Ho Chi Minh mot cuoc doi phan 1
1
Lời tựa của tác giả................................................................................................................................3
Danh sách các tổ chức được nhắc đến trong cuốn sách này:...........................................................3
Mở đầu ..................................................................................................................................................6
Mất nước...............................................................................................................................................8
Con ngựa hoang.................................................................................................................................20
Nhà cách mạng tập sự........................................................................................................................34
Con Rồng Cháu Tiên...........................................................................................................................40
Thanh kiếm báu..................................................................................................................................51
Nghệ Tĩnh đỏ.......................................................................................................................................57
Mất hút.................................................................................................................................................64
Trong hang Pacbo ...............................................................................................................................73
Triều dâng ...........................................................................................................................................81
Những ngày tháng 8............................................................................................................................94
Tái thiết và kháng chiến ....................................................................................................................107
Hổ và Voi ...........................................................................................................................................126
Nơi đó, Điện biên phủ........................................................................................................................138
Giữa hai cuộc chiến..........................................................................................................................147
Tất cả cho tiền tuyến.........................................................................................................................164
From Man to Myth.............................................................................................................................179
www.langven.com
2
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt nam
Từ bé, tôi đã được dạy bài hát này, vì thế bây giờ vẫn thuộc. Lên 8 tuổi, tôi vẫn nhớ như
in một buổi sáng, bà ngoại gọi tôi thảng thốt: “Nam ơi, Bác Hồ mất rồi”, chẳng biết gì
nhưng thấy cả nhà khóc tôi cũng òa lên khóc. Lớn dần lên, biết thêm rất nhiều bài hát
hay, thỉnh thoảng được khen là “cháu ngoan”,... thấy Bác vẫn là một cái gì đó thiêng
liêng, nhưng quả thật giống như một vị thánh chẳng có ích gì nhiều trong cuộc sống.
Học xong, về nước, những háo hức của công việc mới lôi đi. Cho đến năm 1999, khi FPT
quyết định xuất khẩu phần mềm. Bước ra nước ngoài, hầu như rất ít người biết đến Việt
nam là gì, ở đâu, ngoài việc Việt nam gắn liền với chiến tranh và Hồ Chí Minh. Hè năm
2002, Phan Phương Đạt mang về một cuốn sách. “Ho Chi Minh, a life”. Tôi liền mượn
đọc. Gấp cuốn sách lại, ký ức nguyên vẹn của buổi sáng năm 1969 lại ùa về. Nước mắt
cứ tự nhiên tràn ra. Bỗng nhiên hiểu ra sự cô đơn khôn cùng của Bác trước lúc ra đi, được
Trần Hoàn diễn tả lại xúc động trong bài hát của mình. Chợt thấy những tư tưởng của
Bác sao mà gần gũi, thật phù hợp cho hoàn cảnh của Fsoft lúc đó khi khách hàng thưa
thớt, anh em chán nản. Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần, và quyết tâm dịch quyển sách này
ra tiếng Việt. Tôi muốn chia sẻ với vợ tôi, với con gái tôi, với bạn bè tôi, với đồng nghiệp
của tôi về những điều tầm thường mà vĩ đại của con người HCM, về những bi kịch và oai
hùng của nước Việt nam thế kỷ 20, thế kỷ loạn lạc nhất trong lịch sử loài người.
Nhiều bạn bè tôi hay hỏi, liệu lịch sử Việt nam có thay đổi nếu như năm 1945, HCM
chấp nhận thỏa hiệp với Pháp để tránh cuộc chiến tranh? Tôi không biết. Nhưng nếu dựa
vào những gì Người kịp làm trong năm đầu tiên của nước cộng hòa non trẻ, cũng như
những ý nguyện được để lại trong bản di chúc, có thể nói rằng dân tộc ta đã không may,
khi không có được một quãng thời gian hòa bình đủ dài để HCM thể hiện tài năng chấn
hưng đất nước của mình.
Đọc cuốn sách này, có thể nói bất cứ một người dân Việt nào muốn, đều có thể tìm thấy
hinh ảnh mình trong cuộc đời của HCM. Có thể hiểu vì sao, con người Bác lại có sức
thuyết phục và lôi cuốn lạ kỳ. Từ ông Tây, ông Mỹ, đến trí thức, dân thường. Mới cách
đây mấy tháng khi ở Nhật bản, tôi được biết những người thuyền viên Việt nam sang
Nhật bỏ trốn, đã chọn HCM làm ông tổ nghề, vì theo họ, H cũng đã làm thuyền viên và
cũng đã bỏ trốn.
Xin cám ơn tác giả W. Duiker đã đem lại cho tôi một cái nhìn toàn diện về tổ quốc tôi
trong thế kỷ XX thông qua tiểu sử của người con ưu tú nhất mà đất nước đã sản sinh ra -
Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thành Nam
www.langven.com
3
Lời tựa của tác giả
Tôi (W. Duiker) đã bị hấp dẫn bởi HCM từ giữa những năm 1960, khi còn là một nhân viên đối ngoại trẻ tuổi làm việc tại toà đại sứ Mỹ. Tôi đã bị lúng túng khi phát hiện thấy những du kích Việt cộng trong rừng tỏ ra có kỷ luật và được động viên tốt hơn quân đội chính quy của chính quyền Sài gòn được chúng tôi ủng hộ. Tôi đã để tâm tìm hiểu và tìmra lời giải thích qua vai trò chiến lược và động lực thúc đẩy của nhà cách mạng Việt namlão thành HCM
Sau khi ra khỏi chính phủ để tiếp tục con đường nghiên cứu khoa học của mình, tôi đã nghĩ tới việc viết tiểu sử của con người kỳ lạ này, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng trong bối cảnh lịch sử thời đó, chưa thể có đầy đủ điều kiện để tiếp cận các nguồn thông tin. Bởi thế cho đến tận gần đây, khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới trở nên cởi mở hơn đã thúc đẩy tôi bắt đầu sự nghiệp khó khăn này.
Hôm nay, sau hơn 2 thập kỷ trăn trở, tôi muốn cám ơn các con gái tôi Laura và Claire đã không phàn nàn kêu ca, lắng nghe cha chúng thuyết giảng hàng giờ về Việt nam. Tôi vô cùng biết ơn vợ tôi Yvone, người đầu tiên đọc bản thảo, người đã kiên nhẫn chấp nhận HCM như một thành viên của gia đình chúng tôi.
Danh sách các tổ chức được nhắc đến trong cuốn sách này:
Đảng cộng sản Annam (ACP): đảng được thành lập tại Đông dương năm 1929 sau khi Hội thanh niên cách mạng bị giải thể. Sau đó được sát nhập vào Đảng cộng sản Việt nam tháng 2/1930
Đội tuyên truyền giải phóng quân (APB): tiền thân chính thống của quân đội Việt nam
Cứu quốc quân: các đơn vị vũ trang được tổ chức hoạt động chống Pháp và Nhật, sau đó được sát nhập vào APB thành quân giải phóng Việt nam (VLA)
Quân đội Việt nam cộng hòa: quân đội của chính quyền miền Nam từ 1956-1975
Quốc gia Liên hiệp Việt nam (ASV): chính quyền của Bảo đại được hiệp định Elysee năm 1949 thừa nhận. ASV hợp tác với Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp – Việt minh.Sau hiệp định Geneva ASV bị chính quyền miền Nam độc lập thay thế
Tâm Tâm Xã (Association of like mind): tổ chức cách mạng cực đoan do một số phần tử di cư thành lập ở Nam trung quốc năm 1924. Sau này bị Q biến thành Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Max: Hội trên giấy do đảng cộng sản đông dương lập ra khi tự giải tán và rút vào bí mật tháng 11 năm 1945.
Cao đài: một tôn giáo hổ lốn phát sinh ở Nam bộ vào cuối thế chiến thứ nhất. Cao đài chống lại tất cả các chính quyền muốn kiểm soát nó. Hiện vẫn đang còn hoạt động
Đảng nhân dân cách mạng Campuchia (CPRP): một trong 3 đảng thừa kế đảng Cộng sản Đông dương bị giải tán năm 1951. Các lực lượng vũ trang của CPRP được gọi là
Khơ me đỏ. Giữa những năm 60,Đảng cộng sản Khơ me thay thế CPRP.
Trung ương cục miền Nam (COSVN): cơ quan đầu não của đảng cộng sản ở phía Nam trong hai cuộc chiến tranh. Thành lập năm 1951 và giải tán sau năm 1975
Quốc tế cộng sản: tổ chức cách mạng được thành lập tại nước Nga Xô viết năm 1919, lãnh đạo hoạt động của các đảng thành viên. Giải tán năm 1943. Đảng CS Đông dương gia nhập năm 1935.
Đông dương cộng sản Đảng (CPI): Tổ chức chết yểu, gồm những phần tử ly khai khỏi Thanh niên Hội năm 1929. Đầu năm 1930, lại hợp nhất với Tân Việt và Hội thành đảng Cộng sản Việt nam.
Đảng hiến pháp: đảng chính trị ôn hòa do một số phần tử cải lương thành lập ở Nam bộ đầu những năm 1920. Đảng này chủ trương dành quyền tự trị dưới sự bảo trợ của Pháp.Lãnh đạo là Bùi Quang Chiêu hay lên tiếng phê phán đảng Cộng sản và bị thủ tiêu trong thời gian cách mạng tháng 8.
Đảng Đại Việt: thành lập trong thời kỳ thế chiến 2, theo Nhật chống Pháp. Đảng này tồn tại ở Nam Việt nam đến tận năm 1975.
Việt nam dân chủ cộng hòa (DRV): chính phủ do HCM lập ra ngày 2/9/1945. Hiệp định Geneva năm 1954 thừa nhận chủ quyền của DRV ở miền Bắc VN. Năm 1976 đổi thành CH XHCN Việt nam
Đông kinh nghĩa thục (Hanoi Free School): trường học do một số nhà yêu nước lập ra ở Hà nội để thúc đẩy cải cách trong thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Sau khi bị Pháp đóng cửa, những nhà sáng lập đã truyền đạt ý tưởng vào trường Dục Thanh ở Phan thiết, nơi Q đã từng dạy năm 1910.
Việt nam cách mạng Đồng minh Hội (Đồng minh Hội): con đẻ của tướng Quốc dân đảng Trương Phát Khuê, liên kết một số đảng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa, thành lập tháng 8/1942. Khuê định dùng liên minh này để chống Nhật ở Đông dương. Mặc dù Q đã tranh thủ lợi dụng cho mục đích của mình, sau thế chiến II, Hội này quay ra chống Đảng cộng sản đông dương kịch liệt. Khi cuộc chiến với Pháp nổ ra tháng 12/1946, Hội này coi như giải tán.
Mặt trận Tổ quốc: thành lập năm 1955, thay thế cho mặt trận Liên Việt và trước đó là Việt minh
Hòa hảo: cũng là một tôn giáo hổ lốn do nhà sư Huỳnh Phú Sổ thành lập năm 1939. Cực
kỳ chống Pháp, và chống cả Cộng. Hiện vẫn đang hoạt động
Thanh niên cao vọng: một tổ chức dân tộc do Nguyễn An Ninh lập ở Sài gòn giữa
những năm 1920. Chết yểu.
Đảng cộng sản Đông dương (ICP): do HCM và các đồng chí thành lập tháng 10/1930.
Trước đó là đảng cộng sản Việt nam. Tự giải tán năm 1945. Thành lập lại năm 1951 dưới
tên Đảng lao động Việt nam.
Liên bang Đông dương: kế hoạch của ICP để thống nhất Đông dương. Sau năm 1951,
kế hoạch này được gọi là “mối quan hệ đặc biệt” giữa ba nước.
Liên hiệp Đông dương: tổ chức hành chính do Pháp lập ra cuối thế kỷ 19 để bảo đảm
luật lệ của Pháp ở khu vực.
Ủy ban kiểm tra quốc tế: giám sát thực thi hiệp định Geneva, gồm có Canada, ấn độ, Ba
lan
Đảng nhân dân cách mạng Lào: đảng do ĐCS Việt nam bảo trợ, thành lập đầu năm
1950, còn hay được gọi là Pathet Lào
Mặt trận Liên Việt: do ICP thành lập năm 1946 để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng
với đảng, sát nhập với Việt minh năm 1951, đến năm 1955 bị Mặt trận Tổ quốc thay thể
Quốc học: trường trung học uy tín ở Huế, thành lập năm 1896, đào tạo các quan lại thế
hệ mới, dạy tiếng Pháp và các môn văn minh phương Tây. Q học trường này từ 1907-
1908.
Vệ quốc quân: tên khác của Giải phóng quân (VLA) sau CMT8, được chọn để tránh rắc
rối với lực lượng Tàu đang chiếm đóng.
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (NLF): liên minh rộng rãi nhiều nhóm chống
đối tại miền Nam, thành lập năm 1960 dưới sự bảo trợ của DRV, giải tán năm 1976.
ủy ban giải phóng dân tộc: thành lập ở Tân trào để chuẩn bị cho CMT8. H làm chủ tịch
Tân Việt: đảng cách mạng chống Pháp, thành lập cuối những năm 1920, sau đó sát nhập
vào với ICP
Quân đội nhân dân Việt nam: thành lập ở DRV sau 1954, thừa kế Giải phóng quân
Việt nam hoạt động trong chiến tranh chống Pháp.
SEATO: liên minh do Mỹ thành lập để ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở Đông
Nam á.
Thanh niên tiền phong: do Phạm Ngọc Thạch thành lập trong thời gian thế chiến 2,
được Nhật ủng hộ. ICP đã dùng lực lượng này để hỗ trợ CMT8 tại Sài gòn.
Việt cộng: tên miệt thị để chỉ quân giái phóng miền Nam Việt nam, lực lượng vũ trang
của NLF
Việt minh: do ICP đứng ra thành lập tháng 5/1941. Lực lượng chính trị chủ yếu trong
chiến tranh với Pháp sau 1945
Đảng cộng sản Việt nam: do H thành lập tháng 2/1930. Sau đó đổi thành ICP. Đến
tháng 12/1976 mới lấy lại tên này.
Đảng dân chủ Việt nam: tập hợp những phần tử yêu nước không cộng sản trong thành
phần Việt minh. Tồn tại đến sau năm 1976
Quân đội quốc gia Việt nam: tên chính thức của các lực lượng vũ trang của Quốc gia
liên hiệp do Bảo đại cầm đầu. Năm 1956 được Quân đội Việt nam cộng hòa thay thế.
Việt nam quốc dân đảng: đảng dân tộc không cộng sản, thành lập ở Bắc kỳ năm 1927.
Trong nhiều thập kỷ là đối trọng chính trị chủ yếu của ICP. Nay đã bị giải tán.
Việt nam quang phục Hội: đảng chống thực dân do Phan Bội Châu thành lập năm 1912.
Mục tiêu thay thế chế độ quân chủ bằng nền cộng hòa. Sau mấy cuộc nổi dậy thất bại,
đảng bị mất uy tín và tan rã.
www.langven.com
6
Mở đầu
Sáng 30/4/1975, từng đoàn xe tăng Liên xô do các chiến binh Bắc Việt với mũ cối gắn
sao vàng vẫy cờ của PRG vượt qua những vùng ngoại ô Sài gòn tiến thẳng tới dinh Độc
lập. Đoàn xe từ từ vượt qua Toà Đại sứ Mỹ, nơi những chiếc trực thăng đang di tản
những người Mỹ cuối cùng. Chiếc tăng đầu tiên do dự đôi chút rồi húc đổ cánh cổng sắt
tiến thẳng vào sảnh. Viên chỉ huy lao ra, leo lên nóc toà nhà thay thế lá cờ ba que của
Việt nam cộng hoà bằng lá cờ xanh đỏ của PRG. Cuộc chiến dai dẳng nhất trong lịch sử
nước Mỹ đã đến hồi kết sau gần 1 thập kỷ ác liệt và đẫm máu, cướp đi hơn 58 ngàn sinh
mạng.
Chiến thắng của cộng sản tại Sài gòn là kết quả của sự quyết tâm và tài năng của VWP
dưới sự lãnh đạo của Lê Duẩn cộng với sự hy sinh của các chiến binh - bộ đội (tương tự
như người Mỹ gọi các người lính là GI) , những người đã chiến đấu và ngã xuống vì sự
nghiệp cách mạng trong các cánh rừng và đầm lầy Việt nam. Nhưng cao hơn tất cả, chiến
thắng đó được xác định bởi một tầm nhìn, ý chí và sự lãnh đạo của một con người: HCM.
Đặc vụ của QTCS tại Matxcơva, thành viên của phong trào cộng sản quốc tế, người kiến
tạo cho thắng lợi của Việt nam, không nghi ngờ gì nữa, HCM là một trong những nhà
chính trị có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20. Đồng thời, ông cũng là một trong những con
người bí hiểm nhất, một nhân vật mờ ảo mà lý lịch và động cơ của ông luôn gây nên
những cuộc tranh luận không ngừng.
Ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay là một người cộng sản? Hình ảnh một con người
giản dị và quên mình là chân thật hay đơn giản chỉ là kết quả của các ngón kỹ xảo? Với
những người ủng hộ, Hồ là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, người cống
hiến cả cuộc đời mình cho hạnh phúc của đồng bào và các dân tộc bị áp bức. Với những
người đã được tiếp kiến ông, Việt nam hay nước ngoài, ông là một người hết sức nhã
nhặn, một nhà yêu nước quên mình, luôn đau nỗi đau chung của dân tộc. Những người
phê phán lại vạch ra những hành động cách mạng quá trớn được thực hiện dưới tên ông,
tố cáo ông là con thằn lằn hoa, là sói đội lốt cừu.
Câu hỏi về tính cách và động cơ của HCM là tâm điểm của các cuộc tranh luận tại Mỹ về
đạo lý của cuộc chiến ở Việt nam. Với những nhà phê phán chính sách của chính phủ
Mỹ, ông đơn giản là một nhà cách mạng đấu tranh vì độc lập của Việt nam, một đối thủ
mạnh mẽ của chủ nghĩa đế quốc trong Thế giới thứ ba. Những người ủng hộ cuộc chiến
thì lại nghi ngờ về động cơ yêu nước, cho rằng ông là đặc vụ của Stalin.
Đối với người Mỹ, cuộc luận chiến về sự đam mê của HCM dần dần đã thành quá khứ.
Nhưng đối với Việt nam, nó gợi lên những câu hỏi có tính chất nền móng, bởi vì nó định
nghĩa một trong những vấn đề căn bản của cách mạng Việt nam: mối quan hệ dựa sự tự
do của con người và bình đẳng kinh tế trong Việt nam sau chiến tranh. Từ sau cuộc chiến,
nhiều đồng chí hiện đang cầm quyền đã mượn uy ông để biện hộ cho mô hình cộng sản
phát triển đất nước. Họ nói rằng, mục tiêu cuối cùng của ông là kết liễu sự bóc lột toàn
cầu của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới theo những viển vông của K.Marx.
Nhưng cũng có một vài giọng chống đối đã phản biện rằng, thông điệp lớn nhất của cuộc
đời ông là xoa dịu quy luật đấu tranh giai cấp của Marx bằng cách hoà trộn nó với đạo
đức Khổng tử và thuyết ba ngôi của cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Họ dẫn lời
của ông: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Sự phức tạp trong tính cách của ông thể hiện sự phức tạp của thế giới thế kỷ 20, thế kỷ
của chủ nghĩa dân tộc, cách mạng, chủ nghĩa bình đẳng và cuộc đấu tranh cho tự do. Dù
www.langven.com
7
tốt hay xấu, HCM là hiện thân của hai thế lực chủ yếu đang điều khiển xã hội hiện đại: sự
khát khao độc lập dân tộc và cuộc tìm kiếm công lý xã hội và bình đẳng kinh tế. Đã đến
lúc phải phơi bày nhân vật bao trùm thế kỷ 20 này cho sự phân tích lịch sử.
Tuy cái tên HCM được hàng triệu triệu người biết đến, nhưng không phải dễ dàng có thể
kiểm tra được các nguồn thông tin về ông. Như một nhà cách mạng chống Pháp ông luôn
luôn phải sống trong bí mật, sử dụng nhiều tên tuổi khác nhau. Thống kê cho thấy ông đã
sử dụng hơn 50 cái tên trong cuộc đời và các bài viết. Bản thân HCM cũng làm vấn đề
thêm phức tạp bằng cách tự sáng tạo ra những huyền thoại về cuộc đời mình. Vào cuối
những năm 1950, một số tiểu sử của HCM được công bố và chỉ đến gần đây các nhà
nghiên cứu mới xác nhận được những tác phẩm đó thực sự là của HCM.
Phong cách lãnh đạo của ông cũng làm các nhà nghiên cứu chú ý. Mặc dù là người sáng
lập ra Đảng cộng sản Đông dương (ICP), nhưng khác với Lênin, Stalin hayMao Trạch
Đông, HCM thường lãnh đạo bằng cách thuyết phục và đồng thuận thay cho việc áp đặt ý
chí của mình. Ông cũng rất kín đáo với những tư tưởng và động cơ bên trong của mình.
Trái với các nhà cách mạng nổi tiếng khác, ông không sa đà vào các cuộc tranh luận về
hệ triết học tư tưởng mà tập trung toàn bộ tâm trí của mình để giải quyết các vấn đề cụ
thể để giải phóng Việt nam và các dân tộc bị áp bức khỏi ách đô hộ của phương Tây.
Trong một cuộc phỏng vấn khi được hỏi sao ông không bao giờ viết các chuyên luận về
tư tưởng, HCM đã trả lời rằng ông muốn nhường việc đó lại cho Mao. Trong những năm
cuối của ông, các tác phẩm nghiêm túc về học thuyết đều do những học trò của ông như
Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh hay Lê Duẩn viết.
Bao giờ cũng có những yếu tố huyền thoại bao quanh những con người nổi tiếng. Không
phải ai cũng biết cách tạo và hưởng thụ những huyền thoại như HCM. Từ vị trí trong đền
thờ của những vị thánh cách mạng, HCM chắc sẽ rất vui lòng được biết rằng, hương khói
huyền thoại bao quanh ông vẫn còn nguyên trong cuốn tiểu sử này.
www.langven.com
8
Mất nước
Khi đội quân của ông đang rong ruổi ầm ĩ trên các đường phố tiếp nhận sự đầu hàng của
quân thù, ông lặng lẽ vào thành phố, trong một ngôi nhà 2 tầng nhỏ với chiếc máy chữ đã
theo sát mình từ Matxcova đến Trung hoa và Việt nam trong những tuần đầu 1941.
2h chièu ngày 2/9/1945 trên lễ đài dựng tạm tại một quảng trường mà sau này được gọi là
Ba Đình, trong bộ quần áo kaki bạc màu, với chất giọng còn đậm nguồn gốc xứ Nghệ,
ông đã đọc bản tuyên ngôn khai sinh cho một dân tộc độc lập. Những lời đầu tiên của bản
hiến pháp đã làm sửng sốt một số người Mỹ có mặt trong đám đông: "Tất cả mọi người
đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền tối thượng trong đó có quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Tại thời điểm đó, chỉ có ít người biết được HCM chính là đại diện của QTCS, người sáng
lập ra ICP năm 1930. Đối với đa số dân Việt nam, HCM chỉ đơn giản là một người yêu
nước, đã phục vụ lâu dài cho đất nước. Trong suốt 1/4 thế kỷ tiếp sau, nhân dân Việt nam
và cả thế giới mới có cơ hội đê chiêm nghiệm, đánh giá con người này.
Cuộc trường chinh của HCM đến quảng trường Ba đình ngày đó, được khởi đầu từ một
ngày hè năm 1858, khi hạm đội Pháp nổ súng tấn công thương cảng Đà nẵng. Mặc dù
cuộc tấn công không phải hoàn toàn là bất ngờ. Trước đó vài thập kỷ, các nhà truyền giáo
Pháp đã lang thang khắp nơi để cứu rỗi tâm hồn Việt, các nhà buôn thì bận rộn tìm kiếm
thị trường và tìm những con đường thâm nhập vào Trung quốc, các nhà chính trị Pháp thì
tin rằng, chỉ có thôn tính các thuộc địa tại châu Á mới giúp nước Pháp đứng vững ở vị trí
siêu cường. Cho đến giữa thế kỷ, người Pháp vẫn hy vọng bằng con đường ngoại giao
thuyết phục được triều đình Huế chịu ảnh hưởng của họ. Tuy nhiên khi các cuộc đàm
phán chắng đi đến đâu, chính quyền của Hoàng đế Luise quyết định dùng vũ lực.
Cuộc chiến với Pháp không phải là cuộc chiến đầu tiên của Việt nam. Có thể nói, hiếm có
dân tộc nào trên châu Á đã chiến đấu bền bỉ và lâu dài để bảo vệ nền độc lập của mình
hơn người Việt nam. Từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên, khi nước cộng hoà Roma còn
đang trong trứng nước, Trung hoa đã xâm chiếm Việt nam và thực hiện hàng loạt các
chương trình chính trị và văn hoá để đồng hoá dân tộc này. Mặc dù Việt nam đã giành
được độc lập vào thế kỷ thứ 10, phải đến hàng trăm năm sau, khi Việt nam chấp nhận
một hình thức triều cống, các hoàng đế Trung hoa mới chịu chấp nhận sự thật về một
nước Việt nam độc lập.
Hơn nghìn năm chung sống với Trung hoa đã để lại những hệ quả sâu sắc. Hệ thống
chính trị, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo và cả ngôn ngữ Hoa đã bắt rễ sâu bền
trên mảnh đất Việt nam. Mặc dù những yếu tố dân tộc chưa bao giờ biến mất trong văn
hoá Việt nam, đối với người quan sát không được đào tạo bên ngoài, Việt nam chẳng
khác gì một con rồng thu nhỏ hình ảnh của người láng giềng khổng lồ ở phía Bắc.
Tuy có vẻ như người Việt sẵn sàng hấp thụ những ảnh hưởng văn hoá từ phương Bắc, họ
vô cùng cương quyết trong vấn đề độc lập dân tộc. Những vị anh hùng dân tộc, từ Hai Bà
Trưng đến Lê Lợi, Nguyễn Trãi đều xuất thân từ các cuộc kháng chiến. Lịch sử đã hình
thành một dân tộc có có đặc tính dân tộc và ý chí chống ngoại xâm mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh về sự tồn vong đã hun đúc truyền thống quân sự, sẵn sàng chấp nhận
dùng vũ lực để bảo vệ đất nước. Từ sau khi giành được độc lập, Việt nam (lúc đó gọi là
Đại Việt) đã có cuộc hành quân lâu dài về phương Nam chống lại Champa. Bắt đầu từ thế
kỷ 13, Đại Việt đã bắt đầu thắng thế và thôn tính hoàn toàn Champa vào thế kỷ 17. Đất
nước Việt nam trải dài đến tận mũi Cà mau trong vịnh Thái lan và Việt nam trở thành
www.langven.com
9
một cường quốc ở ĐNA. Tuy nhiên đất nước đã phải trả giá cho sự phát triển. Các mâu
thuẫn đã phát sinh ra cuộc nội chiến dai dẳng Đằng Trong - Đằng Ngoài. Gia Long tạm
thời thống nhất được đất nước từ đầu thế kỷ 19, tuy nhiên các mâu thuẫn quyết liệt giữa
các vùng về quyền lợi kinh tế chưa bao giờ được giải quyết trọn vẹn.
Cũng tại thời điểm đó, các hạm đội châu Âu, theo chân của Vasco da Gama bắt đầu lảng
vảng dọc bờ biển Nam Trung Hoa và vịnh Thái lan để tìm kiếm kim loại quý, đặc sản và
các linh hồn cần cứu rỗi. Không chịu ngồi nhìn kẻ kình địch Anh củng cố lực lượng tại
Ấn độ và Miến điện, người Pháp quyết định chọn Việt nam.
Vào năm 1853, Tự Đức lên ngôi. Thật không may, ông vua trẻ này phải gánh trên vai
trách nhiệm chống lại cuộc xâm lược đầu tiên sau nhiều thế kỷ. Tuy có thiện chí và
thông minh, ông vua này lại thiếu tính cương quyết và có một sức khoẻ ẻo lả. Khi quân
Pháp tấn công Đà nẵng, bản năng của Tự Đức đã mách bảo là phải chiến đấu. Hạm đội
của đô đốc Charlé Rigault de Genuoilly, đợi mãi không thấy sự nổi dậy của quần chúng
như các nhà truyền giáo thông báo, lại bị bệnh tả và lỵ hoành hành đã bỏ Đà nẵng và tấn
công vào Sài gòn, một thành phố đang trên đà phát triển. Sau 2 tuần, Sài gòn thất thủ.
Thất bại tại phía Nam đã làm nản lòng Tự Đức. Ông đồng ý đàm phán và cắt 3 tỉnh Nam
Bộ (sau đó là 3 tỉnh nữa) thành thuộc địa của Pháp với tên gọi Cochin China. Pháp đã
thắng hiệp đầu. Trong những năm tiếp sau, triều đình cố gắng giữ độc lập. Nhưng sau khi
Pháp tấn công Hà nội và chiếm một số thành phố tại châu thổ sông Hồng thì triều đình
hoàn toàn bị tê liệt. Ông vua ốm yếu Tự Đức vừa chết trước đó vài tháng đã để lại một
triều đình đầy mâu thuẫn. Sau vài tháng đấu đá, Tôn Thất Thuyết nắm được quyền bính
và đưa Hàm Nghi lên ngôi với hy vọng tiếp tục kháng chiến. Theo yêu cầu của Việt nam,
Nhà Thanh gửi quân sang giúp đỡ nhưng vô hiệu. Năm 1885,Trung hoa rút quân và ký
hiệp định với Pháp, bãi bỏ chế độ triều cống của Việt nam. Tại Huế, Hàm Nghi phải bỏ
chạy lên núi cùng với Tôn Thất Thuyết. Triều đình chấp nhận nhượng bộ và để cho Pháp
trên thực tế thôn tính nốt Tonkin (Bắc bộ) và Annam (Trung bộ), mặc dù triều đình bù
nhìn vẫn được duy trì ở Annam.
Quá trình Pháp thôn tính Việt nam là cuộc thị uy của các quốc gia tiên tiến phương Tây
đang bước vào thời đại công nghiệp hoá. Bị thúc ép bởi nhu cầu tìm kiếm nguyên liệu rẻ
và thị trường, phương Tây đã dùng vũ lực để áp đặt chế độ cai trị của mình. Vào cuối thế
kỷ 19, tất cả các quốc gia Nam và Đông Nam Á (trừ Thái lan - Xiêm) đã trở thành thuộc
địa.
Triều đình đầu hàng không đồng nghĩa với kết thúc mong muốn độc lập của Việt nam.
Rất nhiều các quan lại và tướng lĩnh không chấp nhận hạ vũ khí. Đáng kể nhất là phong
trào Cần Vương (Cứu Vua) của Phan Đình Phùng tại Hà tĩnh. Khi Hoàng Cao Khải, bạn
thơ ấu của Phan đến khuyên ông đầu hàng, ông đã khảng khái trả lời như một nhà nho
yêu nước:
"Nếu Trung Hoa, hàng ngàn lần mạnh hơn chúng ta, lại có biên giới chung với chúng ta, đã
không thể dùng sức mạnh để đè bẹp Việt nam, chỉ có thể nói sự tồn vong của dân tộc Việt nam
đã chính là nguyện vọng của Thượng đế"
Tuy nhiên sự tồn tại của hai nhà Vua: Đồng Khánh và Hàm Nghi đã tạo nên một sự chia
ré sâu sắc trong tầng lớp trí thức nho giáo theo tư tưởng Trung quân trong suốt gần nửa
thế kỷ sau.
Nghệ An, nơi có những bãi biển yên ả, những dãy núi tím đỏ, những cánh đồng lúa xanh,
là trung tâm của phong trào chống Pháp. Mảnh đất hẹp và cằn cỗi này luôn phải đối mặt
với mọi thử thách của thiên nhiên, đã làm cho những con người sống trên nó nổi tiếng là
www.langven.com
10
cứng đầu và bất trị. Trong 2 thập kỷ cuối của thế kỷ 19, nhiều người trong số những tầng
lới ưu tú nhất của Nghệ an đã chiến đấu và hy sinh dưới ngọn cờ Cần Vương.
Tại đây, làng Kim Liên - Huyện Nam Đàn, năm 1863, vợ hai của phú nông Nguyễn Sinh
Vương (hay còn gọi là Nguyễn Sinh Nhâm), bà Hà Thị Hy đã sinh con trai đặt tên là
Nguyễn Sinh Sắc. Vợ cả của Vương đã chết trước đó vài năm, để lại cho chồng một con
trai khác tên là Nguyễn Sinh Tro. Lên 4 tuổi, Sắc mồ côi cả cha lẫn mẹ và được anh Tro
nuôi nấng. Do thường xuyên bị hạn hán đe doạ, người dân phải làm đủ mọi việc để sống:
thợ mộc, thợ đấu, thợ rèn, thêu. Tuy vậy truyền thống học hành vẫn được đề cao. Nhiều
nhà nho đèn sách đi thi hoặc mở thêm lớp dạy học kiếm sống.
Mặc dù gia phả nhà Vương còn ghi lại nhiều đời đỗ đạt, Sắc không có nhiều cơ hội để trở
thành thư sinh. Những buổi đi chăn trâu cho anh, cậu thường ghé vào nghe ké lớp học
của Vương Thúc Mậu. Lớn lên, Sắc đã nổi tiếng khắp làng về tính ham học và được
Hoàng Dương (Hoàng Xuân Dương), bạn của Mậu, chú ý. Để ý thấy cậu bé thường
xuyên nằm trên lưng trâu đọc sách trong lúc chúng bạn chơi đùa, Dương nhận lời đỡ đầu
cậu. Năm 15 tuổi, Sắc theo Dương chuyển sang làng Hoàng Trù và bắt đầu học với cha
nuôi của mình. (theo truyền thống nho giáo, những học trò tài năng thường hay được họ
hàng hoặc người thân đỡ đầu. Khi đỗ đạt, cả cha mẹ và người đỡ đầu đều được hưởng
vinh quang)
Họ Hoàng bắt đầu từ Hưng Yên và có dòng dõi khoa bảng. Bố của ông Dương đã từng ba
lần đi thi và đậu tú tài. Trong lúc chồng dạy học, vợ ông là Nguyễn Thị Kép và hai con
gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An suốt ngày bận rộn ngoài đồng để nuôi sống gia
đình. Truyền thống xã hội Việt nam trao nhiều quyền cho người phụ nữ, tuy nhiên với
ảnh hưởng ngày càng lan rộng của đạo Khổng đến thời điểm đó, vai trò của phụ nữ ngày
càng trở nên thứ yếu. Họ không có cơ hội được hưởng giáo dục. Trong bối cảnh đó, bà
Kép và con gái đã may mắn hơn vì có được chút ít kiến thức. Gia đình bà Kép cũng có
truyền thống khoa bảng và bố bà cũng đậu tú tài.
Cậu bé Sắc đã lớn lên trong một môi trường như vậy. Cũng không ngạc nhiên khi cậu
phải lòng cô bé Loan xinh đẹp. Mặc dù bà Kép hơi băn khoăn vì cậu mồ côi cha mẹ, đám
cưới vẫn được tiến hành vào năm 1883. Cặp vợ chồng trẻ được bố mẹ vợ cho một căn
nhà 3 gian ấm cúng ngay cạnh nhà. Ở giữa hai nhà là gian nhà nhỏ đặt bàn thờ tổ tiên.
Trong 7 năm sau đó, bà Loan sinh được 3 người con: con gái Nguyễn Thị Thanh, 1884;
con trai Nguyễn Sinh Khiêm năm 1888 và ngày 19 tháng 5 năm 1890, cậu bé Nguyễn
Sinh Cung mà sau này là HCM ra đờii.
Năm 1891, Sắc ra Vinh thí Tú Tài và bị trượt. Không nản chí ông vẫn tiếp tục đèn sách.
Năm 1893, bố vợ ông qua đời, ông phải đi dạy thêm để giúp đỡ gia đình. 5/1894 Sắc đi
thi lần thứ hai và đỗ cử nhân. Thông thường người có học vị cử nhân thường tim các vị
trí trong bộ máy chính quyền. Ông Sắc lại quyết định sống thanh bạch bằng nghề dạy học
tại quê nhà. Và bà Loan lại tiếp tục ra ruộng.
Tình hình kéo dài không lâu, mùa xuân năm 1895, Nguyễn Sinh Sắc ra Huế thi Hội. Ông
bị trượt nhưng quyết định xin ở lại vào trường Quốc tử giám để ôn thi cho kỳ sau. Quốc
tử giám có nguồn gốc từ những ngày đầu độc lập tại Hà nội và là nơi đào tạo cho bộ máy
cai trị của triều đình. Nhờ một số người bạn giúp đỡ, Sắc được nhận học bổng. Ông quay
về Nghệ an để đón vợ và con vào.
Không có tiền để đi tàu thuỷ, gia đình Sắc quyết định đi bộ. Vào thời đó, đường từ Vinh
đi Huế hết sức vất vả và nguy hiểm phải vượt qua những cánh rừng rậm đầy hổ báo cũng
như luôn phải đối phó với những băng cướp đường. Họ đi khoảng 30 km/ngày và mất
www.langven.com
11
tổng cộng khoảng 1 tháng. Khi mệt quá cậu bé Cung 5 tuổi được cha mẹ cõng và kể cho
những câu chuyện về những vị anh hùng cứu nước Việt nam.
Mặc dù đã trở thành trung tâm chính trị của cả nước (Gia Long quyết định chuyển kinh
đô vào miền Trung để thể hiện ý chí thống nhất đất nước của mình), Huế tại thời đó cũng
chỉ có không đến chục ngàn dân. Kiệt sức vì đi đường, Sắc may mắn được một người bạn
cho ở nhờ. Sau đó gia đình chuyển đến một căn nhà nhỏ trên phố Mai Thúc Loan, nằm
gần tường đông của Cấm thành trên bờ bắc sông Hương. Sắc ít khi đến trường, ông thích
tự học ở nhà và dạy con cũng như con cái của lớp quan lại láng giềng. Cậu bé Cung từ
nhỏ đã tỏ ra rất thích tìm hiểu thế giới xung quanh. Khi quan sát những nghi lễ cung đình,
cậu đã hỏi mẹ, liệu không biết vua có què không mà phải đi kiệu.
Năm 1898, Sắc thi trượt lần 2 và buộc phải chấp nhận công việc dạy học tại thôn Dương
Nỗ. Bà Loan thì kiếm thêm bằng công việc may vá và giặt thuê. Chủ trường Dương Nỗ,
một tay phú nông đã đồng ý cho 2 con trai của Sắc được tham dự trường. Có thể đây là
nền giáo dục Khổng tử chính thức đầu tiên mà cậu bé Cung được hưởng.
Tháng 8/1900 Sắc được bổ nhiệm làm giám khảo trường thi tại Thanh hóa. Ông mang
cậu bé Khiêm đi, còn Cung ở lại Huế với mẹ. Trên đường về, ông ghé qua Kim Liên để
xây lại mộ cho bố mẹ. Đây được coi là vinh hạnh vì thông thường cử nhân không được
làm giám khảo, tuy nhiên cái giá của chuyến đi là quá đắt. Tại Huế, bà Loan đã qua đời
ngày 10/2/1901 vì hậu sản sau khi sinh cậu bé thứ tư: Nguyễn Sinh Xin. Bà con hàng
xóm vẫn nhớ cảnh cậu bé Cung vừa đi vừa khóc qua các nhà để xin sữa nuôi em. Khuôn
mặt tươi vui của cậu trở nên buồn rười rượi.ii
Nghe tin vợ chết, ông Sắc lập tức trở về Huế và mang các con ra Hoàng Trù. Cậu bé
Cung khi đó đã là một học trò nhanh trí và nhớ được khá nhiều chứ Hán, tuy nhiên bố cậu
vẫn lo cậu ham chơi và gửi cậu học ở một người bà con xa bên vợ: ông Vương Thúc Đỗ.
Vương nổi tiếng thời bấy giờ vì không bao giờ đánh học trò và thường chiêu đãi các học
trò của mình bằng những câu chuyện những anh hùng chống ngoại xâm, trong đó có anh
cả của ông, người đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ Cần Vương.
Sắc quay lại Huế sau vài tháng, nhưng các con ông vẫn ở Hoàng Trù với bà nội. Thanh
lúc này đã là một cô gái trưởng thành, giúp bà nội việc đồng áng. Ngoài việc nhà, cậu bé
Cung chạy chơi khắp xóm với chúng bạn, câu cá, thả diều. Trong các trò chơi, bao giờ
cậu cũng là người kiên trì nhất. Cậu thích nhất là leo lên núi Chung, thả tầm nhìn xuống
những cánh đồng lúa, rặng tre và dãy Trường sơn xanh mờ phía xa. Trên núi có đền thờ
Nguyễn Đức Du, một vị tướng chống quân Nguyên Mông. Cũng trên núi này, năm 1885,
ông Vương Thúc Mậu, người mà ông Sắc thường mon men học lỏm ngoài cửa, đã phất
cờ khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. Chỉ có một nốt buồn trong giai đoạn này của
cuộc đời Cung: em Xìn cậu đã chết lúc mới 1 tuổi.
Quay về Huế, Sắc lại đi thi và lần này ông đỗ Tiến sĩ đệ nhị, hay Phó Bảng. Tin vui này
làm nức lòng cả hai làng Kim Liên và Hoàng Trù. Lần đầu tiên từ giữa thế kỷ 17, khu
vực này mới có người đỗ cao như vậy. Kim Liên từ nay đã có thể coi mình là "Đất văn
vật". Cũng như lần trước Sắc từ chối những nghi lễ long trọng, ông phân phát thức ăn cho
người nghèo. Tuy nhiên ông chấp nhận căn nhà 3 gian và 2 sào ruộng như là quà tặng của
làng Kim Liên. Gia đình ông chuyển về Kim Liên.
Phó bảng là một học vị danh giá và thường mang lại quyền lực cũng như tiền bạc. Tuy
nhiên Sắc không có mong muốn tham gia vào quan trường trong cảnh nước mất. Lấy cớ
là đang để tang vợ, ông quyết định ở lại Kim Liên dạy học. Ông cũng lấy tên mới là
Nguyễn Sinh Huy (sinh ra cho danh dự)
www.langven.com
12
Khi đó cậu bé Cung đã 11 tuổi, bắt đầu vào tuổi trưởng thành. Theo thông lệ, bố cậu đặt
tên cho cậu là Nguyễn Tất Thành (Người sẽ thành công). Cậu được bố gửi đến học lớp
của nhà nho Vương Thúc Quý, con của Vương Thúc Mậu, người đã nhảy xuống hồ tự tử
để khỏi rơi vào tay giặc Pháp. Cũng như Sắc, sau khi đỗ đạt, Quý từ chối quan trường, ở
làng dạy học, bí mật tìm cách lật đổ chế độ bù nhìn ở Huế. Khác với thông lệ, ông không
bắt học sinh học thuộc lòng mà tìm cách cho các em hiểu được bản chất nhân đạo của các
tác phẩm của Khổng Tử. Trước mỗi giờ học, ông lại thắp hương trước bàn thờ cha ngay
trên tường lớp học để khắc sâu tinh thần yêu nước, chiến đấu cho Việt nam độc lập vào
tâm trí các học trò của mình. Đáng tiếc là chẳng bao lâu sau lớp học bị đóng cửa vì Quý
bỏ làng theo quân khởi nghĩa. Thành theo học một thầy giáo khác, nhưng không chịu nổi
kiểu dạy nhồi sọ cổ lỗ, cậu quay về học với bố. Cũng như bạn mình, Sắc không bao giờ
khuyến khích học trò học chỉ để đỗ đạt làm quan, mà hãy tìm cách cứu giúp đồng loại.
Thành nhận được học vấn không chỉ ở trên lớp học. Bác thợ rèn hàng xóm tên là Diên
thường xuyên dạy cậu nghề và dẫn cậu đi săn chim. Những buổi tối, cậu thường cùng bạn
bè quây quần quanh bác để nghe kể chuyện. Diên thường kể về những anh hùng dân tộc
như Lê Lợi,Mai Thúc Loan. Ông cũng say sưa kể về cuộc chiến đấu dũng cảm của các
chiến sĩ trong phong trào Cần Vương, về cuộc tự sát của Vương Thúc Mậu, về sự hy sinh
của Phan Đình Phùng. Thành rất xúc động được biết rằng nhiều bà con của cha cậu cũng
đã chiến đấu và hy sinh vì chính nghĩa.
Tinh thần yêu nước bắt đầu thấm sâu vào cậu bé. Thành phát hiện ra rằng những quyển
sách cậu đọc chỉ nói về lịch sử Trung quốc. Cậu đi bộ ra Vinh để mua sách về lịch sử
Việt nam, không đủ tiền, cậu nán lại, học thuộc lòng để có thể về kể lại cho các bạn bè
của mình.
Cho đến giờ, Thành chưa có nhiều điều kiện để biết về người Pháp. Cậu chỉ nhìn thấy họ
khi còn nhỏ ở Huế, và vẫn thường ngạc nhiên tự hỏi không hiểu sao quan quân lại phải
cúi đầu trước người ngoại quốc. Anh em cậu cũng hay lân la chơi với các công nhân Pháp
đang xây dựng cầu Tràng Tiền. Thỉnh thoảng họ đùa với cậu và cho kẹo. Về nhà Thành
hỏi mẹ, tại sao những người Pháp cũng lại khác nhau? Tại quê nhà Nghệ An, công trình
làm đường sang Lào đã làm biết bao thanh niên trong làng phải trở thành thân tàn ma dại,
hoặc không bao giờ trở về. Con đường sang Lào, "con đường chết" đã làm cho sự thiếu
thiện cảm của Thành với người nước ngoài càng mạnh mẽ thêm.
Một trong những người bạn gần gũi với Nguyễn Sinh Sắc là nhà yêu nước nổi tiếng Phan
Bội Châu, quê cách Kim Liên chỉ vài cây số. Mặc dù bố đỗ tú tài và được học kinh điển
từ nhỏ, đối với Châu số phận của đất nước quan trọng hơn là quan trường. Khi còn trẻ
ông đã tụ tập những thanh niên cùng chí hướng, phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà. Khi bị
giặc Pháp đàn áp, ông đã phải chạy vào rừng ẩn náu.
Năm 1900, Châu thi đỗ giải nguyên. Không hề có ý định quan trường, ông bắt đầu xây
dựng phong trào tại các tỉnh miền Trung. Trong khi đi vận động, Châu thường ghé qua
Kim Liên thăm các ông bạn là Nguyễn Sinh Sắc và Vương Thúc Quý. Họ thường trải
chiếu ngồi uống rượu, có cậu Thành phục vụ. Thành rất ấn tượng về phong cách lưu loát,
nhã nhặn của Châu. Nhờ đã được đọc trước một số tác phẩm của Châu, Thành rất kính
trọng lòng yêu nước và chia sẻ sự khinh bỉ của ông với triều đình thối nát ở Huếiii.
Châu nghiên cứu các tác phẩm của những nhà cải cách Trung Hoa như Khang Ưu Vị,
Lương Kỳ Siêu và tin tưởng rằng Việt nam phải từ bỏ xã hội truyền thống, tiếp thu công
nghệ và cách tổ chức xã hội của các nước phương Tây thì mới có thể tồn tại được. Nhưng
Châu lại tin rằng chỉ có lớp học giả mới có thể dẫn dắt đến những thay đổi đấy. Ông cũng
www.langven.com
13
muốn mượn một số di sản truyền thống để có thể có được sử ủng hộ của nhân dân. Vì
thế, khi thành lập Hội Duy Tân năm 1904, ông đã mời hoàng thân Cường Để, một thành
viên hoàng gia làm chủ tịch hội.
Cùng với các nhà cải cách Trung hoa, Phan Bội Châu rất ngưỡng mộ mô hình Nhật bản.
Hoàng đế Minh Trị đã tụ tập được các tầng lớp ưu tú trong xã hội, thay đổi một cách sâu
sắc xã hội Nhật bản. Chiến thắng của Nhật hoàng trước quân đội Nga năm 1905 được coi
như là biểu tượng của sức mạnh châu Á trước quân xâm lược châu Âu. Cuối năm 1904,
Phan Bội Châu đi Nhật và bắt tay xây dựng trường học tại Yokohama để đào tạo những
thanh niên Việt nam yêu nước. Đó là khởi đầu của phong trào Đông Du.
Khi quay về Việt nam, Châu đến Kim Liên và đề nghị anh em Tất Thành tham gia Đông
Du. Nhưng Thành đã từ chối. Theo một số người, cậu cho rằng dựa vào Nhật để đánh
Pháp chẳng khác gì "Đuổi hổ cửa trước, đưa sói vào cửa sau". Một số nhà nghiên cứu lại
cho rằng đó là quyết định của bố cậu. Trong bản tự truyện của mình, HCM đã giải thích
rằng, ông muốn sang Pháp để "nắm được bí quyết thành công của phương Tây ngay tại
quê hương của nó"iv. Sau đó ít lâu, Thành đề nghị bố cho mình đi học tiếng Pháp. Ông
Sắc hơi băn khoăn vì tại thời đó, chỉ có những người chịu làm tay sai cho Pháp mới học
tiếng Pháp. Nhưng cuối cùng ông cũng đồng ý, có thể do ảnh hưởng từ các tác phẩm của
những nhà cải cách Trung hoa đang thuyết phục nhà Thanh thay đổi. Mặc dù gắn chặt sự
nghiệp của mình với nền giáo dục truyền thống, Sắc hiểu rằng các con ông phải thích
nghi với những hiện thực mới. Ông cũng thường hay nhắc đến lời dạy của Nguyễn Trãi
về việc phải hiểu được kẻ địch mới có thể đánh bại chúng.
Hè năm 1905, Thành bắt đầu học tiếng Pháp với một người bạn của bố tại Kim Liên.
Tháng 9, ông Sắc đã xin cho cả hai con mình vào trường dự bị Pháp-Việt tại Vinh. Các
trường kiểu này tại các tỉnh miền Trung được thành lập theo quyết định của toàn quyền
Dume, nhằm lôi kéo các trí thức trẻ khỏi nền giáo dục Khổng tử, chuẩn bị nhân sự cho bộ
máy cai trị. Hai anh em Thành lần đầu tiên được học tiếng và văn hoá của Pháp. Các cậu
còn được học chữ quốc ngữ do các nhà truyền giáo sáng lập vào thế kỷ 17 và đang được
truyền bá trong giới trí thức tiến bộ.
Tháng 6, năm 1906, Sắc quyết định nhận chức phong của triều đình và đưa cả hai con trai
vào Huế. Vẫn như xưa, họ đi bộ nhưng cả hai cậu bé đã lớn nên cũng đỡ vất vả hơn. Các
cậu thường tra khảo nhau về các tên tuổi qua các triều đại phong kiến Việt nam. v
Thành phố đã có nhiều thay đổi. Tường thành của kinh đô cổ vẫn soi bóng xuống bờ bắc
sông Hương, những cô gái điếm tóc dài tha thướt vẫn khẩn khoản mời chào khách hàng.
Nhưng những cơn bão lớn trong hai năm vừa qua đã để lại nhiều ngôi nhà đổ nát rêu
phong hai bên sông. Những ngôi nhà trắng kiểu châu Âu của các cố vấn Pháp cũng đang
nhanh chóng thay thế những cửa hàng lụp xụp trong khu thương mại cũ.
Ban đầu mấy cha con sống nhờ một người bạn, nhưng rồi họ được phân một căn phòng
nhỏ trong trại lính cũ cạnh cửa Đông Ba bên bờ tường phía đông của cấm thành. Họ sống
đơn giản, thức ăc chủ yếu là cá muối, vừng, rau quả và gạo rê tiền. Nước uống được sử
dụng từ giếng chung hoặc từ con kênh chảy ngang cửa Đông Ba.
Được sự giúp đỡ của Cao Xuân Đức, một quan chức của Hàn Lâm Viện đã giúp ông từ
lần trước, Sắc được phân làm thanh tra Bộ Lễ, theo dõi các học sinh của Quốc học. Đây
là một chức quan nhỏ so với học vị phó bảng của ông. Các bạn ông đều đã làm đến tri
huyện hoặc cao hơn. Chắc chắn là triều đình đã nghi ngờ vào sự trung thành của Sắc khi
ông từ chối làm quan.
www.langven.com
14
Thực tế là Sắc không cảm thấy dễ chịu phục vụ trong bộ máy đang thối ruỗng. Ông
thường chia sẻ với bạn bè sự cấp thiết của việc cải cách. Không giải thích được quan
điểm "trung quân ái quốc" trong hoàn cảnh thực tế, ông khuyên học sinh từ bỏ con đường
quan trường. Theo ông, tầng lớp quan lại hiện tại chỉ biết hà hiếp nhân dân.
Dễ dàng lý giải được sự thất vọng của Sắc về hệ thống xã hội lúc đó. Mô hình chính
quyền nho giáo phụ thuộc rất nhiều vào sự trong sạch về đạo đức của tầng lớp quan lại
được tuyển chọn qua thi cử. Hệ thống chỉ có hiệu quả nếu các quan lại áp dụng các tiêu
chuẩn đạo đức như phục vụ xã hội, chính trực và nhân từ, được huấn luyện từ nhỏ, trong
việc thực thi quyền lực. Thế nhưng từ cuối thế kỷ 19, sự bạc nhược của triều đình đã dẫn
đến sự suy thoái của các thể chế xã hội. Uy tín của Hoàng đế giảm sút nghiêm trọng.
Tầng lớp quan lại lợi dụng chức quyền để làm giàu. Ruộng công bị chiếm hữu, nhà giàu
lại được miễn thuế.
Một tiếng nói phản kháng quan trọng nữa vào thời điểm đó là Phan Chu Trinh - người đỗ
phó bảng cùng năm với Sắc. Trinh sinh năm 1872 tại Quảng Nam, là con út trong một gia
đình 3 anh em. Bố ông là quan võ, cũng đã từng tham gia thi cử nhưng không thành, theo
Cần Vương và bị đồng đội xử tử vì bị nghi làm phản. Trinh làm việc Bộ Lễ từ năm 1903.
Ông đặc biệt quan ngại về nạn ăn hối lộ và bất tài của các viên chức tại nông thôn. Ông
đã từng công khai nêu vấn đề __________này cho các thí sinh tham gia kỳ thi năm 1904. Năm 1905,
Trinh từ chức, ông dự kiến tham khảo ý kiến với các nhà nho khác trên toàn quốc về
phương thức hành động trong tương lai.
Trinh gặp Châu tại Hồng Kông và theo Châu sang Nhật. Trinh tán thành những cố gắng
của Châu trong việc đào tạo cho thế hệ mới nhưng họ bất đồng trong việc sử dụng thành
viên của hoàng gia cho phong trào. Trinh cũng cho rằng, tốt hơn hết là thuyết phục Pháp
phải tiến hành những cải cách cần thiết cho xã hội Việt nam. Tháng 8 năm 1906, Trinh
công bố bức thư cho toàn quyền Paul Beau chỉ ra tình hình nguy kịch tại Việt nam.
Trong bức thư, Trinh đánh giá cao những thay đổi mà Pháp mang đến cho Việt nam trong
lĩnh vực giao thông và liên lạc. Nhưng ông phản đối việc duy trì một triều đình bù nhìn
thối nát, phản đối sự coi thường và khinh bỉ người Việt dẫn đến sự căm thù trong dân
chúng. Trinh kêu gọi toàn quyền Pháp tiến hành ngay những cải cách xã hội theo các
định chế dân chủ phương Tây. Nhân dân Việt nam sẽ đời đời biết ơn.vi
Bức thư của Trinh gây chấn động lớn trong tầng lớp trí thức Việt nam, đẩy cao sự mâu
thuẫn với chính quyền. Chế độ thực dân của Pháp, dưới chiêu bài "khai hoá văn minh",
bóc lột các tài nguyên thiên nhiên và áp đặt lối sống phương Tây, đã tạo nên sự căm thù
trong tất cả các tầng lớp xã hội Việt nam lúc đó. Trí thức căm hận trước các cuộc tấn
công vào các định chế và chuẩn mực nho giáo. Nông dân rên xiết dưới các loại thuế khoá
nặng nề, nhất là thuế rượu, cấm nông dân chưng ruợu gạo và phải mua các loại rượu vang
Pháp đắt tiền cho những ngày lễ tết. Công nhân các đồn điền cao su phải dãi nắng dầm
mưa và thường là bỏ xác nơi đất khách quê người. Công nhân nhà máy và thợ mỏ cũng
chẳng hơn gì, lương thấp, làm ngoài giờ và điều kiện sống thì dưới đáy xã hội.
Trinh không phải là người duy nhất tìm kiếm câu trả lời cho sự tồn vong của đất nước ở
phương Tây. Đầu năm 1907, một nhóm các trí trức yêu nước đã lập ra Trường Hà nội tự
do, hay còn gọi là Đông Kinh Nghĩa Thục, theo mô hình Học viện của nhà cải cách Nhật
bản Fukuzawa Yukichi. Mục tiêu của trường là tuyên truyền các tư tưởng tiến bộ của
Trung hoa và phương Tây vào tầng lớp thanh niên Việt nam. Đến giữa hè, trường đã mở
được 40 lớp với hơn 1000 sinh viên. Phan Bội Châu khi đó vẫn đang ở Nhật bản, tiếp tục
tuyển sinh cho chương trình đào tạo của mình và gửi các bài thơ đầy nhiệt huyết về nước.
www.langven.com
15
Một trong những bài thơ hay nhất là "Việt nam Vong quốc Sử", hay Lịch sử của một Việt
nam mất nước. Đáng buồn, bài thơ lại được viết bằng chứ Hán.
Được một thời gian, chính quyền Pháp nghi ngờ mục đích giáo dục của Đông Kinh Nghĩa
Thục và ra lệnh đóng cửa vào tháng 12. Nhưng người Pháp không thể ngăn được các
cuộc thảo luận về sự tồn vong của dân tộc trên khắp đất nước. Tại Quốc Tử Giám, Huế,
Nguyễn Sinh Sắc dạy các học sinh: làm quan của một xã hội nô lệ còn tệ hơn là nô lệ.
Nhưng ông không tìm được lời giải. Sau này, HCM nhớ lại cha ông thường ngửa mặt tự
hỏi: Đi về đâu, “Anh, Nhật hay Mỹ?”
Sau khi quay lại Huế, theo lời khuyên của Cao Xuân Đức, Sắc gửi hai con mình vào
trường Đông Ba nằm trong hệ thống giáo dục Việt Pháp mới. Trường nằm ngay trước
cổng Đông Ba của thành Nội, trên khuôn viên cũ của chợ Đông Ba sau khi chợ được
chuyển đi chỗ khác vào năm 1899, có 4 phòng học và văn phòng. Các năm đầu, học sinh
được dạy bằng 3 thứ tiếng: Pháp, Hán, Việt. Lên năm trên, tiếng Hán bị hạn chế. Không
phải ai cũng đồng tình, nhưng Thành tỏ ra hài lòng. Ngay từ khi ở Vinh, thầy giáo dạy
tiếng Pháp của cậu đã dạy: "muốn đánh Pháp phải hiểu Pháp, muốn hiểu Pháp phải biết
tiếng Pháp". Ban đầu, Thành hơi bị lập dị với đôi guốc mộc, tóc dài và bộ quần áo nâu
sồng, trong lúc các bạn cậu hoặc khăn đóng, áo dài hoặc đồng phục kiểu phương Tây.
Nhưng cậu hoà nhập nhanh. Cậu học cật lực và trong một năm đã hoàn thành chương
trình hai năm học.
Mùa thu năm 1907. hai anh em Thành thi đậu vào Quốc học Huế, trường cao nhất trong
hệ thống giáo dục Pháp Việt. Trường được thành lập vào năm 1896 theo chỉ dụ của vua
Thành Thái, nhưng đặt dưới sự điều khiển của Thống sứ Pháp. Trường có 7 bậc, 4 lớp
bậc tiểu học và 3 lớp bậc trung học, chương trình tập trung vào tiếng Pháp và văn hoá.
Triều đình muốn dần dần thay thế Quốc Tử Giám để đào tạo tầng lớp cai trị mới. Vì thế
dân địa phương thường gọi là: "Trường thiên đường".
Tuy nhiên điều kiện sống và học tập ở đó khó có thể gọi là "thiên đường". Nhà chính vốn
là một trại lính, mái lợp rạ, nay trở nên dột nát và xiêu vẹo. Xung quanh có một số túp lều
tre. Cổng trường được xây theo kiểu mái Trung hoa hai tầng hướng ra đại lộ Jules Ferry.
Thành phần học sinh khá đa dạng. Một số theo kiểu tự học, được học bổng như Thành.
Số khác con nhà giàu có xe đưa đón. Cũng như các trường khác, thầy giáo rất nghiêm
khắc, không chần chừ khi dùng roi vọt. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là ông
Nordemann, lấy vợ Việt nam và nói được tiếng Việt. Hiệu trưởng tiếp theo là ông
Logiou, đã từng là lính lê dương.
Bạn bè nhớ lại Thành thường ngồi cuối lớp, ít khi để ý đến những gì xảy ra trong lớp.
Nhưng cậu nổi tiếng với nhiều câu hỏi đôi khi có tính khiêu khích, nhất là những câu hỏi
về ý nghĩa của những tác phẩm của các nhà triết học Ánh sáng Pháp. Cậu rất giỏi ngoại
ngữ và được các thầy cô quý. Một trong những thầy giáo có nhiều ảnh hưởng với Thành
là Lê Văn Miên, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Paris. Tuy thường xuyên đả kích chế độ thực
dân, Miên có một kiến thức sâu rộng về văn hoá Pháp. Ông dạy các học sinh về những
người Pháp tốt hơn ở nước Pháp, thổi vào tâm hồn các em một thành phố Paris vĩ đại với
các bảo tàng và thư viện. Tuy học rất giỏi, nhưng giọng nói và điệu bộ nhà quê của
Thành thường bị các bạn trêu chọc. Một lần, không giữ được bình tình cậu đã thọi cho
một kẻ trêu chọc một quả. Thầy giáo đã khuyên cậu, tốt hết là hãy dồn sức vào việc tìm
hiểu những vấn đề thế giới. Quả vậy, Thành quan tâm nhiều đến chính trị. Sau giờ học,
cậu thường tụ tập ngoài bờ sông, chờ đợi những tin tức của Phan Bội Châu, cùng nhau
đọc thơ: "Á tế Á ca", bài thơ về một châu Á tự do khỏi ách nô lệ da trắng.
www.langven.com
16
Một động lực thúc đẩy lòng yêu nước của Thành ở trường là thầy Hoàng Thông. Thông
thường dạy học sinh: mất nước nghiêm trọng hơn mất nhà, mất nước là mất tất cả. Thành
thường đến nhà thầy đọc sách. Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng Thông đã cho Thành
tiếp xúc với một số nhóm khởi nghĩa.
Cuối năm 1907, tình hình ngày càng trở nên căng thẳng. Vua Thành Thái lên ngôi từ năm
1889 đã buộc phải thoái vị vì bị nghi ngờ có liên quan đến quân nổi loạn chống Pháp.
Tuy nhiên vị vua kế vị 8-tuổi càng có tư tưởng chống Pháp hơn. Theo gương Hoàng đế
Minh trị Nhật bản, ông lấy hiệu là Duy Tân, nhằm mục đích mang lại cách tân cho đất
nước.
Tuy nhiên đại đa số các tầng lớp tiến bộ Việt nam cho rằng đã quá muộn để có thể hy
vọng gì đó ở triều đình phong kiến. Nguyễn Quyền ở trường Hà nội Tự do đã viết một bài
thơ kêu gọi đồng bào cắt bỏ mái tóc dài búi tó, như một cử chỉ đoạn tuyệt với quá khứ
phong kiến. Thành và các bạn thường đi cắt tóc rong, vừa đi vừa hát:
Tay lược, tay kéo, Cắt! Cắt! Cắt đi sự ngu dốt, cắt đi sự trì trệ, Cắt! Cắt!
Từ đầu năm 1908, sự bất bình bắt đầu lan rộng trong nông dân. Giữa tháng Ba, đám đông
nông dân tụ tập tại phủ tri huyện tại Quảng Nam và tiến về Hội An. Họ đòi miễn các loại
sưu cao thuế nặng, và được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp trí thức. Phong trào bắt
đầu lan rộng ra các tỉnh duyên hải miền Trung và có dấu hiệu bạo lực. Triều đình đem
quân đàn áp bắt bớ, sau khi các nông dân biểu tình chiếm một số công sở, giam giữ một
số quan lại. Đôi khi đoàn biểu tình bắt và cắt trọc những người qua đường. Người Pháp
gọi đây là "Cuộc nổi dậy tóc ngắn"
Đến cuối mùa xuân, những làn sóng nổi dậy đã dội đến chân thành Huế. Trong tuần đầu
tháng Năm, dân làng Công Lương biểu tình chống thuế. Viên quan đến xử lý bị bắt trói
cho vào cũi, chở đến cổng Thống sứ Pháp. Ngày 9/5, khi đoàn biểu tình đi qua chỗ các
sinh viên, Thành đã bất ngờ kêu gọi hai người bạn của mình tham gia để làm phiên dịch
cho các nông dân. Cậu lật ngửa chiếc mũ nan, báo hiệu vứt bỏ "status quo" của mình.
Trước sức ép của đoàn biểu tình, Thống sứ Lavecque phải tiếp đoàn đại biểu nông dân có
cậu học sinh Nguyễn Tất Thành làm phiên dịch. Cuộc đàm phán thất bạ__________i, kể cả sau khi
vua Duy Tân đã can thiệp. Quân đội Pháp đã xả súng lên cầu Tràng Tiền làm hàng trăm
người chết và bị thương.
Đêm đó Thành phải đi trốn. Các bạn cậu chẳng ai có thể ngờ rằng, sáng hôm sau, khi
tiếng chuông báo hiệu giờ học vừa dứt, cậu lại xuất hiện, ngồi đúng vào vị trí của mình.
Nhưng cũng không được lâu. Đúng 9:00, một sĩ quan cảnh sát Pháp xuất hiện và sau khi
nhận ra Thành, đã yêu cầu ban giám hiệu đuổi ngay kẻ phản nghịch ra khỏi trường.
Trong những tuần tiếp theo, tình hình tiếp tục phức tạp. Cuối tháng sáu, những người
theo Phan Bội Châu tiến hành cuộc đầu độc các sĩ quan Pháp tại Hà nội sau đó khởi nghĩa
cướp chính quyền. Tuy nhiên do có kẻ phản bội, cuộc binh biến bất thành. Quân Pháp
đàn áp dã man, 13 người bị xử tử, nhiều người bị lưu đày. Hốt hoảng, triều đình hạ lệnh
bắt tất cả các trí thức yêu nước. Phan Chu Trinh cũng bị bắt và bị đưa về Huế xử. Nhờ có
Thống sứ Pháp can thiệp, Trinh thoát chết nhưng bị đày đi Côn Đảo. Từ năm 1911, Trinh
sống lưu vong tại Pháp.
Do hành động của hai cậu con trai, Sắc bị khiển trách và bị đưa về làm tri huyện Bình
Khê, Bình Định. Đây là một vùng không phải là quá heo hút, nhưng là nơi xuất phát của
khởi nghĩa Tây Sơn chống lại nhà Nguyễn. Bởi thế triều đình thường đưa những viên
quan lại không vừa ý về đó. Anh trai Thành là Khiêm cũng bị theo dõi, đến năm 1914 thì
www.langven.com
17
bị xử về tội mưu phản. Nhà chức trách còn tra hỏi cả chị gái Thành ở Kim Liên vì nghi
ngờ về tội chứa chấp 1 số phần tử mưu phản.
Sau khi bị đuổi khỏi trường, Thành mất tích mấy tháng. Có tin đồn là anh đi xin việc một
số nơi nhưng đều không được nhận. Nhưng chắc chắn là anh không quay lại quê vì đã bị
theo dõi. Sau đó, Thành quyết định đi bộ vào phía Nam để tránh sự theo dõi của triều
đình. Cũng có thể vào thời điểm đó anh đã quyết định xuất dương tìm đường cứu nước tại
phương Tây. Điạ điểm thuận tiện nhất vào thời điểm đó chỉ có thể là cảng Sài gòn. Tháng
7/1909 Thành dừng lại tại Bình Khê để gặp cha mình. Cuộc gặp gỡ không mấy vui vẻ với
anh vì ông Sắc đang trầm uất, suốt ngày uống rượu. Sắc đã mắng nhiếc và cho cậu con
trai mấy gậy.
Sau đó Thành đến Quy Nhơn ở nhờ nhà một người bạn của cha mình là Phạm Ngọc Thọ.
Theo lời khuyên của Thọ, Thành đâm đơn thi vào chân giáo viên của một trường học địa
phương dưới tên là Nguyễn Sinh Cung. Chủ tịch hội đồng thi vốn là giáo viên cũ của cậu
tại trường Đông Ba nên rất quý cậu. Tuy nhiên không hiểu sao chính quyển tỉnh biết
được thành tích bất hảo của Thành và tên anh bị đưa ra khỏi danh sách dự thi. vii
Không thất vọng, Thành đi tiếp đến Phan Rang gặp Trương Gia Mỗ, đồng nghiệp của cha
cậu ở Huế và cũng là bạn của Phan Chu Trinh. Chủ nhà đã thuyết phục Thành chậm lại
chuyến xuất ngoại của mình và xin cho anh một chân dạy học ở trường Dục Thanh (Phan
Thiết). Vì đã cạn tiền, Thành chấp nhận. Trước khi đến Phan Thiết, anh phải chứng kiến
một cảnh tượng đau lòng khi các sĩ quan Pháp cười ha hả bắt các công nhân cảng Việt
nam phải nhảy xuống nước trong giông tố. Nhiều người đã chết.
Trường Dục Thanh được các nhà yêu nước địa phương thành lập theo mô hình trường Tự
do Hà Nội. Ngôi nhà là sở hữu của một nhà thơ bản xứ, nằm ở bờ nam sông Phan Thiết.
Trường do hai người con của nhà thơ điều hành. Cổng trường kẻ rõ khẩu hiệu: "Đoạn
tuyệt với cổ hủ, đem tới văn minh". Ngôn ngữ chính thức là quốc ngữ, một số môn được
dạy bằng tiếng Pháp và tiếng Hán. Thành đến Phan Thiết ngay trước Tết nguyên đán
năm 1910, và nhận trách nhiệm dạy tiếng Hán và quốc ngữ. Anh còn kiêm luôn chân dạy
võ. Theo trí nhớ của các học viên, thầy giáo Thành rất được ngưỡng mộ. Mặc bộ bà ba
trắng, đi guốc mộc, Thành dạy theo phong cách của Socrat khuyến khích các học sinh
đưa ra những ý tưởng của riêng mình. Thành cùng các học sinh thăm quan các vùng phụ
cận, lên rừng, xuống biển. Khung cảnh khá điền viên ngoài việc một xưởng nước mắm ở
khá gần với những hương vị đặc biệt làm cho học sinh khó tập trung.
Chương trình giảng dạy tại Dục Thanh mang nội dung yêu nước khá rõ ràng. Thành
thường mở đầu bài giảng của mình bằng bài thơ từ trường Tự do Hà Nội
Ôi, thượng đế có thấu nồi khổ đau
Dân ta mang xiềng xích, héo mòn trong tai ương
Bởi thế chủ đề tranh cãi không bao giờ là mục tiêu giành độc lập mà là bằng cách nào.
Các thầy giáo trong trường chia làm 2 phe. Một bên ủng hộ Phan Chu Trinh với đường
lối cải cách, bên kia ủng hộ Phan Bội Châu với chủ trương dùng vũ lực và dựa vào Nhật
bản. Thành không chọn phe, cậu biết rằng cậu phải hiểu tận cùng tình thế trước khi quyết
định.
Đầu năm 1911, trước khi năm học kết thúc, Thành biến mất. Nguyên nhân chính xác về
sự ra đi của Thành không rõ ràng, nhưng có thể có liên quan đến tin cha cậu chuyển vào
Cochin China. Trước đó, đầu năm 1910, Sắc bị triệu hồi khỏi Bình Khê. Trong thời gian
làm tri huyện ở đó, ông nổi tiếng là ủng hộ người nghèo, tha cho các nông dân tham gia
biểu tình, khoan dung với những tội hình sự lặt vặt. Ông cho rằng lố bịch để mất thời gian
www.langven.com
18
vào những việc đó khi nước đã mất. Ngược lại ông rất cứng rắn với bọn nhà giàu và có
thế lực. Sau khi tẩn 100 roi vào mông một nhân vật thế lực trong vùng và sau đó tên này
lăn ra chết, Sắc bị gọi về Huế, hạ 4 bậc, phạt đánh roi và cách chức. Theo lời bạn bè, Sắc
cũng chẳng buồn. Ông nói: "nước đã mất, liệu có thể có nhà được không?" Đầu năm
1911, ông xin phép chính quyền Pháp được đến Cochin China nhưng bị từ chối. Hồ sơ
của cảnh sát Pháp viết:
"Nguyễn Sinh Sắc... bị nghi ngờ là đồng loã với Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Con
trai y, đang học ở Huế bỗng nhiên mất tích, nghi rằng đang ở Cochin China. Sắc chắc
muốn gặp con và hội kiến với Trinh."viii
Nhưng Sắc cũng chẳng đợi được cấp phép, ngày 26/2/1911, ông tới Tourane (Đà nẵng)
và lên tàu đi Sài gòn. Đến nơi, ông tìm được một chân dạy tiếng Hán và bán thuốc Nam
để kiếm sống.
Liệu Thành có biết được tất cả thông tin về cha cậu và rời Phan Thiết để đi tìm cha? Một
người bạn của Thành ở Dục Thanh cho biết là cậu đã chia sẻ với anh ta là sẽ cùng ăn tết
với cha. Hay cậu đã biết mình bị theo dõi và quyết định lẩn trốn? Ngay sau khi Thành đi,
một viên chức Pháp có đến trường tìm hiểu tung tích cậu. Thành đi chỉ để lại một mảnh
giấy nhỏ, nhờ các bạn trả lại sách cho thư viện. Chẳng bao lâu sau, trường Dục Thanh
cũng bị đóng cửa.
Sài gòn là miền đất hoàn toàn mới lạ với cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành. Một thời chỉ
là thành phố nhỏ trên bờ sông Sài gòn, thành phố đã lớn rất nhanh và vượt cả cố đô Hà
Nội với dân số lên tới hàng trăm ngàn. Sự lớn mạnh của Sài gòn chủ yếu dựa trên lĩnh
vực kinh tế. Ở đây đã hình thành cả một lớp thương nhân người Âu, Việt và người Hoa
định cư trên khu vực này từ thế kỷ trước. Lĩnh vực làm ăn chủ yếu là khai thác các đồn
điền cao su dọc biên giới Campuchia (cây cao su được đưa vào Việt nam từ Brazil vào
cuối thế kỷ 19) và canh tác lúa trên những cánh đồng rộng lớn đồng bằng Nam Bộ. Trong
25 năm đầu của thế kỷ 20, Nam Bộ đã đứng thứ ba trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Ban đầu Thành sống trong một vựa lúa cũ. Chủ vựa lúa là Lê Văn Đạtix còn có xưởng sản
xuất chiếu cói và có quan hệ với các thành viên của trường Dục Thanh. Thành tìm được
cha, lúc đó đang ở tạm trong một nhà kho cũ. Qua các mối quen biết của Dục Thanh,
Thành tìm được một ngôi nhà ở phố Châu Văn Liêm gần cảng Sài gòn. Được cha khuyến
khích, Thành bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi của mình. Vào tháng Ba, cậu đăng ký tham
gia một lớp thợ mộc và sắt, chắc là để kiếm tiền cho chuyến đi. Sau khi được biết phải
mất ba năm mới có thể thành nghề kiếm tiền, Thành bỏ học, đi bán báo cùng với một
người bạn từ Kim Liên, tên là Hoàng.
Chỗ ở của Thành ở gần bến Nhà Rồng nơi các con tàu xuyên đại dương thường xuyên lui
tới. Thành quyết định tìm việc làm trên một trong những con tàu đó để ra nước ngoài.
Thời đó chỉ có hai hãng tàu hoạt động tại cảng Sài gòn là Messageries Maritimes và
Chargeurs Reunis. Chỉ có hãng Reunis cần tuyển người địa phương cho một số vị trí phụ
bếp và bồi bàn. Thông qua một người bạn ở Hải phòng đang làm trong hãng, Thành đã có
được cuộc hẹn phỏng vấn với thuyền trưởng tàu Đô đốc Latouche Treville vừa đến từ
Tourane. Ngày 2/6, một anh thanh niên tên là Ba xuất hiện ở cầu tàu. Thuyền trưởng
Louis Eduard Maisen e ngại nhìn khuôn mặt thông minh nhưng thân hình khá mảnh
khảnh của anh. Ba quả quyết là việc gì anh cũng làm được và đã thuyết phục được
Maisen cho một chân phụ bếp. Ngày hôm sau, anh bắt tay ngay vào công việc rửa bát,
giặt quần áo, lau sàn, nhặt rau và đốt lò. Ngày 5/6, "Đô đốc LT" hú còi rời sông Sài gòn
ra biển Nam Trung Hoa, thẳng tiến tới Singapore lúc đó đang thuộc Anh.
www.langven.com
19
Tại sao Nguyễn Tất Thành lại quyết định rời đất nước? Trong bình luận gửi nhà báo
xôviết Ossip Mandelstam nhiều năm sau, HCM đã viết "Khi tôi 13 tuổi, lần đầu tiên tôi
nghe thấy những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Lúc đó tôi nghĩ mọi người da trắng đều là
người Pháp. Và vì người Pháp viết ra những từ đó, tôi muốn làm quen với nền văn minh
Pháp để có thể hiểu được ý nghĩa đằng sau những từ đó". Muộn hơn, HCM cũng đã trả
lời tương tự cho câu hỏi của phóng viên Mỹ Anna Luise Strong:
"Nhân dân Việt nam, bao gồm cả cha tôi, thường xuyên tự đặt câu hỏi, ai sẽ giúp chúng
ta cởi bỏ ách thống trị của Pháp. Nhiều người nói Nhật bản, có người nói Anh, lại có
người nói Mỹ. Tôi thấy tôi phải ra nước ngoài. Sau khi đã tìm hiểu họ sống như thế nào,
tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi"
Các nhà viết sử ở Hà nội cũng thường nhắc đến những hồi ức của HCM về việc rời đất
nước như một sứ mệnh cứu nước. Cũng nên nhớ rằng HCM hay có khuynh hướng kịch
hoá những sự kiện trong đời mình cho những mục đích khác. Tuy nhiên, không nghi ngờ
gì, khi rời Sài gòn tháng 6 năm 1911, cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hoàn toàn
nhận thức được những bất công mà đất nước mình đang phải gánh chịu và trong nước
không có lời giải. Biết đâu, anh có thể tìm kiếm được những lời giải ở nước ngoài.
www.langven.com
20
Con ngựa hoang
Mặc dù không có những ghi chép chính xác về các hoạt động của Thành sau khi rời Việt
nam, những bằng chứng thu thập được cho phép dự đoán rằng phần lớn thời gian của
Thành dành cho việc lang thang trên biển và đi qua khắp 5 châu. Vào thời đó, chế độ thực
dân châu Âu đã thuộc địa hóa hầu như cả thế giới. Trên các bến cảng Á, Phi, Mỹ la tinh,
những người dân bản xứ xun xoe thoả mãn nhu cầu của các ông chủ da trắng. Trong các
tác phẩm sau này, HCM đã miêu tả sự tàn bạo của các ông chủ và sự khốn cùng của dân
lao động một cách hết sức ấn tượng. Có thể phần lớn các quan điểm cách mạng của HCM
đã được hình thành trong giai đoạn này.
Tàu LT là một tàu nhỏ đối với các tàu vượt đại dương, dài khoảng 400 fut và có trọng tải
nhỏ hơn 6000 tấn. Vì thế cuộc sống của Thành trên tàu hết sức vất vả. Tuy nhiên anh vẫn
nhìn đời một cách hóm hỉnh: "nhân vật của chúng ta vừa huýt sáo vừa chùi toa lét và đổ
rác". Một trong những đối thủ chính trị của HCM sau này, ông Bùi Quang Chiêu đã tình
cờ gặp Thành trong chuyến đi. Ông lấy làm kinh ngạc sao một người thông minh như
Thành lại chấp nhận một thứ lao động khổ sai như vậy. Thành chỉ cười và nói, anh cần đi
đến Pháp để đòi sửa lại bản án cho cha.x
LT cập bến Marseilles ngày 6 tháng bảy năm 1911 sau khi đã qua Singapore, Colombo
và Port Said. Thành nhận được những đồng lương đầu tiên khoảng 10 frances. Chừng đó
chỉ đú cho vài ngày trên bờ, nhưng Thành đã có thể dừng bước uống cafe trên đường
Cannebiere, để được gọi bằng "Ngài". Thành ngạc nhiên kết luận: "Người Pháp ở Pháp
tốt hơn và lịch sự hơn người Pháp ở Đông dương". Sau khi tìm hiểu các hang cùng, ngõ
hẻm, gặp gỡ đủ các loại đĩ bợm ở đây, Thành tự hỏi, tại sao người Pháp lại không khai
hoá văn mình cho đồng bào chính quốc trước.
Thành quay lại tàu trước khi nó nhổ neo và đến Le Havre ngày 15 tháng 7. Sau đó LT
giong buồm đi Dunkirk, rồi quay về Marseilles và neo ở đó đến giữa tháng 9. Từ đó,
Thành đã viết một bức thư gửi thẳng cho tổng thống Pháp. Quả là một sự kiện gây tò mò,
và đáng để in toàn văn bức thư ở đây:
Marseilles
15 tháng 9 năm 1911
Thưa ngàI Tổng thống!
Tôi rất rất lấy làm vinh dự được nhờ ngài một việc nhỏ để có thể được vào học tại trường Thuộc
địa như một sinh viên thực tập.
Hiện tại, để kiếm sống, tôi đang phải làm việc tại hãng Chargeurs Réunis (tàu đô đốc
LT). Tôi đang bị bỏ rơi và rất muốn có được một nền giáo dục đầy đủ. Tôi muốn trở
thành có ích cho nước Pháp về vấn đề các đồng bào của tôi, và giúp họ có thể được
hưởng những thành quả của giáo dục.
Tôi sinh tại tỉnh Nghệan thuộc Annam
Vô cùng biết ơn Ngài Tổng thống đã ra tay cứu giúp
Nguyễn Tất Thành
Sinh năm 1892
Con ông Nguyễn Sinh Huy (Tiến sĩ)
Sinh viên Pháp ngữ và Hán ngữ
www.langven.com
21
Trường Thuộc địa được thành lập năm 1885 nhằm mục đích đào tạo nhân viên cho bộ
máy cai trị của Pháp tại thuộc địa, có khoảng 20 học bổng cho các sinh viên từ Đông
Dương. Một số nhà nghiên cứu tỏ ra ngạc nhiên về quyết định xin học của Thành, họ cho
rằng có thể lúc đó Thành đã từ bỏ giấc mộng ái quốc để đeo đuổi con đường công chức.
Tuy nhiên, thực ra quyết định này chẳng có gì khác với việc gia nhập Quốc học Huế. Rõ
ràng là Thành chưa quyết định được mình sẽ phải chọn con đường nào để cứu nước. Và
điều có ích nhất bây giờ là tiếp tục sự nghiệp học hành. Trong bức thư viết cho chị cậu
mùa hè năm 1911, Thành cũng đã nói với chị là sẽ đi học tại Pháp khoảng 5-6 năm. Cũng
có thể đây chỉ là một động tác “qua người” đẹp mắt, mà sau này HCM cũng đã nhiều lần
sử dụng, nguỵ trang cho ý đồ đích thực của mình nhằm đạt được mục đích cuối cùng.xi
Từ Marseilles, tàu LT về Việt nam và cập bến Sài gòn vào khoảng giữa tháng 10. Thành
rời tàu và tìm cách gặp cha. Từ khi mất việc, Sắc lang thang bán thuốc nam và dạy học
trong khắp Nam bộ. Thậm chí có lần còn bị bắt vì say rượu. Mặc dù rất có thể trong
khoảng thời gian đó, ông đang ở loang quanh Sài gòn, nhưng không có bằng chứng là hai
cha con đã gặp nhau. Ngày 31/10/1911, Thành viết một lá thư cho Toàn quyền Pháp tại
Annam, giải thích về việc cha con chia cách đã 2 năm và nhờ chuyển cho cha một khoản
tiền nhỏ nhưng không được trả lời.xii
Quay trở lại Marseilles, Thành nhận được tin là đơn xin học của mình đã bị từ chối. Nhà
trường chỉ nhận những học sinh được toàn quyền Đông Dương giới thiệu. Khi tàu được
đưa lên bờ sửa chữa tại Le Havre, Thành quyết định ở lại. Anh xin vào làm vườn cho một
chủ tàu ở Sainte-Addresse, một khu nghỉ mát đã nổi tiếng nhờ những bức tranh mà
Monet vẽ tại đây. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi anh lang thang trong thư viện của ông chủ hoặc
luyện tiếng Pháp với con gái ông chủ. Có thể là Thành đã đi Paris gặp Phan Chu Trinh
trong thời gian này. (Theo một số nguồn tin, ông Sắc đã viết cho Thành một thư giới
thiệu cho Trinh khi cậu rời Việt nam). Nếu họ gặp nhau, chắc chắn chủ đề sôi nổi nhất là
cuộc cách mạng dân quyền của Trần Dân Tiên lật đổ triều đình nhà Thanh để thành lập
một nước cộng hoà kiểu phương Tây.
Thành có quan hệ rất tốt với chủ nhà, và chính ông này đã giới thiệu cậu cho một con tàu
đi châu Phi cũng của hãng Chargeurs Reunis. Mặc dù nhiều người ngăn cản, Thành vẫn
quyết chí ra đi. Anh đã đến một loạt các nước Á-Phi, bao gồm Algeria, Tunisia,Morroco,
India, Indochina, Saudi Arabia, Senegal, Sudan, Dahomey và Madagascar. Anh bị mê
hoặc bởi những điều nghe được, học được. Những cảnh tượng kinh hoàng của chế độ
thuộc địa cũng gây cho anh những xúc động sâu sắc. “Đối với bọn thực dân, tính mạng
những người dân thuộc địa không đáng 1 đồng xu.”
Trong những năm đó, Thành đã đến nhiều hải cảng trên Tây bán cầu. Sau này, HCM đã
kể lại cho những người bạn Cuba của mình rằng ông đã đến Rio và Buenos Aires. Con
tàu của anh cũng đã ghé qua bờ Đông nước Mỹ, và Thành đã chọn NewYork làm nơi
dừng chân của mình. Anh rời tàu và quyết định tìm việc để ở lại nước Mỹ.
Giai đoạn này là một trong những giai đoạn mù mờ nhất trong cuộc đời HCM. Theo lời
ông và một số người quen biết khác, anh đã làm đầy tớ cho một gia đình giàu có ở NY
với mức lương “trên trời” là $40/tháng. Ngoài giờ làm việc, Thành lang thang với bạn
trong khu China town, ngửa cổ ngắm những toà nhà chọc trời NewYork, tham dự các
cuộc họp của hội da đen Harlem, và ngạc nhiên khi thấy pháp luật công nhận sự bình
đẳng của những kẻ nhập cư châu Á. Sau này, một đoàn đại biểu các nhà hoạt động hoà
bình Mỹ đã hỏi HCM: tại sao ông lại đến nước Mỹ? HCM đã trả lời, ông nghĩ là nước
www.langven.com
22
Mỹ là biểu tượng chống chủ nghĩa thực dân châu Âu và sẽ giúp Việt nam giành độc lập.
Nhưng ông đã nhầm.
HCM còn nói là ông đã từng sống ở Boston và làm bánh ngọt cho khách sạn Parker
House. Ông cũng đã đi thăm một số bang miền Nam để chứng kiến cảnh bọn 3K hành
hình người da đen mà sau này ông đã miêu tả rất sống động trong một truyện ngắn viết
khi đang ở Nga những năm 1920. Rất tiếc là chỉ có ít bằng chứng rõ ràng về việc HCM
đã từng ở nước Mỹ. Một là bức thư ký tên là Paul Tất Thành gửi cho toàn quyền Pháp xin
phục hồi cho cha anh. Bức thư đóng dấu NY ngày 15/12/1912. Thứ hai là tấm bưu thiếp
gửi Phan Chu Trinh từ Boston, kể rằng anh đang phụ bếp tại khách sạn Parker Housexiii
HCM nói với một nhà báo Mỹ, bà Anna Louise Strong rằng quãng thời gian ở Mỹ ảnh
hưởng rất ít đến quan điểm chính trị của ông vì lúc đó ông còn quá trẻ. Nhiều khả năng là
HCM rời Mỹ vào năm 1913. Sau chặng dừng chân ở Le Harve, anh đến Anh để học tiếng
Anh. Trong một bức thư gửi Phan Chu Trinh, anh nói rằng đã ở London bốn tháng rưỡi
để học tiếng Anh và giao lưu với người nước ngoài. Bức thư chắc phải được viết trước
khi nổ ra đại chiến thế giới I, tháng 8 năm 1914, vì Thành còn hỏi PCT sẽ đi nghỉ hè ở
đâu. Bức thư thứ hai cho PCT, Thành đã bình luận về sự khởi đầu của chiến tranh. Anh
cho rằng những kẻ dây vào sẽ phải lãnh đủ, anh chờ đợi những sự thay đổi lớn ở châu Á
và hy vọng chiến tranh sẽ làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của Pháp.
Trong hồi ký của mình HCM đã thừa nhận những công việc rất cực nhọc của ông ở Anh
như quét tuyết và đốt lò. Một vài người quen khi gặp Thành ở Pháp đã nhận thấy bàn tay
của anh bị cái lạnh làm cho cong queo. Cũng may là sau đó anh tìm được một chân phụ
bếp trong khách sạn Drayton Court rồi chuyển đến Carton giúp việc cho đầu bếp nổi
tiếng Auguste Escoffier và ông đã từ chối cơ hội để trở thành đầu bếp.
Ngoài việc lang thang ở Hayden Park với cây bút chì và quyển sách để học tiếng Anh,
Thành còn tham gia vào các hoạt động chính trị của Hội công nhân hải ngoại, tham gia
vào các cuộc biểu tình đòi độc lập của người Ailen. Có thể là trong thời gian này Thành
đã lần đầu tiên làm quen với các tác phẩm của Karl Max. Anh vẫn không quên nỗi đau
mất nước. Trong một bức thư gửi PCT, Thành đã viết những câu thơ:
Đương đầu với trời đất
Thôi thúc bởi ý chí
Người anh hùng phải chiến đấu cho đồng bào
Có một điều Thành không biết là các bức thư của anh gửi cho PCT đều rơi vào tay mật
thám Pháp. Trong khi khám xét căn hộ của PCT, chúng đã phát hiện ra những bức thư ký
tên N. Tất Thành gửi từ số 8, Stephen Street, Tottenham Court Road, London. Trong một
bức thư, người thanh niên này còn thề thốt là sẽ tiếp tục sự nghiệp của PCT. Cảnh sát
Pháp đã nhờ các đồng nghiệp Anh tìm kiếm nhưng chẳng thấy ai ở địa chỉ đó. Cảnh sát
Anh lục khắp London được 2 sinh viên Việt nam tên là Thành, trong đó có một Nguyễn
Tất Thành, nhưng họ chẳng có dính líu gì đến chính trị.
Không có nhiều tài liệu minh chứng cho hoạt động của HCM ở Anh. Một số nhà sử học
thậm chí nghi ngờ ông đã ở Anh. Họ cho rằng ông đã bịa ra giai đoạn đó để có được tấm
áo xuất thân vô sản. Điều này hơi vô lý vì HCM chẳng bao giờ phủ nhận nguồn gốc nhà
nho của mình.xiv Tuy nhiên có nhiều chứng cớ khằng định được HCM đã ở London.xv
Thời điểm chính xác Thành quay về Pháp cũng gây nhiều tranh cãi. ít nhất là chính quyền
Pháp cũng không biết gì về chuyện này cho đến khi có một sự kiện làm cho Thành trở
thành người Việt nam yêu nước nổi tiếng nhất ở đất nước mình. HCM viết rằng, ông đã
quay về Pháp khi chiến tranh còn đang xảy ra. Một số người quen cũ của ông ở Pari cho
www.langven.com
23
rằng ông đến Pháp năm 1917 hoặc 1918. Viên mật vụ được phân công theo dõi ông vào
năm 1919 báo cáo rằng HCM đã “ở Pháp từ lâu”. Nhiều nguồn cho rằng đó là khoảng
tháng 12/1917.
Lý do Thành về Pháp có thể dễ hiểu. Sau chiến tranh, số người Việt nam tại Pháp đã tăng
lên gấp bội so với trước đó. Hàng ngàn người Việt nam làm việc tại các công xưởng,
tham gia quân đội so với không đến 100 người trước chiến tranh. Qua mối quan hệ đã sẵn
có với Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường, Thành có thể thâm nhập vào cộng đồng
chính trị Việt nam hải ngoại nhằm mưu đồ cứu nước. Trinh đang được coi là lãnh tụ của
phong trào, nhưng sau khi bị bắt vì nghi ngờ phản bội hồi đầu chiến tranh, Trinh trở nên
rất thận trọng.
Sau khi về Paris, Thành nhanh chóng tham gia vào các hoạt động kích động công nhân
Việt nam trong bối cảnh các cuộc chống đối ở Pháp ngày một nhiều do sự kéo dài khốc
liệt của chiến tranh. Cũng chưa rõ, làm thế nào Thành có thể tham gia vào các hoạt động
đó. Có thể với tư cách của Hội công nhân hải ngoại? Cũng có thể là quan hệ trực tiếp với
các nhà hoạt động cánh tả.
Một nhà hoạt động cách mạng, Boris Souvarine, sau này trở thành sử gia nhớ lại đã từng
gặp Thành ngay sau khi anh từ London trở về. Ông cho rằng đó là vào khoảng năm 1917.
Thành thuê 1 căn hộ dơ dáy tại Montmartre và tham gia sinh hoạt với chi bộ đảng Xã hội
Pháp tại đó. Souvarine đã giới thiệu Thành với Leo Poldes, người sáng lập câu lạc bộ
Faubourg. Các buổi nói chuyện diễn ra thường xuyên về tất cả các chủ đề từ chính trị tới
những điều huyền bí. Souvarine nhớ lại là Thành rất bẽn lẽn, thậm chí khúm núm, nhưng
hoà nhã và ham học. Mọi người còn gọi anh là “Người câm ở Montmartre”.xvi
Leo Poldes là người đã rèn luyện tính nhút nhát của Thành bằng cách bắt anh phát biểu
trước cử toạ. Trong bài phát biểu đầu tiên của mình miêu tả sự thống khổ của nhân dân
thuộc địa, Thành thậm chí còn nói lắp. Không mấy người trong cử toạ hiểu, nhưng họ
thông cảm với chủ đề và Thành được hoan hô nhiệt liệt. Sau đó Thành được mời phát
biểu thường xuyên
Trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà văn Mỹ Stanley Karnow, Leo đã nhận xét về Thành
trong thời gian anh tham gia câu lạc bộ Faubourg: “có hơi hướng của Chapline, hài hước
nhưng buồn, vous savez”. xvii Leo đặc biệt có ấn tượng về đôi mắt sáng và lòng ham mê
học hỏi của Thành. Anh đã vượt qua được nỗi sợ hãi phải phát biểu trước công chúng và
tích cực tham gia vào các cuộc tranh luận. Qua đó Thành quen biết những nhân vật nổi
tiếng trong giới trí thức cách mạng Pháp: nhà văn xã hội Paul Louis, nhà quân sự Jacque
Doriot, tiểu thuyết gia Henri Barbeusse với những tác phẩm miêu tả sự cùng cực của binh
lính trên mặt trận.
Đã gần 30 tuổi, và hầu như kinh nghiệm nghề nghiệp chỉ loanh quanh mấy việc phụ bếp
hoặc dạy học, lại không có giấy phép làm việc Thành không thể xin được việc ổn định.
Anh phải làm đủ việc từ bán món ăn Việt nam, kẻ bảng hiệu, dạy chữ Hán, làm nến...
Cuối cùng anh kiếm được một chân tô màu ảnh đen trắng trong một hiệu ảnh của Phan
Chu Trinh. Vào những thời gian rỗi Thành hay ngồi lì trong thư viện và đọc các tác phẩm
của Secxpia, Tolxtoi, Lỗ Tấn, Hugo, Zola, Dickens. Gia tài của anh chỉ có cái va li và
thưỡng xuyên chuyển chỗ trong những nhà trọ chật hẹp của khu công nhân Parisxviii
Thủ đô của nước Pháp cuối chiến tranh vẫn tham vọng trở thành trung tâm chính trị và
văn hoá của thế giới phương Tây. Rất nhiều những nhà tư tưởng lỗi lạc của thế kỷ 19 đã
sống ở Paris. Không khí cách mạng càng sục sôi trong giai đoạn cuối chiến tranh, khi sự
tàn bạo của cuộc chiến đổ thêm dầu vào phong trào chống chủ nghĩa tư bản.
www.langven.com
24
Việt nam chiếm số lượng lớn nhất trong cộng đồng hải ngoại tại Paris thời điểm đó:
khoảng 50000 người, trong đó có hàng trăm con em trí thức. Trong bầu không khí bị
chính trị hoá cao độ, lớp sinh viên này đã hoàn toàn chín muồi cho những hoạt động
chính trị hướng tới độc lập dân tộc. Rất tiếc là chẳng có gì xảy ra cả. Trong giới có ảnh
hưởng, một số muốn mặc cả với Pháp cho thêm quyền tự chủ đổi lấy việc đã tham gia
bảo vệ mẫu quốc trong chiến tranh, một số thì lại bí mật đi đêm với Đức để hy vọng Pháp
thua trận. Theo cảnh sát Pháp, Phan Chu Trinh và bạn ông là Phan Văn Trường đã thử cả
hai phương án này. (Phan Văn Trường sinh năm 1878 tại Hà đông, học luật và trở thành
công dân Pháp năm 1910). Cả hai đã thành lập “Hội đồng thân ái” trước khi chiến tranh
xảy ra, nhưng chỉ thu thập được khoảng 20 chục thành viên. Trinh, được coi là nhà ý
tưởng, tỏ ra rất ít có khả năng tổ chức. Tuy nhiên, do có tin đồn về việc họ đang dự kiến
lật đổ chính quyền tại Đông dương, cả hai đã bị tạm giam ngay sau khi chiến tranh nổ ra.
Chính vì lý do đó mà những bức thư Thành gửi cho Trinh đều rơi vào tay cảnh sát Pháp.
Sau khi được tha, Trường và Trinh không dám nghĩ đến chuyện thách thức chế độ thực
dân nữa. Cộng đồng Việt nam hải ngoại thực sự đình trệ về mặt chính trị.
Thành muốn nhanh chóng thay đổi tình hình đó. Mặc dù, cho đến lúc đó thành tích chính
trị của anh mới chỉ là phiên dịch cho cuộc biểu tình tại Huế năm nào. Trông bề ngoài
hoàn toàn không bắt mắt, bạn bè đều phải thừa nhận anh có một đôi mắt sáng và cái nhìn
mãnh liệt như xuyên thấu suy nghĩ của người đối thoại.
Hè năm 1919, được sự bảo trợ của Trinh & Trường, Thành thành lập Hội ái quốc Annam.
Ngoài những thành viên trí thức, Thành còn lôi kéo thêm một số thành viên từ tầng lớp
lao động mà anh quen từ hồi còn làm thuỷ thủ tại Marseilles, Le Havre, Toulon. Bề
ngoài, hội không đặt ra những mục tiêu cực đoan để lôi kéo đông đảo sự tham gia của
cộng đồng người Việt. Việc dùng chữ Annam thay cho Việt nam muốn cho chính quyền
thấy Hội không phải là mối nguy hiểm cho chế độ thực dân. Thực chất, ngay từ đầu,
Thành muốn biến hội thành một lực lượng hiệu quả chống lại chế độ thực dân ở Đông
Dương. Anh đã liên lạc với những hội tương tự của người Triều tiên và Tuynizi.
Đây là một thời điểm hết sức thuận lợi cho những hoạt động tương tự. Sau chiến tranh,
Paris trở thành trung tâm kích động của các nhóm chống thực dân. Các cuộc thảo luận về
chủ đề này diễn ra thường xuyên ở quốc hội Pháp. Toàn quyền Albert Sarraut đã phát
biểu tại Hà nội hứa hẹn nhiều quyền hơn cho nhân dân Việt nam. Năm 1919, đại diện các
nước Đồng minh thắng trận họp tại Versailles để đàm phán điều kiện đầu hàng của khối
Trung tâm và tổ chức thế giới sau chiến tranh. Tổng thống MỹWilson đã mang lại niềm
hy vọng cho các dân tộc thuộc địa bằng luận cương 14 điểm, trong đó thừa nhận quyền tự
quyết của tất cả các dân tộc.
Ngày 18/6/1919, Hội ái quốc Annam do Nguyễn Ai Quốc ký tên đã công bố bản kiến
nghị 8 điểm có tên: “Yêu cầu của nhân dân Annam” gửi các quốc gia Đồng minh, đề nghị
áp dụng những tư tưởng củaWilson cho thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á. Ngôn ngữ
của bản kiến nghị rất ôn hoà, không đặt điều kiện độc lập dân tộc mà chỉ đòi hỏi quyền tự
quyết về chính trị, sự bình đẳng giữa người Pháp và người Việt, quyền tự do báo chí, hội
họp, bãi bỏ các loại thuế hà khắc.
Nhiều nhà sử học đã nghi ngờ rằng Thành là tác giả duy nhất của bản kiến nghị. Họ cho
đó là công sức tập thể. Nhiều người cho rằng đây là tác phẩm của Phan Văn Trường,
người được cho là trí thức nhất trong hội. Trong cuốn tự truyện của mình, HCM tự nhận
mình là tác giả và Phan Văn Trường đã chỉnh văn phạm tiếng Pháp cho ông. Tuy nhiên
việc Thành có là tác giả hay không không quan trọng bởi chính anh là người đã tổ chức
www.langven.com
25
công bố bản kiến nghị và sau đó tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chính Thành đã đưa
tận tay bản kiến nghị cho các thành viên chủ yếu của nghị viện và tổng thống Pháp. Cũng
là anh dấn bước trên các hành lang của điện Verseille để trao bản kiến nghị cho các đoàn
đại biểu Đồng minh. Qua các mối quan hệ của mình Thành đã công bố bản kiến nghị trên
báo Nhân đạo và nhờ các chiến hữu từ thời còn thuỷ thủ phân phối hơn 6000 bản copy
trên các đường phố Paris.
Chẳng có hồi âm nào từ chính quyền Pháp mặc dù các cuộc thảo luận về vấn đề thuộc địa
vẫn đang diễn ra tại nghị viện. Hội nghị Versaille cũng làm thinh về chủ đề này. Tổng
thống Wilson, dưới sức ép của các đồng minh đã không bảo vệ tuyên bố 14 điểm của
mình. Cả thế giới thuộc địa bị thất vọng.
Tuy nhiên bản kiến nghị cũng đã làm kinh ngạc giới chức chính trị Pháp. Ngày 23/6, tổng
thống Pháp viết thư cho toàn quyền Albert Sarraut, đề nghị xem xét và xác định danh tính
tác giả. Tháng 8, tin từ Đông dương báo về: bản kiến nghị đang được phân phát trên các
đường phố Hà nội và đã gây nên cuộc thảo luận sôi nổi trong báo giới. Tháng 9, Thành
chính thức xác nhận mình là Nguyễn Ái Quốc trong một cuộc phỏng vấn cho một phóng
viên người Mỹ của một tờ báo Trung hoa tại Paris. Cũng vào quãng thời gian đó, thanh
tra mật thám Pháp Paul Arnoux, chuyên theo dõi cộng đồng Việt nam hải ngoại, tình cờ
gặp Thành đang đi phân phát truyền đơn. Sau mấy lần uống cafe, bị ảnh hưởng bởi nhiệt
huyết của chàng trai trẻ, Arnoux đã liên lạc với Bộ thuộc địa và thu xếp để Albert Sarraut
gặp Thành. Và cuộc gặp đã diễn ra ngày 6 tháng 9 tại toà nhà Bộ thuộc địa ở phố
Ordinot. Các mật thám Pháp đã tranh thủ thời cơ này để chụp ảnh hòng tìm ra tung tích
chính xác của Thành.
Có thể NAQ (như Thành đã tự gọi mình) đã nuôi một chút hy vọng bản kiến nghị của
mình có thể thấu tai chính quyền Pháp và mang lại những thay đổi ở Đông Dương. Bản
tính của anh là tin vào những điều tốt đẹp của con người, kể cả kẻ thù. Sau khi đi một
vòng Thuỵ sĩ, ý, Đức, Thành đã kể với bạn của mình: “nếu bạn là người tốt, ở đâu bạn
cũng gặp người tốt” . Cũng có thể là Thành đã tin vào những lời dụ dỗ của A. Sarraut.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn cho tờ báo Trung hoa Thế giới, sau khi phàn nàn về tình
hình tồi tệ ở Đông Dương, Thành đã thừa nhận là trước tiên cần có quyền tự do ngôn luận
để nâng cao dân trí sau đó mới có thể tính đến quyền tự trị, tiến lên độc lập.
Nhưng những hy vọng của NAQ đã nhanh chóng bị tàn lụi. Ngay sau cuộc gặp gỡ, Thành
đã gửi đến A. Sarraut toàn văn bản kiến nghị cùng với bức thư đi kèm như sau:
Như đã trao đổi với Ngài hôm qua, tôi xin gửi kèm đây toàn văn Bán kiến nghị. Vì Ngài
đã thật là tốt bụng cho phép tôi nói chuyện thẳng thắn, tôi đã mạo muội hỏi Ngài rằng
liệu đã có hành động nào được tiến hành liên quan đến 8 điểm kiến nghị. Đáng tiếc là
câu trả lời không được thoả mãn.
Xin Ngài nhận cho lòng kính trọng của tôi.
Nguyễn Ái Quốc
Mấy ngày sau, mật thám Pháp đã xác định được NAQ tên thật là Nguyễn Tất Thành, con
ông Nguyễn Sinh Sắc và đã tham gia xúi giục nổi loạn ở Huế năm 1908.
Cho dù động cơ gửi Bản kiến nghị là gì đi nữa, không nghi ngờ là NAQ đã gây được
tiếng vang to lớn trong phong trào yêu nước Việt nam tại Pháp. Người già thì kinh ngạc
vì sự táo tợn của anh thợ tô màu. Thanh niên thì như được tiếp thêm nhiệt huyết. Một số
kẻ khôn ngoan thì coi anh như “Người man rợ”. Họ thì thầm: liệu có thể hy vọng được gì
ở một tay đầu gấu xứ Nghệ?
www.langven.com
26
Bán kiến nghị cũng đã mang lại cho NAQ sự kính trọng của các đồng chí trong Đảng Xã
hội Pháp (FSP). Mặc dù lúc đó đã quen với những tên tuổi lớn của FSP như Marcel
Cachin, Paul-Vaillant Couturier, Leon Blum, Edouard Herriot, Henri Barbusse và cháu
của Karl Max –Jean Longuet, theo lời của Zecchini, Thành chưa bao giờ được coi là
thành viên đầy đủ của FSP cho đến khi Bản kiến nghị được công bố.xix
HCM đã thừa nhận rằng ông tham gia FSP vì “họ thông cảm với tôi, với cuộc đấu tranh
của những dân tộc bị áp bức”. Thiên hướng về CNXH của HCM cũng như của nhiều nhà
dân tuý châu Á khác có thể giải thích như hậu quả tự nhiên của chế độ thuộc địa tàn bạo
của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhưng giải thích như thế cũng chưa đầy đủ. Các nhà trí
thức châu Á, (đặc biệt là ở Trung quốc và Việt nam) cảm thấy đạo đức tập thể của chủ
nghĩa xã hội phương Tây xem ra gần gũi với đạo Khổng hơn thái độ vị kỷ và chạy đua lợi
nhuận của chủ nghĩa tư bản. Đối với họ sự hào nhoáng của các thành phố thương mại thật
đáng tởm, còn nền công nghiệp thì bị tha hoá bởi sự tham lam và bành trướng. Ngược lại
chủ nghĩa xã hội tán dương các cố gắng tập thể, kêu gọi lối sống giản dị, bình đẳng về
của cải và cơ hội có nhiều điểm tương đồng với nho giáo. Xem ra là từ Khổng tử tới Max
gần hơn tới Adam Smith và John Mill.xx
Từ năm 1920 trở đi Ngài (Monsieur) Nguyễn tham gia tích cực hơn các hoạt động chính
trị của FSP, Liên đoàn lao động và Liên minh quyền con người. Nhưng có vẻ như ông
cũng dần dần nhận ra rằng, các đồng chí của ông chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề
thuộc địa.Max có khuynh hướng trọng Âu và hội của ông cũng vậy. Thuộc địa, nói cho
cùng, cung cấp của cải cho cách mạng và công việc cho các công nhân.
Cuộc cách mạng Bolsevich ở Nga đã làm sâu sắc thêm sự bất đồng trong hàng ngũ những
người xã hội, giữa một bên là phe ôn hoà của Jean Longuet, Leo Blum và phe cấp tiến
của Couturier và Cachin. Nên nhớ rằng lúc đó Quốc tế thứ nhất của Max đã bị thay bởi
Quốc tế II chủ trương ôn hoà và đấu tranh nghị viện. Vào cuối năm 1919, một uỷ ban ủng
hộ lời kêu gọi của Lênin thành lập Quốc tế thứ ba, đấu tranh vũ lực để giành chính quyền
cho giai cấp vô sản, đã được thành lập trong nội bộ FSP. NAQ cũng tích cực tham gia,
quyên góp tiền cho chế độ Xôviết. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra ngờ nghệch, mơ hồ về sự
khác nhau giữa Quốc tế II và Quốc tế III, đặc biệt mù mờ trong lĩnh vực lý thuyết. Có lần
Quốc còn đề nghị Longuet giải thích ý nghĩa của chủ nghĩa Max. Ông này ngượng nghịu
chỉ cho Quốc chỗ tìm đọc cuốn Tư bản luận. Đúng lúc đó “Luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa” của Lê nin ra đời đã biến Quốc từ một người yêu nước thành nhà cách
mạng Marxist chân chính. Sau này, NAQ thừa nhận, ông chẳng hiểu gì các cuộc cãi vã
lúc đó và đơn giản chỉ ủng hộ phe nào đứng về phía nhân dân các thuộc địa. Lê nin đã chỉ
ra rằng, chế độ thuộc địa là dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, và các Đảng cộng
sản châu Âu cần liên minh với các phong trào giải phóng dân tộc Á-Phi chống lại kẻ thù
chung. Khác xa với các nhà xã hội Paris, Lê nin là con người của hành động và đã chinh
phục hoàn toàn NAQ.
NAQ bắt đầu viết cho các báo cánh tả từ hè 1919. Các bạn phóng viên của ông như Jean
Longuet, Gaston Monmosseau đã giúp hoàn thiện lối viết mộc mạc và nhiều khi quá
thẳng của Quốc. Bài báo đầu tiên: “Vấn đề người bản xứ” được đăng trên báo Nhân đạo
ngày 2/8/1919. NAQ cho rằng, người Pháp chẳng mang lại gì cho người bản xứ. Mang
tiếng là khai hoá văn minh, hệ thống giáo dục của họ chỉ nhồi sọ và phục vụ một số nhỏ
con cái các quan chức. Quốc dự đoán, người Việt nam hoàn toàn không được chuẩn bị
cho cuộc cạnh tranh với các nước láng giềng, sớm muộn sẽ bị Nhật bản đè bẹp về kinh tế.
Trong một bài khác “Đông dương và Triều tiên” đăng trên báo Nhân dân tháng 10/1919,
www.langven.com
27
và sau đó là “Thư gửi Ngài Outrey” Quốc đả kích Maurice Outrey, đại diện cho Nam bộ
tại Nghị viện Pháp vì tay này đả kích Hội an nam ái quốc và cho rằng chẳng có ai đàn áp
dân chúng cả.
Công việc thợ ảnh của Quốc rõ ràng là chẳng bận rộn lắm. Ngoài viết báo, anh còn bắt
tay vào viết một tác phẩm dài với tên gọi “Những người bị áp bức” với sự giúp đỡ của
một nhà văn chống chế độ thuộc địa Paul Vigne d’Octon. Anh cố tình sử dụng rất nhiều
trích dẫn mà không nói rõ nguồn, hy vọng khi các nhà xuất bản xúm vào đòi quyền tác
giả sẽ làm cho cuốn sách nổi tiếng hơn. Đáng tiếc là bản thảo cuốn sách này bị đánh cắp.
Nhiều người cho rằng mật thám Pháp đã “tháu”, tuy nhiên không thấy có bằng chứng lưu
lại trong hồ sơ. Mặc dù không có nhiều thông tin về nội dung cuốn sách, chúng ta có thể
dự đoán là rất nhiều dữ liệu đã được dùng lại trong cuốn sách viết được công bố năm
1925: “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Giọng điệu cuốn sách này đã gay gắt hơn rất
nhiều, thể hiện rõ quan điểmMarxism của Quốc.
Quãng tháng 7/1919, NAQ chuyển đến căn hộ của Phan Chu Trinh tại Villa des
Gobelins, (gần quảng trường Italia, khu trung lưu của Paris) cùng với 1 số đồng nghiệp
khác. So với những chỗ ở trước của Quốc thì đây quả là một sự cải thiện đáng kể. Tuy
nhiên cuộc sống chung cũng có nhiều vấn đề. Theo các báo cáo của cảnh sát Pháp theo
dõi Trinh, NAQ và PCT thường to tiếng với nhau về con đường của cách mạng Việt
nam. Quốc cho rằng các quan lại Việt nam như những con cừu non trong tay Pháp, sử
dụng để ngăn cản và bóc lột nhân dân. Trinh thì cho rằng Quốc quá nông nổi: “Anh bạn
Quốc, hãy để tôi nói rằng anh còn rất trẻ và có cái đầu nóng. Anh muốn 20 triệu đồng
bào ta đứng lên làm gì đó khi họ không có một tấc vũ khí trong tay. Tại sao lại phải tự
sát một cách vô mục đích như vậy?” Trinh muốn dựa vào Pháp để cải cách chế độ đã thối
nát trong tay các nhà nho. Quốc thì coi Pháp là kẻ thù số một: “Tại sao 20 triệu dân ta
không làm gì đó để buộc chính quyền phải coi chúng ta như những con người. Kẻ nào
không coi chúng ta là người, kẻ đó là kẻ thù. Chúng ta không thể chung sống với chúng.
Không thể chịu nhục!” Quốc nói, “Ông có kinh nghiệm hơn tôi, nhưng hãy nhìn xem. Cha
anh ta đã đòi cái mà ông đòi suốt hơn 60 năm nay. Hỏi họ nhận lại được cái gì?” Tuy
nhiên Quốc vẫn rất kính trọng Trinh và thường dẫn ông này đến các cuộc hội họp của các
nhà cách mạng cấp tiến, hy vọng rằng Trinh sẽ thay đổi quan điểm.
Trong lúc đó, chính quyền Pháp vẫn tiếp tục thẩm tra nhân thân của Quốc. Họ đã thẩm
vấn cha, anh và chị của Thành và hy vọng có thể kiểm tra vết sẹo trên tai từ thời nhỏ.
Năm 1920, khi vào viện vì bị apxe, Quốc đã bị cảnh sát chụp ảnh. Ngày 17/8/1920,
Albert Sarraut, khi đó đã là Bộ trưởng thuộc địa, ra lệnh phải truy xét bằng được nguồn
gốc của NAQ. Quốc bị chất vấn tại Bộ thuộc địa. Sau đó 3 ngày lại bị gọi lên đồn cảnh
sát. Tại đó Quốc khai mình sinh năm 1894, tại Vinh có 6 anh chị em và đều đã chết cả.
“Hắn ta là ai vậy? Hắn thường xuyên thay tên đổi họ và hiện đang dùng một cái tên mà
ngay cả người mù tịt về tiếng Việt cũng thừa hiểu nghĩa là gì. Hắn không có một tí giấy
tờ tuỳ thân nào từ Đông Dương, thế mà dám can thiệp vào công việc chính trị của chính
phủ, tham gia các đảng phái, phát biểu tại các cuộc hội họp. Và còn cười vào mũi chúng
ta bằng những thông tin giả mạo”. Đó là nội dung báo cáo của Pierre Guesde cho Bộ
thuộc địa. Cũng theo báo cáo đó, mật thám Pháp đã nhận dạng chính xác NAQ là Nguyễn
Tất Thành.
Trong một thời gian dài, các phong trào xã hội Pháp do nhiều phe phái hợp thành:
- những người theo Auguste Blanqui đòi lật đổ cái đã, xây dựng xã hội mới tính sau.
- những nhà cải cách ôn hoà, đệ tử của Eduard Bernstein và Quốc tế II
www.langven.com
28
- những lý thuyết gia cấp tiến có nguồn gốc từ cách mạng Pháp chứ không phải Marx
- những lãnh đạo công đoàn, đấu tranh đòi quyền lợi trước mắt và không quan tâm lắm
đến ý thức hệ
Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã giáng một đòn mạnh vào sự thống nhất mong manh
trong một FSP hỗn tạp. Và khi Lenin đứng lên kêu gọi cuộc thánh chiến chống chủ nghĩa
tư bản, các thành viên của FSP phải lựa chọn chỗ đứng của mình. Tại hội nghị Strasbourg
tháng 2/1920, mặc dù đa số đồng ý ly khai với Quốc tế II, cũng còn rất đông người phản
đối gia nhập Quốc tế III. Cuộc tranh luận ngày càng trở nên quyết liệt.Marcel Cachin và
Tổng bí thư Louise Frossard sau khi tham gia đại hội QTCS lần thứ hai ở Matxcơva, đã
tổ chức một cuộc biểu tình với khoảng 30 ngàn người tham gia tại ngoại ô phía Tây Paris
ngày 13/8. NAQ chen trong đoàn người lắng nghe Cachin nhân danh QTCS phát động
cuộc chiến đấu giải phóng các dân tộc bị nô lệ, đánh thẳng vào thành trì của chủ nghĩa đế
quốc. Trước thềm đại hội Tour vào cuối tháng 12, các cuộc họp cấp địa phương diễn ra
liên miên, với hai nhóm tả hữu và lớp lưng chừng dưới cờ của Jean Longuet. NAQ ít
tham gia tranh luận, khi phải phát biểu, ông kêu gọi sự đoàn kết và chú ý đến các vấn đề
thuộc địa: “Các đồng chí, chúng ta đều là những nhà xã hội. Dù là quốc tế Hai, Hai rưỡi,
hay Ba, chúng ta đều cùng muốn giải phóng giai cấp công nhân... Trong lúc các đồng chí
tranh cãi ở đây, đồng bào của tôi đang chết dần chết mòn”
NAQ được mời đi dự đại hội với tư cách đại diện cho nhóm các đảng viên từ Đông
Dương.
Đại hội khai mạc ngày 25/12/1920 trong một trường dạy đua ngựa cạnh nhà thờ St. Julian
trên bờ nam sông Loire. Gian đại hội được trang trí bằng các bức ảnh nhà xã hội Jean
Jaure và những khẩu hiệu kêu gọi giai cấp công nhân đoàn kết. Bục phát biểu được dựng
tạm bằng những tấm ván gỗ đặt lên trên các giá cưa. 285 đại biểu đại diện cho 178,000
đảng viên, ngồi sau các bàn gỗ theo khuynh hướng chính trị của mình. NAQ ngồi với
cánh tả do Marcel Cachin lãnh đạo. Chủ đề chính của đại hội là có tham dự QTCS hay
không?
Với bộ comple rộng thùng thình trên một cơ thể mảnh khảnh của đại biểu châu Á duy
nhất, NAQ nổi bật giữa một đám hàng trăm tay người Âu râu ria xồm xoàm. Vì thế ảnh
Quốc được báo Le Matin đăng ngay sáng hôm sau. Lần theo bức ảnh, cảnh sát mò đến
định tóm NAQ, nhưng các đại biểu đã xúm vào bảo vệ được Quốc.
NAQ đã lên diễn đàn ngay hôm đầu tiên của hội nghị. Ông nói một mạch, không cần giấy
tờ và đi thẳng vào vấn đề, đả kích sự tàn bạo của chế độ thực dân và kêu gọi các nhà xã
hội hành động ủng hộ các dân tộc bị áp bức. Bài diễn thuyết của ông bị Jean Longuet cắt
đứt với lý do rằng ông ta đã bàn đến chuyện đấy rồi. Quốc đã nhanh trí ví von ngay với
quan điểm của Max (ông của JL): “tôi đành phải áp dụng chuyên chính của sự im lặng”.
Theo Quốc, chỉ có gia nhập quốc tế III mới chứng tỏ rằng FSP đánh giá được tầm quan
trọng của vấn đề thuộc địa. “Nhân danh loài người, nhân danh tất cả các nhà xã hội cánh
hữu và cánh tả, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các đồng chí. Hãy cứu chúng tôi” đó là
những lời cuối cùng của bài phát biểu của NAQ.
Ngay sau đó Jean Longuet vội vã giải thích rằng ông ủng hộ nhân dân Việt nam và vấn
đề đang được thảo luận ở quốc hội. Nhưng Couturier đã bác bỏ luận điểm đó: nhân dân
thuộc địa đang cần những hành động chứ không phải các cuộc thảo luận.
Ngày 27, Cachin chính thức đề nghị FSP chấp nhận những điều kiện của Lênin và gia
nhập quốc tế III. Hơn 70% đại biểu ủng hộ. Những người đối lập đã rời khỏi hội trường
để phản đối. Các đại biểu còn lại đã biểu quyết tách ra khỏi FSP và thành lập Đảng cộng
www.langven.com
29
sản Pháp (FCP). Tuy nhiên chẳng có cuộc thảo luận tiếp theo nào về vấn đề thuộc địa và
chủ tịch đoàn đã từ chối đề nghị (chắc là của NAQ) ra một thông cáo ủng hộ các dân tộc
thuộc địa. xxi
Tại đại hội Tour, NAQ đã đưa ra chính kiến rõ ràng, ông không chỉ quan tâm đến sự
thành công của cách mạng quốc tế mà còn cả vận mệnh của dân tộc mình. Trong một
nhận xét gửi cho bạn mình Quốc viết: “Tôi không có may mắn được học hành trong
trường đại học. Nhưng tôi đã được học trong cuộc sống từ lịch sử, xã hội đến khoa học
quân sự. Người ta phải yêu quý điều gì? Khinh thường điều gì? Người Việt nam chúng
tôi yêu độc lập, lao động và tổ quốc”.
Nhưng NAQ cũng bắt đầu cảm thấy thất vọng về các đồng nghiệp của mình ở FCP.
Tháng 2/1921, NAQ bị ốm phải vào viện. Khi khỏi bệnh, Q viết bài “Đông Dương” cho
tạp chí Người Cộng sản. Bài báo đã thể hiện thái độ phê bình gay gắt đối với sự thiếu
quan tâm của FCP tới các vấn đề thuộc địa. Ngược lại với quan điểm thế giới vô sản đại
đồng, NAQ khẳng định: “các dân tộc Đông dương sẽ sống mãi”. Ông cũng từ bỏ hy vọng
giành được mục tiêu mà không phải dùng đến vũ lực. “Dưới bề ngoài dễ bảo là sự bất
bình đang sôi sục, chờ dịp bùng nổ”.
Trong bài báo thứ hai dưới cùng một tiêu đề viết trong tháng 5, NAQ đề cập đến khả
năng tiến hành cách mạng tại các nước thuộc địa. Nên nhớ rằng, tại thời điểm đó, các nhà
cách mạng cấp tiến châu Âu cho rằng phải còn lâu các dân tộc chậm tiến mới có thể tiến
hành cách mạng. Cũng trong tháng đó, Stalin đăng đàn trên báo Sự thật khẳng định “các
dân tộc tiên tiến sau khi tự giải phóng bản thân, sẽ có trách nhiệm giải phóng các dân tộc
chậm tiến”. Về phía mình, NAQ cho rằng các điều kiện cách mạng đã hình thành ở
Trung quốc và Nhật bản, rất có thể một ngày gần đây, Trung quốc sẽ là đồng minh với
Nga trong cách mạng toàn cầu. Quả là một sự tiên tri khi tình hình ở Trung quốc lúc đó
còn đang rối ren sau cái chết của Viên Thế Khải và Tôn Dật Tiên thì phải đi tị nạn.
NAQ đã dẫn ra những chứng cớ lịch sử cho rằng chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ hội để
phát triển ở châu Á hơn châu Âu. Người Trung hoa cổ đại đã áp dụng hệ thống “bình
điền”, chia ruộng đất thành những phần bằng nhau cho nông dân và dành một phần cho
ruộng công. Hơn 4000 năm trước, nhà Hạ đã áp dụng chế độ lao động bắt buộc. Và chính
Khổng Tử đã qua mặt Quốc tế cộng sản khi tuyên truyền học thuyết về bình đẳng tài sản
từ thế kỷ 6 trước công nguyên. Ông nói, sẽ không có hoà bình cho thế giới cho đến ngày
xây dựng được một nhà nước toàn cầu. Ông còn thuyết giảng: “người ta không sợ có ít,
chỉ sợ chia không bình đẳng”. Một trong những học trò của ông là Mạnh Tử còn đi xa
hơn trong việc xây dựng kế hoạch chi tiết cho sản xuất và tiêu thụ. Những truyền thống
như vậy vẫn còn ảnh hưởng to lớn trong những xã hội châu Á. Chẳng hạn, Việt nam đã
áp ụng những hạn chế trong việc mua bán đất đai, 1/4 đất ruộng được sử dụng như tài sản
công. Khi các dân tộc châu Á thức dậy, họ sẽ trở thành một thế lực to lớn của cách mạng,
lật đổ chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.
NAQ còn dùng ngòi bút của mình để vạch trần những ảo tưởng của xã hội văn minh
Pháp. Trong bài báo với nhan đề: “nền văn minh thượng đẳng”, viết tháng 9 năm đó,
NAQ chế diễu nguyên tắc tam ngôi của cách mạng Pháp, sử dụng những ví dụ cụ thể
trong một cuốn hồi ký của 1 người lính Pháp. Trong tờ Le Libertaire, Quốc kể lại những
sự tàn bạo của các thầy giáo Pháp ở trường quốc học Huế, ngay dưới khẩu hiệu Aimez la
France, qui vous protege.
Chính quyền Pháp càng ngày càng theo dõi NAQ chặt chẽ hơn vì sự cấp tiến của ông.
Đầu năm 1921, Allbert Sarraut lại mời Quốc lên Bộ thuộc địa và tuyên bố “Nếu Pháp trả
www.langven.com
30
lại độc lập của Đông Dương cho ông, ông làm sao có thể điều hành được. Các ông làm gì
có đủ sức mạnh”. NAQ đã trả lời “Ngược lại, các ông sẽ thấy chúng tôi sẽ biết cách cai
trị như thế nào. Nhật bản và Xiêm cũng chẳng có bề dày lịch sử hơn chúng tôi, và họ là
những dân tộc tự do”. Đến đó, AS chủ động đổi chủ đề. xxii
Việc Quốc tham gia Đảng cộng sản Pháp đă làm t́nh h́nh tại Villa des Gobellin thêm
căng thẳng. Một người bạn thân của Quốc là Trần Tiến Nam đă tâm sự với 1 cô bạn gái
của ḿnh (trong thời gian Đại hội Tour) là ít người đồng t́nh với quan điểm của NAQ.
Cảnh sát theo dơi ngôi nhà cũng thông báo là thường xuyên có những cuộc căi lộn.Mâu
thuẫn lên đến đỉnh điểm vào tháng Bảy. Ngày 6/6, Quốc tham gia vào đoàn biểu t́nh
công nhân kỷ niệm những chiến sĩ ngă xuống trong Công xă Paris 1871, bị cảnh sát đánh
tơi bời may mắn thoát được về nhà. Bạn cùng pḥng được một phen khiếp vía. Trần Tiến
Nam vội vàng chuyển chỗ v́ sợ dính líu. Ngày 11/7, cảnh sát báo cáo đă xảy ra một cuộc
căi vă lớn từ 9h tối tới tận sáng hôm sau. Quốc thu xếp hành lư bỏ đến ở với ḿnh là Vơ
Văn Toàn ở 12 Rue Buot. Một tuần sau, Paul Couturier thu xếp được cho Quốc một căn
pḥng nhỏ tại số 9 ngơ cụt Compoint khu công nhân Batignolles - Tây bắc Paris.
Chỗ ở mới thật là thảm hại so với tiện nghi tại Villa des Gobellin. Căn pḥng chỉ vừa đủ
để kê một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và tủ quần áo. Cửa sổ nḥm thẳng vào tường
nhà người khác. Không điện, nước, ḷ sưởi.
Công việc của NAQ cũng thay đổi thường xuyên, anh làm thợ tô màu cho PCT đến ngày
7/1920. Sau đó chuyển sang vẽ bích hoạ cho một nhà sản xuất đồ gỗ Tàu ở khu Latin. Lại
chuyển đến hiệu ảnh tại phố Froidevaux. Cuối cùng Q cũng t́m được một chỗ làm ở hiệu
ảnh gần nhà sau khi chuyển khỏi Villa des Gobellin. Nhưng đồng lương c̣m cơi khoảng
40 fr/tuần có vẻ chẳng ảnh hưởng ǵ đến lối sống của Q. Anh vẫn thường xuyên dự các
cuộc miting, thậm chí ở tỉnh xa, thăm triển lăm, đi thư viện, thù đăi bạn bè trong căn
pḥng nhỏ của ḿnh.Trong số những người quen mới có ca sĩ Maurice Chevalier và nhà
văn Collete. Chắc chắn là NAQ được FCP tài trợ thêm.xxiii
Cuộc chia tay tại Villa des Gobellin có lẽ đă được khơi mào bằng sự bất đồng xung
quanh việc thành lập Uỷ ban các vấn đề thuộc địa thuộc FSP. Khoảng giữa tháng sáu,
Quốc đă dẫn PCT đến dự một cuộc họp của Uỷ ban. Vài tuần sau, Quốc dự cuộc họp thứ
hai tại Fontaineblau. Sau khi trở về 2 ngày, đă xảy ra cuộc căi lộn cuối cùng (cảnh sát c̣n
thông báo là trước đó 1 ngày có 6 người đàn ông lạ mặt đến căn hộ). Một trong những
hoạt động đầu tiên của ủy ban là thành lập Hội Liên thuộc địa, nhằm tạo một tiếng nói
chung cho đại diện tất cả các thuộc địa hiện đang sinh sống ở Pháp. Lúc mới thành lập
hội có khoảng 200 thành viên, chủ yếu là Việt nam và Madagascar, thêm vài thành viên
Bắc Phi và Ấn độ. NAQ là động lực chủ yếu của tổ chức mới cùng với Nguyễn Thế
Truyền, Max Bloncourt, Hadj Ali người Alger. Chính tại đây anh hiểu ra những khó khăn
to lớn khi liên kết các lực lượng thuộc địa thành một tổ chức thống nhất. Người Việt th́
đ̣i một tổ chức thuần Việt, người Phi th́ cho rằng dân châu Á kiêu căng, hợm ḿnh. Một
số phần tử cấp tiến châu Âu muốn tham dự th́ lại bị cho ra ŕa... Các cuộc họp cứ vắng
dần, từ hơn 200 người xuống c̣n khoảng 50. Trong một phiên họp thậm chí chỉ có 27
mống, kể cả hai cô gái Pháp, bồ của các thành viên. Q cũng có một số bạn gái nhưng
chẳng dính dáng ǵ đến chính trị. Tuy nhiên Q cũng đă có một thành công nhỏ là thuyết
phục được Phan Văn Trường tham gia.
Hội họp chẳng phải là hoạt động duy nhất của Q trong thời gian này. Anh đă học được từ
những người bạn Pháp cách sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền
cách mạng. Được sự đồng t́nh của uỷ ban và Hội, Q thành lập báo Le Paria (Người cùng
www.langven.com
31
khổ) viết bằng tiếng Pháp, nhưng có thêm tiêu đề tiếng Hoa và Arab. Báo ra hàng tháng
và số đầu tiên ra ngày 1/4/1922. NAQ là tổng biên tập kiêm phóng viên chính, và thỉnh
thoảng kiêm luôn cả việc tŕnh bày và phát hành. Qua các trang NCK, Quốc tiếp tục rèn
luyện kỹ năng viết báo của ḿnh. Lối viết của anh đơn giản, không hoa mỹ, chịu ảnh
hưởng nhiều của Leo Tonstoi. Q chủ yếu dựa trên các sự kiện và con số để nêu quan
điểm của ḿnh. Độc giả có cảm tưởng như Q là một từ điển thống kê sống về cuộc sống
khổ cực tại các thuộc địa. Đôi khi, anh sử dụng giọng văn châm biếm thay cho các con
số. Lối châm biếm của anh cũng rất trực diện, đi thẳng vào vấn đề không mang tính triết
lư như Lỗ Tấn thời bấy giờ. Sau này, rất nhiều nhà nghiên cứu cũng không thể hiểu nổi,
tạo sao một con người có sự quyến rũ cá nhân sâu sắc và một tính cách huyền ảo lại có
thể áp dụng một cách hành văn có vẻ vụng về và đơn giản như vậy. Đây chính là ch́a
khoá của tính cách và sự hiệu quả trong hoạt động cách mạng của HCM. Không giống
như nhiều lănh tụ Marxist khác, HCM luôn coi độc giả của ḿnh là tầng lớp b́nh dân:
nông dân, thợ thuyền, viên chức, binh lính, chứ không phải các trí thức của xă hội. Ông
không có ư định gây ấn tượng bằng sự uyên bác, sắc sảo của ḿnh mà thuyết phục độc
giả bằng sự đơn giản và sống động, để chia sẻ các quan điểm về thế giới và con đường
tiến tới thay đổi. Độc giả sành điệu sẽ có khi cảm thấy chán ngấy, ngược lại, những bài
viết tố cáo, kêu gọi lại có sức mạnh phi thường. Phút chốc, NCK đă trở nên nổi tiếng là
tiếng nói đại diện cho các dân tộc bị áp bức. Bất cứ ai sẽ bị bắt ngay lập tức nếu bị bắt
gặp đang đọc báo. NAQ nhớ lại “Hầu như tất cả các số báo đều được Bộ thuộc địa mua
hết”. Tuy nhiên một số lượng nhỏ cũng được chuyển về các thuộc địa qua kênh các thuỷ
thủ. Đồng thời, NAQ vẫn tiếp tục viết cho các báo cánh tả khác tại Paris. Năm 1922,
Khải Định sang Pháp dự Triển lăm thuộc địa, được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 8 tại
Marseille. Mặc dù đă được Sarraut đề nghị im lặng, NAQ và PCT vẫn tận dụng cơ hội
này. Trên tờ Dán báo, 9/8/1922, Q miêu tả Khải Định như một món đồ trang trí được bày
trong tủ kính của Triển lăm trong khi dân chúng th́ bị đày xuống bùn đen. NAQ con viết
vở kịch “Con rồng tre” được công diễn tại CLB Fabourg. Sự khinh quân này đă đẩy cha
con NAQ tới sự chia rẽ sâu sắc hơn. Khi nhận được tin con, Sắc đă tuyên bố, đứa con nào
không công nhận hoàng đế, đứa con đấy cũng không có cha.
Chuyến đi thăm của Khải Định là cơ hội cuối cùng cho Q và Trinh đứng trên một trận
tuyến. Trước đó, tháng 2/1922, Trinh đă gửi cho Quốc một lá thư. Mặc dù vẫn bảo vệ
quan điểm của ḿnh về việc nhấn mạnh giáo dục, Trinh tự nhận ḿnh là một “con ngựa
già”, con Q đang là một “chú ngựa hoang” đầy sức sống. Tuy nhiên Trinh khuyên Q
đừng mất thời giờ tại nước ngoài như Phan Bội Châu mà hăy về nước chiến đấu. Nếu
chẳng may thất bại, sẽ có người khác đứng lên tiếp tục. Q lại có những kế hoạch khác.
Bây giờ anh đă trở nên một nhân vật chủ chốt trong phong trào cấp tiến của Pháp. Được
sự trợ giúp của George Pioch, kỹ năng phát biểu của anh đă hoàn thiện và Q thường
xuyên tranh luận với các lănh đạo chủ chốt của FCP. Anh cũng bị mật thám Pháp quan
tâm kỹ lưỡng. Ngày 22/6/1922, Albert Sarraut lại mời Q lên Bộ thuộc địa. Sau khi đe doạ
sẽ trừng trị thẳng tay những hoạt động nhập khẩu cách mạng vào Đông Dương, AS định
mua chuộc Q: “Tôi rất kính trọng ý chí của anh. Hãy để quá khứ thành quá khứ. Chúng
ta đã là bạn. Khi nào anh cần gì cứ bảo tôi”. NAQ đứng dậy cám ơn và nói: “Điều tôi
cần nhất trong cuộc đời là độc lập cho đồng bào của tôi. Xin phép ngài cho tôi đi”.
Vài ngày sau, Quốc viết thư cho Bộ thuộc địa. (Bức thư này cũng được công bố trong báo
Nhân đạo và Người cùng khổ). Trong thưQ đă cám ơn chính phủ Pháp đă cung cấp một
www.langven.com
32
số “phụ tá” (tức các mật thám theo dơi) và rất lấy làm “xấu hổ” v́ đă tiêu tốn mồ hôi của
giai cấp vô sản. Q cũng cung cấp luôn lịch hoạt động hàng ngày của ḿnh
“Sáng: từ 8h-12h, tại cửa hàng
Chiều:tại toà báo
Tối: ở nhà hoặc đi học
Chủ nhật/ngày nghỉ: viện bảo tàng, thăm quan
Tôi mong rằng phương pháp này sẽ làm Ngài hài lòng, kính thư – Nguyễn ái Quốc”
Sarraut tất nhiên là chẳng có bụng dạ nào để ư đến sự châm biếm của Q. Ông này liên lạc
với Toàn quyền Đông dương Maurice Long, đề nghị bắt và đưa về VN. Long cho rằng cứ
nên giữ Q ở Pháp, dễ theo dơi hơn. Sarraut lại đề nghị đầy Quốc đến vùng Nam Trung
Quốc. Long cũng không đồng ư, sợ Q có thể lănh đạo cách mạng trong nước từ đó.
Tuy nhiên điều làm Q thất vọng hơn cả là thái độ của các đồng chí trong cánh tả Pháp về
vấn đề thuộc địa. Sau khi xuất hiện rùm beng, Hội Liên thuộc địa nhanh chóng bị lăng
quên. Theo Q ngay cả báo Nhân đạo cũng không quan tâm đến vấn đề đúng mức. Q cho
rằng các báo tư sản c̣n miêu tả thuộc địa kỹ hơn, thậm chí đă tạo cho mọi người h́nh
ảnh các nước thuộc địa hết sức mỹ măn: “cát, mặt trời, gió biển, những hàng dừa xanh và
các thổ dân loè loẹt”. Điều này làm cho giọng điệu của Q ngày càng trở nên chống Pháp.
Trong loạt bài báo miêu tả cảnh khổ cực của các công nhân cảngMarseilles cuối năm
1921, Q đă kư tên Nguyễn Ô Pháp (tức là ông Nguyễn ghét Pháp). Q c̣n tranh luận nảy
lửa với một lănh đạo của FCP về vấn đề thuộc địa. Đến nỗi, Jacques Doriot – một ngôi
sao mới nổi của FCP phải th́ thầm khuyên Q dịu giọng.
Tháng 3/1923, một mặt để tiết kiệm tiền, mặt khác tiện làm việc, Q chuyển từ ngơ
Compoint đến căn pḥng 100fr/tháng ở tâng trên của trụ sở báo NCK tại Rue du Marche
des Patriarches. Đây là chỗ ở cuối cùng củaQ ở Paris. Một nhân vật Việt nam quan
trọng đă giúp Q rất nhiều trong việc phát hành báo là Nguyễn Thế Truyền. Truyền sinh
năm 1898, đến Paris năm 1920 để nghiên cứu kỹ nghệ. Năm 1921 Truyền gia nhập FCP
và trở thành đồng minh thân cận nhất của Q trong cộng đồng Việt nam.
Trong một lần đại hội FCP vào tháng 10 năm trước, NAQ gặp Dmitri Manuilsky, đại
diện của QTCS tại Liên xô. Ông này rất đắc ư nghe Quốc đả phá kịch liệt sự thiếu quan
tâm đến các vấn đề thuộc địa của FCP. Nhiều tháng sau, khi Mauilsky được phân công
chuẩn bị bản báo cáo về các vấn đề dân tộc và thuộc địa cho Đại hội 5 QTCS mùa hè
năm 1924, ông lập tức nhớ đến chàng thanh niên Việt nam đầy nhiệt huyết. Q được mời
đến Moscow làm việc cho QTCS.
Đối với Q, lời mời đến Moscow là phần thưởng to lớn cho nhiệt huyết anh đă bỏ ra cho
Đảng. Đây cũng là cơ hội to lớn để Q quay về châu Á và Việt nam. Nhưng vốn tính cẩn
thận, Q thông báo cho bạn bè là chuẩn bị đi nghỉ 3 tuần ở miền Nam Pháp. Ngày
13/6/1923, sau khi không để lại một chút nghi ngờ nào cho 2 “trợ lư” của cảnh sát Pháp,
Q đi ra cửa sau của một rạp chiếu bóng, đến Gare du Nord và lên tàu đi Berlin trong vai
một nhà buôn châu Á giàu có. Đến Berlin,Q đi tiếp đến Hamburg, lên tàu Karl
Liebknecht đến nước Nga Xô viết. Ngày 30/6 Q cập bến Petrograd với hộ chiếu của một
nhà buôn Trung quốc Trần Vangxxiv
Chuyến đi của NAQ đă làm cho cả cảnh sát Pháp và những người bạn của Q nhức đầu.Q
đă chính thức nói không với con đường cải cách của PCT để đi theo Vladimir Lenin.
“Mặc dù Q còn trẻ và có thể có những hành động thiếu suy nghĩ. Nhưng điều quan trọng
là anh ta có một trái tim của con người yêu nước. Anh đã chọn con đường cô đơn và đầy
gian khó để giải phóng dân tộc mình. Và tất cả chúng ta phải kính trọng trái tim can đảm
www.langven.com
33
đó”. Đó là những lời tâm huyết của PCT dành cho người đồng chí trẻ tuổi của ḿnh trong
bức thư gửi cho bạn bè tháng 9/1923.
www.langven.com
34
Nhà cách mạng tập sự
Năm 1923, Nước Nga đang phục hồi từ 7 năm chiến tranh, cách mạng và nội chiến.
Ngoài Moscow, Petrograd và một số thành phố lớn thuộc phần lănh thổ châu Âu, cuộc
cách mạng tháng 10 vẫn chỉ là cuộc “Cách mạng trên điện báo” (theo lời của Leo
Trotsky). Trên những cánh đồng Nga mênh mông, gần 50 000 đảng viên Bolsheviks đang
t́m cách thuyết phục hàng chục triệu nông dân Nga, vốn chẳng biết ǵ về những ư tưởng
của Karl Max, lại càng không quan tâm đến số mệnh của cách mạng vô sản thế giới.
Để điều chỉnh lại chính sách cưỡng đoạt mà nhà nước Bolshevik đă sử dụng để thiết lập
quyền lực của ḿnh trong cuộc nội chiến, Lenin đă buộc phải thừa nhận rằng nước Nga
xô viết phải đi qua giai đoạn quá độ của chủ nghĩa tư bản. Năm 1921, Lenin tung ra chính
sách kinh tế mới NEP, công nhận quyền tư hữu ruộng đất, áp dụng chế độ thuế thay cho
trưng thu, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành công nghiệp quan trọng.
Những cảm tưởng đầu tiên của NAQ tại thiên đường của CNXH, cái mà anh đă từng tô
màu rực rỡ trong những bài báo hồi c̣n ở Pháp, không được dễ chịu cho lắm. Q bị giữ lại
mấy tuần trong không khí căng thẳng, cho đến khi có một đại diện của FCP đến nhận
diện. Sau đó Q được phân làm việc tại văn pḥng Viễn đông của QTCS (gọi tắt là
Dalburo)
Dalburo được thành lập tháng 6/1920 theo sáng kiến của Maring (Người Hà lan tên thật
là Hendrik Sneevliet, sau này trở thành cố vấn thường trực cho Đảng CS Trung quốc), do
nhà Đông phương học người Nga, Safarov lănh đạo. Mục tiêu là tuyên truyền cho tư
tưởng cách mạng tại vùng Trung đông và Viễn đông.Maring c̣n đề nghị thành lập các
trường học để huấn luyện cho những hạt nhân cách mạng từ châu Á và châu Phi.
Vô cùng nhanh nhạy trong việc gây ấn tượng, mới chân ướt, chân ráo đến nơiQ đă viết
thư cho ban chấp hành trung ương FCP, đả kích cơ quan này đă không thực hiện đúng
nghị quyết của đại hội 4 QTCS về việc mở rộng các hoạt động liên quan đến các vấn đề
thuộc địa. Anh nhấn mạnh “nhân dân thuộc địa được hứa hẹn mà không thấy có hành
động, tự nhiên sẽ đặt câu hỏi, liệu các đồng chí cộng sản là nghiêm túc hay lừa bịp”. Cuối
thư Q nhắc lại, điều kiện tiên quyết để gia nhập QTCS là cam kết tiến hành một cách có
hệ thống các hoạt động tuyên truyền để hỗ trợ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Q cũng
viết thư cho chủ tịch đoàn chủ tịch QTCS, tŕnh bày các ư tưởng của ḿnh để ủng hộ cuộc
đấu tranh ở Đông Dương. NAQ miêu tả Việt nam như một thuộc địa chỉ có 2% vô sản mà
lại vô tổ chức, tầng lớp trung lưu bé tí tập trung ở vài thành phố lớn, giai cấp tiểu tư sản
ủng hộ độc lập nhưng không có chủ kiến chính trị rơ ràng, nông dân th́ đông, bị áp bức
và nếu được tổ chức tốt sẽ có tiềm năng lớn. Q cũng nhấn mạnh, động lực cách mạng chủ
yếu bây giờ nằm trong tay các trí thức và nhà nho yêu nước. Bởi thế Q cho rằng mục tiêu
đầu tiên là phải có hành động chung giữa các lực lượng cách mạng dân tộc và Đảng cộng
sản.
Tư tưởng của NAQ chính là tư tưởng của Lenin trong “Luận cương các vấn đề dân tộc và
thuộc địa”. Mặc dù những tư tưởng đó không c̣n là rất mốt như thời sau đại hội 2 của
QTCS, nhưng các nhà lănh đạo xô viết buộc phải chú ư đến chàng thanh niên châu Á đầy
tham vọng này và tính đến anh trong các nước cờ lâu dài ở châu Á.
Năm 1923, quan điểm của Lenin về một nhà nước công nông trong các xă hội chưa qua
cuộc cách mạng công nghiệp lại được khuấy lên. Năm 1922, một số kẻ theo chủ nghĩa
dân túy đă lập nên “Quốc tế xanh” ở Prague, khuyến khích thành lập các đảng nông dân
với đường lối chính trị mới. Các phần tử cấp tiến Đông Âu, do Dombal (đảng viên cộng
www.langven.com
35
sản người Balan) khởi xướng, cũng muốn QTCS phải có một tổ chức tương tự để lôi kéo
sự ủng hộ của nông dân. Tuy không hào hứng lắm nhưng ban chấp hành QTCS cũng
quyết định lợi dụng Triển lăm nông nghiệp quốc tế tại Moscow để tổ chức hội nghị Nông
dân quốc tế vào ngày 10/10/1923. Những nhà tổ chức cũng gom được khoảng 150 đại
biểu từ các nước tham dự triển lăm. NAQ được bầu đại diện cho Đông dương. Trong bài
phát biểu của ḿnh vào ngày 13, NAQ, qua các ví dụ và sự kiện đơn giản, đă chỉ ra rằng
nông dân là nạn nhân bần cùng nhất của chủ nghĩa đế quốc. Bởi thế, Q kết luận QTCS chỉ
có thể là QTCS chân chính nếu có được sự tham gia tích cực của nông dân châu Á.
Hội nghị đă quyết định thành lập Quốc tế Nông dân do A. Smirnov làm tổng thư kư.
NAQ được bầu làm 1 trong 11 thành viên của chủ tịch đoàn của Hội đồng Nông dân quốc
tế.
Tháng 12/1923. NAQ nhập học tại Đại học Cộng sản cho những người bị áp bức phương
Đông. Trường này do Lênin lập ra từ năm 1921, nhưng lại đặt dưới quyền của Stalin nên
c̣n được gọi là trường Stalin, chuyên dạy cho các học viên từ các nước châu Á và các
học viên không phải dân tộc Nga từ miền đông Nga. Một trường khác, gọi là trường
Lênin, chuyên đào tạo cán bộ cho châu Âu.xxv
Trường có khoảng 1000 học viên từ 62 dân tộc khác nhau, trong đó 900 là đảng viên
cộng sản, 150 là phụ nữ, khoảng một nửa xuất thân từ nông dân, số c̣n lại là công nhân
và “trí thức vô sản”. Có vẻ NAQ là học viên đầu tiên từ Đông Dương.
Khoảng 150 giáo viên dạy đủ các môn từ Toán học cho tới Lịch sử phong trào cách mạng
và công nhân cũng như chủ nghĩa Max, trong ngôi nhà số 10 trên phố Tverskaya. Học
viên c̣n được học các hoạt động cách mạng như tổ chức biểu t́nh, rải truyền đơn. Học
viên đều dùng bí danh trong sinh hoạt. Các môn học được dạy bằng tiếng Pháp hoặc tiếng
mẹ đẻ. Tiếng Nga được khuyến khích sử dụng trong giao tiếp. Năm học kéo dài từ tháng
9 tới tháng 7 với 3 tuần nghỉ Noel, 1 tuần nghỉ Xuân và nghỉ Hè. Trường có hai trại hè ở
Crưm. Vào các kỳ nghỉ, học viên được huy động tham gia tăng gia sản xuất. Điều kiện
học tập ở đây khá lư tưởng, trường có 2 thư viện với gần 47000 đầu sách. Mỗi dân tộc lớn
đều có pḥng riêng với các sách báo bằng tiếng mẹ đẻ.
Ngay sau lễ kỷ niệm 3 năm ngày thành lập trường, Q đă viết thư cho Petrov, bí thư
Dalburo, phàn nàn là hầu như chẳng có người Việt nam nào học ở đây cả.Q đề xuất
trường Stalin đặc biệt quan tâm đến đào tạo đội ngũ cán bộ thế hệ mới cho châu Á tiến
tới thành lập Liên bang Cộng sản Phương Đông.
Trường Phương Đông có hai mức: căn bản 3 năm và tại chức 7 tháng. Nhiều khả năng là
Q học lớp 7 tháng v́ anh c̣n phải làm việc tại QTCS. Lănh đạo QTCS coi Q là một
thành phần quan trọng, thêm đại diện cho các nước châu Á và thuộc địa trong vô khối
những tổ chức quốc tế được thành lập thời bấy giờ. Anh được mời đến quảng trường Đỏ
dự miting và phát biểu trong ngày quốc tế lao động với tư cách là thành viên của Quốc tế
lao động Đỏ. Q c̣n dự đại hội của Quốc tế phụ nữ và nói chuyện với vợ goá của Lenin:
Krupskaya.
Bằng vô số cách khác nhau, Q dần dần trở thành một nhân vật nhẵn mặt trong giới lănh
đạo QTCS và quen thân với các cây đa cây đề như Bukharin, Dmitrov, Thalemann,
Kuusinen. Q c̣n chơi với một số bạn bè Trung quốc học cùng trường như Chu Ân Lai.Q
cũng gặp Tưởng Giới Thạch khi ông này thăm Nga 3 tháng cuối hè năm 1923. Có vẻ như
mọi người đều thích Q. Ruth Fischer, một nhà cộng sản cội người Đức nhận xét: “NAQ
không gây ấn tượng từ lần gặp đầu tiên, anh ta chinh phục bằng lòng hào hiệp và sự giản
dị”. Là một người thực tế, không tham gia các cuộc tranh luận vô bổ về học thuật,Q đă
www.langven.com
36
tránh được sự bất đồng đang h́nh thành lúc đó trong giới lănh đạo xô viết, dẫn đến sự
méo mó của Đảng Bolsevic và QTCS trong thập kỷ tiếp theo.
Nhà báo Ossip Mandelstamd, người đă phỏng vấn Q tháng 12 năm 1923 cho báo “Ngọn
lửa nhỏ” viết về Q:
Một người trẻ tuổi mảnh dẻ, thấm đẫm những triết lý của đạo Khổng, với cặp mắt to và xuyên
thấu. Khi anh ta nói về đất nước mình, cả người anh như co giật, mắt anh chói lên những tia hào
quang. Anh ta phát âm từ “văn minh” với một sự ghê tởm lộ rõ, và đặc biệt phẫn uất với việc nhà
thờ Thiên chúa chiếm mất 1/5 đất trồng trọt của đồng bào anh
Boris Souvarin, người sau này đă rời bỏ FCP, tuyên bố: “Q đã trở thành một người
Stalinist hoàn hảo”
Chỉ có một người không mấy ấn tượng với Q. Đó là M. Roy, một đảng viên cộng sản Ấn.
Ông này cho rằng Q là một người yếu đuối cả về thể xác và tư tưởng. Trớ trêu thay, chính
Q là một trong số ít người ủng hộ luận điểm của Roy cho rằng các nước châu Á cũng có
thể làm cách mạng. Roy sau này trở thành đặc phái viên của QTCS tại Trung quốc và
theo nhiều nhà quan sát, chính sự yếu kém của ông này đă làm Đảng cộng sản Trung
quốc thất bại trong cuộc tranh giành quyền lực năm 1927.
Quốc c̣n dành nhiều thời giờ để viết cho các báo cánh tả ở Pháp cũng như Inprecor (cơ
quan ngôn luận của QTCS). Chủ đề của ông rất rộng: từ chủ nghĩa đế quốc ở Trung quốc,
3K ở Mỹ, thiên đường Liên xô đến sự cùng khổ của nhân dân Đông dương. Cùng với các
bạn Trung quốc tại trường Stalin, Q viết một cuốn sách nhỏ: “Trung quốc và thanh niên
Trung quốc” xuất bản bằng cả tiếng Nga, Trung và Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất củaQ
trong thời kỳ ở Nga, và có lẽ trong cả cuộc đời là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”,
được xuất bản ở Paris năm 1926 (NXB Lao động). Tác phẩm chủ yếu đả kích chế độ thực
dân Pháp tại Đông dương, tuy cũng có vài dẫn chứng khác tới các thuộc địa châu Phi.
Tuy nhiên cách hành văn dông dài cũng như tŕnh bày cẩu thả làm có nhà nghiên cứu cho
rằng, có lẽ ai đó đă mượn tên Q để xuất bản. Tuy nhiên nếu xét kỹ giọng điệu và văn
phong, có vẻ như vẫn là Q. Chắc chắn là cuốn sách đă được ra đời một cách vội vàng.xxvi
Một điều dễ nhận thấy trong các bài viết của Q là niềm tin “ngây thơ” với Liên xô và đặc
biệt là t́nh cảm với Lênin. Có lẽ thất vọng lớn nhất trong đời Q là không được gặp Lenin.
Năm 1923, khi được hỏi mục đích đến Liên xô,Q đă trả lời: để gặp Lenin. Rất tiếc tháng
Giêng năm 1924, Lenin qua đời. Giovani Germanetto, một người quen Italia của Q kể lại:
“Matxcova, tháng giêng 1924, lạnh buốt, nhiệt độ xuống dưới –40. Lenin mất mấy ngày
trước đó. Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng chúng tôi ở khách sạn Lux. Một người thanh
niên châu Á mảnh dẻ bước vào tự giới thiệu là NAQ. Anh nói muốn đi tiễn đưa Lenin. Tôi
khuyên anh nên ở nhà đợi thêm một chút vì thấy anh ta ăn mặc rất mỏng manh. Chúng
tôi uống chè rồi Q về phòng mình.
Quãng 10h đêm lại thấy có tiếng gõ cửa. Vẫn đồng chí Q. Mặt, tay, mũi, tai tím ngắt vì
lạnh. Anh lập cập nói đã đến thăm Lenin. Anh không thể đợi được đến ngày mai để viếng
người bạn tốt nhất của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.... Cuối cùng anh xin chúng tôi
một chén trà nóng”
Theo Yevgeny Kobelev, sau khi dự đám tang Lenin,Q đă giam ḿnh vào trong pḥng và
viết: “Người là cha, anh, thầy, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Người là ngôi sao dẫn
đường cho các dân tộc bị áp bức. Người sẽ sống mãi trong hành động của chúng ta”xxvii
Tuy nhiên nếu để ư đến những chi tiết nhỏ nhặt, dễ nhận thấy là không phải cái ǵ tại
nước Nga xôviết cũng làm Q dễ chịu. Tháng 12/2003, người ta phân cho Q vào 1 buồng
của khách sạn Lux với 4-5 anh bạn nữa. Và có vẻ mấy anh này không phải là những
www.langven.com
37
người đồng pḥng dễ chịu. Tháng 3, Q viết thư kêu cứu: “ban ngày tôi không ngủ được vì
ồn, ban đêm tôi không ngủ được vì rận/rệp” Cuối cùngQ được chuyển sang một pḥng
khác.
Về chiến lược đường lối cách mạng, cũng chẳng phải mọi thứ đều suôn sẻ. Từ khi đặt
chân đến Nga, Q liên tục thả bom xuống những người bạn có thế lực của ḿnh về các vấn
đề thuộc địa. Trong một bức thư viết tháng 2/1924 cho người bạn tại Trung ương QTCS
(chắc là Manuilsky), Q cảm ơn bạn đă nêu vấn đề thuộc địa tại hội nghị của FCP ở Lyon.
Cũng ngày đó, Q viết thư cho Tổng thư kư QTCS Grygori Zinoviev đ̣i được gặp mặt
thảo luận về vấn đề thuộc địa. Không được trả lời, Q viết lá thư thứ hai kêu ca là tại sao
không trả lời lá thư thứ nhất. Zinoviev quyết định lờ đi.
Chẳng biếtQ định thảo luận ǵ với Zinoviev, nhưng tháng Tư, Q công bố bài báo: “Đông
dương và Thái bình dương” trong tạp chí Inprecor. Ông tuyên bố giai cấp vô sản châu Âu
thực là ngây thơ khi cho rằng các vấn đề châu Á chẳng liên quan ǵ đến họ. Sự bóc lột
các thuộc địa không những đang làm giàu cho các nhà tư bản và các chính trị gia vô liêm
sỉ mà c̣n dẫn đến hiểm hoạ chiến tranh đế quốc. Khi đó th́ công nhân châu Á và Đông
dương chết, giai cấp vô sản châu Âu cũng bị hiểm hoạ. Tầm quan trọng của “vấn đề
phương Đông” đă được Roy nêu lên từ Đại hội 2 năm 1920 nhưng bị các đồng chí châu
Âu gạt đi. Họ cho rằng, trước hết các Đảng châu Âu phải dành được chính quyền trước.
Các đồng chí châu Á cứ đợi đă! Thoạt đầu quan điểm châu Á được sự ủng hộ từ các cấp
cao nhất: Lenin và cả Stalin. Tuy nhiên sau khi Lenin chết đi, Stalin chuyển trọng tâm
sang đấu đá để dành quyền lực tại Moscow. Zinoviev t́m cách lảng tránh.Maring bỏ
QTCS chạy lấy người, thậm chí Manuilsky, v́ thiếu các thông tin thực tế, đành tập trung
vào các điều kiện tại Balkans.
Vai tṛ của nông dân c̣n thấp kém nữa. Thậm chí Bukharin c̣n chế nhạo Thomas
Dombal là: “Một người nông dân hão huyền”. NAQ không chịu đầu hàng, phát biểu tại
hội nghị Quốc tế nông dân tháng 6/1924. Tuy nhiên ông cũng phải thừa nhận với một
người bạn đó chỉ là: “tiếng kêu cứu giữa hoang mạc”.
Đại hội lần thứ 5 của QTCS tại Matxcova vào ngày 17 tháng 6 năm 1924 là cơ hội tuyệt
vời để Q chiếm lĩnh diễn đàn về vấn đề thuộc địa. Đó cũng là mục tiêu của chuyến đi Nga
của ông theo lời mời của Manuilsky. V́ lúc đó chưa có đảng cộng sản tại Đông dương,Q
nằm trong thành phần của FCP. Hơn 500 đại biểu từ khoảng 50 nước tham dự.
Mặc dù chương tŕnh nghị sự có hẳn một phiên họp về vấn đề thuộc địa và các dân tộc
ngoài Nga, các thủ lĩnh của CPSU đang bù đầu với cuộc đấu đá giữa Stalin và Trotsky,
bởi thế các đồng chí châu Á cũng chẳng được quan tâm lắm.
Ngay tại phiên họp đầu tiên, Q đă làm cho mọi người chú ư. Khi đại biểu Koralov đang
đọc dự thảo nghị quyết để công bố,Q đă đứng lên hỏi: liệu văn kiện này có nhắm tới
nhân dân các nước thuộc địa không. Koralov bực tức trả lời, đă có phiên họp riêng về vấn
địa thuộc địa, cần ǵ phải bàn ở đây. Q không chịu và yêu cầu đại hội phải đề gửi nhân
dân các nước thuộc địa trong tất cả các văn kiện của ḿnh. Ngày 23/6, đến phiên Q phát
biểu. Người thanh niên Việt nam mảnh dẻ dơng dạc tuyên bố: Tôi ở đây
để nhắc nhở QTCS về sự tồn tại của các thuộc địa. Có vẻ như các đồng chí không chịu
hiểu rằng, số phận của giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt giai cấp vô sản ở các nước thực
dân gắn chặt với số phận của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Thuộc địa chứa đựng
hiểm hoạ cũng như tương lai của cuộc cách mạng thế giới.
Tôi nghe bài phát biểu hùng hồn của nhiều đồng chí ở mẫu quốc, nhưng xin lỗi, các đồng
chí định giết con rắn bằng cách dẫm lên đuôi nó. Chúng ta đều biết là sức mạnh và nọc
www.langven.com
38
độc của con rắn đế quốc nằm nhiều ở thuộc địa hơn ở mẫu quốc. Thuộc địa cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp, binh lính cho chiến tranh. Trong tương lai thuộc địa sẽ là
thành trì của phản cách mạng. Nếu muốn phá vở một vật gì đó, các đồng chí đủ thông
minh để chọn công cụ thích hợp. Đập trứng thì cần thìa, đập đá cần rìu. Vậy sao các
đồng chí lại không muốn sức mạnh, sự tuyên truyền của cách mạng tương xứng với kẻ
thù. Trong khi các đồng chí lờ đi các thuộc địa, chủ nghĩa tư bản dùng thuộc địa để hỗ
trợ, bảo vệ và đánh lại các đồng chí.
Ngày 1/7, Q phát biểu lần nữa, tiếp sau sự chỉ trích của Manuilsky đối với một số đảng
cộng sản châu Âu về vấn đề thuộc địa. Q trực tiếp chỉ ra sự yếu kém của FCP và đảng
cộng sản Anh, Hà lan và đưa ra một loạt các biện pháp cải thiện t́nh h́nh. Mặc dù chưa
dám khẳng định nông dân sẽ đóng vai tṛ chủ đạo trong cuộc cách mạnh sắp tới, NAQ
cũng nhấn mạnh vai tṛ của họ:
Nạn đói đang hoành hành trên tất cả các thuộc địa Pháp. Nông dân căm thù và sẵn sàng
nổi dậy. Nhưng họ không có tổ chức và lãnh đạo. QTCS cần phải giúp họ đứng lên tự
giải phóng mình.
Với những bài phát biểu sắc bén của ḿnh, NAQ đă trở thành một nhân vật gây chú ư với
giới lănh đạo QTCS. Chân dung của Q do hoạ sĩ Nga Kropchenko N.I. vẽ xuất hiện trên
Báo Công nhân Nga số cuối tháng Bảy. Báo Pravda chạy một tiêu đề giật gân: “Từ lời nói
đến hành động – Diễn văn của đại biểu Đông dương NAQ”. Tuy nhiên, chẳng ai ngờ
được, chẳng bao lâu sau quan điểm coi trọng nông dân trong cách mạng châu á sẽ bị coi
la dị giáo và sẽ bị Matxcova trừng phạt.xxviii
Không hiểu có phải v́ những lời phê phán của Q mà lănh đạo QTCS đă chú ư đến việc
tuyển mộ nhiều nhà cách mạng trẻ từ châu Á đưa sang Nga để đào tạo. Trong những năm
sau đó, chỉ riêng từ Việt nam đă có hơn 100 học viên. Nhóm học viên Việt nam đầu tiên
đến qua đường Pháp vào khoảng giữa năm 1925. FCP cũng lẳng lặng sửa sai bằng cách
thành lập Uỷ ban thuộc địa do Jacques Doriot lănh đạo. FCP c̣n tổ chức một trường đào
tạo ở ngoại ô Paris dành cho các học viên từ các nước thuộc địa trước khi chuyển tiếp
sang trường Stalin ở Nga. Một trong 8 học viên đầu tiên của trường này là người Việt
nam.
Với sự xuất hiện tại Đại hội V của QTCS,Q đă chấm dứt giai đoạn “tập sự”, chính thức
trở thành nhà lănh đạo cách mạng châu Á, người phát ngôn cho các vấn đề phương Đông
và nông dân. Q cảm thấy đă hoàn tất công việc của ḿnh tại Moscow, sẵn sàng trở về
châu Á để bắt tay xây dựng phong trào. Đó cũng là mục đích chính của Q khi rời nước
Pháp. Trong lá thư của ḿnh gửi Uỷ ban TƯ của QTCS năm 1924, Q viết:
Khi tôi đến Matxcova tôi nghĩ sẽ chỉ ơ đây 3 tháng trước khi sang TQ để liên lạc với đất
nước tôi. Bây giờ đã là tháng thứ 9 và tôi vẫn chờ đợi trong vô vọng. Tôi không hề có ý
định đưa ra các luận điểm về sự tồn tại hay không tồn tại của các tổ chức công nhân, của
các phong trào dân tộc chủ nghĩa hay của những hội nhóm bí mật nào đó. Chúng ta cần
nghiên cứu tình hình một cách nghiêm túc và nếu ở đó chưa có gì thì phải THÀNH LẬP
MỘT CÁI GÌ ĐÓ.
Chuyến đi của tôi sẽ phải có các nhiệm vụ sau:
- Tạo mối liên lạc giữa Đông dương và QTCS
- Nghiên cứu tình hình kính tế chính trị xã hội tại thuộc địa
- Liên lạc với các tổ chức đã có sẵn
- Tạo cơ sở thông tin và tuyên truyền
www.langven.com
39
Làm thế nào để có thể hoàn thành những nhiệm vụ đó? Trước hết là phải đi Trung quốc.
Sau đó thì phải làm bất cứ việc gì mà tình hình yêu cầu. Cần bao nhiêu tiền? Tôi đã trao
đổi với các đồng chí Trung quốc, chắc là khoảng US100/tháng (chưa tính thuế), không kể
chi phí chuyến đi sang TQ. Tôi nghĩ là chúng ta đã có đủ thông tin căn bản để thảo luận.
Nỗi khát khao được trở về củaQ được sự ủng hộ của Dalin, đặc vụ của QTCS nằm trong
phái đoàn của Borodin trợ giúp Tôn Trung sơn tổ chức lại QDĐ theo đường lối Lenin.
Khi về Matxcova Dalin cũng ở khách sạn Lux và có nhiều dịp nói chuyện với Q.
Tháng Tư năm 1924, sau khi tháp tùng đoàn đại biểu TQ từ Yakutsk về Matxcova, Q
được mời lên pḥng làm việc của Manuilsky. “Thế nào, anh bạn trẻ? Anh có sẵn sàng
chiến đấu không?”
Manuilsky đồng ư cử Q về Quảng đông với điều kiện Q phải hỗ trợ các dân tộc khác
trong vùng. Chẳng bao lâu sau,Q được cử làm thành viên Ban bí thư Viễn đông
(Dalburo) của QTCS. Tuy nhiên bộ máy quan liêu đă làm cản trở chuyến đi của anh v́
không t́m được công việc thích hợp. Bực ḿnh Q đề nghị chỉ cần chi trả tiền vé, anh sẽ
tự lao động để kiếm sống. Cuối cùng, ngày 25/9, Dalburo quyết định: “Đồng chí NAQ sẽ
đi Quảng châu”
Q đă thuyết phục được QTCS cử về quê hương với cái giá khá đắt V́ không có vị trí
chính thức, anh phải sống một cách bất hợp pháp trong thành phố đầy rẫy những mật vụ
Anh, Pháp. Q c̣n phải tự kiếm sống trong một đất nước mà anh chưa bao giờ đến.
(Trước khi đi anh đă tranh thủ nhận nhiệm vụ với hăng tin ROSTA thỉnh thoảng gửi bài
từ TQ về kiếm thêm tí chút)xxix
Q rời Matxcova một ngày tháng 10 trên chuyến tàu xuyên Xiberi khởi hành từ ga
Yaroslavskii, sau khi đă nhờ Dombal thông báo với mọi người là bị ốm. Q c̣n viết một
lá thư gửi cho một người bạn Pháp thông báo anh không được phép đi Đông dương, bởi
thế sẽ quay về Pháp.
Q ở lại Vladivostock vài ngày rồi lên một con tàu Xoviet. Tàu cập bến Quảng châu ngày
11/11/1924xxx
www.langven.com
40
Con Rồng Cháu Tiên
Châu Á năm 1924 đă khác xa so với thời Q ra đi năm 1911. Mặc dù Thế chiến thứ Nhất
không phá vỡ hệ thống thuộc địa tại Nam và Đông Nam á, Trung quốc đă thay đổi sâu
sắc. Mùa thu năm 1911, một cuộc cách mạng đă phá vỡ triều đ́nh Bắc Kinh. Những
người nông dân của Tôn Dật Tiên đă nổi dậy lật đổ nhà Thanh nhưng đă không qua mặt
được Viên Thế Khải. Tháng 2/1912 TDT đă buộc phải nhường chức tổng thống của nước
cộng hoà mới thành lập cho VTK với trụ sở tại Bắc kinh.
Viên thực chất muốn trở thành hoàng đế. Tuy nhiên đảng viên của Tôn, chiếm gần nửa
trong nghị viện đă không cho Viên thực hiện điều này. Tháng Giêng năm 1914, Viên giải
tán quốc hội và điều hành bằng sắc lệnh. Đảng của Tôn bị đặt ra ngoài ṿng pháp luật.
Tôn phải chạy ra nước ngoài. Năm 1916, Viên đột ngột qua đời. Trung Hoa rơi vào ṿng
loạn đả của các thủ lĩnh địa phương. Mặc dù chính quyền vẫn c̣n tồn tại một cách mong
manh tại Bắc kinh, nhưng men xă hội đă tích luỹ khắp nơi. Tháng 1/1919, sinh viên nổi
dậy tại BK và các thành phố lớn. Cũng năm đó, Tôn đổi tên đáng thành Quốc dân Đảng,
hùng cứ tại Quảng Châu (dưới sự bảo trợ của một thủ lĩnh địa phương). Tháng 4/1921,
Tôn tuyên bố thành lập nước cộng hoà mới và tự phong làm tổng thống.
Tại Nga, sau khi tạm yên t́nh h́nh trong nước, năm 1920, đảng bộ Viễn đông được thành
lập tại Iakurst để lănh đạo phong trào cộng sản vùng Viễn đông-Thái B́nh dương.
Grigorin Voitinsky được cử sang TQ. Sau khi ở BK một thời gian ngắn, ông sang
Thượng hải và bắt đầu tụ tập các lực lượng cách mạng trong vùng.Mùa hè năm 1922,
Đảng cộng sản TQ được thành lập tại Thượng hải. Maring (đảng viên cộng sản người Hà
lan), người được cử thay Vointinsky phụ trách Quốc tế cộng sản tại TQ đă rất kiên quyết
yêu cầu ĐCS TQ kết hợp với QDĐ. Tháng giêng 1923, hai đảng kư thoả thuận Nội Liên
(bloc within) để thành lập mặt trận thống nhất TQ dưới sự hỗ trợ của Nga. Các đảng viên
CCP được mời tham dự QDĐ
Tại Đông Dương, t́nh h́nh cũng thay đổi nhanh chóng, mặc dù có thể không nhanh như
bên Trung Hoa. Dân số ở cả 3 miền tăng từ 7 triệu nă__________m 1880 đến 16 triệu năm 1926
(Tokin: 6, Annam: 5 và khoảng hơn 4 triệu tại Cochin China). Mặc dù vẫn là đất nước
nông nghiệp nặng nề, đến giữa những năm 20 đă có khoảng 1 triệu dân sống ở các đô thị,
chủ yếu là Hà nội và Sài g̣n.
Phong trào đấu tranh giành độc lập cho Việt nam đă hầu như suy sụp. Những nhà cải
lương phải im tiếng sau khi PCT bị bắt và đày sang Pháp. Phan Bội Châu khởi đầu khá ấn
tượng, lôi kéo được sự hỗ trợ của nhiều nhà yêu nước xuất chúng, cũng dần dần héo hắt
sau mấy cuộc khởi nghĩa vội vàng thất bại, đặc biệt sau khi Phan Bội Châu bị bắt ở Nam
Trung quốc.
Năm 1911, nghe tin cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, PBC đă từ bỏ ư định phục hồi
chế độ quân chủ, lập ra đảng mới: Việt nam Quang phục Hội. Mục tiêu của Châu là xây
dựng mô h́nh nước cộng hoà kiểu Tôn. Năm 1912, Châu gặp Tôn và được hứa Việt nam
sẽ là nước đầu tiên được giúp đỡ một khi cách mạng thành công tại Trung hoa. Đáng tiếc
sau đó, Châu bị mấy thủ lĩnh địa phương tống giam v́ các hoạt động lật đổ. Năm 1917,
khi Châu ra tù, Quốc dân đảng đă bị mất quyền, Tôn th́ đă chạy sang Nhật bản. Một lần
nữa hy vọng vào sự trợ giúp của nước ngoài bị tan vỡ. Có vẻ như Châu đă hoàn toàn mất
hết kiên nhẫn, ông thậm chí c̣n đề nghị hợp tác với Pháp, hy vọng vào sự cải cách của
chế độ thực dân. Đầu những năm 20, bộ máy cách mạng của Châu tại Việt nam thực tế đă
www.langven.com
41
tan vỡ. Châu ra sống lưu vong tại Nam Trung hoa với một số những môn đệ gần gũi nhất.
Thời kỹ Phan Bội Châu rơ ràng đă đến hồi kết thúc.
Hai Phan thất bại đă cho thấy một sự thay đổi lớn lao trong xă hội Việt nam. Tầng lớp
quư tộc-học giả truyền thống, những người đă chi phối nền chính trị Việt nam hàng thế
kỷ qua, đă mất dần ảnh hưởng. Mặc dù nhiều học giả đă nhận thức được sự thay đổi của
thời cuộc và vai tṛ ngày càng tăng của quần chúng, như một giai cấp, họ không cảm thấy
tự tin. Phan Bội Châu nhắc nhiều đến h́nh ảnh: “hàng chục ngh́n anh hùng vô danh,
đánh đuổi thực dân Pháp”, nhưng đảng viên của ông chỉ gồm toàn những học giả với đời
sống khá giả. Mặc dù cương lĩnh của đảng là cổ vũ thương mại và công nghiệp, thành
phần lănh đạo đảng lại chủ yếu là các địa chủ. Những nhà quư tộc giàu có khăn áo thướt
tha mở cửa hàng để quyên vốn cho đảng, thực chất coi khách hàng bằng nửa con mắt.
Khoảng cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, chế độ thi cử kiểu Khổng tử bị băi bỏ trên
khắp Việt nam. Chữ quốc ngữ được phổ biến ở khắp 3 miền. Mặc dù đa số thanh niên
vẫn phải học ở các thầy đồ làng truyền thống, con cháu của các quư tộc đă được gửi đi
học tại các trường kiểu Pháp như Quốc học. Họ được dạy bằng tiếng Pháp và được tiếp
tục đưa sang Pháp đào tạo. Cùng lúc đó, một tầng lớp trung lưu mới được h́nh thành. Họ
là những nhà buôn, chủ hăng hoặc công chức trong các công sở của người châu Âu. Họ
ngưỡng mộ ḷng yêu nước của Phan và các bạn, nhưng trong ḷng họ giễu cợt các quan
điểm bảo thủ. Họ mặc đồ Tây, uống vang Bordeaux và nói tiếng Pháp. Nhà văn Pháp
Paul Monet miêu tả họ như: “nguyên mẫu của nền văn minh Pháp, bị tách khỏi những tín
ngưỡng truyền thống, hoàn toàn coi thường Khổng tử vì họ không hiểu”. Các quan chức
thuộc địa Pháp vui mừng v́ có những thành quả đầu tiên của quá tŕnh văn minh hoá. Họ
không hề ngờ rằng, chính thế hệ này mới là những người thách thức sự thống trị của họ.
Những hành động bất nhất của nhà cai trị Pháp vô t́nh lại tăng thêm nỗi thất vọng của
dân Việt. Năm 1919, toàn quyền Albert Sarraut hứa hẹn: “sẽ coi những con dân của ḿnh
như người anh em và dần dần phục hồi toàn bộ nhân quyền”. Ngay cả NAQ khi đó đang
ở Paris, cũng không khỏi khấp khởi một chút hy vọng mong manh về đất nước đă sản
sinh ra khẩu hiệu: “Tự do, B́nh đẳng, Bác ái”. Tuy nhiên sau khi AS được thăng chức
đưa về cố quốc, chẳng ai hơi đâu nhớ đến những lời hứa đó nữa. Hệ thống trường học
thiếu tiền, cả nước chỉ có khoảng 5000 học sinh trung học. Nếu trước đây trong chế độ
phong kiến, có đến 25% dân số có khả năng giải mă được trên những kư tự ngoằn ngoèo
của chữ Hán, th́ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ biết chữ (kể cả quốc ngữ hay chữ
Hán) chỉ vào khoảng 5%. Những thống kê này đặt một dấu chấm hỏi to đùng lên “Sứ
mệnh mang lại nền văn minh” của thực dân Pháp. Mặc dù không ít người Việt nam đă
cống hiến cho mẫu quốc trong thế chiến thứ Nhất, họ vẫn không bộ máy thực dân công
nhận ngay tại nước ḿnh. 10000 viên chức Pháp được trả lương cao gấp nhiều lần đồng
nghiệp Việt nam. Đại đa số trong hơn 40000 người châu Âu, nhiều người đến Việt nam
“trên răng, dưới dép”, nay khá giả nh́n dân bản địa không khác ǵ một con chó. Chính
quyền độc quyền sản xuất muối, thuốc phiện và rượu bán cho dân với giá cắt cổ. Hơn 500
ngàn nông dân không ruộng đất, phải cày thuê cuốc mướn, nộp tô đôi khi tới 50% mùa
màng cho khoảng 5 vạn địa chủ. Georges Garros, trong cuốn sách xuất bản giữa thập kỷ
Forceries humaines lạnh lùng nhận xét: người Pháp mà rơi vào hoàn cảnh ấy, chắc chắn
sẽ làm cách mạng. Về phần ḿnh, trong cuộc trả lời phỏng vấn Ossip Mandelstam năm
1923 tại Moscow, NAQ miêu tả Việt nam như một dân tộc: “bị đẩy vào địa ngục”.
Một lớp các nhà hoạt động chính trị mới ra đời khoảng giữa những năm 20 là con đẻ của
tâm trạng vỡ mộng của xă hội. Họ được đào tạo theo hệ thống trường Tây, ngưỡng mộ
www.langven.com
42
văn hóa Tây, đọc sách báo Tây nhưng phẫn nộ v́ sự bất công mà nhà cầm quyền Pháp áp
đặt cho đồng bào của ḿnh. Họ đ̣i hỏi: “Tự do, B́nh đẳng, Bác ái” cho dân tộc ḿnh.
Những hạt giống phản kháng đầu tiên nảy mầm ở Sài g̣n nơi khoảng cách giàu nghèo,
bản xứ và ngoại quốc rơ rệt nhất. Sài g̣n cũng là nơi tập trung nhiều ngoại kiều và công
nhân nhất do sự phát triển kinh tế nhanh chóng. Người đầu tiên là nhà địa chủ Bùi Quang
Chiêu, người mà NAQ đă từng gặp trong chuyến xuất ngoại đầu tiên của ḿnh. Ông ra tờ
báo La Tribune Indigene và thành lập Đảng Hiến pháp, đảng chính trị đầu tiên ở Đông
dương. Mặc dù Chiêu và các đồng sự gây sức ép đ̣i Pháp cho người Việt nam nhiều
quyền hơn nữa trong đời sống chính trị, mục tiêu của các ông là giảm sự thống trị của
Hoa kiều trong lĩnh vực kinh tế.
Người mà người Pháp sợ hơn là Nguyễn An Ninh. Ông này là con của một nhà nho Nam
bộ, có liên quan đến Trường Tự do Hà nội, sau đó tham gia vào phong trào kháng chiến
của Phan Bội Châu. Ninh tốt nghiệp luật ở Paris, đă từng gặp NAQ và tỏ ra rất ham thích
chính trị. Về nước đầu những năm 20, Ninh ra báo: La Cloche Felee (Tiếng chuông rè)
để kêu gọi tinh thần yêu nước của dân chúng và đ̣i cải cách chính trị. Cũng như Phan
Chu Trinh, Ninh ngưỡng mộ văn hoá phương Tây và coi đó là sự bù đắp cho nền Nho
giáo ḱm hăm sự sáng tạo của con người. Theo ông đó là nguyên nhân mà ta mất nước.
Ông kêu gọi khởi xướng một nền văn hoá mới, không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng
du nhập của Khổng tử và Lăo tử. Cũng như Mahamat Ghandi, Ninh cho rằng giải pháp
nằm trong vấn đề tinh thần và chỉ có thể t́m thấy trong nhân dân. Ảnh hưởng của Ninh
mạnh đến nỗi đại sứ Maurice Cognacq phải mời lên thẩm vấn. Ngài đại sứ thông báo là
các hoạt động của Ninh đă bị theo dơi chặt chẽ và Ninh phải thôi ngay, nếu không ngài sẽ
buộc phải có những hành động không hay. Ngài c̣n châm biếm, dân Việt c̣n ngu lắm,
làm sao hiểu được những điều ông phát biểu, tốt hết là ông hăy đến Moscow. Ninh bỏ
ngoài tai và vẫn tiếp tục hoạt độngxxxi
Khi NAQ đến Quảng đông tháng 11/1924, thành phố đang náo động v́ hàng ngàn người
đổ ra bờ sông để bày tỏ sự ủng hộ đối với chính quyền Tôn Trung Sơn và tiễn tổng thống
đi Bắc kinh. Từ tháng giêng năm 1923, theo sự thoả thuận với Maring mật vụ của QTCS,
Tôn thi hành chính sách: Nội liên, đưa một số Đảng viên CCP vào những vị trí quan
trọng của quốc dân đảng. Sau khi đại diện của QTCS – Mikhail Borodin đến Quảng
đông, Quốc dân đảng được tái cơ cấu theo đường lối của Lê nin. Học viện quân sự Hoàng
phố được mở ra để đào tạo các sĩ quan trẻ cho cách mạng. Tưởng Giới Thạch, cánh tay
phải của Tôn được bổ nhiệm làm Giám đốc, Chu Ân Lai làm chính uỷ học viện.
Quyết định của Tôn nghiêng về nước Nga xô viết và hợp tác với CCP làm cho giới ngoại
giao và thương mại phương tây ở Quảng đông sôi máu. Mùa hè năm 1924, chính quyền
Anh ra lệnh đàn áp các cuộc biểu t́nh của công nhân trên Đảo Sa điện. Đáp lại, công
nhân công bố tổng băi công. Chính phủ Tôn cử quân đội đến ủng hộ các công nhân băi
công. Hội Công thương Quảng đông (chủ yếu gồm các thương gia phương Tây) thành lập
các đội du kích vũ trang để bảo vệ cộng đồng phương tây. Đă xảy ra các cuộc đụng độ
giữa họ và quân đội chính phủ.
T́nh h́nh bắc Trung quốc cũng thay đổi nhanh chóng. “Tướng Thiên chúa” Phương Du
Tường lật đổ Vu Bắc Phú ở Bắc kinh. Phương có cái nh́n thiện cảm với chế độ của Tôn
và mời Tôn lên Bắc kinh đàm đạo. Tôn đồng ư.
Mặc dù không được giao nhiệm vụ rơ ràng, vừa đến Quảng châu, NAQ đă ngay lập tức
bắt liên lạc với Borodin và được ông này mời đến ở cùng với ḿnh tại Bao công Quán,
một biệt thự ngay cạnh cơ quan trung ương của QDĐ. Tầng 1 là văn pḥng của 20 nhân
www.langven.com
43
viên phái bộ QTCS. Tầng 2, Quốc và Borodin ở. Cả hai đă từng gặp nhau ở Moscow,
cùng nói được tiếng Anh (Borodin đă ở Chicago) và cùng chia sẻ mục tiêu thúc đẩy cách
mạng ở châu á. V́ thế nên họ nói chuyện rất tâm đầu ư hợp. Để che mắt mật thám Pháp,
NAQ lấy tên là Lư Thuỵ. Chỉ có Borodin và vợ biết được danh tính của NAQ. Quốc được
phân vào phân xă của cơ quan thông tấn Xô viết ROSTA. Trong các bài viết về Moscow,
Q thường kư tên Nilovskii. Thỉnh thoảng Q c̣n làm việc phiên dịch hoặc đại diện cho
Quốc tế nông dân. Tuy nhiên, mục đích chính của chuyến trở về của NAQ là xây dựng
hạt nhân cho một đảng mới theo kiểu Lenin, từ đó t́m cách đưa phong trào cách mạng
Việt nam vào tổ chức, theo ư chỉ của ḿnh.
Sự hiểu biết của các nhà cách mạng Việt nam lúc đó về chủ nghĩa Max và cuộc cách
mạng Nga lúc đó hết sức đơn giản. Một nhà dân tuư nói: “Chúng tôi không theo chủ
nghĩa cộng sản, chúng tôi theo những người cộng sản, bởi v́ họ hứa sẽ mang lại quyền tự
quyết cho các dân tộc. Chúng tôi chờ đợi họ như những vị cứu tinh.” Có người c̣n ngây
thơ: “Nếu phương Tây căm thù người Nga và những người cộng sản, họ phải là những
người tốt.”xxxii
NAQ không hề có một ảo tưởng nào. Từ năm 1922, trong một bài báo viết tại Paris, ông
nhận xét, đa số nhân dân tại thuộc địa hiểu Bolsevism là: “Đạp đổ tất cả hoặc tẩy chay
nước ngoài. Cả hai cách hiểu đều nguy hiểm”. Quần chúng “đă sẵn sàng nổi dậy, nhưng
họ không biết bắt đầu như thế nào”. Việc xây dựng một đảng đại diện cho các tư tưởng
Max và Lenin nhưng lại đáp ứng được khát vọng: độc lập dân tộc của đông đảo quần
chúng, là một việc cấp bách nhưng vô cùng khó khăn.
Người Việt nam nổi tiếng nhất ở TQ khi đó là Phan Bội Châu. Sau khi ra tù vào năm
1917, Châu đă có một thời ve văn ư tưởng dàn xếp với Pháp nhưng nhanh chóng vỡ
mộng. Ông xoay sang dưỡng lăo tại Hàng Châu ở nhà của đệ tử có tên là Hồ Học Lâm.
Tuy đă 55 tuổi, lại chẳng có cơ sở nào ở trong nước, nhưng h́nh ảnh một nhà cách mạng
lăo thành quắc thước với bộ râu quai nón và cặp kính trắng lạnh lùng vẫn có sức hấp dẫn
lớp trẻ. Khoảng đầu những năm 20, một nhóm các thanh niên trí thức Việt nam do Lê
Hồng Phong, Lê Văn Phan (sau này gọi là Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn
Lệnh dẫn đầu đă vượt biên sang nhận Châu làm sư phụ. Một điều thú vị là nhóm này hầu
như đều đến từ Nghệ an và sau đều trở thành ṇng cốt của tổ chức cách mạng do Quốc
thành lậpxxxiii.
Nhóm thanh niên kích động này nhanh chóng cảm thấy tù túng với tổ chức của Châu. 8
tháng trước khi Quốc tới Quảng châu, tháng 3/1924, họ tách ra thành lập tổ chức mới lấy
tên là Tâm Tâm Xă. Nóng nảy và dễ kích động, họ cho rằng mọi thứ lư thuyết đều vớ
vẩn, họ theo đuổi đường lối của Auguste Blanqui ở châu Âu thế kỷ 19, người đă kích
động khởi nghĩa tại Pháp, Italia và Tây ban nha. Mục tiêu của tổ chức là tuyên truyền và
khủng bố để châm ng̣i cho việc lật đổ chế độ cai trị của Pháp.
Người đỡ đầu cho tổ chức là Lâm Đức Thụ. Ông này tuy đă 36 tuổi và giàu có nhờ lấy
một bà vợ giàu, nhưng sinh ra trong một gia đ́nh chống Pháp, lại có tiền và quan hệ rộng
răi nên rất có uy tín. Trụ sở của TTX đóng ngay tại hiệu thuốc của vợ chồng Thụ tại Da
Trường, một phố nhỏ gần trụ sở QTCS. Một trong những phi vụ đầu tiên của nhóm là
đánh bom toàn quyền Đông dương Martial Merlin khi tay này đến thăm Quảng đông
tháng 6/1924. Đáng ra chàng thanh niên ngăm đen đẹp trai Lê Hồng Sơn sẽ xử lư vụ này,
tuy nhiên anh này với biệt danh “Hit man” quá quen mặt với cảnh sát. Phạm Hồng Thái,
một chàng trai mới ḷ ḍ từ Đông dương sang được giao nhiệm vụ thay thế. Anh này là
con một viên quan đă từng tham gia phong trào Cần vương ở Nghệ An, được tiêm nhiễm
www.langven.com
44
tư tưởng cách mạng trong thời gian học tại trường Pháp ở Hà nội. Sau một thời gian làm
thợ cơ khí ở ga ra, rồi thợ mỏ, Thái cùng các bạn là Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu
chuồn sang Trung quốc.
Tối 19/6, khách sạn Victoria trên đảo Sa điện ồn ào những lời chúc tụng nhân đại tiệc
chúc mừng toàn quyền Pháp. Đúng 8:30, khi món súp đang được dọn ra th́ một tiếng nổ
đinh tai nhức óc đă biến bàn tiệc thành một địa ngục. Năm thực khách chết ngay tại chỗ,
hàng chục người khác bị thương nằm la liệt. Trên đường trốn chạy, Thái nhảy xuống
sông và chết đuối trên sông Châu Giang. Thoát chết trong gang tấc, Merlin rời Quảng
châu ngay hôm sau trong khi đám tang người liệt sĩ trẻ được tổ chức trọng thể. Đây là vụ
ám sát một quan chức cao cấp châu Âu đầu tiên ở châu Á. Tiếng bom Sa điện đă gây một
cú sốc lớn trong cộng đồng người Pháp và tôn Phạm Hồng Thái lên vị trí “tử v́ đạo”.
Chính quyền Tôn Trung Sơn quyết định dựng bia tưởng niệm. Phan Bội Châu th́ tranh
thủ vụ việc để “đánh bóng” lại h́nh ảnh của ḿnh. Ông này viết một bài tiểu sử về Thái
như một cộng sự trong tổ chức của ôngxxxiv. Tháng 7/1924, trong chuyến đi dự lễ khai
trương bia tưởng niệm Thái, Châu đă trao đổi với một số đệ tử về việc thay Quang Phục
Hội bằng Việt nam Quốc dân đảng, theo mô h́nh đảng của Tôn. Châu trở về Hàng châu
tháng 9/1924.
Mặc dù Merlin thoát hiểm nhờ có một thực khách có h́nh dạng giống ngài toàn quyền
một cách kỳ lạ (vị này chết ngay tại chỗ), nhưng vẫn có những nghi ngờ về kẻ phản bội ở
trong hàng ngũ. Một thành viên của Tâm Tâm Xă, Lê Quang Đạt, đă công khai đặt vấn
đề về vai tṛ của Lâm Đức Thụ v́ những mối quan hệ của ông này với Pháp. Tuy nhiên
Lê Hồng Sơn đă gạt đi, và Thụ vẫn tiếp tục cộng tác với tổ chứcxxxv.
Năm tháng sau vụ đánh bom, NAQ đến Quảng châu. Nhưng chỉ ngày hôm sau, ông đă
tiếp cận các thành viên TTX trong vai một nhà báo Trung quốc họ Vương. Những hành
vi cấp tiến của họ làm Q rất khoái. Việc đầu óc họ c̣n trong trắng về lư thuyết càng
thuận tiện cho việc tuyên truyền những tư tưởng Max-Lenin. Q thích Lê Hồng Sơn, Hồ
Tùng Mậu nhưng đặc biệt ưu ái chàng trai chắc nịch Lê Hồng Phong, người được đích
thân Châu tuyển mộ.
Với bản lĩnh của ḿnh, có vẻ như Q chẳng gặp khó khăn ǵ khi dụ khị mấy chàng trai trẻ.
Tháng 12/1924, Q báo về Matxcova là đang bắt liên lạc và hợp tác với “một nhóm nhà
cách mạng Việt nam”. Tháng 2/1925, Q thành lập nhóm 9 người và đặt tên là Quốc dân
đảng Đông dương, 5 trong số đó được ông coi là ṇng cốt của Đảng cộng sản tương lai.
Q khuyến khích các thành viên về nước chiêu mộ thêm đệ tử, hoặc tham gia quân đội
QDĐ Trung hoa, hay gia nhập CCP. Q cần gấp sự hỗ trợ về tài chính và tài liệu tuyên
truyền từ Maxcova.xxxvi Mặc dù không nhất trí với các phương pháp đấu tranh của Châu,
Q vẫn sử dụng ông này vào việc xây dựng tổ chức của ḿnh. Thông qua các thành viên
TTX, Q lần ra mối quan hệ với Châu. Châu có vẻ cũng như đă nhận ra được danh tính
của Lư Thuỵ. Vào khoảng giữa tháng 2 và tháng 3, Châu viết cho Q một bức thư có nhắc
đến cuộc gặp đầu tiên của hai người ở Kim liên. Châu hoàn toàn ủng hộ đường lối củaQ
trong việc cải tổ lại đảng của ḿnh. Tuy nhiên Q nhanh chóng nhận thấy rằng Châu và
nhiều cộng sự lớn tuổi của ông không thể là hạt nhân cho một tổ chức mới mà Q đang
gây dựng. Q thành lập Cộng sản đoàn với 5 hạt nhân ưu tú, trong đó có Lê Hồng Phong,
Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu.
Sự xuất hiện của một nhân vật hoạt động tích cực như vậy ở trụ sở QTCS, tất nhiên là
gây chú ư cho các mật vụ Pháp. Một đặc vụ với bí danh “Noel” được cử sang từ Paris với
mục đích xác định được danh tính của Lư Thuỵ. Kẻ giúp đỡ đắc lực nhất cho Noel chính
www.langven.com
45
là Lâm Đức Thụ với bí danh là “Pinot”. Tay này làm điệp viên hai mang cho cả Pháp và
các lực lượng cách mạng. Tháng 3, Thụ chụp được 1 tấm ảnh Q cùng với các dồng chí
trước cửa trụ sở Quốc dân đảng. Pḥng Nh́ nhanh chóng xác nhận: Lư Thuỵ chính là
Nguyễn ái Quốc.
Sự h́nh thành của một đảng cách mạng mới đă chín muồi. Tháng 6, tại nhà Lâm Đức
Thụ, Q cùng với các ṇng cốt trong Cộng sản đoàn lập nên Hội thanh niên cách mạng
Việt nam. Cùng vói các hoạt động của Hội, tờ báo Thanh niên mà đa phần các bài là do
Quốc viết đă đặt dần dần nền móng của một tầm nh́n mới vượt qua cả chủ đề độc lập dân
tộc.
Nhờ mối liên hệ của chính quyền Tôn Trung Sơn với QTCS, Quảng châu lúc đó được coi
như là “Matxcơva của phương Đông” thu hút các nhà cách mạng từ Triều tiên, ấn độ,
Đông dương và Tây ấn thuộc Hà lan. Từ kinh nghiệm hoạt động ở Paris, Q cùng với đặc
vụ của QTCS người Ấn độ Roy và lănh tụ cực tả của QDĐ Lăo Trung Kha, thành lập
“Hội các dân tộc bị áp bức châu Á”. Phiên họp đầu tiên của Hội được tiến hành vào giữa
tháng Bảy.
Cương lĩnh hoạt động của Hội thanh niên cách mạng được xây dựng dựa trên hai trụ cột
chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xă hội theo mô h́nh của Lenin được đại hội QTCS lần II
phê chuẩn năm 1920. Tuy nhiên nếu Lenin coi cách mạng dân tộc chỉ là một bước chiến
thuật nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc, cương lĩnh của
Hội lại tỏ ra chú trọng đến độc lập dân tộc hơn nhiều là số phận của cách mạng thế giới.
Chính điều đó đă gây nhiều nghi ngờ cho nhiều nhà quan sát về sự trung thành của Q với
các tư tưởng Maxism và cuộc đấu tranh để xây dựng ảo tưởng cộng sản. Trên thực tế cuối
những năm 20, đă xuất hiện những bài viết chỉ trích Q ở Matxcơva và từ những người
cộng sự của Q.
Có nhiều lư do để khẳng định, Q trước tiên là một nhà yêu nước. Trong bài báo “Con
đường đưa tôi đến với Lenin” viết năm 1960, Q khẳng định, chính khao khát độc lập cho
Việt nam đă đưa ông đến với chủ nghĩa Max. Khác với Lenin, đối vớiQ độc lập dân tộc
gần như đă là mục tiêu cuối cùng. Q thường xuyên phát biểu: “cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt nam sẽ được tiến hành vào một thời điểm thích hợp”.
Tuy nhiên cũng khó có thể nói, Q chỉ coi chủ nghĩa Max chỉ là công cụ cho cuộc đấu
tranh giành độc lập của ḿnh. Những bài viét và phát biểu của cậu ở Paris và Matx về
một thế giới tương lai sôi sục nhiệt huyết. Trước khi chết, khi trả lời một phóng viên
Xoviet, Q đă ân hận măi về việc đă đả kích một nữ đồng chí của ḿnh ở Nga v́ đă mặc
lụa tơ tằm và đi giày cao gót. “Chẳng nhẽ những người trẻ tuổi ăn mặc đẹp lại là điều
xấu xa?”xxxvii Câu hỏi ngơ ngác của cô gái đă hằn sâu vào trí nhớ Q.
Nếu Q vừa là nhà dân tộc chủ nghĩa vừa là một người theo chủ nghĩa Max, câu hỏi làm
thế nào kết hợp giữa bản chất yêu nước của Q và đ̣i hỏi tinh thần quốc tế vô sản của chủ
nghĩa Max đă được Lenin phần nào đề cập đến trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc
và thuộc địa”. Lenin đề xuất kháI niệm “Liên hiệp” các quốc gia độc lập như một h́nh
thái chuyển tiếp trước khi thành lập “Quốc gia vô sản toàn cầu”. Sự liên kết giữa nước
Nga cách mạng, Hungary và Phần lan cũng như giữa Armeni và Azerbaijan không thể
không ảnh hưởng đến Q. Trong một bức thư gửi QTCS, Q đă đề nghị tuyển mộ thêm
nhiều học viên vào trường Stalin cho “Liên hiệp cộng sản Đông phương”. Một tài liệu
mới được t́m thấy ở Nga viết năm 1924, kư tên là Nguyễn. Có đến 99% đó chính là Q.
Khi bàn về tương lai của Đảng cộng sản Việt nam, tài liệu khẳng định: “Cần phải tính
đến thực tế Việt nam và giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc dưới danh nghĩa của
www.langven.com
46
QTCS” . Cương lĩnh của Việt nam thanh niên cách mạng Hội cũng nhắc đến cách mạng
toàn cầu như “mục đích cuối cùng” của Hội.
Tại sao Q lại không chọn con đường phi bạo lực đ̣i lại độc lập dân tộc mà lại tin vào
cách mạng trên phạm vi toàn thế giới? Mùa xuân năm 1925, Nguyễn Thượng Huyền,
(cháu của Nguyễn Thượng Hiền, người đă có thời là hiệu trưởng Đông kinh nghĩa thục),
có viết một bài báo và nhờ Q nhận xét. Trong bài báo, Huyền cho rằng nguồn gốc cách
mạng là từ Kinh dịch và Khổng tử cho rằng thay đổi triều đại chính là cách mạng. Huyền
kết luận, thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp là tất yếu v́ sự hung bạo của chúng
và độc lập chỉ có thể đạt được bằng các cuộc chống đối phi bạo lực trong xă hội như
Mahatma Gandhi. Trong bức thư trả lời,Q đă tỏ ư nghi ngờ nguồn gốc cách mạng và cho
rằng nó xuất phát từ văn hoá Tây phương. Cách mạng thay đổi các thể chế điều hành đất
nước, c̣n cải cách chỉ cải tiến chúng. Thay đổi triều đại không phải là cách mạng. Về
thất bại của cách mạng ở Việt nam, Q viết:
Không lẽ ông chờ đợi người Pháp khoanh taynhìn ông đuổi họ ra? Tốt nhất là hãy tự nhìn lại
mình: tại sao người Pháp lại cai trị được dân ta? Sao ta lại ngu thế? Bây giờ ta phải làm gì? Ông
so sanh với người ấn độ, Ai cập. Họ có đảng phá chính trị, các hội nông dân, các tổ chức. Ta
không có đảng, không có tuyên truyền, không có tổ chức. Họ như chiếc ô-tô có cả tài xế, còn ta
mới chỉ có cái khung xe. Vậy mà ông muốn ta chạy như họ!
Để kết luận, Q dẫn câu chuyện của La Fontaine về các con chuột đùn đẩy nhau đeo
chuông lên cổ mèo. “Giờ đây, các con rồng cháu tiên Việt nam chẳng khác gì những con
chuột. Thật là nhục nhã”
Tại Hàng châu, PBC rất quan tâm đến những ǵ đang diễn ra. Ông hứa sẽ đến Quảng
châu thăm Q mùa hè năm 1925. Trong bức thư viết cho Q trước đó, Châu hết lời khen
ngợi sự sáng suốt và kinh nghiệm của Q, Châu c̣n tỏ vẻ vui mừng v́ đă có người nối
nghiệp v́ ông đă quá “đát”. Tuy nhiên rơ ràng là Châu vẫn muốn đóng một vai tṛ trong
tổ chức. Trong một bức thư khác gửi cho Hồ Tùng Mậu, ông đă cạnh khoé phê b́nh Q và
các đồng sự quá nóng vội. Trước đó, Châu cũng đă từng than văn là Q bỏ rơi ông.
Khoảng giữa tháng 5, Châu rời Hàng châu đi Thượng hải. Tại đó, nhờ có mật báo, các
mật thám Pháp trong vai tài xế taxi đă đợi sẵn, tóm gọn và chở thẳng ông về Hà nội để
xét xử về tội phản quốc.
Vụ bắt giữ này đă gây ra một cuộc tranh căi lâu dài và lôi thôi nhất trong lịch sử rắm rối
của chủ nghĩa dân tộc Việt nam. Nhiều thành viên của Thanh niên hội cho rằng chính thư
kư của Châu, Nguyễn Thượng Huyền đă phản bội ông. Châu cũng nghĩ thế. Tuy nhiên
một số người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản lại nghi ngờ Lâm Đức Thụ và thậm
chí NAQ đă dựng lên vụ này để kiếm tiền thưởng và dùng Châu như một anh hùng - “vật
tế thần” cho phong trào. Quan điểm này cũng được nhiều nhà nghiên cứu phương Tây
nhắc lại nhưng không có những chứng cớ cụ thể. Các tài liệu của pḥng nh́ Pháp không
rơ, nhưng xu hướng không cho rằng Q có dính líu. Họ cũng cho là Huyền có thông tin tốt
hơn về sự di chuyển của Châu. Lâm Đức Thụ về sau tự nhận trách nhiệm nhưng không
đáng tin cậy v́ ông này ưa khoác lác và thổi phồng.
Mặc dù không phủ nhận là Q có thể phản bội Châu nếu tin rằng điều đó phục vụ lợi ích
cách mạng, nhưng trong vụ này rơ ràng là Q không tin là có thể khai thác được ǵ cho
phong trào từ việc bắt Châu. Thanh niên Hội vẫn tập trung sử dụng h́nh ảnh Phạm Hồng
Thái để tuyên truyền và lôi kéo các thành viên của ḿnh. Vả lại một lănh tụ có tính chất
biểu tượng dễ điều khiển ngoài tự do rơ ràng có lợi hơn cho phong trào so với ngồi tù ở
www.langven.com
47
Việt nam. Cũng cần nhận thấy rằng đến cuối đời Châu vẫn dành sự kính trọng cao nhất
cho Q.
Toà đă xử Châu khổ sai chung thân ngày 23/11/1925 dẫn đến một phong trào phản kháng
mạnh mẽ trong khắp nước. Toàn quyền mới, đảng viên Xă hội Varrene chẳng muốn khởi
đầu sự nghiệp của ḿnh bằng sự thù hận, đă đề nghị Paris giảm xuống án quản thúc tại
gia ở Huế. Trước khi giảm án, Varrene đă đề nghị Châu hợp tác. Lúc đầu ông này từ chối
nhưng sau đă tỏ ra khôn ngoan hơn. Tuy vẫn giữ quan hệ với các thành viên chủ chốt của
phong trào dân tộc, thỉnh thoảng Châu lại đưa ra những phát ngôn có thể coi là có lợi cho
Pháp ví như khen ngợi hệ thống giáo dục của Pháp ở Đông dương. Theo mật thám Pháp,
một số phần tử quá khích thậm chí đă có kế hoạch ám sát Châu. Châu chết tại Huế năm
1940.
Trong thời gian vụ án Châu, một lănh tụ cải lương khác là Phan Chu Trinh đă trở về Việt
nam sau nhiều thập kỷ trong sự chào đón của dân chúng. Ông này chết năm 1926 vào
tuổi 53 và đám tang ông đă trở thành một sự kiện dân tộc. Q có vẻ như không hài ḷng
cho rằng Pháp đă cường điệu sự kiện này nhằm mang lại một bộ mặt nhân tính hơn cho
chính sách thực dân của ḿnh và đánh lạc hướng dân chúng.
Nhờ sự cố gắng không mệt mỏi của Q, những tư tưởng Marxism dần dần được phổ biến
trong các tầng lớp cách mạng ở Việt nam. Những nhà yêu nước trẻ được đưa từ trong
nước sang và được đào tạo tại một cơ sở có cái tên rất kêu: Trường chính trị đặc biệt cho
Cách mạng Việt nam. Trường này ban đầu được đặt tại phố Dân Sinh, sau đó chuyển
sang một toà nhà 3 tầng thuộc sở hữu của một người thân Cộng sản ở phố Văn Minh (đối
diện với Đại học Quảng đông, bây giờ là bảo tàng Lỗ Tấnxxxviii). Tầng 1 là cửa hàng, lớp
học và văn pḥng củaQ ở tầng 2 c̣n kư túc xá ở tầng 3. Đằng sau có cửa hậu để chạy
trốn khi cảnh sát vây bắt. Giáo viên chủ yếu là các thành viên Thanh niên Hội như Mậu,
Quốc, nhưng thỉnh thoảng cũng có thầy từ phái đoàn Xôviet như Vasily Blucher (Galen),
P.A. Pavlov,M.V. Kuibyshev, V.M. Primakov, hoặc từ CCP như Lư Đạo Cơ, Chu Ân
Lai, Lư Phu Quân và nhà tổ chức nông dân Bằng Bái. Một phần ba kinh phí của trường
do CCP đài thọ, phần c̣n lại là đóng góp từ các tổ chức khác nhau, trong đó có các học
viên Việt nam tại học viện Hoàng Phố.
Thầy Vương (bí danh của Q) là thầy giáo nổi tiếng nhất trường. Học viên đều yêu ông
thầy mảnh khảnh, mắt sáng, giọng ấm, hài hước, dễ gần và đặc biệt kiên nhẫn trong việc
giải thích các khái niệm khó. Thầy Vương trở thành cuốn bách khoa sống khi cần đến các
số liệu. Một học viên đến giờ c̣n nhớ: “Thầy kể vanh vách, thực dân Pháp đã trộm bao
nhiêu tấn thóc, Ngân hàng Đông dương kiếm được bao nhiêu lợi nhuận, ông Varrene đã
chở về nước bao nhiêu cổ vật của dân ta”.
Cũng như ở Paris, Q vừa là thầy giáo, vừa là cố vấn tinh thần, một người nghiêm khắc và
một người bày tṛ có hạng. Q dạy học viên cách ăn nói, phát biểu, cách thông cảm với
nhân dân. Q lo lắng nơi ăn, chốn ở và động viên các học viên bằng một sự lạc quan vô bờ
bến vào sự thắng lợi của cách mạng. Như một nghi lễ, khi kết thúc khoá học, Q dẫn các
học viên thăm mộ của 72 liệt sĩ Trung hoa trên đồi Hoàng Hoa và tuyên thệ trước lăng
Phạm Hồng Thái.
Một số học viên tài ba hơn (ví dụ như Lê Hồng Phong) được phái đi tu nghiệp tiếp ở
Moscow. Một số người sung quân đội hoặc tham gia học viện Hoàng Phố. Nguyễn
Lương Bằng, một con nhà lao động, được chỉ thị kiếm việc trên tàu viễn dương để móc
nối giữa Hải pḥng và Hongkong. Hơn 70 học viên đă tốt nghiệp cho đến hết năm 1927.
www.langven.com
48
Đa số học viên quay về Việt nam và tiếp tục t́m kiếm thêm lính mới. Lớp này đa số cũng
từ tầng lớp môn sinh. Cảnh sát Pháp xác nhận khoảng 90% thành viên Thanh niên hội là
tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Năm 1928, hội có khoảng 300 thành viên ở Đông dương,
trong đó khoảng 150 ở Cochin China (Sài g̣n, Cần thơ, Mỹ tho), 80 ở Annam và 70 ở
Tonkin. Một năm sau, con số đă lên đến hơn 1700.xxxix NAQ đă đi những bước quan
trọng đầu tiên, tuy rất nhỏ và thận trọng, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xă hội chủ
nghĩa ở Việtnam. Ông đă viết trước đó vài năm: “Thật là sai lầm khi cho rằng Đông
dương đă sẵn sàng cho cách mạng, nhưng càng sai lầm hơn khi nghĩ rằng họ cam chịu và
không muốn làm cách mạng”
NAQ quá kinh nghiệm để hiểu rằng, muốn duy tŕ được tổ chức hăy c̣n trong trứng nước
của ḿnh, tuyên truyền là quyết định. Tạp chí Thanh niên ra đời. Được in tại Quảng châu,
xuất bản hàng tuần và gửi sang Việt nam qua đường thuỷ. Từ 21/6/1925 đến 5/1930, tổng
cộng đă có 208 số được phát hành. Cũng như với tờ Người cùng khổ, NAQ sử dụng lối
hành văn đơn giản, với nhiều biếm họa đả kích chế độ thực dân Pháp cũng như bọn vua
chúa bù nh́n. Hầu hết các bài xă luận đều do ông viết nhưng không kư tên. Thanh niên
Hội c̣n phát hành tờ Lính Kách Mệnh 2 tuần 1 lần và tạp chí Việt nam Tiền phong hàng
tháng.
Đối với các hội viên nằm trong chương tŕnh đào tạo, Q viết hẳn một cuốn sách nhỏ lấy
tên là Đường Kách mệnh. Đây là cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt giải thích những
luận điểm căn bản của chủ nghĩa Max-Lenin và khả năng áp dụng ở Việt nam. Tuy không
có mục đích trước nhưng chắc chắn 1 số bản của cuốn sách này được tuồn về Việt nam.
Cuốn sách được viết bằng một văn phong cực kỳ đơn giản. Q biết chắc rằng đa số độc giả
thậm chí c̣n chưa biết thế nào là Kách mệnh (thuật ngữ này mới được đưa vào tiếng Việt
đầu thế kỷ 20, tiếng Hán có nghĩa là Thay đổi số mệnh), bởi thế, ngay từ đầu ông đă định
nghĩa KM là “phá hủy cái cũ, xây dựng cái mới, phá hủy cái xấu, xây dựng cái tốt”. Tiếp
đó, Q tiến hành phân thành 3 loại KM:
1. Tư sản (như ở Pháp, Nhật, US)
2. Dân tộc (như ở Italy thế kỷ 19, cách mạng 1911 ở Trung quốc)
3. Giai cấp (như cách mạng tháng 10 Nga)
Q khẳng định tất cả các cuộc KM đều được tiến hành theo hai giai đoạn: giai đoạn dân
tộc và giai đoạn toàn cầu. Tất nhiên quan điểm này được mượn của Lenin, nhưng Q cũng
đă khéo léo lồng ư của ḿnh vào đó. Ông không khẳng định rơ bao giờ th́ giai đoạn 2
mới bắt đầu. Thậm chí ông cho rằng, KM Việt nam chỉ có thể chuyển sang giai đoạn 2
nếu hầu như tất cả các nước đă làm việc đó. Q nhấn mạnh vai tṛ lănh đạo của liên minh
công nông, đặc biệt là vai tṛ của nông thôn trong KM Việt nam với hơn 90% dân làm
nông nghiệp. Giống như giai cấp công nhân trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, người
nông dân trong Đường KM “không có ǵ để mất ngoài xiềng xích”. Cái mà họ cần, như
Q đă từng viết ở Pháp trước đó là Tổ chức và Sự lănh đạo. Cách mạnh Việt nam cần có
một Đảng vững mạnh với những tư tưởng dễ hiểu và theo đuổi.
Một vấn đề thú vị được đề cập đến trong cuốn sách là tính cách của “nhà cách mạng”. Có
thể so sánh với cuốn “Tự bạch về nhà cách mạng” nổi tiếng của Nechayev, một tay
khủng bố Nga thế kỷ 19. Ông này cho rằng, nhà cách mạng là công cụ mù quáng để thực
hiện những lư tưởng cách mạng. Họ phải tàn nhẫn, dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục
tiêu, phải tuân thủ kỷ luật đảng, sẵn sàng từ bỏ những quan hệ bè bạn, gia đ́nh, thậm chí
lừa dối v́ lợi ích của CM. Tuy quan điểm cực đoan của Nechayev bị phê phán nhiều,
www.langven.com
49
nhưng Lenin vẫn rất khoái và nhiều điểm trong cuốn “Tự bạch” trở thành tiêu chuẩn của
người Bolsheviks. Có nhiều điểm tương đồng trong định nghĩa của Q về nhà cách mạng,
như tuân thủ kỷ luật đảng, đặt quyền lợi cách mạng lên trên quyền lợi cá nhân. Nhưng
điểm khác biệt chủ chốt ở cái hồn tinh thần nằm đằng sau hai bản tiêu chuẩn này. Trong
khi Lenin cho rằng những quan điểm đạo đức không liên quan lắm đến tính cách của
người CM th́ Q hầu như áp dụng tất cả những chuẩn mực đạo đức của người quân tử
trong đạo Khổng: tiết kiệm, cởi mở nhưng công bằng, cương quyết sửa chữa lỗi lầm, thận
trọng, ham học và quan sát, không kiêu ngạo và khoan hồng.
Nếu tính đến tài năng xuất chúng của Q trong việc thay đổi h́nh thức tuyên truyền cho
những đối tượng khác nhau, có thể cho rằng Q cố t́nh giữ những “bình cũ” để đưa “rượu
mới” v́ biết rằng đa số hội viên của ông xuất phát từ những gia đ́nh nho học và chắc
chắn vẫn giữ những giá trị căn bản của đạo Khổng. Tuy nhiên, thực tế cuộc đời HCM đă
chứng tỏ rằng đạo đức cá nhân ông: h́nh ảnh một con người giản dị và hào hiệp với niềm
lạc quan vô bờ bến và tinh thần nghiêm túc và hiến dâng cho những lư tưởng cách mạng,
đă trở thành sự đảm bảo tiêu chuẩn của ảnh hưởng của ông trong đảng. Đối với rất nhiều
người khác, HCM trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản Việt nam.
Cuốn sách của Q c̣n thỏa măn những logic thầm kín của Việt nam. Trong khi bảo đảm
rằng cách mạng VN sẽ được giúp đỡ từ cách mạng thế giới, người đọc cũng sẽ lấy làm
sung sướng được biết rằng phương Tây cũng chưa ra ǵ và sẽ c̣n phải trải qua những
thời loạn lạc. Việc phân tích nguyên nhân thất bại của các nhóm dân tộc chủ nghĩa cũng
rất có ư nghĩa cho lớp trẻ.Q đă chỉ ra rằng các nhóm này thiếu hẳn một tư tưởng, một ư
niệm rơ ràng về tương lai của Việt nam độc lập. Phật giáo với triết lư chịu đựng không
thể là tác nhân thay đổi. Khổng giáo bị mất giá trị trầm trọng do sự đầu hàng của triều
đ́nh. Bởi thế các nhóm dân tộc chủ nghĩa chủ yếu được xác định bởi vùng, miền, chiến
thuật hay cá nhân thủ lĩnh. Những hành động của họ chỉ biểu hiện sự phẫn uất của một
nhóm người trước một kẻ thù muôn lần mạnh hơn.
Có thể coi Đường Kách mệnh là cuốn sách tư tưởng nhưng quá hoang sơ, thậm chí nhiều
chỗ gây bối rối cho người đọc về chủ nghĩa Max-Lenin. Tuy nhiên với quan điểm tuyên
truyền rất rơ ràng của Q: càng đơn giản càng tốt, cuốn sách đă trở thành công cụ giới
thiệu tư tưởng tốt cho những nhà cách mạng sơ khởi. Ngoài ra, Q đă tiến một bước dài
trong phong trào cách mạng Việt nam và thế giới bằng việc lần đầu tiên nhấn mạnh vai
tṛ của nông thôn ở Việt nam và tương lai cách mạng châu Á. Một số nhà quan sát c̣n
cho rằng ĐKM là tác phẩm đầu tiên của “chủ nghĩa cộng sản nông thôn”, một biến thể
của chủ nghĩa Max-Lenin, vốn thường được gắn cho Mao Trạch Đông.
Tính đến mùa xuân năm 1927, chỉ với 2 năm ở Quảng châu, Q đă trở thành một thành
viên được kính trọng và không thể thiếu của phong trào cách mạng ở đây. Q chơi thân
với Chu Ân Lai, nhà tổ chức thanh niên Trương Đại Lợi (cần xem lại Zhang Tailei), lănh
tụ cánh tả của Quốc dân Đảng Lăo Trung Khải (Liao Zhong Kai). Cuộc sống xem ra đă
có vẻ ổn định, Q dự kiến kiếm 1 cô vợ Tàu vừa để học tiếng và lo việc gia đ́nh và nhờ
“thổ công” Lâm Đức Thụ lo hộ vụ này. Q chỉ đặt một điều kiện: “không trả một xu” (trái
với tục lệ người Hoa)
Nhưng chẳng có vấn đề gì, Thụ tìm ngay được 1 cô tên là Tăng Tuyết Minh, con gái vợ ba của
một nhà buôn. Sau khi bố chết, cô này bị đuổi ra khỏi nhà, sống vạ vật cho đến khi làm quen
được với vợ của Thụ. Nhiều đồng chí của Q đã phản đối cuộc hôn nhân này vì cho rằng Minh
không được học hành đầy đủ, tuy nhiên Q vẫn quyết định cưới và hai vợ chồng cùng sống trong
căn phòng của Q tại biệt thự của Borodin. Tuyết Minh khá xinh (theo lời kể thì mặt tròn, môi nhỏ,
da mịn, tóc thề ngang vai), nhưng chẳng quan tâm gì đến các vấn đề dân tộc và cách mạng. Sau
www.langven.com
50
mấy lần thử tìm cách dụ dỗ thất bại, Q từ bỏ ý định thay đổi quan điểm chính trị của vợ. Có
nguồn tin cho rằng, vợ chồng Q có một đứa con gáixl
Tuy nhiên mây đen đang che phủ dần sự nghiệp của Q ở Quảng châu. Trong khi ông đang tìm
cách dẹp yên những đốm lửa bất hoà ở trong nước thì tình hình Trung quốc thay đổi nhanh
chóng. Cuộc hôn phối khó khăn Quốc – Cộng trong những năm qua được duy trì chủ yếu nhờ uy
tín cá nhân của Tôn cũng như quan hệ thân thiết giữa Tôn và Borodin. Tuy nhiên cái chết của
Tôn năm 1925 trong khi đang thương thảo với tướng Phương Yuxiang, đã thay đổi tất cả. Sau
một cuộc chiến quyền lực ngắn, Tưởng Giới Thạch lên nắm quyền. Tưởng tạm thời duy trì liên
minh mặc dù có sự phản đối quyết liệt của phái hữu trong QDĐ. Bản thân Tưởng cũng chẳng có
thiện cảm gì với cộng sản. Sau chuyến viếng thăm Matxcova năm 1923, Tưởng hiểu rằng mục
đích cuối cùng của Matxcova là loại bỏ đảng của ông ta. Ngày 12/4/1927, trong chiến dịch chung
tiễu trừ cát cứ tại phía Bắc và Trung nguyên, Tưởng đã ra tay, điều quân tàn sát hàng ngàn đảng
viên cộng sản và những người ủng hộ tại Thượng Hải.
Quảng châu phản ứng tức thì, quân đội của Lu Jishen bao vây hơn 2000 đảng viên cộng sản.
Hàng trăm học viên thân cộng tại Hoàng Phố (trong đó có một số Việt nam) bị bao vây và bắn
chết. Bạn Q, Trương Lợi cũng nằm trong số này. Khi quân của Lý tiến hành bao vây lãnh sự
quán Liên xô, Borodin và một số cộng sự phải trốn sang Vũ hán. Ban đầu, phòng nhì Pháp cũng
nghĩ là Q sẽ chạy theo Borodin. Thực tế thì Q đã ở lại vì tin tưởng vào những mối quan hệ của
mình với QDĐ. Tuy nhiên ông cũng ẩn vào một chỗ hẻo lánh hơn và đi bán báo để kiếm tiền sinh
sống. Chẳng được bao lâu, Trương Văn Lệnh, một tay chân trước đây của Tâm Tâm Xã, đang là
quan chức của chính quyền thành phố, đã mật báo là đã có lệnh bắt Q và ông phải trốn càng
nhanh càng tốt. Người đã chỉ điểm Q chính là Nguyễn Hải Thần. Thần vốn là bạn thân của Thụ
và đã từng ở nhà ông này. Q muốn hợp tác với Thần và những thành viên còn sót lại của Phan
Bội Châu VNQDĐ, nhưng Thần kịch liệt phê phán xu hướng thân cộng của Thanh niên hội. Năm
1926 Trương Bội Công mò đến từ Bắc kinh càng thôi thúc Thần phải thành lập đảng mới để
chống lại ảnh hưởng của hội.
Ngày 5/5/1927, Q lên tàu đi Hồng kông bỏ Tuyết Minh lại Quảng châu. Cùng ngày, nhà ông bị
khám xét. Một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại lên đường.
www.langven.com
51
Thanh kiếm báu
Q nghĩ ǵ khi nh́n qua cửa sổ ngắm những cánh đồng lúa xuân đang vào vụ gặt trên con
tàu đi vào vô định ngày ấy. Chắc chắn là ông hài ḷng v́ những ǵ đă làm ở Quảng châu.
Đích thân ông đă đào tạo hàng trăm chiến sĩ phân phối về cả 3 miền đất nước, thành lập
một tổ chức vững mạnh làm tiền thân cho đảng cộng sản Đông dương sau này. Cuộc đảo
chính của Tưởng đă làm đảo lộn tất cả. Thanh niên Hội không thể đặt trụ sở ở Quảng
châu được nữa. Liên lạc giữa Q với các đồng chí trong nước đă bị cắt đứt, có thể phải đến
hàng năm. Bản thân Q cũng chưa biết ḿnh sẽ đi về đâu!
Ban đầu, có thể Q (vẫn đang dùng tên là Lư Thuỵ) đă hy vọng là sẽ dùng HK làm nơi cư
trú và bàn đạp cho tổ chức của hội. Nhưng chính quyền sở tại nghĩ khác và ngay ngày
hôm sau Q phải lên đường đến Thượng Hải, thành phố vẫn đang c̣n bàng hoàng về vụ
“khủng bố trắng”. Để che mắt, Q phải đóng giả một nhà buôn và thuê pḥng khách sạn
sang trọng. Chẳng mấy chốc hết tiền, Q may mắn vớ được một chuyến tàu về
Vladivostok.
Vladivostock khi đó là cơ quan đầu năo của các hoạt động cách mạng tại Viễn đông. Tại
đây,Q đă gặp lại Jacques Doriot, một trong những ngôi sao đang lên của Đảng cộng sản
Pháp. Ông cũng gặp lại đại diện QTCS Grigori Vointinsky. Mỗi ông một ư, Doriot
khuyên Q dựa vào FCP để thâm nhập Đông dương từ Thái lan, Voitinsky th́ lại đề nghị
Q về Thượng hải và xây dựng phong trào trong đám lính Việt đang đóng ở đó. Q lịch sự
lắng nghe, nhưng trong thâm tâm, ông đă biết ḿnh phải làm ǵ.
Q về đến Matxcova tháng 6 năm đó và ngay lập tức viết đơn xin phép được cấp kinh phi
để có thể hoạt động ở Thái lan trong khoảng 2 năm. Trong khi chờ phê duyệt, Q viết một
loạt các bài báo cho Inprecor miêu tả t́nh h́nh tại Đông dương. Sau chuyến đi nghỉ chữa
bệnh ở nhà nghỉ Eppatoria Crum (chưa rơ bệnh ǵ), Q nhận được tin vui: Trường Stalin
đă quyết định thành lập phân ban Việt nam cho những sinh viên đă được Q gửi đi từ
Quảng châu. Trong số đó, Trần Phú là người gây được nhiều chú ư nhất. Con một viên
quan triều đ́nh ở Quảng ngăi, Phú đă tham gia một đảng dân tộc nhỏ, khi sang Quảng
châu để bàn việc hợp tác với Thanh niên hội, Phú đă bị Quốc thu phục và gửi sang
Matxcova đào tạoxli
Tháng 11/1927, thay v́ chi tiền cho Q đến Thái lan, QTCS điều ông sang Pháp để vạch
một chiến lược toàn diện hơn xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng. Không thấy đả động
ǵ đến chuyện kinh phí cả. Trên đường sang Paris, Q ghé qua Berlin, tại đây ông tham gia
xây dựng chi nhánh của Liên hiệp Phản đế (vỏ bọc của đại diện Liên xô ở nước ngoài).
Đến Pháp, mặc dù được báo cáo trực tiếp cho trung ương FCP, Q tỏ ra hết sức thất vọng
v́ vấn đề thuộc địa không được ai quan tâm. Cũng không ai đề nghị t́m việc làm hoặc
cấp kinh phí ǵ cho Q cả. Quăng cuối tháng 12, Q tham gia hội nghị Trung ương Liên
hiệp Phản đế tại Brussel. Tại đây ông đă làm quen với Sukarno, Nehru, gặp lại ông bạn
Nhật Katayama Sen và đặc biệt với vợ góa của Tôn Trung Sơn Tống Khánh Linh, người
sẽ giúp đỡ Q trong thời điểm quyết định sau này.
Sau hội nghị, Q chỉ trở về Paris một thời gian ngắn và sang Berlin. Ông viết thư cho
Dombai xin tiền của Quốc tế Nông dân để về Đông dương hoạt đông. Ông này khuyên Q
nên xây dựng phong trào nông dân ở các tỉnh biên giới với Trung quốc nhưng cũng
không thấy đả động ǵ đến chuyện tiền nong. Chẳng có việc ǵ làm, Q dự định hoàn thành
một cuốn sách khoảng 120 trang về những kinh nghiệm bản thân trong phong trào nông
www.langven.com
52
dân Trung quốc. Đến khoảng tháng 4 th́ Q cạn tiền, ông viết một bức thư thống thiết về
Dalburo miêu tả ḿnh như một người :
Không được làm việc ở Pháp, vô dụng ở Đức nhưng rất cần ở Đông dương. Tôi đã khẩn
thiết đề nghị tổ chức cung cấp tài chính để tôi có thể trở về Đông dương hoạt động. Tôi
đã nói với đồng chí Khi Doriot khi đi ngang qua đây là nếu không có tiền sống thì hãy
cho tôi tiền đi lại để tôi có thể lên đường chứ không phải lang thang ở châu Âu này nữa.
Rốt cuộc chẳng có hồi âm gì. Tình hình của tôi hiện tại như sau: 1/chờ đợi chỉ đạo trong
vô vọng 2/không có gì để sống...
Hai tuần sau Q nhận được giấy phép trở về Đông dương, FCP cấp tiền đi đường và 3
tháng ăn ở. Đầu tháng 6, Q rời Berlin, qua Thụy sĩ, sang Italia. Tại biên giới, theo lời kể
của Q, may mắn sao tên Q lại không có trong Từ điển chống QTCS của bọn cảnh sát phát
xít. Tuy nhiên Q vẫn bị bắt tại Rome và bị đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng ông cũng được
thả và lên một con tàu Nhật ở Naple để về Thái lan. Đó là cuối tháng 6/1928.
Q đến TL tháng 7/1928. Vương quốc Thái lan khi đó là quốc gia duy nhất ở ĐNA không
phải là thuộc địa. Bởi thế ngay cả nhà cách mạng nổi tiếng như Q cũng được đi lại thoải
mái, chẳng ai quan tâm. Trước đó, theo lệnh của Q, thanh niên Hội đă xây dựng mạng
lưới trong giới Việt kiều, vốn tập trung rất đông tại khu vực cao nguyên Khorat, Đông
bắc Thái lan. Từ vùng núi Trường sơn đến cao nguyên này khoảng 2 tuần đi bộ, chính
quyền Thái lan lại ưu ái các nhà yêu nước Việt nam, bởi thế khu vực này có thể được coi
là thánh địa chống thực dân. Nhiều người trong số 20.000 Việt kiều ở khu vực này là tín
đồ cũ của phong trào Cần Vương và Phan Bội Châu. Từ năm 1925, NAQ đă cử Hồ Tùng
Mậu sang lập 4 chi nhánh tại Phichit, Nakhon Panom, Udon Thani và Sakon Nakhon
dưới dạng các hợp tác xă sản xuất nông nghiệp.
Từ tháng 8 năm 1928, trong cộng đồng người Việt tại Bandong (một huyện của Phichit)
xuất hiện một người Việt nam lạ mặt tự xưng là Thầu Chin. Ông ở đây 2 tuần và tháng
9/1928 vượt 10 ngày đường rừng để đến Udon Thani. Có ngày ông đi được đến 70 km.
Cộng đồng người Việt ở đây vốn xuất phát là dân tiểu thương nên lười lao động và không
muốn hoà nhập với xă hội Thái. Thầu Chin đến thay đổi tất cả. Đích thân ông đứng ra xin
phép và khênh gạch để xây trường học cho bà con học tiếng Thái. Mỗi ngày ông đặt
quyết tâm học 10 từ Thái. Tối tối ông đến các gia đ́nh, kể cho họ nghe t́nh h́nh thế giới
và Đông dương, giải thích cho họ chính quyền và người dân Thái ủng hộ cuộc đấu tranh
của nhân dân Việt nam. Ông đổi tên tờ báo tiếng Việt Đồng Thanh thành Thân Ái (gắn
với một tổ chức do Thanh niên Hội lập ra), bằng cách hành văn dễ hiểu, qua các bài thơ
và vở kịch kích động tinh thần yêu nước. Đầu năm 1929, Thầu Chin đến Sakhon Nakhon.
Dân ta ở đây không được giác ngộ cho lắm, thờ chúa, phật và cả Trần Hưng Đạo đủ cả.
Mỗi khi mắc bệnh lại cúng vái tứ phương. Thầu Chin đích thân chẩn bệnh và mời bác sĩ
đến chữa bệnh cho nhân dân. Ông cũng không ngần ngại sử dụng đức Thánh Trần cho
việc tuyên truyền yêu nước
Trên Điện Diên Hồng, ngàn người như một
Kẻ nào muốn cướp Việt nam hãy bước qua xác chúng ta
Còn một người Việt còn sống là sông núi Việt nam vẫn là của ta
Mật thám Pháp đă mất khá nhiều công sức để t́m Q sau khi ông rời Quảng châu năm
1927. Pḥng nh́ Pháp đă ḍ được Quốc ở Paris nhưng lại mất vết khi Q bỏ Brussel. Năm
1928, 1929 chúng nghe nhiều tin đồn về một người Việt kỳ lạ lang thang trong các làng
Việt kiều ở Đông bắc Thái và t́m cách xác định danh tính người này. Tháng 10/1929, toà
án triều đ́nh tại Vinh đă xử tử Q vắng mặt về tội nổi loạn. Trong hồi kư của ḿnh, Q đă
nhắc đến việc có lần phải cắt tóc trốn vào chùa đi tu để tránh cảnh sát.
www.langven.com
53
Trong lúc Q lặn lội sang Xiêm th́ các đồng chí của ông t́m mọi cách để giữ vững hoạt
động của Thanh niên Hội. Sau khi hầu như những thành viên chủ chôt được thả, Hội
được đặt dưới sự lănh đạo của Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu với trụ sở tại căn phố hẹp
Dân Sinh gần Cửa Dong Da địa điểm cũ của Trường đào tạo. Tháng 12/1927 các đảng
viên CCP liều lĩnh mở cuộc khởi nghĩa và bị đàn áp dă man. Nhiều chiến sĩ của Hội cũng
tham gia và bị giết. Lê Hồng Sơn và một số người khác bị bắt và đưa ra toà, nhưng không
bị buộc tội mà bị trục xuất. Hồ Tùng Mậu chuyển trụ sở sang Hồng kông và mất liên lạc
với CCP và QTCS.
Dù những thất bại tạm thời Thanh niên Hội vẫn có vị trí vững chắc trong phong trào cách
mạng Việt nam. Hội tiếp tục mở rộng trong nước và đàm phán với các đảng phái chính trị
khác để thành lập mặt trận thống nhất chống Pháp. Có điều các cuộc đàm phán này
thường diễn ra trong không khí nghi kỵ v́ Hội kiên quyết giữ vai tṛ lănh đạo. Quăng
tháng 12/1927, một số nhà giáo và nhà báo ở Bắc bộ và Bắc Annam thành lập ra
VNQDĐ. Tuy cùng tên với đảng của Phan Bội Châu nhưng chẳng có liên quan ǵ. Đảng
này theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn và cũng có mong muốn hợp tác với Thanh niên
Hội. Hai bên đă từng hẹn đàm phán tại Xiêm nhưng thất bại v́ Hội không cử đại diện
đến. Vả lại QDĐ không chấp nhận sự lănh đạo của Hội ở trong nước, tất yếu dẫn đến sự
tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa hai tổ chức.
Ngoài ra những mâu thuẫn trong Hội cũng bắt đầu xuất hiện. Thực ra mâu thuẫn này có
nguồn gốc từ chính sách hai mặt của Q: cam kết theo chủ nghĩa quốc tế Max-Lenin
nhưng vẫn lấy độc lập dân tộc làm cương lĩnh hoạt động chính. Sau khi Q rời Quảng châu
mùa xuân năm 1927, một số học tṛ của ông như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu nhanh
chóng trở thành những người Marxist đầy khao khát, trong khi đó Lâm Đức Thụ và một
số cựu binh lại quan điểm khác. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng khi mùa xuân năm 1928,
tại một cuộc họp ở nhà riêng của Thụ, ông này đă t́m cách thông qua đượ__________c bản cương
lĩnh mang tính dân tộc mà chẳng đả động ǵ đến cách mạng xă hội hay đấu tranh giai cấp
ǵ cả
xlii
.
Trong ba năm đầu tiên, cả hai phái trong Hội đều ḱm chế, tuy nhiên sau hội nghị HK,
mâu thuẫn bùng phát dẫn đến tan vỡ tổ chức. Mọi sự khởi đầu từ nhóm lănh đạo Bắc bộ
và bí thư thứ nhất Trần Văn Cung. Ông này người xứ Nghệ, đảng viên đảng Tân Việt,
tham gia khởi nghĩa Quảng Châu và đă từng ngồi tù Quốc dân đảng. Cung cũng tham dự
vào hội nghị HK và tỏ ra rất thất vọng về đường lối uỷ mị của ban lănh đạo mới. Cung
không tin là có thể thuyết phục nông dân và công nhân ủng hộ chỉ bằng diễn thuyết chung
chung về ḷng yêu nước và độc lập dân tộc. Cần phải mang lại cho họ những lợi ích kinh
tế cụ thể. Không được chào đón nồng nhiệt ở hội nghị, Cung quay ra thuyết phục các
đồng chí ḿnh ở Bắc bộ
xliii
.
Đầu tiên họ không hài ḷng về việc chẳng ai quan tâm chiêu mộ giai cấp vô sản vào Hội.
Ngoài Tôn Đức Thắng, thợ máy của Pháp về nước trở thành lănh tụ công đoàn tại nhà
máy đóng tàu Ba son và một vài “công hội đỏ” khác ở những thành phố lớn, không có
nhiều công nhân gia nhập Hội. Hoạt động của Hội chủ yếu dựa vào các sinh viên từ TQ
trở về. Số này phần lớn xuất thân từ thành phần học giả và chủ yếu mở rộng tổ chức trong
tầng lớp bạn bè của ḿnh. Cơ sở Hội ở nông thôn cũng rất yếu.
Thứ đến, họ không hài ḷng về thái độ của lănh đạo Hội đối với việc thành lập Đảng cộng
sản mà theo họ là tuyệt đối cần thiết. Tại hội nghị 5/28 ở HK, khi Cung nêu vấn đề, Thụ
đă gạt đi “để xem sau”. Sự bất măn càng lộ rơ trước thềm đại hội VI của QTCS được tổ
chức vào hè năm 1928. Thất vọng trước sự tan vỡ của liên minh Quốc – Cộng dẫn đến sự
www.langven.com
54
đàn áp đẫm máu những người cộng sản tại TQ, bị buộc phải tỏ ra cứng rắn trong cuộc
đấu tranh giành quyền lực với Troski, Stalin đă yêu cầu các đại biểu từ bỏ chính sách mặt
trận liên hiệp rộng răi được thông qua tại đại hội II 8 năm trước. Các đảng CS tại thuộc
địa được chỉ thị không liên minh với các đảng tư sản dân tộc. Nội bộ trong đảng cũng
phải thanh lọc các phần tử “tiểu tư sản”. Những đảng viên thành phần trung lưu phải
được đưa đi “vô sản hoá”.... Tất cả phải hành động để chuẩn bị cho làn sóng cách mạng
mới trong điều kiện nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu đang có dấu hiệu đ́nh trệ,
hứa hẹn một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
V́ chưa có đảng CS, Việt nam không có đại diện chính thức tại đại hội VI. Tuy nhiên có
3 người Việt nam trong thành phần đảng CS Pháp. Một người tên là Nguyễn Văn Tạo,
quê gốc Nghệ an, đă từng bị đuổi khỏi trường tại Sài g̣n do các hoạt động chống đối.
Ông này đă phát biểu tại đại hội dưới tên An, kêu gọi cần nhanh chóng thành lập ĐCS ở
Việt nam để lănh đạo giai cấp vô sản nhỏ nhoi ở đó. Ông c̣n cho rằng những tổ chức dân
tộc cải lương như đảng Hiến pháp, đảng độc lập Việt nam (do Nguyễn Thế Truyền lập)
theo đường lối cải cách hoà b́nh là “cực nguy hiểm” v́ đánh lạc hướng dân chúng.
Những nghị quyết của đại hội VI QTCS càng làm căng thẳng thêm những bất đồng và đổ
thêm dầu vào yêu sách đ̣i cải tổ Hội thành đảng cộng sản có ư thức hệ tư tưởng rơ ràng.
Dẫn đầu phe chống đối vẫn là Trần Văn Cung. Sau một thời gian làm thợ, Cung tin tưởng
rằng chỉ bằng những khẩu hiệu yêu nước, khó có thể lấy được sự ủng hộ của công nhân.
Cần phải tăng tiền lương, giảm giờ làm! Và chỉ có đảng CS mới làm được việc đó!!!
Tháng 5/1929, Thanh niên Hội tiến hành đại hội đầu tiên. 17 đại biểu đại diện cho hơn
800 thành viên tại Bắc bộ, 200 từ Nam bộ và 200 từ Trung bộ tập trung tại HK. Ngay sau
khi đến nơi, Cung gặp Lê Hồng Sơn đề nghị giải tán Hội và thành lập ĐCS. Là thành
viên của nhóm cộng sản ṇng cốt do NAQ thành lập trong Hội, đương nhiên là Sơn ủng
hộ việc cải tổ. Tuy nhiên Sơn nghĩ chưa đến thời điểm v́ các thành viên c̣n chưa đủ giác
ngộ. Vả lại thành lập ĐCS ở HK dễ gây chú ư cho chính quyền QDĐ tại Quảng châu.
Tuy nhiên Cung không nghe và đưa ra đề nghị ngay tại ngày đại hội đầu tiên. Bị chủ tịch
Lâm Đức Thụ từ chối thẳng thừng, Cung cùng với các đồng chí liền bỏ hội nghị về Bắc
bộ lập ra Đông dương cộng sản Đảng (CPI), công khai chỉ trích Hội không tuân theo các
quyết định của QTCS. Sau khi Cung bỏ đi, hội nghị tiếp tục họp và thông qua nghị quyết
về sự cần thiết thành lập một ĐCS ở Việt nam, tuy nhiên thời điểm chưa chín muồi do
giai cấp công nhân c̣n quá yếu và thiếu một lư thuyết cách mạng. Hội nghị cũng chính
thức đề nghị QTCS công nhận Hội.
Các nhà lănh đạo Hội đă mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp sự ủng hộ cho một
đảng cộng sản từ phong trào cách mạng trong nước. CPI ra sức lùa các thành viên của
Hội sang hàng ngũ của ḿnh. Tháng 8, Hồ Tùng Mậu và Lê Quang Đạt ra tù ở Quảng
châu và trở về HK. Được sự ủng hộ của Sơn, họ bí mật thành lập tổ chức cộng sản bên
trong Hội, gọi là An Nam cộng sản Đảng (ACP), cho Lâm Đức Thụ ra ŕa. Những chi bộ
đầu tiên của ACP được thành lập ở Nam bộ. Cùng tháng, Mậu gửi thư cho Cung đề nghị
sát nhập, nhưng Cung từ chối v́ “bận”. Bí quá, Mậu viện cả QTCS: “Nếu chúng ta có hai
Đảng, 1 ở phía Nam, một ở phía Bắc, thì không hiểu quốc tế thứ Ba sẽ nghĩ thế nào?”.
Suốt năm 1929, các phe phái tiếp tục đả kích nhau với chiếc mũ “mensevick”. Cuối tháng
10, CPI cử Đỗ Ngọc Du tới HK để hoà giải mà không cần sự giúp đỡ của người ngoài.
Tuy thế, do đă được dặn trước, Du cứ khăng khăng đ̣i ACP giải thể và các đảng viên sẽ
gia nhập CPI. Lẽ dĩ nhiên là ACP từ chối.
www.langven.com
55
Trong khi đó, các đảng viên của Tân Việt ở miền Trung cũng gia tăng hoạt động. Họ đổi
tên thành Đông dương cộng sản Liên đoàn, nhằm tránh sự đào tẩu của đảng viên sang hai
đảng kia. Thế là ở Việt nam có 3 đảng cộng sản một lúc c̣n Hội th́ chỉ c̣n cái vỏ. Cuối
tháng 8, được tin NAQ đang hoạt động ở Xiêm, Sơn cử Lê Duy Diễm liên lạc với Q, hy
vọng rằng Q, như người sáng lập Hội có thể sử dụng uy tín và khả năng thuyết phục của
ḿnh để hoà giải giữa các phe phái.
Matxcova cũng phê phán kịch liệt “sự chần chừ và thiếu kiên quyết” của Hội và ra mặt
ủng hộ CPI. QTCS nhấn mạnh sự cần thiết phải có ngay một đảng thống nhất để lănh đạo
phong trào tại Đông dương và hứa sẽ gửi đại diện đến làm trung gian. Giọng điệu của
Matxxcova càng hưng phấn khi nghe thị trường chứng khoán NewYork sập, tiếp theo
những vụ khủng hoảng ngân hàng tại Áo. Các nhà lănh đạo Xô viết như cảm thấy thời
khắc sụp đổ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đă điểm. Mùa thu 1928, Dalburo mở chi
nhánh ở Thượng hải, gọi là Cục Viễn đông (FEB) . FEB đề xuất thành lập một tổ chức
mới với trụ sở ở Sing để điều phối hoạt động các nhóm cộng sản ở ĐNA, với tên gọi:
“Liên hiệp các nhóm cộng sản”. ACP nắm được tin này qua các đồng chí TQ của ḿnh và
tỏ ra không hào hứng lắm. Đảng cộng sản Nam Dương, thành lập ở Sing giữa những năm
20, chủ yếu là dành cho người Hoa, v́ thế chịu ảnh hưởng sâu sắc của CPP. ACP sợ rằng,
CPP thực tế sẽ định hướng các hành động của họ. Họ cho rằng các đồng chí TQ thường
chỉ quan tâm các vấn đề của ḿnh và coi thường các dân tộc khác. Sơn gửi Lê Quang Đạt
đến Thượng Hải để thuyết phục FEB trực tiếp lănh đạo ACP. Ngày 16/12/1929 Hồ Tùng
Mậu gặp phái viên của QTCS tại HK. Phái viên này cho rằng cả 3 phe đều chưa xứng với
danh hiệu “cộng sản” và nếu chưa có đảng thống nhất, hăy cứ để cho CPP lănh đạo
xliv
Tại Xiêm,Q được các đại biểu đi dự hội nghị 5/29 thông báo về sự chia rẽ trong Hội.
Liền đó, tháng 9, Q viết một bức thư gửi cho CPI nói toẹt ra rằng, ông chỉ tin tưởng vào
những người cộng sản, và để chứng tỏ ḷng trung thành của ḿnh với QTCS, CPI cần cử
đại diện sang dự hội nghị dự kiến sẽ diễn ra ở Vladivostok vào đầu năm 1930. Lănh đạo
CPI chần chừ.Q đă hai lần định vượt biên giới về Việt nam nhưg phải hoăn v́ bị cảnh sát
theo dơi quá sát sao. Khi ông đang chuẩn bị lần thứ ba th́ phái viên từ Hôngkong đến (có
thể là Lê Duy Diễm) mang theo những tin tức khẩn cấp. Q liền đi Bangkok và từ đó đáp
tàu đi Quảng châu. Q đến Quảng châu 20/1/1930. V́ sợ cảnh sát Anh, Q viết thư mời các
đồng chí của ḿnh từ HK. Tuy nhiên họ lại cho rằng gặp nhau ở HK an toàn hơn v́ cảnh
sát Anh tỏ ra bao dung với các hoạt động của các ngoại kiều, miễn là đừng mất ổn định
của HK. Điều kiện sống ở HK xem ra cũng tốt hơn ở Quảng châu. Người Hoa ở đây hiền
hơn, thỉnh thoảng mới xảy ra băi công. Hồ Tùng Mậu cử một đệ tử của ḿnh hộ tốngQ
đến HK và ở một khách sạn tại Cửu long. Ngay lập tức,Q đến nhà Lê Hồng Sơn và gặp
các lănh đạo của Hội. Ông đả kích họ đă xa rời quần chúng, miêu tả việc tách đảng như
“tṛ trẻ con”. Q c̣n gặp với đại diện của CCP. Sau đó, ông gửi thư mời ba phái cạnh
tranh ở Đông Dương đến HK để chuẩn bị thành lập đảng mới.
Cuối tháng Giêng, các đoàn ACP, CPI từ Đông dương lục đục kéo đến HK. Đại biểu của
Liên đoàn bị bắt trên tàu thuỷ v́ bị nghi đánh bạc. Ngày 3/2, Đại hội hợp nhất được diễn
ra tại một căn nhà nhỏ ở khu phố nghèo của Cửu long, sau đó lại phải chuyển đến một
sân vận động. Đại biểu của ACP là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiều, đại biểu CPI là
Trịnh Đ́nh Cừ và Nguyễn Đức Cảnh. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đại diện cho Hội
cũ. Đại hội diễn ra một cách êm thấm đáng ngạc nhiên. Q nhẹ nhàng chỉ trích tất cả các
bên và nhấn mạnh sự cần thiết phải đoàn kết. Hoá ra các mâu thuẫn kịch liệt chỉ là biểu
hiện của tự ái cá nhân. Miền bắc th́ chê miền nam lười và dễ tính, miền nam lại chê miền
www.langven.com
56
bắc khắc khổ và ương ngạnh. Cả hai đều không bằng ḷng với việc các đồng chí Nghệ An
chiếm hết vị trí lănh đạo. Để tránh phiền phức, Q sử dụng uy tín QTCS của ḿnh đề xuất
giải tán tất cả các tổ chức hiện tại, lập ra đảng mới và được tán thành tức th́. Chỉ c̣n một
vấn đề là đảng mới sẽ lấy tên là ǵ. Nhưng điều này Q cũng đă lo trước, ông bỏ cả Đông
dương, An nam và sử dụng lại chữ Việt nam của triều Nguyễn, đảng mới sẽ có tên là
Đảng cộng sản Việt nam (VCP). Phần c̣n lại của Đại hội diễn ra trong không khí đoàn
kết và thân ái tiếp tục thông qua điều lệ và cương lĩnh của Đảng.
Cần phải nhắc lại rằngQ đă được báo cáo về Đại hội 6 của QTCS và những thay đổi về
đường lối của phong trào, tuy nhiên ông không nhận được bức thư phê phán của QTCS
trực tiếp gửi Hội năm 1929 thông qua FCP. Mặc dù thừa nhận rằng ở Việt nam chỉ có thể
diễn ra cách mạng dân chủ tư sản, QTCS vẫn nhấn mạnh giai cấp công nhân phải giữ vai
tṛ lănh đạo và đấu tranh với tất cả các biểu hiện của bọn “dân tộc xét lại”. Lư thuyết
cách mạng hai giai đoạn của Lê nin được Hội kế tục cũng bị đả kích là “ḱm hăm và làm
suy yếu quần chúng”. Cuối cùng bức thư kết luận: “không cần phải đợi đến khi ACP
được tái tổ chức mới có thể phát động quần chúng nổi dậy”.
Chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đường lối của QTCS, Lời kêu gọi của đại hội thống nhất
tuy vẫn được gửi cho toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, binh lính, sinh viên học
sinh và tất cả anh chị em bị áp bức bóc lột) Việt nam, nhưng đă xoá đi quan điểm củaQ
về liên minh công-nông chiến lược. Lời kêu gọi công khai nhấn mạnh đây là “Đảng của
giai cấp vô sản”, có nhiệm vụ lật đổ “chế độ thực dân đế quốc, tàn dư phong kiến và các
lực lượng tư sản phản cách mạng”, lập nên nhà nước “công nông binh” dần dần chuyển
tiếp thành nhà nước XHCN. Dù thế, Q cũng không dễ dàng từ bỏ đường lối thành lập mặt
trận rộng răi của Lenin. Tài liệu chiến lược mới của đảng mới đ̣i hỏi phải lôi kéo sự ủng
hộ của trung nông, trí thức, tiểu tư sản và các nhóm dân tộc như đảng Hy vọng Thanh
niên của Nguyễn An Ninh. Chỉ có đảng Hiến pháp của Bùi Quang Chiêu là bị coi là rơ
ràng “phản động”. Chính sự trung thành với Lê nin này sẽ mang lại cho Q rất nhiều sự
rắc rối trong thời gian sắp tới.
Trong thư gửi Hilary Noulens, đại diện cho FEB (Far East Buro), Q miêu tả: “Từ quả
trứng Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, đă nở ra Đảng cộng sản Việt nam. Một tổ
chức tuy c̣n non trẻ nhưng đượ__________c tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất và sẽ tiến bộ nhanh
chóng”. Đảng có 204 đảng viên ở Bắc và Trung bộ, 51 tại Nam bộ, 15 ở Trung quốc và
40 ở Xiêm. Trong các tổ chức sinh viên, học sinh, nông dân, Đảng có khoảng 3500 môn
đồ.
Thanh kiếm thần mà Lê Lợi đă dùng để đánh tan quân xâm lược từ thế kỷ 15, giờ đây
đang nằm trong tầm tay của Q.
www.langven.com
57
Nghệ Tĩnh đỏ
Đảng cộng sản Việt nam ra đời, thỏa măn ước mơ của Q khi rời quê hương cách đây 21
năm, t́m một con đường để giải phóng đất nước. Cùng với cuộc đại khủng hoảng đang
diễn ra ở thế giới tư bản, phong trào cách mạng ở Đông dương có vẻ như minh chứng cho
dự báo của QTCS về ngày huy hoàng sắp đến của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, với Q,
có nhiều câu hỏi cần phải trả lời. Liệu đảng mới sẽ thuộc đảng bộ sắp được thành lập tại
Singapore hay sẽ báo cáo trực tiếp cho văn pḥng FEB tại Thượng Hải? Liệu Q sẽ tiếp
tục đóng vai tṛ đại diện của QTCS hay sẽ trực tiếp lănh đạo Đảng? Nếu lănh đạo th́ sẽ
đóng ở đâu v́ nếu Q về Đông dương, sẽ bị bắt và xử ngay. Ngày 13/2, bất chấp cái lạnh,
Q đi Thượng hải để liên lạc với Hilaire Noulens tại trụ sở của FEB trong một biệt thự
châu Âu trên phố Nam kinh náo nhiệt.
Gặp Noulens không phải là việc dễ. Ngày 18, Q viết thư cho Nou, giọng rất bức xúc:
Tôi phải gặp đồng chí ngay, bởi vì 1/ báo cáo này đã viết 2 ngày vẫn chưa đến được tay
đc; 2/ Mọi việc có thể giải quyết trong 1 giờ mà tôi đã ở đây 5 ngày rồi; 3/ tôi buộc phải
ngồi không trong khi công việc chỗ khác đang chờ.
Trong bức thư, Q cũng kiên quyết phản đối quan điểm của QTCS về việc thành lập các
đảng khu vực, bỏ qua yếu tố dân tộc. Q không đồng ư để VCP thuộc đảng bộ Đông Nam
A, cho rằng Việt nam cần phải có một đảng độc lập, báo cáo cho FEB qua văn pḥng
Hồng kông. Có vẻ như cuối cùng Q cũng gặp được Nou và thuyết phục Nou đồng ư với
quan điểm của ḿnh, v́ sau đó vài ngày Q báo cáo với Dalburo ở Moscow. Nhưng vẫn
c̣n một vài khúc mắc:
Tôi không rõ vai trò của mình. Tôi là thành viên Đảng CS Pháp hay Việt nam. Khi chưa
có lệnh mới, tôi sẽ tiếp tục làm việc với VCP. Nhưng dưới danh nghĩa nào? Tôi không thể
về Đông dương vì đã có bản án tử hình vắng mặt. Liệu vai trò của tôi với QTCS đã chấm
dứt? Nếu không, tôi có thể liên lạc với văn phòng địa phương được không? Rất mong
Ban chấp hành xem xét nhanh.
Trước khi rời Thượng hải, Q gặp Nguyễn Lương Bằng, một tay chân cũ từ thời ở Quảng
đông. Q dặn Bằng t́m cách tuyên truyền, thu phục gần 4000 lính Việt nam hiện đang
đóng trong khu nhượng địa Pháp. Q c̣n nhấn mạnh việc giữ vững quan hệ với Đảng CS
TQ. Sau đó Q về Hongkong thành lập văn pḥng phía Nam của FEB, đợi lệnh mới. Văn
pḥng này được đặt trong một ngôi nhà 2 tầng ở đảo HK, dưới danh nghĩa một hăng
buôn. Q thuê một căn hộ gần sân bay ở Cửu long, hoạt động với tên gọi nhà báo Vương.
Văn pḥng có trách nhiệm liên lạc với các đảng ở ĐNA: Thái, Sing và Việt nam
Cuối tháng 3,Q đi tour trong khu vực với nhiệm vụ khôi phục tổ chức ở Nam Dương. Tại
Thái lan,Q qua Udon Thani, thông báo về việc thành lập VCP. Theo lời của Hoàng Văn
Hoan, Q kêu gọi các thành viên của Hội tham gia tích cực vào các hoạt động của đảng CS
Thái sắp được thành lập. Để trấn an tâm lư bất ổn v́ không được tham gia trực tiếp vào
giải phóng VN, Q khuyên nên tổ chức Hội thành văn pḥng tỉnh của VCP. Cuối thàng 4,
Q quay trở về BK chủ tọa hội nghị thành lập đảng CS Thái, bầu ban chấp hành lâm thời
với 1 đại biểu Việt nam từ Udon Thani. Sau đó Q đi Malaya và Sing, dự hội nghị đảng
Nam Dương, cải tổ thành đảng CS Malayan. Cả hai đảng mới đều báo cáo cho FEB qua
văn pḥng HK. Q quay về HK giữa tháng 5
Trong khi Q bận rộn “đỡ đẻ” cho các đảng mới, t́nh h́nh Việt nam nhanh chóng trở nên
căng thẳng. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của VNQDD vào đầu tháng 2. Bỏ qua những
nguyên tắc của Lenin về việc vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, QDD dựa vào một
www.langven.com
58
lớp các nhà cách mạng tinh túy, dự kiến sử dụng khởi nghĩa vũ trang để lật đổ Pháp, với
sự hậu thuẫn của các binh sĩ phản chiến. Quân đội viễn chinh Pháp, do Toàn quyền Ly
Myre thành lập từ năm 1879, có khoảng 30,000 quân, với khoảng 2/3 là dân địa phương.
Độ__________i quân này được chia thành 31 tiểu đoàn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra c̣n
khoảng 15,000 dân quân do hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Đa phần lính Việt nam là do các
chức sắc trong làng bắt đi, chẳng có cảm t́nh ǵ với Pháp. Đến cuối những năm 20, tâm
lư ghét Pháp trong binh sĩ dâng cao, là mảnh đất màu mỡ để gieo tinh thần dân tộc chủ
nghĩa. Từ năm 1929, QDĐ đă bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều địa điểm trên cả nước.
Đáng tiếc là Pháp đă phát hiện và tiêu hủy phần lớn. Sau đó vấn đề thêm căng thẳng. Một
chủ đồn điền Pháp bị ám sát trên đường phố Hà nội khi vừa bước ra cửa nhà người t́nh.
Chính quyền nghi ngờ QDĐ đứng đằng sau, lập tức vây bắt hàng trăm lănh đạo đảng và
những người ủng hộ. Lo ngại trước nguy cơ bị tiêu diệt, QDĐ quyết định ra tay nhanh.
Lúc đó, họ đă có khoảng 1000 cơ sở trong các trại lính ở Bắc bộ. Đầu tháng 2, cuộc binh
biến nổ ra ở một số đồn ở trung du Bắc bộ, quan trọng nhất là ở Yên bái. Kế hoạch đầu
độc các sĩ quan Pháp bị một tên chỉ điểm tuồn cho Pháp. Viên chỉ huy trại lính đă đề
pḥng và khi cuộc bạo động nổ ra vào giữa đêm, quân Pháp đă được chuẩn bị. Đến đầu
giờ sáng th́ Pháp đă kiểm soát được t́nh h́nh. Cuộc nổi dậy ở một số địa điểm khác cũng
nhanh chóng bị dập tắt. Rất nhiều lănh đạo bị bắt. Ngày 17/6, 13 kẻ cầm đầu bị xử tử tại
Yên bái.
Cuộc khởi nghĩa đă thất bại ngay từ đầu về nguyên tắc, khi không có những biện pháp
kích động dân chúng tham gia, cũng không có phương án “tẩu vi” khi gặp sự cố. Liên lạc
cũng bị cắt đứt ở phút cuối, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong hành động. Quan trọng hơn
nữa là cuộc khởi nghĩa không được sự ủng hộ của dân chúng trong toàn quốc. Các lănh
đạo thoát chết chạy trốn sang Trung quốc và bị phân ră thành 2 nhánh: một nhánh vẫn
trung thành với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhánh kia th́ nghiêng về cải cách ḥa
hoăn.
Trên thực tế th́ t́nh h́nh Đông dương đang chứa đựng nhiều dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là
trong giới học tṛ. Mặc dù số lượng học sinh liên tục tăng (đầu năm 1930, cả nước có
7000 trường công với gần 340,000 học sinh), bất măn vẫn không ngừng gia tăng do thiếu
điều kiện học lên. Chỉ có khoảng 5000 học sinh ở cấp trung học và khoảng 500 được vào
học tại đại học duy nhất ở Hà nội. Việc làm sau khi học xong càng không có, lương th́
thấp hơn hẳn các đồng cấp châu Âu, làm tăng thêm tinh thần chống sự thống trị của ngoại
quốc. Khi phong trào học sinh tạm lắng xuống cuối những năm 20, đến lượt công nhân
nổi dậy. Công nghiệp phát triển mạnh kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng
chỉ có giới chủ được hưởng lợi. Cuối những năm 20, giai cấp công nhân Việt nam có
200,000 người, trong đó đă có 50,000 làm việc trong các khu mỏ ở miền Đông bắc. T́nh
cảnh của công nhân làm việc tại các đồn điền chè và cao su ở Tây nguyên và dọc biên
giới Campuchia, hết sức khốn khổ:
Tất cả đều phải dậy từ 4h sáng mà nhiều người vẫn chưa kịp ăn sáng. Kẻng tập trung lúc
5h và không ai được muộn. 20 phút tập trung là một cực hình vì bọn chủ tìm mọi cớ để
đánh đập, chửi bới.
Sau đó tất cả phải ra đồn điền, mỗi người phải cạo mủ từ khoảng 280 đến 350 gốc. Ai
không đủ tiêu chuẩn sẽ bị đánh, nếu không có tiền nộp chuộc. Chiều về, phải phục dịch
chủ, dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống đúng là: “con không biết mặt cha, chó không biết mặt
chủ”.
www.langven.com
59
Thực tế châu Âu cho thấy điều kiện trong xă hội tiền công nghiệp không bao giờ dễ chịu.
Việt nam cũng không phải là ngoại lệ. Công nhân các “nhà hàng mồ hôi” ở Nam định,
Hải pḥng, hầm mỏ Quảng ninh hay các đồn điền miền Nam đều cùng khổ như nhau.
Việc tuyển dụng cũng không hẳn là tự nguyện. Các băng nhóm tội phạm nhiều khi ŕnh
bắt người trên đường rồi tống thẳng đến các nhà máy. Một số nông dân không đủ tiền nộp
tô cho địa chủ trốn ra thành phố. Nhưng cũng chẳng hơn ǵ. Đồng lương th́ chết đói. Bạo
lực tràn lan. Charles Dickens mà c̣n sống hẳn sẽ rất hiểu cuộc sống này.
Rồi cuộc đại khủng hoảng xảy ra. Tư bản Pháp bỏ chạy. Hơn một nửa số nhân viên phải
ra đường. Có người chạy về quê cuống quít t́m đường sống. Nhiều người biểu t́nh phản
đối. Băi công nổ ra tràn lan. Có trường hợp là do Tân Việt hoặc Thanh niên Hội xúi giục,
nhưng đa số là tự phát. Tháng ba/1930, công nhân đồn điền Phú riềng nổi loạn. Vài tuần
sau đến lượt nhà máy dệt Nam định, rồi Diêm Bến thủy. Pháp thẳng tay dẹp loạn. Đă có
người chết, nhiều người bị thương. T́nh h́nh đặc biệt nghiêm trọng ở Vinh. Rất nhiều
công nhân có nguồn gốc từ những địa phương lân cận, dẫn đến sự bất măn cao độ ở nông
thôn. Hàng ngàn nông dân Thanh chương đă tràn vào đập phá đồn điền và treo cờ đỏ búa
liềm. Lính lê dương Pháp đàn áp giết hàng chục người.
Từ cuối năm 1929, CPI đă cử một đảng viên kỳ cựu của ḿnh là Nguyễn Phong Sắc về
nằm vùng ở nhà máy Diêm Bến thủy. Vài tuần ngay sau Hội nghị thành lập tháng 2/1930,
Tỉnh ủy Nghệ an rồi các chi bộ địa phương liên tiếp được thành lập và hầu như hoạt động
tự do v́ Pháp không để ư, c̣n quan lại địa phương th́ sợ. Các cán bộ địa phương tự chủ
hoạt động mà không cần bất cứ sự lănh đạo nào từ TƯ, tiếp tục thổi ngọn lửa cách mạng.
Đến đầu tháng 9, t́nh h́nh bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát. Nông dân các huyện dọc
sông Cả nổi dậy cướp chính quyền, tổ chức theo kiểu Liên xô thành các Xô-viết, chủ yếu
là từ thành phần nông dân nghèo. Chính quyền mới lập tức xóa bỏ các loại sưu thuế, lấy
lại ruộng đất từ tay địa chủ để chia cho dân nghèo. Công nhân Bến thủy và học sinh Huế
đồng loạt biểu t́nh ủng hộ.
Lo sợ, Pháp lập tức tăng cường quân lê dương để hỗ trợ quân triều đ́nh. Ngày 12/9 khi
hàng ngàn người từ Yên xuyên đổ về Vinh để chiếm trụ sở ngân hàng Đông dương, máy
bay Pháp đă ném bom thẳng vào đoàn người. Con đường từ Yên xuyên về Vinh đẫm máu
và xác người.
Trong lúc Nghệ Tĩnh đang bạo loạn, Đảng bộ địa phương đang bối rối không biết phải
hành động thế nào, tại HK, những lănh đạo cao cấp ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị toàn
thể trung ương lần thứ nhất. Cuối tháng 9, đoàn Nam bộ đến nơi nhưng chẳng thấy dấu
hiệu ǵ của đoàn Bắc và Trung bộ. Được sự đồng ư của Q, anh em định bỏ về, th́ thật
may mắn có mấy đại biểu của Bắc kỳ đến từ Hải pḥng ngay trước giờ lên đường. Tất cả
quyết định vẫn tiếp tục hội nghị. Q và Trần Phú đi Thượng hải để tư vấn với Noulens.
Đầu tháng 10, Phú quay về.Q ở lại thêm vài ngày rồi trở về HK trên một con tàu Mỹ.
Ngày 20/10, Hội nghị khai mạc tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Y, đảo HK. Nhờ trời, đến
lúc này, đại biểu 3 miền đều có mặt, trừ một đại biểu đă đến được HK nhưng lại bị lạc v́
không t́m được địa điểm. Q vừa là chủ tịch vừa là đại diện của QTCS. Trong số đại biểu,
có một thiếu nữ da nâu, hấp dẫn. Đó chính là Nguyễn Thị Minh Khai, được cử sang giúp
cho Q tại Văn pḥng miền Nam từ tháng 4/1930.
Chủ đề chủ yếu của Hội nghị là thảo luận cương lĩnh chính trị chính thức thay thế đề
cương tạm thời do Q soạn thảo tại Hội nghị thống nhất hồi tháng 2. Đề cương của Q thừa
hưởng từ cương lĩnh của Thanh niên Hội nên hiển nhiên là có một số điểm không trùng
với quan điểm chính thống của Matxcova tại thời điểm này, tỷ như vai tṛ chính thống
www.langven.com
60
của giai cấp công nhân hoặc kế hoạch cách mạng 2 giai đoạn của Lênin. Đa số các đại
biểu đă chấp nhận quan điểm của Matxcova, thay thế cho những “khiếm khuyết” của đề
cương tạm thời của Q. Ngày 9/12, Ban chấp hành TƯ mới ra thông tư (chắc là do Phú
thảo), đả kích quan điểm mặt trận thống nhất bao gồm cả những phần tử tư sản của hội
nghị tháng 2. Thông tư cũng phê phán chủ trương hợp nhất b́nh đẳng, cho rằng lẽ ra phải
chọn những thành phần ưu tú nhất của mỗi phái.
Cương lĩnh chính trị mới đề nghị thành lập mặt trận phản đế, do công nhân lănh đạo, kết
hợp với bần nông và trung nông. Mặt trận không cấm các phần tử tư sản, nhưng cương
lĩnh cảnh báo, phải hết sức cẩn thận với bọn này. Đảng có thể hợp tác với các đảng dân
tộc khác, nhưng phải chống lại quan điểm “dân tộc hẹp ḥi” của các đảng này, và tiêu
diệt ảnh hưởng của chúng đến quần chúng. Cương lĩnh cũng đề xuất khai trừ những phần
tử chủ trương khủng bố, ám sát, coi thường quần chúng. Chủ trương này chắc chắn được
sự ủng hộ của Q, v́ ông đă phát biểu tương tự khi nhận xét cuộc khởi nghĩa Yên bái. Một
kết quả nữa của hội nghị tháng 10 là việc đổi tên đảng từ đảng cộng sản Việt nam thành
đảng cộng sản Đông dương do sức ép của Liên xô. Rơ ràng là Matxcova cho rằng chữ
“Việt nam” quá “dân tộc chủ nghĩa” không phù hợp với “cách mạng thế giới”. QTCS
cũng đang kêu gọi những nước nhỏ thành lập những đảng khu vực.
T́nh h́nh bạo loạn ở miền Trung cũng đă gây chú ư. Đến lúc đó gần như mọi sự ngă ngũ,
cuộc nổi dậy chỉ diễn ra lẻ tẻ ở vài huyện. Nông dân, công nhân, tầng lớp thị dân, thậm
chí cả dân nghèo miền Bắc cũng tỏ thái độ thờ ơ, không nổi dậy hưởng ứng. Nghị quyết
hội nghị kêu gọi các lănh đạo địa phương t́m mọi cách để mở rộng phạm vi ảnh hưởng
trong cả nước, và chỉ thị không được manh động, sử dụng bạo lực mù quáng. Một thông
điệp gửi riêng cho đảng bộ Nghệ tĩnh nêu rơ:
Nếu quần chúng đứng lên tự phát, đảng đương nhiên phải lãnh đạo. Trường hợp này, có
bằng chứng cho thấy đảng bộ địa phương đã chủ động “giật dây”, và đấy là một sai lầm
chết người: 1/ Tình hình cách mạng và nhận thức quần chúng chưa chín muồi ở nhiều
địa phương. 2/ Tại một số xã, phong trào mạnh thì lại quá thiếu vũ khí.
Hội nghị đă bầuBan chấp hành TƯ và Ban thường vụ gồm Trần Phú, Nguyễn Trọng
Nghĩa và Nguyễn Phong Sắc (mặc dù ông này không dự). Trần Phú c̣n được bầu làm
Tổng bí thư. Q tiếp tục là đại diện cho QTCS. Ban đầu Ban thường vụ định đóng ỏ Hải
pḥng, nhưng sau chyển vào Sài g̣n do lư do an ninh.
Quốc không thể không biết rằng những quyết định của Hội nghị lần này đă mâu thuẫn rơ
ràng và thậm chí trắng trợn với những tư tưởng và phong cách lănh đạo của ḿnh. Nhiều
chỉ trích hoàn toàn không có cơ sở. Từ thời lănh đạo Thanh niên Hội, Q đă cố gắng nâng
cao tŕnh độ nhận thức tư tưởng của các thành viên. Bây giờ khi các thành viên trẻ hơn
cáo buộc về tội yếu kém về tư tưởng, chắc Q rất đau. Trên thực tế, quan điểm mới của
QTCS không những không phù hợp với Q mà c̣n là bước lùi so với những tư tưởng của
Lenin đầu những năm 20.Q đă chấp nhận tất cả với một thái độ nhă nhặn: “lắng nghe và
tôn trọng ý kiến người khác” và viết báo cáo gửi cho Noulens sau khi hội nghị kết thúc.
Vào cuối thu và mùa đông năm 1930-1931, Pháp tăng cường đàn áp. Biểu t́nh bị dập tắt
ngay lập tức, quân đội tràn vào chiếm đóng những làng xă ủng hộ biểu t́nh. Đảng bộ các
tỉnh miền Trung báo cáo tinh thần dân chúng xuống thấp. Những phần tử tích cực cuống
quưt quay sang các biện pháp như ám sát hoặc khủng bố để trấn áp dân chúng. Pháp càng
đàn áp dữ hơn. Ban thường vụ cũng lúng túng, chỉ thị: ”chúng ta không có máy bay,
không có quân đội để ứng cứu. Nhưng tuyệt đối không được hoảng loạn”. Tại HK, Q
cũng hết sức cố gắng để lôi kéo sự chú ư của thế giới. Trong báo cáo gửi cho Moscow,Q
www.langven.com
61
nói suốt ngày gơ cửa các đồng chí ở văn pḥng FEB tại Thượng hải, để kêu gọi các đảng
khác ủng hộ phong trào tại Việt nam. Trong một bài báo viết năm 1931, có tên “Nghệ
Tĩnh đỏ”, Q ca ngợi sự kết hợp của công nhân với nông dân và kết luận, cuộc nổi dậy
xứng đáng được tô màu “đỏ”.
Q cũng hết sức băn khoăn về khả năng của ḿnh có thể tham gia tích cực vào việc lănh
đạo phong trào.Mâu thuẫn với Trần Phú ngày càng căng thẳng. Phú thẳng cánh chỉ trích
quan điểm “dân tộc” của Q, phản bội lại những tư tưởng của QTCS. Phú cũng không dấu
diếm tham vọng kiểm soát đảng trong tương lai. Trong một lá thư gửi Q tháng Giêng năm
1931, Phú kêu ca về sự mất liên lạc với văn pḥng FEB tại Thượng hải và cho rằngQ
chính là thủ phạm. Phú viết, nếu Q không thể đảm bảo được liên lạc, th́ văn pḥng ở HK
có vai tṛ ǵ? Mặc dù rất khó chịu với giọng điệu “bề trên” của Phú, Q vẫn t́m cách bắt
liên lạc với Thượng hải và thúc giục Noulens nhanh chóng có những chỉ thị cho phong
trào ở Việt nam.
Đầu tháng 3, Joseph Ducroux, điệp vụ của QTCS dưới tên gọi Serge Lefranc đến HK để
gặp Q trong chuyến đi thị sát khu vực. Q và Lefranc quen nhau từ đầu những năm 1920
khi cùng tham gia Liên đoàn cộng sản trẻ tại Paris. Lefranc cho rằng sử dụng Q chỉ với
mục đích liên lạc và phiên dịch th́ quá phí và đề nghị chuyển Q về văn pḥng Thượng
hải, trực tiếp chỉ đạo Đông dương. Hai tuần sau, L đến Sài g̣n. Ngày 23, Ngô Đức Trí,
thành viên Ban thường vụ mới, từng gặp L khi học tại trường Stalin, gặp L tại khách sạn
Sài g̣n Palace. Ngày hôm sau, L gặp 2 thành viên c̣n lại tại nhà Phú, chuyển tiền và hứa
Noulens sẽ sớm gặp ban lănh đạo ICP. L cũng thông báo việc chuyển Q về Thượng hải.
Sau khi gửi bưu thiếp cho Q, L rời Sài g̣n ngày 27.
Cảnh sát Pháp bắt đầu thành công trong việc truy quét, bắt bớ những phần tử cộng sản
đầu sỏ, từ đó tra khảo ra những đầu mối khác. Nội bộ phong trào bắt đầu có hiện tượng
rối loạn, nghi kỵ lẫn nhau. Thậm chí khi Nguyễn Đức Cảnh bị bắt năm 1929, đảng bộ
miền Trung đă quyết định ám sát ông này trong nhà tù để khỏi khai lung tung. Cuối tháng
3/1931, Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương lần thứ hai tại Sài g̣n. Không rơ là hội
nghị bàn về vấn đề ǵ nhưng thấy nghị quyết dũng cảm tuyên bố nhờ t́nh h́nh thế giới
thuận lợi và những cố gắng của đảng, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ. Hội nghị cũng
thừa nhận những vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại. Vai tṛ lănh đạo của đảng tại Bắc kỳ
rất yếu, do tư tưởng “tiểu tư sản” bị thừa hưởng từ Thanh niên Hội, không thâm nhập
được vào giai cấp nông dân và công nhân. Vài ngày sau hội nghị, cảnh sát bất th́nh ĺnh
ập vào ngôi nhà Ban thường vụ đang họp kín với đại diện các địa phương ở Nam bộ. Tất
cả đều bị bắt, trừ Trần Phú đúng lúc đó đang ra vườn đi vệ sinh nên đă kịp thoát ra cổng
sau. Trong tù, Ngô Đức Trí không chịu được tra tấn đă khai ra tuốt tuột. Đến ngày 17/4,
trong ban lănh đạo đảng, chỉ c̣n Trần Phú tự do.
Cùng ngày, Phú viết thư cho văn pḥng FEB, buộc tội những đảng viên ṇng cốt Bắc kỳ
và Trung kỳ, vẫn bị ảnh hưởng của giới lănh đạo cũ, chống đối lại đường lối mới, dẫn
đến thảm họa hiện tại. Tuy nhiên Phú vẫn lạc quan thông báo, hiện tại đảng đă có tới
2400 đảng viên so với 1500 hồi tháng 10; hơn 63000 nông dân đă tham gia cách mạng,
so với chỉ có 2800 mùa thu năm trước. Đảng sẽ phát triển và cần tiền, Phú kết luận.
Trước đó vài ngày, Noulens đă viết thư phê phán Q ở HK không cung cấp đầy đủ các
thông tin về t́nh h́nh ở Đông dương, chẳng hạn tại sao lănh đạo bị bắt và trong hoàn
cảnh nào? Để FEB có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học. Noulens cho rằng việc
chuyển Q về Thượng hải tại thời điểm này là không hiện thực và cần chuẩn bị kỹ lưỡng
hơn nữa. Ngày 20/4, Q viết cho Ban thường vụ ở Sài g̣n, chuyển tải những yêu cầu của
www.langven.com
62
Noulens. Ngày 24/4 Q viết cho Phú, kêu ca về vai tṛ của ḿnh chẳng khác ǵ “hộp thư”,
và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Trong mọi trường hợp Q nhấn mạnh vai tṛ của việc bảo
đảm thông tin đầy đủ. Nhưng Phú không bao giờ nhận được những bức thư này. Ngày
18/4 Phú bị bắt. Mấy tháng sau, Phú chết trong tù. Có nguồn tin nói là do lao phổi, nguồn
khác lại cho rằng do tra tấn. Ngô Đức Trí và Nguyễn Trọng Nghĩa đang ngồi tù. Nguyễn
Phong Sắc bị hành h́nh trong tháng 4. Ban lănh đạo đảng trong Đông dương hoàn toàn bị
tan ră.
Theo báo cáo của Surête, cuối mùa xuân năm 1931, hơn 2000 người đă bị hành h́nh,
51000 thành viên của phong trào bị bắt. Thêm vào đó là hạn hán trong các tỉnh miền
Trung dẫn đến mất mùa. Hơn 90% dân Nam đàn, Nghệ an có nguy cơ chết đói. Ngay cả
những người ôn ḥa như Bùi Quang Chiêu cũng phải viết trên tờ La Tribune
Indochinoise: miền Trung đang yên tĩnh, nhưng đó là sự im lặng của chết chóc.
Ngày 12/5/1931, Noulens gửi cho Q bản đánh giá có tính phê phán t́nh h́nh Đông
dương. Noulens phê phán lănh đạo đảng đă không tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ dẫn
của QTCS. Đặc biệt là chủ nghĩa “anh hùng quá khích”, nổi dậy vội vă, bắn cảnh sát hay
những hành động khủng bộ khác đă làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào. Họp
hành th́ dài ḍng và thoải mái, không có những biện pháp bảo mật. Thiếu những biện
pháp giáo dục và tổ chức quần chúng. Cuối cùng Noulens hứa sẽ báo cáo t́nh h́nh Đông
dương cho phong trào cách mạng thế giới và dặn “Tìm mọi cách viết cho chúng tôi về
hoạt động, thành tích và thất bại của các bạn”
Trong lúc chờ đợi phân công công tác mới, Q sống trong một căn hộ nhỏ ở bán đảo Cửu
long và sa vào quan hệ t́nh ái với Nguyễn Thị Minh Khai. Cũng như Q, Duy (tên hoạt
động của NTMK) là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Cô sinhnăm 1910 tại một gia đ́nh
danh giá ở Hà đông. Ông nội Duy là một quan chức triều đ́nh ở Bắc giang, đă đậu đến
Phó bảng. Bố Duy, ông Nguyễn Văn B́nh, sau khi thi trượt, chấp nhận làm một nhân
viên hỏa xa ở Vinh năm 1907. 14 tuổi, khi vào trường trung học, Duy được Trần Phú
truyền bá những tư tưởng cách mạng. Năng nổ và xinh xắn, cô lập tức được Q chú ư ngay
khi đến Hong kong.
Không có nhiều tài liệu viết về mối t́nh Q-K và cũng không rơ họ có cưới nhau chính
thức hay không? Cuộc hôn nhân của Q với Tăng Tuyết Minh coi như tan vỡ sau khi Q bỏ
trốn năm 1927, mặc dù có một số chứng cớ cho thấy Minh đă gặp Q tại HK đầu những
năm 1930. Lâm Đức Thụ đă khai với mật thám Pháp là Minh chê Q già, và đồng ư lấyQ
chỉ v́ tiền. Trong một bức thư nhờ Thụ chuyển cho Minh, Q viết: “Mặc dù chúng ta xa
nhau va không nói ra nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn. Cho anh gửi lời hỏi thăm tới mẹ
em”. Mùa xuân năm 1931, Q xin phép văn pḥng FEB được cưới NTMK. Noulens trả lời
phải báo trước cho ông ta hai tháng trước khi làm đám cưới. Không may, ngay sau đó
Khai bị cảnh sát HK bắt v́ nghi ngờ hoạt động chống phá. Nhờ tự khai là công dân TQ
dưới cái tên Trần Thái Lan, Khai bị di lư về Quảng đông, tống giam vài tháng rồi được
thả ra v́ thiếu chứng cớ. Khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, Q viết thư cho Noulens thông
báo vắn tắt một đồng chí trong đội liên lạc bị bắt. Sau đó lại nhắc lại đề nghị được chuyển
công tác.
Cùng thời điểm, Lefranc vẫn tiếp tục chuyến đi của ḿnh đến Singapore để tiếp xúc và
thu nhập thông tin với các thành viên của đảng cộng sản Malayan -MCP. Cả Q lẫn
Noulens đều đang rất cần những thông tin này. Do được Q báo trước, một lănh đạo của
MCP là Phú Đại Thanh, chiến hữu của Q khi thành lập đảng ở Xiêm, đă hẹn gặp
Lefrance tại Collier’s Quay. Cảnh sát Anh đă theo dơi Lefranc từ lâu và mất dấu ông này
www.langven.com
63
ở Ấn và Xrilanca. Lần này th́ chúng gặp may. Phú đang bị cảnh sát bám sát v́ quan hệ
với một đảng viên người Indonexia Tan Malaka. Khi được biết là Phú sẽ gặp một điệp
viên từ châu Âu sang có tên là Lefranc, cảnh sát nghi ngờ ngay đó chính là Joseph
Ducroux, đă được London báo từ trước. Sau khi bắt giữ cả hai, cảnh sát đă lục soát pḥng
ngủ và thu tất cả các giấy tờ của Lefranc, trong đó có cả bưu thiếp của Q (dưới tên T.V.
Wong) và Noulens. Lefranc và đồng phạm bị xét xử và tống giam tại Sing, c̣n thông tin
về Q và Noulens ngay lập tức được báo về Thượng hải và Hong kong.
2:00 giờ sáng ngày 6/6, cảnh sát HK ập vào một căn hộ trên bán đảo Cửu long, bắt đi trên
tầng 2 một người đàn ông có tên là Tống và một phụ nữ trẻ tự xưng là cháu của ông ta và
có tên là Lư Sâm. Dựa trên những tài liệu, truyền đơn thu được, cảnh sát đă xâc định đó
chính là điệp vụ của QTCS Nguyễn Ái Quốc, c̣n người phụ nữ là Lư ưng Thuận, vợ của
Hồ Tùng Mậu.
Cuộc sống phút chốc bị đảo lộn. Mọi quan hệ với trong nước bị cắt đứt. Đe dọa nhăn tiền
là bị dẫn độ cho Pháp và triều đ́nh Annam. Tương lai vô cùng bất định!
www.langven.com
64
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro