
Hoi 13 - 16
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 13 : Mộ đài Hoạt Tử Nhân
Tiếng ngân o ! o ! o ! của bà lão hoà với tiếng vo vo từ đằng xa vọng lại.
Doãn-chí-Bình thất sắc ra lệnh cho cá đạo sĩ :
- Toàn thể hãy rút lui lập tức .
Mọi người nghe hiệu lệnh ngẩn người ra , không hiểu tại sao bọn chúng đang thắng thế , bà già kia chỉ ngân mấy tiếng o ! o 1 o 1 mà phải rút lui , sợ sệt .
Thì ra , một bầy ong trắng nhấp nhó trong ánh trắng đang tiến đến vun vút . Chỉ phút chốc , bầy ong đã bủa vây trên đầu các đạo sĩ .
các đạo sĩ đã chính mắt trônt thấy Triệu-chí-Kính bị ong cắn đau đớn thế nào rồi nên lúc thấy bầy ong , ai nấy thất sắc , cắm đầu chạy không dám ngoảnh cổ lại .
Đàn ong trắng cố sức bay nhanh đuổi theo.
THấy các đạo sĩ không thể nào tránh nổi ong độc đốt , bà lão mỉm cười sung sướng .
Giữa lúc nguy biến đó , bỗng phía trùng-Dương cũng xuất hiện một đạo nhân râu tóc bạc , hình dung quắc thước , tay cầm một cây đuốc , lửa cháy ngùn khói toả um tùm . chạy đến nung vào bầy ong đốt , Bầy ong trắng bị khói lửa liền bay tứ tán vào rừng hết .
bà lão trông thấy ngạc nhiên , cất tiếngh ỏi lớn ;
- lão đạo sĩ kia là ai mà dám cả gan phá hoại bầy ong của ta ?
Vị đsạo sĩ ấy , sau khi xua đuổi bầyong , bước đến trước mặt bà lão , vừa cười vừa nó :
- Bần đạo chính là Xích-đại-Thông , kính chào Tôn bà đó .
Tôn bà xưa nay không tiếp xúc với người trong phái võ lâm song vì ở gần Trùng-Dương cung nên có nghe danh Xích-đại-Thông là một tay trong bảy cao sư đại đệ tử của Vương-trùng-Dương , czo thủ trong Toàn-Chân phái .
Thấy Xích-đại-Thông uy dũng như thế , Tôn bà liên tưiứng đến Doãn-chí-bình và các đạo sĩ đồng hạng khác không phải là những tay tầm thưoừng .
trong lúc đó , đằng sau Xích-đại-Thông có một đạo sĩ nói lớn :
- Khưu , Vương sư huynh ! Chúng ta có thể dừng chân nơi đây mà không sợ bị ong đốt nữa đâu .
Xích-đại-Thông quay lại nhìn thì thấy Khưũ-ứ-Cơ cà Vương- xứ-NHất , hai người này quần áo còn vương nté bụi đường chưa phai , liền hỏi :
- ủa ! Sư huyenh Khưu , vương đã về đến rồi sao . Cuộc du hành có gì lạ không ?
KHông đợi Vương xứ Cơ và vương xứ nhất đáp lời , Xích đại Thông quay lại nhìn Tôn bà thì bấy giờ Tôn Bà đá mất dạng .mọi người chỉ nghe trong phía rừng sâu có tiếng cười the thé của bà lão .
Doãn chí Bình nói :
- Xích sư thúc ! Chúng ta có đuổi theo chăng ?
Xích đại Thông lắc đầu đáp :
- khôn nên ! Tổ sư chúng ta đã căn dặn không ai được rừng . Chúng ta nên trở lại võ điện hội kiến rồi lo liệu .
Lúc đó Tôn Bà đã bồng Dương Qua trở lại Hoạt tử Nhân mộ đài .
Qua một cơn biến cố , hai bà cháu càng quyến luyến nhau hơn trước . Dươmng Qua lòng hồi hopọp , không biết Tiểu long Nữ có bằng lòng cho mình lưu trú chăng nên nét mặt dàu dàu .
- Không sao ! Cháu cứ yên tâm , bà sẽ tìm cách nói thế nào cho cô nương phải chấp nhận.
kế đó , bà lão dặn Dương Qua ngồi ở phòng ngoài , còn bà vào một mình để bàn bạc với Tiểu long Nữ .
Một lúc sau , Dương Qua chờ mãi không thấy bà lão ra , lòng nó nghĩ mniên man , hết chuyện nọ sang chuyện kia , bụng bảo da j :
- Thế này chắc là Long cô nương không bằng lòng nhận mình ở lại đây rồi . Nếu để Tôn bà cứ ép cô nương tức là mình đã làm phiền lòng luôn cả hai người . Như vậy đâu phải mình báo ân họ .
Nghĩ vậy , dương Qua quyết rời khỏi mộ đài . Nó đứng dậy đi ra .
vừa ra đến cửa thì Tôn Bà đã hơ hãi chạy đến hỏi nó :
- Cháu đi đâu thế ? Phải cháu tìm ta chăng ?
Dương Qua rơm rớm nước mắt nói :
- Thưa Tôn bà , cháu đi đây ! Cháu đã lớn rồi chẳng lẽ cứ làm phiền đến Tôn bà mãi sao ?
Tôn bà nói :
- Không 1 Ta phải đưa cháu đến gửi một nơi nào và phải làm thế nào để họ thành tân dạy dỗ cháy mai sau trở nên ngwoif .
Nghe Tôn bà nói vậy , Dương Qua biết Tiểu long nữ không muốn cho nó trú tại mộ đài , lòng nó se thắt , một nỗi buồn vô hạn từ đâu đột nhập vào người nó . Nó cúi đầu nói :
- Cũng chẳng sao ạ ? Chãu là một đứa bé hư hỏng thì dầu đến đâu cũng chẳng ai ưa cháu . Dám xin Tôn bà đừng vì tình thương cháu mà phí công .
Lời nói như hờn dỗi ấy đã làm cho lòng bã lão đau đớn .
Bà lão vốn là người nhanh chân nhẹ miệng dễ vui mà cũng dễ cảm động . Sau khi thuyết phục Tiểu long Nữ mà nang cứ nhất định không cho Dương Qua ở lại , bà lão đã có ý giận hờn , bây giờ nghe Dương Qua nói , bà lão gắt lên :
- Thôi được , bà cháu ta cùng ra đi . Cháu ở chốn nào ta ở chốn nấy , miễn bà cháu ta được gần gũi nhau .
Thật ra , tánh tình một bà già có khác . Do cái bất thường ấy mà người đời có câu " già trẻ đồng nhau " .
Dương Qua mừng rỗ , trố mắt nhìn bà lão tươi cười hỏi :
- Bà thương cháu đến thế sao ? Nếu bà đi theo cháu rồi bỏ cô nương cho ai ?
Bà lão nói :
- Ta nuôi cô nương từ lúc nhỏ đến giờ . Nay cô nương đã lớn rồi , không cần đến bà cũng được . Còn cháu , cháu quá nhỏ dại , nếu để cháu ra đi một mình tất bị cúng hà hiếp .
Giọng nói của Tôn bà run lên vì cảm động .
Hai bà cháu dắt nhau ra cửa mộ . Trong lúc bực tức , bà lão không đem theo gì cả . Bỗng sực nhớ đến Triệu chí Kính bị thương vì nọc độc , bà lão lẩm bẩm :
- Hắn ta là người ác song cũng chưa đáng tội chết . Nếu không đưa một ít mật ong để cứu hắn thì không thoát khỏi tay tử thần .
bà lão quay vào lấy ra một hũ mật rồi dăt tay Dương Qua tiến bước về Trùng Dương cung .
Bây giờ , Trùng Dương cung tuy đã sửa sang lại rồi song so với lúc trước thì khoong qui mô bằng . Các vách tường , các mái ngói đều kém vẻ uy nghi .
Thấy Tôn bà cứ hướng về phía Trùng Dương cung mà đi , Dương Qua nắm tay bà nói :
- Thưa Tôn bà , tại sao Tôn bà lại đến đó .
Tôn bà nói :
- Ta đến để cho họ một ít thuốc .
Dương Qua tin ở lòng tốt của Tôn bà nên khong có ý nghĩ gì , ngoan ngoãn bước theo .
Chỉ chốc lát , hai bà cháu đến trước một ngôi võ điện , Tôn bà nhảy qua tường nơi chánh điện mà vào .
Bỗng một hồi chuông rung lên làm chuyển động cả núi rừng , Hồi chuống đó là hồi chuông báo động .
Tức thì xa gần có tiếng người lao xao , bầu không khí tĩnh mịch trở nên náo loạn . Tôn bà tuy là người võ nghệ cao cường đảm lược có dư cũng không khỏi rợn người .
Cũng nên biết rằng Toàn Chân môn phái là một môn phái lớn trong võ lâm . Ngày thường lối canh phònh cẩn mật rồi , những ngày gần đây có nhiều biến cố xảy ra nên việc canh phòng lại còn thận tỷọng hơn gấp bội . Bốn bề tmá hướng đều có người canh gác . Hễ trông thấy một bóng người nào bén mảng là lập tức báo động không những ở phía trong các đạo sĩ phân công rõ ràng nghênh địch mà phía ngoài một số đạo sĩ đã bố trí sẵn sàng để bao vây .
Tôn abf thấy sự thế như vậy , lòng bị dao động song vẫn lớn tiếng nói :
- Triệu chí Kính đâu rồi ? Mau ra ngay ! Ta có chuyện nói vơi ngươi .
Trên nóc đại điện có một đạo sĩ tuổi đã trũng niên ứng khẩu đáp :
- kính thưa tiền bối ! Chẳng hay đêm khuya tiền bối có điều gì đến đây chỉ giáo .
Bà lão giơ chiếc bình mật ong ra trước mặt nói :
- Đây là thuốc trị nọc độc ong . Hãy mầm lấy mà mang vào cho Triệu chí Kính .
Dứt lời , bà lão ném chiếc bình mật ong đến cho đạo sĩ đó .
Đạo sĩ đưa tay bắt lấy nhưng lòng bán tín bán nghi tự hỏi :
- Lại cho thuốc ư ? sao bà ta lại tốt như thế nhỉ ?
Rồi sang sảng nói :
- Thưa tiền bối ! Thuốc này là thuốc gì vậy ?
Bà lão nói :
- Hỏi làm chi cho nhiều lời , cứ đem vào cho hắn uống tự nhiên sẽ biết .
Lời nói của Tôn bà khiến cho đạo sĩ kia thêm nghi . Hắn nói :
- Tôi chẳng biêt đây là lòng tốt hay ý độc . FFây là thuốc giải hay thuốc ddoocj .triệu sư huynh tôi đối với Tôn bà không được xúng ý mấy , lẽ nào có thể nhận được tấm lòng Bồ tát của Tôn bà ?
Tôpn bà vốn tính thẳng , đã đem thuốc giúp người mà bị người ta nghi kỵ lấy làm tức , không kiềm nổi giận dữ , bỏ Dương Qua nhảy lên phía trước giành lấy bình mật ong , quay sang bào Dương QUa :
- Cầm lấy , mở ra !
Dương Qua chẳng hiểu dụng ý của Tôn bà , hể bảo đâu làm đó , nó mở nút bình .
Tôn bà dốc cả bình mật ong vào môm Dương Qua và nói :
- Càng tốt phải không cháu ? Bị người ta nghi ngờ là độc dược thì thôi , mình uống hết đi có sao ?
Dứt lời , bà cầm tay dương Qua dắt ra phía ngoài tường .
đạo sĩ kia thấy Tôn bà lấy lại bình thuốc cho dương Qua uông biết không phải là thuốc độc nhưng đã trễ . đạo sĩ lại nghĩ đến bệnh tình của Triệu chí Kính nếu khômng có thứ thuốc kia thì khó mà khỏi đưọc , liền phóng đến đón Tôn bà lại , nói :
- Thưa Tôn bà , có gì mà Tôn bà phải giận dữ đến thế ? Tôi buộc mồm nói một câu vô lễ xin Tôn bà miến chấp mà ban cho bình thuốc giải độc kia .
Tôn bà nghe giọng nói cuả đạo sỹ càng thêm chán ghét , cười nhạt nói :
- Ta chỉ có một bình thuốc mà thôi , dâu có nhiều mà cho nưqã . nếu Triowuj chí Kính có mệnh hệ nào thì là lỗi ở ngươi tất cả đó .
Dứt lời , bà lão dùng mu bàn tát vào mặt đạo sĩ một cái mắng :
- Ngươi không biết kính trọng bậc tiền bối ! Ai dạy ngươi những cử chỉ vô lễ thế ?
Cái tát cấy quá mạnh và quá nhanh , đạo sĩ kia không tránh được , để trúng vào phía thái dương đau nhói . Đạo sĩ ngã quỵ xuống đất kêu cứu .
Hai đạo sĩ đứng ngoài nghe tiếng kêu thất thanh biến sắc lẩm bẩm :
- Lại gây rắc rối với vị tiền bối rồi .
Đoạn hai người tiến vào , một người bên mặt , một người bên trái tấn công bà lão .
Tôn bà thấy hai ngườ xuất thủ , biết ngay họ dùng thế trận Bắc đẩu vô cùng lợi hại nên chẳng muốn nghênh chiến , vội cắp Dương Qua nhảy thoát lên tường .
Nhìn về phía chân tường không thấy bóng người , bà lão toan nhảy xuống thì bỗng có một giọng quát lớn :
- Xuống ngay .
Tiếng hét vừa dứt thì bõng một đạo nhân xuất hiện . Hanứ chuyển khí và giơ cả hai tay ra , trong lúc Tôn Bà còn lơ lửng trên không , nhảy chưa xuống đất , tay mắc cặp Dương Qua chân không chỗ dựa để đối phó với đòn chưởng ấy .
Tuy vậy Tôn bà vẫn lách người đi tránh được sức mạnh của đối phương .
Khi Tôn bà xuống đến mặt đất thì lại bị sức công của bày đạo sĩ đánh một lượt , bà lão chỉ còn có cách luig lại để tránh .
Mấy người này dồn cả nội khí ra ép bà lão vào góc tường .các đạo sĩ này thuộc vàop hàng đệ tam đại đệ tử là những tay cự phách , giữ nhiệm vụ đứng phònh thỉ bên ngoài võ điện .
Qua một lúc giao đấu , có lúc tiến , có lúc thoái , bà lão vẫnk hông nao núng . Các đạo sĩ sở dĩ dồn vào được tận góc tường là vì bà lão một tay mắc bồng Dương Qua còn một tay ddể đối phó . Nếu không , bảy đạo sĩ kia không làm sao địch nổi bà .
Qua mười hiệp đấu , người chỉ huy phòng thủ là Trướng chí Quang được biết đối phương không thể nào làm gì hơn được , bèn ra lệnh đốt đèn lên để vây hãm bà lão .
CHỉ mười chiéc lồng đèn ánh sáng đủ làm rực rỡ một phía góc tường .
Bây giờ nét mặt xấu xí của bà lão đượm vẻ buồn lành lạnh làm cho ai troiong thấy cũng phải khiếp sợ .
Trương chí Quang ra lệnh cho các đạo sĩ khép chặt vòng vây chỉ giữ bà lão không cho thoát chứ không tấn công nữa .
Các đạo sĩ được lệnh liền nhảy lùi lại , rút tay về trước ngực để nhận điện lực của mình quy hồi nội thân , đứng giữ thế thủ .
Tôn bà thấy vậy cười nhạt nói :
- Toàn Câhn môn phái vang danh tron thiên hạ , thật chẳng lưu truyền . Mây thanh niên vây đánh một bà già và một đứa con nít , cử chỉ bắt nạt như thế có anh hùng chăng ?
Trương chí Quang mặt mày đỏ lên vì hổ thẹn , gượng gạo nói :
- Chúng tôi có nhiệm vụ canh gác nơi võ điện này , bất kỳ kẻ lạ mặt nào đến đều phải bị giữ lại . Bà đã ngang nhiên vào thì phải cúi đầu mà ra .
Tôn bà cười ha hả nói :
- Thế nào ? Ngươi bảo ta phải cúi đầu mà ra ư ?
Dứt lời , bà lão xông tới đánh vào mặt Trương chí Quang một chuỳ đau nhói lên .
Trương chí Quang không kịp né tránh cú đánh bất ngờ ấy , vận nội công chịu đựng .
Đợi cho hết đau , Trương chí Quang tiến tới một bước nói :
- Có khó khăn gì đâu mà bà phải giận dưqx . Nếu bà làm đúng ba điều kiện này chuíng tôi sẽ mở rộng vòng vây cho bà trở về mộ đài .
Bà lão hỏi :
- Ba điều kiện gì vậy ?
Trương chí Quang nói :
- Điều thứ nhất bà phải đưa chai thuốc giải độc để cứu chữa cho Triệu chí Kính . Điều thứ hai bà phải hoàn trả đứa bé kia cho môn phái Toàn Câhn vì nó là đệ tử của môn phái Toàn Câhn , chỉ có những người trong môn pháiToàn Chân mới có quyền định đoạt số phận của nó . Điều thứ ba là bà đã đương nhiên đột nhập vào Trùng Dương Cung mà quỳ gối tạ tộ .
Tôn bà cất tiếng cười hề hề , nói :
- ta cũng phải về báo cho Tiểu long Nữ cô nương rằng các đạo sĩ Toàn Chân không có ai lầm lỗi chi cả chỉ có già này lầm lỗi mà thôi . Thôi lại đây , ta xin cúi đầu đền tội với ngươi .
Dứt lời , bà lão quỳ gối xuống đất làm cho Trương chí Quang không ngờ ngỡ rằng bà đã nhậ lỗi . Bỗng nhiên từ phía sau lưng Tôn Bà , một mũi tên bắn ra trúng vào hàm bên trái của Trương chí Quang . Tên bắn nhanh quá sức , Trương chí Quang không tránh kịp chỉ biết kêu lên một tiếng " ối trời ". http://hello.to/kimdung
Thứ khí giới bí ấy làm cho mọi người xôn xao , sửng sốt , không ai hiểu ra sao cả .
Thực ra Tôn bà đã để sẵn một chiếc cung trong lưng áo , lúc cúi xuôpngs cánh cung bị hai vai ấn xuống , dẩy dây cung bất lên , tên chọc qua khỏi lằn vải mà bắn tra . Cái khó là làm sao xử dụng được hai vai ấn trúng cánh cung không động đến giây cung và làm sao cúi xuống vừa tầm để nhắm trung kẻ địch . Tôn bà trong bụng muốn bắn vào cổ họng Trương chí Quang nhưng đã nhắm sai bắn trúng lên quai hàm.
Lúc đó, các đạo sĩ đều cung kiếm một lên lượt. ánh kiếm loang loáng khắp nơi. Tôn bà dựa vào tường để giữ thế thủ, và mỉm cười đoán biết câu chuyện ngày hôm nay còn dây dưa rắc rối hơn thế nữa. Bẩm tính của bà lão vốn chẳng bao giờ chùn chân trước khó khăn, và khuất phục trước uy vũ, cho nên bà lão quay sang nói với Dương-Qua:
- Cháu có sợ chăng?
Dương-Qua lúc đó thấy bọn đạo sĩ tuốt kiếm ra, phủ vây bốn phía, nghĩ thầm:
- Nếu chú Quách-Tỉnh mà gặp trường hợp nầy thì bọn đạo sĩ khốn kiếp kia phải tan xương nát thịt tức thì. Còn Tôn bà tuổi tác quá già nua, chẳng biết có đối phó với chúng được không?
Nghe Tôn bà hỏi, Dương-Qua dõng dạc đáp:
- Dám thưa Tôn bà, xin Tôn bà để cho cháu xông ra, dẫu chúng có giết cháu cũng được, cháu chẳng bao giờ sợ chết.
Tôn bà thấy thằng bé can đảm khác thường, vì mình mà nó liều chết, lòng lại thấy thương yêu hơn nữa.
Bà lão nói:
- Bà đâu có để cháu chết nơi chốn nầy để chúng hả lòng hả dạ?
Đột nhiên, bà lão quát lớn lên một tiếng, tức thì hai thanh kiếm của đối phương lọt vào tay bà. Bà lão lại tung mình tới dùng chân đá vào một huyệt ở cổ tay một đạo sĩ làm cho đạo sĩ ấy bủn rủn phải buông kiếm ra. Nhanh như chớp, bà lão đoạt thanh kiếm giắt vào mình, rồi lại tung người sang phía khác nắm lấy cổ tay một đạo sĩ nữa. Tay bà vừa rờ đến thì thanh kiếm của đạo sĩ ấy không còn hiệu lực, phải rời ra khỏi bàn tay lập tức.
Chỉ loáng mắt, bà lão đã đoạt bốn thanh kiếm của bốn đạo sĩ như chơi.
Các đạo sĩ thấy lối thoát của bà lão vô cùng lợi hại, đều trố mắt nhìn, lấy làm kinh ngạc.
Tôn bà trao cho Dương-Qua một thanh kiếm và nói:
- Cháu có dám ra tay với những tên đạo sĩ hèn hạ này chăng?
Dương-Qua thưa:
- Thưa Tôn bà, họ là kẻ hèn hạ, cháu dẫu là đứa trẻ thơ vẫn không sợ họ bao giờ. Nhưng cháu chỉ tiếc thiếu mặt một người...
Bà lão hỏi:
- Người nào? Người ấy là ai?
Dương-Qua nói:
- Người ấy là một kẻ biết sỉ nhục, rõ được lẽ phải trái. Người ấy sẽ chứng kiến cái uy dũng của phái Toàn-Chân ngày hôm nay ra tài để uy hiếp một bà lão và một trẻ thơ.
Dương-Qua tuy còn bé song nó lanh lợi lắm. Qua một hồi nghe Tôn bà và Trương-chí-Quang đối đáp, nó khai thác được chỗ yếu của đối phương. Vì vậy nó đã đánh một đòn tâm lý vào các đạo sĩ trước mặt nó.
Quả nhiên danh dự của các đạo sĩ bị chạm! Câu nói của nó đã làm cho các đạo sĩ Trùng-Dương cung nổi lên lòng tự ái. Họ nhìn nhau bàn tán:
- Hay là chúng ta vào trình với sư trưởng quyết định.
Trương-chí-Quang từ lúc bị trúng tên đau buốt, đau mỗi lúc một tăng, lòng lại sợ bà lão dùng tên độc thì bỏ mạng nên hắn cố bắt sống bà lão cho được để đổi thuốc giải độc.
Hắn nói:
- Chúng ta cứ bắt sống cho được bà lão trước đã, rồi sẽ trình cùng sư trương cũng chẳng muộn.
ấy chỉ vì Trương-chí-Quang nghĩ sai lầm mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc.
Hơn nữa, lúc bấy giờ Mã-Ngọc, người điều khiển nơi Trùng-Dương cung lại mắc đi ra ngoài mười dặm để tu tỉnh, việc trong Trùng-Dương điện giao cho Doãn-chí-Bình định đoạt. Nếu Mã-Ngọc hay được chuyện ấy hắn đã tìm cách dàn xếp, không dám vô lễ với Tôn bà.
Tiếc thay! Mã-Ngọc không có ở đây, Trương-chí-Quang vì sợ chết quên các nghĩa nhân, còn Xích-đại-Thông thì tánh tình nóng nảy, không suy trước tính sau.
Trận Bắc đẩu lần lần thu hẹp lại. Tuy vậy, Tôn bà cũng bị bó tay vì vướng Dương-Qua. ấy thế mà các đạo sĩ kia không thể tiến quá ba thước sát bà, vì bà đã thủ một thế rất lợi hại.
Nếu trận đấu đó chính Trương-chí-Quang điều khiển thì thế trận sẽ biến hóa vô cùng lợi hại. Đằng này Trương-chí-Quang bị thương, lòng nơm nớp lo sợ, vết thương mỗi lúc một đau, máu cứ rơm rớm chảy mãi, nên Trương-chí-Quang không dám ra trước trận tiền, chỉ đứng một chỗ hô hoán. Do đó uy thế Thiên cang Bắc đẩu trận bị sút giảm đi nhiều.
Phần khác, các đạo sĩ đánh mãi không thắng, lòng rất hoang mang.
Bà lão lợi dụng cơ hội ấy, hét lên một tiếng, buông thanh trường kiếm xuống, xông vào giữa rừng gươm thộp cổ một đạo sĩ ít tuổi lôi ra khỏi vòng vây, và nói:
- Nhãi con khốn kiếp! Bây giờ là lúc chúng bay phải nhường đường cho ta đi.
Thế trận bị rối loạn. Tôn bà toan phi thân nhảy ra ngoài vòng chiến thì đàng sau bỗng có một người xuất hiện, nắm lấy cổ tay bà lão, làm cho bà lão đau buốt phải buông đạo sĩ kia ra để tự vệ.
Nhanh như chớp, Tôn bà tấn công vào kẻ mới đến một đá. Người mới đến đưa tay chận được đòn cước của ba lão rồi đánh trả lại một đòn.
Khí lực hai bên chạm nhau làm cho mỗi người phải dang ra mấy bước. Tôn bà nhìn đối phương nghĩ thầm:
- Chà! Tay nầy cũng cừ khôi lắm!
Người kia, sau khi lùi lại mấy bước đã vận dụng nội công kịp liền tấn công vào bà lão một đòn thứ hai. Bà lão đưa hai bàn tay ra trả miếng lại, nhưng lần nầy bà lão phải lùi thêm hai bước. Đối phương tiến tới và vận dụng sức lực đánh ngón đòn thứ ba. Ngón đòn nầy còn nặng hơn gấp mấy lần hai ngón đòn trước. Bà lão bị ép vào chân tường, tâm thần không còn được thư thái nữa.
Thấy đối phương hung hăng và lợi hại, bà lão liếc nhìn dung mạo thấy đó là một đạo sĩ tóc bạc râu dài, thân hình quắc thước, chính là đạo sĩ đã dùng đuốc để xua đuổi bầy ong bạch, tên hắn là Xích-đại-Thông vậy.
Nội công của Xích-đại-Thông rất thâm hậu, nổi tiếng trong phái Toàn-Chân, còn bà lão tuy võ nghệ cao cường song tuổi tác già nua làm sao địch lại. Nếu Xích-đại-Thông vận dụng hết nội công thì Tôn bà lùi bước là phải.
Tuy nhiên, Tôn bà bổn tính cương ngạnh, thà chết chứ chẳng khuất phục ai, bà nói lớn:
- Ta nhất định giữ đứa bé nầy. Nếu ngươi muốn bắt nó lại thì hãy giết ta trước đã.
Xích-đại-Thông biết Tôn bà đối với Tổ sư Vương-trùng-Dương trước kia ân nghĩa thật sâu xa, nên chẳng dám đem hết sức mình làm cho bà lão bị tổn thương, liền ôn tồn nói:
- Chúng ta từ mấy chục năm nay là chỗ lân cư, lẽ đâu chỉ vì một đứa bé dại khờ kia mà để mất hòa khí?
Tôn bà cười nhạt, nói:
- Ta đến đây với tất cả thịnh tình giao hảo nên mang theo thuốc giải độc để cứu Triệu-chí-Kính. Ngươi hỏi lại tên đệ tử của ngươi ăn nói với ta như thế nào?
Xích-đại-Thông chưa kịp đáp lời thì bà lão đã tung người lên, dùng chân đá vào bụng dưới Xích-đại-Thông một đòn rất mạnh.
Ngón cước ấy nhanh như điện, lẹ làng đến nỗi chân đá mà kiếm không kịp tung lên. Ngón đá ấy bà lão đã dày công tu luyện được mệnh danh là ngón "Quần lý thối" nghĩa là đã ngầm trong mộng.
Ngọn đá trúng vào bụng dưới Xích-đại-Thông đánh nhói một cái. Xích-đại-Thông hứng chịu, không kịp lùi lại để làm giảm bớt sức mạnh.
Tuy nhiên, là một đệ tử cao thủ của Vương-trùng-Dương, đã nhiều kinh nghiệm giao đấu với các bậc anh hùng trong thiên hạ, Xích-đại-Thông dù có bị đau cũng đã quen chịu. Vả lại sức nội công của Xích-đại-Thông rất mực uyên thâm nên không làm cho hắn giảm mất nhuệ khí.
Cơn nóng giận phừng phừng, Xích-đại-Thông vận hết sức lực mình dồn vào hai tay, miệng hét lên một tiếng, đánh tạt về phía Tôn bà. Sức gió và áp lực nội công của Xích-đại-Thông quá mạnh, đẩy bà lão đánh huỵch vào tường.
Tường bị rung chuyển, gạch ngói rơi xuống, và bà lão bị hộc máu ra, té xỉu xuống.
Dương-Qua thấy thế kinh sợ, nhảy tới án ngữ trước mặt Tôn bà, và nói lớn:
- Các người là quân sát nhân! Sao không giết ta lại giết Tôn bà?
Tôn bà mở mắt khe khẽ mỉm cười, nói:
- Cháu ơi! Có lẽ ta phải chết ở chốn nầy chăng?
Dương-Qua đau lòng, hai tay ôm Tôn bà, quay mặt về phía đạo sĩ, quên rằng mình đang ở trong tình thế hiểm nghèo, nói lớn:
- Hãy giết ta đi! Hãy giết ta nữa đi! Ta quyết chết theo Tôn bà.
Lúc đó Xích-đại-Thông thấy lòng hối hận, tiến bước về phía Tôn bà để xem xét thương thế Tôn bà ra sao. Nhưng Dương-Qua chắn lối, không để ai động đến Tôn bà cả.
Xích-đại-Thông hét:
- Dương-Qua, hãy tránh ra để ta xem Tôn bà ra thế nào.
Dương-Qua không tin lòng tử tế của ai cả, hai bàn tay nó cứ ôm chặt lấy Tôn bà.
Nói mãi, Dương-Qua vẫn chẳng nghe lời. Xích-đại-Thông liền gỡ tay nó ra, hất mạnh nó một cái làm cho nó té sang một bên.
Nó tức giận, hét:
- Đạo sĩ khốn nạn! Ta không bao giờ để chúng bây hãm hại Tôn bà.
Đang lúc Xích-đại-Thông dằng co với Dương-Qua thì đằng sau bỗng nhiên nổi lên một giọng nói lạnh lùng:
- Bắt nạt bà già trẻ con như thế có đáng một anh hùng chăng?
Giọng nói lạnh như băng tuyết ấy làm cho mọi người kinh ngạc. Xích-đại-Thông quay đầu lại thì thấy một thiếu nữ nhan sắc diễm ảo đã đứng sững trước điện đài từ bao giờ.
Nàng nõn nà trong bộ xiêm y màu trắng, thần sắc lạ lùng không biết lấy gì để so sánh. ánh mắt sáng ngời nhưng lạnh lùng của nàng như có mãnh lực trấn áp, chế ngự mọi người khác.
Bấy giờ, nơi Trùng-Dương cung tiếng chuông báo động cho môn đệ xa gần trong phạm vi mười dặm phải cẩn mật canh phòng thế mà nàng lọt vài đại điện chẳng một ai hay biết.
Xích-đại-Thông có cảm giác rờn rợn trước cái uy nghi của thiếu nữ. Ông ta cất tiếng hỏi:
- Cô nương là ai? Đến đây có điều chi chỉ giáo?
Thiếu nữ không đáp, tiến về phía Tôn bà.
Dương-Qua ngẩng đầu lên trông thấy buồn rầu nói:
- Kính thưa Long cô nương, người đạo sĩ độc ác kia đã đánh chết Tôn bà rồi.
Người thiếu nữ y phục màu trắng đó chính là Tiểu-long-Nữ.
Nàng có ngờ đâu Tôn bà cõng Dương-Qua rời khỏi mộ đài, vào Trùng-Dương cung, vì thế bách phải giao đấu, đến nỗi bị Xích-đại-Thông đánh trọng thương.
Khi thấy Dương-Qua lấy thân mình che chở cho Tôn bà, Tiểu-long-Nữ nghĩ bụng:
- Thằng bé nầy có bản tính thế nhân, đa tình, đa cảm.
Đến khi thấy Dương-Qua ôm Tôn bà khóc nức nở. Tiểu-long-Nữ nói:
- Việc gì phải thế? Ai lại khỏi chết được?
Tôn bà là người nuôi nấng Tiểu-long-Nữ từ tấm bé, ơn sâu nghĩa nặng chẳng khác tình mẹ con, Tiểu-long-Nữ há chẳng biết lẽ ấy sao? Chẳng qua bẩm tính của nàng trầm tĩnh, lại đã luyện nội công từ ngày thơ ấu. Trong phép luyện nội công thì iệc trừ thất tính: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục là điều cần thiết. Bởi vậy, dầu việc gì đau đớn bi thương, hờn giận đến đâu nàng cũng vẫn lạnh lùng như băng tuyết. Tình cảm của nàng có lẽ cũng vì cuộc sống mà khác hơn người thường chăng?
Xích-đại-Thông thoáng thấy Tiểu-long-Nữ hơn buồn một chút rồi vẻ mặt lại thản nhiên không hề đổi sắc.
Nàng ung dung đưa mắt nhìn các đạo sĩ qua một loạt. Các đạo sĩ gặp phải thái độ lạnh lùng của nàng, ai nấy đều rợn người như chạm phải băng tuyết, chỉ trừ Xích-đại-Thông sức nội công đã uyên thâm nên tâm vẫn định.
Tiểu-long-Nữ cúi xuống hỏi bà:
- Tôn bà bị đả thương vào đâu thế?
Tôn bà thở dài nói:
- Cô nương! Từ trước đến nay tôi chẳng hề dám phiền đến cô nương, nay có việc cần cô nương giúp đỡ, chẳng biết cô nương có vui lòng chăng?
Tiểu-long-Nữ linh cảm rất thông, nghe Tôn bà nói nàng đã đoán biết ý định phần nào, liền hỏi:
- Tôn bà có điều gì sai bảo con đây?
Tôn bà khẽ gật đầu, lấy tay chỉ vào Dương-Qua.
Rồi bà ngất xỉu đi, không nói nên lời nữa.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Tôn bà muốn dặn con coi sóc nó phải không?
Tôn bà vận dụng hết tàn lực phều phào nói:
- Cô nương, lo liệu, săn sóc, dạy dỗ cho nó nên người, không thể gởi gắm nó vào tay ai được.
Tiểu-long-Nữ chần chờ nói:
- Lo liệu cuộc đời cho nó ư?
Tôn bà với giọng nói đã hết sinh lực, nhưng vẫn cố gắng nhếch mồm, ú ớ:
- Này cô nương! Nếu già nầy chưa chết thì vẫn còn săn sóc cô nương. Lúc còn nhỏ, già đã chăm nom cô nương từng miếng ăn miếng trông... bây giờ cô nương báo đền cho già như thế sao?
Tiểu-long-Nữ thở dài, cắn môi nói:
- Được! Con xin tuân lời Tôn bà.
Trên nét mặt xấu xí của Tôn bà hiện lên một nét vui. Bà mỉm cười, mắt nhìn sang phía Dương-Qua như muốn nói điều gì, nhưng không còn nói được nữa.
Dương-Qua biết ý, ghé sát vào mặt bà lão, khe khẽ thưa:
- Thưa Tôn bà, Tôn bà muốn bảo cháu điều gì?
Bà lão nói trong hơi thở:
- Cháu hãy ghé vào nữa, ghé vào mồm ta...
Dương-Qua ghé tai sát bên mồm. Tôn bà chỉ còn nói được mấy tiếng:
- Cháu cởi áo bông ngoài của ta, áo này...
Tôn bà không còn hơi nữa. Huyết từ trong miệng chảy ồng ộc. Bà thở dốc lên, trợn mắt rồi nhắm nghiền lại.
Dương-Qua kêu thất thanh:
- Tôn bà! Tôn bà ơi!
Rồi hắn ôm Tôn bà khóc không ngó.
Người đàn bà xấu xí nhất đời lại có tấm lòng vàng ngọc kia không còn nữa. Bà đã chết trong lúc bà mang thuốc đến để cứu kẻ địch thật đáng quí hóa cho lòng từ tâm của bà.
Những tiếng khóc thảm thiết của Dương-Qua thốt ra tự lòng chân thành, thương tiếc một người đã chết vì nghĩa làm cho các đạo sĩ không khỏi áy náy.
Xích-đại-Thông bước đến bên xác Tôn bà, cúi đầu hành lễ, lẩm bẩm:
- Thưa Tôn bà, tôi lỡ tay đánh Tôn bà đến mạng vong, thật tôi có tội với kẻ tiền bối. Tuy nhiên đó là chuyện rủi ro, thực tình tôi không cố ý, xin vong linh Tôn bà xét cho.
Tiểu-long-Nữ đứng gần đó, nét mặt vẫn bình thản như mặt nước hồ thu. Nàng liếc nhìn Xích-đại-Thông trong lúc ấy Xích-đại-Thông cũng đưa mắt nhìn Tiểu-long-Nữ để dò xét ý tứ.
Qua một lúc, Tiểu-long-Nữ nhíu đôi mày, trừng mắt nói với Xích-đại-Thông:
- Sao? Nhà người không chịu hủy diệt để đền tội còn đợi chừng nào?
Xích-đại-Thông là kẻ võ nghệ cao cường, tâm đạo khá cao, thế mà khi nghe câu nói đầy vẻ uy phong của Tiểu-long-Nữ cũng phải rởn ốc.
Xích-đại-Thông ú ớ:
- Sao? Sao...?
- Giết người phải đền mạng. Nếu ngươi biết điều tự xử lấy thì ta có thể dung tha cho tất cả các đạo sĩ ở Trùng-Dương cung nầy.
Xích-đại-Thông đứng lặng người đi một lúc. Trong khi ấy các đạo sĩ kia nhao nhao lên vì sợ sệt cũng có, vì tức giận cũng có.
Sau phút giận dữ vì chạm lòng tự ái, Xích-đại-Thông trở lại trầm tĩnh, kêu Tiểu-long-Nữ nói:
- Tiểu cô nương mau lùi bước. Tuy lời nói của cô nương có xúc phạm đến danh dự của môn phái ta, song cô nương là một cô gái bé bỏng chúng ta không trách móc làm gì.
Tiểu-long-Nữ không nói gì cả, thong thả lấy ra hai cuộn dây trắng toát như hai vuông lụa, dùng tay mặt quấn lấy đầu dây.
Các đạo sĩ đứng xung quanh lấy làm lạ, không biết nàng lấy cuộn dây để làm gì, và tác dụng cuộn dây ấy ra sao.
Tiểu-long-Nữ nhìn Xích-đại-Thông ung dung nói:
- Lão đạo sĩ kia, ngươi đã ham sống sợ chết không chịu tự vẫn thì hãy rút kiếm ra để ứng chiến.
Xích-đại-Thông rầu rầu nói:
- Bần đạo đây lỡ tay làm bà lão bị tử thương, thực ra không muốn có sự xích mích như thế. Vậy cô nương liệu bề cõng Dương-Qua ra khỏi điện này thì tốt hơn.
Nói như thế, Xích-đại-Thông nghĩ rằng, Tiểu-long-Nữ còn nhỏ tuổi dẫu võ nghệ cao cường đến đâu nữa cũng chẳng qua như Tôn bà là cùng. Nay Xích-đại-Thông đã nhân nhượng lắm rồi.
Nhưng Xích-đại-Thông có ngờ đâu lời nói của hắn chỉ là một cơn gió thoảng, không lọt vào tai Tiểu-long-Nữ.
Nàng vung tay trái lên một cái thì một dải lụa trắng được phóng ra đụng vào mặt Xích-đại-Thông; sự xảy đến thực không ngờ được.
Dưới ánh sáng của những cây nến, dải lụa lóng lánh ở ngoài đầu một vật tròn như một quả cầu bằng kim khí.
Xích-đại-Thông thấy nàng xuất thủ mãnh liệt và nhanh như chớp, êm như ru, lại sử dụng một thứ vũ khí quái dị, chưa tìm ra cách nào để ứng phó.
Xích-đại-Thông là người đã lớn tuổi, giàu kinh nghiệm chiến đấu trên bước giang hồ, nên việc gì dẫu lớn nhỏ cũng đều dè dặt.
Vì vậy, thấy Tiểu-long-Nữ xuất thủ, hắn chỉ né tránh để xem chừng sức lực và tài nghệ của đối phương.
Dải lụa của Tiểu-long-Nữ có thể tự động sai khiến quả cầu quay tít trên không nhắm vào đối phương tấn công như vũ bão.
Ba tiếng "tinh! tinh! tinh" ngân dài, quả cầu nhanh như chớp nhảy lên nhảy xuống ba lần điểm vào ba huyệt đạo: tử bạch, hạ quan và địa thương không sai một mảy.
Xích-đại-Thông là người đã giàu kinh nghiệm, trông xa thấy rộng, nên khi nghe tiếng "tinh, tinh, tinh" của quả cầu biết ngay địch thủ dùng ngón độc liền ngả người về phía sau dùng thế "thiết băn kiều" để tránh. Xích-đại-Thông để cho quả cầu xoay qua khỏi mũi mình rồi lần lần đưa tay đẩy sang một bên.
Ngón "Thiết băn kiều" có nghĩa là tấm cầu bằng sắt. Ngón nầy Xích-đại-Thông đã dày công rèn luyện mấy mươi năm trời, nhờ sức nội công uyên thâm mới có thể luyện nổi...
Thật vậy, thế ấy đã cứu nguy cho Xích-đại-Thông trước làn kinh cầu của Tiểu-long-Nữ.
Sau khi quả kim cầu bị mất hiệu lực, Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:
- Ta dùng quả cầu điểm huyệt đối phương cả trăm lần chưa sai một, thế mà tên đạo sĩ nầy tự giải cứu được, kể ra hắn cũng thuộc vào bậc nhất trong thiên hạ rồi.
Tuy Xích-đại-Thông vận nội công dùng miếng võ điêu luyện để phản nguy, song không vì thế mà tránh khỏi ảnh hưởng về điện lực. Sức quả cầu quá mạnh, làm cho Xích-đại-Thông phải dùng hết sức mình. Mặt ông ta bỗng tái nhợt đi, rồi đờ người ra.
Các đạo sĩ đứng xung quanh tuy không phải là học trò của Xích-đại-Thông, song thấy Xích-đại-Thông như thế đều nóng lòng nhảy vào tiếp cứu.
Bốn vị đạo sĩ thuộc vào hạng khá, vung trường kiếm xốc vào.
Tiểu-long-Nữ hét:
- Này, hãy chuẩn bị binh khí chống đỡ đi.
Dứt lời, nàng múa hai tay lên, hai dải lụa trắng như hai con rắn uốn khúc trên không. "Tinh! tinh!" hai tiếng, rồi "Tinh! tinh!" hai tiếng nữa, huyệt "đại uyên" ở cổ tay các đạo sĩ đều bị quả cầu bằng kim khí điểm vào, bốn thanh trường kiếm rơi xuống đất.
Các đạo sĩ tái mặt kẻ ôm đầu người rút cổ bỏ chạy ra khỏi vòng chiến đấu.
Xích-đại-Thông lúc đầu gặp Tiểu-long-Nữ không ngờ nàng có một sức nội công mãnh liệt như thế nên thiếu đề phòng. Bây giờ hắn đã lấy lại được uy mãnh, bước đến giật một thanh trường kiếm trong tay một đạo sĩ gần đây, và nói với Tiểu-long-Nữ:
- Long cô nương tài nghệ đến mức tuyệt luân. Bần đạo không còn dám khinh xuất trước cô nương nữa, mong cô nương chỉ giáo cho bần đạo một ngón cao cường hơn.
Tiểu-long-Nữ gật đầu một cái. Tức thì hai tiếng "Tinh! tinh!" phát ra, dải lụa trắng từ tay trái sang tay phải vút ngang mặt Xích-đại-Thông rồi lại thu về.
Xích-đại-Thông ngả người ra tránh và so tài mình với Tiểu-long-Nữ thấy còn thua nàng một bực.
Để tỏ lòng tôn kính bậc lớn tuổi hơn mình, Tiểu-long-Nữ nhường cho Xích-đại-Thông đánh trước ba ngọn.
Xích-đại-Thông vung kiếm tấn công ba hiệp liên tiếp, nhưng Tiểu-long-Nữ như một vị nữ thần không hề nao núng. Nàng chỉ tung dải lụa kia ra làm vũ khí của Xích-đại-Thông trở nên yếu hèn vô dụng.
Xích-đại-Thông nghĩ bụng:
- Người con gái nầy có nhiều ngón võ độc đáo, được rèn luyện rất công phu, nếu nàng được nhiều kinh nghiệm giao đấu nữa thì chắc trong thiên hạ không ai bì kịp.
Nghĩ như vậy, Xích-đại-Thông cố dùng hết cái uyên thâm về kiếm thuật trong phái Toàn-Chân để đối phó với thuật dùng kim cầu của Tiểu-long-Nữ.
Kiếm pháp phái Toàn-Chân quả thật mãnh liệt, Xích-đại-Thông cố gắng biểu diễn hết những nét độc đáo trong nghề, mong áp đảo hai quả kim cầu kia.
Các đạo sĩ đứng xung quanh đều nín hơi xem đấu. Dưới ánh đèn lồng, thấp thoáng bóng một thiếu nữ xiêm y màu trắng uyển chuyển như một cành mai, sắc đẹp như một nữ thần và một lão đạo sĩ da hồng, râu tóc phất phơ, áo quần màu tro, chít khăn vàng, đang so tài thử sức mỗi lúc một kịch liệt.
Với mười năm khổ công rèn luyện, Xích-đại-Thông là một tay kiếm lợi hại trong hạng ba bốn người tài cao của phái Toàn-Chân thế mà khi đem so với Tiểu-long-Nữ trong ít chục hiệp, người ta thấy đường kiếm của Xích-đại-Thông mỗi lúc một bối rối thêm.
Tiểu-long-Nữ thì vận dụng hết tinh lực của hai quả cầu, xử dụng bằng hai dải lụa, uốn khúc như rồng bay phượng múa, thỉnh thoảng phát ra những tiếng "Tinh! Tinh" làm cho đối phương phải hồn xiêu phách lạc.
Đánh lâu mà không sao áp đảo được đối phương. Xích-đại-Thông tự hổ thẹn cho tài nghệ mình, lòng bối rối, khiến cho sức nội công vì thế mà suy giảm. Đường kiếm bám sát vào dải lụa không cho kim cầu tự do hoạt động, bây giờ chỉ đủ sức ngăn cản kim cầu không còn áp đảo được sức vùng vẫy của hai dải lụa nữa.
Đánh thêm ít hiệp nữa, sức vùng vẫy của hai dải lụa đã điều khiển hai kim cầu một cách mạnh mẽ chạm vào lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông nghe lẻng kẻng.
Xích-đại-Thông kinh hãi, liền vận dụng sức nội công uyên thâm của mình mong đánh đội hai quả kim cầu trở lại. Mũi kiếm được nội công tiếp sức tấn công như vũ bão.
Các đạo sĩ đứng xem hoan hô cổ võ khi thấy Xích-đại-Thông phóng mũi kiếm quấn vào dải lụa chuyển về phía tay Tiểu-long-Nữ. Nếu Tiểu-long-Nữ không buông dải lụa tất mũi kiếm đâm lủng tay.
Nào ngờ, Tiểu-long-Nữ mặt lạnh như đồng, chẳng hề đổi sắc dùng tay phải chận thanh kiếm rồi hãm khí phóng ra. Thanh kiếm bị gãy làm đôi nơi giữa lưỡi.
Thấy thế các đạo sĩ la thất thanh, và kinh ngạc.
Xích-đại-Thông chạy đến tay run run lượm thanh kiếm gãy, mặt tái đi vì hổ thẹn, nghĩ bụng:
- Công phu ta tập luyện mấy mươi năm trời, nay đánh không lại một đứa con gái nhỏ thế nầy, còn gì là uy danh nữa.
Đoạn Xích-đại-Thông cất giọng nói với Tiểu-long-Nữ:
- Bần đạo xin khuất phục tài nghệ cô nương. Vậy cô nương có quyền đem Dương-Qua về dạy dỗ. Chúng tôi xin nhường hắn cho cô nương đó.
Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:
- Ngươi đánh chết Tôn bà rồi chịu nhường đệ tử và thú nhận cái bất lực của ngươi như thế là xong chuyện ư?
Xích-đại-Thông ngẩng mặt lên trời cười ngạo nghễ nói:
- Nếu biết ta là một đạo sĩ biết trọng danh dự, ngươi chớ quá hồ đồ.
Dứt lời Xích-đại-Thông đưa lưỡi kiếm gãy vào cổ toan quyên sinh.
Ngay lúc đó, bỗng một tiếng "keng" nổi lên làm đội lưỡi kiếm của Xích-đại-Thông ra, rơi xuống đất.
Xích-đạo-Thông ngạc nhiên nghĩ thầm:
- Ai đã dùng thủ đoạn nầy để cản trở ta? Kẻ nào đây nhỉ?
Hắn quay lại nhìn, không thấy bóng người nào cả.
Nghĩ một lúc Xích-đại-Thông lẩm bẩm:
- Chỉ có Khưu-xứ-Cơ mới sử dụng được ngón bí quyết này.
Nghĩ như vậy Xích-đại-Thông nói lớn:
- Thưa sư huynh, đệ tử là kẻ bất tài đã làm nhục cho môn phái xin sư huynh xét lại.
Dứt lời, Xích-đại-Thông lại cúi xuống nhặt thanh kiếm gãy lên.
Bỗng từ ngoài võ điện, một tràng cười nổi lên, tiếp theo giọng nói:
- Sư đệ Xích-đại-Thông ơi! Thua được là chuyện thường. Đây là một dịp thúc đẩy chúng ta phải tập luyện nhiều hơn nữa. Đã có mười tám người nữa rửa nhục cho sư đệ.
Rồi theo tiếng nói đó, một đạo sĩ râu tóc bạc phơ, tay cầm trường kiếm nhảy qua bức tường mà nói.
Đạo sĩ ấy chính là Khưu-xứ-Cơ. Bẩm tính Khưu-xứ-Cơ ít ưa chuyện dài dòng khách sáo, nên vừa chạm mặt Tiểu-long-Nữ là ông ta vung trường kiếm đâm thẳng tới, và nói:
- Bần đạo là Trường-Xuân Khưu-xứ-Cơ xin lãnh giáo vài đường với người láng giềng tài cao.
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Ngươi chắc thừa hiểu tài năng ta cũng chẳng có gì.
Đoạn nàng đưa tay bắt lấy thanh trường kiếm của Khưu-xứ-Cơ.
Xích-đại-Thông đứng bên ngoài trông thấy kêu thất thanh:
- Sư huynh! Sư huynh! coi chừng.
Nhưng câu nói Xích-đại-Thông đã trễ. Hai người đang vận nội công giành nhau thanh kiếm.
Một tiếng "rắc" thanh trường kiếm gãy làm đôi. Khưu-xứ-Cơ thất kinh. Còn Tiểu-long-Nữ lần nầy cảm thấy tay nàng đau buốt và ngực hơi thiếu thở.
Nàng nghĩ thầm:
- Lão nầy hơn Xích-đại-Thông một bực. Ta chưa luyện xong Ngọc nữ tâm kinh chưa chắc nắm phần thắng được.
Nghĩ như vậy Tiểu-long-Nữ một tay bồng xác Tôn bà một tay ôm Dương-Qua khinh thân qua khỏi vách tường biến dạng.
Khưu-xứ-Cơ và Xích-đại-Thông đã giao đấu với Tiểu-long-Nữ đoán biết tài vũ công của nàng cũng chẳng hơn họ bao nhiêu, song với lối khinh thân thần tốc của nàng làm cho mọi người không ngớt kinh dị. Tài khinh thân ấy không có một ai so sánh nổi.
Xích-đại-Thông nhìn Khưu-xứ-Cơ, nói:
- Thật là quá đỗi! Ôi thôi!
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Xích sư đệ, chúng ta uổng công tập luyện mấy mươi năm trường, há chẳng chiêm nghiệm cuộc thua trận nhục nhã này sao? Nhưng thôi, chuyện nầy chưa vội, bây giờ một số trong chúng ta phải đi Sơn Tây gấp đã.
Xích-đại-Thông ngạc nhiên hỏi:
- Lại có việc gì gây rối sao? Có ai bị thương đó?
Khưu-xứ-Cơ nói:
- Chuyện nầy kể ra còn dài dòng. Hiện giờ Mã-Ngọc sư huynh đã lên đường rồi. Chúng ta tiếp tục nối gót.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 14 : Năm cỗ quan tài
Đến đây, chúng ta cũng cần biết nguyên nhân nào đã thúc đẩy các đồ đệ của môn phái Toàn-Chân phải đấu bước giang hồ.
Số là, Xích-Luyện Tiên tử Lý Mạc Thu từ khi đả thương một số người ở miền Giang-Nam, Hồ-Châu, tự thấy mình kết oán, gây thù sâu sắc, nên chuyển bước sang đất Sơn Tây. Tại đây, Lý Mạc Thu vẫn không bỏ tánh háo chiến. Nàng đả thương một số anh hùng hào kiệt ở Tấn Bắc, làm cho các thủ lãnh trong giới giang hồ đều căm phẫn. Họ kêu gọi các môn phái hợp tác nhau để khử trừ cho được Lý Mạc Thu.
Toàn-Chân là một môn phái có hạng trong thiên hạ, bấy giờ do Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ lãnh đạo. Hai vị nầy thấy Lý Mạc Thu lắm điều tội lỗi, song khổ nỗi nàng lại ở trong môn đồ của Vương-trùng-Dương vị Tổ sư của họ, nên chẳng biết làm thế nào hơn là đóng vai trò trung gian hòa giải, tìm cách cho Lý Mạc Thu cải tà quy chánh.
Bây giờ, Lưu-xứ-Huyền và Tòa-bất-Nhị liên hiệp nhau ở phía Bắc. Lý Mạc Thu chẳng kể ai vào đâu cả, coi đời bằng khóe mắt, nghe tin họ liên hiệp để chống lại mình, liền mò đến đánh. Trước sau Lý Mạc Thu đã hạ Lưu và Tôn hai trận liên tiếp.
Sau này Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất, hai tay cao cường trong Toàn-Chân phải đến ứng chiến. Lý Mạc Thu khôn ngoan tự thấy một mình không thể đánh nổi số đông, liền dùng lời lẽ ôn tồn làm cho Khưu và Vương bị khích động không thể tham chiến. Nàng hẹn với Khưu và Vương sẽ tỉ thí với nàng ở một nơi khác.
Ngày thứ nhất, tỉ thí với Tôn-bất-Nhị, Lý Mạc Thu
đã dùng kim độc phóng vào huyệt "thân thượng" của đối phương. Sau đó nàng lại cho người mang thuốc đến giải trừ.
Hành động ấy khiến cho Khưu-Vương hai người không rõ tâm tánh của Lý Mạc Thu ra sao cả.
Phàm trong nguyên tắc võ lâm, kẻ đã cứu đối thủ không thể coi như kẻ thù được.
ấy vậy các tay thủ lãnh đến hợp tác với Tôn-bất-Nhị thấy vậy đều mỉm cười chua chát rồi rút lui không tham chiến nữa.
Cũng may, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất tự thấy mình chưa phải là lúc ứng chiến với Lý Mạc Thu nên mới trở về kịp Trùng-Dương-cung cứu nguy cho Xích-đại-Thông.
Nhắc lại, Tiểu-long-Nữ lúc ra khỏi Trùng-Dương điện, một tay bồng xác Tôn bà một tay bồng Vương-Qua, khinh thân thẳng về Hoạt-tử-Nhân mộ đài một mạch.
Nàng đặt xác Tôn bà lên giường nàng ngủ thường ngày, còn nàng thì ở trên ghế trường kỷ chống tay thẫn thờ suy nghĩ.
Dương-Qua ôm xác Tôn bà khóc sướt mướt không thôi. Một lúc lâu Tiểu-long-Nữ mới nói:
- Đàng nào Tôn bà cũng đã chết, khóc mãi chẳng ích gì? Bây giờ mi khóc Tôn bà như thế, ngày mai mi chết có ai khóc cho mi chăng?
Nghe Tiểu-long-Nữ nói những câu lạnh nhạt như vậy, Dương-Qua không hiểu gì cả buồn rầu hơn, và càng khóc to hơn nữa!
Tiểu-long-Nữ nói:
- Thôi ta đi an táng Tôn bà đây. Mi hãy theo ta.
Nói dứt lời, nàng bước đến bồng xác Tôn bà đi về phía Tây. Dương-Qua lấy vạt áo chùi nước mắt bước theo.
Đường trong mộ đài tối lờ mờ, ánh sáng bên ngoài rọi vào yếu ớt. Dương-Qua phải chú mục vào màu trắng của xiêm y Tiểu-long-Nữ để nối gót.
Hai người đi quanh co một lúc thì đến một con đường hầm tối đen như mực. Con đường hầm đó dẫn đến một cánh cửa bằng đá Tiểu-long-Nữ đưa tay đẩy cánh cửa thì bên trong lộ ra một căn phòng cũng bằng đá, và tối om. Nàng rút trong bọc ra lấy một viên đá lửa đập vào một tảng đá. Bùi nhùi nàng đã chuẩ bị sẵn. Lửa bén vào, cháy bùi nhùi tỏa ánh sáng tạo thành một màu kinh dị.
Tiểu-long-Nữ thắp một ngọn đèn dầu đặt giữa căn phòng.
Nhìn bốn phía Dương-Qua cảm thấy trong người ớn lạnh.
Đó là một căn phòng rộng, trống rỗng, trơ trọi có năm cái quan tài bằng đá.
Nó nín hơi lấy can đảm đưa mắt nhìn về năm cỗ quan tài ấy thì thấy hai cái đã có nắp đậy kín, còn ba cái nắp đậy hở.
Nó ngơ ngẩn tự hỏi:
- Chẳng biết trong ba cỗ quan nắp hở nầy đã có xác người chết hay chưa.
Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ chiếc quan tài bên trái nói:
- Sư phụ phu nhân an giấc ở chỗ này.
Rồi nàng lại chỉ vào cái quan tài bằng đá thứ hai, nói:
- Còn sư phụ an giấc ngàn thu ở chỗ này đây.
Tiếp đó, nàng lại đưa tay chỉ vào chiếc quan tài thứ ba.
Dương-Qua lòng ngờ ngợ, chẳng biết Tiểu-long-Nữ sẽ bảo ai an giấc trong đó. Nhìn nắp quan tài chưa đậy, nó chẳng biết có xác chết nào trong đó chưa.
Bỗng nghe Tiểu-long-Nữ nói:
- Tôn bà an giấc trong cỗ quan tài nầy.
Nó đánh thót người nhẹ nhõm và tìm hiểu rằng: "những chiếc quan tài chưa đậy nắp là chưa có người chết".
Trí tò mò của nó lại nổi dậy, nó nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Thưa cô nương, còn hai cỗ quan tài không kia nữa.
Tiểu-long-Nữ thản nhiên đáp:
- Một cái dành cho sư tỉ của ta là Xích-Luyện tiên tử Lý Mạc Thu.
Dương-Qua ngẩn người hỏi:
- Lý cô nương cũng lại về đây an giấc sao?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Sư mẫu ta đã dự liệt trước, sư tỉ rồi thế nào cũng phải về.
Dương-Qua lại hỏi:
- Còn một cỗ quan tài nữa?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Cỗ quan tài đó dành cho ta. ở đây còn thiếu một cỗ quan tài nữa chỉ vì sư mẫu ta không dự liệu được rằng mi sẽ đến đây.
Nghe nói vậy, Dương-Qua giật mình. Tự nhiên bản tính "uý tử cầu sinh" nổi dậy, nó hoảng hốt đáp:
- Cô nương ơi! Tôi không chết nơi đây đâu! Tôi không muốn chết!
Tiểu-long-Nữ nghiêm nét mặt nói:
- Ta nhớ lời dặn của Tôn bà là sẽ chăm lo săn sóc đến mi trọn đời. Lời hứa ấy ta chẳng dám sai.
Dương-Qua lạnh toát cả mình, nhất là trước căn phòng âm u với năm cỗ quan tài ấy, làm cho nó ám ảnh một mối buồn rùng rợn.
Nó nói rối rít:
- Nếu cô nương không bằng lòng để tôi đi thì lúc cô nương chết rồi tôi cũng tìm cách ra khỏi chốn nầy.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta đã bảo theo lời trăn trối của Tôn bà, ta phải lo liệu cho mi trọn đời, thì có bao giờ ta để cho mi chết sau ta?
Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao vậy? Cô nương nhiều tuổi hơn tôi mà!
Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:
- Chết sống không cần phải ít hay nhiều tuổi. Phỏng sử ta có chết trước mi ta cũng tìm cách cho mi được chết theo.
Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song tâm cơ đã có nhiều mưu trí. Mặc dù vậy, những mưu trí có hay đến đâu cũng chỉ là mưu trí của trẻ con.
Khi nghe Tiểu-long-Nữ nói như vậy, tâm trạng chống đối lại âm thầm nổi đậy trong đầu óc nó.
Nó nghĩ thầm:
- Tại sao lại buộc ta phải chết, mà phải chết nơi đây? Nhưng cái chết cái sống hãy còn xa vời, ta có đủ thì giờ để đối phó.
Tiểu-long-Nữ thấy nó thẫn thờ suy nghĩ hiểu ngay tâm trạng của nó, liền bước đến giờ nắp quan tài, đặt xác Tôn bà vào trong.
Dương-Qua chợt nhớ đến lời trăn trối của Tôn bà: "Mi hãy lấy chiếc áo bông phủ ngoài của ta. áo này..."
Nó vùng đứng dậy, chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, nói:
- Thưa cô nương! Theo lời trăn trối xin cô nương cho tôi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà.
Tiểu-long-Nữ không muốn cho người bên mình phải buồn phiền, lại thấy Dương-Qua với Tôn bà quen biết mới trong ngày mà tình quyến luyến đã sâu đậm, nên cởi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà trao cho Dương-Qua.
Dương-Qua cầm lấy chiếc áo khóc nức nở, nghĩ đến lời trăn trối của Tôn bà, mặt mày nó đau đớn như mất một người thân.
Tiểu-long-Nữ thừa lúc nó gục mặt xuống khóc, lấy tay kéo nắp quan tài đậy kín lại khít rịt, không khí không còn ra vào được nữa.
Tiểu-long-Nữ sợ Dương-Qua lại khóc nữa, liếc mắt nhìn nó một chút, rồi nhìn lãng sang chỗ khác nói:
- Thôi! Hãy theo ta ra ngoài.
Dứt lời, nàng lấy vạt áo quạt một cái, ngọn đèn dầu tắt, căn phòng rộng lớn bao la bỗng trở nên tối đen như mực.
Dương-Qua sợ nàng bỏ rơi nó lại trong căn phòng mộ địa này vội vàng vớ chiếc áo bông của Tôn bà mà theo luôn Tiểu-long-Nữ bước ra.
Trong mộ đài, ngày cũng như đêm bóng tối đen ngòm.
Vì hai người đã hoạt động hơn nửa ngày, nên ai cũng có cảm giác mệt mỏi. Tiểu-long-Nữ ra lệnh cho Dương-Qua ngủ ở căn phòng mà bình sinh Tôn bà dùng làm chỗ nghỉ ngơi.
Dương-Qua từ tấm bé, tuy đã trải qua những lúc quạnh hiu cô độc, đã từng ngủ ở đầu hè, xó chợ, đã từng ngủ nơi núi rậm, rừng sâu, song đối với mộ đài nầy như cái gì rùng rợn oai nghiêm làm cho nó muốn rỡn óc. Nó không dám tuân lời của Tiểu-long-Nữ.
Thấy như nó không để ý đến lời mình, Tiểu-long-Nữ nhìn nó hỏi:
- Mi không nghe ta nói gì sao?
Dương-Qua thưa:
- Thưa cô nương, tôi sợ...
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Sợ cái gì?
Dương-Qua thở dài đáp:
- Tôi cũng không hiểu nữa... Tôi không dám ngủ một mình.
Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:
- "Tuổi nó hãy còn nhỏ, nó sợ sệt cũng phải".
Nàng suy nghĩ một lúc rồi thở dài, khẽ nói:
- Được, cứ theo ta vào đây mà ngủ.
Rồi nàng dẫn Dương-Qua vào phòng nàng. Nàng thường có thói quen không thắp đèn, nhưng nay có Dương-Qua, nàng thắp lên một ngọn đèn dầu nhỏ.
Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dung mạo mỹ miều, không gì sánh kịp, trong bộ y phục trắng như tuyết không vướng chút bụi trần, ngỡ rằng khuê phòng nàng hẳn trần thiết cực kỳ diễm ảo. Nào ngờ lúc bước vào phòng thì thực là thất vọng. Phòng xây bằng đá trống rỗng, không có gì cả, chẳng khác gì căn phòng có năm cỗ quan tài kia. Giường nàng là một phiến đá xanh dài có trải thảm bằng cỏ, trên phủ một lần vải thô. Ngoài mấy thứ ấy ra, căn phòng chẳng còn có gì khác.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Chẳng biết nàng cho mình nghỉ ở đâu nhỉ! Có lẽ nàng bắt mình nằm dưới đất là phải.
Đang lúc nó phân vân chưa kịp hỏi thì Tiểu-long-Nữ cất tiếng bảo:
- Mi leo lên giường nằm ngủ đi.
Dương-Qua hỏi:
- Thế thì cô nương ngủ ở đâu?
Tiểu-long-Nữ nghiêm nghị nói:
- Ta đã có chỗ khác, mi khỏi phải lo.
Dương-Qua nói:
- Ngủ trên giường bất tiện, xin cô nương cho tôi ngủ dưới đất cũng được.
Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt nói:
- Ta là bậc sư phụ mi, ta nói gì mi cũng phải nghe. Mi đừng quen thói đánh lại sư phụ như ở bên Trùng-Dương cung mà mất mạng đó.
Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dùng lời gay gắt, vội nói:
- Xin cô nương đừng giận dữ như thế. Tôi chỉ cần vâng theo lời cô nương là được chứ gì?
Tiểu-long-Nữ thấy giọng nói của Dương-Qua có vẻ không tôn kính mình nên không vừa ý, nói:
- Mày bướng bỉnh phải không?
Dương-Qua thấy nàng còn ít tuổi lại đẹp đẽ mỹ miều, không có vẻ gì đang bậc sư phụ mình, nên nó chép miệng một cái, rồi nói:
- Tôi đâu dám chẳng tuân lời...
Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua chép miệng, đoán được ý nó, hét:
- Tại sao mi có cử chỉ khinh thường ấy. Mi không phục ta phải không?
Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ làm dữ, không dám nói nữa vội tuột hài, nhảy phóc lên giường nằm.
Nằm được một lúc, nó cảm thấy lạnh buốt xương, vội chồm dậy, tụt xuống đất la lớn:
- Lạnh quá! Lạnh chết đi thôi!
Tiểu-long-Nữ không nhịn được cười, chạy đến phía sau vách lấy chiếc phất trần chỉ vào mặt nó:
- Ta bảo mi phải nằm lên đó, và ngủ đi. Nếu còn rên rỉ than lạnh ta đánh cho mười roi nầy.
Dương-Qua thất kinh, vội leo lên giường nằm nữa, lần nầy nó cố chịu đựng, nhưng lạ thay, sức lạnh từ đâu xông vào người nó, làm cho nó tê cứng cả người, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập.
Tiểu-long-Nữ lấy chiếc áo bông của Tôn bà để vào một nơi khiến Dương-Qua không rờ tới.
Lạnh quá, nhưng Dương-Qua sợ đánh đòn không dám tuột xuống như lần trước nữa, ré lên:
- Ôi chao! Cô nương ơi!
Tiểu-long-Nữ mỉm cười hỏi:
- Cái gì thế?
Dương-Qua nói:
- Ôi chao! Chiếc giường nầy như có gì kỳ lạ! Tôi không thể nằm được lâu.
Rồi nhìn thấy nét mặt tươi cười của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cho rằng nàng đã sung sướng trước cái đau khổ của nó, nó nổi giận nói:
- Tôi không muốn nằm nơi đây nữa đâu. Cô nương cho tôi nằm dưới đất mà thôi.
Tiểu-long-Nữ giơ chiếc phất trần trước mặt nó nói:
- Hãy nằm im và ngủ. Trái lời, mi đừng trách ta độc ác.
Dứt lời, nàng rút hai sợi dây cột vào kẹt đá, leo nằm lên hai sợi dây đó, rồi lấy tay vẫy một cái, ngọn đèn phụt tắt.
Trong phòng tối mịt, Dương-Qua lấy làm lạ:
"Tại sao nàng lại có thể nằm ngủ lơ lửng trên hai sợi dây như thế nhỉ?" Nó bắt đầu khâm phục tài nghệ của Tiểu-long-Nữ, và hỏi:
- Thưa cô nương, cô nương có thể dạy tôi nằm ngủ như thế chăng?
Bản tính con nít dễ giận mà cũng dễ làm thân. Nó vừa có ác cảm với Tiểu-long-Nữ, bây giờ thấy Tiểu-long-Nữ vui vẻ, nó lại cảm mến ngay.
Tiểu-long-Nữ thấy tánh nết trẻ con của nó cũng tức cười. Nàng nói:
- Dạy mi nằm ngủ như thế nầy để làm gì? Ta còn lắm điều phải chỉ dạy cho mi.
Câu nói ấy làm cho Dương-Qua đoán biết Tiểu-long-Nữ không có ác ý với nó, mà chỉ muốn dạy dỗ nó thôi. Nó hối hận cất tiếng nói:
- Thưa cô nương! Cô nương có thể cho tôi biết những điều mà cô nương sắp dạy bảo tôi chăng? Lúc nãy tôi có lỗi với cô nương.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta biết rồi! Tự nhiên mi oán ta! Điều đó có gì lạ!
Dương-Qua vội nói:
- Không, không! Tôi đâu dám oán giận cô nương. Lúc nãy tôi cứ tưởng cô nương cũng như sư phụ trước của tôi, cứ hành hạ tôi mà không truyền dạy cho tôi gì cả.
Tiểu-long-Nữ cười lạt nói:
- Mi trách sư phụ trước của mi không dạy dỗ cho nên mi oán hận. Bây giờ ta dạy dỗ sao mi cũng oán hận?
Dương-Qua nói:
- Chỉ vì cô nương cũng hành hạ tôi, bắt tôi nằm trên chiếc giường giá lạnh này.
Tiểu-long-Nữ nói:
- à ra mi cho thế là ta đã hành hạ mi ư? Ta thiết tưởng suốt đời mi nên tìm cái cực nhỏ như vậy để nên người.
Dương-Qua trố mắt nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Thế thì sống để chịu cực hình sao?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Các cực hình ấy sẽ đem lại cho mi biết bao điều hay!
Dương-Qua mới hiểu ra, hỏi:
- Thưa cô nương, chiếc giường lạnh nầy có gì bí quyết ư?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Những tay võ nghệ cừ khôi trong thiên hạ chưa chắc đã nằm nổi trên chiếc giường này. Nhưng thôi, việc đó mi sẽ hiểu sau, bây giờ mi phải nhắm mắt ngủ đi, không được nói nữa.
Trong căn phòng tối om, Dương-Qua chỉ nghe giọng kêu cót két của hai sợi dây mà Tiểu-long-Nữ dùng làm võng.
Sau câu nói như ra lệnh của nàng, Dương-Qua không dám hỏi nữa, song nó không làm sao ngủ được. Chốc chốc nó lại xuýt xoa vì lạnh.
Một lúc lâu nó cất tiếng khẽ nói:
- Cô nương ơi! Tôi không chịu nổi sự lạnh nầy nữa.
Không nghe tiếng Tiểu-long-Nữ đáp lại, nó lắng tai nghe thì thấy hơi thở của nàng đều đều và chậm lại.
Nó đoán chừng Tiểu-long-Nữ đã ngủ, nó nghĩ bụng:
- Cô nương đã an giấc, vậy ta xuống đất một chút cho đỡ lạnh cũng chẳng sao.
Nghĩ vậy nó rón rén tụt xuống giường, không dám thở mạnh.
Nào ngờ nó vừa bước chân xuống đất thì một tiếng đàn cầm vang lên. Tiểu-long-Nữ từ trên dây nhảy xuống một tay vớ cây phất trần, một tay thộp vào cổ nó, quất mấy cái vùn vụt nói:
- Mi dám trái lời ta sao! nếu còn lừa dối ta sẽ đánh đến chết.
Nàng đánh đủ mười roi khiến Dương-Qua đau tím ruột.
Nó lồm cồm lên giường nằm trở lại không dám động đậy.
Tiểu-long-Nữ ngỡ là sau trận đòn thế nào Dương-Qua cũng khóc và oán trách nàng. Nhưng thấy nó nằm im thin thít không hề than thở gì cả. Tiểu-long-Nữ lấy làm lạ gọi nó hỏi:
- Dương-Qua tại sao mi nằm im thế?
Dương-Qua thỏ thẻ:
- Cô nương bảo sao làm vậy. Cô nương bắt nằm là phải nằm, bảo đánh thì đánh, thế thì khóc lóc ích gì?
Tiểu-long-Nữ nói:
- A! Thế ra mi nằm im để hờn dỗi ta phải không?
Dương-Qua nói:
- Tôi chẳng bao giờ hờn cô nương. Tôi đã thấy lòng cô nương thương mến tôi rồi.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ai bảo mi thế?
Dương-Qua nói:
- Cô nương đánh tôi, nhưng thực ra cô nương không đánh mạnh. Như vậy không phải vì cô nương sợ tôi đau sao.
Thật vậy, Tiểu-long-Nữ đánh Dương-Qua là để bắt nó thi hành theo lệnh mình. Vì vậy nàng chỉ đánh mạnh hai roi đầu, còn mấy roi sau chỉ đánh cho đủ số.
Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua ranh mãnh, tìm hiểu được dụng ý của mình, liền hét lớn:
- Đừng tưởng lầm! Nếu lần sau mi còn trái lệnh ta sẽ đánh đến thối thịt đó.
Dương-Qua thấy lời nói nàng tuy hăm dọa nhưng có âu yếm, lòng hớn hở nói:
- Dù cô nương có đánh đến tan xương nát thịt tôi vẫn vui lòng.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta chỉ sợ rồi đây với tánh ương ngạnh, rắn mắc của ngươi, ngày nào cũng bị đòn là khác.
Dương-Qua nói:
- Tôi chỉ ghét và thù hằn những người đánh tôi với ác ý. Còn như cô nương vì thương tôi mà đánh, tôi đã không giận mà lại còn sung sướng hơn nữa. Cô nương thuộc vào những người tôi thương.
Tiểu-long-Nữ nghe nó nói, mỉm cười, hỏi:
- Mi thử kể ta nghe ai là người mi ghét? Ai là người mi thương.
Dương-Qua nói:
Những người tôi ghét tôi không thèm nhớ đến làm chi. Còn những người tôi thương như mẹ tôi thì đã chết mất rồi. Âu-dương-Phong là cha nuôi tôi, rồi đến Quách-Tỉnh và sau nữa là Tôn bà và cô nương.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta đã làm gì mà mi thương ta?
Dương-Qua nói:
- Vì cô nương đã thương tôi.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Chưa chắc ta đã thương mi. Chỉ vì Tôn bà dặn ta săn sóc mi thì ta phải làm tròn lời hứa. Còn việc ta thương mi, mi chớ vọng tưởng.
Câu nói của Tiểu-long-Nữ như một gáo nước lạnh tưới vào mình Dương-Qua. Nó đang lạnh lại cảm thấy còn lạnh hơn. Nó nói như trách móc:
- Thưa cô nương! Chắc tôi có điều gì không tốt nên cô nương ghét tôi.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi tốt hay không, không quan hệ đến ta. Ta chưa hề biết ghét thương ai cả, suốt đời ta chỉ biết ngôi mộ đài nầy.
Dương-Qua hỏi:
- Thế ra từ lúc nhỏ đến giờ cô nương chẳng hề có một lần du ngoạn sao?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta chưa hề ra khỏi Chung-Nam sơn nầy.
Dương-Qua vỗ tay lớn tiếng nói:
- Ôi chao! Thế thì uổng lắm! Cô nương không được thưởng thức bao nhiêu cảnh đẹp bên ngoài.
Tiểu-long-Nữ nói:
- ở ngoài bất quá cũng là rừng núi, trăng thanh, gió mát là cùng. Những cái đẹp đó nơi đây cũng có.
Dương-Qua nói:
- Nào phải có thế thôi! ở mộ đài tuy đẹp, song nhìn mãi cũng chán mắt. Còn cảnh đẹp bên ngoài biến ảo không cùng, mỗi nơi có cái đẹp mỗi khác, chẳng bao giờ làm cho ta chán được.
Rồi ngay lúc đó, Dương-Qua thuật lại cho Tiểu-long-Nữ nghe những chuyện xảy ra trong cuộc đời nó từ tấm bé, và những cảnh đẹp đó đây, mà vì hoàn cảnh nó đã trải qua.
Với tài ăn nói của nó, nó thêu dệt nhiều chỗ làm cho câu chuyện trở nên kỳ thú, lạ lùng.
Đối với Tiểu-long-Nữ, một cô gái từ tấm bé đến giờ chưa bước ra khỏi ngôi mộ, nào có hiểu đời là gì, nên dầu Dương-Qua có thêu dệt thế nào nàng cũng cho là sự thực.
Nghe Dương-Qua kể một lúc, nàng buông tiếng thở dài.
Dương-Qua nói:
- Thưa cô nương! Tôi muốn dẫn cô nương đi du ngoạn, cô nương có bằng lòng chăng?
Tiểu-long-Nữ có vẻ giận dữ, mắng:
- Mi đừng nói nhảm! Lời di huấn của tổ sư để lại rằng:
"Phàm người nào đã sống ở Hoạt-tử-Nhân mộ đài thì không được ra khỏi Chung-Nam sơn nửa bước".
Dương-Qua giật mình hỏi:
- Thế tôi cũng không được ra ngoài nửa bước sao?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Dĩ nhiên là thế.
Dương-Qua nghe nàng nói như vậy, nghĩ bụng:
- Té ra mình không thích cảnh tù túng ở đảo Đào-hoa, đem thân đến đây để bị giam hãm thì đời sống còn gì là vui nữa. Chẳng lẽ thân ta sống để chôn vùi trong mộ đài nầy sao?
Tuy nghĩ thế, song gần Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cũng cảm thấy không còn cô độc nữa. Dẫu có ở mãi trong mộ đài nó thấy cũng vui.
Trong lúc chuyện trò với Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua quên cả lạnh. Đến khi Tiểu-long-Nữ không nói chuyện nữa, nó cảm thấy rét buốt tràn trề, liền nói:
- Cô nương có thể tha cho tôi khỏi nằm nơi giường đá nầy chăng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi có muốn cho các đệ tử môn phái Toàn-Chân tha cho mi đừng đánh mi nữa chăng?
Dương-Qua nói:
- Họ là những kẻ thù của tôi! Nếu họ giết tôi, tôi cũng không khi nào xin tha cả.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Như vậy sao mi nằm trên giường nầy lại than vãn.
Dương-Qua nói:
- Vì cô nương tốt với tôi! Cô nương không muốn cho tôi phải khổ cho nên tôi mới than vãn.
Tiểu-long-Nữ từ nhỏ nhờ ơn sư mẫu và Tôn bà nuôi nấng dạy dỗ, đã hai mươi năm trời chỉ biết sống gần hai người cao tuổi ấy mà thôi. Hai người nầy tuy đối với nàng thực là tốt, nhưng từ buổi nàng lúc còn nhỏ họ đã dụng ý đào luyện nàng thành một người mất cả thất tình: "hỉ, nộ, ái, ố, dục" để có thể nối dõi rèn luyện môn "Ngọc nữ tâm kinh" là ngón võ duy nhất và lợi hại nhất của Cổ Mộ đài.
Bởi vì muốn luyện "Ngọc nữ tâm kinh", điều căn bản trước tiên là phải cởi bỏ thất tình đi đã.
Ngày nay, Dương-Qua tới chốn này, mang vào đây những tình cảm nồng nhiệt của một thường nhân thật là trái mong muốn của các bậc tiền nhân trong mộ đài vậy.
Tiểu-long-Nữ từ khi thừa tiếp Dương-Qua đã rõ lẽ đó, song vì có lời Tôn bà, không dám làm khác hơn.
Dương-Qua thấy bề ngoài Tiểu-long-Nữ vẫn với thái độ lạnh lùng song bên trong không khỏi có tình cảm với nó. Nó nói:
- Ôi chao! Cô nương bắt tôi nằm đây lạnh quá có lẽ tôi hông còn chịu nổi nữa.
Thực ra, chiếc giường ấy lạnh lắm, song không đến nỗi làm cho Dương-Qua lồng lộn lên như thế. Một phần nào nó giả vờ để thử lòng Tiểu-long-Nữ đối với nó.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi đừng than vãn gì cả. Ta sẽ cho mi nghe sự ích lợi của chiếc giường nầy.
Dương-Qua nghe nói mừng quýnh hỏi vội:
- Hay lắm! Xin cô nương vui lòng cho tôi biết một chút. Vì đâu nó lại lạ lùng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Lúc nãy ta nói với mi là những khách anh hùng trong thiên hạ vị tất đã hiểu được cái huyền diệu của chiếc giường nầy. Tổ sư phu nhân ta đã phải mất bảy năm công trình lao tâm lao lực đến mãi tận miền băng tuyết đào hàng trăm trượng dưới đất sâu mới lấy được thứ ngọc lạnh nầy đem về luyện nội công. Nằm trên giường ngọc nầy luyện nội công trong một năm thì hiệu quả bằng mười năm.
Dương-Qua kinh ngạc nói:
- à ra lai lịch chiếc giường nầy là thế? Chiếc giường bằng ngọc mà tôi không biết cứ ngỡ là đá!
Tiểu-long-Nữ nói tiếp:
- Lúc đầu mi ngủ trên giường nầy thấy lạnh buốt không chịu nổi, phải vận dụng hết sức để kháng cự lại sức lạnh đó. Nhưng lâu ngày thành thói quen tự nhiên ngủ được. Ngay trong giấc ngủ, tự nhiên cơ năng vẫn vận dụng tình lúc để đề kháng. Như vậy là cơ năng suốt ngày đêm luyện tập không lúc nào nghỉ.
Theo người thường khi luyện nội công chỉ luyện lúc thức mà thôi, đến khi ngủ thì cơ năng trở lại bình thường. ấy vậy, họ tập được bao nhiêu thì phải phí đi một ít trong lúc nghỉ ngơi. Đằng nầy, chúng ta nhờ chiếc giường có thể luyện từ ban đêm, từ trong giấc ngủ. Suốt ngày đêm cơ năng luôn luôn tiến tới để chiếm đoạt sức đề kháng bên ngoài. Do đó nội công tiến bộ phi thường.
Dương-Qua vốn thông minh và lanh lợi nghe nàng nói đến đâu là lãnh hội đến đó.
Nó hỏi:
- Nhưng tại sao lại phải nằm trên chiếc giường lạnh buốt nầy?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Ta đã bảo rằng muốn luyện nội công tất cơ năng con người phải vượt qua sức uy hiếp của mãnh lực bên ngoài. Nằm trên giường tức là luyện cho sức nóng chống lại với lạnh. Lạnh mạnh quá, sức nóng phải thua chạy vào trong trở vào tiềm phục trong huyệt đạo của nó. Dần dần quen, thân thể người luyện tập hóa thành nước. Tiến hơn lên bước nữa, nước hoá thành băng tuyết so với sức lạnh của hòn ngọc chỉ mới một phần mười. Đại phàm tập luyện nội công là phải hàm súc chân hỏa không bao giờ để nó thoát ra ngoài sào huyệt của nó. Hàn ngọc là một vật chí âm. Lạnh nhiều tức cũng là hàm dưỡng sức nóng. Sức nóng đã được tập trung đến cực độ thì đến lúc vận dụng chân hỏa chúng ta sẽ đạt được một sức mạnh phi thường không gì sánh kịp.
Dương-Qua hiểu ra, sung sướng nói:
- Thưa cô nương, cô nương đối với tôi thật chí tình. Tôi đã được nằm trên giường nầy rồi chắc sau nầy không còn phải sợ một ai trong võ lâm nữa. Ngay như Quách, Hoàng tôi cũng chẳng sợ. Còn như Triệu-chí-Kính với sức nội công ấy chắc tôi sẽ đuổi kịp.
Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:
- Di huấn của Tổ sư phủ nhận chẳng cho một ai trong mộ đài này có tính hiềm khích. Muốn tập luyện mi phải bỏ hết thú hắn và ý nghĩ ganh đua mới được.
Dương-Qua nói:
- Tôi xin vâng lời cô nương. Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu vì đâu bọn họ lại khi dễ tôi, ghen ghét tôi, họ lại dám đánh chết Tôn bà người tôi yêu quí. Cái chết của Tôn bà, cô nương cũng không cho phép tôi được thù hận họ sao.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ai là người chẳng phải chết? Vì dù Tôn bà chẳng chết vì Xích-đại-Thông thì vài ba năm nữa cũng phải chết vì duyên cớ khác. Sống thêm ít năm hay chết trước ít năm nào có nghĩa lý gì. Ta không muốn rằng từ nay trở đi mi còn nói đến chuyện oán hận, phục thù...
Dương-Qua xem chừng lời nói ấy có lý lắm, song nó vẫn không khỏi thắc mắc trước hoàn cảnh của nó đã trải qua.
Tiểu-long-Nữ dò hỏi xem cha nuôi của nó là Âu-dương-Phong dạy nội công cho nó như thế nào.
Nó lần lượt kể lại sự thật tất cả. Tiểu-long-Nữ bảo nó áp dụng nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy, xem có hiệu quả gì chăng.
Nó lấy gân suốt từ đầu đến chân nằm thẳng đờ trên giường đá lạnh buốt. Khí lực chuyển khắp nơi trong mình nó. Nó thấy khắp người nóng ran. Nó nằm nghiêng một phía mắt nhắm lại, cố mơ màng để ngủ.
Nhưng nó ngủ được một khoảng ngắn thì khí nóng trong người nó lại tiêu tan đâu mất. Cả người nó lạnh buốt như cũ.
Nó lại vận gân cốt nữa. Rồi cứ thế, ngủ và thức, nóng và lạnh cứ tiếp diễn mãi suốt đêm.
Tuy nhiên, đến sáng trong mình nó không chút mệt nhọc. Nó cảm thấy tinh thần thanh sảng vô cùng.
Tiểu-long-Nữ sờ trán nó, thấy nhiệt độ điều hòa lấy làm lạ tỉ tê hỏi nó.
Nó đem việc áp dụng phương pháp nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy kể lại.
Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:
- Mỗi người có một lối tập luyện và phương pháp nào cũng lợi cả.
Nàng nghiền ngẫm lối nội công của thân mẫu Dương-Qua và lối nội công của Âu-dương-Phong rồi đem so sánh với lối tập luyện của nàng. Bấy giờ nàng không còn có ý khinh thường các môn phái khác nữa.
Sáng hôm ấy, hai người dùng cơm xong, Dương-Qua xuống dưới bếp rửa chén, và làm những việc thay thế Tôn bà.
Khi Dương-Qua trở lại phòng lớn, Tiểu-long-Nữ bảo nó:
- Ta có một điều cần hỏi mi. Vậy mi phải suy nghĩ kỹ càng trước khi trả lời mới được.
Dương-Qua thưa:
- Việc gì xin cô nương cứ dạy.
Tiểu-long-Nữ nói:
Mi muốn nhận ta làm thầy mi chăng? Và suốt đời mi có chịu nghe ta chỉ dạy chăng?
Dương-Qua không ngần ngừ đáp:
- Sao cô nương lại nói thế. Tôi nguyện sống với cô nương, nhờ cô nương, chỉ bảo mà.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Nếu mi không nhận ta làm thầy mà ta chỉ dạy cho mi sau nầy thế nào mi cũng bỏ ngôi mộ nầy mà đi.
Dương-Qua nói:
- Tôi xin nhận cô nương làm thầy. Dù cô nương không truyền cho tôi chút võ nghệ nào tôi vẫn coi cô nương như bậc sư phụ, lúc nào tôi cũng vâng theo lời cô nương không chút trái ý.
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Tại sao ta không truyền võ nghệ cho ngươi mà ngươi vẫn kính ta là thầy?
Dương-Qua nói:
- Thưa cô nương, lòng cô nương đối đãi với tôi như vậy lẽ nào tôi không biết.
Tiểu-long-Nữ tươi hẳn nét mặt, nói:
- Được, ta sẽ xem mi có thành thực với ta chăng? Mi có chịu nghe lời ta chăng? Mi đã nhận ta làm thầy vậy phải ra đằng sau làm lễ.
Dứt lời nàng bước ra phía phòng sau. Dương-Qua vội vã nối gót theo.
Đó là một căn phòng không trần thiết vật gì cả, ngoài hai bức chân dung treo ở vách tường.
Vách tường phía Tây treo một bức họa, vẽ hình hai thiếu nữ một người trạc độ hai mươi lăm tuổi, đang đứng trước gương chải đầu và sửa sang quần áo. Một người trạc độ mười sáu tuổi một tay đang cầm một cái bồn đứng hầu bên cạnh.
Người thiếu nữ nhiều tuổi lông mi dài đẹp, đôi mắt như có ẩn sát khí căm hờn.
Dương-Qua nhìn hai bức chân dung không hiểu gì cả.
Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chân dung người thiếu nữ lớn tuổi nói:
- Đây là di ảnh sư tổ phu nhân. Mi phải quỳ xuống ra mắt.
Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:
- Người ấy là sư tổ phu nhân sao? Tại sao lại ít tuổi như thế? Thưa cô nương.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Bức di họa đó về lúc sư tổ còn trẻ tuổi.
Dương-Qua nghe Tiểu-long-Nữ nói thế, lòng suy tư lẩm bẩm:
- Lúc còn trẻ... và sẽ già đi...
Nó ngắm bức tranh một hồi, chẳng biết nghĩ sao, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn nó, đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa.
Tiểu-long-Nữ vô tình, không làm sao hiểu được mối cảm xúc của nó, lại chỉ vào bức chân dung thứ hai, nói:
- Đây là ảnh sư mẫu ta, mi phải quỳ xuống làm lễ.
Dương-Qua sụp lạy, nghĩ thầm:
- Sư tổ, sư mẫu đều ít tuổi cả, và ai cũng có sắc đẹp phi phàm. Chẳng hiểu đến lúc già, sắc đẹp họ ra sao nhỉ?
Tiểu-long-Nữ đợi Dương-Qua bái kiến xong, mới chỉ sang bức tường phía đông, nơi có treo một bức ảnh, nói:
- Mi hãy khạc nhổ vào hình đạo nhân này.
Dương-Qua liếc mắt nhìn thấy người đạo sĩ trong tranh dáng điệu cao lớn, lưng giắt thanh trường kiếm, tay phải đang chỉ về hướng đông bắc, lưng xây ra ngoài nên không trông rõ mặt.
Nó ngạc nhiên hỏi:
- Người ấy là ai? Vì sao phải khạc nhổ?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Đó là giáo chủ của môn phái Toàn-Chân tên Vương-trùng-Dương. ở đây đã có lệ, hễ làm lễ trước Tổ sư phu nhân xong rồi thì phải quay sang khạc nhổ vào bức hình đó.
Dương-Qua đã sẵn có thành kiến ghét môn phái Toàn-Chân, nên khi nghe nàng bảo, không ngần ngừ gì cả, liền khạc nhổ vào bức họa Vương-trùng-Dương một bãi rất lớn.
Đoạn nó hỏi:
- Thưa cô nương. Tổ sư phu nhân có gì oán hận Vương-trùng-Dương sao?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Đúng vậy.
Dương-Qua nói:
- Thế sao không đem bức ảnh của hắn liệng quách ra ngoài rừng còn treo nơi đây làm gì?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta cũng chẳng hiểu nữa, chỉ nghe thấy sư mẫu và Tôn bà bảo là những người đàn ông trong thiên hạ không ai tốt cả.
Nói đến đấy đột nhiên nàng nghiêm sắc mặt, quay nhìn Dương-Qua:
- Mai này lúc lớn lên, nếu mi có những điều xấu xa mi sẽ coi ta có tha thứ cho mi chăng?
Dương-Qua nói:
- Tuy nhiên cô nương sẽ tha thứ cho tôi.
Câu nói bất ngờ và đột ngột ấy của Dương-Qua làm cho Tiểu-long-Nữ chột dạ. Nàng vốn có tánh uy hách, muốn cảnh cáo Dương-Qua không ngờ Dương-Qua lại nói thế.
Nàng trừng trừng nhìn Dương-Qua bảo:
- Hãy quỳ xuống lạy sư mẫu của mi đi.
Dương-Qua nói:
Thưa cô nương! Việc quỳ lạy sư mẫu là việc dĩ nhiên rồi, tôi không thể nào từ chối. Song xin cô nương nhận cho đệ tử này một điều kiện đã.
Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:
- Xưa nay chỉ có bậc sư phụ mới buộc đệ tử điều kiện này điều kiện nọ chứ làm gì có chuyện môn đồ buộc sư phụ phải theo điều kiện.
Tuy nhiên, nàng vẫn trầm tĩnh muốn tìm hiểu ý muốn của hắn thế nào.
Nàng hỏi:
- Được. Mi muốn gì cứ nói, ta sẽ xét nghĩ cho.
Dương-Qua nói:
- Lòng tôi kính cô nương như sư mẫu. Cô nương dạy bảo tôi cũng nghe, không dám sai lời. Song cô nương cho phép tôi gọi bằng cô nương, không gọi bằng sư mẫu có được chăng?
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Như thế nghĩa là thế nào?
Dương-Qua thưa:
- Tôi đã có những người từng làm sư phụ tôi. Những người đó đều không tốt đối với tôi, nên lòng tôi oán hận lắm. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng nguyền rủa sư phụ tôi. Chẳng lẽ bây giờ tôi gọi cô nương bằng sư mẫu, cũng là bậc sư phụ, thì thế nào cũng sẽ lẫn lộn giữa người thương và kẻ ghét. Xin cô nương chăm chước cho tôi điều đó.
Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua có ý nghĩ ngộ nghĩnh, mỉm cười, hỏi:
- Thế ra mi chỉ kính ta trong lòng thôi sao?
Dương-Qua nói:
- Không phải! Tôi kính cô nương cả trong lòng, ngoài mặt, và suốt đời, song chỉ không gọi là sư mẫu mà thôi.
Tiểu-long-Nữ vốn còn trẻ tuổi cũng chẳng cần tiếng gọi sư mẫu sớm, nàng gật đầu nói:
- Được, ta bằng lòng đó.
Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:
- Được, ta bằng lòng đó.
Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:
- Đệ tử Dương-Qua, tôi từ nay trở đi kính bái Tiểu-long-Nữ cô nương làm thầy. Kể từ đây tôi vĩnh viễn nghe lời cô nương. Nếu cô nương gặp điều gì hiểm nghèo cùng quẫn tôi sẽ đem cả tính mệnh ra để bảo vệ cô nương. Nếu có người nào làm nhục cô nương tôi quyết tâm giết hắn.
Thực ra, lúc đó Dương-Qua cũng chưa biết Tiểu-long-Nữ võ nghệ đến bực nào. Nó chỉ thấy Tiểu-long-Nữ là người trang nhã, kiều mị, khả ái, nên nó đem lòng kính mến, muốn được con người đẹp như thế bảo vệ cho mình, và nguyện đem thân để phụng sự người đẹp mà thôi. Đó cũng là bản tính tự nhiên của những chàng trai đối với phái nữ lưu vậy.
Lời nói của nó mỗi lúc một khẳng khái hơn, bộc lộ sự thành khẩn, làm cho Tiểu-long-Nữ không khỏi động tâm.
Dương-Qua vập đầu làm lễ xong, đứng dậy với nét mặt vui mừng hớn hở.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi quá nhiều thiện chí đối với ta. Ta chỉ sợ tài nghệ của ta không đủ cho lòng ngưỡng mộ của ngươi, không chắc đã thắng các vị lão thành trong môn phái Toàn-Chân và chưa chắc đã thắng nổi Quách-Tỉnh, sư bá của mi.
Dương-Qua nói:
- Những người ấy chẳng can hệ gì đến tôi. Họ có giỏi họ cũng chẳng truyền dạy cho tôi được chút nào. Xin cô nương cứ thương tình truyền dạy cho đệ tử là được.
Tiểu-long-Nữ thở dài nói:
- Dẫu ta có cố gắng truyền dạy cho mi thành tài thì cũng chẳng ích gì, vì suốt đời mi không được ra khỏi chốn nầy. Và ở nơi mộ đài nầy thực là vô sự.
Dương-Qua hỏi:
- Nếu học hành mà không đem tài năng thi thố với anh hùng thiên hạ thì chẳng uổng công tập luyện lắm sao?
Tiểu-long-Nữ trầm lặng, mắt mơ màng như nghĩ đến điều gì xa xăm, nàng nói:
- Ta dạy mi để mi trông coi mộ đài, để ta rảnh rang có dịp phải đi xuất du một lần.
Dương-Qua nghe nói đến việc phải ở trong mộ đài một mình, đâm ra lo sợ, nói như mơn trớn:
- Này cô nương! Hay là cả tôi lẫn cô nương, hai ta cùng đi nhé.
Tiểu-long-Nữ gườm vào mặt nó, nói:
- Mi đã thề vĩnh viễn nghe theo lời ta, sao mới đó đã trái ý?
Dương-Qua thở dài nói:
- Tôi sợ... lắm!
Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt bảo:
- Là tu mi nam tử, muốn trở thành bậc trượng phu mà lại sợ thì còn làm nên trò trống gì. Thế mà mi nói vì ta mi đánh những kẻ toan làm hại...
Câu nói ấy chạm vào lòng tự ái của đứa bé đã quyết tâm. Nó suy nghĩ một lúc rồi hăm hở bảo:
- Được! Tôi sẽ ở lại một mình. Nhưng thế nào cô nương cũng mau trở về nhé.
Tiểu-long-Nữ lạnh lùng như không mấy để ý đến lời nói của Dương-Qua, nàng nói trong ngớ ngẩn:
- Chẳng thể định trước được! Còn phải xem có làm được xong công việc khi xuất mộ đài không đã! Phải bắt...
Nói đến đó, nàng lặng thinh.
Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:
- Làm được việc gì? Cô nương định bắt ai?
Tiểu-long-Nữ như sực tỉnh, nhìn Dương-Qua không đáp, bỏ ra ngoài.
Nàng đi khỏi, không khí trong phòng trở nên lặng lẽ phi thường. Không một tiếng động, dù là tiếng động trong không gian.
Dương-Qua phân vân chẳng biết nàng xuất mộ đài để làm gì? Để bắt ai? Chẳng biết nàng có phải qua Chung-Nam sơn để bắt bọn đạo sĩ Toàn-Chân chăng?
Nó nghĩ quanh quất một hồi rồi ung dung ra khỏi căn phòng lớn, rảo bước về phía tây. Đi chừng mười lăm bước, nó thấy tối om. Một con đường hầm bằng đá sâu ngòm chẳng biết ăn thông vào đâu. Nó lần mò theo đường hầm. Bóng tối mỗi lúc mỗi đen đặc. Nó không còn trông thấy đường nữa, phải đưa tay mò mẫm vào các tường đá để đi.
Đi mãi không tìm ra ánh sáng, nó thất kinh, quay lưng trở lại, định trở về đại sảnh.
Nhưng tìm mãi không thấy đại-sảnh đâu nữa. Những con đường hầm ngoằn ngoèo cứ dẫn nó càng đi càng tiến sâu vào bóng tôi.
Thực sự, nó đã lạc đường rồi. Nó la hoảng:
- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Cứu tôi với!
Nó chỉ nghe tiếng kêu của nó vọng lại đáp lời. Nó hoảng vía băng mình vụt chạy về phía trước.
Chạy được một lúc, nó cảm thấy chân nó bỗng nhiên nong nóng khác thường, và dưới đường có bùn. Nó đoán biết nó chẳng còn ở trong mộ đài nữa. Đó là đường mộ đài ăn thông ra hang núi này.
Nó càng sợ sệt hơn, nghĩ thầm:
- Bây giờ mình đã ra khỏi mộ đài thì làm sao cô nương trông thấy để cứu mình được. Hơn nữa, nếu cô nương bắt gặp mình bỏ trốn thì còn nguy hiểm hơn nữa.
Sờ thấy một phiến đá, nó bấu tay trèo lên, ngồi thừ ra, mặt lo lắng không ngớt.
Bỗng đàng sau nó có tiếng gọi:
- Dương-Qua! Dương-Qua!
Nghe giọng kêu, nó mừng quýnh nhận ra đó là tiếng kêu của Tiểu-long-Nữ. Nó nhảy xuống chạy về phía đó, gọi lớn:
- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Tôi ở chốn này.
Tiếng kêu ấy lại im bặt không đáp lại. Bốn bề vẫn lặng ngắt. Nó càng sợ hơn, phân vân chẳng biết tiếng gọi vừa qua là tiếng gọi của Tiểu-long-Nữ hay của ma quái.
Bỗng nhiên, tai nó đau nhói. Một bàn tay véo vào tai nó. Nó giật mình kinh sợ, quay lại, thì đó là Tiểu-long-Nữ.
Nó mừng quýnh reo lên:
- Cô nương ơi! Cô nương đến lúc nào mà tôi chẳng biết?
Tiểu-long-Nữ sừng sộ hỏi:
- Mi đến chốn này để làm gì?
Dương-Qua đáp:
- Tôi bị lạc đường.
Tiểu-long-Nữ tu mồm "suỵt" một tiếng rồi đưa tay nắm lấy nó dắt về phía đường hầm.
Trong đường hầm tối nghịt, chằn chịt như màn nhện, thế mà Tiểu-long-Nữ bước đi thoăn thoắt, lúc rẽ bên này, lúc sang lối nọ như đi giữa chốn ban ngày.
Dương-Qua khâm phục quá thốt ra miệng:
- ồ! Sao cô nương lại trông thấy nhỉ! Tôi mù mịt chẳng biết đâu là đâu cả.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta từ nhỏ sống trong chốn tối tăm nầy đã quen, chẳng cần đến ánh sáng.
Dương-Qua nói:
- Thế thì tôi có thể quen đi được như cô nương chăng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Dĩ nhiên, nếu mi là người của cổ mộ đài.
Chỉ chốc lát Tiểu-long-Nữ dắt Dương-Qua về đến đại sảnh.
Dương-Qua vừa mừng vừa sợ, thở dài nói:
- Cô nương ơi! Tôi khâm phục cô nương quá! Nhưng tôi sợ...
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Sợ cái gì? Ta đã đến cứu mi dẫn về còn sợ gì nữa?
Dương-Qua nói:
- Không, tôi chẳng sợ những việc đó nữa. Tôi chỉ sợ cô lại cho rằng tôi trốn đi thì buồn quá.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Nếu mi trốn đi thì ta chẳng còn giữ lời trối trăn của Tôn bà và chẳng biết ta sẽ phải đối xử với mi thế nào đây?
Dương-Qua thì vẫn còn giữ tính tình của con người thường với đầu đen máu đỏ, còn Tiểu-long-Nữ thì từ tấm bé luyện nội công đã dứt hẳn được thất tình, nên lúc nào nàng cũng lạnh nhạt, chẳng chút bợn lòng.
Tâm lý hai người đã không giống nhau thì sự suy tư nào có giống nhau được.
Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, cô nương để tôi đi bắt, được chăng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta đã bắt rồi.
Dương-Qua hỏi:
- Cô nương làm thế nào mà bắt được hắn? Và bắt hắn để làm gì?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Bắt hắn để về luyện tập võ nghệ cho mi. Mi hãy theo ta ra ngoài nầy.
Dương-Qua bước theo Tiểu-long-Nữ, nhưng lòng phân vân tự hỏi:
- Cô phải nàng đã bắt một người trong phái Toàn-Chân chăng?
Nếu nàng bắt một người trong phái Toàn-Chân đem về luyện võ nghệ cho mình thì còn gì thú vị nữa.
Tuy phân vân, song không dám hỏi, Dương-Qua lặng lẽ lẽo đẽo theo chân Tiểu-long-Nữ.
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 15 : Thiên La địa võng: thế nhập môn của phái cổ-mộ
Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn phòng nhỏ xây toàn bằng đá. Mở cửa bước vào trong thấy phòng vừa chật vừa thấp, phải đi cẩn thận để khỏi va chạm. Nóc nhà cũng toàn bằng đá. Dương-Qua đi theo, lòng hồi hộp nghĩ chắc phòng này thế nào cũng có nhốt một tên Đạo sĩ của phái Toàn-Chân. Một chập sau nhìn không thấy gì hết, Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, người Đạo sĩ nhốt chỗ nào rồi?
- Tại sao lại hỏi như vậy, làm gì có Đạo sĩ!
- Thế không phải cô đã bắt Đạo sĩ đem về đây để luyện võ cho tôi sao?
Tiểu-long-Nữ mỉm cười chỉ vào trong và nói:
- Ta nào có bắt Đạo sĩ, mà chỉ tìm thứ này cho ngươi thôi, tý nữa sẽ thấy.
Nói xong, nàng bước thêm vài bước rồi cúi lom khom lấy một cái túi vải đặt tại góc phòng, hí hoáy mở nút. Bỗng có tiếng vỗ cánh, ba con chim sẻ vụt bay ra.
Dương-Qua vừa ngạc nhiên vừa thích thú nhưng chưa dám hỏi, tự nghĩ:
- Chẳng lẽ nào cô nương xuất mộ đài để bắt chim sẻ ư?
Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua tìm cách bắt lại ba con chim sẻ ấy cho nàng, nhưng không được làm chúng bị thương tích lũy rụng lông.
Tưởng dễ ăn, Dương-Qua vội đáp:
- Vâng tôi sẽ bắt được liền!
Nhưng sự thật đâu phải dễ. Chim sẻ vừa nhỏ vừa lanh lẹ, bay nhảy lung tung từ đông sang tây, từ cao xuống thấp. Dương-Qua chụp mãi mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc vẫn không chụp được con nào, phải đứng thẫn thờ nhìn theo, mặt có vẻ bẽn lẽn.
Tiểu-long-Nữ mỉm cười bảo nếu không bắt được, nàng sẽ dạy phương pháp. Lúc đầu nàng dạy lối đứng trên cao nhảy xuống để chụp.
Có tánh thông minh sẵn, Dương-Qua dư hiểu nàng lợi dụng lối bắt chim sẻ để luyện võ cho mình, nên nó chăm chú nghe và để ý bắt chước làm theo y như lời dạy.
Nói thì dễ, nhưng đưa ra làm thật quả là khó. Tuy nhiên sau khi chỉ bảo kỹ, nàng dặn thêm phải bền chí và cố gắng tập thành thuộc rồi bỏ đi ra ngoài ngay.
Suốt ngày hôm ấy, Dương-Qua mệt nhoài người không bắt được con nào. Chiều đến cơm nước xong, Dương-Qua lại lên giường lạnh luyện nội công và ngủ.
Suốt ngày hôm sau và ba bốn hôm nữa vẫn chưa bắt được con nào hết. Nó đổi cách nhảy, lối rình và chụp nhưng không kết quả, lòng vừa buồn vừa chán nhưng vẫn cố gắng tiếp tục.
Mãi đến ngày thứ năm nó mới vồ được một con. Nó hân hoan cầm con sẻ đến trình với Tiểu-long-Nữ, nhưng nàng chỉ lạnh lùng bảo:
- Một con thì được tích sự gì đâu? Phải bắt cho được ba con.
Dương-Qua nghĩ hễ bắt một con rồi thì ba con bắt chẳng khó gì. Nhưng suốt hai ngày sau vẫn không bắt được con nào nữa.
Thấy ba con sẻ đã đói và mệt nhiều nên Tiểu-long-Nữ đem gạo vào cho chúng ăn rồi thả bay mất. Đoạn nàng tìm bắt ba con khác vào thả trong phòng cho Dương-Qua tập nữa.
Mãi đến ngày thứ tám, Dương-Qua mới bắt được cả ba con sẻ. Thấy nó bắt đã thuần thục, nàng bảo:
- Thôi được rồi! Bây giờ đi theo ta tới Trùng-Dương cung.
Dương-Qua ngạc nhiên quá, vội hỏi:
- Theo cô, đến đó để làm gì?
Nàng không trả lời, chỉ rảo bước đi ra, nó vội vàng chạy theo.
Sau mấy ngày luyện tập trên giường hàn ngọc và bắt sẻ, Dương-Qua thấy đã tiến bộ nhiều. Bước đi nhẹ nhàng thoăn thoắt, mạnh và chắc chắn hơn trước.
Đến gần Trùng-Dương-cung, Tiểu-long-Nữ lớn tiếng gọi:
- Triệu-chí-Kính đâu, ra đây mau!
Tiếng nói lanh lảnh vọng đi rất xa và rõ mồn một. Một chập sau cửa Trùng-Dương-cung mở rộng, có mười đạo sĩ đi ra. Hai người đi đâu dìu Triệu-chí-Kính đi chầm chậm, bước từng bước một, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc, mắt thâm quầng, da mét xanh, chân run lẩy bẩy.
Vừa trông thấy hai người đến gần các đạo sĩ đã rút kiếm hờm sẵn, nét mặt hầm hầm.
Tiểu-long-Nữ rút bọc lấy một bình nhỏ bằng sứ đưa cho Dương-Qua bảo lớn:
- Mi đưa bình này cho Triệu-chí-Kính, đấy là mật ong trắng, dùng làm thuốc chữa nọc độc đấy.
Nhìn thấy mặt Triệu-chí-Kính, Dương-Qua cảm thấy oán hận tràn trề, máu nóng xông lên, chỉ muốn túm lấy đánh cho đã giận. Nhưng không dám làm phật ý cô nương trước mặt người lạ, nó lẳng lặng tiếp lấy bình mật, nhanh nhẹn đem giao cho Triệu-chí-Kính.
Tất cả các người của Trùng-Dương-cung đoán chắc Tiểu-long-Nữ đến đánh để phục hận và trả thù cho Tôn bà, nhưng không ngờ nàng lại đem mật đến để cứu Triệu-chí-Kính, cho nên ngạc nhiên đứng ngẩn người không biết nói năng làm sao.
Đặt bình mật trước mặt Triệu-chí-Kính xong, Dương-Qua liếc nhìn y với cặp mắt khinh bỉ rồi lầm lũi chạy trở lại.
Vừa nhìn thấy Dương-Qua, Tỉnh-Quang giận sôi không dằn nổi, ở trong đám đông bước ra quát lớn:
- Thằng nhắt con, đã đến trước cửa thầy, tại sao còn bỏ chạy?
Nói xong hắn nhảy xổ theo Dương-Qua cố đánh cho được để trả mối thù trước kia bị Dương-Qua dùng "Hàm mô công" đánh gần chết, may nhờ Mã-Ngọc cứu thoát.
Tiểu-long-Nữ khẽ dặn:
- Hôm nay ngươi không được ra tay đánh đập đấy nhé!
Dương-Qua đang chạy bỗng nghe tiếng chân phía sau và thoáng một luồng gió lộng như có bàn tay chộp trên lưng.
Nhờ bao nhiêu ngày luyện công trên giường hàn thạch và tập bắt sẻ là những phương pháp tối điệu riêng biệt của phái Cổ Mộ đài, Dương-Qua đã thấy tiến bộ nhiều và chủ động được ý muốn, cử chỉ mình. Nó bình tĩnh ngồi sụp xuống, đưa tay khẽ đẩy một bên, Tỉnh-Quang đang hăm hở chạy đến, bất ngờ lại bị nó đẩy ngang một cái mất thăng bằng, té lăng đùn như trời giáng.
Khi lóp ngóp đứng dậy được thì thấy Dương-Qua đã đến bên cạnh Tiểu-long-Nữ rồi. Tỉnh-Quang tức cành hông, la hét om sòm, toan chạy đến đánh nữa, nhưng bỗng một đạo sĩ xông đến khóa cánh tay hắn lôi về hàng cũ. Tỉnh-Quang cảm thấy cánh tay tê buốt, toàn thân cứng đờ không cưỡng nổi, phải riu ríu bước đi và ngó lại thấy đó là sư thúc Doãn-chí-Bình.
Doãn-chí-Bình mắng thêm mấy câu rồi đuổi hắn ra phía sau đám đông.
Doãn-chí-Bình lễ phép bước tới nói:
- Đa tạ cô nương đã có lòng tốt đem thuốc cho chữa bệnh.
Nói xong cúi đầu làm lễ.
Tiểu-long-Nữ không đáp lễ chỉ nắm tay Dương-Qua bảo:
- Thôi, chúng ta về!
Doãn-chí-Bình nói thêm:
- Dương-Qua là đệ tử của phái Toàn-Chân, cô nương định chiếm bắt nó hay sao?
Nàng lạnh lùng đáp:
- Tôi không thích nhiều lời.
Nói xong nàng kéo Dương-Qua thoăn thoắt trở về Cổ Mộ đài. Tất cả các đạo sĩ chỉ biết ngẩn người nhìn theo cho đến khi hai người đi khuất vào rặng cây rừng đàng xa.
Về đến Cổ Mộ đài Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Võ công của mi có mòi tiến bộ hơn trước chút ít, nhưng lối đánh tên đạo sĩ mập té như thế chưa phải cách chút nào.
Dương-Qua lễ phép thưa:
- Thưa cô nương, tên đạo sĩ ấy đã từng đánh tôi bị thương nặng, tiếc rằng cô nương đã ra lệnh nên hôm nay tôi chưa được cơ hội đánh trả thù cho hả dạ. Nhưng thưa cô nương, vì sao tôi không được đánh hắn?
Tiểu-long-Nữ bắt đầu đáp:
- Không phải là mi không được đánh hắn, nhưng ta thấy võ nghệ mi còn non kém, chưa muốn cho thi thố trước mặt người. Lối đánh ngã sấp không phải cách. Cần đánh cho hắn ngã ngửa mới được.
Dương-Qua mừng rỡ hỏi ngay:
- Thưa cô nương, làm sao đánh được như thế, cô nương dạy tôi nhé!
Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua giả làm lão đạo sĩ mập còn mình giả làm Dương-Qua. Nàng vừa nói chuyện vừa chầm chậm đi tới.
Dương-Qua thích chí tiến tới toan chụp lấy Tiểu-long-Nữ. Nhưng Tiểu-long-Nữ hình như nhìn thấy phía sau cho nên hễ nó đuổi mau thì nàng bước mau, nó đuổi chậm thì nàng bước chậm lúc nào khoảng cách giữa hai người cũng độ một thước.
Dương-Qua vừa cười vừa nói lớn:
- Tôi bắt cô nương đây nè
Nói xong nó lạc mình về phía trước, hai tay ôm choàng ngang eo ếch nàng. Tiểu-long-Nữ vẫn điềm nhiên không tránh né, chờ khi tay Dương-Qua đến gần sát, nàng dùng vai hất vào hàm nó. Dương-Qua bị một sức mạnh đẩy mạnh về phía sau loạng choạng mất thăng bằng. Nàng tiếp luôn dùng tay đánh vào hai tay nó để nó khỏi băm vào lôi nàng ngã theo.
Cả đầu và lưng ngã về sau, hai tay không chống đỡ được. Dương-Qua bị ngã bật xuống, toàn thân ê ẩm.
Tiểu-long-Nữ cầm tay mặt của nó kéo đứng dậy.
Dương-Qua mừng rỡ nói rối rít:
- Cô nương tài tình quá, lối đánh thật tuyệt diệu.
- Mi cố tập bắt sẻ cho thuần thục, tự nhiên sẽ biết những thế đánh hay ho như vừa rồi.
- Tôi đã tập bắt được rồi cơ mà.
Nàng mỉm cười nói:
- ồ, thế đã ra gì mà gọi là bắt được rồi! Nếu vậy, hóa ra võ thuật của phái ta dễ dàng quá sao?
Dương-Qua không dám nói nhiều, chỉ đứng lặng yên. Thấy nó im lặng tỏ vẻ phục thiện, nàng đưa tay bảo:
- Thôi, đi theo ta.
Dương-Qua ngoan ngoãn bước theo. Hai người đi đến một căn phòng đá khác. Phòng này rộng hơn phòng trước, có nhốt sẵn sáu con chim sẻ. Phòng lớn, sẻ lại nhiều hơn, bắt được chúng không phải dễ. Nhưng nhờ được Tiểu-long-Nữ chỉ cách bắt có qui củ và truyền thụ thuật khinh công nên sau chín ngày tập luyện, Dương-Qua đã bắt được trọn sáu con sẻ.
Cứ như thế tiếp tục, những phòng sau càng rộng hơn, số chim lại tăng thêm nữa, cuối cùng đến nhà đại sảnh, số chim sẻ tăng đến 81 con.
Ngày bắt sẻ, đêm nằm luyện công trên hàn thạch, sắc diện của Dương-Qua có mòi hưng vượng thêm, da mặt hồng hào, sức lực tăng tiến rõ rệt. Ba tháng sau nó đã bắt luôn một lúc cả 81 con sẻ.
Thấy nó tập luyện tiến bộ nhiều, Tiểu-long-Nữ mừng rỡ lắm. Một ngày kia nàng bảo:
- Hôm nay chúng ta xuất mộ tìm bắt nữa.
Suốt ba tháng liền cầm chân trong Mộ đài, nay được đi ra ngoài thật không có gì đáng mừng hơn nữa, nên Dương-Qua cuống quít vâng dạ luôn mồm.
Tiểu-long-Nữ bảo:
- Có gì mà cuống quít như thế! Lối tập luyện này không thể vội vàng hấp tấp được. Phải làm thế nào cho cả 81 con sẻ không bay thoát được.
Nói xong nàng bắt cả 81 con nhốt vào một cái túi xách đi ra khỏi Mộ đài.
Lúc này đã bước qua thượng tuần tháng ba, khí trời mát mẻ, cây cối đua nhau đâm chồi nẩy lộc đầy nhựa sống. Hoa rừng nở khắp nơi, bướm lượn từng đoàn, phơi màu sắc rực rỡ tưng bừng.
Nhìn cảnh vật ngày cuối xuân, ngửi mùi hoa rừng ngào ngạt, Dương-Qua cảm thấy cõi lòng rạo rực như một luồng sinh khí mới chạy khắp huyết quản, tâm hồn thơ thới hân hoan.
Tiểu-long-Nữ tháo dây cột túi vải cho bầy sẻ cất cánh tung bay. Nàng lấy tay gạn giúp chúng bay ra từng đàn theo thứ lớp khỏi xô đẩy nhau. Vừa được tự do, 81 con sẻ mặc tình vỗ cánh bay tứ hướng.
Nhưng nàng vận khí chuyển nơi tay, dang rộng hai tay một vòng lưới bủa. Lạ thay, cả 81 con sẻ hình như bị một lực gì bao phủ không thoát đi xa được, chỉ quanh quẩn quanh nàng chừng non một thước.
Đoạn nàng vung tay xoay múa một hồi, chưởng lực từ ngón tay chuyển đi chia thành 81 luồng điện lực cho 81 con chim, hút chúng lại gần, không con nào chạy thoát. Nàng túm từng con bỏ vào túi.
Dương-Qua trân trối nhìn, lòng lạ lùng say mê vừa nể vừa kinh ngạc.
Nó muốn hỏi, nhưng bỗng nghĩ bụng "cô nương đã dạy ta luyện công tập võ, ta cần chú tâm theo dõi để ghi lòng tạc dạ từng cử chỉ, từng điệu bộ để thấm nhuần mà tập luyện.
Nó chăm chú ngưng thần theo dõi từ lối vận chuyển xuất động nội công từ động tác một, thật là phân minh rành mạch vô cùng linh động, kỳ diệu.
Nhờ khiếu thông minh thiên phú, nó hiểu rõ rành và ghi nhớ nằm lòng để sau tập lại.
Giữ chúng một chập, nàng thu hồi dưỡng lực, phóng tay cho chúng được tự do như mở trói, 81 con chim sẻ được tự do vỗ cánh tung trời bay bổng.
Nhưng nàng múa hai vạt áo, gây thành sức gió, hút cả ầy chim sẻ cách rơi xuống đất, chim kêu chíp chíp rối rít. Mãi một chập sau chúng mới bay trở lại được.
Dương-Qua vô cùng thán phục bản lĩnh cực kỳ siêu việt và lối tập luyện kỳ lạ của nàng, kéo vạt áo Tiểu-long-Nữ và nói:
- Cô nương, tôi thấy bác Quách-Tỉnh còn kém cô nương xa, vì bác ấy không có lối luyện công này.
Nàng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt nó ôn tồn nói:
- Lối xuất nội công này gọi là "Thiên la địa võng thế", một bài nhập môn của phía Cổ-mộ đài của chúng ta đó. Mi cố sức mà luyện tập cho được nhé.
Nàng tuần tự chỉ vẽ cho nó từng cách tập, biết từng đường xuất nhân điện lực tích tụ ở đơn điền ra ngón tay, cả thảy 10 đường, mỗi đường có một động tác khác nhau.
Sau đó, liên tiếp mười ngày trọn, Dương-Qua lần lượt học hết một bài thế "Thiên la địa võng".
Tiểu-long-Nữ khi thấy Dương-Qua tập luyện đã thuần thục, nàng đưa ra một con sẻ và tập cho Dương-Qua biết cách dùng điện lực kìm chế không cho nó bay thoát, nàng dạy cách điện dụng đúng phép, chuyển ra đầu ngón tay để cho chim không bay, không nhúc nhích được. Lúc đầu Dương-Qua giữ được một giây, nhưng vì yếu sức, sơ hở, chim sẻ thừa cơ đã bay mất. Tiểu-long-Nữ dùng phép xuất nội công ra bắt trở lại.
Ngày ngày lần lượt trôi qua, việc tập luyện vẫn được tiếp tục. Dương-Qua luyện nội công đến lối vận dụng ra ngoài thành chưởng lực, không kể sớm tối, ngày đêm, gió mưa, nóng rét.
Qua hạ sang xuân, thấm thoắt Dương-Qua đã lớn như thổi. Từ một chú bé nay đã thành một thiếu niên, thân hình vạm vỡ, tiếng nói sang sảng, gương mặt đẹp thanh tú, không còn giống ngày nào trong Cổ Mộ đài.
Nhờ sự tập luyện đúng cách, sức khỏe dồi dào, lối đi đứng vững vàng, da đỏ hồng hào, hơn nữa một phần nhờ thiên tư đĩnh ngộ và Tiểu-long-Nữ tận tình dạy bảo nên bản lĩnh tăng tiến rất mau.
Cuối thu, dượt tập thuần thục các thế "Thiên la địa võng", chưởng pháp của Dương-Qua trở nên thâm hậu vững vàng, phát xuất mau lẹ, có thể sử dụng kìm chế được 81 con chim sẻ, mặc dầu đôi lúc sơ hở vẫn còn để một vài con bay thoát.
Một buổi sáng, Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Đến nay chưởng lực và nội công của mi đã tiến bộ nhiều. So với nhiều người trong giới võ lâm, chưa chắc mấy ai đối địch nổi. Bây giờ mi hãy tìm tên đạo sĩ mập ngày nọ khiêu khích hắn đấu một trận xem thử sức lực ra sao.
Nghe nói, Dương-Qua như cởi mở tấm lòng, tự thấy như lớn hơn trước nhiều. Nó hân hoan hỏi:
- Thưa cô nương, có phải cô nương muốn tôi đấu với tên Triệu-chí-Kính hay không?
Vốn biết rõ Triệu-chí-Kính là một cao thủ có hạng, thuộc hàng đệ tam đệ tứ của Toàn-Chân phái, đã từng nổi tiếng trên giang hồ, so với hắn tài nghệ của Dương-Qua còn thua kém xa, nên nàng lặng yên không trả lời.
Thấy Tiểu-long-Nữ làm thinh không đáp, Dương-Qua biết ý vội hỏi:
- Thưa cô nương, tôi chắc chưa đủ sức đấu với hắn. Thôi tôi cố gắng luyện tập ít năm nữa chẳng muộn gì. Chừng nào võ nghệ vượt được hắn sẽ tính sau. Thưa cô nương võ nghệ của phái Cổ Mộ đài tài hơn hẳn bên Toàn-Chân nhiều phải không?
Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn tấm đá gắn trên nóc nhà có khắc chữ và nói:
- Lời nói tiên tri khắc trên đá này cho biết ta và mi có thể tin nhau được. Trước đây ta có đấu với lão đạo sĩ họ Khưu bên Toàn-Chân thì quả võ nghệ ta còn kém hắn. Nhưng như thế đâu phải là phái ta thua môn phái Toàn-Chân. Chẳng qua vì ta chưa luyện được đến chỗ tuyệt diệu của võ thuật Cổ-Mộ đài. Nghe Tiểu-long-Nữ bảo Khưu-xứ-Cơ hơn nàng; Dương-Qua không được hài lòng vội hỏi tiếp:
- Thưa cô nương chỗ tuyệt diệu ấy là gì cô đã bắt đầu tập chưa và đã đến mức nào rồi?
- Bây giờ mi đã nhận ta là thầy trước bàn thờ Tổ sư phu nhân thì ta cũng có thể kể cho mi nghe một ít lai lịch về người. Tổ sư vốn họ Lâm tên gọi Triều-Anh đã nổi danh trên võ lâm nên cách bảy mươi năm về trước giới giang hồ đã có câu:
Nam Lâm Bắc Vương
Bà lại hơn ông
Nam-Lâm tức là tổ sư phu nhân của ta quê ở Quảng-Tây, Bắc-Vương là Vương-trùng-Dương quê ở Sơn-Đông.
Trong thời bấy giờ hai vị là người giỏi nhất trong hạng võ nghệ cao cường, khó mà phân biệt ai hơn ai kém. Sau này vì phải lo khởi nghĩa đánh giặc Kim nên Vương-trùng-Dương phải gác việc tập luyện để lo việc nước. Trong lúc đó tổ sư phu nhân vẫn tiếp tục trau dồi bản lĩnh. Như thế đương nhiên phải vượt hẳn Vương-trùng-Dương một bực, nghĩa là bà đã thắng ông.
Sau này vì thất bại trong việc lớn, Vương-trùng-Dương phẫn chí lui về trong Cổ Mộ này để trau dồi lại võ nghệ.
Khi ấy tổ sư phu nhân lại xuất bước giang hồ làm việc nghĩa và có dụng ý chờ đợi Vương-trùng-Dương hạ sơn lần nữa. Một thời gian dài trôi qua hai người không hề gặp nhau. Sau đó không hiểu vì một lẽ gì bất hòa cả hai đánh cá với nhau và đấu võ. Vương-trùng-Dương thua nên nhường Cổ-Mộ đài cho phu nhân. Ta sẽ đưa mi đi coi để thấy các di tích của hai vị tiền bối ấy.
Tất cả các nơi trong Cổ-Mộ đài đều kiến trúc bằng đá. Không hiểu các vị đã dùng cách nào xây dựng nên.
Ngay sau đó, Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn nhà kiến trúc thật lạ lùng. Bên ngoài hẹp, bên trong rộng hình như cái thang, phía đông có một khoảnh hình bán nguyệt và phía tây một khoảnh hình tam giác.
Thấy lạ lùng quá, Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, tại đây kiến trúc sao kỳ lạ thế này?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Chính đây là nơi Vương-trùng-Dương dùng để luyện võ. Phía trước hẹp để xuất chưởng lực tập trung, phía sau rộng để sử dụng quyền thuật, bên khoảnh tròn để sử dụng bát xà mâu. Dương-Qua chạy tung tăng khắp nơi nhìn kỹ và nhận thấy đây quả là một cung đài vừa sâu vừa cao. Nhưng Tiểu-long-Nữ đưa tay trở lên trên mà bảo rằng:
- Nơi đây thể hiện tất cả những cái tinh túy ảo diệu nhất của võ nghệ mà Vương-trùng-Dương đã ghi chép.
Nhìn theo ngón tay của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua nhận thấy có khắc sâu vào đá những nét ngòng ngoèo như chữ bùa hay hình chữ cổ tự, chỗ sâu chỗ cạn, nét nào cũng rõ ràng tinh xảo, diễn tả sự linh động của sự kỳ diệu tinh vi.
Bước qua một bên, Tiểu-long-Nữ khép một cánh cung thì thấy một cánh cửa đá từ từ mở rộng. Nàng đốt một cây đèn cầy soi đường và nắm tay Dương-Qua dắt vào.
ở đây cũng có một căn phòng nữa bằng phòng bên kia, xây toàn bằng đá, phía trước rộng, phía Tây tròn và phía Đông hình ba góc.
Nhìn kỹ trên nóc đá, Dương-Qua cũng trông thấy những nét chữ và dấu hiệu khắc sâu diễn tả những phù chú và có nơi chạm hình người.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Chốn này thì chép lại tất cả những linh diệu kỳ ảo của vũ thuật của tổ sư phu nhân.
Xưa kia Tổ sư phu nhân chiếm lại tòa Cổ-Mộ của Vương-trùng-Dương không phải vì tài nghệ mà nhờ xảo kế. Thật ra bản lãnh của người so với Vương-trùng-Dương vẫn còn thua sút. Nhưng suốt bao nhiêu năm sống ẩn dật tại đây, người đã khổ tâm nghiên cứu tất cả những tinh diệu đã học phối hợp với võ nghệ của Vương-trùng-Dương rồi sáng chế ra được một pho võ công hết sức tinh vi. Tất cả nhưng thế độc đáo của người đều có ghi khắc vào đây để lưu hậu thế.
Nghe nàng kể, Dương-Qua vừa mừng vừa kỳ lạ, nên khi Tiểu-long-Nữ dứt lời nói đã nói ngay:
- Thưa cô nương, như vậy thật là lạ lùng đáng phục thật. Bọn Khưu-xứ-Cơ, Xích-đại-Thông và bọn bên phái Toàn-Chân dẫu có tài giỏi bất quá cũng như Vương-trùng-Dương là cùng. Pho võ công này tổ sư phu nhân đã dùng cả võ thuật của hai người chế biến thêm ra thì quả đã đều một mức cao diệu hơn rồi. Nếu cô nương luyện xong các ngón này, chắc chắn sẽ thắng được bọn họ dễ dàng như bỡn.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Đúng đấy, nhưng chỉ tiếc ta không có người phụ giúp.
Dương-Qua đáp ngay:
- Tôi xin lãnh phần ấy.
Tiểu-long-Nữ điềm tĩnh nhìn nó rồi bảo:
- Mi không làm được việc ấy đâu.
Dương-Qua cụt hứng và bẽn lẽn đỏ mặt làm thinh nhìn nơi khác.
Tiểu-long-Nữ giải thích thêm:
- Môn võ thuật nầy Tổ sư phu nhân đặt tên là "Ngọc-Nữ Tâm-Kinh". Luyện môn nầy cần phải có hai người để hòa hợp công lực và phù trợ lẫn nhau mới có kết quả. Xưa kia Tổ sư phu nhân đã có dạy cho ta với một người nữa gần đến mức thành công.
Dương-Qua bỗng nghĩ được một cách để chữa thẹn và để tâng bốc Tiểu-long-Nữ:
- Tôi là học trò của cô, chắc có thể luyện với cô được chứ?
Tiểu-long-Nữ trầm ngâm một chập đoạn đáp nho nhỏ:
- Cũng được, để ta thử xem đã. Bây giờ mi cần luyện cho biết tất cả các môn võ công của môn phái cho thành thuộc để gây của một nền tảng căn bản vững chắc, sau đó mới học đến các ngón võ Toàn-Chân phái. Khi ta nhận thấy có đủ điều kiện sẽ cho luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh".
Từ đó trở đi, ngày ngày Tiểu-long-Nữ truyền thụ cho Dương-Qua tất cả các môn quyền thuật, chưởng thuật, cách sử dụng đủ loại binh khí, ám khí của Cổ Mộ đài.
Một năm trôi qua, nàng tận tình dạy bảo từ lý thuyết đến thực hành. Thời gian tuy ngắn, nhưng nhờ đêm đêm Dương-Qua luyện nội công trên giường hàn thạch, mức tiến bộ nhanh chóng lạ thường, hơn nữa vốn nhờ bản chất thông minh lanh lợi, nghe ít hiểu nhiều, nên bản lãnh cũng có thể ngang với người thường khổ luyện năm bảy năm.
Võ nghệ của phái Cổ-Mộ đài đã bốn đời truyền thụ, từ người sáng lập cho đến các đệ tử nối tiếp đều là đàn bà, cho nên bản chất nặng về phụ nữ, mềm yếu linh động, ẻo lả, tuy đẹp mắt nhưng thiếu tính chất sâu sắc, cường dũng. Dương-Qua bình sinh phù táo, khinh động nên rất hợp với môn pháp này.
Thời gian qua, Tiểu-long-Nữ ngày càng lớn thêm, càng đẹp, mỹ miều. Nhan sắc nàng càng lộng lẫy, duyên dáng, từ thân mình tuyệt mỹ do công phu khổ luyện, đến nước da trắng mịn như tuyết khuôn mặt sáng rỡ, đôi mắt đen láy, đẹp vô ngần.
Năm ấy, Dương-Qua cũng được 16 tuổi, nó đã thành một thiếu niên đẹp trai, thân hình cân đối, bề cao đã bằng sư phụ rồi? Tuy nhiên Tiểu-long-Nữ xem nó như con nít, nên không e ngại gì về vấn đề nam nữ gần nhau.
Hai thầy trò chung sống với nhau, ngày càng thắm thiết. Tiểu-long-Nữ thương mến tánh ngoan ngoãn, khéo léo và siêng năng của Dương-Qua. Đối với sư phụ, Dương-Qua luôn luôn tỏ lòng kính mến, trọng vọng không bao giờ làm trái ý thầy.
Dương-Qua còn khéo léo tìm hiểu tánh ý của thầy để chiều chuộng. Gặp việc gì Tiểu-long-Nữ không bằng lòng thì dù có muốn hết sức nó cũng không dám nói ra lời, lắm khi còn tìm lời biện bác bào chữa bênh vực quan niệm của nàng nữa.
Vốn có bản chất lãnh đạm từ ngày tấm bé, Tiểu-long-Nữ lúc nào cũng có vẻ lạnh lùng, ít khi để ý hay bàn cãi nhiều. Mỗi khi nghe Dương-Qua bàn luận nàng thường làm thinh. Đã từng quen với tánh ý ấy rồi, nên Dương-Qua không còn nhận thấy nữa, vì vậy nên trong sự giao thiệp hàng ngày không hề có sự bất mãn hay phiền lòng.
Một ngày kia Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Đến nay mi đã học hết môn võ của phái Cổ Mộ đài, mai đây ta sẽ luyện cho mi các môn võ của phái Toàn-Chân.
Qua nhiều ngày sau, Tiểu-long-Nữ cứ dựa theo các dấu hiệu chỉ dẫn trên phiến đá để giảng dạy cho Dương-Qua. Nhưng phù chú văn tự, hình vẽ kỳ lạ đều do Vương-trùng-Dương dùng mũi kiếm khắc sâu vào đá trên xà nhà.
Lâm triều Anh và Vương-trùng-Dương vốn là hai bạn chí thân đã từng am thạo vũ thuật bản lãnh của nhau.
Võ thuật của Vương-trùng-Dương đã cao siêu rồi. Lâm-triều-Anh còn dùng nó để biến chế thêm nữa, cao siêu hơn, và thích hợp với bản chất của phụ nữ hơn. Triều-Anh tự luyện thật tinh thục, truyền lại cho A-Hoàn. A-Hoàn truyền lại cho Tiểu-long-Nữ và ngày nay Tiểu-long-Nữ truyền đến Dương-Qua.
Trong mấy ngày đầu, Dương-Qua tập thấy tiến bộ lạ thường, bởi vì nó có căn bản sẵn, khi nghe nói đã lãnh hội được ngay. Nhưng từ mười ngày sau nó không thấy tiến nữa mà càng tập càng lùi là khác. Càng luyện nó càng cảm thấy toàn thân rung động, tay chân hình như bị giảm bớt năng lực.
Sự thay đổi kỳ lạ đột ngột này làm cho Tiểu-long-Nữ hết sức ngạc nhiên. Nàng suy nghĩ, cố tìm ra nguyên nhân vì sao có hiện tượng này.
Dương-Qua thì buồn vô cùng nhưng không dám hé môi.
Sau một thời gian suy nghiệm, Tiểu-long-Nữ đã tìm ra nguyên nhân của sự trở ngại này nên nàng bảo Dương-Qua:
- Thôi đừng buồn phiền làm gì nữa. Ta đã hiểu nguyên nhân này rồi. Bây giờ ta cứ đi tìm cho được một tên đạo sĩ bên phái Toàn-Chân rồi buộc hắn phải truyền dạy cho mi những khẩu quyết nhập môn của phái này, như thế là vừa xong chứ có khó gì đâu. Thôi chúng ta đi ngay bây giờ thì vừa.
Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm cho Dương-Qua bỗng sực nhớ lại những khẩu quyết do Triệu-chí-Kính đã buộc nó học thuộc lòng:
"Phải sử dụng cân lực dần dần", ở đoạn giữa lại có nói:
"Sức mạnh không phải do đâu đưa đến mà chỉ do tứ nội tại con người phát sanh ra.
"Vận dụng tâm lực mà để tâm rung động, thì chẳng khác nào thu vào tay này mà dùng tay khác vứt đi, lực lượng tự nhiên xuất mà không biết nữa. Như nước triều chảy, như sấm rung động, là những điểm thuyết yếu. Như đi thuyền trên sóng, phải chầm chậm vậy.
Thêm đoạn sau có nói:
"Phép luyện căn cứ ở quẻ Dịch. Dịch là biến động, thay đổi mãi mãi. Thay đổi có thể dùng sang lực bên trong phù trợ bên ngoài cho nên gân có thể cứng rắn như sắt vậy".
Tiểu-long-Nữ nghiêng tai chú ý nghe đọc, suy nghĩ một chập và nói:
- Thôi được rồi! Trước kia tiên sư có dạy ta tập luyện được nửa chừng rồi bỏ dở, nguyên nhân cũng vì thiếu căn bản nhập môn. Khi học đến đoạn giữa của môn phái Toàn-Chân bỗng dừng lại không tiến được nữa. Rất tiếc lúc đó phu nhân đã qua đời nhưng không thể hỏi han tập thêm tới nơi tới chốn. Phàm không học được từ đầu khẩu quyết chân truyền của một môn phái không làm sao đoạt được đến mức thành công mỹ mãn. Tiên sư vốn giàu lòng tự ái, người nhất định bác bỏ ý kiến của ta muốn yêu cầu cho qua bên Trùng-Dương cung học các khẩu quyết nhập môn của phái này. Ngày nay mi học cũng khá nhiều nhưng vẫn chưa đầy đủ để luyện tập.
Dương-Qua cố nhớ lại hết tất cả khẩu quyết do Triệu-chí-Kính đã truyền dạy và đọc cho nàng nghe thêm. Những khẩu quyết này nó học như vẹt chứ chưa bao giờ được thực hành luyện tập.
Nhưng đối với Tiểu-long-Nữ nhờ có bản lãnh, nên sau một hồi suy nghĩ nàng đã quán thông được ý lý, phối hợp đối chiếu với lý thuyết đã được Tần-nam-Cầm đã dạy, tức cũng là pháp huyền môn mà Mã-Ngọc đã chân truyền cho người khác.
Nghiên cứu hai sự hiểu biết này trong vòng mấy tháng, Tiểu-long-Nữ và Dương-Qua đã thấu triệt được tất cả những gì do Vương-trùng-Dương đã ghi khắc trên nền đá kia.
Một ngày kia, sau khi hai người đang tập luyện kiếm thuật trong căn nhà đá, Tiểu-long-Nữ bỗng dừng kiếm, buồn rầu nói với Dương-Qua:
- Mấy lúc này ta mắc phải một khuyết điểm lớn là tự phụ, xem thường võ thuật của phái Toàn-Chân. Ngày nay phái này đã nổi danh đệ nhất thiên hạ, lại một chân truyền chính cống, đáng kể là đệ nhất võ lâm. Thật ra bấy giờ ta mới nhận thấy võ thuật Toàn-Chân thật kỳ ảo, biến hóa vô cùng, càng luyện càng thấy tinh vi huyền diệu.
Mặc dầu ta đã tìm hiểu được các căn bệnh kỳ yếu, nhưng về mặt tập luyện thực hành làm sao cho tay chân theo kịp sự hiểu biết của óc não, hễ tâm động thì tay cứng, sức lực tự nhiên phát ra, chẳng biết còn phải bao nhiêu năm tháng nữa mới thành công được.
Vốn còn non như con nghé đâu biết sợ oai cọp, Dương-Qua đáp:
- Thưa cô nương, võ thuật Toàn-Chân tuy cao siêu, nhưng Tổ sư phu nhân đã nghiên cứu kỹ, biến chế hết những cái tinh túy, tìm cách khắc chế nó rồi, ta chỉ theo đó mà luyện tập cũng như bước theo một kẻ dẫn đường, chắc chắn một thời gian ngắn cũng đoạn kết quả mong muốn. Như thế dù võ thuật Toàn-Chân có cao cũng không vượt nổi võ thuật của Tổ sư ta.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Kể từ ngày mai ta cần luyện lại "Ngọc-nữ Tâm-knh" đi thôi.
Ngày hôm sau, hai người đưa nhau đến gian phòng đá thứ hai, theo các dấu hiệu phù chú ghi khắc sẵn để tự luyện.
Môn pháp này có phần dễ dàng hơn pháp môn Toàn-Chân phái nhiều. Sở dĩ trước kia Lâm-triều-Anh sáng chế môn nầy để khắc phục võ thuật Toàn-Chân của Vương-trùng-Dương, căn cứ vào pháp môn của mình, biến đổi thêm phần tinh diệu nữa, cho nên cả hai có căn bản hiểu rõ võ thuật của đôi bên rồi, nên học rất dễ.
Sau một thời gian học hết các khẩu quyết, thực hành xong "Ngọc-nữ Tâm-kinh" pháp môn đến mức có thể sử dụng phát huy ngoại công được rồi, hai người cùng nhau đấu dượt. Có khi Dương-Qua dùng kiếm pháp Toàn-Chân đấu với Tiểu-long-Nữ sử dụng Ngọc-nữ kiếm pháp. Cũng có khi Tiểu-long-Nữ dùng kiếm pháp Toàn-Chân khắc chế Ngọc-nữ kiếm pháp do Dương-Qua sử dụng. Nhưng bất cứ trong trường hợp nào Ngọc-nữ kiếm pháp vẫn thấy trội hơn và có thể khắc phục rất hiệu quả từng thế một của võ thuật Toàn-Chân phái, mặc dầu được người sử dụng linh hoạt tài tình đến đâu cũng vậy. Ngoại công tập xong, tiếp đến luyện nội công. Môn nội công của Toàn-Chân cũng đã huyền diệu không lường. Muốn sáng chế ra một môn khác biệt nữa đâu phải chuyện dễ. Tuy nhiên với một ý chí mạnh mẽ muốn tiến bộ vượt bực hơn người, Lâm-triều-Anh đã vận dụng tất cả học lực, kinh nghiệm sẵn có, đồng thời sử dụng lối luyện công trên giường hàn thạch, nên đã khai ra một môn mới riêng biệt. Phép luyện công trên giường hàn thạch của bà tuy rất khó nhọc đòi hỏi cả một sự quyết tâm, chịu đựng kiên trì, nhưng lúc đã có theo học được thì mức tiến bộ thực phi thường. Khổ luyện trong một thời gian, nhưng kết quả vượt hẳn bên Toàn-Chân phái.
Sau khi nhìn một đoạn chữ khắc trên nóc nhà, Tiểu-long-Nữ bỗng thở dài rồi lặng thinh chỉ lắc đầu không nói gì nữa. Liên tiếp mấy ngày sau nàng cũng chỉ giữ một thái độ yên lặng và sau cùng vẫn lắc đầu rồi thở dài mấy cái.
Dương-Qua e ngại hỏi:
- Thưa cô nương, đoạn này khó tập lắm sao?
Tiểu-long-Nữ nhìn Dương-Qua một chập rồi điềm nhiên nói:
- Trước kia nghe sư phụ dạy ta phép "Ngọc-nữ Tâm-kinh" này phải có hai người cùng luyện tập một lúc. Ta những tưởng có thể cùng tập với mi nhưng đến nay mới biết không thể được.
Dương-Qua hết sức kinh ngạc vội hỏi:
- Tại sao vậy hở cô nương?
Tiểu-long-Nữ ngập ngừng một chập rồi nói:
- Nếu mi là gái thì mới được.
Dương-Qua ngẩn ngơ một chập rồi hỏi liến thoắng:
- Sao lại có việc phân biệt nam và nữ như thế? Hễ có đủ sức lực và có ý chí thì trai hay gái cũng có thể tập luyện được chứ.
Tiểu-long-Nữ lắc đầu không đáp, một chập sau mới nói:
- Không thể khác giống được. Mi cứ nhìn trên những nóc nhà thì tức khắc hiểu.
Dương-Qua nhìn theo tay nàng chỉ, thấy trên mặt đá có những hình người khắc bằng mũi kiếm, cả thảy chừng mười người, mỗi người một kiểu, toàn là đàn bà lõa thể không mặc y phục. Bấy giờ Dương-Qua mới hiểu:
- Thưa cô trong lúc luyện nội công "Ngọc nữ Tâm kinh" không thể mặc y phục phải không?
Tiểu-long-Nữ đáp đúng như thế và lời ghi chú cũng có dạy rõ như sau:
Khi luyện nội công sức nóng trong người bốc ra cần phải để cho nó tản thoát hết đi. Vì vậy lúc tập phải tìm nơi khoáng đãng, không có người và không mặc quần áo. Nếu không, nhiệt khí uất tích sẽ nhiễm vào trong, nếu ít thì lâm trọng bệnh, nếu nhiều thì có thể chết".
Dương-Qua thản nhiên nói:
- Như thế thì ta không mặc quần áo tập luyện chứ sao. Tiểu-long-Nữ mắc cỡ đỏ mặt, nói:
- Khi tập luyện phải truyền khí lực cho nhau, ta với mi nam nữ cách biệt, nếu không mặc quần áo ở trước mặt nhau thì còn ra thể thống gì nữa.
Phàm trai mười sáu gái mười ba là đến tuổi dậy thì, cần phải giữ gìn khi tiếp xúc giao thiệp. Dương-Qua đã mười sáu tuổi rồi nhưng bản chất hồn nhiên, nó chưa hề biết gì về tình ái và chưa để ý đến vấn đề nam nữ. Thấy sư phụ nó đẹp đẽ tuyệt vời nó càng thấy vui mừng thích thú. Nó cũng nhận nếu nữ sư phụ và nó cùng lõa thể trong lúc tập luyện thì có sự bất tiện, nhưng vì lẽ cũng không hề để ý và chưa biết giải thích ra sao.
Về phần Tiểu-long-Nữ tuy đã hai mươi hai tuổi đầu nhưng từ bé đến giờ sống trong Cổ Mộ đài, cuộc đời riêng biệt không hề tiếp xúc với người ngoài nên đối với Dương-Qua càng ngây ngô hơn nữa. Ngoài ra vì cần phải tu tâm khổ luyện nên vấn đề tình dục và nam nữ càng không hề có một ý thức gì. Hai thầy trò tuy là nam nữ thanh niên chung sống với nhau tại chốn hoang vu vắng vẻ, sớm hôm gặp gỡ nhưng rất tự nhiên và lúc nào cũng đối xử với nhau không hề có ý thức gì vượt ngoài vòng lễ nghi. Hôm nay khi đề cập tới việc lõa thân để tập luyện nội công, họ cảm thấy có điều gì chướng và khó chịu. Nhưng chỉ có thể thôi chớ không hề có ý nghĩ gì khác.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta cần phải đào luyện môn nội công tinh thục hơn nữa. Nếu luyện thành thục cũng đủ sức đánh bại những tay cự phách nhất của phái Toàn-Chân. Vì vậy tưởng không cần luyện môn nội công này nữa.
Biết sư phụ không muốn tiếp tục luyện "Ngọc-nữ Tâm-kinh" nữa, nên Dương-Qua cũng thuận theo không hề đòi hỏi.
Một ngày kia sau khi tập luyện xong, Dương-Qua xuất Mộ săn bắn ít thú rừng về làm lương thực. Vừa bắn được một con nai rồi nó bỗng gặp một con thỏ lông đỏ, đầu đen, rất tinh khôn và nhảy mau lẹ. Lúc bấy giờ thuật khinh thân đã tiến một bực nhưng vẫn chưa lanh bằng thỏ. Nhưng vì tuổi trẻ nhiền anh hùng tính, Dương-Qua tự nhiên nảy ý nghĩ muốn đuổi bắt thỏ cho kỳ được, không dùng đến ám khí để sát hại. Nghĩ xong, nó vận dụng khinh thân đuổi thỏ chạy khắp rừng cố làm cho đuối sức rồi sẽ bắt. Cuộc đuổi bắt tiếp tục thỏ trước người sau, càng lâu càng đi xa. Khi đến gần chóp núi, con thỏ chạy ngoặc vào một cái miếu mọc đầy hoa hồng, rồi biệt tích tìm không ra. Dương-Qua chắc lưỡi thầm tiếc con thỏ đẹp đã uổng công trình quần đuổi nửa ngày ngày để sẩy mất.
Dương-Qua đứng ngẩn ngơ nhớ nhung chú thỏ và đưa mắt nhìn thấy cái miếu bề dài độ mười trượng, mùi hương bay lên ngào ngạt khắp xung quanh hoa hồng mọc bao phủ từng lớp, hết lớp này đến lớp khác, những cánh hoa vừa thơm vừa đẹp, mơn mởn nằm trên thảm lá xanh tươi, chẳng khác nào một nhà kết hoa, càng trông càng tuyệt vời.
Dương-Qua thích quá lại gần quan sát, đưa tay ngắt một mớ hoa hồng, định mang về tặng Tiểu-long-Nữ.
Nhưng khi về khoe với Tiểu-long-Nữ, nàng thản nhiên bảo:
- Ta không ưa hoa, mi giữ lấy mà chơi.
Dương-Qua tiu nghỉu một chập nhưng bỗng sực nhớ một điều, vội nói:
- Tôi không có chủ định hái hoa về cho cô nương, nhưng muốn điềm chỉ cho một chỗ rất thích hợp để luyện nội công Ngọc-nữ Tâm-kinh. Nơi miếu này hoàn toàn hoang vu vắng vẻ, hoa hồng bao phủ tứ bề, ở cách nhau vài thước không trông thấy. Dù phải lõa thể theo điều kiện bắt buộc cũng tiện không ai trông thấy. Khi nàng luyện tập tôi sẽ ở đàng cuối miếu canh phòng cho nàng, cũng như nàng sẽ coi chừng hộ khi tôi luyện tập.
Phàm phép luyện nội công lúc nào cũng phải lặng lòng không gợn một chút lo nghĩ xao xuyến, tâm tư hết sức bình thản để dốc vào sự tập nội tâm, gạt bỏ tất cả những gì thuộc ngoại cảnh, không được để ý đến điều mắt thấy tai nghe.
Khi đang tập luyện, nếu có ai phá rối, hay địch tấn công thì hết sức nguy hiểm, đã làm hỏng mất cả phép nội công mà còn có thể mất mạng như chơi. Vì vậy lúc tập cần có người canh giữ, đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra.
Xưa kia Hoàng-Dung tập nội công bị tả công khí xâm nhập, Quách-Tỉnh đứng canh phòng, trời đang mưa lớn, mẹ của Dương-Qua là Tần-nam-Cầm, lúc còn là gái tân phải cắm dù che mưa, không dám đưa vào nhà dụt vì tránh giật mình trong lúc tham thiền nhập định dễ gây nguy hại đến mạng sống của nàng.
Lúc tham thiền nhập định luyện công chẳng những phải có bản lĩnh cao mà còn phải có chí cương quyết giữ được tâm thần khỏi rung động và kỵ nhất là những sự náo động bất ngờ có thể xảy đến. Vì vậy nên yếu tố vắng vẻ của nơi luyện tập và cần người canh giữ cần thiết lắm.
Nghe Dương-Qua nói đến miếu nầy, Tiểu-long-Nữ nhận thấy có lẽ được, muốn quan sát lại.
Nàng liền xuất Mộ Đài, phi thân lên ngọn cây cao nhất đưa mắt nhìn vào hướng ấy, trông thấy tòa cổ miếu nằm khuất trong rặng hoa hồng tứ bề vắng lặng, tĩnh mịch, ngoài tiếng suối reo, gió thổi, chim kêu, không thấy một điều gì có thể làm xao động, thật là một nơi hết sức thuận lợi cho công cuộc luyện công.
Nàng nói với Dương-Qua:
- Ta rất đồng ý với mi. Vậy chiều nay, chúng ta cùng tới đó để luyện tập.
Nàng đã học thuộc lòng từ lâu tất cả khẩu quyết "Ngọc-nữ âm-kinh" nay đọc mấy câu cho Dương-Qua nhớ.
Vào khoảng canh hai, hai thầy trò đưa nhau đến miếu ấy tìm chỗ sân bằng phẳng kín đáo nhất để tập. Rừng khuya lặng lẽ, mọi vật lắng trong màn sương, cả tòa miếu chìm trong rặng hoa hồng mùi thơm ngào ngạt. Cả hai người ngồi cách nhau một đoạn, có thể nói chuyện được, nhưng không nhìn thấy nhau, cởi hết y phục để bắt đầu luyện tập.
Dương-Qua cố ý đánh dấu hướng ngồi của sư phụ đề phòng lúc bất trắc có thể vận nội công hỗ trợ lẫn nhau. Họ ngồi cách nhau độ hơn một sải tay.
Kể từ hôm ấy trở đi, cứ đêm đêm họ đưa nhau vào đấy tập luyện, ban ngày về Cổ-Mộ để nghỉ sức dưỡng thân.
Lúc bấy giờ đang giữa mùa hè, khí hậu oi bức, nên tập về đêm mát mẻ dễ chịu hơn.
Thời gian thấm thoát đã hơn hai tháng, Tiểu-long-Nữ đã luyện đến phần thứ bảy của chín đoạn phép Ngọc-nữ tâm-kinh.
Trong quy tài tập luyện số lẻ là "âm tiến", số chẵn là "dương thoái". Khi đó Dương-Qua cũng luyện đến phần thứ sáu.
Tối hôm ấy trời mát trăng song, giữa miếu hồng, hai người đang ngồi luyện tập, nhiệt khí trong người bốc ra ngùn ngụt, hòa lẫn mùi hoa thơm ngào ngạt. Trăng sáng vằng vặt vừa đứng đỉnh đầu, hai người sắp hoàn thành đoạn 6 và đoạn 7 của Ngọc-nữ tâm-kinh, thì bỗng đàng xa có tiếng chân bước dồn dập khua lá động xào xạt hướng về miếu hồng. Hai người vừa đi vừa nói chuyện lớn tiếng, làm náo động cả cảnh rừng đêm lặng lẽ. Họ vừa nói vừa đi, bước chân càng lúc càng gần.
Khi ấy Dương-Qua sắp hoàn thành đoạn chót của buổi tập, còn Tiểu-long-Nữ mới bước qua giai đoạn vận khí vào, tức là phần quan trọng nhất. Nàng đang tập trung hết tư tưởng vào việc tập luyện nên không nghe biết sự gì bên ngoài nữa.
Khi nghe có tiếng nói, Dương-Qua thất kinh vội vàng xả hết trọc khí ở đan điền thật hết để hoàn tất buổi tập, thì tiếng chân bước càng gần thêm, giọng người nói nghe rõ mồn một.
Dương-Qua lắng nghe đó là Triệu-chí-Kính và Doãn-chí-Bình đang cãi cọ lẫn nhau.
Triệu-chí-Kính nói:
- Thôi sư đệ chối cãi làm chi nữa, để ta trình lại Khưu-sư-bá xét định.
Doãn-chí-Bình giận dữ đáp:
- Anh cứ buộc tôi làm gì. Tôi thừa hiểu rồi, trong hàng ngũ các đệ tam đại, đệ tứ đại sau này, anh tưởng tôi không thể đoạt được hàng trưởng giáo chăng?
Triệu-chí-Kính cười mãi nói:
- Anh không giữ được quy tài, phạm giới cấm thì làm sao có đủ tư cách để thành người đứng đắn của các đại đệ tử nhóm này được.
- Tôi đã làm gì mà gọi là phạm giới cấm?
Triệu-chí-Kính nổi nóng quát lớn:
- Thôi đừng già mồm ngụy biện nữa. Ngươi há biết hết bổn giới trong luật của môn phái rồi sao? Ngươi đã phạm vào luật giới dâm nghe chưa?
Dương-Qua núp trong đám hoa hồng, vội ngẩng đầu lên dòm thấy hai người đang ngồi đối diện nhau. Dưới ánh trăng, sắc mặt của Doãn-chí-Bình tái mét, mắt trợn ngược, môi run run, hình như không kìm chế được nỗi bực tức.
Hắn cố dằn lòng hỏi tiếp:
- Ta phạm giới dâm chỗ nào?
Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi kiếm.
Triệu-chí-Kính liếc qua một cái và nói tiếp:
-Từ ngày gặp Tiểu-long-Nữ cô nương bên Hoạt-tử-Nhân Mộ-Đài, thì anh đã xiêu hồn thất phách, không lúc nào là không mơ tưởng đến hình bóng người đẹp. Đứng đâu cũng mơ tưởng được ôm ấp nàng vào lòng, nói với nàng những câu tình tứ nồng nàn. Như thế anh gọi là xứng đáng một kẻ chân tu, làm sao đủ tư cách điều khiển cả một hàng đại đệ tử được?
Đối với kẻ tu hành, hành động ấy không phải phạm giới dâm sao?
Dương-Qua lúc nào cũng tôn sùng sư phụ xem như một đấng thiêng liêng. Khi nghe Triệu-chí-Kính nói những lời ấy thì bực tức vô cùng. Tuy chưa hiểu rõ ý của các danh từ, nhưng suy nghiệm cũng đoán biết đó là những lời không chính đáng.
Vừa lúc đó nghe Doãn-chí-Bình dằn giọng hỏi lại:
- Thôi đừng ăn nói hồ đồ nữa? Anh có bằng chứng gì để nhận xét và quả quyết được như thế?
Triệu-chí-Kính cười nhạt nói:
- Tôi làm sao nhìn thấy lòng anh được. Sở dĩ tôi quả quyết như vậy là gì những bằng cớ. Khi mơ tưởng đến Tiểu-long-Nữ, anh đã viết tên nàng trên giấy, trong lúc ngủ mê anh đã gọi tên nàng. Đây có phải bút tích của anh không?
Nói xong hắn thò tay vào túi rút ra một mảnh giấy đưa trước mặt Doãn-chí-Bình vừa nói tiếp:
- Tôi sẽ trình giấy nầy lên Khưu-sư thúc, người phụ trách dạy dỗ anh và đồng thời cũng trình lên Mã-Ngọc sư bá để hai vị nhận xét việc làm của anh.
Không chị nổi nữa, Doãn-chí-Bình rút kiếm đâm vào người Triệu-chí-Kính.
Triệu-chí-Kính nghiêng người tránh khỏi đường kiếm, rồi cười ha hả:
- Anh tưởng anh giết tôi để phi tang, vì tôi không còn sống để phát giác tội lỗi của anh phải không? Đâu có dễ dàng như vậy.
Nói xong hắn bỏ mảnh giấy vào túi, lùi ra sau hai bước tránh luôn hai đường kiếm của Doãn-chí-Bình vừa phóng ra như gió.
Qua đường kiếm thứ tư, Triệu-chí-Kính cũng vung kiếm đấu lại. Dưới ánh trăng sáng như ban ngày, hai làn kiếm loang loáng, nhấp nháy như sao sa. Hai đạo hữu của Toàn-Chân phải kịch chiến cùng nhau trên sân hồng hoa miếu.
Vốn là hai cự phách của phái Toàn-Chân, thuộc hàng đệ tam đại đệ tử, một người đứng đầu nhóm đệ tử của Khưu-xứ-Cơ, một người đứng đầu nhóm đệ tử của Vương-xứ-Nhất, cho nên cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt.
Doãn-chí-Bình nghiến răng, mím môi đưa toàn lực đổ vào làn kiếm, liều chết chiến đấu. Triệu-chí-Kính bất đắc dĩ mới ra tay tự vệ, nhưng thỉnh thoảng thốt ra những lời khiêu khích chọc giận, làm Doãn-chí-Bình mất bình tĩnh, do đó đường kiếm bị giảm bớt phần hiệu lực.
Núp trong bụi hoa hồng, Dương-Qua chú mục theo dõi, hai tay cự phách của phái võ Toàn-Chân quyết đấu, từ bước tiến, thoái, đến các thế né, đỡ, đường kiếm biến hóa phi thường, ảo điệu vô cùng tận. Tuy không được thâm hậu, nhưng nó nhận thấy sự chỉ dạy của Tiểu-long-Nữ rất đúng phép.
Cả hai người quay cuồng xoắn với nhau giữa làn kiếm lấp lánh không ngừng. Doãn-chí-Bình càng tăng gia sức tấn công, còn Triệu-chí-Kính vẫn bình thản né đỡ và một chập sau cười nhạt nói rằng:
- Chúng ta đã hiểu nhau quá nhiều, các thế võ cùng giống nhau, đầu dánh nhau suốt đêm cũng không ích gì đâu. Anh nên bỏ ý định hạ sát tôi thì hơn.
Nói xong hắn cười ha hả. Doãn-chí-Bình càng bực tức gia tăng sức tấn công. Nhưng ngọn nào cũng bị hắn chặn được hoặc tránh né rất dễ dàng.
Hai người càng đấu càng xê dịch đến gần phía Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua thất kinh hét lớn:
- Coi chừng! Hai tên đạo sĩ kia, nếu bây đến gần làm kinh động đến cô nương ta, sẽ mất mạng ngay, nghe chưa!
Thần Điêu Đại Hiệp - Hồi 16 : Ngọc-Nữ Tâm-kinh
Nhưng bỗng thình lình Triệu-chí-Kính phản công xông đến đánh luôn ba ngón liên tiếp mạnh như vũ bão, buộc Doãn-chí-Bình phải thối lui trở về võ điện.
Nhờ vậy mà hai người xa dần chỗ ngồi của Tiểu-long-Nữ. Dương-Qua đang mừng rỡ thì kế đó Doãn-chí-Bình thay đổi chiến thuật, chuyển kiếm sang tay trái, vận dụng chưởng lực ra tay phải, tung ra một luồng nhân điện hết sức mãnh liệt.
Triệu-chí-Kính vừa đánh vừa cười:
- Dẫu anh xử dụng ba tay cũng chẳng làm gì tôi được đâu.
Nói xong y cũng vận dụng chưởng lực ra tay trái nghênh chiến tức thì.
Cả hai vừa sử dụng kiếm pháp, vừa sử dụng nhân điện phổ thành nhân điện tấn công dồn dập, miếng đánh, miếng đỡ càng lúc càng thêm gay cấn.
Trong lúc ấy Tiểu-long-Nữ vẫn tập trung tư tưởng vào việc luyện công, chẳng hề để ý hay biết gì về ngoại cảnh.
Dương-Qua thì thấp thỏm theo dõi, lòng hồi hộp sợ hãi khi thấy hai người đến gần sư phụ, và vui mừng khi họ ra xa.
Sau một chập Doãn-chí-Bình quát to lên một tiếng vận dụng đủ mười hai thành công lực, tung ra một ngọn độc hiểm để kìm chế đối phương. Vì sự tấn công đột ngột và dũng mãnh, Triệu-chí-Kính cảm thấy lâm vào thế hạ phong, tay chân luống cuống không phối hợp được chưởng lực, bắt đầu e ngại và cảm thấy đối thủ quyết tâm hạ sát mình, vì lẽ mình hiểu thấu mối tình thầm lặng bất chính của y đối với người đẹp.
Trước kia hai người đã không ưa gì nhau. Nay do việc này đã gây thêm xa cách thù hận đến nỗi nảy sanh ý nghĩ sát hại lẫn nhau không nương tay.
Đấu thêm mấy hiệp nữa, Doãn-chí-Bình mím môi, tay trái phóng thẳng thanh kiếm, tay phải tung ra một chưởng đồng thời đá liên tiếp ba ngọn cước theo "Liên hoàn thế" một ngón tuyệt diệu bí truyền của phái Toàn-Chân vào hạ bộ đối thủ.
Triệu-chí-Kính vung kiếm một vòng che đỡ đồng thời nghiêng mình một bên để tránh chưởng lực và cước ác nghiệt. Nhưng vì ánh kiếm của Doãn-chí-Bình phóng quá mạnh toàn thân tung lên cao gần một trượng. Nếu người khác thì ngọn quyền này phối hợp với chưởng lực của hai tay Doãn-chí-Bình tận lực phóng ra, có thể gãy xương dập ngực ngay. Nhưng Triệu-chí-Kính nhờ khổ công đào luyện, nên mặc dầu bị đánh tung lên bất ngờ vẫn giữ được bình tĩnh và uốn mình nương theo đà bay lên, lộn luôn một vòng, hạ chân xuống đất một cách nhẹ nhàng.
Dương-Qua hồi hộp nhìn theo thấy chỗ hắn rơi đúng là nơi Tiểu-long-Nữ đang luyện công, nếu không trúng ngay đầu nàng thì cũng rơi ngay vào bụi hoa hồng bên cạnh. Lúc bấy giờ Tiểu-long-Nữ đang lõa thể, vì ánh trăng không chiếu vào chỗ ấy, nên người vô ý không nhìn thấy nàng.
Dương-Qua thất kinh vội vàng vận dụng chưởng lực vào hai tay theo thế "Sư-tử hí cầu" đẩy mạnh vào lưng Triệu-chí-Kính. Tiếp đến y phi thân nhảy đến, dùng sức xô người hắn bay bổng về phía trước vài trượng.
Tuy vậy, một nửa thân hình trắng như tuyết của Tiểu-long-Nữ đã hiện ra lồ lộ dưới ánh trăng.
Thân hình Triệu-chí-Kính rơi xuống rất mạnh, làm gẫy mấy nhánh cây răng rắc, khiến Tiểu-long-Nữ giật mình, toàn thân rung động mồ hôi toát như tắm. Tất cả khí lực đang vận dụng nửa chừng bỗng thối lui dồn hết xuống dưới bụng, khiến nàng tức thở chịu không nổi té xỉu ngất đi.
Doãn-chí-Bình vừa thấy Dương-Qua đột nhiên xuất hiện chưa hết ngỡ ngàng, bỗng nhìn rõ ràng thân hình người ngọc mà mình hằng mơ tưởng, lồ lộ dưới trăng trong đám hoa hồng, thật hết sức kinh ngạc, ngỡ là chiêm bao. Hắn chỉ biết trợn mắt, há miệng đứng nhìn, không nói năng gì hết.
Triệu-chí-Kính đã lăn mình một vòng đứng dậy được. Là người có bản lĩnh, sự té ngã như thế đâu có nghĩa lý gì và mặc dầu bị té hắn vẫn giữ đủ sức bình tĩnh nhận định tình hình xung quanh và nhìn thấy rõ ràng Tiểu-long-Nữ.
Hắn reo to lên:
- ồ, bọn này đã rủ nhau lén lút tới nơi này làm điều bất chính đây mà.
Dương-Qua nghe nói nộ khí xung thiên trợn mắt quát lớn:
- Hai tên đạo sĩ khốn kiếp này, khôn hồn nên mau mau rút lui khỏi nơi đây, trở về chỗ võ điện của bây.
Vừa thét, y vừa cởi áo đưa cho Tiểu-long-Nữ bảo nàng mặc vào. Nhưng chờ một chập không thấy sư phụ đáp lời hay cử động gì, y chột dạ quay đầu lại nhìn, nhận thấy nàng đã ngất xỉu nằm im trên mặt đất.
Dương-Qua bỗng nhớ đến lời Tiểu-long-Nữ dặn:
"Trong khi luyện nội công phải đề phòng xung quanh, dẫu một bóng thỏ chạy qua cũng có thể gây thành đại họa". Triệu-chí-Kính đã rơi mạnh bên cạnh nàng, thế nào cũng khiến nàng giựt mình và tai hại này quả thật không thể nhỏ.
Vừa nghĩ đến đó, hắn vội vã chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, cởi luôn chiếc áo lót của mình quàng cho nàng và đưa tay lên rờ trên trán thấy mồ hôi đầm đìa, lạnh ngắt. Hắn lật đật quơ luôn cái áo đắp kín người nàng, nắm vai nàng lay mạnh và hỏi:
- Cô nương ơi sao thế cô nương?
Tiểu-long-Nữ chỉ ú ớ nho nhỏ không nói nên lời.
Dương-Qua nói thêm:
- Bây giờ tôi cần đưa cô nương về tịnh dưỡng cho bình phục rồi trở lại đây đánh chết hai tên đạo sĩ khốn kiếp này mới được.
Tiểu-long-Nữ không trả lời, toàn thân mềm lả trong tay Dương-Qua. Dương-Qua vội ôm sư phụ vào lòng chạy vụt qua trước mặt hai đạo sĩ. Doãn-chí-Bình ngẩn ngơ đứng ngó không thốt nên lời, còn Triệu-chí-Kính cười ha hả nói lớn:
- Này sư đệ, ý trung nhân của sư đệ đã lõa thể ra chốn này cùng chàng thanh niên đẹp trai này, sao sư đệ không giết ngay tình địch có hơn là cố tâm đi giết hại ta.
Doãn-chí-Bình vẫn ngẩn ngơ không nói nên lời. Nhưng Dương-Qua nghe nói tức giận vô cùng, vội đặt Tiểu-long-Nữ dựa vào một gốc cây, lấy quần áo của nàng lót sau lưng cho êm, đưa tay bẻ một cành cây làm khí giới, rồi tung mình nhảy đến trước mặt Triệu-chí-Kính quát lớn:
- Tên đạo sĩ khốn nạn hãy câm mồm đừng nói hồ đồ bậy bạ.
Sau hai năm trời xa cách, Dương-Qua đã lớn nhiều, từ một đứa con nít, ngày nay nó đã trở thành một thanh niên tuấn tú, lúc đầu Triệu-chí-Kính nhìn không ra, nhưng sau khi nghe tiếng nói quen quen, y định thần xem lại, biết là Dương-Qua, học trò cũ của mình lúc trước. Bị xô té nhào lại bị chửi mắng, Triệu-chí-Kính quá tức quát lớn:
- Dương-Qua, mày là đứa súc sinh!
Dương-Qua nạt lại:
- Chính mi mới là đồ súc sinh chứ ai. Mi mắng ta bao nhiêu cũng được, sao cả gan dám nói xấu cô nương ta?
Triệu-chí-Kính cười gằn nói:
- Ta nghe truyền rằng phái Cổ Mộ đài chỉ kết nạp đồ đệ phụ nữ, đâu ngờ ngày nay lại xảy ra sự tình tệ như thế này. Một nàng mệnh danh là Ngọc-tuyết Bàng-thanh, trưởng môn phái lại đi phá lệ, kết nạp và truyền nghề cho một thanh niên tuấn tú, rồi những đêm trăng tỏ lại đưa nhau vào chốn thâm u vắng vẻ, chiếu đất màn trời, để làm điều tồi bại, thật đáng kính thầy. Các ngươi tưởng đấu nhẹm được mãi sao?
Dương-Qua nghe nói đang suy nghĩ định đối đáp, vì thật ra hắn chưa hiểu hết ý nghĩa lời nói của Triệu-chí-Kính. Khi ấy Tiểu-long-Nữ vừa chợt tỉnh nghe câu nói ấy tức giận tràn hông. Khí uất cuồn cuộn dâng lên nàng cố tâm đè nén xuống, giằn co một chập, không thể nào chịu đựng nổi nữa, vì đã bị nội thương nặng, không còn đủ hơi sức kìm hãm, nàng chỉ thốt lên được một câu:
- Mi ăn nói quá hồ đồ, chúng ta đâu có...
Rồi máu tươi hộc ra cuồn cuộn, nàng tắt lời không nói được nữa.
Doãn-chí-Bình thất sắc chẳng biết nói gì, bước dần đến và hỏi Dương-Qua.
- Vậy ngươi đến chốn nầy làm gì?
Đã có định kiến sẵn là Doãn-chí-Bình muốn đến gần để ám hại sư phụ, nên Dương-Qua không thèm trả lời, vung tay đánh ra một quyền ngay mặt Doãn-chí-Bình thật mạnh. Doãn-chí-Bình khom người tránh được và đáp ngay bằng một đường móc trái bằng tay phải. Dương-Qua đã học thuộc lại các thế võ của phái Toàn-Chân, thêm am thạo hết những phương pháp để khắc chế cho nên tránh đỡ quá dễ dàng. Vì vậy hắn vung hai tay lanh như chày máy, vừa đỡ vừa thoi liền mấy thế, tấn công tới tấp, khiến Doãn-chí-Bình phải né tránh và thối lui xa dần chỗ Tiểu-long-Nữ.
Kể về mức luyện tập và võ thuật thì Dương-Qua còn kém thua Doãn-chí-Bình. Nhưng nhờ các môn khắc chế do Lâm triều Anh đã tìm trước để đối phó với các môn võ Toàn-Chân phái, cho nên việc chống đỡ dễ dàng, và ngoài ra, Dương-Qua cũng nhờ đó, có đủ sức để ứng phó với bất cứ một đệ tử nào của bên Trùng-Dương cung.
Vốn trước kia Lâm triều Anh nghiên cứu, sáng chế ra những thế võ này, bà chỉ âm thầm truyền lại cho đệ tử, luôn mấy đời các đệ tử cũng chỉ luyện tập, trau dồi thêm chứ chưa hề ra thi thố hay tranh đấu cùng ai, cho nên tác dụng chưa rõ ra sao, và cũng chưa kẻ nào biết tới.
Ngày nay bất ngờ Dương-Qua đem ra áp dụng, khắc chế được tất cả các thế tấn công của Doãn-chí-Bình một cách rất lợi hại. Tuy chưa đến nỗi ngã gục hay thua chạy dài, nhưng Doãn-chí-Bình rất kinh ngạc thấy tài nghệ của Dương-Qua hết sức tính điệu và dần dần y lâm vào thế hạ phong, phải đi thụt lui đến cạnh chỗ Triệu-chí-Kính đang đứng.
Dương-Qua để ý đứng thở một chập, day qua Tiểu-long-Nữ nói:
- Thưa cô nương an tâm, cô nương cho phép tôi mang cô nương về lo chạy chữa xong sẽ trở lại đánh bọn này một trận để trả thù cho cô nương.
Nàng cố gắng nói qua hơi thở:
- Không, không cần, mi cứ đánh chúng nó một trận ngay bây giờ. Ta không chịu nổi để chúng nó... hỗn láo... nói xấu như thế được.
Dương-Qua đáp:
- Xin tuân lệnh cô nương.
Nói rồi, hắn đưa tay bẻ một cành cây gần đó rồi phóng thẳng một đường vào ngay ngực Triệu-chí-Kính. Triệu-chí-Kính vung kiếm ra gạt mạnh. Lưỡi kiếm chẻ trúng đầu nhánh cây làm tróc mấy miếng dăm văng mạnh vào bàn tay hắn, làm toạc hai ba đường rườm máu, khiến hẳn phải thối lui ôm tay xuýt xoa một chập.
Tức thời Dương-Qua vận dụng chưởng lực vào bàn tay, đánh mạnh vào phía má bên trái của Triệu-chí-Kính.
Nhờ sự luyện tập bền chí trên giường hàn thạch, mức nội công của Dương-Qua đã hết sức thâm hậu, nên chưởng lực tung ra quá mạnh, kìm chế đối phương không nhúc nhích nổi. Biết không thể nào tránh kịp, Triệu-chí-Kính đành nghiến răng, vận sức vào đầu chịu trận. Nếu cần phải đối phó với chưởng lực này, Triệu-chí-Kính không đủ gân sức để giữ lấy thanh trường kiếm nữa.
Nhờ già công tập luyện có đủ nghị lực để nhận định tình hình, nên Triệu-chí-Kính đành vứt bỏ thanh kiếm, cúi đầu xuống sát đất để tránh lằn chưởng của Dương-Qua, một tay đưa ra để dò xét chiều hướng của chưởng lực đối phương, rồi lăn vòng qua một cái lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm và tung mình đứng dậy chuẩn bị tấn công lại.
Trong khi nghiên cứu võ học của phái Toàn-Chân, Lâm-triều-Anh đã gia tâm phân tách từng thế võ, tiên đoán được mọi sự biến chuyển để định cách ứng phó, chế phục hết sức xảo điệu, cho nên bất kỳ thế võ nào của Toàn-Chân phải có cao siêu đến đâu cũng có sẵn một thế khác để đối phó.
Triệu-chí-Kính đâu có ngờ như vậy, cho nên trong bụng đinh ninh rằng thế độc đáo vừa rồi có thể chuyển bại thành thắng như chơi. Nhưng Dương-Qua đã nắm lòng từng thế đi nước bước của đối phương rồi, nên chỉ nhìn qua mỗi một động tác nhỏ đã đoán trước được thế võ đó và tấn công được ngay.
Sau khi dò biết chiều hướng xuất phát chưởng lực của Dương-Qua, Triệu-chí-Kính đột nhiên nắm lấy tay đối phương rút mạnh để chận đứng luồng nhân diệt xuất phát.
Nhưng Dương-Qua đã tiên đoán được, xông đến lẹ như chớp tay trái chặn lấy tay cầm kiếm của Triệu-chí-Kính, hắn hoảng sợ vội rút tay về, nhưng đã muộn. Dương-Qua đoạt lấy thanh kiếm, dí vào ngực và hét lớn:
- Mi đã tận số rồi!
Triệu-chí-Kính hoảng hốt nhảy lùi lại một bước, nhưng Dương-Qua đã lẹ làng tung chân trái đá quẹt ngang một ngọn. Bị ngọn cước ấy, Triệu-chí-Kính mất đà bật ngửa trên cỏ. Dương-Qua vung kiếm chỉ thẳng vào bụng hắn muốn đâm sâu một nhát cho rồi đời bỗng nhiên có một luồng gió mát thổi lộng tới, đồng thời có tiếng thét lớn:
- Mi cả gan hạ sát sư phụ à?
Dương-Qua vội thu kiếm, hoành thân chém một vòng ra phía sau, vừa kịp chận đứng ngọn kiếm giải vây của Doãn-chí-Bình. Trong bụng Dương-Qua thầm khen phục Doãn-chí-Bình đã tiếp cứu kịp thời.
Nhưng khi hai luồng kiếm vừa chạm nhau, Dương-Qua cảm thấy hổ khẩu tê rần như chạm phải một luồng nhân điện và toàn thân cũng bị rung động, không thể điều khiển cánh tay theo ý muốn nữa, vội vàng định thần vận nội công lấy lại thế quân bình. Tuy nhiên nội công của Doãn-chí-Bình có phần thâm hậu hơn một bực, cho nên sau mấy đường kiếm, Dương-Qua có vẻ lúng túng lối đánh rời rạc dần.
Doãn-chí-Bình càng phấn khởi tấn công tới tấp để hạ sát ngay đối thủ. Chẳng ngờ đấy chỉ là đụng ý nghi binh của Dương-Qua để gây tinh thần tự kiêu tự đại của Doãn-chí-Bình.
Sau vài hiệp thình lình Dương-Qua vứt kiếm, tung cả song chưởng đập mạnh vào ngực rồi lẹ như chớp chụp lại thanh kiếm, phổ hết điện lực vào tấn công luôn. Bất ngờ bị tấn công cả hai thế Doãn-chí-Bình thất kinh, mồ hôi xuất đầm mình, vội vàng tập trung hết công lực để đối phó với thế võ cực kỳ hiểm hóc này. Nhưng vì hai luồng chưởng lực quá mạnh, Doãn-chí-Bình phải lật đật buông kiếm chốp hai chưởng trước mặt để đón đỡ chưởng lực đối phương.
Nhưng khi vừa chạm vào tay Dương-Qua, y cảm thấy một luồng điện nóng rần rật chuyển vào thân hình, khiến cánh tay tê tái và toàn thân rung động. Cũng may là sức đào luyện của Dương-Qua chưa đến mức thâm hậu, khiến y cũng phải bại người ngã quay ra liền lúc đó. Doãn-chí-Bình run lẩy bẩy và cảm thấy hình như có một mũi dùi xuyên vào ngực, chạy khắp nội tạng đau nhức chịu không nổi, muốn tắt thở, y vội vàng rút tay lại ấp lên ngực, hít mạnh vào một hơi vận dụng nội lực để chống lại cơn đau nhức.
Dương-Qua đưa tay chụp lấy luôn thanh kiếm của Doãn-chí-Bình rồi hai tay múa tít lên xông vào tấn công cả hai người. Hai đại đệ tử của phái Toàn-Chân bị một thiếu niên bất ngờ xung xích mãnh liệt không kịp xoay trở, tay chân cuống cuồng suýt nữa bỏ mạng. Mỉa mai hơn nữa thiếu niên nầy trước kia đây một thời gian ngắn, là đệ tử của họ! Cả hai mệt thở hổn hển, tay run, mồ hôi nhễ nhại, cử động hết muốn nổi. Bấy giờ mỗi người đều cuống cuồng không còn dám tự phụ khinh thường như lúc đầu nữa.
Hai người cùng hiệp sức bồi dưỡng cho nhau, phối hợp quyền lực thủ thế, không dám nghĩ đến tấn công nữa.
Dương-Qua tuy có binh khí trong tay, đang thẳng thế, nhưng hai người biết chéo phối hợp lối liên hoàn để ứng phó, nên hắn cũng chưa dễ gì hạ sát được.
Kiếm pháp của Cổ-Mộ đài tuy khắc chế được kiếm pháp của Toàn-Chân phái, nhưng nhờ hai người có công phu võ thuật già dặn, tập luyện nhiều năm hơn, sự phối hợp giao đấu được chặt chẽ cho nên tuy Dương-Qua thắng thế mà vẫn không thể nào hạ thủ được.
Nhờ sức nội công thâm hậu, Triệu-chí-Kính vươn lên dần dần chống cự hữu hiệu những đường kiếm của Dương-Qua. Riêng Doãn-Chí-Bình sau một hồi định tâm giữ được bình tĩnh chỉ chú ý đối phó.
Hai cao thủ đem hết tài nghệ được bí truyền để đánh một thiếu niên miệng còn hơi sữa, dầu may ra thắng được cũng chẳng được có giá trị gì, huống chi hiện tại phần thua đã nghiêng về mình quá rõ rệt. Phần nữa, Doãn-chí-Bình luôn luôn lo âu băn khoăn chẳng rõ Tiểu-long-Nữ ra sao nên gọi lớn:
- Bớ Dương-Qua, sao ngươi không lo săn sóc đến sức khỏe của cô nương lại cứ cố tình tranh đấu mãi với chúng ta hay sao?
Dương-Qua vẫn không ngừng tấn công và đáp lớn:
- Ta đã nhận lệnh cô nương phải hạ sát hết hai đứa bay, rồi sẽ hay.
Doãn-chí-Bình cười lớn:
- Mi tưởng dễ hạ thủ anh em ta đấy à! Mi lầm rồi. Thôi hãy thu xếp đưa cô nương về mà điều trị cho mạnh đã. Mi nên thưa với cô nương nên bỏ qua đi cho, vì bất ngờ để xảy ra câu chuyện hôm nay, ta hết sức ân hận và cũng không ngờ đến. Nếu cô nương cố chấp ta nguyện xin lấy sanh mạng mà tạ lỗi cùng nàng. Miễn cô nương, ban cho một lời nói, nếu cần, ta có thể tự vẫn không chút ngần ngại để nàng được vui lòng.
Mi không tin lòng ta ư. Đây nầy, một việc làm đầu tiên của ta sẽ giúp cho mi và nhất là cô nương hiểu rõ.
Nói xong, Doãn-chí-Bình tập trung ý chí, mắt sáng ngời, hai tay chắp lại, vận dụng nhân điện, như chớp xông vào cướp thanh kiếm rồi múa lên một vòng chặt đứt một lòng ngón tay trỏ và ngón tay vô danh của mình rơi xuống đất.
Hành động ấy diễn ra quá đột ngột ngoài sự dự đoán và óc tưởng tượng của Dương-Qua. Nó bàng hoàng suy nghĩ và nhận thấy những lời nói trước kia của Doãn-chí-Bình quá thành thật không có một ẩn ý gì khác.
Nhưng nó nghĩ thêm:
- Ta chưa đủ sức hạ thủ một lần cả hai đứa thì ngay bây giờ cứ tập trung mũi dùi vào tên đạo sĩ đáng ghét kia trước đã. Còn đầu óc của Doãn-chí-Bình có thật tình hay không, rồi hạ hồi phân giải.
Bỗng Doãn-chí-Bình nói tiếp với một giọng ân cần chí thiết:
- Ngay cả mạng sống của ta, nếu cô nương thấy cần, chỉ ban một lời, ta cũng không hề luyến tiếc.
Dương-Qua đáp lại nho nhỏ:
- Ta hiểu, thôi rồi hãy hay!
Nói xong, hắn múa tít thanh kiếm tiến về phía Triệu-chí-Kính.
Thình lình bị tấn công mãnh liệt, Triệu-chí-Kính đang ở tư thế phù trợ chiến đấu qua thế phải chịu đựng một mình tất cả sự tấn công của đối thủ, nên bất thần không phản ứng kịp. Hắn giật mình thì vừa lúc ấy mũi kiếm đã đâm thẳng vào bụng dưới. Thật không hổ thẹn đại đệ tử một danh môn chánh phái đã trên hai mươi năm khổ luyện. Khi mũi kiếm Dương-Qua chọc qua lằn áo rạch một đường dài, tự nhiên Triệu-chí-Kính nhanh như điẹn chớp, thóp bụng, cong mình lại như con tôm, bước lùi ra sau một tí, tung một ngọn cước đá mạnh vào cổ tay của Dương-Qua làm văng thanh kiếm lên cao như sao xẹt, chuyển bại thành thắng.
Bị rơi kiếm bất ngờ, Dương-Qua chuyển lực xòe bàn tay chặt mạnh vào đầu gối của địch, trúng nhằm huyệt đạo, Triệu-chí-Kính cảm thấy tê rần cả người, đầu gối run lẩy bẩy, rồi không gượng nổi té nhào xuống cỏ không cử động.
Dương-Qua nhặt thanh kiếm dí vào cổ Triệu-chí-Kính hét lớn:
- Trước kia ngươi xưng sư phụ ta để dày vò đầy đọa ta. Ngày nay ngươi không phải sư phụ ta nữa. Ta sẽ cho lưỡi kiếm này xuyên qua cổ để kết liễu đời người cho rồi.
Nói rồi Dương-Qua ấn mạnh một tý, làn thép cửa rách một lớp da cổ, máu đỏ chảy một đường dài.
Triệu-chí-Kính vừa đau đớn, vừa uất ức, nét mặt tái mét lại càng tái thêm. Mặc dầu đã kề bên cái chết, nhưng sự phẫn nộ làm y không biết sợ hãi, trừng mắt nhìn Dương-Qua nói lớn:
- Súc sinh, ngươi cứ giết ta đi! Đồ hèn hạ, đồ phản thầy!
Dương-Qua nổi nóng, mím môi định nhấn mạnh một cái để kết liễu tánh mạng hắn, nhưng Tiểu-long-Nữ đã gọi giật lại:
- Dương-Qua, không nên giết sư phụ. Ngươi buộc hắn thề giữ kín việc nầy thì tha mạng hắn cũng được.
Lời nói của Tiểu-long-Nữ làm Dương-Qua chợt tỉnh nghĩ lại và tuyệt đối tuân theo. Hắn nhìn Triệu-chí-Kính nói:
- Cô nương ta đã dạy, mi nghe chưa. Nếu muốn sống phải thề đi.
Tuy bản chất khẳng khái, tiết tháo, lúc nóng giận càng ươn gàn hơn. Hơn nữa, trước một sự mất còn của sanh mạng mình, Triệu-chí-Kính không biết làm sao hơn, đành nói nhỏ:
- ừ ta thề như vậy đó!
Dương-Qua quát lớn:
- Đâu có nói suông như vậy được. Người cần có sự cam kết nghiêm chỉnh để giữ lấy lời thề mới được.
Triệu-chí-Kính ngoan ngoãn long trọng thề:
- Câu chuyện hôm nay đã xảy ra giữa bốn người được chứng kiến, tôi lấy danh dự thề không bao giờ thổ lộ cho người thứ năm nữa, nếu tôi không giữ được lời hứa thề danh dự tiêu tan không xứng đáng người của môn phái, người đời sẽ khinh miệt tôi, trong võ lâm sẽ xem tôi như cỏ rác, sau này sẽ chết đường chết chợ, chết một cách khổ sở không toàn thây.
Dương-Qua và Tiểu-long-Nữ vốn người chất phác, nghe hắn thề độc như vậy là tin ngay. Dương-Qua thu kiếm, quay qua phía Tiểu-long-Nữ chăm sóc cho sư phụ. Đối với Doãn-chí-Bình thì những lời thề ấy có nhiều ẩn ý khác, huống chi bản chất của Triệu-chí-Kính như thế nào y cũng hiểu quá rồi. Doãn-chí-Bình đang bâng khuâng chưa biết nói những gì, kế thấy Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ phi thân phóng trước mặt, thẳng hướng về phía Cổ-Mộ đài, y càng thêm bàng hoàng, tâm thần bấn loạn như trải qua một cơn bão lòng mãnh liệt. Y âm thầm nhìn lại hai ngón tay bị chặt đứt, máu tươi còn rỉ rả chảy, sự đau đớn của thể chất và nỗi xót xa của tâm hồn chưa biết bên nào nặng hơn.
Dương-Qua bồng Tiểu-long-Nữ chạy về đến Cổ-Mộ đài, đặt nàng trên giường hàn thạch.
Tiểu-long-Nữ ngó lên nhìn hắn và nói nho nhỏ:
- Ta yếu quá đâu đủ sức chống lại sức lạnh của giường này, Dương-Qua chợt nhớ lại, vội bồng nàng lên chạy qua đặt trên giường của Tôn bà.
Tiểu-long-Nữ nằm im, thở nhè nhẹ, thân hình mềm nhũn như không còn hơi sức, da mặt trắng bạch, mồ hôi rịn ướt trán, đôi mắt nhắm nghiền. Dương-Qua lau mồ hôi cho nàng. Bỗng Tiểu-long-Nữ mở mắt, kêu lên một tiếng và hộc luôn mấy búng máu tươi. Dương-Qua chưa kịp mặc áo và vì đang cúi xuống nhìn nàng, nên bị máu phun đầy cả ngực.
Nàng nhắm mắt, mím môi cố vận khí lực đè nén cơn tức, nhưng càng vận dụng bao nhiêu, máu càng trào thêm bấy nhiêu.
Dương-Qua cuống cuồng lấy tay bịt mồm nàng cho máu bớt chảy và cuối cùng không biết làm gì hơn nữa, chỉ ôm mặt khóc lớn.
Nghe tiếng khóc, Tiểu-long-Nữ nhìn hắn và cười nhạt:
- Ta chỉ muốn máu trào cho hết mà không được.
Dương-Qua bệu bạo nói:
- Không nên đâu, cô nương đừng nghĩ và đừng làm như thế. Cô chưa thể chết được đâu.
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Mi sợ chết không?
Dương-Qua hết biết đáp ra sao, chỉ ấp úng:
- Thưa... tôi... tôi đấy à... Thưa cô nương, tôi...
Nhưng Tiểu-long-Nữ đã cất lời:
- Trước khi ta chết, ta phải giết ngươi đã.
Trước đây hai năm, Tiểu-long-Nữ đã nói câu này một lần. Không ngờ bây giờ nàng nhắc lại. Dương-Qua không biết đáp thế nào chỉ nhìn nàng ngơ ngác.
Thấy dáng điệu của nó như vậy, Tiểu-long-Nữ nói thêm:
- Ta phải giết mi, nếu không ta về âm phủ gặp Tôn bà ta biết nói năng làm sao? Ta đã hứa cùng Tôn bà dạy dỗ, chăm nom, săn sóc mi, nếu ta chết đi, bỏ ngươi một mình bơ vơ, lấy ai là người giúp đỡ. Ta không nỡ để ngươi một thân một bóng quạnh hiu không người thương yêu chăm sóc. Chừng ấy cuộc đời mi sẽ ra sao? Ta chết cũng không yên tâm được.
Dương-Qua bối rối, chưa biết đối đáp làm sao, chỉ đứng lặng thinh sụt sùi.
Nói xong, nàng lại mửa thêm mấy búng máu tươi, lịm dần và nằm yên bất tỉnh.
Bỗng linh tính nhắc hắn một điều. Dương-Qua chạy đi lấy bình mật ong trắng, dùng thìa múc đổ vào miệng Tiểu-long-Nữ. Mật ong trắng có đủ sức bồi dưỡng sinh khí, chữa các chứng nội thương nhiễm độc rất hiệu quả. Sau một chập, nàng thở đều, có vẻ khỏe hơn trước và nằm yên như ngủ say. Máu cũng ngừng chảy.
Dương-Qua cảm thấy yên chí. Nhưng bây giờ hắn đã thấm mệt tay chân mỏi rã rời, đầu hoa mắt quáng, bèn ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào giường, ôm chân nàng ngủ thiếp lúc nào không biết.
Một chập sau, Dương-Qua cảm thấy một cái gì lành lạnh nơi cổ, vội mở mắt nhìn.
Tuy sống nhiều năm nơi Cô-Mộ đài, luyện tập công phu khá dày, nhưng Dương-Qua chưa đoạt được mức nhìn xuyên qua màn tối như sư phụ, cho nên mỗi đêm phải thắp nến các phòng.
Hôm nay vì có việc bận rộn bất ngờ, hắn quên thắp nến, tuy nhiên trong ánh đêm mờ mờ, hắn vẫn trông thấy Tiểu-long-Nữ điềm nhiên ngồi bên cạnh giường, tay cầm trường kiếm ví vào cổ mình.
Hắn hết sức ngạc nhiên và sợ hãi vội hỏi:
- Cô nương, cô nương làm gì vậy?
Tiểu-long-Nữ lạnh lùng nói:
- Ta tự thấy bịnh tình không thuyên giảm nổi. Thôi chúng ta cùng nhau đi gặp Tôn bà vậy nhé.
Hoảng quá, hắn chẳng biết nói sao, chỉ lẳng lặng trố mắt nhìn nàng.
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Sao mi sợ lắm phải không? Có gì mà sợ! Chỉ một nhát kiếm là xong, có gì đau đớn đâu mà ngại chứ.
Dương-Qua thoáng nhìn thấy ánh mắt nàng bỗng nhiên sáng ngời, và tay vẫn lăm lăm cầm thanh kiếm nên đoán chắc nàng đã quyết định hạ sát mình rồi.
Tâm linh tự vệ và bản chất ham sống tự nhiên đến, hắn bỗng nghĩ đến cách đối phó thoát khỏi luồng kiếm thép. Thình lình hắn tung mình phóng lùi ra sau một bước, rồi tung cước đá vào tay kiếm Tiểu-long-Nữ. Thanh trường kiếm rơi xuống đất.
Tuy bị thương khá nặng, nhưng nhờ bản lãnh cao siêu, Tiểu-long-Nữ vẫn giữ được bình tĩnh
chuyển thể kịp thời, phản ứng lẹ như chớp, vừa bị đá rơi kiếm, nàng tung mình vươn tay phải thu hồi lại được ngay và loang một vòng kề sát cổ Dương-Qua.
Dương-Qua vận dụng hết tâm trí chống đỡ. Nó xoay đủ thế để tránh né, nhưng hình như nàng đã tiên liệu tất cả các thế võ ấy nên thanh trường kiếm loang loáng bao quanh thân hình hắn.
Tránh né không được, Dương-Qua vận dụng những thế tấn công hạ bộ, nhưng ngón nào cũng bị Tiểu-long-Nữ đón trước, hóa giải quá dễ dàng. Thanh trường kiếm lấp loáng xoay chiều đổi hướng bao quanh mình Dương-Qua như hình với bóng, không khi nào cách xa quá ba tấc.
Dương-Qua tháo mồ hôi hột, vừa kinh hãi vừa lo âu thầm:
- Lần nầy chắc không thoát khỏi tử thần, thôi đành để cho sư phụ định đoạt tánh mạng, về âm ty gặp Tôn bà chứ sao. Nhưng phúc chí tâm linh làm nó chợt nhớ:
- Sư phụ đang bị nội thương nặng, chắc không đủ sức vận dụng thế lực, chi bằng ta dùng nhân điện để ứng phó có lẽ hơn.
Tiểu-long-Nữ cũng nhận thấy nhược điểm của mình trong lúc nầy, nên vừa nghiêng mình lách sang một bên để luồng chưởng lực của hắn phớt mạnh qua, nàng gọi nhỏ:
- Dương-Qua, đừng vận khí nữa.
Nói xong, nàng tung trường kiếm lên trời, lưỡi kiếm lộn mấy vòng rơi xuống, nàng đổi tay hứng lấy rồi theo một thế "phân hoa phất liễu", thoáng đấy đã kề vào cổ hắn ngay.
Tiểu-long-Nữ nghiêng mình thêm phía trước vài tấc, định xiên mũi kiếm qua cổ họng Dương-Qua, nhưng bỗng nhiên nàng cảm thấy mất cả sinh lực, toàn thân bủn rủn, tứ chi mệt rũ rượi, buông thanh kiếm rơi xuống đất nghe "xẻng" rất lớn.
Dương-Qua tưởng mình đã đến giờ về cõi chết, nhắm mắt đợi, bất ngờ hắn thấy Tiểu-long-Nữ ngưng lại, lảo đảo buông kiếm ngã xỉu ra đất. Như cái máy, hắn cúi xuống lượm tham trường kiếm, cắm đầu chạy thẳng ra cửa, tìm lối thoát thân.
Thoát khỏi nơi đen tối của tử thần, Dương-Qua tung mình phóng đại ra cửa, mắt bị chói lòa bởi ánh sáng của vừng thái dương tỏa qua cành cây khe lá. Gió thổi lộng mát dịu cả lòng, như được thấm nhuần một nguồn sanh khí mới. Ngàn cây đầy tiếng chim kêu ríu rít vọng đến bên tai, Dương-Qua có cảm giác như được nghe một điệu nhạc hồi sinh và bồi hồi xua đuổi ám ảnh của khung cảnh ảm đạm chết chóc trong Cổ-Mộ đài mà nó vừa thoát khỏi.
Một chập sau nó hoàn hồn định thần dừng chân lại nghỉ. Nhưng chợt nghĩ sợ Tiểu-long-Nữ dùng khinh công đuổi theo nữa, nên nó lại cuống cuồng băng mình cắm đầu chạy nữa. Tuy thời gian tập luyện chưa bao lâu nhưng sức phi hành của Dương-Qua cũng đủ lướt nhanh như gió và trên giang hồ chưa mấy tay đã theo kịp.
Băng không biết bao nhiêu dặm trường đường núi, lúc tạm dừng chân thì mặt trời đã đúng ngọ. ánh nắng gay gắt làm cho Dương-Qua cảm thấy cổ nóng như bỏng vì khát nước. Nhìn lại sau lưng không thấy bóng Tiểu-long-Nữ đuổi theo, lúc bấy giờ hắn mới yên tâm ngồi lại trên tảng đá để nghỉ.
Từ đêm đến giờ trong bụng không có một thức ăn nào, nên Dương-Qua thấy đói và xót xa như bị cào xé. Muốn đi tìm quá trong làng gần đấy mua thức gì ăn đỡ dạ, nhưng sực nhớ lại trong túi không có một đồng, nên Dương-Qua thở dài suy nghĩ. Tấm thân lưu lạc từ thuở bé, không mẹ không cha, bao lần trôi nổi cam go, chịu cực nhiều nỗi đắng cay ê chề, nên đã quen rồi, dù có phải nhịn đói vài hôm hay nằm rừng ngủ bụi, đối với Dương-Qua cũng là việc quá thông thường. Vốn bản chất lanh lẹ tháo vát, nên sau khi nghỉ xả hơi vài khắc, hắn tìm suối vốc nước uống, rồi phi thân lên một cây ý-dĩ gần nhất, cành sum sê cả trái. Bứt một mớ trái vừa sồn sồn chưa được chín mang xuống đem lại gành đá, bẻ củi khô, nhúm lửa nấu chín để ăn đỡ dạ.
Bỗng có tiếng động và từ đàng xa có bóng người lướt đến gần Dương-Qua chỉ liếc mắt nhìn lại, rồi giả bộ không trông thấy, y lẳng lặng vừa đun lửa vừa theo dõi, người này là một đạo cô, mặc áo vàng, nét mặt sáng rỡ, dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát thật mau và uyển chuyển, sau lưng gài một trường kiếm bao sơn màu máu trên nền áo vàng bay phât phới. Nàng lướt đi mau, tiếng gió lộng vào bao kiếm, bật thành tiếng vi vu như sáo diều. Dáng điệu nàng di chuyển quả là con người sành võ nghệ.
Dương-Qua nghĩ có lẽ người này thuộc phải Trùng-Dương, cũng đang đi giang hồ, nên chẳng muốn làm quen hay hỏi han làm gì cho bận trí. Vì vậy nên hắn vẫn lui cui chụm lửa như không trông thấy nàg.
Đạo cô tiên đến trước mặt Dương-Qua dừng lại hỏi:
- Ông bạn ơi, xin vui lòng, chỉ hộ đường lên núi phải theo ngõ nào cho đúng?
Dương-Qua ngạc nhiên tự hỏi:
- ủa, nếu nàng này là đệ tử của phái Toàn-Chân sao lại không biết đường vậy à? Chắc có gì bí ẩn đây chăng.
Tuy nghĩ thế, nhưng hắn cũng chẳng muốn hỏi lại, chỉ điềm nhiên đưa tay chỉ ra phía trước nói bâng quơ:
- Theo ngõ đó thì đúng.
Nhìn thấy thiếu niên này ăn mặc lam lũ, lui cui nấu ăn, Đạo cô đoán có lẽ là một nông dân hay tiều phu của vùng này. Nàng tự thấy mình ăn mặc sang trọng, mặt mày đẹp đẽ mỹ miều, từ trước đến nay hỏi đến ai cũng được người ta vui vẻ đón mời cực kỳ vồn vã, thế mà người này lại có vẻ thờ ơ lạnh nhạt, hay là hắn chưa nhìn thấy mình chăng?
Đứng lặng một chập, nàng thấy Dương-Qua vẫn giữ thái độ bình thản, khinh khỉnh hình như không hề đoái hoài tới mình, nên bực tức bước lại gần nói gắt:
- Này anh bạn kia ơi, hãy đứng dậy, ta có chuyện muốn hỏi đây.
Đã có thành kiến với các đạo sĩ phái Toàn-Chân, nên Dương-Qua cũng bực mình, giả ngờ làm thinh không đáp lại.
Nàng nổi nóng nói lớn:
- Ê, thằng oắt kia, không nghe cô nương nói đấy à?
Dương-Qua đáp:
- Có chứ, nhưng chẳng qua không muốn đứng dậy đó thôi.
Nàng nghe nói vậy, bụng nghĩ có lẽ nó chưa nhìn thấy mình, nên kiên nhẫn nói ngọt:
- Ông bạn hãy nhìn tôi một tí xem nào.
Giọng nói lần này êm dịu làm sao, nghe như rót vào tai, vừa ấm vừa thanh tao. Dương-Qua cảm thấy lòng xao xuyến vì suy nghĩ:
- Lạ thật, người con gái này là ai, mà giọng nói vừa ngọt vừa êm như vậy nhỉ?
Rồi hắn ngẩng đầu nhìn lên:
- Thấy nàng đạo cô quả đẹp đáo để. Nước da trắng và hồng hồng, cặp mắt đen láy sáng như sao, mũi dọc dừa, làn môi cắn chỉ đỏ mọng dễ thương làm sao!
Một thiếu nữ xinh tươi mỹ miều khả ái như thế này, chắc không có ác ý gì. Tuy nghĩ thế, Dương-Qua vẫn làm thinh, rồi cúi xuống nhóm lửa như cũ.
Đạo cô thấy người này đã nhìn mình rồi, mà lòng không mảy may xúc động, có lẽ y là con người nông dân sơn dã mộc mạc, suốt đời chỉ lam lũ, chưa biết mùi đời, chưa có cảm giác rạo rực trước gái đẹp chăng. Nếu quả vậy thì hắn thực thà, mình cũng nên tìm cách lôi kéo thu phục được hắn có lẽ hơn. Đoán như thế nàng bỗng thấy đắc ý rồi mỉm cười hỏi thêm:
- Ông bạn làm gì thế, có thích món này không, tôi xin tặng cho đây.
Vừa nói, nàng vừa thò tay vào túi lấy ra hai thoi bạc sáng loáng, ném ngay trước mặt Dương-Qua.
Dương-Qua vốn ranh mãnh lanh lẹ lạ thường. Tuy không cố tâm chọc giận nàng này làm gì, nhưng vì thấy trong lối ăn nói đối xử của nàng có vẻ kẻ cả hách dịch, cho nên nó càng giả bộ ngây ngô, nhìn sững hai thoi bạc e dè hỏi:
- Vật này là thứ gì mà sáng trắng lóng lánh, trông cũng khá đẹp đây nhỉ?
Đạo cô bỗng bật cười rồi nói:
- Bạc đấy! Dùng thứ này để mua gạo, mua thức ăn ngon, sắm được quần áo đẹp.
Dương-Qua giả bộ ngớ ngẩn hỏi thêm:
- Thế ra cô cho tôi đấy ư?
- Chứ sao nưa? Nếu không cho thì ta ném ra đây làm gì? à, mà ông bạn tên là gì nhỉ?
- Tôi họ Sồ, tên Ngốc-Tử. Cô không biết sao? Còn cô tên gì nhỉ?
Nàng mỉm cười đáp:
- Hỏi tên ta làm gì? Cứ gọi à tiên cô cũng được à, má của cậu làm gì nhỉ?
Dương-Qua nói:
- Má tôi đang kiếm củi ở trên núi kia kìa.
Nàng hỏi tiếp:
- Ta muốn lên núi này lắm, nhưng ăn mặc như thế này bất tiện. Vậy cậu làm ơn dẫn tôi đến gặp má, nhớ đổi hộ bộ quần áo khác có được không?
Dương-Qua giả bộ sửng sốt đáp:
- ý! Không được đâu. Cô ăn cắp áo quần mà tôi đánh chết. Nàng cười khì khì nói:
- Ta mua trả tiền chứ ăn cắp đâu mà ngại!
Nói xong, nàng lấy thêm một thoi bạc nữa vung đến cho Dương-Qua.
Hắn đưa tay ra bắt, nhưng giả bộ hụt để cho thoi bạc chạm vào vai rơi xuống đất, rồi dùng chân đạp lên, loay hoay trượt té, nhủi về phía trước, rồi rảo bước chạy về phía đạo cô vừa chạy vừa la:
- Tại sao cô lại đánh tôi? Xô tôi. Tôi sẽ mách má tôi đánh lại cho mà xem.
Nói rồi nó ù té chạy.
Thấy bộ điên điên khùng khùng của nó, đạo cô cũng phát tức cười, vội tung một mảnh lụa trắng đến phía trước, quấn vào chân nó kéo lại.
Thấy lối tung lụa này, Dương-Qua rất ngạc nhiên, nghĩ bụng:
- ủa, đây là thế võ Cổ-Mộ đài, chứ đâu phải là người của Toàn-Chân phái. Vậy nàng này là ai? Mấy lúc nay chưa hề nghe cô nương nói đến.
Nghĩ thế nó giả bộ loạng choạng vấp ngã nhoài ra, rồi lồm cồm đứng dậy. Như một người hoàn toàn không biết gì là võ nghệ. Nó cố dẫy dụa. Nhưng chân vẫn lúng túng mắc vào giải lụa, để nàng khỏi dùng thế võ khác, lòng nó phân vân suy nghĩ mãi không hiểu nàng là ai, lên núi để làm gì? Hay để tìm cách ám hại cô nương mình chăng?
Nghĩ đến đây, Dương-Qua liên tường đến Tiểu-long-Nữ trong giờ phút này chẳng hiểu sức khỏe ra sao, hay là... đã?... bề gì rồi.
Rồi một mối lo ngại sâu sắc bỗng xâm chiếm tâm hồn nó. Quên tất cả mọi sự hiểm nghèo, Dương-Qua chỉ còn e ngại sợ Tiểu-long-Nữ đã bị nội thương mà chết rồi chăng?
Lo lắng quá, nó chỉ muốn trở lại gặp nàng, săn sóc cho nàng, mặc dầu nàng có bắt nó để giết đi, nó cũng cứ an tâm. Đang mãi hoang mang suy nghĩ, bỗng đạo cô bước đến gần, nhìn kỹ vào mặt nó. Tuy thấy mặt mày lem luốc, quần áo bẩn thỉu, nhưng vẫn có những nét rất khôi ngô tuấn tú, nàng nghĩ thầm:
- ồ, chú bé này đẹp quá, rất tiếc vì lam lũ đói khổ, nên thân hình tiều tụy thôi. Nếu được ăn no mặc đẹp, thanh niên thế gian chưa mấy ai qua khỏi hắn nổi.
Thấy Dương-Qua nhảy múa lung tung, la réo ầm ĩ, mặt mày mếu máo, nàng bỗng tức cười, đưa tay tuốt gươm đánh soẹt một cái chỉ vào mặt hắn hỏi lớn:
- Gã kia, nhà ngươi muốn chết hay sống?
Nhìn thấy nàng xuất thủ theo thế "Cầm bút điểm tự" đúng là một tử thế của phái võ Cổ-Mộ. Dương-Qua không còn nghi ngờ gì nữa, lòng đinh ninh nhất định nàng này phải là môn đồ của Lý-mạc-Thu sư bá, nhưng chưa rõ tên họ là gì, và không biết nàng lên núi làm gì, hay muốn tìm cô nương mình để sinh sự chi đây.
Thấy nàng xuất thủ gọn gàng lanh lẹ quá, Dương-Qua đoán bản lĩnh vượt cao hơn mình nhiều, nên tự nghĩ:
- Đối với hạng nầy, ta nên dùng mưu để đối phó, hơn là dùng lực.
Nghĩ thế, hắn bỗng thối lui mấy bước làm ra vẻ kinh sợ lắm, rối rít nói:
- Tôi sợ lắm, xin cô nương đừng giết, rồi khiến gì tôi cũng nghe.
Đạo cô cười gằn rồi nói:
- Nếu ngươi trái ý ta, thì một nhát kiếm cũng đủ đưa hồn mi chầu diêm chúa đấy nhé!
Dương-Qua càng làm ra vẻ ngớ ngẩn sợ sệt, lật đật đáp:
- Dạ! dạ, xin nghe, xin nghe. Đạo cô loang kiếm thành một đường tròn, quả là oai nghi uyển chuyển; rồi tra kiếm vào vỏ. Dương-Qua trố mắt nhìn, há hốc mồm một chập, rồi dạ, dạ luôn quả là một thằng khùng chính cống.
Đạo cô nghĩ thầm:
- Thằng này điên điên khùng khùng, nhưng có vẻ dễ thương. Mình muốn dạy nó học võ, chẳng biết nó có học được không? Bộ tịch nó thật điên hay giả ngộ, chờ một chập sẽ rõ ngay. Trông nó có vẻ cục mịch nặng nề như chàng nhà quê chúa!
Nàng chỉ vào mặt nó bảo:
- Hãy đi vào xóm tìm cho ta một cái rìu để cần dùng, mau lên.
Dương-Qua vội vàng vâng dạ, rồi hấp tấp chạy, tập tễnh như người chưa biết tí võ nghệ nào, thỉnh thoảng quay đầu ngó lại xem chừng.
Nàng quát thêm:
- Mau đi, phải cẩn thận đấy.
- Dạ! dạ, dạ.
Dương-Qua làm ra bộ ngờ nghệch chăm chú bước vào nhà một tiều phu ở bên đường. Qua khỏi cổng nó nhìn thấy tứ bề hiu quạnh không có bóng người, nên đoán chắc chủ nhà đã đi vào rừng đốn củi.
Lẻn ra sau bếp, Dương-Qua nhìn lên vách thấy có treo một cái rìu nhỏ, vội lấy xuống, vác lên vai rồi khập khễnh trở lại trao cho đạo cô.
Tuy giả bộ đóng kịch đánh lừa đạo cô, nhưng trong lòng Dương-Qua luôn luôn suy nghĩ, băn khoăn lo lắng đến bệnh tình Tiểu-long-Nữ, không biết hiện nay ra sao.
Quá lo đến sư phụ, nét mặt nó không che đậy được nỗi buồn man mác.
Đạo cô nhìn thấy nên ôn tồn hỏi:
- Ngươi có điều gì lo nghĩ mà có vẻ đăm chiêu buồn bực như người đưa đám ma vậy? Hãy cười lên một tí xem nào?
Dương-Qua bỗng cười lên khành khạch một tràng dài, không trả lời.
Đạo cô cau đôi mày liếc nhìn nó bảo:
- Bây giờ ngươi theo ta cùng lên núi nghe chưa.
Dương-Qua lắc đầu đây đẩy đáp:
- Không đâu, tôi phải về với má tôi để ăn cơm chứ, không về má tôi đánh đòn đau lắm cô ơi!
Đạo cô xách tai nó quát lớn:
- Mày trái lệnh, tao giết chết ngay tức khắc.
Nói xong, nàng tuốt kiếm hoa lên trước mặt nó mấy vòng.
Dương-Qua cuống cuồng thụt lùi ra sau kêu la ầm ĩ như heo ròng:
- Tha tôi đi, bỏ tôi ra, ối trời ơi!
Thấy thiếu niên quả ngu ngốc ngờ nghệch nhưng nếu dùng được thì hay lắm, nên đạo cô nắm vạt áo nó kéo đi và dịu dàng bảo:
- Hãy theo ta.
Nói xong, nàng phăng phăng bước đi lên núi.
Với một người võ nghệ cao siêu, dẫu bước đi thường cũng mau lẹ thoăn thoắt. Vì đã giả bộ như người thường không biết tí võ nghệ, cho nên Dương-Qua cố ý tập tễnh bước theo, vừa đi vừa chạy thỉnh thoảng ngã quay ra đất hoặc đứng lùi lại sau một quãng sau suýt soa.
Cứ đi một chập Dương-Qua lại ngồi xệt xuống nắn bóp ống chân, thở hổn hển, khiến đạo cô phải đứng lại chờ, hoặc lớn tiếng thúc giục.
Quạu quá nàng nắm lấy tay Dương-Qua kéo xển đi tới. Dương-Qua vội vã bước theo, chân nam đá chân siêu, thỉnh thoảng giả bộ vấp nhào tới ôm choàn lấy chân của đạo cô, làm cô ta giật mình trợn mắt mắng lớn:
- Thằng ranh, mi làm gì thế? Bộ muốn chết sao?
Dương-Qua chỉ thở hổn hển, mắt ngó láo liên hình như quá mỏi mệt:
Nhìn bóng tà đã xế qua, nếu trì hoãn sẽ tối mất, nên đạo cô không e dè đưa tay quàng ngang hông Dương-Qua dùng thuật phi hành vùn vụt đi lên núi. Nàng khinh thân quá mau, không mấy chốc đã vượt qua trên mười dặm đường.
Lần đầu tiên được người đàn bà ôm choàng ngang người, Dương-Qua cảm thấy lòng rung động một cảm giác là lạ, thích thú, dễ chịu làm sao. Da thịt của nàng vừa mềm, vừa êm, vừa ấm, nó mong cứ như thế này mãi, nên vui lòng nằm yên không cưỡng lại!
Phi thân đi được một đoạn đường dài. Đạo cô liếc mắt nhìn thấy vẻ mặt Dương-Qua ngơ ngác, đôi mắt mở rộng nhìn mình có vẻ khâm phục lắm, nên nàng thấy hài lòng lắm.
Chạy thêm một chặp nàng đặt nó trên cỏ và hỏi:
- Mi thấy ra sao! Có sướng không?
Dương-Qua bỗng sa sầm nhăn nhó rồi dưa tay nắm cổ chân kêu lớn:
- ối chao, đau quá! Cô nương ném tôi mạnh quá làm tôi suýt gãy xương chân đây rồi.
Nàng không giận mà trái lại thấy sung sướng nên lườm nó một cái và bảo:
- Mày lại lên cơn rồi, hèn chi gọi là thằng khũng cũng phải.
Dương-Qua liến thoắng hỏi ngay:
- ủa, người ta gọi tôi là thằng khùng ư? Còn tiên cô họ là gì nhỉ?
- Thì cứ gọi là tiên cô được rồi, cần gì hỏi đến họ nữa, có ích chi đâu.
Thật ra nàng họ Hồng, tên Lăng-Ba, vốn là đại đệ tử của Xích-Luyện Tiên tử Lý-mạc-Thu. Xưa kia, Hồng-lăng-Ba có thừa lệnh thày đến hạ sát toàn gia Lục-lập-Đỉnh, sau bị đuổi bắt phải tìm đường trồn tránh.
Dương-Qua thấy nàng tìm cách nói lảng, biết chưa thể tìm hiểu tông tích được, nên chờ cơ hội khác không dám hỏi nữa.
Đạo cô đến ngồi trên một phiến đá, lấy gương ra rồi dùng lược chải lại làn tóc mây cho thêm óng ả. Dương-Qua lén nhìn thấy nét mặt nàng khá đẹp, da trắng, tóc đen, đôi mày thanh, miệng tươi thắm. Tuy nhiên nếu so sánh với bác Hoàng-Dung, ở Đào-Hoa đảo vẫn có hơn. Nhưng so với Tiểu-long-Nữ, sư phụ mình thì còn thua xa.
Thật ra giữa Hoàng-Dung và Tiểu-long-Nữ, chưa chắc ai hơn ai, nhưng vì Tiểu-long-Nữ còn trẻ hơn, huống chi đối với Dương-Qua, nàng là người mà hắn cảm phục nhất cho nên đối với hắn, Tiểu-long-Nữ là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ.
Hồng-lăng-Ba liếc nó một cái và hỏi:
- Mi làm gì mà nhìn ta kỹ thế?
Dương-Qua làm bộ ngớ ngẩn đáp:
- Tôi muốn nhìn là cứ nhìn, có phải tại sao đâu? Nếu cô nương không thích thì tôi khỏi nhìn nữa chứ sao!
Nàng nghe đáp ngồ ngộ, cười xòa và hỏi thêm:
- Mi thấy ta có đẹp không?
Vừa hỏi nàng lấy lược vuốt thêm làn tóc rủ trên trán.
Dương-Qua gật đầu lẩm bẩm:
- Đẹp, đẹp lắm.
Nàng thích chí hỏi thêm:
- Đẹp như thế nào mới được chứ.
Hắn bỗng lắc đầu, chiếp lưỡi nói:
- Tiếc không được trắng lắm.
Mấy lúc này Hồng-lăng-Ba tự hào mình có làn da mịn trắng nhất đời, nay bỗng bị chê, lòng vừa ngạc nhiên vừa bực tức, hỏi gắt hơi lớn tiếng:
- Mi muốn chết sao mà nói bậy. Mi dám bảo ta không được trắng à?
Dương-Qua lắc đầu, phùng má nói:
- Không được trắng lắm.
Nàng tức mình đứng dậy hỏi:
- Thế mày chỉ kẻ nào trắng hơn tao nào?
Dương-Qua điềm nhiên đáp:
- Tôi cũng không còn nhớ ai trắng hơn cô nữa.
Nàng không chịu được hỏi lớn:
- Ai nào? Cố nhớ lại xem thử? Có phải chị của mày không? Hay là bố của mày, hở thằng khùng.
Làm bộ suy nghĩ một chập rồi Dương-Qua ấm ớ nói:
- Không phải, không đúng. Cô không trắng bằng con dê bạch của tôi. Lông nó trắng như tuyết cơ.
Nghe nói, Hồng-lăng-Ba bỗng cười rũ rượi hết bực mình.
- Quả là đồ khùng, ai đời đem ví da người với lông dê. Nói xong nàng có vẻ hài lòng đến ôm choàng hắn băng lên núi lần nữa. Gần đến quãng đường rộng lên Trùng-Dương Cung, Hồng-lăng-Ba quẹo sang tay phải qua phía tây đi về phía Cổ-Mộ đài.
Dương-Qua theo dõi hành trình của nàng bỗng giật mình tự nghĩ:
- Cô này đến đây với dụng ý gì? Có muốn gây sự hay tìm cách hãm hại sư phụ ta chăng?
Đi thêm một khúc đường dài nữa, tới mấy chỗ rẽ, Hồng-lăng-Ba thò tay vào bọc rút ra một bản đồ, ngừng chana một chập để xem và quan sát lối đi.
Dương-Qua muốn tìm cách cản trở, và chỉ về phía rừng trước mặt vừa nói nho nhỏ ra vẻ sợ sệt:
- Thôi cô ơi, đừng vào khu rừng đó nữa, ma nhiều lắm, tôi chả dám theo đâu.
Nàng trợn mắt hỏi:
- Tại sao mi biết?
- Trong rừng này có một ngôi mộ bí mật to lớn, có đầy cả hồ ly ma quỉ. Tôi nghe người ta nói như thế và không ai dám đến chỗ này bao giờ.
Hồng-lăng-Ba nghe nói lòng mừng khấp khởi. Nếu như thế thì đúng là Hoạt-tử Mộ-đài đây rồi.
Nàng vốn là học trò số một của Lý-mạc-Thu, được sư phụ chân truyền võ nghệ đã vào bậc khá. Mấy lúc sau này theo Lý-mạc-Thu đi đánh bại được nhiều anh hùng trên giang hồ, nên nàng đã tự cao cho mình là người nhiều bản lãnh.
Thỉnh thoảng nàng được sư phụ kể cho biết nơi xuất phát nền võ thuật của môn phái và chính nơi Cổ-Mộ-đài là trung tâm đào luyện nên những bí quyết cao siêu của một môn võ kỳ diệu bậc nhất trên thiên hạ là "Ngọc-nữ tâm-kinh". Môn nầy chưa mấy ai học được và nếu học được, đủ sức đối phó tất cả cao thủ trên võ lâm.
Lý-mạc-Thu chưa được chân truyền môn võ thuật này, lòng vẫn ấm ức, nên sau khi được biết sư phụ tạ thế, cố đột nhập về Mộ đài một lần quyết đoạt cho kỳ được pho "Ngọc nữ tâm kinh" nhưng không thi hành được thủ đoạn phải bỏ chạy. Vì tự cao tự đại nàng nói thật cho học trò nghe mà chỉ cho biết lý do là hiện nay Mộ ấy đã giao lại cho một sư muội là Tiểu-long-Nữ. Nàng và Tiểu-long-Nữ có nhiều điểm không hợp ý nhau nên nàng không muốn quay về nơi ấy nữa.
Thấy sư phụ nói thế, nhiều khi Hồng-lăng-Ba khuyên Lý-mạc-Thu dùng võ lực chiếm Cổ-Mộ đài để đoạt pho sách quý. Lý-mạc-Thu đâu phải không có ý nghĩ đó, nhưng ngặt vì đường đi trong Cổ-Mộ đài muôn phần bí hiểm, thêm lắm cơ quan máy móc kỳ diệu chết người nên không đủ sức thực hiện được. Tuy nhiên nàng chỉ mỉm cười không nói ra sự thật.
Hồng-lăng-Ba thấy sư phụ hình như không còn nghĩ đến việc ấy nữa, nên nàng định thâm tìm dịp nhập Cổ-Mộ đài một chuyến.
Nhiều lúc nàng dò hỏi sư phụ lối ra vào nơi Cổ-Mộ đài, lấy bút ghi thành bản đồ để sau này sử dụng. Thừa dịp được sư phụ phái đi Trường-Tống diệt gia đình một địch thủ, sau khi làm xong công việc, nàng tự ý đi luôn đến núi Chung-Nam, tình cờ lại gặp Dương-Qua.
Chỉ được nghe Lý-mạc-Thu nói là ngôi mộ ở giữa khu rừng rậm âm u, cỏ cây bao phủ tứ bề, chứ nàng cũng chưa hình dung được thế nào cho rõ rệt. Ngoài ra Lý-mạc-Thu cho biết trong mộ khác hẳn bên ngoài và có những đường lối giao thông liên lạc hết sức bí hiểm.
Hồng-lăng-Ba sai Dương-Qua dùng sứ chặt cây phát bụi hai bên để nhìn thấy đường vào Cổ-Mộ đài.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro