KÝ ỨC CHIẾN TRANH_2013_06_29_19_08_19_223
KÝ ỨC CHIẾN TRANH
(Hồi ức của những binh sĩ Xôviết từng tham gia cuộc
Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại)
Tập 1
Những người thực hiện: Valeriy Potapov, Eugene Boldyrev, Artem Drabkin, Oleg
Sheremet, Bair Irincheev và một số cộng sự khác.
Người dịch: Lý Thế Dân
VALERIY POTAPOV
Chủ nhiệm thực hiện
Sinh tại Maskva. Tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật Maskva. Hiện làm trưởng phòng thiết kế
của Cục Thiết kế Nội thất. Say mê nghiên cứu về lịch sử nước Nga, đặc biệt là lịch sử của
cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Khởi xướng thực hiện sưu tầm này từ tháng Giêng
1998. Mục đích nhằm chia sẻ kiến thức của mình với mọi người và giới thiệu với bạn bè
nước ngoài về lịch sử nước Nga.
EUGENE BOLDYREV
Cố vấn về tăng và pháo tự hành
Sinh năm 1970 tại Maskva. Tốt nghiệp Học viện Luật pháp Quốc gia Maskva. Hiện đang
hành nghề luật sư, chuyên về bảo vệ tác quyền. Say mê lịch sử quân sự Nga và các mô
hình thu nhỏ (tỷ lệ 1:35). Tham gia nhóm thực hiện bắt đầu từ tháng Ba 1998.
ARTEM DRABKIN
Phụ trách điều hành
Sinh năm 1971 tại Maskva. Tốt nghiệp Khoa Sinh hóa của Đại học Sư phạm Maskva.
Phó tiến sĩ vi sinh học. Hiện làm giám đốc kinh doanh của chi nhánh Công ty Lytech tại
Nga. Tham gia nhóm khi cảm thấy bản thân đang mất dần mối liên hệ với thế hệ đã nuôi
dưỡng mình, nhờ vậy đã trở nên rất gần gũi và thân thiện.
MỤC LỤC
Lời ngƣời dịch
Phần 1: Hồi ức của lính bộ binh
1. Vladimir Zimakov
2. Daniil Zlatkin
3. Ivan Shelepov
4. Nikolai Obryn‟ba
Phần 2: Hồi ức của các phi công
1. Yurii Khukhrikov
2. Vyacheslav Ivanov
Phần 3: Hồi ức của lính thông tin
1. Josef Finkelshteyn
2. Yurii Koriakin
Phần 4: Hồi ức của lính pháo binh
1. Ivan A. Yakuskin
2. Mikhail Lukinov
Phần 5: Hồi ức binh lính thuộc các binh chủng khác
1. Vladimir Dolmatov
2. Viktor Leonov
LỜI NGƯỜI DỊCH
“Ký ức chiến tranh” là một tập hợp những hồi ức trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại của
các quân nhân Xôviết thuộc mọi binh chủng: bộ binh, pháo binh, lính xe tăng, phi công,
lính thông tin, cứu thƣơng, biệt kích … thuộc mọi cấp bậc từ binh nhất cho tới các chỉ
huy đơn vị, tham gia đủ loại nhiệm vụ chiến đấu. “Ký ức chiến tranh” mô tả đến từng chi
tiết cuộc sống ngoài chiến trƣờng và cuộc sống nơi hậu phƣơng, những trận chiến ác liệt
và cảnh giam cầm trong trại tù binh, những chiến công và những thất bại, những đau khổ
mất mát, cảnh tuyệt vọng, những vui buồn của đời lính, niềm vui chiến thắng tột cùng, là
cuộc đời của biết bao con ngƣời trong chiến tranh. “Ký ức chiến tranh” ca ngợi chiến
thắng phát xít của nhân dân Liên Xô, đồng thời nói lên một sự thật: chiến tranh, dù đứng
ở phía ngƣời chiến thắng cũng nhƣ về phía kẻ chiến bại, cũng là một công việc kinh
khủng, đau đớn và vô nghĩa lý của loài ngƣời. Thông qua “Ký ức chiến tranh”, ta cũng
hiểu thêm về dân tộc Nga, vừa vĩ đại lại vừa man rợ, vừa gần gũi lại vừa xa lạ, dân tộc đã
dang tay giúp đỡ chúng ta chiến thắng ngoại xâm, gánh đỡ trách nhiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới, dân tộc hiện đang trải qua bao khó khăn để xây dựng lại đất
nƣớc.
Mong rằng sẽ có nhiều bạn đọc, nhất là những du học sinh Nga và những ngƣời từng học
tiếng Nga, quan tâm và trao đổi để giúp tôi dịch hoàn thiện bộ “Ký ức chiến tranh”.
Sài Gòn, tháng 7, 2004
Lý Thế Dân
HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
VLADIMIR ZIMAKOV
Phần 1
Diệt xe tăng
Vladimir Zimakov, mùng 9 tháng Năm năm1945, vùng Galati – Romania. (Ảnh do V.
Zimakov cung cấp)
Tôi biết chiến tranh đã xảy ra khi thấy máy bay địch bắt đầu dội bom Smolensk,
nơi chúng tôi đang sống. Đó là vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng Sáu. Gia đình chúng tôi
phải di tản. Năm 1943 tôi nhập ngũ, khi lên 18 tuổi. Ban đầu chúng tôi đƣợc đƣa tới
Morshansk, Tambov. Rồi chúng tôi đƣợc đƣa tới huấn luyện quân sự tại doanh trại
Melikess thuộc vùng Ulyanovsk. Chúng tôi đƣợc nhận đồ lót mới, nhƣng quân phục thì
đã cũ. Tôi đoán chúng đƣợc lấy từ những chiến sĩ ta đã hy sinh. Họ đã khâu vá cẩn thận
những vết rách thủng do đạn và mảnh trái phá xuyên qua.
Ngƣời anh em ạ, lúc đó trời rất lạnh! Chúng tôi may mắn có đƣợc áo choàng, đồ
lót bằng len và bông và giầy ủng với xà cạp đủ ấm. Có lần vài tay Uzbek bị đƣa tới doanh
trại. Ồ, họ thật đáng thƣơng! Họ đƣợc phép mặc áo “khalat” (một loại áo khoác lông cừu)
dƣới lớp áo choàng. Thực ra, ta không bị lạnh đâu bởi phải tập luyện và chạy rất nhiều.
Có lần trong suốt mƣời ngày liền chúng tôi phải hành quân tới 20 cây số mỗi ngày. Họ sẽ
nhồi 16 ký cát vào ba lô của anh, thế rồi anh xách lấy khẩu súng và lên đƣờng.
Việc huấn luyện tiếp tục từ tháng Giêng cho tới tháng Ba. Tới tháng Ba họ tập
hợp chúng tôi lại và ra lệnh: “Những ai có trình độ từ lớp 7 trở lên - tiến lên trƣớc ba
bƣớc.” Tôi bƣớc khỏi hàng, bởi đã học xong lớp 8. Nói chung, hầu hết đám tân binh
chúng tôi đều là dân quê. Vài ngƣời trong số họ học đến lớp 5 hay lớp 6, phần lớn thậm
chí chƣa từng đƣợc đi học. Khoảng một trăm ngƣời đƣợc chọn và gửi tới trƣờng đào tạo
sĩ quan. “Lấy vật dụng cá nhân và chuyển đi.” Lúc đó chúng tôi thì có cái gì đâu?! Một
cặp đồ lót, một mẩu xà phòng đen và một cái khăn mặt. Thậm chí không ai có đƣợc cái
bàn chải đánh răng - không phải là thói quen! Hãy xem trong balô lính Đức có gì. Một
bàn chải răng sạch, bột đánh răng, một bánh xà phòng thứ phẩm. Tất cả đều ngăn nắp,
đúng theo kiểu Đức. Bánh xà phòng thứ phẩm thô ráp, có lẽ đƣợc trộn cát hay thứ gì đó
tƣơng tự. Chúng rất lâu mòn.
Chúng tôi mất 3 ngày để đi từ Melikess tới thị trấn Kinel, gần Samara. Chúng tôi
đƣợc phân về Trƣờng Huấn luyện Bộ binh Kuybyshev số 3. Trƣờng nằm cách dòng
Volga khoảng 130 cây số. Chúng tôi trông giống nhƣ đám học sinh sỹ quan thời trƣớc
chiến tranh: áo len, quần bông, giầy ống cao cổ. Nếu kết thúc sáu tháng học ở đây, chúng
tôi sẽ đƣợc ra mặt trận với quân hàm thiếu uý. Có biết bao nhiêu thiếu uý và trung uý bị
giết ngoài mặt trận! Anh bạn ạ, chỉ một ít trong số họ là còn sống. Ngay khi vừa tới mặt
trận, họ liền lọt vào kính ngắm của bọn xạ thủ bắn tỉa Đức. Chúng ta không bao giờ quan
tâm tới việc che chắn ngụy trang. Sĩ quan đƣợc cấp loại sơmi khác với lính tráng, và đội
mũ có lƣỡi trai! Mà xạ thủ bắn tỉa Đức lại bắn rất cừ.
Chúng tôi học đƣợc hai tháng cho tới khi trƣờng nhận lệnh đƣa lứa học viên khóa
trên ra mặt trận. Không có vấn đề gì, trừ việc quân phục dành cho họ không đƣợc chuyển
đến đúng hẹn. Thế là chúng tôi phải cởi quân phục của mình ra cho lớp khóa trên mặc
vào. Chúng tôi đƣợc nhận lại mớ quần áo cũ của mình, nhƣng tới lúc này giầy ủng của
chúng tôi đã mòn vẹt hết cả, thế nên chúng tôi đƣợc cấp thêm giầy vỏ cây và xà cạp trắng.
Chúng tôi mặc chúng tiếp hai tháng cho tới khi quân phục mới đƣợc chuyển tới.
Huấn luyện các xạ thủ chống tăng.
Chúng tôi đƣợc học cả thảy ba tháng cho tới khi trƣờng phải đóng cửa. Họ gửi
chúng tôi tới Inza, nơi chúng tôi đƣợc phong hạ sĩ. Đó là một doanh trại lớn nằm giữa
một cánh rừng thông. Ở đấy có những cái giƣờng cao ghép thành ba tầng với những con
chuột lớn, cỡ bằng con ngựa (cƣời). Lữ đoàn chúng tôi gồm những trung đoàn súng máy,
pháo, xe tăng và chống tăng chuyên biệt. Tôi đƣợc chuyển tới trung đoàn chống tăng. Họ
huấn luyện chúng tôi rất kỹ. Chúng tôi đƣợc học kỹ năng bắn súng trƣờng, súng máy và
tất nhiên là súng chống tăng Degtiarev và súng chống tăng Simonov. Khẩu Degtiarev giật
rất mạnh vào vai. Khẩu Simonov giật yếu hơn, chứa năm viên đạn trong hộp súng và có
chế độ lên đạn bán tự động. Chúng tôi bắn súng chống tăng vào những mô hình xe tăng
bằng gỗ dán chuyển động. Nhắm vào đâu? Khi chúng tiến về phía ta, hãy nhắm vào lỗ
quan trắc hay phía dƣới tháp pháo để làm nó mắc kẹt. Bắn vào lỗ quan trắc! Cứ làm đi,
nhắm vào chiếc xe tăng từ khoảng cách 500 mét. Vài ngƣời làm đƣợc nhƣng tôi thì không.
Tất nhiên, ta có thể bắn đứt xích nó bằng một viên đạn, nếu may mắn. Việc này chặn nó
dừng lại và đám xạ thủ chống tăng hoặc pháo thủ sẽ tiêu diệt nó. Khi chiếc xe tăng chìa
sƣờn về phía ta thì có thể ngắm vào thùng đạn của nó. Thật tuyệt! Chuyện đó sẽ gây ra
một tiếng nổ lớn! Cứ nhƣ pháo hoa! Chiếc tăng sẽ tan xác, tháp xe cùng nòng pháo văng
ra xa. Tuyệt vời! Lính tráng la hét, nhảy nhót, tung mũ lên trời. Đó là lần chúng tôi hạ
đƣợc chiếc “Ferdinand” của mình, nhƣng đó lại là một chuyện cá biệt.
Họ dạy chúng tôi trong ba tháng, thăng chúng tôi lon hạ sĩ và đƣa chúng tôi ra
mặt trận. Chúng tôi đi trên xe lửa suốt hai tháng trời. Trên đƣờng ra mặt trận khoảng 20-30 ngƣời trong chúng tôi bị giết bởi mìn. Mọi khoảnh đất dọc tuyến đƣờng sắt đều bị rải
đầy mìn. Một tay lính thuỷ bị một quả mìn “cóc” cắt rời ngƣời. Làm thế nào hắn lại bị
vậy? Thật ngớ ngẩn! Vài tay lính trẻ đứng gần đó đái. Hắn bảo họ: “Xem này, nó sẽ nhảy.
Tớ sẽ chụp lấy nó và nó sẽ không nổ”. Quả mìn nhảy lên và phát nổ. Hắn bị xén đứt một
cánh tay và ruột xổ tung. Một ngƣời nữa chết và ba ngƣời khác bị thƣơng.
Chúng tôi tới thành phố Starƣi Oskol và phát hiện ra cây cầu đã bị nổ tung, thế là
chúng tôi bị kẹt lại. Trận Kursk vừa kết thúc từ hai tuần trƣớc. Khi đoàn tàu chúng tôi
còn phải chờ thông đƣờng, chúng tôi đƣợc lệnh đi chôn xác chết. Chúng tôi mang xác
lính xe tăng ra khỏi xe của họ, cả lính ta lẫn lính Đức. Mùi xác chết thật kinh khủng! Sau
một thời gian chúng tôi đã quen đƣợc với nó, nhƣng ban đầu thì thật lợm mửa. Chúng tôi
không có chọn lựa nào khác. Chà, ở chỗ đấy có quá nhiều xe tăng bị nổ tung! Vài cái
đâm vào nhau và dựng đứng lên. Tăng bên nào bị nhiều hơn à? Chúng tôi không đếm. Có
thể là tăng của bọn Đức.
Chúng tôi chôn cất binh lính trong những ngôi mộ tập thể. Tất nhiên, chúng tôi
luôn lục túi họ để tìm giấy tờ. Nếu thấy tiền hay cái mề đay đựng ảnh, chúng tôi gửi nó
về cho ngƣời thân của họ. Đôi lúc chúng tôi tìm thấy những bức thƣ tuyệt mệnh. Rất
nhiều ngƣời chẳng có gì, không một chút giấy tờ. Xác những ngƣời lính xe tăng trông
nhƣ những món đồ chơi bị cháy rụi. Làm sao chúng tôi xác định tên tuổi của họ đƣợc?
Tôi không hiểu tại sao, nhƣng những ngƣời nhƣ vậy xác không có mùi. Chúng tôi chôn
lính Nga và lính Đức chung với nhau và chỉ viết lên mộ nhƣ sau : “Nơi đây chôn cất một
số lƣợng … nhƣ thế lính Nga và một số lƣợng … nhƣ thế lính Đức”.
Cho tới năm 1944 Sƣ đoàn Bộ binh 22 chúng tôi thuộc Tập đoàn quân 55 vẫn
chƣa tham dự trận đánh nào. Chúng tôi đƣợc chuyển tới ngoại ô thành phố KorsunSchevchenko. Chúng tôi hành quân bộ suốt gần 70 cây số giữa những đêm dài tháng
Giêng. Mất khoảng hai tuần. Chúng tôi vừa đi vừa ngủ gà ngủ gật suốt ngày. Tháng
Giêng năm đó thời tiết khá ấm áp. Đƣờng xá biến thành những vũng lầy. Ta hành quân
trên dải đất đen xứ Ukraina, nó cứ dính bết từng tảng lên ủng và xà cạp. Bạn cạo sạch đi
rồi nó lại dính bết nhƣ cũ sau khoảng chục bƣớc chân. Ồ, chúng tôi đã lội bộ đƣợc khá
nhiều (cƣời lớn).
Xạ thủ chống tăng thuộc Sư đoàn Bộ binh 186.
Mặt trận Kalerian. 1942.
Tôi phục vụ trong một đại đội chống tăng. Trợ thủ của tôi là Malƣsev. Cậu ta là
một tay cao kều ngƣời Siberia, sinh năm 1925. Chúng tôi có khẩu chống tăng loại
Simonov. Ban đầu chúng tôi phải vác khẩu súng đƣợc lắp ráp hoàn chỉnh, thế rồi chỉ huy
cho phép chúng tôi tháo rời nó ra. Thử tƣởng tƣợng xem, nó nặng tới 22 ký. Ngoài ra,
chúng tôi còn đem theo 200 viên đạn dành cho nó, tức thêm 28 ký nữa. Tôi cũng phải đeo
một khẩu Nagan (xạ thủ số 1 có một khẩu súng lục và xạ thủ số 2 có một tiểu liên).
Malƣsev thì vác một khẩu tiểu liên PPSh cùng ba băng đạn, lƣơng khô và đồ lót. Chúng
tôi phải tự mình vác tất cả những thứ đó!
“Halt!” (tiếng Đức: dừng lại – LTD) Đƣợc thôi. Trinh sát báo cáo: “Bọn Đức ở
gần đây”. Chúng tôi nhận lệnh phải đào chiến hào ngay rìa làng. Ngôi làng tên gì nhỉ?
“Komarovka.” Làm nhƣ ghê gớm lắm vậy, “Komarovka!” (“Muỗi mắt” – Anton
Kravchenko). Trong tiếng Ukraina nó là Komarivka. Đƣợc thôi, nhƣng đào chiến hào
hƣớng nào? Hƣớng này, về phía ngôi làng. Chúng tôi đào chiến hào. Chiến hào bọn tôi
nằm dƣới một cối xay gió mái có hình móng ngựa. Mấy giờ rồi nhỉ? Đã 3 giờ rồi. Chúng
tôi đào sâu thêm một chút, nhƣng nƣớc bắt đầu rỉ vào trong hào nên đành dừng lại.
Vâng, ngay lúc đó chúng tôi gặp chuyện rắc rối. Chƣa bao giờ gặp lại lần nào nhƣ
thế trong suốt chiến tranh. Sự việc là cùng lúc đó bọn Đức đang lặng lẽ ngồi trong một
khe núi phía sau làng. Ngay khi đám bộ binh đào xong chiến hào và ngồi nghỉ, chúng bắt
đầu nã súng cối cật lực về hƣớng ngôi làng. Chúng có một khẩu đại liên ngay trên chiến
hào chúng tôi, trên chính cái cối xay ấy. Và khẩu súng đó đang bắn thẳng vào làng. Chiến
hào chúng tôi chỉ dài khoảng 5 mét, tại sao chúng không quẳng một quả lựu đạn vào đấy
nhỉ? Có lẽ mấy tên đó không còn quả nào chăng? Malƣsev chờ một lát rồi bảo: “Valodka,
tớ sẽ trèo lên trên ấy. Tớ sẽ khử chúng.” Cậu ta nói thêm: “Đƣa tớ khẩu súng lục của cậu”.
Tôi đƣa khẩu súng lục của mình và cậu ta trèo lên. Một lát sau, tôi nghe tiếng súng bắn
qua lại, của cả bọn Đức và Malƣsev. “Malƣsev chết rồi.” Tôi nghĩ. Không hề nhƣ vậy!
Cậu ta quay trở ra. Đã giết xong cả hai thằng ngồi trên ấy. “Xong rồi,” cậu ta nói, “Tớ đã
hạ chúng rồi”.
Rồi cơn ác mộng bắt đầu. Anh bạn ạ, tối hôm đó tôi không thấy một sĩ quan nào
của ta cả! Chúng tôi bắt đầu bắn bằng khẩu súng của mình. Nhƣng bắn về hƣớng nào?
Trời tối nhƣ mực! Chúng tôi cứ bắn về hƣớng có chớp sáng, hết khoảng 20 hay 30 viên
đạn theo kiểu ấy. Về sau mới biết là ở đấy chỉ có khoảng 500 tên Đức. Chúng tôi có đến
hai tiểu đoàn bố trí trong các chiến hào để chống lại chúng. Thêm vào đó, chúng tôi còn
tới một tiểu đoàn dự bị. Chúng tôi là lính mới, anh biết đấy, nhƣng những tay có kinh
nghiệm lúc ấy cũng phải lúng túng. Rồi chúng tôi gặp một tay thƣợng uý. Anh ta hét,
“Nằm xuống, các cậu. Tháo khóa nòng ra và ném khẩu súng của các cậu đi.” Chúng tôi
làm theo nhƣ anh ta bảo. Chúng tôi tháo nó ra và dấu trong chiến hào. Malƣsev nhét cái
khóa nòng vào túi rồi phủ chiếc áo telogreika của mình lên khẩu súng chống tăng. Tay sỹ
quan ấy bị thƣơng vào cả hai chân. Chúng tôi xốc nách anh ta rồi cùng chạy. Bọn Đức
liên tục nã súng cối. Phần còn lại của đơn vị chúng tôi đang rút lui. Binh lính cứ ngã
xuống, ngã xuống. Còn bọn Đức vẫn tiếp tục bắn. Hầu hết đám lính ta rẽ vào một cái
thung lũng nhỏ để tránh đạn. Ngƣời sỹ quan nói: “Hãy chạy thẳng lên đồi! Lên trên đồi!
Đừng chui xuống cái thung lũng ấy, bây giờ mà ở đấy là bị thịt ngay!” Quả vậy. Bọn Đức
chỉnh khẩu cối theo hƣớng ấy, thật kinh khủng. Tƣởng tƣợng mà xem? Và rồi chúng tôi
đã vƣợt qua đỉnh đồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống để nghỉ. Anh ta nói: “Hãy nghỉ một lát,
tim tôi lộn lên tậïn trên cổ rồi.” Anh ấy trông còn trẻ, nhƣng cả hai chân đều bị thƣơng.
May thay không trúng xƣơng, chỉ bị vào phần mềm.
A hà. Bình minh đã lên. Anh biết không, chúng tôi đang ngồi nhƣ thế trong đám
cỏ khô cao ngập đầu thì có hai tên Đức đi ngang. Thƣợng úy thấy chúng trƣớc. “Im
lặng,” anh ta nói, “bọn Đức đấy. Nằm xuống. Tôi sẽ bắn, để các cậu làm thì trƣợt mất.”
Anh ta lên cò khẩu TT của mình rồi ngắm bắn. Bóp cò. Thằng Đức thứ hai bắn trả ngay
lập tức. Bọn Đức đƣợc huấn luyện để bắn ngay về hƣớng có tiếng súng. Thƣợng uý hạ
luôn đƣợc thằng thứ hai. Bắn liền tay. Thật là một tay có kinh nghiệm. Chúng tôi thì sợ
đến chết đƣợc. Tôi còn nghĩ rằng thế là tiêu rồi. Thật ra, tất cả chỉ mới là lần đầu đối với
chúng tôi.
Vâng, chúng tôi đã rút lui. Không nhƣ chúng tôi, tiểu đoàn dự bị tiến lên, quét
sạch bọn Đức, chiếm lấy ngôi làng và tiếp tục hành quân. Còn chúng tôi có hai tiểu đoàn
thì lại bỏ chạy. Thế đấy. Một nửa số ngƣời chạy vào cái thung lũng đã bị giết chết. Nói
ngắn gọn, chúng tôi chỉ còn lại một tiểu đoàn trong số hai tiểu đoàn ban đầu. Một tiểu
đoàn có 500 ngƣời. Một đại đội gồm 125 ngƣời. Tóm lại, chúng tôi có ba đại đội bộ binh
và mấy trung đội súng máy, tiểu liên và súng cối.
Sáng hôm đó chúng tôi tới sở chỉ huy sƣ đoàn. Chúng tôi khiêng thƣợng uý tới
đơn vị quân y và báo cáo lại những gì đã xảy ra trong thung lũng. Họ hứa sẽ gửi cứu
thƣơng và xe ngựa tới để vận chuyển những ngƣời sống sót. Thƣợng uý nói: “Những
chàng trai này đã cứu mạng tôi, họ phải đƣợc tặng thƣởng.” Chúng tôi trả lời, “Chính anh
ấy đã cứu mạng chúng tôi.” Tất cả đều cƣời. “Những anh chàng thiếu kinh nghiệm.” Anh
ấy đƣợc đƣa lên bàn mổ ngay lập tức. Họ chữa vết thƣơng cho anh rất cẩn thận, dù không
có thuốc mê. Anh ấy rất can đảm. Một anh chàng dũng cảm!
- A hà. Bây giờ chúng tôi đi đâu đây?
- Vũ khí của các anh đâu?
- Đây ạ.
- Các anh là lính gì?
- Chúng tôi là xạ thủ chống tăng.
- Thế súng chống tăng của các anh đâu?
- Chúng tôi bỏ lại ở chỗ kia.
- Quay lại lấy chúng ngay!
Vâng, chúng tôi quay lại. Buổi sáng trời lạnh hơn và con đƣờng đã đỡ lầy lội.
Chúng tôi đi và nghe thấy những tiếng rên rỉ trong cái thung lũng! Thật khủng khiếp! Ma
quỷ! Không còn ai trên đƣờng, chúng tôi đang đi một mình. Thế là chúng tôi quay lại và
tìm thấy khẩu chống tăng của mình ở nơi đã bỏ nó lại. Chúng tôi vào trong làng – không
ai còn sống sót trong đó. Rồi một ông già xuất hiện từ một cái lán. A ha. Tôi nói: “Bố ơi,
làm thế nào bố còn sống sót đƣợc?” “Lão không biết, các con ạ. Đám các con bắn trả bọn
Đức từ trong căn nhà này suốt đêm qua.” Chúng tôi tiến lại gần hơn. Đó là đám trinh sát
của trung đoàn chúng tôi. Tất cả đã bị giết. Thế đấy. Trận đánh đầu tiên của chúng tôi là
vậy đấy.
Artem Drabkin: Có khi nào các ông bắn vào bộ binh bằng súng chống tăng không?
Đôi khi chúng tôi làm thế, nhƣng thƣờng chúng tôi dành đạn để bắn xe tăng. Nhân
tiện, xin kể về một vụ nhƣ thế. Việc xảy ra trong những ngày đầu tiên của chúng tôi ngoài
mặt trận. Tôi cho rằng bọn Đức đã quyết định kiểm tra xem chúng tôi sẽ xử sự thế nào
dƣới làn hỏa lực mạnh. Vì thế chúng tiến hành pháo kích chúng tôi bằng súng cối và đại
bác. Trận pháo kích thật dữ dội, chúng tôi phải ẩn nấp để tránh mảnh đạn tận dƣới đáy
chiến hào. Có lẽ một quả đạn đã rơi vào chiến hào bên cạnh. Có vài ngƣời bị giết. Một
cậu Uzbek bị “giập”. Cậu ta nhảy khỏi chiến hào, quay qua quay lại rồi chạy về phía bọn
Đức. Tiểu đoàn trƣởng chạy tới, miệng hét: “Bắn hắn đi! Bắn đi!” Anh ta chạy tới chỗ
chúng tôi, gạt Malƣsev sang một bên, chĩa khẩu súng chống tăng của chúng tôi về ngƣời
lính ấy và bắn trúng ngay sau đầu anh ta. Khi chúng tôi chạy lên phản công, lật ngửa anh
ta lên – khuôn mặt đã biến mất, bị vỡ tung. Quỷ tha ma bắt, viên đạn ấy nặng tới 70 gram.
Sau đấy, chúng tôi ngồi trong chiến hào quanh Korsun suốt một tuần lễ. Đó là nơi
mà chúng tôi, Malƣsev và tôi, đã hạ đƣợc một chiếc Ferdinand. (Lính Nga gọi chung tất
cả các loại pháo tự hành của Đức là “Ferdinand” – Artem Drabkin) (“Ferdinand” là
loại pháo tự hành Elephant nổi tiếng, bộ máy tuyên truyền Quốc xã sử dụng hình ảnh này
để quảng cáo cho sức mạnh của Quân đội Đức – LTD). Vị trí chiến đấu của chúng tôi rất
bất hợp lý. Bọn Đức đóng trên một điểm cao trong khi chúng tôi lại nằm dƣới một
khoảng trũng. Khoảng cánh giữa hai bên là 200 mét. Có một ngôi làng nằm trên đỉnh cao
ấy. Một khẩu pháo tự hành nấp sau góc của một trong những căn nhà ấy. Chỉ có cái nòng
pháo thò ra. Bọn quan trắc của chúng có lẽ cũng ở đấy, bởi ngay khi chúng xác định đƣợc
các vị trí của chúng tôi, chiếc xe trƣờn tới từ sau ngôi nhà và nã đạn rất chính xác. Lính ta
bị thịt dần. Mấy khẩu pháo 45mm của ta bố trí sau lƣng chúng tôi, trên một đỉnh đồi. Anh
xem, họ chọn một vị trí tệ thế đấy, nơi thiếu che chắn nhất. Tới lúc này, không một pháo
thủ nào còn sống. Khi quay lại chỗ này, chúng tôi trông thấy hai khẩu pháo và các xác
chết nằm ngay cạnh. Và họ đã bị phủ một lớp tuyết, những ngừơi lính ấy. Không có ai
chôn cất cho họ. Năm chiếc T-34 bị bắn cháy ngay trƣớc mắt chúng tôi. Chỉ một phát đạn,
và thế là chấm hết. Rồi đến chiếc kế tiếp. Bọn Đức khát máu, chúng thật là những chiến
binh thông minh và mạnh mẽ. Không có ai mạnh hơn chúng, ngoại trừ lũ khờ dại chúng
tôi. Chúng tôi luôn chiến đấu với chúng bằng nắm đấm của mình, chạy thẳng vào chỗ
nguy hiểm mà không hề quan sát trƣớc.
Đại đội trƣởng đã gửi đi ba khẩu đội chống tăng, không ai trong bọn họ quay về.
Hoặc một tên bắn tỉa diệt họ, hoặc họ nấp sau những xe tăng cháy và bị trúng đạn của
khẩu pháo tự hành, tôi không rõ lắm. Chỉ huy nói: “Tiến lên, các chàng trai, trƣờn xuống
dƣới cái xe tăng đầu tiên, đừng sợ.” Malƣsev của tôi là một chàng trai dũng cảm. Chà,
cậu ta là một thợ săn thực sự, một tay Siberi! Dù tôi là xạ thủ số 1, cậu ta luôn là ngƣời
bắn khẩu súng chống tăng. Tôi thì không có can đảm (cƣời). Vâng, cậu ta đã bảo:
“Valodia, đừng lo. Chúng ta sẽ ngắm trúng nó.” Và chúng tôi mất suốt đêm để trƣờn tới
nơi. Chúng tôi nấp dƣới một trong những chiếc xe tăng đấy, và bắn, gần nhƣ ngay sát bọn
Đức. Chỉ cách khoảng 150 mét tới chỗ căn nhà đấy.
Những xạ thủ chống tăng.
Tới sáng chúng tôi bắt đầu bắn hết phát này đến phát khác. Chúng tôi bắn trúng
vào bánh xe hoặc xích xe gì đó, bởi chúng tôi chẳng nhìn rõ cái gì khác. Rồi nó phát hiện
ra chúng tôi và bắn trả. Úi chà chà, thật ác liệt! Cái tháp pháo trên đầu chúng tôi bị nổ
tung! May mắn thay, phát đạn không bắn trúng phía dƣới xe tăng, nếu không chúng tôi đã
rồi đời. Tai tôi điếc đặc. Rồi nó trƣờn khỏi góc nhà để kết liễu chúng tôi. Tôi nghĩ: “Thế
là hết, chúng sẽ nghiền nát chúng ta.” Nhƣng Malƣsev vẫn bình tĩnh. Khi chiếc xe chìa
sƣờn về phía chúng tôi, cậu ấy chĩa khẩu chống tăng ra từ dƣới cái xích xe và nã luôn
năm phát vào sƣờn nó, phát này nối tiếp phát kia. Thật là một cú ghê gớm! Chiếc
Ferdinand của chúng tôi nổ tung thành từng mảnh – cả tháp pháo, mọi thứ!
Trên đƣờng về, bọn Đức bắn đạn cối trúng vào bọn tôi. Lúc đó chúng tôi đã về rất
gần chiến hào của mình rồi. Những phát đạn nổ rất gần. Một phát sƣợt sát cạnh. Một phát
khác bắn trƣợt phía trƣớc. Tôi nói: “Malƣsev, chạy mau!” Tại sao cậu ấy không làm theo
nhỉ? Tôi cũng không biết nữa. Hoặc cậu ấy đã bị thƣơng hoặc bị ù tai mất rồi. Tôi kéo
mạnh chân cậu ấy, “Đi nào!” Tôi không nhớ điều gì xảy ra tiếp theo. Tôi chỉ tỉnh lại trong
chiến hào khi đạn bắn đã ngớt. Mọi ngƣời nói: “Một phát đạn nổ trúng cả hai cậu”. Tôi
mặc một áo giáp ở dƣới chiếc telogreika và áo choàng. Anh biết không, chiếc áo choàng
của tôi bị xé tung, nhƣng tôi không bị một vết trầy nào. Malƣsev bị xé rách chân phải. Tại
sao chúng tôi không chờ tới trời tối nhỉ? Đại đội trƣởng đã bảo chúng tôi, “Hoàn thành
nhiệm vụ và quay về lập tức. Bằng không, các cậu sẽ chết. Bọn Đức sẽ bò tới và giết các
cậu.” Chúng tôi đem theo một khẩu súng chống tăng, một khẩu Nagan và một khẩu tiểu
liên với chỉ một băng đạn. Malƣsev không mang nhiều hơn, cậu ấy tin chắc mọi sự đều sẽ
tốt đẹp. Tôi đƣợc nhận một phần thƣởng khi kết thúc chiến tranh, huy chƣơng “Vì Dũng
cảm”, nhờ chiến công ấy. Đúng ra, tất cả những ai từng bắn hạ xe tăng đều xứng đáng
đƣợc thƣởng 500 rúp và Huân chƣơng Sao Đỏ. Tất nhiên, phần thƣởng trƣớc tiên và tuyệt
nhất vẫn là “Vì Dũng cảm” và kế tới là Huân chƣơng Vẻ vang.
Khi hoàng hôn xuống, hầu hết chiến sĩ đại đội chúng tôi đều đã hy sinh. Lúc khởi
đầu, chúng tôi có 60 ngƣời tức 30 khẩu súng chống tăng (một đại đội chống tăng của
trung đoàn). Giờ chúng tôi chỉ còn lại khoảng một chục khẩu đội. Chỉ huy trung đội cũng
bị giết. Một tuần trôi qua và chúng tôi nhận đƣợc tiếp viện lấy từ những ngƣời địa
phƣơng, thuộc lứa sinh năm 1926-1927. Tất cả đều đƣợc gọi nhập ngũ và chuyển tới mặt
trận. Chúng tôi gọi họ là “sơmi đen”, do họ mặc đồ màu tối và áo khoác lính màu xám.
Họ vẫn chƣa đƣợc nhận quân phục.
Rồi chúng tôi tiến xa hơn và tới trú trong những hầm trú ẩn đƣợc đám công binh
đào sẵn. Họ đã làm hết sức mình, hầm đƣợc lót tới hai hay ba lớp gỗ. Tại đó tôi đã bị
“giập”. Khi tôi tỉnh lại, không còn ai bên trong và một góc hầm đã bị sụp. Tôi không báo
cáo lại cho trạm quân y. Tôi không hiểu đó là một trận oanh kích hay do cái gì khác.
Hình nhƣ kho đạn pháo của bọn Đức lúc đó đã gần cạn. Có lẽ đó là một quả bom chăng.
Chúng tôi tiến xa hơn. Lại là hành quân đêm. Trăng sáng vằng vặc. Máy bay trinh
sát của bọn Đức bay liên tục. Tất nhiên, khi “cái khung” ấy xuất hiện, chúng tôi nhận
đƣợc lệnh “Halt!”. Khi bọn Đức bay đi, chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Đây là lúc tôi
nhận đƣợc một ngƣời trợ thủ mới. Chúng tôi tiếp tục đi nhƣ vậy cho tới khi cả hai rơi vào
một hố bom. Nó chứa đầy nƣớc, cao ngang mức mặt đƣờng, và rất sâu đến nỗi đầu tôi
ngập trong nƣớc. Chúng tôi chật vật ngoi lên và đƣợc đƣa tới trạm quân y. Họ kiểm tra
trợ thủ của tôi, đo nhiệt độ và khám tổng quát, rồi thả ra. Tôi thì bị giữ lại. “Bị giập.” Tôi
bị đau tai và kèm theo là phát âm khó. Tôi đƣợc đƣa tới bệnh viện và phải nằm đấy hai
tuần. Rồi các cậu ấy bắt đầu bàn: “Sao chúng ta phải nằm đây? Hãy đuổi theo đơn vị của
mình. Ở đấy vui hơn.” Bọn tôi có sáu mống cả thảy. Chúng tôi đánh lừa y tá của mình để
họ trả lại quân phục. Rồi chúng tôi nói: “Tạm biệt nhé, Masha!” “Đám nhóc các anh đi
đâu?” “Tới mặt trận, đuổi theo đơn vị của mình” “Tôi sẽ báo cáo lên trên!” “Cứ làm đi”.
Phỏng vấn: Artem Drabkin-Anton Kravchenko
Dịch từ Nga sang Anh: Anton Kravchenko
Chỉnh sửa bản tiếng Anh: Claire Fuller Martin
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Vladimir Zimakov
Phần 2
Đội trinh sát
Vladimir Zimakov (bên phải),
tháng Ba năm 1945, Budapest.
Lúc đó đang dịp Lễ Phục Sinh. Chúng tôi tiếp tục tiến bƣớc và một ngày kia có
mặt tại một ngôi làng. Bà chủ nhà nơi chúng tôi ở lại làm rất nhiều món ngon cho ngày lễ:
khoai tây rán, mamalƣga (cháo yến mạch, nấu theo kiểu Moldova). Bà ta cũng đặt lên
bàn cả đùi lợn sấy, mỡ lợn muối cùng mọi thứ đồ nhắm làm từ dƣa chuột và cà chua. Bà
ta còn đem ra cả một chai gorilka (rƣợu mạnh trong tiếng Ukraina). Ôi chà chà! Thế mới
là lễ chứ! Chúng tôi chƣa gặp cảnh nào tuyệt nhƣ thế trong suốt hàng bao nhiêu năm trời!
Chúng tôi vừa uống một ngụm nhỏ thứ rƣợu gorilka Ukraina ngon tuyệt đó là lăn ra ngủ
tít trong hai ngày trời.
Đã tới lúc phải tiếp tục lên đƣờng. Bốn ngƣời trong nhóm dƣờng nhƣ đã có một
kế hoạch gì đó. Họ bảo chúng tôi: “Cứ đi trƣớc đi, chúng tớ sẽ bắt kịp các cậu sau.” Hai
ngƣời chúng tôi rời căn nhà và đứng chờ họ ngoài đƣờng, bởi chúng tôi cũng chẳng biết
đi đâu nữa. Chúng tôi chờ mãi, chờ mãi nhƣng các bạn tôi vẫn không thấy xuất hiện. Rồi
có một anh chàng vận đôi giầy ống cao của Đức, cổ đeo một khẩu tiểu liên Đức đi tới.
Anh ta hỏi :
- Này, các cậu kia, thuộc sƣ đoàn nào thế?
- 202.
- À, “Sƣ đoàn tụt hậu”! Hãy tới Sƣ 180 tham gia đội trinh sát của chúng tớ!
- Làm sao đƣợc? Chúng tôi là xạ thủ chống tăng cơ mà!
- Quỷ tha nó đi! Thôi bắn vào mấy cái xe tăng đi! Hãy tham gia đội trinh sát
chúng tớ, chỗ chúng tớ nhiều trò vui lắm!
Đó là cách tôi tham gia trung đội trinh sát đặc biệt số 90 của Sƣ đoàn 180. Tôi báo
cáo lên trung đội trƣởng là mình tới từ trung đội chống tăng của Trung đoàn bộ binh 645,
Sƣ đoàn 202. Anh ta hứa sẽ báo cáo lại với họ rằng tôi đã bắt đầu phục vụ trong đơn vị
của anh ta kể từ giờ phút này. Thật đơn giản.
Bọn Đức đang cố chọc thủng chiến tuyến của quân ta ở vùng PochaevcyShurzhency và sƣ đoàn 202 và 180 chúng tôi phải trải qua một thời gian khốn đốn.
Nhƣng chúng tôi cũng đã bắt bọn Đức phải trả giá đích đáng.
Ồ! Khi chúng tôi kết thúc chiến dịch Korsun-Schevchenkovsky, ở đấy chất đống
những thây ngƣời và ngựa. Thật là một cơn ác mộng! Nhất là tại một hẻm núi. Kinh
khủng! Đạn Katusha bắn vào đấy, hai hoặc ba lần gì đó và trộn tung mọi thứ lên!
Vào mùa xuân năm 1944, bọn Đức chặn đứng đợt tấn công của chúng ta ở gần
Yassy (ngày nay là Iasi). Đội trinh sát chúng tôi đã xuất hiện ở ngoại ô Yassy nhƣng bọn
Đức đã đẩy lui chúng tôi bằng xe tăng. Chúng lấy đâu ra những cái xe tăng ấy? Dƣờng
nhƣ chúng đã bỏ lại tất cả xe cộ ở thành phố Uman và vùng ngoại ô rồi cơ mà?! Hãy xem,
ngay đƣờng sá lầy lội cũng không chặn bƣớc đƣợc chúng! Chúng tôi thƣờng bị dừng lại
vì bùn lầy, còn chúng thì không! Hay chúng có thêm viện binh? Dù sao đi nữa, chúng
cũng đã đẩy lùi chúng tôi khoảng 15 - 25 km khỏi Yassy bằng xe tăng. Chúng tôi đã phải
dừng tại đó mãi cho tới tháng Tám.
Chúng tôi thƣờng tiến hành trinh sát mỗi ngày một cách: có hôm thì đi bộ, hôm
khác lại cƣỡi ngựa. Chúng tôi mặc vatnik (áo choàng lót bông vạt ngắn – Anton
Kravchenko) và quần lót bông quanh năm suốt tháng, mặc cho đang là mùa hè hay mùa
đông. Chúng bảo vệ chúng tôi khỏi mảnh đạn rất hiệu quả. Khi một mảnh đạn bay đƣợc
hơn 100 mét, nó chỉ xé rách nổi lớp vải lót, không hơn. Nếu quả đạn nổ cách anh khoảng
30 thƣớc, nó cũng sẽ chỉ làm xƣớc da anh, thế thôi. Nhƣng tất nhiên là nếu nó nổ ngay
cạnh anh – ồ, anh bạn ạ, sẽ không có gì cứu nổi anh! Nó sẽ biến anh thành cái rây bột, dù
anh có mặc gì đi nữa. Chúng tôi cũng có áo chống đạn. Chúng không nặng lắm và chỉ
dày khoảng một ly rƣỡi. Tôi có một cái khi còn ở trong trung đội xạ thủ chống tăng. Tất
nhiên, chúng có tác dụng làm ta yên tâm hơn là thực sự hữu ích. Chúng tôi không đƣợc
cấp áo choàng ngụy trang, chỉ là quân phục dã chiến bình thƣờng. Bọn Đức thƣờng mặc
áo choàng ngụy trang tiệp màu đất. Tôi chƣa từng thấy thứ nào nhƣ vậy trong quân đội ta.
Do thế, chúng tôi mặc áo nguỵ trang của Đức. Đôi lúc, khi vừa trở về sau một chuyến
trinh sát, chúng tôi thƣờng nghe lính phe mình hét: “Bọn Đức!” Và chúng tôi đáp lại,
“Nhìn lại đi, lũ ngốc! Chúng tớ đây! Chúng tớ vừa đi qua đây mà!” Chúng tôi phải quay
trở về đúng chỗ chiến tuyến đã xuất phát ban đầu để không bị hạ bởi chính phe mình.
Bọn trinh sát Đức cũng không ngốc, chúng thƣờng bắt cóc lính ta để lấy tin tức về
cách bố trí quân ta. Đám trinh sát chúng tôi học đƣợc rất nhiều từ bọn Đức. Tôi muốn nói
tới cách ngụy trang, nghệ thuật chiến tranh và những mánh lới đặc biệt của chúng. Chúng
là những ngƣời rất chính xác, không khi nào bắn nhiều đạn hơn cần thiết. Chỉ trừ những
phát bắn trƣợt! Mặt khác, khi chúng xác định đƣợc vị trí tập trung quân ta, chúng không
hề quan tâm tới số lƣợng đạn và thủ pháo. Ngay khi chúng bắt đầu nã đạn, chúng tôi phải
cố gắng trƣờn tỏa theo mọi hƣớng trƣớc khi chúng giết chết đƣợc tất cả mọi ngƣời.
Một lần chúng tôi lọt phải ổ phục kích của bọn Đức. Chúng tôi đang trƣờn đi nhƣ
sau: một ngƣời dẫn đầu cả nhóm và hai ngƣời khác ở hai bên. Và ngƣời đầu tiên đã lọt
vào ổ phục kích. Anh ta bị giết chết. Không nghĩ ngợi lâu la, chúng tôi đƣa ổ phục kích
đó xuống địa ngục! Ngay lập tức, chúng bắt đầu bắn lựu đạn vào chúng tôi. Ôi Trời ơi!
Thật là kinh khủng khi chúng bắt đầu bắn vào cùng một điểm từ mọi phía. Không trốn
vào đâu đƣợc! Bạn phải tìm cho bằng đƣợc bất cứ cái lỗ nào để rúc đầu vào. Nhƣng
chúng tôi cũng phải cố thoát khỏi nơi ấy bằng bất cứ giá nào. Hai ngƣời của chúng tôi bị
thƣơng trong vụ ấy, nhƣng chúng tôi đã vác đƣợc họ về. Chúng tôi không bao giờ bỏ
những ngƣời chết và bị thƣơng lại chiến trƣờng.
Những ngƣời đƣợc chọn vào đội trinh sát đều là những chàng trai rất tuyệt! Tôi là
một tay đụt và không thể đối phó với một thằng Đức đƣợc nên luôn đƣợc bố trí trong
toán cảnh giới của nhóm trinh sát. Nhƣng trong nhóm trinh sát của chúng tôi có những
tay rất khá! Ví dụ nhƣ hai gã trai thuộc trung đội trinh sát của trung đoàn, Fomichev và
Alexandrov. Họ là những chàng trai rất thông minh. Họ có thể đi cặp cùng nhau và bắt về
một tên Đức! Đấy là cả một câu chuyện. (Trong một lần chúng tôi tiến hành trinh sát)
Chúng tôi đã lặng lẽ bò đƣợc một lát, cuối cùng trông thấy hai thằng lính gác Đức đang đi
tới đi lui trong chiến hào. Chốc chốc chúng dừng lại để quan sát suốt dọc chiến hào. Rồi
lại tiếp tục đi. Bọn chúng có một chòi canh có bố trí đại liên. Đối lại, phía chúng tôi có
Fomichev và Alexandrov, những ngƣời luôn đƣợc phân công cùng đi với chúng tôi trong
những nhiệm vụ đặc biệt phức tạp. Họ bảo: “Chúng tớ sẽ lặng lẽ hạ thằng này. Cậu nào
nhận nhiệm vụ hạ thằng còn lại?” Vâng, chúng tôi có những chàng trai nhƣ thế đấy. Khi
bọn gác tách khỏi nhau, các chàng trai của chúng tôi sẽ hạ gục chúng trong khoảnh khắc!
Hề hề! (Cƣời)
Artem Drabkin: Các ông có phải trải qua khóa huấn luyện nào trong thời gian
rảnh rỗi không?
Khi chúng tôi đang phòng ngự, chúng tôi đƣợc gặp một huấn luyện viên, một viên
trung uý vạm vỡ, khoảng 25 tuổi. Anh ấy dạy chúng tôi một số miếng võ ju-jitsu: miếng
khóa, miếng đá hậu, cách quật ngã đối phƣơng. Anh ấy cũng dạy cách sử dụng dao và
cách đoạt dao khỏi tay đối phƣơng. Ở đấy tôi cũng đƣợc học cách cƣỡi ngựa: cách cƣỡi,
cách chém đứt một cành liễu (đây là bài tập của kỵ binh để học cách sử dụng gƣơm).
Trung đội chúng tôi nằm dƣới sự chỉ huy của một thƣợng sĩ. Chúng tôi đặt cho
anh ta biệt danh là Kochubey (tên một anh hùng nổi tiếng thời kỳ nội chiến Nga) do bộ
râu mép ấn tƣợng màu lúa chín và chỏm tóc trên trán anh ta. Anh ta mặc trang phục
Kazak cổ truyền và đội cái mũ kubanka (loại mũ lông tròn, không vành – Anton
Kravchenko) với cái chóp đỏ. Sƣ đoàn trƣởng thƣờng bảo anh ta: “Sao anh cứ lƣợn lờ
nhƣ một con gà trống vậy? Mặc ngay bộ quân phục vào. Chúng tôi không có những tay
Kazak ở đây!” Nhƣng Kochubey không thèm nghe lời ông ta. Rồi anh ta mất tích ở nơi
nào đó và chúng tôi đƣợc nhận một chỉ huy mới, trung uý Petr Domozhir, ngƣời thành
phố Nizhnƣi Tagil, hiện là bạn tôi, sinh năm 1925. Anh ấy đã phục vụ ở độâi trinh sát
trong suốt chiến tranh. Anh đã đƣợc tặng ba Huân chƣơng Cờ Đỏ và một Huân chƣơng
Lênin. Anh ấy bị thƣơng nặng trong một chuyến trinh sát và đã không quay lại đơn vị sau
khi rời bệnh viện. Chúng tôi nghe nói lại rằng anh ấy đƣợc phong Ngôi sao Anh hùng Xô
viết và chuyển về huấn luyện ở Maskva.
Artem Drabkin: Các ông thường vượt qua chiến tuyến bao xa?
Không xa lắm. Chúng tôi đi dọc theo chiến tuyến và lọt ra sau nó, không hơn 8
km.
Artem Drabkin: Khi đi trinh sát các ông hay sử dụng loại vũ khí gì?
Một khẩu tiểu liên và lựu đạn, loại “quả chanh” (loại F1 - LTD). Chúng tôi đem
theo rất nhiều “quả chanh”: ba quả ở thắt lƣng và khoảng mƣời quả trong balô. Và chúng
tôi lấy càng nhiều đạn càng tốt. Chúng tôi phải đem theo rất nhiều đạn.
Artem Drabkin: Các ông có sử dụng dao không?
Tất nhiên, có chứ. Ban đầu tôi dùng một con dao loại thƣờng. Nó trông thô nhƣng
khá sắc. Rồi trong một đợt tấn công, tôi thấy một tên Đức nằm chỏng chơ – một gã tóc đỏ
to cao. Tất nhiên, viên đạn có thể bắn trúng tất cả mọi ngƣời, nó đâu thèm quan tâm tới
chuyện ngƣời ấy cao hay thấp. Tôi thấy hắn có một con dao tốt và tôi cắt lấy nó cùng cái
bao đựng dao khỏi cái thắt lƣng của hắn. Khi ta phóng con dao ấy, mũi dao luôn hƣớng
về phía trƣớc. Nó sắc tới mức ta có thể dùng nó cạo râu đƣợc!
Artem Drabkin: Ông đã giết được bao nhiêu lính Đức?
Thƣờng tôi giết chúng mà không đếm. Hãy xem, anh bắn vào hắn trong một trận
đánh và thấy hắn ngã xuống. Thế nhƣng làm sao anh biết đƣợc nhƣ thế là hắn đã chết hay
chỉ cúi xuống ẩn nấp? Tất nhiên, đôi lần anh thấy rõ đƣợc mình đã bắn trúng hắn.
Mắt tôi tinh lắm. Khi đi trinh sát, tôi thƣờng làm ngƣời canh chừng. “Valodka,
quan sát cẩn thận nhé.” Tôi nhìn rõ ban đêm nhƣ một con mèo. Mục đích chính là phát
hiện ra mìn. Sợi dây gài quả mìn căng rất thấp trên đám cỏ. Ngay khi bọn Đức bắn một
quả pháo sáng, ta nên dừng lại và quan sát. Ồ, nó đấy, một sợi dây rất nhỏ, ngay phía
trƣớc mặt bạn!
Artem Drabkin: Thường bọn Đức xử sự thế nào khi các ông bắt chúng?
Chúng kháng cự lại, tất nhiên. Sức mạnh của một con ngƣời tăng gấp ba trong
thời khắc nguy hiểm. Nhƣng không tên Đức nào có thể thoát khỏi những anh chàng
Fomichev và Alexandrov khoẻ nhƣ sói của chúng tôi! Không một ai! Không cách nào!
Và vấn đề không phải ở chỗ tên Đức khoẻ nhƣ thế nào. Chúng tôi trói chúng thế nào ấy
hả? Kiểu thông thƣờng – bẻ quặt tay ra sau, nắm tóc kéo đầu ra sau lƣng, cách ấy làm tên
Đức bất tỉnh trong khoẳng khắc. Điều cốt yếu là giữ tay hắn cách xa khẩu súng và con
dao.
Artem Drabkin: Bọn Đức có cạo trọc lính của chúng không?
Không, chúng để tóc dài bình thƣờng, đôi khi cắt ngắn. Trên thực tế, bọn Đức là
những kẻ chính xác và cẩn thận. Nhƣng có đôi lần chúng tôi đã hạ đƣợc chúng một cách
bất ngờ. Tôi còn nhớ chúng tôi đã nổ tung một hầm trú ẩn của chúng nhƣ thế nào. Chúng
tôi tìm cách lặng lẽ tiến gần chúng. Bọn lính gác đang ngủ quên. Chúng tôi trói tay, bịt
miệng chúng rồi ném cả hai qua bờ chiến hào. Rồi tay công binh của chúng tôi mở ra một
lối an toàn và chúng tôi ném lựu đạn vào trong hầm. Sau đó hai ngƣời trong bọn tôi đột
nhập vào hầm và nã tiểu liên dọc những cái giƣờng tầng. Có thể còn vài thằng Đức sống
sót sau đòn đó, tôi không chắc lắm. Khi chúng tôi trên đƣờng trở về, bọn Đức bắt đầu bắn
trả bằng súng cối, súng máy và phóng lựu đạn (Chúng có một loại lựu đạn có thể gắn vào
nòng súng trƣờng và phóng đi nhờ một viên đạn không có đầu. Chúng tôi cũng dùng cách
đó. Quả lựu đạn bắn đi bằng cách đó có thể xa tới 50 mét). Chúng tôi chật vật mới thoát
đƣợc. Lần ấy tôi bị dính một mảnh đạn vào chân. Thật may tôi lại đang mặc cái quần lót
bông.
Thật ra, tôi đã bị thƣơng ba lần và bị giập thƣơng một lần. Dù vậy, tôi không đƣợc
nhận một tờ giấy chứng thƣơng nào, bởi tất cả các vết thƣơng đều nhẹ và trong trung đội
có tay cứu thƣơng riêng chữa trị cho chúng tôi. Cậu ấy tới từ Osetia (thuộc vùng
Caucasus) tên là Sasha Gevorkov, nếu tôi nhớ không lầm. Cậu ấy cũng kiêm nhiệm vụ
phiên dịch, bởi cậu ta rất giỏi tiếng Đức. Cậu ấy chữa trị cho chúng tôi. Vết thƣơng đầu
tiên tôi bị ở chân. Các bạn tôi cắt và vứt bỏ chiếc ủng cao cổ. Sasha lấy mảnh đạn ra khỏi
chân và rửa sạch vết thƣơng bằng cồn Rivanol. Cậu ta bảo: “Valodka, hãy ra canh lũ
ngựa (bởi đó là một công việc nhẹ nhàng). Cậu cứ đi lại nhƣ thế trong vài tuần và vết
thƣơng sẽ tự khỏi.” Rồi tôi bị trúng một viên đạn vào xƣơng gót chân. Nó xé toạc bàn
chân, xuyên qua da thịt và dừng lại ở xƣơng. Cậu ấy nói: “Nếu nó đau dữ dội thì có nghĩa
là xƣơng bị gãy. Tớ đã lấy viên đạn ra. Trong trƣờng hợp chân bị mƣng mủ, tớ sẽ phẫu
thuật và rửa sạch cho cậu.” Nhƣng mọi chuyện kết thúc tốt đẹp, vết thƣơng đã tự lành
nhƣ một vết muỗi đốt (nguyên văn: “như một vết thương của chó“ - LTD).
Rồi cậu ấy bị giết. Chúng tôi trở về chiến hào phe mình sau một lần trinh sát.
Sasha đâu rồi? Viên chỉ huy nói: “Hai ngƣời các cậu đi đƣa cậu ta về.” Lúc ấy bọn Đức
đã ngƣng bắn. Khi đƣợc đồng đội đƣa về, cậu ta đã chết. Lúc đầu chúng tôi không tìm
đƣợc vị trí vết thƣơng. Rồi có ai đó cởi thắt lƣng cậu ta và cả một khối máu ộc ra từ dƣới
áo sơmi. Hóa ra một mảnh lựu đạn đã cắt đứt động mạch dƣới nách cậu ấy. Chúng tôi rất
thƣơng tiếc bởi cậu ta là một tay rất tốt, sinh năm 1920.
Tôi nhớ rất rõ một chuyến trinh sát trƣớc khi mở màn đợt tấn công. Chúng tôi đã
đi tới hai lần. Nỗ lực đầu tiên của chúng tôi thất bại, nhƣng lần thứ hai thì thành công.
Chuyện này xảy ra khoảng ngày 15 - 16 tháng Tám, ở gần thành phố Yassy. Khi chúng
tôi đi lần đầu tiên, trung đội trƣởng của chúng tôi rất sợ. Anh ta không dám dẫn chúng tôi
đi xa và chúng tôi quay về khi đang lọt giữa các sƣ đoàn bọn Đức. Dù vậy anh ta báo cáo
là chúng tôi đã đi tới đây, tới kia vào lúc này, lúc này (dù chúng tôi không hề làm vậy).
Anh ta báo cáo là tất cả các mục tiêu đều bị canh gác cẩn thận. Tất nhiên, anh ta bị cách
chức và bị đƣa tới một nơi nào đấy không rõ. Đó là một trƣờng hợp tồi tệ. Tất cả các
trƣờng hợp nhƣ vậy đều bị xử lý bởi SMERSH. Sau đợt trinh sát thất bại ấy bọn Đức
canh chừng thận trọng hơn. Chúng canh gác mọi địa điểm nằm giữa các sƣ đoàn của
chúng bằng các đội tuần tra và các ổ phục kích. Thật là một cái bẫy chằng chịt khó qua
lọt! Chúng tôi đƣợc lên kế hoạch đổ bộ bằng đƣờng không. Thế rồi một lính trinh sát của
trung đoàn báo lại rằng anh ta đã tìm ra một vị trí từ đó chúng tôi có thể băng qua chiến
tuyến.
Và rồi chúng tôi đã vƣợt qua thật dễ dàng mà không gây một tiếng động. Nếu
chúng tôi gây động, bọn Đức chắc chắn sẽ không để chúng tôi qua lọt. Cùng tối hôm đó
chúng tôi tới đƣợc sở chỉ huy sƣ đoàn của bọn Đức. Bọn chúng thật bất cẩn: trong hậu
phƣơng chúng sinh hoạt nhƣ thể chúng hoàn toàn kiểm soát đƣợc tình hình vậy. Thậm chí
chúng còn cởi quần áo mà ngủ. Không cứ ở hậu phƣơng, chúng ngủ nhƣ thế cả ngoài
chiến trƣờng! Chúng tôi gặp nhƣ thế đã nhiều lần. Ngay sau khi chúng tôi nã đạn, chúng
tôi thấy bọn Đức chạy túa ra để lấy vũ khí với chỉ độc đồ lót trên ngƣời. Chúng sống
ngoài mặt trận mà cứ nhƣ trong thời bình vậy! Chúng tôi cứ mặc đầy đủ quân phục khi
ngủ. Có vài ngƣời đi ngủ tháo ủng, nhƣng hầu hết là không. Anh biết đấy, khi ta ngồi
trong một cuộc phục kích hay đang trong chiến hào chẳng hạn. Đôi lúc anh có thể chợp
mắt một chút, nhƣng thƣờng là anh bị rét run rất khó ngủ, nhất là vào mùa đông. Đôi khi
hai ngƣời thay phiên nhau ngƣời ngủ ngƣời thức canh. Trong mùa đông anh sẽ không thể
ngủ say đƣợc, bởi trời rất lạnh. Thêm nữa lũ bọ chét cũng sẽ không để anh ngủ yên.
Đội trinh sát chúng tôi có 16 ngƣời. Bốn ngƣời trong bọn đang tham gia một
chiến dịch khác. Thế là đội chỉ còn lại 12 ngƣời. Vâng, Fomichev và Alexandrov của
chúng tôi diệt tên gác, ném lựu đạn và nhờ thế xoá sạch cả trung đội trong sở chỉ huy
địch. Họ nhét tất cả các tài liệu quan trọng vào balô, khống chế tên tƣớng Đức, vác hắn
trên vai và mang tất cả những thứ đó chuồn đi. A ha, anh xem, chúng tôi đã chơi cho
chúng một vố thế nào! Bọn Đức bắt đầu lùng sục từ những làng xung quanh đấy. Chúng
tôi rời ngôi làng (nơi đặt sở chỉ huy Đức) và chạy vòng vòng quanh một cánh đồng ngô.
Trung đội trƣởng của chúng tôi là một tay rất khôn ngoan. Anh ta đƣa chúng tôi một loại
bột ngụy trang để xoa lên quần áo và giày ủng. Sau khi xoa bột, chúng tôi quay ngƣợc lại
dọc theo cánh đồng, nằm lì ở đó trong suốt ba ngày. Chúng tôi không đƣợc ăn uống cũng
nhƣ hút thuốc. Anh bạn ạ, trời lúc đó nóng khủng khiếp! Chúng tôi rất khát, dù có đem
theo một chút nƣớc. Và chúng tôi phải tiểu tiện tại ngay chỗ nằm. Ngƣời ta chịu đựng
đƣợc trong những hoàn cảnh nhƣ thế chỉ khi còn đang tuổi thanh xuân. Nếu chúng tôi rời
khỏi chỗ đó, chúng tôi có thể bị bắt ở một nơi nào khác. Cuối cùng ba ngày trôi qua và
ngƣời chỉ huy dẫn chúng tôi quay lại đúng ngay nơi mà chúng tôi đã xuất phát xuyên qua
phòng tuyến. Đáng lẽ chúng tôi nên quay lại chếch về bên trái hay bên phải chỗ ấy một
chút thì hơn. Bọn Đức đang đợi chúng tôi ở ngay chỗ ấy. Ngƣời sĩ quan chỉ huy ra lệnh
cho tôi và Fedorenko: “Các cậu hãy tiến lên, còn chúng tôi sẽ chặn bọn Đức lại trong
chốc lát.” Họ đƣa cho chúng tôi cái balô đựng giấy tờ tài liệu. Tên tƣớng phải ở lại với họ.
Dù sao thì chúng tôi làm thế nào để đƣa hắn về đƣợc? Còn họ đã làm gì hắn ấy à? Họ
đâm hắn chết, tôi đoán thế. Trong bọn tôi có tay Pavljuk, hắn chẳng quan tâm tới việc hắn
đang cắt cổ ai – một con gà mái hay một con ngƣời, huống hồ là một tên Đức. Vâng, cả
hai chúng tôi đều sống sót. Pavel bị thƣơng ở tay và chân trên đƣờng về chiến hào của ta.
Tôi không biết đƣợc điều gì đã xảy ra với những chàng trai còn lại. Sau đó tôi không gặp
lại bất cứ ai trong bọn họ nữa. Ngƣời ta bảo là Fomichev và Alexandrov đã quay lại đƣợc
đơn vị và tôi tin nhƣ vậy, bởi họ là những tay cáo già, lanh lợi thông minh và không bao
giờ mất bình tĩnh. Nhƣng kể từ đó tôi không có dịp gặp lại họ, bởi tôi đã chuyển lên phục
vụ tại sở chỉ huy sƣ đoàn, mà họ lại thuộc trung đoàn đang tiến phía trƣớc chúng tôi. Đấy
thật là một chiến dịch thành công, bởi chúng tôi đã mang đƣợc về một khối lƣợng khổng
lồ tài liệu quan trọng ngay trƣớc khi đợt tấn công bắt đầu.
Khi các chiến sĩ của ta tiến công, Pavlik và tôi đƣợc lệnh đi áp giải bọn tù binh
Đức. Chúng tôi áp giải chúng về hậu phƣơng, khoảng 70 tên một lần. Chúng bƣớc đi và
tuân lệnh ngoan ngoãn nhƣ một lũ bê non. Chúng tôi thƣờng dừng lại ở một ngôi làng và
mọi ngƣời cho chúng tôi (tôi, Pavlik và bọn tù binh) thức ăn. Không tên tù binh nào có
thể thoát khỏi tay tôi. Vâng, trừ có một lần. Tôi suýt nữa bị đƣa vào tiểu đoàn trừng giới
vì vụ đó. Đó là khi tôi đang phục vụ trong đơn vị thuộc sở chỉ huy. Một hôm tôi và Pavlik
đƣợc lệnh cùng đi, nhƣng rồi cậu ta lại bị chuyển đi làm chuyện khác.
Chỉ huy đơn vị trinh sát bảo tôi: “Zimakov, cậu phải áp giải bốn tên tù binh tới sở
chỉ huy của quân đoàn. Chúng là những tên rất nguy hiểm – có Trời mới cứu đƣợc cậu
nếu cậu để chúng trốn thoát!” Lúc đó là mùa thu và trời đã về chiều. Viên sĩ quan chỉ
đƣờng cho tôi. Tôi có thể dẫn chúng đi dọc con đƣờng ôtô dài 15 km hoặc theo một con
đƣờng mòn dài khoảng 7 tới 8 km. Tôi chọn cách sau. Vâng, lúc đó tôi nghĩ: đây là khẩu
tiểu liên, chúng sẽ không thoát khỏi tay mình. Thêm nữa, tôi lại đang cƣỡi ngựa. Chúng
thì đã bị lục soát, hoàn toàn không có vũ khí. Tay chân chúng đƣợc tự do, không bị trói.
Vâng, tôi đã áp giải chúng nhƣ thế và rồi chúng tôi đi qua một cánh đồng trồng
hƣớng dƣơng. Anh biết không, ở chỗ đó ngƣời ta trồng những cây hoa hƣớng dƣơng rất
cao! Và thình lình một tên tù binh quay lại bắn vào tôi bằng một khẩu súng ngắn! Ơn
Chúa là con ngựa của tôi lại chồm lên ngay khi hắn quay lại. Tôi bắn lại hắn bằng khẩu
tiểu liên. Đám tù binh còn lại chạy tán loạn theo mọi hƣớng : một tên bên trái và hai tên
còn lại về bên phải. Tôi bắn và hạ ngục tên bên trái. Rồi tôi bắn vào hai tên còn lại. Thân
cây hoa thì cao, đầu bọn chúng nhấp nhô giữa cánh đồng. Trời đang tối dần. Tôi nghĩ
rằng mình nên cƣỡi ngựa dọc theo dấu vết của chúng. Tên đã nổ súng nằm chết thẳng
cẳng và tên chạy về bên trái cũng đã ngoẻo. Hắn không chạy đƣợc bao xa. Tôi tiến tới
trƣớc. Rồi tôi tìm thấy tên thứ ba. Tôi xuống ngựa để lục túi hắn. Hắn đã chết. Ngƣời còn
ấm nhƣng ngoẻo rồi. Tôi tiếp tục tiến, tay gò cƣơng ngựa. Khẩu tiểu liên đeo trên cổ, sẵn
sàng nhả đạn. (Loại tiểu liên Shpagin PPSh của ta rất nặng và có băng đạn hình đĩa cứ
đập vào lƣng khi đeo. Tôi thƣờng khoác khẩu tiểu liên Đức cho tới khi điều đó bị cấm.
Nhƣng lính ta luôn sử dụng khẩu ấy trong khi trinh sát bởi chúng không bao giờ bị kẹt
đạn. Khẩu PPS cũng là một khẩu súng tốt, nhẹ và dễ sử dụng.)
Tù binh Đức ở gần Minsk, 1944.
Trở lại câu chuyện, tôi tiếp tục đi theo dấu vết và bất ngờ nghe tiếng ai đó hét lên
với tôi “Đứng lại!”
- “Tôi đang đứng đây,” Tôi trả lời nhƣng tay vẫn giữ trên khẩu súng.
- “Anh là ai?!”
- “Tôi đang áp giải tù binh. Đã hạ gục đƣợc hai tên và thêm một tên nữa đang nằm
sau tôi. Một tên trong bọn chúng bắn vào tôi, nhƣng con ngựa đã cứu tôi thoát.”
- “Chúng tôi vừa tìm thấy một tên trong cánh đồng khoai tây, hắn đang cố nấp
bằng cách nằm ẩn vào các luống khoai.”
Đó là những ngƣời thuộc đơn vị cảnh vệ đối nội. Họ đem tên Đức bị thƣơng đi và
đƣa tôi một tờ giấy trong có ghi rằng tôi đã buộc phải thanh toán bọn tù binh. Các đơn vị
cảnh vệ đối nội (“zagradotrjad”) là những lực lƣợng đặc biệt trực thuộc Dân ủy Nhân dân
thuộc Cục Đối nội (từ 1935 tới 1945, sau đó được đổi tên – Anton Kravchenko). Họ
chuyên tìm kiếm bọn đào ngũ, những kẻ đƣợc gọi là “binh lính thuộc Phƣơng diện quân
Ukraina số 5”, những kẻ đang đi lang thang trong vùng hậu phƣơng sau khi đã rời bệnh
viện, nhậu rƣợu nặng trong các làng, và những kẻ khác tƣơng tự nhƣ thế.
Có lần chúng tôi ăn trộm của một bà nông dân. Vụ đó xảy ra tại Ukraina. Bếp ăn
bị tụt lại phía sau và chúng tôi đang rất đói. Mà cụ bà ấy lại kể: “Các con ạ, ta có một con
ngựa non rất tốt mới hai tuổi. Bọn Đức đã lấy đi của ta nhƣng Hồng quân đã trả nó lại.”
“Thế con ngựa đang ở đâu?” “Ở đây, trong chuồng ngựa.” Đêm hôm đó hai gã ăn trộm
trong bọn tôi trộm lấy con ngựa, dắt nó ra khỏi làng, bắn chết và đem nấu thịt. Bà già
khóc quá chừng! Vâng, chúng tôi đã cho bà con ngựa khác khi rời cái làng đó.
Rốt cục tôi cũng không bị trừng phạt vì bốn tên tù binh đó. Tôi quay về sở chỉ huy
sƣ đoàn và đƣa cho họ tờ giấy.
-Tại sao anh không theo dõi bọn tù binh cẩn thận hơn?!
-Thế tại sao các anh lại giao cho tôi những tên nhƣ thế?! (Tại sao lại không kiểm
tra xem chúng có mang vũ khí không, nhất là khi các anh biết rằng chúng nguy hiểm đến
vậy?) Các anh đáng lẽ phải cho hai ngƣời đi áp tải chúng chứ! May cho tôi là con ngựa
đã lồng lên, nếu không thì chúng đã khử tôi và trốn mất rồi.
- Dù sao anh để chúng trốn cũng là quá tệ rồi! - Anh ta cau mày.
Ngày 20 tháng Tám chúng tôi chọc thủng mặt trận của bọn Đức và tiếp tục tiến
công. Toàn đội trinh sát hành quân phía trƣớc sƣ đoàn khoảng 30 km. Đấy là khi
Romania đầu hàng. Tôi cần nói rằng ngƣời Romania căm ghét bọn Đức. Ngƣời Hungaria
thích bọn Đức, nhƣng ngƣời Romania thì không, cũng giống ngƣời Nga chúng ta. Ngƣời
Romania nghèo, rất nghèo. Gần Budapest chúng tôi tiến hành một đợt trinh sát cùng với
sƣ đoàn trƣởng. Trên đƣờng đi chúng tôi bị một toán Ju-87 ném bom. Đấy là lúc tôi bị
thƣơng lần cuối cùng. Tôi đƣợc điều trị trong một bệnh viện nằm cạnh một tu viện gần
thành phố Kiskunfelegyhaza.
Ba tuần sau, chúng tôi đƣợc tập trung vào một trung đội và gửi tới ngoại ô
Budapest. Thành phố đang bị bao vây. Chúng tôi thuộc một lữ đoàn đột kích đặc biệt.
Chúng tôi chỉ đƣợc giao cho pháo, đại liên và súng máy, thế thôi. Và chúng tôi thƣờng
đƣợc gửi tới những điểm yếu nhất trong vòng vây bao quanh Budapest. Khi viện binh tới
nơi, chúng tôi lại di chuyển tới một vị trí khác, rồi lại một nơi khác nữa, cứ thế. Tới tháng
Ba bọn Đức tiến hành một nỗ lực để thoát khỏi Budapest qua hệ thống cống ngầm dƣới
lòng thành phố. Lính Đức tiến lên nhƣ thác đổ. Chúng tiến tới mà không nổ súng, nhƣng
chúng tôi vẫn bắn vào chúng. Rồi chúng bắt đầu ném vũ khí xuống đất. Tôi không biết
chính xác nhƣng con số lính Đức bị giết rất lớn. Chúng tôi đƣợc nghỉ ngơi rồi tiếp tục
tiến quân. Chúng tôi đã thấy nhiều giàn thiêu xác lính Đức trong một khu rừng, cứ năm
cái gom lại trên một giàn. Có rất nhiều trận đánh nảy lửa diễn ra tại Budapest, không một
căn nhà nào còn nguyên vẹn trong thành phố. Hầu hết đều bị hủy diệt! Khi chúng tôi nghỉ
lại ở Pest (phần nằm bên kia sông Budo của thành phố Budapest – LTD.) chúng tôi đƣợc
thấy toàn cảnh thành phố – toàn là đổ nát! Tất cả! Nhƣ trong một cơn ác mộng. Tóc dựng
đứng trên đầu, có phải là do chúng tôi đấy không? Đúng, chúng tôi đã làm vậy, bởi bọn
Đức đã chống lại. Rồi tôi gặp một ngƣời bạn thuộc đội trinh sát pháo binh. Anh ta nói:
- Đội trinh sát các cậu đã bị giết dƣới lòng thành phố, trong hệ thống cống ngầm.
Sƣ đoàn trƣởng ra lệnh cho họ chiếm lấy một ngôi nhà và họ đâm đầu vào bọn Đức. Họ
quét sạch bọn Đức nhƣng cũng hi sinh hết.
- Tất cả mọi ngƣời sao?
- Đúng, kể cả những ngƣời lính trong đội đột kích nữa.
Ở Áo, gần thành phố Munich của Đức, chúng tôi đƣợc gặp những ngƣời lính Mỹ
và Anh. Ban đầu chúng tôi uống với nhau suốt ba bốn ngày trời, thế rồi xảy ra một sự cố:
cánh lính ta đả nhau với họ vì một ngƣời da đen. Một tay trong bọn họ (ngƣời Mỹ hoặc
Anh) đá một ngƣời da đen, lính bên ta trông thấy và đứng về phía ngƣời đen. Thế rồi
ngƣời chỉ huy an ninh thành phố gửi tới trung đội của ông ấy, làm dịu hai bên, xây lên
một hàng rào ngăn chia quân đội các nƣớc. Chúng tôi phải rời thành phố và cắm trại
trong rừng.
Trên dãy Alps lính ta đã bắt đƣợc một lƣợng lớn lính Đức đang định trốn sang
đầu hàng quân Đồng minh. Thật kỳ quái! Chúng tôi lục soát ngƣời những tên Đức ấy
trong suốt một tuần lễ! Nán lại và lục soát chúng! Chúng tôi lấy tất cả vũ khí và đồ quý,
mỗi tên lính Đức chỉ đƣợc giữ lại một chiếc nhẫn vàng. Rồi tới lƣợt chúng tôi bị quân ta
lục soát.
Artem Drabkin: Ông có gửi bưu phẩm về nhà không?
- Tôi có gửi về một gói từ thành phố Galatz (nay là Galati). Nó chứa một chiếc
đồng hồ nữ và một cái dây chuyền. Tôi cũng gửi về một chuỗi đá màu. Tôi đã tìm đƣợc
nó, có thể nói nhƣ thế. Không thứ nào trong số đó đƣợc nhận cả (bởi gia đình tôi). Tới
gần Viên, tôi mắc bệnh sốt rét và phải vào bệnh viện. Đúng lúc đấy chiến tranh chấm dứt.
Artem Drabkin: Điều gì là tệ nhất ngoài mặt trận?
- Tìm cách sống sót sau một trận ném bom. Ta sẽ không bao giờ biết đƣợc nó nổ
chỗ nào. Anh có thể núp vào một chiến hào nào đó, nhƣng một quả bom đã nhắm trúng
anh và thế là tất cả tay chân ruột gan anh văng tung tóe khắp nơi. Chúng tôi bị ném bom
rất nhiều lần. Chủ yếu do chúng luôn chọn lúc máy bay ta vắng mặt. Anh sẽ nghĩ: “Máy
bay của ta đâu rồi? Bị hạ hết rồi sao?” Và trong lúc đó lũ máy bay Đức đang bổ nhào
xuống ném bom, ném bom, hết đợt này đến đợt khác. Mặt đất rung chuyển! Chúng làm
nhƣ vậy từ 10 tới 15 phút rồi bỏ đi. Vâng, máy bay ta cũng làm chúng nhức đầu y nhƣ
vậy. Khi tôi tới trạm quan sát của quân ta, tôi trông thấy các máy bay cƣờng kích mặt đất
của ta bổ nhào và bắn rốc két trúng ngay vào chiến hào bọn Đức. Một thứ khủng khiếp
nữa là những tiếng nổ, thứ mà ngƣời ta gọi là “Vanusha”, loại súng cối sáu nòng của Đức!
Khi chúng bắt đầu rít lên, tất cả mọi ngƣời đều biết điều gì sắp xảy ra và vội nấp thật sâu
vào các chiến hào.
Artem Drabkin: Các ông tắm rửa và giặt giũ bằng cách nào?
- Không, tôi nhớ không lần nào chúng tôi đi tắm vào mùa đông. Vào mùa hè thì
có, mùa hè chúng tôi có tắm rửa. Chúng tôi tắm hơi. Tôi nhớ lại có lần chúng tôi dừng
chân bên bờ một con sông có tên là Zhizha (nghĩa là “Bùn loãng” – Anton Kravchenko)
(tên đúng của con sông là Jijia). Lúc đó tôi đang ở đội trinh sát. Nƣớc sông có màu vàng,
nhƣng con sông có một nhánh nƣớc rất sạch. Các chàng trai chúng tôi thƣờng đắp một
con đập ngang qua nhánh sông và chúng tôi tắm trong cái đầm ấy. Còn nói về giặt giũ,
chúng tôi thƣờng dùng phƣơng pháp sau : chúng tôi lấy một cái nồi kim loại to, đổ vào
ba tới bốn gầu nƣớc và chàø quần áo của mình trên cái nồi ấy. Sau đó chúng tôi đậy cái
nồi bằng một cái vung hay một cái áo lông cũ và nhóm lửa dƣới nồi. Không một con rận
sống sót đƣợc dƣới sức nóng ấy! Và ta có thể mặc lại áo và dùng tiếp nó trong vài tháng.
Artem Drabkin: Ngoài mặt trận có khi nào ông bị ốm không?
- Có chứ, đôi lúc, nhƣng rất ít. Ngƣời ta thƣờng bị cảm hết lần này đến lần khác.
Một ngƣời ốm nằm trên giƣờng mất ba hay bốn ngày và rồi lại xuất hiện bình thƣờng.
Cứu thƣơng đôi khi tới hỏi: “Ở đây có ai bị ốm không?” Thế thôi. Khi anh còn trẻ thì anh
luôn luôn khỏe mạnh.
Artem Drabkin: Khẩu phần các ông gồm có gì?
- Cháo đậu nấu đặc. Có một loại bánh khô nhỏ, đƣợc nấu thành súp khi bỏ vào
nƣớc sôi. Chúng tôi cũng đƣợc phát bánh bột kiều mạch, chúng chứa mỡ hoặc margarine.
Anh đổ nƣớc sôi vào nó và thế là bữa ăn đã sẵn sàng. Đôi ngƣời ăn chúng mà không cần
nƣớc, không cần nấu. Khẩu phần nhƣ thế cũng không tồi, hiểu thế nào cũng đƣợc. Đôi
khi chúng tôi không đƣợc phát gì cả và cũng không cách nào để chuyển thức ăn tới chúng
tôi, do đang có ném bom hoặc pháo kích xung quanh! Và nếu trung sĩ quân nhu của ta lại
là một thằng nhát gan thì ta sẽ cứ thế mà nhịn đói! Thực ra, ban đêm chúng tôi luôn nhận
đƣợc chút thực phẩm. Khi ở ngoài chiến tuyến, chúng tôi đƣợc phát thức ăn nóng ít nhất
mỗi ngày một lần.
Artem Drabkin: Lúc còn ở đơn vị cũ ông có được cấp ống ngắm cho súng chống
tăng không?
Không. Thật ra, những loại súng ấy không hiệu quả lắm khi bắn ở tầm xa. Nó
hiệu quả khi bắn trong khoảng cách từ 200 tới 300 mét, thậm chí có thể tới 500 mét. Anh
có thể trông rõ chiếc xe tăng: anh nổ súng và khoét vào nó một cái lỗ! Nhƣng nếu ở
khoảng cách xa hơn thì viên đạn không xuyên thủng đƣợc vỏ thép xe tăng.
Artem Drabkin: Ở ngoài mặt trận ông có tin vào bùa chú không?
- Tôi không biết nữa. Vài ngƣời có đeo bùa, còn tôi thì không. Nhƣng những lúc
đang căng thẳng quyết liệt thì tôi lẩm nhẩm trong đầu, “Lạy Chúa hãy phù hộ con! Lạy
Chúa hãy cứu con!” Thế đấy!
Phỏng vấn: Artem Drabkin-Anton Kravchenko
Dịch từ Nga sang Anh: Anton Kravchenko
Chỉnh sửa bản tiếng Anh: Claire Fuller Martin
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
Daniil Zlatkin
D.Zlatkin
Phần 1
Tôi là ngƣời đã từng trải qua chiến tranh – cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Tôi
tham gia chiến đấu từ mùng 3 tháng Bảy năm 1941 cho tới tận tháng Năm năm 46. Thực
ra, đối với tôi, chiến tranh là một cuộc chiến liên tục để sống còn, đặc biệt trong những
điều kiện cực kỳ gay go mà tôi đã trải qua, mặc dù không phải lúc nào cũng cầm súng
trong tay. Dƣới đây tôi xin đƣợc kể đôi lời về quãng đời đó.
Ngày 22 tháng Sáu tôi đang ở thành phố Feodosia, nơi chúng tôi tiến hành xây
dựng một hệ thống đồn bót bí mật. Tôi sống trong khách sạn Astoria. Tôi thức dậy lúc 10
giờ – xung quanh không còn ai. Tôi ra ngoài và nhận ra chiến tranh đã bắt đầu. Vâng, lúc
đó tôi cảm thấy thật là... Có lẽ, cũng nhƣ tất cả những công dân Xôviết khác – tôi thấy
thật bực bội lo lắng, bởi bố mẹ tôi sống gần biên giới phía tây. Thêm nữa, tôi đã hiểu quá
rõ chiến tranh là thế nào vì đã từng phục vụ trong quân đội nhƣ một sĩ quan công binh.
Chiều hôm đó tôi đã có mặt trên một chuyến tàu đi thẳng về Maskva. Tại Maskva tôi lập
tức bị động viên đi xây dựng các công trình trú bom. Và vào ngày 3 tháng Bảy, sau bài
phát biểu của Đồng chí Stalin, tất cả các bạn bè tôi đều đi đăng ký vào dân quân vũ trang,
nhƣng tôi đang là một kỹ thuật viên chuyên nghiệp có tay nghề - tôi chỉ nhận đƣợc lệnh
động viên từ dân uỷ quân khu khi có lệnh điều động đặc biệt, nên không thể cùng đi với
họ. Các bạn tôi bảo: "Dan'ka, chuyện quái gì vậy?! Tất cả bọn tớ đều lên đƣờng! Còn cậu
thì sao? Cùng đi đi chứ!" Ông quản đốc cũng nói: "Danil, sao cậu lại làm vậy? Tất cả các
đồng chí của cậu đang lên đƣờng, còn cậu lại không?" Vì thế tôi cũng đi tham gia vào cái
mà ngƣời ta vẫn gọi là tổ chức dân quân vũ trang. Khi phát hiện ra tôi là một hạ sĩ quan,
ngƣời ta liền chỉ định tôi làm trung sĩ trong một đại đội công binh độc lập. Tôi đƣợc giao
cho khoảng 300 ngƣời, hầu nhƣ tất cả bọn họ đều có trình độ học vấn khá cao, thậm chí
có cả tiến sĩ khoa học, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc – đủ thứ, nhƣng chỗ chúng tôi
không có ai là công nhân cả. Tôi lập tức tập hợp họ lại – rống lên: “Vào hàng!” – họ liền
thấy trƣớc mặt mình đúng là một trung sĩ thực thụ đã từng tham gia quân ngũ. Thế đó, tôi
tập hợp họ lại và đƣa họ tới chỗ thợ cắt tóc, và mặc cho những trò phản ứng và chống đối
tất cả bọn họ đều bị húi trọc. Rồi họ đƣợc dẫn tới nhà tắm. Thế là mọi chuyện đều đƣợc
đƣa về đúng chỗ của nó – đám ngƣời lộn xộn kia đã thực sự trở thành một tiểu đoàn công
binh, đƣợc chỉ huy bởi một trung sĩ thực thụ.
Ngày 4 hoặc 5 tháng Bảy chúng tôi rời Maskva đi theo đƣờng Mozhaisk. Chúng
tôi hành quân 30 km tới ngôi làng Tolstopaltsevo và cắm trại tại đó. Cuộc đời quân ngũ
bắt đầu: huấn luyện, tập sử dụng vũ khí, nắm vững các loại đạn và chất nổ. Một lần tôi
đƣợc gọi lên gặp chỉ huy công binh sƣ đoàn, bạn tôi Zinoviy Levin, anh ta nói: "Dania,
cậu phải tới quân khu Ivanovo và đem về từ đó 6 tấn thuốc nổ. Đồng thời lấy khoảng
150-200 quả mìn cá nhân và mìn chống tăng, kèm theo 5 - 6 xe nhà bếp.” Tôi bảo:
"Trong tay tớ sẽ có những gì?” Anh ta nói: "Cậu lấy theo một trung đội lính và một xe
GAZ AA. Chúng tôi ngồi lên xe và tôi hỏi: "Lấy gì để tôi đem tất cả những thứ đó về đây
bây giờ?!” Họ bảo tôi: "Cậu là kỹ sƣ công binh gì mà không tìm đƣợc cách chuyển hàng
về?!”
Tôi không còn nhớ mình đã làm cách nào để tới đƣợc Podolsk, bởi đƣờng tới
Ivanovo là con đƣờng hoàn toàn khác, nhƣng vì lý do nào đó chúng tôi đi theo một ngả
khác và xuất hiện ở Podolsk. Trong khi ngồi trên xe đi ngang Podolsk, tôi thấy cái bảng
chỉ đƣờng có ghi chữ "Xƣởng ôtô", và một sáng kiến thoáng hiện ra trong đầu. Tôi bƣớc
vào phòng làm việc của viên quản đốc xƣởng, đặït khẩu súng lục của mình lên bàn (tôi
không có bao súng, khẩu súng lục đƣợc giắt vào thắt lƣng) và nói: "Hãy nghe đây: các
anh ngồi ở đây, tại hậu phƣơng, ăn uống đầy mồm, trong khi chúng tôi đang phải chiến
đấu!” – mặc dù chúng tôi chƣa từng tham gia chiến đấu, tôi chỉ giả vờ rằng mình là một
tay lính đã có kinh nghiệm. Hắn bảo: “Các anh cần gì?” Tôi nói: “Chúng tôi cần ít nhất
12 xe tải để đi vận chuyển chất nổ.” Hắn đáp: "Tôi biết làm cách nào để kiếm ra chúng
bây giờ?! Tôi cần có giấy phép!” Tôi ra lệnh: “Không để một xe nào ra khỏi đây, nhƣng
cứ để cho xe đi vào!” Tôi khóa trái hắn ở trong phòng, đặt một ngƣời đứng gác, đi ra
ngoài, tập hợp tất cả những lái xe lại và bảo: "Các cậu, tớ có ở đây hai balô xúc xích hun
khói, nửa balô đƣờng và đồ hộp. Nhƣng tớ không có vodka. Chúng ta cần phải lái tới
quân khu Ivanovo và nhận chất nổ cùng các thiết bị khác dùng cho mặt trận. Ai sẽ đi
cùng nào?” Mọi ngƣời đồng thanh: “Chúng tôi sẽ đi!” Bằng cách đó tôi có đƣợc 15 xe tải.
Viên quản đốc hét với theo bên cửa sổ: "Quân vô lại! Mày sẽ bị ra toà!” Tôi bỏ đi cùng
đoàn xe tải, đi xuyên khắp Matskva và tới đƣợc quân khu Ivanovo. Tại đó chúng tôi chất
hàng và quay về đơn vị của mình vào sáng hôm sau. Cần kể thêm là trong khi chất hàng
tôi cũng tiện tay xách luôn hai thùng đèn pin mà không ghi sổ. Khi trở về đại đội mình,
tôi báo cáo mọi việc xảy ra lên đại đội trƣởng. Anh ta bảo:
"Cậu biết không? Đừng trả những thùng đèn pin đó về kho dự trữ công binh, hãy
đƣa nó cho chúng tớ.”
"Thƣa đồng chí đại đội trƣởng, tôi không có quyền làm chuyện đó.” – tôi nói.
"Tôi ra lệnh cho anh đó!” – anh ta bắt đầu cất cao giọng.
"Tôi không tuân lệnh.”
"Hãy lặp lại mệnh lệnh: để lại một thùng đèn pin!”
"Tôi sẽ không lặp lại mệnh lệnh đó!”
"Tôi sẽ đem anh đi xử bắn ngay lập tức!”
"Thử làm đi!”
Hắn ta rút khẩu Parabellum ra, tôi trông thấy bọt trắng sùi ra trên môi hắn, hắn
dậm mạnh chân lên sàn nhà và hét:
"Lặp lại mệnh lệnh!”
Tôi mở nút áo quân phục của mình, xé phanh ngực áo, thét lên:
"Tới đây bắn tôi đi! Nhƣng tôi sẽ không theo lệnh đó dâu!”
Hắn ném khẩu súng và mũ của mình xuống sàn nhà và dẫm chân lên trên, nhƣng
tôi đã quay đi và bỏ ra ngoài. Câu chuyện kết thúc tại đây, nhƣng tôi bị cách chức và thôi
không đƣợc làm trung sĩ của đại đội nữa. Tôi bị đƣa vào một trung đội ở cùng ngƣời bạn
thân Vasia Karpenko.
Sau đó chúng tôi bị chuyển tới khu làng Pupovo thuộc quân khu Smolensk. Tại
đây tôi tham gia cuộc bắt giữ ba tên phi công, máy bay của chúng bị súng phòng không
của ta bắn hạ. Chúng bị bắt và giải tới Sở chỉ huy sƣ đoàn. Chúng bƣớc vào đó với dáng
điệu rất vênh váo – vung tay lên đằng trƣớc, miệng hét: "Heil Hitler!" Điều đó gây một
ấn tƣợng to lớn đối với tôi: làm sao một tên tù binh lại có thể hành xử nhƣ vậy?
Ngày hôm sau một chiến binh cứng cựa thực thụ có trên vai ba vạch (trung tá -Artem Drabkin) tới, tập hợp toàn đại đội lại và thông báo: "Bất cứ ai có trình độ văn hóa
cấp hai hoặc cao hơn, bƣớc lên trƣớc hai bƣớc!” Tôi làm theo.
"Các đồng chí, các anh sẽ tới một trƣờng huấn luyện để nhận đƣợc những cấp bậc
phù hợp với trình độ chuyên môn của bản thân. Anh kia, làm nghề gì?”
"Tôi là một kỹ sƣ xây dựng” – tôi nói.
"Vậy anh sẽ là một kỹ sƣ công binh bậc ba.”
Thật tuyệt. Họ dồn chúng tôi lên xe tải và chở tới làng Korni gần Viazma. Tại
đấy 36 ngƣời chúng tôi đƣợc phân vào trung đội súng máy số 1, đại đội một, tiểu đoàn
một. Tôi nói: “Tại sao lại là xạ thủ súng máy?! Các anh làm cái gì vậy?! Tôi tới đây đề
trở thành một kỹ sƣ công binh kia mà?!” “Im lặng! Không trao đổi!” Tời buổi chiều tôi
ngồi viết một báo cáo, trong ghi rằng tôi đã bị lừa dối. Họ viết trả lại trên tờ báo cáo đấy:
“Đồng chí Zlatkin, tổ quốc đang cần những xạ thủ súng máy.”
Công việc huấn luyện bắt đầu - suốt từ 6 giờ sáng cho tới tận chiều tối khẩu súng
trƣờng không rời khỏi vai tôi, chúng tôi tập đi đều bƣớc, ca hát, mở lách cách cái khóa
nòng rỗng không – đó là cách để ngƣời ta dạy chúng tôi trở thành xạ thủ súng máy. Còn
về thức ăn – trà uống với đƣờng vào buổi sáng, cùng một lát bánh mì; vào giữa ngày, cho
bữa trƣa là một ít cháo lúa mạch loãng hầu nhƣ không có gì ở trong, thậm chí không đƣợc
đến một củ khoai nhỏ, và kasha (cháo ngũ cốc), còn cho bữa tối – lại đƣờng và một lát
bánh mì. Sau 10 ngày chúng tôi đã bạc nhƣợc đến mức phải chật vật mới lê đi đƣợc. Tôi
liên tục hỏi: “Khi nào thì chúng ta sẽ học sử dụng súng máy? Những khẩu súng máy đó
đâu rồi?” Họ trả lời: “Im lặng! Không phải chuyện của anh! Không đƣợc tranh cãi!
Chúng tôi sẽ làm những gì cấp trên yêu cầu!” Vâng, điều đó đã thực sự làm tôi kinh
ngạc…
Một buổi chiều tôi ra khỏi hầm trú ẩn để đi ngoài và thấy các bạn mình đang ăn
khoai tây. Lạy Chúa tôi – khoai tây! Tôi hỏi:” Các cậu lấy chúng ở đâu vậy?” “À, ở chỗ
anh nuôi đấy. Trong nhà bếp.” Tôi chạy tới tay đầu bếp đó: “Làm thế nào để tôi có đƣợc
khoai tây của anh?” Anh ta nói: “Khoai tây… thứ đó phải kiếm mới có đƣợc.” Tôi trả lời:
“Tôi muốn kiếm lấy chúng! Tôi đang đói lắm!” “Cậu biết không” – anh ta bảo – “ngày
mai hãy quay lại đây, sau khi trời tối – đem theo củi khô, cƣa, cắt chúng, sao cho tới 5
giờ sáng, khi tôi tới đây, nƣớc đã đƣợc đun sôi. Hiểu chƣa?" "Hiểu." Tôi đã lao động suốt
cả đêm hôm đó, chuyển củi từ bờ sông lên, cƣa chúng ra bằng chiếc cƣa tay, bổ chúng
bằng cái rìu luôn chỉ chực văng ra khỏi cán, và tới 5 giờ sáng tôi đã đun sôi nƣớc và
chuẩn bị đủ thứ để đốt lò. Anh ta quan sát mọi việc, miệng bảo: “Tốt lắm! Cậu làm một
mình, vậy mà hãy xem cậu đã làm đƣợc gì kìa! Tôi thuê cả hai ba ngƣời cũng chƣa chắc
làm đƣợc nhƣ thế. Cậu quả là một gã trẻ trai khỏe mạnh, tôi mang cho cậu khoai tây đây.
Lấy đi.” Tôi nói: “Tôi có thể lấy đƣợc bao nhiêu?” “Cứ lấy bao nhiêu tuỳ theo sức của
cậu.” Tôi có đem chiếc áo bekesh vạt ngắn của kỵ binh (bekesh: một loại áo khoác - Oleg
Sheremet) theo trên ngƣời. Tôi nhồi đầy khoai tây vào cả hai bên túi áo – nhƣng nhƣ thế
dƣờng nhƣ vẫn chƣa đủ với tôi. Tôi rút ra một con dao Phần Lan, xẻ một đƣờng quanh áo
và nhồi khoai tây khắp thân mình. Rồi tôi cứ thế mà đi, trong lòng lâng lâng hạnh phúc,
bụng nghĩ: “Bây giờ mình sẽ đem một ít đi rán, hoặc nƣớng chúng trên than hồng.” Đột
nhiên một sĩ quan tay áo đeo ba gạch xuất hiện. Hắn thấy tôi và bảo:
"Đồng chí học viên, lại đây!”
Tôi lại gần. Hắn nắm lấy áo bekesh của tôi và nói:
"Cái gì trong này?”
"Khoai tây.”
"Ăn cắp?”
"Không, không phải ăn cắp – kiếm đƣợc đấy.”
"Mày nói dối, đồ lợn, mày ăn cắp nó! Không ai có thể kiếm đƣợc nó, chúng ta
không phải là một đơn vị để mày kiếm chác! Chắc chắn mày đã ăn cắp nó!”
Chúng tôi bƣớc vào phòng ăn tập thể, nơi binh lính lúc đó đang ngồi ăn sáng. Mọi
ngƣời đang uống thứ “trà” đó – chỉ là nƣớc sôi với đƣờng và một lát bánh mì. Hắn tuyên
bố với họ:
"Các đồng chí binh sĩ, bọn Đức chỉ đƣợc có 200 gram bánh mì một ngày mà đi
chiến đấu! Và hãy xem chúng chiến đấu nhƣ thế nào! Các anh đƣợc tới 500 gram, nhƣng
vẫn có những tên trộm cƣớp trong bọn các anh, chúng trộm cƣớp của các anh và ăn thức
ăn của các anh. Đây, hãy nhìn xem!”
Hắn bắt đầu lôi khoai tây từ túi tôi ra và nện chúng lên mặt bàn. Lôi ra một củ –
nện xuống, lại củ khác – nện xuống, miệng lặp đi lặp lại:
"Các anh có thấy thằng ăn cƣớp này không! Khoai của các anh đây! Đáng ra
chúng phải ở trên bàn của các anh!”
Vâng, tất nhiên là đám lính bắt đầu xì xầm khi núi khoai tây dần xuất hiện. Hắn
hét lên với tôi:
"Leo lên bàn!” Tôi leo lên trên cái bàn.
"Lột ngôi sao ra khỏi mũ!” Tôi cởi nó ra.
"Cởi thắt lƣng ra” Tôi tháo nó ra.
"Cởi xà cạp ra.” Tôi cởi chúng ra.
"Nhân danh Cộng hòa Xôviết Liên bang Nga, tôi tuyên bố tên trộm cƣớp này
phạm tội xử bắn!”
Hắn rút súng ra và chĩa vào tôi. Từ lúc này tôi nhƣ bị mù. Tôi không còn trông
thấy và nghe thấy gì nữa, tôi chỉ còn biết đứng nhƣ trời trồng trên đôi chân mình. Tôi
nghĩ: “Thế đấy, bây giờ sẽ có một phát súng.” Tôi đã chuẩn bị đón nhận tất cả. Một
quãng thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua, tôi không biết nó kéo dài trong bao lâu. Tôi
không nghe thấy tiếng súng, nhƣng vẫn đứng lặng đi nhƣ vậy. Có ai đó kéo tay tôi – một
lần, rồi lần thứ hai. Tôi mở mắt ra và trông thấy lữ đoàn trƣởng, ngƣời mà tôi đã gửi báo
cáo lên. Ông nhỏ nhẹ nói với tôi: “Xuống đi”, và tôi ngã xuống, bất tỉnh. Vị đại tá ân cần
bế tôi xuống, gắn lại ngôi sao cho tôi, đeo lại thắt lƣng và bảo”Tự quấn lấy xà cạp nhé”.
Tôi cúi xuống, quấn đôi xà cạp. Ông lại nói: “Hãy cầm lấy chỗ khoai kia”. Tôi cầm lấy
khoai tây, ông liền vòng tay quanh vai tôi, và chúng tôi đi ra. Xung quanh hoàn toàn yên
lặng: tất cả binh lính đứng nhìn chúng tôi, còn chúng tôi đi ra, mọi ánh mắt đều dõi theo.
Ông khẽ hỏi tôi: “Cậu lấy khoai tây ở đâu vậy?” Tôi liền khóc rống lên. Thần kinh tôi đã
chịu đựng tới giới hạn tột cùng, tôi khóc và kể cho ông chỗ mình đã kiếm khoai tây. Ông
hôn lên trán tôi và bảo: “Con trai ạ, tai nạn đã qua rồi. Thôi, hãy ăn khoai của con đi.”
Ba ngày sau ngƣời ta dồn chúng tôi lên một toa chở hàng và đƣa chúng tôi tới một
nơi nào đó. Có khoảng 60 tới 80 ngƣời chất trên một toa tàu – không còn chỗ nào mà
xoay trở đƣợc! Không một ai biết nơi họ sẽ chở chúng tôi tới. Cuối cùng chúng tôi cũng
đƣợc ra khỏi tàu. Đã có thể nghe thấy tiếng nổ và tiếng súng vang lên cách đó khoảng
một cây số. Một ngƣời lính bị thƣơng lê tới. Chúng tôi cất tiếng hỏi:
"Bác ơi, ai đang ở kia vậy?”
"À, ngƣời ta bảo bọn Đức đã nhảy dù xuống chỗ đấy.”
"Thế chỗ chúng ta ở đây là đâu?”
"Có con sông Plotva ở quanh đây. Cách không xa chỗ này là Borodino. Còn kia là
làng Myshkino."
Tuyệt. Tôi nhớ rồi - Myshkino.
Tới buổi chiều họ tập hợp chúng tôi vào một nhà tắm. Có khoảng 20 ngƣời ở
trong đó. Một trung sĩ đứng nói: “Các đồng chí, đây, trƣớc mặt ta là một khẩu đại liên
kiểu mới nhất. Nó cần 4 ngƣời để điều khiển: một ngƣời mang nòng súng, một ngƣời
khác mang đôi bánh xe này, hai ngƣời còn lại mang theo đạn. Hiểu chƣa? Anh! (chỉ vào
tôi), anh sẽ là xạ thủ Số Một! Hiểu chƣa? Đây, vác lấy cái nòng.” Tôi cầm lấy nòng súng.
“Còn anh,” – anh ta nói với một ngƣời khác trong trung đội tôi – “anh là xạ thủ Số Hai.”
Và đƣa cho anh ta chiếc bánh xe. Anh ta chỉ định hai ngƣời nữa để mang đạn – họ cầm
lấy các thùng đạn. “Để bắn các anh cần ấn vào đây, đẩy tới, kéo ở đây, lắp nó vào, và bắn
– hiểu chƣa?!” Mọi ngƣời đều đồng thanh: “Hiểu!!” Và không một ai trong chúng tôi
hiểu chút gì. Thế là với lƣợng kiến thức nhƣ thế về súng máy chúng tôi tiến về hƣớng mặt
trận, và lập tức bƣớc vào chiến đấu. Đấy là lần đầu tiên tôi đƣợc nghe tiếng đạn réo. Tôi
không phải là ngƣời hèn nhát, trái lại, tôi rất táo bạo liều lĩnh, nhƣng khi đấy tôi đã cảm
thấy cái chết – tôi cúi xuống tránh, chân và tay tôi run lẩy bẩy, không đứng dậy nổi, cảm
thấy nhƣ mọi viên đạn đều bắn về mình, và không hiểu tại sao mình vẫn chƣa bị bắn
trúng?! Tôi nhìn quanh – Số Hai của tôi đã biến mất, cả ngƣời tiếp đạn cũng không thấy
đâu, chỉ còn độc mình tôi với cái nòng súng. Nhƣng tôi còn đeo thêm khẩu súng trƣờng
mƣời phát SVT, một cái balô, một chiếc mặt nạ phòng độc, một chiếc rìu, và chỉ có quỉ
mới biết còn cái gì đeo thêm trên mình tôi nữa. Tổng cộng, tất cả trang bị của tôi lên tới
32 kg! Tôi nằm xuống. Ngay lúc đó một đại uý hô lớn: “Đồ cặn bã, tiến lên, vì Tổ quốc!
Vì Stalin!” Và chọc khẩu súng lục vào gáy tôi. Tôi cũng hét: “Tiến lên!” Nhƣng sau tôi
làm gì còn ai?! Chẳng có ai cả… chỉ tôi và anh ta – hai chúng tôi. Chúng tôi chạy. Tất cả
mọi ngƣời còn lại đâu rồi?... Tôi nhìn quanh. Họ đang nằm rải rác khắp nơi. Ngƣời ta đã
đƣa chúng tôi tới một quãng trống, trong khi bọn Đức đang nấp sau một ngôi làng. Đó
không phải là một trận đánh, đó đơn giản chỉ là một cuộc tàn sát: chúng tôi thì nằm trên
mặt đất trống trải, không tài nào trông thấy kẻ thù, nhƣng kẻ thù thấy rõ chúng tôi và
không để một ai ngóc đầu dậy. Trong khi đó máy bay của chúng bay trên đầu, bắn hạ
những ai đang di chuyển, khẩu súng máy trên máy bay bắn một tràng sƣợt qua ngƣời tôi.
Tôi ngã xuống đất một lần nữa, rồi tôi giơ tay lên hét với ai đó, tôi cũng không biết là đã
hét với ai nữa: "Tiến lên! Vì Tổ quốc! Vì Stalin!" Ngay lúc đó tôi bị trúng đạn vào tay
phải. Tôi không biết vết thƣơng có nặng không, nhƣng có thể vì sợ hay do quá bất ngờ
nên tôi lăn ra bất tỉnh. Và đó là lần thử lửa đầu tiên của tôi.
Tôi tỉnh dậy vào ban đêm. Trời rất lạnh – trận này xảy ra vào 15 tháng Mƣời năm
1941. Toàn thân tôi bị tê cóng. Tôi đứng dậy, nhƣng đôi chân không còn ủng nữa – có ai
đó đã lấy mất ủng của tôi và tôi chỉ còn có vải bọc chân. Tôi quan sát – có hai ngón tay bị
gẫy, máu vón cục trên đó. Tôi xé áo lót, cố gắng tìm đƣợc cách băng bó vết thƣơng.
Không một ai trong chúng tôi có đƣợc hộp sơ cứu cá nhân. Dù vậy, vẫn có một loại dung
dịch chùi rửa đựng trong mặt nạ phòng độc, nhƣng chúng tôi đã uống hết tất cả trƣớc khi
đến đƣợc mặt trận, bởi trong thành phần chất lỏng này có rƣợu cồn. Chúng tôi đổ dung
dịch này qua bột than hoặc than đá và sau đó có đƣợc loại cồn trắng tuyệt hảo. Khi tỉnh
dậy, tôi liền cảm thấy đói, nhƣng không còn gì để ăn – trong hai ngày ngƣời ta chỉ phát
cho chúng tôi có hai cái bánh bít cốt và hai con cá muối…
Khi đứng lên, tôi lập tức tìm đƣờng về phía quân ta. Tôi trông thấy nhiều xác lính
chết nằm rải rác khắp nơi. Tôi tìm đƣợc một biđông trong chứa nƣớc đã đóng băng trên
một cái xác, một chiếc bánh bít cốt trên cái xác khác, rồi lột lấy đôi ủng của một ngƣời
nữa. Đã định lấy tiếp chiếc áo khoác của ai đó, nhƣng rồi tôi thấy có một ngƣời đang cử
động. Anh ta nói:
"Bạn ơi, giúp tôi với.”
"Anh là ai?” – tôi hỏi.
"Tôi là Pet'ka."
"Anh bị sao vậy?”
"Tôi bị thƣơng vào đầu gối. Giúp tôi với, bạn ơi.”
Anh ta lớn tuổi hơn tôi và có lẽ nhiều kinh nghiệm hơn, nhƣ sau này tôi nhận thấy.
Anh ta nói:
"Anh biết không, bọn Đức đã đi ngang qua, chúng lấy ủng của những ngƣời chết,
lột cả ủng của anh. Tôi đã thấy tất cả.”
"Cái gì, thế có phải là chúng ta đang bị bao vây không?!”
"Không chỉ bị bao vây, hiện chúng ta đang ở vùng bị bọn Đức chiếm đóng rồi.”
"Petia, Chúng ta phải tìm cách trốn thoát thôi!”
"Cậu hãy đƣa tôi tới đống cỏ khô kia đi.”
Anh ta rất nặng, nhƣng tôi đã kéo đƣợc anh ta khoảng 150 mét tới tận đống cỏ
khô đó, và chúng tôi khoét một cái lỗ rồi trƣờn vào trong. Nƣớc trong bình đã tan ra,
chúng tôi uống nó, ăn hết cái bánh, và anh ta nói: “Có một cái làng ở phía đối diện với
chúng ta. Hãy vƣợt qua sông, rồi đi tới ngôi nhà đầu tiên và hỏi xin ai đó một bữa chén
thử xem.” Nhƣng tôi không biết bơi. Bèn tìm lấy hai khúc gỗ, buộc lại bằng cành cây, rồi
vƣợt qua sông bằng cái bè đó. Tới gõ cửa một ngôi nhà. Một ông già ra mở cửa, vừa
trông thấy tôi ông liền la lên: "Con trai quý mến ơi, đi đi, làng này đang đầy bọn Đức.”
Tôi nói: “Cụ ơi, chúng con cần đƣợc ăn, con không đi một mình, còn có một đồng chí
nữa đang bị thƣơng.” Ông lão bảo: "Chờ đấy, để ta kiếm cho chút ít, con sẽ đƣợc biết
chúng ta sống khá nhƣ thế nào.” Tóm lại, ông lão cho chúng tôi thức ăn và chỉ dẫn cách
tìm đƣờng trở về phía quân ta. Đêm tới, Peter và tôi lên đƣờng. Tôi nói: "Petia, tớ không
thể vác nổi cậu nữa. Tớ hết sức rồi. Ít nhất hãy nhảy lò cò một chân đi.” Cậu ấy bắt đầu
nhảy lò cò, tay dựa vào tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới đƣợc con sông, băng qua nó, vừa
ƣớt và lạnh. Chúng tôi chật vật đi thêm đƣợc 200 mét rồi đột nhiên có tiếng: "Halt, ai
đó?” Rồi họ tóm lấy chúng tôi và chúng tôi lập tức bị tách khỏi nhau. Trong tình trạng bị
ƣớt sũng, sƣơng giá phủ đầy nhƣ thế tôi bƣớc vào một căn nhà. Một đại uý ngồi sẵn bên
trong, anh ta rút khẩu súng lục của mình ra và đặt lên bàn:
"Ngồi xuống!" - (một cách thân mật, tất nhiên) Tôi ngồi xuống.
"Hãy kể đi!"
"Kể gì?"
"Anh là ai?"
Tôi nói cho anh ta biết mình là ai.
"Anh nói dối! Đó không phải là anh. Hãy kể cho tôi xem anh đã đƣợc tuyển dụng
nhƣ thế nào (bởi tình báo địch, thế đấy)” – Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi!
"Hãy cho tôi biết, có phải tôi đang ở NKVD?" – tôi hỏi.
"NKVD nào?! Anh nghĩ anh đang ở đâu vậy?! Anh đang ở trong Hồng quân, hiểu
chƣa?”
"Tôi hiểu rồi.”
"Hãy cho tôi biết ai tuyển dụng anh, anh tới đây với nhiệm vụ gì? Ai đã sắp xếp
để anh bị thƣơng nhẹ? Đừng nói dối, nếu không tôi sẽ bắn anh ngay lập tức!” – Hắn lại
gần tôi, tay cầm khẩu súng lục và chọc nòng súng vào lợi tôi. Xé rách môi tôi – một lần,
rồi một lần nữa…
"Tại sao anh lại đánh tôi?! Tôi sẽ kể.” – Tôi nói.
"A ha, tốt đấy!" – Và chọc vào môi tôi một lần nữa, làm dập nó, máu tuôn ra.
"Anh muốn tôi kể về cái gì?”
"Cái gì, mày vẫn còn giấu diếm thế à?! Mày đã nói là sẽ kể cơ mà!”
"Vâng, tôi sẽ kể, nhƣng hãy cho tôi biết anh muốn tôi kể cái gì cơ đã?!”
"Ai đã tuyển dụng mày? Đồng bọn của mày ở đâu? Thằng bạn của mày đã kể cho
chúng tao là mày đã đƣợc tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder để giết các chính trị
viên! Hãy cho tao biết ai đã tuyển mày? Nhiệm vụ của mày là gì?” – Tôi nhƣ bị đẩy bật
lại, không nhận ra hết mức độ trầm trọng của sự việc đang xảy ra. "Bạn nào kể cho anh?"
"Bạn anh, Pet'ka."
Tôi nghĩ: "Thật là quân vô lại! Sao hắn dám nói thế! Mình đã cứu hắn khỏi chỗ
chết, kéo hắn thoát về! Và mình đã đƣợc trả ơn thế này đây!” Ngay lúc đó một vị đại tá
bƣớc vào. Tôi quay sang ông ta và nói:
"Đồng chí đại tá, xin cứu tôi, chuyện gì đang xảy ra vậy!?”
"Ở Maskva có ai biết anh không?” – ông ta nói.
Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Anh tôi đang phụ trách Phòng Số một
trong Văn phòng Chánh Uỷ viên Công tố của Hồng quân Liên Xô. Tôi bảo:
"Anh tôi hiện thế này, thế này… “
"Họ của anh ta là gì?”
"Brainer, Lev Markovich."
"Chờ một phút. Đồng chí đại uý, ta ngƣng hỏi cung đã.”
Ông ta quay lại sau 15 phút: "Hãy để anh ta đi, tôi xin chịu trách nhiệm.” Ông ta
cho tôi đi, bên ngoài là Pet'ka đang đứng, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hôn. Anh ấy
nói: "Dan'ka, sao cậu lại vu khống tôi những chuyện nhƣ thế?” Tôi nói: "Chuyện gì vậy?"
"Thế đấy, cậu đã kể rằng tớ và cậu đã đƣợc tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder." Tôi
bảo: "Pet'ka, họ cũng nói với tớ hệt nhƣ vậy. Nói là cậu đã kể thế.” Tóm lại, họ đƣa
chúng tôi tới Borodino bởi chúng tôi đang bị thƣơng, chất chúng tôi lên một chiếc xe chở
khách và chúng tôi khởi hành đi Maskva. Trên đƣờng đi, Pet'ka tiến lại gần mấy bà cụ già.
Cậu ta quấn giẻ đầy mình, nhƣng không có nổi lấy một chiếc mũ, đành quàng chiếc khăn
hay chiếc mùi soa lên đầu rồi rên lên: “Mẹ ơi, cho chúng con chút gì ăn!” Tôi rất xấu hổ
và gọi: "Petia!" Nhƣng cậu ta vẫn: "Mẹ ơi, cho chúng con thức ăn!" Và mấy cụ già, bằng
đôi bàn tay run rẩy, san ra chỗ tài sản quý báu của mình, tổng cộng cũng chỉ vừa đủ cho
họ ăn, rồi chìa cho anh ta chừng một mẩu bánh con. Anh ta quay lại để chia nó với tôi.
Bằng cách đó chúng tôi tới đƣợc ga Belorussia (ở Maskva - Oleg Sheremet). Tại đây đám
cảnh sát lôi tôi đi xềnh xệch và đƣa tôi tới chỗ sảnh chính rồi đặt tôi lại đó. Rồi chúng tôi
đƣợc đƣa vào bệnh viện, hai ngày sau chúng tôi đƣợc chất lên một đoàn tàu để tới Urals.
Daniil Zlatkin
Phần 2
D.Zlatkin
Đầu năm 1943, tôi trở thành sĩ quan tình báo thuộc phòng tình báo của Bộ chỉ huy
Tập đoàn quân 19, Phƣơng diện quân Karelia. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là thành lập
những nhóm trinh sát gồm từ 10 tới 20 ngƣời, cứ 3-4 ngày lại tổ chức đột kích đêm vào
sau chiến tuyến địch để bắt lấy một “cái lƣỡi” (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo Nga,
chỉ một tù binh đối phƣơng đƣợc bắt để khai thác tin tức - Oleg Sheremet) Chúng tôi phải
biết đƣợc mọi thứ, toàn bộ tình hình trên mặt trận. Nếu không, nếu phòng tình báo không
có đƣợc thông tin nào, và không báo cáo đƣợc lên cấp chỉ huy, thì cấp chỉ huy đó và
phòng tình báo đó trở thành vô dụng. Chúng tôi biết đƣợc mọi điều về kẻ thù! Và, chúng
tôi hiểu, kẻ thù cũng biết về quân ta. Nhƣng chúng tôi vẫn biết nhiều hơn! Tại sao vậy?
Tôi sẽ giải thích ngay. Vấn đề ở chỗø lính Nga chúng ta biết rõ tên của đại đội trƣởng, có
thể là cả tên của tiểu đoàn trƣởng, nhƣng trung đoàn trƣởng hay sƣ đoàn trƣởng của anh
ta – không phải chuyện để anh ta quan tâm. Lính Đức biết đến tên những trung đội
trƣởng ở cả các sƣ đoàn kế bên. Còn về chỉ huy của chúng, chúng không chỉ biết tên của
họ, mà còn biết cả từng ngƣời sinh trƣởng ở đâu, gia đình thế nào, y ta là ngƣời tốt hay kẻ
xấu. Sau cùng, biết đƣợc lý lịch cá nhân của một tên chỉ huy là yếu tố quan trọng để vạch
ra các kế hoạch tác chiến.
Trong một khu vực của mặt trận có hai sƣ đoàn địch bố trí đối diện chúng tôi, một
đƣợc chỉ huy bởi tƣớng von Ditmar, ngƣời tôi sẽ kể tới ở đoạn sau, sƣ đoàn còn lại do
tƣớng Rubel chỉ huy. Von Ditmar đã bị chuyển đi, sau đó hắn cƣới Magda, em gái
Goebbels, và tƣớng Ratschi đƣợc đƣa tới thế chỗ hắn. Nhìn chung, Rubel là một tên
tƣớng rất tự cao, chỉ quan tâm tới các sĩ quan, không coi binh lính nhƣ những con ngƣời
mà đối xử với họ rất khinh miệt. Còn về tƣớng Ratschi, hắn thƣờng đƣợc gọi đùa là
Ratschi-bum – “sét hòn”. Hắn xuất hiện đột xuất để thanh tra đơn vị của mình, trƣớc tiên
là chui vào tham quan nhà xí của doanh trại, kế đó là phòng ăn tập thể và la mắng bất cứ
kẻ nào mắc sai sót. Binh lính tôn sùng hắn, trong khi đám sĩ quan lại ghét cay ghét đắng.
Vậy khu vực nào chúng tôi nên chọn để thực hiện đòn tấn công? Tất nhiên, sẽ là khu vực
mà binh sĩ không ƣa chỉ huy của mình, không muốn liều mình vì hắn - đấy là tại sao sĩ
quan tình báo chúng tôi cần biết lý lịch cá nhân của những tên chỉ huy. Chúng tôi có đƣợc
hồ sơ cá nhân của từng tên chỉ huy một, thậm chí đến từng tên trung đội trƣởng.
Còn với tên tƣớng von Ditmar, chúng tôi đã có một cuộc đối đầu vô cùng thú vị!
Bộ Tổng tham mƣu yêu cầu chúng tôi cung cấp hồ sơ về hắn, đặc biệt phải tìm ra đƣợc
tấm ảnh của hắn. Mọi cuộc điều tra của chúng tôi đều không đem lại kết quả. Bọn tù binh
luôn sẵn lòng kể về hắn: “Vâng, ở đây có một vị tƣớng nhƣ thế. Ông ta điều hành cả một
khu vực rộng lớn.” Và chỉ đƣợc có thế, không hơn. Tiến hành việc này là trung đội trinh
sát của một trong những trung đoàn của Sƣ đoàn bộ binh số 152, đƣợc chỉ huy bởi thiếu
uý Ivan Lukich Kobets, hiện anh ấy đã là đại tá và là bạn thân của tôi. Anh ấy đƣợc giao
nhiệm vụ đi bắt về một cái lƣỡi. Đội trinh sát tiến sâu vào hậu tuyến địch, khoảng 20-25
kilômét, dọc theo con đƣờng dẫn tới trƣớc thị trấn Alakurti và bắt đƣợc một xe ngựa chở
bảy tên lính. Họ trói chúng lại bằng cùng một sợi dây thừng, tay quặt ngƣợc sau lƣng và
chân tên này buộc liền với chân tên kia, đầu dây còn lại đƣợc giữ chặt bởi một ngƣời lính
vạm vỡ, có nhiệm vụ sẽ giật thật mạnh khi gặp rắc rối để kéo ngã tất cả đám tù binh.
Bằng cách đó họ đã an toàn về đƣợc Sƣ đoàn bộ binh 152 của mình.
Trong khi lục soát cả nhóm tù binh, những ngƣời thực hiện đã mắc một sai lầm
nghiêm trọng khi họ tƣớc đi tất cả giấy tờ của chúng và để chung lẫn lộn với nhau, vì thế
chúng tôi không thể xác định chúng thuộc về ai, tuy tất cả đều hết sức quan trọng: ảnh
chụp, thƣ từ – mọi thứ, đối với ngƣời làm tình báo thì không có gì là không quan trọng,
bất cứ điều nhỏ nhặt nào cũng đƣợc xem xét thật kỹ lƣỡng sao cho không có yếu tố nào
bị bỏ sót. Một sĩ quan tình báo giỏi phải là ngƣời không bao giờ quên điều này. Những
tên tù binh đó đƣợc đƣa tới Sở chỉ huy Tập đoàn quân chúng tôi trong tình trạng bị trói
thành hàng dọc nhƣ vậy. Họ bảo tôi: “Danil, hãy phân loại giấy tờ ra.” Tôi đọc thật kỹ tất
cả những giấy tờ đó, săm soi các bức ảnh, và đột nhiên tôi trông thấy một tấm ảnh nhỏ
thoạt trông không có gì đặc biệt, kích thƣớc 3x4cm, mặt sau có đề dòng chữ: “Tặng
ngƣời cần vụ của tôi, von Ditmar." Chúa ơi! Tôi hét lớn với ngƣời phiên dịch và chỉ huy
bộ phận tình báo: "Senia! Senia! Trông này!" Anh ta mừng rỡ: "Đó chính là tƣớng von
Ditmar! Dan'ka, cậu lấy nó ở đâu vậy?!” Tôi bảo: “Thì ở cái đống này.” Anh ta nói:
“Chúa ơi, nó thuộc về đứa nào?!” Tôi nói: “Bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là tìm cho ra
tấm ảnh này của tên nào, bởi chắc chắn hắn sẽ không thú nhận điều đó đâu.” Chúng tôi
trao đổi với nhau, sau đó chúng tôi đƣa bọn tù binh tới và bảo: “Sẽ không có ai đem các
anh ra bắn, bởi quân đội Xôviết không bao giờ cho phép bắn tù binh - chỉ trong giọng
điệu tuyên truyền của lão Goebbels nhà các anh mới nói rằng chúng tôi xử bắn tù binh
mà thôi. Các anh sẽ đƣợc đƣa về hậu phƣơng, vào một trại tù binh.” (Đúng là chúng tôi
không bắn chúng. Tôi nhớ là không có trƣờng hợp nào tù binh bị đem xử bắn ở tập đoàn
quân chúng tôi. Chúng tôi giam chúng khoảng một ngày rồi chuyển chúng lên phƣơng
diện quân. Trên phƣơng diện quân sẽ giữ chúng thêm hai ngày rồi chuyển chúng vào trại
tù binh. Chúng tôi không hề cắt xẻo trên ngƣời chúng, không bắn chết, không tra tấn,
không đâm kim vào ngƣời. Mọi chuyện đều hết sức đơn giản – chúng tôi cho chúng ăn cá
trích (là loại cá trích muối mặn khủng khiếp của vùng Kandalaksha, và không đƣợc ngâm
nƣớc trƣớc) và không cho chúng uống nƣớc. Sang ngày hôm sau, tên tù binh sẽ khai ra
bất cứ chuyện gì chỉ để nhận lấy một ngụm nƣớc. Hắn sẽ sùi bọt đầy mép, và chúng tôi sẽ
đƣa hắn tới, rót ra một cốc nƣớc nhỏ, hắn sẽ run rẩy và la hét: “Nƣớc, nƣớc!” Thế là
chúng tôi liền bảo: “Đƣợc thôi! Khai đi!”, và lại cho hắn ăn cá trích lần nữa. Xét cho
cùng, hắn vẫn cần phải ăn. Dù muốn dù không hắn cũng phải ăn hết con cá muối đó.)
Bọn chúng vui hẳn lên. Tôi bảo: “Đây, mọi thứ trên bàn này là của các anh, hãy cầm lấy
những gì là của mình.” Chúng tôi bỏ đi, và khi quay trở lại, không chỉ hình ảnh mà thậm
chí một mẩu giấy vụn cũng không còn trên bàn. Thế đấy, ngƣời chủ của bức chân dung
von Ditmar đã lấy lại nó. Chúng tôi tách chúng ra lần nữa và bắt tay vào lục soát kỹ từng
tên. Chúng tôi tìm thấy bức ảnh trên ngƣời tên trẻ nhất trong bọn, một tên lính mới 18
tuổi. Hắn nói lắp bắp, nƣớc mắt ràn rụa trên khuôn mặt. Hắn thú nhận rằng mình vốn là
cần vụ của von Ditmar, ngƣời đã nhận hắn phục vụ theo đề nghị của cha hắn, một ngƣời
làm vƣờn tại điền trang của tên tƣớng. Hắn cho chúng tôi biết toàn bộ lý lịch của tên
tƣớng này: tính cách, tình hình gia đình, v.v. Vì chiến công này tôi đƣợc tặng huy chƣơng
“Vì đã chiến đấu xuất sắc”. Đó là kinh nghiệm đầu tiên của chúng tôi, hay có thể nói là
lần thử lửa đầu tiên, trong hoạt động tình báo.
Rồi kế tiếp là vụ sau đây. Chúng tôi bắt đƣợc một tên phi công. Tên hắn là Kurt
Ekkert, thƣợng uý, sinh tại Riga, Tiến sĩ Triết học, nổi bật nhờ thành tích trong trận đánh
chiếm đảo Crete và Narvik, đã đƣợc thƣởng một Huân chƣơng Chữ Thập Sắt với Cành
sồi. Hắn chính là một tên phi công Át! Trong khi thẩm vấn hắn luôn miệng nói: “Tôi
không phải là ngƣời Quốc xã. Tôi không là thành viên trong đảng của Hitler. Tôi chỉ là
một ngƣời Đức bình thƣờng, nhƣng tôi đã có lời thề trƣớc nƣớc Đức và sẽ không bao giờ
phá bỏ nó.” Trong suốt hai ngày trời chúng tôi giấu không thông báo cho phƣơng diện
quân việc đã bắt đƣợc tên phi công, và trong hai ngày đó hắn không tiết lộ cho chúng tôi
bất cứ điều gì. Sự việc chỉ kết thúc khi tên tù binh đƣợc đƣa tới cho Kozlov, chỉ huy
trƣởng Tập đoàn quân, thẩm vấn. Tôi lên gặp chỉ huy trƣởng với một chiếc cặp tài liệu
chứa những tấm ảnh trinh sát chụp từ máy bay mà tôi có nhiệm vụ phải giữ. Lúc này cuộc
thẩm vấn đang đƣợc tiến hành. Nó đƣợc thực hiện bằng tiếng Nga, qua thông dịch viên.
Tên Đức vẫn không tiết lộ một thông tin nào. Tôi bỏ ra và ngồi nghỉ ngoài phòng chờ, đột
nhiên cửa phòng mở và tôi nghe đƣợc một cuộc trao đổi ngắn gọn: “Hãy diễn cho hắn
xem một cuộc xử bắn giả.” Xử bắn giả là một cực hình gây đau khổ khủng khiếp. Kẻ bị
kết án bị đƣa ra trói vào trƣớc một gốc cây, ngƣời ta đọc cho hắn nghe bản án tử, mọi thứ
đều đƣợc phiên dịch cẩn thận, trong khi đó một tiểu đội xử bắn đứng chờ bên cạnh. Hắn
sẽ đƣợc hỏi: “Anh có chịu khai không?” Thông thƣờng câu trả lời sẽ là: "Nein!" Lặp lại
lần thứ hai: “Anh có chịu khai không?” "Nein!" Tới lần thứ ba: “Anh có chịu khai
không?” Hắn liền phát điên và hét lớn: "Nein!" Thế là mệnh lệnh đƣợc ban ra: "Tiểu đội
sẵn sàng! Bắn!" Sau loạt đạn kẻ chịu án sẽ ngã xuống vì sợ hãi và choáng váng. Và thế là
một lệnh khác tiếp tục: "Cái gì vậy?! Bắn trƣợt rồi! Hãy làm lại lần thứ hai, ngay lập
tức!” Nhƣng đám lính, không hề biết rằng ổ đạn của mình đều rỗng, sẽ nghĩ bụng: "Làm
sao mình lại bắn trƣợt đƣợc nhỉ?!" Thông thƣờng mọi ngƣời sẽ không kiềm chế đƣợc và
bắt đầu bàn tán. Điều này đƣợc gọi là gây sức ép tâm lý. Nó thật tàn nhẫn, tất nhiên, anh
có thể sẽ làm tàn phế một con ngƣời, bẻ gãy thần kinh anh ta. Và thế là chỉ huy trƣởng
nói: "Hãy làm bất cứ điều gì anh muốn, nhƣng các thông tin cần thiết phải nằm trên bàn
giấy của tôi sau 4 tiếng nữa.” Một viên đại tá bƣớc ra ngoài và hô lớn: "Đội xử án! Theo
tôi!” Do xung quanh không còn ai, tôi hiểu đó là một lệnh dành cho mình. Tôi bƣớc vào,
giơ tay chào và nói: "Ngƣời thi hành án có mặt!” "Bắn hắn đi!" Tôi đáp: "Xin tuân lệnh!"
Tôi rút khẩu súng lục ra, tiến gần tên Kurt Ekkert đó, xách lấy tay hắn, nhƣng hắn đẩy
mạnh làm tôi ngã xuống. Hắn chạy tới chỗ viên tƣớng và nói bằng thứ tiếng Nga thuần
chất nhất: "Thƣa đồng chí tƣớng quân, xin hãy dừng trò xiếc này lại.” Điều gì xảy ra tiếp
theo?!! Không thể tƣởng tƣợng ra đƣợc! Chỉ huy trƣởng Tập đoàn quân hét lên: "Tất cả
ra ngoài!" Chúng tôi dẫn tên tù binh đi ra. Kozlov hét với viên đại tá: "Nếu tôi không có
trong tay những thông tin của hắn trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, anh sẽ bị đƣa vào
tiểu đoàn trừng giới”. Và thế là một lần nữa tên Đức lại đƣợc chuyển sang cho chúng tôi,
và chúng tôi đƣa ra cho hắn đề nghị sau: chúng tôi sẽ kể cho hắn những gì chúng tôi đã
biết, cho hắn xem các tấm bản đồ, nếu sau đó hắn vẫn không nói, Afanasiy (Afanasiy
Pil'kin, một tay Siberia, cần vụ của viên đại tá) sẽ dắt hắn ra ngoài, nã một viên đạn vào
gáy hắn rồi kêu lên: "Nó bỏ chạy. nó bỏ chạy! Nó muốn chạy trốn!" Rồi bắn tiếp hai phát
lên trời. Và chúng tôi sẽ chấm dứt câu chuyện này ở đây. Chúng tôi đem cho hắn xem các
tấm bản đồ, kể cho hắn mọi điều chúng tôi biết… Từ đó trở về sau chƣa bao giờ tôi đƣợc
thấy kẻ nào điên khùng lên nhƣ thế: hắn cắn đến gãy cả răng mình vào lƣng chiếc ghế
đẩu. Bác sĩ vội chạy tới tiêm cho hắn một mũi. Sau khi lấy lại hơi thở, hắn kể rằng giá
biết trƣớc chúng tôi đã nắm đƣợc những thông tin hoàn chỉnh nhƣ thế, hắn đã kể ngay
cho chúng tôi mọi chuyện, vì những gì hắn tiết lộ cũng chẳng đến nỗi là phản bội tổ quốc
cho lắm. Chúng tôi cho hắn ăn, cho uống nƣớc rồi chuyển hắn lên Sở chỉ huy Phƣơng
diện quân.
Trong công việc, tôi thƣờng thẳng thắn bộc lộ khả năng hơn hẳn của mình so với
viên đại tá, chỉ huy trƣởng phòng tình báo. Ông ta nuôi trong lòng một ý định phục thù
đối với tôi và một lần nọ gọi tôi lên thông báo: "Thiếu uý, anh phải đi tiến hành một
nhiệm vụ đặc biệt sau phòng tuyến địch và liên lạc với điệp viên của ta. Bộ ắcquy cho
radio của anh ta đã hỏng nên anh ta bị mất liên lạc. Chỉ anh mới có thể tìm đƣợc anh ta.”
Tôi trả lời: "Thƣa đồng chí đại tá, tôi đã biết mật mã của Ban Tình báo trung tâm thuộc
Bộ Tổng Tham mƣu. Tôi đã có lời thề là sẽ không bao giờ đến gần chiến tuyến hơn 30
km. Nếu tôi làm điều đó, tôi sẽ bị xử bắn ngay lập tức mà không cần xét xử. " Ông ta nói:
"Đƣợc, chẳng lẽ anh lại phản bội dễ vậy sao?! Tôi ra lệnh cho anh đó! Tuân lệnh đi!" Tôi
đành phải tuân lệnh. Rồi tôi tới gặp trung tá Yakunin, phó của ông ta: "Hãy nghe này,
chuyện là nhƣ thế đấy.” Yakunin liền nổi giận: "Lão ấy là một thằng ngốc! Lão đang đƣa
anh tới chỗ chết! Anh đã làm điều gì không phải với lão rồi. Lão ấy không cần gì hết, mà
lão cũng chẳng quan tâm tới điệp viên của chúng ta – lão ấy chỉ muốn nhắm vào anh thôi.
Tôi chỉ có điều này để khuyên anh – hãy bỏ tất cả những đồ đạc quân dụng lại đây. Hãy
tự tìm cho mình một câu truyện huyền thoại nào đó (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo
Nga, chỉ một câu chuyện bịa để ngụy trang cho một điệp viên mật – Oleg Sheremet).”
Lúc đó tôi đang quá bối rối nên không dám hỏi để tránh bộc lộ sự ngu dốt của mình,
nhƣng thậm chí ngay cái từ “huyền thoại” đó tôi cũng không biết! Tôi không phải là một
quân nhân! Tôi cũng không phải là một sĩ quan tình báo! Tôi là một kỹ sƣ xây dựng, một
thƣờng dân. Làm gì có huyền thoại nào?! Nhƣng nhiệm vụ thì vẫn phải hoàn thành.
Thế là vào ban đêm, vài ngƣời thuộc bộ tộc Saami đƣa tôi vƣợt qua chiến tuyến
trên hai chiếc xe trƣợt tuyết. Họ thực hiện công việc đó thật hoàn hảo – chỉ họ mới có thể
làm đƣợc thế. Có một lối trƣợt tuyết đi qua giữa những cứ điểm của quân Đức, chúng bố
trí cách nhau khoảng 20-30 km. Trong trƣờng hợp một tên lính tuần tra phát hiện ra vết
trƣợt tuyết xuất phát từ phía chúng tôi, chúng sẽ ngay lập tức đƣa một chi đội ra đuổi theo
những ngƣời vừa đột nhập. Do đó chúng tôi quay lại điểm xuất phát hai lần, cắt ngang
tuyến đƣờng cũ, đi lòng vòng và hơn thế nữa lâu lâu dừng lại một lần, tháo ván trƣợt ra,
di chuyển tới trƣớc khoảng 50 mét rồi dùng tay xoá đi các dấu vết của lằn trƣợt. Bằng
cách đó họ đã đƣa tôi tới gần điểm hẹn. Ba kilômét cuối cùng tôi phải xuống tự đi, do họ
không đƣợc phép đi tiếp để hộ tống tôi. Tôi bảo: "Xin hãy đợi tôi ở đây, tôi sẽ quay lại
đúng theo dấu ván trƣợt của mình.” Tôi đem theo 4 bộ ắcquy BAS-80, mỗi bộ có trọng
lƣợng lên tới 12, thậm chí 15 kílô. Tôi tự làm ra một thứ gần nhƣ chiếc xe trƣợt, xỏ bàn
trƣợt tuyết vào chân, chất lên xe 4 bộ ắcquy, siết chặt lại trang phục rồi bắt đầu gò lƣng
kéo. Khi tới đƣợc địa điểm đã hẹn, tôi đã kiệt sức tới nỗi nằm lăn xuống, đè gẫy mấy lùm
cây bụi rồi lập tức ngủ say nhƣ chết. Tôi thức dậy bởi có ai đó đang đập vào chân tôi. Tôi
mở mắt ra và thấy một ngƣời Phần Lan đang đứng đó, tay cầm súng chĩa vào tôi. Tất cả
những chuyện đó diễn ra trong im lặng. Tôi ngồi dậy và chúng tôi quan sát nhau. Tôi hỏi:
“Ngƣời Phần Lan hả?” Hắn ta vẫn im lặng. Tôi hỏi tiếp: "Deutch? Sprechen Sie Deutch?"
(“Ngƣời Đức hả? Có nói đƣợc tiếng Đức không?” – L.T.D.) Hắn ta vẫn im lặng. Và rồi
một suy nghĩ chọc vào đầu tôi, có thể anh ta là ngƣời tôi cần gặp chăng? Tôi nói mật
khẩu, anh ta đáp lại và nói: "Thằng dở ngƣời nào gửi anh tới đây vậy? Sao anh có quyền
ngủ vào lúc này?! Anh đang ở trong hậu phƣơng địch! Bất cứ ai cũng có thể đi ngang qua
đây! Hãy xem có biết bao dấu ván trƣợt quanh đây! Sao anh lại làm thế!?” Tôi đáp:
"Trƣớc tiên, tôi mệt lắm rồi, kế đến – tôi đang rất đói." Anh ta lấy ra hai thanh sôcôla,
một chai rƣợu, và chúng tôi cùng uống, tìm ra đƣợc một ngôn ngữ chung, rồi anh ta cho
tôi biết số liệu về các sân bay ở Varde và Trondheim, về lực lƣợng, điểm khởi hành và
nơi đến của các đơn vị Đức. Anh ta bắt tôi lặp lại tất cả điều đó khoảng 15 lần rồi đƣa tôi
về.
Tôi quay trở lại sở chỉ huy – hàm dƣới viên đại tá trễ xuống khi lão trông thấy tôi
vẫn còn sống: "Mọi chuyện diễn ra thế nào?” Tôi đáp: "Tôi vẫn còn sống sót quay về,
mặc cho ông đã đƣa tôi tới chỗ chết.” Lão ta nói: "Ai bảo là tôi đƣa anh tới chỗ chết?!”
Tôi trả lời: "Tôi hiểu rõ mọi chuyện, thƣa đồng chí đại tá.” Câu chuyện đã kết thúc ở đó.
Nó lại lặp lại về sau này, khi bạn thân của tôi, mà nay đã quá cố, đại tá Nikolay
Dmitrievich Antonov, tới làm chỉ huy phòng tình báo thay cho tên ngốc kia. Anh ta cũng
gọi tôi lên và bảo: "Dania, cậu phải lặp lại lần nữa những gì đã từng làm, nhƣng tôi trƣớc
tiên muốn tạo cho cậu một huyền thoại thực sự đã.” Lúc này tôi đã biết một huyền thoại
có nghĩa là gì rồi. Tôi đƣợc đƣa tới Belomorsk để huấn luyện về mật mã. Họ cho tôi ăn
mặc nhƣ một ngƣời tù trong một căn nhà ở gần Belomorsk: cấp cho tôi cặp guốc gỗ, quần
áo rách, mũ lông "ushanka" thiếu mất một tai mũ. Tôi đƣợc giao cho một tờ sao của bản
án do Toà án Quận Frunze của thành phố Maskva tuyên, trong có ghi rằng Zlatkin, Daniil
Fedorovich, bị kết án 10 năm tù, không đƣợc quyền liên hệ với ngƣời thân vì đã có những
hành động chống lại chính quyền Xôviết, lan truyền những chuyện đàm tiếu chống
Xôviết, tuyên truyền chống chiến tranh Vệ quốc, v.v. Ngƣời ta bảo tôi: "Anhh sẽ tới
Solovki (quần đảo trên Bạch Hải, nơi có một trại tù nổi tiếng – Oleg Sheremet) Mọi
chuyện đã đƣợc chuẩn bị sẵn sàng ở đó cho anh. Anh sẽ ở đó 10 ngày, anh sẽ không chỉ
phải làm quen với đám bạn tù và nắm rõ lý do chúng phải vào đó, mà còn phải biết đến
cả tên con chó cƣng của ngƣời đầu bếp. Đã nắm mọi chi tiết chƣa?” Tôi đáp: “Đã rõ.”
Khi tới nơi, giám đốc trại tù kéo tôi ra và bảo: "Tôi đã biết mọi chuyện rồi. Tôi sẽ báo
cho anh khi nào chuyện đó xảy ra.” Và tôi bị ném vào trong một trại giam đầy lũ trộm
cƣớp và lừa đảo – mọi hạng ngƣời đều có ở đó ngoại trừ những tù chính trị, vốn bị giam
ở một trại giam khác biệt lập. Tôi kể cho chúng nghe vài chuyện cƣời, cho chúng biết
rằng tôi là một thủy thủ ở Odessa, đi trên chiếc tàu chở hàng của hải quân – tại đấy tôi đã
làm quen với gã Val'ka Mắt lé. "Cái gì, cậu biết Val'ka Mắt lé à? Các bạn ơi! Thế cậu đi
trên tàu gì? Khoan, cậu có biết tàu "Chervona Ukraina" không? Gƣợm đã, ở đó cũng có
một chiếc Chervona Ukraina khác.. Ờ phải, tại đó chỉ có một chiếc nhƣ thế thôi." Nói
chung, tôi đã trở thành thành viên của chúng. Cùng làm với chúng ở mỏ đá – thật là một
công việc khủng khiếp khi phải đập vỡ những tảng đá bằng một chiếc búa, một cái đục
hay một cái cuốc chim. Đôi chỗ chúng tôi đƣợc sử dụng thuốc nổ, và do tôi đã từng là
công binh nên đƣợc giao cho việc này. Công việc cũng không quá phức tạp - chúng tôi
chỉ đơn giản là đặt thuốc nổ vào dƣới những tảng đá. Nhiệm vụ của chúng tôi là sản xuất
sỏi đá để làm đƣờng, đôi chỗ sỏi đá lộ ra trên mặt đất, ở đó có những tảng đá dễ vỡ để thu
nhặt. Điều này làm nhẹ bớt công việc của chúng tôi, và đám tù nhân bắt đầu tỏ ra tôn
trọng tôi hơn. Tới ngày thứ 9 ngƣời giám đốc trại tù gọi tôi lên và bảo: "Danil, mọi
chuyện đã sẵn sàng rồi, đi thôi." Tôi đi cùng ông ta ra bờ biển. Ông ta chỉ chỗ cho tôi và
bảo: "Kia, ở dƣới đó có một chiếc xuồng chèo tay, trong có một thùng nƣớc ngọt và một
túi bánh khô. Cậu đã sắp xếp đƣợc ngƣời đi cùng chƣa?” Tôi đƣợc lệnh phải tìm ra một ai
đó và dụ hắn cùng trốn đi. Tại sao tôi lại phải làm tất cả những chuyện đó, tại sao tôi lại
kể ra tất cả những chuyện đó? Tôi phải tạo ra đƣợc một huyền thoại, để trong trƣờng hợp
bị bọn Đức bắt đƣợc thì tôi sẽ kể rằng mình là nhƣ thế, nhƣ thế, những cƣ dân ở Solovki
có thể xác nhận rằng tôi đã từng ở đó. Không đƣợc quay trở về đơn vị của mình, trên
ngƣời phải mặc những quần áo rách rƣới, thậm chí còn tệ hơn cả trong lần đột nhập đầu
tiên, nhƣng đã có tờ tuyên án của mình ở sẵn trong ngăn túi bí mật, tôi vƣợt qua chiến
tuyến và gặp đƣợc ngƣời điệp viên mà lần trƣớc tôi đã biết (tên của anh là Boris
Borisovich. Tôi không bao giờ còn đƣợc nghe đến tên anh lần nữa). Tôi quay về và thế là
nhiệm vụ của tôi kết thúc. Không bao giờ tôi còn bị gửi đi bất cứ đâu nữa.
Dƣới đây là một câu chuyện thú vị khác. Nó xảy ra vào giữa năm 44, chúng tôi
đang ngồi làm việc trong hầm trú ẩn của mình. Đột nhiên, vào 4 giờ chiều, có một tiếng
nổ lớn trong khu vực Sở chỉ huy Tập đoàn quân. Tiếng nổ thứ hai tiếp theo sau đúng 2
phút. Ngƣời sĩ quan trực nói: "Có lẽ đám sĩ quan công binh đang làm gì đó.” Vụ nổ điếc
tai thứ ba xảy ra đúng 2 phút sau đâu đó gần hầm của chúng tôi và làm vỡ toàn bộ kính
cửa sổ. Đất vụn bắt đầu rơi lả tả từ trần nhà xuống. Rồi có một tiếng kêu: “Mọi ngƣời tìm
chỗ ẩn nấp! Bọn Đức đang bắn vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân!” Trong ngày hôm đó bọn
Đức đã bắn 40 phát, chúng rơi chính xác vào khu vực Sở chỉ huy Tập đoàn quân. Một
quả đạn thậm chí đã xuyên qua cửa sổ hầm trú ẩn của ban chỉ huy lực lƣợng thiết giáp.
Trong hầm đang có một ngƣời thƣ ký đánh máy 17 tuổi và một thiếu tá, một ngƣời đàn
ông 45 tuổi. Ông ta lấy hai tay ôm chặt đầu (về sau chúng tôi nhận thấy mảng tóc nằm
dƣới mấy ngón tay ông ta đã trở nên lốm đốm bạc), hiểu là cái chết sẽ xảy đến ngay lập
tức, nhƣng quả đạn không phát nổ, và thế là cả hai ngƣời chạy ra ngoài. Hóa ra bọn Đức
vừa nhận đƣợc ba khẩu đại bác tầm xa 155mm, vẫn đƣợc gọi là đại bác hậu phƣơng vì
thƣờng đƣợc dùng để bắn vào các sở chỉ huy. Cánh không quân chúng tôi lập tức cố gắng
bịt họng những khẩu pháo đó, nhƣng không hiệu quả. Sang ngày thứ hai bọn Đức lại bắn
thêm 40 quả đạn nữa vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân với cùng một độ chính xác – cứ 2
phút mỗi viên, nhƣng các phát đạn đã rơi ra sau Sở chỉ huy khoảng 1 kilômét. Chuyện gì
xảy ra vậy?! Chúng tôi đã lừa đƣợc bọn Đức! Chúng tôi ngụy trang tất cả những thiệt hại
và hố đạn ở Sở chỉ huy và cho nổ 40 khối TNT cách đó 1 kilômét, phía gần với chiến
tuyến, nhằm tạo ra ảo giác chúng là những hố đạn. Một “cái khung” (biệt hiệu của loại
máy bay trinh sát quân Đức thƣờng dùng) bay qua đó vào buổi sáng và chụp ảnh kết quả
cuộc pháo kích, nhƣng do tất cả những hố đó đều là của giả do chúng tôi tạo nên, việc
chỉnh hƣớng của bọn Đức đã làm cho các quả đạn bắn ra về sau bay vƣợt qua đầu chúng
tôi. Tới lúc đó trọng pháo và máy bay của ta đã tiêu diệt đƣợc hai khẩu đại bác của chúng.
Chúng không làm phiền chúng tôi thêm lần nào nữa. Vậy đấy, về cơ bản, đó là câu
chuyện cuộc đời quân ngũ của tôi trong phòng tình báo của Tập đoàn quân số 19.
Ghi âm phỏng vấn: Elena Siniavskai
Hiệu đính: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Hình ảnh lấy từ tư liệu của D.F. Zlatkin
HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
Ivan Shelepov
A la Guerre Comme a la Guerre (Chiến tranh là chiến tranh)
- Ivan Ignatievich, xin hãy kể một cách vắn tắt ông bắt đầu nhập ngũ khi nào và ở
đâu?
- Tôi nhận giấy triệu tập vào giữa ngày làm việc. Họ gọi tôi lên văn phòng, tôi tới,
rồi họ đƣa tôi xem tờ giấy và bảo: “Hãy chuẩn bị đồ đạc, Shelepov, sáng mai anh tới địa
chỉ ghi trên mảnh giấy này.” Đó là khoảng tháng Tám năm 1941. Tôi không nhớ rõ là
ngày nào… Sau một dịp nghỉ cuối tuần thì sự việc xảy ra nhƣ thế thật đột ngột.
- Sau đó ông đi đâu?
- Ban đầu tôi tới trƣờng huấn luyện quân sự. Trƣớc đó tôi sống tại Kineshma, một
thị trấn nhỏ gần Ivanovo. Phong cảnh thật đẹp! Tuyệt vời dòng Volga! Ngƣời ta tập hợp
tất cả chúng tôi lại và đƣa tới Ivanovo, tới trƣờng quân sự.
- Đó là Học viện Lục quân phải không?
- Đúng. Đầu tiên, chúng tôi đƣợc báo là khóa học sẽ kết thúc sau ba tháng, nhƣng
có lẽ do bọn Đức đã chọc thủng chiến tuyến nên sau hai tuần, tất cả chúng tôi đƣợc trang
bị và chở bằng xe tải tới ga xe lửa. Từ nhà ga chúng tôi tiến thẳng ra mặt trận.
- Tới khu vực nào?
- Gần Smolensk. Sƣ đoàn bộ binh 161 chúng tôi thuộc Quân đoàn bộ binh số 2
(Quân đoàn này gồm 2 sƣ đoàn bộ binh – sƣ đoàn 161 và sƣ đoàn 100. Ngày 18 tháng
Chín năm 1941, cả hai sƣ đoàn này đã trở thành những đơn vị Cận vệ đầu tiên của Hồng
quân nhờ đã chiến đấu gan dạ, dũng cảm và kiên cƣờng – Valeriy Potapov). Vào chập tối
chúng tôi đƣợc nhận lƣơng khô và tới rạng sáng trung đoàn tôi tấn công vào vị trí bọn
Đức mà không có pháo bắn yểm trợ.
Ivan Shelepov tại trạm quân y ngay sau một trận đánh. Tháng 11 năm 1942.
- Chỉ mình trung đoàn ông tham gia thôi sao?
- Tôi không rõ – dƣờng nhƣ là toàn bộ sƣ đoàn tôi. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ
– mới một giờ trƣớc tôi còn là thƣờng dân, vậy màø giờ đây tôi đang cầm khẩu súng
trƣờng trong tay. Tôi cũng biết chiến tranh thật đáng sợ, nhƣng tôi không thể hình dung
ra nỗi sợ hãi bao trùm lên ngƣời nhƣ thế. Thực ra tôi đang phí thì giờ để kể cho anh
chuyện ấy - điều ấy không cách nào tả nổi. Cái cảm giác nhƣ là anh đã sống suốt cuộc đời
mình mà không hề có quá khứ và tƣơng lai vậy. Đôi lúc thậm chí tôi không thể cử động
đƣợc vì quá căng thẳng, xin thề nhƣ vậy! Tất nhiên, chúng tôi đã đƣợc thông báo vào lúc
mờ sáng là sẽ phải tấn công. Đại đội trƣởng tới từng nơi và thông báo cho mọi ngƣời.
Nhƣng tất cả đã diễn ra theo một cách rất kỳ lạï. Tôi không thể nhớ lại chi tiết trận đánh
đó. Tôi không rõ tại sao – có vài trận đánh ghi sâu vào ký ức nhƣ chúng mới diễn ra hôm
qua, nhƣng ký ức về trận đánh đầu tiên của tôi thì chỉ hiện ra lờ mờ. Tôi luôn nhớ nó một
cách lộn xộn.
Tiểu đội tôi nằm đợi trong một chiến hào nông choẹt. Chúng tôi phủ lên ngƣời
những cành cây để bọn Đức không phát hiện đƣợc. Tôi cứ nghĩ rằng sẽ có một tiếng hô
“Tiến lên!”, chúng tôi sẽ hô “Hurra!” và tấn công. Tuy vậy mọi việc lại diễn ra rất khác.
Đại đội trƣởng của chúng tôi khẽ nói: “Đi nào, các bạn!” và trèo lên bờ công sự. Tôi cũng
làm nhƣ vậy. Tôi đi theo anh ta nhƣ một cái máy mà không nhận thức đƣợc mình đang
làm cái gì. Chúng tôi lặng lẽ đứng dậy và tiến lên phía trƣớc. Chúng tôi thậm chí không
chạy - chỉ bƣớc tới. Không hô “Hurra!‟, không gây tiếng động, không la hét. Chỉ đứng
lên rồi tiến về phía trƣớc. Trời vẫn còn tối và có một lớp sƣơng mù giăng khắp cánh đồng.
Một sự im lặng chết ngƣời bao phủ xung quanh – chỉ có tiếng vũ khí của chúng tôi kêu
lách cách. Bỗng nhiên, tôi không còn nhớ rõ nhƣ thế nào, khung cảnh bỗng thay đổi, và
đối phƣơng bắt đầu bắn nhƣ điên về phía chúng tôi. Đầu tiên là bằng súng trƣờng, kế đó
là hai khẩu đại liên. Hay là ngay từ đầu bằng đại liên? Tệ thật, tôi không nhớ rõ nữa. Thế
rồi tất cả chúng tôi đều khom ngƣời chạy tới, tôi chạy đằng sau một ngƣời, tôi không biết
tên anh ta là gì. Trong suốt cuộc tiến công, tôi chỉ còn nhớ cái lƣng có đeo balô của anh ta.
Tôi không còn nhớ gì thêm.
Tôi chạy nhanh hết sức mình. Chạy đi đâu - tôi không rõ. Một tiếng hô “Tiến
lên!” vang lên trong đầu tôi, nhƣng tôi cho rằng không phải tiếng tôi kêu. Tôi không biết
mình đã chạy bao lâu – trong một giây hay một tiếng đồng hồ, thời gian đối với tôi nhƣ
dừng lại. Thình lình có cái gì đó đâm vào sƣờn tôi, tôi nhớ là đã bị hất tung lên rồi ngã
xuống đất. Tôi bật dậy và lại ngã lần nữa, đồng thời cảm thấy đau nhói. Cái chân của tôi!!!
Chân của tôi gập lại vì đau. Tôi cố quay lại xem chuyện gì xảy ra với chân mình, nhƣng
không thể. Tôi trƣờn tới trƣớc, nhƣng rồi lại nghĩ: “Chờ đã! Tại sao mình lại trƣờn tới?
Mình cần phải quay về trạm quân y.” Suốt một lúc lâu tôi không thể nhận ra đâu là đằng
trƣớc, đâu là đằng sau. Khói đạn che phủ khắp nơi, tiếng nổ, tiếng súng, tiếng va chạm
vang lên khắp nơi. Toàn chiến trƣờng ngổn ngang những ngƣời co giật vì bị thƣơng và
một vài vật gì đó (tôi không thể xác định cụ thể là vật gì – Valeriy Potapov). Tôi cố chịu
đựng và bò ngƣợc trở lại. Tôi đã nghĩ trong tuyệt vọng rằng mình sẽ không thể quay về
chiến hào của ta đƣợc nữa. Bỗng có ai đó nắm lấy chân tôi và kéo. Mắt tôi tối sầm lại vì
đau. Tôi không biết đƣợc làm thế nào mình bò tới đƣợc chiến hào nữa. Chính ủy đang ở
ngay đó! “Anh đang làm cái quái gì ở đây?” – anh ta nói – “Quân hèn nhát!”. Tôi trả lời
rằng tôi không phải là ngƣời hèn nhát, tôi bị thƣơng ở chân. “Vết thƣơng đâu???“ – Anh
ta hét. “Tôi không thể tự xác định đƣợc.” Một ngƣời cứu thƣơng bổ tới, sờ vào chân tôi
và cƣời lớn: “Anh bị trật khớp” – anh ta nói - “bây giờ tôi sẽ kéo khớp và chữa cho anh!”.
Anh ta nắm lấy chân tôi - trƣớc cả khi tôi kịp kêu “Mẹ ơi!” - và kéo mạnh! Tay chính uỷ
lắc đầu – tôi chửi thề thật khủng khiếp. Bản thân tôi cũng không biết đƣợc mình đã
nguyền rủa dữ dội đến mức nào.
- Ông ta có hỏi cung ông không?
- Ồ không! Anh ta cần đến tôi làm gì? Anh ta chỉ hỏi tôi thuộc đơn vị nào rồi bỏ
tôi lại. Ngƣời cứu thƣơng, sau khi biết tôi thuộc Đại đội 3, đại đội vừa đƣợc bố trí đêm
hôm trƣớc, đã mạnh dạn lên và cho biết rằng các đại đội khác đã quay trở về. “Mẹ nó,
chúng ta lại trắng tay lần nữa! Bao nhiêu ngƣời bỏ mạng vô ích.” “Hãy bò về với đồng
đội của mình” – anh ta nói – “và hãy cẩn thận, bởi bọn Đức sắp gửi máy bay tới đấy.
Hôm nay cậu thật may mắn, hãy nhớ lấy cái ngày này! Tất cả đồng đội của cậu giờ có lẽ
đã chết cả rồi.”
- Ngày hôm đó các ông có tấn công lần nữa không?
- Không. Làm gì còn ai để tấn công. Toàn đại đội chỉ còn 10-12 ngƣời cùng trung
uý chỉ huy. Thƣợng sĩ phụ tá cũng bị giết. Tôi chỉ còn nhớ họ của anh ấy – Chumilin. Tại
sao lại thế nhỉ - nhƣng dù sao tôi cũng đã nhớ. Giờ đây tôi cảm thấy thƣơng cho anh ấy!
Anh ấy mới chỉ 20 tuổi đầu, nhƣng tóc đã bạc và bị mất một ngón tay. Tôi không biết
thêm điều gì về anh ta.
- Sau đấy ông có tiếp tục tham gia tấn công không?
- Sao không? Tất nhiên là có chứ. Hai lần nữa.
- Hai lần nữa??? Ông thật may mắn!
- (ngắt lời ngƣời phỏng vấn) Hê! Tất cả những ai sống sót sau chiến tranh đều rất
may mắn! Họ đều có một số phận khác thƣờng. Những ai có số phận bình thƣờng đều đã
chết thậm chí ngay khi chƣa kịp bắn một phát súng, chƣa kịp nhìn thấy bọn Đức.
Cùng đọc tờ báo của sƣ đoàn. Có lẽ khoảng hè – thu 1943.
- Ông chiến đấu lần kế tiếp khi nào?
- Hai ngày sau chúng tôi nhận đƣợc lính tiếp viện đến từ một nhà máy, họ thật to
lớn và khỏe mạnh! Bàn tay họ tựa những chiếc kìm sắt. Lúc ấy tôi 18 tuổi, còn tất cả
những công nhân ấy đang ở tuổi 40. Ngày hôm sau chúng tôi tấn công lần nữa, Thậm chí
chúng tôi còn đƣợc pháo binh hỗ trợ. Chúng tôi ngồi trong một cái rãnh nhỏ, hút thuốc và
lắng nghe tiếng đạn pháo quân ta rú ngang qua đầu. Tôi đã quen với điều đó, nó không
còn làm tôi khiếp nhƣợc dù tiếng rú quả là kinh khủng. Rồi chúng tôi tiếp tục nhận đƣợc
lệnh “tiến lên!” và tất cả trèo lên khỏi cái rãnh. Alex Kotov, Felix – anh chàng ngƣời
Armenia và tôi đƣợc lệnh phải yểm trợ cho một khẩu pháo của ta. Ở đấy chúng tôi có loại
pháo 45mm và chúng tôi đƣợc lệnh phải bảo vệ một trong số các khẩu pháo ấy. Thậm chí
chúng tôi còn đƣợc nhận một khẩu trung liên DP (Degtyarev) cùng hai băng đạn hình đĩa
kèm theo.
- Ivan Ignatievich, Vasil Bykov nói về khẩu trung liên DP một cách khác, nói
rằng đấy là một khẩu súng nặng nề và kém chính xác. . . (tiểu thuyết “Phát tên lửa thứ ba”
– LTD.)
- (ngắt lời ngƣời phỏng vấn) Đúng, tôi có đọc đoạn ấy! Bykov là ai? Anh ta là
lính pháo binh! Thế đấy! DP là một khẩu súng tốt. Anh ta chỉ trích súng máy của quân ta,
nhƣng khẩu 34 (MG-34 – Valeriy Potapov) của Đức còn nặng hơn thế! Nó nặng khoảng
12 kí, còn nếu gắn trên càng ba chân thì thậm chí không thể nhấc nổi! Súng máy của ta
rất tốt, anh ta nên câm miệng lại! Sau đó bọn Đức có thêm khẩu 42 (MG-42 – Valeriy
Potapov), khẩu ấy cũng khá nặng nhƣng bắn nhanh hơn. Bọn Đức dù vậy vẫn dùng khẩu
MG-34 cho đến hết chiến tranh.
DP là loại súng trung liên. Chúng tôi dùng chúng rất nhiều, trong mỗi trung đội
đều có. Bọn Đức có nhiều súng máy nhƣ thế không? Chúng tôi thì có đủ súng máy để
phòng thủ. Trong thời kỳ đầu, chúng ta đôi lúc bị thiếu đạn, vì thế nhiều ngƣời đã hy sinh
một cách vô ích!
- Các ông yểm trợ cho cánh pháo binh bằng cách nào?
- Bằng cách nào à? Đầu tiên, kể nhé, nếu bọn Đức phản công, chúng tôi phải ngăn
không cho chúng lại gần các khẩu pháo. Các pháo thủ cũng có vũ khí cá nhân, thậm chí
cả tiểu liên. Tuy nhiên chúng tôi luôn đặt mục tiêu bảo vệ các khẩu pháo lên hàng đầu.
Đại đội trƣởng của chúng tôi luôn bảo : “Đừng quên các anh có mặt ở đây để làm gì!”
Chúng tôi không thể giữ vững vị trí nếu thiếu những khẩu pháo ấy. Bây giờ ngƣời ta hay
xem thƣờng các khẩu pháo ấy, cho rằng chúng thiếu hiệu quả, nhƣng tôi muốn nói với
anh rằng: nếu chúng tôi không có những khẩu pháo ấy, chúng tôi đã không thể phòng thủ
đƣợc. Để chống lại các ụ súng máy Đức, bộ binh cơ giới (Panzergrenadiers – Bair
Irincheev), xe half-track (xe chở lính có vỏ thép mỏng, có bánh xe đằng trƣớc và xích
đằng sau - LTD), sử dụng những cục cƣng của chúng tôi là hợp nhất! Bọn Đức cũng có
những loại pháo y nhƣ vậy.
- Nó có hiệu quả khi đối đầu với xe tăng địch không?
- Vâng, khá hiệu quả! Tất cả chúng tôi cùng hợp sức chống lại xe tăng. Cả pháo
binh lẫn bộ binh chúng tôi cùng tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, bọn Đức không phải lúc nào
cũng có xe tăng, nhƣng bộ binh cơ giới và xe half-track thì luôn có mặt. Chúng tôi đốt
cháy xe tăng của chúng thật dễ dàng! Nhiệm vụ trƣớc tiên của các xạ thủ súng máy là cắt
rời bộ binh khỏi xe tăng. Đấy là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì xe tăng luôn cố tiêu diệt các
ụ súng máy trƣớc tiên. Nếu chúng tôi cắt bộ binh khỏi xe tăng thành công, chúng tôi có
thể đốt cháy tất cả xe tăng của chúng. Một chiếc xe tăng không thể thấy bất cứ gì xung
quanh nó, bạn có thể tiến lại gần và đốt cháy hoặc phá đứt xích xe.
Chúng tôi có rất ít loại pháo chống tăng đó, đôi khi có pháo nhƣng lại không có
đạn. Đôi khi thậm chí chúng tôi đã phải dùng pháo của bọn Đức, miễn là tìm ra đạn cho
chúng.
- Có thƣờng xuyên không?
- Không, không thƣờng xuyên. Nhƣng đôi khi chúng tôi tìm cách kiếm lấy một
khẩu pháo nhỏ cùng một cơ số đạn. Rồi chúng tôi mang nó đi.
- Loại cối 50mm cấp đại đội có hiệu quả không?
- Cối cấp đại đội tất nhiên là bắn yếu hơn cối cấp tiểu đoàn (cối 82 mm – Valeriy
Potapov), nhƣng nhẹ hơn. Nó có thể khiêng bởi hai ngƣời. Loại cối cấp tiểu đoàn phải
mất ba ngƣời khiêng: một ngƣời mang ống nòng, ngƣời khác mang càng chống và ngƣời
thứ ba mang mâm chống giật. Khẩu cối cấp tiểu đoàn khá nặng, đôi khi mất đến hai
ngƣời để khiêng mâm súng. Anh cứ thử – mang cái của ấy đi 10 km không nghỉ, chạy lúp
xúp trong bụi cây để tránh đạn vãi từ máy bay và rồi lập tức khai hỏa vào đối phƣơng thử
xem! Rồi xem trông các anh sẽ nhƣ thế nào! Còn nữa, trong trận chiến anh phải mau
chóng thay đổi vị trí bắn với khẩu cối đại đội, nhƣng không phải lúc nào cũng làm đƣợc
thế với khẩu cối tiểu đoàn! Anh không thể bỏ nó lại hay để mất nó – anh có thể sẽ bị xử
bắn. Nếu nó bị hỏng – anh phải mang về cho đại đội trƣởng hay cho thƣợng sĩ phụ tá.
Nếu không thì “bố già” (“bố già”: sĩ quan NVKD hay SMERSH – Valeriy Potapov) sẽ sờ
gáy anh.
Súng cối khá hữu ích trong phòng thủ. Nếu bọn Đức bị ghìm đầu xuống trong khi
tấn công, chúng tôi sẽ gõ đầu chúng bằng súng cối ngay dƣới làn đạn súng máy của mình.
Bọn Đức cũng dùng mánh lới y nhƣ thế! Đó là tại sao lại rất nguy hiểm khi chúi đầu
xuống lúc tấn công. Sẽ không dễ để vùng dậy lần nữa! Nếu ta tấn công, ta phải luôn chạy
cho tới phút chót, và không bao giờ đƣợc chúi xuống ẩn nấp. Nếu nằm xuống – ta sẽ
không thể nhấc nổi mông khỏi mặt đất lần nữa. Ta cũng có thể sẽ nhận một viên đạn của
đại đội trƣởng. Anh ta có quyền làm thế. Đó là trách nhiệm của anh ta để bắt bạn phải
tiến công, và tiểu đoàn trƣởng hay trung đoàn trƣởng cũng không thể trách nếu anh ta bắn
ai đó vì điều này. Đại đội trƣởng của chúng tôi cảnh cáo ngay từ đầu rằng nếu chúng tôi
nằm xuống, anh ta sẽ bắn tất cả. Anh ta quả đã bắn một vài ngƣời. Sau đó chúng tôi
không lần nào thử làm nhƣ thế nữa.
- Ông có thƣờng phải tấn công không?
- Tất nhiên, sao lại có thể không nhỉ? Có chứ. Nhƣng tấn công có nhiều cách khác
nhau! Tốt nhất là khi đợt tấn công của bọn Đức vừa bị bẻ gãy, lúc chúng bắt đầu rút lui
thì “Tuốt lê!” và tiến lên! Chúng tôi phải moi bụng bọn Đức, rồi nhảy vào chiến hào của
chúng. Sau đó phải ngay lập tức củng cố công sự. Anh có thể kiểm tra đồng hồ của mình:
trong vòng nửa giờ đồng hồ bọn chúng sẽ hồi tỉnh và tổ chức một đợt phản công. Nếu
anh không có một vị trí phòng thủ chắc chắn, chúng sẽ đánh bật anh trở lại! Anh không
đƣa kịp pháo yểm trợ vào vị trí, thế là tuyệt vời cho bọn bộ binh cơ giới. Nhƣng nếu anh
cố đƣa đƣợc dù chỉ một khẩu pháo tới nơi thì chúng sẽ chẳng thể làm đƣợc gì! Bọn chúng
sẽ phải đƣa tới xe tăng và pháo, nhƣng đào đâu ra đƣợc những thứ đó? Chỉ trên phim ảnh
thời nay (ông nói với vẻ hờ hững – Valeriy Potapov) mới thấy bọn Đức với hàng đàn xe
tăng trong các đợt tấn công của chúng. Trong thực tế sự việc diễn ra khác xa! Tất nhiên,
bọn Đức có xe tăng, nhƣng không phải ở khắp nơi! Thƣờng thƣờng chúng gửi tới vài
chiếc xe tăng, chúng sẽ bắn từ một khoảng cách an toàn và đẩy lùi bộ binh của chúng ta,
thế thôi! Chúng sẽ không làm hơn thế đâu! Chúng cũng không muốn chết, tại sao chúng
lại phải phơi mình ra trƣớc đạn pháo của chúng ta? Chúng sẽ cố bắt chúng ta để lộ vị trí
đặt pháo và cố tiêu diệt pháo bằng tất cả những gì chúng có trong tay – máy bay, pháo và
cối. Đấy là lý do tại sao pháo của ta phải mau chóng thay đổi vị trí. Họ vừa mới đào công
sự đằng sau lƣng anh, vậy mà một giờ sau đã thấy họ biến đâu mất!
Tôi đã khoác lác khi nói rằng dễ dàng đốt cháy xe tăng của chúng. Không hề!
Trƣớc khi đại đội của anh đốt cháy một chiếc xe tăng, anh sẽ phải đổ mồ hôi chán chê.
Nó sẽ diệt một nửa đại đội bằng súng máy hay nghiền nát họ bằng xích sắt. Nếu bọn Đức
tiêu diệt thành công khẩu pháo chống tăng của ta, chúng sẽ cho xe tăng bò dọc chiến hào
và làm gỏi mọi ngƣời. Nhƣng đó là về sau này, khi chúng tôi đã biết đào chiến hào.
- Thế trƣớc đấy thì các ông làm gì?
- Năm 1941 chúng ta không đào chiến hào. Chúng tôi đào hố cá nhân hay hố cho
hai ngƣời, đào theo đội hình trung đội.
Tại một công sự bê tông Đức bị phá hủy. Tháng 7 năm 1944.
- Ƣu nhƣợc điểm của chúng thế nào?
- Nhƣợc điểm là anh có thể bị chôn vùi trong đấy, nếu nó bị sập. Đó là một
chuyện. Kế tới là nó hoàn toàn bị cô lập! Chiến tranh là thế; tiếng nổ ở khắp nơi, anh
không thể nghe hay thấy đƣợc mệnh lệnh, sự chỉ huy và thông tin lúc đấy rất kém. Làm
cách nào anh chỉ huy đƣợc lính nếu mọi ngƣời đều ở trong hố của mình? Lắp điện thoại
cho mỗi hố sao??? Anh cảm thấy thế nào khi ngồi trong một cái lỗ giữa cánh đồng? Anh
cũng không thể biết những ngƣời khác ra sao. Có lẽ họ đã chết hay rút lui mà anh lại là
ngƣời duy nhất còn lại? Cứ nhƣ thể tất cả quân thù đang nhằm bắn vào anh vậy. Thật là
một cảm giác khủng khiếp! (Hồi ký của Nguyên soái Rokossovsky cũng đề cập tới
chuyện tƣơng tự. Ông viết rằng đấy là một trong những lý do chính của sự rút lui không
tổ chức và điều đấy ngăn ta điều khiển binh lính trên chiến trƣờng – Valeriy Potapov)
Tuy nhiên, các sĩ quan của chúng tôi đã mau chóng học bài học này và dạy chúng
tôi cách đào hào sâu toàn thân và sâu bán thân. Đó quả là cả một khoa học! Không phải
chỗ nào ta cũng có thể đào chúng đƣợc! Ta đào ở đây và đụng phải đá, Ta đào chỗ kia và
gặp nƣớc phun lên. Đôi lúc chúng tôi phải chiến đấu với nƣớc ngập đến đầu gối. Đó là vì
chúng tôi không có thời gian để đào ở chỗ khác, hay bởi “những tính toán chiến thuật”.
Chúng tôi đào hào sâu bán thân để khỏi phải đứng trong nƣớc. Nhƣng những hào ấy rất
dễ sập, và sau một giờ chiến đấu quyết liệt anh không thể nói đó là một vị trí phòng thủ
nữa.
Ivan Ignatievich đã từng tham gia chiến đấu quanh hồ Balaton.
- Ivan Ignatievich, ông có thể kể tỉ mỉ cho chúng tôi về trận đánh ấy, đến tận từng
tiểu tiết đƣợc không?
- Tốt hơn hãy để tôi kể câu chuyện bắt nguồn từ một tin đồn truyền đi trƣớc khi có
biến cố ở Hungary. Tin đồn nói rằng họ sẽ chọn tất cả những ngƣời có từ ba vết thƣơng
trên mình trở lên (Ivan Ignatievich đã bị thƣơng bốn lần trong chiến tranh). Họ nói rằng
sắp chiến tranh với Mỹ và họ cần những ngƣời có kinh nghiệm. Số lƣợng vết thƣơng trên
mình là một thứ nhãn hiệu, một thứ dấu bảo đảm kinh nghiệm của chúng tôi. Tin đồn đã
thành sự thật – một thiếu tá tới tiểu đoàn chúng tôi, tất cả chúng tôi tập hợp lại và ông ta
chọn lấy vài ngƣời trong danh sách, trong đó có tôi. Chúng tôi đƣợc đẩy lên xe tải và rời
tiểu đoàn đi huấn luyện làm thiếu uý chỉ huy. Tuy nhiên, theo nhƣ tôi nhớ, tôi chỉ ở đấy
trong vòng một tháng. Đột nhiên họ tập hợp chúng tôi lại, phát cho vũ khí, đẩy lên xe tải
và đƣa chúng tôi đi đâu đó. Chúng tôi đƣợc đổ xuống trên một cánh đồng và nhận lệnh
phải đào chiến hào. Ngoại trừ lựu đạn và súng trƣờng, chúng tôi không đƣợc phát thêm gì
cả. Toàn đại đội chỉ có hai khẩu trung liên. Chúng tôi đang ở đâu, các đơn vị láng giềng
bố trí ở đâu, đâu là hậu phƣơng, pháo yểm trợ chỗ nào – chúng tôi đều không đƣợc biết.
Từ những tiếng đất rung chuyển rầm rầm và tiếng nổ gần đấy, chúng tôi nhận ra mình
đang ở rất gần trận tuyến. Đại đội trƣởng đảo tới đảo lui và thúc chúng tôi đào hào cật lực.
Dù sao chúng tôi cũng không đào xong! Trƣớc khi chúng tôi kịp làm bất cứ chuyện gì,
bọn “Messers” (tên gọi loại máy bay Đức Bf-109 do lính Nga đặt - Valeriy Potapov) bay
là là về phía chúng tôi, theo sau là mấy chiếc “Shtuckas” (tên gọi loại máy bay Đức Ju-87
do lính Nga đặt – Valeriy Potapov). Chúng không tấn công chúng tôi mà bay tới một thị
trấn nhỏ ở phía tay phải chúng tôi. Tại đó chúng bị máy bay tiêm kích của ta chặn lại và
một trận đánh dữ dội bắt đầu.
Những tiếng nổ đã vang tới rất gần, dƣờng nhƣ tôi đã nghe thấy tiếng gầm gừ của
động cơ – XE TĂNG!!! Tuyến phòng thủ của chúng tôi nằm phía sau một ngọn đồi lớn.
Tôi liên tục nhìn lên đỉnh đồi. Tôi thấy đội cảnh vệ tiền tiêu của chúng tôi xuất hiện ở
đỉnh đồi và chạy về phía chúng tôi. Họ chạy tới đại đội trƣởng, giải thích gì đó với anh ta
và chúng tôi nhận đƣợc lệnh: “Sẵn sàng chống lại xe tăng!” – mặc dù tất cả chúng tôi đều
biết điều gì đang xảy ra – chúng tôi đều không còn là tân binh. Chúng tôi nấp dƣới những
dãy hào hố mới đào xong một nửa, cố gắng nguỵ trang thân mình bằng cành cây, đất cát
và bằng tất cả những gì chúng tôi tìm thấy đƣợc.
Tất nhiên, chúng tôi biết mình chết chắc – chúng tôi không có pháo chống tăng,
không có súng máy – thật vô vọng để chống lại xe tăng. Chúng tôi có lựu đạn, nhƣng thật
khó đánh gục xe tăng bằng quả lựu đạn cầm tay!
- Vấn đề nằm ở đâu?
- Vấn đề là xe tăng đƣợc làm bằng thép còn con ngƣời thì không. Chúng sẽ bắn
súng máy và pháo vào anh. Chúng cũng có thể nghiền nát anh. Nói chung rất khó để hạ
một chiếc xe tăng, và đặc biệt rất khó khi dùng lựu đạn cầm tay. Nếu tổ lái là tân binh thì
anh còn có cơ hội, nhƣng nếu có lính cựu trong xe thì gần nhƣ là không thể. Điều bất
hạnh ở chỗ anh chỉ biết đƣợc điều đó khi chiếc xe tăng thình lình quay lại và nghiền nát
anh. Hay khử anh bằng súng máy. Nhân tiện tôi hỏi, anh dùng từ “hạ gục” là có ý gì?
Chúng ta có loại lựu đạn chống tăng, nhƣng chúng vô dụng khi chống lại xe tăng hạng
nặng. Không phải lựu đạn nào cũng đốt cháy đƣợc xe tăng! Phải là ngƣời đƣợc luyện tập,
lạnh lùng và có kinh nghiệm. Anh không có nhiều cơ hội để tiến lại gần chiếc xe tăng, và
anh còn ít cơ hội hơn nữa để chạy xa khỏi xe tăng nếu không hạ đƣợc chúng. Trong phần
lớn trƣờng hợp chúng tôi cố phá hỏng xích xe. Sau đó thì dùng đến bộc phá. Tổ lái không
cần phải bỏ một chiếc xe bất động, chúng có thể ở lại và tiếp tục chiến đấu. Anh luôn
phải đốt cháy xe.
Đây là bức ảnh bạn tôi, Alexander Shulgin, chụp vào mùa thu 1943. Tôi rất mong
các anh công bố bức ảnh này, bức duy nhất của anh ấy mà tôi có – anh đã hy sinh khi
đang chiến đấu ngày 3 tháng Tƣ năm 1944.
- Lúc đó thậm chí chúng tôi còn không có cả chai cháy ("Molotov Cocktails" –
Valeriy Potapov) Chúng tôi chỉ có lựu đạn cầm tay, hầu hết là loại “quả dứa” (loại F1 -LTD). Vừa lúc ấy có vài ngƣời xuất hiện trên đỉnh đồi – họ chạy hết tốc lực về phía
chúng tôi. Điều đó có nghĩa là tuyến phòng thủ của chúng tôi đã hoàn toàn bị bẻ gãy và
đám xe tăng cùng bộ binh cơ giới (Panzergrenadier) sắp ùa về phía chúng tôi.
- Sao lại có bộ binh cơ giới?
- Bọn Đức thƣờng làm thế – xe tăng tiến công, theo sau là bộ binh cơ giới. Đấy là
lý do tại sao các đợt tấn công của chúng thật mạnh mẽ.
- Rồi điều gì xảy tiếp?
- Xe tăng Đức xuất hiện ở đỉnh đồi. Khoảng một chục chiếc cùng tiến - chúng
phóng tới trƣớc với một tốc độ rất cao và bắn súng máy vào đám bộ binh của ta đang bỏ
chạy. Tôi nhớ lại cái suy nghĩ ngu ngốc – “NÓ đấy !” – đã lƣớt qua đầu tôi lúc đấy. Thật
đáng sợ – một đợt tấn công của xe tăng! Chúng thậm chí nã pháo liên tục. Điều đó gây ấn
tƣợng kinh khủng lên đám lính thiếu kinh nghiệm, mặc dù hầu nhƣ không thể bắn chính
xác khi đang di chuyển. Nhƣng gây ảnh hƣởng tinh thần ghê gớm! Tôi cũng bị dao động,
dù trƣớc đó đã có kinh nghiệm về kiểu tấn công thế này. Tôi biết điều chính yếu là không
đƣợc bỏ chạy, dù đôi chân chỉ chực cuốn phăng tôi đi. Chúng tôi phải để cho xe tăng tiến
qua vị trí của mình rồi chặn đứng bọn bộ binh cơ giới. Thế nhƣng đám xe tăng quay lại
và lăn dọc tuyến phòng thủ của chúng tôi, hầu nhƣ sắp nghiền nát chúng tôi ra. Tôi trông
thấy một trong những chiếc xe tăng đó nghiến trúng một quả mìn và nổ tung...
- Những quả mìn ở đâu ra?
- Kỹ sƣ công binh của trung đội đặt chúng để gài mìn con đƣờng. Hai chiếc xe
tăng bị hạ bởi những quả mìn đó, một chiếc bốc cháy còn chiếc kia, xích bị đứt tung, vẫn
tiếp tục bắn rất lâu trƣớc khi bị bao trùm bởi ngọn lửa. Tôi muốn nói với anh một điều –
tất cả nghe thì có vẻ anh hùng, thế nhƣng không có gì anh hùng trong trận đó cả. Tôi
trông thấy một chiếc tăng Panther của Đức với xích xe nhuộm đỏ. Chúng đỏ lên vì dính
máu, nhƣng mãi sau tôi mới nhận ra điều đó. Tôi không còn nhớ mình đã nghĩ gì trong
suốt trận đánh đó. Tôi chỉ còn nhớ mập mờ về nó. Họ nói rằng tôi đã hạ gục một xe tăng,
nhƣng tôi không chắc đấy có phải “do tôi hạ” không. Tất nhiên, các vị lãnh đạo cần
những anh hùng còn sống chứ không phải những ngƣời đã chết. Đó là lý do tại sao trong
bệnh viện (đây là lần bị thƣơng cuối cùng của Ivan Ignatievich – ông bị mất một chân
trong trận này – Valeriy Potapov) tôi đƣợc nhận Huân chƣơng Vẻ vang.
Sau này tôi đã quay lại nơi đấy một lần (thị trấn Komarno thuộc Hungary –
Valeriy Potapov). Năm 1985 họ đƣa chúng tôi tới đó nhân dịp Ngày Chiến thắng. Tôi đã
tới viếng nghĩa trang. Tất cả các bia mộ đều đƣợc khắc cùng một ngày – 19 tháng Hai,
1945. Chuyện là thế đấy.
Phỏng vấn: Valeriy Potapov
Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
HỒI ỨC LÍNH BỘ BINH
Nikolai Obryn'ba
Tôi ba lần căm thù những kẻ mà,
vì gây ra chiến tranh,
đã buộc tôi phải giết ngƣời
Nikolai Obryn'ba, năm 1943.
Đầu đội những chiếc mũ sắt vuông cạnh, hai ống tay áo xắn cao, tiểu liên lăm lăm
trong tay, bọn Đức tiến thành một hàng dài dọc con đƣờng làng, chốc chốc lại nã một loạt
đạn, đó đây có những binh lính ta chui ra khỏi chỗ ẩn nấp để đầu hàng. Leshka (hay
Lesha hoặc Leshka đều là tên gọi thân mật của Alexei – Oleg Sheremet) nhảy lên phía
trên chỗ tôi:
"Chúng đang ở rất gần rồi!"
Chúng tôi giấu những khẩu súng của mình xuống dƣới lớp rơm, lúc này đã có thể
nghe thấy tiếng chúng nói:
"Rus! Los, los!" (tiếng Đức: “Bọn Nga kia! Nào, ra nào!” – LTD.)
Bọn Đức cƣời lớn và đƣa chúng tôi tới nhập vào nhóm binh lính ta đang đứng xa
xa, có hai tên lính đứng gác.
Chúng tôi đứng đằng trƣớc một ngôi nhà trong làng, chia từng nhóm 3 đến 4
ngƣời, và rồi, sau khi nhóm bên trong đi ra, một nhóm tù binh mới đƣợc dẫn vào trong
nhà. Tại đó họ bị lục soát, kiểm tra giấy tờ từng ngƣời và tìm xem có ai giấu vũ khí trong
ngƣời hay không.
Tôi bƣớc vào ngôi nhà. Một lớp rơm vàng mới tinh đƣợc phủ lên trên sàn nhà,
một trong những chiếc cửa sổ đƣợc che bằng một tấm chăn, trong phòng có chừng năm
tên Đức, gồm cả một tên thiếu uý hãy còn trẻ. Chúng bắt chúng tôi tháo balô, mặt nạ
phòng độc ra và đặt tất cả lên bàn, và bắt đầu lục soát cẩn thận. Một tên trong bọn tìm
thấy mẩu salo (mỡ lợn muối – Oleg Sheremet.) trong túi của tôi, phủ đầy vụn bánh mì.
Hắn lẳng lặng bỏ nó vào túi mình, cùng một miếng đƣờng còn sót lại mà tôi định để dành
phòng những khi thiếu thốn.
Lục tung chiếc túi cứu thƣơng của tôi, bọn Đức không lấy đi món gì, ngoại trừ sau
khi tìm thấy một hũ đựng mật ong bên ngoài có dán nhãn một loại thuốc nào đó, xoay
xoay nó trong lòng bàn tay một lúc lâu, ngửi ngửi nhƣng rồi cho rằng đó là một loại
thuốc và ném trả nó lại vào trong túi. Một tên Đức vừa tuột chiếc thắt lƣng có khảm
những miếng đồng kiểu Cápcadơ khỏi quần tôi rồi đeo thử nó vào ngƣời, vừa nói: "Đồ
lƣu niệm, gut, gut..." Tôi hiểu ra rằng chúng đang lấy đi bất cứ thứ gì của chúng tôi mà
chúng thích, và sự đê tiện này làm tôi thấy kinh ngạc: tại sao một ngƣời lính lại đi lấy
một miếng đƣờng, một mẩu mỡ lợn, một chiếc khăn tay còn sạch của một ngƣời lính
khác?
Thế rồi một tên feldwebel (hạ sĩ quan) tóc đỏ mặt đầy tàn nhang lôi cuốn album
có chứa những bức vẽ của tôi về cuộc đời quân ngũ từ chiếc túi đựng mặt nạ phòng độc
ra, miệng nói "kunstmaler, kunstmaler" (nghệ sĩ), và xem nó một cách chăm chú. Đám
còn lại vội đặt balô của chúng tôi sang một bên và cũng bắt đầu chăm chú nhìn, ngón tay
chỉ trỏ, miệng cƣời thích thú. Tên thiếu uý cấm lấy cuốn album, xem qua nó rồi tra hỏi tôi:
"Từ đâu tới?"
Tôi trả lời:
"Moskau, kunstmaler Akademie." (tiếng Đức: “Ở Maskva, Học viện Nghệ thuật”
- LTD)
Điều này làm hắn chú ý. Mở cuốn album ra chỗ một trang còn trống, hắn chỉ ngón
tay vào đấy, rồi chỉ ngƣợc lại vào ngƣời hắn, miệng nói:
"Zeichnen, zeichnen portrait." (tiếng Đức: “Vẽ đi, vẽ chân dung tao này” – LTD)
Tôi lấy ra một chiếc bút chì và bắt đầu phác thảo chân dung của hắn. Bọn Đức và
những tù binh còn lại đờ ngƣời ra quan sát. Năm phút sau tất cả đều đã nhận ra chân dung
tên thiếu uý và bắt đầu xì xào: "Gut! Prima!.." (tiếng Đức: “Tuyệt! Số một!” - LTD) Tôi
xé tờ giấy có vẽ bức chân dung ra và đƣa nó cho tên thiếu uý. Hắn quan sát nó thật tỉ mỉ
rồi nhét vào trong túi áo.
...Ngày thứ mƣời bốn của cảnh bị giam cầm. Đã tới Holm-Zhirkovskiy. Sau mƣời
ngày phải chờ sau hàng rào kẽm gai nơi chúng nhồi nhét những tù binh từ con số 350
ngàn ngƣời bị bọn Đức bao vây hồi tháng Mƣời năm 41 ở Viazma, chúng bắt đầu dẫn
chúng tôi đi về phía tây, dọc theo một con đƣờng lớn. Trong mƣời ngày đó chúng không
cấp cho chúng tôi cả thức ăn lẫn nƣớc uống, và chúng tôi phải ngồi chen chúc ngoài trời
không mái che. Những đợt tuyết sớm rơi vào khoảng đầu tháng Mƣời của năm đó, trời rất
lạnh và thời tiết thật ẩm ƣớt khó chịu. Tại đây, lần đầu tiên trong đời, chúng tôi phải
trông thấy cảnh những con ngƣời đang khoẻ mạnh đã ngã ra chết vì đói nhƣ thế nào.
Chúng tôi đi đến ngày thứ tƣ trên con đƣờng quốc lộ Warsaw dẫn về Smolensk,
nghỉ chân tại những khu trại đƣợc bố phòng đặc biệt, bao quanh bởi những hàng rào kẽm
gai và các tháp canh có đặt đại liên, chúng rọi đèn pha vào chúng tôi xuyên suốt qua màn
đêm. Đi bên chúng tôi là một hàng dài những tù binh bị thƣơng – nằm trên những chiếc
xe ngựa thƣờng, những xe ngựa hai bánh hay đi bộ. Phần đuôi của đoàn tù binh, rải dài từ
ngọn đồi này qua ngọn đồi nọ, kéo ra cho tới tận đƣờng chân trời. Tại những điểm dừng
chân và dọc trên suốt chặng đƣờng đi nằm rải rác hàng ngàn xác ngƣời chết vì đói và rét.
Những kẻ còn ngắc ngoải bị bọn lính bắn hạ bằng tiểu liên, một tên lính gác giơ chân đá
vào một tù binh đã ngã và, nếu anh ta không thể đứng dậy kịp thời, hắn liền nổ súng. Tôi
theo dõi trong khiếp hãi cảnh chúng biến những con ngƣời khoẻ mạnh dần thành những
những kẻ hoàn toàn kiệt quệ và cuối cùng là tới cái chết. Mỗi lần trƣớc khi chúng tôi khởi
hành, đám lính gác cầm dùi cui lại tập hợp dọc hai bên hàng ngƣời, tiếp theo là một mệnh
lệnh vang lên:
Trên đƣờng di chuyển. Tháng Mƣời năm 1941
Cảnh tù binh đang lột da một xác ngựa.
Đƣợc vẽ ở mặt sau của một tờ truyền đơn Đức.
"Tất cả mọi ngƣời, chạy!"
Đám ngƣời co chân chạy, cùng lúc đó những cú quật văng xối xả vào chúng tôi.
Chạy đƣợc khoảng một – hai kilômét, một mệnh lệnh khác lại ban ra:
"Dừng lại!"
Nghẹt thở, nóng bức, mồ hôi đầy mình, chúng tôi dừng lại, và chúng thƣờng để
chúng tôi cứ đứng nhƣ thế trong mƣa và tuyết, vặn mình dƣới những ngọn gió buốt lạnh
thấu xƣơng suốt cả tiếng đồng hồ. Những bài luyện tập đó đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần,
kết quả là sau đó chỉ những ngƣời khoẻ mạnh nhất là còn bƣớc đi trên đƣờng. Rất nhiều
đồng chí của chúng tôi phải nằm lại đó, và những phát súng lẻ tẻ vang lên – bọn chúng
đang kết liễu những ai không thể đứng dậy đƣợc.
Đôi khi chúng dồn chúng tôi đi sang hai bên đƣờng, điều này nhằm mục đích dọn
sạch những quả mìn; nhƣng chỉ có những quả mìn cá nhân bị nổ, sức nặng của chúng tôi
không đủ để kích nổ những quả mìn chống tăng, và khi chúng cho những chiếc xe đi qua
các ngả đƣờng đã đƣợc dọn, xe của chúng thƣờng bị nổ tung.
Đoàn chúng tôi dừng lại vì một chiếc ôtô Đức vừa trúng mìn, tôi rút cuốn sổ tay
của mình ra và bắt đầu phác lại cảnh đó. Đột nhiên một tên lính cƣỡi ngựa phi tới chỗ tôi
và giơ chiếc roi lên, nhƣng may thay viên đại tá đang đi chiếc xe mui trần cạnh đó gọi
hắn quay lại. Tên đại tá gọi tôi tới, hỏi xem tôi đang làm gì. Tôi đáp rằng mình là một
nghệ sĩ đang vẽ. Hắn xem các bức phác thảo và nói:
"Anh không đƣớc phép. Anh không đƣợc vẽ cảnh các binh sĩ Đức hy sinh.”
Tôi lẩn vào đám tù binh đang đi qua một con đƣờng bị rải mìn, ở đó chúng sẽ
không thể tìm ra tôi.
...Tuyết đang tan và ráng chiều lặn xuống nhợt nhạt, bóng đen của những ngƣời
đang xây dựng một cây cầu nổi lên trên đó, hình dáng chiếc cầu cùng với những mố trụ
trông nhƣ bộ xƣơng của một con cá khổng lồ. Chúng tôi đã tới Yartsevo, đoàn tù binh
kéo vào một khu bao quanh bởi hàng rào kẽm gai, nằm trên khu đất của một nhà máy sản
xuất gạch bỏ hoang. Nó đƣợc chia thành nhiều gian với những tháp canh đặt trên những
chiếc cột mảnh khảnh, trong đặt những ụ súng máy – chiếc tháp canh trông nhƣ một con
nhện.
Tôi mang chiếc túi đựng bông băng và thuốc mangan trên vai đi dọc suốt đoàn tù
binh. Hai đồng đội của tôi, Sasha (hay Sasha hoặc Sashka đều là tên gọi thân mật của
Alexander – Oleg Sheremet) Lapshin and Alexei Avgustovich, cùng tôi, những sinh viên
của Học viện Nghệõ thuật Maskva, đều là y tá cứu thƣơng. Chúng tôi nảy ra ý đăng ký
vào một bệnh viện để chữa trị các tù binh bị thƣơng. Chúng tôi rời khỏi hàng và giải thích
đề nghị của mình với một tên lính gác, hắn kêu một tên polizei (cảnh binh) tới và bắt tên
kia đi gọi một bác sĩ. Chúng tôi đứng lại chờ, một dòng ngƣời đang kiệt sức đi ngang qua
chúng tôi, họ cố bƣớc để giữ cho chân mình đừng đổ gục xuống. Cuối cùng ngƣời bác sĩ,
cũng là một tù binh, đã tới. Đáp lại lời đề nghị của chúng tôi, anh ta nói rằng mình đã có
nhiều bác sĩ hơn là cần thiết, nhƣng lại quá ít y tá. Nhƣng đột nhiên, nhƣ chợt nhớ ra điều
gì, anh ta chấp nhận chúng tôi vào trại để chữa chạy cho những ngƣời bị thƣơng nặng.
Chúng tôi vui mừng đồng ý.
Tên polizei (cảnh binh) dẫn chúng tôi đi qua nhiều khu vực có rào kẽm gai để tới
một căn lán gỗ. Lúc này bên ngoài trời đã tối. Một ngƣời to con mở cửa cho chúng tôi,
anh ta là ngƣời phục vụ ở đây. Sau khi cho chúng tôi vào, hắn lập tức đóng cửa lại. Trong
bóng tối chúng tôi không trông rõ cái gì, nhƣng mùi hôi của da thịt thối rữa lập tức chọc
vào mũi chúng tôi. Chúng tôi nép mình vào bức vách gỗ, những khe hở của nó cho phép
chút không khí trong lành và ánh sáng le lói lọt qua. Ngƣời phục vụ theo dõi chúng tôi
với thái độ thù địch không cần che đậy, tôi không tài nào hiểu đƣợc lý do sự bất mãn của
y. Cuối cùng y thốt lên:
"Ở đây không có chỗ nào để ngủ hết. Các bác sĩ không tới đây. Tất cả những
ngƣời bị thƣơng ở đây đều đã vô hy vọng.”
Sửng sốt trƣớc sự tàn nhẫn không giấu diếm của hắn, thậm chí hắn cũng không
thèm hạ thấp giọng, chúng tôi im lặng không trả lời.
"Dù sao thì họ cũng sẽ chết,” hắn lại tiếp tục. "Thế các anh sẽ làm cái gì ở đây?”
Tôi tuyên bố một cách kiên quyết:
"Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì để giảm bớt đau đớn cho những ngƣời này, nói
chung là tất cả những gì trong khả năng có thể. Tối nay chúng tôi sẽ nghỉ ở đây và bắt tay
làm việc vào sáng mai.”
Các giƣờng ngủ đƣợc ghép thành ba tầng. Một lối đi chỉ rộng khoảng bảy mƣơi
hay tám mƣơi xăngtimét trải dọc suốt chiều dài của chiếc lán. Mọi ngƣời nằm chen chúc
nhau, ép sát vào những ngƣời kề bên, cố gắng giữ cho mình đƣợc ấm. Có ai đó chạm vào
ống tay áo tôi và tôi nghe thấy tiếng thều thào rên rỉ:
"Bác sĩ, bác sĩ, xin hãy cứu tôi, tôi muốn sống, tôi có một ngôi nhà với khu vƣờn
và lũ trẻ, ba đứa cả thảy, bác sĩ ơi, cắt tay tôi đi, nó đau lắm, chỉ cần sống là đƣợc… “
Một cơn nghẹn dâng lên trong họng tôi, nhƣng, cố gắng kìm mình lại, tôi trả lời
bằng cách kiên quyết nhất mà tôi có thể làm đƣợc:
"Tôi sẽ khám và chữa cho tất cả mọi ngƣời vào ngày mai. Hiện giờ thì không
đƣợc, trời quá tối.”
Tôi không có đủ can đảm để thú nhận rằng mình không phải là một bác sĩ bởi
không muốn làm cho những con ngƣời đang ngắc ngoải kia buông xuôi, không muốn lấy
đi hy vọng của họ. Các bạn tôi đứng đó không thốt nổi nên lời, bị giằng xé bởi lòng
thƣơng xót và cảm giác bất lực trƣớc những đau đớn của họ.
Gã “phục vụ” đã leo lên chiếc giƣờng của hắn đặt tại một ngăn riêng trong căn
nhà, còn chúng tôi chui xuống những chiếc hố phía dƣới giƣờng, chật vật xoay sở trong
khoảng trống chật hẹp, và cuối cùng cũng thu xếp đƣợc chỗ để nằm nghỉ.
Trên đƣờng đi. Tháng Mƣời năm 1941. Cái rãnh bên đƣờng. Tháng tƣ năm 1942.
Trên đƣờng đi các tù binh thƣờng đổ xô tới các xác ngựa, cố xé lấy cho mình một
miếng thịt đã đóng băng. Bọn gác đôi khi nổ súng để ngăn chặn. Ở phía bên phải là một
cái rãnh chất đầy xác tù binh tại trại Borvukha-1. Những chiếc rãnh trải rất dài, hơn 3.000
xác chết đƣợc ném vào mỗi rãnh nhƣ vậy. Sau đó những rãnh mới sẽ đƣợc đào tiếp. Bức
vẽ đƣợc thực hiện trên mặt sau của một tờ truyền đơn Đức. Nếu phạm tội xé rách một tờ
truyền đơn – kẻ phạm tội sẽ bị xử bắn; nếu vi phạm nội dung tờ truyền đơn – sẽ bị treo cổ.
Không khí thật ngột ngạt, nhƣng mùi hôi dần trở nên đỡ khó chịu hơn, sự mệt mỏi
đã choán chỗ tất cả. Tôi nhắm mắt lại và lập tức hình ảnh con đƣờng ƣớt át trơn trƣợt bắt
đầu chập chờn trƣớc mặt tôi, cùng với những xác chết, xác chết, xác chết... Chúng tôi
nằm không nhúc nhích trong chiếc hố giữa những đau đớn, mê sảng, chết chóc, và mặc
cho sợ hãi, thậm chí chúng tôi đã bắt đầu thấy dễ chịu, ngƣời ấm dần lên, và từ từ chúng
tôi đi vào giấc ngủ. Đột nhiên một thứ chất lỏng ấm ấm xối từ trên xuống, lập tức chân
tôi bị ƣớt sũng. Ban đầu tôi không hiểu đó là cái gì, nhƣng rồi Sashka nói:
"Tôi bị ƣớt khắp ngƣời rồi, những ngƣời bị thƣơng đang đái lên chúng ta đấy.”
Buổi sáng xám xịt, nhớp nháp đã tới. Ngay khi chúng tôi chui ra khỏi chỗ nằm
của mình, mọi ngƣời ở đó đều đã hiểu rằng các bác sĩ đã tới. Bọn Đức không cấp chút
nƣớc nào cho những ngƣời bị thƣơng, họ chỉ đƣợc phát một cốc nƣớc trà hoặc cà phê –
một thứ chất lỏng đùng đục có màu nâu – vào mỗi buổi sáng. Nhƣng tôi cần có nƣớc sôi
để bắt tay vào làm việc.
Một cảnh đƣợc mô tả chi tiết. 1942
Để lấy nƣớc tôi phải tìm mọi cách để tới đƣợc khu bếp ở trong trại. Nó đƣợc đặt
trong một cái lán rộng, lửa đƣợc giữ bằng cách nhét thẳng củi vào dƣới những chiếc nồi
đang treo lơ lửng, có khoảng hai mƣơi cái nhƣ vậy. Họ khuân tới đây những xác ngựa
chết đƣợc nhặt dọc đƣờng, xả chúng ra và ném những súc thịt lớn vào những chiếc nồi
đầy nƣớc, rồi họ lấy thịt ra và chặt thành từng mảnh nhỏ. Tôi nhƣ nghẹn thở trƣớc cảnh
ngƣời ta đang mang tới những con ngựa đặt trên những chiếc xe ngựa hai bánh do ngƣời
kéo. Mọi thứ xung quanh đều phủ đầy khói và mồ hóng, làn khói dầy đặc màu xám có
pha sắc hồng, toé ra những tia lửa, bay trên những chiếc nồi treo lơ lửng, bị những lƣỡi
lửa đỏ quạch từ dƣới phụt lên. Những con ngƣời vàng vọt xám xịt với vành mũ buông
xuống che kín hai tai đang lột da những xác ngựa treo lơ lửng. Một cái bóng khổng lồ của
ai đó, lắc lƣ thành thạo giữa những đám mây khói và hơi nƣớc đang bay lên và tản ra,
biến mất dần dƣới mái của chiếc lán khổng lồ. Tất cả những điều đó trông tựa nhƣ trong
đoạn mô tả Cảnh Địa ngục của Dante; điều đáng sợ nhất trong tất cả những thứ đó là tôi
không hề nghe thấy bất cứ một giọng nói nào, tựa hồ nhƣ tất cả mọi ngƣời đều đã câm
tiếng.
Chật vật lắm tôi mới tìm thấy một bình nƣớc sôi và chúng tôi liền bắt tay vào việc.
Phần lớn những ngƣời bị thƣơng chỉ mới đƣợc băng bó sơ sài ngay trên chiến trƣờng.
Một vết thƣơng đã đƣợc băng thƣờng đƣợc quấn thêm bên ngoài bằng những chiếc xà
cạp. Khi vừa tháo lớp băng cũ ra, tôi phát mửa bởi mùi hôi thối từ vết thƣơng. Sasha và
Alexei lập tức bị loại khỏi công việc, tôi phải đặt họ nằm ra ngoài hàng hiên chỗ gần bức
tƣờng. Lớp băng mới tôi quấn cho những ngƣời bị thƣơng rất chắc chắn gọn gàng, tôi rửa
sạch vết thƣơng bằng mangan và băng nó lại, ấn tƣợng của lớp băng mới đem lại cho
ngƣời bị thƣơng một cảm giác hy vọng sẽ chóng lành bệnh. Khi tôi tìm thấy ngƣời đồng
hƣơng “với khu vƣờn” của mình (anh ta phát âm với giọng Ukraina - Oleg Sheremet),
anh ta đã chết, có lẽõ anh bị hoại thƣ từ trƣớc đó.
Chỉ những ngƣời bị thƣơng nặng đƣợc tập trung ở đây, tôi thậm chí đã phải tiến
hành một cuộc phẫu thuật – cắt rời bằng con dao phần còn lại của một cánh tay bị dập nát.
Bệnh nhân của tôi bất tỉnh, tôi cho anh ta ngửi nƣớc đái quỉ (ammonia) và quay sang tiếp
tục làm việc. Khi anh ta nhìn thấy cánh tay cụt của mình đã đƣợc quấn một lớp băng
trắng tinh, một thoáng cƣời hiện lên đôi môi xám nhợt của anh. Hay ít nhất cũng gần nhƣ
vậy, bởi ngay lúc đấy mọi thứ trở nên chao đảo trƣớc mắt tôi, tôi cảm thấy buồn nôn...
Khi tỉnh lại, có ai đó dúi một điếu thuốc vấn bằng makhorka (loại thuốc lá mạnh và rẻ
tiền – Oleg Sheremet) vào môi tôi, thứ này gần đây đã trở thành vô cùng có giá trị, do đó
có thể hiểu đây là biểu hiện của lòng biết ơn vô hạn từ bệnh nhân của tôi. Và rồi lại quay
về với việc băng bó: đầu, bụng, hạ bộ – thật là một vị trí vô cùng bất tiện để quấn băng.
Alexei và Sasha phân phát thức ăn cho ngƣời bị thƣơng, xua ngƣời phục vụ đi, hắn
thƣờng không thƣơng xót đánh cắp thức ăn của họ. Ngoài trời mƣa tuyết đang rơi, hàng
đoàn tù binh mới vẫn tiếp tục dồn tới. Một nhóm ngƣời mới đến chạy tới căn lán của
chúng tôi, họ gõ cửa đề nghị chúng tôi mở ra và cho họ vào. Tôi biết rằng nếu thậm chí
chỉ một ngƣời trong bọn họ bắt đầu phá vỡ một tấm vách để lọt vào trong – căn lán sẽ bị
phá sập, đập nát trở thành củi đốt. Sau khi tƣởng tƣợng ra hình ảnh đó, tôi đeo chiếc túi
có chữ thập đỏ của mình lên vai và bƣớc ra ngoài, chắn ngang cánh cửa bằng thân hình
của mình. Đám đông những con ngƣời đau khổ đó gầm lên đầy đe dọa và bắt đầu xô đẩy
nhau. Đột nhiên, một kẻ trong bọn họ nhảy tới phía tôi:
"Hãy để tôi vào!"
Tôi đá vào bụng hắn, hắn lập tức đổ xuống và bắt đầu rên rỉ. Tôi cảm thấy chua
xót và xấu hổ. Tôi quan sát khắp những khuôn mặt xanh xám vì lạnh, đang nhìn tôi qua
những hốc mắt tối sẫm, rồi nói:
"Những ngƣời bị thƣơng nặng đang ở đây. Thậm chí ở đây không còn chỗ cho
những ngƣời cứu thƣơng chúng tôi. Chúng tôi đang băng bó những ngƣời bị thƣơng, và
nếu lúc này họ không đƣợc bảo vệ, tất cả bọn họ sẽ chết hết.”
Đám đông xám xịt ngập ngừng, nhƣng rồi một tên trong bọn hét lên:
"Các anh nghe lời lũ chó này làm gì?! Chết lũ con hoang này đi!”
Trong một giây thoáng qua tôi nhận ra rằng bản năng giết chóc hiện đang chiếm
số đông, trong khi tôi đang đứng đơn độc chống lại tất cả bọn họ – điều đó thật kinh
khủng và bất công; cứ nhƣ thể họ đang tự bào chữa cho mình bằng sự đồng thuận của số
đông, nhƣ thể họ muốn xé tan thành từng mảnh và giết chết không chỉ một ngƣời y tá
đang bảo vệ những kẻ bị thƣơng – giết chết tôi, họ sẽ giết đƣợc một lực lƣợng đen tối nào
đó đang muốn tiêu diệt họ. Và tôi cất tiếng hét lớn. Tôi không thể phô bày sự yếu đuối
của mình. Trong tiếng hét đó tôi trút xuống họ quyền năng của lời buộc tội sự tàn nhẫn
đối với những ngƣời bị thƣơng và tàn phế – để cho họ không còn gì dể bào chữa nữa.
Đám đông rút lui. Tôi gục xuống, run rẩy vì những gì mình vừa phải trải qua.
Không còn ai dám tới khu lán lần nữa, nhƣng chúng tôi vẫn giữ cảnh giác suốt
đêm hôm đấy.
Sang ngày thứ ba nguồn thuốc của tôi đã cạn sạch, tôi cảm thấy choáng váng vì
kiệt sức, vì những đau đớn về tinh thần; dƣờng nhƣ tôi đang bắt đầu thối rữa tựa nhƣ
những thƣơng binh của mình. Tôi vẫn còn hũ mật ong đƣợc cất kín, trong có cả sáp và
ong non, phòng cho những tình huống nhƣ hiện giờ tôi đang trải qua. Tôi quyết định đem
chia chỗ mật cho ba ngƣời chúng tôi, nhƣng gã phục vụ lại gần và khuyên chúng tôi đổi
mật ong cho đám đầu bếp để lấy thịt ngựa. Sau một hồi thƣơng lƣợng qua hàng rào thép
gai, chúng tôi đồng ý đổi nó cho một tay đầu bếp, cũng là một tù nhân, anh ta đã có đủ
thịt ngựa và muốn kiếm món gì khác ngon miệng hơn. Chúng tôi đƣa anh ta mật ong, và
tôi sẽ tới chỗ anh ta vào ban đêm, khi thịt ngựa đã chín, lấy về một cái đùi để đổi lấy chỗ
mật cho tay đầu bếp lúc đó đã đƣợc ăn no đủ. Tay đầu bếp – một thợ đào than to con
vùng Donbass có cặp lông mày đen tên là Anton, anh ta nói giọng pha lẫn âm Ukraina và
Nga, đặc điểm của ngƣời miền Nam Ukraina – bảo:
"Đừng lo, tôi sẽ đƣa ngay cho anh chiếc đùi khi anh vừa tới. Nhớ đừng để bị bắt
bởi bọn polizei (cảnh binh Ukraina) đứng canh cổng."
Tôi phải trƣờn dƣới lớp kẽm gai của cái hàng rào ngăn chia căn lán chúng tôi với
khu sân bếp, chạy băng qua cái sân mà không bị phát hiện, rồi đột nhập vào đằng cửa bếp
ngay trƣớc mặt một tên cảnh binh (polizei).
Anton bảo rằng nồi của anh ta nằm hàng thứ hai tính từ giữa phòng. Và quả thế,
tôi đã tìm đƣợc đúng anh ta.
"Tốt, hãy xem đây, anh đã tìm ra tôi, dù anh rất sợ bị bắt. Mật ong của anh đã
đƣợc sử dụng vào mục đích tốt, tôi có một ngƣời bạn bị bệnh, anh ta cần đƣợc uống trà
với mật ong. Đây, hãy lấy chiếc đùi phần anh đi.”
Anh ta lôi một chiếc đùi ngựa khổng lồ từ trong nồi ra, nó đang bốc khói nên
không thể cầm mang đi ngay đƣợc. Tôi để cho nó nguội đi một chút rồi nhét nó vào dƣới
nách, cuộn lại bằng chiếc chăn màu đỏ của Tonia, vật đã cứu mạng tôi không biết bao
nhiêu lần. Tôi luồn ra phía cửa, nhƣng chƣa kịp bƣớc qua ngạch cửa thì đã nghe tiếng tên
cảnh binh gọi giật lại:
"Mày mang cái gì vậy?!” – và chộp lấy cái chăn.
Không cần nghĩ ngợi, tôi giật phắt ra và, với đầu óc thật tập trung tỉnh táo, chạy
nhanh về góc nhà bếp. Tên polizei vồ trƣợt và ngã xuống, xé rách một mảnh của chiếc
chăn, hét toáng lên: "Bắt nó lại! Bắt nó lại!.." Một cú đẩy nữa và tôi chạy ra nhanh nhƣ
cắt, Sasha đang chờ sẵn ở ngoài kia, tay nhấc cao cái hàng rào kẽm gai. Một khẩu súng
máy khạc đạn dọc theo hàng rào, nhƣng lúc này tôi đã đƣợc kéo an toàn vào trong lán,
chúng tôi đóng cửa lại và chặn ngang nó bằng một chiếc gậy. Chúng tôi nghe thấy tiếng
bọn polizei lùng sục, chửi rủa, chúng đang phát điên lên nhƣ thể chính bọn chúng vừa bị
trộm mất vậy, thật khó mà tƣởng tƣợng ra điều gì sẽ chờ đợi tôi ngoài sân trại vào ngày
hôm sau nếu tôi để bị chúng bắt.
Nhƣng chúng tôi đang cảm thấy hạnh phúc và ấm cúng, tay vuốt ve súc thịt hãy
còn ấm trong bóng tối. Chúng tôi chia thịt ngựa ra thành bốn phần, và rồi vồ lấy chiếc đùi
đã róc thịt. Nhoáng cái đã chỉ còn lại những chiếc xƣơng sạch nhẵn, mọi thứ đều đƣợc
cho vào bụng, vậy mà dƣờng nhƣ vẫn còn quá ít. Chúng tôi đƣa một phần cho tay lính
thủy phục vụ (đó là biệt hiệu trong trại đặt cho do chiếc áo lót kẻ sọc của anh ta), anh ta
rất vui, luôn miệng đảm bảo với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ luôn thành công nếu nghe
theo lời anh ta. Chúng tôi phát vài miếng cho những ngƣời nằm kề bên. Mọi ngƣời đều
hạnh phúc, và yên lặng, chầm chậm, xé ra từng sớ thịt một, nhai kỹ, và mọi ngƣời đều
nghĩ tới một điều gì đó thật dễ chịu... Đột nhiên, nhận ra rằng chúng tôi có thể ăn hết
ngay mọi thứ, tôi thì thào với mọi ngƣời:
"Các bạn, ăn thế đủ rồi! Cất tất cả đi, sau này nó sẽ trở thành hữu ích đấy.”
Sashka giấu phần của mình vào một cái nồi nhét trong balô, còn tôi quấn nó trong
một cái khăn mặt. Leshka, mặc dù là ngƣời gầy nhất trong bọn, khổ sở hơn tất cả chúng
tôi trƣớc khi chịu rời miếng thịt.
Chúng tôi lăn ra ngủ trong cái góc hôi hám của mình, tiếng mê sảng của những
ngƣời bị thƣơng vang lên không dứt, chốc chốc lại có ngƣời dậy đi về phía cửa, anh ta
cần cần ra ngoài nhƣng cửa đã bị gác và không cho ai ra vào. Cuối cùng mọi ngƣời nằm
yên và giấc ngủ tới, có thể nghe thấy tiếng một tên polizei hét xa xa, tôi kéo chiếc chăn
rách nát của Tonia chùm lên trên đầu.
Những tia sáng mảnh dẻ của buổi bình minh ảm đạm đã xuyên qua những chiếc lỗ
trên vách lán, Sashka đang lay tôi dậy; nhận ra tôi đã tỉnh giấc, cậu ta bắt đầu thì thầm
với tôi rằng chúng tôi cần phải rời đi, chúng tôi không thể làm thêm điều gì để giúp
những ngƣời bệnh mà chỉ tổ làm thiệt mạng chính mình. Ngay lúc đó có tiếng ngƣời gõ
mạnh vào cửa một cách hách dịch. Tôi trèo qua ngƣời Leshka, vẫn ngủ mà không biết
chuyện gì đang xảy ra, cậu ta chống trả lại bằng hết sức mình. Cuối cùng tôi tới đƣợc cửa
và mở nó ra. Ngƣời bác sĩ đã gửi chúng tôi tới đây đang đứng trƣớc mặt tôi. Anh ta ngạc
nhiên khi thấy chúng tôi, và cả hai chúng tôi đều rất mừng rỡ. Ngƣời bác sĩ đã có đƣợc
giấy do tên sếp Đức cấp cho phép chọn lấy một nhóm ngƣời bị thƣơng còn có thể tự di
chuyển đƣợc để cùng đi với đoàn tù binh tới Smolensk. Anh ta quyết định lấy chúng tôi
đi theo làm ngƣời phục vụ để hộ tống những ngƣời bị thƣơng tại đây tới địa điểm.
Thật đau khổ khi nhớ lại việc quyết định những ngƣời đƣợc chọn đã diễn ra khó
khăn nhƣ thế nào, mọi ngƣời đều hiểu là ở lại khu lán ấy có nghĩa cầm chắc cái chết.
Nhiều bàn tay vƣơn về phía chúng tôi, những ngƣời bị thƣơng đều đảm bảo với chúng tôi
là họ cảm thấy khoẻ mạnh, cố gắng tỏ vẻ dũng cảm, thậm chí hạnh phúc trên nét mặt –
nhƣng tôi nhớ lại mình đã băng những vết thƣơng ở bụng, tay và chân bị gãy nát, và hiểu
rõ những nụ cƣời cố gắng vƣợt quá sức ngƣời ấy đã bắt họ phải trả giá thế nào. Và trên
đƣờng đi, ngay lần ngã gục đầu tiên và phải chịu cú đá từ chiếc giày của tên lính gác, nếu
anh ta không thể đứng dậy, anh ta sẽ bị kết liễu ngay lập tức. Khi ấy tim anh sẽ nhƣ nảy
bật lên – anh đã chọn anh ta cùng đi, và sẽ có không biết bao nhiêu lần anh tự nhủ rằng
dù sao anh ta cũng sẽ chết, nhƣng điều đó cũng không làm anh khuây khỏa.
Một vụ xử tội. Cảnh bọn polizei đang đánh đòn tù binh. Tháng Tƣ năm 1942.
Vẽ trên mặt sau một tờ truyền đơn Đức.
Trời rất lạnh, tuyết rơi biến con đƣờng thành một hỗn hợp màu vàng sệt. Đoàn
ngƣời tập hợp lại và khởi hành về hƣớng Smolensk. Hình ảnh về những gì tôi đã trải qua
luôn chập chờn trƣớc mắt tôi: nơi đây tôi rửa sạch vết thƣơng, băng bó chúng, nắn lại
xƣơng, những gƣơng mặt méo mó vì đau đớn... Căn bếp của khu trại... Rồi kế tới là cảnh
một cuộc xử bắn: một tên feldwebel (hạ sĩ quan, cai đội) đang la hét rằng bọn Nga là lũ
lợn, còn chúng, ngƣời Đức – là một dân tộc vĩ đại; một thân mình dang chân dang tay
nằm không nhúc nhích, hai tên súc sinh polizei ngồi lên đầu và chân anh ta, còn tên thứ
ba quật mạnh vào thân hình đang run lẩy bẩy ấy, tên feldwebel đếm từng cú đánh một.
Khi lần đầu tiên nghe thấy những tiếng đánh ấy, tôi cứ nghĩ đó là tiếng ai đập bụi một
tấm đệm; sau khi tận mắt trông thấy căn nguyên tiếng động, tôi cảm thấy buồn nôn và tim
mình nghẹn lại từng chập – trận đòn thật kinh tởm; thậm chí giết chết ngƣời ta đi còn tốt
hơn. Nhƣng rồi, cái chết đâu phải xa xôi gì...
Đoàn tù binh chúng tôi bƣớc đi, mọi ngƣời nép sát vào nhau, nâng đỡ những
ngƣời bị kiệt sức. Những chiếc xe phủ bạt màu xám và xe mui trần phóng ngang qua
chúng tôi hƣớng về phía đông, chất đầy những ngƣời đang cƣời vào mặt chúng tôi, chĩa
máy ảnh vào chúng tôi, những kẻ đã bị nhiễm thứ dịch hạch nâu (chỉ bộ đồng phục màu
nâu của Đảng Quốc xã - LTD).
Vâng, đó là chiến tranh, chúng tôi đang phải đối mặt không chỉ với sự hủy diệt về
thể xác – bọn phát xít đang cố gắng huỷ diệt nhân cách của chúng tôi, niềm tin vào những
giá trị tốt đẹp của chúng tôi. Thật rất khó để tồn tại trong cái địa ngục này, nhƣng hàng
trăm ngàn lần khó hơn nữa để tồn tại mà ta vẫn còn nhân tính.
Một chiếc ôtô đi ngang làm bắn toé bùn lạnh lên mình chúng tôi, vấy lên lớp băng
trắng của những ngƣời bị thƣơng, chúng tôi nghe thấy tiếng bọn Đức cƣời đùa, tiếng kèn
ắcmônica...
Chúng tôi đƣợc chất lên một đoàn tàu tại Smolensk. Chúng lùa chúng tôi lên các
toa bằng báng súng, thúc mạnh thẳng vào lƣng chúng tôi. Đám đông xô đẩy lẫn nhau, ta
phải giữ thăng bằng trên hai tấm ván đặt dốc để lao lên, có ngƣời trƣợt chân, ngã xuống
và không thể đứng lên đƣợc. Bọn Đức la hét: "Schneller! Schneller!" (tiếngĐức: “Nhanh
lên! Nhanh lên!” – LTD.), bọn polizei chửi rủa. Cùng với Alexei và Sasha, tôi leo lên
đƣợc giữa nhóm ngƣời đầu tiên, và chúng tôi xoay xở tới đƣợc một chỗ tốt trong góc toa.
Nhƣng các tù nhân vẫn đƣợc tiếp tục dồn lên toa, ngày càng chặt hơn. Chúng tôi tìm cách
ngồi đƣợc xuống, thu chân vào dƣới thân mình, nhƣng những ngƣời khác thì phải đứng.
Có khoảng hai mƣơi nữ cứu thƣơng đƣợc dồn lên toa trong đợt cuối cùng, họ chỉ còn có
thể đứng ở gần cửa toa. Cuối cùng cánh cửa kêu rít lên, chiếc then sập xuống. Nhƣng
đoàn tàu vẫn chƣa chuyển bánh. Sau chuyến đi và lần chuyển trại mọi ngƣời đều đã kiệt
sức, mặt mũi râu ria tua tủa, mũ tụt xuống tận mang tai; áo choàng không còn thắt lƣng,
rất nhiều ngƣời bị lấy mất thắt lƣng trong khi lục soát; balô và túi đựng mặt nạ phòng độc
lép kẹp, bọn Đức đã ăn cƣớp gần hết; thứ duy nhất còn lại chỉ là chiếc gà mèn đeo phía
trƣớc – vật dụng chính phục vụ cho mục đích tồn tại. Một ngƣời trung niên trông hốc hác
quị xuống trên hai chân ngay cạnh tôi, anh ta đeo một cặp kính, nhƣng một bên tròng đã
bị vỡ, và anh ta nghiêng mái đầu một cách kỳ lạ để nhìn cho rõ bằng một con mắt cận thị
của mình, một tay bịt con mắt còn lại; anh ta nói không rõ, đôi môi của anh đã phồng rộp
lên nên ta chỉ có thể nghe thấy tiếng khò khè khó nhọc phát ra từ chúng: "Nƣớc..." Nhƣng
phần lớn trong chúng tôi đã không ai còn nƣớc, và những ai còn giữ đƣợc thì giấu đi,
phòng khi chính mình sẽ phải rên rỉ giống nhƣ thế để mong làm ẩm đôi môi và cổ họng
mình. Những chiếc tăm pông tàu va vào nhau loảng xoảng, một cú nhấn, rồi một cú nữa,
toa tàu giật mạnh rồi đoàn tàu lăn bánh chậm chạp và miễn cƣỡng, những tiếng la hét trên
sân ga Smolensk tan dần vào không trung.
"Chúng đang đƣa chúng ta đi đâu?" ngƣời ở bên phải tôi thì thào.
"Chuyện ấy giờ còn ý nghĩa gì nữa?" một ngƣời khòng lƣng mặc chiếc áo choàng
xanh lá cây có khuôn mặt râu ria lởm chởm, có lẽ là một dân quân bị bắt làm tù binh
(opolchenets – thành viên của narodnoye opolcheniye, tức "dân quân vũ trang", lực lƣợng
quân sự tình nguyện không thƣờng trực đƣợc thành lập nhằm đẩy lui làn sóng quân Đức
dâng cao tại thời điểm khủng hoảng năm 1941 – Oleg Sheremet) "Ở đâu thì chúng ta
cũng bị giam cầm cả thôi. Có lẽ chúng đang chở chúng ta về Đức.”
Đoàn tàu vẫn lăn đều bánh trên đƣờng ray...
Ngƣời đứng kế bên trái tôi đã thôi khò khè và tôi cảm thấy rõ thân mình anh đang
đè nặng lên tôi, tôi cố thoát ra nhƣng không thểû, do anh ta cũng bị xô lấn từ nhiều phía
khác. Đột nhiên tôi trông thấy một dòng chất lỏng trào ra khỏi đôi môi sƣng phồng của
anh ta và đầu anh gục xuống. Hiển nhiên là anh ta đã chết. Tôi kêu lên: “Anh ấy chết
rồi.” Không có ai phản ứng, mọi ngƣời đều quay đi. Leshka nhăn mặt đau đớn, nói thầm
với tôi: "Nikolay, tôi phải làm gì bây giờ? Bụng tôi đau lắm, tôi cần phải ra ngoài.” Tôi
chật vật rút một chiếc khăn mặt khỏi túi đựng mặt nạ phòng độc ra và đƣa cho anh: "Lót
nó dƣới mình cậu đi." Leshka xoay sở với chiếc khăn của tôi, nhƣng vẫn không đủ, cậu ta
đã mắc bệnh ỉa chảy và viêm ruột. Cạnh đó, một cậu lính rất trẻ, gần nhƣ vẫn còn là một
cậu bé, đang gục dần xuống xác ngƣời nằm bên cạnh tôi, đôi mắt đảo nhanh điên dại, cậu
ta cũng đang chết khát.
Một giờ, rồi hai giờ trôi qua. Tôi nhận thấy lúc này không ai còn đứng nữa, mọi
ngƣời đều ngồi xuống, cố gắng xoay trở để giành lấy chỗ ngồi thuận tiện. Chỉ còn đám
nữ y tá là đang đứng ở gần cửa; tìm cách che chở lẫn nhau, họ cố gắng giữ mình trong kỷ
luật. Sasha đang ngồi nhắm nghiền mắt, còn tôi cảm thấy rất buồn ngủ, hay có lẽ đơn
giản là tôi sắp ngất đi, không khí ngột ngạt trong toa là nguyên nhân tình trạng này...
Đoàn tàu chạy chậm dần rồi dừng lại. Có tiếng la hét bằng tiếng Đức và tiếng ủng
nện trên sân ga. Cái gì ngoài kia vậy? Chúng tôi đang ở đâu đây? Không một ai còn đồng
hồ, vài ngƣời đã bị lấy mất trong khi khám xét, số khác đã giấu chúng đi và cƣơng quyết
không cho ai biết. Vài ngƣời thốt lên một tiếng rên nhƣ tuột khỏi cổ họng: "Aah," rồi ngã
xuống bất động. Tôi không còn ngạc nhiên khi thấy ngƣời bên cạnh mình đang ngồi trên
một xác chết, anh ta làm mấy cử động rất lạ rồi đột nhiên bắt đầu nghẹn thở, liên tục đớp
đớp không khí, cặp mắt xanh của anh lóe sáng thậm chí ngay trong toa tàu tối lờ mờ. Anh
ta xé rách chiếc mũ đang đội trên đầu, quờ quạng cánh tay một cách vô thức, làm tuột
mấy chiếc nút áo sơmi. Đột nhiên anh ta nắm lấy đầu tôi: "Nƣớc, nƣớc..." Tôi cố gắng
thoát ra, nhƣng anh ta nắm tóc tôi rất đau, tôi đã dùng hết sức để gỡ tay anh ta ra nhƣng
không đƣợc. Leshka tới giúp tôi, chúng tôi không nhận ra rằng anh ta đã chết. Chúng tôi
gỡ tay anh ta khỏi tóc tôi, anh ta ngã ra, đầu anh gục xuống, ánh sáng từ cửa sổ phản
chiếu lên cặp mắt mở to điên dại. Ngƣời ngồi kế bên phải kéo mũ của ngƣời chết xuống
che mắt cho anh ta. Một cô gái trong nhóm nữ y tá hét lên khiếp đảm... Qua chiếc cửa sổ
ở trên cao, trời đã bắt đầu tối. Một tên lính gác bƣớc đều trên nóc toa tàu, chúng tôi nghe
rõ tiếng bƣớc chân nặng nề của hắn.
...Chúng tôi lại tiếp tục lên đƣờng. Trong toa trở nên rộng rãi hơn, rất nhiều ngƣời
đã nằm xuống, và không ai biết đƣợc anh ta sẽ ngủ thiếp đi trong bao lâu. Tôi đang phải
khó nhọc chịu đựng cơn khát, nhƣng chúng tôi không còn một giọt nƣớc nào; tôi đã quên
mất từ lâu là mình đang đói, tôi chỉ còn biết rằng mình đang khát nƣớc. Thời gian chậm
chạp trôi qua, hay thậm chí nhƣ đang đứng hẳn lại, do chúng tôi không còn cả mục đích
lẫn hy vọng. Trời đã hoàn toàn tối sẫm... Có tay ai đó sờ soạng sau lƣng tôi để cố thò vào
trong balô, tôi gạt nó ra. Bàn tay giật lại, họ đã nhận ra là tôi vẫn còn sống, tôi nghe thấy
có tiếng thở rầm rĩ. Tôi lại tiếp tục rơi vào trạng thái mơ màng...
Tôi đã tỉnh lại. Đoàn tàu đang đứng yên, bọn chúng đang dùng báng súng đập vào
cửa toa, then cửa vừa bật ra là chúng đã hét lên:
"Los, los! Schneller!" (tiếng Đức: “Nào, nào! Nhanh lên!” – LTD)
Cánh cửa kêu rít lên, trƣợt dọc theo cái rãnh sắt, không khí trong lành và ánh bình
minh xám xịt ùa vào trong toa tàu. Sasha lay mạnh Leshka, cậu ấy đã hoàn toàn kiệt sức,
khuôn mặt chuyển sang màu vàng nhợt nhạt. Tôi và cậu ta không thể đứng lên đƣợc, đôi
chân chúng tôi đã tê dại, chúng tôi phải cố quỳ dậy trên đầu gối. Đám phụ nữ đã đi ra, số
còn lại trong chúng tôi di chuyển về phía cánh cửa, bƣớc qua những xác chết. Chúng tôi
rất chật vật mới ra đƣợc khỏi toa tàu, do không còn đủ sức để nhảy xuống. Tôi đỡ lấy
Lesha, cậu ấy đã ngồi dậy trên đôi chân đờ đẫn, Sasha cũng tới giúp sức. Sau cùng chúng
tôi đỡ nốt Sasha ra ngoài. Nhà ga đã bị phá huỷ gần một nửa, các đoàn tàu nằm trên
đƣờng ray – hóa ra chúng chuyển chúng tôi tới Vitebsk, chúng tôi rất mừng vì đó không
phải là nƣớc Đức. Bọn Polizei giúp đám lính gác Đức la mắng và quất dùi cui nếu có ai
đó đi chậm lại dù chỉ chút ít. Chúng dẫn chúng tôi tới một trại tù binh – một khu đất rộng
rào kín bởi nhiều lớp hàng rào kẽm gai, tháp canh có đặt súng máy và lính gác cùng chó
canh. Tôi bƣớc đi nhƣ trong mơ ngủ, trong khi Leshka đã tƣơi lên và thậm chí còn đùa
cợt:
"Chúng ta sẽ không đƣợc tắm, hết khăn để tắm rồi.”
Chúng dẫn chúng tôi ra ngoài sân trại và tập hợp chúng tôi lại. Một tên phiên dịch
hét lớn:
"Hỡi các tù binh chiến tranh! Bộ chỉ huy Đức không cho phép các sĩ quan và
chính trị viên đƣợc ở chung với binh lính! Chúng ta muốn dành cho họ những tiện nghi
tốt hơn! Nhƣ một sĩ quan đánh đƣợc hƣởng! Ai là chính trị viên và sĩ quan, hãy lên trƣớc
một bƣớc!"
Nhƣng không ai thực hiện cái bƣớc chết ngƣời đó. Mệnh lệnh lại vang lên lần nữa.
Đột nhiên có nhiều ngƣời bƣớc ra, nhƣng trông tất cả bọn họ đều no đủ, khoẻ mạnh. Tên
phiên dịch nói:
"Các anh là chính trị viên phải không?"
Cả năm đều đáp:
"Vâng!"
Tên sĩ quan ra lệnh:
"Múc cho họ một gà mèn súp đầy!" Và bắt đầu tán thƣởng họ.
Tôi rất muốn nói rằng mình cũng là một chính trị viên do mùi súp thơm đã hoàn
toàn xâm chiếm đầu óc tôi. Nhƣng Sashka ngăn lại:
"Cậu không thấy à, chúng là bọn khiêu khích đó. Còn ở đằng kia, xem kìa, chỗ
đất hãy còn mới – đó mới là huyệt mộ của các chính trị viên thực sự."
Không kiếm đƣợc gì từ chúng tôi, chúng tập hợp chúng tôi thành đoàn rồi đƣa
chúng tôi đi lấy bánh mì và balanda (tiếng lóng của tù binh Nga, chỉ món súp loãng –
Oleg Sheremet). Tôi đã gần nhƣ bất tỉnh, Leshka và Sasha đỡ hai bên để tôi khỏi ngã
xuống, nhƣng có kẻ nào đó đã tháo mất cái gà mèn thiếc của tôi, tôi không còn vật gì để
đựng và do đó, không thể có balanda. Sasha luồn xuống cuối hàng, nhét tôi vào đó, rồi
chen lấn lên phía trƣớc, nhận và mau chóng ăn hết phần súp, rồi đƣa tôi cái gà mèn của
mình. Sau món balanda mọi chuyện đã trở nên khá hơn, và sung sƣớng ngồi trên sàn nhà
bếp của khu trại, tôi ăn một cách từ tốn phần bánh mì của mình.
Sự sung sƣớng tại trại Vitebsk không diễn ra đƣợc lâu. Sớm hôm sau bọn chúng
đã tập hợp chúng tôi lại và tiếp tục dẫn chúng tôi đi qua những dãy phố đổ nát của
Vitebsk, chúng tôi đã biết chắc rằng mình sẽ bị đƣa tới nƣớc Đức.
Lần này chúng tôi di chuyển trên những toa mui trần có thành toa rất cao. Việc
lên tàu diễn ra rất lâu, những câu chửi thề cả bằng tiếng Đức lẫn tiếng Nga tuôn ra nhƣ
mƣa, bọn polizei liên tục quất roi, tù binh rên rỉ, ngã từ ván thang xuống vì bị xô lấn, bọn
Đức bắn tất cả những ai quá yếu sức một cách không thƣơng xót, và rồi, yên vị trong góc
cạnh thành toa, chúng tôi thậm chí còn cảm thấy ấm áp thoải mái do đã yên tâm không
còn lo sợ bị xử bắn nữa.
Tù binh Xôviết. Mùa thu 1941. (Bức ảnh lấy từ Vostochnyi front site)
Những đám mây xám xịt kéo tới trên đầu chúng tôi, cái thành toa lạnh lẽo và
những tấm ván nứt nẻ lót sàn toa không giữ đƣợc nhiệt độ lâu hơn, trong toa mau chóng
lạnh cóng, màn mƣa bụi lạnh lẽo trùm lên tấm chăn mỏng màu đỏ có in hoa của Tonia,
vật che chắn duy nhất của chúng tôi khỏi mƣa tuyết và giá rét. Chiếc cửa sắt nặng nề
đóng sầm lại, tiếng còi vang lên, những chiếc cột điện tín bắt đầu trôi qua ngày càng
nhanh, và rồi chúng tôi không thể trông rõ bất cứ thứ gì nữa, chỉ còn đám khói đen sẫm
bay dọc theo tấm thân kim loại chất đầy ngƣời của con tàu.
Nhƣ thƣờng lệ, mọi ngƣời bắt đầu xoay trở, tìm lấy một chỗ thoải mái, một vài
ngƣời, do quá yếu, đã nằm bệt bất động. Tôi cũng đã quá yếu đến nỗi không thể cố xoay
trở nổi, đành ngồi xuống, hai tay bó sát bên ngƣời. Bất ngờ Sashka nảy ra một ý kiến:
"Các bạn ạ, hãy thử đổi chác xem sao."
"Đổi cái gì?" Tôi hỏi một cách ngờ nghệch. "Với ai?"
"Với dân địa phƣơng."
"Dân địa phƣơng nào?" Tôi vẫn chƣa hiểu ra cậu ta muốn gì.
"Nhƣng chúng sẽ không cho chúng ta ra ngoài," Leshka nói.
Sasha rút một thanh xà phòng giặt từ balô ra, Leshka và tôi giƣơng mắt nhìn đần
độn, còn cậu ta vẫn thao thao về ý tƣởng của mình:
"Toa tàu trống ở phía trên. Chúng ta sẽ bỏ bánh xà phòng vào một cái gà mèn.
Khi tàu dừng lại ta sẽ treo nó ra ngoài thành toa bằng thắt lƣng của mình, và sẽ hét lên:
"đổi nào, đổi nào."
Lập tức chúng tôi sôi nổi hẳn lên, mơ mộng trong đầu: sẽ có một ngƣời địa
phƣơng nào đó tới và bỏ vào một mẩu bánh mì hay thứ gì đó khá khá. Chúng tôi cởi thắt
lƣng của mình ra, tôi thậm chí còn rút cả sợi dây đeo vai của cái balô trên lƣng mình.
Chúng tôi nhất trí là Sasha sẽ leo lên lƣng tôi để với đƣợc tới đỉnh của thành toa, còn
Leshka sẽ phải trong tƣ thế sẵn sàng để thế chỗ cho tôi.
Chúng tôi đã tới một ga nọ, đoàn tàu dừng lại; có ai đó đang chạy bên ngoài,
chúng tôi nghe thấy bọn lính la mắng đám phụ nữ đang tiến gần đoàn tàu. Sashka leo lên
lƣng tôi, thả chiếc gà mèn thiếc xuống và đu đƣa nó nhằm thu hút sự chú ý, nhƣng cậu ấy
không thò đƣợc mặt mình lên, cậu ấy cũng la hét, nhƣng giọng bị ngắt quãng:
"Đổi đi... lấy bánh mì ..."
Leshka thế chỗ cho tôi, nhƣng cũng chẳng khá hơn. Mọi ngƣời trong toa ngạc
nhiên quan sát bọn tôi, rồi bọn họ hiểu ra, nhƣng phải phối hợp hai ba ngƣời mới làm
đƣợc chuyện đó, và trong khi những ngƣời khác đang bàn bạc thì chúng tôi đã bắt tay vào
đổi chác rồi.
Nhƣng rồi đoàn tàu chuyển bánh, Sasha kéo chiếc gà mèn thiếc đựng bánh xà
phòng lên, chúng tôi tiếp tục bị nhồi lắc trên toa tàu đang di chuyển.
Đột nhiên có tiếng súng nổ. Tôi yêu cầu Sashka khòm lƣng xuống chống trên hai
tay hai chân để mình leo lên quan sát. Đoàn tàu đang đi ngang qua một đoạn đƣờng đắp
cao uốn cong thành hình bán nguyệt. Có nhiều ngƣời đã leo lên thành một toa mui trần
rồi nhảy xuống, một ngƣời bị ngã rất đau và tôi trông thấy anh ta bị bắn hạ ngay trƣớc
mắt, nhƣng hai ngƣời còn lại đứng dậy và bỏ chạy, ngã xuống rồi lại tiếp tục đứng dậy
chạy về hƣớng khu rừng. Tim tôi nhƣ sẵn sàng bật tung khỏi lồng ngực vì hồi hộp và lo
lắng – ô kìa, tôi phải lập tức làm một điều gì đó! Liên tiếp lại có ngƣời nhảy khỏi chính
cái toa tàu đó và bỏ chạy trên mặt cỏ phủ tuyết. Súng bắt đầu nổ từ tháp canh đặt trên một
toa nằm giữa đoàn tàu, toa của chúng tôi nằm gần cuối nên tôi có thể trông rõ mọi việc
xảy ra. Đầu tiên chúng bắn bằng hai khẩu tiểu liên, và rồi một khẩu đại liên lên tiếng. Hai
ngƣời mặc áo choàng ngã xuống ngay lập tức, ngƣời thứ ba vẫn chạy, ngã xuống rồi tiếp
tục trƣờn đi. Súng vẫn nổ ran. Tôi thấy rõ hai ngƣời bọn họ bị thƣơng, họ cố đứng dậy
nhƣng lập tức bị mấy phát súng trƣờng kết liễu. Đoàn tàu đang chạy đến khúc đƣờng
cong, và bắt đầu một cuộc săn để tìm ngƣời cuối cùng. Anh ấy đã tới đƣợc chỗ cái khe
núi – chỉ một bƣớc nữa thôi là anh sẽ an toàn! Nhƣng bọn chúng đã hạ đƣợc anh ta,
không cho anh ta thực hiện nốt cái bƣớc đó. Tôi rơi từ lƣng Sasha xuống, tôi không còn
muốn bỏ chạy chút nào nữa, cơ thể tôi nhƣ kiệt hết sức lực. Một ngƣời ngồi kế phía trên
đầu tôi cau mày, giày của anh ta suýt nữa chạm vào môi tôi, lên giọng lý sự:
"Đừng làm ầm lên, ngồi yên đấy, nếu không bọn chúng sẽ bắn hạ anh nhƣ một
con thỏ vậy.”
Thời gian trôi qua, mƣa ngừng rơi, trời đã chuyển về chiều...
Lại có tiếng đập mạnh và tiếng loảng xoảng, chúng tôi bị lắc mạnh và rồi đoàn tàu
dừng lại trên một sân ga. Sasha và Leshka lại một lần nữa dựng lên một “chốt đổi hàng”,
lần này Sashka chống trên hai tay hai chân, còn Lesha đứng trên lƣng cậu ta, cất tiếng rao
kéo dài:
"Đổi đi, đổi đi. Xà phòng đây..."
Đột nhiên Leshka nhận thấy có ai đó kéo chiếc gà mèn thiếc! Cậu ta luống cuống
kéo nó lên rồi hạ vào trong toa – trong gà mèn đựng đầy một thứ phó mát nhà làm lấy!
Chúng tôi không nhận thấy những ngƣời khác đang nhích lại gần chúng tôi, nhƣng
Sashka thì thấy, và ngay lúc đó có ngƣời xô rất mạnh vào hông tôi, Sashka vội thò tay
mình vào trong gà mèn và nắm lấy mớ phó mát. Nhiều bàn tay tóm lấy cậu ta, Alexei và
tôi gạt chúng ra, có ai đó ngã ra và lăn tròn trên sàn toa, nhƣng có rất nhiều ngƣời đè lên
trên chúng tôi, một tay to lớn rít lên: "Đƣa nó cho tao!" – nhƣng không ngƣời nào biết
đƣợc miếng phó mát giờ nằm trong tay ai. Nhiều phút giành giật vô ích trôi qua, và rồi
mọi ngƣời, lúc này đã kiệt sức, trƣờn dần ra xa. Chúng tôi đang ở trong góc toa, Sasha
dựa lƣng vào thành tàu ngồi nghỉ. Khi chúng tôi quây quần lại, cậu ta nhè miếng phó mát
trắng dính mấy gân máu đỏ ra tay, bảo: "Tớ đã giấu nó trong miệng mình." Chúng tôi
chia nó ra, mỗi ngƣời một mẩu, và gắng ngậm nó trong miệng mình càng lâu càng càng
tốt. Chúng tôi không còn thứ gì để đổi chác. Đoàn tàu vẫn tiếp tục chạy.
Đoàn tàu dừng lại một lần nữa và lần này dừng rất lâu. Đang là ban đêm. Mƣa trút
xuống, chúng tôi ngồi dựa vào thành toa, thu mình lại cho nhỏ và nhét balô xuống dƣới
ngƣời. Đầu gối chúng tôi bắt đầu tê bại. Chúng tôi rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa thức.
Những xác chết lúc trƣớc nằm gần chúng tôi, giờ đã bị ai đó lôi ra xa. Lúc ban chiều họ
còn mặc áo khoác, nhƣng giờ họ chỉ còn là những đốm trắng, áo của họ đã bị lột mất, do
cái lạnh giá và ẩm ƣớt đang thấm sâu vào xƣơng tủy của từng ngƣời. Đoàn tàu trƣờn đi,
lâu lâu dừng lại một lần, và chúng tôi, bị cơn buồn ngủ đánh gục, ngủ mê mệt trong đủ
loại tƣ thế, lăn lóc trên sàn toa trong giấc ngủ say...
Bình minh đem lại một chút tƣơi tỉnh cho mọi ngƣời, tàu của chúng tôi đang dừng
lại, ngọn gió khởi lên từ sáng sớm thổi tới những đám mây tối sầm, không làm chúng tôi
ấm ngƣời hơn. Chúng tôi thèm ngủ vô cùng. Lúc này bọn tôi chỉ còn biết đung đƣa chiếc
gà mèn thiếc bên ngoài thành tàu, và trong một lần thực hiện vô vọng nhƣ vậy năm củ
khoai tây đã đƣợc bỏ vào đó. Khoai còn sống, chúng thật khó ăn, nhƣng không ai tìm
cách lấy chỗ khoai sống đó của chúng tôi, và chúng tôi chật vật nuốt trọn tất cả.
Đoàn tàu lại tiếp tục di chuyển. Những bông tuyết to và xốp bắt đầu rơi, ban đầu
rơi chầm chậm, rồi sau đó bay thốc vào mặt chúng tôi đang quay ngƣợc chiều tàu chạy.
Bây giờ chúng tôi có bốn ngƣời, chúng tôi lặng lẽ trò chuyện, tất cả đều ủ rũ, đói khát và
thiếu ngủ. Số ngƣời chết ngày càng tăng, họ bị lôi về phía cuối toa, và không còn biết xấu
hổ gì nữa, những ngƣời khác lột quần áo của họ rồi mặc lên ngƣời mình. Nhƣng tôi để ý
rằng không ai lấy ủng của họ, có lẽ tất cả đều nghĩ rằng họ sẽ không còn dịp đi mòn hết
giày của mình.
...Đoàn tàu dừng lại trên một cánh đồng, mọi thứ đều phủ đầy tuyết ƣớt đang tan.
Qua tiếng la hét bên ngoài chúng tôi hiểu rằng bọn chúng sẽ không đƣa chúng tôi đi xa
hơn nữa do đƣờng tàu đã bị phá huỷ, trong khi còn rất nhiều đoàn tàu từ Đức tới theo
hƣớng ngƣợc lại. Các con tàu rầm rầm chạy ngang chúng tôi, khi ta nhìn qua khe hở trên
thành toa, ta có thể thấy những toa trần chở xe tăng, toa chở lính, toa chở hàng – mọi thứ
đang di chuyển về phía đông. Sẽ không ai chặn chúng lại đƣợc sao? Trong một góc tâm
hồn có một thoáng hy vọng rằng một điều gì đó mà chúng tôi không biết đƣợc sẽ xảy ra,
và cơn triều này sẽ bị bẻ gãy; nhƣng giờ đây chúng tôi đang đi dần tới cái chết mà không
còn cơ hội sống sót, xa dần khỏi đau đớn và giá rét, không thể hỗ trợ cùng nhau, chúng
tôi chuyển thành những con ngƣời nô lệ cho bản năng sinh tồn của mình, không còn khả
năng hy sinh giúp đỡ lẫn nhau, giữa một đống những xác ngƣời chết trong cô độc.
Cửa toa rít mạnh, bọn chúng bắt đầu đƣa chúng tôi ra ngoài tới một nơi theo
chúng tôi dƣờng nhƣ là một cánh đồng. Rất khó để bắt đôi chân chúng tôi tuân lời, và khó
hơn nữa để bƣớc hay bò khỏi toa ra ngoài bùn tuyết ẩm ƣớt. Chúng tập hợp chúng tôi, tất
cả những ai còn sống sót, cạnh các toa tàu và phát một ổ bánh mì còn ấm cho mỗi ngƣời,
mùi thơm sực nức, sự ấm áp mà từ lâu chúng tôi không còn đƣợc cảm thấy, chúng tôi
quấn nó vào những mảnh giẻ và bắt đầu bẻ nó cho vào miệng, từng miếng một, lo ngại nó
sẽ chóng hết; những ngƣời khác, với cặp mắt đầy thù hằn, tọng những miếng lớn vào
mồm họ – họ đã đói khát tới mức cùng cực, họ đang sắp chết. Đám cảnh binh la hét,
nhƣng không chửi bới. Một ngƣời trong bọn họ la lớn:
"Những ngƣời Nga kia, các anh hãy tập trung tất cả sức mình lại để đến đƣợc khu
trại! Hãy giúp đỡ những ngƣời yếu sức, đừng để họ bị bắn chết!”
Ngƣời cảnh binh nào đã dám nói những lời nhƣ vậy? – Thật là một con ngƣời
dũng cảm và chân chính. Tôi nhớ mãi những lời lẽ và giọng nói ấy cho tới cuối đời mình.
Chúng tôi chật vật bƣớc đi trên con đƣờng ngập bùn, lƣớt qua những ngƣời bị
đánh. Có ai đó ngã xuống, tiếng súng của bọn lính gác vang lên. Và giọng nói kia lại cất
lên lần nữa:
"Những ngƣời Nga kia, hãy tới giúp đồng đội các anh đi!”
Tôi không thể làm thế, chân tôi nhƣ rời ra vì kiệt sức, nhƣng Valodia (tên gọi tắt
của Vladimir – Oleg Sheremet) đã tới dìu đỡ cho một ngƣời nào đó đang đi bên cạnh, còn
Sasha thì tới giúp tôi. Tôi trông thấy một gốc bắp cải đã đƣợc thu hoạch nhô lên rất gần
con đƣờng, liền cúi xuống và nhổ nó lên. Sashka giấu nó vào trong mình cậu ta, còn tôi
đã rất yếu sau nỗ lực ấy, thở dốc nhƣ đứt hơi. Chúng tôi đang ở cạnh những hàng rào kẽm
gai chăng quanh những gốc thông cao, ngọn của chúng đã đẩy lên đỉnh cái cổng trại cả
một búi dây kẽm đang đung đƣa.
Bọn chúng dẫn chúng tôi tới một ngôi nhà và nhốt vào trong đó. Tôi bị nhét trên
tầng hai, Sasha, Valodia, Lesha cũng cùng chung với tôi. Căn phòng rộng khoảng bốn
mƣơi mét vuông; cạnh một khoảng trống nhỏ gần cửa ra vào có một cái sân chung cho
toàn bộ tầng nhà, rất nhiều ngƣời đƣợc nhồi nhét trong đó. Chỉ tới lúc này bọn chúng mới
cảnh cáo chúng tôi không đƣợc thò đầu ra ngoài cửa sổ, còn đi vệ sinh – một lần mỗi
ngày. Bọn chúng không cấp cho chúng tôi nƣớc. Nhƣng bên ngoài đang có tuyết, những
ngƣời liều lĩnh cột thắt lƣng của mình lại và ném một cái gà mèn qua cửa sổ, nếu ai xúc
lên đƣợc thì thật may mắn, nhƣng anh ta cũng có thể bị ăn một viên đạn do bọn gác bắn
ra.
Trên đời không gì khổ sở bằng chuyện không đƣợc uống nƣớc. Lạy Chúa, nó
thiêu đốt con ngƣời thật khủng khiếp! Và không ở đâu, không có gì làm ngƣời ta chết
nhanh bằng chuyện khát nƣớc. Ngƣời ta phải liên tục chuyển xác chết ra khỏi căn phòng.
Tất cả chúng tôi cùng ở trên chiếc giƣờng, nằm, ngồi, không nói với nhau một lời. Tôi vẽ
vào cuốn album của mình khuôn mặt gầy gò hốc hác của những ngƣời chết, đang ngồi
với ánh mắt chằm chằm vô hồn. Đổi chác vẫn tiếp diễn nơi đây. Một ngƣời gạ bán một
điếu thuốc, đòi giá tới hai mƣơi lăm rúp. Một ngƣời khác buộc những chiếc thắt lƣng lại
rồi ném gà mèn của mình ra ngoài cửa sổ. Xúc đƣợc một ít tuyết, anh ta vội chúi xuống
dƣới bậu cửa sổ, và ngay lập tức một tràng tiểu liên bắn vỡ nốt phần kính cửa còn lại, làm
vữa trần lả tả rơi xuống. Nhƣng trong tay anh chàng ủ rũ ấy đã có chiếc gà mèn chứa đầy
tuyết mịn, múc đƣợc khoảng vài thìa đầy. Anh ta lập tức đem đổi một thìa tuyết ấy, giờ
có giá hai mƣơi lăm rúp, lấy một điếu thuốc lá và liếm hết chỗ tuy ết còn lại trong gà mèn.
Mọi ngƣời theo dõi đầy ghen tị, không rời mắt khỏi anh chàng vừa lấy đƣợc nƣớc. Bất
ngờ anh ta chìa một thìa tuyết vào miệng tôi:
"Đây, ăn đi."
Tôi đẩy đi:
"Tôi không còn tiền hay thứ gì khác.”
"Không mất tiền, ăn đi, anh cần nó hơn. Anh vẽ đi, tất cả chúng ta sẽ chết ở đây,
nhƣng có thể bức vẽ của anh còn lại, và mọi ngƣời sẽ biết đƣợc chúng ta không phải là
những kẻ phản bội tổ quốc.”
Những lời nói đó làm tôi sững sờ, tôi cảm thấy xấu hổ và đau đớn vì một lẽ gì đó,
nhƣng tôi không thể kìm mình đƣợc nữa, đôi môi khô nẻ khó nhọc chạm vào chiếc thìa,
chất nƣớc mát lạnh tan ra trong miệng tôi, và những giọt nƣớc lăn xuống từ hai mắt. Mọi
sự khiếp hãi đều không thể làm đƣợc cái điều mà ngụm nƣớc con ngƣời đó ban cho tôi đã
làm. Một ngụm nƣớc cho tất cả, cho những chịu đựng và những tủi nhục của họ. Tôi cảm
thấy đau xót cho mọi ngƣời và cho bản thân, tôi muốn làm một điều gì đó cho mọi ngƣời,
muốn thay đổi một cái gì đó… Có thể từ giờ phút này tôi đã hiểu thấu những gì đã xảy
đến với tôi, cảm thấy trách nhiệm về tất cả trong suốt thời gian qua. Giây phút đó sẽ đi
cùng trong suốt quãng đời còn lại của tôi, những lời ngƣời đó sẽ luôn vang lên nhƣ một
mệnh lệnh: “Anh hãy vẽ đi!” Có những phút giây trong một đời ngƣời khi anh ta đột
nhiên hiểu ra ý nghĩa sự tồn tại của mình – lúc đó mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, và ý
nghĩa cuộc đời anh ta thật sáng tỏ. Cứ nhƣ thể những lời của con ngƣời đó đã đánh thức
sự tỉnh táo và nhân tính trong tôi, tôi rời bỏ những bản năng thú vật, và sau đó niềm tin
rằng mình sẽ chóng thoát khỏi cảnh giam cầm miễn là lấy lại đƣợc sức khoẻ đã quay về
với tôi. Miễn là tôi có cơ hội. Điều đó sẽ sống mãi trong tôi.
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Ảnh chụp và hình vẽ lấy từ tƣ liệu của N. Obryn'ba
HỒI ỨC CỦA CÁC PHI CÔNG
Yurii Khukhrikov
Tôi tên Khukhrikov, Iurii Mikhailovich, ngƣời Maskva chính gốc đời thứ tƣ, thậm
chí có thể là thứ năm. Dòng họ tôi làm nghề đánh xe ngựa ở Dorogomilovo. Cụ tổ tôi,
Stepan Khukhrikov, là một trong những ngƣời đánh xe ngựa đầu tiên ở Dorogomilovo.
Ông chở hàng hoá và hành khách trong khu vực ga Kiev. Ở đấy trƣớc đây có ngõ, đƣờng
cụt và chợ mang tên Khukhrikov. Chợ Khukhrikov nằm trƣớc cầu Borodino nếu bạn đi từ
tòa nhà Bộ Ngoại giao, về phía sông Maskva. Tôi sinh ra trong gia đình có truyền thống
quân sự. Cha và chú tôi đều là quân nhân chuyên nghiệp. Họ đã tham gia chiến tranh từ
năm 1914, và sau Cách mạng thì làm việc trong Ban Giám đốc kỹ thuật của Bộ Tổng
Tham mƣu từ năm 1921. Cha tôi mang hàm đại tá còn chú tôi là thiếu tƣớng. Tôi sinh
năm 1924, lớn lên và đi học tại Christƣie Pruđƣi, đối diện Coliseum mà nay là Nhà hát
Sovremennik.
Từ 1930 cho tới 1941 tôi học ở Trƣờng Số 311 trên phố Lobkovski, nay là phố
Makarenko. Tôi học chung với Iurii Nagibin [một nhà văn Soviet nổi tiếng] (đấy là theo
họ mẹ của ông, còn khi này tên ông ta là Frumkin). Tôi cũng học với Zhenia Rudneva
[Evgeniia Rudneva – ngƣời phụ nữ sau này trở thành phi công ném bom đêm]. Cô ấy hơn
tuổi tôi, đã tham gia Học viện Hàng không từ trƣớc chiến tranh. Đó là những ngƣời tôi đã
cùng học chung.
Năm 1940, không biết hay dở thế nào tôi lại gia nhập một câu lạc bộ hàng không.
Họ quay tôi đủ kiểu – nói rằng tôi còn quá trẻ. Nhƣng cuối cùng tôi cũng đạt đƣợc
nguyện vọng và họ bắt tôi phải mang tới giấy cam kết đồng ý từ cha mẹ. Lần đầu tôi cất
cánh là trên một chiếc U-2, vào tháng 9 năm 1940, tại sân bay gần Maskva.
Năm 1941 tôi 17 tuổi. Chúng tôi chuyển từ Kraskovo tới Scherbinka, gần Podolsk.
Ở đấy có một cánh đồng rất phẳng. Chúng tôi bố trí thành một sân bay, dựng lều và bay.
Ngày lễ Mùng Một tháng Năm, tôi, với danh nghĩa là học viên câu lạc bộ hàng không,
tham gia lễ diễu hành cuối cùng trong thời bình tại Quảng trƣờng Đỏ.
Tháng Bảy năm 1941 tôi tốt nghiệp. Họ cấp cho tôi giấy chứng nhận đã hoàn tất
khóa học. Nó giúp tôi rất nhiều sau này. Tất cả các câu lạc bộ đều gửi học viên tới học
viện hàng không. Chúng tôi đều tƣởng là sẽ đƣợc đƣa đi Tbilisi. Nhƣng vì chiến tranh đã
bắt đầu, tất cả những ai tốt nghiệp năm 1941 đều đƣợc chuyển tới Saratov, nơi tập lái
máy bay SB. Ngƣời ta gọi chúng là “những cây nến”. Chúng hoàn toàn không đƣợc bảo
vệ, thêm nữa chúng đƣợc làm từ hợp kim đuya-ra nên hễ trúng đạn hay mảnh đạn là cháy
bùng lên. Tôi bắt đầu tập bay loại này, và rồi có lệnh từ Bộ Quốc phòng: “Chuyển Học
viện Saratov về Lực lƣợng Đổ bộ đƣờng không”. Lập tức họ gửi tới các loại tàu lƣợn:
US-4, US-5, Sh-10, G-9 và "Stakhanovets". Tất cả chúng đều là loại tàu lƣợn thể thao.
Cũng có cả loại chuyên dụng cho lính nhảy dù - "RotFront-8" và "RotFront-11". Các
công trình sƣ có kinh nghiệm cũng tới đây - Iudin, Anokhin và một số ngƣời khác. Chúng
tôi lập tức đƣợc đổi sang học lái tàu lƣợn. Các tàu lƣợn đƣợc kéo bởi các loại máy bay U-2, R-5, SB, Douglas v.v. Bằng cách này chúng tôi mau chóng tích lũy những kinh nghiệm
cần thiết. Máy bay phải lƣợn một vòng tròn và tới độ cao 500-600 mét thì chúng tôi tách
khỏi máy bay. Chúng tôi lƣợn vòng và phải hạ cánh xuống một vị trí đã chuẩn bị sẵn.
Anh không đƣợc mắc dù chỉ một sai lầm nhỏ khi lái những tàu lƣợn đó. Ví dụ nhƣ sau
khi lƣợn xong vòng cuối, nếu anh tính toán sai, anh có thể mất độ cao ngay trƣớc điểm hạ
cánh và khi đó không gì có thể giúp anh ngóc đầu lên – tàu lƣợn làm gì có động cơ ! Thế
là anh rơi. Cho nên chúng tôi thƣờng nhắm tàu hơi vƣợt quá đích đến một chút cho an
toàn. Khi đáp, chúng tôi nghiêng cánh và chúi xuống, điều này cho phép ta hạ dần độ cao
và đáp xuống với độ lệch không đáng kể. Chúng tôi không bay trên Saratov mà cách
thành phố khoảng 30 km, ở đó có mấy làng ngƣời gốc Đức sinh sống. Cƣ dân tại đấy đã
bị trục xuất đi đâu không biết nhƣng những ngôi làng này vẫn chƣa bị ai chiếm dụng. Đó
là nơi chúng tôi sống và học bay. Thảo nguyên Volga trải dài. Một nơi tuyệt vời để bay
tàu lƣợn.
Sau đó tôi vƣợt qua khóa huấn luyện dành cho chỉ huy các nhóm biệt kích vu hồi:
sử dụng thuốc nổ, đánh cận chiến, chống lại chó canh. Vâng, chúng tôi đeo găng tay, mặc
áo khoác dày và chống lại lũ chó. Nhƣ mọi ngƣời khác, đến tháng Mƣời năm 1941 tôi gửi
một lá đơn đề nghị đƣợc chuyển sang lái máy bay tiêm kích. Đơn đƣợc chấp nhận! Ngày
31 tháng 12 tôi đƣợc chuyển tới một học viện không quân tiêm kích. Ở đấy ngay lập tức
chúng tôi đƣợc học lái các loại máy bay UT-1, UT-2, I-16. Sân bay Belyi Kliuch của
chúng tôi cách thành phố Uianovsk 18 cây số, không xa dòng Volga. Một sân bay tuyệt
vời, có tầm nhìn hạ cất cánh rất tốt.
À, tôi quên kể rằng vào tháng Mƣời tôi và anh bạn thân Boria Bezrukov, ngƣời đã
cùng học phổ thông và chung câu lạc bộ hàng không với tôi, sau đó lại gặp nhau tại học
viện Saratov, đƣợc lệnh phải chuyển thứ gì đó tới Maskva. Ngƣời ta đóng kiện, niêm
phong – còn chúng tôi tới, ký nhận và chuyển đi. Rồi tôi và Boria quyết định, một cách
cƣơng quyết, rằng phải tìm cách ra mặt trận.
Chúng tôi xâm nhập tuyến đầu. Tìm cách có đƣợc mấy khẩu tiểu liên, học cách
bắn chúng. Có mấy khẩu pháo 45mm triển khai gần chúng tôi, điều khiển bởi những tay
lính cựu. Đó là những ngƣời thực sự có kinh nghiệm. Nhƣng nhân viên mật vụ ở đấy làm
việc cũng thật cừ. Họ nhận ra ngay chúng tôi là ngƣời lạ:
"Các anh là ai? Từ đâu tới?" Chúng tôi kể cho họ nghe tất cả.
"Các anh có giấy tờ gì?" Đấy là lúc tờ chứng nhận của câu lạc bộ hàng không và
giấy tờ xác nhận công tác chuyển hàng của chúng tôi tới Matskva đã cứu chúng tôi thoát.
"Biến đi và không đƣợc quay lại!" Chúng tôi thu dọn và chuồn nhanh. May mắn
quá giang xe cộ, chúng tôi quay lại Saratov và không ai phát hiện ra chuyến bỏ trốn của
chúng tôi. Tất cả chuyện đó diễn ra trong không hơn một tuần, ít nhất là không ai chú ý
tới. Nhƣng tôi cũng đƣợc nhận huy chƣơng “Vì đã bảo vệ Maskva”. Sau khi tôi từ
Saratov chuyển tới Ulianov thì Boria hy sinh. Khi chúng tôi bay tàu lƣợn đêm, có 8 ngƣời
phải ngồi trong mỗi tàu lƣợn nhƣ những hành khách. Boria rất vui vì đƣợc ngồi trong vai
hành khách. Chiếc tàu va chạm vào máy bay kéo, sợi cáp vƣớng vào cánh tàu và xé toạc
nó. Tất cả mọi ngƣời trên tàu lƣợn đều thiệt mạng.
Chúng tôi bắt đầu đƣợc huấn luyện ở Ulianovsk, rồi một lệnh từ trên tới yêu cầu
phải tái huấn luyện để bay máy bay cƣờng kích IL-2.
A.D. Máy bay có đƣợc chuyển tới không?
Có. Họ đƣa tới hơn 30 cái từ Kuibyshev.
Tôi tốt nghiệp Học viện Ulianovsk vào năm 1943. Sao lâu thế à? Là tôi may mắn
đấy! Rất nhiều ngƣời chỉ tốt nghiệp sau khi chiến tranh kết thúc! Họ chỉ chọn những ai
xuất sắc nhất, để có thể dạy chúng tôi ít nhất – lý do là không đủ xăng cho huấn luyện.
Vị trí khẩu đội phòng không 8.8cm PaK43 của Đức.
Ảnh chụp từ buồng lái máy bay IL-2.
Rồi họ chuyển chúng tôi tới sân bay dự bị tại Diad'kov, nằm cách Dmitrov 18 km
về phía Bắc. Tại đấy phi công đƣợc học các kỹ thuật chiến đấu – ném bom và xạ kích.
Tất cả những khóa học ấy chỉ chiếm khoảng vài giờ bay. Khả năng không cho phép làm
hơn. Một tuyển dụng viên từ mặt trận sẽ tới – và anh sẽ ra đi cùng anh ta. Zhora Parshin
tới chỗ chúng tôi – anh ấy là một phi công Át! Một phi công cƣờng kích mặt đất! Anh ấy
đã hạ 10 máy bay trên một chiếc IL! Anh đã chiến đấu suốt từ đầu cho tận tới khi kết thúc
chiến tranh. Một ngƣời tuyệt vời. Sau này tôi thƣờng gặp lại anh ở Leningrad tại đại lộ
Liteinyi. Còn khi anh ấy tiếp nhận chúng tôi là vào năm 1944. Chúng tôi đƣợc nhận vào
trung đoàn Không quân Cƣờng kích mặt đất 566. Đây là trung đoàn đầu tiên đƣợc nhận
danh xƣng Cận vệ - Solnechnogorsk. Nó đã chiến đấu ở đây, tại Maskva. Gần nhƣ tất cả
mọi ngƣời đều hy sinh. Từ năm 1941 tại trận Maskva, chỉ còn Afonia Machnyi sống sót,
thậm chí anh ấy đã bị mất trí nhớ sau khoảng năm chục phi vụ. Từ năm 1942 thì chỉ còn
Leva Korchagin sống sót, từ 1943 thì còn đƣợc một nhúm, và cứ thế đấy. Trong suốt
chiến tranh trung đoàn mất 105 phi công và 50 xạ thủ. Trong số 28 ngƣời chúng tôi tới sƣ
đoàn thì 15 hy sinh. Mất mát nhƣ thế đó.
Tôi đƣợc đƣa vào Phi đội 1 của Trung đoàn 566. Mykhlik làm phi đội trƣởng. Sau
này trở thành hai lần Anh hùng Liên Xô. Chúng tôi là dạng may mắn – đấy đang là thời
kỳ yên tĩnh giữa hai chiến dịch nên có điều kiện để tiếp tục đƣợc huấn luyện, bay theo đội
hình và bay tới một khu vực quy định. Chiến tranh tiếp diễn và chúng tôi bắt đầu tung hết
sức chiến đấu trên bầu trời Baltics. Trung đoàn chúng tôi chiến đấu chủ yếu ở Phƣơng
diện quân Trung tâm và Phƣơng diện quân Leningrad.
Chúng tôi chiến đấu trên máy bay IL-2. Chúng là loại máy bay tuyệt nhất vào thời
đó! Mang đƣợc 600 kg bom, 8 quả tên lửa, 300 viên đạn 23mm cho 2 khẩu đại bác VIa
và 3600 viên cho hai khẩu súng máy. Xạ thủ ngồi sau sử dụng một súng máy 12.7mm
Berezin, 10 quả lựu đạn tầm xa DAG-10 cho máy bay để bảo vệ khoảng không tầm thấp
phía sau. Nếu một máy bay Đức xuất hiện, anh chỉ cần ấn một cái nút, thế là một quả lựu
đạn bung dù và nổ tung khoảng 150 m phía sau máy bay. Thêm vào đó còn có một khẩu
súng máy bộ binh và lựu đạn cầm tay.
Một đợt đột kích vào vị trí tập trung xe cộ.
Ảnh chụp từ buồng lái máy bay IL-2.
A.D. Ngƣời ta nói máy bay IL-2 rất khó điều khiển?
Không. Không đúng hẳn. Máy bay tiêm kích I-16 thì đúng thế. Nhất là lúc hạ
cánh.
A.D. Theo ông xạ thủ ngồi sau có tác dụng thế nào?
Xạ thủ phía sau là cần thiết. Hiệu quả của anh ta thì khỏi phải bàn!
A.D. Ông đã từng lái loại IL-2 bọc thép toàn thân chƣa?
Đã từng. Tất cả các máy bay này đều đƣợc trang bị radio rất tốt. Nhƣợc điểm duy
nhất là chúng tôi phải ngồi ngay trên một thùng xăng: một thùng dƣới ghế ngồi, một ở
phía trƣớc và một ở giữa tôi và xạ thủ. Chúng tôi ngồi trên một thùng xăng lớn.
Chúng tôi bắt đầu chiến đấu tại Baltics, vƣợt qua Prussia và kết thúc chiến tranh
tại Wittenberg, nơi mà từ đó chúng tôi thực hiện những phi vụ tới Koenigsberg và thậm
chí tận Danzig.
Chúng tôi bị bắn trúng đôi lần. Một viên đạn bắn trúng cánh máy bay trong phi vụ
thứ hai mƣơi tám. Chúng tôi thoát đƣợc một cách kỳ diệu – cái lỗ đạn rộng tới khoảng
một mét! Nếu bị trúng đạn, bạn có thể ngửi ngay thấy mùi kim loại cháy. Tôi ngửi thấy
mùi đó. Quay đầu lại – thấy một cái lỗ toang hoác. Nhƣng tôi đã gặp may – Sóng chấn
động và mảnh của nó văng về phía ngƣời xạ thủ. Chân anh ta bị cắt nát. Hệ thống liên lạc
bị cắt đứt. Chúng tôi hạ cánh ở Wittenberg. Tôi hạ cánh, tắt động cơ, nhảy ra cánh máy
bay – ngƣời xạ thủ, Viktor Shakhaev, ngƣời Siberi, sinh năm 1926, đang nằm đó. Mọi
ngƣời chạy tới chỗ chúng tôi, kéo anh ta ra. Vừa kịp để cứu chân của anh. Hóa ra tôi cũng
bị thƣơng. Một mảnh đạn sƣợt qua gáy. Nó xuyên qua chỗ nào nhỉ? Họ muốn đƣa tôi tới
bệnh viện nhƣng tôi từ chối. Chiến tranh kết thúc với tôi tại Wittenberg. Tôi đã bay đƣợc
84 phi vụ.
Cuối tháng Năm năm 1945 họ chọn ngƣời trong các trung đoàn của sƣ đoàn
chúng tôi để tham dự Lễ Diễu hành mừng Chiến thắng. Họ chọn những ngƣời cao 1 m 80
và gửi tới Koenigsberg để tập luyện. Tay trung sĩ của chúng tôi là một huấn luyện viên
rất cừ. Đầu tháng Sáu chúng tôi đƣợc chuyển lên một chuyến xe lửa và hở tới Maskva.
Tại đó chúng tôi đƣợc bố trí vào một tiểu đoàn hỗn hợp gồm các phi công của Phƣơng
diện quân Belorussia 3. Chỉ huy của chúng tôi là tƣớng Prutkov, sƣ đoàn trƣởng sƣ đoàn
Cận vệ Cƣờng kích mặt đất Stalingrad số 1. Họ cho chúng tôi áo bay, giầy ủng và mũ. Đó
là một không khí hạnh phúc, tuyệt vời. Chúng tôi sống ở doanh trại Chernyshevskie, gần
Shabolovka. Chúng tôi đi chơi đâu à? VDNKh (Trung tâm Triển lãm Toàn Liên bang –
LTD), gần cầu Crimea và một vài nơi khác. Khẩu phần Voroshilov đặc biệt trong bữa ăn,
thậm chí có cả bánh mì trắng. Tôi cũng cần kể rằng thức ăn tại mặt trận cũng rất tuyệt. Lễ
Diễu hành diễn ra ngày 24 tháng Sáu. Tôi cũng đƣợc dự tiệc mừng ở đấy.
IL-2 (có dấu mũi tên) đang thoát ra sau một đợt công kích.
A.D. Ông bay ở vị trí số 2 hay vị trí biên đội trƣởng?
Ngoài mặt trận mọi ngƣời ban đầu đều phải bay ở vị trí số 2. Vasia Mykhlik cùng
tôi bay khoảng 40 phi vụ. Rồi anh ấy tới Maskva để nhận Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên
Xô và chỉ quay lại vào cuối tháng Tƣ (năm 1945). Khi đó tôi đã là biên đội trƣởng. Hai
phi vụ cuối cùng tôi đã dẫn đầu tám chiếc – cả một phi đội. Đấy là ngày 8 tháng Năm.
Phi vụ đầu vào lúc 10 giờ sáng, phi vụ thứ hai khoảng 2 giờ chiều. Tới bán đảo Zemland.
Chúng tôi lƣợn trên mọi ngóc ngách của nó. Rồi trở về. Họ đã nạp xăng để chúng tôi bay
tiếp phi vụ thứ ba. Chúng tôi lăn ra đƣờng băng, sẵn sàng chờ lệnh. Bỗng tham mƣu
trƣởng Nikolai Ivanovich Borkov chạy tới chỗ chúng tôi: "Ura, quay lại. Kết thúc rồi!"
Chúng tôi tắt máy, vãi đạn lên trời để ăn mừng. Chiến tranh đã kết thúc! Và rồi tôi tiếp
tục bay IL và MIG trong một thời gian dài.
A.D. Ngƣời ta nói cứ 7 xạ thủ bị giết mới có 1 phi công chết, điều này có đúng
không?
Không. Để tôi giải thích cho anh. Chúng tôi có 105 phi công và 50 x ạ thủ hy sinh,
tại sao? Bởi trung đoàn chiến suốt từ đầu tới cuối chiến tranh. Nửa đầu trên loại máy bay
IL một chỗ ngồi. Còn nửa sau trên loại hai chỗ ngồi. Trong hầu hết mọi trƣờng hợp cả hai
cùng hy sinh. Một phi công cƣờng kích mặt đất, theo các số liệu đƣợc thống kê, thƣờng
bay khoảng 7 tới 8 phi vụ là chết. Con số thống kê là thế đó.
A.D. Ông có đƣợc yểm trợ bằng máy bay tiêm kích không?
Luôn luôn. Trong chiến dịch Prussian chúng tôi thƣờng đƣợc hộ tống bởi trung
đoàn Normandie-Niemen.
A.D. Nhiệm vụ chiến đấu có đƣợc phân công rõ cho từng ngừơi trong phi đội
không?
Điều này không cần thiết. Tùy theo mỗi phi vụ.
A.D. Ông thƣờng tham gia loại phi vụ nào nhất?
Thƣờng là ném bom các vị trí ở tuy ến đầu. Có lần tôi phải đi bộ để trinh sát trƣớc.
Tay chỉ huy bộ binh bảo tôi: "Các anh không cần phải nổ súng. Chỉ cần bay tới xuất hiện
ở đây. Thế là đủ rồi. Còn nếu các anh công kích, các anh sẽ luôn là các khách mời đặc
biệt của chúng tôi!”. Đánh đắm tàu thuyền đậu trong cảng, và có 4 lần công kích các sân
bay địch. Đấy là một công việc đáng sợ! Chúng luôn đƣợc bảo vệ rất tốt. Công kích
những nơi tập trung xe thiết giáp. Vâng, để chống lại các mục tiêu quân sự ấy, hàng trăm
máy bay đƣợc tung ra, nhằm mục đích quét sạch mọi thứ khỏi mặt đất.
A.D. Cái gì nguy hiểm hơn, pháo phòng không hay tiêm kích đối phƣơng?
Pháo phòng không. Tất nhiên vào thời kỳ đầu chiến tranh, đám tiêm kích thực sự
đe dọa mạng sống các phi công cƣờng kích mặt đất chúng tôi. Nhƣng cuối chiến tranh là
pháo phòng không. Đó thật là một công việc rùng rợn! Có đến hàng chục khẩu pháo
phòng không cỡ nhỏ đƣợc bố trí và nã đạn vào cùng một mục tiêu. Và xung quanh là
những cụm khói nhỏ màu đen từ những khẩu phòng không cỡ trung. Bạn phải bay mà
không thể đoán trƣớc khẩu nào sẽ … bắn trúng mình. Tất nhiên chúng tôi cũng thực hiện
phƣơng án để chống phòng không.
Chúng tôi thƣờng bay cách nhau từ 30 tới 50 m. Khi tới chiến tuyến chúng tôi dãn
ra – khoảng cách là 150 m. Và đánh võng máy bay từ bên này qua bên kia. Rồi chúng tôi
tạo thành một vòng tròn phía trên mục tiêu và bắt đầu ra tay. Có một ít tiêm kích yểm hộ
phía trên. Công thức là thế đấy.
A.D. Ông thƣờng phải thực hiện bao nhiêu bƣớc thao tác?
Tùy theo hoàn cảnh. Có thể xảy ra tình huống bị phản công – khi đó thì lạy Chúa!
Khi đó thì chỉ có một thao tác. Anh phải sử dụng mọi vũ khí ngay lập tức – tên lửa, đại
bác, bom. Nếu hỏa lực bắn lên không mạnh lắm thì sử dụng làm 4 tới 6 lần. Sau đó ngƣời
biên đội trƣởng phải đủ khôn khéo, sao cho ngƣời bay số 2 có thể theo kịp. Chúng tôi tiếp
cận mục tiêu theo đội hình, nếu thời tiết cho phép, ở độ cao 1200-1400m, và thoát đi sau
khi tập hợp lại, cũng theo đội hình, ở cùng cao độ trên.
Một khẩu pháo tự hành Đức, có thể là loại StuG III.
Ảnh chụp từ buồng lái của IL-2.
A.D. Chỗ nào là điểm yếu nhất của IL-2?
Động cơ. Ở hai cánh thì ít nhiều gì cũng không sao. Nếu một thùng xăng bị trúng
đạn thì cũng chƣa đến nỗi tệ lắm. Sao thế nhỉ? Là vì khi tiếp cận mục tiêu, chúng tôi mở
công tắc xả carbon dioxide từ hộp chứa vào đầy các khoảng trống trong các thùng nhiên
liệu. Nếu một viên đạn xuyên qua thân và trúng thùng nhiên liệu, hóa chất tự hàn sẽ lấp
kín lỗ thủng, xăng sẽ không thoát ra, và sẽ không có bốc hơi nhiên liệu, do đó không dẫn
tới bốc cháy.
A.D. Tên lửa sử dụng có hiệu quả không?
Đó là loại tên lửa 82 mm. Tất nhiên, chúng tôi bắn chúng ở khu vực lân cận mục
tiêu. Nhƣng trên tuyến đầu thì các mục tiêu ở khắp nơi, binh lính và xe cộ tập trung với
mật độ rất cao. Một chùm là hiệu quả nhất – một quả trƣợt thì chắc chắn quả khác sẽ
trúng mục tiêu. Chúng tôi cũng dùng loại RS-132, nhƣng chỉ đeo theo 2 quả. Trong
trƣờng hợp ấy chúng tôi đem ít bom hơn – chỉ 200 kg. Thƣờng chúng tôi dùng loại RS-82,
đôi khi tới 16 quả.
A.D. Máy bay của ông có lắp pháo 37 mm không?
Chúng ta có loại IL dùng pháo 37 mm, 40 viên đạn cho mỗi khẩu. Nhƣng tôi
không bay loại đó. Chúng không hiệu quả lắm.
A.D. Bộ binh Đức đƣợc bảo vệ hiệu quả không?
Chúng thƣờng chỉ có một cách bảo vệ – tập trung các ụ pháo phòng không.
Không chỉ một khẩu đội mà tập trung ở bốn cụm theo bốn góc. Đôi lúc tôi đếm đƣợc tới
40 khẩu – chúng bắn lên liên tục, không ngớt. Pháo phòng không cỡ nhỏ đặc biệt nguy
hiểm.
A.D. Có bao giờ ông tấn công bổ nhào không?
Luôn luôn là công kích bổ nhào, từ khoảng 30 tới 40 độ. Anh sẽ không có đủ thời
thời gian để sử dụng tất cả vũ khí nếu bổ nhào với một góc lớn hơn. 30 tới 40 độ – đó là
góc cho phép sử dụng hết toàn bộ các loại vũ khí cùng một lúc.
A.D. Ông đã sử dụng loại bom diệt tăng lần nào chƣa?
Có. Chúng tôi đã thực hiện khoảng 280 lần. Có cả loại bom 25 kg, 50 kg và 100
kg - 4 khoang chứa, sức chứa 600 kg. Chúng tôi thƣờng trút bom từ độ cao trên1400-1500 m. Nếu trời có mây thì là 400-600 m, nhƣng thƣờng chúng tôi kết hợp với kíp nổ
chậm.
A.D. Thƣờng ông bay khoảng bao nhiêu phi vụ một ngày ?
Đôi khi là 3 … nhƣng có khi nhiều lắm. Nhiều lắm.
Nếu ai đó nói không sợ thì chắc chắn là nói dối. Cái khoảng khắc chờ đợi là lúc sợ
nhất và khó chịu nhất. Ví dụ nhƣ họ có thể nói: “Lúc 14 giờ tại sân bay này”. Anh ngồi
đó: 14 giờ – chƣa thấy gì, 14 giờ 30 - chƣa thấy gì, 15 giờ – vẫn chƣa có lệnh! Hay khi
anh đang trong buồng lái, chờ một phi vụ đi phóng tên lửa, và mãi chẳng thấy. Chân cẳng
bắt đầu run rẩy. Một nỗi sợ hãi thực sự bắt đầu trỗi dậy. Sau cùng là không gì bảo đảm
anh không bị bắn hạ trong khi thực hiện phi vụ. Nhƣng khi một quả tên lửa bắn vào
không trung, đầu anh bắt đầu tập trung theo nhiều hƣớng khác nhau và nỗi sợ sẽ dần dần
biến mất. Kế đó là một cảm giác khó chịu xuất hiện khi anh tiếp cận mục tiêu nhƣng
không thể tấn công ngay lập tức. Chúng sẽ có thời gian chuẩn bị và bắn trả. Khi bắt đầu
tấn công thì, ngƣời phi công khởi sự công việc, dõi tìm mục tiêu, nhấn cò, phóng tên lửa,
nã súng máy, pháo, nhấn nút ASSh-41 (Nút thả bom khẩn cấp. Bom sẽ thả ngay khi
buông nút ra, hay nếu anh muốn thả đồng loạt tất cả bom thì cũng nhấn nút ấy).
A.D. Làm cách nào xác định hiệu quả oanh kích của một phi vụ?
Mỗi ngƣời đều có một máy camera gắn theo khẩu pháo, nó làm việc khi anh đang
khai hỏa. Nếu anh bắn cháy một cái xe, nó sẽ ghi lại. Nếu anh bắn một chiếc tăng, nó
cũng sẽ ghi lại. Thêm vào đó, các xạ thủ ngồi sau trang bị những camera quay góc rộng.
Thƣờng luôn có hai ngƣời nhƣ thế trong mỗi nhóm. Chúng quay đƣợc một vùng rộng, và
sau khi hạ cánh chúng tôi đem phim đi tráng. Thêm nữa, khi tiến tới chiến tuyến chúng
tôi thiết lập liên lạc với một ngƣời quan sát, thƣờng là một đại diện của sƣ đoàn không
quân. Chúng tôi có thể nhận rõ giọng nói của anh ta. Anh ta sẽ thông báo cho chúng tôi:
"Các bạn, qua phải một chút. Tốt”. Anh ta cho chúng tôi lệnh tấn cong. Thông báo điểm
bom rơi. Bƣớc thứ hai là xác nhận kết quả. Sự xác nhận của anh ta đƣợc ghi lại để công
nhận chính thức.
A.D. Và ông làm thế nào để giúp các phi công mới hòa nhập?
Cũng thƣờng thôi. Sau khi tốt nghiệp các phi công đƣợc đƣa tới các trung đoàn dự
bị. Ném bom và oanh kích các mục tiêu mặt đất bằng pháo và súng máy. Rồi một ngƣời
tuyển dụng sẽ tới. Chúng tôi sẽ phải luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
A.D. Còn khi ở trung đoàn chiến đấu?
Sau khi trải qua thủ tục trên, chúng tôi đƣợc chuyển tới trung đoàn và bố trí vào
một phi đội. Phi đội trƣởng sẽ bay với từng ngƣời, trắc nghiệm thử thách mức độ sẵn
sàng của từng cá nhân, và chọn ra ngƣời sẽ bay số 2 với mình. Tôi đã ngay lập tức đƣợc
chọn bay chung với phi đội trƣởng. Tôi chỉ bay chung với anh ấy. Tôi yêu bay lƣợn và
hầu nhƣ đã đƣợc chọn ngay từ đầu.
A.D. Trong đơn vị của ông có chiếc IL-10 nào không?
Tất nhiên. Nhƣng chỉ sau chiến tranh. Chất lƣợng của chúng cũng thế. Cùng trọng
lƣợng, xạ thủ, chỉ huy, phi công. Cấu trúc thì phức tạp hơn. Diện tích cánh nhỏ hơn một
chút. Vũ khí tƣơng tự. Hai khẩu pháo và hai súng máy. Tầm bắn có khác chút xíu. Nhƣng
hầu nhƣ là giống IL-2.
A.D. Có khi nào ông bắn phải đồng đội không?
Chỗ chúng tôi có một phi công Hai lần Anh hùng Liên Xô Len'ka (Leonid) Beda,
chúng tôi đã cùng học với nhau. Một con ngƣời cẩu thả. Dù sao chúng ta cũng không nên
nói xấu về ngƣời đã khuất. Có lần một vị tƣớng tới, chúng tôi đƣợc lệnh tập hợp. Vị
tƣớng chú ý tới anh ta:
"Họ?"
"Beda" ("Beda", trong tiếng Nga có nghĩa là "tai họa" - LTD.)
"Tôi đang hỏi họ của anh là gì!"
"Beda, thƣa đồng chí chỉ huy!"
Len'ka đã giết lầm 118 ngƣời vào cuối chiến tranh. Đó không phải là lỗi của anh
ta, họ đã ra lệnh cho anh trƣớc khi bay: "Hãy ném bom mục tiêu đó ". Nhƣng trƣớc khi
đó anh ta phải bay tới mục tiêu đã. Có lẽ mất khoảng 30 phút. Khi họ bay tới, tình hình đã
thay đổi. Quân ta đã chiếm đƣợc nơi đó, nhƣng không ai thông báo cho anh ta. Phi đội
oanh tạc mục tiêu – 118 ngƣời chết. Anh ta trở về, họ tƣớc huân chƣơng của anh, nhƣng
ngay lập tức điều tra và trả lại chúng. Sau này anh ta trở thành Tƣ lệnh Không quân Quân
khu Belorussia.
A.D. Đã khi nào ông phải đối đầu với máy bay địch không?
Tôi chƣa lần nào tham gia không chiến, nhƣng xạ thủ phía sau cũng không khi
nào phải ngồi chơi – sau khi rút khỏi một đợt công kích anh ta nã đạn vào các mục tiêu
trên mặt đất.
A.D. Có trƣờng hợp hèn nhát lung lạc nào không?
Chỉ một vài trƣờng hợp đơn lẻ xảy ra. Có lần, khi tay N. đang dẫn đầu một phi đội
lớn, khoảng 20 máy bay, anh ta rút lui trƣớc khi tới đƣợc mục tiêu và đƣa toàn bộ phi đội
về sân bay. Ra tòa án binh. Chịu bảy năm tù. Nhƣng sau đó anh ta chiến đấu tốt – đƣợc 4
Huân chƣơng Cờ đỏ. Cũng có những kẻ ranh mãnh. Một số ít thôi, nhƣng có. Hắn vẫn
tìm cách giữ độ cao. Chúng tôi thì bay, còn hắn cứ lơ lửng ở trên, rồi hạ xuống độ cao
1000 m, thả bom và nhập vào phi đội. Nhƣng chúng tôi thấy hết mọi điều.
A.D. Các ông có nện hắn ta không?
Chỉ cảnh cáo hắn. Bảo hắn là: "Sasha, anh mà còn làm thế lần nữa, chúng tôi sẽ
bắn hạ anh". Hắn đã phá vỡ sự phối hợp của chúng tôi ! Chúng tôi bay ở cao độ 600 m,
hắn lại ngóc đầu lên nên cao độ trở thành 1200 m. Sự phối hợp bị đứt đoạn. Lời cảnh cáo
đƣợc thực hiện.
A.D. Có hiện diện một phi đội cƣờng kích mặt đất trừng giới nào không?
Không. Họ gửi các sĩ quan phạm lỗi tới chỗ chúng tôi, không nhất thiết phải là phi
công. Họ sẽ phải bay 10 phi vụ với nhiệm vụ xạ thủ súng máy.
A.D. Cái gì giúp xem xét kết quả một phi vụ chiến đấu?
Chỉ có cách ném bom mục tiêu địch với các tấm ảnh minh chứng.
A.D. Các ông có khi nào bị rơi máy bay do lỗi kỹ thuật không?
Các kỹ thuật viên làm việc rất tốt. Nếu một máy bay không trở về do lỗi kỹ thuật
thì phải có điều gì đó khá nghiêm trọng xảy ra. Tất cả những chuyện đó sẽ đƣợc điều tra
cẩn thận.
A.D. Ông có áp dụng chiến thuật đặc biệt nào không?
Có. Anh thực hiện xong bƣớc một, rồi tới bƣớc thứ hai, và họ sẽ thông báo từ mặt
đất: "Hãy chờ một lát, để cho bộ binh xông lên, chúng tôi sẽ thông báo cho các anh vị trí
mục tiêu kế tiếp”. Thế là chúng tôi dừng lại trên bầu trời, còn họ thông báo mục tiêu kế
tiếp dựa trên các thông tin từ vị trí quan trắc tiền tiêu.
A.D. Các ông có thực hiện phi vụ trong khoảng thời gian tạm dừng chiến dịch
không?
Những hoạt động căng thẳng nhất diễn ra trong thời gian thực hiện các chiến dịch.
Những lúc nhƣ thế chúng tôi phải bay rất nhiều, nhƣng chỉ khi nào đƣợc yêu cầu, và đã
có các chuẩn bị tƣơng ứng. Tổ lái và trang thiết bị phải đƣợc chuẩn bị kỹ. Trong những
khoảng thời gian tạm dừng chiến dịch chúng tôi cũng bay. Để thực hiện các nhiệm vụ
chiến thuật. Tất nhiên là với lực lƣợng nhỏ hơn. Chúng tôi thƣờng đƣợc gửi đi hỗ trợ cho
bộ binh hay để tiêu diệt những đội hình hành quân của địch. Ví dụ nhƣ Pokryshkin bay
hơn 500 phi vu, tham gia 84 trận không chiến. Anh ta đã bắn hạ 59 máy bay. Tôi cũng đã
tham gia 84 phi vụ chiến đấu. Thế nhƣng nếu bạn chuyển hiệu quả tác chiến của tôi thành
tiền thì tôi chắc chắn cũng không hề thua kém anh ta. Tôi có thể khẳng định điều này. Tất
nhiên là đôi tay các phi công cƣờng kích mặt đất luôn ngập máu đến tận khuỷu. Nhƣng
đấy là nhiệm vụ của chúng tôi, và tôi cho rằng chúng tôi đã làm việc rất hiệu quả. Chúng
tôi đã phải làm mọi việc trên đời. Vâng, và Chúa hẳn không chỉ đơn giản ban cho chúng
tôi những “cây thập giá”.
Phỏng vấn: Artem Drabkin
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
HỒI ỨC CỦA CÁC PHI CÔNG
Vyacheslav Ivanov
(Ông sinh năm 1921. Là thiếu úy hoa tiêu trên máy bay U-2 thuộc Phi đoàn 387
NBAP. Lần đầu tham gia chiến đấu vào tháng Sáu năm 1943, tại Phƣơng diện quân
Bryansk, ông thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đêm đầu tiên vào đầu chiến dịch Orel-Kursk,
giải phóng Orel. Tại đây, nhờ đã hoàn thành 30 phi vụ chiến đấu, ông đƣợc trao tặng
Huân chƣơng Sao Đỏ, và vào ngày mùng 9 tháng Tám năm 1943, trong khi thực hiện phi
vụ thứ 37, máy bay của ông bị bắn rơi trên bầu trời thị trấn Karachev, phụ cận Bryansk.
Đầu tháng Giêng năm 1944 ông tham gia chiến đấu trong thành phần Ban tham mƣu Phi
đoàn 715 NBAP thuộc Phƣơng diện quân Ukraina 1. Tổng cộng, ông đã thực hiện 99 phi
vụ chiến đấu. Trung đoàn ông cũng thực hiện rất nhiều phi vụ bay ngày bằng máy bay U-2 khi họ ném bom lực lƣợng Đức bị bao vây trong khu vực thị trấn Chertkov (phía Nam
Ternopol). Phi đoàn 715 NBAP cũng đã ném bom một cây cầu bắc ngang sông Dnestr
trong khu vực thị trấn Kamenets-Podol'sk. Do những chiến công đó, Phi đoàn 715 NBAP
đã đƣợc nhận danh xƣng Cận vệ "Kamenets-Podol'skiy".
Cuối năm 1944 ông đƣợc chuyển tới 600 VTAP ON (Trung đoàn Vận tải đƣờng
không thực hiện Nhiệm vụ đặc biệt), thuộc Bộ Tổng Tƣ lệnh. Tại đây ông đã bay các loại
máy bay Shche-2, Yak-6, Li-2 và (sau chiến tranh) Il-12. Tổng cộng ông đã thực hiện
khoảng 3000 giờ bay. Năm 1956, do mắc bệnh thận, ông chuyển sang công tác dƣới mặt
đất. Sau đó ông tiếp tục phục vụ trong VVS (Không quân Liên Xô) cho tới tháng Chạp
năm 1971, khi ông về hƣu với chức vụ Tham mƣu trƣởng Đoàn Không quân 229 VTAP
ON/4 AD ON.
Ông đã đƣợc tặng ba Huân chƣơng Sao Đỏ, một Huân chƣơng Vệ quốc và 17 huy
chƣơng các loại.)
"Chuyện đó xảy ra vào mùng 9 tháng Tám năm 1943. Chúng tôi bay đi ném bom
một nhà ga đƣờng sắt. Pháo phòng không bắn lên dữ dội và, theo tôi nghĩ, tiêm kích Đức
cũng có mặt. Tôi không biết chính xác thứ gì bắn hạ chúng tôi, nhƣng máy bay tôi bốc
cháy và bắt đầu rơi. Chúng tôi rơi xuống gần khu vực ga đƣờng sắt Karachev. Tôi và
trung úy phi công Pavel Radenko chui khỏi cái máy bay giờ đang cắm mũi xuống đất.
Chúng tôi hỏi nhau tình hình thƣơng tích và, sau khi đã chắc chắn là chúng không có gì
nguy hiểm, chúng tôi quyết định rời khỏi nơi máy bay rơi. Nhƣng trƣớc tiên chúng tôi
phải cởi áo bay. Anh ấy cởi áo thật nhanh và bắt đầu giục giã tôi. Nhƣng tôi vẫn còn loay
hoay với cái áo của mình, rồi lại tìm túi cứu hộ và tháo lấy la bàn, rồi mới trƣờn ra để
đuổi theo anh ta. Lúc này trời đã tối, tôi không thể đuổi kịp. Tất cả nỗ lực của tôi để tìm
ngƣời chỉ huy trong đêm tối đều thất bại. Tôi đi mãi tới khi gặp một nhà ga xe lửa. Tôi
định băng qua dải đƣờng sắt về phía Bắc, nơi có một cánh rừng, nhƣng ý định đó thất bại
khi tôi kịp phát hiện một nhóm gác đang tuần tra trên đƣờng. Một lần nữa tôi lại bắt đầu
đi tìm dấu vết chỉ huy của mình. Chủ yếu tôi bò trƣờn sát đất do sợ gây chú ý cho những
ngƣời mà chốc chốc tôi lại nghe thấy tiếng trò chuyện. Bọn họ nói với nhau bằng tiếng
Đức. Tôi trƣờn mãi tới khi nhận thấy có ngƣời đang tiến thẳng lại gần mình. Chờ hắn tới
thật gần, tôi bật nhanh dậy và hỏi rất to tên của hắn. Hắn trả lời bằng tiếng Đức: “Halt”.
Thế là tôi bắn thẳng vào hắn và vội quay lại chạy vọt đi. Trời bắt đầu sáng và tôi ẩn mình
vào đám cỏ cao mọc trong cái rãnh ven đƣờng. Tôi ở đấy trong suốt ngày đầu tiên. Một
chiếc môtô ba bánh chở một xạ thủ trung liên và một tên lính nữa ngồi sau thằng lái chạy
qua con đƣờng. Chúng cứ chạy đi chạy lại nhƣ thế mấy lần nên tôi phải nằm chờ đến khi
trời tối hẳn. Đêm tới, tôi chui khỏi cái rãnh, thận trọng lảng xa thị trấn ấy và đi về phía
đông, định hƣớng nhờ cái la bàn. Chiến tuyến hiện ở gần khu vực ga đƣờng sắt
Naryshkino, cách thị trấn Karachev 50 km và cách Orel khoảng 30 km. Tôi biết lúc này
Orel đã đƣợc giải phóng và quân đội ta đang tiến quân về Bryansk. Do đó, tôi đi về
hƣớng mặt trận với hy vọng vƣợt chiến tuyến về phía quân ta.
Máy bay PO-2 của Phi đoàn 668 BAP.
Tôi bƣớc gần miệng của một cái hố lớn – đó là cái hố tạo ra bởi vụ nổ của một
quả bom hạng nặng. Tôi quyết định dừng lại đây để chờ cho hết ngày thứ hai. Suốt đêm
lẫn ngày của hôm đầu tiên mƣa rơi rả rích nên giờ đây, nằm trong cái hố, tôi phơi ngƣời
dƣới nắng để hong cho khô và cố chợp mắt một chút. Tôi thức dậy do một cú chạm nhẹ
và, hé mắt ra đôi chút, tôi thấy một ngƣời mặc quân phục Đức đứng ở miệng hố. Sau một
thoáng, tôi hiểu là hắn đang ném đá vào ngƣời mình, do đó tôi phải cố giữ im lặng không
động đậy. Thế rồi, qua khoé mắt, tôi thấy hắn đi tìm một hòn đá lớn và cố lăng nó vào tôi.
Tôi nhắm chặt mắt lại và tự nhủ rằng, dù chuyện gì xảy ra đi nữa tôi cũng cố giữ cho
ngƣời bất động. Hòn đá, may thay chỉ là một tảng đất pha cát, vỡ vụn ra sau khi trúng vào
đầu tôi. Tôi chờ một chút, khi đám đất cát vụn tuôn qua mặt, mở hé mắt và nhận thấy tên
Đức phẩy tay rồi bỏ đi.
Tôi vẫn ở lại trong cái hố thêm một lúc. Chờ tới khi trời tối, tôi rời hố bom và tiến
xa hơn về hƣớng đông. Tôi tới đƣợc một cánh đồng lúa mì đã gặt, tuốt lấy vài bông bỏ
vào túi, cảm thấy mừng vì vẫn tìm đƣợc chút gì đó để nhai. Tôi ở lại cánh đồng ấy trong
ngày thứ ba. Vẫn còn vài bông lúa trong túi. Đêm đã đến và tôi một lần nữa lại tiếp tục
tiến về hƣớng đông.
Rạng sáng ngày thứ tƣ, tôi lần đƣợc tới chỗ có những đống rơm khô. Vùi mình
vào một trong những đống rơm đó, tôi lăn ra ngủ. Tôi bị đánh thức bởi tiếng đạn nổ trong
khu vực ấy, bắn ra từ hƣớng quân ta. Tôi kết luận có lẽ mặt trận đang ở gần và tôi đã
không lầm. Đã là cuối ngày thứ tƣ. Tới đêm, tôi chui khỏi đống rơm và quyết định trƣờn
đi kiểm tra xem có gì ở phía trƣớc mặt. Hóa ra, tôi đã tới đƣợc ngay mặt trận. Các chiến
hào xuất hiện rất gần và tôi đã có thể quan sát rõ đám ngƣời và một chiếc xe ngựa đang di
chuyển về hƣớng tây. Ngày thứ năm bắt đầu. Ngay lập tức, tôi nhận ra mình đang ở giữa
mặt trận. Trong đụn rơm nơi tôi ẩn nấp, tôi nghe đƣợc một cuộc trao đổi bằng tiếng Đức
và thấy có hai ngƣời đang tiến về phía mình. Chúng lại gần và bắt đầu lấy rơm ở ngay
chỗ đầu tôi, một tên trong chúng đè lên vai tôi. Ôi, tôi nghĩ, thế là hết … Tôi nắm chặt
khẩu súng lục trong tay và sắn sàng nổ súng nếu chúng phát hiện ra. Điều đó nghe có vẻ
ngốc nghếch, nhƣng lúc đó tôi đã thực sự nghĩ nhƣ thế và đã sẵn sàng thực hiện… Bọn
Đức lấy rơm khô và quay đi, nhƣng tôi lại nghe và thấy chúng một lần nữa quay trở lại.
Chúng bỏ đi sau khi lấy đủ rơm. Với tôi một lần nữa mọi chuyện lại kết thúc tốt đẹp:
chúng chỉ đến lấy rơm để lót vào chiến hào. Tôi cẩn thận nằm lại chờ tới khi trời tối. Rồi
tôi chui ra, uống no nƣớc trong một vũng lầy, nhai nốt chỗ lúa mì còn lại và quyết dịnh
nằm chờ tới lúc trời sáng bên đống rơm. Rạng sáng ngày thứ sáu của chuyến hành trình
giữa hậu phƣơng quân Đức, tôi nghe có những tiếng trò chuyện và la hét ồn ào bằng tiếng
Nga. Tôi nhận ra một toán rất đông binh lính có vũ trang đang tiến về phía tây, ngang qua
chỗ tôi. Ngay lúc ấy, về phía dải đƣờng sắt chạy bên trái tôi, tôi thấy có nhiều ngƣời đang
bƣớc thẳng lƣng. Tôi đã gặp đám lính bộ binh của Kapitan, trung đoàn trƣởng một trung
đoàn công nhân Tula, theo lời anh ấy nói.
Đấy là ngày 15 tháng Tám năm 1943. Tổng cộng tôi đã đi đƣợc 7 cây số kể từ thị
trấn Karachev. Đêm và ngày 16 tháng Tám, tôi nghỉ tại một điểm đóng quân, nơi vào ban
đêm tôi nghe thấy tiếng những xã trƣởng bị bắt, do trƣớc đó đã cộng tác với quân Đức,
đang bị thẩm vấn.
Tới sáng, sau khi nhận đƣợc một túi nhỏ chứa bánh mì khô và một hộp thịt, tôi
quá giang một xe tải để tới thị trấn Orel, 7 cây số cách cái sân bay mà từ đó tôi đã cất
cánh ngày 9 tháng Tám năm 1943.
Tại Orel tôi gặp một chuyên viên mặc quân phục không quân cƣ xử rất lịch sự,
nhƣng đó chính là một sỹ quan "Smersh" (mật vụ quân đội) và quá trình thẩm tra tôi bắt
đầu. Thật khổ cho bất cứ ai sống ở thị trấn này. Đơn giản là tay chuyên viên đó từ chối tin
việc tôi là phi công thuộc sân bay đóng tại khu vực ga xe lửa Stish. Đã ba lần họ lôi tôi ra
sau một đống rác nhỏ, để làm gì không hiểu? … Tới tận bây giờ, tôi vẫn không thể trả lời
chắc chắn cho câu hỏi đó. Mỗi lần tới sau đống rác, họ, lần lƣợt ngƣời này kế tiếp ngƣời
kia, và cuối cùng là bốn ngƣời một lúc, cố gắng bắt tôi kể tên thƣ ký của nhóm sinh hoạt
Đoàn Thanh niên Komsomol đầu tiên mà tôi từng tham gia. Nhƣng làm sao tôi nhớ nổi
cái tên đó, nhất là trong tình huống thế này? Trong suốt thời gian diễn ra câu chuyện khó
chịu đó, tôi vẫn giữ đƣợc cái thẻ Đoàn và tất nhiên là chìa nó ra cho đám “Cận vệ” đầây
tinh thần cảnh giác kia. Sau khoảng ba tiếng đồng hồ, sức kiên nhẫn của tôi đã cạn và tôi
buông ra những từ ngữ gay gắt để bộc lộ sự căm phẫn về cách cƣ xử quái gở của họ. Tôi
bảo họ rằng sân bay chúng tôi chỉ nằm cách ga Stish (tức làng Mikhailovka) có 7 cây số,
hãy tới đó mà kiểm tra và, nếu thấy tôi sai thì cứ việc đem tôi ra làm bất cứ điều gì họ
muốn. Sau khi nghe tôi nói thế, họ đề nghị tôi bình tĩnh lại và bỏ tôi một mình trong
phòng. Nửa tiếng sau, một nhân vật hoàn toàn mới bƣớc vào, bảo tôi cầm theo cái túi
đựng bánh khô của mình và chờ một chiếc xe tải sắp khởi hành để tôi quá giang về hƣớng
ga Stish. Lúc này trời đã gần về chiều, chúng tôi bắt đầu lên đƣờng. Chúng tôi rời thị trấn
và chiếc xe dừng lại. Không gian xung quanh chúng tôi im ắng không một tiếng động.
Tôi đƣợc yêu cầu phải xuống xe. Rồi tôi đƣợc chỉ cho phƣơng hƣớng cần đi. Tôi rời
chiếc xe và đi theo hƣớng đƣợc chỉ. Tôi tự ra lệnh cho bản thân tuyệt đối không đƣợc
quay lại nhìn. Lúc đó trong đầu tôi tràn ngập những ý nghĩ trái ngƣợc, thậm chí là những
ý nghĩ cực đoan nhất, nhƣng tôi chẳng làm gì khác đƣợc. Chờ một lúc khá lâu, tôi từ từ
ngoái đầu lại. Chiếc xe tải đã đi một quãng xa và tôi không thấy dấu hiệu gì đe dọa nữa.
Thở phào nhẹ nhõm, tôi bƣớc nhanh theo hƣớng đã đƣợc chỉ. Mau chóng, tôi đón đƣợc
một chiếc xe cho tôi quá giang tới tận nơi sân bay chúng tôi. May mắn cho tôi, đấy cũng
chính là lúc chiếc xe cuối cùng ở đó khởi hành để tới vị trí đóng quân mới của Phi đoàn
387 NBAP chúng tôi. Ngay buổi chiều cùng ngày, trong vòng tay anh em đồng chí cùng
trung đoàn, tôi thuật lại cho họ về những gian nan vất vả của mình. Tôi đƣợc cấp một kỳ
phép hàng tháng theo quy định của đơn vị. Khoảng 10 ngày sau, thị trấn Karachev đƣợc
giải phóng và chúng tôi, dẫn đầu bởi các kỹ thuật viên trung đoàn, mang theo cuốn nhật
ký làm việc của sân bay, tiến vào Karachev. Tại đấy tôi mau chóng tìm ra chiếc máy bay
của mình. Nó đã cháy rụi hoàn toàn. So sánh số serie máy với các ghi chép trong nhật ký
hành trình, chúng tôi đã xác định đó đúng là máy bay của mình.
Số phận chỉ huy của tôi, trung úy Pavel Rodenko, chỉ đƣợc xác định vào năm
1946. Vào đêm ấy, một ông lão đã gặp anh và đƣa anh về, giấu anh vào một hầm chứa.
Nhƣng tay xã trƣởng ở đấy biết đƣợc và báo cho bọn Đức đến giết anh. Sau này, khi quân
đội ta giải phóng Karachev, một tháp tƣởng niệm vong hồn anh đã đƣợc dựng lên tại thị
trấn đấy.
Lyubertsy
09.09.2000
Ngƣời phỏng vấn: Artem Drabkin.
Dịch từ tiếng Anh: Lý Thế Dân
HỒI ỨC CỦA LÍNH THÔNG TIN
Josef Finkelshteyn
CUỘC CHIẾN VĨ ĐẠI ĐÃ BẮT ĐẦU
Ngay từ dạo mùa xuân 1941, ngƣời ta đã có thể cảm thấy hơi thở của chiến tranh
đang tới gần.
Thời gian này tôi đang làm việc tại Học viện Nghiên cứu Leningrad ở vị trí kỹ sƣ
bậc cao. Tại đây chúng tôi đƣợc học về các phƣơng pháp phòng chống không kích. Sau
giờ làm việc, trong sân của Học viện, chúng tôi học cách đào chiến hào và đeo mặt nạ
phòng độc rồi thử làm việc trong khoảng nửa giờ. Đó là cách chúng tôi chuẩn bị phòng
ngừa một cuộc tấn công thực sự bằng hơi ngạt.
Đêm ngày 22 tháng Sáu trời ấm áp và quang đãng. Đang là thời gian làm lễ tốt
nghiệp ở nhiều trƣờng học, tôi đi về nhà sau khi dự một buổi tiệc mừng. Ở buổi tiệc tôi
đƣợc gặp khá nhiều thanh niên. Các cô gái thƣớt tha trong những chiếc áo dài dạ hội màu
trắng và giày cao gót. Những đôi gót giày của họ vui vẻ gõ trên mặt đƣờng nhựa. Không
khí yên bình và tĩnh lặng bao trùm khắp nơi. Có tiếng ai đó ngâm nga giai điệu foxtrot
đang thịnh hành “Tại nơi nào đó ở Taihiti”... Nhƣng chúng tôi còn ở rất xa Tahiti và
những tai họa khủng khiếp đang dần tiến đến. Chúng tôi không hề biết rằng cuộc chiến
đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại đã bắt đầu đƣợc vài tiếng đồng hồ.
Sáng hôm sau tôi ra ngoài mua thức ăn. Một đám đông đang bao quanh chiếc loa
phóng thanh gắn trên một cột điện. Tôi nghe thấy giọng nói ngèn ngẹt của Bộ trƣởng
Ngoại giao Molotov, "Máy bay Đức đã ném bom những thành phố của chúng ta mà
không hề tuyên chiến. Đã có những trận chiến ác liệt diễn ra ngoài biên giới. Các chiến sĩ
biên phòng anh dũng của chúng ta đang đánh bại cuộc xâm lăng của quân thù một cách
dũng mãnh (ogoltelyi – không có từ tƣơng tự trong tiếng Việt. Từ này có nghĩa là sự giận
dữ không thể kiềm chế nhƣng bộc lộ một cách có chủ đích. Nó thƣờng đƣợc dùng trong
các thông báo tuyên truyền nhằm mục đích chính trị - James Quinn)." Tôi không còn nhớ
chính xác những lời ông nói, nhƣng đó đúng là những gì còn đọng lại trong ký ức của tôi.
Chúng tôi đã cảm đƣợc chiến tranh đang tiến gần từng ngày một từ rất lâu trƣớc
khi nó thực sự bắt đầu, nhƣng không ai nghĩ rằng chiến tranh lại nổ ra sớm và diễn ra kéo
dài đến nhƣ vậy. Và chúng tôi cũng không thể ngờ sự thất bại của chúng tôi lại liên tục
lâu nhƣ thế. Ai ai cũng biết tuyên bố của những vị lãnh tụ sáng suốt của chúng ta, "Chúng
ta không cần những mảnh đất xa lạ, nhƣng chúng ta nhất quyết không để mất dù chỉ một
phân mảnh đất quê hƣơng chúng ta.” Chúng tôi đã hát, “Chúng ta sẽ tiêu diệt quân thù
trên chính quê hƣơng chúng chỉ bằng một đòn kiên quyết. Sẽ có rất ít máu đổ,” Nhƣng
thực tế đã hoàn toàn khác. Tới tháng Chín, quân Đức đã xuất hiện ở rất gần Maskva và
Leningrad.
Giữa tháng Sáu tôi đã nhận đƣợc một thông báo yêu cầu phải có mặt tại trụ sở
quân uỷ (văn phòng tuyển quân - James Quinn) vào cuối tháng Bảy. Tôi không muốn
phải chờ cho đến ngày đó nên đã tới trƣớc vào ngày 23 tháng Sáu và nhập vào hàng
ngƣời đứng chờ. Không khí rất hỗn loạn và ồn ào, nhiều ngƣời liên tục nguyền rủa. Các
đại uý, thiếu tá và trung uý chạy nháo nhào từ phòng này sang phòng nọ với giấy tờ trên
tay. Một sĩ quan cần vụ đọc tờ thông báo rồi hét vào mặt tôi, "Anh có mù chữ không?
Chỗ này có viết rõ ràng khi nào anh cần phải có mặt ở đây! Đừng làm phiền tôi, về nhà
đi!” Tôi trả lời, “Nhƣng chiến tranh đã nổ ra. Tôi nói tốt tiếng Đức, có thể cho tôi làm
thông dịch viên!” Viên sĩ quan cần vụ không thèm nghe lời tôi, “Đừng nói tào lao nữa!
Cút đi!”
Cha tôi đã bị động viên ngay từ tuần đầu tiên của chiến tranh. Mẹ và tôi đi tiễn
ông tại ga Varsava (Một trong những ga đƣờng sắt chính ở Leningrad – James Quinn).
Dàn kèn đồng đang chơi, các em thiếu niên hát bài “Hãy mau quay về với chiến thắng”.
Rất nhiều ngƣời trong số họ, bao gồm cả cha tôi, không bao giờ còn quay về nữa. Đối với
ông, đó là một chuyến đi vào cõi hƣ vô.
Bức thƣ cuối cùng chúng tôi nhận đƣợc từ ông có đề ngày mùng 8 tháng Chín
năm 1941. Ông viết, "Anh đã đạt đƣợc nhiều tiến bộ đáng kể. Anh đã học cách chơi
domino và thực hành phẫu thuật điêu luyện.” Chúng tôi không bao giờ đƣợc nhận lá thƣ
kế tiếp. Chúng tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu chờ đợi mà không hề biết chuyện gì đã
xảy ra. Mỗi lần hỏi thăm chúng tôi đều nhận đƣợc những câu trả lời nhƣ nhau, “Anh ta đã
mất tích trong chiến đấu.” Sau cùng, vào cuối tháng Mƣời Hai năm 1941, chúng tôi nhận
đƣợc một lá thƣ từ ngƣời đàn bà đã làm việc chung với cha. Bà viết rằng ở gần thành phố
Staraya Russa bệnh viện của họ đã bị ném bom và cha tôi đã bị giết bởi một mảnh bom.
Không ai khác ngoại trừ cha tôi bị chết. Ngƣời cha đáng thƣơng của chúng tôi thật không
may. Chúng tôi không cách nào tìm đƣợc mộ của ông, thậm chí chƣa chắc mộ ông còn
tồn tại.
Mọi ngƣời đều chờ đợi đƣợc nghe bài diễn văn của Stalin. Cuối cùng, vào ngày
mùng 3 tháng Bảy ông cũng đã phát biểu trên radio. Đó đã là ngày thứ 12 kể từ khi cuộc
xâm lƣợc bắt đầu và quân thù đã chiếm đƣợc một phần lãnh thổ rộng lớn của chúng ta.
Ông bắt đầu bài diễn văn của mình với từ “Hỡi các anh chị em”. Trƣớc kia ông ta không
bao giờ phát biểu với nhân dân bằng cách nói thân mật nhƣ vậy.
Ngay từ đầu tháng Bảy 1941, chính phủ đã cho thông báo sự thành lập của Đội
quân Tình nguyện. Ai cũng có thể tham gia tổ chức này, thậm chí kể cả những ngƣời
không thể phục vụ thƣờng xuyên hoặc những ngƣời đã bị rút khỏi danh sách nhập ngũ vì
có những khả năng đặc biệt (tôi cũng nằm trong số này). Ngƣời sĩ quan tuyển quân ghi
tên tôi vào một sƣ đoàn dân quân dự bị mới thành lập, chỉ huy bởi những hạ sĩ quan và
những ngƣời đã từng nhập ngũ. Số ngƣời đăng ký trong danh sách của sƣ đoàn chỉ đủ để
lập thành một trung đoàn duy nhất. Những sĩ quan thừa lại, bao gồm cả tôi, đƣợc gửi tới
một trung tâm huấn luyện dự bị đặt tại một trƣờng học trên đảo Krestovsky. Chúng tôi
cùng học chung với những nữ y tá đang gần kết thúc khóa học của mình. Đang trong thời
chiến, mọi chuyện đều đƣợc tha thứ, do đó bạn có thể dễ dàng hình dung điều gì đã xảy
ra nơi đây.
Mỗi ngày chúng tôi đều chờ đợi để nghe thấy tin tức về cuộc tổng phản công của
quân đội ta, nhƣng chúng tôi đã phải đợi một thời gian thật dài. Vào đầu tháng Tám một
sĩ quan của đơn vị thiết giáp nọ xuất hiện tại sƣ đoàn chúng tôi. Anh ta tới để hỏi xem
những ai đã từng làm quen với thao tác trên máy vô tuyến của xe tăng. Khi còn ở trong
khóa huấn luyện quân sự dự bị năm 1939, tôi đã từng học chúng và tôi cho rằng mình có
thể làm đƣợc những gì anh ta yêu cầu. Nhƣng mong ƣớc đƣợc thực sự tham gia chiến đấu
của tôi cuối cùng vẫn không thành hiện thực. Một lần nữa tôi lại bị đƣa vào đơn vị dự bị,
có điều lần này là một đơn vị xe tăng dự bị. Tôi trở thành trung đội trƣởng trung đội
thông tin của cả một trung đoàn xe tăng hạng nặng đóng tại Đại học Bách khoa
Leningrad.
Tới đầu tháng Chín bọn Đức đã chiếm đƣợc Shlisselburg, cắt đứt mối liên lạc đất
liền giữa Leningrad và phần còn lại của tổ quốc. Đã có rất nhiều cuốn sách mô tả về nạn
đói, cái giá lạnh và những hành động anh hùng của ngƣời dân thành phố bị bao vây. Tôi
không đủ khả năng để viết thêm điều gì khác mới mẻ hơn.
Cháu gái tôi, Natasha, đƣợc tản cƣ tới Tashkent cùng với nhạc viện mà cháu đã
nhập học vào mùa xuân. Mẹ tôi cũng sớm nhập cùng họ sau đó. Chín ngƣời trong số
những họ hàng thân thiết của tôi ở lại Leningrad trong vòng vây. Chỉ còn hai trong số họ,
dì Sonia và anh họ Victor của tôi, là còn sống. Những ngƣời còn lại đều đã chết vì tình
trạng loạn dƣỡng gây bởi sự thiếu ăn.
Tôi bắt đầu viết một cuốn nhật ký từ những ngày đầu của chiến tranh. Nó đã cùng
theo tôi suốt cuộc chiến tranh trong cái ba lô quân dụng. Lúc này tuy trông thật sờn nát
tiều tuỵ nhƣng tôi vẫn giữ đƣợc nó. Dƣới đây là vài đoạn trích trong cuốn nhật ký đó.
Ngày 17 tháng Tám, 1941
Đã là ngày thứ 56 của cuộc chiến tranh, và là ngày thứ 47 trong đời lính của tôi.
Tôi đã đăng ký vào Sƣ đoàn xe tăng Dự bị số 12, đóng tại khuôn viên của Đại học Bách
Khoa Leningrad. Tôi là chỉ huy trƣởng trung đội thông tin với chỉ một chiếc điện đài đã
hỏng, một chiếc 71TK. Đại diện của các đơn vị quân đội đôi khi tới đây và chọn những
ngƣời đã từng tham gia chiến đấu để đƣa tới những đơn vị ngoài mặt trận. Thật đau khổ
khi phải nghe những thông báo về các thành phố của chúng ta đang rơi vào tay quân thù.
Bọn Đức tiếp tục tiến quân nhanh chóng vào sâu trong lãnh thổ nƣớc ta.
Ngày 10 tháng Chín
Đã là ngày thứ hai liên tiếp bọn Đức ném bom dữ dội xuống Leningrad. Bầu trời
đêm sáng rực bởi những ráng lửa cháy. Kho Bodaevsky, chứa những nhu yếu phẩm cung
cấp cho ngƣời dân Leningrad, đang bốc cháy. Khi tiếng còi báo động không kích vừa cất
lên, ban đầu tôi không cách nào thúc đƣợc mọi ngƣời tới trú trong những chiến hào tránh
bom. Thế rồi một quả bom nổ thật gần đến nỗi kính trên các cửa sổ vỡ tan. Sau đó, tất cả
mọi ngƣời đều ba chân bốn cẳng chạy tới các chiến hào. Quân Đức đã tiến tới sông
Dnepr và chiếm đƣợc Kiev. Đêm đó tôi mơ thấy những quả táo Antonov to và ngọt ngào.
Chúng thật lớn, mọng nƣớc và ngon lành. Tại sao tôi lại có giấc mơ nhƣ thế nhỉ?
Mùng 1 tháng Mƣời
Bọn Đức đã vƣợt qua Pushkin và đang tiến tới Pulkovo. Trạm thiên văn Pulkovo
đang bốc cháy. Trong suốt nhiều ngày trời bọn chúng tấn công Leningrad bằng đại bác
tầm xa.
Sáng nay chúng tôi đƣợc chứng kiến cuộc hành hình những kẻ đào ngũ tại khu
nhà máy bỏ hoang gần Đại học Bách Khoa. Vụ xử đƣợc thực hiện nhƣ một lời răn đe
dành cho chúng tôi. Chúng tôi đứng thành hàng để quan sát vụ hành hình cho rõ hơn. Có
ba kẻ đào ngũ, tất cả đều là thành viên một tổ lái tăng trong đại đội chúng tôi. Hai ngƣời
trong bọn họ đội pilotka (mũ vải quân đội - James Quinn) và ngƣời còn lại đội chiếc mũ
của lính xe tăng. Cả ba đều lộ vẻ đờ đẫn trên khuôn mặt. Có lẽ họ đã nói xong lời vĩnh
biệt với cuộc đời. Họ bị cởi bỏ quần áo và đứng trong tuyết với độc đồ lót của mình. Đó
là đợt tuyết sớm trong năm nay. Họ đứng đó, chờ một huyệt mộ đang đƣợc đào ngay
cạnh họ. Họ đã chạy khỏi mặt trận, bỏ lại xe tăng của mình.
Tiểu đội hành quyết tới dàn ra phía trƣớc mặt họ. Ngƣời lính đội chiếc mũ lính
tăng lấy tay mình che mắt lại. Ngƣời ta bƣớc tới gần và kéo tay anh ta xuống. “Bắn vào
bọn phản bội tổ quốc,” ngƣời sĩ quan chỉ huy hô to. Máu vọt ra từ mặt họ và tất cả bọn họ
ngã xuống. Có hai ngƣời vẫn còn động đậy. Một sĩ quan NKVD bƣớc tới và bắn vào đầu
hai ngƣời đó bằng khẩu súng lục của mình.
Quân thù đã xuất hiện ở Ligovo, cửa ngõ thành phố Leningrad. Pháo kích đã trở
nên quen thuộc tới nỗi không ai thèm chạy tới hầm trú ẩn để tránh nữa. Khi tiếng còi báo
động không kích cất lên, một lần nữa rất khó mà bắt đƣợc binh lính của tôi vào trú trong
chiến hào. Tất cả nhân viên của bộ chỉ huy đều đƣợc phát một phiếu thực phẩm để tới ăn
tại căn tin chỗ chúng tôi. Doanh trai không đƣợc sƣởi ấm. Những chiếc chăn mỏng và áo
khoác của chúng tôi không thể chống nổi cái lạnh. Một anh chàng khéo tay đã tự chế ra
một chiếc lò sƣởi nhỏ. Chúng tôi dùng gỗ lấy từ những công trình bị trúng bom gần đó để
làm củi đốt. Chúng tôi đốt chiếc lò suốt 24 giờ trong ngày, nhƣng trời lạnh tới nỗi điều đó
cũng không giúp đƣợc gì mấy.
Tôi đƣợc phép về thăm gia đình trong hai mƣơi bốn tiếng đồng hồ. Khu vực nhà
máy Putilovsky đã bị trúng bom và hai mƣơi hai ngƣời vừa trở thành vô gia cƣ tới trú tại
căn hộ chúng tôi. Anh Mark của tôi và tôi nấu súp bằng cách đun chín món rong biển khô.
Mẹ chúng tôi thƣờng bỏ món đó vào nƣớc tắm để giúp tăng cƣờng sức tỉnh táo. Giờ đây
chúng tôi dùng rong biển để đổ đầy dạ dày và dƣờng nhƣ chúng khá ngon miệng đối với
chúng tôi.
Trẻ em trong thành phố Leningrad đang đƣợc sơ tán. Chỉ còn một con đƣờng duy
nhất để đi từ Leningrad về hậu phƣơng, băng qua Hồ Ladoga. Tất cả các tuyến đƣờng sắt
và đƣờng bộ dẫn tới những vùng đất của ta đều bị cắt đứt. Phía Nam và phía Đông hiện bị
bọn Đức phong tỏa, còn về phía Bắc là bọn Phần Lan. Ngày hôm qua em trai mẹ tôi, chú
Naum, cùng gia đình của chú đã vƣợt qua Hồ Ladoga trên một chiếc xà lan.
Hoạt động của máy bay Đức ngày càng leo thang. Bầu trời sáng rực. Viện Hóa
học Ứng dụng và chiếc vòng lƣợn cho thiếu nhi chơi đang bốc cháy. Quân ta đã phải rút
bỏ Odessa.
Ngày 23 tháng Mƣời
Một bản thông báo mới của TASS cho biết “đây là ngày thứ năm của những trận
chiến đấu ác liệt tại khu vực Mojaysky, Maloyaroslavsky và Kalininsky." Quân Đức đang
rất gần Matskva. Tƣớng Zhukov đã đƣợc chỉ định làm chỉ huy trƣởng của toàn thể mặt
trận chống Đức. Một bức thƣ nữa của tôi gửi cho cha đã bị trả về. Tôi rất lo, “Không biết
chuyện gì đã xảy ra với cha?” Tôi muốn tin rằng ông đã bị chuyển sang một sƣ đoàn khác.
Khi còn ở trong thành phố, tôi đi tới một cửa hàng, chỉ để ngắm chút ít. Khi tôi
đứng đó, một ngƣời đàn bà béo lên cơn kích động. "Tại sao các anh lại bày đồ ngọt ở tủ
hàng? „Mẹ ơi, mua cho con một chiếc kẹo‟ – những đứa con của tôi kêu khóc. Đám bán
hàng các anh có lẽ đƣợc tọng đầy mồm đồ ăn thức uống, nhƣng các anh lại không chịu
bán kẹo cho một đứa trẻ chỉ vì không có phiếu!?!” Bà ta la lớn và chìa cho ngƣời nhân
viên bán hàng cái kookish (cử chỉ của bàn tay biểu lộ sự lăng mạ - James Quinn). Một
ông già có bộ mặt hốc hác và những đầu ngón tay ám khói thuốc vàng khè ủng hộ bà ta,
“Đúng đấy, tôi không cách nào mua đƣợc diêm mà không có tem phiếu. Chúng ta cứ đập
vỡ cửa kính và lấy đi thôi!” Nhƣng nào ai dám làm thế. Nếu họ thực sự làm điều họ đã
dọa, họ sẽ bị xử bắn ngay lập tức.
Thức ăn trên bàn ăn của chúng tôi ngày càng trở nên tệ hơn. Chúng tôi chỉ có 75
gram bánh mì cho mỗi bữa sáng và bữa tối, đôi lúc có thêm một mẩu phômai hay cá nhỏ,
và trà với đƣờng. Vào bữa chính chúng tôi nhận đƣợc một đĩa xúp loãng và 200 gram
bánh mì. Đôi khi có thêm một nồi súp đậu. Tôi không thể ngờ rằng món súp đậu đó có
thể ngon nhƣ vậy. Tôi đã rất yếu, rất chật vật tôi mới leo đƣợc lên thang gác.
Những trận đánh ác liệt tiếp tục diễn ra gần Matskva. Tôi gửi một lá đơn xin đƣợc
chuyển tới một đơn vị ngoài mặt trận lên sƣ đoàn trƣởng của mình. Ông ta không chấp
nhận và xua tôi đi. Quân ta đã phải rút khỏi Stalino (Donetsk, thành phố ở miền Nam
Ukraine – James Quinn). Năm mƣơi ngàn tên Đức bị giết tại đấy. Mọi ngƣời nói, „chúng
ta đã giết đƣợc hàng ngàn tên, thế nhƣng chúng vẫn đang tiến công‟. Khắp nơi mọi ngƣời
đều nói về chuyện thực phẩm.
Ngày 7 tháng Mƣời Một
Hôm nay là lễ kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mƣời. Hôm qua, nhân ngày lễ, chúng
tôi đƣợc cấp mỗi ngƣời nửa lít rƣợu vang. Chúng tôi uống rƣợu giữa một trong những đợt
báo động không kích. Hôm nay ở đây có một cuộc “diễu hành”. Chúng tôi diễu quanh
Đại học Bách Khoa. Binh lính hỏi xin kẹo, hệt nhƣ lũ trẻ nhỏ. Vẫn chƣa có tin tức từ cha
tôi trong một thời gian dài. Tôi rất lo không biết hiện cha nhƣ thế nào.
Tôi phải trực tại nhà bếp và làm thân với ngƣời đầu bếp. Tới đêm thì tình bạn
giữa chúng tôi đã trở nên thắm thiết. Ngày hôm sau anh tôi tới thăm và cô ấy tặng cho
anh một nồi súp khi tôi lên tiếng đề nghị cô.
Trang nhất tờ Pravda (Sự Thật) Leningrad hôm nay có viết, “Leningrad đang bị
bao vây. Mọi ngƣời không thể trông chờ việc cải thiện vấn đề thực phẩm cho tới khi vòng
vây của quân thù bị phá vỡ.”
Hôm qua đã có lời kêu gọi những ngƣời tình nguyện tham gia vào một sƣ đoàn
đánh phá vây. Chỉ có mƣời ngƣời đƣợc chọn trong đơn vị của tôi. Tôi không đƣợc chấp
nhận bởi tôi vẫn chƣa từng tham gia chiến đấu.
Ngày 14 tháng Mƣời Một
Đêm qua tại đây có ba cuộc báo động không kích. Một quả bom nổ ở đâu đó rất
gần và ngôi nhà lắc lƣ nhƣ một gã say rƣợu. Đó là một đêm không trăng êm ả. Quân Đức
đang bắn lên trời những quả pháo sáng treo lơ lửng nhờ những chiếc dù. Chúng chiếu
sáng trời đêm tựa nhƣ đang ban ngày. Dƣờng nhƣ tuyết đang có màu xanh, bóng cây
trông nhƣ những con nhện khổng lồ đang duỗi những chiếc chân của chúng tới nơi chiến
hào chúng tôi đang ngồi. Các xạ thủ phòng không cố gắng bắn hạ những chiếc dù pháo
sáng. Các luồng đạn, đỏ, xanh lam và xanh lục, rạch ngang dọc bầu trời. Trông thật kỳ
diệu và tuyệt đẹp nhƣ đang ở trong khu vƣờn Gassnardon (dinh thự do chính phủ quản lý,
mở cửa cho công chúng – James Quinn).
Vào tám giờ sáng tiếng còi báo động không kích lại vang lên. Bên trong chiến hào
lạnh lẽo và ẩm ƣớt. Chân cẳng của chúng tôi lạnh cóng.
Chính uỷ sƣ đoàn đã hứa sẽ giới thiệu đơn xin của tôi vào lực lƣợng quân nhảy dù.
Tôi đang lo rằng mình lại bị từ chối lần nữa. Khẩu phần bánh mì hàng ngày của chúng tôi
đã bị giảm xuống còn 300 gram. Đây là thứ thực phẩm chính của chúng tôi. Ngƣời ta nói
rằng loại bánh mì này đƣợc làm với nguyên liệu chứa tới 40% là mạt cƣa.
Có tin đồn là một khẩu đại bác bí mật đang di chuyển từ vùng này sang vùng khác
để bắn vào Leningrad. Những ngƣời tình nguyện trong sƣ đoàn chúng tôi cố gắng tìm ra
nó. Họ cho rằng đã xác định đƣợc nó tại Công viên Udelniy, sau đó lại bảo tìm thấy tại
chỗ này chỗ khác.
Hiển nhiên những ngƣời tình nguyện kia đã bị ảo giác vì đói.
Ngày 16 tháng Mƣời Một
Những đợt oanh tạc ác liệt cứ lặp lại ba đêm một lần. Binh lính dƣới quyền tôi
chật vật mới tới đƣợc chiến hào. Tất cả bọn tôi đều trở nên bị ám ảnh bởi thuyết định
mệnh. Có ngƣời đã nói, “Ngƣời có số bị treo cổ sẽ không chết đuối, không ai thoát khỏi
số kiếp của mình, tựa nhƣ trong một giấc ngủ say.”
Một mệnh lệnh đƣợc ban ra: “Mọi ngƣời đều phải ngủ trong trang phục sẵn sàng.
Khi có không kích mọi ngƣời đều phải mau chóng chạy tới chiến hào trú ẩn của mình.”
Hôm qua tôi có mặt trong thành phố và tới thăm nơi làm việc cũ của mình. Thức ăn là
điều duy nhất mà ngƣời ta bàn tới.
Ngày 6 tháng Chạp
Anh tôi đã bán đứt cây đàn piano của chúng tôi với giá rẻ mạt. Anh ấy cũng đã
bán những đồ gỗ dùng trong phòng ăn, cái áo khoác lông cáo của cha và những đồ vật
khác đã từng có mặt trong một phần cuộc đời chúng tôi từ khi tôi còn là một đứa bé. Tôi
còn nhớ cha tôi đã mặc chiếc áo khoác lông đó khi ông từ nhà đi thăm các bệnh nhân của
mình. Giờ ông đang ở nơi nào? Điều gì đã xảy ra cho ông? Tốt nhất là hãy nghĩ về việc
làm cách nào giúp đỡ những ngƣời thân của bạn hơn là nghĩ về tất cả những chuyện linh
tinh đang xảy ra xung quanh.
Một gã con buôn chợ đen tới để mua những món đồ trong nhà chúng tôi. Hắn nói,
“Tôi là một trong những bệnh nhân cũ của cha các anh, do đó các anh nên để giá thấp cho
tôi, nhân mối quan hệ quen biết xƣa kia.” Cái thứ lập luận gì mà lạ lùng? Hắn thử đội
chiếc mũ lông của cha tôi và ra ngắm trƣớc tấm gƣơng. Tôi đã nói “Cái mũ thật vừa với
ông” thay vì làm điều tôi thực sự mong muốn là đấm vào mõm hắn và đá hắn ra ngoài.
Vẫn không có thƣ gì của cha. Tôi vẫn chƣa nhận đƣợc hồi âm từ đề nghị đƣợc gửi
ra mặt trận làm thông dịch viên của mình.
Ngày 10 tháng Chạp
Trời lạnh 20 độ âm và có gió mạnh. Quân đội vẫn đƣợc cho ăn thứ gì đó, nhƣng
thƣờng dân đang chết dần vì đói. Họ ngã xuống nhƣ những chiếc lá vào cuối thu. Hôm
qua, tôi đã nhận đƣợc giấy phép cho về thăm nhà trong hai mƣơi bốn giờ. Tôi đã hứa với
tham mƣu trƣởng là sẽ mang tới một chiếc máy hát từ nhà mình.
Anh Mark và tôi đã phá chiếc bàn nhỏ mà trƣớc kia tôi và đứa cháu Natasha
thƣờng cùng ngồi làm bài tập của mình. Đó là một chiếc bàn màu trắng tuyệt đẹp. Mark
và tôi cùng tắm trong một chiếc chậu tắm, mặt đối mặt. Nƣớc tắm đƣợc đun bằng củi từ
chiếc bàn. Đó không phải là tắm mà là đang hƣởng thụ trên thiên đƣờng. Tôi đã không
tắm trong suốt một tháng nhƣng, tạ ơn Trời, vẫn không có rận. Tới buổi chiều anh tôi,
bạn của anh là Igor Mukhin và tôi tất cả cùng ngồi quanh chiếc lò sƣởi nhỏ trong đó phần
còn lại của chiếc bàn đang cháy. Chúng tôi uống cà phê làm từ rễ cỏ rang không pha
đƣờng và bàn tán với nhau về thức ăn và tình hình ngoài mặt trận.
Bọn Đức đã tập trung 31 sƣ đoàn bộ binh, 10 sƣ đoàn xe tăng và 7 sƣ đoàn cơ giới
quanh Matskva. TASS thông báo, “Quân ta đã tiến hành một đợt phản công và đẩy lùi
quân Đức từ 50 tới 100 kilômét khỏi Matskva.”
Ngày 12 tháng Chạp
Nhật Bản bất ngờ tấn công vào hải quân Mỹ. Thiết giáp hạm "Prince of Wales" và
một tuần dƣơng hạm loại "King George" bị đánh chìm. Lực lƣợng Nhật đã đổ bộ lên
Philippines và Malaysia. Mọi ngƣời đều tin rằng chúng ta sẽ sớm tuyên chiến với Nhật
Bản. Quân đội ta đã giải phóng thành phố Yeltz. Gần Matskva 30,000 lính Đức và 1,500
xe tăng bị tiêu diệt trong các trận chiến. Vẫn không có tin tức gì về cha tôi.
Ngày 20 tháng Chạp
Ngày 17 tháng Chạp tôi đƣợc tin là một trong những đơn xin của tôi đã đƣợc chấp
nhận và tôi đƣợc nhận vào Đại đội Thông tin dự bị. Tôi đã đƣợc chuyển từ lính thông tin
thành một điện đài viên thuộc lực lƣợng thiết giáp và giờ lại trở thành lính thông tin lần
nữa.
Tôi gửi một điện tín tới ngƣời thân của mình ở Tashkent, chúc họ một Năm Mới
1942 Hạnh phúc. Điều gì đang chờ đợi chúng tôi trong tƣơng lai? Tại đâu và khi nào
chúng tôi sẽ gặp lại nhau? Khi đó biết ai còn sống và ai đã mất đi? Chỉ có Chúa mới biết
điều đó.
Ngày 21 tháng Chạp
Đã là ngày thứ ba của tôi tại nhiệm sở mới. Tại đây tôi gặp lại rất nhiều bạn cũ từ
hồi ở Học viện Truyền dẫn Điện và cả một anh bạn cùng học trƣờng "Petershul" tên là
Karlin. Cậu ta bảo tôi rằng đơn vị tình báo của Phƣơng diện quân đang tuyển điện đài
viên biết tiếng Đức. Ngay lập tức tôi gửi hai báo cáo tới ngƣời phụ trách và tới đơn vị
tình báo của Phƣơng diện quân.
Ngƣời ta kể rằng còn lại rất ít thực phẩm trong các cửa hàng tại Leningrad. Rất
nhiều ngƣời đang chết dần vì đói. Họ đƣợc mai táng trong những ngôi mộ tập thể, có
ngƣời đƣợc liệm trong bao, có ngƣời thì không. Không có gỗ để làm áo quan. Rất nhiều
ngƣời chết ngay trên đƣờng phố. Đội mai táng thu nhặt họ vào sáng sớm và đƣa tới một
nghĩa trang tập thể. Do mùa đông lạnh lẽo đến sớm nên mặt đất bị đóng băng rất sâu. Mất
khoảng từ 300 tới 500 rúp để thuê ngƣời đào một huyệt mộ.
Mark tới thăm tôi. Anh ấy trông rất tiều tụy. Những vết loét xuất hiện trên mặt và
cánh tay anh do đói. Anh kể tôi rằng anh đã đến thăm chú Naum trong bệnh viện. Bệnh
tim của chú đang nặng thêm do tình trạng loạn dƣỡng. Chú ấy nói với Mark, “Chúng ta
hãy cùng nói lời Vĩnh biệt với nhau.”
Một lần nữa tôi lại viết báo cáo cho đơn vị tình báo của Phƣơng diện quân để xin
đƣợc nhận vào làm thông dịch viên trong quân đội trực chiến. Trời rất lạnh, tay và chân
tôi đều lạnh cóng. Doanh trại đã từ lâu không còn đƣợc sƣởi ấm.
Ngày 30 tháng Chạp
Hôm qua tôi về thăm thành phố. Hệ thống xe điện không còn hoạt động nữa.
Không còn chút nhiên liệu nào. Mặc cho chiến tranh, một vài nhà hát vẫn còn hoạt động.
Họ diễn những vở kịch hoàn toàn không liên quan gì tới chiến tranh – vở "Cyrano de
Bergerac" và "Bà Kamelias" tại Nhà hát Leninsky Komsomol; vở “Ba ngƣời lính Ngự
lâm” tại Nhà hát Ca nhạc Hài kịch; và vở “Một ngƣời chồng lý tƣởng” ở Nhà hát Radlov.
Phần lớn các nhà hát đều đã đóng cửa.
Ngƣời đại diện của Bộ chỉ huy Phƣơng diện quân lại tới và ghi vào sổ tay của
mình là anh ta sẽ đăng ký tôi vào đơn vị của anh ta làm thông dịch viên. Cái lạnh ngoài
trời hiện đang khoảng 30 độ âm.
Trong Tiểu đoàn Tình báo vô tuyến Đặc biệt 345
Đáng tiếc đây là tờ cuối cùng trong quyển nhật ký của tôi. Sau một thời gian dài,
một trong những đề nghị của tôi đƣợc chấp thuận và tôi đƣợc đƣa tới Tiểu đoàn Tình báo
vô tuyến Đặc biệt 345. Tôi đã phục vụ trong tiểu đoàn này bốn năm (từ 1942 tới 1945).
Nhiệm vụ chính của tôi là nghe trộm những bức điện radio cấp tiểu đoàn và sƣ đoàn Đức.
Đôi khi chúng phát đi những bức điện khá quan trọng giữa trận đánh mà không dùng mã
khóa. Chúng tôi phải nghe chúng trong các chiến hào ngoại trận địa bởi sóng của các máy
vô tuyến đó không phát đƣợc xa quá 1 km.
Vào ngày mùng Hai tháng Giêng tôi tới đƣợc tiểu đoàn. Tiểu đoàn trƣởng – đại
uý Friedman lƣu ý tôi, "Chỗ này có khá nhiều các cô gái trẻ xinh đẹp. Đừng tìm cách ve
vãn họ nếu không muốn bị sa thải.” Đúng là có rất nhiều cô gái 16 - 18 tuổi xinh xắn dễ
thƣơng đang phục vụ tại đây. Tất cả bọn họ đều tốt nghiệp từ những khóa hiệu thính viên
vô tuyến và đƣợc động viên từ hồi đầu chiến tranh.
Ngày mùng Năm tháng Giêng tiểu đoàn của tôi vƣợt qua Hồ Ladoga đang đóng
băng bằng xe tải để tới Phƣơng diện quân Volkhov. Chúng tôi đƣợc thông báo, “Hãy sẵn
sàng để nhảy ra khỏi xe bất cứ lúc nào. Ở đây có rất nhiều hố trên mặt băng mà xe tải có
thể lọt vào.” May mắn thay mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp. Và không cần phải nhảy
khỏi chiếc xe tải. Khi chúng tôi tới đƣợc bờ hồ bên kia, tôi đổi hai bao thuốc lá từ khẩu
phần chỉ huy của bản thân để lấy nửa cân bánh mì. Tôi không thể kìm lại đƣợc và ăn nó
ngay lập tức.
Câu chuyện chi tiết về những năm tháng gian khổ không thể nào quên đó, về cái
chết của các bạn tôi và về những dặm đƣờng chiến tranh đằng đãng, tôi xin đƣợc kể vào
một dịp khác. Đó là một câu chuyện quá dài để kể ra ở đây.
Dịch sang tiếng Anh: Kirill Finkelshteyn
Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn
Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân
Josef Finkelshteyn
PHÁO HOA MỪNG NGÀY HỘI
Josef Finkelshteyn (ảnh do K.Finkelshteyn cung cấp)
Khu vực của chúng tôi đang trải qua một trong những ngày tạm yên tĩnh. Tờ báo
quân đội viết, “Mặt trận Volkhovsky vẫn yên tĩnh”, tựa nhƣ tiểu thuyết của Remarque
“Mặt trận Phía Tây vẫn yên tĩnh”. Trong những ngày tháng quân ngũ nhƣ thế bạn thƣờng
nghĩ: “Ngƣời ta đang bắn đấy, nhƣng không sao đâu. Ai mà biết đƣợc mình có bị trúng
hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào số phận.”
Đó là dịp Giáng Sinh năm 1943. Tôi đang phục vụ trong Tiểu đoàn Trinh sát vô
tuyến 345. Tiểu đoàn chịu trách nhiệm tìm hiểu tình hình của các tiểu đoàn, sƣ đoàn và
tập đoàn quân của Đức bằng cách liên tục lắng nghe các bức điện vô tuyến của địch.
Hạ sĩ Nika Grigoriev, ngƣời phụ tá trung thành của tôi, và tôi ngồi nghe lỏm
những buổi chuyển phát vô tuyến của các tiểu đoàn và sƣ đoàn Đức bằng thiết bị vô
tuyến bắt đƣợc của địch. Đôi khi chúng tôi bắt đƣợc những thông tin rất quan trọng, bởi
trong lúc chiến đấu chúng thƣờng phát tin mà không dùng mã khóa. Bộ thiết bị radio có
phạm vi hoạt động chỉ khoảng một kilômét, do đó chúng tôi phải bố trí nó ngay gần chiến
hào ở tuyến đầu.
Nika và tôi tới đƣợc vị trí trung đoàn của sƣ đoàn 44 vào chiều ngày 29 tháng
Mƣời Hai. Khi bƣớc vào trạm quan sát của trung đoàn trƣởng, chúng tôi đã rất mệt và
khắp ngƣời lấm lem. “Hãy tận tình giúp đỡ thiếu uý Finkelshteyn hoàn thành nhiệm vụ
quân sự quan trọng của anh ta.”, đó là mệnh lệnh của sở chỉ huy mà tôi chuyển cho viên
đại uý có bộ mặt ủ rũ, râu ria lởm chởm. “Quỷ quái nào mà họ lại đƣa anh tới chỗ tôi
thế?” tay đại úy râu ria càu nhàu. “Nếu anh mất mạng, tôi sẽ phải viết lên một báo cáo –
thuật lại tất cả sự việc đã diễn ra thế nào và tại sao.”
“Hãy tìm lấy một hầm trú ẩn còn trống. Và nhớ đây, đám ishak (nghĩa đen là “con
lừa”) sẽ oanh kích vị trí của chúng ta hàng ngày chính xác vào lúc 16 giờ. Đừng ló mặt ra
khỏi hầm trú khi chúng bắt đầu rú lên. Hôm qua bọn ishak đã giết mất sĩ quan phụ tá của
tôi và hai ngƣời lính nữa. Nhìn xem những cái cây lớn bị gẫy kia, tác phẩm của chúng
đấy.”
Ishak là tên mà binh lính đặt cho loại giàn phóng tên lửa nhiều ống đặt trên xe tải
của Đức, tƣơng tự loại Katyusha nổi tiếng của chúng ta. Chúng bắn tới với những tiếng rú
kinh khủng “yya-yya-yya”. Sức nổ của những quả tên lửa đó rất mạnh.
Nika và tôi tìm thấy một hầm trú ẩn còn chƣa bị phá huỷ đã bị ngập nƣớc một
phần. Chúng tôi tát nƣớc ra và lót lên một lớp cành vân sam. Bên trong rất lạnh, ẩm ƣớt
và thiếu thoải mái. Chúng tôi có vodka – thứ tiền lƣơng của lính – và tôi phái Nika đi
kiếm về một chiếc lò sƣởi. Một giờ sau Nika quay về tay không. Chẳng ai có một chiếc lò
sƣởi dự trữ cả.
Tuyên truyền viên Xôviết. Mặt trận Kaleria.
(ảnh lấy từ hồ sơ lƣu của Hội Cựu chiến binh Mặt trận Kaleria)
Tôi tới gặp ngƣời đại uý có tác phong lôi thôi, hy vọng anh ta có thể giúp mình.
Phía trƣớc hầm trú ẩn của anh ta, một ngƣời lính gác đang hơ tay mình trên một chiếc lò
cá nhân, đang hừng hực đốt cháy những cành củi khô. Đột nhiên lũ ishak bắt đầu rú lên.
Mọi ngƣời đều mau chóng ẩn nấp tựa nhƣ một cơn bão mùa đông đã quét sạch họ đi. Khi
tay lính gác chúi đầu vào một căn hầm, tôi vội chộp lấy chiếc lò và chuồn nhanh. Giữ
chặt chiếc lò tỏa khói trong đôi găng tay đang bắt lửa, tôi chạy thật nhanh về hầm của
mình. Nhìn lại đồng hồ tôi nghĩ, “Lũ chó đẻ này chính xác thật”. Chiếc đồng hồ đang chỉ
4 giờ 2 phút chiều.
Nika và tôi nhanh chóng sắp xếp vị trí cho chiếc lò, bỏ thêm vào vài cành cây khô
và bật chiếc máy vô tuyến lên. Trong hầm dần ấm lên và đã thấy thoải mái hơn. Chúng
tôi vừa lắng nghe những thông báo của bọn Đức về tình hình mặt trận quân ta, vừa lau
khô đôi chân. Bất thình lình hai tay lính lăm lăm súng xuất hiện ở cửa hầm chúng tôi.
Một ngƣời hét lớn, “Hende Hohn! (tiếng Đức nói theo kiểu Nga: “Giơ tay lên!”), không
đƣợc động đậy!” cùng với một tràng dài đầy những lời tục tĩu mà tôi từng đƣợc nghe mẹ
mình sử dụng. Tôi cố gắng giải thích cho anh ta chúng tôi là ai và tại sao chúng tôi lại có
mặt ở đây, nhƣng anh ta không thèm nghe. Anh ta đánh vào ngực tôi bằng khẩu tiểu liên
và nổ súng lên trần. “Nếu cử động mày sẽ đƣợc ăn một viên đạn vào cái sọ khốn khiếp
của mày! Hạ sĩ, hãy đi gọi đại uý tới, chúng ta đã bắt đƣợc bọn gián điệp.”
Khi đại uý tới, anh ta nhận ta chúng tôi, và vừa cƣời, anh ta vừa nói, “Đừng giận
họ thiếu uý. Hôm qua một nhân viên SMERSH (an ninh quân đội) đã nói với chúng tôi
rằng đang có một tên gián điệp trong sƣ đoàn chúng tôi. Bất cứ khi nào binh lính chúng
tôi tụ tập quanh bếp dã chiến hắn lại phát tín hiệu cho bọn Fritz và chúng lập tức nhả đạn
vào chúng tôi.” Rắc rối đƣợc dàn xếp ổn thoả, chúng tôi mời viên đại uý một cốc trà. “Có
lẽ các anh có thứ nào khác mạnh hơn chăng?” Nika lấy ra một bi đông vodka và sau lần
chạm cốc thứ ba chúng tôi đã trở thành bạn thân của nhau.
“Hãy nghe tôi này thiếu uý” tay đại uý râu ria nói, “Gần đây những ngƣời trong
đội tuyên truyền có tới chỗ chúng tôi để phát sang bọn Đức bằng một chiếc loa phóng
thanh. Họ đã để quên chiếc loa khi rời đi. Hãy nguyền rủa lũ con hoang Phát xít bằng
chính thứ tiếng Đức bẩn thỉu của chúng. Tớ sẽ nói và cậu sẽ dịch lại. Tớ chính là một
chuyên gia về chửi tục đây”. Tôi cố giảng giải cho anh ta là ở trƣờng tôi chỉ đƣợc học
tiếng Đức chứ không học chửi tục. “Không hề gì, cứ làm hết khả năng của cậu” tay đại
uý nói. “Hãy ra chỗ chiến hào gần nhất, chỉ cách đây khoảng 100 mét.”
Đằng sau chiến hào có một hẻm núi phủ đầy dây kẽm gai. Bọn Đức đang có mặt ở
phía bên kia. Không khí rất yên tĩnh và chúng tôi tới gần đến nỗi có thể nghe thấy tiếng
chúng đang gọi nhau. Có tên nào đó đang thổi bài hát ƣa thích của chúng, bài “Lyly
Marlen” bằng một chiếc ácmônica. “Làm đi nào!” đại uý nói và đƣa tôi chiếc loa. Tôi
không tài nào chửi thề bằng tiếng Đức hay nhƣ cách tay đại uý chửi bằng tiếng Nga.
Nhƣng câu sau trôi chảy hơn câu trƣớc, và bọn Đức cũng đáp lại bằng thứ vốn chửi thề
tiếng Nga xuất sắc nhất của chúng. “Cái lũ con hoang này học đƣợc cũng khá thật! Tớ sẽ
dạy cho chúng một bài học!” viên đại uý vừa nói vừa trèo vào cái boongke gần đấy và nã
một tràng đại liên về phía vị trí bọn Đức. Bọn Đức đáp trả lại ngay lập tức. Một chốc sau
trận đấu súng đã lan rộng ra khắp chiến tuyến. Bọn Đức bắn pháo sáng gắn dù trên khắp
hẻm núi phía chúng tôi. Bần trời đƣợc chiếu sáng rực tựa nhƣ ban ngày.
Trung đoàn trƣởng gọi cho chúng tôi và hét lên, “Cái quái quỉ gì đang diễn ra
vậy?” “Không có gì nghiêm trọng cả, đó chỉ là bắn pháo hoa ngày hội thôi mà” đại uý trả
lời.
Dịch sang tiếng Anh: Kirill Finkelshteyn
Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn
Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân
Josef Finkelshteyn
CHIẾN THẮNG
Tháng Năm năm 1945 tôi đang ở vùng núi Alps thuộc nƣớc Áo, gần thành phố
Gratz. Đó đang là dạo mùa xuân, trời nắng ấm, những khu nghỉ dƣỡng mùa đông tuyệt
đẹp có thể trông thấy rõ trên những ngọn núi phủ đầy tuyết. Mọi ngƣời đang trong tinh
thần hƣng phấn; chiến tranh chắc chắn sẽ sớm kết thúc.
Tiểu đoàn Trinh sát vô tuyến 345 của tôi thu thập thông tin về chỗ đóng quân và
chuyển quân của bọn Đức. Tôi ngồi nghe những tin tức hàng ngày từ Berlin, London và
New York qua chiếc radio chiến lợi phẩm và viết báo cáo cho bộ chỉ huy Phƣơng diện
quân.
Một hôm tôi nghe đƣợc trên BBC, “Chủ tịch Quốc hội Thụy Điển thông báo rằng
Hitler đã cho ông ta biết quyết định đầu hàng có điều kiện của mình.” Vào ngày 2 tháng
Năm đài Berlin thông báo, “Adolph Hitler đã chết do những vết thƣơng nghiêm trọng. Đô
đốc Donitz đã lên nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân đội Đức.”
Cuối cùng, ngày 7 tháng Năm, trong bản tin của ngƣời Mỹ, tôi chợt nghe đƣợc,
“This is the Voice of America, America at war." (Đây là Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, nƣớc Mỹ
trong chiến tranh) đây là câu mở đầu của tất cả những bản tin của đài VOA trong những
năm đó, "Nƣớc Đức đã chấp nhận đầu hàng vô điều kiện! Trong ngày mai thỏa ƣớc này
sẽ đƣợc ký kết!”
Chiều hôm đó tôi nhận đƣợc lệnh tức khắc đi đổi cái thông tin lý thú đó lấy rƣợu
vang trong các thị trấn lân cận. Và do không còn rƣợu vang sót lại trong các thị trấn đằng
sau chiến tuyến của chúng tôi, một tài xế cùng tôi đi lên phía trƣớc mặt trận. Bầu không
khí xung quanh chúng tôi đƣợc bao phủ bởi một sự im lặng khác thƣờng. Chiến tranh
không còn tiếp diễn nữa.
Trong những ngôi làng mới bị bọn Đức sơ tán vẫn còn rất nhiều rƣợu vang. Rất
nhiều thùng rƣợu bị bắn thủng và vơi mất một nửa. Đó là hậu quả trò nếm rƣợu của đám
lính ta đi tiên phong. Chúng tôi chỉ cần những thùng còn đầy. Cuối cùng chúng tôi tìm
thấy một ngôi làng chƣa bị tàn phá và bƣớc vào ngôi nhà gần nhất. Tôi thông báo cho họ
về cái chết của Hitler và sự đầu hàng vô điều kiện vào ngày mai của nƣớc Đức. Tin này
mau chóng lan đi khắp làng. Mọi ngƣời mau chóng tới đầy căn phòng. Ông xã trƣởng,
một ông béo mặc chiếc quần soóc bằng dạ và đội chiếc mũ màu lá mạ có gắn lông chim,
mời mọi ngƣời bƣớc vào nhà mình. Ông ta nói với chúng tôi rằng ông luôn yêu mến
ngƣời Nga và căm ghét Hitler. Con trai ông ta, bị ngƣời Anh bắt làm tù binh, giờ đây đã
có thể sớm trở về nhà.
Chúng tôi cạn ly với những ngƣời Áo, vài ngƣời mặc quần soóc, vài ngƣời đánh
quần dài, có cả đám phụ nữ còn trẻ và đã luống tuổi, quyến rũ và không quyến rũ. Tất cả
bọn họ mau chóng trở nên đáng yêu trƣớc mắt tôi. Những ngƣời Áo cất giọng hát những
bài yodel (dân ca Áo-Thụy Sĩ); ngƣời lái xe và tôi thì hát bài hát Nga “Katyusha”. Lát sau,
bƣớc đi lảo đảo, chúng tôi tìm đƣờng quay trở ra phố. Chiếc xe của chúng tôi đã chất đầy
những thùng rƣợu. Những ngƣời Áo giúp chúng tôi leo trở vào trong cabin xe. Tới giờ tôi
vẫn không hiểu làm sao lúc đó chúng tôi có thể lái nổi về đơn vị mình mà không bị đâm
vào chỗ nào trên đƣờng.
Tối ngày mùng Chín tháng Năm, chiến tranh đƣợc chính thức tuyên bố là đã kết
thúc. Tiểu đoàn tôi tổ chức một bữa ăn mừng. Mỗi ngƣời đều đƣợc nhận một lít rƣỡi thứ
rƣợu vang mà tôi đã đem về. Ít nhất đó là tiêu chuẩn chính thức; thực ra anh có thể uống
đến hết sức mình. Chiều hôm đó, không ai còn có thể đứng vững trên hai chân mình đƣợc
nữa. Súng nổ ở khắp nơi. Những luồng đạn xanh đỏ rạch dọc ngang bầu trời. Ngƣời ta có
thể cho là có đánh nhau, nhƣng đó chính là lễ mừng hòa bình. Thế giới và tất cả xung
quanh tôi đều đang say xỉn và cứ thế kéo dài cho tới khi kết thúc. Đó chính là CHIẾN
THẮNG!
Nƣớc Áo là một đất nƣớc tƣơi đẹp và yên bình, nhƣng giờ đây điều chúng tôi thực
sự mong muốn là đƣợc trở về quê nhà.
Dịch từ Nga sang Anh: Kirill Finkelshteyn
Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
HỒI ỨC CỦA LÍNH THÔNG TIN
Yurii Koriakin
Tôi bị động viên vào tháng Mƣời năm 1941, khi vẫn còn học lớp 10, trong những
ngày Matskva tràn ngập nạn phá hoại, cƣớp bóc và hoảng loạn. Tôi bị động viên dù mới
vừa qua sinh nhật lần thứ 17 của mình. Có lẽ nhằm mục đích không bỏ sót dù chỉ một
ngƣời lính trong tƣơng lai cho bọn Đức.
Trong khoảng một tuần lễ, tôi hoạt động nhƣ thành viên trong một nhóm của quân
ủy khu Il'ino-Zorino, ngoại ô Gorkiy. Những khu trại lớn có tổ chức đƣợc lập tại đây. Họ
dồn chúng tôi trong những hầm trú xây âm một nửa dƣới đất chứa tới 300-400 ngƣời. Tôi
đƣợc xếp vào khóa học dành cho hạ sĩ quan. Chúng tôi đƣợc bố trí đi đào những chiến
hào. Họ chuẩn bị huấn luyện chúng tôi thành những sĩ quan nằm vùng, nhiệm vụ này
nghĩa là cầm chắc cái chết. Đại diện của các binh chủng khác cũng thƣờng xuyên tới trại
này. Họ chọn lựa và tuyển lấy những ai phù hợp công tác của họ. Trình độ chƣa hết lớp
10 của tôi đƣợc coi là mức văn hóa khá cao thời kỳ ấy, nên tôi cũng đƣợc chọn. Đầu tiên
ngƣời ta cho tôi vào một đơn vị Cận vệ súng cối phản lực. Tại đấy tôi bị loại và gửi trả về
bởi tôi đã kể rằng cha tôi đang ngồi tù. Rồi tôi lại tới một đơn vị khác. Một lần nữa tôi
bảo với họ rằng cha mình đã bị tù – tôi là một ngƣời thành thật, nhƣng đáng ra tôi nên nói
dối – do đó tôi nói dối trong lần thứ ba, khi họ tới để tuyển những điện đài viên. Tôi
quyết định: “Mình nên nói gì nhỉ? Mình sẽ bảo rằng cha mình đang đi tản cƣ. Ai mà kiểm
tra ra đƣợc?” Mọi việc xảy ra đúng nhƣ thế. Tháng Hai năm 1942, cuối cùng tôi cũng tới
đƣợc mặt trận, trƣớc đó thậm chí còn học xong khóa dạy liên lạc viên vô tuyến của
trƣờng Gorkiy. Một lần nữa tôi lại gặp may: tôi trở thành điện đài viên tại Zapoliarye,
trên tuyến Kandalaksha thuộc Lữ đoàn Lính thủy đánh bộ độc lập số 77. Do đó, đơn vị
chúng tôi gồm toàn thủy binh. Họ khác thƣờng ở chỗ cứ nói đƣợc một từ tiếng Nga bình
thƣờng thì phải chêm vào tới năm câu chửi thề. Tôi cũng biết những câu chửi đó, nhƣng
chửi nhiều, dẻo miệng, thƣờng xuyên và cứ tự nhiên phun ra nhƣ họ thì thật đáng nể đối
với tôi. Ngoài ra, họ thƣờng cởi nút cổ áo để phanh ngực áo lót kẻ sọc cho mọi ngƣời
thấy, và họ khoe cả những hình xăm – nội dung không ngạo đời hay tục tĩu mà rất yêu
nƣớc: chân dung Stalin hoặc một chiếc mũ thủy thủ. Bọn Đức, chứ không phải Phần Lan,
đối đầu với chúng tôi: Sƣ đoàn SS Nord, những tên lính to lớn, mạnh khoẻ, trang bị tốt.
Mùa hè năm 1941 chúng tiến qua biên giới đƣợc 150 kilômét, nhƣng khi còn cách
Kandalaksha 70 km thì chúng bị chặn lại, và suốt từ mùa thu năm 1941 cho tới mùa hè
năm 1944 không hoạt động quân sự tích cực nào đƣợc tiến hành trong khu vực mặt trận
của chúng tôi. Mặt trận yên tĩnh đƣợc gần hai năm rƣỡi, chúng tôi thậm chí còn đào đƣợc
chiến hào, dù cách duy nhất để xuyên thủng lớp đất băng giá này là dùng cuốc chim hoặc
xà beng. Hai bên sƣờn chúng tôi bị bỏ trống – ở đấy toàn là đầm lầy và hồ ao. Các anh đã
xem phim “Nơi đây bình minh yên tĩnh” chƣa? Một cuốn phim hay. Vâng, họ chiếu lại
đúng cảnh vật nơi đó. Thật hoang vắng. Thêm vào việc để trống hai bên cánh và thói
quen chiến đấu vào mùa đông, khi đầm lầy và hồ ao đóng băng, nhiều hoạt động trinh
sát-nghi binh đƣợc tiến hành đằng sau phòng tuyến của địch.
Hai tới ba trung đội đƣợc nhập lại, gồm từ 60 tới 90 ngƣời, cộng thêm tôi và máy
điện đài, và tất cả cùng đi lang thang trong hậu phƣơng quân Đức. Chúng tôi di chuyển
bằng bàn trƣợt, đôi khi có đem theo hƣơu để vận chuyển đạn dƣợc và thƣơng binh.
Không bao giờ chúng tôi đem theo chó – chúng hay sủa, lũ khốn khiếp. Chúng tôi tiến rất
xa, tới tận Rovaniemi (khoảng 200-250 km. - Artem Drabkin), và đi trong những ngày
mà thậm chí ngay bọn Đức cũng không chịu ra chiến đấu. Ví dụ những Lễ Giao thừa năm
43 và 44 tôi đã phải đón ở sau phòng tuyến của địch. Chúng tôi khởi hành vào khoảng 20
tháng Chạp, do đó tới Giáng sinh chúng tôi đã lọt sâu trong hậu phƣơng địch. Thằng Đức
nào lại đi đánh nhau trong đêm Giáng sinh? Vậy mà đám lính Nga lại làm chuyện đấy.
Thế đó – lũ Nga tinh quái! Chúng tôi tấn công những đồn bót của quân Đức, gài mìn các
con đƣờng. Chúng tôi luôn tính toán sai lực lƣợng, đó là lý do tại sao thất bại thƣờng xảy
ra – tin tình báo hiếm khi chính xác: thƣờng là một đồn phòng thủ hoá ra không yếu nhƣ
trinh sát báo cáo, trong đồn có tới 200 lính thay vì 50. Những lần ấy hành quân rất khó
khăn: vừa rét, vừa sợ, lại vừa mệt nhọc. Cứ thử sống khoảng ba tuần trong cái lạnh âm
20-30 độ ấy mà xem! Thế đấy! Mặc dù chúng tôi ăn mặc khá ấm: valenki (ủng nỉ), quần
bông, áo choàng ngụy trang mùa đông, rồi tới áo vét, quân phục, đồ lót bằng len ấm, và
trong cùng là đồ lót vải lanh thông thƣờng. Họ phát cho chúng tôi rƣợu vodka và 100
gram bánh mì mỗi ngƣời một ngày. Chúng tôi cũng đƣợc cấp thịt hộp Mỹ. Hƣơng vị thật
dở! Một hộp thiếc to, trong có một lƣợng mỡ lợn chỉ vừa đủ phết lên một lát bánh, và ở
giữa – một mẩu thịt bằng nhỏ bằng nắm tay. Dù sao, chúng tôi cũng không chết đói ...
còn có bánh mì khô. Chúng tôi thậm chí còn có đèn dầu, thƣờng đƣợc gọi là loại “ấn-đẩy”. Đó là một cái hộp thiếc nhỏ, cỡ bằng hộp mứt, trong chứa sáp pha cồn. Nếu bạn đốt
cái hỗn hợp này, nó sẽ cháy và cho một ngọn lửa trắng sáng. Nhờ nó bạn có thể hâm thức
ăn hoặc đun nƣớc.
Nhƣng sao lại đi đốt cồn – phải đem uống nó chứ! Đó là lý do chúng tôi bỏ nó
vào một mảnh giẻ và đem vắt – bạn sẽ lấy đƣợc khoảng 50 gram rƣợu cồn, và kể từ khi
chúng tôi đƣợc nhận khá nhiều hộp chất đốt đó, ta có thể nhậu thoải mái, dù việc đó tất
nhiên là không hay ho gì, nhƣng chỗ sáp còn lại vẫn cháy tốt. Về vũ khí, trong những
cuộc đột kích đó chúng tôi đem theo tiểu liên và lựu đạn, đôi khi có thêm một hay hai
khẩu Degtiarev. Từ năm 1942 trở về trƣớc chúng tôi vẫn còn sử dụng loại súng trƣờng
Mosin – tất nhiên đó là loại vũ khí rất bất tiện, về sau họ cấp cho chúng tôi loại tiểu liên
PPSh. Hoàn toàn không có hỗ trợ hoặc thả dù tiếp tế từ “miền đất lớn”. Nói chung, chúng
tôi vác tất cả trên đôi vai mình: súng tiểu liên, ba lô, máy điện đài. Điện đài của chúng tôi
là loại V-100 sản xuất tại Mỹ, có bộ phận thu phát to bằng cái TV cỡ trung. Khi ở chế độ
thu tin, nó sử dụng một bộ ắc quy BAS-80, cấp đƣợc 80 Volt, nhƣng khi chuyển tin nó
cần bộ nguồn phụ, do đó mới có tên gọi “động cơ lính” đi kèm: một cái giá ba chân gập
lại đƣợc có gắn pê đan, thƣờng đƣợc quay bằng tay. Nó có công suất mạnh hơn loại do ta
sản xuất, và mỗi khi phải đi xa, chúng tôi luôn đem nó theo. Chúng tôi rất hiếm khi di
chuyển bằng máy bay: ngƣời ta sợ chúng tôi sẽ bị phát hiện. Nói chung, công việc của
một điện đài viên rất khác thƣờng: anh luôn phải hoạt động đơn lẻ. Cấp trên đày đọa anh
mọi điều chỉ vì sợ anh bị phát hiện và bị pháo địch tiêu diệt, đồng thời họ cũng không thể
thiếu chúng tôi, do đó chúng tôi luôn có mặt, trong một hầm trú ẩn, một cái hào, một hố
bom; anh bò vào trong và ngồi đó để sẵn sàng chờ đƣợc gọi, nhƣng anh chỉ đƣợc đi máy
bay thực hiện nhiệm vụ trong những trƣờng hợp cấp bách nhất. Tín hiệu tới chúng tôi đều
đã đƣợc mã hóa thành những cột năm chữ số, do đó tất nhiên tôi không thể biết đƣợc nội
dung của chúng.
Lữ đoàn trƣợt tuyết số 31, Sƣ đoàn xạ thủ Cận vệ số 10, mùng 2 tháng 11 năm
1942.
Mặt trận Karelian.
Tôi nhớ nhất mùa đông của năm 43-44. Đó là chuyến hành quân đẫm máu nhất
của chúng tôi. Chúng tôi có từ 80 tới 90 ngƣời, và tổn thất tới 30-40 ngƣời, tức là cứ mỗi
ngƣời trong nhóm thì có một ngƣời khác bị thƣơng hoặc hy sinh. Lần ấy có một trƣờng
hợp bi thảm xảy ra. Có hai anh em cùng phục vụ trong đơn vị chúng tôi, và trong trận đột
kích vào một công sự bê tông, một ngƣời trong họ chui vào bên trong, nhƣng ngƣời còn
lại, do không biết chuyện đó, đã ném vào một quả lựu đạn và giết chết anh ta. Anh ấy đã
đau khổ ghê gớm ... Thậm chí đã định tự sát. Ngay khi đấy chúng tôi nhận đƣợc lệnh của
Stalin – không đƣợc bỏ lại những ngƣời đã chết, và nhất là những ngƣời bị thƣơng, tất cả
phải đƣợc đƣa về. Chúng tôi lôi họ trên những chiếc "volokushas" – một chiếc cáng nhỏ
bằng gỗ dán có gắn sợi thừng kéo. Lần đó tôi phải kéo về một thủy binh bị thƣơng. Thực
ra, chiếc cáng không quá nặng, nhƣng phải kéo đi hàng chục dặm đƣờng, thêm nữa tôi
còn phải mang cái điện đài, một khẩu tiểu liên, chiếc ba lô tôi đặt dƣới chân anh ta... lại
không phải trên đƣờng lộ - có đến cả trăm lần tôi làm ngã anh ta trên những chỗ gập
ghềnh và phải đặt anh ta lên cáng trở lại. Anh lính thủy đó, hiện tôi vẫn không biết đƣợc
tên, bị thƣơng vào ngực, và dù tôi đã băng cho anh, máu vẫn cứ chảy ra. Tôi còn có thể
làm đƣợc gì? Chúng tôi không đem y tá theo cùng. Mỗi lần hồi tỉnh, anh ấy lại van xin:
"Ngƣời anh em, hãy bắn tôi đi, bắn tôi đi, ngƣời anh em... “ Cuối cùng tôi cũng đƣa đƣợc
anh về tới nơi, nhƣng lúc đó anh đã chết mất rồi. Thêm nữa, khi ra chiến tuyến, chúng tôi
bắt buộc phải giữ liên lạc chặt với Sở chỉ huy. Chỉ huy trƣởng, thiếu tá Karasev, một
ngƣời rất khắt khe, bắt chúng tôi phải luôn chuẩn bị điện đài sẵn sàng, và bạn tôi lại cắm
nhầm nguồn ắc quy 80 V vào dây bóng đèn, có hiệu điện thế cho phép chỉ 2.5 V! Tất
nhiên, tất cả đèn bên trong đều cháy sạch, nên máy chỉ có thể chuyển tin nhƣng không
nhận tín hiệu đƣợc nữa. Chỉ huy hét lên: “Tao sẽ bắn chúng mày, lũ cặn bã!”. Tất nhiên
anh ta không bắn chúng tôi, nhƣng bù lại dịp đó chúng tôi không đƣợc nhận bất cứ thứ
huy chƣơng bằng khen nào. Một lần khác, sau khi quay về căn cứ, chúng tôi kéo lật một
chiếc xe tải chở bánh mì, đang đói quá mà. Một bản cáo tội tất cả đám chúng tôi đƣợc lập,
và dù ngƣời ta cũng đã tìm mọi cách bƣng bít, chúng tôi lại một lần nữa mất cơ hội đƣợc
khen thƣởng. Nói chung, cứ chuẩn bị tới dịp khen thƣởng là tôi lại gặp xui xẻo. Năm 45,
tôi cứu sống trung đội trƣởng đã gần chết đuối khi vƣợt sông, và vì đã cứu chỉ huy, đáng
ra anh phải đƣợc khen thƣởng – một lần nữa họ lại không trao cho tôi. Vâng, tôi cũng có
đƣợc một Huân chƣơng Sao đỏ, một huy chƣơng “Dũng cảm”, nhƣng thế cũng không
nhiều lắm... Dù sao, ngƣời ta cũng không thƣởng quá nhiều cho một tay lính trơn.
Vài lần chúng tôi đem về tù binh. Chúng tôi không bắt quá nhiều: chúng gây biết
bao phiền toái. Tấùt nhiên, tốt nhất là bắt về sĩ quan, những “cái lƣỡi” ở cấp thấp hơn thì
không hữu dụng. Đám tù binh phải cùng trƣợt tuyết với chúng tôi và đôi khi bị bắt phải
kéo thƣơng binh. Ván trƣợt của bọn Đức rất tiện lợi. Của chúng tôi – valenki và dây buộc
bằng da mềm, còn của chúng có “kiểu Ba Tƣ”, nghĩa là một đôi giầy ấm có đầu uốn
ngƣợc lên, đặt dƣới một cái kẹp gắn vào ván trƣợt. Mỗi khi quay về, ngƣời ta có bố trí
ôtô hay xe chó kéo ra đón chúng tôi, đƣa tù binh đi hỏi cung và chở thƣơng binh tới bệnh
viện. Sự mệt mỏi của chúng tôi lúc đó đã tới tột cùng, một sự mệt mỏi ghê gớm, cùng
kiệt... Nhƣng chúng tôi thế vẫn còn may: chúng tôi không phải là những kẻ duy nhất phải
làm việc này. Tôi đƣợc biết có đội chẳng may rơi vào ổ phục kích, và vài ngƣời bị bọn
Phần Lan bắt đƣợc, mà bọn Phần Lan thì thật tàn ác. Vì thế hẳn tôi đã đƣợc nhận một
món quà của số phận, món quà không ai có thể ban cho một cách hào phóng hơn – tôi
vẫn CÒN SỐNG. Vậy mà tôi đáng lẽ đã phải chết, và không chỉ một lần.
Suốt mùa hè mọi chuyện đều dừng lại: cả bọn Đức lẫn chúng tôi không bên nào
chịu tấn công. Chốt điện đài của chúng tôi đặt trên đỉnh một ngọn đồi, cách chiến tuyến
khoảng 300 mét, ngụy trang giữa đám cây lá rậm rạp. Vâng, lúc này đang là tháng Bảy,
trời nóng nên chúng tôi cởi quần áo ra và tắm nắng. Đột nhiên, không biết từ đâu một
chiếc “Focke-Wulf” xuất hiện! Nó nã một tràng vào chúng tôi rồi lƣợn vòng và bắn một
loạt nữa, và rồi bắt đầu rƣợt đuổi chúng tôi. Nó bay khá thấp, khoảng 10-15 mét, thậm chí
chúng tôi còn thấy cả tên phi công đang cƣời cợt, còn chúng tôi, tay không tấc sắt, mình
trần nhƣ nhộng, đang chạy tán loạn trên trảng cỏ xanh. Hắn đã bắn trƣợt, thật hú vía.
Ngoài chuyện ấy ra, những thứ khác thật tẻ ngắt. Nhiều ngƣời xin đƣợc chuyển sang mặt
trận khác, nhƣng thƣờng là không ăn thua gì: "Cứ ngồi yên đấy. Ở đây cũng có đánh nhau.
Tổ quốc yêu cầu anh có mặt tại những nơi cần có anh”. Bom đạn liên miên suýt làm
chúng tôi thiệt mạng bởi cả hai bên đều thả bom cháy để thiêu rụi các cánh rừng. Trong
thời gian yên tĩnh, ngƣời ta bắt lính tráng làm đủ chuyện. Thƣờng thƣờng, chúng tôi phải
đi nhặt quả rừng đem tới bệnh viện: việt quất, dâu, quả lý. Chỉ tiêu của mỗi ngày: mang
đƣợc về nhà bếp một hộp thiếc đầy. Vâng, chúng tôi cũng tự mình tổ chức nhiều thứ: xây
dựng một xƣởng cƣa gỗ, đào hầm trú ẩn, xây một câu lạc bộ sức chứa 200 ngƣời. Chỗ
chúng tôi cũng có diễn kịch và chiếu phim. Tổ chức đƣợc vài giải thi đấu thể dục thể thao.
Đôi khi có cửa hàng lƣu động tới phục vụ. Tại đấy, bằng đồng lƣơng quèn đƣợc trả chúng
tôi có thể mua đƣợc thuốc bột đánh răng, nƣớc hoa, phong bì để gửi thƣ. Và còn tình tang
với mấy cô lính thông tin, hoặc với mấy ả nhân viên kiểm duyệt ở quân bƣu trạm dã
chiến. Ở đấy các cô gái xinh xắn và có học hơn.
Năm 1944, khi một chiến dịch tiến công đang đƣợc chuẩn bị, những đơn vị mới,
hầu hết là cánh pháo binh, ùn ùn kéo tới. Họ đƣợc lệnh phải đột kích qua tuyến phòng thủ
mà quân địch đã xây dựng trong suốt hai năm rƣỡi trời. Đấy là lần đầu tiên tôi đƣợc thấy
hỏa tiễn "Katiushas", nhƣng tôi ấn tƣợng với những giàn “Andryushas” hơn bởi hình
dáng to mập của quả đạn (tức giàn hỏa tiễn hạng nặng BM-31-12, chuyên dùng phá hủy
hệ thống phòng thủ- N.D.), nằm trong hộp chứa gỗ hình tròn để có thể dễ dàng lăn đi
đƣợc. Thế rồi có lệnh xuống yêu cầu tất cả những gì đang di chuyển sau chiến tuyến quân
Đức đều phải bị huỷ diệt, kể cả lũ chó. Lúc này đang là mùa hè, và đám trinh sát thông
báo họ trông thấy có mấy ả gà mái trần truồng đang bơi lội trên hồ và tắm nắng, có lẽ đó
là một nhà thổ di động phục vụ bọn SS (có cách nào khác để tìm thấy đàn bà trong cái
đám rừng hẻo lánh nhƣ vậy?), và họ trút xuống đó một loạt “Katiusha”. Giờ đây nhớ lại
tôi thấy chuyện này thật dã man, nhƣng vào thời điểm ấy thế là bình thƣờng – chúng tôi
đã cƣời cợt với nhau, thế đấy. Tất cả chúng tôi đều sẵn sàng làm thế. Các bức tranh cổ
động vẽ hình một ngƣời đàn ông nhìn thẳng vào bạn và hỏi: “Anh đã giết đƣợc tên Đức
nào chƣa?” đƣợc treo ở khắp mọi nơi. Hay một ngƣời Slavơ đang ngồi và giơ lên trong
lòng bàn tay ba cái vỏ đạn rỗng, cùng một câu thơ ghi ở dƣới: “Hỏi sao anh chẳng tự hào,
ba viên đạn bắn ba thằng Đức tiêu!”. Tinh thần chung là nhƣ vậy, trong bọn chúng tôi ai
cũng từng trải qua biết bao gian khổ của thời chiến, ai cũng có ngƣời thân đã chết hoặc
đang trong vùng bị địch tạm chiếm.
Cuộc tấn công bắt đầu vào mùa hè năm 1944 và chúng tôi đã tiến đƣợc tới
Rovaniemi. Chúng tôi không đi ở tuyến đầu, nhƣng phải vác điện đài đi cách hàng lính
bộ binh chỉ khoảng hai ba trăm mét. Thế đấy, nếu nhƣ anh để bị giết thì thật là ngu xuẩn
– chẳng ai thèm nhắm vào anh. Tuy nhiên vào thời điểm ấy, đám điện đài viên chúng tôi
đóng vai trò rất quan trọng, do thiếu liên lạc hữu tuyến nên mọi hoạt động hiệp đồng tác
chiến đều phải thực hiện thông qua điện đài. Hơn nữa, lúc này tôi đã đƣợc thăng chức
trung sĩ và chỉ huy một trạm điện đài với hai nhân viên dƣới quyền.
Tháng Chạp năm 1944, trung đoàn tôi đƣợc chuyển tới vùng Vologda để nghỉ
ngơi, nâng cấp khí tài và bổ sung quân số. Chúng tôi tiếp nhận loại điện đài mới. Nhờ
rƣợu vodka giúp sức tôi đổi đƣợc khẩu tiểu liên PPSh của mình lấy một khẩu PPS báng
gập; tuy hay giật vào sƣờn trong khi bắn nhƣng nó lại nhẹ và có một băng đạn hình hộp.
Chúng tôi đƣợc phát 75 gram rƣợu cồn mỗi ngày cho từng ngƣời, nhƣng do làm việc ở
trạm điện đài, xa hậu cần, họ cấp hẳn một lúc khẩu phần cho 10 ngày – 750 gram, anh cứ
việc mà say lử cò bợ. Hình thành một cuộc đổi chác nhƣ sau: tôi đƣa một bình rƣợu cồn
cho viên trung sĩ, còn anh ta đổi lại cho tôi khẩu tiểu liên. Thế là thuận cả đôi đàng. Bằng
cách đó tôi xoay đƣợc cả giày ủng và áo khoác vải xanh của Canada (thứ này rất có giá trị
ở chỗ làm toàn bằng bông nguyên chất, không nhƣ hàng trong nƣớc của ta)... Trong kho
quân đội có rất nhiều thứ hấp dẫn, nhƣng anh phải biết đúng cách mới kiếm đƣợc. Và rồi
giai đoạn thứ hai trong cuộc đời binh nghiệp của tôi đã bắt đầu.
Vào tháng Giêng chúng tôi đƣợc chuyển tới Mặt trận phía Tây. Chúng tôi trải qua
tái huấn luyện ở Đông Ba Lan, tại thị trấn Ostrow-Mazovetski, trở thành thành phần của
Phƣơng diện quân Belorussia 1 dƣới sự chỉ huy của Rokossovskiy. Nhƣng ngay khi
chúng tôi tới nơi, mặt trận đã có sự thay đổi. Rokossovkiy đƣợc chỉ định làm chỉ huy
Phƣơng diện quân Belorussia 2, còn Zhukov trở thành chỉ huy trƣởng Phƣơng diện quân
Belorussia 1. Họ chuyển chúng tôi sang Phƣơng diện quân Belorussia 2. Chúng tôi chỉ
bắt kịp phƣơng diện quân của mình khi đi tới tận Pomerania. Pomerania là một vựa lúa,
vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất ở Đức, trồng rất nhiều khoai tây và hơn nữa là rất
nhiều rƣợu nặng. Đây là nơi diễn ra câu chuyện mà tôi đã thuật lại trong một truyện ngắn
in trên tờ Nezavisimaya Gazeta. Tại Koslin (Koszalin)* chúng tôi tiến tới sát biển, rồi
quay xuống phía đông, gần tới Gdynia, rồi quay lại và tiến về Swinemunde (Swinoujscie).
Lúc này tôi phục vụ tại trạm radio của trung đoàn, gắn trong một chiếc “Studebaker
US6x6” hay "sudar'", nhƣ chúng tôi thƣờng gọi. Điện đài của Mỹ, loại SCR-399 một máy,
gắn trên rơ moóc có cabin.
Trạm thu phát radio SCR-399. Mùa thu năm 1945.
Ngoài ra, trong chiếc xe tải còn gắn bộ dụng cụ sửa xe và một cái áo khoác da cho
tài xế. Nếu bạn từng thấy cảnh tất cả các vị chỉ huy cao cấp của chúng ta diễu hành ngoài
mặt trận trong bộ áo khoác da, thì đó chính là những cái áo lấy từ bộ phụ kiện đi kèm
chiếc Studebaker của Mỹ. Đột nhiên vào chiều ngày mùng 9 tháng Năm chúng tôi đƣợc
gọi tới Kolberg (Kolobrzeg) và nhận lệnh thu xếp lên một chiếc xà lan. Họ bảo chúng tôi
đƣợc bố trí vào thành phần của một lực lƣợng đổ bộ. Chiếc xà lan rộng khoảng sáu mét,
chúng tôi buộc chiếc Studebaker của mình vào sàn tàu và chuyển những con ngựa cùng
đại bác vào trong khoang trống. Ngay khi trời vừa tối, chúng tôi bắt đầu lên đƣờng. Hãy
thử tƣởng tƣợng xem – bộ binh mà đi ngoài biển! Chúng tôi bị nhồi lắc dễ sợ! Tệ nhất là
khi một trong những sợi cáp buộc chiếc xe bị đứt. Vâng, khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng,
nếu chiếc Studebaker rơi xuống biển, tất cả chúng tôi sẽ phải ra tòa án binh. Trong đám
chúng tôi có một tay thủy thủ, một điện đài viên tên là Arkashka Kucheriavyi, dân
Leningrad. Anh ta trƣờn dọc theo mạn lƣờn hẹp gần sát mặt sóng, tìm đƣợc một đoạn
xích sắt, và thế là chúng tôi lấy nó để ràng chặt chiếc xe tải lại. Tới sáng chúng tôi đã
trông thấy đất liền, nơi ở nhà thông báo là: "Đan Mạch. Đảo Bornholm". Khi chúng tôi
tiến vào gần bến cảng, lúc độ sáu giờ sáng, chúng tôi nghe có tiếng súng nổ, nhƣng tới
khi chiếc tàu kéo dắt chúng tôi vào thì tiếng súng ngƣng, và chúng tôi lên bờ trong sự yên
tĩnh tuyệt đối. Hóa ra ở đấy đang có 18 ngàn tên Đức trên đảo và sau khi chống cự một
lúc, chúng mau chóng hiểu đƣợc vấn đề và đầu hàng. Lái xe ra ngoài thị trấn, tôi đƣợc
quan sát cảnh sống đời thƣờng ở đây. Ngay tại bến cảng có một cái biển đề chữ "Cafe",
tôi và một anh bạn chui vào đấy, trông thấy bên trong có nhiều ngƣời Đan Mạch đang
ngồi ăn kem. Chúng tôi quyết định phải mua thứ gì đó, bèn rút tiền ra (chúng tôi đƣợc
cấp cho tiền mark Đức), nhƣng ngƣời bán hàng lảng ra xa chúng tôi nhƣ quỉ phải mùi
trầm, miệng nói câu gì đó nghe nhƣ "Nicht, Nicht" – có nghĩa là không dùng loại tiền này.
Chúng tôi đành ra về tay không. Cũng trong ngày hôm đó chúng tôi đƣợc biết chiến tranh
đã kết thúc. Tôi vặn bộ nhận sóng radio, bắt đài Maskva, ở đó họ cũng đang phát tin
thông báo chiến thắng. Trong trƣờng hợp này làm điện đài viên cũng có lợi: anh có thể
ngồi nghe nhạc hoặc nghe tin tức; dù sao thì chúng tôi cũng vẫn phải làm việc này thƣờng
xuyên, luôn sẵn sàng để nhận tin đến. Thậm chí có lần tôi bị nêu tên trƣớc cuộc họp đảng
bộ chỉ vì đã nghe nhạc trong khi làm nhiệm vụ. Chúng tôi phải luôn nâng cao tinh thần
trách nhiệm, đó là những gì mà SMERSH yêu cầu: điều gì xảy ra nếu nhƣ anh đang bắt
liên lạc với kẻ thù? Bằng cách đó bạn thƣờng xuyên bị kiểm soát. Vào thời kỳ này bạn
phải luôn cẩn thận với nguy cơ bị tố giác, vu cáo.
Trung sĩ Yu. Koriakin, Graiforberg
Mùng 9 tháng Năm năm 1945
Chiến tranh đã kết thúc, nhƣng chúng tôi phải trải qua hai tháng nữa ở cái chốn
nghỉ chân ấy. Đáng tiếc là ở đây họ có lệnh cấm, nhƣng chúng tôi đã linh động đổi xăng,
dây điện thoại, bóng đèn, ắc quy để lấy nƣớc hoa. Ngày 14 tháng Sáu là sinh nhật tôi.
Mọi ngƣời bảo: “Cậu nợ chúng tớ nhé. Hãy tổ chức chút cay đi, chúng tớ đã phát ngán
thức ăn của bếp dã chiến rồi”. Phải làm thế nào đây? Xem nào, chúng mình đang sống
ngoài biển mà. Ừ thì cậu có thể đi bắt lấy mấy con cá, nhƣng làm gì có lƣới. Thì phải
nghĩ ra cách - làm cho chúng (lũ cá) choáng. Chúng tôi có trong tay loại ắc quy cho đèn
pin. Chúng rất có giá bởi mọi ngƣời, kể cả binh lính và sĩ quan, đều dùng đèn pin, nhƣng
theo quy định quân đội, chỉ chúng tôi mới đƣợc quản lý ắc quy. Tôi quấn rất vài bộ ắc
quy quanh một cọc mìn cá nhân và một quả mìn chống tăng, và cùng với một đồng đội
chèo ra biển, và rồi bằng một cuộn dây điện dã chiến, chúng tôi có đƣợc con thuyền từ
một gã Đan Mạch. Chúng tôi chất mìn và dây ngòi lên thuyền và bắt đầu “buông câu” khi
đã ra cách bờ khoảng nửa cây số – gắn dây ngòi vào, châm lửa và thế là xong. Còn nói về
cá, khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi chất lên đầy cả nửa chiếc thuyền! Chúng tôi quay về.
Một tay lính tuần cầm tiểu liên chặn đầu chúng tôi: “Bƣớc ra!”. Gã Đan Mạch đứng cạnh
anh ta. Hắn đã bán đứng chúng tôi! “Đi đều bƣớc!”. Tay trung sĩ dẫn chúng tôi về sở chỉ
huy, càu nhàu: “Hãy xem này,” anh ta nói – “chúng đã kiếm ra một trò mới, làm choáng
cá! Chúng mày đã xé rách biết bao nhiêu lƣới. Đám ngƣ dân đang than phiền với chỉ huy
kia kìa! Khi nào về tới sở chỉ huy, tao sẽ cho chúng mày biết tay!” Tôi không cho là họ sẽ
đƣa chúng tôi ra tòa, nhƣng chúng tôi hẳn sẽ bị khiển trách hoặc bị phạt giam. Họ đã
chuẩn bị từ lâu rồi – dán thông cáo khắp nơi và tổ chức mít tinh chỉnh huấn về cách thức
cƣ xử với cƣ dân địa phƣơng. Tôi nói với tay trung sĩ: “Thôi nào, thỏa thuận về vụ đi
choáng cá nhé, hôm nay là sinh nhật tớ mà! Cứ vờ nhƣ chẳng thấy gì hết: cậu thả chúng
tớ ra, còn tớ sẽ đƣa cho cậu một con dao Phần Lan.” Tôi có một con dao Phần Lan với
cái tay cầm trạm trổ rất đẹp. Anh ta nói: “Thế nếu thằng Đan Mạch đi tố chúng ta thì
sao?” “Tại sao lại thế? Hắn đã có phần cá của chúng tớ rồi.” “Thôi đƣợc” – anh ta nói –
“đƣa tớ con dao và xéo đi.” Vâng, chúng tôi quay về với đồng đội, kể lại câu chuyện,
đám bạn bảo: “Thôi cứ để quỷ bắt nó đi, cái mớ cá ấy, nhƣng hãy kiếm về cho chúng tớ
chút rƣợu nhé.”
Trung đội chúng tôi. Bornkholm, tháng Sáu 1945
Trong ảnh Yu. Koriakin đứng đầu tiên bên phải.
Ngày hôm sau, sau khi hết phiên trực, tôi xách lấy cái ống nhòm và tới một tiệm
bán thuốc để thử đổi lấy ít nƣớc hoa. Tìm thấy một tiệm thuốc ở Ronne. Tôi bƣớc vào,
một tay cầm cái ống nhòm còn tay kia làm một động tác: ngửi ngửi lòng bàn tay rồi xoa
nó lên tóc, và lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn tả rằng tôi cần một chai nƣớc hoa bôi tóc.
Tay bán thuốc nói: "Ja, Ja", - gật gật đầu, ra vẻ là hắn đã hiểu. Tôi đƣa hắn cái ống nhòm
Zeiss 12x, đồ chiến lợi phẩm! Một món tuyệt vời! Trông rất oách! Còn hắn đem ra cả
một chai to. Tôi giơ lên xem, đƣa lên mũi ngửi – mùi rất thơm. À, tôi nghĩ, chắc hẳn là
nƣớc hoa đây rồi. Nhƣng vỏ chai rất sẫm màu, nhìn không rõ bên trong, cái nút lại đậy
chặt. Kéo nó ra. Chúng tôi rót đầy các cốc, uống mừng sức khoẻ của tôi, và rồi mắt mọi
ngƣời lồi hẳn ra – đó là dầu thơm bôi tóc! Arkashka Kucheriavyi, ngƣời chở chúng tôi đi
cấp cứu, đã bảo: “Cậu mang thứ quỉ gì về thế, đồ đần? Đây là bridăngtin, làm từ dầu thầu
dầu. Các cậu còn đến khổ vì đã uống nó!” Tôi vớ lấy khẩu tiểu liên và cái chai còn thừa,
quay lại chỗ tiệm thuốc. Tôi cố gắng bắt đền, nhƣng hắn cứ bảo "Nicht, Nicht". Tôi nổi
điên lên, tay nắm lấy khẩu súng. Hắn bèn bƣớc khỏi quầy, cao, to hơn hẳn tôi, nắm lấy
tay tôi và dúi tôi vào tƣờng. Trên tƣờng có dán một tấm áp phích song ngữ có chân dung
vị chỉ huy phụ trách hòn đảo chúng tôi, thiếu tƣớng Korotkov. Tôi đọc cái thông báo cho
cƣ dân đảo Bornholm rằng quân đội ta đã đến đây, giải phóng họ khỏi bọn Đức, và nghĩa
vụ của chúng tôi là giữ gìn cho mọi ngƣời một cuộc sống yên lành. Phải ngay lập tức báo
cáo lên sở chỉ huy mọi trƣờng hợp vô kỷ luật của bất cứ quân nhân Xô viết nào. Gã Đan
Mạch dúi mặt tôi vào thông cáo đó. Nhƣ một con chó bị đòn, tôi lê bƣớc về nhà với cái
chai trong tay. Quay mình lại – không có ai xung quanh. Tôi bèn ném mạnh cái chai vào
bức tƣờng, thế là lại gặp vận xui lần nữa – tôi bị nó bắn tung toé khắp ngƣời. Nhìn chung,
tôi hay làm trò ngốc ở mọi nơi, nhƣng tới giờ tôi vẫn còn nhớ tới chúng. Tới tháng Tám
chúng tôi bắt đầu lên đƣờng đi đánh bọn Nhật, nhƣng tôi không phải tới đó. Đó là lúc
chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi. Tôi phục vụ trong quân đội thêm hai năm nữa và rồi
vào học ở MIFI (Học viện Vật lý và Kỹ thuật Maskva). Không ai còn quan tâm tới cha tôi
nữa, thậm chí tôi còn đƣợc kết nạp Đảng. Họ đã chẳng để tôi, con trai của một kẻ thù
nhân dân, lọt vào sau phòng tuyến quân địch đấy thôi?
* Tên gọi các thành phố đƣợc cố gắng viết theo tên đúng trƣớc năm 1945. Trong
trƣờng hợp có đổi tên, tên gọi mới đƣợc chú thích đằng sau tên cũ.
Ghi âm và hiệu đính: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Hình ảnh lấy từ tƣ liệu của Yu. I. Koriakin và sƣu tập của Hội cựu chiến binh mặt
trận Karelia.
Yurii Koriakin
Mặt trái của Chiến thắng
...Ấn tƣợng của mặt trận rất khác lạ và sâu sắc đối với chúng tôi, những ngƣời tới
từ vùng địa cực. Sự hoang vắng, những vách đá, rừng rậm và đầm lầy bị thay thế bởi
những đám hoang tàn ngún khói, những hố bom, những thành phố với phố phƣờng bốc
cháy, các xác chết nằm ngổn ngang, những nơi ở chen chúc, những ngôi nhà to lớn đẹp
đẽ trông lạ lẫm đối với chúng tôi, mái ngói của các dinh thự và nhà thờ cùng các xa lộ
thẳng tắp mà trƣớc đây chúng tôi chƣa từng đƣợc thấy ...
...Trên hết tất cả, vừa rời vùng Vologda đói khổ, giá rét và tuyết phủ, chúng tôi
đột ngột lọt giữa cái mùa xuân tới sớm tràn ngập ánh nắng. Trái ngƣợc với khung cảnh ấy,
những chiếc áo khoác lông cừu, mũ lông và valenki (ủng nỉ dùng để chống rét) bì bõm
trong vũng bùn trông thật ngớ ngẩn, kỳ cục, làm thƣờng dân Đức sợ hãi và gây nên
những trận cƣời cùng những lời chế nhạo từ lính tráng của các đơn vị khác...
...Một liên lạc viên chạy tới, vẫy tay với tôi, hét lên: "Đồng chí trung sĩ, lên gặp
đại đội trƣởng!” Tôi vội làm theo. Đại đội trƣởng, tay bận cài khóa chiếc cặp bản đồ, ngắt
lời báo cáo của tôi: "Có trông thấy ký hiệu này không? Con đƣờng này dẫn từ đây tới một
cụm nhà, thấy không? Anh hãy bố trí trạm điện đài của mình ở đấy và mau chóng quay
lại đây. Sở chỉ huy” – anh ta hất đầu về phía một ngôi nhà – “sẽ đóng tại đây. Rõ chƣa?”
Sau vài phút, tôi cùng anh bạn Dimka đã tiến đƣợc tới chỗ cái bảng chỉ đƣờng có ghi chữ
“Aikfir”. Chúng tôi bƣớc tới ngôi nhà đầu tiên trong làng. Tôi xem xét xung quanh.
Dƣờng nhƣ chẳng còn ma nào trong làng. Căn nhà rất đồ sộ, có hai tầng và một gác mái.
Một cái cây cao mọc cạnh đó, bạn có thể chạm vào nó nếu đứng từ mái nhà. Nếu ta leo
lên cao trên cây, gắn cái ăng ten vào đấy và đƣa dây vào căn phòng áp mái thì sẽ có đƣợc
một trạm truyền phát tin lý tƣởng. Nhƣng chúng tôi cần vào xem bên trong nhà trƣớc. Ba
năm ngoài mặt trận đã dạy cho chúng tôi phải hết sức cẩn thận. Tiểu liên sẵn sàng nhả
đạn, theo sát từng vết chân của nhau (do đôi ủng nỉ còn đang ƣớt), chúng tôi leo vào hiên
nhà, buộc một sợi thừng vào quả đấm cửa, rút lui, và khi đã nấp kỹ sau một cái cây, ra tay
kéo mạnh. Cái cửa mở tung ra. Đã vững tâm hơn, chúng tôi quan sát bên trong: một cái
sảnh nhỏ, trống rỗng, và một ô cửa ở bên trái. Một lần nữa chúng tôi dùng cách trên kéo
nắm cửa. Và cuối cùng, nện thình thịch đôi ủng nỉ ƣớt bết đầy đất cát dƣới đế, chúng tôi
xuất hiện ở ngƣỡng cửa với tất cả bộ dạng đẹp đẽ tới từ vùng Địa cực của mình, tay lăm
lăm tiểu liên sẵn sàng nhả đạn.
Suốt quãng đời còn lại tôi sẽ không bao giờ quên tiếng thét the thé, man dại của
một cô gái nhỏ bé chừng 15-16 tuổi, từ sau một cái bàn nằm giữa căn phòng rộng bài trí
rất đẹp ùa tới chúng tôi với đôi tay giơ cao. Thoáng cái cô gái đã lao tới dùng nắm tay
đập vào ngực tôi, đấm vào tà áo da cừu cáu bẩn, miệng không ngừng lặp lại: "Ich bin
krank! Ich bin syphilis!" Nắm lấy tay và gạt cô bé sang một bên, tôi quay sang Dimka:
"Cô ta bị sao vậy? Cậu có hiểu chuyện gì không?” Anh chàng Dimka nhe răng cƣời:
"Hiểu quá đi chứ”. Và lập tức tôi tự hiểu ra mọi chuyện. Giữ chặt cô gái đang điên dại
khóc lóc, tôi ngẫm nghĩ: "Mình cần quái gì cái con bé đang sụt sùi này trong khi lại phải
leo lên tầng gác mái? Nếu mình thả nó ra – chỉ có quỉ mới biết nó sẽ làm bậy chuyện gì.”
Trò chuyện với cô ta – cả tôi lẫn Dimka đều chỉ biết chút ít tiếng Đức. Tát cô ta chăng, để
cô ta đừng quẩn chân chúng tôi – tôi không thể bắt mình làm chuyện đó đƣợc: cô ta chỉ là
một cô gái ngớ ngẩn. Bối rối, tôi nhìn quanh, thử tìm buồng cầu thang. Chẳng thấy đâu cả.
Dimka đã phát hiện ra trƣớc tôi: “Cái cửa!” Nó nằm đằng sau lƣng tôi, gần cái cửa mà từ
đó chúng tôi đã bƣớc vào. Tôi dợm bƣớc về cái cửa đó; cô gái vùng khỏi tay tôi và chạy
ra trƣớc mặt tôi, tựa lƣng mình vào cánh cửa và lại lần nữa hét lên một cách tuyệt vọng:
"Nicht, nicht" Và cô ta bật ra: "Ich bin..." Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ. Gặt phắt cô ta sang
một bên, tôi hét lớn với Dimka: “Giữ lấy nó!” – và tay lăm lăm tiểu liên sẵn sàng nhả đạn,
tôi giơ chân đá tung cánh cửa, trong chớp mắt nhận ra nó đang mở vào trong. Trong cảnh
tranh tối tranh sáng của căn kho xép chỉ có một cái cửa sổ nhỏ, tôi nghe có tiếng rên rỉ,
than vãn và tiếng trẻ em khóc. Tôi nhìn vào trong. Chúa Mẹ ôi! Lố nhố những ngƣời
đang ngồi trên băng ghế và trên sàn nhà. Tôi quan sát kỹ hơn: họ gồm một ông già, ba
ngƣời phụ nữ và bốn đứa trẻ. Tất cả bọn họ đều than vãn rên rỉ, đặt trên đầu gối và cạnh
ngƣời những chiếc giỏ đầy chứa vật dụng cá nhân. Có vẻ nhƣ họ đang chuẩn bị để bỏ đi
đâu đó. Vâng, thử tƣởng tƣợng nếu tôi lại nã một loạt đạn vào đây? Ối anh em ơi!...
Điếng ngƣời, tôi quay về chỗ ngƣời đồng đội, anh ta đang giữ chặt cô gái. Đúng
lúc ấy chúng tôi nghe tiếng động của một chiếc xe đang tới gần. Cả hai chúng tôi đồng
thanh hét lên: “Bọn Đức, nằm xuống!” Tôi nhào xuống ngay chỗ ngƣỡng cửa, còn Dimka
dúi cô gái xuống và bịt lấy miệng cô ta, mắt nhìn về cái cửa sổ phía có tiếng động vọng
lại. Gia đình ở trong cái kho xép lập tức im bặt. Chiếc xe tắt máy, lúc này đã có thể nghe
thấy tiếng ngƣời nói nhƣng chúng tôi vẫn chƣa xác định đƣợc là phe nào. Lặng lẽ, chúng
tôi hạ thấp mình xuống. Nhƣ trong Ngày Phán xét, thình lình cái chuông của chiếc đồng
hồ cũ kỹ trong phòng kêu vang lên. Tôi dò tay mình xuống phía dƣới thắt lƣng, rút quả
lựu đạn ra. Cô gái nhìn thấy thế liền bắt đầu than khóc trở lại. Miệng lầm bầm chửi,
Dimka giúi mũi cô ta xuống tấm thảm trải sàn. Rồi cậu ấy trƣờn về phía cửa sổ, tay vẫn
không rời vũ khí. Nƣớc mắt sụt sùi, cô gái bò theo sau. Từ góc cái cửa sổ, ngƣời “kỵ sĩ hộ
vệ” của cô ta thận trọng nhìn ra ngoài và ngập ngừng lẩm bẩm: “Có vẻ nhƣ quân ta.” Tôi
bảo cậu ấy: “Có vẻ nhƣ! Thế nếu không phải thì sao?” “Không” – cậu ta nói, mắt vẫn
quan sát, - “dứt khoát là dân Slavơ” – và đứng thẳng dậy. Cô gái cũng làm theo. Giọng
nói đã gần hơn, chúng tôi nghe thấy khẩu lệnh “Vào vị trí, tuốt lƣỡi lê”. Phù, chúng tôi
cảm thấy nhẹ ngƣời... Dimka xoay mặt cô gái về phía căn phòng kho, giúi vào phía sau
đầu gối cô ta và bảo: “Quay lại chỗ họ hàng cô đi, đồ ngốc, chỗ cô trƣớc ở đâu.” Cô ta
vùng chạy: cô ấy đã phải chịu đựng thế là quá đủ rồi.
Chúng tôi bƣớc ra ngoài hiên. Nhiều ngƣời lính lập tức quay về phía chúng tôi.
Họ hét lớn: “Các anh là ai? Giơ tay lên!” Từ thời điểm đó chúng tôi, tay cầm vũ khí giơ
cao qua vai, ngay lập tức nhƣ cất đƣợc gánh nặng khỏi lồng ngực, theo cách nói của
ngƣời Nga. Dựa theo loại súng trƣờng cắm lƣỡi lê đã lỗi thời từ lâu mà họ phô trƣơng ra
một cách ngu ngốc, cùng với những bộ quân phục kiểu mới, có thể xác định những ngƣời
lính này rõ ràng thuộc lực lƣợng NKVD (tiền thân của KGB – L.T.D.): mũ lƣỡi trai có
dải băng, áo choàng vạt dài làm bằng vải Canada màu lam xám (chúng rất có giá ngoài
mặt trận) với những cầu vai sạch bóng, điệu đà cùng với loại ủng mới và không dùng loại
xà cạp nhƣ đám lính chuyên bò sát đất chúng tôi thƣờng đeo. Một đại úy nhảy xuống phía
sau chiếc xe tải: “Sao lại ở đây! Các anh là ai?” Chúng tôi bèn giải thích. Anh ta lại gần,
châm điếu “Belomor”, tay chìa bao thuốc cho chúng tôi. Anh ta hạ giọng, nhƣ thể mình
cũng tới từ mặt trận, nói vẻ thân mật với chúng tôi: "Ở đây là thế này, các bạn ạ, sẽ có
nhiều chuyến xe tải sớm tới đây, chúng tôi sẽ xua dân làng đi. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ
phía này. Các anh có hai giờ để làm chuyện của mình”. Anh ta khẽ mỉm cƣời. “Nhƣng tôi
khuyên các anh không nên ở đây lâu, các anh không cần biết những gì sẽ xảy ra ở đây.
Các anh đã nghe về Hội nghị Yalta chứ? Thế đấy. Ngƣời ta đã chuyển giao nơi này cho
ngƣời Ba Lan.” Anh ta hất đầu về phía ngôi nhà, hít vào một hơi: “Nhƣng ở đây bọn họ
sống tốt thật, giá nhƣ ở vùng Riazan chúng tớ cũng đƣợc vậy”. Đột nhiên, nhƣ thể vừa
tỉnh lại, anh ta cáu bẳn ngắt lời: “Tốt nhất là hãy xéo khỏi đây và về báo cáo lại với cấp
trên các anh”. Chúng tôi đồng loạt gật đầu: “Thƣa vâng!”, - và mau chóng, chúng tôi bỏ
đi cho xa...
Tạp chí NVO số 7-13 tháng Năm năm 1999
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
NHỮNG BỨC THƢ
Thƣ ngày 22 tháng Tám, 1942
Shurik thân mến!*
Em đã nhận đƣợc bƣu thiếp anh gửi và rất vui khi biết anh đang ở nhà, bởi em cứ
nghĩ anh đã nhập ngũ. Hóa ra anh đang ở đấy, cùng những ngƣời sành sỏi, anh hãy khéo
léo bám lấy Vaiyentorg (hệ thống cửa hàng phục vụ quân đội) nhƣ thế nhé. Đám
Vaiyentorg cũng đôi khi tới chỗ bọn em, họ bán, nhƣ đúng tên gọi của mình, sôcôla bột,
bánh mì con, đôi lúc có cả sushki, bubliki, baranki (các loại bánh nƣớng của Nga). Em sẽ
kể kĩ hơn trong lá thƣ tới. Anh hỏi em hiện sống thế nào, em đã kể chuyện này trong thƣ
gửi dì Tônhia, hãy tới lấy và đọc nó nhé, nhƣng em sẽ viết riêng cho anh thêm một số chi
tiết khác. Em không kể những chuyện này cho mẹ và dì Tônhia; không kể cho mẹ, bởi
mẹ sẽ khóc cho xem, và không kể cho dì Tônhia bởi thể nào dì cũng kể lại cho mẹ, và kết
quả cũng y hệt. Chuyện là không lâu trƣớc đây em đƣợc gửi đi thực hiện một nhiệm vụ
với một máy điện đài loại nhỏ, tất nhiên là không đi một mình mà cùng một nhóm chiến
sĩ khác, và trên đƣờng đi chúng em bị tấn công, khắp túi xà cột của em lỗ chỗ vết đạn,
may sao em lại không bị dính, em đã chuẩn bị nói lời từ giã cuộc đời, dù những gì thƣờng
xảy ra với lính tập sự, nhƣ Erich Maria Remarque đã viết, không xảy đến với em. Chúng
nã đạn cối vào bọn em, một mảnh đạn văng vào cuốn sổ tay và găm lại ở đấy. Hiện giờ
ngƣời ta đã thay cho em cái xà cột bằng một chiếc balô.
Mẹ em cho rằng do là điện đài viên nên em sẽ đƣợc ngồi ở sở chỉ huy, nhƣng
không phải lúc nào cũng nhƣ thế vì bây giờ ngƣời ta luôn đi trinh sát cùng máy điện đài.
Để làm gì? – Dễ hiểu thôi. Tóm lại, cứ để mẹ hiểu nhƣ thế. Rất có thể em sắp đi làm một
nhiệm vụ nữa. Nhiệm sở chính của bọn em nằm cách chiến tuyến khoảng 10 đến 15 km,
đôi khi đang đứng gác, nếu trời yên tĩnh, anh có thể nghe thấy tiếng đại liên, còn tiếng đại
bác thì có thể nghe rõ suốt cả ngày lẫn đêm.
Em đã trông thấy những tên Đức bị bắt – chúng có hai đứa (bọn em bắt đƣợc lính
Đức chứ không phải lính Phần Lan, trong khu vực bọn em phụ trách), một đứa trông
không có gì đặc biệt, nhƣng tên kia trông rất giống anh, cao, gầy nhom, có cái mũi nhọn
hoắt. Lúc này ở đây trời đã lạnh, nên ngƣời ta cho hắn một đôi găng lông, hắn xỏ vào và
nói: "ồ, gut, gut", và không hề có ý định trả chúng lại, thằng quỉ sứ ấy siết chặt chúng vào
ngƣời. Nhƣng hắn vẫn quen đeo đôi găng trẻ con, chắc cái thằng cặn bã ấy đã ăn cắp
đƣợc ở đâu đó. Giầy của hắn phải tới cỡ 50, không ít hơn, đóng đế gỗ, và hắn luôn run
rẩy trong tấm áo khoác của mình. Chúng em cho chúng một con cá hun khói, và chúng
ngấu nghiến tận xƣơng con cá cho tới hết, cái lũ quỉ đói ấy.
Các bạn trong đội của em rất tuyệt, có một ngƣời trong họ đã từng tham gia chiến
đấu, tiểu đoàn mà anh ấy phục vụ bị tiêu diệt gần hết, chỉ còn 21 ngƣời sống sót, gồm cả
anh ấy và máy điện đài, và trong suốt nhiều ngày anh ta kéo chiếc điện đài theo mình, có
gắng mang nó về an toàn, dù nó không nhẹ chút nào, đúng ra là thiết kế cho hai ngƣời
khiêng. Do bảo vệ đƣợc khí tài quân sự, anh ấy đã đƣợc đề nghị thƣởng huân chƣơng.
Thôi, em dừng đây. Hãy viết cho em về sinh hoạt và công tác của anh nhé.
YuraK
22.08.42 (22 tháng Tám, 1942)
Tái bút: Anh viết cho em theo địa chỉ nào vậy?! Khi thì là 1140th p/y.
Khi lại là 114-O.P.S. (Trung đoàn Thông tin Độc lập)
Trạm Bƣu điện dã chiến 389
Đại đội điện đài của Trung đoàn thông tin 114 **
Chú thích của Yuri Koriakin
* Anh họ của tôi, Aleksandr Aleksandrovich Gusev, thành viên khoa Vật lý tại
Đại học Quốc gia Maskva năm 1941, sau đó nhập ngũ và trải qua nhiều tháng tại mặt trận
vùng Voronezh, và sau khi giải ngũ do bị loét tá tràng, quay lại học tiếp đại học.
** Tôi phục vụ trong Trung đoàn Thông tin Độc lập số 114, đƣợc biên chế trực
tiếp với Sở chỉ huy của Tập đoàn quân 19. Trung đoàn này thực hiện tất cả các hoạt động
thông tin vô tuyến của tập đoàn quân. Những trạm thông tin di động nhƣ SRC-399
thƣờng liên lạc trực tiếp với Sở chỉ huy mặt trận hoặc với Maskva, còn những nhóm công
tác cấp thấp có nhiệm vụ khá linh hoạt. Nhân viên của trung đoàn, mà tôi là thành viên,
thƣờng đƣợc chọn đi thực hiện những hoạt động trinh sát và nghi binh khác nhau đằng
sau phòng tuyến địch để cung cấp thông tin.
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 10 tháng Mƣời, 1942
Chào Shurik!
Trƣớc tiên, xin hãy giữ gìn cẩn thận những tờ giấy em viết. Chúng đã trải qua
chiến trận, em phải tiết kiệm chúng, nhƣng đã xảy tình trạng khan hiếm giấy viết và em
quyết định đem chúng ra dùng. Đây là một vết mảnh đạn Đức ở dƣới tờ giấy này. *
Em đã nhận đƣợc thƣ anh viết ngày 25 tháng Chín. Rất cám ơn anh vì đã thƣờng
xuyên trả lời các bức thƣ của em.
Em đang viết cho anh, Shurka, trong một tâm trạng cực kỳ ghê tởm. Em đã viết
cho anh là đời em đang ... và em [không thể] ở mãi trong tình trạng này ... lâu hơn, ngồi
mãi một chỗ, tại một nơi mà chỉ có Chúa mới biết ở đâu, trong khi có biết bao sự kiện
trọng đại đang diễn ra quanh ta. Vậy mà, chuyện của em chỉ liên quan tới phái đẹp.
Vấn đề là trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình em luôn tìm cách tránh né các
cô gái và không có bất cứ mối quan hệ thân mật nào với họ. Nhƣng ngay trƣớc khi nổ ra
chiến tranh em bắt đầu quan tâm tới một cô gái rất xinh xắn học cùng trƣờng em. Không,
em không phải đã phải lòng cô ta, ... (đoạn bị tác giả tẩy xóa) Em chỉ đơn giản rất thích
cô ta nhƣ là một học sinh giỏi, rất tiến bộ, và, tất nhiên, có bề ngoài không đến nỗi tệ. Cô
ấy cũng đối xử khá cởi mở đối với em, và tới lƣợt em, giúp đỡ cô ấy viết các bài luận văn,
giải các bài toán khó. Nói chung, mối quan hệ của chúng em rất tốt, rất Xô viết, và, hãy
tin em, em không có bất cứ ý định thô lỗ nào đối với cô ta.
Và thế là, khi em gia nhập quân đội, ban đầu cô ấy có hồi âm cho em, viết nhiều
bức thƣ, nhƣng trong thời gian qua, khoảng một tháng hay lâu hơn, ... thƣ tới cho em, và
từ khi đó ... [không] một lời một câu nào. Em đã gửi cho cô ta nhiều [lá] thƣ, không thể
có chuyện cô ấy không nhận đƣợc chúng, nhƣng cô ta không hề đáp lại. Do chuyện này
mà em đang trong một tâm trạng đáng tởm. Nghe có vẻ thật nhu nhƣợc khi chúng ta đang
sống trong thời kỳ có biết bao sự kiện vĩ đại xảy ra, thật sai lầm khi tập trung vào những
chuyện thế này nhƣ em, nhƣng nó vẫn luôn quấy rầy tâm trí em, bởi cô ấy đối xử quá tệ
với em, đồ đàn bà hƣ hỏng, ồ vâng – kệ mẹ cô ta, em sẽ vẫn sống đƣợc mà không cần có
cô ấy. Tất cả chuyện này làm em thấy mình cần phải làm một điều gì đó chứ không chỉ
ngồi mãi một chỗ. Và rồi, em đã quyết định. Quỉ bắt những thứ máy móc khốn khiếp ở
trạm thông tin đi! Em muốn đƣợc phục vụ trong một đơn vị trinh sát với một máy điện
đài cá nhân, nhất là vào lúc này. Em cũng đã có kinh nghiệm, nên em sẽ viết một đề nghị
lên cấp trên, trong đó em sẽ nói thẳng là dù đã là năm thứ hai của cuộc chiến tranh, em
vẫn hoàn toàn không thể trả lời câu hỏi: "Anh đã làm đƣợc gì để góp phần tiêu diệt quân
xâm lƣợc Đức?”, và yêu cầu đƣợc gửi ra tiền tuyến, nhất là khi đã có tin đồn rằng ngƣời
ta muốn phái nhiều ngƣời đi làm điện đài viên trong các đội du kích. Ở đấy mới là sống
chứ! Tóm lại, sắp tới chắc chắn em sẽ viết về những tiến triển tốt đẹp.
Vâng, đã tới lúc dừng bút rồi. Hãy viết cho em, em đang chờ đấy. Có lẽ vẫn còn
thời gian để chờ thƣ anh. Ồ quên, cám ơn vì đã gửi quà tới, em sẽ để dành chúng cho
những ngày u ám.
Yurka 03.10.42 (ngày 10 tháng Mƣời, 1942)
Xin lỗi vì em viết chữ xấu. Cây bút rất tồi, nhƣng em không còn thứ nào khá hơn.
Chú thích của Yuri Koriakin
* Tôi không còn nhớ những đoạn bị mảnh đạn xé rách. Tôi chỉ nhớ rằng cái xà cột
bị rách nát khắp nơi, nhƣng tôi không bị một vết xƣớc nào. Vâng, kể từ khi thƣờng xuyên
khan hiếm giấy viết ngoài mặt trận, tôi đã phải sử dụng đến những tờ giấy này.
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 23 tháng Chín, 1944
Anh thân mến!
Chỉ tới lúc này em mới có thời gian rỗi để viết cho anh một bức thƣ. Em sẽ mô tả
những ấn tƣợng của em trên đƣờng đi. Chắc anh cũng biết chuyện gì đang xảy ra với bọn
em rồi, bọn em đang hành quân về phía tây. Bọn em di chuyển dọc một tuyến đƣờng sắt
và một xa lộ dẫn về phía tây. Tất cả những ai còn sống ở đây đều tụ tập lại quanh những
con đƣờng nhƣ thế này. Trƣớc chiến tranh ở những nhà ga địa phƣơng quanh đây vẫn có
những cộng đồng dân cƣ sinh sống, nhƣng hiện không ai còn ở lại. Kể từ khi bọn Đức,
chứ không phải Phần Lan, đối đầu với chúng em, chúng em luôn phải chiến đấu với Tập
đoàn quân 20 của Đức. Hiển nhiên là bọn Đức đang cố gắng làm xáo trộn mọi thứ lên
càng nhiều càng tốt. Với một sự chính xác hoàn toàn theo kiểu Đức, những tuyến đƣờng
sắt bị cho nổ tung có kiểm soát cứ từng đoạn 10-15 mét một chỗ. Mọi loại cầu cống, cột
điện thoại, đƣờng xá, nhà cửa, tất cả đều bị cho nổ tung. Nhìn chung, cảnh này trông thật
không vui tí nào. Dây điện lòng thòng trên những cột trụ nghiêng ngả, các nhà ga và làng
mạc chỉ còn là đống đổ nát, những khu rừng bốc cháy ngùn ngụt. Nhƣng cái đáng sợ nhất,
luôn thực sự đe dọa mọi ngƣời, đó là mìn. Mìn có ở mọi nơi, rải khắp các đƣờng lộ và lối
mòn, ở hai bên đƣờng và dƣới các cây cầu, trong các căn nhà và trên đƣờng phố. Không
có đủ lính công binh, do đó không thể kiểm tra mọi nơi đƣợc. Có rất nhiều thứ hấp dẫn
bỏ lại trong các ngôi nhà, thật nguy hiểm khi sờ vào bất cứ thứ gì, nhƣng anh cũng biết
lính tráng là thế nào rồi đấy – “Kệ mẹ nó,” – và cắp lấy món đồ. Chúng em cũng tìm thấy
vài thứ hữu dụng cho cánh lính thông tin chúng em. Hôm qua em tìm thấy nhiều hộp cá
trích trong một căn nhà, bên ngoài có dán nhãn Na Uy. Một món khá. Nhân đây, cái tờ
giấy mà em đang viết đây cũng là một chiến lợi phẩm, ở đây thứ này có rất nhiều.
Đêm qua em suýt nữa đã phải trả giá bằng cuộc đời mình. Ở trạm của em có một
đƣờng điện thoại bị hỏng, em phải đi để kiểm tra, dò dẫm một hồi và cuối cùng tìm ra
chỗ bị đứt. Ngày hôm sau vì một chuyện gì đó em đi ngang qua đây và ngay tại chỗ mình
đã đứng, chính xác là cách 30 cm, đám công binh đã tìm thấy một quả mìn. Lập tức em
nổi cả da gà da vịt. Thật không dễ chịu chút nào. Bọn Đức gài mìn bẫy có ngòi nổ chậm
trong nhiều ngày. Hôm nay có một ngƣời quen bảo em: họ tới ngủ trong một căn nhà, anh
ta thức dậy lúc nửa đêm, châm một điếu thuốc, và khi vừa nằm xuống chuẩn bị ngủ lại,
anh ta nghe thấy tiếng tíc tắc của một chiếc đồng hồ. Anh ấy lắng tai nghe kỹ – đúng là
nó. Lập tức anh ta toát mồ hôi lạnh. Anh biết đấy – ngủ trên một quả bom nổ chậm thật
là ... không dễ chịu. Cùng lúc, tại chỗ này hoặc chỗ khác, có những căn nhà bị nổ tung.
Mới đây có một nhà kho lớn đã phát nổ, nó bị bọn Đức bỏ lại từ lâu và hầu nhƣ chƣa
đƣợc ai nhòm tới.
Ở đây có rất nhiều tù binh. Hôm qua em đã nói chuyện với một đứa. Hắn giải
thích – “dựa theo một thỏa ƣớc, đáng ra chúng tôi đã đƣợc về nhà, nhƣng “bọn Nga”
không để chúng tôi yên.” Trong hầu hết các trƣờng hợp bọn chúng đều rất hoảng sợ,
chúng sợ nhà tù của Nga. Một tên cai nói rằng binh lính của chúng thà chết còn hơn đầu
hàng. Chúng đã thực sự bị tẩy não, cái lũ cặn bã ấy, mặc dù chúng trông có vẻ tử tế.
Những cô gái chỗ em làm việc vất vả tại trạm. Em phải tự làm hầu hết mọi
chuyện. Anh biết đấy, bọn họ không có kinh nghiệm, chẳng biết gì cả. Đôi lúc em phát
khóc lên đƣợc, nhƣng làm thế nào đƣợc bây giờ? Em đành chờ mọi chuyện qua đi vậy.
Em dừng bút đây. Anh có thể thấy qua bức thƣ là em đang rất vội. Em vẫn chƣa
nhận đƣợc thƣ anh và có lẽ sẽ không nhận đƣợc chúng trong một thời gian dài nữa bởi
hiện em đang phải tách khỏi đơn vị. Em đƣợc bố trí sang một hƣớng khác, nhƣng anh vẫn
viết cho em nhé. Sớm hay muộn gì thì em cũng sẽ nhận đƣợc. Chào nhé. Em trai của anh.
Yu.K.
Hãy gửi lời chào của em tới Zôia. Cô ấy có khỏe không?
23.9.44 (23 tháng Chín, 1944)
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 31 tháng Chạp, 1944
Em vừa nhận đƣợc lá thƣ của anh và lập tức quyết định phải viết thƣ trả lời. Mục
đích để nói lên sự thật là em không tin vào giả thiết của anh về số phận của chúng ta,
không phải nói về những chặng đƣờng dài còn chờ chúng ta phía trƣớc, mà về chuyện
chúng ta sẽ không phải thoả hiệp với bọn Đức. Em không biết có phải do thực tế là sau
dịp Năm Mới ngƣời ta chuẩn bị đổi cho chúng em quân phục mùa hè – lấy đi valenki
(ủng nỉ), áo khoác da cừu, v.v. – có thể là bằng chứng của chuyện đó hay không. Cũng có
thể và hợp lý để cho là ngƣời ta không cần đến Nam Tƣ hay phía bên kia sông Vistula.
Nhƣng tất cả đều chỉ là giả thiết và suy tính – một đặc điểm không thể chấp nhận đƣợc ở
một ngƣời lính. Hầu nhƣ sự thể luôn luôn không xảy ra nhƣ chúng ta nghĩ. Tóm lại: nếu
chúng ta còn sống – chúng ta sẽ biết đƣợc sự thật. Và cuộc đời luôn không quá tệ. Thức
nhắm luôn có đủ, còn điều kiện sinh hoạt thì – không tệ lắm.
Em đang bắt tay vào học kỹ thuật vô tuyến. Anh biết đấy, em càng lao sâu vào
chúng thì càng thấy thích. Cũng không phải là chuyện dở, đáng để ta bỏ công sức và khá
hữu ích. Anh thấy thế nào? Em cũng đang muốn hỏi anh đây. Nếu anh kiếm đƣợc cuốn
nào về kỹ thuật điện hay vô tuyến, xin hãy gửi cho em. Ta chỉ có thể kiếm chúng ở
Maskva, chứ không phải ở đây. Tất nhiên là để nhắm làm sinh viên khoa vô tuyến của
Học viện Truyền thông Bauman ở Maskva, chứ không phải là Thạc sĩ hay Tiến sĩ Vật lý
và Toán. Khoảng khoảng vậy đó. Và hy vọng là, không phải loại sách kiến thức chung
chung, mà là những tính toán thực tế trong từng trƣờng hợp cụ thể khác nhau, v.v. Và khi
nào có tiền, em sẽ gửi cho anh. Tha thiết đấy.
Nhƣ ngƣời ta vẫn nói: “Còn nhiều thời gian để lao động, hãy dành một tiếng để
giải trí”. Do vậy em dùng một tiếng đó để làm nhiều trò dại dột, nhƣ anh vẫn thƣờng nói.
Em đang ốm. Ốm vì cứ luôn phải làm một chàng trai tử tế. Em đang giao du lăng nhăng
với đám gái hƣ (vâng, vâng, chính xác là thế) và tiêu phí thời gian rảnh của mình ở đại
đội của họ *, chỉ luôn có một ý nghĩ thô bỉ trong đầu, - làm thế nào mình biết đƣợc, rất có
thể bọn chúng sẽ hạ đƣợc mình ở đâu đó, thật đáng tiếc nếu chết mà không có đƣợc kinh
nghiệm những chuyện kia. Em biết nhƣ thế là tầm thƣờng, nhƣng kệ mẹ nó. Xin đừng
nghĩ là em đang lung lạc, không đâu. Em cảm thấy mình rất quyết tâm. Trong vụ này bọn
em, bốn trung sĩ, huấn luyện viên của trƣờng vô tuyến **, hành xử nhƣ Paul Baumer và
các bạn mình. Còn nhớ chuyện họ tới cái quán rƣợu rẻ tiền và chuốc xỉn Tjaden không?
Thêm chút nữa về các bạn của em. Một trong bốn ngƣời vẫn chƣa học hết lớp 5 ở
Học viện Đƣờng sắt Rostov. Một tay có học, khá tiến bộ và thông minh. Ngƣời thứ hai –
trƣớc kia làm nhân viên trực điện đài dân sự, tới từ Hải đoàn Vận tải Viễn Đông, ngƣời
thứ ba cũng vậy – một thầy giáo vừa tốt nghiệp học viện sƣ phạm. Thuộc dân tộc Tatar,
nhƣng là một ngƣời đọc rất nhiều và có học thức, và thứ tƣ là em. Em thì anh biết rồi.
Công việc ở trƣờng này rất thú vị. Em thích nó. Điều quan trọng nhất là nó hữu
ích cho bản thân. Anh chuẩn bị đứng lớp, vì thế phải tự soạn bài cho kỹ, nếu không thì
thật ê mặt. Trong số học viên cũng có những ngƣời có trình độ hơn em, cho nên em
không thể nói vòng vo khi có vấn đề mình không hiểu rõ. Thôi em dừng đây. Chờ tới lá
thƣ sau nhé. Viết cho em về chuyện chỗ các anh đón Giao Thừa thế nào nhé. Em cũng
gửi kèm đây một bức ảnh. Bức ảnh đƣợc chụp tại đây. Nhân tiện xin kể, em đang viết
trên loại giấy Na Uy, và gửi bức thƣ trong một phong bì Kirki. Thôi – em xin bắt tay anh.
Em của anh.
Yu.K. 31.12.44 (31 tháng Chạp, 1944)
Chú thích của Yuri Koriakin
* Vâng, tất nhiên, đấy chỉ là trò tỏ vẻ. Một trò làm bộ anh hùng kiểu trẻ con. Do
đó chúng tôi uống vào chút rƣợu rồi ôm chặt lấy họ. Họ rất sợ hãi và hét toáng lên.
Chúng tôi suýt nữa đã cƣỡng hiếp họ và nếu vậy chắc cũng chẳng bị sao, nhƣng rồi cô ta
kêu thét, cố gắng vùng vẫy, khóc lóc nên tôi đã không thể làm gì tiếp
** Vào tháng Giêng năm 45 tại Vologda, nơi trung đoàn chúng tôi đƣợc chuyển
tới, một trƣờng quân sự dành cho các điện đài viên đƣợc tổ chức. Lúc ấy trình độ lớp 9
của tôi đƣợc đánh giá không tệ, bởi đôi khi chúng tôi tuyển cả những ngƣời mù chữ, hoặc
những ngƣời mới lần đầu trông thấy cái đƣờng sắt. Chuyện này không phải là cƣờng điệu
– một ngƣời chỉ huy dẫn một nhóm những tân học viên nhƣ thế tới bảo chúng tôi là anh
ta chật vật lắm mới dồn đƣợc họ vào toa xe lửa. Có lần chúng tôi đƣợc tặng mấy quả quýt,
nhƣng số quả lại ít hơn số ngƣời trong tiểu đội, do đó chúng tôi tổ chức một cuộc thi:
chúng tôi bị bịt mắt, tay cầm một chiếc kéo, và mỗi quả quýt đƣợc treo trên một sợi dây
để cách mặt đất một mét. Anh phải dò dẫm cắt đƣợc sợi dây. Thế là một anh chàng vùng
Buriatia cắt đƣợc một quả và hỏi: “Không biết ăn cái quả này nhƣ thế nào nhỉ?”. Và các
đồng đội khuyên anh ta: “Trƣớc tiên hãy thử ăn lớp vỏ, rồi sau đó, nếu cái vị nếm thấy
đƣợc, thì cậu ăn đến phần bên trong.” Anh ta cắn nó nhƣ cắn một quả táo và bảo: “Ăn
cũng ngon đấy chứ,” Và thế là anh ta ăn hết quả quýt. Vâng, tôi đã là một điện đài viên
có nhiều kinh nghiệm khá ấn tƣợng, do đó tôi đƣợc cử tới trƣờng này để làm hƣớng dẫn
viên. Đấy là nơi tôi đã giảng dạy và điều hành các khóa học. Mỗi lớp kéo dài không lâu –
từ 2 tới 3 tuần.
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 16 tháng Giêng, 1945
Chào Sashka! (Trong tiếng Nga, Sashka là tên thân mật của Aleksandr, ở đây là
anh họ Aleksandr Aleksandrovich Gusev của tác giả – L.T.D.)
Ngay khi vừa nhận đƣợc thƣ anh, em lập tức ngồi xuống viết thƣ trả lời. Trong lá
thƣ trƣớc mà em vừa nhận đƣợc, em đã hiểu rõ anh muốn nói gì, nhƣng ... em vẫn giữ
nguyên ý kiến của mình. Anh đã nghĩ sai chỗ rồi. Ngƣời ta đã bảo với bọn em là chúng
em sẽ chuyển tới Kandalaksha, nhƣng hiện theo em thấy thì chúng em không phải đang
đi tới đó, mà theo hƣớng ngƣợc lại. Một số trong bọn em đã lên đƣờng, còn em sẽ đi
trong ngày mai hay ngày kia. Em sẽ chờ thƣ đến trên đƣờng hành quân. Lúc đó anh sẽ
thấy ai trong chúng ta là đúng. Nếu chúng ta có dịp gặp riêng nhau, em sẽ kể cho anh
nghe rất nhiều chuyện hay, nhƣng đó là tùy anh đấy. Chúng em di chuyển một cách có
văn hóa trên các toa xe lửa. Chúng em lắp đặt các máy điện đài. Bật chế độ nhận tin lên,
cắm loa và ampli, và rồi ngồi nghe các bản hòa nhạc. Kể từ khi bọn em đƣợc giữ một số
lƣợng lớn ắc quy, bọn em luôn có điện để thắp sáng.
Về các lời khiển trách của anh, chúng đối với em luôn rất quan trọng. Chƣa có ai
nói với em về ba lời khuyên đó. Em sẽ cố gắng ghi nhớ chúng và luôn cố tuân theo. Và
chúng đúng đắn kỳ lạ. Chỉ riêng về điều thứ ba thì em có chút bất đồng. Bọn em lần nào
cũng vi phạm nó, mặc dù trong phần lớn các trƣờng hợp bọn em không đạt đƣợc mong
muốn. Bởi vì trong mọi chuyện đều gồm những chuỗi hành động thiết yếu mà anh không
thể hoàn tất mà thiếu đi một giai đoạn nào, ít nhất em luôn làm chuyện đó, thật khó mà
thiếu nó đƣợc, hầu nhƣ là không thể. Và khi anh làm điều ấy, tất cả những chuyện đạo
đức đều tuột đi mất và anh chỉ còn biết có một mục đích, và tất cả phƣơng pháp đều tốt
nếu giúp đạt đƣợc mục đích. Và em cũng không quá câu nệ bất cứ phƣơng kế nào.*
Bọn em tổ chức Lễ Giao thừa chung với các bạn cùng đại đội. Chúng em không
đến nỗi gàn dở, và đã làm quen đƣợc với các cô gái làm việc trong tiệm cà phê, và hiển
nhiên là bọn em tổ chức Lễ Giao thừa theo một cách khá đứng đắn. Cả nhóm có tám
ngƣời, và trong một đêm bọn em đã uống hết 7 lít vodka và khoảng 40 lít bia. Đó là một
lƣợng khá đáng kể, nhƣng chúng em vẫn không việc gì. Hoàn toàn trái với suy nghĩ khi
mới bắt đầu uống (anh thấy đấy, em không có dự định uống rƣợu vang) là em sẽ dễ dàng
gục khi uống rƣợu nặng. Xét cho cùng thì em cũng chƣa tập thế bao giờ. Nhƣng kết quả
hoàn toàn ngƣợc lại! Em uống nhƣ một bợm rƣợu mà không say chút nào, ít nhất là uống
cỡ nào em cũng không hề mất tự chủ. Cứ nhƣ đổ vào cái thùng rỗng vậy. Có lẽ là do cơ
thể em khỏe mạnh. Và anh cũng phải biết thêm là chỉ có mấy thằng em uống thôi, bốn
đứa đàn ông. Đám con gái gần nhƣ không uống chút gì, cho nên bọn em nốc là chính.
Nhƣng nói nhƣ thế là đủ rồi.
Hôm nay em quyết định không đi đâu cả. Em ngồi đây nghe máy điện đài, viết và
suy nghĩ. Điều gì đang chờ em ở phía trƣớc, rốt cuộc em gần nhƣ chƣa thực sự đƣợc thấy
chiến tranh. Chắc chắn là nó không nhƣ ở đây – nó ác liệt hơn nhiều và có trời mà biết
đƣợc... Nhƣng em cho là số phận đã bảo vệ em trong suốt ba năm qua, và nó sẽ không bỏ
rơi em, còn nếu không nhƣ vậy – em sẽ không là ngƣời xung phong đầu tiên mà cũng
không là ngƣời tụt lại sau cùng, nhƣng bây giờ em dừng bút đây. Em sẽ viết tiếp trên
đƣờng đi. Gắng chờ nhé.
Cách đây không lâu em đã chụp một tấm ảnh, bây giờ em sẽ gửi nó cho anh.
Cũng chờ anh làm điều tƣơng tự. Dù anh có thích hay không, vẫn cứ nó gửi cho em. Hãy
viết cho em. Em đang chờ đây, mặc dù đang hành quân, và trong một thời gian em sẽ
không nhận đƣợc thƣ, chỉ tới khi em quay về đây. Viết đi!
Yu.K. 16.1.45 (16 tháng Giêng, 1945)
Chú thích của Yuri Koriakin
* Tôi không nhớ đó là về chuyện gì. Có lẽ có liên quan tới cuốn sách của
Remarque "Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”. Cả anh ấy lẫn tôi đều đặc biệt thích cuốn
tiểu thuyết này, và tôi chịu ảnh hƣởng mạnh từ nó. Thậm chí tôi còn đem cuốn sách ấy ra
mặt trận, và luôn mang nó theo bên mình.
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 2 tháng Hai, 1945
Chào Sashka!
Em vẫn chƣa nhận đƣợc thƣ nào của anh cả, điều này có thể giải thích bằng việc
bƣu trạm dã chiến chỗ em vẫn chƣa chuyển tới bố trí tại điểm đóng quân mới. Tình trạng
sức khỏe của em hiện nói chung là tốt, dƣờng nhƣ em đã hồi phục sức khỏe, tạ ơn Trời.
Nhân tiện kể thêm, rất nhiều ngƣời chỗ em cũng đã bị bệnh. Có lẽ sự thay đổi thời tiết là
nguyên nhân chính. Hầu hết mọi ngƣời đều bị cảm lạnh. Hiện thời ngoài trời ấm áp đến
nỗi khó mà tƣởng tƣợng đƣợc lúc này mới đang còn là đầu tháng Hai. Mƣa dầm dề nhƣ
thác đổ, trong khi bọn em vẫn còn phải đi valenki (ủng nỉ), anh không tƣởng tƣợng ra bọn
em nguyền rủa chuyện này thế nào đâu. Không lâu trƣớc đây bọn em còn tắm trong
banya (nhà tắm kiểu Nga), hay một thứ nào đó từa tựa banya. Trong làng ở đây, ngƣời Ba
Lan không tắm trong banya, họ chỉ lau rửa thân trên vào mùa đông và tắm trên sông vào
mùa hè (văn hóa Do Thái chăng!!) Còn nhà tắm của chúng ta – hãy tƣởng tƣợng ra một
căn nhà gỗ trong đó có một cái hố lớn nơi ta để cái lò sắt và cứ thế mà vào tắm rửa. Anh
sẽ run rẩy nhƣ một con chó, nhƣng đƣợc tắm sạch. Về chuyện ăn uống thì ở đây không
tồi, chúng em đƣợc cho ăn đầy đủ, ngoài ra chúng em cũng khá tháo vát. Dạo gần đây
ngƣời hùng Slavơ của chúng ta (tức Yurii Koriakin – LTD) còn đƣợc tặng cả một thùng
thịt hộp của Mỹ. Một món tuyệt. Em mong sớm nhận đƣợc thƣ anh.
Chào chân thành, Yu.K. 2.2.45
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 7 tháng Hai, 1945
Chào anh thân mến!
Hiện giờ chúng em đã đi đƣợc khá xa. Đâu đó ở tận Danzig. Mọi thứ nơi đây đều
có vẻ xa lạ, những ngôi nhà với mái cao kiểu Gothic, những cái cây, cái thì thấp và um
tùm, cái lại cao và cành lá cứ vƣơn thẳng lên trời, còn đƣờng phố lát bằng những viên đá
nhỏ thì thẳng tắp và nhẵn bóng, có vỉa hè lát gạch ở hai bên, và con ngƣời thì – ngƣời Ba
Lan – những ngƣời không bao giờ thèm nói chuyện với bọn em, thậm chí ngay đến không
khí cũng là thứ không khí ẩm thấp mù sƣơng vùng Baltic. Có biết bao những thành phố
bị phá hủy ở nơi đây. Bọn em đi xe dọc theo những thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn
lại những đống đổ nát, hay, trong trƣờng hợp khá nhất, thì là những ngôi nhà cong queo
và bị hƣ hại, đầy vết đạn bắn, phòng ốc lộn xộn, ngổn ngang sách vở, cùng những chậu
hoa, bình thủy tinh, quần áo, đồ đạc – tất cả đều bị xáo trộn. Tại một trong những thị trấn
nhƣ thế bọn em đã có dịp uống đầy một bụng bia ở một xƣởng sản xuất bia. Không còn
một cƣ dân nào, hoặc là còn rất ít. Đôi khi bọn em tìm đƣợc một thị trấn còn hoàn toàn
nguyên vẹn, một trong những nơi đó là chỗ mà hiện bọn em đang đóng quân. Nhiều ngôi
nhà ở đây trƣớc kia là nơi ở của bọn sĩ quan Gestapo. Giá mà anh đƣợc trông thấy những
căn phòng sang trọng đó, sạch sẽ, sáng sủa và đầy đủ tiện nghi. Tất cả những thứ đồ đạc
đó còn lại nguyên trong phòng, thậm chí còn có cả thức ăn, rất nhiều sách thuộc đủ loại.
Rất nhiều cuốn Mein Kampf của Hitler loại khổ nhỏ, thật thú vị nếu đọc đƣợc chúng,
nhƣng đáng tiếc tiếng Đức của em không tốt lắm. Nhiều loại tạp chí sặc sỡ khác nhau, in
ảnh Hitler chụp ở mọi góc độ, tƣ thế và địa điểm, rất nhiều tác phẩm văn học thuộc đủ thể
loại, mà em cho là mình sẽ đọc một cách thích thú.
Chúng em ăn uống rất tốt. Ngoài sân của những căn nhà ở đây có trồng rất nhiều
loại rau củ, hôm qua một ngƣời lính đã đem tới đây một con bò cái, và hơn nữa, chúng
em vẫn có quyền, hay gần gần nhƣ thế, tự tiếp phẩm từ các nguồn lƣơng thực tại địa
phƣơng, là điều mà chúng em vẫn luôn làm. Em hiện vẫn chƣa nhận đƣợc thƣ của anh
hay của mẹ. Những chuyện mà em đã hỏi anh hiện thế nào rồi, và cả cuộc sống ở chỗ anh
nữa? Có tin tức gì mới ở Maskva không?
Yu.K. 7.2.45 (7 tháng Hai, 1945)
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Thƣ ngày 3 tháng Ba, 1945
Chào anh thân mến,
Thật tuyệt khi đƣợc nhận một bức thƣ thú vị từ Matskva. Anh đã lao vào một
nhiệm vụ khá khó khăn, liên quan tới tá tràng, hãy đừng thất bại nhé. Em đang có nhiều
tin mới khủng khiếp, không thể kể lại hết tất cả bởi không có đủ thời gian, em sẽ kể khi
nào về đến nhà.
Cứ mỗi ngày trôi qua chúng em lại càng tiến sâu vào lãnh thổ nƣớc Đức. Em
không biết chính xác hiện mình đang ở đâu, nhƣng có lẽ tại một nơi nào đó cạnh bờ biển
Baltic, thành phố Stettin (Szczecin) đang trên đƣờng tiến quân của chúng em và vài thành
phố khác cũng nằm quanh đây.
Hầu nhƣ không còn ai ở lại trong các thị trấn và thành phố quanh đây, nhƣng họ
để lại rất nhiều tài sản. Hàng đàn gà và ngỗng, thỏ và dê, lợn và cừu, bò và ngựa lang
thang khắp nơi mà không có ngƣời chăn dắt. Lũ bò kêu rống, chúng cần đƣợc vắt sữa,
nhƣng ai mà thèm quan tâm? Chúng em đã ăn biết bao nhiêu thứ – tất cả các loại, bắt đầu
là món khoai tây và kết thúc là sôcôla, cà phê và lợn sữa. Và xung quanh vẫn còn biết
bao nhiêu. Không thể đếm đƣợc. Vâng. Ngƣời Đức sống thật sung túc. Những ai còn lại
cũng lấy một ít, các cô gái Đức, các bà già và cả đàn ông. Chúng em cũng không cần ý tứ
lắm. Không thể viết lại tất cả. Có lẽ anh cũng đã nghe chuyện này rồi.*
Nhƣng tất cả đều là rác rƣởi. Cái chính vẫn là công việc. Ôi, biết bao nhiêu công
việc phải làm. Đã bốn ngày nay em không đƣợc ngủ, và cũng không dám ngủ. Vất vả lắm,
Sashka ạ, không có thời gian để kiếm chiến lợi phẩm nữa. Tất cả chuyện có thể làm là
bảo quản chúng cho tới khi anh chuyển tới một địa điểm mới, triển khai khí tài và nhận
lệnh thiết lập một tuyến liên lạc. Biết bao nhiêu lần em bị ngã xuống từ mái nhà trong khi
đang đi mắc ăng ten,** sƣờn và khuỷu tay trầy trụa bầm tím, suốt một tuần rƣỡi nay chƣa
cạo râu, không tắm rửa – thật ra, em đã mệt mỏi cùng cực rồi. Hãy tin em, dù thật khó tin,
- không có cả thời gian để chạy theo tiếng gọi của tự nhiên, bởi vì anh không thể bỏ mặc
trạm vô tuyến trong lúc đang nhận phát tin. Em đã cố gắng, em chƣa từng sống kiểu này
bao giờ – dù tinh thần em không đến nỗi tệ, luôn luôn mẫn cán, và hăng say làm việc.
Cách đây không lâu chúng em có đi ngang qua một nhà máy rƣợu, do đó đoàn xe
dừng lại, ở đấy cũng có lính gác, nhƣng bọn em đã “thay gác” họ (sao thế nhỉ, họ có vẻ
miễn cƣỡng lắm) và bắt tay vào hƣởng thụ cuộc đời. May là em không uống nhiều lắm,
em vẫn nhớ là mình còn phải làm việc, nếu không em sẽ bị xử lý. Cứ thử thao tác trên
điện đài trong khi trăm con quỉ đang quay cuồng trƣớc mắt mà xem. Vâng, anh thân mến,
em dừng đây. Không có thời gian. Cũng không biết lúc nào em sẽ viết đƣợc cho anh nữa.
Hãy viết cho em. Em đang chờ đây. Em của anh.
Yu.K. 3.3.45 (mùng 3 tháng Ba, 1945)
Chú thích của Yuri Koriakin
* Trên chuyến tàu đi tới Ba Lan, chúng tôi đƣợc chỉ dẫn cách thức cƣ xử với cộng
đồng dân cƣ địa phƣơng. Họ nói rằng ngƣời Ba Lan là một dân tộc Slavơ anh em đã cùng
chiến đấu chống lại bọn phát xít. Yêu cầu chúng tôi hãy giữ gìn thanh danh của Hồng
quân. Đe dọa sẽ trừng phạt những trƣờng hợp vi phạm kỷ luật. Dù vậy, vẫn có chuyện
xảy đến trƣớc mắt tôi. Tôi đang ngồi trên xe tải, loay hoay với chiếc điện đài. Đột nhiên,
có tiếng gõ trên cửa xe. Tôi mở, một ông già Ba Lan xuất hiện ngay ngƣỡng cửa, ông ta
liếng thoắng điều gì đấy bằng tiếng Ba Lan, nắm lấy ống tay áo của tôi và kéo tôi đi. Tôi
chỉ kịp hiểu là đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái ông ta. Chúng tôi đi vào căn nhà của
ông ta nằm gần đó và tôi trông thấy một tay lính xe tăng đang cố gắng cƣỡng hiếp cô gái,
có lẽ đó là con gái của ngƣời Ba Lan này. Tôi kéo hắn ra, nhƣng hắn đang xỉn quắc cần
câu. Một viên đại úy, ngực đeo đầy huân huy chƣơng. Tạ ơn Trời, hắn ta đã tỉnh lại. Hắn
bảo: "Trung sĩ, hãy cùng tới chỗ cậu uống chút gì đi.” Chúng tôi đi. Hắn rút ra một cái
chai. Chúng tôi rót cho nhau. Tôi uống vào và lập tức mắt tôi lồi ra – đó là dầu xăng! Tôi
bảo hắn: “Cậu rót cái gì vậy?!” Hắn nói: “Uống đi, rƣợu đấy. Cậu xem, chúng tớ đi
ngang một nhà máy làm rƣợu, nhƣng chẳng có gì trong tay để trút rƣợu vào cả. Chúng tớ
có một cái thùng xăng rỗng, chỉ còn chút dầu ở đáy, thế là chúng tớ đổ rƣợu vào đấy.”
Trƣớc khi vƣợt biên giới nƣớc Đức tại vùng Bromberg (Bydgoszcz), chính trị
viên đại đội tổ chức một buổi mít tinh và thông báo những điều sau đây: "Chúng ta đang
tiến vào lãnh thổ nƣớc Đức. Chúng ta đều biết là ngƣời Đức đã mang vô vàn bầy quỉ dữ
tới đất nƣớc chúng ta, đó là lý do tại sao chúng ta đang tiến vào lãnh thổ của chúng, để
trừng phạt ngƣời Đức. Tôi yêu cầu các anh không đƣợc quan hệ với cộng đồng địa
phƣơng, nhằm sao cho các anh không phải gặp bất cứ rắc rối nào, và không đƣợc đi một
mình. Vâng, còn đề cập tới vấn đề đàn bà, các anh có thể tự do cƣ xử đối với phụ nữ Đức,
nhƣng sao cho đừng ra vẻ là có tổ chức. Một hay hai ngƣời tới, làm những gì mình cần
(chính xác đó là những gì anh ta nói: “những gì mình cần”), rồi quay trở về, thế thôi. Bất
cứ hành động xâm phạm không cần thiết nào tới đàn ông và phụ nữ Đức cũng đều không
đƣợc chấp nhận và sẽ bị trừng phạt.” Lời phát biểu này làm chúng tôi cảm thấy ngay anh
ta cũng không biết chính xác tiêu chuẩn đáng giá mức độ cƣ xử thế nào là phù hợp. Tất
nhiên, tất cả chúng tôi đều chịu ảnh hƣởng mạnh của sự tuyên truyền, vào thời kỳ đó đã
không phân biệt giữa ngƣời Đức và bọn Hitler. Đó là lý do tôi đƣợc biết cả đống những
trƣờng hợp phụ nữ Đức bị cƣỡng hiếp nhƣng không bị giết chết. Cách đối xử với phụ nữ
Đức (hầu nhƣ chúng tôi không gặp đàn ông) là hoàn toàn buông thả, thậm chí còn nhƣ để
trút hận. Ở trung đoàn chúng tôi, viên trung sĩ trong đội quân nhu đã lập nên hẳn một cái
hậu cung. Hắn nắm trong tay một lƣợng thực phẩm dồi dào. Do đó có nhiều phụ nữ Đức
đến sống với hắn, hắn sử dụng họ và chia sẻ họ với những ngƣời khác. Có đôi lần, khi
bƣớc vào một căn nhà, tôi trông thấy những ngƣời lớn tuổi bị giết. Một lần, khi vừa bƣớc
vào nhà, chúng tôi trông thấy có ai đó đang nằm trên giƣờng. Tôi kéo chiếc chăn lên và
trông thấy một ngƣời phụ nữ với cái lƣỡi lê cắm vào ngực. Chuyện gì đã xảy ra? Tôi
cũng không biết nữa. Chúng tôi bỏ đi mà không thắc mắc gì cả. Nhƣng mọi chuyện đã
hoàn toàn thay đổi sau ngày Chiến thắng, vào khoảng 12-14 tháng Năm, một bài báo của
Viện sĩ Aleksandrov mang tựa đề “Ilya Erenburg quá đơn giản hóa vấn đề” đƣợc đăng
trên tờ Sự Thật. Trong bài viết tác giả tuyên bố rằng ngƣời Đức và bọn Hitler là khác
nhau. Đó là lúc mọi việc đã đổi khác, khi công cuộc tái thiết thời bình bắt đầu. Thế rồi
ngƣời ta bắt đầu siết chặt kỷ luật, trừng phạt mọi hành vi phạm tội. Đã có lần tại hòn đảo
Bornholm, một trung sĩ lấy cái đồng hồ của một ngƣời Đan Mạch – đơn giản là lấy đi
bằng vũ lực - và lột miếng da bọc bộ thiết bị thể thao của một trƣờng học để sửa đôi giày
của mình. Vì chuyện đó anh ta bị kết tội xử bắn, nhƣng Rokossovskiy (chỉ huy trƣởng
Phƣơng diện quân lúc đấy) đã không phê chuẩn bản án.
Trong một vụ khác một tay lính hay hạ sĩ gì đó đã hôn hay ôm lấy một phụ nữ
Đan Mạch, một ngƣời Đan trông thấy và gọi lên sở chỉ huy, tay lính kia lập tức bị bắt,
ngƣời ta chuẩn bị đƣa anh ta ra tòa án binh vì tội hiếp dâm. Nhƣng khi cô gái kia hiểu ra
ngƣời ta muốn làm gì tay lính, cô ta chủ động chạy tới ngƣời chỉ huy và kể rằng anh ta
không hề có ý định cƣỡng hiếp mình. Dù vậy, vào năm 95 khi Chính phủ Đan Mạch mời
chúng tôi tới Bornholm dự lễ kỉ niệm 50 năm Chiến thắng, họ nói rằng sau khi quân ta rút
đi năm 46, khoảng 100 trẻ em sinh ngoài giá thú đƣợc khai báo. Có lẽ chuyện này liên
quan tới đám sĩ quan của chúng tôi, những ngƣời mà, không nhƣ cánh binh lính, sống tự
do trong các căn hộ cá nhân.
** Tôi có dƣới tay rất nhiều máy điện đài do nhiệm vụ đòi hỏi. Ví dụ nhƣ chúng
tôi có một máy radio nhỏ hiệu “Sever” để liên lạc với du kích. Chúng tôi cũng có máy V-100 và RP-6, những loại cũ nhất và ít phổ biến nhất. Về sau chúng tôi có thêm loại nội
địa RSB (Radio gọi oanh kích khẩn cấp). Theo quy định quân đội, chúng tôi có trong tay
những ống nhôm để nối dài cần ăng ten, nhƣng khi dừng lại đóng quân ở địa điểm mới,
chúng tôi chỉ cần lắp ăng ten lên cao hơn, thế thôi.
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
HỒI ỨC LÍNH PHÁO BINH
Ivan A. Yakushin
Thiếu uý, chỉ huy trung đội pháo chống tăng thuộc Trung đoàn Cận vệ 24,
Sƣ đoàn Kỵ binh Cận vệ số 5.
Thiếu uý Ivan A. Yakushin, 1945
(hình ảnh lấy từ tƣ liệu riêng của Ông Yakushin)
Phần 1
Trung đoàn Kỵ binh Cận vệ số 24 chúng tôi tiến sâu vào hậu phƣơng địch vào
ngày 20 tháng Giêng năm 1945, và tới 21 tháng Giêng chúng tôi đã vƣợt qua biên giới
Đông Phổ tại vùng Brauchwalde. Chúng tôi hành quân suốt tám cây số mà không phải
nổ một phát súng nào, nhƣng rồi bị chặn lại tại một cứ điểm kiên cố của địch. Quân địch
đang cố thủ trong một ngôi làng lớn. Một trận đấu súng diễn ra. Lực lƣợng bảo vệ tiền
tiêu của Trung đoàn (gồm một chi đội kỵ binh cùng một số đơn vị hỗ trợ) cũng tham gia
vào trận đánh. Đối phƣơng, quân số lên tới 2 tiểu đoàn bộ binh có thiết giáp yểm trợ, tổ
chức kháng cự dữ dội. Ngôi làng này nằm trên đỉnh một ngọn đồi. Tôi dừng khẩu pháo
chống tăng ZIS-2 của mình lại trên đƣờng lộ dƣới sự che chở của bóng đêm. Tôi gửi một
ngƣời liên lạc tới gặp chi đội trƣởng để nhận chỉ thị hƣớng dẫn chỗ bố trí. Con đƣờng mà
chúng tôi dừng lại dẫn tới một thung lũng dốc đứng và chạy thẳng lên ngọn đồi, nơi có
những ngôi nhà ở rìa làng. Đội bảo vệ tiền tiêu của Trung đoàn đang cố hết sức để đột
kích vào ngôi làng. Rất nhiều ngôi nhà đang bốc cháy, chúng chiếu sáng những căn nhà
còn lại trong làng. Tôi trông thấy ba chiếc xe tăng Đức đang tiến vào ngôi làng, bóng của
chúng đƣợc các đám cháy soi rõ. Chúng tôi lại đang ở trong bóng tối. Theo ngƣời chi đội
trƣởng cho biết, bọn họ đã chiếm đƣợc hơn nửa ngôi làng, do đó chúng tôi không phải lo
sẽ bị phục kích. Tôi liền quyết định – tiêu diệt đám xe tăng, chúng đang đƣợc soi rọi bởi
những đám cháy, vị trí đặt pháo nằm ngay trên con đƣờng, do tôi không tìm đƣợc một vị
trí bắn khác tốt hơn. Các pháo thủ trong tổ pháo của tôi còn thiếu kinh nghiệm và chƣa
từng đối đầu với xe tăng Đức, mặc dù họ đạt kết quả bắn tập rất tốt. Có thể trông thấy
đám xe tăng Đức từ cách xa chúng tôi đến cả 500-600 mét, đƣợc chiếu sáng rõ, trong khi
khẩu pháo chống tăng của chúng tôi đang đƣợc bóng tối che phủ. Bằng ngay quả đạn đầu
tiên chúng tôi đã hạ đƣợc một chiếc xe tăng. Nhƣng trƣớc khi có thể nạp lại đạn, khẩu
pháo của chúng tôi đã bị lộ bởi ánh sáng từ một ngôi nhà phía sau chúng tôi vừa bị bắt
lửa. Những chiếc tăng Đức lập tức đáp trả. Chúng tôi phải mau chóng rút khỏi đây và
thay đổi vị trí bắn. Ngay khi quả đạn đầu tiên của bọn tăng Đức bắn tới, đám lính đã chạy
khỏi khẩu pháo mà không có lệnh của tôi và nấp vào một cái rãnh ven đƣờng. Tôi hét lớn:
“Khẩu đội chạy tới pháo!” Chỉ cần mất khoảng vài giây để gập càng khẩu pháo lại và kéo
xuống đồi để tới một “vị trí an toàn”. Nhƣng các pháo thủ của tôi, những ngƣời mới lần
đầu trạm chán với xe tăng, đang tản ra trong cái rãnh. Họ chỉ phản ứng khi tôi một mình
chạy tới khẩu pháo và cố gắng tự gập càng pháo lại, miệng lặp lại mệnh lệnh “Các pháo
thủ về chỗ pháo, đồ chết tiệt!” Đám pháo thủ vội chạy tới khẩu pháo và bắt đầu gập càng
pháo lại. Thật lạ rằng, những lời lẽ chửi mắng vốn không hề có trong Cẩm nang dã chiến
của chúng tôi, lại rất hữu ích trong những trƣờng hợp nhƣ thế này.
Tôi bƣớc tới cái rãnh, hét lớn: “Nhấc nòng pháo!” và giơ cánh tay trái của mình
lên để chỉ hƣớng kéo pháo. Nhƣng thời cơ đã qua đi. Trƣớc khi nhóm pháo thủ kịp làm
theo mệnh lệnh của tôi, khẩu pháo đã bị bắn trúng và phá huỷ bởi một phát đạn từ chiếc
xe tăng Đức. Có ba ngƣời trong nhóm bị thƣơng vì mảnh đạn. Tôi cũng bị một mảnh đạn
bắn trúng cổ tay phải.
Đám cứu thƣơng chạy tới và sơ tán thƣơng binh về tuyến sau. Tôi cố tự băng bó
vết thƣơng bằng cuộn băng cá nhân, nhƣng không tài nào làm nổi với chỉ mình cánh tay
trái. Rất khó để cầm máu trong giá rét, trong khi tay tôi bị thƣơng khá nặng. Mấy ngƣời
cứu thƣơng tới giúp tôi. Chỉ tới khi chúng tôi phải dùng tới cuộn băng thứ hai thì máu
mới ngừng chảy. Mấy ngụm vodka do chính uỷ đƣa cho làm tôi ấm ngƣời còn hơn bất cứ
thứ áo ấm nào. Sau này, mỗi khi nhớ lại trận đánh đó, tôi lại càng thấy rõ kinh nghiệm và
sự dũng cảm của tổ pháo thủ có tính quyết định nhƣ thế nào. Chỉ cần tôi có một tay lính
cựu trong nhóm thôi, khẩu pháo lẽ ra đã đƣợc thoát khỏi vị trí nguy hiểm mà không chịu
chút tổn thất gì. Những pháo thủ sống sót sẽ không bao giờ sợ hãi và sẽ luôn có mặt cạnh
pháo trong khi chiến đấu với đám xe tăng sau này. Những trận đánh của chúng tôi chống
lại xe tăng Đức hầu nhƣ luôn nổ ra bất ngờ, giữa những lần tao ngộ chiến, khi chúng tôi
không đủ thời gian để chọn một vị trí bắn tốt và kịp ngụy trang pháo, do đó chúng tôi
phải nổ súng càng nhanh càng tốt.
Những trận đánh đó tựa nhƣ những cuộc đấu tay đôi, nhƣng thƣờng chúng tôi
luôn là những kẻ đƣợc nổ súng trƣớc. Nhƣng nếu anh không kịp tiêu diệt chiếc xe tăng,
chúng sẽ không bắn trƣợt mà sẽ giết anh ngay cùng với khẩu pháo. Có một điều không ai
có thể phủ nhận – các tổ lái tăng Đức là những xạ thủ cừ khôi. Nhƣng chúng tôi cũng có
một lợi điểm khác: chúng tôi đang bảo vệ tổ quốc mình, trong khi chúng đang tiến hành
một cuộc chiến tranh ăn cƣớp; chúng tôi đứng vững trên mặt đất, còn chúng ngồi trong
một chiếc hộp sắt, chứa đầy dầu xăng và chất nổ; chúng tôi rất khó bị phát hiện, trong khi
chúng có thể bị nhận rõ từ cách xa hàng dặm.
Phần 2
Cuối tháng Tƣ năm 1945 Lữ đoàn kỵ binh của chúng tôi vƣợt qua sông Oder, tiến
qua đột phá khẩu và tới đƣợc sông Elba, phía Bắc Berlin. Những đơn vị Đức tụt hậu lẻ tẻ
và những đồn lũy đơn độc bị tiêu diệt trong những trận đánh chớp nhoáng, còn những cứ
điểm mạnh của chúng bị vƣợt qua và bỏ lại ở phía sau, và chúng tôi tiếp tục hành quân
vào sâu trong đất Đức. Mặc cho sự thật là chiến tranh đang sắp kết thúc, vẫn có những
cuộc đối đầu ác liệt xảy ra. Một lần đơn vị chúng tôi lọt vào giữa một nhóm lính Đức tụt
hậu và bị chặn đứng bởi những loạt đạn dày đặc. Trung đội tiếp viện tới nơi nhƣng vẫn
không đủ sức để giúp đội hình vƣợt qua đƣợc bọn Đức. Trung đoàn trƣởng của chúng tôi
gọi tới một nhóm xe tăng - sau một trận chiến ngắn tất cả các xe tăng của chúng tôi đều
bị tiêu diệt bởi Panzerfausts (súng chống tăng cá nhân). Thời gian trôi qua, chúng tôi bắt
buộc phải tiến quân, và chúng tôi đã nghĩ tới việc đơn giản là bỏ qua cái cứ điểm này để
đi tiếp. Những chàng trinh sát của chúng tôi, thật đúng lúc, bắt sống đƣợc một tên Đức và
dẫn hắn tới Bộ chỉ huy trung đoàn. Đó là một tên nhóc mƣời lăm tuổi, đang sụt sùi và nức
nở. Trung đoàn trƣởng đẩy tên tù binh ra trƣớc mặt các chi đội trƣởng và nói: “Các anh
có thấy ai đang chống lại chúng ta không? Chỉ là mấy thằng nhóc! Nào, hãy tiến lên đuổi
hết bọn chúng đi! Chiến thắng đã gần lắm rồi!”
Sau một đợt pháo và cối bắn chuẩn bị ngắn và dữ dội, những chiến sĩ của một
trong những chi đội đó chạy ào lên trƣớc với một tiếng hô lớn Hurrah và ngay khi họ tiến
tới đƣợc chiến hào bọn Đức, đám Volkssturm (dân quân vũ trang) lập tức ném vũ khí và
bỏ chạy hoặc đầu hàng. Tất cả bọn chúng đều là những thằng nhóc khoảng mƣời sáu tuổi.
Dù còn trẻ, chúng vẫn rất thành công trong việc tiêu diệt các chiến xa của chúng tôi bằng
Panzerfausts bắn từ những hố cá nhân đào nông choẹt. Đó thật là một thứ vũ khí đáng sợ
– chỉ cần một tên lính bộ binh cũng có thể tiêu diệt gọn một chiếc xe tăng!
Dù bị thiệt hại ít, chúng tôi vẫn thiếu ngƣời trong các trung đội chống tăng, đặc
biệt là trong các tổ pháo thủ chống tăng. Giữa một đợt nghỉ chân, khi tổ pháo thủ của
khẩu pháo số 3 đang ăn những thức ăn đạm bạc do đầu bêp nấu, một tên lính Đức không
mang vũ khí, mặt trẻ măng, tiến tới và hỏi xin thức ăn. Mọi ngƣời xếp cho hắn một chỗ
ngồi trên cái thùng đạn, đƣa hắn một cà mèn đầy cháo, một ít bánh mì và một chiếc thìa.
Fritz (tên mà tổ pháo thủ đặt cho hắn) nói “danke, danke, gut” (cám ơn, cám ơn, tốt) và
vục đầu vào chỗ thức ăn. Sau khi cái cà mèn đã cạn, mọi ngƣời cho thêm hắn chút cháo,
và hắn lại chén hết nhẵn. Đƣa cho tên Fritz một ít thuốc lá, ngƣời khẩu đội trƣởng đề nghị
hắn ở lại với khẩu đội. Sau một tràng dài giảng giải bằng thứ hỗn hợp giữa tiếng Nga và
tiếng Đức, cộng thêm cả cách ra hiệu bằng tay, tên Đức cuối cùng cũng hiểu ra điều họ
muốn. Hắn không cần nghĩ ngợi lâu và lập tức đồng ý. Khi đó tôi đang vắng mặt và lúc
quay về chỗ khẩu pháo số 3, tôi thấy tên Đức đang ngồi giữa mọi ngƣời. Tôi lập tức hỏi
khẩu đội trƣởng: “Anh nghĩ anh đang làm cái quái gì thế hả? Thằng Đức này đang làm
cái gì ở đây?” Tay khẩu đội trƣởng trả lời: “Đừng lo, đồng chí thiếu uý, hắn là một
thằøng Đức tốt” Tôi nói: “Ít nhất anh có biết tên hắn là gì không đã?” - “Hắn tên là Fritz”
– “Đƣợc, thế anh đã hỏi tên hắn chƣa? Lỡ hắn không phải là Fritz thì sao?” – “Hắn vẫn
đáp lại mỗi khi chúng tôi gọi hắn là Fritz”. Tôi hỏi lại thằng Fritz, hắn xác nhận là hắn rất
vui nếu đƣợc ở lại cùng với khẩu đội.
Những ngƣời lính đi lạc vẫn thƣờng ở lại với khẩu đội chúng tôi trong một thời
gian. Nhƣng đó là ngƣời của ta, là ngƣời Xôviết, là bộ binh hoặc kỵ binh, những ngƣời đã
bị lạc mất đơn vị của mình, còn đây là lần đầu tiên chúng tôi phải cho một tên lính Đức
nƣơng nhờ. Tôi không biết việc này có vi phạm hay không Thoả ƣớc quốc tế về tù binh
chiến tranh, nhƣng chuyện tên Fritz ở lại với khẩu đội của chúng tôi đƣợc sự đồng thuận
của cả hai bên mà không gặp bất kỳ chống đối nào về phía ta. Tôi không hề phản đối một
“vị khách“ nhƣ thế. Do đó, vài ngày sau tên Fritz đã trở thành một thành viên tình nguyện
của khẩu đội, cố gắng tìm cách giúp đỡ mọi ngƣời. Có lẽ hắn xuất thân từ một gia đình
nông dân, do hắn điều khiển lũ ngựa rất giỏi.
…Ngày mùng Một tháng Năm đã tới. Trƣớc khi tất cả các đơn vị của Trung đoàn
tiến quân, một mệnh lệnh truyền xuống suốt dọc đoàn quân:
- Thiếu uý Cận vệ Yakushin đƣa một khẩu pháo lên hàng đầu đội hình hành quân!
Trung đoàn trƣởng giao cho chúng tôi một nhiệm vụ: chi đội hai, đƣợc bổ sung
thêm khẩu pháo chống tăng của tôi và một trung đội trọng liên, phải tiến về phía đƣờng lộ
dẫn tới Wittenberg. Chúng tôi phải cắt đứt con đƣờng đó và chặn không cho đoàn xe
quân sự của bọn Đức đi qua về phía Tây để đầu hàng những Đồng minh Phƣơng Tây của
chúng ta. Trung đoàn trƣởng bảo tôi khi chúng tôi khởi hành: “Hãy làm đi, thiếu uý. Ngôi
Sao vàng đang chờ anh ở chỗ đó đấy”. Anh ta cho là từ vị trí phục kích chúng tôi sẽ có
thể hạ gục cả tá xe tăng. Dù vậy, sự việc diễn ra không phải nhƣ thế.
Chi đội tổ chức tuyến phòng thủ ở rìa một khu rừng. Tình hình diễn ra nhƣ sau:
phía bên trái chúng tôi, chỉ cách khoảng ba mƣơi mét, một khẩu đội Đức đang nổ súng
bắn vào những đơn vị hậu bị của chúng tôi. Kẻ địch không trông thấy chúng tôi, do
chúng tôi ở phía sau chúng. Phía trƣớc chúng tôi, cách khoảng một cây số, một đội hình
lớn xe tăng và pháo binh Đức đang di chuyển về phía Tây. Chúng tôi quyết định hạ gục
một trong những chiếc xe tăng và tạo nên một vụ kẹt xe trên tuyến đƣờng lộ. Chúng tôi
chuẩn bị khẩu pháo sẵn sàng để bắn.
Sau một khẩu lệnh ngắn gọn: “Chuẩn bị chiến đấu!” mọi ngƣời lập tức sẵn sàng.
Thậm chí ngay cả tên tù binh Đức, kẻ vẫn ở cùng khẩu đội, cũng hiểu rõ tầm quan trọng
của sự việc và chuyển những thùng đạn rất nhanh gọn và chính xác. Tôi ra lệnh: “Bắn
vào chiếc xe tăng đi giữa đội hình! Đạn xuyên thép, bắn!” Loại đạn này tạo ra một đuôi
lửa, và chúng tôi có thể nhìn rõ đƣờng đi của nó. Phát đầu tiên vọt lên hơi cao hơn mục
tiêu. Phát thứ hai bắn trúng chiếc xe tăng. Chiếc xe quay ngang 180 độ trên đƣờng và
dừng lại. Đội hình của chúng cũng dừng lại. Vài chiếc cố gắng vƣợt qua chiếc xe tăng đã
bị hạ gục, những chiếc khác cố gắng quay lại. Tất cả công việc chúng tôi phải làm bây
giờ là mau chóng và kín đáo thay đổi vị trí nổ súng của mình. Chúng tôi biết rằng ngay
khi chúng tôi nổ súng, khẩu đội pháo Đức sẽ quay về phía chúng tôi và nã đạn trực tiếp.
Nhƣng điều này đã không xảy ra. Những tổ pháo thủ Đức chạy khỏi các khẩu đại bác của
chúng ngay từ phát đạn đầu tiên của chúng tôi – thậm chí không có ai bắn một phát nào
về phía chúng tôi! Tuy nhiên, đằng sau khẩu đội này có một khẩu pháo tự hành của Đức
đƣợc nguỵ trang kín đáo đang phục kích. Nó nhận ra chúng tôi từ phát đạn đầu và nổ
súng. Viên đạn đầu tiên của nó nổ về phía bên phải chúng tôi, cách khoảng mƣời mét.
Phát thứ hai của khẩu pháo tự hành phá hủy khẩu pháo của chúng tôi. Chỉ huy pháo bị
giết, ngƣời xạ thủ bị thƣơng nhẹ. Chỉ có ngƣời nạp đạn và tên giữ ngựa là nguyên vẹn,
còn tôi cũng bị thƣơng. Đó là vết thƣơng thứ ba của tôi tại chiến trƣờng. Ngƣời nạp đạn
đặt tôi lên lƣng tên Fritz và dƣới làn đạn yểm hộ của chi đội, tay giữ ngựa mang tất cả
những ngƣời bị thƣơng tới nơi an toàn, tại đó tất cả chúng tôi đều đƣợc băng bó.
Nhờ ngƣời nạp đạn giúp đỡ, tôi tới đƣợc một con đƣờng mòn trong rừng. Trung
đoàn chúng tôi, dẫn đầu là trung đoàn trƣởng và bộ tham mƣu của mình, đang tiến về
phía tôi. Những lá cờ của Trung đoàn đang bay cao sau lƣng trung đoàn trƣởng. Một
trong số chúng có gắn tấm Huân chƣơng Cờ đỏ mà Trung đoàn đƣợc nhận từ thời Nội
chiến trong Lữ đoàn của Kotovski, lá thứ hai – Lá cờ Cận vệ mà Trung đoàn đƣợc nhận
trong chiến dịch Yelets vào tháng Chạp năm 1941. Đó là lần đầu tiên trong suốt cuộc
chiến tranh chúng tôi đƣợc thấy cảnh tƣợng nhƣ vậy – trên đồng rộng, giữa ban ngày
trung đoàn trƣởng và bộ tham mƣu của mình cùng những lá cờ mở rộng đang đi về phía
chiến trƣờng. Tôi báo cáo lên trung đoàn trƣởng về số phận khẩu pháo của mình. Nhóm
chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chặn không cho bọn Đức đột phá về phía
tây cho tới khi Trung đoàn đến kịp. Về sau, khi quay lại đúng con đƣờng này, tôi trông
thấy chiếc xe tăng mà mình đã bắn hạ. Viên đạn xuyên qua vỏ thép bên hông xe tăng và
có lẽ đã trúng chỗ chứa đạn. Tháp pháo chiếc xe tăng bị bật qua một bên, nòng pháo của
nó gục xuống thấp. Đằng sau chiếc xe tăng là những xe cộ bị bọn Đức bỏ lại. Đó là kết
cục trận đánh cuối cùng của tôi.
Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
HỒI ỨC CỦA LÍNH PHÁO BINH
Mikhail Lukinov
Phần 1: Ba Lan
Những ghi chép về biến cố Ba Lan và cuộc chiến Phần Lan 1939-1940
Đƣợc viết bởi ngƣời đã trải qua những biến cố trên, một sĩ quan Quân đội Xô-viết,
M. I. Lukinov
Trong lịch sử và văn học, các sự kiện diễn ra ở Ba Lan và Phần Lan trong thời kỳ
1939 - 1940 đƣợc thuật lại rất ngắn gọn. Có thể do chúng bị che khuất bởi tầm vóc to lớn
của Cuộc Chiến tranh Vệ quốc sau đó. Dù vậy, việc ký kết Hiệp ƣớc Không xâm lƣợc với
nƣớc Đức, sự hủy diệt và chia cắt nhất thời pan Ba Lan (pan tiếng Ba Lan nghĩa là “ngài”
hay “ông chủ”; bằng cách này những ngƣời ta muốn ám chỉ rằng không phải nhân dân Ba
Lan mà chính giai cấp thống trị Ba Lan mới là kẻ thù. Một số ví dụ khác: phát xít Đức,
samurai Nhật Bản, bôia Romania - Oleg Sheremet) và chiến tranh Phần Lan cũng là
những sự kiện không thể để chìm vào lãng quên. Tác giả của những dòng hồi ký dƣới đây
đã vinh dự đƣợc trực tiếp tham gia chiến dịch Ba Lan cũng nhƣ cuộc chiến chống Bạch
vệ Phần Lan (cụm từ này bắt nguồn từ thời Nội chiến, khi Phần Lan sát cánh với phe
Bạch vệ chống lại Hồng quân - Oleg Sheremet), và đã cố gắng thuật lại tất cả những gì
ông đã từng sống, nhìn thấy và nếm trải qua.
Đó là năm 1939 đầy bất ổn. Tại Châu Âu đang có chiến tranh, bóng ma của nó đã
lan dần tới biên giới nƣớc ta. Lúc đó tôi mới 32 tuổi và, là một sĩ quan dự bị, có thể bị
động viên vào quân đội bất cứ lúc nào. Nhƣng vì lẽ gì đó tôi không muốn tin rằng chiến
tranh sẽ nổ ra. Tôi đang làm việc, nhƣ thƣờng lệ, với chức vụ kỹ sƣ tại Viện Thiết kế xí
nghiệp Vật liệu xây dựng. Tôi đã đƣợc hứa thƣởng một kỳ nghỉ vào cuối hè năm 1939,
dự định sẽ đi nghỉ ở miền nam, trên bờ biển Hắc Hải hiền hoà. Nhƣng kế hoạch của tôi bị
phá nát bởi lời hiệu triệu từ dân uỷ : “Lên đƣờng với các vật dụng cá nhân”. Thật là một
cú sốc. Tôi chạy tới Trụ sở Dâân uỷ Quận Bauman chỗ tôi và trƣớc tiên là hỏi về giấy
phép đi nghỉ, rồi kế tiếp là về “Lên đƣờng với các vật dụng cá nhân”. Họ nghiêm khắc
bảo tôi: “Kỳ nghỉ nào? Anh đã bị động viên. Anh không biết là chiến tranh đã bắt đầu rồi
ƣ?!” Chiến tranh nào? Với ai? Tôi không thể hiểu nổi. Sang hôm sau tôi đã cƣỡi trên
chuyến tàu Matskva-Kiev với các “vật dụng cá nhân.”
Mikhail Lukinov, tháng Giêng 1939.
Vào thời đó các chuyến tàu chạy khá chậm và đƣợc kéo bởi các đầu máy hơi nƣớc.
Các toa đƣợc gắn giƣờng ngủ ba tầng bằng gỗ sơn xanh lá cây. Tại các ga, hành khách ùa
xuống lấy nƣớc nóng vào bình toong thiếc và tín hiệu khởi hành của đoàn tàu phát ra từ
cái chuông kéo tay. Mới đây thôi mà nhƣ ở thời cổ đại vậy.
Toa tàu rất đông ngƣời, để ngủ yên tôi phải leo lên giá gỗ tầng ba, treo mình vào
ống hơi nƣớc bằng thắt lƣng để khỏi ngã vì rung lắc. Nhóm sĩ quan chúng tôi đƣợc đƣa từ
Kiev tới Bêlaia Tserkov, thị trấn đƣợc biết tới qua trƣờng ca “Poltava” của Pushkin.
Nhƣng chúng tôi không đƣợc thấy “đêm Ukraina yên tĩnh” (thơ Pushkin - LTD) nơi đây.
Ngƣợc lại, chúng tôi bị bao vây bởi sự hối hả bận rộn kinh khủng. Một sƣ đoàn bộ binh
đang đƣợc thành lập vội vã từ những “ông cậu”, lính dự bị Ukraina. Là sĩ quan pháo binh,
tôi bị chuyển về một khẩu đội pháo cấp trung đoàn của trung đoàn súng máy 306. Một
pháo thủ, lại ở trong trung đoàn bộ binh! Thật khó cho tôi, nhƣng đâu thể làm gì khác
đƣợc? Tôi phải tháo cái phù hiệu màu đen khỏi quân phục, và thêu cái màu đỏ với hai
khẩu pháo bắt chéo thế vào. Có chín sĩ quan trong khẩu đội, tất cả trong đó, trừ tôi là sĩ
quan dự bị, đều là quân nhân chuyên nghiệp, và trong thời gian đầu tôi không đƣợc nhận
bất cứ nhiệm vụ cụ thể nào. Tôi phục vụ đại loại nhƣ một sĩ quan phụ tá cho khẩu đội
trƣởng. Vào thời gian đó các sĩ quan cấp thấp trong quân đội có trình độ học vấn không
cao. Thậm chí hiếm có ngƣời học hết trung học. Họ chủ yếu là những ngƣời đã phục vụ ở
cấp thấp trong nhiều năm, đƣợc huấn luyện trực tiếp hay gián tiếp về tác xạ trong những
trƣờng lớp đào tạo khác nhau. Nhƣng họ luôn thuộc làu quân lệnh và kỷ luật quân sự. Nói
chung họ là những ngƣời dễ mến, hầu hết đeo lon thiếu úy. Khi thấy tôi có hai khối
vuông trên cổ áo (trung uý) nhƣng không tỏ vẻ kênh kiệu, họ liền chấp nhận tôi vào cái
gia đình chung ấy. Khẩu đội trƣởng cũng cùng xuất thân nhƣ họ, nhƣng đã có trên vai ba
khối vuông (thƣợng uý). Nhằm làm cho mình trông giống chỉ huy hơn, anh ta tự tạo ra
một bề ngoài khác biệt với mọi ngƣời. Gƣơng mặt anh ta dài nhƣ mặt ngựa, bị bệnh đậu
mùa hủy hoại và luôn tỏ vẻ lạnh lùng. Anh ta sợ bất cứ biểu hiện nào của sự thân thiện vì
anh ta cho rằng điều đấy dẫn tới vô kỷ luật. Anh ta cƣ xử với tôi dè dặt cảnh giác, nhƣ thể
thấy trong tôi một cái gì xa lạ, một ngƣời có học thức. Chúng tôi cũng gặp chủ nhiệm
pháo binh trung đoàn, chịu trách nhiệm về các khẩu đội pháo và súng cối. Ông ta đối xử
với tôi có thiện chí hơn. Chúng tôi đƣợc nhận những khẩu pháo 76 mm nhƣng là loại
nòng ngắn, kiểu 1927, đƣợc kéo bởi hai đôi ngựa. Chúng tôi cũng đƣợc cấp ngựa cƣỡi.
Tôi đƣợc nhận một con ngựa cao lớn, lông xám có tên là Doll. Chúng tôi bắt đầu tổ chức
thành các trung đội, triển khai ngoài cánh đồng, tập bắn đạn thật, huấn luyện cho binh
lính. Trung đoàn trƣởng luôn giục giã chúng tôi gấp rút hoàn tất công việc huấn luyện
nhƣng tới khi chúng tôi nhận lệnh hành quân, công tác huấn luyện vẫn chƣa xong. Mệnh
lệnh tƣơng tự nhƣ sau : “Lập đội hình hành quân ! Trung đội chỉ huy dẫn đầu! Bƣớc!” Và
chúng tôi xuất phát. Đi đâu? Tại sao? Có lẽ chỉ cấp trên mới biết. Hay thậm chí chính họ
cũng không đƣợc biết? Mau chóng chúng tôi nhận ra mình đang đƣợc đƣa về phía tây,
hƣớng biên giới Ba Lan.
Trong khi đó, các diễn biến chính trị phức tạp vẫn tiếp diễn. Nƣớc Đức tiến công
Ba Lan và chiếm đƣợc một phần lãnh thổ rộng lớn. Chính phủ chúng ta đã ký Hiệp ƣớc
Không xâm phạm với Đức. Molotov, trong bài diễn văn nổi tiếng của ông ta, gọi Ba Lan
là “cái quái thai của Hiệp ƣớc Versailles”. Hiệp ƣớc ấy đã giải phóng vùng Tây Ukraina
và Tây Belorussia, trƣớc đây bị Bạch vệ Ba Lan chiếm đóng. Quân đội Xô viết phải mau
chóng tiến về đƣờng ranh giới chia cắt có trong thỏa thuận với nƣớc Đức. Trƣớc đó
chúng tôi đã tiến rất gần tới lãnh thổ Ba Lan; còn bây giờ, với một lệnh báo động, chúng
tôi bắt đầu vƣợt cái đƣờng biên giới mà nay đã là của quá khứ.
Các đơn vị bộ binh của trung đoàn chúng tôi hành quân phía trƣớc, còn chúng tôi
kéo pháo theo sau. Tôi còn nhớ hình ảnh một cột mốc biên giới có sơn sọc trắng với con
đại bàng Ba Lan bị xô ngã xuống đất, một làng biên giới Ba Lan với những ngôi nhà
trắng tinh theo một kiểu kiến trúc xa lạ thời Trung cổ cùng một nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Những ngƣời Ba Lan theo dõi cuộc xâm chiếm của chúng tôi một cách rầu rĩ và lo lắng.
Thật sự thì họ đang nghĩ gì nhỉ?
Những con đƣờng lầy lội và các làng xóm Ukraina nghèo khổ với mái rạ và
những nông dân đi chân trần dần lộ ra sau cái làng Ba Lan giàu có và tinh khiết ấy, hiển
nhiên là một sự hào nhoáng bề ngoài. Ngƣời Ukraina sống rất khốn khổ dƣới ách cai trị
của các pan. Chúng tôi có dịp nhận ra tất cả những cái đó, sau khi chúng tôi trú chân tại
một ngôi làng Ukraina. Rồi chúng tôi tiếp tục tiến qua vùng đất Ba Lan cũ về phía Tây.
Lần nghỉ đêm đầu tiên. Một căn nhà Ukraina nghèo khổ : sàn bẩn, rác rƣởi, gián, trẻ con
ăn bận trần truồng. Tôi bắt chuyện với một bé gái khoảng 10 tuổi, lục tìm 20 kopeck
trong túi và đƣa tặng cô bé nhƣ một vật lƣu niệm. Em nghẹn thở bởi món quà giá trị đó
và kêu lên : “Mẹ ơi, con có hai mƣơi kopeck đây này!” Hình nhƣ lần đầu tiên trong đời
cô bé đƣợc cầm một số tiền lớn nhƣ vậy.
Chúng tôi đƣợc lệnh mau chóng chuyển tất cả binh sĩ đi bộ của trung đoàn lên xe
tải và đƣa họ tới đƣờng ranh giới chia đôi Ba Lan. Ngựa kéo xe, đoàn tàu chở hàng tiếp tế
và đại bác tiếp tục hành quân với tốc độ nhƣ cũ. Chúng tôi lập ra một chi đội từ các binh
lính đi bộ trong các khẩu đội có trách nhiệm hành quân cùng cánh bộ binh. Tất nhiên, tôi
cũng có trong số ấy. Tới đêm, trên đƣờng cái, tôi chặn những xe tải chở bộ binh lại và
chuyển lính của mình lên sau khi bị chửi rủa hết lời. Tôi lên chiếc xe cuối cùng. Chúng
tôi đi trong nhiều ngày suốt dọc Miền Tây Ukraina bằng cách đấy. Trong thời gian đó,
nhiều cuộc gặp gỡ và nhiều ấn tƣợng đã xảy đến mà tới nay, bất hạnh thay, đã tuột khỏi
trí nhớ của tôi.
Tôi nhớ lại chúng tôi đã đến một thị trấn và dừng chân giữa một khu chợ. Những
ngƣời bán rong đeo khay hàng chạy tới các xe tải từ mọi phía, chào mời chúng tôi. (Cần
lƣu ý rằng khi chúng tôi tiến vào vùng lãnh thổ cũ của Ba Lan, một tỷ giá trao đổi ngoại
tệ tức khắc đƣợc lập ra: một zloty ăn một rúp.) Một ngƣời bán hàng rong bƣng cái khay
bánh pierogi tới chỗ xe chúng tôi. Tay bộ binh ngồi cạnh tôi liền hỏi giá. “Ba kopeck,
thƣa pan. Tôi không thể bán rẻ hơn, đang chiến tranh mà.” Ngƣời lính rút ra một tờ ba
rúp màu xanh và nói : “Cho tôi một trăm cái.” “Sao anh mua nhiều thế ?” Tôi hỏi.
“Không sao đâu, thƣa đồng chí trung uý, tôi sẽ có cách dùng chúng.” Anh ta quả thật đã
dùng hết tất cả số bánh đó. Anh ta ăn gần hết một trăm cái, phớt lờ những ánh mắt ghen tị
và những lời đề nghị của đồng đội. Đúng là một gã kulak Ukraina.
Những ngƣời bán hàng nhanh chóng nắm bắt thị trƣờng và sau mƣời lăm phút giá
bánh pierogi đã là 15 kopeck. Bếp dã chiến cho chúng tôi ăn chủ yếu là cháo kiều mạch,
bánh mì đen và trà. Có vài đơn vị kỹ thuật đi sau chúng tôi, họ đƣợc cấp gạo, bánh mì
trắng và ca cao. Không thể làm gì hơn, chúng tôi là bộ binh, luôn tấn công đầu tiên và
lãnh thực phẩm sau cùng. Một lần, vào cuối ngày, chúng tôi dừng lại nghỉ đêm tại một thị
trấn. Chiếc xe tải chạy vào sân trƣờng và chúng tôi nghỉ lại cho tới sáng trong các phòng
học. Lúc đấy tôi đói nhƣ cào. Tôi lấy theo hai ngƣời lính (các sĩ quan bị cấm đi ra ngoài
một mình) và đi kiếm một nhà hàng. Chúng tôi mau chóng tìm thấy một cái bar nhỏ dƣới
tầng hầm với cửa sổ sáng rực và dàn nhạc đang chơi. Vừa thấy ba ngƣời chúng tôi mặc
quân phục, đội mũ sắt, đi ủng có gắn đinh thúc ngựa và mang vũ khí bƣớc vào chỗ sảnh
đón, một cơn chấn động nhẹ xảy ra. Dàn nhạc ngừng chơi. Vài thực khách sợ hãi đứng
dậy. Có lẽ đây là lần đầu trong đời họ nhìn thấy những ngƣời Xô viết. Tôi lịch sự chào
mọi ngƣời và đề nghị dàn nhạc tiếp tục chơi. Những ngƣời trong quán tò mò theo dõi
chúng tôi. Chủ quán đứng sau quầy bar, một ngƣời to béo mặc bộ vest không cài khuy
với điếu xì gà trên miệng. Tôi thấy mình nhƣ đang đóng trong một cuốn phim về thời
trƣớc Cách mạng. “Vodka hay rƣợu snap?” - ông béo hỏi tôi. “Không,” – tôi trả lời –
“cho ba cà phê và ba sandwich.” Đồng hồ của tôi đã là 12 giờ, nhƣng cái đồng hồ to mặt
tròn trên quầy bar mới chỉ có 10 giờ. Tôi không nhận ra ngay sự khác biệt về thời gian
nên ngạc nhiên bảo chủ quán rằng hiện đã 12 giờ rồi. Ông ta mỉm cƣời, nhấc điếu xì gà
khỏi miệng và kiêu ngạo đáp lời tôi: “Chúng tôi thuộc Châu Aâu !” Tại đất nƣớc Ba Lan
Bạch vệ khốn khổ đồng hồ chỉ lấy theo giờ London. “Lúc này ông nên chỉnh lại đồng hồ
theo giờ Maskva,” – Tôi đáp lại. Ngƣời chủ quán nhún vai nhƣ thể nói “Chúng tôi sẽ xem
lại.” Sau khi uống xong cà phê và thanh toán tiền, chúng tôi rời “những ngƣời Châu Aâu”
đấy.
Tới đây tôi xin phép lạc đề một chút để kể lại một giai thoại khác xảy ra nhiều
năm sau Chiến tranh Vệ quốc, khi nƣớc Ba Lan đã đƣợc tái thiết và Nguyên soái Xô viết
Rokossovskiy, một ngƣời gốc Ba Lan, đƣợc chỉ định làm Tổng chỉ huy quân đội Ba Lan.
Ông tới Ba Lan. Đầu tiên ông đƣợc cho tham quan Varsava và một vị tƣớng Ba Lan hỏi
ông : “Thƣa ngài Nguyên soái, ngài có thích Châu Âu không ?” Nguyên soái đã trả lời :
“Rõ ràng ông không rành địa lý học.”
Chúng tôi hành quân nốt chặng cuối của hành trình. Một lần nữa, lại xuất hiện
những ngôi làng Ukraina cùng những thị trấn nhỏ với cộng đồng ngƣời Do Thái và Ba
Lan. Ngƣời Đức đã có mặt ở đây. Trƣớc khi rút quân, chúng tiến hành cƣớp bóc. Nhƣng
chúng là một dân tộc có văn hóa nên không chĩa súng đe dọa hay đốt phá các cửa hàng.
Chúng cƣớp bóc một cách “có văn hóa”. Chúng bƣớc vào một cửa hiệu, chọn những thứ
hàng hóa tốt nhất, ra lệnh gói nó lại (“raskep, raskep”) và mang những thứ vừa “tậu
đƣợc” bỏ đi : “Bọn Nga đi sau sẽ trả tiền cho tất cả.”
Tôi bƣớc vào một cửa hiệu để mua vài thứ đồ lặt vặt. Vải dệt đƣợc trải ra trên mặt
quầy, họ đang trao đổi với mấy ngƣời lính bộ binh đã vào trƣớc đó. Tôi vuốt lên tấm vải
và chợt nhận ra có cái gì đó nằm dƣới mặt quầy. Một khẩu súng bị bỏ quên dƣới lớp vải,
có lẽ là của mấy “ông chú” Ukraina kia. Tôi buộc phải đem khẩu súng về.
Binh lính Hồng quân. Luga, 1938
Cuối cùng chúng tôi cũng đến đƣợc đƣờng ranh giới theo thỏa ƣớc, vạch ra bởi
sông Bug. Có thể thấy ánh loé lên của những chiếc xẻng bên kia bờ sông. Đấy là lính
Đức đang củng cố vị trí phòng thủ của mình và đào các chiến hào. Tại chỗ này con sông
không rộng lắm, có mấy cây cầu nằm vắt qua bờ bên kia. Có thể thấy vài bóng ngƣời
đang qua cầu : một số đến phía chúng tôi, một số khác từ phía chúng tôi qua bờ bên kia.
Lạ là trong những ngày đầu tiên không có ai ngăn trở điều đó. Một trong số những sĩ
quan chúng tôi kể anh ta đã chứng kiến có ngƣời tiến tới các lính gác Đức và nói rằng cần
qua bờ bên kia, phía chúng tôi. Tên lính gác chỉ đơn giản là đá vào mông anh ta và ngƣời
đàn ông chạy qua cây cầu về phía chúng tôi. Đấy là vào ban ngày, ban đêm việc qua lại
còn nhộn nhịp hơn nữa. Những tiếng la hét và tiếng súng bắt đầu vang lên.
Họ kể rằng một ngƣời lính của chúng tôi, một “ông cậu” Ukraina, trong khi đứng
gác gần cây cầu đã lầm bầm những lời nhƣ sau: “Hãy để những ngƣời tốt đi về phía
chúng tao, còn thì đƣa bọn xấu qua đi cho khuất mắt.”
Ba, bốn ngày sau khi chúng tôi tới, những lính biên phòng đội mũ lƣỡi trai màu
xanh cuối cùng cũng tới, mang theo chó. Họ đóng cửa biên giới và canh phòng một cách
nghiêm ngặt. Chúng tôi rút lui về phía sau khoảng vài cây số, nhƣng vẫn thƣờng bị dựng
dậy bởi báo động đêm. Một đêm nọ có hai ngƣời đàn ông chạy qua phía Đức. Có một
đầm nƣớc nhỏ ở gần chỗ chúng tôi đóng quân, nơi dân chài địa phƣơng thƣờng ra đánh
cá. Lúc này dây kẽm gai vẫn còn chăng phía trƣớc đầm. Hai ngƣời kia tiến gần cái đầm
vào ban đêm, họ cho rằng sông Bug đang ở trƣớc mặt mình nên đã cắt rào kẽm gai và bơi
qua sông. Họ bị mất phƣơng hƣớng và chìm dần. Một ngƣời đánh cá nghe tiếng họ kêu
cứu đã chèo thuyền tới kéo họ lên. Một trong hai ngƣời hỏi bằng tiếng Ba Lan: “đây có
phải là bên phía Đức không ?” Ngƣời đánh cá trả lời: “Phải.” Anh ta kéo mạnh họ lên và
đƣa họ, gần chết đuối, về nhà anh ta. Vì vụ đó mà lại một lần nữa chúng tôi bị lệnh báo
động dựng dậy vào ban đêm, với suy nghĩ cho rằng có hai tên do thám. Khi trời sáng, tôi
trông thấy hai con ngƣời ƣớt sũng ấy bị dồn lên một chiếc xe để đƣa về nơi quản lý họ.
Hoá ra đó là những sĩ quan Ba Lan vừa trốn khỏi trại tù binh.
Vùng biên giới không lúc nào yên tĩnh. Trong đêm, có ai đó phía bờ chúng tôi
dùng đèn chiếu vẽ những đƣờng khó hiểu lên những đám mây xám thấp. Bờ bên kia đáp
lại họ cũng bằng cách thức tƣơng tự. Vậy mà chúng tôi không bắt đƣợc ai. Các sĩ quan
Đức qua bên chúng tôi, mục đích để tìm kiếm và chôn cất những ngƣời của mình, nhƣng
thật ra là dọ thám vị trí đóng quân và lực lƣợng chúng tôi. Nhƣng chúng tôi cũng tìm ra
cách để việc ấy không thực hiện đƣợc.
Sau đó sƣ đoàn chúng tôi đƣợc rút về sâu trong hậu phƣơng. Trung đoàn tôi đóng
quân tại một thị trấn nhỏ bé bẩn thỉu ở Starƣi Sambor. Ở đây gần nhƣ toàn là ngƣời Do
Thái, họ làm nghề thủ công và buôn bán, cung cấp cho các làng Ukraina. Nhƣng không
có đủ phòng cho khẩu đội tôi cùng với pháo, xe chở đạn dƣợc và ngựa, thậm chí ở ngay
chính Starƣi Sambor. Chúng tôi đóng tại làng Blazhow, cách Starƣi Sambor 7 tới 8 km.
Để định chỗ đóng quân, chỉ huy trƣởng ra lệnh cho tôi vào làng và vẽ lại sơ đồ vị trí của
nó. Một thƣợng sĩ đi cùng tôi với mục đích tìm nguồn tiếp tế. Hai chúng tôi cùng đi ngựa.
Cái làng hóa ra trải rất dài. Nó có một nhà thờ thuộc giáo hội Uniate và một lãnh
địa nhỏ. Ngƣời chủ của nó, một ngƣời Ba Lan, đã chạy sang phía Đức. Tôi vẽ sơ đồ của
nó và, khi trở về khẩu đội, vẽ lại sạch sẽ bằng chì màu, ghi chú tất cả, thậm chí họa lại
một vài ngôi nhà chính. Các chỉ huy cấp trên rất hài lòng, tuy họ không biểu lộ trên nét
mặt. Họ không muốn làm hƣ cấp dƣới: điều đó có thể làm cho cấp dƣới trở nên kiêu ngạo.
Nhƣng tay thƣợng sĩ (mà tôi đã kể ở trên), khi ngồi bên đống lửa vào ban đêm, quanh đại
đội của mình, ngạc nhiên kể với mọi ngƣời rằng trung uý chỉ cần đi ngang qua làng, ghi
chú đôi điều lên một mảnh giấy là về vẽ lại đƣợc cả cái bản đồ tuyệt nhƣ thế: “Các cậu ạ,
tay này khi ở nhà hẳn không phải hạng tầm thƣờng nhƣ chúng ta.”
Kế đó chúng tôi chuyển tới Blazhow. Chúng tôi chọn cái lãnh địa nằm giữa khu
vực đóng quân và bố trí pháo bên trong sân của nó. Các sĩ quan đóng tại căn nhà của tay
chúa đất, còn binh lính – trong những làng nông dân xung quanh. Chúng tôi nhốt ngựa
trong trang trại của lãnh địa. Dinh thự của chúa đất đã bị cƣớp phá sạch bởùi bọn Đức và
sau đó là bởi nông dân, giờ chỉ còn lại những bức tƣờng trần trụi. Chỉ có sĩ quan lâu năm
mới đƣợc nhận một bàn làm việc vớiø những ngăn kéo rỗng. Cái bàn không thể mang đi
đƣợc bởi nó không lọt qua cửa hẹp của căn phòng. Lúc đầu chúng tôi phải trải rơm thay
cho các đồ gỗ, chúng đƣợc dùng để thay cho cả ghế lẫn giƣờng. Chúng tôi đặt những máy
điện thoại dã chiến trên cái bàn duy nhất, nối chúng với sở chỉ huy tại Starƣi Sambor.
Tình hình lúc đó không yên tĩnh. Bọn phỉ thƣờng bắn lén chúng tôi trong đêm
khuya. Có kẻ nào đó cắt đứt đƣờng dây điện thoại, thế là cả khẩu đội bị dựng dậy bởi
lệnh báo động đêm. Chúng tôi thiết lập những biện pháp phòng vệ khắp lãnh địa khi trời
bắt đầu tối, ngăn ngừa những đợt đột kích có thể xảy ra. Khi bình minh lên, sự sợ hãi của
chúng tôi liền tan biến.
Tuy vậy, chúng tôi nhận đƣợc cảnh báo từ sở chỉ huy trung đoàn yêu cầu phải
luôn cảnh giác, đã có những trƣờng hợp binh lính Xô viết bị giết chết trong ngõ tối, bị
đâm trong tiệm cắt tóc và những vụ khác tƣơng tự. Đóng quân trong một ngôi làng
Ukraina, chúng tôi có điều kiện hiểu đƣợc những ngƣời dân Tây Ukraina sống nghèo khổ
thế nào dƣới chế độ của các pan Ba Lan. Chỉ ngƣời Ba Lan mới có quyền quyếtù định tại
đất nƣớc này. Chỉ có họ mới đƣợc làm việc trong bộ máy chính quyền. Một ngƣời
Ukraina thậm chí không thể làm thợ trải nhựa đƣờng, bởi đó là công việc của nhà nƣớc.
Một ngƣời Ukraina có thể trở thành ngƣời Ba Lan, nhƣng anh ta phải cải theo Gia tô giáo.
Mục đích chuyện này là chuyển dần ngƣời Ukraina sang Gia tô giáo. Đức tin Chính
thống giáo bị thay thế bởi Giáo hội Uniate, một trung gian giữa Chính thống giáo và Gia
tô giáo. Ngƣời Ukraina bị đè nặng bởi các thứ thuế. Thậm chí có cả loại thuế đánh lên
mỗi ống khói, đến nỗi sau khi vƣợt qua biên giới, chúng tôi rất ngạc nhiên thấy các nóc
nhà ở đây đều thiếu ống khói. Khói từ bếp lò thoát thẳng lên cái gác dƣới mái nhà. Nạn
cháy nhà thƣờng xuyên xảy ra.
Đôi lúc ngƣời dân hỏi chúng tôi là chính quyền mới có cho phép xây ống khói
không. Chúng tôi trả lời không chỉ cho phép mà còn cần thiết phải xây. Vào dịp cuối thu
các nông dân thƣờng đi chân trần tới nhà thờ. Họ chùi sạch chân bẩn lên đám cỏ phía
trƣớc, xỏ giầy và bƣớc vào nhà thờ. Khi về, họ tháo giầy ra và đeo chúng quanh cổ. Một
đôi giầy đƣợc ngƣời nông dân dùng trọn đời, tới khi chết anh ta để lại nó cho con trai
mình. Có một trạm bƣu điện bỏ không trong làng. Nhƣng vẫn còn một điện thoại viên ở
lại – một cô gái Ba Lan rất đẹp và kênh kiệu. Luôn có một đám những anh chàng cầu hôn
chạy theo cô ta. Không chỉ những binh lính và hạ sĩ quan của chúng tôi mà có cả vài tay
sĩ quan độc thân cũng ở trong số đó. Giữa những kẻ cầu hôn luôn có xích mích. Ngƣời ta
nói rằng một số chỉ huy cao cấp cũng từng cầu hôn cô ta. Rồi tất cả những điều đó đột
ngột kết thúc theo cái cách ít đƣợc trông đợi nhất.
Một đêm, trong khi đang thi hành nhiệm vụ tại chốt điện thoại dã chiến, một điện
tín viên của chúng tôi nhận thấy rằng một trong các ngăn kéo bảo mật nông hơn những
cái còn lại. Tại sao vậy nhỉ? Hóa ra có một ngăn kéo bí mật khác ở mặt sau bàn, quay về
phía tƣờng. Trong có những tờ tiền Ba Lan đã hết giá trị và một cuốn album ảnh. Những
tấm ảnh cho thấy cô điện thoại viên xinh đẹp đang vui vẻ với tay chủ lãnh địa thế nào.
Trong vài tấm ảnh có cảnh cô ta trần truồng nhảy múa quanh một cái bàn đầy chai lọ, còn
trong các tấm khác là cảnh cô ta đang quấn chặt lấy những gã để ria mép hay những cảnh
tƣơng tự thế. Cuốn album đƣợc các binh lính chúng tôi chuyền tay nhau. Vài tay lính
đang yêu trách cứ cô gái, và cô ta mau chóng biến mất khỏi ngôi làng. Khẩu đội trƣởng
tƣớc cuốn album của đám lính và sau đấy đánh mất nó. Tôi không đƣợc xem cuốn album
đó.
Một tối giao lƣu với dân địa phƣơng đƣợc tổ chức. Toàn thể dân làng Blazhow tụ
tập lại trong một ngôi nhà rộng. Chính uỷ của chúng tôi đọc một bài diễn văn nói về sự
chấm dứt thời của các pan Ba Lan và về trách nhiệm giải phóng của Hồng quân. Vị linh
mục địa phƣơng đáp lời, nhân danh toàn thể dân làng, cám ơn chúng tôi vì đã giải phóng
họ và nhấn mạnh rằng “chúng ta cùng một chủng tộc, chúng ta cùng một đức tin.” Ban
nhạc địa phƣơng gồm một ngƣời kéo violon, một ngƣời thổi sáo bị và một tay trống bắt
đầu chơi, vũ hội bắt đầu. Mọi ngƣời hỏi chúng tôi về cuộc sống ở Liên Bang Xô viết, về
những tin đồn thất thiệt họ đƣợc nghe từ Ba Lan. Ông thƣợng sĩ cũng nhân dịp này tìm
cách chơi nổi. Vào thời điểm ấy, đám sĩ quan chúng tôi ăn mặc rất giản dị, khoác áo
choàng tunic hệt nhƣ binh lính, chỉ khác là có các khối vuông gắn ở phù hiệu trên cổ áo
và các vạch vải đỏ thêu ở ống tay áo. Thƣợng sĩ của chúng tôi mặc bộ quân phục thắt cái
dây lƣng màu vàng luôn kêu cót két. Trên phù hiệu ở cổ áo, cạnh những hình vuông, ông
ta gắn những vạch màu vàng đã bị quân đội bỏ từ lâu. Trong mắt dân làng ông ta hẳn là
chỉ huy cao cấp nhất nên họ hỏi ông ta rất nhiều. Các cô gái hỏi ông rằng có phải ở nƣớc
Nga bây giờ không còn tổ chức các đám cƣới, rằng chúng đã bị huỷ bỏ và mọi ngƣời
đƣợc quyền sống với bất cứ ai mà họ thích. Ông thƣợng sĩ trả lời một cách tự đắc:
“Ngƣời ta hay nói này nọ, nhƣng rận chỉ thích cắn những ai luôn nhắc đến chuyện đi
tắm.” Tất nhiên, câu nói đó làm mọi ngƣời xung quanh cƣời rộ và làm cả một số khác
thẹn thùng.
Có lần tại Starƣi Sambor, tôi tới một lò rèn nhỏ đặt làm cây thông nòng cho khẩu
súng ngắn của mình và tình cờ gặp các em gái của ông chủ, ngƣời Do Thái. Họ đã tốt
nghiệp một trƣờng học Ba Lan tại Nôvƣi Sambor và rất thích Liên Bang Xô viết. Họ mơ
đƣợc tới đó để học đại học, “ở nơi mà – họ nói – việc học là miễn phí.” Khi tôi còn ở
Starƣi Sambor, tôi thƣờng tới thăm hai chị em và dạy họ tiếng Nga, thứ tiếng mà theo họ
là đơn giản và dễ hiểu. Nhƣng có một lần, để chứng tỏ điều đó không đúng sự thật, tôi
đọc phần đầu vở “Evgênhi Ônêgin” cho họ nghe, và tất nhiên là họ chẳng hiểu gì cả.
Những cô gái đáng thƣơng ấy sau này chắc bị giết hại cả. Năm 1941, khi Tây Ukraina bị
bọn Đức chiếm đóng, chúng giết tất cả những ngƣời Do Thái tại đó.
Đôi khi tôi phải tới Nôvƣi Sambor vì mục đích công việc. Đó là một thị trấn Ba
Lan thanh nhã, có một nhà hàng và các cửa hiệu đẹp. Có lần tôi bƣớc vào một cửa hiệu
quần áo đàn ông và yêu cầu họ cho xem vài kiểu cà vạt. Ngƣời chủ hiệu, nháy mắt với
ngƣời phụ nữ Ba Lan đứng sau tôi nhƣ thể muốn nói “cái tay man rợ mặc áo choàng xám
này thì hiểu gì về cà vạt nhỉ”, đƣa cho tôi cái hộp bên trong có món gì đó thật thô kệch và
rẻ tiền. Tôi gạt cái hộp sang bên và yêu cầu cô ta đƣa cho tôi thứ gì khác khá hơn. Gƣơng
mặt ngƣời chủ hiệu lộ vẻ ngạc nhiên khi tên man rợ đó chọn ra một tá cà vạt đẹp và tao
nhã nhất. Sau này, cửa hiệu của ôâng ta đã tiếp tục phục vụ tôi trong một thời gian dài.
Mikhail Lukinov, 1939
Các đƣờng phố ở đây đầy những ngƣời sẵn sàng bán nào đồng hồ, dao cạo, sôcôla,
bít tất và các loại hàng hóa khác cho binh lính Xô viết. Một trong những tay năng nổ đó
cứ bám chặt lấy tôi, đòi bán những bộ com lê thứ thiệt. Tôi tìm mọi cách xua đi, nhƣng
hắn vẫn không để tôi yên. Lúc ấy kiểu com lê màu xanh Boston đang thịnh hành ở
Moscow. Cuối cùng tôi hỏi xem hắn có bộ Boston xanh nào không. “Có ạ, có chứ, thƣa
pan đồng chí.” Và đề nghị tôi đi theo hắn. Hắn dẫn tôi qua mấy cái sân thông với nhau,
hết cái này đến cái khác làm tôi mất hết phƣơng hƣớng, không xác định đƣợc đâu là phố
chính nữa. Hắn dừng lại ở một tầng hầm, từ đấy dẫn tôi sang một cái khác rồi bảo tôi
đứng chờ. Tôi nhìn quanh và thấy có vài khối nhà bê tông không có cửa sổ. Bóng đèn
trên trần đang sáng lờ mờ. Đột nhiên, đằng sau cánh cửa mà ngƣời đàn ông kia vừa biến
mất, tôi nghe tiếng kim loại chạm nhẹ, tựa nhƣ tiếng ai đó đang lên đạn, mở và đóng chốt
cửa. Tôi mở nút bao da đựng súng và chạy ra sân. Tới đó tôi dừng lại nghe ngóng xem
chuyện gì xảy ra tiếp theo. Nhƣng mọi thứ vẫn yên lặng, còn tay bán bộ vest Boston thì
biệt tăm. Tôi mau chóng thoát khỏi cái mê cung đó để ra phố chính an toàn hơn. Đến giờ,
tôi vẫn không biết đƣợc lúc ấy tôi đã tránh khỏi một mối nguy hiểm chết ngƣời hay đơn
giản là đánh mất cơ hội có đƣợc một bộ vest màu xanh Boston.
Đất nƣớc của các pan Ba Lan đã tan rã. Đồng tiền Ba Lan đang sống nốt những
ngày cuối cùng của nó. Ngƣời dân địa phƣơng cố gắng bán mọi thứ để đổi lấy đồng rúp
Xô viết và đổi đi đồng tiền Ba Lan. Các cô gái Ba Lan xinh đẹp dạo trên các con phố của
Nôvƣi Sambor, miệng nở những nụ cƣời quyến rũ, đề nghị các sĩ quan Xô viết đổi giấy
bạc Ba Lan có mệnh giá lớn ra tiền Xô viết. Đấy thật là một mánh khoé ngờ nghệch, ngay
cả khi ngƣời đổi tiền là những ngƣời đẹp rất quyến rũ. Có cô chỉ đơn giản khoác tay tôi
và hỏi xem tôi có thể đổi một trăm zloty hay không. Tôi đáp rằng tôi không đủ giàu để
tặng cô món tiền cả trăm rúp.
Giấy bạc Ba Lan đƣợc trang trí bởi chân dung của vô số đức vua và hoàng hậu Ba
Lan. Có lần tôi nghe một ngƣời lính, khi đang mua thuốc lá của ngƣời bán rong bên
đƣờng, la lên: “Tao đƣa mày tờ tiền Xô viết tốt đẹp mà mày tráo (hay từ gì đó đại loại thế)
lại một hoàng hậu Ba Lan nhƣ thế à?!”
Tôi có mối quan hệ phức tạp với tham mƣu trƣởng trung đoàn, đại úy Severin.
Anh ta là ngƣời kiêu căng, luôn yêu cầu mọi ngƣời phải tuân theo các quân lệ chính xác
tới từng chữ một; anh ta không ƣa chúng tôi, những sĩ quan dự bị. Có lần tôi nhận một cú
điện thoại từ Starƣi Sambor yêu cầu phải lên gặp Severin. Tôi báo cáo lại cho khẩu đội
trƣởng, đem một ngƣời lính đi theo, thắng ngựa và phóng đi dƣới mƣa trên con đƣờng lầy
lội. Khi tới nơi, chúng tôi ngoài áo thì ƣớt sũng còn bên trong lại đầm đìa mồ hôi. Sở chỉ
huy đóng tại nơi trƣớc kia là một trƣờng học. Bên trong gian phòng lớn nóng bức, mấy
cái đèn dầu hỏa đang bốc khói; Severin đang đi lại trong phòng, đọc điều gì đó cho ngƣời
thƣ ký ghi chép. Nƣớc mƣa từ mũ ròng ròng chảy xuống, do đó tôi bỏ mũ ra và cầm nó
nằm ngang trên tay trái gập lại. Cuối cùng đại uý cũng quay sang tôi, nghe tôi báo cáo có
mặt. Đột nhiên Severin công kích: “Anh đang ở đâu vậy? Trong quán rƣợu hay tại chiến
trƣờng? Tại sao anh lại xử sự nhƣ thế?“ và mấy câu khác tƣơng tự. Tôi đứng đấy mà
không hiểu chuyện gì xảy ra. Ngƣời thƣ ký đứng sau lƣng Severin, nhìn thẳng vào mặt tôi
mà cƣời khúc khích. Đại uý tiếp tục hét lên. Mọi thứ trong ngƣời tôi sôi sục cả lên. Cuối
cùng, Severin nói rõ lý do mình nổi nóng: “Tại sao anh bƣớc vào mà lại bỏ mũ ra? Sao
anh có thể báo cáo đƣợc trong tƣ thế đó? Anh không thấy là các cấp trên của anh đều
đang đội mũ sao ? Tại sao anh báo cáo mà không đội mũ?!” Tôi không thể giữ đƣợc nữa
và buột miệng: “Đấy là thói quen của một ngƣời có văn hóa, phải bỏ mũ ra khi bƣớc vào
phòng.” “Thế…ế à ?!” – đại uý gầm lên, “Vâng, thế đấy,” – tôi đáp lại. “Đằng sau quay !
Đi đều, bƣớc !” – anh ta ra lệnh. Tôi quay lại theo đúng điều lệ quân đội, giẫm loảng
xoảng đôi cựa thúc ngựa và bƣớc ra ngoài hành lang. Tôi đứng đó, chờ một lúc lâu –
không có gì xảy ra. Rồi chúng tôi thắt chặt đai yên ngựa và phóng trở về. Cuối cùng vẫn
không biết đƣợc là tại sao Severin cho gọi tôi. Có thể là anh ta thích cái bản đồ màu mè
tôi đã vẽ và muốn giao cho tôi tất cả công việc đồ họa của sở chỉ huy trung đoàn. Hoặc có
thể là anh ta muốn chuyển hẳn tôi lên làm tại sở chỉ huy chăng. Tất nhiên làm việc ở đó
thì nhẹ nhàng và an toàn hơn ở khẩu đội nhƣng ở dƣới một ông chủ nhƣ Severin cũng
chẳng ngọt ngào gì. Câu chuyện vẫn chƣa kết thúc ở đó. Severin không bao giờ quên lần
gặp mặt ấy và từ sau anh ta luôn tìm cách nhắc lại với tôi khi có dịp.
Trong khi đó, tình hình Châu Âu ngày càng căng thẳng. Hiển nhiên chúng tôi
đang ở trong trình trạng sẵn sàng chiến tranh. Các đợt huấn luyện khắc nghiệt bắt đầu, có
cả bắn đạn thật. Tôi đƣợc lệnh phải giảng cho anh em trong toàn khẩu đội về chủ nghĩa
yêu nƣớc, về trách nhiệm bảo vệ Đất Mẹ của chúng tôi. Tôi không có trong tay tài liệu cụ
thể nào nên phải lục óc ra để kể cho họ nghe về lịch sử nƣớc Nga, bắt đầu từ thời giặc
Tatar xâm lƣợc. Họ bảo rằng tôi dạy tốt, dù trình độ các giám khảo không cao lắm. Họ
bắt đầu thay vũ khí của chúng tôi bằng những thứ hiện đại hơn. Nhƣng khi đƣợc nhận
quần áo ấm, chuẩn bị gắn thanh trƣợt cho pháo, xe cộ và các rơ moóc thì chúng tôi nhận
ra mình đang đƣợc chuẩn bị để chiến đấu ở Phần Lan, nơi chiến tranh đã nổ ra. Nhƣng
đấy chỉ là giả thiết bởi thậm chí họ chẳng thông báo điều gì cho đám sĩ quan chúng tôi.
Mọi chuyện trở nên khó khăn khi bắt đầu bƣớc qua năm mới, năm 1940. Chúng
tôi, các sĩ quan cấp dƣới, quyết định tổ chức Lễ Giao thừa. Chúng tôi mua một chai rƣợu
nhỏ, loại khai vị. Chính uỷ biết đƣợc chuyện đó và tập hợp tất cả chúng tôi lại họp chính
trị buổi cuối trƣớc Giao thừa. Trƣớc tiên anh ta trình bày với chúng tôi về tình hình chính
trị hiện tại, và rồi tuyên bố rằng Lễ Giao thừa là thói quen của bọn tƣ sản, không phù hợp
với ngƣời Xô viết, lại càng không hợp với sĩ quan Hồng quân. Anh ta mời chúng tôi uống
sữa với bánh mì đen và chỉ thả chúng tôi ra khi trời đã sáng, lúc giao thừa đã qua từ lâu.
Mùa đông tới, tuyết bắt đầu rơi và chúng tôi đã sẵn sàng để ra trận. Tôi đƣợc phân
công vào trung đội thông tin, vô tuy ến điện và điện thoại. Trung đội có nhiều trang thiết
bị còn binh lính thì rất ƣơng bƣớng ngang ngạnh. Chúng tôi đóng lại móng ngựa, tra dầu
mỡ vào súng và chất các trang thiết bị lên xe ngựa.
Một lần, trong buổi điểm danh cuối ngày của trung đội, tôi tiến lại một ngƣời lính
đứng trong hàng và chỉ cho xem đôi ủng của anh ta bẩn nhƣ thế nào. Anh ta cúi nhanh
ngƣời xuống, cái lƣỡi lê cắm trên khẩu súng anh ta đeo trên vai xé toạc trán và gò má tôi.
Giá đứng gần ngƣời lính ấy thêm độ một hai xăngtimét nữa thì hẳn tôi đã bị khoét mất
một con mắt rồi!
Tình trạng khó khăn và u ám không chỉ ở mình khẩu đội tôi. Xung quanh chúng
tôi tất cả đều nhƣ thế. Trong làng đang bƣớc vào mùa gặt. Cuộc “thanh trừng” bắt đầu
xuất hiện trong thành phố. Bất cứ ai có lý lịch thuộc thành phần tƣ sản, chủ cửa hàng,
thƣơng nhân đều bị bắt và đƣa đi đày. Vậy mà phần lớn cộng đồng Do Thái lại sống bằng
nghề buôn bán.
Đến giữa tháng Giêng năm 1940 chúng tôi nhận lệnh hành quân tới ga xe lửa gần
nhất để lên tàu. Chúng tôi lập thành đội hình hành quân. Những con đƣờng vào thời điểm
ấy phủ đầy tuyết giá. Chúng tôi khởi hành vào sáng sớm và dự định sẽ tới nhà ga vào ban
đêm để bắt đầu lên tàu. Ngày mùa đông rất ngắn và trời tối rất sớm. Chúng tôi đi ngang
vài thị trấn nhỏ, bên trong hình nhƣ đang tổ chức một lễ hội địa phƣơng. Tiếng nhạc vang
lên từ nhiều ngôi nhà cửa sổ sáng đèn. Một ngƣời lính của chúng tôi, đang lạnh và đói, từ
trên lƣng ngựa nhòm vào một cửa sổ đang mở và la lên : “Yến tiệc đi, lũ cặn bã, rồi chờ
cho tới lúc chúng đến trừng phạt chúng mày.” Có lẽ đây là những lời tiên tri chính xác
đến khủng khiếp.
Vận rủi bất chợt vồ lấy tôi. Hai ngƣời lính thông tin của tôi bỗng biến mất. Tôi
báo cáo điều đó cho khẩu đội trƣởng. Anh ta nổi giận và ra lệnh tôi phải quay lại tìm
đằng sau trung đội chứ không đi phía trƣớc nữa. Nhƣng không thấy ai đi tụt hậu cả. Anh
ta lại ra lệnh cho tôi phi ngƣợc về phía sau để tự tìm họ cho bằng đƣợc. Tôi quành con
ngựa đã mệt mỏi của mình lại, nhƣng không cách nào kiếm đƣợc những gã tụt hậu ấy.
Tôi tới hỏi một vài đơn vị thuộc ban chỉ huy nhƣng họ không biết thêm đƣợc điều gì. Tôi
cũng ghé vào mấy cái làng. Con ngựa của tôi đang khát nƣớc. Tôi lấy nƣớc ở một cái ao
cho nó, đựng bằng cái áo mƣa tẩm nhựa mà tôi để trong túi trên yên ngựa. Sƣơng mù dày
đặc và trời đã bắt đầu tối. Tôi đành quay ngựa lại. Con ngựa bị trƣợt ở một khúc quanh và
tôi, phần vì mệt và phần vì ngồi không vững, văng từ trên yên cắm xuống tuyết. Con
ngựa vẫn chạy tiếp. Tôi đứng dậy từ đống tuyết, khắp mình trắng xoá, bụng nghĩ rằng
chuyến này mình chắc tiêu rồi. Tôi sắp lạc mất con ngựa rồi. Ồ không, con Doll yêu quí
chỉ phóng đi chừng 10 mét, đang đứng lại nhìn tôi. Tôi chạy đến bên nó, vuốt ve và áp
má mình vào cổ nó. Lấy một phong sôcôla khỏi túi, chúng tôi cùng chia cho nhau. Con
Doll khụt khịt và lấy môi ngoạm phần của nó từ tay tôi. Tôi lại dắt nó đi dọc con đƣờng
phủ tuyết. Tối hôm ấy trời rất tối và dày đặc sƣơng mù. Tôi chỉ có một mình mà sức lực
thì đã cạn kiệt. Bỗng tôi thấy một cái trại lẻ loi, có lẽ là trại của bọn “kulak”, trên một
ngọn đồi nằm cạnh dải rừng hoang. Không còn chọn lựa nào khác, tôi tiến lại cánh cổng
và gõ cửa. Một lúc lâu không có ai đáp lại. Cuối cùng, có ai đó hỏi bằng tiếng Ba Lan
rằng tôi cần gì. Tôi đáp mình là một sĩ quan Nga và xin họ cho nghỉ qua đêm. Các cửa sổ
bật sáng, bên trong có vài cái bóng đi qua đi lại. Chắc họ đang cân nhắc xem có nên cho
tôi vào hay không. Hay có thể họ định cho tôi vào để giết chết cũng nên…. Cuối cùng,
một ngƣời đàn ông xách cái đèn lồng ra mở cửa cho tôi. Tôi dắt con ngựa của mình vào
trong căn nhà kho ấm áp, nơi có mấy con bò đang rống lên, buộc con Doll vào ngăn
chuồng còn trống. Tôi xoay sở một cách khó nhọc để tháo cái yên khỏi lƣng nó, thay cái
dây cƣơng bằng một dây thừng buộc vào cột, trải cho một nắm rơm, rắc chút yến mạch
trong túi cho nó rồi lót rơm dƣới chân nó.
Tôi bƣớc vào căn nhà. Một ngọn đèn dầu với cái bấc cuộn xuống đang cháy lập
lòe. Những ngƣời chủ nhà đang yên lặng quan sát tôi. Tôi nói rằng mình cần nghỉ ở đây
cho tới sáng và hỏi xem có chút gì ăn không. Họ mang ra cái ca thiếc đựng sữa và một ít
khoai tây luộc. Tôi dùng bữa ăn khiêm tốn ấy, đặt ba rúp lên bàn và ra thăm lại con ngựa
của mình. Bây giờ tôi đã có thể cho nó uống nƣớc. Uống xong, Doll nằm dài xuống đám
rơm. Tôi rất muốn chợp mắt, nhƣng lấy gì bảo đảm là tôi sẽ thức dậy? Đã có nhiều
trƣờng hợp binh lính Xô viết bị giết một cách lặng lẽ. Không ai biết là tôi đang ở đây.
Thật dễ dàng để những ngƣời đó, những ngƣời có đủ lý do để nghĩ rằng tôi là một kẻ thù
hơn một ngƣời bạn, giết tôi khi đang ngủ. Con ngựa, bộ yên cƣơng, khẩu súng ngắn, ống
nhòm, giầy bốt, quần áo – tất cả những cái ấy đều rất có giá trị và rất dễ lấy. Và lấy ai để
trông chừng cho tôi? Khẩu đội của tôi thì đang lên tàu và có lẽ đã khởi hành, xem tôi nhƣ
một kẻ lạc đơn vị. Tôi cởi áo choàng và đôi giày ra, nhét hết đồ đạc vào túi áo quân phục
của mình và nằm dài trên giƣờng sau khi đã nhét khẩu súng ngắn và cái bao da xuống
dƣới bụng. Rồi lăn ra ngủ nhƣ chết trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Trời bắt đầu sáng dần.
Tôi phải đi bởi có thể bị trễ lên tàu, lúc ấy biết đi đâu với con ngựa bây giờ? Làm thế nào
để đuổi cho kịp tàu với con ngựa của mình đây?
Tôi mặc áo choàng vào, gác yên con Doll và lên đƣờng. Mặt trời đang mọc. Có
vài ngƣời đang dọn tuyết trên đƣờng. Ở đấy chính là đƣờng ray xe lửa và nhà ga! Nhƣng
trời ơi, tất cả đều trống trơn. Tim tôi nhƣ đông cứng lại. Phải chăng tôi đã tới trễ và tất cả
khẩu đội đều đã lên đƣờng? Tôi đi kiếm trƣởng ga và ngƣời chỉ huy an ninh. Hoá ra khẩu
đội của tôi vẫn chƣa tới đƣợc đây và đang dừng lại nghỉ đêm ở ngôi làng kế cận. Việc
chuyển quân lên tàu chỉ đƣợc tiến hành vào lúc chiều tối. Và rồi những ngƣời lính thông
tin của tôi xuất hiện. Hóa ra những tên vô lại ấy thay vì hành quân với mọi ngƣời thì lại
quyết định tự đi tới nhà ga bằng cách quá giang một chiếc xe tải cùng đƣờng. Tôi có thể
phạt giam họ mƣời ngày cấm cố chỉ có bánh mì và nƣớc lã. Nhƣng do đang chuyển quân
nên chúng tôi không có thời giờ để làm việc ấy. Trò ranh ma đê tiện của chúng dã không
bị trừng trị.
Chúng tôi đƣợc chất lên những “teplushkas”, các toa trần có gắn giƣờng ngủ và
cái bếp lò nhỏ bằng sắt - các chỉ huy đi chung với trung đội của mình. Khi đốt lò lên, ở
trên thì nóng mà ở dƣới lại lạnh. Họ đƣa chúng tôi về phía bắc. Lúc này thì không còn
nghi ngờ gì nữa, đúng là chúng tôi đang bị đƣa đi đánh nhau ở Phần Lan. Vào thời điểm
này trong năm thời tiết rất lạnh, tàu chúng tôi càng đi xa thì sƣơng giá càng dày đặc. Chỗ
tôi ở là giƣờng tầng hai, gần một cửa kính băng giá phủ kín. Một đêm, khi đang ngủ, một
nhúm tóc của tôi bị dính chặt vào lớp băng trên kính cửa. Tàu đi rất chậm nhƣng điều đó
không làm chúng tôi buồn chán. Chúng tôi không muốn nhanh chóng đi gặp chiến tranh.
Tôi hƣớng dẫn anh em trong các khóa học về trang thiết bị thông tin, giảng về các chủ đề
chính của tình hình chính trị hiện đại. Tại các ga chúng tôi thƣờng đƣợc hỏi mua lại số
makhorka (một loại thuốc lá Nga nặng và rẻ tiền) mà chúng tôi đƣợc phát. Tôi là ngƣời
không hút thuốc nên thƣờng phân phát hết suất makhorka của mình cho anh em binh sĩ.
Nhƣng có lần, tại một ga nọ, một công nhân đƣờng sắt lớn tuổi lại gần tôi hỏi mua
makhorka. Tôi đƣa cái gói phần mình cho ông nhƣng từ chối lấy tiền. Ông già nói với tôi
một cách chân thành và tự tin “Chúa hãy ban cho anh sống sót mà trở về.” Thật lòng, sau
này tôi thƣờng nhớ lại lời cầu phƣớc đó, bởi sau chiến tranh bạn thƣờng trở nên mê tín.
Mỗi khi thoát khỏi những tình huống hiểm nguy mà vẫn còn nguyên vẹn, tôi lại vô tình
nghĩ rằøng đã mua lấy cuộc sống của mình bằng một gói makhorka.
Bologoye nằm giữa chặng đƣờng từ Maskva tới Leningrad. Chúng tôi tới đây từ
sáng sớm, mọi ngƣời vẫn còn đang ngủ trên các toa. Mọi nhánh đƣờng đều kẹt cứng các
đoàn tàu chất đầy trang thiết bị quân sự. Chúng tôi tới một trạm dừng gần một đoàn tàu
chở các máy bay đã tháo rời. Tôi là sĩ quan chịu trách nhiệm tới gặp ngƣời chỉ huy quân
sự ở đây để báo cáo về sự có mặt của chúng tôi. Nhìn những khẩu pháo trên phù hiệu của
tôi, ngƣời chỉ huy cho rằng tôi thuộc trung đoàn pháo binh vừa tới nên mỉm cƣời thân
mật: “Vừa đến hả? Nào, bây giờ anh phải ở lại với chúng tôi một lúc đã. Chúng tôi sẽ xếp
cho các anh sang tuyến tránh ngay bây giờ. Hãy đƣa cho tôi xem giấy tờ nào.” Tôi đƣa
cho anh ta. Đọc xong số hiệu đoàn tàu, trong đó cái từ “bộ binh” khắc nghiệt đƣợc viết
dƣới dạng mật mã, tay chỉ huy liền cau mày. Nụ cƣời biến mất trên gƣơng mặt và anh ta
đổi sang một giọng khác, lạnh lùng : “Về bảo với mọi ngƣời không đƣợc ra khỏi các toa
xe. Chúng tôi sẽ gửi các anh đi ngay lập tức.” Và tàu chúng tôi chuyển bánh đi Leningrad
ngay lập tức. Chúng tôi cho rằng trong các khu rừng và đầm lầy Phần Lan thì bộ binh
chắc hẳn phải là lực lƣợng đƣợc sử dụng chủ yếu và sẽ chịu những tổn thất to lớn. Do đó
chúng tôi không ngạc nhiên khi bị chuyển thẳng tới tuyến đƣờng sắt chính dẫn ra mặt
trận. Nơi đấy cần có bộ binh ở tuyến đầu. Bộ binh – đấy là chúng tôi. …
Hồi ức của Mikhail Lukinov
Phần 2: Chiến dịch Băng giá
Và chúng tôi đã tới Leningrad – thành phố vĩ đại của Piotr Đại đế và Lenin, thành
phố của cuộc cách mạng làm kinh động thế giới, thành phố của những dinh thự, bảo tàng
và các công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Vậy nhƣng lúc này ta không cách nào nhận ra đƣợc
tất cả những thứ ấy. Đây là một Leningrad khác, lạnh lẽo, thô lỗ, thành phố tiền tuyến,
ảm đạm, u ám, dày đặc sƣơng mù và phủ đầy tuyết. Đoàn tàu chở chúng tôi dừng tại một
ga chở hàng. Súng ống, đạn dƣợc, xe ngựa, xe goòng và tất cả những phƣơng tiện giao
thông sử dụng ngựa kéo đƣợc chuyển tới đây xuyên qua thành phố dƣới màn sƣơng dày.
Các chuyến xe điện, kính bám đầy tuyết, đổ về đây đón ngƣời và đƣa họ đi qua những
con phố tối tăm lạnh lẽo để tới phía bắc thành phố. Chúng tôi đi qua thành phố và tập
trung tại một ngôi làng ngoại ô, nơi chúng tôi đƣợc vào trú chân trong những ngôi nhà
nông dân lèn chật ních ngƣời. Nhƣng giờ đây, chúng tôi hài lòng với bất cứ chỗ trú thân
nào trong cái giá lạnh khắc nghiệt ấy. Các sĩ quan đƣợc gọi lên để nhận chỉ thị. Chúng tôi
đƣợc lệnh sáng mai bắt đầu hành quân, xuyên qua biên giới Phần Lan để tiến vào khu vực
đang xảy ra chiến sự. Phải chuẩn bị sẵn sàng cho bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra
trong chiến tranh.
Trung đoàn bộ binh 306 tham gia chiến dịch Phần Lan trong thành phần của Sƣ
đoàn bộ binh 62. Sƣ đoàn này đƣợc thành lập tại Belaya Tserkov và Fastov thuộc Quân
khu Kiev. Sƣ đoàn đƣợc biên chế trong Tập đoàn quân 13 tại bán đảo Karelia theo Mật
lệnh quân sự 18.01.1940. Sƣ đoàn nhận lệnh tập trung quanh làng Lipola vào ngày 30
tháng Giêng năm 1940. Sƣ đoàn đã hành quân tới mặt trận ngày 3 tháng Hai năm 1940 và
tới 17 tháng Hai đƣợc chuyển tới biên chế cho Binh đoàn Bộ binh 23 từ lực lƣợng dự bị
của Tập đoàn quân 13. Hành quân từ Lipola tới Kangaspelto từ 17 tới 20 tháng Hai 1940.
Tham gia tấn công Volossula ngày 19 tháng Hai 1940, Kelya ngày 20 tháng Hai, sau đó
đóng quân tại khu vực Mutaranta trong thời gian từ 21 tới 23 tháng Hai 1940. Lên xe lửa
ngày 21 tháng Ba năm 1940 và di chuyển tới Quân khu Kiev từ Leningrad. Các thông tin
trên lấy từ tập 1 bộ “Hãy đón chào chúng tôi, hỡi Phần Lan xinh đẹp”. St.Petersburg 1999,
ISBN 5-8172-0022-8, chủ bút - Yevgeniy Balashov, NXB OOO Galea Print. (Theo Bair
Irincheev).
Vào lúc tảng sáng, chúng tôi lập thành một đội hình hành quân và tiến về biên
giới Phần Lan, cái biên giới hóa ra rất gần với ngoại ô Leningrad. Chúng tôi rất ngạc
nhiên: một thành phố to lớn, là một trong những trung tâm quan trọng nhất nƣớc ta, lại
nằm gần nhƣ thế cạnh biên giới một nƣớc thù địch. Vƣợt qua các cột mốc biên giới và
khu “vành đai trắng”. Về phía biên giới của ta, các chốt canh không che bằng ván gỗ mà
chăng lƣới kẽm gai xen lẫn những bó cành thông và linh sam bện lại. Đó là cách nguỵ
trang của lính biên phòng để chống bọn bắn tỉa của Phần Lan. Và thế là, sau khi đã vƣợt
qua biên giới Ba Lan, chúng tôi đã vƣợt tiếp một dải biên giới nữa của tổ quốc. Bởi điều
đó là cần thiết.
Đất nƣớc Phần Lan. Nhà cửa bị đốt cháy khi rút lui, cầu cống nổ tung, đó đây lỗ
chỗ hố đạn và hố mìn đen ngòm. Đôi chỗ có những biển báo, yêu cầu tất cả hoạt động
vận chuyển chỉ đƣợc thực hiện trên đƣờng lộ do hai bên đƣờng đều bị cài mìn, nguỵ trang
dƣới lớp tuyết. Dây điện thoại dã chiến, bị bọn Phần Lan bỏ lại, lộ ra rất rõ dƣới tuyết,
mảnh, nhẹ, bọc trong vỏ nhựa màu. Dây thông tin của chúng ta thì nặng, làm bằng thép
và bọc lớp cách điện màu đen rất dày. Ống quấn dây cũng bằng sắt, rất nặng và rất khó
cuộn lại hay rải ra.
Chiến tuyến tại bán đảo Karelia ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1940.
Lấy từ “The battles of Winter war”
Sƣơng giá thật khủng khiếp. Không tài nào cƣỡi ngựa đƣợc. Chúng tôi phải đi bộ,
ngựa dắt theo sau. Sƣơng giá bám đầy trên những bộ lông ngựa. Các kỹ sƣ công binh
phải đốt lên những đống lửa dọc hai bên đƣờng hành quân. Bạn có thể dừng lại sƣởi ấm
đôi chút, mặc cho khói bốc vào mũi làm nghẹt thở. Tới cuối ngày đầu tiên chúng tôi dừng
lại nghỉ đêm tại điểm trú quân của một đơn vị công binh, trông ra con đƣờng có mấy cây
cầu lắp ghép. Đó là cái kho thóc và chuồng ngựa còn lại của một trang trại, các dãy nhà
chính và nhà phụ đã bị chính tay ngƣời Phần Lan đốt bỏ khi rút lui. Kho thóc và chuồng
ngựa đó giờ đây chẳng khác nào cung điện đối với chúng tôi. Sự hiếu khách của đám
công binh, điều hiếm khi xảy ra, thật đáng cảm động.
Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu tới gần mặt trận. Điều đầu tiên đập vào mắt
chúng tôi là những xác chết đông cứng của binh lính và sĩ quan ta nằm rải rác, bị tuyết
phủ kín. Họ nằm lại ngay nơi họ bị thần chết túm lấy, trong các tƣ thế khác nhau. Trƣớc
đây chúng tôi đối xử với ngƣời chết rất tôn trọng. Có áo quan, lễ tang, lễ tiễn biệt, mọi
ngƣời dừng lại xung quanh để tƣởng niệm, che đi những tấm gƣơng, vặn cho đồng hồ
dừng lại. Nhƣng giờ đây dƣờng nhƣ chẳng còn ai quan tâm tới những điều ấy nữa. Cứ
nhƣ thể họ, những ngƣời đã đi trƣớc, đang nói với chúng tôi rằng cái chết là điều vẫn
thƣờng xuất hiện nơi đây. Họ đã bị giết, nên cứ để họ lại, nhƣ vậy cũng là bình thƣờng
thôi. Đấy chính là chiến tranh, và mọi chuyện ở đây tất nhiên là phải khác với trong cuộc
sống thời bình. Ở đây bạn phải làm quen với chuyện đó.
Chúng tôi đã tới chiến tuyến, đằng sau là tuyến phòng thủ cuối cùng của Phần Lan.
Những đơn vị phía cánh phải và cánh trái vui vẻ sắp xếp chỗ ở cho chúng tôi, giao cho sƣ
đoàn chúng tôi phụ trách một khu vực đơn lập. Sau này tôi nghe kể các sĩ quan bộ binh
đã phát biểu một cách ác ý rằng cánh “hàng xóm” đã giao cho chúng tôi đảm trách khu
vực khốc liệt nhất để mình đƣợc rút tới nơi dễ thở hơn.
Vâng, chúng tôi đã tới “Phòng tuyến Mannerheim". Những dãy lô cốt bêtông, tua
tủa các họng đại bác và súng máy, nằm trên những ngọn đồi đƣợc che khuất bởi những
khu rừng rậm rạp. Những “cửa sổ” không đóng băng khoét trên mặt băng của các đầm
lầy trũng xen giữa các lô cốt, luôn đƣợc kiểm tra thƣờng xuyên, đổ đầy dầu và rắc tuyết
lên trên. Ngã vào những “cửa sổ” đó nghĩa là cầm chắc cái chết. Thêm vào đó, những
khoảng đất trống giữa các lô cốt luôn nằm trong tầm hỏa lực chéo cánh sẻ bắn ra từ các lô
cốt.
Chúng tôi dừng lại. Trung đoàn 306 chúng tôi đƣợc đƣa lên tuyến đầu, hai trung
đoàn còn lại của sƣ đoàn chúng tôi đƣợc bố trí dự bị ở phía sau. Nhƣ thƣờng lệ, chúng tôi
lại là những kẻ “may mắn”. Bắt tay vào đào các công sự chiến đấu. Mặt đất bị đông cứng,
chúng tôi phải cho nổ chúng lên bằng thuốc nổ TNT. Chúng tôi chặt gỗ thông để lợp mái
do nơi đây có rất nhiều rừng.
Vì lý do gì đó phải gặp chính trị viên nên tôi đi hỏi tìm anh ta. Mọi ngƣời bảo anh
ta đang đi lấy vodka cho khẩu đội. Tôi không tin vào tai mình nữa. Hắn, một tay chống
rƣợu, ngƣời đã phá hỏng bữa tiệc mừng Giao thừa của chúng tôi chỉ vì sợ chúng tôi sẽ
uống một cốc rƣợu vang. Vậy màø bây giờ chính hắn lại là ngƣời đi lấy vodka đem về.
Nhƣng đời là vậy đấy. Ngƣời ta phát cho chúng tôi 100 gram vodka mỗi ngày. Nó giúp
chúng tôi nóng ngƣời và cảm thấy phấn chấn trong giá rét, đồng thời nó làm chúng tôi
thêm can đảm khi tấn công. Khoảng hai ngày sau khi chúng tôi tới mặt trận, chủ nhiệm
pháo binh trung đoàn gọi tất cả sĩ quan của các khẩu đội lên gặp mặt. Ông thông báo rằng
đợt tấn công vào các vị trí của đối phƣơng sẽ bắt đầu vào ngày hôm sau. Hôm nay sẽ có
vài sĩ quan cao cấp của ban tham mƣu sƣ đoàn dẫn một nhóm sĩ quan chúng tôi đi trinh
sát. Tôi trở về khẩu đội để bố trí ngƣời thay tôi chỉ huy trung đội trong khi tôi vắng mặt.
Có hai cậu lính thông tin đề nghị tôi cho phép đi cùng để “xem bọn Phần Lan thế nào”.
Tôi đồng ý một cách bất đắc dĩ.
Và thế là một nhóm gồm những sĩ quan bộ binh và pháo binh, khoảng 12 tới 15
ngƣời, rời khỏi doanh trại để tiến theo hƣớng Bắc vào khu rừng. Chúng tôi đi theo hàng
một, vƣợt qua lối mòn tạo bởi một rãnh tuyết sâu. Ngƣời sĩ quan cấp cao dẫn đầu, chúng
tôi theo sau. Mấy tay lính thông tin hiếu kỳ của tôi đi chặn hậu. Tay phải chúng tôi là một
dãy đồi, còn phía tay trái là một khoảng dốc trống trải. Buổi sáng hôm đó trời rất đẹp:
sƣơng giá, trời xanh trong, mặt trời chiếu sáng và xung quanh rất yên tĩnh. Tiếng động
duy nhất là tiếng tuyết kêu cót két dƣới chân. Chúng tôi tiến sâu dần vào rừng. Tôi nhìn
quanh và không thể nhận ra đâu là vị trí chúng tôi, đâu là chỗ bố trí bộ binh và đâu là chỗ
bố trí các đơn vị tiền tiêu nữa, dù chúng tôi vừa mới rời doanh trại đƣợc không xa. Xung
quanh chỉ thấy toàn rừng thông, rãnh tuyết và một sự yên tĩnh giả tạo. Một cảm giác lo sợ
và cảnh giác dần dần xuất hiện. Mấy cậu thông tin đi sau chúng tôi bắt đầu bị tụt lại. Hiển
nhiên họ hiểu là chúng tôi đang đƣợc dẫn thẳng tới thăm bọn Phần Lan. Đột nhiên, khu
rừng kết thúc bởi một hẻm núi dốc đứng, và chúng tôi cảm thấy phấn khởi trƣớc sự quang
đãng ấy. Một con suối nhỏ đóng băng chảy dọc theo đáy hẻm núi đó. Một cây cầu bắc
ngang qua nó, bị chặn bởi một đống đá to. Ở bờ bên kia của hẻm núi, ngay trƣớc mặt
chúng tôi khoảng không hơn 100 mét, chễm chệ một ụ lô cốt bê tông, chĩa thẳng những
nòng đại bác và súng máy qua lỗ châu mai vào chúng tôi. Sau lô cốt thấp thoáng mấy
bóng ngƣời đang đào những rãnh chiến hào sâu trong tuyết. Tôi không thể tin vào mắt
mình nữa. Chúng tôi đƣợc dẫn ra giữa khoảng đất trống, ngay trƣớc họng súng của bọn
Phần Lan. Tất cả bọn tôi sẽ bị quét sạch lập tức bởi một loạt súng máy. Vài chiếc xe trƣợt
nằm cạnh chỗ chúng tôi, trên có một chiếc chậu tráng men xanh nhạt, trông thật tƣơng
phản với màu tuyết trắng. Tất nhiên, đấy chính là cái mốc đặt sẵn làm điểm chuẩn ngắm
bắn.
Trong khi đó, ông sĩ quan chỉ huy vẫn đang lên lớp, tay khoa trong không khí:
“Phải bố trí đại bác ở vị trí này để tăng rộng góc xạ kích, còn bộ binh thì phải tiến quân
dọc theo đáy khe núi.” – và nói thêm mấy câu gì đó tƣơng tự. Đầu óc tôi quýnh cả lên:
“Tại sao bọn Phần Lan không nổ súng ngay? Chúng có trông rõ chúng ta không?” Hai
ngƣời trong bọn tôi, phấn khởi vì sự im lặng từ phía cái lô cốt, bắt đầu tụt xuống và ném
vài hòn đá về phía cây cầu. Viên sĩ quan chỉ huy đang tiếp tục bài hƣớng dẫn của mình,
nhƣng phía địch vẫn im lặng, tại sao vậy?
Và rồi, thình lình mấy phát súng vang lên sau lƣng chúng tôi, phá vỡ sự yên tĩnh.
Tôi quay lại: mấy cậu lính thông tin, đứng trên con đƣờng mòn cách chỗ chúng tôi một
quãng xa, đang nã súng về phía tay trái, vào cái khe núi. Tại đấy, giữa đám rừng, xuất
hiện mấy bóng ngƣời trƣợt tuyết mặc đồ trắng đang phóng ra sau chúng tôi, cố gắng cắt
đứt đƣờng rút lui. “Bọn Phần Lan” – tôi hét lớn, và toàn nhóm chúng tôi hốt hoảng thối
lui, chân lún trong lớp tuyết dày. Thế là đã rõ lý do tại sao chúng tôi không ăn đạn từ phía
lô cốt: chúng muốn bắt sống chúng tôi bằng cách chặn đƣờng rút lui. Làm thế nào mà
chúng tôi có thể xoay sở đƣợc với mấy khẩu súng ngắn, chân thì lún sâu trong tuyết,
trong khi có cả một toán Phần Lan trang bị đầy đủ súng máy bao vây xung quanh? Một
nửa bọn tôi sẽ bị giết, nửa còn lại sẽ bị bắt làm tù binh. Quân địch cần biết thông tin về
lực lƣợng đối phƣơng, và chúng sẵn sàng tra tấn những ngƣời còn sống để moi lấy nó.
Thật may mắn là bọn lính trƣợt tuyết Phần Lan lại tiến thẳng tới chỗ mấy ngƣời lính
thông tin, và họ đã nổ súng vào chúng. Tất nhiên phía Phần Lan không thể ngờ rằng chỉ
có mỗi hai ngƣời đi đằng sau nhóm chúng tôi (mà ngay điều đó cũng chỉ do tình cờ), chứ
không phải cả một trung đội cảnh vệ. Đấy là lý do tại sao chúng không dám khép kín
vòng vây.
Nhóm chúng tôi mau chóng quay trở về. Một vài ngƣời chửi rủa không cần giấu
diếm, những ngƣời còn lại thì im lặng và buồn rầu, trong bụng hiểu rõ chuyến mạo hiểm
này đáng lẽ đã kết thúc không hay thế nào. Một ngƣời trong nhóm cất tiếng cƣời nhạo
những gì đã xảy ra, cố gắng che giấu nỗi sợ hãi của bản thân. Ngƣời sĩ quan chỉ huy cũng
thử bắt chuyện sang một vấn đề khác, nhƣng không còn ai lắng nghe ông ta, mọi ngƣời
đều đang cố thoát khỏi khu rừng nguy hiểm này càng nhanh càng tốt. Cuối cùng chúng
tôi cũng về tới doanh trại của mình. Nhƣng điều đầu tiên chúng tôi nhìn thấy không phải
những đội tiền tiêu hay những tuyến lính bộ binh mà là một xe nhà bếp cùng một tay anh
nuôi đang trút tuyết vào nồi. Có ai đó trong nhóm bảo với tay anh nuôi rằng đang lẽ
chúng tôi không nên đi xa đến thế, và rằng bọn Phần Lan đang ở rất gần. “Bọn Phần Lan
nào? Tôi mà gặp thì sẽ lấy cái muôi này choảng chúng một trận nên thân!” Thái độ lạc
quan đó còn phổ biến trong phần lớn binh sĩ, cho tới khi chúng tôi phải thực sự tắm mình
trong máu. Tất nhiên, không một ai ngỏ lời cám ơn tôi vì đã đem theo mấy cậu lính đã
cứu mạng cả nhóm. Những trận chiến và mối hiểm nguy thực sự vẫn còn ở phía trƣớc.
Phần còn lại trong ngày là dành cho việc chuẩn bị cho trận đánh diễn ra vào hôm
sau: tôi phải đi kiểm tra lại radio và máy điện thoại. Tới xế chiều chúng tôi gọi một lần
nữa cho cấp trên để xin chỉ thị hƣớng dẫn. Khi về tới hầm trú ẩn vào chập tối, cởi cái áo
khoác ngoài cửa và bật đèn pin lên, tôi bỗng phát hoảng. Bên trong đầy binh lính ngủ
chồng chất lên nhau, cát không ngừng rơi từ nóc hầm xuống – căn hầm quá nhỏ. Tôi phải
tới ngủ nhờ hầm của chính trị viên. Anh ta dùng một cái lều tròn xinh xinh cho riêng
mình, bên trong trang bị cả lò sƣởi. Tay chính trị viên đang “sửa soạn” cho trận đánh
ngày mai bằng cách khâu một cái cổ áo trắng vào bộ quân phục của mình. Tôi lăn ra ngủ
tại chỗ anh ta, không cởi quần áo mà nằm ngay trên sàn làm bằng tuyết nện kỹ trên lớp
cành thông.
Buổi sáng diễn ra trận chiến đầu tiên, tôi cùng với mấy cậu lính thông tin của
mình đƣợc lệnh đi theo các trung đội hỏa lực để tháp tùng một xe giàn chất radio và các
thiết bị điện thoại liên lạc, khẩn trƣơng thiết lập đƣờng dây thông tin chỉ huy. Chúng tôi
đi vào rừng, theo sau đám bộ binh. Ngƣời lính hy sinh đầu tiên của trung đoàn chúng tôi
nằm đó, trên khoảng đất trống. Điều đó có nghĩa là bọn Phần Lan đã chủ động phục sẵn ở
khoảng trống này từ hồi đêm để phục kích các đơn vị tấn công của chúng tôi. Một cái mũ
sắt bị một viên đạn xuyên thủng và một mặt nạ phòng độc, ống thở bê bết máu, nằm lăn
lóc cạnh xác ngƣời lính.
Chúng tôi di chuyển dọc theo khu rừng về phía cái lô cốt đã trinh sát ngày hôm
qua. Từ phía đó vang lên những tiếng hô "Hurrah!", tiếng nổ và tiếng súng máy. Ngƣời
thƣơng binh đầu tiên xuất hiện, mình băng trắng và đang rên rỉ. Theo cẩm nang dã chiến
thì việc di chuyển thƣơng binh phải đƣợc thực hiện trên một con đƣờng không trùng với
tuyến chuyển quân tiếp viện, nhằm không làm suy giảm ý chí chiến đấu của họ. Nhƣng
ai mà còn hơi sức nghĩ tới những chuyện nhƣ thế trong khi đánh nhau? Đạn cối đang bay
về phía chúng tôi, nổ tung lên hàng cột đất và tuyết. Tôi đang đi bên trái của chiếc xe
giàn, chân ngập trong tuyết. Đột nhiên, có một điều gì đó thúc tôi băng sang bên phải, dù
đƣờng bên đó khó đi hơn. Tôi vừa đi đƣợc mấy bƣớc thì một quả đạn cối rít tới cắm đúng
vào khoảng đất phía bên trái chiếc xe, nơi hồi nãy tôi vừa bƣớc đi. Nó chui sâu vào tuyết
nhƣng không phát nổ. Nếu tôi không băng qua phía bên kia xe giàn, rất có thể tôi đã mất
mạng. Nhƣng ngay cả việc bƣớc sang phía bên kia chiếc xe cũng không thể cứu mạng tôi
trong trƣờng hợp quả đạn phát nổ. May mắn thay, không phải tất cả đạn pháo của quân
Phần Lan đều nổ. Về sau tôi đƣợc biết rằng có một số đạn dƣợc đƣợc chuyển cho Phần
Lan bởi chính những đồng minh phƣơng Tây từ kho vũ khí quá hạn của họ: “Lạy Chúa,
hãy nhận lấy những thứ mà chúng tôi không dùng nữa”.
Điều gì đã khiến tôi đổi chỗ đúng một phút trƣớc khi quả đạn bay tới? Hình nhƣ
đó là bản năng, thứ giúp một con thú rời bỏ chỗ trú ngay trƣớc khi viên đạn bắn tới. Thôi
đành cứ tạm nghĩ nhƣ vậy.
Lính bộ binh tấn công lô cốt ngay từ chính diện, chịu tổn thất nặng. Nhƣng cũng
có thể đi vòng qua và tấn công từ sau lại, bởi đằng sau không có các lỗ châu mai gắn đại
bác và súng máy. Nhƣng anh không thể đứng ra phê phán các vị chỉ huy. Họ không thể
mắc sai lầm, chẳng khác nào chính vợ của Xêda. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm cách
chiếm đƣợc cái lô cốt. Một chiếc xe tăng phun lửa tiến tới và phụt vài cột lửa vào mấy lỗ
châu mai (có thể khẳng định đó là loại tăng T-26 có gắn súng phun lửa - Valera Potapov).
Bọn Phần Lan rút chạy. Đƣờng rút của chúng đƣợc yểm trợ bởi một xạ thủ trung liên, hắn
kéo khẩu súng của mình lên nóc lô cốt và đã hy sinh một cách anh hùng trong khi bắn trả
quân tấn công. Khi lính bộ binh của chúng tôi đang tiến lên truy kích, tôi chạy tới thử
nhìn vào trong cái lô cốt vừa chiếm đƣợc. Và sự tò mò của tôi đã đƣợc đền đáp xứng
đáng. Khi lô cốt này thất thủ thì những lô cốt lân cận, vẫn còn nằm trong tay quân Phần
Lan, lập tức nã pháo vào nó. Nhiều quả đạn nổ tung, nhƣng may mắn là không gây tổn
thất gì cho chúng tôi. Những lớp tƣờng bê tông dày đƣợc bọc bằng nhiều tấm giáp kim
loại chống chấn động. Đó là lý do tại sao các loạt đạn xuyên thép không thể bắn thủng
tƣờng mà chỉ bật đi. Xác binh lính của chúng tôi nằm ngổn ngang phía trƣớc lô cốt, vài
cái trong số đó bị cháy nám vì lửa phun ra từ chiếc xe tăng và bị xích của nó nghiền nát.
Đó là vì chiếc xe tăng đã tới lô cốt sau họ (Tại sao họ không đƣa nó tới sớm hơn?) và lăn
lên trên mấy xác chết. Một cảnh tƣợng thật kinh khủng.
Cái xác nhỏ bé của tay xạ thủ súng máy nằm lăn lóc ngay trƣớc lối vào lô cốt, và
lính của chúng tôi mỗi khi bƣớc vào lô cốt đều căm giận đá nó một cái. Khẩu súng cũng
nằm cạnh đó. Đó là một khẩu Maxim kiểu cũ. Tôi nhìn thấy trên lá chắn có dòng chữ:
"Xƣởng vũ khí Hoàng gia Tula. 1915." Thật là một sự trớ trêu của số phận. Vũ khí Nga
đƣợc sử dụng để chống lại chính ngƣời Nga.
Xe tăng phun lửa OT-26 đang tiến công.
Vài thứ đồ đạc bên trong lô cốt cũng bị đốt cháy bởi họng súng phun lửa. Tôi nhìn
thấy một đồng tiền kim loại nằm trên bàn, có lẽ là bùa khƣớc của một trong những lính
phòng thủ lô cốt. Tôi vội vã cầm lên. Đó là một đồng tiền cổ Thụy Điển mệnh giá ba
crown. Khi rời lô cốt, tôi chạy tới khoe với khẩu đội trƣởng: “Nhìn này,” – tôi la lên, -"Xem tôi tìm đƣợc gì đây! Đây là đồng tiền cổ Thuỵ Điển, có lẽ từ thế kỷ XVI, rất có thể
thuộc vƣơng triều Vaaza." Tay khẩu đội trƣởng giằng lấy đồng tiền, ngắm nghía rồi thình
lình vung tay ném mạnh vào một đám tuyết. “Anh không đƣợc phép sử dụng ngoại tệ,” –
hắn lên lớp và ngạo mạn bỏ đi. Tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Đã hơn bốn mƣơi
năm kể từ ngày ấy, rất nhiều sự kiện đã qua đi, vậy mà tôi vẫn thấy điên ngƣời mỗi lần
nhớ tới tay khẩu đội trƣởng ngu xuẩn nọ, và vẫn còn tiếc đồng tiền ấy, đáng ra có thể trở
thành một vật bổ sung có giá trị cho bộ sƣu tập tiền cổ của tôi, gắn với những kỷ niệm
đáng nhớ tới vậy.
Trong suốt ngày đầu tiên, cùng với những bộ binh tấn công lô cốt còn có rất nhiều
ngƣời đã cố tới để "xem bọn Phần Lan thế nào" cũng thiệt mạng. Kỹ thuật viên pháo binh
của khẩu đội, ngƣời hoàn toàn không có trách nhiệm gì ngoài chiến trƣờng, cũng chết
theo kiểu ấy. Khi ngƣời ta mang anh ta, bị thƣơng nặng, ngang qua chỗ chúng tôi, anh ta
hét lên với khẩu đội trƣởng rằng ngƣời anh đang bị đông cứng lại. Thực ra, băng giá dữ
dội không chỉ huỷ hoại những vết thƣơng, mà còn bởi anh sẽ phải cởi quần áo để băng bó
trong giá tuyết. Ngƣời chuyên viên kỹ thuật chết vào ngày hôm sau, tại trạm quân y. Rất
nhiều ngƣời trong khẩu đội tôi cũng bị trúng đạn trong khi đang cố lăn khẩu pháo tới chỗ
trống để nổ súng.
Ngƣời ta kể rằng trƣớc trận đánh đầu tiên, một chính trị viên tới nói chuyện với
những binh lính sẽ đi tấn công cái lô cốt và kêu gọi họ hãy thể hiện xuất sắc chủ nghĩa
anh hùng. Tới sát giờ tiến công, tay chính trị viên chuẩn bị rút lui, có mấy ngƣời lính lên
tiếng: “Hãy cùng đi với chúng tôi, đồng chí chính uỷ.” Tôi có thấy xác viên chính uỷ ấy.
Anh ta nằm úp mặt xuống đất cùng mấy xác chết khác và nổi bật giữa đám xác ấy bởi
những nút mạ vàng đính trên thắt lƣng áo khoác quân phục của mình.
Trong ngày hôm đó, sau trận đánh, chỉ còn đám bộ binh là tiếp tục truy kích quân
Phần Lan, khẩu đội pháo của chúng tôi đóng lại đấy một thời gian nữa. Lần đầu tiên
chúng tôi qua đêm ngay dƣới bầu trời rộng lớn, giữa màn sƣơng, ngồi quanh đống lửa bởi
các hầm trú ẩn đều chứa đầy thƣơng binh. Điều đó nghĩa là trạm quân y cũng đã quá tải.
Khó mà ngủ đƣợc khi đang ngồi quanh đống lửa giữa sƣơng giá. Bạn bị cháy bỏng trƣớc
mặt, nhƣng lƣng bạn lại lạnh cóng. Trong lúc ngủ gà ngủ gật bạn chúi ngƣời về trƣớc và
thế là quần áo sẽ bắt lửa. Thật là một cuộc chiến tranh đáng nguyền rủa.
Chúng tôi bắt đầu triển khai tấn công. Khi rút lui, quân Phần Lan đánh trả rất ác,
đốt bỏ tất cả nhà cửa, gài mìn lại khắp mọi nơi. Trong một lần tháo chạy vội vã chúng
thậm chí còn đốt bỏ cả chuồng trại còn nguyên gia súc bên trong. Chúng giết chết lũ chó
không muốn rời bỏ những căn nhà đang cháy của mình. Chúng đặt mìn bên cạnh các lối
mòn mà chúng sử dụng để rút lui. Khi con đƣờng đó đƣợc sử dụng làm tuyến giao thông
cho ôtô và xe tăng thì mìn phát nổ. Các đơn vị trƣợt tuyết trang bị nhẹ với những khẩu
súng cối kéo trên những xe trƣợt gọn nhẹ, liên tục tấn công chúng tôi. Họ dựa vào rừng
rậm và bất cứ chƣớng ngại vật tự nhiên nào, ví dụ nhƣ các mỏm đá granite mà ở đây rất
thƣờng gặp. Họ nã súng máy từ những vị trí đƣợc che chắn và gây thƣơng vong rất nhiều
cho các đội tiên phong của chúng tôi. Nhƣng khi chúng tôi đem đƣợc pháo tới và bắt đầu
nã đạn thì họ lập tức thay đổi vị trí, mò sang hai bên sƣờn, và tất cả mọi chuyện lặp lại từ
đầu. Rồi họ bất ngờ biến mất để tiếp tục rình đánh chúng tôi cũng trên con đƣờng đó
nhƣng tại một vị trí thuận lợi khác.
Quân địch rút lui, bỏ lại cho chúng tôi không chỉ mìn mà cả những tờ truyền đơn
sặc sỡ, chúng tƣơng phản rõ nét so với tuyết trắng. Nội dung của chúng rất ngây ngô, chỉ
hợp với những ngƣời kém phát triển. Vài cái thì đe dọa cả thế giới sẽ cùng dồn lại tấn
công chúng tôi, những tờ khác khuyên hãy bỏ vũ khí và trở về nhà với gia đình, nơi mọi
ngƣời đang chờ đợi chúng tôi, đại loại nhƣ vậy. Hiển nhiên những thứ ấy đƣợc sáng tác
bởi đám Bạch vệ di tản, những kẻ tin rằng binh lính chúng tôi vẫn còn ở trình độ nông
thôn trƣớc cách mạng.
Chiến trận diễn ra chủ yếu vào ban ngày. Mọi chuyện dừng lại khi đêm xuống, và
đấy là lúc công việc của cánh lính thông tin bắt đầu. Dƣới sự che chở của bóng tối, chúng
tôi phải lăn cuộn dây điện thoại cũ kỹ đi, đƣa thông tin tới vị trí đặt pháo mới bằng cách
nối chúng tới các chốt quan trắc, nối tới sở chỉ huy trung đoàn và tới chỗ tƣ lệnh pháo
binh. Mọi thứ phải sẵn sàng vào lúc rạng sáng. Suốt đêm không ngủ để làm những việc
ấy, và khi trận chiến bắt đầu vào sáng hôm sau, thử hỏi làm cách nào anh có thể ngủ nếu
việc liên lạc bị ngắt quãng chỗ này chỗ khác? Tất nhiên cũng có những tối anh có thể
ngủ yên, ngồi bên đống lửa (thật tuyệt) hay cạnh đám tro của một ngôi nhà bị đốt cháy. Ở
những chỗ đấy mặt đất bị hun nóng bởi đám lửa sẽ giữ đƣợc nhiệt độ ấm áp trong khoảng
hai ngày, không lâu hơn.
Chúng tôi chỉ liên lạc chủ yếu bằng điện thoại. Liên lạc bằng vô tuyến điện không
ổn định. Những máy thu vô tuyến điện của chúng tôi (loại 6PK) rất cồng kềnh, khả năng
thu phát kém, khoảng cách truyền tin ngắn, thƣờng bị ngắt quãng bởi nhiều nguyên nhân
khác nhau. Thêm vào đó tất cả thông tin truyền đi phải đƣợc mã hóa, điều đó cản trở sự
linh hoạt trong quá trình sử dụng chúng.
Một vấn đề nữa đang chờ chúng tôi. Các cuộn dây điện thoại của chúng tôi bắt
đầu hƣ hụt đi nhanh chóng, đứt gẫy và thậm chí hỏng nát. Dần dần lƣợng dây có thể dùng
còn lại rất ít. Trƣởng ban thông tin trung đoàn cũng rất cần dây điện thoại nên không thể
giúp gì đƣợc cho chúng tôi. Số dây còn lại ít tới nỗi trong một số khu vực bố trí pháo, do
tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, đã phải kéo pháo từ vị trí ngụy trang ra chỗ trống để nổ
súng, ngay dƣới làn đạn súng máy của lính Phần Lan, và rất nhiều ngƣời đã chết một
cách vô ích. Chúng tôi chỉ còn phải đặt một đƣờng liên lạc: kéo từ vị trí chỉ huy của khẩu
đội trƣởng cho tới chỗ đặt pháo. Do đó, ngày càng ít công việc dành cho lính thông tin.
Nhƣng khẩu đội trƣởng cũng nhanh chóng tìm đƣợc việc gì đó để chúng tôi luôn bận rộn.
Khẩu đội pháo phải chịu rất nhiều tổn thất trong thời gian đó. Cả hai trung đội hỏa lực
phải nhập làm một bởi chỉ còn hai khẩu pháo trong số bốn khẩu là còn hoạt động đƣợc.
Những đơn vị khác cũng tổn thất nhiều. Lực lƣợng của chúng tôi tổng cộng cũng chỉ còn
phân nửa so với ban đầu. Trung đội hỏa lực mới nhập lại đƣợc giao cho trung uý
Kapshuk, một cậu Ukraina trẻ tuổi và là quân nhân chuyên nghiệp. Một lần tôi bị đánh
thức vào ban đêm bởi cậu trực điện thoại: khẩu đội trƣởng muốn gặp. Tôi nhấc máy.
“Cậu đã biết Kapshuk vừa bị giết chƣa?” “Chƣa.” “Hãy lãnh trách nhiệm chỉ huy trung
đội hỏa lực, ngay sáng mai họ phải sẵn sàng để chiến đấu. Sẽ có ngƣời thay cậu phụ trách
bộ phận thông tin.” Sáng hôm sau tôi đã có mặt tại điểm đặt pháo để điều khiển việc xạ
kích. Khẩu đội trƣởng đang điều chỉnh đƣờng đạn tại trạm quan trắc của anh ta thông qua
điện thoại. Trong khi chỉ huy, tôi đứng trƣớc mấy phẩu pháo, tại ngay nơi Kapshuk vừa
đứng cách đấy vài tiếng đồng hồ và bị giết. Còn anh chàng Kapshuk đáng thƣơng, ngày
hôm qua vẫn còn khoẻ mạnh và vui vẻ, giờ đang nằm kia, trên mặt đất sũng máu, đang
chờ để đƣợc đặt lên xe trƣợt và đƣa về trạm quân y của tiểu đoàn, nơi ngƣời ta cho nổ
tung một khoảnh đất Phần Lan băng giá bằng thuốc nổ và mai táng xác chết trong những
cái hố đó. Mọi chuyện trở nên đơn giản tột cùng, và số phận thì không thể trốn tránh...
Đại bác 76.2 mm model 1927 cấp trung đoàn, đang tham gia chiến đấu.
Những ngƣời lính trong trung đội hỏa lực trở nên u ám, tuân lệnh tôi một cách
máy móc, cố tránh không nhìn về phía có cái xác ngƣời chỉ huy quá cố của họ đang nằm.
Cũng cần nói thêm là sự “thăng tiến” của tôi không chỉ dừng lại đây. Chúng tôi phải chịu
nhiều tốn thất về binh lính và sĩ quan, nên về cuối cuộc chiến tôi đã đƣợc chỉ định làm
quyền khẩu đội trƣởng, sẵn sàng thay thế trong trƣờng hợp ngƣời chỉ huy bị mất khả
năng điều khiển khẩu đội. May thay, điều đó cuối cùng đã không xảy ra. Khó có gì hạ
gục nổi ngƣời khẩu đội trƣởng sắt thép của chúng tôi.
Trong thời gian chiến đấu tôi nhận đƣợc một lá thƣ của mẹ gửi từ nhà qua. Bà viết
rằng có một lệnh điều động đƣợc gửi cho tôi từ trụ sở quân uỷ với lệnh phải lên đuờng
“với các vật dụng cá nhân”. Mẹ tôi cầm lệnh điều động lên trụ sở dân ủy và than phiền
rằng con trai mình đã bị động viên đƣợc nửa năm rồi. Ngƣời ta thu lại tờ lệnh điều động
và bảo rằng đó chỉ là một lầm lẫn. Nhƣng vài ngày sau họ tiến hành khám xét căn hộ của
chúng tôi vào ban đêm, lôi mẹ già của tôi khỏi giƣờng, tra hỏi bà nơi trốn của con trai.
Cùng lúc có những ngƣời khác thô lỗ cúi xuống lục soát dƣới gầm giƣờng, nhòm vào nhà
vệ sinh và phòng tắm. Mẹ tôi nổi giận: “Chính tôi mới phải hỏi các anh là con tôi đang ở
đâu ! Các anh đã động viên nó mùa thu vừa rồi. Nó đang chiến đấu một cách trung thực
ngoài chiến trƣờng chứ không phải đang đêm đi nhòm vào gậm giƣờng ngƣời khác.” Rồi
họ nhìn thấy tấm ảnh chụp tôi đang mặc quân phục và những bức thƣ với con dấu quân
bƣu dã chiến nằm trên tủ buýp phê. Đám dạ khách bối rối rút lui, tất nhiên là quên cả xin
lỗi. Cung cách hoạt động của Dâân uỷ quận Bauman thành phố Maskva là thế đó.
Một sáng nọ tôi rời khẩu đội để lên vị trí tiền tiêu, nơi đóng trạm quan trắc của
khẩu đội trƣởng. Đƣờng đi phải băng qua một khu rừng mà vào giờ đấy rất vắng vẻ. Dọc
đƣờng tôi chạm mặt một tay lính lạ. Tôi không biết anh ta mang cấp bậc gì, do trƣớc đó
chúng tôi có lệnh phải tháo bỏ mọi cấp hiệu khỏi quân phục. Khi đi ngang, tôi hỏi anh ta
một cách thân mật: "Thế nào, tình hình chỗ ấy ra sao, yên tĩnh chứ?” Hắn tỏ vẻ khinh
miệt ra mặt và đáp trả: "Sao vậy, anh sợ à?” Tôi phát cáu và cũng hỏi lại: "Tôi không biết
ai sợ hơn ai: ngƣời đang đi ra mặt trận hay kẻ đang cố chạy cho xa.” Đáp lại tôi là mấy
câu chửi thề tục tĩu. Kẻ lạ mặt cuối cùng cũng lộ nguyên hình.
Tôi cũng từng xung đột với khẩu đội trƣởng của mình. Một lần, khi tôi đang ở chỗ
đóng quân trong rừng của khẩu đội, anh ta gọi điện thoại và bảo tôi phải chuyển quân ra
một chỗ trống. Phía trƣớc chúng tôi, giữa một địa hình trống trải, có một quả đồi đang bị
bộ binh ta tấn công. "Hãy kéo dây liên lạc tới ngọn đồi,” – khẩu đội trƣởng nói. - "Anh
hãy đích thân tới và chỉ huy pháo kích từ vị trí đó.” "Nhƣng chỗ đó vẫn còn bọn Phần
Lan,” – Tôi trả lời, mắt quan sát qua ống nhòm dã chiến. - "Khi chúng ta chiếm đƣợc
ngọn đồi ấy, tôi sẽ tới cùng một điện thoại viên và kéo dây theo sau.” “Hãy đi ngay bây
giờ”, - tay khẩu đội trƣởng lạnh lùng dáp, và tay hắn đột ngột hạ xuống bao súng lục đã
mở sẵn. Điều đó làm tôi nổi giận. Hắn đe dọa tôi trong khi khắp khu rừng bao quanh đều
vang lên tiếng đạn réo và tiếng rít rú của đạn cối. "Đồng chí thƣợng uý,” – Tôi đáp - "Tôi
xin nhắc lại là tôi sẽ tuân lệnh đồng chí ngay sau khi bộ binh chiếm đƣợc ngọn đồi đó.
Còn về khẩu súng của anh thì tôi cũng có một khẩu tƣơng tự. Nếu anh không thể chờ
đƣợc,” – Tôi tiếp tục - "thì hãy cùng đi với tôi. Mấy khẩu súng lục của chúng ta đem lên
trên đó sẽ có ích hơn đấy.” Vì lẽ nào đấy, khẩu đội trƣởng không thích đề nghị của tôi, và
hắn ta nín thinh. “Hãy cho phép tôi trƣớc tiên là ra lệnh cho khẩu đội tiến ra chỗ trống,
nếu không chúng ta sẽ không thể bắn yểm trợ cho quân tấn công đƣợc.” "Làm đi," – khẩu
đội trƣởng trả lời, hình nhƣ hắn ta đã bình tĩnh lại và nhận ra là mình đã đi quá xa, rồi
ƣỡn ngực bỏ đi.
Đối phƣơng gần nhƣ không có không quân, hay chúng không hoạt động trong khu
vực mặt trận chúng tôi. Chỉ có một lần tôi thấy vị trí chúng tôi bị oanh kích bởi nhiều
máy bay Phần Lan trông giống loại U-2 của chúng ta, thả xuống nhiều bó lựu đạn buộc
thành túm. Chúng sơn chữ thập đen trên nền xanh ở hai bên cánh máy bay. Nhƣng chúng
tôi cũng chƣa khi nào đƣợc thấy lúc máy bay ta hoạt động.
"Cúc cu" – bọn bắn tỉa nấp trên cây – gây cản trở chúng tôi rất nhiều. Trong khi
rút lui, ngƣời Phần Lan bố trí chúng núp lại trên cây với một khẩu súng và rất nhiều đạn.
Một số trong chúng mỗi khi có dịp là nổ súng rồi chạy trốn bằng ván trƣợt tuyết để sẵn
dƣới gốc cây. Những tên khác thậm chí cứ bắn cho tới khi bị hạ tại chỗ, và khi rơi xuống
chúng bị giết chết một cách căm hờn. Đôi khi có tới bốn tên “cúc cu” cùng bố trí ở bốn
góc rừng, ai chẳng may đi vào khu vực đó thì cầm chắc cái chết. Rất khó để hạ gục chúng,
nhất là khi chúng tập trung hỏa lực của cả bốn khẩu súng vào một mục tiêu trong trƣờng
hợp nhƣ trên. Chúng luôn thay đổi vị trí mỗi khi đêm xuống, chuyển tới một khoảnh rừng
khác. Quân Phần Lan lấy đi giầy ủng khỏi một số xạ thủ khi đƣa chúng lên cây để họ
khỏi chạy xa, thay vào đó chúng để lại một cái chăn đắp chân. Có một trƣờng hợp ở trung
đoàn tôi khi binh lính, phát hiện ra một tên “cúc cu” nấp trên cây, đã bắn vào hắn. Hắn
lập tức ném khẩu súng xuống và chiếc chăn rơi khỏi chân. Hóa ra tên “cúc cu” lại là một
cô gái tóc đỏ còn trẻ, đang trắng bệch ra nhƣ sắp chết. Mọi ngƣời thƣơng hại cô ta, và khi
họ đƣa cô ta mấy cái bánh valenki cháy thì cô ta đã hiểu là mình sẽ không bị giết, bèn rũ
ra khóc nức nở. Ngƣời ta mủi lòng và cô đƣợc an toàn đƣa về hậu phƣơng với lính canh
đi theo.
Sự đề cập tới các nữ xạ thủ “cúc cu” và chuyện một lô cốt trang bị các tấm giáp
kim loại để đạn pháo bắn vào bị bật ra thật đáng quan tâm và hết sức thú vị. Nó cho thấy
thậm chí những ngƣời có trình độ ở thời kỳ đấy vẫn tin và tiếp tục tin vào những câu
chuyện hoang đƣờng nhƣ thế. Nhƣ trong trƣờng hợp cái lô cốt nơi ngƣời sĩ quan này tiến
công – nơi đây không chỉ có một triệu cái lô cốt nhƣ vậy, tất cả các lô cốt đó đều trang bị
1 tới 2 khẩu đại liên, đƣợc xây trong những năm 1930, rất chắc chắn, chất lƣợng rất tốt.
Chuyện đề cập tới những chiếc xe tăng phun lửa là đáng tin vì xe tăng phun lửa đƣợc sử
dụng nhiều để tấn công tại hai cứ điểm đó - Salmenkaita và Muolaa. Tại một ụ lô cốt
thuộc phòng tuyến Muolaa, nơi tôi đã tới tham quan, toàn bộ nơi đồn trú đó đều bị thiêu
rụi do xe tăng phun lửa. Bair Irincheev.
Nhìn chung, trong khi chiến đấu ngƣời ta cho chúng tôi ăn uống khá tốt. Có xe
nhà bếp chở súp và cháo kasha tới chiến tuyến, họ múc cho bất cứ ai lại gần. Đám đầu
bếp quân nhu vội vàng phân phát cho hết thức ăn và quay về theo đúng con đƣờng mà từ
đó họ đi tới dƣới làn đạn súng cối. Họ không đƣợc phép quay về khi trong thùng vẫn còn
thức ăn. Ngƣời ta kể rằng có một tay đầu bếp bị bắn tại chỗ chỉ vì anh ta đã trút hết cái
nồi trên xe xuống tuyết để mau chóng đƣợc rời xa chiến tuyến. Tất nhiên, cũng có những
ngày chúng tôi phải đun tan tuyết để pha chè, hâm nóng lớp băng đá bao quanh bánh mì
trên làn khói của đống lửa, và tự nấu cháo lúa mì trong một cái gà mèn thiếc dùng chung.
Trung đoàn chúng tôi tiến công, khoét sâu thành hình mũi tên vào tuyến phòng
thủ của đối phƣơng. Những lô cốt còn chƣa bị hạ vẫn hoạt động hai bên sƣờn, và chúng
tôi thƣờng lọt vào vùng hỏa lực bắn chéo cánh sẻ. Hai bên sƣờn chúng tôi đƣợc bảo vệ
kém, chỉ có vài khẩu trung liên bố trí tại một số vị trí. Một đêm, khi tôi cùng các binh sĩ
dƣới quyền đang ngủ say trên lớp rơm trải lên tuyết, đột nhiên một khẩu súng máy khạc
đạn ngay bên cạnh. Tôi bật dậy và chạy tới chỗ tay xạ thủ súng máy. Trời lúc đó tối đen.
Tôi lên tiếng hỏi lý do tại sao anh ta nổ súng. Ban đầu anh ta im lặng, rồi càu nhàu: "Nếu
anh không bắn, chúng sẽ mò tới đây ngay thôi.”
Trong giá rét dữ dội, các sĩ quan chúng tôi đƣợc cấp cho những áo khoác lông cừu.
Nhƣng ngay lập tức chúng tôi phải cởi bỏ nó. Bọn bắn tỉa Phần Lan bắn hạ ngay các sĩ
quan. Không chỉ có xạ thủ bắn tỉa, mà ngay bọn lính trƣợt tuyết Phần Lan cũng làm vậy,
chúng bận vào quân phục Xô viết, mò tới vị trí đóng quân, đâm chết các sĩ quan rồi trốn
mất. Đó là lý do chúng tôi đƣợc lệnh phải cởi bỏ không chỉ áo khoác lông cừu, mà cả
những cấp hiệu trên cầu vai, những “vạch” đỏ trên ống tay áo, và phải thắt thắt lƣng vào
dƣới áo choàng. Có lần tôi đƣợc lệnh đem theo một điện thoại viên và rải một đƣờng điện
thoại tới chốt chỉ huy của một đơn vị bộ binh, bản thân tôi phải ở lại đó, sẵn sàng gọi
pháo bắn tới lúc cần thiết. Trạm chỉ huy bố trí trong một công sự thấp, nền rải rơm. Mọi
ngƣời đều ngồi phệt trên sàn. Đƣợc một lát thì khẩu đội trƣởng gọi cho tôi qua đƣờng
điện thoại của đơn vị bộ binh. Cho dù tôi đang ăn mặc nhƣ một lính trơn, anh chàng trực
điện thoại của đơn vị bộ binh vẫn quay lại phía tôi: "Thƣa đồng chí trung úy, có điện
thoại.” "Tại sao anh lại nghĩ tôi là trung uý?” - "Tôi biết đồng chí là trung uý bởi đồng chí
ăn nói khác bọn tôi.” Quả là câu tục ngữ “Trông mặt mà bắt hình dong” thật chính xác
(Nguyên văn: Chỉ cần qua mảnh áo rách anh cũng có thể nhận ra ông thầy tu - LTD).
Có trƣờng hợp tại một đơn vị kế cận khi một tên Phần Lan, mặc quân phục Xô
viết, trƣợt tới một bếp dã chiến. Đầu bếp nói rằng anh ta không biết mặt hắn và chỉ có thể
cho hắn ăn nếu chính ủy cho phép. “Thế chính uỷ ở đâu?” – tên Phần Lan hỏi lại. Tay
đầu bếp chỉ ra chính ủy, ngƣời đang khoác một cái áo choàng của lính. Gã Phần Lan lại
gần ngƣời chính ủy, đâm anh ta rồi bỏ chạy.
Có nhiều trƣờng hợp tàn nhẫn rất thƣơng tâm, khi bọn Phần Lan dùng dao giết
chết những thƣơng binh của chúng tôi, những ngƣời còn kẹt lại ở chiến trƣờng chƣa đem
đi đƣợc. Tôi cũng đã tận mắt chứng kiến cảnh rất nhiều xác lính ta nằm tại một vị trí
trống trải không thể bò tới vì bị bọn xạ thủ “cúc cu” ngắm bắn. Và khi một ngƣời trong
bọn họ thử đứng lên thì đạn lập tức nã vào anh ta từ những ngọn cây ven rừng. Một
thƣơng binh kể lại rằng anh ta đã phải nằm lại trên tuyết vì bị thƣơng sau trận chiến, và
rồi một tên Phần Lan trƣợt tuyết tới chỗ anh ta và nói bằng tiếng Nga: "Còn nằm đấy à,
Ivan? Thôi đƣợc rồi, đi đi!” Thật may là hắn không giết chết anh ta, có lẽ vì đã quá nhiều
những vụ nhƣ thế rồi.
Tổn thất của khẩu đội chúng tôi thật đáng kể. Tôi nhớ lại một trong các lính thông
tin dƣới quyền mình, một anh chàng trẻ tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông. Anh ta vẽ rất đẹp,
thực sự có tài, luôn mơ sẽ đƣợc vào Học viện Mỹ thuật. Tôi thƣờng trò chuyện với anh ta,
xem các bức tranh của anh, khuyên bảo anh. Tôi đã thƣơng tiếc khôn nguôi khi anh chết
tại trạm quân y tiểu đoàn vì một vết thƣơng. Tổn thất của bộ binh còn nghiêm trọng hơn
nhiều. Đã có quá nhiều thảm kịch xảy ra. Ngƣời ta kể rằng có một trung uý còn trẻ bị
thƣơng vào mặt, mất cả hai mắt. Ngƣời ta không có thời gian để lấy đi khẩu súng của anh,
nên anh đã tự sát ngay trong chiến hào, khi vừa nhận ra mình đã bị mù.
Một đêm tôi phải băng qua khu rừng để kiểm tra lại đƣờng dây điện thoại. Tôi
vƣợt qua một khoảng đất trống để tới một khu rừng kế tiếp. Địa điểm cần tới nằm rất gần
đâu đây thôi. Ánh trăng rực rỡ rọi vào mặt tôi, làm chói cả mắt, phản chiếu lấp loáng lên
tuyết. Lại qua một khu rừng nữa, tôi bắt gặp một ngƣời vận áo choàng trắng, sát gần và
đột ngột tới nỗi tôi vung tay về phía trƣớc và đẩy vào ngực anh ta. Tôi cảm thấy tim mình
nhƣ ngừng đập vì sợ. Lập tức một tiếng chửi rủa tục tĩu chọc vào tai tôi nghe tựa nhƣ một
điệu nhạc tuyệt diệu: “Quân ta, ngƣời Nga.” Đấy là một lính trinh sát của ta, thấy tôi băng
qua bãi trống từ xa, bèn quyết định ẩn vào màn sƣơng để chờ xem. Quân địch sẽ không
nã súng cối vào một ngƣời, nhƣng nếu là hai ngƣời thì chúng có thể bắn ngay.
Trong một lần khác, sau khi chiếm giữ vị trí chỉ huy mới, khẩu đội trƣởng gọi
điện cho tôi và yêu cầu tôi rời khẩu đội để tới chỗ anh ta. Anh ta đã tới đấy vào ban đêm,
đi cùng cánh bộ binh. Nhƣng sang ngày hôm sau tình hình đã thay đổi. Đƣờng đi phải
vƣợt qua một dòng sông đã đóng băng, và điểm vƣợt sông đó lại bị một tên bắn tỉa Phần
Lan chốt giữ. Hắn ta núp trên một mỏm đá nhỏ giữa dòng sông và nã tiểu liên vào bất cứ
ai cố gắng vƣợt qua lớp băng. Không có cách nào để lén băng qua chỗ hắn, tên bắn tỉa có
một tầm xạ kích rất rộng, gần nhƣ thành một vòng tròn. Những tảng đá lớn chắn cho hắn
khỏi trúng đạn. Rất nhiều binh lính và sĩ quan cần vƣợt qua sông đang phải nép vào cánh
rừng ở hai bên bờ. Chốc chốc lại có ngƣời quyết định chạy nhanh qua bên kia dƣới làn
đạn, và đã thành công. Nhƣng cũng có đôi ngƣời trúng đạn ngã gục trên lớp băng. Họ cố
trƣờn sang bờ đối diện. Cái che chắn duy nhất cho những ngƣời băng qua là xác một
chiếc xe tăng Xô viết bị cháy rụi nằm giữa dòng sông. Tất nhiên, nếu có trong tay một
khẩu súng cối thì chúng tôi đã nhanh chóng bắt hắn câm họng. Nhƣng lúc đấy không có
súng cối, mà lại chẳng ai nghĩ ra điều đó cả.
Tôi cũng bắt buộc phải vƣợt qua sông. Tên bắn tỉa nã hai phát và dừng lại từng
chặp. Tôi nấp sau một cái cây gần bờ và chờ đợi. Sau mỗi lần súng nổ, tôi lại chạy thật
nhanh tới chỗ cái xe tăng. Ngay khi tôi bám đƣợc vào nó, những viên đạn lại nã loảng
xoảng vào vỏ thép xe. Chờ một chút để lấy lại hơi, tôi chờ tới loạt đạn kế tiếp, và khi
chúng vừa dứt thì chạy thục mạng. Quãng đƣờng này xa hơn, và rồi thế là tôi đã an toàn
nấp mình sau đám cành lá của cái cây đầu tiên nơi bờ sông bên kia. Phù … nhiều ngày
sau, khi bọn Phần Lan đã bị đẩy lùi và chúng tôi kéo pháo ngang qua địa điểm đáng
nguyền rủa đó, tôi tới nhòm xem cái mỏm đá nọ ra sao. Chỗ đó có một cái hố đào giữa
những tảng đá lớn, phủ đầy cành thông, với một lỗ châu mai chĩa vào các lối qua lại.
Những vỏ bao thuốc lá có in dòng chữ "Sport" nằm rải rác cùng rất nhiều vỏ đạn rỗng.
Những vỏ đạn mà tên bắn tỉa đã dùng để bắn vào tôi chắc hẳn nằm lẫn lộn đâu đó chỗ
này.
Vào thời điểm trƣớc khi bắt đầu giao chiến, họ thông báo cho chúng tôi, các sĩ
quan, rằng ba trung đoàn của mỗi sƣ đoàn sẽ tham chiến trong vòng mƣời ngày rồi đƣợc
rút ra. Chúng tôi đã khát khao chờ đợi cho mƣời ngày đó kết thúc biết bao nhiêu. Chúng
tôi chờ, ngập ngụa trong máu của chính mình, lần lƣợt gửi các đồng đội của mình hết về
trạm quân y lại ra nghĩa địa. Nhƣng, lạy trời chứng giám, chúng tôi đã không đƣợc thay
ra thậm chí sau cả hơn chục ngày. Khi sƣ đoàn trƣởng phát hiện ra tổn thất quá lớn của
trung đoàn 306, ông ta quyết định rằng sẽ không huỷ diệt nốt hai trung đoàn còn lại theo
cách đó nữa. Sau khi thay đổi quyết định chính thức của mình, ông ta phát biểu: "Khi nào
tôi sử dụng tới kiệt hết trung đoàn 306, tôi sẽ nghĩ tới chuyện thay nó ra.” Thật ra, chúng
tôi đã không đƣợc thế chỗ cho tới tận cuối cuộc chiến, và đã kiệt lực tới mức chỉ còn sót
lại có "móng với sừng” mà thôi.
Điều khủng khiếp ấy, những trận chiến liên miên ấy, diễn ra trong suốt 22 ngày
đêm. Chúng tôi trở thành những loại nửa ngƣời nửa thú: bị sƣơng giá ăn cháy da cháy thịt,
bẩn thỉu, lúc nhúc chấy rận, râu ria xồm xoàm, quần áo cháy sém lỗ chỗ, câu nào nói ra
cũng kèm thêm mấy lời chửi rủa tục tằn. Và luôn đắm trong nỗi lo sợ sẽ bị thƣơng hay bị
giết chết.
Rồi bất ngờ, nếu tôi nhớ không lầm, vào buổi chiều ngày 11 tháng Ba, một trong
những cậu nhân viên vô tuyến điện dƣới quyền chạy tới chỗ tôi, mang theo một tin đáng
quan tâm. Anh ta tình cờ nhận đƣợc một điện tín: một hiệp định đình chiến đã đƣợc ký.
Tôi chạy tới chỗ chính ủy, nhƣng anh ta hét lên với tôi, bảo rằng tôi luôn tin vào mọi thứ
tin đồn thất thiệt và lan truyền chúng đi. Nhƣng những tin nhƣ thế không thể giữ bí mật
đƣợc lâu. Dựa trên thái độ của binh lính, tôi hiểu rằng tin đó sẽ lan nhanh. Vài ngƣời đến
gặp để xin tôi xác nhận tin đó, nhƣng tôi đáp là không có trong tay những thông tin chính
thức. Rồi tới buổi sáng ngày hôm sau. Đấy là ngày 12 tháng Ba năm 1940. Mọi ngƣời
cùng chờ đợi một điều gì đó. Nhƣng rồi tay khẩu đội trƣởng gọi tới từ chốt quan trắc tiền
tiêu: “Khẩu đội, sẵn sàng nhả đạn !” Tôi truyền lệnh đi: “Tất cả vào vị trí, sẵn sàng bắn,
đem đạn tới và chùi sạch!” Quân lính thực hiện một cách miễn cƣỡng. Có ai đó càu nhàu:
"Cái thứ hoà bình của ông nhƣ thế đó.” Khẩu đội trƣởng thông báo tọa độ mục tiêu, tôi
điều chỉnh các khẩu pháo và hô: “Bắn !”, rồøi lại “Bắn !”. Quân Phần Lan bắt đầu đáp trả
bằng súng cối hạng nặng. Đạn rơi sang phía bên trái, vào ngay trƣớc mặt, rồi xuống ngã
tƣ đƣờng. Một con ngựa kéo xe bị trúng đạn, con vật đáng thƣơng bụng bị xé toạc giẫy
dụa trong đống ruột của chính nó: thật là một cảnh tƣợng kinh khủng. Nhƣng khẩu đội
trƣởng vẫn tiếp tục ra lệnh từ vị trí quan trắc: “Bắn !” và “Bắn !”.
Chiến tuyến trên bán đảo Karelia ngày 13 tháng Ba năm 1940.
Lấy từ “The battles of Winter war”
Tới khoảng 10 giờ sáng, có một ngƣời cƣỡi ngựa xuất hiện trên con đƣờng dẫn về
hậu phƣơng, anh ta đang la hét điều gì đó và vung vẩy một cái phong bì trên tay. Mỗi lúc
một gần hơn. Chúng tôi nhận ra đó là một ngƣời đƣa tin của sở chỉ huy trung đoàn, một
anh lính nhỏ bé vui tính, đã tới khẩu đội chúng tôi rất nhiều lần. Anh ta đang hét: "Ngừng
bắn!" Điều gì xảy ra thế này! Có vài ngƣời kêu to "Hurrah!", có mấy ngƣời ôm hôn nhau,
một số ngƣời thì khóc, và số khác chỉ đơn giản là ngã lăn ra tuyết. Tôi cầm lấy cái phong
bì bằng bàn tay run lẩy bẩy. Nó không có niêm phong. Bên trong là mệnh lệnh yêu cầu
khẩu đội trƣởng ngƣng bắn. Ngƣời điện thoại viên gọi tôi tới bên điện thoại. Khẩu đội
trƣởng đang hét lên với tôi: “Tại sao anh lại ngừng bắn?” Tôi cũng hét lại rằng đó là do
lệnh từ sở chỉ huy, họ nói là đã hoà bình rồi. “Hòa bình cái gì? Anh mất trí rồi à !”
Nhƣng lúc này tiếng pháo đã yên ắng trên suốt chiều dài mặt trận. Còn nếu nghe thấy
phát đạn nào nổ muộn màng, binh lính phản ứng rất giận dữ: "Bọn chúng bị làm sao vậy,
chúng không biết chuyện gì đã xảy ra sao?!” Sau cơn vui mừng bột phát ban đầu là một
tình trạng phản cảm diễn ra. Rũ ngƣời vì mệt, tất cả đều trở nên im lặng và cứng đờ,
không biết phải làm gì tiếp theo. Một số ngƣời đã chứng kiến sau này kể lại về cảnh tin
ngừng bắn đƣợc đón tiếp tại các vị trí bộ binh đóng trên tuyến đầu: những ngƣời lính lạnh
cóng và kiệt sức, cả phía Phần Lan và phía quân ta, bò khỏi những hố trú ẩn của họ từ hai
phía chiến tuyến, nhìn nhau một cách nghi ngờ và cùng ngạc nhiên trƣớc những kẻ mới
đây hãy còn là đối thủ của nhau. Và họ không thể hiểu nổi điều gì đã xảy ra. Chuyện gì
vậy? Họ im lặng, đi đốt lửa để tự sƣởi ấm. Vài ngƣời lính Phần Lan leo lên đỉnh một
phiến đá lớn và hét về phía lính ta: "Ê, bọn Nga kia, chúng mày đãø từng bắn vào tao
trong khi tao đang ngồi ngay dƣới tảng đá này đây !” Một ngƣời lính Phần Lan khác hét
qua khoảng đất chết giữa hai chiến hào: “Đừng đi sang phía bên phải, chúng tôi đã gài
mìn chỗ ấy đấy.”
Và thế là hoà bình. Chúng tôi rút về phía sau một chút và đƣợc lệnh đào công sự.
Ngƣời ta tổ chức một nhà tắm dã chiến với một căn phòng khử chấy rận. Điều đó hết sức
cần thiết. Không có gì phải giấu diếm cả, lũ rận đang ăn sống chúng tôi. Chúng tôi tắm
rửa trong ba cái lều dựng liên tục sát nhau. Cái nền đầy tuyết của lều đƣợc rải một lớp
cành cây còn nguyên lá xanh. Chúng tôi cởi bỏ lớp đồ lót bẩn thỉu của mình trong cái lều
đầu tiên. Tại cái lều thứ hai, một hệ thống ống phun nƣớc nóng, gần nhƣ còn đang sôi
sùng sục, lên mình chúng tôi. Rồi chúng tôi chạy qua cái lều thứ ba để nhận đồ lót sạch,
mặc vội lên thân ngƣời hãy còn ƣớt lƣớt thƣớt bởi chẳng có gì để lau mình cả. Rồi chúng
tôi đứng chờ, ngƣời bị luộc chín nhừ và chỉ vận độc có đồ lót, cho tới khi quân phục của
chúng tôi đƣợc hơ lửa xong. Tất cả mọi chuyện đều diễn ra trong cái lạnh cắt da, nhiệt độ
ở trong cũng nhƣ ngoài lều đều gần nhƣ nhau. Tôi cũng không hiểu tại sao chúng tôi có
thể chịu đƣợc mà không bị cảm lạnh hay viêm phổi. Nhƣng chúng tôi cũng rất mừng vì
đƣợc cho đi tắm nhƣ thế.
Khoảng hai tuần sau khi kết thúc đánh nhau, sau khi đã nghỉ ngơi đƣợc một chút,
lấy lại sức lực và lau chùi vũ khí, chúng tôi đƣợc lệnh hành quân trở về. Toàn trung đoàn
lập thành một đội hình hành quân. Chỉ khi ấy chúng tôi mới thấy đƣợc chính xác những
tổn thất mà trung đoàn phải chịu đựng. Trung đoàn tới đây với đầy đủ quân số thời chiến.
Bộ binh bao gồm ba tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có 700 tay lê. Giờ đây cả trung đoàn không
còn đủ lính để lập thành một tiểu đoàn duy nhất. Các đại đội đƣợc giao cho các trung sĩ
chỉ huy. Chúng tôi, lính pháo binh, cũng chịu tổn thất nặng. Trong số chín sĩ quan của
khẩu đội chúng tôi, giờ chỉ còn có bốn. Hai ngƣời bị giết và ba bị thƣơng. Ngay nhƣ tôi,
một sĩ quan dự bị, cũng đƣợc chỉ định làm quyền khẩu đội trƣởng trong trƣờng hợp ngƣời
đƣơng nhiệm mất khả năng điều khiển khẩu đội. Tôi không nhớ nổi có bao nhiêu binh
lính và hạ sĩ quan đã thiệt mạng nữa. Chúng tôi đi tới đây trong nhiều tốp, quân số trung
đoàn rất đông. Bây giờ đây toàn trung đoàn chỉ còn là một đội hình duy nhất, có thể thấy
và nghe tiếng ban nhạc đang chơi bài hành khúc ở phía trƣớc. Chúng tôi hành quân
ngƣợc lại nơi trạm quân y đã đóng và nơi đặt các nghĩa trang. Trạm quân y đã dời đi
nhƣng nghĩa trang thì vẫn còn đó.
Nếu chúng tôi không phải trông thấy những xác chết, chúng nhƣ những manơcanh
đáng sợ làm bằng sáp bị đông cứng, thì cái chết đối với chúng tôi đã không khủng khiếp
đến thế. Trong thời bình, cái chết của một ngƣời bệnh không ập tới bất thình lình. Nhƣng
thật là phi lý khi phải thấy cái chết đến với một ngƣời trẻ trai khoẻ mạnh, tự dƣng lại ngã
vào tay ta nhƣ một cái bị, gƣơng mặt anh ta chuyển dần sang vàng ệch, hai bên mép và
mi mắt của anh trễ xuống. Và ta phải quan sát toàn bộ cái diễn tiến kinh khủng ấy, sự
chuyển từ một ngƣời sống sang một xác chết, cuối cùng là thành một gò đất nhỏ băng giá
trên mảnh đất Phần Lan đáng nguyền rủa.
Thật khó mà diễn tả nổi thành lời những cảm xúc xảy ra trong đầu chúng tôi khi
hành quân ngang qua cái nghĩa địa ấy. Cách đây không lâu những con ngƣời ấy, những
đồng chí của chúng tôi, khoẻ mạnh và trai tráng, còn ở cùng đội ngũ và trông chẳng khác
gì chúng tôi. Thậm chí cho tới khi ngƣời ta đƣa họ ra tới đây, vì bất kỳ ngƣời nào trong
chúng tôi cũng có thể phải ra nằm đây bất cứ lúc nào, thì chúng tôi cũng vẫn chƣa cảm
thấy mình xa lạ đối với họ. Giờ đây chúng tôi đang rời xa họ mãi mãi, còn họ sẽ vĩnh
viễn nằm lại chỗ này. Có một vực thẳm đã ngăn cách giữa chúng tôi và họ, mà chúng tôi
không thể hình dung đƣợc bằng cách nào và vì sao điều đó đã xảy ra.
Hiển nhiên chúng tôi hiểu rằng cuộc chiến này là cần thiết. Chúng ta phải bảo vệ
Leningrad, cách ly nó xa khỏi đƣờng biên giới nguy hiểm kia bằng một vùng đất Xô viết
rộng lớn hơn. Chúng tôi cũng biết rằng ngƣời Phần Lan đã từ chối lời đề nghị của Chính
phủ Xô viết đổi vùng đất ấy lấy bất cứ một chỗ nào khác dọc theo biên giới. Nhƣng
chúng tôi không hiểu nổi một điều – đó là cách thức mà ngƣời ta đã tiến hành chiến tranh.
Tại sao chúng ta không ném bom trƣớc những lô cốt công sự của Phần Lan, cô lập chúng,
vƣợt qua chúng và bỏ chúng lại phía sau?! Nhƣ cách ngƣời Đức đã làm với phòng tuyến
Maginot chẳng hạn? Tại sao chúng ta không thả lính nhảy dù xuống hậu phƣơng Phần
Lan, và sử dụng xe tăng nhiều hơn nữa? (Thực ra, trong chiến tranh Phần Lan ngƣời Nga
đã đƣa vào sử dụng rất nhiều xe tăng. Tuy vậy phần lớn chúng là loại T-26 và BT-7 đã
lạc hậu, không phù hợp điều kiện chiến trƣờng và bị bộ binh đốt cháy khá dễ dàng - LTD)
Chúng tôi đã trông thấy rất nhiều những trang thiết bị quân sự ấy nằm lại tại Bologoye.
Không, họ đã chọn cách ném mọi ngƣời thẳng vào làn đạn súng máy và đại bác bắn ra từ
các lô cốt, dƣới ánh sáng mặt trời rõ mồn một. Và thế là hàng ngàn chàng trai bị đƣa
thẳng xuống mồ. Tại sao vậy? Hay có lẽ họ cũng cùng kiểu suy nghĩ nhƣ "nhà chiến lƣợc
quân sự" nọ đã đƣa chúng tôi tiến thẳng tới cái lô cốt ngay trƣớc trận đánh, cũng cho rằng
đó chỉ là những pháo đài bằng cát cùng những chú lính chì trong tay họ, và bản thân họ
đang tập đánh trận giả chăng. Tất cả những điều đó thật không hiểu nổi và thật đáng phẫn
nộ.
Sau khi hiệp ƣớc hòa bình đƣợc ký kết, trên báo chí ngƣời ta viết rằng thiệt hại
của chúng tôi cả chết lẫn bị thƣơng tổng cộng là khoảng năm mƣơi ngàn ngƣời. (Ngày
nay, thống kê chính thức của cả phía Nga và Phần Lan cho biết trong chiến tranh Phần
Lan quân đội Xô viết có khoảng từ 200.000 – 400.000 ngƣời chết và bị thƣơng, phía
Phần Lan là khoảng 66.000 ngƣời chết và bị thƣơng - LTD) Có biết bao nhiêu bi kịch ẩn
giấu đằng sau những con số ấy! Những tổn thất ấy đáng ra đã có thể giảm thiểu một cách
đáng kể!
Các trung đoàn còn lại thuộc sƣ đoàn chúng tôi, đƣợc bố trí dự bị phía sau trong
suốt thời gian giao tranh, đã quay về từ trƣớc và là những đơn vị đầu tiên diễu qua
Leningrad nhƣ những anh hùng. Họ đƣợc nhận một lễ đón tiếp long trọng, những lời chúc
mừng và quà tặng từ nhân dân Leningrad. Còn khi trung đoàn 306 chúng tôi, hay đúng
hơn là phần còn lại của nó, một đơn vị đã thực sự tham chiến và phải gánh trên vai toàn
bộ sức nặng của chiến tranh, đi qua thành phố, thì những lễ chào mừng đã kết thúc, và
chúng tôi chẳng nhận đƣợc quà tặng lẫn những lời chúc mừng nào. Cuộc đời là thế đó.
Sau này chúng tôi đƣợc biết rằng trung đoàn chúng tôi đã đƣợc tặng Huân chƣơng
Cờ Đỏ vì đã công phá đƣợc phòng tuyến Mannerheim. Nhiều sĩ quan của các đơn vị bộ
binh của trung đoàn cũng đƣợc nhận huân chƣơng. Phần thƣởng và huân chƣơng thời đó
hãy còn rất hiếm. Cánh pháo binh chúng tôi không đƣợc nhận bất cứ thứ gì, dù danh sách
khen thƣởng của chúng tôi cũng đƣợc gửi đồng thời với họ. Nhƣng còn đƣợc sống với
nguyên vẹn cái đầu trên cổ cũng đã là một phần thƣởng đáng kể rồi.
Khi chúng tôi rời Leningrad và lên tàu ở một nhà ga, chúng tôi đƣợc mục kích
một cảnh tƣợng khác hẳn. Rất nhiều toa tàu chở hàng, cửa sổ chăng kín dây kẽm gai, nằm
tách rời trên một tuyến đƣờng rày riêng biệt. Lính gác mang súng có gắn lƣỡi lê không để
bất cứ ai lại gần những toa xe ấy. Một thợ đƣờng sắt thì thầm với tôi rằng những toa ấy
tới từ Phần Lan, chở những binh lính đã từng bị bắt làm tù binh. Cho tới trƣớc lới lúc ấy
chúng tôi mới chỉ nghĩ là những ngƣời trải qua cuộc chiến đƣợc chia thành ba loại: một
số ngƣời may mắn thì đã tránh đi cho xa; những ngƣời khác, bị sƣơng giá thui chột và
đầy thƣơng tật thì đƣợc đƣa tới bệnh viện; còn loại thứ ba thì vùi xƣơng trên mảnh đất
Phần Lan tuyết phủ. Nhƣng hóa ra vẫn còn loại ngƣời kém may mắn thứ tƣ, những ngƣời
còn đang chờ bị thẩm vấn và xét xử trong các nhà tù di động bằng gỗ lạnh cóng ấy. Ai
đứng ra quyết định số phận của mỗi con ngƣời trong chiến tranh và phân họ thành những
loại khác nhau bằng một bàn tay tàn nhẫn đến nhƣ vậy? Và dễ biết bao để có thể chuyển
một con ngƣời từ loại số phận này sang loại số phận khác. Điều gì là quyết định và điều
gì là tình cờ? (Ngay sau khi chiến tranh Phần Lan vừa kết thúc, khoảng 5.500 tù binh Xô
viết đƣợc Phần Lan trao trả lại cho Liên Xô. Tất cả đều bị đƣa vào trại tập trung để thẩm
vấn. Khoảng 500 ngƣời trong số đó bị xử bắn và 4.354 ngƣời bị đƣa đi lao động khổ sai
từ 5-8 năm. - LTD)
Một trong những đặc điểm của cuộc chiến tranh này là cái sự thực rằng chúng tôi
chỉ chiến đấu bởi vì chúng tôi đã đƣợc ra lệnh nhƣ thế. Nó khác với cuộc Chiến tranh Vệ
quốc sau này, khi chúng tôi thực sự căm thù bọn xâm lƣợc đã tấn công quê hƣơng chúng
tôi. Lúc đó ngƣời ta chỉ cần hô: “Xung phong !” – thậm chí không phải giải thích chúng
tôi cần tiến lên phía nào. Chúng tôi đã chỉ đơn giản là thực hiện nghĩa vụ quân nhân của
mình trong cuộc chiến Phần Lan, trong khi lại ý thức rõ sự cần thiết của cuộc chiến sau
đó (Chiến tranh Vệ quốc). Từ đầu chúng tôi không thấy thù ghét ngƣời Phần Lan, mà chỉ
sau này, khi đã tận mắt chứng kiến nhiều hành động tàn nhẫn của đối phƣơng, binh lính
của chúng tôi mới bắt đầu cảm thấy căm giận họ. Ví dụ nhƣ họ đã điên cuồng giết chết
bọn “cúc cu”, những kẻ gây rất nhiều tội ác. Nhƣng nhìn chung, một ngƣời Nga, một
ngƣời lính Xô viết thật ra là một ngƣời có bản tính tốt, anh phải cố gắng rất nhiều mới có
thể làm hắn nổi giận.
Câu chuyện của tôi về thiên anh hùng ca Ba Lan – Phần Lan đã tới hồi kết. Tôi
đƣợc phục viên vào mùa thu năm 1945, sau khi Chiến tranh Vệ quốc kết thúc. Một cô gái
nào đó đứng ra điền vào tờ lý lịch quân nhân của tôi tại Trụ sở Quân uỷ quận Bauman.
Cô ta ghi lại trên đó tất cả những rủi ro mà tôi đã gặp phải. "Xin hãy viết vào đây là tôi đã
từng tham gia cuộc chiến chống lại bọn Bạch vệ Phần Lan.” "Ở đây chúng tôi không ghi
lại về chiến tranh Phần Lan,” – cô gái nói và, rƣớn ngƣời qua bàn làm việc, hét về phía cô
bạn bên cạnh: "Svetka, cậu có cùng đi ăn trƣa không?” Đoạn kết là thế đó. Thật ra, tại sao
anh lại phải “viết về cuộc chiến Phần Lan”, trong khi tình hình đã hoàn toàn đổi khác, và
anh phải quên đi những gì về cái cuộc chiến đó càng nhanh càng tốt, vờ nhƣ nó thậm chí
không hề xảy ra với một ngƣời láng giềng tốt bụng nhƣ ngƣời Phần Lan.
Những dòng hồi ký trên hầu hết đƣợc tác giả viết khi ông phải vào bệnh viện điều
trị bệnh viêm phổi vào tháng Mƣời năm 1981. Việc này đã giúp ông khuây khỏa qua
những buổi chiều tẻ ngắt và những đêm mất ngủ tại nơi bệnh viện ảm đạm. Trong những
năm về sau, tác giả chỉ phải hiệu chỉnh, bổ sung và biên tập lại những ghi chép trên.
Dịch từ nguyên tác tiếng Nga: Bair Irincheev
Dịch từ tiếng Anh: Lý Thế Dân
Hồi ức của Mikhail Lukinov
Phần 3: Bị giam cầm
Ngày 15 tháng Bảy năm 1942 (tôi nhớ rất rõ cái ngày đáng nguyền rủa này),
chúng tôi bắt gặp mấy ngƣời nông dân trong một khu rừng và hỏi xin họ một ít thức ăn.
Chúng tôi đang gần nhƣ sắp chết vì đói. Mấy ngƣời nông dân không cho chúng tôi thứ gì,
nhƣng họ bảo rằng cƣ dân ở làng bên (làng Kolodezi hay Istruby gì đó) có nhiều đồ ăn do
cƣớp đƣợc từ kho của nông trang. Họ cũng bảo chúng tôi là trong làng không có bọn Đức.
Đó là một làng nhỏ với một ngôi nhà đơn độc có một dãy kho thóc nằm án đằng trƣớc.
Chúng tôi vẫn biết là bọn Đức luôn đƣa lính gác tới đóng ở những ngôi làng chúng đã
chiếm giữ. Phục trong rừng, chúng tôi quan sát rất lâu ngôi làng nhƣng không phát hiện
thấy tên lính gác nào. Một ngƣời lính dƣới quyền tôi lặng lẽ lẻn tới dọc theo hàng rào của
ngôi nhà đầu tiên rồi quay về báo cáo rằng nhà hoàn toàn bỏ trống. Thế là chúng tôi cẩn
trọng bƣớc ra khỏi khu rừng và hƣớng về phía làng. Vừa tới đƣợc ngôi nhà đầu tiên mà
chúng tôi cho rằng bị bỏ trống, một đám lính Đức lập tức ùa ra, la hét và nã tiểu liên liên
hồi. Chúng chặn mất đƣờng rút của chúng tôi vào rừng. Chúng tôi đã lọt vào một cái bẫy.
Tôi chỉ kịp nổ một phát súng lục thì bị một ngƣời trong nhóm túm lấy tay và quát lớn:
“Đừng bắn, chúng sẽ giết hết chúng ta mất!” Bọn Đức nắm lấy tôi, lấy báng súng giáng
tôi thật mạnh, đánh bật khẩu súng lục khỏi tay tôi, và khi tôi ngã xuống thì chúng dùng đế
giầy đạp tôi liên hồi. Tôi không hiểu hết những gì chúng đang nói bởi chúng nói quá
nhanh mà không phát âm cho hết từ; chúng luôn nuốt mất âm cuối. Nhƣng nhờ trời, tôi
vẫn hiểu đƣợc những ý chính: “Đấy chính là thằng vừa mới nổ súng! Phải giết chết đồ
lợn này! Nhƣng không phải ở đây, hãy ra sau nhà kho kia mà làm, ở đó có sẵn một cái
hố.” Tôi có một cái áo khoác lính bình thƣờng – tôi mặc nó bên ngoài đồng phục sĩ quan
để có thể gần gũi với binh sĩ hơn. Giờ đây chúng nắm lấy cái áo khoác kéo tôi đi. Tới đâu?
Có lẽ tới cái hố đằng sau nhà kho. Cái áo khoác bị bung nút. Bọn Đức trông thấy bộ đồng
phục sĩ quan của tôi, cái thắt lƣng sĩ quan, cấp hiệu trung uý của tôi và cái xà cột đựng
bản đồ bằng da màu vàng. Chúng thôi kéo tôi và bắt đầu chằm chằm quan sát.
"Du bist Komissar?" ("Mày có phải là chính trị viên không?“ - LTD) Tôi cố gắng
trả lời thật rõ ràng: "Nein, ich bin Oberleitenant" ("Không, tôi là thƣợng uý” - LTD). Bọn
Đức cúi xuống và tiếp tục khám xét tôi, trong lúc đó tôi nằm trên mặt đất, yếu ớt và bàn
quan với số phận của chính mình. Bọn Đức lặng lẽ trao đổi với nhau. Thế rồi một tên
trong bọn, một hạ sĩ quan, nói: “Hắn không nói dối đâu. Hắn là sĩ quan đấy. Chúng ta nên
đƣa hắn về Sở chỉ huy. Đã có lệnh nếu bắt đƣợc sĩ quan thì phải đƣa về sở chỉ huy”.
Chúng ngƣng đánh, kéo tôi đứng dậy và đƣa tôi đi, chốc chốc lại thúc báng súng vào lƣng.
Tôi bƣớc đi, mặc dù rất khó khăn, ngƣời yếu lả vì đói và bi đánh. Mọi thứ trƣớc mặt đều
nhƣ trong làn sƣơng mù và tôi cảm thấy rất chóng mặt. Mọi việc nhƣ trong một cơn ác
mộng, và nhƣ đang xảy ra không phải với tôi mà với một ngƣời nào khác. Dƣờng nhƣ tôi
không còn tồn tại mà đang nằm chết ngoài rìa làng rồi. Tôi cảm thấy nhƣ bọn Đức đang
dắt một ai khác về sở chỉ huy của chúng vậy.
Tôi không còn nhớ phải mất bao lâu để tới đƣợc sở chỉ huy của chúng. Tôi cũng
không nhớ nổi mình đã phải đi bộ bao xa. Lính của tôi không đƣợc đi chung với tôi. Họ
bị đƣa tới một chỗ nào đó và tôi không gặp lại họ nữa. Chúng đem tôi tới một ngôi làng
khác. Sau này nhƣ tôi đƣợc biết, đó là làng Razboynya (Nơi trú của lũ trộm) – một cái tên
rất hợp. Gần làng, trên một bãi đất trống, tôi trông thấy san sát nhau nhiều dãy lán trại
của một đơn vị lính Đức.
Bọn lính đƣa tôi (hay đúng hơn là kéo lê tôi đi) vào một cái lán, có lẽ đó là trạm
chỉ huy, trong có một bàn rộng và nhiều ghế ngồi. Chúng lột áo khoác và dây nịt của tôi,
lấy mọi thứ trong túi và để tất cả lên bàn. Bọn sĩ quan Đức kéo tới. Chúng quan sát kỹ
càng mọi vật dụng của tôi, các giấy tờ và mấy tấm ảnh. May thay, thẻ Đảng và thẻ sĩ
quan cùng số hiệu trung đoàn đã đƣợc giấu trong ủng của tôi, bọn Đức không tìm đƣợc
chúng. Đầu tiên chúng hỏi xem tôi có phải chính uỷ không. Để kiểm tra câu trả lời của tôi,
chúng xăm soi thật kỹ ống tay áo quân phục của tôi, chỗ thêu ngôi sao của các chính trị
viên. Ở chỗ ấy có dấu thêu của ngôi sao nào không, hay tôi chỉ vừa mới xé nó đi thôi?
Rồi chúng hỏi xem tôi có phải Đảng viên Cộng sản không, tôi là sĩ quan chuyên nghiệp
hay chỉ là lính quân dịch; tôi thuộc dân tộc nào, và tôi là ngƣời Nga thuần chủng phải
không; vị tƣớng sƣ đoàn trƣởng của tôi ở đâu. Ở chỗ nào làm sao mà tôi biết đƣợc? Tôi
chật vật trả lời những câu hỏi của chúng. Tôi cảm thấy rất yếu và chóng mặt. Bọn chúng
tỏ vẻ tò mò trƣớc mấy bức ảnh của tôi. Chúng đặc biệt chú ý tới bức ảnh chụp vợ tôi đang
ngồi cạnh cửa sổ. Tôi bảo chúng rằng bức ảnh ấy chụp tại căn hộ của tôi ở Matskva.
Chúng hỏi lại tôi một cách giễu cợt: "Đấy có phải cái cửa sổ độc nhất trong căn hộ của
mày không?” Tôi trả lời rằng ở đấy còn nhiều cửa sổ khác nữa. Chúng lấy đi tất cả trang
bị của tôi, cái thắt lƣng, cái bao trong có khẩu súng lục, cái xà cột đựng bản đồ và cái la
bàn. Sau khi thẩm vấn chúng đƣa tôi tới một nơi nào đấy, xung quanh rào đầy kẽm gai.
Sau lớp kẽm gai tôi trông thấy những cái lán thảm hại làm bằng thùng và những tấm sắt rỉ
sét. Tù binh Nga, những ngƣời phải làm việc phục dịch cho những đơn vị lính Đức, sống
trong đó. Những con ngƣời ấy đón tiếp tôi rất nồng hậu. Họ đi tới nhà ăn của bọn Đức và
đem về cho tôi một ca đầy cháo và một ổ bánh mì. Họ cũng cảnh báo tôi nên thận trọng.
Ở đấy có một tên lính gác Đức luôn dò xét trong đám tù binh xem ai trông giống ngƣời
Do Thái. Rồi hắn đem họ ra ngoài rừng và bắn chết họ. Những thằng Đức khác cũng
không ƣa hắn nhƣng không ngăn hắn làm chuyện đó. Hóa ra thằng gác ấy cũng đã hỏi
những tù binh khác về tôi, do mái tóc sẫm của tôi làm hắn nghi ngờ. Mọi ngƣời đã cố
gắng thuyết phục hắn rằng tôi là ngƣời Nga. Sau đó thằng khốn nạn ấy lại tìm tôi sau
hàng rào kẽm gai và hỏi mấy câu khiêu khích. Chật vật lắm tôi mới thoát khỏi hắn.
Tôi rất biết ơn những tù binh Nga đã cho tôi ăn và để tôi ở lại qua đêm tại một
trong những cái lán. Sáng hôm sau tôi thức dậy và trƣớc tiên là tự hỏi không hiểu mình
đang ở đâu. Nhƣng những vết đánh khắp ngƣời từ trận đòn hôm qua nhắc tôi nhớ ra sự
thật đáng buồn - tôi đang là tù binh! Những vị chủ nhà hiếu khách, những ngƣời lính bị
bắt làm tù binh, đã bị đƣa đi làm việc đâu đó từ lúc sáng sớm. Tuy vậy, họ vẫn không
quên để lại cho tôi một âu cháo cùng một mẩu bánh mì. Xin cám ơn các bạn, các đồng
chí của tôi!
Qua hàng rào kẽm gai, tôi trông thấy một phần doanh trại quân Đức. Những cái
lán rất đẹp đƣợc dựng thành từng hàng thẳng tắp. Trƣớc lán trồng cả mấy luống hoa, còn
những chiếc mũ sắt thì đặt thành hàng ngay ngắn trƣớc lều. Cờ xí và các quân hiệu sặc sỡ
treo khắp nơi. Nhƣ thể không hề có chiến tranh mà đang ở thời bình trong một doanh trại
quân đội vậy. Chúng không thèm động một ngón tay để nguỵ trang doanh trại của mình.
Chúng đủ khả năng tạo dựng một cuộc sống hòa bình nhƣ vậy chỉ vì quân đội ta không
còn không quân hay xe tăng tại khu vực này của mặt trận, trong khi các lực lƣợng kiệt
sức của ta tại vùng này đã bị bao vây hoàn toàn. Tất cả vẻ đẹp rực rỡ và thứ trật tự ngăn
nắp này hoàn toàn tƣơng phản với cảnh vật đất Nga bao quanh: những cánh rừng, những
cánh đồng, những túp lều thôn quê nƣớc Nga. Tôi cảm thấy rằng tất cả những thứ “kỷ
luật Đức” này, những thứ đƣợc đƣa tới đây bằng bạo lực, sẽ không thể tồn tại lâu ở đây.
Tôi nhanh chóng đƣợc nhập chung với một đoàn tù binh bị áp giải về phía tây.
Trƣớc khi khởi hành tôi tình cờ trông thấy một tên trong nhóm sĩ quan Đức đã tham gia
hỏi cung tôi đêm trƣớc. Hắn đeo cái xà cột đựng bản đồ bằng da vàng ƣa thích của tôi
bên thắt lƣng – cái xà cột tôi đã đem theo từ kho quân trang Hồng quân ở Matskva. Tôi
có thể làm gì bây giờ? Tôi hiện đang trong hoàn cảnh mà bất kỳ tên Đức nào cũng có thể
tƣớc đi bất cứ thứ gì hắn muốn, thậm chí cả mạng sống của tôi. Có ngƣời nói rằng bọn
Đức thƣờng đi săn lùng những xà cột da Xô viết. Bọn Polizei khốn nạn hèn hạ (Polizei –
tên gọi mà ngƣời Nga dùng để chỉ những kẻ Nga gian tham gia lực lƣợng cảnh sát làm
việc cho ngƣời Đức – LTD.), những kẻ luôn cố gắng hết sức để chứng tỏ lòng trung
thành với những ông chủ mới của chúng, đặc biệt biết rõ điều đó.
Vậy đấy, bị bắt làm tù binh. Chúng tôi bƣớc đi dƣới sự áp tải chặt chẽ. Những
ngƣời bị thƣơng hay kiệt sức và không thể bƣớc đi luôn bị đe dọa xử bắn dọc đƣờng. Tại
vài nơi, trong những rãnh hai bên đƣờng, chúng tôi trông thấy thi thể đã thối rữa của
nhiều binh lính Xô viết. Bị bắt vào mùa hè là còn may cho chúng tôi. Những ngƣời bị bắt
vào mùa đông kể lại rằng, trong khi đi đƣờng bọn lính Đức áp giải thƣờng tìm cách tƣớc
ủng dạ của mọi ngƣời. Chúng thƣờng đánh một tù binh ngã xuống rồi lột ủng khỏi chân
anh ta. Đồng đội phải đƣa anh ta một mảnh giẻ để quấn chân, nhƣng điều này cũng không
giúp gì nhiều. Những tù binh nhƣ thế thƣờng sẽ lạnh cóng, tụt dần lại sau, và bọn lính áp
tải sẽ bắn gục anh ta. Bọn Đức cũng cƣớp cả những nón lông còn tốt và áo khoác lông
cừu. Đi mình trần trong giá lạnh cũng đồng nghĩa với bệnh viêm phổi và cái chết. Sau
nhiều chặng nghỉ chân, chúng tôi bị đƣa tới một trại tù binh lớn ở thị trấn Sychevka.
Đã đến trại tù binh ở Sychevka. Hàng đám đông những ngƣời đàn ông đói khát,
râu ria lởm chởm tụ tập sau hàng rào thép gai. Những doanh trại và nhà kho, trong đó
những ngƣời bị thƣơng, ngƣời ốm và ngƣời khoẻ mạnh nằm chung với nhau trên những
dãy giƣờng tầng làm vội vàng tạm bợ. Trong trại, chúng tôi trông thấy những giá treo cổ,
trên vẫn còn lủng lẳng vài đoạn thừng. Những ngƣời tù đã ở lâu trong trại kể rằng đã có
một đợt hành hình xảy ra không lâu trƣớc lúc chúng tôi tới. Điều đầu tiên chúng làm với
chúng tôi là lục soát mọi ngƣời. Chúng lấy đi tất cả những giấy tờ còn lại và đốt chúng
ngay trƣớc mặt chúng tôi. Tại sao vậy? Để cho tất cả đều cảm thấy mình chỉ còn là một
thằng “Ivan vô danh”, một thứ sinh vật không còn quyền hạn gì, hoàn toàn nằm trong tay
bọn Kulturtraeger (giám ngục) Đức. Cùng lúc chúng cũng lấy đi đồng hồ, dao nhíp bỏ túi,
băng gạc, tiền, nhẫn – tất cả những gì bọn Polizei (cảnh binh) thích. Cùng ngày chúng tôi
tới trại, vào ban đêm, một dãy giƣờng nằm hai tầng đổ sụp dƣới sức nặng của những tù
binh đang ngủ, nghiền nát những ai nằm ở dƣới cùng. Tất cả những điều đó diễn ra trong
bóng tối mịt mù, hoàn toàn không chút đèn đóm. Những ngƣời bị đè nghiến và ngạt thở
bị để mặc cho chết dần trong bóng tối mà không nhận đƣợc bất cứ sự hỗ trợ thuốc men
nào. Tại đây tôi tình cờ gặp lại một ngƣời lính cũ của mình. Toán chúng tôi bị đƣa đi dọc
một dãy nhà kho, nơi ở của những ngƣời lính bị bắt. Bất ngờ một ngƣời lính hét về phía
tôi, anh ta rất mừng là tôi còn sống và cám ơn tôi vì đã không bỏ rơi binh sĩ của mình nhƣ
những sĩ quan khác mà ở lại cho tới lúc kết thúc. Tôi cũng nhận ra ngƣời lính. Tôi thƣờng
đối xử nghiêm khắc với anh ta vì tính vô kỷ luật, nhƣng những lời anh nói ở đây, trong
trại tù của Đức, thực sự đã làm tôi hết sức xúc động.
Tình trạng ở đây thật man rợ và khủng khiếp. Đó là một thứ tự do tối thƣợng để
bọn tội phạm hoành hành. Nạn trộm cƣớp và cảnh cậy mạnh hiếp yếu lan tràn khắp nơi.
Hầu hết các tù nhân đều suy nhƣợc vì giam cầm và không thể chống nổi các đợt tấn công
của lũ trộm cƣớp và bọn Polizei. Trong tình thế nhƣ vậy mọi ngƣời bắt đầu tìm kiếm anh
em đồng chí để cùng nhau chống lại lũ khốn kia. Đến đây tôi gặp đƣợc Boris Smirnov,
ngƣời cũng không thể thoát khỏi vòng vây. Tôi cũng gặp Nikolai Loktev và Nikolai
Semenov. Tôi chú ý đến Smirnov vì anh là một sĩ quan chuyên nghiệp. Loktev lại là một
sĩ quan dự bị và đang phục vụ trong Bộ tham mƣu Tập đoàn quân. Nghề nghiệp trong
thời bình của anh là kỹ sƣ trắc đạc. Semenov cũng là sĩ quan dự bị, trƣớc là hiệu trƣởng
một trƣờng học ở Kursk. Chúng tôi đều thuộc cùng một quân đoàn pháo binh và đều là
thƣợng úy. Chúng tôi quyết định sẽ giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau tới cùng dù có bất cứ chuyện
gì xảy ra.
Những ngƣời vừa bị bắt làm tù binh cũng không biết rõ điều gì đang xảy ra. Thảm
họa phải chăng chỉ xảy ra trong khu vực mặt trận chúng tôi hay ở khắp mọi nơi? Tất cả
những điều này nghĩa là gì? Quân đội ta đã thua trong cuộc chiến này chăng? Bọn Đức sẽ
thống trị chúng ta chăng? Tại sao ngƣời ta lại bỏ rơi chúng tôi trong vòng vây và để mặc
cho bọn Đức tàn sát? Những câu hỏi này quay cuồng trong đầu tất cả mọi ngƣời, hạ gục
dần ý chí của họ. Những cuộc tranh luận căng thẳng liên tục đƣa ra nhiều quan điểm và lý
lẽ sắc bén. Chúng tôi cố gắng nhận ra tình thế của quân ta, đƣa ra một số quan điểm lý
giải cho các sự kiện. Chúng tôi chỉ trích những chỉ huy của mình và sự thiếu kỷ luật của
quân đội ta.
Một gã có râu quai nón phát biểu nhiều câu chống lại Chính quyền Xô viết. Hình
nhƣ hắn là cựu thành viên thuộc phe Cách mạng Xã hội còn sót lại (phe này đã chấm dứt
tồn tại kể từ cuộc chiến trong nội bộ Đảng những năm 20 – Bair Irincheev), cố sức rao
giảng về cái gọi là “sức mạnh của quần chúng nông dân”. Hắn la lối rằng chỉ ở đây, sau
hàng rào thép gai, hắn mới có đƣợc quyền tự do ngôn luận. Tôi không thể chịu nổi và bắt
đầu tranh cãi với hắn. Các đồng chí ở gần đấy vội nhắc rằng tôi nên im miệng và đi chỗ
khác càng nhanh càng tốt, bởi gã kia đã bắt đầu gọi tôi là “một thằng chính uỷ Bolshevik”.
Bọn do thám của Đức sục sạo khắp nơi. Một vài kẻ lắm mồm đi mọi nơi, cố tìm
ra những ngƣời trƣớc chiến tranh đã từng làm trong ngành công nghiệp quốc phòng.
Trong khi tìm kiếm, chúng rêu rao là những chuyên gia quốc phòng có thể tìm đƣợc
những chỗ làm tốt trong ngành công nghiệp quân sự Đức, đƣợc cấp một lƣợng thực phẩm
phong phú và ở trong những điều kiện sinh hoạt tốt hơn nhiều so với những tù nhân khác.
Một vài ngƣời đã bị chúng lừa gạt. Các thông tin cá nhân của họ bị ghi lại, và rồi những
ngƣời tù đó bị đƣa đi chỗ khác thẩm vấn, ở nơi đó họ sẽ bị buộc phải tiết lộ những thông
tin chi tiết về nhà máy của mình, vẽ lại các bản đồ và sơ đồ bố trí của nhà máy, điểm chỉ
các vị trí trên bản đồ địa hình. Các thông tin đó có lẽ phục vụ cho các đợt oanh tạc phá
hoại. Một vài ngƣời tù bị đánh nhừ tử sau những cuộc thẩm vấn nhƣ thế, trong khi những
ngƣời còn lại biến mất không còn một dấu vết.
Đôi khi có một ngƣời lớn tuổi mặc quân phục sĩ quan Đức xuất hiện giữa những
ngƣời tù, nhƣng qua giọng nói chúng tôi nhận ra hắn là một ngƣời Nga chính cống. Trên
áo khoác tunic của hắn, ngoài con đại bàng Đức và chữ thập ngoặc nhƣ thƣờng lệ, còn có
một dải băng lạ mắt với chữ cái “D” viết theo kiểu chữ Slavơ cổ. Điều đó có nghĩa là gì?
Một cựu sĩ quan Bạch vệ trong quân đội của Denikin chăng? Ngƣời đàn ông ấy trò
chuyện thân mật với các tù binh, hỏi han mọi thứ, tỏ vẻ thông cảm trên mặt, viết vội vài
điều gì đó, nói rằng để cải thiện tình trạng sinh hoạt cho các tù nhân. Có lẽ, đó là một
cách đặc biệt để thu thập các tin tức tình báo. Bọn Đức không đơn giản đƣa tên sĩ quan
Bạch vệ này tới chỉ để tỏ ra thông cảm với những ngƣời đồng hƣơng của hắn. Bản thân
tôi không đƣợc gặp ngƣời này.
Nếu tình trạng của hầu hết tù nhân là tồi tệ cả về thể chất lẫn tinh thần thì điều
kiện sống của các tù nhân Do Thái còn tồi tệ hơn nhiều lần. Họ coi nhƣ đã lãnh án tử. Tại
trại Sychevka họ là mục tiêu của mọi loại hành hạ, lăng nhục và tra tấn. Một phần trong
số họ bị lùa xuống ở dƣới những dãy giƣờng trong các căn phòng của bọn Polizei và
Ukraina. Khi bị đƣa từ trại tù tới nhà giam của thị trấn, họ bị lột trần chỉ còn đồ lót, trong
khi quần áo của họ bị ném vào giữa đám đông tù nhân, và một cuộc chiến đáng xấu hổ để
giành giật mớ quần áo ấy diễn ra. Tôi đã tận mắt thấy những con ngƣời đáng thƣơng ấy bị
dẫn tới nhà giam, đi chân trần và trên mình còn độc có đồ lót. Đi phía trƣớc đoàn ngƣời là
hai cô gái trẻ, đang nép vào nhau – có lẽ trƣớc đây họ là những y tá Hồng quân. Bọn
ngƣời thi hành có lẽ cũng ngƣợng không dám lột quần áo và tƣớc giầy của hai cô gái.
Hay có thể vài tên sĩ quan Đức còn chút lƣơng tâm đã ra lệnh đó chăng?
Tại đây chúng tôi đƣợc nghe câu chuyện buồn về giờ phút cuối cùng của Ban
tham mƣu Tập đoàn quân 39 của chúng tôi. Họ bị bao vây trong một khoảnh rừng nhỏ
hoàn toàn lọt trong tầm đạn cối của bọn Đức. Khu rừng đƣợc phòng thủ bởi những xạ thủ
súng máy, những ngƣời đã nghe hứa là sẽ đƣợc sơ tán bằng máy bay (tất nhiên lời hứa
này không đƣợc thực hiện). Mỗi đêm đều có máy bay chở tới đạn dƣợc, thức ăn và
chuyển đi những ngƣời bị thƣơng nặng. Nhƣng họ cũng chuyển đi hầu hết những chỉ huy
cao cấp. Chỉ huy trƣởng Tập đoàn quân Maslennikov hứa rằng ông ta sẽ ở lại với tập
đoàn quân tới phút chót, dù trên thực tế điều đó không thể xảy ra. Tuy nhiên, theo lệnh
của tƣớng Konev, chỉ huy trƣởng Phƣơng diện quân, ông ta là một trong những ngƣời
đầu tiên bay tới Kalinin để báo cáo về tình hình của Tập đoàn quân và không bao giờ
quay lại. Đêm trở nên ngắn lại và ngày càng ít máy bay bay tới. Khi một viên tƣớng lên
máy bay bay đi, ông ta chỉ định một đại tá ở lại thay mình chỉ huy. Vị đại tá cố gắng để
lên chuyến máy bay kế tiếp, chỉ định một trung tá lên thay mình và cứ tiếp tục tuần tự
nhƣ thế. Tất cả bọn họ đều tìm cách cứu mạng mình trƣớc tiên. Họ nhận ra là tình hình
hoàn toàn vô vọng, và máy bay chỉ có thể bay tới vào ban đêm. Có thể chuyến máy bay
ấy sẽ là cơ hội cuối cùng để cứu mạng họ, bọn Đức sẽ xuyên thủng tuyến phóng thủ vào
ngày hôm sau. Khi những chỉ huy cao cấp rút hết, kỷ luật và trật tự cũng biến mất. Mọi
ngƣời chỉ còn nghĩ tới lối thoát cho riêng mình. Chúng tôi đƣợc nghe câu chuyện về
những hồi tiếp theo. Theo yêu cầu của bác sĩ, một thƣơng binh nặng đang đƣợc đƣa lên
máy bay. Một sĩ quan tiến tới, láo xƣợc kéo ngƣời bị thƣơng khỏi máy bay và thế chỗ anh
ta. Hắn dúi một nắm tem phiếu vào tay phi công, cầm súng đe dọa mọi ngƣời và chiếc
máy bay cất cánh bay đi. Những ngƣời khác, thấy “có ngƣời làm đƣợc thế”, cũng bắt đầu
dùng vũ lực chiếm chỗ trên máy bay. Họ nổ súng bắn lẫn nhau để giành quyền lên máy
bay. Dần dần những xạ thủ súng máy cũng bắt đầu rời bỏ vị trí, ngay khi họ nhận ra mình
đã bị lừa. Kết cục chuyện này là tuyến phòng thủ đổ sụp và tất cả đều bị giết hay bị bắt
làm tù binh.
Chúng tôi bị chuyển tới chuyển lui từ trại này qua trại khác. Từ Sychevka chúng
tôi tới Smolensk, từ Smolensk tới Lesnaya – ngày càng xa về phía Tây. Khủng khiếp nhất
là một trại gần ga Lesnaya thuộc vùng Molodechno. Chúng tôi bị chuyển tới đây ngày
mùng 4 tháng Tám năm 1942. Trƣớc chiến tranh nơi đây là một kho nông phẩm với các
nhà kho gỗ chạy dài, âm một nửa dƣới mặt đất. Các nhà kho đƣợc chuyển thành nhà giam.
Mỗi nhà giam đƣợc rào kín bằng dây thép gai và thuộc một khu vực độc lập của trại tù.
Tại cổng vào trại tù có một chốt gác và một trạm gác nhỏ có hầm chứa rất sâu, mà vì lý
do nào đó đƣợc gọi là “boongke”. Những ngƣời tù chạy trốn bị bắt lại đƣợc nhốt trong
boongke. Những phòng phục vụ, nhà bếp, nhà kho và nhà tắm (cũng không còn sử dụng
đƣợc nữa) nằm bên ngoài trại tù. Luật lệ chính trong trại tù là: “chia để trị”. Một vài nhà
giam chỉ chứa ngƣời Ukraina, vài cái khác – chỉ ngƣời Tatar. Hai nhóm dân tộc này
chiếm đặc quyền so với số đông tù nhân ngƣời Nga. Họ đƣợc cho ăn tốt hơn và đƣợc
quyền lao động bên ngoài trại giam. Chúng tôi, những ngƣời Nga, đƣợc cho ăn rất tồi.
Hai lần một ngày chúng tôi đƣợc phát một muôi cháo lúa mạch dở sống dở chín. Mỗi
ngày một lần chúng mang tới một thùng nƣớc lạnh, thùng này mau chóng bị uống cạn.
Trời thì nóng mà chúng tôi tất cả đều khát khô cổ. Đừng nghĩ tới chuyện tắm, điều đó
đơn thuần là không thể đƣợc. Trại đƣợc canh gác bởi cả lính Đức lẫn cảnh binh Ukraina.
Điều khủng khiếp nhất ở trại giam này là số phận mọi ngƣời đƣợc quyết định tại đây:
những ngƣời đƣợc sống và những ngƣời phải chết. Phải trải qua một đợt kiểm tra tổng thể.
Chúng tìm ra những ngƣời Do Thái, các chính trị viên, các đảng viên lao động. Các cuộc
thẩm vấn và điều tra đƣợc tiến hành tại phòng gác bởi một Sonderfuerer, một đặc phái
viên Gestapo. Hắn có thể nói tiếng Nga khá tốt và không cần phiên dịch. Tù nhân từng
ngƣời một bị lôi vào boongke để thẩm vấn và hầu hết mọi trƣờng hợp đều kết thúc trong
boongke. Những ngƣời bị đƣa vào boongke thì bị cởi quần áo, chỉ còn mặc mỗi đồ lót.
Giày và quần áo của họ bị bọn Polizei (cảnh binh) lấy đi. Vài ngƣời khác, ăn mặc cũng
nhƣ tù nhân và đƣợc phép lang thang ngoài trại, sẽ vào đấy trò chuyện với họ, đặt ra vài
câu hỏi khiêu khích. Sau đó chúng chạy tới chỗ tên Sonderfuerer và huýt sáo hỏi xin
thuốc lá, cũng có nghĩa là những ngƣời trong kia sẽ bị kết án tử. Một ngƣời không cần
phải là Do Thái hay chính trị viên cũng có thể bị đƣa vào boongke – chỉ cần một báo cáo
miệng của thằng khiêu khích kia là đủ. Chúng tìm kiếm ngƣời Do Thái không chỉ dựa
theo giọng nói hay dáng vẻ, mà cả theo những phƣơng thức đặc biệt khác, ví dụ nhƣ xem
ngƣời ấy có cắt da quy đầu hay không.
Khi boongke đã chật, một chiếc xe đặc biệt từ Molodechno tới trại. Đó là một
chuyến xe tải đến theo thƣờng lệ, trên lắp một thùng lớn kín mít có gắn cửa. Bọn Đức và
lũ Polizei kéo những tù nhân chân đất mình trần từ boongke ra, dùng báng súng tống họ
vào trong thùng xe. Toàn bộ tù nhân trong trại đứng cạnh hàng rào thép gai, mắt dõi xem
chiếc xe tải đi về hƣớng nào. Nếu nó đi về phía trái thì sẽ tới Molodechno, tới nhà tù. Nếu
nó đi về phía phải thì là tới khu rừng. Những ngƣời Tatar ở nhà giam cạnh chúng tôi kể
qua lƣới kẽm gai rằng họ thƣờng bị đƣa tới khu rừng đào những hố lớn để chôn ngƣời
chết. Nếu chiếc xe tải đi tới khu rừng, khói từ máy xe sẽ đƣợc phun thẳng vào thùng chứa
tù nhân. Khi xe tải tới nơi, mọi ngƣời trên xe đều đã chết. Họ mau chóng đƣợc ném vào
hố chôn và lấp đất vội vã. Những ngƣời Tatar cũng kể rằng xảy ra vài trƣờng hợp vẫn còn
tù nhân sống sót khi đƣợc kéo khỏi xe tải, nhƣng cuối cùng vẫn bị chôn sống với những
ngƣời chết. Do đó, tên Sonderfuerer tự quyết định rằng ai sẽ bị giết ngay lập tức trong
chiếc xe giết ngƣời ấy và ai phải đƣợc đƣa tới nhà tù để thẩm vấn và tra tấn tiếp. Ở đấy
có một tên mặc đồng phục Đức làm phuÏ tá cho thằng Sonderfuerer. Hắn là loại ngƣời
luôn luôn kín đáo, nhút nhát, rất lịch sự với tù nhân và nói tiếng Nga rất giỏi. Tôi nghe
đồn rằng hắn là một trong những ngƣời Đức từng sống ở Liên Xô trƣớc chiến tranh, từng
là công dân Xô viết. Có lẽ hắn tự xấu hổ với bản thân vì tất cả những gì đang diễn ra
trong trại tù.
Nếu trong những trại trƣớc đấy giữa chúng tôi có nổ ra những cuộc tranh luận
chính trị gay gắt thì tại trại Lesnaya mọi ngƣời đều trở nên kín tiếng. Thậm chí những
ngƣời từng chỉ trích Liên bang Xô viết nay cũng im lặng. Tất cả chúng tôi đều thấy rõ
một thực tế đang đe dọa mạng sống của mình, thần chết đang lôi chúng tôi đi dần dần
từng ngƣời một, không cần đếm xỉa gì tới vấn đề mà anh ta đang tranh cãi. Hắn là một
tên “khiêu khích” và thế là đã đủ để ngƣời đó bị đƣa vào trong boongke và xa hơn nữa là
về thế giới bên kia. Khi trại giam trở nên hoàn toàn câm lặng, thằng Sonderfuerer nghĩ ra
một kế mới để bắt mọi ngƣời phải nói. Vài kẻ khiêu khích lại gần một ngƣời trong khu
nhà giam sĩ quan và đƣa ra một câu hỏi có vẻ thân mật: “Chúng ta đã thực sự thua trong
cuộc chiến này sao? Nƣớc Nga đã tiêu ma rồi chăng?" và đại loại nhƣ thế. Kết quả là mọi
việc lại nhƣ cũ, cái boong ke vẫn luôn luôn chật ngƣời.
Những mối liên hệ giữa tù nhân ở các nhà giam khác nhau bị cấm tuyệt đối. Việc
vận chuyển hay trao đổi đồ dùng giữa các nhà giam cũng bị cấm. Bọn Đức sợ điều gì –
âm mƣu, chaÏy trốn hay bệnh dịch? Vi phạm các điều cấm ấy bị trừng phạt cực kỳ tàn
nhẫn, cao nhất là đánh đòn công khai, việc thi hành thƣờng đƣợc giao cho đám ngƣời
Tatar. Tù nhân ở khám phạt phải đứng “nghiêm” trong nhiều giờ liền.
Trong một lần tập hợp toàn thể trại tù, thằng Sonderfuerer đột ngột hỏi: “Thằng
Do Thái … và … đâu rồi (hắn xƣớng họ những ngƣời ấy lên)? Tao đã cảnh cáo những
tên này rằng chúng phải chấm dứt việc tuyên truyền độc hại, nhƣng chúng đã không nghe
theo lời răn đe của tao.” Những ngƣời đáng thƣơng kia tiến lên trƣớc hàng và lúng búng
điều gì đó, cố bào chữa cho bản thân, và trong lúc luống cuống đã nói “thƣa đồng chí”.
Thằng Sonderfuerer hét lên: “Không có đồng chí nào ở đây! Bắt lấy nó!” Hai tên Polizei
tóm lấy con ngƣời bất hạnh kia và kéo anh ta vào boongke.
Lại có lần một tên tƣớng cao cấp của Quân đội Đức tới thăm trại chúng tôi. Thằng
phiên dịch nói với chúng tôi rằng tên kia là chỉ huy trƣởng một đơn vị hậu cần. Tên tƣớng
tới trại chúng tôi, vào khu sinh hoạt của các sĩ quan. Hắn đƣợc hộ tống và bảo vệ bởi bọn
quản lý trại giam của chúng tôi. Hắn chăm chú quan sát nét mặt chúng tôi, có lẽ nhằm tìm
hiểu cái “tâm hồn Nga” bí hiểm và hung bạo. Hắn hỏi vài ngƣời về cấp bậc, tên họ, nơi
sinh sống. Sau đó hắn tóm tắt vài lời về tình hình hiện nay ngoài mặt trận, thông báo rằng
Quân đội Đức đang chiến thắng trên mọi mặt trận và chiến tranh sẽ mau chóng kết thúc
bằng thắng lợi của nƣớc Đức. Tôi còn nhớ trong đó có một câu: “Sông Đông đã bị chiếm
và bị vƣợt qua ở nhiều nơi”.
Những tên lính Đức thƣờng đi tới vòng rào kẽm gai bên ngoài và đề nghị đổi
những vật dụng có giá trị cuối cùng của tù binh lấy mấy mẩu bánh mì. Chúng hay đòi
đồng hồ, nhẫn, tiền cổ, trà và dao nhíp bỏ túi. Các đồng đội đôi khi cũng nhờ tôi làm
phiên dịch cho những cuộc đổi chác bất nhân ấy. Tôi còn một đồng 50 kopek bằng bạc có
in chân dung Alexander Đệ Tam do khẩu đội trƣởng của tôi (anh ấy đã bị giết hại sau đấy)
tặng. Tôi quyết định đổi đồng tiền ấy lấy bánh mì, dù nó rất quý giá đối với tôi. Tên Đức,
thằng mà tôi tìm cách trao đổi, bảo tôi: “ném đồng bạc qua hàng rào cho tao. Tao phải
đƣợc thấy nó trƣớc". "Tại sao tôi lại phải tin ông?” "Tao không phải là Do Thái", - hắn
đáp một cách kiêu ngạo. Thực vậy, hắn chẳng phải là Do Thái. Để đổi lấy đồng tiền bạc,
hắn ném lại cho tôi một khúc bánh mì đen. Tuy nhiên, sau khi xác nhận là đồng tiền làm
bằng bạc thật, hắn hứa là ngày mai sẽ đem tới thêm ít bánh mì nữa. Giá nhƣ bạn biết nổi
tôi đã mong đợi cho tới sáng hôm sau đến thế nào! Vậy mà trời ạ, sáng hôm sau, ngày 24
tháng Chín năm 1942, chúng tôi bị dựng dậy từ mờ sáng và bị đƣa tới nhà ga để lên tàu
tới nƣớc Đức.
Một cuộc kiểm tra kéo dài diễn ra trƣớc khi chúng tôi khởi hành. Việc khám xét
tƣởng nhƣ bất tận với việc phải đứng nghiêm thật lâu và lục soát kỹ lƣỡng. Lo sợ bị xử
bắn, chúng tôi phải tuân lệnh lộn trái túi quần túi áo để đƣa nộp mọi loại dao nhíp, dao
cạo và kéo. Khi chúng xét tới tôi, tôi chìa ra một cái kéo nhỏ và hỏi xin đƣợc đem theo.
Tên lính Đức thô lỗ giật cái kéo khỏi tay tôi, lầm bầm rằng chúng tôi đƣợc đƣa tới Đức
để làm việc chứ không phải để “cắt móng tay”. Thế rồi chúng lấy đi tất cả thắt lƣng và
giầy da còn sót lại. Chúng tôi phải đi thế bằng những đôi guốc gỗ mà bọn Đức đem tới và
chất đống trƣớc sân. Ngƣời ta không thể chạy và đi bộ lâu với cái thứ giày dép nhƣ thế.
Đấy cũng là lúc những kẻ đã phản bội lộ mặt. Những ai có trong tay một tờ “giấy phép”
bằng tiếng Đức, ví dụ nhƣ một tờ chứng nhận đã tự nguyện đầu hàng thì có quyền đƣợc
giữ lại những đôi giày da. Cũng cần phải nói rằng trong cả đám tù nhân thì chỉ có hai
hoặc ba kẻ là phản bội.
Trên đƣờng tới nhà ga, chúng tôi đƣợc áp tải bởi một đơn vị lính Đức rất đông,
trang bị không chỉ tiểu liên mà thậm chí cả trung liên. Có lẽ vì chúng sợ một cuộc nổi
loạn hay chạy trốn tập thể. Chúng tôi đƣợc đƣa về phía tây, trong khi mặt trời đang mọc
từ hƣớng đông và chiếu vào lƣng chúng tôi, nhƣ thể đang nói lời vĩnh biệt. Tới gần
Molodechno chúng tôi đi ngang một khu ghetto Do Thái. Đó là cả một khối những túp
lều tồi tàn, chăng kín bởi hàng rào thép gai. Có một gã tóc đỏ khổng lồ đứng bên cổng
vào khu ghetto, một kẻ rõ ràng là trí não kém phát triển – hắn trông nhƣ một con vƣợn
ngƣời. Hắn cầm trong tay một ngọn roi. Một cô gái Do Thái đang quét dọn nền sân.
Trƣớc ngực và sau lƣng cô có khâu hình ngôi sao David bằng vải màu vàng – một dấu
hiệu mà mọi ngƣời Do Thái bắt buộc phải mang.
Chúng tôi đƣợc chất lên những toa hàng bẩn thỉu, không trang bị chút tiện nghi gì
cho mục đích chở ngƣời. Do đó, chúng tôi phải ngồi nghỉ và nằm ngủ thẳng trên sàn toa.
Những cửa sổ nhỏ đƣợc chằng kín dây thép gai, cửa toa luôn đóng chặt và bị khóa kín
phía bên ngoài. Tôi không nhớ có bao nhiêu ngƣời chúng tôi dồn trong một toa, nhƣng
chúng tôi không thể tất cả nằm trên sàn cùng một lƣợt. Loktev, Semenov, Smirnov và tôi
luôn sát cánh bên nhau, và thậm chí tại đây, trong cái toa tàu nhồi nhét chật chội khủng
khiếp này, cũng vẫn vai kề vai hỗ trợ lẫn nhau cả về thể chất lẫn tinh thần. Đoàn tàu bắt
đầu chuyển bánh. Chúng đƣa chúng tôi tới một nơi xa lạ. Số phận thật trớ trêu! Đã bao
lần tôi mơ ƣớc đƣợc ra nƣớc ngoài đi du lịch hay đi công tác. Và giờ đây, tôi bị đƣa ra
nƣớc ngoài bằng vũ lực dƣới thân phận một tù nhân!
Một tai nạn xảy ra khi chúng tôi mới khởi đầu chuyến hành trình. Đoàn tàu chở
chúng tôi đang băng ngang một khu rừng thì có tiếng súng nổ. Tàu dừng lại đột ngột. Bọn
lính Đức chạy ngƣợc chạy xuôi dọc đoàn tàu, miệng văng tục ầm ĩ. Quãng một lúc sau,
một tiếng súng đơn độc vang lên và đoàn tàu tiếp tục chuyển bánh. Về sau chúng tôi
đƣợc biết một số tù nhân đã đục một lỗ trên sàn toa và nhiều ngƣời đã trốn qua cái lỗ đó
trƣớc khi tên lính tuần tra đang đứng ở toa cuối phát hiện và nổ súng. Tất cả những ngƣời
còn lại trong toa đó đều bị lục soát. Chúng tìm thấy một con dao trên ngƣời một tù nhân.
Chúng lôi anh ta ra khỏi toa và bắn anh ngay lập tức. Đó chính là phát súng đơn độc mà
chúng tôi nghe thấy. Chúng tôi khâm phục những con ngƣời dũng cảm kia, ghen tỵ với
họ và thầm chúc họ may mắn.
Chúng tôi không biết mình bị đang đƣa đi đâu. Để xác định địa điểm chúng tôi
đang tới, chúng tôi vẽ bản đồ Ba Lan và nƣớc Đức lên mảnh gỗ dán bằng một mẩu bút
chì. Dựa theo tên các thành phố chúng tôi đã đi qua, chúng tôi thử vẽ lại lộ trình của mình.
Dần dần, chúng tôi nhận ra mình đang bị đƣa qua Ba Lan để tới miền Tây Nam nƣớc Đức.
Một hay hai lần mỗi ngày, tại các ga chính, chúng tôi đƣợc phép rời tàu để đi lấy thực
phẩm. Bọn chúng đổ một ít súp vào cà mèn cho chúng tôi – chỉ vừa đủ để chúng tôi
không chết hết vì đói. Trong lúc chúng tôi ra khỏi toa, toàn đoàn tàu đều bị kiểm tra. Tôi
thấy một tên Đức bắt gặp cái bản đồ của chúng tôi và mang nó lên cho đội trƣởng của hắn.
Tôi nghe tên đội nói rằng: “Lũ lợn này cũng có thể làm việc cần cù đấy nhỉ.” Tôi còn nhớ
lúc tới ga Volkovyssk. Tại nhà ga này, tên Đức đầu bếp chịu trách nhiệm phân phát thức
ăn kiêm luôn vai trò của một đứa “phân loại viên”. Nếu một tù nhân có mái tóc vàng, anh
ta sẽ đƣợc nhận một cà mèn súp đầy. Nếu tù nhân tóc sẫm màu, anh ta sẽ chỉ nhận đƣợc
nửa cà mèn hay thậm chí ít hơn nữa. Lúc ấy tóc tôi sậm màu nên tôi cũng chỉ đƣợc nhận
nửa cà mèn súp. Thuyết phân biệt chủng tộc thể hiện theo cách hiểu của tên Đức nấu bếp
là nhƣ vậy đó. Đoàn tàu chúng tôi thƣờng phải dừng lại ở mỗi ga hay ngay giữa đồng
trống. Có lần một đoàn tàu chở một đơn vị lính Ý dừng lại trên tuyến đƣờng sắt đối diện.
Đoàn tàu ấy đang đi về phía đông. Đám lính Ý mở cửa toa của họ về phía chúng tôi và
thân thiện nói chuyện với chúng tôi. Chúng tôi cũng vẫy tay qua các cửa sổ nhỏ trên tàu
để đáp lại họ. Rồi những ngƣời Ý sắp xếp một buổi hòa nhạc cho chúng tôi, có cả
măngđôlin và ghitar. Rõ ràng là họ không thù ghét đất nƣớc Xô viết, đất nƣớc mà họ sắp
phải tham chiến chống lại. Nói cách khác, họ tỏ thái độ thân thiện với chúng tôi. Buổi hòa
nhạc bị cắt đứt bởi một sĩ quan Ý, hắn la mắng đám lính và hình nhƣ ra lệnh cho họ đóng
hết cửa lại. Hắn đeo một dải băng xanh cheÙo qua vai, có lẽ đó là một tên sĩ quan trực
nhật. Chúng tôi cũng thấy lính Ý đang dắt mấy con lừa để đi lấy nƣớc. Phía Ý sử dụng
những cái xô làm bằng nhựa trong suốt mà chúng tôi đƣợc trông thấy lần đầu tiên trong
đời.
Chúng tôi bị chở xuyên qua Ba Lan. Chúng tôi cũng đƣợc chiêm ngƣỡng một
phần của Warsaw. Những lá cờ thập ngoặc đƣợc treo khắp nơi trên các ban công nhà.
Nhƣng rồi đoàn tàu chở chúng tôi nhanh chóng chui vào những đoạn đƣờng hầm. Một
công nhân đƣờng sắt Ba Lan, thận trọng đƣa mắt quan sát xung quanh, lại gần chỗ chúng
tôi trong đoạn hầm khuất và cất tiếng hỏi xem chúng tôi bị bắt từ đâu tới. Trên đoạn
đƣờng trƣớc khi tới Warsaw, những ngôi làng Ba Lan trông có vẻ nghèo nàn, toàn là
những túp lều gỗ lợp tranh. Sau khi rời Warsaw, một khung cảnh “Châu Âu” xuất hiện:
những ngôi nhà gạch sạch sẽ có mái ngói tử tế. Và rồi đã tới nƣớc Đức. Trong số nhiều
thành phố, tôi nhớ nhất là Chemnitz.
Tôi còn nhớ một đêm khuya, khi trời đã tối sẫm và đoàn tàu chúng tôi đang dừng
tại một ga xép ở Đức. Chúng tôi đều đang ngủ, mình quấn trong áo khoác, nằm ngồi ngổn
ngang trên sàn tàu chật chội khủng khiếp. Có thể nghe tiếng ngƣời đi bộ ngoài sân ga,
thậm chí chúng tôi còn nghe cả tiếng cƣời phụ nữ. Chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc xa xa.
Một cơn gió ấm áp đƣa lại mùi hƣơng của thảo mộc mọc mùa hè. Tất cả những cái đó
nhƣ thật gần gụi, đồng thời lại thật xa vời đối với chúng tôi, đang bị khóa nhốt kín trong
cái nhà tù có bánh xe của mình.
Đến ngày thứ sáu của chuyến hành trình, ngày 30 tháng Chín năm 1942, chúng tôi
tới điểm dừng cuối cùng, thị trấn nhỏ bé Muensingen thuộc miềân Tây Nam nƣớc Đức.
Chúng tôi đã kiệt sức bởi chuyến đi và đói khát tới mức chỉ có thể khó nhọc lê bƣớc. Vậy
mà hóa ra chúng tôi còn may mắn hơn nhiều những ngƣời vừa tới trƣớc đó. Những ngƣời
tới sớm hơn kể rằng chuyến xe lửa đó phải đi đƣờng hết hơn mƣời ngày, và trên xe chật
chội tới mức tù nhân phải đứng trong gần hết thời gian di chuyển. Họ cũng không đƣợc
rời tàu ra ngoài và gần nhƣ không đƣợc cấp chút thức ăn nào. Khi tàu tới nơi, một “màn
trình diễn” ngoạn mục đƣợc dàn sẵn: những tù nhân đói khát, kiệt sức, bẩn thỉu và lởm
chởm râu ria bị bắt xếp hàng trên sân ga để ra mắt một tên tƣớng Đức giữ chức vụ quan
trọng. Khi nhìn thấy các tù nhân, hắn thốt lên: "Lũ ngƣời thế này mà lại muốn đặt văn
hóa của chúng lên trên chủng tộc German chúng ta sao?”
Thị trấn trung cổ nhỏ bé Muensingen với những ngôi nhà xinh xinh kiểu Gothic
và mái ngói nhọn có thể làm phông nền hoàn hảo cho một vở ca kịch Faust. Dƣờng nhƣ
tất cả đều hấp dẫn và thú vị, ngoại trừ việc nó quá buồn tẻ. Chúng tôi đƣợc thấy một cảnh
của quá khứ diễn ra tại nhà ga, có vẻ khá hợp với những kiến trúc cổ xung quanh. Một xe
ngựa đƣợc kéo bởi một đôi ngựa mập mạp đi tới nhà ga. Những con ngựa đƣợc điều
khiển bởi ngƣời đánh xe mặc bộ đồ thêu chỉ vàng. Một mệnh phụ kiêu kỳ ngồi trên xe,
chăm chú dò xét chúng tôi qua đôi mục kỉnh một cách thành thạo. Nhƣ sau này chúng tôi
nghe kể lại, bà ta là một địa chủ giàu có, tới để chọn lấy số “nô lệ Phƣơng Đông” phần
mình.
Nơi này thực sự là một thị trấn trung cổ trong chuyện cổ tích. Dƣờng nhƣ kia là
một nhân vật đang vận trang phục sân khấu sắp bƣớc khỏi căn nhà và cất giọng hát một
đoạn trong vở opera. Nhƣng cái trại tù mà chúng tôi sắp bị đƣa vào thì không phải là sân
khấu opera. Trại bao gồm những dãy nhà dơ dáy đầy gián rào lƣới kẽm gai. Đó cũng là
nơi đói khát khủng khiếp. Bọn chúng phát cho chúng tôi mỗi ngày một ít súp bắp cải
sống sít và một khoanh nhỏ bánh mì. Bánh mì đỏ quạch vì làm từ rễ củ cải đƣờng. Khắp
trại nhan nhản lũ phản bội, những cảnh binh Nga và Ukraina, điệu bộ nhƣ một lũ tội
phạm. Nhằm giải trí, hàng ngày chúng tìm mọi cách để đánh đập đám tù nhân khốn khổ.
Để làm chuyện đó, chúng đem tới khoảng nửa nồi súp rồi thông báo rằng mọi ngƣời đƣợc
phép đến lấy “súp phụ cấp”. Những con ngƣời đang điên dại vì đói khát đổ xô về phía cái
nồi súp. Một trận chiến giành thức ăn diễn ra và thế là bọn cảnh binh bắt đầu quất mọi
ngƣời bằng những cây gậy dài đã chuẩn bị sẵn từ trƣớc. Chân phồng rộp và chảy máu vì
đi guốc gỗ nên tôi tìm cách để kiếm một thứ khác thay thế. Tôi nhờ một cảnh binh
chuyện ấy – một tên trông có vẻ đỡ lƣu manh hơn cả. Tôi vẫn còn một đôi đồng hồ đeo
tay, giữ đƣợc chúng cũng là cả một phép lạ, và đề nghị đổi một trong số đó lấy một đôi
giầy. Để đổi lấy cái đồng hồ, tên cảnh binh đem tới cho tôi một đôi giày lính cũ bằng da
màu nâu đỏ đã nứt đế. Nhƣng đôi giày nhƣ thế với tôi cũng đã là một niềm vui sƣớng tột
cùng rồi.
Ở đây bọn chúng cấp cho mỗi ngƣời một cái thẻ xanh lá cây, trên ghi những thông
tin về cá nhân từng ngƣời. Chiều cao, màu tóc và mắt, họ tên và nhóm chủng tộc đều ghi
rõ trên thẻ. Chúng tìm kiếm lọc ra những ngƣời có chút máu Do Thái hay Di gan trong
mình. Những ngƣời nhƣ thế sẽ bị thủ tiêu lập tức. Chúng dán hai tấm ảnh và các dấu vân
tay lên thẻ. Có lẽ đó cũng là cách thức chúng tiến hành trong các nhà tù ở Đức. Mỗi
ngƣời trong chúng tôi phải đeo một cái lập lắc cổ chó hình chữ nhật bằng nhôm. Trên đó
có khắc số 5 và số tù cá nhân mỗi ngƣời (5 là mã số của trại giam - Stalag 5a. Cái lập lắc
đƣợc phân làm đôi bởi nhiều lỗ đục sẵn. Khi ngƣời tù chết, một nửa sẽ để lại trên cổ cái
xác và nửa kia đƣợc giữ lại để vào sổ. Mọi thứ đƣợc sắp xếp với độ chính xác theo kiểu
Đức. Ngƣời ta nói rằng lính Đức cũng đeo một cái lập lắc có khắc số y nhƣ vậy, chỉ có
điều cái của chúng có hình ô van. Những tù nhân về sau gia nhập Quân đội Giải phóng
Nga ROA (tức đội quân phản bội của Vlasov) cũng đƣợc phát cái lập lắc cổ chó hình ô
van. Đấy chính là lý do tại sao chúng tôi giữ mãi cái lập lắc hình chữ nhật nhƣ một bằng
chứng xác thực rằng mình không có gì liên hệ với các đơn vị của Vlasov.
Vì các thức ăn tồi tệ trong trại nên chúng tôi bắt đầu mắc bệnh ỉa chảy. Mỗi tối tôi
phải thức dậy nhiều lần để tới nhà vệ sinh, nằm rất xa nhà giam. Một tối nọ tôi đang đi tới
đó. Bất ngờ, một tên gác, một thằng Đức lùn và béo, bƣớc chắn ngang đƣờng đi của tôi.
Tôi dừng lại và hỏi một cách máy móc: "Was wollen Sie?" (Anh muốn gì?) Hắn chửi tôi,
và tôi bắt buộc phải vòng qua hắn để đi tiếp. Khi tôi quay về, tôi nghe tên gác ấy đang nói
với một thằng khác: "Mày thấy thế nào? Lũ lợn đó dám hỏi chúng ta rằng chúng ta muốn
cái gì! Chúng ta chỉ muốn chúng nó chết hết đi cho rồi!”
Sau khi chúng tôi đƣợc “vô sổ” nhƣ thế và số tù đƣợc treo lủng lủng trên cổ, bọn
chúng bắt đầu phân chúng tôi thành từng đội để đƣa đi làm những công việc khác nhau.
Tất cả mọi ngƣời đều muốn thoát khỏi cái trại chết đói đáng nguyền rủa đó càng nhanh
càng tốt. Một số ngƣời mơ đƣợc tới làm tại một nhà máy sản xuất đƣờng, nơi ít nhất họ
cũng sẽ đƣợc nhá rễ củ cải đƣờng. Bốn ngƣời chúng tôi cùng gắn bó với nhau trong suốt
quá trình phân công công việc, và tất cả chúng tôi đƣợc đƣa vào chung một đội công tác
khoảng ba mƣơi ngƣời. Có thể xem đó là một đội công tác sĩ quan, dù chỉ phân nửa trong
số họ là sĩ quan. Những ngƣời khác là binh nhì và hạ sĩ quan, những ngƣời cho rằng sẽ
đƣợc ƣu đãi hơn khi ở chung với một nhóm sĩ quan. Dù sao cũng không ai có thể kiểm tra
cấp hiệu của họ – tất cả giấy tờ của chúng tôi đều đã bị tiêu hủy.
Ngày 16 tháng Mƣời năm 1942, đội chúng tôi đƣợc đƣa khỏi trại, áp giải tới nhà
ga và bị chất lên một toa hàng. Chúng tôi mừng rỡ khi thấy có sự thay đổi, nhất là bởi
chúng tôi tin rằng không còn nơi nào có thể tệ hơn Muensingen. Ngày hôm sau chúng tôi
xuống một ga nhỏ tên là Lorch, cách Stuttgart khoảng 35 km về phía đông. Một thị trấn
nhỏ cùng tên với nhà ga nằm bên cạnh đƣờng tàu. Ở đó có một nhà kho bằng gỗ cạnh
đƣờng sắt với hàng rào dây thép gai. Một biển quảng cáo to tƣớng nằm trên mái nhà kho,
trên viết: “Công ty Lutz, chuyên xây dựng các công trình trên và dƣới mặt đất”. Con sông
Rems nhỏ bé nằm sau nhà kho, về sau chúng tôi đƣợc biết nó chảy về phía Tây để đổ vào
sông Rhine. Phía bên kia đƣờng tàu nhấp nhô một chỏm núi và các bức tƣờng của một tu
viện.
Cái nhà kho gỗ đƣợc chia làm hai phần. Một phần dành cho các tù nhân và phần
thứ hai cho đám lính gác. Cửa sổ trong phòng tù nhân chằng kín song sắt và các tấm chớp
gỗ. Các dãy giƣờng sắt hai tầng đƣợc xếp sát tƣờng, trải những tấm đệm độn rơm. Mỗi
chiếc giƣờng phủ hai tấm chăn cũ, một làm tấm trải và cái còn lại làm chăn đắp. Một lò
sƣởi bằng sắt đứng giữa phòng. Ở đấy cũng có những chiếc bàn dài và các băng ghế bằng
gỗ. Có một tờ thông báo treo trên tƣờng, đánh bằng tiếng Nga trên một máy đánh chữ
(nhƣng là thứ tiếng Nga rất tồi). Đó là bảng liệt kê những gì tù nhân bị cấm không đƣợc
làm. Bảng liệt kê bắt đầu bởi dòng chữ: "bất cứ tù nhân nào dám đụng vào một ngƣời
Đức đều sẽ bị xử bắn”. Tất cả những mục còn lại đều tƣơng tự nhƣ điều đầu tiên kể trên.
Khu dành cho bọn Đức là một phòng ở rộng, ấm áp và sáng sủa cho đám lính gác
(đội gác gồm một hạ sĩ quan và bốn lính Đức). Chúng có một lò sƣởi, những chiếc
giƣờng một tầng, chỗ để súng và một máy thu thanh. Vào mùa đông, trong khi ở chỗ
chúng tôi mái nhà phủ đầy tuyết thì khu của bọn Đức không hề có tuyết trên mái. Chúng
luôn đốt lửa sƣởi ấm phòng khi trời rét. Một biển báo trên cánh cửa thông từ phòng của
chúng sang phòng chúng tôi, ghi bằng tiếng Đức: “Cấm vào”. Dù vậy chúng tôi cũng
không bao giờ vào đấy. Ở đây cũng có nhà xí và nhà tắm (một căn phòng để chúng tôi
tắm rửa và thay quần áo) nằm trong sân của khu nhà kho. Ở đó có một bồn nƣớc đặt trên
nóc nhà tắm, tự động đƣa nƣớc từ sông lên nhờ một máy bơm điện. Lúc đầu chúng tôi
đƣợc phép tắm rửa mỗi tuần một lần. Thế rồi một tên chỉ huy cao cấp tới, la mắng tên hạ
sĩ, và sau đó chúng tôi chỉ còn đƣợc phép tắm hai tuần một lần. Chúng cấp cho chúng tôi
những bộ quần áo sẫm màu trên có sơn hai chữ cái bằng sơn trắng: SU (Liên Xô – Soviet
Union). Những chữ này cũng đƣợc viết lên chỗ đầu gối phải, chỗ ngực trái, phía lƣng bên
phải và trên mũ. Không thể trốn thoát trong thứ trang phục nhƣ thế đƣợc. Chúng tôi cũng
đi đôi giày công tác có đế gỗ rất dầy, đẽo tròn phía mũi và phía sau. Dựa theo những dấu
hiệu trên nút áo, chúng tôi hiểu rằng đây là một loại quân phục –từ quân đội Tiệp Khắc
và Pháp – nhuộm màu xanh lam-xanh lục sẫm.
Chúng thƣờng đánh thức chúng tôi dậy từ sáu giờ sáng. Hai tù nhân trực nhật và
một lính gác sẽ vác một cái nồi lên xe ngựa để tới chỗ nhà bếp gần nhất, nơi chúng đang
nấu súp rau cho chúng tôi. Nhà bếp đƣợc điều hành bởi một tên Đức béo mập tên là
Bromer. Trong thời gian đó chúng tôi phải dọn xong giƣờng và quét dọn khu trại. Kế đến
chúng mở khóa cổng để chúng tôi vệ sinh rồi mặc quần dài và đi giầy cùng cất ở đấy. Súp
và một mẩu bánh mì quết bơ nhân tạo cũng vừa kịp tới. Mỗi súc bánh phải chia làm hai
phần. Chúng tôi cắt chúng làm hai và thậm chí đem cân trên một chiếc cân tự tạo bằng gỗ
sao cho hai phần thật đều nhau. Mẩu bánh nhỏ đó là phần ăn cho cả một ngày trời. Thế
rồi chúng tôi lên đƣờng đi làm việc. Nếu nơi làm không xa thì chúng tôi xếp hàng đi bộ
tới. Nếu quãng đƣờng phải đi quá dài thì chúng tôi sẽ lên một toa tàu, đƣợc gắn vào một
đoàn tàu đi ngang qua. Hai ngƣời có thông báo ốm đƣợc phép ở lại trong trại. Chúng tôi
lên một kế hoạch có sắp xếp phân công rõ ràng. Những ngƣời bị bệnh nặng sẽ đƣợc gửi
tới bác sĩ để đƣa về bệnh viện tại trại giam Stalag 5a ở Ludwigsburg. Không ai muốn
phải tới đó, tù nhân ở đấy thƣờng xuyên bị bỏ đói. Chúng tôi lao động trên đƣờng sắt
đƣợc cấp thức ăn đầy đủ hơn, do đó là một công việc tay chân nặng nhọc. Chúng tôi làm
từ 10 tới 12 tiếng mỗi ngày. Công việc là tháo lên những thanh ray và tà vẹt đã cũ. Kế đó
là thay những thanh ray thép còn mới vào, đặt tà vẹt mới lên rồi tán đinh vào tà vẹt. Sau
đó chúng tôi phải nhét đá lót đƣờng mới xuống dƣới tà vẹt, nện bằng đầu tù của cái cuốc
chim. Bốn ngƣời phải đứng lên trên thanh tà vẹt và nện xuống đá lót đƣờng ở dƣới tà vẹt
từ cả hai phía. Tên Meister sẽ kiểm tra độ đầm chặt của lớp đá lót dƣới tà vẹt bằng cách
cuốc thử xuống bằng đầu nhọn của cái cuốc chim. Công việc nặng nhọc nhất là mang vác
những thanh ray bằng loại kìm Zanga đặc biệt. Việc mang vác những thanh tà vẹt bôi đầy
dầu mỡ bảo quản cũng rất khó khăn. Chất lên và dỡ đá lót đƣờng xuống cũng là một công
việc rất mệt.
Viên quản lý công ty Lutz là một ngƣời thon chắc đầy sức lực, một ngƣời Tiệp
gốc Đức mà đƣợc mọi ngƣời gọi ngắn gọn là Meister (đốc công). Chúng tôi không biết
tên thật của hắn, có lẽ hắn có lý do để không nói nó ra với chúng tôi. Các bạn tôi đặt tên
cho hắn là Riwa, do hắn rất hay dùng cái từ này. Theo tiếng Schwab nó có nghĩa là (khi
dùng chung với một động từ khác) “đặt” hay “ném cái gì đó qua một bên”. Vào mọi thời
tiết trong năm hắn đều đội một chiếc mũ lông đỏ và gắn một phù hiệu kỹ thuật viên trên
ve áo: một cái bánh răng và một chữ thập Đức nằm ở giữa. Chúng tôi bắt đầu và kết thúc
công việc khi nghe hiệu lệnh phát ra từ cái còi do Riwa thổi. Trong lúc chúng tôi làm việc
hắn thƣờng la hét chúng tôi: "Los, los! (tƣơng tự nhƣ “Davai, davai!” trong tiếng Nga –
“Làm đi, làm đi !”)". Thậm chí khi chỉ còn hai phút nữa là hết ngày làm việc, khi hắn đã
chợm rút chiếc còi và cái đồng hồ trong túi ra, hắn vẫn tiếp tục hét: “Los, los!” Hắn
không chấp nhận bất cứ thái độ thân tình hay đùa cợt nào, luôn luôn tỏ ra lạnh lùng thực
dụng và yêu cầu một tinh thần lao động có trách nhiệm cao ở chúng tôi. Đồng thời hắn tỏ
ra rất nguy hiểm, bởi hắn là ngƣời Tiệp và có thể hiểu tiếng Nga, dù hắn không bao giờ
nói với chúng tôi về chuyện đó. Các bạn của tôi, những ngƣời ban đầu cho hắn là ngƣời
Đức nên không hiểu tiếng Nga, đã nguyền rủa bằng tiếng Nga để đáp lại những mệnh
lệnh của hắn. Sau đó tôi phải nói gỡ cho họ khỏi bị rắc rối, bằng cách giải thích cho Riwa
rằng những từ thô tục đó trong tiếng Nga có nhiều nghĩa và hắn đã hiểu nhầm nó hay đại
loại nhƣ thế.
Gần nhƣ trọn ngày chúng tôi phải ở ngoài tuyến đƣờng sắt. Mặc cho nắng chiếu
cháy da, mặc cho răng cỏ chúng tôi lung lay trong giá lạnh mùa đông – chúng tôi phải
làm việc trong bất cứ điều kiện thời tiết nào. May mắn cho chúng tôi, thời tiết miền Nam
nƣớc Đức cũng khá ôn hòa. Từ mùa thu và cuối mùa đông cho tới dịp đầu năm mới mây
đen thƣờng tới từ Đại Tây Dƣơng, lúc này thƣờng xuyên có mƣa. Vào tháng Giêng và
tháng Hai trời có tuyết, theo sau là một mùa đông trời lạnh và khô ráo. Tuyết phủ trên
mặt đất chỉ trong vòng một tháng, đôi khi còn ngắn hơn. Khi đó trời suốt ngày ấm áp, mặt
trời chiếu sáng và đôi lúc có muỗi bay vo ve. Phụ nữ Đức mở toang cửa sổ để giũ sạch
nệm trải giƣờng. Nhƣng khoảng bốn hay năm giờ chiều, khi mặt trời lặn trên dãy Alps thì
trời bắt đầu se lạnh. Tới lúc đó cánh phụ nữ Đức đi khép kín cửa sổ lại. Về đêm có sƣơng
giá buông xuống mặt đất. Mùa xuân chỉ tới sớm nhất là vào tháng Ba.
Có lẽ chúng tôi đã may mắn khi đƣợc làm việc ngoài trời suốt ngày. Rất nhiều tù
nhân bị đƣa đi lao động dƣới các mỏ muối hay mỏ than hoặc các xí nghiệp quân đội nằm
ngầm dƣới mặt đất. Đấy là chƣa kể tới những ngƣời phải đi xây dựng những nhà máy hay
công trình bí mật và sẽ bị giết hết sau khi công trình hoàn thành vì bị coi nhƣ những nhân
chứng nguy hiểm. Có rất nhiều ngƣời Đức và ngƣời Ý cùng làm việc với chúng tôi, họ
không đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong quân đội do có khuyết tật tâm thần hay thể xác.
Trong số đó có ông già Sadori ngƣời Ý đến từ Sicily, ngƣời suốt đời đã làm việc ở Đức.
Tôi hỏi ông tại sao lại rời bỏ một quê hƣơng xinh đẹp nhƣ thế. Ông trả lời rằng làm một
ngƣời nghèo thì không thể hạnh phúc thậm chí ngay khi sống trên một đất nƣớc xinh đẹp.
Ông cũng bảo tôi rằng ông cũng chỉ là một tù nhân nhƣ chúng tôi mà thôi. Trợ lý đốc
công là một gã Đức râu mép to lớn và đần độn, rất thù ghét chúng tôi. Những ngƣời
chuyên đặt biệt hiệu trong nhóm đặt cho hắn cái tên “chó săn”. Tôi luôn cố tránh phải
tranh luận với gã ngốc đó, nhƣng không hiểu vì lý do gì đó hắn vẫn tìm cách nói chuyện
với tôi, tán dƣơng các chiến thắng của ngƣời Đức. Tới khi hắn bảo tôi rằng vũ khí của
quân đội Đức có chất lƣợng tốt hơn của ngƣời Nga thì tôi không thể nhịn đƣợc nữa và trả
lời rằng với điều đó thực tế chiến tranh sẽ trả lời. Hắn nổi giận và giơ nắm đấm trƣớc
mặt tôi. Một lần có ngƣời ném một cái ghế nặng bằng gỗ từ đoàn tàu vào chúng tôi.
Chiếc ghế đƣợc nhắm vào những tù nhân, nhƣng lại trúng vào tên chó săn. Hắn chửi thề
nhƣ điên, làm tất cả chúng tôi đều thấy khoái trá. Vào buổi chiều, khi chúng tôi quay về
khu trại, bọn chúng lục soát chúng tôi, nhƣng không cẩn thận lắm. Một ngƣời trong bọn
tôi luôn thủ về một tờ báo mới tiếng Đức với những tin tức nóng hổi nhất từ mặt trận,
đƣợc nhặt lên từ đƣờng tàu. Mọi ngƣời chuyển báo tới cho tôi để dịch lại. Chúng tôi đi
rửa ráy ở nhà tắm, tại đó chúng tôi cởi bỏ giày và quần dài để đi ngủ, xỏ đôi guốc gỗ vào
và ăn bữa súp tối trong nhà trại. Kế đó một tên lính gác đem tới cái thùng rác cũng dùng
làm thùng xí, cửa phòng đƣợc khóa lại cho tới sáng, còn bên ngoài sân một con chó canh
đƣợc thả ra. Chẳng khác gì nhà tù!
Trong những ngày đầu tiên làm việc ngoài tuyến đƣờng sắt, tôi đã cố gắng thử bắt
chuyện với những công nhân Đức. Họ phá lên cƣời. “Tôi đã nói cái gì không đúng
chăng?” - "Anh nói rất chuẩn, nhƣng chỉ có những quý ông và các ông chủ mới nói cái
kiểu nhƣ anh mà thôi. Chúng tôi nói năng đơn giản hơn nhiều.” Rồi họ hỏi tôi về nghề
nghiệp của mình hồi còn ở Nga. Tôi không muốn thú nhận mình là một kỹ sƣ, bởi trong
tiếng Đức cái từ “Diplom-Engineur” chỉ có nghĩa đơn giản là kỹ thuật viên. Tôi bèn nói
mình là một nhà thiết kế. Họ nghi ngờ tôi: “Hãy vẽ cho chúng tôi xem một cái bu lông và
một cái đai ốc”. Bằng một mẩu phấn tôi mau chóng vẽ ra một bu lông có xãnh xoắn và
cái đai ốc. Những ngƣời công nhân lộ vẻ ngạc nhiên. Một ngƣời trong bọn họ nói: “Anh
ta không nói dối đâu. Anh ta đúng là một nhà thiết kế đấy. Anh ta hẳn là một quý ông.”
Những điều đó nghe vừa khôi hài lại vừa đáng buồn.
Chúng tôi đƣợc canh gác bởi những lính Đức đƣợc gọi là Wachman, những ngƣời
lính có nhiệm vụ theo dõi hay canh gác. Chúng thƣờng bị thay đổi liên tục, do chúng chỉ
làm việc với chúng tôi trong một thời gian ngắn khi vừa rời bệnh viện để kịp hồi sức, sau
đó chúng lại phải ra mặt trận. Những tên lính đó có tính cách khác nhau và đối xử với
chúng tôi cũng rất khác nhau. Những tên còn trẻ bị đầu độc quá nhiều bởi sự tuyên truyền
của bọn Quốc xã, coi chúng tôi nhƣ kẻ thù và đối xử với chúng tôi rất tàn nhẫn. Những
đứa già hơn, đã từng chiến đấu ngoài mặt trận, coi chúng tôi cũng là ngƣời lính nhƣ mình
và đối xử tốt với chúng tôi mà không tỏ vẻ thù ghét. Trong số đó cũng có những thằng
tàn bạo (mắc bệnh xađích) thƣờng tìm mọi dịp để đánh đập tù nhân. Có lần một thằng
xađích thực thụ lọt vào trong đội gác-hắn thích lấy móng tay rạch mặt tù nhân chỉ vì
những lỗi nhỏ nhất. Tôi khiếu nại chuyện đó với tên hạ sĩ quan, ngƣời chỉ huy của nhóm
gác. Tên hạ sĩ mắng tôi rằng ngoài chiến trƣờng còn phải đổ máu nhiều hơn mà đâu có ai
kêu ca. Nhƣng có lẽ hắn cũng có nói với tên thú vật kia nên về sau tên kia thôi không
hành hạ tù nhân nữa. Bọn Đức trƣớc hết coi tù nhân nhƣ súc vật thồ, phù hợp với lao
động chân tay nặng nhọc, nên chúng cũng không muốn đánh đập chúng tôi để đến nỗi
không làm việc nặng đƣợc nữa. Ngoài ra chúng còn những lý do khác. Thực ra tham gia
trong đội cảnh vệ tại hậu phƣơng luôn an toàn hơn đi đánh nhau ngoài mặt trận, nên bọn
Đức tìm mọi cách để giữ chỗ đứng của mình ở đây. Chúng biết là nếu để chúng tôi than
phiền lên tên thiếu tá, chỉ huy trƣởng của khu đồn trú, ngƣời vẫn hay tới đây kiểm tra, thì
chúng rất dễ bị đƣa ra ngoài mặt trận. Không phải vì chúng thông cảm cho chúng tôi, mà
chỉ vì mặt trận luôn thiếu lính tiếp viện.
Bọn Đức cũng sợ lẫn nhau. Tên hạ sĩ sợ tên chỉ huy đồn trú; bọn lính thì sợ tên hạ
sĩ và sợ cả lẫn nhau. Khi chỉ có một tên lính canh áp giải chúng tôi đi làm, hắn thƣờng
không bao giờ giơ chân đá chúng tôi, đôi khi còn trò chuyện khá thân mật nữa. Nhƣng
khi có hai tên cùng đi áp giải thì, thậm chí là những tên trƣớc đó có thiện cảm nhất, cũng
sẵn sàng la hét chúng tôi, thúc giục chúng tôi làm nhanh hơn nữa, nhƣ thể cố ganh nhau
xem đứa nào làm tích cực hơn vậy. Cũng có những tên lính đôi lúc cố tỏ ra mình là ngƣời
có học. Một tên trong số đó có thái độ rất kiêu ngạo trịch thƣợng. Thêm vào đó hắn đối
xử với chúng tôi rất tàn nhẫn. Hắn vênh váo nói với tôi rằng mình đã tốt nghiệp một
trƣờng thể dục thể thao. Rồi hắn hỏi tôi nhƣ một giáo sƣ hỏi học trò tên những ngƣời Đức
kiệt xuất mà tôi biết. Khi tôi nêu tên Henrich Heine trong số những nhà thơ Đức, hắn sửa
lƣng tôi với một cái nhìn khinh miệt, bảo rằng không hề có một nhà thơ Đức nào với cái
tên nhƣ thế. Tới lƣợt mình, tôi đề nghị hắn kể tên những nhà văn Nga mà hắn biết. "Bá
tƣớc Leo Tolstoi và Dostoyevski là linh hồn Nga.” Đã bao giờ hắn đƣợc nghe về Pushkin
chƣa nhỉ? "Pushkin, Pushkin, - tên Đức hỏi lại tôi, phát âm nhấn mạnh âm tiết cuối. “Ông
ta là ai, một ngƣời theo chủ nghĩa quốc tế hay là một ngƣời theo chủ nghĩa dân tộc?” Tôi
không biết trả lời câu hỏi đó nhƣ thế nào mà chỉ đáp rằng ông là một nhà thơ Nga vĩ đại.
“Thế có nghĩa hắn là một ngƣời theo dân tộc chủ nghĩa” gã Đức đáp và kiêu ngạo nói
thêm: "Nếu hắn nổi tiếng thì tao đã phải biết tên hắn rồi.” Một tên lính khác từng là sinh
viên đại học, việc học của hắn bị gián đoạn bởi chiến tranh. Khi nói chuyện với tôi, hắn
bảo: "Tao là một ngƣời trung lập. Tao không bênh vực mà cũng không thù ghét chúng
mày. Nhƣng tao vẫn tin rằng chúng tao đối xử với chúng mày nhƣ thế là quá mức nhân
bản”. Thật là một nhân vật trung lập đáng mến!
Dù đã rất cố gắng, nhóm bạn bốn ngƣời chúng tôi vẫn để mất đi một đồng chí.
Một tên lính canh quấy rối Boris Smirnov vì một lý do gì đó và đánh anh. Để phản ứng
Boris liền ngƣng làm việc. Lát sau tôi tìm cách lại gần anh và khẽ bảo: “Cậu phải cố vƣợt
qua chuyện này để sống sót, Boris. Quay trở lại làm việc; nếu không cậu sẽ gặp rắc rối
đó.” Anh trả lời: "Giờ thì đã quá muộn. Tớ chịu hết nổi rồi. Cứ để chuyện ấy tới.” Bọn
Đức lôi anh đi một nơi nào đó và chúng tôi không bao giờ còn gặp anh nữa. Chuyện đó
xảy ra vào cuối năm 1942. Về sau, tới năm 1944, khi tình thế của bọn Đức đã thay đổi,
chúng tôi cùng sát cánh chặt chẽ với nhau và trở nên táo bạo hơn. Nếu có ai trong đội bị
bọn Đức làm phiền, tất cả chúng tôi liền dừng làm việc, mặc cho chúng la hét và dọa nạt.
Thậm chí chúng tôi còn đƣợc trả một khoản “tiền công” do làm việc cho công ty
Lutz. Vào dịp cuối tháng, tên Meister (đốc công) phát cho mỗi ngƣời một món tiền, nhờ
đó chúng tôi có thể mua nƣớc giải khát, dao cạo râu hay bột đánh răng tại cửa hàng của
tên mập Bromer. Đôi lúc chúng tôi hùn tiền lại và mua đƣợc của Bromer một túi khoai
tây luộc, và mỗi ngƣời nhờ thế có thêm một đĩa thức ăn cải thiện. Ban đầu chúng trả
chúng tôi bằng loại tem phiếu đặc biệt, chỉ có giá trị cho tù nhân. Rồi sau chúng tôi đƣợc
bảo đổi lại các tem phiếu đó và bắt đầu đƣợc trả bằng tiền mặt. Chúng không trả công
đồng đều cho mọi ngƣời. Tên đốc công chăm chú quan sát chúng tôi làm việc và những
ai làm tốt hơn sẽ nhận đƣợc nhiều tiền hơn.
Khi tên Vlasov mở rộng các hoạt động phản bội của hắn và bắt đầu thành lập cái
gọi là Quân đội Giải phóng Nga (ROA), chúng tôi thƣờng đƣợc những gã tuyên truyền
viên của hắn tới thăm. Chúng nói với chúng tôi rằng Stalin đã từ chối ký hiệp định quốc
tế về tù binh với Hội Chữ thập Đỏ, bởi cho rằng không có tù binh chiến tranh Xô viết mà
đó chỉ là những kẻ phản bội. Viện cớ đó ông ta đã đƣa chúng tôi tới tình thế không còn
bất cứ quyền lợi nào. Trong khi tù binh các quốc gia khác đƣợc Hội Chữ thập Đỏ bảo vệ,
đƣợc nhận thực phẩm từ nhà gửi sang và thậm chí đƣợc báo tin về gia đình, thì những
công dân Xô viết bị bắt chỉ đƣợc coi là những nô lệ. Bọn Đức có thể làm bất cứ điều gì
đối với chúng tôi mà không ai có thể đứng ra bảo vệ chúng tôi. Sau những lời đó, tên
tuyên truyền viên đƣa ra kết luận rằng cách duy nhất để giảm bớt tình trạng nô lệ đó là
gia nhập ROA. Sử dụng một lƣợng lớn tù binh Xô viết cho lao động cƣỡng bức, bọn trùm
sỏ nƣớc Đức cũng bắt đầu tiến hành tẩy não họ. Chúng cho in những tờ báo dành riêng
cho tù binh viết bằng tiếng Nga, Ukraina và nhiều thứ tiếng các dân tộc khác thuộc Liên
bang Xô viết. Tôi thậm chí còn đƣợc thấy một tờ báo in bằng tiếng Kalmyk. Dù tờ báo
tiếng Nga ấy (tôi đã quên mất tên của nó) in bằng giấy tốt và thiết kế khá đẹp, nội dung
tuyên truyền chống Xô viết bên trong thật bẩn thỉu và báng bổ. Tác giả những tờ báo ấy
gồm những tên Bạch vệ di tản, những tên phản bội mới đầu hàng, tất cả những loại tự
xƣng là dân tộc chủ nghĩa và “trí thức”. Chúng tán dƣơng văn hóa Đức, ca ngợi những
chiến thắng của nƣớc Đức, kêu gọi chúng tôi gia nhập ROA và chỉ trích mọi điều liên
quan tới chính quyền Xô viết. Chúng tôi thƣờng vẫn rất tôn trọng và tin tƣởng những gì
đƣợc in trên giấy, nhƣng những dòng chữ in trong tờ báo ấy thật gây sốc bởi lời lẽ chống
Xô viết, bài Do Thái, thái độ thô lỗ, khiếm nhã và những lời nói dối trắng trợn của nó.
Những tên bồi bút đó có bao giờ nghĩ tới số phận đất nƣớc chúng ta trong trƣờng hợp
nƣớc Đức chiến thắng không? Trong các bài viết của chúng chỉ có vài đoạn đề cập mơ
hồ về nƣớc Nga “gia nhập cộng đồng các quốc gia Châu Âu dƣới sự lãnh đạo của Đức
quốc”. Chúng không viết về sự thật rằng đất nƣớc ta sẽ có thể trở thành một thuộc địa cho
bọn Đức khai thác bóc lột. Tờ báo cố gắng ca ngợi rằng phần chiến quả của nƣớc Đức chỉ
là giúp nƣớc Nga thoát khỏi “nền độc tài của chủ nghĩa cộng sản”. Làm thế nào có ngƣời
ngây thơ nhẹ dạ đi tin vào cái luận điệu ấy? Khi chúng tôi đƣợc nhận những tờ báo ấy,
tên hạ sĩ thƣờng nghiên cứu kỹ chúng thật lâu. Có một lần tờ báo đƣợc chuyển tới đúng
dịp tên hạ sĩ đi vắng và bọn lính không dám phát chúng cho chúng tôi mà không có sự
đồng ý của hắn. Tôi nghe đƣợc một lính Đức nói với bạn của hắn: “Hãy đƣa chúng nó cái
thứ rác rƣởi kia của Goebbels đi cho rồi!”
Tuy nhiên, vào nửa cuối cuộc chiến tranh những tờ báo trên bắt đầu cho in những
bài viết khách quan hơn và chúng tôi có thể đọc thấy những ẩn ý đằng sau nội dung của
nó. Có lẽ đã xuất hiện những ngƣời từng sống dƣới thời Xô viết đồng ý làm việc cho tờ
báo ấy. Ví dụ, họ đƣa ra một bài phóng sự về diễn biến của cuộc chiến, trong đó mô tả rõ
rệt là bọn Đức đã thất bại trên tất cả các mặt trận. Nhƣng để nguỵ trang, bài báo thƣờng
kết thúc bởi một lời tuyên bố hoàn toàn lố bịch rằng chiến thắng của vũ khí Đức là điều
hiển nhiên. Khi quốc ca mới của Liên bang Xô viết xuất hiện, tờ báo ấy in một bài phóng
sự chỉ trích, nhƣng lại đăng cả lời bài hát mà khi ấy đối với chúng tôi là hết sức quan
trọng. Đáng tiếc thay, khi ấy chúng tôi lại không biết đƣợc giai điệu của nó. Họ cũng
đăng bài thơ “Đợi anh về” của Simonov. Một bài báo còn thông tin cho chúng tôi rằng
binh lính Xô viết không bắt bọn Vlasov làm tù binh mà xử bắn chúng ngay tại chiến
trƣờng. Đó là một thông điệp rõ ràng cho những ai sắp sửa đi phục vụ cho ROA. Tất
nhiên, những thông tin ủng hộ Xô viết nhƣ thế là rất hiếm giữa một lƣợng lớn những lời
lẽ dối trá và chống Xô viết, nhƣng chúng vẫn tồn tại và chúng tôi vẫn cố gắng tìm kiếm
chúng. Khi thần chiến tranh đã quay lƣng lại với bọn Đức trên mặt trận phía Đông, hầu
hết các đơn vị của ROA bắt đầu tìm cách đầu hàng quân đội Xô viết. Do đó, bọn Đức tái
bố trí chúng ở mặt trận phía Tây để chống lại quân Mỹ. Thậm chí chúng còn thiết lập các
đơn vị chặn hậu lấy từ những ngƣời của ROA để ngăn chặn binh lính Đức rút lui. Tôi sẽ
đề cập tới điều này ở đoạn sau.
Những tờ báo của Đức viết khá trung thực về tất cả những thay đổi ngoài mặt trận,
đƣa ra những bình luận rõ ràng về những thay đổi đó. Chúng tôi bị cấm không đƣợc giữ
và đọc báo chí của Đức. Nhƣng chúng tôi vẫn tìm cách “xoay sở” đƣợc. Hành khách trên
những chuyến tàu đi ngang qua thƣờng vứt báo ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi nhặt chúng lên,
giấu dƣới quần áo của mình và mang về khu trại. Tới buổi chiều tôi bí mật dịch những tin
tức chiến sự ra tiếng Nga, viết lại lên một mảnh giấy lấy từ vỏ bao ximăng và chuyền
mẩu tin ấy đi. Đấy là cách mà chúng tôi có đƣợc tờ báo bí mật riêng của mình.
Một công nhân đƣờng sắt già (Sicherpost) canh giúp chúng tôi khi có tàu hỏa
chạy qua. Ông ta thƣờng đứng ở trên cao và khi thấy một đoàn tàu sắp tới, ông sẽ thổi cái
còi của mình để chúng tôi ngừng làm việc và rời khỏi đƣờng ray. Đấy là một ông già
đáng mến; có thể trò chuyện với ông những lúc tên đốc công và lính canh bỏ đi chỗ khác.
Có lần tôi chú ý tới đôi ủng đặc biệt của ông. Chúng ngắn và trông rất lạ mắt. "Đấy là đôi
ủng của ông nội tôi”, ông già kể với tôi. “Chúng đã đƣợc hơn trăm tuổi rồi. Tôi giữ chúng
trong hòm nhƣ một thánh tích. Nhƣng thời bây giờ không tài nào mua đƣợc giày ủng nên
tôi vẫn phải dùng chúng.” Tôi vẫn để ý tìm hiểu tình hình của tổ quốc nên lên tiếng hỏi
ông già xem ông đã tới thăm vùng lãnh thổ đang bị Đức chiếm đóng của nƣớc Nga chƣa.
"Chƣa,” ông già đáp, “Tôi chƣa từng tới nƣớc Nga. Ngƣời ta đƣa tôi tới Romania. Tôi đã
tới thăm Odessa, đó là một thành phố xinh đẹp.” “Nhƣng Odessa chính là nƣớc Nga,” Tôi
phản đối. "Không, bây giờ nó là của Romania”. Thật là đau khổ và cay đắng khi phải
nghe thấy điều đấy. Có lần tôi hỏi ông già xem ông ta nghĩ về cuộc chiến tranh này nhƣ
thế nào. "Công việc của tôi là thổi cái còi của mình để các anh không bị đoàn tàu cán
phải”, ông già trả lời. Rồi sau một lúc im lặng, ông nói thêm: "Những ông lớn, những
ngƣời ở Berlin, mới biết chuyện đó.” Một câu trả lời điển hình kiểu Đức.
Có lần chúng tôi đƣợc thấy một cảnh khá khôi hài trong lúc làm việc. Một đoàn
xiếc đột nhiên tới cắm trại trên bãi đất trống gần đƣờng tàu. Có hai chiếc ôtô nhỏ với các
lồng thú và các hình vẽ trang trí. Một ngƣời đàn ông cụt tay, có lẽ là một thƣơng binh,
đang cho một con khỉ nhỏ ăn và một phụ nữ đang chăm sóc lũ thú trong chuồng. Có
những áp phích quảng cáo sặc sỡ dán trên hai bên thành xe. Một trong những áp phích ấy
mô tả một chiếc dù đang thả xuống những con khỉ, vận quân phục lính Đức. Dòng chữ
viết: “Bọn Mỹ đã bị bắt, chúng ta chiến thắng. Một chƣơng trình xiếc độc đáo.” Đấy là
cái gì: là sự mỉa mai hay sự ngu ngốc của một đế quốc? Đấy đúng là thứ thức ăn tinh thần
phù hợp với một ngƣời Đức trung bình.
Dù thực phẩm đƣợc phát cho chúng tôi rất tệ, nó vẫn có chút giá trị, do chúng tôi
đƣợc xếp vào hạng lao động nặng. Tất cả chúng tôi đều sợ bị ốm, nếu ốm chúng tôi sẽ bị
đƣa về trại trung tâm Stalag 5a ở Ludwigsburg, nơi tù nhân bị bỏ cho chết đói. Đấy là lý
do tại sao nếu bị bệnh thì chúng tôi phải giấu đi. Sau khi hồi phục rất có thể sẽ phải đi
làm việc ở một chỗ nào khác – vào hầm mỏ hay trong các xí nghiệp quân sự, nơi tù nhân
bị xử bắn chỉ vì những lý do vụn vặt nhất. Nhƣng thậm chí chỉ với một lƣợng thực phẩm
ít ỏi và lao động nặng chúng tôi cũng vẫn phải làm việc hết sức lực của mình. Có vài
ngƣời không chịu nổi, họ bị đƣa đi và thay bằng những tù nhân mới. Những ngƣời trở về
từ bệnh viện kể cho chúng tôi câu chuyện về “toà án binh bí mật”, đi thu thập thông tin từ
những tù nhân ốm mới nhập viện về bọn cảnh binh, bọn phản bội và tất cả những kẻ cộng
tác với quân Đức. Nếu có một kẻ nhƣ thế phải vào bệnh viện, “toà án binh” sẽ tổ chức
một cuộc xét xử. Những kẻ bị chứng minh là có tội sẽ bị xử theo một kiểu khủng khiếp:
nhiều ngƣời sẽ tóm lấy nạn nhân, bẻ cong ngƣời anh ta lại đến mức đầu chạm tới chân,
rồi ném anh ta trong tình trạng nhƣ thế xuống sàn bê tông. Cách đó sẽ làm gẫy xƣơng
sống, xƣơng cụt và gây ra những đau đớn khủng khiếp thƣờng xuyên, cũng có thể gây liệt
chi. Một ngƣời cũng có thể thành ngƣời què. Anh ta sẽ không còn đi đƣợc nữa mà chỉ có
thể bò trƣờn. Đó thật là một câu hỏi phức tạp, rằng cái “tòa án binh” ấy về mặt đạo đức
có quyền làm nhƣ vậy hayu3
Giữ gìn đƣợc trong một thời gian dài, nhƣng cuối cùng cũng tới lƣợt tôi. Do điều
kiện dinh dƣỡng kém nên tay tôi bị nổi mụn nhọt. Tôi hỏi chỉ huy nhóm lính canh, một
tên hạ sĩ, xin đƣa tôi tới khám bác sĩ. Vào một sáng, khi toàn trại bỏ đi làm việc, một tay
lính gác già tốt bụng cầm súng dẫn tôi tới chỗ bác sĩ. Bác sĩ là ngƣời địa phƣơng và rất ít
khi mặc bộ đồng phục bác sĩ quân y của mình. Ông ta thƣờng nhận bệnh nhân tại nhà
mình, tại đó ông có một căn phòng dành riêng để khám. Hai tên lính Đức đã tới đăng ký
trƣớc chúng tôi, trong khi tay lính canh và tôi chờ ở ngoài sảnh tiếp nhận. Thình lình
chúng tôi nghe thấy tiếng hét giận dữ của viên bác sĩ. Cửa phòng mở và mấy tên lính đi
ra ngoài, vẫn quay mặt về viên bác sĩ và đứng lại ở tƣ thế “nghiêm” (trong quân đội Đức,
lính không đƣợc phép đứng quay lƣng lại đối với sĩ quan cấp trên). Tay lính gác và tôi
bật dậy. Đằng sau hai tên lính viên bác sĩ bƣớc ra khỏi phòng làm việc, hét lớn: "Đồng
đội của các anh đang tƣới máu mình để bảo vệ tổ quốc, vậy mà các anh dám khai giả
bệnh để tránh phải ra mặt trận! Khi họ giả bệnh (ông ta chỉ vào tôi) thì tôi còn thông cảm
đƣợc. Tôi cũng sẽ làm nhƣ thế nếu tôi bị bắt làm tù binh”. Tay lính gác tôi lúng búng:
"Thƣa bác sĩ, tù nhân này có thể hiểu đƣợc tiếng Đức”. Viên bác sĩ trả lời: "Tôi không
cần quan tâm tới việc anh ta biết tiếng Đức. Tôi nói để bọn kia hiểu đƣợc ý tôi!” Rồi ông
ta ra lệnh cho tôi vào phòng mình. Ông ta đeo găng tay cao su vào, khám những cái nhọt
của tôi và băng chúng lại bằng những miếng băng giấy. Ông ta cho tôi biết thời gian có
thể quay tới tái khám. Tôi hỏi ông về nguyên nhân căn bệnh của mình. Ôâng ta nghiêm
nghị trả lời: "Đừng ngốc nhƣ thế, nguyên nhân chính là chiến tranh.” Vị bác sĩ ấy thƣờng
tới chỗ chúng tôi ba tháng một lần và khám cho tất cả chúng tôi. Trong trƣờng hợp ấy tôi
làm việc nhƣ một thông dịch viên cho mọi ngƣời. Có lần tôi mắc bệnh cúm và sợ rằng
sau khi khám vị bác sĩ sẽ đƣa tôi tới bệnh viện ở Ludwigsbur. Do đó tôi bảo ông ta rằng
đấy chỉ là cảm lạnh sơ sơ thôi. Nhƣng thay vì nói là "Kleine verkaltung" tôi lại nói
"Kleine Kalt", có nghĩa là “lạnh ít”. Ông bác sĩ mỉm cƣời, hiểu ra và đồng ý với tôi. Bao
giờ cuối buổi khám ông ta cũng thƣờng cho tôi một điếu xì gà quấn bằng thuốc lá thật
nhƣ để trả công tôi phiên dịch. Để chia sẻ hạnh phúc với các bạn nghiện thuốc, tôi đƣa
điếu xì gà cho họ và họ đem cắt nó ra từng mẩu nhỏ để chia với nhau. Các tù nhân nghiện
thuốc đôi khi đƣợc phát makhorka – những mẩu vụn một loại lá cây gì đó tẩm dung dịch
thuốc lá nguyên chất. Đám lính canh không hút loại makhorka đó và gọi chúng là "Holz"
(củi đốt). Đám bác sĩ Đức cũng rất khác nhau. Có vài kẻ mắc bệnh xađích và thƣờng tiến
hành những thí nghiệm vô nhân tính trên cơ thể tù nhân. Nhƣng trong số đó cũng có
những ngƣời rất đứng đắn giống nhƣ ông bác sĩ của trại chúng tôi.
Đôi khi chúng tôi đƣợc gặp tù nhân thuộc các quốc tịch khác: Pháp, Ba Lan, Bỉ,
Ấn Độ. Những cuộc gặp ấy diễn ra tại tơi làm việc hay trên tàu hỏa khi di chuyển. Chúng
tôi trao đổi với nhau thông tin từ các mặt trận, tất cả chúng tôi đều rất vui mừng khi nghe
bọn Đức bị thua trận. Chúng tôi nói với nhau bằng thứ tiếng Đức đơn giản, nhƣng vẫn có
thể hiểu nhau rất rõ. Tôi từng đƣợc nghe một câu chuyện kể rằng có hai tù nhân, một
ngƣời Nga và một ngƣời Pháp, trò chuyện với nhau bằng thứ tiếng Đức phát âm sai bét
và đầy lỗi nhƣ thế, trong khi có một tên lính Đức đang đứng ngay sát cạnh mà vẫn không
thể hiểu nổi một lời.
Không phải tất cả bọn Đức đều giống nhau hay tỏ ra thù địch với chúng tôi. Tôi
nhớ có một hôm trời mƣa và rất lạnh, khi chúng tôi, lạnh và ƣớt tới tận xƣơng, đang làm
việc trên đƣờng tàu. Ngƣời thợ máy lái tàu, ngƣời đƣợc chúng tôi phục vụ, khi thấy
chúng tôi trong tình trạng đáng thƣơng nhƣ thế đã ném rất nhiều bánh than cám cho
chúng tôi để có thể tự sƣởi ấm sau khi trở về khu trại. Chúng tôi nhặt những bánh than đó
lên và nói lời cảm ơn ông ta. Tôi trông thấy những giọt nƣớc trong mắt ông. Để giấu
chúng đi, ông ta quay lƣng lại rồi vẫy tay với chúng tôi và ném thêm xuống vài bánh than
nữa. Có lẽ con trai ông đã mất tích khi đang chiến đấu trên mặt trận phía Đông và ông
nghĩ con mình cũng đang phải chịu giam cầm. Có lần chúng tôi phải đi sửa đoạn đƣờng
ray nằm cạnh một ngôi nhà nhỏ, có lẽ đó là nhà của một công nhân đƣờng sắt. Một ngƣời
đàn bà cùng đám con nhỏ sống ở đó. Cô ta kéo lũ trẻ lại khi chúng cố chạy tới chỗ chúng
tôi, và nhìn chúng tôi với ánh mắt căm thù. Tên lính canh bảo với tôi rằng đó là một
"Kriegswitwe", một góa phụ vì chiến tranh, có chồng bị giết tại mặt trận phía Đông. Cô ta
nói với viên đốc công của chúng tôi và hắn ra lệnh cho chúng tôi mang tới cho cô ta một
thanh tà vẹt gỗ đã cũ để làm củi đốt. Mọi ngƣời mang tới cho cô ta hai thanh tà vẹt. Dù cô
ta ghét chúng tôi, chúng tôi vẫn cảm thấy thƣơng hại ngƣời phụ nữ đó, dù chồng cô ta là
kẻ thù của chúng tôi và đã phải trả giá đời mình vì điều đó.
Tại một trong những cửa hàng bán lẻ ở Lorch (tại thị trấn đấy có rất ít hàng hóa
Đức đƣợc bán công khai) có một tấm áp phích lớn sặc sỡ dán trên cửa sổ. Trên áp phích
vẽ một khẩu đại bác của Đức. Ở hậu cảnh là một tên lính pháo binh Đức đang vƣơn dài
cánh tay của hắn về phía ngƣời xem. Dòng chữ trên đó đề: “Hãy trao đạn cho chúng tôi!”
Khi chúng tôi có dịp phải đi ngang cửa hàng, một vài tù nhân kín đáo làm mấy cử chỉ
lăng mạ với tên lính pháo binh Đức. Điều đó thật ngô nghê nhƣng là một phản ứng rất
chân thật.
Tấùt cả mọi con đƣờng trong khu vực chúng tôi sống đều đƣợc viền hai bên bằng
những hàng cây táo. Vào mùa thu, khi táo chín, những rãnh đất dọc bên đƣờng đều chất
đầy táo, cuối cùng phải vứt cho súc vật ăn. Đôi lần chúng tôi đề nghị bọn lính và tên hạ sĩ
cho phép chúng tôi lấy một chiếc xe ngựa ở chỗ Bromer cùng với hai ngƣời đi nhặt táo
rụng cho cả nhóm, có một lính gác áp giải. Đấy thực sự là một dịp lễ đối với chúng tôi.
Khi làm việc dọc đƣờng tàu, chúng tôi có dịp tận mắt thấy bọn Đức đã cƣớp bóc các quốc
gia Châu Âu nhƣ thế nào. Các toa xe mang các dấu hiệu của Ba Lan, Áo, Pháp, Ý, Bỉ,
Đan Mạch, Nam Tƣ và nhiều nƣớc khác. Chỉ có một lần chúng tôi đƣợc thấy toa chở
hàng của đất nƣớc mình, của nƣớc Nga Xô viết. Có lẽ nó đã đƣợc sửa lại cho hợp với
tuyến đƣờng sắt hẹp hơn kiểu Châu Âu. Nó đứng lẻ loi trên một tuyến đƣờng tránh, và
chúng tôi âu yếm vuốt ve hai bên sƣờn cũ mòn của nó nhƣ một phần của tổ quốc xa xôi
và mến thƣơng của mình!
Có lần tên hạ sĩ, chỉ huy nhóm gác, một tay hăng máu khác thƣờng, giống nhƣ
đám thƣợng sĩ Nga, quyết định gây ấn tƣợng với tôi bằng kiến thức của mình và đồng
thời để chứng tỏ sự ƣu việt về chủng tộc. Làm vẻ mặt đặc biệt nghiêm nghị, hắn hỏi tôi
đã bao giờ đƣợc nghe về những cuộc chiến tranh Punic chƣa. Dựa theo nét mặt hắn tôi có
thể thấy rõ rằng hắn chắc chắn tôi sẽ trả lời là “không”. Tôi quyết định mình sẽ không
cho hắn niềm vui thích đấy và trả lời rằng đó là các cuộc chiến giữa La Mã và Carthage
vào thế kỷ thứ ba trƣớc Công nguyên, rằng đã diễn ra ba cuộc chiến để giành quyền kiểm
soát Địa Trung Hải và rằng Carthage cuối cùng đã thua trận. Gã hạ sĩ tỏ ra bị sốc và rất
thất vọng. Hắn suy nghĩ trong chốc lát, rồi mỉm một nụ cƣời láu cá và bảo: “Thế thì tôi sẽ
hỏi anh một câu hỏi mà anh cũng không cần phải trả lời, bởi rất ít ngƣời biết điều đó. Đấy
là một cuộc chiến tranh giữa La Mã và Carthage, thế tại sao ngƣời ta lại gọi đó là cuộc
chiến Punic?” “Bởi vì ngƣời La Mã gọi ngƣời Carthage là Pune.” Thế là tên hạ sĩ cào
nhàu và câm họng. Có lẽ, kiến thức về lịch sử của hắn đã cạn kiệt. Hắn phẩy tay và quay
trở vào phòng gác, quên cả đóng cửa phía sau lƣng. Tôi nghe tiếng hắn thất vọng nói với
tên lính bên cạnh: “Thì ra lũ Nga hèn hạ đó cũng biết về cuộc chiến Punic”. “Vậy có
thêm cuộc chiến nào nữa nổ ra hay sao?” – bọn lính lo lắng hỏi. “Ôi lũ con nhà nông dân
chúng mày,” – tên hạ sĩ khinh bỉ nói. “Những cuộc chiến đó diễn ra từ thời cổ đại!” “Nếu
các cuộc chiến đó diễn ra từ lâu rồi thì tại sao chúng ta lại phải nhớ tới chúng? Tôi chỉ
muốn biết lúc nào thì cuộc chiến tranh này kết thúc.” – tên lính phản đối. “Đi làm nhiệm
vụ của mày đi và đừng hỏi những câu hỏi ngu ngốc nữa,” – tên hạ sĩ kiêu căng đáp,
không hề nghi ngờ rằng những lời đó cũng rất hợp với hắn. Sau đó hắn đóng sầm cánh
cửa phòng lại.
Chạy trốn! Quay trở về với Hồng quân, cầm lấy vũ khí và trả thù cho tất cả những
nhục nhã, xúc phạm và đánh đập. Chúng tôi tất cả đều quan tậm tới vấn đề đấy và bàn
bạc với nhau rất nhiều về nó. Chạy trốn, nhƣng chạy đi đâu? Chúng tôi đang ở phía Tây
Nam nƣớc Đức. Hàng ngàn dặm đƣờng đất thù nghịch ngăn trở giữa chúng tôi với Đất
Mẹ. Đi về phía Đông qua những vùng đất đầy ngƣời Đức sinh sống, kế đó là vùng đất Ba
lan bị chiếm đóng, rồi cuối cùng là qua mảnh đất của chúng ta, vẫn còn nằm dƣới ách
phát xít – điều đó là không thể thực hiện đƣợc! Chạy trốn về phía Tây, tới nƣớc Pháp
chăng? Nƣớc Pháp chỉ cách chúng tôi 150 kilômét. Nhƣng Pháp cũng đang bị bọn Đức
thống trị, và cũng bị chia cách với chúng tôi bởi sông Rein. Cách 200 kilômét về phía
Nam là vùng đất Thụy Sĩ trung lập. Tại một vị trí đƣờng biên giới khuất sau cái hồ rộng
tên là Bodensee và tại nhiều nơi khác biên giới nằm sau các rặng núi. Ở trại tập trung
Ludwigsburg chúng tôi đã nghe những câu chuyện về các cuộc đào thoát tới Thuỵ Sĩ. Các
tù nhân chạy trốn thƣờng trộm những chiếc xe đạp của dân địa phƣơng, đạp tới hồ
Bodensee vào ban đêm, rồi tròng vào ngƣời những cái ruột xe đã bơm căng và cố gắng
bơi qua hồ. Những ai không bị giết bởi bọn lính biên phòng Đức và không chết đuối thì
qua đƣợc tới Thụy Sĩ và đƣợc đƣa tới một trại giam khác. Nên tất cả cũng chỉ là sự thay
đổi nhà tù. Tôi có nghe câu chuyện về một ngƣời tù nhƣ thế, đã vƣợt qua đƣợc biên giới
nhƣng lại bị bọn Đức bắn bị thƣơng. Anh ta ngã xuống ngay trên đƣờng biên giới. Lính
biên phòng Đức và Thụy Sĩ chạy tới chỗ anh ta. Ngƣời tù van xin phía Thụy Sĩ đem anh
đi, nhƣng họ sợ bọn Đức và từ chối. Con ngƣời tội nghiệp đó bị đƣa trở lại Ludwigsburg
và bị xử bắn.
Dù vậy, hai ngƣời trong đội chúng tôi vẫn trốn đi. Tôi không còn nhớ nổi tên của
họ. Không một ai trong chúng tôi biết là họ đang chuẩn bị chạy trốn. Một hôm họ đi lấy
bữa sáng tại nhà bếp cùng với tên lính gác và rồi biến mất. Tên lính gác giận dữ quay về;
hắn la lối rằng bây giờ hắn sẽ bị đƣa ra mặt trận, rằng tất cả chúng tôi sẽ bị xử bắn và đại
loại thế. Ngày hôm sau chúng tôi không đƣợc đƣa đi làm. Chúng tôi không biết chuyện gì
đã xảy ra. Nhanh chóng, toàn bộ cảnh sát từ thị trấn Lorch đổ tới lục soát chúng tôi, xới
tung toàn bộ khu trại. Thậm chí chúng còn ra lệnh cho chúng tôi phải rút cả rơm độn các
tấm nện giƣờng lên. Chúng la mắng chúng tôi và đối xử rất thô lỗ. Nhƣng tất nhiên chúng
không tìm thấy bất cứ thứ gì. Khoảng một tuần sau chúng tôi đƣợc thông báo là hai ngƣời
kia đã bị bắt lại. Có lẽ, chúng đã thông báo sự thật – dù sao họ cũng không thể đi xa đƣợc.
Không có thức ăn, không có bản đồ, không có la bàn, trên ngƣời mặc bộ quần áo tù, lại
không biết ngôn ngữ giữa một khu vực dân cƣ sinh sống đông đúc nên sự đào thoát của
họ dẫn tới sự thất bại tất yếu. Tôi không nghe nói điều gì về số phận của họ, nhƣng những
ai thử trốn mà bị bắt lại đều bị đƣa đi thủ tiêu.
Cuộc đời của chúng tôi trong đội lao động ấy nhƣ thế nào? Làm việc nặng nhọc
và thiếu thốn thức ăn, sống trong tình trạng nhƣ trong nhà tù, chịu sự cƣ xử thô bạo của
bọn lính canh, và điều chủ yếu là một tƣơng lai hoàn toàn không xác định. Chúng tôi
không đƣợc có chút quyền hạn gì. Bọn lính canh có thể đánh nhừ tử hay thậm chí giết
chết bất cứ ngƣời nào trong số chúng tôi. Đối với tổ quốc, chúng tôi là những kẻ phản bội,
và khi chúng tôi trở về có lẽ sẽ phải đối diện với một toà án và sẽ bị đày đi làm việc trong
các hầm mỏ ở Siberia. Chúng tôi cảm thấy mình có tội mà không phạm phải bất cứ tội
nào. Chúng tôi sống trong một tình trạng tồi tệ, không quan tâm tới việc ngƣời ta trông
chúng tôi nhƣ thế nào. Tôi còn nhớ rằng mình đã ghi lại những dòng nhật ký dƣới đây,
mà sau này đã bị tiêu hủy: "Nhƣ lũ súc vật thồ, tôi kéo cái ách của mình mà không còn
nhớ tới quá khứ và cũng không còn chút hy vọng vào tƣơng lai.” Không một ai có thể
hiểu nổi cuộc sống nhƣ thế. Một số ngƣời bị đƣa đi, và những tù nhận mới đƣợc gửi tới
nhóm chúng tôi để thay thế họ, và qua những ngƣời mới đến chúng tôi biết đƣợc những
gì đang xảy ra trên thế giới. Đây là một sự thật đáng ngạc nhiên, nhƣng những ngƣời
sống ở thành phố, dù có thể trạng yếu hơn, lại chịu đựng cái điều kiện tồi tệ đó tốt hơn
những ngƣời nông dân.
Vào cuối năm 1944, khi Mặt trận thứ hai đƣợc mở và nƣớc Đức phải chiến đấu
trên hai mặt trận, cả phía đông lẫn phía tây, thái độ của binh lính Đức, những kẻ canh giữ
chúng tôi, bắt đầu thay đổi hoàn toàn. Nhƣ ngƣời ta vẫn nói, đôi khi ăn đòn làm cho
ngƣời ta tỉnh ra. Có vài tên lính bắt đầu tuyên bố một cách thận trọng: "Cả anh lẫn tôi đều
là những ngƣời tốt. Vậy sao chúng ta lại phải đánh nhau? Nƣớc Nga có thể bán cho
chúng tôi dầu hỏa và bánh mì, trong khi chúng tôi sẽ sản xuất máy móc cho nƣớc Nga.”
Tôi trả lời với hắn là sự cân nhắc ấy đáng lý phải đƣợc thực hiện từ trƣớc chiến tranh, và
hắn buồn rầu đồng ý với tôi.
Tình hình càng ngày càng trở nên đáng báo động hơn. Không quân Mỹ bắt đầu
ném bom những thành phố gần chỗ chúng tôi, và thƣờng phá hủy các tuyến đƣờng sắt.
Chúng tôi bị bắt buộc phải đi sửa lại chúng. Những tuyên truyền viên tới từ ROA (Quân
đội Giải phóng nƣớc Nga) bắt đầu tới thăm chúng tôi thƣờng xuyên hơn, khuyến khích
chúng tôi gia nhập quân đội của Vlasov. Chúng cũng bảo chúng tôi là “trong trƣờng hợp
xấu nhất, toàn thể Châu Âu sẽ mở cửa đón chúng ta”. Chúng lái chúng tôi tới chuyện nhét
vũ khí Đức vào tay chúng tôi, “trƣớc khi điều đấy thành quá muộn”. Những tin đồn gây
hoang mang bay tới từ trại tù binh Ludwigsburg nói rằng bọn chúng đang dùng vũ lực ép
buộc mọi ngƣời gia nhập vào quân đội của chúng. Tuy nhiên, còn lâu mới tìm đƣợc
những kẻ ngu ngốc hay phản bội trong nhóm của chúng tôi. Vào một ngày làm việc
chúng tôi không đƣợc đƣa tới công trƣờng mà ở lại trong khu trại. Chúng tôi đƣợc yêu
cầu ngồi xuống quanh chiếc bàn và chờ đợi. Tất cả chúng tôi đều mất bình tĩnh vì những
phỏng đoán đầy lo âu. Cuối cùng, cánh cửa thông sang phòng bọn gác mở ra, một tên hạ
sĩ quan xuất hiện và ra lệnh tất cả chú ý. Chúng tôi đứng dậy. Một gã sĩ quan Đức lạ mặt
bƣớc vào phòng. Hắn khẽ nói điều gì đó với tên hạ sĩ. Tên kia chào và đi ra khỏi phòng.
Tên sĩ quan đi tới giữa nhà và bắt đầu nhìn thẳng vào chúng tôi. Hắn là một ngƣời thấp,
khoẻ mạnh và đã đứng tuổi, có một bộ râu mép đỏ đã bắt đầu điểm bạc, lông mày đậm và
cái nhìn nhƣ khoan thẳng vào ngƣời đối diện. Sự mâu thuẫn giữa tuổi tác và chức vụ của
hắn lộ rõ. Hắn chỉ đƣợc đeo lon trung uý. Các sọc vàng trên quân phục của hắn cho biết
hắn là một sĩ quan kỵ binh. Nhiều phút trôi qua trong im lặng. Bất ngờ tên sĩ quan thốt
lên bằng tiếng Nga rõ ràng rành mạch: “Nghỉ, xin ngồi xuống, thƣa các ngài!” Các “quý
ngài” ngạc nhiên ngồi xuống. Tên sĩ quan bƣớc dọc theo cái bàn và bắt đầu nói: "Thƣa
các ngài, tôi cũng là ngƣời Nga nhƣ các ngài, nhƣng lớn tuổi hơn, và theo ý muốn của số
mệnh tôi đã phải rời tổ quốc của mình. Tôi là một trung uý thuộc trung đoàn
Astrakhanski, từng tham gia Thế chiến thứ nhất và cả thời kỳ Nội chiến. Nhƣ các ngài có
thể đoán, tôi chiến đấu bên phe Bạch vệ.” “Thƣa các ngài,” hắn tiếp tục, “Thế chiến thứ
hai đã tiến tới giai đoạn quyết định, và không ai có thể tránh không tham gia vào đó. Các
ngài cũng có thể tham dự, nhƣng lần này là ở phe những ngƣời văn minh và chính nghĩa.
Các ngài sẽ sớm đƣợc tuyển vào Quân đội Giải phóng nƣớc Nga của tƣớng Vlasov và sẽ
phục vụ vào làm lính bộ binh. Hiện tôi đang thành lập một đơn vị kỵ binh Cossack có đặc
quyền và tới đây để tuyển lựa những ai từng phục vụ trong những đơn vị kỵ binh hay
Cossack, những ai là ngƣời Cossack hoặc những ai mong muốn phục vụ trong một đơn vị
ƣu tú thay vì phải vào bộ binh.” Chúng tôi lặng ngƣời đi vì những thông tin và những lời
đề nghị nhƣ thế. Sau khi dừng lại một lúc, tên sĩ quan hỏi: "Thế nào, các ngài, ai muốn
gia nhập đây?" Tất cả chúng tôi đều giữ im lặng. Tên sĩ quan tiếp tục: "nếu ở đây không
có ngƣời tình nguyện, tôi sẽ tự chỉ định những ngƣời mà tôi thấy là phù hợp. Nhƣng tôi
cảnh báo các anh là tôi sẽ chuyển những ai từ chối cho Gestapo. Các anh cũng tự biết
điều đó có nghĩa gì rồi. Không ai còn sống sót và khoẻ mạnh quay về từ chỗ đấy đâu.”
Sau những lời đấy hắn bắt đầu gọi lần lƣợt từng ngƣời, hỏi tên, chức vụ, nghề nghiệp của
gia đình và v.v. Tôi muốn đứng lên và nói: “Thƣa ngài! Chúng tôi đã chiến đấu một cách
trung thực, bảo vệ tổ quốc của mình và chúng tôi bị bắt làm tù binh không phải là do lỗi
của bản thân. Phân nửa đất nƣớc chúng tôi bị tàn phá bởi chiến tranh. Hàng triệu ngƣời
dân nƣớc tôi bị chết. Chúng tôi đang bị sử dụng nhƣ những nô lệ, chúng tôi bị bỏ đói,
chúng tôi bị đánh đập và hạ nhục. Còn bây giờ, khi nƣớc Đức bị đánh bại từ cả hai phía,
khi chúng tôi có đƣợc hy vọng sẽ kết thúc chiến tranh, đƣợc giải phóng và quay về tổ
quốc, thì ông lại ở đây và đề nghị chúng tôi mặc vào bộ quân phục Đức, cầm lấy vũ khí
Đức và bảo vệ nƣớc Đức. Ông đang đề nghị chúng tôi chiến đấu chống lại những ngƣời
anh em của mình, những ngƣời đang đến để giải phóng chúng tôi. Có lẽ, ông nghĩ tất cả
chúng tôi ở đây đều là lũ khờ để ông đƣa ra một lời đề nghị nhƣ vậy. Ông đã từng đánh
lại chính đồng bào của ông, đánh mất quê hƣơng của ông và tự hạ mình tới mức đi mặc
vào ngƣời bộ quân phục của Đức, trở thành một kẻ phản bội. Giờ đây ông muốn chúng
tôi cũng làm nhƣ vậy, để cho chúng tôi (nếu chúng tôi không bị giết bởi chính những anh
em của mình) sẽ lặp lại số phận của chính ông.” Mỗi ngƣời trong chúng tôi đều muốn nói
nhƣ vậy, nhƣng chúng tôi không thể. Chúng tôi phải đứng im lặng, bởi tên Bạch vệ mặc
quân phục Đức đó có thể bắn bất cứ ngƣời nào trong số chúng tôi. Sau khi thẩm vấn, tên
sĩ quan chọn ra ba ngƣời và đƣa họ đi. Một trong số họ là Lisnevski, một chàng trai dễ
thƣơng thuộc gia đình trí thức; ngƣời thứ hai là Yurkin, một kẻ khó ƣa đã bị mất gốc. Tôi
không còn nhớ tên của ngƣời thứ ba. Một thời gian sau Lisnevski tìm đƣợc cách thoát
khỏi câu chuyện bẩn thỉu đó và quay trở về nhóm chúng tôi. Chúng tôi không biết đƣợc
điều gì đã xảy ra với hai ngƣời còn lại. Những lời đe dọa sẽ động viên vào quân đội của
Vlasov không bao giờ trở thành sự thật. Hoặc là chúng không có đủ thời gian hoặc bọn
Đức không đồng ý vũ trang cho những ai công khai tỏ ra thù địch với chúng. Hoặc tên
Bạch vệ kia chỉ nói dối tất cả mọi chuyện với chúng tôi để dọa nạt mà thôi.
Trong khi ấy, tình hình ngày càng trở nên đáng lo. Chiến tranh nhanh chóng tiến
về phía chúng tôi từ hƣớng tây. Đấy là những tin tức vừa tốt lành lại vừa đáng lo ngại.
Trƣớc khi thất trận, bọn Đức có thể sẽ “đóng cửa lại” tàn sát tất cả chúng tôi. Những máy
bay ném bom của ngƣời Mỹ oanh tạc các thành phố, các tuyến đƣờng sắt và các xa lộ lân
cận. Máy bay ném bom bay hàng đàn tới Stuttgart và tiến hành “ném bom rải thảm”, thả
hàng trăm quả bom cùng một lúc dựa theo các tín hiệu vô tuyến. Nhằm làm vô hiệu hóa
hỏa lực phòng không của Đức, ngƣời Mỹ thả xuống từ các máy bay ném bom rất nhiều
những dải kim loại. Tôi nghe những ngƣời nông dân Đức nói rằng những dải kim loại ấy
đƣợc thả xuống để đầu độc tất cả các gia súc.
Mùng một tháng Tƣ năm 1945 là ngày cuối cùng chúng tôi còn làm việc trên
tuyến đƣờng sắt. Sau đó chúng tôi chỉ còn ngồi trong nhà kho, bị khóa kín cửa, chờ cho
mọi việc xảy đến. Tất cả chúng tôi đều rất căng thẳng. Trong một ngày nhƣ thế một máy
bay tiêm kích của Mỹ đã tấn công khu trại chúng tôi và nã xuống một loạt đạn từ khẩu
đại liên cỡ lớn của nó, nhƣng may mắn thay, trong chúng tôi không có ai bị thƣơng cả.
Chúng tôi sớm nghe thấy tiếng đại bác nổ từ phía xa. Chúng tôi lắng nghe nó nhƣ thể đó
là tiếng nhạc mừng cho sự giải thoát chính mình. Vào một trong những ngày đó chúng
nhìn thấy từ cửa sổ của mình một đoàn tù binh rất đông có lính áp giải dừng lại nghỉ đêm
trên cánh đồng đằng sau con sông. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Trả lời câu hỏi
của tôi về lý do tiếng súng nổ, tên hạ sĩ nói rằng một tù nhân trong đám đó cố gắng bỏ
trốn, nhƣng bị bắn chết.
Cuối cùng, tới ngày thứ năm thì vụ “ngồi trại” đó kết thúc. Trong bữa sáng ngày
mùng 6 tháng Tƣ chúng tôi đƣợc lệnh phải sắp hàng để hành quân với hành trang cá nhân.
Chúng tôi không đƣợc biết mình bị dẫn đi đâu và tại sao. Chúng tôi nghĩ ra đủ thứ – từ
tình huống tốt nhất tới tình huống xấu nhất có thể tƣởng tƣợng ra đƣợc. Chúng tôi sắp
xếp đồ đạc nhanh chóng. Mỗi ngƣời chúng tôi có một túi xách, bên trong bỏ những vật
dụng thiết y ếu nhất của mình. Tôi có một quyển sách, một cuốn từ điển tiếng Đức mà tôi
tự làm từ những mảnh giấy của bao đựng ximăng. Cái bìa làm từ mảnh len màu xanh lá
cây sẫm đƣợc phát cho chúng tôi để vá quần áo. Cuốn sách to và nặng, trong khi tôi lại
yếu sức nên tôi phải bỏ lại trong trại. Tôi vẫn còn rất tiếc vì điều đó. Chỉ huy khu đồn trú
tới nói lời tạm biệt với chúng tôi, hắn ta vốn là một bác sĩ, một ngƣời thấp bé và kiêu
căng. Hắn nói tạm biệt với đám lính, và chỉ ngạo mạn nhìn chúng tôi, không thèm nói
một lời. Và rồi chúng đƣa chúng tôi đi. ??? Vĩnh biệt công ty Lutz, Meister Riwa và cái
khu trại nằm sau hàng rào dây thép gai! Chúng tôi mau chóng nhận ra rằng mình đang bị
đƣa về phía đông. Điều đó có nghĩa là chúng đang đƣa chúng tôi rời xa mặt trận, đang
ngày một tiến lại gần. Ban đầu chúng tôi đi với rất đông lính áp giải và thậm chí có cả
chó canh. Nhƣng sau một thời gian số lƣợng lính canh giảm dần, và chó thì biến mất ở
một quãng nào đó. Tên hạ sĩ, chỉ huy nhóm áp giải chúng tôi, cũng biến mất. Một tên đội
già (Feldwebel) đƣợc chỉ định lên thay hắn. Quân phục của hắn bốc đầy mùi nấm mốc rất
khó chịu. Chúng tôi dừng lại nghỉ đêm trong những ngôi làng, ở đó chúng tôi thƣờng bị
nhốt lại trong những nhà kho, có lính Đức đứng gác. Chúng tôi đƣợc cho ăn khoai tây
luộc, do bọn lính gác Đức lấy từ các nông dân. Các nông dân Đức trồng rất nhiều khoai
tây. Dù tình hình rất khó khăn và sự bất lƣờng của tƣơng lai phía trƣớc, chúng tôi vẫn tò
mò quan sát đời sống ngƣời nông dân Đức và những ngôi nhà họ ở. Chiến tranh tới gần
đƣa sự hoảng loạn vào vùng hậu phƣơng nƣớc Đức. Chúng tôi trông thấy bọn phát xít địa
phƣơng khẩn trƣơng sơ tán về khu vực trung tâm đất nƣớc, và chúng tôi cũng thấy sự
tổng động viên tất cả ngƣời già và trẻ em. Một lần chúng tôi trông thấy bọn lính đang áp
giải những tân binh mới bị động viên, trong số đó có cả một cậu gypsy còn rất trẻ, mặc
chiếc áo vét quân phục Đức choàng ra ngoài bộ quần áo dân thƣờng.
Nhiều ngày trôi qua trong cuộc hành trình. Nhƣng một lần chúng tôi bị đánh thức
bởi những dấu hiệu khác lạ vào giữa đêm khuya. Cửa nhà kho nơi chúng tôi đang nằm
không bị khóa, và ở xung quanh lính gác hoàn toàn biến mất. Tất cả chúng tôi đều đứng
lên vì kích động. Điều này có nghĩa gì? Chúng tôi phải làm gì đây? Vài ngƣời hăng hái
đòi bỏ trốn ngay lập tức! Những ngƣời khác cho rằng đây là trò khiêu khích của bọn Đức,
chúng sẽ viện cớ bỏ trốn để bắn chết tất cả mọi ngƣời. Chạy trốn trên đồng trống không
có rừng rậm, giữa những cộng đồng thù địch và hàng đoàn lính địch là một việc vô vọng.
Sau khi thảo luận hồi lâu chúng tôi quyết định hẵng cứ chờ đợi đã. Sáng hôm sau viên đội
nọ bƣớc vào căn nhà kho của chúng tôi. Hắn nói rằng đám lính gác bị chuyển lên mặt
trận, trong khi chính hắn đứng ra bảo đảm với cấp trên là chúng tôi sẽ không trốn chạy.
Hắn cũng nói rằng từ giờ phút này hắn sẽ là ngƣời gác duy nhất. Tới lúc sáng rõ, chúng
tôi ra ngoài sắp hàng lại. Tên đội đi đằng trƣớc, chúng tôi theo sau, và tất cả cùng hành
quân về phía đông. Các ngả đƣờng đều kẹt cứng các đơn vị hậu cần và dự bị của Đức
đang rút lui. Lính Đức thuộc các đơn vị ấy hét với theo tên lính canh của chúng tôi: “Việc
quái gì mà mày phải áp giải chúng nó đi nhƣ vậy? Bắn sạch chúng nó đi, trƣớc khi chúng
nó kịp bắn vào chúng ta!” Tay lính canh của chúng tôi cứ giả vờ nhƣ không nghe gì hết.
Mọi ngƣời hỏi tôi xem bọn Đức đang la hét điều gì. Tôi không muốn làm họ lo lắng thêm
nên trả lời: "Ồ, không có gì đâu, chỉ là trò chuyện vớ vẩn thôi, đừng để ý đến".
Đột nhiên một nỗi sợ hãi lan đi trong khắp cái khối ngƣời ngựa và xe cộ đang rút
lui ấy. Tiếng súng, sự hỗn loạn và tháo chạy vẫn tiếp tục. Chúng tôi tìm cách vƣợt qua
đám đông đó và tiến xa hơn trên con đƣờng. Rồi chúng tôi dừng lại ở một khoảng rừng
nhỏ. Tên lính gác của chúng tôi đã hoàn toàn mất phƣơng hƣớng. Để trả lời cho câu hỏi
của tôi xem hắn định dẫn chúng tôi đi đâu, hắn đáp: “Tôi chỉ là một cai đội, còn tất cả các
anh đều là sĩ quan, vậy các anh tự quyết định đi!” Từ lúc đó, giữa tên gác và chúng tôi có
một sự thỏa hiệp ngầm, cùng đóng giả sao cho có vẻ nhƣ chúng tôi vẫn là những tù nhân.
Sau khi tham khảo ý kiến, chúng tôi quyết định đi tới một ngôi làng nhỏ, cách xa đƣờng
lớn và dừng ở đó chờ ngƣời Mỹ tới. Tay lính gác đích thân đi tìm giúp chúng tôi một
ngôi làng nhƣ thế. Đấy là làng Stetten. Chúng tôi trú trong nhà kho của một nông dân
giàu có. Ở đấy có một hầm chứa khoai tây nằm dƣới căn nhà kho. Ngƣời Đức chủ của cái
kho im lặng, không phản đối việc chúng tôi chiếm đóng tài sản của anh ta. Có lẽ anh ta sợ
chúng tôi. Viên đội của chúng tôi có lẽ cũng trở nên sợ chúng tôi hơn, dù chúng tôi luôn
tỏ ra rất biết điều với anh ta. Anh ta trốn trong một căn nhà trên phố và không ló mặt ra
ngoài nữa. Chúng tôi sống nhƣ thế trong suốt nhiều ngày, cắt ngƣời canh gác ban đêm để
tránh bị bất ngờ trƣớc bất cứ tình huống nào xảy ra. Chúng tôi luộc khoai tây lấy trong
hầm nhà bằng một cái nồi. Vài ngƣời trong chúng tôi đi vòng quanh làng và cƣa cây rồi
bổ củi cho nông dân để đổi lấy những thức ăn khác.
Lính Đức, bọn cảnh binh cùng chó canh, những thƣờng dân (có lẽ là các thành
viên của Đảng Quốc xã) và thậm chí là vài tên lính đi lẻ lục đục rút qua trƣớc mặt chúng
tôi theo con đƣờng làng. Đôi khi bọn lính Đức có bƣớc vào cái nhà kho của chúng tôi để
ở lại qua đêm hay để nghỉ chân. Tôi cũng nói chuyện với chúng. Hầu hết chúng đều đã
đào ngũ và ngang nhiên nói về thất bại của nƣớc Đức. Vài tên trong bọn chúng hy vọng
rằng vào ngày 20 tháng Tƣ, ngày sinh nhật của Hitler, một hiệp định hòa bình sẽ đƣợc ký
kết. Chúng cũng nói rằng những đơn vị chặn hậu đặc biệt đƣợc thành lập từ những binh
lính của Vlasov, chúng hành quyết tất cả những binh lính rút chạy và những ngƣời tụt hậu
lạc đơn vị. “Nếu không có bọn đồng hƣơng của chúng mày thì chúng tao đã thôi đánh
nhau từ lâu rồi.” Chúng cũng cảnh báo chúng tôi rằng bọn Vlasov là những đứa rút lui
cuối cùng và bắn chết tất cả mọi ngƣời, thậm chí cả tù binh Nga. “Cho nên hãy cẩn thận
với đám đồng hƣơng của chúng mày đấy.” Sẽ là thật đáng buồn lúc này nếu phải chết
dƣới tay lũ kẻ cƣớp đó, khi giờ giải phóng đã gần kề. Chúng tôi quyết định sẽ trốn vào
trong một hầm chứa bê tông chờ cho bọn Đức rút đi.
Suốt đêm ngày 25 tháng Tƣ năm 1945 chúng tôi hoàn toàn không ngủ. Dựa theo
tiếng pháo và tiếng đại liên nổ thì chiến trận đang diễn ra ở rất gần. Nhiều lính Đức đang
say chếnh choáng đi vào cái nhà kho của chúng tôi. Tôi nghe tiếng chúng bảo rằng phải
chuồn đi càng nhanh càng tốt. Một tên lính Đức trông thấy chúng tôi và hỏi đồng bọn của
hắn: “Chúng ta phải làm gì với lũ lợn Nga này bây giờ? Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mặc
chúng thế kia? Tao sẽ ném một quả lựu đạn vào đấy”. May thay, một tên Đức khác phản
đối: “Đừng làm vậy, đã có quá nhiều máu đổ ra rồi”. Tranh cãi với nhau một hồi, chúng
bỏ đi. Tôi nhận ra đó là những tên lính Đức cuối cùng rút lui, và bọn Vlasov sẽ có thể
xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Tôi hét: “Các đồng chí, đã tới lúc phải rút xuống hầm thôi!”
Tấùt cả mọi ngƣời đều chạy nhanh xuống hầm kho bằng bê tông.
Chúng tôi đã sẵn sàng chờ lũ cƣớp ấy đến bất cứ lúc nào, chúng tôi cho rằng
chúng sẽ bắn chết chúng tôi hay ném lựu đạn vào trong hầm chứa. Chúng tôi ƣớc gì mình
có vũ khí trong tay. Chỉ cần hai hay ba khẩu súng có kèm đạn dƣợc. Khi đó chúng tôi sẽ
không lẩn trốn nữa mà sẵn sàng đón tiếp lũ phản bội kia thật cẩn thận. Nhƣng chúng tôi
chẳng có gì trong tay cả. Nhiều giờ trôi qua trong căng thẳng chờ đợi, trong thời gian đó
chúng tôi cảm thấy mình nhƣ đang lơ lửng giữa sống và chết vậy. Đám cháy bên ngoài
tắt dần, và cuối cùng bình minh đã đến.
Một ngƣời trong bọn tôi cẩn thận luồn ra ngoài cái sân để xem điều gì đang xảy ra
bên ngoài. Lập tức anh quay lại hét lên đầy vui sƣớng: “Ngƣời Mỹ đang ở đây, chúng ta
đƣợc tự do rồi !” Tất cả chúng tôi đều chạy ùa ra ngoài. Những ngƣời lính mặc quân phục
màu xanh lá cây nhạt, trông nhƣ thể những bộ đồ thể thao, đang đứng trên đƣờng phố.
Vài ngƣời trong bọn họ là da trắng, vài ngƣời khác da đen. Chúng tôi chạy tới chỗ họ, lắc
tay họ, nói những lời cảm ơn với họ. Không ai trong chúng tôi biết tiếng Anh, còn những
ngƣời đã giải phóng chúng tôi lại không nói đƣợc tiếng Nga, nhƣng chúng tôi hiểu nhau
rất rõ. Những ngƣời Mỹ cƣời rạng rỡ, miệng nói: “Rasen, rasen - Russian, Russian!”,
tặng chúng tôi thịt hộp, sôcôla và thuốc lá. Đấy là vào 5 giờ 30, buổi sáng ngày 25 tháng
Tƣ năm 1945. Thật hạnh phúc làm sao !
Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Quân nhân thuộc các binh chủng khác
Hồi ức của Vladimir Dolmatov
Vladimir Dolmatov
Tháng Mƣời năm 1941, tôi tham gia vào tổ chức narodnoye opolchenie (lực lƣợng
dân vệ) Matskva. Tôi đang học lớp Tám và sống ở khu Arbat. Vào một hôm toàn thể lớp
chúng tôi đƣợc tập hợp lại ở Potylikha, một nơi gần phố Mosfilm, trong sân một trƣờng
trung học. Họ phát cho chúng tôi những khẩu súng săn, cứ năm ngƣời một khẩu, và súng
trƣờng cỡ nòng nhỏ – cũng cứ một khẩu năm ngƣời, đồng thời giao cho chúng tôi 5 thanh
gƣơm. Thế đấy! Không có đồng phục – mỗi ngƣời tự mặc những gì mình đem theo, và đi
chiến đấu cũng trong cùng một thứ trang phục nhƣ vậy. Thầy giáo dạy văn trở thành chỉ
huy của chúng tôi – một ngƣời đẹp trai, rất tốt với học sinh. Họ dẫn chúng tôi hành quân
dọc theo đƣờng Mozhaysk tới Zhukovka, nơi bọn Đức đã xuất hiện, cách Maskva khoảng
15 kilômét. Chúng tôi bố trí trong một khu rừng cạnh đó, cách đƣờng lộ khoảng 2-3
kilômét. Đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng động của xe tăng. Những ngƣời trinh sát
đƣợc phái đi tìm hiểu. Khi họ quay về, hóa ra là quân Đức đã kéo xe tăng cúa chúng băng
ngang vị trí chúng tôi và dừng lại, các đơn vị của chúng đang bao vây những ngôi làng
lân cận. Chỉ huy gọi tôi ra và bảo: “Valodia, em hãy vọt tới Matskva và báo cáo lại là
chúng ta đang bị bao vây, và rằng chúng ta không thể chống lại do không có vũ khí. Hãy
lấy cái xe mô tô và phóng tới chỗ trụ sở dân uỷ khu ta.” Chúng tôi có một chiếc mô tô
“Tháng Mƣời Đỏ” và tôi là ngƣời duy nhất trong trƣờng có thể lái nó.
Hóa ra ngôi làng tôi phải lái xe băng qua đã bị quân Đức chiếm giữ. Tôi đang
chạy xe bỗng thấy một nhóm lính Đức, khoảng năm hoặc sáu tên, đang đứng và trò
chuyện gì đó. Đã quá muộn để dừng lại, do đó tôi cứ giữ cứng tay lái chạy xuyên qua
chúng. Chúng quay đầu lại, nhìn thấy tôi nhƣng không phản ứng gì. Rồi có một tên hét
lên cái gì đó làm tôi phát hoảng thực sự, nhấn mạnh ga và bắt đầu lái xe chạy ngoằn
ngoèo. Chúng bắn theo một loạt đạn nhƣng trƣợt. Tôi phóng nhƣ bay khỏi cái làng đó và
lập tức đâm thẳng vào một cái cây. Khi đâm vào thân cây, khung xe bị cong lại và tôi
phải lội bộ về Matskva. Tôi tới đƣợc trụ sở dân ủy khi trời đã tối:
"Tôi là thành viên dân vệ (opolchenie). Chúng tôi đang bị bao vây. Không có vũ
khí để chiến đấu,” tôi nói.
"Anh thuộc khu nào?” họ hỏi tôi.
"Khu Arbat."
"Thế bố mẹ anh ở đâu?”
"Ở nhà.”
"Vậy thì về nhà đi.”
Tất cả chỉ có vậy, tôi đành đi về nhà. Mẹ rất mừng là tôi vẫn còn sống quay về.
Thực tế là không còn ai trong nhóm dân vệ ấy quay trở về! Họ đã chết sạch!
Cha tôi làm việc với tƣ cách là một ngƣời tƣ vấn pháp luật tại nhà máy
"Medkhimprom", và từ khi trƣờng của chúng tôi đóng cửa, ông đã tìm đƣợc cho tôi một
chân tại nhà máy của mình, nơi mà, cộng với sự hỗ trợ của nhiều yếu tố khác, đã có một
mạng lƣới cửa hàng sửa chữa cơ khí trên khắp Matskva. Họ gửi tôi tới một cửa hàng ở
khu Krasnaya Presnia làm thợ học nghề cơ khí. Tôi đã làm việc ở đó đƣợc khoảng hai
tuần và ngƣời quản lý cửa hàng bảo: "Anh biết đấy, thằng bé này có thể làm đƣợc mọi
việc. Hãy cho nó một cửa hàng, nó sẽ quản lý ở đấy.” Và họ giao cho tôi một ngôi nhà
trống trên phố Vorovsky, nơi trƣớc kia từng là cửa hàng bán xe đạp của một tổ chức khác.
Chúng tôi bố trí cửa hàng trên tầng một, do sân khu nhà bị ngập nƣớc. Tôi tập hợp lũ trẻ
trong khu nhà mình lại: một đứa 12 tuổi, một đứa khác 14, và tôi đã 17, rồi cả ba chúng
tôi bắt đầu làm việc tại cửa hàng đó. Một hôm, nhƣ trong câu chuyện thần thoại về con cá
vàng, chúng tôi thò một cái gậy xuống mảnh sân ngập nƣớc, do chúng tôi không có lƣới,
và kéo lên một đống trục quay xe đạp. Lần khác – kéo lên một đống bánh xe. Tôi tìm
đƣợc một cái bơm máy và bơm nƣớc ra ngoài, hóa ra cái sân chất đầy những phụ tùng xe
đạp – khung xe, bánh xe, dây xích. Và do chúng tôi không hề ký nhận những thứ này, tất
cả những món đó đều không đƣợc tính công. Chúng tôi trao đổi chúng với những cửa
hàng khác và bắt tay vào lắp ráp những chiếc xe đạp. Trƣớc tiên chúng tôi ráp xe cho
chính mình, kế đó là lắp để bán ngoài chợ tại Malakhovka. Nhƣng chúng tôi cũng sửa
những thứ đồ sắt, xe đạp, nhiều món thiết bị khác, và tính chúng vào sổ công của mình.
Và chúng tôi cũng nộp một phần tiền bán xe vào sổ của cửa hàng, ghi vào “sửa đồ sắt”,
“sửa ấm đun nƣớc”, v.v. lên các hoá đơn. Bằng cách đó chúng tôi hoàn thành đƣợc 115%
kế hoạch hàng tháng. Họ gọi cha tôi lên và bảo: “Nghe đây, con trai anh là một thiên tài.
Không có cửa hàng nào của chúng ta hoàn tất đƣợc kế hoạch, trong khi nó giao nộp đƣợc
115%. Chúng ta phải tặng cho nó một phần thƣởng.” Và họ đã làm đúng nhƣ vậy.
Đồng thời với công việc ở cửa hàng, tôi cũng tham gia một lớp dạy lái xe, và sau
khi lấy đƣợc bằng lái tôi vào làm tài xế tại Xí nghiệp Liên hiệp Ôtô số 1, nơi một lần nữa
cha tôi lại tìm đƣợc cho tôi một chỗ. Lúc ấy đã là mùa đông năm 1941. Tôi làm việc từ 8
giờ sáng cho tới 12 giờ khuya. Tôi và một ngƣời nữa chở mỗi ngƣời hai mét khối gỗ từ
Krasnaya Pakhra về, nơi này cách Matskva 50 kilômét. Không chỉ chở về, mà còn phải
chặt cây, đốn trụi cành lá, cƣa xẻ chúng rồi chất lên xe và chở về. Chúng tôi làm hai
chuyến một ngày - 8 mét khối gỗ. Anh có thể tƣởng tƣợng đƣợc không? Tôi quay về văn
phòng vào lúc đã 12 giờ khuya và họ bảo tôi:
"Valodia, anh phải đem củi tới chỗ cửa hàng trƣởng cửa hàng sách tại Hot'kovo
(cách Matskva 50 kilômét). Ông ấy đang bị rét cóng.”
"Tôi không thể đi đƣợc. Hôm nay tôi đã đi hai chuyến rồi. Tôi mệt lắm, không
làm đƣợc đâu.”
"Ngƣời ta đang đổ máu mình ngoài mặt trận, trong khi anh lại ngồi nhà! “Mệt
lắm”! Ngƣời ta đang hy sinh, còn anh lại than mệt!” – tay quản lý nổi nóng.
Hắn ta gọi cha tôi lên. Tôi nói:
"Cha ơi, con không thể lái tới đó.”
"Con thấy đấy – trời thì lạnh. Ông ta có thể chết cóng mất. Hãy mang củi tới, cha
xin con đấy,” ông nói.
Thế là tôi lái tới đấy. Chở theo củi đốt. Và khi tôi quay về, một chiếc xe điện đánh
một vòng cua ở gần ga đƣờng sắt Riga, trong khi đang tắt đèn để ngụy trang chống không
kích, và tôi đâm vào hông nó. Chiếc xe của tôi bật nẩy lên, tôi choáng váng vọt ra ngoài.
Nắm lấy cái tay quay, nó bị kẹt vào chỗ nào đó – nhƣng mọi thứ đã bị vỡ nát, bộ tản nhiệt
chảy nƣớc. Tôi bắt đầu sửa nó. Một tay công an tóm lấy cổ tôi: “Anh đang làm gì vậy?
Chiếc xe của anh vỡ tan rồi!” Tôi bắt đầu tỉnh lại. “Hãy đi gọi tới một chiếc xe tải kéo.”
Tôi đi và gọi điện thoại, rồi bảo họ rằng tôi đang ở ga đƣờng sắt Savelovskiy. Kể lẫn lộn
tất cả ... (Hai nhà ga này thật ra khá gần nhau - Artem Drabkin) Và rồi tôi ngồi đó – chờ
một, hai rồi ba tiếng đồng hồ. Trời rất lạnh. Chiếc xe kéo không tới. Tôi chặn một chiếc
xe chạy ngang: "Hãy nghe này, anh có thể đƣa tôi tới Quảng trƣờng Arbat đƣợc không?”
“Đó chính là nơi tôi đang đi tới.” Tôi về tới nhà. Cha tôi đang lo lắng – con trai ông đã
mất tích. Rồi tôi nhớ ra là mình đã chỉ sai địa điểm cho phòng trực. Tôi gọi lại cho họ –
chịu nghe họ chửi rủa tục tằn. Tôi thức dậy vào buổi sáng. Đi lấy cái xe đạp. Đạp tới nhà
ga – chiếc xe không còn ở đó. Tôi đạp tới văn phòng, hỏi họ:
"Cái xe tải của tôi đâu?”
"Xe nào?”
"Xe của tôi.”
"Xe của anh không có ở đây. Thế anh đã ở đâu?”
"Ở nhà.”
"Thế xe của anh ở đâu?”
"Đậu tại nhà ga.”
"Ở đấy không có chiếc xe nào cả.”
Hóa ra họ đang đùa tôi, họ đã kéo chiếc xe của tôi về. Tóm lại, vì chuyện đó họ
gửi tôi tới cửa hàng máy móc để làm thợ sắt, lắp ráp môtơ. Thế rồi một chính trị viên tới
và bảo anh ta cần sửa 5 chiếc xe môtô chiến lợi phẩm. Ngƣời ta bảo anh rằng họ không
làm những chuyện nhƣ thế, nhƣng ở đây có Valodia, ngƣời thƣờng sửa chữa những chiếc
xe máy. Họ gọi tôi:
"Cậu có thể sửa một chiếc môtô không?”
"Tôi làm đƣợc.”
"Tốt, hãy nhận lấy 5 chiếc môtô và sửa chúng.”
"Đƣợc thôi,” tôi nói và đến gặp tay chính trị viên.
"Nếu tôi sửa đƣợc những chiếc môtô này cho anh, anh sẽ gửi tôi ra mặt trận chứ?”
"Để làm gì? Cậu không thích ở đây sao?! Cậu đƣợc miễn động viên rồi mà?!”
"Tôi không muốn đƣợc miễn! Tôi chịu hết nổi rồi! Tôi muốn ra mặt trận!”
"Không hề gì: hãy sửa xe môtô đi và cậu sẽ đƣợc ra mặt trận.”
Tôi sửa những chiếc môtô. Anh ta đƣa tôi tờ lệnh điều động. Tôi đi về nhà:
"Bố ơi, mẹ ơi, con đi đây.”
"Con đi đâu?”
"Con đã đƣợc động viên vào quân đội, ra mặt trận.”
"Mặt trận nào?! Con có mất trí không, hở đồ ngốc!”
Một cuộc tranh cãi trong gia đình nổi lên, nhƣng không còn gì có thể thay đổi
đƣợc nữa rồi – tôi đã có lệnh triệu tập. Tất nhiên, tôi bảo mình bị động viên vì đã phá
hỏng chiếc xe tải, chứ không phải do chính tôi đề nghị.
Ngƣời ta gửi tôi tới làm hƣớng dẫn viên cho một trung đoàn huấn luyện lái xe ở
Nizhniy Novgorod. Trung đoàn này nằm ngay phía đối diện với nhà máy ôtô GAZ. Một
thời gian trôi qua. Cha tôi kiếm đƣợc một giấy phép và tới nhờ ai đó ở Nizhniy Novgorod,
rồi đem theo cả một chiếc cặp xách chứa đầy vodka tới chỗ đơn vị tôi. Ông biếu một chai
cho ngƣời chỉ huy. Ông chỉ huy nói: “Tuyệt. Chúng tôi sẽ tìm ra ngay con trai anh.” Tôi
tới. Cha ôm chầm lấy tôi, đƣa tôi quà: bánh ngọt, kẹo và cái cặp xách, rồi thì thầm vào tai
tôi: “Vodka đấy.” Tôi cầm lấy cái cặp và lui ra. Cha tôi quay về, bảo rằng hôm sau ông sẽ
trở lại. Tôi tới gặp tay trung sĩ và bảo:
"Cha tôi đem cho tôi cả một cặp đầy vodka.”
"Cậu có bị làm sao không? Đem ra uống chứ! Hãy tới phòng học nào!”
Thế là chúng tôi tới đó. Có những cái khoang ở trong phòng học sâu khoảng một
mét, dùng để chứa dụng cụ học tập. Chúng tôi bò vào trong đó, rót khoảng một lít vodka
vào gà mèn của mỗi ngƣời, uống cạn cho tới giọt cuối cùng và lập tức lăn ra ngủ nhƣ chết.
Khi chúng tôi thức dậy – đang có lớp học. Chúng tôi đành nằm yên đó. Lớp học này kết
thúc thì lại lớp khác tới. Thế là chúng tôi nằm đó cho tới tận chiều, nhƣng không dám
uống thêm bởi đã quá sợ. Tới buổi chiều, chúng tôi bò ra, và tôi đi về chỗ mình. Nhét cái
cặp xuống dƣới giƣờng ngủ và đi gặp chỉ huy đơn vị. Anh ta nói:
"Cậu đã ở đâu vậy? Cậu đã không có mặt khi điểm danh!”
"Tôi ở trong phòng.”
"Cậu muốn nói gì, ở trong phòng?!”
"Tôi uống rƣợu và lăn ra ngủ.”
"Hả? Ngủ suốt hai ngày trời?”
"Tôi cũng không biết nữa.”
"Cha cậu đang phát hoảng kia kìa! Ông ấy sẽ quay lại vào ngày mai.”
Hôm sau cha tới và cho tôi một bài thuyết giảng.
Chỉ huy kỹ thuật của đơn vị chúng tôi là Đại úy Mirtov – một ngƣời rất tốt, nhƣng
hoàn toàn thiếu tác phong quân sự. Bức ảnh này đƣợc chụp tại một trong những buổi giao
ban của chúng tôi tại Matskva vào năm 1943.
Một hôm vào mùa xuân hoặc đầu mùa hè, chúng tôi đƣợc chuyển tới Gorodets, ở
gần Gorky – những đợt không kích của bọn Đức sắp tới gần. Chỉ huy đơn vị chọn lấy
nhiều ngƣời, trong đó có tôi, và ra lệnh cho chúng tôi lái xe tới Gorki để thu nhặt đồ đạc
còn bỏ lại đó. Chúng tôi tới đó và thấy chẳng còn gì sót lại ở doanh trại của đơn vị chúng
tôi – chỉ còn những hố bom và một nửa nhà máy bị bom phá huỷ.
Vào giữa năm 1943, đơn vị chúng tôi đƣợc tổ chức thành một tiểu đoàn ôtô độc
lập thuộc lực lƣợng phòng vệ hóa học và chuyển tới Tập đoàn quân Ukraina số 1. Chúng
tôi tới Kiev và thấy toàn bộ các công trình ở đây đã bị phá hủy. Nhà cửa không còn cửa
sổ, những cái hốc trên mái có thể nhìn xuyên tới tận trời xanh, những chiếc xe điện chở
khách bị lật ngƣợc. Còn đám lái xe chúng tôi, những thằng nhóc, thƣờng dừng xe lại, hạ
khẩu súng xuống và bắn vào bóng đèn đƣờng: “Bang!” – rồi lại lái tiếp. Tôi không có đủ
đạn nên không bắn vào bóng đèn, nhƣng tôi cũng rất muốn làm thế.
Nhiệm vụ của chúng tôi là thiết lập một đầu cầu vƣợt sông giả trên sông Dnieper
và đốt lên những màn khói mù, vì việc đó chúng tôi đƣợc cấp những thùng xăng chở trên
một chiếc polutorka (loại xe tải 1,5 tấn). Chúng tôi kéo lên chiếc Lavra KievoPecherskaya những tấm ván và lăn những cái thùng xuống đất, sau đó bắt đầu thả khói
mù. Bọn Đức ném bom chúng tôi vài lần, thế thôi. Vài ngƣời trong đám lính chúng tôi
sinh trƣởng ở bờ sông, vài ngƣời khác ở trên những hòn đảo, thế là họ dựng lên một trại
nuôi lợn và gia cầm ở đây. Chỉ huy đơn vị tới, la mắng: “Chúng mày đang làm gì ở đây
vậy! Lập tức tống tất cả những thứ này đi!” Vâng, tất nhiên bọn nó rất bực dọc, nhƣng
không thể làm trái đƣợc – đành phải bỏ tất cả. Thế rồi chúng nghĩ ra một cách để bắt cá.
Chúng tôi không có thuyền, nhƣng có những ván trƣợt bằng chất dẻo, chúng tôi dùng để
đặt lên một khẩu súng máy và kéo sau xe tăng khi tiến quân trong mùa đông. Kích thƣớc
của chúng vào khoảng 2 mét dài, 1 mét rộng và cao khoảng 40 xăngtimét. Và thế là bọn
tôi chèo nó ra xa bờ và làm choáng cá bằng những thỏi thuốc nổ. Chúng ném thuốc nổ
xuống giữa dòng nƣớc để có đủ thời gian chèo ra xa và thu nhặt cá. Nhƣng do tính sai
khoảng cách và bị trúng sức ép, hai hay ba thằng bị chết đuối. Hiển nhiên điều này cũng
bị cấm. Chỉ huy của chúng tôi quả là ngốc đặc. Anh ta đã đọc quá nhiều sách viết về
chiến tranh và bắt đầu làm tình làm tội chúng tôi! Thậm chí còn bắt chúng tôi xây dựng
một câu lạc bộ, mặc dù biết rõ chúng tôi sắp bị chuyển đi chỗ khác.
Bất ngờ những tay lái mới từ một trung đoàn dự bị tới đơn vị chúng tôi, những
ngƣời trƣớc đó đã từng phục vụ trong những đơn vị không quân. Và ở đâu có lính không
quân, ở đó có vô kỷ luật. Ở đó tài xế là chủ của bản thân mình. Không ai để lên lớp anh ta.
Họ bảo: "Chúng ta tới không phải để phục vụ ở đây! Lão chỉ huy là một thằng ngốc! Lão
cứ việc cút xuống địa ngục! Chúng ta đi chỗ khác thôi!” Và họ đi thật. Viên chỉ huy rống
lên một tiếng khủng khiếp! Khắp Kiev đều tiến hành truy lùng họ. Họ bị bắt và đƣa vào
một tiểu đoàn trừng giới sau khi bị ra tòa án binh. Nhƣng họ đã gợi nên một mơ ƣớc bỏ
trốn thầm kín nơi tôi, tôi không muốn chối bỏ nó mà quyết định sẽ thực hiện. Tôi hiểu
rằng không thể chỉ đơn giản là bỏ đi – họ sẽ bắt đƣợc tôi ngay. Tôi tới trụ sở chỉ huy nhà
ga gặp một trung sĩ và nói: “Trung sĩ này, chỉ huy đơn vị chúng tớ là một đống phân. Tớ
muốn bỏ đi, nhƣng không muốn bị bắt. Vậy chúng ta hãy thỏa thuận với nhau – cậu đƣa
tớ ra mặt trận, nhƣng đừng báo với ai là tớ bỏ trốn, đổi lại tớ sẽ tặng cậu một chai vodka
"Tarhun" và một lốc thuốc lá "Kazbek”". Anh ta nói: "Thỏa thuận nhé. Tôi sẽ đƣa mọi
ngƣời đi vào những ngày này và ngày này. Nếu cậu có 8 tiếng đồng hồ rảnh thì cứ coi
nhƣ 100% là tớ sẽ đƣa cậu đi đƣợc.” Tôi vẫn còn những món từ nhà gửi tới. Tôi có một
giấy báo phép cũ và đem điền ngày tháng vào đó. Tới gặp chỉ huy phiên trực, đƣa cho
anh ta tờ giấy và xin phép đi tới thành phố. Anh ta đồng ý. Phiên trực sau tôi cũng do một
tay Maskva khác đảm nhận, Lesha Rostunov, hắn hoàn toàn điếc đặc. Tôi viết cho hắn
trên một mẩu giấy: "Lesha, tớ muốn bỏ đi. Vậy xin hãy trực thế tớ trong phiên kế tiếp.”
Hắn nói: “Cậu phát điên rồi! Họ sẽ bắt cậu lại thôi!” Tôi đáp: “Đừng bỏ đi, cứ đơn giản là
đứng gác, họ sẽ không chú ý đâu.” Họ sẽ chẳng moi đƣợc gì ở hắn – hắn điếc mà! Hắn
chỉ cần trợn tròn mắt và cứ đứng nhƣ thế mà thôi. Thế rồi tôi xách tờ giấy phép và tới trụ
sở chỉ huy tại nhà ga. Rút một chai "Tarhun" và thuốc lá ra. Cầm lấy giấy tờ quân nhân
của tôi và thay vì họ là 'Kapeleovich' thì viết là 'Kopylov', thay vì 'Adolfovich' – thì là
'Anufrievich'. (Tôi cần phải nói là cái họ theo cha này của tôi đã gây nên khá nhiều rắc
rối và trò gọi giật "Ê! Hitler! Lại đây!" đã thành cái lệ trong đám bạn của tôi.) Với những
giấy tờ nhƣ thế tay trung sĩ đã gửi tôi tới Phƣơng diện quân Ukraina số 1.
Và tôi có mặt trong một tiểu đoàn xe tải độc lập lãnh nhiệm vụ chuyên chở tù
binh chiến tranh, đặt dƣới quyền điều hành của NKVD (tiền thân của KGB – LTD). Chỉ
huy đơn vị chúng tôi trƣớc đây là một ngƣời Côdắk miền Terek. Anh ta chẳng thèm quan
tâm chút nào tới mấy chiếc xe tải. Anh ta muốn có một con chiến mã, một cái vengerka
và một thanh gƣơm. Lúc này chúng tôi đã cách Krakow khoảng một trăm kilômét.
Lúc này, mỗi khi đi tới chỗ tập trung tù binh, tôi phải chạy ngang qua một trạm
thú y. Có lần tôi bắt chuyện đƣợc với các bác sĩ ở đây. Họ nói:
"Đi săn ở đây thật tuyệt, nhƣng chúng tôi chẳng có gì để bắn cả! Giá chúng tôi có
đạn và một khẩu súng có kính ngắm. Cậu có thể kiếm ra chúng không?”
"Không thành vấn đề, nhƣng tôi cần một con ngựa tốt.”
"Thỏa thuận nhé: nếu cậu đem cho chúng tớ một khẩu súng, chúng tớ sẽ kiếm
ngựa cho cậu.”
Có một trạm sửa chữa pháo binh dã chiến gần chỗ đơn vị chúng tôi, ở đó sửa chữa
mọi thứ vũ khí từ đại bác cho tới súng lục. Tôi đi tới đó. Tay lính gác hét:
"Halt! Ai đó?”
"Này các cậu, có chuyện gì vậy?! Tôi mang tiểu liên tới cho các cậu sửa đây,” tôi
đáp.
"Thế giấy tờ đâu?”
Tôi phải quay về. Thế rồi tôi tới đơn vị của mình và nói với viên đại úy:
"Tôi sẽ kiếm cho anh một con ngựa tốt, nhƣng tôi cần tờ giấy có ghi rằng tôi cần
sửa 3 khẩu carbine bắn tỉa có gắn ống ngắm.”
"Cậu điên rồi!”
"Điên là thế nào? Có hàng đống súng ống đủ loại nằm rải rác quanh con đƣờng,
chẳng ai canh chúng cả. Tôi sẽ lắp lấy mấy khẩu súng.”
Anh ta đƣa tôi tờ giấy và tôi đi dọc theo con đƣờng sắt dẫn qua khu rừng tới trạm
sửa chữa. Có một toa xe nằm trên đƣờng ray, trên có mấy tay lính đang ngồi vui đùa, ca
hát và kéo đàn gió. Có một thằng nhóc, bề ngoài chỉ khoảng 10 tuổi, đang tỳ một khẩu
tiểu liên vào bụng mình và bắn lên mấy ngọn cây, cành lá rơi lả tả. Tôi lại gần – có một
khẩu súng trong thùng, trông nhƣ một khẩu tiểu liên của Ý. Băng đạn có lẽ cắm vào
ngang bên hông súng. Báng bằng gỗ khá dài. Nếu tôi cƣa nó đi thì sẽ thành một thứ
tƣơng tự khẩu Mauser. Giá mà tôi có đƣợc một khẩu súng ngắn nhƣ thế! Tôi quật cái
báng xuống đƣờng tàu – nó không gãy. Lần thứ hai – bang! Đám lính trên toa tàu bắt đầu
cƣời nhạo. Tôi nói: “Các cậu cƣời cái gì vậy?!” “Tại sao cậu không thử quay đầu lại hả,
đồ ngốc, nhìn kia kìa!” Và ở kia là ba khẩu tiểu liên nằm lăn lóc với báng bị gãy, bên
trong báng có một cái lò xo. Tôi bỏ đi. Lấy bốn khẩu súng và ráp chúng lại. Đi tới chỗ
bắn thử, họ điều chỉnh chúng ở đó cho tôi. Thu nhặt rất nhiều đạn – tôi phải chật vật lê
bƣớc! Quay về đơn vị. Tay chỉ huy nói: "Cậu thật là đồ bịp bợm!” Tôi trả lời: “Hãy đƣa
tôi một tờ giấy nữa, chúng ta hiện chỉ có súng trƣờng, hãy đổi chúng lấy PPSh.” Anh ta
đƣa tôi giấy phép và tôi lắp thêm 3 khẩu PPSh nữa, kiếm luôn cho chúng vài băng đạn.
Và khi tôi đem về những khẩu súng ấy, đám bạn lập tức gạ gẫm tôi – “để tớ bắn, hãy để
cho tớ.” Tôi giao khẩu súng cho một cậu, hắn và một ngƣời nữa đi ra cánh đồng nơi có
một quả bom chƣa nổ và nã đạn vào kíp nổ của nó. Nó nổ mạnh tới mức chúng tôi không
tìm đƣợc chút mảnh nào của họ nữa. Chỉ huy bảo: “Valodia, thôi đủ với mấy khẩu súng
rồi đó.” Tôi đáp: "Bây giờ tôi sẽ đi chở tù binh và đổi súng lấy một con ngựa.” Đúng lúc
đó quân đội chúng ta bắt đầu tiến vào Krakow và có lệnh xuống yêu cầu đi chở tù binh.
Tôi, trung uý Sidorov và hai lính gác nữa lên đƣờng. Trung uý nói: “Hãy khoan đi lấy
con ngựa vội, để làm sau đi.” Tôi đồng ý. Chúng tôi đi tới thị trấn Gzesow và vào một
tiệm giải khát để ăn bánh ngọt. Các anh có thể tƣởng tƣợng đƣợc không – chiến tranh,
không có gì để ăn, và anh còn muốn gì ở Ba Lan nữa chứ! Chúng tôi ngồi xuống. Một
pan (tiếng Ba Lan có nghĩa là “ông” hay “ngài”) lại gần:
"Thƣa pan lính, các ông có chiếc xe. Tôi cần chở tới một ít củi. Tôi có thể biếu
các ông vodka, thuốc lá và thức ăn.”
"Thế chúng tôi có thể kiếm củi ở đâu?”
"Trong rừng. Tôi sẽ đƣa cho các anh một cái cƣa và một chiếc rìu. Cứ chặt lấy
một ít.”
Tôi nói với trung uý:
"Hãy đi lấy tù binh và chặt củi trên đƣờng về.”
"Đƣợc thôi.”
Chúng tôi cầm cái rìu và đi lấy tù binh. Chúng tôi tới chỗ đơn vị vừa giải phóng
xong một thị trấn. Ở đó họ giao cho chúng tôi khoảng 15 tù binh. Chúng tôi chất chúng
lên xe tải và quay về. Tới gần một khu rừng, tôi bảo:
"Đã tới lúc chặt củi.”
Và nói với đám lính gác:
"Hãy đƣa bọn Đức ra khỏi xe tải.”
Tất cả bọn chúng đều hoảng sợ:
"Aaah! Kamerad! Kamerad! Nicht schiessen!" (A! Đồng chí! Đồng chí! Đừng bắn!
- LTD)
"Ra ngoài!” Tôi ra lệnh cho chúng.
"Tập hợp lại!” và dẫn chúng đi vào rừng.
Một số tên la hét, số khác khóc lóc, còn một số chỉ đơn giản là cúi đầu tiến bƣớc.
Viên trung uý bảo tôi:
"Hãy giải thích cho chúng là chúng ta cần chúng để làm việc.”
"Kamerad, arbeiten!" Tôi nói và chỉ vào cái cƣa.
Chúng vui hẳn lên và mau chóng chặt đủ gỗ để chất đầy chiếc xe tải. Chúng tôi
chạy tới chỗ tay Ba Lan. Anh ta đƣa chúng tôi vodka, khoảng hai mét xúc xích và một
thùng thuốc lá. Tôi hết sức kinh ngạc! Tôi đƣa một ít vodka, thuốc lá và thức ăn cho bọn
Đức. Chúng tôi đi đƣợc khoảng 5 kilômét – chúng lại gõ vào thùng xe: "Kamerad,
arbeiten!" Tôi bảo: “Tôi không có cƣa và rìu!” Chúng tôi dừng lại ở một tiệm cafe khác.
Tôi tới gặp tay quản lý:
"Có cần củi không?”
"Cần chứ.”
"Đƣa cho chúng tôi một cái cƣa!”
Thế là chúng tôi đi. Thực ra, chúng tôi chỉ quay về đơn vị sau khoảng ba ngày.
Tôi bị tiểu đoàn trƣởng khiển trách:
"Cậu đã ở đâu vậy!? Đồ con lợn! Tôi sẽ đƣa cậu ra tòa án binh!”
Tôi đƣa cho anh ta một thùng vodka, thuốc lá và xúc xích. Anh ta tiếp tục:
"Cậu có điên không!? Cậu lấy những thứ này ở đâu?! Ăn cắp hả!?”
"Tại sao lại ăn cắp – kiếm đƣợc chứ! Chúng tôi đi chặt củi.”
Thế rồi tôi tới chỗ bệnh viện và đem về một con ngựa và một thanh gƣơm. Làm
thêm cho anh ta cái vengerka, một cái mũ lông papakha. Tiểu đoàn trƣởng tiểu đoàn xe
tải leo lên lƣng con chiến mã của mình, trang phục tề chỉnh và cƣỡi nó chạy quanh: “Các
cậu đã sẵn sàng chƣa? Sẵn sàng chƣa? Mau tiến lên bắt lấy tù binh!”
Tôi đã kể về chuyện này chƣa, khi tôi đã biến việc đi chặt gỗ trở thành thƣờng
xuyên, mỗi lần tôi tới một trại tù binh là bọn Đức lại gọi tôi "Kamerad! Kamerad!”. Lính
gác liên tục hỏi tôi: “Tại sao bọn Đức kia lại chào đón cậu? Có chuyện gì vậy?! Cậu có
họ hàng gì với chúng không?” Tôi trả lời: “Vâng, chỉ vì tớ có đem cho chúng chút vodka
và thuốc lá thôi.” Thế đấy. Nhƣng đối với chuyện đi săn của tôi thì thật là thất bại. Tôi
bắn vào lũ thỏ và hƣơu nhƣng lúc nào cũng về tay không. Có lần tôi đuổi theo một con
thỏ với một khẩu PPSh. Đuổi miệt mài cho tới khi tôi bắn hết cả băng đạn, vậy mà chẳng
trúng nó đƣợc phát nào.
Một lần tôi phải đi chở tù binh, đám Ba Lan chỉ tôi đi thẳng vào một con đƣờng bị
gài mìn. Một kỹ sƣ công binh chạy tới xe tôi, tay khua chiếc máy dò mìn của mình,
miệng chửi thề tục tĩu. Tôi dừng lại:
"Anh đang đi đâu vậy! Ở kia có cái biển chỉ rõ con đƣờng này đã bị gài mìn mà!”
"Làm gì có cái biển nhƣ thế.”
"Quay lại mà xem."
Tôi đang dừng ở một bên đƣờng, còn ngƣời kỹ sƣ công binh đang ở sau cái rãnh
cạnh đƣờng. Tôi quay xe sang bên phải một chút và đụng phải một quả mìn. Một tiếng nổ
lớn. Ngƣời kỹ sƣ không còn lại gì, còn tất cả chúng tôi đều bị sức ép. Chúng tôi hãy còn
may là chiếc xe đang chạy chậm và quả mìn nổ ngay dƣới máy xe. Tôi bị trúng mảnh
khắp ngƣời – một vào cánh tay và một vào bụng. Tôi lấy tất cả chúng ra bằng một cái vặn
vít. Ngƣời ta đƣa chúng tôi về đơn vị và ở đó họ băng lại tất cả. Do đó tôi không phải tới
bệnh viện. Bụng thì lành lại, nhƣng cánh tay thì sƣng lên và đỏ tấy. Tôi đƣợc chở tới
bệnh viện và ở lại đấy một tuần. Do tôi phục vụ trong lực lƣợng NKVD, ngƣời ta không
đƣa tôi vào một trung đoàn dự bị sau khi ra viện nhƣ những ngƣời khác mà cho tôi tờ
giấy, trên chỉ có con số của bệnh viện và của đơn vị, rồi để tôi đi. Những tờ giấy ấy, dù
không có dấu, cho phép tôi đi khắp đất nƣớc, và tôi quyết định đi tới Maskva.
Những phi công thƣờng xuyên tới bệnh viện và chở những ngƣời bị thƣơng về
tuyến sau. Tôi nói: "Này các bạn, tôi có thể đi cùng tới Kiev đƣợc không? Các cậu có thể
chở tôi đƣợc không?” Đƣợc thôi. Họ nhét tôi vào một cái thùng đan, đƣợc gắn vào cánh
của chiếc U-2. Khóa chặt lại, chở tôi tới Kiev và thả tôi đi. Tôi đi ra khu chợ, mua một
miếng sắt và cái kìm rồi làm ra một cái chìa để mở khóa toa xe lửa. Tôi tới nhà ga nhƣng
không thể chui vào trong toa tàu, bởi vì những ngƣời coi tàu khóa cửa toa không chỉ bằng
chìa khóa mà còn bằng cả một thanh sắt, thế là tôi đành phải cuốc bộ một thời gian dài.
Tôi tới gặp một kỹ sƣ và đề nghị cho tôi đi nhờ. Anh ta nói: “Xúc than đi.” Không hề gì.
Anh ta đƣa tôi tới một nhà ga nơi có xe lửa đi Maskva. Tôi chui đƣợc vào một toa nhƣ
thế, bò vào dƣới giƣờng ngủ. Và đi tới "Maskva-2". Tôi không đƣợc để cho lính gác
trông thấy bởi họ có thể đóng dấu vào giấy tờ của mình, trong khi tôi phải có đƣợc những
giấy tờ hợp pháp tại Matskva. Tôi nhảy ra khỏi đoàn tàu đang chạy, lột ngôi sao và cái
dây da đeo vai, cố gắng làm cho mình trông thật giống thƣờng dân. Thật là ngốc! Thật
ngốc đau ngốc đớn! Bởi vì tôi vẫn còn mặc cái áo khoác quân đội! Tôi lọt vào một
chuyến xe điện và đi tới Quảng trƣờng Arbat. Từ đó tôi trƣờn dọc theo những bức tƣờng
để về nhà. Cha tôi trông thấy tôi:
"Mày ở đâu ra vậy, đồ chó?!” Tôi kể cho ông mọi chuyện.
"Mày là ai?! Mày không phải con tao! Mày là một thằng Kopylov Anufrievich
nào đó. Tại sao mày lại tới gặp tao? Đi mà gặp thằng Anufrievich nhà mày!"
"Cha."
"Tao không phải cha mày, mày đối với tao hoàn toàn xa lạ! Mày là một thằng
ngốc! Mày có nhận ra mình đã làm điều gì không?! Lập tức chạy tới nhà ga và quay về
đơn vị của mày đi!”
Mẹ đƣa tôi quay lại khu nhà ga "Maskva-2". Tôi nhảy lên bậc thềm toa – cửa toa
đã bị khóa. Lúc này đã là tháng Chạp năm 1944. Giá rét kinh khủng. Và tôi đã phải đứng
trên cái bậc thềm đó tới tận quãng gần Kolomna (khoảng 100 kilômét). Tôi đã hoàn toàn
bị đông cứng. Khi dừng lại ở gần Kolomna tôi bò vào một toa trong có tay trung sĩ xe
tăng đang đứng. Anh ta nói:
"Cậu từ đâu tới?”
"Từ bệnh viện. Thế còn cậu?”
"Tớ bị đi lạc sau tàu của mình.”
"Tàu nào?”
"À, có những chuyến tàu chở xe tăng đi từ Urals, và tớ bị bỏ rơi lại phía sau.”
"Thế còn bây giờ thì thế nào?”
"Bây giờ chúng ta sẽ tới Kolomna, tớ sẽ đi gặp chỉ huy và họ sẽ gửi tớ quay lại
Urals lần nữa để lấy một chiếc xe tăng. Tớ đã chiến đấu đủ lắm rồi. Đây này, tớ đã có hai
Huân chƣơng Sao Đỏ đây.”
"Ừ, nhƣng họ sẽ bắt cậu và đƣa cậu vào một tiểu đoàn trừng giới.”
"Nhƣng tớ đâu có chạy trốn, tớ bị tàu bỏ lại phía sau, và tự mình đi tới gặp chỉ
huy. Và sau đó tớ lại trở thành kẻ đi lạc lần nữa.”
Tôi kể cho anh ta rằng mình là một tài xế. Anh ta nói:
"Cậu có muốn đi tới chỗ tuyển quân với tớ không?”
"Đƣợc thôi,” tôi bảo.
Thế là chúng tôi cùng tới chỉ huy sở, và họ đƣa chúng tôi tới nơi tuyển quân. Đột
nhiên hắn biến mất lúc giữa ban ngày. Mất tăm! “Những ngƣời tuyển dụng” tới vào buổi
sáng, yêu cầu tìm một lái xe. Tôi tới và nhận ra là mình không còn cái bằng lái xe. Thằng
lái tăng kia đã ăn cắp bằng lái của tôi! Tôi nói: “Tôi không có bằng lái.” Họ trả lời rằng
nếu tôi không có bằng lái thì họ chẳng thể làm đƣợc gì. Tôi bắt đầu viết ra rằng tôi có thể
làm thợ sửa máy xe, thợ hàn, thợ mộc. Rồi một ngƣời tuyển dụng tới để chọn ngƣời đi
Chkalovsk, thành phố ở gần Maskva, vào trƣờng dạy thợ may và thợ đóng giày:
"Tôi là thợ may.”
"Anh có thể làm đƣợc gì?”
"Tôi có thể làm bất cứ việc gì.”
Họ gửi tôi tới Chkalovsk. Ở đó có một hội đồng tuyển chọn kiểm tra xem anh có
thể làm đƣợc những gì. Một thợ may mang quân hàm cấp tƣớng ngồi đó và yêu cầu anh
xỏ chỉ vào kim, khâu, vá.
Tôi lập tức đi tới một cửa hàng và nói với đám thợ may ở đó: “Các anh, tôi muốn
họ chọn lấy tôi vào đây. Hãy chỉ cho tôi cách khâu và luồn chỉ vào kim.” Thế là họ chỉ
tôi cách xỏ ngón tay vào đê khâu, cách luồn chỉ. Tôi học những động tác cơ bản và vƣợt
qua đợt kiểm tra. Sau đó tôi tới gần vị tƣớng và nói:
"Tôi cũng là ngƣời Maskva, tôi muốn xin về gặp gia đình.”
"Đƣợc, anh chẳng ở đây rồi là gì!”
"Nhƣng tôi đã không gặp họ trong 4 năm rồi,” tôi trình bày.
Ông ta cho tôi giấy phép. Và thế là ngày 25 tháng Chạp tôi quay về Maskva. Cha
tôi nói:
"Mày lại về đây hả, đồ du côn!”
"Bây giờ con là thợ may,” tôi nói.
"Không, mày hãy kể cho ông tƣớng sự thực nhƣ thế nào, và rằng bằng lái của mày
bị mất cắp. Ông ấy sẽ thông cảm.”
Tôi quay về và nói với vị tƣớng:
"Thƣa đồng chí tƣớng quân, tôi đã nói dối với ông, tôi không phải là thợ may mà
là một lái xe, nhƣng bằng lái của tôi bị mất cắp. Tôi muốn quay về Maskva để gặp lại gia
đình, cho nên tôi đã tới đây.”
"Tôi không cần một tài xế. Tôi sẽ gửi anh về nơi tuyển quân.”
Ông ta đƣa tôi tờ chỉ dẫn tới chỗ tuyển quân, trong có ghi: "Một tài xế bị mất
bằng lái.” Tôi tới gặp ngƣời quản lý. Anh ta bảo:
"Từ khi cậu không còn bằng lái thì cậu không phải là tài xế.”
"Tôi có thể kiếm đƣợc một bản sao,” tôi nói.
"Bản sao không phải chuyện của tôi. Không có bằng lái, anh sẽ phải phục vụ
trong một đơn vị khác.”
Thế rồi một thƣợng uý đi tới và tôi nghe anh ta trao đổi với ngƣời quản lý đằng
sau tấm vách ván ép:
"Tôi cần tuyển tài xế cho một vị tƣớng,” viên thƣợng uý nói.
"Mệnh lệnh của Stalin là phải đƣa tất cả tài xế tới để khôi phục thành phố
Stalingrad. Anh cũng có tài xế trong đơn vị của mình, vậy thì chọn họ đi.”
Khi thƣợng uý ra ngoài, tôi tới gặp anh ta:
"Thƣa đồng chí thƣợng uý, tôi là một tài xế. Bằng lái của tôi bị mất cắp, vì thế có
thể tuyển tôi nhƣ một thợ mộc hay một thợ rèn. Nếu anh chọn tôi, tôi sẽ kiếm đƣợc ngay
lập tức bản sao bằng lái của mình cho anh.”
"Làm thế nào tôi có thể chọn anh đƣợc? Tôi không có lệnh phải tuyển thợ mộc.
Hãy chờ tôi thêm ba ngày, tôi sẽ kiếm đƣợc lệnh tuyển một thợ rèn.”
Thế là, việc mua chuộc tiếp tục. Mọi ngƣời đều có thể bị mua chuộc. Cảnh sát cần
tuyển một thợ mộc. Tôi bảo:
"Tôi không đi đâu!”
"Anh không đi nghĩa là thế nào? Ra tòa án binh nhé. Đi lấy đồ đạc của mình đi.”
Tôi trƣờn vào tuốt sâu trong gầm giƣờng và yên lặng nằm đó.
"Kopylov! Kopylov!" họ chạy quanh tìm tôi.
"Cái thằng khốn đó đâu rồi!?”
"Chạy mất rồi chứ còn đâu!”
Trong lần điểm danh buổi chiều tôi đứng vào hàng, nhƣ thể không có chuyện gì
xảy ra cả:
"Anh đã ở đâu?”
"Tôi ngủ quên.”
"Ngủ ở đâu?”
"Thì trên giƣờng tôi.”
Ngày thứ hai tôi cũng trốn ở đâu đó. Tới ngày thứ ba thì viên thƣợng uý tới.
Ngƣời quản lý điểm tuyển quân đích thân bƣớc ra:
"Kopylov – thƣợng uý đang tìm anh đó. Cần làm lái xe.”
Tôi chui ra từ dƣới giƣờng bằng cả bốn chân:
"Đồ chó chết! Đồ khốn ranh ma!” anh ta cƣời phá lên.
Thế là chúng tôi đi, về tới địa điểm của mình.
"Đây, đồng chí tƣớng quân. Anh ta cần một giấy chứng nhận để lấy lại bằng lái
của mình,” viên thƣợng uý nói.
"Đồng chí tƣớng quân, có một vấn đề nhỏ ở đây. Họ của tôi đƣợc viết không đúng,
và cả tên cha nữa,” tôi nói.
"Anh nói “không đúng” nghĩa là thế nào?”
"Ở bệnh viện họ bị lẫn lộn, mà tôi thì không chú ý, và khi nhận ra thì đã quá
muộn. Tôi không phải là Kopylov mà là Kopylovich, và không phải là Vladimir
Anufrievich, mà là Vladimir Adolfovich."
Ông ta cầm lấy giấy tờ của tôi, gạch đi cái họ và viết vào: Kopylovich, Vladimir
Adolfovich. Trong thực tế tôi là Kapeleovich, nhƣng nhƣ thế là quá nhiều, đặc biệt là do
tất cả anh em của cha tôi đều có những cái họ khác nhau: Kapeliovich, Kapel'novich,
Kapelevich. Tóm lại, họ sửa lại tất cả, giao cho tôi một chiếc Ford 6, và thế là tôi lái xe
cho ngƣời thanh tra và kiểm soát viên quân đội Xô viết, hai lần Anh hùng Liên Xô, thiếu
tƣớng Slitz cho tới khi ông hy sinh một cách bi thảm vào năm 1945. Còn bây giờ tôi phải
lãnh hậu quả – không có đƣợc giấy chứng nhận đã tham gia chiến tranh. Tôi gửi một giấy
đề nghị tới bệnh viện để hỏi về Kopylov, Vladimir Anuvriefich. Tôi nhận đƣợc một tờ
giấy hồi âm, trong đó vết thƣơng của tôi đƣợc ghi là một”mụn nhọt”.
Ngƣời phỏng vấn: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Viktor Leonov
Tôi nói bằng tiếng Nga với bọn Đức
Hai lần đƣợc tặng thƣởng Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên Xô
Chỉ huy trƣởng đội biệt động Hạm đội Biển Bắc
Chỉ huy trƣởng đội biệt động Hạm đội Thái Bình Dƣơng
"Đơn vị của chúng tôi, hoạt động đằng sau phòng tuyến quân địch, luôn phải
chống lại số quân địch đông hơn nhiều lần và đối phƣơng luôn luôn vƣợt trội chúng tôi về
mặt hỏa lực,” Leonov nói, "Nhƣng chúng tôi luôn chiến thắng trong các cuộc chiến tay
đôi. Cả bọn Đức lẫn bọn Nhật đều không thể hành động kiên quyết mạnh mẽ nhƣ chúng
tôi. Đó là quy luật về tâm lý: trong một trận chiến, luôn có một bên phải bỏ cuộc.”
Một trong những chiến dịch nổi tiếng nhất của đơn vị Leonov là việc bắt đƣợc
3.500 tù binh và sĩ quan Nhật tại cảng Vonsan, Triều Tiên.
- Đội chúng tôi có 140 ngƣời. Chúng tôi hạ cánh hoàn toàn bất ngờ xuống một sân
bay của bọn Nhậvà bắt đầu đàm phán. Mƣời ngƣời trong chúng tôi bị bọn Nhật đƣa tới
gặp tên đại tá tại sở chỉ huy. Hắn là chỉ huy trƣởng của đơn vị không quân Nhật, và hắn
muốn bắt giữ chúng tôi làm con tin. Tôi tham gia cuộc đàm phán khi cảm thấy rằng đại
diện của sở chỉ huy chúng tôi, Đại uý chuyên nghiệp bậc 3 Kulebyakin, đã, nhƣ ngƣời ta
vẫn nói, bị đƣa vào thế kẹt. Tôi nhìn thẳng vào mắt bọn Nhật. Tôi nói với chúng rằng
chúng tôi đã chiến đấu ở Mặt trận phía Tây trong suốt cuộc chiến, và ĐÃ có đầy đủ kinh
nghiệm để tự đánh giá tình thế thực tế của mình. Chúng tôi không tới đây để bị bắt làm
con tin. Chúng tôi thà chết, tôi nói, cùng với tất cả những ngƣời còn lại ởï sở chỉ huy này.
Điều khác biệt duy nhất, tôi bảo hắn ta, rằng tất cả chúng sẽ chết nhƣ những con chuột
trong khi chúng tôi sẽ cố gắng để thoát khỏi đây! Ngay lúc đó Mitya Sokolov, một Anh
hùng Liên Xô, đến đứng sau lƣng chiếc ghế của tên đại tá Nhật. Những ngƣời khác cũng
đã biết phải làm gì. Andrey Pshenichnych khóa cửa phòng, nhét chìa khóa vào túi mình
và ngồi xuống một chiếc ghế. Volodya Olyashin, ngƣời sau chiến tranh đã trở thành một
lực sĩ chuyên nghiệp, nhấc bổng Andrey – cùng với chiếc ghế – và đặt anh ấy xuống ngay
trƣớc mặt tên đại tá. Ivan Guzenkov đi tới cửa sổ và thông báo rằng chúng không đến nỗi
quá cao, trong khi một Anh hùng Liên Xô khác, Semen Agafonov, đứng về phía gần cửa
và bắt đầu tung tung trong không khí một quả lựu đạn chống tăng (Bọn Nhật không hề
biết rằng quả lựu đạn này đã bị tháo kíp nổ). Viên đại tá, quên mất mình vẫn có khăn tay,
đƣa bàn tay lên lau mồ hôi trán, và một lát sau hắn đặt bút ký giấy ra lệnh cho pháo đài
đầu hàng.
- Chúng tôi tập hợp 3.500 tù binh thành một đội hình, cứ tám ngƣời một hàng. Từ
lúc này chúng hoàn toàn làm theo lệnh tôi. Chúng tôi không có đủ ngƣời để áp giải một
đội hình đông nhƣ thế, do đó tôi kéo tên đại tá và tên tham mƣu trƣởng của hắn lên ngồi
cùng xe với mình. Tôi nói, “Nếu chỉ một tên lính cố gắng chạy trốn, anh sẽ phải tự mình
chịu tất cả trách nhiệm...” Đúng lúc đó chúng tôi cũng bắt gặp một nhóm đồng đội đang
áp giải khoảng gần 5.000 tù binh Nhật.
Con sói biển già dặn Viktor Leonov đã đƣợc trao tặng Huy chƣơng “Dũng Cảm”
sau trận chiến mùa hè năm 1941, tại đó ông bị thƣơng nặng bởi một mảnh mìn. Ngay sau
trận chiến đầu tiên đó, khi bạn của ông (họ đã cùng nhập ngũ vào một đơn vị) hy sinh,
Leonov bắt đầu suy nghĩ – làm thế nào để mình tiếp tục chiến đấu?
- Vào mùa thu năm 1942 chúng tôi tiến hành một cuộc đột kích vào pháo đài của
bọn Đức ở mũi Mogilny, nơi chúng dùng để theo dõi tàu biển và máy bay của ta. Chiến
dịch khởi đầu không suôn sẻ. Cả sĩ quan chỉ huy lẫn chính trị viên của đơn vị bộ binh
yểm trợ sau đó đều bị ra tòa án binh và hành quyết do tội cẩu thả tắc trách. Hạ sĩ quan bậc
2 Leonov đã dẫn đầu đợt tấn công của một nhóm nhỏ lính trinh sát. Đợt tấn công thành
công, và vị trí hỏa điểm của bọn Đức bị phá huỷ, nhƣng 15 thủy binh cuối cùng bị khóa
chặt tại một chốt nhỏ (phần rộng nhất của mũi đất này cũng chƣa tới 150 mét). Bọn
Gebirgsjaeger của Đức (lính sơn cƣớc đƣợc huấn luyện và trang bị đặc biệt) bao vây họ
bằng hai gọng kìm, cắt đứt đƣờng rút bằng hai khẩu đại liên. Những mỏm đá xung quanh
họ bị đạn cối nã liên tục.
Bọn Đức vội vã cố gắng kết thúc công việc trƣớc khi trời tối. Một trong những
thủy binh, ngƣời biết tiếng Đức, đã nghe đƣợc điều này. Nhƣng các thủy binh đang hết
dần đạn. Một trong số họ hét lên, “Hết rồi! Chúng ta không thể thoát ra khỏi đây!” – và tự
cho mình nổ tung bằng một quả lựu đạn. Một ngƣời khác cũng định làm chuyện tƣơng tự.
“Đồ hèn!” Leonov nói với anh ta. “Đặt quả lựu đạn xuống nếu không tôi sẽ bắn chết
anh!”
- Chúng tôi bị ghìm chặt bởi hai khẩu súng máy đó, chúng bắn liên tục không
ngơi nghỉ. Tôi quyết định phải làm điều gì đó. Tôi nhảy ra và bắn những viên đạn cuối
cùng vào mỏm đá mà những tên xạ thủ súng máy dùng làm vật che chắn. Tôi hy vọng
chúng chúi đầu xuống và ngừng bắn. Kế đó một trong những ngƣời giỏi nhất của chúng
tôi, Semen Agafonov lao nhanh về phía mỏm đá, nằm cách đó khoảng 20 mét. Anh cố
gắng nhảy lên trên mỏm đá và đã nhảy vào đúng giữa bọn Đức! Khi tôi, đang bị thƣơng
vào chân, tới đƣợc để chứng kiến thì một tên xạ thủ đã chết, còn Semen đang lăn tròn trên
mặt đất, vật lộn với tên còn lại. Tôi dùng báng súng nện liên hồi lên đầu tên Đức. Chúng
tôi chiếm đƣợc những khẩu súng máy ấy và thoát đi.
Agafonov đƣợc coi là một ngƣời không biết sợ là gì. Khi đƣợc hỏi về chiến công
trên, anh ấy thƣờng cƣời lớn và trả lời rằng khi anh trông thấy bàn tay của bọn Đức đang
run rẩy, anh hiểu ngay rằng bọn chúng sẽ bắn trƣợt. Nhƣng khi trò chuyện với các bạn
thân, anh ấy thú nhận rằng khi anh nhận mệnh lệnh của Leonov, anh đã cho rằng đời lính
của mình chắc kết thúc ở đây rồi... Ai ai cũng đều biết sợ, nhƣng cái chính là anh phải
hành động thật nhanh và kiên quyết.
- Sau đó, Yuri Micheev làm nổ tung một lô cốt của bọn Đức bằng một chùm lựu
đạn ném xa và chính xác một cách đáng kinh ngạc từ khoảng cách 20 mét. Đó cũng là
chùm lựu đạn cuối cùng của chúng tôi. Trong khi chùm lựu đạn vẫn còn trên không thì
Yuri đã hy sinh, bị một khẩu trọng liên xả ngang ngƣời. Nhƣng chúng tôi đã vƣợt đƣợc
tuyến phòng thủ thứ hai và lọt qua một hẻm núi để tới bờ biển. Tuyết rơi dày đã xóa hết
dấu chân của chúng tôi. Agafonov đi bọc hậu, anh chỉ còn ba viên đạn trong khẩu súng
lục của mình, và súng của tôi cũng thế... Chúng tôi ẩn mình trong những bụi rậm ven bờ
biển. Rất nhiều lần một toán lính sơn cƣớc Đức (Gebirgsjaeger) đi ngang qua ngay trƣớc
chỗ chúng tôi đang náu mình, tay nắm chặt đốc dao găm. Chúng tôi phải đợi rất lâu cho
tới khi có tàu tới đón. Cuối cùng hai tàu vận tải tới nơi, nhận ra tín hiệu của chúng tôi và
đón chúng tôi ở Mogilny.
Leonov đƣợc phong chức thiếu uý, đƣợc chỉ định làm chính trị viên đơn vị, và sau
đó là chỉ huy trƣởng của đơn vị. Ông nhận Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên Xô đầu tiên
của mình sau chiến dịch quy mô nhất của đơn vị, đƣợc tiến hành vào tháng Mƣời Một
năm 1944. Trƣớc khi chiến dịch tấn công chính ở mặt trận phía Bắc khởi đầu, đơn vị
đƣợc lệnh phải tiêu diệt cứ điểm của quân Đức ở một vị trí chiến lƣợc trên Mũi Krestovy.
- Lần đó chúng tôi không tiến hành khớp đƣợc với giai đoạn canh gác lơ đãng của
đối phƣơng. Ngay vào phút chót, khi chúng tôi chỉ còn 30 hoặc 40 mét nữa là tới đƣợc
boongke của bọn Đức thì hệ thống báo động của chúng kêu inh ỏi. Bọn Đức phát hiện ra,
nã súng máy và đại bác vào chúng tôi. Khung cảnh xung quanh đều sáng rực, trong khi
trƣớc mặt chúng tôi là những bãi chƣớng ngại vật dày đặc hàng rào kẽm gai. Tôi đƣa ra
mệnh lệnh: mỗi ngƣời làm bất cứ điều gì có thể, phân thành những nhóm nhỏ. Nhƣng tôi
muốn TẤT CẢ các anh trong vòng một phút nữa có mặt tại vị trí khẩu đội pháo chỗ kia...
- Ivan Lysenko, nhà vô địch môn đấu vật đến từ Urals và là ngƣời khỏe nhất đơn
vị, trở thành ngƣời đã cứu chúng tôi tránh khỏi tổn thất nặng nề. Anh giật tung cái cự mã
kiểu sừng hƣơu đang giữ mớ dây thép gai lên khỏi mặt đất và nhấc nó lên vai mình.
Chúng tôi ùa qua lối thoát hiểm do anh vừa tạo ra. Khi Lysenko đã không thể đứng vững
đƣợc nữa – thân mình anh đã bị trúng hơn hai mƣơi vết đạn – ngƣời cứu thƣơng của
chúng tôi Alexey Lupov liền tới giúp anh. (Xin đừng tỏ ý hoài nghi mỉa mai... anh ấy tới
để giúp Ivan giữ vững cái cự mã...). Cả hai đều hy sinh, nhƣng chúng tôi đã lọt tới chỗ
đặt pháo và, sau khi chiếm đƣợc những khẩu pháo, liền dùng chúng nã đạn vào đối
phƣơng, bởi chúng tôi nắm rất vững cách sử dụng vũ khí nặng của Đức.
- Kẻ địch cảm nhận rõ sức mạnh của chúng tôi. Tôi còn nhớ, vào những ngày đầu
chiến tranh, có lần chúng tôi bắt đƣợc một tên sĩ quan Đức. Sau đó tôi về vị trí và đã thay
đổi quần áo của mình. Rồi tôi chợt thấy ngƣời sĩ quan tình báo của chúng tôi chạy ra khỏi
phòng, nơi họ đang thẩm vấn tên tù binh Đức, và tới nói với tôi: “Thật là một thằng chó
chết! Nó không thèm nói lấy một lời, chỉ cƣời nhạo chúng ta.” “Nó sẽ phải nói...” Tôi bảo.
Tôi quay đi và thay lại bộ quân phục đã mặc khi tôi bắt sống thằng giặc đó. Tôi bƣớc vào
phòng và nhìn thấy tên Đức đang ngồi bắt chéo chân hút thuốc lá. Tôi nói với ngƣời
phiên dịch: “Hãy nói với thằng khốn nạn này (Tôi cho rằng thật ra ông ấy đã dùng một từ
có nghĩa mạnh hơn nhiều -Valera) rằng những vị đô đốc kia sẽ bỏ ra ngoài, và ổn thôi
nếu bây giờ họ chƣa biết đƣợc những gì họ cần biết... bởi vì hắn sẽ phải ở lại đây một
mình với tôi.” Và tôi quay đi rồi bƣớc ra khỏi phòng. Thằng Đức lập tức khai ngay... Tôi
đã nói với bọn Đức bằng tiếng Nga, và chúng có thể hiểu tôi còn rõ hơn là chúng có thể
hiểu những ngƣời khác nói tiếng Đức.
- Đô đốc Golovko đƣa ra một mệnh lệnh - "Chỉ huy đơn vị có toàn quyền tự chọn
những ngƣời trinh sát cho riêng mình.” Do đó ngƣời ta không thể chỉ định bất cứ ai vào
đơn vị của tôi. Tôi có mối liên lạc tốt với bộ phận nhân sự, và ở đó ngƣời ta gửi xuống
những anh chàng rất phù hợp với nhiệm vụ. Tôi nói chuyện với họ và theo dõi xem họ
phản ứng thế nào với những câu hỏi của tôi. Điều chủ yếu đối với tôi nằm ở đôi tay và
ánh mắt của ngƣời đƣợc kiểm tra. Khi anh nhìn vào đôi tay của một ngƣời chính là anh
đang nhìn sâu vào thực trạng tâm lý và nhân cách của anh ta. Tôi cần những ngƣời có đôi
tay không cầm nắm những đồ vật trên bàn... luôn sẵn sàng hành động, đồng thời tỏ ra
lạnh lùng bình tĩnh...
- Mệnh lệnh đầu tiên của tôi sau khi trở thành chỉ huy đơn vị là chuyển ngƣời đại
diện của Uỷ ban Đặc biệt (sĩ quan NKVD) ra khỏi đơn vị. Bởi nếu không thì mọi chuyện
có thể sẽ diễn ra nhƣ sau: chúng tôi quay về từ một cuộc đột kích, còn anh ta ngồi ở sở
chỉ huy và bắt đầu dò xét tất cả thành viên trong đội từng ngƣời một, hỏi xem những
ngƣời còn lại đã hành động thế nào trong trận đánh. Nếu anh ta muốn biết thì cứ tham gia
cùng chúng tôi! Trong trận đánh mọi ngƣời đều bộc lộ rõ bản chất của mình.
Sau đó tôi ra mệnh lệnh thứ hai. Vào thời điểm đó tôi biết rõ tất cả những kẻ chỉ
điểm trong đơn vị, bởi vì họ đều tới gạ gẫm tuyển lựa tôi, và tôi đã nói “không” với sự dụ
dỗ đó. Tôi tập hợp tất cả họ lại và bảo: "Hãy viết lên cấp trên tất cả những gì các anh
muốn, cứ nghĩ ra bất kỳ thứ bệnh hoạn nào có thể tƣởng tƣợng đƣợc... nhƣng tôi muốn tất
cả các anh biến khỏi đây trong vòng hai mƣơi bốn giờ.” Đấy là cách tôi đã dùng để tống
khứ họ. Sau đó có một thành viên của Ủy Ban Quân sự tới nói với tôi, "Họ sẽ sớm bắt giữ
anh vào bất cứ lúc nào”. Tôi trả lời, “Thế anh có mặt ở đây để làm gì?” Anh ta nói, “Họ
có thể tự quyết định mà không cần thông qua tôi...” Bây giờ thì tôi đã biết. Đấy cũng là
cách mà chính những kẻ đó đã đẩy Lunin, sau này trở thành một thuyền trƣởng hạm
ngầm rất nổi tiếng, vào nhà giam. Tôi nói, “Tôi không cần anh bảo vệ cho tôi. Cứ cho tôi
biết khoảng lúc nào thì việc đó xảy ra – và thả tôi tới Na Uy, tôi có thể chỉ huy đơn vị của
mình từ chỗ đó. Cứ để họ thử lôi tôi ra khỏi đấy mà xem!” Anh ta chỉ cƣời và bảo, “Ồ,
anh thật là một tay thích phiêu lƣu.” Nhƣng mỗi khi đơn vị cần hỗ trợ, anh ấy luôn giúp
đỡ hết sức mình.
- Thật ra, chúng tôi luôn là một đại gia đình. Ví dụ nhƣ lần chúng tôi đƣa đƣợc
trung uý Fedor Shelavin ra khỏi Mũi Mogilny... Anh ấy là lý do buộc chúng tôi phải dừng
lại đó; cả hai chân anh đều bị thƣơng. Anh ấy muốn tự bắn vào mình... để giảm bớt gánh
nặng cho đồng đội. Nhƣng tôi biết – nếu chúng tôi bỏ lại Shelavin, vào lần đột kích kế
tiếp sẽ có ai đó nghĩ, “Thế đấy, nếu chúng ta đã bỏ rơi một sĩ quan chỉ huy bị thƣơng thì
trƣờng hợp của mình chắc chắc cũng vậy.” Nếu ý nghĩ đó rơi vào đầu của một ngƣời lính,
anh ta sẽ không thể chiến đấu đƣợc. Anh ta sẽ không bao giờ còn là một chiến binh thực
thụ nữa. Ý nghĩ đó sẽ hành hạ và làm anh ngã lòng, bất kể anh có muốn thế hay không.
Kể từ ngày Leonov trở thành chỉ huy đơn vị cho tới hết cuộc chiến, đơn vị của
ông chỉ có 9 chiến sĩ hy sinh trong chiến đấu – 7 trong số họ là tại hàng rào kẽm gai trƣớc
Mũi Krestovy.
- Tôi luôn đau khổ khi để mất đồng đội. Hãy hỏi bất cứ ai mà xem. Họ đều biết
rằng tôi có thể chiến đấu vì bất cứ ai tới giọt máu cuối cùng.
Dịch sang tiếng Anh: Alexander Ivanov (Donetsk)
Hiệu đính tiếng Anh: Michael J. Redd
Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân
Nguồn: Tạp chí "Russkij Dom", #1 1997.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro