng tự hỏi có khi nào chàng hơi tự ti không.
Chu Tử Thư động lòng, lập tức cầm tay Cung Tuấn: "Sao sư huynh lại nghĩ thế? Ta chẳng có ý đó bao giờ đâu."
Cung Tuấn hỏi rất thương tâm: "Có thật là em không nghĩ thế không?"
Chu Tử Thư vội vàng đáp: "Thật mà!"
"Thế thì em không được giận ta nữa đâu nhé?"
"Vâng."
Cung Tuấn thơm cậu mấy cái, thủ thỉ: "Mấy hôm nữa ta phải đi U Châu, tiếp tục công việc ở ty Ngân Dẫn. Để Tần Tự xoay xở quản lí một mình, chung quy vẫn không ổn. Chao ôi, tiểu sư đệ này, em nói xem, tháng năm cuộc đời ngắn ngủi vô cùng, thế mà chúng ta bận bịu cơ man là việc, gần nhau thì ít xa nhau thì nhiều. Chuyến này đi U Châu, có ngắn cũng phải cả tháng trời. Cả tháng trời đó, thế là mười lần ba ngày rồi còn đâu? Ta lấy đâu ra nhiều lần ba ngày như thế chứ!"
Chu Tử Thư bỗng ngộ ra: "Khoan, vừa nãy huynh nói câu kia là vì chuyện huynh phải đi U Châu à?"
Cung Tuấn cười đáp: "Đúng rồi, không thì tiểu sư đệ tưởng sao?"
Chu Tử Thư: "..."
Cả một cái cùi chỏ huých ra đằng sau không buồn do dự, trúng ngay bụng Cung Tuấn. CungTử Phong hự một tiếng, vội buông tay ra.
Chu Tử Thư sải bước về phía trước.
Cung Tuấn thều thào gọi theo: "Đau, đau quá, hình như thụi phải chỗ nào rồi."
Chu Tử Thư không buồn ngoảnh lại, mải miết đi thẳng.
Thấy bóng cậu đã xa, Cung Tuấn mới đứng thẳng người, than thở: "Chỉ đùa thôi mà! Coi kìa, chẳng thèm xót mình luôn."
Mấy hôm sau, Cung Tuấn rời thành Thịnh Kinh, khởi hành tới U Châu.
Hạ tuần tháng mười một, có ba tấu chương từ ba miền gửi về Thịnh Kinh. Tấu chương bình thường đều phải qua tay Hữu thừa Từ Bí rồi mới được dâng lên án ngự của hoàng đế. Tuy nhiên, những tấu chương này là ngoại lệ. Cả ba bản tấu đều được chuyển thẳng tới điện Thùy Củng, trình lên hoàng đế giống như thư nhà.
Triệu Phụ giở tấu chương, phê ngay một câu: "Rặt những điều sáo rỗng, tối nghĩa!" Nói xong ông ta quẳng đống tấu chương lên bàn. Phải mấy canh giờ sau, Triệu Phụ mới mở ra xem lại.
||
------oOo------
Chương 132
Nguồn: EbookTruyen.Net
Mong chàng vơi nỗi ưu phiền
Ba hoàng tử xa kinh thành nửa năm, lúc ra đi họ cứ như thường dân vậy, chẳng có công lao gì. Tới địa phương được giao phụ trách, các hoàng tử đương nhiên sẽ ra sức cống hiến vì nước nhà với mong muốn lập thành tích.
Điểm đến của Nhị hoàng tử Triệu Thượng là Cô Tô. Thoạt tiên, anh ta định thông qua Ngân khế trang bộ Binh để tham gia vào việc của ty Ngân Dẫn. Ý đồ của Triệu Thượng không hề xấu, anh ta muốn góp sức để nhiệm vụ của ty Ngân Dẫn ở Cô Tô hoàn thành suôn sẻ. Song việc này chẳng đơn giản như anh ta tưởng. Không biết vì lí do gì, Triệu Thượng đã thôi nhúng tay vào ty Ngân Dẫn; quyển tấu chương Triệu Thượng dâng lên hôm nay báo cáo việc anh ta dẫn quân tiêu diệt một băng thủy phỉ.
Tứ hoàng tử Triệu Kính được phái tới Ký Châu. Vùng hạ du sông Hoàng Hà cắt ngang qua Ký Châu, hàng năm đều xảy ra lũ lụt trên diện rộng, cả vùng Ký Châu như biển khơi bạt ngàn, dân chúng mất nhà cửa, lưu lạc khắp nơi. Triệu Kính bèn tập hợp các thợ khéo của bộ Công, củng cố lại đê điều vùng Ký Châu.
Trong khi đó, Ngũ hoàng tử Triệu Cơ được điều tới Lương Châu. Phủ Cô Tô tuy trù phú nhưng may thay, vẫn có thủy phỉ thỉnh thoảng gây rối, có thể dựa vào đó mà thổi phồng lên. Vùng Ký Châu là nơi Hoàng Hà cắt qua, chỉ cần gia cố đê đập là có công lao để mà đệ trình. Song, miền Lương Châu thì khác hẳn.
Lương Châu nằm ở khu vực Trung Nguyên, dân cư giàu có, đời sống thái bình, từ xưa đến nay không gặp thiên tai nhân họa, cũng chưa thấy thảm họa nào phát sinh. Ngũ hoàng tử Triệu Cơ vò đầu bứt tai, may mà có quân sư tham mưu cho rằng nên khởi xướng việc chỉnh đốn tác phong quan lại. Tuy hiệu quả không rõ rệt, nhưng thắng ở chỗ ý nghĩa sâu sắc, đòi hỏi rất nhiều tâm sức, tính ra phải nỗ lực hơn cả Triệu Thượng và Triệu Kính.
Thấy những ngày cuối năm đang tới gần, ba vị hoàng tử đều muốn về kinh mừng năm mới, thế nên tất cả cùng viết tấu chương gửi về kinh đô.
Vì tấu chương của các hoàng tử không phải thông qua điện Cần Chính mà được trình thẳng lên án ngự, nên chẳng có ai "tóm tắt ý chính" hộ cho ba người. Triệu Phụ vừa mở tấu chương ra, đã gặp ngay câu "Nhi thần ở Cô Tô mong nhớ, ngày đêm không yên giấc, cứ nghĩ tới phụ hoàng là đứt từng khúc ruột..."
Rặt một lũ ăn không nên đọi, nói không nên lời.
Triệu Phụ bịt mũi, ráng đọc cho hết ba bản tấu. Sau khi đọc xong, ông cảm thấy khá hứng thú với việc mà Ngũ hoàng tử Triệu Cơ đã làm được. Ông cầm quyển tấu thứ ba, ngắm nghía hồi lâu, bèn cho gọi Thượng thư bộ Lại Thẩm Vận vào hỏi: "Các con của trẫm muốn về Thịnh Kinh mừng tất niên,
Thẩm khanh thấy sao?"
Thẩm Vận cung kính thưa: "Cứ mỗi dịp đầu năm mới, quan viên địa phương từ ngũ phẩm trở lên đều phải đến bộ Lại báo cáo công tác. Ba vị hoàng tử hồi kinh là lẽ đương nhiên, song thân phận của các hoàng tử cao quý, không cần thiết phải tuân theo quy củ của bộ Lại, về kinh trước dịp năm mới cũng không đáng ngại. Thần thấy, việc này vô cùng hợp lí."
Triệu Phụ: "Vậy thì cho phép chúng về."
Tin ba hoàng tử sắp hồi kinh được truyền khắp Thịnh Kinh ngay trong đêm ấy.
Quan sai đem thánh chỉ tới Cô Tô, Ký Châu, Lương Châu, các quan viên Thịnh Kinh ai ai cũng có suy đoán riêng.
Chu Tử Thư cũng đánh hơi được sự bất thường trong ý chỉ của Triệu Phụ. Việc các hoàng tử hồi kinh không hề nhỏ, chỉ sợ chuyến này họ về, sóng gió ngút trời sẽ bao trùm cả kinh đô.
Nhưng chẳng ai ngờ, hoàng đế hạ chỉ chưa đến hai ngày, thành Thịnh Kinh đã phát sinh một chuyện hết sức ngộ nghĩnh.
Hữu Thị lang bộ Công kiêm Thiếu khanh Đại lý Tự Tô Ôn Duẫn – Tô đại nhân, bị người nhà ép cưới!
Tô đại nhân năm nay hai mươi sáu tuổi, quả thật là hơi lớn tuổi rồi mà vẫn chưa vợ con gì. Nhà họ Tô là danh gia vọng tộc vùng Bắc Trực Lệ, trong số những người làm quan thuộc thế hệ này, chỉ có mình Tô Ôn Duẫn có địa vị cao nhất, thế nên chẳng ai dám hối thúc anh ta. Vả lại, Tô Ôn Duẫn quanh năm ở kinh thành, nhà họ Tô cũng chẳng thể tới Thịnh Kinh mà thúc ép được.
Dầu vậy, sang năm Tô Ôn Duẫn hai mươi bảy tuổi rồi, Tô gia không thể nào ngồi yên được nữa.
Tô lão phu nhân già cả chẳng quản ngày đêm đi từ Bắc Trực Lệ lên kinh thành, cầm theo cả gia quy lẫn pháp tiên, bắt Tô Ôn Duẫn quỳ trong từ đường. Đọc thuộc lòng gia quy trước linh vị tổ tiên và bài vị phụ mẫu. Bà cụ buộc Tô Ôn Duẫn phải chừa cái thói buông thả đi mà liệu đường thành gia lập thất.
Thường thường chỉ các quan có tội phải làm bia ngắm sống để Thiếu khanh Đại lý Tự hành cho ra bã, chứ đời thuở nào có chuyện người khác răn dạy anh ta? Tin đồn sốt dẻo này truyền khắp hang cùng ngõ hẻm Thịnh Kinh trong chớp mắt, thành chuyện cười trong gia đình của vô số quan viên.
"Trong ba tội bất hiếu, tội không con là nặng nề nhất. Cháu có thấy mình phụ lòng mẹ cha trên trời không?"
Tô Ôn Duẫn quỳ bầm hai đầu gối, nhưng anh ta không dám hỗn với bà nội. Thương thay cho một đại quan tam phẩm, bị bắt phạt quỳ ở nhà mà chẳng cự cãi được chi.
Vụ việc xôn xao dư luận này chẳng mấy chốc đã đến tai Triệu Phụ.
Triệu Phụ gọi Tô Ôn Duẫn vào cung, tò mò hỏi: "Thật đấy à?"
Trông biểu cảm của Tô Ôn Duẫn lúc này mới hài hước làm sao, hai gối sưng vù vì quỳ lâu, còn giả thế nào được?
Điện Thùy Củng vang lừng tiếng cười khoái chí của Triệu Phụ.
Mấy ngày sau, Hữu Thị lang bộ Công nhận thánh chỉ, đi tuần tra quan đạo Thứ Châu sau khi đã được thi công hoàn thiện.
Ý chỉ được ban hành, các quan mỗi người một cảm xúc.
Về phần mình, Chu Tử Thư thấy khá thú vị: "Chuyện ép cưới của nhà họ Tô dễ là thật lắm. Bản thân Tô Ôn Duẫn cũng không ngờ Tô lão phu nhân sẽ lên Thịnh Kinh. Chỉ có điều, bị ép phải quỳ trước từ đường một ngày đêm... có thật là Tô Ôn Duẫn đã làm thế không?"
Chu Tử Thư thầm than thở: "Dù thế nào đi chăng nữa, nhờ chuyện này, anh ta đã có cớ để rời Thịnh Kinh, có khi phải đến lập xuân năm sau mới về, thế là tránh được vụ ba hoàng tử."
Tô Ôn Duẫn rời kinh thành một cách hợp tình hợp lí, song những người khác không may mắn như anh ta.
Chu Tử Thư không hề biết, một ngày trước khi Tô Ôn Duẫn rời kinh, có một bản tấu chương được gửi từ U Châu đến Thịnh Kinh, trình lên án ngự của Triệu Phụ. Thượng thư Tả bộc xạ Cung Tuấn dâng thư tâu rằng công việc của ty Ngân Dẫn hết sức gian khổ, khó mà hoàn thành trong một sớm một chiều, cũng chẳng thể thành công chỉ dựa vào sức một người. Ngụ ý rằng hoàng đế hãy cho thêm người phụ giúp, điều Chu Tử Thư đến U Châu quản lí ty Ngân Dẫn cùng với chàng.
Triệu Phụ đã biết rõ quan hệ giữa Cung Tuấn với Chu Tử Thư, giờ Cung Tuấn gửi tấu chương với nội dung này, còn viết một câu ở cuối ngầm bày tỏ nỗi nhớ Chu Tử Thư da diết. Chuyện riêng tư thầm kín thế này chỉ có sủng thần mới dám tâu với hoàng đế thôi, người khác đọc không thể hiểu, nhưng Triệu Phụ thì biết thừa ý CungTử Phong.
Triệu Phụ trải quyển tấu văn chương lai láng của Cung Tuấn ra, phê một câu hờ hững.
"Trẫm biết rồi."
Ngay hôm đó, Triệu Phụ phái Dư Triều Sinh và Từ Lệnh Hậu đến U Châu, riêng Chu Tử Thư thì không được gọi.
Mấy hôm sau, Chu Tử Thư biết chuyện Cung Tuấn đòi người với hoàng đế, liền hiểu ngay ẩn ý của chàng. Cung Tuấn hết lòng hết dạ như thế khiến Chu Tử Thư hạnh phúc xiết bao, cậu bèn viết một phong thư gửi đến U Châu. Lời ít ý nhiều, thư viết một áng thơ của thi nhân triều trước.
"Mong chàng vơi nỗi ưu phiền
Mong cho mơ chín bên ngoài song tây.
Mùa mơ vàng mưa giăng lất phất,
Hẹn tương phùng cùng hưởng yên vui."
[2] Ở vùng Giang Nam, mơ chín vàng vào lúc cuối xuân đầu hạ, cũng là lúc có mưa phùn. Đại ý là nhớ nhung hẹn sớm gặp nhau.
Gửi thư đi U Châu xong, Chu Tử Thư tập trung tinh thần, suy ngẫm dụng ý của Triệu Phụ.
Chu Tử Thư vốn là Hữu Phó ngự sử ty Ngân Dẫn, Cung Tuấn cần người phụ việc, hoàng đế phái cậu đi là hoàn toàn hợp lí. Thế nhưng ông ta thà phái Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu cũng không để cho Chu Tử Thư đi.
Sang tháng Chạp, thời tiết ngày càng lạnh giá.
Nhìn mây mù giăng kín bầu trời thành Thịnh Kinh, Chu Tử Thư nhíu đôi mày.
Chuyện gió đổi mây dời trong chốn quan trường, chưa bao giờ can hệ tới dân chúng.
Tất niên sắp đến, Diêu đại nương và Đường Hoàng sắm rất nhiều đồ Tết, lại dán câu đối trên khắp các cửa trong nhà. Mười sáu tháng chạp, Diêu Tam về tới Thịnh Kinh, anh ta báo cho Chu Tử Thư một tin mừng ngay lập tức: "Tiểu đông gia, quả nhiên thứ cậu muốn tìm có ở nước Liêu!"
Chu Tử Thư kinh ngạc: "Tìm được thật rồi ư?"
Diêu Tam: "Chẳng nhẽ tôi lại dối cậu sao? Ban đầu, cậu nói thứ cậu muốn tìm có rất nhiều ở miền Bắc, không cần phải sang nước Liêu, ở quanh vùng Cảnh Châu cũng có. Thế mà tôi tìm mất hơn một năm vẫn không phát hiện ra thứ ấy, lúc thì quá ít, lúc thì không sử dụng được. Nhưng tiểu nhân vẫn chưa hiểu cậu cần thứ đó để làm gì? Tôi hỏi loanh quanh dân bản xứ, thì họ bảo thứ này không dùng để làm chất đốt, cũng không dùng cho việc luyện sắt hay những mục đích tương tự. Chẳng nhẽ rèn sắt phải tốn nhiều như cậu nói thật sao?"
Chu Tử Thư: "Nó được gọi là gì?"
Diêu Tam đã quá quen với việc Chu Tử Thư tìm được đủ thứ trong sách cổ nhưng không biết tên, rồi lại sai anh đi lùng kiếm. Anh ta đáp: "Dân bản xứ gọi nó là thạch mặc3. Vật đó đen thùi lùi, rất cứng, tôi chẳng thấy có tác dụng gì sất."
[3] Tức than chì (graphite). Dùng làm điện cực, ruột bút chì, luyện thép v... v...
Chu Tử Thư thở dài: "Thì ra tên nó là thạch mặc. Thạch mặc..." Cậu cười,
"Hóa ra tên nó là thế, cũng hay đấy. Anh không thể biết được lợi ích của nó đâu, thật ra đến giờ tôi cũng chưa rõ. Có thể đến khi số tôi tận, lực tôi kiệt, nó vẫn chỉ là thứ thạch mặc dùng để luyện sắt, cũng có thể nó sẽ sáng ngang với vàng, khiến vô vàn người thèm khát." Diêu Tam kinh ngạc: "Kì diệu đến vậy ư?"
Chu Tử Thư: "Tôi chợt nhớ ra rằng, thuở chân ướt chân ráo bước vào quan trường, có một chức quan tôi vẫn mong được làm nhất."
Diêu Tam: "Tiểu đông gia, cậu muốn làm chức gì? Phải chăng là làm quan lớn nhất phẩm như Cungđại nhân?"
Chu Tử Thư dần bình tĩnh lại, cậu bật cười: "Giống CungTử Phong ư? Thượng thư Tả bộc xạ ư? Hay là giống Hữu tướng CungThuyên – Cungtướng công, làm Tả tướng, Hữu tướng, quyền nghiêng thiên hạ? Thật ra tôi chẳng bao giờ ước ao được làm quan lớn nhất phẩm. Liệu có ai biết, hôm vinh danh bảng vàng, khi tôi cưỡi trên con tuấn mã đi ra từ cổng Tuyên Võ, người tôi trông thấy lại là Viên Mục – Viên đại nhân?"
Diêu Tam: "Viên đại nhân là ai thế ạ?"
Chu Tử Thư nghiêm túc nói: "Thượng thư bộ Công, Viên Mục – Viên đại nhân!"
Diêu Tam ngỡ ngàng: "Chức quan tiểu đông gia muốn đảm nhiệm nhất là Thượng thư bộ Công sao?"
"Ấy là tôi từng nghĩ thế thôi. Đã vào triều đình thì anh không còn quyền quyết định việc mình có thể làm, hay mai sau mình sẽ ra sao. Thế sự thuận theo ý trời chứ không thuận theo ý người ư? Phải nói là thuận theo ý vua mới đúng!"
Trong lúc Chu Tử Thư hồi tưởng quá khứ, bùi ngùi xúc động, có năm cỗ xe ngựa tiến vào cổng Tây kinh thành.
Ngũ hoàng tử Triệu Cơ là người đầu tiên về kinh.
Ngày hăm bốn tháng Chạp, Nhị hoàng tử Triệu Thượng từ Cô Tô ngàn dặm xa xôi cũng trở lại kinh thành.
Hôm đó, Chu Tử Thư cáo ốm ở nhà, không tiếp khách.
Vừa quay lại Thịnh Kinh, cả ba hoàng tử đều thấp tha thấp thỏm, lo sợ bất an, không dám vọng động. Song, hoàng đế quá chuyên tâm cầu thần khấn phật, khi gặp các con cũng chỉ hỏi mấy câu như "nửa năm vừa qua ăn có no, mặc có ấm không", rồi phớt lờ họ.
Tứ hoàng tử Triệu Kính đến viếng thăm Kinh triệu doãn Lưu Toàn Đức trước tiên, hai người là bạn thân đã nhiều năm nay, gặp gỡ cũng không ngại gì. Ấy là Triệu Kính thử nước để xem hoàng đế phản ứng ra sao. Vậy mà Triệu Phụ vẫn thờ ơ, thế là anh ta yên trí, bắt đầu thăm hỏi dần dần các quan khác. Hai vị hoàng tử còn lại thấy thế cũng hành động ngay, không nề hà gì nữa.
Đến ngày hăm chín tháng Chạp, một đêm trước giao thừa, hoàng đế mở tiệc ở Yến Xuân Các, chung vui với quần thần.
Đêm giao thừa hằng năm là thời điểm tổ chức gia yến trong hoàng cung, buổi yến đó chỉ có hoàng thân quốc thích mới được tham dự. Vì thế nên đêm trước giao thừa là lúc hoàng đế bày tiệc cho các quan lại cùng tham gia.
Buổi tiệc long trọng như thế, Chu Tử Thư kiểu gì cũng không trốn được.
Đêm đến, có đến hàng trăm cỗ xe ngựa nối đuôi nhau thành hàng dài dằng dặc ngoài cổng cung. Các quan mặc quan bào, xuống xe ngựa, đi bộ vào cung. Phàm các quan tứ phẩm trở lên, dù đang giữ chức gì thì cũng đều được dự tiệc ở Yến Xuân Các. Vì thế nên trên đường vào tiệc, Chu Tử Thư chỉ gặp một vài người quen, còn đâu phần lớn là những người xa lạ.
Cung nga thắp nến trong hoàng cung, dưới ánh đèn rạng rỡ, ba vị hoàng tử được các quan tiền hô hậu ủng, tiến vào Yến Xuân Các.
||
Manh: Hơi bất ngờ là cha mẹ Tô đại nhân mất rồi.
Ban đầu tui đã ship ngầm Tô đại nhân với Lý tướng quân, mà sau khi tác giả viết Gia Luật Xá Ca crush một người có khuôn mặt diễm lệ thì tôi quay sang ship cặp đôi nặng nghiệp nhiều tâm cơ này xD
Chú thích
Gốc: 狗屁不通 – Cẩu thí bất thông. Ý chỉ văn chương bế tắc, diễn đạt không lưu loát. Vì văn của các hoàng tử "thúi" quá nên Triệu Phụ mới "bịt mũi" cố đọc. Ngoài ra, người ta cho rằng vốn câu gốc phải là "cẩu bì bất thông" vì chó không đổ mồ hôi qua da được.
Gốc: 愿君少烦忧, 西窗青梅熟. 嗅把黄时雨, 安乐喜相逢.
Hán Việt: "Nguyện quân thiểu phiền ưu, tây song thanh mai thục. Khứu bả hoàng thì vũ, an lạc hỉ tương phùng."
Vốn đoạn này tác giả viết là "bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt", nhưng tớ không bịa ra được thơ năm chữ nên lược bớt đi. Đây có vẻ cũng không phải thơ của thi nhân thời xưa nào đâu vì search không ra 😊 Chắc là thi nhân Mạc Thần Hoan đây mà.
------oOo------
Chương 133
Nguồn: EbookTruyen.Net
Hoàng đế nổi giận
Trời tối dần, bóng hoa huyền ảo trong màn đêm, ánh Tuấng rực rỡ đầy mê hoặc.
Yến Xuân Các tọa lạc ở phía Tây ngự hoa viên, ẩn trong rừng cây xanh bát ngát. Cửa sổ là cửa thủy tinh được chế tạo riêng bởi Bách Bảo Các. Cả cung điện sáng rực đèn đuốc, ánh sáng rọi vào các ô cửa trong veo, càng lung linh gấp bội. Các đại thần mặc quan phục, lần lượt vào chỗ. Bên trái hoàng đế là Nhị hoàng tử Triệu Thượng và Tứ hoàng tử Triệu Kính, bên phải ông ta là Ngũ hoàng tử Triệu Cơ.
Theo thứ tự phẩm cấp, các quan chia nhau ngồi xuống.
Chỗ của Chu Tử Thư ở khoảng giữa, bên trái cậu là Tế tửu Quốc Tử Giám, bên phải là một học sĩ Hàn Lâm.
Buổi tiệc trong Yến Xuân Các tuy không phải gia yến, nhưng cũng không mấy khác biệt.
Sau khi an tọa, hoàng đế hỏi han các hoàng tử mấy câu, rồi trò chuyện với các tướng công. Họ nói chuyện rất kín đáo, riêng tư, nên từ xa chẳng thể nghe thấy. Đây cũng có thể coi là sự sủng tín của hoàng đế.
Chu Tử Thư "mới khỏi ốm", không thể uống rượu. Cậu vừa nhấp trà vừa trộm ngó lên chỗ hoàng đế.
Trông thần sắc Triệu Phụ hơi xanh xao, ông không uống rượu, chốc chốc lại hớp một hớp canh thuốc màu nâu. Khi thì ông ta nói chuyện với Tả tướng Kỷ Ông Tập, khi thì bàn luận với Hữu tướng CungThuyên. Ba vị hoàng tử nóng lòng muốn tham gia vào câu chuyện nhưng chẳng tìm được cơ hội chen ngang. Mặt ai nấy đều đỏ gay, hoàn toàn bất lực.
Nhưng vẫn còn có một người nữa đứng sau lưng hoàng đế. Người đó không phải là Đại thái giám Quý Phúc, mà là một vị hòa thượng với gương mặt tròn trịa, mặc tăng bào màu trắng.
Ông ta nhẹ nhàng lần chuỗi tràng hạt trên tay, nét cười thanh thản như tắm trong gió xuân. Bỗng dưng, ông ngẩng đầu liếc về phía Chu Tử Thư. Chu Tử Thư căng thẳng, vội lia mắt đi.
Thiện Thính nở nụ cười rất nhẹ, một lát sau, ông ta cúi mình nói gì đó bên tai Triệu Phụ, Triệu Phụ cũng mỉm cười.
Đến giữa buổi dạ yến, một trong hoàng tử không thể nào kiên nhẫn thêm.
Tứ hoàng tử Triệu Kính đứng dậy, tâu: "Lúc đến Ký Châu, nhi thần đã may mắn bắt gặp một tảng thiên thạch. Khối đá này hình thù rất độc đáo, nhi thần thấy nó thì mừng rỡ khôn xiết, chỉ nóng lòng muốn dâng lên phụ hoàng."
Triệu Phụ ra chiều ngạc nhiên: "Thiên thạch ư? Mang lên đây trẫm xem."
Thuộc hạ của Triệu Kính lập tức chuyển một tảng đá cao chừng nửa thân người vào trong điện. Các đại thần nhìn thấy tảng đá đó đều trầm trồ ngạc nhiên.
"Không ngờ tảng thiên thạch này lại giống hình ngọc như ý đến vậy, quả là điềm phú quý cát tường!"
Triệu Phụ cũng rất thích, ông ta cười: "Con có lòng lắm." Triệu Kính mở cờ trong bụng.
Tứ hoàng tử đã chơi trội như thế, hai hoàng tử kia biết vượt thế nào đây?
Triệu Thượng và Triệu Cơ cùng dâng lễ vật mình tìm được, những mong khiến hoàng đế vui vẻ. Tiếc thay, của báu có ở khắp nơi, mà lễ vật có ý nghĩa thì hết sức khó tìm. Những món quà họ dâng lên đều vô cùng quý giá, nhưng chẳng thế sánh với khối thiên thạch hình như ý mang điềm cát tường của Triệu Kính.
Giờ Tuất, dạ yến kết thúc, quần thần rời cung.
Khi Chu Tử Thư rời khỏi Yến Xuân Các có ngoái nhìn một lần, cậu thấy hòa thượng Thiện Thính theo sát sau lưng Triệu Phụ, bước đi trong thầm lặng.
Hôm sau chính là ngày cuối cùng của năm.
Quan viên đã nghỉ Tết từ sớm, Chu Tử Thư giúp đỡ Diêu đại nương và Phụng Bút trang hoàng nhà cửa, cả nhà hồ hởi gói sủi cảo. Đêm giao thừa, đang lúc mọi người quây quần ăn tất niên thì có quan sai gõ cổng phủ Thám hoa. Diêu Tam ra mở cổng, lúc quay về anh ta cầm theo một phong thư, nói là gửi từ U Châu đến.
Chu Tử Thư bóc thư ngay tức thì, trong thư chỉ chép một bài thơ ngắn tẹo.
Bài này cũng là sáng tác của một thi nhân triều trước, nhưng đã được sửa sang lại đôi chút. Thơ rằng: "Lòng dẫu hướng về nhau muôn thuở, vẫn khôn nguôi nỗi nhớ sớm chiều."
Sửa chán chưa! Thế mà Chu Tử Thư đọc xong tim cứ đập rộn ràng. Cậu mang lá thư vào thư phòng, cất thật cẩn thận vào tráp đựng thư. Ra cửa, Diêu Tam đang chuẩn bị đốt pháo. Thấy Chu Tử Thư, anh ta hỏi: "Tiểu đông gia có muốn tự châm pháo không?"
Chu Tử Thư xắn tay áo, hăng hái bước tới: "Cứ để tôi." Quả pháo bắn vút lên trời, một năm mới đã đến.
Không ai hay biết, cùng lúc ấy, hoàng cung Đại Tống im lìm như cõi chết.
Đêm giao thừa, bình dân bách tính ai ai cũng muốn sum họp bên mâm cơm đoàn viên; những người thuộc hoàng tộc cũng không ngoại lệ. Lục Cunggia Triệu Ngao vào cung từ chiều, đây là năm đầu tiên mà buổi gia yến vắng mặt Thái hậu, ông phải vào bầu bạn với hoàng đế.
Không phải ai trong hoàng tộc cũng đến dự tiệc. Đêm nay, những người đến dự gia yến của hoàng tộc chỉ có Triệu Ngao, Cungphi của ông, cùng với thế tử Cảnh CungTriệu Quỳnh. Ngoài ra còn có ba hoàng tử và mẫu phi của họ.
Thành phần dự tiệc chẳng đông đúc cho lắm, loanh quanh chỉ độ mươi người.
Lúc bắt đầu, buổi gia yến tương đối đầm ấm chan hòa. Tầm nửa canh giờ sau, Nhị hoàng tử Triệu Thượng muốn lấy lòng hoàng đế, bèn nói mấy câu để mời rượu phụ hoàng. Chẳng hiểu sao, Triệu Phụ bỗng đùng đùng nổi giận, đập bàn mắng: "Hoàng tổ mẫu mất chưa đầy năm mà bay đã quên người rồi ư? Con trai ngoan của trẫm hiếu thảo thế đấy hả?" Triệu Thượng trợn tròn mắt, khiếp hãi tột độ.
Tất cả những người khác đều hoảng sợ, thậm chí không ai nhớ nổi Triệu Thượng vừa nói gì để Triệu Phụ sôi gan lên như thế.
Trân phi – mẹ của Triệu Thượng vội vàng bước ra xin tội cho con trai. Bà cứ ngỡ đây chỉ là chuyện nhỏ, chẳng qua Triệu Phụ nhớ Thái hậu quá mà thôi. Dè đâu, bà vừa xin dứt câu, Triệu Phụ đã tức tối đến mức bật cười. Ánh nhìn lạnh lẽo của nhà vua xoáy vào hai mẹ con bà, ông ta nói: "Các người mong trẫm chết quách đi từ lâu rồi phải không?"
Triệu Thượng ngã ngồi xuống đất, Trân phi chết trân, bấn loạn đến mức không biết xử trí ra sao nữa.
Buổi gia yến rốt cuộc đã khép lại như vậy.
Trân phi bị cấm túc tại cung để tự kiểm điểm, Nhị hoàng tử Triệu Thượng cũng bị hoàng đế giam vào tiểu phật đường trong hoàng cung, chừng nào tụng kinh đủ chín mươi chín lần, sao chép một trăm lần cuốn Quan Âm Tâm Kinh mới được thả.
Lúc ra khỏi hoàng cung, Triệu Ngao vẫn chưa hết bàng hoàng. Ông hỏi con trai: "Rốt cuộc là thế nào? Ban đầu đang ăn uống vui vẻ cơ mà, sao lại thành nói về Thái hậu?"
Triệu Quỳnh làm sao biết được?
Triệu Ngao nói: "Ta phải đến gặp hoàng huynh mới được. Lúc mẫu hậu qua đời, huynh ấy đau lòng khôn xiết. Hôm nay Triệu Thượng tội nặng lắm, mong rằng hoàng huynh không vì tức giận mà hại tới long thể, thật chẳng đáng."
Cảnh Cungphi cản ông: "Ông đừng có mà đi. Đó là chuyện của hoàng gia. Dù ông có là Lục Cunggia đi chăng nữa cũng đâu thể can thiệp vào chuyện gia đình đức vua?"
Triệu Ngao đắn đo một hồi, rồi cũng rời cung luôn theo lời khuyên của Cungphi.
Hai ngày sau, truyện Nhị hoàng tử Triệu Thượng bị giam lỏng trong cung đã đồn ra. Chu Tử Thư không phải quan to nên cậu biết tin chậm hơn người khác. Song cùng lúc ấy, cậu cũng nghe được một tin đồn nữa: Triệu Phụ quá tức giận nên đã lâm bệnh rồi!
Chu Tử Thư hẹn gặp Triệu Quỳnh ở lầu Thiên Lý. Triệu Quỳnh tóm tắt đầu đuôi buổi gia yến đêm đó, anh ta nói: "Ta cũng không hiểu rốt cuộc là thế nào. Một lúc trước Thánh thượng còn đang vui vẻ nói chuyện với phụ Cungta, chẳng hiểu sao Nhị hoàng tử nói vài câu, ngài đã nổi cơn thịnh nộ." Triệu Quỳnh cười uể oải: "Thánh thượng bị ốm thật, sáng sớm hôm nay phụ Cungta đã phải tiến cung hầu bệnh."
Sau khi Thái hậu băng, Triệu Phụ ốm đau liên miên, dường như tuổi già cuối cùng cũng ập tới.
Mỗi lần đổ bệnh, bệnh tình của Triệu Phụ đều cực kì nghiêm trọng, khó mà chuyển nguy thành an.
Chu Tử Thư cáo biệt Triệu Quỳnh về nhà. Chạng vạng hôm đó, có một vị khách không mời đến thăm nhà cậu. Phụng Bút đồng tử dẫn người đó vào phòng khách, Chu Tử Thư thấy người đó thì vái chào: "Hạ quan Chu Tử Thư bái kiến Giám chính đại nhân."
Vị khách này chính là Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân.
Chỉ mấy tháng không gặp mà người Lý Tiêu Nhân đã quắt lại như bộ xương khô. Hai má y trũng xuống, đôi mắt thẫn thờ, môi tím tái, trông như vừa thoát một trận ốm thập tử nhất sinh. Chu Tử Thư nhớ đến buổi tiệc ở Yến Xuân Các đêm đó, cậu thấy hòa thượng Thiện Thính đứng hầu bên Triệu Phụ, song không thấy Lý Tiêu Nhân. Cậu bèn thử hỏi thăm: "Lý đại nhân bị ốm à?"
Quả nhiên đúng như Chu Tử Thư liệu trước, Lý Tiêu Nhân đáp: "Tháng trước ta bị phong hàn, cách đây mấy hôm mới xuống nổi giường."
Chu Tử Thư: "Đại nhân phải giữ gìn sức khỏe đấy."
Lý Tiêu Nhân nhìn Chu Tử Thư, ngập ngà ngập ngừng. Do dự hồi lâu, y mới nặn ra được một câu: "Cungđại nhân vẫn ở U Châu nhỉ?"
Chu Tử Thư hiểu rồi: Hóa ra là đến tìm CungTử Phong.
"Sư huynh vẫn đang ở U Châu chưa về. Ty Ngân Dẫn nhiều việc lắm, e phải mấy tháng nữa mới hồi kinh được."
Lý Tiêu Nhân trông đến là khổ sở, y ho sù sụ: "Chao ôi, biết tính sao bây giờ?"
Chu Tử Thư bình thản nói với y: "Nếu đại nhân có việc cần thì cứ biên thư đến U Châu. Nhưng chưa chắc sư huynh đã về được." Ngụ ý rằng cậu không có ý định nhúng tay vào chuyện này, cũng chẳng muốn biết ý đồ viếng thăm của Lý Tiêu Nhân.
Lý Tiêu Nhân đâu lường trước rằng Chu Tử Thư sẽ thờ ơ như vậy, mặt y
sượng ngắt, cuối cùng y chẳng kìm nổi, nói toạc ra: "Đường đại nhân không biết đấy thôi, tên Thiện Thính quả nhiên là có vấn đề! Từ khi y xuất hiện, bệ hạ không lúc nào khỏe mạnh! Chẳng dám giấu giếm, tuy ta mới ốm nên gần đây không vào cung, nhưng trong cung vẫn có hai đồ đệ của ta hầu hạ. Ngươi có biết hôm qua đồ đệ ta trông thấy gì không? Đồ đệ của ta bắt gặp Thiện Thính bí mật liên lạc với Nhị hoàng tử bị nhốt trong phật đường, cử chỉ hai bên cực kì thân thiết!"
Quả là một tin tức trời giáng với Chu Tử Thư, nhưng ngoài mặt cậu chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên: "Có chuyện đó cơ à?"
Lý Tiêu Nhân: "Giả thế nào được!"
"Đại nhân đã tâu việc này lên thánh thượng chưa?"
"Cái này thì..."
Chu Tử Thư cuống lên: "Chuyện này... ta cũng không rõ, chẳng biết phải xử lí thế nào. Sao sư huynh vẫn chưa về kinh cơ chứ! Chi bằng, xin Lý đại nhân hãy viết ngay một lá thư gửi đi U Châu, hỏi sư huynh xem nên liệu sao cho ổn thỏa."
Lý Tiêu Nhân nói thêm mấy câu, Chu Tử Thư nom lúng túng lắm, coi bộ chỉ muốn đi hỏi Cung Tuấn cho thật mau. Lý Tiêu Nhân thất vọng toàn tập, y vốn chẳng trông mong gì vào Chu Tử Thư, liền cáo từ.
Mùng bảy tháng Giêng, bệnh tình của Triệu Phụ vẫn chưa khởi sắc, Lục Cunggia Triệu Ngao túc trực trong cung hầu bệnh.
Chạng vạng hôm đó, Chu Tử Thư đang đọc sách ở nhà bỗng có người đến gõ cổng. Diêu Tam ra mở cổng thì thấy một người đàn ông trung niên trông khá giống quản gia. Người đó thấy Diêu Tam thì cười rồi thi lễ. Diêu Tam đã được người ta vái chào bao giờ đâu, bèn vội vàng bắt chước theo mà đáp lễ.
Người đó hỏi: "Đây có phải phủ Gián nghị đại phu Chu Tử Thư – Đường đại nhân không?"
Diêu Tam mời người ấy vào nhà. Người đàn ông gặp Chu Tử Thư cũng thi lễ: "Bái kiến Đường đại nhân."
Chu Tử Thư nhìn ngó ông ta, lạ lùng hỏi: "Ngươi là ai vậy?"
Người đàn ông trung niên cười đáp: "Tiểu nhân là quản gia phủ Hữu tướng, tướng công nhà tôi có lời mời đại nhân đến phủ chuyện trò. Năm mới đã sang mà tướng công chưa có dịp gặp Đường đại nhân, nên sai tiểu nhân đến rước ngài qua."
Chu Tử Thư lấy làm lạ, song cậu vẫn chắp tay: "Ra là quản gia phủ Cungtướng công. Cung kính chẳng bằng tuân mệnh, xin mời."
Chẳng mấy chốc, Chu Tử Thư đã lên xe ngựa sang phủ CungThuyên.
Trên đường đi, Chu Tử Thư vắt óc suy nghĩ, cậu không hiểu tại sao bỗng dưng CungThuyên lại mời cậu sang ăn cơm. CungThuyên cũng thuộc dòng dõi Lang Gia Cungthị, là nòi thế gia đại tộc, có nề nếp lễ độ. Với quan hệ giữa Cung Tuấn và Chu Tử Thư, hai người có thể sang phủ nhà nhau bất cứ lúc nào mà không cần dâng bái thiếp hay gửi thư mời trước. Còn CungThuyên thì khác. Dù CungThuyên có biết tình cảm giữa cậu và CungTử Phong đi chăng nữa, ông cũng không thể tùy tiện mời cậu sang nhà.
Chu Tử Thư ôm một bụng hoài nghi, đặt chân vào phủ Hữu tướng.
Gặp CungThuyên, cậu chưa kịp cất lời, CungThuyên đã mỉm cười, trỏ đũa vào mâm cơm thịnh soạn, nói: "Ăn thôi."
||
Gốc:两情若是久长时, 亦思及朝朝暮. Cung Tuấn đã "cải biên" hai câu
"Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì, Hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ?" (tình đã bền lâu, cần gì phải bên nhau sớm tối) trong bài từ Thước Kiều
Tiên thành "tình mình bền lâu thì cũng nhớ nhau sớm tối"
------oOo------
Chương 134
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tin tưởng người đó
Chu Tử Thư vẫn chưa hết hoang mang. Cậu ngồi xuống, nhấc đũa lên ngoan ngoãn ăn cơm.
Đây là lần đầu tiên Chu Tử Thư đến phủ Hữu tướng. Nhà Hữu tướng ở khu đông thành, vừa rộng rãi vừa nguy nga, tráng lệ. Chưa xét đến những nơi khác, chỉ tính trong căn phòng tiếp khách này thôi, ngay trên bức bình phong đã thấy tranh thủy mặc vẽ cảnh núi non của danh họa nức tiếng thời nay. Trên tường treo bút tích thật của Thư Thánh triều trước. Ghế phải là ghế la hán làm từ gỗ hồng mộc, bàn cũng là bàn bát tiên đóng bằng gỗ tử đàn.
Lượm đại một món cũng đáng giá cả ngàn lạng bạc trắng.
CungThuyên gọi Chu Tử Thư đến phủ để đãi tiệc, vậy mà nơi đây chẳng có ai khác ngoài hai người bọn họ.
Hiện giờ, phủ Hữu tướng rộng mênh mông lặng ngắt như tờ. Người hầu kẻ hạ bưng thức ăn lên, bày biện bàn ăn muôn màu rực rỡ. Chu Tử Thư càng thêm bối rối, chẳng còn bụng dạ nào mà ăn. Lòng đầy băn khoăn, lại lo CungThuyên không ưa tán gẫu trong bữa ăn, cậu định bụng chờ đến khi hết bữa rồi hẵng hỏi.
Ai biết đâu, các món ăn cứ rồng rắn kéo nhau lên từ nhà bếp như chẳng có điểm dừng.
Nhận ra sự bất thường, Chu Tử Thư bèn bỏ đũa xuống, nói: "Hạ quan bái kiến Cungtướng công."
CungThuyên cười: "Cứ gọi thúc tổ là được."
Chu Tử Thư nghe câu này thì ngớ ra giây lát, rồi cũng gọi theo: "Thúc tổ."
CungThuyên gật gù: "Ngoan lắm."
Chu Tử Thư: "Hôm nay thúc tổ gọi cháu đến đây chắc là có việc cần nói."
CungThuyên ngạc nhiên: "Cháu nói thế là sao? Chẳng nhẽ không thể vì ta muốn gặp cháu, nên đã tranh thủ lúc CungTử Phong đi vắng, cho người đón cháu sang đây hỏi chuyện à?"
Chu Tử Thư: "..."
Chu Tử Thư: "Nếu thúc tổ muốn thì bất cứ lúc nào người cũng có thể gặp cháu mà, vội chi một chốc một lát? Huống hồ Vương... Cungđại nhân đi U Châu nào phải mươi mười lăm ngày đã về được? Thúc tổ xuất thân từ thế gia, coi trọng lễ phép, cháu là phận dưới, đúng ra phải đến chúc Tết người mới phải đạo. Lỗi tại cháu sơ sót, thiếu chu toàn lễ nghi. Nếu muốn gặp, thúc tổ gọi một tiếng là cháu đến ngay, đâu cần phải đường đột như hôm nay?"
"Đường đột?"
"Không có danh thiếp, chỉ cho một cỗ xe ngựa chở sang, lẽ nào không phải đường đột ạ?"
CungThuyên lặng yên nhìn Chu Tử Thư. Ông vuốt chòm râu tuyệt đẹp, cười bảo: "Giờ thì ta đã hiểu tại sao thằng cháu ta cứ khăng khăng chấm cháu rồi."
Mặt Chu Tử Thư đỏ bừng, may mà trời rất tối nên cậu không bị lộ.
Trong lúc hai người nói chuyện, nhà bếp lại dâng thêm hai món điểm tâm. Đồ ăn lên càng lúc càng nhanh, món trước mới nếm được hai miếng đã bị dọn xuống nhường chỗ cho món sau. Mặc dù Chu Tử Thư là quan tứ phẩm, từng thưởng thức cơ man của ngon vật lạ trong thời gian theo CungTử Phong, nhưng dù cộng lại hết thì những món cậu ăn trong năm năm qua cũng không nhiều bằng số món cậu thấy trong bữa ăn này.
Càng nhiều món ăn được bê lên, tâm trạng Chu Tử Thư càng nặng nề.
Cậu hỏi: "Thúc tổ ơi, rốt cuộc là có chuyện gì thế ạ?"
CungThuyên: "Chuyện gì ư? Có thể có đấy, mà cũng có thể là không. Không xảy ra thì mình biết thế, mà xảy ra thì... mặc nó thôi." Chu Tử Thư sững người.
Giờ Hợi gần hết, giờ Tý sắp sang, bầu trời đen kìn kịt. CungThuyên đủng đỉnh nhâm nhi trà, Chu Tử Thư ngồi cạnh trầm tư. Đến giờ Tý, ngoài nhà bỗng có tiếng người đi lại nhốn nháo. Bàn tay nâng chén trà của CungThuyên thình lình siết chặt, Chu Tử Thư cũng rướn thẳng lưng lên.
Nhưng rồi những âm thanh ấy dường như chẳng can hệ gì đến phủ Hữu tướng. Có lẽ, toán người đó chỉ lướt qua rồi đi xa dần ngay.
Song kể từ lúc này, tiếng chân người, tiếng vó ngựa không hề ngơi nghỉ.
Ánh đuốc rừng rực khắp nửa thành Thịnh Kinh, hắt lên nền trời một vầng đỏ đọc. Dân chúng bị tiếng binh mã ngược xuôi đánh thức mà chẳng dám hé cửa ngóng xem sự tình. Người ta lèn cửa cho thật chặt, chỉ lo có kẻ xộc vào nhà. Tuy thế, mục tiêu của toán lính không phải nhà dân. Họ lũ lượt kéo nhau về phía bắc, thẳng tiến đến hoàng cung
Vừa qua giờ Tý, một quan sai chạy vào phủ Hữu tướng truyền tin.
"Nhị hoàng tử cướp ngôi rồi!"
Chu Tử Thư bàng hoàng, còn CungThuyên chỉ thở dài thườn thượt.
Chu Tử Thư bình tĩnh lại, cậu đứng phắt dậy, hỏi: "Ngươi có chắc không?"
Quan sai: "Tin từ trong cung làm sao mà sai được ạ. Nghe nói, Thiên tử ốm liệt giường mãi không tỉnh, Nhị hoàng tử bèn câu kết với kẻ gian, thừa cơ soán vị. Hiện giờ hai hoàng tử khác đã hay tin nên sắp sửa vào cung cứu giá. Đây là thông tin mà Hữu tướng đại nhân sai tiểu nhân đi dò la, cách thức cũng do đại nhân chỉ, không thể giả được." Chu Tử Thư ngồi phịch xuống ghế.
Một lúc lâu sau, quan sai ra ngoài, gian sảnh chỉ còn lại Chu Tử Thư và CungThuyên.
Thành Thịnh Kinh rần rần tiếng hét hò, tiếng ngựa hí, lẫn lộn trong tiếng tướng sĩ hành quân rầm rập liên hồi kì trận. Lửa vây kín mít khu vực hoàng cung. Phủ Hữu tướng cách hoàng cung hẳn một quãng, từ đây chỉ thấy xa xa ngút trời ánh đỏ, bốn bề lặng ngắt.
Qua một chốc, quản gia phủ Hữu tướng vào bẩm báo: "Tứ hoàng tử Triệu
Kính sai thuộc hạ đến mời tướng công vào cung tróc nã phản tặc."
CungThuyên thờ ơ hỏi: "Đuổi đi chưa?"
Quản gia: "Đuổi rồi ạ."
CungThuyên: "Thế thì không việc gì."
Ông vừa dứt lời, nhà bếp lại mang thêm thức ăn lên. Tiếng bát đĩa chạm lên mặt bàn lanh ca lanh canh, hệt như tâm trạng của Chu Tử Thư trong thời khắc này. Kể từ lúc vào phủ Hữu tướng, cậu cứ mù mờ như lạc giữa mê cung, chẳng rõ chuyện gì đã phát sinh. Giờ đây, Chu Tử Thư bỗng minh mẫn hẳn, ngỡ như có bàn tay vô hình xua tan mây mù, hé lộ chút chân tướng le lói cho cậu.
Chu Tử Thư ngẩng lên hỏi: "Bây giờ cũng có người tới phủ mời cháu vào cung phải không?"
Khi cậu hỏi câu này cũng là lúc Diêu Tam mở cổng phủ Thám hoa cách đó nửa thành Thịnh Kinh. Anh ta nói với một người đàn ông trung niên mang dáng dấp của một mưu sĩ rằng: "Đại nhân nhà tôi không có ở phủ, ngài ấy đi vắng từ sớm rồi."
Người mưu sĩ ngẩn ra.
Trong phủ Hữu tướng, đôi mắt CungThuyên rực sáng: "Vì sao cháu lại nói thế?"
Chu Tử Thư: "Nhị hoàng tử manh tâm cướp ngôi. Muốn lùng bắt anh ta, hai hoàng tử còn lại không thể nào hành động tùy tiện, vì như thế là dấy binh vô cớ. Họ cần phải mời các vị đại thần vào cung hỗ trợ, mà lựa chọn tốt nhất là các đại quan nhất phẩm như Thúc tổ. Song quan lại bình thường thì họ mời được, còn như thúc tổ mà đã không muốn xuất hiện thì dẫu là hoàng tử cũng không thể bắt ép. Vì thế khi thúc tổ đuổi người mời đi, họ buộc phải ra về mà không có lựa chọn nào khác."
"Đúng lắm." CungThuyên ra hiệu cho cậu nói tiếp.
"Còn cháu lại khác. Cháu làm Gián nghị đại phu – một chức quan tứ phẩm. Dẫu được hoàng đế ưu ái đi chăng nữa thì vẫn chỉ là tứ phẩm mà thôi. Hoàng tử muốn cháu làm gì, cháu há có thể bất tuân? Bất kể cháu đầu quân về phe nào, sự góp mặt của cháu cũng đại diện cho sự ủng hộ của tiên sinh, của sư huynh, và có khi là của cả thúc tổ nữa. Thúc tổ sai người đến đón cháu sang đây ngay trong đêm, vốn là vì lẽ đó!"
CungThuyên bật cười lớn, đúng lúc có tiếng binh khí chát chúa vọng vào từ ngoài tường. Ông cười thật sảng khoái, như thể chẳng hề hãi sợ điều đang diễn ra ngoài kia. CungThuyên khen: "Tử Phong thích cháu là quá hợp lí, phải thế mới đúng!"
Chu Tử Thư nắm chặt tay: "Cháu có điều này muốn hỏi."
"Cứ nói đi đừng ngại."
"Làm thế nào mà thúc tổ biết tối nay Nhị hoàng tử sẽ cướp ngôi?"
"Chi bằng cháu thử đoán xem?"
Chu Tử Thư im lặng, chìm vào suy tư thật lâu.
Cuộc đụng độ ngoài phủ Hữu tướng đã kết thúc, tất cả trở về với thinh lặng.
"Thúc tổ hoàng toàn không giống cháu. Người sắp đặt trong triều đình hàng bao năm nay, đâu đâu cũng có thân tín. Có lẽ người đã lần ra manh mối từ việc ty Ngũ thành binh mã được điều động trong đêm nay, từ lúc tướng sĩ doanh trại ven đô rục rịch, từ quân Ngự lâm..." Cậu dừng lời, chần chừ một chốc mới hỏi tiếp: "Nhưng nếu thúc tổ đã biết trước thì hẳn những người khác cũng biết điều này. Bệ hạ lâm trọng bệnh mê man suốt, hiện giờ người có thể ngăn cản trận cung biến chỉ còn hai vị hoàng tử. Nhị hoàng tử cướp ngôi, Tứ hoàng tử, Ngũ hoàng tử vào cung giải cứu..." Chu Tử Thư chợt im bặt.
CungThuyên ngắm bàn ăn đầy ắp sắc màu, cười hiền từ: "Thấy bất hợp lí rồi hả?"
"Thúc tổ là trụ cột của Đại Tống, nếu đã nắm được chuyện này từ sớm, người nhất định sẽ không để mặc nó diễn ra. Ngoài thúc tổ, Kỷ tướng chắc hẳn cũng biết và cũng không đời nào khoanh tay đứng nhìn. Như vậy, người khiến thúc tổ phải đứng ngoài cuộc, bất lực chứng kiến Nhị hoàng tử và hai vị hoàng tử còn lại giao tranh, chỉ có thể là..."
Chu Tử Thư bất giác ngậm miệng, không nói thêm tiếng nào.
CungThuyên đặt chén trà xuống, thở dài: "Một năm về trước, Tử Phong nói với ta rằng chính nó cũng không hiểu thấu, nhưng nó tin tưởng người kia. Người ta hay bảo ba anh thợ giày thành Gia Cát Lượng, nhưng ấy là đùa vui vậy thôi. Trên dưới triều đình Đại Tống ta, còn ai sánh nổi với ngài ấy?"
Chu Tử Thư: "Nhưng lí do cho tất cả chuyện này là gì mới được chứ?"
"Lí do ư? Cháu muốn biết, ta muốn biết, Tử Phong cũng muốn biết lắm. Nhưng ngoài người ấy ra thì không một ai hiểu hết!" Tình trạng hỗn loạn bao trùm cả thành Thịnh Kinh.
Các quan viên quáng quàng thức giấc, choàng y phục lên người, ai nấy rúc trong thư phòng run như cầy sấy, không biết đường nào mà lần.
Nghe tin Nhị hoàng tử tạo phản, Tả thừa Trần Lăng Hải biến sắc: "Có lí nào lại thế?" Ngũ hoàng tử Triệu Cơ phái người đến mời, ông phân vân trong phút chốc, rồi thở dài thườn thượt: "Bảo rằng ta ốm, đóng cửa không tiếp khách."
Hữu thừa Từ Bí càng thú vị hơn.
Từ hôm qua, Từ Bí đã rời Thịnh Kinh để ghé chơi một nông trang ở Bắc Trực Lệ. Đúng dịp năm mới, các quan lại đều nghỉ Tết, thành thử chẳng ai hay Từ Bí đi vắng tự bao giờ.
Trước cổng phủ Tả tướng Kỷ Ông Tập, nhân mã của Triệu Kính, Triệu Cơ chờ chực hai bên.
Cổng phủ Tả Tướng đóng kín mít, trong phủ tối om om, trống trải và yên ắng. Chẳng có ai ra mở cổng mặc cho quân tướng đập cửa. Dẫu vậy, các tướng sĩ không chịu bỏ đi mà cứ canh chừng bên ngoài.
Góc tây bắc phủ Tả tướng, trong một ngôi viện đơn sơ vắng vẻ, ngọn đèn leo lét chiếu sáng căn phòng không mấy rộng rãi.
Không ai tưởng tượng nổi nơi đây lại là thư phòng của Kỷ Ông Tập.
Trong phòng chỉ có đúng một ngọn đèn, hai vợ chồng Tả tướng mỗi người ngồi một bên bàn. Nương theo ánh đèn tù mù, người cúi đầu may áo, người cầm bút viết chữ.
Kỷ lão phu nhân khâu xong cái ống tay áo thì ngẩng lên. Ngó chữ Kỷ tướng viết trên giấy, bà thấy cổ mình nghèn nghẹn. Một lúc sau, bà mới dịu giọng hỏi: "Trễ lắm rồi, mình chưa đi ngủ à?"
Kỷ tướng như choàng tỉnh, ông ngẩng đầu nhìn người bạn đời: "Phu nhân mệt rồi hả?"
Giờ Tý đã qua từ lâu, người già cả như hai ông bà làm sao không mệt cho được?
Nhưng Kỷ lão phu nhân chỉ mỉm cười chứ không đáp.
Kỷ Ông Tập cúi đầu nhìn những chữ mình viết, ánh mắt ông khựng lại, bất giác không biết phải nói sao.
Trên trang giấy Tuyên Thành, chỉ có đúng một chữ được viết chi chít chằng chịt...
"Triệu."
Kỷ Ông Tập ngả lưng ra ghế, nhìn đống chữ "Triệu" lấp kín cả trang giấy. Ông chỉ vào chữ ấy, hỏi người vợ tao khang: "Phu nhân coi tôi viết chữ gì đây?"
"Trông ra là chữ 'triệu'."
"Chữ 'triệu' đấy, nhưng là chữ 'triệu' của ai mới được? Triệu Thượng, Triệu Kính, Triệu Cơ... không thể là Triệu Ngao rồi. Hoặc giả là Triệu Phụ?"
Kỷ lão phu nhân biến sắc. Tuy bà là người phụ nữ chốn thâm khuê, nhưng bà vẫn biết Triệu Phụ là tên húy của đương kim Thánh thượng.
"Kìa tướng công!"
"Hay lại là Triệu Tuyền?"
Bỗng dưng, Kỷ Ông Tập đứng dậy đi lấy xiêm y. Kỷ lão phu nhân vội vàng theo ông: "Mình định làm gì thế?"
Kỷ tướng cười bảo: "Ngoài kia có người gõ cổng nhà mình đấy, phu nhân không nghe thấy ư?"
Kỷ lão phu nhân không biết sự tình ra sao, nhưng suốt cả đêm bà nghe rõ tiếng chém giết khắp thành. Đôi mắt đỏ hoen, bà oán trách: "Mình không đi có được không?" Vừa nói, bà vừa giúp chồng mặc xiêm áo cho chỉnh tề.
"Được thôi, nhưng tôi không thể."
"Kìa mình?"
Kỷ Ông Tập cười vang, ông nâng đôi bàn tay thô ráp của vợ, dịu dàng nói:
"Năm mươi mấy năm qua đã để phu nhân nhọc nhằn rồi. Cuộc sống ở Thịnh Kinh kham khổ biết bao, vi phu nhớ nhà mình vẫn còn mấy mẫu ruộng."
Kỷ lão phu nhân: "Mình nói chuyện này để làm gì hở?"
"Thì tự dưng tôi nghĩ thế thôi."
Kỷ lão phu nhân tiễn Kỷ tướng ra tận cổng, thấy ông chuẩn bị mở cổng chính, bà lại không kìm được, hỏi: "Mình có nhất thiết phải ra ngoài đó không?"
Kỷ tướng nghiêm túc nhìn vợ không chớp mắt: "Có. Nhất định."
"Vì sao cơ chứ?"
Kỷ tướng cười vô tư: "Chuyện không xảy ra trước mắt mình thì thôi, còn một khi đã sờ sờ ra như thế, làm sao tôi có thể trơ mắt nhìn nó tái diễn?"
Giây lát sau, Kỷ tướng mở cổng phủ. Nhân mã của Tứ hoàng tử Triệu Kính và Ngũ hoàng tử Triệu Cơ đã chầu chực quá lâu, thành thử chẳng ai kịp phản ứng khi Kỷ Ông Tập đột nhiên xuất hiện.
Khoác trên mình bộ quan bào đỏ rực, Kỷ tướng phóng tầm mắt bao quát xung quanh, ở ông toát lên vẻ oai nghiêm ngay cả khi không nổi giận: "Vào cung thôi."
"Rõ!"
||
Hóa ra là bị bug ở cái block đường phân cách giữa tên chương và nội dung chương truyện TvT Manh đã trở lại mí các bạn thân yêu đây.
Chú thích
Trong bối cảnh này mưu sĩ đóng vai trò cố vấn, bày mưu cho những người có quyền lực chính trị, quân sự. Khi những nhà lãnh đạo này thành công thì mưu sĩ cũng sẽ có chức quyền theo.
Ty Ngũ thành Binh mã là lực lượng an ninh bảo vệ kinh thành. Chia làm Đông, Tây, Nam, Bắc, và trung tâm.
Đây dùng 京郊军营. Kinh giao hiểu là vùng ngoại ô kinh thành (giờ người ta dùng chỉ ngoại ô Bắc Kinh). Mình không tìm được đội quân nào có tên riêng là Kinh Giao nên edit như trên. Có lẽ đây chỉ là lực lượng đóng quân ở vùng ngoại thành thôi.
Gần giống câu "ba cây chụm lại nên hòn núi cao". Cuốn Kho tàng tục ngữ người Việt cũng dẫn một câu tương tự là "ba người nông dân thành một Gia Cát Lượng". Truyện kể rằng khi Gia Cát Lượng (Khổng Minh) sang nước Đông Ngô xây tháp thì gặp phải một vấn đề nan giải, bèn thông báo tìm người tài khắp nơi. Có ba người thợ giày xấu xí đã hợp sức lại và giải quyết thành công vấn đề đó, khiến Khổng Minh phải nể phục Đông Ngô. Tuy nhiên người ta cho rằng thợ giày không liên quan gì mấy đến Khổng Minh, mà thực ra 皮匠 – pí jìang – bì tượng – thợ da, thợ giày, đồng âm với 裨将 – pí jìang – tì tướng – phó tướng. Tức ba viên phó tướng hợp mưu lại thì ngang bằng Khổng Minh.
------oOo------
Chương 135
Nguồn: EbookTruyen.Net
Không hỏi trời xanh
Ngay lúc này, hoàng cung Đại Tống rừng rực ánh đèn đuốc, bốn bề rần rần tiếng quân.
Quân Ngự lâm đông như kiến cỏ; họ cầm đuốc, xách trường thương đi tuần tra cảnh giới. Giữa lúc binh mã hỗn loạn, có bóng người mặc áo choàng với mũ trùm đen âm thầm chạy vào điện Tịnh Tâm ở phía đông bắc hoàng cung. Điện Tịnh Tâm là cung điện hoàng đế vừa cho xây dựng năm ngoái, dành riêng cho việc thờ cúng tượng Phật.
Bóng người áo đen tiến vào điện, xốc mũ trùm lên. Nhị hoàng tử Triệu Thượng chờ trong điện đã lâu; khi thấy rõ mặt mũi người đó, anh ta vội vã lại gần.
Triệu Thượng: "Đại sư, thế rốt cuộc là làm sao, ngoài kia có chuyện gì? Sao bỗng dưng nhốn nháo hết cả lên thế? Có biến rồi chăng?"
Triệu Thượng sốt ruột đến nỗi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Anh ta bị hoàng đế nhốt ở điện Tịnh Tâm không chạy đi đâu được, kêu trời trời chẳng thấu, kêu đất đất không hay. Tối hôm nay sau bữa cơm chay, anh ta lại chép kinh văn cho Thái hậu. Mới chép được một nửa thì bỗng dưng Triệu Thượng nghe ầm ĩ tiếng đánh nhau ngoài điện. Triệu Thượng sợ bạt vía, cứ tưởng Triệu Phụ sắp sửa lôi mình ra chém đầu. Ai biết đâu, Triệu Thượng núp sau cây cột hàng bao nhiêu lâu mà chẳng thấy ma nào vào. Mãi đến nửa canh giờ sau thì Thiện Thính mới xuất hiện.
Gương mặt không rõ vui buồn của Thiện Thính khiến người ta khó lòng phán đoán cảm xúc của ông ta. Ông chắp tay cúi chào theo kiểu nhà Phật, khoan thai nói: "Tâu điện hạ, đúng là đã sinh biến. Bệ hạ ốm nặng, nằm liệt giường hơn ba ngày nay. Hôm nay có hoàng tử dấy quân tạo phản, hiện giờ e đã đánh đến cổng cung rồi."
Triệu Thượng hãi hùng, mắt trợn trừng trừng: "Nó toan cướp ngôi?!"
Giọng Thiện Thính như vọng ra từ cõi mù sương: "Vâng, cướp ngôi."
"Sao nó dám làm thế?" Triệu Thượng điên tiết gầm lên, "Đứa nào, Triệu Kính hay Triệu Cơ? Chuyện bất kính tày trời ấy mà chúng nó cũng dám làm ư?"
"Bần tăng cũng không rõ."
Ông vừa dứt câu, đã nghe tiếng thương kích choảng nhau chát chúa dội về từ đằng xa. Triệu Thượng càng hoảng sợ, giọng lạc đi: "Giờ phải làm sao đây?" Anh ta bị hoàng đế giam lỏng ở điện Tịnh Tâm nên không có nhóm mưu sĩ giúp sức. Hiện giờ Triệu Thượng luống cuống quá thể, không biết đường nào mà lần nữa.
Có một sự thật không thể chối cãi là dù Triệu Kính hay Triệu Cơ cướp ngôi, thì một khi thành công, chúng còn lâu mới chừa đường sống cho ông anh hai này.
Triệu Thượng thậm chí còn nghĩ: "Không khéo chúng lại đổ cái tội cướp ngôi thiên cổ lên đầu ta cũng nên."
Anh ta siết chặt nắm đấm, lòng sục sôi khát khao bắn bỏ đứa em trai cả gan cướp ngôi.
Khốn thay, giờ đây đến một manh giáp Triệu Thượng cũng chẳng có, tháo thân khỏi hoàng cung chưa chắc đã nổi nữa là thắt cổ phản tặc? Giữa lúc anh ta đứng ngồi không yên, Thiện Thính lại nói: "Bệ hạ lâm trọng bệnh, quân Ngự lâm trong cung như rắn mất đầu, chỉ có Nhị điện hạ mới đủ khả năng nghênh địch."
"Ta ư?"
Thiện Thính: "Đúng thế. Điện hạ là hoàng tử, ngoài ngài ra, không còn ai có thể điều động ba nghìn quân Ngự lâm trong cung. Điện hạ, đừng chần chừ nữa, xin ngài khẩn trương ra cổng Chiêu Đức, chặn đứng lũ phản tặc trước khi chúng tràn vào hoàng cung."
Triệu Thượng bừng bừng chí khí: "Đại sư nói phải lắm, không thể ngồi yên chờ chết được!"
Cổng chính điện Tịnh Tâm ầm ầm mở toang, Triệu Thượng bước ra khỏi điện. Thấy thủ lãnh quân Ngự Lâm Nguyễn Phụng đã chờ sẵn ở ngoài, Triệu Thượng quay lại nhìn Thiện Thính, cảm động khôn xiết: "Đa tạ đại sư. Hôm nay, chừng nào bản điện hạ chưa ngã xuống, quân phản tặc đừng hòng xâm phạm cấm cung, đừng hòng bén mảng tới chỗ phụ hoàng!"
Nguyễn Phụng quỳ một gối xuống đất, cúi đầu, màn đêm che khuất nét mặt ông ta: "Xin điện hạ hãy ra lệnh."
Vẻ kiên cường ánh lên trong đôi mắt Triệu Thượng: "Quân giặc tấn công hoàng cung từ chỗ nào?"
Nguyễn Phụng tâu: "Thưa, từ cổng Chiêu Đức."
"Được, toàn quân theo bản điện hạ, ra cổng Chiêu Đức chém đầu phản tặc!"
Màn đêm ập xuống như con thú ngốn ngấu thịt người, dằn lên trái tim của tất cả. Ngoài cổng Chiêu Đức, Tứ hoàng tử Triệu Kính và Ngũ hoàng tử Triệu Cơ chỉ huy quân đội thuộc ty Ngũ thành binh mã, tấn công dồn dập vào cổng. Từ phía trên cổng, loạt tên lửa của quân Ngự lâm bắn xuống xối xả, kìm hãm thế công thành như vũ bão.
Năm xưa khi vua Thái tổ xây dựng hoàng cung Đại Tống, ông không hề xem hoàng cung như một pháo đài phòng thủ. Thịnh Kinh là thủ phủ của cả một quốc gia, một khi giặc tràn đến tận hoàng cung thì cần gì phải cố thủ nữa? Lúc đó thành đã mất, người đã tan tác từ lâu! Vì nguyên do này, ba nghìn quân Ngự Lâm trong cổng Chiêu Đức càng lúc càng khó cầm cự; quân cứu viện của hai vị hoàng tử giành thế thượng phong.
Triệu Kính nghiến răng nghiến lợi: "Thằng giặc Triệu Thượng chẳng những cấu kết với yêu tăng Thiện Thính mà còn xúi giục cả quân Ngự Lâm. Giờ phụ hoàng đang bị giam cầm, không biết an nguy ra sao nữa!"
Triệu Cơ nói: "Hôm nay, huynh đệ ta không phân biệt anh tôi, cùng chém chết Triệu Thượng được không?"
Triệu Kính: "Đương nhiên là được rồi!"
Triệu Cơ hạ lệnh: "Xông lên, đánh hạ cổng Chiêu Đức cho bản điện hạ!"
Toàn quân nhất tề xông pha, hô hào nhau công phá cánh cổng Chiêu Đức oai nghiêm đồ sộ.
Quân Ngự Lâm trên cổng thành không chống cự nổi nữa, cánh cổng rung chuyển ầm ầm chực đổ, chẳng mấy chốc sẽ bị phá toang. Ánh mắt Triệu Kinh và Triệu Cơ hau háu, ngấm ngầm canh chừng lẫn nhau. Tuy hôm nay cả hai đều phải lấy mạng Triệu Thượng, nhưng hễ ai xông vào cung cứu giá trước thì người đó ắt sẽ giành phần hơn. Công lao to lớn nhường ấy, có lí nào lại biếu không cho đứa kia? Một khi cổng thành bị phá, cuộc tranh đoạt sẽ bắt đầu ngay tức thì.
Ruỳnh!!!
Sau tiếng rền vang dữ dội, cổng cung cao chót vót bật chốt ầm ầm, chỉ thiếu một cú húc nữa thôi là tan tành.
Triệu Kính và Triệu Cơ đều nín thờ, chờ đợi cơ hội xông vào hoàng cung. Đúng lúc đó, từ ngoài cung, một toán quân kéo tới. Hai anh em cùng ngoái lại nhìn; vừa thấy bóng người, cả hai mừng rỡ ra mặt.
"Tả tướng!"
Kỷ Ông Tập ngồi trên lưng ngựa, chuyến hành trình xóc nảy làm bộ xương già cỗi của ông rệu rã. Ông đưa mắt nhìn cánh cổng Chiêu Đức tàn tạ đằng xa, bỗng giật mình thảng thốt, ngỡ như trông thấy một cánh cổng khác ẩn hiện đâu đây. Xuyên qua cổng thành, cặp mắt già nua nhưng sắc bén của ông thấy rõ lớp lớp cung thủ mai phục ngay sau cánh cổng.
Đêm đen sâu thăm thẳm, mộng một thoáng ngàn năm.
Kỷ Ông Tập định thần: "Tứ điện hạ, Ngũ điện hạ."
Triệu Kính căm phẫn thốt lên: "Thằng giặc Triệu Thượng cả gan soán ngôi, xin Tả tướng vào cung cùng bản điện hạ, tiêu diệt phản tặc!"
Triệu Cơ cũng vội vàng đua theo: "Xin Tả tướng theo bản điện hạ vào cung, lấy đầu Triệu Thượng."
Ty Ngũ thành binh mã thừa thắng xông lên, gầm thét rung trời. Song Triệu
Kính và Triệu Cơ không ngờ rằng ngay sau cánh cổng Chiêu Đức đổ nát, Nhị hoàng tử Triệu Thượng đã chỉ huy quân Ngự Lâm bố trí cung thủ, sẵn sàng bắn chết phản tặc.
Hoàng cung rối ren, bọn cung nữ, hoạn quan nháo nhác trốn chạy. Một người mặc áo trùm đen bí mật vào cung Phúc Ninh. Hiện giờ, cung Phúc Ninh nguy nga chỉ có mỗi mình Đại thái giám Quý Phúc trông coi. Ngọn đèn đơn côi là nguồn sáng duy nhất trong tẩm điện. Quý Phúc cúi mặt, tấm áo bào thùng thình giấu đi thân hình run cầm cập của lão. Lão không dám hé răng lấy một lần.
Nơi án ngự, có bóng người gầy gò cầm cây bút lông, múa lên trang giấy bốn chữ đại tự...
"Không hỏi trời xanh".
Hòa thượng Thiện Thính cởi mũ trùm, vái chào theo kiểu nhà Phật. Giọng ông ta bình thản, khoan thai và ấm áp: "Bệ hạ."
Triệu Phụ không trả lời. Sau khi tỉ mỉ viết xong bốn chữ, Triệu Phụ lấy ấn ngự, hai tay cầm ấn nhúng vào bùn đỏ rồi đóng lên trang giấy. Ông ta hài lòng ngắm nhìn chữ viết của mình, đoạn ngẩng lên hỏi: "Ngươi xem bốn chữ này trẫm viết thế nào?"
Thiện Thính ngó vào từ xa: "Người xuất gia không nói dối."
Triệu Phụ cười phá lên một chặp, bảo Quý Phúc: "Y đang chê trẫm viết không ra gì đây."
Quý Phúc căng thẳng đến nỗi mặt mũi cứng đờ; nghe Triệu Phụ nói thế, lão vội thưa: "Nô tỳ thấy bệ hạ viết tuyệt đẹp ạ."
Triệu Phụ gật đầu: "Trẫm cũng thấy thế, trẫm viết tuyệt đẹp."
Gác bút lông qua một bên, Triệu Phụ ngồi xuống ngự tọa, uể oải hỏi: "Triệu
Thượng đi chưa?"
Thiện Thính: "Đã đi rồi."
"Triệu Kính và Triệu Cơ thì sao?"
"Đều đã đến."
Triệu Phụ mở miệng, rồi bất giác mím môi lại. Một lúc sau, ông ta thản nhiên nói: "Trẫm là trẫm thấy, bây giờ nên có người vào cung Phúc Ninh rồi."
Ông vừa dứt lời, thủ lĩnh quân Ngự Lâm Nguyễn Phụng đã có mặt ngoài cung Phúc Ninh, quỳ xuống cầu kiến. Triệu Phụ cho gọi Nguyễn Phụng vào điện, rồi đứng dậy đi lại vài bước. Thoáng trong ánh mắt ông là chút giằng co và trù trừ rất hiếm hoi, Triệu Phụ thì thào hỏi: "Sao rồi? Là Triệu Thượng, Triệu Kính, hay Triệu Cơ?"
Nguyễn Phụng chần chừ trong giây lát, chắp tay tâu: "Cả ba vị hoàng tử đều đang ở điện Tử Thần, đợi bệ hạ phán xử." Triệu Phụ rùng mình, chết lặng.
Sau phút chốc, ông ta hỏi: "Ở đó hết?"
Nguyễn Phụng: "Vâng, các hoàng tử đều ở đó."
"Làm sao mà chúng nó ở đó tất được?!"
Nguyễn Phụng: "Vì...vì Tả tướng đại nhân một mình một ngựa vào cổng Chiêu Đức, nên Nhị điện hạ không xua quân bắn tên. Thành ra bây giờ... các điện hạ đều đang chờ bệ hạ ở điện Tử Thần."
Triệu Phụ chán nản sụp xuống ngự tọa, nhìn bốn chữ trên bàn bằng ánh mắt mông lung.
Không hỏi trời xanh.
Hòa thượng Thiện Thính lần tràng hạt, giọng nói muôn thuở như ẩn trong sương mù: "Nghiệp chướng là nhân, phá chướng là quả. Người không dứt được ái dục như cầm bó đuốc đi ngược chiều gió, tất có lúc phải vạ cháy tay. Nhưng người vọng tưởng và cố chấp thì không thể được chứng đắc3. Thí chủ à, sâu dưới A Tỳ, địa ngục chông gai, chung quy chỉ có mình ngài thôi."
[3] Tức nhờ tu đạo mà chứng ngộ chân lí, đạt được quả vị, trí tuệ, giải thoát và công đức. (Từ điển Phật Quang)
Triệu Phụ ngẩng phắt đầu, đôi mắt sáng quắc của ông ta xoáy vào Thiện Thính, lồ lộ sát niệm.
Vị hòa thượng có khuôn mặt tròn trịa phúc hậu vẫn điềm đạm tụng kinh, chẳng rõ là đang vui hay buồn.
Trận binh lửa kéo dài suốt cả đêm. Trong phủ Hữu tướng, nhà bếp đã thôi dâng đồ ăn, song Chu Tử Thư và Hữu tướng vẫn ngồi nguyên ở bàn, thức trắng chờ đợi.
Phương đông hửng sáng, mặt trời ló rạng.
Quan sai rảo bước vào phủ Hữu tướng: "Bẩm đại nhân, nửa canh giờ trước, Cảnh đại nhân Thượng thư bộ Hình đã vào cung."
CungThuyên ngạc nhiên: "Cảnh Thiếu Vân? Ông ta vào cung làm gì? Tóm lại chuyện trong cung đêm qua là thế nào?"
Quan sai này chỉ nghe lệnh CungThuyên đến nơi cần đến nhận tin tức, nếu không có thông tin thì đương nhiên anh ta chẳng thể nói gì. CungThuyên phất tay: "Lui đi."
"Vâng."
Chu Tử Thư nhìn ông: "Thúc tổ, rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra trong cung thế ạ?"
CungThuyên bất lực nói: "Cháu à, dù cháu có hỏi thì ta cũng không thể biết được."
Chu Tử Thư xấu hổ quá.
CungThuyên: "Nhưng thật ra, việc Cảnh Thiếu Vân vào cung nằm ngoài dự đoán của ta. Ông ta tự dưng vào cung, lẽ nào sự việc tối qua đã được xoay chuyển? Nhưng xoay chuyển thế nào mới được chứ?" CungThuyên hăm hở suy nghĩ, nhưng dù đã ngẫm đủ đường, ông cũng không tìm ra được lời giải cho câu đố này.
Dĩ nhiên, ông không hề biết, ngoài cung Phúc Ninh bây giờ, Kỷ Ông Tập trong bộ quan bào sờn cũ đang được Đại thái giám Quý Phúc dẫn vào cung. Vừa đặt chân vào điện, Kỷ Ông Tập đã ngửi thấy mùi đàn hương thoang thoảng, sương khói lững lờ, chẳng mấy thanh tĩnh. Kỷ tướng không hề ngẩng đầu lên, cứ khép hờ đôi mắt mà đứng giữa điện, lẳng lặng chờ đợi.
Mãi sau mới có bóng người bước ra từ sau tấm mành, đi tới trước mặt Kỷ tướng, lẳng lặng quan sát rất lâu.
Người đó buông tiếng thở dài xa xăm: "Trùng Minh à."
Tả tướng Kỷ Ông Tập có tên chữ là Trùng Minh, lấy từ Chu Dịch: "Trùng minh dĩ lệ hồ chính."
[4] vua tôi cùng dựa vào sự công chính (thì thiên hạ sẽ tốt lên). Trùng minh có thể hiểu là vua tôi cùng sáng suốt hoặc ánh sáng bất tận.
Kỷ tướng chậm rãi ngẩng đầu, thành kính thưa: "Bề tôi Kỷ Ông Tập xin bái kiến bệ hạ."
Triệu Phụ ôn hòa hỏi: "Vì sao ngươi lại vào cung?"
"Thần lo lắng cho long thể của bệ hạ."
"Trẫm cảm thấy mình rất khỏe."
"Bệ hạ khỏe mạnh, thần vui mừng khôn xiết."
Vua tôi hai người không nói thêm câu nào. Thời gian cứ trôi đi, long tiên hương trong điện đã cháy rụi, nguội dần.
"Trùng Minh, ngươi và trẫm là quân thần hơn hai mươi năm nay, trẫm bỗng thấy trẫm không thể hiểu nổi ngươi nữa."
Kỷ Ông Tập cúi đầu, thái độ không hèn không kiêu: "Thần cũng chưa bao giờ hiểu nổi bệ hạ." Choang!
Một chén trà phang thẳng lên trán Kỷ Ông Tập, làm toác cả da đầu. Cái chén rơi xuống sàn nhà vỡ tan tành. Kỷ Ông Tập đã lớn tuổi, cú va đập bất thình lình khiến ông lảo đảo suýt ngã, nhưng rồi ông cũng đứng vững lại được.
Triệu Phụ cười gằn, ông ta rít lên: "Ngươi không hiểu trẫm?"
Mặt Kỷ Ông Tập giàn giụa máu. Ông ngẩng cao đầu, những nếp nhăn nặng trĩu trên gương mặt, song đôi mắt ông sáng quắc và minh mẫn. Mặc cho máu loang lổ đầy mặt, ông vẫn nói thật điềm đạm: "Đúng vậy, thần không hiểu. Thần không hiểu Nhị hoàng tử đã phạm phải lỗi gì mà bị bệ hạ chọn làm phản tặc. Thần cũng không hiểu, Tứ hoàng tử, Ngũ hoàng tử sai ở đâu mà bệ hạ cứ phải dồn các điện hạ vào chỗ chết. Hổ dữ không ăn thịt con, nếu ba vị hoàng tử cùng bỏ mạng, vậy giang sơn Đại Tống mà bệ hạ trải bao đắng cay mới giành được, rồi sẽ chắp tay nhường lại cho ai?"
"Triệu Ngao chăng? Hay Triệu Quỳnh?"
"Lẽ nào bệ hạ đã quên, người họ Triệu trên thế gian này gần như đã bị tận diệt, chỉ còn duy nhất dòng dõi Cảnh vương?"
||
Đọc đến chương này mới biết lúc trước phiên âm sai tên tự của Kỷ tướng (vẫn là chữ 重 trong "trùng sinh" mà vẫn hay bị phiên âm sai thành "trọng sinh" ấy). Câu trong chương là câu mô tả quẻ Ly trong 64 quẻ. Tra một hồi bỗng nghĩ có khi nào tên của phượng hoàng trong Thiên Bảo phục yêu lục (Phi Thiên Dạ Tường) cũng phải đọc là chóng míng (Trùng Minh) mới đúng? Một là vì quẻ Ly liên quan đến ánh sáng và lửa, hai là chim Trùng Minh cũng là một chim trong truyền thuyết Trung Quốc có tiếng hót như phượng @@ Chuyển ngữ quả là khó khăn khi còn bỡ ngỡ với nền văn hóa nước bạn ToT.
Chú thích
Không chắc lắm. Tra 红泥 thấy chủ yếu liên quan đến loại đất bùn sắc đỏ dùng làm ấm Tử sa. Cũng có thể đã từng được chế tạo thành mực đóng dấu, song không tìm được tài liệu.
Câu này thuộc chương 25 – Lửa dục thiêu thân – trong bộ Kinh 42 chương, khuyên răn người ta tránh xa cám dỗ.
Tham khảo bản dịch của Nhân tử Nguyễn Văn Thọ.
------oOo------
Chương 136
Nguồn: EbookTruyen.Net
Trần đời có ai không thích Triệu Tuyền?
Những lời lẽ đại nghịch bất đạo như găm thẳng vào tim ấy được Kỷ Ông Tập nói lên bằng giọng điệu quá đỗi nhẹ nhàng, như mặt nước tưởng chừng êm ả không gợn sóng mà ngờ đâu ẩn chứa muôn vàn bão táp phong ba. Ông càng nói, biểu cảm của Triệu Phụ càng nanh ác hơn. Triệu Phụ tức nảy đom đóm mắt, ánh nhìn gườm gườm như muốn ăn tươi nuốt sống Kỷ Ông Tập giữa điện.
Nhưng rồi khi Kỷ Ông Tập dừng lời, Triệu Phụ bỗng dưng bình tâm lại.
Ông ta cười nhẹ, cầm chén trà khác trên bàn lên, vụt đánh choang vào cây cột cạnh đó.
Cái chén sứ Thanh Hoa nát vụn.
Kỷ Ông Tập không buồn liếc chén trà vỡ lấy một lần.
Giọng hoàng đế thống thiết, không giấu nổi ngỡ ngàng: "Trùng Minh, ngươi khiến trẫm lạnh lòng xót dạ thật đấy. Lẽ nào trong lòng ngươi, trẫm là vị vua như thế sao?"
Kỷ tướng ngẩng lên nhìn ông ta, thành tâm nói: "Trong lòng thần, bệ hạ là vị vua thánh minh nhất kể từ khi Đại Tống dựng nước tới nay."
Triệu Phụ: "Trẫm chẳng nghe rõ câu này của ngươi được mấy phần thực tâm."
"Thần hoàn toàn thành thật."
Triệu Phụ im lặng, đoạn thở dài: "Vậy vì sao hôm nay ngươi lại vào cung?"
Kỷ Ông Tập: "Thần không đành lòng chứng kiến bi kịch tái diễn."
Triệu Phụ trầm tư thật lâu: "Ba mươi hai năm về trước, trẫm nhớ Trùng Minh không có mặt ở Thịnh Kinh. Khi ấy ngươi ở đâu nhỉ? Để trẫm ngẫm lại xem..."
"Lúc đó, thần đang ở tây bắc chiến đấu với quân Liêu."
"Ồ phải, đúng lắm, ngươi ở U châu cùng với Thái sư. Thái sư đã khen ngợi ngươi rất nhiều lần với tiên đế, rằng ngươi có tài cầm quân hiếm có khó tìm." Trông nét mặt Triệu Phụ lúc này thật khó đoán, "Ngươi không ở
Thịnh Kinh, cũng không thuộc đảng phái của tiên Thái tử, đảng Tùng Thanh...Vậy chuyện này thì liên quan gì đến ngươi?"
Kỷ Ông Tập bỗng mím môi im lặng. Thế rồi, ông rẽ sang một chủ đề hoàn toàn khác: "Thần chợt hiểu bệ hạ hơn một chút rồi."
Triệu Phụ: "Ồ, ngươi hiểu cái gì?"
"Thật tình, ngài chưa bao giờ thay đổi. Lỗi tại thần cổ hủ, trước đây thần không hiểu nổi nếu cả ba vị hoàng tử cùng mất ở cổng Chiêu Đức, thì giang sơn Đại Tống, giang sơn mà bệ hạ nhọc nhằn giành được rồi đây còn nghĩa lí gì. Nhưng giờ đây thần đã hiểu, ngài quan tâm đến giang sơn này chỉ vì nó là giang sơn của ngài. Nếu nó không còn là giang sơn của ngài, thì dẫu Triệu Thượng, Triệu Kính, Triệu Cơ, hay thậm chí là Triệu Ngao, Triệu Quỳnh lên ngôi, giang sơn này cũng chẳng liên quan gì đến ngài sất." Môi Triệu Phụ run lên.
Kỷ Ông Tập: "Hiệp ước Tống – Liêu là công lao của Khai Bình hoàng đế. Sự phồn vinh, thịnh vượng ngày hôm nay là công lao của Khai Bình hoàng đế. Bệ hạ không quản gian nan, cho xây dựng ba tuyến quan đạo, rút ruột rút gan vì muôn dân thiên hạ. Kể cả lúc này đây, trừ khi bệnh nặng không gượng nổi, ngài cũng không bỏ bất cứ buổi triều nào trong suốt ba mươi hai năm qua. Đại Tống chưa từng có hoàng đế nào tâm huyết vì nước vì dân như ngài. Suốt ba mươi năm ròng ngài đã sống quá khổ cực, chẳng khác nào một thầy tu khổ hạnh, dẫu nhiêu ấy chưa thấm tháp gì với các bậc khổ tu."
Triệu Phụ không tin vào tai mình nữa, ông xúc động rướn thẳng lưng, hô lên: "Trùng Minh."
Kỷ Ông Tập buồn rầu nói: "Dùng giấy thay tiền là một việc quá mức gian truân, vậy mà mấy năm nay ngài không hề buông xuôi. Đại Tống có bệ hạ là phúc của trăm quan, là phúc của trăm họ. Cả đời thần phụng sự hai vị hoàng đế, nhưng đời thần chỉ có một vị vua mà thôi, đó chính là ngài."
Cảm xúc trĩu nặng trong lời Triệu Phụ: "Trẫm luôn biết, người hiểu trẫm nhất trên triều đình là ngươi."
Kỷ Ông Tập ngẩng đầu lên: "Thế nên bệ hạ mới muốn chứng minh rằng ngay cả khi ngài sát hại cha anh để lên ngôi hoàng đế, ngài cũng không sai. Triệu Thượng giống với ngài, Triệu Cơ, Triệu Kính giống tiên thái tử, tái hiện lại biến cố năm xưa. Bất cứ ai cũng sẽ lựa chọn và hành động như ngài."
Triệu Phụ: "Lẽ nào trẫm đã sai?"
Kỷ Ông Tập: "Bệ hạ không sai. Chuyện này không cần tái diễn, ngài chưa bao giờ sai."
Triệu Phụ nhắm nghiền mắt, kìm lại cảm giác nong nóng trên bờ mi.
"Nhưng tiên thái tử cũng không sai, Triệu Thượng, Triệu Kính, Triệu Cơ, không ai có lỗi hết." Kỷ Ông Tập chậm rãi nói, "Bệ hạ là đấng minh quân, và cũng là một quân Cungtự tư tự lợi, đơn độc dấn bước. Bệ hạ, thần không thể đồng hành với ngài trên con đường này; trước giờ ngài vẫn một mình một lối. Hôm nay, thần cũng thấu suốt một chuyện khác."
Triệu Phụ không hề tức giận, chỉ mỉm cười hỏi Kỷ Ông Tập: "Chuyện gì?" "Một năm về trước, ngài sẽ không đời nào làm thế này. Ngài đang nghi ngờ bản thân, ngài đang do dự, đang sợ sệt. Phải chăng cái chết của Thái hậu đã khiến bệ hạ bắt đầu sợ hãi kiếp sau, lo rằng mình sẽ xuống địa ngục sau khi chết?"
Nụ cười của Triệu Phụ cứng đờ.
Không cần ông ta trả lời, Kỷ Ông Tập trông nét mặt đế Cunglà hiểu hết. Ông kính cẩn chắp tay hành lễ, nói: "Bệ hạ, đã là người thắng cuộc thì không cần phải nghĩ đến những người không đáng và những chuyện vô nghĩa nữa. Ngài chính là ngài, thiên hạ này còn biết bao nhiêu việc, đang chờ đợi ngài đập tan mê chướng, mở mang đất trời." Cung Phúc Ninh chìm trong yên ắng rất lâu.
Sau một hồi, Triệu Phụ mới nói: "Ngươi lui đi."
"Vâng."
"Khoan đã."
Kỷ Ông Tập dừng bước, quay lại nhìn vị vua thánh minh nhưng hết sức cô độc kia.
Triệu Phụ cười: "Trùng Minh nói sai một chuyện rồi. Triệu Kính, Triệu Cơ giống với Triệu Tuyền, nhưng trẫm, chưa bao giờ là Triệu Thượng." Kỷ Ông Tập sững sờ.
Triệu Phụ: "Việc trẫm hỏi, Trùng Minh chưa trả lời trẫm đâu. Ba mươi hai năm về trước, mọi việc đều không liên quan đến Trùng Minh. Hôm nay, trẫm đã nghĩ tới rất nhiều người có thể vào cung, thậm chí là cả CungThuyên, chỉ riêng ngươi là trẫm không ngờ đến, vậy mà cuối cùng ngươi lại là người tới đây. Ngươi đến đây làm gì, và tội gì phải làm khổ mình thế?"
Lòng Kỷ Ông Tập rối rắm vô cùng. Ông nghiêm trang, thận trọng nhìn vị vua trước mặt mình. Trải bao mưa gió suốt mấy chục năm qua, ông tự nhận mình là người hiểu vị vua này nhất, vậy mà cuối cùng ông vẫn đoán sai suy nghĩ của người này. Nhưng liệu trên đời có ai thấu hiểu trái tim đế Cungthật không?
Sau khi suy nghĩ thông suốt, Kỷ Ông Tập tâu rằng: "Bệ hạ có nói rằng thần không thuộc đảng phái Thái tử, không phải người của đảng Tùng Thanh." Triệu Phụ thoáng biến sắc, ông ta giả vờ bình tĩnh: "Trẫm đã lầm chăng?"
Kỷ Ông Tập: "Bệ hạ không nhầm đâu. Thần chỉ là đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, làm sao đứng nổi vào hàng ngũ đảng Tùng Thanh, lọt vào mắt xanh của tiên thái tử? Chẳng qua năm xưa trong buổi yến Quỳnh Lâm vinh danh bảnh vàng, khi kẻ bần hàn là thần đây trở thành trò cười cho đám đông vì quá chén, bị các tiến sĩ cùng bàn xì xào giễu cợt, có một người đã đỡ thần lúc say và nói với thần rằng, anh hào thiên hạ, chớ hỏi xuất thân."
Triệu Phụ đã biết người đó là ai. Dưới long bào, bàn tay ông ta siết chặt thành nắm đấm.
Kỷ Ông Tập nhìn sâu vào mắt Triệu Phụ, cười: "Bệ hạ ơi, trần đời có ai không thích Triệu Tuyền?"
Kỷ Ông Tập quay lưng ra về.
Ông vừa đi, tiếng sứ vỡ vẳng ra từ cung Phúc Ninh mãi không ngớt.
Đúng lúc ra khỏi cung Phúc Ninh thì Tả tướng gặp Thượng thư bộ Hình Cảnh Thiếu Vân. Cảnh Thiếu Vân thấy ông thì giật mình, hành lễ: "Bái kiến Kỷ tướng."
Kỷ Ông Tập đáp lễ, song không đáp lời.
Cảnh Thiếu Vân chờ ngoài cung Phúc Ninh một lúc lâu, cuối cùng Triệu
Phụ cũng truyền ông ta vào điện. Thấy mảnh sứ vỡ la liệt dưới đất, Cảnh Thiếu Vân thầm khiếp vía. Ông giữ bình tĩnh, đi vào nội điện, kính cẩn chắp tay hành lễ. Triệu Phụ rệu rã nhìn ông ta, đau xót cùng cực: "Vọng Thanh, cõi lòng trẫm lạnh lẽo quá!"
Mùng chín tháng giêng, tấn trò hề cướp ngôi rầm rộ cuối cùng cũng hạ màn.
Yêu tăng Thiện Thính mê hoặc Thánh thượng, che mắt triều đình, lợi dụng lúc thiên tử ốm nặng để gây rối, tống giam vào thiên lao, chờ ngày hành quyết. Tả tướng Kỷ Ông Tập lén thông đồng với yêu tăng, làm trái kỉ cương phép nước, lợi dụng thời cơ bức ép hoàng đế thoái vị; niệm tình nhiều năm cần lao, có công lớn với đất nước, bãi miễn chức quan, cho về quê an dưỡng tuổi già.
Tứ hoàng tử Triệu Kính, Ngũ hoàng tử Triệu Cơ tin lầm kẻ gian, khiến
Thịnh Kinh phải vạ binh hỏa, tước hết chức vụ, phạt đóng cửa kiểm điểm.
Thăng Hữu thừa Từ Bí làm Tả tướng, Thượng thư bộ Hình Cảnh Thiếu Vân làm Hữu thừa, Hữu thị lang bộ Lại Dư Triều Sinh làm Thượng thư bộ Hình.
Đợt thăng giáng liên hoàn này khiến quần thần hoa hết cả mắt. Nhưng điều bất ngờ nhất là hoàng đế điều Phủ doãn Tần châu Triệu Tĩnh về kinh nhậm chức Hữu thị lang bộ Lại, hàm tam phẩm.
Triệu Tĩnh là học trò tâm đắc của Kỷ Ông Tập; Kỷ Ông Tập bị tước hết chức quyền, Triệu Tĩnh khổ tận cam lai, cuối cùng cũng được về kinh làm quan.
Ngày mười sáu tháng giêng, buổi triều đầu tiên của năm Khai Bình thứ ba mươi hai. Quần thần tề tựu trong điện Tử Thần; Chu Tử Thư cũng trông thấy Triệu Tĩnh – người đã trở về từ Tần châu xa xôi cách trở.
Sức khỏe của hoàng đế có vẻ không bằng xưa kia. Trải qua trận cung biến rối ren, dường như ông già cỗi đi nhiều, song ánh mắt thì bén nhọn hơn bao giờ hết. Giờ phút này, còn ai dám ôm suy nghĩ hoàng đế đã tới số? Có ông vua nào sắp tới số mà đột nhiên tỉnh dậy ngay giữa cuộc đảo chính hỗn loạn để nắm quyền kiểm soát không?
Một số quan đã đoán được phần nào chân tướng, còn những viên quan không rõ thực hư thì hết sức run sợ, càng thêm kính nể hoàng đế.
Trong buổi triều, Triệu Phụ nhẹ nhàng tóm lược trận cung biến tháng Giêng chỉ bằng vài câu.
Từ Bí đứng đầu hàng quan văn, dẫn đầu toàn thể quan lại dâng lời chúc cho năm Khai Bình thứ ba mươi hai quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.
Đến lúc tan triều, Chu Tử Thư mới thấy rõ Triệu Tĩnh.
Bốn năm về trước, Triệu Tĩnh giám sát ty Độ Chi thiếu sát sao, bị Triệu Phụ biếm đến Tần Châu, từ đại quan nhị phẩm tụt xuống thành Phủ doãn tứ phẩm thấp bé. Giờ ông ta đã về kinh giữ chức Hữu thị lang bộ Lại, bậc tam phẩm, nhưng trong triều đình, Kỷ đảng đã hoàn toàn thất thế. Mái đầu Triệu Tĩnh đã pha sương, rõ ràng mới hơn bốn mươi tuổi mà cứ như ông lão lục tuần.
Chu Tử Thư cảm thấy mình chẳng khác nào chiếc thuyền con phiêu dạt giữa trùng khơi trào sóng cả.
Hôm sau, Chu Tử Thư vừa về nhà từ nha môn thì quản gia phủ Hữu tướng lại tới đón cậu. Chu Tử Thư ngạc nhiên hỏi: "Hữu tướng đại nhân đang chờ ta ở phủ sao?"
Quản gia cười: "Đại nhân cứ đi sẽ biết."
Chu Tử Thư chẳng hiểu mô tê gì, nhưng cậu nhanh chóng phát hiện cỗ xe ngựa này không đến phủ Hữu tướng ở phía đông kinh thành, mà đi thẳng về phía nam, ra hẳn ngoài thành Thịnh Kinh!
Xe ngựa lúc lắc đi tới đình Thập Lý ngoài thành. Chu Tử Thư xuống xe, thấy Hữu tướng CungThuyên ăn vận đen tuyền từ đầu tới chân đang đợi trong đình. Chu Tử Thư bước tới ngay: "Cháu chào thúc tổ. Hôm nay thúc tổ có việc gì thế ạ?"
CungThuyên không trả lời, ông nhìn cậu một lượt, nói: "Ta sơ ý quá, cứ nghĩ phải đưa cháu đến đây cho mau mà quên khuấy là cháu vẫn mặc quan bào. Hôm nay gọi cháu qua đây có việc riêng, đáng lẽ phải để cháu mặc áo đen mới đúng. Đàn ông nhà họ Cungđều thích mặc áo đen, cháu biết chứ?"
Chu Tử Thư: "...Dạ biết ạ."
CungThuyên đang định nói tiếp thì bỗng thấy một cỗ xe ngựa từ phía thành Thịnh Kinh đến. Ông nói: "Tới rồi kìa." Đoạn, ông đi xuống lề đường cái, Chu Tử Thư cũng đi theo.
Cỗ xe ngựa từ từ dừng lại, người ngồi trên xe vén rèm ngó ra. Thấy Vương
Thuyên, người đó khẽ giật mình: "Cungtướng?"
CungThuyên chắp tay: "Kỷ tướng."
Kỷ Ông Tập xuống xe ngựa, đi tới đáp lễ: "Kẻ này đã là tội quan, đâu còn là Kỷ tướng nữa." Nói đoạn, ông liếc nhìn Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư lập tức thi lễ với ông.
CungThuyên thản nhiên nói: "Vậy ta mặc áo đen đây, cũng nào phải Cungtướng?"
Hai ông cụ nhìn nhau, cùng mỉm cười.
Trong triều đình, Kỷ đảng và Cungđảng tranh chấp bao năm nay, tuy không phải kẻ thù một mất một còn nhưng quả đúng là kình địch. Có ai ngờ, giờ phút này Kỷ Ông Tập và CungThuyên đang chuyện trò say sưa ở đình Thập Lý ngoài kinh thành, vui cười không ngớt.
Chu Tử Thư không hiểu vì sao CungThuyên lại gọi mình tới đây, song cậu vẫn điềm tĩnh đứng lắng nghe, không hề lên tiếng.
Kỷ Ông Tập: "Trời sắp tối rồi, không tiện nán lại thêm nữa, lão phu phải đi đây."
CungThuyên chắp tay: "Thượng lộ bình an nhé."
Kỷ Ông Tập liếc nhìn Chu Tử Thư, bỗng nói: "Tự dưng ta nhớ đến chuyện này."
CungThuyên: "Ồ, chuyện gì thế?"
Kỷ Ông Tập: "Trong buổi gia yến đêm giao thừa trong cung, giữa ba vị hoàng tử, Thánh thượng chọn ai cũng được, nhưng ngài chỉ chọn đúng Nhị hoàng tử Triệu Thượng."
Chu Tử Thư sửng sốt, cậu tập trung tinh thần cao độ, lắng nghe Kỷ Ông Tập nói.
Kỷ Ông Tập than thở: "Là ngẫu nhiên chọn lấy một người đóng vai kẻ vô tội nhất, hay phải chăng vì Nhị hoàng tử là con cả? Con cả, gợi cho Thánh thượng nhớ đến người kia, người đã khiến lòng ngài mang nỗi hổ thẹn. Phải chăng vì thế mà ngài chọn cậu ta?"
Kỷ Ông Tập dừng lời, thảng thốt: "Chết, lão phu lại nói linh ta linh tinh rồi. Xin Đức Chiêm huynh chớ cười chê, từ hồi bị yêu tăng mê hoặc đến giờ, ta cứ hay nói những điều kì quặc, huynh không được để bụng đâu nhé."
CungThuyên: "Dĩ nhiên là không rồi, mà vừa nãy Trùng Minh huynh nói gì ấy nhỉ?"
Chu Tử Thư: "Kỷ đại nhân chưa nói gì hết ạ."
Kỷ Ông Tập và CungThuyên cùng nhau nhìn Chu Tử Thư bằng ánh mắt tán thưởng. Chu Tử Thư cụp mắt xuống, thái độ rất bình tĩnh.
Kỷ Ông Tập bật cười, ông chỉ vào bộ quan bào trên người Chu Tử Thư: "Cứ tưởng Đường đại nhân cũng phải mặc áo đen cơ đấy." Mí mắt Chu Tử Thư giựt một cái.
CungThuyên: "Hà hà hà, bọn trẻ tự có phúc phần của chúng nó. Trùng
Minh huynh, sau này ắt còn dịp tái ngộ. Giờ thì xin cáo từ!"
"Cáo từ!"
||
Manh: Làm chương này nhiều lúc thấy thiếu thốn từ ngữ ghê gớm. Chắc edit xong Sơn Hà phải nghỉ một thời gian để tu luyện thêm :)) Theme mới mọi người thấy sao? Chữ có bị khó đọc không?
Về các hoàng tử thì có một bug hơi nghiêm trọng. Chương 90 Mạc Thần Hoan viết trên Triệu Thượng còn Đại hoàng tử Triệu Kính, nhưng đến các chương về sau thì Triệu Kính thành Tứ hoàng tử, vì thế nên Triệu Thượng mới thành "trưởng tử" như chương này bàn đến.
Chú thích
------oOo------
Chương 137
Nguồn: EbookTruyen.Net
Vụt hóa thành phật
Khi mặt trời lặn nơi chân trời phía Tây, Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân khoác trên mình bộ đạo bào bát quái tiên phong đạo cốt, cầm cây phất trần tiến vào hoàng cung. Theo hầu y là hai tên tiểu đồ đệ. Đêm xảy ra cung biến, tức mùng bảy tháng Giêng, Lý Tiêu Nhân bị ốm nằm nhà nên không có mặt trong cung, người túc trực ở đài Đăng Tiên là hai tiểu đồ đệ của y.
Giờ Lý Tiêu Nhân đã khỏi bệnh. Được hoàng đế triệu kiến, y nghênh ngang đắc ý đi vào cung.
Trái lại, hai tiểu đồ đệ của y cứ thấp tha thấp thỏm, cúi gằm cả mặt xuống. Rốt lại thì kẻ co ro cúm rúm, run như cầy sấy trong đài Đăng Tiên suốt cả đêm trước là bọn chúng chứ nào phải Lý Tiêu Nhân? Trải qua biến cố kinh hoàng ấy, còn ai không thấm thía sự khủng khiếp của hoàng cung? Đêm đó, nếu quân Ngự Lâm xông vào đài Đăng Tiên băm vằm hai tên đạo sĩ, khéo cũng chẳng có hai kêu oan giùm cho chúng.
Khi Lý Tiêu Nhân đến đài Đăng Tiên, Đại Thái giám Quý Phúc đã chờ sẵn ngoài điện.
Thấy Quý Phúc, Lý Tiêu Nhân vội vàng đi tới, cười nhũn nhặn: "Quý công công."
Quý Phúc mỉm cười đáp: "Lý đại nhân. Gần đây quan gia nhiều chuyện phiền lòng lắm đấy, ông hãy cẩn thận."
Lý Tiêu Nhân: "Cảm ơn Quý công công đã nhắc nhở." Nói đoạn, y bước vào đài Đăng Tiên.
Một canh giờ sau, Lý Tiêu Nhân đi ra từ đài Đăng Tiên. Y thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy sao mà khoan khoái thế, mặt mũi sáng bừng lên. Sau nguyên một năm bị hòa thượng Thiện Thính lấn lướt, giờ Thiện Thính đã bị hoàng đế chém đầu thị chúng, hoàng đế bỏ Phật về với Đạo, cuối cùng kẻ chiến thắng vẫn là y – Lý Tiêu Nhân.
Lý Tiêu Nhân đang phấn khởi, bèn sai đồ đệ tặng Quý Phúc mấy lá vàng, giọng ngọt xớt: "Từ mai, hạ quan sẽ tiếp tục đến đài Đăng Tiên mỗi ngày. Quý công công hầu bệ hạ có công to lắm đấy, phải chú ý sức khỏe."
Quý Phúc điềm nhiên nhận lá vàng, mỉm cười nói: "Lý đại nhân cũng giữ sức khỏe nhé."
Lý Tiêu Nhân dẫn đồ đệ rời khỏi đài Đăng Tiên, bước chân phơi phới, hởi lòng hởi dạ.
"Đúng là cái đồ tiểu nhân đắc chí."
Quý Phúc quay lại nhìn con nuôi, cau mày: "Mày vừa nói đó hả?"
Tiểu thái giám Tạ Bảo cúi đầu ấm ức: "Vâng, nhưng con có nói sai đâu?"
Quý Phúc: "Mày ấy, liệu mà giữ mồm giữ miệng, chỗ này không đến lượt mày chõ vào đâu."
Tạ Bảo khúm núm dạ vâng, bị Quý Phúc đuổi về hậu cung làm việc. Nhưng dõi theo bóng lưng Lý Tiêu Nhân và hai tên tiểu đạo sĩ, đâu phải Quý Phúc không cảm thấy thế đạo bây giờ chỉ tổ béo lũ tiểu nhân?
Lý Tiêu Nhân đúng là đồ ngu tận mạng! Phải dốt nát đến mức nào mới có thể chắc mẩm Triệu Phụ là vị hoàng đế một lòng tu Đạo kia chứ?
Triệu Phụ cả đời không tin vào thần, không tin vào Phật, chỉ tin bản thân mình thôi!
Sau trận cung biến tháng giêng, Quý Phúc bỗng thấy hiểu Triệu Phụ hơn chút ít. Hôm Triệu Phụ triệu kiến Kỷ Ông Tập, lão canh ở ngoài cửa theo lệnh Triệu Phụ nên đã nghe không sót một lời nào cuộc nói chuyện giữa hai người. Kỷ tướng đánh giá Triệu Phụ là một vị vua sáng suốt nhưng cực kì vị kỉ; song Quý Phúc lại nghĩ, từ vị kỷ đã không còn đủ để mô tả Triệu Phụ nữa rồi. Hơn sáu mươi năm nay, ông ta không hề biết đến ai khác ngoài chính bản thân mình!
Là người đi theo Triệu Phụ hơn năm mươi năm, Quý Phúc bỗng thấy rét run trong dạ.
Tạ Bảo cảm thấy Lý Tiêu Nhân là đồ tiểu nhân đắc chí, là bởi gã bất bình trước cái chết oan uổng của Thiện Thính. Khác hẳn với đồ đạo sĩ chỉ biết phỉnh phờ, Thiện Thính là người bình dị, thân thiện, trước nay không bao giờ dùng đủ mọi cách để nịnh bợ đám quý tộc quan to, cũng không chăm chăm lấy lòng Quý Phúc rồi phớt lờ các thái giám khác. Thiện Thính có quan hệ tốt với các thái giám cấp thấp, được bọn cung nhân, hoạn quan vô cùng mến mộ.
"Phật độ người có duyên. Ông muốn độ bệ hạ của chúng ta, nhưng pháp lực của ông có hạn, không độ nổi!" Quý Phúc cảm khái. Có lẽ trên đời này, người cuối cùng tiếc thương cho hòa thượng Thiện Thính chính là lão ta.
Tan làm, Chu Tử Thư về tới nhà thì thấy Đường Hoàng đang mô tả hết sức sống động cho Diêu đại nương và Phụng Bút nghe.
"... Đại hòa thượng chắp hai tay trước ngực thành ấn, quỳ ở chính giữa pháp trường tụng kinh Thiền. Điều kì diệu nhất là khi ông ấy bắt đầu tụng kinh thì đao phủ ngây ra như phỗng, dân chúng vây quanh pháp trường cũng im phăng phắc – tất cả mọi người đều lắng nghe ông ấy đọc kinh. Ông đọc đến đâu, hoa sen mọc trên đất đến đó, nở ào ào khắp cả pháp trường."
"Sao em không kể rằng ông ấy mở miệng phun ra một đóa sen vàng rồi hóa Phật ngay tức thì?"
Đường Hoàng ngoái đầu lại thì thấy Chu Tử Thư, cô nhóc tá hỏa: "Thật hay giả đấy anh? Đại hòa thượng đó nhả sen vàng, hóa thành Phật ngay hở?"
Chu Tử Thư: "..."
"Đương nhiên là giả rồi! Em nghe mấy chuyện lạ lùng đấy ở đâu thế? Khi hành hình, hai tay phạm nhân bị xích quặt ra sau lưng, làm sao mà chắp tay trước ngực được? Đến đúng giờ là người ta hành hình ngay, không được dừng lại dù chỉ tích tắc, đao phủ trái lệnh kiểu gì? Anh đã bảo em rồi mà, chớ có nghe lắm những lời đồn thổi, toàn là bịa đặt đấy."
Diêu đại nương: "Ồ, hóa ra là bịa đặt, tôi cứ tưởng ông hòa thượng đó có phép màu thật."
Chu Tử Thư đến cạn lời.
Dân chúng không biết đầu đuôi vụ cung biến tháng Giêng nên đều tưởng là yêu tăng hại nước. Kì thực không chỉ có người dân mà rất nhiều quan kinh thành cũng không rõ chân tướng. Người dân thì đem chuyện này ra để kháo nhau những lúc trà dư tửu hậu, thêu dệt thành mấy phiên bản khác nhau. Ngay đến lầu Tế Hà của Đường gia cũng bắt đầu kể một câu chuyện chí quái về đạo sĩ hàng phục yêu tăng.
Gần qua tháng Hai, Chu Tử Thư vào cung theo lệnh của Triệu Phụ.
Triệu Phụ đã trở về với phong thái mọi khi, ngự trên ngai rồng phê duyệt tấu chương. Quý Phúc dẫn Chu Tử Thư vào điện Thùy Củng. Triệu Phụ để quyển tấu xuống, ngẩng đầu nhìn cậu, cười: "Hình như lâu lắm rồi trẫm không gặp Cảnh Tắc nhỉ."
Chu Tử Thư vái chào: "Thần bái kiến bệ hạ."
Triệu Phụ vẫy cậu: "Lại đây rồi nói." Chu Tử Thư bước hai bước lại gần.
Triệu Phụ xuýt xoa: "Trông vẫn hệt như trước, trẻ trung phơi phới, phong nhã hào hoa. Còn trẫm đây đã già rồi." Giờ thì như thói quen, Chu Tử Thư đã chuẩn bị sẵn một câu nịnh vua, nhưng Triệu Phụ vẫn nói tiếp chứ không để cậu cất lời: "Thời gian của trẫm không còn nhiêu, song việc muốn làm thì chưa đâu vào đâu cả. Cảnh Tắc à, sư huynh của ngươi lên U Châu đã lâu, tình hình dạo này thế nào?"
Tình hình CungTử Phong gần đây e Chu Tử Thư chẳng rõ bằng Triệu Phụ.
Chu Tử Thư: "Đã lâu rồi thần không gặp sư huynh, song tính sư huynh tỉ mỉ chu đáo, đến U Châu chắc chắn sẽ làm một nên mười."
Triệu Phụ cười ha hả: "Ngươi hãy đến U Châu giúp Tử Phong một tay đi!"
Chu Tử Thư quá đỗi ngạc nhiên, song ngoài mặt cậu vẫn điềm tĩnh thưa: "Thần tuân lệnh."
Triệu Phụ: "Mong rằng trước lúc nhắm mắt xuôi tay, trẫm có thể thấy những nguyện vọng của trẫm thành hiện thực!"
Chu Tử Thư ngầm hiểu Triệu Phụ sai mình đến U Châu không chỉ để giúp Cung Tuấn giải quyết công việc ở ty Ngân Dẫn mà chủ yếu là vì nước Liêu.
Đại Tống dựng nước đã hơn một trăm năm nay, trải chín đời hoàng đế. Khi Tống Tuần Tông ở ngôi, hai nước Tống, Liêu giao chiến mấy năm liền, cuối cùng Đại Tống thảm bại, phải cắt đất, nhường hai mươi mốt vạn khoảnh1 đất miền Tây Bắc cho nước Liêu, hàng năm cống nộp. Đến thời tiên đế thì Đại Tống dốc hết binh lực tử chiến với Liêu, bấy giờ mới miễn được việc cống nạp.
[1] Đơn vịđo diện tích cổ
Sau khi Khai Bình hoàng đế lên ngôi, Đại Tống tiếp tục chiến tranh với Liêu mười năm, cuối cùng đã giành lại được ba phủ U Châu. Tuy nhiên, vẫn còn chín vạn khoảnh đất Tống bị người Liêu chiếm cứ.
Làm hoàng đế mà đạt thành tựu như Triệu Phụ là đã đủ vang danh sử sách rồi, nhưng ông ta vẫn chưa thỏa mãn. Điều ông ta muốn, là trở thành một đấng minh quân chân chính.
Chu Tử Thư ra khỏi điện Thùy Củng, đi thẳng sang Ngự sử đài. Cậu phải chuẩn bị đi U Châu.
Cậu không hề phát hiện ra rằng, khi mình vừa mới bước chân ra khỏi cổng chính điện Thùy Củng thì trên một nẻo đường khác trong cung, có một người mặc quan bào nhị phẩm đỏ thẫm đi tới. Hai người không chạm mặt nhau, nhưng người kia đã nhìn thấy Chu Tử Thư. Dư Triều Sinh dừng bước, tiểu thái giám dẫn đường cho anh ta quay lại hỏi: "Dư tướng công?" Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh nói: "Không có việc gì, đi tiếp thôi."
Không bao lâu sau, Dư Triều Sinh vào điện Thùy Củng diện kiến Triệu Phụ.
Đến trưa, Dư Thượng thư về điện Cần Chính để gặp thầy mình là Tả tướng hiện giờ – Từ Bí.
Sau khi Kỷ Ông Tập bị tước chức quan, không ai ngờ người thay ông giữ ghế Tả tướng của điện Cần Chính không phải là Hữu tướng CungThuyên, mà là Hữu thừa Từ Bí – nhân vật mờ nhạt nhất. Từ Bí đang ngồi ngay ngắn trong gian nhà mà Kỷ Ông Tập từng làm việc, thảo luận với Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng. Thấy Dư Triều Sinh đến, Mạnh Lãng nói: "Xin phép không quấy rầy thầy trò Từ tướng công và Dư đại nhân họp mặt." Đoạn đứng dậy cáo từ.
Mạnh Lãng đi rồi, Từ Bí và Dư Triều Sinh ngồi với nhau trên ghế La Hán cùng thưởng thức trà, nhẹ nhàng nhấp một hớp.
Dư Triều Sinh buông chén: "Tuy đã nửa tháng trôi qua, nhưng học trò vẫn cảm thấy như chưa tỉnh mộng."
Từ Bí: "Mộng kiểu gì?"
Dư Triều Sinh: "Nhắc đến lại thấy xấu hổ, đáng cười lắm, học trò không dám kể cho tiên sinh nghe đâu. Chỉ có điều cuộc cung biến tháng Giêng này có quá nhiều chuyện như ngắm hoa giữa mây mù, đến bây giờ học trò vẫn chưa hiểu thấu đáo."
"Con còn điều chi chưa rõ?"
Dư Triều Sinh kể hết cho ông nghe: "... Tuy chưa rõ, nhưng trước giờ học trò vẫn tuân theo lời dạy bảo của tiên sinh. Không cần hiểu và cũng không cần biết đến chân tơ kẽ tóc tất cả mọi chuyện, ấy mới là cách người khôn giữ mình. Thế nên, học trò cũng không tò mò."
"Không tò mò thật chứ?"
Dư Triều Sinh lắc đầu: "Quả thật là không tò mò ạ."
Từ Bí cười: "Con ấy à, mười năm rồi mà chẳng hề đổi tính, cứ như cây du không gì lay chuyển được."
Dư Triều Sinh chỉ cười mà không đáp.
Kì thực, làm gì có chuyện không tò mò kia chứ? Nhưng Dư Triều Sinh hiểu quá rõ rằng trên đời này ai càng biết lắm càng mau chầu trời. Nhất là khi vị hoàng đế hiện giờ không phải thứ vua bù nhìn mặc người thao túng. Có Kỷ tướng là vết xe đổ ngay kia; chính vì nhìn thấu suốt mọi điều nên ông mới có kết cục ngày hôm nay. Dư Triều Sinh không rõ Kỷ tướng đã biết những gì, nhưng anh ta biết mình tuyệt đối không muốn đào sâu vào cái điều mà Kỷ tướng đã biết.
Dư Triều Sinh: "Hôm nay học trò lại bắt gặp Đường Cảnh Tắc trước điện
Thùy Củng."
Từ Bí kinh ngạc: "Lại gặp à?"
"Vâng, đúng lúc học trò nhận chỉ vào cung diện thánh thì Đường đại nhân đi từ trong điện Thùy Củng ra. Nhưng lúc đó cậu ấy không thấy con, chỉ có con nhìn thấy cậu ấy thôi." Cảm xúc này thật khó diễn tả, Dư Triều Sinh nói, "Con và Đường đại nhân cứ như có mối duyên ngầm không thể lí giải vậy. Học trò chưa bao giờ tin đạo Phật, nhưng vì đang là Thượng thư bộ Hình, nên mấy ngày trước, chính học trò đã giám sát vụ xử trảm Thiện Thính. Dưới cái nắng chói chang, Thiện Thính không hề hoảng loạn ngay cả khi bị đè xuống bệ đá, ông ta vẫn tụng kinh như thường. Khi đó, học trò bỗng có cảm giác mình đã trông thấy Đức Phật."
Từ Bí nói đầy thâm ý: "Thiện Thính quả là không tầm thường."
Dư Triều Sinh: "Tiên sinh?"
"Một năm về trước, khi hắn mới vào cung, lão phu đã gặp hắn ở đài Đăng Tiên một lần. Khi đó, lão phu có hàn huyên với hắn mấy câu, rồi được nghe chính miệng hắn nói rằng từ lâu, hắn đã biết có lẽ mình không thể bước chân ra khỏi hoàng cung."
"Ông ta lường trước được chuyện của một năm sau ư?"
"Chưa hẳn, song đầu óc hắn sáng suốt lắm, chỉ liếc mắt là tỏ tường lòng dạ bệ hạ chúng ta!"
Rốt cuộc, ai mới là người hiểu Triệu Phụ nhất trần đời?
Kỷ Ông Tập?
Thiện Thính?
Từ Bí thản nhiên nhấp một ngụm trà.
||Chú thích
Chỗ này dùng cụm一代明君 – nhất đại minh quân, có vẻ dùng để chỉ những bậc vua chúa hiền minh vượt xa những vị vua khác.
Chỗ này dùng 榆木性子 – du mộc tính tử. Tui tra thấy gỗ du rất cứng nên đoán là ví người thẳng tính và khá kiên trì với quan điểm, lối sống của mình (?)
------oOo------
Chương 138
Nguồn: EbookTruyen.Net
Di sản
Nước Liêu, Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ.
Đúng dịp mừng thọ vua Liêu, khắp chốn Thượng Kinh đèn hoa rực rỡ, bách tính cùng chúc thọ nhà vua. Người Liêu không có quá nhiều quy củ, lễ nghi; trong lễ mừng thọ, vua Liêu sẽ đi từ cổng Đông thành sang cổng Tây thành, ban thưởng một vạn chén rượu cho dân chúng, gọi là "chung vui với người dân". Thế nên, vào dịp sinh nhật của vua Liêu, người dân nước Liêu ai nấy đều háo hức ùa ra phố phường để ngóng xem ngự liễn của hoàng đế.
Tuy nói là ngự liễn của hoàng đế, nhưng người ngồi trên xe chưa chắc đã là hoàng đế nước Liêu. Năm ngoái vào dịp mừng thọ vua Liêu, Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca đã thay mặt vua cha diễu hành, còn năm nay thì đến lượt Tam hoàng tử Gia Luật Hàm ngồi xa giá. Hắn giơ cao vò rượu, phanh hai vạt áo đầy hào sảng, cười vang với tướng quân hộ vệ: "Uống nào, không say không về!"
Cuộc diễu hành vạn chén rượu đầy khí thế đi vòng quanh Thượng Kinh suốt ba canh giờ, cuối cùng cũng kết thúc.
Trước vua Liêu, Gia Luật Hàm nâng cao vò rượu vạn dân mà bách tính dâng tặng đức vua: "Phụ hoàng, đây là lòng tôn kính của con dân thiên hạ với Người!"
Vua Liêu cười sang sảng, uống cạn vò rượu vạn dân trong một hơi.
Sau đó, tiệc mừng thọ của vua Liêu chính thức bắt đầu.
Tam hoàng tử Gia Luật Hàm đang là gương mặt vàng trong triều đình nước Liêu, thầy của hắn chính là Cungtử Thái sư Gia Luật Định. Tuy năm ngoái, Thái bảo Gia Luật Ẩn đã bị hạ ngục vì ám sát Gia Luật Cần, nhưng phe phái Tam hoàng tử vẫn vững mạnh như trước, bởi chỉ cần mình Gia Luật Định là đủ để giữ yên đại cục.
Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca ngồi trên bàn rượu, nhấc vò uống rượu như bao quan viên người Liêu khác. Y nhíu mày, đặt vò rượu sang bên cạnh. Gia Luật Cần ghé lại hỏi: "Điện hạ không thích vò Thiêu Diệp này ư? Hạ quan đổi cho ngài vò khác nhé."
Gia Luật Xá Ca: "Không cần."
Vò rượu này nào phải điều làm y gai mắt. Thứ y ghét chính là cái kiểu nốc rượu ào ào, tay trần xé thịt của người Liêu trong buổi thọ yến này. Ngay cả vua Liêu tôn quý cũng bê vò tu ừng ực, để rượu rớt đầy ra vạt áo.
Ba tháng trước, Gia Luật Xá Ca vội vàng rời khỏi kinh đô nước Tống, trở về Nam Kinh Tích Tân phủ. Quả nhiên, không ngoài sở liệu của y, ngay ngày hôm sau, người của Cungtử Thái sư Gia Luật Định từ Thượng Kinh đã đến. Bề ngoài thì nói là Thái sư có việc cần bàn bạc với y, nhưng thực chất chúng muốn kiểm tra xem y còn ở phủ Tích Tân không.
Gia Luật Xá Ca quay về kịp thời nên đã hóa giải được mối nguy.
Sau khi thân chinh đến Đại Tống, Gia Luật Xá Ca bỗng cảm thấy so bề hung hiểm, triều đình của người Tống quả thật kém xa triều đình nước Liêu bọn họ. Người Tống uyển chuyển khéo léo, vua Tống đớn hèn bạc nhược. Vả lại, Khai Bình hoàng đế bệnh tật dai dẳng, e là chẳng còn sống được mấy. Còn nước Liêu bọn y thì sao?
Vua Liêu xông pha trận mạc thời trẻ nên về già đâm ốm đau và cũng không còn nhanh nhẹn. Nhưng lạc đà gầy còn hơn ngựa béo, vua Liêu giết người cực kì tàn nhẫn. Ông ta chẳng cần hiểu sự lắt léo trong chốn quan trường, thế mà không người Liêu nào dám xúc phạm oai nghiêm của Thiên tử, kể cả Cungtử Thái sư Gia Luật Định.
Có thể ví vua Liêu như con mãnh hổ thiêm thiếp giấc nồng, còn Cungtử Thái sư là con rắn độc cuốn mình trên cành cây.
Tuy họ đối lập với nhau, nhưng giữa hai người chưa chắc đã có sự xung đột về lợi ích. Nếu buộc phải phân định rạch ròi, thì Thái sư ủng hộ Tam hoàng tử Gia Luật Hàm và muốn lập gã làm Thái tử; còn vua Liêu tuy không nói ra, nhưng ông ta nghiêng về phía Gia Luật Xá Ca, cực kì yêu thích đứa con thứ có xuất thân bình thường này.
"Xá Ca, tháng sau con hãy theo trẫm đi săn ở Nam Sơn để trẫm kiểm tra xem con có chểnh mảng thuật bắn cung cưỡi ngựa không nhé!"
Gia Luật Xá Ca định thần, đứng dậy đập nắm đấm lên ngực hành lễ, thưa: "Con nhất định sẽ bắn hạ hùng ưng dâng tặng phụ hoàng, coi như quà mừng muộn."
Vua Liêu cười sảng khoái.
Hạ tuần tháng Hai, xuân sang, hơi thở mùa xuân rộn rực trên hầu khắp lãnh thổ Đại Tống. Chu Tử Thư lên miền Bắc một mình bằng xe ngựa, nhằm hướng Tây mà đi. Đáng lẽ cứ mỗi ngày trôi qua thì thời tiết phải ấm dần, nhưng càng lên phía Bắc, khí hậu càng thêm lạnh giá. Cuối cùng, vào ngày thứ tám, cỗ xe ngựa lúc lắc tiến vào phạm vi mười dặm ngoài thành U Châu.
Tuyết rơi lả tả từ trên không trung, phủ lên mặt đất một tấm áo màu bạc .
Chu Tử Thư ngồi trong xe ngựa, ôm chiếc lò sưởi con, giở một quyển thơ ra đọc. Giữa lúc ấy, quan sai đánh xe nói với cậu: "Đại nhân, hình như có người đợi chúng ta ở đằng trước."
Chu Tử Thư vén rèm xe lên. Cách thành một cây số, đúng là có vài người đang đứng bên ngoài một ngôi đình nhỏ.
U Châu khác với các thành trì khác của Đại Tống ở chỗ hiếm người vãng lai. Nếu có người chờ ở đình Thập Lý ngoài thành thì khá chắc là họ đến đón mình. Chu Tử Thư nói: "Hẳn các quan U Châu biết ta sắp tới nên đón ta ở đây. Đến gần đình, ngươi hãy đỗ xe lại bên cạnh."
"Vâng."
Chu Tử Thư cất tập thơ vào ngăn kéo trên xe, chỉnh áo bào rồi xuống xe ngựa. Vừa xuống xe, gió lạnh thấu xương đã thốc thẳng vào mặt cậu. Chu Tử Thư rét run cả người. Cậu ngẩng đầu nhìn nhóm người đang đợi ngoài đình, liền thấy ngay Phủ doãn U Châu Quý Triệu Tư.
Nhưng ánh mắt của Chu Tử Thư bỏ qua Quý Triệu Tư tức thì để ngó sang người đứng sau ông ta.
Trái tim rung lên mãnh liệt, Chu Tử Thư lặng ngắm Cung Tuấn hồi lâu rồi mới nói: "Hạ quan Chu Tử Thư bái kiến Tả bộc xạ đại nhân."
Cung Tuấn khoác áo hồ cừu trắng muốt, đôi mắt chàng nhìn cậu sáng ngời. Chỉ một ánh mắt thôi là đủ để họ hiểu lòng nhau tức thì. Cung Tuấn thong thả giơ tay: "Không cần đa lễ... Khụ khụ."
Chu Tử Thư vội hỏi: "Sư huynh bị ốm à?"
Cậu nóng ruột đến mức quên cả gọi đại nhân mà gọi thẳng sư huynh luôn.
Cung Tuấn ho húng hắng mất một lúc, Tần Tự giải thích: "Mấy hôm vừa rồi đại nhân thức đêm làm việc nên chẳng may nhiễm phong hàn. Hôm qua ngài bắt đầu ốm, bệnh tuy nhẹ nhưng triệu chứng khá dồn dập, thành ra trông hơi nghiêm trọng." Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm.
Mọi người cùng nhau về thành U Châu.
Vì CungTử Phong bị ốm nên kế hoạch mở tiệc chiêu đãi Chu Tử Thư của Quý Triệu Tư đành phải gác lại cho Cung Tuấn về nghỉ sớm. Chu Tử Thư dìu Cung Tuấn, đưa chàng về nơi ở của hai người tại U Châu. Tòa dinh thự này do Phủ doãn U Châu Quý Triệu Tư chuẩn bị riêng cho họ. U Châu là nơi ty Ngân dẫn được thành lập, làm gì có chuyện thiếu chỗ nghỉ chân cho người đứng đầu ty?
Quý Triệu Tư cho xe ngựa chở Chu Tử Thư và Cung Tuấn về tòa dinh thự. Ông ta nói: "U Châu không có phủ của Đường đại nhân, đại nhân đến gấp quá nên hạ quan chưa kịp thu xếp. Để qua mấy hôm nữa, hạ quan sẽ lo liệu thỏa đáng."
Đương nhiên, Chu Tử Thư đáp: "Không cần đâu, ta ít khi đến U Châu, ở cùng với Cungđại nhân là được." Quý Triệu Tư chẳng nghĩ sâu xa: "Vâng."
Chu Tử Thư đỡ Cung Tuấn đi vào nhà. Ống tay áo rộng rãi che đi đôi bàn tay họ, CungTử Phong tiện thể nắm chặt tay Chu Tử Thư, mười ngón tay quấn quýt lấy nhau. Chu Tử Thư ngây ra, cậu chưa kịp phản ứng, CungTử Phong đã ngả đầu lên vai cậu.
Cungđại nhân khe khẽ gọi: "Cảnh Tắc ơi..."
Chu Tử Thư: "...?"
"Cảnh Tắc..."
"Em đây."
"Ta sắp xong đời rồi."
"... Hả?"
Cungđại nhân nói: "Đôi mình vẫn chưa thành hôn, nếu ta đi trước, em sẽ chẳng được hưởng chút di sản nào của ta mất. Tài sản của ta nhiều lắm đó. Có đến ba tòa nhà ở Thịnh Kinh này; rồi Thịnh Kinh, Bắc Trực Lệ, Nam Trực Lệ, chỗ nào cũng có ba cửa hiệu nữa. Thật ra ở Cô Tô quê em ta cũng sở hữu một phường nhuộm và một hiệu vải, rồi cả Kim Lăng – đại bản doanh của nhà họ Vương, phần lớn tài sản của ta đều ở đó..."
Chu Tử Thư tròn mắt, miệng há hốc: "Huynh làm Thượng thư bộ Hộ mà tham ô khiếp thế cơ à!?"
Cung Tuấn: "Tham ô? Sao em lại nghĩ oan cho ta như thế? Quá nửa chỗ đó là của hồi môn của mẹ chồng em đấy... Khụ khụ, em nỡ lòng nào đánh ta, ta đang ốm cơ mà."
"Thế thì huynh nói hẳn hoi đi nào!"
Cung Tuấn nhoẻn cười, dựa cả người lên Chu Tử Thư, nói: "Mẫu thân ta chỉ có mỗi một cậu con trai, của hồi môn của mẹ đương nhiên thuộc về ta, rồi sau này cũng là của em hết mà. Em chưa nghe ta kể hết đâu, ở phủ Kim Lăng ấy, em biết sông Tần Hoài không?"
Chu Tử Thư hoảng hồn: "Huynh đừng bảo sông Tần Hoài cũng là tài sản của huynh đấy nhé!"
Cung Tuấn phì cười: "Sông Tần Hoài là đất đai Đại Tống chúng mình, đâu thể thuộc về riêng ta chứ. Nhưng mà ở bến Tần Hoài có hai tửu lầu kiếm bộn nhất thì đều là của ta."
"Ca nữ cũng là của huynh hử?"
Cung Tuấn sung sướng nói: "Nếu ta bảo ta sở hữu mấy chiếc thuyền hoa thật, em có giận không?"
"Không giận."
"Ừ, đúng là có mấy chiếc... Úi, tiểu sư đệ!"
Chu Tử Thư đẩy chàng ra, sải bước đi vào phòng.
Cung Tuấn lập tức đuổi theo, tủi thân ghê gớm: "Chính em bảo là không giận kia mà."
Chu Tử Thư ngó chàng: "Đương nhiên ta chẳng giận huynh, có gì để mà tức đâu? Huynh sở hữu đến mấy chiếc thuyền hoa thì đã làm sao, huynh thích con gái à?"
Cung Tuấn ôm chầm lấy cậu, cười hì hì: "Em nói ta thế là ta đau lòng lắm nhớ."
Chu Tử Thư nghĩ thầm: Ta thấy huynh đang vui ơi là vui kia, tưởng ta ghen chứ gì!
Thực tình Chu Tử Thư chẳng ghen chút nào, nếu CungTử Phong có thể thích bừa mấy cô ca nữ thì lấy đâu ra chuyện hai mươi chín tuổi đầu còn chưa có người yêu? Chẳng qua cậu đang trầm trồ trong bụng rằng ôi cái đồ đại gia, đúng là không có gì ngoài điều kiện! Cậu trầy trật kiếm tiền từ Hậu cần Đường thị đến lầu Tế Hà, mãi đến lúc mở Bách Bảo Các mới dám nhận là xông xênh. Ai biết đâu người ta sinh ra ở vạch đích, chỉ thừa kế của hồi môn đã giàu vật giàu vã?
Chu Tử Thư im im một chốc mới bảo: "Hồi trước ta từng cho huynh cổ phần Bách Bảo Các."
Cung Tuấn chân thành khen: "Cảnh Tắc kiếm tiền giỏi lắm luôn, Bách Bảo Các nho nhỏ thế thôi mà tiền lãi một năm chẳng kém các cửa hàng của ta cộng lại là bao."
Chu Tử Thư đang muốn bảo "Huynh giàu sụ thế thì trả phứt cổ phần cho ta đi", ngờ đâu lại được khen nức nở. Cậu ngẩn người, hết dám nói câu kia.
Cung Tuấn: "Quay lại chủ đề chính nào. Cảnh Tắc à, ta sắp xong đời thật rồi." Nói đoạn chàng lại tì lên vai Chu Tử Thư, "Nếu ta qua đời, tài sản của ta sẽ chẳng được chia cho em chút nào cả. Không thể thế được... Ta nhớ em còn một người anh họ đằng ngoại phải không?" Chu Tử Thư: "? Ta chỉ có một đứa em gái thôi."
"Không phải Đường Hoàng, ta đang bảo anh họ của em ở phủ Cô Tô kia."
"Huynh nói Đường Vân ấy hả, anh ta ở đằng nội cơ, đằng ngoại ta không có anh chị em họ. Mẹ ta là con một."
Cung Tuấn nhíu mày, rồi chàng nói tiếp ngay: "Về cơ bản cũng không khác gì. Cứ chiếu theo phép tắc thân tộc, nếu ta mất, em phải nhờ cậu ta thay em đòi hết tài sản của ta từ Lang Gia Cungthị. Mà để được như vậy thì em phải nói trước với anh họ em rằng, em chính là người vợ dấu yêu của ta... Khụ khụ."
Chu Tử Thư lại ủn chàng ra: "Không phải huynh đang ốm à!"
Cung Tuấn: "Phải, ta bị ốm đấy, ốm nặng lắm luôn."
Chu Tử Thư: "..."
Coi huynh ngấm ngầm toan tính thế kia chả giống ốm đau tẹo nào!
"Em có biết vì sao ta lại ốm không?"
"Tần Tự bảo huynh thức đêm làm việc hở?"
Cung Tuấn dịu dàng ôm lấy Chu Tử Thư. Chàng định hôn lên môi cậu, nhưng rồi nhớ ra mình đang bệnh, sợ lây sang cho Chu Tử Thư nên đành thôi. Chàng cười rất trầm, giọng chàng dịu êm, ấm áp và hơi khàn: "Em đến đây, tất nhiên ta phải cố giải quyết cho xong thật nhiều việc rồi. Như thế lúc em tới, chúng mình mới có nhiều thì giờ để sum vầy bên nhau chứ. Ba tháng rồi chưa gặp, ta thèm được hôn em lắm đó."
Chu Tử Thư ngước nhìn chàng, hé môi: "Sư huynh..." Cung Tuấn: "Nhưng sợ em lại ốm theo, thôi thì đành nhịn vậy." Chu Tử Thư càng xúc động hơn.
Hiếm hoi lắm Cungđại nhân mới vào vai yếu thế, đâu thể khiến mỗi mình mình cảm động được? Chuyện bán buôn lỗ vốn kiểu ấy không đời nào có đâu.
Ôm sư đệ nhà mình, Cungđại nhân cảm thấy mình quả là bậc chính nhân quân tử trăm năm khó gặp, ngàn năm khó tìm.
||
Manh: Chỗ Manh đang toàn tuyết là tuyết, đẹp lắm mà hơm up vid cho mọi người coi được :))
Chú thích
Gốc: cẩu đại hộ – chữ "cẩu" na ná chữ "gold" (vàng). Ban đầu cụm này chỉ Ả Rập Xê Út – đất nước có quá nhiều tiền và rất chịu chi.
------oOo------
Chương 139
Nguồn: EbookTruyen.Net
Hưởng phúc mà không biết mình có phúc
Nhưng thật ra có một việc mà Chu Tử Thư đoán sai, ấy là CungTử Phong ốm nặng thật.
Vốn chàng đã nhiễm phong hàn từ trước, lại đánh liều đội gió đội tuyết ra ngoài thành đón cậu, thành ra tối đó Cung Tuấn sốt cao li bì. Chu Tử Thư vội vàng mời thầy thuốc đến kê đơn cho chàng, rồi trông cạnh giường từ tối hôm trước đến tối hôm sau.
Triệu Phụ chắc không tài nào tưởng tượng nổi, mình sai Chu Tử Thư đến U Châu để Chu Tử Thư đỡ đần công việc cho Cung Tuấn, đồng thời xúc tiến công việc bên nước Liêu, thế mà cuối cùng việc thì nguyên xi, CungTử Phong thì đổ bệnh vì Chu Tử Thư, còn Chu Tử Thư lại dồn hết tâm trí để chăm sóc chàng. Chẳng trách hậu thế cứ cấm yêu đương chốn công sở, quả đúng là hợp lí hợp tình.
Đêm thứ hai, Cung Tuấn bắt đầu hạ sốt từ từ. Sau cả một ngày đêm không chợp mắt, Chu Tử Thư đến giờ mới yên tâm, bèn nằm ghé vào giường thiếp đi.
Lúc tỉnh giấc, Cung Tuấn thấy sư đệ nhà mình đang gối lên tay mình, ngủ đến là say sưa.
Chàng không đánh thức Chu Tử Thư mà thích thú ngắm cậu mãi. Đến khi Chu Tử Thư tỉnh ngủ, cậu ngạc nhiên nhận ra Cung Tuấn đã dậy trước rồi.
Chu Tử Thư ngẩn ngơ giây lát, đoạn hỏi: "Huynh thấy sao rồi?"
"Ổn lắm."
Chu Tử Thư thở phào nhẹ nhõm: "Sư huynh dậy từ khi nào thế?"
"Tầm nửa canh giờ trước."
Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Dậy từ bấy đến giờ, sao huynh không đánh thức ta?"
Cung Tuấn hé môi, nhưng không nói gì hết.
Bình thường khi đùa với sư đệ nhà mình, chàng có bao giờ tiếc câu tiếc từ? Cứ hễ Chu Tử Thư giận dỗi hoặc lo lắng, chàng đều thấy dễ thương vô cùng, ấy vậy mà chàng chẳng thể cất lên những lời âu yếm thực thụ. Làm sao mới có thể ngỏ lời rằng, thấy em lo cho ta đến nỗi không ngủ được, ta hạnh phúc và sướng sung đến vô ngần?
Hồi lâu sau, Cung Tuấn mới bộc bạch: "Cảnh Tắc à, ta thật lòng yêu em nhiều lắm."
Trái tim Chu Tử Thư xuyến xao rạo rực, song cậu cũng thấy hơi lạ: "Sao bỗng dưng huynh lại nói câu này?"
Cung Tuấn: "Ta khát, tiểu sư đệ lấy cho ta chén nước được không?" Chu Tử Thư chẳng hiểu gì, nhưng vẫn đứng dậy lấy nước.
Vì sao bỗng dưng ta nói thế ư?
Bởi, sống trên đời ba mươi năm nay, ta chưa bao giờ nghĩ mình sẽ yêu ai nhiều đến vậy.
Tình nồng say kìm sao cho đặng? Muôn vàn lời khao khát tỏ bày, chung quy lắng đọng trong một câu: ta thật lòng yêu em nhiều lắm.
Dĩ nhiên, quấn quýt mặn nồng không thể thiếu, song Chu Tử Thư chưa quên mình đến U Châu để làm việc chứ không phải để yêu đương. Sau khi CungTử Phong khỏe lại, cậu liền tới ty Ngân Dẫn tìm gặp CungTiêu và Mai Thắng Trạch.
Năm ngoái, Chu Tử Thư điều hai người đến U Châu tiếp nhận nhiệm vụ ở ty Ngân Dẫn. Giờ sau nửa năm, bọn họ cũng yên ắng ổn định cuộc sống ở U Châu. Dưới vỏ bọc quan viên ty Ngân Dẫn, từ lâu họ đã bí mật móc nối với Kiều Cửu ở phủ Tích Tân và thường xuyên liên lạc. Hai bên hẹn nhau cứ nửa tháng liên lạc một lần, nếu có việc khẩn cấp, Kiều Cửu sẽ về U Châu bàn thảo với CungTiêu và Mai Thắng Trạch.
Thấy Chu Tử Thư tới, cả hai hết sức mừng rỡ.
Họ cùng đón Chu Tử Thư vào cửa.
"Mùa đông U Châu lạnh quá thể, sao Cảnh Tắc lại tới đây?" Mai Thắng Trạch vừa đưa lò sưởi cho Chu Tử Thư vừa hỏi. Tuy bậc quan của anh ta thấp hơn Chu Tử Thư, nhưng là bạn thân hồi đi học của nhau, giữa họ không có sự xa cách thái quá của cấp trên và cấp dưới.
CungTiêu không nói chuyện phiếm, anh ta khêu lửa trong chậu than, rồi kể hết cho Chu Tử Thư những tin tình báo mà Kiều Cửu vừa gửi về mấy hôm trước: "Đại nhân, ba ngày trước Kiều Cửu nhắn rằng vua Liêu chuẩn bị đến phủ Tích Tân săn thú. Đại thọ của vua Liêu vừa kết thúc; vì Cungtử Thái bảo Gia Luật Ẩn bị bãi chức nên phe Thái sư tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, phe Nhị hoàng tử cũng không chiếm được nhiều ưu thế, mấy tháng gần đây, Gia Luật Xá Ca thường xuyên bị Gia Luật Định chèn ép."
Mai Thắng Trạch cũng nói: "Nước Liêu không thể so được với Đại Tống, vua Liêu từng chinh chiến thời trẻ nên rất quân phiệt và độc đoán, nhất ngôn cửu đỉnh. Nhưng mười mấy năm qua, trong khi các bộ lạc khác ngày càng trở nên hùng mạnh thì vua Liêu, do nền tảng sức khỏe bị tổn hại từ trẻ, càng có tuổi càng không kham nổi việc triều chính. Liêu đế ngầm nhắm Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca làm người kế vị, nhưng Thái sư Gia Luật Định lại về phe Tam hoàng tử. Cuộc săn bắn ở phủ Tích Tân hiện giờ do Nhị hoàng tử chủ trì."
Chu Tử Thư khẽ gật đầu, hỏi: "Tình hình vua Liêu dạo này thế nào?" CungTiêu và Mai Thắng Trạch liếc nhau.
Chu Tử Thư nhíu mày: "Sức khỏe vua Liêu ngày một sa sút, việc này hai người đều biết. Gia Luật Định dẫu một tay che trời cũng không dám vượt mặt vua Liêu. Vua Liêu muốn Nhị hoàng tử nối ngôi, Tiêu Châm thuộc phe Nhị hoàng tử, coi như về phe nhà vua. Vua Liêu, chính là mục tiêu thực sự mà chúng ta đang tiếp cận."
CungTiêu nói: "Ta sẽ viết ngay mật thư, nhắn chuyện này cho Kiều Cửu." Ba người trao đổi thêm một lúc rồi mới nói sang chuyện gia đình.
Sau khi đến U Châu vào năm ngoái, CungTiêu đã ổn định cuộc sống ở đây. CungTiêu là họ hàng xa của Cung Tuấn; khi anh ta đến Ninh Châu giám sát việc xây quan đạo, Cung Tuấn đã cho CungTiêu một lá thư tiến cử. Nhờ đó, CungTiêu ở Ninh Châu như cá gặp nước. Bây giờ Cung Tuấn đến U Châu, CungTiêu đã viếng thăm từ lâu, cũng nghe tin Cung Tuấn bị ốm.
CungTiêu: "Sức khỏe Cungtướng công đã khá hơn chưa?"
Chu Tử Thư: "Sư huynh không còn gì đáng ngại rồi."
CungTiêu thở phào nhẹ nhõm: "Thế là hay nhất."
Mai Thắng Trạch nói: "Chắc Cảnh Tắc cũng biết, đệ ở Quốc Tử Giám không lâu nên không quá quen thân với các bác sĩ, còn ta và Từ Bác sĩ là chỗ quen biết cũ, Từ Bác sĩ trước giờ vẫn quan tâm đến ta. Mấy hôm trước ông ấy gửi thư cho ta kể chuyện Lưu Phóng."
Chu Tử Thư: "Lưu Phóng à?" Ngẫm một lát, cậu mới lục ra được cái tên này từ sâu trong kí ức.
Sáu năm trước, khi Chu Tử Thư còn đi học ở Quốc Tử Giám, Lưu Phóng là
Thái học sinh xuất chúng nhất trường. Vào lần Thiên tử lâm Ung, Chu Tử Thư đạt hạng nhất thì Lưu Phóng đạt hạng nhì. Về sau, hai người đều ghi danh bảng vàng, trở thành tiến sĩ cùng khoa.
Mai Thắng Trạch: "Chính là Lưu Phóng đấy. Nhắc đến lại thấy nghẹn ngào, chắc đệ chưa biết, không lâu sau khi đỗ tiến sĩ, Lưu Phóng rời khỏi Thịnh Kinh, đến Dương Châu nhậm chức. Cứ bình bình thì chẳng có gì đáng nói, nhưng những năm gần đây anh ta dần dần ngả theo Kỷ đảng, đáng nhẽ tương lai sáng lạn lắm, ngờ đâu..." Mai Thắng Trạch dừng lời một thoáng rồi mới nói tiếp: "Ngờ đâu hồi tháng Giêng lại phát sinh biến cố kia, Lưu Phóng bị liên lụy nên mất chức. Có thể đệ không rõ con người anh ta, nhưng ta thì cực kì hiểu. Hồi ở Quốc Tử Giám anh ta đã rất kiêu ngạo, một lòng quyết chí đỗ đệ nhất giáp. Giờ đây trở thành tội quan, bị tước hết công danh, anh ta chịu sao thấu?"
Chu Tử Thư đã đoán được phần sau của câu chuyện: "Hiện giờ Lưu Phóng sao rồi?"
Mai Thắng Trạch thở dài: "Từ Bác sĩ đi dự lễ tang của anh ta nên mới viết thư cho ta đấy. Anh ta thắt cổ tử tự!"
Chu Tử Thư thở dài, lòng bùi ngùi tiếc thương.
Cú ngã ngựa của Kỷ tướng thoạt trông có vẻ êm ả lặng lẽ; Thánh thượng vẫn chưa xáo trộn hết bố cục triều đình, chỉ nâng Từ tướng lên để giữ yên đại cục. Song, không ai biết rằng dưới lớp vỏ bình yên, đã có bao nhiêu viên quan điêu đứng vì trận gió dữ này.
Lưu Phóng chỉ là cái bóng của hàng ngàn, hàng vạn viên quan bị liên lụy. Đếm làm sao cho hết những người chịu chung số phận với anh ta!
Chạng vạng, Chu Tử Thư trở về phủ. Vừa vào cửa, cậu thấy một người đàn ông trung niên mặc quan bào đi ra khỏi cổng. Khi giáp mặt nhau, người kia chắp tay hành lễ: "Hạ quan Lâm Hủ bái kiến Đường đại nhân." Chu Tử Thư nhẹ nhàng gật đầu.
Hai người không nhiều lời, Chu Tử Thư bước vào cổng chính, đi tìm loanh quanh một hồi thì thấy Cung Tuấn ở trong thư phòng.
CungTử Phong từ trước đến nay không bạc đãi bản thân bao giờ. Ngay cả khi ở nơi hẻo lánh hoang tàn như U Châu, thư phòng của chàng cũng phải đốt hương dìu dịu. Tuy chẳng phải loại hương quý hiếm đắt đỏ gì, nhưng cũng tỏa khói trắng vấn vít. Trên tường treo mấy bức tranh mặc cúc, để ý kĩ sẽ thấy đây đều là tác phẩm của chính CungTử Phong. Ngay bây giờ thôi, những bức tranh này cũng đã vô giá rồi, bởi Cung Tuấn chính là "Trạng Nguyên vô song" mà Triệu Phụ đích thân chọn, tiếng tăm lẫy lừng thiên hạ.
Thấy Chu Tử Thư đến, Cung Tuấn vẫy tay: "Cảnh Tắc."
Chu Tử Thư đi tới: "Vừa nãy Lâm Hủ đến tìm sư huynh hả? Có chuyện quan trọng hay sao?"
Cung Tuấn: "Không có việc gì lớn đâu. Ngồi đi."
Chu Tử Thư ngồi xuống, Cung Tuấn bỗng nhiên bày bàn cờ.
Chu Tử Thư: "..."
"... Đánh cờ à?"
Cung Tuấn vừa gom cờ, vừa đưa mắt nhìn Chu Tử Thư. Chàng nhẹ nhàng
"ừ" một tiếng, nghe giọng như đang cười, có ý mồi cho Chu Tử Thư hỏi tiếp cái điều cậu đang thắc mắc.
Chu Tử Thư hết biết phải nói sao: "Sư huynh với ta lâu lắm rồi có chơi cờ đâu!"
Cung Tuấn ngạc nhiên: "Đã lâu lắm rồi cơ à?"
Chu Tử Thư: "Ít nhất cũng phải... nửa năm?"
Cung Tuấn tự trách: "Thì ra em thích đánh cờ với ta đến vậy, thế mà ta chẳng nghĩ đến. Đừng lo, sau này mỗi ngày ta đều chơi một ván với tiểu sư đệ."
Chu Tử Thư: "..."
Ai thèm chơi cờ với huynh!!!
Chu Tử Thư tự thấy mình không có ham mê hành xác, chẳng có lí gì cậu lại muốn chơi cờ với Cung Tuấn để rồi bị chàng "hành" cho! Theo bản năng, Chu Tử Thư muốn từ chối, nhưng Cung Tuấn đã gom xong cờ và đưa hộp cờ đen cho cậu rồi. Thử hỏi ai có thể nói "không" với CungTử Phong được cơ chứ? Chu Tử Thư tiện tay nhận hộp cờ chàng đưa, xong lại hối hận tức thì.
Chu Tử Thư ôm hộp cờ, thật thà nói: "Ta không thắng được huynh đâu."
Cung Tuấn cười: "Tiểu sư đệ vừa nói gì ấy nhỉ?"
Chu Tử Thư: "..."
Ngài còn phải nghe lại lần nữa sao hở ngài?
Chu Tử Thư ra chiều dửng dưng, thảy hộp cờ sang bên cạnh: "Ta không thắng được huynh, chẳng chơi."
Cung Tuấn cười đến là khoan khoái, đoạn chàng cầm tay Chu Tử Thư, đặt hộp cờ vào. "Thế gian như cuộc cờ, em chưa đánh, làm sao đã biết không thắng được ta? Chí ít nếu nói về chiến thắng thì em đã thắng từ lâu rồi, em bắt gọn ta về tay em kia mà. Em xem, Cảnh Tắc ơi, đó chẳng phải nước cờ em thắng đẹp nhất hay sao?
Chu Tử Thư nghe thế thì vừa đắc chí vừa buồn cười: "Ai thèm thắng huynh chứ, thắng được huynh thì có gì hay đâu."
Cung Tuấn than thở: "Đúng là chiếm được rồi thì chẳng biết quý, em đang hưởng phúc mà không biết mình có phúc đấy!"
Chu Tử Thư chẳng buồn để ý đến chàng.
Trần đời chưa thấy ai tự thếp vàng lên mặt mình như thế!
Dĩ nhiên, Chu Tử Thư vẫn đánh cờ với Cung Tuấn.
Về khoản cờ vây thì Cung Tuấn là bậc thầy. Trong đời, Chu Tử Thư đã đánh cờ với ba người, một là Lương Tụng, hai là Phó Hi Như, và ba là CungTử Phong. Trong số ba người này, Phó Hi Như chơi tệ nhất, xếp trên ông là Lương Tụng, còn CungTử Phong là người giỏi nhất. Nhưng ngay cả Phó Hi Như cũng dư sức đè bẹp năm Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư chơi mà chẳng tập trung gì cả. Căn bản cậu không thấy mình có cửa thắng, nhưng Cung Tuấn cứ cố tình mớm quân cho cậu hòng giữ thế cân bằng giữa hai bên cho bằng được.
Thế rồi Chu Tử Thư cũng hăng hái lên. Cậu đánh thêm một hồi, chỉ còn tí tẹo nữa thôi là thắng thì Cung Tuấn ra đòn kết liễu, triệt tiêu hoàn toàn khí của cậu.
Chu Tử Thư quăng cờ: "Ứ chơi nữa!"
Cung Tuấn phì cười: "Thua là nghỉ luôn hở?"
Chu Tử Thư nói cứng: "Lẽ nào thua còn cố chơi thêm?"
Cung Tuấn nhìn cậu đắm đuối, đang định lên tiếng thì Chu Tử Thư đã tranh lời: "Huynh khỏi cần nói, ta ỷ được chiều nên kiêu đây."
Cung Tuấn sửng sốt, rồi cười phá lên. Chàng đứng dậy ôm ghì lấy Chu Tử Thư thơm một cái. Chu Tử Thư đơ ra mất một lúc, đến khi hồi lại, tai cậu đỏ bừng cả lên. Ngượng quá đâm bực, cậu toan nói thì Cung Tuấn đã bảo: "Đêm tháng Giêng lạnh thế mà vẫn thức thâu đêm hử?"
Chu Tử Thư giật mình; cậu định thần, ngẩng lên nói: "Thúc tổ không hiểu, ta cũng không hiểu. Sư huynh... có hiểu không?"
||
Manh: Cẩu lương thơm phưng phức!
------oOo------
Chương 140
Nguồn: EbookTruyen.Net
Đắm chìm tửu sắc nào phải tác phong của người quân tử
Hai người ra khỏi thư phòng, ngoài nhà, trận tuyết dày đã đổ xuống tự lúc nào trong thinh lặng, giăng kín trời muôn vàn hạt mong manh.
Bầu trời đêm đen nhánh, hoa tuyết trắng phau đua nhau rơi lả tả trên nền đất, tích tụ thành một lớp xôm xốp bóng lóa. Quý Triệu Tư cực kì dụng tâm khi chuẩn bị khu nhà này cho Cung Tuấn. U Châu rất hiếm kiểu nhà mang đậm những nét đặc trưng của vùng Giang Nam sông nước, thế mà trong khu vườn của tòa dinh thự rộng lớn này có hẳn một cái ao, kèm theo núi non bộ trùng trùng điệp điệp, lớp lớp rừng khoảng kín khoảng thưa.
Chu Tử Thư và Cung Tuấn sánh vai thả bước trên hành lang. Chu Tử Thư vươn tay bắt lấy một bông tuyết.
"Nói ra kể cũng lạ, hôm trước ngày mùng bảy tháng Giêng, Thịnh Kinh đón trận tuyết lớn lắm, trận tuyết sau ngày mùng bảy cũng nặng hạt giống như hôm nay. Không hiểu sao riêng đêm mùng bảy thì ánh Tuấng trong vắt, tịnh không hạt tuyết." Chu Tử Thư hồi tưởng một lát, nói: "Đêm hôm Thiện Thính bị xử trảm, thật ra cũng có tuyết rơi."
Tiếng Cung Tuấn thanh trong mát lành: "Em có tin vào quỷ thần không?"
Chu Tử Thư ngẩng đầu lên nhìn sư huynh nhà mình. Họ nhìn nhau trong chốc lát, cậu nói: "Không tin."
Cố nhiên, cậu không tin. Không chỉ thế, cậu còn biết Cung Tuấn cũng không tin.
Bởi nếu chàng tin thì hồi Chu Tử Thư thi Hương, Cung Tuấn đã không "phóng sinh" gà, thỏ để khuyên Chu Tử Thư chớ nên trông chờ ông trời phù hộ mà phải dựa vào sức của mình.
Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ nghĩ Thánh thượng có tin không?" Nhất thời Chu Tử Thư không biết đáp sao.
Triệu Phụ có tin vào quỷ thần không?
Bất cứ người dân Đại Tống nào được hỏi câu này, có lẽ đều sẽ trả lời rằng: Tin chứ, tin tuyệt đối là đằng khác!
Triệu Phụ sùng đạo Lão đã hơn hai mươi năm nay, mấy đời Giám Chính Khâm Thiên Giám toàn là đạo sĩ mũi trâu. Đài Đăng Tiên, lầu Hư Cực, công trình nào chẳng được Triệu Phụ xây cất để tầm đạo tu tiên? Không những tôn thờ đạo Lão, Triệu Phụ còn tin theo đạo Phật. Ngay cả khi đã xử trảm yêu tăng Thiện Thính, giờ đây mỗi khi lên triều, Triệu Phụ cũng thường xuyên cầm theo tràng hạt, nhẹ nhàng lần từng hạt.
Mặc dù thế, sau một hồi trầm tư, Chu Tử Thư lại nói: "Có khi chẳng tin đâu nhỉ." Nghe giọng cậu có vẻ lưỡng lự, chừng như đang phỏng đoán.
Cung Tuấn cười khẽ, chàng cầm tay Chu Tử Thư, ung dung dắt cậu đi: "'Có khi' thôi à?"
Nhận được sự khích lệ từ ánh mắt chàng, Chu Tử Thư khẳng định: "Không tin!"
Cung Tuấn: "Lý đại nhân là một người thú vị đấy."
Chu Tử Thư nghĩ một lát mới hiểu Lý đại nhân mà Cung Tuấn nhắc đến là Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân.
"Hơn mười năm về trước, ta gặp ông ấy lần đầu đúng vào thời điểm Lý đại nhân đang lo ngay ngáy vì vừa lên chức Giám chính Khâm Thiên Giám. Nhưng hồi đó, ta mới chỉ là một viên quan ngũ phẩm quèn thôi."
Chu Tử Thư: "Khởi Cư lang ngũ phẩm hử?" Cung Tuấn mỉm cười gật đầu.
Chu Tử Thư: "..."
Hẳn là viên quan ngũ phẩm quèn!
Cung Tuấn: "Em nhìn ta thế là muốn ta hôn em phải không?" Chu Tử Thư lia mắt đi ngay tức thì.
Dĩ nhiên Cung Tuấn vẫn cúi xuống, dịu dàng hôn lên mi mắt Chu Tử Thư rồi nói tiếp: "Từ hồi năm ngoái, Lý đại nhân thường xuyên đến gặp ta, kể lể nỗi khổ bị Thiện Thính chèn ép. Dĩ nhiên ta hiểu ý ông ấy, hiềm nỗi CungTử Phong này thấp cổ bé họng lắm. Trước hoàng đế, ta có là cái đinh gì đâu? Dẫu có nói khô cả cổ, e hoàng đế cũng chẳng buồn để mắt đến." Chu Tử Thư: "..."
"Cảnh Tắc, trông ánh mắt em kìa...Ha ha, quay lại đây." Cung Tuấn định tiện thể thơm cái nữa, nhưng thấy Chu Tử Thư suýt thì kệ phứt chàng mà đi, Cung Tuấn phải níu tay cậu ngay, vừa cười vừa kéo Chu Tử Thư về.
Chu Tử Thư đến bó tay với chàng: Huynh mà thấp cổ bé họng ấy hả CungTử Phong? Ngài còn biết khiêm tốn không hở ngài?
Cung Tuấn: "Em tưởng ta lừa em đấy à? Ầy, em lại hiểu lầm ta rồi. Ta nói thật, chuyện của Thiện Thính đúng là lực bất tòng tâm! Chứ ta với Lý đại nhân biết nhau bao năm nay, tính ta lại nhiệt thành, thường lấy việc giúp người khác làm vui, có lí nào ta lại không giúp ông ấy?" Không để Chu Tử Thư có cơ đội ném cho mình cái nhìn khinh bỉ, Cung Tuấn đã mau miệng nói tiếp: "Thúc tổ bảo không hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra, không nhìn thấu nổi thánh thượng hiện giờ, kì tình ta cũng chưa bao giờ hiểu hết. Từ đầu chí cuối, ta chỉ nói với thúc tổ và tiểu sư đệ rằng chớ nghi ngờ đương kim thánh thượng. Không hiểu ngài, nhưng đừng nghi ngờ ngài. Trên đời này, người bẫy được ngài hiếm lắm!"
Hiếm ai bẫy được Triệu Phụ, tức là vẫn có ư?
Chu Tử Thư vốn muốn hỏi thêm Cung Tuấn rằng huynh nghĩ ai có thể khiến Triệu Phụ mắc mưu, nhưng câu này nghe cứ như chán sống vậy. Chu Tử Thư nâng lên đặt xuống một hồi, nghĩ bụng, chắc hẳn Cung Tuấn cho rằng chàng có năng lực ấy đây,...và cả Kỷ tướng nữa?
Chu Tử Thư dứt khoát không hỏi, cậu nhìn Cung Tuấn: "Sư huynh cũng không hiểu sao?"
Cung Tuấn: "Không hiểu."
"Thật chứ?"
"Thật trăm phần trăm."
Bấy giờ Chu Tử Thư mới tin chàng.
Thực tình mà nói, trước đây, Triệu Phụ còn hành động theo một vài quy tắc nhất định, nhưng vụ cung biến tháng Giêng vừa qua đã làm tất cả mọi người choáng váng. Dân chúng thiên hạ cứ tưởng yêu tăng hại nước, dối gạt Tả tướng, suýt nữa thì gây họa lớn; trong khi đó, các quan đại thần và tâm phúc của hoàng đế như bọn họ đều biết thực tế khác hoàn toàn, không hề tương đồng một chút nào cả!
Lỗi của Thiện Thính ư?
Làm thế nào mà vị hoàng đế hôn mê suốt mấy ngày trời đột nhiên tỉnh đúng vào thời khắc then chốt cơ chứ?
Nhưng suy cho cùng Triệu Phụ chỉ có mỗi ba người con trai. Là Hoàng đế Đại Tống, rốt cuộc điều gì đã khiến ông ta giăng bẫy hãm hại ba đứa con của mình như thế? Sau trận cung biến, ba vị hoàng tử cắm đầu giục ngựa, chạy thục mạng khỏi Thịnh Kinh. Như cá nằm trên thớt, có lẽ cả ba đã lờ mờ đoán ra sự thật. Trước quyền lực của phụ hoàng, không ai trong số bọn họ ngóc đầu lên nổi.
Có lí do gì để một người cha đang tâm mưu hại chính các con mình?
Sắc đẹp, tiền tài, quyền thế ngút trời?
Những thứ đó, Triệu Phụ chẳng hề thiếu.
Vậy ông ta muốn gì đây?
Muôn thuở vang danh, thân tàn tiếng thơm còn để?
Lẽ nào sát hại tất cả các con trai sẽ khiến ông ta đi vào lịch sử?
Chu Tử Thư cảm khái: "Thật ra từ rất lâu về trước, ta từng bộc bạch với tiên sinh rằng, thà yên cái phận tú tài, còn hơn vinh hiển hai đời hàn lâm." Gần vua như gần hổ, nắm quyền cao chức trọng có dễ gì cho cam!
Cung Tuấn tỏ vẻ ngạc nhiên: "Đã có lúc tiểu sư đệ không nuôi chí làm quan cơ đấy? Ô, em nói với tiên sinh bao giờ thế, sao tiên sinh chưa kể cho ta?"
"... Huynh biết ta đang nhắc đến thầy nào mà."
"Chẳng lẽ không phải thầy của chúng mình, Phó Vị, Phó Hi Như? Còn ai vào đây nữa?"
"..."
"CungTử Phong, huynh biết thừa còn cố tình hỏi!"
Cung Tuấn cười ha hả, ôm cậu vào lòng: "Đêm tuyết lạnh lắm, mình vào nhà nhé?"
Bây giờ Chu Tử Thư mới phát hiện, mình đã được CungTử Phong dẫn về phòng ngủ tự bao giờ. Cung Tuấn đẩy cửa phòng, cánh cửa kêu cót két. Chu Tử Thư ngơ ngẩn trong chốc lát, đến khi cậu ý thức được người ấy muốn làm gì, CungTử Phong đã ôm cậu ngồi xuống mé giường rồi.
Bàn tay Cung Tuấn dịu dàng cởi thắt lưng của Chu Tử Thư. Ngắm gương mặt tuấn tú và thư thái của Cung Tuấn, Chu Tử Thư bỗng mê muội, vô thức ngẩng lên hôn chàng. Cung Tuấn khựng lại. Chu Tử Thư hôn chẳng hề hời hợt, nhưng cũng chẳng kéo dài bao lâu. Nụ hôn vừa dứt, Cung Tuấn khẽ nhếch mép, thân thể chàng trùm lên cậu, khóa chặt đôi môi mình nhung nhớ suốt mấy tháng trời.
Trụ giường rung rinh, kẽo kẹt, kẽo kẹt...
Khi tuyết thôi rơi thì chiếc giường cũng yên ắng lại. Cung Tuấn choàng áo khoác, xuống giường thêm than vào lò sưởi. Chu Tử Thư nằm bò ra mé giường, rướn cổ tò mò nhìn chàng khêu lửa trong chậu than. Lúc Cung Tuấn quay về, ập vào mắt chàng là cậu thanh niên tuấn tú đang nhoài người ra khỏi giường, chăn chỉ đắp hững hờ đến eo, khoe tấm lưng trắng ngần tựa tuyết.
Đã thế, cậu thanh niên ấy còn đắm đuối nhìn chàng bằng đôi mắt long lanh.
Lửa bừng lên trong mắt CungTử Phong, họng nghèn nghẹn, chàng hấp tấp buông một câu "Đắm chìm tửu sắc nào phải tác phong của người quân tử", rồi hăm hở sải bước về giường, cầm tay Chu Tử Thư, đẩy cậu nằm ngửa ra.
Sang ngày hôm sau, họ cùng nhau thức giấc. Chu Tử Thư vừa buộc thắt lưng vừa nói: "Trước khi tới đây ta có sang thăm tiên sinh. Tiên sinh bảo ta rằng, bao giờ việc soạn sách hoàn tất, tiên sinh cũng không còn gì nuối tiếc nữa."
Cung Tuấn đang mặc quần áo liền dừng tay.
Chàng thở dài thườn thượt, nói: "Quê tiên sinh không ở Thịnh Kinh, chẳng biết có kịp về thăm thầy một lần không."
Việc này Cung Tuấn đã đoán đúng. Năm Khai Bình thứ hai mươi ba, ngày mười chín tháng hai, viện Hàn Lâm hoàn tất việc biên soạn cuốn Văn Tuân Kính tập, cuốn sách đã tiêu tốn ba năm tâm huyết của Phó Vị. Hồi trẻ, Phó
Vị rất thích tham gia hội thơ của giới văn nhân, thưởng thức những tập thơ hay. Giờ may mắn biên soạn thành công cuốn Văn Tuân Kính tập, ông mừng rỡ khôn xiết, phấn khởi suốt hai đêm không ngủ được.
Nhưng rồi khi niềm hưng phấn nhạt đi, Phó Vị bỗng cảm thấy lực bất tòng tâm.
Cuốn Văn Tuân Kính tập gần như đã vắt kiệt tinh thần và thể lực của ông. Rốt cuộc, Phó Vị cũng nhận ra mình chẳng còn ở cái tuổi ba mươi, bốn mươi trẻ trung, cũng chẳng còn tràn trề sức lực. Ông đã già rồi, ông không thể bám trụ triều đình lâu hơn được nữa. Bấy giờ Phó Vị mới nhớ lúc rời kinh, cậu học trò cưng Cung Tuấn có sang thăm mình và tặng mình một bức họa.
Phó Vị đi đến thư phòng, trải bức tranh ra. Tranh vẽ phong cảnh nước non rất đỗi nên thơ. Sắc mực đậm đà, lối vẽ tài hoa; tranh của Cung Tuấn trước giờ luôn phóng khoáng tự do, và giống như thư pháp của chàng, cũng đã đạt tới ngưỡng tuyệt mỹ. Trong lúc thưởng thức bức họa, Phó Vị bỗng phát hiện giữa núi non trong tranh có một ông cụ tóc bạc cưỡi lừa.
Sau hồi lâu, Phó Vị cười khà khà: "Quả nhiên cái gì nhà mi cũng biết tuốt!"
Hôm sau, Phó Vị vào cung dâng tấu, xin hoàng đế cho từ quan, cáo lão về quê.
Mấy năm trước Phó Vị đã từ quan một lần, nhưng vì Triệu Phụ nhất quyết giữ ông lại, Phó Vị mới từ Hữu tướng thành Thừa chỉ viện Hàn Lâm. Bây giờ Phó Vị xin từ quan lần nữa, Triệu Phụ vẫn mời ông ở lại, song Phó Vị tâu: "Thần đã già rồi. Mấy hôm trước khi soạn xong Văn Tuân Kính tập, thần bước ra ngoài cửa nhìn lên không trung, bỗng thấy trời đất bao la, Tuấng sao vời vợi, vậy mà thần chưa bao giờ được chiêm ngưỡng kĩ. Bệ hạ, thần già thật rồi."
Triệu Phụ thở dài, không níu kéo thêm nữa: "Hi Như, trẫm sẽ nhớ khanh nhiều lắm!"
Phó Vị: "Thần cũng sẽ rất nhớ bệ hạ!" Nói xong, mắt Phó Vị nhòe đi, một giọt lệ bất giác lăn xuống.
Lúc ra khỏi điện Thùy Củng, Phó Vị dụi mắt, ngước nhìn khoảnh trời bó hẹp phía trên hoàng cung. Chuyện xưa cũ hiện lên rõ mồn một. Thời trẻ, Tứ nho thiên hạ lẫy lừng tiếng tăm; ông thích vẽ vời làm vui, tự xưng là Điêu Trùng trai chủ. Khi đó trong thiên hạ có người tên là Chung Nguy, Chung Thái Sinh; ngay cả người có tính tài tử như Phó Vị cũng hết lòng kính phục.
Đến khi tiên đế băng hà, Triệu Phụ nối ngôi, thế thời liền xoay chuyển.
Biển quan trường chìm chìm nổi nổi, ba mươi năm ròng chẳng biết đến tương lai, ôi những tháng năm lênh đênh thấp thỏm!
Giờ đây, ông đã già thật rồi. Bước đi không còn thoăn thoắt, cơ thể không còn khỏe khoắn như xưa. Thế nhưng, khi Phó Vị xuất cung, ông bỗng thấy bước chân của mình nhẹ thênh. Thậm chí, càng đi xa, nhịp bước Phó Vị càng thêm nhanh nhẹn. Giây phút đặt chân ra khỏi hoàng cung, Phó Vị ngẩng mặt lên trời cười dài. Ông bảo thư đồng: "Về phủ nào!"
Ôn Thư đồng tử hẵng còn ngơ ngơ ngác ngác, Phó Vị đã nói thêm: "Đi thôi, về Xương Châu, nơi lẽ ra phải về từ lâu lắm rồi!" Xương Châu, chính là cố hương của Phó Hi Như.
||
Lời tác giả:
Lão Cungnhà mình: "Đắm chìm tửu sắc không phải tác phong của người quân tử, nhưng ta nào phải quân tử! Tiểu Thư Lang: ... Huynh phắn đi!
Manh: Trong chương này thực ra tui rất khoái đoạn thêm than, tui thấy đoạn đó Chu Tử Thư rất "mơi".
Lâu rồi mới được hưởng cảm giác bận không ngóc đầu lên nổi tuy vẫn còn thời gian đu trai :))
------oOo------
Chương 141
Nguồn: EbookTruyen.Net
Gió xuân có tới Ngọc Môn đâu nào
Bộ Lại cấp công văn phê chuẩn rất chóng vánh, Phó Hi Như từ quan về quê.
Phó Vị nán lại Thịnh Kinh một tháng, tụ họp với mấy người bạn chí cốt, cảm thấy không còn gì tiếc nuối nữa mới thu dọn đồ đạc để rời Thịnh Kinh.
"Chỉ tiếc rằng hai đứa học trò của ta còn đang ở U Châu chưa về." CungThuyên cười: "Ông về đến Xương Châu rồi, chẳng nhẽ Tử Phong xong việc lại không đến thăm ông? Cứ vô tư mà lên đường thôi, như ông là sướng đấy, nhẹ gánh chức vụ, tha hồ du sơn ngoạn thủy, làm Điêu Trùng trai chủ."
CungThuyên nói rất đúng, Xương Châu ở ngay vùng Bắc Trực Lệ, rất gần với Thịnh Kinh. Cung Tuấn, Chu Tử Thư muốn đến thăm Phó Vị chẳng khó khăn chút nào.
Tuy nhiên, Phó Vị không trở lại Xương Châu ngay lập tức như ông nói.
Sau khi đi khỏi Thịnh Kinh, ông xuôi theo Đại Vận Hà xuống tuốt miền Nam, thăm thú danh sơn, rong chơi quần hà, nâng li đàm đạo với mấy tác gia ẩn cư chốn núi rừng. Phải sang tận tháng tư, ông mới cập bến Cô Tô.
Cô Tô là vùng đất địa linh nhân kiệt. Vừa lên bờ, Phó Vị đã cảm khái: "Khi ông đến Cô Tô sẽ thấy, nhiều nhà sàn như gối dòng sông." Trước mắt ông, kênh rạch lớn nhỏ dệt thành tấm lưới dày căng rộng, đúng là thành Cô Tô vừa bề thế vừa duyên dáng đây mà.
Vì đã từ quan, đương nhiên Phó Vị không làm phiền đến các quan lại Cô Tô trong thời gian thăm viếng nơi đây. Ông dẫn theo Ôn Thư đồng tử, Phủ Cầm đồng tử đi xe ngựa đến một ngôi nhà trang nhã và tĩnh mịch. Họ gõ cổng xong, người quản gia già ra mở cổng đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy Phó Vị. Mắt rưng rưng, người quản gia thốt lên: "Phó tướng công!"
Phó Vị cười đáp: "Lão phu đã từ quan lâu rồi, đâu còn là Phó tướng công nữa. Cứ gọi Điêu Trùng trai chủ thôi. Hồi trước, chẳng phải lão gia nhà ông cũng gọi ta thế còn gì?"
Người quản gia rối rít gật đầu, nghiêng người cho khách vào: "Mời ngài." Phó Vị cất bước vào Lương phủ.
Vợ Lương Tụng qua đời từ rất nhiều năm về trước, cũng không có mụn con nào. Trước khi Lương Tụng mất, đứa cháu trai độc nhất là Từ Tuệ đã đi sang vùng khác làm Huyện lệnh. Trong ngôi nhà của gia đình họ Lương chỉ còn quản gia và một vài người đầy tớ trung thành. Họ vẫn thường quét tước ngôi nhà lớn này thật sạch sẽ, từ thư phòng của chủ nhà đến buồng ngủ đều sạch bong bụi bặm, chẳng suy suyển gì so với sáu năm về trước.
Phó Vị đi thăm một lượt rồi đến thư phòng Lương Tụng. Ngắm nghía một hồi ông mới thấy một bức thư pháp treo trên tường, liền ngạc nhiên "Ồ" lên: "Đây chính là bức Ngắm lầu Nhạc Dươngmà Tọa Sơn tiên nhân vừa viết năm ngoái còn gì, hóa ra bản gốc ở đây à?"
Quản gia thưa: "Đúng là thủ bút của Tọa Sơn tiên nhân đấy ạ."
Tọa Sơn tiên nhân là một nhà thư pháp vô cùng nổi tiếng trong triều đại này, hồi trẻ Phó Vị đã từng gặp ông một lần. Không phải bậc thầy nào cũng thích quy ẩn núi rừng, chẳng màng thế sự, vị Tọa Sơn tiên nhân này là một nhà buôn chính hiệu. Hằng năm, ông ta đều viết mấy bức thư pháp mang ra đấu giá. Thư pháp của ông vô cùng điêu luyện, cố nhiên cũng có giá rất cao.
Phó Vị chiêm ngưỡng một hồi, vân vê chòm râu, mỉm cười: "Cảnh Tắc có bức thư pháp này, chẳng chịu đưa cho lão phu thưởng thức trước đã treo luôn ở đây hử?"
Quản gia giật mình, cúi đầu làm thinh.
Quản gia chưa hề đọc thư Lương Tụng viết, ông chỉ biết sáu năm trước Chu Tử Thư lên Thịnh Kinh bái Phó Vị làm thầy. Vài năm gần đây, mỗi lần về Cô Tô, Chu Tử Thư đều ghé thăm Lương phủ. Kể cả khi cậu không về thì cũng có Đường phu nhân quán xuyến việc hai nhà. Bằng không, chỉ mấy người tôi tớ như bọn họ làm sao mà trông nom được Lương phủ rộng lớn này?
Song quản gia không rõ rốt cuộc Phó Vị biết được đến đâu. Nếu để Phó Vị hiểu lầm mục đích Chu Tử Thư bái ông làm thầy, không khéo sẽ làm hỏng việc quan trọng của Chu Tử Thư mất.
May mà Phó Vị không nói nhiều, ông hỏi: "Lương Bác Văn được chôn cất ở đâu?"
Quản gia lập tức phái mấy người tùy tùng đánh xe đưa Phó Vị ra mộ Lương Tụng.
Phó Vị sai Ôn Thư đồng tử chuẩn bị một bầu rượu ngon, lại sai Phủ Cầm đồng tử cầm theo một bức thư họa. Ông vẩy rượu xuống trước bia mộ Lương Tụng, đặt bức thư họa xuống, châm một mồi lửa. Chẳng ai biết ông hóa bức tranh nào, nhưng đốt dứt khoát thế thì có lẽ chẳng phải bức nào nổi tiếng và quý giá.
Phó Vị lấy một phiến lá bạc từ trong ngực áo, chôn xuống trước mộ Lương Tụng.
"Lương Bác Văn ơi là Lương Bác Văn, ông dụng công mưu tính thật. Năm xưa lão phu quên mỗi cái túi tiền, ăn của ông một bữa cơm với rượu, ông lại bắt lão phu nhận một đứa học trò của ông. Vụ này lỗ quá đi mất, bao giờ tái ngộ trên cầu Nại Hà, ông mà không mời ta mấy chầu thì cứ liệu hồn!" Phó Vị nói thêm một hồi rồi dẫn hai đứa thư đồng ra về.
Ở chơi phủ Cô Tô hai hôm, Phó Vị tiếp tục đi thuyền lên phía Bắc thăm Kim Lăng.
Phải ba ngày sau, nhà họ Đường mới biết chuyện Phó Vị đến phủ Cô Tô.
Đường phu nhân lập tức sai người tìm ông, nhưng Phó Vị đã đi mất rồi.
Đường Vân nói: "Mẹ à, Phó đại nhân là thầy của em Cảnh Tắc, ngài ấy đến Cô Tô, đáng ra nhà mình phải tiếp đãi trọng thể. Giờ ngài ấy đi mất rồi mình mới hay tin, biết tính sao cho ổn thỏa đây?"
Đường phu nhân cũng Tuấn trở lắm, nhưng sau một hồi suy nghĩ, bà nói: "Nếu Phó đại nhân không muốn phô trương thì mình cũng vờ như không biết vậy. Nhưng con cứ gửi thư cho Chu Tử Thư, báo với em chuyện Phó đại nhân đến Cô Tô."
"Vâng."
Tin Phó Vị đi khắp nơi du ngoạn vẫn chưa truyền tới U Châu.
Sang tháng tư, như mọi khi, U Châu vẫn chưa thấy sắc xuân về, thật đúng là "gió xuân có tới Ngọc Môn đâu nào".
Trong hai tháng này, nước Liêu phát sinh một vụ việc lớn.
Hồi tháng ba, vua Liêu đi săn ở Nam Kinh Tích Tân phủ, đáng lí ra đây phải là dịp vui cho cả quân lẫn thần. Ngờ đâu giữa buổi tiệc mừng công, Đại hoàng tử Gia Luật Triển lại khiến hoàng đế tức giận. Vua Liêu nổi trận lôi đình, sai người áp tải Đại hoàng tử về phủ Đại Định, giam lỏng tại phủ kiểm điểm bản thân, không được phép ra ngoài.
Lúc tin này đến tai triều đình Đại Tống, rất nhiều quan viên đều hiểu đây chỉ đơn thuần là cuộc đấu đá giữa Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca và Tam hoàng tử Gia Luật Hàm thôi, còn Đại hoàng tử là người bị liên lụy. Đại hoàng tử chưa bao giờ là ứng cử viên cho ngôi vị Thái tử nước Liêu; giờ đây, việc anh ta bị mưu hại và loại khỏi cuộc đua giống Tứ hoàng tử hiển nhiên không nằm ngoài dự liệu.
Tuy nhiên, Chu Tử Thư lại viết một bức mật thư gửi về Thịnh Kinh.
Tô Ôn Duẫn nhận được mật thư thì biến sắc, vào cung diện thánh ngay trong hôm đó.
Nghe Tô Ôn Duẫn tâu trình xong, Triệu Phụ tỏ vẻ thích thú hiếm hoi. Ông ta vừa uống trà sâm, vừa cười hòa nhã: "Còn có chuyện này ư? Phỉ Nhiên mau kể tường tận cho trẫm nghe xem nào."
Tô Ôn Duẫn cung kính hành lễ: "Vâng."
Anh ta thuật lại đầu đuôi chuyến săn bắn ở phủ Tích Tân.
Đại hoàng tử nước Liêu Gia Luật Triển vốn là một gã thô kệch, đầu óc rỗng tuếch nhưng lại thích học đòi, đánh bạn với văn nhân. Người Liêu đều tôn sùng văn hóa Tống, giới quý tộc đua nhau học theo lễ nghi văn hóa của người Tống. Trong số đó, Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca là người xuất sắc nhất, chẳng những đọc rộng Thi Thư mà còn phong nhã ung dung, là tài tử lừng danh trong chốn cung đình nước Liêu.
Gia Luật Triển cũng muốn bắt chước em trai mình làm một văn nhân nho nhã. Nhưng vẽ hổ chẳng xong thành ra vẽ chó, vừa không bắt chước được phong thái quân tử thanh lịch, vừa chẳng làm được gì nên hồn. Hơn nữa vì xuất thân tầm thường, xưa nay Gia Luật Triển không bao giờ được nhắm làm người kế vị.
Tuy dốt nát là thế nhưng Gia Luật Triển không phải đứa đần độn. Kể từ hồi
Tứ hoàng tử Gia Luật Long Chân bị bắt quả tang thông dâm với công chúa An Định, gã ăn không ngon ngủ không yên, lo lắng đến nỗi hôm nào cũng trong tình trạng mặt mũi bơ phờ, chỉ sợ mình sẽ thành Gia Luật Long Chân thứ hai. Thế nên, trong cơn khủng hoảng mất ăn mất ngủ đó, Gia Luật Triển đã hạ quyết tâm không tranh giành ngôi hoàng đế nữa, gã chỉ muốn sống, chỉ muốn giàu sang hết phần đời còn lại thôi.
Thế là gã đến gặp Cungtử Thái sư Gia Luật Định để bày tỏ lòng trung thành.
Đại hoàng tử chủ động rút lui, bằng lòng hỗ trợ, làm vây cánh cho Tam hoàng tử, quả là việc đáng mừng.
Trên đời chẳng có bức tường nào không kẽ hở, việc này đến tai Gia Luật Xá Ca, y phải ngậm bồ hòn làm ngọt, hậm hực không để đâu cho hết. Hôm sau, có thằng hầu mặt mũi xinh xẻo trong phủ Nhị hoàng tử mắc bệnh, người ta cuốn nó vào manh chiếu rồi quẳng ra ngoài thành.
Vốn dĩ Gia Luật Xá Ca muốn tổ chức chuyến săn bắn ở phủ Tích Tân thật suôn sẻ để làm vui lòng vua Liêu. Nhưng vì có sự kiện này, y bèn họp với bọn Gia Luật Cần, sắp đặt mưu mới.
Gia Luật Triển là tên háo sắc. Trong lúc đi săn, hoàng tử nước Liêu được phép dẫn theo một cô gái để thị tẩm. Gia Luật Xá Ca bèn bố trí đưa người thị thiếp của Gia Luật Triển sang lều của một viên quan. Viên quan này chẳng dám mó tay vào một người con gái xa lạ ăn vận sang trọng, nhưng đúng lúc đó thì Gia Luật Triển lùng đến nơi. Gã chẳng nói chẳng rằng, xông vào nện cho viên quan kia một trận, xong xuôi thì dỗ dành nàng thiếp yêu nước mắt ngắn nước mắt dài, thành ra mới trễ buổi tiệc mừng công.
Đây vốn chẳng phải chuyện to tát, nhưng xưa nay vua Liêu vẫn đứng về phía Gia Luật Xá Ca.
Gia Luật Xá Ca vin vào cớ này để gây khó dễ, đàng hoàng chất vấn Đại hoàng tử đi đâu để đến muộn như thế. Đại hoàng tử không dám khi quân, đành phải tâu lên hết sự thật. Gia Luật Xá Ca thở dài: "Đại ca, chung quy chỉ là một con đàn bà, tiệc mừng công quan trọng như thế, sao anh lại để lỡ được chứ?"
Gia Luật Triển nghĩ thầm: Mày có thích đàn bà quái đâu, biết cóc gì.
Nhưng gã không dám nói, chỉ đành nuốt cục tức vào lòng.
Thấy thế, Gia Luật Hàm bèn chớp thời cơ đâm thọc Gia Luật Xá Ca ngay: "Nghe nói chuyến này đi săn ở Tích Tân, nhị ca chẳng dẫn theo ái thiếp nào. À đâu, thật ra trong lều nhị ca có một đứa thái giám diện mạo tuấn tú mà nhỉ, phải thư đồng mà nhị ca mới tuyển không?"
Đến đây thì Gia Luật Xá Ca biến sắc mà vua Liêu cũng nổi giận.
Tuy bực Gia Luật Xá Ca nhưng vua Liêu không muốn trừng phạt đứa con trai mình sủng ái nhất, thành ra Gia Luật Triển phải giơ đầu chịu báng. Lần này đúng là Gia Luật Triển bị vạ lây, oan ức không để đâu cho hết.
Sau đó vua Liêu gọi riêng Gia Luật Xá Ca đến. Vị vua đã từng kinh qua trận mạc của nước Liêu lạnh lùng tra hỏi y: "Thái giám kiểu gì?"
Gia Luật Xá Ca cung kính thưa: "Chỉ để ấm giường thôi ạ."
"Giết đi."
"...Vâng."
Ra khỏi lều của vua Liêu, Gia Luật Xá Ca thở phào nhẹ nhõm, trên môi y là nụ cười rất nhạt.
Thí ba ngàn quân ta, giết cả vạn quân địch. Tuy vua Liêu nổi giận với y nhưng tóm lại chỉ là một đứa nam sủng mà thôi, chuyện vặt, ngay đến vua Liêu hồi xưa cũng có mấy đứa thái giám làm ấm giường kia mà. Đàn ông chơi bời tí chút, miễn là không phải thật thì chẳng có gì mà phải ngại.
Vua Liêu vẫn tưởng Gia Luật Xá Ca chỉ thích chơi đàn ông chứ không phải chỉ thích mỗi đàn ông. Để che mắt bịt tai thiên hạ, phủ của y có rất nhiều cơ thiếp.
Nếu là chơi bời thì không ảnh hưởng đến toàn cục, còn không có ham muốn với đàn bà thì mới thành to chuyện.
Việc này qua đi, vua Liêu chỉ hơi bực y vì chuyện nam sủng chứ không phát hiện ra chính y đã gài bẫy Gia Luật Triển.
Tiếc là tên thái giám kia rất đẹp, có vài nét giống với một người Tống mà y ưng mắt; y chưa chơi được tí nào đã phải tiễn nó về chầu ông bà rồi.
Tiếc nuối thoáng qua, Gia Luật Xá Ca gọi thị vệ tâm phúc của mình đến, dưng dửng ra lệnh: "Giết xong, kiếm góc rừng nào hẻo lánh mà vứt xác."
"Vâng."
||Chú thích
Nguyễn Minh dịch
Gốc: 字画 (tự họa). Theo mình hiểu thì nó là loại hình nghệ thuật kết hợp giữa tranh và thư pháp (thường dưới dạng thơ đề cạnh tranh). Từ này thấy nhiều bạn để là "tranh chữ" theo QT, nhưng mình tra từ điển thấy "thư họa" gần nghĩa với nó, và cụm "thư họa" mới được dùng nhiều trong các bài viết về thư pháp và hội họa của Việt Nam. "Tự họa" trong tiếng Việt lại mang nghĩa khác rồi ^^ Mời các bạn đóng góp thêm
Chỗ này dùng "火信子" hình như không đúng lắm, nhớ mang máng hồi trước có dùng từ "hỏa chiết tử" một lần rồi nhưng không tìm lại được, thôi edit đại nhé.
Một câu trong bài Xuất tái của CungChi Hoán. Bản dịch: . Câu này xuất hiện lần đầu ở chương 111 trong lời Cung Tuấn dặn dò Chu Tử Thư nhưng mình chưa chú thích :P
------oOo------
Chương 142
Nguồn: EbookTruyen.Net
Biết đâu, CungTử Phong lại là Chung Thái Sinh tiếp theo
Thư nhà đi từ phủ Cô Tô đến Thịnh Kinh, lúc gửi được tới U Châu thì đã sang tháng năm rồi.
Chu Tử Thư nhận thư từ Cô Tô mới biết, hóa ra sau khi từ quan, Phó Vị đã xuống Giang Nam du ngoạn.
Năm Khai Bình thứ ba mươi hai đã được định trước là sẽ khác xưa. Kỷ tướng bị bãi quan, Phó Vị cáo lão về quê, những bậc quyền thần từng nắm quyền sinh quyền sát, từng trải bao phen mây mưa tráo trở trên triều đình lần lượt từ chức. Có lẽ, đây cũng là điềm báo cho sự khép lại của thời đại hoàng đế Khai Bình.
Cuối tháng năm, Cung Tuấn về kinh trước.
Trong vòng hai năm, Ngân khế trang bộ Binh đã được thành lập trên toàn bộ ba mươi sáu châu Đại Tống, gây dựng nền móng vững vàng. Ban đầu ty Ngân Dẫn chỉ quản lí tiền lương và lương thực của quân doanh Tây Bắc, nhưng kể từ năm nay, lương hướng của đại quân Tây Nam và Thống quân2 các vùng đều thu về kho của ty Ngân Dẫn hết.
[2] Một chức chỉ huy trong quân đội.
Hiển nhiên ty Ngân Dẫn không chỉ được thiết lập ở U Châu, lần này Cung Tuấn về chủ yếu là để đốc thúc việc thành lập ty Ngân Dẫn ở kinh đô.
Chu Tử Thư tiễn chàng rời U Châu. Bên đình Thập Lý ngoài thành, Vương
Tuấn vén rèm xe, cười với cậu: "Tiểu sư đệ, không phải tiễn nữa đâu."
Chu Tử Thư: "Sư huynh lên đường bình an."
Xung quanh có thật nhiều quan viên, hai người chẳng thể nói với nhau những lời âu yếm riêng tư được. Cung Tuấn nhìn sâu vào mắt Chu Tử Thư, buông rèm. Cỗ xe lăn bánh.
Chỉ vài hôm sau khi Cung Tuấn về kinh, hoàng đế hạ thánh chỉ thành lập ty Ngân Dẫn ở cả Thịnh Kinh và Giang Nam.
Trong phút chốc, quyền lực của ty Ngân Dẫn lên đến đỉnh điểm.
Cung Tuấn nắm quyền cao, ngay cả Hữu tướng CungThuyên cũng phải tạm tránh đi.
Giờ khi nhắc đến Cungđảng, các quan đều nghĩ đến Cung Tuấn đầu tiên chứ không còn nghĩ tới CungThuyên nữa.
Quan viên và nha dịch toàn người nhìn mâm đặt món, dù ai đang nắm quyền đi chăng nữa thì cũng không dây vào được, thành thử họ càng dốc sức làm việc cho người đó hơn. Thượng thư bộ Công Viên Mục vốn bất hòa với Cung Tuấn, song vì Cung Tuấn đang đắc thế, Viên Thượng thư biết co biết duỗi bèn gạt bỏ hết mâu thuẫn giữa hai người, tận tâm tận lực xây dựng nha môn ty Ngân Dẫn ở Thịnh Kinh.
Chỉ vỏn vẹn một tháng, ty Ngân Dẫn Thịnh Kinh, Giang Nam lần lượt được xây xong.
Trong bữa tiệc riêng tại nhà, Hữu tướng CungThuyên cảm khái với cháu mình: "Con thấy đấy, lần này bọn họ tuyệt nhiên không dám kiếm chác gì." Ông ngừng lời một thoáng, có lẽ cho rằng nói thế chưa hợp lý, bèn bổ sung: "Dù tham ô đi chăng nữa cũng chỉ dám bòn rút một phần mười là hết cỡ, nhưng chẳng phải chúng làm việc vì con đâu. Có ai mà không biết, hiện giờ con là quyền thần nhất phẩm đang lên kia chứ?"
Cung Tuấn kinh ngạc nói: "Việc giám sát ty Ngân Dẫn cốt là để phụng sự
Thánh thượng, nào có liên quan gì tới con đâu, sao thúc tổ lại nói vậy?" CungThuyên không đáp lời chàng, hừ một tiếng: "Kỷ Ông Tập, Phó Hi Như đi hết rồi, năm nay lão phu cũng đã ngoài sáu mươi, cũng đến lúc phải suy xét thôi."
Ngoài cửa miệng thì CungThuyên nói thế, nhưng liệu ông có thể từ quan được không?
Chớ thấy Cungđảng mạnh mà lầm tưởng, bởi Cung Tuấn chỉ được coi là nửa Cungđảng thôi. Nếu ông cáo lão về quê, một nửa Cungđảng sẽ sụp đổ ngay tức thì!
Công việc của ty Ngân Dẫn được xúc tiến với khí thế hừng hực, đến tháng bảy thì mọi việc đều tiến triển rất thuận lợi. Cung Tuấn bày mưu bao năm, tính kế ròng rã mới khiến các thế gia đại tộc trở tay không kịp, đến lúc nhận ra sự bất thường của ty Ngân Dẫn và Ngân khế trang bộ Binh thì đã muộn rồi. Mỗi Ngân khế trang bộ Binh là một quân cờ rải khắp thần lục cửu châu, dệt nên một mạng lưới chằng chịt.
Ty Ngân Dẫn đã vào đà, tất cả chỉ còn chờ gió Đông thôi.
Cung Tuấn biết, ty Ngân Dẫn hiện giờ không còn có thể bị thế gia đại tộc lay chuyển nữa. Tuy nhiên, nếu thực thi chính sách "dùng giấy làm tiền" bây giờ thì quá hấp tấp. Họ vẫn cần phải đợi. Có thể là một năm, có thể là hai năm nữa, nhưng khoảng thời gian ấy sẽ không còn dài. Chàng đã bày sẵn đường đi nước bước cho ván cờ này, chỉ cần thời cơ đến, hoàng đế hạ chỉ, Ngân khế trang bộ Binh vốn dành riêng cho quân đội sẽ chuyển sang phục vụ chi tiêu hàng ngày của toàn dân chúng. Đó sẽ là bước đi đầu tiên của vĩ nghiệp ngàn thuở này.
Suốt đêm ấy, Cung Tuấn đánh cờ một mình trong thư phòng phủ Thượng thư bộ Hộ.
Một tay chàng cầm quân đen, tay kia chàng dẫn quân trắng, tự đấu với mình mà cũng thành thế giằng co, địch ta ngang ngửa.
Quân đen như con rồng dài hung hãn, xông xáo khắp nơi, phá toang thành trì; quân trắng như biển cả rộng mênh mông, lòng sâu thăm thẳm, mò không thấy đáy. Càng về sau, tốc độ hạ cờ của Cung Tuấn càng chậm. Lúc chàng nhấc một quân cờ bé xíu màu trắng lên lần nữa, ngoài phòng có tiếng quản gia gọi vào: "Công tử, đã đến lúc lên triều, giờ chuẩn bị triều phục cho ngài được chưa ạ?"
Thì ra bình minh đã ló rạng.
Cung Tuấn bỗng hồi tỉnh, chàng ngẩng lên, ngẩn ngơ trong giây lát.
"Chuẩn bị triều phục đi."
"Vâng."
Cung Tuấn cúi đầu, đặt viên cờ bé nhỏ lên bàn. Chỉ trong tích tắc, đại dương trào sóng cả, trút sạch lớp vỏ trầm lặng nãy giờ, nuốt chửng con ác long đen đúa. Nhìn bàn cờ, Cung Tuấn thở dài thườn thượt, cảm thấy cô đơn đến khôn cùng.
Chàng lập tức đứng dậy đi qua bàn sách, lấy bút lông sói, chấm mực viết một lá thư.
Quản gia vào phòng đưa triều phục cho chàng, Cung Tuấn chìa thư bảo: "Gửi đến U Châu, gấp."
Ba ngày sau, Chu Tử Thư nhận được lá thư ấy. Vì Cung Tuấn gửi hỏa tốc nên cậu nghĩ có việc khẩn cấp phát sinh, lo lắng bóc thư đọc ngay. Vừa thấy dòng chữ ngắn gọn trong lá thư, Chu Tử Thư ngỡ ngàng trong thoáng chốc, rồi chẳng thể làm gì hơn ngoài mỉm cười.
"Ta cũng nhớ huynh biết bao."
Cậu đọc đi đọc lại lá thư đến ba lượt rồi mới cất vào tay áo, gọi Lâm Hủ tới.
Lâm Hủ là Ty chính ty Ngân Dẫn U Châu, cũng là tâm phúc của Cung Tuấn. Cung Tuấn chỉ gửi gắm nỗi nhớ nhung trong lòng đến Chu Tử Thư thôi, nhưng Chu Tử Thư vẫn nhận ra đôi chút khác thường. Cậu hỏi Lâm Hủ: "Hiện giờ ông có nắm rõ các quan thuộc ty Ngân Dẫn ở U Châu không, có thể tin cậy được hết chứ?"
Mắt Lâm Hủ đảo quanh, nói nhỏ: "Đại nhân yên tâm, toàn người nhà cả."
Chu Tử Thư: "Sư huynh vất vả thật!"
Lâm Hủ không hiểu lắm nhưng vẫn lưu tâm, định bụng sẽ tìm cơ hội nhổ bớt mấy cái đinh đáng ngại còn sót trong ty.
Cuối tháng bảy, Cung Tuấn đệ trình tấu chương, tiến cung diện thánh.
Điện Thùy Củng sáng sủa tinh tươm, những cánh cửa sổ thủy tinh khiến tòa cung điện ngời ngời như cõi tiên. Cung Tuấn được gọi vào cung, nhưng chỉ một lát sau, các Khởi cư lang, Khởi cư xá nhân phụ trách ghi chép hôm nay đều rời khỏi cung điện, các thái giám đứng chầu cũng lui ra ngoài cửa điện hết.
Trong điện Thùy Củng chỉ còn lại hai người Triệu Phụ, Cung Tuấn, và cả Quý Phúc.
Triệu Phụ và Cung Tuấn bàn kín với nhau, sau nửa canh giờ, Cung Tuấn mới rời khỏi điện Thùy Củng.
Cung Tuấn mặc quan bào màu đỏ, màu áo tươi nhưng không quá rực rỡ, càng tôn lên thần thái phóng khoáng phong nhã, ung dung tựa tiên của chàng. Chàng rời cung với nét mặt thản nhiên, lên xe ngựa về thẳng bộ Hộ. Sau khi chàng đi, điện Thùy Củng chìm trong sự yên tĩnh đến hiu quạnh.
Các quan Khởi cư chưa vào điện ngay, lũ thái giám cũng đang chờ ngoài cửa.
Triệu Phụ ngồi trên ngai, ngửa mặt nhìn lên, Đại thái giám Quý Phúc cúi đầu đứng chầu bên cạnh.
Rất lâu sau, Triệu Phụ mới nhẹ nhàng cất tiếng, giọng điệu chậm rãi ôn hòa: "Ngươi nói xem, làm thế nào mà CungTử Phong hiểu lòng trẫm đến vậy nhỉ?"
Quý Phúc nghe mà điếng người, lão đâu biết mình nên đáp gì, nhưng vì hoàng đế vẫn đang chờ câu trả lời của lão, lão đành thưa: "Cungtướng công một lòng vì Đại Tống, mà quan gia cũng vậy, cho nên tướng công mới có thể hợp ý quan gia." Quý Phúc và Cung Tuấn rất thân, đương nhiên trong tình huống này lão sẽ nói tốt cho chàng.
Triệu Phụ có suy tính nhiều hơn nữa cũng không ngờ rằng, người kề cận hầu hạ mình mấy chục năm nay lại cùng hội cùng thuyền với Cung Tuấn. Ông ta gật đầu, lấy một quyển tấu mới trong đống tấu chương trên bàn. Đọc bản tấu một lát, Triệu Phụ vứt nó cho Quý Phúc: "Xử lí gọn ghẽ vào, trẫm không muốn bất kì kẻ nào thấy nó."
Quý Phúc vội vàng nhận quyển tấu, vâng lời: "Dạ."
Triệu Phụ còn lẩm bẩm thêm một câu: "Sao ba đứa con trai của trẫm chẳng có đứa nào được như CungTử Phong nhỉ? Khéo đến Phỉ Nhiên chúng cũng chẳng bằng."
Quý Phúc nghĩ thầm: Ba vị hoàng tử đầu thai khéo nên mới sinh ra trong hoàng thất. Còn các quyền thần trên triều đình có ai mà không phải anh tài kiệt xuất, được sàng lọc từ hàng nghìn, hàng vạn người đâu? Các hoàng tử của ngài làm sao bì kịp với người ta? Chớ kể tới CungTử Phong, Tô Ôn Duẫn, ngay đến Đường Cảnh Tắc ba vị hoàng tử còn thua xa nữa là!
Quý Phúc cầm tấu chương ra khỏi điện Thùy Củng, lão sai con nuôi là Tạ Bảo đốt một chậu than, định thả vào tiêu hủy luôn. Trước khi vứt quyển tấu vào chậu than, Quý Phúc khựng lại, ngó nghiêng kĩ càng xung quanh. Thấy nơi đây không một bóng người, cung điện hẻo lánh này cũng chẳng còn thái giám, cung nữ nào khác chầu chực, Quý Phúc mới rón rén mở quyển tấu, đọc lướt nội dung.
Mắt trố ra vì kinh ngạc, lão cuống cuồng vứt vội quyển tấu xuống chậu than.
Cung điện trống huếch chỉ có một mình Quý Phúc và chậu than bập bùng. Quý Phúc vỗ vỗ ngực, luôn mồm than: "Chết khiếp lão đây rồi." Đến khi bình tĩnh, lão nghiêm giọng nói: "CungTử Phong quả là khác người."
Cung Tuấn làm việc trong hoàng cung bao nhiêu năm nay, chủ động giao hảo với những người gần gũi hoàng đế như Quý Phúc, Lý Tiêu Nhân, lợi ích ra sao giờ đã rõ.
Quý Phúc sai con nuôi Tạ Bảo đích thân xuất cung đưa thư cho Cung Tuấn.
Cung Tuấn đọc thư, mỉm cười nhẹ bẫng. Chàng chìa góc lá thư vào ngọn nến, nhìn lưỡi lửa liếm trụi lá thư này.
Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi, chỉ cần sai một li thôi, Dư Triều Sinh suýt nữa đã kiêm cả hai chức Thượng thư bộ Hình lẫn Thượng thư bộ Hộ!
Hôm sau, hoàng đế hạ chỉ, thăng Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh lên Tham tri chính sự Trung thư tỉnh, quản hạt ty Ngân Dẫn Giang Nam. Tuy chức quan vẫn thuộc hàm nhị phẩm, nhưng quyền hành lại tăng gấp bội. Không chỉ có vậy, việc hoàng đế giao ty Ngân Dẫn Giang Nam cho Dư Triều Sinh cũng làm suy yếu bớt quyền lực của Cung Tuấn.
Các quan phục dịch hoàng đế Khai Bình đã ba mươi hai năm nay, chẳng mấy chốc đã tường tận bản chất sự việc.
Dư Triều Sinh là học trò xuất sắc nhất của Tả tướng Từ Bí, là nòng cốt của Từ đảng, hoàng đế trọng dụng anh ta tức là đang nâng đỡ Từ đảng. Hơn nữa, ty Ngân Dẫn Giang Nam còn là đại bản doanh của Cung Tuấn, có ai không biết Cung Tuấn xuất thân từ Lang Gia Cungthị, là người Kim Lăng kia chứ? Sắp đặt này vừa làm suy yếu Cungđảng, vừa tiếp sức cho Từ đảng. Quanh đi quẩn lại, quyền mưu đế Cungđược vận dụng vô cùng nhuần nhuyễn.
Tô Ôn Duẫn về kinh đã lâu, nghe tin ấy liền cười khẩy: "Nếu Thánh thượng muốn nâng Từ đảng thật thì sao không lột quách cái chức Thượng thư bộ Hộ của CungTử Phong đi? Hắn đã là đại thần nhất phẩm, lại còn kiêm thêm cả bộ Hộ, quản lí quốc khố, chậc, thế có hợp lí không?" Chúng quan nhỏ ngơ ngác, chẳng hiểu mô tê gì.
Nhóm quan lớn tự phụ cứ tưởng mình nhìn thấu được ý đồ của Triệu Phụ, cho rằng Triệu Phụ kiềm hãm Cungđảng, chèn ép Cung Tuấn, tăng thêm quyền hành cho phe Tả tướng.
Chỉ có những bề tôi thân tín thực thụ của Triệu Phụ mới hiểu rằng, quyết định này của Triệu Phụ ẩn chứa toan tính quá sâu xa.
Làm sao Dư Triều Sinh lại không biết, tuy mình thăng chức thật đấy, nhưng chẳng tiến lên được là bao?
Hai thầy trò ngồi trong thư phòng, ngắm mưa nảy trên tàu lục bình ngoài song cửa.
Hồi lâu sau, Từ Bí nhẹ nhàng thở dài, nói: "Lão phu thua CungTử Phong mất rồi."
Dư Triều Sinh cúi đầu: "Là lỗi của học trò, học trò đi sai một nước."
Từ Bí cười: "Con cứ ôm lỗi lầm về mình thế, nhưng để cầm quân đánh cờ với CungTử Phong thì con chưa đủ tư cách đâu. Lão phu ủ mưu9 suốt cả năm trời, nâng đỡ10 hắn và ty Ngân Dẫn của hắn lên tới đỉnh cao, nâng đến độ hoàng đế không thể nào khoan nhượng thêm, vậy mà vẫn bị hắn hóa giải. Nghe nói mấy hôm trước hắn vào điện Thùy Củng một chuyến, không biết đã nói gì nữa đây."
Dư Triều Sinh hổ thẹn đến đỏ cả mặt, không nói nổi câu nào.
Đây là lần đầu tiên, cảm giác không cam lòng trong anh ta bùng lên dữ dội như thế.
Anh ta và Cung Tuấn là tiến sĩ cùng bảng, anh ta là Bảng Nhãn xếp sau Cung Tuấn, anh ta còn lớn hơn Cung Tuấn mấy tuổi, thế mà Từ Bí nói, anh ta chưa đủ tư cách đấu cờ với CungTử Phong.
Sóng lòng trào dâng, tay Dư Triều Sinh run lên, gần như không kiềm chế nổi cảm xúc nữa.
Từ Bí nhìn anh ta, nói: "Biết hổ thẹn mới nên đức dũng. Con vốn xuất thân hàn vi, cố nhiên từ nhỏ đã không được học nhiều, thấy nhiều bằng hắn. Song, thời giờ đằng đẵng, trước đây có người dòng dõi thế gia, tài nghệ siêu quần, thuở sinh tiền còn được khắc tên trên bia công đức, vậy mà lúc chết chỉ còn tiếng xấu vạn năm, con có biết là ai không?"
Dư Triều Sinh: "Ai thế ạ?"
Từ Bí nhâm nhi một hớp trà, cười đáp: "Chung Thái Sinh. Biết đâu, CungTử Phong lại là Chung Thái Sinh tiếp theo?"
Tháng tám, Chu Tử Thư nhận được thánh chỉ, chuẩn bị về kinh.
Trước khi về, cậu thu xếp công việc ở ty Ngân Dẫn đâu ra đấy. Đến lúc gần đi, cậu lại nhận được một bức thiếp mời.
Chinh Tây đại nguyên soái Lý Cảnh Đức mời Chu Tử Thư đến phủ gẫu chuyện.
||
Manh: hoa mắt vì thành ngữ... Dạo này bận đó, nên mọi người cứ chờ hoàn rồi đọc cũng được.
Chú thích
Gốc: 站稳根基 (phiên vân phúc vũ), xuất phát từ câu "Phiên thủ tác vân, phúc thủ vũ" trong bài thơ Bần giao hành của Đỗ Phủ. Mình sử dụng bản dịch thơ của .
Gốc: 避其锋芒 – khuyên người ta nên tránh đối đầu khi đối thủ đang được thế, đang mạnh. Gần với câu "tránh voi chẳng xấu mặt nào".
Gốc: 看碟下菜 Chắc lấy từ câu 看人下菜碟 – "nhìn người đặt cỗ" (Vũ Bội Hoàng dịch) trong Hồng Lâu Mộng. Ý chỉ phân biệt đối xử (hàm nghĩa chê). Có lẽ gần với câu "thượng đội hạ đạp" hoặc "mềm nắn rắn buông".
Lục = lục địa. Cửu châu là cách chia đơn vị hành chính thời xưa của Trung
Quốc. Dưới thời Bắc thuộc, lãnh thổ Việt Nam từng bị gộp vào với Giao Châu. Tuy giờ cách gọi này chỉ dùng để chỉ TQ thôi, nhưng mình nghĩ nếu dùng thì vẫn nên biết nguồn gốc từ.
Gốc: 快马加鞭. Ngựa khỏe dồn roi.
Gốc: 咱家(cha gia). Một cách tự xưng giống tôi, ta, mình.
王溱在皇宫中运作多年, 主动交好季福, 李肖仁这些皇帝的身边人, 到如
今好处就体现出来了. Không chắc từ "运作" trong câu này có nghĩa bóng không :p
[9] Gốc:酝酿 – nghĩa bóng chuẩn bị, chờ đợi cho điều gì đó chín muồi [10] Gốc: 捧. Cả 2 từ 9,10 tui đều bí từ tiếng Việt, ai nghĩ ra gì thì góp ý nhé.
Gốc: 知耻而后勇, xuất xứ từ câu "biết hổ thẹn thì gần đức dũng" trong sách Trung dung. Khổng Tử giảng giải để trở thành người cai trị tốt, con người cần có đủ ba đức trí, nhân, dũng. (tham khảo Tứ Thư Bình Giải)
------oOo------
Chương 143
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tướng phu thê
Chiều tối, Chu Tử Thư đi xe ngựa sang phủ Chinh Tây nguyên soái dự tiệc.
Tây bắc lắm cát vàng, đến tháng tám rồi mà đất trời vẫn mù mịt cát, mọi người đều phải mặc áo dày, quấn kín tóc bằng khăn sa mới chắn được cát bay từ phương Bắc tới. Lúc Chu Tử Thư tới phủ nguyên soái thì trời chưa tối hẳn, vẫn còn chút nắng chiều rơi rụng hắt về từ đằng Tây. Lý Cảnh Đức xiên con bò to béo mỡ màng vào thanh sắt, nướng1 xèo xèo trên đống lửa.
[1] Gốc: 烤. Từ này vừa có thể dịch là nướng vừa có thể dịch là quay.
Truyện không tả rõ cách làm nên mình tạm để là nướng nhé.
Lửa ánh lên khuôn mặt rậm rì râu quai nón của Lý tướng quân, tôn lên cặp mắt rừng rực sức sống và hết sức chăm chú của hắn.
Người hầu phải nhắc hắn rằng Chu Tử Thư tới, Lý Cảnh Đức mới ngẩng mặt lên, vẫy tay gọi: "Đến rồi đấy hả? Ra xem bò này, bản tướng quân tự tay lựa cho ngươi đấy, thích không?"
Ở Đại Tống không cấm hoàn toàn việc ăn thịt bò, song Chu Tử Thư đến thời đại này nhiều năm nay, tuy biết rõ ở lầu Tế Hà cậu mở có bán thịt bò chuyên dùng để nhúng lẩu, nhưng cậu chưa từng thấy bò nướng nguyên con bao giờ.
Quả nhiên Lý Cảnh Đức không phải hạng xoàng.
Chu Tử Thư hỏi: "Sao tướng quân lại tự nướng bò thế?"
Lý Cảnh Đức bảo Chu Tử Thư ngồi xuống, hồ hởi kể: "Bò nướng đã là gì. Lúc hành quân đánh trận lấy đâu ra thịt mà ăn. Bản tướng quân với quân lính thường xuyên phải ăn rau dại, uống nước ấm lót dạ. Canh rau dại hẵng còn ngon chán, ta vẫn nhớ có lần đụng độ quân Liêu trong thung lũng cách đây mười hai năm, quân ta bị vây hãm suốt mười sáu ngày liền, hồi đó phải ăn cả vỏ cây cơ mà!"
Chu Tử Thư nghĩ bụng ta chỉ hỏi tại sao ngươi tự nướng bò thôi, ngươi huyên thuyên một tràng làm cái gì?
Không phải ai cũng có vinh dự thưởng thức thịt nướng Lý Cảnh Đức tự làm. Hắn lấy dao găm xắt một miếng thịt bắp chảy mỡ, rắc muối hạt rồi đưa cho Chu Tử Thư. Chu Tử Thư nếm thử, thịt tươi non mềm sụm, tuy vị hơi nhạt, nhưng có nét đặc sắc của nó. Cậu thành thật khen: "Tướng quân nướng ngon lắm."
Lý Cảnh Đức cười khà khà: "Thế thì ăn nhiều vào."
Hai người xơi thịt nướng, uống rượu mạnh, Chu Tử Thư mới uống hai ngụm đã bảo: "Tửu lượng của ta kém, e là không thể hầu tướng quân uống tiếp."
Lý Cảnh Đức: "Vậy chớ uống thêm làm gì, ngộ nhỡ say thì chẳng hóa hỏng việc của ta sao?"
Chu Tử Thư thầm ngạc nhiên, cậu lặng lẽ quan sát Lý Cảnh Đức, nghĩ bụng, hóa ra ông tướng quân họ Lý này có việc nhờ mình thật à? Đâu giống vậy nhỉ? Lý Cảnh Đức là tay võ biền thẳng như ruột ngựa, trước giờ chẳng giấu được suy nghĩ trong lòng. Nếu quả thật hắn muốn thương lượng với mình thì đâu cần thiết phải vòng vo tam quốc, lần khần mãi thế?
Một khắc sau, Lý Cảnh Đức chứng minh ngay nhận định của Chu Tử Thư bằng hành động: "Thật ra, hôm nay bản tướng mời Đường đại nhân đến đây là vì muốn nói chuyện nước Liêu với đại nhân." Quả nhiên, thế này mới đúng là Lý Cảnh Đức!
Chu Tử Thư nghe vậy bèn ngó nghiêng xung quanh trước nhất, cậu phát hiện người hầu trong phủ Nguyên soái đã rời khỏi tiểu viện tự bao giờ.
Hóa ra Lý Cảnh Đức đã chuẩn bị sẵn đâu ra đấy.
Chu Tử Thư: "Hạ quan không hiểu ý tướng quân."
"Ngươi mà lại không hiểu ư? Làm gì có chuyện ngươi không hiểu chứ. Lũ quan văn các người, bụng nghĩ rặt những điều linh tinh, nói chuyện cũng lộn xà lộn xộn. Như cái tên Tô Ôn Duẫn ấy, ghét bản tướng quân thì cứ ghét đi. Nó ghét ông thì mất của ông miếng thịt nào? Ông dám mắng thẳng mặt nó là hạng tốt mã giẻ cùi, ngươi xem, nó có dám mắng lại ông không?" Lý Cảnh Đức xơi một miếng thịt, "Hầy, lạc đề rồi. Ta cứ ngỡ ngươi khác với bọn CungTử Phong, Tô Ôn Duẫn, nào ngờ ngươi cũng bắt chước chúng."
Chu Tử Thư khi nãy vẫn dè chừng phần nào, nghe thế, cậu dở khóc dở cười: "Tướng quân, thực tình hạ quan không rõ ý tướng quân mà."
"Không hiểu thật hở?"
"Không hiểu."
Lý Cảnh Đức gãi gãi đầu: "Thế thì nói đơn giản vậy đi, bao giờ mới có thể làm cỏ hết ráo lũ khốn nước Liêu đây? Ông thèm đánh chúng nó từ lâu lắm rồi."
Chu Tử Thư trầm ngâm một thoáng, nói: "Không thể nóng vội nhất thời."
Lý Cảnh Đức trừng trộ: "Giờ mà còn nóng vội? Đã bao nhiêu năm rồi kia mà!"
Chu Tử Thư: "Tướng quân, việc nước Liêu đâu phải chức trách của một mình hạ quan? Hạ quan kinh nghiệm ít ỏi, cũng chưa từng hành quân đánh trận bao giờ, nhưng dân chúng hai nước đều biết, người Tống giàu có đông đúc, người Liêu tục tằn hung hãn. Người Liêu là dân tộc sống trên lưng ngựa, toàn dân là lính. Hai mươi năm qua, Đại Tống ta giành nhiều thắng lợi ở mặt trận Tây Bắc, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đánh bại được người Liêu."
Lý Cảnh Đức cắn thịt bò, lặng im không nói.
"Muốn diệt thì phải phá từ trong." Ngưng lời một thoáng, Chu Tử Thư cảm thấy mình nói vậy thì chưa ổn lắm. Trên thực tế, xét binh lực của Đại Tống hiện giờ, cứ cho là hai mươi năm nữa cũng khó thấy nước Liêu lụi tàn. Lạc đà gầy còn hơn ngựa béo, dù Đại Tống hoàn toàn trên cơ đi chăng nữa, một khi nước Liêu chỉnh đốn xong xuôi, tình thế giữa hai phe sẽ vô cùng khác biệt. Chu Tử Thư bèn nói thêm: "Để giành lại lãnh thổ bị chiếm đóng, thêm vài năm có sá gì đâu tướng quân?"
Lý Cảnh Đức hùng hổ giằng một miếng thịt bò có gân, lại tợp một hớp rượu mạnh: "Mời ngươi, Đường Cảnh Tắc, ông đây tin ngươi."
Có lẽ ngọn lửa nướng thịt hầm hập đã thắp lửa vào mắt cậu, Chu Tử Thư thấy bừng bừng trong tim, cậu nhấc vò rượu: "Mới tướng quân." Chu Tử Thư có ngờ đâu Lý Cảnh Đức chỉ uống được đến thế!
Chính hắn chủ động bưng vò đòi uống với cậu, vậy mà mới hết hai vò hắn đã say tới độ nói năng mê sảng, bá vai Chu Tử Thư xưng huynh gọi đệ. Uống thêm lúc nữa, hắn quệt nước mắt, kể lể thở than: "Ông khổ lắm, Đường Cảnh Tắc ơi, ông đây khốn khổ lắm ngươi có biết không? Sư huynh ngươi, cái tên CungTử Phong xấu bụng ấy, ngươi về kinh thì khuyên nhủ y đi, khuyên y cho ông đây thêm tí tiền có được không? Ta khổ quá đi mất hức hức hức..."
Chu Tử Thư hốt hoảng, luống cuồng cả tay chân: "Tướng quân, ngài đừng khóc nữa."
Lý Cảnh Đức vẫn sụt sùi không thôi: "Lũ quan văn các ngươi chỉ giỏi hành tội người khác. Chúng ta đánh giặc rất đỗi đàng hoàng, thế mà toàn bị các người cậy quyền ức hiếp hu hu hu...."
Nói một thôi một hồi, Lý Cảnh Đức càng khóc càng hăng. Phải đến lúc hắn khóc ngất đi, Chu Tử Thư mới có cơ hội thoát thân.
Cậu chỉ vừa ra khỏi phủ nguyên soái, Lý tướng quân mới say bất tỉnh nhân sự đã ngồi phắt dậy, nghển cổ nhòm ra cổng: "Chu Tử Thư về rồi hử?" Người hầu đưa khăn nóng cho Lý Cảnh Đức: "Bẩm tướng quân, đã về rồi ạ."
Lý Cảnh Đức cầm khăn ấm lau khô nước mắt trên mặt, động tác rất mạnh bạo. Lau xong, hắn thở dài: "Hầy, bản tướng quân khổ ghê cơ chứ lại, xin tí tiền mà cũng phải giở bài khóc than. May thay ta đã quen khóc với Đại nguyên soái, nước mắt hễ hô là đến. Ngươi thấy vừa rồi bản tướng quân diễn có khéo không, Đường Cảnh Tắc không phát hiện ra đâu nhỉ?"
Người hầu: "..."
Tướng quân, ngài quả là bậc siêu phàm!
Về phần mình, Chu Tử Thư trở lại phủ, mủi lòng thương: "Quân đội Tây Bắc khó khăn đến thế, Lý Cảnh Đức túng quẫn đến thế ư?"
Chu Tử Thư cũng vô cùng ngờ vực chuyện Lý Cảnh Đức say giả hay thật, cậu phải chắc đến tám, chín phần là hắn vờ say. Nhưng để một đại tướng quân phải rơi lệ trước mặt người khác, dẫu là giả đi chăng nữa, Chu Tử Thư cũng thấy xót xa vô cùng!
"Sư huynh quá đáng tới vậy sao? Bao giờ về Thịnh Kinh, mình phải nói chuyện với huynh ấy mới được!"
Chu Tử Thư nào hay, ở doanh trại Tây Bắc, cứ ba ngày Lý tướng quân khóc một trận nhỏ, mười ngày lại khóc một trận lớn. Không khóc không được, bởi nếu không khóc, những việc hắn làm là quá đủ để Chu Thái sư giáng Chinh Tây nguyên soái nhị phẩm thành tên lính quèn!
Cuối tháng tám, Chu Tử Thư trở về Thịnh Kinh.
Thịnh Kinh không giống Tây Bắc, nắng gắt như đổ lửa, nóng như thiêu đốt.
Hôm Chu Tử Thư mới về, Diêu đại nương bổ dưa lạnh lúc chiều tối, gọi cậu ra ăn.
Món dưa lạnh này cũng giống với dưa hấu thời hiện đại, chính là giống dưa cổ chưa được cải tiến. Mọi người xơi mấy miếng dưa, đang dở câu chuyện thì bỗng Đường Hoàng tái mặt thốt lên "Sao mình lại quên chứ", rồi vội vàng bỏ dưa xuống không dám ăn thêm.
Chu Tử Thư và Diêu Tam đều chẳng hiểu ra làm sao.
Diêu đại nương bụm miệng cười: "Tôi đi nấu nước đường đỏ cho A Hoàng đây."
Diêu Tam vẫn ù ù cạc cạc. Chu Tử Thư dù gì cũng là người hiện đại nên biết chút thường thức về sinh lí, lúc này mới vỡ lẽ.
Tối đến, vì trót ăn hai lát dưa lạnh mà Đường Hoàng thấy trong người khó ở thật. Cô bé xấu hổ nằm bẹp trên giường. Ban đầu Chu Tử Thư định tối nay qua ngủ bên phủ Thượng thư, xong thấy vậy thì cậu ở lại phủ nhà chăm em chứ không đi sang nữa.
Chu Tử Thư vào phòng, điềm nhiên đứng cạnh giường ngó Đường Hoàng.
"Đỡ hơn chưa?"
Cô nhóc sượng sùng ghê gớm, lấy cái gối bịt kín mặt: "Đỡ rồi đỡ rồi. Mà anh buồn cười thật, sao anh lại vào đây thế hả? Mấy hôm trước Diêu đại nương mới dặn, em mười bảy rồi, kể cả là anh em ruột thì anh... anh cũng đâu thể vào thẳng phòng em chứ?"
Chu Tử Thư cạn lời: "Em cũng biết hai đứa mình là anh em hở?"
Đường Hoàng hùng hồn như thể lẽ đương nhiên: "Nhưng em chưa xuất giá mà!"
Chu Tử Thư phì cười: "Em còn biết em chưa xuất giá cơ đấy?" Đường Hoàng ngớ ra, lại ụp mặt xuống gối.
Ban đầu Chu Tử Thư không muốn nói chuyện này, nhưng giờ nhắc đến cậu mới nhớ, năm nay Đường Hoàng đã mười bảy tuổi rồi.
Đại Tống cũng có khá nhiều cô gái chưa lập gia đình ở tuổi mười bảy, thậm chí mười tám tuổi vẫn có người chưa lấy chồng. Tuy vậy, phần lớn các cô gái ở độ tuổi này đều đã được hứa hôn. Chu Tử Thư cũng từng hứa rằng việc hôn nhân của Đường Hoàng sẽ do chính cô bé định đoạt.
"Em chuẩn bị bao giờ thì quyết đây?"
Đường Hoàng ló mắt ra khỏi chiếc gối: "Quyết cái gì cơ?"
Chu Tử Thư kéo ghế ngồi xuống, nhướng mày, mỉm cười nhả ra hai chữ:
"Lấy chồng."
Đường Hoàng: "..."
"Anh này, anh có để ý là càng ngày anh càng giống Thượng thư đại nhân không?"
"Hử?"
"...Giờ càng giống nè!"
Chu Tử Thư bỗng phì cười. Cậu có muốn giống Cung Tuấn đâu, nghe cứ kì kì thế nào ấy. Chu Tử Thư đằng hắng hai tiếng, giọng nghiêm túc hẳn lên: "Nói nghiêm chỉnh nào, em tính bao giờ mới quyết đây?"
Đường Hoàng im thin thít, mãi lâu sau, con bé mới lí nhí bảo: "Nếu em muốn ở nhà cả đời thì sao?"
"Thì ở thôi."
Đường Hoàng hớn hở reo lên: "Anh!"
Chu Tử Thư hết cách, xoa đầu con bé: "Để em tự quyết thì đương nhiên là theo ý em hết rồi."
Đường Hoàng sướng rơn, mừng rỡ gọi "anh" ba lần liền.
Hôm sau lúc Chu Tử Thư sang phủ Thượng thư thì Cung Tuấn đang đọc sách.
Cungđại nhân là người cao nhã tột bậc, giờ phút này chàng đọc sách dưới ánh Tuấng thanh, Chu Tử Thư ngắm mà lóa mắt giùm. Cậu đến gần liếc nhìn cuốn sách, bĩu môi: "Gì đây, Luận ngữ à? Chẳng phải sư huynh đã thuộc nằm lòng rồi hay sao?"
Cung Tuấn thở dài: "Đọc sách trăm lần thì tự thấy ý nghĩa của nó." [2] Xuất xứ từ sách Tam quốc chí của Trần Thọ.
Thế là Chu Tử Thư lại nghĩ phải chăng mình nông cạn quá, cần đọc nhiều hơn chứ không thể ỷ vào bàn tay vàng mà bê trễ được. Chẳng ngờ giây lát sau, Cung Tuấn đã gấp sách, cúi đầu hôn lên má cậu, cười khẽ khàng: "Dĩ nhiên hôm nay đọc sách dưới Tuấng cốt là để chờ em đấy thôi."
Chu Tử Thư: "..."
Té ra là huynh đang làm màu thật!
Ăn tối xong, hai người bắt đầu tâm sự, Chu Tử Thư nhắc tới chuyện Đường Hoàng.
Cung Tuấn khẽ nhếch mày, mỉm cười: "Nếu không muốn, cứ kệ con bé cũng chẳng sao."
Chu Tử Thư nhìn chàng đăm đăm.
Cung Tuấn: "Có gì không đúng hả?"
Chu Tử Thư: "...Hóa ra ta lại giống huynh đến vậy!"
Cung Tuấn không biết đầu đuôi thế nào nên dĩ nhiên không hiểu. Nhưng Cungđại nhân cũng cười nhạt thôi chứ chẳng hề bận tâm. Chàng nâng chén trà lên nhấp một hớp.
Chu Tử Thư: "Thật ra huynh chưa rõ, có một bí mật mà hiện giờ chỉ mình ta biết thôi, ngay đến A Hoàng cũng không hề hay biết."
"Ồ?"
Trù trừ một lát, Chu Tử Thư đành kể: "Kì thực A Hoàng không phải em gái ruột của ta. Mẹ ta nhận nuôi A Hoàng vào năm em ấy một tuổi. Hàng xóm láng giềng đều tưởng là con đẻ, vì hồi đó cha mẹ ta vào phủ thành thăm người thân, lúc về thì có thêm A Hoàng. Nhưng hồi đó mẹ ta chỉ muốn nuôi sẵn một cô con dâu từ bé cho ta thôi. Mẹ ta kể rằng cha mẹ A Hoàng đều mất vì bệnh tật nên chẳng còn ai thân thích hết."
Cung Tuấn không ngờ Chu Tử Thư lại kể chuyện này, chàng hết sức ngỡ ngàng, giọng sửng sốt: "Con dâu nuôi từ bé ư?"
"Nghĩ đi đâu đó, A Hoàng là em gái ta." Chu Tử Thư kể tiếp: "Vì chưa đầy hai năm sau, mẹ ta bị ốm rồi mất, trong khi cha ta là thư sinh hủ nho chẳng hề ưa những hủ tục như nuôi con dâu từ bé, nên cha đã nuôi dưỡng A Hoàng như em gái ta. Người làng quê thường chuộng những cái tên xấu, cho rằng vận hèn mới dễ nuôi, như cái tên A Hoàng được đặt rất qua loa ấy. Trái lại tên của ta là Thận, lấy từ câu 'Quân tử ắt phải thận trọng khi ở một mình'3, thì được cha ta lựa chọn hết sức kĩ càng. Chỉ vì A Hoàng là con nhặt mà cha ta chưa bao giờ chọn tên hay cho con bé, cứ đặt bừa thế thôi."
[3] Gốc: 君子必慎其独也. Xuất xứ từ sách Đại Học. Khi ở một mình, chúng ta dễ bị cám dỗ bởi những thói quen xấu (ví dụ như hay thức khuya LOL) mà xa rời thói quen tốt. Vì thế, người quân tử phải hết sức thận trọng. (Tham khảo: Tứ Thư Bình Giải)
||
Tác giả đánh úp kinh quá, trích lại chương 22 cho thắm đượm tình anh em nhé:
Cô bé nhanh nhảu: "Hoàng của màu 'vàng' ạ."
Chu Tử Thư: "Là 'hoàng' trong ngọc 'Hoàng'. Sách Chu Dịch, thiên Đại
Tông Bá có nói, lấy ngọc Hoàng đen, lễ phương Bắc. Thưa tiên sinh, là chữ 'hoàng' này cơ ạ."
Đường Hoàng há hốc miệng nhìn anh trai.
Lương Tụng thấy phản ứng của hai huynh muội, vuốt râu nói: "Hoàng là mỹ ngọc, tên này hay lắm."
Đường Hoàng ngẩn người ra hồi lâu, chợt phấn khích chạy tọt vào trong bếp, vừa chạy vừa la lên: "Diêu đại nương ơi con có tên rồi. Đường Hoàng, không phải là 'hoàng' trong màu vàng, là ngọc 'Hoàng'! Lương đại nho còn khen tên hay..."
------oOo------
Chương 144
Nguồn: EbookTruyen.Net
Thăng quan
Sau khi kể về thân thế Đường Hoàng, bản thân Chu Tử Thư cũng cảm thấy xa lạ.
Những năm qua, cả cậu lẫn Đường tú tài đều coi Đường Hoàng là người nhà, không ai xem con bé như người ngoài cả. Giờ nói rõ xong, trong thoáng chốc, Chu Tử Thư có hơi buồn. Cậu nói: "Thật ra chuyện này đã không còn quan trọng từ lâu rồi, A Hoàng chính là em gái ruột của ta." Ngừng một lát, cậu ngẩng lên nhìn Cung Tuấn: "Sư huynh sẽ không kể chuyện này ra ngoài chứ?"
Hiện giờ người biết việc này chỉ có mình cậu và Cung Tuấn thôi.
Cung Tuấn nhếch một bên mày: "Tại sao ta phải kể?"
Chu Tử Thư gật đầu. Cậu chỉ hỏi bâng quơ thế thôi, Cung Tuấn hơi đâu mà đi kể cho người khác.
Tất nhiên cậu không nghĩ rằng, đừng nói tới chuyện loan báo rùm beng, ngay lúc này thôi, Cungđại nhân đã thầm nhủ phải tìm một mối thật tốt cho Đường Hoàng rồi. Nếu chỉ là em gái Chu Tử Thư thì chẳng đáng ngại, nhưng giờ lại tòi ra thân phận "dâu nuôi từ bé". Cungđại nhân chưa bao giờ hoài nghi sức quyến rũ của mình, cũng không nghĩ Chu Tử Thư với em gái cậu có thể nên chuyện gì.
Nhưng mà...
Dâu nuôi từ bé ấy à.
Cungđại nhân mỉm cười, điềm nhiên không nói gì hết.
Cung Tuấn trăm công nghìn việc, sự vụ cỡ này đương nhiên không thể để chàng đích thân lo liệu được. Chàng viết một lá thư gửi về Kim Lăng cho người đứng đầu Lang Gia Cungthị, tức bà nội của chàng – Cunglão phu nhân. Việc này thì lão phu nhân thế gia đương nhiên biết cách xử lí. Cụ bà nhận được thư của Cung Tuấn, nguyên một đoạn dài đầu thư hoàn toàn không đề cập tới chuyện nhờ bà giúp Đường Hoàng tìm một lang quân như ý, chỉ bày tỏ lòng nhớ bà tha thiết của chàng.
Cụ bà chấm nước mắt: "Tử Phong ở Thịnh Kinh nhọc nhằn quá, tết năm ngoái nó về nhà, người gầy rộc cả đi, nhất định là bị chèn ép khổ sở lắm."
Đọc đến cuối thư, Cunglão phu nhân cũng lưu tâm, bèn gọi các con dâu của mình đến. Mọi người bàn bạc với nhau xong xuôi thì viết thư gửi lại Thịnh Kinh. Lão phu nhân viết hai lá thư, một lá gửi cho Cung Tuấn, lá kia gửi sang phủ Hữu tướng cho phu nhân Hữu tướng.
Tối đến, Hữu tướng CungThuyên gọi Cung Tuấn sang. Ông nhìn chàng hồi lâu, bất lực than: "Con thật là! Chuyện bằng cái móng tay như thế cứ nói thẳng với ta, với nhị bá mẫu của con không được à? Việc gì phải vòng veo lôi thôi, báo xuống tận dưới Kim Lăng làm gì?"
Cung Tuấn sửng sốt: "Thúc tổ, nếu con nói thẳng với người thì có hợp lễ phép chăng?"
CungThuyên không bắt bẻ nổi, cứng họng chẳng nói được gì.
Phải, không hợp lễ phép, nhưng bây là CungTử Phong kia mà, bây làm việc đã bao giờ kiềng lễ phép đâu? Ắt hẳn trong việc này có ý đồ không muốn ai biết rồi!
Dĩ nhiên, Cung Tuấn có ý đồ khác.
Thứ nhất, chàng làm thế để che giấu thân thế của Đường Hoàng. Có Cunglão phu nhân khẳng định, Đường Hoàng hiển nhiên sẽ thành em gái ruột của Chu Tử Thư. Thứ hai, chàng cố ý viết thư về nhà để báo trước cho lão phu nhân hay. Không phải ai trong nhà họ Cungcũng biết về mối quan hệ của chàng với Chu Tử Thư, đa phần mọi người trong họ ở phủ Kim Lăng chỉ biết chàng không thích phụ nữ, chứ chưa biết chàng đã tìm được ý trung nhân.
Cungđại nhân ngẩng đầu nhìn Tuấng sáng, bất giác thở dài, thầm nhủ, vì sư đệ nhà mình, quả thật phải hao tâm tổn sức.
Đường Hoàng vẫn chưa biết phu nhân Hữu tướng đã bắt đầu tìm hiểu con cháu các gia đình tử tế trong tầm tuổi cho cô bé. Thực ra không nhất thiết phải tìm bằng được chồng tương lai cho Đường Hoàng, chỉ cần đưa ra vài lựa chọn để cô bé được tiếp xúc với các chàng trai ưu tú khác nhau thôi. Nếu không muốn, không ai bắt ép cô bé cả.
Gần cuối năm, sổ sách của lầu Tế Hà, Bách Bảo Các đều được tổng kết, các quản lí phụ trách phủ Cô Tô cũng lũ lượt ngược Bắc lên Thịnh Kinh.
Năm nay, Chu Tử Thư hoàn toàn không gặp các quản lí nữa, giao phó hết cho Đường Hoàng lo liệu.
Cô gái nhỏ giải quyết mọi việc cực kì thỏa đáng, đến mùng mười tháng chạp, khi các quản lí sắp sửa rời Thịnh Kinh, Đường Hoàng triệu tập mọi người lại. Cô bé nói: "Bảy năm trước, Đường gia chúng ta mở Hậu cần Đường thị ở phủ Cô Tô, từ sau khi bán Hoàng Kim Lũ, xà phòng, việc bán buôn càng ngày càng phát đạt."
Các quản lí nói: "Nhờ đông gia biết cách lãnh đạo."
Đường Hoàng khoác trên mình bộ váy thuần màu vàng, nghe lời ngợi ca mà thái độ vẫn bình thản. Cô bé nhấp một ngụm trà, nói: "Các vị đừng tâng bốc ta làm gì, ta mới tiếp quản việc làm ăn của nhà họ Đường hai năm nay thôi, trước đây mọi việc đều do anh trai ta quán xuyến. Trong những năm qua, ta chứng kiến nhiều đều, dần dà cũng có vài suy ngẫm. Các vị có biết nhờ đâu mà Đường gia lớn mạnh và đạt được quy mô như ngày hôm nay không?"
"Xin đông gia giảng giải cho."
"Vì thứ Đường gia chúng ta cực kì chú trọng, chính là hai chữ 'thời gian'."
"Mọi người đều biết, Hậu cần Đường thị ban đầu hầu như không có lợi nhuận. Nhưng anh trai ta đã sử dụng Hậu cần Đường thị để tự quảng cáo. Thông báo rộng rãi cho người ta hay, ấy chính là quảng cáo. Nhờ Hậu cần Đường thị mà bách tính Cô Tô đều biết đến Hoàng Kim Lũ và xà phòng, mà lợi ích từ việc đó thì không cách nào đong đếm nổi. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một khởi đầu thôi. Lầu Tế Hà nhờ Hậu cần Đường thị mà luôn có nguyên liệu nấu nướng tươi ngon hơn các tửu lầu khác. Sau này, Bách Bảo Các cũng nhờ Hậu cần Đường Thị mới quy tụ được hết của ngon vật lạ khắp trời nam biển bắc vào một cửa hàng nhỏ, không gì không có."
Ánh mắt Đường Hoàng sắc sảo: "Đó chính là tiết kiệm thời gian."
"Bắt đầu từ năm kia, ta cho thợ thủ công ở xưởng chỉ chuyên tâm làm đúng một việc. Quen tay hay việc, tốc độ làm việc của họ càng ngày nhanh hơn, càng tiết kiệm được nhiều thời gian hơn. Dần dà, thời gian mỗi người thợ tiết kiệm được là một chung trà, chúng ta có thể hình dung được một trăm người thợ tiết kiệm được bao nhiêu thời gian không?"
Đường Hoàng đặt chén trà xuống, Chén sứ chạm xuống mặt bàn gỗ hồng mộc nghe tiếng trong veo. "Hôm nay, ta tổng kết nguyên nhân Đường gia phát triển và đạt được thành tựu như ngày nay thành ba điều. Điều một, nhờ bồi dưỡng thợ khéo và các nhân viên giỏi; điều hai, nhờ con mắt tinh tường tìm ra những cơ hội tốt; điều ba, chính là nhờ tiết kiệm thời gian."
"Thưa mọi người, Đường gia đã phát triển được như ngày hôm nay, phải làm thế nào để lớn mạnh hơn nữa, đều phải trông vào các vị. Hi vọng sang năm, tại nơi đây, ta sẽ được lắng nghe sáng kiến của chính mọi người. Đường gia không phải là Đường gia của mình anh em chúng ta, các vị cũng là một phần của Đường gia."
Cô gái nhỏ xinh đẹp và khí phách nhếch môi cười, bảo: "Các vị có hiểu ý ta không?"
Các quản lí mắt tròn mắt dẹt nhìn cô gái nhỏ đang ngồi ghế trên. Đây là lần đầu tiên họ không còn dám coi thường cô gái này nữa. Không biết ai khởi xướng, chắp tay nói đầu tiên: "Tiểu nhân đã rõ." Chớp mắt, các quản lí đồng thanh hô: "Tiểu nhân đã rõ."
Đợi khi các quản lí về hết, Đường Hoàng mới ngả lưng ra ghế, chùi mồ hôi trong lòng bàn tay.
"Anh à, mong rằng bọn họ có thể nghĩ ra vài sáng kiến hay, giống như lời anh nói. Quả đúng như anh bảo, người đông sức mạnh, nếu thực sự muốn phát triển hơn, không thể dựa vào mỗi hai đứa mình được."
Rất lâu về sau, khi Chu Tử Thư biết những gì Đường Hoàng nói ngày hôm nay, cậu đã vô cùng sửng sốt. Cậu chỉ nói với em gái mình rằng cậu mong cô bé có thể khiến các quản lí cùng nghĩ biện pháp phát triển khoa học và kĩ thuật, bởi chỉ có khoa học, kĩ thuật mới là phương pháp đúng đắn, mới có thể nâng cao sức sản suất. Còn tất cả những điều Đường Hoàng nói ra, cậu không hề dạy một chữ.
Nhưng đó là chuyện sau này.
Đêm giao thừa năm Khai Bình thứ ba mươi hai trôi qua vô cùng yên ắng, thậm chí có phần buồn tẻ.
Đêm trước giao thừa, Triệu Phụ y theo lệ cũ, thiết yến trong cung khoản đãi quần thần.
Tuy nhiên, vào buổi tối sau đó – tối giao thừa, không một ai trong số ba vị hoàng tử về kinh. Nói như vậy không có nghĩa ba người bọn họ không mong được về kinh, tuy trong bụng họ thật tình rất hãi sợ. Đến nay, vụ cung biến tháng giêng năm ngoài hẵng còn sờ sờ trước mắt họ. Tuy hoàng đế không trừng phạt nghiêm khắc các hoàng tử mà bắt hòa thượng Thiện Thính và Kỷ tướng gánh thay hòng miễn tội trạng cho ba người con trai của mình, song có vết xe đổ lần ấy, còn ai trong số họ dám mơ tưởng ngôi vị Thái tử trước mặt Triệu Phụ đây?
Dầu vậy, bọn họ cũng không dám làm phật ý vị vua cha tính tình khó đoán này.
Trung tuần tháng chạp, ba người cùng dâng thư vào kinh, bày tỏ tâm nguyện được về kinh của mình.
Triệu Phụ nhìn ba bản tấu của các con, trông nét mặt, khó mà đoán nổi ông ta đang nghĩ gì. Hồi lâu sau, Triệu Phụ thở dài thườn thượt, nói như đùa với Quý Phúc: "Ngươi coi chúng đấy, rõ rành rành là không dám về, thế mà vẫn phải hỏi trẫm một tiếng, sợ trẫm không vui. Như thế này gọi là khôn quá hóa dại, ngu xuẩn không để đâu cho hết."
Quý Phúc nào dám xen mồm vào chuyện của cha con nhà vua, lão chỉ biết cúi đầu ngậm tăm. Song, lão vẫn trộm liếc Triệu Phụ, tự nhủ: Quan gia, liệu ngài có phát giác rằng lúc này đây, dường như ngài cũng đã thay đổi?
Cuối cùng thì không có hoàng tử nào về kinh hết. Buổi gia yến đêm giao thừa trong hoàng cung chỉ có mỗi gia đình Cảnh Cungtới, ảm đạm đến thê lương.
Trong buổi yến, Triệu Phụ không hề cười lấy một lần. Tan tiệc, ông ta cũng phủi tay áo rời gót ngay.
Quý Phúc nhanh nhẹn theo sau. Song, khi trông bóng lưng Triệu Phụ, lão bổng ngộ ra ý nghĩa của cụm từ nọ.
Cô gia quả nhân.
Hoặc giả, từ đầu chí cuối vốn chỉ là một người cô đơn lạc lõng.
Năm Khai Bình thứ ba mươi hai, ngày mười chín tháng giêng, khi trăm quan quay về làm việc chưa được mười ngày, Chu Tử Thư đã nhận được thánh chỉ.
Kì thi Hội ở Thịnh Kinh năm nay do Thượng thư bộ Hình kiêm Tham tri Chính sự Trung thư tỉnh Dư Triều Sinh làm chủ khảo, ngoài ra chọn thêm hai mươi viên quan dưới hàm tam phẩm làm phó khảo. Các quan phó khảo cũng có cao có thấp, Chu Tử Thư là viên quan có phẩm hàm cao nhất trong số đó.
Lần này là lần thứ hai bọn họ cùng làm giám khảo. Trước khi kì thi Hội bắt đầu, Dư Triều Sinh dẫn dắt các quan vái lạy tượng đức thánh Khổng.
Chu Tử Thư đứng sau lưng Dư Triều Sinh, cúi mình hành lễ.
Sau khi nghi lễ kết thúc, các thí sinh đồng loạt vào trường thi. Dư Triều Sinh liếc nhìn Chu Tử Thư; hai người cùng nhìn nhau và cười.
Chuyến làm chủ khảo này của Dư Triều Sinh diễn ra trôi chảy thuận lợi, mọi việc trong trường thi đều tốt đẹp, yên ổn, không có sai phạm nào phát sinh. Thậm chí, trong các thí sinh dự thi còn có mấy người nổi danh từ trước, văn chương điêu luyện tuyệt hay. Trong lúc chấm bài, Chu Tử Thư có bắt gặp một quyển như vậy. Cuối cùng đến lúc gỡ hồ dán tên, cậu vừa thấy đã trầm trồ: "Hóa ra là thí sinh nhà họ Tô ở Bắc Trực Lệ."
Họ Tô ở Bắc Trực Lệ cũng là thế gia đại tộc lẫy lừng danh tiếng một vùng. Người có chức quan cao nhất hiện giờ trong dòng họ chính là Tô Ôn Duẫn, hàm tam phẩm, hiện đang đảm nhiệm chức Thượng thư bộ Công kiêm Thiếu khanh Đại lý tự.
Ấy thế mà chỉ vỏn vẹn nửa tháng sau, kì thi Đình còn chưa bắt đầu, Tô Ôn Duẫn đã trót lọt thăng quan, lên chức Tham tri Chính sự Xu mật viện kiêm Thiếu khanh Đại lý tự, bậc nhị phẩm.
Việc thăng tiến của Tô Ôn Duẫn hoàn toàn nằm trong dự liệu của tất cả mọi người, thậm chí ngay cả Chu Tử Thư cũng suy đoán không biết bao giờ hoàng đế mới thăng chức cho anh ta.
Hôm Tô Ôn Duẫn lên chức, tất cả các quan đều chúc mừng.
Nhưng chỉ sau một tháng ngắn ngủi, ngay khi kì thi Đình vừa kết thúc, lại có thêm thánh chỉ được ban.
"Gián nghị đại phu kiêm Hữu phó ngự sử ty Ngân dẫn Chu Tử Thư cung kính và khiêm nhường, cần cù lập công cao, từng trải hai kì thi Hội, hiểu tường tận lòng trẫm. Thăng Chu Tử Thư làm Hữu thị lang bộ Công kiêm Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn hàm tam phẩm, nhậm chức kể từ hôm nay."
Chỉ vừa ban, quần thần đều choáng ngợp, ngay đến Cung Tuấn cũng không dự đoán được trước tình huống này.
Chu Tử Thư cũng ngỡ ngàng mất một lúc lâu, mãi không tiếp chỉ. Phải đến lúc thái giám truyền chỉ mỉm cười nhắc cậu: "Đường đại nhân, đừng vui mừng thái quá, hãy tiếp chỉ trước đã." Bấy giờ Chu Tử Thư mới tiếp chỉ, tạ ơn.
Những người khác sửng sốt là vì hiện giờ Chu Tử Thư mới hai mươi hai tuổi, vậy mà hoàng đế đã thăng chức cho cậu, nâng cậu thành đại quan tam phẩm danh xứng với thực.
Còn Chu Tử Thư choáng váng, là vì cậu không ngờ mình trở thành Hữu thị lang bộ Công thật.
Lúc còn một mình, Chu Tử Thư dở cười dở mếu: "Con tạo cũng khéo trêu người lắm đây!"
||Chú thích
Cụm từ "cô gia quả nhân" có hai nghĩa. Nghĩa một là cách xưng hô khiêm nhường của vua chúa thời xưa. Nghĩa hai là một người bị tách rời khỏi số đông, cô đơn lạc lõng.
Gốc: 造化弄人 – tạo hóa trêu người.
------oOo------
Chương 145
Nguồn: EbookTruyen.Net
Quyết tiến không lùi
Thời điểm được vinh danh bảng vàng, ruổi ngựa dạo phố, Chu Tử Thư từng nghĩ chức quan mình muốn làm nhất là một chức quan thuộc bộ Công.
Sau đó cậu bước vào con đường hoạn lộ, trải sáu năm đổi dời, đã đảm nhiệm nhiều vị trí. Lúc lên chức Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn, cậu còn nói với Đường Hoàng rằng: "Anh muốn làm quan ở bộ Công nhất." Nhưng Chu Tử Thư chỉ nói thế mà thôi, cậu chưa từng nghĩ mình có thể vào bộ Công thật.
Đâu ai ngờ, sự đời khó đoán trước, hiện giờ cậu đã thành quan bộ Công.
Hai mươi hai tuổi đã là quan tam phẩm, trong thời gian trị vì của hoàng đế hiện nay không phải hiếm. Cung Tuấn hai mươi ba tuổi đã là Thượng thư bộ Hộ, xét ra còn phi thường hơn cả Chu Tử Thư.
Kể ra thì chức Hữu thị lang bộ Công cũng rất thú vị. Người tiền nhiệm của Chu Tử Thư chẳng phải ai khác, chính là Tô Ôn Duẫn – người mới được thăng chức gần đây. Hai mươi tư tuổi, Tô Ôn Duẫn đã là Hữu thị lang bộ Công. Trong thời gian Tô Ôn Duẫn tại chức, vì đảm nhiệm cả chức Thiếu khanh Đại lý Tự, anh ta chủ yếu nghe theo sự sai phái của hoàng đế chứ không thường xuyên đến bộ Công làm việc.
Hiện giờ đổi sang Chu Tử Thư, việc đầu tiên cậu làm là chuyển về điện Cần Chính.
Điện Cần Chính về cơ bản vẫn giống trước kia. Không có quá nhiều thay đổi trong hai năm Chu Tử Thư rời khỏi đó.
Trong bốn vị tướng công chỉ có Từ Bí vốn là Hữu thừa nay đã thành Tả tướng, Thượng thư bộ Hình cũ Cảnh Thiếu Vân lên chức Hữu thừa. Chu Tử Thư quay về điện Cần Chính khiến nhiều quan đồng liêu bùi ngùi xúc động mọi người đều chúc mừng cậu. Chỉ trong vòng một ngày, phủ Hữu thị lang đã chất đống quà cáp.
Triều đại này không cấm đoán việc quà cáp giữa các quan, chỉ cần không thái quá thì chẳng sợ bị Ngự sử đài để mắt.
Mùa xuân năm Khai Bình thứ hai mươi ba đã trôi qua trong không khí bình yên vui vẻ.
Đến mùa hè, lũ lớn xảy ra ở sông Hoàng Hà, tứ hoàng tử Triệu Kính gửi thư về kinh, xin triều đình cử người đến cứu trợ thiên tai. Chu Tử Thư nhậm chức Hữu thị lang bộ Công suốt nửa năm mới có dịp đi công cán. Triệu Phụ sai cậu đến Ký Châu đối phó với nạn lụt lội. Bên cạnh đó còn có bộ Hộ, bộ Binh phối hợp cứu giúp nạn dân.
Chu Tử Thư lập tức sửa soạn đến Ký Châu ngay.
Lúc biết tin anh trai mình phải đi khắc phục nạn lụt, Đường Hoàng ngạc nhiên vô cùng: "Này anh, em không biết anh có tài trị thủy từ bao giờ đấy?"
Chu Tử Thư nhướng mày: "Anh cũng có biết đâu."
"Hả?"
"Em nghĩ quan bộ Công thì làm gì?" Đường Hoàng ù ù cạc cạc.
Chu Tử Thư cười nói: "Tuy anh không hiểu rõ việc chống lụt lội, nhưng anh là Hữu thị lang bộ Công, không phải thợ của bộ Công. Trên bàn cờ, em đã bao giờ thấy người ta dí tướng xông pha, giữ tốt ở lại chưa?" Quan cao là thế đấy, quyền thần là thế đấy.
Kiếp trước Chu Tử Thư là sinh viên ngành kỹ thuật, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc cậu biết đối phó với lụt lội. Những gì cậu biết về lũ lụt chỉ giới hạn ở những thông tin đại chúng hằng năm, mà những bản tin đó cũng chỉ loanh quanh mấy câu về phòng chống lụt lội, như phải khơi thông thay vì ngăn chặn, xây dựng hệ thống thoát nước chất lượng cao, song những điều này quá khó để thực hiện trong bối cảnh cổ đại. May thay, dân cư cổ đại không quá đông đúc, chỉ cần di dời khỏi vùng thường xuyên xảy ra lụt lớn hằng năm nên tình hình thiên tai có thể không nghiêm trọng như thời hiện đại.
Tháng bảy, Chu Tử Thư dẫn đoàn đến Ký Châu, mãi đến tận tháng chín mới trở về.
Cậu về tới nơi, Cung Tuấn cứ ngắm nghía mãi, rồi xót xa ôm ghì vào lòng: "Gầy rồi, còn đen đi nữa."
Chu Tử Thư nhoẻn cười, cậu đẩy chàng ra, hỏi: "Huynh có biết ta gặp ai ở
Ký Châu không?"
"Ai thế?"
"Tiên sinh đó."
Cung Tuấn ngạc nhiên quá đỗi.
Chu Tử Thư nhịn lâu như thế, cốt là để thấy vẻ mặt bất ngờ của Vương
Tuấn. Giờ cậu đã thỏa mãn, bèn kể hết đầu đuôi: "Tiên sinh du ngoạn miền Nam một năm, thăm thú hết sông rộng núi dài. Vì đã có tuổi nên dù còn nhiều chỗ chưa từng đặt chân, người cũng không thể ghé thăm hết mà đành phải quay về Xương Châu. Đúng lúc người đến gần Ký Châu thì nghe tin ta đang ở đó, thế là người bèn tới Ký Châu gặp ta. Theo hầu tiên sinh vẫn có hai tiểu đồng Ôn Thư và Phủ Cầm đó."
Cung Tuấn khoan thai ôm gọn cậu vào lòng mình lần nữa: "Phủ Cầm ấy à?
Lẽ nào ta không phải Phủ Cầm ư?"
Chu Tử Thư: "Huynh gảy đàn có êm tai bằng Ôn Thư không?"
Trong hai đồng tử theo hầu Phó Vị, Ôn Thư thì giỏi chơi đàn, Phủ Cầm lại giỏi đọc sách, đây là giai thoại thú vị mà ai ai cũng biết.
Cung Tuấn bật cười: "Thế là tiểu sư đệ muốn nghe ta dạo một bài phải không?" Nói đoạn, Cung Tuấn dắt cậu tới thư phòng, "Muốn nghe khúc nào? Phượng cầu hoàng, hay Trường tương tư?"
Chu Tử Thư cười hì hì: "Suốt ngày chỉ biết đánh cờ chơi đàn, huynh có thể nói chuyện gì hay hơn được không?"
Cung Tuấn ra chiều buồn bã, thở dài: "Quả nhiên là em thấy ta tẻ ngắt mà. Phải đó, ta đọc sách từ nhỏ, chỉ học mỗi cầm kì thi họa chứ đâu được như em, gặp cơ man điều hay chuyện lạ. Ta nghe nói em từng bán một loại nước trái cây, chua ngọt tươi mát, vậy mà ngay cả việc tưởng tượng ra nó thôi ta cũng chẳng tài nào tưởng tượng nổi."
Chu Tử Thư ngỡ ngàng: "Từ đâu mà huynh biết chuyện đó?" Cung Tuấn nháy mắt với cậu, tuyệt nhiên không hé răng.
Chu Tử Thư đời nào buông tha cho chàng dễ thế, nào hăm dọa, nào dụ dỗ, thậm chí viện tới cả kế mĩ nhân. Cuối cùng, Cung Tuấn bị cậu trêu dữ quá, chàng ghì đầu cậu lên ngực mình bằng một tay, khẽ giọng bảo: "Yên, trời còn chưa tối, em thích ngang nhiên 'hành sự' giữa ban ngày hử?"
Chu Tử Thư lập tức ngoan ngay: "Thế huynh nói cho ta biết, rốt cuộc huynh nghe chuyện ấy từ đâu đi."
Cung Tuấn thầm than, cả đời này mình đã bị chàng trai trong lòng cho vào
"rọ" mất rồi. Nét cười trên gương mặt dịu đi, chàng nói: "Từ gia bộc Diêu Tam nhà em chứ đâu." Chu Tử Thư trố mắt.
Khoan khoan, CungTử Phong và Diêu Tam quen biết nhau từ bao giờ?!
Chu Tử Thư chưa kịp hoàn hồn, Cung Tuấn đã kề môi lên cổ cậu, vừa hôn nhè nhẹ vừa thủ thỉ nghe đến tội: "Lúc nghe anh ta nói, ta chỉ nghĩ đời mình sao mà vô vị, buồn tẻ quá đỗi. Em thấy đấy, ta chẳng biết giặt giũ quét tước, chẳng biết xuống bếp nấu canh. CungTử Phong này sống hơn ba chục năm nay, giờ ngẫm lại, rõ là một cuộc đời tầm thường nhạt thếch!"
Chu Tử Thư cứ thấy có gì đó sai sai. Ra đường mà nói CungTử Phong tầm thường nhạt thếch, người ta lại chẳng cười cho thối mũi.
Cung Tuấn nói tiếp: "Em thấy đấy, chớ kể tới việc vi vu khắp núi non, nếm trăm loài cây cỏ1, ngay đến nước trái cây ta còn chẳng biết là cái gì kia mà."
[1] Xuất phát từ tích Thần Nông nếm hàng trăm loài cây cỏ để tìm hiểu dược tính của chúng
Chu Tử Thư rốt cuộc cũng hiểu ra: "Thế tức là, huynh muốn uống nước trái cây chứ gì?"
Cung Tuấn tròn mắt ngạc nhiên, sung sướng ồ lên: "Cảnh Tắc, em bằng lòng làm nước trái cây cho ta ư?"
"...Khoan đã, ta có nói thế đâu."
"Ôi ta mừng quá đi mất!"
Chu Tử Thư: "..."
Món nước trái cây này thực ra chẳng ngon mấy, với điều kiện sản xuất của thời cổ đại và hiểu biết sơ sài của Chu Tử Thư về phương pháp lên men hoa quả, thứ nước này có thể bán chạy ở thôn Đường gia chẳng qua là vì người dân trong thôn chưa được nếm những thức uống ngon lành bao giờ. Cung Tuấn sống trong nhung lụa từ bé, chẳng có loại rượu quý hiếm nào chàng chưa từng thưởng thức, ấy thế mà mới nhấp thử một ngụm nước hoa quả, chàng đã khen ngay: "Ngọt ngào sảng khoái, dư vị khó phai, uống một hớp thôi đã thấy hương thơm vấn Cungtrong miệng."
Chu Tử Thư hết sức ngạc nhiên, cậu uống một ngụm: "Tuyệt như huynh nói thật sao?"
Cung Tuấn thơm lên trán cậu: "Vì tay em làm đấy, vì em làm cho ta."
Lần này về kinh, cứ mười ngày thì phải đến tám ngày Chu Tử Thư ngủ lại phủ Thượng thư, hai người quyến luyến nồng nàn, gắn bó keo sơn. CungTử Phong giỏi nói ngọt lắm, Chu Tử Thư bị chàng làm cho say như điếu đổ, đến nỗi một ngày nọ cậu bỗng hoài nghi bản thân: Mình phải may mắn đến nhường nào mới chiếm được lòng yêu của CungTử Phong kia chứ?
Cậu chỉ thiếu điều thấy mình không xứng với CungTử Phong nữa thôi.
Sau khi biết chuyện này, Cung Tuấn hối hận ghê gớm.
"Trong mọi việc, phải hết sức lưu ý 'tốt quá hóa lốp'," đặt bút viết ba chữ "Chậm mà chắc", CungTử Phong thở dài: "Bao giờ mới có thể khiến em ấy chủ động hơn một chút đây...Hừm, lúc nào, ở đâu nhỉ?"
Cung Tuấn sai người gọi thợ đến, khắc ba chữ này thành tấm biển để treo trong thư phòng, ngày ngày nhắc nhở bản thân.
Công việc của Chu Tử Thư rất suôn sẻ, chuyện yêu đương cũng mĩ mãn, có thể nói là bội thu về cả tình cảm lẫn sự nghiệp.
Thế rồi đến ngày mười hai tháng mười năm Khai Bình thứ ba mươi ba, chỉ mấy hôm sau ngày mừng thọ của hoàng đế. Trước khi lên triều, trong lúc Cung Tuấn và Chu Tử Thư đang mặc triều phục, Cung Tuấn vừa chỉnh vạt áo cho Chu Tử Thư, vừa giả vờ như lơ đãng, nói: "Mấy hôm trước Lý Cảnh Đức gửi quân báo từ U Châu về chuyện hai quân Tống Liêu đánh một trận nhỏ, có nói một câu."
Không dưng lại nhắc đến Lý Cảnh Đức và quân báo U Châu, Chu Tử Thư hơi ngạc nhiên: "Nói gì?"
"Lúc ấy lửa chiến trận ngút trời, người Liêu tràn lên hết lớp này đến lớp khác, ùn ùn bâu vào xâu xé. Em có biết quân Tống đã làm thế nào để đột phá vòng vây không?"
"Làm thế nào?"
"Quyết tiến không lùi, trừ phía trước ra, không quản gì khác."
Chu Tử Thư mới nghe câu đầu tiên đã biết đây không thể nào là quân báo do Lý Cảnh Đức viết được rồi, Cung Tuấn nói thế này ắt có dụng ý khác. Cậu nắm tay chàng, ngước lên hỏi: "Sư huynh, rốt cuộc là có chuyện gì?"
Cung Tuấn cúi đầu nhìn cậu, nếu là trước kia, chàng sẽ muốn nói với Chu Tử Thư rằng "Chớ nghe chớ hỏi, không liên quan gì đến đệ", nhưng giờ đây chàng nhớ đến tấm biển trong phòng mình, lại nghĩ đến những lời CungThuyên từng nhắc và những gì chàng từng nói với CungThuyên.
Người chàng yêu, chưa bao giờ là một Đường Cảnh Tắc núp dưới sự che chở.
Cung Tuấn ôm cậu vào lòng, nhẹ nhàng nói ba chữ: "Ty Ngân Dẫn." Chu Tử Thư trố mắt.
"Cảnh Tắc, hiện giờ nhất thiết không được hành động khinh suất."
Lòng Chu Tử Thư hiểu rõ, nhưng nỗi lo cứ như lửa rừng lan giữa đồng hoang, chớp mắt đã cháy ngùn ngụt khắp núi.
Khi lên triều, mọi sự vẫn êm ả.
Đứng trong hàng ngũ quan văn tam phẩm, Chu Tử Thư ngẩng đầu, nhìn về phía Cung Tuấn trên hàng quan nhất phẩm. Chàng vẫn đứng đó cạnh CungThuyên, ngỡ như chưa hề có chuyện gì phát sinh, chưa có những lời Cung Tuấn nói vào sáng sớm, chưa có gì khiến bọn họ phải quyết tiến không lùi. Ngay khi sắp tan triều, Triệu Phụ giơ tay lên, ra lệnh cho Quý Phúc tuyên đọc thánh chỉ.
Giọng nói the thé cao vút của Quý Phúc vang lên trong đại điện.
"...Từ năm tới, trẫm suy xét đến nỗi vất vả của bách tính và việc Ngân khế trang bộ Binh đem lại hiệu quả rất cao, với tâm nguyện thiên hạ được sung túc yên vui, chung sức đồng lòng với nhân dân..."
"Bãi bỏ Ngân khế trang bộ Binh ở ba mươi sáu châu, sửa thành Ngân khế trang Đại Tống."
"...Trẫm để Ngân khế trang Đại Tống phục vụ muôn dân, mang tiện ích đến cho thiên hạ."
Tuyên đọc xong, Quý Phúc siết chặt hai bàn tay trên rìa thánh chỉ, trán lão đẫm mồ hôi.
Cả Điện Tử Thần im phăng phắc.
Người Chu Tử Thư căng cứng, cậu không dám thở to tiếng. Không ai biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, chỉ khi nghe tiếng bước chân nhè nhẹ cất lên, mọi người mới ngẩng đầu. Phía xa xa, Chu Tử Thư thấy một bóng người cao ráo bước lên trước toàn thể các quan. Dáng người ấy hệt núi xanh, mang sẵn trong mình chất ngạo nghễ và cứng cỏi, vươn lên thẳng tắp.
CungTử Phong giơ cao hốt ngọc, cất tiếng nói sáng trong ấm áp: "Thần lĩnh chỉ."
Ty Ngân Dẫn U Châu, Thịnh Kinh và toàn thể Ngân khế trang bộ Binh trong thiên hạ đều thuộc quyền quản lí của Cung Tuấn, chàng tiếp chỉ là điều không phải bàn cãi.
Lúc này, chỉ còn thiếu người đứng đầu ty Ngân Dẫn Giang Nam – Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh.
Dư Triều Sinh đứng như trời trồng, gương mặt thảng thốt, mãi không phản ứng gì. Sau một khắc, có bóng người tiến lên từ phía trái Cung Tuấn. Tả tướng Từ Bí cũng giơ cao hốt ngọc, nét mặt trầm lắng như giếng cổ im lìm, giọng rất đỗi khoan thai: "Thần cho rằng, việc này không thể thực hiện."
||
Manh: Kìa chị tác giả, mĩ nhân kế thế nào chị viết rõ ra chứ ô hay?
Chú thích
Gốc: 过犹不及 (quá do bất cập) = thái quá thì cũng như không đủ. Từ "lốp" trong câu mình dùng chỉ lúa mọc quá nhanh nhưng bị lép hạt, nếu ai chưa biết ^^
Gốc: 徐徐图也 (từ từ đồ dã). Mình nghĩ là lấy từ câu 徐徐图之 (từ từ đồ chi), ý chỉ làm việc phải vạch kế hoạch trước, khi hành động thì không được cuống, từ từ theo kế hoạch.
------oOo------
Chương 146
Nguồn: EbookTruyen.Net
Bởi vì huynh là CungTử Phong mà
Từ Bí nói xong, mọi người trong điện Tử Thần đều ồ lên kinh ngạc.
Ngồi trên ngai vàng, Triệu Phụ khẽ nghiêng mình nhìn các quyền thần dưới thềm ngọc. Hồi lâu sau, ông mới chậm rãi hỏi: "Vì sao Từ khanh lại thấy không thực hiện được?"
Phong thái của Từ Bí vẫn luôn điềm tĩnh và kín đáo như vậy, ông không bao giờ tỏ ra hân hoan hay buồn rầu, cũng không bận tâm đến bất cứ việc gì. Hồi Kỷ tướng còn tại chức, trong bốn vị tướng công, Từ Bí được lòng mọi người xung quanh nhất. Chu Tử Thư từng làm thuộc hạ của Từ Bí một năm rưỡi, cậu không thể phủ nhận rằng, Từ tướng cư xử rất mực nho nhã, độ lượng, chẳng bao giờ gây khó dễ cho cậu.
Chẳng cứ Chu Tử Thư mà ngay cả Triệu Phụ cũng không ngờ Từ Bí sẽ là người đầu tiên phản đối.
Dù là ai đi chăng nữa thì cũng không thể là Từ Bí. Đó giờ ông không phải người hay tranh đua hoặc gây sự chú ý.
Cung Tuấn nhìn xuống gạch vàng lát điện. Cạnh chàng, Từ tướng khoan thai tâu: "Ty Ngân Dẫn thành lập đến nay đã được ba năm, song Ngân khế trang bộ Binh chỉ mới thành lập ở ba mươi sáu châu từ năm ngoái. Tháng tám, Ký Châu vừa thoát nạn lụt lội, vì thiên tai mà trăm họ trôi dạt muôn nơi, dân chúng lầm than cực khổ. Hiện giờ, việc cấp bách nhất là vỗ về người dân gặp nạn. Nay Đại Tống ta như mãnh hổ bị khoét thịt bụng, nếu Ngân khế trang bộ Binh chỉ dùng cho bộ Binh thì dĩ nhiên là tốt, ba quân mừng rỡ, thuận tiện cho muôn người. Tuy nhiên, để hàng ngàn, hàng vạn dân chúng cùng sử dụng, đâu phải chỉ bỏ thêm vài cắc bạc là xong? Việc này vừa hao sức người, vừa tốn kém tiền của. Kính mong bệ hạ xem xét lại!"
Cung Tuấn ôn hòa nói: "Nếu sợ quốc khố eo hẹp thì Từ tướng lo xa quá rồi. Là Thượng thư bộ Hộ, thần khẳng định từ năm Khai Bình thứ mười đến nay, năm nào quốc khố cũng đủ đầy sung túc, việc cứu trợ thiên tai không hề tổn hại gì đến sức nước."
Từ Bí cười: "Thế còn sức người thì sao?"
Cung Tuấn nghiêng đầu, đôi mắt sáng rọi về phía ông.
Chàng chưa cất lời, đã có người tiến lên từ hàng đầu của các quan văn.
Tả thừa Trần Lăng Hải nâng cao hốt ngọc, hắng giọng thưa: "Thần cũng cho rằng, việc này không thể thực hiện."
Chu Tử Thư quay phắt đầu về phía Trần Lăng Hải.
Cậu có ngờ đâu người phản đối tiếp theo lại là Trần tướng? Từ tướng thuộc dòng dõi thế gia, Ngân khế trang Đại Tống ảnh hưởng đến lợi ích của các dòng họ lớn, ông phản đối là lẽ đương nhiên. Trong khi đó, Trần tướng xuất thân bần hàn, Ngân khế trang Đại Tống mang lại lợi ích to lớn cho thiên hạ, có lí do gì để ông phản đối đây?
Tuy thế, Chu Tử Thư lập tức nhớ ngay rằng bốn năm trước, khi Hữu tướng CungThuyên đề xuất thành lập ty Độ Chi, Trần Lăng Hải cũng từng phản đối.
Hai vị tướng công đều phản đối, Cung Tuấn đứng trước quần thần, ngẩng đầu nhìn Triệu Phụ.
Triệu Phụ cũng lẳng lặng đáp trả ánh mắt chàng.
Mọi con mắt đổ dồn vào, không một ai biết bọn họ đang nghĩ gì, hiểu gì trong đầu.
Triệu Phụ giơ tay, nói: "Nếu đã vậy, chuyện này để mai bàn lại."
Quý Phúc lập tức hắng cái giọng the thé: "Bãi triều!"
Quần thần trong điện Tử Thần giơ hốt ngọc, cúi đầu, chờ hoàng đế thong thả rời khỏi đại điện. Chu Tử Thư đứng trong hàng ngũ quan văn tam phẩm, sau khi hoàng đế rời điện thì đến lượt các đại thần nhất phẩm ra ngoài. Từ khóe mắt, cậu thấy những bộ quan bào thẳng thớm lần lượt lướt ngang qua. Rõ ràng tất cả đều ăn vận giống nhau, thế mà Chu Tử Thư chỉ liếc mắt là nhận ra Cung Tuấn ngay.
Khi đi ngang qua Chu Tử Thư, Cung Tuấn không hề bước chậm lại. Chàng ung dung bước ra khỏi điện Tử Thần với thái độ bình thản.
Ánh mặt trời chói lóa rọi thẳng tới ngay khi chàng bước ra khỏi điện. CungTử Phong khẽ nheo mắt, có vẻ như chưa kịp quen với thế giới sáng rực này. Khi đường nhìn của chàng rõ hơn, Cung Tuấn thấy cách đó không xa, Tả tướng Từ Bí đang đứng dưới bậc thềm, tay đan trước bụng, mỉm cười nhìn chàng.
Hai người nhìn nhau chỉ trong chốc lát, Cung Tuấn đi xuống bậc thang, hơi cúi mình, chắp tay: "Từ tướng."
Từ Bí cũng chắp tay đáp: "Cungtướng."
Tựa như hai người vừa đối đầu gay gắt trong điện Tử Thần hoàn toàn không phải họ, cả hai cùng nhau đi ra khỏi hoàng cung. Do tuổi cao, lưng Từ Bí hơi còng, trông ông có phần thấp lùn khi đứng cạnh CungTử
Phong. Với nụ cười hiền hòa trên môi, Từ Bí thở dài khe khẽ, nói: "Có phải Cungtướng nghĩ lão phu không muốn Ngân khế trang Đại Tống được thành lập không?"
Cung Tuấn tỏ ra kinh ngạc: "Sao Từ tướng lại nghĩ thế? Những điều ngài chỉ ra cũng có phần hợp lí mà."
Từ Bí: "Lão phu đã từng nghe Hiến Chi kể về Ngân khế trang. Hiến Chi quản lí ty Ngân Dẫn Giang Nam, làm sao lão phu không biết đây là đại sự vì dân vì nước?" Nói đến đây, ông trịnh trọng nhìn Cung Tuấn, nghiêm trang bảo: "Nhưng chung quy Cungtướng còn non trẻ và hấp tấp quá! Chỉ năm năm nữa thôi, Ngân khế trang Đại Tống thể nào cũng đánh đâu thắng đó, tạo phúc cho lê dân. Bây giờ mới được ít lâu, gương tày liếp của ty Độ Chi vẫn sờ sờ trước mắt, Cungtướng còn trẻ thế mà không chờ nổi năm năm nữa hay sao?"
Cung Tuấn nghiêm trang thi lễ: "Xin nghe lời răn dạy của Từ tướng."
Hai người nhìn nhau cười rồi cùng ra khỏi hoàng cung. Ra đến ngoài cổng cung, các quan lớn nhất phẩm đều có thể lên xe ngựa ra về. Đứng trước xe ngựa của mình, Cung Tuấn và Từ Bí còn tán gẫu thêm một hồi, như thể tiếc nuối vì gặp nhau quá muộn. Sau khi họ từ biệt thêm lần nữa thì ai nấy lên xe của mình, một người tới bộ Hộ, một người về điện Cần Chính.
Trong xe ngựa, Từ Bí mỉm cười nhè nhẹ như mọi khi, ánh mắt thâm sâu và sáng suốt.
Trong cỗ xe còn lại, vừa lên xe Cung Tuấn đã lấy một cuốn sách ra đọc. Cuốn sách đó chính là Văn Tuân Kính tập – tác phẩm cuối cùng mà Phó Vị biên soạn trước khi từ quan về quê. Chàng trầm ngâm đọc sách, những ngón tay đốt nào ra đốt nấy gõ nhè nhẹ trên cửa sổ. Một lúc lâu sau, chàng nói với phu xe: "Đến điện Cần Chính đi."
Phu xe vâng một tiếng, cỗ xe ngựa quay đầu về điện Cần Chính.
Sau khi đến điện Cần Chính, Cung Tuấn chưa đi tới phòng mình đã gặp một người trên hành lang uốn quanh.
Tả thừa Trần Lăng Hải cũng vừa mới quay về từ cung điện sau lúc tan triều. Khi hai người chạm mặt nhau, Trần tướng có vẻ hơi ngạc nhiên. Vương
Tuấn thi lễ trước, Trần Lăng Hải cũng đáp lễ chàng. Đoạn, ông nhìn Cung Tuấn bằng ánh mắt phức tạp, thở dài bảo: "Những năm gần đây, lão phu cũng đoán được đại để các cậu muốn làm gì rồi. Việc này là vĩ nghiệp nghìn thu, là việc lưu danh sử sách mà thánh thượng mong muốn, nhưng Cungđại nhân ơi, nói thì dễ hơn làm đấy. Lẽ nào cậu đã quên chuyện ty Độ Chi rồi ư? Động chạm nhiều đến lợi ích như vậy, cậu có gánh vác nổi không?"
Cung Tuấn tròn mắt nhìn Trần Lăng Hải, ngỡ ngàng thốt lên: "Trần tướng, ngài..."
Trần Lăng Hải chân thành khuyên nhủ: "Nếu thành công thì đời nào ta lại không mong kia chứ? Nhưng Tử Phong à, ta với thầy cậu là bạn lâu năm, ta nỡ lòng nào nhìn cậu ngã xuống vực sâu muôn trượng? Dù bây giờ hay cả trăm năm nữa, việc này cũng không thể thành công! Cậu chớ lầm đường lạc lối!"
Ngay khi trở về điện Cần Chính sau buổi chầu, Chu Tử Thư rời khu nhà cho quan tam phẩm chẳng chút đắn đo, vòng vèo mấy lượt để sang chỗ Cung Tuấn.
Tựa như đoán trước được sự xuất hiện của Chu Tử Thư, Cung Tuấn đã đang hãm trà rồi. Chàng vén tay áo bào trắng lên một chút, rót nước trà trong veo vào chén, đoạn ngẩng lên cười với Chu Tử Thư, ra hiệu cho cậu lại gần qua ánh mắt.
Chu Tử Thư tự giác đến bên, định ngồi xuống phía bên kia chiếc bàn. Ngờ đâu, cậu mới lại gần thì CungTử Phong chợt đứng dậy, quàng một tay ôm lấy cậu.
"Kìa sư huynh?" Chu Tử Thư hết sức ngạc nhiên.
Cung Tuấn ôm ghì Chu Tử Thư bên mình, hai người ngồi xuống cạnh nhau sát sạt. "Vừa tan triều đã đến tìm ta, hẳn là có việc đây. Liên quan đến ty Ngân Dẫn phải không?"
Chu Tử Thư: "Dĩ nhiên rồi. Sư huynh, sau hôm nay, huynh tính làm thế nào?"
Cung Tuấn mỉm cười: "Vừa hay ta cũng có việc cần bàn bạc cùng em. Sau khi rời điện Tử Thần, ta đã gặp hai người. Một người là Từ tướng, người kia là Trần tướng. Em cũng biết cả hai vị đại nhân đều phản đối việc xây dựng Ngân khế trang Đại Tống trên triều. Lúc gặp riêng ta, bọn họ cũng nói như vậy."
"Từ tướng bảo ta hấp tấp quá, cứ đợi thêm vài năm thể nào cũng công thành danh toại."
"Trần tướng thì nói ta đã lầm đường, sợ ta rơi vào cảnh ô danh muôn thuở, mong ta mau chóng thoát thân."
"Em thấy sao?"
Chu Tử Thư tròn mắt: "Họ nói riêng với huynh thế à?"
Cung Tuấn gật đầu: "Đúng vậy đấy."
Chu Tử Thư có quan điểm riêng rồi, nhưng cậu không nói ngay mà hỏi ngược lại Cung Tuấn trước: "Hôm nay thánh thượng bất ngờ xuống chỉ như thế, có liên quan gì đến sư huynh không?"
Cung Tuấn nghiêm túc nhìn cậu, cười nói: "Có chứ. Chính vì hôm trước ta dâng tấu trình bày việc này với thánh thượng, nên thánh thượng mới xuống chỉ."
Chu Tử Thư không còn gì ngờ gì nữa, cậu quả quyết nói: "Nếu đã thế, huynh không cần bận tâm đến những gì hai vị tướng công nói đâu."
"Vì sao vậy?"
"Bởi nếu sư huynh đã nghĩ bây giờ là thời điểm thích hợp, có thể làm nên chuyện, thì việc này tất sẽ thành công."
Chu Tử Thư tự tin vô cùng, cứ như thể đã nhìn tận mắt bản tấu mà Cung Tuấn trình lên, cứ như thể chính cậu là người dâng tấu vậy. Cung Tuấn ngỡ ngàng nhìn cậu, nỗi yêu thương và niềm sung sướng bung trào trong tim, trong ngực chàng. Chàng nén phấn khích, giả vờ "Ồ" một tiếng, bình tĩnh hỏi: "Em tin tưởng ta đến thế cơ à?"
Chu Tử Thư đáp như một lẽ đương nhiên: "Bởi vì huynh là CungTử Phong mà!"
Chẳng kìm nổi nữa, Cung Tuấn bật cười vang, cúi xuống hôn chàng trai bên cạnh mình.
Lòng ta thương em, chỉ vì trên đời này, em là người đáng để ta yêu nhất!
Vì hai vị tướng công phản đối ngay trên triều đình nên việc Ngân khế trang Đại Tống cũng được đông đảo quần thần quan tâm. Trong buổi triều ngày hôm sau, Đại thái giám vừa hô "Khởi triều", các quan liền lũ lượt xếp hàng cho ý kiến. Hôm qua, sự việc xảy ra quá đột ngột nên bọn họ chưa kịp ứng đối; một ngày trôi qua, ai nấy đều đã có quan điểm riêng. Như ngồi trên đống lửa, các quan tranh cãi đến nỗi mặt mũi đỏ gay, lời qua tiếng lại mãi không ngớt.
Trong khi đó, ba vị quan lớn nhất phẩm đã lên tiếng ngày hôm qua chỉ cầm hốt ngọc đứng im, chẳng ai nói năng gì hết.
Cả triều đình ồn ào náo loạn, Triệu Phụ hết sức không hài lòng: "Các ái khanh đều có chính kiến của mình, giờ đang so xem ai lớn tiếng hơn thì nghe người đó hả?"
Toàn thể các quan im bặt, câm như hến.
Triệu Phụ xua tay: "Bãi triều." Thêm một ngày trôi qua.
Sang ngày thứ ba, triều đình vẫn tranh luận dai dẳng về ty Ngân Dẫn. Sự việc rầy rà suốt nửa tháng cho đến khi có quân báo gửi về từ U Châu. Thì ra, Thiên hạ Binh mã Đại nguyên soái Chu Thái sư dâng thư, hết lời ngợi khen sự hữu dụng của Ngân khế trang bộ Binh. Bản tấu của ông liệt kê đầy đủ những lợi ích của Ngân khế trang bộ Binh ba mươi sáu châu.
Khi Triệu Phụ sai người đọc tấu chương của Chu Thái sư trên triều, các quan ai ai cũng ngỡ ngàng hết sức.
Tả tướng Từ Bí nhìn xuống sàn, những ngón tay ông siết chặt cây hốt bạch ngọc.
Tả thừa Trần Lăng Hải không giấu nổi kinh ngạc, quay đầu nhìn Cung Tuấn.
Ngay cả CungThuyên cũng trộm liếc cháu trai mình mấy lượt, chỉ thấy CungTử Phong không hề phân tâm, thái độ thản nhiên, dường như chẳng hề hay biết chuyện Chu Thái sư bỗng dưng viết tấu chương ca ngợi ty Ngân Dẫn.
Sau khi tấu chương được đọc hết, Triệu Phụ phất tay hỏi: "Các ái khanh còn phản đối gì không?"
Không còn ai lên tiếng hết.
Triệu Phụ nhìn một lượt xung quanh, cuối cùng ánh mắt ông dừng lại ở
Cung Tuấn. Ông cười nói: "Tử Phong."
Cung Tuấn bước lên một bước, hành lễ thưa: "Thần lĩnh chỉ."
||
------oOo------
Chương 147
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tháng chạp
Tháng mười một năm Khai Bình thứ ba mươi ba, Thịnh Kinh đón trận tuyết lớn giữa mùa rét đậm.
Hoa tuyết li ti rơi dày như lông ngỗng, bay lả tả trong không trung, dát bạc lên khắp kinh thành. Trận tuyết kéo dài suốt ba ngày trời, tới ngày cuối cùng thì đường sá tắc nghẽn. Quan phủ yêu cầu tất cả người dân phải quét sạch tuyết tụ trên nóc nhà để phòng tránh nguy cơ sụp lún.
Năm ngoái, việc này thuộc trách nhiệm của bộ Công; bộ Công và quan phủ cùng hợp tác, giám sát chặt chẽ việc dọn dẹp tuyết đọng.
Năm nay, Chu Tử Thư đã là Hữu thị lang bộ Công. Cậu gọi Viên ngoại lang phụ trách việc này đến, hỏi: "Thịnh Kinh có tổng cộng bao nhiêu hộ gia đình?"
Viên ngoại lang Lưu Sướng trả lời: "Theo đăng kí thì có tổng cộng chín mươi sáu nghìn hộ ạ."
Thịnh Kinh là kinh đô của Đại Tống, Viên ngoại lang nói là "theo đăng kí", nhưng thành Thịnh Kinh khổng lồ nhường này, kiểu gì cũng có các hộ cư trú bất hợp pháp. Người xưa thích đông con nhiều cháu, cứ tạm tính mỗi hộ năm người thì mới là năm trăm nghìn nhân khẩu thôi, trong khi trên thực tế, Thịnh Kinh có đến hơn một triệu người sinh sống.
Chu Tử Thư dặn dò viên quan đó thật tỉ mỉ, yêu cầu kiểm tra sát sao việc dọn dẹp tuyết đọng năm nay. Đến lúc cậu tan làm về phủ Thượng thư thì tuyết đã ngừng rơi. Chu Tử Thư về đến nhà, vẫn chưa thấy Cung Tuấn đâu.
Gần đây bộ Công đang tất bật với việc xây dựng cung Thừa Khánh, ngày nào Chu Tử Thư cũng bận tối mắt tối mũi. Tuy nhiên, trong triều đình hiện nay, ai cũng biết người bận rộn nhất phải là Thượng thư Tả bộc xạ Cung Tuấn Cungđại nhân.
Cung Tuấn quản lí hai ty Ngân Dẫn U Châu và Thịnh Kinh. Hoàng đế hạ chỉ chuyển đổi Ngân khế trang bộ Binh ở ba mươi sáu châu thành Ngân khế trang Đại Tống, từ giờ không chỉ phục vụ quân tướng trong bộ Binh mà còn phục vụ toàn thể dân chúng.
Mọi việc trên thế gian, hoàng đế chỉ cần ban thánh chỉ, thoạt nghe mới đơn giản làm sao. Tuy nhiên, để thực thi những điều viết trên thánh chỉ chẳng dễ gì cho cam.
Năm năm trước, ty Độ Chi để xảy ra án mạng, gương tày liếp hẵng còn đây. Ngày nay, ty Ngân Dẫn không chỉ phải tránh vết xe đổ ấy mà còn phải thực hiện mọi việc thật hoàn hảo. Kể cả có sự trợ giúp của toàn thể quan lại đi chăng nữa, Cung Tuấn cũng phải dốc hết sức lực vào đây.
Giữa mùa đông khắc nghiệt, sắp đến thời điểm các quan được nghỉ Tết, phần lớn công việc của ty Ngân Dẫn cũng có thể gác lại sang năm.
Tả phó ngự sử ty Ngân Dẫn Dư Triều Sinh hiện giờ đang làm việc ở bộ Hình. Anh ta là Thượng thư bộ Hình; đến cuối năm, các ty Điển Ngục ở khắp Đại Tống đều gửi án mạng phát sinh trong năm nay đến Thịnh Kinh, nộp vào kho của bộ Hình để phục vụ việc lưu trữ, kiểm tra.
Ngày nào Dư Triều Sinh cũng bận bịu với công việc trong bộ. Ngày nọ, khi anh ta đang dặn dò mấy quan chủ sự trong bộ Hình thì có một quan sai tay giữ mũ, chân rảo bước tiến vào phòng. Dư Triều Sinh dừng nói, quay sang nhìn người đó. Quan sai quỳ một chân hành lễ, thưa: "Thượng thư Tả bộc xạ đại nhân đến."
Tất cả mọi người trong phòng đều sửng sốt.
Dư Triều Sinh ngây ra mất một lúc rồi mới vội vàng đứng dậy, ra cửa nghênh đón, vừa đúng lúc Cung Tuấn đi từ ngoài bộ Hình vào.
Dư Triều Sinh tiến tới vái chào: "Hạ quan Dư Triều Sinh bái kiến Cungtướng công."
Cung Tuấn mặc áo bào của quan nhất phẩm, trên tay phải chàng là chiếc quạt trắng. Tuy mấy ngày nay trời không tuyết, nhưng chẳng ai không dưng lại đi cầm quạt cho mang tiếng là học đòi làm sang. Nếu người khác làm thế, chắc hẳn đã bị cho là lố lăng, còn Cung Tuấn cầm quạt thì cứ như thể trời sinh đã vậy, không hề tạo cảm giác ngược đời.
Các quan ở bộ Hình đều nhủ thầm "Cungđại nhân đúng là phi thường", nhưng không ai thể hiện ra mặt.
Cung Tuấn gấp quạt đánh soạt một tiếng, xoay cây quạt giữa những ngón tay thuôn dài, chĩa tay cầm về phía Dư Triều Sinh.
Giọng chàng thật hòa nhã: "Năm ngoái ở U Châu, Dư đại nhân đã nói rằng mình thích cây quạt này của bản quan, hôm nay bản quan mang nó đến đây cho riêng anh đấy, anh thích chứ?"
Dư Triều Sinh sửng sốt, mau chóng lục lại mẩu kí ức đã xếp xó này.
Năm ngoái khi Cung Tuấn và Dư Triều Sinh cùng đến U Châu công tác, tuy ai có xe riêng của người nấy, nhưng dọc đường họ luôn đồng hành với nhau. Đường từ Thịnh Kinh đến U Châu dài dằng dặc, Dư Triều Sinh với Cung Tuấn lại chỉ quen biết sơ. Quen sơ, tức là chỉ nghe tiếng tăm nhau xưa nay thôi chứ chẳng hề qua lại, thành ra Dư Triều Sinh khá lúng túng. Một hôm, khi hai người cùng ăn cơm ở dịch quán, anh ta ngẫu nhiên khen Cung Tuấn rằng: "Chiếc quạt này của Cungđại nhân tinh xảo quá, chữ trên quạt hình như do chính đại nhân viết nhỉ? Khí chất cương trực, cốt cách thanh tao, viết đẹp thật đấy."
Đúng là có chuyện này thật! Dư Triều Sinh đành miễn cưỡng đưa tay nhận chiếc quạt có chữ của Cung Tuấn, đã thế còn phải cảm ơn: "Không ngờ đại nhân còn nhớ rõ việc này, hạ quan hết sức cảm kích." Cung Tuấn mỉm cười: "Ta vào nhà nói chuyện chứ?"
Dư Triều Sinh nghiêng mình: "Xin mời."
Hai người vào gian phòng Thượng thư của Dư Triều Sinh. Các quan khác trong bộ Hình đều nhìn theo bọn họ, nhưng rốt cuộc không ai dám vào theo. Một lát sau, nghe tin Cung Tuấn đến, Tả, Hữu thị lang bộ Hình đều sang chào hỏi ngay.
Trong chốc lát, gian phòng chỉ còn lại ba viên quan đứng đầu bộ Hình và Cung Tuấn, cộng thêm một viên quan tứ phẩm không mấy tiếng tăm là Ty chính ty Ngân Dẫn – Lâm Hủ.
Dư Triều Sinh tự tay hãm trà cho Cung Tuấn. Trong lòng anh ta có rất nhiều phỏng đoán, và cũng đã đoán được ý định của Cung Tuấn khi đến đây.
Lạ thay, Cung Tuấn tuyệt nhiên không đả động tới việc khác, chỉ bàn về thư pháp và món trà đang dùng. Dư Triều Sinh bắt đầu dao động, lòng đâm hoài nghi lẽ nào CungTử Phong đến đây chỉ để xã giao với mình?
Cung Tuấn gạt nhẹ nước trà bằng nắp chén, đủng đỉnh nói: "Đã mười bốn năm rồi nhỉ?"
Dư Triều Sinh nghĩ một thoáng: "Đúng là đã mười bốn năm."
Cung Tuấn than: "Bãi bể nương dâu." Dư Triều Sinh nhấp trà, không đáp.
Cung Tuấn: "Dư đại nhân còn nhớ hôm ấy, sau khi được vinh danh trên bảng vàng, chúng ta đã cùng nhau cưỡi ngựa dạo phố không?"
Dư Triều Sinh cười đáp: "Mười bốn năm trôi qua, kí ức của hạ quan đã phai mờ rồi."
Cung Tuấn nhìn anh ta đầy thâm thúy, mỉm cười.
Thấy chàng điềm nhiên đến vậy, một nỗi căm hận vì không thể xoay chuyển nổi tình thế bỗng dấy lên trong tim Dư Triều Sinh. Thế nhưng, đó là nỗi hận vì không xoay chuyển nổi, nó vừa yếu đuối, vừa bất lực, nó chỉ bùng lên trong nháy mắt đã bị chủ thể gạt đi.
Bởi lẽ trước giờ, đố kị là thứ cảm xúc vô dụng nhất.
Cách đây mười bốn năm, tức là vào năm Khai Bình thứ mười chín, Dư Triều Sinh đỗ Bảng nhãn khoa thi ấy, cưỡi ngựa dạo quanh phố phường cùng Trạng nguyên và Thám hoa.
Kí ức đã phai mờ ư?
Làm sao có thể phai mờ được!
Năm ấy, từ điện Tập Anh, ba người bọn họ đi theo long mạch ngọc trắng ra đến cổng lớn của hoàng cung. Đáng lẽ, giây phút đó phải là thời khắc huy hoàng nhất đời Dư Triều Sinh. Thế nhưng, trong mắt vị hoàng đế đã chọn anh làm Bảng nhãn, trong mắt dân chúng Thịnh Kinh đợi chờ suốt ngoài cổng cung, tuyệt nhiên không có bóng dáng của anh ta.
Tất cả bọn họ chỉ dõi theo vị Trạng Nguyên dẫn đầu đoàn. Tên của người đó, Dư Triều Sinh khắc thật sâu vào đáy lòng mình.
Cung Tuấn, CungTử Phong.
Giờ anh ta đã ở tuổi tứ tuần, vậy mà từng cảnh tượng năm xưa vẫn in hằn trong kí ức. Quên làm sao nổi!
Dư Triều Sinh cười nói: "Thế thì hạ quan với đại nhân coi như trò cùng khóa nhỉ. Tiếc là không lâu sau dịp dạo phố ấy, chỉ chưa đầy một năm, hạ quan đã rời khỏi Thịnh Kinh, nhiều năm sau mới quay lại."
Cung Tuấn: "Ta vẫn nhớ, Dư đại nhân đến Giang Nam làm chức Chỉ huy sứ."
"Đại nhân còn nhớ kia à? Phải, đầu tiên ta làm Chỉ huy sứ ở Tiền Đường nửa năm, sau thì được điều sang Hình châu."
"Đã bao lâu rồi Dư đại nhân không đến Giang Nam?"
"Hình như phải ba năm rồi đấy."
"Thế thì sang năm nên đi một chuyến."
Dư Triều Sinh ngây người, đưa mắt nhìn Cung Tuấn.
Cung Tuấn hòa nhã mỉm cười với Dư Triều Sinh. Ánh mắt thẳm sâu, chàng điềm đạm nói: "Phía ty Ngân Dẫn Giang Nam, chắc là vẫn đang chờ Dư đại nhân tới đấy."
Môi Dư Triều Sinh mấp máy. Hồi lâu sau, anh ta nói: "Hạ quan biết chứ, hiềm nỗi bộ Hình bề bộn công việc, đầu xuân năm sau sợ là hơi gấp."
"Gấp à?" Cung Tuấn nhìn Tả, Hữu thị lang bộ hình ngồi phía dưới, tỏ vẻ quan tâm: "Gần đây bộ Hình bận lắm hả?"
Tả thị lang là tâm phúc của Dư Triều Sinh, bèn trả lời ngay: "Bẩm đại nhân, toàn bộ án kiện năm qua đều được nộp lên bộ Hình, bây giờ chúng tôi không ngơi ra được lúc nào."
Cung Tuấn: "Dám dồn việc thu gom hồ sơ đến tận sát cuối năm nên mới bù đầu thế chứ gì?"
Bấy giờ, Dư Triều Sinh và Tả thị lang mới phát hiện mình mắc bẫy CungTử Phong, nhưng họ chẳng thể phản bác, đành trơ mắt, thành thật đáp: "... Vâng."
Cung Tuấn cười: "Đã lâu Dư đại nhân không đến Giang Nam, chắc là nhớ lắm đây. Ta cũng từng đến Tiền Đường mấy lần, giờ ngài ghé thăm Kim
Lăng thì hơn đấy. Kim Lăng với Tiền Đường mỗi nơi mỗi vẻ."
Đoạn Cung Tuấn dẫn Lâm Hủ đứng dậy ra về.
Ngay từ ban đầu, Dư Triều Sinh đã không có ý định đến ty Ngân Dẫn Giang Nam làm việc. Chí ít, anh ta muốn câu giờ để cản trở Cung Tuấn, đây là điều anh ta đã bàn trước với thầy mình là Từ Bí. Nếu việc thành lập Ngân khế trang Đại Tống là kết cục không thể xoay chuyển được, vậy thì cứ kéo dài được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Từ Bí nói với anh ta: "Trì hoãn ắt sinh biến, lúc nào chẳng có người không muốn ngân khế trang Đại Tống xuất hiện."
Nghĩ tới đây, Dư Triều Sinh đứng dậy, gọi theo vội vã: "Đại nhân..."
"Dư đại nhân." Cung Tuấn dừng bước, chàng xoay người, ánh mắt lạnh tanh, "Còn việc gì à?"
Dư Triều Sinh mấp máy môi, xong cũng chẳng nói được chữ nào.
Cung Tuấn cười: "Hiến Chi, anh với ta là tiến sĩ cùng khóa, suốt bao năm nay chúng ta chưa có dịp trò chuyện thân mật với nhau. Chờ xuân sang năm, anh đi Giang Nam về, chúng ta cùng ăn một bữa nhé?"
"Vâng."
Cung Tuấn cứ như một mình một ngựa, dẫn thuộc hạ rời khỏi bộ Hình.
Thấm thoắt đã sang tháng chạp.
Mùng chín tháng chạp, chỉ ít ngày nữa đến dịp nghỉ lễ của các quan. Chu Tử Thư vừa phải khẩn trương làm xong cung Thừa Khánh trước Tết, vừa phải gấp rút dọn sạch tuyết đọng trên nóc nhà. Còn Cung Tuấn thì bận hơn cả cậu. Chàng thường xuyên về nhà vào lúc nửa đêm, thậm chí còn ngủ luôn tại nha môn.
Ngày mười sáu tháng chạp, sau bốn ngày xa cách, cuối cùng Chu Tử Thư cũng gặp lại sư huynh nhà mình.
Lòng Chu Tử Thư se lại, cậu chưa kịp mở lời, Cung Tuấn đã ghì cậu vào lòng.
"Đừng nói gì hết, muộn rồi, mình đi nghỉ thôi."
"...Vâng."
Vừa đặt lưng xuống giường, Cung Tuấn đã chìm vào giấc ngủ. Đường
Thận ngắm gương mặt điển trai thanh nhã của chàng, lòng thoáng xót xa.
Năm năm trước, khi kể cho CungTử Phong nghe về quyển tấu chương ấy, cậu đâu nghĩ sẽ có ngày hôm nay.
Sư huynh của cậu dồn hết tâm huyết vào ty Ngân Dẫn, đây là việc lớn lao nhất mà chàng làm cho hoàng đế, cũng là điều vĩ đại nhất mà chàng làm cho Đại Tống. Chàng làm vì muôn đời sau, vì ấm no bền lâu cho trăm họ.
Chu Tử Thư trút tiếng thở dài, rồi cũng thiếp đi.
Sau buổi chầu sáng ngày hôm sau, Cung Tuấn tiếp tục bận rộn, Chu Tử Thư cũng đến bộ Công. Cậu tới nơi chưa được bao lâu, quan sai đã báo rằng có người quen cũ đến xin gặp.
Chu Tử Thư nhướng một bên mày: "Người quen cũ à? Từ đâu đến?"
Quan sai tâu: "Bẩm Hữu thị lang đại nhân, người đó đến từ Tần Châu, hình như làm chức Kiêu kỵ úy."
Chu Tử Thư thầm kinh ngạc: Kiêu kỵ úy Tần Châu? Cậu mà lại quen người này ư?
Kiêu kỵ úy là một chức quan võ lục phẩm ở địa phương.
Chu Tử Thư: "Dẫn người đó vào đây."
"Vâng."
Lát sau, quan sai đưa một người đàn ông trung niên vào. Người đó cứ cụp mắt nhìn xuống đất nên Chu Tử Thư không thấy rõ mặt anh ta. Chu Tử Thư trông người ấy có vẻ quen quen, cậu hỏi: "Ngươi là ai, ngẩng đầu lên."
Bấy giờ, viên Kiêu kỵ úy mới dám ngẩng mặt lên.
Hai người nhìn nhau, Chu Tử Thư ngỡ ngàng thốt lên: "Từ Tuệ?"
Từ Tuệ cười gượng gạo, nói: "Hạ quan Kiêu kỵ úy Tần Châu Từ Tuệ, xin bái kiến Đường đại nhân."
||
Manh: Hóa ra vai chính của Cái tên khắc sâu trong tim người là Vương
Tuấn và Dư Triều Sinh =)))
Chú thích
Tra không thấy. Cứ hiểu là cơ quan quản lí tù ngục nhé ^^
Gốc: 白玉龙脉. Chỗ này mình không tra rõ được. Mình đoán là lối đi được làm bằng bạch ngọc, theo đường long mạch, nhưng dựa theo những gì mình biết về long mạch thì mình nghĩ thế không chính xác.
------oOo------
Chương 148
Nguồn: EbookTruyen.Net
Ta mà gạt em
Chu Tử Thư nhanh nhẹn bước đến đỡ anh ta dậy.
Cậu bảo quan sai: "Ngươi lui xuống đi."
Quan sai vâng lệnh, rời khỏi phòng ngay. Những người có thể làm sai dịch ở sáu bộ ai ai cũng dạn dày khôn khéo, sau khi ra ngoài, người sai dịch đó còn đóng cửa lại. Trong phòng chỉ còn Chu Tử Thư và Từ Tuệ.
Chu Tử Thư nói: "Từ biểu ca, ngồi đi."
Từ Tuệ do dự trong thoáng chốc rồi mới ngồi xuống.
Nhìn Từ Tuệ phờ phạc xác xơ, lòng Chu Tử Thư xiết bao bùi ngùi.
Chín năm trước, Chu Tử Thư chỉ mới đến với thế giới này, khi đó cậu còn đang bán nước hoa quả mưu sinh ở xóm núi thôn quê. Cậu chẳng bao giờ tưởng tượng nổi sẽ có ngày mình đến Thịnh Kinh và trở thành quan đại thần tam phẩm. Ước mơ của cậu xưa nay vẫn là mở một cửa hàng nhỏ, nuôi gia đình đủ sống. Cậu chỉ mong không phải lo miếng cơm manh áo, không phải sợ sệt trước ơn huệ, chứ chẳng mong ăn trên ngồi trốc người ta.
Ấy vậy mà hôm đó, Lương Tụng đã xuất hiện ở quán trà đầu thôn Triệu gia. Lương Tụng đã già nên đi đâu cũng phải có người chăm sóc. Lúc đó, người đi theo ông chính là đứa cháu họ Từ Tuệ.
Chu Tử Thư: "Ta vẫn nhớ hồi xưa Từ biểu ca thích mặc áo dài vải xanh." Từ Tuệ vội vàng đáp: "Hiện giờ ngài đã là Công bộ Hữu thị lang đại nhân, ngài cứ gọi hạ quan là Từ Tuệ thôi ạ."
Chu Tử Thư thấy họng mình nghèn nghẹn, rồi cậu cười: "Hà tất phải câu nệ như thế?"
Từ Tuệ dè dặt nhìn Chu Tử Thư hồi lâu, thấy cậu thật tâm nói thế, bấy giờ mới vững dạ. Cuối cùng, anh ta cũng có thể yên trí cười nói: "Lâu lắm mới gặp nhau, Cảnh Tắc à, không ngờ em mới hai mươi hai tuổi đã lên hàng tam phẩm rồi. Tiên sinh ở dưới suối vàng mà biết thành quả của em hôm nay, chắc chắn sẽ hài lòng lắm."
"Ta nhớ hồi trước Từ biểu ca được bổ làm huyện lệnh kia mà, sao bây giờ đã thành Kiêu kỵ úy rồi?"
Từ Tuệ thở dài: "Sự đời ai lường trước được đâu. Em cũng biết anh thi Hương chỉ đỗ hạng bét, thi Hội thì trượt, đáng lí ra thì không thể làm huyện lệnh thất phẩm được. May nhờ tiên sinh lo liệu trước lúc lâm chung, anh mới có chức quan đó. Nhưng mà anh chẳng giỏi được như em, tới Lĩnh Nam làm huyện lệnh mấy ngày đã hoa mắt, chóng mặt với việc đấu đá trong huyện nha. Chính vì thế, suốt chín năm qua, anh chật vật lắm mới leo lên nổi chức Kiêu kỵ úy. Có được chức này cũng là nhờ anh thân với Phùng đại nhân – Đoàn luyện sứ Toàn châu. Khi ông ấy thôi làm quan ở Toàn châu để đến Tần châu làm phủ doãn thì dẫn anh theo luôn, thế nên anh mới thăng quan được."
Chu Tử Thư trầm ngâm một thoáng, cậu an ủi: "Việc cốt tại người."
Từ Tuệ quả nhiên là một thư sinh hủ lậu chỉ biết học, đã thế còn học hành làng nhàng. Suốt ngần ấy năm anh ta cắp sách theo Lương Tụng – một trong Tứ Nho thiên hạ, vậy mà trầy trật mãi mới đỗ Cử nhân. Nghe Chu Tử Thư nói xong, anh ta cũng không suy luận sâu xa, chỉ gật đầu đáp: "Phùng đại nhân thấy anh thật thà nên mới kết giao. Anh rất biết ơn ông ấy vì điều này."
Chu Tử Thư mỉm cười, không nhắc lại nữa.
Đừng nói hiện giờ Từ Tuệ là quan lục phẩm, kể cả anh ta có là quan ngũ phẩm muốn lên hàng tứ phẩm đi chăng nữa, Chu Tử Thư cũng thừa sức lo liệu cho anh ta.
"Việc cốt tại người" không phải để chỉ chuyện Phùng đại nhân giúp Từ Tuệ, mà là Chu Tử Thư cậu đây định nâng đỡ Từ Tuệ.
Nhưng xem ra Từ Tuệ đến tìm cậu không phải vì thăng quan tiến chức.
Chu Tử Thư bóng gió hỏi thăm: "Sắp đến Tết rồi, các quan kinh thành hầu như đã nghỉ lễ, sao bỗng dưng Từ biểu ca lại đến Thịnh Kinh? Năm nay anh đã ba mươi tư tuổi, lập gia đình đã lâu, ngày Tết không sum vầy bên vợ con à?"
Từ Tuệ: "Đúng là anh đến Thịnh Kinh có việc đây. Phủ doãn Tần Châu là quan tứ phẩm, đầu xuân năm sau phải dự lễ đại triều, vào cung diện thánh. Là phủ doãn, Phùng đại nhân đã vào kinh từ sớm và quyết định ăn Tết ở Thịnh Kinh. Ông ấy cũng cho anh cơ hội được dẫn quân vào kinh bảo vệ ông ấy."
[2] Gốc: 大朝会. Buổi chầu lớn, trang trọng được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 1.
Chu Tử Thư còn lạ gì đất Tần Châu.
Năm năm trước, sau án mạng ty Độ Chi, Tham tri Chính sự điện Cần Chính thời đó, Triệu Tĩnh – người học trò tâm đắc của cựu Tả tướng Kỷ Ông Tập bị Triệu Phụ biếm đến Tần Châu làm phủ doãn. Đầu năm nay, vì vụ cung biến tháng giêng, Kỷ tướng bị hoàng đế bãi chức, cho về quê an hưởng tuổi già. Cùng lúc đó, hoàng đế nhớ đến học trò của Kỷ tướng ở Tần Châu là Triệu Tĩnh, bèn điều ông ta về Thịnh Kinh.
Không ngờ sau khi Triệu Tĩnh rời khỏi Tần Châu, Đoàn luyện sứ Toàn Châu là Phùng đại nhân lại là người thay thế ông, Từ Tuệ cũng nhờ thế mà gặp may.
Chu Tử Thư: "Đã tìm được chỗ ở chưa?"
"Anh với Phùng đại nhân ở cùng một chỗ thuê, Cảnh Tắc, em không phải bận tâm đâu." Từ Tuệ do dự trong thoáng chốc, trông anh ta có vẻ lưỡng lự, nhưng cuối cùng anh ta vẫn nói: "Hôm nay anh đến thăm em, thật ra là có chuyện muốn nói với em."
"Chuyện gì thế?"
"Em bây giờ, có còn nhớ tiên sinh không?"
Chu Tử Thư ngây người. Sau một thoáng trầm ngâm, cậu hỏi ngược lại: "Sao bỗng dưng anh lại nhắc đến tiên sinh?"
Từ Tuệ nhìn cậu bằng ánh mắt sâu xa, nói: "Vì anh nghĩ em không phải người vong ân phụ nghĩa. Nếu quả thật em đã quên tiên sinh, hôm nay em sẽ không gặp anh. Anh đã bước chân qua ngưỡng tuổi ba mươi lâu rồi, tính tình cũng cổ hủ và thủ cựu, e là cả đời sẽ mãi chôn chân ở Tần Châu. Nhưng em thì khác. Anh vẫn nhớ, tiên sinh từng khen em giỏi về mọi mặt, chỉ có một khuyết điểm là không có chí tiến thủ! Thế nhưng bây giờ em không hề giống người thiếu chí tiến thủ chút nào."
Chu Tử Thư bật cười ha hả, cậu nhấc ấm trà, rót một chén cho Từ Tuệ.
"Uống trà đi."
Bỗng chốc Từ Tuệ không biết nên nói gì.
Anh ta lớn hơn Chu Tử Thư những mười hai nhưng chẳng vì thế mà khôn hơn. Xét tài đối nhân xử thế và làm quan, anh ta nào phải đối thủ của Chu Tử Thư? Từ Tuệ không hiểu được ẩn ý của Chu Tử Thư, đến gặp Chu Tử Thư chỉ thuần túy vì lòng nhiệt huyết, nhưng Chu Tử Thư là người mà anh ta không tài nào nắm bắt nổi.
Tuy nhiên, Từ Tuệ đi theo Lương Tụng từ nhỏ, tình cảm của anh ta với Lương Tụng còn sâu đậm hơn tình cảm của Chu Tử Thư. Anh nghiến răng, nói: "Hôm nay anh tới đây là để nói với em cụ thể những điều tiên sinh làm năm xưa. Hồi đó tiên sinh giữ bí mật với em, em mới chỉ biết một góc sự việc thôi."
Chu Tử Thư thầm nhủ: Trước đây ta chỉ có thể đoán được một góc sự việc, còn giờ đây, có lẽ những điều ta nắm được còn nhiều hơn cả những gì anh biết.
Song cậu vẫn nói: "Xin anh hãy kể rõ đầu đuôi." Từ Tuệ chậm rãi thuật lại.
Quả đúng như Chu Tử Thư phỏng đoán, khi xưa Lương Tụng không muốn liên lụy đến những người bạn thâm giao của mình, thế nên ông không hề nhờ vả nhóm Trần Lăng Hải, Phó Vị. Ông đến Kim Lăng, một mình điều tra xem tại sao hoàng đễ bỗng chú ý tới Chung Thái Sinh vốn bị giam giữ ở thiên lao đã hai mươi lăm năm; ông muốn cứu Chung Thái Sinh.
Lương Tụng tìm đủ mọi cách, cuối cùng cũng dò ra chân tướng.
Sự thật không khác với những gì Cung Tuấn nói cho Chu Tử Thư năm ngoái là mấy. Chỉ vì một ngôi sao băng, chỉ vì một câu mê hoặc của tên đạo sĩ mũi trâu, hoàng đế quyết định kết liễu Chung Nguy.
Từ Tuệ nói chắc như đinh đóng cột, nhưng sau khi nghe một hồi, ánh mắt Chu Tử Thư dần dần trở nên mông lung.
Có thật là vì một ngôi sao băng, một lời gièm pha chăng?
Có thể trong lòng Triệu Phụ, Chung Thái Sinh sớm muộn gì cũng phải chết. Chẳng qua, cái chết ấy phải đến muộn hai mươi lăm năm thì mới thể hiện được tấm lòng nhân hậu của bậc quân vương, mới thể hiện được sự khoan dung độ lượng của Triệu Phụ. Đối với ông ta, hai mươi năm trì hoãn ấy đã là sự ban ơn vượt mức bình thường rồi.
Nhưng Chu Tử Thư không nói những điều ấy cho Từ Tuệ.
Từ Tuệ kể xong thì đề cập đến chuyện khác, mà chính việc này mới khiến Chu Tử Thư phải chú tâm.
"... Ba mươi ba năm trước, tiên sinh là một trong những nhân vật chủ chốt của hội Tùng Thanh, là người tâm đầu ý hợp với Chung Thái Sinh. Suốt những năm ấy, ngài không tài nào lí giải nổi tại sao vụ cung biến năm xưa lại phát sinh. Ngài kiên quyết không tin Chung đại nho sẽ tham gia soán nghịch, nhưng ngài cũng không hiểu nổi vì sao đêm đó Chung đại nho lại dẫn quân theo tiên thái tử vào hoàng cung. Chung đại nho không nên hành động bốc đồng như vậy, nhưng rốt cuộc ngài ấy vẫn làm thế. Không chỉ một lần, tiên sinh đã nói chắc chắn có điều mờ ám trong vụ việc, ắt hẳn phải có một người bên cạnh Chung tiên sinh, một người đã giành được lòng tin cậy của Chung tiên sinh, giật dây vụ việc ấy."
Chu Tử Thư không khỏi sợ hãi, cậu hỏi dồn: "Tiên sinh còn nói gì khác không?"
Từ Tuệ lắc đầu: "Chỉ thỉnh thoảng nhắc đến chuyện này thôi, tiên sinh không bao giờ muốn bàn luận đến chuyện năm ấy."
Chu Tử Thư bình tĩnh hỏi thêm mấy câu, nhưng hỏi đến cái gì Từ Tuệ cũng ù à ù ờ. Cậu thầm thở dài, đoạn đứng dậy tiễn Từ Tuệ về.
Khi Từ Tuệ đi, Thịnh Kinh lại đón một trận tuyết lớn mù mịt.
Bông tuyết trắng nhợt lả tả rơi, Từ Tuệ không mở ô, bảo rằng chỗ mình ở rất gần nha môn bộ Công, không cần Chu Tử Thư sai người hộ tống.
Anh rạp người vái chào Chu Tử Thư: "Lần này từ biệt, chẳng biết bao giờ mới gặp lại nhau."
Chu Tử Thư cười đáp: "Nếu có việc cần tìm em, cứ đến Thịnh Kinh là được."
Từ Tuệ ngẩng lên trộm liếc Chu Tử Thư, không dám nói thêm, quay gót ra về.
Bao năm trôi qua, đã lâu lắm rồi Từ Tuệ không còn mặc áo dài vải xanh, nhưng dáng người anh vẫn gầy còm khẳng khiu, nhìn xa xa cứ ngỡ cây sào tre dựng giữa tuyết dày. Gặp lại người quen cũ, Chu Tử Thư mới chợt phát hiện mình đã hoàn toàn khác xưa tự bao giờ.
Dù Từ Tuệ có giấu diếm kĩ hơn nữa, dù Chu Tử Thư dặn anh không phải giữ kẽ, nhưng anh ta không thể nào qua mắt cậu được. Diễn xuất vụng về của anh ta có đến trăm ngàn chỗ hở. Rành rành là run sợ, thế mà vẫn cố vờ như rất thân quen.
Chu Tử Thư cũng không biết hôm nay anh ta đến đây chỉ để nói chuyện của Lương Tụng, hay cố ý nhắc đến việc này với mong muốn Chu Tử Thư có thể rửa oan cho Lương Tụng, trả lại thanh danh cho ông sau khi qua đời. Hoặc, đơn giản nhất, anh ta muốn Chu Tử Thư nâng đỡ mình, giúp mình thăng quan.
Chu Tử Thư chỉ cảm thấy trong kí ức một thuở đã qua có biết bao nhiêu điều từng đẹp đẽ là thế, vậy mà cứ như ảo ảnh trong mơ, chẳng thể gặp lại nữa.
Cậu cười tự trào: "Mày giống hệt như CungTử Phong."
Lát sau, cậu lại nghĩ: "Giống CungTử Phong chẳng hay lắm sao?" Hay chứ, lí nào lại không hay?
Chỉ thế là Chu Tử Thư phấn chấn ngay.
Tối đó cậu sang phủ Thượng thư, định bụng sẽ chủ động kể chuyện mình gặp Từ Tuệ hôm nay cho Cung Tuấn nghe. Ai ngờ, cậu chưa cất lời, Cung Tuấn đã đặt ngón tay lên môi cậu, suỵt một tiếng.
"Gặp Từ Ngu Chi hửm?" Chu Tử Thư tròn mắt, há hốc mồm.
Từ Tuệ, Từ Ngu Chi.
Cung Tuấn thở dài thật sâu: "Vốn dĩ ta không nên nói cho em biết, nhưng ta đã thề với lòng mình từ trước rằng chúng ta là bạn đời, ta không nên giấu diếm em bất cứ điều gì cả. Đầu năm nay, sau khi Triệu Tĩnh được điều về Thịnh Kinh thì ghế phủ doãn Tần Châu để trống. Quan hệ của em với Lương Bác Văn ta vẫn biết rõ; Lương Bác Văn cùng chỉ còn mỗi một đứa cháu họ trên đời. Từ Ngu Chi... hơi chính trực, không hợp với chức phủ doãn Tần Châu, thế nên ta bèn cất nhắc bạn của anh ta." Chu Tử Thư: ... Ôi trời ạ!
Cung Tuấn trang trọng nhìn cậu: "Cả đời này ta sẽ không bao giờ lừa dối em đâu. Cảnh Tắc, từ lâu lắm rồi, ta đã hứa sẽ bên em đời đời kiếp kiếp, chỉ duy nhất em thôi."
Chu Tử Thư chỉ cảm động được một xíu là bừng tỉnh ngay. Rà mắt từ đầu tới chân CungTử Phong, cậu bắt chước đặt ngón tay lên môi chàng, giọng âu yếm: "Hơi chính trực cơ đấy, sư huynh cần gì phải giữ thể diện cho ta thế? Cứ nói thẳng Từ Tuệ là con mọt sách chẳng biết duỗi biết co đi. Ta tin huynh, đời nào ta lại không tin huynh chứ? Ta tin rằng chỉ hai canh giờ sau khi ta gặp Từ Tuệ chiều nay huynh đã biết chuyện rồi. Huynh thẳng thắn với ta thế này làm ta xúc động ngỡ ngàng đấy. Chuyện như thế, nếu muốn biết ta có thể hỏi thăm được ngay, vậy mà huynh lại chủ động kể cho ta. Ta cảm động lắm, cảm động cực kì!"
Chu Tử Thư chợt đổi giọng, mặt lạnh tanh: "CungTử Phong này, mấy lời đường mật của huynh nghe cũng bùi tai đấy, nói thêm câu nữa xem nào?" Cung Tuấn cười vang, ôm choàng lấy Chu Tử Thư.
"Em thấy đấy, ta viện trăm phương nghìn kế dỗ dành cho em vui, em đừng nói toạc ra có phải hay hơn bao nhiêu không? Bữa nay chẳng phải dưới nguyệt trước hoa4 , nhưng vẫn có mai vàng sau tuyết. Chúng mình cùng ra vườn ngắm hoa, em cảm động khôn xiết..."
[4] Ý chỉ khung cảnh hữu tình nên thơ mà trai gái hay hò hẹn.
"Bèn sà vào vòng tay huynh, si mê đắm đuối chứ gì?"
Cung Tuấn thoáng tỏ ra thất vọng, vòng tay ôm Chu Tử Thư chùng xuống: "Hóa ra trước giờ em chẳng hề đắm đuối si mê ta ư?"
Chu Tử Thư còn lâu mới thèm tin, nhưng trông bộ dạng Cung Tuấn, cậu lại sợ chàng đau lòng thật.
Chu Tử Thư đành chủ động ôm lấy chàng, xuôi theo: "Nói chuyện với huynh mệt quá đi mất, chẳng biết câu nào huynh nói thật, câu nào huynh nói dối nữa. Lần sau trước khi diễn, huynh hãy báo trước cho ta có được không? Huynh đã hứa sẽ không bao giờ gạt ta cơ mà?"
Cái dáng điệu nghĩ một đằng nói một nẻo của Chu Tử Thư làm Cung Tuấn đắm say đến mê mẩn tâm thần. Chàng cúi mình hôn Chu Tử Thư một cái, bật cười: "Sau này cứ lúc nào ta định gạt em, ta sẽ hôn em một cái trước, chịu không?"
"... Câu này của huynh là nói dối hay nói thật hả?"
"Ha ha ha ha." Cung Tuấn cười nghiêng ngả, "Ta yêu em quá đi mất thôi!"
Chu Tử Thư: "CungTử Phong! Huynh cứ phá hoại hình tượng như thế, nếu có ngày tấm lòng si mê khờ dại của ta với huynh có đổi thay5 thì tất cả là lỗi tại huynh đấy!"
[5] Vốn câu Chu Tử Thư trêu Cung Tuấn là "si tâm bất cải" nên đoạn này mới nói thế
Giữa mùa đông giá buốt, Cungđại nhân ôm ấp người thương, cảm thấy toàn thân ấm áp, khoan khoái khắp mình.
Thậm chí trong lúc làm mấy việc này nọ này kia, chàng còn thừa tâm trí để nghĩ: Cái gọi là thương nhau uống nước cũng no, yêu nhau trời lạnh cũng ấm, ra là thế này đây.
Cùng lúc đó, người chẳng thương ai mà cũng chẳng ai thương đang lẳng lặng giục khoái mã, dãi gió dầm sương lên miền Tây Bắc.
Mùng bốn tháng chạp, hiếm hoi lắm Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức mới có dịp về thành U Châu. Hắn vừa về tới nhà, quản gia đã báo tin có khách viếng thăm.
Lý Cảnh Đức nhủ thầm: "Đứa nào mà thính thế chứ lại, họa hoằn lắm ông mới về một hôm, thế mà cũng đụng phải nó ư?" Hắn hỏi quản gia: "Ai đấy?"
Quản gia trông có vẻ khó xử: "Người ấy là một vị đại nhân, có lệnh bài của điện Cần Chính, tiểu nhân cũng không rõ."
Lý Cảnh Đức trợn mắt: "Điện Cần Chính hả? Ông đây có phạm tội gì đâu mà điện Cần Chính cử người đến bắt? Chớ để nó vào là xong... Hầy, không ổn, chạy trời không khỏi nắng, ngươi cứ gọi người ta vào đi. Dù gì đi chăng nữa, U Châu cũng là nhà ông, nó có bắt ông được khối!"
Quản gia: "Vâng."
Chỉ lát sau quản gia đã dẫn một người mặc áo khoác với mũ trùm đen vào phòng. Lý Cảnh Đức nhìn thấy người mặc áo choàng đen từ xa đã hãi, bụng bảo dạ: Tên này còn giống kẻ gian hơn cả ta đây.
Đến khi người đó vào nhà và cởi mũ trùm đầu ra, Lý Cảnh Đức máy môi, khịt mũi rõ trịch thượng.
Tô Ôn Duẫn: "..."
"Họ Lý nhà mi thái độ kiểu gì thế hả? Hiện giờ bản quan là Tham tri chính sự điện Cần Chính hàm nhị phẩm, ngang hàng với nhà mi. Nhà mi chớ có làm càn!"
Lý tướng quân bệ vệ ngồi ghế chủ nhà, ghếch hẳn một chân lên bàn. Hắn thò ngón tay ngoáy tai, giọng lười biếng: "Nửa đêm nửa hôm, lại còn chẳng ở nha môn, sao hử? Tham tri chính sự đại nhân muốn hành quyết bản tướng quân ngay tại đây, hay bắt thóp được bản tướng quân rồi nên đang đêm phải đến tận nơi hăm dọa? Hay là... ồ ta đã hiểu, nhà ngươi muốn hối lộ bản tướng quân chứ gì? Bản tướng quân đây là người chính trực đàng hoàng, không thèm tiền bạc giai nhân, ngươi đừng có vào rừng mơ bắt con tưởng bở!"
Tô Ôn Duẫn tức lồi cả mắt, suýt tí nữa xông tới sút cho hắn một cú.
May mắn thay, Tô đại nhân là người trí thức, lại còn là một người trí thức thông minh; anh ta tự biết so bề sức mạnh thì mười thân này cũng đừng hòng hạ gục một Lý Cảnh Đức. Tô Ôn Duẫn cười khẩy, giọng lạnh tanh: "Nếu Lý tướng quân đã khinh nhau như vậy, bản quan đành cáo từ thôi.
Chẳng qua, ta vốn có việc hệ trọng muốn thương lượng với tướng quân."
Lý Cảnh Đức cười sang sảng: "Ha ha ha, việc hệ trọng à? Cái ngữ tốt mã giẻ cùi như ngươi thì có cái vẹo gì? Vai vác chẳng đặng, tay xách chẳng xong, dư lào, muốn đi lính hử?"
Tô Ôn Duẫn thờ ơ khẩy bốn chữ: "Bàn kế đánh Liêu." Lý Cảnh Đức quỳ phịch xuống.
Tô Ôn Duẫn quay đầu đi thẳng.
Lý Cảnh Đức vội vàng đuổi theo, cản người ta lại, cười cầu hòa: "Hôm nay trời rét căm căm, U Châu chẳng sánh được với Thịnh Kinh, ngoài đường nửa đêm toàn bọn trèo tường cướp của, lỡ đụng đến Tô đại nhân thì chết dở. Tô đại nhân tới U Châu đột xuất thế này, đã có ai thù tiếp chưa? Nào nào nào, phủ bản tướng quân đang sẵn con dê, tối nay sẽ làm dê nướng nguyên con tẩy trần cho Tô đại nhân, tiện thể mình tâm sự chuyện nước Liêu nhé."
||Chú thích
Câu này xuất xứ từ Đông chu liệt quốc. Cao Xuân Huy dịch.
Gốc: 杀人诛心 Nguồn gốc thành ngữ này là từ một vụ ám sát vua mà kẻ sát nhân bị trị tội, nhưng chủ mưu thì không sao. Mình dựa theo đó để đoán, chứ giải nghĩa trên mạng khó tóm tắt lắm.
[6] Nguyên văn là "vô tình", đối với câu trên là "hữu tình uống nước... hữu tình trời lanh..."
Gốc: 咋滴. Thấy các bạn trên Zhihu bảo là phương ngữ Đông Bắc, đồng nghĩa với 怎么.
Gốc: 谋辽 (mưu Liêu). Tính để ngắn gọn mà sợ hơi khó hiểu nên thoai ~
------oOo------
Chương 149
Nguồn: EbookTruyen.Net
Niềm tin
Xưa nay Lý Cảnh Đức vẫn cho rằng các quan văn ở triều đình toàn người chân yếu tay mềm. Chẳng nói xa xôi đến việc cưỡi ngựa xung trận, cầm quân đánh giặc, chỉ cần đêm lạnh gặp trận gió rét vù vù thôi cũng cảm lên cảm xuống, ốm một cái là nằm bệt.
Ban đầu, Lý Cảnh Đức không biết Tô Ôn Duẫn đến đây với mục đích gì, chỉ cho rằng anh ta không có việc gấp nên cứ đuổi đi. Giờ biết chuyện liên quan đến nước Liêu, Lý Cảnh Đức hăng hái ngay. Hắn sai nhà bếp chuẩn bị một con dê tơ tươi ngon, quay sang bảo với Tô Ôn Duẫn: "Ngoài trời rét ghê. Đừng khinh người Liêu toàn kẻ tục tằn chỉ biết dăm ba con chữ, riêng khoản nướng thịt thì họ sành gấp mấy lần chúng ta đó."
Tô Ôn Duẫn lườm nguýt hắn, thờ ơ hỏi: "Thì sao?"
Lý Cảnh Đức cười nhún nhường: "Giời lạnh được xơi miếng dê nướng thì phải gọi là ngon quên sầu nhân thế! Khốn nỗi, nướng thịt ngoài trời lúc rét có mà chết sun. Nướng trong nhà của chúng ta cũng không ổn, phải nướng trong lều của bọn họ mới ngon cơ."
Ai mà tưởng tượng nổi trong phủ Chinh Tây nguyên soái còn có một cái lều.
Hai người nướng dê, ăn thịt trong lều. Tuy Lý Cảnh Đức bảo mình sẽ đích thân nướng cho Tô Ôn Duẫn, nhưng phần lớn vẫn do đầu bếp thực hiện.
Nói đến việc chính, cả hai đều cực kì nghiêm túc.
Tô Ôn Duẫn: "Bây giờ tuổi tác vua Liêu ngày một cao, dần dà rồi cũng bất lực với việc nước; chuyện tranh giành ngôi Thái tử là tất yếu. Vua Liêu có cả thảy bốn người con trai, nay chỉ còn hai người trụ lại thôi."
Bộ râu quai nón rậm rì của Lý Cảnh Đức lem ít mỡ thịt nướng. Hắn cau mày nói: "Ý ngươi là bọn Gia Luật Xá Ca và Gia Luật Hàm ấy hả?"
Thấy râu Lý Cảnh Đức dính mỡ, Tô Ôn Duẫn quắc mắt, ngồi xích ra xa cho bõ ghét, đoạn nói: "Con người ai cũng có điểm yếu, nước Liêu ắt sẽ mất vì nội loạn. Điểm yếu của hai tên này rất đơn giản: Gia Luật Xá Ca kiêu căng tự phụ, bản chất lại là kẻ háo sắc; Gia Luật Hàm hữu dũng vô mưu, thích việc lớn hám công to. Khéo lợi dụng hai điểm này thì có thể khiến nước Liêu tự rối loạn. Chỉ khi nội loạn xảy ra ở Liêu, Đại Tống ta mới có cơ hội dốc kỵ binh lên miền Bắc, giành lại đất đai đã mất."
Nghe thế, thoạt tiên Lý Cảnh Đức mừng rỡ lắm, nhưng rồi hắn thở dài than:
"Dễ gì mà được như thế."
Tô Ôn Duẫn mỉm cười: "Ai bảo không dễ? Những quân cờ gài vào nước Liêu hai năm nay không chỉ có mỗi nhiệm vụ truyền tin. Hai năm, cũng đến lúc bọn họ phát huy tác dụng rồi. Ta là quan văn, lại còn là quan kinh thành nên không có thế lực hùng hậu ở Tây Bắc. Song Lý Cảnh Đức ngươi thì khác. Thánh thượng chưa bao giờ nói phải giấu đại quân Tây Bắc chuyện mưu đánh nước Liêu."
Nghe tới đây, Lý Cảnh Đức hồi hộp lắm nhưng vẫn tỏ ra cứng rắn. Hắn hỏi: "Ý ngươi là ngươi bằng lòng hợp tác với bản tướng quân?"
"Đây không phải là chuyện có bằng lòng hay không... Đường Cảnh Tắc từng nói với ta rằng, nửa năm trước cậu ta đã hứa với ngươi, nếu thời cơ đến, tất sẽ không phụ lòng mong mỏi của ngươi." Ngừng lời trong giây lát, Tô Ôn Duẫn nói, "Thế nên, thời cơ đã đến rồi, Lý tướng quân ạ."
Sau một thoáng sững sờ, Lý Cảnh Đức cười phá lên. Hắn gọi người hầu: "Ta nhớ trong phủ còn con bò tơ đấy." Người hầu ngớ ra.
Lý Cảnh Đức vung tay: "Lôi ra nướng, mời Tô đại nhân nếm thử cho tươi."
Tô Ôn Duẫn nghĩ thầm: Ngươi coi họ Tô nhà ta là hạng tôm tép nào mà nghĩ Tô Ôn Duẫn này chưa ăn thịt bò bao giờ?
Ấy thế mà trước bộ dạng tràn trề vui sướng của Lý Cảnh Đức, lần đầu tiên, anh ta không móc mỉa hắn, chỉ lặng lẽ cắn một miếng dê nướng.
Cùng là tâm phúc của hoàng đế, Tô Ôn Duẫn đã biết Lý Cảnh Đức được tám năm.
Quy chính nhân không thể lọt vào hai giáp đầu trong kì thi Đình, quy chính nhân không thể làm quan từ tứ phẩm trở lên.
Nhưng Lý Cảnh Đức chưa bao giờ tiến thân bằng con đường thi cử. Hắn đã chiến đấu trên sa trường để giành lấy chức Chinh Tây nguyên soái nhị phẩm.
Lần đầu tiên họ gặp nhau thực ra cũng không phải gặp mặt trực tiếp, mà chỉ là lúc Tô Ôn Duẫn đứng ngoài thành Thịnh Kinh trông thấy Lý Cảnh Đức ở phía đằng xa. Khi đó là thời điểm Chu Thái sư khải hoàn về triều sau chiến thắng chống Liêu, Triệu Phụ đặc cách dẫn bá quan văn võ ra ngoài thành nghênh đón. Lúc ấy, Tô Ôn Duẫn mới chỉ là một viên Hàn Lâm biên soạn ngũ phẩm mờ nhạt, đứng lẫn trong hàng ngũ các quan.
Lý Cảnh Đức là một viên tướng nhỏ cạnh Chu Thái sư, đang độ bừng bừng nhiệt huyết. Tiếc rằng trên trán hắn lại buộc một chiếc khăn đen. Một viên quan đi cùng trong viện Hàn Lâm nhìn thấy cái khăn đen thì nói: "Tiếc thật, hóa ra lại là quy chính nhân."
Người trần ai cũng có nỗi khổ, chẳng ai hiểu được hoàn cảnh của ai.
Ngày hai mươi sáu tháng Chạp, toàn bộ quan lại được nghỉ lễ.
Năm nay, Đường Hoàng, Diêu Tam và Diêu đại nương phải về thăm nom cửa hàng dưới Giang Nam nên đã đi từ sớm, tiện thể ăn Tết ở phủ Cô Tô luôn. Về phần mình, Chu Tử Thư ở hẳn bên phủ Thượng thư. Đêm trước giao thừa, hai người cùng vào cung dự tiệc.
Trong các Yến Xuân, năm nay ba vị hoàng tử vẫn không về kinh, còn Triệu Phụ thì khá là hứng trí. Năm nay vừa khéo là năm mở khoa thi, ông ta cho vời cả ba người đỗ đệ nhất giáp đến dự tiệc, trò chuyện với bọn họ một hồi.
Sang hôm sau, đêm ba mươi, Chu Tử Thư và Cung Tuấn đến tiểu viện Lưu Kỳ.
Bình thường hay viết chữ hoặc đánh cờ, nhưng thú chơi của người xưa thật quá ít ỏi nên Chu Tử Thư thấy hơi nhàm. Cậu gợi ý: "Chi bằng chúng mình chơi bài đi."
Cung Tuấn nhướng một bên mày: "Chơi bài thì ta..."
Chu Tử Thư: "Biết huynh không biết rồi, thế nên ta sẽ cho huynh chơi loại bài mới."
"Ta không biết bao giờ?" Cung Tuấn ngạc nhiên.
Chu Tử Thư ngơ ngác: "Hả?"
Cungđại nhân mỉm cười: "Câu ta nói vừa xong không phải phủ định đâu.
Tiểu sư đệ, ta vừa nói rằng... Chơi bài thì ta biết đấy."
Chu Tử Thư: "..."
Huynh nói xem, có còn cái gì mà huynh không biết làm không?
Cung Tuấn biết chơi bài thật, chẳng qua chàng không thích chơi thôi.
Chu Tử Thư thì muốn chơi trò gì mới mẻ một tí. Cung Tuấn suy nghĩ một lát bèn đề nghị: "Hay là mình cá cược đi?"
"Cược gì mới được chứ?"
"Thì cược tối nay em... Ối ối, ha ha ha chính em bảo ta nói đấy nhé, sao lại trách ta."
Chu Tử Thư thúc cùi chỏ vào vai Cung Tuấn, song cú thúc ấy chẳng khiến chàng đau tí nào, chỉ làm chàng cười tươi rói.
Cuối cùng Chu Tử Thư cũng không được chơi bài như mong muốn.
Ngày Tết tuy là kì nghỉ của quan lại nhưng không phải ai cũng được nghỉ. Sau hai ngày thảnh thơi ở nhà, sang mùng hai, Cung Tuấn đã lên nha môn làm việc. Công việc của ty Ngân Dẫn không thể trì hoãn thêm một giây nào nữa; hoàng đế hạ chỉ từ tháng mười một nhưng vì vướng Tết nên không thể thực thi ngay. Vừa sang năm mới, ngân khế trang Đại Tống được thành lập ồ ạt.
Cung Tuấn bận không ngơi tay, Chu Tử Thư đáng lẽ nghỉ ở nhà nhưng cũng chán, bèn đến nha môn bộ Công.
Quan có kì nghỉ còn thợ thì không.
Nha dịch dẫn Chu Tử Thư đi kiểm tra các kho. Vừa thấy Chu Tử Thư, thợ thủ công ai nấy đều hốt hoảng, quỳ sụp xuống hành lễ với cậu. Chu Tử Thư vội đỡ người thợ gần nhất dậy, người ấy sợ sệt cúi gằm mặt, run như cầy sấy, không nói nổi câu nào. Chu Tử Thư sững người, lại nhìn xung quanh, không có người thợ nào là không khiếp đảm trước cậu.
Chu Tử Thư mấp máy môi, nhưng cuối cùng cậu chỉ buông một câu "Lần sau gặp ta không cần phải làm thế này", rồi quay lưng ra về.
Đến mùng mười tháng giêng, Chu Tử Thư viết tấu gửi vào hoàng cung, hôm sau thì được Triệu Phụ triệu kiến.
Khi Chu Tử Thư tới điện Thùy Củng thì Triệu Phụ đang viết thư pháp. Sau khi viết xong, ông ta ngắm nghía cẩn thận một hồi, gật đầu ra chiều vừa ý lắm. Tiếp đó, Triệu Phụ mới ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư, vẫy tay: "Cảnh Tắc, lại đây."
Chu Tử Thư kính cẩn bước tới.
"Ngươi hãy xem năm chữ này đi."
Chu Tử Thư ngắm nghía kĩ càng rồi đọc dòng chữ lên: "Nơi cái đẹp hiện hữu."
Triệu Phụ cười ha hả: "Cảm nhận của ngươi thế nào?"
Nét mặt Chu Tử Thư bình tĩnh, cậu nghiêm chỉnh phân tích: "Nơi cái đẹp hiện hữu, dẫu bị chà đạp, người đời cũng không khinh. Nơi cái xấu tồn tại, dẫu được tôn vinh, người đời cũng không quý. Câu này ở trong sách Hoài Nam tử, nói rằng phải kiên trì với chính kiến của mình, không được bắt chước thói hư tật xấu, để người ta tùy tiện chi phối. Chữ của bệ hạ ung dung uyển chuyển, như rồng dài lượn giữa tầng mây, giống hệt phong thái phóng khoáng của Hoài Nam vương."
Triệu Phụ cười một hồi, nói với Quý Phúc: "Đường Cảnh Tắc đúng là biết nói khéo để làm trẫm vui, ngươi phải học hỏi thêm đấy."
Quý Phúc cười khúm núm: "Nô gia đâu dám sánh với Đường đại nhân."
Triệu Phụ bảo Chu Tử Thư: "Bản tấu của ngươi trẫm đã đọc rồi, sao tự dưng lại tâu việc này?"
Chu Tử Thư do dự một thoáng, rồi bỗng dưng lùi ba bước, chắp tay cúi rạp mình, trang trọng nói: "Thần có đôi lời, xin bệ hạ xá tội."
Lông mày Triệu Phụ máy nhẹ, ông ta buông bút, nói giọng hiền lành: "Cứ nói đi đừng ngại."
"Vì sao bệ hạ lại bổ nhiệm thần làm Hữu thị lang bộ Công ạ?"
Vừa nghe thế, Quý Phúc nghĩ bụng, thôi xong! Sao Đường Cảnh Tắc lại hồ đồ thế? Hoàng đế muốn cậu ta làm gì, cậu ta có quyền hỏi ư? Trăm quan trong thiên hạ có ai không phải bề tôi của Triệu Phụ? Triệu Phụ muốn cậu ta làm gì thì cậu ta phải làm cái đó, thắc mắc đâu ra mà lắm vậy?
Suy cho cùng, Quý Phúc chỉ là thái giám mà thôi. Lão theo Triệu Phụ nhiều năm đến thế, vẫn chỉ là một hoạn quan hiểu mưu vặt chứ không hiểu những toan tính lớn lao.
Triệu Phụ nghe Chu Tử Thư nói xong cũng không hề nổi giận. Ông ta lẳng lặng nhìn Chu Tử Thư một lúc lâu, cười nói: "Cảnh Tắc nghĩ sao?"
"Thần không biết. Tuy nhiên, năm ngoái, khi đến Ký Châu khắc phục nạn lụt thần đã hiểu, quan bộ Công là quan chứ không phải người thợ thủ công tài cán. Kinh nghiệm trị thủy của thần chưa bao giờ là điều bệ hạ cần, bởi người thực sự hiểu việc trị thủy là Thủy bộ lang trung dưới quyền của thần. Chính vì vậy, thần mới suy ngẫm xem với tư cách là Hữu thị lang bộ Công, rốt cuộc thần có thể làm gì cho bệ hạ, làm gì cho Đại Tống ta."
Mắt Triệu Phụ ngời sáng, ông ta rướn tới sát bàn, hỏi: "Thế ngươi định làm gì?"
Chu Tử Thư giơ cao hai tay, nghiêm túc nói: "Vì bệ hạ, thần muốn thay đổi diện mạo của Đại Tống ta."
"Bằng cách nào?" Giọng Triệu Phụ trở nên gấp gáp.
Chu Tử Thư đáp rất lễ độ: "Trọng dụng người đáng trọng dụng, làm việc đáng làm."
"Đây cũng là điều ngươi nêu ra trong tấu chương ư? Nhưng đẳng cấp của quan và dân vốn chênh lệch. Một người hạ mình thì đó là việc của riêng ngươi. Muốn bá quan cùng làm tương tự, há lại đơn giản thế? Hơn nữa, làm vậy có thực sự hiệu quả không? Có thật là ngươi sẽ thực hiện nổi điều mình nói không? Làm thế nào để trẫm tin ngươi đây?"
Chu Tử Thư ngẩng đầu, ánh mắt kiên định: "Người đời ai cũng có niềm tin. Thần vào triều làm quan chưa đầy tám năm, nhưng thần đã gặp rất nhiều người có lòng tin. Thần biết năm ngoái Tham tri chính sự Tô đại nhân đến U Châu là bởi anh ta có lòng tin, anh ta một lòng phụng sự bệ hạ, dù con đường phía trước có chông gai đến mấy cũng không nề hà. Thần cũng biết Chinh Tây nguyên soái Lý tướng quân vẫn giữ một niềm tin hơn hai mươi năm nay chưa từng lay chuyển, thế nên anh ta mới có được sự tin tưởng sâu sắc của bệ hạ."
Triệu Phụ yên lặng nhìn cậu.
Chu Tử Thư nói tiếp: "Chẳng phải Cung Tuấn Cungđại nhân cũng có lòng tin đấy ư? Thần tự biết không giấu được bệ hạ, thần là người đầu tiên đọc bản tấu chương đất Thục, cũng chính thần đã nói cho Cungđại nhân biết về bản tấu đó. Tuy thế, việc ấy nói thì dễ, làm thì khó vô cùng. Ấy vậy mà sáu năm qua, Cungđại nhân đã làm được đến như ngày hôm nay, huynh ấy làm vì bệ hạ, và vì ngàn vạn lê dân Đại Tống ta. Huynh ấy cũng có niềm tin."
"Thần chẳng có gì trong tay, cũng không dám đảm bảo điều gì, nhưng niềm tin của thân vẫn vẹn nguyên như thuở ban sơ, quyết tiến không lùi."
Triệu Phụ nhìn Chu Tử Thư đăm đăm.
Chu Tử Thư chắp tay cúi đầu, dáng đứng thẳng tắp như cây tùng xanh sừng sững, vươn mình trên đá cứng.
Hồi lâu sau, Triệu Phụ bật cười khoan khoái. Ông ta đứng dậy đi vòng qua bàn tới trước mặt Chu Tử Thư, nắm lấy tay cậu. Chu Tử Thư ngẩng đầu, cậu thấy Triệu Phụ nhìn mình bằng cặp mắt già nua nhưng vẫn ngời sáng, giọng ông ôn tồn: "Câu này trẫm đã từng nói với Tử Phong, với Phỉ Nhiên và cả Cảnh Đức. Đây là lời mà Chu Thái sư từng bảo với trẫm, hôm nay trẫm cũng nói lại cho ngươi."
"Cảnh Tắc à, trước mắt ngươi là đại dương mênh mông, còn trẫm, mãi mãi là chiếc thuyền nhỏ phía sau các ngươi."
||Chú thích
Trong đoạn này VT hai lần dùng từ 原来 – nguyên lai (ta biết đánh cờ) có hai cách hiểu. Mình edit thoáng.
[2] Triệu Phụ viết 美之所在 – mỹ chi sở tại. Mình thay 4 thành 5 cho khớp với phần chuyển ngữ thôi. Đọc thêm về Hoài Nam Tử – Hoài Nam Cungở
------oOo------
Chương 150
Nguồn: EbookTruyen.Net
Cái tình trong đây
Vừa hết tháng Giêng, thành Thịnh Kinh vẫn còn chìm trong tuyết lớn. Các quan bộ Công mới trở lại nha môn làm việc thì thánh chỉ đã ban đến phòng Thượng thư bộ Công Viên Mục.
Viên Mục nhận thánh chỉ, ngồi thần người trên ghế bành hồi lâu. Nửa canh giờ sau, ông ta cho đòi tâm phúc của mình, Tả thị lang bộ Công Lý Ngọc Đức. Trong phòng chỉ có hai người bọn họ, Viên Mục không kiêng dè gì hết, đưa luôn thánh chỉ cho Lý Ngọc Đức, có ý bảo tự mở ra mà xem.
Lý Ngọc Đức đỡ lấy quyển sổ nho nhỏ ấy một cách trịnh trọng. Sau khi đọc xong, ông ta bàng hoàng, hốt hoảng ngước lên: "Thượng thư đại nhân."
"Ngươi cũng thấy đấy."
Lý Ngọc Đức thì thào: "Tại sao thánh thượng cứ khăng khăng tin tưởng CungTử Phong và sư đệ Đường Cảnh Tắc của hắn ta chứ?"
Viên Mục liếc ông ta, cười đáp: "Cái ông này, còn chưa rõ hay sao? Trong số bề tôi của bệ hạ chúng ta, chỉ có hai dạng người có thể khôn ngoan giữ mình, vận quan thông thuận. Dạng thứ nhất là dạng quan lơ mơ như Từ tướng và chúng ta, xưa nay không bao giờ can thiệp đến việc của thánh thượng. Ngài muốn chúng ta làm gì, chúng ta sẽ toàn tâm toàn lực hoàn thành việc ấy. Chúng ta là kiểu quan hữu dụng nhất với thánh thượng."
Lý Ngọc Đức cũng dần dần vỡ ra. Làm được đến chức Tả thị lang bộ Công, tuy thuộc dạng "quan lơ mơ" như Viên Mục nói, nhưng ông ta không hề ngu ngốc. Ông ta suy nghĩ một lát, hỏi: "Dạng còn lại chính là những người như CungTử Phong, Đường Cảnh Tắc đúng không?"
Viên Mục: "Chính xác. Loại ấy, chính là những viên quan hiểu lòng dạ thánh thượng nhất. Ngươi hãy xem, CungTử Phong dựng ty Ngân Dẫn, Đường Cảnh Tắc bây giờ tiếp quản việc này, rồi còn Tô Phỉ Nhiên, Lý Cảnh Đức. Vì sao họ trẻ như thế, thậm chí với thân phận quy chính nhân, đã có thể trở thành những vị đại thần then chốt trong triều đình? Họ làm việc cực kì xuất sắc, mà những điều họ muốn làm không phải những điều thánh thượng bắt họ phải làm. Thế nhưng gần vua như gần hổ, việc đó y như chơi với lửa đâu, lợi có mà hại cũng có. Vị quan cuối cùng hiểu lòng hoàng đế như thế, chính là Kỷ tướng."
Trong thâm tâm, Lý Ngọc Đức cũng cho là vậy.
Kỷ tướng Kỷ Ông Tập, một người thuộc phái thực lực nổi tiếng của Đại Tống.
Từ xuất phát điểm là đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, ông dần dần bước lên được vị trí Tả tướng cũng bởi trong thời kì làm quan địa phương, ông đã làm được rất nhiều việc lớn lao. Sau khi về kinh, bằng những biện pháp cứng rắn, ông chấn chỉnh kỉ cương triều đình, giúp cho đất nước được bình yên.
Triệu Phụ đã từng coi ông là cánh tay phải đắc lực của mình, nhưng kết cục của ông lại vô cùng thê thảm. Ngoài lí do Triệu Phụ nể tình nghĩa lâu năm, ông không mất mạng cũng nhờ luật lệ cấm giết quan của Đại Tống.
Nghĩ đến đây, Viên Mục và Lý Ngọc Đức nhìn nhau cười, không bàn thêm nữa.
Ở độ tuổi ấy mà lên được đến hàng tam phẩm, Chu Tử Thư đạt được vô số thứ, mà những mối đe dọa sau lưng cậu cũng nhiều không đếm xuể. Liệu cậu có thể trở thành một CungTử Phong tiếp theo hay sẽ giống như Kỷ tướng, phụ thuộc hết vào số mệnh may rủi, không ai nói trước được.
Đầu tháng hai, Hữu thị lang bộ Công Chu Tử Thư chỉnh đốn bộ Công, sửa lại từng quy tắc đã được áp dụng nhiều năm nay.
Động thái này khiến cả bộ Công xôn xao choáng ngợp. Có viên quan đến hỏi ngay Thượng thư Viên Mục và Tả thị lang Lý Ngọc Đức, nhưng cả hai người đứng đầu bộ đều không nói gì, để Chu Tử Thư tùy nghi làm việc. Các quan đều lúng túng cả, nhưng cũng có vài người nhạy bén nhận ra: "Để khiến ba vị đại nhân đồng lòng làm việc thì chỉ có một người trong thiên hạ làm được thôi."
"Ai thế?"
Vị quan ấy giơ một ngón tay, chỉ lên bầu trời.
Quan trong bộ Công rất đông đảo, ngoài quan Thượng thư và các Thị lang thì còn bốn bộ Truân điền2, Ngu bộ3 , Thủy bộ và viện Văn tư, mỗi bộ đều có các quan Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự. Ngoài ra, có cả các quan từ thất phẩm trở xuống không trực thuộc bốn bộ nói trên.
[2] đồn điền [3] núi non, vườn tược và các loài thú vật
Còn kể đến các thợ thủ công trong bộ Công thì đông không kể xiết.
Cứ hễ bộ Công huy động thì toàn bộ thợ thủ công ở ba mươi sáu châu Đại Tống đều phải vâng lệnh.
Việc đầu tiên Chu Tử Thư làm là thăng chức cho Phán quan viện Văn tư bộ Công – Quý Mạnh Văn.
Quý Mạnh Văn bốn mươi lăm tuổi, là Cử nhân năm Khai Bình thứ mười lăm. Nhiệm vụ chính của viện Văn tư là sửa chữa công cụ bằng vàng bạc trong nước, chức Phán quan chỉ là một chức quan mọn hàm thất phẩm. Thường thì những chức vụ thế này không do triều đình chỉ định, mà sẽ do quan viên trong bộ Công bổ nhiệm trực tiếp rồi báo lên bộ Lại.
Vốn Quý Mạnh Văn được đề bạt bởi chính Hữu thị lang bộ Công tiền nhiệm – Tô Ôn Duẫn.
Sau khi đỗ cử nhân, Quý Mạnh Văn đi thi mấy lần đều không thuận lợi.
Thật ra, hồi Chu Tử Thư lên trường thi Thịnh Kinh thi Hội thì Quý Mạnh Văn cũng là một trong số một vạn thí sinh ở đó, tiếc rằng ông ta vẫn thi trượt. Tuy nhiên, chỉ mấy năm sau, ông ta được Tô Ôn Duẫn bổ làm Phán quan viện Văn Tư nhờ có sở trường về chế tác tinh xảo. Từ đó, ông ta từ bỏ khoa cử để làm một viên quan thất phẩm nhỏ nhoi.
Việc Chu Tử Thư quyết đoán đề bạt Quý Mạnh Văn từ Phán quan thất phẩm lên Chủ sự lục phẩm đã khiến Quý Mạnh Văn sợ xanh cả mặt.
Cử nhân không có công danh gì mà muốn làm quan, chỉ có thể làm đến thất phẩm. Tuy luật lệ Đại Tống không quy định rõ rằng Cử nhân không được làm quan lục phẩm, nhưng từ thời Thái tổ đến nay, chưa có quan lục phẩm nào thuộc hàng Cử nhân.
Quý Mạnh Văn nơm nớp lo âu, sợ sệt đi theo sai dịch đến gặp Chu Tử Thư.
Làm quan ở bộ Công, Quý Mạnh Văn há có thể không biết Chu Tử Thư là ai. Ông ta biết rõ Hữu thị lang Đường đại nhân là một trụ cột của Cungđảng, mới hai mươi ba tuổi đã là đại thần tam phẩm. Mặc dù vậy, quan hệ giữa Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn hình như không mấy mặn mà, trong khi Quý Mạnh Văn lại được Tô Ôn Duẫn cất nhắc. Vì lẽ đó, dĩ nhiên Quý Mạnh Văn lấy làm lạ khi Chu Tử Thư thăng chức cho mình.
Vào phòng Hữu thị lang, Quý Mạnh Văn vẫn cúi đầu không dám lên tiếng.
Chu Tử Thư ôn tồn nói: "Ngươi chính là Quý Mạnh Văn phải không?"
Quý Mạnh Văn chắp tay thưa: "Hạ quan Quý Mạnh Văn xin bái kiến Hữu thị lang đại nhân."
Chu Tử Thư: "Cứ ngẩng lên mà nói chuyện."
Quý Mạnh Văn ngẩng đầu lên, lúc này ông ta mới nhìn rõ mặt Chu Tử Thư. Giây phút ấy, ông ta không nghĩ rằng chàng trai trẻ trước mặt sẽ thay đổi số phận cả cuộc đời mình sau này.
Nâng đỡ người tài, cải thiện bổng lộc cho thợ thủ công, đấy chỉ là bước đầu trong những dự định của Chu Tử Thư.
Tháng ba năm Khai Bình thứ ba mươi tư, Chu Tử Thư dâng tấu lên hoàng đế, xin lập thêm bộ Tạo Cải, một cơ quan riêng biệt với bốn bộ trong bộ Công. Lần này, ngay cả Triệu Phụ cũng lưỡng lự. Đề xuất này vừa đưa ra đã vấp phải sự phê phán ngầm của chúng quan. Phần lớn mọi người đều bất ngờ khi năm ngoái Chu Tử Thư mới lên chức Hữu thị lang bộ Công mà năm nay đã đòi lập thêm một cơ quan trong bộ.
"Thể chế quan lại của Đại Tống hầu hết là noi theo triều đại trước. Triều đại trước đã áp dụng mấy trăm năm, mà từ thời Thái tổ chúng ta tới nay cũng đã hơn trăm năm, cớ sao phải sửa đổi ngay khi hắn nhậm chức? Rõ ngược ngạo!"
Tuy kinh ngạc nhưng Thượng thư bộ Công Viên Mục không hề lên tiếng phản đối.
May thay, nề nếp quan lại thời này nghiêm minh, bộ Công không còn là nơi dễ kiếm chác như ở triều đại trước, chức vụ ở bộ Công cũng không thuộc dạng việc nhẹ lương cao. Dù có phần không bằng lòng với cách làm của Chu Tử Thư, chúng quan cũng không quá bận tâm. Quyền quyết định lại rơi vào tay Triệu Phụ.
Mùng bốn tháng ba, Cung Tuấn khởi hành đến Kim Lăng. Trước khi đi, chàng nhẹ nhàng hôn lên trán Chu Tử Thư, hỏi dịu dàng: "Cảnh Tắc có bao giờ lo lắng không?"
Chu Tử Thư tiễn chàng ra đến cửa, hỏi ngược lại: "Lo lắng điều chi?"
"Em biết rằng thánh thượng vẫn luôn ủng hộ em, nhưng lại chần chừ không quyết khi em xin thành lập bộ Tạo Cải chứ?
Chu Tử Thư cười: "Thánh thượng đang lo rằng quyền thế của ta lớn quá ấy mà. Nếu ta lập riêng bộ Tạo Cải, dĩ nhiên cả bộ sẽ toàn thân tín của ta. Thành thượng lo là lo chỗ đó. Sư huynh, ta nói thế có đúng không?"
Cung Tuấn: "Phải phải phải, em cực kì thông minh, nói gì cũng đúng." Chu Tử Thư thở dài: "Lần này thật tình ta không chắc chắn đâu. Với thánh thượng của chúng ta, chuyện này chính là điều ngài khó châm chước nhất."
"Sao phải lo nghĩ thế?"
"Ơ?"
"Năm nay em chưa đến hai mươi ba tuổi, thời gian bệ hạ cân đối triều đình còn hơn tuổi em đến cả giáp. Không bàn tới những chuyện khác, riêng việc này, trên đời chẳng ai bì kịp đương kim thiên tử đâu."
Chẳng mấy chốc, Cung Tuấn rời Thịnh Kinh, xuôi nam về Kim Lăng.
Ba ngày sau, Chu Tử Thư cuối cùng cũng hiểu Triệu Phụ muốn dùng cậu thế nào.
"Các khanh, trẫm vâng mệnh trời phó thác. Từ thời Tuyên đế tới nay, bộ Công tinh thạo kỹ nghệ, trên có đống lương tài giỏi, dưới có thợ khéo hơn người. Giờ trẫm lập ra bộ Tạo Cải, tăng thêm cho bộ Công ba mươi người, mệnh lệnh được ban hành ngay trong hôm nay."
"Thần Viên Mục lĩnh chỉ." Thượng thư bộ Công Viên Mục dẫn toàn thể quan viên cùng tiếp chỉ.
Từ đó, bộ Tạo Cải thuộc bộ Công rơi vào tay Chu Tử Thư một cách thuận lợi. Bộ Tạo Cải có quy mô ba mươi người, Triệu Phụ cho phép Chu Tử Thư tùy nghi định liệu. Không một ai trong số ba mươi người ấy được chỉ định cho Chu Tử Thư hết, chính cậu sẽ là người tuyển chọn. Dù cậu có tuyển hai mươi người thợ chỉ đỗ Tú tài, bộ Lại có khi cũng cho phép.
Ân huệ to lớn nhường này khiến nhiều viên quan càng kiêng nể Chu Tử Thư hơn.
Dĩ nhiên, có nhiều người nhún nhường hơn thì cũng có không ít người căm ghét cậu.
Ở xa tận Kim Lăng, khi Cung Tuấn biết tin cũng là lúc chàng đang thưởng trà với Tứ thúc nhà mình ở Lang Gia Cungthị. Tứ lão gia nhà họ Cung– CungTuệ – tuy là thương nhân nhưng vẫn hiểu quan hệ thiệt hơn trong chốn quan trường. Nhà có hai vị quan nhất phẩm đầu triều, CungTuệ thấy nhiều, nghe nhiều rồi cũng quen. Ông thở dài: "Tử Phong, con nghĩ thánh thượng có ý định gì đây?"
Cung Tuấn nhìn nước trà xanh trong, rõ ràng một khắc trước thôi chàng còn khen trà này mát lạnh, hương thơm lâu phai, nhưng giờ chàng chỉ đặt chén xuống trong thinh lặng.
Hồi lâu, Cung Tuấn bất lực cười rằng: "Chỉ còn mỗi ty Ngân Dẫn mà thôi!"
Mấy hôm sau, Chu Tử Thư nhận thêm một thánh chỉ nữa. Hoàng đế bổ nhiệm cậu làm người đứng đầu Ngu bộ, Thủy bộ và Tạo Cải, cai quản cả ba bộ, nhưng đồng thời cũng tước chức Hữu phó ngự sử ty Ngân Dẫn của cậu, bỏ luôn vị trí phó ngự sử được đặt thêm này đi. Bên cạnh đó, ông ta cũng bỏ nốt chức quan của viên Tả phó ngự sử còn lại là Dư Triều Sinh để ban cho anh ta chức khác: Chỉ huy sứ ty Ngân Dẫn Giang Nam.
Chu Tử Thư đã đoán trước kết cục này từ lâu, nhưng cậu không ngờ việc này ảnh hưởng đến cả Cung Tuấn. Triệu Phụ tiếp tục tách nhỏ quyền lực mà Cung Tuấn đang nắm giữ để san bớt cho Dư Triều Sinh.
Cậu liền gửi thư đến Giang Nam ngay.
Cung Tuấn cũng nhanh chóng hồi âm.
"Dạo gần đây hay thức khuya dậy sớm, bỗng dưng biết chuyện này, đâm lại thao thức trở mình, trằn trọc khó ngủ. Cứ tưởng tên ta và Cảnh Tắc sẽ song hành trọn đời, mai đây thể nào cũng đi vào sử sách, nhờ ty Ngân Dẫn mà lưu truyền ngàn năm. Có ai ngờ, người thương đâu chẳng thấy, chỉ thấy Dư Hiến Chi. Buổi trưa ăn cơm nhạt hết cả miệng, hao gầy những một cân."
Chu Tử Thư đọc xong thì cười mãi, cứ như được chứng kiến CungTử Phong viết nhăng cuội bằng điệu bộ hết sức đứng đắn vậy.
Cậu bèn viết thư hồi đáp. Bảy ngày sau, khi nhận được thư, Cung Tuấn ngây ra một hồi.
CungTuệ ngồi cạnh tò mò hỏi: "Phải thư Đường Cảnh Tắc đấy không?"
Cung Tuấn đặt tay lên tim, quay sang hỏi CungTuệ: "Mỗi khi Tứ thúc thúc buôn bán xa nhà, Tứ thẩm có viết thư cho tứ thúc thúc bao giờ không?"
"... Tất, tất nhiên là có."
"Ồ, thế tức là không viết rồi."
"..."
"Cái tình trong đây, e rằng Tứ thúc thúc khó mà hiểu được."
CungTuệ: "..."
Cái quái gì vậy!
Chu Tử Thư nào có hay, cậu chỉ viết một lá thư hồi âm mà CungTử Phong nâng niu đọc suốt hai đêm, không nỡ cất vào hộp thư.
Trên lá thư ấy, những lời yêu thương nặng ngàn vàng được viết nên bằng nét chữ vô cùng khoáng đạt: "Trước khi gạt ta, huynh lại quên hôn ta rồi.
Sư huynh nói lời chẳng giữ lấy lời, nhưng mà ta không giống sư huynh đâu. Từ lâu, tên của ta và sư huynh đã bện chặt không rời, ghi lên đá ba sinh. Dẫu là trong sách sử ngàn đời sau, cũng không phải không thể xuất hiện bên nhau. Sư huynh có tin, ty Ngân Dẫn chưa chắc đã thắng bộ Tạo Cải không..."
Nội dung sau đó Cung Tuấn chẳng đọc bao nhiêu, mà thật ra cũng chẳng mấy quan trọng.
||
Manh: Đọc "tứ thúc thúc" mà chỉ muốn gõ "chú tư" cho đỡ nhiều dấu sắc
😂
Chú thích
Là loại ghế này
------oOo------
Chương 151
Nguồn: EbookTruyen.Net
Chu Thái sư
Tháng mười năm Khai Bình thứ ba mươi tư.
Tấn Châu, rìa tây nam Đại Tống.
Tấn Châu lắm núi non, nhiều ngọn nổi tiếng đã được văn nhân mặc khách đưa vào thơ họa. Xa xôi không kể đến, chỉ nói gần đây thì hai năm về trước, một trong Tứ nho thiên hạ là Phó Vị Phó Hi Như đã viếng thăm Tấn Châu sau khi từ quan. Lúc lên núi Lư, ông đã viết một câu thơ để lại rằng: "Sương dài tiễn khách hồi hương, tinh mơ khí núi đón đường sóng mây."
Vì được bao quanh bởi những rặng núi nên Tấn Châu chưa bao giờ là nơi thuận tiện cho việc xuất hành. Nửa năm trước, hoàng đế có ý định xây một con đường quan nối liền Thục Châu và Tấn Châu. Con đường này không hề dễ xây hơn ba con đường quan từ Thịnh Kinh lên miền Bắc năm xưa, thế nên quan bộ Công và thợ thủ công trong thiên hạ ùn ùn đổ về Tấn Châu, tất bật với việc làm đường, quyết tâm hoàn thiện trong vòng hai năm.
Ngoài thành phủ Tấn Châu, một cỗ xe ngựa chầm chậm lăn bánh trên lối nhỏ giữa núi. Lính thủ thành tiến tới kiểm tra, phu xe bèn đưa cho người ấy một vật. Trông thấy nó, người lính tái mặt, tức khắc quỳ xuống hành lễ. Có tiếng nói ôn hòa khoan thai cất lên từ trong xe: "Không cần đa lễ, vào thành được chưa?"
Người lính hết hồn, gật đầu lia lịa: "Kính mời ngài, kính mời ngài."
Sau khi vào thành, xe ngựa đến nha môn phủ doãn ngay. Khoảng một lúc lâu sau, có chàng công tử tuấn tú mặc bào gấm xanh bước ra từ nha môn. Chàng dẫn theo thư đồng của riêng mình, cùng đi đến nơi phụ trách việc làm đường của bộ Công. Giữa chừng, họ tình cờ đi ngang qua Ngân khế trang Đại Tống ở Tấn Châu.
Chu Tử Thư dừng bước, nhìn về tòa Ngân khế trang ấy.
Cậu thấy hai người đàn ông mặc áo vải thô đi từ trong đó ra, vừa cười vừa nói. Họ cầm trên tay giấy bạc được cấp bởi Ngân khế trang.
"Ngân khế trang đúng là tiện ghê, rút tiền đồng cũng thật dễ dàng. Giờ sau khi bán lương thực, tôi không phải mang hết xâu tiền nặng về thôn nữa mà gửi phần lớn vào Ngân khế trang. Khi nào cần thì tới rút là được." Hai người đó vừa trò chuyện vừa đi xa dần.
Phụng Bút đồng tử thấy Chu Tử Thư chăm chú dõi theo hai người ấy. Theo hầu Chu Tử Thư đã bao năm nay, Phụng Bút vô cùng hiểu suy nghĩ của Chu Tử Thư. Nó nói: "Cungtướng công làm tốt quá. Công tử, chúng ta đến phủ thành nào cũng thấy Ngân khế trang Đại Tống. Hơn nửa năm trở lại đây, càng ngày càng có nhiều người dân bắt đầu sử dụng Ngân khế trang, ai cũng khen là tốt."
Chu Tử Thư: "Ngươi cảm thấy có tốt không?"
Phụng Bút: "Dĩ nhiên là tốt rồi."
Chu Tử Thư vừa cười vừa lắc đầu: "Chưa đủ đâu, đây không phải điều sư huynh muốn."
"Ơ?"
Thư đồng Phụng Bút ngơ ngác gãi đầu. Nó chỉ là một thư đồng nhỏ nhoi, biết chút chữ nghĩa, làm sao mà hiểu những thứ này.
Kể từ đầu năm, Cung Tuấn đã bận bịu lo việc Ngân khế trang Đại Tống. Chàng đi khắp ba mươi sáu châu trong suốt một năm qua. Trên từng châu phủ, Ngân khế trang Đại Tống dần dần mọc lên. Ban đầu, dân chúng hoàn toàn không hiểu gì về Ngân khế trang Đại Tống, không dám tùy tiện lại gần. Tuy nhiên, Cung Tuấn không cần phải nhọc lòng vì việc ấy. Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu nghĩ ra một kế, anh ta ra lệnh cho Ngân khế trang phát tiền lương của bộ Binh vào cùng một ngày.
Bất kể nhà nào có người đi lính đều có thể đến Ngân khế trang Đại Tống nhận lương của người nhà. Chẳng sợ anh không lấy, chỉ sợ anh không dám vào thôi.
Chả mấy chốc, dân chúng cũng đón nhận nha môn kì lạ này; họ hiểu rằng đây thực sự là chốn "cửa quan" mà mọi người dân thường đều có thể đặt chân.
Thế là người dân bắt đầu gửi tiền vào Ngân khế trang Đại Tống, việc mà nhất định sẽ làm thế gia chao đảo.
Mặc dù vậy, tiền của dân chúng có nhiều đến mấy đi chăng nữa cũng không thể nhiều bằng các thế gia đại tộc được. Trên đời này, vào bất cứ lúc nào, chín mươi phần trăm của cải luôn tụ vào túi của nhóm nhỏ mười phần trăm. Những dòng tộc quyền thế không muốn thấy Ngân khế trang Đại Tống thành công, nhưng án mạng ty Độ Chi năm xưa không thể tái diễn được. Vì thế vào một ngày nọ, Tần Châu bỗng dưng có mấy nghìn người dân đến rút tiền ở Ngân khế trang cùng một lúc.
Ngân khế trang Đại Tống không phải là nhà kho đơn thuần để người dân bỏ tiền vào rồi giữ nguyên ở đó. Hiển nhiên tiền phải được vận hành luân chuyển, chỉ chừa một lượng đủ cho nhu cầu hàng ngày thôi.
Chuyện này vừa phát sinh, phủ doãn Tần Châu Phùng Nghiễm rầu bạc tóc, bởi về cơ bản, Ngân khế trang Đại Tống không bói đâu ra số tiền ấy ngay tức thì!
Thế là Tần Châu bỗng loạn to. Chuyện này ầm ĩ đến tận Thịnh Kinh, Triệu Phụ tức tối ném quyển tấu đó vào người Cung Tuấn.
"Đây cũng là việc hay mà ngươi làm vì trẫm đấy hả?"
Do vậy, tháng trước, Cung Tuấn phải đến Tần Châu chỉ để giải quyết sự việc này. Sau đó, chàng lại xuôi nam xuống phủ Kim Lăng, trở về Lang Gia Cungthị.
Đến lúc Cung Tuấn rời nhà đã là chuyện của ba ngày sau.
Tứ lão gia nhà họ CungCungTuệ tiễn chàng ra cổng. Nhìn dáng dấp như ngọn gió lành của cậu cháu trai, CungTuệ gượng cười, chắp tay nói: "Người ta làm quan toàn gom góp tiền cho gia đình, làm lợi cho gia đình, để người nhà cậy oai ngang ngược, còn con với nhị ca thì trái ngược hoàn toàn. Như thế này khác nào khoét rỗng gốc rễ thế gia!
Cung Tuấn vái ông, giọng chàng dõng dạc như thấu suốt nghìn đời xưa nay: "Thuở còn tấm bé, tứ thúc thúc từng hỏi Phong rằng, vì sao Lang Gia Cungthị chúng ta có thể kéo dài suốt ba trăm năm, trường tồn cùng miền đất Thần Lục này, không ngày một suy tàn như họ Tạ."
CungTuệ cười lớn: "Trên cõi đời này không có người khổng lồ nào đứng sừng sững mãi! Trông gió bỏ buồm, trụ cửa không mọt, đó chính là lời răn dạy của tổ tiên họ Cungchúng ta."
Cung Tuấn vái dài: "Đa tạ tứ thúc thúc."
"Con nhé, và cả nhị ca nữa, đích thực là hai tên phá của ghê gớm nhất nhà họ Cungnày suốt ba trăm năm qua!"
Ngoài miện thì trách vậy, nhưng gương mặt CungTuệ rạng rỡ nụ cười.
Cung Tuấn làm gì đương nhiên Chu Tử Thư không biết, nhưng cậu biết khát khao thực sự của chàng không phải tạo dựng một nơi "giúp người dân rút tiền, đổi tiền thuận lợi", mà là "dùng giấy làm tiền"!
Nguyên nhân của nạn khan hiếm tiền của Đại Tống không nằm ngoài hai điều sau.
Thứ nhất, kim loại quý hiếm rất thưa thớt. Khi tài nguyên đã thiếu thốn thì không thể đúc nhiều tiền được.
Thứ hai, chính là sự lũng đoạn của thế gia đại tộc. Những dòng tộc quyền thế tàng trữ vàng bạc hàng loạt, về lâu về dài dẫn đến cảnh người giàu càng thêm giàu, kẻ nghèo càng thêm nghèo, tạo thành một vòng tuần hoàn ác tính.
Điều Cung Tuấn muốn làm là thu hồi tiền tài từ tay thế gia đại tộc, tích lũy dần qua từng năm, mượn căn cơ sung túc ấy để làm dồi dào quốc khố. Chỉ khi đó, việc dùng giấy thay tiền mới tiến hành được. Người dân sẽ không chỉ biết đến tiền đồng mà sẽ còn quen thuộc hơn với tiền giấy của Ngân khế trang Đại Tống nữa.
Nhưng tất cả những điều ấy vẫn là con đường dài đằng đẵng.
Hôm nay Chu Tử Thư thấy Ngân khế trang Đại tống ở Tấn Châu thì vừa mừng rỡ, vừa an tâm, nhưng cũng thấy Cung Tuấn cực nhọc quá đỗi.
"Sư huynh vất vả thật!"
Thầm cảm khái một hồi, Chu Tử Thư lại nghĩ: Mình cũng có nhàn hạ đâu?
Cậu cười một tiếng, không nói thêm nữa, đi đến bộ Công.
Tháng Chạp, Chu Tử Thư về kinh. Thịnh Kinh khác với miền nam, nơi đây tuyết lớn đã bao trùm từ lâu. Mấy hôm nay chúng quan không vào triều vì bệnh đau đầu của Triệu Phụ tái phát. Vài năm trở lại đây, cứ đến mùa đông giá lạnh là chứng đau đầu của Triệu Phụ thường xuyên phát tác. Những lúc nghiêm trọng, ông còn hôn mê bất tỉnh.
Chỉ có điều, không ai ngờ lần này bệnh tình lại dữ dội như thế.
Giám chính Khâm Thiên Giám Lý Tiêu Nhân dẫn theo chín người đệ tử lên đài Đăng Tiên cầu phúc cho hoàng đế.
Mùng chín tháng chạp, từ Thịnh Kinh, ba con ngựa khỏe hướng về Cô Tô, Ký Châu và Lương Châu. Ba hoàng tử tiếp chỉ tại nhà, nghe xong đều choáng váng.
Điều đầu tiên ba hoàng tử nghĩ tới không phải là lo lắng cho an nguy long thể của Triệu Phụ, mà họ chợt ý thức rằng: chẳng lẽ, bọn họ sắp phải làm hoàng đế rồi ư?
Ba người về đến Thịnh Kinh, nhanh chóng hay tin hai người anh em khác của mình cũng đã trở lại.
Nếu là trước đây, tất nhiên bọn họ sẽ tự lo thân mình, toan tính sao cho mình thắng thế trong việc trở thành người nối ngôi. Thế nhưng, vụ đảo chính trong cung hai năm về trước đã khiến tất cả bọn họ sợ hãi. Họ vô cùng sợ rằng Triệu Phụ nổi hứng thêm lần nữa, sợ rằng đây lại là một âm mưu khác của vua cha mình.
Đến nay, bọn họ vẫn không biết toàn bộ chân tướng vụ cung biến tháng giêng hai năm trước, nhưng từ vụ việc đó, họ đã thấu hiểu một đạo lí... Vị vua cha ấy của họ, đích thực là người cực kì máu lạnh vô tình!
Ba người vừa lo âu vừa khấp khởi mừng thầm. Lo lần này liệu có phải một âm mưu khác, lo hai người anh em của mình liệu có thành Thái tử, thậm chí là thành hoàng đế không? Còn khấp khởi mừng thầm vì... sao người lên ngôi hoàng đế lại không thể là mình chứ?
Thấm thoắt đã hai mươi ba ngày trôi qua. Ngày hai ba tháng chạp, tầm này năm ngoái trăm quan đã chuẩn bị nghỉ lễ. Tuy nhiên, vì năm nay hoàng đế bệnh nặng mê man, tất cả quần thần đều lên Đàn Trời cầu phúc cho nhà vua. Tuyết rơi ngày một lớn, thời tiết ngày một lạnh, vậy mà hoàng đế vẫn không có dấu hiệu tỉnh lại. Rất nhiều viên quan lặng lẽ nhận ra, có lẽ hoàng đế không thể vượt qua mùa đông này.
Ngày hai bốn tháng chạp, đến phiên Chu Tử Thư vào cung trực. Ngay cả khi Triệu Phụ bất tỉnh thì mỗi ngày điện Cần Chính vẫn cử một vị đại thần tam phẩm đến túc trực ngoài cung Phúc Ninh.
Chu Tử Thư mặc áo bông dày dặn, đứng ngoài cung Phúc Ninh suốt cả một ngày.
Đại thái giám Quý Phúc tự tay bưng một bát canh nóng ra ngoài cửa cho Chu Tử Thư: "Đường đại nhân vất vả quá, nhấp miếng canh nóng đi."
Chu Tử Thư nhanh nhẹn giơ hai tay nhận lấy: "Cảm ơn công công nhiều lắm."
Quý Phúc nói: "Từ sáng sớm hôm nay tuyết đã bắt đầu rơi, tuyết rơi liên tục cả ngày, trời còn lạnh hơn hôm qua."
Chu Tử Thư: "Tình hình bệ hạ có khá hơn chút nào không?"
Mặt Quý Phúc đanh lại, lão khẽ lắc đầu với Chu Tử Thư, ra hiệu bằng ánh mắt: Chớ có hỏi nữa.
Thế nghĩa là tình hình nguy ngập lắm rồi.
Chu Tử Thư lặng người đi. Ban đầu cậu còn phỏng đoán xem lần này Triệu Phụ ốm thật hay ốm giả, nhưng rồi từng ngày cứ thế trôi qua, hiển nhiên Triệu Phụ đã lâm trọng bệnh.
Thời gian của Triệu Phụ không còn nhiều...
Chu Tử Thư chỉ thấy lòng buồn rười rượi, không thể cắt nghĩa được nỗi niềm này.
Bỗng nhiên, giữa làn tuyết mịt mờ, một bóng đen sải bước tiến lại gần trên con đường cung cấm dẫn vào điện Thùy Củng. Tấm áo choàng màu đen lạnh lẽo bay lật phật trong gió rét ù ù, người đàn ông ấy mặc giáp trụ, đeo trường kiếm đúc từ sắt đen, đặt một tay trên chuôi kiếm, bước những bước dài hiên ngang, thoăn thoắt đi tới. Người này tuy lớn tuổi những bước đi vô cùng vững chãi, chỉ thoáng chốc đã đến trước cung Phúc Ninh.
Người ấy dừng chân, ánh mắt như loài ưng cắt liếc Chu Tử Thư một cái rồi nhanh chóng lia đi. Ở ông có thứ khí thế ngút trời, chỉ một đường nhìn bao quát chung quanh thôi mà tưởng như ập vào mắt là địa ngục bể máu ngồn ngộn xương trắng, khiến cho tất cả mọi người ở đây nghẹt thở.
Chu Tử Thư mấp máy môi, nhìn vị tướng quân già tóc bạc phơ mà bén như lưỡi kiếm trước mặt, bỗng nhận ra ông là ai.
Trong hoàng cung, trừ quân Ngự Lâm thì không một ai có thể cầm kiếm vào cung.
Tuy nhiên, có một người được phép làm thế.
Quý Phúc cười nhũn nhặn bằng cái giọng the thé: "Nô tỳ bái kiến Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái, Thái sư về kinh lúc nào thế ạ?"
Chu Thái sư cất lời, giọng ông lạnh buốt như hàn thiết, hệt như chính con người ông: "Ngựa khỏe dồn roi, ta vừa mới đến kinh thành. Thánh thượng sao rồi?"
Quý Phúc thì thào đáp lại.
Chu Thái sư lặng thinh trong thoáng chốc, thân hình cao ngất của ông cứ như một quả núi khổng lồ. "Dẫn lão phu vào đi."
"Vâng."
Chu Thái sư sải bước vào trong cung Phúc Ninh. Khi ông đi qua Chu Tử Thư, cậu lập tức khom người chắp tay hành lễ. Chu Thái sư nhìn cậu một lần, không nói tiếng nào, cứ thế đi vào.
Cổng điện kin kít khép lại. Hai tay Chu Tử Thư bưng bát canh nóng đã nguội.
Cậu ngẩng đầu nhìn tuyết trắng ngút ngàn tuôn rơi giữa bầu trời, lòng nghĩ:
Sau hai mươi lăm ngày, đây là vị quan đầu tiên vào cung Phúc Ninh nhỉ. Chu Thái sư có phải là quan không?
Phải chứ.
||
Tôi: Phải cố gắng edit sao cho chính xác, không nên chém gió quá đà. Tác giả: Chị viết thơ nè, bịa đi em
Kể cũng may vì đã chọn dùng X châu chứ không phải châu X (dù rất muốn he he), vì nếu thế thì chúng ta sẽ có Châu Tấn là vùng nhiều núi non chứ không phải diễn viên điện ảnh =))
Chú thích
[ Gốc: 长雾送归客, 晓岚断烟涛. Phiên âm: Trường vụ tống quy khách, hiểu lam đón yên đào.
Đã từng giải thích. Câu này nghĩa là đã nhanh còn cố cho nhanh hơn.
------oOo------
Chương 152
Nguồn: EbookTruyen.Net
Về kinh
Chu Thái sư đã vào cung Phúc Ninh thì những người khác không được vào nữa. Ngay cả Quý Phúc cũng đứng cạnh Chu Tử Thư chờ ở ngoài cả khắc đồng hồ, cửa cung Phúc Ninh mới được đẩy ra.
Quý Phúc vội vàng bước tới, cười khúm núm: "Thái sư, quan gia đã tỉnh chưa ạ?"
"Chưa hề."
Chuyện ấy rõ như ban ngày. Chu Thái sư là người chứ đâu phải thần, Triệu Phụ hôn mê bao nhiêu ngày nay, làm sao tỉnh lại ngay khi ông vừa về được? Cũng không biết tại sao Quý Phúc lại hỏi thế, chỉ thấy lão tỏ vẻ lo âu sầu khổ: "Quan gia đã mê man liên tục hơn hai mươi ngày. Thái sư, cứ thế này thì không hay chút nào. Nô tỳ chỉ là thái giám, chẳng có diệu kế gì, song nô tỳ luôn tâm niệm rằng quan gia là con của rồng, được ông trời phù hộ, thể nào cũng bình an."
Chu Thái sư nhìn Quý Phúc, giọng ông vang rền: "Tất nhiên là thế."
Quý Phúc cứ phải giữ nụ cười đến mỗi mặt mũi sắp sửa cứng đờ cả ra. Mãi sau Chu Thái sư mới thôi nhìn lão, lia mắt về phía Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư đã chuẩn bị sẵn sàng từ lâu, cậu chắp tay hành lễ, cung kính thưa: "Hạ quan là Hữu thị lang bộ Công Chu Tử Thư, xin bái kiến Thái sư đại nhân." Không cần Chu Thái sư chủ động hỏi, Chu Tử Thư thẳng thắn trình bày rõ nguyên nhân mình có mặt ở đây: "Lâu nay bệ hạ hôn mê nên mỗi ngày điện Cần Chính lại cử một viên quan trực ngoài cung Phúc Ninh. Hôm nay đến lượt hạ quan."
Chu Thái sư vịn trường kiếm bên hông, dáng vóc uy vũ hiên ngang, ông nói: "Lão phu từng nghe Cảnh Đức nhắc đến ngươi."
Chu Tử Thư: "Hạ quan và Lý tướng quân đã có duyên gặp mặt mấy lần."
Chu Thái sư dặn dò thêm Chu Tử Thư đôi câu, hệt như cách người già hỏi han người trẻ, tuyệt nhiên không tỏ ra thiên vị. Và rồi đột ngột như khi nãy ông đến, vị Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái cất bước đi vào tuyết, ủng in lên nền tuyết những vết chân thật sâu.
Tuyết trắng phủ kín áo choàng của ông, gió lớn lùa vào phần phật.
Quý Phúc vỗ vỗ ngực, hẵng còn hãi sợ lắm. Lão bông đùa dăm câu với Chu Tử Thư rồi lại vào cung Phúc Ninh ngay.
Một bông tuyết nhẹ nhàng rơi xuống từ ngoài mái hiên, Chu Tử Thư đưa tay hứng lấy. Vì lòng bàn tay ấm nóng nên chỉ chớp mắt tuyết đã tan. Khi Chu Tử Thư ngẩng lên, bóng Chu Thái sư đã biến mất sau màn tuyết mịt mùng, không còn trông thấy nữa.
Chu Thái sư đột ngột về kinh không phải chuyện nhỏ, nhất thời kéo theo nhiều sự chú ý.
Chu Tử Thư cũng rất tò mò, nhưng giờ Cung Tuấn ở tít dưới Kim Lăng chưa về nên cậu chẳng có chỗ nào mà hỏi. Đến ngày hai mươi bảy tháng chạp, ngày mừng thọ của phu nhân CungThuyên, CungThuyên sai người mời Chu Tử Thư qua phủ ăn cơm. Ăn cơm xong, ông gọi cả mấy người tâm phúc vào thư phòng.
Hầu hết những người trung kiên với Cungđảng đều có mặt trong thư phòng nho nhỏ này.
Riêng Chu Tử Thư thì không được tính vào bởi cậu không thuộc Cungđảng. CungThuyên gọi cậu đến chẳng qua vì vị thế đặc biệt của cậu thôi.
Sau khi mọi người đã tề tựu đông đủ, CungThuyên nhấp ngụm trà nóng, mở lời: "Chu Thái sư về kinh, chư vị thấy thế nào?" Mọi người ào ào nêu ý kiến.
"Thái sư đã đồng hành với bệ hạ nhiều năm nay. Trước kia khi còn là hoàng tử, bệ hạ vốn là học trò của Văn uyên các Đại học sĩ Lý Mạc Hợp. Song vì Lý đại học sĩ bị ốm rồi mất từ ba mươi năm trước, cho nên đối với bệ hạ, chính Thái sư mới là thầy giỏi bạn hiền. Lần này bệnh đau đầu của bệ hạ rất nguy kịch, e đã tới lúc ngàn cân treo sợi tóc, nên Thái sư mới tức tốc về kinh."
"Hạ quan cũng thấy thế, lần này e là Thánh thượng..."
Chỉ nói lấp lửng thôi nhưng ai cũng rõ mười mươi trong dạ.
CungThuyên nhìn Chu Tử Thư: "Nghe nói hôm Chu Thái sư về kinh thì ngươi đang trực trong cung phải không Cảnh Tắc?" Mọi người đồng loạt quay ra nhìn Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư đứng lên, chắp tay khẽ nghiêng mình: "Vâng. Hôm đó đến phiên hạ quan trực ngoài cung Phúc Ninh nên đã tình cờ gặp Thái sư."
"Đường đại nhân có để ý thấy điều gì khác thường không?"
Chu Tử Thư: "Cũng không có gì lạ thường. Thái sư vào cung Phúc Ninh chỉ một khắc là ra ngoài."
Có viên quan thở dài: "Ấy là lẽ dĩ nhiên. Bệ hạ hôn mê bất tỉnh, Thái sư vào nhìn xong cũng làm được gì đâu? Chẳng nhẽ ngồi cạnh giường chầu đến héo khô à?"
Chu Tử Thư: "Nhưng Thái sư cũng không tỏ vẻ đau buồn quá mức."
Mắt CungThuyên bừng sáng: "Vì sao lại nói thế?"
Chu Tử Thư suy ngẫm cẩn thận sự tình hôm đó, rồi cậu đưa ra phỏng đoán: "Thái sư về kinh rõ ràng không chỉ để gặp bệ hạ. Hằng năm Thái sư chinh chiến ở ngoài xa, ngài và bệ hạ luôn có sự thấu hiểu lẫn nhau giữa vua tôi, chưa từng xảy ra hiềm khích. Nếu sức khỏe bệ hạ y như lời các vị đại nhân nói, thuốc thang châm cứu vô dụng, cùng đường hết cách, vậy chắc hẳn Thái sư sẽ phiền muộn lắm. Thế nhưng xét cử chỉ và lời nói của Thái sư... có vẻ như vẫn có cơ hội xoay chuyển."
CungThuyên: "Cơ hội thế nào?"
Chu Tử Thư tịt mít, điều này quả thật cậu không đoán được!
May mắn thay, Chu Thái sư không để họ phải chờ lâu. Ngay hôm sau, một vị thần y nổi tiếng lẫy lừng trong dân gian được triệu vào cung để bắt mạch chạy chữa cho Triệu Phụ.
Trước kia Chu Tử Thư cũng cho rằng bậc ẩn sĩ lớn ở ẩn nơi thị thành. Tiểu thuyết, tivi toàn nói các thần y thánh thủ đều quy ẩn núi rừng, đến khi hoàng đế ốm nặng, bọn họ mới thình lình giáng xuống, giải quyết ngon ơ một vấn đề nan giải mà các thái y phải bó tay đầu hàng. Giờ đây tầm mắt cậu đã mở mang, sau khi được sống trong chính hoàn cảnh ấy, cậu mới phát hiện ra rằng ở thời đại này, quyền lực của nhà vua bao trùm lên hết thảy!
Hoàng đế đã muốn thì kiểu gì cũng đạt được.
Một "thần y" ở đẩu ở đâu mà đòi vượt mặt thái y ư? Đó chỉ là chuyện ngàn lẻ một đêm mà thôi. Ra ngoài đời, bất cứ thái y nào trong viện Thái y cũng đáng tôn làm thần y.
Nhưng vị thần y lần này lại được Chu Thái sư gọi tới.
Bá quan đâm ngờ vực: Chẳng nhẽ vị thần y này thật sự là ngọc sót ngoài khơi1, có thể chữa nổi bệnh của hoàng đế?
[1] Ý chỉ tài năng không được phát hiện, bị mai một
Tất cả cùng đợi chờ trong thầm lặng. Chẳng mấy chốc, một mùa Tết lại trôi qua, Triệu Phụ vẫn không tỉnh. Ba vị hoàng tử ở lại kinh thành như ngồi trên đống lửa, tim họ cháy đùng lên. Có biết bao nhiêu điều họ đã tơ tưởng đến, nhưng rồi chính những điều họ không dám nghĩ tới lại lúc nhúc bò vào tâm trí họ như lũ giòi trong xương. Họ gắng hết sức để tránh nghĩ tới mà không tài nào quên nổi.
Sang năm mới, ba vị hoàng tử thay phiên nhau vào cung hầu bệnh.
Thấy hoàng đế không còn cơ may tỉnh lại nữa, trong khi đất nước không thể vắng vua một ngày, dần dà trăm quan trên triều đều có tính toán riêng. Năm Khai Bình thứ ba mươi lăm, mùng hai tháng hai, tiết Xuân Long.
Chu Tử Thư mặc bộ quan bào mới tinh, đón trận mưa xuân lạnh như băng, đi tới điện Cần Chính. Bao giờ mưa xuân cũng nhẹ hạt và êm ru, Chu Tử Thư che ô không ăn thua gì, cơn mưa li ti vẫn làm ướt vạt áo cậu. Cậu phủi áo qua loa một hồi, thì người cùng phòng là Tả thị lang bộ Hộ Từ Lệnh Hậu đi vào ngay sau đó.
Từ Lệnh Hậu thấy vạt áo Chu Tử Thư bị ẩm bèn cười bảo: "Dù sao hôm nay cũng chả bận gì, hay là Đường đại nhân về bộ Công một chuyến đi đã." Nói "về bộ Công" thực chất là bảo Chu Tử Thư về thẳng nhà luôn.
Hồi xưa, Cung Tuấn rất hay lấy cớ "về bộ Hộ" để lặn mất tăm giữa giờ làm. Tỷ như hồi chàng và Chu Tử Thư mới gặp nhau, đúng ra Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn đang phải làm việc ở bộ Hộ, nhưng chàng lại xuất hiện ở phủ Phó Vị.
Từ Lệnh Hậu là tâm phúc của Cung Tuấn, anh ta hiểu Cung Tuấn còn hơn Tần Tự. Chu Tử Thư trêu: "Quan bộ Hộ thạo cái trò này ghê nhỉ!"
Ai ngờ, Từ Lệnh Hậu trố mắt ngạc nhiên: "Chẳng nhẽ còn ai cũng hay đến bộ Công nữa?"
Chu Tử Thư: "Thượng thư đại nhân nhà anh chứ ai."
Từ Lệnh Hậu cười nói: "Lẽ nào không phải người bên gối của Đường đại nhân đấy à?"
Chu Tử Thư: "..."
Quả nhiên mặt cậu không thể dày bằng cái đám bộ Hộ này!
Nhưng mà có một câu Từ Lệnh Hậu nói nhầm rồi. Cung Tuấn nào phải người bên gối Chu Tử Thư cơ chứ? Chớ kể chuyện chung chăn sẻ gối, gần nửa năm nay họ đã thấy mặt nhau đâu! Cung Tuấn xuống Kim Lăng một chuyến là không dứt ra được, chàng đã ở dưới đó ngót nghét ba tháng rồi.
Hai người nói thêm dăm câu ba điều, chợt có người nha dịch hớt hải chạy vào phòng.
Từ Lệnh Hậu: "Có việc gì mà hốt hoảng thế?"
Người nha dịch thưa: "Bẩm đại nhân, bệ hạ đã tỉnh! Từ tướng công ra lệnh cho chúng tiểu nhân đến phòng từng đại nhân báo tin, mời các ngài khẩn trương đến cung Phúc Ninh."
Chu Tử Thư và Từ Lệnh Hậu hé môi, cả hai đều vô cùng ngỡ ngàng.
Chẳng ai ngờ Triệu Phụ vẫn dậy được sau hai tháng ròng rã hôn mê!
Điện Cần Chính vốn được xây trong cung, bây giờ khi hoàng đế vừa tỉnh lại, các quan trong điện không tốn nhiều thì giờ để có mặt ngoài cung Phúc Ninh. Tuy thế, không ai được phép bước vào vì Chu Thái sư còn đang nói chuyện với hoàng đế trong điện. Chờ mấy khắc, đại thái giám Quý Phúc ra ngoài thông báo: "Bệ hạ triệu bốn ngài Từ tướng công, Cungtướng công, Trần tướng công và Cảnh tướng công vào điện."
Bốn người Từ Bí lập tức vào điện, lần này thì phải non nửa canh giờ bọn họ mới ra ngoài.
Trông nét mặt cả bốn rất bí ẩn. Từ Bí ngẩng đầu phóng tầm mắt nhìn hai mươi viên đại thần chầu ngoài cung Phúc Ninh, trong đó có cả học trò tâm đắc của ông là Dư Triều Sinh, phất tay nói: "Hôm nay mọi người cứ về đi.
Bệ hạ vừa mới tỉnh lại, long thể không thoải mái. Từ mai, mỗi ngày điện
Cần Chính cử hai quan sang hầu ở cung Phúc Ninh."
Tất cả đồng thanh hô: "Vâng."
Trăm quan về hết, còn Chu Thái sư vẫn ở trong cung Phúc Ninh.
Tuy đã tỉnh nhưng Triệu Phụ vẫn phải nằm một chỗ chứ chưa đi lại được, cần điều dưỡng thêm một thời gian. Ấy thế mà ngay ngày kế thánh chỉ đã gửi xuống Giang Nam: Triệu Phụ cho đòi Cung Tuấn về kinh.
Bốn ngày sau, Thượng thư Tả bộc xạ CungTử Phong – Cungđại nhân lặn lội về đến Thịnh Kinh.
Cung Tuấn vừa về Thịnh Kinh buổi sáng thì chiều hôm đó Chu Tử Thư nhận thánh chỉ vào cung gặp đức vua.
Có ngờ đâu thềm cung Phúc Ninh lại là nơi họ tái ngộ. Chu Tử Thư ngắm nhìn người sư huynh đã nửa năm không gặp, lòng mừng mừng tủi tủi. Ý tình tương tư nào phải cứ viết thư là gửi gắm được? Hai người nhìn nhau đắm đuối. Cung Tuấn đưa tay đặt ngón trỏ lên môi, khẽ giọng bảo: "Suỵt."
Chu Tử Thư nhoẻn cười: "Đi nào, Cungđại nhân."
Họ nhìn nhau cười, rồi cùng sánh bước vào cung Phúc Ninh.
Vừa vào điện, Chu Tử Thư đã ngửi thấy mùi thuốc nồng nặc phả ra. Chu Thái sư không có trong điện, Quý Phúc dẫn Cung Tuấn và Chu Tử Thư vào tẩm điện, có một cụ già tóc muối tiêu đang trông cạnh giường rồng.
"Thần Cung Tuấn/ Chu Tử Thư, bái kiến bệ hạ."
Triệu Phụ cũng không suy nhược như người ta tưởng. Lúc này ông đang nằm trên giường, lưng kê gối dựa, cúi đầu đọc tấu chương, nghe tiếng nói mới ngẩng đầu lên. Thấy gương mặt ông, lòng Chu Tử Thư sững sờ: Hoàng đế đã gầy thế này ư!
Triệu Phụ chưa bao giờ hốc hác đến thế. Đôi má ông hõm vào, nếp nhăn trên mặt càng nhiều hơn, song ánh nhìn của ông vẫn sáng trong, đôi mắt lấp lánh có thần. Thấy Chu Tử Thư và Cung Tuấn, ông để tấu chương xuống, vẫy tay gọi họ: "Lại gần đây một tí, hôm nay trẫm không có sức nói to với các ngươi đâu."
||
Chú thích
------oOo------
Chương 153
Nguồn: EbookTruyen.Net
Vu oan giá họa
Cung Tuấn và Chu Tử Thư đến gần ngay.
Triệu Phụ chầm chậm nói: "Các người lui hết đi.".
Quý Phúc và thần y hầu cạnh bên đáp "vâng", cùng hành lễ rồi ra ngoài ngay.
Triệu Phụ ngẩng lên nhìn Chu Tử Thư và Cung Tuấn, cuối cùng dừng mắt ở Cung Tuấn, mỉm cười. Giọng ông khào khào vì đang yếu: "Tử Phong xuống Giang Nam chuyến này cũng mất nửa năm nhỉ.".
"Tâu bệ hạ, thần xuống Giang Nam từ tháng mười năm ngoái, đến nay đã hơn năm tháng rồi."
"Tình hình sao?"
Cung Tuấn báo cáo lại đầy đủ việc ở ty Ngân Dẫn Giang Nam.
Triệu Phụ vừa nghe chàng bẩm báo vừa gật gù. Đoạn ông nói: "Ngươi có thể trách trẫm vì đã giao ty Ngân Dẫn Giang Nam cho Dư Triều Sinh. Nếu không phải vì thế, người xử lí việc Giang Nam sẽ thuận lợi hơn nhiều."
Ánh mắt Cung Tuấn khẽ lay động. Trước đây Triệu Phụ không đời nào nói với chàng về việc cân đối triều chính, vậy mà bây giờ ông lại nhắc đến. Cung Tuấn kính cẩn chắp tay, giọng chàng ấm nhuận rành rọt: "Bệ hạ ắt có dụng ý riêng. Trong ba mươi sáu châu Đại Tống thì ba châu Nam, Bắc Trực Lệ và Giang Nam là những vùng sung túc nhất, khó lập Ngân khế trang Đại Tống nhất. Hai vùng Trực Lệ đã có bệ hạ trấn giữ, thần không mảy may phải lo lắng. Nếu ngay cả Giang Nam bệ hạ cũng lót đường sẵn thì chẳng hóa thần là hạng cắn cơm không vỡ sao?".
"Ngươi đúng là..." Triệu Phụ cười khơ khớ, nhưng chỉ được một lúc ông đã có vẻ khó thở, bèn dừng lại.
Sau đó, Triệu Phụ không nhắc lại chuyện triều đình nữa. Trái lại, ông nói về sức khỏe mình: "Lần này lâm trọng bệnh, trẫm thấy mình mơ màng đi giữa mịt mùng sương đặc đến một tòa điện nguy nga hùng vĩ. Trên điện có vị quan lớn mặt mày hùng tợn, nện kinh đường mộc hỏi trẫm tên họ là gì, vì sao tới đây.".
Chu Tử Thư nghĩ thầm: Gặp Diêm La Cungrồi đó ư?
Nhưng thường thì lời nói của Triệu Phụ luôn có ẩn ý khác.
Hai người tiếp tục lắng nghe.
Triệu Phụ rằng: "Trẫm tuần tự trả lời từng điều. Nhà quan lại chất vấn trẫm, thế có công đức gì không. Câu hỏi ấy làm trẫm cứng họng, vắt óc suy nghĩ mà không ra. Trẫm mới hỏi ông ấy rằng thế nào là công đức, đại nhân mách giúp đôi điều được không? Ông quan hung dữ bèn bảo trẫm, cứu vớt lê dân trong thiên hạ, làm việc có ích cho muôn đời, đều là công đức lớn lao không gì sánh nổi."
Triệu Phụ thở dài thườn thượt: "Ngặt nỗi trẫm sống hơn sáu chục năm trời mà chẳng thực hiện nổi bất cứ điều nào!"
Cung Tuấn và Chu Tử Thư gần như hành lễ cùng lúc, hai miệng đồng thanh.
"Xin bệ hạ thứ tội."
"Xin bệ hạ thứ tội."
Triệu Phụ hơi ngỡ ngàng. Ông nhìn họ một thoáng rồi cười: "Quả là tâm linh tương thông."
Chu Tử Thư: "Thần có tội, xin bệ hạ xá cho, nhưng có lời này, mong bệ hạ cho phép thần được nói."
"Nói đi."
"Năm ngoái, thần đến Tấn châu công tác do bộ Công có kế hoạch mở đường quan. Thần từng nghe người ta kể về Tấn Châu qua thơ rằng:
'Ở Tấn châu có một con hùm ác
Chén thịt người đẫy dạ, đã quen mồm
Nơi nó qua, làng tiêu điều xơ xác
Nàng dâu trẻ khóc tang cả nhà chồng.'
Tấn châu nằm ở vùng tây nam nơi đường núi gập ghềnh, khó liên thông với vùng ngoài. Thơ này kể rằng ở Tấn châu có con hổ dữ ăn thịt người, dân chúng lầm than khổ sở, cứ mười hộ thì chín hộ bị nó ăn thịt mất, thế mà người ngoài tuyệt nhiên không biết." Chu Tử Thư chắp tay nói tiếp, "Song lần này thần đến Tấn châu thì không hề thấy một vùng đất xác xơ nghèo khổ, sói hổ hoành hoành, chỉ thấy dân chúng sung túc yên vui. Âu cũng là nhờ nước yên nên dân mới ổn."
"Chẳng phải đó là công đức vĩ đại cho thiên hạ sao?"
Nét cười trên gương mặt Triệu Phụ rỡ ràng hơn, ông huơ tay chỉ về phía Chu Tử Thư mãi, cuối cùng mới cười nói: "Ngươi nhé, giỏi phỉnh phờ trẫm nhất đấy. Giấc ngủ này của trẫm kéo dài qua cả năm mới, bây giờ Cảnh Tắc hai mươi ba tuổi rồi nhỉ?"
"Đúng thế ạ, năm nay thần đã hai mươi ba."
"Ngày xưa thì còn bảo là trẻ con miệng ngọt mía lùi, sau này còn phỉnh phờ trẫm thế nữa, trẫm chỉ có thể coi ngươi là sủng thần gian nịnh thôi."
Triệu Phụ nhắc đến cái tội tày đình đáng chém chín họ mà chẳng hề có thái độ trách cứ.
Chu Tử Thư chầm chậm ngước nhìn nhà vua trên trường kỉ. Ông ốm đến nỗi kiệt quệ cả người, song diện mạo không vì thế mà bớt uy nghi phần nào. Mặc dù vậy, dường như lúc này ông giống với bậc trưởng bối trong gia đình hơn là đấng quân vương. Chu Tử Thư bỗng cảm thấy xót xa, lặng thinh cúi đầu.
Triệu Phụ nói chuyện với hai người CungĐường thêm một chốc. Vì chưa hồi lại sức sau cơn bạo bệnh nên chẳng mấy ông đã buồn ngủ, bèn gọi Quý
Phúc vào. Trước khi hai người ra về, ông xúc động nói với Cung Tuấn và Chu Tử Thư: "Trẫm muốn lập nên công đức lớn lao!"
Hỏi rằng trên cõi đời này, có ai không muốn được ca tụng muôn đời, lưu danh thiên cổ?
Chu Tử Thư trịnh trọng đáp lời vua: "Thần quyết không nhục mệnh."
Cung Tuấn và Chu Tử Thư cùng ra khỏi cung. Dọc đường cả hai không nói nhiều, nhưng ra đến cửa cung thì bất ngờ gặp xe ngựa của Chu Thái sư. Xe ngựa dừng lại cạnh họ, Chu Thái sư vén màn lên. Vị nguyên soái già đang ngồi ngay ngắn trong xe, thấy Cung Tuấn và Chu Tử Thư thì khẽ gật đầu.
"Hạ quan Cung Tuấn/ Chu Tử Thư bái kiến Thái sư."
"Không cần đa lễ. Giờ Cungtướng là Thượng thư Tả bộc xạ hàm nhất phẩm đồng cấp với lão phu, hành lễ làm gì."
Cung Tuấn khẽ mỉm cười: "Hạ quan đâu có vái chào Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái, người hạ quan muốn tỏ lòng tôn kính là Thái sư kia."
Chu Thái sư nở nụ cười hiếm hoi, gật đầu tỏ ý ngợi khen. Thoáng cái, xe ngựa của ông đã tiếp tục lăn bánh vào cung.
Chu Tử Thư thầm nghĩ: Triệu Phụ bảo cậu khéo phỉnh nịnh, giỏi tán tụng, song kì thực nếu so ra, e là cậu chẳng với đến cái ngón chân của CungTử Phong mất! Trông chiêu vuốt mông ngựa kia kìa, thản nhiên như không!
"Úi!" Thình lình bị búng trán, Chu Tử Thư quay đầu sang, "Kìa sư huynh?"
Cung Tuấn nhìn xuống cậu, chau mày: "Ngấm ngầm đặt điều nói xấu ta đấy phỏng?"
Chu Tử Thư ngồi ngay chẳng sợ bóng nghiêng: "Đâu ra, huynh có bằng chứng không?"
Cung Tuấn cũng đến phì cười với cậu: "Cái bản lĩnh hiên ngang như đúng rồi này em học từ chỗ nào vậy hả?"
"Học huynh chứ còn ai."
Cung Tuấn đỡ trán thở than bằng một giọng bi ai hùng hồn: "Chao ôi, bất hạnh thay cho cái nhà này! Lẽ nào danh tiếng trăm năm của Lang Gia Cungthị lại đi đứt trong tay phu nhân thằng đích tôn đời thứ mười một là ta đây... Ấy, đừng quậy, chưa ra khỏi cung đâu đấy."
Chu Tử Thư trố mắt, hóa ra đức ngài còn biết chúng ta vẫn ở trong cung đó hở?!
Hai người sánh vai rời hoàng cung. Cùng lúc đó, Chu Thái sư bước vào cung Phúc Ninh.
Tháng hai năm Khai Bình thứ ba mươi lăm, Triệu Phụ đã tỉnh, nhưng không một ai cảm thấy ông còn sống lâu được nữa. Mọi người đều ngầm hiểu đây chỉ là hồi quang phản chiếu, là phút minh mẫn trước lúc lâm chung. Thuở còn trai tráng, Triệu Phụ từng chinh chiến nên cũng sẵn bệnh trong người. So bề sức khỏe, ngay cả hoàng đế nước Liêu trẻ hơn ông đến mười hai tuổi còn ngày một sa sút, nữa là Triệu Phụ nay đã già. Vì thế, lần này Triệu Phụ tỉnh được đã là ngoài dự đoán của mọi người.
Đáng ngạc nhiên hơn, Triệu Phụ chẳng những hết mê man mà còn hồi phục từ từ dưới sự điều dưỡng của thần y và các Thái y.
Chu Tử Thư cũng cảm thấy diệu kì quá đỗi. Hằng năm, cứ mỗi độ đông về là Triệu Phụ dần dần già đi, tựa hồ bất cứ lúc nào cũng có thể giã từ nhân thế. Tại sao vừa sang xuân thì bỗng dưng ông ta tràn trề sinh lực, cứ như thừa sức sống cả trăm năm nữa?
Thành thử các quan cũng thấy phí hoài tình cảm vì chưa chi đã thương tâm buồn khổ chuyện hoàng đế sắp băng hà.
Ai biết đâu ông vua này tự nhiên lại khỏe như vâm thế!
Mùng sáu tháng Tư năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, buổi chầu được tiến hành lại, bá quan triều kiến hoàng đế.
Đứng đầu hàng quan văn bên trái vẫn là Tả tướng Từ Bí, song người dẫn đầu hàng quan võ bên phải bữa nay lại là Thiên hạ binh mã Đại nguyên soái Chu Thái sư!
Buổi đại triều này đáng lẽ phải được cử hành từ tháng giêng, nhưng vì Triệu Phụ hôn mê bất tỉnh nên đã hoãn tới tận bây giờ. Bá quan vào chầu, báo cáo thành tích một năm qua. Tròn một giờ sau, lễ đại triều mới kết thúc.
Ngay hôm sau, Chu Thái sư đã sửa soạn rời kinh về U châu. Chỉ có điều, không ai ngờ Triệu Phụ lại sai ông dẫn theo Nhị hoàng tử Triệu Thượng!
Khi thánh chỉ ban đến phủ Nhị hoàng tử, chính Triệu Thượng cũng thấy hết sức mơ hồ. Anh ta hoang mang tiếp chỉ, rồi tức tốc triệu các quân sư đến: "Mạnh tiên sinh, thế này là thế nào? Ngay cả doanh trại ta còn chưa đặt chân đến lần nào nữa là đi U châu. Sao bỗng dưng phụ hoàng lại giáng chỉ như thế!"
Vị quân sư được gọi là Mạnh tiên sinh làm sao mà hiểu nổi dụng ý của Triệu Phụ. Ông ta vắt óc suy nghĩ: "Điện hạ đừng cuống, đây chưa hẳn đã là chuyện tồi. Ý chỉ đã ban tất nhiên không thể kháng, kiểu gì chúng ta cũng phải đến U châu. Có điều hiện giờ người duy nhất tiếp chỉ chính là ngài, không có Tứ hoàng tử và Ngũ hoàng tử. Rõ ràng, Thánh thượng có sắp đặt khác cho ngài. Chu Thái sư là ai? Là người mà Thánh thượng tin cậy nhất. Nếu ngài đi theo Thái sư, có khi sẽ gặp cơ may lớn ở U châu cũng nên!" Triệu Thượng nghe thế, mắt sáng rỡ ràng.
"Tiên sinh nói chí phải. Xin tiên sinh hãy theo ta đến U châu, giúp ta một tay!"
"Kẻ này xin được vào sinh ra tử cùng điện hạ!"
Chỉ mấy hôm sau, Chu Thái sư đã dẫn nhị hoàng tử Triệu Thượng về U châu, nhằm hướng tây mà đi.
Sang tháng năm, bộ Tạo Cải đạt được một số thành công nhất định. Chủ sự bộ Tạo Cải Quý Mạnh Văn viết ba bản tấu để lên bàn Chu Tử Thư. Chu Tử Thư đọc bản tấu xong thì gọi ngay ông ta từ Nam Trực Lệ về.
Ngay đêm đó, trong phủ Hữu tướng.
Gần cuối tháng năm, hoa sen nở rộ khắp mặt ao. Ánh Tuấng như tấm sa buông trên hồ sen thắm, chẳng khác nào làn sương trắng nhẹ tênh bồng bềnh.
Nâng chén cùng Tuấng, Hữu tướng CungThuyên bỗng thấy dạt dào thi hứng. Ông ngâm một bài thơ vịnh Tuấng của người xưa, quay đầu đề xuất: "Tử Phong, sao con không làm bài thơ cho thêm phần hứng khởi nhỉ?"
Cung Tuấn lắc lư cái chén bạch ngọc, ánh mắt trong ngời của chàng đảo quanh: "Cảnh Tắc từng nói một câu thế này."
"Ồ, câu gì? Nói ta nghe xem nào."
Cung Tuấn: "Mấy ông quan to các huynh đang moi tiền thuế của nhân dân để ăn chơi đàng điếm, hưởng thụ sướng sung đấy."
"... Hả?"
Cung Tuấn cười nói: "Em ấy giải thích với con, đại ý câu đấy là quốc thổ bị chiếm còn chưa giành lại, muôn dân trăm họ chưa sung túc ấm no, những người quyền cao chức trọng như chúng ta chớ nên ham hưởng thụ mà nên cần cù tận tụy, đổ mồ hôi sôi nước mắt vì nhân dân đến hơi thở cuối cùng."
"..."
Hữu tướng bỗng thấy nữ chúa sơn lâm nhà mình mới đáng yêu làm sao.
Dĩ nhiên, cái đó người ta gọi là "mắt tình nhìn thấy Tây Thi". CungThuyên biết làm sao được cái thú nơi giường chiếu của người khác, cũng chẳng biết Chu Tử Thư nói câu ấy trong hoàn cảnh nào.
CungThuyên uống cạn bầu rượu, bàn việc chính: "Sao hôm nay không dẫn Đường Cảnh Tắc theo cùng?"
Cung Tuấn trầm ngâm, làn mi hững hờ rủ xuống: "Việc cần bàn hôm nay không nên lôi cả em ấy vào."
CungThuyên cười: "Có làm sao đâu. Chẳng qua là dăm ba chuyện ra luồn vào cúi, vu oan giá họa thôi. Chính con cũng là gian thần, nào phải lần đầu làm thế? Về sau cũng không thể chỉ có mỗi lần này."
Cung Tuấn ngước nhìn ông: "Phong cho rằng thúc tổ mới là người đóng vai trò chủ chốt lần này chứ."
CungThuyên đằng hắng hai tiếng, vờ như không nghe thấy gì.
Cung Tuấn nhấc chén toan uống thêm, nhưng ngẫm lại đêm nay đã uống kha khá rồi, về nhà say quá không khéo lộ manh mối. Con gái bình thường, hay kể cả thư sinh, quan lại bình thường cũng không thể lần ra sự khác lạ chỉ từ một lời nói hay cử chỉ của chàng, nhưng tiểu sư đệ nhà chàng thì chẳng giống thế. Chỉ sợ lộ chút tăm hơi thôi Chu Tử Thư đã sinh nghi rồi.
Cung Tuấn chợt nói: "Con có phải người tử tế không?"
CungThuyên đã ngà ngà say, được người hầu dìu về hậu viện. Ông buông một câu với Cung Tuấn: "Việc ấy con tự làm đi nhé!"
Cung Tuấn bật cười. Thấy vô vị quá, chàng bèn đứng dậy ra về.
||
Manh: Gia môn bất hạnh, gia chủ thì bị vợ "vu khống" cho là bất lực.
Chú thích
Còn gọi là Diêm Vương. Có thể đứng riêng, hoặc là người cai quản Ngũ điện trong hệ thống Thập điện diêm Cungcủa Trung Quốc.
Xuất xứ từ chuyện kể Khổng Tử gặp một người đàn bà khóc vì chồng, cha chồng và con bị hổ ăn thịt. Khi được hỏi vì sao không bỏ xứ ấy đi, bà ta bảo chính sách ở đó bớt hà khắc hơn những nơi khác. Ý nghĩa của câu chuyện là chính sách hà khắc còn nguy hại hơn hổ, nên mới liên quan đến việc Chu Tử Thư khen tài trị quốc của Triệu Phụ.
"Mượn" câu Nguyễn Quốc Hùng dịch trong Hồng Lâu mộng.
------oOo------
Chương 154
Nguồn: EbookTruyen.Net
Lẽ nào trong lòng em ta không phải là bậc chính nhân quân tử?
Trong thư phòng thắp một ngọn nến.
Trước giờ Chu Tử Thư không thích đọc viết vào ban đêm vì điều kiện ánh sáng rất tệ, đọc lâu gây nhức mỏi mắt, có khi còn ảnh hưởng đến thị lực. Sau khi nghiên cứu và chế tạo ra thủy tinh, cậu bèn bảo Diêu Tam chỉ đạo công nhân trong xưởng chế tạo chụp đèn bằng phương pháp thổi thủy tinh. Nhờ thế, ánh đèn dầu lưu li nhìn chung đã sáng sủa hơn rất nhiều, tuy vẫn chưa bằng đèn thời hiện đại.
Lúc này cậu đang chăm chú đọc một lá thư dưới ánh đèn dầu. Đọc thư xong, Chu Tử Thư nhấc chụp đèn thủy tinh lên, gí góc lá thư vào ánh nến. Phừng một tiếng, ngọn lửa liếm vào lá thư. Trong ánh nến mờ mờ hắt lại, vẻ mặt Chu Tử Thư càng thêm thâm trầm bí ẩn.
Không lâu sau, quản gia bẩm báo: "Công tử, đại nhân đã về phủ."
Chu Tử Thư thản nhiên dọn dẹp sạch sẽ tàn giấy rơi vãi. Đang phủi dở, cậu bỗng dừng tay, chừa lại một ít trên bàn. Lúc ra đến cửa thì vừa khéo Cung Tuấn đang đi vào trong sân. Dưới ánh Tuấng, họ sững lại khi trông thấy nhau, cả hai đều có phần chột dạ.
Cung Tuấn bước đến nắm tay Chu Tử Thư: "Muộn thế này rồi mà tiểu sư đệ chưa ngủ. Chờ ta đấy à?"
Chu Tử Thư hỏi ngược lại: "Trễ thế này sư huynh mới về, ta không đợi huynh thì còn đợi ai được nữa?"
Cung Tuấn bật cười thích chí, dắt tay sư đệ nhà mình vào thư phòng.
Vừa bước chân vào phòng, Cung Tuấn đã ngửi thấy mùi giấy khen khét phảng phất đâu đây. Một suy nghĩ lóe lên trong đầu chàng, rồi tức thì, chàng thấy trên bàn còn nửa đụn tro giấy. Chu Tử Thư làm quá khéo, đụn tro ấy bên thì lộn xộn, bên thì phẳng lì. Hiển nhiên có người quét đi một nửa thì bỏ đó không dọn hết.
Làm sao mà Cung Tuấn không hiểu dụng ý Chu Tử Thư cơ chứ? Chàng khẽ đảo mắt, hỏi: "Tiểu sư đệ đã thấy gà trống gáy sáng bao giờ chưa?"
Chu Tử Thư: "... Hả?"
"Ta chưa thấy. Nhưng hồi xưa ở thôn Triệu gia ta đã từng nghe gà nhà hàng xóm gáy mấy lần."
Chu Tử Thư tò mò, "Sư huynh hỏi thế để làm gì?" Lại đánh võ không theo bài rồi!
Cung Tuấn ý nhị buông một câu: "Em đoán đi."
Chu Tử Thư: "..."
Đoán cái đầu huynh ý!
Chu Tử Thư tức tối: "Suốt ngày chỉ nói ngon nói ngọt, chẳng biết đường nào mà lần. Trêu người ta vui lắm phải không?"
Lần này thì Cung Tuấn tự thấy mình cực kì vô tội: "Rõ ràng tiểu sư đệ cố tình mập mờ trước để ta đoán ý em còn gì."
Chu Tử Thư thoạt tiên chẳng hiểu sao, đến khi nhớ ra, Cung Tuấn đã ôm cậu vào lòng. Chàng trỏ nửa đụn tro giấy trên bàn, bảo: "Không định dối ta mau nói thẳng ra xem nào. Nhược bằng tiểu sư đệ thấy thế này mới thú, cứ muốn ta đoán bằng được thì ta cũng chẳng nỡ từ chối em đâu. Ta đoán, đây là một phong thư."
Chu Tử Thư hừ một tiếng đằng mũi: "Rồi sao hử?"
"Một phong thư gửi về từ Tây Bắc."
"Còn gì nữa?"
Cung Tuấn im lặng một lát, nói: "Thư của CungĐại Nhạc à?"
Chu Tử Thư: "Đoán đúng rồi, nhưng không có thưởng."
Cung Tuấn bật cười. Chàng có tật giật mình, chỉ chăm chăm không muốn Chu Tử Thư biết mình bàn bạc gì bên phủ Hữu tướng CungThuyên nên quên béng phải đòi trước phần thưởng. Cungđại nhân tự thấy thiệt thòi ghê gớm, sống hơn ba mươi năm trên đời, đã bao giờ chàng thua thiệt thế này đâu cơ chứ.
Nhưng CungTử Phong chẳng đời nào để lộ cảm xúc ra mặt. Chàng nói giọng tỉnh bơ: "Tất cả là vì ta quá yêu em đấy thôi. Em xem, vừa trông thấy em là ta quên khuấy hết cả."
Chu Tử Thư không đáp lời chàng.
Bây giờ cậu đang nắm thực quyền nhờ quản lí bộ Công nên chức Hữu phó ngự sử ty Ngân dẫn đã bị hoàng đế tước đi để cân đối triều đình. Tuy mất chức, nhưng căn cơ cậu xây dựng trong ty Ngân dẫn suốt hai năm không thể nào mất ngay được. Kể cả khi rời ghế Hữu phó ngự sử, cậu vẫn còn hai người tâm phúc CungTiêu, Mai Thắng Trạch ở ty Ngân dẫn U châu – bí mật "móc nối" sang Liêu dưới vỏ bọc quan viên ty Ngân dẫn.
Tuy thượng cấp hiện tại của họ là Tô Ôn Duẫn, nhưng về bản chất họ đều thuộc phe Đường đảng.
Trong nửa năm vừa qua, dù họ không báo cho cậu tất tật những việc xảy ra trong ty hay những gì Tô Ôn Duẫn giao phó, nhưng hễ có việc quan trọng, CungTiêu vẫn sẽ viết thư mật gửi về Thịnh Kinh.
"Vua Liêu bị thương trong lúc đi săn, hiện giờ Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca và Tam hoàng tử Gia Luật Hàm kình địch với nhau như nước với lửa, tình thế hết sức căng thẳng. Trong vòng nửa năm, ngoài Tiêu Châm – người được chúng ta gài vào ngay cạnh Gia Luật Xá Ca từ ban đầu, Tô Ôn Duẫn và Lý Cảnh Đức còn mua chuộc thêm một thị vệ thân cận của Gia Luật Hàm. Vốn dĩ anh em họ còn đấu đá dằng dai để giành ngôi thái tử, nhưng giờ có cú huých này, chưa biết chừng thời cơ ngàn vàng để phản công Liêu sẽ chẳng còn xa."
Là người lãnh đạo ty Ngân dẫn, Cung Tuấn vẫn nắm được sơ bộ tình hình dù không biết tường tận ý đồ của Tô Ôn Duẫn và Lý Cảnh Đức.
Những gì Chu Tử Thư nói khiến chàng hơi sửng sốt. Nhưng sau một thoáng trầm tư, Cung Tuấn hỏi: "Thế Gia Luật Định thì sao?
Chu Tử Thư thở dài: "Ông ta cũng chính là điều ta lo ngại."
Dưới một người, trên vạn người, đích thực là vị thế của Cungtử Thái sư
Gia Luật Định trong triều đình nước Liêu. Giờ đây khi vua Liêu bị thương,
Gia Luật Định nghiễm nhiên thâu tóm việc triều chính. Xuất thân quý tộc khiến ông ta luôn ủng hộ Tam hoàng tử Gia Luật Hàm. Để tạo đối trọng với ông ta, Gia Luật Xá Ca chỉ có thể dựa vào sự ủng hộ của Liêu đế.
Vua Liêu bị thương, người sốt ruột nhất chính là Nhị hoàng tử chứ chẳng phải ai khác.
Trong trường hợp vua Liêu đột ngột băng hà, chỉ e Gia Luật Xá Ca cũng vô duyên với ngôi báu. Vì lẽ đó, y sẽ không đời nào bình chân như vại trong lúc nước sôi lửa bỏng thế này. Bất kể vua Liêu sống chết ra sao, trước khi ông ta qua đời hoặc hồi tỉnh, nước Liêu nhất định sẽ lâm vào nội loạn.
Trong có vững thì ngoài mới yên.
Loạn lạc ở Liêu chắc chắn sẽ lắng xuống rất nhanh thay vì kéo dài. Rất có khả năng, nó sẽ giống như vụ cung biến tháng Giêng ở Đại Tống vậy – suốt đêm gió nổi mây vần, để rồi khi vầng dương ngày mới ló rạng cũng là lúc gió đứng sóng êm.
Phải làm sao để chớp thời cơ, lợi dụng tình hình tấn công nước Liêu, chính là việc mà Tô Ôn Duẫn và Lý Cảnh Đức đang lo liệu. Cung Tuấn bỗng hỏi: "Vua Liêu bị thương trong lúc đi săn à?"
Chu Tử Thư chớp chớp mắt: "Chuyện đó quả đúng là tai nạn." Cung Tuấn bật cười.
Ngoài vua Liêu vẫn mê man, chắc chẳng còn ai biết rõ nguồn cơn sự việc!
Nhưng trên đời đâu thiếu người muốn vua Liêu băng hà, tiêu biểu nhất là Tam hoàng tử Gia Luật Hàm và Cungtử Thái sư Gia Luật Định sau lưng gã. Thậm chí, nếu bỏ gần kể xa thì ngay như Tô Ôn Duẫn, Lý Cảnh Đức cũng đều thích Liêu đế đi đời quách cho nước Liêu đại loạn.
Đêm đã khuya, hai người nói chuyện thêm một hồi rồi cũng muốn đi nghỉ.
Chu Tử Thư tì mặt lên cánh tay gác trên bàn, quan sát Cung Tuấn khép cửa sổ phòng ngủ. Lúc Cung Tuấn quay người lại, chàng thấy Chu Tử Thư đang nhìn mình không rời mắt dưới ánh nến. Trái tim chàng rộn nhịp với biết bao ý nghĩ ái ân. Chàng chẳng buồn dời bước, cứ đứng im cạnh cửa sổ mỉm cười với Chu Tử Thư.
Họ mải mê ngắm nhìn nhau hồi lâu, bầu không khí trong buồng ngủ cũng nóng dần lên.
Chợt Chu Tử Thư hỏi: "Hôm nay sư huynh sang phủ thúc tổ bàn bạc gì mà lâu đến vậy?
Dòng suy nghĩ bay bổng của Cung Tuấn trôi tuột, song chàng không hề đánh mất vẻ ung dung tự tại. Cung Tuấn sải bước tới cạnh bàn, dang tay ôm Chu Tử Thư, cười nói: "Bàn tí chuyện nhà dưới Kim Lăng ấy mà." Chẳng ngờ, Chu Tử Thư lại né khỏi tay chàng.
Vòng tay Cung Tuấn trống huếch.
Chu Tử Thư: "Sư huynh từng hứa suốt đời không dối gạt ta. Nếu huynh lừa ta..."
Cung Tuấn đành chào thua, cúi mình hôn lướt lên môi Chu Tử Thư. Ánh mắt chàng sâu lắng, giọng âu yếm vô ngần: "Đúng, ta không đời nào dối lừa em đâu."
Chu Tử Thư: "..."
Ngay trước khi nói câu đấy mà huynh cũng dám hôn hả!
Chu Tử Thư mãi chẳng ừ hử gì, sau mới khẽ hừm một tiếng: "Đã thế, ta hỏi huynh đáp."
Cung Tuấn choàng tay ôm cậu, nói: "Được."
Chu Tử Thư: "Hôm nay huynh sang phủ thúc tổ, có phải để bàn chuyện chính sự với ông không?"
Cung Tuấn hôn cậu, trả lời: "Tất nhiên không phải."
Chu Tử Thư: "Có liên quan đến ty Ngân Dẫn hả?" "Chả liên quan gì hết." Hôn cái nữa này.
"Ty Ngân Dẫn gặp rắc rối ư?"
"Không hề..." Chưa nói hết câu, Cung Tuấn đã lập tức sửa lời: "À đâu, đúng là đã phát sinh rắc rối." Chàng lại cúi đầu tặng cậu thêm chiếc hôn. Chu Tử Thư: "CungTử Phong!"
Cung Tuấn cười giòn tan: "Hà hà, mình thỏa thuận là cứ nói dối thì hôn em trước còn gì. Cảnh Tắc, ta không hề thất hứa nhé."
Chu Tử Thư: "..."
Được lắm, người ta không cãi nổi huynh mà!
Chu Tử Thư trầm ngâm rất lâu, lại ngẩng lên hỏi: "Còn một câu cuối. Có phải huynh định tác động... để ty Ngân dẫn gặp sự cố không?"
Nụ cười của Cung Tuấn dần dần chùng xuống. Chàng lặng im nhìn Chu Tử Thư, ánh mắt thẳm sâu như nước.
"Em có biết không, ta vô cùng yêu sự thông minh của em, nhưng đôi lúc ta cũng ước sao em không khờ khạo hơn một chút!"
Chu Tử Thư hiểu ngay ý chàng, nhưng sau thoáng trầm tư, cậu vẫn hỏi: "Tại sao huynh phải giấu ta?"
Cung Tuấn nghiêm giọng trách cứ: "Chuyện hèn hạ như thế làm sao ta nói cho em được? Nếu em biết, em còn coi ta ra gì nữa?" Dứt lời chàng im bặt, úp mặt vào tay như thể thương tâm khôn tả.
Chu Tử Thư gỡ bàn tay bụm mặt của Cung Tuấn ra. Họ nhìn vào mắt nhau, đôi ngươi Cung Tuấn sáng rỡ, tràn ngập ý cười.
Chu Tử Thư thản nhiên như không: "Mặc dù ta có vẻ thiệt, nhưng sư huynh đã hứa sẽ hôn ta trước khi nói dối cơ mà?"
Cung Tuấn tròn mắt ngỡ ngàng trong giây láy, rồi bật cười ha hả, đè Chu Tử Thư xuống hôn lấy hôn để lên cặp môi rất giỏi biện luận kia. Say sưa quấn quýt một hồi, Chu Tử Thư thở phập phù, Cung Tuấn mới nói thực tình: "Lẽ nào trong lòng em, ta không phải là bậc chính nhân quân tử với trái tim bao dung khoáng đạt?"
Chu Tử Thư ngạc nhiên nhìn chàng: "Cớ làm sao sư huynh lại ảo tưởng như thế?"
Cung Tuấn thành thật nói: "Thì cũng phải để ý một tí chứ."
Chu Tử Thư: "Huynh nói dối ta vì không muốn ta biết huynh lại ăn hối lộ, hại trung lương chứ gì?"
Cung Tuấn ấp cậu vào lòng, thở than: "Lí nào ta lại mong thế!" Trong buổi chầu ba ngày sau, giữa điện Tử Thần.
Một viên quan mặc áo bào Ngự sử tứ phẩm bước ra khỏi hàng, giương cao hốt ngọc, rút từ tay áo ra một bản tấu. "Thần Phương Vị Đồng có việc khải tấu."
Triệu Phụ nhìn ông ta, phất tay ra hiệu cho Quý Phúc xuống cầm tấu chương của Phương Vị Đồng lên. Ông hỏi: "Có chuyện gì?"
Phương Ngự sử cúi mặt làm thinh, chỉ giơ quyển tấu lên cao quá đầu. Quý Phúc cầm bản tấu lên trình Triệu Phụ. Triệu Phụ xem xong thì biến sắc, đùng đùng nổi giận.
Ông gắt giọng: "Nói."
Bấy giờ Phương Vị Đồng mới dõng dạc tâu: "Thần là Ngự sử đại phu, có chức trách giám sát triều đình. Cho nên, thần muốn tố cáo Phủ doãn Hình châu Lưu Kịp – Lưu Trọc Trọng! Tội của Lưu Kịp đẵn kiệt trúc xanh ghi không xuể, thần chỉ xin điểm sơ qua bảy tội lớn. Tội thứ nhất, hành xử vô đạo đức, lạm dụng công danh. Còn trẻ mà đã quan cao lộc hậu, ắt có chỗ đáng ngờ. Tội thứ hai, đất hoang ở Hình châu..."
||
"Trọc" là đục, "trọng" là nặng. Tự của ông quan này có lẽ lấy từ thần thoại về sự hình thành trời đất. Trích đoạn trong Tam quốc diễn nghĩa: "Khi xưa, lúc hỗn độn mới mở, âm dương chia biệt, khí nhẹ mà trong thì bay lên thành trời; khí nặng mà đục, thì đọng xuống dưới thành đất." Thường thì phần đất sẽ tượng trưng cho dương.
Chú thích
Gốc là 不按套路出牌, xuất chiêu không theo bài võ.
Gốc là 罄竹难书 – khánh trúc nan thư. Bình Ngô đại cáo cũng có câu "trúc Nam Sơn không ghi hết tội"
------oOo------
Chương 155
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tên bắn lén khó phòng
Hình châu nằm ở tây nam Đại Tống, tiếp giáp với Bồ Cam1.
[1] Tức Pagan, cố đô của Myanmar.
Giữa buổi chầu, Ngự sử đại phu Phương Vị Đồng liệt kê bảy tội lỗi của Phủ doãn Hình châu Lưu Kịp. Lời tố cáo của ông hùng hồn đanh thép, ai nghe cũng giật mình. Triệu Phụ lập tức ra lệnh điều tra kĩ càng chuyện này, đồng thời phái quan đến Hình châu, tróc nã Lưu Kịp về quy án. Nhất thời bá quan trên triều im thít, không ai dám hé răng.
Mãi đến lúc buổi chầu kết thúc, các quan mới dám luận bàn về vụ việc vừa phát sinh. Đi cùng Chu Tử Thư là Tả thị lang bộ Công Lý Ngọc Đức. Ông này không nhắc đến chuyện ban nãy trong điện Tử Thần, chỉ hỏi: "Nghe nói mấy hôm trước Đường đại nhân mới gọi Quý Mạnh Văn về Thịnh Kinh phải không?"
"Quả có việc ấy."
Lý Ngọc Đức cười: "Cùng là quan bộ Công, Đường đại nhân có việc gì cần hạ quan giúp đỡ thì cứ nói một tiếng."
Chu Tử Thư chắp tay: "Đa tạ Lý đại nhân."
"Đường đại nhân quá lời rồi."
Trong điện Cần Chính, sau buổi chầu, Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh tần ngần mãi mới gõ cửa phòng thầy mình.
Nghe tiếng Từ Bí nhẹ nhàng bảo "vào đi", Dư Triều Sinh mới đi vào, chắp tay vái dài: "Học trò bái kiến tiên sinh."
Từ Bí ra hiệu cho anh ta ngồi xuống rồi tự tay rót trà. Dư Triều Sinh kính cẩn đón lấy cái chén bằng cả hai tay.
Từ Bí cười hiền hậu: "Băn khoăn chuyện Lưu Kịp chứ gì?"
Dư Triều Sinh: "Đúng là chẳng giấu nổi tiên sinh. Mười mấy năm trước, học trò ra ngoài làm quan ở Hình châu một năm, mà Lưu Kịp cũng ở Hình châu vào thời điểm đó. Địa phương này nằm ở vùng Tây Nam, đi tiếp xuống phía Nam là đến Bồ Cam. Khu vực giáp ranh giữa hai nước có quá nhiều kẽ hở để trục lợi. E rằng ban nãy Phương Vị Đồng kể tội Lưu Kịp ăn tiền tham ô, khinh nhờn phép nước là thật."
"Thế vì sao con phải lo ngại gã?"
Dư Triều Sinh trầm mặc giây lát, nói: "Lưu Kịp làm Phủ doãn Hình châu bấy nhiêu năm ròng, học trò đang nghĩ xem hà cớ gì mà bỗng dưng người ta dâng tấu hạch tội gã."
Từ Bí: "Trên đời này chẳng có gì là trùng hợp, nỗi lo của con không phải vô căn cứ. Con cứ thử ngẫm xem hất cẳng Lưu Kịp thì ai được lợi đây?"
Suy nghĩ hồi lâu, Dư Triều Sinh giật mình: "Bọn chúng nhắm tới Hình châu ư?"
Từ Bí: "Chính xác. Tây Bắc có ty Ngân dẫn U châu, Đông Bắc có ty Ngân dẫn Thịnh Kinh, Đông Nam có ty Ngân dẫn Giang Nam. Còn Tây Nam thì sao? Hình châu chính là cửa ải không lối tắt!"
Dư Triều Sinh chợt tỉnh ngộ, cảm giác như vừa vén mây mù thấy trời xanh: "Học trò đội ơn tiên sinh đã chỉ bảo."
Thầy trò hai người cùng uống thêm trà. Từ Bí hỏi: "Con chắc chắn mình không liên quan đến Lưu Kịp chứ?"
Dư Triều Sinh: "Dĩ nhiên rồi ạ. Thời học trò làm quan ở Hình châu, Lưu Kịp hẵng còn là quan lục phẩm tép riu. Chẳng qua đi tiệc có gặp mấy lần nên học trò mới biết tên, rồi cũng vì tướng mạo gã rất dị thường nên mới nhớ. Đời nào học trò lại dính đến gã."
Từ Bí ung dung cười nói: "Vậy ta cứ thuận theo chúng, khoanh tay đứng nhìn thôi."
Không chỉ mình Dư Triều Sinh, rất nhiều quan lại trong triều cũng sinh nghi. Vì sao Ngự sử bỗng nhiên vạch trần tội lớn của Lưu Kịp – kẻ đã tự tung tự tác ở Hình châu mười mấy năm nay?
Rốt cuộc nguồn cơn của sự việc là gì?
Hầu hết mọi người không đoán nổi Lưu Kịp đắc tội với ai mới ra nông nỗi này.
Chỉ có một thiểu số các vị tướng công chú mục vào Từ đảng và Cungđảng. Hẳn nhiên, đây là tác phẩm của hai phe này. Song về phần tác giả là ai và mục đích của việc này là gì, vẫn là câu đố không lời giải đáp.
Hai tháng sau, tức tháng Tám năm Khai Bình thứ ba mươi lăm, vệ Kim Ngô áp giải Lưu Kịp từ Hình châu về Thịnh Kinh.
Thân hình Lưu Kịp vốn béo xù, bề cao chưa đầy năm thước mà bề rộng ăn đứt ba người. Dư Triều Sinh ấn tượng với gã cũng vì gã quá phì nộn, nom y chang con buôn ăn lắm mập thây chứ chẳng có tướng thư sinh. Nhưng sau hai tháng ròng rã ngủ không an giấc, cơm chẳng buồn ăn, Lưu Kịp đã gầy tọp đi những bốn chục cân, mắt hõm sâu vào hai hốc mắt. Giờ trông gã chẳng khác nào hạng ma đói ma rách, đầu đường xó chợ.
Vừa đến Thịnh Kinh, gã đã bị nhốt vào thiên lao3 Đại lý tự.
[3] tức nhà tù do triều đình trực tiếp quản lí.
Chỉ trong vòng vài ngày, Đại lý tự Thiếu khanh đã phụng mệnh thẩm tra vụ án liên quan đến số tiền khổng lồ này. Trong suốt thời kì cai trị, Triệu Phụ chưa bao giờ đòi hỏi thần tử làm quan liêm khiết, sống cảnh thanh bần. Tuy nhiên, vụ việc này đã đi quá giới hạn của ông. Dưới nghiêm lệnh phải tra xét đến cùng của Triệu Phụ, các quan Đại lý tự không dám lơ là qua quýt. Chưa đến một tháng, Lưu Kịp đã bị đánh cho phải thú tội, vụ án cũng được làm sáng tỏ.
Tháng Mười, Lưu Kịp bị tống giam, gia sản bị sung công, con cái, người thân biếm cả làm nô lệ.
Nào ngờ nửa tháng sau lại có một viên quan khác của Ngự sử đài dâng tấu đàn hặc.
Người bị tố cáo là Tôn Thượng Đức, hiện là Điều độ quan ở phủ Chức Tạo,
Giang Nam. Ngự sử buộc tội Tôn Thượng Đức hối lộ quan Thiếu doãn Hình châu Lưu Kịp vào năm Khai Bình thứ mười chín. Hai tên này móc ngoặc với nhau làm thâm hụt kho phủ Hình châu. Hậu quả là khi trận hạn hán nghiêm trọng xảy ra vào năm sau đó, kho lương dự trữ của Hình châu rỗng không, khiến hơn mười vạn người chết ở khắp ba vùng.
Sự xuất hiện của bản tấu này đã làm rúng động triều đình.
Trên điện Tử Thần, Tả tướng Từ Bí siết chặt hốt ngọc, đôi mắt đục già nua liên tục đảo qua đảo lại. Chậm rãi ngẩng lên, ông liếc sang Hữu tướng đứng bên phải mình như muốn tìm cho ra manh mối từ khuôn mặt điềm tĩnh ấy. Trong khi đó, Triệu Phụ đã quá đỗi sững sờ.
Đại hạn ở Hình châu tuyệt đối không phải chuyện đùa.
Năm Khai Bình thứ hai mươi là thời điểm Triệu Phụ tu tiên mê mải và đang cho dựng Đăng Tiên. Nhưng rồi suốt ba tháng ròng Tây Nam không có mưa lành, khiến hạn hán nghiêm trọng hoành hành khắp ba châu Hình, Thương, Mạnh. Triệu Phụ lúc đó cũng tá hỏa. Từ triều đình đến dân gian, người ta đồn thổi rằng chính vì ông ta rầm rộ xây cất đài Đăng Tiên làm khổ nhân dân và tốn kém tiền của nên trời mới giáng tai ương.
Vì chuyện này, Triệu Phụ lên Đàn Trời ăn chay cầu phúc nguyên một tháng.
Khi thiên tai xảy đến thì khó tránh thương vong, vấn đề là con số ít hay nhiều thôi. Với Triệu Phụ, hơn mười vạn người bỏ mạng vì hạn hán Hình châu năm ấy là con số lớn. Song vì thực tế hạn hán quá khốc liệt, Triệu Phụ chỉ cách chức những người có liên quan chứ không truy cứu thêm. Thế mà bây giờ lại có người tố cáo, kho lương Hình châu chẳng có lấy một hạt thóc dự trữ trước khi hạn hán ập đến!
Chưa vơi nỗi bàng hoàng, Triệu Phụ hoang mang nhìn các bầy tôi dưới chân ông trong điện Tử Thần.
Hồi lâu sau, ông vụt bản tấu hạch tội xuống sàn.
"Tra! Điều tra triệt để cho trẫm! Để trẫm xem lũ sâu mọt ngồi không ăn bám đang làm xằng làm bậy trong triều đình của trẫm còn bao nhiêu tên!
Mùa đông năm Khai Bình thứ ba mươi lăm, Triệu Phụ không bị đau đầu nữa. Tinh thần sắc bén, ông thừa sức chấn chỉnh triều đình, khiến cho quần thần câm như hến.
Tháng Một năm sau, Tôn Thượng Đức bị giam vào nhà lao Đại lý tự, vụ án gác lại xử sau.
Từ Bí đứng trong thư phòng phủ Tả tướng, khói trắng lững lờ bốc lên từ lư hương sau lưng ông. Trước mặt ông, tuyết phương Bắc trắng phau tuôn rơi như lông ngỗng ngoài song cửa. Tất cả những người trung kiên với Từ đảng đều ngồi đông đủ trong căn phòng này.
Từ Bí lặng thinh nhìn ra cửa sổ. Các quan trong nhà cũng cúi mặt, không biết nên nói sao.
Mãi sau, Từ Bí mới lên tiếng: "Mượn Lưu Kịp làm đầu mối để dắt sang Tôn Thượng Đức, kéo theo đó là cả dây quan lại Hình châu năm Khai Bình thứ mười chín. Miếng đòn này sắp đặt sâu xa, trù tính dài hạn, lão phu thua tâm phục khẩu phục. Hiến Chi, đến giờ phút này con đã hiểu nguyên nhân của tất cả mọi chuyện chưa?"
Mặt Dư Triều Sinh đỏ gay, anh ta đứng dậy nói: "Học trò được thuyên chuyển đến Kim Lăng từ trước khi Hình châu gặp hạn hán. Tuy nhiên trong năm Khai Bình mười chín thì học trò vẫn ở Hình châu. Thế nhưng học trò thực sự không biết chuyện các quan lớn bé ở đó thông đồng biển thủ kho lương! Thì ra, mọi mưu mô lắt léo đều nhắm vào Dư Hiến Chi đây! Giáo đâm thẳng dễ tránh, tên bắn lén khó phòng. Phen này học trò đã sơ suất rồi!"
||Chú thích
Gốc: 作壁上观 (tác bích thượng quan) – tức là đứng trên tường mà nhìn. Thành ngữ này xuất xứ từ Sử ký, đoạn quân Sở do Hạng Vũ chỉ huy đánh tan quân Tần ở Cự Lộc. Trong trận chiến đó, quân các nước chư hầu đều kéo đến, nhưng trước thanh thế quân Sở thì tất cả chỉ đứng trên tường nhìn chứ không dám ra đánh.
------oOo------
Chương 156
Nguồn: EbookTruyen.Net
Đích trưởng tử
Vụ án của Tôn Thượng Đức liên đới đến rất nhiều người. Triệu Phụ giao cho bộ Hình và Đại lý tự phối hợp tra án.
Điều bất ngờ là Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh không hề có tên trong danh sách, không được phép vào Đại lý tự thẩm tra tội quan trong diện điều tra. Động não một chút thôi, mọi người cũng hiểu ra: Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh đã công tác ở Hình châu vào năm Khai Bình thứ mười chín!
Vụ án cũ từ mười bảy năm trước này dính líu đến vô số người, rất khó để tra xét kĩ lưỡng. Hai tháng thấm thoắt trôi qua, án Hình châu còn chưa kết luận, biến cố đã phát sinh ở Tây Bắc.
Mùng sáu tháng ba năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, một toán quân nhỏ gồm ba mươi tám người của đại doanh Tây Bắc bất ngờ đánh sang biên giới Liêu, bắt sống gần một trăm lính và chặt đứt tuyến đường cung cấp lương thảo của người Liêu. Ngay trong đêm tối, lợi dụng thời cơ người Liêu còn say giấc nồng, Thiên hạ Binh mã Đại nguyên soái Chu Thái sư điều động ba mươi nghìn quân tràn sang biên giới địch.
Giáo mác ngời ánh kim, vó sắt rền trời đất.
Hồi trống dồn dập của lính gác trên tường thành đã đánh thức đoàn quân Liêu từ giấc mộng đẹp. Họ cuống cuồng mặc khôi giáp, quáng quàng quơ vũ khí. Quân Liêu chạy được đến cổng thành thì quân Tống đã phá toang nửa cánh cổng.
Binh quý thần tốc, dưới sự vây hãm bất ngờ của ba vạn quân Tống, lính Liêu có dũng mãnh, thiện chiến gấp mấy đi chăng nữa cũng bị đánh cho tơi bời.
Mấy chục năm về trước, thành trì ở vùng giáp ranh giữa Tống và Liêu này vốn thuộc về Đại Tống. Xưa kia thành được gọi là Tiêu châu, ngày nay nước Liêu đổi tên là phủ Đại Đồng. Phủ Đại Đồng có địa thế gập ghềnh hiểm trở, ba mặt giáp núi, dễ thủ khó công. Ngay cả khi quân Tống phá nửa cổng thành, quân Liêu vẫn giữ được thành sau khi kịp chỉnh đốn.
Tướng thủ thành Tiêu Hàn sôi máu phái người về phủ Lâm Hoàng: "Bay khẩn trương báo tin quân Tống xâm lược cho Cungtử Thái sư đại nhân, nói rằng bọn quân Tống dám tuyên chiến với Đại Liêu ta! Vừa hay, chúng ta thừa cơ chiếm luôn mấy vùng U châu cho lũ người Tống tha hồ nhục nhã."
"Tuân lệnh."
Quân Liêu cố thủ cổng thành, quân Tống kiên trì tiến đánh.
Hai phe giằng co ở phủ Đại Đồng suốt ba ngày trời mà tướng giữ thành Tiêu Hàn vẫn bình chân như vại. Tuy hắn không phải đại tướng lừng danh, song giữ thành phủ Đại Đồng chỉ là chuyện muỗi với hắn. Thế nhưng sang ngày thứ tư, quân lương đáng lí phải tới vẫn vắng bóng trên đường mòn bí mật. Bấy giờ Tiêu Hàn mới thấy không ổn. "Gay rồi, chẳng nhẽ quân lương gặp sự cố?"
Ở đầu kia chiến tuyến, Lý Cảnh Đức tay cắp nách chiếc mũ giáp sắt dày và nặng, chân sải bước vào trong trướng Nguyên soái. Tháng ba Tây Bắc lạnh thấu xương mà người Lý Cảnh Đức ướt đầm. Hắn quệt quệt khuôn mặt sũng mồ hôi, rồi ôm quyền chào kiểu nhà binh: "Lý Cảnh Đức bái kiến Đại nguyên soái. Dựa theo địa điểm mà tên lính Liêu khai nhận, thuộc hạ đã dẫn quân bắt gọn hai đội vận lương của nước Liêu."
Gương mặt nghiêm nghị của Chu Thái sư lộ vẻ vui mừng hiếm hoi. Ông hô lên sang sảng: "Giỏi lắm! Chính ngươi đã ép tên lính đó cung khai phải không?"
Lý Cảnh Đức gãi gãi mũi. Là người tử tế, đời nào hắn nhận vơ công sức của người khác: "Không phải là thuộc hạ, mà là... quan Tham tri chính sự Tô
Ôn Duẫn của điện Cần Chính. Thằng nhãi đó từng giữ chức Thiếu khanh Đại lý tự, mấy trò ép cung y làm nhanh như chảo chớp."
Chu Thái sư lườm hắn: "Phải nói là dạo này ngươi ghê gớm phết rồi đấy. Người ta là Tô đại nhân, đâu ra thằng này thằng nọ?" Lý Cảnh Đức cười hề hề.
Quân sư đứng bên cảm khái: "Bốn năm trước chúng ta đã phát hiện đường mòn vận lương của quân Liêu nhưng giữ kín bí mật, cốt là để chờ dịp này. Cuối cùng, thời cơ đã đến. Nguyên soái, đây chính là cơ hội nghìn vàng!"
Chẳng mấy chốc lại có thêm mấy đại tướng Tây Bắc vào bàn sách lược trong trướng Nguyên soái.
Trong khi đó, chỉ sau vài ngày đến U châu, nhị hoàng tử Triệu Thượng đã hoàn toàn mất phương hướng, không biết phải xoay xở thế nào!
Chu Thái sư tuyệt nhiên không tiết lộ cho Triệu Thượng về cuộc đột kích phủ Đại Đồng. Sớm hôm sau trận đánh, khi quân sư đập cửa phòng rối rít, Triệu Thượng mới choàng tỉnh giấc nồng, mắt hẵng còn díp tịt và có phần bực bội. Anh ta mở cửa thì thấy người tâm phúc mặt mày khiếp đảm nói với mình: "Phản rồi, ôi phản rồi! Nhị điện hạ, Thái sư dẫn quân đánh Liêu, bội ước, khai chiến rồi!"
Như sét đánh ngang tai, bấy giờ Triệu Thượng mới tỉnh ngủ.
Tây Bắc khai chiến, Lý Cảnh Đức đích thân dẫn quân về phong tỏa thành U Châu.
Nghe tin Lý Cảnh Đức về thành, Triệu Thượng tức tốc đến tìm hắn nhưng rồi cũng chưng hửng. Lý Cảnh Đức đã rời thành từ lâu.
Kể từ lúc đó, Triệu Thượng cứ ở lại thành trong trạng thái mù mịt tin tức suốt bốn ngày trời. Cả anh ta lẫn quân sư của mình đều không hiểu nổi Chu Thái sư lấy đâu ra can đảm đánh úp quân Liêu! Dù ông đánh hạ phủ Đại Đồng thì sao chứ? Chỉ cần quân Liêu có thời gian chỉnh đốn, xua đại quân áp sát biên cương, phe thảm bại dứt khoát không phải người Liêu.
Chu Thái sư nếm mật nằm gai mười năm trên sa trường mới mang về hiệp ước hòa bình năm Khai Bình thứ mười.
Tại sao bây giờ ông lại tự tay xé bỏ hòa ước quý báu đấy!
Triệu Thượng vắt óc suy nghĩ nhưng vẫn không tài nào hiểu nổi. Lần này thì ngay cả quân sư của anh ta cũng không có câu trả lời. Đến ngày thứ năm thì Triệu Thượng đã quá đỗi hoảng loạn. Thậm chí anh ta còn nghĩ, chuyến này mình bỏ xác ở U châu cũng nên. Đúng lúc đó, đại doanh Tây Bắc bất ngờ cử người đến phủ Triệu Thượng. Mắt Triệu Thượng sáng bừng: "Mau mời vào!"
Một viên tướng trẻ mặc giáp ôm quyền hành lễ: "Tiểu đích2 tham kiến Nhị điện hạ. Tiểu đích vâng lệnh Đại nguyên soái tới đón điện hạ sang đại doanh."
[2] Cách xưng hô của người có địa vị thấp hơn trong quân đội.
Triệu Thượng vui mừng khôn xiết, cuối cùng Chu Thái sư cũng nhớ tới kẻ như mình rồi chăng?
Triệu Thượng còn chưa trả lời thì người quân sư đã kéo anh ta sang một bên, thấp thỏm nói: "Điện hạ, hiện giờ Chu Thái sư hành động rất quỷ quyệt và khó lường. Tôi e đại doanh Tây Bắc là tiệc Hồng Môn. Điện hạ đi chuyến này lành ít dữ nhiều."
Triệu Thượng bừng tỉnh. "Tiên sinh nói chí phải. Có khi nào Chu Thái sư đột ngột đánh Liêu để tạo phản chăng? Nhưng bây giờ biết làm sao, ông ta phái người đến đón, ta đâu thể không đi? Cả thành U châu này có ai dám trái lệnh Thái sư!"
Quân sư toan nói "Chi bằng điện hạ cứ đi, tôi ở lại đây tiếp ứng ngài", song thấy ánh mắt chằm chặp của Triệu Thượng, ông ta chỉ biết than thầm. Phen này kiểu gì cũng không thoát được, Triệu Thượng không đời nào cho phép ông ta bỏ trốn một mình. Ông mà nói câu này ra thì quan hệ giữa hai người hỏng bét, chết là cái chắc, nhưng không nói thì cũng chỉ còn đường chết mà thôi.
Quân sư của Triệu Thượng suy tính hồi lâu mới bảo: "Xin điện hạ viết ngay một phong thư, tiểu nhân sẽ sai người rình xem có lén gửi ra khỏi thành được không."
Mắt Triệu Thượng đỏ hoe: "Chỉ làm được thế thôi à?"
Quân sư nghiến răng: "Chỉ được thế thôi ạ."
Triệu Thượng: "Đành để tiên sinh nhọc nhằn theo bản điến hạ chuyến này vậy."
Người quân sư siết chặt tay Triệu Thượng, đôi mắt rưng rưng.
Hai người được bốn binh sĩ dẫn đến đại doanh Tây Bắc. Đến lúc gặp Chu Thái sư tối đó, Triệu Thượng đã nhũn như con chi chi, chẳng rặn nổi một tiếng.
"Điện hạ." Chu Thái sư chắp tay coi như hành lễ, tác phong gọn gàng nghiêm chỉnh.
Triệu Thượng: "Thái... Thái sư đại nhân."
Chu Thái sư im lặng nhìn anh ta hồi lâu. Tuy ánh mắt ông không thể hiện cảm xúc gì, nhưng không hiểu sao Triệu Thượng cảm thấy ông cực kì thất vọng về mình. Không đợi Triệu Thượng nghĩ kĩ, Chu Thái sư đã nói: "Hai quân khai chiến không phải việc mình lão phu quyết định được. Giờ lão phu có thánh chỉ này ở đây, còn điện hạ vừa hay là quan thi hành lệnh." Vừa nói, ông vừa đưa thánh chỉ cho Triệu Thượng, "Điện hạ hãy tuyên đọc thánh chỉ để Tống Liêu khai chiến đi."
Triệu Thượng sợ run như dẽ, khóc không ra nước mắt. Đôi tay anh ta lẩy bà lẩy bẩy, không dám tiếp "thánh chỉ giả".
Chu Thái sư thở dài thườn thượt, chẳng buồn che đậy nỗi ngán ngẩm trong lời lẽ nữa: "Đây là thánh chỉ thật. Bệ hạ đã đóng ấn ngự ngay trước khi thần rời kinh năm ngoái." Triệu Thượng: "Hả?"
Anh ta không thể tưởng tượng nổi, Triệu Phụ phái mình tới U châu trước cả năm trời chính là vì trận đại chiến Tống – Liêu ngày hôm nay!
Trong chiến tranh, tình thế biến chuyển khôn lường chỉ trong tích tắc. Vài ngày ít ỏi là đủ định đoạt cuộc giao phong giữa hai nước.
Đối với quân Tống, thắng Liêu là việc dễ nói hơn làm. Họ dứt khoát phải chớp được thời cơ then chốt. Người Tống dày công sắp đặt bao nhiêu năm ở Tây Bắc cũng chính là vì thời cơ này. Nếu phái người về Thịnh Kinh xin chỉ, nhanh cách mấy cũng mất đứt sáu ngày cả đi lẫn về. Sáu ngày ấy rất có thể khiến quân Tống thảm bại. Chính vì thế mà một năm về trước, Triệu Phụ đã viết sẵn thánh chỉ giao cho Chu Thái sư để ông được phép khai chiến bất kì lúc nào.
Tuy nhiên, chỉ mỗi thánh chỉ thôi thì chưa đủ chính thống. Cần có thêm một hoàng tử tuyên đọc thánh chỉ mới ngăn nổi thiên hạ đồn ra đồn vào.
Khi Chu Thái sư xin với Triệu Phụ việc này, Triệu Phụ còn đang ốm liệt giường. Ông dựa lưng vào chiếc gối rộng và mềm, bình thản nhìn tấm chăn dệt từ tơ tằm và chỉ vàng. Hồi lâu sau, ông hỏi: "Thái sư cảm thấy ai trong ba hoàng tử của trẫm đủ tài đức nối ngôi?"
Thái sư nghiêm nghị đáp: "Về chuyện hoàng vị, lão thần tin bệ hạ đã có kết luận của riêng mình."
Triệu Phụ nói: "Giữa học trò và Thái sư cần gì phải rạch ròi đến vậy? Ngài cứ nói đi Thái sư, trẫm hỏi thật lòng, không hề có ý khác."
Chu Thái sư nhìn xuống vị vua tóc bạc trắng thật lâu, rồi ông thở dài: "Lão thần xin nghe bệ hạ tất."
Triệu Phụ cười: "Đúng thế. Ba hoàng tử của trẫm chẳng được tích sự gì, rặt một lũ bất tài vô tướng, an phận thủ thường." Chu Thái sư không trả lời ông.
Triệu Phụ cũng không nói gì thêm nữa.
Yên tĩnh kéo dài như vô tận là sự thấu hiểu thầm lặng giữa vua tôi.
Trong không gian yên ắng đấy, Triệu Phụ thì thào: "Thôi thì cho Triệu
Thượng, nó là đích trưởng tử của trẫm."
Giờ đây khi cầm thánh chỉ, Triệu Thượng mới vỡ lẽ. Toàn bộ chuyến đi đến đại doanh Tây Bắc khác xa tưởng tượng của anh ta. Anh ta mơ màng trở về quân trướng của mình, thuật lại chân tướng cho quân sư chờ đợi đã lâu. Quân sư tròn mắt ngạc nhiên, vỡ òa trong niềm vui sướng: "Chúc mừng điện hạ, chúc mừng điện hạ! Dù kết quả cuộc đại chiến này có ra sao thì điện hạ cũng được chọn làm trữ quân tương lai rồi!"
Mãi đến lúc ấy Triệu Thượng mới hồi thần. Anh ta cười ngất, chỉ thấy đúng là khổ tận cam lai.
||Chú thích
Gốc: 刚道你现在有了几分模样. Câu này khó quá =___= tra mãi chả hiểu ý.
------oOo------
Chương 157
Nguồn: EbookTruyen.Net
Nước Liêu, Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ.
Quân báo từ phủ Đại Đồng được gửi hỏa tốc về hoàng cung.
Vua Liêu hôn mê bất tỉnh vì bị thương lúc đi săn, sự vụ lớn nhỏ trong triều đều do Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca và Cungtử Thái sư Gia Luật Định giải quyết. Quân báo khẩn cấp nhanh chóng rơi vào tay Gia Luật Xá Ca. Vừa mở ra đọc, y đã nổi giận đùng đùng: "Dám phá hiệp ước ư? Bọn Tống khinh Đại Liêu ta chết hết rồi à! Ngươi đọc quân báo mà xem."
Gia Luật Cần tái mặt, nhận lấy quân báo. Xem xong, ông ta cả giận: "Đại Liêu ta chưa thèm động binh đao mà quân Tống nhãi nhép đã cả gan vuốt râu hùm. Điện hạ cứ yên tâm, chỉ cần thiết kỵ Đại Liêu ta Nam tiến, lũ ngu xuẩn ấy sẽ nếm mùi đau thương."
Gia Luật Xá Ca trầm ngâm một thoáng, khoát tay: "Không, có khi đây lại là cơ hội tốt."
Gia Luật Cần ngây người: "Điện hạ?"
Vẻ bí hiểm bao trùm lên gương mặt mĩ miều của Gia Luật Xá Ca. Y nói rất nhanh: "Trước giờ ta luôn được lòng phụ hoàng, nhẽ ra quyền định đoạt triều chính trong lúc người hôn mê phải thuộc về ta mới đúng. Chỉ hiềm Cungtử Thái sư quyền thế nghiêng trời, bắt lão nhượng bộ có khác nào bảo hổ lột da? Chưa biết chừng phen này quân Tống xâm lăng sẽ mang cơ hội đến cho chúng ta. Phụ hoàng càng lâu tỉnh, tình thế phe ta càng nguy ngập.
Gia Luật Cần đảo mắt một cái rồi cũng hiểu ra, chắp tay nói: "Hạ quan sẽ sai người đưa quân báo khẩn sang phủ Cungtử Thái sư." Gia Luật Xá Ca nhếch môi cười, gật đầu nhè nhẹ.
Cùng lúc đó ở Thịnh Kinh, Đại Tống.
Được phép thúc ngựa hết tốc lực trên đường quan, thám báo giơ cao tin chiến trận, phi ngựa chiến một mạch vào hoàng cung.
Triệu Phụ đang húp canh sâm trong điện Thùy Củng.
Ông nhón viên đan màu đen bỏ vào miệng, rồi chiêu canh sâm để nuốt linh đan. Vừa uống xong thì Đại thái giám Quý Phúc rảo bước đi tới, kính cẩn thi lễ: "Quan gia, có tin từ chiến trường Tây Bắc."
Tin quân hệ trọng bằng trời. Chẳng cần chờ Triệu Phụ cho gọi, người thám báo đưa tin đã vào quỳ trong điện Thùy Củng. Trên đôi bàn tay giơ cao quá đầu của anh ta là một ống gỗ nho nhỏ đợi hoàng đế mở.
Đôi mắt Triệu Phụ từ từ căng ra. Ông ngồi thần người trên ngai rồng suốt mà không trấn tĩnh nổi.
Thế rồi Triệu Phụ lấy hết sức bình sinh chống hai tay vịn, lảo đảo đứng dậy khỏi ngai vàng. Quý Phúc nhanh mắt, cuống quýt chạy sang đỡ tay phải của hoàng đế. Triệu Phụ đứng giữa điện Thùy Củng, chiếc ống gỗ chỉ cách ông đúng hai trượng, vậy mà ông không thể cất bước.
Bọn cung nhân, thái giám thị hầu và các Khởi cư lang, Khởi cư xá nhân túc trực trong điện đều chẳng hiểu mô tê gì.
Quý Phúc đang đỡ Triệu Phụ cũng không rõ hoàng đế bị làm sao.
Ngay đến thám báo đưa tin cũng không hề hay biết thứ trên tay mình không chỉ đơn thuần là mẩu tin chiến trận, mà là đất đai Đại Tống trải khắp ba châu!
Triệu Phụ bất thần bước xăm xăm về phía trước khiến Quý Phúc cơ hồ không đuổi theo kịp. Ông lấy chiếc ống, mở tin báo chiến trường ra đọc. Hoảng hốt, lo âu, thấp thỏm, mừng rỡ, hết cảm xúc này đến cảm xúc khác ánh lên trong đôi mắt đục ngầu tuổi tác của Triệu Phụ. Sau một đỗi thì ông cũng bình tĩnh trở lại. Đặt tin quân lên bàn, Triệ Phụ ra lệnh cho Quý Phúc: "Triệu Từ Bí, CungThuyên, Trần Lăng Hải,... Chu Phảng, Cung Tuấn vào cung."
Quý Phúc thót tim, thế là xảy ra chuyện lớn rồi. Lão ngước lên trộm nhìn Triệu Phụ, ấy vậy mà Triệu Phụ chỉ lãnh đạm dõi mắt về phía trước, bình tâm như giếng xưa phẳng lặng.
Nửa canh giờ sau, toàn bộ đại thần nhất phẩm trong triều đều có mặt ở điện Thùy Củng.
Một canh giờ sau, bọn họ lần lượt ra ngoài.
Nhóm quyền thần mỗi người một thái độ. Người cuối cùng rời khỏi điện Thùy Củng là Tả tướng Từ Bí. Từ Bí đã sắp sang tuổi cổ lai hi1, mái tóc hoa râm lưa thưa, tấm áo bào quan tròng lên thân thể còm cõi thành ra rộng thùng thình. Giây phút ông ra khỏi điện Thùy Củng cũng là lúc mặt trời xế bóng. Bước ra đến quảng trường trước điện, Từ Bí bất giác dừng chân.
[1] 70 tuổi.
Chỉ phút chốc thôi, ông buông tiếng thở dài rồi lại tiến bước.
Trong điện Thùy Củng, Triệu Phụ đi tới đi lui những mấy chục lần. Lâu lắm rồi ông mới có cảm giác tràn trề sinh lực như thế, hết bàn bạc việc quân Tây Bắc với các quan nhất phẩm, lại thảo luận đối sách với cả nhóm đại thần, cắt đặt đâu ra đó. Đáng lẽ bây giờ ông phải mệt lử mới đúng, vậy mà chẳng hiểu sao Triệu Phụ thấy phấn khởi không gì bằng.
Triệu Phụ đi hết một vòng nữa thì đột nhiên quay đầu gọi: "Quý Phúc."
Hoàng đế đi quanh điện, Quý Phúc dẫu chẳng hiểu cũng phải lẽo đẽo theo sau. Lúc này Triệu Phụ đã dừng bước, Quý Phúc bèn nhanh nhảu đáp: "Có nô tài."
Triệu Phụ: "Ngươi thấy bức chân dung người ta vẽ cho trẫm năm ngoái có đẹp không?"
Hằng năm, cứ đến dịp sinh nhật của Triệu Phụ, các họa sĩ cung đình sẽ vẽ cho ông một bức chân dung. Quý Phúc cười: "Tranh vẽ bệ hạ khuôn trời2 kì vĩ, mũi rồng đỉnh non3, có thần lắm ạ."
[2] 天表: thiên biểu – chỉ mặt vua. [3] Xưa có Hán Cao Tổ Lưu Bang được tả là có mũi cao như chóp núi, có tướng làm vua.
Triệu Phụ: "Trẫm cảm thấy vẽ chưa đạt." Quý Phúc ngây người.
"Bay đâu, triệu họa sĩ cung đình vào đây vẽ thêm cho trẫm một bức!"
Hoàng đế nổi hứng khiến ai nấy trong cung quýnh cả lên. Thấy hoàng đế hồ hởi, tự đáy lòng Quý Phúc cũng mừng cho ông.
Binh tình Tây Bắc được công bố cho cả triều đình ngay trong buổi chầu hôm sau.
Toàn thể quần thần sững sờ trước tin tức ấy.
Làm đến chức Hữu thị lang bộ Công hàm tam phẩm, Chu Tử Thư đã lường trước rằng chiến tranh Tây Bắc sớm muộn cũng nổ ra. Điều khiến cậu bất ngờ là Tô Ôn Duẫn và Lý Cảnh Đức ra tay nhanh đến thế! Vì sao họ phải hành động gấp rút vậy nhỉ? Việc can qua giữa hai nước là chuyện hệ trọng cần dấu ấn ngự của hoàng đế cơ mà, ngay cả Chu Thái sư cũng không dám tùy tiện phát động chiến tranh.
Trong lúc Chu Tử Thư cúi đầu ngẫm nghĩ, các quan trên điện Tử Thần đã tranh cãi om sòm cả lên. Nhưng suy cho cùng thì cuộc đại chiến đã nổ ra rồi. Bá quan nhốn nháo một thôi một hồi, rồi cũng im phăng phắc khi Triệu Phụ phất tay lên. Ông cất tiếng nói vững như chuông rền: "Người Liêu hiếp đáp nước ta đã lâu, ba châu ấy đâu đâu cũng là đất đai Thần lục. Cứ nghĩ đến chuyện này là ruột trẫm đau như cắt, trằn trọc trắng đêm!"
Bá quan đồng thanh: "Thần nguyện san sẻ nỗi lo của bệ hạ."
Ánh mắt Triệu Phụ điểm mặt từng viên quan. Lát sau, ông quả quyết tuyên bố: "Trẫm quyết định tăng viện mười vạn quân cho chiến trường Tây Bắc!" Đến nước này thì cả phe chủ hòa trong triều cũng phải nghiến răng hô vang: "Tuân lệnh bệ hạ!"
Tin chiến tranh giữa hai nước chẳng mấy chốc đã lan khắp thành Thịnh Kinh.
Các quan ai nấy bận tối mặt tối mũi. Đánh giặc nào phải chuyện nhàn, lương thảo đi trước, người ngựa theo sau, cho nên Bộ Hộ và bộ Công phải bắt tay ngay vào việc vận chuyển quân nhu tới U Châu. Trong khi đó, điều động từ đâu cho đủ mười vạn quân hoàng đế yêu cầu lại là bài toán hóc búa dành cho bộ Binh và bộ Lại.
Trong phủ Tả tướng, các trụ cột của Từ đảng tranh luận không ngớt.
"Hai mươi sáu năm nay Tống với Liêu vẫn chung sống yên ổn, thế mà đùng một cái chiến tranh nổ ra, lại còn do Đại Tống ta khởi xướng, đúng là hoang đường quá thể!"
"Nói là kí kết hòa ước nhưng có năm nào người Liêu không xâm phạm cương thổ nước ta đâu? Bây giờ chẳng qua mình ăn miếng trả miếng thôi."
"Ông nói nhẹ như lông hồng ấy nhỉ? Lưu đại nhân này, chúng ta đang đối đầu với nước Liêu, nước Liêu với ba mươi ngàn quân thiết kị đấy! Thắng thế nào được! Đánh nước Liêu là lấy trứng chọi đá, chuốc họa vào thân."
"Ông..."
"Cộp..."
Tiếng chén trà gõ lên mặt bàn rắn đanh. Các quan đang lời qua tiếng lại lập tức câm như hến, quay sang nhìn Từ Bí ở ghế trên.
Một nửa gương mặt Từ tướng chìm khuất trong bóng tối, trông thật mơ hồ. Ông nói bằng giọng khoan thai: "Dù muốn hay không thì trận chiến đã bắt đầu rồi. Bàn cãi lắm phỏng có ích chi? Chuyện này chưa hẳn đã là tai họa đâu, mà đúng ra là trong họa có phúc đấy!" Từ Bí quay sang nhìn người học trò, cười bảo: "Hiến Chi, cuối cùng thì cơ hội của con cũng đến rồi."
Ba ngày sau, triều đình tập kết mười vạn đại quân, lấy Phiêu kỵ tướng quân Ngụy Suất làm Đốc quan, lấy Hình bộ Thượng thư Dư Triều Sinh làm Giám sát sứ. Đoàn quân nhằm hướng Tây thẳng tiến về U Châu.
Chu Tử Thư nghe tin Dư Triều Sinh được điều lên Tây Bắc thì hết sức ngỡ ngàng. Lúc về phủ Thượng thư tối đó, cậu hỏi Cung Tuấn: "Sao huynh lại để Dư Triều Sinh đi khỏi Thịnh Kinh?"
Cung Tuấn đang nhâm nhi trà, nghe thế bèn nghiêng đầu hỏi cậu: "Làm sao em biết?"
Chu Tử Thư: "Sao mà không biết được? Cả triều đình đã biết hết trong chiều nay rồi còn gì!"
Cung Tuấn cười: "Hoàng đế điều anh ta lên Tây Bắc làm Giám sát sứ ba quân thì liên quan gì đến ta."
Chu Tử Thư: "..."
"Đại lý tự và bộ Hình chưa điều tra xong án Hình châu mà Dư Triều Sinh đã đi rồi, sư huynh vẫn muốn hãm hại người trung lương ấy hay sao?"
Cung Tuấn phì cười: "Tay Dư Triều Sinh đó là trung lương trong lòng em cơ đấy?"
Chu Tử Thư hỏi ngược: "Chẳng nhẽ không phải à?"
"Chắc gì." Cung Tuấn buông một câu nhẹ tênh, rồi chàng bỗng nổi hứng, nghiêng mình sang nhìn Chu Tử Thư: "Ta trong lòng tiểu sư đệ cũng là bậc trung lương chứ nhỉ?"
Chu Tử Thư: "..."
Cậu chẳng nói chẳng rằng, đứng dậy hôn lên má Cung Tuấn: "Trong lòng ta, sư huynh dĩ nhiên là người hết lòng vì nước rồi." Cung Tuấn sung sướng cười giòn tan.
Chiến tranh Tây Bắc đã trở thành sự kiện trọng đại mà cả thành Thịnh Kinh quan tâm.
Ba ngày sau, họa sĩ hoàn thành bức chân dung của Triệu Phụ. Triệu Phụ hài lòng và thích đến nỗi không nỡ rời tay, ngắm nghía từ sáng chí tối. Ông cho treo bức họa ngay trong điện Thùy Củng để tiện nhìn thấy mỗi ngày.
Hoàng đế đẹp lòng thì lũ thái giám, cung nữ cũng hưởng phúc theo.
Quý Phúc độ này thảnh thơi lắm. Chiến sư Tây Bắc là việc các quan lớn chứ chẳng tới lượt lão lo. Lão chỉ biết, hoàng đế phấn khởi thế kia tức là mọi việc phải suôn sẻ rồi.
Ngoài điện Thùy Củng, Quý Phúc cảm khái với đứa con nuôi: "Sống thế này càng lúc càng nhàn nhỉ."
Chỉ vừa mới nói xong và dặn dò Tạ Bảo mấy câu, Quý Phúc đã trông thấy một viên quan thám báo nhanh nhẹn tiến vào từ cổng cung. Mắt lão sáng bừng, lần trước sau khi đọc tin chiến trường Tây Bắc, hoàng đế phấn chấn suốt mười ngày liền. Hôm nay quân báo lại về, chắc hẳn là tin tốt lành đây.
Quý Phúc hí hửng dẫn ngay thám báo vào điện Thùy Củng.
Triệu Phụ: "Quân báo của đại doanh Tây Bắc đấy à?"
Thám báo quỳ xuống giơ cao mật thư: "Muôn tâu bệ hạ, đây là mật thư tiểu đích nhận được từ phủ Nhị hoàng tử, không phải quân báo."
Triệu Phụ hơi ngạc nhiên, bèn lệnh cho Quý Phúc dâng thư lên. Đọc xong lá thư, nét mặt ông sa sầm liền. Hai tay ông siết chặt như thể muốn vò vụn tờ giấy mỏng manh.
"Quân ăn hại!"
Triệu Phụ bất thình lình quát ầm lên khiến mọi người trong điện giật bắn.
Lát sau, ông nhắm nghiền mắt rồi hốt nhiên ngã vật ra. Quý Phúc hốt hoảng nhào tới làm đệm thịt cho hoàng đế khỏi ngã xuống đất. Lão kêu oai oái vì đau, đoạn ngẩng lên giục giã: "Đứng đực ra đấy làm gì, mời ngự y, mời ngự y mau lên!"
May mắn thay, lần này Triệu Phụ tức giận đến nỗi nghẹn thở nên mới ngất đi chứ không tái phát bệnh đau đầu. Đến tối hôm đó thì ông lặng lẽ tỉnh lại. Tất cả thái giám cung nga trong cung Phúc Ninh đều phải hứng chịu ánh nhìn chòng chọc rét buốt của vị hoàng đế tính khí thất thường. Ánh mắt ấy khiến chúng sợ vỡ cả mật, chỉ dám thở khe khẽ.
Dễ đến cả khắc sau ông ta mới cất ánh mắt lạnh tanh ấy đi và đứng dậy. Quý Phúc vội vàng khoác áo cho hoàng đế.
"Quan gia."
Triệu Phụ không nói năng gì mà chỉ lẳng lặng đi đến án thư, nhấc bút viết thánh chỉ rồi đóng ấn ngự.
Xong xuôi, ông hờ hững bảo: "Ngày mai nhà ngươi hãy đi tuyên chỉ đi."
Quý Phúc giật mình đỡ thánh chỉ, dè dặt đáp: "Vâng, nô tỳ lĩnh chỉ."
Triệu Phụ: "Đến phủ Tứ hoàng tử trước, rồi sang phủ Ngũ hoàng tử."
Quý Phúc sững sờ, không sao bình tĩnh nổi: "... Vâng."
||
Manh: Dạo này ghiền bài "", có câu "dường như nắng đang tựa vai anh" thơ ơi là thơ :3 Ca từ bài đó bling bling lắm mọi người ợ, nghe cho yêu đời.
------oOo------
Chương 158
Nguồn: EbookTruyen.Net
Cảm ơn nhớ!
Đại doanh Tây Bắc ngoài thành U Châu.
Triệu Thượng không thông minh xuất chúng nhưng chưa đến nỗi ngu hết thuốc chữa. Lúc nhận Thánh chỉ từ Chu Thái sư và biết mình đến U châu để làm người tuyên chỉ, anh ta đã hiểu mọi sự đều nằm trong tính toán của Triệu Phụ. Cả quân sư cũng phân tích rằng phụ hoàng có ý định lập anh ta làm trữ quân nên mới giao phó trọng trách nặng nề này!
Chợt quân sư thảng thốt kêu lên: "Chết chửa, còn bức mật thư kia."
Triệu Thượng thần người: "Mật thư?"
Thế rồi mặt mũi anh ta cũng trắng bệch ngay tức khắc: "Mật thư! Làm sao bây giờ, đuổi theo lấy lá thư đó về ngay đi!"
Quân sư nào dám dềnh dàng, cuống cuồng chạy về U châu hòng cản bức thư sắp sửa bị tuồn ra. Xui thay, Đại nguyên soái có lệnh cấm bất cứ ai rời doanh trại trong đêm vì lí do cá nhân. Triệu Thượng và quân sư cháy ruột cháy gan, không ai dám nói mình phải rời quân doanh gấp để mà chặn thư. Vì thế khi quân sư của Nhị hoàng tử chật vật về thành vào ngày hôm sau, ông ta phát hiện quan thám báo đã chạy một mạch khỏi thành nhân lúc tối trời rồi!
Chu Thái sư phong thành nhưng không hề cấm đoán Triệu Thượng. Dù sao thì chẳng ai có thể ngăn cản ý muốn của một hoàng tử như anh ta.
Quân sư cố đuổi theo người đưa thư mà không kịp. Cứ thế, lá thư cầu cứu do chính tay Triệu Thượng viết đã bay thẳng về Thịnh Kinh. Tới đây thì Triệu Thượng hết đường xoay xở. Quân sư của anh ta cũng bó tay, chỉ cầu trời khấn phật cho hoàng đế không thèm để ý tới lá thư cầu cứu dại dột kia. Nhưng rồi bảy ngày sau, Triệu Thượng nhận được tin báo từ Thịnh Kinh...
Cả Tứ hoàng tử Triệu Kính và Ngũ hoàng tử Triệu Cơ đã rời khỏi kinh thành và đang đến thẳng U châu.
Triệu Thượng ngồi phịch xuống ghế, hoang mang quay sang hỏi quân sư: "Tiên sinh, thế này là thế nào..."
Quân sư biết ngôi Thái tử cầm chưa ấm tay đã mất đứt rồi, nhưng vẫn nghiến răng bảo: "Điện hạ, cơ hội chưa hẳn đã hết đâu. Lá thư hẳn đã đến tay bệ hạ, thế mà người không hề hạ chỉ khiển trách điện hạ. Dù Tứ hoàng tử và Ngũ hoàng tử cùng đến U châu thì cơ hội lớn nhất vẫn thuộc về điện hạ. Qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai, chỉ cần điện hạ lập công lớn trong cuộc chiến này thì lo gì không có hi vọng."
Trong lúc đó, triều đình cũng nảy sinh tranh cãi xoay quanh việc Tứ hoàng tử Triệu Kính và Ngũ hoàng tử Triệu Cơ bị phái đến U châu.
Hoàng đế chỉ có ba hoàng tử, ông ta đẩy hết bọn họ lên U châu với mục đích gì cơ chứ?
Chu Tử Thư vắt óc nghĩ mãi không ra, lần này thì ngay cả nhóm Cung Tuấn, Từ Bí cũng không dò nổi ý đồ của hoàng đế. Phải đến lúc Quý Phúc nhắc cho Cung Tuấn rằng Nhị hoàng tử ở U châu đã gửi thư nhà về, Cung Tuấn mới thở dài, than: "Con tạo trêu người."
Không còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng Triệu Thượng đã làm hoàng đế thất vọng nên mới dẫn đến cục diện này.
Cuộc chiến giữa Liêu và Tống vẫn diễn ra trong thế giằng co tại thành Tiêu châu chừng một tháng nay.
Cứ năm ngày lại có quân báo gửi về Thịnh Kinh, tuy binh tình hầu như không mấy khả quan, song cũng chưa có tin dữ. Người Liêu ai ai cũng là lính, thành Tiêu Châu dễ thủ khó công, dù cho chiến thần tái thế cũng không thể nào đánh bại nước Liêu một cách chóng vánh. Triệu Phụ tin tưởng tuyệt đối vào Chu Thái sư, lương thóc tiếp tế cuồn cuộn chảy theo đường quan về U châu không ngừng nghỉ.
Nhưng kể cả thế, luồng ý kiến phản đối vẫn ngày một nhiều trên triều đình.
Chu Thái sư rề rà mãi chẳng phá được Tiêu Châu, tốn thêm ngày nào là đổ sông cả ngàn vàng ngày ấy!
Huống hồ nước Liêu hiện giờ đang gặp nội loạn, cứu binh từ phủ Lâm Hoàng lần lữa mãi không tới, khiến cho quân Liêu ở thành Tiêu Châu gần như bị cô lập hoàn toàn. Người Liêu đã rơi vào thế thú kẹt trong lồng mà Chu Thái sư cứ lần khần không tiến công. Nếu cuộc chiến tiếp tục kéo dài dai dẳng thế này, chỉ e khi phủ Lâm Hoàng gửi quân cứu viện, tình thế sẽ vô cùng bất lợi cho phe ta.
Song Triệu Phụ không mảy may hoài nghi Chu Thái sư. Giữa buổi chầu, ông thẳng thừng trách mắng một viên quan dám nghi ngờ Thái sư. Vị quan đó bị thị vệ lôi xuống mà vẫn kêu oan rầm trời. Mà quả tình ông này cũng oan thật vì vốn dĩ ông ta đâu dám chỉ trích Thái sư. Tất cả những gì ông ta nói chỉ là nêu nghi vấn, đồng thời hi vọng Thái sư sớm ngày khởi binh đánh hạ Tiêu châu.
Chu Tử Thư than thầm trong lòng.
Chẳng qua là giết gà dọa khỉ đấy thôi. Đã có gương này thì còn ai trong triều đình dám dị nghị về Thái sư nữa.
Trước tình hình phủ Đại Đồng kẹt trong vòng vây hãm của quân Tống, nội bộ nước Liêu có rối ren đến mấy vì cuộc tranh giành ngôi báu nảy lửa giữa hai vị hoàng tử cũng không dám sống chết mặc bay. Nửa tháng sau, người Liêu phái quân chi viện cho phủ Đại Đồng.
Trong trướng vua nước Liêu, Gia Luật Xá Ca nghiêm giọng trách cứ việc Cungtử Thái sư Gia Luật Định lần lữa không chịu phát binh. Nếu là trước đây, Gia Luật Xá Ca còn lâu mới dám đấu tay đôi với Gia Luật Định. Nhưng khi quân Tống uy hiếp bờ cõi và phủ Đại Đồng suýt nữa thất thủ chỉ trong một đêm, thủ lĩnh các bộ lạc đã quá kinh hãi và mất lòng tin vào Gia Luật Định.
Gia Luật Xá Ca: "Phủ Đại Đồng là địa bàn của Thái sư, tướng trấn thủ Tiêu Hàn là bộ hạ cũ của Thái sư. Hẳn chư vị đều biết phủ Đại Đồng là chốt phòng ngự hiểm yếu của Đại Liêu ta, thế thì người Tống cắt đứt đường mòn vận lương của chúng ta bằng cách nào để sau đó tấn công đột ngột như thế? Chắc chắn ở phủ Đại Đồng phải có kẻ phản trắc!"
Nét mặt y trĩu nặng vì nỗi đau xé lòng. Liên tiếp những ngày hầu bệnh vua Liêu đã khiến đôi má y hóp lại và mặt mày thì tái nhợt vì mỏi mệt. Y khóc nức nở với Gia Luật Định, lệ như máu rỏ: "Thái sư, quân Tống ngày nay đã khác xa quân Tống của ba mươi năm trước rồi. Chúng ta không thể khinh thường bọn chúng đâu! Xá Ca xin ngài khẩn cấp gửi quân đến phủ Đại Đồng bắt giữ phản tặc. Chúng ta không thể để quân Tống ngày ngày diễu võ giương oai trước cổng thành phủ Đại Đồng được!"
Vừa nói dứt lời, Gia Luật Xá Ca vén vạt áo toan quỳ xuống.
Quá sững sờ trước hành động của y, các thủ lĩnh bộ lạc vội vã can ngăn:
"Điện hạ đừng làm thế."
Vẻ kiên nghị in đậm trên khuôn mặt thanh tú tái nhợt của Gia Luật Xá Ca: "Xá Ca ngày ngày hầu bệnh bên giường phụ hoàng, chỉ hận mình tài hèn sức mọn không giết nổi quân thù. Giờ đây, nguyện vọng duy nhất của Xá Ca là Thái sư chóng khởi binh. Bất kể Thái sư muốn Xá Ca làm gì, Xá Ca tuyệt đối không ngần ngại."
Lời nói của y đã chiếm được cảm tình của các thủ lĩnh bộ lạc: "Sợ gì cái bọn lính Tống! Nếu không ai dám ra quân thì cứ để ta!"
"Được, ta cũng ra quân."
"Ta cũng thế."
Cungtử Thái sư Gia Luật Định nhìn Gia Luật Xá Ca đầm đìa nước mắt và các thủ lĩnh bộ lạc sục sôi căm phẫn bằng ánh mắt lạnh căm. Mãi lâu sau, ông ta mới dõng dạc nói: "Quân Tống dám xâm phạm bờ cõi Đại Liêu ta, lão thần không đời nào khoanh tay đứng nhìn. Hiềm nỗi chư tướng thống lĩnh quân Sói Đen đã bị điều đi trấn thủ khắp bốn phương. Lão thần giữ binh phù mà chẳng có tướng tài trong tay, nên mới trễ nải chuyện phát binh."
Gia Luật Xá Ca thấy trong người lạnh toát.
Gia Luật Định quỳ một bên gối, thi lễ với Gia Luật Xá Ca: "Lòng thương con đỏ3 của điện hạ khiến lão thần xúc động khôn cùng. Đã thế, lão thần xin trao toàn quyền chỉ huy mười vạn quân Sói Đen cho điện hạ, để điện hạ mang binh xuôi Nam diệt trừ lũ người Tống vô liêm sỉ!"
[3] Con đỏ ở đây chỉ dân chúng
Gia Luật Xá Ca mở miệng toan nói.
Song Gia Luật Định đã chặn họng y: "Việc hầu bệnh cứ để Tam điện hạ làm thay. Tam điện hạ đầu óc tối tăm, chỉ Nhị điện hạ mới có tài cầm quân mà Đại Liêu ta vẫn thiếu thôi!"
Thế là Gia Luật Xá Ca dẫn mười vạn quân Sói Đen tiến về phủ Đại Đồng ở miền Nam.
Trên đường hành quân, Gia Luật Cần không nén nổi lo âu: "Cứ tưởng có thể lợi dụng quân Tống để xua quân Sói Đen của Gia Luật Định đi, ai ngờ lão lại đẩy luôn điện hạ ra khỏi Thượng Kinh."
Gia Luật Xá Ca mỉm cười lạnh lẽo: "Phúc đấy họa đấy. Dù thế nào đi chăng nữa, chẳng phải quân Sói Đen mà lão hết lòng tin tưởng đang rời Thượng Kinh theo bản điện hạ đó ư?"
Gia Luật Cần: "Ý điện hạ là sao?"
"Con sói lạc bầy là miếng mỡ cho người ta xâu xé. Thái sư tưởng lão đang tương kế tựu kế, chẳng nhẽ ta không thể lợi dụng điều ấy hay sao?"
Gia Luật Xá Ca mặc giáp, cầm kiếm, hùng hồn tuyên bố: "Trận này, bản điện hạ sẽ biến phủ Đại Đồng thành mồ chôn quân Sói Đen của lão!"
Gia Luật Cần dành cho y ánh nhìn đầy tán thưởng. Trái lại, người đứng cạnh là Tiêu Châm thì toát hết cả mồ hôi.
Vốn chỉ là tên phó quan quèn ở phủ Tích Tân, Tiêu Châm nào có mơ đến ngày gặp may nhờ họa mà trèo lên thành thân tín của Gia Luật Xá Ca đâu. Mà cũng chính vì Tiêu Châm ngu dốt tham lam, mưu đồ không qua nổi mắt cú của Gia Luật Xá Ca nên y mới yên tâm dùng lão như thế.
Tiêu Châm rời khỏi trướng lớn mà lòng chưa hết hãi hùng. Đúng lúc đó thì Kiều Cửu đi đến.
Tiêu Châm tin tưởng Kiều Cửu tuyệt đối, bèn kể tuồn tuột những chuyện mình nghe được trong trướng cho hắn ta.
Kiều Cửu nói: "Nhị điện hạ muốn mượn cơ hội này diệt trừ quân Sói Đen, sao đại nhân không giúp điện hạ một tay? Chỉ cần lo liệu việc này êm xuôi, sau này Nhị điện hạ lên ngôi, quan cao lộc hậu chẳng phải là chuyện trong tầm tay ngài à."
Nghe đến đây, Tiêu Châm đột ngột tỉnh ra. Lão ngẩng đầu nhìn chằm chằm Kiều Cửu như thể muốn bóc trần hắn.
"Tao cứ tưởng mày là quân của Tam hoàng tử ngụy trang thành người
Tống. Giờ xem ra lâu nay tao vẫn lầm. Mày là gian tế Tống đúng không!"
Kiều Cửu nghe xong cũng ngỡ ngàng quá đỗi. Hắn không ngờ lão Tiêu Châm ngu xuẩn này lại quy cho hắn về phe Gia Luật Định. Song chẳng phải vô cớ mà Tiêu Châm nghĩ như vậy. Lão làm sao mà biết Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn có thể vươn tay đến tận Nam Kinh Tích Tân phủ, khuấy tung thủ phủ nước Liêu thành cái bãi đục ngầu.
Ngay cả khi bị vạch trần thân phận, Kiều Cửu cũng không hề nao núng. Hắn cười: "Đại nhân đã không gọi người tới gô cổ tiểu nhân thì xem ra cũng định ém chuyện này đây. Đại nhân đừng nhìn tiểu nhân như thế, tiểu nhân chỉ là tay lái buôn thôi mà. Mấy năm qua đại nhân hợp tác với tiểu nhân sung sướng thế còn gì? Đại nhân hẳn đã rõ, quân Tống hạ mỗi phủ Đại Đồng thì được, còn xâm lược cả nước Liêu ư? Lấy đâu ra mùa xuân đó! Những gì người Tống muốn chỉ là chiếm lại ba châu bị mất cách đây một trăm năm thôi. Mà Nhị điện hạ thì muốn nhổ tận gốc quân Sói Đen kia."
Tiêu Châm: "Ý mày là..."
"Làm cách nào để nhổ tận gốc quân Sói Đen ư? Cho chúng chết dưới đao người Tống là được chứ gì. Chỉ cần mấy lời của đại nhân thôi, dễ đến thế là cùng. Đại nhân mà giúp Nhị điện hạ việc này thì từ giờ ngài chính là tâm phúc của Nhị điện hạ. Đã thế thì cớ sao không làm?
Tiêu Châm vẫn cố ra vẻ hiên ngang chính trực: "Tao là quan người Liêu, mày là giặc người Tống, làm sao tao để tướng sĩ Đại Liêu dấn thân vào chỗ chết được!"
Kiều Cửu lót ngay cho lão bậc thang: "Người muốn xóa sổ quân Sói Đen chính là Nhị điện hạ chứ có phải đại nhân đâu nào!"
Bản chất Tiêu Châm là hạng tiểu nhân gió chiều nào theo chiều nấy, nếu không lão đã chẳng móc ngoặc với Kiều Cửu hằng bao năm nay. Nghe Kiều Cửu nói thế, Tiêu Châm chỉ thấy một con đường rộng thênh thang choán hết tầm mắt mình.
Thời vận của Tiêu Châm này đến thật rồi!
Mùng hai tháng Năm năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, đoàn quân Sói Đen lẫy lừng rùng rùng tiến về phủ Đại Đồng. Quân Sói Đen hành quân như vũ bão, được dẫn dắt bởi Gia Luật Kỳ – tâm phúc của Gia Luật Định. Rõ ràng, việc ủy thác cho Gia Luật Xá Ca chỉ huy quân Sói Đen chỉ là lời nói suông. Lão không thể yên tâm giao phó lực lượng thân tín của mình cho y được.
Gia Luật Kỳ quyết định cực kì chớp nhoáng. Chỉ vừa mới đến phủ Đại Đồng, hắn đã xua quân ra ngoài thành đánh trả quân Tống ngay.
"Quân ta vừa đến đây, quân Tống nhất định sẽ cho rằng chúng ta phải nghỉ ngơi dưỡng sức trước. Nếu chúng ta nhân cơ hội đánh úp thì chúng ắt trở tay không kịp, đánh một trận là tan!"
Ấy thế mà khi quân Sói Đen xông vào doanh trại quân Tống ngoài thành Tiêu Châu, quân Tống đã rút lui thần tốc, khiến quân Sói Đen được phen vồ hụt.
Đêm đến, một chàng trai mảnh dẻ mặc áo choàng mũ đen đi vào đại trướng Nguyên soái. Anh ta cởi chiếc mũ trùm đầu thùng thình, để lộ gương mặt tuấn tú da trắng môi son.
Chu Thái sư ngồi ngay ngắn đường bệ, ngẩng đầu nói với anh ta bằng chất giọng sang sảng như chuông: "Tô đại nhân."
Tô Ôn Duẫn mỉm cười nhẹ nhàng, chắp tay vái chào: "Hạ quan Tô Ôn Duẫn bái kiến Đại nguyên soái."
Chu Thái sư: "Ngươi ở U châu đã hai năm ròng, vậy mà đến giờ bản soái mới được gặp mặt. Hôm nay nhờ có ngươi mà quân ta rút lui kịp thời, bản soái có lời cảm ơn ngươi."
"Hạ quan cũng như Nguyên soái, dốc sức vì bệ hạ mà thôi."
Chu Thái sư gật đầu khen ngợi rồi nói: "Cảnh Đức nói với ta rằng theo tin tình báo của ngươi, Nhị hoàng tử nước Liêu đang rắp tâm chôn sống mười vạn quân Sói Đen ở phủ Đại Đồng phải không?"
"Đúng là có chuyện ấy."
"Thật thế chứ?"
Tô Ôn Duẫn nheo mắt: "Tối nay quân Sói Đen tập kích bất ngờ nhưng phe ta không hề chịu bất cứ tổn thất nào chính là bằng chứng."
Tô Ôn Duẫn bàn bạc với Chu Thái sư thêm một hồi trong trướng lớn, rồi lại trùm mũ lên rời khỏi lều quân. Anh ta vừa đi tới một chỗ ánh sáng tù mù, tứ bề vắng vẻ thì đột nhiên phát hiện sự bất thường, bèn nói ngay: "Lý Cảnh Đức, nếu ngươi dám trùm bao tải đánh ta thì kiểu gì có ngày ta cũng giết ngươi cho hả giận!"
Lý tướng quân đứng sững người.
Tô Ôn Duẫn quay lưng lại, chỉ thấy hai tay Lý Cảnh Đức trống trơn, chẳng có cái bao tải nào ở đây cả.
Lý Cảnh Đức gãi mũi: "Bọn quan văn yếu nhớt chúng mi chỉ biết gièm pha trung thần lương tướng thôi phải không? Rồi rồi rồi, xin đức ngài cứ ngậm miệng giùm cho. Ông đây lí sự chẳng lại mi đâu."
Tô Ôn Duẫn cười khẩy, chẳng buồn đôi co với hắn, xoay gót toan bỏ đi.
"Ê, bản tướng quân đến cảm ơn ngươi đấy." Tô Ôn Duẫn ngoái đầu lại liếc hắn.
Lý tướng quân khệnh khạng đi ra khỏi vùng tối, buông một câu nhẹ bẫng: "Lần này rút quân kịp thời, cảm ơn nhớ."
Đáng ra lúc này Tô Ôn Duẫn phải nói móc một câu cho thỏa, nhưng nhìn thấy miếng vải đen buộc trên tay trái Lý Cảnh Đức, anh ta lại nuốt hết những lời cay nghiệt chua ngoa vào lòng.
"Gièm pha trung lương? Hứ, chỉ có hạng gian thần tiểu nhân như lũ CungTử Phong mới thèm làm trò đấy." Nói đoạn, anh ta phẩy tay áo bỏ đi.
||Chú thích
Chương này sửa "phụ tá" thành "quân sư" cho đúng với hay hơn. Chương trước không để ý từ gốc là 幕僚 (mạc liêu), tức quan lại hoặc người tham mưu trong phủ tướng, soái.
Tui biết là tui nên để quân Hắc Lang cho cân với quân Phi Long của Lý
Cảnh Đức, nhưng tui cứ thấy chữ "lang" lại nghĩ đến con sói lông ben bên Tủ truyện gối đầu giường TvT. cho ai muốn xem bộ lông lang ben ám ảnh đấy.
Lý Cảnh Đức dùng từ "咯" (lo) ở cuối câu, giống như "了" (le) nhưng nhấn mạnh hơn, nên tui mới dùng từ "nhớ" thay vì "nhé" :3
------oOo------
Chương 159
Nguồn: EbookTruyen.Net
Song hỉ lâm môn
Gấp rút hành quân bất kể đêm ngày, mười vạn quân Sói Đen chỉ mất ba hôm đã đến phủ Đại Đồng.
Trong hoàn cảnh ấy, một đội quân bình thường thậm chí phải đề phòng quân Tống tấn công chứ đừng nói đến chuyện cho kị binh đánh úp. Trái lại, quân Sói Đen chẳng những không cần nghỉ ngơi lấy sức mà còn chủ động tấn công. Tuy cuộc tập kích thất bại vì quân Tống đã rút binh ngay nhờ có tin tình báo, nhưng tranh cãi vẫn nổ ra trong quân trướng Tống.
"Quân Sói Đen vừa đến đã làm sĩ khí người Liêu đã tăng vọt! Ta nói từ đầu rồi, phải tranh thủ lúc đội quân này chưa đến mà hạ quách Tiêu châu đi. Bây giờ hay chưa, viện binh đến rồi thì đánh đấm kiểu gì!"
"Đó là mệnh lệnh của Đại nguyên soái, ông không phục thì nói thẳng với ngài ấy."
"Hơ, cái đồ mắt lươn mũi sùi1..."
[1] Gốc:酒糟鼻– bệnh rosacea gây mẩn đỏ, sùi đỏ trên da
Hầu hết các tướng ở doanh trại Tây Bắc có xuất thân bần hàn, giành được chức quan chẳng nhờ gì hơn ngoài hai nắm đấm. Ở quân trướng, hễ Chu Thái sư vắng mặt thì ai to mồm nhất người ấy nắm trùm. Lý Cảnh Đức là người trẻ nhất trong bọn song giọng hắn vang không ai bằng: "Om sòm lắm để người ta cười vào mũi cho à! Đại nguyên soái có dụng ý riêng, đâu phải thứ các ông hiểu được?" "Thế ngươi thì hiểu chắc?"
Lý Cảnh Đức trợn trừng mắt: "Ta hiểu chứ, sao ta lại không hiểu!"
"Hiểu thì ngươi nói đê."
Lý Cảnh Đức xắn tay áo: "Ông đây đếch hiểu, nhưng nắm đấm của ông thì rõ mười mươi."
Thấy hai bên sắp sửa choảng nhau đến nơi, người làm Giám sát sứ như Dư Triều Sinh phải lên tiếng ngay: "Quả nhiên quân Sói Đen là đội quân mạnh như lang hổ. Bình thường từ Thượng Kinh đến phủ Đại Đồng phải mất sáu ngày đường, dẫu phi hết tốc lực cũng phải hai ngày mới đến, thế mà quân Sói Đen chỉ hành quân mất hai ngày và vẫn còn sức đánh úp. Đúng là không thể khinh thường."
Thấy viên quan văn duy nhất trong đại trướng góp lời, các tướng võ đồng loạt quay sang nhìn anh ta, làm Dư Triều Sinh rùng cả mình.
Mấy năm nay Lý Cảnh Đức cũng hay giao thiệp với quan văn, bèn nói: "Giám sát sứ có cao kiến gì chăng?"
Dư Triều Sinh: "Lúc trước quân cứu viện của người Liêu chưa đến, chúng ta có thời cơ tốt nhất để đánh phủ Đại Đồng nhưng Thái sư lại án binh bất động. Theo ngu kiến của hạ quan, có lẽ Thái sư cố tình đợi viện binh nước Liêu đến. Từ năm Khai Bình thứ hai mươi bảy đến nay, Đại Tống ta xây dựng đường quan, lập ty Ngân dẫn đều vì trận đại chiến này. Nếu chỉ chiếm được mỗi phủ Đại Đồng thì chẳng bõ bèn. Mục tiêu của Thái sư là giành lại lãnh thổ ba châu Đại Tống ta để mất trăm năm trước và khiến nước Liêu run sợ đến nỗi trăm năm nữa cũng không dám xâm chiếm lần thứ hai!"
Nghe anh ta phân tích, các tướng mới nãy còn mẹ tao mẹ mày bỗng ngẩn ra, giờ họ mới hiểu dụng ý của Thái sư.
Lý Cảnh Đức nghĩ bụng, tên Dư Triều Sinh này nói vớ va vớ vẩn. Những việc này hắn biết từ lâu rồi, cần gì Dư Triều Sinh phải nói? Nhưng rồi hắn lập tức nghĩ, tuy Dư Triều Sinh là một trong những người lãnh đạo ty Ngân dẫn, nhưng thật ra anh ta không được tiếp xúc với kế hoạch đánh Liêu của ty này. Anh ta chỉ dựa vào chính hiểu biết của mình về thời cuộc để đoán ra điều ấy thôi.
Tự dưng Lý Cảnh Đức thấy khâm phục anh ta quá.
Đầu óc của quan văn đúng là không mọc làm cảnh.
Phiêu kỵ tướng quân Ngụy Suất và Giám sát sứ Dư Triều Sinh đã đến U châu, dĩ nhiên Tứ hoàng tử Triệu Kính và Ngũ hoàng tử Triệu Cơ cũng đã có mặt.
Vừa tới U châu, họ liền giục ngựa không ngừng nghỉ đến đại doanh Tây Bắc để gặp Chu Thái sư.
Triệu Kính lớn hơn Triệu Cơ ba tuổi, đã vào độ trung niên nên người hơi phát tướng. Vừa thấy Chu Thái sư, mắt anh ta đỏ ngầu: "Kính nghe tin hai quân giao chiến mà lòng như lửa đốt, chỉ giận mình ở Thịnh Kinh chẳng thể ra trận cùng. Nay nhờ ân điển của phụ hoàng mà Kính được đến U châu tham chiến, Kính quyết không để phụ hoàng và Thái sư thất vọng."
[2] Vì đây là thời cổ đại nên trung niên tính từ 30 tuổi. 40 tuổi = tráng niên, 50 tuổi = lão niên.
Triệu Cơ nghe thế cũng không chịu thua kém: "Triệu Cơ cũng xin được đánh. Phụ hoàng có tuổi không thể ngự giá thân chinh như hai mươi bảy năm về trước. Ta là con của người, là hoàng tử của Đại Tống, ta nhất định sẽ tiên phong tướng sĩ tắm máu quân thù."
Ánh nến lung linh trong quân trướng, Chu Thái sư nhìn hai hoàng tử đầy thản nhiên. Ông nói: "Có ba vị hoàng tử đồng tâm hiệp lực, lão thần tin trận này quân ta tất thắng."
Nghe thế, nét mặt Triệu Kính và Triệu Cơ cùng méo xẹo đi. Họ nhanh chóng đáp: "Trận này tất thắng!"
Mùng năm tháng Năm, quân Sói Đen và quân Tống đụng độ nảy lửa cách phủ Đại Đồng hai mươi dặm, chém giết mịt mùng trời đất.
Hai ngày trước, Tứ hoàng tử và Ngũ hoàng tử vừa đến U châu đã xin Thái sư cho ra trận. Sau khi họ về, Nhị hoàng tử Triệu Thượng cũng tới, bày tỏ nguyện vọng được thân chinh chiến đấu, ngay đến câu giải thích cũng y hệt hai hoàng tử kia: "Phụ hoàng đã có tuổi. Là con trai người, ta có bổn phận thay phụ hoàng xung trận, tăng sĩ khí cho quân ta."
Thế nhưng khi đại chiến cận kề thì cả ba người mới lòi gan thỏ đế.
Bọn họ đi qua đi lại một cách sợ sệt trong quân trướng của riêng mình. Tất cả biết rõ trận chiến Tây Bắc lần này rất có thể sẽ đóng vai trò then chốt trong cuộc tranh giành ngôi trữ quân, nhưng đao kiếm trên sa trường làm gì có mắt, ngay đến những tướng lĩnh thiện chiến dũng mãnh còn tử trận nữa là đám hoàng tử như họ!
Song Chu Thái sư hoàn toàn không để các hoàng tử xông pha chiến trường. Thậm chí, ông còn không cho họ tham dự những buổi hội nghị trong quân mà sai người tiễn thẳng họ về thành U Châu.
Mùng năm tháng Năm, hai quân giao chiến hòng thăm dò sức địch. Trận chiến này không phân thắng thua, cốt chỉ để phán đoán thực lực của nhau. Sau khi trận đánh kết thúc, Giám sát sứ Dư Triều Sinh trở lại U châu. Vừa về phủ, anh ta nhận được thiếp mời của Nhị hoàng tử Triệu Thượng. Chỉ mấy khắc sau, thiếp mời của Tứ hoàng tử và Ngũ hoàng tử cũng lần lượt gửi đến.
Nếu Cung Tuấn hay Tô Ôn Duẫn ở đây, có lẽ sẽ từ chối khéo chứ chẳng nhận những tấm thiệp này.
Còn Dư Triều Sinh lại nhìn ba tấm thiệp rồi nhớ đến những lời ân sư dặn dò mình.
"Hiến Chi, đây là cơ hội duy nhất để con tự cứu bản thân!"
Thật vậy, vụ án Hình châu lần này là kiếp nạn không ai cứu nổi anh ta. Điều duy nhất anh ta có thể làm là tự cứu chính mình mà thôi!
Dư Triều Sinh ra lệnh: "Ngày mai phủ ta mở tiệc khoản đãi ba vị hoàng tử."
"Vâng."
Cách thành phủ Đại Đồng mười lăm dặm có một quả núi gồ ghề tên là đỉnh Chướng Hổ3.
[3] "Chướng" là ngăn trở, như trong "chướng ngại".
Người ta đồn rằng ở triều đại trước có một con hổ dữ thích chén thịt người thường lảng vảng ở Tây Bắc. Có đội buôn nọ đi ngang qua U châu, nửa đêm thì gặp hổ ở ngoại ô. Con mãnh hổ cực kì hung hãn đã ăn thịt liền ba hộ vệ của đội buôn. Cuối cùng, đội buôn đó tháo chạy ra sau đỉnh Chướng Hổ, còn con hổ bị quả núi cản lại. Nó kẹt sâu trong lòng núi từ dạo đó và không còn xuất hiện lần nào.
Ngày mười chín tháng Sáu năm Khai Bình thứ ba mươi sáu. Quân Sói Đen hùng mạnh của nước Liêu sở hữu đoàn kỵ binh bậc nhất thiên hạ. Họ tiến quân như chẻ tre, vó sắt rầm rập nện lên ngực lính Tống, giẫm nát bấy những thân xác sống sờ sờ.
Lý Cảnh Đức dẫn quân Phi Long rút vào đỉnh Chướng Hổ.
Chỉ huy quân Liêu là viên tướng tên Cổn Trát Nhĩ – một phó tướng không được ban họ. Cổn Trát Nhĩ vừa đánh tan tác quân Phi Long, lẽ dĩ nhiên phải xua quân thừa thắng truy kích.
Không ngờ, tâm phúc Gia Luật Cần của Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca vội vã thúc ngựa lên hàng đầu đại quân, lo lắng can: "Không được đâu tướng quân. Người Tống đặt tên cho ngọn núi này là đỉnh Chướng Hổ, thế núi dựng đứng, hằng ngày vào lúc sáng sớm và chiều tà trong núi đều có sương mù. Chúng ta không thể thừa thắng truy kích được, phải lui binh thôi!" Cổn Trát Nhĩ nghe thế cũng muốn lui binh. "Ông nói thật chứ?"
Gia Luật Cần đáp: "Dĩ nhiên. Nếu chúng ta trúng mai phục của quân Tống thì hỏng việc lớn mất."
Cổn Trát Nhĩ: "Rút quân!"
Thấy người Liêu thu quân, Lý Cảnh Đức núp trong đỉnh Chướng Hổ thở phào nhẹ nhõm, nhưng hắn nhớ kĩ chuyện này.
Ngay đêm đó, Đại tướng Tiêu Hàn nghe thuật lại chuyện Cổn Trát Nhĩ thu quân thì giận đùng đùng: "Đỉnh Chướng Hổ là nơi hiểm trở, nhưng lúc đó là giữa trưa nắng chói, lấy đâu ra sương mù cản lối! Quân ta đang hừng hực khí thế, tại sao không thừa thắng truy kích? Thám tử đã báo tin rằng Lý Cảnh Đức không hề có quân mai phục, ngươi mà đuổi kịp thì tối nay hai vạn quân Phi Long đã thành tù binh của Đại Liêu rồi! Đồ ngu xuẩn, ra lĩnh ba quân trượng!"
Cổn Trát Nhĩ hậm hực lắm, bị đánh cho ba quân trượng.
Hôm sau, Cổn Trát Nhĩ ngầm sai người đổi sữa bò của Gia Luật Cần thành sữa dê chưa sơ chế4. Mùi sữa gây gây xộc lên mũi khiến Gia Luật Cần mửa ra luôn. Ông ta biết thừa Cổn Trát Nhĩ trả thù mình, nhưng thay vì tặng quà xin lỗi để cởi bỏ oán cừu như đáng ra phải thế, ông ta lại hắt sạch bát sữa dê ấy đi.
[4] Sữa dê có thể có mùi hôi của dê, cần phải xử lí để hết mùi Cổn Trát Nhĩ biết việc ấy thì tức sôi gan.
Lúc Gia Luật Cần đến gặp Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca, y cũng đã nghe chuyện, bèn ân cần hỏi thăm: "Ta nghe kể Gia Luật đại nhân bị thổ, giờ đã đỡ hơn chưa?"
Gia Luật Cần hành lễ rồi đáp: "Hạ quan không sao. Có điều từ giờ Cổn Trát Nhĩ chắc chắn càng căm thù hạ quan hơn."
Gia Luật Xá Ca thở dài: "Nếu chỉ dựa vào lũ người Tống kém cỏi thì không thể nào chôn sống mười vạn quân Sói Đen được. Cả tháng nay mới giết được có sáu ngàn tên, chẳng thấm tháp gì."
Gia Luật Cần: "Lần này hạ quan cố tình chọc tức Cổn Trát Nhĩ chính là để tiêu diệt mười vạn quân Sói Đen đấy."
"Quả nhiên Gia Luật đại nhân không bao giờ hành động vô cớ, cũng không khiến bản điện hạ thất vọng. Ngươi định làm cách nào?"
"Đỉnh Chướng Hổ ấy, chính là ngôi mồ hạ quan sắp sẵn cho Cổn Trát Nhĩ và bốn vạn quân Sói Đen! Không chỉ thế, hạ quan cũng sẽ đi cùng khi quân Sói Đen bị tiêu diệt. Dù sau này Thái sư có ngờ vực, điện hạ cũng không cần bận tâm."
Gia Luật Xá Ca cả kinh: "Gia Luật đại nhân, chẳng nhẽ ngài định liều mạng ư?"
Gia Luật Cần nghiến răng, quỳ phục xuống hành lễ, khẩn thiết nói: "Điện hạ là minh quân, là minh chúa đích thực của Đại Liêu ta. Chỉ có điện hạ mới là chúa thượng chân chính của quan lại miền Nam chúng thần! Dẫu hạ quan có bỏ mình ở đỉnh Chướng Hổ thì cũng chẳng có gì nuối tiếc."
Gia Luật Xá Ca lập tức bước đến đỡ ông ta dậy: "Xá Ca nhất định không làm đại nhân thất vọng đâu."
Cùng lúc đó ở đại doanh Tây Bắc, Lý Cảnh Đức cầu kiến Đại nguyên soái, thuật lại toàn bộ chuyện phát sinh trong ngày hôm nay.
"Tên Cổn Trát Nhĩ ấy là thứ mãng phu hữu dũng vô mưu, không hiểu binh pháp. Hôm nay quân ta thua trận bị dồn đến đỉnh Chướng Hổ, thế mà hắn lại rút quân bỏ phí cả cơ hội. Chuyện này báo về trong quân, Đại tướng phe Liêu nhất định sẽ trách phạt Cổn Trát Nhĩ. Đã thế, chúng ta sẽ làm thế nhiều lần nữa! Lần sau, ta lại trốn vào đỉnh Chướng Hổ. Cổn Trát Nhĩ gặp chuyện ấy vài lần nhất định sẽ mất kiên nhẫn mà dẫn quân xông vào đỉnh Chướng
Hổ. Đến lúc đó, ba vạn quân Sói Đen của hắn sẽ vùi thây cả đám."
Chu Thái sư trầm ngâm phút chốc: "Đúng là diệu kế đấy. Nhưng làm thế nào ngươi biết Cổn Trát Nhĩ sẽ chờ đến khi ngươi mai phục sẵn thay vì truy kích ngay lần tới?"
Lý Cảnh Đức đớ lưỡi, nhưng rồi hắn cười to: "Quân Sói Đen có thể coi là đội quân mạnh nhất thế gian, muốn thắng chúng kiểu gì cũng phải trả giá! Nếu Lý Cảnh Đức này sai thì cùng lắm ta đền cái mạng này, cộng thêm mấy mống tàn binh chiến bại. Nhược bằng thắng, Đại Tống ta sẽ không còn phải khiếp sợ con hổ dữ tham tàn luôn rình rập ở Tây Bắc nữa!"
Giờ phút này, Lý Cảnh Đức vẫn chưa biết hắn và Gia Luật Cần chẳng mưu mà hợp.
Ba ngày sau, Kiều Cửu tìm đủ mọi cách truyền tin về đại doanh Tây Bắc. Chu Thái sư mừng rỡ khôn xiết. Ông gọi Lý Cảnh Đức đến, nhìn một lượt rồi nở nụ cười hiếm hoi: "Nếu bây giờ có một kế vừa bảo toàn được quân Phi Long của ngươi, vừa chôn sống được Cổn Trát Nhĩ và ba vạn quân Sói
Đen thì ngươi có muốn nghe không?"
Mắt Lý Cảnh Đức sáng bừng lên: "Nguyên soái nói liền đi ạ!"
Chu Thái sư: "Việc này có liên quan đến ty Ngân dẫn."
Lý Cảnh Đức không đần, hắn liên tưởng ngay: "Lẽ nào mật thám trong nội bộ nước Liêu cũng định khử Cổn Trát Nhĩ?"
"Ta có thể nói cho ngươi, nhưng trước tiên ngươi phải đồng ý một điều đã."
"Việc gì thế ạ? Dù lên núi đao hay xuống biển lửa, Lý Cảnh Đức này cũng không sợ đâu!"
"Ngươi hãy cạo râu đi."
"... Hả?!"
Chu Thái sư nhẹ nhàng nói: "Hãy cạo sạch bộ râu của ngươi đi."
Lý Cảnh Đức: "..."
"Không phải chứ? Nguyên soái, việc này thì liên quan gì đến râu của ta?"
Chu Thái sư vuốt chòm râu mượt mà của mình, cười bảo: "Nghe đồn mấy năm trước ngươi từng chụp bao tải đánh lén người ta trong doanh trại phải không?"
"..."
"Ta đã nói với ngươi rồi, khi không đừng đắc tội với quan văn làm gì. Ngay đến lão phu năm xưa cũng chẳng thèm hơn thua với đám văn nhân Chung Thái Sinh. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, hôm nay có người lấy công báo thù đây. Lý Cảnh Đức, ngươi muốn biết tin tình báo thì cạo râu đi."
Lý Cảnh Đức thẹn chết đi được: "Thái sư, sao ngài lại để ngữ tiểu nhân ấy lôi chuyện quốc gia đại sự bực này ra đùa cợt?"
Chu Thái sư hùng hồn nói: "Tất nhiên là không nên thế. Nhưng lão phu cũng tò mò muốn thấy ngươi cạo râu xong trông ra làm sao."
"..."
Mùng bốn tháng Bảy năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Chu Tử Thư bước thoăn thoắt ra từ bộ Công, cầm theo một bản tấu khấp khởi vào cung diện thánh.
Ngoài điện Thùy Củng, Đại thái giám Quý Phúc thấy Chu Tử Thư đến thì nhanh chân đến gần, khuôn mặt nhăn nheo cười tươi như hoa: "Đường đại nhân đến có việc gì thế?"
Chu Tử Thư khó nén nổi niềm vui, đến thở cũng vội: "Phiền công công báo giúp với, hạ quan Chu Tử Thư có việc xin gặp Thánh thượng."
Quý Phúc đảo mắt: "Có tin vui chăng?" Chu Tử Thư cười.
Quý Phúc bèn trở vào thông báo ngay, lát sau đã quay ra đón Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư đi vào điện Thùy Củng thì thấy Triệu Phụ đang ngồi ăn dưa trên giường la hán. Có hai thái giám tỉ mẩn tách cùi và nhặt bỏ hạt dưa cho hoàng đế, chỉ để lại phần thịt quả long lanh.
Triệu Phụ thấy Chu Tử Thư thì hiền hậu nói: "Cảnh Tắc đấy à, nghe nói ngươi có tin vui cho trẫm phải không?"
Chu Tử Thư giơ cao tấu chương, đang định trình bày thì một tiểu thái giám tất tả xộc vào điện.
Quý Phúc rầy la: "Không biết phép tắc! Ai khiến ngươi vào đây."
Tiểu thái giám lập tức đi tới rỉ tai Quý Phúc. Quý Phúc biến sắc, vội vàng thưa: "Bẩm quan gia, có quân báo từ Tây Bắc."
Triệu Phụ bỏ miếng dưa xuống: "Cho vào!"
Quan thám báo sải bước vào điện Thùy Củng, Quý Phúc nhanh nhẹn lấy ống gỗ thám báo đang cầm, hai tay dâng lên Triệu Phụ. Triệu Phụ mở ống gỗ ra xem tình hình trận mạc. Hốt nhiên, ánh mắt ông khựng lại, rồi trong phút chốc, Triệu Phụ cười phá lên. Ông đi đến trước mặt Chu Tử Thư, vỗ vai cậu thật lực.
Chu Tử Thư trông thái độ Triệu Phụ thì đoán ngay Tây Bắc thắng lớn rồi.
Triệu Phụ nói: "Cảnh Tắc à, ngươi đúng là phúc tinh của trẫm. Ngươi vừa vào cung, phía Thái sư đã gửi quân báo về. Lý Cảnh Đức chôn sống ba vạn quân Sói Đen ở đỉnh Chướng Hổ, quân Liêu đại bại rồi! Ngươi và Cảnh Đức thật sự không làm trẫm thất vọng. Đúng là song hỉ lâm môn!" Chôn sống ba vạn quân Sói Đen!
Câu nói ngắn ngủi ấy khiến Chu Tử Thư vừa kinh hồn vừa rần rần nhiệt huyết.
Cậu cung kính nói: "Thần chúc mừng bệ hạ, chúc mừng Đại Tống ta!"
Trong niềm hân hoan vỡ òa, tiếng cười của Triệu Phụ vang lừng cả điện Thùy Củng.
Quý Phúc đứng cạnh lặng lẽ quan sát Chu Tử Thư, thầm nghĩ: Đường Cảnh
Tắc may thế chứ lại, chưa nói câu nào mà bỗng dưng được quan gia khen "song hỉ lâm môn". Dù hôm nay cậu ta có bẩm báo chuyện nhỏ bằng cái mắt muỗi thì công trạng sau này cũng chả vừa đâu. Xem ra chẳng mấy mà Đường đại nhân lên chức thôi!"
||
Lời tác giả:
Quý Phúc: Chẹp, hên thế chứ lại, ngưỡng mộ ghê!
Chu Tử Thư: ??? Ai bảo tui hên? Tui muốn nói chuyện đại sự siêu to khổng lồ mà bị tên Lý Cảnh Đức ngáng cẳng được chưa!
Lý Cảnh Đức: Chà chà lạnh cằm quá đi mất...
Tô Ôn Duẫn: Ship tui ấy hở? Người xứng đôi với Tô Phỉ Nhiên này còn chưa ra đời đâu!
Anh Cunghàng xóm: ... (nhân vật không ra sân khấu hôm nay không có quyền lên tiếng!)
Manh: Tuy tác giả không viết rõ nhưng Manh chợt nhận ra các tướng sĩ Tây Bắc toàn người nghèo khổ, ít học cũng có lí do. Không phải tướng võ nào cũng dốt văn hóa kém mưu mô (không giỏi bày mưu làm sao đánh giặc?), nhưng vùng biên cương thiên nhiên khắc nghiệt, kinh tế nghèo nàn, giặc cướp rình rập, những thế gia như nhà Tô Ôn Duẫn đời nào để con cái ra đó làm tướng. Đèn sách, kinh doanh đều cần vốn liếng, thời gian, chẳng phải con đường cho những người cùng khổ. Quan văn như Chu Tử Thư muốn vững phải có gia thế và theo đúng phe, chẳng nhẽ quan võ lại khác được hay sao? Còn như Lý Cảnh Đức, khoa cử vốn chẳng rộng mở với quy chính nhân như hắn, muốn công thành danh toại chỉ còn cách liều mạng đổ máu ngoài chiến trường. Tướng sĩ Tây Bắc có thể cục tính, không mấy khôn ngoan, nhưng họ rất đáng nể. Còn Chu Thái sư, việc ông chọn dành cả đời để trấn giữ biên cương là một sự hi sinh cực kì lớn lao mà không mấy ai làm được.
Hôm nay phát hiện tác giả viết nhầm Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ thành Thượng Kinh Đại Định phủ và nhầm tuốt luốt về sau, phải sửa lại hết những chỗ dùng Đại Định phủ :))
Thế là hết mục lục chỉ còn một dòng nữa. Đoạn cuối trông thế thôi nhưng phải dài cỡ 13 chương bình thường. Không đi đâu mà vội :3
------oOo------
Chương 160
Nguồn: EbookTruyen.Net
Ta hứa bên em trọn kiếp này
Ngày mười sáu tháng Bảy năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Hữu thị lang bộ Công Chu Tử Thư dâng thư lên điện Thùy Củng xin chỉ cho bộ Tạo cải chế tạo lung tương.
Lung tương là một thùng sắt kì lạ, nom giống như một toa xe nhưng phải rộng bằng ba căn phòng. Triệu Phụ chẳng thể hiểu "lung tương" là cái gì, sáng chế mới mẻ này quá mơ hồ đối với ông, ngay cả khi Chu Tử Thư tốn tận hai canh giờ để giải thích trên điện Thùy Củng.
Hôm đó, hoàng đế cho vời Thượng thư bộ Công Viên Mục, Tả thị lang Lý Ngọc Đức và Chủ sự bộ Tạo cải Quý Mạnh Văn.
Đến tận lúc sẩm tối, Triệu Phụ mới phẩy tay: "Thôi thì cứ chế tạo cái lung tương ấy đi cho trẫm xem thử."
Chu Tử Thư chắp tay hành lễ: "Tuân chỉ."
Ra khỏi điện Thùy Củng, ngoài Chu Tử Thư và Quý Mạnh Văn – nhà thiết kế chính của lung tương, hai người còn vẫn chưa hiểu lung tương vận hành thế nào và có công dụng ra sao.
Thượng thư bộ Công Viên Mục chau mày: "Đường đại nhân, bản quan trước giờ không can thiệp vào việc của bộ Tạo cải, nhưng bây giờ Thánh thượng đã biết đến lung tương rồi. Ngươi đã tính toán xem việc dựng lung tương dự kiến tốn bao nhiêu thời gian chưa?"
Chu Tử Thư: "Bẩm Thượng thư đại nhân, lung tương đã được hoàn thành và thử nghiệm rồi." Đời nào cậu ra trận mà thiếu chuẩn bị chứ.
Viên Mục cũng đoán thế: "Đã vậy, sao lúc nãy ngươi không nhắc đến trong điện Thùy Củng để hôm nay đi xem tận mắt luôn?"
Chu Tử Thư: "Tuy dùng được, lung tương vẫn chưa thể phát huy công dụng lớn nhất. Thần thiết tưởng, chỉ cần chế tạo ra cỗ máy phối hợp tốt với lung tương, Thánh thượng trông thấy thể nào cũng nhận ra sự ưu việt của nó ngay."
Bốn người tạm thời chia hai ngả.
Viên Mục thở dài với người tâm phúc là Lý Ngọc Đức: "Rõ là, sóng Trường Giang lớp sau xô lớp trước."
Lý Ngọc Đức đáp: "Chắc gì cái lung tương ấy đã hữu dụng như Đường Cảnh Tắc nói."
Viên Mục: "Thế thì ngươi chưa biết hôm nay tin Tây Bắc đại thắng đã truyền về kinh rồi. Đường Cảnh Tắc gặp đúng dịp may, dù lung tương không có công dụng gì đáng kể thì hoàng thượng cũng thưởng cho cậu ta thôi!"
Trong lúc đó, Quý Mạnh Văn vẫn chưa thôi run rẩy lẩy bẩy, hồn vía lên mây.
Về đến bộ Tạo cải, Quý Mạnh Văn bỗng dưng quỳ huỵch xuống trước mặt Chu Tử Thư, dập đầu đánh cộp. Chu Tử Thư nheo mắt, quan sai đứng cạnh vội đỡ ông ta dậy. Chu Tử Thư nói: "Quý đại nhân, quan Đại Tống không thể quỳ gối hành lễ, sao ngươi lại làm vậy."
Giọng Quý Mạnh Văn khàn đi: "Hạ quan chỉ là người thợ thủ công nhỏ nhoi, chưa bao giờ dám mơ đến ngày vào cung diện thánh, hưởng may phúc nhường này. Đội ơn đại nhân cất nhắc, đại nhân có ơn tái tạo với tiểu nhân!"
Chu Tử Thư: "Ngươi đã quên điều lệ mới sửa đổi của bộ Công rồi hay sao?"
"Dạ?"
"Chẳng cứ quan viên như ngươi, ngay cả một người thợ cũng chỉ có nhiệm vụ chế tạo thật tốt những thứ cần làm chứ không phải quỳ gối khắp nơi."
Quý Mạnh Văn đớ lưỡi. Nhìn nét mặt bình thản tựa gió mây của Chu Tử Thư, ông ta đột nhiên ý thức được mình là một viên quan chân chính.
Chu Tử Thư: "Lung tương chế tạo đến đâu rồi?"
Quý Mạnh Văn chẳng còn thì giờ mà nghĩ vẩn nghĩ vơ nữa, vội dẫn Chu Tử Thư sang bộ Tạo cải xem.
Quý Mạnh Văn: "Lung tương đã sẵn sàng đưa vào sử dụng bất cứ lúc nào, mỗi tội hạ quan không hiểu đại nhân nói thế với Thượng thư đại nhân nghĩa là sao."
Chu Tử Thư: "Ta nhớ tổ tiên nhà ngươi vốn làm nghề rèn sắt đúng không?"
"Chính thế ạ."
"Đã thế, hãy biến lung tương thành công cụ rèn sắt đi!"
Suốt tháng bảy, triều đình và dân chúng cả nước cùng tưng bừng với chiến thắng lẫy lừng ở Tây Bắc.
Tuy việc Đại Tống thắng Liêu không phải bất khả thi, nhưng đây là lần đầu tiên họ thắng to đến vậy. Ấy là chưa kể quân Tống còn làm cỏ ba vạn quân Sói Đen! Chính quân Sói Đen – nanh vuốt của nước Liêu đó! Hoàng đế mừng rỡ khao thưởng ba quân, ban ngay cho Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức tước Hộ quốc công nhất phẩm, cha truyền con nối ba đời.
Thắng lợi vẻ vang này đã thổi bùng lên sĩ khí của quân Tống và đập tan ý chí quân Liêu.
Phó tướng quân Sói Đen Cổn Trát Nhĩ trúng tên lạc, bỏ xác trong đỉnh Chướng Hổ. Tham mưu theo đoàn Gia Luật Cần may mắn sống sót nhưng bị trúng tên ở đùi phải. Khi rút về đến phủ Đại Đồng, ông ta phải cưa cụt cái chân đó mới giữ được mạng sống.
Sau trận đánh ấy, người Tống thì hân hoan mừng rỡ, người Liêu thì khiếp đảm tột cùng.
Ở Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, Tam hoàng tử nước Liêu Gia Luật Hàm bàng hoàng thốt lên: "Thái sư, đó là quân Sói Đen kia mà, làm sao ba vạn quân Sói Đen phe ta trúng mai phục của người Tống để rồi tử trận đơn giản như vậy được? Chuyện này quá vô lí! Nhất định Gia Luật Xá Ca đã ngấm ngầm giở trò!"
Vẻ mặt của Cungtử Thái sư lúc này thật âm u khó đoán.
Gia Luật Hàm nhè đầu Gia Luật Xá Ca cách đó ngàn dặm mà chửi xối xả, thình lình bị Gia Luật Định quát cho một câu lạnh ngắt: "Đủ rồi, câm mồm vào!"
Gã im bặt tức thì, nhưng trông ánh mắt là đủ biết Gia Luật Hàm bất mãn ra trò.
Gia Luật Định nói: "Ngươi ra ngoài trước đi."
Gia Luật Hàm nghiến răng thi lễ rồi rời khỏi tẩm cung hoàng đế.
Trên giường rồng, hoàng đế nước Liêu với khuôn mặt xanh xao và thân hình còm cõi đã nằm mê man suốt bao ngày nay. Thật ra, kẻ chủ mưu làm vua Liêu bị thương trong lúc đi săn không phải Gia Luật Định và Gia Luật Hàm, nhưng người khiến ông hôn mê ròng rã đúng là Gia Luật Định.
Bên giường rồng của hoàng đế, vị Cungtử Thái sư đường bệ quyền uy cúi nhìn nhà vua sắp rời xa cõi tạm. Rất lâu sau, ông mới đưa tay bảo: "Bê bát thuốc ra đây."
Cung nga sợ sệt để bát thuốc màu nâu lên tay Gia Luật Định.
Gia Luật Định nhìn nước thuốc nâu sậm, ngồi xuống mé giường, rồi ra lệnh cho cung nữ, thái giám trong điện: "Các ngươi lui hết cả đi."
Rõ ràng ông ta chỉ là Cungtử Thái sư, nhưng dưới mệnh lệnh của ông ta, người hầu kẻ hạ đều ra khỏi tẩm điện hết.
Trong khoảnh khắc, tẩm cung khổng lồ của vua Liêu chỉ còn mỗi Gia Luật Định và nhà vua đang chìm trong cơn mê.
Gia Luật Định múc từng thìa thuốc, giọng ông khỏe khoắn trầm vang, rất đỗi bình tĩnh: "Bệ hạ bị thương ra sao, đến giờ thần vẫn không hề hay biết. Hôm đó ngoài thuộc hạ của Nhị hoàng tử ra thì chỉ còn người của lão thần có cơ hội hạ thủ. Trên đời này, người mong ngài băng hà nhất chính là lão thần đây, nhưng chuyện lần này... không phải do thần làm. Chỉ có thể là Gia Luật Xá Ca mà thôi."
"Bệ hạ ơi, cả đời ngài oai phong thần võ, có ngờ đâu đứa con trai ngài thương yêu nhất lại muốn ngài chết."
"Gia Luật Xá Ca là đứa khôn ngoan có nọc1. Lão thần không hiểu nổi vì sao y hành động như thế, nhưng rốt lại thì y đã làm rồi. Ba vạn quân Sói Đen cũng bị y chôn sống cả. Lão thần chưa từng nghĩ đến việc giết vua soán vị, kể cả chuyện đầu độc sát hại ngài lão thần cũng chẳng tính tới. Ngay cả thứ thuốc này cũng chỉ khiến ngài mê man bất tỉnh, thực lòng lão thần chưa bao giờ mong ngài mất!"
[1] Gốc: 阴狠狡诈 (âm ngoan giảo trá). "Khôn ngoan có nọc", hoặc "khôn có nọc" là kiểu khôn ngoan thâm độc, ranh ma xảo quyệt ấy.
Tiếng nói ngưng lại trong thoáng chốc, tẩm cung vua Liêu chìm trong im lìm tĩnh mịch.
"Nhớ khi xưa ngài phóng ngựa ra trận, ngự giá thân chinh, vua tôi chúng ta trên dưới một lòng, dẫn dắt kỵ binh Đại Liêu tung hoành khắp thảo nguyên."
"Ngài của thuở ấy là đại bàng dũng mãnh trên đồng cỏ, là sói lớn gầm thét của Đại Liêu ta."
"Thần chưa bao giờ lãng quên điều ấy!"
Tiếng than xé lòng như tiếng rú, dội oang oang trong tẩm cung.
Khoảng lặng sau đó dài như vô tận.
Chợt có tiếng "cộp" vang lên, bát thuốc bằng sứ trắng bị Thái sư đặt xuống chiếc bàn dài kế bên. Vị Thái sư già cỗi nhưng oai hùng bước từng bước về giường vua Liêu. Ông cúi nhìn vị vua trên giường rồng, bình tĩnh đưa tay bít miệng mũi nhà vua – tự nhiên, dễ dàng chỉ như đang hít thở.
Nửa canh giờ sau, Cungtử Thái sư rời tẩm cung hoàng đế, tới điện Tam hoàng tử.
Gia Luật Hàm vội vã chạy ra: "Bái kiến Thái sư đại nhân."
Gia Luật Định cho tả hữu lui hết rồi nhìn về phía Gia Luật Hàm, hờ hững bảo: "Bệ hạ băng hà rồi."
Gia Luật Hàm đứng sững như trời trồng, lảo đảo lùi ra sau một bước. Dù có đần độn hơn nữa, gã cũng hiểu ngay ý Gia Luật Định. Gã ngước nhìn Cungtử Thái sư như thể không dám tin vào tai mình.
Gia Luật Định lạnh lùng nói: "Tạm thời đừng công bố vội. Nhị điện hạ đã muốn đồng hành với quân Sói Đen đến phủ Đại Đồng thì cứ để y đi. Dĩ nhiên, y không việc gì phải trở lại."
Giờ phút ấy, trên cõi đời này chỉ có cung nga thái giám trong tẩm cung Liêu đế biết rằng ông ta đã chết. Ngoài họ ra, người biết chuyện chẳng còn ai khác ngoài Cungtử Thái sư Gia Luật Định và Tam hoàng tử Gia Luật Hàm.
Tây Bắc thắng to, ở Đại Tống đâu đâu cũng thấy cảnh rộn ràng hoan hỉ.
Chu Thái sư và Lý Cảnh Đức phải canh giữ U châu không thể rời vị trí, hoàng đế bèn triệu Phiêu kỵ tướng quân Ngụy Suất và Giám sát sứ Dư Triều Sinh về kinh.
Đã sang tháng Tám. U châu ở miền Tây Bắc, cứ đến mùa đông là tuyết phủ kín thành, cực kì lạnh lẽo, còn bây giờ, thời tiết ở đây đương lúc nóng bức ngột ngạt, cát vàng mù mịt khắp nơi. Lúc Dư Triều Sinh ra khỏi phủ cũng phải đội vải xô để chắn bớt gió cát hoành hành trong thành. Anh ta nhận được thánh chỉ triệu về kinh nên hôm nay phải đến đại doanh Tây Bắc bàn giao công việc.
Bái kiến Chu Thái sư xong, đến tận tối Dư Triều Sinh mới trở lại thành U châu.
Trong màn đêm yên tĩnh, một nhóm quan sai tỏa đi khắp nơi trong thành nhanh như chớp, bắt liền mấy viên quan đang say giấc nồng.
Vụ bắt bớ diễn ra vừa kín kẽ vừa tốc độ, gần như không ai kịp phản ứng giữa đêm khuya. Sáng hôm sau, Dư Triều Sinh áp giải toàn bộ người bị bắt rình rang về Thịnh Kinh.
Phiêu kỵ tướng quân Ngụy Suất thấy Dư Triều Sinh bắt người về theo thì ngạc nhiên lắm: "Dư đại nhân, những người này là ai thế?"
Dư Triều Sinh: "Thưa tướng quân, họ là quan có tội cả đấy."
Ngụy Suất là hạng võ biền xuất thân võ cử2, hoàn toàn không giải mã nổi cách nói úp úp mở mở của quan văn.
[2] Kì thi võ tương ứng với kì thi văn.
Cùm tay cả nút thế kia, chẳng quan có tội chẳng hóa bề tôi có công à?
Ngụy Suất gãi đầu, nói thẳng đuột: "Hầy, dĩ nhiên ta biết họ là tội quan chứ. Nhưng mấy người này phạm phải tội gì hả Dư đại nhân? Chúng ta ở U châu yên lành bao lâu, tại sao đến lúc đi ngài lại bí mật bắt nhiều người vậy?" Dư Triều Sinh cười đáp: "Chủ yếu là quan lại ty Ngân dẫn thôi."
Ngụy Suất sửng sốt lắm, ông ta biết Dư Triều Sinh là một trong các Chỉ huy sứ của ty Ngân dẫn. Giờ quan lại của ty bị bắt giữ, cớ sao anh ta lại cười hả hê đến vậy?
Dư Triều Sinh không hề sai thám báo tâu với triều đình về vụ bắt giữ chớp nhoáng. Ý đồ của anh ta là trở lại kinh thành rồi mới đích thân bẩm báo lên hoàng đế. Thế nhưng ở thành U Châu, Tô Ôn Duẫn vừa nghe tin đã tức tốc tìm hiểu lai lịch nhóm quan bị bắt. Kết quả dò la khiến anh ta tái mặt.
Ngay đêm đó, Tô Ôn Duẫn viết một lá thư mật, sai người quất ngựa hết tốc lực gửi về Thịnh Kinh.
"CungTử Phong mi có chết cũng chả ai thèm tiếc, nhưng nhà mi đừng hòng phá bĩnh đại sự của ta!"
Xe ngựa của Dư Triều Sinh đi không nhanh. Sang đến ngày thứ tư, khi mật thư của Tô Ôn Duẫn gửi về đến Thịnh Kinh thì họ mới đến giữa đường.
Mật thư được gửi thẳng cho Hữu tướng CungThuyên. Sau khi xem xong tin báo, ánh mắt ông không giấu nổi buồn lo. Ông trầm tư suy ngẫm trong thư phòng suốt cả buổi chiều rồi mới gọi tâm phúc của mình đến. Hôm sau, mắt xích then chốt trong vụ án Hình châu là Tôn Thượng Đức đập đầu tự tử trong nhà lao Đại lý tự vì không chịu nổi cực hình.
Ngày kế, Đại lý tự thiếu khanh liền bẩm báo chuyện này lên hoàng đế trên triều.
Chiến thắng Tây Bắc oanh liệt đã khiến Triệu Phụ lơ là vụ án Hình châu mấy ngày nay. Giờ đột ngột nghe tin này, mặt ông đanh lại, cặp mắt lia xuống dò xét từng bầy tôi như thể muốn nhìn thấu khuôn mặt họ.
Người mong Tôn Thượng Đức chết nhất trên đời, chỉ có thể là những kẻ dính líu đến vụ án Hình châu.
Triệu Phụ trầm mặc rất lâu, đoạn ông nhẹ nhàng hỏi: "Tả tướng thấy thế nào?"
Tả tướng Từ Bí tiến lên một bước, cúi đầu thưa: "Lão thần cho rằng đã có kẻ xúi giục, uy hiếp khiến tội quan Tôn Thượng Đức sợ tội tự sát, nhưng vụ án này vẫn có thể tiếp tục điều tra."
Triệu Phụ chăm chú nhìn ông ta một đỗi rồi lại hỏi: "Còn Hữu tướng nghĩ sao?"
Hữu tướng CungThuyên bước lên một bước: "Vụ án này do Đại lý tự và bộ Hình cùng thẩm tra, thần cho rằng hai bộ đã sớm có kết luận." Triệu Phụ không nói thêm gì nữa.
Sau khi tan triều, Từ Bí và CungThuyên cùng đi về một hướng. Hai vị tướng công quyền uy nhất triều đình đều cầm hốt ngọc, bước về cổng Tuyền Vũ một cách khoan thai nhưng vững vàng.
Từ Bí cảm khái: "Cực hình trong nhà lao Đại lý tự đúng là thứ người thường không chịu nổi. Không ngờ Tôn Thượng Đức cố được ba tháng, cuối cùng vẫn thất bại."
CungThuyên cũng thở dài theo: "Tuy chưa vào thiên lao Đại lý tự bao giờ, nhưng lão phu vẫn thường nghe, bất cứ ai vào đó cũng phải trầy một lớp da mới ra ngoài được. Nhưng phần đông bọn họ chẳng còn cơ hội thấy ánh mặt trời."
Từ Bí mỉm cười, khẽ cúi mình hành lễ.
CungThuyên cũng đáp lễ ngay.
Từ Bí: "Cungtướng đi đâu thế?"
"Điện Cần Chính."
"Thế thì không cùng đường rồi, ta từ biệt ở đây nhé."
"Từ tướng đi thong thả."
"Cungtướng khỏi tiễn xa."
Hai người khách sáo với nhau mấy câu rồi cùng quay lưng, ai đi đường nấy.
CungThuyên đến điện Cần Chính, vừa vào nhà cho Hữu tướng đã thấy có bóng người cao ráo đĩnh đạc đương cúi mình ngắm một bông nguyệt quý trong sân. Bộ quan bào đỏ thẫm vốn rất đỗi bình thường trên người quan viên khác bỗng mang dáng vẻ đẹp đẽ rạng ngời và thanh tao khác lạ khi được CungTử Phong khoác trên mình.
Trời phú cho cháu ông tướng mạo hơn người, có mặc gì cũng tuấn tú và cao nhã tột bậc.
CungThuyên: "Sao lại sang đây thế?"
Cung Tuấn quay ra hành lễ: "Hạ quan bái kiến Hữu tướng."
CungThuyên dở khóc dở cười: "Con thái quá thật đấy. Chú cháu mình đều là quan nhất phẩm, giờ con vái ta, chẳng hóa ta cũng phải vái lại con à?"
Cung Tuấn nghiêm nghị nói: "Người đang bái kiến Hữu tướng đại nhân lúc này là Thượng thư bộ Hộ Cung Tuấn."
CungThuyên nhướng mày: "Ồ, thế Thượng thư bộ Hộ tìm bản tướng có việc gì?"
Cung Tuấn nhíu mày, tỏ vẻ nghi hoặc: "Đúng có việc này hạ quan nghĩ mãi mà không hiểu, đành phải đến cầu xin Hữu tướng giải đáp hộ hạ quan."
"Chuyện gì?"
"Tại sao Tôn Thượng Đức lại chết?"
CungThuyên dừng bước, ngẩng đầu nhìn cháu mình: "Người muốn xóa sổ kẻ đó nhất trên đời chính là Từ tướng."
Cung Tuấn cười: "Hữu tướng vẫn chưa trả lời hạ quan, vì sao Tôn Thượng Đức lại chết?"
CungThuyên lẳng lặng nhìn chàng: "Không thể vì Tả tướng muốn diệt khẩu y được à?"
Cung Tuấn thở dài: "Vì sao thúc tổ phải lấy mạng Tôn Thượng Đức?"
CungThuyên biết mình không gạt nổi đứa cháu khôn ngoan lõi đời này, đành phải bảo: "Vào nhà rồi nói!"
Sau khi vào nhà, CungThuyên đưa mật thư của Tô Ôn Duẫn cho Cung Tuấn. Cung Tuấn xem xong cũng sững sờ một lúc lâu. Chàng thở dài: "Thì ra cơ sự là thế. Chẳng phải Phong không hiểu điều thúc tổ làm, nhưng thúc tổ có biết dẫu làm thế cũng chẳng ích gì không? Tôn Thượng Đức chết rồi thì sao? Đại lý tự chỉ có hai cách kết án khi nhân chứng chủ chốt đã chết. Một là chết không đối chứng, kết thúc vội vàng; hai là chết không đối chứng, hết đường biện bạch!"
CungThuyên: "Tôn Thượng Đức chết rồi chẳng nhẽ chưa đủ hay sao?"
Cung Tuấn: "Nếu là người bình thường, chỉ nhường ấy là đủ thể hiện thành ý của chúng ta rồi. Nhưng với Từ tướng mà nói thì như vậy chẳng thấm vào đâu! Từ tướng làm sao có thể tin cái chết của Tôn Thượng Đức sẽ khiến vụ án nhanh chóng khép lại thay vì hết đường chối cãi!"
CungThuyên há lại không biết chuyện này, nhưng ông chẳng còn kế nào khác để cứu Cung Tuấn.
Song Cung Tuấn lại bảo: "Huống hồ, con chưa từng có ý định kết thúc vụ án này một cách vội vàng." Chàng cười thật nhã nhặn, "Chết hóa lại hay, sau này có trăm cái miệng cũng chẳng chối được, chết không đối chứng rồi còn gì."
CungThuyên kinh ngạc quá chừng: "Con..."
Cùng lúc đó, Chu Tử Thư vừa thí nghiệm xong công dụng mới của lung tương. Sau cả một ngày bận bịu, cậu tất tả rời bộ Công về phủ. Vừa về đến phủ Hữu thị lang, Phụng Bút đã đưa một lá thư cho Chu Tử Thư: "Thư từ U châu gửi đến chiều nay ạ."
Chu Tử Thư sửng sốt: "U châu à?"
Thoạt tiên, cậu nghĩ ngay đến CungTiêu.
Từ khi Chu Tử Thư thôi giữ chức Hữu phó ngự sử ty Ngân dẫn, thỉnh thoảng CungTiêu và Mai Thắng Trạch vẫn bí mật viết thư kể cho cậu đôi chút về tình hình nước Liêu. Chu Tử Thư bóc thư ra đọc xong thì càng sửng sốt hơn...
Người viết thư hóa ra là Lý Cảnh Đức!
Trang thư càng đọc càng khiến tim Chu Tử Thư chùng xuống.
Đọc xong cả lá thư, Chu Tử Thư thẫn thờ ngồi trong nhà suốt một lúc lâu. Cậu kề lá thư vào ngọn nến, nhìn trang giấy hóa thành tro đen.
Chu Tử Thư tức tốc thay thường phục đi sang phủ Thượng thư.
Cung Tuấn chưa về nhà.
Chờ tới giờ Tuất một khắc, Cung Tuấn mới về đến cửa. Nghe quản gia báo Chu Tử Thư ghé nhà, chàng có phần ngạc nhiên, bèn vui vẻ đi vào phòng khách, hỏi: "Sao tự dưng lại sang thế? Ta tưởng em bảo dạo này bộ Công nhiều việc nên tạm thời không đến được mà? Em ăn tối chưa?"
Quản gia đứng bên nói: "Công tử đến từ một canh giờ trước."
Cung Tuấn nhíu mày: "Thế thì đã ăn uống gì đâu. Ngươi hầu hạ kiểu gì mà không dâng cơm nước lên cho công tử?"
Quản gia: "Tiểu nhân biết lỗi rồi."
Cung Tuấn: "Làm thêm một đĩa cá giấm Tây Hồ và viên chiên chay đi." Toàn những món khoái khẩu của Chu Tử Thư.
Cung Tuấn dắt tay Chu Tử Thư cùng ngồi vào bàn.
Chu Tử Thư nhìn chàng mà rối ruột rối gan. Cậu không rõ Cung Tuấn đã biết chuyện gì xảy ra chưa. Chàng biết thì cậu sẽ nói một kiểu, còn nếu chưa thì cậu sẽ lựa cách khác.
Ngẫm nghĩ một lát, Chu Tử Thư hỏi: "Sư huynh đi đâu mà giờ này mới về?"
Cung Tuấn liếc nhìn Chu Tử Thư, pha trà cho cậu: "Ở bên phủ thúc tổ về đấy. Công việc ở bộ Công thế nào rồi?"
Chu Tử Thư thong thả nói: "Lung tương đã chế tạo xong, ngày mai là có thể đem trình Thánh thượng. Sư huynh cũng sẽ được chiêm ngưỡng đó." Chẳng mấy chốc, thức ăn đã được dọn lên đầy đủ.
Cung Tuấn gắp thịt cá cho Chu Tử Thư: "Xa nhau bấy nay, tiểu sư đệ ốm đi nhiều đấy."
Chu Tử Thư ăn miếng cá, rồi cứ thế chống cằm chẳng ăn uống gì, chỉ chờ Cung Tuấn đút. Mới đầu Cung Tuấn còn thấy bình thường, nhưng sau khi đút thêm mấy miếng, chàng bèn để đũa xuống, quay sang nhìn Chu Tử Thư. Sóng mắt cậu in nét cười, dung nhan ngời sáng tươi nhuận càng ung dung, dịu ngoan hơn nhờ ánh nến.
"Chờ ta đút cho em hửm?"
Chu Tử Thư lí luận: "Ai đến chơi người đó là khách, ân cần với khách chẳng phải điều nên làm hay sao?"
Cung Tuấn cười: "Nên, nên lắm chứ." Chàng quay ra bảo quản gia, "Đường công tử là khách, bây giờ Đường công tử không buồn động đũa thì chắc chắn tại nhà bếp nấu chưa đủ ngon rồi. Hôm nay ai đứng bếp hãy nghỉ việc đi. Phủ Hữu tướng có đầu bếp từng làm ngự trù, ngươi hãy mời người ấy sang đây nấu lại mâm khác cho Đường công tử."
Quản gia vuốt mồ hôi trán, chưa kịp trả lời thì Chu Tử Thư đã nói: "Nhờ huynh gắp cho ta mấy miếng mà huynh chẳng bằng lòng ư?"
Cung Tuấn: "Đút cho nương tử... Khụ, đút cho phu quân thì Tử Phong lấy làm vui lắm. Còn đút cho khách thì CungTử Phong này xin chịu."
Chu Tử Thư cất cái lườm lạnh băng đi, nói: "Thế thì đút tiếp đi."
Cung Tuấn âu yếm đáp: "Ừ, đút cả đời cũng được."
Chu Tử Thư buột mồm: "Gặp nhau còn khó, đâu ra cả đời."
Cung Tuấn biến sắc. Chàng ngồi lặng thinh rất lâu, đoạn nghiêm túc nói: "Ta đã hứa bên em trọn kiếp này."
Trong thâm tâm Chu Tử Thư cũng biết mình nói dại. Trình độ EQ của cậu chủ yếu nhờ CungTử Phong, Triệu Phụ rèn giũa mà nên, song vẫn kém xa bọn họ, cho nên thỉnh thoảng cậu sẽ vô tình nói lỡ. Nhất là đối với Cung Tuấn, chính vì thoải mái với nhau quá nên càng dễ lỡ miệng.
Chu Tử Thư kéo tay áo Cung Tuấn: "Sư huynh đừng giận."
Cung Tuấn bình tĩnh nuốt cơm: "Ta không giận, chẳng qua thương tâm quá nên bệnh tim cũ tái phát thôi."
Chu Tử Thư: "..."
Nói như thể hôm nào ta cũng chọc huynh phát tức ấy nhở!
Chu Tử Thư dứt khoát mặt dày gác cằm lên vai Cung Tuấn, ghé tai chàng dịu giọng thủ thỉ: "Huynh cứ đau lòng hoài làm ta cũng xót ruột theo này. Đừng giận nữa mà, cùng lắm thì huynh muốn thế nào ta chiều thế nấy, được không?"
Mắt Cung Tuấn lóe sáng, song vẫn vờ như chẳng hề xao động. Chàng thủng thẳng nói: "Lần sau đừng nói thế biết chưa. Tương lai của tiểu sư đệ và ta còn dài lắm, làm sao em biết mai này mình gặp nhau thôi cũng khó khăn?"
Chu Tử Thư nghe thế thì tái mặt, mãi không trả lời được. Nhưng cậu cũng phản ứng nhanh, bảo: "Rồi rồi rồi, sau này ta sẽ uốn lưỡi bảy lần trước khi nói."
Cung Tuấn sửng sốt trong phút chốc, chàng không hề bỏ lỡ thoáng giật mình của Chu Tử Thư.
Họ nhìn nhau một đỗi, Cung Tuấn hỏi: "Em biết rồi à?"
Chu Tử Thư: "..."
Cung Tuấn: "Từ bao giờ em thân với Tô Ôn Duẫn như thế?"
Chu Tử Thư ngạc nhiên: "Tô Ôn Duẫn? Chuyện này thì liên quan gì đến y?"
"Thế thì ai đã nói cho em?"
Chu Tử Thư tự biết không giấu được Cung Tuấn, bèn ngoan ngoãn kể cho chàng: "Lý Cảnh Đức phái người báo cho ta đấy. Lý Cảnh Đức bảo, tuy ta đã thôi chức Hữu phó ngự sử ty Ngân dẫn từ lâu, không còn dính dáng đến vụ đánh Liêu lần này nữa, nhưng hắn biết ta góp sức rất nhiều, đến nỗi suýt thì mất cả mạng, cho nên hắn cảm thấy hắn nợ ơn ta."
Cung Tuấn tự giễu: "Tô Ôn Duẫn thì viết thư cho thúc tổ, Lý Cảnh Đức thì viết thư cho em, thế mà chẳng thấy ai viết thư cho người trong cuộc là ta đây. Hóa ra quan hệ của CungTử Phong với mọi người trong triều tệ hại đến mức ấy."
Chu Tử Thư đến bó tay với chàng: "Nói chuyện nghiêm chỉnh đi nào. Hầy, sư huynh định thế nào đây? Huynh giật dây cho Tôn Thượng Đức chết đấy?"
Cung Tuấn ra chiều chính trực: "Trong lòng tiểu sư đệ, ta là loại gian thần như thế đấy à?"
Chu Tử Thư quả quyết gật đầu: "Đúng rồi."
Cung Tuấn buồn cười quá, ôm ghì cậu vào lòng: "Trên đời này chỉ mỗi mình em được mắng ta mà ta còn phải khen là mắng thiệt đúng, chửi thiệt hay đó biết không?"
Chu Tử Thư chẳng còn lòng dạ nào mà nói chuyện ngoài lề, cậu hỏi lần nữa: "Sư huynh tính thế nào?"
"Sự tình chưa hẳn đã tệ như em và thúc tổ nghĩ."
"Hả?"
"Trước khi tới đây, em đã dự định làm thế nào nếu như ta không biết chuyện này hửm?"
Chu Tử Thư không ngờ tự dưng chàng lại hỏi thế, cậu im lặng một chốc mới đáp: "Ta chẳng có dự định gì hết."
Cung Tuấn: "Giờ mới nhớ ra, mỗi lần ta nói dối đều phải hôn tiểu sư đệ một cái, còn em nói dối thì chẳng phải làm gì. Nghĩ sao cũng thấy lợi cho em mà thiệt cho ta quá. Từ rày Cảnh Tắc mà dối ta thì cũng phải hôn ta một cái đã, chịu không nào?"
Chu Tử Thư thầm bĩu môi, nghĩ bụng: Chuyện này lại cần ta hôn huynh chắc? CungTử Phong huynh là ai cơ chứ, ta chỉ nói ba chữ là huynh biết tỏng ta nói dối rồi, thế mà cũng đòi hôn à?!
Cung Tuấn giải thích: "Nếu chẳng tính toán gì, em đã không dò xét ta bằng mọi cách mà sẽ nói với ta ngay từ đầu để chúng mình cùng tính hướng giải quyết. Nhưng em vừa không nói, vừa dò hỏi ta có biết hay không, chứng tỏ nếu ta không biết thì em sẽ tự xử lí việc này. Em định giải quyết bằng cách nào?" Nói đến đây Cung Tuấn bỗng ngưng bặt. Chàng trợn tròn mắt, sững sờ cúi nhìn Chu Tử Thư: "Em định ôm hết tội lỗi để chịu phạt thay ta đấy à?"
Giọng Chu Tử Thư rầu rầu: "Lung tương đã chế tạo xong, bộ Tạo Cải cũng đi vào nề nếp rồi. Những gì ta có thể đóng góp vốn có hạn, có đi hay ở lại bộ Công cũng chẳng thay đổi là bao. Còn sư huynh thì khác, việc ty Ngân Dẫn chỉ vừa mới bắt đầu, ty Ngân Dẫn không thể thiếu huynh."
Tim Cung Tuấn hẫng một nhịp, không thốt nổi nên lời nữa. Mãi sau, chàng mới ôm siết lấy người trong lòng, bảo: "Nhưng ta cũng đâu thể thiếu em được!"
Chu Tử Thư ngước nhìn chàng.
Cung Tuấn cười chua chát: "Chuyện này xảy ra, nguyên nhân sâu xa vẫn do ta quá tham quyền cố vị, vươn tay quá dài, xía cả vào những chuyện không nên quản. Bệ hạ đa nghi hơn hẳn hoàng đế bình thường. Đến giờ ta cũng không biết mọi chuyện sẽ ra sao một khi Dư Triều Sinh giải người về kinh." Vừa nói, Cung Tuấn vừa cúi xuống hôn lên đuôi mày Chu Tử Thư, "Bây giờ đang lúc rối ren, ta chưa nghĩ ra chước nào giải vây hết, nhưng có tấm lòng này của em, kiếp này CungTử Phong chẳng còn hối tiếc gì."
"Cảnh Tắc, trọn kiếp này ta chỉ có mình em, dẫu chông gai hiểm trở đến mấy, ta quyết không để em phải gánh vác thay ta đâu."
"Em nhớ lấy, không được hành động thiếu suy nghĩ."
Dưới ánh nến và Tuấng, nét mặt CungTử Phong vô cùng nghiêm nghị. Hiếm có khi nào chàng nghiêm trang đến vậy, mỗi chữ nói ra đều là lời gan ruột. Chu Tử Thư cảm động quá đỗi, đồng thời cậu cũng thầm nhủ nếu chuyện đến nước ấy, nhất định cậu sẽ gánh hết tội lỗi cho Cung Tuấn. Những việc ở bộ Công đều không do chính tay cậu làm, huống hồ cậu đã làm xong nhiệm vụ khởi xướng, mai sau phát triển ra sao hoàn toàn không phụ thuộc vào mình cậu, mà phụ thuộc vào mười vạn thợ thủ công của thời đại này.
Dư Triều Sinh muốn tố cáo Cung Tuấn nhúng tay vào việc do thám, cài người của mình vào nằm vùng ở nước Liêu.
Chuyện này thật ra có thể xé ra to mà cũng có thể ém gọn lại, bởi việc do thám nước Liêu vốn là nhiệm vụ Triệu Phụ giao cho Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn, có sự cho phép của ông. Nhưng bây giờ Triệu Phụ đã già lắm rồi, càng ngày càng hay nghi kị. Vị hoàng đế này vốn thích cân đối triều đình, ghét nhất một phe độc đoán. Sự can thiệp của Cung Tuấn bề ngoài thì có vẻ như hợp lí vì chàng là Chỉ huy sứ ty Ngân dẫn, Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn khó lòng qua mắt Cung Tuấn khi sử dụng nhân sự và danh tiếng ty Ngân Dẫn để do thám.
Nhưng một khi hoàng đế đã không muốn anh nhúng tay vào thì anh tuyệt đối không được phép tham dự.
Cung Tuấn dính vào đồng nghĩa với việc quyền lực của chàng quá lớn.
Nhúng mũi cả vào chuyện ngoài phận sự, còn can thiệp sâu như thế.
Không thể biết trước Triệu Phụ sẽ nghĩ về điều ấy như thế nào, nhưng chắc chắn việc này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến Cung Tuấn.
Thế nên Chu Tử Thư mới muốn chịu trách nhiệm vụ này. CungTiêu và Mai Thắng Trạch đều đã bị Dư Triều Sinh bắt về Thịnh Kinh. Vì sao nguồn cơn mọi chuyện không phải Đường Cảnh Tắc cậu từ chức rồi nhưng vẫn sai tâm phúc ngấm ngầm gây rối?
Bọn họ chưa chắc bị phạt nặng vì chuyện này, nhưng ai đứng ra đảm trách lại là vấn đề lớn.
Thời khắc này, lòng Chu Tử Thư nặng trĩu tâm sự, thế nên cậu không phát giác rằng trong lúc nói chuyện, Cung Tuấn đã bất chợt hôn cậu một cái. Cử chỉ ấy vô cùng tự nhiên, cứ như cảm xúc dâng trào đưa lối mà thôi, nhưng mãi sau này Chu Tử Thư mới hiểu...
Ngay cả chấm câu trong lời CungTử Phong bạn cũng chớ dại mà tin!
||
Cái chứ "hứa" phải giải thích tí xíu (đáng lẽ giải thích từ lần trước mà Manh quên TvT). Ngoài nghĩa "hứa hẹn" thì nó còn có nghĩa là "hứa hôn", mình không chắc 100% nghĩa nào chuẩn nhất trong ngữ cảnh này, nhưng về cơ bản Cung Tuấn nói "我许你我的一生" với ý là anh sẽ ở bên em trọn đời.
Trình độ có hạn nên edit vầy thoy chứ hơm biết nàm sao cho hay hơn hết.
Lời tác giả:
Chu Tử Thư: Nhớ năm xưa, ta tin lời CungTử Phong, sau đó thì ta... Thôi đừng hỏi, cứ hỏi là thấy hối hận, hối hận đến bầm cả ruột.
Manh:
Kể cho mọi người tí chuyện ngoài lề. Trong những cuộc chém gió đằng sau việc chuyển ngữ Sơn Hà, chúng tôi gọi Cung Tuấn bằng những mĩ danh như CungVăn Vở, Lươn tướng công, còn Tiểu Thư Lang được gọi bằng cái tên thân mật là chàng trai nhan khống :))
Chú thích
Người đỗ đạt có thể là Võ tiến sĩ, Võ cử nhân, và được bổ nhiệm làm võ tướng trong quân đội. Kì thi thường gồm các phần thi võ nghệ (cung, kiếm, cưỡi ngựa, v...v...) và thi văn (binh thư, phương pháp thao luyện, phép bày trận, giữ thành v....v...). Tham khảo về võ cử ở VN ,
------oOo------
Chương 161
Nguồn: EbookTruyen.Net
Tấc lòng ngay thẳng
Mùng sáu tháng Tám, hoàng đế đích thân tới nha môn bộ Công.
Thượng thư bộ Công Viên Mục và Tả thị lang Lý Ngọc Đức, Hữu thị lang Chu Tử Thư cùng nghênh đón thánh giá.
Mọi người đi xuống hậu viện của nha môn. Trong khoảng sân rộng rãi dựng sẵn một rạp gấm cao to. Dưới cái rạp bằng gấm vàng sáng là một vật thể chừng ba xá1, độc một màu đen trùi trũi, chiếm đến hai phần ba diện tích khoảng sân.
[1] Đơn vị đo độ dài cổ.
Trên đỉnh vật này có một ống khói, hai bên có quan Giám đốc và các thợ thủ công đang làm việc.
"Đây là lung tương mà ngươi bảo đúng không?" Triệu Phụ chỉ vào lung tương, hỏi Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư: "Thưa bệ hạ, chính là nó. Mời bệ hạ ra đây quan sát ạ."
Mọi người cùng theo Chu Tử Thư đi đến chiếc lung tương đen thùi lùi kia.
Chu Tử Thư giới thiệu: "Đây là chỗ đổ than đá vào lung tương, còn đây là lỗ thông hơi. Vì nhiệt độ trong lung tương rất cao nên phải lắp thêm thiết bị làm mát." Chu Tử Thư nói rất nhiều, Triệu Phụ không hiểu chút nào nhưng cũng thấy mới mẻ. Theo chỉ dẫn tuần tự của Chu Tử Thư, mọi người đi tới cuối lung tương.
Viên Mục: "Đây là lò rèn sắt của thợ rèn đây mà."
Quý Mạnh Văn đứng kế bên tiếp lời: "Thượng thư đại nhân nói đúng lắm. Đây chính là bếp lò mà thợ rèn bình thường vẫn hay sử dụng, cái này là đe dùng để đập sắt. Hiệu quả của lung tương không dễ thấy bằng mắt thường, nên cần mượn những công cụ khác để thể hiện công dụng của nó."
Tả thị lang Lý Ngọc Đức nói: "Ta thấy lò rèn này khác với loại thông thường đấy. Như cái búa kia sao lại được mắc với cái gì ở lung tương thế? Nếu định rèn sắt thì bây giờ có phải gọi thợ rèn đến không? Ta không thấy chủ sự bộ Kim ở đây."
Chu Tử Thư: "Bao giờ khởi động lung tương, Tả thị lang đại nhân sẽ hiểu ngay."
Hoàng đế càng hiếu kì với lung tương hơn.
Chu Tử Thư thấy vậy thì không trì hoãn nữa, nháy mắt với Quý Mạnh Văn. Quý Mạnh Văn lập tức vẫy thợ thủ công lại để khởi động lung tương.
Nghe lệnh, thợ lập tức mở nắp đổ than, trút từng xẻng than to vào lò đốt. Nhiệt độ trong lung tương tăng vùn vụt, bằng mắt thường cũng có thể thấy luồng không khí xung quanh trở nên méo mó. Chu Tử Thư dẫn Triệu Phụ lùi ra cổng để quan sát từ xa.
Các thợ thủ công mướt mát mồ hôi, vừa cẩn thận theo dõi nhiệt độ bên trong lung tương, vừa điều tiết mức tản nhiệt, vừa phải đảm bảo độ kín hơi.
Đúng thế, lung tương chính là máy hơi nước phiên bản Đại Tống.
Hai năm trước Chu Tử Thư đã nhờ Diêu Tam tìm ra nhiều mỏ than đá ở nước Liêu và đem về rất nhiều than. Lãnh thổ của nước Liêu trong thời điểm hiện tại rộng lớn bạt ngàn, nhiều mỏ than đá lớn nổi tiếng sau này đều nằm trên đất Liêu cả. Có nguyên liêu, Chu Tử Thư đã chỉ đạo thợ thủ công ở xưởng Đường thị thí nghiệm chế tạo máy hơi nước từ rất sớm.
Ở thời hiện đại, bất cứ học sinh cấp hai nào cũng biết máy hơi nước do Watt phát minh đã khởi đầu Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.
Mỗi một cuộc cách mạng công nghiệp là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất.
Nguyên lí của máy hơi nước không phức tạp, chỉ đơn giản là sử dụng hơi nước để vận hành máy thay cho sức người truyền thống, thậm chí thay thế cả những lực tự nhiên như sức nước. Song việc này nói thì dễ, làm thì khó như lên trời.
Kiếp trước Chu Tử Thư là trai bách khoa, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc cậu có khả năng chế tạo hẳn một cỗ máy hơi nước với trình độ sản xuất hiện giờ. Chẳng cao xa như máy hơi nước, ngay đến một dụng cụ chạy bằng hơi nước đơn giản cậu cũng không thể làm ra! Thế nên trước khi cậu tiếp quản bộ Công và tự tay gây dựng nên bộ Tạo cải, máy hơi nước ở xưởng Đường thị đã gặp bế tắc trong thời gian rất dài.
Chỉ đến khi Chu Tử Thư được thăng làm Hữu thị lang bộ Công, có sự hậu thuẫn của Triệu Phụ và cả nước Đại Tống cũng như cơ hội hợp tác với các thợ thủ công tài ba nhất thiên hạ, lung tương mới được chế tạo thành công như bây giờ.
Chu Tử Thư hiểu hoàng đế rất rõ. Triệu Phụ chưa bao giờ cần những lời giải thích đao to búa lớn nhưng rỗng tuếch. Cái ông ta cần một ví dụ thực tế mà ông ta có thể nhìn thấy, có thể tin rằng nó sẽ khiến mình rạng danh muôn đời.
Thế nên cậu và Quý Mạnh Văn mới dốc hết tâm huyết để kết nối lò rèn với lung tương.
Chu Tử Thư nghiêm trang nhìn chăm chú cỗ máy khổng lồ đen sì dưới ánh mặt trời.
Cỗ máy rít lên một tiếng chát chúa, kéo theo hàng loạt tiếng kim loại va vào nhau ruỳnh ruỳnh. Âm thành như sấm giộng giữa sân khiến ai nấy giật bắn. Đại thái giám Quý Phúc vội giang tay chắn trước người Triệu Phụ: "Hộ giá, hộ giá!"
Viên Mục và Lý Ngọc Đức đều hãi hùng.
Chu Tử Thư chắp tay nói: "Bệ hạ, tuy lung tương vận hành hơi ồn, nhưng thần và các thợ đã thí nghiệm nhiều lần nên đảm bảo độ an toàn ạ."
Triệu Phụ cũng không phải một hoàng đế tầm thường, ông ta chỉ giật mình vì bị bất ngờ thôi. Giờ nghe Chu Tử Thư giải thích xong, ông đẩy Quý Phúc đang chắn trước người mình ra, ôn tồn nói: "Thì ra là thế, Cảnh Tắc, lung tương của ngươi quả thực đã khiến trẫm kinh ngạc đấy."
Tiếng máy vẫn nổ rầm rầm, song Triệu Phụ không màng đến nữa. Những người khác đành kiền trì nán lại trong sân quan sát tiếp.
Năm người thợ liên tục kiểm tra các bộ phận của lung tương, thỉnh thoảng lại tiếp thêm than đá. Hơi nóng phùn phụt bốc ra từ ống khói trên đỉnh lung tương giúp tản nhiệt. Thu hết tất cả vào tầm mắt, Chu Tử Thư than thầm trong lòng. Hệ thống này tiêu tốn quá nhiều năng lượng, nhưng trong điều kiện hiện nay, thợ thủ công chỉ có thể làm đến thế thôi.
Khoảng một khắc sau, lung tương nổ rền một tiếng đinh tai nhức óc. Kèm theo đó, ở lò rèn lắp tại toa cuối bộ máy, cây búa treo trên lung tương bỗng nhiên chuyển động.
Thấy cảnh đó, Triệu Phụ đang bình thản quan sát cũng phải trố mắt ngạc nhiên.
Nhóm Viên Mục, Lý Ngọc Đức đứng kế bên cũng mắt tròn mắt dẹt.
Thoạt tiên, chiếc búa sắt rung lên nhè nhẹ, rồi đột ngột vung lên theo hình bán nguyệt, nện uỳnh lên mặt đe, bắt đầu quá trình rèn sắt.
Choang choang choang!
Búa sắt giáng xuống đe, đập phẳng lì khối sắt nung đỏ được thợ chuẩn bị sẵn. Quan sát cẩn thận có thể thấy ban đầu lực búa chưa đều, nhưng dần dần, cây búa bắt đầu rèn miếng sắt với góc độ và lực đập gần như không đổi.
Theo nhịp quai búa, khối sắt nóng đỏ càng lúc càng dẹp. Chu Tử Thư hô hiệu lệnh, đám thợ tức khắc dừng tiếp nhiên liệu cho lung tương. Quý Mạnh Văn mang tấm sắt rèn phẳng lì dâng lên cho hoàng đế xem.
Tấm sắt đã nguội, trở lại màu đen sì của nó. Triệu Phụ vuốt ve tấm sắt nho nhỏ, chợt ngẩng lên, đôi mắt sắc như mắt ưng nhìn thẳng về phía Chu Tử Thư: "Thứ này giống hệt máy gỗ của Công Thâu Ban trong truyền thuyết, chỉ bấm một chốt bên trong mà khởi động được cả bộ máy."
Công Thâu Ban – ông tổ nghề mộc trong truyền thuyết cũng chính là Lỗ Ban. Những dụng cụ gỗ mà ông làm ra có thể vận hành chỉ nhờ tác động vào một cơ quan.
Đại Tống cũng có những chuyên gia về cơ quan, vài vị trong số đó hiện đang ở bộ Công. Cả bọn họ lẫn Chu Tử Thư đều biết về sự bảo toàn năng lượng. Trên thế giới không có bất kì cỗ máy nào chỉ ấn nhẹ mà rèn được sắt thành dụng cụ.
Chu Tử Thư nói: "Máy gỗ của Công Thâu Ban chỉ có trong truyền thuyết, nhưng lung tương đang đặt sừng sững trước mặt bệ hạ đây."
Triệu Phụ: "Lung tương này có khả năng rèn sắt, trẫm đã thấy rồi. Nhưng theo quan sát của trẫm thì nó hoạt động kém hiệu quả lắm. Việc đập mỏng sắt chỉ cần hai người thực hiện thôi, trong khi sử dụng lung tương cần sức năm người thợ."
Chu Tử Thư không tỏ ra kiêu ngạo hay khúm núm, đáp: "Rèn sắt bằng lung tương cốt là để bệ hạ thấy nó có công dụng thế nào. Lung tương này như một người thợ không biết mệt mỏi, rèn sắt chỉ là một ứng dụng nhỏ của nó. Với năng lượng hơi nước mà lung tương sử dụng, tiềm năng của nó không chỉ dừng lại ở việc rèn sắt."
"Nó còn làm được những gì?" Triệu Phụ bỗng hỏi dồn.
Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn ông đầy trịnh trọng: "Điều này chính thần cũng không dám dự đoán."
Hôm đó, Triệu Phụ cho đòi bốn vị tướng công của điện Cần Chính cùng toàn thể quan lớn nhị phẩm trở lên tới nha môn bộ Công để tham quan lung tương.
Hoàng đế cảm thấy mù mờ quá. Ông ta đã thoáng nhận ra cái lung tương "nho nhỏ" kia không hề đơn giản. Nó giống như bề nổi của tảng băng chìm, cất chứa nguồn sức mạnh không thể dự báo mà hiện giờ ông chưa được chứng kiến, và có lẽ, sẽ chẳng bao giờ được thấy trong kiếp người định sẵn chỉ còn vài năm.
Từ Bí, CungThuyên, Trần Lăng Hải, Cảnh Thiếu Vân... Tất cả những vị quan quyền cao chức trọng của Đại Tống đều đã chiêm ngưỡng lung tương.
Cả Cung Tuấn cũng được chiêm ngưỡng nó, giống như Chu Tử Thư nói từ đêm trước.
Lúc nhìn thấy lung tương, Cung Tuấn lập tức bị choáng ngợp bởi khối sắt đồ sộ cồng kềnh này. Trông vẻ mặt ngỡ ngàng của chàng, Hữu tướng CungThuyên bèn trêu: "Tử Phong, con nhìn thấu tác dụng của lung tương rồi đấy à?"
Cung Tuấn mấp máy môi. Lát sau, chàng mới nói: "Chưa ạ." Giọng chàng có vẻ ngập ngừng.
CungThuyên: "Thế con phản ứng vậy là sao?"
Cung Tuấn: "Thứ con nhìn thấu, là dụng tâm từng phút từng giây của Cảnh Tắc."
Đêm đó, các quyền thần gửi thư tới tấp vào điện Thùy Củng để bày tỏ ý kiến của mình về lung tương.
Từ Bí, Trần Lăng Hải, Mạnh Lãng không bình phẩm gì về lung tương, bởi bọn họ hoàn toàn không hiểu tác dụng của vật này. CungThuyên, Cung Tuấn ủng hộ Chu Tử Thư vô điều kiện, dâng thư xin hoàng đế cho phép bộ Tạo cải chế tạo thêm lung tương.
Trong nhóm này, Thượng thư bộ Công Viên Mục viết một bản tấu dài mười ngàn chữ, trình lên hoàng đế trong buổi chầu hôm sau.
Đêm đó ông đã thức trắng.
Viên Mục đỗ Bảng nhãn từ thời tiên đế, đến năm Khai Bình thứ hai mươi mốt thì được Triệu Phụ bổ làm Thượng thư bộ Công.
Sở trường của một người chưa bao giờ là căn cứ giúp Triệu Phụ bổ nhiệm chức quan. Như Chu Tử Thư chẳng hạn, cậu lên chức Hữu thị lang bộ Công không phải vì cậu có tài làm quan ở bộ đó, mà vì ghế Hữu thị lang bộ
Công đang trống sau khi Tô Ôn Duẫn lên chức Tham tri chính sự điện Cần Chính. Bộ Công là một cơ quan nhàn hạ, vừa ít quyền thế vừa bị các bộ khác kìm kẹp. Với người sắp sửa lên hàng tam phẩm như Chu Tử Thư, cậu cực kì hợp với chức Hữu thị lang bộ Công – một chức quan quá độ có tiếng mà không có quyền.
Viên Mục vốn không phải người am hiểu về thủ công, nhưng kể từ khi lên làm Thượng thư bộ Công, ông bắt đầu tìm đọc vô số sách vở về lĩnh vực này.
Nhờ đó mà ngót mười lăm năm nay, Viên Mục vẫn yên vị trên ghế Thượng thư bộ Công. Ngay cả khi các vị trí trong bộ thay đổi hết một lượt, Thượng thư bộ Công vẫn là viên Mục. Như một ông quan giữ thành, ông chưa bao giờ đề ra chủ trương cao siêu nào hết mà chỉ chuyên tâm coi sóc nha môn. Dẫu vậy, ông vẫn là một viên quan bộ Công chân chính.
Viên Mục dâng thư xin hoàng đế đẩy mạnh sản xuất lung tương.
Có lẽ bản tấu mười ngàn chữ đã khiến hoàng đế cảm động, hoặc giả Triệu Phụ đã tin vào vận mệnh trong cõi vô hình siêu nhiên, ngay hôm sau ông hạ chỉ cho bộ Hộ, bộ Lễ phối hợp với bộ Công để ra sức nghiên cứu và phát triển lung tương.
Trong đài Đăng Tiên, Triệu Phụ khoác đạo bào, ngồi xếp bằng ở chính giữa đại điện.
Trước mặt ông là chín ngọn đèn trường minh. Gió đêm hiu hiu lùa vào điện, lay những dải lụa trắng bềnh bồng, hệt như tiên cảnh.
Chu Tử Thư được Quý Phúc dẫn vào đài Đăng Tiên.
Triệu Phụ hẵng còn nhắm mắt tu tiên. Chu Tử Thư không lên tiếng, chỉ lẳng lặng đứng chầu kế bên. Chừng một khắc sau, Triệu Phụ mở mắt. Ông từ từ thở ra luồng khí đục, ngẩng đầu hướng mắt về phía Chu Tử Thư. Qua đôi mắt mỏi mệt từng trải bao cuộc dâu bể, ông nhìn Chu Tử Thư chăm chú hồi lâu, rồi bất chợt vung tay lên. Chu Tử Thư cả kinh, cậu chưa kịp phản ứng, Triệu Phụ đã đẩy bàn tay ra trước rồi khựng lại.
Triệu Phụ thở dài thườn thượt: "Cảnh Tắc, ngươi trông trẫm này. Trẫm tu tiên hơn hai mươi năm ròng nhưng đến giờ vẫn không thể vung chưởng tắt đèn, thế mà cái lung tương của ngươi chẳng cần gì cũng rèn nên sắt. Trẫm tu tiên bấy nhiêu năm, cuối cùng còn kém cả ngươi. Rốt cuộc trẫm mưu cầu tiên đạo để làm gì cơ chứ? Rốt cuộc trẫm muốn tìm kiếm điều gì đây!"
Từ khi Chu Tử Thư lên chức Hữu thị lang bộ Công, đã rất lâu rồi cậu không bị Triệu Phụ hỏi những câu chết người thế này nữa. Cậu cúi đầu giấu đi biểu cảm, trầm tư trong giây lát, đoạn nói: "Người thường tu tiên những mong trẻ mãi vạn năm. Thần đánh bạo xin bệ hạ thứ tội cho, thần mới dám nói hết ạ."
"Khà khà, lúc nào ngươi cũng cẩn thận từng li từng tí như vậy, cứ nói thoải mái đi"
"Vâng. Thần cho rằng bệ hạ tu tiên không chỉ vì chuyện sống chết giống như người thường. Bệ hạ tu với lòng thành trong tâm, lòng cản đảm từ tâm, lòng kính ngưỡng và đoan túc trước trời đất, thần linh. Người thường hay nhắc về ơn nhang đèn, thứ dân thường phụng thờ thần phật, nhưng tín ngưỡng đích thực trong lòng họ chưa bao giờ là thần phật chẳng biết phải tìm chốn nao. Tín ngưỡng của bọn họ là bệ hạ, người ban ơn trạch cho vạn dân, người gìn giữ bình yên cho bốn bể!" Triệu Phụ thoáng sững sờ.
Chu Tử Thư càng nói càng trơn tru: "Bệ hạ tu tiên vì trăm họ trên đời, tu tiên vì bệ hạ là hiện thân của đức tin và lòng sùng kính trong toàn dân. Vừa nãy bệ hạ nói rằng mình muốn vung chưởng tắt đèn, nhưng đó chỉ là biểu tượng cho những mong muốn trong lòng bệ hạ mà thôi." Chu Tử Thư ngẩng lên, ánh mắt cậu da diết chân thành, hốt nhiên đốt cháy nội tâm giả dối của Triệu Phụ.
Từng câu từng lời Chu Tử Thư nói ra đều thật với lòng mình: "Mong muốn của bệ hạ chẳng sức nào kham nổi, song những gì người muốn thực hiện đều có ý nghĩa lớn lao với muôn dân thiên hạ và chúng sinh muôn đời. Mong muốn của bệ hạ chính là những việc chúng thần nên làm. Thứ người tu chẳng phải tu tiên, đó là công đức thiên thu vạn đại!" Nói dứt lời, Chu Tử Thư rạp mình vái lạy.
Triệu Phụ nhìn cậu trân trối mãi, khóe môi rung rung, ông bình tĩnh nói: "Trẫm ghi lòng để dạ."
Ánh mắt Chu Tử Thư khẽ dao động, song cậu vẫn chắp tay không nói lời nào.
Đến tận lúc rời khỏi đài Đăng Tiên, Chu Tử Thư mới chùi mồ hôi trong lòng bàn tay, thở phào nhẹ nhõm. Tuy đã thả lỏng, nét mặt cậu càng nghiêm nghị hơn trước.
Vừa nãy, những gì cậu nói với Triệu Phụ có bảy phần giả, ba phần thực.
Triệu Phụ tu tiên vì lẽ gì?
Đương nhiên là vì trường sinh bất lão.
Nhưng Triệu Phụ đâu phải không biết trên đời chẳng tồn tại chuyện trẻ mãi không già. Nếu tin vào điều đó, ông ta đã không triệu hòa thượng Thiện Thính vào cung hai năm về trước, rồi viện bừa một cớ mà xử tử.
Như mọi hoàng đế trên đời, Triệu Phụ sở hữu một bộ mặt giả dối, nhưng ông ta có thứ mà rất nhiều hoàng đế không có – khát khao làm nên chuyện vì vinh quang hão huyền, cùng với lòng quyết tâm và nghị lực to lớn đã giúp ông ta thực sự làm nên chuyện.
Sau khi Chu Tử Thư đi, Triệu Phụ cũng thôi tu luyện trong đài Đăng Tiên. Ông khoanh chân tĩnh tọa trong điện, ngẩn người nhìn trận đồ bát quái trên sàn.
"Trong tim trẫm là muôn dân thiên hạ, chúng sinh muôn đời ư?"
"Ngay đến trẫm cũng tưởng là thật đấy."
Trong cung điện trống huếch, lời tự giễu của vị hoàng đế lạnh lẽo như cơn gió rét giữa đêm hè, nhưng rồi ông mím miệng lại. Hồi lâu sau, Triệu Phụ cười: "E rằng trên triều đình chỉ còn mỗi một tấc lòng trẻ thơ2 nhiệt thành, ngay thẳng này thôi."
[2] Gốc: xích tử chi tâm. LMT dịch là "tâm trẻ thơ". Theo quan điểm của Mạnh tử, bậc đại nhân phải giữ được "tâm trẻ thơ" trước dục vọng, danh lợi (TTBG).
Nội trong vài ngày, thánh chỉ mở rộng bộ Tạo Cải đã gửi đến bộ Công, theo sau là tin Thượng thư bộ Hình kiêm Phó chỉ huy sứ ty Ngân dẫn Dư Triều Sinh về đến kinh thành.
Lúc rời kinh, Dư Triều Sinh đi cùng mười vạn đại quân, thanh thế rầm rộ vô cùng. Giờ khi anh ta về kinh, mười vạn đại quân còn ở Tây Bắc, nhưng anh ta vẫn khiến bá quan phải chú mục vì bốn tội quan mình dẫn về.
Dư Triều Sinh: "Tuyên chính ty Ngân dẫn CungTiêu, Chủ sự Mai Thắng Trạch, Phi kỵ úy U châu Lương Tiêu, Tiền Vu. Trước hết cứ nhốt cả bốn vào đại lao bộ Hình, đợi bản quan tường trình lên Thánh thượng rồi bố trí tiếp."
"Rõ."
Đêm đó, chuyện Dư Triều Sinh áp giải bốn tội quan về kinh truyền khắp đô thành.
Cũng trong đêm đó, Dư Triều Sinh đến tận nhà thăm ân sư Từ Bí. Thầy trò thân mật chuyện trò thâu đêm, thức trắng đến tận khi trời sáng.
Ngày hôm sau, Dư Triều Sinh đệ trình một bản tấu. Trước khi dâng lên hoàng đế, tấu chương của các quan đều phải được phê duyệt bởi điện Cần Chính. Hôm nay, người phụ trách xét duyệt tấu chương của quan nhị phẩm là Hữu thừa Cảnh Thiếu Vân. Cảnh Thiếu Vân không thuộc Từ đảng hay Cungđảng, ông là tâm phúc của hoàng đế.
Cầm tấu chương của Dư Triều Sinh trên tay, Cảnh tướng hết sức bối rối, trù trừ mãi không quyết.
Cuối cùng, ông vẫn dâng bản tấu ấy lên bàn vua.
Triệu Phụ có thể coi là vị vua sáng suốt. Hằng ngày, những tấu chương đầu tiên ông đọc luôn là những bản tấu khẩn điện Cần Chính đệ trình. Hôm nay, sau khi mở bản tấu của Dư Triều Sinh ra, lông mày Triệu Phụ khẽ nhướng lên, nét mặt liên tục thay đổi.
Tấu chương của Dư Triều Sinh viết rằng hành tung của nhóm quan lại U châu CungTiêu, Mai Thắng Trạch rất quỷ quyệt, giống như làm việc mờ ám.
Đương nhiên, hành tung của bốn người này quỷ quyệt ra sao, làm việc mờ ám thế nào, hoàng đế đã biết cả. Bốn người đó đều được Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư cài vào nước Liêu và U châu, có nhiệm vụ làm mật thám phá Liêu!
Triệu Phụ để bản tấu xuống bàn. Ông không hề triệu Dư Triều Sinh đến để nói sự thật cho anh ta, cũng không hạ chỉ ra lệnh cho anh ta thả bốn người này. Hoàng đế suy nghĩ rất lâu, ông cứ có cảm giác Dư Hiến Chi không phải người gióng trống khua chiêng bắt bốn mệnh quan triều đình này về Thịnh Kinh, thậm chí còn tống vào đại lao bộ Hình chỉ vì một chuyện cỏn con như thế.
"Còn giấu đòn gì nữa đây?"
Dư Triều Sinh hệt như ân sư Từ Bí của anh ta vậy, làm gì cũng kín đáo, không chuộng nhanh, ác, chỉ cốt không chừa hậu họa.
Anh ta không tấu thẳng lên hoàng đế rằng bốn người này có quan hệ mật thiết với Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Chỉ huy sứ ty Ngân Dẫn Cung Tuấn, bởi anh ta còn muốn quan sát xem hoàng đế biết chuyện này đến đâu.
Triệu Phụ đọc bản tấu ấy xong cũng chẳng nói một chữ trên triều đình, cứ như thể chưa từng thấy bản tấu đó.
Dư Triều Sinh lập tức nhận ra: Hoàng đế biết việc này!
Nhưng rốt cuộc hoàng đế năm được bao nhiêu? Chẳng lẽ việc Cung Tuấn móc nối với bốn người này và những sắp xếp của y ở Tây Bắc, ở nước Liêu đều có sự chỉ đạo của hoàng đế?
Ở phủ Tả tướng, Dư Triều Sinh suy đi tính lại, nói: "Học trò cảm thấy CungTử Phong không nên dính vào việc này. Thánh thượng vô cùng tin tưởng CungTử Phong, nhưng tính Thánh thượng vốn đa nghi, không thích đại thần chuyên quyền độc đoán. Tiên sinh từng nói xưa nay người không thích ôm việc vào mình, người luôn dặn dò Hiến Chi rằng làm quan phải biết đủ. Cựu Tả tướng Kỷ Ông Tập cũng thâu tóm nhiều quyền lực, nhưng ông ấy không hề có những thủ đoạn như CungTử Phong đang làm bây giờ. Học sinh cho rằng, hành động của Kỷ tướng đã chạm ngưỡng dung thứ của Thánh thượng, còn CungTử Phong đã lấn qua lằn ranh ấy rồi."
Từ Bí khẽ mỉm cười, nhấp ngụm trà, nói: "Phải đấy. Nếu đã vậy, con định làm thế nào đây?"
Dư Triều Sinh ngẫm nghĩ một lát: "Đã đối địch với CungTử Phong thì cứ quyết liệt là hơn. Nếu không giáng cho y một đòn trí mạng, để y có cơ hội trở mình thì hậu họa khôn lường. Học trò định tra khảo bốn kẻ kia trước, dứt khoát phải vạch rõ tội CungTử Phong trước mặt Thánh thượng hòng triệt đường xoay xở của y."
Động thái của Dư Triều Sinh qua mắt được vô số người song không giấu được Hữu tướng CungThuyên.
Tan triều xong, CungThuyên lập tức đi tìm cháu mình, vừa mở miệng đã nói ngay: "Con còn cười được à? Có biết Dư Triều Sinh đã viết tấu gửi vào điện Thùy Củng cho Thánh thượng không! Con không sợ y gièm pha hãm hại con trong tấu chương hay sao?"
Cung Tuấn phe phẩy cây quạt gấm trắng, cười bảo: "Thúc tổ đã thấy bản tấu ấy chưa?"
Cái phẩy quạt của chàng làm CungThuyên xốn cả mắt, ông nói bằng giọng không vui: "Dĩ nhiên là chưa. Xét duyệt tấu chương là việc của Cảnh tướng. Ta đâu thân với Cảnh tướng đến mức biết được bản tấu ấy viết gì."
"Thế thì đi đâu mà vội."
"Con...!"
CungThuyên tức quá thể với thằng cháu, ấy vậy mà Cung Tuấn chỉ xòe quạt, nói: "Thúc tổ không việc gì phải lo lắng thế. Giờ mà đã lo thì về sau biết làm thế nào? Thánh thượng đã xem bản tấu ấy từ hôm qua, vậy mà hôm nay ngài chẳng hề phạt con trên triều, chứng tỏ bản tấu ấy chắc chắn không đề cập đến con rồi."
CungThuyên ngẫm một lát: "Con nói cũng có lí, nhưng làm sao con biết hôm qua Dư Triều Sinh không nhắc đến con thì ngày mai y cũng không tố cáo con ngay trên triều chứ?"
Cung Tuấn cười phá lên tức thì, nụ cười khiến gương mặt cực kì tuấn nhã của chàng tươi rói, cặp mắt chói ngời như sao: "Thúc tổ, trước giờ Phong vẫn nghĩ dù đối mặt với bất kì ai, phải biết mình biết người thì mới trăm trận trăm thắng. Dư Hiến Chi là Tiến sĩ cùng khoa với con, đã cùng khoa thi, làm gì có chuyện con không để mắt tới y? Có khi chính y cũng chẳng biết mình bị theo dõi từ lâu rồi. Dĩ nhiên, con vẫn lưu tâm tới toàn bộ Tiến sĩ cùng khoa thi năm Khai Bình thứ mười tám, không riêng gì Dư Hiến Chi."
CungThuyên kinh ngạc thốt lên: "Con thừa thời gian để làm chuyện đó ư?"
Cung Tuấn: "Thú tiêu khiển lúc thư nhàn ấy mà. Thúc tổ quên con có tài đọc gì nhớ nấy rồi hay sao?"
CungThuyên chẳng ừ hử gì, kể cả có tài đọc đâu nhớ đấy đi chăng nữa, ông cũng không lấy đó làm thú tiêu khiển lúc rảnh rang. Thằng cháu này của ông đúng là khác người.
Cung Tuấn cảm khái: "Cả đời con chưa bao giờ coi Dư Hiến Chi là đối thủ."
CungThuyên sửng sốt: "Ta không ngờ con lại đồng điệu3 với y đến vậy!"
[3] 惺惺相惜 (Tinh tinh tương tích): Ví người đồng cảnh ngộ, chung tính cách nên thấu hiểu, nể trọng, giúp đỡ lẫn nhau.
"Đồng điệu ư?" Cứ như thể vừa nghe chuyện gì ngộ nghĩnh ghê gớm,
Cung Tuấn trố mắt, phá lên cười một chặp. Đoạn chàng bảo: "Con người Dư Hiến Chi đã yếu đuối bất tài, thiếu quyết đoán, lại còn hiền lành chất phác! Khi xưa mà y bái Kỷ tướng làm thầy thì con cũng gờm đấy, nhưng y lại theo Từ tướng, mà Từ tướng thì càng hay lo trước lo sau, do dự thiếu quyết đoán. Việc gì con phải coi người như thế là đối thủ của mình?" Ý chàng là: Cả đời Dư Hiến Chi cũng chẳng đọ nổi với con.
CungThuyên cũng biết thế, tuy không hiểu cháu trai mình lấy đâu ra nhiều tự tin đến vậy, song ông vẫn thở dài: "Trần đời ta chưa thấy kẻ ác chê người ngay vô dụng vì quá hiền lành bao giờ cả. Tài, tài thật. Suốt mấy trăm năm Lang Gia Cungthị chúng ta không đứt mạch, đúng thật là đầy kho châu ngọc, dày phúc thư hương. Dễ phải tổn hao tích lũy trăm năm mới sản sinh nổi bậc tham quan gian thần như con đấy, CungTử Phong ạ."
Cung Tuấn thành tâm chắp tay hành lễ: "Thúc tổ quá khen."
CungThuyên: "..."
Cung Tuấn đã ngầm tính sẵn sách lược, còn phía Chu Tử Thư lại bất ngờ xuất hiện một nhân vật không nên có mặt ở nơi này.
Cha của Mai Thắng Trạch lặn lội từ Bắc Trực Lệ tới, chờ cả ngày trời ngoài cổng nha môn bộ Công mới gặp được Chu Tử Thư.
Ông cụ Mai vừa thấy Chu Tử Thư liền quỳ sụp xuống, song Chu Tử Thư đã nhanh tay nâng ông dậy ngay.
Nước mắt giàn giụa, cụ ông tuổi ngoài sáu mươi khẩn khoản cầu xin:
"Đường đại nhân, đại nhân, tôi xin ngài cứu Linh Phủ, xin ngài hãy cứu Linh Phủ với!"
||
Manh: Nhiều đoạn khó nên ngâm lâu quá TvT Ai thấy diễn đạt sida thì nói nhé.
Lời tác giả:
Thật ra lão Triệu nói cũng đúng, cả triều đình chỉ có mỗi Tiểu Thư Lang của chúng ta là người tốt đúng nghĩa. Có câu dày mặt thâm lòng, da mặt Tiểu Thư Lang đã dày lắm rồi, nhưng lòng dạ vẫn chưa đủ đen tối.
CungTử Phong: Mình ta đen tối đủ rồi, tiểu sư đệ cứ càng trắng càng tốt, chỗ nào cũng phải~trắng bóc cơ, thế mới tuyệt. Chu Tử Thư: ...@#$@#%@#%! #! ! !
------oOo------
Chương 162
Nguồn: EbookTruyen.Net
Vua Liêu băng hà
Mai Thắng Trạch, tự Linh Phủ.
Mấy ngày trước, Mai Thắng Trạch và CungTiêu bị Dư Triều Sinh bắt giữ và áp giải về kinh.
Vụ việc này không rầm rộ nhưng cũng chẳng bị che đậy, nên đã nhanh chóng đến tai nhà họ Mai ở Bắc Trực Lệ. Mai gia không phải dòng họ quyền quý lâu đời mà chỉ là nhà hương thân giàu có. Tổ tiên Mai gia từng đỗ Tiến sĩ, sau này còn có thêm hai, ba Cử nhân. Mai Thắng Trạch là Tiến sĩ thứ hai của dòng họ Mai. Hiện giờ anh gặp nạn, gia đình bó tay không thể giúp đỡ, cực chẳng đã, cha Mai Thắng Trạch phải cầu cứu Chu Tử Thư.
Cha Mai Thắng Trạch nức nở: "Đường đại nhân, thảo dân đâu dám quấy quả ngài. Thực tình, thảo dân cùng đường mạt lộ rồi. Giờ Linh Phủ gặp nạn, bị giam giữ ở đại lao bộ Hình, nhà họ Mai tôi tuy không bề thế gì cho cam, nhưng chưa bao giờ để cháu nó ăn đói mặc rách. Tôi xin ngài đoái tới tình đồng song mà cứu Linh Phủ, thảo dân khấu đầu lạy ngài!"
Chưa nói dứt câu, cha Mai Thắng Trạch đã toan quỳ lạy tiếp.
Quan sai theo hầu Chu Tử Thư là người lão luyện trong quan trường, có những câu Chu Tử Thư không tiện nói, người này nhìn ánh mắt cậu là hiểu ý ngay. Hắn đỡ lấy cánh tay người cha, nói: "Cụ ơi cụ làm gì thế này? Đây là nha môn bộ Công, cụ quỳ lạy Hữu thị lang đại nhân ở đây để ngày mai quan Ngự sự khiển trách ngài trên triều đình à?"
Cha Mai Thắng Trạch: "Chuyện này..."
Quan sai: "Mời cụ qua đây hẵng."
Chu Tử Thư khoan thai nói: "Bác à, xin bác cứ theo cháu về phủ trước." Tạm đưa ông cụ rời khỏi nha môn bộ Công, vừa về đến phủ Hữu thị lang, Chu Tử Thư sai Phụng Bút bưng trà rót nước mời ông ngay. Cậu ân cần nói: "Anh Linh Phủ vừa bị áp giải về kinh bốn ngày trước mà hôm nay bác đã đến, chắc dọc đường không kịp nghỉ ngơi mấy phải không?"
Mắt người cha cay xè: "Không dám dối đại nhân, thảo nhân làm sao chợp mắt nổi."
Chu Tử Thư thở dài.
Lần này Mai Thắng Trạch gặp nạn tuy không phải do cậu, nhưng cậu không hoàn toàn vô can.
Người mà Dư Triều Sinh muốn xử lí là Cung Tuấn. CungTiêu hay Mai Thắng Trạch cũng chỉ là phương tiện cho anh ta mà thôi. Triều đại này không xử tử quan văn, nếu không có gì bất ngờ, nhiều khả năng Mai Thắng Trạch sẽ bị giáng xuống thành một viên Huyện lệnh túng bần ở vùng quê hẻo lánh hoang vu nào đó đến hết đời. Còn tái phạm, anh phải chịu bãi quan về quê, không được trở lại quan trường nữa.
Chu Tử Thư trịnh trọng nói: "Bác yên tâm đi, có cháu ở đây, anh Linh Phủ nhất định sẽ ổn thôi."
Cha Mai Thắng Trạch nghe thế mới vững dạ. Nhưng rồi nghĩ đến một chuyện, ông lại nơm nớp lo sợ, rối ruột rối gan: "Đại... đại nhân, giờ này Linh Phủ vẫn kẹt trong đại lao bộ Hình, điều kiện tù đày nào phải thứ người bình thường có thể chịu đựng. Tôi van đại nhân cứu lấy Linh Phủ, ở trong ngục nó không sống nổi mất."
Chu Tử Thư vỗ nhẹ mu bàn tay ông: "Bác chớ lo âu, chuyện này cháu tự có cách, cháu không khoanh tay đứng nhìn đâu."
Bấy giờ cha Mai Thắng Trạch mới thở phào nhẹ nhõm. Không để Chu Tử Thư kịp phản ứng, người cha đã quỳ phịch xuống, rập đầu côm cốp hai lần liền. Ông toan rập đầu đến lần thứ ba thì Chu Tử Thư vội vàng đỡ ông dậy.
"Đại nhân, ngài chính là đại ân nhân của họ Mai chúng tôi, là phụ mẫu tái sinh ra họ Mai chúng tôi. Kiếp sau, già này xin làm trâu làm ngựa để báo đáp ngài!"
Chu Tử Thư: "Bác làm thế này thì cháu tổn thọ mất. Cháu với anh Linh Phủ là bạn đèn sách bao năm nay, cháu đâu thể thấy anh ấy mắc nạn mà không cứu giúp. Bây giờ bác ở lại Thịnh Kinh cũng không ích gì, trước hết cứ về Bắc Trực Lệ đã. Bao giờ sự tình có chuyển biến tốt, cháu sẽ báo cho bác ngay."
Tiễn ông cụ về, nét mặt Chu Tử Thư nặng trĩu.
Cậu gọi Phụng Bút: "Ngươi cầm thủ lệnh của ta đến bộ Hình, làm như vầy..."
Phụng Bút tuân lệnh, cầm thủ lệnh của Chu Tử Thư đi ngay, nhưng chưa ra đến cửa thì Chu Tử Thư đã ngăn lại.
"Thôi, ngươi có đi cũng chỉ công cốc. Bộ Hình là sân nhà của Dư Triều
Sinh, quan viên bộ Hình sẽ nghe y răm rắp, chẳng ai thèm nể mặt ta đâu." Chu Tử Thư suy nghĩ một thoáng rồi cũng nảy ra chủ ý, bèn thay xiêm áo, tranh thủ lúc mặt trời chưa lặn đi ngay sang phủ Thượng thư.
Cung Tuấn đang ăn cơm trong nhà, thấy Chu Tử Thư tới thì vui ra mặt, bèn đứng lên đón.
"Sao lại sang đây thế?"
Chu Tử Thư tất tả chạy sang, trán lấm tấm mồ hôi vì đi vội. Cậu không trả lời, chỉ nhìn Cung Tuấn không chớp mắt. Cung Tuấn hiểu ý, ra lệnh: "Các ngươi lui xuống đi."
Quản gia: "Vâng."
Trong phòng khách chỉ còn hai người CungĐường, Chu Tử Thư không trì hoãn, đi thẳng vào đề: "Đại Tống không xử tử quan văn nhưng không cấm dùng nhục hình. Ta biết bộ Hình và Đại lý tự có rất nhiều thủ đoạn bẩn thỉu để hành hạ người ta mà không để lại dấu vết. Sư huynh, lúc trước Dư Triều Sinh không dám chủ quan nên đã dâng tấu để dò xét thực hư chuyện của huynh. Hiện giờ y đã nắm được, nhất định sẽ xuống tay với Đại Nhạc và Thắng Trạch."
Cung Tuấn chẳng nói chẳng rằng, liếc Chu Tử Thư một cái rồi lia mắt đi. Chàng gắp con tôm bỏ vào bát cậu.
"Tiểu sư đệ ăn tôm này."
Chu Tử Thư sững người mất một lúc lâu, cậu không động đũa, cứ nhìn Cung Tuấn.
Cung Tuấn lại gắp thêm cho cậu miếng thịt và một con cua đồng. Giờ đây Chu Tử Thư đã trấn tĩnh hơn hẳn, cậu miên man suy nghĩ, cân nhắc hết thủ đoạn của Dư Triều Sinh, tình cảnh của CungTiêu, Mai Thắng Trạch và cả thái độ của Cung Tuấn hiện giờ. Đoạn Chu Tử Thư thở dài đánh thượt, nói: "Sư huynh không phải người bạc tình bạc nghĩa. Nếu có thể, sư huynh đã ra tay tương trợ từ lâu rồi, nhưng huynh có hai lí do để không làm thế."
Cung Tuấn: "Ồ? Hai lí do nào cơ?"
Chu Tử Thư: "Một là hiện giờ sư huynh không tiện cứu họ ra. Huynh vốn đã bị hàng vạn con mắt săm soi, nếu giúp đỡ, chỉ sợ sẽ thành mục tiêu cho người ta chỉ trích. Hai là... có lẽ CungTiêu và Mai Thắng Trạch phải chịu khổ một chút thì sư huynh mới thoát thân được. Mặc dù ta vẫn chưa nghĩ ra sư huynh định làm gì, nhưng ta cho rằng huynh có quyết định của riêng mình."
Cung Tuấn cười nhẹ, cầm đũa chỉ vào các món ăn, hỏi: "Tiểu sư đệ còn muốn ăn mấy món này không?"
Chu Tử Thư bất lực nói: "Còn tâm trạng nào mà ăn cơm nữa."
Cung Tuấn để đũa xuống: "Tốt thôi, thế thì vào thư phòng với ta nào. Em mài mực cho ta nhé."
Mắt Chu Tử Thư rực sáng: Rốt cuộc CungTử Phong chịu hành động rồi ư?
Cậu nhanh nhẹn đi theo chàng vào thư phòng, hết sức kiên nhẫn mài mực cho Cung Tuấn. CungTử Phong thong dong lấy một quyển tấu trắng từ trên giá sách xuống, đặt lên án thư. Chàng giơ cây bút lông dê, nhưng chưa hạ xuống thì đã dừng tay lại. Ngắm nghía một hồi, Cung Tuấn lắc đầu cất quyển tấu đó đi, lựa quyển khác dày hơn. Cung Tuấn: "Cảnh Tắc, mài mực cho ta nào." Chu Tử Thư rướn cổ nhìn.
Cây bút lông dê đầu mảnh lia vun vút, từng hàng chữ tiểu Khải thanh tao đẹp đẽ nối đuôi nhau trải kín mít trang tấu. Cung Tuấn múa bút nhanh thoăn thoắt nên Chu Tử Thư đọc theo cũng liền mạch. Nhưng xem một hồi, cậu bỗng biến sắc, thốt lên khe khẽ: "Thư thú tội?!"
Cung Tuấn cười nhẹ tênh, tay vẫn viết lia lịa không dừng.
Chàng viết rất mau nhưng cũng rất nhiều. Chừng nửa giờ sau thì Chu Tử Thư đã thấm mệt. Cậu mài mực cho chàng mỏi nhừ tay, vậy mà Cung Tuấn vẫn chưa viết hết!
Nếu không tận mắt chứng kiến, chắc cả đời Chu Tử Thư không nghĩ rằng CungTử Phong sẽ rút ruột rút gan viết một bức thư thú tội tâm huyết dài hơn vạn chữ!
Hầu hết những bản tấu viết đến hàng vạn chữ chỉ toàn lời văn hoa bóng bẩy, khóc gió than mưa. Trái lại, CungTử Phong có thể viết mạch lạc đến từng từ, khiến người đọc tin phục qua từng câu. Ở nửa đầu bức thư, người đọc sẽ cảm thấy từ đầu chí cuối chàng đích thị là hạng bề tôi đớn hèn gian xảo, còn nửa sau bức thư lại tỏ rõ lòng ăn năn trước sự đã rồi. Biết bản thân phạm phải tội sâu nghiệt nặng, trúc ghi không hết, chàng chẳng dám cúi xin khoan hồng, chỉ xin bãi quan về quê, mong hoàng đế nguôi giận.
Khi Cung Tuấn chấm mực chuẩn bị viết tiếp, Chu Tử Thư xót xa hỏi: "Vẫn chưa viết xong à?"
Cung Tuấn dừng bút, ngẩng lên nhìn cậu: "Chưa hết đâu, tiểu sư đệ mệt rồi hả?"
Chu Tử Thư: "Ta không mệt. Nhưng mà sư huynh làm thế này liệu có tác dụng không? Lá thư thú tội thành tâm này... sẽ khiến Thánh thượng tha thứ cho huynh thật chứ?"
Cung Tuấn cười bảo: "Dĩ nhiên là không rồi. Tội Dư Triều Sinh muốn gán cho ta đã phạm phải giới hạn mà bệ hạ chúng ta đặt ra cho thần tử. Có dâng thư thú tội này lên thì xin xuống phạt nhẹ đã là giỏi lắm rồi."
Chu Tử Thư: "Chỉ thế thôi à?"
Cung Tuấn thành thật nói: "Chỉ thế thôi."
CungTử Phong cực kì thạo phỏng đoán ý vua, ngay đến chàng cũng không chắc thì còn ai dám chắc đây?
Chu Tử Thư vừa lo âu vừa thở phào nhẹ nhõm. Đã thế, xem ra đống chứng cứ giả cậu ngầm sai người chuẩn bị từ trước không phí hoài rồi. Nếu cơ sự đến nước ấy, quan hệ giữa cậu với nhóm CungTiêu, Mai Thắng Trạch sẽ trở thành cái cớ hoàn hảo để cậu gánh tội thay, giúp sư huynh thoát hiểm.
Sau khi viết xong lá thư thú tội dày cộp, Cung Tuấn thổi khô mực rồi quay sang nhìn, bắt gặp ngay bộ mặt trĩu nặng tâm sự của Chu Tử Thư.
Cung Tuấn bước tới, bảo: "Đừng lo lắng làm gì."
Chu Tử Thư nghĩ bụng: Làm sao ta không lo được cơ chứ? Song cậu nói: "Tất nhiên ta tin tưởng sư huynh rồi."
Cung Tuấn cười: "Trông mặt em thế kia, có phải đang nghĩ đến chuyện thế chỗ để ta thoát thân không?"
Chu Tử Thư thầm hoảng hốt, cậu không ngờ Cung Tuấn chỉ nói một câu mà trúng phóc suy nghĩ trong lòng mình, càng không ngờ Cung Tuấn lại nói bằng giọng hân hoan đến vậy.
"Sư huynh còn cười được à?" Chu Tử Thư bặm môi, chẳng nói nữa.
"Em cảm thấy ta không có cách xoay chuyển ý vua, nên phen này thể nào cũng thất bại chứ gì? Thế đã bao giờ em nghĩ có một người khác ta sẽ làm được điều ấy không? Và liệu em có từng nghĩ, lòng vua ta chẳng thể xoay chuyển, nhưng ta có thể tác động lên... một người khác?"
Chu Tử Thư: "Người khác ư?"
Ánh mắt đanh lại, Cung Tuấn điềm nhiên cất tiếng cười, thành tâm cảm khái: "So với ta, Dư Hiến Chi đúng là một vị quan tốt!"
Mùng một tháng Tám năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Tây Bắc báo tin vua Liêu đột ngột băng hà, nước Liêu đại loạn.
Nước Liêu có tổng cộng bốn hoàng tử. Trong đó, Đại hoàng tử và Tứ hoàng tử đã bị giam lỏng hoặc biếm trích từ lâu, không còn khả năng tranh ngôi báu. Tam hoàng tử Gia Luật Hàm ở Thượng Kinh trông giữ bên giường rồng, nghiễm nhiên trở thành nhà vua tạm quyền sau khi vua Liêu mất. Lúc này Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca vẫn ở phủ Đại Đồng. Nghe tin vua Liêu băng hà, y tức đến nỗi mắt long sòng sọc, vung kiếm chẻ đôi cái bàn.
"Sao nó dám! Sao thằng Gia Luật Hàm dám làm thế!!!"
Gia Luật Xá Ca xách kiếm toan lao ra ngoài quân trướng. Gia Luật Cần vội ngăn y lại.
Nước mắt chực trào mi, người đời thường nói tình phụ tử chẳng tồn tại trong nhà vua chúa, thế nhưng vua Liêu lại đối xử với y hết lòng hết dạ.
Ngay cả khi Gia Luật Xá Ca cực kì mong ông ta qua đời, y vẫn đau buồn tột độ khi chính tai nghe tin dữ. "Gia Luật đại nhân, tuy phụ hoàng hôn mê bất tỉnh nhưng thương thế của người đã ổn định từ lâu. Làm sao bỗng dưng băng hà được? Làm sao có thể! Thằng Gia Luật Hàm ăn gan hùm hay sao mà dám giết cha, làm sao nó dám giết vua! Ta phải chém đầu thằng súc sinh đó, để nó không được chết tử tế!"
Gia Luật Cần nói lớn: "Điện hạ! Ngài chớ vọng động, ngài nhất thiết phải giữ bình tĩnh, phải giữ bình tĩnh!"
Nước mắt lã chã rơi trên gương mặt Gia Luật Xá Ca: "Quân súc sinh!"
Gia Luật Cần: "Điện hạ!"
Phải mất một lúc lâu, Gia Luật Xá Ca mới dừng bước, tra kiếm vào vỏ. Cả người y run lên bần bật, mặt đỏ gay. Y nhắm mắt, mặc cho dòng lệ lăn dài từ khóe mi. Sau một hồi, y mở mắt ra, đưa tay lau nước mắt, lấy lại vẻ bình tĩnh đến tàn nhẫn.
"Phải... Xá Ca quá xúc động rồi."
Gia Luật Cần thở phào, nói: "Điện hạ, chúng ta không thể thay đổi sự thật là bệ hạ đã băng hà, nhưng bây giờ chúng ta đang ở phủ Đại Đồng, việc cần kíp ngay lúc này là trở về Thượng Kinh. Mười vạn quân Sói Đen vẫn còn sáu vạn, chúng ta về kinh rồi, Gia Luật Định có thể đòi quân bất cứ khi nào. Điện hạ, sáu vạn quân Sói Đen... vẫn là quá nhiều."
Tia sáng lóe lên trong mắt Gia Luật Xá Ca, y hờ hững nói: "Đúng là nhiều thật."
Gia Luật Cần: "Điện hạ thấy bao nhiêu thì đủ?"
"Phụ hoàng cho ta ba vạn quân Hổ Bôn, hai vạn quân Kim Giáp. Quân Sói Đen là thiết kỵ hàng đầu Đại Liêu, sức một địch mười... Tối đa một vạn, một vạn quân Sói đen là đủ rồi."
Ngoài thành U châu, đại doanh Tây Bắc.
Tô Ôn Duẫn sốt ruột đến nỗi đỏ cả tai, gắt lên: "Ngươi để mặc tên Dư Triều Sinh bắt bớ thế hả? Đất U châu này không phải địa bàn của ngươi hay sao? Y bắt người mà ngươi cũng để yên à?"
Lý Cảnh Đức nhắm mắt bảo: "Y toàn tóm quan văn ty Ngân dẫn, bản tướng quân quản thế nào được..."
Tô Ôn Duẫn mắng: "Quản thế nào ư? Đồ vô tích sự! Y sai người đi bắt thì ngươi phải xua quân ra chặn chứ! Đang thời chiến, ai cần biết y là tướng hay là quan? Trời cao hoàng đế xa, ngươi có hiểu không!"
Lý Cảnh Đức: "Hơ, sao ngươi lại mắng ta!"
Tô Ôn Duẫn phỉ nhổ: "Mắng đồ đầu đất nhà ngươi chứ còn gì! Ai mà biết không dưng vua Liêu lại băng hà. Giành về ba vùng Tiêu Châu rất đơn giản, trận này kiểu gì cũng ăn chắc. Nhưng giữ đất được bao lâu thì phải xem đánh thế nào! Nếu quân Sói Đen không bị tiêu diệt, người Liêu có thể quật lại bất cứ lúc nào ngay khi đại cục nước Liêu ổn định, hoàng đế mới lên ngôi. Lý Cảnh Đức, chẳng nhẽ ngươi muốn đánh Liêu thêm mười năm nữa, đánh tới lúc dân chúng biên cương mười hộ chết chín ư?" Đại Tống, Thịnh Kinh.
Dư Triều Sinh vừa ra khỏi đại lao bộ Hình, ngực đẫm mồ hôi dưới cái nắng cuối thu bỏng da bỏng thịt. Anh ta vừa bước chân vào nhà Thượng thư, một quan sai đã tất tả chạy đến.
Không hiểu sao, Dư Triều Sinh nhìn khuôn mặt đỏ nhừ vì chạy vội của người quan sai mà nghe đánh thịch trong lồng ngực, dấy lên dự cảm chẳng lành.
Quan sai vội vàng báo cáo: "Thượng thư đại nhân, bệ hạ cho đòi, xin ngài vào cung gấp."
Dư Triều Sinh: "Thánh thượng có gì sai bảo thế? Sao không truyền khẩu dụ mà lại triệu bản quan vào cung?"
Quan sai đáp: "Không chỉ riêng đại nhân đâu, bệ hạ triệu tập toàn thể tướng công trong điện Cần Chính nữa."
Dư Triều Sinh ngẩn người: "Phát sinh chuyện gì rồi?"
Quan sai: "Vua Liêu băng hà!"
||Chú thích
Mình tra lại thì 磕头 (khái đầu), 叩头 (khấu đầu) hay 叩首 (khấu thủ) đều chỉ một lễ nghi, mà từ điển thì dịch "khái đầu" là "dập đầu", "khấu đầu" là "lạy rập đầu" =))) nên mình chọn "rập đầu" theomột số tác phẩm xưa. ------oOo------
Chương 163
Nguồn: EbookTruyen.Net
Cả đời này, Hiến Chi chẳng thể sánh kịp Cungđại nhân
Vua Liêu băng hà, hoàng đế khẩn cấp triệu tập bề tôi thân tín vào điện Thùy Củng bàn việc nước.
Vua Liêu đã qua tuổi biết mệnh trời1, do thương tích khắp mình từ thuở trẻ chinh chiến mà những năm gần đây ông ta ốm triền miên. Dù vậy, chuyện vua Liêu đột ngột qua đời ngay lúc này là điều không ai ngờ tới.
[1] Tức 50
Lúc Tống Liêu đang giao chiến thế này, giai đoạn nước Liêu gặp biến cố bất ngờ sau cái chết của nhà vua chính là thời cơ vàng để Đại Tống tấn công Liêu.
Triệu Phụ hỏi gấp: "Chư vị ái khanh có diệu kế nào không?"
Tả tướng Từ Bí hành lễ, nói: "Cho tới nay, Đại Tống ta chưa hề lép vế trong cuộc giao tranh giữa hai nước. Thần cho rằng nước ta đã không còn là Đại Tống của hai mươi sáu năm về trước, chúng ta có thể đánh một trận sòng phằng với nước Liêu. Giờ nước Liêu đang lục đục, chúng ta càng phải thừa thắng xông lên. Nội trong một hai ngày ắt thu về ba châu."
Chẳng phải Triệu Phụ không biết bây giờ là thời điểm cực kì thuận lợi để tiến đánh Liêu, nhưng khi suy nghĩ trong lòng ông ta được Từ Bí nói lên và khẳng định chắc nịch như vậy, hoàng đế lập tức hô liền ba tiếng "hay", rồi hả hê cười lớn. Ông ta đứng dậy đi đến trước mặt các thần tử, hồ hởi nói: "Đại Tống ta có tạo lập được uy thế trên đất Trung Nguyên hay không, từ rày có còn phải khiếp sợ nước Liêu hung ác hay không, đều trông cả vào trận này đấy!"
Hoàng đế xuống chiếu ngay trong đêm, huy động lực lượng toàn quốc tấn công nước Liêu đang rối ren.
Trở về từ điện Thùy Củng, Dư Triều Sinh ngồi bần thần trong phòng Thượng thư bộ Hình mãi mà không trấn tĩnh nổi.
Phải đến lúc vầng dương khuất bóng, sắc trời nhá nhem, quan sai bộ Hình khẽ chân đi vào hỏi anh ta có cần thắp đèn không, Dư Triều Sinh mới choàng tỉnh, ngẩng lên nhìn viên nha nội già mái tóc pha sương. Hồi lâu sau, người nọ phải hỏi lại lần nữa, anh ta mới đứng phắt dậy bảo: "Không cần."
Người nha nội già chẳng hiểu ra làm sao, chỉ thấy Thượng thư đại nhân hối hả ra khỏi nha môn bộ Hình, cứ như bị thú dữ rượt sau lưng.
Việc đánh Liêu cấp bách lắm rồi.
Dư Triều Sinh không tài nào lường trước nổi mình sẽ vấp phải cục diện này khi đưa bốn người CungTiêu từ U châu về.
Lúc ấy, Dư Triều Sinh đang âm thầm dò la ty Ngân dẫn U Châu, không ngờ lại phát hiện Cung Tuấn đã vươn tay đến tận đại doanh Tây Bắc, mượn ty Ngân dẫn để móc nối với các tướng lĩnh U châu. Đó quả là cơ hội trời ban.
Anh ta cố tình đợi đến sát lúc về kinh mới bắt người theo, không chừa cho CungTử Phong cơ hội ứng phó. Như thế, ngay cả khi CungTử Phong biết tin cũng hết đường xoay chuyển tình hình.
Dư Triều Sinh cho rằng CungTử Phong cấu kết với bọn Lý Cảnh Đức để lũng đoạn quyền lực trong triều. Song tại thời điểm đó, anh ta không hề biết công việc nhóm CungTiêu làm cho đại doanh Tây Bắc thực chất là bí mật thâm nhập nước Liêu để thu thập tin tình báo.
Hiện giờ, bốn người CungTiêu bị giam giữ ở đại lao bộ Hình đã khai báo hết những việc được giao phó.
Khi tất cả những quân cờ dần dần được đặt lên bàn, rọi vào mắt Dư Triều Sinh, anh ta mới trông thấy rõ ván cờ khổng lồ này.
Từ ba năm về trước, hoàng đế phái Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư cùng đến U châu chính là để lập mưu đánh Liêu! Để cài người vào nước Liêu, bọn họ đã mượn chính ty Ngân dẫn. Một vụ việc dính líu quá nhiều đến ty Ngân dẫn mà ngay cả hoàng đế có lẽ cũng biết rõ mười mươi dứt khoát không thể giấu CungTử Phong. Song biết là một chuyện, ngấm ngầm can dự vào rất nhiều lại là chuyện khác.
Đúng là một cơ hội tuyệt hảo.
Anh ta có thể giả vờ không biết chuyện thăm dò nước Liêu để tố cáo với hoàng đế rằng CungTử Phong thâu tóm quyền lực, một tay che trời.
Thình lình có tiếng hô điểm canh cất lên vang lừng, vượt qua tường viện dày, truyền đến tai Dư Triều Sinh. Dư Triều Sinh bất giác hoàn hồn. Anh ta ngửa bàn tay, cả lòng bàn tay đẫm mồ hôi lạnh.
Đã sang canh ba, sắp đến giờ vào chầu rồi.
Dư Triều Sinh thức trắng đêm. Cố căng đôi mắt đỏ ngầu, anh ta ngồi vào bàn, nhấc bút định viết một bản tấu đàn hặc Cung Tuấn. Nhưng rồi cây bút cũng chẳng được đặt xuống.
Hôm sau, vừa ra khỏi điện Cần Chính, Chu Tử Thư đã đụng mặt Dư Triều Sinh.
Chu Tử Thư ngẩn người, hành lễ trước: "Hạ quan bái kiến Hình bộ Thượng thư đại nhân."
Dư Triều Sinh cũng hơi ngỡ ngàng, giơ tay đáp: "Không cần đa lễ."
Chu Tử Thư: "Trông sắc mặt đại nhân không được tốt, có phải bị ốm không thế?"
Dư Triều Sinh: "Gần đây công vụ bề bộn, cảm ơn Đường đại nhân đã quan tâm."
Hai người hàn huyên mấy câu rồi ai đi đường nấy.
Chu Tử Thư ngoái lại, chỉ thấy Dư Triều Sinh bước vào điện Cần Chính, đi thẳng về phía nhà Tả tướng.
Hẳn là đi gặp Từ Bí rồi.
Ánh mắt Chu Tử Thư tối đi, cậu quay lưng rời bước.
Dư Triều Sinh đi đến phòng Tả tướng. Từ tướng đang xem báo cáo binh tình Tây Bắc. Thấy Dư Triều Sinh đến, ông cười bảo: "Hiến Chi đến có việc gì thế? Ngồi đi. Hôm nay bận thật, vua Liêu vừa băng hà, chiến sự hai nước căng thẳng, tin quân toàn là tin khẩn, không đọc không được."
Dư Triều Sinh ngồi xuống hỏi: "Tình hình chiến trường Tây Bắc thế nào rồi ạ?"
Từ Bí cười: "Đúng lúc Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca dẫn quân Sói Đen tham chiến ở phủ Đại Đồng thì vua Liêu mất, con bảo còn thế nào được nữa? Y vừa phải chống giặc, vừa phải tranh giành ngôi báu với em trai. Tuy không biết cụ thể ra sao, nhưng ta đồ rằng chẳng chóng thì chầy, nước Liêu cũng bị cuốn vào vòng nội loạn."
Dư Triều Sinh cúi đầu lặng thinh, nội tâm hết sức giằng xé.
Thấy vậy, Từ Bí biết ngày học trò của mình có băn khoăn nên mới đến đây. Ông không dồn ép, chỉ ôn tồn hỏi: "Hiến Chi, con và ta là thầy trò bao lâu rồi?"
Dư Triều Sinh: "Từ khi học trò đỗ Bảng nhãn, may mắn lọt vào mắt xanh của ân sư, đến nay đã mười tám năm rồi ạ."
"Mỗi khi con gặp chuyện khó quyết thường khá kiệm lời." Dư Triều Sinh nghe ông nói mà sững sờ.
"Thấy chưa, chính là như hôm nay đấy. Nhưng con gặp chuyện gì mới được?"
Dư Triều Sinh chần chừ chốc lát, cuối cùng anh nói: "Học trò đến đây vì một việc. Trước khi học trò đến U châu, tiên sinh từng dặn, con là người duy nhất cứu nổi bản thân mình. Tháng trước con dẫn những người kia về, tiên sinh cũng biết. Nhưng tiên sinh chưa biết hết, mấy người đó là gián điệp quân sự mà Thánh thượng gài vào nước Liêu!"
Từ Bí ngưng uống trà, đặt chén xuống, thở dài: "Quả nhiên là thế! Ta đã đoán vậy từ sớm nhưng vẫn không dám chắc. Giờ xem ra chuyện đó là thật. Con cảm thấy việc con bắt giữ họ sẽ ảnh hưởng đến chiến cuộc giữa hai nước chứ gì?"
Dư Triều Sinh không nói gì cả.
Từ Bí: "Hồ đồ! Nếu bốn người đó quan trọng đến vậy, Lý Cảnh Đức sẽ để con bắt họ đi hay sao? Chu Thái sư sẽ cho phép hay sao? E đến đương kim Thánh thượng cũng không bằng lòng với hành động của con! Có lẽ nhưng người đó quan trọng đấy, nhưng không thể là nhân vật then chốt được. Thiếu họ chưa chắc hỏng việc, có chăng là ảnh hưởng đôi chút thôi."
Dư Triều Sinh: "... Học trò biết lỗi rồi. Nhưng nếu bây giờ học trò tố cáo CungTử Phong thật, các đại thần trong triều sẽ dễ dàng đoán ra sắp đặt của Thánh thượng ở Tây Bắc."
Từ Bí bỗng hiểu ra ý định của học trò mình, ông lẳng lặng nhìn Dư Triều Sinh.
"Hiến Chi à, người ta phải biết có những điều không được làm, rồi sau mới biết có những điều được làm2."
[2] Xuất xứ từ sách Mạnh Tử. Lý Minh Tuấn dịch.
Dư Triều Sinh đứng ngẩn ra hồi lâu.
Hôm đó, quân báo U châu vượt tám trăm dặm tức tốc gửi về Thịnh Kinh.
Cùng ngày, Thượng thư Tả bộc xạ kiêm Chỉ huy sứ ty Ngân dẫn CungTử Phong cầu kiến nhà vua, đòi thả bốn người bị Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh giam giữ.
Hoàng đế đã nhận ra sóng ngầm sục sôi trong việc này, ông cười hỏi Cung Tuấn: "Tử Phong à, bốn người này khó thay thế đến vậy ư?"
Cung Tuấn kính cẩn đáp: "Muôn tâu bệ hạ, thần là Chỉ huy sứ ty ngân dẫn, bất cứ chuyện gì phát sinh trong ty thần đều nắm rõ. Thần cho rằng bốn người này cực kì quan trọng, nhất là trong bối cảnh hiện giờ thì vai trò của họ càng thiết yếu."
Hoàng đế cười nhẹ, thủng thẳng xuống chỉ yêu cầu Dư Triều Sinh điều tra rõ ràng rồi khẩn trương thả người.
Hoàng đế là vậy đấy.
Triệu Phụ biết thừa Cung Tuấn nắm được hết những gì mình bố trí ở Tây Bắc, nhưng ông muốn Cung Tuấn chỉ biết thôi chứ không được nhúng tay vào. Nếu muốn Cung Tuấn tham dự, ông ta đã không cắt cử Tô Ôn Duẫn và Chu Tử Thư đi ngay từ đầu. Sai Chu Tử Thư làm việc này là trao cho Cung Tuấn cơ hội đắc thế. Song phái cậu đi nhưng không cho tiết lộ bất kì điều gì với Cung Tuấn cũng là cách ông nghiêm khắc cảnh cáo chàng. Tối đó khi tu tiên, Triệu Phụ thấy lòng mình thảnh thơi và đắc ý vô cùng.
Ông ta nổi hứng, nửa đêm leo lên lầu Hư Cực ngắm nhìn diện mạo Thịnh Kinh, nói với Thái giám Quý Phúc theo hầu rằng: "Trẫm ngụ ở đây, thế mà cả thiên hạ này nằm gọn trong bàn tay trẫm!"
Quý Phúc xun xoe cười: "Thần lục cửu châu, nơi đâu cũng thuộc về bệ hạ."
Triệu Phụ gật gù: "Mọi thần dân trên đất này đều là của trẫm hết."
Từ Bí? CungThuyên? Trần Lăng Hải? Cảnh Thiếu Vân?
Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn, Dư Triều Sinh, Chu Tử Thư...
Chẳng có ai không bị ông ta xoay như xoay dế, ngay cả Kỷ Ông Tập – người tự cho là hiểu ông ta nhất!
Quý Phúc đương nhiên không hiểu ý hoàng đế, nhưng lão đã sống trên đời sáu chục năm có thừa. Hồi lão còn là tiểu thái giám, công công quản sự đã nói với lão rằng khi về già, con người ta đều thích khoe khoang tự phụ. Trên đời không có ai hoàn hảo, không ai làm người khôn mãi, không ai làm kẻ dại hoài được. Chỉ khi chết đi người ta mới biết khờ khạo mãi mãi là khôn.
Triệu Phụ hết sức thỏa mãn khi nghĩ rằng mình đã dồn cứng Cung Tuấn và Dư Triều Sinh vào thế bí.
Nếu Cung Tuấn thực sự nhúng tay vào việc do thám nước Liêu, Dư Triều Sinh nhất định sẽ tố cáo chàng. Còn nếu Cung Tuấn không làm thế, chàng không đời nào tha cho Dư Triều Sinh mà sẽ mượn vụ án Hình châu để bắt chết anh ta.
Nhưng trên cõi đời này, lòng người là thứ khó đón biết nhất.
Mùng bảy tháng Tám, Dư Triều Sinh vừa vào nha môn bộ Hình thì có quan sai đưa thiếp mời tới.
Dư Triều Sinh mở ra xem rồi im lặng rất lâu.
Sau khi kết thúc ngày làm việc hôm đó, anh ta đi đến lầu Thiên Lý. Có người đã đặt trước nhã gian trên tầng bốn, phục vụ dẫn đường cho anh ta lên. Khi Dư Triều Sinh đẩy cửa vào, đã thấy CungTử Phong đứng sẵn bên cửa sổ, đang dõi mắt nhìn ra xa.
Dư Triều Sinh chắp tay hành lễ: "Hạ quan Dư Triều Sinh bái kiến Tả bộc xạ đại nhân."
Cung Tuấn quay lại, vẻ mừng rỡ ánh lên trong mắt: "Dư đại nhân." Chàng sải bước tới, cười bảo: "Không cần đa lễ, mau ngồi xuống đi." Dư Triều Sinh ngồi xuống, hai người bắt đầu dùng bữa.
Lầu Thiên Lý là sản nghiệp của phủ Cảnh vương, có rất nhiều quan triều đình tụ họp ở đây nên nhã gian nào trên tầng bốn cũng thanh u yên tĩnh, có cửa riêng để ra vào, không sợ bị ai bắt gặp.
Hai người cơm nước xong thì bắt đầu tán gẫu, chủ yếu xoay quanh chuyện triều đình. Tình hình chiến sự Tây Bắc độ này cam go, nên trong lúc nói chuyện, Dư Triều Sinh cũng nhận ra hầu như bọn họ chỉ bàn về U châu.
Thế rồi Cung Tuấn bỗng chuyển đề tài: "Dư đại nhân có biết ta đang nhìn ra đâu lúc anh mới đến không?"
Quả thật, lúc Dư Triều Sinh mới vào phòng, Cung Tuấn đang tựa vào lan can nhìn xa xăm, không biết là về đâu. Dư Triều Sinh: "Hạ quan không biết."
Cung Tuấn cười: "Anh hãy theo ta."
Hai người đi tới bên cửa sổ, Cung Tuấn đẩy cửa sổ ra, chỉ về một nơi: "Dư đại nhân thấy chỗ kia có quen không?"
Dư Triều Sinh đã ngoài bốn chục, giờ đang lúc hoàng hôn nhập nhoàng nên anh ta không nhìn rõ ngay được. Sau một hồi nheo mắt ngắm nghía, Dư Triều Sinh mới ngộ ra: "Đó là vườn Quỳnh Lâm hả?"
Cung Tuấn: "Đúng là vườn Quỳnh Lâm đấy." Chàng ra chiều hoài niệm:
"Ba năm một kì thi Đình, Thánh thượng đích thân chọn ra ba người đỗ đầu. Sau khi giáp đệ nhất cưỡi ngựa dạo phố, tất cả Tiến sĩ sẽ tụ hội ở vườn Quỳnh Lâm đêm đó để tham dự buổi yến Quỳnh Lâm chỉ có một trong đời! Hôm nay nghĩ về chuyện xưa, thế mà cũng mười tám năm rồi đấy."
Dư Triều Sinh cũng không kìm được, bùi ngùi theo: "Ai cũng bảo niềm vui trọng đại trong đời là lúc ghi danh bảng vàng."
Cung Tuấn: "Ta nhớ trong buổi yến Quỳnh Lâm, Dư đại nhân cũng từng nói một câu như thế."
Dư Triều Sinh ngẩng đầu nhìn Cung Tuấn bằng ánh mắt ngờ vực. Không hiểu sao, lúc này đầu óc anh ta tỉnh táo hết mức có thể. Anh ta đã quên mười tám năm trước mình nói gì từ lâu, nhưng có giọng nói trong lòng mách bảo cho anh ta điều mà CungTử Phong sắp nói. Câu nói ấy, chắc chắn sẽ đẩy anh ta vào thế không thể quay đầu.
Cung Tuấn chân thành nhìn anh ta, mỉm cười nói bằng giọng khoan thai: "Thánh thượng hỏi tam khôi vì sao chúng ta vào kinh ứng thi, khổ công đèn sách suốt mười năm. Lúc đó Dư đại nhân đã trả lời bệ hạ quá đỗi thành thật, khiến Tử Phong nhớ như in, ngỡ như chỉ vừa nghe ngày hôm qua. Anh đáp rằng mình không chỉ khổ công học tập mười năm, anh đã sôi kinh nấu sử hai mươi năm ròng. Còn câu hỏi vì sao ứng thi làm quan, Dư đại nhân nói..."
Dư Triều Sinh tiếp lời chàng: "Cốt là để tìm ra lí do vì sao phải khổ công đèn sách thôi."
Cung Tuấn cười mỉm: "Đúng thế. Nay mười tám năm đã trôi qua, Dư đại nhân tìm ra lí do ấy chưa?"
Dư Triều Sinh thành kính nhìn CungTử Phong, khom người chắp tay: "Cả đời này, Hiến Chi chẳng thể sánh kịp Cungđại nhân."
Cung Tuấn bất giác xúc động theo, cũng trả lễ y hệt. Lúc cất lời, từng chữ chàng nói đều xuất phát từ đáy lòng, chân thành tha thiết.
"Dư đại nhân cao khiết hơn người. Hôm nay, CungTử Phong xin thành tâm bái phục."
||Chú thích
Gốc là 玩弄在鼓掌中, nghĩa đenlà giữa đùi và lòng bàn tay, nghĩa bóng là thao túng, khống chế ai đó.
"Người xưa quan niệm trên đời có bốn cảnh vui mừng nhất: Đại hạn gặp mưa rào; Nơi xa quê hương gặp bạn cũ; Đêm động phòng hoa chúc; Lúc xem bảng có tên mình thi đỗ." –Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1995) – tác giả Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào.
------oOo------
Chương 164
Nguồn: EbookTruyen.Net
Bản quan tin vào số mệnh
Tuy không có cách cứu Mai Thắng Trạch và CungTiêu ra khỏi đại lao bộ Hình, Chu Tử Thư vẫn đích thân sang bộ Hình một chuyến. Tiếc là chưa thấy người đâu, cậu đã bị quan bộ Hình cản bước.
"Đường đại nhân, đại lao bộ Hình toàn giam giữ trọng phạm và nghi phạm. Nếu không có lệnh từ chính Thượng thư đại nhân hay Đại lý tự Khanh1, bản quan không thể mở cửa cho cậu được." Tả thị lang bộ Hình cười với cậu.
[1] Khanh: chức quan đứng đầu Đại lý tự (trên Thiếu khanh). VN đặt là"Tự khanh".
Trước khi tới đây, Chu Tử Thư đã lường trước khả năng này. Cậu nhìn viên Tả thị lang mặt vuông chữ điền rồi chắp tay vái thật ngay ngắn. Ông ta không dám qua loa, lập tức trả lễ.
Chu Tử Thư: "Cùng làm quan trong triều, hẳn Cao đại nhân cũng có nhiều đồng song2. Mai Linh Phủ, CungĐại Nhạc là tiến sĩ cùng bảng với ta, đều là bạn chí cốt. Tâm tư của bản quan chắc đại nhân đã rõ. Nếu quả thật hai người đó phạm tội tày đình thì tuyệt đối không thể dung tha. Nhưng hai anh đây đều là quan viên Đại Tống, vả lại, tóc da cha mẹ ban cho3, nỡ lòng nào tùy nghi giày xéo."
[2] Cùng cửa sổ, ý chỉ bạn học chung lớp. [3] Xuất xứ từ thành ngữ "thân thể tóc da, cha mẹ ban cho, không dám phá hoại"
Cậu nói thế là có ý mong Cao đại nhân chiếu cố hơn, đừng nghiêm hình tra khảo.
Tả thị lang bộ Hình thầm nhủ: Kể cả ngươi nói thế, phàm kẻ đáng đánh chúng ta vẫn nọc ra đánh thôi. Huống hồ, việc đòn roi cũng đã xong xuôi; hai tay thư sinh Mai Thắng Trạch, CungTiêu được nâng niu từ tấm bé, chịu sao thấu nỗi khổ sở nhường ấy. Chúng đều đã khai một vài chuyện từ sớm, bị ghi hết vào hồ sơ vụ án nộp lên bàn Thượng thư đại nhân rồi. Ngoài mặt, ông ta cười bảo: "Tất nhiên, xin Đường đại nhân chớ lo lắng." Chu Tử Thư thở dài thườn thượt, phất tay áo ra về.
Sau khi vua Liêu băng hà, Triệu Phụ lập tức tăng viện cho Tây Bắc, ngõ hầu tranh thủ thời điểm nước Liêu nội loạn mà đánh cho một trận tan tác. Chiến sự Tây Bắc dồn dập, ngày nào cũng có tin quân cấp tốc gửi về Thịnh
Kinh. Ngay cả Đường Hoàng, Diêu Tam cũng cảm nhận được không khí hồi hộp bao trùm lên toàn thành. Trong lúc ăn tối, Đường Hoàng tò mò hỏi: "Anh ơi, có phải quân ta lại thắng trận không?"
Chu Tử Thư: "Em nghe từ đâu hả?"
"Mọi người đều bảo thế. Hoàng đế nước Liêu băng hà, bọn người Liêu còn bận tranh giành ngôi báu, chẳng hơi đâu lo việc binh lửa. Nhờ thế mà chúng ta thắng liền mấy trận, đánh cho tụi người Liêu phát điên. Phen này có khi ta chiếm được cả nước Liêu cũng nên!"
Chu Tử Thư bất lực nói: "Anh đã dặn em đừng nghe những lời đồn thổi bậy bạ ngoài đầu đường cuối hẻm rồi. Thắng trận thì đúng đấy, nhưng chiếm cả nước Liêu ư? Anh hỏi em nhé, chinh phục nước Liêu xong mình giữ nước Liêu để làm gì? Người Liêu là dân du mục, cả nước họ là đồng cỏ, chỉ có vài thành trì lớn. Sau khi chúng ta chiếm đóng nước Liêu, người Liêu chỉ cần nhổ trại là có thể tỏa đi trốn khắp thảo nguyên mênh mông. Lẽ nào người Tống chúng ta định đi tìm kiếm họ? Định cai quản cả vùng thảo nguyên khổng lồ? Sau này có thể được đấy, nhưng hiện giờ việc đó nằm ngoài khả năng của chúng ta."
Từ lâu Đường Hoàng đã không còn là cô nhóc thôn quê mít đặc, nghe Chu Tử Thư nói thế, em hiểu ra ngay. Nhưng cô nhóc vẫn tóm được ý chính: "Thế tóm lại chúng ta thắng thật rồi chứ gì?"
Chu Tử Thư cười bảo: "Phải, thắng thật rồi." Đường Hoàng không thể nào ngừng cười.
Ngay đến thương nhân khôn khéo như Đường Hoàng cũng nhận ra thế cục giữa hai nước Tống Liêu bây giờ mà lấy làm mừng rỡ trong lòng. Trên triều đình, cứ hễ thiết triều là Triệu Phụ không giấu nổi lòng vui sướng mãn nguyện, mắt mày cong tớn cả lên.
Nghe viên tướng bẩm báo tình hình chiến trận Tây Bắc xong, Triệu Phụ khoan thai hỏi: "Các ái khanh còn chuyện gì muốn tấu không?"
Trong điện Tử Thần, các tướng võ đã tâu trình xong, bèn liếc sang đằng quan văn bên trái.
Tả tướng Từ Bí đứng đầu hàng quan văn, hai tay nâng hốt ngọc, cúi đầu nhìn gạch vàng lát điện, im lặng không hé môi. Các vị tướng công khác sau lưng ông cũng nhìn xuống đất hết. Cây hốt ngọc đã che quá nửa gương mặt khôn ngoan lõi đời của Từ Bí, khiến cả Triệu Phụ cũng không nhìn ra suy nghĩ trong lòng ông hiện giờ.
Đợi chừng một khắc cũng không thấy viên quan nào lên tiếng.
Triệu Phụ phất tay: "Thế thì bãi triều."
Đại thái giám Quý Phúc hắng giọng hô vang: "Bãi triều."
Từ Bí vẫn cúi mặt nhìn xuống đất, nhưng suốt từ đầu, ánh mắt ông vẫn liếc chằm chằm ra phía trái sau lưng. Trên đài cao, hoàng đế đã bãi giá rời cung. Chờ tới lúc ông ta đi rồi, Từ Bí tức thì ngẩng lên, ánh mắt như bó đuốc rọi thẳng vào Dư Triều Sinh đứng sau mình hai vị trí.
Cái lườm đột ngột ấy khiến Dư Triều Sinh hết hồn, sởn gai ốc, môi mấp máy mà chẳng nói được chữ nào.
Từ Bí lặng thinh, dẫn đầu bá quan rời khỏi điện theo đúng thứ tự khi bãi triều. Trở về điện Cần Chính, ông gọi quan sai, bảo mời Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh tới. Quan sai nhanh nhẹn đi mời, nào ngờ nửa giờ sau Dư Triều Sinh chẳng đến, chỉ có quan sai về một mình, thưa: "Thượng thư đại nhân bộ Hình vào cung diện thánh rồi ạ."
Từ Bí hơi ngạc nhiên, ra chiều mừng rỡ, vuốt râu than: "Lúc nào cũng hết thuốc chữa như vậy."
Ấy thế mà chiều hôm đó, đại lao bộ Hình thả liền bốn nghi can.
Lúc ra khỏi đại lao bộ Hình, Mai Thắng Trạch và CungTiêu cứ ngỡ mấy đời đã trôi qua. Ánh mặt trời làm mắt họ đau nhói, mãi mà không trấn tĩnh nổi. Chu Tử Thư sai người đi đón họ từ sớm, còn hai viên quan thuộc ty Ngân dẫn thì được người của Cung Tuấn đón về.
Mai Thắng Trạch và CungTiêu được dẫn về bộ Công, Chu Tử Thư tức tốc ra gặp bọn họ.
Hai người thấy Chu Tử Thư thì mắt đỏ hoe, họng nghẹn ngào.
Mai Thắng Trạch: "Cảnh Tắc..."
Chu Tử Thư: "Không phải khách sáo đâu. Hôm nay hai anh thoát cảnh tù đày là nhờ Hoàng thượng ra lệnh phái các anh về U châu tái nhậm chức.
Các anh không thể ở lại kinh thành lâu, phải kíp về U châu phòng sinh biến.
Hôm nay ta chỉ gặp các anh được chốc lát, có đúng một câu này muốn hỏi thôi. Lúc ở trong tù hai người có khai gì không?" Cả hai trầm xuống ngay tức thì.
Mai Thắng Trạch thẹn vô cùng, răng nghiến chặt, không tài nào thú thật với Chu Tử Thư.
CungTiêu lớn hơn bọn họ mấy tuổi, thở dài, đáp: "Thật hổ thẹn. Từ khi ta và Linh Phủ bị Dư Triều Sinh bắt ở U châu, suốt dọc đường về kinh, ta và cậu ấy cứ đinh ninh chuyến này phải kín miệng như bưng, không để họ moi được bất cứ tin gì. Nhưng rồi... rốt cuộc chúng ta đều nói ra một số việc. Ta đã khai chuyện Kiều Cửu."
Mai Thắng Trạch áy náy nói: "Ta cũng khai vài điều, bao gồm quan hệ giữa
Lâm Hủ và nhóm Kiều Cửu."
Chu Tử Thư trầm lặng, hỏi: "Bị thương ở đâu? Để ta xem nào." Vương, Mai hai người đều lắc đầu cười chua chát.
CungTiêu: "Cai ngục của bộ Hình có cả trăm ngàn thủ đoạn khiến mình sống không bằng chết, chẳng hiện vết thương mà vẫn khốn đốn như sa ngục A Tỳ4. Thương tích đã không thành vết, ta cũng không muốn hồi tưởng lại những màn tra tấn ấy nữa. Ta chỉ thấy mình có lỗi với Cảnh Tắc, có lỗi với Cungtướng công thôi."
[4] Địa ngục khổ nhất trong quan niệm Phật giáo
Cơ sự thành ra thế này, ngay từ sớm, CungTiêu và Mai Thắng Trạch đã ngờ rằng Dư Triều Sinh bắt họ để đối phó với Cung Tuấn.
Mai Thắng Trạch: "Cungđại nhân có bị liên lụy không?"
Chu Tử Thư: "Không hề."
"Hả?" Vương, Mai hai người nhìn nhau, "Nếu thế thì chúng ta ra ngoài bằng cách nào?"
Chu Tử Thư: "Chuyện này ta cũng không biết. Thời giờ eo hẹp, các anh mau mau về U châu trước đi."
Tiễn CungTiêu và Mai Thắng Trạch đi U châu xong, Chu Tử Thư vội vàng tới điện Cần Chính để tìm Cung Tuấn hỏi cho rõ ràng. Ngoài ra, cậu cũng phải kể hết cho chàng những chuyện CungTiêu, Mai Thắng Trạch đã khai nhận, đề phòng bất trắc.
Trong điện Cần Chính, Chu Tử Thư đi chưa được hai bước chân đã bắt gặp một người bước tới từ phía đối diện trên hành lang trong hoa viên.
Trông thấy người đó, ánh mắt Chu Tử Thư đầy kinh ngạc.
Trông thấy Chu Tử Thư, Dư Triều Sinh cũng ngỡ ngàng theo.
Hai người nhìn nhau, Chu Tử Thư hành lễ: "Hạ quan bái kiến Hình bộ
Thượng thư đại nhân."
Dư Triều Sinh: "Đường đại nhân không cần đa lễ."
Chu Tử Thư sinh nghi, cậu vẫn không hiểu nổi vì sao Dư Triều Sinh đột nhiên buông tay, chẳng những thả bốn người CungTiêu, còn không hề gây khó dễ cho Cung Tuấn. Giả sử bốn người CungTiêu kín như hũ nút, không cung khai chữ nào thì thôi, đằng này những gì cần khai bọn họ đều khai cả rồi, tại sao Dư Triều Sinh không làm tới luôn?
Lúc này, Dư Triều Sinh mở lời: "Đường đại nhân đi vội thế, có việc gì chăng?
Chu Tử Thư ngẫm một lát, đáp: "Hạ quan có việc cần gặp Thượng thư Tả bộc xạ."
Chính là Cung Tuấn đó.
Chu Tử Thư: "Đại nhân định xuất cung à?"
Dư Triều Sinh: "Cũng không phải. Ta đến gặp Tả tướng đại nhân."
Hai người chẳng còn gì khác để nói với nhau, Chu Tử Thư đã có ý cáo từ, nhưng tự dưng Dư Triều Sinh nói: "Có chuyện này, giờ nhắc đến cũng đúng lúc lắm. Một chuyện sáu năm qua Đường đại nhân chưa hề hay biết." Chu Tử Thư thầm cảnh giác, ngẩng lên nói: "Ồ? Chuyện gì thế, xin đại nhân chỉ cho."
"Từ khi về kinh đến giờ, bản quan vẫn luôn làm việc ở điện Cần Chính. Hồi ấy, Đường đại nhân mới là Trung thư xá nhân, cũng làm việc ở điện Cần Chính. Trùng hợp thay, lần nào vào điện Cần Chính bản quan cũng vô tình bắt gặp Đường đại nhân. Tiếc là Đường đại nhân chưa bao giờ thấy ta, chỉ có ta trông thấy Đường đại nhân thôi."
"Có cả chuyện này nữa ư?" Chu Tử Thư quá đỗi ngỡ ngàng, cậu không ngờ đây lại là điều Dư Triều Sinh muốn nói.
"Đúng là có chuyện như thế." Dư Triều Sinh tỏ vẻ hoài niệm, "Tính ra cũng phải mười lần là ít."
Mười lần trong sáu năm thoạt nghe chẳng đáng kể là bao. Nhưng trong sáu năm đó, có hai năm Chu Tử Thư không làm quan ở điện Cần Chính, và có cả những lần cậu bị phái đến Thứ châu, U châu nữa. Tương tự, Dư Triều Sinh bận trăm công nghìn việc, không phải ngày nào cũng ở điện Cần Chính. Bởi thế mà mười lần tình cờ trông thấy nhau hoàn toàn không phải con số ít ỏi. Phải biết rằng trong những năm vừa qua, dù cùng làm quan điện Cần Chính, nhưng Chu Tử Thư gặp Tô Ôn Duẫn giỏi lắm là hai lần, chẳng cần xòe cả bàn tay ra cũng đếm được.
Dư Triều Sinh: "Có điều hai lần gần đây nhất ta đều chạm mặt Đường đại nhân đúng lúc, không hề sai lệch chút nào. Đường đại nhân tin vào vận mệnh chứ?"
Chu Tử Thư sinh nghi, cậu không hiểu Dư Triều Sinh có ý gì khi nói với mình những điều này.
Dư Triều Sinh: "Bản quan tin vào số mệnh." Anh ta cười, "Tả tướng cho gọi, bản quan không dài lời nữa, xin từ biệt ở đây."
Chu Tử Thư ôm một bụng hồ nghi, chắp tay đáp: "Đại nhân đi thong thả."
Dư Triều Sinh đi về phía nhà làm việc của Tả tướng. Chu Tử Thư nhìn theo bóng lưng anh ta hồi lâu rồi mới cất bước sang chỗ Cung Tuấn. Tiếc rằng cậu đến nơi mà chẳng gặp chàng, Cung Tuấn không có ở đó. Chàng đã vào điện Thùy Củng diện thánh mất rồi.
Chờ đến cả giờ sau, Cung Tuấn mới trở về từ điện Thùy Củng. Vừa vào cổng đã thấy Chu Tử Thư đợi mình từ lâu, chàng liền dừng bước.
Một người đứng trong nhà, một người đứng ngoài sân.
Cung Tuấn ngẩng đầu nhìn Chu Tử Thư, nhoẻn cười: "Gặp Mai Thắng Trạch và CungTiêu rồi chứ?"
Chu Tử Thư sải bước tới: "Gặp rồi. Huynh mới ở điện Thùy Củng về đó hả? Có bị Dư Triều Sinh gây rắc rối không?"
Cung Tuấn: "Không đâu. Án Hình châu cực kì nghiêm trọng, tuy giờ này triều đình đang tất bật với chiến tranh Tây Bắc, nhưng vụ này cũng không buông lơi được. Là Thượng thư Tả bộc xạ, ta vẫn theo dõi vụ án sát sao.
Hôm nay có thêm vài manh mối, tất nhiên ta phải vào cung bẩm báo lên
Thánh thượng rồi."
Chu Tử Thư: "... Ủa?"
Cung Tuấn trông Chu Tử Thư ngơ ngơ ngác ngác thì lấy làm vui lắm. Chàng xoa xoa má cậu, nói: "Tiểu sư đệ biết từ lâu rồi còn gì. Nhờ án Hình châu, ta nhất định sẽ khiến Từ đảng tổn thất nặng nề."
"Nhưng bây giờ đâu phải lúc bàn chuyện đó. Thánh thượng không trách phạt huynh vụ ty Ngân dẫn ư?"
Cung Tuấn trông rất mù mờ: "Ty Ngân dẫn gặp biến cố à?"
"..."
"Huynh nói mau, rốt cuộc huynh bức bách Dư Hiến Chi kiểu gì để y chịu nhả vụ ty Ngân dẫn, không tố cáo huynh thâu tóm quyền lực, một tay che trời!"
||
Tác giả dùng từ "đồng song" khá nhiều, trước mình để là "bạn học" hoặc "bạn cùng trường". Dạo gần đây có đọc bài trên Ngày ngày viết chữ nên mạnh dạn dùng thử "đồng song" ở những chỗ mình cảm thấy phù hợp. Có một cách dịch là "bạn đèn sách" cũng rất hay, mình đã dùng ở chương 162 đó ^^.
------oOo------
Chương 165
Nguồn: EbookTruyen.Net
Thừa thắng truy kích
Chu Tử Thư chất vấn hùng dũng lắm, khí thế cứ như cất quân hỏi tội.
Cung Tuấn thản nhiên cười: "Tiểu sư đệ, bây giờ chúng mình đang ở điện Cần Chính, em nói to thế không sợ người ta nghe thấy à?"
Chu Tử Thư đáp: "Trong khu nhà này, trừ phòng Thượng thư Tả bộc xạ của huynh ra chỉ còn hai Thị lang bộ Hộ. Lẽ nào hai người đó không thuộc phe huynh?"
Cung Tuấn: "Hữu thị lang có phải đâu."
Chu Tử Thư: "Thì có Tả thị lang Từ Lệnh Hậu rồi đó." Cung Tuấn chỉ cười mà không đáp.
Chu Tử Thư cũng nói cứng thế thôi. Cậu đi đóng cửa chính cửa sổ xong, ngoái đầu lại đã thấy CungTử Phong ngồi xuống giường La Hán, vén tay áo pha trà. Cung Tuấn đẩy một chén trà tới trước mặt Chu Tử Thư, nhàn nhã nhấp thử ngụm trà, điềm nhiên nói: "CungTiêu và Mai Thắng Trạch đã khai hết những điều quan trọng rồi hả?"
Chu Tử Thư nhận trà, cũng không giấu giếm chàng. Cung Tuấn đã muốn biết thì sớm muộn gì cũng biết thôi. "Vâng, ngay cả tướng võ cũng không chịu nổi những trò tra tấn trong đại lao bộ Hình, nữa là hai viên quan văn như bọn họ."
Cung Tuấn: "Tiểu sư đệ muốn biết vì sao Dư Triều Sinh bỗng dưng thả họ đúng không?"
Chu Tử Thư ngẩng lên: "Dạ?"
Trên gương mặt thanh nhã của Cung Tuấn là nụ cười ung dung như gió lành phẩy qua làn nước, giọng chàng ấm áp khoan thai: "Chính vì hai người Vương, Mai đã khai những điều cần khai, nên Dư Triều Sinh cũng hiểu những điều cần hiểu rồi đó."
Chu Tử Thư sững ra, từ từ nghiền ngẫm ý nghĩa việc này.
Cung Tuấn nói tiếp: "Hai năm trước, hoàng thượng phái em và Tô Ôn Duẫn đến U châu, sai làm hai việc khác nhau, cốt là để che tai mắt người đời, hòng giương Đông kích Tây. Bây giờ Tống Liêu đánh nhau to, chính trị nước Liêu hỗn loạn, tuy Đại Tống ta khó lòng đánh gục nước Liêu chỉ trong một trận, nhưng việc giành lại ba châu đã chắc như ván đóng thuyền. Thời điểm hiện tại chính là dịp tốt để gây tổn thất nặng nề cho quân Liêu. Nếu giờ phút này Dư Triều Sinh tố cáo ta với Thánh thượng, tất nhiên y sẽ phải giải trình rõ CungTử Phong ta dùng bốn viên quan ty Ngân dẫn thế nào mà cấu thành tội chuyên quyền độc đoán."
Nói đến đây, Cung Tuấn hết sức xúc động: "Y đúng là người tốt."
Vốn Chu Tử Thư cũng biết loáng thoáng dụng ý của Cung Tuấn, giờ nghe chàng giải thích, cậu đã hoàn toàn hiểu rõ. Chu Tử Thư không kìm được, bảo: "Trước khi tới đây ta tình cờ gặp Dư Triều Sinh. Y nói với ta mấy điều về số mệnh rồi đi gặp Tả tướng ngay. Ta nghĩ nếu là Từ tướng, e rằng kết cục sẽ khác lắm."
"Khác lắm ư? Dĩ nhiên sẽ khác hoàn toàn rồi. Từ tướng vốn kín đáo như màn sương đặc, cực kì khó đoán. Ông ta thận trọng dè chừng, ít khi sai lầm. Trong mỗi nước đi, ông ta đã cân nhắc đến ba nước sau đó, có thể nói là cảnh giác từng bước. Mặc dù vậy, khi đối mặt với lựa chọn thế này, ông ta sẽ chọn tố cáo ta, bởi nếu CungTử Phong này không ngã ngựa thì chính ông ta sẽ là người kế tiếp."
Chu Tử Thư: "Còn Dư Triều Sinh lại khác. Vạch tội huynh cũng tương đương với việc công khai hết sắp đặt của hoàng đế ở Tây Bắc. Kể cả y cố tình nói lấp lửng đi chăng nữa thì thể nào cũng có người phát giác và đoán ra chân tướng. Y không thể mạo hiểm dẫu khả năng đó mong manh đến mấy. Chẳng cứ giữa lúc hai nước đang chiến tranh như bây giờ, thậm chí về sau giả sử Đại Tống thắng, ta nghĩ có lẽ Dư Triều Sinh cũng không tố cáo huynh đâu. Nếu những thám tử nằm vùng ở Liêu lộ tẩy, Đại Tống ta sẽ mất đi một thanh đao bén cực kì hữu ích."
Cung Tuấn nhíu mày: "Cảnh Tắc."
Cung Tuấn rất hiếm khi gọi hai chữ "Chu Tử Thư", bởi họ là sư huynh đệ với nhau, Cung Tuấn lại rất thích mối quan hệ này nên thường xuyên gọi cậu là "tiểu sư đệ". Chỉ những lúc đặc biệt, chàng mới kề tai Chu Tử Thư gọi "Cảnh Tắc". Dĩ nhiên, lúc này Chu Tử Thư không nghĩ nhiều, chỉ "ơi" một tiếng theo bản năng thôi.
Cung Tuấn nói nhẹ bẫng: "Từ bao giờ em có hảo cảm với tên Dư Triều Sinh kia thế?"
"... Hả?" Chu Tử Thư hoang mang nhìn chàng.
Hảo cảm?
Đùa à?
Cung Tuấn nhìn cậu chăm chú, ánh mắt lộ vẻ tổn thương: "Đúng là hôm nay Dư Triều Sinh đã thả bốn người kia đi, không truy cứu nữa và buông tay nhận thua. Nhưng làm sao mà em biết nếu bây giờ không phải lúc chiến tranh y cũng thu tay như vậy? Trong lòng em, chẳng nhẽ y là người tử tế đáng để em tin cậy đến mức ấy ư!"
Chu Tử Thư: "..."
Cung Tuấn: "So ra thì ta có bằng không?"
Chu Tử Thư: "..."
Cung Tuấn cầm chén trà trên tay phải, nhướng cặp mắt thuôn tú nhã chăm chú nhìn Chu Tử Thư. Nếu là người khác, vừa nói vừa tỏ thái độ thế có khi là đang tức cũng nên. Nhưng, người trước mặt cậu là CungTử Phong.
Trước tiên, Chu Tử Thư suy ngẫm thử xem nói thế có tính là nói dối không, có đúng là trái với lời hẹn phải hôn trước không. Sau một hồi ngẫm ngợi, cậu cảm thấy câu này chẳng liên quan gì đến nói dối cả.
Nghĩ ngợi thêm lúc nữa, Chu Tử Thư nói: "Để ta kể cho sư huynh một mẩu truyện nhé."
Cung Tuấn nhìn cậu rất bình thản: "Em kể đi."
Chu Tử Thư hồi tưởng lại chốc lát, hắng giọng kể: "Người đồ tể ra về vào lúc chiều muộn, gánh đã hết thịt, chỉ còn xương. Hai con chó sói bám theo anh ta suốt dọc đường. Người đồ tể sợ hãi, bèn quẳng xương cho sói..."
Nguyên văn truyện Chó sói Chu Tử Thư đã quên từ lâu, nhưng cậu là thanh niên cổ đại tài trí đỗ Thám hoa hẳn hoi. Độ mấy năm nay, xuất khẩu thành chương đã là việc nhỏ như con thỏ.
"... thử hỏi loài cầm thú lừa bịp được mấy phen? Chỉ tổ thêm trò cười thôi." Ngừng lời một lát, Chu Tử Thư vỗ tay: "Hay lắm, kể xong rồi."
Cung Tuấn tay chống cằm, ung dung lắng nghe, không hề lên tiếng. Hồi lâu, Chu Tử Thư không nhịn được: "Sư huynh đang nhìn gì thế?"
Cung Tuấn hếch mắt: "Sư huynh?"
Chu Tử Thư: "... Vâng?"
Ánh mắt Cung Tuấn khác hẳn, chàng thong thả đứng dậy, điềm nhiên nói: "Trong phòng này chỉ có Thượng thư Tả bộc xạ, lấy đâu ra sư huynh của cậu." "Ơ?"
Ánh nhìn sắc như dao của chàng rọi thẳng vào đáy mắt Chu Tử Thư, giọng chàng lạnh tanh: "Công bộ Hữu thị lang đại nhân không ở yên bộ Công làm việc, đến chỗ ta để làm gì? Ban ngày ban mặt còn đóng cửa sổ kín mít, cậu định lén hối lộ bản quan đúng không?"
Chu Tử Thư đứng bật dậy: "Đâu, sư huynh, sao huynh lại..."
"Cậu chẳng nói thế đấy còn gì? Cầm thú lừa bịp được mấy hồi, chỉ tổ thêm trò cười mà thôi."
Chu Tử Thư bấy giờ mới rõ ý chàng, liền quýnh lên: "Ta đâu có ý đó!" Cậu bỗng hiểu ra, khác biệt văn hóa nghìn năm là đây chứ đâu. Cậu muốn trêu CungTử Phong là ác, bởi Dư Triều Sinh đã nghĩ cho chiến sự hai nước mà bỏ ý định tố cáo chàng, thế mà chàng vẫn khăng khăng cho y nếm mùi thảm bại. Không chỉ thế, cậu còn kể câu chuyện này với hàm ý khác. Chu Tử Thư giải thích: "Huynh thấy đấy, trong chuyện có hai con chó sói, người đồ tể đã chiến thắng, nhưng bây giờ phe thắng cuộc là chúng mình cơ mà. Thế tức là nước cờ của huynh cao tay còn gì! Vả lại, dẫu huynh có là sói, thì ta cũng chính là con sói còn lại mà, đôi mình lang bái cùng bày kế gian..."
Tiếng cậu bỗng ngưng bặt. Chu Tử Thư thấy ánh cười lồ lộ trong đáy mắt Cung Tuấn, khóe miệng máy một cái.
Tông cửa bỏ về không phải kiểu của Chu Tử Thư, mà cho cậu chỉ mặt
Cung Tuấn nhiếc móc cậu cũng chẳng mắng nổi. Nín nhịn mãi, Chu Tử Thư mới bảo: "Huynh lại phạm quy rồi!"
Cung Tuấn tự trách mình: "Đúng thế, ta lại phạm quy rồi, bù liền đây." Chàng nắm lấy cổ tay Chu Tử Thư kéo cậu vào lòng, cúi mình hôn.
Hai người quyến luyến hôn nhau một hồi mới dứt ra. Chu Tử Thư đứt cả hơi, thở hổn hển, nói: "Lưu manh giả danh trí thức!"
Cung Tuấn tỏ ra hết sức kinh ngạc: "Lưu manh giả danh trí thức? Cụm từ này gợi hình ghê nhỉ, còn chuẩn hơn cả câu chuyện rườm rà em vừa mới kể đấy."
Chu Tử Thư suýt nữa đã thốt lên "Trần đời chưa thấy ai mặt dày mày dạn như huynh!", nhưng sợ Cung Tuấn lại hào hứng nhận luôn, cậu dứt khoát làm thinh không đả động gì đến.
Lúc rời nha môn, Chu Tử Thư vẫn còn hơi dỗi. Phải đến khi đầu bếp phủ Thượng thư nấu cả một mâm đầy các món ngon, mặt cậu mới giãn ra.
Chu Tử Thư trỏ mâm cơm đầy ắp sắc màu: "Nếu có một ngày ta không bỏ được huynh thì chắc chắn là vì người đầu bếp này nấu ăn ngon hết sảy." Cung Tuấn vờ nghiêm mặt, toan đáp lời.
Ngờ đâu, Chu Tử Thư còn sợ chuyện hồi nãy, nói liến thoắng: "Huynh đừng có bảo ta thích người đầu bếp hơn cả huynh, rồi đâm ra đau lòng đấy nhé!"
Cung Tuấn ngẩn người, ngạc nhiên nhìn Chu Tử Thư. Một lúc sau, chàng nói nhỏ: "Lẽ nào ta lại nói thế, tiểu sư đệ hiểu lầm ta rồi."
Chu Tử Thư đã ăn của CungTử Phong một quả "lừa", thấy cái vỏ dừa cũng phải tránh. Lần nào bị chàng gạt cậu cũng cuống quýt thổ lộ vô vàn lời yêu thương mà mọi khi chẳng nói bao giờ. Những vở mánh của CungTử Phong cậu đã rõ như lòng bàn tay lâu rồi.
Chu Tử Thư phủ đầu tiếp ngay: "Thế thì huynh cũng chớ nói ta hiểu lầm huynh như vậy làm huynh tổn thương đấy!"
Cung Tuấn cứng họng không đáp được gì, khổ sở cười thầm trong lòng: Đúng là chín quá hóa nẫu. Hay rồi, từ giờ khéo chẳng còn được nghe những lời ngọt ngào như rót mật!
Sang tháng chín, mặt trận Tây Bắc liên tục báo tin chiến thắng.
Triệu Phụ hết sức đẹp lòng, cuộc sống của bá quan nhờ đó mà dễ thở hơn nhiều.
Lung tương cũng được chế tạo hằng ngày, chừng như mọi sự đều suôn sẻ. Tuy thế, dần dần có quan viên phát hiện ra Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh và ân sư Từ Bí có rạn nứt. Mỗi khi gặp nhau trên điện Cần Chính, Từ Bí và Dư Triều Sinh chỉ thi lễ chào hỏi, không nói thêm câu nào.
Ở thành Thịnh Kinh, ẩn dưới tin chiến thắng tới tấp là mạch sóng ngầm xoay quyển thế cục triều đình.
Mùng hai tháng chín năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, cách phủ Đại Đồng ba mươi dặm.
Mây đen sà thấp, khí mây trì trệ.
Mặt đất rung chuyển trong tiếng thét gầm và tiếng vó ngựa. Đao kích va chạm chát chúa. Máu đỏ thắm phun trào, xối lên nền đất đen kịt rồi thấm vào đất chỉ trong nháy mắt. Mùi máu tanh, mùi mồ hôi, mùi ngựa hoăng hoắc trộn với nhau trong không khí thành một thứ mùi tạp nham khủng khiếp không khác gì cây chùy khổng lồ nện "uỳnh uỳnh" xuống đất, khiến người ta phát lợm.
Bầu trời vần vũ. So với núi non hùng vĩ bốn bề, hàng vạn con người đang chém giết nhau trông thật bé nhỏ mà cũng thật tàn nhẫn.
Cuộc chém giết dữ dội đến nỗi trời đất mịt mùng, máu chảy thành sông.
Quân Sói Đen không ngừng tháo chạy, quân Tống thừa thắng truy kích.
Bấy giờ, Chu Thái sư đang bàn chiến lược trong quân trướng. Khi trinh sát đưa tin từ tiền tuyến về, tay ông run lên, rồi bỗng ông đứng phắt dậy. Vị tướng già mặc áo giáp, đội mũ trụ, rút cây phương thiên kích đen tuyền cán mạ vàng từ trong trướng, thét vang: "Theo bản soái xung trận!"
Trong trướng, các lão tướng rưng rưng nước mắt, rần rần hưởng ứng: "Mạt tướng nguyện theo Đại nguyên soái!"
Mùng bốn tháng chín, tin chiến trường Tây Bắc gửi về Thịnh Kinh, hoàng đế xem xong liền khen ba tiếng "tuyệt".
Mùng hai tháng chín năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Chinh Tây nguyên soái Lý Cảnh Đức chỉ huy quân Phi Long đánh tan hai vạn quân thù, thừa cơ phản công, phá tung cổng thành!
Sau một trăm lẻ bốn năm, phủ Đại Đồng lại thuộc về người Tống.
||
Truyện Chó sói – Bồ Tùng Linh:
Người đồ tể ra về vào lúc chiều muộn, gánh đã hết thịt, chỉ còn xương. Hai con chó sói bám theo anh ta suốt dọc đường.
Người đồ tể sợ hãi, bèn quẳng xương cho sói. Con sói đầu tiên gặm xương thì dừng lại, còn con thứ hai vẫn tiếp tục rượt theo. Đồ tể ném tiếp xương, con sói đón được miếng xương sau dừng lại, nhưng con đón được miếng xương trước lại mò theo. Xương đã hết, vậy mà lũ sói vẫn bám đuổi anh không dừng.
Người đổ tể cùng quẫn, sợ bị sói vây hai đằng. Ngó thấy ruộng lúa mạch gần đó có đống củi chủ ruộng chất sẵn, còn phủ cỏ lên như quả đồi, người đồ tể bèn chạy xuống ruộng, đấu lưng vào ụ củi, quẳng gánh xuống, rút dao ra. Chó sói không dám tiến lại, chỉ nhìn anh chằm chằm.
Lát sau, một con sói bỏ đi thẳng, con còn lại thì ngồi chồm hỗm trước mặt anh. Hồi lâu, nó nhắm mắt lại, dường như đang ngủ. Đồ tể chợt xông tới chặt đầu sói, lại bổ thêm mấy dao cho nó chết hẳn. Đang định đi, anh ta lại vòng ra sau đống củi. Con sói kia đã đào hố dưới đống củi, định tấn công anh từ phía sau. Sói đã chui nửa người xuống hố, phần chi sau thòi ra. Anh đồ tể chặt đùi sói và giết nó luôn. Hóa ra con sói trước đã giả vờ ngủ để nhử con mồi.
Sói cũng ranh mãnh đấy, nhưng chỉ chốc lát đã nộp mạng cả hai, thử hỏi loài cầm thú lừa bịp được mấy phen? Chỉ tổ thêm trò cười thôi.
Chú thích
Hai con sói bám theo, một con giả vờ ngủ trước mặt người đổ tể để con kia lẻn ra sau tấn công. Người đồ tể phát hiện ra âm mưu của chúng và giết cả hai con sói.
狼狈为奸 (lang bái vi gian) – bắt nguồn từ truyện ngụ ngôn về con sói và con bái cấu kết với nhau bắt trộm cừu
衣冠禽兽 (y quan cầm thú) – tương tự "mặt người dạ thú". Mình chọn câu kia có tính hiện đại hơn để Cung Tuấn phải bất ngờ.
Gốc là Chu Tử Thư bị CungTử Phong lừa một lần, mười năm còn sợ dây thừng, lấy từ câu "bị rắn cắn một lần mười năm vẫn sợ dây thừng". Mình biến tấu theo câu "trượt vỏ dưa, thấy vỏ dừa phải tránh".
------oOo------
Chương 166
Nguồn: EbookTruyen.Net
Hiệp ước Tiêu châu
Sau khi hạ phủ Đại Đồng, thế quân Tây Bắc như chẻ tre, nội trong ba ngày đã chiếm phủ Lâm Triệu.
Trong ngoài triều đình nước Liêu bàng hoàng, nhốn nháo cả lên.
Vua Liêu vừa mới băng hà, chiến sự giữa hai nước căng thẳng, nước Liêu đã lâm vào cảnh ngoài trong cùng loạn hết sức bất ổn. Mười vạn quân Sói Đen đổ vào cuộc chiến ở phủ Đại Đồng giờ chỉ còn chưa đầy bốn vạn. Cungtử Thái sư Gia Luật Định nén giận, y như một con mãnh hổ ẩn núp rình mồi, chỉ chờ đúng thời cơ để vồ một cú trí mạng.
Vì vua Liêu qua đời chưa được bao nhiêu lâu mà chiến trường miền Nam thì thảm bại, quan lại nước Liêu rối rít dâng thư xin Cungtử Thái sư ra quyết định hòa đàm với nước Tống sớm nhất có thể.
Hai mươi sáu năm về trước, Đại Tống và Liêu cứ đánh rồi lại ngừng suốt mười năm ròng. Cuối cùng, Đại Tống đã giành chiến thắng, nhưng đến lúc nghị hòa nước Liêu vẫn tỏ ra nghênh ngang hống hách, không hề có vẻ nhục nhã, khiếp nhược của một nước chiến bại. Hôm nay, sứ đoàn nước Liêu gấp rút tới Thịnh Kinh, Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng lại đảm nhiệm vị trí sứ thần tiếp đón.
Sứ Liêu không còn vênh váo, ngang ngược như xưa. Lúc xin vào gặp vua Tống, sứ Liêu bị Mạnh Lãng từ chối thẳng thừng.
"Mấy hôm nữa là đến dịp thiên đản của hoàng đế Đại Tống ta, sứ Liêu đã sắp sửa lễ vật chưa?"
Viên sứ thần lĩnh đoàn sửng sốt: "Chẳng phải một tháng nữa mới đến sinh nhật hoàng đế nước Tống ư?"
Mắt Mạnh Lãng chói rực, ông ta lên giọng quở trách: "Thế tức là không có lễ vật chứ gì? Lễ vật chẳng có, tay không đến diện kiến hoàng đế Đại Tống chúng ta. Sứ Liêu không biết Đại Tống ta là đất nước trọng lễ nghi hay sao? Tức là qua lại với nhau không thể vô lễ. Đằng này đã chưa có 'qua' thì tất nhiên không thể có 'lại' rồi."
Sứ Liêu cùng đường bí lối, đành phải sai người về nước sửa soạn lễ vật tặng vua Tống.
Đến hạ tuần tháng Chín thì hai bên đàm phán chuyện đình chiến, tái ký kết hiệp ước hòa bình.
Sứ Liêu tức tối nói: "Phủ Đại Đồng và phủ Lâm Triệu đều bị chiếm lĩnh đã đành, nhưng phủ Kim Hi thuộc lãnh thổ Đại Liêu chúng ta, lí nào lại giao cho người Tống các ngươi?"
Mạnh Lãng cười khẩy, lí luận đanh thép: "Một trăm lẻ bốn năm về trước, các phủ Đại Đồng, Lâm Triệu và Kim Hi mà sứ Liêu nhắc đến làm gì có tên như thế? Tên những vùng đó là Tiêu châu, Hàm châu, Định châu! Đã là lãnh thổ Đại Tống từ xưa, cớ gì không trả về cho Đại Tống chúng ta?"
Sứ Liêu mỉa mai: "Sao nào? Quan bác không biết quân Tây Bắc nước Tống các vị đánh phủ Kim Hi nửa tháng mà không sờ vào nổi cái cổng thành à?"
Phủ Kim Hi là nơi dễ thủ khó công nhất trong ba phủ, ba mặt toàn núi non, mặt còn lại thì giáp sông. Chắn giữa phủ Kim Hi và phủ Lâm Triệu là con sông Hi lớn nhất vùng Tây Bắc Trung Nguyên. Quân Tống muốn vượt sông phải mất rất nhiều công sức, tổn thất nặng nề. Muốn đánh chiếm phủ Kim Hi lần nữa khó như giữ đóm đêm mưa. Xưa kia vua Tống Thái Tổ sửa tên nơi này thành "Định châu" cũng vì lẽ đó.
Chiếm thì chiếm được, nhưng sẽ tiêu tốn cơ man sức người sức của.
Làm sao Mạnh Lãng không biết điều ấy chứ?
Ông ta cũng hiểu, nếu hôm nay mình không thể giành lấy Định châu, ngày mai, Lý Cảnh Đức sẽ dẫn mười vạn đại quân tấn công Định châu một lần nữa.
Lúc Lý Cảnh Đức về kinh từng chế nhạo ông ta rằng quan văn các ông chỉ được cái võ mồm võ bút. Thế nhưng khi Mạnh Lãng nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, ông ngỡ mình đang trông thấy chiến trường bốn bề dậy tiếng sát phạt trên chiếc bàn rất dài này. Giữa khoảng trời đất mù mịt cát vàng, đao kiếm đối đầu, máu thịt vung vãi, xác thây lạnh ngắt.
Mạnh Lãng trấn tĩnh, khẽ mỉm cười, nói: "Sao? Bản quan được biết, hôm nay Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca của nước Liêu vừa mới về Thượng Kinh phải không?"
Sứ Liêu tái mặt.
"Vua Liêu băng hà, nước Liêu đang lâm vào cảnh loạn trong giặc ngoài. Đại Tống ta có binh khỏe ngựa hay, dân giàu nước mạnh, phủ Kim Hi tuy dễ thủ khó công, nhưng trước sức công như vũ bão tất sẽ về với Đại Tống. Chẳng qua tới lúc ấy, chiếm xong phủ Kim Hi xương xẩu nhất rồi, dễ là thiết kị Đại Tống sẽ ngược bắc luôn thể, thừa thắng xông lên."
"Ông dám!"
Mạnh Lãng quắc mắt: "Nam nhi Đại Tống ta xông pha trận mạc, da ngựa bọc thây, quyết tiến không lùi. Có gì mà không dám!"
Ngày hai mươi chín tháng Chín năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, hai nước Tống Liêu kí hiệp ước. Nước Liêu trả lại Tiêu châu, Hàm châu, Định châu về cho nước Tống, đồng thời bồi thường hai trăm vạn lạng bạc trắng, một trăm thớt ngựa quý.
Hiệp ước kí xong, cả nước tưng bừng nhộn nhịp.
Hoàng đế trọng thưởng Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng, phong làm Đại học sĩ Văn điện, kiêm Thượng thư bộ Lễ.
Chu Tử Thư lấy làm kinh ngạc lắm. Bấy giờ Mai Thắng Trạch vừa mới về U châu nhậm chức mới để tránh ồn ào, Chu Tử Thư đã tìm ngay cơ hội điều anh về Thịnh Kinh giữ chức Lang trung ngũ phẩm ở bộ Công. Chu Tử Thư vốn định đưa cả CungTiêu về kinh thành, nhưng CungTiêu đã chọn ở lại U châu làm việc tiếp.
Tây Bắc thắng to, bá quan mừng rỡ, Mai Thắng Trạch cũng không giấu được niềm vui.
Chu Tử Thư nói: "Ba châu về với Tống như ván đã đóng thuyền, ta không ngờ Mạnh đại nhân còn cạy thêm được khoản bồi thường từ miệng người Liêu đấy."
Mai Thắng Trạch: "Hai trăm vạn lạng bạc cũng nhiều, nhưng cũng chỉ bằng tiền thuế một năm với Đại Tống mà thôi. Riêng ngựa báu khó cầu, một trăm thớt Hãn huyết bảo mã kia mới thực là của báu."
"Há chỉ có vậy?" Chu Tử Thư cảm khái, "Mạnh đại nhân thật sự đã trổ hết bản lĩnh rồi đấy. Hai trăm vạn lạng bạc và một trăm thớt ngựa ấy không chỉ là của cải đâu. Ngàn năm sau trông lại, ngày hôm nay là khởi đầu cho một kỉ nguyên mà Đại Tống ta không còn phải khiếp sợ nước Liêu nữa!" Muôn sự nghìn năm chỉ gói gọn vào một chữ trên trang sử.
Chu Tử Thư đã đọc lịch sử, làm sao không biết Hiệp ước Tiêu châu sẽ trở thành một nét mực in đậm sử xanh.
Cứ thế, đại quân Tây Bắc khải hoàn về triều.
Mùng bốn tháng Mười, hoàng đế thân chinh ra cổng thành nghênh đón.
Sự kiện này đã từng diễn ra vào hai mươi sáu năm về trước, khi Đại Tống chiến thắng đầy chật vật. Lúc toàn quân về triều, Triệu Phụ thuở ấy mới ngoài bốn mươi đã ra tận cổng thành, hai tay đỡ vị Thái sư già, ban cho ông danh hiệu "Thái sư", đưa ông trở thành người duy nhất còn sống khi được phong Thái sư kể từ khi Đại Tống dựng nước.
Hai mươi sáu năm sau, Chu Tử Thư đứng trong hàng ngũ quan tam phẩm, chứng kiến mười vạn đại quân trùng trùng điệp điệp, hùng dũng hiên ngang xuất hiện ở nơi mặt trời mọc. Vó ngựa đi đến đâu, đất đai rung chuyển đến đó. Vị Nguyên soái trẻ tuổi khoác giáp bạc, cầm trường thương mũi bạc quý báu. Chống một tay lên yên, hắn nhảy khỏi lưng ngựa, quỳ một bên gối xuống đất, nói với hoàng đế: "Thần – Lý Cảnh Đức không phụ sự ủy thác, dẫn đại quân Tây Bắc về ra mắt thánh thượng đây!"
Triệu Phụ mừng rỡ vô cùng: "Hay lắm!"
Nói đoạn, ông cầm tay Lý Cảnh Đức dẫn vào cổng thành Thịnh Kinh.
Bá quan theo sát đằng sau cùng trở về thành.
Tô Ôn Duẫn trông thấy cảnh đấy từ xa, mũi hừ một tiếng lạnh ngắt: "Không thể tưởng tượng nổi Chu Thái sư lại phái hắn chứ không đích thân về kinh."
Chu Thái sư ở lại trấn giữ Tây Bắc, trông coi ba quân, cho nên lần này Lý Cảnh Đức là người dẫn quân khải hoàn. Nếu Chu Thái sư trở về, hoàng đế sẽ đỡ Thái sư dậy chứ không đỡ Lý Cảnh Đức.
"Râu ria Lý tướng quân sao mà nhẵn nhụi thế nhỉ?"
Tô Ôn Duẫn quay phắt lại. Chẳng biết tự bao giờ, Chu Tử Thư đã đứng ngay sau lưng anh ta.
Chu Tử Thư thi lễ, cười khẽ: "Tô đại nhân."
Tô Ôn Duẫn lừ mắt nhìn cậu: "Đường đại nhân."
Chu Tử Thư ra vẻ hồ nghi: "Tô đại nhân có biết vì sao Lý tướng quân cạo râu không thế? Hồi ở U châu ta từng nghe đồn gương mặt Lý tướng quân rất tuấn tú, lần nào xung trận đánh giặc cũng không có uy. Chính vì thế, hắn cố ý nuôi râu quai nón rậm rì, trông cho oai phong hùng tráng." Dừng lời thoáng chốc, Chu Tử Thư kết một câu: "Râu với hắn ta có khác nào mạng sống."
Tô Ôn Duẫn thấy nực cười quá thể: "Ta biết kiểu gì được? Tay Lý Cảnh
Đức đó thích cạo râu thì cạo chứ, liên quan gì đến ta?"
Chu Tử Thư: "À, ra là thế. Hạ quan rõ rồi."
Chu Tử Thư chẳng dài lời, chỉ nhìn Tô Ôn Duẫn bằng ánh mắt đầy ẩn ý. Khóe môi Tô Ôn Duẫn máy một cái. Anh ta chưa kịp nói câu nào, Chu Tử Thư đã quay gót đi thẳng.
Tô Ôn Duẫn: "..."
Ngươi thì biết cái khỉ gì mà biết!
Rốt cuộc giống ai mà giống khiếp lên được thế nhỉ? Cái điệu bộ ngứa mắt này quen lắm!
Bỗng Tô Ôn Duẫn sững người: "CungTử Phong?" Nom anh ta có vẻ nghĩ ngợi lắm.
Hôm đó về nhà, Chu Tử Thư kể cho Cung Tuấn nghe chuyện mình xỏ xiên Tô Ôn Duẫn.
"Ta đã nghe Mai Thắng Trạch kể từ trước rằng Lý Cảnh Đức cạo râu vì Tô Ôn Duẫn bảo phải cạo mới cho tin tình báo. Vì thế ta bèn bắt chước theo kiểu sư huynh, chặn họng Tô Ôn Duẫn để xỏ xiên y. Hồi xưa chưa cảm nhận rõ, giờ ta mới phát hiện, thấy kẻ khác không nói gì nổi thật thú vị làm sao, hèn gì sư huynh cứ hay làm thế."
Cung Tuấn bật cười: "Ta hay xỏ xiên người khác bao giờ?"
Chu Tử Thư: "Ồ, huynh chưa bao giờ cơ đấy?"
Cung Tuấn nhìn cậu đắm đuối, chân thành bảo: "Chỉ trêu mỗi mình em thôi."
Chu Tử Thư: "..."
Thiên tử mừng thọ bảy mươi tuổi, Tây Bắc đại thắng, đúng là song hỉ lâm môn.
Ngày mười ba tháng Mười năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, hoàng để ban thưởng lớn cho công thần.
Gần nửa số tướng võ trong triều đình được thăng một bậc quan, các quan văn cũng được ban thưởng.
Đáng lí Chu Tử Thư và Tô Ôn Duẫn đều xứng đáng được ban thưởng, nhưng vì chuyện đánh Liêu là bí mật không thể bại lộ, hoàng đế chỉ gọi riêng từng người vào gặp kín. Ông ta không tiếc lời khen thưởng, đồng thời cũng vỗ về rằng cả hai không nên sốt ruột.
Lúc ra khỏi điện Thùy Củng, Chu Tử Thư đã chắc dạ. Cậu biết phần thưởng của mình không mất đi đâu được, chỉ cần thời cơ mà thôi.
Đã là thời cơ thì luôn luôn đến vào lúc bất chợt.
Ngày hăm bảy tháng Mười một, bộ Tạo Cải trực thuộc bộ Công nghiên cứu ra máy dệt vải kiểu mới, sử dụng kết hợp với lung tương. Máy này có thể dệt ra mười xấp vải một lúc mà chẳng tốn mấy thì giờ. Chính Chu Tử Thư đã chỉ huy các quan và thợ mộc của bộ Công nghiên cứu ra cỗ máy này. Dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết về máy dệt của phương Tây kiếp trước, cậu đề ra một số điểm cải tiến. Theo hướng đó, thợ mộc bộ Công cải tạo khung cửi và thiết kế ra máy dệt kiểu mới.
Chu Tử Thư đã mang xấp vải thành phẩm đầu tiên đến cho nhà vua xem.
Triệu Phụ nhẹ nhàng vuốt ve xấp vải. Vải này kém hơn gấm Thục, cũng chẳng bằng hàng thêu Tô châu, nhưng ông đã ngắm nghía nó rất lâu. Rồi ông ngẩng lên nói với Chu Tử Thư: "Đây cũng là thế giới mới mà Cảnh Tắc từng bảo trẫm ư?"
Chu Tử Thư nghiêm chỉnh chắp tay nói: "Đây chính là khởi đầu của thế giới mới."
Sau khi Chu Tử Thư ra về, Triệu Phụ ngồi trên ngai rồng, thong thả nói với Đại thái giám Quý Phúc: "Trên triều đình, ngươi có biết trẫm thích ai nhất không?"
Quý Phúc thót tim.
Hoặc là hoàng đế không nói gì, hoặc là hễ nói thì có người mất mạng. Gần vua như gần hổ là thế này đây.
Chu Tử Thư vừa ra khỏi cung hoàng đế đã hỏi câu này. Quý Phúc đảo mắt, nói: "Nô tỳ cảm thấy mỗi vị đại thần đều là rường cột nước nhà. Nô tỳ cũng không biết quan gia ưng ai nhất. Riêng nô tỳ thích Đường đại nhân nhất." Nói đến đây, Quý Phúc ngượng ngùng cười: "Quan gia cũng biết đấy, nô tỳ là hoạn quan không con không cháu. Phần đông các thái giám đều nhận con nuôi trong cung, nô tỳ cũng có một đứa. Lần nào gặp nhau, Đường đại nhân cũng gợi cho nô tỳ nhớ đến cậu con nuôi của mình, nó cũng gần gũi thân tình như thế. Với quan gia, Đường đại nhân lúc nào cũng tri kỉ hết."
Cùng trưởng thành với Triệu Phụ từ nhỏ, từ lâu Quý Phúc đã biết những chuyện mình làm xưa nay chưa bao giờ giấu được vị hoàng đế này. Vì thế, thi thoảng lão sẽ thổ lộ vài bí mật nho nhỏ của mình. Có thể hoàng đế đã biết những điều đó từ lâu, nhưng nghe chính miệng lão nói lúc nào cũng khác.
Quả nhiên, Triệu Phụ cười ha hả, chỉ vào lão ta mắng đùa: "Đường đại nhân mà ngươi cũng đem so với thứ hoạn quan như mình à?"
Mặt Quý Phúc tái mét, lão hốt hoảng quỳ xuống: "Nô tỳ không dám, nô tỳ lỡ lời. Nô tỳ vả miệng mình, xin quan gia tha tội." Vừa nói, Quý Phúc vừa tát vào mồm.
Lão phải tát đến cái thứ mười, Triệu Phụ mới nói: "Được rồi, đứng lên đi."
Quý Phúc tủi hờn thưa: "Vâng."
Triệu Phụ nói với vẻ trầm ngâm: "Trong triều đình ấy à, trẫm không tin được Từ Bí, không tin được CungThuyên, không tin được Cung Tuấn, không tin được Lý Cảnh Đức. Trẫm chỉ tin một người duy nhất, đó chính là Chu Thái sư. Nhưng hôm nay, trẫm bỗng cảm thấy Đường Cảnh Tắc..." Tiếng ông bặt đi, Triệu Phụ co ngón tay gõ lên bàn một nhịp.
Quý Phúc khúm núm ngước lên nhìn ông.
Triệu Phụ nói: "Đường Cảnh Tắc thực sự muốn làm đôi điều cho Đại Tống, không chỉ vì trẫm."
Mùng hai tháng Chạp năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Hữu thị lang bộ Công Chu Tử Thư có công chỉ đạo việc chế tạo lung tương, thăng làm Hữu Tán kị Thường thị, một chức danh hàm nhị phẩm.
Mùng ba tháng Chạp, Chu Tử Thư vừa mới lên chức, đang đi vào điện Cần Chính thì chạm mặt một người.
Thấy nhau, cả hai người cùng sững ra.
Chu Tử Thư chắp tay nói: "Hôm nay thì ta tin lời Dư đại nhân rồi. Ta và Dư đại nhân quả là có duyên, lúc nào cũng tương ngộ."
Dư Triều Sinh đáp lễ: "Chưa chúc mừng đấy. Mừng Đường đại nhân được thăng một bậc nhé."
Chu Tử Thư: "Đa tạ Dư đại nhân."
Dư Triều Sinh: "Ta còn việc cần làm."
Chu Tử Thư: "Đại nhân đi thong thả."
Họ đi lướt qua nhau trong vườn hoa điện Cần Chính.
Lúc Chu Tử Thư tới nhà làm việc của mình, Mai Thắng Trạch đợi ngoài cửa đã lâu.
Anh phẩy một bông tuyết trên vai Chu Tử Thư: "Tuyết rơi rồi."
Chu Tử Thư ngẩng đầu nhìn anh, bấy giờ mới phát hiện chẳng biết tự khi nào, những bông tuyết đã chầm chậm bay trên bầu trời.
Đây là trận tuyết đầu mùa ở Thịnh Kinh đông này.
Hôm sau, Đại lý tự Thiếu khanh dâng thư lên điện Thùy Củng: "Muôn tâu bệ hạ, vụ án Hình châu giờ đã sáng tỏ. Tội quan Tôn Thượng Đức tự vẫn trong ngục vì sợ tội. Tuy nhiên, thần đã điều tra tận chân tơ kẽ tóc những người còn lại và cuối cùng đã tìm ra chân tướng. Bệ hạ, vụ án này dính líu đến rất nhiều người. Tuy phần lớn là các quan ngũ phẩm, lục phẩm, nhưng có một người hiện đã là quan nhị phẩm, dù không phải thủ phạm chính."
Kết quả này, Triệu Phụ đã đoán được từ lâu. Ông hỏi: "Có quan lớn nhị phẩm cả gan phạm tội tày đình thế nữa à? Kẻ nào?"
Đại lý tự Thiếu khanh chắp tay hành lễ, nói chắc nịch: "Chính là Thượng thư bộ Binh kiêm Phó chỉ huy sứ ty Ngân dẫn – Dư Triều Sinh đại nhân!"
||
Lời tác giả: Truyện này không có cp phụ âuu. Trước mắt tác giả đáng yêu cũng không có ý định viết~
Manh: Tôi gõ phần đầu mà buồn cười quá. Giá mà "anh hàng xóm" cũng có ý thức trả lại những vùng anh ấy chiếm và các vùng anh ấy nhận vơ thì lí luận đỡ hài hơn bao nhiêu.
Chú thích
Sinh nhật vua. Liên hệ "Phật đản" là ngày sinh Đức Phật.
Gốc: 所谓来往不玩非礼也. Câu này mình không chắc là edit đúng, nhưng Mạnh Lãng đang nói dựa theo một câu trong Kinh Lễ – "Có qua mà không có lại là vô lễ; có lại mà không có qua, cũng là vô lễ."
Gốc:身披银甲的年轻元帅手持长枪, 头顶金玉银翎. Mình không rõ đoạn
này đang nhắc đến mũi thương "Nhạn linh" của LCĐ, mũi thương gắn vàng ngọc và bạc, hay trên đầu LCĐ đội cả vàng bạc, phiên phiến nhé.
Gốc: 大寿 (đại thọ). Dịp sinh nhật theo chu kì 10 năm sau khi qua tuổi 50. Phân biệt với "đại thọ" trong tiếng Việt chỉ sinh nhật 90 tuổi. 26 năm về trước Triệu Phụ khoảng hơn 40 tuổi nên dịp này phải là sinh nhật 70 tuổi.
------oOo------
Chương 167: Chương kết
Nguồn: EbookTruyen.Net
Em muốn mang bình yên về non sông bốn bể
Nhân vật chủ chốt trong vụ án Hình châu – Tôn Thượng Đức đã chết trong ngục từ lâu, nhưng khi truy nguyên, các quan Đại lý tự và bộ Hình vẫn vạch trần được mạng lưới quan hệ nhằng nhịt đến tận gốc rễ này.
Vụ án bắt nguồn từ hành vi tham ô hủ bại, rút ruột kho phủ của bọn Tôn Thượng Đức – một lũ quan lại cấp thấp ngũ phẩm, lục phẩm. Đây thật ra không phải trường hợp cá biệt. Rất có thể những phủ khác trên khắp ba mươi sáu châu Đại Tống cũng phát sinh chuyện tương tự, song phần lớn đều được giấu giếm không để lộ sơ hở. Quan tham không đời nào bắt xuể, nhưng trận tuyết lớn ở Tây Bắc mười bảy năm về trước đã biến "chuyện nhỏ" của lũ quan tham này thành chuyện động trời.
Quan viên Đại lý tự ghi rõ vụ án vào tấu chương, đệ trình trước nhà vua.
Hoàng đế đùng đùng nổi giận.
Trong vô số kẻ dính líu đến vụ án này, người có cấp bậc cao nhất chính là Dư Triều Sinh.
Dư Triều Sinh bị truyền vào cung ngay trong đêm đó. Giữa điện Thùy Củng, hoàng đế lấy tấu chương các quan tố cáo Dư Triều Sinh quăng thẳng vào người anh ta.
Triệu Phụ: "Ngươi còn gì để nói không!"
Quyển tấu vụt hằn một vết trên quan bào Dư Triều Sinh. Anh ta gục đầu khom lưng, rút từ tay áo ra một bản tấu dâng lên hoàng đế. "Tội thần Dư Triều Sinh cúi xin bệ hạ tha thứ."
Quý Phúc nhận quyển tấu của Dư Triều Sinh, đưa lên cho hoàng đế.
Hoàng đế mở tấu ra đọc lướt, đoạn nhếch môi cười khẩy. Ông vung tay, ném nốt quyển tấu này vào người Dư Triều Sinh. Triệu Phụ gằn giọng, nửa cười nửa không: "Trẫm thấy ngươi đã mưu toan sẵn rồi nhỉ! Có thật là mười bảy năm qua ngươi không mảy may hoài nghi chuyện hồi ấy không? Nếu Dư Hiến Chi nhà ngươi thành thật khai báo từ sớm, trẫm thậm chí đã có thể mở lượng hải hà."
"Dư Hiến Chi ơi là Dư Hiến Chi, ngươi nghĩ trẫm khờ, hay ngươi cho rằng mình là kẻ dại?"
"Ngươi muốn trẫm thấy nhà ngươi ngu xuẩn hay khôn ngoan đây?"
Dù đã có chuẩn bị, Dư Triều Sinh vẫn không tài nào ngừng run khi đối mặt với cơn thịnh nộ của đấng thiên tử: "Thần không dám."
Triệu Phụ: "Trẫm thất vọng về ngươi quá thể!"
Dư Triều Sinh thấy trong lòng lạnh toát. Anh ta ngước nhìn hoàng đế, nhưng ông ta không buồn nhìn xuống anh thêm lần nào.
Thật ra khi án Hình châu mới được Ngự sử tâu lên, Từ Bí đã hỏi Dư Triều Sinh xem có dính dáng đến không. Dư Triều Sinh đáp rằng "Không đời nào." Quả đúng thế, anh ta không cùng một giuộc với lũ quan Hình châu chuyên đục khoét kia.
Thuở ấy, Dư Triều Sinh vừa mới đỗ Bảng nhãn, làm quan kinh thành được một năm thì bị phái đến Hình châu. Là quan từ nơi khác đến, anh ta đâu thể nhanh chóng nhập bọn với lũ quan cấp thấp ngũ, lục phẩm đó được, nên thật tình anh ta không hề dự phần trong vụ việc. Tuy nhiên, trong những năm được thuyên chuyển đi khắp nơi sau nạn tuyết Hình châu, Dư Triều Sinh đã từng bước thăng tiến và cũng từng bước trông tỏ quan trường.
Lúc bấy giờ ngoái nhìn lại, anh ta mới hiểu rõ sự khác thường rất nhỏ mình nhận thấy ở Hình châu hồi đó, mới ngộ ra bản chất vụ việc mà anh ta đánh hơi thấy manh mối, nhưng không dám liều lĩnh định luận vì hiềm tuổi quan còn non, kinh nghiệm còn ít ỏi.
Anh ta chưa từng tham ô tiền của phủ, nhưng không hề mù tịt.
Triệu Phụ lí nào lại không biết.
Bản tấu của Dư Triều Sinh chính là bức thư trần tình để thưa rõ việc mình chưa bao giờ ăn hối lộ, rằng mình hoàn toàn vô can trong vụ án Hình châu. Ấy thế mà Triệu Phụ lại hỏi anh ta "Có phải ngươi đã đoán ra chân tướng từ trước không?", "Trong tấu chương ngươi chỉ nói mình vô can, nhưng không nói một chữ rằng ngươi biết từ sớm mà lại làm ngơ."
Dư Triều Sinh không ngu, thế nên Triệu Phụ thừa biết người bề tôi này của mình nắm được chuyện đã lâu rồi.
Điều khiến Triệu Phụ căm tức là mười bảy năm về trước ông ta còn đích thân lên đàn trời cầu phúc, lòng nơm nớp sợ hãi. Vậy mà bây giờ nhìn lại, chuyện này chẳng phải thiên tai, càng chẳng phải do ông thiếu đức hạnh, mà là nhân họa!
Hôm sau lên triều, hoàng đế hạ chỉ bãi nhiệm tạm thời Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh, bắt phải đóng cửa suy ngẫm tại nhà. Các tội quan khác trong vụ án Hình châu đồng loạt bị trừng phạt. Những cái tên nổi cộm nhất đều đã bị Đại lý tự tống giam ở thiên lao từ lâu, e chỉ còn nước rục xương trong tù.
Trong điện Tử Thần, Dư Triều Sinh tự tháo mão quan. Tả tướng Từ Bí cầm hốt ngọc, mắt nhìn xuống đất chẳng liếc ngang, không hề đứng ra xin tha cho người học trò của mình.
Bên kia, nhóm Hữu tướng CungThuyên và Thượng thư Tả bộc xạ Cung Tuấn cũng để mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, ung dung thong thả cứ như chưa từng nhúng tay vào chuyện này.
Chu Tử Thư đứng đầu hàng quan tam phẩm, sau các quan nhị phẩm. Cậu nhìn bóng lưng Dư Triều Sinh rời khỏi điện Tử Thần, bất giác tự hỏi rốt cuộc Dư Triều Sinh có biết ai đã hại anh ta không.
Là CungThuyên, Cung Tuấn, và có lẽ là cả ân sư Từ Bí của anh ta cũng tưới thêm dầu vào lửa, phủi sạch quan hệ với anh ta.
Nhưng người đẩy anh ta đến kết cục ngày hôm nay, không phải ai khác, chính là bản thân anh ta.
Làm quan ở đời nào có dễ, làm gian thần đã khó, làm hiền thần càng khó hơn.
Cung Tuấn chưa bao giờ đả động đến, nhưng từ lâu Chu Tử Thư đã đoán được vì sao Cungđảng phải bày ra ván cờ to nhường ấy từ hai năm trước, hòng bứt quân cờ Dư Triều Sinh khỏi phe Từ đảng.
Hai năm trước, Triệu Phụ lâm trọng bệnh, nằm li bì trên giường rồng. Khi đó, tất cả mọi người đã nghĩ ông không thể gượng dậy nổi. Ngay cả Chu Thái sư trấn thủ Tây Bắc cũng phải trở về kinh sau nhiều năm để thăm hoàng đế. Điều bất ngờ là lần đó Triệu Phụ đã qua khỏi, nhưng kể từ ấy Cung Tuấn cũng hạ quyết tâm phải chặt đứt cánh tay phải của Từ đảng.
Triệu Phụ rồi sẽ quy tiên, ngày đó có lẽ không còn xa xôi.
Trong ba hoàng tử, bất kể ai nối ngôi cũng không có lòng quyết đoán của Triệu Phụ, không thể một mình dẹp yên các luồng chính kiến trong triều đình nhằm thúc đẩy ty Ngân dẫn. Ngày ấy mới chỉ có ty Ngân dẫn, còn nay đã thêm cả lung tương. Cái trước sớm đã bộc lộ sức uy hiếp với thế gia đại tộc, và cái sau cũng chỉ cần mấy năm nữa thôi để bộc lộ tiềm năng thay đổi toàn xã hội.
Vai của Dư Triều Sinh là vai hiền thần, mà vai Cung Tuấn cần đóng, chính là vai gian thần.
Chỉ khi nắm lấy quyền lực tuyệt đối, khiến toàn thể triều đình răm rắp nghe theo thì mới có thể làm việc muốn làm, làm việc cần làm.
Hiền thần không dễ, gian thần cũng không dễ!
Gần sang năm mới, vụ án Hình châu làm cả thành Thịnh Kinh xôn xao ầm ĩ, người người bất an. Tin mừng Tây Bắc thắng lớn đã phai nhạt ít nhiều, kèm theo đó là những trận tuyết dầy ngày ngày phủ kín Thịnh Kinh khiến tòa thành mênh mông càng nhợt nhạt và vắng lạnh đến khôn cùng.
Chu Tử Thư vâng lệnh vào cung. Lúc về, Đại thái giám Quý Phúc tiễn cậu ra cửa.
Chu Tử Thư nói: "Công công vẫn khỏe chứ? Hôm nay trời rét mướt, đất đóng băng, công công phải chú ý giữ gìn hơn đấy."
Quý Phúc cười xòa: "Để Đường đại nhân nhọc lòng quan tâm rồi. Thuốc cao dạo trước Đường đại nhân tặng cho đúng là thuốc tiên." Chu Tử Thư khẽ mỉm cười.
Ngay sau ngày Chu Tử Thư mang thành phẩm mới của máy dệt vải vào cung, cậu liền nghe kể mình vừa rời cung thì Thủ lĩnh Thái giám Quý Phúc cũng vác cái mặt đỏ tấy ra khỏi điện Thùy Củng. Chuyện này hết sức lạ kì, Chu Tử Thư cũng không biết cớ sao đang yên đang lành mặt Quý Phúc lại sưng. Song vì đã thấm nhuần tác phong của Cung Tuấn, cậu chẳng nghĩ ngợi nhiều, gửi ngay thuốc kim sang tốt nhất Bách Bảo Các vào cung cho Quý Phúc.
Vì so sánh Chu Tử Thư với hoạn quan mà Quý Phúc phải tự phạt mười cái tát, vốn lão đang oán Chu Tử Thư lắm. Nhưng rồi khi nhận được thuốc Kim sang thượng hạng thì lão cũng nguôi giận ít nhiều, bèn nửa cố ý, nửa vô tình mà kể lại chuyện phát sinh hôm đó cho Chu Tử Thư.
Chu Tử Thư hết sức ngỡ ngàng, cậu không ngờ mình chiếm vị trí cao đến thế trong lòng Triệu Phụ.
Hôm đó, Chu Tử Thư bèn soạn một phần lễ thật hậu đưa sang nhà Quý Phúc ở ngoài cung.
Quý Phúc làm bộ chối từ, Chu Tử Thư chân thành nói: "Công công bị thương vì ta, lễ này cũng như lời xin lỗi của ta vậy. Công công không nhận chẳng hóa vẫn giận bản quan đó ư?" Quý Phúc liền nhận ngay.
Lão xúc động nói: "Trận tuyết này to lắm đấy, Đường đại nhân đi đường cẩn thận nhớ."
Chu Tử Thư: "Đa tạ công công."
Quý Phúc vờ như vô tình, nói: "Nhìn trận tuyết này, nô tỳ lại nhớ hôm qua quan gia phê tấu chương đã phán một câu, rằng tuyết năm nay đúng là lớn thật, nhưng phương Bắc đã quen với tuyết lớn nên dân chúng đề phòng kĩ lưỡng, chứ tuyết này mà trút xuống những vùng như Tây Nam, Hình châu, e lại gây tai họa."
Chu Tử Thư đưa mắt lên nhìn lão.
Cậu nói: "Đúng là thời buổi nhiễu nhương."
Quý Phúc cười: "Rồi sẽ gió đứng sóng êm cả thôi. Đường đại nhân đi thong thả."
Ngày hăm bốn tháng Chạp năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Thượng thư bộ Hình Dư Triều Sinh bị biếm tới Xương châu làm phủ doãn.
Hôm đó, Dư Triều Sinh ra đi trên cỗ xe ngựa đơn sơ, thầm lặng rời kinh không hề báo cho bất cứ ai. Đến hành trang anh ta cũng thu xếp xong từ sớm, lên đường không nấn ná dù chỉ một ngày.
Đêm hai chín tháng Chạp trước giao thừa, hoàng đế bày tiệc ở các Yến Xuân, vời quần thần vào chung vui năm mới.
Trong buổi tiệc, chúng thần tử cạn chén hăng say, mặt mày hoàng đế cũng rạng rỡ.
Chu Tử Thư là Hữu thị lang tam phẩm bộ Công, nhưng nhờ chức danh nhị phẩm Tán kỵ thường thị mà được ngồi giữa hàng ngũ quan nhị phẩm. Cậu rì rầm trò chuyện với Thượng thư bộ Lễ Mạnh Lãng, nơi khóe mắt vẫn liếc thấy ba vị hoàng tử ngồi ở vị trí trên cao.
Mạnh Lãng nhìn theo tầm mắt cậu: "Nghe nói Nhị hoàng tử bị thương khi chiến đấu với người Liêu ở U châu. Có vẻ là bị thương cánh tay đấy." Mạnh Lãng chỉ cánh tay trái của Nhị hoàng tử Triệu Thượng, quả nhiên thấy cánh tay ấy cứng đơ suốt, không nhúc nhích lần nào.
Chu Tử Thư: "Ba vị hoàng tử đều xả thân vì nước, lòng thương dân như con rõ rành rành."
Mạnh Lãng nghe thế thì nhòm Chu Tử Thư từ trên xuống dưới, miệng lẩm bẩm: "Đúng là càng ngày càng y sì CungTử Phong!"
Chu Tử Thư không nghe rõ tiếng lầu bầu của ông, ánh nhìn của cậu dừng ở ba vị hoàng tử hồi lâu.
Vào thời điểm hai nước Tống Liêu giao chiến, Triệu Phụ xua cả ba người con trai của mình đến U châu. Tới U châu rồi, dĩ nhiên cả ba phải vắt óc tìm cách cống hiến, những mong lập nên chiến công. Khổ nỗi, các hoàng tử đã bao giờ điều binh khiển tướng đâu. Dù họ có giành nhau xin đánh thế nào trước mặt Chu Thái sư đi chăng nữa, ông cũng chẳng đoái hoài đến họ.
Ba vị hoàng tử sốt ruột như ngồi trên đống lửa.
Sau rốt, Nhị hoàng tử Triệu Thượng giành được cơ hội lĩnh quân ra trận. Không biết là ngoài ý muốn hay cố tình mà cuối cùng anh ta đã bị thương, để rồi giờ đây, anh ta về kinh cùng với vết thương trên mình.
Trong các Yến Xuân, Nhị hoàng tử giữ nguyên cánh tay trái cứng đờ, tha thiết dõi mắt về phía hoàng đế hết lần này tới lần khác. Tiếc thay, Triệu Phụ chẳng buồn ngó ngàng đến anh ta.
Đôi mắt lấp lánh của Triệu Thượng ảm đạm dần.
Ngân khế trang ba mươi sáu châu, đại chiến Tống Liêu, hiệp ước Tiêu châu, vụ án Hình châu...
Năm Khai Bình thứ ba mươi sáu khép lại trong một trận tuyết trắng trời.
Lúc bá quan rời cung từ các Yến Xuân, Chu Tử Thư đã khoác thêm áo đại sưởng da cáo. Cậu ra đến cửa Tuyên Vũ thì thấy xe ngựa treo đèn Thượng thư Tả bộc xạ chờ sẵn ngoài cổng cung từ lâu. Cửa sổ xe bằng gỗ đào được chống lên thành khe hở chừng một bàn tay, phả ra một thứ hương vừa nhạt lại vừa nhã.
Đó là mùi hương đã gắn liền với CungTử Phong theo năm tháng.
Chu Tử Thư leo lên xe. Trong xe, Cung Tuấn đang cầm một chiếc ngọc bội, ngắm nghía tỉ mỉ dưới ánh nến lù mù.
Chu Tử Thư nhìn chàng không dời mắt: "Sư huynh ngắm thứ ấy làm chi thế?"
Cung Tuấn nhẹ tay cất ngọc bội đi: "Nó là quà tiểu sư đệ tặng ta mà."
Sau khi Chu Tử Thư ngồi vững chỗ, xe ngựa nhanh chóng lăn bánh về phủ Thượng thư.
Buổi tiệc trong các Yến Xuân là yến tiệc cung đình mà hoàng đế chiêu đãi quần thần. Các món trong tiệc toàn sơn hào hải vị do đầu bếp hoàng cung chế biến nên hiển nhiên là thức quý ở đời. Thế nhưng đã là cung yến thì chẳng quan nào còn bụng dạ ăn uống trước mặt hoàng đế. Chu Tử Thư chưa no, bèn quen tay lần mò một lát trong xe ngựa Cung Tuấn, quả nhiên tìm được mấy món điểm tâm Thái Kỳ trai.
Đang cầm miếng bánh ăn dở, Chu Tử Thư chợt nghe Cung Tuấn nói nhẹ như lông hồng: "Gia Luật Xá Ca tức vị rồi."
"Khụ khụ khụ khụ..." Chu Tử Thư suýt chết nghẹn vì miếng bánh, vội vã tu một hớp trà thật to. Xuôi họng rồi, cậu ngẩng lên nhìn Cung Tuấn sửng sốt: "Gia Luật Xá Ca lên ngôi á? Tay Nhị hoàng tử nước Liêu ấy ư?"
Ánh mắt Cung Tuấn nhìn cậu đượm ý cười, chàng gật đầu đáp: "Phải."
Chu Tử Thư: "..."
Cậu chưa hết sợ, bèn để bánh ngọt ra xa một tí, khẽ khàng hỏi: "Thật hay giả mà sư huynh nói nhẹ tênh như bảo 'tối nay mình ăn cua' thế hở?"
Cung Tuấn nhướng một bên mày: "Thế tiểu sư đệ cảm thấy ta nên nói chuyện này bằng giọng điệu nào?"
Chu Tử Thư nghĩ ngợi một lát: "... Huynh cứ nói thế đi."
Con người CungTử Phong luôn tạo cho người ta ấn tượng không chuyện gì có thể khiến chàng thất kinh. Vua Liêu tức vị thì đã sao? Chẳng phải chỉ lên ngôi thôi à...
Chu Tử Thư luôn cảm giác mình theo CungTử Phong lâu thế, dường như cũng trở nên bình tâm trước mọi biến cố, có sự thay đổi sâu sắc về giá trị quan.
Ở nơi khác, khi tiệc trong các Yến Xuân đã tàn, Triệu Phụ cũng biết tin Nhị hoàng tử nước Liêu kế vị.
Lúc đó Triệu Phụ đương ở tẩm cung của phi tử, sắp sửa đi ngủ. Phản ứng của ông khi nghe tin từ thám báo cũng giống hệt như CungTử Phong. Vị hoàng đế Đại Tống chỉ "Ờ" một tiếng rất đơn giản, chẳng để vào đầu.
Hoàng đế mới của nước Liêu là ai, có quan trọng không?
Không hề.
Nay nước Liêu đã lập Hiệp ước Tiêu châu với Đại Tống, nay nước Liêu đã mất đi mười vạn quân Sói Đen, chỉ còn là cái bóng của một đất nước lớn rất hung hăng từng khiến người ta nghe tiếng đã sợ mất mật.
Triệu Phụ nhắm mắt, hồi tưởng lại vô số chuyện.
Chuyện ba mươi sáu năm về trước khi ông vừa nối ngôi, người Liêu tấn công nhân lúc triều đình rối ren bất ổn.
Chuyện hai mươi sáu năm về trước, ông thân chinh cầm quân, chật vật chiến thắng nước Liêu để sau rốt, giành về một bản hòa ước mà họ phải nhẫn nhục thỏa hiệp vì mục đích lâu dài.
Ba mươi sáu năm ông ở ngôi, tuy Đại Tống từng phải đối mặt với thiên tai, nhân họa, tuy cả triều đình không phải ai ai cũng trong sạch, nhưng bách tính đã hưởng trọn ba mươi sáu năm yên vui thái bình!
Vậy ông đã để lại gì cho người đời sau?
Ông để lại một tấm bản đồ toàn vẹn, ba châu quy về lãnh thổ Đại Tống. Ông để lại Ngân khế trang trải khắp ba mươi sáu châu. Ông để lại lung tương – niềm hi vọng mà Chu Tử Thư nhen nhóm, ông để lại ba mươi sáu năm Khai Bình mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an!
Hôm nay hoàng đế nghỉ ở cung Trân phi – tức mẹ ruột của Nhị hoàng tử Triệu Thượng.
Từ dạo chính biến cung đình năm năm về trước, nỗi sợ hãi trước hoàng đế càng khắc sâu vào lòng Trân phi. Bà hầu vua đi ngủ mà cẩn thận từng li từng tí.
Nến được thổi tắt, ánh Tuấng im ru chiếu vào trong điện.
Trân phi tim đập chân run mãi, đến lúc sắp sửa ngủ thì bỗng nghe Triệu Phụ hỏi: "Tay Triệu Thượng bị thương ở U châu à?"
Trân phi sợ rùng cả mình, suýt thì bật dậy trên giường. Bà se sẽ đáp:
"Vâng..."
Triệu Phụ không nói gì nữa.
Trân phi thấp thỏm ngóng chờ thật lâu, lúc này bà chẳng còn buồn ngủ chút nào.
"Phi bầu bạn với trẫm được ba mươi năm có lẻ rồi nhỉ."
Trân phi nhoẻn miệng cười: "Thần thiếp vào cung từ năm Khai Bình thứ ba."
Triệu Phụ hỏi rất thản nhiên: "Trẫm có phải hoàng đế tốt không?"
Trân phi máy mắt, trống ngực đổ dồn. Có thể sinh được hoàng tử và sống yên ổn trong hậu cung suốt ngần ấy năm, Trân phi đích xác là người hiểu hoàng đế. Bà ngước mắt nhìn lên, ánh Tuấng hắt vào làm những nếp nhăn trên gương mặt nhà vua nom tựa như những rãnh núi.
Bà nhớ về Triệu Phụ mà mình gặp thuở mới vào cung ba mươi ba năm về trước.
Triệu Phụ chẳng được coi là anh tuấn.
Thái hậu càng chẳng phải trang tuyệt sắc giai nhân. Trong mấy hoàng tử của tiên đế, người khôi ngô phi phàm nhất phải kể đến tiên thái tử. Hồi chưa vào cung, Trân phi từng may mắn trông thấy tiên thái tử từ xa trong một buổi cung yến. Người ấy đích thực là tiên cõi trời dạo bước nhân gian, thoáng chốc đã hớp hồn bà. Thử hỏi thành Thịnh Kinh thời bấy giờ có người con gái nào không thầm thương trộm nhớ Triệu Tuyền?
Tiếc thay Triệu Tuyền mất sớm. Bà vào cung và trở thành phi của Triệu Phụ.
Ra triều đình Triệu Phụ chuyên quyền độc đoán, về hậu cung ông chưa một lần để tâm. Lúc hoàng hậu còn sống, bà quản lí hậu cung có nền có nếp; lúc hoàng hậu đi, hậu cung chẳng loạn bao giờ. Nay ngẫm lại, có lẽ mỗi người đàn bà trong hậu cung đều ôm nỗi sợ hãi tột cùng trước Triệu Phụ. Dù Triệu Phụ hiếm khi nổi cơn thịnh nộ trước mặt các bà, nhưng các bà vẫn chẳng dám khinh nhờn ông.
Ba mươi ba năm bầu bạn, Nhị hoàng tử đã qua tuổi nhi lập.
Giờ ngắm nhìn Triệu Phụ, Trân phi hốt nhiên nhận ra dung mạo đẹp như người trời của tiên thái tử trong kí ức đã phai mờ từ lâu. Bao năm qua, người bà hằng nhớ nhung, người được bà may áo cho mỗi đêm về, người bà dùng mọi cách để chiếm lấy cảm tình, người khiến bà hồn vía lên mây, từng phút từng giây vẫn luôn là Triệu Phụ.
Trân phi đã trót thương ông mất rồi, bà dịu dàng nói: "Trong lòng thần thiếp, bệ hạ là vị hoàng đế tuyệt vời nhất." Triệu Phụ cúi đầu nhìn bà.
Ông cười bảo: "Phi già rồi."
Không biết Trân phi lấy đâu ra can đảm, đánh bạo đáp: "Chẳng phải bệ hạ cũng thế sao?"
"Ha ha ha ha ha."
Trân phi hẵng còn sợ sệt, tay ấn lên ngực, nghe rõ tiếng tim đập thình thịch giữa đêm khuya.
Bà thầm tự hỏi: Có lẽ nào đêm nay hoàng đế đang vui thật?
Cơn buồn ngủ ập đến, Trân phi từ từ thiếp đi.
Hôm sau là giao thừa, bá quan đã được nghỉ từ lâu nên không cần vào triều. Bọn thái giám đều túc trực ngoài tẩm điện.
Trân phi thức giấc, thấy hoàng đế còn say ngủ, bà bèn nhón gót ra ngoài cung điện. Đến tận lúc mặt trời lên cao ba sào mà hoàng đế vẫn chưa dậy, Trân phi mới đi vào khẽ giọng đánh thức ông. Gọi mấy tiếng mà ông không đáp, Trân phi thất kinh, tá hỏa hô Quý Phúc từ ngoài cửa vào, làm Quý Phúc cũng tái mét vì sợ.
Trân phi lẩy bẩy giơ tay chạm vào người Triệu Phụ.
Thế rồi bà ngã bệt xuống đất.
Quý Phúc mặt cắt không còn hột máu. Giây lát sau, Trân phi thảm thiết hô toáng lên: "Mau gọi thái y, gọi thái y!"
Hoàng đế chưa băng hà nhưng tái phát bệnh cũ, hôn mê bất tỉnh.
Tết năm Khai Bình thứ ba mươi bảy, cả hoàng cung nháo nhác. Có gương tày liếp khi xưa, ba hoàng tử dẫu muốn vào cung xem bệnh tình vua cha cũng sợ giẫm phải vết xe đổ năm năm về trước. Chờ hai ngày trôi qua, cả ba mới vào cung hầu bệnh.
Lần này, bệnh tình của Triệu Phụ hết sức nghiêm trọng.
Từ mùng bốn Chu Tử Thư đã vào cung diện thánh, tiếc rằng hoàng đế chưa tỉnh nên cậu không gặp được ông.
Lần trước nhà vua lâm trọng bệnh, Chu Thái sư chờ tận hai tháng sau mới về kinh, còn dẫn theo cả một thần y. Lần này có lẽ do linh tính mách bảo, Chu Thái sư về Thịnh Kinh từ mùng bảy tháng Giêng và cũng dẫn theo vị thần y kia.
Thần y lưu lại hoàng cung cả tháng trời mà Triệu Phụ vẫn không hồi tỉnh.
Trên triều đình, lòng bá quan ai ai cũng có toan tính.
Còn trong hoàng cung, ba vị hoàng tử không khác gì ngồi trên bàn chông. Hơn bao giờ hết, họ ý thức được mình đã cách ngôi cửu ngũ rất gần. Song vụ chính biến cung đình năm năm về trước quả thực đã khiến bọn họ rái đến già, không một ai dám manh động. E rằng trên đời chẳng có đứa con trai nào khiếp sợ cha mình đến như thế, khiếp như một bầy chuột nhắt hoảng loạn.
Năm Khai Bình thứ ba mươi bảy, ngày mười ba tháng Hai.
Ở bộ Công, Chu Tử Thư đang bàn bạc với thợ mộc về cách cải tiến lung tương nhằm nâng cao hiệu suất, giảm thiểu mức tiêu hao năng lượng. Có quan sai đến báo: "Bệ hạ đã tỉnh, Tả bộc xạ đại nhân mời Hữu thị lang đại nhân vào cung ạ."
Chu Tử Thư cả kinh, tức tốc vào cung.
Khi Chu Tử Thư đến ngoài điện Thùy Củng, rất nhiều quan viên đã có mặt đông đủ nơi đây.
Trông thấy Cung Tuấn, Chu Tử Thư bèn tới bên chàng. Hai người trao nhau một ánh mắt, Cung Tuấn đặt ngón trỏ lên môi, khẽ "suỵt" một tiếng. Chu Tử Thư đưa mắt nhìn xuống, đi ra sau lưng Cung Tuấn, không nói năng gì.
Đợi đến lúc ác vàng xế bóng, thỏ ngọc lưng trời, Đại thái giám Quý Phúc mới đi từ trong điện Thùy Củng ra.
Cái giọng the thé của thái giám giữa lúc đêm hôm nghe mới chói tai làm sao: "Truyền Tả tướng Từ Bí, Hữu tướng CungThuyên vào chầu." Từ tướng và Cungtướng lập tức đi vào điện Thùy Củng.
Ngót nửa giờ sau, hai người ra khỏi đại điện với nét mặt hoàn toàn khác nhau.
Từ Bí nói: "Về cả đi, long thể bệ hạ bất an, không phải đứng chầu đâu."
Bá quan nhất tề đáp: "Vâng."
Sau khi rời khỏi hoàng cung, Chu Tử Thư và Cung Tuấn sang phủ Hữu tướng liền.
CungThuyên thấy họ thì cười gượng: "Ta biết hai con đến để nói gì. Nhưng các con nên hỏi sau khi ta và Từ Bí cùng vào thì đã nói gì và được nghe những gì. Dĩ nhiên ta sẽ không giấu các con đâu. Hai đứa theo ta vào đây."
Hai người đi theo CungThuyên vào thư phòng, chỉ thấy CungThuyên ấn ấn lên giá sách, đoạn lấy ra một chiếc hộp nhỏ nhắn đầy tinh xảo.
Ánh mắt Cung Tuấn rung lên, chàng ngẩng lên nói: "Trong này là..."
CungThuyên: "Phải, chính là chiếu truyền ngôi đấy." Chu Tử Thư thầm kinh hãi.
CungThuyên nói tiếp: "Hộp này do ta giữ, nhưng hai con có thấy ổ khóa bên trên không? Chìa khóa ổ này đang nằm trong tay Từ Bí. Thế nên rốt lại, chiếu thư trong hộp viết gì ta không biết, Tả tướng cũng không biết." CungThuyên thở dài: "Ai mà tưởng tượng nổi hoàng đế lại sắp đặt như vậy chứ!"
Chiếu truyền ngôi do cả Từ Bí lẫn CungThuyên bảo quản.
Hai người là hai đảng phái đối địch với nhau, nếu một trong hai phe nảy sinh ý đồ làm loạn, dứt khoát không thể lừa được phe còn lại.
Hơn nữa, khi hoàng đế mới lên ngôi, cả hai người đều có công phò vua.
Dẫu bước sang triều vua mới thì phe nọ cũng không dễ gì lấn lướt phe kia. Hành động rất đỗi đơn giản này thôi đã khiến bao công sức loại bỏ bằng được Dư Triều Sinh của Cungđảng đổ sông một nửa!
Cung Tuấn không khỏi bật cười.
CungThuyên: "Con còn cười được à?"
Cung Tuấn hỏi ngược lại ông: "Thế con phải làm sao đây, khóc ư?"
CungThuyên chẳng nói chẳng rằng, chỉ lườm chàng một cái, thở dài: "Than ôi, chẳng biết chuyện này là tốt hay xấu, cũng không rõ bệ hạ còn gắng gượng được bao lâu nữa đây!"
Câu nói ấy in sâu vào lòng Chu Tử Thư. Hôm sau, cậu bình thản tới điện Cần Chính, tình cờ gặp viên Khởi cư lang trực ở điện cùng ngày.
Người này họ Tề, là Trạng nguyên năm Khai Bình thứ ba mươi sáu. Anh ta vừa lên chức Khởi cư lang vào tháng mười một năm ngoái, làm chưa được mấy hôm thì hoàng đế ngã bệnh nặng nên phải chầu cạnh nhà vua mê man suốt từ dạo ấy, cả ngày chẳng ghi chép được gì.
"Hạ quan Tề Phùng bái kiến Hữu thị lang đại nhân."
Chu Tử Thư nhẹ nhàng "ừ' một tiếng: "Đang vào cung làm việc đấy hở?"
Tề Phùng: "Bẩm đại nhân, đúng thế ạ."
Chu Tử Thư không hỏi thêm nữa, cậu tránh sang một bên cho Tề Phùng đi trước. Tề Phùng hết sức ngỡ ngàng, rồi lấy làm biết ơn lắm, rảo bước đi vào trong cung.
Sau khi tỉnh lại, Triệu Phụ chỉ gặp mỗi Từ Bí và CungThuyên. Suốt hai ngày sau đó ông không gặp thêm ai.
Có quan đoán, khéo phen này hoàng đế cũng biến hiểm thành an, yên ổn khỏi bệnh giống như hai năm trước. Song Chu Tử Thư biết, Chu Thái sư còn túc trực suốt ở kinh thành không đi, dễ có khi Triệu Phụ không cầm cự được quá mùa xuân này thật.
Ngày mười bảy tháng Hai, Triệu Phụ cho vời Thượng thư Tả bộc xạ Cung Tuấn và Tham tri chính sự điện Cần Chính Tô Ôn Duẫn vào cung yết kiến.
Bọn họ cũng không vào cung cùng một lúc. Khéo làm sao, Tô Ôn Duẫn vừa ra khỏi cung thì chạm trán Cung Tuấn.
Tô Ôn Duẫn liếc chàng nửa cười nửa không, Cungđại nhân thong dong điềm tĩnh vào cung. Đến tối về phủ, hai người CungĐường dùng bữa xong, Cung Tuấn mới lấy một vật từ tay áo ra, thuận tay để "cạch" lên bàn.
Hành động của chàng tự nhiên đến nỗi Chu Tử Thư không cảm thấy có gì sai ở đây, nên chỉ liếc nhìn lấy lệ.
Đến lúc thấy rõ thứ trên bàn, Chu Tử Thư mới biến sắc, chộp lấy nó.
"Gì đây?"
Cung Tuấn cười nhẹ tênh: "Kim bài miễn tử."
Chu Tử Thư: "..."
Dĩ nhiên cậu biết nó là kim bài miễn tử!
Hóa ra phim truyền hình chuẩn thật, trên thế giới thực sự có kim bài miễn tử, còn được chế tác sao cho người ta vừa trông thấy đã biết nó là kim bài miễn tử nữa chứ!
Chu Tử Thư suy nghĩ: "Hoàng thượng ban cho huynh lúc vào cung yết kiến hôm nay à?"
Cung Tuấn khẽ gật đầu.
Khóe miệng Chu Tử Thư máy một cái, cậu để kim bài xuống bàn, nhớ tới một chuyện: "Huynh nói xem, hôm nay bệ hạ triệu cả huynh và Tô Ôn Duẫn vào cung một lượt, ban cho huynh kim bài miễn tử, thế Tô Ôn Duẫn thì được cái gì?"
Cung Tuấn: "Tại sao cứ nhất thiết phải ban thưởng cho Tô Ôn Duẫn?"
Chu Tử Thư: "Ơ?"
Cung Tuấn khẽ cau mày, ra vẻ quan tâm thiên hạ, đau đáu âu lo: "CungTử Phong ta đây thanh liêm chính trực có đất trời chứng giám, một lòng vì nước chẳng nề sống chết, nhờ thế mà được ban tấm kim bài miễn tử này. Tên Tô Ôn Duẫn ấy chắc chẳng được ban thưởng gì đâu, chưa biết chừng hoàng thượng còn đòi của y cái gì ấy chứ?"
Chu Tử Thư: "..."
Người đâu mà dơ quá đáng!
Rốt lại Tô Ôn Duẫn có được cái gì không, chẳng cứ Chu Tử Thư, ngay cả thái giám Quý Phúc cận kề bên Triệu Phụ còn không biết nữa là.
Sau hôm vào cung yết kiến nhà vua, Tô Ôn Duẫn khởi hành đến U châu.
Chỉ mấy ngày sau, CungTiêu gửi thư từ Tây Bắc về cho Chu Tử Thư. Chu Tử Thư bóc ra xem thì bật cười liền.
Sau khi lên ngôi, Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca của nước Liêu lập tức thanh trừng các phần tử đối lập trước nhất nhằm củng cố quyền lực. Lần này Gia Luật Xá Ca tức vị được hoàn toàn là nhờ sự ủng hộ mạnh mẽ của quan lại miền Nam. Vì thế, sau khi nối ngôi, Gia Luật Xá Ca cất nhắc hàng loạt các quan miền Nam, thay đổi cục diện quý tộc nắm quyền lực tuyệt đối trong triều đình nước Liêu.
Loạn trong thù ngoài không dứt, đây đúng là thời kì rối ren của nước Liêu.
Bận rộn suốt cả tháng trời, Gia Luật Xá Ca mới nhớ ra một chuyện. Y triệu tâm phúc lâu năm của mình, người đã từng là Tả bình chương chính sự phủ Tích Tân, hiện giờ là Cungtử Thái bảo nước Liêu – Tiêu Châm. Vị vua mới của nước Liêu nhỏ giọng hỏi lão: "Trẫm nhớ ngươi có quen một nhà buôn trà nước Tống phải không?"
Một giọt mồ hôi rỏ xuống từ gương mặt múp míp của Tiêu Châm: "Dạ, đúng là thần có quen một nhà buôn trà người Tống."
Nụ cười lạnh toát xuất hiện trên gương mặt thanh tú của Gia Luật Xá Ca, y dịu giọng nói: "Nhà buôn trà đó có một cậu con trai."
Tiêu Châm ngẩng đầu, kinh ngạc thốt lên: "Bệ hạ còn nhớ con trai người buôn trà đó ư?" Lão tỏ vẻ nuối tiếc, "Lái buôn ấy tên là Kiều Cửu – một thương nhân khôn khéo và cừ khôi. Năm ngoái con trai hắn mất vì bệnh tật ở quê nhà, Kiều Cửu quá đỗi đau lòng nên đã về quê lâu rồi. Từ bấy đến nay, thần chưa từng gặp lại Kiều Cửu." Gia Luật Xá Ca ngây ra vì ngỡ ngàng.
Đôi mắt Tiêu Châm trong sáng, lồ lộ vẻ tiếc nuối.
Gia Luật Xá Ca nhìn lão chằm chặp hồi lâu, lặng thinh không nói một lời.
Tiêu Châm phát rợn tóc gáy trước cái nhìn của y, không dám mở miệng.
Mãi sau, Gia Luật Xá Ca mới bảo: "Lui đi."
"Vâng."
Dĩ nhiên Gia Luật Xá Ca không tin lời nói của một mình Tiêu Châm. Tuy
Tiêu Châm không có động cơ để làm chuyện khi quân, nhưng Gia Luật Xá Ca vẫn phái người đi điều tra xem sao. Kết quả điều tra giống hệt như những gì Tiêu Châm kể, lái buôn trà người Tống đã rời Liêu từ năm ngoái, không hề quay lại. Không ai biết có thực hắn đã ra đi vì con trai mắc bệnh rồi chết không, nhưng đúng là hắn đã biến mất không thấy tăm hơi.
Vua Liêu nhắm mắt, hồi tưởng về một thoáng mê hồn thuở ấy.
Khi mở mắt ra, Gia Luật Xá Ca lạnh nhạt phất tay, gạt phăng khỏi tâm tưởng chút xuyến xao còn sót lại.
Chuyến này Tô Ôn Duẫn đến U châu chính là để rút Kiều Cửu về và sắp đặt lại bên Liêu.
Kiều Cửu về, song quân cờ Tiêu Châm đã sớm được họ gài sẵn bên Gia
Luật Xá Ca. Tiêu Châm đã thực hiện quá nhiều hành vi phản quốc, nếu phát sinh chuyện gì, Gia Luật Xá Ca dứt khoát sẽ phanh thây lão ra làm trăm mảnh. Lão đã lên "thuyền giặc" rồi, không còn đường để quay đầu.
Tô Ôn Duẫn thu xếp ổn thỏa xong bèn nói với CungTiêu: "Lần này có lẽ là lần cuối cùng trong đời ta đến Tây Bắc. Kể từ giờ trông cậy hết vào các ngươi đấy."
CungTiêu kính cẩn chắp tay hành lễ: "Hạ quan tuân lệnh."
Nếu không có thư của CungTiêu, Chu Tử Thư cũng không biết bên nước Liêu xảy ra nhiều chuyện đến thế.
Cuối tháng Hai, Tô Ôn Duẫn về kinh, có cả Lý Cảnh Đức đi cùng.
Lý Cảnh Đức về kinh đến ngày thứ hai đã được triệu vào cung diện thánh.
Người ta kể rằng hôm đó Chinh Tây Nguyên soái rời cung với cặp mắt đỏ hoe. Không ai biết Triệu Phụ nói gì với hắn trong cung, nhưng kể từ ngày ấy, hắn trấn thủ Tây Bắc đến tận cuối đời.
Hoàng đế dưỡng bệnh trong cung, Chu Tử Thư tiếp tục cải tiến lung tương ở bộ Công cùng các thợ.
Năm Khai Bình thứ ba mươi bảy, mùng sáu tháng Ba, sức khỏe hoàng đế đột nhiên khá lên. Ông có thể xuống giường đi bách bộ trong ngự hoa viên.
Buổi chiều hôm sau, Triệu Phụ truyền cho Chu Tử Thư vào điện Thùy Củng.
Chu Tử Thư mặc quan bào mới tinh, cúi đầu theo thái giám vào cung.
Lúc Chu Tử Thư vào điện, Triệu Phụ không nằm trên gường rồng nghỉ ngơi mà đang ngồi ghế đọc sách.
Chu Tử Thư hành lễ xong, Triệu Phụ nói: "Các người lui hết đi."
Trong điện Thùy Củng thênh thang nhường ấy, bỗng chốc chỉ còn lại mình Triệu Phụ và Chu Tử Thư.
Ánh mắt Chu Tử Thư khẽ chuyển động, song cậu không làm gì bồng bột. Mấy ngày nay, quan viên vào điện Thùy Củng yết kiến hầu như chỉ gặp vua một mình, không có bất cứ ai khác hiện diện.
Ấy là hoàng đế đang dặn dò hậu sự.
Chu Tử Thư vẫn khom lưng. Triệu Phụ mỉm cười nhìn cậu. Giọng ông thấp và từ tốn, nhưng khác với trước đây, ông nói chậm là bởi hơi thở phập phù, gần như đứt hẳn.
"Cảnh Tắc, hãy ngẩng đầu lên." Chu Tử Thư ngẩng đầu.
"Ngươi có biết trẫm đang đọc sách gì không?"
Chu Tử Thư liếc nhìn bìa sách, khi thấy rõ chữ đề trên ấy thì tâm thần run rẩy. Cậu chắp tay thưa: "Thần không biết."
Triệu Phụ: "Là cuốn Khang sử huấn sách do Chung Thái Sinh biên soạn." Ông nói dứt câu, cả điện Thùy Củng lặng ngắt như tờ.
Mãi sau, Triệu Phụ mới bỏ sách xuống bàn, thản nhiên nói: "Cảnh Tắc, ngươi vào triều làm quan đã lâu, trẫm muốn hỏi ngươi rằng..."
"Trong lòng ngươi, trẫm có phải hoàng đế tốt không?"
Chu Tử Thư trả lời không chút chần chừ: "Phải ạ, trong lòng thần, bệ hạ là một đấng minh quân."
Triệu Phụ: "Một đấng minh quân là như thế nào?"
Chu Tử Thư: "Bệ hạ chinh phạt nước Liêu, giành lại đất đai đã mất để giang sơn Đại Tống ta được toàn vẹn; bệ hạ mở ty Ngân dẫn, thiết lập Ngân khế trang Đại Tống ở khắp muôn nơi... Không có điều gì bệ hạ làm mà không phải vì muốn đời sau!"
Triệu Phụ cười một tiếng: "Thế so với Triệu Tuyền thì sao?" Chu Tử Thư ngây người.
Hồi lâu sau, cậu đáp: "Thần không biết Triệu Tuyền là ai."
Triệu Phụ nghiêng mình về trước, rạp nửa người trên bàn, nhìn Chu Tử Thư chăm chăm qua đôi mắt trĩu nặng dấu ấn thời gian nhưng vẫn còn sáng rỡ.
Chu Tử Thư điềm tĩnh đứng yên, tuyệt nhiên không tỏ ra hãi sợ hay lúng túng.
Triệu Phụ: "Không biết thật hả?"
"Không ạ."
Giọng Triệu Phụ lào thào: "Thái tử của tiên đế, và cũng là huynh trưởng của trẫm tên là Triệu Tuyền."
Chu Tử Thư cúi đầu lặng im.
Triệu Phụ cười: "Nếu Chung Thái Sinh là tôi hiền giúp nước, Triệu Tuyền là vua, so ra thì trẫm sẽ thế nào nhỉ?" Chu Tử Thư vẫn một mực nín thinh.
Thình lình Triệu Phụ quát: "Đường Cảnh Tắc, người thấy thế nào!"
Chu Tử Thư đáp không kiêu không hèn: "Thần ra đời vào năm Khai Bình thứ mười một, chưa bao giờ chứng kiến cái cảnh mà bệ hạ nói đến. Kể từ khi nhớ được đến giờ, thần đã biết mình sống ở thời Khai Bình, Đại Tống chỉ có đúng một vị vua là Khai Bình hoàng đế. Thần không phải tiên, làm sao biết nổi những chuyện chưa từng xảy ra? Thế nhưng thần biết rõ, trong vòng năm trăm năm tới, không gì có thể vượt qua nổi những điều bệ hạ đã làm."
Triệu Phụ cười khe khẽ.
"Cảnh Tắc, trong triều đình này, người trẫm tin tưởng nhất... chính là ngươi!"
Chu Tử Thư nhìn Triệu Phụ đăm đăm, rạp người xuống vái: "Thần nguyện khom mình tận tụy vì bệ hạ đến hơi thở cuối cùng."
Chu Tử Thư rời khỏi điện Thùy Củng nhằm lúc bên ngoài nắng ấm chan hòa, đúng là cảnh đẹp ngày xuân.
Ánh nắng chói chang chiếu vào mặt làm cậu không thấy rõ màu trời, người chao đảo mất một lúc mới đứng vững được.
Quý Phúc thấy cậu đi ra thì nghĩ Chu Tử Thư ở trong điện lâu thế, hẳn hoàng đế cũng ban thưởng cho cậu giống như bọn Cung Tuấn. Lão nháy mắt với Chu Tử Thư, nói: "Để nô tỳ gọi người dẫn Đường đại nhân rời cung."
Chu Tử Thư gật đầu đáp: "Cảm phiền công công."
Một tiểu thái giám dẫn Chu Tử Thư rời cung, Quý Phúc nhìn theo bóng lưng cao thượng mảnh mai của cậu, nói với con nuôi Tạ Bảo đứng bên: "Hôm nay ta mới nhận ra, Đường Cảnh Tắc vào triều làm quan chỉ có mười năm thôi, nhưng quan gia thật sự tin cậy và cực kì yêu thích cậu ấy."
Tạ Bảo thì thào: "Cha nuôi ơi, vì sao lại thế? Con thấy quan gia cũng thích các ngài Cung Tuấn, Tô Ôn Duẫn lắm chứ."
Quý Phúc lắc đầu: "Không giống đâu. Cha cũng không biết là vì đâu, nhưng con người Đường đại nhân có gì đó hoàn toàn khác biệt so với những người khác. Hiển nhiên cậu ấy không sáng suốt tinh tường như CungTử Phong, cũng không sở hữu thủ đoạn tàn nhẫn dữ dội như Tô Phỉ
Nhiên, nhưng đúng là rất khác biệt."
Tạ Bảo vẫn mù mờ: "Khác ở chỗ nào cơ ạ?"
Quý Phúc mấp máy môi nhưng chẳng thể giải thích thành lời, bèn cáu kỉnh nạt: "Phắn đi lo việc của mày đi!"
Tháng Ba xuân về, cả khu vườn thắm sắc xuân tươi, không khí yên ả xưa kia đã quay lại triều đình Đại Tống.
Không một ai bàn tán về tình hình long thể hoàng đế, cũng không ai có gan nghĩ tới.
Thành Thịnh Kinh chốn chốn bình yên an lành. Những người duy nhất đứng ngồi không yên e chỉ có ba vị hoàng tử đang sốt ruột trông ngóng ngai vàng. Ấy thế mà hoàng đế vẫn khỏe mạnh, đến ngày hai mươi bốn tháng Ba, ông còn thiết triều lại!
Ba hoàng tử đâm ngẩn tò te.
Ngay cả Cung Tuấn cũng rất ngỡ ngàng, chàng bảo Chu Tử Thư: "Tu tiên có lợi thật thế chăng? Tiểu sư đệ à, hay là chúng mình cũng thử tí nhỉ?"
Chu Tử Thư – người theo chủ nghĩa vô thần: "..."
Nhưng chưa đầy hai hôm, hoàng đế đã tặng Cung Tuấn một bằng chứng sống về việc tu tiên là vô ích, trên đời chẳng có người trường sinh.
Ngày hai mươi tám tháng Ba năm Khai Bình thứ ba mươi bảy, giữa đêm khuya, hoàng đế bất ngờ đổ bệnh nặng trong tình trạng thở dốc, mặt mày tím tái.
Đại thái giám Quý Phúc tức tốc truyền lệnh cho bá quan vào cung.
Đang ngủ ngon thì bị triệu tập đột ngột, tất cả các quan kinh thành từ tứ phẩm trở lên cùng cuống quýt thay quan bào, rẽ màn đêm vào cung.
Trong điện mé của điện Thùy Củng là các phi tần hậu cung và các hoàng tử, hoàng tôn đang khóc rấm rứt không thôi.
Ngoài điện Thùy Củng là bá quan văn võ do Tả tướng Từ Bí cùng Hữu tướng CungThuyên dẫn đầu.
Tô Ôn Duẫn đứng giữa hàng ngũ quan văn, mặt không biểu cảm cúi nhìn xuống đất, chẳng biết đang suy nghĩ điều gì.
Cung Tuấn đứng trên hàng đầu, lặng im nhìn cửa điện Thùy Củng đóng kín mít, sắc mặt bình tĩnh.
Chu Tử Thư đứng phía sau hai người, trông nét mặt không rõ cảm xúc.
Giờ Sửu một khắc, các thái y trong điện Thùy Củng nối đuôi nhau xách hòm thuốc ra ngoài. Trông thấy vậy, bá quan đã có suy đoán rồi.
Lúc ấy Đại thái giám Quý Phúc đi từ trong điện ra, hô to: "Truyền Hữu thị lang bộ Công Chu Tử Thư vào yết kiến!" Giữa đêm đen, khắp nơi rộ tiếng xôn xao.
Ngay cả Cung Tuấn cũng ngỡ ngàng ngó sang Chu Tử Thư, nhưng rồi như hiểu ra điều gì, chàng nhìn vào mắt cậu đầy vững tin.
Nỗi kinh sợ trong lòng Chu Tử Thư không hề ít hơn các quan ngoài điện chút nào. Cậu hoang mang cực kì, nhưng rồi khi ngẩng lên và đón được ánh mắt Cung Tuấn, không hiểu sao cậu chợt thấy vững lòng hẳn.
Chu Tử Thư chỉnh trang quan bào, sải bước ra khỏi hàng ngũ quan viên, đặt chân lên bậc thềm điện Thùy Củng.
Mắt đỏ hoe, Quý Phúc khe khẽ bảo: "Mời Đường đại nhân vào." Lão đẩy cửa ra, Chu Tử Thư bước vào.
Vừa vào điện, Chu Tử Thư đã bị nhấn chìm bởi mùi thuốc xộc thẳng tới. Khói đàn hương bồng bềnh trong điện, Chu Tử Thư lần bước tới tẩm cung của hoàng đế theo trí nhớ. Cậu không vào trong, chỉ đứng ngoài cất cao giọng: "Thần – Chu Tử Thư xin được yết kiến." Trong buồng mãi chẳng có tiếng vọng ra.
Chu Tử Thư bèn lặp lại câu nói ấy.
Lúc bấy giờ, giọng nói yếu đến nỗi không nghe ra nổi của Triệu Phụ mới vang lên: "Vào đi."
Chu Tử Thư: "Vâng." Cậu đẩy cửa tiến vào.
"... Đến cạnh trẫm."
Tiếng hoàng đế rời rạc, gần như chẳng liền mạch nổi thành câu.
Chu Tử Thư đi tới bên giường rồng. Vừa cúi xuống nhìn cậu đã bàng hoàng.
Cậu suýt không nhận ra Triệu Phụ lúc này!
Các cụ có câu trông "như đèn cạn dầu", cách ví von này với Chu Tử Thư mà nói vốn chỉ là bốn chữ trên giấy mà thôi. Thế mà giờ đây trông gương mặt gầy guộc vàng như nến của Triệu Phụ, cậu bất giác ngộ ra hàm ý của bốn chữ ấy.
Triệu Phụ thật sự không còn nhiều thời gian!
Triệu Phụ mở mắt nhìn cậu rất lâu, cười bảo: "Có biết... vì sao trẫm chỉ gọi mình ngươi không?"
Chu Tử Thư cúi đầu đáp: "Thần không rõ."
Triệu Phụ: "Đến giờ, trẫm vẫn muốn hỏi ngươi một câu... Trẫm rốt cuộc có phải một vị vua tốt không?"
Chu Tử Thư thấy họng mình nghẹn ứ.
Hai mươi mốt ngày trước, Triệu Phụ đã hỏi y hệt khi gọi cậu vào điện Thùy
Củng diện kiến. Câu trả lời của cậu khi đó là...
"Phải, trong lòng thần, bệ hạ là một đấng minh quân."
Triệu Phụ hốt nhiên có sức hẳn. Ông chống tay nhấc người dậy, nhìn Chu Tử Thư trừng trừng, nói rành rọt từng chữ: "Vậy ngươi hãy nhắc lại theo trẫm.
Trẫm giết anh chiếm ngôi, trẫm xóa sổ đảng Tùng Thanh, trẫm bức tử
Chung Thái Sinh, ân sư Lương Bác Văn của ngươi tự sát cũng vì trẫm... Ngay cả thế, trẫm, vẫn là vị vua tốt!"
Chu Tử Thư từ từ ngẩng đầu lên, lặng im nhìn nhà vua trước mặt mình.
Triệu Phụ: "Nhắc lại đi, đúng y lời trẫm."
Chu Tử Thư vẫn nhìn ông, không nói không rằng.
Triệu Phụ nghiêm giọng: "Đường Cảnh Tắc, ngươi định kháng chỉ hay sao!"
Cả điện Thùy Củng nguy nga như thế chỉ có mình Chu Tử Thư và Triệu Phụ, song cậu biết, Triệu Phụ chỉ cần hô một tiếng thì bất cứ lúc nào quân Ngự Lâm canh gác ngoài điện cũng có thể ập tới áp giải cậu vào thiên lao.
Đại Tống không xử trảm quan văn, không có nghĩa quan văn không thể chết trong ngục.
Giống như đầu sỏ vụ Hình châu – Tôn Thượng Đức.
Giống như Chung Thái Sinh.
Nhưng Chu Tử Thư vẫn lặng thinh như trước.
Triệu Phụ trợn mắt nhìn cậu, mắt ông như sắp rách cả ra.
Sau rốt thì Chu Tử Thư cũng mở miệng. Cậu thi lễ trước nhất, đoạn nói: "Bệ hạ giết anh cướp ngôi, bệ hạ xóa sổ đảng Tùng Thanh, bệ hạ bức tử Chung Thái Sinh... Ân sư Lương Bác Văn của thần cũng tự vẫn vì bệ hạ. Ngay cả thế, ngài vẫn là một đấng minh quân."
Triệu Phụ bỗng đuối sức, nằm bệt xuống giường rồng, ngả đầu lên tấm phủ giường vàng óng, cười như ứa nước mắt.
"Bệ hạ có biết vì sao Lương Bác Văn chết không?"
Tiếng cười của Triệu Phụ im bặt. Ông ngước mắt lên nhìn Chu Tử Thư chòng chọc.
Chu Tử Thư bình thản đáp: "Thần sinh ra vào năm Khai Bình thứ mười một, chưa bao giờ có cơ may chiêm ngưỡng phong tư trác việt của tiên thái tử, cũng chưa bao giờ có vinh hạnh quen biết Chung đại nho. Thế nhưng thần được nghe không chỉ một người kể rằng ba mươi bảy năm về trước Chung Thái Sinh uyên thâm bác học đến nhường nào, tiên thái tử thấu đạt sáng suốt ra làm sao."
Triệu Phụ vẫn cứ nhìn Chu Tử Thư mà không cắt lời cậu.
"Nghe đồn, bệ hạ đã bắn mũi tên giết chết Tiên thái tử trên cổng Tuyên Vũ."
"Đường Cảnh Tắc!" Triệu Phụ gầm lên mắng.
Chu Tử Thư vẫn điềm nhiên: "Nghe đồn trước ngày ấy, bệ hạ từng rất khăng khít với tiên thái tử. Tiên thái tử đối xử với bệ hạ vô cùng tử tế, mà bệ hạ cũng hết lòng ngưỡng mộ tiên thái tử." Cậu ngưng lời một thoáng rồi mới nói tiếp: "Những điều này thần đều 'nghe' trong Khởi cư chú chép từ thời Tiên đế. Bệ hạ biết đấy, thần có tài đọc một lần là nhớ ngay. Thứ gì thần đã xem qua thì không bao giờ quên được."
Chu Tử Thư: "Thần không rõ, lẽ nào lòng ngưỡng mộ của bệ hạ với Tiên thái tử thực chất là giả vờ sao?"
Dường như đã bị chọc tức, Triệu Phụ trông khá giận dữ. Đến giờ phút này mà Chu Tử Thư vẫn còn tâm trí để nghĩ, giả sử cậu làm Triệu Phụ uất đến chết thật thì hôm nay điện Thùy Củng ắt có một người nữa chầu trời, mà người ấy dễ là cậu.
Triệu Phụ giận quá hóa cười. Ông nhìn Chu Tử Thư, bảo: "Trẫm giả vờ nhiều thứ, song việc này thì chưa hề."
Chu Tử Thư: "Thế vì sao bệ hạ phải bắn chết Triệu Tuyền?"
Tự dưng cái tên này được cất lên, Triệu Phụ run bắn, ông gần như buột miệng thốt lên: "Ngươi không xứng nhắc đến cái tên ấy!" Chu Tử Thư sững người.
Triệu Phụ cũng sửng sốt, rồi dần dần tĩnh trí lại. Không khí tiêu điều trong điện Thùy Củng càng khiến ông bình tâm hơn. Ông ta cười: "Trẫm vẫn cảm thấy ngươi khác hẳn so với những kẻ khác. Nhưng khác ở đâu thì quả tình trẫm không rõ. Có thật là ngươi không hiểu vì sao trẫm phải bắn chết Triệu Tuyền và đoạt lấy ngôi hoàng đế của hắn không?" Chu Tử Thư cúi đầu không lên tiếng.
Triệu Phụ: "Đường Cảnh Tắc, ngẩng lên nhìn trẫm." Chu Tử Thư ngẩng đầu.
Triệu Phụ cười hỏi cậu: "Nếu hôm nay trẫm nhường ngôi cho ngươi, liệu ngươi có muốn không?"
Chu Tử Thư ngây người. Cậu chưa kịp đáp, Triệu Phụ đã nói: "Ngươi không muốn."
Chu Tử Thư trầm ngâm giây lát, nói: "Thần đâu có tài làm minh quân." Triệu Phụ: "Ngươi thấy đấy, người khác nói câu này nghe giả lắm, nhưng khi ngươi nói ra thì trẫm biết ngươi không dối lòng. Nếu đặt câu hỏi này cho CungTử Phong, cho Tô Phỉ Nhiên, có lẽ chúng cũng đáp rằng không muốn, nhưng ngay khi trẫm hỏi, chúng chắc chắn sẽ dao động, sẽ ngẫm ngợi về điều ấy. Chỉ riêng ngươi là chẳng nghĩ suy gì về ngôi hoàng đế."
"Trên đời có ai không khát khao làm hoàng đế cơ chứ?"
"Trẫm sống hơn sáu mươi năm mà chưa từng thấy ai không muốn làm hoàng đế cả. Dù chỉ trong chớp mắt thôi, người ta đều có ham muốn đấy." "Còn ngươi thì không, quả thật ngươi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó."
Triệu Phụ im lìm hồi lâu, giọng ông lắng dịu: "Vì sao ngươi không muốn làm hoàng đế?"
Chu Tử Thư nhìn mãi gương mặt không còn sinh khí của Triệu Phụ. Cậu nói: "Tôi nghĩ, hà cớ gì nhất định phải có một người thống trị muôn người." Bộ mặt của Triệu Phụ như sụp đổ bất thình lình, rạn ra một vết.
Mãi sau, Triệu Phụ ngỡ như đã cạn kiệt sinh lực: "Đây là lí do ngươi khác với họ ư?"
Chu Tử Thư kính cẩn thưa: "Nếu có khác, thần trộm nghĩ, hẳn là vì lẽ này."
Triệu Phụ mỉa mai: "Nếu lòng ngươi đã nghĩ về trẫm như vậy, cớ sao bây giờ ngươi còn khiêm tốn nhún mình trước trẫm, cớ sao còn tự xưng là 'thần'?"
"Quan hệ xã hội không có khả năng phát triển trong một sớm một chiều. Hiện giờ Đại Tống được dẫn dắt bởi một vị hoàng đế, một đấng minh quân mới là con đường phù hợp nhất." Chu Tử Thư nói, "Thần biết thế nào là 'nhập gia tùy tục', có lẽ bệ hạ cảm thấy thần đang nói nhăng nói cuội, nhưng thần không thẹn với lòng mình. Có lẽ đến cuối đời thần cũng không chứng kiến được ngày ấy, nhưng thần sẵn lòng thúc đẩy Đại Tống đến chân trời đó."
"Ngươi có biết những gì mình đang nói có thể khiến trẫm giết ngươi ngay lập tức không!"
Chu Tử Thư: "Thần biết. Bây giờ đến phiên bệ hạ trả lời câu hỏi của thần.
Vì sao bệ hạ phải bắn chết Triệu... tiên thái tử?"
Ngỡ như vừa nghe một chuyện quá đỗi hài hước, Triệu Phụ đáp: "Thiên hạ có ai không muốn làm vua?" Chu Tử Thư sững sờ.
Triệu Phụ nhắc lại: "Trừ Đường Cảnh Tắc nhà ngươi ra, cả thiên hạ này có ai mà không muốn làm hoàng đế! Trẫm muốn làm hoàng đế, thế là sai à!"
"Trẫm không sai, từ trước đến giờ trẫm chưa hề sai!"
"Tại sao thiên hạ này không thể thuộc về trẫm? Vì sao trẫm phải bắn chết Triệu Tuyền? Bởi vì trẫm muốn làm hoàng đế, làm hoàng đế đấy!"
Chu Tử Thư: "Vậy tiên thái tử, Chung Thái Sinh, đảng Tùng Thanh... đã sai ư?"
Ánh mắt Triệu Phụ rừng rực: "Thắng làm vua, thua làm giặc."
Chu Tử Thư lặng im nhìn Triệu Phụ, chừng như muốn nhìn thấu ông ta. Sống ở đời hơn sáu mươi năm, đây là lần đầu tiên Triệu Phụ hơi ngần ngại khi đối diện với ánh mắt của một người trẻ tuổi. Thế rồi ông ta thấy Chu Tử Thư cười. Từ khi vào điện Thùy Củng đến giờ, đây là lần đầu tiên cậu cười: "Phải. Thắng làm vua, thua làm giặc. Tiên thái tử thua cuộc nên bị bắn chết trên cổng cung; Chung Thái Sinh thua nên bị hạ độc chết trong tù. Mọi thứ trên thế gian này chỉ gói gọn trong mấy chữ thắng làm vua, thua làm giặc. Nhưng bệ hạ ơi, theo lời ngài thì thiên hạ này chẳng có ai không muốn làm hoàng đế; nếu ngài đã thắng, vì sao ngài không trả lại thanh danh cho họ trong sử xanh!"
Lần đầu tiên Chu Tử Thư cảm nhận được niềm căm phẫn: "La đại học sĩ chết vì muốn lấy mạng mình gióng lên hồi chuông đồng trong sách sử, tuyên bố với người đời rằng đảng Tùng Thanh đã chịu oan khuất."
"Lương tiên sinh chết, là bởi ông muốn lấy cái chết tuyên bố với người đời rằng đảng Tùng Thanh ngậm oan."
"Ở rất nhiều nơi mà ngài không thể thấy, có một viên tiểu lại vùng nọ, có ông lão cử nhân miền quê đã cùng bỏ mạng. Cái chết của họ chẳng được ghi một chữ vào sách sử, nhưng bọn họ vẫn chết chỉ để không luống thẹn với lương tâm, chết vì chút công bằng, thanh thản trong lòng họ!"
"Đúng, trên đời có ai mà không muốn làm hoàng đế?"
"Nhưng tại sao ngài không chừa cho họ dù chỉ một chút trong sạch cuối cùng?"
"Từ mười một năm về trước tôi đã không hiểu có thứ gì trên đời mà lại quan trọng hơn cả sinh mạng, có thứ gì đủ sức khiến tiên sinh cam lòng quyên sinh để tỏ chí."
"Song tôi chưa bao giờ cần hiểu điều ấy. Tôi chỉ cần biết, cái chết của tiên sinh vẫn không rửa nổi tiếng oan cho các ngài ấy."
"Về phần mình, điều tôi có thể làm là dành cả đời này trả cho họ những trang sử còn mãi!"
Tiếng Triệu Phụ vang lên như lời cảnh cáo: "Đường Cảnh Tắc, thắng làm vua, thua làm giặc! Hôm nay trẫm muốn ngươi chết ở đây thì ngươi cũng phải xuống đất mà bầu bạn với bọn chúng!"
Chu Tử Thư lớn tiếng nói: "Phải, thắng làm vua, thua làm giặc. Tôi có chết ở đây, bất quá cũng chỉ là một cái mạng. Nhưng tôi tin chắc trên đời luôn có người bất bình. Bệ hạ, ngài giết được một Đường Cảnh Tắc, nhưng ngài có giết nổi lê dân khắp thiên hạ không!"
"Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ giết anh giết cha là bất trung bất hiếu; Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ tàn sát trung lương là bất nhân bất nghĩa."
"Nhưng Khai Bình hoàng đế Triệu Phụ có công bình định loạn Tây Bắc, thu hồi đất đai từng mất; ông ta xây đập, mở đường; ông ta lập ty Ngân dẫn, phổ biến Ngân khế trang... Ông ta tin tưởng giao phó cho tôi – một kẻ quá đỗi tầm thường, chế tạo hàng loạt lung tương vì phúc của thiên hạ."
"Ông ta để một phản thần nói thánh nói tướng trước mặt mình, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa một lần muốn kẻ ấy phải chết!"
Chứng kiến vẻ mặt bàng hoàng của Triệu Phụ, mắt Chu Tử Thư cũng đỏ au, cậu cười: "Có đấng minh quân bực này, Đại Tống may mắn biết chừng nào."
"Đổi lại là tôi, cả đời này tôi không làm nổi một phần mười những gì ngài đã thực hiện. Những ba mươi bảy năm thiết triều chưa một lần ngơi nghỉ, Triệu Tuyền đâu bằng một phân của ngài!"
"Bệ hạ, vì sao từ bấy đến giờ ngài vẫn không thể quên đi người khác? Ngài chính là ngài, là hoàng đế Khai Bình của nước Đại Tống."
"Cũng chính ngài, là người đáng để tôi cam tâm tình nguyện cúi đầu xưng thần."
"Thần không biết Triệu Tuyền, thần chỉ biết hoàng đế Khai Bình của Đại Tống ta mà thôi."
Năm năm trước, trên điện Thùy Củng, Tả tướng Kỷ Ông Tập khi phẩy tay áo ra đi đã bỏ lại một câu...
"Trần đời có ai không thích Triệu Tuyền!"
Hôm nay, Chu Tử Thư dõng dạc tuyên bố...
"Thần chẳng biết Triệu Tuyền, thần chỉ biết Khai Bình hoàng đế!"
Triệu Phụ ngỡ ngàng nhìn Chu Tử Thư. Hốt nhiên ông bật cười, những giọt nước mắt đục ngầu cũng lăn xuống theo nụ cười ấy.
"Giờ ngươi đã đoán ra ai là kẻ lừa Chung Thái Sinh giúp trẫm giành ngôi hoàng đế ba mươi bảy năm về trước chưa?" Như một trưởng bối dẫn từng bước đi, Triệu Phụ mỉm cười nhìn Chu Tử Thư, ôn hòa hỏi cậu.
Chu Tử Thư trầm mặc trong giây lát. Những ngón tay cậu siết chặt thành đấm, giờ cậu mới phát hiện lòng bàn tay mình đã đẫm mồ hôi.
"Biết rồi ạ."
Triệu Phụ cười: "Sách sử không dễ sửa vậy đâu. Nếu ngươi sửa lại, con trẫm sẽ không chấp thuận, cháu của trẫm cũng không chấp thuận. Đường Cảnh Tắc, thắng làm vua, thua làm giặc, sáu chữ này trẫm tặng cho ngươi. Nếu ngươi thực sự sửa thành công, khi ấy nhớ đốt một quyển xuống cho trẫm, để trẫm xem thử xem sau khi chết trẫm đã thua thế nào."
Chu Tử Thư: "Bệ hạ!"
"Lui xuống đi."
Chu Tử Thư cắn răng, xoay người rời bước.
Trên giường rồng, Triệu Phụ cười: "Chuyện lung tương đến giờ trẫm vẫn không hiểu. Nhưng mấy trò tân kì ấy khiến trẫm cảm thấy không thiết thực chút nào. Thứ ấy chắc chẳng tốt lành gì." Chu Tử Thư lặng yên không đáp.
Triệu Phụ: "Trẫm ban cho CungTử Phong một tấm kim bài miễn tử duy nhất, cả thiên hạ không có tấm thứ hai. Nhưng trẫm để cho ngươi một tờ chiếu đằng sau bức hoành ba chữ trong điện Cần Chính." Chu Tử Thư sửng sốt nhìn Triệu Phụ.
"Tờ chiếu đó viết gì, bây giờ trẫm không nói cho ngươi biết đâu. Trẫm tin rằng nếu không đến nước vạn bất đắc dĩ, ngươi sẽ không mở nó ra."
"Lui xuống đi."
Chu Tử Thư chần chừ không đi.
Triệu Phụ đành nói: "Lần này trẫm cho ngươi lui thật!" Chu Tử Thư nhìn ông thật kĩ, rồi xoay người rời đi.
Điện Thùy Củng khôi phục sự tĩnh lặng vốn có.
Một lúc lâu sau, có bóng người cao lớn kì vĩ bước ra từ sau tấm bình phong vẽ ngàn non vàng rực.
Chu Thái sư với mái đầu bạc trắng sải bước tới bên giường, nắm bàn tay hoàng đế giơ lên.
Triệu Phụ nhìn người thầy của mình. Cảm nhận sinh mạng vùn vụt trôi đi, ông không kìm nổi nỗi sợ trước cái chết: "Thái sư, Thái sư, trẫm sợ quá, trẫm sợ quá..."
Chu Thái sư riết chặt tay ông.
"Bệ hạ, lão thần ở đây."
"Thái sư có thấy Triệu Tuyền không?"
"Bệ hạ."
"Ở nơi ấy, hắn đang chờ trẫm, chờ trẫm đến tìm hắn..." Lòng Chu Thái sư nghẹn ngào, không cất nên lời.
Triệu Phụ lẩm bẩm lung tung hồi lâu, rồi bỗng bình tĩnh lại.
Ông thều thào hỏi: "Sau khi trẫm mất, Thái sư còn bảo vệ Đại Tống bao lâu?"
Chu Thái sư nhìn đức vua. Bao năm trấn thủ Tây Bắc đã quen với sinh ly tử biệt, mắt Thái sư lần đầu nhoà lệ: "Bệ hạ hỏi chuyện ấy làm chi? Ngài đi rồi, nước Đại Tống này sẽ chẳng còn liên quan đến ngài nữa. Lão thần đã khi nào không thấu nỗi Tuấn trở trong lòng ngài? Ngài làm được rồi, ngài thật sự đã làm được rồi."
Từ trong đôi mắt Triệu Phụ ánh lên một vệt sáng ngời ngời. Giây lát sau, vệt sáng ấy bỗng lịm đi.
Ông siết tay Chu Thái sư, nói đứt quãng nhưng hết sức quả quyết: "Bắn... bắn chết... Triệu Tuyền... Ba mươi bảy năm qua, chưa ngày nào, trẫm, trẫm hối hận..."
Nụ cười bất đắc dĩ hiện lên trên gương mặt cương nghị của Chu Thái sư.
Hoàng đế Đại Tống mở to mắt nhìn trân trối rèm giường vàng óng. Thế rồi, ông chầm chậm khép đôi mắt mỏi mệt.
Ngày mười tám tháng Ba năm Khai Bình thứ ba mươi bảy, hoàng đế băng hà, thiên hạ khóc thương thê thiết.
Đất nước không thể thiếu vua một ngày. Tả tướng Từ Bí và Hữu tướng CungThuyên mở chiếu truyền ngôi, tôn Nhị hoàng tử Triệu Thượng lên làm vua, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa.
Lúc đó, cạnh một ao cá ngoài thành Cô Tô có hai ông lão đang tựa vào bàn thả câu.
Một cụ bảo: "Rốt lại là con trưởng."
Cụ kia đáp: "Truyền cho ai mà chả thế. Trong lòng người ấy đâu có ai ngoài bản thân."
"Ta đoán cuối cùng ông ta đã hối hận rồi."
"Ta đoán chẳng đời nào."
"Cái lão già ranh này, có dám cá với ta một phen không?"
"Sợ gì mà không dám? Nhưng ván cược này phân định thắng thua thế nào đây?"
"Nghe phong thanh, cậu trò Đường Cảnh Tắc của ông là người cuối cùng gặp ông ta đấy."
"Dào ơi, họ Kỷ nhà ông vẫn chẳng hiểu ông ta rồi. Người cuối cùng ông ta gặp tất nhiên không thể là Đường Cảnh Tắc."
Ông cụ kia nghe xong thì trầm ngâm một hồi, gật đầu thở dài: "Phải rồi, hẳn nhiên là Chu Thái sư!
Hai người nhìn nhau phì cười.
"Khỏi cá khỏi cá, mình đâu thể chạy sang hỏi cái lão Diêm Cungdữ dằn ấy được!"
Tiểu viện Lưu Kỳ ngoài thành Thịnh Kinh.
Hoàng đế mới lên ngôi, quần thần tất bật hơn tháng trời mới được thảnh thơi.
Vốn tiểu viện Lưu Kỳ chỉ rộng năm tiến, nhưng từ hồi lên nhất phẩm, Cung Tuấn đã gọi thợ đến sửa sang lại hết. Hiện giờ trong vườn có một hồ nước rộng mênh mông, tuy chẳng thể so với hồ Thái Dịch trong hoàng cung, song cũng đủ thả chiếc thuyền bập bềnh phiêu du theo dòng nước. Chu Tử Thư nằm trên thuyền gỗ con con, có Cung Tuấn sóng vai nằm kề.
Giờ đương tháng Năm, đúng vào độ mặt hồ rộ tiếng ếch reo, cỏ thơm dài mướt én chao rợp trời.
Ánh sao đầy ắp tầng không, rụng cả vào trong nước, yên ả và đẹp đẽ đến vô cùng.
Chu Tử Thư không đừng được, ngâm lên: "Rượu say rồi chẳng hay trời trong nước, ăm ắp thuyền mộng đẹp trĩu dòng Ngân!"
Cung Tuấn nghe thế bèn nghiêng người sang nhìn cậu, nói: "Sao đẹp, thơ đẹp, người càng đẹp. Tiểu sư đệ lúc nào cũng nghĩ ra những câu thơ diệu kì."
Chu Tử Thư hỏi lại chàng: "Huynh từng nghe câu thơ hay nào của ta nữa? À, 'chênh vênh trăm thước lầu cao, giơ tay với được Tuấng sao trên trời' đúng không?"
Mắt Cung Tuấn rạng ngời, làm bộ cảm thán: "Quả là diệu cú!"
Chu Tử Thư nảy ý muốn trêu chàng: "Ôi, văn chương vốn do trời thai nghén, người tài ngẫu nhiên hái được thôi."
Cung Tuấn tiếp tục tán thưởng: "Tuyệt diệu!"
"Đồng xa liền với trời cao, dòng sông Tuấng toả ào ào nước trôi."
Cung Tuấn gật gù: "Diệu kỳ!"
Chu Tử Thư cười hì hì: "Huynh có thấy ta đúng là thiên tài không!"
Cung Tuấn vờ sửng sốt: "Có chứ, đã bao giờ chưa đâu. Nếu không phải thiên tài, làm sao nói được câu 'thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách' từ năm mười ba tuổi!"
Nụ cười của Chu Tử Thư ngay đơ, cậu từ từ nghiêng mình sang một bên.
Cung Tuấn cười ha hả, vòng tay từ sau lưng ôm cậu vào lòng. Chàng ghếch cằm lên vai Chu Tử Thư, rủ rỉ: "Ta còn nhớ hôm ấy là một buổi chiều. Ta đi từ bộ Hộ đến phủ tiên sinh, tiên sinh tức sôi sùng sục, chìa một lá thư bảo ta rằng 'Lương Bác Văn làm phách quá thể! Nhận mỗi một đứa học trò mà ngày nào cũng viết thư khoe khoang'. Ta mới hỏi thầy rằng Lương đại nhân khoe cái gì?"
"Tiên sinh bèn bảo, 'Thằng cu con mười ba tuổi đó nói với Lương Bác Văn là thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách!"
"Tiên sinh cảm thấy câu ấy không thể nào do một đứa trẻ mười ba tuổi ứng khẩu ra được, bèn quyết tâm tra cho rõ ràng. Chẳng ngờ ông lục hết sách cổ mà vẫn không tìm thấy câu đó đâu."
"Giây phút ấy, trái tim ta liền in dấu một cái tên. Em đoán xem là ai nào?" Chu Tử Thư bực mình "hứ" một tiếng.
Cung Tuấn nghe tiếng "hứ" của cậu mà rạo rực cõi lòng, cười bảo: "Ta có biết bao nhiêu suy đoán về người này, nhưng ta chẳng ngờ vừa mới thấy mặt, người ấy đã gọi ta là Phủ Cầm đồng tử. Nom điệu bộ giả vờ của người ấy mới đáng yêu làm sao. Nếu ta là một chú tiểu đồng thật thì thể nào cũng bị người ấy gạt. Thế nhưng ta lại là CungTử Phong... Ối ối, ta biết lỗi rồi, đừng đánh ha ha ha."
Chu Tử Thư cũng ảo não ghê gớm: "Hồi đó ta đâu có biết CungTử Phong huynh là người như vậy. Nếu biết trước, đời nào ta lại múa mép trước mặt đồ chúa lừa nhà huynh?"
Cung Tuấn tỉnh bơ: "Tiểu sư đệ à, em lại khen ta rồi. Hay lắm, ta khen em là thiên tài, em cũng khen ta là nhân tài."
Chu Tử Thư phì cười: "Trời sinh ta giỏi ắt hữu dụng, ngàn vàng tiêu sạch lại đầy thôi!"
Cung Tuấn ngẩn ngơ: "Đôi lúc ta cũng tự hỏi phải chăng em đã giấu đâu đó một đại tài tử ngàn năm có một. Em làm văn làm thơ kể cũng xoàng, chỉ được cái cẩn thận, vì sao thỉnh thoảng lại nảy ra một câu tuyệt hay nhỉ... Khụ, không xoàng, Thám hoa được tiên đế khâm điểm thì xoàng thế nào được!"
Chu Tử Thư thu nắm đấm, nói: "Huynh muốn nghe thêm mấy bài thơ nghìn năm có một, hay là muốn xem ta giấu đại tài tử đó ở đâu trước tiên?"
Mắt Cung Tuấn sáng bừng. Chàng ý thức được mình sắp sửa chân chính bóc vỏ chén sạch cái người trong lòng, cất hết vào bị chẳng chừa chút chi.
Song chàng vẫn phải vờ như không mấy bận tâm, điềm nhiên nói: "Đường nào cũng được."
Chu Tử Thư cân nhắc một chút, bảo: "Thế thì ta sẽ kể cho huynh từ đầu..."
Năm Nguyên Hòa thứ nhất, ngày mùng bốn tháng Chín, Tả thừa Trần Lăng Hải bị quan Ngự Sử tố giác một loạt tội danh. Trần tướng tự biết mình lầm lỗi, hổ thẹn vô cùng, bèn xin rời kinh thành, cáo lão hồi hương.
Năm Nguyên Hòa thứ tư, hoàng đế băng hà, truyền ngôi cho Thái tử Triệu Hy, đặt niên hiệu là An Cảnh.
Năm An Cảnh thứ năm, ngoài thành Thịnh Kinh, tiểu viện Lưu Kỳ.
Chu Tử Thư thả một quyển sách sử mới được viện Hàn Lâm biên soạn vào chậu than, nhìn ngọn lửa ngấu nghiến cuốn sách mỏng.
Cung Tuấn ôm cậu vào lòng, Chu Tử Thư vòng tay ôm lại chàng.
Hồi lâu sau, cậu nói: "Gần đây ta cứ hay nghĩ, sư huynh này, chắc là chúng mình không được chứng kiến ngày đó đâu nhỉ."
"Thời kì cực thịnh mà em vẫn nhắc đến ư?"
Chu Tử Thư trầm tư, "Phải, mà cũng không phải. Nói ra thì thật xấu hổ, hồi
Lương tiên sinh còn sống, ta đâu chỉ mạnh mồm nói với người mỗi câu
'thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách'."
"Em còn ba hoa cái gì nữa?"
Chu Tử Thư toan nói lại thôi: "Ta chẳng kể đâu, kẻo huynh cười vào mũi ta mất."
Cung Tuấn nghĩ bụng: Bình thường ta trêu em có ít ỏi gì cho cam, sá gì một lần chứ?
Dù vậy, chàng là một người tình vô cùng tâm lí, biết Chu Tử Thư hay xấu hổ và cũng hiểu khéo quá hóa vụng, bèn dịu giọng vỗ về: "Được rồi, nghe em tất mà."
Chu Tử Thư xúc động dạt dào, bất tri bất giác càng thêm yêu CungTử Phong.
Từ khi yêu cậu mới hiểu, tình yêu chẳng phải một đại lượng bất biến. Năm tháng trôi qua, tình yêu cậu dành cho người đàn ông này chỉ đầy lên từng ngày chứ chẳng hề vơi đi.
Chu Tử Thư nghĩ một lát rồi bảo: "Ta nói cho huynh biết nhé, nhưng cấm huynh cười đấy."
Cung Tuấn nghiêm chỉnh đáp: "Ta không cười đâu."
Chu Tử Thư ghé tai chàng nói ù một mạch. Cung Tuấn ngỡ ngàng, rồi không nhịn được phải phì cười.
"Sư huynh bảo không cười cơ mà!"
Cung Tuấn cố nín, nhìn cậu rất thành thật: "Thì yêu em nên mới cười đó."
Chu Tử Thư: "..."
"Huynh muốn cười thì cứ cười đi vậy."
Cung Tuấn vừa cười vừa hôn lên môi cậu: "Ta không cho là em khoác lác đâu. Những gì chúng ta làm chẳng nhẽ không phải kẻ trước bắc cầu cho kẻ sau noi, từng bước hướng về tương lai đó sao?"
Chàng nói bằng lòng chân thành đến vô hạn. Dưới vòm trời đầy sao, dung nhan thần tiên của CungTử Phong chẳng vì tuổi tác mà tàn phai; trái lại, vẻ đẹp của chàng đậm chất thâm trầm hơn bao giờ hết. Chỉ một ánh mắt sâu hút thôi cũng đủ khiến Chu Tử Thư động tình.
Cậu kìm lòng chẳng đặng mà hôn chàng.
Cung Tuấn ôm eo cậu, hôn càng sâu hơn.
Bên tai ve ếch rộn ràng, dưới chân làn nước đổ vàng ánh Tuấng.
Giữa những âm thanh xôn xao, lời Chu Tử Thư thầm thì bên tai Cung Tuấn ngân nga trong rì rào sóng nước.
Em muốn mang bình yên về non sông bốn bể. Dẫu nghìn năm trôi trong chớp mắt, trời xanh còn mãi tiếng hoan ca!
– Hết –
Manh: Rất cảm ơn các bạn đã đồng hành và đón nhận, dù bản edit còn nhiều thiếu sót và tốc độ edit của mình cũng không nhanh. Mình vui vì được đọc truyện cùng với mọi người và vô cùng biết ơn những bạn dành thời gian góp ý, hỗ trợ cũng như chia sẻ cảm xúc qua mỗi chương truyện với mình. Sơn hà bất dạ thiên đã được Cẩm Phong mua bản quyền và sẽ ra mắt trong nay mai. Mình mong rằng những ai đã biết đến và yếu mến Chu Tử Thư, Cung Tuấn thông qua bản edit này sẽ mua truyện để ủng hộ tác giả một cách thiết thực, dù là sách giấy tiếng Việt, tiếng Trung hay bản Tấn Giang. Bản thân mình cũng mong truyện sẽ đến với nhiều bạn đọc hơn thông qua bản dịch chỉn chu nhất của Cẩm. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn mọi người! Hẹn gặp lại!
Chú thích
Gốc:一言堂 (nhất ngôn đường) – chỉ chế độ tập quyền, chuyên quyền
C159 có nhắc Tứ hoàng tử đến tuổi trung niên, mình thắc mắc nên kiểm tra lại thì thấy phải hiểu tuổi trung niên theo quy ước cổ đại, tức là tính từ tuổi 30 (40 là tráng niên). Như vậy hiện tại Nhị hoàng tử khoảng 32 tuổi, Tứ hoàng tử 30 tuổi, Ngũ hoàng tử 27 tuổi.
Gốc: 还他们一个史书长青 – chả biết có edit đúng không =)) Đường Ôn Như, . Tạm bịa:
Cơn gió Tây thổi sóng Động Đình già,
Một đêm tàn trắng xóa tóc Tương quân.
Rượu say rồi chẳng hay trời trong nước, Ăm ắp thuyền mộng đẹp trĩu dòng Ngân.
Lục Du, Văn chương.
Đỗ Phủ, Lữ dạ thư hoài. .
Gốc: 拆开吃尽 (sách khai cật tẫn). Tình định để là "khám phá bằng hết bí mật" nhưng thôi loài cáo vốn thích ăn hạt sen, nhất là một bông sen xinh đẹp.
Từ này có hai nghĩa nhé mọi người đừng nhầm =)) Ở đây dùng với nghĩa "rung động, xúc động".
------oOo------
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro