hoi 7-8
Ngô thừa Ân
Tây du ký
Hồi 7
Ðại Thánh trốn khỏi lò Bát quái
Thích ca nhốt yêu núi Ngũ hành
Khi ấy chúng thần dẫn Tề Thiên tới đài trãm yêu, trói vào cột hàng yêu, gươm chém mẻ gươm, giáo đâm mẻ giáo, hỏa tinh đốt không cháy, Thiên Lôi đánh không sờn! Ðại Lực quỷ vương và các Thiên tướng tâu lại...
Thượng Ðế phán rằng:
- Không biết yêu hầu học phép hộ thân ở đâu mà đặng như vậy! Bây giờ liệu làm sao?
Thái Thượng tâu rằng:
- Con khỉ ấy ăn bàn đào, uống ngự tửu, lại nuốt hết năm bầu thuốc kim đơn của tôi, nên nó thành mình vàng rồi làm sao giết cho chết! Vậy xin Bệ Hạ giao nó cho tôi bỏ vô lò bát quái, dùng lửa phép mà hầm nó, hễ chảy thuốc kim đơn ra hết, thì nó phải ra tro .
Thượng Ðế phán rằng:
- Vậy thì giao Tề Thiên cho Lão quân khiển sát .
Thái Thượng vâng chỉ...
Rồi Thượng Ðế với Nhị Lang hiển thánh lên điện, thưởng một trăm bông vàng, một trăm ve ngự tửu, một trăm hột hườn đơn và gấm thêu châu báu...
Nhị Lang hiển thánh tạ ơn, rồi lãnh phần thưởng lui về miếu cũ.
Còn Thái Thượng về cung Ðâu Suất mở trói cho Tề Thiên, bỏ vô lò bát quái đậy nắp lại, truyền Lục đinh Lục giáp và một đạo sĩ coi chụm lửa cho đủ bốn mươi chín ngày đêm.
Nguyên lò bát quái là tám cung: Cung Càn, cung Khảm, cung Cấn, cung Chấn, cung Tốn, cung Ly, cung Khôn, cung Ðoài, mà cung Tốn ở trên gió.
Tề Thiên nép bên cung Tốn cho khỏi lửa, tuy không lửa thì mặc lòng, chớ cũng bị khói un hai con mắt nâu hết, nên thành mắt lửa tròng vàng!.
Ðủ bốn mươi chín ngày đạo sĩ dỡ nắp ra coi, trong ý tưởng Tề Thiên tiêu rồi, còn thuốc kim đơn chảy ra cả khối.
Ai dè Tề Thiên đương dụi con mắt, nghe tiếng dỡ nắp lản cản, trên miệng lò trống lỗng! Tề Thiên vùng nhảy thót ra, đá ngã lò rớt xuống trung giới, sau thành Hỏa Diệm sơn, làm đạo sĩ phải đọa.
Khi thình lình Ðạo sĩ đậy nắp không kịp. Còn Lục đinh Lục giáp a lại nắm Tề Thiên mà kéo, Tề Thiên vụt lăn cù!
Lúc ấy Tề Thiên như cọp sút rọ .
Thái Thượng nóng mũi chạy theo níu lại, bị Tề Thiên xô ngã sấp! Rồi lấy thiết bảng ra riết tới thiên cung loạn đả! Chín vì sao lo đóng cửa, bốn Thiên Vương chạy tan.
Tề Thiên đánh đến chỗ nào thì tan chỗ nấy, không ai dám cự, đánh tới Linh Tiêu bửu điện, nhờ có bộ hạ ông Hựu Thánh chơn quân là Vương Linh Quan giữ điện, thấy Tề Thiên loạn đả.
Linh Quan rút roi vàng cản lại hỏi rằng:
- Con khỉ khốn đi đâu? Có ta đây không đặng ngang dọc .
Tề Thiên không thèm nói lại, hươi thiết bảng đập nhầu, Linh Quan lấy sức chống cự, chưa biết hơn thua.
Khi ấy Hựu Thánh chơn quân cho đòi 36 vị lôi công tới ví Tề Thiên hổn chiến.
Tề Thiên không nao núng hóa ra ba đầu sáu tay cầm thiết bảng đánh như chong chóng.
Linh Quan và 36 vị lôi công vây ngoài xa không dám xáp lại.
Thượng Ðế kinh hãi, liền truyền chỉ sai Du Diệc linh quan và Duật Hành chơn quân, đồng qua Tây Phương đặng thỉnh Phật Tổ Như Lai cứu giá.
Nói về hai vị thiên sứ đằng vân đến Lôi Âm tự, cậy bốn vị Kim cang, và tám vị Bồ tát; dẫn tới trước tòa sen, hai vị đảnh lễ rồi, Thích Ca hỏi:
- Thượng Ðế sai nhị thánh đến đây có việc chi?
Hai vị thuật chuyện và bạch rằng:
- Bởi có sự gấp rút như vậy, nên phải cầu Phật Tổ từ bi cứu giá .
Thích Ca nói:
- Các vị Bồ Tát ở đây, để ta đi cứu giá .
Dặn rồi kêu Ấ Nang tôn giả và Ca Diếp tôn giả đi theo, hóa hào quang bay gần tới Linh Tiêu bửu điện, nghe khua khí giới điếc tai, ấy là 36 vị lôi công vây đánh Tề Thiên mà không đã ngứa!
Thích Ca dạy Lôi công bãi chiến, rồi kêu Tề Thiên ra hỏi.
Tề Thiên hiện nguyên hình, lướt tới hét lớn rằng:
- Ngươi là kẻ thật thà ở xứ nào tới đây khuyên giải?
Thích Ca cười rằng:
- Ta ở nước Cực lạc hiệu Thích Ca Như Lai, nghe đồn ngươi ngang dọc làm phản cung trời, nên ta đến hỏi thăm cho biết, chẳng hay ngươi sinh tại đâu, thành đạo năm nào, vì cớ chi mà sanh loạn như vậy?
Tề Thiên nói: - Ngươi muốn rõ cội rễ của ta, thì nghe ta ca đây .
Ca rằng:
Thinh không trời đất nứt sanh ta,
Hoa Quả non tiên thiệt cửa nha
Ở động Thủy Liêm tài tót chúng
Học thầy Tây Thổ phép cao xa
Luyện chước sống đời tày nhực nguyệt,
Ra công giúp chúng khiếp yêu ma
Vì ở trung thần chê siển thổ,
Dốc lên thượng giới ngự chương tòa
Hơn thua cuộc thể lòng không chát,
Dời đổi ngôi trời chí đã sa
Có đức có tài thì có vị,
Ai thua gì nhượng nghiệp hoàng gia.
Thích Ca nghe rồi cười rằng:
- Ngươi bất quá một con khỉ thành tinh, sao dám cướp ngôi Thượng Ðế? Vả Thượng Ðế tu tới 1550 kiếp, mỗi kiếp đều nhiều năm, ngươi công đức bao nhiêu, phòng muốn tranh ngôi báu? Sao ngươi không sợ chết, phải lo việc tu hành, nếu còn làm thói dọc ngang, gặp kẻ đạo cao thì uổng mạng?
Tề Thiên nói:
- Tu nhiều kiếp thì mặc dầu, không lẽ làm vua hoài hủy. Lời tục nói: Ngồi lâu còn dời chỗ, ngôi báu cũng đổi thay. Ngươi hãy bảo Thượng Ðế dọn đồ đi mà nhường ngôi cho ta, bằng không thì ta đánh mãi .
Thích Ca nói:
- Ngươi trừ phép trường sanh và biến hóa ra, còn phép chi hay nửa chăng, mà dám nhường ngôi Thượng Ðế?
Tề Thiên nói:
- Ta có phép rất nhiều, 72 phép huyền công, luyện đặng trường sanh bất tử, và cân đẩu vân cũng hay, nhảy một nhảy hơn 108000 dặm. Tài phép như vậy làm vua trời không xứng hay sao?
Thích Ca nói:
- Vậy thì ta đánh cuộc với ngươi, nếu ngươi nhảy khỏi bàn tay hữu của ta, thì ngươi hơn, ta bảo Thượng Ðế nhượng thiên cung cho ngươi, khỏi bề chinh chiến, còn ngươi nhảy không khỏi bàn tay ta, thì ngươi trở về trung giới tu ít kiếu nửa sẽ lên tranh đoạt .
Tề Thiên nghe nói cười thầm rằng:
- Thích Ca thiệt quê mùa quá! Lão Tôn nhảy một cái 108.000 dặm, sá chi bàn tay, dầu bao lớn, lại nhảy không khỏi .
Nghĩ rồi hỏi lớn rằng:
- Ngươi làm chủ việc ấy chắc không?
Thích Ca nói:
- Chắc .
Nói rồi xòe bàn tay hữu ra, bằng lá sen.
Tề Thiên cất thiết bảng, rồi co giò nhảy qua! La lớn rằng:
- Ta qua khỏi rồi .
Ngó quanh quất thấy năm cây cột đỏ như thịt, trên ngọn có mây xanh.
Tề Thiên nói:
- Mình nhảy xa quá, tới đây cùng đường rồi, thì Thích Ca bảo Thượng Ðế nhường ngôi cho mình chắc lắm! Song mình phải làm dấu, phòng sau đối nại với Thích Ca . Nghĩ rồi nhổ lông hóa viết mực, đề tại cây cột giữa, tám chữ rằng: "Tề Thiên Ðại Thánh đáo thử nhứt du". Nghĩa là: Tề Thiên đi chơi tới chỗ đó.
Ðề rồi lại đái xuống gốc cột thứ nhất một vũng, rồi cân đẩu vân trở lại, té ra cũng còn đứng trong bàn tay Thích Ca mà nói rằng:
- Ngươi là con khỉ đái vất! Ra không khỏi bàn tay ta mà còn múa mỏ!
Tề Thiên nói:
- Ngươi có theo ta đâu mà biết, ta đi tới chân trời, thấy năm cây cột đỏ, trên ngọn có mây xanh, ta có làm dấu, ngươi không tin đi mà coi?
Thích Ca nói:
- Ta chẳng đi đâu hết, ngươi hãy cuối đầu xuống mà coi?
Tề Thiên trợn mắt dòm xuống, thấy ngón tay giữa của Thích Ca có đề tám chữ: Tề Thiên Ðại Thánh đảo thử nhứt du, dưới cộng tay cái còn bọt, nước đái!
Tề Thiên hoảng kinh nói rằng:
- Kỳ không kìa! Ta đề tám chữ đó nơi cây cột chống trời, sao lại ở nơi tay nọ! Chắc họ có phép tiên tri, làm vậy đặng gạt mình, ta chẳng hề tin, đi coi lại một nữa .
Nói rồi nhảy lên một cái bị Thích Ca lật bàn tay xuống đất, năm ngón tay Thích Ca hóa ra năm hòn núi Ngũ Hành, chụp đè trên lưng Tề Thiên Ðại Thánh!
Các vị lôi thần và Ấ Nang, Ca Diếp chắp tay khen rằng:
- Hay lắm!
Thích Ca bảo Ấ Nang, Ca Diếp từ giã ra về.
Xảy thấy Thiên Bồng Thiên Hựu chạy đến tâu rằng:
- Xin Phật Tổ nán chờ Thượng Ðế ra mắt .
Thích Ca ngó lại thấy xe rồng tán phụng hương báu nhạc trời .
Thượng Ðế ngự ra tạ ơn rằng:
- Nhờ Phật Tổ trừ đặng yêu hầu, xin nán lại dự tiệc, ngỏ dùng lễ mọn tạ ơn .
Thích Ca chắp tay tâu rằng:
- Lão tăng vâng chỉ tới trợ lực với chư thần, có công lao bao nhiêu mà phòng cảm tạ .
Thượng Ðế truyền mời các thần tiên đồng phó hội tạ ơn Phật Tổ, lại truyền tiên nữ dọn yến, bàn đào, ngự tửu, cùng đồ trân tu quý báu không biết bao nhiêu.
Giây phút các thần tiên đến trước Phật Tổ mà bạch rằng:
- Phật Tổ từ bi đại đức trừ đặng yêu hầu, chúng tôi cảm tạ. Xin Phật Tổ đặt tên hội này là hội chi, theo dèo cuộc nầy .
Thích Ca nói:
- Nay trên trời đã an, thì đặt An thiên hội cũng đặng .
Các thần tiên đều khen hay!
Lúc ngự yến có tiên nữ ca vang, nhạc trời trỗi chặp.
Vương Mẫu dẫn các tiên nga đến dâng bàn đào, mà bạch rằng:
- Khi trước bị yêu hầu phá hội bàn đào. Nay nhờ Như Lai trừ nó, lại làm hội An Thiên, tôi chẳng biết lấy chi tạ ơn, nên rửa tay hái ít trái bàn đào đem dâng lấy thảo". Thích Ca chắp tay tạ ơn.
Vương Mẫu dạy tiên nga ca múa.
Giây lâu có Nam Cực tiên ông cỡi hươu đến ra mắt Thượng Ðế, rồi đến trước mặt Phật Tổ mà bạch rằng:
- Khi trước tôi nghe Lão Quân dẫn yêu hầu về mà đốt, tưởng họa tán đà tiêu rồi, không dè nó thoát ra được, đánh phá cung trời làm cho kinh động Thượng Ðế, nay nhờ Phật Tổ trị an, lại thiết An Thiên hội, nên tôi đem cỏ thoạt bông hương, kim đơn châu bích, xin Như Lai nhiệm lễ mọn .
Thích Ca thâu lãnh.
Kế Xích cước đại tiên đến ra mắt Thượng Ðế, rồi bạch với Phật Tổ rằng:
- Nhờ ơn Phật Tổ trị đặng yêu hầu, tôi xin dâng hai ttrái giao lê, ít trái lão táo gọi là chút tạ ơn .
Thích Ca cũng lãnh, rồi dạy Ấ Nang , Ca Diếp thâu lễ vật, đặng từ tạ ra lui về.
Xảy thấy Linh Quan đi tuần về báo rằng:
- Tề Thiên ló đầu ra khỏi núi!
Thích Ca nói:
- Không hề chi .
Liền lấy một tờ giấy trong túi ra có đề sáu chữ vàng là: Án ma ni bát di hồng.
Sai Ấ Nang tôn giả đi dán trên chót núi Ngũ Hành, năm hòn núi tự nhiên chắc cứng, như trên có câu đầu, dưới có ràng cẳng rút vô vậy! Tuy ló đầu ló tay ra, mà dậy không nổi.
Xong rồi Thích Ca giã từ Thượng Ðế và các thần tiên ra về, tuy vậy mà lòng cũng từ bi, sai Thổ Ðịa và Ngũ Phương Yết Ðế canh giữ Tề Thiên, dặn có đói thì cho ăn sắt cục! Khát thì nấu đồng tiêu ra cho uống! Chờ hết tội sẽ cho người đến cứu.
Dặn xong rồi về chùa Lôi Âm, bên bước Cực Lạc.
Ngô thừa Ân
Tây du ký
Hồi 8
Như Lai tạo kinh truyền Cực Lạc
Quan Âm vâng chỉ xuống Tràng An
Nói về Phật Tổ từ tạ Ngọc Ðế về đến Lôi Âm bửu sái, để các vị Bồ Tát Kim Cang cầm tràng phan bửu sái ra tiếp giá.
Như Lai lên ngồi tòa sen, hào quang sáng lòa.
Các Bồ Tát Kim Cang chắp tay làm lễ hỏi:
- Phá cõi trời, làm rối bàn đào hội, là ai vậy?
Như Lai phán các việc đầu đuôi, hết thảy nghe nói đều mừng rỡ lui chầu.
Ngày kia Phật Tổ kêu các vị Ấ La, Yết Ðế, Bồ Tát, Kim Cang mà nói rằng:
- Từ thâu đặng yêu hầu tính lại đặng năm trăm năm dưới phàm. Nay ta có một bửu bồn, kêu là Vu Lan bồn có đủ trái ngon bông lạ cho các ngươi hưởng nhờ, ý các ngươi muốn chăng?
Hết thảy chắp tay tạ ơn.
Phật Tổ biểu Ấ Nang Ca Diếp phân phát cho đại chúng.
Hết thảy cảm tạ rồi, xin Như Lai giảng dạy.
Như Lai giảng tam thừa kinh phép chánh quả rồi nói với chúng rằng:
- Ta xem trong bốn cõi đại bộ châu, con người lành dữ khác nhau. Tại Ðông Thắng thần châu kính trời đất, có lòng hiền, Tây Ngưu hạ châu không tham ái; Bắc Cư lư châu hay sát sanh vọng ngữ, còn Nam Thiện bộ châu tham dâm dục, hay đâm chém, miệng lưỡi hung dữ độc ác. Nay ta có ba tạng chân kinh khá khuyên người lành . Chư vị Bồ Tát chắp tay hỏi:
- Ba tạng kinh thế nào?
Như Lai nói:
- Một tạng nói về việc trời, một tạng nói về trời đất, môt tạng nói về việc đất, còn một tạng thì cứu ma độ quỷ. Ba tạng cộng lại là 25 bộ cai ra một muôn năm ngàn một trăm bốn mươi bốn cuốn (15.144) thiệt là phép chu nhân thánh thiện. Ta muốn cho về Ðông Ðộ, e thiên hạ ngu dại chê bai phép Phật, chẳng biết kinh du là chánh tông. Phải đặng một người tài phép giỏi qua Ðông Ðộ khuyên dạy chúng sanh, sẽ đặng có công đức như non. Ai muốn lãnh đi?
Quan Âm Bồ Tát nói:
- Tôi tuy bất tài, xin qua Ðông Ðộ kiếm một người đi thỉnh kinh .
Như Lai cả đẹp nói:
- Quan Âm thần thông biến hóa đi đặng. Như có đi thì đi trên mây, mà chớ đi cao lắm, ngươi tuy có lòng mà cũng khó đi đặng, nay ta cho ngươi năm phép báu .
Liền dạy Ấ Nang Ca Diếp lấy cà sa và Cữu huờn tích trượng đặng cho người thỉnh kinh bền lòng đi, khi bận áo cà sa khỏi đọa luân hồi, cầm tích trượng khỏi bị hại. Quan Âm lạy mà lãnh.
Như Lai lấy ba cái cô nhi là cái vòng, nói rằng:
- Ba cái cô nhi nầy như một, cái nầy đọc chú ba lần thì biến hóa mà trừ yêu. Như gặp yêu thì nhờ phép nầy khuyên dạy nó phải đi theo người lấy kinh làm học trò. Như nó không chịu thì cho nó đội cái nầy trên đầu tự nhiên dính vào thịt gỡ ra không đặng. Nó không vâng phục thì đọc chú cho nó nhứt đầu chịu không nỗi, thì nó mới đầu vào phép ta .
Quan Âm lãnh rồi làm lễ lui ra, kêu Huệ Ngạn đi theo.
Quan Âm gói áo cà sa lại, đưa Huệ Ngạn cầm, lại cất Kim Cô, tay cầm Tích trượng, xuống khỏi Linh Sơn. Tới gần núi có Ngọc Chân Quân Kim Ðãnh đại tiên rước vào pha trà hỏi:
- Chẳng hay Bồ Tát đi đâu?
Quan Âm nói:
- Tôi vâng chỉ Như Lai đến Ðông Ðộ tìm người lấy kinh .
Ðại tiên hỏi:
- Chừng nào người lấy kinh đi tới?
Quan Âm nói:
- Chưa biết chừng độ hai ba mươi năm thì tới .
Liền từ giã đại tiên đi nửa chừng mây, ngó xuống sông Lưu Sa thấy ba người chết chìm.
Quan Âm nói với Huệ Ngạn rằng:
- Người phàm khó qua chỗ nầy đặng mà lấy kinh .
Xảy thấy nổi sóng gió, một con yêu rất xấu xa, hét lớn một tiếng nhảy lên bờ cầm bửu trượng xốc lại đánh Quan Âm .
Huệ Ngạn cầm côn chận lại nạt rằng:
- Quái vật chớ chạy .
Hai người hổn chiến hơn mười hiệp chưa phân hơn thua.
Yêu ấy đỡ lại rồi hỏi rằng:
- Ngươi ở đâu mà dám đến cự với ta?
Huệ Ngạn nói:
- Ta là Nhị Thái Tử của Lý Thiên Vương là Mộc Tra đây, ngươi sao dám đón đường?
Quái ấy nói:
- Ta nhớ ngươi theo Nam Hải Quan Âm tu hành, sao lại đến làm chi?
Mộc Tra nói:
- Trên kia là thầy ta đó .
Quái ấy nghe nói liền chạy tới trước mặt Quan Âm cúi đầu lạy thưa rằng:
- Xin tha tội cho tôi thú thiệt: Nguyên trước tôi hầu Ngọc Ðế làm chức Quyện Liêm đại tướng, nhân hội bàn đào lỡ tay làm bể đèn lưu ly nên Ngọc Ðế bắt tội đánh 800 roi, đày xuống hạ giới, biến ra xấu xa, còn bảy ngày có gươm bay đến đâm hông tôi một lần, đau đớn quá chừng. Lại thêm đói lạnh chịu không nỗi, nên làm sóng gió bắt người qua lại mà ăn thịt, nay rủi phạm nhằm Bồ Tát .
Quan Âm nói:
- Ngươi đã có tội lại ăn thịt người ta, tội càng thêm nặng. Nay ta lãnh sắc Phật Tổ qua Ðông Ðộ tìm người lấy kinh. Ta muốn ngươi đợi đây theo người lên Tây Phương thỉnh kinh, ta kêu gươm bay đó không đâm ngươi nữa. Sau này nên công hết tội, đặng phục chức cũ, ngươi nghĩ thế nào?
Quái ấy nói:
- Tôi xin quy y làm lành. Từ trước đến nay mấy người đi lấy kinh qua đây đều bị tôi ăn hết, còn cái đầu bỏ chìm xuống sông, không dè mấy sọ ấy không chìm cứ nổi trên mặt nước. Tôi lấy làm lạ, lấy dây xỏ lại treo chỗ trống kia, tính ra chín người đi lấy kinh bị hại rồi .
Quan Âm nói:
- Ngươi khá đem mấy cái đó treo trên chót núi, đợi người lấy kinh tới sẽ có việc dùng .
Quái vật vâng lời dạy dỗ, cải ác quy y.
Quan Âm thí phát cho con yêu ấy rồi. Lấy sông Lưu Aa làm họ, nên đặt họ Sa, đặt tên thánh gọi là Ngộ Tịnh.
Khi ấy Ngộ Tịnh đưa Quan Âm và Huệ Ngạn khỏi sông rồi, răn lòng không ăn ai nữa. Dùng trái cây đỡ dạ mà đợi kẻ thỉnh kinh.
Còn Quan Âm và Huệ Ngạn đi một hồi lâu xảy thấy núi cao chớn chở, hơi dữ bay lên núi mịt mù, đi qua không được.
Quan Âm tính đằng vân mà qua núi.
Xảy đâu trận gió thổi tới, hiện ra một con yêu tinh đầu heo tướng dữ tay cầm Cào cỏ (đinh ba) đập lại Quan Âm .
Mộc Tra cản lại hét một tiếng lớn rằng:
- Ðồ yêu quái đừng vô phép, coi gậy sắt đây nè .
Con tinh trả lời rằng:
- Hòa Thượng này không biết sợ chết, coi cào cỏ ta đây .
Hai người đánh dưới chân núi, chưa biết hơn thua .
Quan Âm ở nữa lừng bỏ bông sen xuống cản ngang, hai người đánh không đặng nữa; con tinh thất kinh mới hỏi:
- Ngươi là Hòa Thượng ở đâu hóa bông sen mà dọa bợm?
Huệ Ngạn nói:
- Ngươi là thú thai phàm mắt thịt, nên không biết ta. Ta là học trò Phật Quan Âm, thầy ta bỏ bông sen mà ta không biết .
Con tinh hỏi:
- Quan Âm ở Nam Hải là một vị Phật quét ba tai, trừ tám nạn phải không?
Huệ Ngạn nói:
- Vậy chớ ai?
Con tinh nghe nói, bỏ cào cỏ lạy Huệ Ngạn mà hỏi thăm rằng:
- Chẳng hay Quan Âm ở đâu, xin anh làm ơn dắt tôi ra mắt!
Huệ Ngạn ngước mặt chỉ mà nói rằng:
- Ngươi coi có phải là Phật Bà không?
Con tinh ngó thấy cúi đầu lạy mà nói lớn rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội .
Quan Âm hiện xuống mà hỏi rằng:
- Ngươi là Ông Chãng thành tinh, hay là heo rừng sanh quát, mà đón ta vậy?
Con tinh nói:
- Tôi không phải heo rừng, cũng không phải Ông Chãng (heo rừng lâu năm quá, mọc nanh bó hàm, tục sợ như hùm, kêu tưng bằng Ông Chãng) tôi là Thiên Bồng nguyên soái ở sông Ngân (Thiên Hà) bởi say rượu đi lạc vào cung Nguyệt mà chọc Hằng Nga, bị ông Linh Quan bắt giải về Thượng Ðế, Thượng Ðế bắt tội đánh tôi hai ngàn dùi, rồi đày xuống Trung Giai. Tôi đi đầu thai lạc đường nhằm heo rừng nái, mới ra thân thể như vậy. Tôi tức giận cắn heo nái chết tươi, và giết bầy heo rừng tuyệt tộc. Chiếm cứ hòn núi nầy, ăn thịt người đở đói, không dè nay gặp Phật Bồ Tát, xin cứu độ làm ơn .
Quan Âm hỏi:
- Núi nầy gọi là gì?
Con tinh nói:
- Núi nầy gọi là núi Phước Lăng, có một cái động gọi là động Vân San, chủ động ấy gọi là Mão Nhị Thơ thấy tôi có nghề võ, vời tôi tới làm người lớn trong nhà. Ở coi giúp việc gần một năm, nàng ấy tới số gia tài về tôi, ở không ăn mãi núi lở non mòn, túng cùng phải ăn người cho qua bữa, xin Bồ Tát cứu độ mà làm ơn .
Quan Âm nói:
- Người xưa rằng: Muốn có đường đi tới, thì đừng làm mất đường lui. Nếu mất đường đi tới, thì phải cùng đường. Khi ngươi ở cõi trên đà phạm phép, thì nay phải đọa mà không bỏ lòng hung, lại giết người hại vật, thì một tội sinh hai, ấy là muốn cùng đường đó .
Con tinh nói:
- Còn cùng chẳng còn cũng không cần. Nếu cử ăn thịt người thì thấy ngáp gió, hèn chi người ta nói: Y theo phép quan thì đánh chết, y theo phép Phật thì đói chết. Là phải lắm mà. Tính bề đi phức cho xong thê. Thà bắt chúng đi đường, ăn mỡ tươi béo lắm, cần gì 2 tội, 3 tội, ngàn tội, muôn tội nà .
Quan Âm nói:
- Lòng người muốn phải, trời cũng thuận theo. Như ngươi tu theo phép, ta cũng có món nuôi mình được, trái cây, rau, gạo, ăn cũng no lòng, lựa phải ăn mỡ người ta mới sống?
Con tinh nghe nói như tỉnh giấc chiêm bao, lạy Quan Âm mà nói rằng:
- Tôi muốn giải nghiệp mà đi tu, song mắc lấy tội trời, cầu sao cho khỏi?
Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật Tổ, xuống cõi trần mà tìm kẻ thỉnh kinh. Nếu ngươi chịu làm đệ tử người thỉnh kinh, mà tới Tây Phương thì phước đủ trừ tội, ta cứu ngươi nạn khỏi tai qua .
Con tinh nói:
- Chịu theo, chịu theo" Quan Âm thí phát (thế phát) xong rồi cứ theo dèo đặt họ, gọi là Trư, đặt tên thánh là Ngộ Năng, giữ theo phép Phật, phải ăn chay cử mặn và cử ngũ uẩn (năm món như đồ mặn là: Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu và ngò) ở đợi thầy thỉnh kinh đi tới .
Quan Âm dặn rồi liền đi với Huệ Ngạn.
Ði một hồi lâu thấy một con rồng Bạch bị treo tại cửa trời. Rồng Bạch thấy Quan Âm, liền cả kêu xin cứu.
Quan Âm hỏi:
- Ngươi là rồng ở đâu mà bị treo ở đó?
Rồng Bạch nói: "Tôi là Thái Tử con Long vương Ngao Thận ở biển Tây. Bởi tôi nổi lửa đốt trái châu trước đền, cha tôi giận tâu với vua Trời, rằng tôi ngỗ nghịch. Nên Thượng Ðế treo tôi giửa thinh không đánh ba trăm roi, và đợi ít ngày xử trãm. Xin Phật Bồ Tát cứu mạng làm nhơn .
Quan Âm nghe nói liền đằng vân ới Huệ Ngạn mà lên trời, cậy Khưu Thiên Sư và Thượng thiên sư dắt ngài vào điện.
Quan Âm tâu rằng:
- Tôi vâng sắc Phật Tổ, xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, gặp rồng có tội bị treo, nên tôi vào tấu, xin Bệ Hạ tha tội rồng ấy mà cho theo tôi, đặng đỡ gót kẻ thỉnh kinh ra công mà chuộc tội .
Thượng Ðế nghe tấu, ruyền tướng trời mở trói nghiệt long (rồng dữ) giao cho Bồ Tát. Quan Âm từ tạ, rồng nhỏ cũng lạy tạ ơn .
Quan Âm dẫn rồng nhỏ xuống núi dặn rằng:
- Ngươi ở khe này, đợi thầy thỉnh kinh đi ngang qua, sẽ hóa thành ngựa kim đỡ gót . Rồng con vâng lệnh ở đó mà chờ.
Còn Quan Âm đi với Mộc Tra, đi hèn lâu mới tới năm hòn núi. Ngó thấy hào quang muôn trượng, hơi ấm ngàn trùng.
Huệ Ngạn hỏi:
- Núi Ngũ Hành mà có hào quang, có khi tại bùa của Phật Tổ .
Quan Âm nói:
- Phải, Tề Thiên Ðại Thánh phá hội Bàn Ðào, phản thiên cung năm xưa, nên bị núi đè tại đó . Thầy trò lên núi, thấy lá bùa sáu chữ chân ngôn là: Án, Ma, Ni, Bát, Di, Hồng.
Quan Âm xem rồi than thở chẳng xiết, liền ngâm một bài kệ.
Thơ rằng:
Thương hại yêu hầu bỏ phép công,
Năm xưa làm loạn cậy sức hùng
Kể từ Phật Tổ dằn năm núi,
Bao thuở ra ngoài lại cõi Ðông.
Ðại Thánh nằm sấp dưới chân núi cả kêu rằng:
- Ai ngâm thơ trên non mà ngạo ta đó?
Quan Âm nghe hỏi liền đi lần xuống mà xem, ngó thấy dưới chân núi, có thần núi và Thổ Ðịa canh giữ.
Các thần đều nghinh tiếp Quan Âm và dắt đến trước mặt ÐạiThánh.
Quan Âm thấy Ðại Thánh nằm dưới núi ló đầu ra, miệng nhóp nhép lia mà cục cựa không đặng.
Ngài mới hỏi rằng:
- Họ Tôn có biết ta chăng?
Ðại Thánh trợn cặp mắt lửa tròng vàng, gật đầu mà nói lớn:
- Làm sao mà không biết! Ngài ở Nam Hải núi Phổ Ðà, cả làn cả thương, cứu khổ cứu nạn, là Quan Thế Âm Bồ Tát. Cám ơn lắm, cám ơn lắm! Tôi nằm đây coi một bữa bằng một năm, không ai ngó ngàng tới. Chẳng hay Bồ Tát đi đâu mà ghé đây? Quan Âm nói:
- Ta vâng sắc Phật, đi xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, đi ngang qua đây nên ghé mà thăm đó .
Ðại Thánh nói:
- Phật Như Lai nói gạt, đè tôi dưới núi nầy. Gần năm trăm năm, cựa mình không đặng. Xin Bồ Tát làm phước, cứu lão Tôn một phen .
Quan Âm nói:
- Ngươi làm tội đầy trời, nếu cứu ngươi ra, quen thói yêu càng không nên lắm .
Ðại Thánh nói:
- Tôi đã ăn năn chừa lỗi, xin ngài cứu độ, tôi chịu đi tu .
Quan Âm nghe nói quá đỗi mừng, mới nói với Ðại Thánh rằng:
- Ngươi muốn làm phải thì trời cũng độ cho, ngươi đã quyết tu hành, đợi ta xuống Ðại Ðường tìm một thầy thỉnh kinh, dặn ghé mà cứu, thì ngươi theo làm đệ tử, giữ phép Phật mà đi tới Tây Phương thỉnh kinh về, cũng thành chánh quả .
Ðại Thánh nói:
- Tôi chịu, tôi chịu .
Quan Âm nói:
- Ngươi dốc lòng tu niệm, ta đặt tên thánh cho .
Ðại Thánh nói:
- Tôi tên là Ngộ Không khỏi mất công đặt nữa .
Quan Âm nghe nói mừng rằng:
- Khi trước ta có độ hai người tu, cũng lót chữ Ngộ. Nay ngươi cũng lót chữ Ngộ nữa, trùng phái với nhau, tốt lắm, tốt lắm".
Nói rồi từ giã ra về.
Như Ðại Thánh là: Thấu tánh sáng lòng theo đạo Phật.
Còn Quan Âm thì: Ra công hết sức kiếm thầy Thần.
Quan Âm cùng Mộc Tra đi xuống Ðông Ðộ. Ngày kia đến đất Trường An là nước Ðại Ðường, hai thầy trò hiện hình ra hai thầy chùa ghẻ lát mà đi lộn với người và tới chợ Trường An, thì trời đã tối, mới đi ngay vào miễu Thổ Ðịa.
Ông Ðịa hết hồn, binh ma mất vía, biết là Phật Quan Âm giả dạng, ra làm lễ rước vào.
Thổ Ðịa đi báo với Thành Hoàng và thần các miễu, đều vào ra mắt mà rằng:
- Xin Phật Bồ Tát tha tội chúng tôi, vì sự rước trễ .
Quan Âm nói:
- Các ngươi đừng lậu tiếng, ta vâng sắc Phật Tổ, đi tìm kẻ thỉnh kinh, ta ngụ nhờ trong miễu ít ngày, đợi tìm đặng kẻ thỉnh kinh, ta sẽ từ giã.
Các thần ở đâu về đó, còn ông Ðịa dọn ra ở đở ngoài Thành Hoàng (Thành Hoàng bổn xứ là ông thần ở đình lớn trong tỉnh sở tại).
Còn hai thầy trò giả dạng, ở miễu Thổ Ðịa thường bữa đi dọ tin.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro