HOAANHTUAN HA NOI LS 1
HA NOI NHUNG NAM CUOI THE KI 20
Trong thời gian những năm cuối thế kỷ XX, có những sự kiện rất đặc biệt đối với Hà Nội. Đó là Hà Nội được UNESCO trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình", được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu"Thủ đô anh hùng", được Bộ chính trị ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ phát triển Thủ đô trong thời kỳ 2001-2010 và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành "Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội".
Hà Nội "Thành phố vì hòa bình"
Ngày 17-6-1999, Hà Nội được Tổ chức giáo dục - khoa học - văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNESCO) quyết định trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình". Đây là danh hiệu của Đại Hội đồng UNESCO xét 2 năm một lần phong tặng cho 5 thành phố tiêu biểu cho 5 khu vực trên thế giới. Năm 1999, riêng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, UNESCO đã quyết định chọn Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một thành phố đang phát triển, có nhiều dự án khả thi hướng tới các tiêu chí mà Hội đồng UNESCO đặt ra (về bình đẳng trong cộng đồng, xây dựng đô thị, giữ gìn môi trường sống, thúc đẩy phát triển văn hóa giáo dục và đặc biệt chăm lo cho giáo dục công dân và thế hệ trẻ). Những thành tựu của 10 năm đổi mới đã nâng cao vị thế của Hà Nội để thành phố hội nhập với cộng đồng quốc tế, là cơ sở vững chắc để thành phố nhận danh hiệu cao quý của UNESCO "Thành phố vì hòa bình". Danh hiệu được trao tặng cho thành phố Hà Nội vào đúng thời điểm Hà Nội chuẩn bị kỷ niệm 990 năm và tiến tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đây chính là sự khích lệ, động viên kịp thời với nhân dân Thủ đô, tiếp sức cho sự phấn đấu xứng đáng với danh hiệu cao quý đó.
,
CÒN 18 NGÀYTrang chủ
Việt Nam - Hồ Chí Minh
Việt Nam
đất nước con người
Hồ Chí Minh
danh nhân văn hóa thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộcVăn kiện tổ chức
kỷ niệm
Văn kiện Trung ương
Văn kiện Thành phố
Văn kiện của các tỉnh, thành phố khácHoạt động kỷ niệm
Hoạt động của Trung ương
Hoạt động của Thủ đô
Hoạt động của các tỉnh, thành phố khácThăng Long ngàn năm văn hiến
Tổng quan 1.000 năm
Thăng Long qua các thời kỳ
Tìm hiểu văn HiếnAnh hùng - Tài hoa
Thanh lịch - Vì hòa bình
Di sản văn hóa
Di tích lịch sử, danh thắng
Phố nghề, làng nghề
Phong tục tập quán
Văn học - Nghệ thuậtDanh nhân Hà NộiĐường phố Hà Nội
Năm tháng và sự kiện
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (từ 1-9 đến 12-9)
Cuộc thi piano quốc tế lần đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội đã diễn ra tại Phòng hòa nhạc (Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam) với chương trình độc tấu piano đặc biệt của những nghệ sĩ nổi tiếng Việt Nam và quốc tế. Tại cuộc thi này, 63 thí sinh đến từ 10 quốc gia và vùng lãnh thổ: Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philipines, Thái Lan, Đài Loan và Canada đã đăng ký tranh tài ở ba bảng A, B, C, lần lượt dành cho các độ tuổi từ 10 - 13 tuổi, 14 - 17 tuổi và 18 - 25 tuổi.Hình ảnh
Hà Nội xưa - nay
Phim tư liệu
Nhạc phẩm Hà Nội
Diễn đàn
Hỏi đáp
Hoan nghênh bạn đọc đến với Trang tin Điện tử Thăng Long - Hà Nội 1.000 năm văn hiến; Chào mừng đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội; Hà Nội, Thủ đô Văn hiến - Anh hùng;Thăng Long ngàn năm văn hiếnTổng quan 1.000 nămThăng Long qua các thời kỳ
Hà Nội xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm cuối thế kỷ XX
Trong thời gian những năm cuối thế kỷ XX, có những sự kiện rất đặc biệt đối với Hà Nội. Đó là Hà Nội được UNESCO trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình", được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu"Thủ đô anh hùng", được Bộ chính trị ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ phát triển Thủ đô trong thời kỳ 2001-2010 và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành "Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội".
Hà Nội "Thành phố vì hòa bình"
Ngày 17-6-1999, Hà Nội được Tổ chức giáo dục - khoa học - văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNESCO) quyết định trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình". Đây là danh hiệu của Đại Hội đồng UNESCO xét 2 năm một lần phong tặng cho 5 thành phố tiêu biểu cho 5 khu vực trên thế giới. Năm 1999, riêng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, UNESCO đã quyết định chọn Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một thành phố đang phát triển, có nhiều dự án khả thi hướng tới các tiêu chí mà Hội đồng UNESCO đặt ra (về bình đẳng trong cộng đồng, xây dựng đô thị, giữ gìn môi trường sống, thúc đẩy phát triển văn hóa giáo dục và đặc biệt chăm lo cho giáo dục công dân và thế hệ trẻ). Những thành tựu của 10 năm đổi mới đã nâng cao vị thế của Hà Nội để thành phố hội nhập với cộng đồng quốc tế, là cơ sở vững chắc để thành phố nhận danh hiệu cao quý của UNESCO "Thành phố vì hòa bình". Danh hiệu được trao tặng cho thành phố Hà Nội vào đúng thời điểm Hà Nội chuẩn bị kỷ niệm 990 năm và tiến tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đây chính là sự khích lệ, động viên kịp thời với nhân dân Thủ đô, tiếp sức cho sự phấn đấu xứng đáng với danh hiệu cao quý đó.
Bến sông Hồng đầu thế kỉ XX, nguồn Internet
Hà Nội "Thủ đô anh hùng"
Ngày 4 tháng 10 năm 2000, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Trần Đức Lương đã ký bằng "Tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu thủ đô anh hùng vì đã có công lao to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Ngày 7-10-2000, tại lễ kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội và trao tặng danh hiệu "Thủ đô anh hùng". Chủ tịch Trần Đức Lương đã có bài phát biểu nêu rõ vinh dự, vị trí và nhiệm vụ của nhân dân Hà Nội. Bài phát biểu đó như một tổng kết những công lao to lớn của Thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Dưới đây là nguyên văn bài phát biểu:
"Thưa các đồng chí và các bạn, các vị khách nước ngoài, Thủ đô Hà Nội là một thành phố lâu đời, cổ kính. Thăng Long, kinh đô của Nhà nước Đại Việt giai đoạn phát triển rực rỡ đầy tự hào của dân tộc, đã gần 1.000 năm. Trong địa giới hành chính hiện nay, Hà Nội còn bao gồm cố đô Cổ Loa của nhà nước Âu Lạc trên 2.000 năm trước đây. Trải qua biết bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài của đất nước để phát triển vững bền và sáng tỏ sự trường tồn của đất nước. Trên mảnh đất Hà Nội đã diễn ra biết bao chiến công hiển hách chống ngoại xâm, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước ngàn năm văn hiến. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Hà Nội lại tiếp tục lập nên những kỳ tích làm rạng rỡ non sông, tiêu biểu cho trí tuệ và khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam, xứng danh là Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người, thật sự là một "thành phố vì hòa bình". Những năm đổi mới, Hà Nội đã lập nên nhiều thành tích xuất sắc trong xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Với công lao to lớn đó, Hà Nội đã được Đảng, Nhà nước tặng nhiều danh hiệu cao quý. Lần này, 990 năm Thăng Long - Hà Nội, 55 năm là Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước CHXHCN Việt Nam), Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quyết định số 81/QĐ/TW ngày 2 tháng
10 năm 2000, tặng thưởng Thành phố Hà Nội danh hiệu "Thủ đô anh hùng". Đây là kết quả của tinh thần lao động, chiến đấu, sáng tạo được kết tinh từ bao đời nay, là sự chung tay vun đắp của cả nước cùng Hà Nội. Mỗi bước đi, mỗi thành tựu của Hà Nội đều gắn với những thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân cả nước.
Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, đón nhận danh hiệu "Thủ đô anh hùng", đặt ra cho Hà Nội những yêu cầu mới, cao hơn, nặng hơn. Hà Nội phải tự mình vươn lên, thực hiện thật tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giữ vững và phát triển thuần phong mỹ tục, làm cho Thủ đô ta ngày thêm tươi đẹp, phồn thịnh và trở nên thành phố gương mẫu cho cả nước". Trung ương Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội luôn bên cạnh Hà Nội. Cả nước đang hướng về Hà Nội. Thay mặt Đảng, Nhà nước và đồng bào cả nước, tôi xin chúc mừng và chia vui với Đảng bộ, chính quyền, đồng bào, đồng chí, chiến sĩ Thủ đô Hà Nội và mong rằng mỗi người dân Hà Nội, cả Hà Nội, ra sức phấn đấu để Hà Nội mãi mãi xứng danh Thủ đô anh hùng
Hà Nội trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
Những chủ trương chính sách thoáng, cởi mở đã giúp cho nền kinh tế Hà Nội dần phát triển. Thực ra có một thời gian tới vài ba năm, sau khi chuyển đổi cơ chế, Hà Nội trăn trở tìm hướng đi. Những năm 1989-1990 là thời kỳ khó khăn của kinh tế Hà Nội. Năm 1991, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XI (năm 1991) xác định cơ cấu kinh tế Hà Nội là công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ - nông nghiệp. Theo phương hướng đó, từ năm 1992, nền kinh tế thành phố đã ngăn chặn được sự suy thoái, tiến trên đà ổn định và phát triển tương đối toàn diện theo nhịp độ cao. Năm 2000, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII vẫn xác định cơ cấu kinh tế như vậy, chỉ nhấn mạnh thêm là phát triển mạnh lực lượng sản xuất, kết hợp chặt chẽ với xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững để rồi từ đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong giai đoạn tiếp theo
Thời kỳ 1954 - 1965, Hà Nội đã trở thành trung tâm văn nghệ lớn. Đã hình thành một lớp văn nghệ sĩ mới và họ cùng các nhà văn, nhà thơ lớp trước, sáng tác về hai đề tài chính: xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước. Hà Nội có mặt trong thơ văn của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trước cách mạng như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Tuân...; những người xuất hiện trong kháng chiến như Quang Dũng, Trần Lê Văn, Vũ Cao, Lê Đạt, Hà Minh Tuân, Hồ Phương, Yên Thao... và cả những người mới ra mắt bạn đọc lúc đó: Ngô Quân Miện, Lữ Giang... Nhiều tác phẩm tốt song tính giáo điều đã hạn chế phần nào sự sáng tạo.
Đến những năm 1965-1975, là thời kỳ văn nghệ chống Mỹ cứu nước, thời kỳ kết hợp trữ tình và anh hùng ca. Chủ đề chính là xây dựng và chiến đấu, do đó đề tài đời thường bị gác bỏ. Lại một lớp văn nghệ sĩ trẻ ra đời với những tác phẩm giá trị. Tuy nhiên, tính phiến diện, một chiều, lập trường cứng nhắc cũng có ảnh hưởng đến thành tựu. Có thể nêu tên các nhà thơ viết về Hà Nội nổi tiếng trong thời kỳ này như: Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Nguyễn Mỹ, Vũ Quần Phương... Về văn, có Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Vũ Bão...
Một sự kiện đáng lưu ý là ở Hà Nội từ năm 1966 đã thành lập Hội Văn nghệ với các phân hội Văn, Mỹ thuật, Sân khấu... Hội đã thu hút được đông đảo những người sáng tác và nghiên cứu văn học nghệ thuật của thành phố. Hội đã tạo điêu kiện cho hội viên hoạt động bằng cách tổ chức các trại sáng tác, các đợt đi tham quan thực tế, hội thảo nghiệp vụ và hàng năm có những giải thưởng cho các tác phẩm tết. Hội có cơ quan ngôn luận là tuần báo Người Hà Nội
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
Ngày 15-8-1945, vua Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Lúc này, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội tại Tân Trào đã có chủ trương, nhưng chưa truyền đạt về kịp. Thời cơ đang đến, không thể ngồi đợi. Cũng ngày 15 ấy, Xứ ủy Bắc Kỳ họp, quyết định ra lệnh xúc tiến khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh do Xứ ủy phụ trách và Hội nghị cán bộ quân sự được Thành ủy Hà Nội triệu tập tại chùa Hà (Dịch Vọng, quận Cầu Giấy) với nội dung chính là bàn công tác quân sự, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 16-8, Thành ủy triệu tập Hội nghị cán bộ mở rộng ở xóm Duệ Tú (làng Dịch Vọng Trung) để thông báo quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc (vừa nhận được) và thành lập Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội (hai ngày sau sẽ là Ủy ban khởi nghĩa. Ủy ban này ngay tối hôm sau đã họp các cán bộ chủ chốt toàn thành tại nhà bà Hai Nhã (làng Dịch Vọng Tiên) để quyết định ngày giờ và kế hoạch khởi nghĩa.
Ngày 17-8, báo chí đăng tin Nhật đầu hàng vô điều kiện. Vậy mà cũng ngày đó, cái gọi là Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ thuộc chính quyền bù nhìn vẫn họp ở trụ sở Hội Khai Trí tiến đức (nay là số nhà 16 phố Lê Thái Tổ) để bàn cách phá cuộc khởi nghĩa của Việt Minh (!).
Chiều 17-8, Tổng hội viên chức (thuộc chính quyền bù nhìn) tổ chức một cuộc mít tinh ở quảng trường Nhà hát lớn. Chính quyền bù nhìn cho nhiều lính bảo an, cảnh sát đến giữ trật tự. Thực hiện quyết định của Ủy ban khởi nghĩa, các tổ chức cứu quốc ở nội ngoại thành huy động quần chúng đến dự để phá cuộc mít tinh của Tổng hội. Các đội viên tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong được bố trí phân tán trong quần chúng. Khi cuộc mít tinh vừa bắt đầu, các đội viên tự vệ chiến đấu chiếm lấy diễn đàn, hạ cờ "quẻ ly" của ngụy quyền, một lá cờ đỏ sao vàng lớn được buông từ gác nhà hát lớn xuống. Các đội viên tuyên truyền xung phong (trong đó cớ hai nữ là bà Từ Như Trang và bà Diệu Hồng) thay nhau lên diễn đàn, báo tin Nhật đã đầu hàng và kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh khởi nghĩa. Quần chúng dự mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng. Tiếng hô "Ủng hộ Việt Minh", "Đả đảo bù nhìn", "Việt Nam độc lập" vang dậy. Lính bảo an và cảnh sát ngơ ngác, đứng im tại chỗ. Với các đội viên tự vệ dẫn đầu, quần chúng tự động xếp thành hàng ngũ biểu tình tuần hành. Đoàn người vừa đi vừa hô khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh và hát những bài ca cách mạng. Đoàn biểu tình rầm rộ qua phố Tràng Tiền, vòng theo Bờ Hồ, qua các phố Hàng Đào, Hàng Ngang, chợ Đồng Xuân, Cửa Bắc, diễu qua trước Phủ Toàn Quyền, nơi Bộ tư lệnh quân Nhật đóng, quay về Cửa Nam, qua Hàng Bông, Hàng Gai, tới Bờ Hồ mới giải tán. Đoàn tuần hành lôi cuốn nhiều người hai bên hè phố và cả lính bảo an tham gia, lên tới hàng vạn người với khí thế mạnh mẽ chưa từng thấy.
Cả Hà Nội bừng bừng khí thế. Binh lính Nhật ở yên trong doanh trại, không dám can thiệp. Khâm sai Bắc Kỳ (của chính phủ Trần Trọng Kim) bỏ chức, về quê. Tin về cuộc biểu tình lớn ở Hà Nội đã lan nhanh đến nhiều địa phương góp phần thúc đầy công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa ở các tỉnh Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ.
Tổng khởi nghĩa 19-8-1945
Từ sáng sớm ngày 19-8-1945, cả Hà Nội đã đỏ rực cờ cách mạng. Theo kế hoạch của Ủy ban khởi nghĩa, hàng vạn nông dân ngoại thành và các huyện lân cận mang theo băng, cờ, khẩu hiệu và các loại vũ khí thô sơ tiến vào nội thành. Dân phường phố cùng các đoàn nông dân, công nhân như dòng thác kéo về quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh thành phố tổ chức.
Cuộc mít tinh, với sự tham gia của gần 20 vạn người, bắt đầu từ lúc 1 1 giờ. Sau loạt súng chào cờ, đại biểu Ủy ban khởi nghĩa đọc lời hiệu triệu của Việt Minh, nói rõ chính sách và thái độ của Việt Minh đối với quân Nhật bại trận, đối với âm mưu của đế quốc Pháp và hô hào quần chúng vùng lên khởi nghĩa, lập Chính phủ Cộng hòa dân chủ Việt Nam, giành độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Sau đó cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang. Quần chúng cách mạng, có các đơn vị tự vệ chiến đấu đi đầu, chia thành hai đoàn lớn đi chiếm các vị trí trọng yếu trong thành phố theo kế hoạch của Ủy ban khởi nghĩa.
Một đoàn đi chiếm phủ Khâm sai, tòa Thị chính, Kho bạc, sở Bưu điện, sở Cảnh sát Hàng Trống. Lính bảo an canh gác phủ Khâm sai không dám chống cự, đã hạ vũ khí. Cán bộ chỉ huy đã dùng điện thoại ở phủ gọi tới các tỉnh trưởng, thị trưởng Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định báo cho họ biết, ở Hà Nội, Việt Minh đã khởi nghĩa giành chính quyền, ra lệnh họ mau chóng trao chính quyền cho Việt Minh.
Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 (ảnh: internet)
Một đoàn đi chiếm trại bảo an binh. Viên chỉ huy ở đây phải đầu hàng. Nhưng bọn Nhật đem xe tăng, binh lính đến bao vây trại. Lập tức cán bộ chỉ huy tổ chức các đội tự vệ sẵn sàng chiến đấu, huy động thêm quần chúng đến bao vây lại quân Nhật, đồng thời thuyết phục quân Nhật không được cản trở cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nếu muốn yên ổn chờ ngày về nước. Trước khí thế của quân chúng khởi nghĩa và hàng nghìn đội viên tự vệ có vũ trang, đến 17 giờ, binh lính Nhật đã rút đi. Ở các địa điểm khác trong thành phố, quân Nhật cũng không có hành động nào cản trở dòng thác cách mạng đang dâng cao. Đến tối 19-8, quần chúng cách mạng đã hoàn toàn chiếm được các cơ quan trọng yếu của chính quyền bù nhìn. Việt Minh đã hoàn toàn làm chủ thành phố. Cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội - trung tâm chính tri, quân sự, kinh tế, văn hóa của cả nước - với lực lượng chính trị là chính, đã hoàn toàn thắng lợi.
Ngày 20-8, đông đảo quần chúng tập hợp trước Bắc Bộ phủ (tức Phủ khâm sai) để chào mừng Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời (UBNDCMLT) Bắc Bộ và Hà Nội ra mắt nhân dân. Chính quyền mới đã công bố một số chủ trương trước mắt để ổn định sản xuất và sinh hoạt trong thành phố, củng cố thành quả cách mạng, hộ đê phòng lụt, cung cấp gạo cho nhân dân, đảm bảo trật tự trị an...
Ở nội thành, hầu hết các nhà máy đã tổ chức Ủy ban công nhân cách mạng để điều hành sản xuất. Tại các công sở, khu phố có Ban đại diện Việt Minh. Hội viên Công nhân cứu quốc và Thanh niên cứu quốc tạm thời quản lý các nhà máy, xí nghiệp; trật tự được bảo đảm; sản xuất, giao thông, vận tải, buôn bán không bị ngừng trệ; điện nước đáp ứng được yêu cầu của nhân dân...
Ở ngoại thành, Ủy ban nhân dân cách mạng thôn, xã được thành lập, bảo đảm các yêu cầu sản xuất và sinh hoạt; các tổ chức tự vệ canh gác, bảo vệ xóm làng được mở rộng.
Ngày 23-8 nhân dân Hà Nội vinh dự đón Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi đầu tiên được đón Người là Phú Gia, ngoại thành Hà Nội. Sau đó, ngày 25-8, Người được đón vào ở nhà số 48 phố Hàng Ngang. Tại đây Người đã chủ toạ phiên họp đầu tiên của Thường vụ Trung ương Đảng tại Hà Nội, quyết định những chủ trương về đối nội, đối ngoại trong tình hình mới, về mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời đã được thành lập ở Đại hội quốc dân Tân Trào, về tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt nhân dân, chính thức tuyên bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.
Ngày 27-8, tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ các vị Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời. Ngày 28-8, danh sách Chính phủ lâm thời được công bố trên báo chí xuất bản ở Hà Nội.
Tuyên ngôn Độc lập
Từ sáng sớm ngày 2-9-1945, cả Hà Nội đã tưng bừng, cờ đỏ sao vàng rợp trời, đèn và hoa rực rỡ. Những biểu ngữ lớn ghi bằng chữ Việt, Pháp, Hoa, Nga, Anh chưng khắp các đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam!", "Độc lập hay là chết!", "Ủng hộ Chính phủ lâm thời !", "Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh!"...
12 giờ, trên những con đường dẫn tới vườn hoa Ba Đình cuồn cuộn những dòng người... Có đến hơn 50 vạn người tham dự, đó là những người dân Hà Nội và đại diện các tỉnh lân cận. 14 giờ, các thành viên Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu, bước lên lễ đài. Người thay mặt Chính phủ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với nhân dân cả nước và nhân dân thế giới sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Sau đó, Chính phủ lâm thời tuyên thệ trung thành với Tổ quốc và nhân dân. Tiếp đó ông Võ Nguyên Giáp báo cáo về tình hình trong nước và chính sách của Chính phủ; Ông Trần Huy Liệu báo cáo về hoạt động của đoàn đại biểu Chính phủ vào Huế nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại; Ông Nguyễn Lương Bằng kêu gọi toàn dân đoàn kết, ủng hộ Chính phủ.
15 giờ 30, nhân dân tuyên thệ: "Kiên quyết ủng hộ Chính phủ lâm thời, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh; kiên quyết cùng Chính phủ giữ vững quyền độc lập hoàn toàn, chống mọi âm mưu xâm lược; nếu Pháp đến xâm lược lần nữa thì không đi lính cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp...". Đó là lời thề của nhân dân Hà Nội, cũng là lời thề của nhân dân cả nước đang hướng về cách mạng.
Cuộc mít tinh kết thúc. Tiếp đó là cuộc diễu hành của quần chúng qua các phố.
Ngày 2-9-1945, một ngày có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống chính trị, tinh thần dân tộc. Và từ đó Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam mới.
Theo: Lịch sử Thăng Long - Hà Nội, Nhà xuất bản Trẻ 2005
Hà Nội 60 ngày khói lửa
Tuy nhiên, Chính phủ Pháp vẫn có dã tâm đô hộ Việt Nam. Biết rõ âm mưu đó, Đảng và Chính phủ ta đã có những chủ trương và biện pháp chuẩn bị kháng chiến. Hà Nội được giao nhiệm vụ là khi chiến tranh bùng nổ phải nhanh chóng giành thế chủ động, chiến đấu giam chân địch một thời gian để hậu phương hoàn thành công việc chuẩn bị và tổ chức kháng chiến. Phương châm là tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, đồng thời giữ gìn và phát triển lực lượng để kháng chiến lâu dài. Kế hoạch của ta là xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân; chủ động ngay từ đầu tiến công làm rối loạn thế trận của địch; sau đó một bộ phận lực lượng trụ lại thành một khu cố thủ ở giữa thành phố, kìm chân địch ở bên trong; còn đại bộ phận lực lượng dãn ra chốt ở các cửa ô, tạo thế bao vây nhiều tầng, nhiều lớp đánh địch ở bên ngoài. Hai bộ phận ấy dựa vào nhau mà chiến đấu, làm cho địch trong ngoài đều bị đánh không thể tập trung lực lượng mau chóng đánh rộng ra. Nội thành được chia làm ba Liên khu, Liên khu I là nơi quân ta chốt lại giữa thành phố, còn Liên khu II và III cùng 5 khu ngoại thành là nơi quân ta xây dựng vành đai bao vây địch.
Phía Pháp, bọn thực dân phản động xúc tiến phá hoại Hiệp định sơ bộ và cả Tạm ước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp ngày 14-9-1946 tại Paris. Chúng đẩy mạnh những hoạt động quân sự lấn chiếm để đi đến thôn tính toàn bộ Việt Nam.
Ngày 20-11-1946, chúng đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị xã Bắc Ninh, đồng thời cho hàng nghìn quân đổ bộ lên Đà Nẵng. Ở Hà Nội, chúng tăng quân trái phép lên tới 6.500 tên được trang bị vũ khí đầy đủ, hiện đại, đóng ở 45 cứ điểm then chốt trong thành phố. Hàng nghìn Pháp kiều cũng được trang bị vũ khí, tổ chức thành những ổ tác chiến nằm ở những đường phố quan trọng. Ngày 11-12-1946, chúng đốt Nhà thông tin Bờ Hồ. Ngày 10-12, chúng đặt mìn phá công sự tự vệ ở nhiều nơi. Ngày 16-12, chúng xả súng vào công an ta đang làm nhiệm vụ giữ trật tự. Ngày 1 7-1 2, chúng tiến công tự vệ, tàn sát nhân dân ở phố Yên Ninh. Ngày 18-12, chúng đưa tối hậu thư đòi tước vũ khí tự vệ, chiếm Sở công an Hà Nội, nắm quyền kiểm soát thành phố. Chúng khước từ đề nghị thương lượng do ta đưa ra. Chúng công khai đòi tước bỏ chủ quyền của ta, bắt ta phải đầu hàng, quyết cướp nước ta một lần nữa. Chúng đã xóa bỏ hoàn toàn mọi hiệp định. Khả năng hòa bình không còn nữa. Để bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hà Nội cùng với nhân dân cả nước đứng dậy kháng chiến chống thực dân Pháp.
20 giờ 00 ngày 19-12-1946, quân dân Hà Nội nổ súng, mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. (Lúc này chính phủ ta đã chuyển ra ngoài thành phố để lên Việt Bắc. Nhân dân Hà Nội thì đại bộ phận đã tản cư ra các tỉnh chưa có chiến sự).
Ngày 19-12-1946 phát lệnh toàn quốc kháng chiến (ảnh: internet)
Tất cả các vị trí của địch ở thành phố đều bị tiến công, nhiều ổ tác chiến của chúng đã bị tiêu diệt, như ở Nhà máy đèn Bờ Hồ, Nhà máy điện, Nhà máy nước Yên Phụ, rạp chiếu bóng Majestic... Địch bị giáng một đòn bất ngờ, thế trận bị đảo lộn, phải lúng túng đối phó khắp nơi. Sau đó, địch phản kích lại, đánh chiếm những đầu mối giao thông đông thời tiến đánh các trụ sở cơ quan quan trọng của ta: Bắc Bộ phủ, Sở Bưu điện, Ủy ban hành chính Hà Nội, Bộ quốc phòng. Ở đâu quân Pháp cũng vấp phải sức chiến đấu dai dẳng, quyết liệt của quân dân ta và bị tổn thất nặng nề. Ý đồ ngông cuồng của Pháp định làm chủ thành phố trong 24 giờ đã hoàn toàn thất bại.
Từ ngày 21-12, quân dân Liên khu I trụ lại thành một chốt thép giữa lòng địch, thu hút giữ chân chúng. Trong khi đó, các lực lượng của ta ở Liên khu II dựa vào ngoại thành, tạo ra một vành đai vây hãm địch, phối hợp tác chiến với Liên khu I, trong và ngoài cùng đánh. Địch bị kẹt ở giữa, lúng túng đối phó. Ta có điều kiện kéo dài thời gian, giam chân và tiêu hao địch.
Sau khi kế hoạch "chiến tranh chớp nhoáng" thất bại, Pháp phải tập trung quân địch hòng tiêu diệt lực lượng ta ở nội thành, sau đó mới đánh ra ngoại thành. Chúng mở liên tiếp các cuộc tiến công vào Hàng Da, chợ Hôm, Lò Lợn, Hàng Bông, Đại Cồ Việt, Ô Câu Dền, phía Nam khu Đông Kinh nghĩa thục... vào cuối tháng 12; đồng thời cố đánh đường số 5 để viện binh từ Hải Phòng lên.
Quân dân ta đã phát huy nhiều sáng kiến đánh địch, với mọi thứ vũ khí có trong tay, bám địch mà đánh với tinh thần "Sống chết với Thủ đô". Tính đến 29-12-1946, ở Hà Nội đã diễn ra 47 trận đánh ác liệt ở các khu phố nội thành.
Không tiêu diệt được lực lượng của ta ở nội thành, Pháp cho quân tập trung đánh ngoại thành để cô lập lực lượng trong nội thành. Từ 30-12 đến 6-1-1947 địch mở liên tiếp 6 đợt tiến công đánh chiếm vành đai các cửa ô từ Lò Lợn đến Ô Câu Dền, ngã tư Kim Liên, Kim Mã, Ngọc Hà, Thụy Khuê, Yên Phụ. Ta đã chặn đánh quyết liệt, giành đi giật lại từng tấc đất vành đai, đồng thời đánh mạnh ở Liên khu I.
Trong khói lửa chiến tranh, lực lượng của ta được rèn luyện và trưởng thành. Ngày 6-1-1947, Trung đoàn Liên khu I - Trung đoàn Thủ đô được thành lập. Tiếp đó, Trung đoàn 48 (tháng 7-1947 được Quốc hội đặt tên là Trung đoàn Thăng Long) cũng được thành lập ở Liên khu II. Ngày 13-1-1947, Đội quyết tử của Trung đoàn Thủ đô làm lễ tuyên thệ trước khi bước vào cuộc chiến đấu mới.
Từ ngày 15-1, sau khi có viện binh từ Hải Phòng, địch tiếp tục mở những cuộc tiến công mới trên đường vòng cung Vĩnh Tuy, Ngã tư Trung Hiền, Ngã tư Vọng, Bạch Mai, Ngã tư Sở, Ô Cầu Giấy... Đến 25-1, chúng kiểm soát được vòng cung bao quanh thành phố. Quân ta lui ra ngoại thành sau khi gây cho địch nhiều tổn thất. Từ ngày 6-2, giặc Pháp mở đợt tổng công kích vào Liên khu I. Quân ta chiến đấu ngoan cường, liên tục bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch vào nhà Xô-va, Trường Ke; giành giật với địch từng căn nhà, từng góc phố. Đêm 1 7-2- 1 947, sau khi hoàn thành việc giam chân địch, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô đã rút ra ngoài an toàn.
Sau 60 ngày chiến đấu ngoan cường (từ 19-12-1946 đến 17-2-1947), quân và dân Hà Nội đã tiêu diệt hơn 2000 tên địch, phá hủy hàng chục xe cơ giới, bảo toàn được lực lượng để kháng chiến lâu dài. Quân dân Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Trung ương giao phó.
Phong trào đấu tranh trong Hà Nội bị tạm chiếm
Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút ra ngoài, Hà Nội tạm thời bị Pháp chiếm đóng. Chúng một mặt tổ chức bộ máy cai trị, mặt khác bổ sung quân số, đóng ở nhiều vị trí, càn quét nống ra ngoại thành. Trong tình hình đó, Đảng bộ Hà Nội đã gây dựng và phát triển cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, tổ chức lực lượng chính trị và vũ trang, phát động chiến tranh du kích, phá tề trừ gian, phá kế hoạch lập phòng tuyến của địch. Nhiều trận đánh của du kích gây tiếng vang như ở Xuân La, Cổ Nhuế, Nam Dư... Từ giữa năm 1949, Đảng bộ Hà Nội đẩy mạnh xây dựng lực lượng, biến Hà Nội, hậu phương của địch, thành một chiến trường. Cán bộ quân sự và công an được đưa nhiều vào thành phố. Đầu năm 1950, ta đã phát động một chiến dịch xây dựng lực lượng vũ trang nội thành. Phối hợp với chiến trường chính, đêm 18-1-1950, một đơn vị bộ đội tiến công sân bay Bạch Mai, phá 25 máy bay, đốt 60 vạn lít xăng, diệt một số sĩ quan, binh lính địch. Sau thất bại nặng nề ở biên giới phía Bắc, thu đông năm 1950, Pháp thực hiện kế hoạch Đơ Tátxinhi (De Tassigny), tập trung lực lượng phòng ngự đồng bằng Bắc Bộ, trong đó Hà Nội là cái chốt quan trọng nhất. Vì vậy địch tăng cường phòng thủ Hà Nội. Trên địa bàn nội ngoại thành ken dầy thêm đồn bót. Đồng thời địch quyết phá hết các cơ sở kháng chiến trong thành phố, bình định ngoại thành củng cố, và mở rộng ngụy quyền, ngụy quân.
Về phía ta, do Hà Nội nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, Đảng bộ đã chuyển hướng hoạt động, kết hợp đấu tranh chính trị, kinh tế với đấu tranh vũ trang; kết hợp hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp với hoạt động bí mật. Nhờ đó, mặc dù tập trung lực lượng mạnh, dùng nhiều thủ đoạn tàn bạo, địch vẫn không phá được phong trào kháng chiến ở Hà Nội. Nhiều hoạt động quân sự đã phối hợp chặt chẽ với quân đội ta ở Điện Biên Phủ và cổ vũ mạnh mẽ nhân dân Thủ đô đẩy mạng kháng chiến. Đến mùng 3 rạng sáng ngày 4-3-1954, một đơn vị vũ trang của ta tập kích sân bay Gia Lâm, phá hủy 18 máy bay vận tải và kho xăng, gây nhiều khó khăn cho địch trong việc tiếp tế cho Điện Biên Phủ.
Về phong trào quần chúng, bất chấp mọi hành động đàn áp, mua chuộc, lôi kéo, nhân dân Hà Nội vẫn hướng về kháng chiến đấu tranh với địch theo điều kiện và khả năng của mình (có sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố).
Sau khi học sinh Trần Văn Ơn ở Sài Gòn bị địch giết hại ngày 9-1-1950, học sinh, sinh viên Hà Nội lập tức bài khóa, để tang để tỏ tình đoàn kết đấu tranh với học sinh sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn. Cuộc đấu tranh của học sinh được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, làm chấn động dư luận.
Từ tháng 4-1950, ở Hà Nội liên tiếp nổ ra những cuộc đấu tranh của học sinh, chống văn hóa nô dịch; của tiểu thương chợ Đồng Xuân đòi bỏ thuế thương vụ, giảm thuế chỗ ngồi; của công nhân giao thông đòi tăng lương, chống dãn thợ...
Trong năm 1952 , phong trào đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày phát triển. Quân chúng đấu tranh chống thuế; chống bắt thanh niên đi lính; đòi tăng lương, không làm thêm giờ, không được phạt vạ vô cớ; không đi phu đắp đường, xây bốt; không vào bảo an, hương dõng...
Tháng 1-1953 , nhân dân đấu tranh chống cuộc bầu cử "Hội đồng thành phố" bù nhìn và "Hội đông hương chính" ở các xã; đại bộ phận cử tri không đi bỏ phiếu. Tháng 5-1953, quần chúng đến các trại lính ở Ngọc Hà, Lò Đúc, Sinh Từ... đòi chồng con, anh em và tuyên truyền thanh niên bị bắt lính bỏ về nhà. Cùng với cuộc đấu tranh của công nhân đòi tăng lương, cuộc đấu tranh của tiểu thương các chợ đòi giảm thuế kéo dài từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1953. Nổi bật trong thời gian này là phong trào chống bắt lính. Thanh niên học sinh chống chủ trương quân sự hóa trong học đường, học sinh các trường Minh Tân, Tây Sơn, Khai Thành, Chu Văn An, các trường đại học Văn khoa, Sư phạm bãi khóa chống học quân sự.
Phong trào đấu tranh chống văn hóa nô dịch cũng có những chuyển biến mới. Ngày 23-2-1954, trong "Hội nghị giáo đục toàn quốc" của bù nhìn, họp ở Hà Nội, đại biểu của giáo viên và học sinh yêu cầu dùng tiếng Việt ở bậc đại học, chống học nhồi sọ... Ngày 10-3, nhân dịp kỷ niệm Hai Bà Trưng, phụ nữ tổ chức nói chuyện ở Nhà hát Lớn, công khai lấy kiến nghị chống trụy lạc hóa thanh niên.
Thực hiện chủ trương của Thành ủy, hưởng ứng bản kiến nghị đòi lập lại hòa bình của trí thức Sài Gòn, ngày 12-4-1954, một số trí thức tiêu biểu ở Hà Nội đã ký bản kiến nghị các bên tham chiến thương lượng, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Cuộc vận động ký kiến nghị hòa bình cũng được phát động trong các tầng lớp nhân dân và phát triển nhanh chóng. Đến tháng 6-1954, cuộc vận động đã thu hút được hàng vạn chữ ký .
Phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội, đấu tranh kinh tế, văn hóa kết hợp với đấu tranh chính trị và những hoạt động quân sự đã tiến công quân thù ở ngay sào huyệt của chúng và giành được thắng lợi to lớn.
Hiệp định Genève - Pháp rút quân khỏi Hà Nội
Tháng 1-1954, Hội nghị Genève được triệu tập. Ngày 20-4-1954, hội nghị bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Ngày 4-5, đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do ông Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, đã đến Genève để tham dự hội nghị. Ngày 7-5, quân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên vang dội.
Trong phiên họp ngày 10-5, trưởng đoàn ta đã tuyên bố lập trường về việc lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn của mỗi nước Đông Dương.
Sau nhiều ngày kiên trì thương lượng và đấu tranh gay go, vượt qua âm mưu phá hoại Hội nghị Genève của đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp nhằm kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược, Hiệp định Genève đã được ký kết vào ngày 20-7-1954. Theo quy định của Hiệp định Genève và thỏa thuận ở Hội nghị quân sự Trung Giã giữa đoàn đại biểu Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và đoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương, Hà Nội còn nằm trong vùng tập kết của quân đội Pháp 80 ngày.
Trong những ngày còn chiếm đóng Hà Nội, Pháp đã phá hoại thành phố về mọi mặt trước khi chuyển sang cho ta, định biến Hà Nội thành một thành phố trống rỗng, hỗn loạn, hòng làm giảm uy tín của Chính phủ kháng chiến ở trong nước và trên quốc tế. Pháp còn cố gắng vực bộ máy ngụy quyền thành phố làm công cụ thực hiện âm mưu phá hoại - di chuyển tài sản, máy móc ở các công sở, xí nghiệp và cưỡng ép nhân dân di cư vào Nam. Chiều 27-7-1954, chúng lập "Ủy ban di cư" ngày 2-8, Ngô Đình Diệm ra Hà Nội thúc đẩy bọn tay sai thực hiện kế hoạch tội ác. Mỹ đã cấp cho Pháp nhiều phương tiện cần thiết để vận chuyển những người di cư, chuyển hồ sơ, tài liệu, máy móc, nguyên liệu ở các công sở, xí nghiệp, kho tàng xuống Hải Phòng vào Nam Bộ, Pháp đã huy động hàng nghìn nhân viên ngụy quyền để làm công việc này. Ngày 10-9-1954, chúng nổ mìn phá hoại chùa Một Cột, một công trình văn hóa lâu đời ở Thủ đô...Trước khi rút khỏi Hà Nội, thực dân Pháp tiếp tục gây ra những tội ác đối với nhân dân ta.
Những ngày tiếp quản Thủ đô
Thực hiện hiệp định chuyển giao Hà Nội đã ký kết giữa ta và Pháp, ngày 2,3 ,4-10-1954, Đội Hành chính có 422 cán bộ, nhân viên đã vào thành phố cùng phía Pháp tiến hành kiểm kê từng cơ quan, công sở, công trình công cộng... để chuẩn bị bàn giao.
Ngày 5-10, Đội Trật tự gồm 158 công an có vũ trang vào Hà Nội, chuẩn bị nhận bàn giao các đồn cảnh sát, các cơ quan công an của Pháp và ngụy quyền.
Mặc dù phía Pháp dây dưa, không làm đúng thủ tục hoặc tự tiện tẩu tán tài sản, nhưng được sự giúp đỡ của nhiều công chức, đến ngày 7-10, Đội Hành chính và Trật tự của ta đã hoàn thành công tác kiểm kê, chuẩn bị xong biên bản bàn giao.
8 giờ sáng ngày 6-10, địch rút khỏi quận lỵ Văn Điển. Đội Công tác ngoại thành của ta tiến vào tiếp quản. Đây là quận lỵ đầu tiên ở ngoại thành được giải phóng.
Ngày 7-10, những đơn vị chủ lực của ta có nhiệm vụ giải phóng thủ đô tiếp tục tiến về Hà Nội từ nhiều đường.
Mừng đón đoàn quân về giải phóng Thủ đô (10-10-1954) - ảnh: internet
Ngày 8-10, các đội Hành chính, Trật tự đã hoàn thành việc ký kết các văn bản bàn giao các cơ quan, công sở, công trình công cộng với phía Pháp. Ban Tiếp thu quân sự cùng một đơn vị cảnh vệ gồm 214 chiến sĩ vào thành phố, nhanh chóng xuống các khu vực, chuẩn bị bàn giao các cơ quan, vị trí quân sự và bố trí gác chung với quân Pháp ở những nơi cần thiết đã được quy định. 16 giờ ngày 8-10, một số đơn vị bộ đội đã tiến sát vành đai đê La Thành, từ Nhật Tân, Câu Giấy, Ngã Tư Sở, Bạch Mai đến Vĩnh Tuy. Cùng ngày, địch rút khỏi Yên Viên.
Sáng ngày 9-10, các đội công tác ngoại thành phối hợp với bộ đội tiến vào tiếp quản 4 quận: Quảng Bá, Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, Quỳnh Lôi. Đến buổi trưa, ta tiếp quản Đại lý Hoàn Long. Nhân dân ngoại thành nô nức đón mừng chính quyền cách mạng và bộ đội về giải phóng. Cũng sáng ngày 9-10, một số đơn vị bộ đội từ đường đê La Thành chia làm 2 mũi tiến vào tiếp quản các khu vực quân sự Quần Ngựa, ga Hàng Cỏ, sân bay Bạch Mai, khu Đồn Thủy, thành Hà Nội.
Đúng 16 giờ ngày 9-10-1954, những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên sang phía Gia Lâm. Bộ đội ta hoàn toàn kiểm soát thành phố. Đêm ấy Hà Nội rực rỡ ánh điện trong đêm hòa bình đầu tiên sạch bóng quân thù.
Sáng ngày 10-10-1954, Ủy ban Quân chính thành phố và Đại đoàn 308 từ các cửa ô mở cuộc hành quân lịch sử vào Hà Nội. Trung đoàn Thủ đô, từng lập chiến công oanh liệt và ra đời ở Liên khu I, vinh dự giương cao lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" dẫn đầu đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô trong tiếng nhạc hùng tráng, giữa rừng hoa, rừng cờ và tình cảm thắm thiết của 20 vạn nhân dân Hà Nội đổ xuống đường đón mừng Ủy ban quân chính và bộ đội.
15 giờ ngày 10-10, hàng vạn nhân dân Thủ đô phấn khởi dự lễ chào cờ chiến thắng, với sự hiện diện của Chủ tịch Ủy ban quân chính thành phố là Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và Phó chủ tịch là bác sĩ Trần Duy Hưng, cùng các đơn vị quân đội nhân dân tham gia tiếp quản thành phố. Cờ đỏ sao vàng lại tung bay trên đỉnh cột cờ cổ kính. Thủ đô lại trở về với Tổ quốc độc lập, tự do, kết thúc một chặng đường lịch sử đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất oanh liệt vẻ vang của nhân dân Hà Nội và nhân dân cả nước. Nhân dân cả nước hân hoan, vui mừng cùng nhân dân Hà Nội.
Những gương mặt tiêu biểu
NGUYỄN TRI PHƯƠNG (1800-1873)
Ông quê làng Đường Long (Chi Long), huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Xuất thân nhà nghèo nhưng cố gắng học hành, đọc nhiều, tinh thông kinh điển, binh thư, dù không đỗ đạt gì. Chỉ bắt đầu sự nghiệp bằng chân thư lại ở một huyện thế mà sau trở thành một vị đại thần, trụ cột của triều đình Huế.
Ông từng là Tuần phủ, đứng đầu tỉnh Quảng Nam rồi Tổng đốc tỉnh An Hà (An Giang - Hà Tiên), từng làm Thượng thư các bộ Hộ, bộ Hình, và làm Kinh lược sứ Nam Kỳ.
Năm 1858, ông chỉ huy trận đánh cản giặc Pháp ở Đà Nẵng. Năm 1860, ông vào Gia Định chống Pháp gây chiến. Năm 1863 lại ra Hải Dương và Yên Quảng dẹp bọn thổ phỉ Cờ vàng. Đến năm 1872, dù đã 72 tuổi, lại lĩnh ấn Kinh lược sứ Bắc Kỳ, ra Hà Nội lo việc đương đầu với giặc Pháp. Lúc này ở Hà Nội, tên lái buôn Đuypuy đưa tàu chiến và lính tráng ra khiêu khích. Nguyên theo hiệp ước 1862 ký giữa Pháp và triều đình Huế thì Pháp chỉ được đến buôn bán ở mấy cửa biển Bắc Kỳ chứ không được đi sâu vào nội địa. Nhưng Đuypuy đã liên hệ với bọn tướng lĩnh nhà Mãn Thanh ở Vân Nam cứ cho thuyền ngược sông Hồng, chở súng đạn và muối lên bán ở đó. Trở về Hà Nội hắn tự ý đem quân lên bờ đóng trại. Láo xược hơn, hắn còn bắt viên quan phòng thành xuống tàu làm con tin để buộc ta phải thả những người cộng tác cho hắn. Trong hoàn cảnh đó, các quan ta rất khó xử. Họ đành phải báo về Huế và thế là Nguyễn Tri Phương được phái ra Hà Nội.
Nguyễn Tri Phương đến Hà Nội ngày 27-5-1873. Việc đầu tiên ông làm là cho người đi gặp Đuypuy ở nhà hội quán Quảng Đông, khiển trách hắn làm trái lệnh của các nhà đương cục và yêu cầu hắn phải khai số người và vật dụng đem theo để tiện việc khám xét. Hắn không chịu, với lý do là làm theo yêu cầu của nhà Thanh mà các quan ta cũng có nhiệm vụ phải tuân theo. Cuộc thương lượng không có kết quả. Nguyễn Tri Phương đành phải dùng biện pháp cứng rắn. Ông cho dán bố cáo cấm thuyền muối của Đuypuy đi Vân Nam và yêu cầu hắn phải lập tức rời khỏi Hà Nội. Nhưng có lực lượng quân sự trong tay, hắn không những không rời Hà Nội mà còn cho người đi bóc các tờ bố cáo. Mặt khác, hắn cứ cho đoàn thuyền hàng của hắn đi Vân Nam. Nguyễn Tri Phương không chịu để hắn hoành hành, một mặt, ông ra lệnh cho các đồn dọc sông bắn vào đoàn thuyền khiến chúng phải quay về Hà Nội, mặt khác, ông cho thi hành nhiều biện pháp mạnh như lập thêm đồn binh dọc sông Hồng, cho người phục bắt quân lính của Đuypuy cũng như những người Việt Nam và Hoa kiều có liên lạc với hắn... Để đối phó, Đuypuy lập tức cho người đi yêu cầu Tổng đốc Lưỡng Quảng và Súy phủ Sài Gòn can thiệp. Tại Hà Nội, hắn ngang nhiên cho quân có vũ trang đi tuần các khu phố để bảo vệ cho người của hắn khỏi bịi bắt, cho đi bắt các nhà chức trách Việt Nam tỏ ý chống cự, thậm chí còn cho quân bắn chết một người lý trưởng và bắn nhau với quân ta ở bờ sông... Đuypuy còn cho mộ thêm quân Cờ vàng và thổ phỉ đưa quân số lên tới 500 tên. Lúc này Hà Nội rất căng thẳng. Mặc dù bọn Đuypuy luôn lấn tới, nhưng Nguyễn Tri Phương vẫn không dám công khai đánh chúng vì sợ trái lệnh của triều đình!
Về phần triều đình Huế, sau khi nhận được thư của Tổng đốc Lưỡng Quảng vốn đã tư thông với Pháp, đành phải ra lệnh cho Nguyễn Tri Phương để Đuypuy được tự do đem đoàn thuyền muối của hắn đi Vân Nam. Thắng thế, tên này trong khi đi Vân Nam đã ngang nhiên đe dọa các đồn binh ta ở ven sông, bắn giết một số dân phu đang xây đắp đồn lũy... Triều đình Huế yêu cầu Súy phủ Sài Gòn cho người ra bắt Đuypuy phải đi khỏi Hà Nội. Chỉ chờ có thế, Súy phủ Sài Gòn nhanh chóng cho đại uý thủy quân Gácniê đem 180 quân ra Bắc Kỳ. Tới Hà Nội, ngày 5-11-1873, sau khi cho quân đến đóng ở Tràng Thi, Gácniê tới gặp Nguyễn Tri Phương chỉ yêu cầu ông phải mở cửa sông Hồng cho Pháp thông thương mà tuyệt nhiên không nói gì tới việc trục xuất Đuypuy. Hắn còn nói rằng việc thông thương là công việc sẽ giải quyết giữa triều đình Việt Nam và chính phủ Pháp? Thế rồi ngày 19-11-1873, Gácniê gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương yêu cầu ông phải giải giáp. Hắn đặt hạn cuối cùng phải trả lời là 6 giờ chiều ngày hôm ấy (19-11).
Nguyễn Tri Phương không trả lời, Gácniê lệnh cho quân của Đuypuy đánh vào cửa Đông và cửa Bắc, còn quân của hắn thì đánh vào cửa Đông Nam, Tây Nam và Tây. Hiệu lệnh tấn công cho các cánh quân là tiếng pháo của hai pháo hạm đậu trên sông Hồng bắn vào thành Hà Nội lúc 6 giờ sáng ngày 20-11-1873 .
Nguyễn Tri Phương ra lệnh cho quân sĩ chiến đấu. Bản thân ông trực tiếp chỉ huy ở cửa Đông Nam. Cuộc chiến đấu diễn ra hoàn toàn theo hướng bất lợi cho ta vì không ai ngờ Pháp trở mặt quá nhanh. Đại bác của quân Pháp đã kéo đến sát cổng thành nên phát huy được hiệu quả. Vì thế, chỉ sau một hồi pháo kích, cửa Đông Nam và Tây Nam đã bị vỡ, quân Pháp tràn vào. Còn cửa Đông, sau khi pháo hạm ngừng bắn vào hồi 6 giờ 30 phút, thì một đội quân địch đã bắc thang trèo được vào thành, mở cửa cho đồng bọn ùa vào. Địch tấn công dữ dội. Lúc đầu quân ta hăng hái chiến đấu, nhưng khi các cửa thành đã bị phá, các quan có trách nhiệm giữ thành đều bỏ chạy. Quân sĩ hoang mang tan rã. Nguyễn Tri Phương bị một mảnh đại bác xuyên vào bụng, bị thương nặng. Thành Hà Nội đã rơi vào tay thực dân và ông rơi vào tay quân Pháp. Bọn này định cứu chữa, ông từ chối. Địch đổ thuốc cho ông, nhưng ông đều phun ra. Đến phút cuối cùng, ông đã nhờ người tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tề và ung dung nói: "Nghĩa làm bề tôi phải chết", rồi ra đi một cách bình thản. Một vị tướng quê ở Thừa Thiên - Huế đã chiến đấu để bảo vệ Hà Nội cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời trong lúc triều đình thì hèn nhát. Thật đáng khâm phục!
HOÀNG DIỆU (1829-1882)
Là người con đất Quảng nhưng đã sống và chết cho Hà Nội. Hoàng Diệu tự là Quang Viễn, quê xã Xuân Đài, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 21 tuổi đỗ Cử nhân, 26 tuổi (l853) đỗ Phó bảng, bắt đầu làm Tri phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Lúc Án sát Nam Định, lúc Tham tri bộ Hình, bộ Lại, lúc giáng làm Tri huyện Hương Trà. Đến cuối năm 1878, sau 25 năm, Hoàng Diệu làm Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An - Hà Tĩnh), rồi năm 1880 thăng Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội - Ninh Bình). Lúc này, Hà Nội đang nóng bỏng. Dù sau khi Gácniê đền tội ở Cầu Giấy nhưng Pháp vẫn còn giữ một khu vực ở Đồn Thủy để làm lãnh sự quán và được quyền thu thuế thương chính. Và dù rút khỏi Bắc Kỳ nhưng Pháp vẫn coi là tạm thời và sắp đặt kế hoạch đánh chiếm lại. Trong khi đó triều đình Huế bạc nhược chỉ lo "điều đình" để yên ổn. Nhưng Hoàng Diệu nhận rõ âm mưu của thực dân nên chuẩn bị cho Hà Nội chiến đấu. Không nhận được tiếp viện của triều đình, ông đành cho xây cao thành, lắp đặt nhiều đại bác, mộ thêm quân và hô hào nhân dân không hợp tác với Pháp.
Thế rồi ngày 3 tháng 4 năm 1882, Rivie đến Hà Nội. Đêm 24-4 hắn gửi tối hậu thư đòi Hoàng Diệu nộp thành. Tất nhiên sự việc đó không thể xảy ra nên 8h15 ngày 25-4, hắn đánh thành. Hoàng Diệu thân dẫn tướng sĩ lên mặt thành chiến đấu. Một hiệp quân bắn chết 1 sĩ quan Pháp, ông liền thưởng tại trận 30 lạng bạc để cổ vũ tinh thần quyết chiến trong quan quân. Cuộc chiến đấu đang ngang sức thì kho thuốc súng trong thành bỗng dưng nổ vang. Thế là quan quân hoảng loạn, các tướng lĩnh Lãnh binh, Đề đốc cùng bỏ chạy. Trong khi đó tinh thần yêu nước chống giặc xâm lược của nhân dân Hà Nội lại có dịp bùng lên. Ngay từ giờ phút đầu của cuộc chiến đấu, đông đảo nhân dân đã nô nức từng đoàn mang theo khí giới đến cửa thành xung phong giết giặc. Các nhà dân và đình chùa đều đánh trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội để khoa trương thanh thế áp đảo địch và hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của
quan quân trong thành. Cùng lúc đó có hàng nghìn quân dân vũ trang giáo mác, gậy gộc do võ cử nhân Nguyễn Đồng, người làng Bích Câu (nay thuộc quận Đống Đa) đốc xuất kéo nhau đến tập hợp trước đình Quảng Văn (vườn hoa Cửa Nam bây giờ), rồi tiến vào thành để tham gia chiến đấu. Tiếc rằng chưa vào được tới nơi thì kho thuốc súng trong thành đã bốc cháy.
Quân địch vượt được hào, dùng thang tre vào thành. Ở góc Tây Bắc, một viên quản đội Hùng Nhuệ bị đạn chết. Chỉ còn thủy sự Lãnh binh Nguyễn Đình Đường chống cự đến phút cuối cùng ở cửa Nam. Tổng đốc Hoàng Diệu khi thấy quân giặc tràn vào, biết không thể cứu vãn, ông quay về dinh thảo một tờ biểu dâng lên vua Tự Đức, trong đó nêu rõ ý chí kiên trung của mình, đồng thời vạch rõ trách nhiệm của triều đình trong việc để mất thành. Sau đó ông vào Võ Miếu thắt cổ tự vẫn, nêu tấm gương sáng ngời về tinh thần tận tụy báo quốc, để lại nỗi tiếc thương vô hạn trong lòng nhân dân. Ba quan lớn tỉnh thì Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung, Bố chính Phan Văn Tuyển thì bỏ chạy từ lâu, Án sát Tôn Thất Bá thì ra hàng Pháp ngay từ trước khi nổ ra chiến sự. Nhân dân Hà Nội phải đứng lên lo việc an táng Hoàng Diệu ở trong khuôn viên dinh Đốc học (Sau con cháu họ Hoàng đã ra đưa hài cốt Hoàng Diệu về an táng ở quê nhà).
Hoàng Diệu qua đời, nhưng trong lòng nhân dân Hà Nội, cũng như trong sự nghiệp giữ nước, ông đã trở thành bất tử.
LUƠNG VĂN CAN (1854-1927)
Người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, ngụ tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Năm 22 tuổi, ông đỗ Cử nhân (khoa Giáp Tuất). Khi đó ông đã ra ở tại số 4 phố Hàng Đào. Thấy việc nước ngày càng rối ren, ông không xin đi làm quan mà ở nhà dạy học. Năm 1907, cùng một số bạn đồng chí hướng như Nguyễn Quyền, Lê Đại, Hoàng Tăng Bí... ông đứng ra xin phép thực dân Pháp mở trường Đông Kinh nghĩa thục, một trường tư dạy chữ Hán, chữ Pháp, chữ Quốc ngữ theo phương pháp mới. Trường này hô hào đồng bào hướng vào thực nghiệp, bỏ lối hư văn để mà cứu nước cứu nhà. Hoạt động chưa đầy một năm, thanh thế trường phát triển rộng ra nhiều tỉnh giáp Hà Nội. Thực dân e ngại nên ra lệnh đóng cửa trường. Năm 1913, nhân có vụ các nghĩa sĩ ném bom ở khách sạn Hà Nội (phố Tràng Tiền), Pháp bắt Lương Văn Can, ghép tội âm mưu bạo động, xử án biệt xứ 10 năm, đưa an trí ở Phnôm Pênh (Campuchia). Năm 1921, chịu án được gần 9 năm, do phong trào quần chúng đấu tranh, thực dân phải tha ông. Về Hà Nội, ông soạn sách để dạy bảo lớp trẻ. Tác phẩm: Quốc sự phạm lịch sử, Hán tự tiệp kính, Gia huấn, Hạnh đàn loại ngữ, Châu thư loại ngữ, ấu học tùng đàm...
Các con ông nhiều người cũng hoạt động chống Pháp như Lương Trúc Đàm, tham gia Đông Kinh nghĩa thục cùng cha; Lương Ngọc Quyến từng trốn qua Trung Quốc và Nhật theo học quân sự rồi về nước, không may bị bắt giam ở Thái Nguyên. Ông đã vận động các hạ sĩ quan và binh lính khởi nghĩa; Lương Ngọc Nhiễm cũng từng sang Trung Quốc, Nhật, khi về nước, tới Phnôm Pênh thì bị bệnh ho lao và qua đời tại đó. Thật là một gia đình toàn tâm cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Lương Văn Can - Đông Kinh nghĩa thục là niềm tự hào của Việt Nam và trước hết là của Hà Nội, mảnh đất góp phần hình thành nhân cách cao cả của người sáng lập ra ngôi trường giáo dục lòng yêu nước cho nhân dân ta.
PHAN KẾ BÍNH (1875-1921)
Sinh tại làng Thụy Khuê, nay là phố Thụy Khuê, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Năm 1906, ông đi thi Hương đỗ Cử nhân, nhưng không ra làm quan, hưởng ứng phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục, rồi làm báo. Năm 1907, phụ trách phần chữ Hán trong "Đăng cổ tùng báo", sau đó vào Sài Gòn làm biên tập báo "Lục Tỉnh tân văn". Năm 1913 trở lại Hà Nội, phụ trách mục khảo cứu văn học và lịch sử Việt Nam trên "Đông Dương tạp chí". Năm 1915, báo "Trung Bắc tân văn" ra đời, ông phụ trách phần xã luận. Từ năm 1919, "Đông Dương tạp chí" đổi thành "Học báo", ông vẫn là biên tập chính.
Những sáng tác chính của ông gồm có: Nam hải dị nhân (1909), Hưng Đạo Đại Vương (1905 - 1915), Việt Nam phong tục (1915), Việt Hán văn khảo (1918). Ngoài ra, có các sách dịch : Tam Quốc diễn nghĩa (190ỉ), Đại Nam điển lệ toát yếu (1915 - 1916)...
Phan Kế Bính là một trong những nhà nho đầu tiên có công dùng chữ quốc ngữ để nghiên cứu, dịch thuật, giới thiệu nền văn hóa, văn học cổ cận đại Việt Nam và Trung Quốc. Các công trình nghiên cứu, biên khảo và dịch thuật của Phan Kế Bính đều có giá trị về nghệ thuật văn chương.
Cuốn Hán Việt văn khảo dành 5 tiết để nghiên cứu nguồn gốc nguyên lý văn chương, các thể loại văn học và phương thức sáng tác. Tác dụng nghệ thuật văn chương quan hệ mật thiết với xã hội. Đó là những trang viết có giá trị mở đầu của bộ môn nghiên cứu lý luận văn học theo hướng hiện đại. Văn học bước đầu được coi như một đối tượng khoa học. Phan Kế Bính còn nổi tiếng với cuốn Việt Nam phong tục, là một công trình công phu nghiên cứu những phong tục tập quán của dân tộc ta, mà lại là công trình đầu tiên. Ông đề cao những phong tục tốt đẹp, những tập quán hữu ích và phê phán nghiêm khắc những hủ tục đã kìm hãm xã hội phát triển. Sách ra đời cách nay 90 năm mà nay vẫn được các nhà nghiên cứu sao chép, trích dẫn.
Phan Kế Bính đã có những đóng góp đặc biệt cho sự phát triển ngôn ngữ tiếng Việt. Ngay từ đầu thế kỷ, văn phong của ông đã trong sáng, giản dị, thanh thoát. Chính ông là một trong những người đầu tiên chứng tỏ sức biểu hiện sinh động của chữ quốc ngữ trong các lĩnh vực khoa học, báo chí, nghệ thuật. Ông đã góp phần quan trọng trong sự phát triển của nền khoa học và văn học quốc ngữ trong buổi giao thời đầu thế kỷ. Ông mất khi mới 46 tuổi.
BẠCH THÁI BUỞI (1874-1932)
Sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Yên Phú, xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông có chí, học quốc ngữ, học chữ Pháp rồi lên Hà Nội làm thư ký cho các hãng buôn và cuối cùng làm cho một hãng thầu công chính. Ông được tiếp xúc với cách tổ chức và quản lý sản xuất mới, học được không ít kinh nghiệm ở tư bản Pháp. Năm 1900, ông làm đại lý cung cấp gỗ cho Sở Hỏa xa. Sau 3 năm, có vốn liếng, ông chuyển sang một ngành kinh doanh mới: vận tải đường sông. Lúc đó, ở nước ta, với tư tưởng của phong trào Duy Tân, đã loại bỏ thói quen khinh rẻ nghề buôn và tiến vào con đường thực nghiệp. Bạch Thái Bưởi ban đầu thuê 3 chiếc tàu của một hãng Pháp, rồi đương đầu với các chủ tàu người Pháp và người Hoa, để rồi tiến tới có trong tay một đội tàu trên chục chiếc chạy trên các sông ở miền Bắc và vươn tới Hồng Kông, Sài Gòn... Thời đó, sông Hồng còn chảy sát chân đê, tức các phố Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chứ chưa dời ra xa như ngày nay, nên từ chỗ nay là trước cửa trường cấp II Trần Nhật Duật là bến Tàu Hiệu, tức nơi đậu các tàu của cửa hiệu người Hoa kiều. Lùi xuống một đoạn là bến Tàu Xôva, tức là nơi đậu các tàu của hãng Sauvage của tư bản Pháp. Cuối cùng là bến ông Ký Bưởi, tức khu vực đậu tàu của Bạch Thái Bưởi, nay chính là chỗ chân cầu Chương Dương. Ngoài ra, ngôi nhà ở ngay ngã ba phố Trần Nhật Duật - Hàng Muối, quay ra cả hai phố nên vừa là số nhà 1 và 3 Hàng Muối vừa là 130 Trần Nhật Duật, tầng hầm xây toàn đá xanh, đó là trụ sở của hãng tàu thủy Bạch Thái Bưởi. Ông còn xây dựng một xưởng đóng tàu ở cửa Cấm Hải Phòng, vừa sửa chữa, vừa đóng mới. Năm 1919, ông cho hạ thủy tàu Bình Chuẩn chạy đường Hải Phòng - Sài Gòn.
Bên cạnh việc kinh doanh hàng hải, ông còn đầu tư vào ngành khai mỏ - lúc đó là độc quyền của tư bản Pháp, ở Quảng Yên và Uông Bí. Ông còn kinh doanh bất động sản ở Đồ Sơn, Hải Phòng, Thanh Hóa.
Về văn hóa, ông đã xây dựng nhà in Đông Kinh ấn quán và xuất bản tờ nhật báo Khai hóa với mục đích góp phần vào việc mở mang dân trí, cổ động cho phong trào đi vào thực nghiệp và bảo vệ quyền lợi của giới công thương Việt Nam.
Ông mất năm 1932, khi mới 58 tuổi, giữa lúc đang huy động trí tuệ và tài năng để chống lại sự cạnh tranh của tư bản Pháp và Hoa kiều. Bạch Thái Bưởi là nhà tư sản Việt Nam, ngoài khát vọng làm giàu, còn có khát vọng chấn hưng nền kinh tế dân tộc, muốn sánh vai cùng thế giới, đối đầu với những kẻ thống trị trên lĩnh vực kinh doanh. Ông thực là một nhà tư sản dân tộc đầy nghị lực.
NGUYỄN VĂN VĨNH (1882-1936)
Vốn quê làng Phượng Vũ, nay là Phượng Dục, huyện Phú Xuyên, nhưng từ đời ông thân sinh đã ra sinh sống ở Hà Nội, ngụ tại 46 phố Hàng Giấy. Sau khi học trường Thông ngôn và tốt nghiệp năm 1896, ông làm thư ký tòa sứ ở các tỉnh Lào Cai, Hải Phòng, Bắc Giang, rồi về làm ở tòa Đốc lý Hà Nội. Năm 1906, ông được cử đi Pháp dự đấu xảo ở Mác xây (Marseille). Lúc trở về, ông xin thôi việc để kinh doanh mở nhà in, làm báo. Ông là người đã lập ra ở Hà Nội những tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ và cả chữ Pháp: Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Học báo, Trung Bắc tân văn, Notre journal, Notre revue, An nam nouveau...
Thành tựu lớn nhất của ông là qua báo chí cổ xúy cho chữ Quốc ngữ và dịch giới thiệu nhiều tác phẩm văn học Pháp ra tiếng Việt như kịch của Molière, tiểu thuyết của Victor Huygo, của A. Dumas, của H. Balzac... Ông còn dịch thơ ngụ ngôn của La Fontaine, truyện cho trẻ em của Perrault.
Nguyễn Văn Vĩnh là người đầu tiên dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp ở đầu thế kỷ XX tại miền Bắc. Có thể ban đầu viết báo, ngoài việc khẳng định vai trò quan trọng của chữ Quốc ngữ, ông còn bày tỏ lòng tin vào những hứa hẹn của người Pháp và có lúc xúc phạm đến các chí sĩ yêu nước đương thời, nhưng sau thấy rõ dã tâm của thực dân Pháp thực sự muốn thôn tính vĩnh viễn Việt Nam, nên ông lại dùng báo chí để nói lên việc không đồng tình với
các đường lối của thực dân, đôi lúc còn công kích thực dân. Và trong thực tế, cuộc đời ông đã chối bỏ việc thực dân dụ dỗ cho làm Thượng thư ở triều đình Huế và khước từ, không chỉ một lần, nhận huân chương cao quý nhất của Chính phủ Pháp là Bắc Đẩu bội tinh. Cho nên, cuối đờim ông bị chính quyền Pháp o ép đến mức bị tịch thu gia sản, phải sang Lào tìm cách sống và đã chết ở bên đó.
Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: "Kể về sách dịch thì Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà văn đã dịch gần đủ các loại sách: Thơ, kịch, tiểu thuyết, mà trong loại tiểu thuyết ông khéo chọn những tiểu thuyết có tiếng nhất...
Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất có công với quốc văn, nhưng không phải chỉ nhờ ở những sách dịch nói trên... Ông có công lớn với quốc văn là vì ông đã chủ trương một cơ quan văn học vào buổi mà đối với văn chương mọi người đều bỡ ngỡ, ông lại tập hợp được những cây bút có tiếng, gây nên phong trào yêu mến quốc văn trong thanh niên trí thức đương thời..." (Nhà văn hiện đại, tập 1, tr. 55-56, Nxb Vĩnh Thịnh , H . 1951)
TẢN ĐÀ (1889-1939)
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 25-5-1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Ông là con một ông Án sát, nhưng sớm mồ côi, được người anh cả dạy dỗ theo đường cử nghiệp, 14 tuổi đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội học. Năm 1909, ông đi thi Hương tại trường Nam Định bị hỏng. Năm 1912 đi thi tiếp lại hỏng. Về Hà Nội, ông chứng kiến cảnh người yêu đi lấy chồng. Chán nản vì thi không đỗ, lại thất tình, ông ngán đường công danh, chuyển sang làm thơ, viết báo, soạn tuồng, dịch thơ Đường...
Ông từng làm chủ bút nhiều báo và tạp chí: Hữu Thanh, An Nam
tạp chí, Đông Pháp thời báo... Các tác phẩm chính: Khối tình con I, II. Giấc mộng con I, II. Giấc mộng lớn. Thề non nước - Đài gương kim - Đài gương truyện. Thần tiên - Trần ai tri ký - Tản Đà xuân sắc - Tản Đà tùng văn - Quốc sứ huấn mông - Lên sáu, Lên tám... Ngoài ra, ông còn dịch các tác phẩm của Trung Quốc như Liêu trai chí dị, thơ Đường, Kinh Thi. . . Ông còn chú giải Truyện Kiều, lời chú thích và bình luận khá đặc sắc.
Trên văn đàn của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, Tản Đà nổi lên như một hiện tượng đột xuất, đầy sáng tạo, là một cây bút phóng khoáng, xông xáo, tài năng và tài hoa. Ông để lại một khối lượng tác phẩm văn học khá lớn, nhưng thành công nhất là lĩnh vực thơ ca. Hoài Thanh từng tôn vinh ông là người tiêu biểu nối hai thế hệ nhà thơ cũ và mới. Nhiều nhà thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, cả Tú Mỡ nữa đều thừa nhận là đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của Tản Đà. Tản Đà là vinh quang của Hà Tây và cũng là của Hà Nội, nơi phát hiện, nuôi dưỡng và biểu dương thiên tài thi ca này.
TRUỜNG CHINH (1907-1988 )
Tên thật là Đặng Xuân Khu, quê làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, Nam Định. Là nhà cách mạng Việt Nam đồng thời là nhà văn và nhà thơ. Từng hai lần làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch ủy Ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngay từ những năm 1936-1937, vừa ở nhà tù thực dân được trả tự do, ông đã về Hà Nội hoạt động công khai, tổ chức ra những tờ báo là tiếng nói của Đảng để hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Cũng từ đó, người Hà Nội nhận thức rằng, Trường Chinh là đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương và nhân dân lao động, trí thức tiến bộ ở Hà Nội đặt niềm tin vào ông, xem ông là người của mình. Năm 1939, khi thực dân trở mặt đàn áp thì ông rút vào bí mật và vẫn không rời địa bàn Hà Nội. An toàn khu của Xứ ủy Bắc Kỳ và của Trung ương Đảng vẫn là ở hai bên bờ sông Hồng (các huyện Yên Lãng, Đông Anh bên tả ngạn và Từ Liêm bên hữu ngạn) sát ngay Hà Nội - khi đó là đầu não của chế độ thực dân - để chỉ đạo phong trào cách mạng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông xuất hiện công khai trước quần chúng với tư cách nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Là một trong những nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông đã có nhiều cống hiến to lớn về phương diện lý luận cách mạng, tư tưởng chính trị. Ông là tác giả nhiều tác phẩm và văn kiện nổi tiếng: Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, Cách mạng tháng Tám, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Bàn về Cách mạng Việt Nam, Đề cương văn hóa Việt Nam, Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam... Riêng trong lĩnh vực văn hóa thì bản Đề cương văn hóa Việt Nam là một cương lĩnh đúng đắn cho đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị chỉ đạo cho văn hóa dân tộc phát triển.
Ngoài ra, phải kể tới một phần công lao to lớn của ông là đã quyết tâm đưa Đảng và đất nước đi lên con đường đổi mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986), với cương vị Tổng Bí thư, ông đã trình bày bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá V tổng kết sâu sắc quá trình xây dựng CNXH từ sau ngày thống nhất đất nước và đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Nhờ đường lối đó mà đất nước ngày một phát triển, tiến đến phồn vinh như hiện nay.
Trường Chinh còn là một nhà thơ đặc sắc. Khi làm thơ, ông lấy bút danh là Sóng Hồng. Tập Thơ Sóng Hồng hai tập, tập I gồm những bài in rải rác từ 1927-1973, tập II (tái bản và bổ sung những bài từ 1974-1981) gồm thơ trữ tình ngẫu hứng, tự sự. Thơ ông là cảm hứng của một nhà chính trị có trách nhiệm lớn với dân tộc, với lý tưởng, với sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
NGUYỄN MẠNH TUỜNG (1909-1997)
Chính quán: Làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Sinh quán: Hà Nội (phố Hàng Đào), học tiểu học và trung học cơ sở ở Trường Anbe Sarô (Albert Sarraut), đỗ Tú tài triết học năm 16 tuổi (1926). Sang Pháp du học năm 1927. Tới năm 1929 đỗ Cử nhân văn chương. Năm sau (1930) đỗ Cử nhân luật. Đầu năm 1932 bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ luật khoa. Luận án chính nhan đề "Cá nhân trong xã hội Việt Nam thời cổ". Luận án phụ là "Tổng luận về luật đời Lê". Cuối năm 1932 bảo vệ tiếp luận án Tiến sĩ văn khoa với luận án "Khảo về giá trị kịch tính trong các tác phẩm sân khấu của Anphrê đơ Muýtxê" (Alfred de Musset). Luận án phụ là "Việt Nam trong các tác phẩm văn học của J. Boaxiê" (Jules Boissière). Nghiên cứu sinh lúc đó mới 23 tuổi, lại đỗ "Lưỡng khoa tiến sĩ". Báo chí Pháp rất ca ngợi vì ngay đến người Pháp từ khi có học vị này cũng chưa có ai mới 23 tuổi mà đỗ Tiến sĩ văn khoa và cho tới tận bây giờ (2005) cũng vậy. Sau vinh quang đó ông về nước, nhưng trước thời cuộc lúc đó, ông không nhận một chức vụ nào của chính quyền thuộc địa, lại quay sang châu Âu, nghiên cứu về văn học và luật học ở các nước Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp, Thổ, Anh, Đức, Áo, Hung. Năm 1938, ông về nước nhận dạy ở trường Bưởi và trường Đại học Luật. Thật là một điển hình học tập siêu việt! Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông tham gia các hoạt động văn hóa. Tháng 4-1946, ông đắc cử vào phái đoàn chính phủ Việt Nam do ông Võ Nguyễn Giáp làm trưởng đoàn, dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, mục đích là chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức sẽ họp ở Pháp. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ông về Liên khu III và IV, được Chính phủ cử làm luật sư tại các tòa án quân sự, tòa án đại hình và sung vào ban Giám đốc trường Dự bị đại học.
Từ năm 1955, về Hà Nội, ông dạy ở các trường Đại học Văn khoa, Sư phạm, Tổng hợp, rồi về Viện Khoa học giáo dục làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài. Ông qua đời ngày năm 1997. Khi đó Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã ghi vào sổ tang: "Vô cùng thương tiếc Giáo sư - Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức yêu nước đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và góp phần xây dựng nền giáo dục Việt Nam".
TÔ NGỌC VÂN (1908 - 1954)
Họa sĩ Tô Ngọc Vân sinh ngày 15-12-1908 tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trực, huyện Văn Giang, Hưng Yên. Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa II (năm 1931). Ông cộng tác với các báo: Phong hóa, Ngày nay, Thanh Nghị... Ông từng dạy học ở trường trung học Phnôm Pênh (1935 - 1939) rồi về trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1939 - 1945).
Ngày 17-6-1954, ông hy sinh ở vùng gần sát chiến trường Điện Biên Phủ. Ông được giới họa sĩ đánh giá là người có công đầu trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Tranh của Tô Ngọc Vân từng được triển lãm ở Sài Gòn (1930), sau được triển lãm ở Ba Lan, Liên Xô, Hungari, Rumani...
Những tác phẩm tiêu biểu của ông:
- Trước Cách mạng tháng Tám 1945: Thiếu nữ bên hoa sen (1944), Thiếu nữ bên hoa huệ (1943), Hai thiếu nữ và em bé (1944), Thiếu phụ ngồi bên tranh Tam đa (1942), Buổi trưa (1936), Bên hoa (1942), Thuyền sông Hương (1935) đều là tranh sơn dầu.
- Trong kháng chiến chống Pháp: Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ (1946 - sơn dầu), Nghỉ đêm bên đường (1948 - sơn mài), Co trâu quả thực (1954 - ký họa màu nước), Hai chiến sĩ (1949 - màu nước)...
Nhập vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, Tô Ngọc Vân đã từ quan điểm nghệ thuật thuần túy chuyển sang quan điểm nghệ thuật phục vụ kháng chiến. Những bức tranh trong kháng chiến chống Pháp của ông thể hiện điều đó. Lòng yêu nước của ông là tấm gương một nghệ sĩ - chiến sĩ chân chính. Càng ngày, thời gian càng khẳng định giá trị của những tác phẩm của ông. Ông đã ngã xuống ở chiến trường khi tài năng đang đầy hứa hẹn và để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm trên 150 tranh và ký họa, nhiều bức được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật. Tên tuổi của Tô Ngọc Vân là niềm tự hào cho nền mỹ thuật Việt Nam. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
VŨ TRỌNG PHỤNG (1912 - 1939)
Quê làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, nhưng Vũ Trọng Phụng sinh ra và đi học ở Hà Nội. Xuất thân từ gia đình lao động nghèo, cha mất khi Vũ Trọng Phụng mới 7 tháng. Mẹ làm nghề khâu vá thuê để nuôi con ăn học. Sau khi đỗ bằng tiểu học lúc 16 tuổi, Vũ Trọng Phụng phải thôi học để đi kiếm sống. Ông làm thư ký đánh máy cho hãng buôn Gô đa, rồi nhà in Viễn Đông. Được hai năm thì bị mất việc. Từ đó, ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn để kiếm sống. Do nghèo khổ, lao lực, ông mất vì bệnh phổi năm 27 tuổi tại Ngã Tư Sở, ngoại ô Hà Nội. Ông bước vào nghề văn rất sớm, năm 1930 đã có truyện đăng trên các báo: Ngọ báo, Nhật Tân, Công dân, Hà Nội báo, Tương lai, Tiểu thuyết thứ ba, Hải Phòng tuần báo, Tiểu thuyết thứ bảy, Tao Đàn...
Tác phẩm xuất bản đầu tiên: Kịch "Không một tiếng vang" (1931), phóng sự "Cạm bẫy người" (1933) điều tra về bọn cờ bạc bịp, phóng sự "Kỹ nghệ lấy Tây" (1934) viết về bọn gái điếm lấy Tây.
- Trong hai năm 1935 - 1936, Vũ Trọng Phụng sáng tác rất khoẻ, ông cho in liên tiếp một loạt truyện dài và phóng sự. Các tiểu thuyết: Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ đê (1936), Làm đĩ (1936). Các phóng sự: Dân biểu và dân biểu (1935), Lục xì (1935), Cơm thầy cơm cô (1936).
Có ba tác phẩm nổi lên, giàu giá trị phản ánh hiện thực, đề cập đến nhiều vấn đề thời sự chính trị của xã hội thời bấy giờ là Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê.
Những sáng tác cuối cùng của ông thời kỳ 1937 - 1 939: Truyện dài "Trúng số độc đắc" (1937); phóng sự "Một huyện ăn tết" (1938); truyện ngắn "Cái ghen đàn ông" (1938), "Một đồng bạc" (1939)...
Vũ Trọng Phụng là cây bút tiểu thuyết và phóng sự hiện thực vào bậc nhất của văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX. Ông đã tố cáo sắc sảo xã hội đô thị thời thuộc Pháp với việc tạo nên những điển hình rất nổi tiếng: Nghị Hách, Xuân tóc đỏ, bà Phó Đoan... Tác phẩm Số đỏ của ông đã được nhiều nước dịch trong đó có nước Mỹ.
Thiên tài của Vũ Trọng Phụng là bẩm sinh song cũng có phần đóng góp của cuộc sống đô thị Hà Nội. Cái thành phố "bát nháo" dưới chế đột thực dân đã cung cấp cho ông những điển hình để đưa vào các tác phẩm tuyệt diệu của mình
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
PHÁP ĐÁNH CHIẾM HÀ NỘI LẦN THÚ NHẤT
Sau khi đã chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ (6-1867) thực dân Pháp tính đến chuyện đánh ra Bắc, chiếm Hà Nội.
Tuy nhiên, không phải đến khi quân Pháp đặt chân tới Hà Nội thì người Hà Nội mới đứng lên. Ngay trong khoa thi Hương năm Giáp Tý (1864), khi nghe tin triều đình Huế chịu khuất phục ký hiệp ước 5-5- 1862 dâng ba tỉnh Đông Nam Kỳ cho Pháp, phần lớn các thí sinh trường Hà Nội đã phản đối. Hàng ngàn người đã không chịu vào trường thi mà tiến về Văn Miếu làm lễ, vừa đi vừa hô lớn xin được vào Nam giết giặc. Đoàn "biểu tình" được nhân dân phường phố hưởng ứng. Vậy mà quan lại đã thẳng tay đàn áp! Sáng hôm sau, tuy khoa thi lại tiến hành nhưng chỉ còn khoảng một phần ba số người trong danh sách dự thi.
Qua sự việc đó, thực dân Pháp càng thấy rõ xu hướng cầu hòa của vua quan triều Nguyễn. Song chúng chưa hành động ngay. Phải tới cuối năm 1872, sau khi đã củng cố thuộc địa Nam Kỳ vững vàng chúng mới quyết định đánh ra Bắc.
Để khởi động cuộc chiến, chúng dùng Đuypuy (Jean Dupuis), một lái súng đang mong độc chiếm dòng sông Hồng để ngược lên vùng Vân Nam (Trung Quốc) bán hàng. Đuypuy tới Hà Nội ngày 22-12-1872 với một lực lượng quân sự đáng kể. Mặc dù không được triều đình Huế cho phép, Đuypuy vẫn ngang nhiên cho thuyền chở hàng ngược sông Hông lên vùng biên giới (3- 1873). Lúc trở vè, hắn mộ thêm được một số lính Trung Quốc. Trước những hành động ngang ngược đó, nhân dân Hà Nội thực hiện lệnh của các quan đứng đầu tỉnh. Không ai chỉ đường, bán hàng tiếp tế cho Pháp. Đồng thời, nhiều nơi còn đóng cọc trên sông để ngăn chặn tàu thuyền địch qua lại.
Với lực lượng quân sự vừa mới được tăng cường, Đuypuy hung hăng đòi hỏi nhiều điều quá đáng. Hắn đòi chính quyên Hà Nội cho được đóng quân trên bờ sông Hồng, có nhượng địa và phải thả những người hợp tác với hắn bị bắt giam. Rồi hắn còn bắt xuống tầu một số quan quân ta và cướp thuyền gạo của triều đình ở bờ sông.
Trước tình hình đó, các quan lại có trách nhiệm ở Hà Nội đứng đầu là Nguyễn Tri Phương muốn có một thái độ cương quyết bảo vệ chủ quyền của mình. Song họ lại phải khoanh tay vì chưa có lệnh của triều đình (1). Nhưng nhân dân Hà Nội sục sôi yêu nước, căm thù, đã có hành động tự phát và quyết liệt, buộc Đuypuy phải chùn tay. Như khi chúng xúc phạm tới một nhà nho có danh vọng của Hà Nội là Đốc học Lê Đình Diễn (còn đọc là Duyên) có trường mở ở phố Hàng Đậu thì một đội nghĩa sĩ 300 người, phần lớn là học trò, kéo ra phục kích trên bờ sông Hỏng chặn đánh khi chúng vừa đổ bộ lên định xông vào cướp phá các làng mạc.
Gácniê đánh thành Hà Nội
Giữa lúc quan hệ hai bên đang như vậy thì thực dân ở Sài Gòn phái Gácniê (Francis Gamier) đưa quân ra Bắc, bề ngoài với danh nghĩa là theo yêu cầu của triều đình Huế để giải quyết vụ Đuypuy, nhưng bên trong là để kiếm cớ can thiệp sâu vào vấn đề Bắc Kỳ. Cho nên, tới Hà Nội ngày 15-11-1873, hắn đã đưa ra nhiều yêu sách ngang ngược: đòi đóng quân trong thành, đòi mở sông Hồng cho tàu thuyền Pháp, đòi được quyền thu thuế. Hắn còn cho quân tiến vào các khu vực đông dân cư để cướp bóc.
Trước tình hình đó, quan lại tại Hà Nội chỉ biết ngôi chờ lệnh trên. Mà triều đình Huế thì khi nghe tin, cũng chỉ biết cử phái viên ra Bắc điều đình(!) trên thế yếu, xin Gácniê đuổi Đuypuy đi và sau đó là rút về Sài Gòn. Nhân dân Hà Nội thì không chịu ngồi yên. Việc bất hợp tác với địch đã được thi hành. Gácniê lâm vào tình thế ngày thêm nguy khốn, các giếng nước uống trong vùng thường bị bỏ thuốc độc, ban đêm kho tàng của chúng trên bờ bị đốt, nguy cơ bị quân dân ta tấn công tiêu diệt là rõ.
May cho Gácniê là có viện binh từ Sài Gòn tới. Với lực lượng được tăng cường, ngày 15-11-1873 hắn đơn phương tuyên bố tự do mở đường sông Hồng, thiết lập chế độ thuế mới. Bốn ngày sau, hắn gửi tối hậu thư buộc tổng đốc Hà Nội phải giải giáp quân đội, rút hết súng đại bác bố trí trên mặt thành. Và không đợi trả lời, sáng sớm ngày 20-11, hắn ra lệnh nổ súng đánh thành Hà Nội.
Pháp tấn công thành Hà Nội lần thứ nhất (cửa Đông Nam 20-11-1873) - Ảnh: tư liệu
Xét về tương quan lực lượng, quân triều đình đông hơn nhiều so với quân viễn chinh Pháp, nhưng ít được luyện tập, trang bị kém, súng đạn thiếu thốn. Đã thế, việc chuẩn bị đối phó với một cuộc tấn công của địch không được chú ý đúng mức. Mặc dù vậy, khi tiếng súng đã nổ thì quân dân Hà Nội chiến đấu rất anh dũng. Nguyễn Tri Phương lên cửa thành trực tiếp chỉ huy quân sĩ. Khi quân Pháp từ phía bờ sông tiến vào phố, có sự yểm hộ của đại bác từ tàu chiến đậu ngoài sông, thì tương truyền chúng đã bị đội quân do một Chưởng cơ (hoặc Chưởng vệ) chỉ huy đánh chặn quyết liệt ở Ô Đông Hà *, dù đã phải hy sinh đến người cuối cùng. Tú tài Phạm Lý thì tổ chức nhân dân trong huyện Thọ Xương tìm cách chặn bước tiến của giặc. Tuy nhiên, dựa vào uy thế của hoả lực, địch đã vượt qua nhiều trở ngại để tiếp cận chân thành. Cuộc chiến ác liệt đã diễn ra ngay trên mặt thành. Thế quân ta xuống dần sau khi chủ tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. (Sau đó giặc Pháp cố tình cứu chữa ông để tìm cách mua chuộc về sau, nhưng ông đã xé bỏ băng buộc thuốc, rồi nhịn ăn mà chết). Con trai ông là Nguyễn Lâm cũng hy sinh tại trận. Giặc thừa thắng tràn vào thành. Nhưng nhân dân Hà Nội, dưới sự chỉ huy của các sĩ phu yêu nước, vẫn duy trì cuộc chiến đấu trong lòng Hà Nội. Chiếm được thành Hà Nội, Gácniê không dám cho quân đóng phân tán, sợ bị tiêu diệt mà đóng ngay trong thành, bịt kín các cửa thành, chỉ dành riêng cửa Đông để liên lạc với bên ngoài. Mặt khác, hắn gấp rút tuyển mộ lính ngụy và ra sức đánh thuế nặng để vơ vét tiền bạc. Thực dân Pháp Ở Sài Gòn rất mừng khi được tin Gácniê chiếm Hà Nội, tuy cũng ngại triều đình Huế phản ứng. Song nhà Nguyễn nhu nhược không muốn kháng chiến chống Pháp. Lúc này chỉ muốn điều đình, thương thuyết, đúng ra là năn nỉ giặc Pháp, hết viết thư hoặc phái người vào Sài Gòn yêu cầu Pháp gọi Gácniê về, lại cho người ra Hà Nội điều đình xin trả lại thành trì và kho tàng!
Gácniê đền tội ở Cầu Giấy
Lợi dụng tình hình đó, Gácniê tung quân đánh chiếm rộng ra vùng đồng bằng. Ở các nơi chúng tới, nhân dân địa phương đều sôi nổi tự động võ trang chặn đánh quyết liệt. Nhưng do thế giặc áp đảo, chỉ trong vòng không đầy một tháng (từ 23-11 đến 12-12) các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định đều lọt vào tay chúng. Mãi tới lúc này quân của triều đình đóng ở Bắc Kỳ dưới quyền chỉ huy của Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết mới dám quyết tâm đối phó.
Lưu Vĩnh Phúc, tổng chỉ huy của quân Cờ đen - vốn từ Trung Quốc sang hàng nhà Nguyễn - được lệnh kéo quân về Hà Nội đóng ở làng Cót (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy).
Ngày 21-12-1873 , Lưu Vĩnh Phúc kéo quân vào sát thành Hà Nội khiêu chiến. Lúc ấy 10 giờ sáng, Gácniê đang hội đàm với sứ giả của triều đình Huế là Trần Đình Túc (mới ra hôm trước) liền kéo quân ra nghênh chiến. Quân Cờ đen rút lui theo kế hoạch đã định trước. Gácniê đuổi theo tới gần Cầu Giấy thì bị sa vào lưới mai phục. Hắn và Banny, tên sĩ quan thân cận, cùng đa số quân Pháp bị tiêu diệt. Số sống sót chạy về Đồn Thủy.
Fancis Gariner bị quân cờ đen đâm chết gần Cầu Giấy - Ảnh: tư liệu
Sau trận này, bọn thực dân Pháp đóng tại Hà Nội rất sợ hãi. Tình trạng suy sụp tinh thần của chúng do chính Đuypuy ghi lại:
"Sự khủng khiếp lớn lại tràn lan trong thành, nhất là trong đám người Pháp. Chỉ còn lại 40 người khoẻ mạnh, mà ngay trong số này, nhiều người đã mệt mỏi vì mấy ngày trước đã hành quân nhiều". [Les évènements du Tonkin - J.Dupuis] .
Trong tình thế đó quân dân ta đã lợi dụng triệt để thời cơ để siết chặt vòng vây chung quanh các cứ điểm có giặc Pháp chiếm đóng thư Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương. Trương Quang Đản chỉ huy ở Bắc Ninh đã tự động cho quân lính thừa lúc đêm tối lội qua sông Đuống tấn công giặc đóng ở phủ Thuận Thành, diệt một số lính Pháp, bắt nhiều ngụy quân, giải phóng được phủ. Một đơn vị quân đội Pháp đóng ở phủ Hoài Đức cũng bị quét sạch. Tất cả lực lượng chúng đã tung ra đóng thành các căn cứ ngoại vi xung quanh Hà Nội đều bị dồn trở lại thành phố. Lưu Vĩnh Phúc đã chuẩn bị hàng trăm thang dài để vượt thành vào tiêu diệt bọn xâm lược tại hang ổ của chúng.
Vấn đề tiêu diệt thực dân Pháp là hiện thực. Vậy mà, triều đình Huế đã ký "hòa ước"!
Quân Pháp rút khỏi thành Hà Nội theo Hòa ước 15-3-1874 và Thương ước 8-1874 ký với chiều đình Huế - Ảnh: tư liệu
Theo hòa ước ngày 15-3-1874 và thương ước tháng 8-1874, thực dân Pháp phải trả lại Hà Nội. Nhưng triều đình Huế phải dành cho chúng một khu vực "nhượng địa mà chúng có quyền đặt lãnh sự với 100 quân thường trực" (Tức nay là khu từ Viện Bảo tàng Lịch sử chạy dài tới Bệnh viện Hữu nghị). Hòa ước 1874 thực chất chỉ là một sự đau hàng tạo điều kiện cho thực dân Pháp xâm lược toàn thể lãnh thổ Việt Nam ngót một chục năm sau.
PHÁP ĐÁNH CHIẾM HÀ NỘI LẦN THÚ HAI
Sau 1874, trong khi ở Hà Nội, thực dân Pháp vi phạm hiệp định 1874, tăng cường lực lượng quân sự từ 100 lên đến 500 quân cùng với một số chiến hạm hoạt động dưới sông cũng như một số chiến hạm khác chực sẵn ở ngoài vịnh Bắc Bộ, thì triều đình Huế không những không củng cố và tăng cường lực lượng quân sự để đối phó lại mà chỉ chăm chăm dựa vào lực lượng quân đội thực dân để đàn áp các phong trào nông dân khởi nghĩa.
Lực lượng quân sự mà bọn thực dân Pháp ở Sài Gòn chuẩn bị để đánh Hà Nội lần này giao cho Hăng ri Rivie (Henri Rivière). Y bắt đầu chuẩn bị từ 1881 đến tháng 3-1882 thì lên đường ra Bắc.
Chúng đổ bộ lên Hà Nội ngày 3-4-1882.
Hoàng Diệu, Tổng đốc Hà Nội, chưa có lệnh của triều đình Huế không dám đánh ngay. Ông gấp rút xây dựng và củng cố lực lượng trong thành. Tường thành vốn thấp, đã được nâng cao thêm. Đại bác cũng được tăng cường.
Rivie đánh thành Hà Nội
Sáng ngày 25-4-1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đề ra những điều kiện hỗn xược như bắt các quan tỉnh phải nộp mình ngay 8 giờ sáng hôm sau. Hoàng Diệu cử án sát Tôn Thất Bá ra gặp Rivie đề nghị hoãn trả lời lại một hôm để có thì giờ chuẩn bị thêm. Nhưng Tôn Thất Bá vốn đã tư thông với Pháp, bỏ chạy trú ẩn ở làng Mọc. Quân Pháp bắt đầu nổ súng.
Cửa Bắc thành Hà Nội với vết đạn do tàu chiến Pháp bắn ngày 25-4-1882 đến nay vẫn còn như một chứng tích lịch sử - Ảnh: tư liệu
Từ 8 giờ đến 10 giờ, ba tàu chiến Pháp ở dưới sông nhả đạn vào thành, đồng thời bộ binh của chúng kéo vào đánh thành.
Trên đường tiến quân, quân đội Pháp vấp ngay sự kháng cự của nhân dân Hà Nội. Để cản trở bước chân giặc, nhân dân tự tay châm lửa đốt nhà mình và từng dãy phố của mình thành một bức tường lửa khiến cho chúng phải lúng túng, tìm đường tiến quân qua các chiến hào đầy nước và bùn.
Đến 10 giờ quân Pháp bắt đầu tấn công.
Ngay khi chúng bắt đầu nổ súng, Hoàng Diệu mặc dù đang ốm vẫn dẫn đầu tướng sĩ lên mặt thành chỉ huy chiến đấu. Khi quân Pháp xông tới đánh thành, một trận giáp chiến ác liệt nổ ra.
Cuộc chiến tiếp diễn đến 11 giờ trưa thì một sự việc bất ngờ xảy ra là kho thuốc súng trong thành bỗng nhiên bốc cháy, khiến tinh thần quân sĩ bắt đầu hoang mang. Thừa lúc đó, quân Pháp dồn lực lượng vào đánh phá cửa Tây và cửa Bắc. Quân ta bắt đầu tan rã. Cũng phải nhắc tới sự kiện là, trong khi quân trong thành còn đang chiến đấu, nhân dân Hà Nội sau khi đốt từng dãy phố để làm chậm bước tiến quân của chúng, đã kéo đến cửa Tây chống trả giặc. Ngoài ra, có cả hàng ngàn dân vũ trang bằng giáo mác, gậy gộc kéo nhau đến tập họp trước đình Quảng Văn (nay là ngã năm Cửa Nam) theo Nguyễn Đồng([1]) - người Bích Câu, đỗ Cử nhân võ, toan tiến tới thành để diệt giặc, nhưng chưa vào đến nơi thì súng đã nổ, giặc đã làm chủ tòa thành. Khi thấy các cửa thành đã bị phá và quân sĩ đã rối loạn không thể chiến đấu được nữa, Hoàng Diệu quay vào hành cung bái vọng, thảo một tờ biểu để lại cho Tự Đức trong đó có đoạn:
"Làm sao tin được lòng giặc nên thần lo sửa soạn đề phòng. Việc chưa xong thì quân Pháp kéo đến. Thần trộm nghĩ: Hà Nội là cái cuống họng của Bắc Kỳ nên thần thưởng tâu về triều đình xin thêm binh. Nhưng bệ hạ lại quá trách."
Sau đó ông đến Văn Miếu tự tử. Quân tướng ta thấy không còn điều kiện chiến đấu được nữa nên đều bỏ chạy.
Sau khi chiếm xong thành Hà Nội, cướp đoạt tiền bạc, Rivie cho gọi Tôn Thất Bá về giao cho coi một phần thành, còn hắn vẫn chiếm đóng hành cung.
Chủ trương của thực dân lúc này là trong 3 ngày, cấp tốc buộc Tự Đức phải ký hòa ước mới, nhận cho chúng quyền đóng 600 quân ở Hà Nội, cho tàu chiến của chúng tự do đi lại khắp nơi và cho chúng giữ độc quyền thương chính. Như thế, theo chúng là "đủ để đặt sự bảo hộ của Pháp hoàn toàn trên đất Việt Nam, ít nhất là trên Bắc Kỳ" (Correspondance politique du commandant Rivire au Tonkin - A.Masson, tr. 84). Để lừa triều đình Huế, Rivie cho tàu chiến vào cửa Thuận An, báo cho Tự Đức biết là y sẽ trả lại Hà Nội.
Phản ứng của quân dân Hà Nội
Được tin thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội, triều đình Huế không biết hành động ra sao. Nhưng khi thực dân Pháp đưa tin sẽ trả lại, Tự Đức tin ngay và cử Trần Đình Túc, Nguyễn Hữu Độ theo tàu chiến của chúng ra Hà Nội hội thương và nhận thành.
Hai người này ra tới Hà Nội một mặt trong khi tiếp xúc với giặc đã nhìn rõ tham vọng xâm lược của chúng, mặt khác cũng nhận ra tinh thần kháng chiến mãnh liệt của quân dân Bắc Kỳ, nên trở về tâu với Tự Đức hoặc phải dốc lực lương toàn quốc ra đuổi giặc, hoặc phái người đi Paris, đi sài Gòn mà trách hỏi (?). Tự Đức vẫn cương quyết không cho đánh, chỉ cho thương thuyết với phái viên Pháp ở Hà Nội, ngay cả với điều kiện thoả mãn yêu cầu của thực dân: Tự Đức không những đã lệnh cho Hoàng Tá Viêm phải đuổi ngay quân của Lưu Vĩnh Phúc đi theo yêu cầu của Pháp, lại còn sai Nguyễn Hữu Độ thân tới gặp Viêm bắt phải tuân lệnh và bắt các tỉnh phải giải tán ngay binh dụng "không được trù trừ nước đôi rồi đến hỏng việc".
Nhưng Hoàng Tá Viêm không tuân dụ, ông không những đã không đuổi đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc mà còn chuẩn bị sẵn sàng binh lực chiến đấu.
Nhân dân xung quanh Hà Nội cương quyết không bán lương thực cho địch. Các đội dân dũng nổi lên ở các tỉnh quanh Hà Nội vẫn sẵn sàng chiến đấu, bất chấp lệnh chỉ của triều đình.
Đầu tháng năm, quân ta xiết chặt vòng vây quanh Hà Nội. Rivie bị ép giữa hai gọng kìm lớn của hai đạo quân Sơn Tây và Bắc Ninh.
Đêm mùng 8, đại bác của quân ta đặt ở bên kia sông Hồng bắt đầu nhả đạn vào Hà Nội. Đêm 15-5 quân ta đột kích căn cứ nhà thờ Hàm Long của địch. Trước tình hình bị uy hiếp, Rivie hoảng hốt xin viện binh của Hải Phòng và của Sài Gòn. Đêm đêm, đại bác của quân ta bên phía Gia Lâm lại bắn sang.
Từ phía Sơn Tây, Lưu Vĩnh Phúc cho quân đột nhập vào giữa thành phố Hà Nội, dán yết thị thách Rivie ra giao chiến trên cánh đồng phủ Hoài Đức (ngày nay là khu vực các làng Dịch Vọng Trung, Dịch Vọng Tiền ven đường 32).
Rivie đền tội ở Cầu Giấy
Ngày 18-5 quân đội Pháp ở Hà Nội chuẩn bị lực lượng để ngày hôm sau đánh ra Cầu Giấy. Tổng số quân Pháp có 750 tên. Chúng để lại 200 tên giữ nhượng địa Đồn Thủy, còn 550 tên xuất trận với 3 đại bác dã chiến. Chúng chuẩn bị hết sức bí mật. Đến tận 6 giờ chiều bọn chỉ huy mới phát rượu mạnh và thịt cho lính và mới 3 giờ sáng chúng đã trở dậy ăn uống rồi xuất quân.
Nhưng quân ta vẫn bám sát địch nên đã rõ công việc chuẩn bị cũng như hướng xuất quân của chúng và kịp thời bố trí đón đánh ở Cầu Giấy. Tổng số quân Việt Nam và quân Cờ đen dự trận không quá 1.000. Đại quân đóng ở Hoài Đức dưới quyền chỉ huy của Hoàng Tá Viêm. Tin tức quân địch thường xuyên đưa ra Hoài Đức do một người thông ngôn cho Pháp là Nguyễn Văn Lộc bí mật cung cấp.
Mới 4 giờ sáng, thủy quân Pháp lên đường. Chỉ huy trận đánh là Đờ Vile (De Villers), Rivie ngồi xe ngựa đi theo sau. Đây là chuyến xuất quân lớn nhất của quân Pháp ở Bắc Kỳ từ trước đến bấy giờ. Chúng vừa sang khỏi cầu thì quân ta mai phục gần đó bắt đầu nổ súng. Nhiều tên địch chết ngay từ phút đầu. Đã chót qua cầu, chúng đành liều chết xông lên chiếm lĩnh trận địa ở hai bên đường cái.
Đội thủy quân lục chiến xông vào làng Cót. Pháo binh của chúng chuyển qua cầu nhưng không dám tập trung binh lực ở địa điểm này, mà phân ra hai toán nhỏ, một toán xông vào Dịch Vọng Tiền và một toán xông vào Dịch Vọng Trung. Đại bộ phận vẫn ở Cót. Quân ta nấp sau lũy tre dày ở Dịch Vọng Trung bắn ra rất rát, địch không thể vào gần được.
Cầu Giấy - nơi ghi chiến công lần thứ 2 giết chết Henri Rivière (19-5-1983) - Ảnh:tư liệu
Phía Pháp, Đờ Vile bị tử thương. Giữa lúc ấy Lưu Vĩnh Phúc xuất hiện chỉ huy quân đánh tạt vào sườn phải địch. Quân Pháp xông lên bị chặn đứng ngay lại, thương vong nhiều. Chúng tập trung liên thanh bắn để bảo vệ sườn này. Nhưng Lưu Vĩnh Phúc vẫn dẫn đầu quân sĩ tiến đánh. Địch núng thế bắt đầu rút lui. Cánh trái của chúng đang đánh Dịch Vọng Trung được gọi về. Một toán địch liều chết rút trước qua cầu núp sau bờ đê bắn yểm hộ cho cuộc rút lui. Trong lúc quân địch đang hoảng hết, quân ta hò vang, uy hiếp tinh thần địch và tập trung hoả lực bắn tiêu diệt. Lính Pháp bỏ cả đại bác chạy tháo thân. Bọn sĩ quan phải xúm lại kéo. Tất cả quan lẫn lính nhớn nhác hỗn độn rút chạy qua cầu, bỏ lại trên cầu cả xác chết lẫn người bị thương. Trong số những tên nằm chết ở trên cầu có tên tồng chỉ huy Rivie! Trận Cầu Giấy mở đầu 5 giờ sáng và kết thúc 7 giờ sáng bằng sự tan rã rút chạy của quân xâm lược.
HÀ NỘI TRỞ THÀNH THUỘC ĐỊA PHÁP
Hai trăm tên giặc sống sót, trốn trong Đồn Thủy. Chúng hoàn toàn bị cô lập, không liên lạc được với Hải Phòng và Sài Gòn. Chúng run sợ chờ đợi quân Việt Nam tấn công. Một tên trong bọn đã ghi lại tình trạng suy sụp tinh thần của chúng như sau:
"...Thực là một cuộc sống kinh khủng đối với một dúm người từng đêm chờ đợi kết liễu cuộc đời" [Trích trong bài "La mort du comman- dant" của L.Yann - L'avenir du Tonkin, số 29-9-1888].
Trong tình hình quân địch như vậy, chỉ cần một cuộc đột kích của quân ta cũng có thể tiêu diệt chúng, giải phóng Hà Nội. Nhưng triều đình Huế không cho tấn công Hà Nội mà chỉ hy vọng lấy lại Hà Nội bằng con đường "hòa hảo" như 10 năm trước.
Triều đình Huế đã làm mất thời cơ có một không hai để giải phóng Hà Nội.
Ngày 15-6, tướng Buê (Bouet) mới được thăng chức Tổng tư lệnh viễn chinh Pháp, tới Hà Nội. Trong khi chờ đợi viện binh ở Pháp sang, Bức ra sức biến Hà Nội thành một căn cứ quân sự vững chắc.
Hà Nội thời gian ấy chỉ còn là một thành phố không người. Chính Buê đã tả quang cảnh Hà Nội khi y mới đặt chân đến: "Đến Hà Nội chiều ngày 15-6-1882 tôi đã thấy thành phố đó trong một trạng thái ngao ngán. Trừ một phần của khu Hoa kiều, tất cả đã cháy trụi, dân cư đã bỏ lại hết mà đi..." [Hà Nội pendant la période héroique - Masson].
Nhưng thái độ lần chần của triều đình Huế khiến cho thực dân Pháp có thời cơ bổ sung lực lượng. Viện quân của chúng từ Pháp và ở Nam Kỳ tới vào cuối tháng 7, do đó binh lực của chúng đã phát triển tới con số 2.000 tính Pháp, 300 khố đỏ và 900 quân Cờ vàng (thổ phỉ Trung Hoa).
Mặc dầu không được lệnh của triều đình Huế, quân đội Việt Nam vẫn bố trí thành một phòng tuyến kiên cố ép chặt lấy Hà Nội.
Những đồn tiền tiêu của quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân đội Lưu Vĩnh Phúc đóng thành một tuyến chạy dài suốt từ Câu Giấy tới sông Hồng, lên tới tận Chèm.
Những làng và đình chùa trong phạm vi 3 km quanh đó đều được thiết lập thành một khu trận địa phòng ngự. Những cỗ pháo đặt bên cạnh đền Chềm ngăn cản những hoạt động của pháo thuyền Pháp về phía Bắc.
Từ sau trận Cầu Giấy hai bên chưa có trận chiến nào. Quân đội Việt Nam còn phải chờ quyết định của triều đình Huế. Quân đội Pháp chưa chuẩn bị xong.
Cho tới ngày 15-8, quân đội Pháp chuyển sang tấn công. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bức, với một lực lượng gồm 1.500 tên, chúng bắt đầu một cuộc phản công quy mô ra nhiều điểm khác nhau.
Trận tấn công lớn này của quân đội Pháp bắt đầu từ 5 giờ sáng tới 7 giờ tối thì kết thúc bằng một thất bại thảm hại đối với chúng.
Một cánh quân do quan năm Bi sô (Bichot) chỉ huy tiến ra chiếm đóng đền Chèm một cách dễ dàng bởi vì quân ta đã rút bỏ. Nhưng chiều ngày 16, nước lũ bất thần dâng lên, may là pháo thuyền của chúng kịp thời tới cứu và đưa về Hà Nội nếu không chúng sẽ bị nước cuốn đi hết. Còn quân do quan tư Côrôna (Coronat) chỉ huy cũng suýt bị trận nước lụt ấy dìm chết nếu không may mắn đóng ở một gò đất cao tại làng Noi (Cổ Nhuế).
Nhưng, cũng do trận nước lụt ấy, quân ta phải bỏ phòng tuyến bao vây Hà Nội. Đây là một điều kiện giúp cho thực dân Pháp có thêm thời giờ củng cố lực lượng của chúng.
Ngày 31-8, Bức quyết định mở cuộc phản công thứ hai để đẩy lùi quân đội Việt Nam ra khỏi phòng tuyến sông Đáy - phòng tuyến mới mà quân đội Việt Nam đã thiết lập sau trận lụt ngày 16.
Chúng lấy Bá Giang (thuộc Đan Phượng - Hà Tây) làm mục tiêu tiến đánh. Quân Pháp bị thương vong nặng. Kết quả là quân ta vẫn đóng ở Phùng, bên bờ sông Đáy. Trong khi vẫn đang ở cái thế giằng co như vậy, thì triều đình Huế lại làm một việc đáng tiếc nữa là ký với thực dân Pháp hiệp ước Hác măng (Hannand) ngày 25-8-1883. Với hiệp ước, triều đình Huế công nhận cho thực dân Pháp đặt một công sứ ở Hà Nội, giao phó cho thực dân Pháp quyền đuổi đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc ra khỏi Bắc Kỳ... Nhưng trong thực tế hiệp ước Hác măng không được thực hiện. Quân đội Việt Nam trong tình hình đó vẫn bất chấp thái độ của triều đình và vẫn tiếp tục bao vây Hà Nội.
Ngày 2-9-1883, cao ủy Pháp Hác măng ra Hà Nội thấy tình hình hiệp ước không thể thực hiện được liền chủ trương mở một cuộc tấn công lớn ra Bắc Ninh. Ở mặt này y cho là đỡ nguy hiểm hơn Sơn Tây, do lực lượng quân đội Việt Nam ít hơn. Mục đích của y là gây thanh thế cho quân đội Pháp. Nhưng chủ trương của Hác măng không được Bức tán thành vì tên này muốn chờ viện quân từ Pháp sang mới chuyển từ phòng ngự sang tấn công. Việc này gây mâu thuẫn sâu sắc giữa Hác măng và Bức, do đó ngày 18-10, Bức phải về Pháp, để quyền chỉ huy lại cho Bi sô.
Cũng do việc này, phái quân sự và phái chính trị trong nội bộ thực dân lục đục với nhau. Chính phủ Pháp phải phái hải quân đô đốc Cuốcbê (Courbet) sang làm Tổng chỉ huy các lực lượng quân đội Pháp ở Bắc Kỳ. Cuốcbê đến Hà Nội ngày 25-10-1883.
Tháng 12- 1883, trong khi triều đình Huế ra sức triệt hồi các lực lượng quân đội Việt Nam ở Bắc Kỳ về Huế và ngăn cản nhân dân không được đánh giặc, thì quân đội Pháp được tăng viện thêm 5 tiểu đoàn nữa.
Ngày 18-12, chúng hạ thành Sơn Tây.
Đầu tháng 3-1884, chúng mở cuộc tấn công lên Bắc Ninh và đánh chiếm thành ngày 12-3-1884. Thế là gọng kìm cuối cùng của quân đội Việt Nam còn đe dọa quân đội thực dân ở Hà Nội bị bẻ gãy nốt.
Ngày 6-6-1884, triều đình Huế ký hòa ước Patơnết (Patenôtre) là văn kiện chính thức đặt nền thống trị của thực dân Pháp trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
Sau hòa ước Patenôtre (1884), Pháp chính thức đặt nền thống trị lên toàn cõi Việt Nam. Ở Hà Nội, chúng đuổi hết quân Nguyễn ra ngoài và chiếm thành - Ảnh: tư liệu
Năm 1888, vua Đồng Khánh lại hạ dụ dâng hẳn thành phố Hà Nội cho thực dân.
Bắt đầu từ mùng 3 tháng 10 năm 1888, Hà Nội chính thức trở thành một thành phố thuộc địa của đế quốc Pháp.
NHÂN DÂN ĐẤU TRANH HÀ NỘI NHỮNG NGÀY ĐẦU ĐẤU TRANH CHỐNG ÁCH CAI TRỊ CỦA PHÁP.
Thi hành các điều khoản của hiệp ước 1884, Pháp đuổi các quan quân nhà Nguyễn ra ngoài thành và đưa đại quân của chúng vào. Số quân còn lại chia nhau đóng ở các đường phố chính. Công sứ Pháp ở Hà Nội đặt trụ sở ở ngôi nhà nay là 80 phố Hàng Gai. Đội quân thông tin đóng tại đền Ngọc Sơn, đội quân tình báo đóng tại chùa Quan Thượng bên bờ hồ Gươm (khu nhà bưu điện hiện nay). Trong khi đó, Tổng đốc Hà Nội phải về đóng trụ sở lại làng Tiên Thị (phố Lý Quốc Sư ngày nay). Nha kinh lược với viên Kinh lược sứ, đại diện tối cao cho triều đình Huế cong phải đến đóng trụ sở ở phố Hàng Gai đối diện tòa Công sứ.
Đến ngày 1-10-1888 triều đình Huế dâng Hà Nội cho Pháp. Hà Nội chính thức trở thành một thành phố theo chế độ nhượng địa. Từ đây các cơ quan triều đình đóng tại Hà Nội không còn quyền hành đối với Hà Nội mà chỉ là đóng nhờ trên đất của Pháp để tiếp tục quản lý những ruộng đất còn lại theo quy chế bảo hộ. Nhưng trong lòng Hà Nội vẫn âm ỉ một phong trào chống Pháp. Hội Tín Nghĩa tập hợp gân 5.000 người yêu nước trong Hà Nội và các vùng ngoại vi do Dương Hữu Quang cầm đầu tiến hành thường xuyên các vụ bắt bọn hào phú tay sai giặc, buộc chúng nộp tiền của để nuôi quân, sắm vũ khí. Dương Hữu Quang không phải người Hà Nội - ông quê huyện Thanh Oai (Hà Tây) nhưng đã từng giữ chức Tri huyện Thọ Xương. Đến năm 1883 , khi Hà Nội và Sơn Tây nối nhau thất thủ, ông đứng ra tập hợp những người nghĩa khí mưu việc chống giặc.
Quân Tín Nghĩa đã đột nhập Hà Nội bắt mụ đầm Bây rơ (Beire) là gián điệp Pháp, bố trí đón đường cướp con voi Tuần phủ Ninh Bình gửi về biếu Công sứ Pháp ở Hà Nội, đánh bọn lính Pháp trong cuộc đua thuyền trên hồ Hoàn Kiếm do Pháp và tay sai tổ chức ăn mừng một năm ký kết hiệp ước 1884, giết chết tên Đề đốc tay sai khi hắn dẫn giặc Pháp về càn quét các làng vùng Từ Liêm.
Nghĩa quân Bài Sậy của Nguyễn Thiện Thuật từ mạn Hưng Yên đã triển khai hoạt động về phía Hà Nội. Đêm 12 rạng sáng ngày 26-6-1886, một đồn binh Pháp gần cầu Đuống, cách Hà Nội 6 km bị tấn công. Đêm 16-7-1888, nghĩa quân nã súng vào pháo đài Pháp trên tả ngạn sông Hồng.
Thực dân Pháp tìm cách đối phó. Chúng huy động lực lượng quân sự lớn vào việc càn quét các vùng quanh Hà Nội và hễ bắt được các chỉ huy nghĩa quân là đưa về xử tử tại Hà Nội để khủng bố tinh thần nhân dân. Ngày 15-4-1887, xử tử Nguyễn Cao tại Bãi Dừa bên hồ Gươm. Ngày 23-5-1891, xử tử Đốc Cập ở vườn hoa Pôn Be (nay là vườn hoa Indira Gandhi); ngày 5-10-1893, xử tử một người Pháp là Cờlôdát (Henri dê Clausade) đã chạy sang hàng ngũ nghĩa quân Đốc Tít ở Hải Dương dưới chân Cột Cờ, và chỉ một tháng sau ngày 7-1 lại chặt đầu Đội Văn ở vườn hoa Pôn-be.
Bước vào những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp càng ráo riết thâu tóm mọi quyền hành vào tay. Ngày 26-7-1897, chúng bắt vua Thành Thái ký dụ bãi bỏ Nha kinh lược Bắc Kỳ để chuyển quyền sang Thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ. Cùng với việc cướp đất của dân, chúng mở thêm nhiều phố xá, xây dựng doanh trại. Một số cơ sở chế biến, cửa hiệu dịch vụ của người Pháp đã ra đời, như nhà máy rượu bia Ô-men (Hommel), hiệu thuốc tây Blăng (Blanc)... Chúng cho phá thành Hà Nội, từ năm 1896 đến năm 1897 mới xong. Hà Nội dân dân mang bộ mặt mới.
Thực dân Pháp và tay sai cho rằng đa qua thời đánh dẹp. Ngày 4-12-1898, hội chợ Hà Nội lần thứ hai khai mạc trên khu đất hai làng An Tập và Liên Trì (khu vực Cung Văn hóa Hữu Nghị ngày nay), để quảng cáo cho xứ Bắc Kỳ và Đông Dương (Hội chợ lần thứ nhất mở năm 1887 tại Trường Thi).
Bọn chúng không hề biết rằng Hà Nội lúc này đã là mục tiêu tấn công của nghĩa quân hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây dưới sự chỉ huy của Vương Quốc Chính. ông quê làng Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Dương) từ năm 1895 đã về tu Ở chùa Ngọc Long Động (nay ở xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Tại đây ông tập hợp những người yêu nước chống Pháp, trong số tướng lĩnh có nhiều người ở Hà Nội như Nguyễn Hanh, Hoa Văn Trứ ở Cổ Nhức, Đỗ Đắc Kiên ở làng Đăm, Đinh Công Bạch ở Thọ Xương. Đúng vào đêm 5-12-1898, nghĩa quân đã ém sát bên ngoài, chỉ chờ đèn điện trong phố tắt là tấn công ngay vào. Cùng lúc, các tầng lớp nhân dân trong thành phố, từ các nhà nho đến các thợ thuyền, bồi bếp làm công cho bọn Pháp, kề cả một số lính ngụy được vận động từ trước, sẵn sàng nổi dậy phối hợp. Nhưng do kế hoạch bị lộ, giặc Pháp đã thiết quân luật và tăng cường phòng bị nên tới giờ quy định mà đèn điện trong thành phố vẫn không tắt, nghĩa quân bố trí bên ngoài đành phải rút. Tuy nhiên ở một số nơi như Sơn Tây, Hà Đông, nghĩa quân đã rào làng, đào hào, đắp lũy, tiến hành trừ gian. Đặc biệt đội nghĩa quân 300 người do ông Tuần Vọng chỉ huy, ngay trong đêm đó đã nổ súng tấn công đồn Ngọc Hà (quận Ba Đình). Sự kiện này đã có ảnh hưởng lớn. Giặc Pháp điên cuồng đối phó bằng cách chém giết và đày ra Côn Đảo hàng trăm người. Nhưng người Hà Nội vẫn bền gan chiến đấu.
Để khép lại mục này, có lẽ cũng còn phải kể tới dòng văn học ca ngợi cuộc kháng chiến chống Pháp thuở ban đầu đó. Tiêu biểu là chùm tác phẩm liên quan đến việc "thất thủ Hà thành" gồm Di biểu của Hoàng Diệu, Chính khí ca, Hà Thành thất thủ ca (khuyết danh) và nhiều thơ điếu, câu đối phúng, thơ đề vịnh... Những áng văn thơ này đề tài cũng khá tập trung. Nếu trong triều đình đã chia ra hai phái chủ hòa và chủ chiến thì trong dân chúng cũng nổi lên một làn sóng không tuân mệnh vua, tự ý tổ chức chống ngoại xâm. Nhân dịp này họ công khai tỏ rõ ý chí của mình. Đối với họ, bảo vệ thành Hà Nội, bảo vệ Tổ quốc là chính nghĩa, Hoàng Diệu và các chiến sĩ bỏ mình vì bảo vệ thành mặc dù chống mệnh vua nhưng vẫn là trung nghĩa, phải đạo.
Những người "tận trung" ấy mang trong mình chính khí của trời đất, quyết đem cái chết đề tỏ rõ một thái độ, để rửa nhục cho đất nước. Hoàng Diệu với trách nhiệm một vị tướng bảo vệ thành đã không thể đang tâm "bỏ thành chạy trốn", "mở cổng thành cho chúng tự do ra vào" hoặc "rút hết quân đi cho chúng khỏi ngờ (!)" mà ông nghĩ: "Nơi trung thố trớ nên đối địch, sống thẹn cùng nhân sĩ Bắc Hà, lòng cô trung thề với thành Long, chết mong theo Nguyễn Tri Phương dưới đất" (Di biểu). Ý chí của Hoàng Diệu đã khích lệ quân sĩ và họ cũng đã chiến đấu hết mình khiến quân Pháp phải hoảng sợ.
Cho dẫu rằng Hà thành thất thủ, tướng quân Hoàng Diệu tuẫn tiết, nhiều nghĩa sĩ bỏ mình, nhưng họ và ông đã trở nên bất tử:
sử sách ngàn năm còn truyền tiết liệt
Người cô thần lấy cái chết để tỏ gan trung nghĩa...
Nghìn năm núi Nùng còn nêu chính khí,
Khách anh hùng tới đó dòng lệ ngổn ngang
(Sĩ tử Hà Thành viếng Hoàng Diệu)
Chùm tác phẩm văn học yêu nước cuối thế kỷ XIX đã góp thêm một tiếng nói mới cho dòng văn học yêu nước của Thăng Long ngàn năm, đó là giọng điệu bi tráng và cảm khái. Những tác phẩm này góp phần đặt một cái mốc, cái đà để văn thơ yêu nước, cổ động, văn thơ chính tả nở rộ vào đầu thế kỷ XX
PHONG TRÀO ĐÔNG DU
Rút kinh nghiệm thất bại của thế hệ cha anh cuối thế kỷ XIX, thế hệ cách mạng mới của Việt Nam nhận thức được rằng muốn đánh bại kẻ thù, khôi phục độc lập dân tộc, giờ đây không thể chỉ dùng phương pháp hoạt động cũ, mà phải có một cuộc nổi dậy của đông đảo nhân dân cả nước với những hình thức hoạt động mới. Mục tiêu tấn công phải là các trung tâm chính trị, kinh tế yết hầu của chủ nghĩa đế quốc Pháp, trong số đó Hà Nội phải là vị trí hàng đầu. Cho nên Phan Bội Châu, người tiêu biểu nhất cho xu hướng bạo động bất giờ, đã chú ý đến vị trí của Hà Nội từ rất sớm.
Ngay từ cuối năm 1902 , nhân dịp lễ khánh thành câu Đu-me, (tức cầu Long Biên), Phan Bội Châu đã tìm đường lên yết kiến thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Hoàng Hoa Thám trên núi rừng Yên Thế (Bắc Giang). Lúc này vì Đề Thám ốm nặng nên chuyến đi của Phan Bội Châu không đạt kết quả. Trong dịp này, Phan Bội Châu dừng lại ở Hà Nội, liên lạc với các sĩ phu yêu nước tập trung khá đông tại đây để bàn kế hoạch phối hợp hành động. Sau đó ông cùng một số người cùng chí hướng thành lập Hội Duy Tân tại Quảng Nam (5- 1904) với mục đích đánh đuổi Pháp. Rồi Phan Bội Châu sang Nhật Bản vào cuối tháng 2-1905. Trên đất Nhật, ông viết và xuất bản các tài liệu tuyên truyền cách mạng, vận động đông bào đoàn kết yêu nước, cổ động thanh niên xuất dương du học. Thông qua nhiều con đường bí mật, cuốn Việt Nam vong quốc sử và các bài Đề tỉnh quốc dân ca, Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu đã lọt qua vòng kiểm soát dày đặc của quân thù để về với người Hà Nội.
Đầu tháng 7-1905, Phan Bội Châu về nước bố trí đưa thanh niên sang Nhật. Trong chuyến về nước lần này, Phan Bội Châu đã có những cuộc tiếp xúc với nhóm sĩ phu thuộc xu hướng cải cách của Hà Nội, và đã nhiệt liệt tán đồng chủ trương lập các hội công nông thương do họ đề ra. Phan Bội Châu nhận thấy nếu làm tết các việc đó sẽ rất có lợi cho việc vận động thanh niên xuất dương, các hội công nông thương vừa là nơi tập hợp đoàn kết nhân dân, vừa là cơ quan bí mật đưa đón du học sinh và giúp đỡ tài chính. Cửa hàng Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, hiệu thuốc bắc Tuy Phương gần ga Hàng Cỏ do Đỗ Cơ Quang đứng đầu ra đời vào chính lúc này. Các công ty cổ phần Quảng Hưng Long, Quảng Hợp Ích đều do các sĩ phu thuộc xu hướng cải cách phụ trách, cũng có quan hệ mật thiết với Phan Bội Châu.
Cuối tháng 7-1905 phong trào Đông Du khởi đầu bằng việc một số thanh niên đầu tiên được đưa sang Nhật. Phong trào này đã được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân Hà Nội vè cả hai mặt: ủng hộ tài chính và đóng góp người. Từ đất Nhật, các bài Khuyến quốc dân tư trợ du học văn, Kính cáo toàn quốc phụ lão văn của Phan Bội Châu gửi về nước thống thiết kêu gọi ủng hộ phong trào du học đã được đồng bào Hà Nội tán thưởng nhiệt thành. Đáng chú ý là có nhiều người thuộc xu hướng cải cách, nhưng vẫn đưa con cái vào phong trào Đông Du như Lương Văn Can đã cho hai con là Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh sang Nhật.
ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
Song song với phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng có xu hướng chuẩn bị bạo động, khôi phục độc lập cho đất nước thì từ những năm đầu thế kỷ XX, ở Hà Nội còn sôi nổi phong trào Đông Kinh nghĩa thục (và các chi nhánh).
Trường Đông Kinh nghĩa thục do một số sĩ phu tiến bộ như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đứng ra xin nhà cầm quyền Pháp cho thành lập và hoạt động từ tháng 3-1907 tại số 10 phố Hàng Đào. Mục đích của nhà trường là tuyên truyền cải cách văn hóa xã hội, giáo dục tinh thần yêu nước. Cho nên những bài địa lý, lịch sử, khoa học thường thức dạy trong trường tuy phải theo chương trình của thực dân, nhưng được soạn với mục đích tuyên truyền đổi mới. Ngoài nội khoá, còn có những buổi diễn thuyết bình văn, giảng báo giới thiệu công khai thơ văn của các thày Đông Kinh nghĩa thục soạn và của Phan Bội Châu từ nước ngoài gửi về, kêu gọi đoàn kết yêu nước, mở mang thực nghiệp, thực hiện duy tân (đổi mới) cũng như kịch liệt phê phán bọn quan lại xấu, chống lối học vụ thi cử, bài trừ hủ tục... Nhà trường còn biên soạn các sách giáo khoa cho học sinh dùng và lưu hành rộng rãi bên ngoài (Quốc dân độc bản, Việt Nam vong quốc sử, Nam quốc địa dư, Văn minh tân học sách...). Học sinh không phải trả học phí, còn được học bổng nhờ sự đóng góp tự nguyện của nhân dân.
Ảnh hưởng của trường Đông Kinh nhanh chóng mở rộng, vào lúc thịnh đạt nhất số học sinh lên tới một ngàn. Một số vùng ngoại thành thuộc các huyện Từ Liêm, Thanh Trì... cũng mở lớp, diễn thuyết bình thơ. Mai Lâm nghĩa thục ở Hoàng phái (quận Hai Bà Trưng), Ngọc Xuyên nghĩa thục ở Tứ Tổng nay là Tứ Liên (quận Tây Hồ) là hai trường nổi tiếng.
Mới đầu bọn thống trị Pháp tường công việc của Đông Kinh nghĩa thục có tính chất cải lương nên không ra mặt ngăn cấm mà tỏ thái độ phỉnh phờ, chỉ tìm cách kiềm chế và cho tay sai chui vào theo dõi. Nhưng phong trào bản chất là cách mạng nên ảnh hưởng ngày càng lớn và nhanh chóng biến thành một cuộc vận động học tập, cải cách bao hàm nội dung đoàn kết yêu nước. Thấy cần dập tắt phong trào, tháng 11-1907, Pháp đóng cửa trường, bắt các giáo viên, cấm các cuộc diễn thuyết, bình văn, tịch thu các sách báo và sau đó kiếm cớ bắt giam, tù đày các nhà sáng lập trường này.
HỘI NGHĨA HƯNG VÀ VỤ HÀ THÀNH ĐẦU ĐỘC
Bằng nhiều hoạt động phong phú, các sĩ phu yêu nước thuộc xu hướng cải cách của Hà Nội hồi đầu thế kỷ XX đã góp phần thức tỉnh lòng ái quốc trong nhân dân, bước đầu tấn công vào hệ tư tường phong kiến đang được thực dân ra sức lợi dụng. Và như vậy là đã mở đường cho tư tưởng mới tràn vào, tạo điều kiện tinh thần cho các phong trào đấu tranh rộng lớn sau đó. Lúc ấy làn sóng đấu tranh quyết liệt của nông dân miền Trung chống sưu cao, thuế nặng và phu phen tạp dịch cũng có tiếng vang ra Hà Nội. Cho nên chỉ ít lâu sau thì Hà Nội đã lại sôi động với vụ đầu độc binh lính Pháp. Hồi này không phải chỉ các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục mới lấy Hà Nội làm trung tâm hoạt động, mà cả phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) cũng tìm cách vượt đồi núi trung du về đây gây cơ sở. Các phái viên của Đề Thám như Chánh Tĩnh, Đội Hổ, Lý Nho đã thành lập tại Hà Nội một tổ chức yêu nước bí mật lấy tên là hội Nghĩa Hưng. Đối tượng tuyên truyền là binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tại cửa hàng cơm và nhà trọ của vợ chồng ông Nguyễn Tĩnh (tức Nhiêu Sáu) phố Cửa Nam và nhà thày bói Nguyễn Văn Phúc (còn có tên là Lang Sẹo) phố Hàng Buồm đã có nhiều cuộc tiếp xúc giữa phái viên của Đề Thám với một số binh lính khố đỏ như Nguyễn Chí Bình (Đội Bình), Đặng Đình Nhân (Đội Nhân), Dương Bê (Đội Cốc)...
Một kế hoạch đánh chiếm Hà Nội đã được vạch ra. Giờ hành động được ấn định vào tối 27-6-1908 và sẽ bắt đầu bằng một vụ đầu độc lính Pháp trong các doanh trại. Theo tiếng súng hiệu, nghĩa quân bố trí bên ngoài từ trước sẽ tiến vào đánh chiếm các công sở. Nhưng do công việc tiến hành không được cẩn mật nên bọn Pháp đã đánh hơi được và bố trí canh phòng. Sau đó, việc đầu độc lính Pháp trong trại vẫn thực hiện được trót lọt gần 250 tên vừa sĩ quan và binh lính bị trúng độc sau bữa ăn tối nhưng bọn chúng chỉ bị say và được cứu chữa kịp thời vì chất cà độc dược không đủ mạnh. Lập tức bọn Pháp ra lệnh báo động, tước ngay khí giới và giữ binh lính người Việt lại trong trại để tra xét. Đồng thời chúng ra lệnh giới nghiêm, khoá kín các cửa ô, vây ráp các khu phố. Kết quả là súng hiệu trong thành không phát, nghĩa quân ở bên ngoài biết việc đã bại lộ nên phải rút lui. Vụ đánh úp Hà Nội không thành, nhưng việc đầu độc lính Pháp đã làm sôi nổi dư luận một thời, nhất là làm cho các giới thực dân ở Đông Dương rất hoang mang. Để trấn an bè lũ và uy hiếp nhân dân ta, chúng đã xử chém Đội Bình, Đội Cốc và Đội Nhân, bêu đầu ở các cửa ô. Sau đó, chúng còn xử chém, kết án tử hình vắng mặt, khổ sai chung thân và giam giữ một số đông người khác nữa. Với nhiều phụ nữ như bà Nhiêu Sáu, chúng cũng không từ cực hình, bỏ bà vào chiếc thùng gỗ đóng đinh nhọn bên trong rồi lăn mạnh trên nền đất (có tư liệu nói bà là người làng Tương Mai và tên chính là Nguyễn Thị Ba).
Trong quá trình điều tra, chúng đã tìm được nhiều chứng cớ khẳng định Đề Thám có vai trò trong kế hoạch đánh Hà Nội và vụ đầu độc. Đó là một trong những nguyên nhân khiến chúng quyết định lại mở cuộc tấn công lớn vào căn cứ Yên Thế tháng 1 - 1909.
VỤ NÉM TẠC ĐẠN KHÁCH SẠN "HÀ NỘI"
Dù gặp nhiều thất bại, các nhà yêu nước Việt Nam vẫn kiên trì tìm cách chống Pháp. Trong số đó nổi lên Nguyễn Khắc Cần (1873-1913), quê ở thôn Yên Viên, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông vốn tham dự phong trào Đông Du, gia nhập Việt Nam quang phục hội, từng sang Trung Quốc cùng Phan Bội Châu. Năm 1912 ông cùng Phạm Văn Tráng nhận nhiệm vụ đem tạc đạn về nước để trừng trị mấy tên việt gian và thực dân. Ông Tráng đã dùng một phần trong số các tạc đạn đó để diệt tên Tuần phủ Nguyễn Duy Hàn ở Thái Bình ngày 12-4-1913. Sau đó vào tối thứ bảy 26-4-1913 tạc đạn lại được ném vào "Hanoi Hotel" (Khách sạn Hà Nội ở 29 phố Tràng Tiền) giết chết hai sĩ quan Pháp.
Nguyễn Khắc Cần không phải là người trực tiếp làm việc ấy (người làm việc ấy là ông Hán Minh Nguyễn Văn Túy) nhưng sau đó ít lâu, khi bị bắt trong lúc vượt biên giới Lạng Sơn, Nguyễn Khắc Cần đã nhận mình là người gây ra vụ đó để Hán Minh thoát nạn. Tại phiên tòa ngày 5-8-1913 Nguyễn Khắc Cần (cùng 6 người khác) bị kết án tử hình. Ngày 24-9-1913 thi hành án. Rất tiếc sau đó ít lâu Nguyễn Văn Túy cũng bị địch bắt và xử tử.
PHONG TRÀO ĐÒI THA PHAN BỘI CHÂU ĐỂ TANG PHAN CHU TRINH VÀ ĐƯA ĐÁM TANG LƯƠNG VĂN CAN
Bước vào những năm đầu của thập kỷ 20, phong trào đấu tranh chính trị ở Hà Nội đã nổ ra với tính chất một cao trào yêu nước dân chủ công khai rộng rãi, bao gồm mọi tâng lớp nhân dân thành phố, trong đó các thanh niên trí thức tiểu tư sản và tư sản lớp dưới đóng vai trò "ngòi nổ". Mở đầu là cuộc đấu tranh đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu (ll-1925). Sau khi bố trí bắt cóc Phan Bội Châu trên đất Trung Quốc, thực dân Pháp đưa cụ về giam trong Hỏa Lò Hà Nội để rồi bí mật sát hại. Nhưng âm mưu đen tối của chúng làm sao qua được con mắt cảnh giác của người dân Hà Nội vốn giàu truyền thống yêu nước. Lúc đó hội Phục Việt mới ra đời trong cao trào yêu nước công khai của những năm 1925 - 1928 đã rải truyền đơn ở Hà Nội (và ở một số thành phố lớn trong nước) kêu gọi nhân dân đấu tranh. Cả một làn sóng yêu nước chống thực dân cuồn cuộn dâng cao ở Hà Nội và trong cả nước. Điện văn kháng nghị trong Nam ngoài Bắc tới tấp gửi tới nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương và bên Pháp cũng như cho các tổ chức quốc tế. Nhiều cuộc biểu tình, bãi công, bãi khóa bùng nổ ngay trên các đường phố Hà Nội.
Thực dân Pháp tìm cách phá hoại phong trào. Nhưng dưới áp lực của quần chúng đấu tranh, chúng buộc phải đưa vụ án ra xét xử công khai, lúc đầu kết án khổ sai chung thân, sau lại phải nhượng bộ tha bổng cụ Phan, nhưng quy định chỗ ở của cụ tại Huế để tiện theo dõi và kiểm soát (cụ bị giam lỏng ở Huế cho đến ngày 29-10-1940 thì qua đời) .
Cụ Phan bị bắt về nước kéo theo phong trào đấu tranh rầm rộ để bảo vệ không cho kẻ thù sát hại nhà yêu nước. Sách báo đẩy mạnh tuyên truyền tinh thần dân tộc. Tất cả những sự kiện đó đã làm cho thế hệ thanh niên đang băn khoăn tìm đường cứu nước hăng hái lao mình vào cuộc đấu tranh.
Phong trào cách mạng trong thế đang lên lại có dịp dâng cao với đám tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh (3-1926).
Phan Chu Trinh từ Pháp về nước năm 1925. Lúc này tư tưởng chính trị cải lương chủ nghĩa của cụ đã bị phong trào cách mạng trong nước vượt qua. Nhưng quá khứ tù đày, cũng như những bài diễn thuyết đả phá chế độ quân chủ và đề cao dân quyền của cụ vẫn được nhân dân cả nước trân trọng và trước sau vẫn xem cụ là một chí sĩ yêu nước. Cho nên khi cụ bị bệnh mất (24-3-1926), đám tang cụ được tổ chức rất lớn tại Sài Gòn, hàng vạn người đi đưa bất chấp sự theo dõi, đe dọa đàn áp của kẻ thù. Sau đó, ở khắp các tỉnh đều tổ chức truy điệu trọng thể, lôi cuốn đông đảo người tham gia. Tại Hà Nội, các tầng lớp nhân dân cử hành lễ truy điệu tại đền Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng (4-4-1926), ngay dưới trời mưa to. Nhiều sinh viên, học sinh, công chức, công nhân đã đeo băng tang. Việc để tang Phan Chu Trinh đã trở thành phong trào, nhất là trong các trường học. Thực dân Pháp và tay sai lo sợ tìm cách ngăn cấm thì nhiều cuộc bãi công, bãi khóa, bãi thị nổ ra. Đám tang và lễ truy điệu Phan Chu Trinh đã trở thành những cuộc biểu dương lòng yêu nước của toàn dân, trong đó nhân dân Hà Nội đã đóng góp phân đáng kể.
Ngày 12-6-1927, nhà chí sĩ Lương Văn Can, nguyên là người sáng lập và hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục (1907) từ trần ở nhà riêng số 4 phố Hàng Đào. Các tầng lớp nhân dân Hà Nội đã làm lễ tưởng niệm cụ tại nghĩa trang Hấp Thiện. Trong buổi lễ, đã có xung đột giữa những người tham gia với cảnh sát Pháp, nhiều người bị thương, bị bắt và kết án tù .
VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
Sự trưởng thành về kinh tế cũng như về ý thức giai cấp của tư sản Việt Nam sau đại chiến 1914 - 1918 đã dẫn đến sự thành lập một đảng chính trị của nó là Việt Nam Quốc dân đảng ở Thủ đô Hà Nội.
Nam Đồng thư xã ở số 6 đường 96 nay là số 129 phố Trúc Bạch của nhà giáo Phạm Tuấn Tài - một nhà sáng lập của Việt Nam Quốc dân đảng sau này - là cơ sở đầu tiên của Việt Nam Quốc dân đảng ở thủ đô Hà Nội. Buổi đầu Nam Đồng thư xã chỉ hoạt động về văn hóa, xuất bản những sách nêu gương các nhà cách mạng nước ngoài và những tác phẩm cổ động cho cách mạng như Con thuyền cứu quốc, Gương thành bại Dân tộc chủ nghĩa, Trưng Vương, Một bầu trời tâm sự... Từ một nhà xuất bản, Nam Đồng thư xã dần dà trở thành một câu lạc bộ, những ngày thứ năm và chủ nhật, thanh niên, học sinh lui tới đông đảo.
Tối 24-12-1927 hội nghị thành lập Việt Nam Quốc dân đảng tiến hành thoạt tiên ở nhà Lê Thanh Vy làng Thể Giao (nay là khu vực phố Thể Giao) sau có động nên chuyển lên Nam Đồng thư xã. Với sự có mặt một số trí thức trẻ yêu nước trong đó có Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Hoàng Văn Tùng, Hồ Văn Mịch... hội nghị kết thúc vào 5 giờ sáng với quyết định thành lập "Việt Nam Quốc dân đảng", mọi người có mặt tuyên thệ gia nhập đảng, thông qua điều lệ đảng và bầu đảng trưởng là Nguyễn Thái Học.
Việt Nam Quốc dân đảng nhằm phát triển đảng chủ yếu trong các tầng lớp trí thức: tư sản, địa chủ, phú nông, hạ sĩ quan; lập khách sạn Việt Nam ở phố Hàng Bông vừa làm trụ sở hội họp, vừa làm cơ quan sinh lợi cho đảng. Ngoài ra, còn xuất bản báo Hồn cách mạng làm cơ quan tuyên truyền.
Ngày 1-1- l929, Việt Nam Quốc dân đảng mở hội nghị ở phố Chợ Đuổi nay là phố Tuệ Tĩnh, do Nguyễn Thái Học chủ tọa, tổ chức lại tổng bộ và quyết định thành lập hai viện: viện lập pháp (do Nguyễn Khắc Nhu làm chủ tịch) và viện hành chính (do Nguyễn Thế Nghiệp làm chủ tịch) bộc lộ xu hướng muốn tiến tới tổ chức đảng một cách quy mô.
Nhưng những hoạt động của đảng này không được tổ chức chu đáo và mang nhiều tính chất mạo hiểm cho nên ngay từ năm 1928 nó đã bị nội phản và bị bọn mật thám Pháp theo dõi, bám sát. Sau vụ ám sát Ba danh (Bazin), một tên chủ mộ phu người Pháp khét tiếng tàn ác đêm mông 9-2-1929, tức 30 Tết âm lịch, trước ngôi nhà 108 phố Huế, nhiều cán bộ chủ chốt của Việt Nam Quốc dân đảng cũng bị sa lưới mật thám cùng với một số đông đảng viên.
Từ đấy những hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng ở Hà Nội phần nhiều có tính chất manh động. Tháng 9-1929 Đoàn Trần Nghiệp tức Ký Con ám sát Nguyễn Văn Kính, một tên phản đảng tại vườn Bách Thảo Ngày 22-1-1930 ở ngõ Hồng Phúc, Nguyễn Văn Nho bắn chết. Phạm Huy Du là bố của đội Dương, một tên mật thám lọt vào hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng và đã bố trí cho mật thám Pháp bắt Nguyễn Thái Học trong hội nghị Vông La (nhưng Nguyễn Thái Học kịp trốn thoát). Ngày 30-5-1930 đến lượt chính đội Dương lại bị bắn nhưng y đã được thực dân Pháp chạy chữa và sau cho làm thanh tra mật thám.
Năm 1930, để phối hợp với cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ở Hà Nội, trong những ngày 9 và 10 tháng 2 - Việt Nam Quốc dân đảng cử 6 đảng viên trẻ tuổi nguyên học sinh trường Kỹ nghệ thực hành ném bom vào nhà viên chánh mật thám, nhà pha Hỏa Lò, Sở hiến binh, Sở cảnh sát. Nhưng vì vỏ bom làm bằng xi măng không được tốt nên không gây thiệt hại gì đáng kể.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, hầu hết các đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng ở Hà Nội và các địa phương bị mật thám Pháp bắt.
Từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 9 tháng 8-1930 thực dân Pháp lập Hội đồng đề hình ở Hà Nội để xử án vụ Việt Nam Quốc dân đảng. Trước tòa án, nhiều chiến sĩ đã tỏ rõ thái độ rất dũng cảm. Họ ngang nhiên nhận những hành động chống Pháp của họ và đả kích chế độ thực dân. Thực dân tuyên án 12 người tử hình, 11 người khổ sai chung thân, 114 người bị đày chung thân và nhiều người khác bị tù từ 5 năm trở lên.
Sau trận càn quét lớn này của thực dân Pháp, Việt Nam Quốc dân đảng mất gần hết lực lượng, tới năm 1932 thì hoàn toàn tan rã.
(Tới 1945 một số kẻ đầu cơ chính trị lợi dụng danh nghĩa đảng này lập ra một đảng trùng tên, chống đối chính phủ ta. Bọn chúng đã bị nhân dân lên án và chính quyền trừng trị).
VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG ĐỒNG CHÍ HỘI (*)
Đâu năm 1925 ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp được những thanh niên Việt Nam yêu nước thuộc tổ chức Tâm Tâm xã để huấn luyện, đào tạo cấp tốc, sau đó đưa họ vào hội Thanh niên cách mạng (6-1925) rồi phái về nước tuyên truyền vận động cách mạng.
Hà Nội, nơi đầu mối giao thông quan trọng, sớm đón nhận các sách báo, tài liệu cách mạng từ Pháp sang, từ Trung Quốc về theo con đường bí mật. Đặc biệt các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như các báo Người cùng khổ, Thanh niên, các cuốn Ban ân chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh.. . đã được người dân Hà Nội tìm đọc, bất chấp sự theo dõi, khủng bố của thực dân Pháp.
Cuối năm 1926, nhiều học sinh từ lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc mở tại Quảng Châu được phái về nước. Hà Nội từ đó trở thành nơi đưa đón thanh niên từ trong nước sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện và từ Quảng Châu về nước hoạt động. Các địa điểm bí mật hồi đó như: nhà số 8 Ô Chợ Dừa, số 37 ngõ Tân Hưng (Tức Mặc), số 47 phố Công sứ Mi-ri-ben (nay là phố Trần Nhân Tông), khách sạn Nam Lai số 95 phố Hàng Lọng (nay là số 107 đường Lê Duẩn).
Cuối năm 1926, Nguyễn Công Thu được Nguyễn Ái Quốc cử về nước tổ chức cơ sở ở Hà Nội. Và thế là chi bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành lập tại một địa điểm ở làng Dịch Vọng (Từ Liêm) gồm 11 người: Nguyễn Công Thu, Vi Nam Sơn, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Danh Đối, Nguyễn Phong Sắc, Mai Lập Đôn, Đỗ Mạnh Hoàn, Tạ Đình Tán, Tạ Đình Tân, Vương Văn Mùi, Mai Ngọc Thiệu mở đầu phong trào cách mạng Hà Nội theo hướng mới.
Tháng 3-1927, kỳ bộ Bắc Kỳ của Thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành lập gồm 5 người: Nguyễn Danh Đối, Mai Lập Đôn, Nguyễn Công Thu, Dương Hạc Đính, Mai Ngọc Thiệu[2] và đặt cơ quan chỉ đạo ngay tại Hà Nội để từ đó đẩy mạnh việc tuyên truyền phát triển tổ chức ở các địa phương, đặc biệt là xây dựng tỉnh bộ Hà Nội và lãnh đạo phong trào cách mạng Hà Nội. Sau đó, tổ chức Thanh niên ở Hà Nội ngày càng mở rộng. Số đông hội viên là học sinh, viên chức, thợ thủ công... Các hội quần chúng dần dần hình thành. Tình hình đó đòi hỏi Hà Nội phải sớm có một bộ máy lãnh đạo.
Tháng 6-1927, Tỉnh bộ đầu tiên Thanh niên cách mạng đồng chí hội của Hà Nội được thành lập gồm 3 người: Nguyễn Danh Đối, Mai Lập Đôn, Nguyễn Phong Sắc. Theo chủ trương bấy giờ, phạm vi hoạt động của Tỉnh bộ Hà Nội bao gồm các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phú Yên, Phú Thọ, Hưng Yên.
Trong bối cảnh đó, phong trào công nhân Hà Nội ngày càng lên cao. Ngày 24-7-1926, ngay trước khi chi bộ Thanh niên Hà Nội ra đời đã bùng nổ cuộc bãi công của công nhân khách sạn Thuộc địa (ở ngã ba phố Hàng Trống và phố Nhà Thờ). Tiếp sau đó là nhiều cuộc biểu tình, đặc biệt vào ngày 9-5-1927, hơn 15.000 nhân dân lao động, học sinh, người buôn bán nhỏ, trẻ bán báo ở Hà Nội đã kịch liệt "tẩy chay" tờ báo Dân, tay sai của thực dân Pháp, đã đăng bài thóa mạ các nhà yêu nước, khiến báo phải đình bản. Bước sang năm 1928, lại có các cuộc bãi công của công nhân các lò bánh mì (20-5), của toàn thể cu-li xe kéo thành phố (22-l0). Thực hiện chủ trương của Đại hội kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ (28-9-1928), tỉnh bộ Hà Nội tích cực đưa các hội viên đi "vô sản hóa", vào các nhà máy cùng ăn, cùng ở với công nhân để tự rèn luyện qua đó giác ngộ công nhân về chủ nghĩa Mác-lênin. Nhờ đó, từ cuối năm 1928 trở đi, các tổ chức công hội, nông hội, các chi bộ thanh niên nhanh chóng phát triển. Các cơ sở ở ga Hàng Cỏ, ở các nhà máy xe lửa Gia Lâm, sửa chữa ô tô A-vi-a, điện Bờ Hồ và các làng ven nội Ngọc Hà, Trung Kính, Yên Lăng, Thịnh Hào... được xây dựng dẫn tới việc thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên ở nội thành.
SỰ RA ĐỜI CỦA CHI BỘ CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN VÀ THÀNH LẬP ĐÔNG DUƠNG CỘNG SẢN ĐẢNG
Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân lúc này cho thấy Thanh niên cách mạng đồng chí hội không còn đủ khả năng lãnh đạo, mà phải gấp rút thành lập chính đảng của giai cấp vô sản. Cuối tháng 3-1929, những phần tử tiên tiến trong kỳ bộ Bắc Kỳ và tỉnh bộ Hà Nội là các ông Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Tuân (không phải nhà văn Nguyễn Tuân sau này), Dương Hạc Đính, đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long để thành lập chi bộ cộng sản (về sau Nguyễn Tuân, Dương Hạc Đính phản bội).
Chi bộ cộng sản đầu tiên của Việt Nam được thành lập ở Hà Nội là một thắng lợi quan trọng của tư tưởng vô sản đấu tranh với tư tưởng phi vô sản và các xu hướng quốc gia khác. Tới Đại hội kỳ bộ thanh niên lần thứ hai (29-3-1929) chủ trương thành lập đảng Cộng sản được nhiệt liệt tán thành. Nhưng đến Đại hội thanh niên toàn quốc họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) từ ngày 1-5-1929, đề nghị thành lập đảng Cộng sản của đoàn Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự cầm đầu đã bị bác. Ngay sau đó, đoàn Bắc Kỳ bỏ đại hội ra về rồi triệu tập cuộc họp tại chùa Hương Tuyết (Bạch Mai) để bàn việc xúc tiến thành lập đảng. Và ngày 17-6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên, Đông Dương Cộng sản đảng chính thức thành lập. Chính cương và tuyên ngôn của đảng được công bố. Tờ báo Búa liềm, cơ quan trung ương của đảng, các tổ chức quần chúng của đảng cũng lần lượt ra đời tại Hà Nội. Tỉnh bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội chuyển thành Thành ủy lâm thời của Đông Dương Cộng sản đảng.
Ngay sau khi ra đời (3-1929), Chi bộ cộng sản đầu tiên chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng, nhất là trong các xí nghiệp, để rèn luyện và phát triển đảng viên, tiến lên lãnh đạo cách mạng ở Hà Nội. Ngày 4-5-1929, chi bộ lãnh đạo giới buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân đấu tranh. Đến ngày 28 tháng đó, dưới sự lãnh đạo của Đông Dương cộng sản đảng, trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự, cuộc bãi công của công nhân hãng sửa chữa ô tô A-vi-a bùng nổ và kéo dài gần nửa tháng, buộc chủ Pháp phải nhượng bộ. Sau đó là cuộc bãi công ở Sở ươm cây thành phố, ngày 13-6.
Ngày 28-7-1929, Đại hội đại biểu công nhân Bắc Kỳ lần thứ nhất ở số nhà 15 (nay là số 5) phố Hàng Nón dưới sự chủ trì của Nguyễn Đức Cảnh đã quyết định thành lập Tổng công hội Bắc Kỳ. Một đại biểu của Hà Nội được tham gia ban chấp hành lâm thời. Đại hội còn quyết định ra báo Lao động, cơ quan tuyên truyền vận động công nhân và tạp chí Công hội đỏ, cơ quan lý luận của Tổng công hội Bắc Kỳ. Cơ quan ấn loát đặt ở nhiều nơi trong thành phố (phố Hàng Bông, ngõ Thanh Giám...), ban biên tập tở báo có các ông Nguyễn Đức Cảnh, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh)... Hầu hết các nhà máy ở Hà Nội sau đó đều có tổ chức Công hội đỏ và dẫn đầu các tổ chức đấu tranh. Công tác vận động nông dân được đẩy mạnh. Nhiều làng xã: Ngọc Hà, Bưởi, Mọc, Khương Thượng, Trung Kính, Thịnh Liệt có Nông hội đỏ. Hội học sinh có cơ sở ở các trường Sư phạm, Bách nghệ, Sinh Từ, Yên Thành, Đỗ Hữu Vị, trường Ke (nay là Trần Nhật Duật), trường Yên Phụ (nay là Mạc Đĩnh Chi). Đến tháng 9-1929 thì Tổng hội sinh viên ra đời, với tờ báo Người sinh viên do Đặng Xuân Khu phụ trách. Ngoài ra còn có các tổ viên chức nhà ga Hàng Cỏ, phủ Toàn quyền, nha Tổng giám đốc tài chính Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đông Dương cộng sản đảng, các tổ chức quần chúng đã tích cực đấu tranh, chống bọn thống trị và chủ tư bản. Vào những ngày kỷ niệm quốc tế (ngày 18-3 Công xã Paris, ngày 1-5 Quốc tế lao động, ngày 1-8 Chống chiến tranh đế quốc, ngày 7-11 Cách mạng tháng Mười Nga...) đều có những hoạt động treo cờ, rải truyền đơn làm cho kẻ thù hết hoảng lo sợ và bị động đối phó.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân Hà Nội trong hai năm 1928 - 1929 cho thấy phong trào công nhân đã mang tính độc lập và ý thức giai cấp công nhân đã biểu lộ khá cao. Cùng lúc đó thì phong trào yêu nước của nhân dân Hà Nội - cũng bước vào thời kỳ phát triển sôi nổi và ngày càng dâng cao.
THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DUƠNG THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ PHONG TRÀO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH TRONG NHỮNG NĂM 1930 -1935
Ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (đến tháng 10 đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương). Ngày 17-3-1930 tại số nhà 42 phố Hàng Thiếc, Thành ủy lâm thời Hà Nội được thành lập gồm 3 người: Đỗ Ngọc Du (Bí thư), Nguyễn Ngọc Vũ, Lều Thọ Nam. (Đến cuối tháng 4-1930, Đỗ Ngọc Du đi công tác nước ngoài . Tháng 6-1930, Trần Văn Lan, ủy viên Trung ương Đảng triệu tập cuộc họp tại 177 Hàng Bông thành lập Thành ủy Hà Nội chính thức do Nguyễn Ngọc Vũ làm bí thư và hai ủy viên là Lê Đình Tuyển và Đỗ Danh Vưu).
Để thực hiện nghị quyết của Trung ương và Xứ ủy về việc đẩy mạnh đấu tranh, phát triển tổ chức, chống khủng bố của quân thù và hường ứng phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, Thành ủy Hà Nội triển khai các đội công tác vận động công nhân và các giới khác trong thành phố. Từ đó, các tổ chức đảng, tổ chức quần chúng ngày càng phát triển.
Vùng ngoại thành thì một số cơ sở của tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội tới lúc này đã trở thành tổ chức cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Như ở xã Đông Phù (khi đó thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông) vào khoảng tháng 5-1930 đã có chi bộ đảng và đặt quan hệ trực tiếp với Thành ủy Hà Nội.
Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng và các tổ chức công hội đỏ, công nhân và nhân dân lao động Hà Nội đã dũng cảm đấu tranh. Nếu tính từ khi Thành ủy đầu tiên thành lập, có thể nêu những sự kiện sau:
- Ngày 24-4-1930, nhóm công tác phụ vận đã vận động người buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân đấu tranh với chủ thầu chợ đòi giảm thuế, chống dồn chỗ ngồi, chống đánh đập. Trước sức mạnh đoàn kết của chị em, chủ chợ đã phải giải quyết.
- Cũng trong tháng 4, công nhân bán vé xe điện bãi công đòi chủ không được đánh đập, không được cúp phạt, không được tăng tiền ký quỹ...
- Tới ngày Quốc tế lao động 1-5-1930, hàng ngàn truyền đơn được rải trên đường phố với những khẩu hiệu: Tăng tiền lương; Bỏ đánh đập, bớt giờ làm; Thi hành luật lao động cho công nhân; Giảm sưu, hoãn thuế cho nông dân; Hưởng ứng phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh...
Tháng 10-1930, chấp hành chỉ thị của Trung ương "chia lửa với Nghệ Tĩnh", Thành ủy Hà Nội tổ chức đợt tuyên truyền vào ngày 11-10-1930. Trưa hôm đó, vào lúc tan tầm, đội tuyên truyền xung phong trương biểu ngừ, treo cờ đỏ búa liềm ở giữa phố Sinh Từ (phố Nguyễn Khuyến ngày nay) rồi kêu gọi đồng bào đang đi lại trên đường phố tham gia buổi mít tinh. Một nữ đảng viên lên hô hào đồng bào hãy ủng hộ Xô-viết Nghệ Tĩnh bằng những cuộc bãi công, bãi chợ, đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm thuế... Cuộc mít tinh có khoảng một trăm người dự đã nhanh chóng biến thành biểu tình sôi động của quần chúng.
Đầu tháng 11-1930, Gơ-ra-ép, Toàn quyền Hà Lan ở Nam Dương (Indonesia) đến Hà Nội để bàn với Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Pa-ski-ê (Pasquier) lập một liên minh chống phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa ở Đông Nam Á. Bọn cai trị ở Hà Nội cho dựng cổng chào ở ga Hàng Cỏ và ngã tư Tràng Thi - Bà Triệu.
Chấp hành chỉ thị của Trung ương về việc phá cuộc đón tiếp này, Thành ủy Hà Nội bố trí hai nhóm xung kích đốt hai cổng chào. Đến 8 giờ tối ngày 3-11-1930, hai cổng chào bốc cháy. Sự kiện trên không chỉ làm thực dân ở Đông Dương đau điếng mà còn có tiếng vọng sang tận Pháp.
Bốn ngày sau, chào mừng kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga (7-11-1930), cờ đỏ lại được treo ở két nước vườn hoa Hàng Đậu và truyền đơn hoan nghênh Cách mạng Nga được rải khắp trong thành phố.
Những sự kiện trên đã nói lên rằng, ngay từ năm đầu thành lập Đảng, công nhân và nhân dân lao động Hà Nội đã hướng về Đảng. Thực tế này khác nào lời báo tử cho chế độ thực dân, nên bè lũ thực dân điên cuồng khủng bố các cơ sở Đảng. Nhiều đảng viên và quần chúng trung kiên bị chúng bắt, trong đó có ông Trường Chinh khi ấy phụ trách thanh niên, sinh viên và binh vận.
Ngày 6-2-1930, mật thám Pháp ập tới số nhà 12 Cột Đồng Hồ (nay là đầu phố Nguyễn Hữu Huân) là trụ sở bí mật của Thành ủy, bắt một số cán bộ . Nhưng phong trào không tắt. Ngày 21-1-1931 nhân kỷ niệm ba lãnh tụ: Lê nin, Líp-nêch, Luých-xăm-bua, truyền đơn vẫn xuất hiện trong thành phố. Ngày 2-2-1931, kỷ niệm một năm thành lập Đảng, cờ đỏ bay trên đầu cầu Long Biên. Ngày 18-3-1931, kỷ niệm Công xã Paris cờ đỏ lại tung bay ở nhà máy điện Yên Phụ.
Sáng tháng 4-1931, do Nghiêm Thượng Biền phản bội , mật thám phá vỡ hầu hết các cơ quan Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội. Rất nhiều quần chúng cảm tình của Đảng cũng bị mật thám giam giữ.
Phải tới tháng 9-1931, ông Trần Quang Tặng mới lập lại được ban Thành ủy lâm thời. Nhưng bốn tháng sau, đầu năm 1932, ban này lại bị sa vào lưới địch. Cơ sở Hà Nội lại một phen tan vỡ. Phong trào tạm lắng xuống, phải đợi đến cuối năm mới có sức bật mới.
Khoảng giữa năm 1932 , có ba người bị bắt trong những năm 1930-1931 được trả tự do: Hoàng Đình Dinh, Đỗ Danh Vưu và Nguyễn Thị Nhâm. Họ gặp thêm Nguyễn Trần Đỗ, nhân viên sở hỏa xa Vân Nam, do hoạt động cách mạng trong phong trào công nhân ở Côn Minh nên bị mật thám Pháp trục xuất về bản quán là làng Mọc Chính Kinh.
Bốn người này bàn cách gây dựng lại phong trào. Tới tháng 7-1932, tại một cuộc họp, các ông đã tự thành lập một chi bộ đảng. Vì chưa liên lạc được với các cấp lãnh đạo họ tự coi là "chi bộ dư bị" và cử ông Dinh làm bí thư. Chi bộ đề ra nhiệm vụ: Liên lạc với các đảng viên được tha mà mật thám ít chú ý rồi xác minh, lựa chọn những người tốt để bàn bạc công tác, tìm hiểu số đông quần chúng có cảm tình với cách mạng để gây cơ sở mới.
Sau một thời gian hoạt động, chi bộ thành lập được một tổ phản đế và một số cơ sở trong giới phụ nữ buôn bán nhỏ ở Hàng Bột, Khâm Thiên, Ô Chợ Dừa...
Tới đầu năm 1933, chi bộ này liên lạc được với hai trong số bảy người vượt ngục đêm Nô-en (1932) là Nguyễn Tạo và Lê Đình Tuyển. Chi bộ lại có thêm kinh nghiệm hoạt động, biên soạn và ấn loát được một số tài liệu huấn luyện. Sau đó, đường dây liên lạc và cơ sở cách mạng dần được khôi phục, xây dựng rộng thêm từ Hà Nội sang Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Hưng Yên, lên Sơn Tây, Tuyên Quang, vào tận Thanh Hóa. Các cuộc đấu tranh đòi giảm sưu thuế đã nổ ra ở các địa phương trên cùng với truyền đơn phản đối đàn áp, bóc lột.
Trước sự phát triển đó, "chi bộ dự bị" cần thấy phải thành lập cơ quan lãnh đạo các cấp xứ, tỉnh và thành. Do đó, một cuộc họp gồm đại biểu các địa phương được triệu tập vào tối chủ nhật cuối tháng 3-1934 tại nhà ông Dinh ở Thái Hà ấp. Nhưng do thiếu cảnh giác nên hầu hết các đại biểu đã bị sa lưới mật thám.
Cơ sở Hà Nội lại một lần nữa bị địch phá.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cao trào 1930-1931, lại được sự vận động của "chi bộ dự bị" trong hai năm qua, các cuộc đấu tranh của quần chúng vẫn tiếp diễn. Thợ thổi thủy tinh ở các hãng Vĩnh Lợi (phố Hàng Bồ) đã bãi công vào tháng 2-1935. Giáo viên và học sinh trường tư thục Hồng Bàng (phố Hàng Trống) bãi khóa vào tháng 5-1935. Cũng trong những năm 1934-1935, giới buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân vẫn tổ chức bãi thị.
Những sự việc trên nói lên rằng nhân dân Hà Nội vẫn vững bước đấu tranh, ngay cả lúc thoái trào, và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
PHONG TRÀO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH TRONG NHỮNG NĂM 1936-1939
Nạn khủng hoảng kinh tế chấm dứt vào năm 1934 , nhưng hậu quả của nó còn kéo dài. Thợ thuyền mặc dù đã có việc làm nhiều hơn nhưng số lượng công nhân có việc làm vẫn chưa bằng trước khi khủng hoảng. Không kể số công nhân còn thất nghiệp sinh sống vô cùng chật vật, ngay cả số công nhân có việc trong những năm 1936-1938 vẫn phải lĩnh số lương thấp hơn nhiều so với trước. Trong khi đó thì giá sinh hoạt ngày càng lên cao.
Đời sống nông dân cũng không kém khốn cùng. Ngoài thuế thân đã rất nặng, thuế ruộng đất cũng gia tăng. Rồi bao nhiêu thứ "hà thu, lạm bổ" của bọn hương lý, cường hào. Mỗi thẻ sưu phải nộp thêm cho chúng 2 hoặc 3 hào làm tiền giấy mực . Có nơi bọn hương lý lại bắt nông dân đóng thuế cả những ruộng công mà hoa lợi thì làng thu. Tiểu thương thì nguy ngập vì thuế môn bài.
Ngoài ra, nhân dân thành phố lại còn chịu thêm một loại thuế kỳ cục: thuế cư trú, mỗi người hai đồng rưỡi tiền Đông Dương khi đó (2$50).[3]
Những thủ đoạn bóc lột cực kỳ thậm tệ và chính sách thuế khoá nặng nề trên đã giúp thực dân nhanh chóng bần cùng hóa nhân dân Hà Nội. Theo sau thực tế này là những hiện tượng xã hội bi thảm: thất nghiệp, ăn xin, cờ bạc, nghiện hút, mãi dâm, trộm cướp...
Vào những năm 1932-1933 chủ nghĩa phát xít đang trở thành một nguy cơ đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Trước tình thế đó, Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ VII (7-1935) đề ra chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân ở các nước nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh do chúng gây ra.
Năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, thắng phiếu trong cuộc tổng tuyển cử vào nghị viện, lên cầm quyền. Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp ban bố những chính sách tự do dân chủ áp dụng cho cả các thuộc địa.
Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương bị bắt buộc phải sửa đổi phần nào chính sách cai trị. Một số tù chính trị lân lượt được trả tự do. Một số biện pháp chính trị được nới lỏng: có thể tự do hội họp với số người hạn chế, có thể lập nghiệp đoàn nhưng phải xin phép, thể lệ xin phép xuất bản sách báo được dễ dàng hơn trước và nếu xuất bản sách báo bằng chữ Pháp thì không phải phép tắc.
Những thay đổi ít ỏi này cong đã tạo điều kiện cho phong trào cách mạng ở Hà Nội có bước phát triển mới. Được bổ sung nhiều cán bộ, đảng Cộng sản Đông Dương có thể để một bộ phận hoạt động công khai. Quần chúng có nhiều cơ hội để hội họp, bàn bạc, đấu tranh một cách hợp pháp.
Báo "Tin tức"
Cuối năm 1936, một số lớn tù chính trị được trả tự do. Các đảng viên cộng sản lần lượt trở về Hà Nội. Một nhóm tiếp tục hoạt động bí mật gồm Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Phúc... Một nhóm hoạt động công khai gồm các ông Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt). Đặng Xuân Khu vừa là Xứ ủy viên, vừa phụ trách bí thư chi bộ báo chí. Có sự lãnh đạo của chi bộ này, tờ báo đầu tiên bằng chữ Pháp của nhóm cộng sản ở Hà Nội là tờ Le Travail (Lao động) thu hút mạnh mẽ cả trí thức lẫn người lao động. Do chỗ quân chúng tín nhiệm báo của Đảng, chi bộ báo chí quyết định xuất bản tờ Hà thành thời báo, tờ báo tiếng Việt công khai đầu tiên của Đảng. Số đầu tiên ngày 6-4 1 . Nối tiếp Hà thành thời báo là các tờ Thời thế, Bạn dân, Thế giới..
Sang năm 1938 , Xứ ủy và Thành ủy quyết định ra tờ Tin tức làm cơ quan tuyên truyền vận động thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương ở Hà Nội.
Báo Tin tức có nhiều thông tín viên, trong đó phần lớn là công nhân, thanh niên, học sinh, nông dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. Toà soạn báo Tin tức (105 Phùng Hưng) còn là nơi tập trung một phân công tác tổ chức của đảng, chính ở nơi đây đã có những cuộc gặp gỡ với đại biểu các chi bộ địa phương. Công nhân, nông dân ở nhiều nơi thường tìm đến báo để xin hướng dẫn hoặc nhờ giải đáp thắc mắc.
Bộ phận hoạt động công khai của Đảng cùng với tờ báo Tin tức đã có ảnh hưởng lớn trong quần chúng nhân dân Hà Nội trong thời kỳ này, đã góp phần chủ yếu trong việc đẩy mạnh và gìn giữ phong trào, tiến tới thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương ở Hà Nội.
Tháng l0-1938, Tin tức bị đóng cửa. Không thể thiếu tiếng nói của mình trong báo giới, Xứ ủy mua lại báo Đời nay của tư nhân để tiếp tục đấu tranh, chỉ đạo phong trào. Số Đời nay đầu tiên ra ngày 1-12-1938 . Tới ngày 19-4-1938 thêm báo Ngày mới ra đời, cũng là một cơ quan ngôn luận do Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ đạo. Trên các báo chí tiếng Việt này, ta gặp những cây bút nghị luận vừa đanh thép, vừa giàu hình tượng nghệ thuật nên có sức thuyết phục cao đó là Đặng Xuân Khu, Trân Huy Liệu, Trần Đình Long...
Ngoài báo chí, còn phải nói thêm về sách do các cơ quan của Đảng xuất bản ở Hà Nội trong thời kỳ này. Trước hết, phải kể tới "Tập sách dân chúng" đã in những tác phẩm lý luận, khảo cứu theo quan điểm Mác Lê nin như: Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Chế độ chính trị các nước của Cựu Kim Sơn... Ngoài ra, do phần nào có tự do ngôn luận, nhiều sáng tác văn học cách mạng được phổ biến công khai: Ngục Kontum của Lê Văn Hiến, Vượt ngục của Cựu Kim Sơn, Không tên không tuổi của Phong Ba, Ba năm ở Nga Xô-viết của Trần Đình Long... Những tác phẩm này đã gián tiếp mở hướng đi cho các nhà văn hiện thực phê phán đương thời.
PHONG TRÀO ĐÔNG DUƠNG ĐẠI HỘI
Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp dự định cử một phái đoàn nghị sĩ sang Đông Dương để điều tra tình hình và thu thập nguyện vọng dân chúng vào khoảng cuối năm 1936. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương nhân dịp này phát động phong trào quần chúng tỏ bày nguyện vọng của mình và tố cáo những tệ hại của bọn thống trị. Phong trào đấu tranh đó gọi là Đông Dương đại hội (tức là nói tắt Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương). Đảng Cộng sản chủ trương triệu tập Đại hội này để thảo ra một bản "dân nguyện", gửi phái đoàn điều tra mà chính phủ Pháp sắp phái sang đây . Ngày 13~ - 1936 ở Sài Gòn đã thành lập ủy ban dự bị Đông Dương đại hội, phong trào khá rầm rộ. Nhưng ở Hà Nội thì có khó khăn. Cơ sở quần chúng còn quá yếu. Tuy nhiên, nhóm cộng sản công khai một mặt cử người vào liên lạc với tổ chức Đông Dương đại hội ở trong Nam, mặt khác vẫn lập "Chi nhánh Đông Dương đại hội ở Bắc Kỳ" trụ sở ở 32 Hàng Da và phái người đi các tỉnh cổ động.
Bọn thực dân ra sức phá hoại phong trào Đông Dương đại hội. Trong khi ở Nam Kỳ, chúng gây chia rẽ trong hàng ngũ Đông Dương đại hội, ở Hà Nội chúng cho bọn dân biểu bù nhìn đứng ra triệu tập một số thân hào, trí thức tự thảo ra "bản dân nguyện", nhằm mục đích đánh tráo tiếng nói đích thực của quần chúng.
Trước tình hình hoạt động ráo riết của bọn tay sai thực dân ấy, nhóm cộng sản công khai có những biện pháp đối phó. Trong các cuộc họp của bọn chúng và các báo tay sai của chính quyền thực dân, những nền cộng sản đều cử đại biểu tới "đấu lý".
Trong thời gian này, báo Le Travail đăng nhiều bài cổ động cho Đông Dương đại hội, đòi lập các uỷ ban hành động ở lòng nhà máy, xóm làng, đường phố.
Cuối cùng phái đoàn điều tra của chính phủ Pháp không sang Đông Dương. Đông Dương đại hội không thành, nhưng cũng đã có tác dụng
nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, giúp Đảng tập hợp được quân chúng và đưa quần chúng tiếp cận với những tổ chức cách mạng.
PHONG TRÀO MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG DUƠNG
Phong trào Đông Dương đại hội không thành nhưng đông đảo quần chúng đã được giác ngộ, khí thế đấu tranh lên cao nên Đảng Cộng sản Đông Dương có chủ trương thành lập Mặt trận để thống nhất lực lượng duy trì cuộc chiến đấu. Thế là tới tháng 4-1938, Mặt trận dân chủ Đông Dương ở Hà Nội được thành lập, gồm nhóm cộng sản công khai, đại biểu các hội ái hữu, các giới nhân dân, các tổ chức chính trị... Mặt trận dân chủ được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ và làm được một số việc: tổ chức cuộc mít tinh kỷ niệm ngày 1-5-1938, giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Viện dân biểu Bắc Kỳ (7-1938) và Hội đồng thành phố Hà Nội (12-1938)...
Tới năm 1939 do chiến tranh thế giới, thực dân khủng bố trắng, Mặt trận dân chủ bị đàn áp, tan rã. Nhưng Mặt trận đã để lại những âm hưởng hào hùng trong tâm hồn người Hà Nội và trở thành tên gọi tiêu biểu cho cả thời kỳ 1 936- 1 939.
Cuộc mít tinh ngày 1-5-1938
Tới đầu tháng 5 diễn ra một cuộc sinh hoạt chính trị rất vang dội, có một không hai trong lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng suốt thời kỳ 1936-1939. Đó là cuộc mít tinh lớn chào mừng ngày Quốc tế lao động 1-5-1938.
Thực tế ở nước ta từ khi có chính đảng của giai cấp vô sản, hàng năm tới ngày 1-5 ở các địa phương đều có những hình thức kỷ niệm ngày hội của người lao động. Nhưng phạm vi chỉ ở một vùng, một hạt... Chỉ có ngày 1-5- 1938 lễ kỷ niệm mới lần đầu được tổ chức công khai tại Hà Nội, thủ phủ của cả Đông Dương.
Gần ngày Quốc tế lao động, nhóm Tin tức phối hợp với chi nhánh đảng Xã hội Pháp đứng ra tổ chức mít tinh tại nhà Đấu Xảo (cũng gọi là khu hội chợ). Ngày 1-5, 16 giờ mít tinh mới bắt đầu, nhưng từ trưa, trên nhiều ngả phố, những dòng người cuồn cuộn tham gia mít tinh đã rầm rập lên đường, chẳng khác nào một cuộc diễu hành! Có tới 25 đoàn, đoàn nào cũng có biểu ngữ ghi rõ ngành, giới mình: thợ xe hoả, thợ in, thợ dệt, thợ may, nông dân, phụ nữ, thanh niên, nhà văn, nhà báo... Mỗi đoàn có trưởng đoàn đeo băng màu lam. Mỗi ngành, mỗi giới lại cớ huy hiệu riêng, như huy hiệu bánh xe, búa liềm, kéo, bút viết... Đoàn ít nhất cũng có tới hàng trăm, nhiều đoàn đông trên 1.000 người, đông nhất là đoàn thất nghiệp trên 2.000 người.
Đúng 16 giờ, các đoàn đã tề tựu ở khu Đấu Xảo, cả thảy 25 đoàn trên 25.000 người. Tất cả theo sự chỉ dẫn của ban trật tự, đứng vào vị trí đã định. Trước cửa chính có một băng trắng dán hai dòng chữ đỏ (chữ Việt và chữ Pháp): "Cơm áo-hòa bình-tự do". Trước lễ đài có nhiều khẩu hiệu lớn cũng ghi bằng chữ Việt và chữ Pháp: "Đi tới Mặt trận bình dân Đông Dương"; "Tự do nghiệp đoàn"; "Chống nạn thất nghiệp"; "Đi tới phổ thông đầu phiếu"; "Chống phát xít và chống chiến tranh"...
Bắt đầu buổi lễ, mọi người cùng hát bài Quốc tế ca. Sau đó, các đại biểu đoàn thể công nhân, nông dân, phụ nữ, trí thức và nhất là có đại diện nhóm Tin tức lần lượt phát biểu. Trước khi bế mạc, toàn thể cuộc mít tinh đồng thanh tuyên thệ: "Chúng tôi, lao động Pháp - Nam thề đoàn kết trong việc làm và trong nền tự do. Chúng tôi xin thê trung thành với Mặt trận bình dân để bênh vực lý tưởng dân chủ và để củng cố nền hòa bình của nhân dân".
Đây là cuộc mít tinh lớn nhất trong thời kỳ vận động dân chủ, một cuộc biểu dương sức mạnh của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành rất quan trọng vê nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng.
HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ
Trong tháng 5-1938, cũng còn một sự kiện khá quan trọng là việc thành lập Hội Truyền bá quốc ngữ.
Theo đề nghị của ông Trường Chinh, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định vận động thành lập một tổ chức công khai chống nạn mù chữ. Tháng 5-1938, Đảng tập hợp một số nhân sĩ, đứng ra lập Hội Truyền bá quốc ngữ và cử ông Nguyễn Văn Tố làm Hội trưởng. Trụ sở Hội đặt tại số nhà 44 phố Nguyễn Trãi (nay là phố Nguyễn Văn Tố).
Nhờ có chủ trương đúng đắn đó, cộng với tinh thần tận tụy của các giáo viên (toàn là nghiệp dư) và tinh thân hiếu học của nhân dân, phong trào truyền bá quốc ngữ mau chóng trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Riêng ở Hà Nội trong hai năm (1938-1939) đã mở được 4 khoá thanh toán nạn mù chữ cho trên 4.000 người, đại đa số là nhân dân lao động.
Công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ đã từ một số ít người đứng ra gánh vác dần dần trở thành một phong trào rộng rãi ở khắp nước, được rất nhiêu trí thức và thanh niên tham gia. Kết quả là tới cuối năm 1944 số học viên thoát nạn mù chữ ở Hà Nội và ngoại thành được tới gàn 3 vạn người.
HÀ NỘI TRONG CHIẾN TRANH THỀ GIỚI 1939- 1945
Tình hình xã hội:
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, mở đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 29-9-1939, chính phủ Đalađiê (Đaladier) ra sắc luật cấm Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhưng chẳng phải đợi đến sắc luật này, khi chiến tranh mới nổ ra, bọn cầm quyên Pháp ở Hà Nội đã khủng bố phong trào cách mạng.
Ngày 3-9, các báo ở Hà Nội đều đăng tin mật thám vây ráp trong thành phố, bắt đi 100 người. Ngày 9-9, chúng bắt 139 người. Đêm 17-9, bắt 100 người. Đêm 19-9 bắt 221 người. Trụ sở các hội ái hữu, các hiệu sách và các cơ quan báo chí công khai của Đảng đều bị khám xét. Các báo Đời nay, Ngày mới, Notre Voix... bị cấm xuất bản. Một số cán bộ hoạt động công khai chưa kịp rút vào bí mật đã bị bắt.
Sau đó, chính quyền Pháp ra lệnh giải tán các tổ chức nghiệp đoàn, ái hữu, huỷ bỏ các quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ. Những năm tháng tiếp theo, thực dân tiếp tục khủng bố, bắt bớ, giam cầm các cán bộ cách mạng và nhiều quần chúng cách mạng khác. Đẩy mạnh khủng bố, chúng hy vọng dập tắt phong trào cách mạng của Hà Nội.
Đi đôi với việc đàn áp, thực dân Pháp còn có những chính sách nhằm mua chuộc, lừa phỉnh trí thức và các tâng lớp trên. Chúng tăng thêm một số hội viên người Việt là bác sĩ, luật sư, quan lại, nhà buôn lớn vào Hội đồng thành phố Hà Nội. Một số công chức người Việt được bổ nhiệm vào các chức vụ trước đây chỉ dành riêng cho người Pháp. Một số tư sản mại bản và địa chủ được phép mua cổ phân trong các công ty thương mại và kỹ nghệ của Pháp.
Song song với việc phát xít hóa trở lại chế độ cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy mà thực chất là tăng cường độc quyền kinh tế. Chúng ban hành một loạt sắc lệnh trưng tập công nhân, trạng thu, sung công nhà cửa và các phương tiện vận tải. Chúng kiểm soát các hàng nguyên liệu chiến lược.
Phát xít Nhật đến Hà Nội
Năm 1940, với hiệp ước ký ngày 22-9, toàn quyền Đơ cu (J. Decoux) chính thức dâng Đông Dương cho Nhật. Cuối tháng 10, những toán lính Nhật đầu tiên đến Hà Nội, cùng với các cơ quan chính trị và mật vụ. Phát xít Nhật một mặt vẫn lợi dụng triệt để bộ máy chính quyền thực dân Pháp làm tay sai cho chúng, một mặt khác vẫn hoạt động ngấm ngầm để đối phó với thực dân Pháp. Chúng tập họp một số trí thức, phần nào bất mãn với Pháp hoặc những kẻ từng làm tay sai cho Pháp nay bị bỏ rơi, lập những đảng chống Pháp. Nhiều đảng phái thân Nhật kiểu này xuất hiện ở Thủ đô Hà Nội là: đảng Đại Việt dân chính của Nguyễn Tường Tam, đảng Đại Việt quốc xã của Trương Đình Tri, đảng Việt Nam ái quốc của Nguyễn Xuân Chữ và Vũ Đình Dy, đảng Phục quốc của Trần Văn An, Việt Nam quốc dân đảng (giả mạo) của Nguyễn Thế Nghiệp và Nguyễn Ngọc Son, Thanh niên ái quốc đoàn của Võ Văn Cầm.
Đi đôi với việc thành lập những đảng phái đó đề gây cơ sở chính trị ở thủ đô Hà Nội, chúng còn có những thủ đoạn lừa bịp, mua chuộc nhân dân bằng những hoạt động văn hóa, y tế... Chúng mở phòng triển lãm, chiếu phim và xuất bản những sách báo nêu lên những thắng lợi của quân đội Nhật ở Trung Quốc, Singapore... hòng làm cho mọi người lầm tin ở sức mạnh vô địch của chúng. Chúng mở nhiều lớp dạy tiếng Nhật, in nhiều sách dạy tiếng Nhật tuyên bố là để truyền bá văn hóa Nhật nhưng thực sự là để đào tạo những người giúp việc. Chống lại tuyên truyền rộng rãi cho thuyết "Đại Đông Á", để che lấp mục đích xâm lược và lôi cuốn nhân dân bằng những thủ đoạn như cho học sinh, sinh viên Hà Nội sang Nhật du học và ngược lại cho giáo sư và học sinh Nhật tới Hà Nội. Về nghệ thuật, chúng cho những họa sĩ Nhật trưng bày nhũng tác phẩm ở Hà Nội và cho một số họa sĩ Hà Nội sang du học và trưng bày những tác phẩm ở Nhật. Chúng mở Viện Văn hóa Nhật ở Hà Nội và tổ chức những phòng triển lãm trưng bày các hàng Nhật để tuyên truyền cho nền công nghiệp của chúng.
Trước những hoạt động gây cơ sở và ảnh hưởng chính trị của Nhật, thực dân Pháp cũng tìm cách đối phó. Nhân lúc Nhật chưa có đây đủ điều kiện để củng cố quyền lực, Pháp khủng bố, bắt bớ một số trí thức thân Nhật, làm cho một số khác phải chạy ẩn trong Sở hiến binh Nhật, hoặc được bọn này đưa sang Singapore tạm lánh. Số còn lại phải rút vào hoạt động bí mật chờ thời cơ Nhật lật đổ Pháp.
Nhân dân dưới hai tròng Pháp-Nhật
Với tính chất một thành phố chủ yếu là tiêu thụ (có một phần nhỏ sản xuất) và hoàn toàn dựa vào nguồn hàng hóa và nguyên liệu của nước Pháp, từ khi có chiến tranh, Hà Nội lâm vào tình trạng khủng hoảng thiếu. Đó là cơ hội cho các công ty tư bản Pháp và các hãng buôn Nhật hoạt động tích trữ đầu cơ, lũng đoạn giá cả vô hạn độ.
Thực dân đã ra sức vơ vét thóc gạo nhằm vừa để tích luỹ, vừa để cung ứng cho yêu cầu ngày một lớn của quân đội Nhật. Vùng nông thôn đã thiếu lương thực, lại thêm nỗi ở các huyện ngoại thành Nhật bắt dân phải nhổ lúa ngô để trồng đay, trồng thầu dầu (nguyên liệu phục vụ chiến tranh), nạn thiếu ăn thường xuyên đã dẫn đến kết quả tất yếu là nạn đói thê thảm đầu năm 1945, khiến ở Bắc Bộ 2 triệu người chết đói.
Công nhân bị sa thải nhiều. Những người còn có việc làm thì thời gian làm việc hàng ngày bị kéo dài tới 10-12 giờ. Vật giá leo thang nên đồng lương thực tế bị giảm sút. Đã thế, giấy bạc Đông Dương lại bị lạm phát nên mất giá ghê gớm, giá các loại hàng cao vọt lên, nhất là giá gạo.
Thêm vào đó, nhân dân thành phố còn phải đóng thuế cao và nặng hơn trước. Vô vàn thứ thuế: thuế tiêu thụ, thuế vận chuyển hàng hóa, thuế trước bạ, thuế chợ và sát sinh, thuế đỗ xe ô tô, thuế mành mành và mái hiên... thứ mới đặt, thứ mới tăng giá ngạch, chồng chất khó khăn lên đầu dân chúng.
Vật giá leo thang như vậy mặc nhiên làm giàu cho một số tư sản Pháp, Nhật và mại bản, đại địa chủ Việt Nam. Còn nhân dân lao động ở nội ngoại thành nói chung, mức sống sa sút thảm hại, làng nào cũng có người rơi vào thảm họa chết đói đầu năm 1945.
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội, thực dân Pháp thi hành nhiều thủ đoạn lừa bịp, nhiều chiêu bài gian dối. Chúng khuyến khích các hoạt động thể thao với những khẩu hiệu lấp lửng nhằm để phụng sự, để đánh lạc hướng thanh niên. Trong khi cấm lưu hành, tàng trữ trên toàn cõi Đông Dương các sách báo theo quan điểm Mác-xít xuất bản trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, thậm chí cấm cả các tiểu thuyết hiện thực phê phán, chúng lại tạo điều kiện cho các sách báo lạc hậu, phản động, đồi trụy được phát hành rộng rãi để đầu độc tuổi trẻ.
Mặt khác để mị dân, chúng mở thêm một số trường cao đẳng (khoa học, công chính...), xây Đông Dương học xá để làm nơi ăn ở cho sinh viên, tăng thêm lượng sinh viên tuyển hàng năm...
Cuộc đảo chính 9-3-1945
Ngày mồng 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân đội phát xít bắt đầu tấn công vào doanh trại quân đội thực dân từ 8 giờ tối. Mặc dầu đã có chuẩn bị từ trước, quân đội Pháp chỉ kháng cự được đến chiều ngày hôm sau thì đầu hàng.
Nhật nắm quyền chính, tập hợp tất cả các đảng phái thân Nhật ở Hà Nội thành một tổ chức chính trị thống nhất lấy tên là "Đại Việt quốc gia liên minh", cho một số cầm đầu của tổ chức này hết lập "ủy ban hành chính" đến "ủy ban chính trị" để làm những công việc giữ trật tự và cứu tế cho thành phố Hà Nội. Nhưng chỉ ít ngày các ủy ban này phải giải tán vì vừa không đủ uy tín cần thiết cho phát xít Nhật lừa bịp nhân dân, vừa vì nội bộ của các đảng phái này có mâu thuẫn kèn cựa.
Tổng tư lệnh quân đội Nhật tuyên bố tự đảm nhận lấy chức Toàn quyền Đông Dương (16-3-1945), giữ chế độ hiện hành và bổ người Nhật giữ các chức Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ Trung Kỳ, Thống đốc Nam Kỳ, cũng như các chức giám đốc nhà Ngân hàng Đông Dương và giám đốc các công sở lớn. Hà Nội hoàn toàn trở thành một thành phố thuộc địa của Nhật.
Tới ngày 17-4, chính phủ Trần Trọng Kim thành lập ở Huế, khâm sai của chính phủ này tới Hà Nội vào tháng 5. Các công chức người Pháp bị loại khỏi các công sở vào tháng 6. Hà Nội được phục hồi vào "Đế quốc Việt Nam" (danh từ mà chính phủ Trần Trọng Kim dùng lúc đó) vào tháng 7. Toà Đốc lý đổi thành Thị chính với một thị trưởng người Việt đứng đầu, những biểu tượng thực dân bị phá bỏ. Các tên phố được thay đổi... Nhưng tất cả những cái đó chỉ có tính chất hình thức, chính quyền ở Hà Nội cũng như ở toàn quốc vẫn nằm trong tay Nhật.
Bắt đầu từ tháng 5, Nhật ra sức khủng bố đàn áp phong trào cách mạng đang sôi sục trong lòng Hà Nội. Hàng ngàn thanh niên, học sinh và sinh viên cùng với nhiều người ở các tầng lớp khác bị chúng tình nghi là tham gia cách mạng và bị chúng bắt giam với một chế độ nhà tù khắc nghiệt cực độ khiến cho nhiều người đã chết trong khi bị giam cầm, chưa kể tới những người mà đêm đêm bị chúng đưa đi thủ tiêu một cách bí mật.
Nhưng nhân dân Hà Nội dưới lá cờ Việt Minh đã anh dũng đấu tranh, để tới tháng 8 thì cùng cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro