Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

KÝ ỨC CHIẾN TRANH_2013_06_29_19_08_19_223

KÝ ỨC CHIẾN TRANH

(Hồi ức của những binh sĩ Xôviết từng tham gia cuộc 

Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại)

Tập 1

Những người thực hiện: Valeriy Potapov, Eugene Boldyrev, Artem Drabkin, Oleg 

Sheremet, Bair Irincheev và một số cộng sự khác.

Người dịch: Lý Thế Dân

VALERIY POTAPOV

Chủ nhiệm thực hiện

Sinh tại Maskva. Tốt nghiệp Đại học Kỹ thuật Maskva. Hiện làm trưởng phòng thiết kế

của Cục Thiết kế Nội thất. Say mê nghiên cứu về lịch sử nước Nga, đặc biệt là lịch sử của 

cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Khởi xướng thực hiện sưu tầm này từ tháng Giêng 

1998. Mục đích nhằm chia sẻ kiến thức của mình với mọi người và giới thiệu với bạn bè 

nước ngoài về lịch sử nước Nga.  

EUGENE BOLDYREV

Cố vấn về tăng và pháo tự hành

Sinh năm 1970 tại Maskva. Tốt nghiệp Học viện Luật pháp Quốc gia Maskva. Hiện đang 

hành nghề luật sư, chuyên về bảo vệ tác quyền. Say mê lịch sử quân sự Nga và các mô 

hình thu nhỏ (tỷ lệ 1:35). Tham gia nhóm thực hiện bắt đầu từ tháng Ba 1998. 

ARTEM DRABKIN

Phụ trách điều hành

Sinh năm 1971 tại Maskva. Tốt nghiệp Khoa Sinh hóa của Đại học Sư phạm Maskva. 

Phó tiến sĩ vi sinh học. Hiện làm giám đốc kinh doanh của chi nhánh Công ty Lytech tại 

Nga. Tham gia nhóm khi cảm thấy bản thân đang mất dần mối liên hệ với thế hệ đã nuôi 

dưỡng mình, nhờ vậy đã trở nên rất gần gũi và thân thiện.

MỤC LỤC

Lời ngƣời dịch

Phần 1: Hồi ức của lính bộ binh

1.  Vladimir Zimakov

2.  Daniil Zlatkin

3.  Ivan Shelepov

4.  Nikolai Obryn‟ba

Phần 2: Hồi ức của các phi công

1.  Yurii Khukhrikov

2.  Vyacheslav Ivanov

Phần 3: Hồi ức của lính thông tin

1.  Josef Finkelshteyn

2.  Yurii Koriakin

Phần 4: Hồi ức của lính pháo binh

1.  Ivan A. Yakuskin

2.  Mikhail Lukinov

Phần 5: Hồi ức binh lính thuộc các binh chủng khác

1.  Vladimir Dolmatov

2.  Viktor Leonov

LỜI NGƯỜI DỊCH

“Ký  ức chiến tranh” là một tập hợp những hồi  ức trong Chiến tranh Vệ  quốc Vĩ đại của 

các quân nhân Xôviết thuộc mọi binh chủng: bộ  binh, pháo binh, lính xe tăng, phi công, 

lính thông tin, cứu thƣơng, biệt kích … thuộc mọi cấp bậc từ  binh nhất cho tới các chỉ

huy đơn vị, tham gia đủ loại nhiệm vụ chiến đấu. “Ký ức chiến tranh” mô tả đến từng chi 

tiết cuộc sống ngoài chiến trƣờng và cuộc sống nơi hậu phƣơng, những trận chiến ác liệt 

và cảnh giam cầm trong trại tù binh, những chiến công và những thất bại, những đau khổ

mất mát, cảnh tuyệt vọng, những vui buồn của đời lính, niềm vui chiến thắng tột cùng, là 

cuộc đời của biết bao con ngƣời trong chiến tranh. “Ký  ức  chiến tranh” ca ngợi chiến 

thắng phát xít của nhân dân Liên Xô, đồng thời nói lên một sự  thật: chiến tranh, dù đứng 

ở  phía  ngƣời  chiến  thắng  cũng  nhƣ  về  phía  kẻ  chiến  bại,  cũng  là  một  công  việc  kinh 

khủng, đau đớn và vô nghĩa lý của loài ngƣời. Thông qua “Ký  ức chiến tranh”, ta cũng 

hiểu thêm về dân tộc Nga, vừa vĩ đại lại vừa man rợ, vừa gần gũi lại vừa xa lạ, dân tộc đã 

dang tay giúp đỡ  chúng ta chiến thắng ngoại xâm, gánh đỡ  trách nhiệm xây dựng chủ

nghĩa xã hội trên thế  giới, dân tộc hiện đang trải qua bao khó khăn để  xây dựng lại đất 

nƣớc. 

Mong rằng sẽ có nhiều bạn đọc, nhất là những du học sinh Nga và những ngƣời từng học 

tiếng Nga, quan tâm và trao đổi để giúp tôi dịch hoàn thiện bộ “Ký ức chiến tranh”.

Sài Gòn, tháng 7, 2004

Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH

VLADIMIR ZIMAKOV

Phần 1

Diệt xe tăng

Vladimir Zimakov, mùng 9 tháng Năm năm1945, vùng Galati – Romania. (Ảnh do V. 

Zimakov cung cấp)

Tôi biết chiến tranh đã xảy ra khi thấy máy bay địch bắt đầu dội bom  Smolensk, 

nơi chúng tôi đang sống. Đó là vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng Sáu. Gia đình chúng tôi 

phải  di  tản.  Năm  1943  tôi  nhập  ngũ,  khi  lên  18  tuổi.  Ban  đầu  chúng  tôi  đƣợc  đƣa  tới 

Morshansk,  Tambov.  Rồi  chúng  tôi  đƣợc  đƣa  tới  huấn  luyện  quân  sự  tại  doanh  trại 

Melikess thuộc vùng Ulyanovsk. Chúng tôi đƣợc nhận đồ  lót mới, nhƣng quân phục thì 

đã cũ. Tôi đoán chúng đƣợc lấy từ  những chiến sĩ ta đã hy sinh. Họ  đã khâu vá cẩn thận 

những vết rách thủng do đạn và mảnh trái phá xuyên qua. 

Ngƣời anh em  ạ, lúc đó  trời rất lạnh! Chúng tôi may mắn có đƣợc áo choàng, đồ

lót bằng len và bông và giầy ủng với xà cạp đủ ấm. Có lần vài tay Uzbek bị đƣa tới doanh 

trại. Ồ, họ thật đáng thƣơng! Họ đƣợc phép mặc áo “khalat” (một loại áo khoác lông cừu) 

dƣới lớp áo choàng. Thực ra, ta không bị  lạnh đâu bởi phải tập luyện và chạy rất nhiều. 

Có lần trong suốt mƣời ngày liền chúng tôi phải hành quân tới 20 cây số mỗi ngày. Họ sẽ

nhồi 16 ký cát vào ba lô của anh, thế rồi anh xách lấy khẩu súng và lên đƣờng. 

Việc huấn luyện tiếp  tục từ  tháng Giêng cho tới tháng Ba. Tới tháng Ba họ  tập 

hợp chúng tôi lại và ra lệnh: “Những ai có trình độ  từ  lớp 7 trở  lên  -  tiến lên trƣớc ba 

bƣớc.”  Tôi  bƣớc  khỏi  hàng,  bởi  đã  học  xong  lớp  8.  Nói  chung,  hầu  hết  đám  tân  binh 

chúng tôi đều là dân quê. Vài ngƣời trong số  họ  học đến lớp 5 hay lớp 6, phần lớn thậm 

chí chƣa từng đƣợc đi học. Khoảng một trăm ngƣời đƣợc chọn và gửi tới trƣờng đào tạo 

sĩ quan. “Lấy vật dụng cá nhân và chuyển đi.” Lúc đó chúng tôi thì có cái gì đâu?! Một 

cặp đồ  lót, một mẩu xà phòng đen và một cái khăn mặt. Thậm chí không ai có đƣợc cái 

bàn chải đánh răng  -  không phải là thói quen! Hãy xem trong balô lính Đức có gì. Một 

bàn chải răng sạch, bột đánh răng, một bánh xà phòng thứ  phẩm. Tất cả  đều ngăn nắp, 

đúng theo kiểu Đức. Bánh xà  phòng thứ  phẩm thô ráp, có lẽ  đƣợc trộn cát hay thứ  gì đó 

tƣơng tự. Chúng rất lâu mòn. 

Chúng tôi mất 3 ngày để  đi từ  Melikess tới thị  trấn Kinel, gần Samara. Chúng tôi 

đƣợc  phân  về  Trƣờng  Huấn  luyện  Bộ  binh  Kuybyshev  số  3.  Trƣờng  nằm  cách  dòng 

Volga khoảng 130 cây số. Chúng tôi trông giống nhƣ đám học sinh sỹ  quan thời trƣớc 

chiến tranh: áo len, quần bông, giầy ống cao cổ. Nếu kết thúc sáu tháng học ở đây, chúng 

tôi sẽ  đƣợc ra mặt trận với quân hàm thiếu uý. Có biết bao nhiêu thiếu uý và trung uý bị

giết  ngoài mặt trận! Anh bạn  ạ, chỉ  một ít trong số  họ  là còn sống. Ngay khi vừa tới mặt 

trận, họ liền lọt vào kính ngắm của bọn xạ thủ bắn tỉa Đức. Chúng ta không bao giờ quan 

tâm tới việc che chắn ngụy trang. Sĩ quan đƣợc cấp loại sơmi khác với lính tráng, và  đội 

mũ có lƣỡi trai! Mà xạ thủ bắn tỉa Đức lại bắn rất cừ. 

Chúng tôi học đƣợc hai tháng cho tới khi trƣờng nhận lệnh đƣa lứa học viên khóa 

trên ra mặt trận. Không có vấn đề gì, trừ việc quân phục dành cho họ không đƣợc chuyển 

đến đúng hẹn. Thế  là chúng tôi phải cởi quân phục của mình ra cho lớp khóa trên mặc 

vào. Chúng tôi đƣợc nhận lại mớ  quần áo cũ của mình, nhƣng tới lúc này giầy  ủng của 

chúng tôi đã mòn vẹt hết cả, thế nên chúng tôi đƣợc cấp thêm giầy vỏ cây và xà cạp trắng. 

Chúng tôi mặc chúng tiếp hai tháng cho tới khi quân phục mới đƣợc chuyển tới. 

Huấn luyện các xạ thủ chống tăng.

Chúng tôi đƣợc học cả  thảy ba tháng cho tới khi trƣờng phải đóng cửa. Họ  gửi 

chúng tôi tới Inza, nơi chúng tôi đƣợc phong hạ  sĩ. Đó là một doanh trại lớn nằm giữa 

một cánh rừng thông. Ở  đấy có những cái giƣờng cao ghép thành ba tầng với những con 

chuột lớn, cỡ bằng con ngựa (cƣời). Lữ đoàn chúng tôi gồm những trung đoàn súng máy, 

pháo, xe tăng và chống tăng chuyên biệt. Tôi đƣợc chuyển tới trung đoàn chống tăng. Họ

huấn luyện chúng tôi rất kỹ. Chúng tôi đƣợc học kỹ  năng bắn súng trƣờng, súng máy và 

tất nhiên là súng chống tăng Degtiarev và súng chống tăng Simonov. Khẩu Degtiarev giật 

rất mạnh vào vai. Khẩu Simonov giật yếu hơn, chứa năm viên đạn trong hộp súng và có 

chế  độ  lên đạn bán tự  động. Chúng tôi bắn súng chống tăng vào những mô hình xe tăng 

bằng gỗ  dán chuyển động. Nhắm vào đâu? Khi chúng tiến về  phía ta, hãy nhắm vào lỗ

quan trắc hay phía dƣới tháp pháo để  làm nó mắc kẹt. Bắn vào lỗ  quan trắc! Cứ  làm đi, 

nhắm vào chiếc xe tăng từ khoảng cách 500 mét. Vài ngƣời làm đƣợc nhƣng tôi thì không. 

Tất nhiên, ta có thể  bắn đứt xích nó bằng một viên đạn, nếu may mắn. Việc này chặn  nó 

dừng lại và đám xạ  thủ  chống tăng hoặc pháo thủ  sẽ  tiêu diệt nó. Khi chiếc xe tăng chìa 

sƣờn về  phía ta thì có thể  ngắm vào thùng đạn của nó. Thật tuyệt! Chuyện đó sẽ  gây ra 

một tiếng nổ  lớn! Cứ  nhƣ pháo hoa! Chiếc tăng sẽ  tan xác, tháp xe cùng nòng pháo văng 

ra xa. Tuyệt vời! Lính tráng la hét, nhảy nhót, tung mũ lên trời. Đó là lần chúng tôi hạ

đƣợc chiếc “Ferdinand” của mình, nhƣng đó lại là một chuyện cá biệt.

Họ  dạy chúng tôi trong ba tháng, thăng chúng tôi lon hạ  sĩ và đƣa chúng tôi ra 

mặt trận. Chúng tôi đi trên xe lửa suốt hai tháng trời. Trên đƣờng ra mặt trận khoảng 20-30 ngƣời trong chúng tôi bị  giết bởi mìn. Mọi khoảnh đất dọc tuyến đƣờng sắt đều bị  rải 

đầy mìn. Một tay lính thuỷ  bị  một quả  mìn “cóc” cắt rời ngƣời. Làm thế  nào hắn lại bị

vậy? Thật ngớ ngẩn! Vài tay lính trẻ đứng gần đó đái. Hắn bảo họ: “Xem này, nó sẽ nhảy. 

Tớ  sẽ  chụp lấy nó và nó sẽ  không nổ”. Quả  mìn nhảy lên và phát nổ. Hắn bị  xén đứt một 

cánh tay và ruột xổ tung. Một ngƣời nữa chết và ba ngƣời khác bị thƣơng. 

Chúng tôi tới thành phố Starƣi Oskol và phát hiện ra cây cầu đã bị  nổ  tung, thế  là 

chúng tôi bị  kẹt lại. Trận Kursk vừa kết thúc từ  hai tuần trƣớc. Khi đoàn tàu chúng tôi 

còn phải chờ  thông đƣờng, chúng tôi đƣợc lệnh đi chôn xác chết. Chúng tôi mang xác 

lính xe tăng ra khỏi xe của họ, cả lính ta lẫn lính Đức. Mùi xác chết thật kinh khủng! Sau 

một thời gian chúng tôi đã quen đƣợc với nó, nhƣng ban đầu thì thật lợm mửa. Chúng tôi 

không có chọn lựa nào khác. Chà,  ở  chỗ  đấy có quá nhiều xe tăng bị  nổ  tung! Vài cái 

đâm vào nhau và dựng đứng lên. Tăng bên nào bị nhiều hơn à? Chúng tôi không đếm. Có 

thể là tăng của bọn Đức. 

Chúng tôi chôn cất binh lính trong những ngôi mộ  tập thể. Tất nhiên, chúng tôi 

luôn lục túi họ  để  tìm giấy tờ. Nếu thấy tiền hay cái mề  đay đựng  ảnh, chúng tôi gửi nó 

về  cho  ngƣời  thân  của  họ.  Đôi  lúc  chúng  tôi  tìm  thấy  những  bức  thƣ  tuyệt  mệnh.  Rất 

nhiều ngƣời chẳng có gì, không một chút giấy tờ. Xác những ngƣời lính xe tăng trông 

nhƣ những món đồ  chơi bị  cháy rụi. Làm sao chúng tôi xác định tên tuổi của họ  đƣợc? 

Tôi không hiểu tại sao, nhƣng những ngƣời nhƣ vậy xác không có mùi. Chúng tôi chôn 

lính Nga và lính Đức chung với nhau và chỉ viết lên mộ nhƣ sau : “Nơi đây chôn cất một 

số lƣợng … nhƣ thế lính Nga và một số lƣợng … nhƣ thế lính Đức”. 

Cho tới  năm 1944 Sƣ đoàn Bộ  binh 22 chúng tôi thuộc Tập đoàn quân 55 vẫn 

chƣa  tham  dự  trận  đánh  nào.  Chúng  tôi  đƣợc  chuyển  tới  ngoại  ô  thành  phố  KorsunSchevchenko.  Chúng  tôi  hành  quân  bộ  suốt  gần  70  cây  số  giữa  những  đêm  dài  tháng 

Giêng.  Mất  khoảng  hai  tuần.  Chúng  tôi  vừa  đi  vừa  ngủ  gà  ngủ  gật  suốt  ngày.  Tháng 

Giêng năm đó thời tiết khá  ấm áp. Đƣờng xá biến thành những vũng lầy. Ta hành quân 

trên dải đất đen xứ  Ukraina, nó cứ  dính bết từng tảng lên ủng và xà cạp. Bạn cạo sạch đi 

rồi nó lại dính bết nhƣ cũ sau khoảng chục bƣớc chân.  Ồ, chúng tôi đã lội bộ  đƣợc khá 

nhiều (cƣời lớn). 

Xạ thủ chống tăng thuộc Sư đoàn Bộ binh 186.

Mặt trận Kalerian. 1942.

Tôi phục vụ  trong một đại  đội chống tăng. Trợ  thủ  của tôi là Malƣsev. Cậu ta là 

một  tay  cao  kều  ngƣời  Siberia,  sinh  năm  1925.  Chúng  tôi  có  khẩu  chống  tăng  loại 

Simonov. Ban đầu chúng tôi phải vác khẩu súng đƣợc lắp ráp hoàn chỉnh, thế rồi chỉ huy 

cho phép chúng tôi tháo rời nó ra.  Thử  tƣởng tƣợng xem, nó nặng tới 22 ký. Ngoài ra, 

chúng tôi còn đem theo 200 viên đạn dành cho nó, tức thêm 28 ký nữa. Tôi cũng phải đeo 

một  khẩu  Nagan  (xạ  thủ  số  1  có  một  khẩu  súng  lục  và  xạ  thủ  số  2  có  một  tiểu  liên). 

Malƣsev thì vác một khẩu tiểu liên  PPSh cùng ba băng đạn, lƣơng khô và đồ  lót. Chúng 

tôi phải tự mình vác tất cả những thứ đó!

“Halt!”  (tiếng Đức: dừng lại  –  LTD)  Đƣợc thôi. Trinh sát báo cáo: “Bọn Đức  ở

gần đây”. Chúng tôi nhận lệnh phải đào chiến hào ngay rìa làng. Ngôi làng tên gì nhỉ? 

“Komarovka.”  Làm  nhƣ  ghê  gớm  lắm  vậy,  “Komarovka!”  (“Muỗi  mắt”  –  Anton 

Kravchenko).  Trong  tiếng  Ukraina  nó  là  Komarivka.  Đƣợc  thôi,  nhƣng  đào  chiến  hào 

hƣớng nào? Hƣớng này, về  phía ngôi làng. Chúng tôi đào chiến hào. Chiến hào bọn tôi 

nằm dƣới một cối xay  gió mái có hình móng ngựa. Mấy giờ rồi nhỉ? Đã 3 giờ rồi. Chúng 

tôi đào sâu thêm một chút, nhƣng nƣớc bắt đầu rỉ vào trong hào nên đành dừng lại. 

Vâng, ngay lúc đó chúng tôi gặp chuyện rắc rối. Chƣa bao giờ gặp lại lần nào nhƣ 

thế  trong suốt chiến tranh. Sự  việc là cùng lúc đó bọn Đức đang lặng lẽ  ngồi trong một 

khe núi phía sau làng. Ngay khi đám bộ binh đào xong chiến hào và ngồi nghỉ, chúng bắt 

đầu nã súng cối cật lực về  hƣớng ngôi làng. Chúng có một khẩu đại liên ngay trên chiến 

hào chúng tôi, trên chính cái cối xay ấy. Và khẩu súng đó đang bắn thẳng vào làng. Chiến 

hào chúng tôi chỉ  dài khoảng 5 mét, tại sao chúng không quẳng một quả  lựu đạn vào đấy 

nhỉ? Có lẽ mấy tên đó không còn quả nào chăng? Malƣsev chờ một lát rồi bảo: “Valodka, 

tớ sẽ trèo lên trên ấy. Tớ sẽ khử chúng.” Cậu ta nói thêm: “Đƣa tớ khẩu súng lục của cậu”. 

Tôi đƣa khẩu súng lục của mình và cậu ta trèo lên. Một lát sau, tôi nghe tiếng súng bắn 

qua lại, của cả  bọn Đức và Malƣsev. “Malƣsev chết rồi.” Tôi nghĩ. Không hề  nhƣ vậy! 

Cậu ta quay trở ra. Đã giết xong cả hai thằng ngồi trên ấy. “Xong rồi,” cậu ta nói, “Tớ đã 

hạ chúng rồi”.

Rồi cơn ác mộng bắt đầu. Anh bạn  ạ, tối hôm đó tôi không thấy một sĩ quan nào 

của ta cả! Chúng tôi bắt đầu bắn bằng khẩu súng của mình. Nhƣng bắn về  hƣớng nào? 

Trời tối nhƣ mực! Chúng tôi cứ  bắn về  hƣớng có chớp sáng, hết khoảng 20 hay 30 viên 

đạn theo kiểu ấy. Về  sau mới biết là  ở  đấy chỉ  có khoảng 500 tên Đức. Chúng tôi có đến 

hai tiểu đoàn bố  trí trong các chiến hào để  chống lại chúng. Thêm vào đó, chúng tôi còn 

tới một tiểu đoàn dự  bị. Chúng tôi là lính mới, anh biết đấy, nhƣng những tay có kinh 

nghiệm lúc  ấy cũng phải lúng túng. Rồi chúng tôi gặp một tay thƣợng uý. Anh ta hét, 

“Nằm xuống, các cậu. Tháo khóa nòng ra và ném khẩu súng của các cậu đi.” Chúng tôi 

làm theo nhƣ anh ta bảo. Chúng tôi tháo nó ra và dấu trong chiến hào. Malƣsev nhét cái 

khóa nòng vào túi rồi phủ chiếc áo telogreika của mình lên khẩu súng chống tăng. Tay sỹ

quan  ấy bị  thƣơng vào cả  hai chân. Chúng tôi xốc nách anh ta rồi cùng chạy. Bọn Đức 

liên tục nã súng cối. Phần còn lại của đơn vị  chúng tôi đang rút lui. Binh lính cứ  ngã 

xuống, ngã xuống. Còn bọn Đức vẫn tiếp tục bắn. Hầu hết đám lính ta rẽ  vào một cái 

thung lũng nhỏ  để  tránh đạn. Ngƣời sỹ  quan nói: “Hãy chạy thẳng lên đồi! Lên trên đồi! 

Đừng chui xuống cái thung lũng ấy, bây giờ mà ở đấy là bị thịt ngay!” Quả vậy. Bọn Đức 

chỉnh khẩu cối theo hƣớng  ấy, thật kinh khủng. Tƣởng tƣợng mà xem? Và rồi chúng tôi 

đã vƣợt qua đỉnh đồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống để  nghỉ. Anh ta nói: “Hãy nghỉ  một lát, 

tim tôi lộn lên tậïn trên cổ  rồi.” Anh  ấy trông còn trẻ, nhƣng cả  hai chân đều bị  thƣơng. 

May thay không trúng xƣơng, chỉ bị vào phần mềm. 

A hà. Bình minh đã lên. Anh biết không, chúng tôi đang ngồi nhƣ thế  trong đám 

cỏ  khô  cao  ngập  đầu  thì  có  hai  tên  Đức  đi  ngang.  Thƣợng  úy  thấy  chúng  trƣớc.  “Im 

lặng,” anh ta nói, “bọn Đức đấy. Nằm xuống. Tôi sẽ  bắn, để  các cậu làm thì trƣợt mất.” 

Anh ta lên cò khẩu TT của mình rồi ngắm bắn. Bóp cò. Thằng Đức thứ  hai bắn trả  ngay 

lập tức. Bọn Đức đƣợc huấn luyện  để  bắn ngay về  hƣớng có tiếng súng. Thƣợng uý hạ

luôn đƣợc thằng thứ  hai. Bắn liền tay. Thật là một tay có kinh nghiệm. Chúng tôi thì sợ

đến chết đƣợc. Tôi còn nghĩ rằng thế  là tiêu rồi. Thật ra, tất cả  chỉ mới là lần đầu đối với 

chúng tôi. 

Vâng, chúng  tôi đã rút lui. Không nhƣ chúng tôi, tiểu đoàn dự  bị  tiến lên, quét 

sạch bọn Đức, chiếm lấy ngôi làng và tiếp tục hành quân. Còn chúng tôi có hai tiểu đoàn 

thì lại bỏ  chạy. Thế  đấy. Một nửa số  ngƣời chạy vào cái thung lũng đã bị  giết chết. Nói 

ngắn gọn, chúng tôi chỉ  còn lại một tiểu đoàn trong số  hai tiểu đoàn ban đầu. Một tiểu 

đoàn có 500 ngƣời. Một đại đội gồm 125 ngƣời. Tóm lại, chúng tôi có ba đại đội bộ binh 

và mấy trung đội súng máy, tiểu liên và súng cối.

Sáng hôm đó chúng tôi tới sở  chỉ  huy sƣ đoàn. Chúng tôi khiêng thƣợng uý tới 

đơn vị  quân y và báo cáo lại những gì đã xảy ra trong thung lũng. Họ  hứa sẽ  gửi cứu 

thƣơng  và  xe  ngựa  tới  để  vận  chuyển  những  ngƣời  sống  sót.  Thƣợng  uý  nói:  “Những 

chàng trai này đã cứu mạng tôi, họ phải đƣợc tặng thƣởng.” Chúng tôi trả lời, “Chính anh 

ấy đã cứu mạng chúng tôi.” Tất cả đều cƣời. “Những anh chàng thiếu kinh nghiệm.” Anh 

ấy đƣợc đƣa lên bàn mổ ngay lập tức. Họ chữa vết thƣơng cho anh rất cẩn thận, dù không 

có thuốc mê. Anh ấy rất can đảm. Một anh chàng dũng cảm! 

- A hà. Bây giờ chúng tôi đi đâu đây?

- Vũ khí của các anh đâu? 

- Đây ạ. 

- Các anh là lính gì?

- Chúng tôi là xạ thủ chống tăng. 

- Thế súng chống tăng của các anh đâu? 

- Chúng tôi bỏ lại ở chỗ kia. 

-  Quay lại lấy chúng ngay!

Vâng, chúng tôi quay lại. Buổi sáng trời lạnh hơn và  con đƣờng đã đỡ  lầy lội. 

Chúng tôi đi và nghe thấy những tiếng rên rỉ trong cái thung lũng! Thật khủng khiếp! Ma 

quỷ! Không còn ai trên đƣờng, chúng tôi đang đi một mình. Thế  là chúng tôi quay lại và 

tìm thấy khẩu chống tăng của mình ở  nơi đã bỏ  nó lại. Chúng tôi vào trong làng  –  không 

ai còn sống sót trong đó. Rồi một ông già xuất hiện từ một cái lán. A ha. Tôi nói: “Bố ơi, 

làm thế nào bố còn sống sót đƣợc?” “Lão không biết, các con ạ. Đám các con bắn trả bọn 

Đức từ  trong căn nhà này suốt đêm qua.” Chúng tôi tiến lại gần hơn. Đó là đám trinh sát 

của trung đoàn chúng tôi. Tất cả  đã bị  giết. Thế  đấy. Trận đánh đầu tiên của chúng tôi là 

vậy đấy. 

Artem Drabkin: Có khi nào các ông bắn vào bộ binh bằng súng chống tăng không? 

Đôi khi chúng tôi làm thế, nhƣng thƣờng chúng tôi dành đạn để bắn xe tăng. Nhân 

tiện, xin kể về một vụ nhƣ thế. Việc xảy ra trong những ngày đầu tiên của chúng tôi ngoài 

mặt trận. Tôi cho rằng bọn Đức đã quyết định kiểm tra xem chúng tôi sẽ  xử  sự  thế  nào 

dƣới làn hỏa lực mạnh. Vì thế  chúng tiến hành pháo kích chúng tôi bằng súng cối và đại 

bác. Trận pháo kích thật dữ  dội, chúng tôi phải  ẩn nấp để  tránh mảnh đạn tận dƣới đáy 

chiến hào. Có lẽ  một quả  đạn đã rơi vào chiến hào bên cạnh. Có vài ngƣời bị  giết. Một 

cậu Uzbek bị  “giập”. Cậu ta nhảy khỏi chiến hào, quay qua quay lại rồi chạy về  phía bọn 

Đức. Tiểu đoàn trƣởng chạy tới, miệng hét: “Bắn hắn đi! Bắn đi!” Anh ta chạy tới chỗ

chúng tôi, gạt Malƣsev sang một bên, chĩa khẩu súng chống tăng của chúng tôi  về  ngƣời 

lính ấy và bắn trúng ngay sau đầu anh ta. Khi chúng tôi chạy lên phản công, lật ngửa anh 

ta lên – khuôn mặt đã biến mất, bị vỡ tung. Quỷ tha ma bắt, viên đạn ấy nặng tới 70 gram. 

Sau đấy, chúng tôi ngồi trong chiến hào quanh Korsun suốt một tuần lễ. Đó là nơi 

mà chúng tôi, Malƣsev và tôi, đã hạ  đƣợc một chiếc Ferdinand.  (Lính Nga gọi chung tất 

cả  các loại pháo tự  hành của Đức là “Ferdinand”  –  Artem Drabkin) (“Ferdinand” là 

loại pháo tự hành Elephant nổi tiếng, bộ máy tuyên truyền Quốc xã sử dụng hình ảnh này 

để quảng cáo cho sức mạnh của Quân đội Đức – LTD). Vị trí chiến đấu của chúng tôi rất 

bất  hợp  lý.  Bọn  Đức  đóng  trên  một  điểm  cao  trong  khi  chúng  tôi  lại  nằm  dƣới  một 

khoảng trũng. Khoảng cánh giữa hai bên là 200 mét. Có một ngôi làng nằm trên đỉnh cao 

ấy. Một khẩu pháo tự hành nấp sau góc của một trong những căn nhà ấy. Chỉ có cái nòng 

pháo thò ra. Bọn quan trắc của chúng có lẽ cũng ở đấy, bởi ngay khi chúng xác định đƣợc 

các vị trí của chúng tôi, chiếc xe trƣờn tới từ sau ngôi nhà và nã đạn rất chính xác. Lính ta 

bị thịt dần. Mấy khẩu pháo 45mm của ta bố trí sau lƣng chúng tôi, trên một đỉnh đồi. Anh 

xem, họ  chọn một vị  trí tệ  thế  đấy, nơi thiếu che chắn nhất. Tới lúc này, không một pháo 

thủ  nào còn sống. Khi quay lại chỗ  này, chúng tôi trông  thấy hai khẩu pháo và các xác 

chết nằm ngay cạnh. Và họ  đã bị  phủ  một lớp tuyết, những ngừơi lính  ấy. Không có ai 

chôn cất cho họ. Năm chiếc T-34 bị bắn cháy ngay trƣớc mắt chúng tôi. Chỉ một phát đạn, 

và thế  là chấm hết. Rồi đến chiếc kế  tiếp. Bọn Đức khát máu, chúng thật là những chiến 

binh thông minh và mạnh mẽ. Không có ai mạnh hơn chúng, ngoại trừ  lũ khờ  dại chúng 

tôi. Chúng tôi luôn chiến đấu với chúng bằng nắm đấm của mình, chạy thẳng vào chỗ

nguy hiểm mà không hề quan sát trƣớc. 

Đại đội trƣởng đã gửi đi ba khẩu đội chống tăng, không ai trong bọn họ  quay về. 

Hoặc một tên bắn tỉa diệt họ, hoặc họ  nấp sau những xe tăng cháy và bị  trúng đạn của 

khẩu pháo tự  hành, tôi không rõ lắm. Chỉ  huy nói: “Tiến lên, các chàng trai, trƣờn xuống 

dƣới cái xe tăng đầu tiên, đừng sợ.” Malƣsev của tôi là một chàng trai dũng cảm. Chà, 

cậu ta là một thợ  săn thực sự, một tay Siberi! Dù tôi là xạ  thủ  số  1, cậu ta luôn là ngƣời 

bắn  khẩu  súng  chống  tăng.  Tôi  thì  không  có  can  đảm  (cƣời).  Vâng,  cậu  ta  đã  bảo: 

“Valodia, đừng lo. Chúng ta sẽ  ngắm trúng nó.” Và chúng tôi mất suốt đêm để  trƣờn tới 

nơi. Chúng tôi nấp dƣới một trong những chiếc xe tăng đấy, và bắn, gần nhƣ ngay sát bọn 

Đức. Chỉ cách khoảng 150 mét tới chỗ căn nhà đấy. 

Những xạ thủ chống tăng.

Tới sáng chúng tôi bắt đầu bắn hết phát này đến phát khác. Chúng tôi bắn trúng 

vào bánh xe hoặc xích xe gì đó, bởi chúng tôi chẳng nhìn rõ cái gì khác. Rồi nó phát hiện 

ra chúng tôi và bắn trả. Úi chà chà, thật ác liệt! Cái tháp pháo trên đầu chúng tôi bị  nổ

tung! May mắn thay, phát đạn không bắn trúng phía dƣới xe tăng, nếu không chúng tôi đã 

rồi đời. Tai tôi điếc đặc. Rồi nó trƣờn khỏi góc nhà để  kết liễu chúng tôi. Tôi nghĩ: “Thế

là hết, chúng sẽ  nghiền nát chúng ta.” Nhƣng Malƣsev vẫn bình tĩnh. Khi chiếc xe chìa 

sƣờn về  phía chúng tôi, cậu  ấy chĩa khẩu chống tăng ra từ  dƣới cái xích xe và nã luôn 

năm  phát  vào  sƣờn  nó,  phát  này  nối  tiếp  phát  kia.  Thật  là  một  cú  ghê  gớm!  Chiếc 

Ferdinand của chúng tôi nổ tung thành từng mảnh – cả tháp pháo, mọi thứ! 

Trên đƣờng về, bọn Đức bắn đạn cối trúng vào bọn tôi. Lúc đó chúng tôi đã về rất 

gần chiến hào của mình rồi. Những phát đạn nổ rất gần. Một phát sƣợt sát cạnh. Một phát 

khác bắn trƣợt phía trƣớc. Tôi nói: “Malƣsev, chạy mau!” Tại sao cậu ấy không làm theo 

nhỉ? Tôi cũng không biết nữa. Hoặc cậu  ấy đã bị  thƣơng hoặc bị  ù tai mất rồi. Tôi kéo 

mạnh chân cậu ấy, “Đi nào!” Tôi không nhớ điều gì xảy ra tiếp theo. Tôi chỉ tỉnh lại trong 

chiến hào khi đạn bắn đã ngớt. Mọi ngƣời nói: “Một phát đạn nổ  trúng cả  hai cậu”. Tôi 

mặc một áo giáp  ở  dƣới chiếc telogreika và áo choàng. Anh biết không, chiếc áo choàng 

của tôi bị xé tung, nhƣng tôi không bị một vết trầy nào. Malƣsev bị xé rách chân phải. Tại 

sao chúng tôi không chờ  tới trời tối nhỉ? Đại đội trƣởng đã bảo chúng tôi, “Hoàn thành 

nhiệm vụ  và quay về  lập tức. Bằng không, các cậu sẽ  chết. Bọn Đức sẽ  bò tới và giết các 

cậu.” Chúng tôi đem theo một khẩu súng chống tăng, một khẩu Nagan và một khẩu tiểu 

liên với chỉ một băng đạn. Malƣsev không mang nhiều hơn, cậu ấy tin chắc mọi sự đều sẽ

tốt đẹp. Tôi đƣợc nhận một phần thƣởng khi kết thúc chiến tranh, huy chƣơng “Vì Dũng 

cảm”, nhờ  chiến công  ấy. Đúng ra, tất cả  những ai từng bắn hạ  xe tăng đều xứng đáng 

đƣợc thƣởng 500 rúp và Huân chƣơng Sao Đỏ. Tất nhiên, phần thƣởng trƣớc tiên và tuyệt 

nhất vẫn là “Vì Dũng cảm” và kế tới là Huân chƣơng Vẻ vang. 

Khi hoàng hôn xuống, hầu hết chiến sĩ đại đội chúng tôi đều đã hy sinh. Lúc khởi 

đầu, chúng tôi có 60 ngƣời tức 30 khẩu súng  chống tăng (một đại đội  chống tăng của 

trung đoàn). Giờ chúng tôi chỉ còn lại khoảng một chục khẩu đội. Chỉ huy trung đội cũng 

bị  giết.  Một  tuần  trôi  qua  và  chúng  tôi  nhận  đƣợc  tiếp  viện  lấy  từ  những  ngƣời  địa 

phƣơng, thuộc lứa sinh năm 1926-1927. Tất cả  đều đƣợc gọi nhập ngũ và chuyển tới mặt 

trận. Chúng tôi gọi họ  là “sơmi đen”, do họ  mặc đồ  màu tối và áo khoác lính màu xám. 

Họ vẫn chƣa đƣợc nhận quân phục. 

Rồi chúng tôi tiến xa hơn và tới trú trong những hầm trú ẩn đƣợc đám công binh 

đào sẵn. Họ  đã làm hết sức mình, hầm đƣợc lót tới hai hay ba lớp gỗ. Tại đó tôi đã bị

“giập”. Khi tôi tỉnh lại, không còn ai bên trong và một góc hầm đã bị sụp. Tôi không báo 

cáo lại cho trạm quân y. Tôi không hiểu đó là một trận oanh kích hay do cái gì khác. 

Hình nhƣ kho đạn pháo của bọn Đức lúc đó đã gần cạn. Có lẽ đó là một quả bom chăng. 

Chúng tôi tiến xa hơn. Lại là hành quân đêm. Trăng sáng vằng vặc. Máy bay trinh 

sát của bọn Đức bay liên tục. Tất nhiên, khi “cái khung”  ấy xuất hiện, chúng tôi nhận 

đƣợc lệnh “Halt!”. Khi bọn Đức bay đi, chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Đây là lúc tôi 

nhận đƣợc một ngƣời trợ thủ mới. Chúng tôi tiếp tục đi nhƣ vậy cho tới khi cả hai rơi vào 

một hố  bom. Nó chứa đầy nƣớc, cao ngang mức mặt đƣờng, và rất sâu đến nỗi đầu tôi 

ngập trong nƣớc. Chúng tôi chật vật ngoi lên và đƣợc đƣa tới trạm quân y. Họ  kiểm tra 

trợ thủ của tôi, đo nhiệt độ và khám tổng quát, rồi thả ra. Tôi thì bị giữ lại. “Bị giập.” Tôi 

bị  đau tai và kèm theo là phát âm khó. Tôi đƣợc đƣa tới bệnh viện và phải nằm đấy hai 

tuần. Rồi các cậu ấy bắt đầu bàn: “Sao chúng ta phải nằm đây? Hãy đuổi theo đơn vị  của 

mình. Ở đấy vui hơn.” Bọn tôi có sáu mống cả thảy. Chúng tôi đánh lừa y tá của mình để 

họ  trả  lại quân phục. Rồi chúng tôi nói: “Tạm biệt nhé, Masha!” “Đám  nhóc các anh đi 

đâu?” “Tới mặt trận, đuổi theo đơn vị của mình” “Tôi sẽ báo cáo lên trên!” “Cứ làm đi”. 

Phỏng vấn: Artem Drabkin-Anton Kravchenko

Dịch từ Nga sang Anh: Anton Kravchenko

Chỉnh sửa bản tiếng Anh: Claire Fuller Martin

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Vladimir Zimakov

Phần 2

Đội trinh sát

Vladimir Zimakov (bên phải),

tháng Ba năm 1945, Budapest.

Lúc đó đang dịp Lễ  Phục Sinh. Chúng tôi tiếp tục tiến bƣớc và một ngày kia có 

mặt tại một ngôi làng. Bà chủ nhà nơi chúng tôi ở lại làm rất nhiều món ngon cho ngày lễ: 

khoai tây rán, mamalƣga (cháo  yến mạch, nấu theo kiểu Moldova). Bà ta cũng đặt lên 

bàn cả  đùi lợn  sấy, mỡ  lợn muối cùng mọi thứ  đồ  nhắm làm từ  dƣa chuột và cà chua. Bà 

ta còn đem ra cả một chai gorilka (rƣợu mạnh trong tiếng Ukraina). Ôi chà chà! Thế mới 

là lễ chứ! Chúng tôi chƣa gặp cảnh nào tuyệt nhƣ thế trong suốt hàng bao nhiêu năm trời! 

Chúng tôi  vừa uống một ngụm nhỏ  thứ  rƣợu gorilka Ukraina ngon tuyệt đó là lăn ra ngủ

tít trong hai ngày trời. 

Đã tới lúc phải tiếp tục lên đƣờng. Bốn ngƣời trong nhóm dƣờng nhƣ đã có một 

kế  hoạch gì đó. Họ  bảo chúng tôi: “Cứ  đi trƣớc đi, chúng tớ  sẽ  bắt kịp các  cậu sau.” Hai 

ngƣời chúng tôi rời căn nhà và đứng chờ  họ  ngoài đƣờng, bởi chúng tôi cũng chẳng biết 

đi đâu nữa. Chúng tôi chờ mãi, chờ mãi nhƣng các bạn tôi vẫn không thấy xuất hiện. Rồi 

có một anh chàng vận đôi giầy  ống cao của Đức, cổ  đeo một khẩu tiểu  liên Đức đi tới. 

Anh ta hỏi :

- Này, các cậu kia, thuộc sƣ đoàn nào thế?

- 202.

- À, “Sƣ đoàn tụt hậu”! Hãy tới Sƣ 180 tham gia đội trinh sát của chúng tớ!

- Làm sao đƣợc? Chúng tôi là xạ thủ chống tăng cơ mà!

-  Quỷ  tha  nó  đi!  Thôi  bắn  vào  mấy  cái  xe  tăng  đi!  Hãy  tham  gia  đội  trinh  sát 

chúng tớ, chỗ chúng tớ nhiều trò vui lắm!

Đó là cách tôi tham gia trung đội trinh sát đặc biệt số 90 của Sƣ đoàn 180. Tôi báo 

cáo lên trung đội trƣởng là mình tới từ trung đội chống tăng của Trung đoàn bộ binh 645, 

Sƣ đoàn 202. Anh ta hứa sẽ  báo cáo lại với họ  rằng tôi đã bắt đầu phục vụ  trong đơn vị

của anh ta kể từ giờ phút này. Thật đơn giản. 

Bọn  Đức  đang  cố  chọc  thủng  chiến  tuyến  của  quân  ta  ở  vùng  PochaevcyShurzhency  và  sƣ  đoàn  202  và  180  chúng  tôi  phải  trải  qua  một  thời  gian  khốn  đốn. 

Nhƣng chúng tôi cũng đã bắt bọn Đức phải trả giá đích đáng. 

Ồ! Khi chúng tôi kết thúc chiến dịch Korsun-Schevchenkovsky,  ở  đấy chất đống 

những  thây  ngƣời  và  ngựa.  Thật  là  một  cơn  ác  mộng!  Nhất  là  tại  một  hẻm  núi.  Kinh 

khủng! Đạn Katusha bắn vào đấy, hai hoặc ba lần gì đó và trộn tung mọi thứ lên! 

Vào mùa xuân năm 1944, bọn Đức chặn đứng đợt tấn công của chúng ta  ở  gần 

Yassy (ngày nay là Iasi). Đội trinh sát chúng tôi đã xuất hiện ở  ngoại ô Yassy nhƣng bọn 

Đức đã đẩy lui chúng tôi  bằng xe tăng. Chúng lấy đâu ra những cái xe tăng  ấy? Dƣờng 

nhƣ chúng đã bỏ lại tất cả xe cộ ở thành phố Uman và vùng ngoại ô rồi cơ mà?! Hãy xem, 

ngay đƣờng sá lầy lội cũng không chặn bƣớc đƣợc chúng! Chúng tôi thƣờng bị  dừng lại 

vì bùn lầy, còn chúng thì  không! Hay chúng có thêm viện binh? Dù sao đi nữa, chúng 

cũng đã đẩy lùi chúng tôi khoảng 15 - 25 km khỏi Yassy bằng xe tăng. Chúng tôi đã phải 

dừng tại đó mãi cho tới tháng Tám. 

Chúng tôi thƣờng tiến hành trinh sát mỗi ngày một cách: có hôm thì đi bộ, hôm 

khác  lại  cƣỡi  ngựa.  Chúng  tôi  mặc  vatnik  (áo  choàng  lót  bông  vạt  ngắn  –  Anton 

Kravchenko)  và quần lót bông quanh năm suốt tháng, mặc cho đang là mùa hè hay mùa 

đông. Chúng bảo vệ  chúng tôi khỏi mảnh đạn rất hiệu quả. Khi một mảnh đạn bay đƣợc 

hơn 100 mét, nó chỉ xé rách nổi lớp vải lót, không hơn. Nếu quả đạn nổ cách anh khoảng 

30 thƣớc, nó cũng sẽ  chỉ  làm xƣớc da anh, thế  thôi. Nhƣng tất nhiên là nếu nó nổ  ngay 

cạnh anh – ồ, anh bạn ạ, sẽ không có gì cứu nổi anh! Nó sẽ biến anh thành cái rây bột, dù 

anh có mặc gì đi nữa. Chúng tôi cũng có áo chống đạn. Chúng không nặng lắm và chỉ

dày khoảng một ly rƣỡi. Tôi có một cái khi còn  ở  trong trung đội xạ  thủ  chống tăng. Tất 

nhiên, chúng có tác dụng làm ta yên tâm hơn là thực sự  hữu ích. Chúng tôi không đƣợc 

cấp áo choàng ngụy trang, chỉ  là quân phục dã chiến bình thƣờng. Bọn Đức thƣờng mặc 

áo choàng ngụy trang tiệp màu đất. Tôi chƣa từng thấy thứ nào nhƣ vậy trong quân đội ta. 

Do thế, chúng tôi mặc áo nguỵ  trang của Đức. Đôi lúc, khi vừa trở  về  sau một chuyến 

trinh sát, chúng tôi thƣờng nghe lính phe mình  hét: “Bọn Đức!” Và chúng tôi đáp lại, 

“Nhìn lại đi, lũ ngốc! Chúng tớ  đây! Chúng tớ  vừa đi qua đây mà!” Chúng tôi phải  quay 

trở về đúng chỗ chiến tuyến đã xuất phát ban đầu để không bị hạ bởi chính phe mình. 

Bọn trinh sát Đức cũng không ngốc, chúng thƣờng bắt cóc lính ta để lấy tin tức về

cách bố trí quân ta. Đám trinh sát chúng tôi học đƣợc rất nhiều từ bọn Đức. Tôi muốn nói 

tới cách ngụy trang, nghệ thuật chiến tranh và những mánh lới đặc biệt của chúng. Chúng 

là những ngƣời rất chính xác, không khi nào bắn nhiều đạn hơn cần thiết. Chỉ  trừ  những 

phát bắn trƣợt! Mặt khác, khi chúng xác định đƣợc vị  trí tập trung quân ta, chúng không 

hề quan tâm tới số lƣợng đạn và thủ pháo. Ngay khi chúng bắt đầu nã đạn, chúng tôi phải 

cố gắng trƣờn tỏa theo mọi hƣớng trƣớc khi chúng giết chết đƣợc tất cả mọi ngƣời. 

Một lần chúng tôi lọt phải ổ phục kích của bọn Đức. Chúng tôi đang trƣờn đi nhƣ 

sau: một ngƣời dẫn đầu cả  nhóm và hai ngƣời khác  ở  hai bên. Và ngƣời đầu tiên đã lọt 

vào  ổ  phục kích. Anh ta bị  giết chết. Không nghĩ ngợi lâu la, chúng tôi đƣa  ổ  phục kích 

đó xuống địa ngục! Ngay lập tức, chúng bắt đầu bắn lựu đạn vào chúng tôi. Ôi Trời ơi! 

Thật là kinh khủng khi chúng bắt đầu bắn vào cùng một điểm từ  mọi phía. Không trốn 

vào  đâu  đƣợc!  Bạn  phải  tìm  cho  bằng  đƣợc  bất  cứ  cái  lỗ  nào  để  rúc  đầu  vào.  Nhƣng 

chúng tôi cũng phải cố  thoát khỏi nơi  ấy bằng bất cứ  giá nào. Hai ngƣời của chúng tôi bị

thƣơng trong vụ  ấy, nhƣng chúng tôi đã vác đƣợc họ  về. Chúng tôi không bao giờ  bỏ

những ngƣời chết và bị thƣơng lại chiến trƣờng. 

Những ngƣời đƣợc chọn vào đội trinh sát đều là những chàng trai rất tuyệt! Tôi là 

một tay đụt và không thể  đối phó với một thằng Đức đƣợc nên luôn đƣợc bố  trí trong 

toán cảnh giới của nhóm trinh sát. Nhƣng trong nhóm trinh sát của chúng tôi có những 

tay rất khá! Ví dụ  nhƣ hai gã trai thuộc trung đội trinh sát của trung đoàn, Fomichev và 

Alexandrov. Họ là những chàng trai rất thông minh. Họ có thể đi cặp cùng nhau và bắt về

một tên Đức! Đấy là cả  một câu chuyện. (Trong một lần chúng tôi tiến hành trinh sát) 

Chúng tôi đã lặng lẽ bò đƣợc một lát, cuối cùng trông thấy hai thằng lính gác Đức đang đi 

tới đi lui trong chiến hào. Chốc chốc chúng dừng lại để  quan sát suốt dọc chiến hào. Rồi 

lại tiếp tục đi. Bọn chúng có một chòi canh có bố  trí đại liên. Đối lại, phía chúng tôi có 

Fomichev và Alexandrov, những ngƣời luôn đƣợc phân công cùng đi với chúng tôi trong 

những nhiệm vụ  đặc biệt phức tạp. Họ  bảo: “Chúng tớ  sẽ  lặng lẽ  hạ  thằng này. Cậu nào 

nhận nhiệm vụ  hạ  thằng còn lại?” Vâng, chúng tôi có những chàng trai nhƣ thế  đấy. Khi 

bọn gác tách khỏi nhau, các chàng trai của chúng tôi sẽ hạ gục chúng trong khoảnh khắc! 

Hề hề! (Cƣời)

Artem Drabkin: Các ông có phải trải qua khóa huấn luyện nào trong thời gian 

rảnh rỗi không? 

Khi chúng tôi đang phòng ngự, chúng tôi đƣợc gặp một huấn luyện viên, một viên 

trung uý vạm vỡ, khoảng 25 tuổi. Anh  ấy dạy chúng tôi một số  miếng võ ju-jitsu: miếng 

khóa, miếng đá hậu, cách quật ngã đối phƣơng. Anh  ấy cũng dạy cách sử  dụng dao và 

cách đoạt dao khỏi tay đối phƣơng.  Ở  đấy tôi cũng đƣợc học cách cƣỡi ngựa: cách cƣỡi, 

cách chém đứt một cành liễu (đây là bài tập của kỵ binh để học cách sử dụng gƣơm). 

Trung đội chúng tôi nằm dƣới sự  chỉ  huy của một thƣợng sĩ. Chúng tôi đặt cho 

anh ta biệt danh là Kochubey (tên một anh hùng nổi tiếng thời kỳ  nội chiến Nga) do bộ

râu  mép  ấn  tƣợng  màu  lúa  chín  và  chỏm  tóc  trên  trán  anh  ta.  Anh  ta  mặc  trang  phục 

Kazak  cổ  truyền  và  đội  cái  mũ  kubanka  (loại  mũ  lông  tròn,  không  vành  –  Anton 

Kravchenko)  với cái chóp đỏ. Sƣ đoàn trƣởng thƣờng bảo anh ta: “Sao anh cứ  lƣợn lờ

nhƣ một con  gà trống vậy? Mặc ngay bộ  quân phục vào. Chúng tôi không có những tay 

Kazak  ở  đây!” Nhƣng Kochubey không thèm nghe lời ông ta. Rồi anh ta mất tích  ở  nơi 

nào đó và chúng tôi đƣợc nhận một chỉ  huy mới, trung uý Petr Domozhir, ngƣời thành 

phố  Nizhnƣi Tagil, hiện là bạn tôi, sinh năm 1925. Anh  ấy đã phục vụ  ở  độâi trinh sát 

trong suốt chiến tranh. Anh đã đƣợc tặng ba Huân chƣơng Cờ  Đỏ  và một Huân chƣơng 

Lênin. Anh ấy bị thƣơng nặng trong một chuyến trinh sát và đã không quay lại đơn vị sau 

khi rời bệnh viện. Chúng tôi nghe nói lại rằng anh ấy đƣợc phong Ngôi sao Anh hùng Xô 

viết và chuyển về huấn luyện ở Maskva. 

Artem Drabkin: Các ông thường vượt qua chiến tuyến bao xa? 

Không xa lắm. Chúng tôi đi dọc theo chiến tuyến và lọt ra sau nó, không hơn 8 

km. 

Artem Drabkin: Khi đi trinh sát các ông hay sử dụng loại vũ khí gì? 

Một khẩu tiểu liên và lựu đạn, loại “quả  chanh”  (loại F1  -  LTD). Chúng tôi đem 

theo rất nhiều “quả  chanh”: ba quả ở thắt lƣng và khoảng mƣời quả trong balô. Và chúng 

tôi lấy càng nhiều đạn càng tốt. Chúng tôi phải đem theo rất nhiều đạn. 

Artem Drabkin: Các ông có sử dụng dao không? 

Tất nhiên, có chứ. Ban đầu tôi dùng một con dao loại thƣờng. Nó trông thô nhƣng 

khá sắc. Rồi trong một đợt tấn công, tôi thấy một tên Đức nằm chỏng chơ – một gã tóc đỏ

to cao. Tất nhiên, viên đạn có thể  bắn trúng tất cả  mọi ngƣời, nó đâu thèm quan tâm tới 

chuyện ngƣời  ấy cao hay thấp. Tôi thấy hắn có một con dao tốt và tôi cắt lấy nó cùng cái 

bao đựng dao khỏi cái thắt lƣng của hắn. Khi ta phóng con dao  ấy, mũi dao luôn hƣớng 

về phía trƣớc. Nó sắc tới mức ta có thể dùng nó cạo râu đƣợc! 

Artem Drabkin: Ông đã giết được bao nhiêu lính Đức? 

Thƣờng tôi giết chúng mà không đếm. Hãy xem, anh bắn vào hắn trong một trận 

đánh và thấy hắn ngã xuống. Thế nhƣng làm sao anh biết đƣợc nhƣ thế là hắn đã chết hay 

chỉ cúi xuống ẩn nấp? Tất nhiên, đôi lần anh thấy rõ đƣợc mình đã bắn trúng hắn. 

Mắt tôi tinh lắm. Khi đi trinh sát, tôi thƣờng làm ngƣời canh chừng. “Valodka, 

quan sát cẩn thận nhé.” Tôi nhìn rõ ban đêm nhƣ một con  mèo. Mục đích chính là phát 

hiện ra mìn. Sợi dây gài quả  mìn căng rất thấp trên đám cỏ. Ngay khi bọn Đức bắn một 

quả  pháo sáng, ta nên dừng lại và quan sát.  Ồ, nó đấy, một sợi dây rất nhỏ, ngay phía 

trƣớc mặt bạn! 

Artem Drabkin: Thường bọn Đức xử sự thế nào khi các ông bắt chúng? 

Chúng kháng cự  lại, tất nhiên. Sức mạnh của một con ngƣời tăng gấp ba trong 

thời  khắc  nguy  hiểm.  Nhƣng  không  tên  Đức  nào  có  thể  thoát  khỏi  những  anh  chàng 

Fomichev và Alexandrov khoẻ  nhƣ sói của chúng tôi! Không một ai! Không  cách nào! 

Và vấn đề  không phải  ở  chỗ  tên Đức khoẻ  nhƣ thế  nào. Chúng tôi trói chúng thế  nào  ấy 

hả? Kiểu thông thƣờng – bẻ quặt tay ra sau, nắm tóc kéo đầu ra sau lƣng, cách ấy làm tên 

Đức bất tỉnh trong khoẳng khắc. Điều cốt yếu là giữ  tay hắn cách xa khẩu  súng và con 

dao.   

Artem Drabkin: Bọn Đức có cạo trọc lính của chúng không? 

Không, chúng để  tóc dài bình thƣờng, đôi khi cắt ngắn. Trên thực tế, bọn Đức là 

những  kẻ  chính xác và cẩn thận. Nhƣng có đôi lần chúng tôi đã hạ  đƣợc chúng một cách 

bất ngờ. Tôi còn nhớ chúng tôi đã nổ tung một hầm trú ẩn của chúng nhƣ thế nào. Chúng 

tôi tìm cách lặng lẽ  tiến gần chúng. Bọn lính gác đang ngủ  quên. Chúng tôi trói tay, bịt 

miệng chúng rồi ném cả hai qua bờ chiến hào. Rồi tay công binh của chúng tôi mở ra một 

lối an toàn và chúng tôi ném lựu đạn vào trong hầm. Sau đó hai ngƣời trong bọn tôi đột 

nhập vào hầm và nã tiểu liên dọc những cái giƣờng tầng. Có thể  còn vài thằng Đức sống 

sót sau đòn đó, tôi không chắc lắm. Khi chúng tôi trên đƣờng trở về, bọn Đức bắt đầu bắn 

trả bằng súng cối, súng máy và phóng lựu đạn (Chúng có một loại lựu đạn có thể gắn vào 

nòng súng trƣờng và phóng đi nhờ một viên đạn không có đầu. Chúng tôi cũng dùng cách 

đó. Quả  lựu đạn bắn đi bằng cách đó có thể  xa tới 50 mét). Chúng tôi chật vật mới thoát 

đƣợc. Lần ấy tôi bị  dính một mảnh đạn vào chân. Thật may tôi lại đang mặc cái quần lót 

bông. 

Thật ra, tôi đã bị thƣơng ba lần và bị giập thƣơng một lần. Dù vậy, tôi không đƣợc 

nhận một tờ  giấy chứng thƣơng nào, bởi tất cả  các vết thƣơng đều nhẹ  và trong trung đội 

có  tay  cứu  thƣơng  riêng  chữa  trị  cho  chúng  tôi.  Cậu  ấy  tới  từ  Osetia  (thuộc  vùng 

Caucasus) tên là Sasha Gevorkov, nếu tôi nhớ  không lầm. Cậu  ấy cũng  kiêm nhiệm vụ

phiên dịch, bởi cậu ta rất giỏi tiếng Đức. Cậu  ấy chữa trị  cho chúng tôi. Vết thƣơng đầu 

tiên tôi bị ở chân. Các bạn tôi cắt và vứt bỏ chiếc ủng cao cổ. Sasha lấy mảnh đạn ra khỏi 

chân  và  rửa  sạch  vết  thƣơng  bằng  cồn  Rivanol.  Cậu  ta  bảo:  “Valodka,  hãy  ra  canh  lũ 

ngựa (bởi đó là một công việc nhẹ  nhàng). Cậu cứ  đi lại nhƣ thế  trong vài tuần và vết 

thƣơng sẽ  tự  khỏi.” Rồi tôi bị  trúng một viên đạn vào xƣơng gót chân. Nó xé toạc bàn 

chân, xuyên qua da thịt và dừng lại ở xƣơng. Cậu ấy nói: “Nếu nó đau dữ dội thì có nghĩa 

là xƣơng bị  gãy. Tớ  đã lấy viên đạn ra. Trong trƣờng hợp chân bị  mƣng mủ, tớ  sẽ  phẫu 

thuật và rửa sạch cho cậu.” Nhƣng mọi chuyện kết thúc tốt đẹp, vết thƣơng đã tự  lành 

nhƣ một vết muỗi đốt (nguyên văn: “như một vết thương của chó“ - LTD). 

Rồi  cậu  ấy  bị  giết.  Chúng  tôi  trở  về  chiến  hào  phe  mình  sau  một  lần  trinh  sát. 

Sasha đâu rồi? Viên chỉ  huy nói: “Hai ngƣời các cậu đi đƣa cậu ta về.” Lúc  ấy bọn Đức 

đã ngƣng bắn. Khi đƣợc đồng đội đƣa về, cậu ta đã chết. Lúc đầu chúng tôi không tìm 

đƣợc vị trí vết thƣơng. Rồi có ai đó cởi thắt lƣng cậu ta và cả một khối máu ộc ra từ dƣới 

áo sơmi. Hóa ra một mảnh lựu đạn đã cắt đứt động mạch dƣới nách cậu ấy. Chúng tôi rất 

thƣơng tiếc bởi cậu ta là một tay rất tốt, sinh năm 1920. 

Tôi nhớ  rất rõ một chuyến trinh sát trƣớc khi mở  màn đợt tấn công. Chúng tôi đã 

đi tới hai lần. Nỗ  lực đầu tiên của chúng tôi thất bại, nhƣng lần thứ  hai thì thành công. 

Chuyện  này xảy ra khoảng ngày 15  -  16 tháng Tám,  ở  gần thành phố  Yassy. Khi chúng 

tôi đi lần đầu tiên, trung đội trƣởng của chúng tôi rất sợ. Anh ta không dám dẫn chúng tôi 

đi xa và chúng tôi quay về khi đang lọt giữa các sƣ đoàn bọn Đức. Dù vậy anh ta báo cáo 

là  chúng tôi đã đi tới đây, tới kia vào lúc này, lúc này (dù chúng tôi không hề  làm vậy). 

Anh ta báo cáo là tất cả  các mục tiêu đều bị  canh gác cẩn thận. Tất nhiên, anh ta bị  cách 

chức và bị  đƣa tới một nơi nào đấy không rõ. Đó là một trƣờng hợp tồi tệ. Tất  cả  các 

trƣờng hợp nhƣ vậy đều bị  xử  lý bởi SMERSH. Sau đợt trinh sát thất bại  ấy bọn Đức 

canh  chừng  thận  trọng  hơn.  Chúng  canh  gác  mọi  địa  điểm  nằm  giữa  các  sƣ  đoàn  của 

chúng bằng các đội tuần tra và các  ổ  phục kích. Thật là một cái bẫy chằng chịt khó qua 

lọt! Chúng tôi đƣợc lên kế hoạch đổ bộ bằng đƣờng không. Thế rồi một lính trinh sát của 

trung đoàn báo lại rằng anh ta đã tìm ra một vị  trí từ  đó chúng tôi có thể  băng qua chiến 

tuyến. 

Và rồi  chúng tôi đã vƣợt qua thật dễ  dàng mà không gây một tiếng động. Nếu 

chúng tôi gây động, bọn Đức chắc chắn sẽ  không để  chúng tôi qua lọt. Cùng tối hôm đó 

chúng tôi tới đƣợc sở  chỉ  huy sƣ đoàn của bọn Đức. Bọn chúng thật bất cẩn: trong hậu 

phƣơng chúng sinh hoạt nhƣ thể chúng hoàn toàn kiểm soát đƣợc tình hình vậy. Thậm chí 

chúng còn cởi quần áo mà ngủ. Không cứ  ở  hậu phƣơng, chúng ngủ  nhƣ thế  cả  ngoài 

chiến trƣờng! Chúng tôi gặp nhƣ thế  đã nhiều lần. Ngay sau khi chúng tôi nã đạn, chúng 

tôi thấy bọn Đức chạy túa ra để  lấy vũ khí với chỉ  độc đồ  lót trên ngƣời. Chúng sống 

ngoài mặt trận mà cứ  nhƣ trong thời bình vậy! Chúng tôi cứ  mặc đầy đủ  quân phục khi 

ngủ. Có vài ngƣời đi ngủ  tháo  ủng, nhƣng hầu hết là không. Anh biết đấy, khi ta ngồi 

trong một cuộc phục kích hay đang trong chiến hào chẳng hạn. Đôi lúc anh có thể  chợp 

mắt một chút, nhƣng thƣờng là anh bị  rét run rất khó ngủ, nhất là vào mùa đông. Đôi khi 

hai ngƣời thay phiên nhau ngƣời ngủ ngƣời thức canh. Trong mùa đông anh sẽ không thể

ngủ say đƣợc, bởi trời rất lạnh. Thêm nữa lũ bọ chét cũng sẽ không để anh ngủ yên. 

Đội  trinh  sát  chúng  tôi  có  16  ngƣời.  Bốn  ngƣời  trong  bọn  đang  tham  gia  một 

chiến  dịch  khác.  Thế  là  đội  chỉ  còn  lại  12  ngƣời.  Vâng,  Fomichev  và  Alexandrov  của 

chúng tôi diệt tên gác, ném lựu đạn và nhờ  thế  xoá sạch cả  trung đội trong sở  chỉ  huy 

địch. Họ  nhét tất cả  các tài liệu quan trọng vào balô, khống chế  tên tƣớng Đức, vác hắn 

trên vai và mang tất cả  những thứ  đó chuồn đi. A ha, anh xem, chúng tôi đã chơi cho 

chúng một vố  thế  nào! Bọn Đức bắt đầu lùng sục từ  những làng xung quanh đấy. Chúng 

tôi rời ngôi làng (nơi đặt sở  chỉ  huy Đức) và chạy vòng vòng quanh một cánh đồng ngô. 

Trung đội trƣởng của chúng tôi là một tay rất khôn ngoan. Anh ta đƣa chúng tôi một loại 

bột ngụy trang để xoa lên quần áo và giày ủng. Sau khi xoa bột, chúng tôi quay ngƣợc lại 

dọc theo cánh đồng, nằm lì ở đó trong suốt ba ngày. Chúng tôi không đƣợc ăn uống cũng 

nhƣ hút thuốc. Anh bạn  ạ, trời lúc đó nóng khủng khiếp! Chúng tôi rất khát, dù có đem 

theo một chút nƣớc. Và chúng tôi phải tiểu tiện tại ngay chỗ  nằm. Ngƣời ta chịu đựng 

đƣợc trong những hoàn cảnh nhƣ thế chỉ khi còn đang tuổi thanh xuân. Nếu chúng tôi rời 

khỏi chỗ  đó, chúng tôi có thể  bị  bắt  ở  một nơi nào khác. Cuối cùng ba ngày trôi qua và 

ngƣời chỉ huy dẫn chúng tôi quay lại đúng ngay nơi mà chúng tôi đã xuất phát xuyên qua 

phòng tuyến. Đáng lẽ  chúng tôi nên quay lại chếch về  bên trái hay bên phải chỗ  ấy một 

chút thì hơn. Bọn Đức đang đợi chúng tôi  ở  ngay chỗ  ấy. Ngƣời sĩ quan chỉ  huy ra lệnh 

cho tôi và Fedorenko: “Các cậu hãy tiến lên, còn chúng tôi sẽ  chặn bọn Đức lại trong 

chốc lát.” Họ đƣa cho chúng tôi cái balô đựng giấy tờ tài liệu. Tên tƣớng phải ở lại với họ. 

Dù sao thì chúng tôi làm thế  nào để  đƣa hắn về  đƣợc? Còn họ  đã làm gì hắn  ấy à? Họ

đâm hắn chết, tôi đoán thế. Trong bọn tôi có tay Pavljuk, hắn chẳng quan tâm tới việc hắn 

đang cắt cổ  ai  –  một con gà mái hay một con ngƣời, huống hồ  là một tên Đức. Vâng, cả

hai chúng tôi đều sống sót. Pavel bị thƣơng ở tay và chân trên đƣờng về chiến hào của ta. 

Tôi không biết đƣợc điều gì đã xảy ra với những chàng trai còn lại. Sau đó tôi không gặp 

lại bất cứ ai trong bọn họ nữa. Ngƣời ta bảo là Fomichev và Alexandrov đã quay lại đƣợc 

đơn vị  và tôi tin nhƣ vậy, bởi họ  là những tay cáo già, lanh lợi thông minh và không bao 

giờ mất bình tĩnh. Nhƣng kể từ đó tôi không có dịp gặp lại họ, bởi tôi đã chuyển lên phục 

vụ tại sở chỉ huy sƣ đoàn, mà họ lại thuộc trung đoàn đang tiến phía trƣớc chúng tôi. Đấy 

thật là một chiến dịch thành công, bởi chúng tôi đã mang đƣợc về một khối lƣợng khổng 

lồ tài liệu quan trọng ngay trƣớc khi đợt tấn công bắt đầu. 

Khi các chiến sĩ của ta tiến công, Pavlik và tôi đƣợc lệnh đi áp giải bọn tù binh 

Đức. Chúng tôi áp giải chúng về  hậu phƣơng, khoảng 70 tên một lần. Chúng bƣớc đi và 

tuân lệnh ngoan ngoãn nhƣ một lũ bê non. Chúng tôi thƣờng dừng lại  ở một  ngôi làng và 

mọi ngƣời cho chúng tôi (tôi, Pavlik và bọn tù binh) thức ăn. Không tên tù binh nào có 

thể  thoát khỏi tay tôi. Vâng, trừ  có một lần. Tôi suýt nữa bị  đƣa vào tiểu đoàn trừng giới 

vì vụ đó. Đó là khi tôi đang phục vụ trong đơn vị thuộc sở chỉ huy. Một hôm tôi và Pavlik 

đƣợc lệnh cùng đi, nhƣng rồi cậu ta lại bị chuyển đi làm chuyện khác. 

Chỉ huy đơn vị trinh sát bảo tôi: “Zimakov, cậu phải áp giải bốn tên tù binh tới sở

chỉ  huy của quân đoàn. Chúng là những tên rất nguy hiểm  –  có Trời mới cứu đƣợc cậu 

nếu cậu để  chúng trốn thoát!” Lúc đó là mùa thu và trời đã về  chiều. Viên sĩ quan chỉ 

đƣờng cho tôi. Tôi có thể  dẫn chúng đi dọc con đƣờng ôtô dài 15 km hoặc theo một con 

đƣờng mòn dài khoảng 7 tới 8 km. Tôi chọn cách sau. Vâng, lúc đó tôi nghĩ: đây là khẩu 

tiểu liên, chúng sẽ  không thoát khỏi tay mình. Thêm nữa, tôi lại đang cƣỡi ngựa. Chúng 

thì đã bị lục soát, hoàn toàn không có vũ khí. Tay chân chúng đƣợc tự do, không bị trói. 

Vâng, tôi đã áp giải chúng nhƣ thế  và rồi chúng tôi đi qua một cánh  đồng trồng 

hƣớng dƣơng. Anh biết không,  ở  chỗ  đó ngƣời ta trồng những cây hoa hƣớng dƣơng rất 

cao! Và thình lình một tên tù binh quay lại bắn vào tôi bằng một khẩu súng ngắn! Ơn 

Chúa là con ngựa của tôi lại chồm lên ngay khi hắn quay lại. Tôi bắn lại hắn bằng khẩu 

tiểu liên. Đám tù binh còn lại chạy tán loạn theo mọi hƣớng : một tên bên trái và hai tên 

còn lại về bên phải. Tôi bắn và hạ ngục tên bên trái. Rồi tôi bắn vào hai tên còn lại. Thân 

cây hoa thì cao, đầu bọn chúng nhấp nhô giữa cánh đồng. Trời đang  tối dần. Tôi nghĩ 

rằng mình nên cƣỡi ngựa dọc theo dấu vết của chúng. Tên đã nổ  súng nằm chết thẳng 

cẳng và tên chạy về  bên trái cũng đã ngoẻo. Hắn không chạy đƣợc bao xa. Tôi tiến tới 

trƣớc. Rồi tôi tìm thấy tên thứ ba. Tôi xuống ngựa để lục túi hắn. Hắn đã chết. Ngƣời còn 

ấm nhƣng ngoẻo rồi. Tôi tiếp tục tiến, tay gò cƣơng ngựa. Khẩu tiểu liên đeo trên cổ, sẵn 

sàng nhả  đạn. (Loại tiểu liên Shpagin PPSh của ta rất nặng và có băng đạn hình đĩa cứ

đập vào lƣng khi đeo. Tôi thƣờng khoác khẩu tiểu liên Đức cho tới khi điều đó bị  cấm. 

Nhƣng lính ta luôn sử  dụng khẩu  ấy trong khi trinh sát bởi chúng không bao giờ  bị  kẹt 

đạn. Khẩu PPS cũng là một khẩu súng tốt, nhẹ và dễ sử dụng.) 

Tù binh Đức ở gần Minsk, 1944.

Trở  lại câu chuyện, tôi tiếp tục đi theo dấu vết và bất ngờ  nghe tiếng ai đó hét lên 

với tôi “Đứng lại!” 

- “Tôi đang đứng đây,” Tôi trả lời nhƣng tay vẫn giữ trên khẩu súng. 

- “Anh là ai?!” 

- “Tôi đang áp giải tù binh. Đã hạ gục đƣợc hai tên và thêm một tên nữa đang nằm 

sau tôi. Một tên trong bọn chúng bắn vào tôi, nhƣng con ngựa đã cứu tôi thoát.”

-  “Chúng tôi vừa tìm thấy một tên trong cánh đồng khoai tây, hắn đang cố  nấp 

bằng cách nằm ẩn vào các luống khoai.” 

Đó là những ngƣời thuộc đơn vị cảnh vệ đối nội. Họ đem tên Đức bị thƣơng đi và 

đƣa tôi một tờ giấy trong có ghi rằng tôi đã buộc phải thanh toán bọn tù binh. Các đơn vị

cảnh vệ đối nội (“zagradotrjad”) là những lực lƣợng đặc biệt trực thuộc Dân ủy Nhân dân 

thuộc  Cục  Đối  nội  (từ  1935  tới  1945,  sau  đó  được  đổi  tên  –  Anton  Kravchenko).  Họ

chuyên tìm kiếm bọn đào ngũ, những kẻ  đƣợc gọi là “binh lính thuộc Phƣơng diện quân 

Ukraina số  5”, những kẻ  đang đi lang thang trong vùng hậu phƣơng sau khi đã rời bệnh 

viện, nhậu rƣợu nặng trong các làng, và những kẻ khác tƣơng tự nhƣ thế. 

Có lần chúng tôi ăn trộm của một bà nông dân. Vụ  đó xảy ra tại Ukraina. Bếp ăn 

bị tụt lại phía sau và chúng tôi đang rất đói. Mà cụ bà ấy lại kể: “Các con ạ, ta có một con 

ngựa  non rất tốt mới hai tuổi. Bọn Đức đã lấy đi của ta nhƣng Hồng quân đã trả  nó lại.” 

“Thế  con ngựa đang  ở  đâu?” “Ở  đây, trong chuồng ngựa.” Đêm hôm đó hai gã ăn trộm 

trong bọn tôi trộm lấy con ngựa, dắt nó ra khỏi làng, bắn chết và đem nấu thịt. Bà già 

khóc quá chừng! Vâng, chúng tôi đã cho bà con ngựa khác khi rời cái làng đó. 

Rốt cục tôi cũng không bị trừng phạt vì bốn tên tù binh đó. Tôi quay về sở chỉ huy 

sƣ đoàn và đƣa cho họ tờ giấy. 

-Tại sao anh không theo dõi bọn tù binh cẩn thận hơn?! 

-Thế  tại sao các anh lại giao cho tôi những tên nhƣ thế?! (Tại sao lại không kiểm 

tra xem chúng có mang vũ khí không, nhất là khi các anh biết rằng chúng nguy hiểm đến 

vậy?) Các anh đáng lẽ  phải cho hai ngƣời đi áp tải chúng chứ! May cho tôi là con ngựa 

đã lồng lên, nếu không thì chúng đã khử tôi và trốn mất rồi. 

- Dù sao anh để chúng trốn cũng là quá tệ rồi! - Anh ta cau mày. 

Ngày 20 tháng Tám chúng tôi chọc thủng mặt trận của bọn Đức và tiếp tục tiến 

công.  Toàn  đội  trinh  sát  hành  quân  phía  trƣớc  sƣ  đoàn  khoảng  30  km.  Đấy  là  khi 

Romania đầu hàng. Tôi cần nói rằng ngƣời Romania căm ghét bọn Đức. Ngƣời Hungaria 

thích bọn Đức, nhƣng ngƣời Romania thì không, cũng giống ngƣời Nga chúng ta. Ngƣời 

Romania nghèo, rất nghèo. Gần Budapest chúng tôi tiến hành một đợt  trinh sát cùng với 

sƣ đoàn trƣởng. Trên đƣờng đi chúng tôi bị  một toán Ju-87 ném bom. Đấy là lúc tôi bị

thƣơng lần cuối cùng. Tôi đƣợc điều trị  trong một bệnh viện nằm cạnh một tu viện gần 

thành phố Kiskunfelegyhaza. 

Ba  tuần  sau,  chúng  tôi  đƣợc  tập  trung  vào  một  trung  đội  và  gửi  tới  ngoại  ô 

Budapest. Thành phố  đang bị  bao vây. Chúng tôi thuộc một lữ  đoàn đột kích đặc biệt. 

Chúng tôi chỉ  đƣợc giao cho pháo, đại liên và súng máy, thế  thôi. Và chúng tôi thƣờng 

đƣợc gửi tới những điểm yếu nhất trong vòng vây bao quanh Budapest. Khi viện binh tới 

nơi, chúng tôi lại di chuyển tới một vị trí khác, rồi lại một nơi khác nữa, cứ thế. Tới tháng 

Ba bọn Đức tiến hành một nỗ  lực để  thoát khỏi Budapest qua hệ  thống cống ngầm dƣới 

lòng thành phố. Lính Đức tiến lên nhƣ thác đổ. Chúng tiến tới mà không nổ  súng, nhƣng 

chúng tôi vẫn bắn vào chúng. Rồi chúng bắt đầu ném vũ khí xuống đất. Tôi không biết 

chính xác nhƣng con số  lính Đức bị  giết rất lớn. Chúng tôi đƣợc nghỉ  ngơi rồi tiếp tục 

tiến quân. Chúng tôi đã thấy nhiều giàn  thiêu xác lính Đức trong một khu rừng, cứ  năm 

cái gom lại trên một giàn. Có rất nhiều trận đánh nảy lửa diễn ra tại Budapest, không một 

căn nhà nào còn nguyên vẹn trong thành phố. Hầu hết đều bị hủy diệt! Khi chúng tôi nghỉ

lại ở  Pest (phần nằm bên kia sông Budo của thành phố  Budapest –  LTD.)  chúng tôi đƣợc 

thấy toàn cảnh thành phố – toàn là đổ nát! Tất cả! Nhƣ trong một cơn ác mộng. Tóc dựng 

đứng trên đầu, có phải là do chúng tôi đấy không? Đúng, chúng tôi đã làm vậy, bởi bọn 

Đức đã chống lại. Rồi tôi gặp một ngƣời bạn thuộc đội trinh sát pháo binh. Anh ta nói:

-  Đội trinh sát các cậu đã bị  giết dƣới lòng thành phố, trong hệ  thống cống ngầm. 

Sƣ đoàn trƣởng ra lệnh cho họ  chiếm lấy một ngôi nhà và họ  đâm đầu vào bọn Đức. Họ

quét sạch bọn Đức nhƣng cũng hi sinh hết. 

- Tất cả mọi ngƣời sao?

- Đúng, kể cả những ngƣời lính trong đội đột kích nữa.

Ở  Áo, gần thành phố  Munich của Đức, chúng tôi đƣợc gặp những ngƣời lính Mỹ

và Anh. Ban đầu chúng tôi uống với nhau suốt ba bốn ngày trời, thế rồi xảy ra một sự cố: 

cánh lính ta đả  nhau với họ  vì một ngƣời da đen. Một tay trong bọn họ  (ngƣời Mỹ  hoặc 

Anh) đá một ngƣời da đen, lính bên ta trông thấy và đứng về  phía ngƣời đen. Thế  rồi 

ngƣời chỉ  huy an ninh thành phố  gửi tới trung đội của ông  ấy, làm dịu hai bên, xây  lên 

một  hàng  rào  ngăn  chia  quân  đội  các  nƣớc.  Chúng  tôi  phải  rời  thành  phố  và  cắm  trại 

trong rừng. 

Trên dãy Alps lính ta đã bắt đƣợc một lƣợng lớn lính Đức đang định trốn sang 

đầu hàng quân  Đồng minh. Thật kỳ  quái! Chúng tôi lục soát ngƣời những tên Đức  ấy 

trong suốt một tuần lễ! Nán lại và lục soát chúng! Chúng tôi lấy tất cả  vũ khí và đồ  quý, 

mỗi tên lính Đức chỉ  đƣợc giữ  lại một chiếc nhẫn vàng. Rồi tới lƣợt chúng tôi bị  quân ta 

lục soát. 

Artem Drabkin: Ông có gửi bưu phẩm về nhà không? 

-  Tôi có  gửi về  một gói từ  thành phố  Galatz (nay là Galati). Nó chứa một chiếc 

đồng hồ  nữ  và một cái dây chuyền. Tôi cũng gửi về  một chuỗi đá màu. Tôi đã tìm đƣợc 

nó, có thể  nói nhƣ thế. Không thứ  nào trong số  đó đƣợc nhận cả  (bởi gia đình tôi). Tới 

gần Viên, tôi mắc bệnh sốt rét và phải vào bệnh viện. Đúng lúc đấy chiến tranh chấm dứt.

Artem Drabkin: Điều gì là tệ nhất ngoài mặt trận?  

-  Tìm cách sống sót sau một trận ném bom. Ta sẽ  không bao giờ  biết đƣợc nó nổ

chỗ  nào. Anh có thể  núp vào một chiến hào nào đó, nhƣng một quả  bom đã nhắm trúng 

anh và thế  là tất cả  tay chân ruột gan anh văng tung tóe khắp nơi. Chúng tôi bị  ném bom 

rất nhiều lần. Chủ  yếu do chúng luôn chọn lúc máy bay ta vắng mặt. Anh sẽ  nghĩ: “Máy 

bay của ta đâu rồi? Bị  hạ  hết rồi sao?” Và trong  lúc đó lũ máy bay Đức đang bổ  nhào 

xuống ném bom, ném bom, hết đợt này đến đợt khác. Mặt đất rung chuyển! Chúng làm 

nhƣ vậy từ  10 tới 15 phút rồi bỏ  đi. Vâng, máy bay ta cũng làm chúng nhức đầu y nhƣ 

vậy. Khi tôi tới trạm quan sát của quân ta, tôi trông thấy các máy bay cƣờng kích mặt đất 

của ta bổ  nhào và bắn rốc két trúng ngay vào chiến hào bọn Đức. Một thứ  khủng khiếp 

nữa là những tiếng nổ, thứ mà ngƣời ta gọi là “Vanusha”, loại súng cối sáu nòng của Đức! 

Khi chúng bắt đầu rít lên, tất cả mọi ngƣời đều biết điều gì sắp xảy ra và vội nấp thật sâu 

vào các chiến hào. 

Artem Drabkin: Các ông tắm rửa và giặt giũ bằng cách nào? 

-  Không, tôi nhớ  không lần nào chúng tôi đi tắm vào mùa đông. Vào mùa hè thì 

có, mùa hè chúng tôi có tắm rửa. Chúng tôi tắm hơi. Tôi  nhớ  lại có lần chúng tôi dừng 

chân bên bờ  một con sông có tên là Zhizha  (nghĩa là “Bùn loãng”  –  Anton Kravchenko)

(tên đúng của con sông là Jijia). Lúc đó tôi đang  ở đội trinh sát. Nƣớc sông có màu vàng, 

nhƣng con sông có một nhánh nƣớc rất sạch. Các chàng trai chúng tôi thƣờng đắp một 

con đập ngang qua nhánh sông và chúng tôi tắm trong cái đầm ấy. Còn nói về  giặt giũ, 

chúng tôi thƣờng dùng phƣơng pháp sau : chúng tôi lấy một cái nồi kim loại to, đổ  vào 

ba tới bốn gầu nƣớc và chàø quần áo của mình trên cái nồi  ấy. Sau đó chúng tôi đậy cái 

nồi bằng một cái vung hay một cái áo lông cũ và nhóm lửa dƣới nồi. Không một con rận 

sống sót đƣợc dƣới sức nóng ấy! Và ta có thể mặc lại áo và dùng tiếp nó trong vài tháng. 

Artem Drabkin: Ngoài mặt trận có khi nào ông bị ốm không? 

-  Có chứ, đôi lúc, nhƣng rất ít. Ngƣời ta thƣờng bị  cảm hết lần này đến lần khác. 

Một ngƣời  ốm nằm trên giƣờng mất ba hay bốn ngày và rồi lại xuất hiện bình thƣờng. 

Cứu thƣơng đôi khi tới hỏi: “Ở đây có ai bị ốm không?” Thế thôi. Khi anh còn trẻ thì anh 

luôn luôn khỏe mạnh.

Artem Drabkin: Khẩu phần các ông gồm có gì? 

-  Cháo đậu nấu đặc. Có một loại bánh khô nhỏ, đƣợc nấu thành súp khi bỏ  vào 

nƣớc sôi. Chúng tôi cũng đƣợc phát bánh bột kiều mạch, chúng chứa mỡ hoặc margarine. 

Anh đổ  nƣớc sôi vào nó và thế  là bữa ăn đã sẵn sàng. Đôi ngƣời ăn chúng mà không cần 

nƣớc, không cần nấu. Khẩu phần nhƣ thế  cũng không tồi, hiểu thế  nào cũng đƣợc. Đôi 

khi chúng tôi không đƣợc phát gì cả và cũng không cách nào để chuyển thức ăn tới chúng 

tôi, do đang có ném bom hoặc pháo kích xung quanh! Và nếu trung sĩ quân nhu của ta lại 

là một thằng nhát gan thì ta sẽ cứ thế mà nhịn đói! Thực ra, ban đêm chúng tôi luôn nhận 

đƣợc chút thực phẩm. Khi ở  ngoài chiến tuyến, chúng tôi đƣợc phát thức ăn nóng ít nhất 

mỗi ngày một lần. 

Artem Drabkin: Lúc còn ở  đơn vị  cũ ông có được cấp  ống ngắm cho súng chống 

tăng không? 

Không. Thật ra, những loại súng  ấy không hiệu  quả  lắm khi bắn  ở  tầm  xa. Nó 

hiệu quả khi bắn trong khoảng cách từ 200 tới 300 mét, thậm chí có thể tới 500 mét. Anh 

có  thể  trông  rõ  chiếc  xe  tăng:  anh  nổ  súng  và  khoét  vào  nó  một  cái  lỗ!  Nhƣng  nếu  ở

khoảng cách xa hơn thì viên đạn không xuyên thủng đƣợc vỏ thép xe tăng. 

Artem Drabkin: Ở ngoài mặt trận ông có tin vào bùa chú không? 

-  Tôi không biết  nữa. Vài ngƣời có đeo bùa, còn tôi thì không. Nhƣng những lúc 

đang căng thẳng quyết liệt thì tôi lẩm nhẩm trong đầu, “Lạy Chúa hãy phù hộ  con! Lạy 

Chúa hãy cứu con!” Thế đấy! 

Phỏng vấn: Artem Drabkin-Anton Kravchenko

Dịch từ Nga sang Anh: Anton Kravchenko

Chỉnh sửa bản tiếng Anh: Claire Fuller Martin

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH

Daniil Zlatkin

D.Zlatkin

Phần 1

Tôi là ngƣời đã từng trải qua chiến tranh –  cuộc Chiến tranh Vệ  quốc Vĩ đại. Tôi 

tham gia chiến đấu từ  mùng 3 tháng Bảy năm 1941 cho tới tận tháng Năm năm 46. Thực 

ra, đối với tôi, chiến tranh là một cuộc chiến liên tục để  sống còn, đặc biệt trong  những 

điều kiện cực kỳ  gay go mà tôi đã trải qua, mặc dù không phải lúc nào cũng cầm súng 

trong tay. Dƣới đây tôi xin đƣợc kể đôi lời về quãng đời đó. 

Ngày 22 tháng Sáu tôi đang  ở  thành phố  Feodosia, nơi chúng tôi tiến hành xây 

dựng một hệ thống đồn bót bí mật. Tôi sống trong khách sạn Astoria. Tôi thức dậy lúc 10 

giờ – xung quanh không còn ai. Tôi ra ngoài và nhận ra chiến tranh đã bắt đầu. Vâng, lúc 

đó tôi cảm thấy thật là... Có lẽ, cũng nhƣ tất cả  những công dân Xôviết khác  –  tôi thấy 

thật bực bội lo lắng, bởi bố mẹ tôi sống gần biên giới phía tây. Thêm nữa, tôi đã hiểu quá 

rõ chiến tranh là thế  nào vì đã từng phục vụ  trong quân đội nhƣ một sĩ quan công binh. 

Chiều hôm đó tôi đã có mặt trên một chuyến tàu đi thẳng về  Maskva. Tại Maskva tôi lập 

tức bị  động viên đi xây dựng các công trình trú bom. Và vào ngày 3 tháng Bảy, sau bài 

phát biểu của Đồng chí Stalin, tất cả các bạn bè tôi đều đi đăng ký vào dân quân vũ trang, 

nhƣng tôi đang là một kỹ  thuật viên chuyên nghiệp có tay nghề  -  tôi chỉ  nhận đƣợc lệnh 

động viên từ  dân uỷ  quân khu khi có lệnh điều động đặc biệt, nên không thể  cùng đi với 

họ. Các bạn tôi bảo: "Dan'ka, chuyện quái gì vậy?! Tất cả bọn tớ đều lên đƣờng! Còn cậu 

thì sao? Cùng đi đi chứ!" Ông quản đốc cũng nói: "Danil, sao cậu lại làm vậy? Tất cả các 

đồng chí của cậu đang lên đƣờng, còn cậu lại không?" Vì thế tôi cũng đi tham gia vào cái 

mà ngƣời ta vẫn gọi là tổ  chức dân quân vũ trang. Khi phát hiện ra tôi là một hạ  sĩ quan, 

ngƣời ta liền chỉ định tôi làm trung sĩ trong một đại đội công binh độc lập. Tôi đƣợc giao 

cho khoảng 300 ngƣời, hầu nhƣ tất cả  bọn họ  đều có trình độ  học vấn khá cao, thậm chí 

có cả  tiến sĩ khoa học, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc  –  đủ  thứ, nhƣng chỗ  chúng tôi 

không có ai là công nhân cả. Tôi lập tức tập hợp họ  lại  –  rống lên: “Vào hàng!”  –  họ  liền 

thấy trƣớc mặt mình đúng là một trung sĩ thực thụ đã từng tham gia quân ngũ. Thế đó, tôi 

tập hợp họ lại và đƣa họ tới chỗ thợ cắt tóc, và mặc cho những trò phản ứng và chống đối 

tất cả  bọn họ  đều bị  húi trọc. Rồi họ  đƣợc dẫn tới  nhà tắm. Thế  là mọi chuyện đều đƣợc 

đƣa về đúng chỗ của nó – đám ngƣời lộn xộn kia đã thực sự trở thành một tiểu đoàn công 

binh, đƣợc chỉ huy bởi một trung sĩ thực thụ. 

Ngày 4 hoặc 5 tháng Bảy chúng tôi rời Maskva đi theo đƣờng Mozhaisk. Chúng 

tôi hành quân 30 km tới ngôi làng Tolstopaltsevo và cắm trại tại đó. Cuộc đời quân ngũ 

bắt đầu: huấn luyện, tập sử  dụng vũ khí, nắm vững các loại đạn và chất nổ. Một lần tôi 

đƣợc gọi lên gặp chỉ  huy công binh sƣ đoàn, bạn tôi Zinoviy Levin, anh ta nói: "Dania, 

cậu phải tới quân khu Ivanovo và đem về  từ  đó 6 tấn thuốc nổ. Đồng thời lấy khoảng 

150-200  quả  mìn  cá  nhân  và  mìn  chống  tăng,  kèm  theo  5  -  6  xe  nhà  bếp.”  Tôi  bảo: 

"Trong tay tớ  sẽ  có những gì?” Anh ta nói: "Cậu lấy theo một trung đội lính và một xe 

GAZ AA. Chúng tôi ngồi lên xe và tôi hỏi: "Lấy gì để tôi đem tất cả những thứ đó về đây 

bây giờ?!” Họ  bảo tôi: "Cậu là kỹ  sƣ công binh gì mà không tìm đƣợc cách chuyển hàng 

về?!” 

Tôi  không  còn  nhớ  mình  đã  làm  cách  nào  để  tới  đƣợc  Podolsk,  bởi  đƣờng  tới 

Ivanovo là con  đƣờng hoàn toàn khác, nhƣng vì lý do nào đó chúng tôi đi theo một ngả

khác và xuất hiện  ở  Podolsk. Trong khi ngồi trên xe đi ngang Podolsk, tôi thấy cái bảng 

chỉ  đƣờng có ghi chữ  "Xƣởng ôtô", và một sáng kiến thoáng hiện ra trong đầu. Tôi bƣớc 

vào phòng làm việc của viên quản đốc xƣởng, đặït khẩu súng lục của mình lên bàn (tôi 

không có bao súng, khẩu súng lục đƣợc giắt vào thắt lƣng) và nói: "Hãy nghe đây: các 

anh ngồi  ở  đây, tại hậu phƣơng, ăn uống đầy mồm, trong khi chúng tôi đang phải chiến 

đấu!”  –  mặc  dù chúng tôi chƣa từng tham gia chiến đấu, tôi chỉ  giả  vờ  rằng mình là một 

tay lính đã có kinh nghiệm. Hắn bảo: “Các anh cần gì?” Tôi nói: “Chúng tôi cần ít nhất 

12 xe tải để  đi vận chuyển chất nổ.” Hắn đáp: "Tôi biết làm cách nào để  kiếm ra chúng 

bây giờ?! Tôi cần có giấy phép!” Tôi ra lệnh: “Không để  một xe nào ra khỏi đây, nhƣng 

cứ  để  cho xe đi vào!” Tôi khóa trái hắn  ở  trong phòng, đặt một ngƣời đứng gác, đi ra 

ngoài, tập hợp tất cả  những lái xe lại và bảo: "Các cậu, tớ  có ở  đây hai balô xúc xích hun 

khói, nửa balô đƣờng và đồ  hộp. Nhƣng tớ  không có vodka. Chúng ta cần phải lái tới 

quân khu  Ivanovo và nhận chất nổ  cùng  các thiết bị  khác dùng cho mặt trận. Ai sẽ  đi 

cùng nào?” Mọi ngƣời đồng thanh: “Chúng tôi sẽ đi!” Bằng cách đó tôi có đƣợc 15 xe tải. 

Viên quản đốc hét với theo bên cửa sổ: "Quân vô lại! Mày sẽ  bị  ra toà!” Tôi bỏ  đi cùng 

đoàn xe tải, đi xuyên khắp Matskva và tới đƣợc quân khu Ivanovo. Tại đó chúng tôi chất 

hàng và quay về  đơn vị  của mình vào sáng hôm sau. Cần kể  thêm là trong khi chất hàng

tôi cũng tiện tay xách luôn hai thùng đèn pin mà không ghi sổ. Khi trở  về  đại đội mình, 

tôi báo cáo mọi việc xảy ra lên đại đội trƣởng. Anh ta bảo: 

"Cậu biết không? Đừng trả  những thùng đèn pin đó về  kho dự  trữ  công binh, hãy 

đƣa nó cho chúng tớ.” 

"Thƣa đồng chí đại đội trƣởng, tôi không có quyền làm chuyện đó.” – tôi nói. 

"Tôi ra lệnh cho anh đó!” – anh ta bắt đầu cất cao giọng. 

"Tôi không tuân lệnh.” 

"Hãy lặp lại mệnh lệnh: để lại một thùng đèn pin!”  

"Tôi sẽ không lặp lại mệnh lệnh đó!” 

"Tôi sẽ đem anh đi xử bắn ngay lập tức!” 

"Thử làm đi!” 

Hắn ta rút khẩu Parabellum ra, tôi trông thấy bọt trắng sùi ra trên môi hắn, hắn 

dậm mạnh chân lên sàn nhà và hét: 

"Lặp lại mệnh lệnh!” 

Tôi mở nút áo quân phục của mình, xé phanh ngực áo, thét lên: 

"Tới đây bắn tôi đi! Nhƣng tôi sẽ không theo lệnh đó dâu!” 

Hắn ném khẩu súng và mũ của mình xuống sàn nhà và dẫm chân lên trên, nhƣng 

tôi đã quay đi và bỏ ra ngoài. Câu chuyện kết thúc tại đây, nhƣng tôi bị cách chức và thôi 

không đƣợc làm trung sĩ của đại đội nữa. Tôi bị  đƣa vào một trung đội  ở  cùng ngƣời bạn 

thân Vasia Karpenko. 

Sau đó chúng tôi bị  chuyển tới khu làng Pupovo thuộc quân khu Smolensk. Tại 

đây tôi tham gia cuộc bắt giữ  ba tên phi công, máy bay của chúng bị  súng phòng không 

của ta bắn hạ. Chúng bị  bắt và giải tới Sở  chỉ  huy sƣ đoàn. Chúng bƣớc vào đó với dáng 

điệu rất vênh váo  –  vung tay lên đằng trƣớc, miệng hét: "Heil Hitler!" Điều đó gây một 

ấn tƣợng to lớn đối với tôi: làm sao một tên tù binh lại có thể hành xử nhƣ vậy? 

Ngày hôm sau một chiến binh cứng cựa thực thụ  có trên vai ba vạch (trung tá  -Artem Drabkin) tới, tập hợp toàn đại đội lại và thông báo: "Bất cứ  ai có trình độ  văn hóa 

cấp hai hoặc cao hơn, bƣớc lên trƣớc hai bƣớc!” Tôi làm theo. 

"Các đồng chí, các anh sẽ tới một trƣờng huấn luyện để nhận đƣợc những cấp bậc 

phù hợp với trình độ chuyên môn của bản thân. Anh kia, làm nghề gì?” 

"Tôi là một kỹ sƣ xây dựng” – tôi nói. 

"Vậy anh sẽ là một kỹ sƣ công binh bậc ba.” 

Thật tuyệt. Họ  dồn chúng tôi lên xe tải và chở  tới làng Korni gần Viazma. Tại 

đấy 36 ngƣời chúng tôi đƣợc phân vào trung đội súng máy số  1, đại đội một, tiểu đoàn 

một. Tôi nói: “Tại sao lại là xạ  thủ  súng máy?! Các anh làm cái gì vậy?! Tôi tới đây đề

trở  thành một kỹ  sƣ công binh kia mà?!” “Im lặng! Không trao đổi!” Tời buổi  chiều tôi 

ngồi viết một báo cáo, trong ghi rằng tôi đã bị lừa dối. Họ viết trả lại trên tờ báo cáo đấy: 

“Đồng chí Zlatkin, tổ quốc đang cần những xạ thủ súng máy.” 

Công việc huấn luyện bắt đầu -  suốt từ  6 giờ  sáng cho tới tận chiều tối khẩu súng 

trƣờng  không rời khỏi vai tôi, chúng tôi tập đi đều bƣớc, ca hát, mở  lách cách cái khóa 

nòng rỗng không –  đó là cách để  ngƣời ta dạy chúng tôi trở  thành xạ  thủ  súng máy. Còn 

về thức ăn – trà uống với đƣờng vào buổi sáng, cùng một lát bánh mì; vào giữa ngày, cho 

bữa trƣa là một ít cháo lúa mạch loãng hầu nhƣ không có gì ở trong, thậm chí không đƣợc 

đến một củ  khoai nhỏ, và kasha (cháo ngũ cốc), còn cho bữa tối  –  lại đƣờng và một lát 

bánh mì. Sau 10 ngày chúng tôi đã bạc nhƣợc đến mức phải chật vật mới lê đi đƣợc. Tôi 

liên tục hỏi: “Khi nào thì chúng ta sẽ  học sử  dụng súng máy? Những khẩu súng máy đó 

đâu  rồi?”  Họ  trả  lời:  “Im  lặng!  Không  phải  chuyện  của  anh!  Không  đƣợc  tranh  cãi! 

Chúng  tôi  sẽ  làm  những  gì  cấp  trên  yêu  cầu!”  Vâng,  điều  đó  đã  thực  sự  làm  tôi  kinh 

ngạc… 

Một buổi chiều tôi ra khỏi hầm trú ẩn để  đi ngoài và thấy các bạn mình đang ăn 

khoai tây. Lạy Chúa tôi  –  khoai tây! Tôi hỏi:” Các cậu lấy chúng  ở  đâu vậy?” “À,  ở  chỗ

anh nuôi đấy. Trong nhà bếp.” Tôi chạy tới tay đầu bếp đó: “Làm thế  nào để  tôi có đƣợc 

khoai tây của anh?” Anh ta nói: “Khoai tây… thứ đó phải kiếm mới có đƣợc.” Tôi trả lời: 

“Tôi muốn kiếm lấy chúng! Tôi đang đói lắm!” “Cậu biết không”  –  anh ta bảo  –  “ngày 

mai hãy quay lại đây, sau khi trời tối  –  đem theo củi khô, cƣa, cắt chúng, sao cho tới 5 

giờ sáng, khi tôi tới đây, nƣớc đã đƣợc đun sôi. Hiểu chƣa?" "Hiểu." Tôi đã lao động suốt 

cả  đêm hôm đó, chuyển củi từ  bờ  sông lên, cƣa chúng ra bằng chiếc cƣa tay, bổ  chúng 

bằng cái rìu luôn  chỉ  chực văng  ra khỏi cán, và tới 5 giờ  sáng tôi đã đun sôi  nƣớc và 

chuẩn bị  đủ  thứ  để  đốt lò. Anh ta quan sát mọi việc, miệng bảo: “Tốt lắm! Cậu làm một 

mình, vậy mà hãy xem cậu đã làm đƣợc gì kìa! Tôi thuê cả  hai ba ngƣời cũng chƣa chắc 

làm đƣợc nhƣ thế. Cậu quả là một gã trẻ trai khỏe mạnh, tôi mang cho cậu khoai tây đây. 

Lấy đi.” Tôi nói: “Tôi có thể  lấy đƣợc bao nhiêu?” “Cứ  lấy bao nhiêu tuỳ  theo sức của 

cậu.” Tôi có đem chiếc áo bekesh vạt ngắn của kỵ binh (bekesh: một loại áo khoác - Oleg 

Sheremet) theo trên ngƣời. Tôi nhồi đầy khoai tây vào cả  hai bên túi áo  –  nhƣng nhƣ thế

dƣờng nhƣ vẫn chƣa đủ với tôi. Tôi rút ra một con dao Phần Lan, xẻ một đƣờng quanh áo 

và nhồi khoai tây khắp thân mình. Rồi tôi cứ  thế  mà đi, trong lòng lâng lâng hạnh phúc, 

bụng nghĩ: “Bây giờ  mình sẽ  đem một ít đi rán, hoặc nƣớng chúng trên than hồng.” Đột 

nhiên một sĩ quan tay áo đeo ba gạch xuất hiện. Hắn thấy tôi và bảo:

"Đồng chí học viên, lại đây!” 

Tôi lại gần. Hắn nắm lấy áo bekesh của tôi và nói: 

"Cái gì trong này?” 

"Khoai tây.” 

"Ăn cắp?” 

"Không, không phải ăn cắp – kiếm đƣợc đấy.” 

"Mày nói dối, đồ  lợn, mày ăn cắp nó! Không ai có thể  kiếm đƣợc nó, chúng ta 

không phải là một đơn vị để mày kiếm chác! Chắc chắn mày đã ăn cắp nó!” 

Chúng tôi bƣớc vào phòng ăn tập thể, nơi binh lính lúc đó đang ngồi ăn sáng. Mọi 

ngƣời đang uống thứ  “trà” đó –  chỉ  là nƣớc sôi với đƣờng và một lát bánh mì. Hắn tuyên 

bố với họ: 

"Các đồng chí binh sĩ, bọn Đức chỉ  đƣợc có 200 gram bánh mì một ngày mà đi 

chiến đấu! Và hãy xem chúng chiến đấu nhƣ thế nào! Các anh đƣợc tới 500 gram, nhƣng 

vẫn có những tên  trộm cƣớp trong bọn các anh, chúng trộm cƣớp của các anh và ăn thức 

ăn của các anh. Đây, hãy nhìn xem!” 

Hắn bắt đầu lôi khoai tây từ  túi tôi ra và nện chúng lên mặt bàn. Lôi ra một củ  –

nện xuống, lại củ khác – nện xuống, miệng lặp đi lặp lại:

"Các  anh  có  thấy  thằng  ăn  cƣớp  này  không!  Khoai  của  các  anh  đây!  Đáng  ra 

chúng phải ở trên bàn của các anh!” 

Vâng, tất nhiên là đám lính bắt đầu xì xầm khi núi khoai tây dần xuất hiện. Hắn 

hét lên với tôi: 

"Leo lên bàn!” Tôi leo lên trên cái bàn. 

"Lột ngôi sao ra khỏi mũ!” Tôi cởi nó ra. 

"Cởi thắt lƣng ra” Tôi tháo nó ra. 

"Cởi xà cạp ra.” Tôi cởi chúng ra. 

"Nhân  danh  Cộng  hòa  Xôviết  Liên  bang  Nga,  tôi  tuyên  bố  tên  trộm  cƣớp  này 

phạm tội xử bắn!” 

Hắn rút súng ra và chĩa vào tôi. Từ  lúc này tôi nhƣ bị  mù. Tôi không còn trông 

thấy và nghe thấy gì nữa, tôi chỉ  còn biết đứng nhƣ trời trồng trên đôi chân mình. Tôi 

nghĩ:  “Thế  đấy,  bây  giờ  sẽ  có  một  phát  súng.”  Tôi  đã  chuẩn  bị  đón  nhận  tất  cả.  Một 

quãng thời gian chờ  đợi nặng nề  trôi qua, tôi không biết nó kéo dài trong bao lâu. Tôi 

không nghe thấy tiếng súng, nhƣng vẫn đứng lặng đi nhƣ vậy. Có ai đó kéo tay tôi – một 

lần, rồi lần thứ hai. Tôi mở mắt ra và trông thấy lữ  đoàn trƣởng, ngƣời mà tôi đã gửi báo 

cáo lên. Ông nhỏ nhẹ nói với tôi: “Xuống đi”, và tôi ngã xuống, bất tỉnh. Vị đại tá ân cần 

bế  tôi xuống, gắn lại ngôi sao cho tôi, đeo lại thắt lƣng và bảo”Tự  quấn lấy xà cạp nhé”. 

Tôi cúi xuống, quấn đôi xà cạp. Ông lại nói: “Hãy cầm lấy chỗ  khoai kia”. Tôi cầm lấy 

khoai tây, ông liền vòng tay quanh vai tôi, và chúng  tôi đi ra. Xung quanh hoàn toàn yên 

lặng: tất cả  binh lính đứng nhìn chúng tôi, còn chúng tôi đi ra, mọi ánh mắt đều dõi theo. 

Ông khẽ  hỏi tôi: “Cậu lấy khoai tây ở  đâu vậy?” Tôi liền khóc rống lên. Thần kinh tôi đã 

chịu đựng tới giới hạn tột cùng, tôi khóc và kể cho ông chỗ mình đã kiếm khoai tây. Ông 

hôn lên trán tôi và bảo: “Con trai ạ, tai nạn đã qua rồi. Thôi, hãy ăn khoai của con đi.” 

Ba ngày sau ngƣời ta dồn chúng tôi lên một toa chở hàng và đƣa chúng tôi tới một 

nơi nào đó. Có khoảng 60 tới 80 ngƣời chất trên một toa tàu  –  không còn chỗ  nào mà 

xoay trở  đƣợc! Không một ai biết nơi họ  sẽ  chở  chúng tôi tới. Cuối cùng chúng tôi cũng 

đƣợc ra khỏi tàu. Đã có thể  nghe thấy tiếng nổ  và tiếng súng vang lên cách đó khoảng 

một cây số. Một ngƣời lính bị thƣơng lê tới. Chúng tôi cất tiếng hỏi: 

"Bác ơi, ai đang ở kia vậy?” 

"À, ngƣời ta bảo bọn Đức đã nhảy dù xuống chỗ đấy.” 

"Thế chỗ chúng ta ở đây là đâu?” 

"Có con sông Plotva ở quanh đây. Cách không xa chỗ này là Borodino. Còn kia là 

làng Myshkino." 

Tuyệt. Tôi nhớ rồi - Myshkino. 

Tới  buổi  chiều  họ  tập  hợp  chúng  tôi  vào  một  nhà  tắm.  Có  khoảng  20  ngƣời  ở

trong đó. Một trung sĩ đứng nói: “Các đồng chí, đây, trƣớc mặt ta là một khẩu đại liên 

kiểu mới nhất. Nó cần  4 ngƣời để  điều khiển:  một ngƣời mang nòng súng, một ngƣời 

khác mang đôi bánh xe này, hai ngƣời còn lại mang theo đạn. Hiểu chƣa? Anh! (chỉ  vào 

tôi), anh sẽ là xạ thủ Số Một! Hiểu chƣa? Đây, vác lấy cái nòng.” Tôi cầm lấy nòng súng. 

“Còn anh,” –  anh ta nói với một ngƣời khác trong trung đội tôi  –  “anh là xạ  thủ  Số  Hai.” 

Và đƣa cho anh ta chiếc bánh xe. Anh ta chỉ  định hai ngƣời nữa để  mang đạn  –  họ  cầm 

lấy các thùng đạn. “Để bắn các anh cần ấn vào đây, đẩy tới, kéo ở đây, lắp nó vào, và bắn 

–  hiểu chƣa?!” Mọi ngƣời đều đồng thanh: “Hiểu!!”  Và không một  ai trong chúng tôi 

hiểu chút gì. Thế là với lƣợng kiến thức nhƣ thế về súng máy chúng tôi tiến về hƣớng mặt 

trận, và lập tức bƣớc vào chiến đấu. Đấy là lần đầu tiên tôi đƣợc nghe tiếng đạn réo. Tôi 

không phải là ngƣời hèn nhát, trái lại, tôi rất táo bạo liều lĩnh, nhƣng khi đấy tôi đã cảm 

thấy cái chết  –  tôi cúi xuống tránh, chân và tay tôi run lẩy bẩy, không đứng dậy nổi, cảm 

thấy  nhƣ mọi viên đạn  đều bắn về  mình, và không hiểu tại sao mình vẫn chƣa bị  bắn 

trúng?! Tôi nhìn quanh  –  Số  Hai của tôi đã biến mất, cả  ngƣời tiếp đạn cũng không thấy 

đâu, chỉ  còn độc mình tôi với cái nòng súng. Nhƣng tôi còn đeo thêm khẩu súng trƣờng 

mƣời phát SVT, một cái balô, một chiếc mặt nạ  phòng độc, một chiếc rìu, và chỉ  có quỉ

mới biết còn cái gì đeo thêm trên mình tôi nữa.  Tổng cộng, tất cả  trang bị  của tôi lên tới 

32 kg! Tôi nằm xuống. Ngay lúc đó một đại uý hô lớn: “Đồ  cặn bã, tiến lên, vì Tổ  quốc! 

Vì Stalin!” Và chọc khẩu súng lục vào gáy tôi. Tôi cũng hét: “Tiến lên!” Nhƣng sau tôi 

làm gì còn ai?! Chẳng có ai cả… chỉ tôi và anh ta – hai chúng tôi. Chúng tôi chạy. Tất cả

mọi ngƣời còn lại đâu rồi?... Tôi nhìn quanh. Họ  đang nằm rải rác khắp nơi. Ngƣời ta đã 

đƣa chúng tôi tới một quãng trống, trong khi bọn Đức đang nấp sau một ngôi làng. Đó 

không phải là một trận đánh, đó đơn giản chỉ  là một cuộc tàn sát: chúng tôi thì nằm trên 

mặt đất trống trải, không tài nào trông thấy kẻ  thù, nhƣng kẻ  thù thấy  rõ chúng tôi và 

không để  một ai ngóc đầu dậy. Trong khi đó máy bay của chúng bay trên đầu, bắn hạ 

những ai đang di chuyển, khẩu súng máy trên máy bay bắn một tràng sƣợt qua ngƣời tôi. 

Tôi ngã xuống đất một lần nữa, rồi tôi giơ tay lên hét với ai đó, tôi cũng không biết là đã 

hét với ai nữa: "Tiến lên! Vì Tổ  quốc! Vì Stalin!" Ngay lúc đó tôi bị  trúng đạn vào tay 

phải. Tôi không biết  vết thƣơng có nặng không, nhƣng có thể  vì sợ  hay do quá bất ngờ

nên tôi lăn ra bất tỉnh. Và đó là lần thử lửa đầu tiên của tôi. 

Tôi tỉnh dậy vào ban đêm. Trời rất lạnh – trận này xảy ra vào 15 tháng Mƣời năm 

1941. Toàn thân tôi bị  tê cóng. Tôi đứng dậy, nhƣng đôi chân không còn ủng nữa –  có ai 

đó đã lấy mất ủng của tôi và tôi chỉ còn có vải bọc chân. Tôi quan sát – có hai ngón tay bị

gẫy,  máu  vón  cục  trên  đó.  Tôi  xé  áo  lót,  cố  gắng  tìm  đƣợc  cách  băng  bó  vết  thƣơng. 

Không một ai trong chúng tôi có đƣợc hộp sơ cứu cá nhân. Dù vậy, vẫn có một loại dung 

dịch chùi rửa đựng trong mặt nạ  phòng độc, nhƣng chúng tôi đã uống hết tất cả  trƣớc khi 

đến đƣợc mặt trận, bởi trong thành phần chất lỏng này có rƣợu cồn. Chúng tôi đổ  dung 

dịch này qua bột than hoặc than đá và  sau đó có đƣợc loại cồn trắng tuyệt hảo. Khi tỉnh 

dậy, tôi liền cảm thấy đói, nhƣng không còn gì để  ăn  –  trong hai ngày ngƣời ta chỉ  phát 

cho chúng tôi có hai cái bánh bít cốt và hai con cá muối… 

Khi đứng lên, tôi lập tức tìm đƣờng về phía quân ta. Tôi trông thấy nhiều xác lính 

chết nằm rải rác khắp nơi. Tôi tìm đƣợc một biđông trong chứa nƣớc đã đóng băng trên 

một cái xác, một chiếc bánh bít cốt trên cái xác khác, rồi lột lấy đôi  ủng của một ngƣời 

nữa. Đã định lấy tiếp chiếc áo khoác của ai đó, nhƣng rồi  tôi thấy có một ngƣời đang cử

động. Anh ta nói: 

"Bạn ơi, giúp tôi với.” 

"Anh là ai?” – tôi hỏi. 

"Tôi là Pet'ka." 

"Anh bị sao vậy?” 

"Tôi bị thƣơng vào đầu gối. Giúp tôi với, bạn ơi.” 

Anh ta lớn tuổi hơn tôi và có lẽ nhiều kinh nghiệm hơn, nhƣ sau này tôi nhận thấy. 

Anh ta nói: 

"Anh biết không, bọn Đức đã đi ngang qua, chúng lấy ủng của những ngƣời chết, 

lột cả ủng của anh. Tôi đã thấy tất cả.” 

"Cái gì, thế có phải là chúng ta đang bị bao vây không?!” 

"Không chỉ bị bao vây, hiện chúng ta đang ở vùng bị bọn Đức chiếm đóng rồi.” 

"Petia, Chúng ta phải tìm cách trốn thoát thôi!” 

"Cậu hãy đƣa tôi tới đống cỏ khô kia đi.” 

Anh ta rất nặng, nhƣng tôi đã kéo đƣợc anh ta khoảng 150 mét tới tận đống cỏ

khô đó, và chúng tôi khoét một cái lỗ  rồi trƣờn vào trong. Nƣớc trong  bình đã tan ra, 

chúng tôi uống nó, ăn hết cái bánh, và anh ta nói: “Có một cái làng  ở  phía đối diện với 

chúng ta. Hãy vƣợt qua sông, rồi đi tới ngôi nhà đầu tiên và hỏi xin ai đó một bữa chén 

thử xem.” Nhƣng tôi không biết bơi. Bèn tìm lấy hai khúc gỗ, buộc lại bằng cành cây, rồi 

vƣợt qua sông bằng cái bè đó. Tới gõ cửa một ngôi nhà. Một ông già ra mở  cửa, vừa 

trông thấy tôi ông liền la lên: "Con trai quý mến ơi, đi đi, làng này đang đầy bọn Đức.” 

Tôi nói: “Cụ  ơi, chúng con cần đƣợc ăn, con không đi một mình, còn có một đồng chí 

nữa đang bị  thƣơng.” Ông lão bảo: "Chờ  đấy, để  ta kiếm cho chút ít, con sẽ  đƣợc biết 

chúng ta sống khá nhƣ thế  nào.” Tóm lại, ông lão cho chúng tôi thức ăn và chỉ  dẫn cách 

tìm đƣờng trở  về  phía quân ta. Đêm tới, Peter  và tôi lên đƣờng. Tôi nói: "Petia, tớ  không 

thể  vác nổi cậu nữa. Tớ  hết sức rồi. Ít nhất hãy nhảy lò cò một chân đi.” Cậu  ấy bắt đầu 

nhảy lò cò, tay dựa vào tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới đƣợc con sông, băng qua nó, vừa 

ƣớt và lạnh. Chúng tôi chật vật đi  thêm đƣợc 200 mét rồi đột nhiên có tiếng: "Halt, ai 

đó?” Rồi họ tóm lấy chúng tôi và chúng tôi lập tức bị tách khỏi nhau. Trong tình trạng bị

ƣớt sũng, sƣơng giá phủ  đầy nhƣ thế  tôi bƣớc vào một căn nhà. Một đại uý ngồi sẵn bên 

trong, anh ta rút khẩu súng lục của mình ra và đặt lên bàn: 

"Ngồi xuống!" - (một cách thân mật, tất nhiên) Tôi ngồi xuống. 

"Hãy kể đi!" 

"Kể gì?" 

"Anh là ai?" 

Tôi nói cho anh ta biết mình là ai. 

"Anh nói dối! Đó không phải là anh. Hãy kể cho tôi xem anh đã đƣợc tuyển dụng 

nhƣ thế nào (bởi tình báo địch, thế đấy)” – Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi! 

"Hãy cho tôi biết, có phải tôi đang ở NKVD?" – tôi hỏi. 

"NKVD nào?! Anh nghĩ anh đang ở đâu vậy?! Anh đang ở trong Hồng quân, hiểu 

chƣa?” 

"Tôi hiểu rồi.” 

"Hãy cho tôi biết ai tuyển dụng  anh, anh tới đây với nhiệm vụ  gì? Ai đã sắp xếp 

để  anh bị  thƣơng nhẹ? Đừng nói dối, nếu không tôi sẽ  bắn anh ngay lập tức!”  –  Hắn lại 

gần tôi, tay cầm khẩu súng lục và chọc nòng súng vào lợi tôi. Xé rách môi tôi  –  một lần, 

rồi một lần nữa… 

"Tại sao anh lại đánh tôi?! Tôi sẽ kể.” – Tôi nói. 

"A ha, tốt đấy!" – Và chọc vào môi tôi một lần nữa, làm dập nó, máu tuôn ra. 

"Anh muốn tôi kể về cái gì?” 

"Cái gì, mày vẫn còn giấu diếm thế à?! Mày đã nói là sẽ kể cơ mà!” 

"Vâng, tôi sẽ kể, nhƣng hãy cho tôi biết anh muốn tôi kể cái gì cơ đã?!” 

"Ai đã tuyển dụng mày? Đồng bọn của mày ở đâu? Thằng bạn của mày đã kể cho 

chúng tao là mày đã đƣợc tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder để  giết các chính trị

viên! Hãy cho tao biết ai đã tuyển mày? Nhiệm vụ  của mày là gì?”  –  Tôi nhƣ bị  đẩy bật 

lại, không nhận ra hết mức độ trầm trọng của sự việc đang xảy ra. "Bạn nào kể cho anh?" 

"Bạn anh, Pet'ka." 

Tôi nghĩ: "Thật là quân vô lại! Sao hắn dám nói thế! Mình đã cứu hắn khỏi chỗ

chết, kéo hắn thoát về! Và mình đã đƣợc trả  ơn thế  này đây!” Ngay lúc đó một vị  đại tá 

bƣớc vào. Tôi quay sang ông ta và nói: 

"Đồng chí đại tá, xin cứu tôi, chuyện gì đang xảy ra vậy!?” 

"Ở Maskva có ai biết anh không?” – ông ta nói. 

Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Anh tôi đang phụ  trách  Phòng Số  một 

trong Văn phòng Chánh Uỷ viên Công tố của Hồng quân Liên Xô. Tôi bảo:

"Anh tôi hiện thế này, thế này… “ 

"Họ của anh ta là gì?” 

"Brainer, Lev Markovich." 

"Chờ một phút. Đồng chí đại uý, ta ngƣng hỏi cung đã.” 

Ông ta quay lại sau 15 phút: "Hãy để  anh ta đi, tôi xin chịu trách nhiệm.” Ông ta 

cho tôi đi, bên ngoài là Pet'ka đang đứng, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hôn. Anh  ấy 

nói: "Dan'ka, sao cậu lại vu khống tôi những chuyện nhƣ thế?” Tôi nói: "Chuyện gì vậy?" 

"Thế đấy, cậu đã kể rằng tớ và cậu đã đƣợc tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder." Tôi 

bảo:  "Pet'ka,  họ  cũng  nói  với  tớ  hệt  nhƣ  vậy.  Nói  là  cậu  đã  kể  thế.”  Tóm  lại,  họ  đƣa 

chúng tôi tới Borodino bởi chúng tôi đang bị thƣơng, chất chúng tôi lên một chiếc xe chở 

khách và chúng tôi khởi hành đi Maskva. Trên đƣờng đi, Pet'ka tiến lại gần mấy bà cụ già. 

Cậu ta quấn giẻ đầy mình, nhƣng không có nổi lấy một chiếc mũ, đành quàng chiếc khăn 

hay chiếc mùi soa lên đầu rồi rên lên: “Mẹ  ơi, cho chúng con chút gì ăn!” Tôi rất xấu hổ

và gọi: "Petia!" Nhƣng cậu ta vẫn: "Mẹ ơi, cho chúng con thức ăn!" Và mấy cụ già, bằng 

đôi bàn tay run rẩy, san ra chỗ  tài sản quý báu của mình, tổng cộng cũng chỉ  vừa đủ  cho 

họ  ăn, rồi chìa cho anh ta chừng một mẩu bánh con. Anh ta quay lại để  chia nó với tôi. 

Bằng cách đó chúng tôi tới đƣợc ga Belorussia (ở Maskva - Oleg Sheremet). Tại đây đám 

cảnh sát lôi tôi đi xềnh xệch và đƣa tôi tới chỗ sảnh chính rồi đặt tôi lại đó. Rồi chúng tôi 

đƣợc đƣa vào bệnh viện, hai ngày sau chúng tôi đƣợc chất lên một đoàn tàu để tới Urals. 

Daniil Zlatkin

Phần 2

D.Zlatkin

Đầu năm 1943, tôi trở thành sĩ quan tình báo thuộc phòng tình báo của Bộ chỉ huy 

Tập đoàn quân 19, Phƣơng diện quân Karelia. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là thành lập 

những nhóm trinh sát gồm từ  10 tới 20 ngƣời, cứ  3-4 ngày lại tổ  chức đột kích đêm vào 

sau chiến tuyến địch để bắt lấy một “cái lƣỡi” (từ  chuyên môn của kỹ thuật tình báo Nga, 

chỉ một tù binh đối phƣơng đƣợc bắt để khai thác tin tức - Oleg Sheremet) Chúng tôi phải 

biết đƣợc mọi thứ, toàn bộ tình hình trên mặt trận. Nếu không, nếu phòng tình báo không 

có đƣợc thông tin nào,  và không báo cáo đƣợc  lên cấp chỉ  huy, thì cấp chỉ  huy đó và 

phòng tình báo đó trở  thành vô dụng. Chúng tôi biết đƣợc mọi điều về  kẻ  thù! Và, chúng 

tôi hiểu, kẻ  thù cũng biết về  quân ta. Nhƣng chúng tôi vẫn biết nhiều hơn! Tại sao vậy? 

Tôi sẽ giải thích ngay. Vấn đề ở chỗø lính Nga chúng ta biết rõ tên của đại đội trƣởng, có 

thể  là cả  tên  của tiểu đoàn trƣởng, nhƣng trung đoàn trƣởng hay sƣ đoàn trƣởng của anh 

ta  –  không  phải  chuyện  để  anh  ta  quan  tâm.  Lính  Đức  biết  đến  tên  những  trung  đội 

trƣởng ở  cả  các sƣ đoàn kế  bên. Còn về  chỉ  huy của chúng, chúng không chỉ  biết tên của 

họ, mà còn biết cả từng ngƣời sinh trƣởng ở đâu, gia đình thế nào, y ta là ngƣời tốt hay kẻ

xấu. Sau cùng, biết đƣợc lý lịch cá nhân của một tên chỉ huy là yếu tố quan trọng để vạch 

ra các kế hoạch tác chiến. 

Trong một khu vực của mặt trận có hai sƣ đoàn địch bố trí đối diện chúng tôi, một 

đƣợc chỉ  huy bởi tƣớng von Ditmar, ngƣời tôi sẽ  kể  tới  ở  đoạn sau, sƣ đoàn còn lại do 

tƣớng  Rubel  chỉ  huy.   Von  Ditmar  đã  bị  chuyển  đi,  sau  đó  hắn  cƣới  Magda,  em  gái 

Goebbels,  và  tƣớng  Ratschi  đƣợc  đƣa  tới  thế  chỗ  hắn.  Nhìn  chung,  Rubel  là  một  tên 

tƣớng rất tự  cao, chỉ  quan tâm tới các sĩ quan, không coi binh lính nhƣ những con ngƣời 

mà  đối  xử  với  họ  rất  khinh  miệt.  Còn  về  tƣớng  Ratschi,  hắn  thƣờng  đƣợc  gọi  đùa  là 

Ratschi-bum –  “sét hòn”. Hắn xuất hiện đột xuất để  thanh tra đơn vị  của mình, trƣớc tiên 

là chui vào tham quan nhà xí của doanh trại, kế  đó là phòng ăn tập thể và la mắng bất cứ

kẻ nào mắc sai sót. Binh lính tôn sùng hắn, trong khi đám sĩ quan lại ghét cay ghét đắng. 

Vậy khu vực nào chúng tôi nên chọn để thực hiện đòn tấn công? Tất nhiên, sẽ là khu vực 

mà binh sĩ không ƣa chỉ  huy của mình, không muốn liều mình vì hắn  -  đấy là tại sao sĩ 

quan tình báo chúng tôi cần biết lý lịch cá nhân của những tên chỉ huy. Chúng tôi có đƣợc 

hồ sơ cá nhân của từng tên chỉ huy một, thậm chí đến từng tên trung đội trƣởng. 

Còn với tên tƣớng von Ditmar, chúng tôi đã có một cuộc đối đầu vô cùng thú vị! 

Bộ  Tổng tham mƣu yêu cầu chúng tôi cung cấp hồ  sơ về  hắn, đặc biệt phải tìm ra đƣợc 

tấm ảnh của hắn. Mọi cuộc điều tra của chúng tôi đều không đem lại kết quả. Bọn tù binh 

luôn sẵn lòng kể về hắn: “Vâng, ở đây có một vị tƣớng nhƣ thế. Ông ta điều hành cả một 

khu vực rộng lớn.” Và chỉ  đƣợc có thế, không hơn. Tiến hành việc này là trung đội trinh 

sát của một trong những trung đoàn của Sƣ đoàn bộ  binh số  152, đƣợc chỉ  huy bởi thiếu 

uý Ivan Lukich Kobets, hiện anh ấy đã là đại tá và là bạn thân của tôi. Anh ấy đƣợc giao 

nhiệm vụ  đi bắt về  một cái lƣỡi. Đội trinh sát tiến sâu vào hậu tuyến địch, khoảng 20-25 

kilômét, dọc theo con đƣờng dẫn tới trƣớc thị  trấn Alakurti và bắt đƣợc một xe ngựa chở

bảy tên lính. Họ  trói chúng lại bằng cùng một sợi dây thừng, tay quặt ngƣợc sau lƣng và 

chân tên này buộc liền với chân tên kia, đầu dây còn lại đƣợc giữ chặt bởi một ngƣời lính 

vạm vỡ, có nhiệm vụ  sẽ  giật thật mạnh khi gặp rắc rối để  kéo ngã tất cả  đám tù binh. 

Bằng cách đó họ đã an toàn về đƣợc Sƣ đoàn bộ binh 152 của mình. 

Trong khi lục soát cả  nhóm tù binh, những ngƣời thực hiện đã mắc một sai lầm 

nghiêm trọng khi họ tƣớc đi tất cả giấy tờ của chúng và để chung lẫn lộn với nhau, vì thế

chúng tôi không thể  xác định chúng thuộc về  ai, tuy tất cả  đều hết sức quan trọng:  ảnh 

chụp, thƣ từ  –  mọi thứ, đối với ngƣời làm tình báo thì không có gì là không quan trọng, 

bất cứ  điều nhỏ  nhặt nào cũng đƣợc xem xét thật kỹ  lƣỡng sao cho không có yếu tố  nào 

bị  bỏ  sót. Một sĩ quan tình báo giỏi phải là ngƣời không bao giờ  quên điều này. Những 

tên tù binh đó đƣợc đƣa tới Sở  chỉ  huy Tập đoàn quân chúng tôi trong tình trạng bị  trói 

thành hàng dọc nhƣ vậy. Họ bảo tôi: “Danil, hãy phân loại giấy tờ ra.” Tôi đọc thật kỹ tất 

cả  những giấy tờ  đó, săm soi các bức  ảnh, và đột nhiên tôi trông thấy một tấm ảnh nhỏ

thoạt  trông  không  có  gì  đặc  biệt,  kích  thƣớc  3x4cm,  mặt  sau  có  đề  dòng  chữ:  “Tặng 

ngƣời cần vụ  của tôi, von Ditmar." Chúa ơi! Tôi hét  lớn với ngƣời phiên dịch và chỉ  huy 

bộ  phận tình báo: "Senia! Senia! Trông này!" Anh ta mừng rỡ: "Đó chính là tƣớng von 

Ditmar!  Dan'ka,  cậu  lấy  nó  ở  đâu  vậy?!”  Tôi  bảo:  “Thì  ở  cái  đống  này.”  Anh  ta  nói: 

“Chúa ơi, nó thuộc về  đứa nào?!” Tôi nói: “Bây giờ  nhiệm vụ  của chúng ta là tìm cho ra 

tấm ảnh này của tên nào, bởi chắc chắn hắn sẽ  không thú nhận điều đó đâu.” Chúng tôi 

trao đổi với nhau, sau đó chúng tôi đƣa bọn tù binh tới và bảo: “Sẽ  không có ai đem các 

anh ra bắn, bởi quân đội Xôviết không bao giờ  cho  phép bắn tù binh  -  chỉ  trong giọng 

điệu tuyên truyền của lão Goebbels nhà các anh mới nói rằng chúng tôi xử  bắn tù binh 

mà thôi. Các anh sẽ  đƣợc đƣa về  hậu phƣơng, vào một trại tù binh.” (Đúng là chúng tôi 

không bắn chúng. Tôi nhớ  là không có trƣờng hợp nào tù binh bị  đem xử  bắn ở  tập đoàn 

quân chúng tôi. Chúng tôi giam chúng khoảng một ngày rồi chuyển chúng lên phƣơng 

diện quân. Trên phƣơng diện quân sẽ  giữ  chúng thêm hai ngày rồi chuyển chúng vào trại 

tù binh. Chúng tôi không hề  cắt xẻo trên ngƣời chúng,  không bắn  chết,  không tra tấn, 

không đâm kim vào ngƣời. Mọi chuyện đều hết sức đơn giản – chúng tôi cho chúng ăn cá 

trích (là loại cá trích muối mặn khủng khiếp của vùng Kandalaksha, và không đƣợc ngâm 

nƣớc trƣớc) và không cho chúng uống nƣớc. Sang ngày hôm sau, tên tù binh sẽ  khai ra 

bất cứ chuyện gì chỉ để nhận lấy một ngụm nƣớc. Hắn sẽ sùi bọt đầy mép, và chúng tôi sẽ

đƣa hắn tới, rót ra một  cốc nƣớc nhỏ, hắn sẽ  run rẩy và la hét: “Nƣớc,  nƣớc!”  Thế  là 

chúng tôi liền bảo: “Đƣợc thôi! Khai đi!”, và lại cho hắn ăn cá trích lần nữa. Xét cho 

cùng, hắn vẫn cần phải ăn. Dù muốn dù không hắn cũng phải ăn hết con cá muối đó.) 

Bọn chúng vui hẳn lên. Tôi bảo: “Đây, mọi thứ  trên bàn này là của các anh, hãy cầm lấy 

những gì là của mình.” Chúng tôi bỏ  đi, và khi quay trở  lại, không chỉ  hình ảnh mà thậm 

chí một mẩu giấy vụn cũng không còn trên bàn. Thế  đấy, ngƣời chủ  của bức chân dung 

von Ditmar đã lấy lại nó. Chúng tôi tách chúng ra lần nữa và bắt tay vào lục soát kỹ từng 

tên. Chúng tôi tìm thấy bức  ảnh trên ngƣời tên  trẻ  nhất trong bọn, một tên lính mới 18 

tuổi. Hắn nói lắp bắp, nƣớc mắt ràn rụa trên khuôn mặt. Hắn thú nhận rằng mình vốn là 

cần vụ  của von Ditmar, ngƣời đã nhận hắn phục vụ  theo đề  nghị  của cha hắn, một ngƣời 

làm vƣờn tại điền trang  của tên tƣớng. Hắn cho  chúng tôi biết toàn bộ  lý lịch của tên 

tƣớng này: tính cách, tình hình gia đình, v.v. Vì chiến công này tôi đƣợc tặng huy chƣơng 

“Vì đã chiến đấu xuất sắc”. Đó là kinh nghiệm đầu tiên của chúng tôi, hay có thể  nói là 

lần thử lửa đầu tiên, trong hoạt động tình báo. 

Rồi kế  tiếp là vụ  sau đây. Chúng tôi bắt đƣợc một tên phi công. Tên hắn là Kurt 

Ekkert, thƣợng uý, sinh tại Riga, Tiến sĩ Triết học, nổi bật nhờ  thành tích trong trận đánh 

chiếm đảo Crete và Narvik, đã đƣợc thƣởng một Huân chƣơng Chữ  Thập Sắt với Cành 

sồi. Hắn  chính là một tên phi công Át! Trong khi thẩm vấn hắn luôn miệng nói: “Tôi 

không phải là ngƣời Quốc xã. Tôi không là thành viên trong đảng của Hitler. Tôi chỉ  là 

một ngƣời Đức bình thƣờng, nhƣng tôi đã có lời thề trƣớc nƣớc Đức và sẽ không bao giờ

phá bỏ  nó.” Trong suốt hai ngày trời chúng tôi giấu không thông báo cho phƣơng diện 

quân việc đã bắt đƣợc tên phi công, và trong hai ngày đó hắn không tiết lộ  cho chúng tôi 

bất cứ  điều gì. Sự  việc  chỉ  kết thúc khi tên tù binh đƣợc đƣa tới  cho Kozlov, chỉ  huy 

trƣởng Tập đoàn quân, thẩm vấn. Tôi lên gặp chỉ  huy trƣởng với một chiếc cặp tài liệu 

chứa những tấm ảnh trinh sát chụp từ máy bay mà tôi có nhiệm vụ phải giữ. Lúc này cuộc 

thẩm vấn đang đƣợc tiến hành. Nó đƣợc thực hiện bằng tiếng Nga, qua thông dịch viên. 

Tên Đức vẫn không tiết lộ một thông tin nào. Tôi bỏ ra và ngồi nghỉ ngoài phòng chờ, đột 

nhiên cửa phòng mở  và tôi nghe đƣợc một cuộc trao đổi ngắn gọn: “Hãy diễn cho hắn 

xem một cuộc xử  bắn giả.” Xử  bắn giả  là một cực hình gây đau khổ  khủng khiếp. Kẻ  bị

kết án bị đƣa ra trói vào trƣớc một gốc cây, ngƣời ta đọc cho hắn nghe bản án tử, mọi thứ 

đều đƣợc phiên dịch cẩn thận, trong khi đó một tiểu đội xử  bắn đứng chờ  bên cạnh. Hắn 

sẽ  đƣợc hỏi: “Anh có chịu khai không?” Thông thƣờng câu trả  lời sẽ  là: "Nein!" Lặp lại 

lần  thứ  hai:  “Anh  có  chịu  khai  không?”  "Nein!"  Tới  lần  thứ  ba:  “Anh  có  chịu  khai 

không?” Hắn liền phát điên và hét lớn: "Nein!" Thế  là mệnh lệnh đƣợc ban ra: "Tiểu đội 

sẵn sàng! Bắn!" Sau loạt đạn kẻ chịu án sẽ ngã xuống vì sợ hãi và choáng váng. Và thế là 

một lệnh khác tiếp tục:  "Cái gì vậy?! Bắn trƣợt  rồi! Hãy làm lại lần thứ  hai, ngay lập 

tức!” Nhƣng đám lính, không hề  biết rằng ổ  đạn của mình đều rỗng, sẽ  nghĩ bụng: "Làm 

sao mình lại bắn trƣợt đƣợc nhỉ?!" Thông thƣờng mọi ngƣời sẽ  không kiềm chế  đƣợc và 

bắt đầu bàn tán. Điều này đƣợc gọi là gây sức ép tâm lý. Nó thật tàn nhẫn, tất nhiên, anh 

có thể  sẽ  làm tàn phế  một con ngƣời, bẻ  gãy thần kinh anh ta. Và thế  là chỉ  huy trƣởng 

nói: "Hãy làm bất cứ  điều gì anh muốn, nhƣng các thông tin  cần thiết phải nằm trên bàn 

giấy của tôi sau 4 tiếng nữa.” Một viên đại tá bƣớc ra ngoài và hô lớn: "Đội xử  án! Theo 

tôi!” Do xung quanh không còn ai, tôi hiểu đó là một lệnh dành cho mình. Tôi bƣớc vào, 

giơ tay chào và nói: "Ngƣời thi hành án có mặt!” "Bắn hắn đi!" Tôi đáp: "Xin tuân lệnh!" 

Tôi rút khẩu súng lục ra, tiến gần tên Kurt Ekkert đó, xách lấy tay hắn, nhƣng hắn đẩy 

mạnh làm tôi ngã xuống. Hắn chạy tới chỗ  viên tƣớng và nói bằng thứ  tiếng Nga thuần 

chất nhất: "Thƣa đồng chí tƣớng quân, xin hãy dừng trò xiếc này lại.” Điều gì xảy ra tiếp 

theo?!! Không thể  tƣởng tƣợng ra đƣợc! Chỉ  huy trƣởng Tập đoàn quân hét lên: "Tất cả

ra ngoài!" Chúng tôi dẫn tên tù binh đi ra. Kozlov hét với viên đại tá: "Nếu tôi không có 

trong tay những thông tin của hắn trong  vòng một tiếng đồng hồ  nữa, anh sẽ  bị  đƣa vào 

tiểu đoàn trừng giới”. Và thế là một lần nữa tên Đức lại đƣợc chuyển sang cho chúng tôi, 

và chúng tôi đƣa ra cho hắn đề  nghị  sau: chúng tôi sẽ  kể  cho hắn những gì chúng tôi đã 

biết, cho hắn xem các tấm bản đồ,  nếu sau đó hắn vẫn không nói, Afanasiy (Afanasiy 

Pil'kin, một tay Siberia, cần vụ  của viên đại tá) sẽ  dắt hắn ra ngoài, nã một viên đạn vào 

gáy hắn rồi kêu lên: "Nó bỏ chạy. nó bỏ chạy! Nó muốn chạy trốn!" Rồi bắn tiếp hai phát 

lên trời. Và chúng tôi sẽ chấm dứt câu chuyện này ở đây. Chúng tôi đem cho hắn xem các 

tấm bản đồ, kể cho hắn mọi điều chúng tôi biết… Từ đó trở về sau chƣa bao giờ tôi đƣợc 

thấy kẻ  nào điên khùng lên nhƣ thế: hắn cắn đến gãy cả  răng mình vào lƣng chiếc ghế

đẩu. Bác sĩ vội chạy tới  tiêm cho hắn một mũi. Sau khi lấy lại hơi thở, hắn kể  rằng giá 

biết trƣớc chúng tôi đã nắm đƣợc những thông tin hoàn chỉnh nhƣ thế, hắn đã kể  ngay 

cho chúng tôi mọi chuyện, vì những gì hắn tiết lộ cũng chẳng đến nỗi là phản bội tổ quốc 

cho lắm. Chúng tôi cho hắn ăn, cho uống nƣớc rồi chuyển hắn lên Sở  chỉ  huy Phƣơng 

diện quân. 

Trong công việc, tôi thƣờng thẳng thắn bộc lộ  khả  năng hơn hẳn của mình so với 

viên đại tá, chỉ  huy trƣởng phòng tình báo. Ông ta nuôi trong lòng một ý định phục thù 

đối  với  tôi  và  một  lần  nọ  gọi  tôi  lên  thông  báo:  "Thiếu  uý,  anh  phải  đi tiến  hành  một 

nhiệm vụ  đặc biệt sau phòng tuyến địch và liên lạc với điệp viên của ta. Bộ  ắcquy cho 

radio của anh ta đã hỏng nên anh ta bị mất liên lạc. Chỉ anh mới có thể tìm đƣợc anh ta.” 

Tôi trả  lời: "Thƣa đồng chí đại tá, tôi đã biết mật mã của Ban Tình báo trung tâm thuộc 

Bộ  Tổng Tham mƣu. Tôi đã có lời thề  là sẽ  không bao giờ  đến gần chiến tuyến hơn 30 

km. Nếu tôi làm điều đó, tôi sẽ bị xử bắn ngay lập tức mà không cần xét xử. " Ông ta nói: 

"Đƣợc, chẳng lẽ anh lại phản bội dễ vậy sao?! Tôi ra lệnh cho anh đó! Tuân lệnh đi!" Tôi 

đành phải tuân lệnh. Rồi tôi tới gặp trung tá Yakunin, phó của ông ta: "Hãy nghe này, 

chuyện là nhƣ thế đấy.” Yakunin liền nổi giận: "Lão ấy là một thằng ngốc! Lão đang đƣa

anh tới chỗ chết! Anh đã làm điều gì không phải với lão rồi. Lão  ấy không cần gì hết, mà 

lão cũng chẳng quan tâm tới điệp viên của chúng ta – lão ấy chỉ muốn nhắm vào anh thôi. 

Tôi chỉ  có điều này để  khuyên anh –  hãy bỏ  tất cả  những đồ  đạc quân dụng lại đây. Hãy 

tự tìm cho mình một câu truyện huyền thoại nào đó (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo 

Nga, chỉ  một câu chuyện bịa để  ngụy trang cho một điệp viên mật  –  Oleg Sheremet).” 

Lúc đó tôi đang quá bối rối nên không dám hỏi để  tránh bộc lộ  sự  ngu dốt của mình, 

nhƣng thậm chí ngay cái từ  “huyền thoại” đó tôi cũng không biết! Tôi không phải là một 

quân nhân! Tôi cũng không phải là một sĩ quan tình báo! Tôi là một kỹ sƣ xây dựng, một 

thƣờng dân. Làm gì có huyền thoại nào?! Nhƣng nhiệm vụ thì vẫn phải hoàn thành. 

Thế  là vào ban đêm, vài ngƣời thuộc bộ  tộc Saami đƣa tôi vƣợt qua chiến tuyến 

trên hai chiếc xe trƣợt tuyết. Họ thực hiện công việc đó thật hoàn hảo – chỉ họ mới có thể

làm đƣợc thế. Có một lối trƣợt tuyết đi qua giữa những cứ  điểm của quân Đức, chúng  bố

trí cách nhau khoảng 20-30 km. Trong trƣờng hợp một tên lính tuần tra phát hiện ra vết 

trƣợt tuyết xuất phát từ phía chúng tôi, chúng sẽ ngay lập tức đƣa một chi đội ra đuổi theo 

những ngƣời vừa đột nhập. Do đó chúng tôi quay lại điểm xuất phát hai lần, cắt ngang 

tuyến đƣờng cũ, đi lòng vòng và hơn thế  nữa lâu lâu dừng lại một lần, tháo ván trƣợt ra, 

di chuyển tới trƣớc khoảng 50 mét rồi dùng tay xoá đi các dấu vết của lằn trƣợt. Bằng 

cách đó họ  đã đƣa tôi tới gần điểm hẹn. Ba kilômét cuối cùng tôi phải  xuống tự  đi, do họ

không đƣợc phép đi tiếp để  hộ  tống tôi. Tôi bảo: "Xin hãy đợi tôi  ở  đây, tôi sẽ  quay lại 

đúng theo dấu ván trƣợt của mình.” Tôi đem theo 4 bộ  ắcquy BAS-80, mỗi bộ  có trọng 

lƣợng lên tới 12, thậm chí 15 kílô. Tôi tự  làm ra một thứ  gần nhƣ chiếc xe trƣợt, xỏ  bàn 

trƣợt tuyết vào chân, chất lên xe 4 bộ  ắcquy, siết chặt lại trang phục rồi bắt đầu gò lƣng 

kéo. Khi tới đƣợc địa điểm đã hẹn, tôi đã kiệt sức tới nỗi nằm lăn xuống, đè gẫy mấy lùm 

cây bụi rồi lập tức ngủ say nhƣ chết. Tôi thức dậy bởi có ai đó đang đập vào chân tôi. Tôi 

mở  mắt ra và thấy một ngƣời Phần Lan đang đứng đó, tay cầm súng chĩa vào tôi. Tất cả

những chuyện đó diễn ra trong im lặng. Tôi ngồi dậy và chúng tôi quan sát nhau. Tôi hỏi: 

“Ngƣời Phần Lan hả?” Hắn ta vẫn im lặng. Tôi hỏi tiếp: "Deutch? Sprechen Sie Deutch?" 

(“Ngƣời Đức hả? Có nói đƣợc tiếng Đức không?”  –  L.T.D.) Hắn ta vẫn im lặng. Và rồi 

một suy nghĩ chọc vào đầu tôi, có thể  anh ta là ngƣời tôi cần gặp chăng? Tôi nói mật 

khẩu, anh ta đáp lại và nói: "Thằng dở  ngƣời  nào gửi anh tới đây vậy? Sao anh có quyền 

ngủ vào lúc này?! Anh đang ở trong hậu phƣơng địch! Bất cứ ai cũng có thể đi ngang qua 

đây!  Hãy  xem  có  biết  bao  dấu  ván  trƣợt  quanh  đây!  Sao  anh  lại  làm  thế!?”  Tôi  đáp: 

"Trƣớc tiên, tôi mệt lắm rồi, kế  đến  –  tôi đang rất đói." Anh ta lấy ra hai thanh sôcôla, 

một chai rƣợu, và chúng tôi cùng uống, tìm ra đƣợc một ngôn ngữ  chung, rồi anh ta cho 

tôi biết số  liệu về  các sân bay  ở  Varde và Trondheim, về  lực lƣợng, điểm khởi hành và 

nơi đến của các đơn vị Đức. Anh ta bắt tôi lặp lại tất cả điều đó khoảng 15 lần rồi đƣa tôi 

về. 

Tôi quay trở lại sở  chỉ huy – hàm dƣới viên đại tá trễ xuống khi lão trông thấy tôi 

vẫn còn sống: "Mọi chuyện diễn ra thế  nào?” Tôi đáp: "Tôi vẫn còn sống sót quay về, 

mặc cho ông đã đƣa tôi tới chỗ  chết.” Lão ta nói: "Ai bảo là tôi đƣa anh tới chỗ  chết?!” 

Tôi trả  lời: "Tôi hiểu rõ mọi chuyện, thƣa đồng chí đại tá.” Câu chuyện đã kết thúc ở  đó. 

Nó  lại  lặp  lại  về  sau  này,  khi  bạn  thân  của  tôi,  mà  nay  đã  quá  cố,  đại  tá  Nikolay 

Dmitrievich Antonov, tới  làm chỉ  huy phòng tình báo thay cho tên ngốc kia. Anh ta cũng 

gọi tôi lên và bảo: "Dania, cậu phải lặp lại lần nữa những gì đã từng làm, nhƣng tôi trƣớc 

tiên muốn tạo cho cậu một huyền thoại thực sự  đã.” Lúc này tôi đã biết một huyền thoại 

có nghĩa là gì  rồi. Tôi đƣợc đƣa tới Belomorsk để  huấn luyện về  mật mã. Họ  cho tôi ăn 

mặc nhƣ một ngƣời tù trong một căn nhà ở gần Belomorsk: cấp cho tôi cặp guốc gỗ, quần 

áo rách, mũ lông "ushanka" thiếu mất một tai mũ. Tôi đƣợc giao cho một tờ  sao của bản 

án do Toà án Quận Frunze của thành phố Maskva tuyên, trong có ghi rằng Zlatkin, Daniil 

Fedorovich, bị kết án 10 năm tù, không đƣợc quyền liên hệ với ngƣời thân vì đã có những 

hành  động  chống  lại  chính  quyền  Xôviết,  lan  truyền  những  chuyện  đàm  tiếu  chống 

Xôviết,  tuyên  truyền  chống  chiến  tranh  Vệ  quốc,  v.v.  Ngƣời  ta  bảo  tôi:  "Anhh  sẽ  tới 

Solovki  (quần  đảo  trên  Bạch  Hải,  nơi  có  một  trại  tù  nổi  tiếng  –  Oleg  Sheremet)  Mọi 

chuyện đã đƣợc chuẩn bị  sẵn sàng ở  đó cho anh. Anh sẽ  ở  đó 10 ngày, anh sẽ  không chỉ

phải làm quen với đám bạn tù và nắm rõ lý do chúng phải vào đó, mà còn phải biết đến 

cả  tên con chó cƣng của ngƣời đầu bếp. Đã nắm mọi chi tiết chƣa?” Tôi đáp: “Đã rõ.” 

Khi tới nơi, giám đốc trại tù kéo tôi ra và bảo: "Tôi đã biết mọi chuyện rồi. Tôi sẽ  báo 

cho anh khi nào chuyện đó xảy ra.” Và tôi bị  ném vào trong một trại giam đầy lũ trộm 

cƣớp và lừa đảo –  mọi hạng ngƣời đều có ở  đó ngoại trừ  những tù chính trị, vốn bị  giam 

ở  một trại giam khác biệt lập. Tôi kể  cho chúng nghe vài chuyện cƣời, cho chúng biết 

rằng tôi là một thủy thủ ở Odessa, đi trên chiếc tàu chở hàng của hải quân – tại đấy tôi đã 

làm quen với gã Val'ka Mắt lé. "Cái gì, cậu biết Val'ka Mắt lé à? Các bạn ơi! Thế  cậu đi 

trên tàu gì? Khoan, cậu có biết tàu "Chervona Ukraina" không? Gƣợm đã, ở  đó cũng có 

một chiếc Chervona Ukraina khác..  Ờ  phải, tại đó chỉ  có một chiếc nhƣ thế  thôi." Nói 

chung, tôi đã trở  thành thành viên của chúng. Cùng làm với chúng  ở  mỏ  đá –  thật là một 

công việc khủng khiếp khi phải đập vỡ  những tảng đá bằng một chiếc búa, một cái đục 

hay một  cái cuốc chim. Đôi chỗ  chúng tôi đƣợc sử  dụng thuốc nổ, và do tôi đã từng là 

công binh nên đƣợc giao cho việc này. Công việc cũng không quá phức tạp  -  chúng tôi 

chỉ  đơn giản là đặt thuốc nổ  vào dƣới những tảng đá. Nhiệm vụ  của chúng tôi là sản xuất 

sỏi đá để làm đƣờng, đôi chỗ sỏi đá lộ ra trên mặt đất, ở đó có những tảng đá dễ vỡ để thu 

nhặt. Điều này làm nhẹ  bớt công việc của chúng tôi, và đám tù nhân bắt đầu tỏ  ra tôn 

trọng  tôi  hơn.  Tới  ngày  thứ  9  ngƣời  giám  đốc  trại  tù  gọi  tôi  lên  và  bảo:  "Danil,  mọi 

chuyện đã sẵn sàng rồi, đi thôi." Tôi đi cùng ông ta ra bờ  biển. Ông ta chỉ  chỗ  cho tôi và 

bảo: "Kia, ở  dƣới đó có một chiếc xuồng chèo tay, trong có một thùng nƣớc ngọt và một 

túi bánh khô. Cậu đã sắp xếp đƣợc ngƣời đi cùng chƣa?” Tôi đƣợc lệnh phải tìm ra một ai 

đó và dụ  hắn cùng trốn đi. Tại sao tôi lại phải làm tất cả  những chuyện đó, tại sao tôi lại 

kể ra tất cả những chuyện đó? Tôi phải tạo ra đƣợc một huyền thoại, để trong trƣờng hợp 

bị  bọn Đức bắt đƣợc thì tôi sẽ  kể  rằng mình là nhƣ thế, nhƣ thế, những cƣ dân ở  Solovki 

có thể  xác nhận rằng tôi đã từng  ở  đó. Không đƣợc quay trở  về  đơn vị  của mình, trên 

ngƣời phải mặc những quần áo rách rƣới, thậm chí còn tệ  hơn cả  trong lần đột nhập đầu 

tiên, nhƣng đã có tờ  tuyên án của mình  ở  sẵn trong ngăn túi bí mật, tôi vƣợt qua chiến 

tuyến  và  gặp  đƣợc  ngƣời  điệp  viên  mà  lần  trƣớc  tôi  đã  biết  (tên  của  anh  là  Boris 

Borisovich. Tôi không bao giờ còn đƣợc nghe đến tên anh lần nữa). Tôi quay về và thế là 

nhiệm vụ của tôi kết thúc. Không bao giờ tôi còn bị gửi đi bất cứ đâu nữa. 

Dƣới đây là một câu chuyện thú vị  khác. Nó xảy ra vào giữa năm 44, chúng tôi 

đang ngồi làm việc trong hầm trú ẩn của mình. Đột nhiên, vào 4 giờ  chiều, có một tiếng 

nổ  lớn trong khu vực Sở  chỉ  huy Tập đoàn quân. Tiếng nổ  thứ  hai tiếp theo sau đúng 2 

phút. Ngƣời sĩ quan trực nói: "Có lẽ  đám sĩ quan công binh đang làm gì đó.” Vụ  nổ  điếc 

tai thứ  ba xảy ra đúng 2 phút sau đâu đó gần hầm của chúng tôi và làm vỡ  toàn bộ  kính 

cửa sổ. Đất vụn bắt đầu rơi lả tả từ trần nhà xuống. Rồi có một tiếng kêu: “Mọi ngƣời tìm 

chỗ ẩn nấp! Bọn Đức đang bắn vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân!” Trong ngày hôm đó bọn 

Đức đã bắn 40 phát, chúng rơi chính xác vào khu vực Sở  chỉ  huy Tập đoàn quân. Một 

quả  đạn thậm chí đã xuyên qua cửa sổ  hầm trú ẩn của ban chỉ  huy lực lƣợng thiết giáp. 

Trong hầm đang có một ngƣời thƣ ký đánh máy 17 tuổi và một thiếu tá, một ngƣời đàn 

ông 45 tuổi. Ông ta lấy hai tay ôm chặt đầu (về  sau chúng tôi nhận thấy mảng tóc nằm 

dƣới mấy ngón tay ông ta đã trở  nên lốm đốm bạc), hiểu là cái chết sẽ  xảy đến ngay  lập 

tức, nhƣng quả  đạn không phát nổ, và thế  là cả  hai ngƣời chạy ra ngoài. Hóa ra bọn Đức 

vừa nhận đƣợc ba khẩu đại bác tầm xa 155mm, vẫn đƣợc gọi là đại bác hậu phƣơng vì 

thƣờng đƣợc dùng để bắn vào các sở chỉ huy. Cánh không quân chúng tôi lập tức cố gắng 

bịt họng những khẩu pháo đó, nhƣng không hiệu quả. Sang ngày thứ hai bọn Đức lại bắn 

thêm 40 quả  đạn nữa vào Sở  chỉ  huy Tập đoàn quân với cùng một độ  chính xác  –  cứ  2 

phút mỗi viên, nhƣng các phát đạn đã rơi ra sau Sở  chỉ  huy khoảng 1 kilômét. Chuyện gì

xảy ra vậy?! Chúng tôi đã lừa đƣợc bọn Đức! Chúng tôi ngụy trang tất cả  những thiệt hại 

và hố  đạn  ở  Sở  chỉ  huy và cho nổ  40 khối TNT cách đó 1 kilômét, phía gần với chiến 

tuyến, nhằm tạo ra  ảo giác chúng là những hố  đạn. Một “cái khung” (biệt hiệu của loại 

máy bay trinh sát quân Đức thƣờng dùng) bay qua đó vào buổi sáng và chụp ảnh kết quả

cuộc pháo kích, nhƣng do tất cả  những hố  đó đều là của giả  do chúng tôi tạo nên, việc 

chỉnh hƣớng của bọn Đức đã làm cho các quả  đạn bắn ra về  sau bay vƣợt qua đầu chúng

tôi. Tới lúc đó trọng pháo và máy bay của ta đã tiêu diệt đƣợc hai khẩu đại bác của chúng. 

Chúng  không  làm  phiền  chúng  tôi  thêm  lần  nào  nữa.  Vậy  đấy,  về  cơ  bản,  đó  là  câu 

chuyện cuộc đời quân ngũ của tôi trong phòng tình báo của Tập đoàn quân số 19. 

Ghi âm phỏng vấn: Elena Siniavskai

Hiệu đính: Artem Drabkin

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Hình ảnh lấy từ tư liệu của D.F. Zlatkin

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH

Ivan Shelepov

A la Guerre Comme a la Guerre (Chiến tranh là chiến tranh)

-  Ivan Ignatievich, xin hãy kể một cách vắn tắt ông bắt đầu nhập ngũ khi nào và ở

đâu? 

- Tôi nhận giấy triệu tập vào giữa ngày làm việc. Họ gọi tôi lên văn phòng, tôi tới, 

rồi họ  đƣa tôi xem tờ  giấy và bảo: “Hãy chuẩn bị  đồ  đạc, Shelepov,  sáng mai anh tới địa 

chỉ  ghi trên mảnh giấy này.” Đó là khoảng tháng Tám năm 1941. Tôi không nhớ  rõ là 

ngày nào… Sau một dịp nghỉ cuối tuần thì sự việc xảy ra nhƣ thế thật đột ngột.

- Sau đó ông đi đâu?

- Ban đầu tôi tới trƣờng huấn luyện quân sự. Trƣớc đó tôi sống tại Kineshma, một 

thị  trấn nhỏ  gần Ivanovo. Phong cảnh thật đẹp! Tuyệt vời dòng Volga! Ngƣời ta tập hợp 

tất cả chúng tôi lại và đƣa tới Ivanovo, tới trƣờng quân sự. 

- Đó là Học viện Lục quân phải không? 

- Đúng. Đầu tiên, chúng tôi đƣợc báo là khóa học sẽ kết thúc sau ba tháng, nhƣng 

có lẽ do bọn Đức đã chọc thủng chiến tuyến nên sau hai tuần, tất cả  chúng tôi đƣợc trang 

bị và chở bằng xe tải tới ga xe lửa. Từ nhà ga chúng tôi tiến thẳng ra mặt trận. 

- Tới khu vực nào? 

-  Gần Smolensk. Sƣ đoàn bộ  binh 161 chúng tôi thuộc Quân đoàn bộ  binh số  2 

(Quân đoàn này gồm 2 sƣ đoàn bộ  binh  –  sƣ đoàn 161 và sƣ đoàn 100. Ngày 18 tháng 

Chín năm 1941, cả  hai sƣ đoàn này đã trở  thành những đơn vị  Cận vệ  đầu tiên của Hồng 

quân nhờ đã chiến đấu gan dạ, dũng cảm và kiên cƣờng – Valeriy Potapov). Vào chập tối 

chúng tôi đƣợc nhận lƣơng khô và tới rạng sáng trung đoàn tôi tấn công vào vị  trí bọn 

Đức mà không có pháo bắn yểm trợ. 

Ivan Shelepov tại trạm quân y ngay sau một trận đánh. Tháng 11 năm 1942.

- Chỉ mình trung đoàn ông tham gia thôi sao?

-  Tôi không rõ –  dƣờng nhƣ là toàn bộ sƣ đoàn tôi. Đó là một cảm giác thật kỳ  lạ

–  mới  một  giờ  trƣớc  tôi  còn  là  thƣờng  dân,  vậy  màø  giờ  đây  tôi  đang  cầm  khẩu  súng 

trƣờng trong tay. Tôi cũng biết chiến tranh thật đáng sợ, nhƣng tôi không thể  hình dung 

ra  nỗi  sợ  hãi  bao  trùm  lên  ngƣời  nhƣ  thế.  Thực  ra  tôi  đang  phí  thì  giờ  để  kể  cho  anh 

chuyện ấy - điều ấy không cách nào tả nổi. Cái cảm giác nhƣ là anh đã sống suốt cuộc đời 

mình mà không hề  có quá khứ  và tƣơng lai vậy. Đôi lúc thậm chí tôi không thể  cử  động 

đƣợc vì quá căng thẳng, xin thề nhƣ vậy! Tất nhiên, chúng tôi đã đƣợc thông báo vào lúc 

mờ  sáng là sẽ  phải tấn công. Đại đội trƣởng tới từng nơi và thông báo cho mọi ngƣời. 

Nhƣng tất cả  đã diễn ra theo một cách rất kỳ  lạï. Tôi không thể  nhớ  lại chi tiết trận đánh 

đó. Tôi không rõ tại sao – có vài trận đánh ghi sâu vào ký ức nhƣ chúng mới diễn ra hôm 

qua, nhƣng ký ức về trận đánh đầu tiên của tôi thì chỉ hiện ra lờ mờ. Tôi luôn nhớ nó một 

cách lộn xộn.

Tiểu đội tôi nằm đợi trong một chiến hào nông choẹt. Chúng tôi phủ  lên ngƣời 

những cành cây để  bọn Đức không phát hiện đƣợc. Tôi cứ  nghĩ rằng sẽ  có một tiếng hô 

“Tiến lên!”, chúng tôi sẽ  hô “Hurra!” và tấn công. Tuy vậy mọi việc lại diễn ra rất khác. 

Đại đội trƣởng của chúng tôi khẽ nói: “Đi nào, các bạn!” và trèo lên bờ công sự. Tôi cũng 

làm nhƣ vậy. Tôi đi theo anh ta nhƣ một cái máy mà không nhận thức đƣợc mình đang 

làm cái gì. Chúng tôi lặng lẽ  đứng dậy và tiến lên phía trƣớc. Chúng tôi thậm chí không 

chạy  -  chỉ  bƣớc tới. Không hô “Hurra!‟, không gây tiếng động, không la hét. Chỉ  đứng 

lên rồi tiến về phía trƣớc. Trời vẫn còn tối và có một lớp sƣơng mù giăng khắp cánh đồng. 

Một sự  im lặng chết ngƣời bao phủ  xung quanh  –  chỉ  có tiếng vũ khí của chúng tôi kêu 

lách cách. Bỗng nhiên, tôi không còn nhớ  rõ nhƣ thế  nào, khung cảnh bỗng thay đổi, và 

đối phƣơng bắt đầu bắn nhƣ điên về  phía chúng tôi. Đầu tiên là bằng súng trƣờng, kế  đó 

là hai khẩu đại liên. Hay là ngay từ đầu bằng đại liên? Tệ thật, tôi không nhớ rõ nữa. Thế

rồi tất cả chúng tôi đều khom ngƣời chạy tới, tôi chạy đằng sau một ngƣời, tôi không biết 

tên anh ta là gì. Trong suốt cuộc tiến công, tôi chỉ còn nhớ cái lƣng có đeo balô của anh ta. 

Tôi không còn nhớ gì thêm. 

Tôi  chạy  nhanh  hết  sức  mình.  Chạy  đi  đâu  -  tôi  không  rõ.  Một  tiếng  hô  “Tiến 

lên!” vang lên trong đầu tôi, nhƣng tôi cho rằng không phải tiếng tôi kêu. Tôi không biết 

mình đã chạy bao lâu  –  trong một giây hay một tiếng đồng hồ, thời gian đối với tôi nhƣ 

dừng lại. Thình lình có cái gì đó đâm vào sƣờn tôi, tôi nhớ  là đã bị  hất tung lên rồi ngã 

xuống đất. Tôi bật dậy và lại ngã lần nữa, đồng thời cảm thấy đau nhói. Cái chân của tôi!!! 

Chân của tôi gập lại vì đau. Tôi cố  quay  lại xem chuyện gì xảy ra với chân mình, nhƣng 

không thể. Tôi trƣờn tới trƣớc, nhƣng rồi lại nghĩ: “Chờ  đã! Tại sao mình lại trƣờn tới? 

Mình cần phải quay về  trạm quân y.” Suốt một lúc lâu tôi không thể  nhận ra đâu là đằng 

trƣớc, đâu là đằng sau. Khói đạn  che phủ  khắp nơi, tiếng nổ, tiếng súng, tiếng va chạm 

vang lên khắp nơi. Toàn chiến trƣờng ngổn ngang những ngƣời co giật vì bị  thƣơng và 

một vài vật gì đó (tôi không thể  xác định cụ  thể  là vật gì  –  Valeriy Potapov). Tôi cố  chịu 

đựng và bò ngƣợc trở  lại. Tôi đã nghĩ trong tuyệt vọng rằng mình sẽ  không thể  quay về

chiến hào của ta đƣợc nữa. Bỗng có ai đó nắm lấy chân tôi và kéo. Mắt tôi tối sầm lại vì 

đau. Tôi không biết đƣợc làm thế  nào mình bò tới đƣợc chiến hào nữa. Chính  ủy đang  ở

ngay đó! “Anh đang làm  cái quái gì  ở  đây?” –  anh ta nói  –  “Quân hèn nhát!”. Tôi trả  lời 

rằng tôi không phải là ngƣời hèn nhát, tôi bị  thƣơng  ở  chân. “Vết thƣơng đâu???“  –  Anh 

ta hét. “Tôi không thể  tự  xác định đƣợc.” Một ngƣời cứu thƣơng bổ  tới, sờ  vào chân tôi 

và cƣời lớn: “Anh bị trật khớp” – anh ta nói - “bây giờ tôi sẽ kéo khớp và chữa cho anh!”. 

Anh ta nắm lấy chân tôi -  trƣớc cả  khi tôi kịp kêu “Mẹ  ơi!” - và kéo mạnh! Tay chính uỷ

lắc  đầu  –  tôi  chửi  thề  thật  khủng  khiếp.  Bản  thân  tôi  cũng  không  biết  đƣợc  mình  đã 

nguyền rủa dữ dội đến mức nào. 

- Ông ta có hỏi cung ông không?

-  Ồ  không! Anh ta cần đến tôi làm gì? Anh ta chỉ  hỏi tôi thuộc đơn vị  nào rồi bỏ

tôi lại. Ngƣời cứu thƣơng, sau khi biết tôi thuộc Đại đội 3, đại đội vừa đƣợc bố  trí đêm 

hôm trƣớc, đã mạnh dạn lên và cho  biết rằng các đại đội khác đã quay trở  về. “Mẹ  nó, 

chúng ta lại trắng tay lần nữa! Bao nhiêu ngƣời bỏ  mạng vô ích.” “Hãy bò về  với đồng 

đội của mình”  –  anh ta nói  –  “và hãy cẩn thận, bởi bọn Đức sắp gửi máy bay tới đấy. 

Hôm nay cậu thật may mắn, hãy nhớ  lấy cái ngày này! Tất cả  đồng đội của cậu giờ  có lẽ

đã chết cả rồi.”

- Ngày hôm đó các ông có tấn công lần nữa không?

- Không. Làm gì còn ai để tấn công. Toàn đại đội chỉ còn 10-12 ngƣời cùng trung 

uý chỉ huy. Thƣợng sĩ phụ tá cũng bị giết. Tôi chỉ còn nhớ họ của anh ấy – Chumilin. Tại 

sao lại thế  nhỉ  -  nhƣng dù sao tôi cũng đã nhớ. Giờ  đây tôi cảm thấy thƣơng cho anh  ấy! 

Anh  ấy mới chỉ  20 tuổi đầu, nhƣng tóc đã bạc và bị  mất một ngón tay. Tôi không biết 

thêm điều gì về anh ta. 

- Sau đấy ông có tiếp tục tham gia tấn công không?

- Sao không? Tất nhiên là có chứ. Hai lần nữa.

- Hai lần nữa??? Ông thật may mắn! 

-  (ngắt lời ngƣời phỏng vấn) Hê! Tất cả  những ai sống sót sau chiến tranh đều rất 

may mắn! Họ  đều có một số  phận khác thƣờng. Những ai có số  phận bình thƣờng đều đã 

chết thậm chí ngay khi chƣa kịp bắn một phát súng, chƣa kịp nhìn thấy bọn Đức. 

Cùng đọc tờ báo của sƣ đoàn. Có lẽ khoảng hè – thu 1943.

- Ông chiến đấu lần kế tiếp khi nào? 

-  Hai ngày sau chúng tôi nhận đƣợc lính tiếp viện đến từ  một nhà máy, họ  thật to 

lớn và khỏe mạnh! Bàn tay họ  tựa những chiếc kìm sắt. Lúc  ấy tôi 18 tuổi, còn tất cả

những công nhân ấy đang ở tuổi 40. Ngày hôm sau chúng tôi  tấn công lần nữa, Thậm chí 

chúng tôi còn đƣợc pháo binh hỗ trợ. Chúng tôi ngồi trong một cái rãnh nhỏ, hút thuốc và 

lắng nghe tiếng đạn pháo quân ta rú ngang qua đầu. Tôi đã quen với điều đó, nó không 

còn làm tôi khiếp nhƣợc dù tiếng rú quả  là kinh khủng. Rồi chúng tôi tiếp tục nhận đƣợc 

lệnh “tiến lên!” và tất cả  trèo lên khỏi cái rãnh. Alex Kotov, Felix  –  anh chàng ngƣời 

Armenia và tôi đƣợc lệnh phải yểm trợ cho một khẩu pháo của ta. Ở đấy chúng tôi có loại 

pháo 45mm và chúng tôi đƣợc lệnh phải bảo vệ một trong số các khẩu pháo ấy. Thậm chí 

chúng tôi còn đƣợc nhận một khẩu trung liên DP (Degtyarev) cùng hai băng đạn hình đĩa 

kèm theo. 

-  Ivan  Ignatievich,  Vasil  Bykov  nói  về  khẩu  trung  liên  DP  một  cách  khác,  nói 

rằng đấy là một khẩu súng nặng nề và kém chính xác. . . (tiểu thuyết “Phát tên lửa thứ ba” 

– LTD.)

-  (ngắt lời ngƣời phỏng vấn) Đúng, tôi có đọc đoạn  ấy! Bykov là ai? Anh ta là 

lính pháo binh! Thế đấy! DP là một khẩu súng tốt. Anh ta chỉ trích súng máy của quân ta, 

nhƣng khẩu 34 (MG-34  –  Valeriy Potapov) của Đức còn nặng hơn thế! Nó nặng khoảng 

12 kí, còn nếu gắn trên càng ba chân thì thậm chí không thể  nhấc nổi! Súng máy của ta 

rất tốt, anh ta nên câm miệng lại! Sau đó bọn Đức có thêm khẩu 42 (MG-42  –  Valeriy 

Potapov), khẩu ấy cũng khá nặng nhƣng bắn  nhanh hơn. Bọn Đức dù vậy vẫn dùng khẩu 

MG-34 cho đến hết chiến tranh. 

DP là loại súng trung liên. Chúng tôi dùng chúng rất nhiều, trong mỗi trung đội 

đều có. Bọn Đức có nhiều súng máy nhƣ thế  không? Chúng tôi thì có đủ  súng máy để

phòng thủ. Trong thời kỳ đầu, chúng ta đôi lúc bị thiếu đạn, vì thế nhiều ngƣời đã hy sinh 

một cách vô ích!

- Các ông yểm trợ cho cánh pháo binh bằng cách nào?

- Bằng cách nào à? Đầu tiên, kể nhé, nếu bọn Đức phản công, chúng tôi phải ngăn 

không cho chúng lại gần các khẩu pháo.  Các pháo thủ  cũng có vũ khí cá nhân, thậm chí 

cả  tiểu liên. Tuy nhiên chúng tôi luôn đặt mục tiêu bảo vệ  các khẩu pháo lên hàng đầu. 

Đại đội trƣởng của chúng tôi luôn bảo : “Đừng quên các anh có mặt  ở  đây để  làm gì!” 

Chúng tôi không thể  giữ vững vị  trí nếu thiếu những khẩu pháo ấy. Bây giờ  ngƣời ta hay 

xem thƣờng các khẩu pháo  ấy, cho rằng chúng thiếu hiệu quả, nhƣng tôi muốn nói với 

anh rằng: nếu chúng tôi không có những khẩu pháo ấy, chúng tôi đã không thể phòng thủ

đƣợc.  Để  chống  lại  các  ụ  súng  máy  Đức,  bộ  binh  cơ  giới  (Panzergrenadiers  –  Bair 

Irincheev), xe half-track (xe chở  lính có vỏ  thép mỏng, có bánh xe đằng trƣớc và xích 

đằng sau  -  LTD), sử  dụng những cục cƣng của chúng tôi là hợp nhất! Bọn Đức cũng có 

những loại pháo y nhƣ vậy.

- Nó có hiệu quả khi đối đầu với xe tăng địch không?

-  Vâng, khá hiệu quả! Tất cả  chúng tôi cùng hợp sức chống lại xe tăng. Cả  pháo 

binh lẫn bộ  binh chúng tôi cùng tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, bọn Đức không phải lúc nào 

cũng có xe tăng, nhƣng bộ  binh cơ giới và xe half-track  thì luôn có mặt. Chúng tôi đốt 

cháy xe tăng của chúng thật dễ dàng! Nhiệm vụ trƣớc tiên của các xạ thủ súng máy là cắt 

rời bộ  binh khỏi xe tăng. Đấy là nhiệm vụ  khó khăn nhất, vì xe tăng luôn cố  tiêu diệt các 

ụ  súng máy trƣớc tiên. Nếu chúng tôi cắt bộ  binh khỏi xe tăng thành công, chúng tôi có 

thể  đốt cháy tất cả  xe tăng của chúng. Một chiếc xe tăng không thể  thấy bất cứ  gì xung 

quanh nó, bạn có thể tiến lại gần và đốt cháy hoặc phá đứt xích xe. 

Chúng tôi có rất ít loại pháo chống tăng đó, đôi khi có pháo nhƣng lại không có 

đạn. Đôi khi thậm chí chúng tôi đã phải dùng pháo của bọn Đức, miễn là tìm ra đạn cho 

chúng. 

- Có thƣờng xuyên không?

-  Không, không thƣờng xuyên. Nhƣng đôi khi chúng tôi tìm cách kiếm lấy một 

khẩu pháo nhỏ cùng một cơ số đạn. Rồi chúng tôi mang nó đi. 

- Loại cối 50mm cấp đại đội có hiệu quả không?

-  Cối cấp đại đội tất nhiên là bắn yếu hơn cối cấp tiểu đoàn (cối 82 mm  –  Valeriy 

Potapov), nhƣng nhẹ  hơn. Nó có thể  khiêng bởi hai ngƣời. Loại cối cấp tiểu đoàn phải 

mất ba ngƣời khiêng: một ngƣời mang ống nòng, ngƣời khác mang càng chống và ngƣời 

thứ  ba  mang  mâm  chống  giật.  Khẩu  cối  cấp  tiểu  đoàn  khá  nặng,  đôi  khi  mất  đến  hai 

ngƣời để khiêng mâm súng. Anh cứ thử – mang cái của ấy đi 10 km không nghỉ, chạy lúp 

xúp trong bụi cây để tránh đạn vãi từ máy bay và rồi lập tức khai hỏa vào đối phƣơng thử

xem!  Rồi  xem  trông  các  anh  sẽ  nhƣ  thế  nào!  Còn  nữa,  trong  trận  chiến  anh  phải  mau 

chóng thay đổi vị  trí bắn với khẩu cối đại đội, nhƣng không phải lúc nào cũng làm đƣợc 

thế  với khẩu cối tiểu đoàn! Anh không thể  bỏ  nó lại hay để  mất nó  –  anh có thể  sẽ  bị  xử

bắn. Nếu nó bị  hỏng  –  anh phải mang về  cho đại đội trƣởng hay cho thƣợng sĩ phụ  tá. 

Nếu không thì “bố già” (“bố già”: sĩ quan NVKD hay SMERSH – Valeriy Potapov) sẽ sờ

gáy anh. 

Súng cối khá hữu ích trong phòng thủ. Nếu bọn Đức bị ghìm đầu xuống trong khi 

tấn công, chúng tôi sẽ gõ đầu chúng bằng súng cối ngay dƣới làn đạn súng máy của mình. 

Bọn Đức cũng dùng mánh lới  y nhƣ thế! Đó là  tại sao lại rất nguy hiểm khi chúi đầu 

xuống lúc tấn công. Sẽ không dễ để vùng dậy lần nữa! Nếu ta tấn công, ta phải luôn chạy 

cho tới phút chót, và không bao giờ  đƣợc chúi  xuống  ẩn nấp. Nếu nằm xuống  –  ta sẽ

không thể  nhấc nổi mông khỏi mặt đất lần nữa. Ta cũng có thể  sẽ  nhận một viên đạn của 

đại đội trƣởng. Anh ta có  quyền làm thế. Đó là trách nhiệm của anh ta để  bắt bạn phải 

tiến công, và tiểu đoàn trƣởng hay trung đoàn trƣởng cũng không thể trách nếu anh ta bắn 

ai đó vì điều này. Đại đội trƣởng của chúng tôi cảnh cáo ngay từ  đầu rằng nếu chúng tôi 

nằm  xuống,  anh  ta  sẽ  bắn  tất  cả.  Anh  ta  quả  đã  bắn  một  vài  ngƣời.  Sau  đó  chúng  tôi 

không lần nào thử làm nhƣ thế nữa.

- Ông có thƣờng phải tấn công không?

- Tất nhiên, sao lại có thể không nhỉ? Có chứ. Nhƣng tấn công có nhiều cách khác 

nhau! Tốt nhất là khi đợt tấn công của  bọn Đức vừa bị  bẻ  gãy, lúc chúng bắt đầu rút lui 

thì “Tuốt lê!” và tiến lên! Chúng tôi phải moi bụng bọn Đức, rồi nhảy vào chiến hào của 

chúng. Sau đó phải ngay lập tức củng cố công sự. Anh có thể kiểm tra đồng hồ của mình: 

trong vòng nửa giờ  đồng hồ  bọn chúng sẽ  hồi tỉnh và tổ  chức một đợt phản công. Nếu 

anh không có một vị  trí phòng thủ  chắc chắn, chúng sẽ  đánh bật anh trở  lại! Anh không 

đƣa kịp pháo yểm trợ  vào vị  trí, thế  là tuyệt vời cho bọn bộ  binh cơ giới. Nhƣng nếu anh 

cố đƣa đƣợc dù chỉ một khẩu pháo tới nơi thì chúng sẽ chẳng thể làm đƣợc gì! Bọn chúng 

sẽ phải đƣa tới xe tăng và pháo, nhƣng đào đâu ra đƣợc những thứ đó? Chỉ trên phim ảnh 

thời nay (ông nói với vẻ  hờ  hững –  Valeriy Potapov) mới thấy bọn Đức với hàng đàn xe 

tăng trong các đợt tấn công  của chúng. Trong thực tế  sự  việc diễn ra khác xa! Tất nhiên, 

bọn Đức  có xe tăng, nhƣng không phải  ở  khắp  nơi! Thƣờng thƣờng chúng gửi tới vài 

chiếc xe tăng, chúng sẽ  bắn từ một khoảng cách an toàn và đẩy lùi bộ  binh của chúng ta, 

thế  thôi! Chúng sẽ  không  làm hơn thế  đâu! Chúng cũng không muốn chết, tại sao chúng 

lại phải phơi mình ra trƣớc đạn pháo của chúng ta? Chúng sẽ  cố  bắt chúng ta để  lộ  vị  trí 

đặt pháo và cố tiêu diệt pháo bằng tất cả những gì chúng có trong tay – máy bay, pháo và 

cối. Đấy là lý do tại sao pháo của ta phải mau chóng thay đổi vị trí. Họ vừa mới đào công 

sự đằng sau lƣng anh, vậy mà một giờ sau đã thấy họ biến đâu mất! 

Tôi đã khoác lác khi nói rằng dễ  dàng đốt cháy xe tăng của chúng. Không hề! 

Trƣớc khi đại đội của anh đốt cháy một chiếc xe tăng, anh sẽ  phải đổ  mồ  hôi chán chê. 

Nó sẽ diệt một nửa đại đội bằng súng máy hay nghiền nát họ bằng xích sắt. Nếu bọn Đức 

tiêu diệt thành công khẩu pháo chống tăng của ta, chúng sẽ  cho xe tăng bò dọc chiến hào 

và làm gỏi mọi ngƣời. Nhƣng đó là về sau này, khi chúng tôi đã biết đào chiến hào.

- Thế trƣớc đấy thì các ông làm gì?

-  Năm 1941 chúng ta không đào chiến hào. Chúng tôi đào hố  cá nhân hay hố  cho 

hai ngƣời, đào theo đội hình trung đội. 

Tại một công sự bê tông Đức bị phá hủy. Tháng 7 năm 1944.

- Ƣu nhƣợc điểm của chúng thế nào? 

-  Nhƣợc  điểm  là  anh  có  thể  bị  chôn  vùi  trong  đấy,  nếu  nó  bị  sập.  Đó  là  một 

chuyện. Kế  tới là nó hoàn toàn bị  cô lập! Chiến tranh là thế; tiếng nổ  ở  khắp nơi, anh 

không thể  nghe hay thấy đƣợc mệnh lệnh, sự  chỉ  huy và thông tin lúc đấy rất kém. Làm 

cách nào anh chỉ  huy đƣợc lính nếu mọi ngƣời đều  ở  trong hố  của mình? Lắp điện thoại 

cho mỗi hố  sao??? Anh cảm thấy thế  nào khi ngồi trong một cái lỗ  giữa cánh đồng? Anh 

cũng không thể  biết những ngƣời khác ra sao. Có lẽ  họ  đã chết hay rút lui mà anh lại là 

ngƣời duy nhất còn lại? Cứ  nhƣ thể  tất cả  quân thù đang nhằm bắn vào anh vậy. Thật là 

một  cảm  giác  khủng  khiếp!  (Hồi  ký  của  Nguyên  soái  Rokossovsky  cũng  đề  cập  tới 

chuyện tƣơng tự. Ông viết rằng đấy là một trong những lý do chính của sự  rút lui không 

tổ chức và điều đấy ngăn ta điều khiển binh lính trên chiến trƣờng – Valeriy Potapov)

Tuy nhiên, các sĩ quan của chúng tôi đã mau chóng học bài học này và dạy chúng 

tôi cách đào hào sâu toàn thân và sâu bán thân. Đó quả  là cả  một khoa học! Không phải 

chỗ nào ta cũng có thể đào chúng đƣợc! Ta đào ở đây và đụng phải đá, Ta đào chỗ kia và 

gặp nƣớc phun lên. Đôi lúc chúng tôi phải chiến đấu với nƣớc ngập đến đầu gối. Đó là vì 

chúng tôi không có thời gian để  đào  ở  chỗ  khác, hay bởi “những tính toán chiến thuật”. 

Chúng tôi đào hào sâu bán thân để  khỏi phải đứng trong nƣớc. Nhƣng những hào  ấy rất 

dễ  sập, và sau một giờ  chiến đấu quyết liệt anh  không thể  nói đó là một vị  trí phòng thủ

nữa.

Ivan Ignatievich đã từng tham gia chiến đấu quanh hồ Balaton.

-  Ivan Ignatievich, ông có thể kể tỉ mỉ cho chúng tôi về trận đánh ấy, đến tận từng 

tiểu tiết đƣợc không? 

- Tốt hơn hãy để tôi kể câu chuyện bắt nguồn từ một tin đồn truyền đi trƣớc khi có 

biến cố  ở  Hungary. Tin đồn nói rằng họ  sẽ  chọn tất cả  những ngƣời có từ  ba vết thƣơng 

trên mình trở  lên (Ivan Ignatievich đã bị  thƣơng bốn lần trong chiến tranh). Họ  nói rằng 

sắp chiến tranh với Mỹ và họ cần những ngƣời có kinh nghiệm. Số lƣợng vết thƣơng trên 

mình là một thứ  nhãn hiệu, một thứ  dấu bảo đảm kinh nghiệm của chúng tôi. Tin đồn đã 

thành sự  thật  –  một thiếu tá tới tiểu đoàn chúng tôi, tất cả  chúng tôi tập hợp lại và ông ta 

chọn lấy vài ngƣời trong danh sách, trong đó có tôi. Chúng tôi đƣợc đẩy lên xe tải và rời 

tiểu đoàn đi huấn luyện làm thiếu uý chỉ  huy. Tuy nhiên, theo nhƣ tôi nhớ, tôi chỉ  ở  đấy 

trong vòng một tháng. Đột nhiên họ  tập hợp chúng tôi lại, phát cho vũ khí, đẩy lên xe tải 

và đƣa chúng tôi đi đâu đó. Chúng tôi đƣợc đổ  xuống trên một cánh đồng và nhận lệnh 

phải đào chiến hào. Ngoại trừ lựu đạn và súng trƣờng, chúng tôi không đƣợc phát thêm gì 

cả. Toàn đại đội chỉ  có hai khẩu trung liên. Chúng tôi đang  ở  đâu, các đơn vị  láng giềng 

bố  trí  ở  đâu,  đâu là hậu phƣơng, pháo yểm trợ  chỗ  nào –  chúng tôi đều không đƣợc biết. 

Từ  những tiếng đất rung chuyển rầm rầm và tiếng nổ  gần đấy, chúng tôi nhận ra mình 

đang ở rất gần trận tuyến. Đại đội trƣởng đảo tới đảo lui và thúc chúng tôi đào hào cật lực. 

Dù sao  chúng tôi cũng không đào xong! Trƣớc khi chúng tôi kịp làm bất cứ  chuyện gì, 

bọn “Messers” (tên gọi loại máy bay Đức Bf-109 do lính Nga đặt  -  Valeriy Potapov) bay 

là là về phía chúng tôi, theo sau là mấy chiếc “Shtuckas” (tên gọi loại máy bay Đức Ju-87 

do  lính Nga đặt  –  Valeriy Potapov). Chúng không tấn công chúng tôi mà bay tới một thị

trấn nhỏ  ở  phía tay phải chúng tôi. Tại đó chúng bị  máy bay tiêm kích của ta chặn lại và 

một trận đánh dữ dội bắt đầu. 

Những tiếng nổ đã vang tới rất gần, dƣờng nhƣ tôi đã nghe thấy tiếng gầm gừ của 

động cơ  –  XE TĂNG!!! Tuyến phòng thủ  của chúng tôi nằm phía sau một ngọn đồi lớn. 

Tôi liên tục nhìn lên đỉnh đồi. Tôi thấy đội cảnh vệ  tiền tiêu của chúng tôi xuất hiện  ở

đỉnh đồi và chạy về phía chúng tôi. Họ chạy tới đại đội trƣởng, giải thích gì đó với anh ta 

và chúng tôi nhận đƣợc lệnh: “Sẵn sàng chống lại xe tăng!” – mặc dù tất cả chúng tôi đều 

biết điều gì đang xảy ra – chúng tôi đều không còn là tân binh. Chúng tôi nấp dƣới những 

dãy hào hố  mới đào xong một nửa, cố  gắng nguỵ  trang thân mình bằng cành cây, đất cát 

và bằng tất cả những gì chúng tôi tìm thấy đƣợc. 

Tất nhiên, chúng tôi biết mình chết chắc  –  chúng tôi không có pháo chống tăng, 

không có súng máy – thật vô vọng để chống lại xe tăng. Chúng tôi có lựu đạn, nhƣng thật 

khó đánh gục xe tăng bằng quả lựu đạn cầm tay!

- Vấn đề nằm ở đâu?

-  Vấn đề  là xe tăng đƣợc làm bằng thép còn con ngƣời thì không. Chúng sẽ  bắn 

súng máy và pháo vào anh. Chúng cũng có thể  nghiền nát anh. Nói chung rất khó để  hạ

một chiếc xe tăng, và đặc biệt rất khó khi dùng lựu đạn cầm tay. Nếu tổ lái là tân binh thì 

anh còn có cơ hội, nhƣng nếu có lính cựu trong xe thì gần nhƣ là không thể. Điều bất 

hạnh  ở  chỗ  anh chỉ  biết đƣợc điều đó khi chiếc xe tăng thình lình quay lại và nghiền nát 

anh. Hay khử  anh bằng súng máy. Nhân tiện tôi hỏi, anh dùng từ  “hạ  gục” là có ý gì? 

Chúng ta có loại lựu đạn chống tăng, nhƣng chúng vô dụng khi chống lại xe tăng hạng 

nặng. Không phải lựu đạn nào cũng đốt cháy đƣợc xe tăng! Phải là ngƣời đƣợc luyện tập, 

lạnh lùng và có kinh nghiệm. Anh không có nhiều cơ hội để tiến lại gần chiếc xe tăng, và 

anh còn ít cơ hội hơn nữa để chạy xa khỏi xe tăng nếu không hạ đƣợc chúng. Trong phần 

lớn trƣờng hợp chúng tôi cố phá hỏng xích xe. Sau đó thì dùng đến bộc phá. Tổ lái không 

cần phải  bỏ  một chiếc xe bất động, chúng có thể  ở  lại và tiếp tục chiến đấu. Anh luôn 

phải đốt cháy xe. 

Đây là bức ảnh bạn tôi, Alexander Shulgin, chụp vào mùa thu 1943. Tôi rất mong 

các anh công bố  bức  ảnh này, bức duy nhất của anh  ấy mà tôi có  –  anh đã hy sinh khi 

đang chiến đấu ngày 3 tháng Tƣ năm 1944.

-  Lúc đó thậm chí chúng tôi còn không có cả  chai cháy ("Molotov Cocktails"  –

Valeriy Potapov) Chúng tôi chỉ  có lựu đạn cầm tay, hầu hết là loại “quả  dứa” (loại F1  -LTD).  Vừa  lúc  ấy  có  vài  ngƣời  xuất  hiện  trên  đỉnh  đồi  –  họ  chạy  hết  tốc  lực  về  phía 

chúng tôi. Điều đó có nghĩa là tuyến phòng thủ  của chúng tôi đã hoàn toàn bị  bẻ  gãy và 

đám xe tăng cùng bộ binh cơ giới (Panzergrenadier) sắp ùa về phía chúng tôi. 

- Sao lại có bộ binh cơ giới?

- Bọn Đức thƣờng làm thế – xe tăng tiến công, theo sau là bộ binh cơ giới. Đấy là 

lý do tại sao các đợt tấn công của chúng thật mạnh mẽ. 

- Rồi điều gì xảy tiếp? 

-  Xe tăng Đức xuất  hiện  ở  đỉnh đồi. Khoảng một chục chiếc cùng tiến  -  chúng 

phóng tới trƣớc với một tốc độ  rất cao và bắn súng máy vào đám bộ  binh của ta đang bỏ

chạy. Tôi nhớ  lại cái suy nghĩ ngu ngốc –  “NÓ đấy !” –  đã lƣớt qua đầu tôi lúc đấy. Thật 

đáng sợ – một đợt tấn công của xe tăng! Chúng thậm chí nã pháo liên tục. Điều đó gây ấn 

tƣợng kinh khủng lên đám lính thiếu kinh nghiệm, mặc dù hầu nhƣ không thể  bắn chính 

xác khi đang di chuyển. Nhƣng gây ảnh hƣởng tinh thần ghê gớm! Tôi cũng bị dao động, 

dù trƣớc đó đã có kinh nghiệm về kiểu tấn công thế này. Tôi biết điều chính yếu là không 

đƣợc bỏ chạy, dù đôi chân chỉ chực cuốn phăng tôi đi. Chúng tôi phải để cho xe tăng tiến 

qua vị  trí của mình rồi chặn đứng bọn bộ  binh cơ giới. Thế  nhƣng đám xe tăng quay lại 

và lăn dọc tuyến phòng thủ  của chúng tôi, hầu nhƣ sắp nghiền nát chúng tôi ra. Tôi trông 

thấy một trong những chiếc xe tăng đó nghiến trúng một quả mìn và nổ tung...

- Những quả mìn ở đâu ra?

-  Kỹ  sƣ công binh của trung đội đặt chúng để  gài mìn con đƣờng. Hai chiếc xe 

tăng bị hạ bởi những quả mìn đó, một chiếc bốc cháy còn chiếc kia, xích bị đứt tung, vẫn 

tiếp tục bắn rất lâu trƣớc khi bị  bao trùm bởi ngọn lửa. Tôi muốn nói với anh một điều –

tất cả  nghe thì có vẻ  anh hùng, thế  nhƣng không có gì anh hùng trong trận đó cả. Tôi 

trông thấy một chiếc tăng Panther của Đức với xích xe nhuộm đỏ. Chúng đỏ  lên vì dính 

máu, nhƣng mãi sau tôi mới nhận ra điều đó. Tôi không còn nhớ  mình đã nghĩ gì trong 

suốt trận đánh đó. Tôi chỉ còn nhớ mập mờ về nó. Họ nói rằng tôi đã hạ gục một xe tăng, 

nhƣng  tôi  không  chắc  đấy  có  phải  “do  tôi  hạ”  không.  Tất  nhiên,  các  vị  lãnh  đạo  cần 

những anh hùng còn sống chứ  không phải những ngƣời đã chết. Đó là lý do tại sao trong 

bệnh viện (đây là lần bị  thƣơng cuối cùng của Ivan Ignatievich  –  ông bị  mất một  chân 

trong trận này – Valeriy Potapov) tôi đƣợc nhận Huân chƣơng Vẻ vang.

Sau  này  tôi  đã  quay  lại  nơi  đấy  một  lần  (thị  trấn  Komarno  thuộc  Hungary  –

Valeriy Potapov). Năm 1985 họ  đƣa chúng tôi tới đó nhân dịp Ngày Chiến thắng. Tôi đã 

tới viếng nghĩa trang.  Tất cả  các bia mộ  đều đƣợc khắc cùng một ngày  –  19 tháng Hai, 

1945. Chuyện là thế đấy.

Phỏng vấn: Valeriy Potapov

Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC LÍNH BỘ BINH

Nikolai Obryn'ba

Tôi ba lần căm thù những kẻ mà, 

vì gây ra chiến tranh, 

đã buộc tôi phải giết ngƣời

Nikolai Obryn'ba, năm 1943.

Đầu đội những chiếc mũ sắt vuông cạnh, hai ống tay áo xắn cao, tiểu liên lăm lăm 

trong tay, bọn Đức tiến thành một hàng dài dọc con đƣờng làng, chốc chốc lại nã một loạt 

đạn,  đó  đây  có  những  binh  lính  ta  chui  ra  khỏi  chỗ  ẩn  nấp  để  đầu  hàng.  Leshka  (hay 

Lesha hoặc Leshka đều là tên gọi thân mật của Alexei  –  Oleg Sheremet) nhảy lên phía 

trên chỗ tôi:  

"Chúng đang ở rất gần rồi!"

Chúng tôi giấu những khẩu súng của mình xuống dƣới lớp rơm, lúc này đã có thể

nghe thấy tiếng chúng nói: 

"Rus! Los, los!" (tiếng Đức: “Bọn Nga kia! Nào, ra nào!” – LTD.)

Bọn Đức cƣời lớn và đƣa chúng tôi tới nhập vào nhóm binh lính ta đang đứng xa 

xa, có hai tên lính đứng gác. 

Chúng  tôi  đứng  đằng  trƣớc  một  ngôi  nhà  trong  làng,  chia  từng  nhóm  3  đến  4 

ngƣời, và rồi, sau khi nhóm bên trong đi ra, một nhóm tù binh mới đƣợc dẫn vào trong 

nhà. Tại đó họ bị lục soát, kiểm tra giấy tờ từng ngƣời và tìm xem có ai giấu vũ khí trong 

ngƣời hay không. 

Tôi bƣớc vào ngôi nhà. Một lớp rơm vàng mới tinh đƣợc phủ  lên trên sàn nhà, 

một trong những chiếc cửa sổ  đƣợc che bằng một tấm chăn, trong phòng có chừng năm 

tên Đức, gồm cả  một tên thiếu uý hãy  còn trẻ.  Chúng bắt chúng tôi tháo balô, mặt nạ

phòng độc ra và đặt tất cả  lên bàn, và bắt đầu lục soát cẩn thận. Một tên trong bọn tìm 

thấy mẩu salo (mỡ  lợn muối  –  Oleg Sheremet.) trong túi của tôi, phủ  đầy vụn bánh mì. 

Hắn lẳng lặng bỏ nó vào túi mình, cùng một miếng đƣờng còn sót lại mà tôi định để dành 

phòng những khi thiếu thốn. 

Lục tung chiếc túi cứu thƣơng của tôi, bọn Đức không lấy đi món gì, ngoại trừ sau 

khi tìm thấy một hũ đựng mật ong bên ngoài có dán nhãn một loại thuốc nào đó, xoay 

xoay  nó  trong  lòng  bàn  tay  một  lúc  lâu,  ngửi  ngửi  nhƣng  rồi  cho  rằng  đó  là  một  loại 

thuốc  và  ném  trả  nó  lại  vào  trong  túi.  Một  tên  Đức  vừa  tuột  chiếc  thắt  lƣng  có  khảm 

những miếng đồng kiểu Cápcadơ khỏi quần tôi rồi đeo thử  nó vào ngƣời, vừa nói: "Đồ

lƣu niệm, gut, gut..." Tôi hiểu ra rằng chúng đang lấy đi bất cứ  thứ  gì của chúng tôi mà 

chúng thích, và sự  đê tiện này làm tôi thấy kinh ngạc: tại sao một ngƣời lính lại đi lấy 

một  miếng  đƣờng,  một mẩu  mỡ  lợn,  một  chiếc  khăn  tay  còn  sạch  của  một  ngƣời  lính 

khác? 

Thế  rồi một tên feldwebel (hạ  sĩ quan) tóc đỏ  mặt đầy tàn nhang lôi cuốn album 

có chứa những bức vẽ  của tôi về  cuộc đời quân ngũ từ  chiếc túi đựng mặt nạ  phòng độc 

ra, miệng nói "kunstmaler, kunstmaler" (nghệ  sĩ), và xem nó một cách chăm chú. Đám 

còn lại vội đặt balô của chúng tôi sang một bên và cũng bắt đầu chăm chú nhìn, ngón tay 

chỉ trỏ, miệng cƣời thích thú. Tên thiếu uý cấm lấy cuốn album, xem qua nó rồi tra hỏi tôi: 

"Từ đâu tới?"

Tôi trả lời:

"Moskau, kunstmaler Akademie." (tiếng Đức: “Ở  Maskva, Học viện Nghệ  thuật” 

- LTD)

Điều này làm hắn chú ý. Mở cuốn album ra chỗ một trang còn trống, hắn chỉ ngón 

tay vào đấy, rồi chỉ ngƣợc lại vào ngƣời hắn, miệng nói: 

"Zeichnen, zeichnen portrait." (tiếng Đức: “Vẽ đi, vẽ chân dung tao này” – LTD)

Tôi lấy ra một chiếc bút chì và bắt đầu phác thảo chân dung của hắn. Bọn Đức và 

những tù binh còn lại đờ ngƣời ra quan sát. Năm phút sau tất cả đều đã nhận ra chân dung 

tên thiếu uý và bắt đầu xì xào: "Gut! Prima!.." (tiếng Đức: “Tuyệt! Số  một!”  -  LTD) Tôi 

xé tờ  giấy có vẽ  bức chân dung ra và đƣa nó cho tên thiếu uý. Hắn quan sát nó thật tỉ mỉ

rồi nhét vào trong túi áo. 

...Ngày thứ mƣời bốn của cảnh bị giam cầm. Đã tới Holm-Zhirkovskiy. Sau mƣời 

ngày phải chờ  sau hàng rào kẽm gai nơi chúng nhồi nhét những tù binh từ  con số  350 

ngàn ngƣời bị  bọn Đức bao vây hồi tháng Mƣời năm 41  ở  Viazma, chúng bắt đầu dẫn 

chúng tôi đi về  phía tây, dọc theo một con đƣờng lớn. Trong mƣời ngày đó chúng không 

cấp cho chúng tôi cả  thức ăn lẫn nƣớc  uống, và chúng tôi phải ngồi chen chúc ngoài trời 

không mái che. Những đợt tuyết sớm rơi vào khoảng đầu tháng Mƣời của năm đó, trời rất 

lạnh  và  thời  tiết  thật  ẩm  ƣớt  khó  chịu.  Tại  đây,  lần  đầu  tiên  trong  đời,  chúng  tôi  phải 

trông thấy cảnh những con ngƣời đang khoẻ mạnh đã ngã ra chết vì đói nhƣ thế nào. 

Chúng tôi đi đến ngày thứ  tƣ trên con đƣờng quốc lộ  Warsaw dẫn về  Smolensk, 

nghỉ chân tại những khu trại đƣợc bố phòng đặc biệt, bao quanh bởi những hàng rào kẽm 

gai và các tháp canh có đặt đại liên, chúng rọi đèn pha vào chúng tôi xuyên suốt qua màn 

đêm. Đi bên chúng tôi là một hàng dài những tù binh bị  thƣơng  –  nằm trên những chiếc 

xe ngựa thƣờng, những xe ngựa hai bánh hay đi bộ. Phần đuôi của đoàn tù binh, rải dài từ

ngọn đồi này qua ngọn đồi nọ, kéo  ra cho tới tận đƣờng chân trời. Tại những điểm dừng 

chân và dọc trên suốt chặng đƣờng đi nằm rải rác hàng ngàn xác ngƣời chết vì đói và rét. 

Những kẻ  còn ngắc ngoải bị  bọn lính bắn hạ  bằng tiểu liên, một tên lính gác giơ chân đá 

vào một tù binh đã ngã và, nếu anh ta không thể đứng dậy kịp thời, hắn liền nổ súng. Tôi 

theo dõi trong khiếp hãi cảnh chúng biến những con ngƣời khoẻ  mạnh dần thành những 

những kẻ hoàn toàn kiệt quệ và cuối cùng là tới cái chết. Mỗi lần trƣớc khi chúng tôi khởi 

hành, đám lính gác cầm dùi cui lại tập hợp dọc hai bên hàng ngƣời, tiếp theo là một mệnh 

lệnh vang lên: 

Trên đƣờng di chuyển. Tháng Mƣời năm 1941

Cảnh tù binh đang lột da một xác ngựa. 

Đƣợc vẽ ở mặt sau của một tờ truyền đơn Đức. 

"Tất cả mọi ngƣời, chạy!"

Đám ngƣời co chân chạy, cùng lúc đó những cú quật văng xối xả vào chúng tôi. 

Chạy đƣợc khoảng một – hai kilômét, một mệnh lệnh khác lại ban ra: 

"Dừng lại!"

Nghẹt thở, nóng bức, mồ  hôi đầy mình, chúng tôi dừng lại, và chúng thƣờng để

chúng tôi cứ  đứng nhƣ thế  trong mƣa và tuyết, vặn mình dƣới những ngọn gió buốt lạnh 

thấu xƣơng suốt cả  tiếng đồng hồ. Những bài luyện tập đó đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần, 

kết quả  là sau đó chỉ  những ngƣời khoẻ  mạnh nhất là còn bƣớc đi trên đƣờng. Rất nhiều 

đồng chí của chúng tôi phải nằm lại đó, và những phát súng lẻ  tẻ  vang lên  –  bọn chúng 

đang kết liễu những ai không thể đứng dậy đƣợc. 

Đôi khi chúng dồn chúng tôi đi sang hai bên đƣờng, điều này nhằm mục đích dọn 

sạch những quả  mìn; nhƣng chỉ  có những quả  mìn cá nhân bị  nổ, sức nặng của chúng tôi 

không đủ  để  kích nổ  những quả  mìn chống tăng, và khi chúng cho những chiếc xe đi qua 

các ngả đƣờng đã đƣợc dọn, xe của chúng thƣờng bị nổ tung. 

Đoàn chúng tôi dừng lại vì một chiếc ôtô Đức vừa trúng mìn, tôi rút cuốn sổ  tay 

của mình ra và bắt đầu phác lại cảnh đó. Đột nhiên một tên lính cƣỡi ngựa phi tới chỗ tôi 

và giơ chiếc roi lên, nhƣng may thay viên đại tá đang đi chiếc xe mui trần cạnh đó gọi 

hắn quay lại. Tên đại tá gọi tôi tới, hỏi xem tôi đang làm gì. Tôi đáp rằng mình là một 

nghệ sĩ đang vẽ. Hắn xem các bức phác thảo và nói: 

"Anh không đƣớc phép. Anh không đƣợc vẽ cảnh các binh sĩ Đức hy sinh.” 

Tôi lẩn vào đám tù binh đang đi qua một con đƣờng  bị  rải mìn,  ở  đó chúng sẽ

không thể tìm ra tôi. 

...Tuyết đang tan và ráng chiều lặn xuống nhợt nhạt, bóng đen của những ngƣời 

đang xây dựng một cây cầu nổi lên trên đó, hình dáng chiếc cầu cùng với những mố  trụ

trông nhƣ bộ  xƣơng của một con cá khổng lồ.  Chúng tôi đã tới Yartsevo, đoàn tù binh 

kéo vào một khu bao quanh bởi hàng rào kẽm gai, nằm trên khu đất của một nhà máy sản 

xuất gạch bỏ  hoang. Nó đƣợc chia thành nhiều gian với những tháp canh đặt trên những 

chiếc cột mảnh khảnh, trong đặt những ụ  súng máy –  chiếc tháp canh trông nhƣ một con 

nhện. 

Tôi mang chiếc túi đựng bông băng và thuốc mangan trên vai đi dọc suốt đoàn tù 

binh. Hai đồng đội của tôi, Sasha (hay Sasha hoặc Sashka đều là tên gọi thân mật của 

Alexander –  Oleg Sheremet) Lapshin and Alexei Avgustovich, cùng tôi, những sinh viên 

của Học viện Nghệõ thuật Maskva, đều là y tá cứu thƣơng. Chúng tôi nảy ra ý đăng ký 

vào một bệnh viện để chữa trị các tù binh bị thƣơng. Chúng tôi rời khỏi hàng và giải thích 

đề  nghị  của mình với một tên lính gác, hắn kêu một tên polizei (cảnh binh) tới và bắt tên 

kia đi gọi một bác sĩ. Chúng tôi đứng lại chờ, một dòng ngƣời đang kiệt sức đi ngang qua 

chúng tôi, họ cố bƣớc để giữ cho chân mình đừng đổ gục xuống. Cuối cùng ngƣời bác sĩ, 

cũng là một tù binh, đã tới. Đáp  lại lời đề  nghị  của chúng tôi, anh ta nói rằng mình đã có 

nhiều bác sĩ hơn là cần thiết, nhƣng lại quá ít y tá. Nhƣng đột nhiên, nhƣ chợt nhớ ra điều 

gì, anh ta chấp nhận chúng tôi vào trại để  chữa chạy cho những ngƣời bị  thƣơng nặng. 

Chúng tôi vui mừng đồng ý. 

Tên polizei (cảnh binh) dẫn chúng tôi đi qua nhiều khu vực có rào kẽm gai để  tới 

một căn lán gỗ. Lúc này bên ngoài trời đã tối. Một ngƣời to con mở  cửa cho chúng tôi, 

anh ta là ngƣời phục vụ ở đây. Sau khi cho chúng tôi vào, hắn lập tức đóng cửa lại. Trong 

bóng tối chúng tôi không trông rõ cái gì, nhƣng mùi hôi của da thịt thối rữa lập tức chọc 

vào mũi chúng tôi. Chúng tôi nép mình vào bức vách gỗ, những khe hở  của nó cho phép 

chút không khí trong lành và ánh sáng le lói lọt qua. Ngƣời phục vụ  theo dõi chúng tôi 

với thái độ thù địch không cần che đậy, tôi không tài nào hiểu đƣợc lý do sự bất mãn của 

y. Cuối cùng y thốt lên: 

"Ở  đây  không  có  chỗ  nào  để  ngủ  hết.  Các  bác  sĩ  không  tới  đây.  Tất  cả  những 

ngƣời bị thƣơng ở đây đều đã vô hy vọng.” 

Sửng sốt trƣớc sự  tàn nhẫn không giấu diếm của hắn, thậm chí hắn cũng không 

thèm hạ thấp giọng, chúng tôi im lặng không trả lời.  

"Dù sao thì họ cũng sẽ chết,” hắn lại tiếp tục. "Thế các anh sẽ làm cái gì ở đây?” 

Tôi tuyên bố một cách kiên quyết: 

"Chúng tôi sẽ  làm  bất cứ  điều gì để  giảm bớt đau đớn cho những ngƣời này, nói 

chung là tất cả những gì trong khả năng có thể. Tối nay chúng tôi sẽ nghỉ ở đây và bắt tay 

làm việc vào sáng mai.” 

Các giƣờng ngủ  đƣợc ghép thành ba tầng. Một lối đi chỉ  rộng khoảng bảy mƣơi 

hay  tám mƣơi xăngtimét trải dọc suốt chiều dài của chiếc lán. Mọi ngƣời nằm chen chúc 

nhau, ép sát vào những ngƣời kề bên, cố gắng giữ cho mình đƣợc ấm. Có ai đó chạm vào 

ống tay áo tôi và tôi nghe thấy tiếng thều thào rên rỉ: 

"Bác sĩ, bác sĩ, xin hãy cứu tôi, tôi muốn sống, tôi có một ngôi nhà với khu vƣờn 

và lũ trẻ, ba đứa cả thảy, bác sĩ ơi, cắt tay tôi đi, nó đau lắm, chỉ cần sống là đƣợc… “ 

Một cơn nghẹn dâng lên trong họng tôi, nhƣng, cố  gắng kìm mình lại, tôi trả  lời 

bằng cách kiên quyết nhất mà tôi có thể làm đƣợc: 

"Tôi  sẽ  khám  và  chữa  cho  tất  cả  mọi  ngƣời  vào  ngày  mai.  Hiện  giờ  thì  không 

đƣợc, trời quá tối.” 

Tôi không có đủ  can đảm để  thú nhận rằng mình không phải là một bác sĩ bởi 

không muốn làm cho những con ngƣời đang ngắc ngoải kia buông xuôi, không muốn lấy 

đi  hy  vọng  của  họ.  Các  bạn  tôi  đứng  đó  không  thốt  nổi  nên  lời,  bị  giằng  xé  bởi  lòng 

thƣơng xót và cảm giác bất lực trƣớc những đau đớn của họ. 

Gã “phục vụ” đã leo lên chiếc giƣờng của hắn đặt tại một ngăn riêng trong căn 

nhà, còn chúng tôi  chui xuống những chiếc hố  phía dƣới giƣờng, chật vật xoay sở  trong 

khoảng trống chật hẹp, và cuối cùng cũng thu xếp đƣợc chỗ để nằm nghỉ. 

Trên đƣờng đi. Tháng Mƣời năm 1941. Cái rãnh bên đƣờng. Tháng tƣ năm 1942.

Trên đƣờng đi các tù binh thƣờng đổ xô tới các xác ngựa, cố xé lấy cho mình một 

miếng thịt đã đóng băng. Bọn gác đôi khi nổ  súng để  ngăn chặn. Ở  phía bên phải là một 

cái rãnh chất đầy xác tù binh tại trại Borvukha-1. Những chiếc rãnh trải rất dài, hơn 3.000 

xác chết đƣợc ném vào mỗi rãnh nhƣ vậy. Sau đó những rãnh mới sẽ  đƣợc đào tiếp. Bức 

vẽ  đƣợc thực hiện trên mặt sau của một tờ  truyền đơn Đức. Nếu phạm tội xé rách một tờ

truyền đơn – kẻ phạm tội sẽ bị xử bắn; nếu vi phạm nội dung tờ truyền đơn – sẽ bị treo cổ.   

Không khí thật ngột ngạt, nhƣng mùi hôi dần trở nên đỡ khó chịu hơn, sự mệt mỏi 

đã choán chỗ tất cả. Tôi nhắm mắt lại và lập tức hình ảnh con đƣờng ƣớt át trơn trƣợt bắt 

đầu chập chờn trƣớc mặt  tôi, cùng với những xác chết, xác chết, xác chết... Chúng tôi 

nằm không nhúc nhích trong chiếc hố  giữa những đau đớn, mê sảng, chết chóc, và mặc 

cho sợ  hãi, thậm chí chúng tôi đã bắt đầu thấy dễ  chịu, ngƣời  ấm dần lên, và từ  từ  chúng 

tôi đi vào giấc ngủ.  Đột nhiên một thứ  chất lỏng  ấm ấm xối từ  trên xuống, lập tức chân 

tôi bị ƣớt sũng. Ban đầu tôi không hiểu đó là cái gì, nhƣng rồi Sashka nói:

"Tôi bị ƣớt khắp ngƣời rồi, những ngƣời bị thƣơng đang đái lên chúng ta đấy.” 

Buổi sáng xám xịt, nhớp nháp đã tới. Ngay khi chúng tôi chui ra khỏi chỗ  nằm 

của mình, mọi ngƣời  ở  đó đều đã hiểu rằng các bác sĩ đã tới. Bọn Đức không cấp chút 

nƣớc nào cho những ngƣời bị  thƣơng, họ  chỉ  đƣợc phát một cốc nƣớc trà hoặc cà phê  –

một thứ  chất lỏng đùng đục có màu nâu  –  vào mỗi buổi sáng. Nhƣng tôi cần có nƣớc sôi 

để bắt tay vào làm việc. 

Một cảnh đƣợc mô tả chi tiết. 1942

Để  lấy nƣớc tôi phải tìm mọi cách để  tới đƣợc khu bếp  ở  trong  trại. Nó đƣợc đặt 

trong một cái lán rộng, lửa đƣợc giữ  bằng cách nhét thẳng củi vào dƣới những chiếc nồi 

đang treo lơ lửng, có khoảng hai mƣơi cái nhƣ vậy. Họ  khuân tới đây những xác ngựa 

chết đƣợc nhặt dọc đƣờng, xả  chúng ra và ném những súc thịt lớn vào  những chiếc nồi 

đầy nƣớc, rồi họ  lấy thịt ra và chặt thành từng mảnh nhỏ. Tôi nhƣ nghẹn thở  trƣớc cảnh 

ngƣời ta đang mang tới những con ngựa đặt trên những chiếc xe ngựa hai bánh do ngƣời 

kéo. Mọi thứ  xung quanh đều phủ  đầy khói và mồ  hóng, làn khói dầy đặc màu xám có 

pha sắc hồng, toé ra những tia lửa, bay trên những chiếc nồi treo lơ lửng, bị  những lƣỡi 

lửa đỏ  quạch từ  dƣới phụt lên. Những con ngƣời vàng vọt xám xịt với vành mũ buông 

xuống che kín hai tai đang lột da những xác ngựa treo lơ lửng. Một cái bóng khổng lồ của 

ai đó, lắc lƣ thành thạo giữa những đám mây khói và hơi nƣớc đang bay lên và tản ra, 

biến mất dần dƣới mái của chiếc lán khổng lồ. Tất cả  những điều đó trông tựa nhƣ trong 

đoạn mô tả  Cảnh Địa ngục của Dante; điều đáng sợ  nhất trong tất cả  những thứ  đó là tôi 

không hề  nghe thấy bất cứ  một giọng nói nào, tựa hồ  nhƣ tất cả  mọi ngƣời đều đã câm 

tiếng.  

Chật vật lắm tôi mới tìm thấy một bình nƣớc sôi và chúng tôi liền bắt tay vào việc. 

Phần lớn những ngƣời bị  thƣơng chỉ  mới đƣợc băng bó sơ sài ngay trên chiến trƣờng. 

Một vết thƣơng đã đƣợc băng thƣờng đƣợc quấn thêm bên ngoài bằng những chiếc xà 

cạp. Khi vừa tháo lớp băng cũ ra, tôi phát mửa bởi mùi hôi thối từ  vết thƣơng. Sasha và 

Alexei lập tức bị loại khỏi công việc, tôi phải đặt họ nằm ra ngoài hàng hiên chỗ gần bức 

tƣờng. Lớp băng mới tôi quấn cho những ngƣời bị thƣơng rất chắc chắn gọn gàng, tôi rửa 

sạch vết thƣơng bằng mangan và băng nó lại,  ấn tƣợng của lớp băng mới đem lại cho 

ngƣời bị  thƣơng một cảm giác hy vọng sẽ  chóng lành bệnh. Khi tôi tìm thấy ngƣời đồng 

hƣơng “với khu vƣờn” của mình (anh ta phát âm với giọng Ukraina  -  Oleg Sheremet), 

anh ta đã chết, có lẽõ anh bị hoại thƣ từ trƣớc đó.

Chỉ  những ngƣời bị  thƣơng nặng đƣợc tập trung  ở  đây, tôi thậm chí đã phải tiến 

hành một cuộc phẫu thuật – cắt rời bằng con dao phần còn lại của một cánh tay bị dập nát. 

Bệnh nhân của tôi bất tỉnh, tôi cho anh ta ngửi nƣớc đái quỉ (ammonia) và quay sang tiếp 

tục làm việc. Khi anh ta nhìn thấy cánh tay  cụt  của mình đã đƣợc quấn  một lớp băng 

trắng tinh, một thoáng cƣời hiện lên đôi môi xám nhợt của anh. Hay ít nhất cũng gần nhƣ 

vậy, bởi ngay lúc đấy mọi thứ  trở  nên chao đảo trƣớc mắt tôi, tôi cảm thấy buồn nôn... 

Khi tỉnh lại, có ai đó dúi một điếu thuốc vấn bằng makhorka (loại thuốc lá mạnh và rẻ

tiền – Oleg Sheremet) vào môi tôi, thứ này gần đây đã trở thành vô cùng có giá trị, do đó 

có thể hiểu đây là biểu hiện của lòng biết ơn vô hạn từ bệnh nhân của tôi. Và rồi lại quay 

về  với việc băng bó: đầu, bụng, hạ  bộ  –  thật là một vị  trí vô cùng bất tiện để  quấn  băng. 

Alexei  và  Sasha  phân  phát  thức  ăn  cho  ngƣời  bị  thƣơng,  xua  ngƣời  phục  vụ  đi,  hắn 

thƣờng không thƣơng xót đánh cắp thức ăn của họ. Ngoài trời mƣa tuyết đang rơi, hàng 

đoàn tù binh mới vẫn tiếp tục dồn tới. Một nhóm ngƣời mới đến chạy tới căn lán của 

chúng tôi, họ  gõ cửa đề  nghị  chúng tôi mở  ra và cho họ  vào. Tôi biết rằng nếu thậm chí 

chỉ một ngƣời trong bọn họ  bắt đầu phá vỡ một tấm vách để  lọt vào trong  –  căn lán sẽ  bị

phá sập, đập nát trở  thành củi đốt. Sau khi tƣởng tƣợng ra hình  ảnh đó, tôi đeo chiếc túi 

có chữ  thập đỏ  của mình lên vai và bƣớc ra ngoài, chắn ngang cánh cửa bằng thân hình 

của mình. Đám đông những con ngƣời đau khổ  đó gầm lên đầy đe dọa và bắt đầu xô đẩy 

nhau. Đột nhiên, một kẻ trong bọn họ nhảy tới phía tôi: 

"Hãy để tôi vào!"

Tôi  đá vào bụng hắn, hắn lập tức đổ  xuống và bắt đầu rên rỉ. Tôi cảm thấy chua 

xót và xấu hổ. Tôi quan sát khắp những khuôn mặt xanh xám vì lạnh, đang nhìn tôi qua 

những hốc mắt tối sẫm, rồi nói: 

"Những ngƣời bị  thƣơng nặng đang  ở  đây. Thậm chí  ở  đây không còn chỗ  cho 

những ngƣời cứu thƣơng chúng tôi. Chúng tôi đang băng bó những ngƣời bị  thƣơng, và 

nếu lúc này họ không đƣợc bảo vệ, tất cả bọn họ sẽ chết hết.” 

Đám đông xám xịt ngập ngừng, nhƣng rồi một tên trong bọn hét lên: 

"Các anh nghe lời lũ chó này làm gì?! Chết lũ con hoang này đi!” 

Trong một giây thoáng qua tôi nhận ra rằng bản năng giết chóc hiện đang chiếm 

số  đông,  trong  khi  tôi  đang  đứng  đơn  độc  chống  lại  tất  cả  bọn  họ  –  điều  đó  thật  kinh 

khủng và bất công; cứ  nhƣ thể  họ  đang tự  bào chữa cho mình bằng sự  đồng thuận của số

đông, nhƣ thể  họ  muốn xé tan thành từng mảnh và giết chết không chỉ  một ngƣời y tá 

đang bảo vệ những kẻ bị thƣơng – giết chết tôi, họ sẽ giết đƣợc một lực lƣợng đen tối nào 

đó đang muốn tiêu diệt họ. Và tôi cất tiếng hét lớn. Tôi không thể  phô bày sự  yếu đuối 

của mình. Trong tiếng hét đó tôi trút xuống họ  quyền năng của lời buộc tội sự  tàn nhẫn 

đối với những ngƣời bị thƣơng và tàn phế – để cho họ không còn gì dể bào chữa nữa.   

Đám đông rút lui. Tôi gục xuống, run rẩy vì những gì mình vừa phải trải qua. 

Không còn ai dám tới khu lán lần nữa, nhƣng chúng tôi vẫn giữ  cảnh giác suốt 

đêm hôm đấy. 

Sang ngày thứ  ba nguồn thuốc của tôi đã cạn sạch, tôi cảm thấy choáng váng vì 

kiệt sức, vì những đau đớn về  tinh thần; dƣờng nhƣ tôi đang bắt đầu thối rữa tựa nhƣ 

những thƣơng binh của mình. Tôi vẫn còn hũ mật ong đƣợc cất kín, trong có cả  sáp và 

ong non, phòng cho những tình huống nhƣ hiện giờ tôi đang trải qua. Tôi quyết định đem 

chia chỗ  mật cho ba ngƣời chúng tôi, nhƣng gã phục vụ  lại gần  và khuyên chúng tôi đổi 

mật ong cho đám đầu bếp để  lấy thịt ngựa. Sau một hồi thƣơng lƣợng qua hàng rào thép 

gai, chúng tôi đồng ý đổi nó cho một tay đầu bếp, cũng là một tù nhân, anh ta đã có đủ

thịt ngựa và muốn kiếm món gì khác ngon miệng hơn. Chúng tôi  đƣa anh ta mật ong, và 

tôi sẽ tới chỗ anh ta vào ban đêm, khi thịt ngựa đã chín, lấy về một cái đùi để đổi lấy chỗ

mật cho tay đầu bếp lúc đó đã đƣợc ăn no đủ. Tay đầu bếp  –  một thợ  đào than to con 

vùng Donbass có cặp lông mày đen tên là Anton, anh ta nói giọng pha lẫn âm Ukraina và 

Nga, đặc điểm của ngƣời miền Nam Ukraina – bảo: 

"Đừng lo, tôi sẽ  đƣa ngay cho anh chiếc đùi khi anh vừa tới. Nhớ  đừng để  bị  bắt 

bởi bọn polizei (cảnh binh Ukraina) đứng canh cổng."

Tôi phải trƣờn dƣới lớp kẽm gai của cái hàng rào ngăn chia căn lán chúng tôi với 

khu sân bếp, chạy băng qua cái sân mà không bị phát hiện, rồi đột nhập vào đằng cửa bếp 

ngay trƣớc mặt một tên cảnh binh (polizei).

Anton bảo rằng nồi của anh ta nằm hàng thứ  hai tính từ  giữa phòng. Và quả  thế, 

tôi đã tìm đƣợc đúng anh ta. 

"Tốt, hãy xem đây, anh đã tìm ra tôi, dù anh rất sợ  bị  bắt. Mật ong của anh đã 

đƣợc sử  dụng vào mục đích tốt, tôi có một ngƣời bạn bị  bệnh, anh ta cần đƣợc uống trà 

với mật ong. Đây, hãy lấy chiếc đùi phần anh đi.” 

Anh  ta  lôi  một  chiếc  đùi  ngựa  khổng  lồ  từ  trong  nồi  ra,  nó  đang  bốc  khói  nên 

không thể cầm mang đi ngay đƣợc. Tôi để cho nó nguội đi một chút rồi nhét nó vào dƣới 

nách, cuộn lại bằng chiếc chăn màu đỏ  của Tonia, vật đã cứu mạng tôi không biết bao 

nhiêu lần. Tôi luồn ra phía cửa, nhƣng chƣa kịp bƣớc qua ngạch cửa thì đã nghe tiếng tên 

cảnh binh gọi giật lại: 

"Mày mang cái gì vậy?!” – và chộp lấy cái chăn. 

Không cần nghĩ ngợi, tôi giật phắt ra và, với đầu óc thật tập trung tỉnh táo, chạy 

nhanh về  góc nhà bếp. Tên polizei vồ  trƣợt và ngã xuống, xé rách một mảnh của chiếc 

chăn, hét toáng lên: "Bắt nó lại! Bắt nó lại!.." Một cú đẩy nữa và tôi chạy ra nhanh nhƣ 

cắt, Sasha đang chờ  sẵn  ở  ngoài kia, tay nhấc cao cái hàng rào kẽm gai. Một khẩu súng 

máy khạc đạn dọc theo hàng rào, nhƣng lúc này tôi đã đƣợc kéo an toàn vào trong lán, 

chúng tôi đóng cửa lại và chặn ngang nó bằng một chiếc gậy. Chúng tôi nghe thấy tiếng 

bọn polizei lùng sục, chửi rủa, chúng đang phát điên lên nhƣ thể  chính bọn chúng vừa bị

trộm mất vậy, thật khó mà tƣởng  tƣợng ra điều gì sẽ  chờ  đợi tôi ngoài sân trại vào ngày 

hôm sau nếu tôi để bị chúng bắt. 

Nhƣng chúng tôi đang cảm thấy hạnh phúc và  ấm cúng, tay vuốt ve súc thịt hãy 

còn ấm trong bóng tối. Chúng tôi chia thịt ngựa ra thành bốn phần, và rồi vồ lấy chiếc đùi 

đã róc thịt. Nhoáng cái đã chỉ  còn lại những chiếc xƣơng sạch nhẵn, mọi thứ  đều đƣợc 

cho vào bụng, vậy mà dƣờng nhƣ vẫn còn quá ít. Chúng tôi đƣa một phần cho tay lính 

thủy phục vụ  (đó là biệt hiệu trong trại đặt cho do chiếc áo lót kẻ  sọc của anh ta), anh ta 

rất vui, luôn miệng đảm bảo với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ  luôn thành công nếu nghe 

theo lời anh ta. Chúng tôi phát vài miếng cho những ngƣời nằm kề  bên. Mọi ngƣời đều 

hạnh phúc, và yên lặng, chầm chậm, xé ra từng sớ  thịt một, nhai kỹ, và mọi ngƣời  đều 

nghĩ tới một điều gì đó thật dễ  chịu... Đột nhiên, nhận ra rằng chúng tôi có thể  ăn hết 

ngay mọi thứ, tôi thì thào với mọi ngƣời: 

"Các bạn, ăn thế đủ rồi! Cất tất cả đi, sau này nó sẽ trở thành hữu ích đấy.” 

Sashka giấu phần của mình vào một cái nồi nhét trong balô, còn tôi quấn nó trong 

một cái khăn mặt. Leshka, mặc dù là ngƣời gầy nhất trong bọn, khổ  sở  hơn tất cả  chúng 

tôi trƣớc khi chịu rời miếng thịt.

Chúng tôi lăn ra ngủ  trong cái góc hôi hám của mình, tiếng mê sảng của những 

ngƣời bị  thƣơng vang lên không dứt, chốc chốc lại có ngƣời dậy đi về  phía cửa, anh ta 

cần cần ra ngoài nhƣng cửa đã bị  gác và không cho ai ra vào. Cuối cùng mọi ngƣời nằm 

yên và giấc ngủ  tới, có thể  nghe thấy tiếng một tên polizei hét xa xa, tôi kéo chiếc chăn 

rách nát của Tonia chùm lên trên đầu. 

Những tia sáng mảnh dẻ của buổi bình minh ảm đạm đã xuyên qua những chiếc lỗ

trên vách lán, Sashka đang lay tôi dậy; nhận ra tôi đã tỉnh giấc, cậu ta bắt đầu thì thầm 

với  tôi  rằng  chúng  tôi  cần  phải  rời  đi,  chúng  tôi  không  thể  làm  thêm  điều  gì  để  giúp 

những ngƣời bệnh mà chỉ  tổ  làm thiệt mạng chính mình. Ngay lúc đó có tiếng ngƣời gõ 

mạnh vào cửa một cách hách dịch. Tôi trèo qua ngƣời Leshka, vẫn ngủ  mà không biết 

chuyện gì đang xảy ra, cậu ta chống trả lại bằng hết sức mình. Cuối cùng tôi tới đƣợc cửa 

và mở  nó ra. Ngƣời bác sĩ đã gửi chúng tôi tới đây đang đứng trƣớc mặt tôi. Anh ta ngạc 

nhiên khi thấy chúng tôi, và cả  hai chúng tôi đều rất mừng rỡ. Ngƣời bác sĩ đã có đƣợc 

giấy do tên sếp Đức cấp cho phép chọn lấy một nhóm ngƣời bị  thƣơng còn có thể  tự  di 

chuyển đƣợc để  cùng đi với đoàn tù binh tới Smolensk. Anh ta quyết định lấy chúng tôi 

đi theo làm ngƣời phục vụ để hộ tống những ngƣời bị thƣơng tại đây tới địa điểm. 

Thật đau khổ  khi nhớ  lại việc quyết định những ngƣời đƣợc chọn đã diễn ra khó 

khăn nhƣ thế  nào, mọi ngƣời đều hiểu là  ở  lại khu lán  ấy có nghĩa cầm chắc cái chết. 

Nhiều bàn tay vƣơn về phía chúng tôi, những ngƣời bị thƣơng đều đảm bảo với chúng tôi 

là họ  cảm thấy khoẻ  mạnh, cố  gắng tỏ  vẻ  dũng cảm, thậm chí hạnh phúc trên nét mặt  –

nhƣng tôi nhớ lại mình đã băng những vết thƣơng ở bụng, tay và chân bị gãy nát, và hiểu 

rõ những nụ  cƣời cố  gắng vƣợt quá sức ngƣời  ấy đã bắt họ  phải trả  giá thế  nào. Và trên 

đƣờng đi, ngay lần ngã gục đầu tiên và phải chịu cú đá từ chiếc giày của tên lính gác, nếu 

anh ta không thể  đứng dậy, anh ta sẽ  bị  kết liễu ngay lập tức. Khi  ấy tim anh sẽ  nhƣ nảy 

bật lên  –  anh đã chọn anh ta cùng đi, và sẽ  có không biết bao nhiêu lần anh tự  nhủ  rằng 

dù sao anh ta cũng sẽ chết, nhƣng điều đó cũng không làm anh khuây khỏa.  

Một vụ xử tội. Cảnh bọn polizei đang đánh đòn tù binh. Tháng Tƣ năm 1942. 

Vẽ trên mặt sau một tờ truyền đơn Đức. 

Trời rất lạnh, tuyết rơi biến  con đƣờng thành một hỗn hợp màu vàng sệt. Đoàn 

ngƣời tập hợp lại và khởi hành về  hƣớng Smolensk. Hình ảnh về  những gì tôi đã trải qua 

luôn chập chờn trƣớc mắt tôi: nơi đây tôi rửa sạch vết thƣơng, băng bó chúng, nắn lại 

xƣơng, những gƣơng mặt méo mó vì đau  đớn... Căn bếp của khu trại... Rồi kế  tới là cảnh 

một cuộc xử  bắn: một tên feldwebel (hạ  sĩ quan, cai đội) đang la hét rằng bọn Nga là lũ 

lợn, còn chúng, ngƣời Đức  –  là một dân tộc vĩ đại; một thân mình dang chân dang tay 

nằm không nhúc nhích, hai tên súc  sinh polizei ngồi lên đầu và chân anh ta, còn tên thứ

ba quật mạnh vào thân hình đang run lẩy bẩy  ấy, tên feldwebel đếm từng cú đánh một. 

Khi lần đầu tiên nghe thấy những tiếng đánh  ấy, tôi cứ  nghĩ đó là tiếng ai đập bụi một 

tấm đệm; sau khi tận mắt trông thấy căn nguyên tiếng động, tôi cảm thấy buồn nôn và tim 

mình nghẹn lại từng chập –  trận đòn thật kinh tởm; thậm chí giết chết ngƣời ta đi còn tốt 

hơn. Nhƣng rồi, cái chết đâu phải xa xôi gì...

Đoàn  tù  binh  chúng  tôi  bƣớc  đi,  mọi  ngƣời  nép  sát  vào  nhau,  nâng  đỡ  những 

ngƣời  bị  kiệt  sức.  Những  chiếc  xe  phủ  bạt  màu  xám  và  xe  mui  trần  phóng  ngang  qua 

chúng tôi hƣớng về  phía đông, chất đầy những ngƣời đang cƣời vào mặt chúng tôi, chĩa 

máy ảnh vào chúng tôi, những kẻ  đã bị  nhiễm thứ  dịch hạch nâu (chỉ  bộ  đồng phục màu 

nâu của Đảng Quốc xã - LTD). 

Vâng, đó là chiến tranh, chúng tôi đang phải đối mặt không chỉ với sự hủy diệt về

thể xác – bọn phát xít đang cố gắng huỷ diệt nhân cách của chúng tôi, niềm tin vào những 

giá trị  tốt đẹp của chúng tôi. Thật rất khó để  tồn tại trong cái địa ngục này, nhƣng hàng 

trăm ngàn lần khó hơn nữa để tồn tại mà ta vẫn còn nhân tính. 

Một chiếc ôtô đi ngang làm bắn toé bùn lạnh lên mình chúng tôi, vấy lên lớp băng 

trắng của những ngƣời bị  thƣơng, chúng tôi nghe thấy tiếng bọn Đức cƣời đùa, tiếng kèn 

ắcmônica... 

Chúng tôi đƣợc chất lên một đoàn tàu tại Smolensk. Chúng lùa chúng tôi lên các 

toa bằng báng súng, thúc mạnh thẳng vào lƣng chúng tôi. Đám đông xô đẩy lẫn nhau, ta 

phải giữ  thăng bằng trên hai tấm ván đặt dốc để  lao lên, có ngƣời trƣợt chân, ngã xuống 

và không thể  đứng lên đƣợc. Bọn Đức la hét: "Schneller! Schneller!" (tiếngĐức: “Nhanh 

lên! Nhanh lên!”  –  LTD.), bọn polizei chửi rủa. Cùng với Alexei và Sasha, tôi leo lên 

đƣợc giữa nhóm ngƣời đầu tiên, và chúng tôi xoay xở tới đƣợc một chỗ tốt trong góc toa. 

Nhƣng các tù nhân vẫn đƣợc tiếp tục dồn lên toa, ngày càng chặt hơn. Chúng tôi tìm cách 

ngồi đƣợc xuống, thu chân vào dƣới thân mình, nhƣng những ngƣời khác thì phải đứng. 

Có khoảng hai mƣơi nữ  cứu thƣơng đƣợc dồn lên toa trong đợt cuối cùng, họ  chỉ  còn có 

thể  đứng  ở  gần cửa toa. Cuối cùng cánh cửa kêu rít lên, chiếc then sập xuống. Nhƣng 

đoàn tàu vẫn chƣa chuyển bánh. Sau chuyến đi và lần chuyển trại mọi ngƣời đều đã kiệt 

sức, mặt mũi râu ria tua tủa, mũ tụt xuống tận mang tai; áo choàng không còn thắt lƣng, 

rất nhiều ngƣời bị lấy mất thắt lƣng trong khi lục soát; balô và túi đựng mặt nạ phòng độc 

lép kẹp, bọn Đức đã ăn cƣớp gần hết; thứ  duy nhất còn lại chỉ  là chiếc gà mèn đeo phía 

trƣớc – vật dụng chính phục vụ cho mục đích tồn tại. Một ngƣời trung niên trông hốc hác 

quị  xuống trên hai chân ngay cạnh tôi, anh ta đeo một cặp kính, nhƣng một bên tròng đã 

bị vỡ, và anh ta nghiêng mái đầu một cách kỳ lạ để nhìn cho rõ bằng một con mắt cận thị

của mình, một tay bịt con mắt còn lại; anh ta nói không rõ, đôi môi của anh đã phồng rộp 

lên nên ta chỉ có thể nghe thấy tiếng khò khè khó nhọc phát ra từ chúng: "Nƣớc..." Nhƣng 

phần lớn trong chúng tôi đã không ai còn nƣớc, và những ai còn giữ  đƣợc thì giấu đi, 

phòng khi chính mình sẽ  phải rên rỉ  giống nhƣ thế  để  mong làm ẩm đôi môi và cổ  họng 

mình. Những chiếc tăm pông tàu va vào nhau loảng xoảng, một cú nhấn, rồi một cú nữa, 

toa tàu giật mạnh rồi đoàn tàu lăn bánh chậm chạp và miễn cƣỡng, những tiếng la hét trên 

sân ga Smolensk tan dần vào không trung. 

"Chúng đang đƣa chúng ta đi đâu?" ngƣời ở bên phải tôi thì thào. 

"Chuyện ấy giờ  còn ý nghĩa gì nữa?" một ngƣời khòng lƣng mặc chiếc áo choàng 

xanh lá cây có khuôn mặt râu ria lởm chởm, có lẽ  là một dân quân bị  bắt làm tù binh 

(opolchenets – thành viên của narodnoye opolcheniye, tức "dân quân vũ trang", lực lƣợng 

quân sự  tình nguyện không thƣờng trực đƣợc thành lập nhằm đẩy lui làn sóng quân Đức 

dâng  cao  tại  thời  điểm  khủng  hoảng  năm  1941  –  Oleg  Sheremet)  "Ở  đâu  thì  chúng  ta 

cũng bị giam cầm cả thôi. Có lẽ chúng đang chở chúng ta về Đức.” 

Đoàn tàu vẫn lăn đều bánh trên đƣờng ray...

Ngƣời đứng kế bên trái tôi đã thôi khò khè và tôi cảm thấy rõ thân mình anh đang 

đè nặng lên tôi, tôi cố  thoát ra nhƣng không thểû, do anh ta cũng bị  xô lấn từ  nhiều  phía 

khác. Đột nhiên tôi trông thấy một dòng chất lỏng trào ra khỏi đôi môi sƣng phồng của 

anh ta và đầu anh gục xuống. Hiển nhiên là anh ta đã chết. Tôi kêu lên: “Anh  ấy chết 

rồi.” Không có ai phản  ứng, mọi ngƣời đều quay đi. Leshka nhăn mặt đau đớn, nói  thầm 

với tôi: "Nikolay, tôi phải làm gì bây giờ? Bụng tôi đau lắm, tôi cần phải ra ngoài.” Tôi 

chật vật rút một chiếc khăn mặt khỏi túi đựng mặt nạ  phòng độc ra và đƣa cho anh: "Lót 

nó dƣới mình cậu đi." Leshka xoay sở với chiếc khăn của tôi, nhƣng vẫn không đủ, cậu ta 

đã mắc bệnh ỉa chảy và viêm ruột. Cạnh đó, một cậu lính rất trẻ, gần nhƣ vẫn còn là một 

cậu bé, đang gục dần xuống xác ngƣời nằm bên cạnh tôi, đôi mắt đảo nhanh điên dại, cậu 

ta cũng đang chết khát. 

Một giờ, rồi hai giờ  trôi qua. Tôi nhận thấy lúc này không ai còn đứng nữa, mọi 

ngƣời đều ngồi xuống, cố  gắng xoay trở  để  giành lấy chỗ  ngồi thuận tiện. Chỉ  còn đám 

nữ  y tá là đang đứng ở gần cửa; tìm cách che chở lẫn nhau, họ cố gắng giữ mình trong kỷ 

luật. Sasha đang ngồi nhắm nghiền mắt, còn tôi cảm thấy rất buồn ngủ, hay có lẽ  đơn 

giản là tôi sắp ngất đi, không khí ngột ngạt trong toa là nguyên nhân tình trạng này...

Đoàn tàu chạy chậm dần rồi dừng lại. Có tiếng la hét bằng tiếng Đức và tiếng ủng 

nện trên sân ga. Cái gì ngoài kia vậy? Chúng tôi đang ở đâu đây? Không một ai còn đồng 

hồ, vài ngƣời đã bị  lấy mất trong khi khám xét, số  khác đã giấu chúng đi và cƣơng quyết 

không cho ai biết. Vài ngƣời thốt lên một tiếng rên nhƣ tuột khỏi cổ họng: "Aah," rồi ngã 

xuống bất động. Tôi không còn ngạc nhiên khi thấy ngƣời bên cạnh mình đang ngồi trên 

một xác chết, anh ta làm mấy cử động rất lạ rồi đột nhiên bắt đầu nghẹn thở, liên tục đớp 

đớp không khí, cặp mắt xanh của anh lóe sáng thậm chí ngay trong toa tàu tối lờ mờ. Anh 

ta xé rách chiếc mũ đang đội trên đầu, quờ  quạng cánh tay một cách vô thức, làm tuột 

mấy chiếc nút áo sơmi. Đột nhiên anh ta nắm lấy đầu tôi: "Nƣớc, nƣớc..." Tôi cố  gắng 

thoát ra, nhƣng anh ta nắm tóc tôi rất đau, tôi đã dùng hết sức để  gỡ  tay anh ta ra nhƣng 

không đƣợc. Leshka tới giúp  tôi, chúng tôi không nhận ra rằng anh ta đã chết. Chúng tôi 

gỡ  tay anh ta khỏi tóc tôi, anh ta ngã ra, đầu anh gục xuống, ánh sáng từ  cửa sổ  phản 

chiếu lên cặp mắt mở  to điên dại. Ngƣời ngồi kế  bên phải kéo mũ của ngƣời chết xuống 

che mắt cho anh ta. Một  cô gái trong nhóm nữ  y tá hét lên khiếp đảm... Qua chiếc cửa sổ

ở  trên cao, trời đã bắt đầu tối. Một tên lính gác bƣớc đều trên nóc toa tàu, chúng tôi nghe 

rõ tiếng bƣớc chân nặng nề của hắn. 

...Chúng tôi lại tiếp tục lên đƣờng. Trong toa trở nên rộng rãi hơn, rất nhiều ngƣời 

đã nằm xuống, và không ai biết đƣợc anh ta sẽ  ngủ  thiếp đi trong bao lâu. Tôi đang phải 

khó nhọc chịu đựng cơn khát, nhƣng chúng tôi không còn một giọt nƣớc nào; tôi đã quên 

mất từ  lâu là mình đang đói, tôi chỉ  còn biết rằng mình đang  khát nƣớc. Thời gian chậm 

chạp trôi qua, hay thậm chí nhƣ đang đứng hẳn lại, do chúng tôi không còn cả  mục đích 

lẫn hy vọng. Trời đã hoàn toàn tối sẫm... Có tay ai đó sờ soạng sau lƣng tôi để cố thò vào 

trong balô, tôi gạt nó ra. Bàn tay giật lại, họ  đã nhận ra là tôi vẫn còn sống, tôi nghe thấy 

có tiếng thở rầm rĩ. Tôi lại tiếp tục rơi vào trạng thái mơ màng...

Tôi đã tỉnh lại. Đoàn tàu đang đứng yên, bọn chúng đang dùng báng súng đập vào 

cửa toa, then cửa vừa bật ra là chúng đã hét lên: 

"Los, los! Schneller!" (tiếng Đức: “Nào, nào! Nhanh lên!”  – LTD)

Cánh cửa kêu rít lên, trƣợt dọc theo cái rãnh sắt, không khí trong lành và ánh bình 

minh xám xịt ùa vào trong toa tàu. Sasha lay mạnh Leshka, cậu ấy đã hoàn toàn kiệt sức, 

khuôn mặt chuyển sang màu vàng nhợt nhạt. Tôi và cậu ta không thể  đứng lên đƣợc, đôi 

chân chúng tôi đã tê dại, chúng tôi phải cố quỳ  dậy trên đầu gối. Đám phụ  nữ đã đi ra, số

còn lại trong chúng tôi di chuyển về  phía cánh cửa, bƣớc qua những xác chết. Chúng tôi 

rất chật vật mới ra đƣợc khỏi toa tàu, do không còn đủ  sức để  nhảy xuống. Tôi đỡ  lấy 

Lesha, cậu ấy đã ngồi dậy trên đôi chân đờ đẫn, Sasha cũng tới giúp sức. Sau cùng chúng 

tôi  đỡ  nốt  Sasha  ra  ngoài.  Nhà  ga  đã  bị  phá  huỷ  gần  một  nửa,  các  đoàn  tàu  nằm  trên 

đƣờng ray  –  hóa ra chúng chuyển chúng tôi tới Vitebsk, chúng tôi rất mừng vì đó không 

phải là nƣớc Đức. Bọn Polizei giúp đám lính gác Đức la mắng và quất dùi cui nếu có ai 

đó đi chậm lại dù chỉ chút ít. Chúng dẫn chúng tôi tới một trại tù binh – một khu đất rộng 

rào kín bởi nhiều lớp  hàng rào kẽm gai, tháp canh có đặt súng máy và lính gác cùng chó 

canh. Tôi bƣớc đi nhƣ trong mơ ngủ, trong khi Leshka đã tƣơi lên và thậm chí còn đùa 

cợt:

"Chúng ta sẽ không đƣợc tắm, hết khăn để tắm rồi.” 

Chúng dẫn chúng tôi ra ngoài sân trại và tập hợp chúng tôi lại. Một tên phiên dịch 

hét lớn:  

"Hỡi  các  tù  binh  chiến  tranh!  Bộ  chỉ  huy  Đức  không  cho  phép  các  sĩ  quan  và 

chính trị  viên đƣợc  ở  chung với binh lính! Chúng ta muốn dành cho họ  những tiện nghi 

tốt hơn! Nhƣ một sĩ quan đánh đƣợc hƣởng! Ai là chính trị viên và sĩ quan, hãy lên trƣớc 

một bƣớc!"

Nhƣng không ai thực hiện cái bƣớc chết ngƣời đó. Mệnh lệnh lại vang lên lần nữa. 

Đột nhiên có nhiều ngƣời bƣớc ra, nhƣng trông tất cả  bọn họ  đều no đủ, khoẻ mạnh. Tên 

phiên dịch nói: 

"Các anh là chính trị viên phải không?"

Cả năm đều đáp:

"Vâng!"

Tên sĩ quan ra lệnh:

"Múc cho họ một gà mèn súp đầy!" Và bắt đầu tán thƣởng họ. 

Tôi rất muốn nói rằng mình cũng là một chính trị  viên do mùi súp thơm đã hoàn 

toàn xâm chiếm đầu óc tôi. Nhƣng Sashka ngăn lại:

"Cậu không thấy à, chúng là bọn khiêu khích đó. Còn  ở  đằng kia, xem kìa, chỗ

đất hãy còn mới – đó mới là huyệt mộ của các chính trị viên thực sự."

Không kiếm đƣợc gì từ  chúng tôi, chúng tập hợp chúng tôi thành đoàn rồi đƣa 

chúng tôi đi lấy bánh mì và balanda (tiếng lóng của tù binh Nga, chỉ  món súp loãng  –

Oleg Sheremet). Tôi đã  gần nhƣ bất tỉnh,  Leshka và Sasha đỡ  hai bên để  tôi khỏi ngã 

xuống, nhƣng có kẻ  nào đó đã tháo mất cái gà mèn thiếc của tôi, tôi không còn vật gì để

đựng và do đó, không thể  có balanda. Sasha luồn xuống cuối hàng, nhét tôi vào đó, rồi 

chen lấn lên phía trƣớc, nhận và mau chóng ăn hết phần súp, rồi đƣa tôi cái gà mèn của 

mình. Sau món balanda mọi chuyện đã trở  nên khá hơn, và sung sƣớng ngồi trên sàn nhà 

bếp của khu trại, tôi ăn một cách từ tốn phần bánh mì của mình. 

Sự  sung sƣớng tại trại Vitebsk không diễn ra đƣợc lâu. Sớm hôm sau bọn chúng 

đã  tập  hợp  chúng  tôi  lại  và  tiếp  tục  dẫn  chúng  tôi  đi  qua  những  dãy  phố  đổ  nát  của 

Vitebsk, chúng tôi đã biết chắc rằng mình sẽ bị đƣa tới nƣớc Đức. 

Lần này chúng tôi di chuyển trên những toa mui trần có thành toa rất cao. Việc 

lên tàu diễn ra rất lâu, những câu chửi thề  cả  bằng tiếng Đức lẫn tiếng Nga tuôn ra nhƣ 

mƣa, bọn polizei liên tục quất roi, tù binh rên rỉ, ngã từ ván thang xuống vì bị xô lấn, bọn 

Đức bắn tất cả những ai quá yếu sức một cách không thƣơng xót, và rồi, yên vị trong góc 

cạnh thành toa, chúng tôi thậm chí còn cảm thấy  ấm áp thoải mái do đã yên tâm không 

còn lo sợ bị xử bắn nữa.   

Tù binh Xôviết. Mùa thu 1941. (Bức ảnh lấy từ Vostochnyi front site)

Những  đám  mây  xám  xịt  kéo  tới  trên  đầu  chúng  tôi,  cái  thành  toa  lạnh  lẽo  và 

những tấm ván nứt nẻ  lót sàn toa không giữ  đƣợc nhiệt độ  lâu hơn, trong toa mau chóng 

lạnh cóng, màn mƣa bụi lạnh lẽo trùm lên tấm chăn mỏng màu đỏ  có in hoa của Tonia, 

vật che chắn duy nhất của chúng tôi khỏi mƣa tuyết và giá rét. Chiếc cửa sắt nặng nề

đóng  sầm  lại,  tiếng  còi  vang  lên,  những  chiếc  cột  điện  tín  bắt  đầu  trôi  qua  ngày  càng 

nhanh, và rồi chúng tôi không thể  trông rõ bất cứ  thứ  gì nữa, chỉ  còn đám khói đen sẫm 

bay dọc theo tấm thân kim loại chất đầy ngƣời của con tàu. 

Nhƣ thƣờng lệ, mọi ngƣời bắt đầu xoay trở, tìm lấy một chỗ  thoải mái, một vài 

ngƣời, do quá yếu, đã nằm bệt bất động. Tôi cũng đã quá yếu đến nỗi không thể  cố  xoay 

trở nổi, đành ngồi xuống, hai tay bó sát bên ngƣời. Bất ngờ Sashka nảy ra một ý kiến: 

"Các bạn ạ, hãy thử đổi chác xem sao."

"Đổi cái gì?" Tôi hỏi một cách ngờ nghệch. "Với ai?"

"Với dân địa phƣơng."

"Dân địa phƣơng nào?" Tôi vẫn chƣa hiểu ra cậu ta muốn gì. 

"Nhƣng chúng sẽ không cho chúng ta ra ngoài," Leshka nói.

Sasha rút một thanh xà phòng giặt từ  balô ra, Leshka và tôi giƣơng mắt nhìn đần 

độn, còn cậu ta vẫn thao thao về ý tƣởng của mình: 

"Toa tàu trống  ở  phía trên. Chúng ta sẽ  bỏ  bánh xà phòng vào một cái gà mèn. 

Khi tàu dừng lại ta sẽ  treo nó ra ngoài thành toa bằng thắt lƣng của mình, và sẽ  hét lên: 

"đổi nào, đổi nào."

Lập  tức  chúng  tôi  sôi  nổi  hẳn  lên,  mơ  mộng  trong  đầu:  sẽ  có  một  ngƣời  địa 

phƣơng nào đó tới và bỏ vào một mẩu bánh mì hay thứ  gì đó khá khá. Chúng tôi cởi thắt 

lƣng của mình ra, tôi thậm chí còn rút cả  sợi dây đeo vai của cái balô trên lƣng mình. 

Chúng tôi nhất trí là Sasha sẽ  leo lên lƣng tôi để  với đƣợc tới đỉnh  của thành toa, còn 

Leshka sẽ phải trong tƣ thế sẵn sàng để thế chỗ cho tôi. 

Chúng  tôi  đã  tới  một  ga  nọ,  đoàn  tàu  dừng  lại;  có  ai  đó  đang  chạy  bên  ngoài, 

chúng tôi nghe thấy bọn lính la mắng đám phụ  nữ  đang tiến gần đoàn tàu. Sashka leo lên 

lƣng tôi, thả chiếc gà mèn thiếc xuống và đu đƣa nó nhằm thu hút sự chú ý, nhƣng cậu ấy 

không thò đƣợc mặt mình lên, cậu ấy cũng la hét, nhƣng giọng bị ngắt quãng: 

"Đổi đi... lấy bánh mì ..."

Leshka  thế  chỗ  cho  tôi,  nhƣng  cũng  chẳng  khá  hơn.  Mọi  ngƣời  trong  toa  ngạc 

nhiên quan sát bọn tôi, rồi bọn họ  hiểu ra, nhƣng phải phối hợp hai ba ngƣời mới làm 

đƣợc chuyện đó, và trong khi những ngƣời khác đang bàn bạc thì chúng tôi đã bắt tay vào 

đổi chác rồi. 

Nhƣng  rồi  đoàn  tàu  chuyển  bánh,  Sasha  kéo  chiếc  gà  mèn  thiếc  đựng  bánh  xà 

phòng lên, chúng tôi tiếp tục bị nhồi lắc trên toa tàu đang di chuyển. 

Đột nhiên có tiếng súng nổ. Tôi yêu cầu Sashka khòm lƣng xuống chống trên hai 

tay hai chân để  mình leo lên quan sát. Đoàn tàu đang đi ngang qua một đoạn đƣờng đắp 

cao uốn cong thành  hình bán nguyệt. Có nhiều ngƣời đã leo lên thành một toa mui trần 

rồi nhảy xuống, một ngƣời bị  ngã rất đau và tôi trông thấy anh ta bị  bắn hạ  ngay trƣớc 

mắt, nhƣng hai ngƣời còn lại đứng dậy và bỏ  chạy, ngã xuống rồi lại tiếp tục đứng dậy 

chạy về  hƣớng khu rừng. Tim tôi nhƣ sẵn sàng bật tung khỏi lồng ngực vì hồi hộp và lo 

lắng  –  ô kìa, tôi phải lập tức làm một điều gì đó! Liên tiếp lại có ngƣời nhảy khỏi chính 

cái toa tàu đó và bỏ chạy trên mặt cỏ phủ tuyết. Súng bắt đầu nổ từ tháp canh đặt trên một 

toa nằm giữa đoàn tàu, toa của chúng tôi nằm gần cuối nên tôi có thể  trông rõ mọi việc 

xảy ra. Đầu tiên chúng bắn bằng hai khẩu tiểu liên, và rồi một khẩu đại liên lên tiếng. Hai 

ngƣời mặc áo choàng ngã xuống ngay lập tức, ngƣời thứ  ba vẫn chạy, ngã xuống rồi tiếp 

tục trƣờn đi. Súng vẫn nổ  ran. Tôi thấy rõ hai ngƣời bọn họ  bị  thƣơng, họ  cố  đứng dậy 

nhƣng  lập  tức  bị  mấy  phát  súng  trƣờng  kết  liễu.  Đoàn  tàu  đang  chạy  đến  khúc  đƣờng 

cong, và bắt đầu một cuộc săn để  tìm ngƣời cuối cùng. Anh  ấy đã tới đƣợc chỗ  cái khe

núi  –  chỉ  một  bƣớc  nữa  thôi  là  anh  sẽ  an  toàn!  Nhƣng  bọn  chúng  đã  hạ  đƣợc  anh  ta, 

không cho anh ta thực hiện nốt cái bƣớc đó. Tôi rơi từ  lƣng Sasha xuống, tôi không còn 

muốn bỏ  chạy chút nào nữa, cơ thể  tôi nhƣ kiệt hết sức lực. Một ngƣời ngồi kế  phía trên 

đầu tôi cau mày, giày của anh ta suýt nữa chạm vào môi tôi, lên giọng lý sự: 

"Đừng làm  ầm lên, ngồi yên đấy, nếu không bọn chúng sẽ  bắn hạ  anh nhƣ một 

con thỏ vậy.”

Thời gian trôi qua, mƣa ngừng rơi, trời đã chuyển về chiều...

Lại có tiếng đập mạnh và tiếng loảng xoảng, chúng tôi bị lắc mạnh và rồi đoàn tàu 

dừng lại trên một sân ga. Sasha và Leshka lại một lần nữa dựng lên một “chốt đổi hàng”, 

lần này Sashka chống trên hai tay hai chân, còn Lesha đứng trên lƣng cậu ta, cất tiếng rao 

kéo dài: 

"Đổi đi, đổi đi. Xà phòng đây..."

Đột nhiên Leshka nhận thấy có ai đó kéo chiếc gà mèn thiếc! Cậu ta luống cuống 

kéo nó lên rồi hạ  vào trong toa  –  trong gà mèn đựng đầy một thứ  phó mát nhà làm lấy! 

Chúng  tôi  không  nhận  thấy  những  ngƣời  khác  đang  nhích  lại  gần  chúng  tôi,  nhƣng 

Sashka thì thấy, và ngay lúc đó có ngƣời xô rất mạnh vào hông tôi, Sashka vội thò tay 

mình vào trong gà mèn và nắm lấy mớ  phó mát. Nhiều bàn tay tóm lấy cậu ta, Alexei và 

tôi gạt chúng ra, có ai đó ngã ra và lăn tròn trên sàn toa, nhƣng có rất nhiều ngƣời đè lên 

trên chúng tôi, một tay to lớn rít lên: "Đƣa nó cho tao!"  –  nhƣng không ngƣời nào biết 

đƣợc miếng phó mát giờ  nằm trong tay ai. Nhiều phút giành giật vô ích trôi qua, và rồi 

mọi ngƣời, lúc này đã kiệt sức, trƣờn dần ra xa. Chúng tôi đang  ở  trong góc toa, Sasha 

dựa lƣng vào thành tàu ngồi nghỉ. Khi chúng tôi quây quần lại, cậu ta nhè miếng phó mát 

trắng dính mấy gân máu đỏ  ra tay, bảo: "Tớ  đã giấu nó trong miệng mình." Chúng tôi 

chia nó ra, mỗi ngƣời một mẩu, và gắng ngậm nó trong miệng mình  càng lâu càng càng 

tốt. Chúng tôi không còn thứ gì để đổi chác. Đoàn tàu vẫn tiếp tục chạy. 

Đoàn tàu dừng lại một lần nữa và lần này dừng rất lâu. Đang là ban đêm. Mƣa trút 

xuống, chúng tôi ngồi dựa vào thành toa, thu mình lại cho nhỏ  và nhét balô xuống  dƣới 

ngƣời. Đầu gối chúng tôi bắt đầu tê bại. Chúng tôi rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa thức. 

Những xác chết lúc trƣớc nằm gần chúng tôi, giờ  đã bị  ai đó lôi ra xa. Lúc ban chiều họ

còn mặc áo khoác, nhƣng giờ  họ  chỉ  còn là những đốm trắng, áo của họ  đã bị  lột mất, do 

cái lạnh giá và  ẩm ƣớt đang thấm sâu vào xƣơng tủy của từng ngƣời. Đoàn tàu trƣờn đi, 

lâu lâu dừng lại một lần, và chúng tôi, bị  cơn buồn ngủ  đánh gục, ngủ  mê mệt trong đủ

loại tƣ thế, lăn lóc trên sàn toa trong giấc ngủ say...

Bình minh đem lại một chút tƣơi tỉnh cho mọi ngƣời, tàu của chúng tôi đang dừng 

lại, ngọn gió khởi lên từ  sáng sớm thổi tới những đám mây tối sầm, không làm chúng tôi 

ấm ngƣời hơn. Chúng tôi thèm ngủ vô cùng. Lúc này bọn tôi chỉ còn biết đung đƣa chiếc 

gà mèn thiếc bên ngoài thành tàu, và trong một lần thực hiện vô vọng nhƣ vậy năm củ

khoai tây đã đƣợc bỏ  vào đó. Khoai còn sống, chúng thật khó ăn, nhƣng không ai tìm 

cách lấy chỗ khoai sống đó của chúng tôi, và chúng tôi chật vật nuốt trọn tất cả. 

Đoàn tàu lại tiếp tục di  chuyển. Những bông tuyết to và xốp bắt đầu rơi, ban đầu 

rơi chầm chậm, rồi sau đó bay thốc vào mặt chúng tôi đang quay ngƣợc chiều tàu chạy. 

Bây giờ chúng tôi có bốn ngƣời, chúng tôi lặng lẽ  trò chuyện, tất cả đều ủ rũ, đói khát và 

thiếu ngủ. Số ngƣời chết ngày càng tăng, họ bị lôi về phía cuối toa, và không còn biết xấu 

hổ  gì nữa, những ngƣời khác lột quần áo của họ  rồi mặc lên ngƣời mình. Nhƣng tôi để  ý 

rằng không ai lấy  ủng của họ, có lẽ  tất cả  đều nghĩ rằng họ  sẽ  không còn dịp đi mòn hết 

giày của mình. 

...Đoàn tàu dừng lại trên một cánh đồng, mọi thứ  đều phủ  đầy tuyết ƣớt đang tan. 

Qua tiếng la hét bên ngoài chúng tôi hiểu rằng bọn chúng sẽ  không đƣa chúng tôi đi xa 

hơn nữa do đƣờng tàu đã bị  phá huỷ, trong khi còn rất nhiều đoàn tàu từ  Đức tới theo 

hƣớng ngƣợc lại. Các con tàu rầm rầm chạy ngang chúng tôi, khi ta nhìn qua khe hở  trên 

thành toa, ta có thể thấy những toa trần chở xe tăng, toa chở lính, toa chở  hàng – mọi thứ

đang di chuyển về  phía đông. Sẽ  không ai chặn chúng lại đƣợc sao? Trong một góc  tâm 

hồn có một thoáng hy vọng rằng một điều gì đó mà chúng tôi không biết đƣợc sẽ  xảy ra, 

và cơn triều này sẽ bị bẻ  gãy; nhƣng giờ đây chúng tôi đang đi dần tới cái chết mà không 

còn cơ hội sống sót, xa dần khỏi đau đớn và giá rét, không thể  hỗ  trợ  cùng nhau, chúng 

tôi chuyển thành những con ngƣời nô lệ  cho bản năng sinh tồn của mình, không còn khả

năng hy sinh giúp đỡ lẫn nhau, giữa một đống những xác ngƣời chết trong cô độc. 

Cửa  toa  rít  mạnh,  bọn  chúng  bắt  đầu  đƣa  chúng  tôi  ra  ngoài  tới  một  nơi  theo 

chúng tôi dƣờng nhƣ là một cánh đồng. Rất khó để bắt đôi chân chúng tôi tuân lời, và khó 

hơn nữa để bƣớc hay bò khỏi toa ra ngoài bùn tuyết ẩm ƣớt. Chúng tập hợp chúng tôi, tất 

cả những ai còn sống sót, cạnh các toa tàu và phát một ổ bánh mì còn ấm cho mỗi ngƣời, 

mùi thơm sực nức, sự  ấm áp mà từ  lâu chúng tôi không còn đƣợc cảm thấy, chúng tôi 

quấn nó vào những mảnh giẻ và bắt đầu bẻ nó cho vào miệng, từng miếng một, lo ngại nó 

sẽ  chóng  hết;  những  ngƣời  khác,  với  cặp  mắt  đầy  thù  hằn,  tọng  những  miếng  lớn  vào 

mồm họ  –  họ  đã đói khát tới mức cùng cực, họ  đang sắp chết. Đám cảnh binh la hét, 

nhƣng không chửi bới. Một ngƣời trong bọn họ la lớn: 

"Những ngƣời Nga kia, các anh hãy tập trung tất cả sức mình lại để đến đƣợc khu 

trại! Hãy giúp đỡ những ngƣời yếu sức, đừng để họ bị bắn chết!” 

Ngƣời cảnh binh nào đã dám nói những lời nhƣ vậy?  –  Thật là một con ngƣời 

dũng cảm và chân chính. Tôi nhớ mãi những lời lẽ và giọng nói ấy cho tới cuối đời mình. 

Chúng tôi chật vật bƣớc đi trên  con đƣờng ngập bùn, lƣớt qua những ngƣời bị

đánh. Có ai đó ngã xuống, tiếng súng của bọn lính gác vang lên. Và giọng nói kia lại cất 

lên lần nữa: 

"Những ngƣời Nga kia, hãy tới giúp đồng đội các anh đi!” 

Tôi không thể  làm thế, chân tôi nhƣ rời ra vì kiệt sức, nhƣng Valodia (tên gọi tắt 

của Vladimir – Oleg Sheremet) đã tới dìu đỡ cho một ngƣời nào đó đang đi bên cạnh, còn 

Sasha thì tới giúp tôi. Tôi trông thấy một gốc bắp cải đã đƣợc thu hoạch nhô lên rất gần 

con đƣờng, liền cúi xuống và nhổ  nó lên. Sashka giấu nó vào trong mình cậu ta, còn tôi

đã rất yếu sau nỗ lực ấy, thở dốc nhƣ đứt hơi. Chúng tôi đang ở cạnh những hàng rào kẽm 

gai chăng quanh những gốc thông cao, ngọn của chúng đã đẩy lên đỉnh cái cổng trại cả

một búi dây kẽm đang đung đƣa. 

Bọn chúng dẫn chúng tôi tới một ngôi nhà và nhốt vào trong đó. Tôi bị  nhét trên 

tầng hai, Sasha, Valodia, Lesha cũng cùng chung với tôi. Căn phòng rộng khoảng bốn 

mƣơi mét vuông; cạnh một khoảng trống nhỏ  gần cửa ra vào có một cái sân chung cho 

toàn bộ tầng nhà, rất nhiều ngƣời đƣợc nhồi nhét trong đó. Chỉ tới lúc này bọn chúng mới 

cảnh cáo chúng tôi không đƣợc thò đầu ra ngoài cửa sổ, còn đi vệ  sinh  –  một lần mỗi 

ngày. Bọn chúng không cấp cho chúng tôi nƣớc. Nhƣng bên ngoài đang có tuyết, những 

ngƣời liều lĩnh cột thắt lƣng của mình lại và ném một cái gà  mèn qua cửa sổ, nếu ai xúc 

lên đƣợc thì thật may mắn, nhƣng anh ta cũng có thể  bị  ăn một viên đạn do bọn gác bắn 

ra. 

Trên  đời  không  gì  khổ  sở  bằng  chuyện  không  đƣợc  uống  nƣớc.  Lạy  Chúa,  nó 

thiêu đốt con ngƣời thật khủng khiếp! Và không  ở  đâu, không có gì  làm ngƣời ta chết 

nhanh bằng chuyện khát nƣớc. Ngƣời ta phải liên tục chuyển xác chết ra khỏi căn phòng. 

Tất cả chúng tôi cùng ở trên chiếc giƣờng, nằm, ngồi, không nói với nhau một lời. Tôi vẽ

vào cuốn album của mình khuôn mặt gầy gò hốc hác của những ngƣời chết, đang ngồi 

với ánh mắt chằm chằm vô hồn. Đổi chác vẫn tiếp diễn nơi đây. Một ngƣời gạ  bán một 

điếu thuốc, đòi giá tới hai mƣơi lăm rúp. Một ngƣời khác buộc những chiếc thắt lƣng lại 

rồi ném gà mèn của mình ra ngoài cửa sổ. Xúc đƣợc một ít tuyết, anh ta vội chúi xuống 

dƣới bậu cửa sổ, và ngay lập tức một tràng tiểu liên bắn vỡ nốt phần kính cửa còn lại, làm 

vữa trần lả tả rơi xuống. Nhƣng trong tay anh chàng ủ rũ ấy đã có chiếc gà mèn chứa đầy 

tuyết mịn, múc đƣợc khoảng vài thìa đầy. Anh ta lập tức đem đổi một thìa tuyết  ấy, giờ

có giá hai mƣơi lăm rúp, lấy một điếu thuốc lá và liếm hết chỗ tuy ết còn lại trong gà mèn. 

Mọi ngƣời theo dõi đầy ghen tị, không rời mắt khỏi anh chàng vừa lấy đƣợc nƣớc. Bất 

ngờ anh ta chìa một thìa tuyết vào miệng tôi: 

"Đây, ăn đi."

Tôi đẩy đi:

"Tôi không còn tiền hay thứ gì khác.” 

"Không mất tiền, ăn đi, anh cần nó hơn. Anh vẽ  đi, tất cả  chúng ta sẽ  chết  ở  đây, 

nhƣng có thể  bức vẽ  của anh còn lại, và mọi ngƣời sẽ  biết đƣợc chúng ta không phải là 

những kẻ phản bội tổ quốc.”  

Những lời nói đó làm tôi sững sờ, tôi cảm thấy xấu hổ và đau đớn vì một lẽ gì đó, 

nhƣng tôi không thể  kìm mình đƣợc nữa, đôi môi khô nẻ  khó nhọc chạm vào chiếc thìa, 

chất nƣớc mát lạnh tan ra trong miệng tôi, và những giọt nƣớc lăn xuống từ hai mắt. Mọi 

sự khiếp hãi đều không thể làm đƣợc cái điều mà ngụm nƣớc con ngƣời đó ban cho tôi đã 

làm. Một ngụm nƣớc cho tất cả, cho những chịu đựng và những tủi nhục của họ. Tôi cảm 

thấy đau xót cho mọi ngƣời và cho bản thân, tôi muốn làm một điều gì đó cho mọi ngƣời, 

muốn thay đổi một cái gì đó… Có thể  từ  giờ  phút này tôi đã hiểu thấu những gì đã xảy 

đến với tôi, cảm thấy trách nhiệm về  tất cả  trong suốt thời gian qua. Giây phút đó sẽ  đi 

cùng trong suốt quãng đời còn lại của tôi, những lời ngƣời đó sẽ  luôn vang lên nhƣ một 

mệnh  lệnh:  “Anh  hãy  vẽ  đi!”  Có  những  phút  giây  trong  một  đời  ngƣời khi  anh  ta  đột 

nhiên hiểu ra ý nghĩa sự  tồn tại của mình  –  lúc đó mọi chuyện đều trở  nên rõ ràng, và ý 

nghĩa cuộc đời anh ta thật sáng tỏ. Cứ  nhƣ thể  những lời của con ngƣời đó đã đánh thức 

sự  tỉnh táo và nhân tính trong tôi, tôi rời bỏ  những bản năng thú vật, và sau đó niềm tin 

rằng mình sẽ  chóng thoát khỏi cảnh giam cầm miễn là lấy lại đƣợc sức khoẻ  đã quay về

với tôi. Miễn là tôi có cơ hội. Điều đó sẽ sống mãi trong tôi. 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Ảnh chụp và hình vẽ lấy từ tƣ liệu của N. Obryn'ba

HỒI ỨC CỦA CÁC PHI CÔNG

Yurii Khukhrikov  

Tôi tên Khukhrikov, Iurii Mikhailovich, ngƣời Maskva chính gốc đời thứ tƣ, thậm 

chí có thể  là thứ  năm. Dòng họ  tôi làm nghề  đánh xe ngựa  ở  Dorogomilovo. Cụ  tổ  tôi, 

Stepan Khukhrikov, là một trong những ngƣời đánh xe ngựa đầu tiên  ở  Dorogomilovo. 

Ông chở hàng hoá và hành khách trong khu vực ga Kiev. Ở đấy trƣớc đây có ngõ, đƣờng 

cụt và chợ mang tên Khukhrikov. Chợ Khukhrikov nằm trƣớc cầu Borodino nếu bạn đi từ

tòa nhà Bộ  Ngoại giao, về  phía sông Maskva. Tôi sinh ra trong gia đình có truyền thống

quân sự. Cha và chú tôi đều là quân nhân chuyên nghiệp. Họ  đã tham gia chiến tranh từ

năm 1914, và sau Cách mạng thì làm việc trong Ban Giám đốc kỹ  thuật của Bộ  Tổng 

Tham mƣu từ  năm 1921. Cha tôi mang hàm đại tá còn chú tôi là thiếu tƣớng. Tôi sinh 

năm 1924, lớn lên và đi học tại Christƣie Pruđƣi, đối diện Coliseum mà nay là Nhà hát 

Sovremennik. 

Từ  1930 cho tới 1941 tôi học  ở  Trƣờng Số  311 trên phố  Lobkovski, nay là phố

Makarenko. Tôi học chung với Iurii Nagibin [một nhà văn Soviet nổi tiếng] (đấy là  theo 

họ  mẹ  của ông, còn khi này tên ông ta là Frumkin). Tôi cũng học với Zhenia Rudneva 

[Evgeniia Rudneva – ngƣời phụ nữ sau này trở thành phi công ném bom đêm]. Cô ấy hơn 

tuổi tôi, đã tham gia Học viện Hàng không từ trƣớc chiến tranh. Đó là những ngƣời tôi đã 

cùng học chung. 

Năm 1940, không biết hay dở thế nào tôi lại gia nhập một câu lạc bộ hàng không. 

Họ  quay  tôi  đủ  kiểu  –  nói  rằng  tôi  còn  quá  trẻ.  Nhƣng  cuối  cùng  tôi  cũng  đạt  đƣợc 

nguyện vọng và họ  bắt tôi phải mang tới giấy cam kết đồng ý từ  cha mẹ. Lần đầu tôi cất 

cánh là trên một chiếc U-2, vào tháng 9 năm 1940, tại sân bay gần Maskva.

Năm 1941 tôi 17 tuổi. Chúng tôi chuyển từ Kraskovo tới Scherbinka, gần Podolsk. 

Ở  đấy có một cánh đồng rất phẳng. Chúng tôi bố  trí thành một sân bay, dựng lều và bay.

Ngày lễ  Mùng Một tháng Năm, tôi, với danh nghĩa là học viên câu lạc bộ  hàng không, 

tham gia lễ diễu hành cuối cùng trong thời bình tại Quảng trƣờng Đỏ. 

Tháng Bảy năm 1941 tôi tốt nghiệp. Họ  cấp cho tôi giấy chứng nhận đã hoàn tất 

khóa học. Nó giúp tôi rất nhiều sau này. Tất cả  các câu lạc bộ  đều gửi học viên tới học 

viện hàng không. Chúng tôi đều tƣởng là sẽ đƣợc đƣa đi Tbilisi. Nhƣng vì chiến tranh đã 

bắt đầu, tất cả  những ai tốt nghiệp năm 1941 đều đƣợc chuyển tới Saratov, nơi tập lái 

máy bay SB. Ngƣời  ta gọi chúng là “những cây nến”. Chúng hoàn toàn không đƣợc bảo 

vệ, thêm nữa chúng đƣợc làm từ hợp kim đuya-ra nên hễ trúng đạn hay mảnh đạn là cháy 

bùng lên. Tôi bắt đầu tập bay loại này, và rồi có lệnh từ  Bộ  Quốc phòng: “Chuyển Học 

viện Saratov về  Lực lƣợng Đổ  bộ  đƣờng không”. Lập tức họ  gửi tới các loại tàu lƣợn: 

US-4, US-5, Sh-10, G-9 và "Stakhanovets". Tất cả  chúng đều là loại tàu lƣợn thể  thao. 

Cũng  có  cả  loại  chuyên  dụng  cho  lính  nhảy  dù  -  "RotFront-8"  và  "RotFront-11".  Các 

công trình sƣ có kinh nghiệm cũng tới đây - Iudin, Anokhin và một số ngƣời khác. Chúng 

tôi lập tức đƣợc đổi sang học lái tàu lƣợn. Các tàu lƣợn đƣợc kéo bởi các loại máy bay U-2, R-5, SB, Douglas v.v. Bằng cách này chúng tôi mau chóng tích lũy những kinh nghiệm 

cần thiết. Máy bay phải lƣợn một vòng tròn và tới độ  cao 500-600 mét thì chúng tôi tách 

khỏi máy bay. Chúng tôi lƣợn vòng và phải hạ  cánh xuống một vị  trí đã chuẩn bị  sẵn. 

Anh không đƣợc mắc dù chỉ  một sai lầm nhỏ  khi lái những tàu lƣợn đó. Ví dụ  nhƣ sau 

khi lƣợn xong vòng cuối, nếu anh tính toán sai, anh có thể mất độ cao ngay trƣớc điểm hạ

cánh và khi đó không gì có thể giúp anh ngóc đầu lên – tàu lƣợn làm gì có động cơ ! Thế

là anh rơi. Cho nên chúng tôi thƣờng nhắm tàu hơi vƣợt quá đích đến một chút cho an 

toàn. Khi đáp, chúng tôi nghiêng cánh và chúi xuống, điều này cho phép ta hạ dần độ cao 

và  đáp  xuống  với  độ  lệch  không  đáng  kể.  Chúng  tôi  không  bay  trên  Saratov  mà  cách 

thành phố  khoảng 30 km, ở  đó có mấy làng ngƣời gốc Đức sinh sống. Cƣ dân tại đấy đã 

bị trục xuất đi đâu không biết nhƣng những ngôi làng này vẫn chƣa bị  ai chiếm dụng. Đó 

là nơi chúng tôi sống và học bay. Thảo nguyên Volga trải dài. Một nơi tuyệt vời để  bay 

tàu lƣợn.

Sau đó tôi vƣợt qua khóa huấn luyện dành cho chỉ huy các nhóm biệt kích vu hồi: 

sử dụng thuốc nổ, đánh cận chiến, chống lại chó canh. Vâng, chúng tôi đeo găng tay, mặc 

áo khoác dày và chống lại lũ chó. Nhƣ mọi ngƣời khác, đến tháng Mƣời năm 1941 tôi gửi 

một lá đơn đề  nghị  đƣợc chuyển sang lái máy bay tiêm kích. Đơn đƣợc chấp nhận! Ngày 

31 tháng 12 tôi đƣợc chuyển tới một học viện không quân tiêm kích. Ở  đấy ngay lập tức 

chúng  tôi  đƣợc  học  lái  các  loại  máy  bay  UT-1,  UT-2,  I-16.  Sân  bay  Belyi  Kliuch  của 

chúng tôi cách thành phố  Uianovsk 18 cây số, không xa dòng Volga. Một sân bay tuyệt 

vời, có tầm nhìn hạ cất cánh rất tốt. 

À, tôi quên kể rằng vào tháng Mƣời tôi và anh bạn thân Boria Bezrukov, ngƣời đã 

cùng học phổ  thông và chung câu lạc bộ  hàng không với tôi, sau đó lại gặp nhau tại học 

viện  Saratov,  đƣợc  lệnh  phải  chuyển  thứ  gì  đó  tới  Maskva.  Ngƣời  ta  đóng  kiện,  niêm 

phong  –  còn chúng tôi tới, ký nhận và chuyển đi. Rồi tôi và Boria quyết định, một cách 

cƣơng quyết, rằng phải tìm cách ra mặt trận. 

Chúng tôi xâm nhập tuyến đầu. Tìm cách có đƣợc mấy khẩu tiểu liên, học cách 

bắn chúng. Có mấy khẩu pháo 45mm triển khai gần chúng tôi, điều khiển bởi những tay 

lính cựu. Đó là những ngƣời thực sự có kinh nghiệm. Nhƣng nhân viên mật vụ ở đấy làm 

việc cũng thật cừ. Họ nhận ra ngay chúng tôi là ngƣời lạ: 

"Các anh là ai? Từ đâu tới?" Chúng tôi kể cho họ nghe tất cả. 

"Các anh có giấy tờ  gì?" Đấy là lúc tờ  chứng nhận của câu lạc bộ  hàng không và 

giấy tờ xác nhận công tác chuyển hàng của chúng tôi tới Matskva đã cứu chúng tôi thoát. 

"Biến đi và không đƣợc quay lại!" Chúng tôi thu dọn và chuồn nhanh. May mắn 

quá  giang xe cộ, chúng tôi quay lại Saratov và không ai phát hiện ra chuyến bỏ  trốn của 

chúng tôi. Tất cả  chuyện đó diễn ra trong không hơn một tuần, ít nhất là không ai chú ý 

tới.  Nhƣng  tôi  cũng  đƣợc  nhận  huy  chƣơng  “Vì  đã  bảo  vệ  Maskva”.  Sau  khi  tôi  từ

Saratov chuyển tới Ulianov thì Boria hy sinh. Khi chúng tôi bay tàu lƣợn đêm, có 8 ngƣời 

phải ngồi trong mỗi tàu lƣợn nhƣ những hành khách. Boria rất vui vì đƣợc ngồi trong vai 

hành khách. Chiếc tàu va chạm vào máy bay kéo, sợi cáp vƣớng vào cánh tàu và xé toạc 

nó. Tất cả mọi ngƣời trên tàu lƣợn đều thiệt mạng.  

Chúng tôi bắt đầu đƣợc huấn luyện  ở  Ulianovsk, rồi một lệnh từ  trên tới yêu cầu 

phải tái huấn luyện để bay máy bay cƣờng kích IL-2.

A.D. Máy bay có đƣợc chuyển tới không?

Có. Họ đƣa tới hơn 30 cái từ Kuibyshev.

Tôi tốt nghiệp Học viện Ulianovsk vào năm 1943. Sao lâu thế à? Là tôi may mắn 

đấy! Rất nhiều ngƣời chỉ  tốt nghiệp sau khi chiến tranh kết thúc! Họ  chỉ  chọn những ai 

xuất sắc nhất, để có thể dạy chúng tôi ít nhất – lý do là không đủ xăng cho huấn luyện. 

Vị trí khẩu đội phòng không 8.8cm PaK43 của Đức.

Ảnh chụp từ buồng lái máy bay IL-2.

Rồi họ chuyển chúng tôi tới sân bay dự bị tại Diad'kov, nằm cách Dmitrov 18 km 

về  phía Bắc. Tại đấy phi công đƣợc học các kỹ  thuật chiến đấu  –  ném bom và xạ  kích. 

Tất cả  những khóa học  ấy chỉ  chiếm khoảng vài giờ  bay. Khả  năng không cho phép làm 

hơn. Một tuyển dụng viên từ mặt trận sẽ  tới  –  và anh sẽ  ra đi cùng anh ta. Zhora Parshin 

tới chỗ chúng tôi – anh ấy là một phi công Át! Một phi công cƣờng kích mặt đất! Anh ấy 

đã hạ 10 máy bay trên một chiếc IL! Anh đã chiến đấu suốt từ đầu cho tận tới khi kết thúc 

chiến tranh. Một ngƣời tuyệt vời. Sau này tôi thƣờng gặp lại anh  ở  Leningrad tại đại lộ

Liteinyi. Còn khi anh  ấy tiếp nhận chúng tôi là vào năm 1944. Chúng tôi đƣợc nhận vào 

trung đoàn Không quân Cƣờng kích mặt đất 566. Đây là trung đoàn đầu tiên đƣợc nhận 

danh xƣng Cận vệ  -  Solnechnogorsk. Nó đã chiến đấu ở  đây, tại Maskva. Gần nhƣ tất cả

mọi ngƣời đều hy sinh. Từ  năm 1941 tại trận Maskva, chỉ  còn Afonia Machnyi sống sót, 

thậm chí anh ấy đã bị  mất trí nhớ  sau khoảng năm chục phi vụ. Từ  năm 1942 thì chỉ  còn 

Leva  Korchagin  sống  sót,  từ  1943  thì  còn  đƣợc  một  nhúm,  và  cứ  thế  đấy.  Trong  suốt 

chiến tranh trung đoàn mất 105 phi công và 50 xạ thủ. Trong số 28 ngƣời chúng tôi tới sƣ 

đoàn thì 15 hy sinh. Mất mát nhƣ thế đó. 

Tôi đƣợc đƣa vào Phi đội 1 của Trung đoàn 566. Mykhlik làm phi đội trƣởng. Sau 

này trở  thành hai lần Anh hùng Liên  Xô. Chúng tôi là dạng may mắn  –  đấy đang là thời 

kỳ yên tĩnh giữa hai chiến dịch nên có điều kiện để tiếp tục đƣợc huấn luyện, bay theo đội 

hình và bay tới một khu vực quy định. Chiến tranh tiếp diễn và chúng tôi bắt đầu tung hết 

sức chiến đấu trên bầu trời Baltics. Trung đoàn chúng tôi chiến đấu chủ  yếu  ở  Phƣơng 

diện quân Trung tâm và Phƣơng diện quân Leningrad. 

Chúng tôi chiến đấu trên máy bay IL-2. Chúng là loại máy bay tuyệt nhất vào thời 

đó! Mang đƣợc 600 kg bom, 8 quả  tên lửa, 300 viên đạn 23mm cho 2  khẩu đại bác VIa 

và 3600 viên cho hai khẩu súng máy. Xạ  thủ  ngồi sau sử  dụng một súng máy 12.7mm 

Berezin, 10 quả  lựu đạn tầm xa DAG-10 cho máy bay để  bảo vệ  khoảng không tầm thấp 

phía sau. Nếu một máy bay Đức xuất hiện, anh chỉ cần ấn một cái nút, thế  là một quả lựu 

đạn bung dù và nổ  tung khoảng 150 m phía sau máy bay. Thêm vào đó còn có một khẩu 

súng máy bộ binh và lựu đạn cầm tay. 

Một đợt đột kích vào vị trí tập trung xe cộ.

Ảnh chụp từ buồng lái máy bay IL-2.

A.D. Ngƣời ta nói máy bay IL-2 rất khó điều khiển?

Không.  Không  đúng  hẳn.  Máy  bay  tiêm  kích  I-16  thì  đúng  thế.  Nhất  là  lúc  hạ

cánh. 

A.D. Theo ông xạ thủ ngồi sau có tác dụng thế nào? 

Xạ thủ phía sau là cần thiết. Hiệu quả của anh ta thì khỏi phải bàn! 

A.D. Ông đã từng lái loại IL-2 bọc thép toàn thân chƣa? 

Đã từng. Tất cả  các máy bay này đều đƣợc trang bị radio rất tốt. Nhƣợc điểm duy 

nhất là chúng tôi phải ngồi ngay trên một thùng xăng: một thùng dƣới ghế  ngồi, một  ở

phía trƣớc và một ở giữa tôi và xạ thủ. Chúng tôi ngồi trên một thùng xăng lớn.

Chúng tôi bắt đầu chiến đấu tại Baltics, vƣợt qua Prussia và kết thúc chiến tranh 

tại Wittenberg, nơi mà từ  đó chúng tôi thực hiện những phi vụ  tới Koenigsberg và thậm 

chí tận Danzig.

Chúng tôi bị bắn trúng đôi lần. Một viên đạn bắn trúng cánh máy bay trong phi vụ

thứ  hai mƣơi tám. Chúng tôi thoát đƣợc một cách kỳ  diệu  –  cái lỗ  đạn rộng tới khoảng 

một mét! Nếu bị  trúng đạn, bạn có thể  ngửi ngay thấy mùi kim loại cháy. Tôi ngửi thấy 

mùi đó. Quay đầu lại  –  thấy một cái lỗ  toang hoác. Nhƣng tôi đã gặp may  –  Sóng chấn 

động và mảnh của nó văng về phía ngƣời xạ thủ. Chân anh ta bị cắt nát. Hệ thống liên lạc 

bị  cắt đứt. Chúng tôi hạ  cánh  ở  Wittenberg. Tôi hạ  cánh, tắt động cơ, nhảy ra cánh máy 

bay  –  ngƣời xạ  thủ, Viktor Shakhaev, ngƣời Siberi, sinh năm 1926, đang nằm đó. Mọi 

ngƣời chạy tới chỗ chúng tôi, kéo anh ta ra. Vừa kịp để cứu chân của anh. Hóa ra tôi cũng 

bị thƣơng. Một mảnh đạn sƣợt qua gáy. Nó xuyên qua chỗ  nào nhỉ? Họ  muốn đƣa tôi tới 

bệnh viện nhƣng tôi từ  chối. Chiến tranh kết thúc với tôi tại Wittenberg. Tôi đã bay đƣợc 

84 phi vụ.

Cuối  tháng  Năm  năm  1945  họ  chọn  ngƣời  trong  các  trung  đoàn  của  sƣ  đoàn 

chúng tôi để tham dự Lễ Diễu hành mừng Chiến thắng. Họ chọn những ngƣời cao 1 m 80 

và gửi tới Koenigsberg để  tập luyện. Tay trung sĩ của chúng tôi là một huấn luyện viên 

rất cừ. Đầu tháng Sáu chúng tôi đƣợc chuyển lên một chuyến xe lửa và hở  tới Maskva. 

Tại đó chúng tôi đƣợc bố  trí vào một tiểu đoàn hỗn hợp gồm các phi công của Phƣơng 

diện quân Belorussia 3. Chỉ  huy của chúng tôi là tƣớng Prutkov, sƣ đoàn trƣởng sƣ đoàn 

Cận vệ Cƣờng kích mặt đất Stalingrad số 1. Họ cho chúng tôi áo bay, giầy ủng và mũ. Đó 

là một không khí hạnh phúc, tuyệt vời. Chúng tôi sống ở  doanh trại Chernyshevskie, gần 

Shabolovka. Chúng tôi đi chơi đâu à? VDNKh (Trung tâm Triển lãm Toàn Liên bang  –

LTD), gần cầu Crimea và một vài nơi khác. Khẩu phần Voroshilov đặc biệt trong bữa ăn, 

thậm chí có cả bánh mì trắng. Tôi cũng cần kể rằng thức ăn tại mặt trận cũng rất tuyệt. Lễ

Diễu hành diễn ra ngày 24 tháng Sáu. Tôi cũng đƣợc dự tiệc mừng ở đấy. 

IL-2 (có dấu mũi tên) đang thoát ra sau một đợt công kích.

A.D. Ông bay ở vị trí số 2 hay vị trí biên đội trƣởng? 

Ngoài mặt trận mọi ngƣời ban đầu đều phải bay ở  vị trí số 2. Vasia Mykhlik cùng 

tôi bay khoảng 40 phi vụ. Rồi anh  ấy tới Maskva để  nhận Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên 

Xô và chỉ  quay lại vào cuối tháng Tƣ (năm 1945). Khi đó tôi đã là biên đội trƣởng. Hai 

phi vụ  cuối cùng tôi đã dẫn đầu tám chiếc  –  cả  một phi đội. Đấy là ngày 8 tháng Năm. 

Phi vụ đầu vào lúc 10 giờ sáng, phi vụ thứ hai khoảng 2 giờ chiều. Tới bán đảo Zemland. 

Chúng tôi lƣợn trên mọi ngóc ngách của nó. Rồi trở về. Họ đã nạp xăng để chúng tôi bay 

tiếp  phi  vụ  thứ  ba.  Chúng  tôi  lăn  ra  đƣờng  băng,  sẵn  sàng  chờ  lệnh.  Bỗng  tham  mƣu 

trƣởng Nikolai Ivanovich Borkov chạy tới chỗ  chúng tôi: "Ura, quay lại. Kết thúc rồi!" 

Chúng tôi tắt máy, vãi đạn lên trời  để  ăn mừng. Chiến tranh đã kết thúc! Và rồi tôi tiếp 

tục bay IL và MIG trong một thời gian dài.  

A.D. Ngƣời ta nói cứ  7 xạ  thủ  bị  giết mới có 1 phi công chết, điều này có đúng 

không? 

Không. Để tôi giải thích cho anh. Chúng tôi có 105 phi công và 50 x ạ thủ hy sinh, 

tại sao? Bởi trung đoàn chiến suốt từ  đầu tới cuối chiến tranh. Nửa đầu trên loại máy bay 

IL một chỗ ngồi. Còn nửa sau trên loại hai chỗ ngồi. Trong hầu hết mọi trƣờng hợp cả hai 

cùng hy sinh. Một phi công cƣờng kích mặt đất, theo các số  liệu đƣợc thống kê, thƣờng 

bay khoảng 7 tới 8 phi vụ là chết. Con số thống kê là thế đó. 

A.D. Ông có đƣợc yểm trợ bằng máy bay tiêm kích không? 

Luôn luôn. Trong chiến dịch Prussian chúng tôi thƣờng đƣợc hộ  tống bởi trung 

đoàn Normandie-Niemen.

A.D.  Nhiệm  vụ  chiến  đấu  có  đƣợc  phân  công  rõ  cho  từng  ngừơi  trong  phi  đội 

không? 

Điều này không cần thiết. Tùy theo mỗi phi vụ. 

A.D. Ông thƣờng tham gia loại phi vụ nào nhất? 

Thƣờng là ném bom các vị trí ở tuy ến đầu. Có lần tôi phải đi bộ để trinh sát trƣớc. 

Tay chỉ huy bộ binh bảo tôi: "Các anh không cần phải nổ súng. Chỉ cần bay tới xuất hiện 

ở  đây. Thế  là đủ  rồi. Còn nếu các anh công kích, các anh sẽ  luôn là các khách mời đặc 

biệt của chúng tôi!”. Đánh đắm tàu thuyền đậu trong cảng, và có 4 lần công kích các sân 

bay  địch.  Đấy  là  một  công  việc  đáng  sợ!  Chúng  luôn  đƣợc  bảo  vệ  rất  tốt.  Công  kích 

những nơi tập trung xe thiết giáp. Vâng, để chống lại các mục tiêu quân sự ấy, hàng trăm

máy bay đƣợc tung ra, nhằm mục đích quét sạch mọi thứ khỏi mặt đất. 

A.D. Cái gì nguy hiểm hơn, pháo phòng không hay tiêm kích đối phƣơng? 

Pháo phòng không. Tất nhiên vào thời kỳ  đầu chiến tranh, đám tiêm kích thực sự

đe dọa mạng sống các phi công cƣờng kích mặt đất chúng tôi. Nhƣng cuối chiến tranh là 

pháo  phòng  không.  Đó  thật  là  một  công  việc  rùng  rợn!  Có  đến  hàng  chục  khẩu  pháo 

phòng không cỡ  nhỏ  đƣợc bố  trí và nã đạn vào cùng một mục tiêu. Và xung quanh là 

những cụm khói nhỏ  màu đen từ  những khẩu phòng không cỡ  trung. Bạn phải bay mà 

không thể đoán trƣớc khẩu nào sẽ … bắn trúng mình. Tất nhiên chúng tôi cũng thực hiện 

phƣơng án để chống phòng không. 

Chúng tôi thƣờng bay cách nhau từ 30 tới 50 m. Khi tới chiến tuyến chúng tôi dãn 

ra – khoảng cách là 150 m. Và đánh võng máy bay từ bên này qua bên kia. Rồi chúng tôi 

tạo thành một vòng tròn phía trên mục tiêu và bắt đầu ra tay. Có một ít tiêm kích yểm hộ

phía trên. Công thức là thế đấy.

A.D. Ông thƣờng phải thực hiện bao nhiêu bƣớc thao tác? 

Tùy theo hoàn cảnh. Có thể xảy ra tình huống bị phản công – khi đó thì lạy Chúa! 

Khi đó thì chỉ  có một thao tác. Anh phải sử  dụng mọi vũ khí ngay lập tức  –  tên lửa, đại 

bác, bom. Nếu hỏa lực bắn lên không mạnh lắm thì sử dụng làm 4 tới 6 lần. Sau đó ngƣời 

biên đội trƣởng phải đủ khôn khéo, sao cho ngƣời bay số 2 có thể theo kịp. Chúng tôi tiếp 

cận mục tiêu theo đội hình, nếu thời tiết cho phép,  ở  độ  cao 1200-1400m, và thoát đi sau 

khi tập hợp lại, cũng theo đội hình, ở cùng cao độ trên. 

Một khẩu pháo tự hành Đức, có thể là loại StuG III.

Ảnh chụp từ buồng lái của IL-2.

A.D. Chỗ nào là điểm yếu nhất của IL-2?

Động cơ. Ở  hai cánh thì ít nhiều gì cũng không sao. Nếu một thùng xăng  bị  trúng 

đạn thì cũng chƣa đến nỗi tệ  lắm. Sao thế  nhỉ? Là vì khi tiếp cận mục tiêu, chúng tôi mở

công tắc xả  carbon dioxide từ  hộp chứa vào đầy các khoảng trống trong các thùng nhiên 

liệu. Nếu một viên đạn xuyên qua thân và trúng thùng nhiên liệu, hóa chất tự  hàn sẽ  lấp 

kín lỗ thủng, xăng sẽ  không thoát ra, và sẽ  không có bốc hơi nhiên liệu, do đó không dẫn 

tới bốc cháy. 

A.D. Tên lửa sử dụng có hiệu quả không? 

Đó là loại tên lửa 82 mm. Tất nhiên, chúng tôi bắn chúng ở  khu vực lân cận mục 

tiêu. Nhƣng trên  tuyến đầu thì các mục tiêu  ở  khắp nơi, binh lính và xe cộ  tập trung với 

mật độ  rất cao. Một chùm là hiệu quả  nhất  –  một quả  trƣợt thì chắc chắn quả  khác sẽ

trúng  mục  tiêu.  Chúng  tôi  cũng  dùng  loại  RS-132,  nhƣng  chỉ  đeo  theo  2  quả.  Trong 

trƣờng hợp ấy chúng tôi đem ít bom hơn – chỉ 200 kg. Thƣờng chúng tôi dùng loại RS-82, 

đôi khi tới 16 quả.

A.D. Máy bay của ông có lắp pháo 37 mm không? 

Chúng  ta  có  loại  IL  dùng  pháo  37  mm,  40  viên  đạn  cho  mỗi  khẩu.  Nhƣng  tôi 

không bay loại đó. Chúng không hiệu quả lắm.

A.D. Bộ binh Đức đƣợc bảo vệ hiệu quả không? 

Chúng  thƣờng  chỉ  có  một  cách  bảo  vệ  –  tập  trung  các  ụ  pháo  phòng  không. 

Không chỉ  một khẩu đội mà tập trung ở  bốn cụm theo bốn góc. Đôi lúc tôi đếm đƣợc tới 

40 khẩu  –  chúng bắn lên liên tục, không ngớt. Pháo phòng  không cỡ  nhỏ  đặc biệt nguy 

hiểm. 

A.D. Có bao giờ ông tấn công bổ nhào không? 

Luôn luôn là công kích bổ nhào, từ khoảng 30 tới 40 độ. Anh sẽ không có đủ thời 

thời gian để  sử  dụng tất cả  vũ khí nếu bổ  nhào với một góc lớn hơn. 30 tới 40 độ  –  đó là 

góc cho phép sử dụng hết toàn bộ các loại vũ khí cùng một lúc.

A.D. Ông đã sử dụng loại bom diệt tăng lần nào chƣa? 

Có. Chúng tôi đã thực hiện khoảng 280 lần. Có cả  loại bom 25 kg, 50 kg và 100 

kg  -  4 khoang chứa, sức chứa 600 kg. Chúng tôi thƣờng trút bom từ  độ  cao trên1400-1500 m. Nếu trời có mây thì là 400-600 m, nhƣng thƣờng chúng tôi kết hợp với kíp nổ

chậm. 

A.D. Thƣờng ông bay khoảng bao nhiêu phi vụ một ngày ?

Đôi khi là 3 … nhƣng có khi nhiều lắm. Nhiều lắm. 

Nếu ai đó nói không sợ thì chắc chắn là nói dối. Cái khoảng khắc chờ đợi là lúc sợ

nhất và khó chịu nhất. Ví dụ  nhƣ họ  có thể  nói: “Lúc 14 giờ  tại sân bay này”. Anh ngồi 

đó: 14 giờ  –  chƣa thấy gì, 14 giờ  30  -  chƣa thấy gì, 15 giờ  –  vẫn chƣa có lệnh! Hay khi 

anh đang trong buồng lái, chờ một phi vụ đi phóng tên lửa, và mãi chẳng thấy. Chân cẳng 

bắt đầu run rẩy. Một nỗi sợ  hãi thực sự  bắt đầu trỗi dậy. Sau cùng là không gì bảo đảm 

anh  không  bị  bắn  hạ  trong  khi  thực  hiện  phi  vụ.  Nhƣng  khi  một  quả  tên  lửa  bắn  vào 

không trung, đầu anh bắt đầu tập trung theo nhiều hƣớng khác nhau và nỗi sợ  sẽ  dần dần 

biến mất. Kế  đó là một cảm giác khó chịu xuất  hiện khi anh tiếp cận mục tiêu nhƣng 

không thể  tấn công ngay lập tức. Chúng sẽ  có thời gian chuẩn bị  và bắn trả. Khi bắt đầu 

tấn công thì, ngƣời phi công khởi sự công việc, dõi tìm mục tiêu, nhấn cò, phóng tên lửa, 

nã  súng  máy,  pháo,  nhấn  nút  ASSh-41  (Nút  thả  bom  khẩn  cấp.  Bom  sẽ  thả  ngay  khi 

buông nút ra, hay nếu anh muốn thả đồng loạt tất cả bom thì cũng nhấn nút ấy).

A.D. Làm cách nào xác định hiệu quả oanh kích của một phi vụ? 

Mỗi ngƣời đều có một máy camera gắn theo khẩu pháo, nó làm việc khi anh đang 

khai hỏa. Nếu anh bắn cháy một cái xe, nó sẽ  ghi lại. Nếu anh bắn một chiếc tăng, nó 

cũng sẽ  ghi lại. Thêm vào đó, các xạ  thủ  ngồi sau trang bị  những camera quay góc rộng. 

Thƣờng luôn có hai ngƣời nhƣ thế trong mỗi nhóm. Chúng quay đƣợc một vùng rộng, và 

sau khi hạ  cánh chúng tôi đem phim đi tráng. Thêm nữa, khi tiến tới chiến tuyến chúng 

tôi thiết lập liên lạc với một ngƣời quan sát, thƣờng là một đại diện của sƣ đoàn không 

quân. Chúng tôi có thể  nhận rõ giọng nói của anh ta. Anh ta sẽ  thông báo cho chúng tôi: 

"Các bạn, qua phải một chút. Tốt”. Anh ta cho chúng tôi lệnh tấn cong. Thông báo điểm 

bom rơi. Bƣớc thứ  hai là xác nhận kết quả. Sự  xác nhận của anh ta đƣợc ghi lại để  công 

nhận chính thức. 

A.D. Và ông làm thế nào để giúp các phi công mới hòa nhập? 

Cũng thƣờng thôi. Sau khi tốt nghiệp các phi công đƣợc đƣa tới các trung đoàn dự

bị. Ném bom và oanh kích các mục tiêu mặt đất bằng pháo và súng máy. Rồi một ngƣời

tuyển dụng sẽ tới. Chúng tôi sẽ phải luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. 

A.D. Còn khi ở trung đoàn chiến đấu? 

Sau khi trải qua thủ  tục trên, chúng tôi đƣợc chuyển tới trung đoàn và bố  trí vào 

một phi đội. Phi đội trƣởng sẽ  bay với từng ngƣời, trắc  nghiệm thử  thách mức độ  sẵn 

sàng của từng cá nhân, và chọn ra ngƣời sẽ  bay số  2 với mình. Tôi đã ngay lập tức đƣợc 

chọn bay chung với phi đội trƣởng. Tôi chỉ  bay chung với anh  ấy. Tôi yêu bay lƣợn và 

hầu nhƣ đã đƣợc chọn ngay từ đầu. 

A.D. Trong đơn vị của ông có chiếc IL-10 nào không? 

Tất nhiên. Nhƣng chỉ sau chiến tranh. Chất lƣợng của chúng cũng thế. Cùng trọng 

lƣợng, xạ  thủ, chỉ  huy, phi công. Cấu trúc thì phức tạp hơn. Diện tích cánh nhỏ  hơn một 

chút. Vũ khí tƣơng tự. Hai khẩu pháo và hai súng máy. Tầm bắn có khác chút xíu. Nhƣng 

hầu nhƣ là giống IL-2. 

A.D. Có khi nào ông bắn phải đồng đội không? 

Chỗ chúng tôi có một phi công Hai lần Anh hùng Liên Xô Len'ka (Leonid) Beda, 

chúng tôi đã cùng học với nhau. Một con ngƣời cẩu thả. Dù sao chúng ta cũng không nên 

nói  xấu  về  ngƣời  đã  khuất.  Có  lần  một  vị  tƣớng  tới,  chúng  tôi  đƣợc  lệnh  tập  hợp.  Vị

tƣớng chú ý tới anh ta: 

"Họ?"

"Beda" ("Beda", trong tiếng Nga có nghĩa là "tai họa" - LTD.)

"Tôi đang hỏi họ của anh là gì!"

"Beda, thƣa đồng chí chỉ huy!"

Len'ka đã giết lầm 118 ngƣời vào cuối chiến tranh. Đó không phải là lỗi của anh 

ta, họ  đã ra lệnh cho anh trƣớc khi bay: "Hãy ném bom mục tiêu đó ". Nhƣng trƣớc khi 

đó anh ta phải bay tới mục tiêu đã. Có lẽ mất khoảng 30 phút. Khi họ bay tới, tình hình đã 

thay  đổi. Quân ta đã chiếm đƣợc nơi đó, nhƣng không ai thông báo cho anh ta. Phi đội 

oanh tạc mục tiêu –  118 ngƣời chết. Anh ta trở  về, họ  tƣớc huân chƣơng của anh, nhƣng 

ngay lập tức điều tra và trả lại chúng. Sau này anh ta trở thành Tƣ lệnh Không quân Quân 

khu Belorussia.

A.D. Đã khi nào ông phải đối đầu với máy bay địch không? 

Tôi chƣa lần nào tham gia không chiến, nhƣng xạ  thủ  phía sau cũng không khi 

nào phải ngồi chơi  –  sau khi rút khỏi một đợt công kích anh ta nã đạn vào các mục tiêu 

trên mặt đất. 

A.D. Có trƣờng hợp hèn nhát lung lạc nào không? 

Chỉ một vài trƣờng hợp đơn lẻ xảy ra. Có lần, khi tay N. đang dẫn đầu một phi đội 

lớn, khoảng 20 máy bay, anh ta rút lui trƣớc khi tới đƣợc mục tiêu và đƣa toàn bộ phi đội 

về sân bay. Ra tòa án binh. Chịu bảy năm tù. Nhƣng sau đó anh ta chiến đấu tốt – đƣợc 4 

Huân chƣơng Cờ  đỏ. Cũng có những kẻ  ranh mãnh. Một số  ít thôi, nhƣng có. Hắn vẫn 

tìm cách giữ  độ  cao. Chúng tôi thì bay, còn hắn cứ  lơ lửng  ở  trên, rồi hạ  xuống độ  cao 

1000 m, thả bom và nhập vào phi đội. Nhƣng chúng tôi thấy hết mọi điều. 

A.D. Các ông có nện hắn ta không?  

Chỉ  cảnh cáo hắn. Bảo hắn là: "Sasha, anh mà còn làm thế  lần nữa, chúng tôi sẽ

bắn hạ  anh". Hắn đã phá vỡ  sự  phối hợp của chúng tôi ! Chúng tôi bay  ở  cao độ  600 m, 

hắn lại ngóc đầu lên nên cao độ trở thành 1200 m. Sự phối hợp bị đứt đoạn. Lời cảnh cáo 

đƣợc thực hiện. 

A.D. Có hiện diện một phi đội cƣờng kích mặt đất trừng giới nào không? 

Không. Họ gửi các sĩ quan phạm lỗi tới chỗ chúng tôi, không nhất thiết phải là phi 

công. Họ sẽ phải bay 10 phi vụ với nhiệm vụ xạ thủ súng máy.

A.D. Cái gì giúp xem xét kết quả một phi vụ chiến đấu? 

Chỉ có cách ném bom mục tiêu địch với các tấm ảnh minh chứng. 

A.D. Các ông có khi nào bị rơi máy bay do lỗi kỹ thuật không? 

Các kỹ  thuật viên làm việc rất  tốt. Nếu một máy bay không trở  về  do lỗi kỹ  thuật 

thì phải có điều gì đó khá nghiêm trọng xảy ra. Tất cả  những chuyện đó sẽ  đƣợc điều tra 

cẩn thận.

A.D. Ông có áp dụng chiến thuật đặc biệt nào không? 

Có. Anh thực hiện xong bƣớc một, rồi tới bƣớc thứ hai, và họ sẽ thông báo từ mặt 

đất: "Hãy chờ một lát, để  cho bộ  binh xông lên, chúng tôi sẽ  thông báo cho các anh vị  trí 

mục tiêu kế  tiếp”. Thế  là chúng tôi dừng lại trên bầu trời, còn họ  thông báo mục tiêu kế

tiếp dựa trên các thông tin từ vị trí quan trắc tiền tiêu. 

A.D. Các ông có thực hiện phi vụ  trong khoảng thời gian tạm dừng chiến dịch 

không? 

Những hoạt động căng thẳng nhất diễn ra trong thời gian thực hiện các chiến dịch. 

Những lúc nhƣ thế  chúng tôi phải bay rất nhiều, nhƣng chỉ  khi nào đƣợc yêu cầu, và đã 

có các chuẩn bị  tƣơng  ứng. Tổ  lái và trang thiết bị  phải đƣợc chuẩn bị  kỹ. Trong những 

khoảng thời gian tạm dừng chiến dịch chúng tôi cũng bay. Để  thực hiện các nhiệm vụ

chiến thuật. Tất nhiên là với lực lƣợng nhỏ hơn. Chúng tôi thƣờng đƣợc gửi đi hỗ trợ cho 

bộ  binh hay để  tiêu diệt những đội hình hành quân của địch. Ví dụ  nhƣ Pokryshkin bay 

hơn 500 phi vu, tham gia 84 trận không chiến. Anh ta đã bắn hạ 59 máy bay. Tôi cũng đã 

tham gia 84 phi vụ chiến đấu. Thế nhƣng nếu bạn chuyển hiệu quả tác chiến của tôi thành 

tiền thì tôi chắc chắn cũng không hề thua kém anh ta. Tôi có thể khẳng định điều này. Tất 

nhiên là đôi tay các phi công cƣờng kích mặt đất luôn ngập máu đến tận khuỷu. Nhƣng 

đấy là nhiệm vụ  của chúng tôi, và tôi cho rằng chúng tôi đã làm việc rất hiệu quả. Chúng 

tôi đã phải làm mọi việc trên đời. Vâng, và Chúa hẳn không chỉ  đơn giản ban cho chúng 

tôi những “cây thập giá”. 

Phỏng vấn: Artem Drabkin

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA CÁC PHI CÔNG

Vyacheslav Ivanov

(Ông sinh năm 1921. Là thiếu úy hoa tiêu trên máy bay U-2 thuộc Phi đoàn 387 

NBAP.  Lần  đầu  tham  gia  chiến  đấu  vào  tháng  Sáu  năm  1943,  tại  Phƣơng  diện  quân 

Bryansk, ông thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đêm đầu tiên vào đầu chiến dịch Orel-Kursk, 

giải  phóng  Orel.  Tại  đây,  nhờ  đã  hoàn  thành  30  phi  vụ  chiến  đấu,  ông  đƣợc  trao  tặng 

Huân chƣơng Sao Đỏ, và vào ngày mùng 9 tháng Tám năm 1943, trong khi thực hiện phi 

vụ  thứ  37, máy bay của ông bị  bắn rơi trên bầu trời thị  trấn Karachev, phụ  cận Bryansk. 

Đầu tháng Giêng năm 1944 ông tham gia chiến đấu trong thành phần Ban tham mƣu Phi 

đoàn 715 NBAP thuộc Phƣơng diện quân Ukraina 1. Tổng cộng, ông đã thực hiện 99 phi 

vụ chiến đấu. Trung đoàn ông cũng thực hiện rất nhiều phi vụ bay ngày bằng máy bay U-2 khi họ  ném bom lực lƣợng Đức bị  bao vây trong khu vực thị  trấn Chertkov (phía Nam 

Ternopol). Phi đoàn 715 NBAP cũng đã ném bom một cây cầu bắc ngang sông Dnestr 

trong khu vực thị trấn Kamenets-Podol'sk. Do những chiến công đó, Phi đoàn 715 NBAP 

đã đƣợc nhận danh xƣng Cận vệ "Kamenets-Podol'skiy".

Cuối năm 1944 ông đƣợc chuyển tới 600 VTAP ON (Trung đoàn Vận tải đƣờng 

không thực hiện Nhiệm vụ đặc biệt), thuộc Bộ Tổng Tƣ lệnh. Tại đây ông đã bay các loại 

máy bay Shche-2, Yak-6,  Li-2 và (sau chiến tranh)  Il-12. Tổng cộng ông đã thực hiện 

khoảng 3000 giờ  bay. Năm 1956, do mắc bệnh thận, ông chuyển sang công tác dƣới mặt 

đất. Sau đó ông tiếp tục phục vụ  trong VVS (Không quân Liên Xô) cho tới tháng Chạp 

năm 1971, khi ông về  hƣu với chức vụ  Tham mƣu trƣởng Đoàn Không quân 229 VTAP 

ON/4 AD ON. 

Ông đã đƣợc tặng ba Huân chƣơng Sao Đỏ, một Huân chƣơng Vệ quốc và 17 huy 

chƣơng các loại.) 

"Chuyện đó xảy ra vào mùng 9 tháng Tám năm 1943. Chúng tôi bay đi ném bom 

một nhà ga đƣờng sắt. Pháo phòng không bắn lên dữ dội và, theo tôi nghĩ, tiêm kích Đức 

cũng có mặt. Tôi không biết chính xác thứ  gì bắn hạ  chúng tôi, nhƣng máy bay tôi bốc 

cháy và bắt đầu rơi. Chúng tôi rơi xuống gần khu vực ga đƣờng sắt Karachev.  Tôi và 

trung úy phi công Pavel Radenko chui khỏi cái máy bay giờ  đang cắm mũi xuống đất.

Chúng tôi hỏi nhau tình hình thƣơng tích và, sau khi đã chắc chắn là chúng không có gì 

nguy hiểm, chúng tôi quyết định rời khỏi nơi máy bay rơi. Nhƣng trƣớc tiên chúng tôi 

phải cởi áo bay. Anh ấy cởi áo thật nhanh và bắt đầu giục giã tôi. Nhƣng tôi vẫn còn loay 

hoay với cái áo của mình, rồi lại tìm túi cứu hộ  và tháo lấy la bàn, rồi mới trƣờn ra để

đuổi theo anh ta. Lúc này trời đã tối, tôi không thể  đuổi kịp. Tất cả  nỗ  lực của tôi để  tìm 

ngƣời chỉ  huy trong đêm tối đều thất bại. Tôi đi mãi tới khi gặp một nhà ga xe lửa. Tôi 

định băng qua dải đƣờng sắt về phía Bắc, nơi có một cánh rừng, nhƣng ý định đó thất bại 

khi tôi kịp phát hiện một nhóm gác đang tuần tra trên đƣờng. Một lần nữa tôi lại bắt đầu 

đi tìm dấu vết chỉ  huy của mình. Chủ  yếu tôi bò trƣờn sát đất do sợ  gây chú ý cho những 

ngƣời mà chốc chốc tôi lại nghe thấy tiếng trò chuyện. Bọn họ  nói với nhau bằng tiếng 

Đức. Tôi trƣờn mãi tới khi nhận thấy có ngƣời đang tiến thẳng lại gần mình. Chờ  hắn tới 

thật gần, tôi bật nhanh dậy và hỏi rất to tên của hắn. Hắn trả  lời bằng tiếng Đức: “Halt”. 

Thế là tôi bắn thẳng vào hắn và vội quay lại chạy vọt đi. Trời bắt đầu sáng và tôi ẩn mình 

vào đám cỏ  cao mọc trong cái rãnh ven đƣờng. Tôi  ở  đấy trong suốt ngày đầu tiên. Một 

chiếc môtô ba bánh chở một xạ thủ trung liên và một tên lính nữa ngồi sau thằng lái chạy 

qua con đƣờng. Chúng cứ  chạy đi chạy lại nhƣ thế mấy lần nên tôi phải nằm chờ  đến khi 

trời tối hẳn. Đêm tới, tôi chui khỏi cái rãnh, thận trọng lảng xa thị  trấn  ấy và đi về  phía 

đông,  định  hƣớng  nhờ  cái  la  bàn.  Chiến  tuyến  hiện  ở  gần  khu  vực  ga  đƣờng  sắt 

Naryshkino, cách thị  trấn Karachev 50 km và cách Orel khoảng 30 km. Tôi biết lúc này 

Orel  đã  đƣợc  giải  phóng  và  quân  đội  ta  đang  tiến  quân  về  Bryansk.  Do  đó,  tôi  đi  về

hƣớng mặt trận với hy vọng vƣợt chiến tuyến về phía quân ta. 

Máy bay PO-2 của Phi đoàn 668 BAP.

Tôi bƣớc gần miệng của một cái hố  lớn  –  đó là cái hố  tạo ra bởi vụ  nổ  của một 

quả  bom hạng nặng. Tôi quyết định  dừng lại đây để  chờ  cho hết ngày thứ  hai. Suốt đêm 

lẫn ngày của hôm đầu tiên mƣa rơi rả  rích nên giờ  đây, nằm trong cái hố, tôi phơi ngƣời 

dƣới nắng để  hong cho khô và cố  chợp mắt một chút. Tôi thức dậy do một cú chạm nhẹ

và, hé mắt ra đôi chút, tôi thấy một ngƣời mặc quân phục Đức đứng ở miệng hố. Sau một 

thoáng, tôi hiểu là hắn đang ném đá vào ngƣời mình, do đó tôi phải cố giữ im lặng không 

động đậy. Thế rồi, qua khoé mắt, tôi thấy hắn đi tìm một hòn đá lớn và cố lăng nó vào tôi. 

Tôi nhắm chặt mắt lại và  tự  nhủ  rằng, dù chuyện gì xảy ra đi nữa tôi cũng cố  giữ  cho 

ngƣời bất động. Hòn đá, may thay chỉ là một tảng đất pha cát, vỡ vụn ra sau khi trúng vào 

đầu tôi. Tôi chờ một chút, khi đám đất cát vụn tuôn qua mặt, mở hé mắt và nhận thấy tên 

Đức phẩy tay rồi bỏ đi. 

Tôi vẫn ở lại trong cái hố thêm một lúc. Chờ tới khi trời tối, tôi rời hố bom và tiến 

xa hơn về  hƣớng đông. Tôi tới đƣợc một cánh đồng lúa mì đã gặt, tuốt lấy vài bông bỏ

vào túi, cảm thấy mừng vì vẫn tìm đƣợc chút gì đó để  nhai. Tôi ở  lại cánh đồng ấy trong 

ngày thứ  ba. Vẫn còn vài bông lúa trong túi. Đêm đã đến và tôi một lần nữa lại tiếp tục 

tiến về hƣớng đông.  

Rạng sáng ngày thứ  tƣ, tôi lần đƣợc tới chỗ  có những đống rơm khô. Vùi mình 

vào một trong những đống rơm đó, tôi lăn ra ngủ. Tôi bị đánh thức bởi tiếng đạn nổ trong 

khu vực  ấy, bắn ra từ  hƣớng quân ta. Tôi kết luận có lẽ  mặt trận đang  ở  gần và tôi đã 

không lầm. Đã là cuối ngày thứ  tƣ. Tới đêm, tôi chui khỏi đống rơm và quyết định trƣờn 

đi kiểm tra xem có gì ở  phía trƣớc mặt. Hóa ra, tôi đã  tới đƣợc ngay mặt trận. Các chiến 

hào xuất hiện rất gần và tôi đã có thể quan sát rõ đám ngƣời và một chiếc xe ngựa đang di 

chuyển về  hƣớng tây. Ngày thứ  năm bắt đầu. Ngay lập tức, tôi nhận ra mình đang ở  giữa 

mặt trận. Trong đụn rơm nơi tôi ẩn nấp, tôi nghe đƣợc một cuộc trao đổi bằng tiếng Đức 

và thấy có hai ngƣời đang tiến về  phía mình. Chúng lại gần và bắt đầu lấy rơm  ở  ngay 

chỗ  đầu tôi, một tên trong chúng đè lên vai tôi. Ôi, tôi nghĩ, thế  là hết … Tôi nắm chặt 

khẩu súng lục trong tay và sắn sàng nổ  súng nếu chúng phát hiện ra. Điều đó nghe có vẻ

ngốc nghếch, nhƣng lúc đó tôi đã thực sự  nghĩ nhƣ thế  và đã sẵn sàng thực hiện… Bọn 

Đức lấy rơm khô và quay đi, nhƣng tôi lại nghe và thấy chúng một lần nữa quay trở  lại. 

Chúng bỏ  đi sau khi lấy đủ  rơm. Với tôi một lần nữa mọi chuyện lại kết thúc tốt đẹp: 

chúng chỉ  đến lấy rơm để  lót vào chiến hào. Tôi cẩn thận nằm lại chờ  tới khi trời tối. Rồi 

tôi chui ra, uống no nƣớc trong một vũng lầy, nhai nốt chỗ  lúa mì còn lại và quyết dịnh 

nằm chờ  tới lúc trời sáng bên  đống rơm. Rạng sáng ngày thứ  sáu của chuyến hành trình 

giữa hậu phƣơng quân Đức, tôi nghe có những tiếng trò chuyện và la hét ồn ào bằng tiếng 

Nga. Tôi nhận ra một toán rất đông binh lính có vũ trang đang tiến về phía tây, ngang qua 

chỗ tôi. Ngay lúc ấy, về phía dải đƣờng sắt chạy bên trái tôi, tôi thấy có nhiều ngƣời đang 

bƣớc thẳng lƣng. Tôi đã gặp đám lính bộ  binh của Kapitan, trung đoàn trƣởng một trung 

đoàn công nhân Tula, theo lời anh ấy nói. 

Đấy là ngày 15 tháng Tám năm 1943. Tổng cộng tôi đã đi đƣợc 7 cây số kể từ thị

trấn Karachev. Đêm và ngày 16 tháng Tám, tôi nghỉ tại một điểm đóng quân, nơi vào ban 

đêm tôi nghe thấy tiếng những xã trƣởng bị  bắt, do trƣớc đó đã cộng tác với quân Đức, 

đang bị thẩm vấn. 

Tới sáng, sau khi nhận đƣợc một túi nhỏ  chứa  bánh mì khô và một hộp thịt, tôi 

quá giang một xe tải để  tới thị  trấn Orel, 7 cây số  cách cái sân bay mà từ  đó tôi đã cất 

cánh ngày 9 tháng Tám năm 1943. 

Tại Orel tôi gặp một chuyên viên mặc quân phục không quân cƣ xử  rất lịch sự, 

nhƣng đó chính là một  sỹ  quan "Smersh" (mật vụ  quân đội) và quá trình thẩm tra tôi bắt 

đầu. Thật khổ cho bất cứ ai sống ở thị trấn này. Đơn giản là tay chuyên viên đó từ chối tin 

việc tôi là phi công thuộc sân bay đóng tại khu vực ga xe lửa Stish. Đã ba lần họ lôi tôi ra 

sau một đống rác nhỏ, để làm gì không hiểu? … Tới tận bây giờ, tôi vẫn không thể trả lời 

chắc chắn cho câu hỏi đó. Mỗi lần tới sau đống rác, họ, lần lƣợt ngƣời này kế  tiếp ngƣời 

kia, và cuối cùng là bốn ngƣời một lúc, cố  gắng bắt tôi kể  tên thƣ ký của nhóm sinh hoạt 

Đoàn Thanh niên Komsomol đầu tiên mà tôi từng tham gia. Nhƣng làm sao tôi nhớ  nổi 

cái tên đó, nhất là trong tình huống thế  này? Trong suốt thời gian diễn ra câu chuyện khó 

chịu đó, tôi vẫn giữ  đƣợc cái thẻ  Đoàn và tất nhiên là chìa nó ra cho đám “Cận vệ” đầây 

tinh thần cảnh giác kia. Sau khoảng ba tiếng đồng hồ, sức kiên nhẫn của tôi đã cạn và tôi 

buông ra những từ  ngữ  gay gắt để  bộc lộ  sự  căm phẫn về  cách cƣ xử  quái gở  của họ. Tôi 

bảo họ  rằng sân bay chúng tôi chỉ  nằm cách ga Stish (tức làng Mikhailovka) có 7 cây số, 

hãy tới đó mà kiểm tra và, nếu thấy tôi sai thì cứ  việc đem tôi ra làm bất cứ  điều gì họ

muốn. Sau khi nghe tôi  nói thế, họ  đề  nghị  tôi  bình tĩnh lại và bỏ  tôi  một mình trong 

phòng. Nửa tiếng sau, một nhân vật hoàn toàn mới bƣớc vào, bảo tôi cầm theo cái túi 

đựng bánh khô của mình và chờ một chiếc xe tải sắp khởi hành để tôi quá giang về hƣớng 

ga Stish. Lúc này trời đã gần về chiều, chúng tôi bắt đầu lên đƣờng. Chúng tôi rời thị trấn 

và chiếc xe dừng lại. Không gian xung quanh chúng tôi im  ắng không một tiếng động. 

Tôi  đƣợc  yêu  cầu  phải  xuống  xe.  Rồi  tôi  đƣợc  chỉ  cho  phƣơng  hƣớng  cần  đi.  Tôi  rời 

chiếc xe và đi theo hƣớng đƣợc chỉ. Tôi tự  ra lệnh cho bản thân tuyệt đối không đƣợc 

quay lại nhìn. Lúc đó trong đầu tôi tràn ngập những ý nghĩ trái  ngƣợc, thậm chí là những 

ý nghĩ cực đoan nhất, nhƣng tôi chẳng làm gì khác đƣợc. Chờ  một lúc khá lâu, tôi từ  từ

ngoái đầu lại. Chiếc xe tải đã đi một quãng xa và tôi không thấy dấu hiệu gì đe dọa nữa. 

Thở  phào nhẹ  nhõm, tôi bƣớc nhanh theo hƣớng đã đƣợc chỉ. Mau chóng, tôi đón đƣợc 

một chiếc xe cho tôi quá giang tới tận nơi sân bay chúng tôi. May mắn cho tôi, đấy cũng 

chính là lúc chiếc xe cuối cùng  ở  đó khởi hành để  tới vị  trí đóng quân mới của Phi đoàn 

387 NBAP chúng tôi. Ngay buổi chiều cùng ngày, trong  vòng tay anh em đồng chí cùng 

trung đoàn, tôi thuật lại cho họ  về  những gian nan vất vả  của mình. Tôi đƣợc cấp một kỳ

phép hàng tháng theo quy định của đơn vị. Khoảng 10 ngày sau, thị  trấn Karachev đƣợc 

giải phóng và chúng tôi, dẫn đầu bởi các kỹ  thuật viên trung đoàn, mang theo cuốn nhật 

ký làm việc của sân bay, tiến vào Karachev. Tại đấy tôi mau chóng tìm ra chiếc máy bay 

của mình. Nó đã cháy rụi hoàn toàn. So sánh số serie máy với các ghi chép trong nhật ký 

hành trình, chúng tôi đã xác định đó đúng là máy bay của mình. 

Số  phận  chỉ  huy  của  tôi,  trung  úy  Pavel  Rodenko,  chỉ  đƣợc  xác  định  vào  năm 

1946. Vào đêm  ấy, một ông lão đã gặp anh và đƣa anh về, giấu anh vào một hầm chứa. 

Nhƣng tay xã trƣởng ở đấy biết đƣợc và báo cho bọn Đức đến giết anh. Sau này, khi quân 

đội ta giải phóng Karachev, một tháp tƣởng niệm vong hồn anh đã đƣợc dựng lên tại thị

trấn đấy. 

Lyubertsy

09.09.2000

Ngƣời phỏng vấn: Artem Drabkin.

Dịch từ tiếng Anh: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH THÔNG TIN

Josef Finkelshteyn

CUỘC CHIẾN VĨ ĐẠI ĐÃ BẮT ĐẦU

Ngay từ  dạo mùa xuân 1941, ngƣời ta đã có thể  cảm thấy hơi thở  của chiến tranh 

đang tới gần. 

Thời gian này tôi đang làm việc tại Học viện Nghiên cứu Leningrad ở  vị  trí kỹ  sƣ 

bậc cao. Tại đây chúng tôi đƣợc học về  các phƣơng pháp phòng chống không kích. Sau 

giờ  làm việc, trong sân của Học viện, chúng tôi học cách đào chiến hào và đeo mặt nạ

phòng độc rồi thử  làm việc trong khoảng nửa giờ. Đó là cách chúng tôi chuẩn bị  phòng 

ngừa một cuộc tấn công thực sự bằng hơi ngạt. 

Đêm ngày 22 tháng Sáu trời  ấm áp và quang đãng. Đang là thời gian làm lễ  tốt 

nghiệp  ở  nhiều trƣờng học, tôi đi về  nhà sau khi dự  một buổi tiệc mừng.  Ở  buổi tiệc tôi 

đƣợc gặp khá nhiều thanh niên. Các cô gái thƣớt tha trong những chiếc áo dài dạ hội màu 

trắng và giày cao gót. Những đôi gót giày của họ  vui vẻ  gõ trên mặt đƣờng nhựa. Không 

khí yên bình và tĩnh lặng bao trùm khắp nơi. Có tiếng ai đó ngâm nga giai điệu foxtrot 

đang thịnh hành “Tại nơi nào đó  ở  Taihiti”... Nhƣng chúng tôi còn  ở  rất xa Tahiti và 

những  tai họa khủng khiếp đang dần tiến đến. Chúng tôi không hề  biết rằng cuộc chiến 

đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại đã bắt đầu đƣợc vài tiếng đồng hồ. 

Sáng hôm sau tôi ra ngoài mua thức ăn. Một đám đông đang bao quanh chiếc loa 

phóng  thanh  gắn  trên  một  cột  điện.  Tôi  nghe thấy  giọng  nói  ngèn  ngẹt  của  Bộ  trƣởng 

Ngoại  giao  Molotov,  "Máy  bay  Đức  đã  ném  bom  những  thành  phố  của  chúng  ta  mà 

không hề tuyên chiến. Đã có những trận chiến ác liệt diễn ra ngoài biên giới. Các chiến sĩ 

biên phòng anh dũng của chúng ta  đang đánh bại cuộc xâm lăng của quân thù một cách 

dũng mãnh (ogoltelyi – không có từ tƣơng tự trong tiếng Việt. Từ này có nghĩa là sự giận 

dữ  không thể  kiềm chế  nhƣng bộc lộ  một cách có chủ  đích. Nó thƣờng đƣợc dùng trong 

các thông báo tuyên truyền nhằm mục đích chính trị - James Quinn)." Tôi không còn nhớ

chính xác những lời ông nói, nhƣng đó đúng là những gì còn đọng lại trong ký ức của tôi. 

Chúng tôi đã cảm đƣợc chiến tranh đang tiến gần từng ngày một từ  rất lâu trƣớc 

khi nó thực sự bắt đầu, nhƣng không ai nghĩ rằng chiến tranh lại nổ ra sớm và diễn ra kéo 

dài đến nhƣ vậy. Và chúng tôi cũng không thể  ngờ  sự  thất bại của chúng tôi lại liên tục 

lâu nhƣ thế. Ai ai cũng biết tuyên bố của những vị lãnh tụ sáng suốt của chúng ta, "Chúng 

ta không cần những mảnh  đất xa lạ, nhƣng chúng ta nhất quyết không để  mất dù chỉ một 

phân mảnh đất quê hƣơng chúng ta.” Chúng tôi đã hát, “Chúng ta sẽ  tiêu diệt quân thù 

trên chính quê hƣơng chúng chỉ  bằng một đòn kiên quyết. Sẽ  có rất ít máu đổ,” Nhƣng 

thực tế  đã hoàn toàn khác. Tới tháng Chín, quân Đức đã xuất hiện  ở  rất gần Maskva và 

Leningrad.

Giữa tháng Sáu tôi đã nhận đƣợc một thông báo yêu cầu phải có mặt tại trụ  sở

quân uỷ  (văn phòng tuyển quân  -  James Quinn) vào cuối tháng Bảy. Tôi không muốn 

phải  chờ  cho  đến  ngày  đó  nên  đã  tới  trƣớc  vào  ngày  23  tháng  Sáu  và  nhập  vào  hàng 

ngƣời đứng chờ. Không khí rất hỗn loạn và  ồn ào, nhiều ngƣời liên tục nguyền rủa. Các 

đại uý, thiếu tá và trung uý chạy nháo nhào từ  phòng này sang phòng nọ  với giấy tờ  trên 

tay. Một sĩ quan cần vụ  đọc tờ  thông báo rồi hét vào mặt tôi, "Anh có mù chữ  không? 

Chỗ  này có viết rõ ràng khi nào anh cần phải có mặt  ở  đây! Đừng làm phiền tôi, về  nhà 

đi!” Tôi trả  lời, “Nhƣng chiến tranh đã nổ  ra. Tôi nói tốt tiếng Đức, có thể  cho tôi làm 

thông dịch viên!” Viên sĩ  quan cần vụ  không thèm nghe lời tôi, “Đừng nói tào lao nữa! 

Cút đi!” 

Cha tôi đã bị  động viên ngay từ  tuần đầu tiên của chiến tranh. Mẹ  và tôi đi tiễn 

ông tại ga Varsava (Một trong những ga đƣờng sắt chính  ở  Leningrad  –  James Quinn). 

Dàn kèn đồng đang chơi, các em thiếu niên hát bài “Hãy mau quay về  với chiến thắng”. 

Rất nhiều ngƣời trong số họ, bao gồm cả cha tôi, không bao giờ còn quay về nữa. Đối với 

ông, đó là một chuyến đi vào cõi hƣ vô. 

Bức thƣ cuối cùng chúng tôi nhận đƣợc từ  ông có đề  ngày mùng 8  tháng Chín 

năm  1941.  Ông  viết,  "Anh  đã  đạt  đƣợc  nhiều  tiến  bộ  đáng  kể.  Anh  đã  học  cách  chơi 

domino và thực hành phẫu thuật điêu luyện.” Chúng tôi không bao giờ  đƣợc nhận lá thƣ 

kế  tiếp. Chúng tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu chờ  đợi mà không hề  biết chuyện gì đã 

xảy ra. Mỗi lần hỏi thăm chúng tôi đều nhận đƣợc những câu trả lời nhƣ nhau, “Anh ta đã 

mất tích trong chiến đấu.” Sau cùng, vào cuối tháng Mƣời Hai năm 1941, chúng tôi nhận 

đƣợc một lá thƣ từ ngƣời đàn bà đã làm việc chung với cha. Bà viết rằng ở gần thành phố

Staraya Russa bệnh viện của họ  đã bị  ném bom và cha tôi đã bị  giết bởi một mảnh bom. 

Không ai khác ngoại trừ cha tôi bị chết. Ngƣời cha đáng thƣơng của chúng tôi thật không 

may. Chúng tôi không cách nào tìm đƣợc mộ  của ông, thậm chí chƣa chắc mộ  ông còn 

tồn tại. 

Mọi ngƣời đều chờ  đợi đƣợc nghe bài diễn văn của Stalin. Cuối cùng, vào ngày 

mùng 3 tháng Bảy ông cũng đã phát biểu trên radio. Đó đã là ngày thứ  12 kể  từ  khi cuộc 

xâm lƣợc bắt đầu và quân thù đã chiếm đƣợc một phần lãnh thổ  rộng  lớn của chúng ta. 

Ông bắt đầu bài diễn văn của mình với từ  “Hỡi các anh chị  em”. Trƣớc kia ông ta không 

bao giờ phát biểu với nhân dân bằng cách nói thân mật nhƣ vậy. 

Ngay từ  đầu tháng Bảy 1941, chính phủ  đã cho thông báo sự  thành lập của Đội 

quân Tình nguyện. Ai cũng có thể  tham gia tổ  chức này, thậm chí kể  cả  những ngƣời 

không thể  phục vụ  thƣờng xuyên hoặc những ngƣời đã bị  rút khỏi danh sách nhập ngũ vì 

có những khả  năng đặc biệt (tôi cũng nằm trong số  này). Ngƣời sĩ quan tuyển quân ghi 

tên tôi vào một  sƣ đoàn dân quân dự  bị  mới thành lập, chỉ  huy bởi những hạ  sĩ quan và 

những ngƣời đã từng nhập ngũ. Số  ngƣời đăng ký trong danh sách của sƣ đoàn chỉ  đủ  để

lập thành một trung đoàn duy nhất. Những sĩ quan thừa lại, bao gồm cả  tôi, đƣợc gửi tới 

một trung tâm  huấn luyện dự  bị  đặt tại một trƣờng học trên đảo Krestovsky. Chúng tôi 

cùng học chung với những nữ  y tá đang gần kết thúc khóa học của mình. Đang trong thời 

chiến, mọi chuyện đều đƣợc tha thứ, do đó bạn có thể  dễ  dàng hình dung điều gì đã xảy 

ra nơi đây.

Mỗi ngày chúng tôi đều chờ  đợi để  nghe thấy tin tức về  cuộc tổng phản công của 

quân đội ta, nhƣng chúng tôi đã phải đợi một thời gian thật dài. Vào đầu tháng Tám một 

sĩ quan của đơn vị  thiết giáp nọ  xuất hiện tại sƣ đoàn chúng tôi. Anh ta tới để  hỏi xem 

những ai đã từng làm quen với thao tác trên máy vô tuyến của xe tăng. Khi còn  ở  trong 

khóa huấn luyện quân sự  dự  bị  năm 1939, tôi đã từng học chúng và tôi cho rằng mình có 

thể làm đƣợc những gì anh ta yêu cầu. Nhƣng mong ƣớc đƣợc thực sự tham gia chiến đấu 

của tôi cuối cùng vẫn không thành hiện thực. Một lần nữa tôi lại bị đƣa vào đơn vị dự bị, 

có  điều  lần  này  là  một đơn  vị  xe  tăng  dự  bị.  Tôi  trở  thành trung  đội  trƣởng  trung  đội 

thông  tin  của  cả  một  trung  đoàn  xe  tăng  hạng  nặng  đóng  tại  Đại  học  Bách  khoa 

Leningrad.   

Tới đầu tháng Chín bọn Đức đã chiếm đƣợc Shlisselburg, cắt đứt mối liên lạc đất 

liền giữa Leningrad và phần còn lại của tổ  quốc. Đã có rất nhiều cuốn sách mô tả  về  nạn 

đói, cái giá lạnh và những hành động anh hùng của ngƣời dân thành phố  bị  bao vây. Tôi 

không đủ khả năng để viết thêm điều gì khác mới mẻ hơn. 

Cháu gái tôi, Natasha, đƣợc tản cƣ tới Tashkent cùng với nhạc viện mà cháu đã 

nhập  học  vào  mùa  xuân.  Mẹ  tôi  cũng  sớm  nhập  cùng  họ  sau  đó.  Chín  ngƣời  trong  số

những họ hàng thân thiết của tôi ở lại Leningrad trong vòng vây. Chỉ còn hai trong số họ, 

dì Sonia và anh họ  Victor của tôi, là còn sống. Những ngƣời còn lại đều đã chết vì tình 

trạng loạn dƣỡng gây bởi sự thiếu ăn. 

Tôi bắt đầu viết một cuốn nhật ký từ những ngày đầu của chiến tranh. Nó đã cùng 

theo tôi suốt cuộc chiến tranh trong cái ba lô quân dụng. Lúc này tuy trông thật sờn nát 

tiều tuỵ nhƣng tôi vẫn giữ đƣợc nó. Dƣới đây là vài đoạn trích trong cuốn nhật ký đó. 

Ngày 17 tháng Tám, 1941

Đã là ngày thứ  56 của cuộc chiến tranh, và là ngày thứ  47 trong đời lính của tôi. 

Tôi đã đăng ký vào Sƣ đoàn xe tăng Dự  bị  số  12, đóng tại khuôn viên của Đại học Bách 

Khoa Leningrad. Tôi là chỉ  huy trƣởng trung đội thông tin với chỉ  một chiếc điện đài đã 

hỏng, một chiếc 71TK. Đại diện của các đơn vị  quân đội đôi khi tới đây và chọn những 

ngƣời đã từng tham gia chiến đấu để  đƣa tới những đơn vị  ngoài mặt trận. Thật đau khổ

khi phải nghe những thông báo về  các thành phố  của chúng ta đang rơi vào tay quân thù. 

Bọn Đức tiếp tục tiến quân nhanh chóng vào sâu trong lãnh thổ nƣớc ta. 

Ngày 10 tháng Chín 

Đã là ngày thứ  hai liên tiếp bọn Đức ném bom dữ  dội xuống Leningrad. Bầu trời 

đêm sáng rực bởi những ráng lửa cháy. Kho Bodaevsky, chứa những nhu yếu phẩm cung 

cấp cho ngƣời dân Leningrad, đang bốc cháy. Khi tiếng còi báo động không kích vừa cất 

lên, ban đầu tôi không cách nào thúc đƣợc mọi ngƣời tới trú trong những chiến hào tránh 

bom. Thế rồi một quả bom nổ thật gần đến nỗi kính trên các cửa sổ vỡ tan. Sau đó, tất cả

mọi  ngƣời  đều  ba  chân  bốn  cẳng  chạy  tới  các  chiến  hào.  Quân  Đức  đã  tiến  tới  sông 

Dnepr và chiếm đƣợc Kiev. Đêm đó tôi mơ thấy những quả táo Antonov to và ngọt ngào. 

Chúng thật lớn, mọng nƣớc và ngon lành. Tại sao tôi lại có giấc mơ nhƣ thế nhỉ? 

Mùng 1 tháng Mƣời

Bọn Đức đã vƣợt qua Pushkin và đang tiến tới Pulkovo. Trạm thiên văn Pulkovo 

đang bốc cháy. Trong suốt nhiều ngày trời bọn chúng tấn công Leningrad bằng đại bác 

tầm xa. 

Sáng nay chúng tôi đƣợc chứng kiến cuộc hành hình những kẻ  đào ngũ tại khu 

nhà máy bỏ  hoang gần Đại học Bách Khoa. Vụ  xử  đƣợc thực hiện nhƣ một lời răn đe 

dành cho chúng tôi. Chúng tôi đứng thành hàng để  quan sát vụ  hành hình cho rõ hơn. Có 

ba kẻ  đào ngũ, tất cả  đều là thành viên một tổ  lái tăng trong  đại đội chúng tôi. Hai ngƣời 

trong bọn họ  đội pilotka (mũ vải quân đội  -  James Quinn) và ngƣời còn lại đội chiếc mũ 

của lính xe tăng. Cả  ba đều lộ  vẻ  đờ  đẫn trên khuôn mặt. Có lẽ  họ  đã nói xong lời vĩnh 

biệt với cuộc đời. Họ  bị  cởi bỏ  quần áo và đứng trong tuyết với độc đồ  lót của mình. Đó 

là đợt tuyết sớm trong năm nay.  Họ  đứng đó,  chờ  một huyệt mộ  đang  đƣợc đào ngay 

cạnh họ. Họ đã chạy khỏi mặt trận, bỏ lại xe tăng của mình. 

Tiểu đội hành quyết tới dàn ra phía trƣớc mặt họ. Ngƣời lính đội chiếc mũ lính 

tăng lấy tay mình che mắt lại. Ngƣời ta bƣớc tới gần và kéo tay anh ta xuống. “Bắn vào 

bọn phản bội tổ quốc,” ngƣời sĩ quan chỉ huy hô to. Máu vọt ra từ mặt họ và tất cả bọn họ

ngã xuống. Có hai ngƣời vẫn còn động đậy. Một sĩ quan NKVD bƣớc tới và bắn vào đầu 

hai ngƣời đó bằng khẩu súng lục của mình. 

Quân thù đã xuất hiện  ở  Ligovo, cửa ngõ thành phố  Leningrad. Pháo kích đã trở

nên quen thuộc tới nỗi không ai thèm chạy tới hầm trú ẩn để tránh nữa. Khi tiếng còi báo 

động không kích cất lên, một lần nữa rất khó mà bắt đƣợc binh lính của tôi vào trú trong 

chiến hào. Tất cả  nhân viên của bộ  chỉ  huy đều đƣợc phát một phiếu thực phẩm để  tới ăn 

tại căn tin chỗ  chúng tôi. Doanh trai không đƣợc sƣởi  ấm. Những chiếc chăn mỏng và áo 

khoác của chúng tôi không thể  chống  nổi cái lạnh. Một anh chàng khéo tay đã tự  chế  ra 

một chiếc lò sƣởi nhỏ. Chúng tôi dùng gỗ lấy từ những công trình bị trúng bom gần đó để

làm củi đốt. Chúng tôi đốt chiếc lò suốt 24 giờ trong ngày, nhƣng trời lạnh tới nỗi điều đó 

cũng không giúp đƣợc gì mấy. 

Tôi đƣợc phép về  thăm gia đình trong hai mƣơi bốn tiếng đồng hồ. Khu vực nhà 

máy Putilovsky đã bị  trúng bom và hai mƣơi hai ngƣời vừa trở  thành vô gia cƣ tới trú tại 

căn hộ chúng tôi. Anh Mark của tôi và tôi nấu súp bằng cách đun chín món rong biển khô. 

Mẹ  chúng tôi thƣờng bỏ  món đó vào nƣớc tắm để  giúp tăng cƣờng sức tỉnh táo. Giờ  đây 

chúng tôi dùng rong biển để  đổ  đầy dạ  dày và dƣờng nhƣ chúng khá ngon miệng đối với 

chúng tôi. 

Trẻ  em trong thành phố Leningrad đang đƣợc sơ tán. Chỉ còn một con đƣờng duy 

nhất để đi từ  Leningrad về hậu phƣơng, băng qua Hồ  Ladoga. Tất cả các tuyến đƣờng sắt 

và đƣờng bộ dẫn tới những vùng đất của ta đều bị cắt đứt. Phía Nam và phía Đông hiện bị

bọn Đức phong tỏa, còn về phía Bắc là bọn Phần Lan. Ngày hôm qua em trai mẹ tôi, chú 

Naum, cùng gia đình của chú đã vƣợt qua Hồ Ladoga trên một chiếc xà lan.  

Hoạt động của máy bay Đức ngày càng leo thang. Bầu trời sáng rực. Viện Hóa 

học Ứng dụng và chiếc vòng lƣợn cho thiếu nhi chơi đang bốc cháy. Quân ta đã phải rút 

bỏ Odessa. 

Ngày 23 tháng Mƣời

Một bản thông báo mới của TASS cho biết “đây là ngày thứ  năm của những trận 

chiến đấu ác liệt tại khu vực Mojaysky, Maloyaroslavsky và Kalininsky." Quân Đức đang 

rất gần Matskva. Tƣớng Zhukov đã đƣợc chỉ  định làm chỉ  huy trƣởng của toàn thể  mặt 

trận chống Đức. Một bức thƣ nữa của tôi gửi cho cha đã bị trả về. Tôi rất lo, “Không biết 

chuyện gì đã xảy ra với cha?” Tôi muốn tin rằng ông đã bị chuyển sang một sƣ đoàn khác. 

Khi còn  ở  trong thành phố, tôi đi tới một cửa hàng, chỉ  để  ngắm chút ít.  Khi tôi 

đứng đó, một ngƣời đàn bà béo lên cơn kích động. "Tại sao các anh lại bày đồ  ngọt  ở  tủ

hàng? „Mẹ  ơi, mua cho con một chiếc kẹo‟  –  những đứa con của tôi kêu khóc. Đám bán 

hàng các anh có lẽ  đƣợc tọng đầy mồm đồ  ăn thức uống, nhƣng các anh lại không  chịu 

bán kẹo cho một đứa trẻ  chỉ  vì không có phiếu!?!” Bà ta la lớn và chìa cho ngƣời nhân 

viên bán hàng cái kookish (cử  chỉ  của bàn tay biểu lộ  sự  lăng mạ  -  James Quinn). Một 

ông già có bộ  mặt hốc hác và những đầu ngón tay ám khói thuốc vàng khè  ủng hộ  bà ta, 

“Đúng đấy, tôi không cách nào mua đƣợc diêm mà không có tem phiếu. Chúng ta cứ đập 

vỡ  cửa kính và lấy đi thôi!” Nhƣng nào ai dám làm thế. Nếu họ  thực sự  làm điều họ  đã 

dọa, họ sẽ bị xử bắn ngay lập tức. 

Thức ăn trên bàn ăn của chúng tôi ngày càng trở  nên tệ  hơn. Chúng tôi chỉ  có 75 

gram bánh mì cho mỗi bữa sáng và bữa tối, đôi lúc có thêm một mẩu phômai hay cá nhỏ, 

và trà với đƣờng. Vào bữa chính chúng tôi nhận đƣợc một đĩa xúp loãng và 200 gram 

bánh mì. Đôi khi có thêm một nồi súp đậu. Tôi không thể  ngờ  rằng món súp đậu đó có 

thể ngon nhƣ vậy. Tôi đã rất yếu, rất chật vật tôi mới leo đƣợc lên thang gác. 

Những trận đánh ác liệt tiếp tục diễn ra gần Matskva. Tôi gửi một lá đơn xin đƣợc 

chuyển tới một đơn vị  ngoài mặt trận lên sƣ đoàn trƣởng của mình.  Ông ta không chấp 

nhận và xua tôi đi. Quân ta đã phải rút khỏi Stalino (Donetsk, thành phố  ở  miền Nam 

Ukraine –  James Quinn). Năm mƣơi ngàn tên Đức bị  giết tại đấy. Mọi ngƣời nói, „chúng 

ta đã giết đƣợc hàng ngàn tên, thế nhƣng chúng vẫn đang tiến công‟. Khắp nơi mọi ngƣời 

đều nói về chuyện thực phẩm. 

Ngày 7 tháng Mƣời Một

Hôm nay là lễ  kỷ  niệm Cách Mạng Tháng Mƣời. Hôm qua, nhân ngày lễ, chúng 

tôi đƣợc cấp mỗi ngƣời nửa lít rƣợu vang. Chúng tôi uống rƣợu giữa một trong những đợt 

báo động không kích. Hôm  nay  ở  đây có một cuộc “diễu hành”. Chúng tôi diễu quanh 

Đại học Bách Khoa. Binh lính hỏi xin kẹo, hệt nhƣ lũ trẻ nhỏ. Vẫn chƣa có tin tức từ cha 

tôi trong một thời gian dài. Tôi rất lo không biết hiện cha nhƣ thế nào. 

Tôi phải trực tại nhà bếp và làm thân với ngƣời đầu bếp. Tới đêm thì tình bạn 

giữa chúng tôi đã trở  nên thắm thiết. Ngày hôm sau anh tôi tới thăm và cô  ấy tặng cho 

anh một nồi súp khi tôi lên tiếng đề nghị cô. 

Trang nhất tờ  Pravda (Sự  Thật) Leningrad hôm nay có viết, “Leningrad đang bị

bao vây. Mọi ngƣời không thể trông chờ việc cải thiện vấn đề thực phẩm cho tới khi vòng 

vây của quân thù bị phá vỡ.” 

Hôm qua đã có lời kêu gọi những ngƣời tình nguyện tham gia vào một sƣ đoàn 

đánh phá vây. Chỉ  có mƣời ngƣời đƣợc chọn trong đơn vị  của tôi. Tôi  không đƣợc chấp 

nhận bởi tôi vẫn chƣa từng tham gia chiến đấu. 

Ngày 14 tháng Mƣời Một  

Đêm qua tại đây có ba cuộc báo động không kích. Một quả  bom nổ  ở  đâu đó rất 

gần và ngôi nhà lắc lƣ nhƣ một gã say rƣợu. Đó là một đêm không trăng êm  ả. Quân Đức 

đang bắn lên trời những quả  pháo sáng treo lơ lửng nhờ  những chiếc dù. Chúng chiếu 

sáng  trời  đêm  tựa  nhƣ  đang  ban  ngày.  Dƣờng  nhƣ  tuyết  đang  có  màu  xanh,  bóng  cây 

trông nhƣ những con nhện khổng lồ  đang duỗi những chiếc chân của chúng tới nơi chiến 

hào chúng tôi  đang ngồi. Các xạ  thủ  phòng không cố  gắng bắn hạ  những chiếc dù pháo 

sáng. Các luồng đạn, đỏ, xanh lam và xanh lục, rạch ngang dọc bầu trời. Trông thật kỳ

diệu và tuyệt đẹp nhƣ đang ở trong khu vƣờn Gassnardon (dinh thự do chính phủ quản lý, 

mở cửa cho công chúng – James Quinn). 

Vào tám giờ sáng tiếng còi báo động không kích lại vang lên. Bên trong chiến hào 

lạnh lẽo và ẩm ƣớt. Chân cẳng của chúng tôi lạnh cóng. 

Chính uỷ sƣ đoàn đã hứa sẽ giới thiệu đơn xin của tôi vào lực lƣợng quân nhảy dù. 

Tôi đang lo rằng mình lại bị từ chối lần nữa. Khẩu phần bánh mì hàng ngày của chúng tôi 

đã bị giảm xuống còn 300 gram. Đây là thứ thực phẩm chính của chúng tôi. Ngƣời ta nói 

rằng loại bánh mì này đƣợc làm với nguyên liệu chứa tới 40% là mạt cƣa. 

Có tin đồn là một khẩu đại bác bí mật đang di chuyển từ vùng này sang vùng khác 

để  bắn vào Leningrad. Những ngƣời tình nguyện trong sƣ đoàn chúng tôi cố  gắng tìm ra 

nó. Họ  cho rằng đã xác định đƣợc nó tại Công viên Udelniy, sau đó lại bảo tìm thấy tại 

chỗ này chỗ khác. 

Hiển nhiên những ngƣời tình nguyện kia đã bị ảo giác vì đói. 

Ngày 16 tháng Mƣời Một

Những đợt oanh tạc ác liệt cứ  lặp lại ba đêm một lần. Binh lính dƣới quyền tôi 

chật vật mới tới đƣợc chiến hào. Tất cả  bọn tôi đều trở  nên bị  ám  ảnh bởi thuyết định 

mệnh. Có ngƣời đã nói, “Ngƣời có số  bị  treo cổ  sẽ  không chết đuối, không ai thoát khỏi 

số kiếp của mình, tựa nhƣ trong một giấc ngủ say.” 

Một mệnh lệnh đƣợc ban ra: “Mọi ngƣời đều phải ngủ  trong trang phục sẵn sàng. 

Khi có không kích mọi ngƣời đều phải mau chóng chạy tới chiến hào trú  ẩn của mình.” 

Hôm qua tôi có mặt trong thành phố  và tới thăm nơi làm việc cũ của mình. Thức ăn là 

điều duy nhất mà ngƣời ta bàn tới. 

Ngày 6 tháng Chạp 

Anh tôi đã bán đứt cây đàn piano của chúng tôi với giá rẻ  mạt. Anh  ấy cũng đã 

bán  những đồ  gỗ  dùng trong phòng ăn, cái áo khoác lông cáo của cha và những đồ  vật 

khác đã từng có mặt trong một phần cuộc đời chúng tôi từ khi tôi còn là một đứa bé. Tôi 

còn nhớ cha tôi đã mặc chiếc áo khoác lông đó khi ông từ nhà đi thăm các bệnh nhân của 

mình. Giờ  ông đang  ở  nơi nào? Điều gì đã xảy ra cho ông? Tốt nhất là hãy nghĩ về  việc 

làm cách nào giúp đỡ  những ngƣời thân của bạn hơn là nghĩ về  tất cả  những chuyện linh 

tinh đang xảy ra xung quanh. 

Một gã con buôn chợ đen tới để mua những món đồ trong nhà chúng tôi. Hắn nói, 

“Tôi là một trong những bệnh nhân cũ của cha các anh, do đó các anh nên để giá thấp cho 

tôi, nhân mối quan hệ  quen biết xƣa kia.” Cái thứ  lập luận gì mà lạ  lùng? Hắn thử  đội 

chiếc mũ lông của cha tôi và ra ngắm trƣớc tấm gƣơng. Tôi đã  nói “Cái mũ thật vừa với 

ông” thay vì làm điều tôi thực sự mong muốn là đấm vào mõm hắn và đá hắn ra ngoài. 

Vẫn không có thƣ gì của cha. Tôi vẫn chƣa nhận đƣợc hồi âm từ đề nghị đƣợc gửi 

ra mặt trận làm thông dịch viên của mình. 

Ngày 10 tháng Chạp  

Trời lạnh 20 độ  âm và có gió mạnh. Quân đội vẫn đƣợc cho ăn thứ  gì đó, nhƣng 

thƣờng dân đang chết dần vì đói. Họ  ngã xuống nhƣ những chiếc lá vào cuối thu. Hôm 

qua, tôi đã nhận đƣợc giấy phép cho về thăm nhà trong hai mƣơi bốn giờ. Tôi đã hứa với 

tham mƣu trƣởng là sẽ mang tới một chiếc máy hát từ nhà mình. 

Anh  Mark  và  tôi  đã  phá  chiếc  bàn  nhỏ  mà  trƣớc  kia  tôi  và  đứa  cháu  Natasha 

thƣờng cùng ngồi làm bài tập của mình. Đó là một chiếc bàn màu trắng tuyệt đẹp. Mark 

và tôi cùng tắm trong một chiếc chậu tắm, mặt  đối mặt. Nƣớc tắm đƣợc đun bằng củi từ

chiếc bàn. Đó không phải là tắm mà là đang hƣởng thụ  trên thiên đƣờng. Tôi đã không 

tắm trong suốt một tháng nhƣng, tạ  ơn Trời, vẫn không có rận. Tới buổi chiều anh tôi, 

bạn của anh là Igor Mukhin và tôi tất cả cùng ngồi quanh chiếc lò sƣởi nhỏ trong đó phần 

còn lại của  chiếc bàn đang cháy. Chúng tôi uống cà phê làm từ  rễ  cỏ  rang không pha 

đƣờng và bàn tán với nhau về thức ăn và tình hình ngoài mặt trận. 

Bọn Đức đã tập trung 31 sƣ đoàn bộ binh, 10 sƣ đoàn xe tăng và 7 sƣ đoàn cơ giới 

quanh Matskva. TASS thông báo, “Quân ta đã tiến hành một đợt phản công và đẩy lùi 

quân Đức từ 50 tới 100 kilômét khỏi Matskva.” 

Ngày 12 tháng Chạp 

Nhật Bản bất ngờ tấn công vào hải quân Mỹ. Thiết giáp hạm "Prince of Wales" và 

một  tuần  dƣơng  hạm  loại  "King  George"  bị  đánh  chìm.  Lực  lƣợng  Nhật  đã  đổ  bộ  lên 

Philippines và Malaysia. Mọi ngƣời đều tin rằng chúng ta sẽ  sớm tuyên chiến với Nhật 

Bản. Quân đội ta đã giải phóng thành phố  Yeltz. Gần Matskva 30,000 lính Đức và 1,500 

xe tăng bị tiêu diệt trong các trận chiến. Vẫn không có tin tức gì về cha tôi. 

Ngày 20 tháng Chạp 

Ngày 17 tháng Chạp tôi đƣợc tin là một trong những đơn xin của tôi đã đƣợc chấp 

nhận và tôi đƣợc nhận vào Đại đội Thông tin dự  bị. Tôi đã đƣợc chuyển từ  lính thông tin 

thành một điện đài viên thuộc lực lƣợng thiết giáp và giờ  lại trở  thành lính thông tin lần 

nữa. 

Tôi gửi một điện tín tới ngƣời thân của mình  ở  Tashkent, chúc họ  một Năm Mới 

1942 Hạnh phúc. Điều  gì đang chờ  đợi chúng tôi trong tƣơng lai? Tại đâu và khi nào 

chúng tôi sẽ  gặp lại nhau? Khi đó biết ai còn sống và ai đã mất đi? Chỉ có Chúa mới biết 

điều đó. 

Ngày 21 tháng Chạp 

Đã là ngày thứ ba của tôi tại nhiệm sở mới. Tại đây tôi gặp lại rất nhiều bạn cũ từ

hồi  ở  Học viện Truyền dẫn Điện và cả  một anh bạn cùng học trƣờng "Petershul" tên là 

Karlin. Cậu ta bảo tôi rằng đơn vị  tình báo của Phƣơng diện quân đang tuyển điện đài 

viên biết tiếng Đức. Ngay lập tức tôi gửi hai báo cáo tới ngƣời phụ  trách và tới đơn vị

tình báo của Phƣơng diện quân. 

Ngƣời ta kể  rằng còn lại rất ít thực phẩm trong các cửa hàng tại Leningrad. Rất 

nhiều ngƣời đang chết dần vì đói. Họ  đƣợc mai táng trong những ngôi mộ  tập thể, có 

ngƣời đƣợc liệm trong bao, có ngƣời thì không. Không có gỗ  để  làm áo quan. Rất nhiều 

ngƣời chết ngay trên đƣờng phố. Đội mai táng thu nhặt họ  vào sáng sớm và đƣa tới một 

nghĩa trang tập thể. Do mùa đông lạnh lẽo đến sớm nên mặt đất bị đóng băng rất sâu. Mất 

khoảng từ 300 tới 500 rúp để thuê ngƣời đào một huyệt mộ. 

Mark tới thăm tôi. Anh ấy trông rất tiều tụy. Những vết loét xuất hiện trên mặt và 

cánh tay anh do đói. Anh kể  tôi rằng anh đã đến thăm chú Naum trong bệnh viện. Bệnh 

tim của chú đang nặng thêm do tình trạng loạn dƣỡng. Chú  ấy nói với Mark, “Chúng ta 

hãy cùng nói lời Vĩnh biệt với nhau.”  

Một lần nữa tôi lại  viết báo cáo cho đơn vị  tình báo của Phƣơng diện quân để  xin 

đƣợc nhận vào làm thông dịch viên trong quân đội trực chiến. Trời rất lạnh, tay và chân 

tôi đều lạnh cóng. Doanh trại đã từ lâu không còn đƣợc sƣởi ấm. 

Ngày 30 tháng Chạp 

Hôm  qua  tôi  về  thăm  thành  phố.  Hệ  thống  xe  điện  không  còn  hoạt  động  nữa. 

Không còn chút nhiên liệu nào. Mặc cho chiến tranh, một vài nhà hát vẫn còn hoạt động. 

Họ  diễn những vở  kịch hoàn toàn không liên quan gì tới chiến tranh  –  vở  "Cyrano de 

Bergerac" và "Bà Kamelias" tại Nhà  hát  Leninsky Komsomol; vở  “Ba ngƣời lính Ngự

lâm” tại Nhà hát Ca nhạc Hài kịch; và vở “Một ngƣời chồng lý tƣởng” ở Nhà hát Radlov. 

Phần lớn các nhà hát đều đã đóng cửa. 

Ngƣời đại diện của Bộ  chỉ  huy Phƣơng diện quân lại tới và ghi vào sổ  tay của 

mình là anh ta sẽ  đăng ký tôi vào đơn vị  của anh ta làm thông dịch viên. Cái lạnh ngoài 

trời hiện đang khoảng 30 độ âm. 

Trong Tiểu đoàn Tình báo vô tuyến Đặc biệt 345

Đáng tiếc đây là tờ  cuối cùng trong quyển nhật ký của tôi. Sau một thời gian dài, 

một trong những đề nghị của tôi đƣợc chấp thuận và tôi đƣợc đƣa tới Tiểu đoàn Tình báo 

vô tuyến Đặc biệt 345. Tôi đã phục vụ  trong tiểu đoàn này bốn năm (từ  1942 tới 1945). 

Nhiệm vụ chính của tôi là nghe trộm những bức điện radio cấp tiểu đoàn và sƣ đoàn Đức. 

Đôi khi chúng phát đi những bức điện khá quan trọng giữa trận đánh mà không dùng mã 

khóa. Chúng tôi phải nghe chúng trong các chiến hào ngoại trận địa bởi sóng của các máy 

vô tuyến đó không phát đƣợc xa quá 1 km. 

Vào ngày mùng Hai tháng Giêng tôi tới đƣợc tiểu đoàn. Tiểu đoàn trƣởng  –  đại 

uý Friedman lƣu ý tôi, "Chỗ  này có khá nhiều các cô gái trẻ  xinh đẹp. Đừng tìm cách ve 

vãn họ  nếu không muốn bị  sa thải.” Đúng là có rất nhiều cô gái 16 -  18 tuổi xinh xắn dễ

thƣơng đang phục vụ tại đây. Tất cả bọn họ đều tốt nghiệp từ những khóa hiệu thính viên 

vô tuyến và đƣợc động viên từ hồi đầu chiến tranh. 

Ngày mùng Năm tháng Giêng tiểu đoàn của tôi vƣợt qua Hồ  Ladoga đang đóng 

băng bằng xe tải để  tới Phƣơng diện quân Volkhov. Chúng tôi đƣợc thông báo, “Hãy sẵn 

sàng để  nhảy ra khỏi xe bất cứ  lúc nào.  Ở  đây có rất nhiều hố trên mặt băng mà xe tải có 

thể  lọt vào.” May mắn thay mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp. Và không cần phải nhảy 

khỏi chiếc xe tải. Khi chúng tôi tới đƣợc bờ  hồ  bên kia, tôi đổi hai bao thuốc lá từ  khẩu 

phần chỉ  huy của bản thân để  lấy nửa cân bánh mì. Tôi không thể  kìm lại đƣợc và ăn nó 

ngay lập tức. 

Câu chuyện chi tiết về  những năm tháng gian khổ  không thể  nào quên đó, về  cái 

chết của các bạn tôi và về  những dặm đƣờng chiến tranh đằng đãng, tôi xin đƣợc kể  vào 

một dịp khác. Đó là một câu chuyện quá dài để kể ra ở đây. 

Dịch sang tiếng Anh: Kirill Finkelshteyn

Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn

Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân

Josef Finkelshteyn

PHÁO HOA MỪNG NGÀY HỘI 

Josef Finkelshteyn (ảnh do K.Finkelshteyn cung cấp) 

Khu vực của chúng tôi đang trải qua một trong những ngày tạm yên tĩnh. Tờ  báo 

quân đội viết, “Mặt trận Volkhovsky vẫn  yên tĩnh”, tựa nhƣ tiểu thuyết của Remarque 

“Mặt trận Phía Tây vẫn yên tĩnh”. Trong những ngày tháng quân ngũ nhƣ thế bạn thƣờng 

nghĩ: “Ngƣời ta đang bắn đấy, nhƣng không sao đâu. Ai mà biết đƣợc mình có bị  trúng 

hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào số phận.” 

Đó là dịp Giáng Sinh năm 1943. Tôi đang phục vụ  trong Tiểu đoàn Trinh sát vô 

tuyến 345. Tiểu đoàn chịu trách nhiệm tìm hiểu tình hình của các tiểu đoàn, sƣ đoàn và 

tập đoàn quân của Đức bằng cách liên tục lắng nghe các bức điện vô tuyến của địch. 

Hạ  sĩ  Nika  Grigoriev,  ngƣời  phụ  tá  trung  thành  của  tôi,  và  tôi  ngồi  nghe  lỏm 

những  buổi  chuyển  phát  vô  tuyến  của  các  tiểu  đoàn  và  sƣ  đoàn  Đức  bằng  thiết  bị  vô 

tuyến bắt đƣợc của địch. Đôi khi chúng tôi bắt đƣợc những thông tin rất quan trọng, bởi 

trong lúc chiến đấu chúng thƣờng phát tin mà không dùng mã khóa. Bộ  thiết bị  radio có 

phạm vi hoạt động chỉ khoảng một kilômét, do đó chúng tôi phải bố trí nó ngay gần chiến 

hào ở tuyến đầu. 

Nika và tôi tới đƣợc vị  trí trung đoàn của sƣ đoàn 44 vào chiều ngày 29 tháng 

Mƣời Hai. Khi bƣớc vào trạm quan sát của trung đoàn trƣởng, chúng tôi đã rất mệt và 

khắp ngƣời lấm lem. “Hãy tận tình giúp đỡ  thiếu uý Finkelshteyn hoàn thành nhiệm vụ

quân sự  quan trọng của anh ta.”, đó là mệnh lệnh của sở  chỉ  huy mà tôi chuyển cho viên 

đại uý có bộ  mặt  ủ  rũ, râu ria lởm chởm. “Quỷ  quái nào mà họ  lại đƣa anh tới chỗ  tôi 

thế?” tay đại úy râu ria càu nhàu. “Nếu anh mất mạng, tôi sẽ  phải viết lên một báo cáo  –

thuật lại tất cả sự việc đã diễn ra thế nào và tại sao.” 

“Hãy tìm lấy một hầm trú ẩn còn trống. Và nhớ đây, đám ishak (nghĩa đen là “con 

lừa”) sẽ oanh kích vị trí của chúng ta hàng ngày chính xác vào lúc 16 giờ. Đừng ló mặt ra 

khỏi hầm trú khi chúng bắt đầu rú lên. Hôm qua bọn ishak đã giết mất sĩ quan phụ tá của 

tôi và hai ngƣời lính nữa. Nhìn xem những cái cây lớn bị  gẫy kia, tác phẩm của chúng 

đấy.” 

Ishak là tên mà binh lính đặt cho loại giàn phóng tên lửa nhiều ống đặt trên xe tải 

của Đức, tƣơng tự loại Katyusha nổi tiếng của chúng ta. Chúng bắn tới với những tiếng rú 

kinh khủng “yya-yya-yya”. Sức nổ của những quả tên lửa đó rất mạnh.

Nika và tôi tìm thấy một hầm trú  ẩn còn chƣa bị  phá huỷ  đã bị  ngập nƣớc một 

phần. Chúng tôi tát nƣớc ra và lót lên một lớp cành vân sam. Bên trong  rất lạnh,  ẩm ƣớt 

và thiếu thoải mái. Chúng tôi có vodka  –  thứ  tiền lƣơng của lính  –  và tôi phái Nika đi 

kiếm về một chiếc lò sƣởi. Một giờ sau Nika quay về tay không. Chẳng ai có một chiếc lò 

sƣởi dự trữ cả.  

Tuyên truyền viên Xôviết. Mặt trận Kaleria. 

(ảnh lấy từ hồ sơ lƣu của Hội Cựu chiến binh Mặt trận Kaleria)

Tôi tới gặp ngƣời đại uý có tác phong lôi thôi, hy vọng anh ta có thể  giúp mình. 

Phía trƣớc hầm trú ẩn của anh ta, một ngƣời lính gác đang hơ tay mình trên một chiếc lò 

cá nhân, đang hừng hực đốt cháy những cành củi khô. Đột nhiên lũ ishak bắt đầu rú lên. 

Mọi ngƣời đều mau chóng ẩn nấp tựa nhƣ một cơn bão mùa đông đã quét sạch họ đi. Khi 

tay lính gác chúi đầu vào một căn hầm, tôi vội chộp lấy chiếc lò và chuồn nhanh. Giữ

chặt chiếc lò tỏa khói trong đôi găng tay đang bắt lửa, tôi chạy thật nhanh về  hầm của 

mình. Nhìn lại đồng hồ tôi nghĩ, “Lũ chó đẻ này chính xác thật”. Chiếc đồng hồ đang chỉ

4 giờ 2 phút chiều. 

Nika và tôi nhanh chóng sắp xếp vị trí cho chiếc lò, bỏ thêm vào vài cành cây khô 

và bật chiếc máy vô tuyến lên. Trong hầm dần  ấm lên và đã thấy thoải mái hơn. Chúng 

tôi vừa lắng nghe những thông báo của bọn Đức về  tình hình mặt trận quân ta, vừa lau 

khô đôi chân. Bất  thình lình hai tay lính lăm lăm súng xuất hiện  ở  cửa hầm chúng tôi. 

Một ngƣời hét lớn, “Hende Hohn! (tiếng Đức nói theo kiểu Nga: “Giơ tay lên!”), không 

đƣợc động đậy!” cùng với một tràng dài đầy những lời tục tĩu mà tôi từng đƣợc nghe mẹ

mình sử dụng. Tôi cố gắng giải thích cho anh ta chúng tôi là ai và tại sao chúng tôi lại có 

mặt  ở  đây, nhƣng anh ta không thèm nghe. Anh ta đánh vào ngực tôi bằng khẩu tiểu liên 

và nổ  súng lên trần. “Nếu cử  động mày sẽ  đƣợc ăn một viên đạn vào cái sọ  khốn khiếp 

của mày! Hạ sĩ, hãy đi gọi đại uý tới, chúng ta đã bắt đƣợc bọn gián điệp.” 

Khi đại uý tới, anh ta nhận ta chúng tôi, và vừa cƣời, anh ta vừa nói, “Đừng giận 

họ  thiếu uý. Hôm qua một nhân viên SMERSH (an ninh quân đội) đã nói với chúng tôi 

rằng đang có một tên gián  điệp trong sƣ đoàn chúng tôi. Bất cứ  khi nào binh lính chúng 

tôi tụ tập quanh bếp dã chiến hắn lại phát tín hiệu cho bọn Fritz và chúng lập tức nhả đạn 

vào chúng tôi.” Rắc rối đƣợc dàn xếp ổn thoả, chúng tôi mời viên đại uý một cốc trà. “Có 

lẽ  các anh có thứ nào khác mạnh hơn chăng?” Nika lấy ra một bi đông vodka và sau lần 

chạm cốc thứ ba chúng tôi đã trở thành bạn thân của nhau. 

“Hãy nghe tôi này thiếu uý” tay đại uý râu ria nói, “Gần đây những ngƣời trong 

đội tuyên truyền có tới chỗ  chúng tôi để  phát  sang bọn Đức bằng một chiếc loa phóng 

thanh. Họ  đã để  quên chiếc loa khi rời đi. Hãy nguyền rủa lũ con hoang Phát xít bằng 

chính thứ  tiếng Đức bẩn thỉu của chúng. Tớ  sẽ  nói và cậu sẽ  dịch lại. Tớ  chính là một 

chuyên gia về  chửi tục đây”. Tôi cố  giảng giải  cho anh ta là  ở  trƣờng tôi chỉ  đƣợc học 

tiếng Đức chứ  không học chửi tục. “Không hề  gì, cứ  làm hết khả  năng của cậu” tay đại 

uý nói. “Hãy ra chỗ chiến hào gần nhất, chỉ cách đây khoảng 100 mét.” 

Đằng sau chiến hào có một hẻm núi phủ đầy dây kẽm gai. Bọn Đức đang có mặt ở

phía bên kia. Không khí rất yên tĩnh và chúng tôi tới gần đến nỗi có thể  nghe thấy tiếng 

chúng  đang  gọi  nhau.  Có  tên  nào  đó  đang  thổi  bài  hát  ƣa  thích  của  chúng,  bài  “Lyly 

Marlen” bằng một chiếc ácmônica. “Làm đi nào!” đại uý nói và đƣa  tôi chiếc loa. Tôi 

không  tài  nào  chửi  thề  bằng  tiếng  Đức  hay  nhƣ  cách  tay  đại  uý  chửi  bằng  tiếng  Nga. 

Nhƣng câu sau trôi chảy hơn câu trƣớc, và bọn Đức cũng đáp lại bằng thứ  vốn chửi thề

tiếng Nga xuất sắc nhất của chúng. “Cái lũ con hoang này học đƣợc cũng khá thật! Tớ sẽ

dạy cho chúng một bài học!” viên đại uý vừa nói vừa trèo vào cái boongke gần đấy và nã 

một tràng đại liên về phía vị trí bọn Đức. Bọn Đức đáp trả lại ngay lập tức. Một chốc sau 

trận đấu súng đã lan rộng ra khắp chiến tuyến. Bọn Đức bắn pháo sáng gắn dù trên khắp 

hẻm núi phía chúng tôi. Bần trời đƣợc chiếu sáng rực tựa nhƣ ban ngày. 

Trung  đoàn  trƣởng  gọi cho  chúng  tôi  và  hét  lên,  “Cái  quái  quỉ  gì  đang diễn  ra 

vậy?” “Không có gì nghiêm trọng cả, đó chỉ là bắn pháo hoa ngày hội thôi mà” đại uý trả

lời. 

Dịch sang tiếng Anh: Kirill Finkelshteyn

Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn

Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân

Josef Finkelshteyn

CHIẾN THẮNG

Tháng Năm năm 1945 tôi đang  ở  vùng núi Alps thuộc nƣớc Áo, gần thành phố

Gratz. Đó đang là dạo mùa xuân, trời nắng  ấm, những khu nghỉ  dƣỡng mùa đông tuyệt 

đẹp có thể  trông thấy rõ trên những ngọn núi phủ  đầy tuyết. Mọi ngƣời đang trong tinh 

thần hƣng phấn; chiến tranh chắc chắn sẽ sớm kết thúc. 

Tiểu đoàn Trinh sát vô tuyến 345 của tôi thu thập thông  tin về  chỗ  đóng quân và 

chuyển quân của bọn Đức. Tôi ngồi nghe những tin tức hàng ngày từ  Berlin, London và 

New York qua chiếc radio chiến lợi phẩm và viết báo cáo cho bộ  chỉ  huy Phƣơng diện 

quân. 

Một hôm tôi nghe đƣợc trên BBC, “Chủ  tịch Quốc hội Thụy Điển thông báo rằng 

Hitler đã cho ông ta biết quyết định đầu hàng có điều kiện của mình.” Vào ngày 2 tháng 

Năm đài Berlin thông báo, “Adolph Hitler đã chết do những vết thƣơng nghiêm trọng. Đô 

đốc Donitz đã lên nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân đội Đức.”  

Cuối  cùng, ngày 7 tháng Năm, trong bản tin của ngƣời Mỹ, tôi chợt nghe đƣợc, 

“This is the Voice of America, America at war." (Đây là Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, nƣớc Mỹ

trong chiến tranh) đây là câu mở  đầu của tất cả  những bản tin của đài VOA trong những 

năm đó, "Nƣớc Đức đã chấp nhận đầu hàng vô điều kiện! Trong ngày mai thỏa ƣớc này 

sẽ đƣợc ký kết!” 

Chiều hôm đó tôi nhận đƣợc lệnh tức khắc đi đổi cái thông tin lý thú đó lấy rƣợu 

vang trong các thị trấn lân cận. Và do không còn rƣợu vang sót lại trong các thị trấn đằng 

sau chiến tuyến của chúng tôi, một tài xế  cùng tôi đi lên phía trƣớc mặt trận. Bầu không 

khí xung quanh chúng tôi đƣợc bao phủ  bởi một sự  im lặng khác thƣờng. Chiến tranh 

không còn tiếp diễn nữa.

Trong những ngôi làng mới bị  bọn Đức sơ tán vẫn còn rất  nhiều rƣợu vang. Rất 

nhiều thùng rƣợu bị  bắn thủng và vơi mất một nửa. Đó là hậu quả  trò nếm rƣợu của đám 

lính ta đi tiên phong. Chúng tôi chỉ  cần những thùng còn đầy. Cuối cùng chúng tôi tìm 

thấy một ngôi làng chƣa bị  tàn phá và bƣớc vào ngôi nhà gần nhất. Tôi thông báo cho họ

về  cái chết của Hitler và sự  đầu hàng vô điều kiện vào ngày mai của nƣớc Đức. Tin này 

mau chóng lan đi khắp làng. Mọi ngƣời mau chóng tới đầy căn phòng. Ông xã trƣởng, 

một ông béo mặc chiếc quần soóc bằng dạ  và đội chiếc mũ màu lá mạ  có gắn lông chim, 

mời  mọi  ngƣời  bƣớc  vào  nhà  mình.  Ông  ta  nói  với  chúng  tôi  rằng  ông  luôn  yêu  mến 

ngƣời Nga và căm ghét Hitler. Con trai ông ta, bị  ngƣời Anh bắt làm tù binh, giờ  đây đã 

có thể sớm trở về nhà. 

Chúng tôi cạn ly với những ngƣời Áo, vài ngƣời mặc quần soóc, vài ngƣời đánh 

quần dài, có cả  đám phụ  nữ  còn trẻ  và đã luống tuổi, quyến rũ và không quyến rũ. Tất cả

bọn họ  mau chóng trở  nên đáng yêu trƣớc mắt tôi. Những ngƣời Áo cất giọng hát những 

bài yodel (dân ca Áo-Thụy Sĩ); ngƣời lái xe và tôi thì hát bài hát Nga “Katyusha”. Lát sau, 

bƣớc đi lảo đảo, chúng tôi tìm đƣờng quay trở ra phố. Chiếc xe của chúng tôi đã chất đầy 

những thùng rƣợu. Những ngƣời Áo giúp chúng tôi leo trở vào trong cabin xe. Tới giờ tôi 

vẫn không hiểu làm sao lúc đó chúng tôi có thể  lái nổi về  đơn vị  mình mà không bị  đâm 

vào chỗ nào trên đƣờng. 

Tối ngày mùng Chín tháng Năm, chiến tranh đƣợc chính thức tuyên bố  là đã kết 

thúc. Tiểu đoàn tôi tổ  chức một bữa ăn mừng. Mỗi ngƣời đều đƣợc nhận một lít rƣỡi thứ

rƣợu vang mà tôi đã đem về. Ít nhất đó là tiêu chuẩn chính thức; thực ra anh có thể  uống 

đến hết sức mình. Chiều hôm đó, không ai còn có thể đứng vững trên hai chân mình đƣợc 

nữa. Súng nổ ở khắp nơi. Những luồng đạn xanh đỏ rạch dọc ngang bầu trời. Ngƣời ta có 

thể  cho là có  đánh nhau, nhƣng đó chính là lễ  mừng hòa bình. Thế  giới và tất cả  xung 

quanh tôi đều đang say xỉn và cứ  thế  kéo dài cho tới khi kết thúc. Đó chính là CHIẾN 

THẮNG! 

Nƣớc Áo là một đất nƣớc tƣơi đẹp và yên bình, nhƣng giờ đây điều chúng tôi thực 

sự mong muốn là đƣợc trở về quê nhà. 

Dịch từ Nga sang Anh: Kirill Finkelshteyn

Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH THÔNG TIN

Yurii Koriakin

Tôi bị  động viên vào tháng Mƣời năm 1941, khi vẫn còn học lớp 10, trong những 

ngày Matskva tràn ngập nạn phá hoại, cƣớp bóc và hoảng loạn. Tôi bị  động viên dù mới 

vừa qua sinh nhật lần thứ  17 của mình. Có lẽ  nhằm mục đích không bỏ  sót dù chỉ  một 

ngƣời lính trong tƣơng lai cho bọn Đức. 

Trong khoảng một tuần lễ, tôi hoạt động nhƣ thành viên trong một nhóm của quân 

ủy khu Il'ino-Zorino, ngoại ô Gorkiy. Những khu trại lớn có tổ chức đƣợc lập tại đây. Họ

dồn chúng tôi trong những hầm trú xây âm một nửa dƣới đất chứa tới 300-400 ngƣời. Tôi 

đƣợc xếp vào khóa học dành cho hạ  sĩ quan. Chúng tôi đƣợc bố  trí đi đào những chiến 

hào. Họ  chuẩn bị  huấn luyện chúng tôi thành những sĩ quan nằm vùng,  nhiệm vụ  này 

nghĩa là cầm chắc cái chết. Đại diện của các binh chủng khác cũng thƣờng xuyên tới trại 

này. Họ  chọn lựa và tuyển lấy những ai phù hợp công tác của họ. Trình độ  chƣa hết lớp 

10 của tôi đƣợc coi là mức văn hóa khá cao thời kỳ  ấy, nên tôi cũng đƣợc chọn. Đầu tiên 

ngƣời ta cho tôi vào một đơn vị Cận vệ súng cối phản lực. Tại đấy tôi bị loại và gửi trả về

bởi tôi đã kể  rằng cha tôi đang ngồi tù. Rồi tôi lại tới một đơn vị  khác. Một lần nữa tôi 

bảo với họ rằng cha mình đã bị tù – tôi là một ngƣời thành thật, nhƣng đáng ra tôi nên nói 

dối  –  do đó  tôi nói dối trong lần thứ  ba, khi họ  tới để  tuyển những điện đài viên. Tôi 

quyết định: “Mình nên nói gì nhỉ? Mình sẽ bảo rằng cha mình đang đi tản cƣ. Ai mà kiểm 

tra ra đƣợc?” Mọi việc xảy ra đúng nhƣ thế. Tháng Hai năm 1942, cuối cùng tôi cũng tới 

đƣợc  mặt  trận,  trƣớc  đó  thậm  chí  còn  học  xong  khóa  dạy  liên  lạc  viên  vô  tuyến  của 

trƣờng Gorkiy. Một lần nữa tôi lại gặp may: tôi trở  thành điện đài viên tại Zapoliarye, 

trên tuyến Kandalaksha thuộc Lữ  đoàn Lính thủy đánh bộ  độc lập số  77. Do đó, đơn vị

chúng tôi  gồm toàn thủy binh. Họ  khác thƣờng ở  chỗ  cứ  nói đƣợc một từ  tiếng Nga bình 

thƣờng thì phải chêm vào tới năm câu chửi thề. Tôi cũng biết những câu chửi đó, nhƣng 

chửi nhiều, dẻo miệng, thƣờng xuyên và cứ  tự  nhiên phun ra nhƣ họ  thì thật đáng nể  đối 

với tôi. Ngoài ra, họ  thƣờng cởi nút cổ  áo để  phanh ngực áo lót kẻ  sọc cho mọi ngƣời 

thấy, và họ  khoe cả  những hình xăm  –  nội dung không ngạo đời hay tục tĩu mà rất yêu 

nƣớc: chân dung Stalin hoặc một chiếc mũ thủy thủ. Bọn Đức, chứ không phải Phần Lan, 

đối đầu với chúng tôi: Sƣ đoàn SS Nord, những tên lính to lớn, mạnh khoẻ, trang bị  tốt. 

Mùa  hè  năm  1941  chúng  tiến  qua  biên  giới  đƣợc  150  kilômét,  nhƣng  khi  còn  cách 

Kandalaksha 70 km thì chúng bị  chặn lại, và suốt từ  mùa thu năm 1941 cho tới mùa hè 

năm 1944 không  hoạt động quân sự  tích cực nào đƣợc tiến hành trong khu vực mặt trận 

của chúng tôi. Mặt trận yên tĩnh đƣợc gần hai năm rƣỡi, chúng tôi thậm chí còn đào đƣợc 

chiến hào, dù cách duy nhất để xuyên thủng lớp đất băng giá này là dùng cuốc chim hoặc 

xà beng. Hai bên sƣờn chúng tôi bị bỏ trống – ở đấy toàn là đầm lầy và hồ ao. Các anh đã 

xem phim “Nơi đây bình minh yên tĩnh” chƣa? Một cuốn phim hay. Vâng, họ  chiếu lại 

đúng cảnh vật nơi đó. Thật hoang vắng.  Thêm vào việc để  trống hai bên cánh và thói 

quen chiến đấu  vào mùa đông, khi đầm lầy và hồ  ao đóng băng, nhiều hoạt động trinh 

sát-nghi binh đƣợc tiến hành đằng sau phòng tuyến của địch.

Hai tới ba trung đội đƣợc nhập lại, gồm từ  60 tới 90 ngƣời, cộng thêm tôi và máy 

điện đài, và tất cả  cùng đi lang thang trong hậu phƣơng quân Đức. Chúng tôi di chuyển 

bằng  bàn  trƣợt,  đôi  khi  có  đem  theo  hƣơu  để  vận  chuyển  đạn  dƣợc  và  thƣơng  binh. 

Không bao giờ chúng tôi đem theo chó – chúng hay sủa, lũ khốn khiếp. Chúng tôi tiến rất 

xa, tới tận Rovaniemi (khoảng 200-250 km.  -  Artem Drabkin), và đi trong những ngày 

mà thậm chí ngay bọn Đức cũng không chịu ra chiến đấu. Ví dụ những Lễ Giao thừa năm 

43 và 44 tôi đã phải đón ở sau phòng tuyến của địch. Chúng tôi khởi hành vào khoảng 20 

tháng Chạp, do đó tới Giáng sinh chúng tôi đã lọt sâu trong hậu phƣơng địch. Thằng Đức 

nào lại đi đánh nhau trong đêm Giáng sinh? Vậy mà đám lính Nga lại làm chuyện đấy. 

Thế  đó –  lũ Nga tinh quái! Chúng tôi tấn công những đồn bót của quân Đức, gài mìn các 

con đƣờng. Chúng tôi luôn tính toán sai lực lƣợng, đó là lý do tại sao thất bại thƣờng xảy 

ra –  tin tình báo hiếm khi chính xác: thƣờng là một đồn phòng thủ  hoá ra không yếu nhƣ 

trinh sát báo cáo, trong đồn có tới 200 lính thay vì 50. Những lần  ấy hành quân rất khó 

khăn: vừa rét, vừa sợ, lại vừa mệt nhọc. Cứ  thử  sống khoảng ba tuần trong cái lạnh âm 

20-30 độ  ấy mà xem! Thế  đấy! Mặc dù chúng tôi ăn mặc khá  ấm: valenki (ủng nỉ), quần 

bông, áo choàng ngụy trang mùa đông, rồi tới áo vét, quân  phục, đồ  lót bằng len  ấm, và 

trong cùng là đồ  lót vải lanh thông thƣờng. Họ  phát cho chúng tôi rƣợu vodka và 100 

gram bánh mì mỗi ngƣời một ngày. Chúng tôi cũng đƣợc cấp thịt hộp Mỹ. Hƣơng vị thật 

dở! Một hộp thiếc to, trong có một lƣợng mỡ  lợn chỉ  vừa đủ  phết lên một lát bánh, và  ở

giữa  –  một mẩu thịt bằng nhỏ  bằng nắm tay. Dù sao, chúng tôi cũng không chết đói ... 

còn có bánh mì khô. Chúng tôi thậm chí còn có đèn dầu, thƣờng đƣợc gọi là loại “ấn-đẩy”. Đó là một cái hộp thiếc nhỏ, cỡ bằng hộp mứt, trong chứa sáp pha cồn. Nếu bạn đốt 

cái hỗn hợp này, nó sẽ cháy và cho một ngọn lửa trắng sáng. Nhờ nó bạn có thể hâm thức 

ăn hoặc đun nƣớc. 

Nhƣng sao lại đi đốt cồn  –  phải đem uống nó chứ! Đó  là lý do chúng tôi bỏ  nó 

vào một mảnh giẻ  và đem vắt  –  bạn sẽ  lấy đƣợc khoảng 50 gram rƣợu cồn, và kể  từ  khi 

chúng tôi đƣợc nhận khá nhiều hộp chất đốt đó, ta có thể  nhậu thoải mái, dù việc đó tất 

nhiên là không hay ho gì, nhƣng chỗ  sáp còn lại vẫn cháy tốt. Về  vũ khí, trong những 

cuộc đột kích đó chúng tôi đem theo tiểu liên và lựu đạn, đôi khi có thêm một hay hai 

khẩu Degtiarev. Từ  năm 1942 trở  về  trƣớc chúng tôi vẫn còn sử  dụng loại súng trƣờng 

Mosin –  tất nhiên đó là loại vũ khí rất bất tiện, về  sau họ  cấp cho chúng tôi loại tiểu liên 

PPSh. Hoàn toàn không có hỗ trợ hoặc thả dù tiếp tế từ “miền đất lớn”. Nói chung, chúng 

tôi vác tất cả trên đôi vai mình: súng tiểu liên, ba lô, máy điện đài. Điện đài của chúng tôi 

là loại V-100 sản xuất tại Mỹ, có bộ phận thu phát to bằng cái TV cỡ trung. Khi ở chế độ

thu tin, nó sử  dụng một bộ  ắc quy BAS-80, cấp đƣợc 80 Volt, nhƣng khi chuyển tin nó 

cần bộ  nguồn phụ, do đó mới có tên gọi “động cơ lính” đi kèm: một cái giá ba chân gập 

lại đƣợc có gắn pê đan, thƣờng đƣợc quay bằng tay. Nó có công suất mạnh hơn loại do ta 

sản xuất, và mỗi khi phải đi xa, chúng tôi luôn đem nó theo. Chúng tôi rất hiếm khi di 

chuyển bằng máy bay: ngƣời ta sợ  chúng tôi sẽ  bị  phát hiện. Nói chung, công việc của 

một điện đài viên rất khác thƣờng:  anh luôn phải hoạt động đơn lẻ. Cấp trên đày đọa anh 

mọi điều chỉ vì sợ anh bị phát hiện và bị pháo địch tiêu diệt, đồng thời họ cũng không thể

thiếu chúng tôi, do đó chúng tôi luôn có mặt, trong một hầm trú ẩn, một cái hào, một hố

bom; anh bò vào trong và ngồi đó để  sẵn sàng chờ  đƣợc gọi, nhƣng anh chỉ  đƣợc đi máy 

bay thực hiện nhiệm vụ trong những trƣờng hợp cấp bách nhất. Tín hiệu tới chúng tôi đều 

đã đƣợc mã hóa thành những cột năm chữ  số, do đó tất nhiên tôi không thể  biết đƣợc nội 

dung của chúng. 

Lữ  đoàn trƣợt tuyết số  31, Sƣ đoàn xạ  thủ  Cận vệ  số  10, mùng 2 tháng 11 năm 

1942. 

Mặt trận Karelian.

Tôi nhớ  nhất mùa đông của năm 43-44. Đó là chuyến hành quân đẫm máu nhất 

của chúng tôi. Chúng tôi có từ 80 tới 90 ngƣời, và tổn thất tới 30-40 ngƣời, tức là cứ mỗi 

ngƣời trong nhóm thì có một ngƣời khác bị  thƣơng hoặc hy sinh. Lần  ấy có một trƣờng 

hợp bi thảm xảy ra. Có hai anh em cùng phục vụ trong đơn vị chúng tôi, và trong trận đột 

kích vào một công sự  bê tông, một ngƣời trong họ  chui vào bên trong, nhƣng ngƣời còn 

lại, do không biết chuyện đó, đã ném vào một quả  lựu đạn và giết chết anh ta. Anh  ấy đã 

đau khổ ghê gớm ... Thậm chí đã định tự sát. Ngay khi đấy chúng tôi nhận đƣợc lệnh của 

Stalin – không đƣợc bỏ lại những ngƣời đã chết, và nhất là những ngƣời bị thƣơng, tất cả

phải đƣợc đƣa về. Chúng tôi lôi họ  trên những chiếc "volokushas"  –  một chiếc cáng nhỏ

bằng gỗ dán có gắn sợi thừng kéo. Lần đó tôi phải kéo về một thủy binh bị thƣơng. Thực 

ra, chiếc cáng không quá nặng, nhƣng phải kéo đi hàng chục dặm đƣờng, thêm nữa tôi 

còn phải mang cái điện đài, một khẩu tiểu liên, chiếc ba lô tôi đặt dƣới chân anh ta... lại 

không phải trên đƣờng lộ  -  có đến cả  trăm lần tôi làm ngã anh ta trên những chỗ  gập 

ghềnh và phải đặt anh ta lên cáng trở  lại. Anh lính thủy đó, hiện tôi vẫn không biết đƣợc 

tên, bị  thƣơng vào ngực, và dù tôi đã băng cho anh, máu vẫn cứ  chảy ra. Tôi còn có thể

làm đƣợc gì? Chúng tôi không đem y tá theo cùng. Mỗi lần hồi tỉnh, anh  ấy lại van xin: 

"Ngƣời anh em, hãy bắn tôi đi, bắn tôi đi, ngƣời anh em... “ Cuối cùng tôi cũng đƣa đƣợc 

anh về tới nơi, nhƣng lúc đó anh đã chết mất rồi. Thêm nữa, khi ra chiến tuyến, chúng tôi 

bắt  buộc  phải  giữ  liên  lạc  chặt  với  Sở  chỉ  huy.  Chỉ  huy  trƣởng,  thiếu  tá  Karasev,  một 

ngƣời rất khắt khe, bắt chúng tôi phải luôn chuẩn bị  điện đài sẵn sàng, và bạn tôi lại cắm 

nhầm nguồn  ắc quy 80 V vào dây bóng đèn, có hiệu điện thế  cho phép chỉ  2.5 V! Tất 

nhiên, tất cả  đèn bên trong đều cháy sạch, nên máy chỉ  có thể  chuyển tin nhƣng không 

nhận tín hiệu đƣợc nữa. Chỉ  huy hét lên: “Tao sẽ  bắn chúng mày, lũ cặn bã!”. Tất nhiên 

anh ta không bắn chúng tôi, nhƣng bù lại dịp đó chúng tôi không đƣợc nhận bất cứ  thứ

huy chƣơng bằng khen nào. Một lần khác, sau khi quay về  căn cứ, chúng tôi kéo lật một 

chiếc xe tải chở bánh mì, đang đói quá mà. Một bản cáo tội tất cả đám chúng tôi đƣợc lập, 

và dù ngƣời ta cũng đã tìm mọi cách bƣng bít, chúng tôi lại một lần nữa mất cơ hội đƣợc 

khen thƣởng. Nói chung, cứ  chuẩn bị  tới dịp khen thƣởng là tôi lại gặp xui xẻo. Năm 45, 

tôi cứu sống trung đội trƣởng đã gần chết đuối khi vƣợt sông, và vì đã cứu chỉ  huy, đáng 

ra anh phải đƣợc khen thƣởng – một lần nữa họ  lại không trao cho tôi. Vâng, tôi cũng có 

đƣợc một Huân chƣơng Sao đỏ, một huy  chƣơng “Dũng cảm”, nhƣng thế  cũng không 

nhiều lắm... Dù sao, ngƣời ta cũng không thƣởng quá nhiều cho một tay lính trơn. 

Vài lần chúng tôi đem về  tù binh. Chúng tôi không bắt quá nhiều: chúng gây biết 

bao phiền toái. Tấùt nhiên, tốt nhất là bắt về  sĩ quan, những “cái lƣỡi” ở  cấp thấp hơn thì 

không hữu dụng. Đám tù binh phải cùng trƣợt tuyết với chúng tôi và đôi khi bị  bắt phải 

kéo thƣơng binh. Ván trƣợt của bọn Đức rất tiện lợi. Của chúng tôi – valenki và dây buộc 

bằng  da  mềm,  còn  của  chúng  có  “kiểu  Ba  Tƣ”,  nghĩa  là  một  đôi  giầy  ấm  có  đầu  uốn 

ngƣợc lên, đặt dƣới một cái kẹp gắn vào ván trƣợt. Mỗi khi quay về, ngƣời ta có bố  trí 

ôtô hay xe chó kéo ra đón chúng tôi, đƣa tù binh đi hỏi cung và chở thƣơng binh tới bệnh 

viện. Sự  mệt mỏi của chúng tôi lúc đó đã tới tột cùng, một sự  mệt mỏi ghê gớm, cùng 

kiệt... Nhƣng chúng tôi thế vẫn còn may: chúng tôi không phải là những kẻ duy nhất phải 

làm việc này. Tôi đƣợc biết có đội chẳng may rơi vào  ổ  phục kích, và vài ngƣời bị  bọn 

Phần Lan bắt đƣợc, mà bọn Phần Lan thì thật tàn ác. Vì thế  hẳn tôi đã đƣợc nhận một 

món quà của số  phận, món quà không ai có thể  ban cho một cách hào phóng hơn  –  tôi 

vẫn CÒN SỐNG. Vậy mà tôi đáng lẽ đã phải chết, và không chỉ một lần. 

Suốt mùa hè mọi chuyện đều dừng lại: cả  bọn Đức lẫn chúng tôi không bên nào 

chịu tấn công. Chốt điện đài của chúng tôi đặt trên đỉnh một ngọn đồi, cách chiến tuyến 

khoảng 300 mét, ngụy trang giữa đám cây lá rậm rạp. Vâng, lúc này đang là tháng Bảy, 

trời nóng nên chúng tôi cởi quần áo ra và tắm nắng. Đột nhiên, không biết từ  đâu một 

chiếc “Focke-Wulf” xuất hiện! Nó nã một tràng vào chúng tôi rồi lƣợn vòng và bắn một 

loạt nữa, và rồi bắt đầu rƣợt đuổi chúng tôi. Nó bay khá thấp, khoảng 10-15 mét, thậm chí 

chúng tôi còn thấy cả  tên phi công đang cƣời cợt, còn chúng tôi, tay không tấc sắt, mình 

trần  nhƣ  nhộng,  đang  chạy  tán  loạn  trên  trảng  cỏ  xanh.  Hắn  đã  bắn  trƣợt,  thật  hú  vía. 

Ngoài chuyện ấy ra, những thứ  khác thật tẻ  ngắt. Nhiều ngƣời xin đƣợc chuyển sang mặt 

trận khác, nhƣng thƣờng là không ăn thua gì: "Cứ ngồi yên đấy. Ở đây cũng có đánh nhau. 

Tổ  quốc  yêu  cầu  anh  có  mặt  tại  những  nơi  cần  có  anh”.  Bom  đạn  liên  miên  suýt  làm 

chúng tôi thiệt mạng bởi cả  hai bên đều thả  bom cháy để  thiêu rụi các cánh rừng. Trong 

thời gian yên tĩnh, ngƣời ta bắt lính tráng làm đủ chuyện. Thƣờng thƣờng, chúng tôi phải 

đi nhặt quả  rừng đem tới bệnh viện: việt quất, dâu, quả  lý. Chỉ  tiêu của mỗi ngày: mang 

đƣợc về nhà bếp một hộp thiếc đầy. Vâng, chúng tôi cũng tự mình tổ chức nhiều thứ: xây 

dựng một xƣởng cƣa gỗ, đào hầm trú  ẩn, xây một câu lạc bộ  sức chứa 200 ngƣời. Chỗ

chúng tôi cũng có diễn kịch và chiếu phim. Tổ chức đƣợc vài giải thi đấu thể dục thể thao. 

Đôi khi có cửa hàng lƣu động tới phục vụ. Tại đấy, bằng đồng lƣơng quèn đƣợc trả chúng 

tôi có thể mua đƣợc thuốc bột đánh răng, nƣớc hoa, phong bì để gửi thƣ. Và còn tình tang 

với  mấy  cô  lính  thông  tin,  hoặc  với  mấy  ả  nhân  viên  kiểm  duyệt  ở  quân  bƣu  trạm  dã 

chiến. Ở đấy các cô gái xinh xắn và có học hơn. 

Năm 1944, khi  một chiến dịch tiến công đang đƣợc chuẩn bị, những đơn vị  mới, 

hầu hết là cánh pháo binh, ùn ùn kéo tới. Họ đƣợc lệnh phải đột kích qua tuyến phòng thủ

mà quân địch đã xây dựng trong suốt hai năm rƣỡi trời. Đấy là lần đầu tiên tôi đƣợc thấy 

hỏa  tiễn  "Katiushas",  nhƣng  tôi  ấn  tƣợng  với  những  giàn  “Andryushas”  hơn  bởi  hình 

dáng to mập của quả  đạn (tức giàn hỏa tiễn hạng nặng BM-31-12, chuyên dùng phá hủy 

hệ  thống phòng thủ-  N.D.), nằm trong hộp chứa gỗ  hình tròn để  có thể  dễ  dàng lăn đi 

đƣợc. Thế rồi có lệnh xuống yêu cầu tất cả những gì đang di chuyển sau chiến tuyến quân 

Đức đều phải bị  huỷ  diệt, kể  cả  lũ chó. Lúc này đang là mùa hè, và đám trinh sát thông 

báo họ  trông thấy có mấy ả  gà mái trần truồng đang bơi lội trên hồ  và tắm nắng, có lẽ  đó 

là một nhà thổ  di động phục vụ  bọn SS (có cách nào khác để  tìm thấy đàn bà trong cái 

đám rừng hẻo lánh nhƣ vậy?), và họ  trút xuống đó một loạt “Katiusha”. Giờ  đây nhớ  lại 

tôi thấy chuyện này thật dã man, nhƣng vào thời điểm ấy thế  là bình thƣờng  –  chúng tôi 

đã cƣời cợt  với nhau, thế  đấy. Tất cả  chúng tôi đều sẵn sàng làm thế. Các bức tranh cổ

động vẽ  hình một ngƣời đàn ông nhìn thẳng vào bạn và hỏi: “Anh đã giết đƣợc tên Đức 

nào chƣa?” đƣợc treo  ở  khắp mọi nơi. Hay một ngƣời Slavơ đang ngồi và giơ lên trong 

lòng bàn tay ba cái vỏ đạn rỗng, cùng một câu thơ ghi ở dƣới: “Hỏi sao anh chẳng tự hào, 

ba viên đạn bắn ba thằng Đức tiêu!”. Tinh thần chung là nhƣ vậy, trong bọn chúng tôi ai 

cũng từng trải qua biết bao gian khổ  của thời chiến, ai cũng có ngƣời thân đã chết hoặc 

đang trong vùng bị địch tạm chiếm. 

Cuộc  tấn  công  bắt  đầu  vào  mùa  hè  năm  1944  và  chúng  tôi  đã  tiến  đƣợc  tới 

Rovaniemi. Chúng tôi không đi  ở  tuyến đầu, nhƣng phải vác điện đài đi cách hàng lính 

bộ  binh chỉ  khoảng hai ba trăm mét. Thế  đấy, nếu nhƣ anh để  bị  giết thì thật là ngu xuẩn 

–  chẳng ai thèm nhắm vào anh. Tuy nhiên vào thời điểm ấy, đám điện đài viên chúng tôi 

đóng vai trò rất quan trọng, do thiếu liên lạc hữu tuyến nên mọi hoạt động hiệp đồng tác 

chiến đều phải thực hiện thông qua điện đài. Hơn nữa, lúc  này tôi đã đƣợc thăng chức 

trung sĩ và chỉ huy một trạm điện đài với hai nhân viên dƣới quyền. 

Tháng  Chạp  năm  1944,  trung  đoàn  tôi  đƣợc  chuyển  tới  vùng  Vologda  để  nghỉ

ngơi, nâng cấp khí tài và bổ  sung quân số. Chúng tôi tiếp nhận loại điện đài mới. Nhờ

rƣợu vodka giúp sức tôi đổi đƣợc khẩu tiểu liên PPSh của mình lấy một khẩu PPS báng 

gập; tuy hay giật vào sƣờn trong khi bắn nhƣng nó lại nhẹ  và có một băng đạn hình hộp. 

Chúng tôi đƣợc phát 75 gram rƣợu cồn mỗi ngày cho từng ngƣời, nhƣng do làm việc  ở

trạm điện đài, xa hậu cần, họ cấp hẳn một lúc khẩu phần cho 10 ngày – 750 gram, anh cứ

việc mà say lử  cò bợ. Hình thành một cuộc đổi chác nhƣ sau: tôi đƣa một bình rƣợu cồn 

cho viên trung sĩ, còn anh ta đổi lại cho tôi khẩu tiểu liên. Thế là thuận cả đôi đàng. Bằng 

cách đó tôi xoay đƣợc cả giày ủng và áo khoác vải xanh của Canada (thứ này rất có giá trị

ở  chỗ  làm toàn bằng bông nguyên chất, không nhƣ hàng trong nƣớc của ta)... Trong kho 

quân đội có rất nhiều thứ hấp dẫn, nhƣng anh phải biết đúng cách mới kiếm đƣợc. Và rồi 

giai đoạn thứ hai trong cuộc đời binh nghiệp của tôi đã bắt đầu. 

Vào tháng Giêng chúng tôi đƣợc chuyển tới Mặt trận phía Tây. Chúng tôi trải qua 

tái huấn luyện  ở  Đông Ba Lan, tại thị  trấn Ostrow-Mazovetski, trở  thành thành phần của 

Phƣơng  diện  quân  Belorussia  1  dƣới  sự  chỉ  huy  của  Rokossovskiy.  Nhƣng  ngay  khi 

chúng tôi tới nơi, mặt trận đã có sự  thay đổi. Rokossovkiy đƣợc chỉ  định làm chỉ  huy 

Phƣơng diện quân Belorussia 2, còn Zhukov trở  thành chỉ  huy trƣởng Phƣơng diện quân 

Belorussia 1. Họ  chuyển chúng tôi sang Phƣơng diện quân Belorussia 2. Chúng tôi chỉ

bắt kịp phƣơng diện quân của mình khi đi tới tận Pomerania. Pomerania là một vựa lúa, 

vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất  ở  Đức, trồng rất nhiều khoai tây và hơn nữa là rất 

nhiều rƣợu nặng. Đây là nơi diễn ra câu chuyện mà tôi đã thuật lại trong một truyện ngắn 

in trên tờ  Nezavisimaya Gazeta. Tại Koslin (Koszalin)* chúng tôi tiến tới sát biển, rồi 

quay xuống phía đông, gần tới Gdynia, rồi quay lại và tiến về Swinemunde (Swinoujscie). 

Lúc  này  tôi  phục  vụ  tại  trạm  radio  của  trung  đoàn,  gắn  trong  một  chiếc  “Studebaker 

US6x6” hay "sudar'", nhƣ chúng tôi thƣờng gọi. Điện đài của Mỹ, loại SCR-399 một máy, 

gắn trên rơ moóc có cabin.

Trạm thu phát radio SCR-399. Mùa thu năm 1945.

Ngoài ra, trong chiếc xe tải còn gắn bộ dụng cụ sửa xe và một cái áo khoác da cho 

tài xế. Nếu bạn từng thấy cảnh tất cả các vị chỉ huy cao cấp của chúng ta diễu hành ngoài 

mặt trận trong bộ  áo khoác da, thì đó  chính là những cái áo lấy từ  bộ  phụ  kiện đi kèm 

chiếc Studebaker của Mỹ. Đột nhiên vào chiều ngày mùng 9 tháng Năm chúng tôi đƣợc 

gọi tới Kolberg (Kolobrzeg) và nhận lệnh thu xếp lên một chiếc xà lan. Họ  bảo chúng tôi 

đƣợc bố  trí vào thành phần của một lực lƣợng đổ  bộ. Chiếc xà lan rộng khoảng sáu mét, 

chúng tôi buộc chiếc Studebaker của mình vào sàn tàu và chuyển những con ngựa cùng 

đại bác vào trong khoang trống. Ngay khi trời vừa tối, chúng tôi bắt đầu lên đƣờng. Hãy 

thử  tƣởng tƣợng xem –  bộ  binh mà đi ngoài biển! Chúng tôi bị  nhồi lắc dễ  sợ! Tệ  nhất là 

khi một trong những sợi cáp buộc chiếc xe bị  đứt. Vâng, khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng, 

nếu chiếc Studebaker rơi xuống biển, tất cả  chúng tôi sẽ  phải ra tòa án binh. Trong đám 

chúng  tôi  có  một  tay  thủy  thủ,  một  điện  đài  viên  tên  là  Arkashka  Kucheriavyi,  dân 

Leningrad. Anh ta trƣờn dọc theo mạn lƣờn hẹp gần sát mặt sóng, tìm đƣợc một đoạn 

xích sắt, và thế  là chúng tôi lấy nó để  ràng chặt chiếc xe tải lại. Tới sáng chúng tôi đã 

trông thấy đất liền, nơi  ở  nhà  thông báo là: "Đan Mạch. Đảo Bornholm". Khi chúng tôi 

tiến vào gần bến cảng, lúc độ  sáu giờ  sáng, chúng tôi nghe có tiếng súng nổ, nhƣng tới 

khi chiếc tàu kéo dắt chúng tôi vào thì tiếng súng ngƣng, và chúng tôi lên bờ trong sự yên 

tĩnh tuyệt đối. Hóa ra  ở  đấy đang có 18 ngàn tên Đức trên đảo và sau khi chống cự  một 

lúc, chúng mau chóng hiểu đƣợc vấn đề  và đầu hàng. Lái xe ra ngoài thị  trấn, tôi đƣợc 

quan sát cảnh sống đời thƣờng  ở  đây. Ngay tại bến cảng có một cái biển đề  chữ  "Cafe", 

tôi và một anh bạn chui vào đấy, trông thấy bên trong có nhiều ngƣời Đan Mạch đang 

ngồi ăn kem. Chúng tôi quyết định phải mua thứ  gì đó, bèn rút tiền ra (chúng tôi đƣợc 

cấp cho tiền mark Đức), nhƣng ngƣời bán hàng lảng ra xa chúng tôi nhƣ quỉ  phải mùi 

trầm, miệng nói câu gì đó nghe nhƣ "Nicht, Nicht" – có nghĩa là không dùng loại tiền này. 

Chúng tôi đành ra về tay không. Cũng trong ngày hôm đó chúng tôi đƣợc biết chiến tranh 

đã  kết  thúc.  Tôi  vặn  bộ  nhận  sóng  radio,  bắt  đài  Maskva,  ở  đó  họ  cũng  đang  phát  tin 

thông báo chiến thắng. Trong trƣờng hợp này làm điện đài viên cũng có lợi: anh có thể

ngồi nghe nhạc hoặc nghe tin tức; dù sao thì chúng tôi cũng vẫn phải làm việc này thƣờng 

xuyên, luôn sẵn sàng để nhận tin đến. Thậm chí có lần tôi bị nêu tên trƣớc cuộc họp đảng 

bộ  chỉ  vì đã  nghe nhạc trong khi làm nhiệm vụ. Chúng tôi phải luôn nâng cao tinh thần 

trách nhiệm, đó là những gì mà SMERSH yêu cầu: điều gì xảy ra nếu nhƣ anh đang bắt 

liên lạc với kẻ  thù? Bằng cách đó bạn thƣờng xuyên bị  kiểm soát. Vào thời kỳ  này bạn 

phải luôn cẩn thận với nguy cơ bị tố giác, vu cáo.  

Trung sĩ Yu. Koriakin, Graiforberg 

Mùng 9 tháng Năm năm 1945

Chiến tranh đã kết thúc, nhƣng chúng tôi phải trải qua hai tháng nữa  ở  cái chốn 

nghỉ  chân ấy. Đáng tiếc là ở  đây họ  có lệnh cấm, nhƣng chúng tôi đã linh động đổi xăng, 

dây điện thoại, bóng đèn,  ắc quy để  lấy nƣớc hoa. Ngày 14 tháng Sáu là sinh nhật tôi. 

Mọi ngƣời bảo: “Cậu nợ  chúng tớ  nhé. Hãy tổ  chức chút cay đi, chúng tớ  đã phát ngán

thức ăn của bếp dã chiến rồi”. Phải làm thế  nào đây? Xem nào, chúng mình đang sống 

ngoài biển mà.  Ừ  thì cậu có thể  đi bắt lấy mấy con cá, nhƣng làm gì có lƣới. Thì phải 

nghĩ ra cách  -  làm cho chúng (lũ cá) choáng. Chúng tôi có trong tay loại  ắc quy cho đèn 

pin. Chúng rất có giá bởi mọi ngƣời, kể  cả binh lính và sĩ quan, đều dùng đèn pin, nhƣng 

theo quy định quân đội, chỉ  chúng tôi mới đƣợc quản lý  ắc quy. Tôi quấn rất vài bộ  ắc 

quy quanh một cọc mìn cá nhân và một quả  mìn chống tăng, và cùng với một đồng đội 

chèo ra biển, và rồi bằng một cuộn dây điện dã chiến, chúng tôi có đƣợc con thuyền từ

một gã Đan Mạch. Chúng tôi chất mìn và dây ngòi lên thuyền và bắt đầu “buông câu” khi 

đã ra cách bờ khoảng nửa cây số – gắn dây ngòi vào, châm lửa và thế là xong. Còn nói về

cá, khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi chất lên đầy cả nửa chiếc thuyền! Chúng tôi quay về. 

Một tay lính tuần cầm tiểu liên chặn đầu chúng tôi: “Bƣớc ra!”. Gã Đan Mạch đứng cạnh 

anh ta. Hắn đã bán đứng chúng tôi! “Đi đều bƣớc!”. Tay trung sĩ dẫn chúng tôi về  sở  chỉ

huy, càu nhàu: “Hãy xem này,” anh ta nói  –  “chúng đã kiếm ra một trò mới, làm choáng 

cá! Chúng mày đã xé rách biết bao nhiêu lƣới. Đám ngƣ dân đang than phiền với chỉ huy 

kia kìa! Khi nào về tới sở chỉ huy, tao sẽ cho chúng mày biết tay!” Tôi không cho là họ sẽ

đƣa chúng tôi ra tòa, nhƣng chúng tôi hẳn sẽ  bị  khiển trách hoặc bị  phạt giam. Họ  đã 

chuẩn bị  từ  lâu rồi  –  dán thông cáo khắp nơi và tổ  chức mít tinh chỉnh huấn về  cách thức 

cƣ xử  với cƣ dân địa phƣơng. Tôi nói với tay trung sĩ: “Thôi nào, thỏa thuận về  vụ  đi 

choáng cá nhé, hôm nay là sinh nhật tớ  mà! Cứ  vờ  nhƣ chẳng thấy gì hết: cậu thả  chúng 

tớ  ra, còn tớ  sẽ  đƣa cho cậu một con dao Phần Lan.” Tôi có một con dao Phần Lan với 

cái tay cầm trạm trổ  rất đẹp. Anh ta nói: “Thế  nếu thằng Đan  Mạch đi tố  chúng ta thì 

sao?” “Tại sao lại thế? Hắn đã có phần cá của chúng tớ  rồi.” “Thôi đƣợc”  –  anh ta nói  –

“đƣa tớ  con dao và xéo đi.” Vâng, chúng tôi quay về  với đồng đội, kể  lại câu chuyện, 

đám bạn bảo: “Thôi cứ  để  quỷ  bắt nó đi, cái mớ  cá  ấy, nhƣng  hãy kiếm về  cho chúng tớ

chút rƣợu nhé.” 

Trung đội chúng tôi. Bornkholm, tháng Sáu 1945 

Trong ảnh Yu. Koriakin đứng đầu tiên bên phải.

Ngày hôm sau, sau khi hết phiên trực, tôi  xách lấy cái  ống nhòm và tới một tiệm 

bán thuốc để  thử  đổi lấy ít nƣớc hoa. Tìm thấy một tiệm thuốc  ở  Ronne. Tôi bƣớc vào, 

một tay cầm cái ống nhòm còn tay kia làm một động tác: ngửi ngửi lòng bàn tay rồi xoa 

nó lên tóc, và lặp đi lặp lại nhiều lần để  diễn tả  rằng tôi cần một chai nƣớc hoa bôi tóc. 

Tay bán thuốc nói: "Ja, Ja", - gật gật đầu, ra vẻ là hắn đã hiểu. Tôi đƣa hắn cái ống nhòm 

Zeiss 12x, đồ  chiến lợi phẩm! Một món tuyệt vời! Trông rất oách! Còn hắn đem ra cả

một chai to. Tôi giơ lên xem, đƣa lên  mũi ngửi  –  mùi rất thơm. À, tôi nghĩ, chắc hẳn là 

nƣớc hoa đây rồi. Nhƣng vỏ  chai rất sẫm màu, nhìn không rõ bên trong, cái nút lại đậy 

chặt. Kéo nó ra. Chúng tôi rót đầy các cốc, uống mừng sức khoẻ  của tôi, và rồi mắt mọi 

ngƣời lồi hẳn ra – đó là dầu thơm bôi tóc! Arkashka Kucheriavyi, ngƣời chở chúng tôi đi 

cấp cứu, đã bảo: “Cậu mang thứ quỉ gì về thế, đồ đần? Đây là bridăngtin, làm từ dầu thầu 

dầu. Các cậu còn đến khổ  vì đã uống nó!” Tôi vớ  lấy khẩu tiểu liên và cái chai còn thừa, 

quay lại chỗ  tiệm thuốc. Tôi cố  gắng bắt đền, nhƣng hắn cứ  bảo "Nicht, Nicht". Tôi nổi 

điên lên, tay nắm lấy khẩu súng. Hắn bèn bƣớc khỏi quầy, cao, to hơn hẳn tôi, nắm lấy 

tay tôi và dúi tôi vào tƣờng. Trên tƣờng có dán một tấm áp phích song ngữ  có chân dung 

vị  chỉ  huy phụ  trách hòn đảo chúng tôi, thiếu tƣớng Korotkov. Tôi đọc cái thông báo cho 

cƣ dân đảo Bornholm rằng quân đội ta đã đến đây, giải phóng họ khỏi bọn Đức, và nghĩa 

vụ của chúng tôi là giữ gìn cho mọi ngƣời một cuộc sống yên lành. Phải ngay lập tức báo 

cáo lên sở  chỉ  huy mọi trƣờng hợp vô kỷ  luật của bất cứ  quân nhân Xô viết nào. Gã Đan 

Mạch dúi mặt tôi vào thông cáo đó. Nhƣ một con chó bị  đòn, tôi lê bƣớc về  nhà với cái 

chai trong tay. Quay mình lại  – không có ai xung quanh. Tôi bèn ném mạnh cái chai vào 

bức tƣờng, thế là lại gặp vận xui lần nữa – tôi bị nó bắn tung toé khắp ngƣời. Nhìn chung, 

tôi hay làm trò ngốc  ở  mọi nơi, nhƣng tới giờ  tôi vẫn còn nhớ  tới chúng. Tới tháng Tám 

chúng tôi bắt đầu lên đƣờng đi đánh bọn Nhật, nhƣng tôi không phải tới đó. Đó là lúc 

chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi. Tôi phục vụ  trong quân đội thêm hai năm nữa và rồi 

vào học ở MIFI (Học viện Vật lý và Kỹ thuật Maskva). Không ai còn quan tâm tới cha tôi 

nữa, thậm chí tôi còn đƣợc kết nạp Đảng. Họ  đã chẳng để  tôi, con trai của một kẻ  thù

nhân dân, lọt vào sau phòng tuyến quân địch đấy thôi? 

* Tên gọi các thành phố  đƣợc cố  gắng viết theo tên đúng trƣớc năm 1945. Trong 

trƣờng hợp có đổi tên, tên gọi mới đƣợc chú thích đằng sau tên cũ. 

Ghi âm và hiệu đính: Artem Drabkin

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Hình ảnh lấy từ tƣ liệu của Yu. I. Koriakin và sƣu tập của Hội cựu chiến binh mặt 

trận Karelia.

Yurii Koriakin

Mặt trái của Chiến thắng 

...Ấn tƣợng của mặt trận rất khác lạ  và sâu sắc đối với chúng tôi, những ngƣời tới 

từ  vùng địa cực. Sự  hoang vắng, những vách đá, rừng rậm và đầm lầy  bị  thay thế  bởi 

những đám hoang tàn ngún khói, những hố  bom, những thành phố  với phố  phƣờng bốc 

cháy, các xác chết nằm ngổn ngang, những nơi  ở  chen chúc, những ngôi nhà to lớn đẹp 

đẽ  trông lạ  lẫm đối với chúng tôi, mái ngói của các dinh thự  và nhà thờ  cùng các xa lộ

thẳng tắp mà trƣớc đây chúng tôi chƣa từng đƣợc thấy ... 

...Trên hết tất cả, vừa rời vùng Vologda đói khổ, giá rét và tuyết phủ, chúng tôi

đột ngột lọt giữa cái mùa xuân tới sớm tràn ngập ánh nắng. Trái ngƣợc với khung cảnh ấy, 

những chiếc áo khoác lông cừu, mũ lông và valenki (ủng nỉ  dùng để  chống rét) bì bõm 

trong  vũng  bùn  trông  thật  ngớ  ngẩn,  kỳ  cục,  làm  thƣờng  dân  Đức  sợ  hãi  và  gây  nên 

những trận cƣời cùng những lời chế nhạo từ lính tráng của các đơn vị khác... 

...Một liên lạc viên chạy tới, vẫy tay với tôi, hét lên: "Đồng chí trung sĩ, lên gặp 

đại đội trƣởng!” Tôi vội làm theo. Đại đội trƣởng, tay bận cài khóa chiếc cặp bản đồ, ngắt 

lời báo cáo của tôi: "Có trông thấy ký hiệu này không? Con đƣờng này dẫn từ đây tới một 

cụm nhà, thấy không? Anh hãy bố  trí trạm điện đài của mình  ở  đấy và mau chóng quay 

lại đây. Sở  chỉ  huy” –  anh ta hất đầu về phía một ngôi nhà  –  “sẽ  đóng tại đây. Rõ chƣa?”

Sau vài phút, tôi cùng anh bạn Dimka đã tiến đƣợc tới chỗ cái bảng chỉ đƣờng có ghi chữ

“Aikfir”.  Chúng  tôi  bƣớc  tới  ngôi  nhà  đầu  tiên  trong  làng.  Tôi  xem  xét  xung  quanh. 

Dƣờng nhƣ chẳng còn ma nào trong làng. Căn nhà rất đồ  sộ, có hai tầng và một gác mái. 

Một cái cây cao mọc cạnh đó, bạn có thể  chạm vào nó nếu đứng từ  mái nhà. Nếu ta leo 

lên cao trên cây, gắn cái ăng ten vào đấy và đƣa dây vào căn phòng áp mái thì sẽ có đƣợc 

một trạm truyền phát tin lý tƣởng. Nhƣng chúng tôi cần vào xem bên trong nhà trƣớc. Ba 

năm ngoài mặt trận đã dạy cho chúng tôi phải hết sức cẩn thận. Tiểu liên sẵn sàng nhả

đạn, theo sát từng vết chân của nhau (do đôi ủng nỉ còn đang ƣớt), chúng tôi leo vào hiên 

nhà, buộc một sợi thừng vào quả đấm cửa, rút lui, và khi đã nấp kỹ sau một cái cây, ra tay 

kéo mạnh. Cái cửa mở  tung ra. Đã vững tâm hơn, chúng tôi quan sát bên trong: một cái 

sảnh nhỏ, trống rỗng, và một ô cửa ở  bên trái. Một lần nữa chúng tôi dùng cách trên kéo 

nắm cửa. Và cuối cùng, nện thình thịch đôi  ủng nỉ  ƣớt bết đầy đất  cát dƣới đế, chúng tôi 

xuất hiện ở  ngƣỡng cửa với tất cả  bộ  dạng đẹp đẽ  tới từ  vùng Địa cực của mình, tay lăm 

lăm tiểu liên sẵn sàng nhả đạn. 

Suốt quãng đời còn lại tôi sẽ  không bao giờ  quên tiếng thét the thé, man dại của 

một cô gái nhỏ  bé chừng 15-16 tuổi, từ  sau một cái bàn nằm giữa căn phòng rộng bài trí 

rất đẹp ùa tới chúng tôi với đôi tay giơ cao. Thoáng cái cô gái đã lao tới dùng nắm tay 

đập vào ngực tôi, đấm vào tà áo da cừu cáu bẩn, miệng không ngừng lặp lại: "Ich bin 

krank! Ich bin syphilis!" Nắm  lấy tay và gạt cô bé sang một bên, tôi quay sang Dimka: 

"Cô  ta  bị  sao  vậy?  Cậu  có  hiểu  chuyện  gì  không?”  Anh  chàng  Dimka  nhe  răng  cƣời: 

"Hiểu quá đi chứ”. Và lập tức tôi tự  hiểu ra mọi chuyện. Giữ  chặt cô gái đang điên dại 

khóc lóc, tôi ngẫm nghĩ: "Mình cần quái gì cái con bé đang sụt sùi này trong khi lại phải 

leo lên tầng gác mái? Nếu mình thả nó ra – chỉ có quỉ mới biết nó sẽ làm bậy chuyện gì.” 

Trò chuyện với cô ta – cả tôi lẫn Dimka đều chỉ biết chút ít tiếng Đức. Tát cô ta chăng, để

cô ta đừng quẩn chân chúng tôi – tôi không thể bắt mình làm chuyện đó đƣợc: cô ta chỉ là 

một cô gái ngớ ngẩn. Bối rối, tôi nhìn quanh, thử tìm buồng cầu thang. Chẳng thấy đâu cả. 

Dimka đã phát hiện ra trƣớc tôi: “Cái cửa!” Nó nằm đằng sau lƣng tôi, gần cái cửa mà từ

đó chúng tôi đã bƣớc vào. Tôi dợm bƣớc về  cái cửa đó; cô gái vùng khỏi tay tôi và chạy 

ra trƣớc mặt tôi, tựa lƣng mình vào cánh cửa và lại lần nữa hét lên một cách tuyệt vọng: 

"Nicht, nicht" Và cô ta bật ra: "Ich bin..." Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ. Gặt phắt cô ta  sang 

một bên, tôi hét lớn với Dimka: “Giữ lấy nó!” – và tay lăm lăm tiểu liên sẵn sàng nhả đạn, 

tôi giơ chân đá tung cánh cửa, trong chớp mắt nhận ra nó đang mở vào trong. Trong cảnh 

tranh tối tranh sáng của căn kho xép chỉ  có một cái cửa sổ  nhỏ, tôi nghe  có tiếng rên rỉ, 

than  vãn  và  tiếng  trẻ  em  khóc.  Tôi  nhìn  vào  trong.  Chúa  Mẹ  ôi!  Lố  nhố  những  ngƣời 

đang ngồi trên băng ghế  và trên sàn nhà. Tôi quan sát kỹ  hơn: họ  gồm một ông già, ba 

ngƣời phụ  nữ  và bốn đứa trẻ. Tất cả  bọn họ  đều than vãn rên rỉ, đặt trên đầu gối và cạnh 

ngƣời những chiếc giỏ  đầy chứa vật dụng cá nhân. Có vẻ  nhƣ họ  đang chuẩn bị  để  bỏ  đi 

đâu đó. Vâng, thử tƣởng tƣợng nếu tôi lại nã một loạt đạn vào đây? Ối anh em ơi!... 

Điếng ngƣời, tôi quay về  chỗ  ngƣời đồng đội, anh ta đang giữ  chặt cô gái. Đúng 

lúc  ấy chúng tôi nghe tiếng động của một chiếc xe đang tới gần. Cả  hai chúng tôi đồng 

thanh hét lên: “Bọn Đức, nằm xuống!” Tôi nhào xuống ngay chỗ ngƣỡng cửa, còn Dimka 

dúi cô gái xuống và bịt lấy miệng cô ta, mắt nhìn về  cái cửa sổ  phía có tiếng động vọng 

lại. Gia đình  ở trong cái kho xép lập tức im bặt. Chiếc xe tắt máy, lúc này đã có thể  nghe 

thấy tiếng ngƣời nói nhƣng chúng tôi vẫn chƣa xác định đƣợc là phe nào. Lặng lẽ, chúng 

tôi hạ  thấp mình xuống. Nhƣ trong Ngày Phán xét, thình lình cái chuông của chiếc đồng 

hồ  cũ kỹ  trong phòng kêu vang lên. Tôi dò tay mình xuống phía dƣới thắt lƣng, rút quả

lựu  đạn  ra.  Cô  gái  nhìn  thấy  thế  liền  bắt  đầu  than  khóc  trở  lại.  Miệng  lầm  bầm  chửi, 

Dimka giúi mũi cô ta xuống tấm thảm trải sàn. Rồi cậu  ấy trƣờn về  phía cửa sổ, tay vẫn 

không rời vũ khí. Nƣớc mắt sụt sùi, cô gái bò theo sau. Từ góc cái cửa sổ, ngƣời “kỵ sĩ hộ

vệ” của cô ta thận trọng nhìn ra ngoài và ngập ngừng lẩm bẩm: “Có vẻ nhƣ quân ta.” Tôi 

bảo cậu  ấy: “Có vẻ  nhƣ! Thế  nếu không phải thì sao?” “Không”  –  cậu ta nói, mắt vẫn 

quan sát,  -  “dứt khoát là dân Slavơ”  –  và đứng thẳng dậy. Cô gái cũng làm theo. Giọng 

nói đã gần hơn, chúng tôi nghe thấy khẩu lệnh “Vào vị  trí, tuốt lƣỡi lê”. Phù, chúng tôi 

cảm thấy nhẹ  ngƣời... Dimka xoay mặt cô gái về  phía căn phòng kho, giúi vào phía sau 

đầu gối cô ta và bảo: “Quay lại chỗ  họ  hàng cô đi, đồ  ngốc, chỗ  cô trƣớc  ở  đâu.” Cô ta 

vùng chạy: cô ấy đã phải chịu đựng thế là quá đủ rồi. 

Chúng tôi bƣớc ra ngoài hiên. Nhiều ngƣời lính lập tức quay về  phía chúng tôi. 

Họ  hét lớn: “Các anh là ai? Giơ tay lên!” Từ  thời điểm đó chúng tôi, tay cầm vũ khí giơ 

cao  qua  vai,  ngay  lập  tức  nhƣ  cất  đƣợc  gánh  nặng  khỏi  lồng  ngực,  theo  cách  nói  của 

ngƣời Nga. Dựa theo loại súng trƣờng cắm lƣỡi lê đã lỗi thời từ  lâu mà họ  phô trƣơng ra 

một cách ngu ngốc, cùng với những bộ quân phục kiểu mới, có thể xác định những ngƣời 

lính này rõ ràng thuộc lực lƣợng NKVD (tiền thân của KGB  –  L.T.D.): mũ lƣỡi trai có 

dải băng, áo choàng vạt dài làm bằng vải Canada màu lam xám (chúng rất có giá ngoài 

mặt trận) với những cầu vai sạch bóng, điệu đà cùng với loại ủng mới và không dùng loại 

xà cạp nhƣ đám lính chuyên bò sát đất chúng tôi thƣờng đeo. Một đại úy nhảy xuống phía 

sau chiếc xe tải: “Sao lại  ở  đây! Các anh là ai?” Chúng tôi bèn giải thích. Anh ta lại gần, 

châm điếu “Belomor”, tay chìa bao thuốc cho chúng tôi. Anh ta hạ  giọng, nhƣ thể  mình 

cũng tới từ  mặt trận, nói vẻ  thân mật với chúng tôi: "Ở  đây là thế  này, các bạn  ạ, sẽ  có 

nhiều chuyến xe tải sớm tới đây, chúng tôi sẽ  xua dân làng đi. Chúng tôi sẽ  bắt đầu từ

phía này. Các anh có hai giờ để làm chuyện của mình”. Anh ta khẽ mỉm cƣời. “Nhƣng tôi 

khuyên các anh không nên  ở  đây lâu, các anh không cần biết những gì sẽ  xảy  ra  ở  đây. 

Các anh đã nghe về  Hội nghị  Yalta chứ? Thế  đấy. Ngƣời ta đã chuyển giao nơi này cho 

ngƣời Ba Lan.” Anh ta hất đầu về  phía ngôi nhà, hít vào một hơi: “Nhƣng  ở  đây bọn họ

sống tốt thật, giá nhƣ  ở  vùng Riazan chúng tớ  cũng đƣợc vậy”. Đột nhiên, nhƣ  thể  vừa 

tỉnh lại, anh ta cáu bẳn ngắt lời: “Tốt nhất là hãy xéo khỏi đây và về  báo cáo lại với cấp 

trên các anh”. Chúng tôi đồng loạt gật đầu: “Thƣa vâng!”,  -  và mau chóng, chúng tôi bỏ

đi cho xa... 

Tạp chí NVO số 7-13 tháng Năm năm 1999 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet 

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

NHỮNG BỨC THƢ 

Thƣ ngày 22 tháng Tám, 1942

Shurik thân mến!* 

Em đã nhận đƣợc bƣu thiếp anh gửi và rất vui khi biết anh đang  ở  nhà, bởi em cứ

nghĩ anh đã nhập ngũ. Hóa ra anh đang ở  đấy, cùng những ngƣời sành sỏi, anh hãy khéo 

léo  bám  lấy  Vaiyentorg  (hệ  thống  cửa  hàng  phục  vụ  quân  đội)  nhƣ  thế  nhé.  Đám 

Vaiyentorg cũng đôi khi tới chỗ  bọn em, họ  bán, nhƣ đúng tên gọi của mình, sôcôla bột, 

bánh mì con, đôi lúc có cả sushki, bubliki, baranki (các loại bánh nƣớng của Nga). Em sẽ

kể  kĩ hơn trong lá thƣ tới. Anh hỏi em hiện sống thế  nào, em đã kể  chuyện này trong thƣ 

gửi dì Tônhia, hãy tới lấy và đọc nó nhé, nhƣng em sẽ viết riêng cho anh thêm một số chi 

tiết khác. Em không kể  những chuyện này cho mẹ  và dì  Tônhia; không kể  cho mẹ, bởi 

mẹ sẽ khóc cho xem, và không kể cho dì Tônhia bởi thể nào dì cũng kể lại cho mẹ, và kết 

quả  cũng y hệt. Chuyện là không lâu trƣớc đây em đƣợc gửi đi thực hiện một nhiệm vụ

với một máy điện đài loại nhỏ, tất nhiên là không đi một mình mà cùng một nhóm chiến 

sĩ khác, và trên đƣờng đi chúng em bị  tấn công, khắp túi xà cột của em lỗ  chỗ  vết đạn, 

may sao em lại không bị dính, em đã chuẩn bị nói lời từ giã cuộc đời, dù những gì thƣờng 

xảy ra với lính tập sự, nhƣ Erich Maria Remarque đã viết, không xảy đến với em. Chúng 

nã đạn cối vào bọn em, một mảnh đạn văng vào cuốn sổ  tay và găm lại  ở  đấy. Hiện giờ

ngƣời ta đã thay cho em cái xà cột bằng một chiếc balô. 

Mẹ  em cho rằng do là điện đài viên nên em sẽ  đƣợc ngồi  ở  sở  chỉ  huy, nhƣng 

không phải lúc nào cũng nhƣ thế  vì bây giờ  ngƣời ta luôn đi trinh sát cùng máy điện đài. 

Để làm gì? – Dễ hiểu thôi. Tóm lại, cứ để mẹ hiểu nhƣ thế. Rất có thể  em sắp đi làm một 

nhiệm vụ  nữa. Nhiệm sở  chính của bọn em nằm cách chiến tuyến khoảng 10 đến 15 km, 

đôi khi đang đứng gác, nếu trời yên tĩnh, anh có thể nghe thấy tiếng đại liên, còn tiếng đại 

bác thì có thể nghe rõ suốt cả ngày lẫn đêm. 

Em đã trông thấy những tên Đức bị bắt – chúng có hai đứa (bọn em bắt đƣợc lính 

Đức  chứ  không  phải  lính  Phần  Lan,  trong  khu  vực  bọn  em  phụ  trách),  một  đứa  trông 

không có gì đặc biệt, nhƣng tên kia trông rất giống anh, cao, gầy nhom, có cái mũi nhọn 

hoắt. Lúc này  ở  đây trời đã lạnh, nên ngƣời ta cho hắn một đôi găng lông, hắn xỏ  vào và 

nói: "ồ, gut, gut", và không hề có ý định trả chúng lại, thằng quỉ sứ ấy siết chặt chúng vào 

ngƣời. Nhƣng hắn vẫn quen đeo đôi găng trẻ  con, chắc cái thằng cặn bã  ấy đã  ăn cắp 

đƣợc  ở  đâu đó. Giầy của hắn phải tới cỡ  50, không ít hơn, đóng đế  gỗ, và hắn luôn run 

rẩy trong tấm áo khoác của mình.  Chúng em cho chúng một con cá hun khói, và chúng 

ngấu nghiến tận xƣơng con cá cho tới hết, cái lũ quỉ đói ấy. 

Các bạn trong đội của em rất tuyệt, có một ngƣời trong họ đã từng tham gia chiến 

đấu, tiểu đoàn mà anh ấy phục vụ  bị  tiêu diệt gần hết, chỉ  còn 21 ngƣời sống sót, gồm cả

anh ấy và máy điện đài, và trong suốt nhiều ngày anh ta kéo chiếc điện đài theo mình, có 

gắng mang nó về  an toàn, dù nó không nhẹ  chút nào, đúng ra là thiết kế  cho hai ngƣời 

khiêng. Do bảo vệ  đƣợc khí tài quân sự, anh  ấy đã đƣợc đề  nghị  thƣởng huân chƣơng. 

Thôi, em dừng đây. Hãy viết cho em về sinh hoạt và công tác của anh nhé. 

YuraK 

22.08.42 (22 tháng Tám, 1942)  

Tái bút: Anh viết cho em theo địa chỉ nào vậy?! Khi thì là 1140th p/y. 

Khi lại là 114-O.P.S. (Trung đoàn Thông tin Độc lập) 

Trạm Bƣu điện dã chiến 389 

Đại đội điện đài của Trung đoàn thông tin 114 ** 

Chú thích của Yuri Koriakin 

* Anh họ  của tôi, Aleksandr Aleksandrovich Gusev, thành viên khoa Vật lý tại 

Đại học Quốc gia Maskva năm 1941, sau đó nhập ngũ và trải qua nhiều tháng tại mặt trận 

vùng Voronezh, và sau khi giải ngũ do bị loét tá tràng, quay lại học tiếp đại học. 

** Tôi phục vụ  trong Trung đoàn Thông tin Độc lập số  114, đƣợc biên chế  trực 

tiếp với Sở chỉ huy của Tập đoàn quân 19. Trung đoàn này thực hiện tất cả các hoạt động 

thông  tin  vô  tuyến  của  tập  đoàn  quân.  Những  trạm  thông  tin  di  động  nhƣ  SRC-399 

thƣờng liên lạc trực tiếp với Sở chỉ huy mặt trận hoặc với Maskva, còn những nhóm công 

tác cấp thấp có nhiệm vụ  khá linh hoạt. Nhân viên của trung đoàn, mà tôi là thành viên, 

thƣờng đƣợc chọn đi thực hiện những hoạt động trinh sát và nghi binh khác nhau đằng 

sau phòng tuyến địch để cung cấp thông tin. 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thƣ ngày 10 tháng Mƣời, 1942

Chào Shurik! 

Trƣớc tiên, xin hãy giữ  gìn cẩn thận những tờ  giấy  em viết. Chúng đã trải qua 

chiến trận, em phải tiết kiệm chúng, nhƣng đã xảy tình trạng khan hiếm giấy viết và em 

quyết định đem chúng ra dùng. Đây là một vết mảnh đạn Đức ở dƣới tờ giấy này. * 

Em  đã nhận đƣợc thƣ anh viết ngày 25 tháng Chín. Rất cám ơn anh vì đã thƣờng 

xuyên trả lời các bức thƣ của em. 

Em đang viết cho anh, Shurka, trong một tâm trạng cực kỳ  ghê tởm. Em đã viết 

cho anh là đời em đang ... và em [không thể]  ở  mãi trong tình trạng này ... lâu hơn, ngồi 

mãi một chỗ, tại một nơi mà chỉ  có Chúa mới biết  ở  đâu, trong khi có biết bao sự  kiện 

trọng đại đang diễn ra quanh ta. Vậy mà, chuyện của em chỉ liên quan tới phái đẹp. 

Vấn đề là trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình em luôn tìm cách tránh né các 

cô gái và không có bất cứ mối quan hệ thân mật nào với họ. Nhƣng ngay trƣớc khi nổ  ra 

chiến tranh em bắt đầu quan tâm tới một cô gái rất xinh xắn học cùng trƣờng em. Không, 

em không phải đã phải lòng cô ta, ... (đoạn bị  tác giả  tẩy xóa) Em chỉ  đơn giản rất thích 

cô ta nhƣ là một học sinh giỏi, rất tiến bộ, và, tất nhiên, có bề ngoài không đến nỗi tệ. Cô 

ấy cũng đối xử khá cởi mở đối với em, và tới lƣợt em, giúp đỡ cô ấy viết các bài luận văn, 

giải các bài toán khó. Nói chung, mối quan hệ  của  chúng em rất tốt, rất Xô viết, và, hãy 

tin em, em không có bất cứ ý định thô lỗ nào đối với cô ta.   

Và thế  là, khi em gia nhập quân đội, ban đầu cô  ấy có hồi âm cho em, viết nhiều 

bức thƣ, nhƣng trong thời gian qua, khoảng một tháng hay lâu hơn, ... thƣ tới cho em, và 

từ  khi đó ... [không] một lời một câu nào. Em đã gửi cho cô ta nhiều [lá] thƣ, không thể

có chuyện cô  ấy không nhận đƣợc chúng, nhƣng cô ta không hề  đáp lại. Do chuyện này 

mà em đang trong một tâm trạng đáng tởm. Nghe có vẻ thật nhu nhƣợc khi chúng ta đang 

sống trong thời kỳ  có biết bao sự  kiện vĩ đại xảy ra, thật sai lầm khi tập trung vào những 

chuyện thế  này nhƣ em, nhƣng nó vẫn luôn quấy rầy tâm trí em, bởi cô  ấy đối xử  quá tệ

với em, đồ  đàn bà hƣ hỏng, ồ  vâng –  kệ mẹ  cô ta, em sẽ  vẫn sống đƣợc mà không cần có 

cô  ấy. Tất cả  chuyện này làm em thấy mình cần phải làm một điều gì đó chứ  không chỉ

ngồi mãi một chỗ. Và rồi, em đã quyết định. Quỉ  bắt những thứ  máy móc khốn khiếp  ở

trạm thông tin đi! Em muốn đƣợc phục vụ  trong một đơn vị  trinh sát với một máy điện 

đài cá nhân, nhất là vào lúc này. Em cũng đã có kinh nghiệm, nên em sẽ viết một đề nghị

lên cấp trên, trong đó em sẽ  nói thẳng là dù đã là năm thứ  hai của cuộc chiến tranh, em 

vẫn hoàn toàn không thể  trả  lời câu hỏi: "Anh đã làm đƣợc gì để  góp phần tiêu diệt quân 

xâm lƣợc Đức?”, và yêu cầu đƣợc gửi ra tiền tuyến, nhất là khi đã có tin đồn rằng ngƣời 

ta muốn phái nhiều ngƣời đi làm điện đài viên trong các đội du kích.  Ở  đấy mới là sống 

chứ! Tóm lại, sắp tới chắc chắn em sẽ viết về những tiến triển tốt đẹp. 

Vâng, đã tới lúc dừng bút rồi. Hãy viết cho em, em đang chờ  đấy. Có lẽ  vẫn còn 

thời gian để  chờ  thƣ anh.  Ồ  quên, cám ơn vì đã gửi quà tới, em sẽ  để  dành chúng cho 

những ngày u ám. 

Yurka 03.10.42 (ngày 10 tháng Mƣời, 1942) 

Xin lỗi vì em viết chữ xấu. Cây bút rất tồi, nhƣng em không còn thứ nào khá hơn. 

Chú thích của Yuri Koriakin  

* Tôi không còn nhớ những đoạn bị mảnh đạn xé rách. Tôi chỉ nhớ rằng cái xà cột 

bị rách nát khắp nơi, nhƣng tôi không bị một vết xƣớc nào. Vâng, kể từ khi thƣờng xuyên 

khan hiếm giấy viết ngoài mặt trận, tôi đã phải sử dụng đến những tờ giấy này. 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thƣ ngày 23 tháng Chín, 1944

Anh thân mến! 

Chỉ tới lúc này em mới có thời gian rỗi để viết cho anh một bức thƣ. Em sẽ mô tả

những ấn tƣợng của em trên đƣờng đi. Chắc anh cũng biết chuyện gì đang xảy ra với bọn 

em rồi, bọn em đang hành quân về  phía tây. Bọn em di chuyển dọc một tuyến đƣờng sắt 

và một xa lộ  dẫn về  phía tây. Tất cả  những ai còn sống ở  đây đều tụ  tập lại quanh những 

con đƣờng nhƣ thế  này. Trƣớc chiến tranh ở  những nhà ga địa phƣơng quanh đây vẫn có 

những cộng đồng dân cƣ sinh sống, nhƣng hiện không ai còn  ở  lại. Kể  từ  khi bọn Đức, 

chứ  không phải Phần Lan, đối đầu với chúng em, chúng  em luôn phải chiến đấu với Tập 

đoàn quân 20 của Đức. Hiển nhiên là bọn Đức đang cố  gắng làm xáo trộn mọi thứ  lên 

càng nhiều càng tốt. Với một sự  chính xác hoàn toàn theo kiểu Đức, những tuyến đƣờng 

sắt bị  cho nổ  tung có kiểm soát cứ  từng đoạn 10-15 mét một chỗ. Mọi loại cầu cống, cột 

điện thoại, đƣờng xá, nhà cửa, tất cả đều bị  cho nổ tung. Nhìn chung, cảnh này trông thật 

không vui tí nào. Dây điện lòng thòng trên những cột trụ nghiêng ngả, các nhà ga và làng 

mạc chỉ còn là đống đổ nát, những khu rừng bốc cháy ngùn ngụt. Nhƣng cái đáng sợ nhất, 

luôn thực sự đe dọa mọi ngƣời, đó là mìn. Mìn có ở mọi nơi, rải khắp các đƣờng lộ và lối 

mòn, ở  hai bên đƣờng và dƣới các cây cầu, trong các căn nhà và trên đƣờng phố. Không 

có đủ  lính công binh, do đó không thể  kiểm  tra mọi nơi đƣợc. Có rất nhiều thứ  hấp dẫn 

bỏ  lại trong các ngôi nhà, thật nguy hiểm khi sờ  vào bất cứ  thứ  gì, nhƣng anh cũng biết 

lính tráng là thế nào rồi đấy – “Kệ mẹ nó,” – và cắp lấy món đồ. Chúng em cũng tìm thấy 

vài thứ  hữu dụng cho cánh lính thông  tin chúng em. Hôm qua em tìm thấy nhiều hộp cá 

trích trong một căn nhà, bên ngoài có dán nhãn Na Uy. Một món khá. Nhân đây, cái tờ

giấy mà em đang viết đây cũng là một chiến lợi phẩm, ở đây thứ này có rất nhiều.  

Đêm qua em suýt nữa đã phải trả  giá bằng cuộc đời mình.  Ở  trạm của em có một 

đƣờng điện thoại bị  hỏng, em phải đi để  kiểm tra, dò dẫm một hồi và cuối cùng tìm ra 

chỗ bị đứt. Ngày hôm sau vì một chuyện gì đó em đi ngang qua đây và ngay tại chỗ mình 

đã đứng, chính xác là cách 30 cm, đám công binh  đã tìm thấy một quả  mìn. Lập tức em 

nổi cả  da gà da vịt. Thật không dễ  chịu chút nào. Bọn Đức gài mìn bẫy có ngòi nổ  chậm 

trong nhiều ngày. Hôm nay có một ngƣời quen bảo em: họ tới ngủ trong một căn nhà, anh 

ta thức dậy lúc nửa đêm, châm một điếu thuốc, và khi vừa nằm xuống chuẩn bị  ngủ  lại, 

anh ta nghe thấy tiếng tíc tắc của một chiếc đồng hồ. Anh  ấy lắng tai nghe kỹ  –  đúng là 

nó. Lập tức anh ta toát mồ  hôi lạnh. Anh biết đấy  –  ngủ  trên một quả  bom nổ  chậm thật 

là ... không dễ  chịu. Cùng lúc, tại chỗ  này  hoặc chỗ  khác, có những căn nhà bị  nổ  tung. 

Mới đây có một nhà kho lớn đã phát nổ, nó bị  bọn Đức bỏ  lại từ  lâu và hầu nhƣ chƣa 

đƣợc ai nhòm tới. 

Ở  đây  có rất nhiều tù binh. Hôm qua em đã nói chuyện với một đứa. Hắn giải 

thích  –  “dựa  theo  một  thỏa  ƣớc,  đáng  ra  chúng  tôi  đã  đƣợc  về  nhà,  nhƣng  “bọn  Nga” 

không  để  chúng  tôi  yên.”  Trong  hầu  hết  các  trƣờng  hợp  bọn  chúng  đều  rất  hoảng  sợ, 

chúng sợ  nhà tù của Nga. Một tên cai nói rằng binh lính của chúng thà chết còn hơn đầu 

hàng. Chúng đã thực sự bị tẩy não, cái lũ cặn bã ấy, mặc dù chúng trông có vẻ tử tế. 

Những  cô  gái  chỗ  em  làm  việc  vất  vả  tại  trạm.  Em  phải  tự  làm  hầu  hết  mọi 

chuyện. Anh biết đấy, bọn họ  không có kinh nghiệm, chẳng biết gì cả. Đôi lúc em phát 

khóc lên đƣợc, nhƣng làm thế nào đƣợc bây giờ? Em đành chờ mọi chuyện qua đi vậy. 

Em dừng bút đây. Anh có thể  thấy qua bức thƣ là em đang rất vội. Em vẫn chƣa 

nhận đƣợc thƣ anh và có lẽ  sẽ  không nhận đƣợc chúng trong một thời gian dài nữa bởi 

hiện em đang phải tách khỏi đơn vị. Em đƣợc bố trí sang một hƣớng khác, nhƣng anh vẫn 

viết cho em nhé. Sớm hay muộn gì thì em cũng sẽ nhận đƣợc. Chào nhé. Em trai của anh. 

Yu.K. 

Hãy gửi lời chào của em tới Zôia. Cô ấy có khỏe không?  

23.9.44 (23 tháng Chín, 1944) 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thƣ ngày 31 tháng Chạp, 1944

Em vừa nhận đƣợc lá thƣ của anh và lập tức quyết định phải viết thƣ trả  lời. Mục 

đích để  nói lên sự  thật là em không tin vào giả  thiết của anh về  số  phận của chúng ta, 

không phải nói về  những chặng đƣờng dài còn chờ  chúng ta phía trƣớc, mà về  chuyện 

chúng ta sẽ  không phải thoả  hiệp với bọn Đức. Em không biết có phải do thực tế  là sau 

dịp Năm Mới ngƣời ta chuẩn bị  đổi cho chúng em quân phục mùa hè  –  lấy đi valenki 

(ủng nỉ), áo khoác da cừu, v.v. – có thể là bằng chứng của chuyện đó hay không. Cũng có 

thể  và hợp lý để  cho là ngƣời ta không cần đến Nam Tƣ hay phía bên kia sông Vistula. 

Nhƣng tất cả  đều chỉ  là giả  thiết và suy tính  – một đặc điểm không thể  chấp nhận đƣợc ở

một ngƣời lính. Hầu nhƣ sự  thể  luôn luôn  không xảy ra nhƣ chúng ta nghĩ. Tóm lại: nếu 

chúng ta còn sống  –  chúng ta sẽ  biết đƣợc sự  thật. Và cuộc đời luôn không quá tệ. Thức 

nhắm luôn có đủ, còn điều kiện sinh hoạt thì – không tệ lắm. 

Em đang bắt tay vào học kỹ  thuật vô tuyến. Anh biết đấy, em càng lao sâu vào 

chúng thì càng thấy thích. Cũng không phải là chuyện dở, đáng để  ta bỏ  công sức và khá 

hữu ích. Anh thấy thế  nào? Em cũng đang muốn hỏi anh đây. Nếu anh kiếm đƣợc cuốn 

nào  về  kỹ  thuật  điện  hay  vô  tuyến,  xin  hãy  gửi  cho  em.  Ta  chỉ  có  thể  kiếm  chúng  ở

Maskva, chứ  không phải  ở  đây. Tất nhiên là để  nhắm làm sinh viên khoa vô tuyến của 

Học viện Truyền thông Bauman ở  Maskva, chứ  không phải là Thạc sĩ hay Tiến sĩ Vật lý 

và Toán. Khoảng khoảng vậy đó. Và hy vọng là, không phải loại sách kiến thức chung 

chung, mà là những tính toán thực tế trong từng trƣờng hợp cụ thể khác nhau, v.v. Và khi 

nào có tiền, em sẽ gửi cho anh. Tha thiết đấy. 

Nhƣ ngƣời ta vẫn nói: “Còn nhiều thời gian để  lao động, hãy dành một tiếng để

giải trí”. Do vậy em dùng một tiếng đó để làm nhiều trò dại dột, nhƣ anh vẫn thƣờng nói. 

Em đang ốm. Ốm vì cứ  luôn phải làm một chàng trai tử  tế. Em đang giao du lăng nhăng 

với đám gái hƣ (vâng, vâng, chính xác là thế) và tiêu phí thời gian rảnh của mình  ở  đại 

đội của họ *, chỉ luôn có một ý nghĩ thô bỉ trong đầu, - làm thế nào mình biết đƣợc, rất có 

thể  bọn chúng sẽ  hạ  đƣợc mình ở  đâu đó, thật đáng tiếc nếu chết mà không có đƣợc kinh 

nghiệm những chuyện kia. Em biết nhƣ thế  là tầm thƣờng, nhƣng kệ  mẹ  nó. Xin đừng 

nghĩ là em đang lung lạc, không đâu. Em cảm thấy mình rất quyết tâm. Trong vụ này bọn 

em, bốn trung sĩ, huấn luyện viên của trƣờng vô tuyến **, hành xử  nhƣ Paul Baumer và 

các bạn mình. Còn nhớ chuyện họ tới cái quán rƣợu rẻ tiền và chuốc xỉn Tjaden không? 

Thêm chút nữa về các bạn của em. Một trong bốn ngƣời vẫn chƣa học hết lớp 5 ở

Học viện Đƣờng sắt Rostov. Một tay có học, khá tiến bộ  và thông minh. Ngƣời thứ  hai –

trƣớc kia làm nhân viên trực điện đài dân sự, tới từ  Hải đoàn Vận tải Viễn Đông, ngƣời 

thứ  ba cũng vậy  –  một thầy giáo  vừa tốt nghiệp học viện sƣ phạm. Thuộc dân tộc Tatar, 

nhƣng là một ngƣời đọc rất nhiều và có học thức, và thứ tƣ là em. Em thì anh biết rồi. 

Công việc  ở  trƣờng này rất thú vị. Em thích nó. Điều quan trọng nhất là nó hữu 

ích cho bản thân. Anh chuẩn bị  đứng lớp, vì thế  phải tự  soạn bài cho kỹ, nếu không thì 

thật  ê  mặt.  Trong  số  học  viên  cũng  có  những  ngƣời  có  trình  độ  hơn  em,  cho  nên  em 

không thể  nói vòng vo khi có vấn đề  mình không hiểu rõ. Thôi em dừng đây. Chờ  tới lá 

thƣ sau nhé. Viết cho em về  chuyện chỗ  các anh đón Giao Thừa thế  nào nhé. Em cũng 

gửi kèm đây một bức  ảnh. Bức  ảnh đƣợc chụp tại đây. Nhân tiện xin kể, em đang viết 

trên loại giấy Na Uy, và gửi bức thƣ trong một phong bì Kirki. Thôi – em xin bắt tay anh. 

Em của anh. 

Yu.K. 31.12.44 (31 tháng Chạp, 1944) 

Chú thích của Yuri Koriakin 

* Vâng, tất nhiên, đấy chỉ  là trò tỏ  vẻ. Một trò làm bộ  anh hùng kiểu trẻ  con. Do 

đó  chúng  tôi  uống  vào  chút  rƣợu  rồi  ôm  chặt  lấy  họ.  Họ  rất  sợ  hãi  và  hét  toáng  lên. 

Chúng tôi suýt nữa đã cƣỡng hiếp họ  và nếu vậy  chắc cũng chẳng bị  sao, nhƣng rồi cô ta 

kêu thét, cố gắng vùng vẫy, khóc lóc nên tôi đã không thể làm gì tiếp

** Vào tháng Giêng năm 45 tại Vologda, nơi trung đoàn chúng tôi đƣợc chuyển 

tới, một trƣờng quân sự  dành cho các điện đài viên đƣợc tổ  chức. Lúc  ấy trình độ  lớp 9 

của tôi đƣợc đánh giá không tệ, bởi đôi khi chúng tôi tuyển cả những ngƣời mù chữ, hoặc 

những ngƣời mới lần đầu trông thấy cái đƣờng sắt. Chuyện này không phải là cƣờng điệu 

–  một ngƣời chỉ  huy dẫn một nhóm những tân học viên nhƣ thế  tới  bảo chúng tôi là anh 

ta chật vật lắm mới dồn đƣợc họ vào toa xe lửa. Có lần chúng tôi đƣợc tặng mấy quả quýt, 

nhƣng số  quả  lại ít hơn số  ngƣời trong tiểu đội, do đó chúng tôi tổ  chức một cuộc thi: 

chúng tôi bị  bịt mắt, tay cầm một chiếc kéo, và mỗi quả  quýt đƣợc treo trên một sợi dây 

để cách mặt đất một mét. Anh phải dò dẫm cắt đƣợc sợi dây. Thế là một anh chàng vùng 

Buriatia cắt đƣợc một quả  và hỏi: “Không biết ăn cái quả  này nhƣ thế  nào nhỉ?”. Và các 

đồng đội khuyên anh ta: “Trƣớc tiên hãy thử  ăn lớp vỏ,  rồi sau đó, nếu cái vị  nếm thấy 

đƣợc, thì cậu ăn đến phần bên trong.” Anh ta cắn nó nhƣ cắn một quả  táo và bảo: “Ăn 

cũng ngon đấy chứ,” Và thế  là anh ta ăn hết quả  quýt. Vâng, tôi đã là một điện đài viên 

có nhiều kinh nghiệm khá ấn tƣợng, do đó tôi đƣợc cử  tới trƣờng này để  làm hƣớng dẫn 

viên. Đấy là nơi tôi đã giảng dạy và điều hành các khóa học. Mỗi lớp kéo dài không lâu –

từ 2 tới 3 tuần. 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thƣ ngày 16 tháng Giêng, 1945

Chào Sashka!  (Trong tiếng Nga, Sashka là tên thân mật của Aleksandr,  ở  đây là 

anh họ Aleksandr Aleksandrovich Gusev của tác giả – L.T.D.)

Ngay khi vừa nhận đƣợc thƣ anh, em lập tức ngồi xuống viết thƣ trả  lời. Trong lá 

thƣ trƣớc mà em vừa nhận đƣợc, em đã hiểu rõ anh muốn nói gì, nhƣng ... em vẫn giữ

nguyên ý kiến của mình. Anh đã nghĩ sai chỗ  rồi. Ngƣời ta đã bảo với bọn em là chúng 

em sẽ  chuyển tới Kandalaksha, nhƣng hiện theo em thấy thì chúng em không phải đang 

đi tới đó, mà theo hƣớng ngƣợc lại. Một số  trong bọn em  đã lên đƣờng, còn em sẽ  đi 

trong ngày mai hay ngày kia. Em sẽ  chờ  thƣ đến trên đƣờng hành quân. Lúc đó anh sẽ

thấy ai trong chúng ta là đúng. Nếu chúng ta có dịp gặp riêng nhau, em sẽ  kể  cho anh 

nghe rất nhiều chuyện hay, nhƣng đó là tùy anh đấy. Chúng em  di chuyển một cách có 

văn hóa trên các toa xe lửa. Chúng em lắp đặt các máy điện đài. Bật chế  độ  nhận tin lên, 

cắm loa và ampli, và rồi ngồi nghe các bản hòa nhạc. Kể  từ  khi bọn em đƣợc giữ  một số

lƣợng lớn ắc quy, bọn em luôn có điện để thắp sáng. 

Về  các lời khiển trách của anh, chúng đối với em luôn rất quan trọng. Chƣa có ai 

nói với em về  ba lời khuyên đó. Em sẽ  cố  gắng ghi nhớ  chúng và luôn cố  tuân theo. Và 

chúng đúng đắn kỳ  lạ. Chỉ  riêng về  điều thứ  ba thì em có chút bất đồng. Bọn em lần nào 

cũng vi  phạm nó, mặc dù trong phần lớn các trƣờng hợp bọn em không đạt đƣợc mong 

muốn. Bởi vì trong mọi chuyện đều gồm những chuỗi hành động thiết yếu mà anh không 

thể  hoàn tất mà thiếu đi một giai đoạn nào, ít nhất em luôn làm chuyện đó, thật khó mà 

thiếu nó đƣợc, hầu nhƣ là không thể. Và khi anh làm điều  ấy, tất cả  những chuyện đạo 

đức đều tuột đi mất và anh chỉ  còn biết có một mục đích, và tất cả  phƣơng pháp đều tốt 

nếu giúp đạt đƣợc mục đích. Và em cũng không quá câu nệ bất cứ phƣơng kế nào.* 

Bọn em tổ  chức Lễ  Giao thừa chung với các bạn cùng đại đội. Chúng em không 

đến nỗi gàn dở, và đã làm quen đƣợc với các cô gái làm việc trong tiệm cà phê, và hiển 

nhiên là bọn em tổ  chức  Lễ  Giao thừa theo một cách khá đứng đắn. Cả  nhóm  có tám 

ngƣời, và trong một đêm bọn em đã uống hết 7 lít vodka và khoảng 40 lít bia. Đó là một 

lƣợng khá đáng kể, nhƣng chúng em vẫn không việc gì. Hoàn toàn trái với suy nghĩ khi 

mới bắt đầu uống (anh thấy đấy, em không có dự  định uống rƣợu vang) là em sẽ  dễ  dàng 

gục khi uống rƣợu nặng. Xét cho cùng thì em cũng chƣa tập thế  bao giờ. Nhƣng kết quả

hoàn toàn ngƣợc lại! Em uống nhƣ một bợm rƣợu mà không say chút nào, ít nhất là uống 

cỡ  nào em cũng không hề  mất tự  chủ. Cứ  nhƣ đổ  vào cái thùng rỗng vậy. Có lẽ  là do cơ 

thể  em khỏe mạnh. Và anh cũng phải biết thêm là chỉ  có mấy thằng em uống thôi, bốn 

đứa đàn ông. Đám con gái gần nhƣ không uống chút gì, cho nên bọn em nốc là chính. 

Nhƣng nói nhƣ thế là đủ rồi. 

Hôm nay em quyết định không đi đâu cả. Em ngồi đây nghe máy điện đài, viết và 

suy nghĩ. Điều gì đang chờ em ở phía trƣớc, rốt cuộc em gần nhƣ chƣa thực sự đƣợc thấy 

chiến tranh. Chắc chắn là nó không nhƣ  ở  đây  –  nó ác liệt hơn nhiều và có trời mà biết 

đƣợc... Nhƣng em cho là số phận đã bảo vệ em trong suốt ba năm qua, và nó sẽ không bỏ

rơi em, còn nếu không nhƣ vậy  –  em sẽ  không là ngƣời xung phong đầu tiên mà cũng 

không là ngƣời tụt lại sau cùng, nhƣng bây giờ  em dừng bút đây. Em sẽ  viết tiếp trên 

đƣờng đi. Gắng chờ nhé.

Cách  đây  không  lâu  em  đã  chụp  một  tấm  ảnh,  bây  giờ  em  sẽ  gửi  nó  cho  anh. 

Cũng chờ anh làm điều tƣơng tự. Dù anh có thích hay không, vẫn cứ nó gửi cho em. Hãy 

viết cho em. Em đang chờ  đây, mặc dù đang hành quân, và trong một thời gian em sẽ

không nhận đƣợc thƣ, chỉ tới khi em quay về đây. Viết đi! 

Yu.K. 16.1.45 (16 tháng Giêng, 1945) 

Chú thích của Yuri Koriakin 

*  Tôi  không  nhớ  đó  là  về  chuyện  gì.  Có  lẽ  có  liên  quan  tới  cuốn  sách  của 

Remarque "Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh”. Cả  anh  ấy lẫn tôi đều đặc biệt thích cuốn 

tiểu thuyết này, và tôi chịu ảnh hƣởng mạnh từ nó. Thậm chí tôi còn đem cuốn sách ấy ra 

mặt trận, và luôn mang nó theo bên mình. 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thƣ ngày 2 tháng Hai, 1945

Chào Sashka! 

Em vẫn chƣa nhận đƣợc thƣ nào của anh cả, điều này có thể  giải thích bằng việc 

bƣu trạm dã chiến chỗ em vẫn chƣa chuyển tới bố trí tại điểm đóng quân mới. Tình trạng 

sức khỏe của em hiện nói chung là tốt, dƣờng nhƣ em đã hồi phục sức khỏe, tạ  ơn Trời. 

Nhân tiện kể  thêm, rất nhiều ngƣời chỗ  em cũng đã bị  bệnh. Có lẽ  sự  thay đổi thời tiết là 

nguyên nhân chính. Hầu hết mọi ngƣời đều bị  cảm lạnh. Hiện thời ngoài trời  ấm áp đến 

nỗi khó mà tƣởng tƣợng đƣợc lúc này mới đang còn là đầu tháng Hai. Mƣa dầm dề  nhƣ 

thác đổ, trong khi bọn em vẫn còn phải đi valenki (ủng nỉ), anh không tƣởng tƣợng ra bọn 

em  nguyền  rủa  chuyện  này  thế  nào  đâu.  Không  lâu  trƣớc  đây  bọn  em  còn  tắm  trong 

banya (nhà tắm kiểu Nga), hay một thứ nào đó từa tựa banya. Trong làng ở đây, ngƣời Ba 

Lan không tắm trong banya, họ  chỉ  lau rửa thân trên vào mùa đông và tắm trên sông vào 

mùa hè (văn hóa Do Thái chăng!!) Còn nhà tắm của chúng ta  –  hãy tƣởng tƣợng ra một 

căn nhà gỗ trong đó có một cái hố  lớn nơi ta để  cái lò sắt và cứ  thế  mà vào tắm rửa. Anh 

sẽ  run rẩy nhƣ một con chó, nhƣng đƣợc tắm sạch. Về  chuyện ăn uống thì  ở  đây không 

tồi, chúng em đƣợc cho ăn đầy đủ, ngoài ra chúng em cũng khá tháo vát. Dạo gần đây 

ngƣời hùng Slavơ của chúng ta  (tức Yurii Koriakin  –  LTD)  còn đƣợc tặng cả  một thùng 

thịt hộp của Mỹ. Một món tuyệt. Em mong sớm nhận đƣợc thƣ anh. 

Chào chân thành, Yu.K. 2.2.45 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thƣ ngày 7 tháng Hai, 1945

Chào anh thân mến! 

Hiện giờ  chúng em đã đi đƣợc khá xa. Đâu đó ở  tận Danzig. Mọi thứ  nơi đây đều 

có vẻ  xa lạ, những ngôi nhà với mái cao kiểu Gothic, những cái cây, cái thì thấp và um 

tùm, cái lại cao và cành lá cứ  vƣơn thẳng lên trời, còn đƣờng phố  lát bằng những viên đá 

nhỏ thì thẳng tắp và nhẵn bóng, có vỉa hè lát gạch ở hai bên, và con ngƣời thì – ngƣời Ba 

Lan – những ngƣời không bao giờ thèm nói chuyện với bọn em, thậm chí ngay đến không 

khí cũng là thứ  không khí  ẩm thấp mù sƣơng vùng Baltic. Có biết bao những thành phố

bị phá hủy ở nơi đây. Bọn em đi xe dọc theo những thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn 

lại những đống đổ  nát, hay, trong trƣờng hợp khá nhất, thì là những ngôi nhà cong queo 

và bị  hƣ hại, đầy vết đạn bắn, phòng  ốc lộn xộn, ngổn ngang sách vở, cùng những chậu 

hoa, bình thủy tinh, quần áo, đồ đạc – tất cả đều bị xáo trộn. Tại một trong những thị trấn 

nhƣ thế  bọn em đã có dịp uống  đầy một bụng bia  ở  một xƣởng sản xuất bia. Không còn 

một cƣ dân nào, hoặc là còn rất ít. Đôi khi bọn em tìm đƣợc một thị  trấn còn hoàn toàn 

nguyên vẹn, một trong những nơi đó là chỗ mà hiện bọn em đang đóng quân. Nhiều ngôi 

nhà ở đây trƣớc kia là nơi ở của bọn sĩ quan Gestapo. Giá mà anh đƣợc trông thấy những 

căn phòng sang trọng đó, sạch sẽ, sáng sủa và đầy đủ  tiện nghi. Tất cả  những thứ  đồ  đạc 

đó còn lại nguyên trong phòng, thậm chí còn có cả  thức ăn, rất nhiều sách thuộc đủ  loại. 

Rất nhiều cuốn Mein Kampf của  Hitler loại khổ  nhỏ, thật thú vị  nếu đọc đƣợc chúng, 

nhƣng đáng tiếc tiếng Đức của em không tốt lắm. Nhiều loại tạp chí sặc sỡ  khác nhau, in 

ảnh Hitler chụp ở mọi góc độ, tƣ thế và địa điểm, rất nhiều tác phẩm văn học thuộc đủ thể

loại, mà em cho là mình sẽ đọc một cách thích thú. 

Chúng em ăn uống rất tốt. Ngoài sân của những căn nhà ở  đây có trồng rất nhiều 

loại rau củ, hôm qua một ngƣời lính đã đem tới đây một con bò cái, và hơn nữa, chúng 

em  vẫn  có  quyền,  hay  gần  gần  nhƣ  thế,  tự  tiếp  phẩm  từ  các  nguồn  lƣơng  thực  tại  địa 

phƣơng, là điều mà chúng em vẫn luôn làm. Em hiện vẫn chƣa nhận đƣợc thƣ của anh 

hay của mẹ. Những chuyện mà em đã hỏi anh hiện thế nào rồi, và cả cuộc sống ở chỗ anh 

nữa? Có tin tức gì mới ở Maskva không? 

Yu.K. 7.2.45 (7 tháng Hai, 1945) 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân 

Thƣ ngày 3 tháng Ba, 1945

Chào anh thân mến, 

Thật  tuyệt  khi  đƣợc  nhận  một  bức  thƣ  thú  vị  từ  Matskva.  Anh  đã  lao  vào  một 

nhiệm vụ  khá khó khăn, liên quan tới tá tràng, hãy đừng thất bại nhé. Em đang có nhiều 

tin mới khủng khiếp, không thể  kể  lại hết tất cả  bởi không có đủ  thời gian, em sẽ  kể  khi 

nào về đến nhà. 

Cứ  mỗi  ngày  trôi  qua  chúng  em  lại  càng  tiến  sâu  vào  lãnh  thổ  nƣớc  Đức.  Em 

không biết chính xác hiện mình đang ở  đâu, nhƣng có lẽ  tại một nơi nào đó cạnh bờ  biển 

Baltic, thành phố Stettin (Szczecin) đang trên đƣờng tiến quân của chúng em và vài thành 

phố khác cũng nằm quanh đây. 

Hầu nhƣ không còn ai  ở  lại trong các thị  trấn và thành phố  quanh đây, nhƣng họ

để  lại rất nhiều tài sản. Hàng đàn gà và ngỗng, thỏ  và dê, lợn và cừu, bò và ngựa lang 

thang khắp nơi mà không có ngƣời chăn dắt. Lũ bò kêu rống, chúng cần đƣợc vắt sữa, 

nhƣng ai mà thèm quan tâm? Chúng em đã ăn biết bao nhiêu thứ – tất cả các loại, bắt đầu 

là món khoai tây và kết thúc là sôcôla, cà phê và lợn sữa. Và xung quanh vẫn còn biết 

bao nhiêu. Không thể  đếm đƣợc. Vâng. Ngƣời Đức sống thật sung túc. Những ai còn lại 

cũng lấy một ít, các cô gái Đức, các bà già và cả đàn ông. Chúng em cũng không cần ý tứ

lắm. Không thể viết lại tất cả. Có lẽ anh cũng đã nghe chuyện này rồi.* 

Nhƣng tất cả  đều là rác rƣởi. Cái chính vẫn là công việc. Ôi, biết bao nhiêu công 

việc phải làm. Đã bốn ngày nay em không đƣợc ngủ, và cũng không dám ngủ. Vất vả lắm, 

Sashka  ạ, không có thời  gian để  kiếm chiến lợi phẩm nữa. Tất cả  chuyện có thể  làm là 

bảo quản chúng cho tới khi anh chuyển tới một địa điểm mới, triển khai khí tài và nhận 

lệnh thiết lập một tuyến liên lạc. Biết bao nhiêu lần em bị ngã xuống từ mái nhà trong khi 

đang đi mắc ăng ten,** sƣờn và khuỷu tay trầy trụa bầm tím, suốt một tuần rƣỡi nay chƣa 

cạo râu, không tắm rửa – thật ra, em đã mệt mỏi cùng cực rồi. Hãy tin em, dù thật khó tin, 

-  không có cả  thời gian để  chạy theo tiếng gọi của tự  nhiên, bởi vì anh không thể  bỏ mặc 

trạm vô tuyến trong lúc đang nhận phát tin. Em đã cố  gắng, em chƣa từng sống kiểu này 

bao giờ – dù tinh thần em không đến nỗi tệ, luôn luôn mẫn cán, và hăng say làm việc. 

Cách đây không lâu chúng em có đi ngang qua một nhà máy rƣợu, do đó đoàn xe 

dừng lại,  ở  đấy cũng có lính gác, nhƣng bọn em đã “thay gác” họ  (sao thế  nhỉ, họ  có vẻ

miễn cƣỡng lắm) và bắt tay vào hƣởng thụ  cuộc đời. May là em không uống nhiều lắm, 

em vẫn nhớ  là mình còn phải làm việc, nếu không em sẽ  bị  xử  lý. Cứ  thử  thao tác trên 

điện đài trong khi trăm con quỉ đang quay cuồng trƣớc mắt mà xem. Vâng, anh thân mến, 

em dừng đây. Không có thời gian. Cũng không biết lúc nào em sẽ viết đƣợc cho anh nữa. 

Hãy viết cho em. Em đang chờ đây. Em của anh. 

Yu.K. 3.3.45 (mùng 3 tháng Ba, 1945) 

Chú thích của Yuri Koriakin 

* Trên chuyến tàu đi tới Ba Lan, chúng tôi đƣợc chỉ dẫn cách thức cƣ xử với cộng 

đồng dân cƣ địa phƣơng. Họ nói rằng ngƣời Ba Lan là một dân tộc Slavơ anh em đã cùng 

chiến đấu chống lại bọn phát xít. Yêu cầu chúng tôi hãy giữ  gìn thanh danh  của Hồng 

quân. Đe dọa sẽ  trừng phạt những trƣờng hợp vi phạm kỷ  luật. Dù vậy, vẫn có chuyện 

xảy đến trƣớc mắt tôi. Tôi đang ngồi trên xe tải, loay hoay với chiếc điện đài. Đột nhiên, 

có tiếng gõ trên cửa xe. Tôi mở, một ông già Ba Lan xuất hiện ngay ngƣỡng cửa, ông ta 

liếng thoắng điều gì đấy bằng tiếng Ba Lan, nắm lấy ống tay áo của tôi và kéo tôi đi. Tôi 

chỉ kịp hiểu là đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái ông ta. Chúng tôi đi vào căn nhà của 

ông ta nằm gần đó và tôi trông thấy một tay lính xe tăng đang cố gắng cƣỡng hiếp cô gái, 

có lẽ  đó là con gái của ngƣời Ba Lan này. Tôi kéo hắn ra, nhƣng hắn đang xỉn quắc cần 

câu. Một viên đại úy, ngực đeo đầy huân huy chƣơng. Tạ  ơn Trời, hắn ta đã tỉnh lại. Hắn 

bảo: "Trung sĩ, hãy cùng tới chỗ  cậu uống chút gì đi.”  Chúng tôi đi. Hắn rút ra một cái 

chai. Chúng tôi rót cho nhau. Tôi uống vào và lập tức mắt tôi lồi ra – đó là dầu xăng! Tôi 

bảo  hắn:  “Cậu  rót  cái  gì  vậy?!”  Hắn  nói:  “Uống  đi,  rƣợu  đấy.  Cậu  xem,  chúng  tớ  đi 

ngang một nhà máy làm rƣợu, nhƣng chẳng có gì trong tay để trút rƣợu vào cả. Chúng tớ

có một cái thùng xăng rỗng, chỉ còn chút dầu ở đáy, thế là chúng tớ đổ rƣợu vào đấy.” 

Trƣớc  khi  vƣợt  biên  giới  nƣớc  Đức  tại  vùng  Bromberg  (Bydgoszcz),  chính  trị

viên đại đội tổ  chức một buổi mít tinh và thông báo những điều sau đây: "Chúng ta đang 

tiến vào lãnh thổ  nƣớc Đức. Chúng ta đều biết là ngƣời Đức đã mang vô vàn bầy quỉ  dữ

tới đất nƣớc chúng ta, đó là lý do tại sao chúng ta đang tiến vào lãnh thổ  của chúng, để

trừng  phạt  ngƣời  Đức.  Tôi  yêu  cầu  các  anh  không  đƣợc  quan  hệ  với  cộng  đồng  địa 

phƣơng, nhằm sao cho các anh không phải gặp bất cứ  rắc rối nào, và không đƣợc đi một 

mình. Vâng, còn đề cập tới vấn đề đàn bà, các anh có thể tự do cƣ xử đối với phụ nữ Đức, 

nhƣng sao cho đừng ra vẻ  là có tổ  chức. Một hay hai ngƣời tới, làm những gì mình cần 

(chính xác đó là những gì anh ta nói: “những gì mình cần”), rồi quay trở  về, thế  thôi. Bất 

cứ hành động xâm phạm không cần thiết nào tới đàn ông và phụ nữ  Đức cũng đều không 

đƣợc chấp nhận và sẽ bị trừng phạt.” Lời phát biểu này làm chúng tôi cảm thấy ngay anh 

ta cũng không biết chính xác tiêu chuẩn đáng giá mức độ  cƣ xử  thế  nào là phù hợp. Tất 

nhiên, tất cả  chúng tôi đều chịu  ảnh hƣởng mạnh của sự  tuyên truyền, vào thời kỳ  đó đã 

không phân biệt giữa ngƣời Đức và bọn Hitler.  Đó là lý do tôi đƣợc biết cả  đống những 

trƣờng hợp phụ  nữ  Đức bị  cƣỡng hiếp nhƣng không bị  giết chết. Cách đối xử  với phụ  nữ

Đức (hầu nhƣ chúng tôi không gặp đàn ông) là hoàn toàn buông thả, thậm chí còn nhƣ để

trút hận. Ở  trung đoàn chúng tôi, viên trung  sĩ trong đội quân nhu đã lập nên hẳn một cái 

hậu cung. Hắn nắm trong tay một lƣợng thực phẩm dồi dào. Do đó có nhiều phụ  nữ  Đức 

đến sống với hắn, hắn sử  dụng họ  và chia sẻ  họ  với những ngƣời khác. Có đôi lần, khi 

bƣớc vào một căn nhà, tôi trông thấy những ngƣời lớn tuổi bị giết. Một lần, khi vừa bƣớc 

vào nhà, chúng tôi trông thấy có ai đó đang nằm trên giƣờng. Tôi kéo chiếc chăn lên và 

trông thấy một ngƣời phụ  nữ  với cái lƣỡi lê cắm vào ngực. Chuyện gì  đã xảy ra? Tôi 

cũng không biết nữa. Chúng tôi bỏ  đi mà  không thắc mắc gì cả. Nhƣng mọi chuyện đã 

hoàn toàn thay đổi sau ngày Chiến thắng, vào khoảng 12-14 tháng Năm, một bài báo của 

Viện sĩ Aleksandrov mang tựa đề  “Ilya Erenburg quá đơn giản hóa vấn đề” đƣợc đăng 

trên tờ  Sự  Thật. Trong bài viết tác giả  tuyên bố  rằng ngƣời Đức và bọn Hitler là khác 

nhau. Đó là lúc mọi việc đã đổi khác, khi công cuộc tái thiết thời bình bắt đầu. Thế  rồi 

ngƣời ta bắt đầu siết chặt kỷ  luật, trừng phạt mọi hành vi phạm tội. Đã có lần tại hòn đảo 

Bornholm, một trung sĩ lấy cái đồng hồ  của một ngƣời Đan Mạch  –  đơn giản là lấy đi 

bằng vũ lực - và lột miếng da bọc bộ thiết bị thể thao của một trƣờng học để sửa đôi giày 

của mình. Vì chuyện đó anh ta bị  kết tội xử  bắn, nhƣng Rokossovskiy (chỉ  huy trƣởng 

Phƣơng diện quân lúc đấy) đã không phê chuẩn bản án. 

Trong một vụ  khác một tay lính hay hạ  sĩ gì đó đã hôn hay ôm lấy một phụ  nữ

Đan Mạch, một ngƣời Đan trông thấy và gọi lên sở  chỉ  huy, tay lính kia lập tức bị  bắt, 

ngƣời ta chuẩn bị  đƣa anh ta ra tòa án binh vì tội hiếp dâm. Nhƣng khi cô gái kia hiểu ra 

ngƣời ta muốn làm gì tay lính, cô ta chủ  động chạy tới ngƣời chỉ  huy và kể  rằng anh ta 

không hề  có ý định cƣỡng hiếp mình. Dù vậy, vào năm 95 khi Chính phủ Đan Mạch mời 

chúng tôi tới Bornholm dự lễ kỉ niệm 50 năm Chiến thắng, họ nói rằng sau khi quân ta rút 

đi năm 46, khoảng 100 trẻ  em sinh ngoài giá thú đƣợc khai báo. Có lẽ  chuyện này liên 

quan tới đám sĩ quan của chúng tôi, những ngƣời mà, không nhƣ cánh binh lính, sống tự

do trong các căn hộ cá nhân. 

** Tôi có dƣới tay rất nhiều máy điện  đài do nhiệm vụ  đòi hỏi. Ví dụ  nhƣ chúng 

tôi có một máy radio nhỏ hiệu “Sever” để liên lạc với du kích. Chúng tôi cũng có máy V-100 và RP-6, những loại cũ nhất và ít phổ  biến nhất. Về  sau chúng tôi có thêm loại nội 

địa RSB (Radio gọi oanh kích khẩn cấp). Theo quy định quân đội, chúng tôi có trong tay 

những  ống nhôm để  nối dài cần ăng ten, nhƣng khi dừng lại đóng quân  ở  địa điểm mới, 

chúng tôi chỉ cần lắp ăng ten lên cao hơn, thế thôi.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC LÍNH PHÁO BINH

Ivan A. Yakushin

Thiếu uý, chỉ huy trung đội pháo chống tăng thuộc Trung đoàn Cận vệ 24, 

Sƣ đoàn Kỵ binh Cận vệ số 5.

Thiếu uý Ivan A. Yakushin, 1945 

(hình ảnh lấy từ tƣ liệu riêng của Ông Yakushin)

Phần 1

Trung đoàn Kỵ  binh Cận vệ  số  24 chúng tôi tiến sâu vào hậu phƣơng địch vào 

ngày 20 tháng Giêng năm 1945, và tới 21 tháng Giêng chúng tôi đã vƣợt qua biên giới 

Đông Phổ  tại vùng    Brauchwalde. Chúng tôi hành quân suốt tám cây số  mà không phải 

nổ một phát súng nào, nhƣng rồi bị  chặn lại tại một cứ  điểm kiên cố  của địch. Quân địch 

đang cố  thủ  trong một ngôi làng lớn. Một trận đấu súng diễn ra. Lực lƣợng bảo vệ  tiền 

tiêu của Trung đoàn (gồm một chi đội kỵ  binh cùng một số  đơn vị  hỗ  trợ) cũng tham gia 

vào trận đánh. Đối phƣơng, quân số  lên tới 2 tiểu đoàn bộ  binh có thiết giáp yểm trợ, tổ

chức kháng cự  dữ  dội. Ngôi làng này nằm trên đỉnh một ngọn đồi. Tôi dừng khẩu pháo 

chống tăng ZIS-2 của mình lại trên đƣờng lộ dƣới sự che chở của bóng đêm. Tôi gửi một 

ngƣời liên lạc tới gặp chi đội trƣởng để nhận chỉ thị hƣớng dẫn chỗ bố trí. Con đƣờng mà 

chúng tôi dừng lại dẫn tới một thung lũng dốc đứng và chạy thẳng lên ngọn đồi, nơi có 

những ngôi  nhà  ở  rìa làng. Đội bảo vệ  tiền tiêu của Trung đoàn đang cố  hết sức để  đột 

kích vào ngôi làng. Rất nhiều ngôi nhà đang bốc cháy, chúng chiếu sáng những căn nhà 

còn lại trong làng. Tôi trông thấy ba chiếc xe tăng Đức đang tiến vào ngôi làng, bóng của 

chúng đƣợc các đám cháy soi rõ. Chúng tôi lại đang ở trong bóng tối. Theo ngƣời chi đội 

trƣởng cho biết, bọn họ đã chiếm đƣợc hơn nửa ngôi làng, do đó chúng tôi không phải lo 

sẽ  bị  phục kích. Tôi liền quyết định –  tiêu diệt đám xe tăng, chúng đang đƣợc soi rọi  bởi 

những đám cháy, vị  trí đặt pháo nằm ngay trên con đƣờng, do tôi không tìm đƣợc một vị

trí bắn khác tốt hơn. Các pháo thủ  trong tổ  pháo của tôi còn thiếu kinh nghiệm và chƣa 

từng đối đầu với xe tăng Đức, mặc dù họ  đạt kết quả  bắn tập rất tốt. Có thể  trông thấy 

đám xe tăng Đức từ cách xa chúng tôi đến cả 500-600 mét, đƣợc chiếu sáng rõ, trong khi 

khẩu pháo chống tăng của chúng tôi đang đƣợc bóng tối che phủ. Bằng ngay quả đạn đầu 

tiên chúng tôi đã hạ  đƣợc một chiếc xe tăng. Nhƣng trƣớc khi có thể  nạp lại  đạn, khẩu 

pháo của chúng tôi đã bị  lộ  bởi ánh sáng từ  một ngôi nhà phía sau chúng tôi vừa bị  bắt 

lửa. Những chiếc tăng Đức lập tức đáp trả. Chúng tôi phải mau chóng rút khỏi đây và 

thay đổi vị trí bắn. Ngay khi quả đạn đầu tiên của bọn tăng Đức bắn tới, đám lính đã chạy 

khỏi khẩu pháo mà không có lệnh của tôi và nấp vào một cái rãnh ven đƣờng. Tôi hét lớn: 

“Khẩu đội chạy tới pháo!” Chỉ cần mất khoảng vài giây để gập càng khẩu pháo lại và kéo 

xuống đồi để  tới một “vị  trí an toàn”. Nhƣng các pháo thủ  của tôi, những ngƣời mới lần 

đầu trạm chán với xe tăng, đang tản ra trong cái rãnh. Họ chỉ phản ứng khi tôi một mình 

chạy tới khẩu pháo và cố  gắng tự  gập càng pháo lại, miệng lặp lại mệnh lệnh “Các pháo 

thủ về chỗ pháo, đồ  chết tiệt!” Đám pháo thủ vội chạy tới khẩu pháo và bắt đầu gập càng 

pháo lại. Thật lạ  rằng, những lời lẽ  chửi mắng vốn không hề  có trong Cẩm nang dã chiến 

của chúng tôi, lại rất hữu ích trong những trƣờng hợp nhƣ thế này. 

Tôi bƣớc tới cái rãnh, hét lớn: “Nhấc nòng pháo!” và giơ cánh tay trái của mình 

lên để  chỉ  hƣớng kéo pháo. Nhƣng thời cơ đã qua đi. Trƣớc khi nhóm pháo thủ  kịp làm 

theo mệnh lệnh của tôi, khẩu pháo đã bị  bắn trúng và phá huỷ  bởi một phát đạn từ  chiếc 

xe tăng Đức. Có ba ngƣời trong nhóm bị thƣơng vì mảnh đạn. Tôi cũng bị một mảnh đạn 

bắn trúng cổ tay phải. 

Đám cứu thƣơng chạy tới và sơ tán thƣơng binh về  tuyến sau. Tôi cố  tự  băng bó 

vết thƣơng bằng cuộn băng cá nhân, nhƣng không tài nào làm nổi với chỉ  mình cánh tay 

trái. Rất khó để  cầm máu trong giá rét, trong khi tay tôi bị  thƣơng khá nặng. Mấy ngƣời 

cứu thƣơng tới giúp tôi. Chỉ  tới khi chúng tôi phải dùng tới cuộn băng thứ  hai thì máu 

mới ngừng chảy. Mấy ngụm vodka do chính uỷ đƣa cho làm tôi ấm ngƣời còn hơn bất cứ

thứ áo ấm nào. Sau này, mỗi khi nhớ lại trận đánh đó, tôi lại càng thấy rõ kinh nghiệm và 

sự  dũng cảm của tổ  pháo thủ  có tính quyết định nhƣ thế  nào. Chỉ  cần tôi có một tay lính 

cựu trong nhóm thôi, khẩu pháo lẽ  ra đã đƣợc thoát khỏi vị  trí nguy hiểm mà không chịu 

chút tổn thất gì. Những pháo thủ sống sót sẽ không bao giờ sợ hãi và sẽ luôn có mặt cạnh 

pháo trong khi chiến đấu với đám xe tăng sau này. Những trận đánh của chúng tôi chống 

lại xe tăng Đức hầu nhƣ luôn nổ  ra bất ngờ, giữa những lần tao ngộ  chiến, khi chúng tôi 

không đủ  thời gian để  chọn một vị  trí bắn tốt và kịp ngụy trang pháo, do đó chúng tôi 

phải nổ súng càng nhanh càng tốt. 

Những  trận  đánh  đó  tựa  nhƣ  những  cuộc  đấu  tay  đôi,  nhƣng  thƣờng  chúng  tôi 

luôn là những kẻ  đƣợc nổ  súng trƣớc. Nhƣng nếu anh không kịp tiêu diệt chiếc xe tăng, 

chúng sẽ không bắn trƣợt mà sẽ giết anh ngay cùng với khẩu pháo. Có một điều không ai 

có thể  phủ  nhận –  các tổ  lái tăng Đức là những xạ  thủ  cừ  khôi. Nhƣng chúng tôi cũng có 

một lợi điểm khác: chúng tôi đang bảo vệ  tổ  quốc mình, trong khi chúng đang tiến hành 

một cuộc chiến  tranh ăn cƣớp; chúng tôi đứng vững trên mặt đất, còn chúng ngồi trong 

một chiếc hộp sắt, chứa đầy dầu xăng và chất nổ; chúng tôi rất khó bị phát hiện, trong khi 

chúng có thể bị nhận rõ từ cách xa hàng dặm.

Phần 2

Cuối tháng Tƣ năm 1945 Lữ đoàn kỵ binh của chúng tôi vƣợt qua sông Oder, tiến 

qua đột phá khẩu và tới đƣợc sông Elba, phía Bắc Berlin. Những đơn vị Đức tụt hậu lẻ tẻ

và những đồn lũy đơn độc bị  tiêu diệt trong những trận đánh chớp nhoáng, còn những cứ

điểm mạnh của chúng bị  vƣợt qua và bỏ  lại  ở  phía sau, và chúng tôi tiếp tục hành quân 

vào sâu trong đất Đức. Mặc cho sự  thật là chiến tranh đang sắp kết thúc, vẫn có những 

cuộc đối đầu ác liệt xảy ra. Một lần đơn vị  chúng tôi lọt vào giữa một nhóm lính Đức tụt 

hậu và bị  chặn đứng bởi những loạt đạn dày  đặc. Trung đội tiếp viện tới nơi nhƣng vẫn 

không đủ sức để giúp đội hình vƣợt qua đƣợc bọn Đức. Trung đoàn trƣởng của chúng tôi 

gọi tới một nhóm xe tăng  -  sau một trận chiến ngắn tất cả  các xe tăng của chúng tôi đều 

bị  tiêu diệt bởi Panzerfausts (súng chống tăng cá nhân). Thời gian trôi qua, chúng tôi bắt 

buộc phải tiến quân, và chúng tôi đã nghĩ tới việc đơn giản là bỏ  qua cái cứ  điểm này để

đi tiếp. Những chàng trinh sát của chúng tôi, thật đúng lúc, bắt sống đƣợc một tên Đức và 

dẫn hắn tới Bộ chỉ huy trung đoàn. Đó là một tên nhóc mƣời lăm tuổi, đang sụt sùi và nức 

nở. Trung đoàn trƣởng đẩy tên tù binh ra trƣớc mặt các chi đội trƣởng và nói: “Các anh 

có thấy ai đang chống lại chúng ta không? Chỉ là mấy thằng nhóc! Nào, hãy tiến lên đuổi 

hết bọn chúng đi! Chiến thắng đã gần lắm rồi!” 

Sau một đợt pháo và cối bắn chuẩn bị  ngắn và dữ  dội, những chiến sĩ của một 

trong những chi đội đó chạy ào lên trƣớc với một tiếng hô lớn Hurrah và ngay khi họ tiến 

tới đƣợc chiến hào bọn Đức, đám Volkssturm (dân quân vũ trang) lập tức ném vũ khí và 

bỏ chạy hoặc đầu hàng. Tất cả bọn chúng đều là những thằng nhóc khoảng mƣời sáu tuổi. 

Dù còn trẻ, chúng vẫn rất thành công trong việc tiêu diệt các chiến xa của chúng tôi bằng 

Panzerfausts bắn từ  những hố  cá nhân đào nông choẹt.  Đó thật là một thứ vũ khí đáng sợ

– chỉ cần một tên lính bộ binh cũng có thể tiêu diệt gọn một chiếc xe tăng! 

Dù bị  thiệt hại ít, chúng tôi vẫn thiếu ngƣời trong các trung đội chống tăng, đặc 

biệt là trong các tổ  pháo thủ  chống tăng. Giữa một đợt nghỉ  chân, khi tổ  pháo thủ  của 

khẩu pháo số  3 đang ăn những thức ăn đạm bạc do đầu bêp nấu, một tên lính Đức không 

mang vũ khí, mặt trẻ  măng, tiến tới và hỏi xin thức ăn. Mọi ngƣời xếp cho hắn một chỗ

ngồi trên cái thùng đạn, đƣa hắn một cà mèn đầy cháo, một ít bánh mì và một chiếc thìa. 

Fritz (tên mà tổ  pháo thủ  đặt cho hắn) nói “danke, danke, gut” (cám ơn, cám ơn, tốt) và 

vục đầu vào chỗ  thức ăn. Sau khi cái cà mèn đã cạn, mọi ngƣời cho thêm hắn chút cháo, 

và hắn lại chén hết nhẵn. Đƣa cho tên Fritz một ít thuốc lá, ngƣời khẩu đội trƣởng đề nghị

hắn ở  lại với khẩu đội. Sau một tràng dài giảng giải bằng thứ  hỗn hợp giữa tiếng Nga và 

tiếng Đức, cộng thêm cả  cách ra hiệu bằng tay, tên Đức cuối cùng cũng hiểu ra điều họ

muốn. Hắn không cần nghĩ ngợi lâu và lập tức đồng ý. Khi đó tôi đang vắng mặt và lúc 

quay về  chỗ  khẩu pháo số  3, tôi thấy tên Đức đang ngồi giữa mọi ngƣời. Tôi lập tức hỏi 

khẩu đội trƣởng: “Anh nghĩ anh đang làm cái quái gì thế  hả? Thằng Đức này đang làm 

cái  gì  ở  đây?”  Tay  khẩu  đội  trƣởng  trả  lời:   “Đừng  lo,  đồng  chí  thiếu  uý,  hắn  là  một 

thằøng Đức tốt” Tôi nói: “Ít nhất anh có biết tên hắn là gì không đã?” - “Hắn tên là Fritz” 

–  “Đƣợc, thế  anh đã hỏi tên hắn chƣa? Lỡ  hắn không phải là Fritz thì sao?”  –  “Hắn vẫn 

đáp lại mỗi khi chúng tôi gọi hắn là Fritz”. Tôi hỏi lại thằng Fritz, hắn xác nhận là hắn rất 

vui nếu đƣợc ở lại cùng với khẩu đội. 

Những ngƣời lính đi lạc vẫn thƣờng  ở  lại với khẩu đội chúng tôi trong một thời 

gian. Nhƣng đó là ngƣời của ta, là ngƣời Xôviết, là bộ binh hoặc kỵ binh, những ngƣời đã 

bị  lạc mất đơn vị  của mình, còn đây là lần đầu tiên chúng tôi phải cho một tên lính Đức 

nƣơng nhờ. Tôi không biết việc này có vi phạm hay không Thoả  ƣớc quốc tế  về  tù binh 

chiến tranh, nhƣng chuyện tên Fritz ở  lại với khẩu đội của chúng tôi đƣợc sự  đồng thuận 

của cả hai bên mà không gặp bất kỳ chống đối nào về phía ta. Tôi không hề phản đối một 

“vị khách“ nhƣ thế. Do đó, vài ngày sau tên Fritz đã trở thành một thành viên tình nguyện 

của khẩu đội, cố  gắng tìm cách giúp đỡ  mọi ngƣời. Có lẽ  hắn xuất thân từ  một gia đình 

nông dân, do hắn điều khiển lũ ngựa rất giỏi. 

…Ngày mùng Một tháng Năm đã tới. Trƣớc khi tất cả  các đơn vị  của Trung đoàn 

tiến quân, một mệnh lệnh truyền xuống suốt dọc đoàn quân: 

- Thiếu uý Cận vệ Yakushin đƣa một khẩu pháo lên hàng đầu đội hình hành quân! 

Trung đoàn trƣởng giao cho chúng tôi một nhiệm vụ: chi đội hai, đƣợc bổ  sung 

thêm khẩu pháo chống tăng của tôi và một trung đội trọng liên, phải tiến về phía đƣờng lộ

dẫn  tới  Wittenberg.  Chúng  tôi  phải  cắt  đứt  con  đƣờng  đó  và  chặn  không  cho  đoàn  xe 

quân sự của bọn Đức đi qua về phía Tây để đầu hàng những Đồng minh Phƣơng Tây của 

chúng ta. Trung đoàn trƣởng bảo tôi khi chúng tôi khởi hành: “Hãy làm đi, thiếu uý. Ngôi 

Sao vàng đang chờ  anh  ở  chỗ  đó đấy”. Anh ta cho là từ  vị  trí phục kích chúng tôi sẽ  có 

thể hạ gục cả tá xe tăng. Dù vậy, sự việc diễn ra không phải nhƣ thế. 

Chi đội tổ  chức tuyến phòng thủ  ở  rìa một khu rừng. Tình hình diễn ra nhƣ sau: 

phía bên trái chúng tôi, chỉ  cách khoảng ba mƣơi mét, một khẩu đội Đức đang nổ  súng 

bắn  vào  những  đơn  vị  hậu  bị  của  chúng  tôi.  Kẻ  địch  không  trông  thấy  chúng  tôi,  do 

chúng tôi  ở  phía sau chúng. Phía trƣớc chúng tôi, cách khoảng một cây số, một đội hình 

lớn xe tăng và pháo binh Đức đang di chuyển về  phía Tây. Chúng tôi quyết định hạ  gục 

một trong những chiếc xe tăng và tạo nên một vụ  kẹt xe trên tuyến đƣờng lộ. Chúng tôi 

chuẩn bị khẩu pháo sẵn sàng để bắn. 

Sau một khẩu lệnh ngắn gọn: “Chuẩn bị  chiến đấu!” mọi ngƣời lập tức sẵn sàng. 

Thậm chí ngay cả  tên tù binh Đức, kẻ  vẫn ở  cùng khẩu đội, cũng  hiểu rõ tầm quan trọng 

của sự  việc và chuyển những thùng đạn rất nhanh gọn và chính xác. Tôi ra lệnh: “Bắn 

vào chiếc xe tăng đi giữa đội hình! Đạn xuyên thép, bắn!” Loại đạn này tạo ra một đuôi 

lửa, và chúng tôi có thể  nhìn rõ đƣờng đi của nó. Phát đầu tiên vọt lên hơi cao hơn mục 

tiêu. Phát thứ  hai bắn trúng chiếc xe tăng. Chiếc xe quay ngang 180 độ  trên đƣờng và 

dừng lại. Đội hình của chúng cũng dừng lại. Vài chiếc cố gắng vƣợt qua chiếc xe tăng đã 

bị  hạ  gục, những chiếc khác cố  gắng quay lại. Tất cả  công việc chúng tôi phải làm bây 

giờ  là mau chóng và kín đáo thay đổi vị  trí nổ  súng của mình. Chúng tôi biết rằng ngay 

khi chúng tôi nổ  súng, khẩu đội pháo Đức sẽ  quay về  phía chúng tôi và nã đạn trực tiếp. 

Nhƣng điều này đã không xảy ra. Những tổ pháo thủ Đức chạy khỏi các khẩu đại bác của 

chúng ngay từ  phát đạn đầu tiên của chúng tôi  –  thậm chí không có ai bắn một phát nào 

về  phía chúng tôi! Tuy nhiên, đằng sau khẩu đội này có một khẩu pháo tự  hành của Đức 

đƣợc nguỵ  trang kín đáo đang phục kích. Nó nhận ra  chúng tôi từ  phát đạn đầu và nổ

súng. Viên đạn đầu tiên của nó nổ  về  phía bên phải chúng tôi, cách khoảng mƣời mét. 

Phát thứ  hai của khẩu pháo tự  hành phá hủy khẩu pháo của chúng tôi. Chỉ  huy pháo bị

giết, ngƣời xạ  thủ  bị  thƣơng nhẹ. Chỉ  có ngƣời nạp đạn  và tên giữ  ngựa là nguyên vẹn, 

còn tôi cũng bị  thƣơng. Đó là vết thƣơng thứ  ba của tôi tại chiến trƣờng. Ngƣời nạp đạn 

đặt tôi lên lƣng tên Fritz và dƣới làn đạn yểm hộ  của chi đội, tay giữ  ngựa mang tất cả

những ngƣời bị thƣơng tới nơi an toàn, tại đó tất cả chúng tôi đều đƣợc băng bó. 

Nhờ  ngƣời nạp đạn giúp đỡ, tôi tới đƣợc một con đƣờng mòn trong rừng. Trung 

đoàn chúng tôi, dẫn đầu là trung đoàn trƣởng và bộ  tham mƣu của mình, đang tiến về

phía  tôi.  Những  lá  cờ  của  Trung  đoàn  đang  bay  cao  sau  lƣng  trung  đoàn  trƣởng.  Một 

trong số  chúng có gắn tấm Huân chƣơng Cờ  đỏ  mà Trung đoàn đƣợc nhận từ  thời Nội 

chiến trong Lữ  đoàn của Kotovski, lá thứ  hai  –  Lá cờ  Cận vệ  mà Trung đoàn đƣợc nhận 

trong chiến dịch Yelets vào tháng Chạp năm 1941. Đó là lần đầu tiên trong  suốt cuộc 

chiến  tranh  chúng  tôi  đƣợc  thấy  cảnh  tƣợng  nhƣ  vậy  –  trên  đồng  rộng,  giữa  ban  ngày 

trung đoàn trƣởng và bộ  tham mƣu của mình cùng những lá cờ  mở  rộng đang đi về  phía 

chiến trƣờng. Tôi báo cáo lên trung đoàn trƣởng về  số  phận khẩu pháo của mình. Nhóm 

chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ  của mình và chặn không cho bọn Đức đột phá về  phía 

tây cho tới khi Trung đoàn đến kịp. Về  sau, khi quay lại đúng con đƣờng này, tôi trông 

thấy chiếc xe tăng mà mình đã bắn hạ. Viên đạn xuyên qua vỏ  thép bên hông xe tăng  và 

có lẽ  đã trúng chỗ  chứa đạn. Tháp pháo chiếc xe tăng bị  bật qua một bên, nòng pháo của 

nó gục xuống thấp. Đằng sau chiếc xe tăng là những xe cộ  bị  bọn Đức bỏ  lại. Đó là kết 

cục trận đánh cuối cùng của tôi. 

Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH PHÁO BINH

Mikhail Lukinov

Phần 1: Ba Lan

Những ghi chép về biến cố Ba Lan và cuộc chiến Phần Lan 1939-1940 

Đƣợc viết bởi ngƣời đã trải qua những biến cố trên, một sĩ quan Quân đội Xô-viết, 

M. I. Lukinov

Trong lịch sử và văn học, các sự kiện diễn ra ở Ba Lan và Phần Lan trong thời kỳ

1939 - 1940 đƣợc thuật lại rất ngắn gọn. Có thể do chúng bị che khuất bởi tầm vóc to lớn 

của Cuộc Chiến tranh Vệ quốc sau đó. Dù vậy, việc ký kết Hiệp ƣớc Không xâm lƣợc với 

nƣớc Đức, sự hủy diệt và chia cắt nhất thời pan Ba Lan (pan tiếng Ba Lan nghĩa là “ngài” 

hay “ông chủ”; bằng cách này những ngƣời ta muốn ám chỉ rằng không phải nhân dân Ba 

Lan mà chính giai cấp thống trị  Ba Lan mới là kẻ  thù. Một số  ví dụ  khác: phát xít Đức, 

samurai  Nhật  Bản,  bôia  Romania  -  Oleg  Sheremet)  và  chiến  tranh  Phần  Lan  cũng  là 

những sự kiện không thể để chìm vào lãng quên. Tác giả của những dòng hồi ký dƣới đây 

đã vinh dự  đƣợc trực tiếp tham gia chiến dịch Ba Lan cũng nhƣ cuộc chiến chống Bạch 

vệ  Phần Lan (cụm từ  này bắt nguồn từ  thời Nội chiến, khi Phần Lan sát cánh với phe 

Bạch vệ  chống lại Hồng quân  -  Oleg Sheremet), và đã cố  gắng thuật lại tất cả  những gì 

ông đã từng sống, nhìn thấy và nếm trải qua. 

Đó là năm 1939 đầy bất  ổn. Tại Châu Âu đang có chiến tranh, bóng ma của nó đã 

lan dần tới biên giới nƣớc ta. Lúc đó tôi mới 32 tuổi và, là một sĩ quan dự  bị, có thể  bị

động viên vào quân đội bất cứ  lúc nào.  Nhƣng vì lẽ  gì đó tôi không muốn tin rằng chiến 

tranh sẽ  nổ  ra. Tôi đang làm việc, nhƣ thƣờng lệ, với chức vụ  kỹ  sƣ tại Viện Thiết kế  xí 

nghiệp Vật liệu xây dựng. Tôi đã đƣợc hứa thƣởng một kỳ  nghỉ  vào cuối hè năm 1939, 

dự định sẽ đi nghỉ ở miền nam, trên bờ biển Hắc Hải hiền hoà. Nhƣng kế hoạch của tôi bị

phá nát bởi lời hiệu triệu từ  dân uỷ  : “Lên đƣờng với các vật dụng cá nhân”. Thật là một 

cú sốc. Tôi chạy tới Trụ  sở  Dâân uỷ  Quận Bauman chỗ  tôi và trƣớc tiên là hỏi về  giấy 

phép đi nghỉ, rồi kế  tiếp là về  “Lên đƣờng với các vật dụng cá nhân”. Họ  nghiêm khắc 

bảo tôi: “Kỳ nghỉ nào? Anh đã bị động viên. Anh không biết là chiến tranh đã bắt đầu rồi 

ƣ?!”  Chiến  tranh  nào? Với  ai?  Tôi  không  thể  hiểu  nổi.  Sang  hôm  sau  tôi  đã  cƣỡi  trên 

chuyến tàu Matskva-Kiev với các “vật dụng cá nhân.” 

Mikhail Lukinov, tháng Giêng 1939.

Vào thời đó các chuyến tàu chạy khá chậm và đƣợc kéo bởi các đầu máy hơi nƣớc. 

Các toa đƣợc gắn giƣờng ngủ ba tầng bằng gỗ sơn xanh lá cây. Tại các ga, hành khách ùa 

xuống lấy nƣớc nóng vào bình toong thiếc và tín hiệu khởi hành của đoàn tàu phát ra từ

cái chuông kéo tay. Mới đây thôi mà nhƣ ở thời cổ đại vậy. 

Toa tàu rất đông ngƣời, để  ngủ  yên tôi phải leo lên giá gỗ  tầng ba, treo mình vào 

ống hơi nƣớc bằng thắt lƣng để khỏi ngã vì rung lắc. Nhóm sĩ quan chúng tôi đƣợc đƣa từ

Kiev  tới  Bêlaia  Tserkov,  thị  trấn  đƣợc  biết  tới  qua  trƣờng  ca  “Poltava”  của  Pushkin. 

Nhƣng chúng tôi không đƣợc thấy “đêm Ukraina yên tĩnh” (thơ Pushkin -  LTD) nơi đây. 

Ngƣợc lại, chúng tôi bị  bao vây bởi sự  hối hả  bận rộn kinh khủng. Một sƣ đoàn bộ  binh 

đang đƣợc thành lập vội vã từ những “ông cậu”, lính dự bị Ukraina. Là sĩ quan pháo binh, 

tôi bị  chuyển về  một khẩu đội pháo cấp trung đoàn của trung đoàn súng máy 306. Một 

pháo thủ, lại  ở  trong trung đoàn bộ  binh! Thật khó cho tôi, nhƣng đâu thể  làm gì khác 

đƣợc? Tôi phải tháo cái phù hiệu màu đen khỏi quân phục, và thêu cái màu đỏ  với hai 

khẩu pháo bắt chéo thế  vào. Có chín sĩ quan trong khẩu đội, tất cả  trong đó, trừ  tôi là sĩ 

quan dự  bị, đều là quân nhân chuyên nghiệp, và trong thời gian đầu tôi không đƣợc nhận 

bất cứ  nhiệm vụ  cụ  thể  nào. Tôi phục vụ  đại loại nhƣ một sĩ quan phụ  tá cho khẩu đội 

trƣởng. Vào thời gian đó các sĩ quan cấp thấp trong quân đội có trình độ  học vấn không 

cao. Thậm chí hiếm có ngƣời học hết trung học. Họ chủ yếu là những ngƣời đã phục vụ ở

cấp thấp trong nhiều năm, đƣợc huấn luyện trực tiếp hay gián tiếp về  tác xạ  trong những 

trƣờng lớp đào tạo khác nhau. Nhƣng họ luôn thuộc làu quân lệnh và kỷ luật quân sự. Nói 

chung  họ  là  những  ngƣời  dễ  mến,  hầu  hết  đeo  lon  thiếu  úy.  Khi  thấy  tôi  có  hai  khối 

vuông trên cổ  áo (trung uý) nhƣng không tỏ  vẻ  kênh kiệu, họ  liền chấp nhận tôi vào cái 

gia đình chung ấy. Khẩu đội trƣởng cũng cùng xuất thân nhƣ họ, nhƣng đã có trên vai ba 

khối vuông (thƣợng uý). Nhằm làm cho mình trông giống chỉ  huy hơn, anh ta tự  tạo ra 

một bề  ngoài khác biệt với mọi ngƣời. Gƣơng mặt anh ta dài nhƣ mặt ngựa, bị  bệnh đậu 

mùa hủy hoại và luôn tỏ vẻ lạnh lùng. Anh ta sợ bất cứ biểu hiện nào của sự thân thiện vì 

anh ta cho rằng điều đấy dẫn tới vô kỷ luật. Anh ta cƣ xử với tôi dè dặt cảnh giác, nhƣ thể

thấy trong tôi một cái gì xa lạ, một ngƣời có học thức. Chúng tôi cũng gặp chủ  nhiệm 

pháo binh trung  đoàn, chịu trách nhiệm về  các khẩu đội pháo và súng cối. Ông ta đối xử

với tôi có thiện chí hơn. Chúng tôi đƣợc nhận những khẩu pháo 76 mm nhƣng là loại 

nòng ngắn, kiểu 1927, đƣợc kéo bởi hai đôi ngựa. Chúng tôi cũng đƣợc cấp ngựa cƣỡi. 

Tôi đƣợc nhận một con ngựa cao lớn, lông xám có tên là Doll. Chúng tôi bắt đầu tổ chức 

thành các trung đội, triển khai ngoài cánh đồng, tập bắn đạn thật, huấn luyện cho binh 

lính. Trung đoàn trƣởng luôn giục giã chúng tôi gấp rút hoàn tất công việc huấn luyện 

nhƣng tới khi  chúng tôi nhận lệnh hành quân, công tác huấn luyện vẫn chƣa xong. Mệnh 

lệnh tƣơng tự nhƣ sau : “Lập đội hình hành quân ! Trung đội chỉ huy dẫn đầu! Bƣớc!” Và 

chúng tôi xuất phát. Đi đâu? Tại sao? Có lẽ  chỉ  cấp trên mới biết. Hay thậm chí chính họ

cũng không đƣợc biết? Mau chóng chúng tôi nhận ra mình đang đƣợc đƣa về  phía tây, 

hƣớng biên giới Ba Lan.   

Trong khi đó, các diễn biến chính trị  phức tạp vẫn tiếp diễn. Nƣớc Đức tiến công 

Ba Lan và chiếm đƣợc một phần lãnh thổ  rộng lớn. Chính phủ  chúng ta đã ký Hiệp ƣớc 

Không xâm phạm với Đức. Molotov, trong bài diễn văn nổi tiếng của ông ta, gọi Ba Lan 

là “cái quái thai của Hiệp ƣớc Versailles”. Hiệp ƣớc  ấy đã giải phóng vùng Tây Ukraina 

và Tây Belorussia, trƣớc đây bị  Bạch vệ  Ba Lan chiếm đóng. Quân đội Xô viết phải mau 

chóng  tiến  về  đƣờng  ranh  giới  chia  cắt  có  trong  thỏa  thuận  với  nƣớc  Đức.  Trƣớc  đó 

chúng tôi đã tiến rất gần tới lãnh thổ  Ba Lan; còn bây giờ, với một  lệnh báo động, chúng 

tôi bắt đầu vƣợt cái đƣờng biên giới mà nay đã là của quá khứ. 

Các đơn vị  bộ  binh của trung đoàn chúng tôi hành quân phía trƣớc, còn chúng tôi 

kéo pháo theo sau. Tôi còn nhớ  hình ảnh một cột mốc biên giới có sơn sọc trắng với con 

đại bàng Ba  Lan bị  xô  ngã xuống đất, một làng biên giới Ba  Lan với những ngôi nhà 

trắng tinh theo một kiểu kiến trúc xa lạ thời Trung cổ cùng một nhà thờ Thiên Chúa giáo. 

Những ngƣời Ba Lan theo dõi cuộc xâm chiếm của chúng tôi một cách rầu rĩ và lo lắng. 

Thật sự thì họ đang nghĩ gì nhỉ? 

Những  con  đƣờng  lầy  lội  và  các  làng  xóm  Ukraina  nghèo  khổ  với  mái  rạ  và 

những nông dân đi chân trần dần lộ  ra sau cái làng Ba Lan giàu có và tinh khiết  ấy, hiển 

nhiên là một sự  hào nhoáng bề  ngoài. Ngƣời Ukraina sống rất khốn khổ  dƣới ách cai trị

của các pan. Chúng tôi có dịp nhận ra tất cả  những cái đó, sau khi chúng tôi trú chân tại 

một ngôi làng Ukraina. Rồi chúng tôi tiếp tục tiến qua vùng đất Ba Lan cũ về  phía Tây. 

Lần nghỉ  đêm đầu tiên. Một căn nhà Ukraina nghèo khổ  : sàn bẩn, rác rƣởi, gián, trẻ  con 

ăn  bận  trần  truồng.  Tôi  bắt  chuyện  với  một  bé  gái  khoảng  10  tuổi,  lục  tìm  20  kopeck 

trong túi và đƣa tặng cô bé nhƣ một vật lƣu niệm. Em nghẹn thở  bởi món quà giá trị  đó 

và kêu lên : “Mẹ  ơi, con có hai mƣơi kopeck đây này!”  Hình nhƣ lần đầu tiên trong đời 

cô bé đƣợc cầm một số tiền lớn nhƣ vậy. 

Chúng tôi đƣợc lệnh mau chóng chuyển tất cả  binh sĩ đi bộ  của trung đoàn lên xe 

tải và đƣa họ tới đƣờng ranh giới chia đôi Ba Lan. Ngựa kéo xe, đoàn tàu chở hàng tiếp tế

và đại bác tiếp tục hành quân với tốc độ  nhƣ cũ. Chúng tôi lập ra một chi đội từ  các binh 

lính đi bộ  trong các khẩu đội có trách nhiệm hành quân cùng cánh bộ  binh. Tất nhiên, tôi 

cũng có trong số  ấy. Tới đêm, trên đƣờng cái, tôi chặn những xe tải chở  bộ  binh lại và 

chuyển lính của mình lên sau khi bị  chửi rủa hết lời. Tôi lên chiếc xe cuối cùng. Chúng 

tôi đi trong nhiều ngày suốt dọc Miền Tây Ukraina bằng cách đấy. Trong thời gian đó, 

nhiều cuộc gặp gỡ  và nhiều  ấn tƣợng đã xảy đến mà tới nay, bất hạnh thay, đã tuột khỏi 

trí nhớ của tôi. 

Tôi nhớ  lại chúng tôi đã đến một thị  trấn và dừng chân giữa một khu chợ. Những 

ngƣời bán rong đeo khay hàng chạy tới các xe tải từ  mọi phía, chào mời chúng tôi. (Cần 

lƣu ý rằng khi chúng tôi tiến vào vùng lãnh thổ  cũ của Ba Lan, một tỷ  giá trao đổi ngoại 

tệ  tức khắc đƣợc lập ra: một zloty ăn một rúp.) Một ngƣời bán hàng rong bƣng cái khay 

bánh pierogi tới chỗ  xe chúng tôi. Tay bộ  binh ngồi cạnh tôi liền hỏi giá. “Ba kopeck, 

thƣa pan. Tôi không thể  bán rẻ  hơn, đang chiến tranh mà.” Ngƣời lính rút ra một tờ  ba 

rúp  màu  xanh  và  nói  :  “Cho  tôi  một  trăm  cái.”  “Sao  anh  mua  nhiều  thế  ?”  Tôi  hỏi. 

“Không sao đâu, thƣa đồng chí trung uý, tôi sẽ  có cách dùng chúng.” Anh ta quả  thật đã 

dùng hết tất cả số bánh đó. Anh ta ăn gần hết một trăm cái, phớt lờ những ánh mắt ghen tị

và những lời đề nghị của đồng đội. Đúng là một gã kulak Ukraina. 

Những ngƣời bán hàng nhanh chóng nắm bắt thị trƣờng và sau mƣời lăm phút giá 

bánh pierogi đã là 15 kopeck. Bếp dã chiến cho chúng tôi ăn chủ  yếu là cháo kiều mạch, 

bánh mì đen và trà. Có vài đơn vị  kỹ  thuật đi sau chúng tôi, họ  đƣợc cấp gạo, bánh mì 

trắng và ca cao. Không thể  làm gì hơn, chúng tôi là bộ  binh, luôn tấn công đầu tiên và 

lãnh thực phẩm sau cùng. Một lần, vào cuối ngày, chúng tôi dừng lại nghỉ đêm tại một thị

trấn. Chiếc xe tải chạy vào sân trƣờng và chúng tôi nghỉ  lại cho tới sáng trong các phòng 

học. Lúc đấy tôi đói nhƣ cào. Tôi lấy theo hai ngƣời lính (các sĩ quan bị  cấm đi ra ngoài 

một mình) và đi kiếm một nhà hàng. Chúng tôi mau chóng tìm thấy một cái bar nhỏ dƣới 

tầng hầm với cửa sổ  sáng rực và dàn nhạc đang chơi. Vừa thấy ba ngƣời chúng tôi mặc 

quân phục, đội mũ sắt, đi  ủng có gắn đinh thúc ngựa và mang vũ khí bƣớc vào chỗ  sảnh 

đón, một cơn chấn động nhẹ  xảy ra. Dàn nhạc ngừng chơi. Vài thực khách sợ  hãi đứng 

dậy. Có lẽ  đây là lần đầu trong đời họ  nhìn thấy những ngƣời Xô viết. Tôi lịch sự  chào 

mọi ngƣời và đề  nghị  dàn nhạc tiếp tục chơi. Những ngƣời trong quán tò mò theo dõi 

chúng tôi. Chủ  quán đứng sau quầy bar, một ngƣời to béo mặc bộ  vest không cài khuy 

với điếu xì gà trên miệng. Tôi thấy mình nhƣ đang đóng trong một cuốn phim về  thời 

trƣớc Cách mạng. “Vodka hay  rƣợu snap?”  -  ông béo hỏi tôi. “Không,”  –  tôi trả  lời  –

“cho ba cà phê và ba sandwich.” Đồng hồ  của tôi đã là 12 giờ, nhƣng cái đồng hồ  to mặt 

tròn trên quầy bar mới chỉ  có 10 giờ. Tôi không nhận ra ngay sự  khác biệt về  thời gian 

nên ngạc nhiên bảo chủ  quán rằng hiện đã 12 giờ  rồi. Ông ta mỉm cƣời, nhấc điếu xì gà 

khỏi miệng và kiêu ngạo đáp lời tôi: “Chúng tôi thuộc Châu Aâu !” Tại đất nƣớc Ba Lan 

Bạch vệ  khốn khổ  đồng hồ  chỉ  lấy theo giờ  London. “Lúc này ông nên chỉnh lại đồng hồ

theo giờ Maskva,” – Tôi đáp lại. Ngƣời chủ quán nhún vai nhƣ thể nói “Chúng tôi sẽ xem 

lại.” Sau khi uống xong cà phê và thanh toán tiền, chúng tôi rời “những ngƣời Châu Aâu” 

đấy. 

Tới đây tôi xin phép lạc đề  một chút để  kể  lại một giai thoại khác xảy ra nhiều 

năm sau Chiến tranh Vệ  quốc, khi nƣớc Ba Lan đã đƣợc tái thiết và Nguyên soái Xô viết 

Rokossovskiy, một ngƣời gốc Ba Lan, đƣợc chỉ định làm Tổng chỉ huy quân đội Ba Lan. 

Ông tới Ba Lan. Đầu tiên ông đƣợc cho tham quan Varsava và một vị  tƣớng Ba Lan hỏi 

ông : “Thƣa ngài Nguyên soái, ngài có thích Châu Âu không ?” Nguyên soái đã trả  lời : 

“Rõ ràng ông không rành địa lý học.” 

Chúng tôi hành quân nốt chặng cuối  của hành trình. Một lần nữa, lại xuất hiện 

những ngôi làng Ukraina cùng những thị  trấn nhỏ  với cộng đồng ngƣời Do Thái và Ba 

Lan. Ngƣời Đức đã có mặt  ở  đây. Trƣớc khi rút quân, chúng tiến hành cƣớp bóc. Nhƣng 

chúng là một dân tộc có văn hóa nên không chĩa  súng đe dọa hay đốt phá các cửa hàng. 

Chúng cƣớp bóc một cách “có văn hóa”. Chúng bƣớc vào một cửa hiệu, chọn những thứ

hàng  hóa  tốt  nhất,  ra  lệnh  gói  nó  lại  (“raskep,  raskep”)  và  mang  những  thứ  vừa  “tậu 

đƣợc” bỏ đi : “Bọn Nga đi sau sẽ trả tiền cho tất cả.” 

Tôi bƣớc vào một cửa hiệu để mua vài thứ đồ lặt vặt. Vải dệt đƣợc trải ra trên mặt 

quầy, họ  đang trao đổi với mấy ngƣời lính bộ  binh đã vào trƣớc đó. Tôi vuốt lên tấm vải 

và chợt nhận ra có cái gì đó nằm dƣới mặt quầy. Một khẩu súng bị  bỏ  quên dƣới  lớp vải, 

có lẽ là của mấy “ông chú” Ukraina kia. Tôi buộc phải đem khẩu súng về. 

Binh lính Hồng quân. Luga, 1938

Cuối cùng chúng tôi cũng đến đƣợc  đƣờng ranh giới theo thỏa ƣớc, vạch ra bởi 

sông Bug. Có thể  thấy ánh loé lên của những chiếc xẻng bên kia bờ  sông. Đấy là lính 

Đức đang củng cố  vị  trí phòng thủ  của mình và đào các chiến hào. Tại chỗ  này con sông 

không rộng lắm, có mấy cây cầu nằm vắt qua  bờ  bên kia. Có thể  thấy vài bóng ngƣời 

đang qua cầu : một số  đến phía chúng tôi, một số  khác từ  phía chúng tôi qua bờ  bên kia. 

Lạ  là trong những ngày  đầu tiên không có ai ngăn trở  điều đó. Một trong số  những sĩ 

quan chúng tôi kể anh ta đã chứng kiến có ngƣời tiến tới các lính gác Đức và nói rằng cần 

qua bờ bên kia, phía chúng tôi. Tên lính gác chỉ đơn giản là đá vào mông anh ta và ngƣời 

đàn ông chạy qua cây cầu về  phía chúng tôi. Đấy là vào ban ngày, ban đêm việc qua lại 

còn nhộn nhịp hơn nữa. Những tiếng la hét và tiếng súng bắt đầu vang lên.

Họ  kể  rằng một ngƣời lính của chúng tôi, một “ông cậu” Ukraina, trong khi đứng 

gác  gần  cây  cầu  đã  lầm  bầm  những  lời  nhƣ  sau:  “Hãy  để  những  ngƣời  tốt  đi  về  phía 

chúng tao, còn thì đƣa bọn xấu qua đi cho khuất mắt.” 

Ba, bốn ngày sau khi chúng tôi tới, những lính biên phòng đội mũ lƣỡi trai màu 

xanh cuối cùng cũng tới, mang theo chó. Họ  đóng cửa biên giới và canh phòng một cách 

nghiêm ngặt. Chúng tôi rút lui về  phía sau khoảng vài cây số, nhƣng vẫn thƣờng bị  dựng 

dậy bởi  báo động đêm. Một đêm nọ  có hai ngƣời đàn ông chạy qua phía Đức. Có một 

đầm nƣớc nhỏ  ở  gần chỗ  chúng tôi đóng quân, nơi dân chài địa phƣơng thƣờng ra đánh 

cá. Lúc này dây kẽm gai vẫn còn chăng phía trƣớc đầm. Hai ngƣời kia tiến gần cái đầm 

vào ban đêm, họ cho rằng sông Bug đang ở trƣớc mặt mình nên đã cắt rào kẽm gai và bơi 

qua sông. Họ  bị  mất phƣơng hƣớng và chìm dần. Một ngƣời đánh cá nghe tiếng họ  kêu 

cứu đã chèo thuyền tới kéo họ  lên. Một trong hai ngƣời hỏi bằng tiếng Ba Lan: “đây có 

phải là bên phía Đức không ?” Ngƣời đánh cá trả  lời: “Phải.” Anh ta kéo mạnh họ  lên và 

đƣa họ, gần chết đuối, về  nhà anh ta. Vì vụ  đó mà lại một lần nữa chúng tôi bị  lệnh báo 

động dựng dậy vào ban đêm, với suy nghĩ cho rằng có hai tên do thám. Khi trời sáng, tôi 

trông thấy  hai con ngƣời ƣớt sũng  ấy bị  dồn lên một chiếc xe để  đƣa về  nơi quản lý họ. 

Hoá ra đó là những sĩ quan Ba Lan vừa trốn khỏi trại tù binh. 

Vùng biên giới không lúc nào yên tĩnh. Trong đêm, có ai đó phía bờ  chúng tôi 

dùng đèn chiếu vẽ  những đƣờng khó hiểu lên những đám mây xám thấp. Bờ  bên kia đáp 

lại họ  cũng bằng cách thức tƣơng tự. Vậy mà chúng tôi không bắt đƣợc ai. Các sĩ quan 

Đức qua bên chúng tôi, mục đích để  tìm kiếm và chôn cất những ngƣời của mình, nhƣng 

thật ra là dọ  thám vị  trí đóng quân và lực lƣợng chúng tôi. Nhƣng chúng tôi cũng tìm ra 

cách để việc ấy không thực hiện đƣợc. 

Sau đó sƣ đoàn chúng tôi đƣợc rút về  sâu trong hậu phƣơng. Trung đoàn tôi đóng 

quân tại một thị  trấn nhỏ  bé bẩn thỉu  ở  Starƣi Sambor.  Ở  đây gần nhƣ toàn là ngƣời Do 

Thái,  họ  làm nghề  thủ  công và buôn bán, cung cấp cho các làng Ukraina. Nhƣng không 

có đủ  phòng cho khẩu đội tôi cùng với pháo, xe chở  đạn dƣợc và ngựa, thậm chí ở  ngay 

chính Starƣi Sambor. Chúng tôi đóng tại làng Blazhow, cách Starƣi Sambor 7 tới 8 km. 

Để  định chỗ  đóng quân, chỉ  huy trƣởng ra lệnh cho tôi vào làng và vẽ  lại sơ đồ  vị  trí của 

nó. Một thƣợng sĩ đi cùng tôi với mục đích tìm nguồn tiếp tế. Hai chúng tôi cùng đi ngựa. 

Cái làng hóa ra trải rất dài. Nó có một nhà thờ  thuộc giáo hội Uniate và một lãnh 

địa nhỏ. Ngƣời chủ  của nó, một ngƣời Ba Lan, đã chạy sang phía Đức. Tôi vẽ  sơ đồ  của 

nó và, khi trở  về  khẩu đội, vẽ  lại sạch sẽ  bằng chì màu, ghi chú tất cả, thậm chí họa lại 

một vài ngôi nhà chính. Các chỉ  huy cấp trên rất hài lòng, tuy họ  không biểu lộ  trên nét 

mặt. Họ không muốn làm hƣ cấp dƣới: điều đó có thể làm cho cấp dƣới trở nên kiêu ngạo. 

Nhƣng tay thƣợng sĩ (mà tôi đã kể ở trên), khi ngồi bên đống lửa vào ban đêm, quanh đại 

đội của mình, ngạc nhiên kể  với mọi ngƣời rằng trung uý chỉ  cần đi ngang  qua làng, ghi 

chú đôi điều lên một mảnh giấy là về vẽ lại đƣợc cả cái bản đồ tuyệt nhƣ thế: “Các cậu ạ, 

tay này khi ở nhà hẳn không phải hạng tầm thƣờng nhƣ chúng ta.” 

Kế  đó chúng tôi chuyển tới Blazhow. Chúng tôi chọn cái lãnh địa nằm giữa khu 

vực đóng quân và bố  trí pháo bên trong sân của nó. Các sĩ quan đóng tại căn nhà của tay 

chúa đất, còn binh lính  –  trong những làng nông dân xung quanh. Chúng tôi nhốt ngựa 

trong trang trại của lãnh địa. Dinh thự  của chúa đất đã bị  cƣớp phá sạch bởùi bọn Đức và 

sau đó là bởi nông dân, giờ chỉ còn lại những bức tƣờng trần trụi. Chỉ có sĩ quan lâu năm 

mới đƣợc nhận một bàn làm việc vớiø những ngăn kéo rỗng. Cái bàn không thể  mang đi 

đƣợc bởi nó không lọt qua cửa hẹp của căn phòng. Lúc đầu chúng tôi phải trải rơm thay 

cho các đồ gỗ, chúng đƣợc dùng để thay cho cả ghế lẫn giƣờng. Chúng tôi đặt những máy 

điện thoại dã chiến trên cái bàn duy nhất, nối chúng với sở chỉ huy tại Starƣi Sambor. 

Tình hình lúc đó không  yên tĩnh. Bọn phỉ  thƣờng bắn lén chúng tôi trong đêm 

khuya. Có kẻ  nào đó cắt đứt đƣờng dây điện thoại, thế  là cả  khẩu đội bị  dựng dậy bởi 

lệnh báo động đêm. Chúng tôi thiết lập những biện pháp phòng vệ  khắp lãnh địa khi trời 

bắt đầu tối, ngăn ngừa những đợt đột kích có thể xảy ra. Khi bình minh lên, sự sợ hãi của

chúng tôi liền tan biến. 

Tuy vậy, chúng tôi nhận đƣợc cảnh báo từ  sở  chỉ  huy trung đoàn  yêu cầu phải 

luôn cảnh giác, đã có những trƣờng hợp binh lính Xô viết bị  giết chết trong ngõ tối, bị

đâm  trong  tiệm  cắt  tóc  và  những  vụ  khác  tƣơng  tự.  Đóng  quân  trong  một  ngôi  làng 

Ukraina, chúng tôi có điều kiện hiểu đƣợc những ngƣời dân Tây Ukraina sống nghèo khổ

thế nào dƣới chế độ của các pan Ba Lan. Chỉ ngƣời Ba Lan mới có quyền quyếtù định tại 

đất  nƣớc  này.  Chỉ  có  họ  mới  đƣợc  làm  việc  trong  bộ  máy  chính  quyền.  Một  ngƣời 

Ukraina thậm chí không thể  làm thợ  trải nhựa đƣờng, bởi đó là công việc của nhà nƣớc. 

Một ngƣời Ukraina có thể trở thành ngƣời Ba Lan, nhƣng anh ta phải cải theo Gia tô giáo. 

Mục  đích  chuyện  này  là  chuyển  dần  ngƣời  Ukraina  sang  Gia  tô  giáo.  Đức  tin  Chính 

thống giáo bị  thay thế  bởi Giáo hội Uniate, một trung gian giữa Chính thống giáo và Gia 

tô giáo. Ngƣời Ukraina bị  đè nặng bởi các thứ  thuế. Thậm chí có cả  loại thuế  đánh lên 

mỗi  ống khói, đến nỗi sau khi vƣợt qua biên giới, chúng tôi rất ngạc nhiên  thấy các nóc 

nhà  ở  đây đều thiếu  ống khói. Khói từ  bếp lò thoát thẳng lên cái gác dƣới mái nhà. Nạn 

cháy nhà thƣờng xuyên xảy ra. 

Đôi lúc ngƣời dân hỏi chúng tôi là chính quyền mới có cho phép xây  ống khói 

không. Chúng tôi trả  lời không chỉ  cho phép mà còn cần thiết phải xây. Vào dịp cuối thu 

các nông dân thƣờng đi chân trần tới nhà thờ. Họ  chùi sạch chân bẩn lên đám cỏ  phía 

trƣớc, xỏ  giầy và bƣớc vào nhà thờ. Khi về, họ  tháo giầy ra và đeo chúng quanh cổ. Một 

đôi giầy đƣợc ngƣời nông dân dùng trọn đời, tới khi chết anh ta để  lại nó cho con trai 

mình. Có một trạm bƣu điện bỏ  không trong làng. Nhƣng vẫn còn một điện thoại viên  ở

lại – một cô gái Ba Lan rất đẹp và kênh kiệu. Luôn có một đám những anh chàng cầu hôn 

chạy theo cô ta. Không chỉ  những binh lính và hạ  sĩ quan của chúng tôi mà có cả  vài tay 

sĩ quan độc thân cũng ở trong số đó. Giữa những kẻ cầu hôn luôn có xích mích. Ngƣời ta 

nói rằng một số  chỉ  huy cao cấp cũng từng cầu hôn cô ta. Rồi tất cả  những điều đó đột 

ngột kết thúc theo cái cách ít đƣợc trông đợi nhất. 

Một đêm, trong khi đang thi hành nhiệm vụ  tại chốt điện thoại dã chiến, một điện 

tín viên của chúng tôi nhận thấy rằng một trong các ngăn kéo bảo mật nông hơn những 

cái còn lại. Tại sao vậy nhỉ? Hóa ra có một ngăn kéo bí mật khác  ở mặt sau bàn, quay về

phía tƣờng. Trong có những tờ  tiền Ba Lan đã hết giá trị và một cuốn album ảnh. Những 

tấm  ảnh cho thấy cô điện thoại viên xinh đẹp đang vui vẻ  với tay chủ  lãnh địa thế  nào. 

Trong vài tấm ảnh có cảnh cô ta trần truồng nhảy múa quanh một cái bàn đầy chai lọ, còn 

trong các tấm khác là cảnh cô ta đang quấn chặt lấy những gã để ria mép hay những cảnh 

tƣơng tự  thế. Cuốn album đƣợc  các binh lính chúng tôi chuyền tay nhau. Vài tay  lính 

đang yêu trách cứ  cô gái, và cô ta mau chóng biến mất khỏi ngôi làng. Khẩu đội trƣởng 

tƣớc cuốn album của đám lính và sau đấy đánh mất nó. Tôi không đƣợc xem cuốn album 

đó. 

Một tối giao lƣu với dân địa phƣơng đƣợc tổ  chức. Toàn thể  dân làng Blazhow tụ

tập lại trong một ngôi nhà rộng. Chính uỷ  của chúng tôi đọc một bài diễn văn nói về  sự

chấm dứt thời của các pan Ba Lan và về  trách nhiệm giải phóng của Hồng quân. Vị  linh 

mục địa phƣơng đáp lời, nhân danh toàn thể  dân làng, cám ơn chúng tôi vì đã giải phóng 

họ  và nhấn mạnh rằng “chúng ta cùng một chủng tộc, chúng ta cùng một đức tin.” Ban 

nhạc địa phƣơng gồm một ngƣời kéo violon, một ngƣời thổi sáo bị  và một tay trống bắt 

đầu chơi, vũ hội bắt đầu. Mọi ngƣời hỏi chúng tôi về  cuộc sống ở  Liên Bang Xô viết, về

những tin đồn thất thiệt họ  đƣợc nghe từ  Ba Lan. Ông thƣợng  sĩ cũng nhân dịp này tìm 

cách  chơi  nổi.  Vào  thời  điểm  ấy,  đám  sĩ  quan  chúng  tôi  ăn  mặc  rất  giản  dị,  khoác  áo 

choàng tunic hệt nhƣ binh lính, chỉ  khác là có các khối vuông gắn  ở  phù hiệu trên cổ  áo 

và các vạch vải đỏ thêu ở ống tay áo. Thƣợng sĩ của chúng tôi mặc bộ quân phục thắt cái 

dây lƣng màu vàng luôn kêu cót két. Trên phù hiệu ở cổ  áo, cạnh những hình vuông, ông 

ta gắn những vạch màu vàng đã bị  quân đội bỏ  từ  lâu. Trong mắt dân làng ông ta hẳn là 

chỉ  huy cao cấp nhất nên họ  hỏi ông ta rất nhiều. Các  cô gái hỏi ông rằng có phải  ở  nƣớc 

Nga bây giờ  không còn tổ  chức các đám cƣới, rằng chúng đã bị  huỷ  bỏ  và mọi ngƣời 

đƣợc  quyền  sống  với  bất  cứ  ai  mà  họ  thích.  Ông  thƣợng  sĩ  trả  lời  một  cách  tự  đắc: 

“Ngƣời  ta  hay  nói  này  nọ,  nhƣng  rận  chỉ  thích cắn  những  ai  luôn  nhắc đến  chuyện  đi 

tắm.” Tất nhiên, câu nói đó làm mọi ngƣời xung quanh cƣời rộ  và làm cả  một số  khác 

thẹn thùng. 

Có lần tại Starƣi Sambor, tôi tới một lò rèn nhỏ  đặt làm cây thông nòng cho khẩu 

súng ngắn của mình và tình cờ  gặp các em gái của ông  chủ, ngƣời Do Thái. Họ  đã tốt 

nghiệp một trƣờng học Ba Lan tại Nôvƣi Sambor và rất thích Liên Bang Xô viết. Họ  mơ 

đƣợc tới đó để  học đại học, “ở  nơi mà  –  họ  nói  –  việc học là miễn phí.” Khi tôi còn  ở

Starƣi Sambor, tôi thƣờng tới thăm hai chị  em và dạy họ  tiếng Nga, thứ  tiếng mà theo họ

là đơn giản và dễ  hiểu. Nhƣng có một lần, để  chứng tỏ  điều đó không đúng sự  thật, tôi 

đọc  phần  đầu  vở  “Evgênhi  Ônêgin”  cho  họ  nghe,  và  tất  nhiên  là  họ  chẳng  hiểu  gì  cả. 

Những cô gái đáng thƣơng ấy sau này chắc bị  giết hại cả. Năm 1941, khi Tây Ukraina bị

bọn Đức chiếm đóng, chúng giết tất cả những ngƣời Do Thái tại đó. 

Đôi khi tôi phải tới Nôvƣi Sambor vì mục đích công việc. Đó là một thị  trấn Ba 

Lan thanh nhã, có một nhà hàng và các cửa hiệu đẹp. Có lần tôi bƣớc vào một cửa hiệu 

quần áo đàn ông và yêu cầu họ  cho xem vài kiểu cà vạt. Ngƣời chủ  hiệu, nháy mắt với 

ngƣời phụ nữ Ba Lan đứng sau tôi nhƣ thể muốn nói “cái tay man rợ mặc áo choàng xám 

này thì hiểu gì về cà vạt nhỉ”, đƣa cho tôi cái hộp bên trong có món gì đó thật thô kệch và 

rẻ tiền. Tôi gạt cái hộp sang bên và yêu cầu cô ta đƣa cho tôi thứ gì khác khá hơn. Gƣơng 

mặt ngƣời chủ  hiệu lộ  vẻ  ngạc nhiên khi tên man rợ  đó chọn ra một tá cà vạt đẹp và tao 

nhã nhất. Sau này, cửa hiệu của ôâng ta đã tiếp tục phục vụ tôi trong một thời gian dài. 

Mikhail Lukinov, 1939

Các đƣờng phố ở đây đầy những ngƣời sẵn sàng bán nào đồng hồ, dao cạo, sôcôla, 

bít tất và các loại hàng hóa khác cho binh lính Xô viết. Một trong những tay năng nổ  đó 

cứ  bám chặt lấy tôi, đòi bán những bộ  com lê thứ  thiệt. Tôi tìm mọi cách xua đi, nhƣng 

hắn  vẫn  không  để  tôi  yên.  Lúc  ấy  kiểu  com  lê  màu  xanh  Boston  đang  thịnh  hành  ở

Moscow. Cuối cùng tôi hỏi xem hắn có bộ  Boston xanh nào không. “Có  ạ, có chứ, thƣa 

pan đồng chí.” Và đề  nghị  tôi đi theo hắn. Hắn dẫn tôi qua mấy cái sân thông với nhau, 

hết cái này đến cái khác làm tôi mất hết phƣơng hƣớng, không xác định đƣợc đâu là phố

chính nữa. Hắn dừng lại  ở  một tầng hầm, từ  đấy dẫn tôi sang một cái khác rồi bảo tôi 

đứng chờ. Tôi nhìn quanh và thấy có vài khối nhà bê tông không có cửa sổ. Bóng đèn 

trên trần đang sáng lờ  mờ. Đột nhiên, đằng sau cánh cửa mà ngƣời đàn ông kia vừa biến 

mất, tôi nghe tiếng kim loại chạm nhẹ, tựa nhƣ tiếng ai đó đang lên đạn, mở và đóng chốt 

cửa. Tôi mở  nút bao da đựng súng và chạy ra sân. Tới đó tôi dừng lại nghe ngóng xem 

chuyện gì xảy ra tiếp theo. Nhƣng mọi thứ  vẫn yên lặng, còn tay bán bộ  vest Boston thì 

biệt tăm. Tôi mau chóng thoát khỏi cái mê cung đó để ra phố chính an toàn hơn. Đến giờ, 

tôi vẫn không biết đƣợc lúc  ấy tôi đã tránh khỏi một mối nguy hiểm chết ngƣời hay đơn 

giản là đánh mất cơ hội có đƣợc một bộ vest màu xanh Boston. 

Đất nƣớc của các pan Ba Lan đã tan rã. Đồng  tiền Ba Lan đang sống nốt những 

ngày cuối cùng của nó. Ngƣời dân địa phƣơng cố  gắng bán mọi thứ  để  đổi lấy đồng rúp 

Xô viết và đổi đi đồng tiền Ba Lan. Các cô gái Ba Lan xinh đẹp dạo trên các con phố của 

Nôvƣi Sambor, miệng nở  những nụ  cƣời quyến rũ, đề  nghị  các sĩ quan Xô viết đổi giấy 

bạc Ba Lan có mệnh giá lớn ra tiền Xô viết. Đấy thật là một mánh khoé ngờ nghệch, ngay 

cả  khi ngƣời đổi tiền là những ngƣời đẹp rất quyến rũ. Có cô chỉ  đơn giản khoác tay tôi 

và hỏi xem tôi có thể  đổi một trăm zloty hay không. Tôi đáp rằng tôi không đủ  giàu để

tặng cô món tiền cả trăm rúp. 

Giấy bạc Ba Lan đƣợc trang trí bởi chân dung của vô số đức vua và hoàng hậu Ba 

Lan.  Có  lần  tôi  nghe  một  ngƣời  lính,  khi  đang  mua  thuốc  lá  của  ngƣời  bán  rong  bên 

đƣờng, la lên: “Tao đƣa mày tờ tiền Xô viết tốt đẹp mà mày tráo (hay từ gì đó đại loại thế) 

lại một hoàng hậu Ba Lan nhƣ thế à?!” 

Tôi có mối quan hệ  phức tạp với tham mƣu trƣởng trung đoàn, đại úy Severin. 

Anh ta là ngƣời kiêu căng, luôn yêu cầu mọi ngƣời phải tuân theo các quân lệ  chính xác 

tới từng chữ một; anh ta không ƣa chúng tôi, những sĩ quan dự bị. Có lần tôi nhận một cú 

điện thoại từ  Starƣi Sambor yêu cầu phải lên gặp Severin. Tôi báo cáo lại cho khẩu đội 

trƣởng, đem một ngƣời lính đi theo, thắng ngựa và phóng đi dƣới mƣa trên con đƣờng lầy 

lội. Khi tới nơi, chúng tôi ngoài áo thì ƣớt sũng còn bên trong lại đầm đìa mồ  hôi. Sở  chỉ

huy đóng tại nơi trƣớc kia là một trƣờng học. Bên trong gian phòng lớn nóng bức, mấy 

cái đèn dầu hỏa đang bốc khói; Severin đang đi lại trong phòng, đọc điều gì đó cho ngƣời 

thƣ ký ghi chép. Nƣớc mƣa từ  mũ ròng ròng chảy xuống, do đó tôi bỏ  mũ ra và cầm nó 

nằm ngang trên tay trái gập lại. Cuối cùng đại uý cũng quay sang tôi, nghe tôi báo cáo có 

mặt. Đột nhiên Severin công kích: “Anh đang  ở  đâu vậy? Trong quán rƣợu hay tại chiến 

trƣờng? Tại sao anh lại xử  sự  nhƣ thế?“ và mấy câu khác tƣơng tự. Tôi đứng đấy mà 

không hiểu chuyện gì xảy ra. Ngƣời thƣ ký đứng sau lƣng Severin, nhìn thẳng vào mặt tôi 

mà cƣời khúc khích. Đại uý tiếp tục hét lên. Mọi thứ  trong ngƣời tôi sôi sục cả  lên. Cuối 

cùng, Severin nói rõ lý do mình nổi nóng: “Tại sao anh bƣớc vào mà lại bỏ  mũ ra? Sao 

anh có thể  báo cáo đƣợc trong tƣ thế  đó? Anh không thấy là các cấp trên của anh đều 

đang đội mũ sao ? Tại sao anh báo cáo mà không đội mũ?!” Tôi không thể  giữ  đƣợc nữa 

và buột miệng: “Đấy là thói quen của một ngƣời có văn hóa, phải bỏ  mũ ra khi bƣớc vào 

phòng.” “Thế…ế  à ?!” – đại uý gầm lên, “Vâng, thế đấy,” – tôi đáp lại. “Đằng sau quay ! 

Đi đều, bƣớc !”  –  anh ta ra lệnh. Tôi quay lại  theo đúng điều lệ  quân đội, giẫm loảng 

xoảng đôi cựa thúc ngựa và bƣớc ra ngoài hành lang. Tôi đứng đó, chờ  một lúc lâu  –

không có gì xảy ra. Rồi chúng tôi thắt chặt đai yên ngựa và phóng trở  về. Cuối cùng vẫn 

không biết đƣợc là tại sao Severin cho gọi tôi. Có thể  là anh ta thích cái bản đồ  màu mè 

tôi đã vẽ và muốn giao cho tôi tất cả công việc đồ họa của sở chỉ huy trung đoàn. Hoặc có 

thể  là anh ta muốn chuyển hẳn tôi lên làm tại sở  chỉ  huy chăng. Tất nhiên làm việc  ở  đó 

thì nhẹ  nhàng và an toàn hơn  ở  khẩu đội nhƣng  ở  dƣới một ông chủ  nhƣ Severin cũng 

chẳng ngọt ngào gì. Câu chuyện vẫn chƣa kết thúc  ở  đó. Severin không bao giờ  quên lần 

gặp mặt ấy và từ sau anh ta luôn tìm cách nhắc lại với tôi khi có dịp. 

Trong  khi  đó,  tình  hình  Châu  Âu  ngày  càng  căng  thẳng.  Hiển  nhiên  chúng  tôi 

đang ở trong trình trạng sẵn sàng chiến tranh. Các đợt huấn luyện khắc nghiệt bắt đầu, có 

cả  bắn đạn thật. Tôi đƣợc lệnh phải giảng cho anh em trong toàn khẩu đội về  chủ  nghĩa 

yêu nƣớc, về trách nhiệm bảo vệ Đất Mẹ của chúng tôi. Tôi không có trong tay tài liệu cụ

thể  nào nên phải lục óc ra để  kể  cho họ  nghe về  lịch sử  nƣớc Nga, bắt đầu từ  thời giặc 

Tatar xâm lƣợc. Họ  bảo rằng tôi dạy tốt, dù trình độ  các giám khảo không cao lắm. Họ

bắt đầu thay vũ khí của chúng tôi bằng những thứ  hiện đại hơn. Nhƣng khi đƣợc nhận 

quần áo ấm, chuẩn bị  gắn thanh trƣợt cho pháo, xe cộ  và các rơ moóc thì chúng tôi nhận 

ra mình đang đƣợc chuẩn bị  để  chiến đấu  ở  Phần Lan, nơi chiến tranh đã nổ  ra. Nhƣng 

đấy chỉ là giả thiết bởi thậm chí họ chẳng thông báo điều gì cho đám sĩ quan chúng tôi.

Mọi chuyện trở  nên khó khăn khi bắt đầu bƣớc qua năm mới, năm 1940. Chúng 

tôi, các sĩ quan cấp dƣới, quyết định tổ  chức Lễ  Giao thừa. Chúng tôi mua một chai rƣợu 

nhỏ, loại khai vị. Chính uỷ  biết đƣợc chuyện đó và tập hợp tất cả  chúng tôi lại họp chính 

trị buổi cuối trƣớc Giao thừa. Trƣớc tiên anh ta trình bày với chúng tôi về tình hình chính 

trị hiện tại, và rồi tuyên bố rằng Lễ Giao thừa là thói quen của bọn tƣ sản, không phù hợp 

với ngƣời Xô viết, lại càng không hợp với sĩ quan Hồng quân. Anh ta mời chúng tôi uống 

sữa với bánh mì đen và chỉ thả chúng tôi ra khi trời đã sáng, lúc giao thừa đã qua từ lâu.

Mùa đông tới, tuyết bắt đầu rơi và chúng tôi đã sẵn sàng để ra trận. Tôi đƣợc phân 

công vào trung đội thông tin, vô  tuy ến điện và điện thoại. Trung đội có nhiều trang thiết 

bị  còn binh lính thì rất ƣơng bƣớng ngang ngạnh. Chúng tôi đóng lại móng ngựa, tra dầu 

mỡ vào súng và chất các trang thiết bị lên xe ngựa. 

Một lần, trong buổi điểm danh cuối ngày của trung đội, tôi tiến lại một ngƣời lính 

đứng trong hàng và chỉ  cho xem đôi  ủng của anh ta bẩn nhƣ thế  nào. Anh ta cúi nhanh 

ngƣời xuống, cái lƣỡi lê cắm trên khẩu súng anh ta đeo trên vai xé toạc trán và gò má tôi. 

Giá đứng gần ngƣời lính  ấy thêm độ  một hai xăngtimét nữa thì hẳn tôi đã bị  khoét mất 

một con mắt rồi! 

Tình trạng khó khăn và u ám không chỉ  ở  mình khẩu đội tôi. Xung quanh chúng 

tôi tất cả  đều nhƣ thế. Trong làng đang bƣớc vào mùa gặt. Cuộc “thanh trừng” bắt đầu 

xuất hiện trong thành phố. Bất cứ  ai có lý lịch thuộc thành phần tƣ sản, chủ  cửa hàng, 

thƣơng nhân đều bị bắt và đƣa đi đày. Vậy mà phần lớn cộng đồng Do Thái lại sống bằng 

nghề buôn bán. 

Đến giữa tháng Giêng năm 1940 chúng tôi nhận lệnh hành quân tới ga xe lửa gần 

nhất để lên tàu. Chúng tôi lập thành đội hình hành quân. Những con đƣờng vào thời điểm 

ấy phủ đầy tuyết giá. Chúng tôi khởi hành vào sáng sớm và dự định sẽ tới nhà ga vào ban 

đêm để  bắt đầu lên tàu. Ngày mùa đông rất ngắn và trời tối rất sớm. Chúng tôi đi ngang 

vài thị trấn nhỏ, bên trong hình nhƣ đang tổ chức một lễ hội địa phƣơng. Tiếng nhạc vang 

lên từ nhiều ngôi nhà cửa sổ sáng đèn. Một ngƣời lính của chúng tôi, đang lạnh và đói, từ

trên lƣng ngựa nhòm vào một cửa sổ  đang mở  và la lên : “Yến tiệc đi, lũ cặn bã, rồi chờ

cho tới lúc chúng đến trừng phạt chúng mày.” Có lẽ  đây là những lời tiên tri chính xác 

đến khủng khiếp. 

Vận rủi bất chợt vồ  lấy tôi. Hai ngƣời lính thông tin của tôi bỗng biến mất. Tôi 

báo cáo điều đó cho khẩu đội trƣởng. Anh ta nổi giận và ra lệnh tôi phải quay lại tìm 

đằng sau trung đội chứ  không đi phía trƣớc nữa. Nhƣng không thấy ai đi tụt hậu cả. Anh 

ta lại ra lệnh cho tôi phi ngƣợc về  phía sau để  tự  tìm họ  cho bằng đƣợc. Tôi quành con 

ngựa đã mệt mỏi của mình lại, nhƣng không cách nào kiếm đƣợc những gã tụt hậu  ấy. 

Tôi tới hỏi một vài đơn vị thuộc ban chỉ huy nhƣng họ không biết thêm đƣợc điều gì. Tôi 

cũng ghé vào mấy cái làng. Con ngựa của tôi đang khát nƣớc. Tôi lấy nƣớc ở  một cái ao 

cho nó, đựng bằng cái áo mƣa tẩm nhựa mà tôi để trong túi trên yên ngựa. Sƣơng mù dày 

đặc và trời đã bắt đầu tối. Tôi đành quay ngựa lại. Con ngựa bị trƣợt ở một khúc quanh và 

tôi,  phần  vì mệt  và  phần  vì  ngồi  không  vững,  văng  từ  trên  yên  cắm  xuống  tuyết.  Con 

ngựa vẫn chạy tiếp. Tôi đứng dậy từ  đống tuyết, khắp mình trắng xoá, bụng nghĩ rằng 

chuyến này mình chắc tiêu rồi. Tôi sắp lạc mất con ngựa rồi.  Ồ  không, con Doll yêu quí 

chỉ  phóng đi chừng 10 mét, đang đứng lại nhìn tôi. Tôi chạy đến bên nó, vuốt ve và áp 

má mình vào cổ  nó. Lấy một phong sôcôla khỏi túi, chúng tôi cùng chia cho nhau. Con 

Doll khụt khịt và lấy môi ngoạm phần của nó từ  tay tôi. Tôi lại dắt nó đi dọc con đƣờng 

phủ  tuyết. Tối hôm  ấy trời rất tối và dày đặc sƣơng mù. Tôi chỉ  có một mình mà sức lực 

thì đã cạn kiệt. Bỗng tôi thấy một cái trại lẻ  loi, có lẽ  là trại của bọn “kulak”, trên một 

ngọn đồi nằm cạnh dải rừng hoang. Không còn chọn lựa nào khác, tôi tiến lại cánh cổng 

và gõ cửa. Một lúc lâu không có ai đáp lại. Cuối cùng, có ai đó hỏi bằng tiếng Ba Lan 

rằng tôi cần gì. Tôi đáp mình là một sĩ quan Nga và xin họ cho nghỉ qua đêm. Các cửa sổ

bật sáng, bên trong có vài cái bóng đi qua đi lại. Chắc họ  đang cân nhắc xem có nên cho 

tôi vào hay không. Hay có thể  họ  định cho tôi vào để  giết chết cũng nên…. Cuối cùng, 

một ngƣời đàn ông xách cái đèn lồng ra mở  cửa cho tôi. Tôi  dắt con ngựa của mình vào 

trong  căn  nhà  kho  ấm  áp,  nơi  có  mấy  con  bò  đang  rống  lên,  buộc  con  Doll  vào  ngăn 

chuồng còn trống. Tôi xoay sở  một cách khó nhọc để  tháo cái yên khỏi lƣng nó, thay cái 

dây cƣơng bằng một dây thừng buộc vào cột, trải cho một nắm rơm, rắc chút yến mạch 

trong túi cho nó rồi lót rơm dƣới chân nó. 

Tôi bƣớc vào căn nhà. Một ngọn đèn dầu với cái bấc cuộn xuống đang cháy lập 

lòe. Những ngƣời chủ  nhà đang yên lặng quan sát tôi. Tôi nói rằng mình cần nghỉ  ở  đây 

cho tới sáng và hỏi xem có chút gì ăn không. Họ  mang ra cái ca thiếc đựng sữa và một ít 

khoai tây luộc. Tôi dùng bữa ăn khiêm tốn ấy, đặt ba rúp lên bàn và ra thăm lại con ngựa 

của mình. Bây giờ  tôi đã có thể  cho nó uống nƣớc. Uống xong, Doll nằm dài xuống đám 

rơm.  Tôi  rất  muốn  chợp  mắt,  nhƣng  lấy  gì  bảo  đảm  là  tôi  sẽ  thức  dậy?  Đã  có  nhiều 

trƣờng hợp binh lính Xô viết bị  giết một cách lặng lẽ. Không ai biết là tôi đang  ở  đây. 

Thật dễ  dàng để  những ngƣời đó, những ngƣời có đủ  lý do để  nghĩ rằng tôi là một kẻ  thù 

hơn một ngƣời bạn, giết tôi khi đang ngủ. Con ngựa, bộ  yên cƣơng, khẩu súng ngắn, ống 

nhòm, giầy bốt, quần áo – tất cả những cái ấy đều rất có giá trị và rất dễ lấy. Và lấy ai để

trông chừng cho tôi? Khẩu đội của tôi thì đang lên tàu và có lẽ đã khởi hành, xem tôi nhƣ 

một kẻ lạc đơn vị. Tôi cởi áo choàng và đôi giày ra, nhét hết đồ đạc vào túi áo quân phục 

của mình và nằm dài trên giƣờng sau khi đã nhét khẩu súng ngắn và cái bao da xuống 

dƣới bụng. Rồi lăn ra ngủ  nhƣ chết trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Trời bắt đầu sáng dần. 

Tôi phải đi bởi có thể bị trễ lên tàu, lúc ấy biết đi đâu với con ngựa bây giờ? Làm thế nào 

để đuổi cho kịp tàu với con ngựa của mình đây? 

Tôi mặc áo choàng vào, gác yên con Doll và lên đƣờng. Mặt trời đang mọc. Có 

vài ngƣời đang dọn tuyết trên đƣờng. Ở  đấy chính là đƣờng ray xe lửa và nhà ga! Nhƣng 

trời ơi, tất cả đều trống trơn. Tim tôi nhƣ đông cứng lại. Phải chăng tôi đã tới trễ và tất cả

khẩu đội đều đã lên đƣờng? Tôi đi kiếm trƣởng ga và ngƣời chỉ huy an ninh. Hoá ra khẩu 

đội của tôi vẫn chƣa tới đƣợc đây và đang dừng lại nghỉ  đêm  ở  ngôi làng kế  cận. Việc 

chuyển quân lên tàu chỉ  đƣợc tiến hành vào lúc chiều tối. Và rồi những ngƣời lính thông 

tin của tôi xuất hiện. Hóa ra những tên vô lại  ấy thay vì hành quân với mọi ngƣời thì lại 

quyết định tự  đi tới  nhà ga bằng cách quá giang một chiếc xe tải cùng đƣờng. Tôi có thể

phạt giam họ  mƣời ngày cấm cố  chỉ  có bánh mì và nƣớc lã. Nhƣng do đang chuyển quân 

nên chúng tôi không có thời giờ  để  làm việc ấy. Trò ranh ma đê tiện của chúng dã không 

bị trừng trị. 

Chúng tôi đƣợc chất lên những “teplushkas”, các toa trần có gắn giƣờng ngủ  và 

cái bếp lò nhỏ  bằng sắt  -  các chỉ  huy đi chung với trung đội của mình. Khi đốt lò lên,  ở

trên thì nóng mà  ở  dƣới lại lạnh. Họ  đƣa chúng tôi về  phía bắc. Lúc này thì không còn 

nghi ngờ  gì nữa, đúng là chúng tôi đang bị  đƣa đi đánh nhau ở  Phần Lan. Vào thời điểm 

này trong năm thời tiết rất lạnh, tàu chúng tôi càng đi xa thì sƣơng giá càng dày đặc. Chỗ

tôi ở là giƣờng tầng hai, gần một cửa kính băng giá phủ kín. Một đêm, khi đang ngủ, một 

nhúm tóc của tôi bị  dính chặt vào lớp băng trên kính cửa. Tàu đi rất chậm nhƣng điều đó 

không làm chúng tôi buồn chán. Chúng tôi không muốn nhanh chóng đi gặp chiến tranh. 

Tôi hƣớng dẫn anh em trong các khóa học về trang thiết bị thông tin, giảng về các chủ đề

chính của tình hình chính trị  hiện đại. Tại các ga chúng tôi thƣờng đƣợc hỏi mua lại số

makhorka (một loại thuốc lá Nga nặng và rẻ  tiền) mà chúng tôi đƣợc phát. Tôi là ngƣời 

không hút thuốc nên thƣờng phân phát hết suất makhorka của mình cho anh em binh sĩ. 

Nhƣng  có  lần,  tại  một  ga  nọ,  một  công  nhân  đƣờng  sắt  lớn  tuổi  lại  gần  tôi  hỏi  mua 

makhorka. Tôi đƣa cái gói phần mình cho ông nhƣng từ chối lấy tiền. Ông già nói với tôi 

một cách chân thành và tự tin “Chúa hãy ban cho anh sống sót mà trở về.” Thật lòng, sau 

này tôi thƣờng nhớ  lại lời cầu phƣớc đó, bởi sau chiến tranh bạn thƣờng trở  nên mê tín. 

Mỗi khi thoát khỏi những tình huống hiểm nguy mà vẫn còn nguyên vẹn, tôi lại vô tình 

nghĩ rằøng đã mua lấy cuộc sống của mình bằng một gói makhorka. 

Bologoye nằm giữa chặng đƣờng từ  Maskva tới Leningrad. Chúng tôi tới đây từ

sáng sớm, mọi ngƣời vẫn còn đang ngủ  trên các toa. Mọi nhánh đƣờng đều kẹt cứng các 

đoàn tàu chất đầy trang thiết bị  quân sự. Chúng tôi tới một trạm dừng gần một đoàn tàu 

chở  các máy bay đã tháo rời. Tôi là sĩ quan chịu trách nhiệm tới gặp ngƣời chỉ  huy quân 

sự ở đây để báo cáo về sự có mặt của chúng tôi. Nhìn những khẩu pháo trên phù hiệu của 

tôi, ngƣời chỉ  huy cho rằng tôi thuộc trung đoàn pháo binh vừa tới nên mỉm cƣời thân 

mật: “Vừa đến hả? Nào, bây giờ anh phải ở lại với chúng tôi một lúc đã. Chúng tôi sẽ xếp 

cho các anh sang tuyến tránh ngay bây giờ. Hãy đƣa cho tôi xem giấy tờ  nào.” Tôi đƣa 

cho anh ta. Đọc xong số  hiệu đoàn tàu, trong đó cái từ  “bộ  binh” khắc nghiệt đƣợc viết 

dƣới dạng mật mã, tay chỉ  huy liền cau mày. Nụ  cƣời biến mất trên gƣơng mặt và anh ta 

đổi sang một giọng khác, lạnh lùng : “Về  bảo với mọi ngƣời không đƣợc ra khỏi các toa 

xe. Chúng tôi sẽ gửi các anh đi ngay lập tức.” Và tàu chúng tôi chuyển bánh đi Leningrad 

ngay lập tức. Chúng tôi cho rằng trong các khu rừng và đầm lầy Phần Lan thì bộ  binh 

chắc hẳn phải là lực lƣợng đƣợc sử dụng chủ  yếu và sẽ  chịu những tổn thất to lớn. Do đó 

chúng tôi không ngạc nhiên khi bị  chuyển thẳng tới tuyến đƣờng sắt chính dẫn ra  mặt 

trận. Nơi đấy cần có bộ binh ở tuyến đầu. Bộ binh – đấy là chúng tôi. …

Hồi ức của Mikhail Lukinov

Phần 2: Chiến dịch Băng giá 

Và chúng tôi đã tới Leningrad – thành phố vĩ đại của Piotr Đại đế và Lenin, thành 

phố của cuộc cách mạng làm kinh động thế giới, thành phố  của những dinh thự, bảo tàng 

và các công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Vậy nhƣng lúc này ta không cách nào nhận ra đƣợc 

tất cả  những thứ  ấy. Đây là một Leningrad khác, lạnh lẽo, thô lỗ, thành phố  tiền tuyến, 

ảm đạm, u ám, dày đặc sƣơng mù và phủ đầy tuyết. Đoàn tàu chở  chúng tôi dừng tại một 

ga chở  hàng. Súng  ống, đạn dƣợc, xe ngựa, xe goòng và tất cả  những phƣơng tiện giao 

thông sử  dụng ngựa kéo đƣợc chuyển tới đây xuyên qua thành phố  dƣới màn sƣơng dày. 

Các chuyến xe điện, kính bám đầy tuyết, đổ  về  đây đón ngƣời và đƣa họ  đi qua những 

con phố  tối tăm lạnh lẽo để  tới phía bắc thành phố. Chúng tôi đi qua thành phố  và tập 

trung tại một ngôi  làng ngoại ô, nơi chúng tôi đƣợc vào trú chân trong những ngôi nhà 

nông dân lèn chật ních ngƣời. Nhƣng giờ  đây, chúng tôi hài lòng với bất cứ  chỗ  trú thân 

nào trong cái giá lạnh khắc nghiệt ấy. Các sĩ quan đƣợc gọi lên để nhận chỉ thị. Chúng tôi 

đƣợc lệnh sáng mai bắt đầu hành quân, xuyên qua biên giới Phần Lan để tiến vào khu vực 

đang xảy ra chiến sự. Phải chuẩn bị  sẵn sàng cho bất kỳ  tình huống nào có thể  xảy ra 

trong chiến tranh. 

Trung đoàn bộ  binh 306 tham gia chiến dịch Phần Lan trong thành phần của Sƣ 

đoàn bộ  binh 62. Sƣ đoàn này đƣợc thành lập tại Belaya Tserkov và Fastov thuộc Quân 

khu Kiev. Sƣ đoàn đƣợc biên chế  trong Tập đoàn quân 13 tại bán đảo Karelia theo Mật 

lệnh quân sự  18.01.1940. Sƣ đoàn nhận lệnh tập trung quanh làng Lipola vào ngày 30 

tháng Giêng năm 1940. Sƣ đoàn đã hành quân tới mặt trận ngày 3 tháng Hai năm 1940 và 

tới 17 tháng Hai đƣợc chuyển tới biên chế  cho Binh đoàn Bộ  binh 23 từ  lực lƣợng dự  bị

của Tập đoàn quân 13. Hành quân từ Lipola tới Kangaspelto từ 17 tới 20 tháng Hai 1940. 

Tham gia tấn công Volossula ngày 19 tháng Hai 1940, Kelya ngày 20 tháng Hai, sau đó 

đóng quân tại khu vực Mutaranta trong thời gian từ  21 tới 23 tháng Hai 1940. Lên xe lửa 

ngày 21 tháng Ba năm 1940 và di chuyển tới Quân khu Kiev từ  Leningrad. Các thông tin 

trên lấy từ tập 1 bộ “Hãy đón chào chúng tôi, hỡi Phần Lan xinh đẹp”. St.Petersburg 1999, 

ISBN 5-8172-0022-8, chủ  bút  -  Yevgeniy Balashov, NXB OOO Galea Print. (Theo Bair 

Irincheev).   

Vào lúc tảng sáng, chúng tôi lập thành một đội hình hành quân và tiến  về  biên 

giới Phần  Lan,  cái biên  giới hóa ra rất gần với  ngoại ô  Leningrad. Chúng tôi rất ngạc 

nhiên: một thành phố  to lớn, là một trong những trung tâm quan trọng nhất nƣớc ta, lại 

nằm gần nhƣ thế  cạnh biên giới một nƣớc thù địch. Vƣợt qua các cột mốc biên  giới và 

khu “vành đai trắng”. Về  phía biên giới của ta, các chốt canh không che bằng ván gỗ  mà 

chăng lƣới kẽm gai xen lẫn những bó cành thông và linh sam bện lại. Đó là cách nguỵ

trang của lính biên phòng để  chống bọn bắn tỉa của Phần Lan. Và thế  là, sau  khi đã vƣợt 

qua biên giới Ba Lan, chúng tôi đã vƣợt tiếp một dải biên giới nữa của tổ  quốc. Bởi điều 

đó là cần thiết.

Đất nƣớc Phần Lan. Nhà cửa bị  đốt cháy khi rút lui, cầu cống nổ  tung, đó đây lỗ

chỗ  hố  đạn và hố  mìn đen ngòm. Đôi chỗ  có những biển báo,  yêu cầu tất cả  hoạt động 

vận chuyển chỉ đƣợc thực hiện trên đƣờng lộ do hai bên đƣờng đều bị cài mìn, nguỵ trang 

dƣới lớp tuyết. Dây điện thoại dã chiến, bị  bọn Phần Lan bỏ  lại, lộ  ra rất rõ dƣới tuyết, 

mảnh, nhẹ, bọc trong vỏ  nhựa màu. Dây thông tin của  chúng ta thì nặng, làm bằng thép 

và bọc lớp cách điện màu đen rất dày.  Ống quấn dây cũng bằng sắt, rất nặng và rất khó 

cuộn lại hay rải ra. 

Chiến tuyến tại bán đảo Karelia ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1940. 

Lấy từ “The battles of Winter war”

Sƣơng giá thật khủng khiếp. Không tài nào cƣỡi ngựa đƣợc. Chúng tôi phải đi bộ, 

ngựa dắt theo sau. Sƣơng giá bám đầy trên những bộ  lông ngựa. Các kỹ  sƣ công binh 

phải đốt lên những đống lửa dọc hai bên đƣờng hành quân. Bạn có thể  dừng lại sƣởi  ấm 

đôi chút, mặc cho khói bốc vào mũi làm nghẹt thở. Tới cuối ngày đầu tiên chúng tôi dừng 

lại nghỉ  đêm tại điểm trú quân của một đơn vị  công binh, trông ra con đƣờng có mấy cây 

cầu lắp ghép. Đó là cái kho thóc và chuồng ngựa còn lại của một trang trại, các dãy nhà 

chính và nhà phụ  đã bị  chính tay ngƣời Phần Lan đốt bỏ  khi rút lui. Kho thóc và chuồng 

ngựa đó giờ  đây  chẳng  khác nào cung điện đối với chúng tôi. Sự  hiếu khách của đám 

công binh, điều hiếm khi xảy ra, thật đáng cảm động. 

Ngày  hôm  sau  chúng  tôi  bắt  đầu  tới  gần  mặt  trận.  Điều  đầu  tiên  đập  vào  mắt 

chúng tôi là những xác chết đông cứng của binh lính và sĩ quan ta nằm rải rác, bị  tuyết 

phủ  kín. Họ  nằm lại ngay nơi họ  bị  thần chết túm lấy, trong các tƣ thế  khác nhau. Trƣớc 

đây chúng tôi đối xử  với ngƣời chết rất tôn trọng. Có áo quan, lễ  tang, lễ  tiễn biệt, mọi 

ngƣời dừng lại xung quanh để  tƣởng niệm, che đi những tấm gƣơng, vặn cho đồng hồ

dừng lại. Nhƣng giờ  đây dƣờng nhƣ chẳng còn ai quan tâm tới những điều  ấy nữa. Cứ

nhƣ thể  họ, những ngƣời đã đi trƣớc, đang nói với chúng tôi rằng cái chết là điều vẫn 

thƣờng xuất hiện nơi đây. Họ  đã bị  giết, nên cứ  để  họ  lại, nhƣ vậy cũng là bình thƣờng 

thôi. Đấy chính là chiến tranh, và mọi chuyện ở đây tất nhiên là phải khác với trong cuộc 

sống thời bình. Ở đây bạn phải làm quen với chuyện đó. 

Chúng tôi đã tới chiến tuyến, đằng sau là tuyến phòng thủ cuối cùng của Phần Lan. 

Những đơn vị phía cánh phải và cánh trái vui vẻ sắp xếp chỗ ở cho chúng tôi, giao cho sƣ 

đoàn chúng tôi phụ  trách một khu vực đơn lập. Sau này tôi nghe kể  các sĩ quan bộ  binh 

đã phát biểu một cách ác ý rằng cánh “hàng xóm” đã giao cho chúng tôi đảm trách khu 

vực khốc liệt nhất để mình đƣợc rút tới nơi dễ thở hơn. 

Vâng,  chúng tôi đã tới “Phòng tuyến Mannerheim". Những dãy lô cốt bêtông, tua 

tủa các họng đại bác và súng máy, nằm trên những ngọn đồi đƣợc che khuất bởi những 

khu rừng rậm rạp. Những “cửa sổ” không đóng băng khoét trên mặt băng của các đầm 

lầy trũng xen giữa  các lô cốt, luôn đƣợc kiểm tra thƣờng xuyên, đổ  đầy dầu và rắc tuyết 

lên trên. Ngã vào những “cửa sổ” đó nghĩa là cầm chắc cái chết. Thêm vào đó, những 

khoảng đất trống giữa các lô cốt luôn nằm trong tầm hỏa lực chéo cánh sẻ bắn ra từ các lô 

cốt. 

Chúng tôi dừng lại. Trung đoàn 306 chúng tôi đƣợc đƣa lên tuyến đầu, hai trung 

đoàn còn lại của sƣ đoàn chúng tôi đƣợc bố trí dự bị ở phía sau. Nhƣ thƣờng lệ, chúng tôi 

lại là những kẻ “may mắn”. Bắt tay vào đào các công sự chiến đấu. Mặt đất bị đông cứng, 

chúng tôi phải cho nổ chúng lên bằng thuốc nổ TNT. Chúng tôi chặt gỗ thông để lợp mái 

do nơi đây có rất nhiều rừng. 

Vì lý do gì đó phải gặp chính trị viên nên tôi đi hỏi tìm anh ta. Mọi ngƣời bảo anh 

ta đang đi lấy vodka cho khẩu đội. Tôi không tin vào tai mình nữa. Hắn, một tay chống 

rƣợu, ngƣời đã phá hỏng bữa tiệc mừng Giao thừa của chúng tôi chỉ  vì sợ  chúng tôi sẽ

uống một cốc rƣợu vang. Vậy màø bây giờ  chính hắn lại là ngƣời đi lấy vodka đem về. 

Nhƣng đời là vậy đấy. Ngƣời ta phát cho chúng tôi 100 gram vodka mỗi ngày. Nó giúp 

chúng tôi nóng ngƣời và cảm thấy phấn chấn trong giá rét, đồng thời nó làm chúng tôi 

thêm can đảm khi tấn công. Khoảng hai ngày sau khi chúng tôi tới mặt trận, chủ  nhiệm 

pháo binh trung đoàn gọi tất cả sĩ quan của các khẩu đội lên gặp mặt. Ông thông báo rằng 

đợt tấn công vào các vị  trí của đối phƣơng sẽ  bắt đầu vào ngày hôm sau. Hôm nay sẽ  có 

vài sĩ quan cao cấp của ban tham mƣu sƣ đoàn dẫn một nhóm sĩ quan chúng tôi đi trinh 

sát. Tôi trở  về  khẩu đội để  bố  trí ngƣời thay tôi chỉ  huy trung đội trong khi tôi vắng mặt. 

Có hai cậu lính thông tin đề  nghị  tôi cho phép đi cùng để  “xem bọn Phần Lan thế  nào”. 

Tôi đồng ý một cách bất đắc dĩ. 

Và thế  là một nhóm gồm những sĩ quan bộ  binh và pháo binh, khoảng 12 tới 15 

ngƣời, rời khỏi doanh trại để  tiến theo hƣớng Bắc vào khu rừng. Chúng tôi đi theo hàng 

một, vƣợt qua lối mòn tạo bởi một rãnh tuyết sâu. Ngƣời sĩ quan cấp cao dẫn đầu, chúng 

tôi theo sau. Mấy tay lính thông tin hiếu kỳ của tôi đi chặn hậu. Tay phải chúng tôi là một 

dãy đồi, còn phía  tay trái là một khoảng dốc trống trải. Buổi sáng hôm đó trời rất đẹp: 

sƣơng giá, trời xanh trong, mặt trời chiếu sáng và xung quanh rất yên tĩnh. Tiếng động 

duy nhất là tiếng tuyết kêu cót két dƣới chân. Chúng tôi tiến sâu dần vào rừng. Tôi nhìn 

quanh và không thể nhận ra đâu là vị trí chúng tôi, đâu là chỗ bố trí bộ binh và đâu là chỗ 

bố  trí các đơn vị  tiền tiêu nữa, dù chúng tôi vừa mới rời doanh trại đƣợc không xa. Xung 

quanh chỉ thấy toàn rừng thông, rãnh tuyết và một sự yên tĩnh giả tạo. Một cảm giác lo sợ

và cảnh giác dần dần xuất hiện. Mấy cậu thông tin đi sau chúng tôi bắt đầu bị tụt lại. Hiển 

nhiên họ  hiểu là chúng tôi đang đƣợc dẫn thẳng tới thăm bọn Phần Lan. Đột nhiên, khu 

rừng kết thúc bởi một hẻm núi dốc đứng, và chúng tôi cảm thấy phấn khởi trƣớc sự quang 

đãng  ấy. Một con suối nhỏ  đóng băng chảy dọc theo đáy hẻm núi đó. Một cây cầu bắc 

ngang qua nó, bị  chặn bởi một đống đá to.  Ở  bờ  bên kia của hẻm núi, ngay trƣớc mặt 

chúng tôi khoảng không hơn 100 mét, chễm chệ  một  ụ  lô cốt bê tông, chĩa thẳng  những 

nòng đại bác và súng máy qua lỗ  châu mai vào chúng tôi. Sau lô cốt thấp thoáng mấy 

bóng ngƣời đang đào những rãnh chiến hào sâu trong tuyết. Tôi không thể  tin vào mắt 

mình nữa. Chúng tôi đƣợc dẫn ra giữa khoảng đất trống, ngay trƣớc họng súng của bọn 

Phần Lan. Tất cả bọn tôi sẽ bị quét sạch lập tức bởi một loạt súng máy. Vài chiếc xe trƣợt 

nằm cạnh chỗ  chúng tôi, trên có một chiếc chậu tráng men xanh nhạt, trông thật tƣơng 

phản với màu tuyết trắng. Tất nhiên, đấy chính là cái mốc đặt sẵn làm điểm chuẩn ngắm 

bắn. 

Trong khi đó, ông sĩ quan chỉ  huy vẫn đang lên lớp, tay khoa trong không khí: 

“Phải bố  trí đại bác  ở  vị  trí này để  tăng rộng góc xạ  kích, còn bộ  binh thì phải tiến quân 

dọc theo đáy khe núi.”  –  và nói thêm mấy câu gì đó tƣơng tự. Đầu óc tôi quýnh cả  lên: 

“Tại sao bọn Phần Lan không nổ  súng ngay? Chúng có trông rõ chúng ta không?” Hai 

ngƣời trong bọn tôi, phấn khởi vì sự  im lặng từ  phía cái lô cốt, bắt đầu tụt xuống và ném 

vài hòn đá về  phía cây cầu. Viên sĩ quan chỉ  huy đang tiếp tục bài hƣớng  dẫn của mình, 

nhƣng phía địch vẫn im lặng, tại sao vậy? 

Và rồi, thình lình mấy phát súng vang lên sau lƣng chúng tôi, phá vỡ  sự  yên tĩnh. 

Tôi quay lại: mấy cậu lính thông tin, đứng trên con đƣờng mòn cách chỗ  chúng tôi một 

quãng xa, đang nã súng về  phía  tay trái, vào cái khe núi. Tại đấy, giữa đám rừng, xuất 

hiện mấy bóng ngƣời trƣợt tuyết mặc đồ  trắng đang phóng ra sau chúng tôi, cố  gắng cắt 

đứt đƣờng rút lui. “Bọn Phần Lan”  –  tôi hét lớn, và toàn nhóm chúng tôi hốt hoảng thối 

lui, chân lún trong lớp tuyết dày. Thế là đã rõ lý do tại sao chúng tôi không ăn đạn từ phía 

lô cốt: chúng muốn bắt sống chúng tôi bằng cách chặn đƣờng rút lui. Làm thế  nào mà 

chúng  tôi  có  thể  xoay  sở  đƣợc  với  mấy  khẩu  súng  ngắn,  chân  thì  lún  sâu  trong  tuyết, 

trong khi có cả  một toán Phần Lan trang bị  đầy đủ  súng máy bao vây xung quanh? Một 

nửa bọn tôi sẽ  bị  giết, nửa còn lại sẽ  bị  bắt làm tù binh. Quân địch cần biết thông tin về

lực lƣợng đối phƣơng, và chúng sẵn sàng tra tấn những ngƣời còn sống để  moi lấy nó. 

Thật  may  mắn  là  bọn  lính  trƣợt  tuyết  Phần  Lan  lại  tiến  thẳng  tới  chỗ  mấy  ngƣời  lính 

thông tin, và họ  đã nổ  súng vào chúng. Tất nhiên phía Phần Lan không thể  ngờ  rằng chỉ

có mỗi hai ngƣời đi đằng sau nhóm chúng tôi (mà ngay điều đó cũng chỉ do tình cờ), chứ

không phải cả  một trung đội cảnh vệ. Đấy là lý do tại sao chúng không dám khép kín 

vòng vây. 

Nhóm chúng tôi mau chóng quay trở  về. Một vài ngƣời chửi rủa không cần giấu 

diếm, những ngƣời còn lại thì im lặng và buồn rầu, trong bụng hiểu rõ chuyến mạo hiểm 

này đáng lẽ  đã kết  thúc không hay thế  nào. Một ngƣời trong nhóm cất tiếng cƣời nhạo 

những gì đã xảy ra, cố gắng che giấu nỗi sợ hãi của bản thân. Ngƣời sĩ quan chỉ huy cũng 

thử  bắt chuyện sang một vấn đề  khác, nhƣng không còn ai lắng nghe ông ta, mọi ngƣời 

đều đang cố  thoát  khỏi khu rừng nguy hiểm này càng nhanh càng tốt. Cuối cùng chúng 

tôi cũng về  tới doanh trại của mình. Nhƣng điều đầu tiên chúng tôi nhìn thấy không phải 

những đội tiền tiêu hay những tuyến lính bộ binh mà là một xe nhà bếp cùng một tay anh 

nuôi  đang  trút  tuyết  vào  nồi.  Có  ai  đó  trong  nhóm  bảo  với  tay  anh  nuôi  rằng  đang  lẽ

chúng tôi không nên đi xa đến thế, và rằng bọn Phần Lan đang ở  rất gần. “Bọn Phần Lan 

nào? Tôi mà gặp thì sẽ  lấy cái muôi này choảng chúng một trận nên thân!” Thái độ  lạc 

quan đó còn phổ biến trong phần lớn binh sĩ, cho tới khi chúng tôi phải thực sự tắm mình 

trong máu. Tất nhiên, không một ai ngỏ  lời cám ơn tôi vì đã đem theo mấy cậu lính đã 

cứu mạng cả nhóm. Những trận chiến và mối hiểm nguy thực sự vẫn còn ở phía trƣớc. 

Phần còn lại trong ngày là dành cho việc chuẩn bị  cho trận đánh diễn ra vào hôm 

sau: tôi phải đi kiểm tra lại radio và máy điện thoại. Tới xế  chiều chúng tôi gọi một lần 

nữa cho cấp trên để  xin chỉ  thị  hƣớng dẫn. Khi về  tới hầm trú ẩn vào chập tối, cởi cái áo 

khoác ngoài  cửa và bật đèn pin lên, tôi bỗng phát hoảng. Bên trong đầy binh lính ngủ

chồng chất lên nhau, cát không ngừng rơi từ nóc hầm xuống – căn hầm quá nhỏ. Tôi phải 

tới ngủ  nhờ  hầm của chính trị  viên. Anh ta dùng một cái lều tròn xinh xinh cho riêng 

mình, bên trong trang bị  cả  lò sƣởi. Tay chính trị  viên đang “sửa soạn”  cho trận đánh 

ngày mai bằng cách khâu một cái cổ  áo trắng vào bộ  quân phục của mình. Tôi lăn ra ngủ

tại chỗ  anh ta, không cởi quần áo mà nằm ngay trên sàn làm bằng tuyết nện kỹ  trên lớp 

cành thông. 

Buổi  sáng  diễn  ra  trận  chiến  đầu  tiên,  tôi  cùng  với  mấy  cậu  lính  thông  tin  của 

mình đƣợc lệnh đi theo các trung đội hỏa lực để  tháp tùng một xe giàn chất radio và các 

thiết bị  điện thoại liên lạc, khẩn trƣơng thiết lập đƣờng dây thông tin chỉ  huy. Chúng tôi 

đi vào rừng, theo sau đám bộ  binh. Ngƣời lính hy sinh đầu tiên của trung đoàn chúng tôi 

nằm đó, trên khoảng đất trống. Điều đó có nghĩa là bọn Phần Lan đã chủ động phục sẵn ở

khoảng trống này từ hồi đêm để phục kích các đơn vị tấn công của chúng tôi. Một cái mũ 

sắt bị  một viên đạn xuyên thủng và một mặt nạ  phòng độc,  ống thở  bê bết máu, nằm lăn 

lóc cạnh xác ngƣời lính. 

Chúng tôi di chuyển dọc theo khu rừng về  phía cái lô cốt đã trinh sát ngày hôm 

qua. Từ  phía đó vang lên những tiếng hô "Hurrah!", tiếng nổ  và tiếng súng máy. Ngƣời 

thƣơng binh đầu tiên xuất hiện, mình băng trắng và đang rên rỉ. Theo cẩm nang dã chiến 

thì việc di chuyển thƣơng binh phải đƣợc thực hiện trên một con đƣờng không trùng với 

tuyến chuyển quân tiếp viện, nhằm không làm suy giảm ý chí chiến đấu của họ. Nhƣng 

ai mà còn hơi sức nghĩ tới những chuyện nhƣ thế trong khi đánh nhau? Đạn cối đang bay 

về  phía chúng tôi, nổ  tung lên hàng cột đất và tuyết. Tôi đang đi bên trái của chiếc xe 

giàn, chân ngập trong tuyết. Đột nhiên, có một điều gì đó thúc tôi băng sang bên phải, dù 

đƣờng bên đó khó đi hơn. Tôi vừa đi đƣợc mấy bƣớc thì một quả đạn cối rít tới cắm đúng 

vào khoảng đất phía bên trái chiếc xe, nơi hồi nãy tôi vừa bƣớc đi. Nó chui sâu vào tuyết 

nhƣng không phát nổ. Nếu tôi không băng qua phía bên kia xe giàn, rất có thể tôi đã mất 

mạng. Nhƣng ngay cả việc bƣớc sang phía bên kia chiếc xe cũng không thể cứu mạng tôi 

trong trƣờng hợp quả  đạn phát nổ. May mắn thay, không phải tất cả  đạn pháo của quân 

Phần Lan đều nổ. Về  sau tôi đƣợc biết rằng có một số  đạn dƣợc đƣợc chuyển cho Phần 

Lan bởi chính những đồng minh phƣơng Tây từ  kho vũ khí quá hạn của họ: “Lạy Chúa, 

hãy nhận lấy những thứ mà chúng tôi không dùng nữa”. 

Điều gì đã khiến tôi đổi chỗ  đúng một phút trƣớc khi quả  đạn bay tới? Hình nhƣ 

đó là bản năng, thứ giúp một con thú rời bỏ chỗ trú ngay trƣớc khi viên đạn bắn tới. Thôi 

đành cứ tạm nghĩ nhƣ vậy. 

Lính bộ  binh tấn công lô cốt ngay từ  chính diện, chịu tổn thất nặng. Nhƣng cũng 

có thể  đi vòng qua và tấn công từ  sau lại, bởi đằng  sau không có các lỗ  châu mai gắn đại 

bác và súng máy. Nhƣng anh không thể  đứng ra phê phán các vị  chỉ  huy. Họ  không thể 

mắc  sai  lầm,  chẳng  khác  nào  chính  vợ  của  Xêda.  Cuối  cùng,  chúng  tôi cũng  tìm  cách 

chiếm đƣợc cái lô cốt. Một chiếc xe tăng phun lửa tiến tới và phụt vài cột lửa vào mấy lỗ

châu mai (có thể khẳng định đó là loại tăng T-26 có gắn súng phun lửa - Valera Potapov). 

Bọn Phần Lan rút chạy. Đƣờng rút của chúng đƣợc yểm trợ bởi một xạ thủ trung liên, hắn 

kéo khẩu súng của mình lên nóc lô cốt và đã hy sinh một cách anh hùng trong khi bắn trả

quân tấn công. Khi lính bộ  binh của chúng tôi đang tiến lên truy kích, tôi chạy tới thử

nhìn vào trong cái lô cốt vừa chiếm đƣợc. Và sự  tò mò của tôi đã đƣợc đền đáp xứng 

đáng. Khi lô cốt này thất thủ  thì những  lô cốt lân cận, vẫn còn nằm trong tay quân Phần 

Lan, lập tức nã pháo vào nó. Nhiều quả  đạn nổ  tung, nhƣng may mắn là không gây tổn 

thất gì cho chúng tôi. Những lớp tƣờng bê tông dày đƣợc bọc bằng nhiều tấm giáp kim 

loại chống chấn động. Đó là lý do tại sao  các loạt đạn xuyên thép không thể  bắn thủng 

tƣờng mà chỉ  bật đi. Xác binh lính của chúng tôi nằm ngổn ngang phía trƣớc lô cốt, vài 

cái trong số  đó bị  cháy nám vì lửa phun ra từ  chiếc xe tăng và bị  xích của nó nghiền nát. 

Đó là vì chiếc xe tăng đã tới lô cốt sau họ (Tại sao họ không đƣa nó tới sớm hơn?) và lăn 

lên trên mấy xác chết. Một cảnh tƣợng thật kinh khủng. 

Cái xác nhỏ  bé của tay xạ  thủ  súng máy nằm lăn lóc ngay trƣớc lối vào lô cốt, và 

lính của chúng tôi mỗi khi bƣớc vào lô cốt đều căm giận đá nó một cái. Khẩu súng cũng 

nằm cạnh đó. Đó là một khẩu Maxim kiểu cũ. Tôi nhìn thấy trên lá chắn có dòng chữ: 

"Xƣởng vũ khí Hoàng gia Tula. 1915." Thật là một sự  trớ  trêu của số  phận. Vũ khí Nga 

đƣợc sử dụng để chống lại chính ngƣời Nga. 

Xe tăng phun lửa OT-26 đang tiến công.

Vài thứ đồ đạc bên trong lô cốt cũng bị đốt cháy bởi họng súng phun lửa. Tôi nhìn 

thấy một đồng tiền kim loại nằm trên bàn, có lẽ  là bùa khƣớc của một trong những lính 

phòng thủ  lô cốt. Tôi vội vã cầm lên. Đó là một đồng tiền cổ  Thụy Điển mệnh giá ba 

crown. Khi rời lô cốt, tôi chạy tới khoe với khẩu đội trƣởng: “Nhìn này,”  –  tôi la lên,  -"Xem tôi tìm đƣợc gì đây! Đây là đồng tiền cổ Thuỵ Điển, có lẽ từ thế kỷ XVI, rất có thể

thuộc vƣơng triều Vaaza." Tay khẩu đội trƣởng giằng lấy đồng tiền, ngắm nghía rồi thình 

lình vung tay ném mạnh vào một đám tuyết. “Anh không đƣợc phép sử dụng ngoại tệ,” –

hắn lên lớp và ngạo mạn bỏ  đi. Tôi cảm thấy bị  xúc  phạm ghê gớm. Đã hơn bốn mƣơi 

năm kể  từ  ngày  ấy, rất nhiều sự  kiện đã qua đi, vậy mà tôi vẫn thấy điên ngƣời mỗi lần 

nhớ  tới tay khẩu đội trƣởng ngu xuẩn nọ, và vẫn còn tiếc đồng tiền ấy, đáng ra có thể  trở 

thành một vật bổ  sung có giá trị  cho bộ  sƣu tập tiền cổ  của tôi, gắn với những kỷ  niệm 

đáng nhớ tới vậy. 

Trong suốt ngày đầu tiên, cùng với những bộ binh tấn công lô cốt còn có rất nhiều 

ngƣời đã cố tới để "xem bọn Phần Lan thế nào" cũng thiệt mạng. Kỹ thuật viên pháo binh 

của khẩu đội, ngƣời hoàn toàn  không có trách nhiệm gì ngoài chiến trƣờng, cũng chết 

theo kiểu ấy. Khi ngƣời ta mang anh ta, bị  thƣơng nặng, ngang qua chỗ  chúng tôi, anh ta 

hét lên với khẩu đội trƣởng rằng ngƣời anh đang bị  đông cứng lại. Thực ra, băng giá dữ

dội không chỉ huỷ hoại những vết thƣơng, mà còn bởi anh sẽ phải cởi quần áo để băng bó 

trong giá tuyết. Ngƣời chuyên viên kỹ  thuật chết vào ngày hôm sau, tại trạm quân y. Rất 

nhiều ngƣời trong khẩu đội tôi cũng bị trúng đạn trong khi đang cố lăn khẩu pháo tới chỗ

trống để nổ súng. 

Ngƣời ta kể  rằng trƣớc trận đánh đầu tiên, một chính trị  viên tới nói chuyện với 

những binh lính sẽ  đi tấn công cái lô cốt và kêu gọi họ  hãy thể  hiện xuất sắc chủ  nghĩa 

anh hùng. Tới sát giờ  tiến công, tay chính trị  viên chuẩn bị rút lui, có mấy ngƣời lính  lên 

tiếng: “Hãy cùng đi với chúng tôi, đồng chí chính uỷ.” Tôi có thấy xác viên chính uỷ  ấy. 

Anh ta nằm úp mặt xuống đất cùng mấy xác chết khác và nổi bật giữa đám xác  ấy bởi 

những nút mạ vàng đính trên thắt lƣng áo khoác quân phục của mình. 

Trong ngày hôm đó, sau trận đánh, chỉ còn đám bộ binh là tiếp tục truy kích quân 

Phần  Lan,  khẩu  đội  pháo  của  chúng  tôi  đóng  lại  đấy  một  thời  gian  nữa.  Lần  đầu  tiên 

chúng tôi qua đêm ngay dƣới bầu trời rộng lớn, giữa màn sƣơng, ngồi quanh đống lửa bởi 

các hầm trú ẩn đều chứa đầy thƣơng binh. Điều đó nghĩa là trạm quân y cũng đã quá tải. 

Khó mà ngủ  đƣợc khi đang ngồi quanh đống lửa giữa sƣơng giá. Bạn bị  cháy bỏng trƣớc 

mặt, nhƣng lƣng bạn lại lạnh cóng. Trong lúc ngủ  gà ngủ  gật bạn chúi ngƣời về  trƣớc và 

thế là quần áo sẽ bắt lửa. Thật là một cuộc chiến tranh đáng nguyền rủa. 

Chúng tôi bắt đầu triển khai tấn công. Khi rút lui, quân Phần Lan đánh trả  rất ác, 

đốt bỏ  tất cả  nhà cửa, gài mìn lại khắp mọi nơi. Trong một lần tháo chạy vội vã chúng 

thậm chí còn đốt bỏ  cả  chuồng trại còn nguyên gia súc bên trong. Chúng giết chết lũ chó 

không muốn rời bỏ  những căn nhà đang cháy của mình. Chúng đặt mìn bên cạnh các lối 

mòn mà chúng sử  dụng để  rút lui. Khi con đƣờng đó đƣợc sử  dụng làm tuyến giao thông 

cho ôtô và xe tăng thì mìn phát nổ. Các đơn vị  trƣợt tuyết trang bị  nhẹ  với những khẩu 

súng cối kéo trên những xe trƣợt gọn nhẹ, liên tục tấn công chúng tôi. Họ  dựa vào rừng 

rậm và bất cứ  chƣớng ngại vật tự  nhiên nào, ví dụ  nhƣ các mỏm đá granite mà ở  đây rất 

thƣờng gặp. Họ nã súng máy từ những vị trí đƣợc che chắn và gây thƣơng vong rất nhiều 

cho các đội tiên phong của chúng tôi. Nhƣng khi chúng tôi đem đƣợc pháo tới và bắt đầu 

nã đạn thì họ lập tức thay đổi vị trí, mò sang hai bên sƣờn, và tất cả mọi chuyện lặp lại từ

đầu. Rồi họ  bất ngờ  biến mất để  tiếp tục rình đánh chúng tôi cũng trên con đƣờng đó 

nhƣng tại một vị trí thuận lợi khác. 

Quân địch rút lui, bỏ  lại cho chúng tôi không chỉ  mìn mà cả  những tờ  truyền đơn 

sặc sỡ, chúng tƣơng phản rõ nét so với tuyết trắng. Nội dung của chúng rất ngây ngô, chỉ

hợp với những ngƣời kém phát triển. Vài cái thì đe dọa cả  thế  giới sẽ  cùng dồn lại tấn 

công chúng tôi, những tờ  khác khuyên hãy bỏ  vũ khí và trở  về  nhà với gia đình, nơi mọi 

ngƣời đang chờ  đợi chúng tôi, đại loại nhƣ vậy. Hiển nhiên  những thứ  ấy đƣợc sáng tác 

bởi đám Bạch vệ  di tản, những kẻ  tin rằng binh lính chúng tôi vẫn còn  ở  trình độ  nông 

thôn trƣớc cách mạng. 

Chiến trận diễn ra chủ  yếu vào ban ngày. Mọi chuyện dừng lại khi đêm xuống, và 

đấy là lúc công việc của cánh lính thông tin bắt đầu. Dƣới sự che chở của bóng tối, chúng 

tôi phải lăn cuộn dây điện thoại cũ kỹ  đi, đƣa thông tin tới vị  trí đặt pháo mới bằng cách 

nối chúng tới các chốt quan trắc, nối tới sở  chỉ  huy trung đoàn và tới chỗ  tƣ lệnh pháo 

binh. Mọi thứ  phải sẵn sàng  vào lúc rạng sáng. Suốt đêm không ngủ  để  làm những việc 

ấy, và khi trận chiến bắt đầu vào sáng hôm sau, thử  hỏi làm cách nào anh có thể  ngủ  nếu 

việc liên lạc bị  ngắt quãng chỗ  này chỗ  khác? Tất nhiên cũng có những tối anh có thể

ngủ yên, ngồi bên đống lửa (thật tuyệt) hay cạnh đám tro của một ngôi nhà bị đốt cháy. Ở

những chỗ đấy mặt đất bị hun nóng bởi đám lửa sẽ giữ đƣợc nhiệt độ ấm áp trong khoảng 

hai ngày, không lâu hơn. 

Chúng tôi chỉ liên lạc chủ yếu bằng điện thoại. Liên lạc bằng vô tuyến điện không 

ổn định. Những máy thu vô tuyến điện của chúng tôi (loại 6PK) rất cồng kềnh, khả  năng 

thu phát kém, khoảng cách truyền tin ngắn, thƣờng bị  ngắt quãng bởi nhiều nguyên nhân 

khác nhau. Thêm vào đó tất cả  thông tin truyền đi phải đƣợc mã hóa, điều đó cản trở  sự

linh hoạt trong quá trình sử dụng chúng. 

Một vấn đề  nữa đang chờ  chúng tôi. Các cuộn dây điện thoại của chúng tôi bắt 

đầu hƣ hụt đi nhanh chóng, đứt gẫy và thậm chí hỏng nát. Dần dần lƣợng dây có thể dùng 

còn lại rất ít. Trƣởng ban thông tin trung đoàn cũng rất cần dây điện thoại nên không thể

giúp gì đƣợc cho chúng tôi. Số dây còn lại ít tới nỗi trong một số khu vực bố trí pháo, do 

tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, đã phải kéo pháo từ vị trí ngụy trang ra chỗ trống để nổ

súng, ngay  dƣới làn đạn súng máy  của lính Phần  Lan, và  rất nhiều ngƣời đã chết một 

cách vô ích. Chúng tôi chỉ còn phải đặt một đƣờng liên lạc: kéo từ vị trí chỉ huy của khẩu 

đội trƣởng cho tới chỗ  đặt pháo. Do đó, ngày càng ít công việc dành cho lính thông tin. 

Nhƣng khẩu đội trƣởng cũng nhanh chóng tìm đƣợc việc gì đó để chúng tôi luôn bận rộn. 

Khẩu đội pháo phải chịu rất nhiều tổn thất trong thời gian đó. Cả  hai trung đội hỏa lực 

phải nhập làm một bởi chỉ  còn hai khẩu pháo trong số  bốn khẩu là còn hoạt động đƣợc. 

Những đơn vị  khác  cũng tổn thất nhiều. Lực lƣợng của chúng tôi tổng cộng cũng chỉ  còn 

phân  nửa  so  với  ban  đầu.  Trung  đội  hỏa  lực  mới  nhập  lại  đƣợc  giao  cho  trung  uý 

Kapshuk, một cậu Ukraina trẻ  tuổi và là quân nhân chuyên nghiệp. Một lần tôi bị  đánh 

thức  vào  ban  đêm  bởi  cậu  trực  điện  thoại:  khẩu  đội  trƣởng  muốn  gặp.  Tôi  nhấc  máy. 

“Cậu đã biết Kapshuk vừa bị  giết chƣa?” “Chƣa.” “Hãy lãnh trách nhiệm chỉ  huy trung 

đội hỏa lực, ngay sáng mai họ phải sẵn sàng để chiến đấu. Sẽ có ngƣời thay cậu phụ trách 

bộ  phận thông tin.” Sáng  hôm sau tôi đã có mặt tại điểm đặt pháo để  điều khiển việc xạ

kích. Khẩu đội trƣởng đang điều chỉnh đƣờng đạn tại trạm quan trắc của anh ta thông qua 

điện thoại. Trong khi chỉ  huy, tôi đứng trƣớc mấy phẩu pháo, tại ngay nơi Kapshuk vừa 

đứng cách đấy vài tiếng đồng hồ  và bị  giết. Còn anh chàng Kapshuk đáng thƣơng, ngày 

hôm qua vẫn còn khoẻ  mạnh và vui vẻ, giờ  đang nằm kia, trên mặt đất sũng máu, đang 

chờ  để  đƣợc đặt lên xe trƣợt và đƣa về  trạm quân y của tiểu đoàn, nơi ngƣời ta cho nổ

tung một khoảnh đất Phần Lan băng giá bằng thuốc nổ  và mai táng xác chết trong những 

cái hố đó. Mọi chuyện trở nên đơn giản tột cùng, và số phận thì không thể trốn tránh...   

Đại bác 76.2 mm model 1927 cấp trung đoàn, đang tham gia chiến đấu.

Những ngƣời lính trong trung đội hỏa lực trở  nên u ám, tuân lệnh tôi một cách 

máy móc, cố tránh không nhìn về phía có cái xác ngƣời chỉ huy quá cố  của họ đang nằm. 

Cũng cần nói thêm là sự “thăng tiến” của tôi không chỉ dừng lại đây. Chúng tôi phải chịu 

nhiều tốn thất về  binh lính và sĩ quan, nên về  cuối cuộc chiến tôi đã đƣợc chỉ  định làm 

quyền  khẩu  đội  trƣởng,  sẵn  sàng  thay  thế  trong  trƣờng  hợp  ngƣời  chỉ  huy  bị  mất  khả

năng điều khiển khẩu đội.  May thay, điều đó cuối cùng đã không xảy ra. Khó có gì hạ

gục nổi ngƣời khẩu đội trƣởng sắt thép của chúng tôi. 

Trong thời gian chiến đấu tôi nhận đƣợc một lá thƣ của mẹ gửi từ nhà qua. Bà viết 

rằng có một lệnh điều động đƣợc gửi cho tôi từ  trụ  sở  quân  uỷ  với lệnh phải lên đuờng 

“với các vật dụng cá nhân”. Mẹ  tôi cầm lệnh điều động lên trụ  sở  dân  ủy và than phiền 

rằng con trai mình đã bị  động viên đƣợc nửa năm rồi. Ngƣời ta thu lại tờ  lệnh điều động 

và bảo rằng đó chỉ là một lầm lẫn. Nhƣng vài ngày sau họ tiến hành khám xét căn hộ của 

chúng tôi vào ban đêm, lôi mẹ  già của tôi khỏi giƣờng, tra hỏi bà nơi trốn của con trai. 

Cùng lúc có những ngƣời khác thô lỗ cúi xuống lục soát dƣới gầm giƣờng, nhòm vào nhà 

vệ  sinh và phòng tắm. Mẹ  tôi nổi giận: “Chính tôi mới phải hỏi các anh là con tôi đang ở

đâu ! Các anh đã động viên nó mùa thu vừa rồi. Nó đang chiến đấu một cách trung thực 

ngoài chiến trƣờng chứ không phải đang đêm đi nhòm vào gậm giƣờng ngƣời khác.” Rồi 

họ  nhìn thấy tấm ảnh chụp tôi đang mặc quân phục  và những bức thƣ với con dấu quân 

bƣu dã chiến nằm trên tủ buýp phê. Đám dạ khách bối rối rút lui, tất nhiên là quên cả xin 

lỗi. Cung cách hoạt động của Dâân uỷ quận Bauman thành phố Maskva là thế đó. 

Một sáng nọ  tôi rời khẩu đội để  lên vị  trí tiền tiêu,  nơi đóng trạm quan trắc của 

khẩu đội trƣởng. Đƣờng đi phải băng qua một khu rừng mà vào giờ  đấy rất vắng vẻ. Dọc 

đƣờng tôi chạm mặt một tay lính lạ. Tôi không biết anh ta mang cấp bậc gì, do trƣớc đó 

chúng tôi có lệnh phải tháo bỏ mọi cấp hiệu khỏi quân phục. Khi đi ngang, tôi hỏi anh ta 

một cách thân mật: "Thế  nào, tình hình chỗ  ấy ra sao, yên tĩnh chứ?” Hắn tỏ  vẻ  khinh 

miệt ra mặt và đáp trả: "Sao vậy, anh sợ à?” Tôi phát cáu và cũng hỏi lại: "Tôi không biết 

ai sợ  hơn ai: ngƣời đang đi ra mặt trận hay kẻ  đang cố  chạy cho xa.” Đáp lại tôi là mấy 

câu chửi thề tục tĩu. Kẻ lạ mặt cuối cùng cũng lộ nguyên hình. 

Tôi cũng từng xung đột với khẩu đội trƣởng của mình. Một lần, khi tôi đang ở chỗ

đóng quân trong rừng của khẩu đội, anh ta gọi điện thoại và bảo tôi phải chuyển quân ra 

một chỗ  trống. Phía trƣớc chúng tôi, giữa một địa hình trống trải, có một quả  đồi đang bị

bộ  binh ta tấn công. "Hãy kéo dây liên lạc tới ngọn đồi,”  –  khẩu đội trƣởng nói.  -  "Anh 

hãy đích thân tới và chỉ  huy pháo kích từ  vị  trí đó.” "Nhƣng  chỗ  đó vẫn còn bọn Phần 

Lan,”  –  Tôi trả  lời, mắt quan sát qua  ống nhòm dã chiến.  -  "Khi chúng ta chiếm đƣợc 

ngọn đồi  ấy, tôi sẽ  tới cùng một điện thoại viên và kéo dây theo sau.” “Hãy đi ngay bây 

giờ”,  -  tay khẩu đội trƣởng lạnh lùng dáp, và tay hắn đột ngột hạ  xuống bao súng lục đã 

mở sẵn. Điều đó làm tôi nổi giận. Hắn đe dọa tôi trong khi khắp khu rừng bao quanh đều 

vang lên tiếng đạn réo và tiếng rít rú của đạn cối. "Đồng chí thƣợng uý,” – Tôi đáp - "Tôi 

xin nhắc lại là tôi sẽ  tuân lệnh đồng chí ngay sau khi bộ  binh chiếm đƣợc ngọn đồi đó. 

Còn về  khẩu súng của anh thì tôi cũng có một khẩu tƣơng tự. Nếu anh không thể  chờ

đƣợc,” –  Tôi tiếp tục  -  "thì hãy cùng đi với tôi. Mấy khẩu súng lục của chúng ta đem lên 

trên đó sẽ có ích hơn đấy.” Vì lẽ nào đấy, khẩu đội trƣởng không thích đề nghị của tôi, và 

hắn ta nín thinh. “Hãy cho phép tôi trƣớc tiên là ra lệnh cho khẩu đội tiến ra chỗ  trống, 

nếu không chúng ta sẽ không thể bắn yểm trợ cho quân tấn công đƣợc.” "Làm đi," – khẩu 

đội trƣởng trả  lời, hình nhƣ hắn ta  đã bình tĩnh lại và nhận ra là mình đã đi quá xa, rồi 

ƣỡn ngực bỏ đi. 

Đối phƣơng gần nhƣ không có không quân, hay chúng không hoạt động trong khu 

vực mặt trận chúng tôi. Chỉ  có một lần tôi thấy vị  trí chúng tôi bị  oanh kích bởi nhiều 

máy bay Phần Lan trông giống loại U-2 của chúng ta, thả  xuống nhiều bó lựu đạn buộc 

thành túm. Chúng sơn chữ thập đen trên nền xanh ở hai bên cánh máy bay. Nhƣng chúng 

tôi cũng chƣa khi nào đƣợc thấy lúc máy bay ta hoạt động. 

"Cúc cu"  –  bọn bắn tỉa nấp trên cây  –  gây cản trở  chúng tôi rất nhiều. Trong khi 

rút lui, ngƣời Phần Lan bố  trí chúng núp lại trên cây với một khẩu súng và rất nhiều đạn. 

Một số  trong chúng mỗi khi có dịp là nổ  súng rồi chạy trốn bằng ván trƣợt tuyết để  sẵn 

dƣới gốc cây. Những tên khác thậm chí cứ bắn cho tới khi bị hạ tại chỗ, và khi rơi xuống 

chúng bị  giết chết một cách căm hờn. Đôi khi có tới bốn tên “cúc cu” cùng bố  trí  ở  bốn 

góc rừng, ai chẳng may đi vào khu vực đó thì cầm chắc cái chết. Rất khó để hạ gục chúng, 

nhất là khi chúng tập trung hỏa lực của  cả  bốn khẩu súng vào một mục tiêu trong trƣờng 

hợp nhƣ trên. Chúng luôn thay đổi vị trí mỗi khi đêm xuống, chuyển tới một khoảnh rừng 

khác. Quân Phần Lan lấy đi giầy  ủng khỏi một số  xạ  thủ  khi đƣa chúng lên cây để  họ

khỏi chạy xa, thay vào đó chúng để lại một cái chăn đắp chân. Có một trƣờng hợp ở trung 

đoàn tôi khi binh lính, phát hiện ra một tên “cúc cu” nấp trên cây, đã bắn vào hắn. Hắn 

lập tức ném khẩu súng xuống và chiếc chăn rơi khỏi chân. Hóa ra tên “cúc cu” lại là một 

cô gái tóc đỏ còn trẻ, đang trắng bệch ra nhƣ sắp chết. Mọi ngƣời thƣơng hại cô ta, và khi 

họ đƣa cô ta mấy cái bánh valenki cháy thì cô ta đã hiểu là mình sẽ  không bị  giết, bèn rũ 

ra khóc nức nở. Ngƣời ta mủi lòng và cô đƣợc an toàn đƣa về  hậu phƣơng với lính canh 

đi theo. 

Sự  đề  cập  tới các nữ  xạ  thủ  “cúc cu” và chuyện một lô cốt trang bị  các tấm giáp 

kim loại để  đạn pháo bắn vào bị  bật ra thật đáng quan tâm và hết sức thú vị. Nó cho thấy 

thậm chí những ngƣời có trình độ  ở  thời kỳ  đấy vẫn tin và tiếp tục tin vào những câu 

chuyện hoang đƣờng nhƣ thế. Nhƣ trong trƣờng hợp cái lô cốt nơi ngƣời sĩ quan này tiến 

công – nơi đây không chỉ có một triệu cái lô cốt nhƣ vậy, tất cả các lô cốt đó đều trang bị

1 tới 2 khẩu đại liên, đƣợc xây trong những năm 1930, rất chắc chắn, chất lƣợng rất tốt.

Chuyện đề  cập tới những chiếc xe tăng phun lửa là đáng tin vì xe tăng phun lửa đƣợc sử

dụng nhiều để  tấn công tại hai cứ  điểm đó  -  Salmenkaita và Muolaa. Tại một  ụ  lô cốt 

thuộc phòng tuyến Muolaa, nơi tôi đã tới tham quan, toàn bộ  nơi đồn trú đó đều bị  thiêu 

rụi do xe tăng phun lửa. Bair Irincheev. 

Nhìn chung, trong khi chiến đấu ngƣời ta cho chúng tôi ăn uống khá tốt. Có xe 

nhà bếp chở  súp và cháo kasha tới chiến tuyến, họ  múc cho bất cứ  ai lại gần. Đám đầu 

bếp quân nhu vội vàng phân phát cho hết thức ăn và quay về  theo đúng con đƣờng mà từ

đó họ đi tới dƣới làn đạn súng cối. Họ không đƣợc phép quay về khi trong thùng vẫn còn 

thức ăn. Ngƣời ta kể  rằng có một tay đầu bếp bị  bắn tại chỗ  chỉ  vì anh ta đã trút hết cái 

nồi trên xe xuống tuyết để mau chóng đƣợc rời xa chiến tuyến. Tất nhiên, cũng có những 

ngày chúng tôi phải đun tan tuyết để  pha chè, hâm nóng lớp băng đá bao quanh bánh mì 

trên làn khói của đống lửa, và tự nấu cháo lúa mì trong một cái gà mèn thiếc dùng chung. 

Trung đoàn chúng tôi tiến công, khoét sâu thành hình mũi tên vào tuyến phòng 

thủ  của đối phƣơng. Những lô cốt còn chƣa bị  hạ  vẫn hoạt động hai bên sƣờn, và chúng 

tôi thƣờng lọt vào vùng hỏa lực bắn chéo cánh sẻ. Hai bên sƣờn chúng tôi đƣợc bảo vệ

kém, chỉ  có vài khẩu trung liên bố  trí tại  một số  vị  trí. Một đêm, khi tôi cùng các binh sĩ 

dƣới quyền đang ngủ  say trên lớp rơm trải lên tuyết, đột nhiên một khẩu súng máy khạc 

đạn ngay bên cạnh. Tôi bật dậy và chạy tới chỗ  tay xạ  thủ  súng máy. Trời lúc đó tối đen. 

Tôi lên tiếng hỏi lý do tại sao anh ta nổ súng. Ban đầu anh ta im lặng, rồi càu nhàu: "Nếu 

anh không bắn, chúng sẽ mò tới đây ngay thôi.” 

Trong giá rét dữ dội, các sĩ quan chúng tôi đƣợc cấp cho những áo khoác lông cừu. 

Nhƣng ngay lập tức chúng tôi phải cởi bỏ  nó. Bọn bắn tỉa Phần Lan bắn hạ  ngay các sĩ 

quan. Không chỉ  có xạ  thủ  bắn tỉa, mà ngay bọn lính trƣợt tuyết Phần Lan cũng làm vậy, 

chúng bận vào quân phục Xô viết, mò tới vị  trí đóng quân, đâm chết các sĩ quan rồi trốn 

mất. Đó là lý do chúng tôi đƣợc lệnh phải cởi bỏ  không chỉ  áo khoác lông cừu, mà cả

những cấp hiệu trên cầu vai, những “vạch” đỏ  trên  ống tay áo, và phải thắt thắt lƣng vào 

dƣới áo choàng. Có lần tôi đƣợc lệnh đem theo một điện thoại viên và rải một đƣờng điện 

thoại tới chốt chỉ  huy của một đơn vị  bộ  binh, bản thân tôi phải  ở  lại đó, sẵn sàng gọi 

pháo bắn tới lúc cần thiết. Trạm chỉ  huy bố  trí trong một công sự  thấp, nền rải rơm. Mọi 

ngƣời đều ngồi phệt trên sàn. Đƣợc một lát thì khẩu đội trƣởng gọi cho tôi qua đƣờng 

điện thoại của đơn vị  bộ binh. Cho dù tôi đang ăn mặc nhƣ một lính trơn, anh chàng trực 

điện thoại của đơn vị  bộ  binh vẫn quay lại phía tôi: "Thƣa đồng chí trung úy, có điện 

thoại.” "Tại sao anh lại nghĩ tôi là trung uý?” - "Tôi biết đồng chí là trung uý bởi đồng chí 

ăn nói khác bọn tôi.” Quả  là câu tục ngữ  “Trông mặt mà bắt hình dong” thật chính xác 

(Nguyên văn: Chỉ cần qua mảnh áo rách anh cũng có thể nhận ra ông thầy tu - LTD).

Có trƣờng hợp tại một đơn vị  kế  cận khi một tên Phần Lan, mặc quân phục Xô 

viết, trƣợt tới một bếp dã chiến. Đầu bếp nói rằng anh ta không biết mặt hắn và chỉ có thể

cho hắn ăn nếu chính  ủy cho phép. “Thế  chính uỷ  ở  đâu?”  –  tên Phần Lan hỏi lại. Tay 

đầu bếp chỉ  ra chính  ủy, ngƣời đang khoác một cái áo choàng của lính. Gã Phần Lan lại 

gần ngƣời chính ủy, đâm anh ta rồi bỏ chạy. 

Có nhiều trƣờng hợp tàn nhẫn rất thƣơng tâm, khi bọn Phần Lan dùng dao giết 

chết những thƣơng binh của chúng tôi, những ngƣời còn kẹt lại  ở  chiến trƣờng chƣa đem 

đi đƣợc. Tôi cũng đã tận mắt chứng kiến cảnh rất nhiều xác lính ta nằm tại một vị  trí 

trống trải không thể  bò tới vì bị  bọn xạ  thủ  “cúc cu” ngắm bắn. Và khi một ngƣời trong 

bọn  họ  thử  đứng  lên  thì  đạn  lập  tức  nã  vào  anh  ta  từ  những  ngọn  cây  ven  rừng.  Một 

thƣơng binh kể  lại rằng anh ta đã phải nằm lại trên tuyết vì bị  thƣơng sau trận chiến, và 

rồi một tên Phần Lan trƣợt tuyết tới chỗ  anh ta và nói bằng tiếng Nga: "Còn nằm đấy à, 

Ivan? Thôi đƣợc rồi, đi đi!” Thật may là hắn không giết chết anh ta, có lẽ vì đã quá nhiều 

những vụ nhƣ thế rồi.  

Tổn thất của khẩu đội chúng tôi thật đáng kể. Tôi nhớ lại một trong các lính thông 

tin dƣới quyền mình, một anh chàng trẻ tuổi, vừa tốt nghiệp phổ thông. Anh ta vẽ rất đẹp, 

thực sự có tài, luôn mơ sẽ đƣợc vào Học viện Mỹ thuật. Tôi thƣờng trò chuyện với anh ta, 

xem các bức tranh của anh, khuyên bảo anh. Tôi đã thƣơng tiếc khôn nguôi khi anh chết 

tại trạm quân y tiểu đoàn vì một vết thƣơng. Tổn thất của bộ  binh còn nghiêm trọng hơn 

nhiều. Đã có quá nhiều thảm kịch xảy ra. Ngƣời ta kể  rằng có một trung uý còn trẻ  bị

thƣơng vào mặt, mất cả hai mắt. Ngƣời ta không có thời gian để lấy đi khẩu súng của anh, 

nên anh đã tự sát ngay trong chiến hào, khi vừa nhận ra mình đã bị mù. 

Một đêm tôi phải băng qua khu rừng để  kiểm tra lại đƣờng dây điện thoại. Tôi 

vƣợt qua một khoảng đất trống để tới một khu rừng kế tiếp. Địa điểm cần tới nằm rất gần 

đâu đây thôi. Ánh trăng rực rỡ  rọi vào mặt tôi, làm chói cả mắt, phản chiếu lấp loáng lên 

tuyết. Lại qua một khu rừng nữa, tôi bắt gặp một ngƣời vận áo choàng trắng, sát gần và 

đột ngột tới nỗi tôi vung tay về phía trƣớc và đẩy vào ngực anh ta. Tôi cảm thấy tim mình 

nhƣ ngừng đập vì sợ. Lập tức một tiếng chửi rủa tục tĩu chọc vào tai tôi nghe tựa nhƣ một 

điệu nhạc tuyệt diệu: “Quân ta, ngƣời Nga.” Đấy là một lính trinh sát của ta, thấy tôi băng 

qua bãi trống từ  xa, bèn quyết định  ẩn vào màn  sƣơng để  chờ  xem. Quân địch sẽ  không 

nã súng cối vào một ngƣời, nhƣng nếu là hai ngƣời thì chúng có thể bắn ngay. 

Trong một lần khác, sau khi chiếm giữ  vị  trí chỉ  huy mới, khẩu đội trƣởng gọi 

điện cho tôi và yêu cầu tôi rời khẩu đội để tới chỗ anh ta. Anh ta đã tới đấy vào ban đêm, 

đi cùng cánh bộ  binh. Nhƣng sang ngày hôm sau tình hình đã thay đổi. Đƣờng đi phải 

vƣợt qua một dòng sông đã đóng băng, và điểm vƣợt sông đó lại bị  một tên bắn tỉa Phần 

Lan chốt giữ. Hắn ta núp trên một mỏm đá nhỏ giữa dòng sông và nã tiểu liên vào bất cứ

ai cố gắng vƣợt qua lớp băng. Không có cách nào để lén băng qua chỗ hắn, tên bắn tỉa có 

một tầm xạ  kích rất rộng, gần nhƣ thành một vòng tròn. Những tảng đá lớn chắn cho hắn 

khỏi trúng đạn. Rất nhiều binh lính và sĩ quan cần vƣợt qua sông đang phải nép vào cánh 

rừng  ở  hai bên bờ. Chốc chốc lại có ngƣời quyết định chạy nhanh qua bên kia dƣới làn 

đạn, và đã thành công. Nhƣng cũng có đôi ngƣời trúng đạn ngã gục trên lớp băng. Họ  cố

trƣờn  sang  bờ  đối  diện.  Cái  che  chắn  duy  nhất  cho  những  ngƣời  băng  qua  là  xác  một 

chiếc xe tăng Xô viết bị  cháy rụi nằm giữa dòng sông. Tất nhiên, nếu có trong tay một 

khẩu súng cối thì chúng tôi đã nhanh chóng bắt hắn câm họng. Nhƣng lúc đấy không có 

súng cối, mà lại chẳng ai nghĩ ra điều đó cả. 

Tôi cũng  bắt buộc phải vƣợt qua sông. Tên bắn tỉa nã hai phát và dừng lại từng 

chặp. Tôi nấp sau một cái cây gần bờ  và chờ  đợi. Sau mỗi lần súng nổ, tôi lại chạy thật 

nhanh tới chỗ  cái xe tăng. Ngay khi tôi bám đƣợc vào nó, những viên đạn lại nã loảng 

xoảng vào vỏ  thép xe. Chờ  một chút để  lấy lại hơi, tôi chờ  tới loạt đạn kế  tiếp, và khi 

chúng vừa dứt thì chạy thục mạng. Quãng đƣờng này xa hơn, và rồi thế  là tôi đã an toàn 

nấp mình sau đám cành lá của cái cây đầu tiên nơi bờ  sông bên kia. Phù … nhiều ngày 

sau,  khi  bọn  Phần  Lan  đã  bị  đẩy  lùi  và  chúng  tôi  kéo  pháo  ngang  qua  địa  điểm  đáng 

nguyền rủa đó, tôi tới nhòm xem cái mỏm đá nọ  ra sao. Chỗ  đó có một cái hố  đào giữa 

những tảng đá lớn, phủ  đầy  cành thông, với một lỗ  châu mai chĩa vào  các lối qua lại. 

Những vỏ  bao thuốc lá có in dòng chữ  "Sport" nằm rải rác cùng rất nhiều vỏ  đạn rỗng. 

Những vỏ  đạn mà tên bắn tỉa đã dùng để  bắn vào tôi chắc hẳn nằm lẫn lộn đâu đó chỗ

này. 

Vào thời điểm trƣớc khi bắt đầu giao chiến, họ  thông báo cho chúng tôi, các sĩ 

quan, rằng ba trung đoàn của mỗi sƣ đoàn sẽ  tham chiến trong vòng mƣời ngày rồi đƣợc 

rút ra. Chúng tôi đã khát khao chờ  đợi cho mƣời ngày đó kết thúc biết bao nhiêu. Chúng 

tôi chờ, ngập ngụa trong máu của chính mình, lần lƣợt gửi các đồng đội của mình hết về

trạm quân y lại ra nghĩa địa. Nhƣng, lạy trời chứng giám, chúng tôi đã không đƣợc thay 

ra thậm chí sau cả  hơn chục ngày. Khi sƣ đoàn trƣởng phát hiện ra tổn thất quá lớn của 

trung đoàn 306, ông ta quyết định rằng sẽ  không huỷ  diệt nốt hai trung đoàn còn lại theo 

cách đó nữa. Sau khi thay đổi quyết định chính thức của mình, ông ta phát biểu: "Khi nào 

tôi sử  dụng tới kiệt hết trung đoàn 306, tôi sẽ  nghĩ tới chuyện thay nó ra.” Thật ra, chúng 

tôi đã không đƣợc thế  chỗ  cho tới tận cuối cuộc chiến, và đã kiệt lực tới mức chỉ  còn sót 

lại có "móng với sừng” mà thôi. 

Điều khủng khiếp  ấy, những trận chiến liên miên  ấy, diễn ra trong suốt 22 ngày 

đêm. Chúng tôi trở thành những loại nửa ngƣời nửa thú: bị sƣơng giá ăn cháy da cháy thịt, 

bẩn thỉu, lúc nhúc chấy rận, râu ria xồm xoàm, quần áo cháy sém lỗ  chỗ, câu nào nói ra 

cũng kèm thêm mấy lời chửi rủa tục tằn. Và luôn đắm trong nỗi lo sợ sẽ bị thƣơng hay bị

giết chết. 

Rồi bất ngờ, nếu tôi nhớ  không lầm, vào buổi chiều ngày 11 tháng Ba, một trong 

những cậu nhân viên vô tuyến điện dƣới quyền chạy tới chỗ  tôi, mang theo một tin đáng 

quan tâm. Anh ta tình cờ  nhận đƣợc một điện tín: một hiệp định đình chiến đã đƣợc ký. 

Tôi chạy tới chỗ  chính ủy, nhƣng anh ta hét lên với tôi, bảo rằng tôi luôn tin vào mọi thứ

tin đồn thất thiệt và lan truyền chúng đi. Nhƣng những tin nhƣ thế  không thể  giữ  bí mật 

đƣợc lâu. Dựa trên thái độ của binh lính, tôi hiểu rằng tin đó sẽ lan nhanh. Vài ngƣời đến 

gặp để xin tôi xác nhận tin đó, nhƣng tôi đáp là không có trong tay những thông tin chính 

thức. Rồi tới buổi sáng ngày hôm sau. Đấy là ngày 12 tháng Ba năm 1940. Mọi ngƣời 

cùng chờ đợi một điều gì đó. Nhƣng rồi tay khẩu đội trƣởng gọi tới từ chốt quan trắc tiền 

tiêu: “Khẩu đội, sẵn sàng nhả  đạn !” Tôi truyền lệnh đi: “Tất cả  vào vị  trí, sẵn sàng bắn, 

đem đạn tới và chùi sạch!” Quân lính thực hiện một cách miễn cƣỡng. Có ai đó càu nhàu: 

"Cái thứ  hoà bình của ông nhƣ thế  đó.” Khẩu đội trƣởng thông báo tọa độ  mục tiêu, tôi 

điều chỉnh các khẩu pháo và hô: “Bắn !”, rồøi lại “Bắn !”. Quân Phần Lan bắt đầu đáp trả

bằng súng cối hạng nặng. Đạn rơi sang phía bên trái, vào ngay trƣớc mặt, rồi xuống ngã 

tƣ đƣờng. Một con ngựa kéo xe bị  trúng đạn, con vật đáng thƣơng bụng bị  xé toạc giẫy 

dụa trong đống ruột của chính nó: thật là một cảnh tƣợng kinh khủng. Nhƣng khẩu đội 

trƣởng vẫn tiếp tục ra lệnh từ vị trí quan trắc: “Bắn !” và “Bắn !”.

Chiến tuyến trên bán đảo Karelia ngày 13 tháng Ba năm 1940. 

Lấy từ “The battles of Winter war”

Tới khoảng 10 giờ sáng, có một ngƣời cƣỡi ngựa xuất hiện trên con đƣờng dẫn về

hậu phƣơng, anh ta đang la hét điều gì đó và vung vẩy một cái phong bì trên tay. Mỗi lúc 

một gần hơn. Chúng tôi nhận ra đó là một ngƣời đƣa tin của sở  chỉ  huy trung  đoàn, một 

anh lính nhỏ bé vui tính, đã tới khẩu đội chúng tôi rất nhiều lần. Anh ta đang hét: "Ngừng 

bắn!" Điều gì xảy ra thế này! Có vài ngƣời kêu to "Hurrah!", có mấy ngƣời ôm hôn nhau, 

một số ngƣời thì khóc, và số khác chỉ đơn giản là ngã lăn ra tuyết.  Tôi cầm lấy cái phong 

bì bằng bàn tay run lẩy bẩy. Nó không có niêm phong. Bên trong là mệnh lệnh yêu cầu 

khẩu đội trƣởng ngƣng bắn. Ngƣời điện thoại viên gọi tôi tới bên điện thoại. Khẩu đội 

trƣởng đang hét lên với tôi: “Tại sao anh lại ngừng bắn?” Tôi cũng hét lại rằng đó là do 

lệnh  từ  sở  chỉ  huy,  họ  nói  là  đã  hoà  bình  rồi.  “Hòa  bình  cái  gì?  Anh  mất  trí  rồi  à  !” 

Nhƣng lúc này tiếng pháo đã  yên  ắng trên suốt chiều dài mặt trận. Còn nếu nghe thấy 

phát đạn nào nổ muộn màng, binh lính phản ứng rất giận dữ: "Bọn chúng bị làm sao vậy, 

chúng không biết chuyện gì đã xảy ra sao?!” Sau cơn vui mừng bột phát ban đầu là một 

tình trạng phản  cảm diễn ra. Rũ ngƣời vì mệt, tất cả  đều trở  nên im lặng và cứng đờ, 

không biết phải làm gì tiếp theo. Một số  ngƣời đã chứng kiến sau này kể  lại về  cảnh tin 

ngừng bắn đƣợc đón tiếp tại các vị trí bộ binh đóng trên tuyến đầu: những ngƣời lính lạnh 

cóng và kiệt sức, cả phía Phần Lan và phía quân ta, bò khỏi những hố trú ẩn của họ từ hai 

phía chiến tuyến, nhìn nhau một cách nghi ngờ  và cùng ngạc nhiên trƣớc những kẻ  mới 

đây hãy còn là đối thủ  của nhau. Và họ  không thể  hiểu nổi điều gì đã xảy ra. Chuyện gì 

vậy? Họ  im lặng, đi đốt lửa để  tự  sƣởi  ấm. Vài ngƣời lính Phần Lan leo lên đỉnh một 

phiến đá lớn và hét về  phía lính ta: "Ê, bọn Nga  kia, chúng mày đãø từng bắn vào tao 

trong khi tao đang ngồi ngay dƣới tảng đá này đây !” Một ngƣời lính Phần Lan khác hét 

qua khoảng đất chết giữa hai chiến hào: “Đừng đi sang phía bên phải, chúng tôi đã gài 

mìn chỗ ấy đấy.” 

Và thế  là hoà bình. Chúng tôi rút về phía sau một chút và đƣợc lệnh đào công sự. 

Ngƣời ta tổ chức một nhà tắm dã chiến với một căn phòng khử chấy rận. Điều đó hết sức 

cần thiết. Không có gì phải giấu diếm cả, lũ rận đang ăn sống chúng tôi. Chúng tôi tắm 

rửa trong ba cái lều dựng liên  tục sát nhau. Cái nền đầy tuyết của lều đƣợc rải một lớp 

cành cây còn nguyên lá xanh. Chúng tôi cởi bỏ lớp đồ lót bẩn thỉu của mình trong cái lều 

đầu tiên. Tại cái lều thứ  hai, một hệ  thống  ống phun nƣớc nóng, gần nhƣ còn đang sôi 

sùng sục, lên mình chúng  tôi. Rồi chúng tôi chạy qua cái lều thứ  ba để  nhận đồ  lót sạch, 

mặc vội lên thân ngƣời hãy còn ƣớt lƣớt thƣớt bởi chẳng có gì để lau mình cả. Rồi chúng 

tôi đứng chờ, ngƣời bị  luộc chín nhừ  và chỉ  vận độc có đồ  lót, cho tới khi quân phục của 

chúng tôi đƣợc hơ lửa xong. Tất cả mọi chuyện đều diễn ra trong cái lạnh cắt da, nhiệt độ

ở  trong cũng nhƣ ngoài lều đều gần nhƣ nhau. Tôi cũng không hiểu tại sao chúng tôi có 

thể  chịu đƣợc mà không bị  cảm lạnh hay viêm phổi. Nhƣng chúng tôi cũng rất mừng vì 

đƣợc cho đi tắm nhƣ thế. 

Khoảng hai tuần sau khi kết thúc đánh nhau, sau khi đã nghỉ  ngơi đƣợc một chút, 

lấy lại sức lực và lau chùi vũ khí, chúng tôi đƣợc lệnh hành quân trở về. Toàn trung đoàn 

lập thành một đội hình hành quân. Chỉ  khi  ấy chúng tôi mới thấy đƣợc chính xác những 

tổn thất mà trung đoàn phải chịu đựng. Trung đoàn tới đây với đầy đủ quân số thời chiến. 

Bộ binh bao gồm ba tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có 700 tay lê. Giờ đây cả trung đoàn không 

còn đủ  lính để  lập thành một tiểu đoàn duy nhất. Các đại đội đƣợc  giao cho các trung sĩ 

chỉ  huy. Chúng tôi, lính pháo binh, cũng chịu tổn thất nặng. Trong số  chín sĩ quan của 

khẩu đội chúng tôi, giờ  chỉ  còn có bốn. Hai ngƣời bị  giết và ba bị  thƣơng. Ngay nhƣ tôi, 

một sĩ quan dự bị, cũng đƣợc chỉ định làm quyền khẩu đội trƣởng trong trƣờng hợp ngƣời 

đƣơng nhiệm mất khả  năng điều khiển khẩu đội. Tôi không nhớ  nổi có bao nhiêu binh 

lính và hạ  sĩ quan đã thiệt mạng nữa. Chúng tôi đi tới đây trong nhiều tốp, quân số  trung 

đoàn rất đông. Bây giờ  đây toàn trung đoàn chỉ còn là một đội hình duy nhất, có thể  thấy 

và  nghe  tiếng  ban  nhạc  đang  chơi  bài  hành  khúc  ở  phía  trƣớc.  Chúng  tôi  hành  quân 

ngƣợc lại nơi trạm quân  y đã đóng và nơi đặt các nghĩa trang. Trạm quân  y đã dời đi 

nhƣng nghĩa trang thì vẫn còn đó. 

Nếu chúng tôi không phải trông thấy những xác chết, chúng nhƣ những manơcanh 

đáng sợ  làm bằng sáp bị  đông cứng, thì cái chết đối với chúng tôi đã không khủng khiếp 

đến thế. Trong thời bình, cái chết của một ngƣời bệnh không ập tới bất thình lình. Nhƣng 

thật là phi lý khi phải thấy cái chết đến với một ngƣời trẻ trai khoẻ mạnh, tự dƣng lại ngã 

vào tay ta nhƣ một cái bị, gƣơng mặt anh ta chuyển dần sang vàng  ệch, hai bên mép và 

mi mắt của anh trễ  xuống. Và ta phải quan sát toàn bộ  cái diễn tiến kinh khủng  ấy, sự

chuyển từ một ngƣời sống sang một xác chết, cuối cùng là thành một gò đất nhỏ băng giá 

trên mảnh đất Phần Lan đáng nguyền rủa. 

Thật khó mà diễn tả  nổi thành lời những cảm xúc xảy ra trong đầu chúng tôi khi 

hành quân ngang qua cái nghĩa địa  ấy. Cách đây không lâu những con  ngƣời  ấy, những 

đồng chí của chúng tôi, khoẻ mạnh và trai tráng, còn ở cùng đội ngũ và trông chẳng khác 

gì chúng tôi. Thậm chí cho tới khi ngƣời ta đƣa họ  ra tới đây, vì bất kỳ  ngƣời nào trong 

chúng tôi cũng có thể  phải ra nằm đây bất cứ  lúc nào, thì chúng tôi cũng vẫn chƣa cảm 

thấy mình xa lạ  đối với họ. Giờ  đây chúng tôi đang rời xa họ  mãi mãi, còn họ  sẽ  vĩnh 

viễn nằm lại chỗ này. Có một vực thẳm đã ngăn cách giữa chúng tôi và họ, mà chúng tôi 

không thể hình dung đƣợc bằng cách nào và vì sao điều đó đã xảy ra. 

Hiển nhiên chúng tôi hiểu rằng cuộc chiến này là cần thiết. Chúng ta phải bảo vệ

Leningrad, cách ly nó xa khỏi đƣờng biên giới nguy hiểm kia bằng một vùng đất Xô viết 

rộng lớn hơn. Chúng tôi cũng biết rằng ngƣời Phần Lan đã từ  chối lời đề  nghị  của Chính 

phủ  Xô  viết  đổi  vùng  đất  ấy  lấy  bất  cứ  một  chỗ  nào  khác  dọc  theo  biên  giới.  Nhƣng 

chúng tôi không hiểu nổi một điều – đó là cách thức mà ngƣời ta đã tiến hành chiến tranh. 

Tại sao chúng ta không ném bom trƣớc những lô cốt công sự của Phần Lan, cô lập chúng, 

vƣợt qua chúng và bỏ  chúng lại phía sau?! Nhƣ cách ngƣời Đức đã làm với phòng tuyến 

Maginot chẳng hạn? Tại sao chúng ta không thả  lính nhảy dù xuống hậu phƣơng Phần 

Lan, và sử dụng xe tăng nhiều hơn nữa? (Thực ra, trong chiến tranh Phần Lan ngƣời Nga 

đã đƣa vào sử  dụng rất nhiều xe tăng. Tuy vậy phần lớn chúng là loại T-26 và BT-7 đã 

lạc hậu, không phù hợp điều kiện chiến trƣờng và bị bộ binh đốt cháy khá dễ dàng -  LTD) 

Chúng tôi đã trông thấy rất nhiều những trang thiết bị  quân sự  ấy nằm lại tại Bologoye. 

Không, họ đã chọn cách ném mọi ngƣời thẳng vào làn đạn súng máy và đại bác bắn ra từ

các lô cốt, dƣới ánh sáng mặt trời rõ mồn một. Và thế  là hàng ngàn chàng trai bị  đƣa 

thẳng xuống mồ. Tại sao vậy? Hay có lẽ họ cũng cùng kiểu suy nghĩ nhƣ "nhà chiến lƣợc 

quân sự" nọ đã đƣa chúng tôi tiến thẳng tới cái lô cốt ngay trƣớc trận đánh, cũng cho rằng 

đó chỉ  là những pháo đài bằng cát cùng những chú lính chì trong tay họ, và bản thân họ

đang tập đánh trận giả chăng. Tất cả những điều đó thật không hiểu nổi và thật đáng phẫn 

nộ. 

Sau khi hiệp ƣớc hòa bình đƣợc ký kết, trên báo chí ngƣời ta viết rằng thiệt hại 

của chúng tôi cả  chết lẫn bị  thƣơng tổng cộng là khoảng năm mƣơi ngàn ngƣời. (Ngày 

nay, thống kê chính thức của cả  phía Nga và Phần Lan cho biết trong  chiến tranh Phần 

Lan  quân  đội  Xô  viết  có  khoảng  từ  200.000  –  400.000  ngƣời  chết  và  bị  thƣơng,  phía 

Phần Lan là khoảng 66.000 ngƣời chết và bị  thƣơng  -  LTD) Có biết bao nhiêu bi kịch ẩn 

giấu đằng sau những con số ấy! Những tổn thất ấy đáng ra đã có thể giảm  thiểu một cách 

đáng kể! 

Các trung đoàn còn lại thuộc sƣ đoàn chúng tôi, đƣợc bố  trí dự  bị  phía sau trong 

suốt  thời  gian  giao  tranh,  đã  quay  về  từ  trƣớc  và  là  những  đơn  vị  đầu  tiên  diễu  qua 

Leningrad nhƣ những anh hùng. Họ đƣợc nhận một lễ đón tiếp long trọng, những lời chúc 

mừng và quà tặng từ  nhân dân Leningrad. Còn khi trung đoàn 306 chúng tôi, hay đúng 

hơn là phần còn lại của nó, một đơn vị  đã thực sự  tham chiến và phải gánh trên vai toàn 

bộ  sức nặng của chiến tranh, đi qua thành phố, thì những lễ  chào  mừng đã kết thúc, và 

chúng tôi chẳng nhận đƣợc quà tặng lẫn những lời chúc mừng nào. Cuộc đời là thế đó. 

Sau này chúng tôi đƣợc biết rằng trung đoàn chúng tôi đã đƣợc tặng Huân chƣơng 

Cờ  Đỏ  vì đã công phá đƣợc phòng tuyến Mannerheim. Nhiều sĩ quan của các đơn vị  bộ

binh của trung đoàn cũng đƣợc nhận huân chƣơng. Phần thƣởng và huân chƣơng thời đó 

hãy còn rất hiếm. Cánh pháo binh chúng tôi không đƣợc nhận bất cứ thứ gì, dù danh sách 

khen thƣởng của chúng tôi cũng đƣợc gửi đồng thời với họ. Nhƣng còn đƣợc sống với 

nguyên vẹn cái đầu trên cổ cũng đã là một phần thƣởng đáng kể rồi. 

Khi chúng tôi rời Leningrad và lên tàu  ở  một nhà ga, chúng tôi đƣợc mục kích 

một cảnh tƣợng khác hẳn. Rất nhiều toa tàu chở hàng, cửa sổ chăng kín dây kẽm gai, nằm 

tách rời trên một tuyến đƣờng rày riêng biệt. Lính gác mang súng có gắn lƣỡi lê không để

bất cứ  ai lại gần những toa xe  ấy. Một thợ  đƣờng sắt thì thầm với tôi rằng những toa  ấy 

tới từ  Phần Lan, chở  những binh lính đã từng bị  bắt làm tù binh. Cho tới trƣớc lới lúc  ấy 

chúng  tôi mới chỉ  nghĩ là những ngƣời trải qua cuộc chiến đƣợc chia thành ba loại: một 

số  ngƣời may mắn thì đã tránh đi cho xa; những ngƣời khác, bị  sƣơng giá thui chột và 

đầy thƣơng tật thì đƣợc đƣa tới bệnh viện; còn loại thứ  ba thì vùi xƣơng trên mảnh đất 

Phần Lan tuyết phủ. Nhƣng hóa ra vẫn còn loại ngƣời kém may mắn thứ tƣ, những ngƣời 

còn đang chờ  bị  thẩm vấn và xét xử  trong các nhà tù di động bằng gỗ  lạnh cóng  ấy. Ai 

đứng ra quyết định số phận của mỗi con ngƣời trong chiến tranh và phân họ thành những 

loại khác nhau bằng một bàn tay tàn nhẫn đến nhƣ vậy? Và dễ  biết bao để  có thể  chuyển 

một con ngƣời từ  loại số  phận này sang loại số  phận khác. Điều gì là quyết định và điều 

gì là tình cờ? (Ngay sau khi chiến tranh Phần Lan vừa kết thúc, khoảng 5.500 tù binh  Xô 

viết đƣợc Phần Lan trao trả  lại cho Liên Xô. Tất cả  đều bị  đƣa vào trại tập trung để  thẩm 

vấn. Khoảng 500 ngƣời trong số  đó bị  xử  bắn và 4.354 ngƣời bị  đƣa đi lao động khổ  sai 

từ 5-8 năm. - LTD)

Một trong những đặc điểm của cuộc chiến tranh này là cái sự  thực rằng chúng tôi 

chỉ chiến đấu bởi vì chúng tôi đã đƣợc ra lệnh nhƣ thế. Nó khác với cuộc Chiến tranh Vệ

quốc sau này, khi chúng tôi thực sự  căm thù bọn xâm lƣợc đã tấn công quê hƣơng chúng 

tôi. Lúc đó ngƣời ta chỉ  cần hô: “Xung phong !” –  thậm chí không phải giải thích chúng 

tôi cần tiến lên phía nào. Chúng tôi đã chỉ  đơn giản là thực hiện nghĩa vụ  quân nhân của 

mình trong cuộc chiến Phần Lan, trong khi lại ý thức rõ sự  cần thiết của cuộc chiến sau 

đó (Chiến tranh Vệ quốc). Từ đầu chúng tôi không thấy thù ghét ngƣời Phần Lan, mà chỉ

sau này, khi đã tận mắt chứng kiến nhiều hành động tàn nhẫn của đối phƣơng, binh lính 

của chúng tôi mới bắt đầu cảm thấy căm giận họ. Ví dụ  nhƣ họ  đã điên cuồng giết chết 

bọn  “cúc  cu”,  những  kẻ  gây  rất  nhiều  tội  ác.  Nhƣng  nhìn  chung,  một  ngƣời  Nga,  một 

ngƣời lính Xô viết thật ra là một ngƣời có bản tính tốt, anh phải cố gắng rất nhiều mới có 

thể làm hắn nổi giận. 

Câu chuyện của tôi về  thiên anh hùng ca Ba Lan  –  Phần Lan đã tới hồi kết. Tôi 

đƣợc phục viên vào mùa thu năm 1945, sau khi Chiến tranh Vệ quốc kết thúc. Một cô gái 

nào đó đứng ra điền vào tờ  lý lịch quân nhân của tôi tại Trụ  sở  Quân uỷ  quận Bauman. 

Cô ta ghi lại trên đó tất cả những rủi ro mà tôi đã gặp phải. "Xin hãy viết vào đây là tôi đã 

từng tham gia cuộc chiến chống lại bọn Bạch vệ  Phần Lan.” "Ở  đây chúng tôi không ghi 

lại về chiến tranh Phần Lan,” – cô gái nói và, rƣớn ngƣời qua bàn làm việc, hét về phía cô 

bạn bên cạnh: "Svetka, cậu có cùng đi ăn trƣa không?” Đoạn kết là thế đó. Thật ra, tại sao 

anh lại phải  “viết về  cuộc chiến Phần Lan”, trong khi tình hình đã hoàn toàn đổi khác, và 

anh phải quên đi những gì về  cái cuộc chiến đó càng nhanh càng tốt, vờ  nhƣ nó thậm chí 

không hề xảy ra với một ngƣời láng giềng tốt bụng nhƣ ngƣời Phần Lan. 

Những dòng hồi ký trên hầu hết đƣợc tác giả viết khi ông phải vào bệnh viện điều 

trị  bệnh  viêm  phổi  vào  tháng  Mƣời  năm  1981.  Việc  này  đã  giúp  ông  khuây  khỏa  qua 

những buổi chiều tẻ  ngắt và những đêm mất ngủ  tại nơi bệnh viện ảm đạm. Trong những 

năm về sau, tác giả chỉ phải hiệu chỉnh, bổ sung và biên tập lại những ghi chép trên. 

Dịch từ nguyên tác tiếng Nga: Bair Irincheev

Dịch từ tiếng Anh: Lý Thế Dân

Hồi ức của Mikhail Lukinov

Phần 3: Bị giam cầm 

Ngày  15  tháng  Bảy  năm  1942  (tôi  nhớ  rất  rõ  cái  ngày  đáng  nguyền  rủa  này), 

chúng tôi bắt gặp mấy ngƣời nông dân trong một khu rừng và hỏi xin họ  một ít thức ăn. 

Chúng tôi đang gần nhƣ sắp chết vì đói. Mấy ngƣời nông dân không cho chúng tôi thứ gì, 

nhƣng họ bảo rằng cƣ dân ở làng bên (làng Kolodezi hay Istruby gì đó) có nhiều đồ ăn do 

cƣớp đƣợc từ kho của nông trang. Họ cũng bảo chúng tôi là trong làng không có bọn Đức. 

Đó là một làng nhỏ  với một ngôi nhà đơn độc có một dãy kho thóc nằm án đằng trƣớc. 

Chúng tôi vẫn biết là bọn Đức luôn đƣa lính gác tới đóng  ở  những ngôi làng chúng đã 

chiếm giữ. Phục trong rừng, chúng tôi quan sát rất lâu ngôi làng nhƣng không phát hiện 

thấy tên lính gác nào. Một ngƣời lính dƣới quyền tôi lặng lẽ lẻn tới dọc theo hàng rào của 

ngôi nhà đầu tiên rồi quay về  báo cáo rằng nhà hoàn toàn bỏ  trống. Thế  là chúng tôi cẩn 

trọng bƣớc ra khỏi khu rừng và hƣớng về  phía làng. Vừa tới đƣợc ngôi nhà đầu tiên mà 

chúng tôi cho rằng bị  bỏ trống, một đám lính Đức lập tức ùa ra, la hét và nã tiểu liên liên 

hồi. Chúng chặn mất đƣờng rút của chúng tôi vào rừng. Chúng tôi đã lọt vào một cái bẫy. 

Tôi chỉ  kịp nổ  một phát súng lục thì bị  một ngƣời trong nhóm túm lấy tay và quát lớn: 

“Đừng bắn, chúng sẽ  giết hết chúng ta mất!” Bọn Đức nắm lấy tôi, lấy báng súng giáng 

tôi thật mạnh, đánh bật khẩu súng lục khỏi tay tôi, và khi tôi ngã xuống thì chúng dùng đế 

giầy  đạp  tôi  liên  hồi.  Tôi  không  hiểu  hết  những  gì  chúng  đang  nói  bởi  chúng  nói  quá 

nhanh mà không phát âm cho hết từ; chúng luôn nuốt mất âm cuối. Nhƣng nhờ  trời, tôi 

vẫn hiểu đƣợc những ý chính: “Đấy chính là thằng vừa mới nổ  súng! Phải giết chết đồ

lợn này! Nhƣng không phải  ở  đây, hãy ra sau nhà kho kia mà làm,  ở  đó có sẵn một cái 

hố.” Tôi có một cái áo khoác lính bình thƣờng – tôi mặc nó bên ngoài đồng phục sĩ quan 

để có thể gần gũi với binh sĩ hơn. Giờ đây chúng nắm lấy cái áo khoác kéo tôi đi. Tới đâu? 

Có lẽ tới cái hố đằng sau nhà kho. Cái áo khoác bị bung nút. Bọn Đức trông thấy bộ đồng 

phục sĩ quan của tôi, cái thắt lƣng sĩ quan, cấp hiệu trung uý của tôi và cái xà cột đựng 

bản đồ bằng da màu vàng. Chúng thôi kéo tôi và bắt đầu chằm chằm quan sát. 

"Du bist Komissar?" ("Mày có phải là chính trị  viên không?“ -  LTD) Tôi cố  gắng 

trả lời thật rõ ràng: "Nein, ich bin Oberleitenant" ("Không, tôi là thƣợng uý” - LTD). Bọn 

Đức cúi xuống và tiếp tục khám xét tôi, trong lúc đó tôi nằm trên mặt đất, yếu ớt và bàn 

quan với số  phận của chính mình. Bọn Đức lặng lẽ  trao đổi với nhau. Thế  rồi một tên 

trong bọn, một hạ sĩ quan, nói: “Hắn không nói dối đâu. Hắn là sĩ quan đấy. Chúng ta nên 

đƣa hắn về  Sở  chỉ  huy.  Đã có lệnh nếu  bắt đƣợc sĩ quan thì phải đƣa về  sở  chỉ  huy”. 

Chúng ngƣng đánh, kéo tôi đứng dậy và đƣa tôi đi, chốc chốc lại thúc báng súng vào lƣng. 

Tôi bƣớc đi, mặc dù rất khó khăn, ngƣời yếu lả vì đói và bi đánh. Mọi thứ  trƣớc mặt đều 

nhƣ trong làn sƣơng mù và tôi cảm thấy rất chóng mặt. Mọi việc nhƣ trong một cơn ác 

mộng, và nhƣ đang xảy ra không phải với tôi mà với một ngƣời nào khác. Dƣờng nhƣ tôi 

không còn tồn tại mà đang nằm chết ngoài rìa làng rồi. Tôi cảm thấy nhƣ bọn Đức đang 

dắt một ai khác về sở chỉ huy của chúng vậy. 

Tôi không còn nhớ  phải mất bao lâu để  tới đƣợc sở  chỉ  huy của chúng. Tôi cũng 

không nhớ  nổi mình đã phải đi bộ  bao xa. Lính của tôi không đƣợc đi chung với tôi. Họ

bị  đƣa tới một chỗ  nào đó và tôi không gặp lại họ  nữa. Chúng đem tôi tới một ngôi làng 

khác. Sau này nhƣ tôi đƣợc biết, đó là làng Razboynya (Nơi trú của lũ trộm) – một cái tên 

rất hợp. Gần làng, trên một bãi đất trống, tôi trông thấy san sát nhau nhiều dãy lán trại 

của một đơn vị lính Đức. 

Bọn lính đƣa tôi (hay đúng hơn là kéo lê tôi đi) vào một cái lán, có lẽ  đó là trạm 

chỉ huy, trong có một bàn rộng và nhiều ghế  ngồi. Chúng lột áo khoác và dây nịt của tôi, 

lấy mọi thứ  trong túi và để  tất cả  lên bàn. Bọn sĩ quan Đức kéo tới. Chúng quan sát kỹ

càng mọi vật dụng của tôi, các giấy tờ  và mấy tấm  ảnh. May thay, thẻ  Đảng và thẻ  sĩ 

quan cùng số  hiệu trung đoàn đã đƣợc giấu trong  ủng của tôi, bọn Đức không tìm đƣợc 

chúng. Đầu tiên chúng hỏi xem tôi có phải chính uỷ không. Để kiểm tra câu trả lời của tôi, 

chúng xăm soi thật kỹ  ống tay áo quân  phục của tôi, chỗ  thêu ngôi sao của các chính trị

viên.  Ở  chỗ  ấy có dấu thêu của ngôi sao nào không, hay tôi chỉ  vừa mới xé nó đi thôi? 

Rồi chúng hỏi xem tôi có phải Đảng viên Cộng sản không, tôi là sĩ quan chuyên nghiệp 

hay chỉ  là lính quân dịch; tôi thuộc dân tộc nào, và tôi là ngƣời Nga thuần chủng phải 

không; vị  tƣớng sƣ đoàn trƣởng của tôi  ở  đâu.  Ở  chỗ  nào làm sao mà tôi biết đƣợc? Tôi 

chật vật trả  lời những câu hỏi của chúng. Tôi cảm thấy rất yếu và chóng mặt. Bọn chúng 

tỏ vẻ tò mò trƣớc mấy bức ảnh của tôi. Chúng đặc biệt chú ý tới bức ảnh chụp vợ tôi đang 

ngồi  cạnh  cửa  sổ.  Tôi  bảo  chúng  rằng  bức  ảnh  ấy  chụp  tại  căn  hộ  của  tôi  ở  Matskva. 

Chúng hỏi lại tôi một cách giễu cợt: "Đấy có phải cái cửa sổ  độc nhất trong căn hộ  của 

mày không?” Tôi trả  lời rằng ở  đấy còn nhiều cửa sổ  khác nữa. Chúng lấy đi tất cả  trang 

bị  của tôi, cái thắt lƣng, cái bao trong có khẩu súng lục, cái xà cột đựng bản đồ  và cái la 

bàn. Sau khi thẩm vấn chúng đƣa tôi tới một nơi nào đấy, xung quanh rào đầy kẽm gai. 

Sau lớp kẽm gai tôi trông thấy những cái lán thảm hại làm bằng thùng và những tấm sắt rỉ 

sét. Tù binh Nga, những ngƣời phải làm việc phục dịch cho những đơn vị lính Đức, sống 

trong đó. Những con ngƣời ấy đón tiếp tôi rất nồng hậu. Họ đi tới nhà ăn của bọn Đức và 

đem về  cho tôi một ca đầy cháo và một  ổ  bánh mì. Họ  cũng cảnh báo tôi nên thận trọng. 

Ở  đấy có một tên lính gác Đức luôn dò xét trong đám tù binh xem ai trông giống ngƣời 

Do  Thái.  Rồi  hắn  đem họ  ra  ngoài  rừng  và  bắn  chết  họ.  Những  thằng Đức  khác  cũng 

không ƣa hắn nhƣng không ngăn hắn làm chuyện đó. Hóa ra thằng gác  ấy cũng đã hỏi 

những tù binh khác về  tôi, do mái tóc sẫm của tôi làm hắn nghi ngờ. Mọi ngƣời đã cố

gắng thuyết phục hắn rằng tôi là ngƣời Nga. Sau đó thằng khốn nạn  ấy lại tìm tôi sau 

hàng rào kẽm gai và hỏi mấy câu khiêu khích. Chật vật lắm tôi mới thoát khỏi hắn. 

Tôi rất biết ơn những tù binh Nga đã cho tôi ăn và để  tôi  ở  lại qua đêm tại một 

trong những cái lán. Sáng hôm sau tôi thức dậy và trƣớc tiên là tự  hỏi không hiểu mình 

đang  ở  đâu. Nhƣng những vết  đánh khắp ngƣời từ  trận đòn hôm qua nhắc tôi nhớ  ra sự

thật đáng buồn -  tôi đang là tù binh! Những vị  chủ  nhà hiếu khách, những ngƣời lính bị

bắt làm tù binh, đã bị  đƣa đi làm việc đâu đó từ  lúc sáng sớm. Tuy vậy, họ  vẫn không 

quên để  lại cho tôi một âu cháo cùng một mẩu bánh mì. Xin cám ơn các bạn, các đồng 

chí của tôi! 

Qua hàng rào kẽm gai, tôi trông thấy một phần doanh trại quân Đức. Những cái 

lán rất đẹp đƣợc dựng thành từng hàng thẳng tắp. Trƣớc lán trồng cả mấy luống hoa, còn 

những chiếc mũ sắt thì đặt thành hàng ngay ngắn trƣớc lều. Cờ xí và các quân hiệu sặc sỡ

treo khắp nơi. Nhƣ thể không hề có chiến tranh mà đang ở thời bình trong một doanh trại 

quân đội vậy. Chúng không thèm động một ngón tay để  nguỵ  trang doanh trại của mình. 

Chúng đủ  khả  năng  tạo dựng một cuộc sống hòa bình nhƣ vậy chỉ  vì quân đội ta không 

còn không quân hay xe tăng tại khu vực này của mặt trận, trong khi các lực lƣợng kiệt 

sức của ta tại vùng này đã bị  bao vây hoàn toàn. Tất cả  vẻ  đẹp rực rỡ  và thứ  trật tự  ngăn 

nắp này hoàn toàn tƣơng phản với cảnh vật đất Nga bao quanh: những cánh rừng, những 

cánh đồng, những túp lều thôn quê nƣớc Nga. Tôi cảm thấy rằng tất cả  những thứ  “kỷ

luật Đức” này, những thứ đƣợc đƣa tới đây bằng bạo lực, sẽ không thể tồn tại lâu ở đây. 

Tôi nhanh chóng đƣợc nhập chung với một đoàn tù binh bị  áp giải về  phía tây. 

Trƣớc khi khởi hành tôi tình cờ  trông thấy một tên trong nhóm sĩ quan Đức đã tham gia 

hỏi cung tôi đêm trƣớc. Hắn đeo cái xà cột đựng bản đồ  bằng da vàng ƣa thích của tôi 

bên thắt lƣng  –  cái xà  cột tôi đã đem theo từ  kho quân trang Hồng quân  ở  Matskva. Tôi 

có thể làm gì bây giờ? Tôi hiện đang trong hoàn cảnh mà bất kỳ tên Đức nào cũng có thể

tƣớc đi bất cứ  thứ  gì hắn muốn, thậm chí cả  mạng sống của tôi. Có ngƣời nói rằng bọn 

Đức thƣờng đi săn lùng những xà cột da Xô viết. Bọn Polizei khốn nạn hèn hạ  (Polizei  –

tên gọi mà ngƣời Nga dùng để  chỉ  những kẻ  Nga gian tham gia lực lƣợng cảnh sát làm 

việc  cho  ngƣời  Đức  –  LTD.),  những  kẻ  luôn  cố  gắng  hết  sức  để  chứng  tỏ  lòng  trung 

thành với những ông chủ mới của chúng, đặc biệt biết rõ điều đó. 

Vậy đấy, bị  bắt làm tù binh. Chúng tôi bƣớc đi dƣới sự  áp tải chặt chẽ. Những 

ngƣời bị thƣơng hay kiệt sức và không thể bƣớc đi luôn bị đe dọa xử bắn dọc đƣờng. Tại 

vài  nơi,  trong  những  rãnh  hai  bên  đƣờng,  chúng  tôi  trông  thấy  thi  thể  đã  thối  rữa  của 

nhiều binh lính Xô viết. Bị bắt vào mùa hè là còn may cho chúng tôi. Những ngƣời bị bắt 

vào mùa đông kể  lại rằng, trong khi đi đƣờng bọn lính Đức áp giải thƣờng tìm cách tƣớc 

ủng dạ  của mọi ngƣời. Chúng thƣờng đánh một  tù binh ngã xuống rồi lột  ủng khỏi chân 

anh ta. Đồng đội phải đƣa anh ta một mảnh giẻ để quấn chân, nhƣng điều này cũng không 

giúp gì nhiều. Những tù binh nhƣ thế  thƣờng sẽ  lạnh cóng, tụt dần lại sau, và bọn lính áp 

tải sẽ  bắn gục anh ta. Bọn Đức cũng cƣớp  cả  những nón lông còn tốt và áo khoác lông 

cừu. Đi mình trần trong giá lạnh cũng đồng nghĩa với bệnh viêm phổi và cái chết. Sau 

nhiều chặng nghỉ chân, chúng tôi bị đƣa tới một trại tù binh lớn ở thị trấn Sychevka. 

Đã đến trại tù binh  ở  Sychevka. Hàng đám đông những ngƣời đàn ông đói khát, 

râu ria lởm chởm tụ  tập sau hàng rào thép gai. Những doanh trại và nhà kho, trong đó 

những ngƣời bị  thƣơng, ngƣời  ốm và ngƣời khoẻ  mạnh nằm chung với nhau trên những 

dãy giƣờng tầng làm vội vàng tạm bợ. Trong trại, chúng tôi trông thấy những giá treo cổ, 

trên vẫn còn lủng lẳng vài đoạn thừng. Những ngƣời tù đã  ở  lâu trong trại kể  rằng đã có 

một đợt hành hình xảy ra không lâu trƣớc lúc chúng tôi tới. Điều đầu tiên chúng làm với 

chúng tôi là lục soát mọi ngƣời. Chúng lấy đi tất cả  những giấy tờ  còn lại và đốt chúng 

ngay trƣớc mặt chúng tôi. Tại sao vậy? Để  cho tất cả  đều cảm thấy mình chỉ  còn là một 

thằng “Ivan vô danh”, một thứ sinh vật không còn quyền hạn gì, hoàn toàn nằm trong tay 

bọn Kulturtraeger (giám ngục) Đức. Cùng lúc chúng cũng lấy đi đồng hồ, dao nhíp bỏ túi, 

băng gạc, tiền, nhẫn – tất cả những gì bọn Polizei (cảnh binh) thích. Cùng ngày chúng tôi 

tới trại, vào ban đêm, một dãy giƣờng nằm hai tầng đổ  sụp dƣới sức nặng của những tù 

binh đang ngủ, nghiền nát những ai nằm ở dƣới cùng. Tất cả những điều đó diễn ra trong 

bóng tối mịt mù, hoàn toàn không chút đèn đóm. Những ngƣời bị  đè nghiến và ngạt thở

bị  để  mặc cho chết dần trong bóng tối mà không nhận đƣợc bất cứ  sự  hỗ  trợ  thuốc men 

nào. Tại đây tôi tình cờ gặp lại một ngƣời lính cũ của mình. Toán chúng tôi bị đƣa đi dọc 

một dãy nhà kho, nơi  ở  của những ngƣời lính bị  bắt. Bất ngờ  một ngƣời lính hét về  phía 

tôi, anh ta rất mừng là tôi còn sống và cám ơn tôi vì đã không bỏ rơi binh sĩ của mình nhƣ 

những sĩ quan khác mà ở lại cho tới lúc kết thúc. Tôi cũng nhận ra ngƣời lính. Tôi thƣờng 

đối xử  nghiêm khắc với anh ta vì tính vô kỷ  luật, nhƣng những lời anh nói  ở  đây, trong 

trại tù của Đức, thực sự đã làm tôi hết sức xúc động. 

Tình trạng  ở  đây thật man rợ  và khủng khiếp.  Đó là một thứ  tự  do tối thƣợng để

bọn tội phạm hoành hành. Nạn trộm cƣớp và cảnh cậy mạnh hiếp yếu lan tràn khắp nơi. 

Hầu hết các tù nhân đều suy nhƣợc vì giam cầm và không thể chống nổi các đợt tấn công 

của lũ trộm cƣớp và bọn Polizei. Trong tình thế nhƣ vậy mọi ngƣời bắt đầu tìm kiếm anh 

em đồng chí để  cùng nhau chống lại lũ khốn kia. Đến đây tôi gặp đƣợc Boris Smirnov, 

ngƣời  cũng  không  thể  thoát  khỏi  vòng  vây.  Tôi  cũng  gặp  Nikolai  Loktev  và  Nikolai 

Semenov. Tôi chú ý đến Smirnov vì anh là một sĩ quan chuyên nghiệp. Loktev lại là một 

sĩ quan dự  bị  và đang phục vụ  trong Bộ  tham mƣu Tập đoàn quân. Nghề  nghiệp trong 

thời bình của anh là kỹ  sƣ trắc đạc. Semenov cũng là sĩ quan dự  bị, trƣớc là hiệu trƣởng 

một trƣờng học  ở  Kursk. Chúng tôi đều thuộc cùng một quân đoàn pháo binh và đều là 

thƣợng úy. Chúng tôi quyết định sẽ giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau tới cùng dù có bất cứ  chuyện 

gì xảy ra. 

Những ngƣời vừa bị bắt làm tù binh cũng không biết rõ điều gì đang xảy ra. Thảm 

họa phải chăng chỉ  xảy ra trong khu vực mặt trận  chúng tôi hay  ở  khắp mọi nơi? Tất cả

những điều này nghĩa là gì? Quân đội ta đã thua trong cuộc chiến này chăng? Bọn Đức sẽ

thống trị  chúng ta chăng? Tại sao ngƣời ta lại bỏ  rơi chúng tôi trong vòng vây và để mặc 

cho bọn Đức tàn sát? Những câu hỏi này quay  cuồng trong đầu tất cả  mọi ngƣời, hạ  gục 

dần ý chí của họ. Những cuộc tranh luận căng thẳng liên tục đƣa ra nhiều quan điểm và lý 

lẽ  sắc bén. Chúng tôi cố  gắng nhận ra tình thế  của quân ta, đƣa ra một số  quan điểm lý 

giải cho các sự  kiện. Chúng tôi chỉ  trích những chỉ  huy của mình và sự  thiếu kỷ  luật của 

quân đội ta. 

Một gã có râu quai nón phát biểu nhiều câu chống lại Chính quyền Xô viết. Hình 

nhƣ hắn là cựu thành viên thuộc phe Cách mạng Xã hội còn sót lại (phe này đã chấm dứt 

tồn tại kể  từ  cuộc chiến trong nội bộ  Đảng những năm 20  –  Bair Irincheev), cố  sức rao 

giảng về  cái gọi là “sức mạnh của quần chúng nông dân”. Hắn la lối rằng chỉ  ở  đây, sau 

hàng rào thép gai, hắn mới có đƣợc quyền tự do ngôn luận. Tôi không thể chịu nổi và bắt 

đầu tranh cãi với hắn. Các đồng chí  ở  gần đấy vội nhắc rằng tôi nên im miệng và đi chỗ

khác càng nhanh càng tốt, bởi gã kia đã bắt đầu gọi tôi là “một thằng chính uỷ Bolshevik”. 

Bọn do thám của Đức sục sạo khắp nơi. Một vài kẻ  lắm mồm đi mọi nơi, cố  tìm 

ra  những  ngƣời  trƣớc  chiến  tranh  đã  từng  làm  trong  ngành  công  nghiệp  quốc  phòng. 

Trong  khi  tìm  kiếm,  chúng  rêu  rao  là  những  chuyên  gia  quốc  phòng  có  thể  tìm  đƣợc 

những chỗ làm tốt trong ngành công nghiệp quân sự Đức, đƣợc cấp một lƣợng thực phẩm 

phong phú và ở trong những điều kiện sinh hoạt tốt hơn nhiều so với những tù nhân khác. 

Một vài ngƣời đã bị  chúng lừa gạt. Các thông tin cá nhân của họ  bị  ghi lại, và rồi những 

ngƣời tù đó bị  đƣa đi chỗ  khác thẩm vấn, ở  nơi đó họ  sẽ  bị  buộc phải tiết lộ  những thông 

tin chi tiết về  nhà máy của mình, vẽ  lại các bản đồ  và sơ đồ  bố  trí của nhà máy, điểm chỉ

các vị  trí trên bản đồ  địa hình. Các thông tin đó có lẽ  phục vụ  cho các đợt oanh tạc phá 

hoại. Một vài ngƣời tù bị đánh nhừ tử  sau những cuộc thẩm vấn nhƣ thế, trong khi những 

ngƣời còn lại biến mất không còn một dấu vết. 

Đôi khi có một ngƣời lớn tuổi mặc quân phục sĩ quan Đức xuất hiện giữa những 

ngƣời tù, nhƣng qua giọng nói chúng tôi nhận ra hắn là một ngƣời Nga chính cống. Trên 

áo khoác tunic của hắn, ngoài con đại bàng Đức và chữ thập ngoặc nhƣ thƣờng lệ, còn có 

một dải băng lạ mắt với chữ  cái “D” viết theo kiểu chữ  Slavơ cổ. Điều đó có nghĩa là gì? 

Một  cựu  sĩ  quan  Bạch  vệ  trong  quân  đội  của  Denikin  chăng?  Ngƣời  đàn  ông  ấy  trò 

chuyện thân mật với các tù binh, hỏi han mọi thứ, tỏ  vẻ  thông cảm trên mặt, viết vội vài 

điều gì đó, nói rằng để  cải thiện tình trạng sinh hoạt cho các tù nhân. Có lẽ, đó là một 

cách đặc biệt để  thu thập các tin tức tình báo. Bọn Đức không đơn giản đƣa tên sĩ quan 

Bạch vệ  này tới chỉ  để  tỏ  ra thông cảm với những  ngƣời đồng hƣơng của hắn. Bản thân 

tôi không đƣợc gặp ngƣời này. 

Nếu tình trạng của hầu hết tù nhân là tồi tệ  cả  về  thể  chất lẫn tinh thần thì điều 

kiện sống của các tù nhân Do Thái còn tồi tệ hơn nhiều lần. Họ coi nhƣ đã lãnh án tử. Tại 

trại Sychevka họ  là mục tiêu của mọi loại hành hạ, lăng nhục và tra tấn. Một phần trong 

số  họ  bị  lùa  xuống  ở  dƣới  những  dãy  giƣờng  trong  các  căn  phòng  của  bọn  Polizei  và 

Ukraina. Khi bị đƣa từ trại tù tới nhà giam của thị trấn, họ bị lột trần chỉ còn đồ lót, trong 

khi quần áo của họ bị ném vào giữa đám đông tù nhân, và một cuộc chiến đáng xấu hổ để

giành giật mớ quần áo ấy diễn ra. Tôi đã tận mắt thấy những con ngƣời đáng thƣơng ấy bị

dẫn tới nhà giam, đi chân trần và trên mình còn độc có đồ lót. Đi phía trƣớc đoàn ngƣời là 

hai cô gái trẻ, đang nép vào nhau  –  có lẽ  trƣớc đây họ  là những  y tá Hồng quân. Bọn 

ngƣời thi hành có lẽ  cũng ngƣợng không dám lột quần áo và tƣớc giầy của hai cô gái. 

Hay có thể vài tên sĩ quan Đức còn chút lƣơng tâm đã ra lệnh đó chăng? 

Tại  đây  chúng  tôi  đƣợc  nghe  câu  chuyện  buồn  về  giờ  phút  cuối  cùng  của  Ban 

tham mƣu Tập đoàn quân 39 của chúng tôi. Họ  bị  bao vây trong một khoảnh rừng nhỏ

hoàn toàn lọt trong tầm đạn cối của bọn Đức. Khu rừng đƣợc phòng thủ bởi những xạ thủ

súng máy, những ngƣời đã nghe  hứa là sẽ  đƣợc sơ tán bằng máy bay (tất nhiên lời hứa 

này  không  đƣợc  thực  hiện).  Mỗi  đêm  đều  có  máy  bay  chở  tới  đạn  dƣợc,  thức  ăn  và 

chuyển đi những ngƣời bị thƣơng nặng. Nhƣng họ cũng chuyển đi hầu hết những chỉ huy 

cao cấp. Chỉ  huy trƣởng Tập đoàn quân  Maslennikov hứa rằng ông ta sẽ  ở  lại với tập 

đoàn quân tới phút chót, dù trên thực tế  điều đó không thể  xảy ra. Tuy nhiên, theo lệnh 

của tƣớng Konev, chỉ  huy trƣởng Phƣơng diện quân, ông ta là một trong những ngƣời 

đầu tiên bay tới Kalinin để  báo cáo về  tình hình của Tập đoàn quân và không bao giờ

quay lại. Đêm trở  nên ngắn lại và ngày càng ít máy bay bay tới. Khi một viên tƣớng lên 

máy bay bay đi, ông ta chỉ  định một đại tá  ở  lại thay mình chỉ  huy. Vị  đại tá cố  gắng để

lên chuyến máy bay kế  tiếp, chỉ  định  một trung tá lên thay mình và cứ  tiếp tục tuần tự

nhƣ thế. Tất cả  bọn họ  đều tìm cách cứu mạng mình trƣớc tiên. Họ  nhận ra là tình hình 

hoàn toàn vô vọng, và máy bay chỉ  có thể  bay tới vào ban đêm. Có thể  chuyến máy bay 

ấy sẽ  là cơ hội cuối cùng để  cứu mạng họ, bọn Đức sẽ  xuyên thủng tuyến phóng thủ  vào 

ngày hôm sau. Khi những chỉ  huy cao cấp rút hết, kỷ  luật và trật tự  cũng biến mất. Mọi 

ngƣời  chỉ  còn  nghĩ  tới  lối  thoát  cho  riêng  mình.  Chúng  tôi  đƣợc  nghe  câu  chuyện  về

những hồi tiếp theo. Theo yêu cầu của  bác sĩ, một thƣơng binh nặng đang đƣợc đƣa lên 

máy bay. Một sĩ quan tiến tới, láo xƣợc kéo ngƣời bị thƣơng khỏi máy bay và thế chỗ anh 

ta. Hắn dúi một nắm tem phiếu vào tay phi công, cầm súng đe dọa mọi ngƣời và chiếc 

máy bay cất cánh bay đi. Những ngƣời khác, thấy “có ngƣời làm đƣợc thế”, cũng bắt đầu 

dùng vũ lực chiếm chỗ  trên máy bay. Họ  nổ  súng bắn lẫn nhau để  giành quyền lên máy 

bay. Dần dần những xạ thủ súng máy cũng bắt đầu rời bỏ vị trí, ngay khi họ nhận ra mình 

đã bị  lừa. Kết cục chuyện này là tuyến phòng thủ  đổ  sụp và tất cả  đều bị  giết hay bị  bắt 

làm tù binh. 

Chúng tôi bị  chuyển tới chuyển lui từ  trại này qua trại khác. Từ  Sychevka chúng 

tôi tới Smolensk, từ Smolensk tới Lesnaya – ngày càng xa về phía Tây. Khủng khiếp nhất 

là một trại gần ga Lesnaya thuộc vùng Molodechno. Chúng tôi bị  chuyển tới đây ngày 

mùng 4 tháng Tám năm 1942. Trƣớc chiến tranh nơi đây là một kho nông phẩm với các 

nhà kho gỗ chạy dài, âm một nửa dƣới mặt đất. Các nhà kho đƣợc chuyển thành nhà giam. 

Mỗi nhà giam đƣợc rào kín bằng dây thép gai và thuộc một khu vực độc lập của trại tù. 

Tại cổng vào trại tù có một chốt gác và một trạm gác nhỏ  có hầm chứa rất sâu, mà vì lý 

do nào đó đƣợc gọi là “boongke”. Những ngƣời tù chạy trốn bị  bắt lại đƣợc nhốt trong 

boongke. Những phòng phục  vụ, nhà bếp, nhà kho và nhà tắm (cũng không còn sử  dụng 

đƣợc nữa) nằm bên ngoài trại tù. Luật lệ  chính trong trại tù là: “chia để  trị”. Một vài nhà 

giam  chỉ  chứa  ngƣời  Ukraina,  vài  cái  khác  –  chỉ  ngƣời  Tatar.  Hai  nhóm  dân  tộc  này 

chiếm đặc quyền so với số  đông tù nhân ngƣời Nga. Họ  đƣợc cho ăn tốt hơn và đƣợc 

quyền lao động bên ngoài trại giam. Chúng tôi, những ngƣời Nga, đƣợc cho ăn rất tồi. 

Hai lần một ngày chúng tôi đƣợc phát một muôi cháo lúa mạch dở  sống dở  chín. Mỗi 

ngày một lần chúng mang tới một thùng nƣớc lạnh, thùng này mau chóng bị  uống cạn. 

Trời thì nóng mà chúng tôi tất cả  đều khát khô cổ. Đừng nghĩ tới chuyện tắm, điều đó 

đơn thuần là không thể  đƣợc. Trại đƣợc canh gác bởi cả  lính Đức lẫn cảnh binh Ukraina. 

Điều khủng khiếp nhất  ở  trại giam này là số  phận mọi ngƣời đƣợc quyết định tại đây: 

những ngƣời đƣợc sống và những ngƣời phải chết. Phải trải qua một đợt kiểm tra tổng thể. 

Chúng tìm ra những ngƣời Do Thái, các chính trị viên, các đảng viên lao động. Các cuộc 

thẩm vấn và điều tra đƣợc tiến  hành tại phòng gác bởi một Sonderfuerer, một đặc phái 

viên Gestapo. Hắn có thể  nói tiếng Nga khá tốt và không cần phiên dịch. Tù nhân từng 

ngƣời một bị  lôi vào boongke để  thẩm vấn và hầu hết mọi trƣờng hợp đều kết thúc trong 

boongke. Những ngƣời bị  đƣa vào  boongke thì bị  cởi quần áo, chỉ  còn mặc mỗi đồ  lót. 

Giày và quần áo của họ  bị  bọn Polizei (cảnh binh) lấy đi. Vài ngƣời khác, ăn mặc cũng 

nhƣ tù nhân và đƣợc phép lang thang ngoài trại, sẽ  vào đấy trò chuyện với họ, đặt ra vài 

câu  hỏi  khiêu  khích.  Sau  đó  chúng  chạy  tới  chỗ  tên  Sonderfuerer  và  huýt  sáo  hỏi  xin 

thuốc lá, cũng có nghĩa là những ngƣời trong kia sẽ  bị  kết án tử. Một ngƣời không cần 

phải là Do Thái hay chính trị viên cũng có thể bị  đƣa vào boongke – chỉ  cần một báo cáo 

miệng của thằng khiêu khích kia là đủ. Chúng tìm kiếm ngƣời Do Thái không chỉ  dựa 

theo giọng nói hay dáng vẻ, mà cả theo những phƣơng thức đặc biệt khác, ví dụ nhƣ xem 

ngƣời ấy có cắt da quy đầu hay không. 

Khi  boongke  đã  chật,  một  chiếc  xe  đặc  biệt  từ  Molodechno  tới  trại.  Đó  là  một 

chuyến xe tải đến theo thƣờng lệ, trên lắp một thùng lớn kín mít có gắn cửa. Bọn Đức và 

lũ Polizei kéo những tù nhân chân đất mình trần từ  boongke ra, dùng báng súng tống họ

vào trong thùng xe. Toàn bộ tù nhân trong trại đứng cạnh hàng rào thép gai, mắt dõi xem 

chiếc xe tải đi về hƣớng nào. Nếu nó đi về phía trái thì sẽ tới Molodechno, tới nhà tù. Nếu 

nó đi về  phía phải thì là tới khu rừng. Những ngƣời Tatar  ở  nhà giam cạnh chúng tôi kể

qua lƣới kẽm gai rằng họ  thƣờng bị  đƣa tới khu rừng đào những hố  lớn  để  chôn ngƣời 

chết. Nếu chiếc xe tải đi tới khu rừng, khói từ máy xe sẽ đƣợc phun thẳng vào thùng chứa 

tù nhân. Khi xe tải tới nơi, mọi ngƣời trên xe đều đã chết. Họ  mau chóng đƣợc ném vào 

hố chôn và lấp đất vội vã. Những ngƣời Tatar cũng kể rằng xảy ra vài trƣờng hợp vẫn còn 

tù nhân sống sót khi đƣợc kéo khỏi xe tải, nhƣng cuối cùng vẫn bị  chôn sống với những 

ngƣời chết. Do đó, tên Sonderfuerer tự  quyết định rằng ai sẽ  bị  giết ngay lập tức trong 

chiếc xe giết ngƣời  ấy và ai phải đƣợc đƣa tới nhà tù để  thẩm  vấn và tra tấn tiếp.  Ở  đấy 

có một tên mặc đồng phục Đức làm phuÏ tá cho thằng Sonderfuerer. Hắn là loại ngƣời 

luôn luôn kín đáo, nhút nhát, rất lịch sự  với tù nhân và nói tiếng Nga rất giỏi. Tôi nghe 

đồn rằng hắn là một trong những ngƣời Đức từng sống ở  Liên Xô trƣớc chiến tranh, từng 

là công dân Xô viết. Có lẽ  hắn tự  xấu hổ  với bản thân vì tất cả  những gì đang diễn ra 

trong trại tù. 

Nếu trong những trại trƣớc đấy giữa chúng tôi  có nổ  ra những  cuộc tranh luận 

chính trị  gay gắt thì tại trại Lesnaya mọi ngƣời đều trở  nên kín tiếng. Thậm chí những 

ngƣời từng chỉ  trích Liên bang Xô viết nay cũng im lặng. Tất cả  chúng tôi đều thấy rõ 

một thực tế  đang đe dọa mạng sống của mình, thần chết đang lôi chúng tôi đi dần dần 

từng ngƣời một, không cần đếm xỉa gì tới vấn  đề  mà anh ta đang tranh cãi. Hắn là một 

tên “khiêu khích” và thế  là đã đủ để ngƣời đó bị đƣa vào trong boongke và xa hơn nữa là 

về thế giới bên kia. Khi trại giam trở nên hoàn toàn câm lặng, thằng Sonderfuerer nghĩ ra 

một kế  mới để  bắt mọi ngƣời phải nói.  Vài kẻ  khiêu khích lại gần một ngƣời trong khu 

nhà giam sĩ quan và đƣa ra một câu hỏi có vẻ  thân mật: “Chúng ta đã thực sự  thua trong 

cuộc chiến này sao? Nƣớc Nga đã tiêu ma rồi chăng?" và đại loại nhƣ thế. Kết quả là mọi 

việc lại nhƣ cũ, cái boong ke vẫn luôn luôn chật ngƣời. 

Những mối liên hệ  giữa tù nhân ở  các nhà giam khác nhau bị  cấm tuyệt đối. Việc 

vận chuyển hay trao đổi đồ  dùng giữa các nhà giam cũng bị  cấm. Bọn Đức sợ  điều gì  –

âm mƣu, chaÏy trốn hay bệnh dịch? Vi phạm các điều cấm  ấy bị  trừng phạt cực kỳ  tàn 

nhẫn, cao nhất là đánh đòn công khai, việc thi hành thƣờng đƣợc giao cho đám ngƣời 

Tatar. Tù nhân ở khám phạt phải đứng “nghiêm” trong nhiều giờ liền. 

Trong một lần tập hợp toàn thể  trại tù, thằng Sonderfuerer đột ngột hỏi: “Thằng 

Do Thái …  và … đâu rồi (hắn xƣớng họ  những ngƣời  ấy lên)? Tao đã cảnh cáo những 

tên này rằng chúng phải chấm dứt việc tuyên truyền độc hại, nhƣng chúng đã không nghe 

theo lời răn đe của tao.” Những ngƣời đáng thƣơng kia tiến lên trƣớc hàng và lúng búng 

điều gì đó, cố  bào chữa cho bản thân, và trong lúc luống cuống đã nói “thƣa đồng chí”. 

Thằng Sonderfuerer hét lên: “Không có đồng chí nào ở  đây! Bắt lấy nó!” Hai tên Polizei 

tóm lấy con ngƣời bất hạnh kia và kéo anh ta vào boongke. 

Lại có lần một tên tƣớng cao cấp của Quân đội Đức tới thăm trại chúng tôi. Thằng 

phiên dịch nói với chúng tôi rằng tên kia là chỉ huy trƣởng một đơn vị hậu cần. Tên tƣớng 

tới trại chúng tôi, vào khu sinh hoạt của các sĩ quan. Hắn đƣợc hộ tống và bảo vệ bởi bọn 

quản lý trại giam của chúng tôi. Hắn chăm chú quan sát nét mặt chúng tôi, có lẽ nhằm tìm 

hiểu cái “tâm hồn Nga” bí hiểm và hung bạo. Hắn hỏi vài ngƣời về  cấp bậc, tên họ, nơi 

sinh sống. Sau đó hắn tóm tắt vài lời về tình hình hiện nay ngoài mặt trận, thông báo rằng 

Quân đội Đức đang chiến thắng trên mọi mặt trận và chiến tranh sẽ  mau chóng kết thúc 

bằng thắng lợi của nƣớc Đức. Tôi còn nhớ trong đó có một câu: “Sông Đông đã bị chiếm 

và bị vƣợt qua ở nhiều nơi”. 

Những  tên  lính  Đức  thƣờng  đi  tới  vòng  rào  kẽm  gai  bên  ngoài  và  đề  nghị  đổi 

những vật dụng có giá trị  cuối cùng của tù binh lấy mấy mẩu bánh mì. Chúng hay đòi 

đồng hồ, nhẫn, tiền cổ, trà và dao nhíp bỏ  túi. Các đồng đội đôi khi cũng nhờ  tôi làm 

phiên dịch cho những cuộc đổi chác bất nhân ấy. Tôi còn một đồng 50 kopek bằng bạc có 

in chân dung Alexander Đệ Tam do khẩu đội trƣởng của tôi (anh ấy đã bị giết hại sau đấy) 

tặng. Tôi quyết định đổi đồng tiền ấy lấy bánh mì, dù nó rất quý giá đối với tôi. Tên Đức, 

thằng mà tôi tìm cách trao đổi, bảo tôi: “ném đồng bạc qua hàng rào cho tao. Tao phải 

đƣợc thấy nó trƣớc". "Tại sao tôi lại phải tin ông?” "Tao không phải là Do Thái",  -  hắn 

đáp một cách kiêu ngạo. Thực vậy, hắn chẳng phải là Do Thái. Để  đổi lấy đồng tiền bạc, 

hắn ném lại cho tôi một khúc bánh mì đen. Tuy nhiên, sau khi xác nhận là đồng tiền làm 

bằng bạc thật, hắn hứa là ngày mai sẽ  đem tới thêm ít bánh mì nữa. Giá nhƣ bạn biết nổi 

tôi đã mong đợi cho tới sáng hôm sau đến thế nào! Vậy mà trời ạ, sáng hôm sau, ngày 24 

tháng Chín năm 1942, chúng tôi bị  dựng dậy từ  mờ  sáng và bị  đƣa tới  nhà ga để  lên tàu 

tới nƣớc Đức. 

Một cuộc kiểm tra kéo dài diễn ra trƣớc khi chúng tôi khởi hành. Việc khám xét 

tƣởng nhƣ bất tận với việc phải đứng nghiêm thật lâu và lục soát kỹ  lƣỡng. Lo sợ  bị  xử

bắn, chúng tôi phải tuân lệnh lộn trái túi quần túi áo để  đƣa nộp mọi loại dao nhíp, dao 

cạo và kéo. Khi chúng xét tới tôi, tôi chìa ra một cái kéo nhỏ  và hỏi xin đƣợc đem theo. 

Tên lính Đức thô lỗ  giật cái kéo khỏi tay tôi, lầm bầm rằng chúng tôi đƣợc đƣa tới Đức 

để  làm việc chứ  không phải để  “cắt móng tay”. Thế  rồi chúng lấy đi tất cả  thắt lƣng và 

giầy da còn sót lại. Chúng tôi phải đi thế bằng những đôi guốc gỗ mà bọn Đức đem tới và 

chất đống trƣớc sân. Ngƣời ta không thể  chạy và đi bộ  lâu với cái thứ  giày dép nhƣ thế. 

Đấy cũng là lúc những kẻ  đã phản bội lộ  mặt. Những ai có trong tay một tờ  “giấy phép” 

bằng tiếng Đức, ví dụ  nhƣ một tờ  chứng nhận đã tự  nguyện đầu hàng thì có quyền đƣợc 

giữ  lại những đôi giày da. Cũng cần phải nói rằng trong cả  đám tù nhân thì chỉ  có hai 

hoặc ba kẻ là phản bội. 

Trên đƣờng tới  nhà ga, chúng tôi đƣợc áp tải bởi một đơn vị  lính Đức rất đông, 

trang bị  không chỉ  tiểu liên mà thậm chí cả  trung liên. Có lẽ  vì chúng sợ  một cuộc nổi 

loạn hay chạy trốn tập thể. Chúng tôi đƣợc đƣa về  phía tây, trong khi mặt trời đang mọc 

từ  hƣớng  đông  và  chiếu  vào  lƣng  chúng  tôi,  nhƣ  thể  đang  nói  lời  vĩnh  biệt.  Tới  gần 

Molodechno chúng tôi đi ngang một khu ghetto Do Thái. Đó là cả  một khối những túp 

lều tồi tàn, chăng kín bởi hàng rào thép gai. Có một gã tóc đỏ  khổng lồ  đứng bên cổng 

vào khu ghetto, một kẻ  rõ ràng là trí não kém phát triển  –  hắn trông nhƣ một con vƣợn 

ngƣời.  Hắn  cầm  trong  tay  một  ngọn  roi.  Một  cô  gái  Do  Thái  đang  quét  dọn  nền  sân. 

Trƣớc ngực và sau lƣng cô có khâu hình ngôi sao David bằng vải màu vàng  –  một dấu 

hiệu mà mọi ngƣời Do Thái bắt buộc phải mang. 

Chúng tôi đƣợc chất lên những toa hàng bẩn thỉu, không trang bị chút tiện nghi gì 

cho mục đích chở  ngƣời. Do đó, chúng tôi phải ngồi nghỉ  và nằm ngủ  thẳng trên sàn toa. 

Những cửa sổ  nhỏ  đƣợc chằng kín dây thép gai, cửa toa luôn đóng chặt  và bị  khóa kín 

phía bên ngoài. Tôi không nhớ  có bao nhiêu ngƣời chúng tôi dồn trong một toa, nhƣng 

chúng tôi không thể  tất cả  nằm trên sàn cùng một lƣợt. Loktev, Semenov, Smirnov và tôi 

luôn sát cánh bên nhau, và thậm chí tại đây, trong cái toa tàu nhồi nhét chật chội khủng 

khiếp này, cũng vẫn vai kề  vai hỗ  trợ  lẫn nhau cả  về  thể  chất lẫn tinh thần. Đoàn tàu bắt 

đầu chuyển bánh. Chúng đƣa chúng tôi tới một nơi xa lạ. Số  phận thật trớ  trêu! Đã bao 

lần tôi mơ ƣớc đƣợc ra nƣớc ngoài đi du lịch hay đi công tác.  Và giờ  đây, tôi bị  đƣa ra 

nƣớc ngoài bằng vũ lực dƣới thân phận một tù nhân! 

Một tai nạn xảy ra khi chúng tôi mới khởi đầu chuyến hành trình. Đoàn tàu chở

chúng tôi đang băng ngang một khu rừng thì có tiếng súng nổ. Tàu dừng lại đột ngột. Bọn 

lính Đức chạy ngƣợc chạy xuôi dọc đoàn tàu, miệng văng tục  ầm ĩ. Quãng một lúc sau, 

một  tiếng  súng  đơn  độc  vang  lên  và  đoàn  tàu  tiếp  tục  chuyển  bánh.  Về  sau  chúng  tôi 

đƣợc biết một số  tù nhân đã đục một lỗ  trên sàn toa và nhiều ngƣời đã trốn qua cái lỗ  đó 

trƣớc khi tên lính tuần tra đang đứng ở toa cuối phát hiện và nổ súng. Tất cả những ngƣời 

còn lại trong toa đó đều bị  lục soát. Chúng tìm thấy một con dao trên ngƣời một tù nhân. 

Chúng lôi anh ta ra khỏi toa và bắn anh ngay lập tức. Đó chính là phát súng đơn độc mà 

chúng tôi nghe thấy. Chúng tôi khâm phục những con ngƣời dũng cảm kia, ghen tỵ  với 

họ và thầm chúc họ may mắn. 

Chúng tôi không biết mình bị  đang đƣa đi đâu. Để  xác định địa điểm chúng tôi 

đang tới, chúng tôi vẽ  bản đồ  Ba Lan và nƣớc Đức lên mảnh gỗ  dán bằng một mẩu bút 

chì. Dựa theo tên các thành phố chúng tôi đã đi qua, chúng tôi thử vẽ lại lộ trình của mình. 

Dần dần, chúng tôi nhận ra mình đang bị đƣa qua Ba Lan để tới miền Tây Nam nƣớc Đức. 

Một hay hai lần mỗi ngày, tại các ga chính, chúng tôi đƣợc phép  rời tàu để  đi lấy thực 

phẩm.  Bọn  chúng  đổ  một  ít  súp  vào  cà  mèn  cho  chúng  tôi  –  chỉ  vừa  đủ  để  chúng  tôi 

không chết hết vì đói. Trong lúc chúng tôi ra khỏi toa, toàn đoàn tàu đều bị  kiểm tra. Tôi 

thấy một tên Đức bắt gặp cái bản đồ của chúng tôi và mang nó lên cho đội trƣởng của hắn. 

Tôi nghe tên đội nói rằng: “Lũ lợn này cũng có thể làm việc cần cù đấy nhỉ.” Tôi còn nhớ

lúc tới ga Volkovyssk. Tại nhà ga này, tên Đức đầu bếp chịu trách nhiệm phân phát thức 

ăn kiêm luôn vai trò của một đứa “phân loại viên”. Nếu một tù nhân có mái tóc vàng, anh 

ta sẽ  đƣợc nhận một cà mèn súp đầy. Nếu tù nhân tóc sẫm màu, anh ta sẽ  chỉ  nhận đƣợc 

nửa cà mèn hay thậm chí ít hơn nữa. Lúc ấy tóc tôi sậm màu nên tôi cũng chỉ  đƣợc nhận 

nửa cà mèn súp. Thuyết phân biệt chủng tộc thể hiện theo cách hiểu của tên Đức nấu bếp 

là nhƣ vậy đó. Đoàn tàu chúng tôi thƣờng phải dừng lại  ở  mỗi ga hay ngay giữa đồng 

trống. Có lần một đoàn tàu chở một đơn vị lính Ý dừng lại trên tuyến đƣờng sắt đối diện. 

Đoàn tàu ấy đang đi về  phía đông. Đám lính Ý mở  cửa toa của họ  về  phía chúng tôi và 

thân thiện nói chuyện với chúng tôi. Chúng tôi cũng vẫy tay qua các cửa sổ  nhỏ  trên tàu 

để  đáp  lại  họ.  Rồi  những  ngƣời  Ý  sắp  xếp  một  buổi  hòa  nhạc  cho  chúng  tôi,  có  cả

măngđôlin và ghitar. Rõ ràng là họ  không thù ghét đất nƣớc Xô viết, đất nƣớc mà họ  sắp 

phải tham chiến chống lại. Nói cách khác, họ tỏ thái độ thân thiện với chúng tôi. Buổi hòa 

nhạc bị cắt đứt bởi một sĩ quan Ý, hắn la mắng đám lính và hình nhƣ ra lệnh cho họ đóng 

hết cửa lại. Hắn đeo một dải băng xanh cheÙo qua vai, có lẽ  đó là một tên sĩ quan trực 

nhật. Chúng tôi cũng thấy lính Ý đang dắt mấy con lừa để  đi lấy nƣớc. Phía Ý sử  dụng 

những cái xô làm bằng nhựa trong suốt mà chúng tôi đƣợc trông thấy lần đầu tiên trong 

đời. 

Chúng  tôi  bị  chở  xuyên  qua  Ba  Lan.  Chúng  tôi  cũng  đƣợc  chiêm  ngƣỡng  một 

phần của Warsaw. Những lá cờ  thập ngoặc đƣợc treo khắp nơi trên các ban công nhà. 

Nhƣng rồi đoàn tàu chở  chúng tôi nhanh chóng chui vào những đoạn đƣờng hầm. Một 

công nhân đƣờng sắt Ba Lan, thận trọng đƣa mắt quan sát xung quanh, lại gần chỗ  chúng 

tôi  trong  đoạn  hầm  khuất  và  cất  tiếng  hỏi  xem  chúng  tôi  bị  bắt  từ  đâu  tới.  Trên  đoạn 

đƣờng  trƣớc  khi  tới  Warsaw,  những  ngôi  làng  Ba  Lan  trông  có  vẻ  nghèo  nàn,  toàn  là 

những túp lều gỗ  lợp tranh. Sau khi rời Warsaw, một khung  cảnh “Châu Âu” xuất hiện: 

những ngôi nhà gạch sạch sẽ  có mái ngói tử  tế. Và rồi đã tới nƣớc Đức. Trong số  nhiều 

thành phố, tôi nhớ nhất là Chemnitz. 

Tôi còn nhớ một đêm khuya, khi trời đã tối sẫm và đoàn tàu chúng tôi đang dừng 

tại một ga xép ở Đức. Chúng tôi đều đang ngủ, mình quấn trong áo khoác, nằm ngồi ngổn 

ngang trên sàn tàu chật chội khủng khiếp. Có thể  nghe tiếng ngƣời đi bộ  ngoài sân ga, 

thậm chí chúng tôi còn nghe cả  tiếng cƣời phụ  nữ. Chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc xa xa. 

Một cơn gió  ấm áp đƣa  lại mùi hƣơng của thảo mộc mọc mùa hè. Tất cả  những cái đó 

nhƣ thật gần gụi, đồng thời lại thật xa vời đối với chúng tôi, đang bị  khóa nhốt kín trong 

cái nhà tù có bánh xe của mình. 

Đến ngày thứ sáu của chuyến hành trình, ngày 30 tháng Chín năm 1942, chúng tôi 

tới điểm dừng cuối cùng, thị  trấn nhỏ  bé Muensingen thuộc miềân Tây Nam nƣớc Đức. 

Chúng tôi đã kiệt sức bởi chuyến đi và đói khát tới mức chỉ có thể khó nhọc lê bƣớc. Vậy 

mà hóa ra chúng tôi còn may mắn hơn nhiều những ngƣời vừa tới trƣớc đó. Những ngƣời 

tới sớm hơn kể  rằng chuyến xe lửa đó phải đi đƣờng hết hơn mƣời ngày, và trên xe chật 

chội tới mức tù nhân phải đứng trong gần hết thời gian di chuyển. Họ  cũng không đƣợc 

rời tàu ra ngoài và gần nhƣ không đƣợc cấp chút thức ăn nào. Khi tàu tới nơi, một “màn 

trình diễn” ngoạn mục đƣợc dàn sẵn: những tù nhân đói khát, kiệt sức, bẩn thỉu và lởm 

chởm râu ria bị  bắt xếp hàng trên sân ga để  ra mắt một tên tƣớng Đức giữ  chức vụ  quan 

trọng. Khi nhìn thấy các tù nhân, hắn thốt lên: "Lũ ngƣời thế  này mà lại muốn  đặt văn 

hóa của chúng lên trên chủng tộc German chúng ta sao?” 

Thị  trấn trung cổ  nhỏ  bé Muensingen với những ngôi nhà xinh xinh kiểu Gothic 

và mái ngói nhọn có thể  làm phông nền hoàn hảo cho một vở  ca kịch Faust. Dƣờng nhƣ 

tất cả đều hấp dẫn và thú vị, ngoại trừ việc nó quá buồn tẻ. Chúng tôi đƣợc thấy một cảnh 

của quá khứ diễn ra tại nhà ga, có vẻ khá hợp với những kiến trúc cổ xung quanh. Một xe 

ngựa  đƣợc  kéo  bởi  một  đôi  ngựa  mập  mạp  đi  tới  nhà  ga.  Những  con  ngựa  đƣợc  điều 

khiển bởi ngƣời đánh xe mặc bộ  đồ  thêu chỉ  vàng. Một mệnh phụ  kiêu kỳ  ngồi trên xe, 

chăm chú dò xét chúng tôi qua đôi mục kỉnh một cách thành thạo. Nhƣ sau này chúng tôi 

nghe kể  lại, bà ta là một địa chủ  giàu có, tới để  chọn lấy số  “nô lệ  Phƣơng Đông” phần 

mình. 

Nơi này thực sự  là một  thị  trấn trung cổ  trong chuyện cổ  tích. Dƣờng nhƣ kia là 

một nhân vật đang vận trang phục sân khấu sắp bƣớc khỏi căn nhà và cất giọng hát một 

đoạn trong vở  opera. Nhƣng cái trại tù mà chúng tôi sắp bị  đƣa vào thì không phải là sân 

khấu opera. Trại bao gồm  những dãy nhà dơ dáy đầy gián rào lƣới kẽm gai. Đó cũng là 

nơi đói khát khủng khiếp. Bọn chúng phát  cho  chúng tôi mỗi ngày một ít súp bắp cải 

sống sít và một khoanh nhỏ  bánh mì. Bánh mì đỏ  quạch vì làm từ  rễ  củ  cải đƣờng. Khắp 

trại  nhan  nhản  lũ  phản  bội,  những  cảnh  binh  Nga  và  Ukraina,  điệu  bộ  nhƣ  một  lũ  tội 

phạm. Nhằm giải trí, hàng ngày chúng tìm mọi cách để  đánh đập đám tù nhân khốn khổ. 

Để làm chuyện đó, chúng đem tới khoảng nửa nồi súp rồi thông báo rằng mọi ngƣời đƣợc 

phép đến lấy “súp phụ cấp”. Những con ngƣời đang điên dại vì đói khát đổ xô về phía cái 

nồi súp. Một trận chiến giành thức ăn diễn ra và thế  là bọn cảnh binh bắt đầu quất mọi 

ngƣời bằng những cây gậy dài đã chuẩn bị  sẵn từ  trƣớc. Chân phồng rộp và chảy máu vì 

đi  guốc  gỗ  nên  tôi  tìm  cách  để  kiếm  một  thứ  khác  thay  thế.  Tôi  nhờ  một  cảnh  binh 

chuyện  ấy  –  một tên trông có vẻ  đỡ  lƣu manh hơn cả. Tôi vẫn còn một đôi đồng hồ  đeo 

tay, giữ  đƣợc chúng cũng là cả  một phép lạ, và đề  nghị  đổi một trong số  đó lấy một đôi 

giầy. Để  đổi lấy cái đồng hồ, tên cảnh binh đem tới cho tôi một đôi giày lính cũ bằng da 

màu nâu đỏ  đã nứt đế. Nhƣng đôi giày nhƣ thế  với tôi cũng đã là một niềm vui sƣớng tột 

cùng rồi. 

Ở đây bọn chúng cấp cho mỗi ngƣời một cái thẻ xanh lá cây, trên ghi những thông 

tin về  cá nhân từng ngƣời. Chiều cao, màu tóc và mắt, họ  tên và nhóm chủng tộc đều ghi 

rõ trên thẻ. Chúng tìm kiếm lọc ra những ngƣời có chút máu Do Thái hay Di gan trong 

mình. Những ngƣời nhƣ thế  sẽ  bị  thủ tiêu lập tức. Chúng dán hai tấm ảnh và các dấu vân 

tay  lên  thẻ.  Có  lẽ  đó  cũng  là  cách  thức  chúng  tiến  hành  trong  các  nhà  tù  ở  Đức.  Mỗi 

ngƣời trong chúng tôi phải đeo một cái lập lắc cổ  chó hình chữ  nhật bằng nhôm. Trên đó 

có khắc số 5 và số tù cá nhân mỗi ngƣời (5 là mã số của trại giam - Stalag 5a. Cái lập lắc 

đƣợc phân làm  đôi bởi nhiều lỗ  đục sẵn. Khi ngƣời tù chết, một nửa sẽ  để  lại trên cổ  cái 

xác và nửa kia đƣợc giữ  lại để  vào sổ. Mọi thứ  đƣợc sắp xếp với độ  chính xác theo kiểu 

Đức. Ngƣời ta nói rằng lính Đức cũng đeo một cái lập lắc có khắc số  y nhƣ vậy, chỉ  có 

điều cái của chúng có hình ô van. Những tù nhân về  sau gia nhập Quân đội Giải phóng 

Nga ROA (tức đội quân phản bội của Vlasov) cũng đƣợc phát cái lập lắc cổ  chó hình ô 

van. Đấy chính là lý do tại sao chúng tôi giữ  mãi cái lập lắc hình chữ  nhật nhƣ một bằng 

chứng xác thực rằng mình không có gì liên hệ với các đơn vị của Vlasov. 

Vì các thức ăn tồi tệ trong trại nên chúng tôi bắt đầu mắc bệnh ỉa chảy. Mỗi tối tôi 

phải thức dậy nhiều lần để tới nhà vệ sinh, nằm rất xa nhà giam. Một tối nọ tôi đang đi tới 

đó. Bất ngờ,  một tên gác, một thằng Đức lùn và béo, bƣớc chắn ngang đƣờng đi của tôi. 

Tôi dừng lại và hỏi một cách máy móc: "Was wollen Sie?" (Anh muốn gì?) Hắn chửi tôi, 

và tôi bắt buộc phải vòng qua hắn để đi tiếp. Khi tôi quay về, tôi nghe tên gác ấy đang nói 

với một thằng khác: "Mày thấy thế nào? Lũ lợn đó dám hỏi chúng ta rằng chúng ta muốn 

cái gì! Chúng ta chỉ muốn chúng nó chết hết đi cho rồi!” 

Sau khi chúng tôi đƣợc “vô sổ” nhƣ thế  và số  tù đƣợc treo lủng lủng trên cổ, bọn 

chúng bắt đầu phân chúng tôi thành từng đội để  đƣa đi làm những công việc khác nhau. 

Tất cả  mọi ngƣời đều muốn thoát khỏi cái trại chết đói đáng nguyền rủa đó càng nhanh 

càng tốt. Một số  ngƣời mơ đƣợc tới làm tại một nhà máy sản xuất đƣờng, nơi ít nhất họ

cũng sẽ  đƣợc nhá rễ  củ  cải đƣờng. Bốn ngƣời chúng tôi cùng gắn bó với nhau trong suốt 

quá trình phân công công việc, và tất cả  chúng tôi đƣợc đƣa vào chung một đội công tác 

khoảng ba mƣơi ngƣời. Có thể xem đó là một đội công tác sĩ quan, dù chỉ phân nửa trong 

số  họ  là sĩ quan. Những ngƣời khác là binh nhì và hạ  sĩ quan, những ngƣời cho rằng sẽ

đƣợc ƣu đãi hơn khi ở chung với một nhóm sĩ quan. Dù sao cũng không ai có thể kiểm tra 

cấp hiệu của họ – tất cả giấy tờ của chúng tôi đều đã bị tiêu hủy. 

Ngày 16 tháng Mƣời năm 1942, đội chúng tôi đƣợc  đƣa khỏi trại, áp giải tới nhà 

ga và bị  chất lên một toa hàng. Chúng tôi mừng rỡ  khi thấy có sự  thay đổi, nhất là bởi 

chúng tôi tin rằng không còn nơi nào có thể tệ hơn Muensingen. Ngày hôm sau chúng tôi 

xuống một ga nhỏ  tên là Lorch, cách Stuttgart khoảng 35 km về  phía đông. Một thị  trấn 

nhỏ  cùng tên với nhà ga nằm bên cạnh đƣờng tàu.  Ở  đó có một nhà kho bằng gỗ  cạnh 

đƣờng sắt với hàng rào dây thép gai. Một biển quảng cáo to tƣớng nằm trên mái nhà kho, 

trên viết: “Công ty Lutz, chuyên xây dựng các công trình trên và dƣới mặt đất”. Con sông 

Rems nhỏ bé nằm sau nhà kho, về sau chúng tôi đƣợc biết nó chảy về phía Tây để đổ vào 

sông Rhine. Phía bên kia đƣờng tàu nhấp nhô một chỏm núi và các bức tƣờng của một tu 

viện.  

Cái nhà kho gỗ  đƣợc chia làm hai phần. Một  phần dành cho các tù nhân và phần 

thứ hai cho đám lính gác. Cửa sổ trong phòng tù nhân chằng kín song sắt và các tấm chớp 

gỗ. Các dãy giƣờng sắt hai tầng đƣợc xếp sát tƣờng, trải những tấm đệm độn rơm. Mỗi 

chiếc giƣờng phủ  hai tấm chăn cũ, một làm tấm trải và cái còn lại làm chăn đắp. Một lò 

sƣởi bằng sắt đứng giữa phòng. Ở đấy cũng có những chiếc bàn dài và các băng ghế bằng 

gỗ. Có một tờ  thông báo treo trên tƣờng, đánh bằng tiếng Nga trên một máy đánh chữ

(nhƣng là thứ  tiếng Nga rất tồi). Đó là bảng liệt  kê những gì tù nhân bị  cấm không đƣợc 

làm. Bảng liệt kê bắt đầu bởi dòng chữ: "bất cứ  tù nhân nào dám đụng vào một ngƣời 

Đức đều sẽ bị xử bắn”. Tất cả những mục còn lại đều tƣơng tự nhƣ điều đầu tiên kể trên. 

Khu dành cho bọn Đức là một phòng ở rộng, ấm áp và sáng sủa cho đám lính gác 

(đội  gác  gồm  một  hạ  sĩ  quan  và  bốn  lính  Đức).  Chúng  có  một  lò  sƣởi,  những  chiếc 

giƣờng  một  tầng,  chỗ  để  súng  và  một  máy  thu  thanh.  Vào  mùa  đông,  trong  khi  ở  chỗ

chúng tôi mái nhà phủ  đầy tuyết thì khu của bọn Đức không hề  có  tuyết trên mái. Chúng 

luôn đốt lửa sƣởi  ấm phòng khi trời rét. Một biển báo trên cánh cửa thông từ  phòng của 

chúng  sang  phòng  chúng  tôi,  ghi  bằng  tiếng  Đức:  “Cấm  vào”.  Dù  vậy  chúng  tôi  cũng 

không bao giờ  vào đấy.  Ở  đây cũng có nhà xí và nhà tắm (một căn phòng để  chúng tôi 

tắm rửa và thay quần áo) nằm trong sân của khu nhà kho. Ở đó có một bồn nƣớc đặt trên 

nóc nhà tắm, tự  động đƣa nƣớc từ  sông lên nhờ  một máy bơm điện. Lúc đầu chúng tôi 

đƣợc phép tắm rửa mỗi tuần một lần. Thế  rồi một tên chỉ  huy cao cấp tới, la mắng tên hạ

sĩ, và sau đó chúng tôi chỉ còn đƣợc phép tắm hai tuần một lần. Chúng cấp cho chúng tôi 

những bộ quần áo sẫm màu trên có sơn hai chữ cái bằng sơn trắng: SU (Liên Xô – Soviet 

Union). Những chữ này cũng đƣợc viết lên chỗ đầu gối phải, chỗ ngực trái, phía lƣng bên 

phải và trên mũ. Không thể trốn thoát trong thứ trang phục nhƣ thế đƣợc. Chúng tôi cũng 

đi đôi giày công tác có đế gỗ  rất dầy, đẽo tròn phía mũi và phía sau. Dựa theo những dấu 

hiệu trên nút áo, chúng tôi hiểu rằng đây là một loại  quân phục  –từ  quân đội Tiệp Khắc 

và Pháp – nhuộm màu xanh lam-xanh lục sẫm. 

Chúng thƣờng đánh thức chúng tôi dậy từ  sáu giờ  sáng. Hai tù nhân trực nhật và 

một lính gác sẽ vác một cái nồi lên xe ngựa để  tới chỗ  nhà bếp gần nhất, nơi chúng đang 

nấu  súp  rau  cho  chúng  tôi.  Nhà  bếp  đƣợc  điều  hành  bởi  một  tên  Đức  béo  mập  tên  là 

Bromer. Trong thời gian đó chúng tôi phải dọn xong giƣờng và quét dọn khu trại. Kế đến 

chúng mở khóa cổng để chúng tôi vệ sinh rồi mặc quần dài và đi giầy cùng cất ở đấy. Súp 

và một mẩu  bánh mì quết bơ nhân tạo cũng vừa kịp tới. Mỗi súc bánh phải chia làm hai 

phần. Chúng tôi cắt chúng làm hai và thậm chí đem cân trên một chiếc cân tự tạo bằng gỗ

sao cho hai phần thật đều nhau. Mẩu bánh nhỏ  đó là phần ăn cho cả  một ngày trời. Thế

rồi chúng  tôi lên đƣờng đi làm việc. Nếu nơi làm không xa thì chúng tôi xếp hàng đi bộ

tới. Nếu quãng đƣờng phải đi quá dài thì chúng tôi sẽ lên một toa tàu, đƣợc gắn vào một 

đoàn tàu đi ngang qua. Hai ngƣời có thông báo  ốm đƣợc phép ở  lại trong trại. Chúng tôi 

lên một kế  hoạch có sắp xếp phân công rõ ràng. Những ngƣời bị  bệnh nặng sẽ  đƣợc gửi 

tới bác sĩ để  đƣa về  bệnh viện tại trại giam Stalag 5a  ở  Ludwigsburg. Không ai muốn 

phải tới đó, tù nhân  ở  đấy thƣờng xuyên bị  bỏ  đói. Chúng tôi lao động trên đƣờng sắt 

đƣợc cấp thức ăn đầy đủ  hơn, do đó là một công việc tay chân nặng nhọc. Chúng tôi làm 

từ 10 tới 12 tiếng mỗi ngày. Công việc là tháo lên những thanh ray và tà vẹt đã cũ. Kế đó 

là thay những thanh ray thép còn mới vào, đặt tà vẹt mới lên rồi tán đinh vào tà vẹt.  Sau 

đó chúng tôi phải nhét đá lót đƣờng mới xuống dƣới tà vẹt, nện bằng đầu tù của cái cuốc 

chim. Bốn ngƣời phải đứng lên trên thanh tà vẹt và nện xuống đá lót đƣờng ở  dƣới tà vẹt 

từ  cả  hai phía. Tên Meister sẽ  kiểm tra độ  đầm chặt của lớp đá lót dƣới tà  vẹt bằng cách 

cuốc thử xuống bằng đầu nhọn của cái cuốc chim. Công việc nặng nhọc nhất là mang vác 

những thanh ray bằng loại kìm Zanga đặc biệt. Việc mang vác những thanh tà vẹt bôi đầy 

dầu mỡ bảo quản cũng rất khó khăn. Chất lên và dỡ đá lót đƣờng xuống cũng là một công 

việc rất mệt. 

Viên quản lý công ty Lutz là một ngƣời thon chắc đầy sức lực, một ngƣời Tiệp 

gốc Đức mà đƣợc mọi ngƣời gọi ngắn gọn là Meister (đốc công). Chúng tôi không biết 

tên thật của hắn, có lẽ  hắn có lý do để  không nói nó ra với chúng tôi. Các bạn tôi đặt tên 

cho hắn là Riwa, do hắn rất hay dùng cái từ  này. Theo tiếng Schwab nó có nghĩa là (khi 

dùng chung với một động từ  khác) “đặt” hay “ném cái gì đó qua một bên”. Vào mọi thời 

tiết trong năm hắn đều đội một chiếc mũ lông đỏ  và gắn một phù hiệu kỹ  thuật viên trên 

ve áo: một cái bánh răng và một chữ thập Đức nằm ở giữa. Chúng tôi bắt đầu và kết thúc 

công việc khi nghe hiệu lệnh phát ra từ cái còi do Riwa thổi. Trong lúc chúng tôi làm việc 

hắn thƣờng la hét chúng tôi: "Los, los! (tƣơng tự  nhƣ “Davai, davai!” trong tiếng Nga  –

“Làm đi, làm đi !”)". Thậm chí khi chỉ  còn hai phút nữa là hết ngày làm việc, khi hắn đã 

chợm  rút  chiếc  còi  và  cái  đồng  hồ  trong  túi  ra,  hắn  vẫn  tiếp  tục  hét:  “Los,  los!”  Hắn 

không chấp nhận bất cứ  thái độ  thân tình  hay đùa cợt nào, luôn luôn tỏ  ra lạnh lùng thực 

dụng và yêu cầu một tinh thần lao động có trách nhiệm cao ở chúng tôi. Đồng thời hắn tỏ

ra rất nguy hiểm, bởi hắn là ngƣời Tiệp và có thể  hiểu tiếng Nga, dù hắn không bao giờ

nói với chúng tôi về  chuyện đó. Các bạn của tôi, những ngƣời ban đầu cho hắn là ngƣời 

Đức nên không hiểu tiếng Nga, đã nguyền rủa bằng tiếng Nga để  đáp lại những mệnh 

lệnh của hắn. Sau đó tôi phải nói gỡ cho họ khỏi bị rắc rối, bằng cách giải thích cho Riwa 

rằng những từ  thô tục đó trong tiếng Nga có nhiều nghĩa và hắn đã hiểu nhầm nó hay đại 

loại nhƣ thế. 

Gần nhƣ trọn ngày chúng tôi phải  ở  ngoài tuyến đƣờng sắt. Mặc cho nắng chiếu 

cháy da, mặc cho răng cỏ  chúng tôi lung lay trong giá lạnh mùa đông  –  chúng tôi phải 

làm việc trong bất cứ  điều kiện thời tiết nào. May mắn cho chúng tôi, thời tiết miền Nam 

nƣớc Đức cũng khá ôn hòa. Từ  mùa thu và cuối mùa đông cho tới dịp đầu năm mới mây 

đen thƣờng tới từ  Đại Tây Dƣơng, lúc này thƣờng xuyên có mƣa. Vào tháng Giêng và 

tháng Hai trời có tuyết, theo sau là một mùa đông trời lạnh và khô ráo. Tuyết phủ  trên 

mặt đất chỉ trong vòng một tháng, đôi khi còn ngắn hơn. Khi đó trời suốt ngày ấm áp, mặt 

trời chiếu sáng và đôi lúc có muỗi bay vo ve. Phụ  nữ  Đức mở  toang cửa sổ  để  giũ sạch 

nệm trải giƣờng. Nhƣng khoảng bốn hay năm giờ chiều, khi mặt trời lặn trên dãy Alps thì 

trời bắt đầu se lạnh. Tới lúc đó cánh phụ nữ Đức đi khép kín cửa sổ lại. Về đêm có sƣơng 

giá buông xuống mặt đất. Mùa xuân chỉ tới sớm nhất là vào tháng Ba. 

Có lẽ  chúng tôi đã may mắn khi đƣợc làm việc ngoài trời suốt ngày. Rất nhiều tù 

nhân bị đƣa đi lao động dƣới các mỏ muối hay mỏ than hoặc các xí nghiệp quân đội nằm 

ngầm dƣới mặt đất. Đấy là chƣa kể tới những ngƣời phải đi xây dựng những nhà máy hay 

công trình bí mật và sẽ bị giết hết sau khi công trình hoàn thành vì bị coi nhƣ những nhân 

chứng nguy hiểm. Có rất nhiều ngƣời Đức và ngƣời Ý cùng làm việc với chúng tôi, họ

không đủ  tiêu chuẩn để  phục vụ  trong quân đội do có khuyết tật tâm thần hay thể  xác. 

Trong số  đó có ông già Sadori ngƣời  Ý đến từ  Sicily, ngƣời suốt đời đã làm việc ở  Đức. 

Tôi hỏi ông tại sao lại rời bỏ  một quê hƣơng xinh đẹp nhƣ thế. Ông trả  lời rằng làm một 

ngƣời nghèo thì không thể hạnh phúc thậm chí ngay khi sống trên một đất nƣớc xinh đẹp. 

Ông cũng bảo tôi rằng ông cũng chỉ  là một tù nhân nhƣ chúng tôi mà thôi. Trợ  lý đốc 

công  là  một  gã  Đức  râu  mép  to  lớn  và  đần  độn,  rất  thù  ghét  chúng  tôi.  Những  ngƣời 

chuyên đặt biệt hiệu trong nhóm đặt cho hắn cái tên “chó săn”. Tôi luôn cố  tránh phải 

tranh luận với gã ngốc đó, nhƣng  không hiểu vì lý do gì đó hắn vẫn tìm cách nói chuyện 

với tôi, tán dƣơng các chiến thắng của ngƣời Đức. Tới khi hắn bảo tôi rằng vũ khí của 

quân đội Đức có chất lƣợng tốt hơn của ngƣời Nga thì tôi không thể nhịn đƣợc nữa và trả

lời rằng với điều đó thực tế  chiến tranh sẽ  trả  lời. Hắn nổi giận và giơ nắm đấm trƣớc 

mặt  tôi.  Một  lần  có  ngƣời  ném  một  cái  ghế  nặng  bằng  gỗ  từ  đoàn  tàu  vào  chúng  tôi. 

Chiếc ghế  đƣợc nhắm vào những tù nhân, nhƣng lại trúng vào tên chó săn. Hắn chửi thề

nhƣ điên, làm tất cả  chúng tôi đều thấy khoái trá. Vào buổi chiều, khi chúng tôi quay về

khu trại, bọn chúng lục soát chúng tôi, nhƣng không cẩn thận lắm. Một ngƣời trong bọn 

tôi luôn thủ  về  một tờ  báo mới tiếng Đức với những tin tức nóng hổi nhất từ  mặt trận, 

đƣợc nhặt lên từ  đƣờng  tàu. Mọi ngƣời chuyển báo tới cho tôi để  dịch lại. Chúng tôi đi 

rửa ráy ở nhà tắm, tại đó chúng tôi cởi bỏ giày và quần dài để đi ngủ, xỏ đôi guốc gỗ vào 

và ăn bữa súp tối trong nhà trại. Kế  đó một tên lính gác đem tới cái thùng rác cũng dùng 

làm thùng xí, cửa phòng đƣợc khóa lại cho tới sáng, còn bên ngoài sân một con chó canh 

đƣợc thả ra. Chẳng khác gì nhà tù! 

Trong những ngày đầu tiên làm việc ngoài tuyến đƣờng sắt, tôi đã cố gắng thử bắt 

chuyện  với  những  công  nhân  Đức.  Họ  phá  lên  cƣời.  “Tôi  đã  nói  cái  gì  không  đúng 

chăng?”  -  "Anh nói rất chuẩn, nhƣng chỉ  có những quý ông và các ông chủ  mới nói cái 

kiểu nhƣ anh mà thôi. Chúng tôi nói năng đơn giản hơn nhiều.” Rồi họ  hỏi tôi về  nghề

nghiệp của mình hồi còn  ở  Nga. Tôi không muốn thú nhận mình là một kỹ  sƣ,  bởi trong 

tiếng Đức cái từ  “Diplom-Engineur” chỉ  có nghĩa đơn giản là kỹ  thuật viên. Tôi bèn nói 

mình là một nhà thiết kế. Họ nghi ngờ tôi: “Hãy vẽ cho chúng tôi xem một cái bu lông và 

một cái đai  ốc”. Bằng một mẩu phấn tôi mau chóng vẽ  ra một bu lông có  xãnh xoắn và 

cái đai  ốc. Những ngƣời công nhân lộ  vẻ  ngạc nhiên. Một ngƣời trong bọn họ  nói: “Anh 

ta không nói dối đâu. Anh ta đúng là một nhà thiết kế  đấy. Anh ta hẳn là một quý ông.” 

Những điều đó nghe vừa khôi hài lại vừa đáng buồn. 

Chúng tôi đƣợc canh gác bởi những lính Đức đƣợc gọi là Wachman, những ngƣời 

lính có nhiệm vụ  theo dõi hay canh gác. Chúng thƣờng bị  thay đổi liên tục, do chúng chỉ

làm việc với chúng tôi trong một thời gian ngắn khi vừa rời bệnh viện để kịp hồi sức, sau 

đó chúng lại phải ra  mặt trận. Những tên lính đó có tính cách khác nhau và đối xử  với 

chúng tôi cũng rất khác nhau. Những tên còn trẻ bị đầu độc quá nhiều bởi sự tuyên truyền 

của bọn Quốc xã, coi chúng tôi nhƣ kẻ  thù và đối xử  với chúng tôi rất tàn nhẫn. Những 

đứa già hơn, đã từng chiến đấu ngoài mặt trận, coi chúng tôi cũng là ngƣời lính nhƣ mình 

và đối xử  tốt với chúng tôi mà không tỏ  vẻ  thù ghét. Trong số  đó cũng có những thằng 

tàn bạo (mắc bệnh xađích) thƣờng tìm mọi dịp để  đánh đập tù nhân. Có lần một thằng 

xađích  thực  thụ  lọt  vào  trong  đội  gác-hắn  thích  lấy  móng  tay  rạch  mặt  tù  nhân  chỉ  vì 

những lỗi nhỏ  nhất. Tôi khiếu nại chuyện đó với tên hạ  sĩ quan, ngƣời chỉ  huy của nhóm 

gác. Tên hạ sĩ mắng tôi rằng ngoài chiến trƣờng còn phải đổ máu nhiều hơn mà đâu có ai 

kêu ca. Nhƣng có lẽ  hắn cũng có nói với tên thú vật kia nên về  sau tên kia thôi không 

hành hạ  tù nhân nữa. Bọn Đức trƣớc hết coi tù nhân nhƣ súc vật thồ, phù hợp với lao 

động chân tay nặng nhọc, nên chúng cũng không muốn đánh đập chúng tôi để  đến nỗi 

không làm việc nặng đƣợc nữa. Ngoài ra chúng còn những lý do khác. Thực ra tham gia 

trong đội cảnh vệ  tại hậu phƣơng luôn an toàn hơn đi đánh nhau ngoài mặt trận, nên bọn 

Đức tìm mọi cách để  giữ  chỗ  đứng của mình  ở  đây. Chúng biết là nếu để  chúng tôi than 

phiền lên tên thiếu tá, chỉ huy trƣởng của khu đồn trú, ngƣời vẫn hay tới đây kiểm tra, thì 

chúng rất dễ  bị đƣa ra ngoài mặt trận. Không phải vì chúng thông cảm cho chúng tôi, mà 

chỉ vì mặt trận luôn thiếu lính tiếp viện.  

Bọn Đức cũng sợ lẫn nhau. Tên hạ sĩ sợ tên chỉ huy đồn trú; bọn lính thì sợ tên hạ

sĩ và sợ  cả  lẫn nhau. Khi chỉ  có một tên lính canh áp giải chúng tôi đi làm, hắn thƣờng 

không bao giờ  giơ chân đá chúng tôi, đôi khi còn trò chuyện khá thân mật nữa. Nhƣng 

khi có hai tên cùng đi áp giải thì, thậm chí là những tên trƣớc đó có thiện cảm nhất, cũng 

sẵn sàng la hét chúng tôi, thúc giục chúng tôi làm nhanh hơn nữa, nhƣ thể  cố  ganh nhau 

xem đứa nào làm tích cực hơn vậy. Cũng có những tên lính đôi lúc cố tỏ ra mình là ngƣời 

có học. Một tên trong số  đó có thái độ  rất kiêu ngạo trịch thƣợng. Thêm vào đó hắn đối 

xử  với  chúng  tôi  rất  tàn  nhẫn.  Hắn  vênh  váo  nói  với  tôi  rằng  mình  đã  tốt  nghiệp  một 

trƣờng thể dục thể thao. Rồi hắn hỏi tôi nhƣ một giáo sƣ hỏi học trò tên những ngƣời Đức 

kiệt xuất mà tôi biết. Khi tôi nêu tên Henrich Heine trong số những nhà thơ Đức, hắn sửa 

lƣng tôi với một cái nhìn khinh miệt, bảo rằng không hề  có một nhà thơ Đức nào với cái 

tên nhƣ thế. Tới lƣợt mình, tôi đề  nghị  hắn kể  tên những nhà văn Nga mà hắn biết. "Bá 

tƣớc Leo Tolstoi và Dostoyevski là linh hồn Nga.” Đã bao giờ hắn đƣợc nghe về Pushkin 

chƣa nhỉ? "Pushkin, Pushkin, - tên Đức hỏi lại tôi, phát âm nhấn mạnh âm tiết cuối. “Ông 

ta là ai, một ngƣời theo chủ nghĩa quốc tế hay là một ngƣời theo chủ nghĩa dân tộc?” Tôi 

không biết trả  lời câu hỏi đó nhƣ thế  nào mà chỉ  đáp rằng ông là một nhà thơ Nga vĩ đại. 

“Thế  có nghĩa hắn là một ngƣời theo dân tộc chủ  nghĩa” gã Đức đáp và kiêu ngạo nói 

thêm: "Nếu hắn nổi tiếng thì tao đã phải biết tên hắn rồi.” Một tên lính khác từng là sinh 

viên đại học,  việc học của hắn bị  gián đoạn bởi chiến tranh. Khi nói chuyện với tôi, hắn 

bảo: "Tao là một ngƣời trung lập. Tao không bênh vực mà cũng không thù ghét chúng 

mày. Nhƣng tao vẫn tin rằng chúng tao đối xử  với chúng mày nhƣ thế  là quá mức nhân 

bản”. Thật là một nhân vật trung lập đáng mến! 

Dù đã rất cố  gắng, nhóm bạn bốn ngƣời chúng tôi vẫn để  mất đi một đồng chí. 

Một tên lính canh quấy rối Boris Smirnov vì một lý do gì đó và đánh anh. Để  phản  ứng 

Boris liền ngƣng làm việc. Lát sau tôi tìm cách lại gần anh và khẽ bảo: “Cậu phải cố vƣợt 

qua chuyện này để  sống sót, Boris. Quay trở  lại làm việc; nếu không cậu sẽ  gặp rắc rối 

đó.” Anh trả  lời: "Giờ  thì đã quá muộn. Tớ  chịu hết nổi rồi. Cứ  để  chuyện  ấy tới.” Bọn 

Đức lôi anh đi một nơi nào đó và chúng tôi không bao giờ  còn gặp anh nữa. Chuyện đó 

xảy ra vào cuối năm 1942. Về  sau, tới năm 1944, khi tình thế  của bọn Đức đã thay đổi, 

chúng tôi cùng sát cánh chặt chẽ  với nhau và trở  nên táo bạo hơn. Nếu có ai trong đội bị

bọn Đức làm phiền, tất cả chúng tôi liền dừng làm việc, mặc cho chúng la hét và dọa nạt. 

Thậm chí chúng tôi còn đƣợc trả  một khoản “tiền công” do làm việc cho công ty 

Lutz. Vào dịp cuối tháng, tên Meister (đốc công) phát cho mỗi ngƣời một món tiền, nhờ

đó chúng tôi có thể  mua nƣớc giải khát, dao cạo râu hay bột đánh răng tại cửa hàng của 

tên mập Bromer. Đôi lúc chúng tôi hùn tiền lại và mua đƣợc của Bromer một túi khoai 

tây  luộc,  và  mỗi  ngƣời  nhờ  thế  có  thêm  một  đĩa  thức  ăn  cải  thiện.  Ban  đầu  chúng  trả

chúng tôi bằng loại tem phiếu đặc biệt, chỉ có giá trị cho tù nhân. Rồi sau chúng tôi đƣợc 

bảo đổi lại các tem phiếu đó và bắt đầu đƣợc trả  bằng tiền mặt. Chúng không trả  công 

đồng đều cho mọi ngƣời. Tên đốc công chăm chú quan sát chúng tôi làm việc và những 

ai làm tốt hơn sẽ nhận đƣợc nhiều tiền hơn.

Khi tên  Vlasov mở  rộng các hoạt động phản bội của hắn và bắt đầu thành lập cái 

gọi là Quân đội Giải phóng Nga (ROA), chúng tôi thƣờng đƣợc những gã tuyên truyền 

viên của hắn tới thăm. Chúng nói với chúng tôi rằng Stalin đã từ  chối ký hiệp định quốc 

tế về tù binh với Hội Chữ thập Đỏ, bởi cho rằng không có tù binh chiến tranh Xô viết mà 

đó chỉ  là những kẻ  phản bội. Viện cớ  đó ông ta đã đƣa chúng tôi tới tình thế  không còn 

bất cứ quyền lợi nào. Trong khi tù binh các quốc gia khác đƣợc Hội Chữ thập Đỏ bảo vệ, 

đƣợc nhận thực phẩm từ  nhà gửi sang và thậm chí đƣợc báo tin về  gia đình, thì những 

công dân Xô viết bị  bắt chỉ  đƣợc coi là những nô lệ. Bọn Đức có thể  làm bất cứ  điều gì 

đối với chúng tôi mà không ai có thể  đứng ra bảo vệ  chúng tôi. Sau những lời đó, tên 

tuyên truyền viên đƣa ra kết luận rằng cách duy nhất để  giảm bớt tình trạng nô lệ  đó là 

gia nhập ROA. Sử dụng một lƣợng lớn tù binh Xô viết cho lao động cƣỡng bức, bọn trùm 

sỏ  nƣớc Đức cũng bắt đầu tiến hành tẩy não họ. Chúng cho in những tờ  báo dành riêng 

cho tù  binh viết bằng tiếng Nga, Ukraina và nhiều thứ  tiếng các dân tộc khác thuộc Liên 

bang Xô viết. Tôi thậm chí còn đƣợc thấy một tờ  báo in bằng tiếng Kalmyk. Dù tờ  báo 

tiếng Nga  ấy (tôi đã quên mất tên của nó) in bằng giấy tốt và thiết kế  khá đẹp, nội dung 

tuyên truyền chống Xô viết bên trong thật bẩn thỉu và báng bổ. Tác giả  những tờ  báo  ấy 

gồm những tên Bạch vệ  di tản, những tên phản bội mới đầu hàng, tất cả  những loại tự

xƣng là dân tộc chủ  nghĩa và “trí thức”. Chúng tán dƣơng văn hóa Đức, ca ngợi những 

chiến thắng của nƣớc Đức, kêu gọi chúng tôi gia nhập ROA và chỉ  trích mọi điều liên 

quan tới chính quyền Xô viết. Chúng tôi thƣờng vẫn rất tôn trọng và tin tƣởng những gì 

đƣợc in trên giấy, nhƣng những dòng chữ in trong tờ báo ấy thật gây sốc bởi lời lẽ chống

Xô viết, bài Do Thái, thái độ  thô lỗ, khiếm nhã và những lời nói dối trắng trợn của nó. 

Những tên bồi bút đó có bao giờ  nghĩ tới số  phận đất nƣớc chúng ta trong trƣờng hợp 

nƣớc Đức chiến thắng không? Trong các bài viết của chúng chỉ  có vài đoạn đề  cập mơ

hồ  về  nƣớc Nga “gia nhập cộng đồng các quốc gia Châu Âu dƣới sự  lãnh đạo của Đức 

quốc”. Chúng không viết về sự thật rằng đất nƣớc ta sẽ có thể trở thành một thuộc địa cho 

bọn Đức khai thác bóc lột. Tờ báo cố gắng ca ngợi rằng phần chiến quả của nƣớc Đức chỉ

là giúp nƣớc Nga thoát khỏi “nền độc tài của chủ  nghĩa cộng sản”. Làm thế nào có ngƣời 

ngây thơ nhẹ  dạ  đi tin vào cái luận điệu  ấy? Khi chúng tôi đƣợc nhận những tờ  báo  ấy, 

tên hạ  sĩ thƣờng nghiên cứu kỹ  chúng thật lâu. Có một lần tờ  báo đƣợc chuyển tới  đúng 

dịp tên hạ  sĩ đi vắng và bọn lính không dám phát chúng cho chúng tôi mà không có sự

đồng ý của hắn. Tôi nghe đƣợc một lính Đức nói với bạn của hắn: “Hãy đƣa chúng nó cái 

thứ rác rƣởi kia của Goebbels đi cho rồi!” 

Tuy nhiên, vào nửa cuối cuộc chiến tranh những tờ báo trên bắt đầu cho in những 

bài viết khách quan hơn và chúng tôi có thể  đọc thấy những  ẩn ý đằng sau nội dung của 

nó. Có lẽ  đã xuất hiện những ngƣời từng sống dƣới thời Xô viết đồng ý làm việc cho tờ

báo ấy. Ví dụ, họ đƣa ra một bài phóng sự về diễn biến của cuộc chiến, trong đó mô tả rõ 

rệt là bọn Đức đã thất bại trên tất cả  các mặt trận. Nhƣng để  nguỵ  trang, bài báo thƣờng 

kết thúc bởi một lời tuyên bố  hoàn toàn lố  bịch rằng chiến thắng của vũ khí Đức là điều 

hiển nhiên. Khi quốc ca mới của Liên bang Xô viết xuất hiện, tờ báo ấy in một bài phóng 

sự  chỉ  trích, nhƣng lại đăng cả  lời bài hát mà khi  ấy đối với chúng tôi là hết sức quan 

trọng. Đáng tiếc thay, khi  ấy  chúng tôi lại không biết đƣợc giai điệu của nó. Họ  cũng 

đăng bài thơ “Đợi anh về” của Simonov. Một bài báo còn thông tin cho chúng tôi rằng 

binh  lính  Xô  viết  không  bắt  bọn  Vlasov  làm  tù  binh  mà  xử  bắn  chúng  ngay  tại  chiến 

trƣờng. Đó là một thông điệp rõ ràng cho những ai sắp sửa đi phục vụ  cho ROA. Tất 

nhiên, những thông tin ủng hộ  Xô  viết nhƣ thế  là rất hiếm giữa một lƣợng lớn những lời 

lẽ  dối trá và chống Xô viết, nhƣng chúng vẫn tồn tại và chúng tôi vẫn cố  gắng tìm kiếm 

chúng. Khi thần chiến tranh đã quay lƣng lại với bọn Đức trên mặt trận phía Đông, hầu 

hết các đơn vị  của ROA bắt đầu tìm cách đầu hàng quân đội Xô viết. Do đó, bọn Đức tái 

bố trí chúng ở mặt trận phía Tây để chống lại quân Mỹ. Thậm chí chúng còn thiết lập các 

đơn vị  chặn hậu lấy từ  những ngƣời của ROA để  ngăn chặn binh lính Đức rút lui. Tôi sẽ

đề cập tới điều này ở đoạn sau.  

Những tờ báo của Đức viết khá trung thực về tất cả những thay đổi ngoài mặt trận, 

đƣa ra những bình luận rõ ràng về  những thay đổi đó. Chúng tôi bị  cấm không đƣợc giữ

và đọc báo chí của Đức. Nhƣng chúng tôi vẫn tìm cách “xoay sở” đƣợc. Hành khách trên 

những chuyến tàu đi ngang qua thƣờng vứt báo ra ngoài cửa sổ. Chúng tôi nhặt chúng lên, 

giấu dƣới quần áo của mình và mang về khu trại. Tới buổi chiều tôi bí mật dịch những tin 

tức chiến sự  ra tiếng Nga, viết lại lên một mảnh giấy lấy từ  vỏ  bao ximăng  và chuyền 

mẩu tin ấy đi. Đấy là cách mà chúng tôi có đƣợc tờ báo bí mật riêng của mình. 

Một  công  nhân  đƣờng  sắt  già  (Sicherpost)  canh  giúp  chúng  tôi  khi  có  tàu  hỏa 

chạy qua. Ông ta thƣờng đứng ở trên cao và khi thấy một đoàn tàu sắp tới, ông sẽ thổi cái

còi của mình để  chúng tôi ngừng làm việc và rời khỏi đƣờng ray. Đấy là một ông già 

đáng mến; có thể trò chuyện với ông những lúc tên đốc công và lính canh bỏ đi chỗ khác. 

Có lần tôi chú ý tới đôi ủng đặc biệt của ông. Chúng ngắn và trông rất lạ mắt. "Đấy là đôi 

ủng của ông nội tôi”, ông già kể với tôi. “Chúng đã đƣợc hơn trăm tuổi rồi. Tôi giữ chúng 

trong hòm nhƣ một thánh tích. Nhƣng thời bây giờ không tài nào mua đƣợc giày ủng nên 

tôi vẫn phải dùng chúng.” Tôi vẫn để  ý tìm hiểu tình hình của tổ  quốc nên  lên tiếng hỏi 

ông già xem ông đã tới thăm vùng lãnh thổ đang bị Đức chiếm đóng của nƣớc Nga chƣa. 

"Chƣa,” ông già đáp, “Tôi chƣa từng tới nƣớc Nga. Ngƣời ta đƣa tôi tới Romania. Tôi đã 

tới thăm Odessa, đó là một thành phố xinh đẹp.” “Nhƣng Odessa chính là nƣớc Nga,” Tôi 

phản đối. "Không, bây  giờ  nó là của Romania”. Thật là đau khổ  và cay đắng khi phải 

nghe thấy điều đấy. Có lần tôi hỏi ông già xem ông ta nghĩ về  cuộc chiến tranh này nhƣ 

thế  nào. "Công việc của tôi là thổi cái còi của mình để  các anh không bị  đoàn tàu cán 

phải”, ông già trả  lời. Rồi sau một lúc im lặng, ông nói thêm: "Những ông lớn, những 

ngƣời ở Berlin, mới biết chuyện đó.” Một câu trả lời điển hình kiểu Đức. 

Có lần chúng tôi đƣợc thấy một cảnh khá khôi hài trong lúc làm việc. Một đoàn 

xiếc  đột nhiên tới cắm trại trên bãi đất trống gần đƣờng tàu. Có hai chiếc ôtô nhỏ  với các 

lồng thú và các hình vẽ  trang trí. Một ngƣời đàn ông cụt tay, có lẽ  là một thƣơng binh, 

đang  cho  một  con  khỉ  nhỏ  ăn  và  một  phụ  nữ  đang  chăm  sóc  lũ  thú  trong  chuồng.  Có 

những áp phích quảng cáo sặc sỡ dán trên hai bên thành xe. Một trong những áp phích ấy 

mô tả  một chiếc dù đang thả  xuống những con khỉ, vận quân phục lính Đức. Dòng chữ

viết: “Bọn Mỹ  đã bị  bắt, chúng ta chiến thắng. Một chƣơng trình xiếc độc đáo.” Đấy là 

cái gì: là sự mỉa mai hay sự ngu ngốc của một đế quốc? Đấy đúng là thứ thức ăn tinh thần 

phù hợp với một ngƣời Đức trung bình. 

Dù thực phẩm đƣợc phát cho chúng tôi rất tệ, nó vẫn có chút giá trị, do chúng tôi 

đƣợc xếp vào hạng lao động nặng. Tất cả  chúng tôi đều sợ  bị  ốm, nếu ốm chúng tôi sẽ  bị

đƣa về  trại trung tâm Stalag 5a  ở  Ludwigsburg, nơi tù nhân bị  bỏ  cho chết đói. Đấy là lý 

do tại sao nếu bị  bệnh thì chúng tôi phải giấu đi. Sau khi hồi phục rất có thể  sẽ  phải đi 

làm việc ở một chỗ nào khác – vào hầm mỏ hay trong các xí nghiệp quân sự, nơi tù nhân 

bị  xử  bắn chỉ  vì những lý do vụn vặt nhất. Nhƣng thậm chí chỉ  với một lƣợng thực phẩm 

ít  ỏi và lao động nặng chúng tôi cũng vẫn phải làm việc hết sức lực của mình. Có vài 

ngƣời không chịu nổi, họ  bị  đƣa đi và  thay bằng những tù nhân mới. Những ngƣời trở  về

từ bệnh viện kể cho chúng tôi câu chuyện về “toà án binh bí mật”, đi thu thập thông tin từ

những tù nhân ốm mới nhập viện về bọn cảnh binh, bọn phản bội và tất cả những kẻ cộng 

tác với quân Đức. Nếu có một kẻ  nhƣ thế  phải vào bệnh viện, “toà án binh” sẽ  tổ  chức 

một cuộc xét xử. Những kẻ  bị  chứng minh là có tội sẽ  bị  xử  theo một kiểu khủng khiếp: 

nhiều ngƣời sẽ  tóm lấy nạn nhân, bẻ  cong ngƣời anh ta lại đến mức đầu chạm tới chân, 

rồi ném anh ta trong tình trạng nhƣ thế  xuống sàn bê tông. Cách đó sẽ  làm gẫy xƣơng 

sống, xƣơng cụt và gây ra những đau đớn khủng khiếp thƣờng xuyên, cũng có thể gây liệt 

chi. Một ngƣời cũng có thể  thành ngƣời què. Anh ta sẽ  không còn đi đƣợc nữa mà chỉ  có 

thể  bò trƣờn. Đó thật là một  câu hỏi phức tạp, rằng cái “tòa án binh”  ấy về  mặt đạo đức 

có quyền làm nhƣ vậy hayu3 

Giữ  gìn đƣợc trong một thời gian dài, nhƣng cuối cùng cũng tới lƣợt tôi. Do điều 

kiện dinh dƣỡng kém nên tay tôi bị  nổi mụn nhọt. Tôi hỏi chỉ  huy nhóm lính canh, một 

tên  hạ  sĩ, xin đƣa tôi tới khám bác sĩ. Vào một sáng, khi toàn trại bỏ  đi làm việc, một tay 

lính gác già tốt bụng cầm súng dẫn tôi tới chỗ bác sĩ. Bác sĩ là ngƣời địa phƣơng và rất ít 

khi mặc bộ  đồng phục bác sĩ quân y của mình. Ông ta thƣờng nhận bệnh nhân tại nhà 

mình, tại đó ông có một căn phòng dành riêng để  khám. Hai tên lính Đức đã tới đăng ký 

trƣớc  chúng  tôi,  trong  khi  tay  lính  canh  và  tôi  chờ  ở  ngoài sảnh  tiếp  nhận.  Thình  lình 

chúng tôi nghe thấy tiếng hét giận dữ  của viên bác sĩ. Cửa phòng mở  và mấy tên lính đi 

ra ngoài, vẫn quay mặt về viên bác sĩ và đứng lại ở tƣ thế “nghiêm” (trong quân đội Đức, 

lính không đƣợc phép đứng quay lƣng lại đối với sĩ quan cấp trên). Tay lính gác và tôi 

bật dậy. Đằng sau hai tên lính viên bác sĩ bƣớc ra khỏi phòng làm việc, hét lớn: "Đồng 

đội của các anh đang tƣới máu mình để  bảo vệ  tổ  quốc, vậy mà các anh dám khai giả

bệnh để tránh phải ra mặt trận! Khi họ giả bệnh (ông ta chỉ vào tôi) thì tôi còn thông cảm 

đƣợc. Tôi cũng sẽ  làm nhƣ thế  nếu tôi bị  bắt làm tù binh”. Tay lính gác tôi lúng búng: 

"Thƣa bác sĩ, tù nhân này có thể  hiểu đƣợc tiếng Đức”. Viên bác sĩ trả  lời: "Tôi không 

cần quan tâm tới việc anh ta biết tiếng Đức. Tôi nói để bọn kia hiểu đƣợc ý tôi!” Rồi ông 

ta ra lệnh cho tôi vào phòng mình. Ông ta đeo găng tay cao su vào, khám những cái nhọt 

của tôi và băng chúng lại bằng những miếng băng giấy. Ông ta cho tôi biết thời gian có 

thể  quay tới tái khám. Tôi hỏi ông về  nguyên nhân căn bệnh của mình. Ôâng ta nghiêm 

nghị trả lời: "Đừng ngốc nhƣ thế, nguyên nhân chính là  chiến tranh.” Vị bác sĩ ấy thƣờng 

tới chỗ chúng tôi ba tháng một lần và khám cho tất cả chúng tôi. Trong trƣờng hợp ấy tôi 

làm việc nhƣ một thông dịch viên cho mọi ngƣời. Có lần tôi mắc bệnh cúm và sợ  rằng 

sau khi khám vị  bác sĩ sẽ  đƣa tôi tới bệnh viện ở  Ludwigsbur. Do đó tôi bảo ông ta rằng 

đấy  chỉ  là  cảm  lạnh  sơ  sơ  thôi.  Nhƣng  thay  vì  nói  là  "Kleine  verkaltung"  tôi  lại  nói 

"Kleine Kalt", có nghĩa là “lạnh ít”. Ông bác sĩ mỉm cƣời, hiểu ra và đồng ý với tôi. Bao 

giờ  cuối buổi khám ông ta cũng thƣờng cho tôi một điếu xì gà quấn bằng thuốc lá thật 

nhƣ để  trả  công tôi phiên dịch. Để  chia sẻ  hạnh phúc với các bạn nghiện thuốc, tôi đƣa 

điếu xì gà cho họ và họ đem cắt nó ra từng mẩu nhỏ để chia với nhau. Các tù nhân nghiện 

thuốc đôi khi đƣợc phát makhorka –  những mẩu vụn một loại lá cây gì đó tẩm dung dịch 

thuốc lá nguyên chất. Đám lính canh không hút loại makhorka đó và gọi chúng là "Holz" 

(củi đốt). Đám bác sĩ Đức cũng rất khác nhau. Có vài kẻ mắc bệnh xađích và thƣờng tiến 

hành  những  thí  nghiệm  vô  nhân  tính  trên  cơ  thể  tù  nhân.  Nhƣng  trong  số  đó  cũng  có 

những ngƣời rất đứng đắn giống nhƣ ông bác sĩ của trại chúng tôi. 

Đôi khi chúng tôi đƣợc gặp tù nhân thuộc các quốc tịch khác: Pháp, Ba Lan, Bỉ, 

Ấn Độ. Những cuộc gặp ấy diễn ra tại tơi làm việc hay trên tàu hỏa khi di chuyển. Chúng 

tôi trao đổi với nhau thông tin từ các mặt trận, tất cả chúng tôi đều rất vui mừng khi nghe 

bọn Đức bị thua trận. Chúng tôi nói với nhau bằng thứ tiếng Đức đơn giản, nhƣng vẫn có 

thể  hiểu nhau rất rõ. Tôi từng đƣợc nghe một câu chuyện kể  rằng có hai tù nhân, một 

ngƣời Nga và một ngƣời Pháp, trò chuyện với nhau bằng thứ  tiếng Đức phát âm sai bét 

và đầy lỗi nhƣ thế, trong khi có một tên lính Đức đang đứng ngay sát cạnh mà vẫn không 

thể hiểu nổi một lời.  

Không phải tất cả  bọn Đức đều giống nhau hay tỏ  ra thù địch với chúng tôi. Tôi 

nhớ  có một hôm trời mƣa và rất lạnh, khi chúng tôi, lạnh và ƣớt tới tận xƣơng, đang làm 

việc  trên  đƣờng  tàu.  Ngƣời  thợ  máy  lái  tàu,  ngƣời  đƣợc  chúng  tôi  phục  vụ,  khi  thấy 

chúng  tôi  trong  tình  trạng  đáng  thƣơng  nhƣ  thế  đã  ném  rất  nhiều  bánh  than  cám  cho 

chúng tôi để có thể tự sƣởi ấm sau khi trở về khu trại. Chúng tôi nhặt những bánh than đó 

lên và nói lời  cảm ơn ông ta. Tôi trông thấy những giọt nƣớc trong mắt ông. Để  giấu 

chúng đi, ông ta quay lƣng lại rồi vẫy tay với chúng tôi và ném thêm xuống vài bánh than 

nữa. Có lẽ  con trai ông đã mất tích khi đang chiến đấu trên mặt trận phía Đông và ông 

nghĩ con mình cũng đang phải chịu giam cầm. Có lần chúng tôi phải đi sửa đoạn đƣờng 

ray nằm cạnh một ngôi nhà nhỏ, có lẽ đó là nhà của một công nhân đƣờng sắt. Một ngƣời 

đàn bà cùng đám con nhỏ sống ở đó. Cô ta kéo lũ trẻ lại khi chúng cố chạy tới chỗ chúng 

tôi,  và  nhìn  chúng  tôi  với  ánh  mắt  căm  thù.  Tên  lính  canh  bảo  với  tôi rằng  đó  là  một 

"Kriegswitwe", một góa phụ vì chiến tranh, có chồng bị giết tại mặt trận phía Đông. Cô ta 

nói với viên đốc công của chúng tôi và hắn ra lệnh cho chúng tôi mang tới cho cô ta một 

thanh tà vẹt gỗ đã cũ để làm củi đốt. Mọi ngƣời mang tới cho cô ta hai thanh tà vẹt. Dù cô 

ta ghét chúng tôi,  chúng tôi vẫn cảm thấy thƣơng hại ngƣời phụ  nữ  đó, dù chồng cô ta là 

kẻ thù của chúng tôi và đã phải trả giá đời mình vì điều đó. 

Tại một trong những cửa hàng bán lẻ  ở  Lorch (tại thị  trấn đấy có rất ít hàng hóa 

Đức đƣợc bán công khai) có một tấm áp phích lớn sặc sỡ  dán trên cửa sổ. Trên áp phích 

vẽ  một khẩu đại bác của Đức.  Ở  hậu cảnh là một tên lính pháo binh Đức đang vƣơn dài 

cánh tay của hắn về phía ngƣời xem. Dòng chữ trên đó đề: “Hãy trao đạn cho chúng tôi!” 

Khi chúng tôi có dịp phải đi ngang cửa hàng, một vài tù nhân kín đáo làm mấy cử  chỉ

lăng mạ  với tên lính pháo binh Đức. Điều đó thật ngô nghê nhƣng là một phản  ứng rất 

chân thật. 

Tấùt cả mọi con đƣờng trong khu vực chúng tôi sống đều đƣợc viền hai bên bằng 

những hàng cây táo. Vào mùa thu, khi táo  chín, những rãnh đất dọc bên đƣờng đều chất 

đầy táo, cuối cùng phải vứt cho súc vật ăn. Đôi lần chúng tôi đề nghị bọn lính và tên hạ sĩ 

cho phép chúng tôi lấy một chiếc xe ngựa  ở  chỗ  Bromer cùng với hai ngƣời đi nhặt táo 

rụng cho cả  nhóm, có một lính gác áp giải. Đấy thực sự  là một dịp lễ  đối với chúng tôi. 

Khi làm việc dọc đƣờng tàu, chúng tôi có dịp tận mắt thấy bọn Đức đã cƣớp bóc các quốc 

gia Châu Âu nhƣ thế  nào. Các toa xe mang các dấu hiệu của Ba Lan, Áo, Pháp, Ý, Bỉ, 

Đan Mạch,  Nam Tƣ và  nhiều nƣớc khác. Chỉ  có một lần chúng tôi đƣợc thấy toa chở

hàng của đất nƣớc mình, của nƣớc Nga Xô viết. Có lẽ  nó đã đƣợc sửa lại cho hợp với 

tuyến đƣờng sắt hẹp hơn kiểu Châu Âu. Nó đứng lẻ  loi trên một tuyến đƣờng tránh, và 

chúng tôi âu yếm vuốt ve hai bên sƣờn cũ mòn của nó nhƣ một phần của tổ  quốc xa xôi 

và mến thƣơng của mình!

Có lần tên hạ  sĩ, chỉ  huy nhóm gác, một tay hăng máu khác thƣờng, giống nhƣ 

đám thƣợng sĩ Nga, quyết định gây  ấn tƣợng với tôi bằng kiến thức của mình và đồng 

thời để  chứng tỏ  sự  ƣu việt về  chủng tộc. Làm vẻ  mặt đặc biệt nghiêm nghị, hắn hỏi tôi 

đã bao giờ đƣợc nghe về những cuộc chiến tranh Punic chƣa. Dựa theo nét mặt hắn tôi có 

thể  thấy rõ rằng hắn chắc chắn tôi sẽ  trả  lời là “không”. Tôi quyết định mình sẽ  không 

cho hắn niềm vui thích đấy  và trả  lời rằng đó là các cuộc chiến giữa La Mã và Carthage 

vào thế kỷ thứ ba trƣớc Công nguyên, rằng đã diễn ra ba cuộc chiến để giành quyền kiểm 

soát Địa Trung Hải và rằng Carthage cuối cùng đã thua trận. Gã hạ  sĩ tỏ  ra bị  sốc và rất 

thất vọng. Hắn suy nghĩ trong chốc lát, rồi mỉm một nụ cƣời láu cá và bảo: “Thế thì tôi sẽ

hỏi anh một câu hỏi mà anh cũng không cần phải trả lời, bởi rất ít ngƣời biết điều đó. Đấy 

là một cuộc chiến tranh giữa La Mã và Carthage, thế  tại sao ngƣời ta lại gọi đó là cuộc 

chiến  Punic?” “Bởi vì ngƣời La Mã gọi ngƣời Carthage là Pune.” Thế  là tên hạ  sĩ cào 

nhàu và câm họng. Có lẽ, kiến thức về  lịch sử  của hắn đã cạn kiệt. Hắn phẩy tay và quay 

trở  vào phòng gác, quên cả  đóng cửa phía sau lƣng. Tôi nghe tiếng hắn thất vọng nói với 

tên lính bên cạnh: “Thì  ra lũ Nga hèn hạ  đó  cũng biết về  cuộc  chiến Punic”. “Vậy có 

thêm cuộc chiến nào nữa nổ ra hay sao?” – bọn lính lo lắng hỏi. “Ôi lũ con nhà nông dân 

chúng mày,” – tên hạ sĩ khinh bỉ nói. “Những cuộc chiến đó diễn ra từ thời cổ đại!” “Nếu 

các cuộc chiến đó diễn ra từ  lâu rồi thì tại sao chúng ta lại phải nhớ  tới chúng? Tôi chỉ

muốn biết lúc nào thì cuộc chiến tranh này kết thúc.”  –  tên lính phản đối. “Đi làm nhiệm 

vụ  của  mày  đi  và  đừng  hỏi  những  câu  hỏi  ngu  ngốc  nữa,”  –  tên  hạ  sĩ  kiêu  căng  đáp, 

không hề  nghi ngờ  rằng những lời đó cũng rất hợp với hắn. Sau đó hắn đóng sầm cánh 

cửa phòng lại. 

Chạy trốn! Quay trở về với Hồng quân, cầm lấy vũ khí và trả thù cho tất cả những 

nhục nhã, xúc phạm và đánh đập. Chúng tôi tất cả  đều quan tậm tới  vấn đề  đấy và bàn 

bạc với nhau rất nhiều về  nó. Chạy trốn, nhƣng chạy đi đâu? Chúng tôi đang  ở  phía Tây 

Nam nƣớc Đức. Hàng ngàn dặm đƣờng đất thù nghịch ngăn trở  giữa chúng tôi với Đất 

Mẹ. Đi về phía Đông qua những vùng đất đầy ngƣời Đức sinh sống, kế đó là vùng đất Ba 

lan bị  chiếm đóng, rồi cuối cùng là qua mảnh đất của chúng ta, vẫn còn nằm dƣới ách 

phát xít  –  điều đó là không thể  thực hiện đƣợc! Chạy trốn về  phía Tây, tới nƣớc Pháp 

chăng? Nƣớc Pháp chỉ  cách chúng tôi 150 kilômét. Nhƣng Pháp cũng đang bị  bọn Đức 

thống trị, và cũng bị  chia cách với chúng tôi bởi sông Rein. Cách 200 kilômét về  phía 

Nam là vùng đất Thụy Sĩ trung lập. Tại một vị  trí đƣờng biên giới khuất sau cái hồ  rộng 

tên là Bodensee và tại nhiều nơi khác biên giới nằm sau các rặng núi.  Ở  trại tập trung 

Ludwigsburg chúng tôi đã nghe những câu chuyện về các cuộc đào thoát tới Thuỵ Sĩ. Các 

tù  nhân  chạy  trốn  thƣờng  trộm  những  chiếc  xe  đạp  của  dân  địa  phƣơng,  đạp  tới  hồ

Bodensee vào ban đêm, rồi tròng vào ngƣời những cái ruột xe đã bơm căng và cố  gắng 

bơi qua hồ. Những ai không bị  giết bởi bọn lính biên phòng Đức và không chết đuối thì 

qua đƣợc tới Thụy Sĩ và đƣợc đƣa tới một trại giam khác. Nên tất cả  cũng chỉ  là sự  thay 

đổi nhà tù. Tôi có nghe câu chuyện về  một ngƣời tù nhƣ thế, đã vƣợt qua đƣợc  biên giới 

nhƣng lại bị  bọn Đức bắn bị  thƣơng. Anh ta ngã xuống ngay trên đƣờng biên giới. Lính 

biên phòng Đức và Thụy Sĩ chạy tới chỗ  anh ta. Ngƣời tù van xin phía Thụy Sĩ đem anh 

đi, nhƣng họ  sợ  bọn Đức và từ  chối. Con ngƣời tội nghiệp đó bị  đƣa trở  lại  Ludwigsburg 

và bị xử bắn. 

Dù vậy, hai ngƣời trong đội chúng tôi vẫn trốn đi. Tôi không còn nhớ  nổi tên của 

họ. Không một ai trong chúng tôi biết là họ  đang chuẩn bị  chạy trốn. Một hôm họ  đi lấy 

bữa sáng tại nhà bếp cùng với tên lính gác và rồi biến mất. Tên lính gác giận dữ quay về; 

hắn la lối rằng bây giờ hắn sẽ bị đƣa ra mặt trận, rằng tất cả  chúng tôi sẽ bị xử bắn và đại 

loại thế. Ngày hôm sau chúng tôi không đƣợc đƣa đi làm. Chúng tôi không biết chuyện gì 

đã xảy ra. Nhanh chóng, toàn bộ  cảnh sát từ  thị  trấn Lorch đổ  tới lục soát chúng tôi, xới 

tung toàn bộ  khu trại. Thậm chí chúng còn ra lệnh cho chúng tôi phải rút cả  rơm độn các 

tấm nện giƣờng lên. Chúng la mắng chúng tôi và đối xử rất thô lỗ. Nhƣng tất nhiên chúng 

không tìm thấy bất cứ thứ gì. Khoảng một tuần sau chúng tôi đƣợc thông báo là hai ngƣời 

kia đã bị bắt lại. Có lẽ, chúng đã thông báo sự thật – dù sao họ cũng không thể đi xa đƣợc. 

Không có thức ăn, không có bản đồ, không có la bàn, trên ngƣời mặc bộ  quần áo tù, lại 

không biết ngôn ngữ  giữa một khu vực dân cƣ sinh sống đông đúc nên sự  đào thoát của 

họ dẫn tới sự thất bại tất yếu. Tôi không nghe nói điều gì về số phận của họ, nhƣng những 

ai thử trốn mà bị bắt lại đều bị đƣa đi thủ tiêu. 

Cuộc đời của chúng tôi trong đội lao động  ấy nhƣ thế  nào?  Làm việc nặng nhọc 

và thiếu thốn thức ăn, sống trong tình trạng nhƣ trong nhà tù, chịu sự  cƣ xử  thô bạo của 

bọn lính canh, và điều chủ  yếu là một tƣơng lai hoàn toàn không xác định. Chúng tôi 

không đƣợc có chút quyền hạn gì. Bọn lính canh có thể  đánh nhừ  tử  hay thậm chí giết 

chết bất cứ ngƣời nào trong số chúng tôi. Đối với tổ quốc, chúng tôi là những kẻ phản bội, 

và khi chúng tôi trở về có lẽ sẽ phải đối diện với một toà án và sẽ bị đày đi làm việc trong 

các hầm mỏ  ở  Siberia. Chúng tôi cảm thấy mình có tội  mà không phạm phải bất cứ  tội 

nào. Chúng tôi sống trong một tình trạng tồi tệ, không quan tâm tới việc ngƣời ta trông 

chúng tôi nhƣ thế  nào. Tôi còn nhớ  rằng mình đã ghi lại những dòng nhật ký dƣới đây, 

mà sau này đã bị  tiêu hủy: "Nhƣ lũ súc vật thồ, tôi  kéo cái ách của mình mà không còn 

nhớ  tới quá khứ  và cũng không còn chút hy vọng vào tƣơng lai.” Không một ai có thể

hiểu nổi cuộc sống nhƣ thế. Một số  ngƣời bị  đƣa đi, và những tù nhận mới đƣợc gửi tới 

nhóm chúng tôi để  thay thế  họ, và qua những ngƣời mới  đến chúng tôi biết đƣợc những 

gì đang xảy  ra trên thế  giới. Đây là một sự  thật đáng ngạc nhiên, nhƣng những ngƣời 

sống  ở  thành phố, dù có thể  trạng yếu hơn, lại chịu đựng cái điều kiện tồi tệ  đó tốt hơn 

những ngƣời nông dân. 

Vào cuối năm 1944, khi Mặt trận thứ  hai đƣợc mở  và nƣớc Đức phải chiến đấu 

trên hai mặt trận, cả phía đông lẫn phía tây, thái độ của binh lính Đức, những kẻ canh giữ

chúng  tôi,  bắt  đầu  thay  đổi  hoàn  toàn.  Nhƣ  ngƣời  ta  vẫn  nói,  đôi  khi  ăn  đòn  làm  cho 

ngƣời ta tỉnh ra. Có vài tên lính bắt đầu tuyên bố một cách thận trọng: "Cả anh lẫn tôi đều 

là  những  ngƣời  tốt.  Vậy  sao  chúng  ta  lại  phải  đánh  nhau?  Nƣớc  Nga  có  thể  bán  cho 

chúng tôi dầu hỏa và bánh mì, trong khi chúng tôi sẽ  sản xuất máy móc cho nƣớc Nga.” 

Tôi trả  lời với hắn là sự cân nhắc ấy đáng lý phải đƣợc thực hiện từ  trƣớc chiến tranh, và 

hắn buồn rầu đồng ý với tôi. 

Tình hình càng ngày càng trở  nên đáng báo động hơn. Không quân Mỹ  bắt đầu 

ném bom những thành phố  gần chỗ  chúng tôi, và thƣờng phá hủy các tuyến đƣờng sắt. 

Chúng tôi bị  bắt buộc phải đi sửa lại chúng. Những tuyên truyền viên tới từ  ROA (Quân 

đội Giải phóng nƣớc Nga) bắt đầu tới thăm chúng tôi thƣờng xuyên hơn, khuyến khích 

chúng tôi gia nhập quân đội của Vlasov. Chúng cũng bảo chúng tôi là “trong trƣờng hợp 

xấu nhất, toàn thể Châu Âu sẽ mở cửa đón chúng ta”. Chúng lái chúng tôi tới chuyện nhét 

vũ khí Đức vào tay chúng tôi, “trƣớc khi điều đấy thành quá muộn”. Những tin đồn gây 

hoang mang bay tới từ trại tù binh Ludwigsburg nói rằng bọn chúng đang dùng vũ lực ép 

buộc  mọi  ngƣời  gia  nhập  vào  quân  đội  của  chúng.  Tuy  nhiên,  còn  lâu  mới  tìm  đƣợc 

những  kẻ  ngu  ngốc  hay  phản  bội  trong  nhóm  của  chúng  tôi.  Vào  một  ngày  làm  việc 

chúng tôi không đƣợc đƣa tới công trƣờng mà  ở  lại trong khu trại. Chúng tôi đƣợc yêu 

cầu ngồi xuống quanh chiếc bàn và chờ  đợi. Tất cả  chúng tôi đều mất bình tĩnh vì những 

phỏng đoán đầy lo âu. Cuối cùng, cánh cửa thông sang phòng bọn gác mở  ra, một tên hạ

sĩ quan xuất hiện và ra lệnh tất cả  chú ý. Chúng tôi đứng dậy. Một gã sĩ quan Đức lạ mặt 

bƣớc vào phòng. Hắn khẽ  nói điều gì đó với tên hạ  sĩ. Tên kia chào và đi ra khỏi phòng. 

Tên sĩ quan đi tới giữa nhà và bắt đầu nhìn thẳng vào chúng tôi. Hắn là một ngƣời thấp, 

khoẻ mạnh và đã đứng tuổi, có một bộ râu mép đỏ đã bắt đầu điểm bạc, lông mày đậm và 

cái nhìn nhƣ khoan thẳng vào ngƣời đối diện. Sự  mâu thuẫn giữa tuổi tác và chức vụ  của 

hắn lộ  rõ. Hắn chỉ  đƣợc đeo lon trung uý. Các sọc vàng trên quân phục của hắn cho biết 

hắn là một sĩ quan kỵ  binh. Nhiều phút trôi qua trong im lặng. Bất ngờ  tên sĩ quan thốt 

lên bằng tiếng Nga rõ ràng rành mạch: “Nghỉ, xin ngồi xuống, thƣa các ngài!” Các “quý 

ngài” ngạc nhiên ngồi xuống. Tên sĩ quan bƣớc dọc theo cái bàn và bắt đầu nói: "Thƣa 

các ngài, tôi cũng là ngƣời Nga nhƣ các ngài, nhƣng lớn tuổi hơn, và theo ý muốn của số

mệnh  tôi  đã  phải  rời  tổ  quốc  của  mình.  Tôi  là  một  trung  uý  thuộc  trung  đoàn 

Astrakhanski, từng tham gia Thế chiến thứ nhất và cả thời kỳ  Nội chiến. Nhƣ các ngài có 

thể  đoán, tôi chiến đấu bên phe Bạch vệ.” “Thƣa các ngài,” hắn tiếp tục, “Thế  chiến thứ

hai đã tiến tới giai đoạn quyết định, và không ai có thể tránh không tham gia vào đó. Các 

ngài cũng có thể tham dự, nhƣng lần này là ở phe những ngƣời văn minh và chính nghĩa. 

Các ngài sẽ  sớm đƣợc tuyển vào Quân đội Giải phóng nƣớc Nga của tƣớng Vlasov và sẽ

phục vụ vào làm lính bộ binh. Hiện tôi đang thành lập một đơn vị kỵ binh Cossack có đặc 

quyền và tới đây để  tuyển lựa những ai từng phục vụ  trong những đơn vị  kỵ  binh hay 

Cossack, những ai là ngƣời Cossack hoặc những ai mong muốn phục vụ trong một đơn vị

ƣu tú thay vì phải vào bộ  binh.” Chúng tôi lặng ngƣời đi vì những thông tin và những lời 

đề  nghị  nhƣ thế. Sau khi dừng lại một lúc, tên sĩ quan hỏi: "Thế  nào, các ngài, ai muốn 

gia nhập đây?" Tất cả  chúng tôi đều giữ  im lặng. Tên sĩ quan tiếp tục: "nếu ở  đây không 

có ngƣời tình nguyện, tôi sẽ  tự  chỉ  định những ngƣời mà tôi thấy là phù hợp. Nhƣng tôi 

cảnh báo các anh là tôi sẽ  chuyển những ai từ  chối cho Gestapo. Các anh cũng tự  biết 

điều đó có nghĩa gì rồi. Không ai còn sống sót và khoẻ  mạnh quay về  từ  chỗ  đấy  đâu.” 

Sau những lời đấy hắn bắt đầu gọi lần lƣợt từng ngƣời, hỏi tên, chức vụ, nghề nghiệp của 

gia đình và v.v. Tôi muốn đứng lên và nói: “Thƣa ngài! Chúng tôi đã chiến đấu một cách 

trung thực, bảo vệ  tổ  quốc của mình và chúng tôi bị  bắt làm tù binh không  phải là do lỗi 

của bản thân. Phân nửa đất nƣớc chúng tôi bị  tàn phá bởi chiến tranh. Hàng triệu ngƣời 

dân nƣớc tôi bị  chết. Chúng tôi đang bị  sử  dụng nhƣ những nô lệ, chúng tôi bị  bỏ  đói, 

chúng tôi bị  đánh đập và hạ  nhục. Còn bây giờ, khi nƣớc Đức bị  đánh bại từ  cả  hai phía, 

khi chúng tôi có đƣợc hy vọng sẽ  kết thúc chiến tranh, đƣợc giải phóng và quay về  tổ

quốc, thì ông lại  ở  đây và đề  nghị  chúng tôi mặc vào bộ  quân phục Đức, cầm lấy vũ khí 

Đức và bảo vệ  nƣớc Đức. Ông đang đề  nghị  chúng tôi chiến đấu chống lại những ngƣời 

anh em của mình, những ngƣời đang đến để  giải phóng chúng tôi. Có lẽ, ông nghĩ tất cả

chúng tôi  ở  đây đều là lũ khờ  để  ông đƣa ra một lời đề  nghị  nhƣ vậy. Ông đã từng đánh 

lại chính đồng bào của ông, đánh mất quê hƣơng của ông và tự  hạ  mình tới mức đi mặc 

vào ngƣời bộ  quân phục của Đức, trở  thành một kẻ  phản bội. Giờ  đây ông muốn chúng 

tôi cũng làm nhƣ vậy, để cho chúng tôi (nếu chúng tôi không bị giết bởi chính những anh 

em của mình) sẽ lặp lại số phận của chính ông.” Mỗi ngƣời trong chúng tôi đều muốn nói 

nhƣ vậy, nhƣng chúng tôi không thể. Chúng tôi phải đứng im lặng, bởi tên Bạch vệ  mặc 

quân phục Đức đó có thể  bắn bất cứ  ngƣời nào trong số  chúng tôi. Sau khi thẩm vấn, tên 

sĩ quan chọn ra ba ngƣời và đƣa họ  đi. Một trong số  họ  là Lisnevski, một chàng trai dễ

thƣơng thuộc gia đình trí thức; ngƣời thứ hai là Yurkin, một kẻ khó ƣa đã bị mất gốc. Tôi 

không còn nhớ  tên của ngƣời thứ  ba. Một thời gian sau Lisnevski tìm đƣợc cách thoát 

khỏi câu chuyện bẩn thỉu đó và quay trở  về  nhóm chúng tôi. Chúng tôi không biết đƣợc 

điều gì đã xảy ra với hai ngƣời còn lại. Những lời đe dọa sẽ  động viên vào quân đội của 

Vlasov không bao giờ  trở  thành sự  thật. Hoặc là chúng không có đủ  thời gian hoặc bọn 

Đức không đồng ý vũ trang cho những ai công khai tỏ  ra thù  địch với chúng. Hoặc tên 

Bạch vệ kia chỉ nói dối tất cả mọi chuyện với chúng tôi để dọa nạt mà thôi. 

Trong khi ấy, tình hình ngày càng trở  nên đáng lo. Chiến tranh nhanh chóng tiến 

về  phía chúng tôi từ  hƣớng tây. Đấy là những tin tức vừa tốt lành lại vừa đáng lo ngại. 

Trƣớc khi thất trận, bọn Đức có thể sẽ “đóng cửa lại” tàn sát tất cả chúng tôi. Những máy 

bay ném bom của ngƣời Mỹ oanh tạc các thành phố, các tuyến đƣờng sắt và các xa lộ lân 

cận. Máy bay ném bom bay hàng đàn tới Stuttgart và tiến hành “ném bom rải thảm”, thả

hàng trăm quả  bom cùng một lúc dựa theo các tín hiệu vô tuyến. Nhằm làm vô hiệu hóa 

hỏa lực phòng không của Đức, ngƣời Mỹ  thả  xuống từ  các máy bay ném bom rất nhiều 

những dải kim loại. Tôi nghe những ngƣời nông dân Đức nói rằng những dải kim loại  ấy 

đƣợc thả xuống để đầu độc tất cả các gia súc. 

Mùng  một  tháng  Tƣ  năm  1945  là  ngày  cuối  cùng  chúng  tôi  còn  làm  việc  trên 

tuyến đƣờng sắt. Sau đó chúng tôi chỉ  còn ngồi trong nhà kho, bị  khóa kín cửa, chờ  cho 

mọi việc xảy đến. Tất cả  chúng tôi  đều rất căng thẳng. Trong một ngày nhƣ thế một máy 

bay tiêm kích của Mỹ  đã tấn công khu trại chúng tôi và nã xuống một loạt đạn từ  khẩu 

đại liên cỡ  lớn của nó, nhƣng may mắn thay, trong chúng tôi không có ai bị  thƣơng cả. 

Chúng tôi sớm nghe thấy tiếng đại  bác nổ  từ  phía xa. Chúng tôi lắng nghe nó nhƣ thể  đó 

là tiếng nhạc mừng cho sự  giải thoát chính mình. Vào một trong những ngày đó chúng 

nhìn thấy từ cửa sổ của mình một đoàn tù binh rất đông có lính áp giải dừng lại nghỉ đêm 

trên cánh đồng đằng sau con sông. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Trả lời câu hỏi 

của tôi về  lý do tiếng súng nổ, tên hạ  sĩ nói rằng một tù nhân trong đám đó cố  gắng bỏ

trốn, nhƣng bị bắn chết. 

Cuối cùng, tới ngày thứ  năm thì vụ  “ngồi trại” đó kết thúc. Trong bữa sáng ngày 

mùng 6 tháng Tƣ chúng tôi đƣợc lệnh phải sắp hàng để hành quân với hành trang cá nhân. 

Chúng tôi không đƣợc biết mình bị  dẫn đi đâu và tại sao. Chúng tôi nghĩ ra đủ  thứ  –  từ

tình huống tốt nhất tới tình huống xấu nhất có thể  tƣởng tƣợng ra đƣợc. Chúng tôi sắp 

xếp đồ  đạc nhanh chóng. Mỗi ngƣời chúng tôi có một túi xách, bên trong bỏ  những vật 

dụng thiết y ếu nhất của mình. Tôi có một quyển sách, một cuốn từ  điển tiếng Đức mà tôi 

tự  làm từ  những mảnh giấy của bao đựng ximăng. Cái bìa làm từ  mảnh len màu xanh lá 

cây sẫm đƣợc phát cho chúng tôi để  vá quần áo. Cuốn sách to và nặng, trong khi tôi lại 

yếu sức nên tôi phải bỏ lại trong trại. Tôi vẫn còn rất tiếc vì điều đó. Chỉ huy khu đồn trú 

tới nói lời tạm biệt với chúng tôi, hắn ta vốn là một bác sĩ, một ngƣời thấp  bé và kiêu 

căng. Hắn nói tạm biệt với đám lính, và chỉ  ngạo mạn nhìn chúng tôi, không thèm nói 

một lời. Và rồi chúng đƣa chúng tôi đi. ??? Vĩnh biệt công ty Lutz, Meister Riwa và cái 

khu trại nằm sau hàng rào dây thép gai! Chúng tôi mau chóng nhận ra rằng mình đang bị

đƣa về  phía đông. Điều đó có nghĩa là chúng đang đƣa chúng tôi rời xa mặt trận, đang 

ngày một tiến lại gần. Ban đầu chúng tôi đi với rất đông lính áp giải và thậm chí có cả

chó canh. Nhƣng sau một thời gian số  lƣợng lính canh giảm dần, và chó  thì biến mất  ở

một quãng nào đó. Tên hạ sĩ, chỉ huy nhóm áp giải chúng tôi, cũng biến mất. Một tên đội 

già (Feldwebel) đƣợc chỉ định lên thay hắn. Quân phục của hắn bốc đầy mùi nấm mốc rất 

khó chịu. Chúng tôi dừng lại nghỉ  đêm trong những ngôi làng,  ở  đó chúng tôi thƣờng bị

nhốt lại trong những nhà kho, có lính Đức đứng gác. Chúng tôi đƣợc cho ăn khoai tây 

luộc, do bọn lính gác Đức lấy từ  các nông dân. Các nông dân Đức trồng rất nhiều khoai 

tây. Dù tình hình rất khó khăn và sự  bất lƣờng của tƣơng lai phía trƣớc, chúng tôi vẫn tò 

mò quan sát đời sống ngƣời nông dân Đức và những ngôi nhà họ  ở. Chiến tranh tới gần 

đƣa sự hoảng loạn vào vùng hậu phƣơng nƣớc Đức. Chúng tôi trông thấy bọn phát xít địa 

phƣơng khẩn trƣơng sơ tán về  khu vực trung tâm đất nƣớc, và chúng tôi cũng thấy sự

tổng động viên tất cả  ngƣời già và trẻ em. Một lần chúng tôi trông thấy bọn lính đang áp 

giải những tân binh mới bị  động viên, trong số  đó có cả  một cậu gypsy còn rất trẻ, mặc 

chiếc áo vét quân phục Đức choàng ra ngoài bộ quần áo dân thƣờng.  

Nhiều ngày trôi qua trong cuộc hành trình. Nhƣng một lần chúng tôi bị  đánh thức 

bởi những dấu hiệu khác lạ  vào giữa đêm khuya. Cửa nhà kho nơi chúng tôi đang nằm 

không bị  khóa, và  ở  xung quanh lính gác hoàn toàn biến mất. Tất cả  chúng tôi đều đứng 

lên vì kích động. Điều này có nghĩa gì? Chúng tôi phải làm gì đây? Vài ngƣời hăng hái 

đòi bỏ trốn ngay lập tức! Những ngƣời khác cho rằng đây là trò khiêu khích của bọn Đức, 

chúng sẽ  viện cớ  bỏ  trốn để  bắn chết tất cả  mọi ngƣời. Chạy trốn trên đồng trống không 

có rừng rậm, giữa những cộng đồng thù địch và hàng đoàn lính địch là một việc vô vọng. 

Sau khi thảo luận hồi lâu chúng tôi quyết định hẵng cứ chờ đợi đã. Sáng hôm sau viên đội 

nọ  bƣớc vào căn nhà kho của chúng tôi. Hắn nói rằng đám lính gác bị  chuyển lên mặt 

trận, trong khi chính hắn đứng ra bảo đảm với cấp trên là chúng tôi sẽ  không trốn chạy. 

Hắn cũng nói rằng từ  giờ  phút này hắn sẽ  là ngƣời gác duy nhất. Tới lúc sáng rõ, chúng 

tôi ra ngoài sắp hàng lại. Tên đội đi đằng trƣớc, chúng tôi theo sau, và tất cả  cùng hành 

quân về  phía đông. Các ngả  đƣờng đều kẹt cứng các đơn vị  hậu cần và dự  bị  của Đức 

đang rút lui. Lính Đức thuộc các đơn vị ấy hét với theo tên lính canh của chúng tôi: “Việc 

quái gì mà mày phải áp giải chúng nó đi nhƣ vậy? Bắn sạch chúng nó đi, trƣớc khi chúng 

nó kịp bắn vào chúng ta!” Tay lính canh của chúng tôi cứ  giả  vờ  nhƣ không nghe gì hết. 

Mọi ngƣời hỏi tôi xem bọn Đức đang la hét điều gì. Tôi không muốn làm họ lo lắng thêm 

nên trả lời: "Ồ, không có gì đâu, chỉ là trò chuyện vớ vẩn thôi, đừng để ý đến".

Đột nhiên một nỗi sợ  hãi lan đi trong khắp cái khối ngƣời ngựa và xe cộ  đang rút 

lui  ấy. Tiếng súng, sự  hỗn loạn và tháo chạy vẫn tiếp tục. Chúng tôi tìm cách vƣợt qua 

đám đông đó và tiến xa hơn trên con đƣờng. Rồi chúng tôi dừng lại  ở  một khoảng rừng 

nhỏ. Tên lính gác của chúng tôi đã hoàn toàn mất phƣơng hƣớng. Để  trả  lời cho câu hỏi 

của tôi xem hắn định dẫn chúng tôi đi đâu, hắn đáp: “Tôi chỉ là một cai đội, còn tất cả các 

anh đều là sĩ quan, vậy các anh tự quyết định đi!” Từ lúc đó, giữa tên gác và chúng tôi có 

một sự thỏa hiệp ngầm, cùng đóng giả sao cho có vẻ nhƣ chúng tôi vẫn là những tù nhân. 

Sau khi tham khảo ý kiến, chúng tôi quyết định đi tới một ngôi làng nhỏ, cách xa đƣờng 

lớn và dừng  ở  đó chờ  ngƣời Mỹ  tới. Tay lính gác đích thân đi tìm giúp chúng tôi một 

ngôi làng nhƣ thế. Đấy là làng Stetten. Chúng tôi trú trong nhà kho của một nông dân 

giàu có. Ở đấy có một hầm chứa khoai tây nằm dƣới căn nhà kho. Ngƣời Đức chủ của cái 

kho im lặng, không phản đối việc chúng tôi chiếm đóng tài sản của anh ta. Có lẽ anh ta sợ

chúng tôi. Viên đội của chúng tôi có lẽ  cũng trở  nên sợ  chúng tôi hơn, dù chúng tôi luôn 

tỏ  ra rất biết điều với anh ta. Anh ta trốn trong một căn nhà trên phố  và không ló mặt ra 

ngoài nữa. Chúng tôi sống nhƣ thế trong suốt nhiều ngày, cắt ngƣời canh gác ban đêm để

tránh bị  bất ngờ  trƣớc bất cứ  tình huống nào xảy ra. Chúng tôi luộc khoai tây lấy trong 

hầm nhà bằng một cái nồi. Vài ngƣời trong chúng tôi đi vòng quanh làng và cƣa cây rồi 

bổ củi cho nông dân để đổi lấy những thức ăn khác. 

Lính Đức, bọn cảnh binh cùng chó canh, những thƣờng dân (có lẽ  là các thành 

viên của Đảng Quốc xã) và thậm chí là vài tên lính đi lẻ  lục đục rút qua trƣớc mặt chúng 

tôi theo con đƣờng làng. Đôi khi bọn lính Đức có bƣớc vào cái nhà kho của chúng tôi để

ở  lại qua đêm hay để  nghỉ  chân. Tôi cũng nói chuyện với chúng. Hầu hết chúng đều đã 

đào ngũ và ngang nhiên nói về  thất bại của nƣớc Đức. Vài tên trong bọn chúng hy vọng 

rằng vào ngày 20 tháng Tƣ, ngày sinh nhật của Hitler, một hiệp định hòa bình sẽ đƣợc ký 

kết. Chúng cũng nói rằng những đơn vị  chặn hậu đặc biệt đƣợc thành lập từ  những binh 

lính của Vlasov, chúng hành quyết tất cả những binh lính rút chạy và những ngƣời tụt hậu 

lạc đơn vị. “Nếu không có bọn đồng hƣơng của chúng mày thì chúng tao đã  thôi đánh 

nhau từ  lâu rồi.” Chúng cũng cảnh báo chúng tôi rằng bọn Vlasov là những đứa rút lui 

cuối cùng và bắn chết tất cả  mọi ngƣời, thậm chí cả  tù binh Nga. “Cho nên hãy cẩn thận 

với đám đồng hƣơng của chúng mày đấy.” Sẽ  là thật đáng buồn lúc này nếu phải chết 

dƣới tay lũ kẻ  cƣớp đó, khi giờ  giải phóng đã gần kề. Chúng tôi quyết định sẽ  trốn vào 

trong một hầm chứa bê tông chờ cho bọn Đức rút đi. 

Suốt đêm ngày 25 tháng Tƣ năm 1945 chúng tôi hoàn toàn không ngủ. Dựa theo 

tiếng pháo và tiếng đại liên nổ  thì chiến trận đang diễn ra ở  rất gần. Nhiều lính Đức đang 

say chếnh choáng đi vào cái nhà kho của chúng tôi. Tôi nghe tiếng chúng bảo rằng phải 

chuồn đi càng nhanh càng tốt. Một tên lính Đức trông thấy chúng tôi và hỏi đồng bọn của 

hắn: “Chúng ta phải làm gì với lũ lợn Nga này bây giờ? Chẳng lẽ  chúng ta lại bỏ  mặc 

chúng thế  kia? Tao sẽ ném một quả  lựu đạn vào đấy”. May thay, một tên Đức khác phản 

đối: “Đừng làm vậy, đã có quá nhiều máu đổ  ra rồi”. Tranh cãi với nhau một hồi, chúng 

bỏ  đi. Tôi nhận ra đó là những tên lính Đức cuối cùng rút lui, và bọn Vlasov sẽ  có thể

xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Tôi hét: “Các đồng chí, đã tới lúc phải rút xuống hầm thôi!” 

Tấùt cả mọi ngƣời đều chạy nhanh xuống hầm kho bằng bê tông. 

Chúng  tôi  đã  sẵn  sàng  chờ  lũ  cƣớp  ấy  đến  bất  cứ  lúc  nào,  chúng  tôi  cho  rằng 

chúng sẽ bắn chết chúng tôi hay ném lựu đạn vào trong hầm chứa. Chúng tôi ƣớc gì mình 

có vũ khí trong tay. Chỉ  cần hai hay ba khẩu súng có kèm đạn dƣợc. Khi đó chúng tôi sẽ

không lẩn trốn nữa mà sẵn sàng đón tiếp lũ phản bội kia thật cẩn thận. Nhƣng chúng tôi 

chẳng có gì trong tay cả. Nhiều giờ  trôi qua trong căng thẳng chờ  đợi, trong thời gian đó 

chúng tôi cảm thấy mình nhƣ đang lơ lửng giữa sống và chết vậy. Đám cháy bên ngoài 

tắt dần, và cuối cùng bình minh đã đến. 

Một ngƣời trong bọn tôi cẩn thận luồn ra ngoài cái sân để xem điều gì đang xảy ra 

bên ngoài. Lập tức anh quay lại hét lên đầy vui sƣớng: “Ngƣời Mỹ  đang  ở  đây, chúng ta 

đƣợc tự do rồi !” Tất cả chúng tôi đều chạy ùa ra ngoài. Những ngƣời lính mặc quân phục 

màu xanh lá cây nhạt, trông nhƣ thể  những bộ  đồ  thể  thao, đang đứng trên đƣờng phố. 

Vài ngƣời trong bọn họ là da trắng, vài ngƣời khác da đen. Chúng tôi chạy tới chỗ họ, lắc 

tay họ, nói những lời cảm ơn với họ. Không ai trong chúng tôi biết tiếng Anh, còn những

ngƣời đã giải phóng chúng tôi lại không nói đƣợc tiếng Nga, nhƣng chúng tôi hiểu nhau 

rất  rõ.  Những  ngƣời  Mỹ  cƣời  rạng  rỡ,  miệng  nói:  “Rasen,  rasen  -  Russian,  Russian!”, 

tặng chúng tôi thịt hộp, sôcôla và thuốc lá. Đấy là vào 5 giờ  30, buổi sáng ngày 25 tháng 

Tƣ năm 1945. Thật hạnh phúc làm sao ! 

Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Quân nhân thuộc các binh chủng khác

Hồi ức của Vladimir Dolmatov

Vladimir Dolmatov

Tháng Mƣời năm 1941, tôi tham gia vào tổ chức narodnoye opolchenie (lực lƣợng 

dân vệ) Matskva. Tôi đang học lớp Tám và sống ở khu Arbat. Vào một hôm toàn thể  lớp 

chúng tôi đƣợc tập hợp lại  ở  Potylikha, một nơi gần phố  Mosfilm, trong sân một trƣờng 

trung học. Họ  phát cho chúng tôi những khẩu súng săn, cứ  năm ngƣời một khẩu, và súng 

trƣờng cỡ nòng nhỏ – cũng cứ một khẩu năm ngƣời, đồng thời giao cho chúng tôi 5 thanh 

gƣơm. Thế đấy! Không có đồng phục – mỗi ngƣời tự mặc những gì mình đem theo, và đi 

chiến đấu cũng trong cùng một thứ  trang phục nhƣ vậy. Thầy giáo dạy văn trở  thành chỉ

huy của chúng tôi – một ngƣời đẹp trai, rất tốt với học sinh. Họ  dẫn chúng tôi hành quân 

dọc theo đƣờng Mozhaysk tới Zhukovka, nơi bọn Đức đã xuất hiện, cách Maskva khoảng 

15  kilômét.  Chúng  tôi  bố  trí  trong  một  khu  rừng  cạnh  đó,  cách  đƣờng  lộ  khoảng  2-3 

kilômét. Đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng động của xe tăng. Những ngƣời trinh sát 

đƣợc phái đi tìm hiểu. Khi họ quay về, hóa ra là quân Đức đã kéo xe tăng cúa chúng băng 

ngang vị  trí chúng tôi và dừng lại, các đơn vị  của chúng đang bao vây những ngôi làng 

lân cận. Chỉ  huy gọi tôi ra và bảo: “Valodia, em hãy vọt tới Matskva và báo cáo lại là 

chúng ta đang bị  bao vây, và rằng chúng ta không thể  chống lại do không có vũ khí. Hãy 

lấy cái xe mô tô và phóng tới chỗ  trụ  sở  dân uỷ  khu ta.” Chúng tôi có một chiếc mô tô 

“Tháng Mƣời Đỏ” và tôi là ngƣời duy nhất trong trƣờng có thể lái nó. 

Hóa ra ngôi làng tôi phải lái xe băng qua đã bị  quân Đức chiếm giữ. Tôi đang 

chạy  xe  bỗng  thấy  một  nhóm  lính  Đức,  khoảng  năm  hoặc  sáu  tên,  đang  đứng  và  trò 

chuyện gì đó. Đã quá muộn để  dừng lại, do đó tôi cứ  giữ  cứng tay lái chạy xuyên qua 

chúng. Chúng quay đầu lại, nhìn thấy tôi nhƣng không phản  ứng gì. Rồi có một tên hét 

lên  cái  gì  đó  làm  tôi  phát  hoảng  thực  sự,  nhấn  mạnh  ga  và  bắt  đầu  lái  xe  chạy  ngoằn 

ngoèo. Chúng bắn theo một loạt đạn nhƣng trƣợt. Tôi phóng nhƣ bay khỏi cái làng đó và 

lập tức đâm thẳng vào một cái cây. Khi đâm vào thân cây, khung xe bị  cong lại và tôi 

phải lội bộ về Matskva. Tôi tới đƣợc trụ sở dân ủy khi trời đã tối: 

"Tôi là thành viên dân vệ  (opolchenie). Chúng tôi đang bị  bao vây. Không có vũ 

khí để chiến đấu,” tôi nói. 

"Anh thuộc khu nào?” họ hỏi tôi. 

"Khu Arbat."

"Thế bố mẹ anh ở đâu?” 

"Ở nhà.” 

"Vậy thì về nhà đi.” 

Tất cả  chỉ  có vậy, tôi đành đi về  nhà. Mẹ  rất mừng là tôi vẫn còn sống quay về. 

Thực tế là không còn ai trong nhóm dân vệ ấy quay trở về! Họ đã chết sạch! 

Cha  tôi  làm  việc  với  tƣ  cách  là  một  ngƣời  tƣ  vấn  pháp  luật  tại  nhà  máy 

"Medkhimprom", và từ  khi trƣờng của chúng tôi đóng cửa, ông đã tìm đƣợc cho tôi một 

chân tại nhà máy của mình, nơi mà, cộng với sự  hỗ  trợ  của nhiều yếu tố  khác, đã có một 

mạng lƣới cửa hàng sửa chữa cơ khí trên khắp Matskva. Họ  gửi tôi tới một cửa hàng  ở

khu Krasnaya Presnia làm thợ  học nghề  cơ khí. Tôi đã làm việc  ở  đó đƣợc khoảng hai 

tuần và ngƣời quản lý cửa hàng bảo: "Anh biết đấy, thằng bé này có thể  làm đƣợc mọi 

việc. Hãy cho nó một cửa hàng, nó sẽ  quản lý  ở  đấy.” Và họ  giao cho tôi một ngôi nhà 

trống trên phố Vorovsky, nơi trƣớc kia từng là cửa hàng bán xe đạp của một tổ chức khác. 

Chúng tôi bố  trí cửa hàng trên tầng một, do sân khu nhà bị  ngập nƣớc. Tôi tập hợp lũ trẻ

trong khu nhà mình lại: một đứa 12 tuổi, một đứa khác 14, và tôi đã 17, rồi cả  ba chúng 

tôi bắt đầu làm việc tại cửa hàng đó. Một hôm, nhƣ trong câu chuyện thần thoại về con cá 

vàng, chúng tôi thò một cái gậy xuống mảnh sân ngập nƣớc, do chúng tôi không có lƣới, 

và kéo lên một đống trục quay xe đạp. Lần khác  –  kéo lên một đống bánh xe. Tôi tìm 

đƣợc một cái bơm máy và bơm nƣớc ra ngoài, hóa ra cái sân chất đầy những phụ tùng xe 

đạp – khung xe, bánh xe, dây xích. Và do chúng tôi không hề ký nhận những thứ này, tất 

cả  những món đó đều không đƣợc tính công. Chúng tôi trao đổi chúng với những cửa 

hàng  khác và bắt tay vào lắp ráp những chiếc xe đạp. Trƣớc tiên chúng tôi ráp xe cho 

chính mình, kế  đó là lắp để  bán ngoài chợ  tại Malakhovka. Nhƣng chúng tôi cũng sửa 

những thứ  đồ  sắt, xe đạp, nhiều món thiết bị  khác, và tính chúng vào sổ  công của mình. 

Và chúng tôi cũng nộp một phần tiền bán xe vào sổ  của cửa hàng, ghi vào “sửa đồ  sắt”, 

“sửa ấm đun nƣớc”, v.v. lên các hoá đơn. Bằng cách đó chúng tôi hoàn thành đƣợc 115% 

kế  hoạch hàng tháng. Họ  gọi cha tôi lên và bảo: “Nghe đây, con trai anh là một thiên tài. 

Không có cửa hàng nào của chúng ta hoàn tất đƣợc kế hoạch, trong khi nó giao nộp đƣợc 

115%. Chúng ta phải tặng cho nó một phần thƣởng.” Và họ đã làm đúng nhƣ vậy. 

Đồng thời với công việc ở  cửa hàng, tôi cũng tham gia một lớp dạy lái xe, và sau 

khi lấy đƣợc bằng lái tôi vào làm tài xế tại Xí nghiệp Liên hiệp Ôtô số 1, nơi một lần nữa 

cha tôi lại tìm đƣợc cho tôi một chỗ. Lúc  ấy đã là mùa đông năm 1941. Tôi làm việc từ 8 

giờ  sáng cho tới 12 giờ  khuya. Tôi và một ngƣời nữa chở  mỗi ngƣời hai mét khối gỗ  từ

Krasnaya Pakhra về, nơi này cách Matskva 50 kilômét. Không chỉ  chở  về, mà còn phải 

chặt  cây,  đốn  trụi  cành  lá,  cƣa  xẻ  chúng  rồi  chất  lên  xe  và  chở  về. Chúng  tôi làm  hai 

chuyến một ngày  -  8 mét khối gỗ. Anh có thể  tƣởng tƣợng đƣợc không? Tôi quay về  văn 

phòng vào lúc đã 12 giờ khuya và họ bảo tôi:  

"Valodia, anh phải đem củi tới chỗ  cửa hàng trƣởng cửa hàng sách tại Hot'kovo 

(cách Matskva 50 kilômét). Ông ấy đang bị rét cóng.” 

"Tôi không thể  đi đƣợc. Hôm nay tôi đã đi hai chuyến rồi. Tôi mệt lắm, không 

làm đƣợc đâu.” 

"Ngƣời ta đang đổ  máu mình ngoài mặt trận, trong khi anh lại ngồi nhà! “Mệt 

lắm”! Ngƣời ta đang hy sinh, còn anh lại than mệt!” – tay quản lý nổi nóng. 

Hắn ta gọi cha tôi lên. Tôi nói: 

"Cha ơi, con không thể lái tới đó.” 

"Con thấy đấy –  trời thì  lạnh. Ông ta có thể  chết cóng mất. Hãy mang củi tới, cha 

xin con đấy,” ông nói. 

Thế là tôi lái tới đấy. Chở theo củi đốt. Và khi tôi quay về, một chiếc xe điện đánh 

một vòng cua ở gần ga đƣờng sắt Riga, trong khi đang tắt đèn để ngụy trang chống không 

kích, và tôi đâm vào hông nó. Chiếc xe của tôi bật nẩy lên, tôi choáng váng vọt ra ngoài. 

Nắm lấy cái tay quay, nó bị kẹt vào chỗ nào đó – nhƣng mọi thứ đã bị vỡ nát, bộ tản nhiệt 

chảy nƣớc. Tôi bắt đầu sửa nó. Một tay công an tóm lấy cổ  tôi: “Anh đang làm gì vậy? 

Chiếc xe của anh vỡ  tan rồi!” Tôi bắt đầu tỉnh lại. “Hãy đi gọi tới một chiếc xe tải kéo.” 

Tôi đi và gọi điện thoại, rồi bảo họ  rằng tôi đang ở  ga đƣờng sắt Savelovskiy. Kể  lẫn lộn 

tất cả  ... (Hai nhà ga này thật ra khá gần nhau -  Artem Drabkin) Và rồi tôi ngồi đó  –  chờ

một, hai rồi ba tiếng đồng hồ. Trời rất lạnh. Chiếc xe kéo không tới. Tôi chặn một chiếc 

xe chạy ngang: "Hãy nghe này, anh có thể  đƣa tôi tới Quảng trƣờng Arbat đƣợc không?” 

“Đó chính là nơi tôi đang đi tới.” Tôi về  tới nhà. Cha tôi đang lo lắng  –  con trai ông đã 

mất tích. Rồi tôi nhớ  ra là mình đã chỉ  sai địa điểm cho phòng trực. Tôi gọi lại cho họ  –

chịu nghe họ chửi rủa tục tằn. Tôi thức dậy vào buổi sáng. Đi lấy cái xe đạp. Đạp tới nhà 

ga – chiếc xe không còn ở đó. Tôi đạp tới văn phòng, hỏi họ: 

"Cái xe tải của tôi đâu?” 

"Xe nào?” 

"Xe của tôi.” 

"Xe của anh không có ở đây. Thế anh đã ở đâu?” 

"Ở nhà.” 

"Thế xe của anh ở đâu?” 

"Đậu tại nhà ga.” 

"Ở đấy không có chiếc xe nào cả.”

Hóa ra họ  đang đùa tôi, họ  đã kéo chiếc xe của tôi  về. Tóm lại, vì chuyện đó họ

gửi tôi tới cửa hàng máy móc để  làm thợ  sắt, lắp ráp môtơ. Thế  rồi một chính trị  viên tới 

và bảo anh ta cần sửa 5 chiếc xe môtô chiến lợi phẩm. Ngƣời ta bảo anh rằng họ  không 

làm những chuyện nhƣ thế, nhƣng ở đây có Valodia, ngƣời thƣờng sửa chữa những chiếc 

xe máy. Họ gọi tôi: 

"Cậu có thể sửa một chiếc môtô không?” 

"Tôi làm đƣợc.” 

"Tốt, hãy nhận lấy 5 chiếc môtô và sửa chúng.” 

"Đƣợc thôi,” tôi nói và đến gặp tay chính trị viên. 

"Nếu tôi sửa đƣợc những chiếc môtô này cho anh, anh sẽ gửi tôi ra mặt trận chứ?” 

"Để làm gì? Cậu không thích ở đây sao?! Cậu đƣợc miễn động viên rồi mà?!” 

"Tôi không muốn đƣợc miễn! Tôi chịu hết nổi rồi! Tôi muốn ra mặt trận!” 

"Không hề gì: hãy sửa xe môtô đi và cậu sẽ đƣợc ra mặt trận.” 

Tôi sửa những chiếc môtô. Anh ta đƣa tôi tờ lệnh điều động. Tôi đi về nhà:  

"Bố ơi, mẹ ơi, con đi đây.” 

"Con đi đâu?” 

"Con đã đƣợc động viên vào quân đội, ra mặt trận.” 

"Mặt trận nào?! Con có mất trí không, hở đồ ngốc!” 

Một cuộc tranh  cãi trong gia đình nổi  lên, nhƣng không còn gì có thể  thay  đổi 

đƣợc nữa rồi  –  tôi đã có lệnh triệu tập. Tất nhiên, tôi bảo mình bị  động viên vì đã phá 

hỏng chiếc xe tải, chứ không phải do chính tôi đề nghị. 

Ngƣời ta gửi tôi tới làm hƣớng dẫn viên cho một trung đoàn huấn luyện lái xe  ở

Nizhniy Novgorod. Trung đoàn này nằm ngay phía đối diện với nhà máy ôtô GAZ. Một 

thời gian trôi qua. Cha tôi kiếm đƣợc một giấy phép và tới nhờ ai đó ở Nizhniy Novgorod, 

rồi đem theo cả một chiếc cặp xách chứa đầy vodka tới chỗ đơn vị tôi. Ông biếu một chai 

cho ngƣời chỉ  huy. Ông chỉ  huy nói: “Tuyệt. Chúng tôi sẽ  tìm ra ngay con trai anh.” Tôi 

tới. Cha ôm chầm lấy tôi, đƣa tôi quà: bánh ngọt, kẹo và cái cặp xách, rồi thì thầm vào tai 

tôi: “Vodka đấy.” Tôi cầm lấy cái cặp và lui ra. Cha tôi quay về, bảo rằng hôm sau ông sẽ

trở lại. Tôi tới gặp tay trung sĩ và bảo: 

"Cha tôi đem cho tôi cả một cặp đầy vodka.” 

"Cậu có bị làm sao không? Đem ra uống chứ! Hãy tới phòng học nào!” 

Thế  là chúng tôi tới đó. Có những cái khoang ở  trong phòng học sâu khoảng một 

mét, dùng để  chứa dụng cụ  học tập. Chúng tôi bò vào trong đó, rót khoảng một lít vodka 

vào gà mèn của mỗi ngƣời, uống cạn cho tới giọt cuối cùng và lập tức lăn ra ngủ nhƣ chết. 

Khi chúng tôi thức dậy –  đang có lớp học. Chúng tôi đành nằm yên đó. Lớp học này kết 

thúc thì lại lớp khác tới. Thế  là chúng tôi nằm đó cho tới tận chiều, nhƣng không dám 

uống thêm bởi đã quá sợ. Tới buổi chiều, chúng tôi bò ra, và tôi đi về  chỗ  mình. Nhét cái 

cặp xuống dƣới giƣờng ngủ và đi gặp chỉ huy đơn vị. Anh ta nói: 

"Cậu đã ở đâu vậy? Cậu đã không có mặt khi điểm danh!”

"Tôi ở trong phòng.” 

"Cậu muốn nói gì, ở trong phòng?!”

"Tôi uống rƣợu và lăn ra ngủ.” 

"Hả? Ngủ suốt hai ngày trời?” 

"Tôi cũng không biết nữa.” 

"Cha cậu đang phát hoảng kia kìa! Ông ấy sẽ quay lại vào ngày mai.” 

Hôm sau cha tới và cho tôi một bài thuyết giảng.  

Chỉ huy kỹ thuật của đơn vị chúng tôi là Đại úy Mirtov – một ngƣời rất tốt, nhƣng 

hoàn toàn thiếu tác phong quân sự. Bức ảnh này đƣợc chụp tại một trong những buổi giao 

ban của chúng tôi tại Matskva vào năm 1943. 

Một hôm vào mùa xuân hoặc đầu mùa hè, chúng tôi đƣợc chuyển tới Gorodets,  ở

gần Gorky  –  những đợt không kích của bọn Đức sắp tới gần. Chỉ  huy đơn vị  chọn lấy 

nhiều ngƣời, trong đó có tôi, và ra lệnh cho chúng tôi lái xe tới Gorki để  thu nhặt đồ  đạc 

còn bỏ lại đó. Chúng tôi tới đó và thấy chẳng còn gì sót lại ở doanh trại của đơn vị chúng 

tôi – chỉ còn những hố bom và một nửa nhà máy bị bom phá huỷ. 

Vào giữa năm 1943,  đơn vị  chúng tôi đƣợc tổ  chức thành một tiểu đoàn ôtô độc 

lập thuộc lực lƣợng phòng vệ  hóa học và chuyển tới Tập đoàn quân Ukraina số  1. Chúng 

tôi tới Kiev và thấy toàn bộ  các công trình  ở  đây đã bị  phá hủy. Nhà cửa không còn cửa 

sổ, những cái hốc trên mái  có thể  nhìn xuyên tới tận trời xanh, những chiếc xe điện chở

khách bị  lật ngƣợc. Còn đám lái xe chúng tôi, những thằng nhóc, thƣờng dừng xe lại, hạ

khẩu súng xuống và bắn vào bóng đèn đƣờng: “Bang!” –  rồi lại lái tiếp. Tôi không có đủ

đạn nên không bắn vào bóng đèn, nhƣng tôi cũng rất muốn làm thế. 

Nhiệm vụ  của chúng tôi là thiết lập một đầu cầu vƣợt sông giả  trên sông Dnieper 

và đốt lên những màn khói mù, vì việc đó chúng tôi đƣợc cấp những thùng xăng chở trên 

một  chiếc  polutorka  (loại  xe  tải  1,5  tấn).  Chúng  tôi  kéo  lên  chiếc  Lavra  KievoPecherskaya những tấm ván và lăn những cái thùng xuống đất, sau đó bắt đầu thả  khói 

mù. Bọn Đức ném bom chúng tôi vài lần, thế  thôi. Vài ngƣời trong đám lính chúng tôi 

sinh trƣởng ở  bờ  sông, vài ngƣời khác  ở  trên những hòn đảo, thế  là họ  dựng lên một trại 

nuôi lợn và gia cầm ở  đây. Chỉ  huy đơn vị  tới, la mắng: “Chúng mày đang làm gì  ở  đây 

vậy! Lập tức tống tất cả  những thứ  này đi!” Vâng, tất nhiên bọn nó rất bực dọc, nhƣng 

không thể  làm trái đƣợc –  đành phải bỏ  tất cả. Thế  rồi chúng nghĩ ra một cách để  bắt cá. 

Chúng tôi không có thuyền, nhƣng có những ván trƣợt bằng chất dẻo, chúng tôi dùng để

đặt lên một khẩu súng máy và kéo sau xe tăng khi tiến quân trong mùa đông. Kích thƣớc 

của chúng vào khoảng 2 mét dài, 1 mét rộng và  cao khoảng 40 xăngtimét. Và thế  là bọn 

tôi chèo nó ra xa bờ  và làm choáng cá bằng những thỏi thuốc nổ. Chúng ném thuốc nổ

xuống giữa dòng nƣớc để  có đủ  thời gian chèo ra xa và thu nhặt cá. Nhƣng do tính sai 

khoảng cách và bị  trúng sức ép, hai hay ba thằng  bị  chết đuối. Hiển nhiên điều này cũng 

bị  cấm. Chỉ  huy  của  chúng tôi quả  là ngốc đặc. Anh ta đã đọc quá nhiều sách viết về

chiến tranh và bắt đầu làm tình làm tội chúng tôi! Thậm chí còn bắt chúng tôi xây dựng 

một câu lạc bộ, mặc dù biết rõ chúng tôi sắp bị chuyển đi chỗ khác. 

Bất ngờ  những tay lái mới từ  một trung đoàn dự  bị  tới đơn vị  chúng tôi, những 

ngƣời trƣớc đó đã từng phục vụ  trong những đơn vị  không quân. Và ở  đâu có lính không 

quân, ở đó có vô kỷ luật. Ở đó tài xế là chủ của bản thân mình. Không ai để lên lớp anh ta. 

Họ bảo: "Chúng ta tới không phải để phục vụ ở đây! Lão chỉ huy là một thằng ngốc! Lão 

cứ việc cút xuống địa ngục! Chúng ta đi chỗ khác thôi!” Và họ đi thật. Viên chỉ huy rống 

lên một tiếng khủng khiếp! Khắp Kiev đều tiến hành truy lùng họ. Họ  bị  bắt và đƣa vào 

một tiểu đoàn trừng giới sau khi bị  ra tòa án binh. Nhƣng họ  đã gợi nên một mơ ƣớc bỏ

trốn thầm kín nơi tôi, tôi không muốn chối bỏ  nó mà quyết định sẽ  thực hiện. Tôi hiểu 

rằng không thể  chỉ đơn giản là bỏ đi – họ sẽ bắt đƣợc tôi ngay. Tôi tới trụ  sở chỉ huy nhà 

ga gặp một trung sĩ và nói: “Trung sĩ này, chỉ  huy đơn vị  chúng tớ là một đống phân. Tớ

muốn bỏ  đi, nhƣng không muốn bị  bắt. Vậy chúng ta hãy thỏa thuận với nhau  –  cậu đƣa 

tớ ra mặt trận, nhƣng đừng báo với ai là tớ  bỏ  trốn, đổi lại tớ  sẽ  tặng cậu một chai vodka 

"Tarhun" và một lốc thuốc lá "Kazbek”". Anh ta nói: "Thỏa thuận nhé. Tôi sẽ  đƣa mọi 

ngƣời đi vào những ngày này và ngày này. Nếu cậu có 8 tiếng đồng hồ  rảnh thì cứ  coi 

nhƣ 100% là tớ  sẽ  đƣa cậu đi đƣợc.” Tôi vẫn còn những món từ  nhà gửi tới. Tôi có một 

giấy báo phép cũ và đem điền ngày tháng vào đó. Tới gặp chỉ  huy phiên trực, đƣa cho 

anh ta tờ giấy và xin phép đi tới thành phố. Anh ta đồng ý. Phiên trực sau tôi cũng do một 

tay Maskva khác đảm nhận, Lesha Rostunov,  hắn hoàn toàn điếc đặc. Tôi viết cho hắn 

trên một mẩu giấy: "Lesha, tớ  muốn bỏ  đi. Vậy xin hãy trực thế  tớ  trong phiên kế  tiếp.” 

Hắn nói: “Cậu phát điên rồi! Họ sẽ bắt cậu lại thôi!” Tôi đáp: “Đừng bỏ đi, cứ đơn giản là 

đứng gác, họ  sẽ  không chú ý đâu.” Họ  sẽ  chẳng moi đƣợc gì  ở  hắn  –  hắn điếc mà! Hắn 

chỉ cần trợn tròn mắt và cứ đứng nhƣ thế mà thôi. Thế rồi tôi xách tờ giấy phép và tới trụ

sở  chỉ  huy tại nhà ga. Rút một chai "Tarhun" và thuốc lá ra. Cầm lấy giấy tờ  quân nhân 

của tôi và thay vì họ  là 'Kapeleovich' thì viết là 'Kopylov', thay vì 'Adolfovich'  –  thì là 

'Anufrievich'. (Tôi cần phải nói là cái họ  theo cha này của tôi đã gây nên khá nhiều rắc 

rối và trò gọi giật "Ê! Hitler! Lại đây!" đã thành cái lệ trong đám bạn của tôi.) Với những 

giấy tờ nhƣ thế tay trung sĩ đã gửi tôi tới Phƣơng diện quân Ukraina số 1. 

Và tôi có mặt trong một tiểu đoàn xe tải độc lập lãnh nhiệm vụ  chuyên chở  tù 

binh chiến tranh, đặt dƣới quyền điều hành của NKVD (tiền thân của KGB  –  LTD). Chỉ

huy đơn vị chúng tôi trƣớc đây là một ngƣời Côdắk miền Terek. Anh ta chẳng thèm quan 

tâm chút nào tới mấy chiếc xe tải. Anh ta muốn có một con chiến mã, một cái vengerka 

và một thanh gƣơm. Lúc này chúng tôi đã cách Krakow khoảng một trăm kilômét. 

Lúc này, mỗi khi đi tới chỗ  tập trung tù  binh, tôi phải chạy ngang qua một trạm 

thú y. Có lần tôi bắt chuyện đƣợc với các bác sĩ ở đây. Họ nói: 

"Đi săn ở đây thật tuyệt, nhƣng chúng tôi chẳng có gì để bắn cả! Giá chúng tôi có 

đạn và một khẩu súng có kính ngắm. Cậu có thể kiếm ra chúng không?” 

"Không thành vấn đề, nhƣng tôi cần một con ngựa tốt.” 

"Thỏa thuận nhé: nếu cậu đem cho  chúng tớ  một khẩu súng, chúng tớ  sẽ  kiếm 

ngựa cho cậu.”  

Có một trạm sửa chữa pháo binh dã chiến gần chỗ đơn vị chúng tôi, ở đó sửa chữa 

mọi thứ vũ khí từ đại bác cho tới súng lục. Tôi đi tới đó. Tay lính gác hét: 

"Halt! Ai đó?” 

"Này các cậu, có chuyện gì vậy?! Tôi mang tiểu liên tới cho các cậu sửa đây,” tôi 

đáp. 

"Thế giấy tờ đâu?” 

Tôi phải quay về. Thế rồi tôi tới đơn vị của mình và nói với viên đại úy: 

"Tôi sẽ  kiếm cho anh một con ngựa tốt, nhƣng tôi cần tờ  giấy có ghi rằng tôi cần 

sửa 3 khẩu carbine bắn tỉa có gắn ống ngắm.” 

"Cậu điên rồi!” 

"Điên là thế  nào? Có hàng đống súng  ống đủ  loại nằm rải rác quanh con đƣờng, 

chẳng ai canh chúng cả. Tôi sẽ lắp lấy mấy khẩu súng.” 

Anh ta đƣa tôi tờ  giấy và tôi đi dọc theo con đƣờng sắt dẫn qua khu rừng tới trạm 

sửa chữa. Có một toa xe nằm trên đƣờng ray, trên có mấy tay lính đang ngồi vui đùa, ca 

hát và kéo đàn gió. Có một thằng nhóc, bề  ngoài chỉ  khoảng 10 tuổi, đang tỳ  một khẩu 

tiểu liên vào bụng mình và bắn lên mấy ngọn cây, cành lá rơi lả  tả. Tôi lại gần  –  có một 

khẩu  súng  trong  thùng,  trông  nhƣ  một  khẩu  tiểu  liên  của  Ý.  Băng  đạn  có  lẽ  cắm  vào 

ngang  bên  hông  súng.  Báng  bằng  gỗ  khá  dài.  Nếu  tôi  cƣa  nó  đi  thì  sẽ  thành  một  thứ

tƣơng tự  khẩu Mauser. Giá mà tôi có đƣợc một khẩu súng ngắn nhƣ thế! Tôi quật cái 

báng xuống đƣờng tàu – nó không gãy. Lần thứ hai – bang! Đám lính trên toa tàu bắt đầu 

cƣời nhạo. Tôi nói: “Các cậu cƣời cái gì vậy?!” “Tại sao cậu không thử  quay đầu lại hả, 

đồ  ngốc, nhìn kia kìa!” Và  ở  kia là ba khẩu tiểu liên nằm lăn lóc với báng bị  gãy, bên 

trong báng có một cái lò xo. Tôi bỏ  đi. Lấy bốn khẩu súng và ráp chúng lại. Đi tới chỗ

bắn thử, họ  điều chỉnh chúng  ở  đó cho tôi. Thu nhặt rất nhiều đạn  –  tôi phải chật vật lê 

bƣớc! Quay về  đơn vị. Tay chỉ  huy nói: "Cậu thật là đồ  bịp bợm!” Tôi trả  lời: “Hãy đƣa 

tôi một tờ  giấy nữa, chúng ta hiện chỉ  có súng trƣờng, hãy đổi chúng lấy PPSh.” Anh ta 

đƣa tôi giấy phép và tôi lắp thêm 3 khẩu PPSh nữa, kiếm luôn cho chúng vài băng đạn. 

Và khi tôi đem về  những khẩu súng ấy, đám bạn lập tức gạ  gẫm tôi –  “để  tớ  bắn, hãy để

cho tớ.” Tôi giao khẩu súng cho một cậu, hắn và một ngƣời nữa đi ra cánh đồng nơi có 

một quả bom chƣa nổ và nã đạn vào kíp nổ của nó. Nó nổ mạnh tới mức chúng tôi không 

tìm đƣợc chút mảnh nào của họ  nữa. Chỉ  huy bảo: “Valodia, thôi đủ  với mấy khẩu súng 

rồi đó.” Tôi đáp: "Bây giờ  tôi sẽ  đi chở  tù binh và đổi súng lấy một con ngựa.” Đúng lúc 

đó quân đội chúng ta bắt đầu tiến vào Krakow và có lệnh xuống yêu  cầu đi chở  tù binh. 

Tôi, trung uý Sidorov và hai lính gác nữa lên đƣờng. Trung uý nói: “Hãy khoan đi lấy 

con ngựa vội, để  làm sau đi.” Tôi đồng ý. Chúng tôi đi tới thị  trấn Gzesow và vào một 

tiệm giải khát để  ăn bánh ngọt. Các anh có thể  tƣởng tƣợng đƣợc không  –  chiến tranh, 

không có gì để  ăn, và anh còn muốn gì  ở  Ba Lan nữa chứ! Chúng tôi ngồi xuống. Một 

pan (tiếng Ba Lan có nghĩa là “ông” hay “ngài”) lại gần: 

"Thƣa pan lính, các ông có chiếc xe. Tôi cần chở  tới một ít củi. Tôi có thể  biếu 

các ông vodka, thuốc lá và thức ăn.” 

"Thế chúng tôi có thể kiếm củi ở đâu?” 

"Trong rừng. Tôi sẽ  đƣa cho các anh một cái cƣa và một chiếc rìu. Cứ  chặt lấy 

một ít.” 

Tôi nói với trung uý: 

"Hãy đi lấy tù binh và chặt củi trên đƣờng về.” 

"Đƣợc thôi.”  

Chúng tôi cầm cái rìu và đi lấy tù binh. Chúng tôi tới chỗ  đơn vị  vừa giải phóng 

xong một thị  trấn.  Ở  đó họ  giao cho chúng tôi khoảng 15 tù binh. Chúng tôi chất chúng 

lên xe tải và quay về. Tới gần một khu rừng, tôi bảo: 

"Đã tới lúc chặt củi.” 

Và nói với đám lính gác: 

"Hãy đƣa bọn Đức ra khỏi xe tải.” 

Tất cả bọn chúng đều hoảng sợ: 

"Aaah! Kamerad! Kamerad! Nicht schiessen!" (A! Đồng chí! Đồng chí! Đừng bắn! 

- LTD)

"Ra ngoài!” Tôi ra lệnh cho chúng. 

"Tập hợp lại!” và dẫn chúng đi vào rừng. 

Một số  tên la hét, số  khác khóc lóc, còn một số  chỉ  đơn giản là cúi đầu tiến bƣớc. 

Viên trung uý bảo tôi: 

"Hãy giải thích cho chúng là chúng ta cần chúng để làm việc.” 

"Kamerad, arbeiten!" Tôi nói và chỉ vào cái cƣa. 

Chúng vui hẳn lên và mau chóng chặt đủ  gỗ  để  chất đầy chiếc xe tải. Chúng tôi 

chạy tới chỗ  tay Ba Lan. Anh ta đƣa chúng tôi vodka, khoảng hai mét xúc xích và một 

thùng thuốc lá. Tôi hết sức kinh ngạc! Tôi đƣa một ít vodka, thuốc lá và thức ăn cho bọn 

Đức.  Chúng  tôi  đi  đƣợc  khoảng  5  kilômét  –  chúng  lại  gõ  vào  thùng  xe:  "Kamerad, 

arbeiten!" Tôi bảo: “Tôi không có cƣa và rìu!” Chúng tôi dừng lại  ở  một tiệm cafe khác. 

Tôi tới gặp tay quản lý: 

"Có cần củi không?” 

"Cần chứ.” 

"Đƣa cho chúng tôi một cái cƣa!” 

Thế  là chúng tôi đi. Thực ra, chúng tôi chỉ  quay về  đơn vị  sau khoảng ba ngày. 

Tôi bị tiểu đoàn trƣởng khiển trách: 

"Cậu đã ở đâu vậy!? Đồ con lợn! Tôi sẽ đƣa cậu ra tòa án binh!” 

Tôi đƣa cho anh ta một thùng vodka, thuốc lá và xúc xích. Anh ta tiếp tục: 

"Cậu có điên không!? Cậu lấy những thứ này ở đâu?! Ăn cắp hả!?” 

"Tại sao lại ăn cắp – kiếm đƣợc chứ! Chúng tôi đi chặt củi.” 

Thế  rồi tôi tới chỗ  bệnh viện và đem về  một con ngựa và một thanh gƣơm. Làm 

thêm cho anh ta cái vengerka, một cái mũ lông papakha. Tiểu đoàn trƣởng tiểu đoàn xe 

tải leo lên lƣng con chiến mã của mình, trang phục tề  chỉnh và cƣỡi nó chạy quanh: “Các 

cậu đã sẵn sàng chƣa? Sẵn sàng chƣa? Mau tiến lên bắt lấy tù binh!” 

Tôi đã kể  về  chuyện này chƣa, khi tôi đã biến việc đi chặt gỗ  trở  thành thƣờng 

xuyên, mỗi lần tôi tới một trại tù binh là bọn Đức lại gọi tôi "Kamerad! Kamerad!”. Lính 

gác liên tục hỏi tôi: “Tại sao bọn Đức kia lại chào đón cậu? Có chuyện gì vậy?! Cậu có 

họ hàng gì với chúng không?” Tôi trả lời: “Vâng, chỉ vì tớ có đem cho chúng chút vodka 

và thuốc lá thôi.” Thế  đấy. Nhƣng đối với chuyện đi săn của tôi thì thật là thất bại. Tôi 

bắn vào lũ thỏ  và hƣơu nhƣng lúc nào cũng về  tay không. Có lần tôi đuổi theo một con 

thỏ với một khẩu PPSh. Đuổi miệt mài cho tới khi tôi bắn hết cả băng đạn, vậy mà chẳng 

trúng nó đƣợc phát nào.

Một lần tôi phải đi chở tù binh, đám Ba Lan chỉ tôi đi thẳng vào một con đƣờng bị

gài  mìn.  Một  kỹ  sƣ  công  binh  chạy  tới  xe  tôi,  tay  khua  chiếc  máy  dò  mìn  của  mình, 

miệng chửi thề tục tĩu. Tôi dừng lại: 

"Anh đang đi đâu vậy! Ở kia có cái biển chỉ rõ con đƣờng này đã bị gài mìn mà!”  

"Làm gì có cái biển nhƣ thế.” 

"Quay lại mà xem."

Tôi đang dừng  ở  một bên đƣờng, còn ngƣời kỹ  sƣ công binh đang  ở  sau cái rãnh 

cạnh đƣờng. Tôi quay xe sang bên phải một chút và đụng phải một quả mìn. Một tiếng nổ

lớn. Ngƣời kỹ  sƣ không còn lại  gì, còn tất cả  chúng tôi đều bị  sức ép. Chúng tôi hãy còn 

may là chiếc xe đang chạy chậm và quả  mìn nổ  ngay dƣới máy xe. Tôi bị  trúng mảnh 

khắp ngƣời – một vào cánh tay và một vào bụng. Tôi lấy tất cả chúng ra bằng một cái vặn 

vít. Ngƣời ta đƣa chúng tôi  về đơn vị và ở đó họ băng lại tất cả. Do đó tôi không phải tới 

bệnh viện. Bụng thì lành lại, nhƣng cánh tay thì sƣng lên và đỏ  tấy. Tôi đƣợc chở  tới 

bệnh viện và ở  lại đấy một tuần. Do tôi phục vụ  trong lực lƣợng NKVD, ngƣời ta không 

đƣa tôi vào một trung  đoàn dự  bị  sau khi ra viện nhƣ những ngƣời khác mà cho tôi tờ

giấy, trên chỉ  có con số  của bệnh viện và của đơn vị, rồi để  tôi đi. Những tờ  giấy  ấy, dù 

không có dấu, cho phép tôi đi khắp đất nƣớc, và tôi quyết định đi tới Maskva. 

Những phi công thƣờng xuyên tới bệnh viện và chở  những ngƣời bị  thƣơng về

tuyến sau. Tôi nói: "Này các bạn, tôi có thể đi cùng tới Kiev đƣợc không? Các cậu có thể

chở  tôi đƣợc không?” Đƣợc thôi. Họ  nhét tôi vào một cái thùng đan, đƣợc gắn vào cánh 

của chiếc U-2. Khóa chặt lại, chở  tôi tới Kiev và thả  tôi đi. Tôi đi ra khu chợ, mua một 

miếng sắt và cái kìm rồi làm ra một cái chìa để mở khóa toa xe lửa. Tôi tới nhà ga nhƣng 

không thể chui vào trong toa tàu, bởi vì những ngƣời coi tàu khóa cửa toa không chỉ bằng 

chìa khóa mà còn bằng  cả  một thanh sắt, thế  là tôi đành phải cuốc bộ  một thời gian dài. 

Tôi tới gặp một kỹ  sƣ và đề  nghị  cho tôi đi nhờ. Anh ta nói: “Xúc than đi.” Không hề  gì. 

Anh ta đƣa tôi tới một nhà ga nơi có xe lửa đi Maskva. Tôi chui đƣợc vào một toa nhƣ 

thế,  bò  vào  dƣới  giƣờng  ngủ.  Và  đi  tới  "Maskva-2".  Tôi  không  đƣợc  để  cho  lính  gác 

trông thấy bởi họ có thể đóng dấu vào giấy tờ của mình, trong khi tôi phải có đƣợc những 

giấy tờ  hợp pháp tại Matskva. Tôi nhảy ra khỏi đoàn tàu đang chạy, lột ngôi sao và cái 

dây da đeo vai, cố  gắng làm cho mình trông thật giống thƣờng dân. Thật là ngốc! Thật 

ngốc  đau  ngốc  đớn!  Bởi  vì  tôi  vẫn  còn  mặc  cái  áo  khoác  quân  đội!  Tôi  lọt  vào  một 

chuyến xe điện và đi tới Quảng trƣờng Arbat. Từ  đó tôi trƣờn dọc theo những bức tƣờng 

để về nhà. Cha tôi trông thấy tôi: 

"Mày ở đâu ra vậy, đồ chó?!” Tôi kể cho ông mọi chuyện. 

"Mày là  ai?! Mày không phải con tao! Mày là  một thằng Kopylov Anufrievich 

nào đó. Tại sao mày lại tới gặp tao? Đi mà gặp thằng Anufrievich nhà mày!"

"Cha."

"Tao không phải cha mày,  mày đối với tao hoàn toàn xa lạ! Mày là một thằng 

ngốc! Mày có nhận ra mình đã làm điều gì không?! Lập tức chạy tới nhà ga và quay về

đơn vị của mày đi!” 

Mẹ  đƣa tôi quay lại khu nhà ga "Maskva-2". Tôi nhảy lên bậc thềm toa –  cửa toa 

đã bị khóa. Lúc này đã là tháng Chạp năm 1944. Giá rét kinh khủng. Và tôi đã phải đứng 

trên cái bậc thềm đó tới tận quãng gần Kolomna (khoảng 100 kilômét). Tôi đã hoàn toàn 

bị  đông cứng. Khi dừng lại  ở  gần Kolomna tôi bò vào một toa trong có tay trung sĩ xe 

tăng đang đứng. Anh ta nói: 

"Cậu từ đâu tới?” 

"Từ bệnh viện. Thế còn cậu?” 

"Tớ bị đi lạc sau tàu của mình.” 

"Tàu nào?” 

"À, có những chuyến tàu chở xe tăng đi từ Urals, và tớ bị bỏ rơi lại phía sau.”  

"Thế còn bây giờ thì thế nào?” 

"Bây giờ  chúng ta sẽ  tới Kolomna, tớ  sẽ  đi gặp chỉ  huy và họ  sẽ  gửi tớ  quay lại 

Urals lần nữa để lấy một chiếc xe tăng. Tớ đã chiến đấu đủ lắm rồi. Đây này, tớ đã có hai 

Huân chƣơng Sao Đỏ đây.” 

"Ừ, nhƣng họ sẽ bắt cậu và đƣa cậu vào một tiểu đoàn trừng giới.” 

"Nhƣng tớ  đâu có chạy trốn, tớ  bị  tàu bỏ  lại phía sau, và tự  mình đi tới gặp chỉ

huy. Và sau đó tớ lại trở thành kẻ đi lạc lần nữa.” 

Tôi kể cho anh ta rằng mình là một tài xế. Anh ta nói: 

"Cậu có muốn đi tới chỗ tuyển quân với tớ không?” 

"Đƣợc thôi,” tôi bảo. 

Thế  là chúng tôi cùng tới chỉ  huy sở, và họ  đƣa chúng tôi tới nơi tuyển quân. Đột 

nhiên hắn biến mất lúc giữa ban ngày. Mất tăm! “Những ngƣời tuyển dụng” tới vào buổi 

sáng, yêu cầu tìm một lái xe. Tôi tới và nhận ra là mình không còn cái bằng lái xe. Thằng 

lái tăng kia đã ăn cắp  bằng lái của tôi! Tôi nói: “Tôi không có bằng lái.” Họ  trả  lời rằng 

nếu tôi không có bằng lái thì họ chẳng thể làm đƣợc gì. Tôi bắt đầu viết ra rằng tôi có thể

làm thợ  sửa máy xe, thợ  hàn, thợ  mộc. Rồi một ngƣời tuyển dụng tới để  chọn ngƣời đi 

Chkalovsk, thành phố ở gần Maskva, vào trƣờng dạy thợ may và thợ đóng giày: 

"Tôi là thợ may.” 

"Anh có thể làm đƣợc gì?” 

"Tôi có thể làm bất cứ việc gì.” 

Họ  gửi tôi tới Chkalovsk.  Ở  đó có một hội đồng tuyển chọn kiểm tra xem anh có 

thể  làm đƣợc những gì. Một thợ  may mang quân hàm cấp tƣớng ngồi đó và yêu cầu anh 

xỏ chỉ vào kim, khâu, vá. 

Tôi lập tức đi tới một cửa hàng và nói với đám thợ may ở đó: “Các anh, tôi muốn 

họ  chọn lấy tôi vào đây. Hãy chỉ  cho tôi cách khâu và luồn chỉ  vào kim.” Thế  là họ  chỉ

tôi cách xỏ  ngón tay vào đê khâu, cách luồn chỉ. Tôi học những động tác cơ bản và vƣợt 

qua đợt kiểm tra. Sau đó tôi tới gần vị tƣớng và nói: 

"Tôi cũng là ngƣời Maskva, tôi muốn xin về gặp gia đình.” 

"Đƣợc, anh chẳng ở đây rồi là gì!” 

"Nhƣng tôi đã không gặp họ trong 4 năm rồi,” tôi trình bày. 

Ông ta cho tôi giấy phép. Và thế  là ngày 25 tháng Chạp tôi quay về  Maskva. Cha 

tôi nói: 

"Mày lại về đây hả, đồ du côn!” 

"Bây giờ con là thợ may,” tôi nói. 

"Không, mày hãy kể cho ông tƣớng sự thực nhƣ thế nào, và rằng bằng lái của mày 

bị mất cắp. Ông ấy sẽ thông cảm.” 

Tôi quay về và nói với vị tƣớng: 

"Thƣa đồng chí tƣớng quân, tôi đã nói dối với ông, tôi không phải là thợ  may mà 

là một lái xe, nhƣng bằng lái của tôi bị mất cắp. Tôi muốn quay về Maskva để gặp lại gia 

đình, cho nên tôi đã tới đây.” 

"Tôi không cần một tài xế. Tôi sẽ gửi anh về nơi tuyển quân.” 

Ông ta đƣa tôi tờ  chỉ  dẫn tới chỗ  tuyển quân, trong có ghi: "Một tài xế  bị  mất 

bằng lái.” Tôi tới gặp ngƣời quản lý. Anh ta bảo: 

"Từ khi cậu không còn bằng lái thì cậu không phải là tài xế.” 

"Tôi có thể kiếm đƣợc một bản sao,” tôi nói.  

"Bản  sao  không  phải  chuyện  của  tôi.  Không  có  bằng  lái,  anh  sẽ  phải  phục  vụ

trong một đơn vị khác.” 

Thế  rồi một thƣợng uý đi tới và tôi nghe anh ta trao đổi với ngƣời quản lý đằng 

sau tấm vách ván ép: 

"Tôi cần tuyển tài xế cho một vị tƣớng,” viên thƣợng uý nói. 

"Mệnh  lệnh  của  Stalin  là  phải  đƣa  tất  cả  tài  xế  tới  để  khôi  phục  thành  phố

Stalingrad. Anh cũng có tài xế trong đơn vị của mình, vậy thì chọn họ đi.” 

Khi thƣợng uý ra ngoài, tôi tới gặp anh ta: 

"Thƣa đồng chí thƣợng uý, tôi là một tài xế. Bằng lái của tôi bị mất cắp, vì thế  có 

thể  tuyển tôi nhƣ một thợ mộc hay một thợ  rèn. Nếu anh chọn tôi, tôi sẽ  kiếm đƣợc ngay 

lập tức bản sao bằng lái của mình cho anh.” 

"Làm thế  nào tôi có  thể  chọn anh đƣợc? Tôi không có lệnh phải tuyển thợ  mộc. 

Hãy chờ tôi thêm ba ngày, tôi sẽ kiếm đƣợc lệnh tuyển một thợ rèn.” 

Thế là, việc mua chuộc tiếp tục. Mọi ngƣời đều có thể bị mua chuộc. Cảnh sát cần 

tuyển một thợ mộc. Tôi bảo: 

"Tôi không đi đâu!” 

"Anh không đi nghĩa là thế nào? Ra tòa án binh nhé. Đi lấy đồ đạc của mình đi.” 

Tôi trƣờn vào tuốt sâu trong gầm giƣờng và yên lặng nằm đó. 

"Kopylov! Kopylov!" họ chạy quanh tìm tôi. 

"Cái thằng khốn đó đâu rồi!?” 

"Chạy mất rồi chứ còn đâu!” 

Trong lần điểm danh buổi chiều tôi đứng vào hàng, nhƣ thể  không có chuyện gì 

xảy ra cả: 

"Anh đã ở đâu?” 

"Tôi ngủ quên.” 

"Ngủ ở đâu?”

"Thì trên giƣờng tôi.” 

Ngày  thứ  hai  tôi  cũng  trốn  ở  đâu  đó.  Tới  ngày  thứ  ba  thì  viên  thƣợng  uý  tới. 

Ngƣời quản lý điểm tuyển quân đích thân bƣớc ra: 

"Kopylov – thƣợng uý đang tìm anh đó. Cần làm lái xe.” 

Tôi chui ra từ dƣới giƣờng bằng cả bốn chân: 

"Đồ chó chết! Đồ khốn ranh ma!” anh ta cƣời phá lên. 

Thế là chúng tôi đi, về tới địa điểm của mình. 

"Đây, đồng chí tƣớng quân. Anh ta cần một giấy chứng nhận để  lấy lại bằng lái 

của mình,” viên thƣợng uý nói. 

"Đồng chí tƣớng quân, có một vấn đề nhỏ ở đây. Họ của tôi đƣợc viết không đúng, 

và cả tên cha nữa,” tôi nói. 

"Anh nói “không đúng” nghĩa là thế nào?” 

"Ở  bệnh  viện  họ  bị  lẫn  lộn,  mà  tôi  thì  không  chú  ý,  và  khi  nhận  ra  thì  đã  quá 

muộn.  Tôi  không  phải  là  Kopylov  mà  là  Kopylovich,  và  không  phải  là  Vladimir 

Anufrievich, mà là Vladimir Adolfovich."

Ông ta cầm lấy giấy tờ  của tôi, gạch đi cái họ  và viết vào: Kopylovich, Vladimir 

Adolfovich. Trong thực tế  tôi là Kapeleovich, nhƣng nhƣ thế  là quá nhiều, đặc biệt là do 

tất  cả  anh  em  của  cha  tôi  đều  có  những  cái  họ  khác  nhau:  Kapeliovich,  Kapel'novich, 

Kapelevich. Tóm lại, họ  sửa lại tất cả, giao cho tôi một chiếc Ford 6, và thế  là tôi lái xe 

cho ngƣời thanh tra và kiểm soát viên quân đội Xô viết, hai lần Anh hùng Liên Xô, thiếu 

tƣớng Slitz cho tới khi ông hy sinh một cách bi thảm vào năm 1945. Còn bây giờ tôi phải 

lãnh hậu quả – không có đƣợc giấy chứng nhận đã tham gia chiến tranh. Tôi gửi một giấy 

đề  nghị  tới bệnh viện để  hỏi về  Kopylov, Vladimir Anuvriefich. Tôi nhận đƣợc một tờ

giấy hồi âm, trong đó vết thƣơng của tôi đƣợc ghi là một”mụn nhọt”. 

Ngƣời phỏng vấn: Artem Drabkin 

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet

Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Viktor Leonov

Tôi nói bằng tiếng Nga với bọn Đức

Hai lần đƣợc tặng thƣởng Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên Xô 

Chỉ huy trƣởng đội biệt động Hạm đội Biển Bắc 

Chỉ huy trƣởng đội biệt động Hạm đội Thái Bình Dƣơng

"Đơn  vị  của  chúng  tôi,  hoạt  động  đằng  sau  phòng  tuyến  quân  địch,  luôn  phải 

chống lại số quân địch đông hơn nhiều lần và đối phƣơng luôn luôn vƣợt trội chúng tôi về

mặt hỏa lực,” Leonov nói, "Nhƣng chúng tôi luôn chiến thắng trong các cuộc chiến tay 

đôi. Cả  bọn Đức lẫn bọn Nhật đều không  thể  hành động kiên quyết mạnh mẽ  nhƣ chúng 

tôi. Đó là quy luật về tâm lý: trong một trận chiến, luôn có một bên phải bỏ cuộc.” 

Một trong những chiến dịch nổi tiếng nhất của đơn vị  Leonov là việc bắt đƣợc 

3.500 tù binh và sĩ quan Nhật tại cảng Vonsan, Triều Tiên. 

- Đội chúng tôi có 140 ngƣời. Chúng tôi hạ cánh hoàn toàn bất ngờ xuống một sân 

bay của bọn Nhậvà bắt đầu đàm phán. Mƣời ngƣời trong chúng tôi bị  bọn Nhật đƣa tới 

gặp tên đại tá tại sở  chỉ  huy. Hắn là chỉ  huy trƣởng của đơn vị  không quân Nhật, và  hắn 

muốn bắt giữ  chúng tôi làm con tin. Tôi tham gia cuộc đàm phán khi cảm thấy rằng đại 

diện của sở  chỉ  huy chúng tôi, Đại uý chuyên nghiệp bậc 3 Kulebyakin, đã, nhƣ ngƣời ta 

vẫn nói, bị  đƣa vào thế  kẹt. Tôi nhìn thẳng vào mắt bọn Nhật. Tôi nói với chúng  rằng 

chúng tôi đã chiến đấu ở Mặt trận phía Tây trong suốt cuộc chiến, và ĐÃ có đầy đủ  kinh 

nghiệm để  tự  đánh giá tình thế  thực tế  của mình. Chúng tôi không tới đây để  bị  bắt làm 

con tin. Chúng tôi thà chết, tôi nói, cùng với tất cả những ngƣời còn lại ởï sở chỉ huy này. 

Điều khác biệt duy nhất, tôi bảo hắn ta, rằng tất cả  chúng sẽ  chết nhƣ những con chuột 

trong khi chúng tôi sẽ  cố  gắng để  thoát khỏi đây! Ngay lúc đó Mitya Sokolov, một Anh 

hùng Liên Xô, đến đứng sau lƣng chiếc ghế  của tên đại tá Nhật. Những ngƣời khác cũng 

đã biết phải làm gì. Andrey Pshenichnych khóa cửa phòng, nhét chìa khóa vào túi mình 

và ngồi xuống một chiếc ghế. Volodya Olyashin, ngƣời sau chiến tranh đã trở  thành một 

lực sĩ chuyên nghiệp, nhấc bổng Andrey – cùng với chiếc ghế – và đặt anh ấy xuống ngay 

trƣớc mặt tên đại tá. Ivan Guzenkov đi tới cửa sổ và thông báo rằng chúng không đến nỗi 

quá cao, trong khi một Anh hùng Liên Xô khác, Semen Agafonov, đứng về  phía gần cửa 

và bắt đầu tung tung trong không khí một quả  lựu đạn chống tăng (Bọn Nhật không hề

biết rằng quả lựu đạn này đã bị tháo kíp nổ). Viên đại tá, quên mất mình vẫn có khăn tay, 

đƣa bàn tay lên lau mồ  hôi trán, và một lát sau hắn đặt bút ký giấy ra lệnh cho pháo đài 

đầu hàng.   

- Chúng tôi tập hợp 3.500 tù binh thành một đội hình, cứ tám ngƣời một hàng. Từ

lúc này chúng hoàn toàn làm theo lệnh tôi. Chúng tôi không có đủ  ngƣời để  áp giải một 

đội hình đông nhƣ thế, do đó tôi kéo tên đại tá và tên tham mƣu trƣởng của hắn lên ngồi 

cùng xe với mình. Tôi nói, “Nếu chỉ một tên lính  cố  gắng chạy trốn, anh sẽ  phải tự  mình 

chịu tất cả  trách nhiệm...” Đúng lúc đó chúng tôi cũng bắt gặp một nhóm đồng đội đang 

áp giải khoảng gần 5.000 tù binh Nhật. 

Con sói biển già dặn Viktor Leonov đã đƣợc trao tặng Huy chƣơng “Dũng Cảm” 

sau trận chiến mùa hè năm 1941, tại đó ông bị thƣơng nặng bởi một mảnh mìn. Ngay sau 

trận chiến đầu tiên đó, khi bạn của ông (họ  đã cùng nhập ngũ vào một đơn vị) hy sinh, 

Leonov bắt đầu suy nghĩ – làm thế nào để mình tiếp tục chiến đấu? 

-  Vào mùa thu năm 1942 chúng tôi tiến hành một cuộc đột kích vào pháo đài của 

bọn Đức  ở  mũi Mogilny, nơi chúng dùng để  theo dõi tàu biển và máy bay của ta. Chiến 

dịch khởi đầu không suôn sẻ. Cả  sĩ quan chỉ  huy lẫn chính trị  viên của đơn vị  bộ  binh 

yểm trợ sau đó đều bị ra tòa án binh và hành quyết do tội cẩu thả tắc trách. Hạ sĩ quan bậc 

2 Leonov đã dẫn đầu đợt tấn công của một nhóm nhỏ  lính trinh sát. Đợt tấn công thành 

công, và vị  trí hỏa điểm của bọn Đức bị  phá huỷ, nhƣng 15 thủy binh cuối cùng bị  khóa 

chặt  tại  một  chốt  nhỏ  (phần  rộng  nhất  của  mũi  đất  này  cũng  chƣa  tới  150  mét).  Bọn 

Gebirgsjaeger của Đức (lính sơn cƣớc đƣợc huấn luyện và trang bị  đặc biệt) bao vây họ

bằng hai gọng kìm, cắt đứt đƣờng rút bằng hai khẩu đại liên. Những mỏm đá xung quanh 

họ bị đạn cối nã liên tục. 

Bọn Đức vội vã cố  gắng kết thúc công việc trƣớc khi trời tối. Một trong những 

thủy binh, ngƣời biết tiếng Đức, đã nghe đƣợc điều này. Nhƣng các thủy binh đang hết 

dần đạn. Một trong số họ hét lên, “Hết rồi! Chúng ta không thể thoát ra khỏi đây!” – và tự

cho mình nổ tung bằng một quả lựu đạn. Một ngƣời khác cũng định làm chuyện tƣơng tự. 

“Đồ  hèn!”  Leonov  nói  với  anh  ta.  “Đặt  quả  lựu  đạn  xuống  nếu  không  tôi  sẽ  bắn  chết 

anh!” 

-  Chúng  tôi  bị  ghìm  chặt  bởi  hai  khẩu  súng máy  đó,  chúng  bắn  liên  tục  không 

ngơi nghỉ. Tôi quyết định phải làm điều gì đó. Tôi nhảy ra và bắn những viên đạn cuối 

cùng vào mỏm đá mà những tên xạ  thủ  súng máy dùng làm vật che chắn. Tôi hy vọng 

chúng chúi đầu xuống và ngừng bắn. Kế  đó một trong những ngƣời giỏi nhất của chúng 

tôi, Semen Agafonov lao  nhanh về  phía mỏm đá, nằm cách đó khoảng 20 mét. Anh cố

gắng nhảy lên trên mỏm đá và đã nhảy vào đúng giữa bọn Đức! Khi tôi, đang bị  thƣơng 

vào chân, tới đƣợc để chứng kiến thì một tên xạ thủ đã chết, còn Semen đang lăn tròn trên 

mặt đất, vật lộn với tên còn lại. Tôi dùng báng súng nện liên hồi lên đầu tên Đức. Chúng 

tôi chiếm đƣợc những khẩu súng máy ấy và thoát đi. 

Agafonov đƣợc coi là một ngƣời không biết sợ  là gì. Khi đƣợc hỏi về  chiến công 

trên, anh  ấy thƣờng cƣời lớn và trả  lời rằng khi anh trông thấy bàn tay của bọn Đức đang 

run rẩy, anh hiểu ngay rằng bọn chúng sẽ  bắn trƣợt. Nhƣng khi trò chuyện với các bạn 

thân, anh ấy thú nhận rằng khi anh nhận mệnh lệnh của Leonov, anh đã cho rằng đời lính 

của mình chắc kết thúc  ở  đây rồi... Ai ai cũng đều biết sợ, nhƣng cái chính là anh phải 

hành động thật nhanh và kiên quyết. 

-  Sau đó, Yuri Micheev làm nổ  tung một lô cốt của bọn Đức bằng một chùm lựu 

đạn ném xa và chính xác một cách đáng kinh ngạc từ  khoảng cách 20 mét. Đó cũng là 

chùm lựu đạn cuối cùng của chúng tôi. Trong khi chùm lựu đạn vẫn còn trên không thì 

Yuri đã hy sinh, bị  một khẩu trọng liên xả  ngang ngƣời. Nhƣng chúng tôi đã vƣợt đƣợc 

tuyến phòng thủ  thứ  hai và lọt qua một hẻm núi để  tới bờ  biển. Tuyết rơi dày đã xóa hết 

dấu chân của chúng tôi. Agafonov đi bọc hậu, anh chỉ  còn ba viên đạn trong khẩu súng 

lục của mình, và súng của tôi cũng thế... Chúng tôi  ẩn mình trong những bụi rậm ven bờ

biển. Rất nhiều lần một toán lính sơn cƣớc Đức (Gebirgsjaeger) đi ngang qua ngay trƣớc 

chỗ  chúng tôi đang náu mình, tay nắm chặt đốc dao găm. Chúng tôi phải đợi rất lâu cho 

tới khi có tàu tới đón. Cuối cùng hai tàu vận tải tới nơi, nhận ra tín hiệu của chúng tôi và 

đón chúng tôi ở Mogilny. 

Leonov đƣợc phong chức thiếu uý, đƣợc chỉ định làm chính trị viên đơn vị, và sau 

đó là chỉ  huy trƣởng của đơn vị. Ông nhận Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên Xô đầu tiên 

của mình sau chiến dịch quy mô nhất của đơn vị, đƣợc tiến hành vào tháng Mƣời Một 

năm 1944. Trƣớc khi  chiến dịch tấn công  chính  ở  mặt trận phía Bắc khởi đầu, đơn vị

đƣợc lệnh phải tiêu diệt cứ điểm của quân Đức ở một vị trí chiến lƣợc trên Mũi Krestovy. 

- Lần đó chúng tôi không tiến hành khớp đƣợc với giai đoạn canh gác lơ đãng của 

đối phƣơng. Ngay vào phút chót, khi chúng tôi chỉ  còn 30 hoặc 40 mét nữa là tới đƣợc 

boongke của bọn Đức thì hệ thống báo động của chúng kêu inh ỏi. Bọn Đức phát hiện ra, 

nã súng máy và đại bác vào chúng tôi. Khung cảnh xung quanh đều sáng rực, trong khi 

trƣớc mặt chúng tôi là những bãi chƣớng ngại vật dày đặc hàng rào kẽm gai. Tôi đƣa ra 

mệnh lệnh: mỗi ngƣời làm bất cứ  điều gì có thể, phân thành những nhóm nhỏ. Nhƣng tôi 

muốn TẤT CẢ các anh trong vòng một phút nữa có mặt tại vị trí khẩu đội pháo chỗ kia... 

-  Ivan Lysenko, nhà vô địch môn đấu vật đến từ  Urals và là ngƣời khỏe nhất đơn 

vị, trở thành ngƣời đã cứu chúng tôi tránh khỏi tổn thất nặng nề. Anh giật tung cái cự mã 

kiểu  sừng  hƣơu  đang  giữ  mớ  dây  thép  gai  lên  khỏi  mặt  đất  và  nhấc  nó  lên  vai  mình. 

Chúng tôi ùa qua lối thoát hiểm do anh vừa tạo ra. Khi Lysenko đã không thể  đứng vững 

đƣợc  nữa  –  thân  mình  anh  đã  bị  trúng  hơn  hai  mƣơi  vết  đạn  –  ngƣời  cứu  thƣơng  của 

chúng tôi Alexey Lupov liền tới giúp anh. (Xin đừng tỏ ý hoài nghi mỉa mai... anh ấy tới 

để  giúp Ivan giữ  vững cái cự  mã...). Cả  hai đều hy sinh, nhƣng chúng tôi đã lọt tới chỗ

đặt  pháo  và,  sau  khi  chiếm  đƣợc  những  khẩu  pháo,  liền  dùng  chúng  nã  đạn  vào  đối 

phƣơng, bởi chúng tôi nắm rất vững cách sử dụng vũ khí nặng của Đức. 

- Kẻ địch cảm nhận rõ sức mạnh của chúng tôi. Tôi còn nhớ, vào những ngày đầu 

chiến tranh, có lần chúng tôi bắt đƣợc một tên sĩ quan Đức. Sau đó tôi về vị trí và đã thay 

đổi quần áo của mình. Rồi tôi chợt thấy ngƣời sĩ quan tình báo của chúng tôi chạy ra khỏi 

phòng, nơi họ  đang thẩm vấn tên tù binh Đức, và tới nói với tôi: “Thật là một thằng chó 

chết! Nó không thèm nói lấy một lời, chỉ cƣời nhạo chúng ta.” “Nó sẽ phải nói...” Tôi bảo. 

Tôi quay đi và thay lại bộ quân phục đã mặc khi tôi bắt sống thằng giặc đó. Tôi bƣớc vào 

phòng  và  nhìn  thấy  tên  Đức  đang  ngồi  bắt  chéo  chân  hút  thuốc  lá.  Tôi  nói  với  ngƣời 

phiên dịch: “Hãy nói với thằng khốn nạn này (Tôi cho rằng thật ra ông ấy đã dùng một từ

có nghĩa mạnh hơn nhiều  -Valera) rằng những vị  đô đốc kia sẽ  bỏ  ra ngoài, và  ổn thôi 

nếu bây giờ  họ  chƣa biết đƣợc những gì họ  cần biết... bởi vì hắn sẽ  phải  ở  lại đây một 

mình với  tôi.” Và tôi quay đi rồi bƣớc ra khỏi phòng. Thằng Đức lập tức khai ngay... Tôi 

đã nói với bọn Đức bằng tiếng Nga, và chúng có thể  hiểu tôi còn rõ hơn là chúng có thể

hiểu những ngƣời khác nói tiếng Đức. 

- Đô đốc Golovko đƣa ra một mệnh lệnh - "Chỉ huy đơn vị có toàn quyền tự chọn 

những ngƣời trinh sát cho riêng mình.” Do đó ngƣời ta không thể  chỉ  định bất cứ  ai vào 

đơn vị  của tôi. Tôi có mối liên lạc tốt với bộ  phận nhân sự, và  ở  đó ngƣời ta gửi xuống 

những anh chàng rất phù hợp với nhiệm vụ. Tôi nói chuyện với họ  và theo dõi xem họ

phản  ứng thế  nào với những câu hỏi của tôi. Điều chủ  yếu đối với tôi nằm ở  đôi tay và 

ánh mắt của ngƣời đƣợc kiểm tra. Khi anh nhìn vào đôi tay của một ngƣời chính là anh 

đang nhìn sâu vào thực trạng tâm lý và nhân cách của anh ta. Tôi cần những ngƣời có đôi 

tay không cầm nắm những đồ  vật trên bàn... luôn sẵn sàng hành động, đồng thời tỏ  ra 

lạnh lùng bình tĩnh... 

- Mệnh lệnh đầu tiên của tôi sau khi trở  thành chỉ  huy đơn vị  là chuyển ngƣời đại 

diện của Uỷ ban Đặc biệt (sĩ quan NKVD) ra khỏi đơn vị. Bởi nếu không thì mọi chuyện 

có thể  sẽ  diễn ra nhƣ sau: chúng tôi quay về  từ  một cuộc đột kích, còn anh ta ngồi  ở  sở

chỉ  huy  và bắt đầu dò xét tất cả  thành viên trong đội từng ngƣời một, hỏi xem những 

ngƣời còn lại đã hành động thế nào trong trận đánh. Nếu anh ta muốn biết thì cứ tham gia 

cùng chúng tôi! Trong trận đánh mọi ngƣời đều bộc lộ rõ bản chất của mình. 

Sau đó tôi ra mệnh lệnh thứ  hai. Vào thời điểm đó tôi biết rõ tất cả  những kẻ  chỉ

điểm trong đơn vị, bởi vì họ đều tới gạ gẫm tuyển lựa tôi, và tôi đã nói “không” với sự dụ

dỗ  đó. Tôi tập hợp tất cả  họ  lại và bảo: "Hãy viết lên cấp trên tất cả  những gì các anh 

muốn, cứ nghĩ ra bất kỳ thứ bệnh hoạn nào có thể tƣởng tƣợng đƣợc... nhƣng tôi muốn tất 

cả  các anh biến khỏi đây trong vòng hai mƣơi bốn giờ.” Đấy là cách tôi đã dùng để  tống 

khứ họ. Sau đó có một thành viên của Ủy Ban Quân sự tới nói với tôi, "Họ sẽ sớm bắt giữ

anh vào bất cứ  lúc nào”. Tôi trả  lời, “Thế anh có mặt  ở  đây để  làm gì?” Anh ta nói, “Họ

có thể  tự  quyết định  mà không cần thông qua tôi...” Bây giờ  thì tôi đã biết. Đấy cũng là 

cách  mà  chính  những  kẻ  đó  đã  đẩy  Lunin,  sau  này  trở  thành  một  thuyền  trƣởng  hạm 

ngầm rất nổi tiếng, vào nhà giam. Tôi nói, “Tôi không cần anh bảo vệ cho tôi. Cứ cho tôi 

biết khoảng lúc nào thì việc đó xảy ra – và thả tôi tới Na Uy, tôi có thể chỉ huy đơn vị của 

mình từ  chỗ  đó. Cứ  để  họ  thử  lôi tôi ra khỏi đấy mà xem!” Anh ta chỉ  cƣời và bảo, “Ồ, 

anh thật là một tay thích phiêu lƣu.” Nhƣng mỗi khi đơn vị  cần hỗ  trợ, anh  ấy luôn giúp 

đỡ hết sức mình. 

-  Thật ra, chúng tôi luôn là một đại gia đình. Ví dụ  nhƣ lần chúng tôi đƣa đƣợc 

trung uý Fedor Shelavin ra khỏi Mũi Mogilny... Anh ấy là lý do buộc chúng tôi phải dừng 

lại đó; cả  hai chân anh đều bị  thƣơng. Anh  ấy muốn tự  bắn vào mình... để  giảm bớt gánh 

nặng cho đồng đội. Nhƣng tôi biết  –  nếu chúng tôi bỏ  lại Shelavin, vào lần đột kích kế

tiếp sẽ  có ai đó nghĩ, “Thế  đấy, nếu chúng ta đã bỏ  rơi một sĩ quan chỉ  huy bị  thƣơng thì 

trƣờng hợp của mình chắc chắc cũng vậy.” Nếu ý nghĩ đó rơi vào đầu của một ngƣời lính, 

anh ta sẽ  không thể  chiến đấu đƣợc. Anh ta sẽ  không bao giờ  còn là một chiến binh thực 

thụ nữa. Ý nghĩ đó sẽ hành hạ và làm anh ngã lòng, bất kể anh có muốn thế hay không. 

Kể  từ  ngày Leonov trở  thành chỉ  huy đơn vị  cho tới hết cuộc chiến, đơn vị  của 

ông chỉ có 9 chiến sĩ hy sinh trong chiến đấu – 7 trong số họ là tại hàng rào kẽm gai trƣớc 

Mũi Krestovy. 

-  Tôi luôn đau khổ  khi để  mất đồng đội. Hãy hỏi bất cứ  ai mà xem. Họ  đều biết 

rằng tôi có thể chiến đấu vì bất cứ ai tới giọt máu cuối cùng. 

Dịch sang tiếng Anh: Alexander Ivanov (Donetsk)

Hiệu đính tiếng Anh: Michael J. Redd

Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân

Nguồn: Tạp chí "Russkij Dom", #1 1997.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: