Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

hoa tư dẫn

C

hia tay Quân Vĩ và Tiểu Hoàng, nàng một thân một mình chạy trốn, không khỏi cảm thấy có chút cô đơn. Nhưng việc này cũng không có gì quan trọng lắm, điều chính yếu là lúc chia tay, Quân Vĩ quên mất không chia cho nàng một  nửa số trang sức lấy được, hại nàng giờ đây không xu dính túi. Vật đáng tiền duy nhất trong tay nàng lúc này là chiếc nhẫn ban chỉ bằng ngọc mà Mộ Ngôn thế chấp. Nàng dùng sợi dây xuyên qua chiếc nhẫn ấy và đặt nó ở nơi gần ngực trái nhất. Nàng nghĩ, biết đâu kiếp này không còn cơ hội gặp lại nhau nữa, đây sẽ là kỷ vật duy nhất mà y để lại cho nàng. Nàng nhất định phải trân trọng, cho dù có bị người ta kề dao vào cổ đe dọa, cũng nhất quyết không giao nộp.

Nàng rất nhớ y…

nhưng lại không có cách nào.

Trên trời là trăng sáng, nàng vỗ vỗ nhẹ lên chiếc nhẫn ban chỉ đã nằm yên trong cổ áo. Nàng nghĩ ngợi, nghĩ mãi, nhưng không có cách nào để nguôi bớt nhớ nhung.

* * *

Dựa theo lộ trình chạy trốn theo hình tam giác cân đã bàn bạc từ trước, nàng ước tính khoảng mười ngày nữa sẽ đến được điểm hẹn là biên cảnh nước Trần. Ban đầu, nàng không mơ có một ngày lại quay trở về vùng Bích Sơn, có lẽ là ý trời đã định. Hơn một tháng trước, nàng đã tương ngộ với Mộ Ngôn tại nơi này.

Năm mười bốn tuổi, nàng bị rắn cắn. Sau khi quay trở về tông môn, sư phụ đã dạy nàng rất nhiều về biện pháp sinh tồn khi ở thế giới bên ngoài, sư phụ còn đặc biệt dặn dò nàng không nên ra khỏi nhà vào buổi tối, tránh gặp những điều bất trắc.

Bởi vì không có tiền để thuê phòng trọ, nàng chẳng thể nào tránh được việc nửa đêm nửa hôm vẫn còn lang bạt bên ngoài trong cảnh màn trời chiếu đất. Suốt mười ngày, khi đêm xuống, nàng đều phải tìm đến một cây đại thụ để nương náu. Tuy đây chẳng phải giải pháp hữu hiệu lắm, nhưng tốt xấu gì nấp tạm trên cây cũng giúp nàng tránh được tầm nhìn của một số loài động vật hoang dã. Nhưng đêm nay không hiểu nguyên cớ gì khiến cho lòng nàng nôn nao mãi, tâm tâm niệm niệm chỉ muốn nhìn thấy cảnh hoa nở trên núi Bích Sơn – nơi nàng đã gặp lại Mộ Ngôn. Thật ra chuyện này hoàn toàn có thể gác lại đến sáng hôm sau, nhưng ý nghĩ đến Bích Sơn cứ ùa tràn vào tâm trí nàng, một khắc cũng không thể chần chừ, nàng không đợi được, nàng muốn nhìn thấy biển hoa rợp trời, muốn khảm vào tâm trí hình bóng của Mộ Ngôn. Rồi nàng lại tự động viên chính mình: nhỡ đâu, nhỡ đâu y thật sự đang ở Bích Sơn? Và thế là nàng cảm thấy cực kỳ hứng khởi. Nghĩ thêm một chút, nhỡ chẳng may người y chờ không phải nàng mà là một cô gái khác thì sao? Ý nghĩ vui vẻ vừa chớm nẩy mầm đã bị dọa cho tắt ngúm, nàng cảm thấy bi phẫn vô cùng. Như vậy, Mộ Ngôn ở Bích Sơn là tốt hay không tốt đây >”<

Quẩn quanh mãi với ý nghĩ này, tâm trạng nàng liên tục biến đổi, khi cao hứng, lúc ủ ê. Nàng hoàn toàn không ý thức được mình đang đi lang thang trong đêm hôm, giữa một vùng núi rừng đầy bất trắc. Bỗng sau lưng nàng có một tiếng gầm lớn, nàng bị dọa cho giật bắt người. Đang muốn ngoảnh đầu lại xem chuyện gì đang xảy ra thì nàng bị kéo giật lại, lực kéo rất mạnh. Nàng bất ngờ mà ngã về phía sau, thôi xong – nàng nghĩ – thảm rồi, bộ đồ trắng trên người lại bị bẩn rồi đây. Lúc còn đang nghĩ ngợi dở dang, nàng đã bị một cánh tay vững vàng ôm chặt lấy.

Nàng ngã vào một điểm tựa rất êm, tuy không cảm nhận được nhiệt độ, nhưng nàng biết đó là một khuôn ngực rộng.

Nàng bỗng chốc ngây người, cổ họng cứ nghèn nghẹn không nói được câu gì.

Bên tai nàng vang tới giọng nói quen thuộc của y: “Nửa đêm lên núi, sao không cẩn thận một chút?”

Nàng muốn nói điều gì với y, muốn lắm, nhưng mấy lần mở miệng đều không thốt nổi nên lời. Trước mặt nàng là Mộ Ngôn, là người mà nàng ngày nhớ đêm mong. Mộ Ngôn, hai tiếng này nàng đã thầm gọi cả trăm lần, cả ngàn lần. Bỗng dưng, nàng muốn khóc. Lần đầu tiên trong đời nàng cảm thấy lực bất tòng tâm đến thế. Nàng rất muốn nói một câu thật dễ nghe, gây cho Mộ Ngôn một ấn tượng thật là sâu đậm, thế nhưng, ngay cả việc gọi tên y thôi, nàng cũng không gọi được.

Y nới lỏng vòng tay ôm, giúp nàng đứng ngay ngắn, nhìn nàng một lượt từ trên xuống dưới, ánh mắt phảng phát ý cười: “Một tháng không gặp, Quân cô nương đã không nhận ra tại hạ rồi sao?” Cái dáng vẻ nói cười thờ ơ quen thuộc này của y khiến cho nàng xúc động. Nàng vui lắm, nàng muốn khoảnh khắc ấy kéo dài thêm một lúc, nhưng lại chẳng biết nên mở lời đối đáp thế nào với y, cuối cùng, giọng nàng nghẹn ngào: “Hai mươi lăm ngày,” ngừng một chút, lại nói: “A Phất.”

Dưới ánh trăng, gương mặt y vẫn như vậy. Toàn thân khoác chiếc áo bào màu lam; tay cầm thanh trường kiếm, mũi kiếm vẫn còn nhuốm hai giọt máu đỏ tươi; ngọc bội đeo nơi thắt lưng lấp lóa ánh sáng xanh dìu dịu ấm áp trong màn đêm u tịch.

Nàng nhìn y. Chàng công tử phong tư tài mạo này là ý trung nhân, là người trong trái tim nàng.

Một khắc trước, nàng nhớ mong y da diết khôn nguôi, một khắc sau, thật chẳng ngờ tương ngộ.  Nàng cảm thấy cao hứng vô cùng, nhưng khi nhìn xuống đôi giày thêu đã lấm bùi đen, gấu váy cũng bám đầy bụi đất, nàng lại muốn mình trở thành một người xa lạ không quen không biết gì y cho đỡ xấu hổi.

Nét mày của y hơi nhướng lên: “Hai mươi lăm ngày? A Phất?”

Nàng len lén dấu đôi chân dưới gấu váy, rồi trả lời y: “Ý tôi muốn nói chúng ta quen biết nhau như vậy, anh không cần gọi tôi là cô nương này cô nương nọ nữa, gọi A Phất là được rồi. Còn nữa, chúng ta chia tay nhau chưa đầy một tháng, mới chỉ hai mươi lăm ngày thôi.” Nói xong, nàng đợi một hồi lâu mà không thấy tiếng đáp lại thì lặng lẽ ngẩng đầu lên, len lén nhìn y, cũng không thấy y có biểu tình gì đặc biệt. Chắc là y không tin lời nàng, nàng bèn bấm đốt ngón tay tính toán cho y hay: “Anh đi vào ngày mồng mười tháng Năm, hôm nay là mồng năm tháng Sáu, anh xem, vừa vặn đúng hai mươi lăm ngày…”

Nhưng y lại cắt ngang lời nàng: “A Phất.”

Nàng ngạc nhiên: “Gì?”

Y cười nói: “Chẳng phải em muốn tôi gọi tên em như vậy sao?”

Cảnh núi rừng ban đêm thật là yên tĩnh, chỉ nghe thấy âm thanh từ lời y nói. Thỉnh thoảng cũng nghe được cả tiếng côn trùng vo ve, nhưng những tiếng này có thể bỏ qua. Nàng đỏ bừng mặt, may mà còn có chiếc mặt nạ che giấu dùm nàng cảm xúc. Nhưng nàng cũng cảm thấy có điểm không hay lắm, nếu như không đeo mặt nạ, biết đâu y có thể thông qua sắc mặt mà đoán được tâm ý của nàng? Nàng biết, tình cảm này sẽ không có tương lai, nhưng nếu y biết tâm tư của nàng, không chừng đó cũng là một cơ duyên tốt đẹp.

Y cúi đầu nhìn nàng, dường như đang chờ đợi câu trả lời. Nàng ho một tiếng, chẳng hiểu thế nào lại lóng ngóng ngoảnh đầu nhìn lại phía sau. Đang định nói “ừ” thì lại bị hình ảnh vừa nhìn thấy dọa cho hoảng hồn, thiếu điều thì ngã bổ ngửa.

Cách đó không xa, trên con đường đêm đen thẫm mênh mông của chốn núi rừng, xác một sói nằm ngay sau lưng nàng, đôi mắt lờ đờ của nó đã không còn chút ánh sáng, cổ họng cuồn cuộn tứa ra máu tươi.

Nhìn biểu hiện của nàng, Mộ Ngôn cười: “Em không phát hiện ra có sói đi theo mình à?”

Nàng gật đầu, không phát hiện ra thật mà. Cùng lúc đó, chân nàng mềm nhũn ra, gần như là không cử động được. Y kéo nàng cách xa khỏi xác con sói một chút: “Vậy em cũng không nghe thấy tiếng nó rống lớn lúc ta đâm nó một kiếm sao?”

Nàng tưởng tượng, có một con sói nước miếng ròng ròng bám theo nàng trên đường rừng… Nếu Mộ Ngôn không xuất hiện, có lẽ lúc này nàng đã nằm trong bụng sói rồi. Càng nghĩ, nàng càng cảm thấy sợ, thậm chí mắt đã hơi đỏ: “Có nghe thấy tiếng gì đó, vậy nên lúc ấy tôi đã định quay đầu lại xem con gì đang kêu.”

Y vỗ nhẹ lên lưng nàng: “Đừng sợ, không phải sói đã bị ta giết chết rồi sao, em còn sợ cái gì?” Vỗ xong còn nhíu mày: “Quân huynh đệ và con hổ của em đâu? Tại sao họ không đi cùng em? Một cô gái nhỏ như em, đang đêm hôm còn lang thang ở vùng rừng núi này làm gì?”

Nàng quệt mắt: “Quân Vĩ và Tiểu Hoàng đã bỏ trốn theo trai rồi.”

Mộ Ngôn: “…”

.

.

.

Nàng đã gặp lại Mộ Ngôn như thế. Tuy rằng trong lòng chứa chan biết bao cảm xúc lãng mạn, nhưng nàng cũng hiểu rõ chuyện nàng và y tái ngộ nhau ở Bích Sơn, không thể vin vào cái lý do “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” để giải thích. Nàng có rất nhiều điều muốn hỏi y, nhân lúc y còn đang cúi xuống kiểm tra xác con sói thì tranh thủ thời gian nghĩ sẵn lời. Thế nhưng còn chưa kịp mở miệng thì nàng đã nhìn một sự việc lạ lùng: ở cánh rừng trước mặt, có mấy con chim đột ngột chui ra từ bụi rậm, bay nháo nhác.

Bảy người mặc áo đen bất ngờ xuất hiện trước mặt nàng, giống như kiểu từ dưới đất chui lên vậy.

Nàng nghĩ lịch sử lại tái diễn rồi, đám người này cũng giống như bọn áo đen truy sát Mộ Ngôn năm nào. Nàng bước lùi lại một bước, một bước, rồi lại thêm một bước; còn chưa kịp đứng nép sau lưng Mộ Ngôn cho nó an toàn, mấy người áo đen đã đồng loạt rút kiếm đặt trên mặt đất, nhất loạt quỳ xuống: “Thuộc hạ đến chậm…” Bọn họ đồng thanh tương ứng, giống như đã diễn đi diễn lại câu thoại này cả trăm lần rồi. Mà vẻ mặt của mấy người này cũng rất tương xứng với lời thoại: ai nấy đều lộ ra cái vẻ nhục nhã hổ thẹn rất biểu cảm.

Nàng kinh ngạc quay lại nhìn Mộ Ngôn. Y đã thu lại thanh trường kiếm trong tay, nét mặt dửng dưng. Y không hề để ý đến mấy người áo đen đang quỳ trên mặt đất, chỉ quay sang nhìn nàng: “Còn đi được không?”

Ánh mắt nàng mờ mịt.

Khóe miệng y hàm chứa ý cười: “Không phải là em đã sợ đến nhũn cả chân rồi chứ?”

Nàng lập tức phản bác: “Tôi không sợ đến nhũn chân!”

Y lắc đầu: “Nhìn mắt em là biết ngay em đang nói dối.”

Nàng: “Tôi không nói dối!”

Y vẫn thong thả nhìn nàng: “Vậy em đi hai ba bước cho ta xem nào.”

Nàng: “…”

Mộ Ngôn nói không sai, nàng đang nói dối.

Vừa nãy, nàng đã bị dọa cho sợ đến nhũn hết cả chân rồi. Thời khắc nguy hiểm vừa nãy, sở dĩ nàng có thể lùi lại mấy bước, chẳng qua là vì sức mạnh bột phát trong hiểm cảnh. Làm người, ai cũng có điểm yếu, trên đời này nàng sợ nhất là sói và rắn. Sự thật là vậy, nhưng bị Mộ Ngôn tố cáo thẳng thừng không kiêng nể như thế này, nàng có chút tổn thương.

Chỉ vì sợ một con sói thôi mà đã mềm nhũn hết cả chân, đó là biểu hiện của một kẻ yếu hèn. Nàng không muốn bị y xem thường. Đổi lại, nếu là Quân Vĩ nói nàng như vậy, đảm bảo nàng sẽ hung hăng hỏi ngược lại hắn: “Ờ đấy, bản cô nương đây mềm nhũn chân vì sợ đấy, anh làm gì được ta nào?!” Nhưng Mộ Ngôn thì khác, nàng chỉ muốn để y nhìn thấy những điểm tốt đẹp nhất của nàng thôi. Cách suy nghĩ này cũng giống với việc một cô gái sẽ ngại ngùng không muốn ý trung nhân biết rằng cô ấy muốn đi nhà vệ sinh, mặc dù đấy là một nhu cầu rất bình thường. À, lại nói, nàng vốn không có nhu cầu này.

* * *

Đang chìm đắm trong những suy nghĩ bi thương, bên tai nàng bỗng vang lên một tiếng nói trầm: “mạo phạm”, rồi cả người nàng trở nên nhẹ bẫng. Mộ Ngôn bế nàng lên. Nàng còn nghe thấy một tiếng thở dài loáng thoáng không rõ là của ai. Không gian xung quanh đặc biệt yên tĩnh, tiếng thở dài vì vậy lại càng rõ hơn. Nhưng khi nàng ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy một vầng trăng trong sáng trên nền trời đen thẫm.

Tuy là bế theo nàng, nhưng y vẫn bước đi nhàn nhã như người đang dạo chơi trên đường vắng, không mảy may vướng bận điều gì. Chỉ là lúc lướt qua đám người áo đen đang quỳ nghiêm chỉnh trên nền đất, bước chân y hơi ngừng lại.

Mấy người ấy đều cúi đầu rất thấp. Tiếng của Mộ Ngôn giữa chốn núi rừng thênh thang vang lên rất nhẹ: “Có hiểu thế nào là hộ vệ không? Kiếm của các ngươi phải rút ra nhanh hơn ta, như thế mới là hộ vệ cho ta”. Giọng nói nhàn nhạt dửng dưng của y khiến cho đám người kia lại càng cúi đầu sát rạp, không dám ngẩng lên nữa.

Đây là uy nghiêm của người ở địa vị cao, do được tu dưỡng nhiều năm trong hoàng thất mà thành. Sở dĩ nàng không cảm thấy sợ hãi hay giật mình trước thái độ này của Mộ Ngôn, cũng bởi vì nàng nhìn đã quen mắt, nghe đã quen tai cái sự trịch trượng này rồi. Ví dụ như phụ vương nàng chẳng hạn, tuy rằng ông trị quốc thì bất tài, nhưng vẫn có điểm uy nhiêm nhất định, và ông vẫn thành công trong việc dùng uy nghiêm này để ra oai với các vị phu nhân của mình…

Đang ngẫm nghĩ đến xuất thần, khi ngẩng đầu lên, nàng nhìn thấy người áo đen quỳ ở giữa đột nhiên đứng dậy. Người ấy có vẻ như muốn gỡ chiếc mặt nạ da người đang đeo. Nàng không hiểu chuyện gì đang diễn ra, toàn thân cứng nhắc trong tay Mộ Ngôn, hoảng hồn hỏi y: “Người này đang làm gì?” Y liếc nhìn nàng: “Em đoán xem?”

Nàng tự hỏi tự trả lời: “Giống như đang xé mặt nạ?”

Đương lúc bọn nàng trò chuyện, tên áo đen này quả nhiên gỡ chiếc mặt nạ da người xuống, hít hít thở: “Ngột chết mất!” Nàng tỉ mỉ quan sát người đó, cảm thấy ngạc nhiên vô cùng, thật không ngờ ẩn dưới chiếc mặt nạ ngu ngu dại dại kia lại là một cô gái vô cùng xinh xắn, mày thanh mắt đẹp. Mộ Ngôn khẽ nhướn mày, lãnh đạm nói: “Ta còn tưởng đám thuộc hạ của mình càng ngày càng không nên thân, đã mang tiếng ẩn nấp mà còn làm chim chóc sợ hãi bay toán loạn, hóa ra bọn chúng bị em làm liên lụy!”

Cô gái đó không hề để bụng lời mỉa mai của y, cười hì hì sáp lại gần Mộ Ngôn: “Đúng là không thể trách được bọn họ. Nếu như phải rút kiếm ra trước mặt ca ca thì mới có tư cách làm hộ vệ cho ca ca, yêu cầu này quá khó! Chỉ sợ trong thiên hạ không ai có đủ tài làm hộ vệ cho anh mất! Ừm, để em xem cô gái đang ở trong lòng ca ca là ai nào… Em còn tưởng anh vẫn còn si tình cái cô Tần Tử Yên chứ, hóa ra đây mới là chị dâu tương lai của em sao? Cuối cùng thì anh cũng đã buông tay được Tần Tử Yên rồi. Chị dâu này, chắc chị là chị dâu của tôi nhỉ? Tôi… em tên là Mộ Nghi, còn chị tên gì?”

Nàng thoáng chốc run lên, cắn cắn môi mà không biết phải mở lời thế nào. Mộ Ngôn cúi đầu nhìn nàng một lúc rồi cắt lời Mộ Nghi: “A Phất vẫn còn nhỏ.”

Mộ Nghi ngại ngần: “Nói như vậy, ca ca vẫn còn thương cái cô Tử Yên ấy?”

Nàng lẳng lặng nghe hai anh em họ nói chuyện, trong ngực cảm thấy nặng trĩu. Nàng đang ở bên cạnh Mộ Ngôn, ở rất gần. Nàng không thấy Mộ Ngôn có biểu hiện gì đặc biệt khi nhắc tới cái tên Tử Yên. Nhưng cũng có thể do nàng không nhận ra đó thôi. Sau khi chết đi, phần lớn cảm giác của nàng đã biết mất, nàng không còn đủ nhạy cảm nữa.

Mộ Ngôn không trả lời, chỉ hờ hững quét mắt nhìn đám người vẫn còn quỳ trên nền đất, ra lệnh: “Quay về bản doanh.”

Nói rồi y lại ôm nàng mà đi về phía trước, những người khác bám đuôi theo sau. Nằm trong lòng y như vậy, nàng cảm thấy mình đã lời lãi lắm rồi, nhưng chẳng  hiểu sao vẫn thấy bứt rứt. Hai chữ Tử Yên kia cứ đè nặng lên tâm trí nàng. Tại sao nàng không thể gặp lại Mộ Ngôn sớm một chút…

Ánh trăng rơi đầy, vương trên từng tán cây rồi loang trên mặt đất, tạo thành từng vũng ánh sáng. Nàng kìm nén nửa ngày, cảm thấy ngay cả đôi mắt cũng sắp đỏ lên rồi. Thế mà chỉ dám nói lí nhí với Mộ Ngôn: “Cô gái đó không tốt. Cô ấy muốn giết anh. Anh không nên yêu cô ấy.”

Mộ Ngôn hơi cúi đầu: “Em vừa nói gì?”

Nàng khịt khịt mũi, dũng khí chẳng biết bay đi đâu mất rồi, nàng không dám nói lại một lần nữa, chỉ bâng quơ ngẩng đầu nhìn trời đêm: “Không có gì, anh nhìn xem, tối hôm nay sao trên trời thật tròn.”

Hồi lâu, Mộ Ngôn mới lên tiếng: “Cái mà em nhìn thấy, có lẽ là…mặt trăng thì phải.”

Chim ngủ yên trong tổ, đêm lạnh như nước, toàn bộ sự sống đều không còn dấu tích. Đi trên đường núi gập ghềnh yên ắng như thế này, nếu vẫn không ai nói với ai tiếng nào thì quả thật là vô cùng tịch mịch. Sau khi chia tay với Mộ Ngôn, nàng cũng chẳng gặp phải chuyện gì đáng kể lắm. Suy nghĩ mãi, nàng thấy chỉ có chuyện về Thập Tam Nguyệt là có chút ly kỳ mới mẻ. Thế là nàng từ từ kể cho y nghe trên suốt quãng dường. Thật ra cho đến tận bây giờ nàng vẫn không hiểu được lý do tại sao Thập Tam Nguyệt lại tự sát, càng nghĩ lại càng không hiểu. Trong lần dệt mộng này, mọi chuyện cứ mập mập mờ mờ. Nhưng hình như đó không phải là điều Mộ Ngôn quan tâm nhất.

“Em nói chỉ cần lựa chọn ở lại trong cảnh mộng; dù trong giấc mộng em dệt, người ấy có sống hay chết thì ngoài hiện thực, chắc chắn người ấy sẽ chết?” – Y khẽ cúi đầu nhìn nàng và hỏi. Bởi vì ngược ánh sáng trăng nên nàng không nhìn rõ được biểu hiện trên nét mặt y, chỉ cảm nhận được một vài sợi tóc đen hơi lướt nhẹ qua gò má nàng.

Bản doanh trong lời nói của Mộ Ngôn nằm ở một khe núi rộng, phải đi bộ một quãng đường rất dài mới có thể tới nơi. Nhưng không hiểu sao nàng lại cảm thấy đoạn đường này quá ngắn. Việc này một lần nữa lại chứng minh được rằng thuyết tương đối cũng không phải là vớ vẩn lắm. Nàng nghĩ, vẫn con đường này, nếu đi cùng Quân Vĩ, nhất định nàng sẽ cảm thấy nó dài lê thê lê thê. Không biết chừng còn ngủ gục trên đường mất.

Tối nay nàng và Mộ Nghi cùng ngủ chung một trướng. Có lẽ phải đợi Mộ Nghi ngủ yên rồi, nàng mới dám chợp mắt. Làm thế để đề phòng cô ấy phát hiện ra mình đang nằm cạnh một người chết. Thế nhưng Mộ Nghi lại chẳng thông cảm gì cho nỗi khổ của nàng, cô ấy khăng khăng rủ nàng ngồi ngắm sao.

Theo lời kể của Mộ Nghi, nàng biết rằng tối nay nàng tình cờ gặp lại Mộ Ngôn, đúng là không phải do hữu duyên thiên lý năng tương ngộ gì, chẳng qua y vừa xử lý xong xuôi một chút chuyện trong nhà, chọn đường đi qua Bích Sơn để quay về phủ riêng của mình.

Nàng ngẫm nghĩ, cảm giác có chút vui sướng trong lòng. Hóa ra Mộ Ngôn ở riêng chứ không sống chung với cha mẹ. Như vậy gả cho y rồi, nàng sẽ không phải lo lắng chuyện hầu hạ bố mẹ chồng, được như vậy thì thật tốt. Sau đó ngẫm lại, nàng thấy mình lo toàn những chuyện không đâu.

Nàng do dự nhìn Mộ Nghi, nét mặt cô ấy vui tươi như hoa vẽ dưới trăng; nàng quyết định sẽ hỏi thẳng cô ấy một vấn đề mình băn khoăn từ lâu nhưng không có ai giải đáp: “Anh trai của em năm nay bao nhiêu tuổi? Y đã… đã cưới vợ chưa?”

Mộ Nghi có chút sửng sốt. Cô ấy đưa chén trà lên gần miệng, cử chỉ đoan trang, miệng cười hớn hở nhìn nàng: “Chuyện này…”

Nàng cảm thấy viên giao châu trong ngực sắp nhảy lên tận cổ họng mất rồi.

Cô ấy uống một ngụm trà, tiếp tục tươi cuời hớn hở nhìn nàng: “Chuyện này…”

Nàng muốn bóp cổ chết Mộ Nghi luôn. Cô ấy lại tiếp tục uống thêm hai ngụm trà, mãi mới chậm rãi mở miệng: “Ca ca em chưa lấy vợ.”

Nàng cố kiềm chế cái ý định không giơ tay lên nhằm về phía cổ Mộ Nghi mà bóp, nhưng cô ấy lại vô cùng hứng thú mà sáp lại gần nàng: “Nhưng chị hỏi chuyện này làm gì?”

Nàng húng hắng ho mấy tiếng, lại lùi về sau một chút: “Không có gì, tôi có một người chị em, đang định làm mối cho ca ca em.

Đôi mắt Mộ Nghi nhìn nàng lấp lánh.

Nàng lại che miệng, ho thêm vài tiếng nữa: “Thật đấy.”

Mộ Nghi chống cằm, cười híp mắt: “Ca ca em rất quan tâm đến chị đấy. Ở nước Trần của em nhé, các cô gái xinh đẹp thầm thương trộm nhớ ca ca nhiều đến nỗi nếu đứng cạnh nhau, có thể vây một vòng lớn bao quanh Hạo thành. Nhưng anh ấy trước giờ đều không để tâm đến chuyện tư tình nam nữ. Thế mà hôm nay, khi thấy chị đi đứng không xong, anh ấy lại có thể chủ động bế chị đi. Nếu việc này mà bị các cô gái ở nước Trần biết được, số chị sẽ chết thảm đấy.”

Nàng không cam lòng chịu rơi vào thế hạ phong, bình tĩnh nói: “Lúc trước, người ngưỡng mộ tôi cũng rất nhiều. Có thể xếp một hàng dài từ cửa nhà tôi, đứng chen chúc nhau từ đầu phố đến cuối phố.” Dĩ nhiên những người này một nửa vì tiền, một nửa vì quyền, nhưng chuyện ấy thiết nghĩ không cần phải nói ra.

Mộ Nghi nháy nháy mắt: “Ôi, vậy thì chị với ca ca em đúng là môn đăng hộ đối nha!”

Nghe cô ấy nói vậy, trong lòng nàng cảm thấy rất vui vẻ, nhưng vẫn cố làm ra vẻ thản nhiên: “Không nên nói đến chuyện ấy. Không phải ca ca của em đã có ý trung nhân rồi sao, là cái cô Tử Yên gì gì đó…”. Chưa nói hết lời nàng đã bị Mộ Nghi cắt ngang: “Cô ta không được, tuyệt đối không cho phép! Dám hành thích ca ca em, kiếp này, cô ta không có phúc được làm chị dâu em!”

Nàng nghi hoặc hỏi: “Nói vậy chẳng lẽ em muốn họ lén lút yêu nhau?”

Mộ Nghi bật cười thành tiếng: “Nói chuyện với chị thật là thú vị nha! Ý của em là, chuyện đã xảy ra như vậy rồi, cha em nhất định không cho phép ca ca cưới Tử Yên. Mà thật ra anh trai em không phải loại người đặt chữ tình lên trên hết đâu, đối với ba cái chuyện trăng gió này…” Nói chưa hết ý, Mộ Nghi dường như đột ngột nhớ ra chuyện hệ trọng gì đó: “Nói đến đây, A Phất, nếu chị thật sự để tâm đến ca ca của em, có một người chị phải ghi nhớ thật kỹ, bởi vì trong tâm trí anh trai em, Tử Yên không là gì nếu đem so với nàng ấy.”

Mộ Nghi nói đến đây thì không cười nữa, cô ấy chỉ trầm tư nhìn nàng: “Người con gái duy nhất trên cõi đời này khiến cho anh trai em kính trọng, ngưỡng mộ; chắc chị cũng đã từng nghe danh nàng ấy rồi; đó là cô con gái nhỏ tuổi nhất của Vệ công, người đã lấy thân tuẫn quốc -Văn Xương công chúa danh chấn thiên hạ Diệp Trăn.”

Khi Mộ Nghi nói tới chuyện này, nàng ngơ ngẩn nhớ tới sự việc mới chỉ xảy ra nửa năm trước, lại cảm thấy chuyện đã xa xưa tận mấy đời. Dưới ánh trăng ấm áp, Mộ Nghi cầm chén sứ trắng, nét mày hơi nhíu lại: “Em không được chứng kiến tình cảnh lúc đó, chỉ nghe nói nước Vệ vốn hạn hán lâu ngày, thế mà thời điểm công chúa Diệp Trăn tuẫn tiết, trời đột nhiên đổ mưa lớn. Người người đều nói rằng trời cao vì cái chết của Văn Xương công chúa mà đau lòng rơi lệ. Họ còn kể là từ trên trăm trượng tường thành, Diệp Trăn không màng đến tính mạng, xoay người nhảy xuống, không chần chừ do dự. Ngay đến tướng sĩ nước Trần cũng cảm phục trước sự quyết tuyệt của nàng ấy. Anh trai em nói rằng Diệp Trăn là độc nhất vô nhị trên đất Cửu Châu này. Bao nhiêu năm nay Cửu Châu phân chia rồi tụ hợp, chỉ có duy nhất một vị công chúa dám hy sinh cùng xã tắc. Nếu như nàng ấy không phải là thân con gái, tuổi cũng không phải là quá nhỏ như vậy, chắc chắn sẽ làm nên nghiệp lớn. Em nghĩ mà cũng cảm thấy đáng tiếc, vì nghe đồn công chúa Diệp Trăn lớn lên xinh đẹp, lại có học thức. Sử sách coi trọng nàng biết bao, vậy mà lại sớm chết yểu. Ôi, thật đáng hận cho Diệp Trăn khi sinh nhầm ở chốn đế vương.”

Nàng hỏi: “Nãy giờ em nói nhiều như vậy, thật ra em muốn nói chuyện gì?”

Mộ Nghi buông chén xuống, ngây ngô: “Ơ, đúng rồi… Em đang muốn nói chuyện gì nhỉ?”

Nàng vỗ nhẹ nơi lồng ngực, ở nơi ấy, bấy lâu nay nàng đã không còn cảm nhận được tiếng đập của con tim mình. Một hồi lâu sau, nàng nói: “Sinh ở gia đình vua chúa, vốn dĩ là như thế. Từ nhỏ, cô ấy đã được hưởng thụ rất nhiều đặc quyền đặc lợi, tất nhiên phải có một chút trách nhiệm cần phải gánh vác. Cái chết này của Diệp Trăn là không thể khác. Cô ấy sinh ra là thân công chúa thì phải suy nghĩ như một vị công chúa. Trách nhiệm với đất nước không thể không gánh, biết là chết ở trước mặt nhưng con đường ấy vẫn không thể không đi. Ngày trước, thần dân trăm họ coi cô ấy là công chúa, cung phụng cô ấy. Một khi cô ấy đã tiếp nhận sự cung phụng này của bách tính, thì không thể nói rằng mình ân hận khi sinh nhầm ở chốn đế vương. Vào thời khắc phải gánh vác bổn phận thì tuyệt đối không thể vin vào cái cớ sinh nhầm là cháu chúa con vua mà khước từ số mệnh. Nếu như Diệp Trăn là người hèn nhát như vậy thì cô ấy thật đáng hận!” Nói xong, nàng cảm thấy chủ đề của cuộc nói chuyện càng ngày càng phát triển theo một chiều hướng cao thâm. Nàng vội vàng dừng cương trước miệng vực mà quay lại chính đạo: “Chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ?”

Mộ Nghi ngồi đối diện, ngơ ngơ ngác ngác nhìn nàng: “Em cũng quên mất rồi…”

.

.

.

Nàng vốn dĩ không cần ngủ, cũng như không cần ăn, không cần uống, không cần mặc… Ừm, quần áo thì vẫn nên mặc. Sống tới cảnh giới này của nàng, mọi nhu cầu đối với cuộc sống đã biến thành hứng thú theo kiểu vui thì ăn, thích thì ngủ… Chỉ càn có viên ngọc giao châu, tất cả mọi nhu cầu đều có thể bị tịnh hóa, bao gồm cả cơn buồn ngủ đang nảy sinh ở thời điểm này, bao gồm cả việc nàng vì nể Mộ Nghi mà ăn một trái cà chua nhỏ nửa khắc trước.

Tóm lại, nàng không gặp phải bất cứ chuyện gì phiền phức. Tất cả đều diễn tiến vô cùng thuận lợi.

Bọn nàng mặt đối mặt, mắt nhìn mắt một hồi lâu, cuối cùng Mộ Nghi bại trận, ngáp dài một cái rồi đi vào trong trướng ngủ. Nàng lại vỗ nhẹ lên ngực trái, vẫn không cảm nhận được nhịp đập của trái tim, nhưng nàng cảm thấy lòng mình rất đỗi ngọt ngào. Mộ Nghi nói anh trai của cô ấy ngưỡng mộ nàng, kính trọng nàng ư? Những lời tương tự, nàng đã từng nghe rất nhiều. Nhưng trước đây khi biết chuyện có ai đó hâm mộ nàng chỉ vì nàng nhảy lầu, nàng thấy họ thật bệnh! Nàng luôn tâm niệm nếu là vị anh hùng chân chính thì nên vung đao lập đại công, để lại tiếng thơm lưu muôn thuở, lúc ấy tên tuổi mới xứng để lưu truyền thiên thu, người người kính ngưỡng. Nàng không phải bậc thần tiên giáng trần để mà xoay chuyển càn khôn. Tâm thì có thừa mà sức không đủ, có gì mà đáng kính trọng đâu. Trong thời loạn thế, được làm vua, thua làm giặc, nàng chẳng qua chỉ là một kẻ thua cuộc, bị tình cảnh ép buộc mà phải lấy thân tuẫn quốc, như vậy thật chẳng có tiền đồ! Dĩ nhiên, các anh chị em của nàng không tuẫn tiết giống nàng, họ lại càng không có tiền đồ! Nhưng nói vậy chẳng hóa ra chó chê mèo lắm lông à. Cùng là những người không có tiền đồ như nhau, chẳng nên giễu cợt nhau làm gì.

Trời cao đất rộng, núi đồi liên miên, nàng đứng dậy toan đi dạo vài vòng để vận động gân cốt. Lúc nhìn về trướng của Mộ Ngôn, nàng thấy y đang ngồi bên một đống lửa, loay hoay đẽo gọt cái gì đó. Trong bóng đêm mênh mang vô tận, thân hình cao lớn của y phản chiếu qua ánh lửa bập bùng, xem ra đêm nay y cũng không ngủ được.

Nàng nghĩ, vào thời gian đêm hôm khuya khoắt như vậy, nếu như hai người cùng ở chung một chỗ thì cũng có điểm không ổn. Như vậy, nàng nên đi qua chỗ y hay là không nên đi qua đây? Đầu còn đang trong quá trình tư lự suy xét, chân đã bước nhanh hai ba bước về phía y rồi. Có lẽ nàng không phải là một cô gái e lệ thẹn thùng gì cho lắm.

Quân Vĩ từng kể cho nàng nghe rất nhiều chuyện tương tự. Trong tiểu thuyết mà Quân Vĩ sáng tác, các vị tiểu thư khuê các gặp gỡ ý trung nhân đều nên bạo gan một chút, rung động không bằng hành động, thế mới khiến cho người ta yêu mến được. Nhưng thật ra nàng cũng chẳng hiểu cái gì gọi là rung động không bằng hành động, chỉ cần gặp Mộ Ngôn, chân tay nàng bao giờ cũng hành động nhanh hơn cái đầu một bước.

Vậy là nàng tiến lại gần bên Mộ Ngôn, hỏi: “Anh đang làm gì vậy?”

Con dao khắc y đang cầm trong tay chuyển động thong thả hơn: “Khắc món đồ chơi nhỏ để giết thời gian thôi.” Nói xong, y ngẩng đầu nhìn nàng, nhíu mày nói: “Giờ này em còn không đi ngủ? Khuya lắm rồi đấy.”

Nàng vốn không cần ngủ, nhìn thấy y lại càng không muốn ngủ. Tuy nhiên không thể nói trắng ra suy nghĩ này, chỉ đành vòng vo một hồi, ngồi xuống bên cạnh quan sát Mộ Ngôn đang kiên trì từng đường từng đường khắc, chạm trổ từng nét bên ngoài khối ngọc.

Hồi lâu, y đột nhiên lên tiếng: “Đúng rồi, chiếc ngẫn ngọc ban chỉ của ta em vẫn còn giữ chứ?”

Nàng lắc đầu: “Đem cầm rồi.”

Y dừng dao: “Cầm rồi?”

Nàng cúi đầu, giả vờ nghiên cứu xem Mộ Ngôn đang khắc cái gì, giọng thì thầm như tiếng muỗi kêu: “Đúng.”

Y không nói nữa, tiếp tục chuyên chú vào con dao khắc trong tay, cuối cùng khối ngọc đã thành hình: một con hổ sinh động tạc bằng ngọc!

Nàng khâm phục sự khéo léo của y đến tận đáy lòng: “Thật đáng yêu.”

Y cầm con hổ ngọc trong tay, xoay xoay một hồi: “Thật à? Ta định dùng nó để đổi lấy ngọc ban chỉ hồi trước đưa em. Thế mà…”

Nàng suy nghĩ chốc lát, lặng lẽ lấy từ trong ngực ra chiếc nhẫn ban chỉ bằng ngọc, thả nó vào tay y. Sau đó cũng tự ý lấy luôn con  hổ bằng ngọc mà y mới khắc xong.

Mộ Ngôn dường như sửng sốt.

Nàng nói: “Con hổ ngọc này so với nhẫn kia có lẽ đắt tiền hơn. Tôi thích nó.” Thật ra nàng chỉ nói vậy thôi, suy nghĩ thật sự của nàng là gì ư? Ngọc ban chỉ chỉ là vật chết, nhưng con hổ ngọc này lại do Mộ Ngôn tự tay chạm khắc, tuy không phải y đặc biệt khắc nó cho nàng, nhưng trên cả đất Cửu Châu này chỉ có duy nhất một con hổ ngọc như thế. Vậy chẳng khác gì Mộ Ngôn tự tay làm nó để tặng cho nàng. Sau này dù cho phải xa cách y rồi, nhìn thấy nó, nàng sẽ cảm thấy ấm áp trong lòng.

Thế nhưng nàng vẫn có điểm không ưng ý. Nàng rụt rè áp sát Mộ Ngôn, hỏi: “Anh có thể chỉnh sửa lại con hổ này một chút không?”

Y quan sát con hổ ngọc nàng vừa đưa, gật đầu: “Được. Nhưng em muốn sửa gì? Mắt hay là tai?”

Nàng đoan chính ngồi ngay ngắn trước mặt y: “Anh xem, anh có thể sửa lại con hổ này cho giống với tôi không?”

Mộ Ngôn: “…”

Nàng nghĩ, đôi tay khéo léo này của Mộ Ngôn không chỉ đàn hay mà lại còn chạm trổ được những món đồ chơi tinh xảo, như vậy sửa sang lại khối ngọc một chút chắc cũng không phải vấn đề gì to tát. Xung quanh nàng, hoa bán chỉ liên bung nở, nhìn qua ánh lửa hồng, sắc màu lại càng thêm rực rỡ. Mộ Ngôn lúc nhìn hoa, lúc lại quay sang nhìn nàng. Bỗng dưng nàng cảm thấy chân trời tĩnh lặng này, cảnh đồi núi hoang vắng này, tựa như là cả một rừng mai trắng bung nở đêm mùa hạ năm xưa… nhưng nàng lại không thể cảm nhận được hương thơm của hoa mai thêm một lần nữa.

Y thoáng cười nhẹ: “Muốn ta khắc em, vậy thì em phải bỏ mặt nạ ra, nếu không làm sao ta biết phải khắc thế nào cho giống?”

Lòng nàng run rẩy, cổ họng nghẹn ngào, nhưng cuối cùng, nàng vẫn chỉ có thể lắc đầu.

Y dịu dàng hỏi: “Vì sao không để ta xem mặt em?” Nàng vuốt nhẹ lên chiếc mặt nạ trên mặt: “Bởi vì, bởi vì tôi là một cô gái rất xấu xí.” Lần đầu nàng gặp Mộ Ngôn, nàng mới chỉ là một cô bé mười bốn tuổi, gương mặt vẫn còn vương nét trẻ thơ chưa trưởng thành. Đợi được đến tuổi mười bảy diễm lệ nhất thì lại không có cách nào gặp được y, để y nhìn thấy dáng vẻ xinh đẹp ấy. Mãi đến hôm nay mới gặp lại được y thì trên trán đã có một vết sẹo dài, nàng không muốn y nhìn thấy vết sẹo xấu xí ấy. Nàng cứ mân mê mãi đầu ngón tay, đây là lần đầu tiên nàng ủ rũ như vậy khi nghĩ đến dung mạo đã bị hủy. Nàng muốn Mộ Ngôn nhìn thấy dáng vẻ xinh đẹp nhất của mình, nhưng dáng vẻ ấy, đã chết rồi. Bên dưới chiếc mặt nạ ứa ra một giọt nước mắt. Nàng khịt mũi, may mà có mặt nạ để giấu che, Mộ Ngôn sẽ không thể nhìn thấy nước mắt nàng.

Đêm hôm đó, nàng ôm miếng ngọc nhỏ mà Mộ Ngôn khắc tặng, ngủ rất sâu. Mãi đến nửa đêm, không rõ có ai lại gần đánh thức nàng. Nàng mở to đôi mắt, mơ mơ hồ hồ, dụi một cái, lại dụi thêm một cái.

Hoa nở dưới ánh trăng tàn, người tặng nàng ngọc đang đứng dưới ánh trăng, nụ cười nở ấm áp trên môi: “A Phất, đừng dụi mắt nữa.”

Y đưa tay kéo nàng dậy, ống tay áo rộng buông rơi cạnh nàng: “Dậy thôi, chúng ta cùng lên đường.”

Nàng nhíu mắt nhìn y, giống như nhìn thấy một thiên thần hiện từ trong giấc mơ. Nàng cứ nhìn mãi nhìn mãi, ngay cả ý cười thấp thoáng ẩn hiện trong mắt y, nàng cũng nhìn thấy được. Nàng hỏi: “Đi đâu?”

Y quay sang nhìn Mộ Nghi đang nằm cạnh nàng, thong thả đáp: “Không phải đến tận bây giờ em vẫn băn khoăn về chuyện Nguyệt phu nhân của nước Trịnh sao? Chúng ta đi đến Trịnh quốc tìm đáp án. Không biết chừng trên đường đi còn gặp được Quân huynh đệ và Tiểu Hoàng.” Ngừng một chút, y nói tiếp: “Đừng lo lắng, đám hộ vệ của ta sẽ không tỉnh lại trong một thời gian nữa. Bị bọn họ bám đuôi theo rất phiền phức. Chúng ta sẽ cấp tốc lên đường, nếu đi một đêm không nghỉ thì sẽ cắt đuôi được bọn họ, sau đó ta với em có thể ung dung đi nốt đoạn đường còn lại.”

Nàng nghe xong thì đưa tay cho y, nghĩ một hồi nói: “Hay là chúng ta viết một lá thư để bọn họ không phải lo lắng.”

Y nhẹ nhàng kéo nàng đứng dậy: “Em không cần nghĩ cho bọn họ làm gì. Từ lúc mười hai tuổi ta đã bắt đầu một mình bỏ nhà đi lang bạt, bọn họ cũng quen rồi.” Nàng chỉnh trang lại quần áo trên người, lại có chút lo nghĩ: “Anh thì quen rồi, không nói làm gì; nhưng còn tôi bỏ trốn theo anh như vậy có bị coi là bỏ nhà theo trai không?”

Mộ Ngôn: “…”

V

ượt qua Bích Sơn là đến lãnh thổ của nước Trần.

Bọn nàng từ bỏ ý định đi xuyên qua nước Khương mà chuyển hướng men theo đường vòng từ phía đông nước Trần, rẽ qua Triệu rồi mới tiến nhập vào Trịnh quốc. Sắp đặt lộ trình ngoằn ngoèo như vậy là để bỏ rơi Mộ Nghi cùng đội hộ vệ áo đen của Mộ Ngôn một cách triệt để nhất. Cuối cùng thì cũng cắt đuôi thành công.

Hành trình bôn ba như vậy, dứt khoát là vất vả vô cùng. Nhưng bởi người cùng đi với nàng là Mộ Ngôn nên nàng không cảm thấy mệt chút nào. Thậm chí, nàng còn âm thầm cầu mong cho đường đến Trịnh quốc cứ kéo dài mãi, để nàng được ở bên Mộ Ngôn lâu hơn. Nhưng bởi vì không có Tiểu Hoàng đứng ra cản trở, hành trình khó có thể bôi dài ra được. Nàng đã cố gắng rề rề rà rà hết sức mình rồi, nhưng nàng và Mộ Ngôn vẫn nhanh chóng tiến gần vào lãnh thổ nước Trịnh.

Trăng lơ lửng treo trên trời cao, thời gian trôi đi như tên bắn, thoắt cái mà sắc trời chuyển tối. Bọn nàng ghé đến trọ ở một lữ quán, ai trở về phòng người nấy để nghỉ ngơi.

Nàng nằm trên giường, vừa tính toán lộ trình đến thành Tứ Phương, vừa lặng lẽ nhớ mong Tiểu Hoàng. Càng nghĩ lại càng muốn than vãn… Thật chẳng mấy khi cần đến nó, thế mà nó lại không có ở đây, tại sao Tiểu Hoàng lại là một con hổ khó ưa như thế này!

Sáng sớm ngày thứ hai, sau khi đã rửa mặt xong xuôi, nàng xuống lầu dùng cơm sáng. Mộ Ngôn đã ngồi ở sảnh lớn từ bao giờ. Trên người Mộ Ngôn mặc một bộ y phục màu xanh lam. Màu xanh ngọc ấy trong ánh nắng của buổi sớm mai dường như bảng lảng cả chút khói sương, sắc xanh ánh lên mông lung, tựa như sắc trời rạn vỡ.

Nàng đứng lại, bần thần, quả nhiên trên cõi đời này không kẻ nào thích hợp với lam y hơn Mộ Ngôn. Ai mà dám mặc trang phục màu lam đứng trước y là tự mình làm mình mất mặt. Sau đó nàng nghĩ tiếp, lần tới khi gặp Quân Vĩ, nhất định phải khuyên nhủ hắn kiên trì theo đuổi con đường làm một hiệp khách áo trắng, không nên vì màu lam khó bắt bụi hơn màu trắng mà chuyển qua màu này. Cứ nhìn phong thái của Mộ Ngôn khi mặc lam y rồi so sánh với Quân Vĩ, thật sự khó mà tưởng tượng.

 Nghĩ xong nàng tiếp tục bước xuống cầu thang, tiện tay còn sửa sang lại quần áo một chút. Lúc nàng ngẩng đầu lên thì bắt gặp ánh mắt của Mộ Ngôn – vốn lúc trước vẫn còn nhìn bâng quơ qua cửa sổ – chẳng biết từ lúc nào đã hướng cái nhìn về nàng. Y cười rất ôn hòa. Hậu quả trực tiếp của cái cười ấy là: nàng bước hụt chân, ngã đánh rầm một cái xuống lầu!

Tuy rằng Mộ Ngôn thân thủ cao cường, nhưng lần này y đã không thể thành công trong việc đỡ lấy nàng. Bởi vì dẫu sao đây cũng không phải là khoảng cách từ lầu bảy xuống lầu một, chẳng qua chỉ là từ nấc thang thứ bảy xuống nền đất mà thôi. Độ cao thì thiếu, bề rộng thì dư, đấy là còn chưa kể đến một loạt các chướng ngại vật ngăn cách như ghế ghế bàn bàn đủ các loại.

Trong khoảnh khắc lưng tiếp xúc với mặt đất, nàng quên bẵng mất chuyện bộ váy đang mặc sẽ bị bẩn, ngược lại, nàng còn cho rằng cú ngã này thật là một điều may mắn. Bị ngã, nàng sẽ có cớ lưu lại thị trấn này, như vậy thì có thể ở bên Mộ Ngôn lâu hơn rồi. Nàng thầm trách mình tại sao không nghĩ ra biện pháp này sớm hơn, tự lực cánh sinh như vậy chẳng phải chủ động hơn rất nhiều so với việc gửi gắm hy vọng vào Tiểu Hoàng đang ở xa cách nghìn trùng sông núi ấy à! Nghĩ rồi, nàng muốn giả vờ sao cho thật giống, còn đang cố nhớ lại xem lần nàng bị ngã đau gần đây nhất là bao giờ, chưa kịp nhớ ra thì đã bị Mộ Ngôn kéo dậy: “Đi cầu thang cũng ngã được, em bao nhiêu tuổi rồi đấy?”

Nàng giả vờ thở gấp giống như đang vật lộn với đau đớn. Y cau mày, thay đổi tư thế ôm để tránh không chạm vào chỗ đau của nàng: “Em bị đau ở đâu?”

Nàng nhìn y, mặt mày ủ dột: “Chỗ nào cũng đau hết.”

Y cau mày: “Tôi đưa em đi tìm đại phu khám xem thế nào.”

Nàng lập tức hoảng hồn, nghĩ mình sắp biến giả thành thật mất rồi. Nàng vội vàng giẫy khỏi lòng Mộ Ngôn, cười gượng: “Chẳng đau ở đâu cả. Không cần tìm đại phu. Lúc nãy tôi nói đùa đó!”

Y chăm chú nhìn nàng.

Nàng quệt mồ hôi trên trán, tiếp tục gượng cười: “Đi tìm đại phu làm gì, ồn ào, dễ gây chú ý. Anh xem, tôi rất khỏe. Chẳng qua muốn đùa anh một chút. Hồi nhỏ tôi vẫn thường bị ngã, ngã suốt ngày ý mà.”

Y nhíu mày: “Thật không làm sao chứ?”

Nàng gật đầu lia lịa: “Thật.”

Nét nhíu mày của y vẫn không đổi: “Khi còn nhỏ, cơ thể đang lúc phát triển, nếu như xương cốt có điểm gì sai lệch, sau này lớn lên không hay đâu.”

Nàng ủ ê: “Tôi đã mười bảy rồi.”

Y không biết nên nói gì với nàng nữa, đành cười trừ đổi đề tài: “Nếu em không sao thì chúng ta cùng đi ăn sáng thôi.”

Mới đi được hai bước, nghĩ thế nào Mộ Ngôn lại quay lại hỏi nàng: “Em muốn ăn gì, tôi mang tới cho.”

.

.

.

Cuối cùng Mộ Ngôn không bắt nàng phải đi khám đại phu, nhưng trong lòng nàng vẫn cứ thấp thỏm không yên. Nàng cố phô bày ra dáng vẻ khỏe khoắn, mỗi bước đi cứ tung tăng tung tẩy. Nàng sợ nếu không làm cho Mộ Ngôn yên tâm, dễ mà y lại dắt nàng đến y quán. Vị đại phu nào khám cho nàng xong, nhất định ông ấy la ầm lên rằng nàng là người đã chết, sau đó nàng sẽ bị đem đi làm đủ các thể loại phân tích mất thôi.

Hình như nàng chạy nhảy quá đạt, cứ như hồi quang phản chiếu, khiến đầu óc Mộ Ngôn cũng trở nên u mê. Y cho rằng nàng cần phải tĩnh dưỡng một chút, thế là bọn nàng quyết định dừng lại nghỉ thêm một ngày ở cửa khẩu.

.

.

.

Biên giới Triệu – Trịnh là một chốn sầm uất đông vui, muốn mua gì cũng có. Nào là hình nộm bằng lông vũ, nào là kết tóc kiểu như ý, nào là chiếc khăn đội đầu của một vị công tử phong lưu điển trai đã chết từ nhiều năm trước, lại còn có món đặc sản là bạch trùng phơi khô của nước Triệu, nghe đâu chỉ cần ngâm nước uống là có thể trị được bệnh tương tư.

Nàng cực kỳ hứng thú với phương thuốc bạch trùng này. Nếu như nó thực sự hữu hiệu như lời đồn đại, nàng sẽ mua ngay một con về, sau đó nghiền thành bột phấn, trộn vào trong chén cơm của Mộ Ngôn. Nàng muốn y quên đi Tần Tử Yên, bắt đầu làm lại cuộc đời. Nhưng khi nàng hỏi qua ý kiến của tiểu nhị, phát hiện ra loại trùng này chỉ có tác dụng khi đem ngâm nước uống. Nàng nghĩ mình không thể ngâm trùng trong chén nước của Mộ Ngôn rồi nói với y: “Nè, cho anh thử món này, anh xem, con này nhìn có vẻ giống con trùng đấy… Thật ra nó chính là con trùng, nhưng không phải loại trùng thường…”

Chưa làm thử đã biết trước kết quả, Mộ Ngôn sẽ hắt đổ cả chén nước đi, thật là lãng phí đồ ăn thức uống vô cùng.

.

.

.

Người ở vùng biên cương rất giỏi trong việc ủ rượu. Bữa trưa, nàng được thưởng thức qua đủ các loại rượu quý, và tất cả đều do Mộ Ngôn trả tiền. Sau đó thay vì đi dạo, nàng được y dẫn đến một trà lầu rất phong nhã gần khu chợ để nghe kể chuyện.

Quân Vĩ, người mà bị nàng vô tình quên bẵng suốt thời gian qua, hắn vẫn luôn cho rằng cánh đàn ông không thích đi dạo cùng với các nàng con gái, bởi vì nếu người con gái thích mua món gì, là đàn ông dĩ nhiên phải đứng ra trả tiền. Vậy họ có khác gì cái túi tiền để thích tiêu xài gì thì tiêu xài, nghĩ cũng tự ái. Còn nếu như người con gái không thích mua thứ gì… Giả thiết này vừa thành lập đã bị bác bỏ, bởi vì không thể tồn tại khả năng này. Quân Vĩ thật nông cạn, quan điểm này của hắn không thể đem áp dụng cho nàng và Mộ Ngôn. Sở dĩ bọn nàng đến trà lầu nghe kể chuyện chứ không đi dạo cùng nhau là vì bây giờ đang là tháng sáu, trời nắng như thiêu như đốt trên đầu, không thích hợp cho việc đi dạo.

Quán trà giờ này không còn chỗ trống, bọn nàng đành phải ngồi ghép bàn với những người khách khác ở gần phía cầu thang. Mộ Ngôn rút từ trong ống tay áo ra một chiếc quạt giấy mười hai nan, khi xòe ra, quạt khẽ đung đưa tạo thành cơn gió nhẹ phe phẩy. Lão tiên sinh kể chuyện ngồi ngay ngắn nghiêm chỉnh, ông đang giảng đến đoạn: “Đêm  hôm đó là ngày mười lăm tháng năm, nhị công tử Tô Tạ nghe nội giám truyền đến mật báo, nói ‘Trần hầu bệnh lâu ngày, giờ Tuất một khắc đã trút hơi thở cuối cùng. Phút lâm chung, chỉ có tể tướng Doãn Từ ở bên long sàng hầu hạ. Nửa khắc trước, Doãn tể tướng đã phái tâm phúc gấp rút vượt tám trăm dặm đường xa để nghênh đón thế tử Tô Dự hồi cung, kế thừa tước vị. Nhị công tử nếu như muốn khởi sự thì đêm nay chính là thời cơ nghìn năm khó gặp. Còn nếu để thế tử Dự hồi cung, tất cả mọi chuyện đều không thể cứu vãn.’

Tô Tạ khổ tâm mưu tính nhiều năm, đợi mãi mới đến được ngày Trần hầu cưỡi hạc về Tây Thiên, huynh trưởng là người được thừa kế tước vị thì lại bị ái tình làm cho thương tổn, không biết đang phiêu bạt chân trời nào. Quả thật không còn dịp nào thuận lợi hơn thế. Màn đêm vừa buông xuống, Tô Tạ liền khởi binh bức cung đoạt vị, dọc đường thế như chẻ tre, thẳng tiến đến vương cung. Quan Vệ úy trấn thủ hoàng cung vừa lâm trận đã trở giáo đứng về phe Tô Tạ, khắp bảy mươi dặm Hạo thành, nơi nơi đều chìm trong ánh đuốc chập chùng, cả vương đô tràn đầy mùi máu tươi và nhựa thông cháy. Vương cung có biến lớn, thế tử Dự lại vắng mặt, ai nấy đều cho rằng đại cục đã định, Trần hầu kế nhiệm chắc chắn phải là Tô Tạ. Nhưng sự đời khó đoán, Tô Tạ còn chưa kịp tra bảo kiếm nhuốm máu vào vỏ, cánh cửa hoàng cung đang đóng chặt bỗng nhiên kêu kẽo kẹt một tiếng rồi chầm chậm mở ra…”

Nàng thở dài: “Cánh cửa này nhất định là chín năm rồi chưa được tu sửa.”

Vừa nói dứt lời, nàng kinh ngạc khi nhìn thấy vẻ mặt của lão tiên sinh kể chuyện, lúc đó ông ấy gần như không còn sức để nói tiếp, phải uống ngụm nước để nhấp giọng; mà khi đó, những người nghe kể chuyện trong trà lầu thì vẫn chìm đắm trong không khí tiêu điều của vụ binh biến chốn cung đình, toàn bộ lầu hai im phăng phắc, yên tĩnh như đêm sâu, thành ra tiếng cảm thán này của nàng vang lên nghe rõ mồn một…

Mộ Ngôn phe phẩy quạt, trong mắt ngập đầy ý cười, nhưng lại không nói tiếng nào.

Nàng lè lưỡi, cúi mặt nhìn xuống bàn, tiếp nhận đủ mọi ánh mắt khinh bỉ của đám khách nhân trong quán. Ngoài cửa sổ là ánh mặt trời chói chang, lá liễu bị phơi nắng đến cong queo vàng cháy. Bọn ve sầu ẩn nấp trong tàng lá rậm rạp, kêu đến rát cổ bỏng họng những chuỗi âm thanh râm ran mùa hạ.

Lão tiên sinh uống nước xong, lại tiếp tục kể: “Theo lời đồn, Trần thế tử Tô Dự bí mật nuôi dưỡng ba trăm ảnh vệ, những ảnh vệ này có thể ví như ba trăm thanh kiếm sắc bén hợp lại thành một đội quân bất khả chiến bại. Trước đêm hôm binh biến, chuyện liên quan đến đội ảnh vệ nước Trần, đa phần chỉ là lời đồn thổi mà thôi. Nhưng chính thời điểm Tô Tạ làm phản, sau khi cánh cửa vương cung mở lớn, ba trăm ảnh vệ này cưỡi tuấn mã mở đường. Vó sắt của đoàn ngựa quét ra một đường máu thê lương, sắc trời nơi vương đô ảm đạm. Nghe thấy có tiếng vó ngựa thong thả đạp tuyết tiến ra, người ngồi trên lưng ngựa không phải ai khác mà chính là Tô Dự – vị thế tử đáng lẽ còn đang ở nghìn dặm xa xôi. Trong tay ngài vẫn còn cầm thủ cấp đầm đìa máu của quan Vệ úy Hình Vô Giai. Tình thế xoay chuyển trong nháy mắt. Mấy vị phó quan của Vệ úy thì có tới phân nửa là do Tô Dự cắt đặt. Tình thế như vậy, dẫu cho Tô Tạ có là hổ mộc thêm cánh cũng khó lòng chống đỡ được…”

Nàng cảm thấy sắp bị ru ngủ mất rồi, lời kể của lão tiên sinh trong trà quán chỉ còn là chuỗi âm thanh đều đều vang lên bên tai. Nàng cố gắng chống tay vào thái dương để không gục mặt xuống bàn, khẽ than: “Chuyện thật là dài.”

 Mộ Ngôn nhấp ngụm trà: “Em muốn biết luôn kết quả cuối cùng không? Mọi chuyện rất đơn giản, Trần hầu kỳ thực không chết, chỉ hôn mê bất tỉnh một thời gian. Khi ông tỉnh lại, nhìn thấy đứa con trai bất tài thừa lúc ông lâm trọng bệnh mà làm phản, lập tức ban cho hắn cái chết. Nhị công tử Tô Tạ bị xử tử được vài ngày, nước Đường là láng giềng của nước Trần bị nước Tấn khởi binh xâm lược. Đường cầu cứu Trần. Trần hầu mới ốm dậy, lại đau xót vì mất đi đứa con, không định tham gia vào cuộc chiến Đường – Tấn mà muốn đứng yên làm ngư ông đắc lợi. Thấy ý tứ Trần hầu như vậy, thế tử Tô Dự ra sức can gián, xin ông xuất binh trợ Đường. Thuyết phục mấy ngày, cuối cùng ông cũng bằng lòng, thế là liên quân Trần – Đường hợp lực đánh bại cuộc xâm lăng của nước Tấn.”

Nói xong, y lướt ánh mắt về phía nàng: “Những chuyện đánh tới đánh lui này, một cô bé con như em chắc là không thích nghe đâu nhỉ?”

Nàng gần như sắp bật khóc đến nơi, ai oán nhìn Mộ Ngôn: “Chẳng qua tôi chỉ than thở là câu chuyện kia hơi dài, đâu phải là tôi không muốn nghe đâu! Tại sao anh lại tiết lộ hết cả tình tiết ra thế này, lại còn kể rất rõ ràng nữa chứ!! Tôi ghét anh ghét anh!!!”

 Mộ Ngôn: “…”

.

.

.

Sau khi uống gần hết một bình trà, rốt cuộc lão tiên sinh cũng đã kể đến đoạn Đường – Trần tác chiến, ngoài cửa sổ là ánh nắng nhạt của buổi chiều buông, nắng trời xuyên qua tán liễu rủ, mềm mại hắt sáng vào gian phòng trong trà quán, những mảnh nắng như hoa bung nở, loang trên khắp phiến tường.

Sau khi bị Mộ Ngôn tiết lộ hết cho nghe hết những cơ mật, nàng hậm hực không thể ngủ tiếp, tâm trạng thì cứ buồn chán vô biên. Nàng nhoài người trên bàn nhìn ngắm nhân tình thế thái, thỉnh thoảng chán chán thì liếc nhìn ngón tay thon dài của Mộ Ngôn.

Hồi lâu, Mộ Ngôn đột nhiên nói: “Đoạn bình thư, họ giảng thực không sai. Nhưng đa số đều nói quá sự thật, tuy nhiên cách kể lại rất hấp dẫn.”

Nói đến đây, có một cậu thanh niên hừng hực khí thế, nhanh mồn nhanh miệng nói: “Hóa ra tài của Tô Dự đó cũng chỉ có thế. Nếu là tôi, tôi sẽ mặc kệ cái vũng nước đục Đường – Tấn chứ không dại mà nhảy vào đâu. Chờ cho hai nước kia đấu đá nhau, lưỡng bại câu thương, lúc đó chỉ việc hưởng lợi, vậy không hay hơn sao?” Xung quanh vang lên tiếng phụ họa, nàng lắc lắc đầu có vẻ không đồng ý lắm, rồi với tay rót thêm chung trà.

Mộ Ngôn hờ hững thu quạt lại: “Em muốn nói gì sao?”

Nàng nhanh chóng ngẩng đầu liếc y, rồi ngay lập tức lại cúi đầu xuống: “Không có gì.”

Y giúp nàng rót thêm trà: “Có gì thì cứ nói nghe thử xem?”

Nàng rầu rĩ: “Lời tôi nói lúc nào cũng dông dài. Sau đó anh lại bắt tôi ăn sủi cảo gì đó. Ăn xong, tôi cũng quên mất mình định nói gì. Thôi thì đừng nói cho xong.”

Bàn tay y đang cầm ấm trà bỗng run lên, Mộ Ngôn bật cười thành tiếng: “Lần này nhất định sẽ không bắt em ăn cái gì nữa. Em thích nói gì thì cứ việc nói đi.”

Nàng hào hứng: “Được, cũng không có gì, chẳng qua muốn bộc bạch một chút. Số phận cuộc đời con người ta cũng giống như quả lắc đồng hồ, nhìn vẻ bề ngoài thì chỉ thấy được có hai khả năng: hoặc nghiêng sang trái, hoặc nghiêng sang phải. Thật ra đúng là chỉ có hai khả năng này, nhưng trong quá trình con lắc dao động, lại phát triển thành vô số khả năng. À, cũng không thể gọi nó là khả năng được, chính xác chỉ là con đường dẫn đến khả năng mới đúng. Không nghiêng sang phải thì là nghiêng sang trái. Còn nếu không nghiêng sang bên nào, tức là cái đồng hồ chết.”

Nói xong liếm liếm môi, hỏi y: “Anh hiểu chứ?”

Nét mặt y mang theo biểu tình không hiểu cái gì hết.

Nàng ngẫm nghĩ một chút, cố tìm ra một ví dụ khác đơn giản hơn để giảng giải cho Mộ Ngôn, suy nghĩ nửa ngày thì cũng tìm được: “Có thể hiểu là như thế này, con người ở trên đời, nếu như không phải nam thì là nữ, không phải nữ tức là nam. Còn nếu chẳng ra nam, chẳng ra nữ thì là nhân yêu*. Nhưng nếu làm một nhân yêu thì sẽ bị xã hội kỳ thị, hơn nữa còn rất khó tìm đối tượng.”

Nói xong nàng lại liếm liếm môi: “Lần này anh nghe hiểu chứ?”

Nét mặt y vẫn mang theo biểu tình không hiểu cái gì hết.

Đúng là sắt không thể rèn thành thép được! Nàng đành nói trắng ra: “Chuyện rất đơn giản mà! Ý của tôi là, ở vào tình huống của Tô Dự, giả như y cứ giữ mình ở thế trung lập, ung dung đứng ngoài kệ cho Đường – Tấn sống chết mặc bay thì sau này y sẽ không thể tìm được đồng minh trong các nước chư hầu! Những người kia suy nghĩ quá đơn giản, họ không biết rằng trong thời loạn thế, không phải trắng thì là đen, không phải đen thì là trắng. Trừ phi quốc gia của họ đủ lớn mạnh để đứng riêng một mình một cõi, bằng không, không có tư cách để đứng ở thế trung lập. Nếu là một bậc quân vương anh minh trong thời loạn thế, lập trường lại càng phải rõ ràng. Đương nhiên, nếu như vị quân vương anh minh kia đã là bá chủ một cõi thì không có gì đáng nói.”

Nàng nghiến răng nghiến lợi hỏi: “Lần này anh nghe có hiểu không?”

Khóe mắt y tràn ngập ý cười, rồi y nghiêm trang nhìn nàng: “Em muốn ăn món gì không? Ăn xong rồi nói tiếp.”

“…”

.

.

.

Nếu nàng nhớ không lầm, đây là lần thứ hai nàng nghe người ta bàn tán về Tô Dự ở chốn đông người.

Nửa năm trước, Tô Dự dẫn theo mười vạn thiết giáp đánh bại Vệ quốc trong một tiếng cười nhạt ung dung. Người này đa mưu túc trí, dụng binh quỷ quyệt. Trong khoa thi ở thành Thiên Khải, y ra một đề thi hóc búa khiến cho đa phần những người dự thi đều rớt sạch, nhờ đó, y vinh dự được trở thành nhân vật chính trị bị giới trí thức ghét nhất trong năm. Qua đó có thể thấy Tô Dự này mai sau ắt trở thành nhân vật tiếng tăm. Nàng nói vậy không phải vì y tuổi còn trẻ mà đã nắm giữ quyền cao chức trọng hay là dụng binh như thần gì đó. Chẳng qua, những nhân vật trong lịch sử có khả năng tác động đến chuyện khoa cử hiện giờ đều đã chết sạch, Tô Dự lại còn sống sờ sờ ra đó, thật sự khiến người ta phải nhìn bằng con mắt khác. Hơn nữa, Tô Dự có thể bị nhiều người căm thù như vậy, đây cũng là một minh chứng hùng hồn cho việc sau này y sẽ vô cùng nổi tiếng. Có thể phỏng đoán một vài nguyên nhân: hoặc y có ngoại hình vô cùng xuất sắc, hoặc y có nhiều tiền, nếu không thì sẽ có năng lực hơn người. Cho dù cả ba điều trên đều không đúng, ít nhất, Tô Dự cũng là người có thể chứng minh được sự tồn tại của mình.

Dù nghĩ tới nghĩ lui thế nào chăng nữa, nàng cũng cảm thấy ngày hôm nay nàng đã có những trải nghiệm thật là phong phú.

T

rời buông màn đêm, gió mơn man khơi gợi tâm tư. Nàng ngồi bên ngọn đèn viết ra những điều tâm đắc trong ngày. Sau khi đã xong xuôi, nàng thu xếp gối chăn chuẩn bị lên giường ngủ. Vừa mới thổi tắt ngọn đèn cầy, song cửa sổ cách nàng hai bước đột nhiên vang lên tiếng lạch cạch ngắn ngủi, sàn nhà bằng gỗ nhãn khẽ rung, báo hiệu có kẻ vừa đột nhập. Nàng nghiêm giọng hỏi: “Ai đấy?”

Dường như có một vật thể lạnh lẽo áp sát cổ nàng, mà lúc đó, tay nàng còn đang bận lần tìm cái châm lửa. Về sau mỗi khi nhớ lại tình cảnh này, nàng đều cảm thấy mình đã thể hiện được khí chất anh hùng: thời khắc cận kề sinh tử cũng không có lấy nửa phần sợ hãi. Thật ra lúc đó không thấy sợ là vì chưa rõ cái gì đang áp vào cổ mình. Sau khi châm đèn lên rồi, nàng dè dặt cúi đầu liếc xuống: kề sát cổ nàng là một thanh đoản đao sáng loáng!

Ánh lửa mông mông lung lung, nếu miễn cưỡng thì cũng có thể chiếu sáng được một góc phòng. Trên sàn nhà là một đôi hài thêu viền trắng, phía trên đôi hài là chiếc váy dài màu tím. Trong bóng tối, người con gái dùng đoản đao kề sát cổ nàng khẽ cười: “Đao kiếm vô tình, nếu động đậy, cẩn thận yết hầu sẽ bị cắt đứt!” Tiếng cười thanh thanh của cô gái chỉ cách nào gang tấc, nàng nhìn sang xem kẻ đe dọa mình rốt cuộc là ai. Mặt đối mặt nhau, nàng bỗng cảm thấy kinh hãi vô cùng: cô gái này chính là người nàng đã gặp ở vương cung nước Trịnh, vị phu nhân bước ra từ bức tranh thủy mặc – Thập Tam Nguyệt!

Hoa Tư dẫn chứ có phải độc do Quân sư phụ bào chế đâu?! Một khi đã ra tay thì tuyệt không thể có điều gì sơ sót được. Nếu là độc của sư phụ thì còn đi một nhẽ, nhìn có vẻ ra dáng tử vong, nhưng đương lúc cử hành tang sự, người chết có thể bật dậy sống tiếp. Còn Hoa Tư dẫn nhất định không sảy tay như thế.

Cách đây nửa tháng, nàng còn nhớ rõ đó là tối ngày hai mươi lăm tháng năm, trong một khu vườn nở đầy hoa Đồ Mỹ ở Cẩm Du Viên – vương cung nước Trịnh, nàng đã tấu một khúc nhạc Hoa Tư, tự tay mình kết liễu tính mạng Thập Tam Nguyệt. Lúc này, vị phu nhân ấy đáng lẽ nên là một bộ xương trắng nằm dưới nấm mồ hoang lạnh. Cho dù Dung Tầm có dùng phương pháp tốt đến mấy để bảo quản thì lúc này cô ấy cũng nên giống như nàng: một người chết sắc mặt tái nhợt tái nhạt, xung quanh tràn ngập tử khí. Dĩ nhiên người bình thường khó mà nhận ra cái khí chất này, cho dù cảm nhận được chăng nữa, cũng chỉ thấy có điều gì hơi khác lạ mà thôi. Còn Thập Tam Nguyệt đang ở trước mặt nàng đây: sắc mặt hồng hào, so với lần gặp trước trong Trịnh vương cung thì diễm lệ hơn muôn phần. Cô chẳng có vẻ gì là người đã chết cả!

Nàng cẩn thận nhìn lại cô một lần nữa: “Tôi không biết chị, chị là ai?!”

Cô dựa người vào nàng một chút, nét mày hơi nhíu lại, khóe môi cong lên thấp thoáng ý cười: “Chỉ là một người đi đường thôi. Tôi muốn mượn tạm phòng cô để tránh kẻ thù và băng bó vết thương.” Thanh đoản đao lại một lần nữa áp sát cổ nàng, dường như muốn tăng thêm hàm ý uy hiếp. Đáng tiếc là đầu óc của nàng lúc này hơi trì trệ một chút, mải nghĩ linh tinh nhiều thứ nên không thể kịp thời biểu diễn vẻ kinh sợ cho hợp với khung cảnh. Ý cười trong mắt cô gái kia lại càng thêm sâu, khóe miệng càng cong lên: “Cô can đảm lắm.” Dường như gió đêm mang theo cả tiếng thở dài, lời của cô rơi bên tai nàng, nhẹ nhàng bay bổng. Một khắc sau, cô đột ngột đẩy nàng ép sát vào cửa, đoản đao sượt qua mái tóc nàng rồi ghim chặt vào cửa gỗ, ý cười trong mắt cô không giảm lấy nửa phần. Không rõ nụ cười trên đôi môi kia là thật lòng hay giả tạo, chỉ biết giọng nói của cô nhẹ bẫng: “Những lời vừa nãy của tôi, cô làm theo hay không làm theo?”

Nàng vội vã gật đầu: “Làm theo. Sẽ làm theo.” Kết quả là nhân lúc nàng mở miệng, một viên thuốc nhỏ đã chui tọt vào cổ họng. Nàng mím môi lại, đăm chiêu suy xét một vấn đề phức tạp mới: “Không biết bị hạ thuốc gì đây? Quan trọng là không biết giao châu có tịnh hóa được độc tính của nó không đây?!”

Cô gái áo tím nói với nàng rằng tên cô là Oanh Ca. Nàng chỉ nghe thôi chứ tuyệt đối không tin, bởi lẽ tên gọi vốn chẳng có ý nghĩa gì nhiều nhặn lắm, ai hành tẩu giang hồ mà chẳng chuẩn bị cho mình một hai cái nghệ danh đâu!

Sau khi cho nàng nuốt viên thuốc xong, Oanh Ca thản nhiên ngồi xuống giường, sai bảo: “Tôi cần thuốc trị thương, vải băng, nước sạch, một con dao nhỏ và nến.” Vừa sai khiển, Oanh Ca vừa nhíu mày gỡ bỏ vạt áo, lộ ra bả vai bị thương. Vùng da thịt nơi bờ vai quanh năm không lộ ra dưới ánh mặt trời giờ đây khi soi dưới ánh nến mang sắc màu trong suốt. Băng vải quấn chặt trên vai đã bị máu thấm đỏ, trông giống như một đóa mẫu đơn diễm lệ nở rộ trên bờ vai tuyết trắng.

Những thứ Oanh Ca yêu cầu đều sẵn có. Lúc nàng đưa cho cô thuốc cầm máu thì trông thấy vết thương trên vai cô. Vết thương ấy sâu đến nỗi có thể nhìn thấy được cả xương trắng. Nàng liếm liếm môi, xuýt xoa: “Chắc là đau lắm.”

Oanh Ca nghiêng đầu nhìn nàng, răng cô cắn chặt vào môi đến bật máu, nhưng trong mắt vẫn chất chứa ý cười: “Cô đoán xem, trước khi xuất giá tôi đã làm nghề gì để sinh nhai?”

Nàng lắc đầu biểu thị không biết. Làm sao nàng biết được cô đã gả chồng rồi, lại càng không thể nào biết cô từng làm nghề gì để kiếm sống.

Oanh Ca cầm đoản đao hơ nóng trên lửa nến, rồi cô nhắm mắt lại, dùng con dao nhỏ róc vào da thịt, thản nhiên khoét đi chỗ bị trúng độc. Không khí trong phòng lặng im phăng phắc, rất lâu sau đó giọng của cô vang lên, khàn khàn, đứt quãng: “Trước khi gả cho chàng, tôi là một sát thủ, ngày ngày đều dùng cây đao để mưu sinh, hoặc là giết người, hoặc là bị người giết. Quỷ Môn quan cũng đã tới lui mấy lượt, đau đớn nào cũng đã từng nếm thử qua rồi.” Trong bóng tối, tiếng cười của cô thanh thanh vang lên nghe có phần kì dị. “Chẳng thể ngờ ngờ mới nhàn rỗi vài năm, hôm nay gặp phải vết thương cỏn con như vậy đã tưởng như không chịu nổi.” Ngừng một chút, cô rắc thuốc bột lên miệng vết thương; trên trán cô, mồ hôi đã túa ra ròng ròng, nhưng khóe môi thì vẫn cong lên: “Tôi có làm cô sợ không? Tôi chỉ làm phiền cô một đêm thôi, sáng mai sẽ lập tức lên đường. Sự chiếu cố của cô đêm nay, tôi xin ghi nhớ trong lòng.”

Thực ra, nàng không hề cảm thấy sợ hãi, cũng không hiểu vì sao Oanh Ca lại kể cho nàng nghe những chuyện này. Nếu luận về ai sợ ai thì người sợ hãi nên là Oanh Ca mới phải! Thử nghĩ xem, cô đang sống sờ sờ ra đấy, thế mà dám ở chung phòng với một người đã chết, lại còn trao đổi chuyện nhân sinh với người chết nữa. Đổi lại, nếu nàng là Oanh Ca thì nàng mới cảm thấy đáng sợ! Trong lúc đang nghĩ lợi rất lung, tâm trí nàng bỗng nhiên được khai sáng trong khoảnh khắc. Dường như nàng sắp hiểu ra được điều gì rồi.  Nàng hỏi: “Oanh Ca là tên thật của chị à?”

Oanh Ca ngả người vào thành giường, thần sắc bắt đầu trở nên nhợt nhạt. Trên trán cô là những giọt mồ hôi tứa ra, bờ mi run nhẹ. Nàng thật không hiểu tại sao giữa cơn đau đớn thế này, gương mặt cô vẫn có thể biểu hiện những động tác có độ khó cao như vậy. Giọng của cô vẫn còn hơi khàn khàn nhưng đã có chút âm sắc: “Tên thật thì sao, tên giả thì sao? Bắt đầu từ lúc 11 tuổi, đã không còn ai gọi tôi là Oanh Ca nữa. Oanh Ca ư… cái tên này nghe cũng khá êm tai. Mà cô đừng nhìn tôi chằm chằm vậy, đây cũng chẳng phải cái tên gì đặc biệt. Tôi xuất thân nghèo khó, sau tôi có một em gái. Cha tôi đã dùng nửa vại dưa cải muối để nhờ vị tiên sinh trong thôn đặt cho tôi một cái tên nghe sao vừa dễ nghe lại vừa dễ nuôi. Khi ra đời, tiếng khóc của tôi so với em gái nghe vang hơn một chút, vậy nên tiên sinh ấy bảo nên đặt là Oanh. Nhưng hoàng oanh vốn là loài chim cao quý yêu kiều, nhà tôi thì nghèo, tôi lại là phận gái, đâu có xứng. Vị tiên sinh kia ngẫm nghĩ hồi lâu, sau đó quyết định ghép thêm chữ “Ca” ở đằng sau, để nếu như thần linh có nghe được cái tên này thì cũng tưởng đây là tên dành cho con trai, như vậy mới xứng với chữ “Oanh” kia.

Nàng tỏ ra ngạc nhiên nhìn cô: “Oanh Ca nghe thú vị mà”, sau đó nàng lại hỏi tiếp: “Chị bảo sau chị còn có một em gái, vậy em chị tên gì?”

Ánh mắt cô trở nên mơ hồ. Sau khi nhìn lại nàng một lượt từ đầu đến chân, cô cười nhạt: “Quên rồi.”

Trên đời này sẽ không có chuyện tồn tại hai người giống nhau như khuôn đúc. Ngay cả gà cùng một mẹ đẻ ra cũng mỗi con một vẻ, huống chi là người. Nàng nghĩ ngợi rất lâu, ví dụ như Oanh Ca và Thập Tam Nguyệt đã chết kia, thực chất chỉ là một người mà thôi. Như vậy cũng có điểm không thỏa đáng. Hay cái cô Oanh Ca này vốn mang một gương mặt khác, nhưng lại cố tình chỉnh dung cho giống với Thập Tam Nguyệt đã chết kia? Giả thiết này lại kéo theo một vấn đề mới là vì sao cô phải làm thế? Còn có một giả thiết khác nữa, đó là: người chị gái mà Thập Tam Nguyệt nhắc tới trong giấc mộng Hoa Tư, người chị đã làm cho Thập Tam Nguyệt thương tâm tột độ, cuối cùng phải tìm đến cái chết để giải thoát, chính là Oanh Ca!

Trong thuốc trị thương luôn kèm theo vị an thần, vậy nên Oanh Ca nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Quý hóa là trước khi ngủ, cô vẫn không quên việc lấy một sợi mảnh vải bố trói nàng lại.

Nàng chỉ đành nằm ở mép giường lặng yên quan sát cô. Đôi mắt Oanh Ca đã khép, nét mày khẽ chau. Nàng nghĩ nàng và Mộ Ngôn bôn ba bao dặm đường, cuối cùng đáp án muốn tìm lại ở ngay trước mắt, nhưng tâm trí người con gái này như một thứ quả cứng thật khó lòng mà khai mở. Tạm thời, nàng cũng không biết nên xử trí thế nào.

Trong đầu chỉ toàn là những suy nghĩ rối bời bời, nàng muốn ngủ cũng khó. Ước chừng một, hai canh giờ đã trôi qua; khi ánh trăng đã len vào ô cửa, có tiếng loạt xoạt vang lên: một con chuột bò đến gần ngọn đèn để trộm dầu. Nàng mở to mắt quan sát thật tỉ mỉ cảnh tượng trước mắt mình. Sau lưng nàng bỗng vang lên tiếng nức nở rấm rức trong màn đêm. Con chuột bị tiếng khóc thút thít ấy dọa sợ, rơi “bịch” một cái xuống đất. Nàng cũng bắt chước nó mà lăn xuống giường.

Vất vả lắm nàng mới đứng dậy được. Oanh Ca vẫn chưa tỉnh lại. Trên gò má trắng như tuyết rủ xuống vài sợi tóc đen ướt đẫm vệt nước mắt. Những giọt nước mắt ấy không ngừng xuôi theo khóe mi rồi lăn dài trên má, giọt từng giọt rơi thấm ướt cả chiếc gối. Nàng quỳ xuống bên cạnh giường, tỉ mỉ nhìn Oanh Ca. Có lẽ cô đang nằm mơ, nhưng không rõ là mơ chuyện gì. Quả hạch* cuối cùng đã lộ ra kẽ nứt, nếu muốn tách mở nó, đây chính là cơ hội. Nhưng lương tâm nàng lại lên tiếng hỏi: có nên lợi dụng giao châu để dò xét bí mật của người khác không? Có lẽ từ trăm nghìn năm nay, những người nắm giữ bí thuật về Hoa Tư dẫn đều phải đối mặt với lựa chọn khó khăn này. Vấn đề này với vấn đề “thiếu nữ mang thai trước khi kết hôn có nên nạo thai không” có chung một nét tương đồng, cả hai đều thuộc phạm trù đạo đức luân lý. Biện pháp giải quyết cho vấn đề thứ hai là: thiếu nữ mang thai trước khi kết hôn sẽ bị nhốt vào chuồng heo.

Thực ra dùng bạo lực để giải quyết vấn đề là không nên, bởi vì bản thân bạo lực đã chính là một vấn đề rất lớn rồi. Nói tóm lại, nàng đang do dự xem nên hay không nên đi vào giấc mộng của Oanh Ca. Đúng lúc đó, Oanh Ca bỗng nhiên giẫy giụa một hồi, tựa như đang mơ phải ác mộng. Nàng ngay lập tức tìm được lý do chính đáng: Oanh Ca đương lúc khó khăn, cần người tương trợ. Nàng phải đi vào giấc mơ của cô, giúp cô thoát khỏi cơn mộng dữ.

Nghĩ là làm, nàng nắm chặt lấy tay Oanh Ca, tập trung tinh thần để tiến vào cơn ác mộng của cô. Tuy đây là lần đầu tiên nàng mượn năng lực của giao châu để làm chuyện này, nhưng mọi chuyện lại diễn ra vô cùng thuận lợi. Có lẽ bởi vì nàng có một lợi thế hơn hẳn các bậc tiền bối tu luyện Hoa Tư dẫn khác: nàng là một người đã chết, trong lòng chẳng còn ham muốn gì với lẽ nhân sinh, tâm vô tạp niệm thì làm gì cũng thuận.

Trước mắt nàng xuất hiện một khoảng không tối om, tiếng mõ vang vang, một cây cầu nối mộng bắc qua nhánh sông, nàng đoán chừng đây chính là cây cầu để tiến nhập mộng của Oanh Ca. Nàng hít vào một hơi thật sâu, đang định bước vào cõi âm u đó thì cánh tay đột nhiên bị giữ lại, bên tai nàng vang lên một tiếng gọi trầm trầm: “A Phất.” Nàng sững người, muốn vùng khỏi bàn tay đang nắm lấy mình, nhưng đã không kịp nữa rồi, tiếng mõ đã biến mất ở đầu bên kia bóng tối. Chớp mắt, nàng rơi vào giấc mộng của Oanh Ca.

Giữa chốn đất trời hoàn toàn xa lạ, nàng ngẩng đầu nhìn cái người vẫn đang nắm lấy tay phải của mình, khó hiểu: “Tại sao lại theo tôi đến đây?”

Mộ Ngôn hơi nhướng mày, ánh mắt y hướng về phía trước. Khung cảnh bày ra một con đường hẹp với hai bên là tường đen ngói xanh, trên cao là những mái hiên tuyết phủ, trăng thanh gió mát, bốn bề tĩch mịch. Y thu tầm mắt lại: “Tôi nghe thấy trong phòng em có tiếng động lạ, bèn qua xem thử có vấn đề gì không.” Ngừng một chút rồi y nói tiếp: “Đây là đâu? Cô gái trong phòng em là ai?”

Nàng tóm tắt ngắn gọn lại cho Mộ Ngôn nghe những chuyện vừa xảy ra. Người nàng rét run vì lạnh, đây cũng chính là nỗi khốn khổ của người tu luyện giao châu: mỗi lần tiến nhập mộng đều không biết tình hình thời tiết bên trong nóng lạnh thế nào. Mộ Ngôn vẫn nắm chặt lấy tay nàng không buông không rời: “Sao tay em lạnh thế?”

Nàng cảm thấy y rõ thật là nói nhảm, tay người chết sao không lạnh được! Nàng rùng mình, định rút tay ra. Mộ Ngôn chăm chú nhìn nàng, nàng dè dặt trả lời: “Ừm… Có thể là vì… băng cơ ngọc cốt* trong truyền thuyết cũng nên.”

*

Phía trước con hẻm nhỏ bỗng vang lên tiếng vó ngựa lộc cộc, đi kèm theo đó là tiếng bánh xe lăn trên đường đá. Nàng tiến về phía trước hai bước, lại thêm hai bước và nhìn chăm chú vào đứa ăn mày đang nằm co rúm bên góc đường. Mộ Ngôn kéo nàng lùi lại, nàng bèn giải thích với y: “Không ai nhìn thấy chúng ta đâu.” Nghĩ một chút, nàng lại bổ sung thêm: “Vì đây là một giấc mơ, mọi người trong này đều không thể nhìn thấy chúng ta.” Một chiếc xe ngựa mui đen chạy ra từ con hẻm sâu, sắp sửa đâm sầm vào đứa ăn mày. Người lái xe hoảng hốt ghìm chặt dây cương, con hắc mã kéo xe giương cao vó, dữ tợn hí vang. Trong xe vang tới một giọng sắc lạnh: “Chuyện gì?” Phu xe vội vã ghìm cương kéo ngựa lui về sau, bẩm báo: “Có tên ăn mày làm cản đường.” Mành xe vén mở, lộ ra một cánh tay áo màu tím. Phu xe tiến lên trước một bước để trấn an con hắc mã rồi kéo đứa ăn mày sang một bên. Trên xe truyền ra mệnh lệnh: “Mang theo nó về phủ.” Phu xe hơi ngẩn người: “Chúa thượng, đây là…” Sau bức mành che lại vang lên tiếng cười lạnh lẽo: “Không biết chừng đây chính là người trong số mệnh trời ban cho ta, là sát thủ tốt nhất của Dung gia.”

Tiếng vó ngựa dần tan biến ở đầu bên kia con đường, khung cảnh trong chớp mắt hóa thành hư vô. Bọn nàng lại chuyển đến địa điểm mới là một căn phòng rộng rãi. Ánh nến nhạt nhòa, chiếc đỉnh hương đặt trên bàn tỏa ra làn khói thơm bảng lảng. Trên giường có một đứa bé gái, đoán chừng là tên ăn mày trong con hẻm lúc nãy. Có lẽ đứa trẻ này đã được sắp xếp thỏa đáng. Nàng không nhìn rõ gương mặt đứa bé lắm, phía trước giường xuất hiện một thiếu niên mặc áo choàng màu tím sang trọng, dáng vẻ nghiêm nghị. Thiếu niên hơi cúi đầu, hỏi: “Cô tên gì? Trong nhà còn ai nữa không?”

Cô gái nhỏ ngọ nguậy tỏ ý muốn ngồi dậy thì bị người hầu gái ngăn lại. Dưới lớp chăn gấm ngổn ngang hé lộ ra gương mặt chỉ lớn bằng bàn tay, sắc mặt thì xanh tái, nhưng giọng nói của cô gái nhỏ ấy lại không có vẻ gì là sợ hãi: “Oanh Ca. Nô tỳ tên là Oanh Ca. Năm trước, quê nhà bị lũ cuốn, cha mẹ đều đã chết. Trong nhà chỉ còn bà nội và một người em gái.”

Nàng tiến gần thêm một chút để nhìn cho rõ, gương mặt cô gái nhỏ này quả thật có dáng dấp của Oanh Ca, nhưng nàng cũng không thể tin nổi người con gái áo tím với nụ cười nửa thật nửa đùa trên môi hôm nay đã từng là một đứa trẻ như thế này. Nhìn vào đôi mắt thẫm đen của cô, cuối cùng nàng cũng đã hòa hợp được với tinh thần cô rồi. Nhờ sự dẫn dắt của giao châu, tâm tư nàng và Oanh Ca trở nên tương thông. Điều này có cái hay là nàng sẽ biết được chuyện gì xảy đến với Oanh Ca, nhưng cũng có cái dở là dẫu cho có biết, nàng cũng chẳng thể làm gì. Nàng muốn nhìn nhận sự việc một cách khách quan nhất, nhưng cái nhìn của con người vỗn dĩ đầy định kiến.

“Oanh Ca?” Người thiếu niên áo tím cười cười: “Vậy em gái của cô chắc tên là Yến Vũ nhỉ?”

Đôi mắt đen thẫm của cô mở thật to và ngơ ngẩn nhìn về phía chàng trai ấy, tựa như không hiểu chàng muốn nói gì. Chàng hờ hững liếc nhìn gương mặt xanh tái của cô, rồi quay người trông về  phía bóng trăng mờ ảo ngoài cửa sổ. Chàng thờ ơ nói: “Oanh Ca… cái tên này có phần mỹ miều quá. Hôm nay là ngày mười ba tháng chạp, thời điểm trăng trên trời cao và sáng nhất. Từ nay sẽ gọi em là Tập Tam Nguyệt. Ta nhặt được em, sau này, em là người của ta, sẽ đi theo ta.”

Theo ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn cầy, nàng nhìn thấy rõ gương mặt nghiêm nghị mà tuấn tú của người ấy. Gương mặt chàng vẫn còn mang vẻ non nớt của tuổi thiếu niên. Áo choàng tím, chiếc đai ngọc, khóe miệng đang cười mà nét mặt lại lạnh lẽo như tuyết rơi. Chàng chính là Bình hầu Dung Tầm thời niên thiếu. Nàng cúi xuống nhìn ngón tay mình, Thập Tam Nguyệt mà nàng kết liễu tính mạng nửa tháng trước, hóa ra chỉ là mận thế đào khô (*).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #maixinh