ho bieu chanh 3
Tại Tôi
Đoạn thứ nhứt
I
Sớm mai bà Cả Kim ngồi tại bộ ván cẩm lai lót dựa cửa sổ mà uống trà.
Con Tý, là đứa tớ gái của bà, hai tay cầm cây chổi cứ lum khum quét nhà, nó quét bụi bay ngang qua mấy ánh mặt trời dọi vô kẹt cửa coi như mấy lằn khói chứa trăm ngàn vi trùng nhảy múa tưng bừng.
Còn chú Hưng, là đứa tớ trai, mặc có cái quần ngắn, ở trần đưa lưng đen cháy, chú ở ngoài vườn chú tát nước dưới mương lên đám trầu trồng bên trái nhà mà tưới, tiếng nước dội lên lá trầu nghe ào ào.
Tuy tôi tớ trong nhà ra ngoài vườn làm nhộn nhịp như vậy, mà bà Cả tay bưng chén nước trà hớp mà uống, mắt ngó sững ra ngoài sân, bà không để ý đến con quét nhà với chú tưới trầu, mà bà cũng không thèm nói chuyện với Hữu Nhơn là cháu ngoại của bà, mới lên năm tuổi, đứng xẩn bẩn trước mặt bà mà dở ô trầu, xây bình vôi lộn xộn.
Trí bà đương vẩn vơ cõi ngoài, thình lình tên Hứa, là lính trạm của Sở Dây thép Ô Môn, ngừng xe máy ngoài cửa ngõ, dựng cái xe dựa cánh cửa, rồi xăm xăm đi vô sân. Bà thấy mà bà tưởng lính trạm đến nói chuyện chi đó với rể của bà, là xã trưởng Trần Hữu Nghĩa, bởi vậy bà cũng không để ý đến.
Tên Hứa bước lên thềm, tay ngả nón, tay móc túi, miệng nói: "Thưa bà, có dây thép gấp đánh lại cho bà đây".
Bây giờ bà Cả mới định tâm lại mà hỏi:
- Dây thép của ai đó vậy?
- Thưa nghe ông Chủ sự nói dây thép của ông Đốc học đánh về cho bà.
- Ý, vậy hay sao! không biết nó đánh dây thép nói giống gì vậy kìa.
- Ông Đốc học đánh dây thép cho bà hay rằng ông về tới, chớ chẳng có việc chi quan hệ.
- À, vậy hả! Làm tôi tưởng có việc gì tôi hết hồn.
Tên Hứa liền để một cái bao giấy màu xanh trên ô trầu, trước mặt bà Cả.
Bà Cả hớn hở hỏi nữa:
- Mỗi lần có thơ hay dây thép tôi thường thấy trạm làng Thới An đi phát mà, sao bữa nay em lại đem dây thép?
-Thưa phải. Ở ngoài Rạch Gốc đây thuộc về làng, nên thơ từ thuộc về làng phát. Song ông Chủ sự thấy dây thép gấp, nếu để chờ tới trưa mà gởi theo trạm làng thì sợ trễ, nên ông sai tôi đem liền ra cho bà.
- Ông chủ sự dây thép tử tế quá. Em về nói qua cám ơn Chủ sự nghe.
- Dạ, thưa bà tôi về.
- Ừ, qua cũng cám ơn em lắm.
Tên Hứa vừa bước ra khỏi cửa, thì Hữu Nhơn thò tay lấy dây thép liền. Bà Cả lật đật giựt lại và nói: "Ý! đừng có lấy con. Dây thép của cậu ba con đánh về đó đa. Con vô buồng coi như cha con thức dậy rồi thì kêu ra đây coi giùm dây thép cho bà ngoại một chút. Đi đi con, dễ biểu rồi bà ngoại cưng".
Hữu Nhơn nói giọng chùng chừng:
- Con đi kêu cha rồi ngoại cho con giống gì?
- Con muốn giống gì ngoại cũng cho hết.
- Ngoại biểu chị Tý bồng con vô chợ chơi nghe hôn.
- Ừ, chiều mát rồi ngoại cho đi.
Hữu Nhơn mừng nên đâm đầu chạy vô buồng.
Cô Phụng là con gái thứ hai của bà Cả, mẹ của Hữu Nhơn, ở nhà sau đi lên, đầu tóc láng nhuốt, vừa gặp con thì cản lại nói: "Đừng có chạy con, chạy té chết". Hữu Nhơn cười rồi gỡ tay mẹ mà chạy vô buồng.
Cô Phụng ra trước thấy bà Cả ngồi có một mình thì hỏi:
- Nghe má nói chuyện với trên này, mà sao không có ai hết vậy?
- Ờ, có lính trạm của ông Chủ sự dây thép sai đem dây thép cho má, chớ có ai đâu.
- Dây thép gì?
- Dây thép của thằng Ba đánh nói nó về. Dây thép đây, con coi thằng Xã có thức dậy thì biểu nó coi thử coi thằng Ba nói về mà chừng nào về tới.
Bà lấy dây thép trao cho con. Cô Phụng cầm đi vô buồng một chút, thì Trần Hữu Nghĩa ra, vì ngủ mới dậy, nên mặt mài còn bí sị, bộ đồ hàng trắng bận trong mình nhàu nhè hết. Hữu Nghĩa đứng mở dây thép ra mà coi, vợ con đứng một bên. Chàng coi rồi nói rằng: "Cậu Ba nói cậu về tới Sài Gòn rồi, buổi sớm mai cậu sẽ tới nhà. Dây thép đánh tại Sài Gòn hồi 6 giờ chiều hôm qua. Vậy thì nội buổi sớm mai nầy cậu sẽ về tới".
Bà Cả têm trầu mà ăn, bộ vui vẻ lắm. Bà nói: "Sớm mai, nó làm sao mà về tới được. Thường thấy họ đi Sài Gòn họ về xe đò, quá 12 giờ trưa họ về mới tới".
Hữu Nghĩa nói: "Thưa phải, xe thơ 10 giờ rưỡi xuống mới tới Cần Thơ. Như cậu Ba về tới đó, cậu mướn xe Location mà về liền, không chờ xe đò, thì chừng 11 giờ cậu về tới nhà được".
Bà Cả suy nghĩ rồi nói: "Vậy thì tới Sài Gòn nó mướn phứt một chiếc xe hơi nó về cho mau".
Hữu Nghĩa trở vô trong mà rửa mặt.
Cô Phụng dắt con lại ngồi trên ván mà nói rằng:
- Má tưởng mướn xe hơi trên Sài Gòn mà về dưới Ô Môn rẻ lắm hay sao? Tốn ít nào cũng 25 tới 30 đồng bạc.
- Tốn bao nhiêu thì tốn chớ. Con Thình nó đi chợ rồi hay chưa?
- Chị đi chợ hồi tảng sáng, đâu có để tới bây giờ mà hỏi.
- Thôi, con tiếp đi vô chợ mua thêm thịt cá đặng nấu nướng cho nó về ăn. Để má sai bầy trẻ đi mời anh Chánh bái với cậu Hội đồng vô ăn cơm chơi mà mừng cháu. Nó ở ngoài Bắc Việt hơn một năm nay, nó ăn uống cực khổ, chắc nó thèm đồ trong mình lắm. Con bận áo mà đi chợ đi con. Con mua đồ thêm đặng cho con Thình nó bưng về luôn thể.
Cô Phụng trở vô buồng đặng thay đồ đi chợ, mà sắc mặt cô không vui.
Hữu Nghĩa rửa mặt rồi ra ngồi tại ghế giữa mà hút thuốc, Hữu Nhơn xẩn bẩn đứng một bên.
Bà Cả vô nhà trong biểu con Tý nấu nước sôi rồi bắt một con vịt tơ cho thiệt mập mà làm thịt. Bà lại kêu chú Hưng mà sai đi mời ông Chánh bái Thành là anh chú bác với ông Cả và mời thầy Hội đồng Quyền là anh em ruột của bà. Bà dặn chú Hưng: "Mầy đi mời thì nói lát nữa đây có cậu Ba Đốc học về tới, nên mời hai ông vô ăn cơm nói chuyện chơi. Nhớ nói cho rành như vậy".
Bà Cả Kim góa chồng hơn mười năm rồi, bà làm chủ một sự nghiệp lớn của chồng để lại, mỗi năm huê lợi ruộng bà thâu góp trên 20 ngàn giạ lúa. Bà chỉ có 2 người con: Con gái lớn là Cô Phụng năm nay 28 tuổi, tuy có chồng song cũng ở chung với bà, con trai nhỏ là Lý Như Thạch, năm nay 24 tuổi, học trường Cao đẳng sư phạm ngoài Hà Nội, năm ngoái thi đậu rồi Nhà nước cấp bằng cho làm giáo sư tại Bắc Việt, bà thương nhớ con, lại nghĩ nhà giàu lớn, dầu con không làm việc cũng không đói rách mà lo, nên bà viết thơ biểu con xin đổi về Nam Việt, như xin đổi không được thì xin từ chức đặng về cưới vợ rồi ở nhà cai quản ruộng vườn. Như Thạch về đó là vì vưng lời mẹ, nên xin từ chức giáo sư mà về cho mẹ vui lòng.
Bà Cả tin con về thì bà hớn hở trong lòng, nên cứ đi lên đi xuống nhà sau hoài, bà ngồi không yên chỗ. Còn Hữu Nghĩa thì cứ giỡn với con như hàng ngày, không thấy chàng lộ sắc vui hay là buồn chút nào hết.
Ông Chánh bái Thành ở gần, nên được tin mời thì ông tới trước. Tuổi vừa quá 50, tóc đã bạc hoa râm, mà răng còn chắc, sức còn mạnh, ông mặc một cái áo xuyến đen dài, vai vắt khăn bàn lông, chơn mang giày hàm ếch. Ông vừa ngồi thì liền hỏi bà Cả:
- Thằng Ba nó về tới hồi nào?
- Nó chưa về tới. Nó đánh dây thép cho hay sớm mơi nầy nó tới mà chưa chắc giờ nào.
- Bất nhân dữ hôn! Vậy mà thằng Hưng nó nói ấp úng, tôi tưởng thằng Ba đã về tới rồi chớ.
- Chắc 11 hoặc 12 giờ nó về tới. Tôi sai đi mời anh lại trước đặng nói chuyện chơi.
- Lúa của thiếm nó đã thâu góp xong hết hay chưa?
- Thằng Xã nó coi thâu góp xong hết rồi.
- Năm nay trong rạch Ba Rích coi thất bộn, vậy mà sở ruộng của thiếm nó ở trong đó góp lúa mướn có đủ hay không.
- Sở đó nó góp thiếu chút đỉnh. Năm nay có sở đó góp thiếu, còn mấy sở ở Thái An, Phước Thới, Thới Thạch, Ô Môn, Định Môn, nó góp lúa đủ hết.
- Lúa ruộng của thiếm nó trên 20 ngàn giạ, lại năm nay lúa coi mòi có giá, nên dầu có góp thiếu chút đỉnh củng chẳng thiệt gì lắm.
Ông Chánh bái Thành thấy Hữu Nghĩa lại đứng rót nước trà trước mặt ông thì ông hỏi:
- Cháu giao mộc cho xã mới xong rồi?
- Thưa, xong rồi?.
- Nghe nói Hội tề muốn cử cháu làm chức hương thân mà cháu chạy phải hôn?
- Thưa phải, cháu làm xã trưởng tới 2 năm, mệt mỏi quá nên Cả Chủ cử cháu lên hương thân cháu chạy. Nhà đơn chiếc, trong, ngoài gì cũng một mình cháu. Cháu giúp việc làng 2 năm nghĩ cũng đủ rồi. Để cháu ở ngoài đặng thong thả mà lo việc nhà.
- Có thằng Ba nó về đây, thì nó chia lo với cháu, chắc cháu khỏe được một chút.
Bà Cả cười và đáp thế cho con rể:
- Thằng Ba từ nhỏ chí lớn nó mắc đi học, có biết tới việc ruộng đất gì đâu. Dầu nó có về ở nhà, bất quá nó coi sóc trong nhà còn việc cho mướn ruộng hay là góp lúa thì tôi cũng phải giao cho vợ chồng thằng Xã, chớ giao cho nó sao được.
- Nó học giỏi lại lớn rồi, có việc gì mà nó làm không được. Hồi mới tự nhiên nó bợ ngợ, mà làm chừng một hai năm thì nó quen chớ gì.
- Ý! Anh không biết tánh ý nó. Thằng kỳ cục lắm, hễ ai năn nỉ nó thì nó xiêu lòng liền. Giao cho nó đi góp lúa, chẳng khỏi tá điền họ giựt họ ăn hết.
- Thiếm nói chơi, chớ giựt sao được. Thằng Ba nó hay thương người ta, hễ thấy ai năn nỉ thì nó xiêu lòng, ấy là vì nó có lòng nhơn. Mà nó học giỏi, có phải nó khờ dại gì hay sao mà giựt của nó được.
- Nó có tánh hễ thấy nhà nghèo thì nó thương. Ở đời nầy mà đụng đâu thương đó, họ lột da chớ phải chơi sao.
Đang nói chuyện tới đó kế thầy Hội đồng Quyền bước vô. Thầy bận áo dài, mang giày tây, đội nón trắng, vóc cao lớn, mép có râu, nên tướng mạo coi mạnh mẽ lắm.
Bà Cả, ông Chánh bái với Hữu Nghĩa đều chào mừng. Thầy Hội đồng ngồi tại ghế giữa với ông Chánh bái rồi nói: "Chắc thằng Ba nó xin từ chức được rồi nên nó mới về đó".
Bà Cả gật đầu mà đáp:
- Ừ, nó xin thôi được rồi hôm tháng trước lận mà. Hôm trước nó có gởi thơ cho tôi hay, nên tôi biểu thằng Xã mua mandat gởi cho nó 200 đồng bạc đặng nó về đó.
- Nó về tới Sài Gòn rồi nó đánh dây thép nói sớm mai nầy nó về tới nhà phải hôn?
- Ừ.
- Chắc nó mướn xe Location nó về.
- Không biết nó mướn xe mà về hay là nó đi xe đò. Tánh nó lôi thôi lắm, sợ nó hà tiện đi xe đò nó về trễ quá.
- Nếu đánh dây thép nói sớm mai về tới thì chắc không phải đi xe đò đâu. Thôi nó về thì chị lo cưới vợ phứt cho nó đặng nó coi sóc việc nhà cho chị.
- Để thủng thẳng mà kiếm chỗ cho xứng đáng chớ hối tốc quá sao được.
- Chị dắt nó đi coi con thầy Cai, như nó đành thì cưới liền cho nó đi.
- Nghe nói con thầy Cai nước da không được trắng sợ nó chê chớ.
- Ối! Cưới vợ mà cần gì đen trắng, nhơn nghĩa mới quí, chớ nước da mà quí gì. Nhà thầy Cai là nhà có đức, mà lại sang trọng nữa. Chị làm sui chỗ đó thì xứng đáng biết chừng nào.
Ông Chánh bái cười mà nói: "Nội đây bà con mình mà thôi, nên mình nói lén mà nghe: thầy Cai làm coi rầm rộ như vậy chớ không giàu. Tôi nghe nói ông Chủ Hinh bên Bò Hút ổng có hai đứa con gái, mà ổng giàu lớn lắm. Thiếm Cả hỏi tuổi rồi đi coi như được thì làm sui chỗ đó, sau thằng Ba nó mới nhờ nhiều".
Thầy Hội đồng vuốt râu mép và trợn mắt ngó ông Chánh bái mà nói:
- Gia tài của chị Cả đây, thằng Ba nó ăn cả đời cũng không hết, cần gì phải kiếm vợ giàu. Nó chọn chỗ rân rát, có nhơn đức, thiên hạ tùng phục, thì tốt hơn.
- Mình giàu mà kiếm thế làm giàu thêm nữa thì càng quí, chớ có hại gì.
- Phải. Giàu thêm chừng nào càng quí chừng nấy. Nhưng mà phải biết nhơn nghĩa, phải được lòng dân tùng phục thì mới sang, chớ giàu nhiều mà thiên hạ khinh thị, thì giàu có ích chi đâu.
- Ối, đời nầy hễ có tiền nhiều thì quí, ai cũng phải kiêng nể hết thảy. Làm ông gì cũng không bằng "ông tiền".
Bà Cả thấy hai người cãi với nhau bà bèn xen vô mà nói đặng hết cãi nữa: "Hai người nói nghe phải hết. Giàu thì quí mà sang cũng quí, bởi vậy hổm nay tôi tính muốn kiếm chỗ giàu mà cũng sang nữa đặng làm sui, mà tôi kiếm chưa ra. Để thủng thẳng tôi dọ hỏi thêm nữa coi".
Thầy Hội đồng nói: "Nếu được như vậy thì quí biết chừng nào. Ngặt tôi sợ mình muốn đặng cả về chì về chài thì khó lắm chớ".
Cô Phụng đi chợ về tới, vì đi ngoài nắng nên mặt đổ mồ hôi, má ửng đỏ au. Cô chào bác với cậu, rồi đi thẳng vô trong mà thay áo rửa mặt.
Thầy Hội đồng ngó theo cháu mà nói: "Chị Cả hà tiện quá, không dám mua một cái xe hơi để mà đi".
Bà Cả đáp:
- Tôi ít hay đi, sắm xe hơi tốn hao chớ có ích gì.
- Tại không có xe nên chị không đi được. Nếu có sẵn xe, tự nhiên chị đi chơi chớ gì. Sắm một cái xe hơi để đi Cần Thơ, hoặc chiều chiều đi vô chợ Ô Môn mà chơi, tốn bao nhiêu đó mà sợ. Chị thấy hôn, tại không có xe nên con Hai đi chợ về coi nó mệt nhừ.
- Thôi, để thằng Thạch về rồi tôi sẽ mua một cái xe.
- Nhà chị phải có một cái xe hơi coi mới được. Họ mới có năm bảy ngàn giạ lúa mà họ còn sắm xe rần rần, huống chi là chị huê lợi trên 20 ngàn, mà không dám sắm. Phải sắm xe hơi đi làm sui mới dễ coi. Đời nầy họ ưa lòe loẹt bề ngoài, mình phải làm theo thiên hạ, mới khỏi họ khi.
- Sắm thì sắm chớ sao.
Hữu Nghĩa ngồi tại bàn viết, nãy giờ không nói chuyện, chừng nghe mẹ vợ chịu mua xe, thì chàng day lại mà nói: "Mấy năm nay con muốn thưa với má mua một cái xe để má đi chơi cho thong thả, mà con không dám nói. Má mua xe để đi Sài Gòn chơi với người ta, tốn hao gì lắm đâu mà lo. Sắm xe rồi con tập cầm tay bánh con đi với má khỏi mướn sớp-phơ.
Bà Cả cười mà đáp: "Để thằng Thạch về đây rồi sẽ hay".
Ông Chánh bái hỏi bà Cả: "Thằng Ba nó thôi làm Đốc học, nó về nhà ở vậy mà thiếm có tính cho hai vợ chồng thằng Xã ra ở riêng, hay là cũng để ở chung nữa...?"
Bà Cả ngồi têm trầu, bà suy nghĩ một chút rồi mới đáp:
- Việc đó tôi chưa tính. Nhà rộng minh mông, nó ở chung hết cũng được.
- Thiếm nó có hai đứa con, để ở chung cũng được. Nhưng mà con một ngày một lớn, tôi tưởng cũng nên sắm nhà cửa cho mỗi đứa một ngôi riêng thì tốt hơn.
- Tôi có một miếng đất ngoài rạch Bà Sự, lại có một miếng nữa trong rạch Cái Tắc. Hai miếng đất đó tốt lắm, rộng lớn, cao ráo mà lại dựa lộ nữa. Như con nó muốn ra riêng và muốn ở miếng đất nào thì tôi cất nhà cho nó ở, có khó gì.
- Cuộc đất chỗ nhà đây cũng còn rộng, đốn bớt cây rồi cất thêm một cái nhà phía mặt trời lặn đây cũng được.
- Ý! Không được đâu. Cất thêm nữa rồi chật hẹp quá tôi chịu không nổi.
Cô Phụng ở trong bước ra nói: "Thằng Ba nó về, má cưới vợ cho nó rồi má cất nhà riêng cho nó ở. Con ở nhà nầy, chớ con không chịu đi ở chỗ nào khác".
Thầy Hội đồng Quyền châu mày ngó cô Phụng mà nói:
- Nhà nầy là nhà tổ phụ để lại, thế nào sau cũng phải lập bàn thờ. Thằng Ba là trưởng nam, tự nhiên nó phải ở đây, chớ đi ở chỗ khác coi sao được.
- Cháu ở đây từ nhỏ chí lớn đã quen rồi, cháu không chịu đi ở chỗ khác.
- Cháu không chịu cũng không được. Con gái mà giành ở nhà thờ nỗi gì.
Cô Phụng nghe mấy lời ấy thì xụ mặt, lộ sắc bất bình, cô bước lại đứng trước mặt mẹ têm trầu mà ăn.
Bà Cả cười và nói: "Con nhỏ nầy nó có chịu rời tôi ra đâu. Không phải nó giành ở nhà thờ, tại nó không muốn xa tôi chớ". Bà lại ngó cô Phụng và nói: "Con xuống bếp coi bầy trẻ nấu nướng riết đi, nghe hôn con. Chờ tới 11 giờ, như nó về chưa tới, thì cũng dọn cho bác và cậu con ăn trước, chớ nếu trễ quá sợ đói bụng".
Cô Phụng đi xuống nhà bếp.
Thầy Hội đồng Quyền day qua ngó Hữu Nghĩa mà nói:
- Xã, cháu nghĩ lời cậu nói đó nhằm chánh lý hay không, vậy mà coi bộ vợ cháu nó phiền cậu chớ.
- Thưa, lời cậu nói đó đúng đắn lắm chớ, con gái mà ở nhà thờ sao được. Vợ cháu nó sợ xa má cháu nên nó cãi đó.
- Như sợ xa thì kiếm mua thêm một miếng đất gần đây mà ở. Như sợ ở nhà khác không tốt bằng nhà nầy thì thưa với chị Cả cất cho một cái nhà khác cũng đẹp như vậy, chớ thằng Ba là trưởng nam mà biểu nó đi chỗ khác mà ở thì trái đạo quá.
- Thưa, cậu nói phải lắm, như muốn ở gần thì có miếng đất của biện Hiệu sát một bên đây. Má cháu biểu biện Hiệu để miếng đất đó lại cho cháu đặng cất nhà cho vợ chồng cháu ở cũng được. Nếu biện Hiệu dục dặc bất quá mình trả giá mắc một chút.
- Ừ, làm như vậy thì xong quá.
Trong nhà đương nói chuyện bỗng nghe có tiếng xe ở phía trong chợ chạy ra. Ai nấy đều ngó chừng ngoài lộ. Cái xe hơi chạy chậm chậm rồi ngừng ngay cửa ngõ.
Thầy Hội đồng Quyền nói: "Thằng Ba nó về tới kia. Chắc nó mướn xe trên Sài Gòn về, nên nó mới tới đây sớm chớ gì". Thầy vừa nói vừa bước ra cửa. Ông Chánh bái Thành với Hữu Nghĩa cũng ra đứng mà ngó. Bà Cả với cô Phụng cũng tiếp ra nữa, lại có Hữu Nhơn chạy theo níu áo bà ngoại.
Sớp-phơ mở cửa xe. Như Thạch bước ra, trong xe lại còn có một người đàn bà mặc áo xanh dương cũng sửa soạn bước ra. Như Thạch đợi người đàn bà xuống xe rồi, hai người mới kề vai nhau mà đi vô sân. Người đàn bà ấy hình dung tuấn tú, tướng đi dịu dàng, gương mặt sáng rỡ.
Chừng hai ngưòi vô gần tới thềm nhà thì thầy Hội đồng Quyền hỏi:
- Cháu mướn xe Location trên Sài Gòn cháu về hay sao, nên tới sớm dữ vậy?
Như Thạch đáp: "Thưa, anh huyện Khoan là bạn học của cháu hồi trước, ảnh cho xe nhà của ảnh đưa cháu về".
Nãy giờ bà Cả đứng ngó cô bận áo xanh trân trân, chừng Như Thạch dắt cô ấy bước vô tới hàng ba nhà, chàng chưa kịp nói tiếng chi hết, thì bà hỏi rằng:
- Cô nầy là ai?
Như Thạch với cô nọ cúi đầu chào bà Cả, rồi Như Thạch đáp: "Thưa má, người nầy là vợ của con, tên Nhung, người Bắc Việt".
Bà Cả biến sắc, mà những người đứng đó ai nấy cũng đều ngẩn ngơ hết thảy.
Bà Cả liền xây lưng trở vô, Như Thạch chỉ má nói nhỏ với cô Nhung: "Má đó". Chàng lại day qua mấy người kia mà nói tiếp: "Còn đây là bác Hai, đây là cậu Năm, đây nữa là anh Hai với chị Hai mà qua thường nói với em đó".
Cô Nhung chấp tay cúi đầu chào mỗi người, cô có cái dáng yểu điệu cái vóc thanh nhã lại thêm gò má ửng hồng hai môi như thoa son đỏ, chơn mày cong vòng lại nhỏ rứt, nhưng mà cô chào thì ai nấy đều làm lơ, không có một tiếng ừ hử chi hết, rồi lại thủng thẳng rút đi vô nhà.
Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ trước sân thì kêu mà biểu ra xe vác cái rương và va ly đem vô nhà. Chàng lại kêu sơp-phơ vô rồi móc túi lấy ra hai tấm giấy bạc mà nói: "Xăng còn đủ về phải hôn? Thôi tôi cho anh 10 đồng bạc đây đặng anh qua chợ ăn cơm và về dọc đường trả tiền đò. Anh về thưa lại giùm với ông Huyện, bà Huyện rằng tôi cảm ơn hai ông bà lung lắm nghe".
Sớp-phơ lấy tiền rồi xá mà ra xe.
Như Thạch dắt cô Nhung vô nhà, thấy mẹ ngồi tại bộ ván dựa cửa sổ thì bước lại nói rằng: 'Thưa má, con cưới vợ mà con không thưa cho má hay trước thiệt con có lỗi với má nhiều lắm. Bây giờ má muốn hành phạt con nặng nề cách nào con cũng cúi đầu mà vưng chịu nhưng nếu mà má biết rõ tâm sự của hai con thì chắc má sẽ động lòng mà tha thứ. Để thủng thẳng rồi con sẽ thuật lại hết công chuyện của con cho má nghe".
Bà Cả khoát tay mà đáp: "Thôi, thôi, đừng có nói gì hết tôi không muốn nghe đâu".
Như Thạch tuy thấy mẹ giận, song chàng không ngã lòng cứ nói tiếp: "Thưa má, con có lỗi với má nên má giận, bởi vậy dầu má quở trách thế nào con cũng vưng chịu hết. Còn vợ con có lỗi thương con mà thôi, cái lỗi ấy cũng tại con mà ra, vậy con cúi xin má đừng giận lây tới nó mà tội nghiệp, má vui lòng để cho nó lạy má làm lễ ra mắt mẹ chồng".
Bà Cả xây lưng giẫy giụa đưng đửng trên ván và la lớn rằng: "Tôi không phải mẹ chồng của ai hết. Thôi đi, thôi đi, đừng có nhiều chuyện. Tôi không biết mặt nào hết. Ông Cả ơi, sao ông không sống đặng ông thấy công chuyện nhà, ông chết sớm như vậy hử!"
Như Thạch đứng ngó cô Nhung, chàng lắc đầu rưng rưng nước mắt.
Cô Nhung đợi bà Cả êm rồi, cô mới nhỏ nhẹ nói rằng: "Thưa má, phận con là gái, mà con lấy chồng, con không chờ mạng lịnh cha mẹ chồng mang trầu cau đến cưới, thì tánh tình con coi hèn mạt lắm. Nhưng vì hoàn cảnh áp bức, má ở xa xôi không thế nào ra đến Hà Nội mà chủ trương lễ cưới, tại con yêu anh Như Thạch không thể nào con lìa ảnh được, nên con chẳng quản tiếng thị phi, con đánh bạo theo ảnh vào đây con lạy má xin má tha thứ cho con". Cô Nhung nói chưa dứt lời thì cô đã ngồi bẹp dưới gạch cúi đầu mà lạy.
Bà Cả hứ một tiếng, rồi bà vội vàng đứng dậy mang giày ngoe ngoảy đi vô buồng.
Cô Nhung đứng dậy liếc mắt ngó chồng, tỏ ý muốn hỏi coi còn phải làm cách nào nữa đặng cô làm cho mẹ chồng hết giận.
Như Thạch bước lại chỗ ông Chánh bái và thầy Hội đồng ngồi và nói rằng: "Cháu xin bác với cậu làm ơn khuyên giải giùm cho má cháu hết giận. Việc vợ chồng cháu đã lỡ rồi, nếu má cháu kháng cự thì tội nghiệp cho vợ cháu".
Ông Chánh bái hỏi:
- Cháu có vợ hồi nào ở đâu vậy? Sao cháu không cho thiếm Cả hay?
- Thưa bác, hai cháu vì đồng tâm đồng chí, thương yêu nhau, không thể rời nhau được, nên mới kết nghĩa vợ chồng gần được một năm rồi. Khi cháu cưới vợ, cháu không dám cho má cháu hay, là vì cháu sợ má cháu ngăn cản, rồi trọn đời phải chịu đau đớn về ái tình, bởi vậy cháu tính lén cưới rồi sẽ dắt về lạy mà thú tội.
- Cháu tính lếu quá! Muốn cưới vợ thì phải thưa cho cha mẹ hay trước chớ! Vợ của cháu là con của ai ở ngoải vậy?
- Thưa, vợ cháu là con của một ông Phán Sở Bưu điện ngoài Hà Nội, nó làm nữ giáo sư trong trường con gái.
- Chà! Làm "cô giáo" hay sao? Cháu làm Đốc học vợ cháu làm cô giáo thì phải quá. Ngặt mới hồi nãy đây, thiếm Cả bàn tính việc cưới vợ cho cháu. Tình cờ cháu về, cháu lại dắt vợ theo, cháu làm trái ngược với việc thiếm đương tính, bởi vậy thiếm giận quá, bây giờ biết làm sao khuyên giải cho được.
- Má cháu tính cưới vợ cho cháu. Mà bây giờ cháu đã có vợ sẵn rồi, thì má cháu khỏi thất công tính nữa chớ có hại gì đâu.
- Cháu nói như vậy sao được. Chớ chi cháu về trước một mình, thủng thẳng cháu òn ỷ mà thưa thiệt việc của cháu cho thiếm Cả hay. Thiếm có giận, thì bà con phụ vô mà năn nỉ thiếm, chừng thiếm hết giận rồi cháu sẽ đem vợ cháu về, thì tiện hơn.
- Thưa, hồi còn ở ngoài Bắc, thì vợ cháu cũng có tính như vậy, bởi vì tánh cháu ngay thật, cháu không chịu làm việc mờ ám dối trá, lại cháu thương vợ cháu lắm, cháu không thế gì mà bỏ vợ cháu ở ngoải được, nên cháu mới dắt về một lượt.
Nãy giờ thầy Hội đồng ngồi lóng tai mà nghe, bây giờ thầy mới nói: "Việc cháu làm đó thì trái với gia pháp thiệt. Nhưng mà đã lỡ rồi, thì chèo xuôi cho mát mái, giận giũi rầy rà thiên hạ chê cười chớ có ích gì. Thôi, cháu dắt con Ba vô nhà trong cho nó nghỉ, để thủng thẳng rồi cậu cắt nghĩa cho chị Cả nghe. Thằng Xã vô mời chị Cả ra đây cho cậu nói chuyện một chút, cháu".
Như Thạch nghe lời cậu, bèn dắt vợ đi vô nhà sau.
Cách một lát, bà Cả ở trong buồng bước ra, bà xách một cái ghế để ngang mặt ông Chánh bái và thầy Hội đồng mà ngồi nói rằng: "Con cái đời nay nó vậy đó. Cho nó ăn học tốn hao bạc ngàn, rồi nó dắt thứ đồ gì ở đâu về nhà đặng làm xấu hổ cho tông môn. Tôi tức quá, nó đi đâu nó đi cho khuất con mắt tôi, chớ nó ở trong nhà, ra vô tôi thấy nó tôi giận chắc tôi phải đau".
Thầy Hội đồng tằng hắng mà nói:
- Thôi, việc dĩ lỡ rồi chị giận hờn mà làm gì. Việc nhà để thủng thẳng mà tính. Chị làm tưng bừng đây thiên hạ họ đàm tiếu chớ có ích gì.
- Tôi không tính giống gì hết nếu nó muốn thuận thì nó phải đuổi con đó đi. Tôi không cầm trầu cau tôi cưới, thì tôi không nhìn nhận là dâu của tôi được, không ai được phép kêu tôi là mẹ chồng.
- Theo lời thằng Ba mới nói chuyện với hai anh em tôi đây thì con nọ cũng nhà tử tế, mà lại nó có học nữa.
- Tử tế, có học, mà sao lại theo trai.
- Theo lời nó nói, thì vợ chồng nó đồng tâm hiệp ý, thương yêu nhau lắm. Trong đạo vợ chồng có chi quý bằng thương yêu nhau.
- Kẻ Nam người Bắc mà thương yêu nỗi gì.
- Dầu Nam hay Bắc cũng là người Việt Nam hết thảy, một nòi một giống với nhau, kết vợ chồng có hại chi đâu. Vậy chớ có nhiều người đàn bà Việt Nam lấy Chà lấy Chệc, có nhiều trai Việt Nam lấy vợ đầm đó sao.
- Tôi không chịu, con của tôi thì nó phải để cho tôi lựa chọn tôi cưới vợ cho nó, chớ nó không được phép làm ngang như vậy.
- Theo lớp xưa thì phong tục gắt gao như vậy. Còn theo đời nầy mình phải rộng một chút, chớ bó buộc theo phong tục xưa quá sao được. Xin chị nghĩ lại mà coi, thằng Ba mồ côi cha sớm lắm. Chị là mẹ, chị thương nó, chị cho nó đi học, chớ chị không có thể dạy cho nó thông hiểu gia pháp của Việt Nam được. Từ nhỏ chí lớn nó ở nhà trường, nào phong hoá nào luân lý thì nó nhờ mấy cuốn sách nhờ mấy ông thầy dạy nó mà thôi. Mà sách hay là thầy cũng đều theo Tây hết thảy, tự nhiên nó phải cảm nhiễm theo phong hoá Âu Tây. Theo phong hoá Âu Tây thì về hôn nhân con trai con gái đều được tự do mà chọn bạn. Vì vậy nên tôi thấy thằng Ba nó làm trái gia pháp thì tôi buồn một chút nhưng mà tôi không nỡ trách nó.
- Nó học giống gì nó học, chớ nó là Việt Nam mà nó bỏ lễ nghĩa Việt Nam, nó làm theo Tây sao được. Tôi nhứt định không chịu, nó đem đi đâu nó đem, tôi không cho nó ở trong nhà tôi.
Như Thạch rón rén bước ra, rồi lại đứng một bên mẹ mà năn nỉ:
- Con lạy má, con xin má thương giùm phận con.
- Mầy đã không kể đến tao bây giờ mầy biểu tao thương nỗi gì. Thôi không còn mẹ con gì nữa mà nói.
- Thưa má, tình mẹ con nặng lắm, còn cái lỗi của con có một chút xíu, có lẽ nào má vì cái lỗi nhỏ mọn nầy mà má đành dứt cái tình nặng nề kia. Con xin má xét lại.
- Tao nhứt định như vậy. Nếu mầy muốn trọn đạo mẹ con, mầy phải đuổi con đó đi về xứ nó. Còn mầy đeo theo con đó thì tao không biết mẹ con gì nữa. Tao nói có trước mặt bác với cậu mầy, một người cũng như cha mầy, còn một người cũng như mẹ mầy, vậy mầy liệu lấy. Mầy muốn thế nào cũng được tao không ép.
Như Thạch đứng cúi mặt ngó dưới gạch, nước mắt chảy ròng ròng. Rất đau đớn trong lòng nên chàng thỏ thẻ nói: "Thưa má, má nói như vậy cũng như má biểu con cắt họng mà chết cho rồi. Má banh da xẻ thịt mà đẻ ra con, có lẽ nào con phụ má cho được. Còn vợ chồng con ăn ở với nhau, vợ của con nó đã có thai nghén được 3, 4 tháng rồi, con có lòng nào mà bỏ nó cho đành. Nếu má định như vậy thì con cùng đường rồi, duy có một ngả chết mới trọn đạo mẹ con, mà cũng trọn niềm vợ chồng".
Ông Chánh bái với thầy Hội đồng nghe những lời ấy thì động lòng nên liếc mắt nhìn nhau, còn bà Cả thì bà ngồi trơ trơ, không nói nữa.
Thầy Hội đồng muốn thừa lúc chị đương cảm mà khuyên giải cho dễ, nên thầy vội vã nói rằng: "Thưa chị, trước khi thằng Ba về, chị bàn tính việc cưới vợ cho nó, thì tôi đã tỏ ý muốn kiếm một chỗ vừa giàu sang đặng chị làm sui cho xứng đáng. Bổn tâm của tôi như vậy đó, chớ không phải tôi không biết lo cho cháu. Tại phần số của nó về hào vợ con thì nó định lấy, chớ không nhờ cha mẹ, nên trời mới khiến như vậy. Mà nó làm bạn với con nầy, nó cưới đủ lễ, chớ không phải cặp xách gì. Lại con nầy cũng là con nhà tử tế và vợ chồng ăn ở cùng nhau đã có thai nghén rồi nữa. Vậy tôi xin chị vuốt giận mà hỉ xả cho cháu, đặng mẹ con thuận hòa vợ chồng xum hiệp. Chị giàu lớn, chị có một đứa con trai mà thôi lại con của chị nó ăn học đúng lắm, nó đủ sức gìn giữ gia tài của chị và phụng tự ông bà. Chị chẳng cần phải giàu thêm nữa làm chi, mà tính kiếm chỗ giàu đặng cưới vợ cho nó. Thôi, chị đừng có buồn. Bắc Nam cũng vậy, giàu nghèo cũng vậy, vợ chồng thương nhau là quí hơn hết".
Bà Cả lắc đầu mà nói:
- Không thể nào tôi hết giận cho được.
- Nó trái ý chị một chút xíu, mà chị giận giống gì dữ vậy?
- Tánh tôi khó lắm. Hễ trái ý tôi thì tôi không bao giờ quên được.
- Không biết chừng nó làm trái ý chị, mà rồi may cho chị đa.
- May giống gì?
- Chị khỏi lo chọn lựa, chị khỏi làm đám hỏi, đám cưới, mà chị có dâu, lại không biết chừng dâu đó là "dâu ngọt". Ấy là may chớ sao.
- Biết sao mà cậu dám chắc là dâu ngọt?
- Mà chị cũng chưa có thử, sao chị lại chê là dâu chua? Chị phải để nó ở ít ngày đặng chị coi tánh nết nó ra thế nào, như nó hư rồi chị sẽ quở trách chớ.
Ông Chánh bái thấy ý bà Cả dịu rồi, ông mới dám xen vô mà nói: "Lời của cậu Hội đồng nói phải lắm. Thiếm nó vuốt giận: việc đã lỡ rồi, nếu thiếm có rầy rà thì xào xáo trong gia đình không tốt. Bề nào thằng Ba cũng là con trưởng nam của thiếm. Vậy thiếm hãy thương nó".
Bà Cả đứng dậy và đi lại ván ăn trầu và nói: "Con tôi sao lại không thương. Vì tôi thương nó lắm, nên nó làm việc xa xôi tôi không chịu được, tôi mới biểu nó từ chức mà về đặng mẹ con sum hiệp với nhau, cho tôi khỏi nhớ nó. Ai dè nó về, nó lại đem cái họa về đặng làm cho tôi buồn như vầy".
Thầy Hội đồng cười và nói: "Được con dâu đẹp quá, rồi ít tháng nữa đây lại có cháu nội mà bồng mà chị cho là cái họa chớ. Ba, cháu biểu vợ cháu xuống bếp phụ với con Hai riết rồi dọn cơm ăn. Trưa rồi cậu đói bụng, mà chắc anh Chánh bái cũng không no gì. Thằng Xã coi có rượu quinquina lấy đem đây uống chơi, cháu".
Như Thạch đi vô trong còn Hữu Nghĩa lại tủ rượu lấy ve quinquina và ly đem lại rót mời khách.
Thầy Hội đồng kiếm chuyện khác mà nói đặng bà Cả khuây lãng việc dâu con. Nhưng mà bà ngồi sắc mặt hầm hầm, không vui vẻ như hồi sớm mơi nữa.
Cơm dọn lên bàn, bà Cả mời khách ngồi lại, bà nói bà không đói, nên bà không ăn, bởi vậy ông Chánh bái, thầy Hội đồng ăn với Hữu Nghĩa và Như Thạch thôi.
Ăn cơm rồi khách mới từ giã về nghỉ trưa. Thầy Hội đồng kêu Như Thạch lại nói:
- Chiều mát vợ chồng cháu ra thăm cậu, nghe hôn. Dắt vợ cháu ra cho nó biết nhà.
- Dạ, để chiều rồi cháu sẽ đi thăm bà con.
- Hơn một năm rồi cháu mới về đây phải hôn?
- Dạ, 18 tháng.
- Dữ hôn! Cháu ra chơi, vườn của cậu bây giờ khác hơn hồi trước xa lắm. Quít đã có trái đều hết. Cau dừa cũng sung lắm, ra mà coi.
Như Thạch đưa khách ra tới lộ. Thầy Hội đồng nói nhỏ rằng: "Coi bộ chị Cả bớt giận rồi. Cháu cứ năn nỉ riết chắc êm. Không sao đâu mà sợ".
Như Thạch cúi đầu chào cậu với bác rồi thủng thẳng trở vô nhà.
Tại Tôi
II
Bà Cả Kim có cái danh cự phú trong làng Thới An. Tuy bà góa bụa song nhà cửa nguy nga, dãy ngang, dãy dọc, lại trong nhà bà sắm những bàn ghế, tủ, ván thứ nào cũng mắc tiền, nên thứ nào coi cũng đẹp.
Đã vậy mà bà nhờ rể của bà, là Hữu Nghĩa có tánh sạch sẽ kỹ lưỡng ngày nào cũng coi cho bạn bè quét tước trong nhà, dọn dẹp ngoài sân, bởi vậy nhà đã nguy nga lại thêm có vẻ ngộ nghĩnh nữa. Nhưng từ hôm nay dường như có một bầu không khí nặng nề bao trùm từ ngoài sân vô tới trong nhà, nên ở ngoài coi mất vẻ vui, còn vô trong lại thêm mờ mịt nữa.
Như Thạch đưa khách rồi, chàng trở vô nhà thì không thấy mẹ ngồi ngoài nữa, chỉ có một mình Hữu Nghĩa đương sắp ghế lại cho ngay hàng. Chàng bước lại hỏi nho nhỏ: "Má đi đâu, anh Hai?"
Hữu Nghĩa chỉ tay vô buồng đáp: "Má đang nằm nghỉ trong buồng".
Như Thạch le lưỡi, rồi nhón gót đi nhẹ xuống nhà sau. Chàng thấy chị đang nằm trên võng đưa con, còn vợ ngồi ghé đầu ván đằng chái không ai nói tới ai hết. Chàng bèn hỏi chị;
- Sao chị không biểu dọn cơm cho má ăn?
- Qua mới lên hỏi má thì má nói má không đói, má biểu đừng có dọn.
- Khổ quá! Má giận em đến nỗi má không chịu ăn cơm, bây giờ biết làm sao.
- Ai biết làm sao. Tại em làm cho má giận, thì em làm sao đó em làm.
- Bây giờ má còn đương giận, nếu em lên năn nỉ nữa, chắc má rầy. Chị Hai, chị làm ơn lên năn nỉ má giùm cho em.
- Ý! Ai dám. Qua xen vô rồi má giận luôn tới qua nữa a.
- Chị không thương em hay sao chị Hai?
- Sao lại không thương.
- Nếu chị thương thì chị phải hết lòng lo điều đình giùm cho vợ chồng em được an thân mới phải chớ.
- Em làm việc quá trời, qua biết làm sao điều đình cho được.
- Em biết má cưng chị lắm, chị nói giống gì má cũng nghe hết. Vậy em xin chị làm ơn khuyên giải má cho má đừng có giận nữa, thì vợ chồng em mới gần gũi với chị được.
Cô Nhung bước lại tiếp nói: "Thưa chị Hai, vì em thương chồng, nên em bỏ cha bỏ mẹ theo chồng vào đây. Từ rày dầu em sống hay thác em cũng nhờ cha mẹ chị em bên chồng. Chẳng những là xác thịt mà thôi, đến tâm hồn của em cũng thuộc về nhà họ Lý cả. Vậy em khẩn cầu chị thương giùm em, chị nói hộ cho má hết giận em, chị làm việc ấy là làm cái phước đức lớn lắm vậy".
Cô Phụng chúm chím cười rồi day mặt chỗ khác, không trả lời.
Như Thạch hỏi vợ:
- Em ăn cơm chưa?
- Thưa, em không đói.
Như Thạch day lại hỏi chị:
- Chị Hai, sao chị không biểu bầy trẻ dọn cơm cho chị ăn, đặng vợ của em nó ăn với?
- Hồi nãy qua biểu cô lên nhà trên ăn, cô không chịu lên.
- Trời đất ơi, vợ của em sao chị kêu bằng cô. Mắc mỏ chi vậy chị Hai?
- Vậy chớ ai biết kêu bằng giống gì.
- Sao lại không biết. Còn chị biểu nó lên nhà trên ngồi ăn cơm, biểu cái gì kỳ cục vậy?
- Chớ ăn dưới nhà bếp coi sao được.
Như Thạch rùn vai cười, tỏ ý không vui.
Cô Nhung ngó chồng và nói: "Em xin anh đừng bận lòng lo cho em. Bao giờ má ăn cơm thì em mới dám ăn".
Như Thạch châu mày bước ra hàng ba nhà bếp đi lên đi xuống coi bộ suy nghĩ lắm.
Cô Nhung lại đứng dựa cửa.
Cô Phụng cứ nằm trên võng đưa con, mắt nhắm lim dim.
Bạn bè người lo rửa chén, người đứng quét bếp, không ai nói chuyện chi hết, song một lát họ liếc mắt ngó cô Nhung rồi chúm chím cười, làm cô ngột ngạt khó chịu quá.
Như Thạch đi lên nhà trên một chút lại trở xuống kêu vợ biểu lấy cây dù đi thăm bà con. Cô Nhung muốn trình với chị đặng đi theo chồng, song thấy cô Phụng nhắm mắt nằm êm, chắc cô đã ngủ nên không dám nói. Lên nhà trên thì vắng hoe, Hữu Nghĩa nằm trên ván cũng ngủ nữa.
Vợ chồng Như Thạch đi rồi. Lập tức cô Phụng nhẹ nhẹ lén con đứng dậy và lên nhà trên. Cô bước vô buồng dở mùng kêu mẹ và nói: "Má ăn cơm, nghe hôn má. Hai đứa nó dắt nhau đi đâu mất rồi, má dậy rồi con biểu chị Thình nấu cơm nóng cho má ăn".
Bà Cả dậy hỏi con:
- Nó dắt nhau đi đâu?
- Con nghe thằng Ba kêu con nọ biểu lấy dù đi thăm bà con với nó. Đi thăm ai đó không biết.
- Đã vậy còn không biết xấu lại dắt đi chưng cùng xóm cùng làng.
- Coi bộ thằng Ba nó mê lắm.
- Họ nói người Bắc có cái văn nói hay lắm, không mê sao được.
Bà Cả đi ra ngoài rót nước trà uống. Cô Phụng bước nhà bếp biểu chị Thình nấu một nồi cơm nhỏ đặng dọn lên cho bà ăn. Cô trở lên ngồi chung trên ván với mẹ rồi nói:
- Má, con nhỏ đó coi ngộ thiệt chớ má há?
- Ngộ với mầy, chớ ngộ với ai.
- Hứ má nói! Tại má giận nên má không thèm ngó kỹ chớ. Con nhỏ đó đi tướng tốt lắm. Mặt mày sáng rỡ, tay chơn dịu nhiễu, tiếng nói ngọt xớt.
- Thứ đồ đó tự nhiên nó phải sửa hình sửa dạng phải chuốt ngót lời nói, nó rũ quyến trai mới được chớ.
- Đâu để nó làm dâu rồi coi tài con gái Bắc ra sao cho biết.
- Làm dâu ai? Tao có chịu đâu mà làm dâu.
- Lỡ rồi, nếu má không chịu rồi làm sao?
- Làm sao nó làm, tao biết đâu.
- Con coi bộ cậu Năm ưa nó lắm.
- Tánh cậu Năm mầy cứ xuôi xuôi, ai làm sao nó cũng chịu hết thảy. Nó có học tây chút đỉnh rồi nó không kể phong hoá chi hết. Với tao có được như vậy đâu. Hồi nãy nó nói lùa theo quân đó, tao phát ghét.
- Thằng Ba nó cậy con năn nỉ giùm với má đặng má đừng ghét con đó nữa. Con không chịu. Nó dắt con đó đi, chắc nó ra năn nỉ với cậu Năm nói giùm chớ gì.
- Tao làm việc gì cũng tại ý tao, chớ tao có nghe lời ai đâu mà cậy nói giùm.
- Má làm gắt quá sợ nó nổ chớ.
- Nổ thì nổ chớ sợ giống gì.
Cô Phụng cười rồi cô đi xuống nhà bếp coi dọn cơm cho mẹ ăn.
Đến nửa chiều, có con của thầy Hội đồng Quyền vô thưa cho bà Cả hay rằng thầy Hội đồng cầm vợ chồng Như Thạch ở lại ăn cơm tối, nên xin trong nhà đừng đợi chờ. Bà Cả cười gằn và nói:
- Tao có chờ ai đâu mà dặ.
Cô Phụng ngó mẹ cười:
- Làm dâu mới một ngày coi đã dở hơn con gái trong nầy rồi đa! Làm dâu phải lo nồi cơm chĩnh mắm, chớ làm dâu gì muốn đi thì đi, không thưa trình cho ai hay hết, tới bữa cơm cũng không thèm về lo nữa.
- Hứ! Tao biểu mầy đừng có nói tới tiếng "làm dâu" mà. Tao không nhìn biết ai là dâu tao hết.
- Nói chuyện nghe chơi, chớ ai biểu má nhìn. Má là cha mẹ, việc cưới vợ cho con, má định thế nào là quyền tự nơi má, ai dám nói vô nói ra.
Tối một lát vợ chồng Như Thạch trở về. Bà Cả vừa thấy mới vô tới sân, tức khắc bà đi vô buồng tránh mặt. Cô Phụng cũng dắt con đi dỗ ngủ.
Hữu Nghĩa thấy Như Thạch bước vô liền hỏi:
- Cậu ăn cơm ngoài nhà cậu Hội đồng phải hôn?
- Phải, tôi đi thăm bà con, ra tới cậu Năm, cậu bắt ở lại ăn cơm, không cho về. Cậu Năm có sai thằng Thế vô trong nhà cho hay mà.
- Có.
- Ở nhà má có ra ăn cơm hay không?
- Có.
- Coi bộ má bớt giận tôi hay không?
- Coi cũng vậy. Vợ tôi có năn nỉ nói giùm, song má gạt ngang.
- Thiệt khổ hết sức.
Như Thạch biểu vợ mở va-ly lấy đồ mát cho chàng thay, rồi đi vòng vô mấy cái buồng, thấy mẹ với chị ai nằm theo phòng nấy, trong nhà không ai dọn dẹp một chỗ nào cho vợ chồng chàng ngủ. Chàng mới lấy một cái chổi lông, bổn thân đi quét bộ ván gần cái bàn viết đặng nằm nghỉ lưng. Cô Nhung thấy vậy bèn giành lấy cây chổi đi quét, đoạn cô mở rương lấy mền gối để tử tế trên ván cho chồng nằm.
Hữu Nghĩa muốn đóng cửa đi ngủ. Như Thạch nói: "Anh chừa cho tôi một cái cửa đặng tôi ra vô cho tiện. Anh có buồn ngủ thì ngủ trước đi. Tôi chưa ngủ đâu".
Hữu Nghĩa đóng các cửa, song chừa cái cửa chỗ bàn viết, rồi chàng vô buồng ngủ.
Như Thạch vặn đèn lu lu rồi lại ván nằm, biểu vợ nằm một bên mà nghỉ. Cô Nhung lắc đầu, lại ngồi gần bên mình chồng rồi cầm quạt, quạt cho chồng. Kẻ nằm gác tay qua trán mắt lim dim, người ngồi lặng lẽ, tay quạt hơi cho chồng mát, không ai nói tới ai, nhưng mà, có lẽ lúc ấy trong trí mỗi người đều lăng xăng những đường kia nẻo nọ, bối rối với những cảnh vừa ngó thấy, lo lắng về mối tương lai mịt mù chưa biết sẽ ra thế nào. Môt lát hai người ngó nhau một cái, tuy bóng đèn lu mờ, song thấy rõ cái lần ngó đó chứa đầy những tình thương yêu những ý cương quyết dầu sóng gió thế nào cũng không đành rã được khối chung tình, dầu thảm khổ đến đâu cũng không làm tiêu được lời thệ ước.
Đồng hồ gõ một giờ rồi gõ hai giờ, mà cô Nhung cũng cứ ngồi quạt cho chồng. Như Thạch nắm tay vợ kéo xuống và biểu nằm nghỉ. Cô Nhung nhẹ nhẹ gỡ tay chồng nói nhỏ nhỏ: "Anh cứ nghỉ cho khỏe thôi, đừng lo cho em, có anh ở bên cạnh chẳng bao giờ em biết mệt".
Như Thạch ngồi dậy rồi thủng thẳng đi ra ngoài sân. Vừng trăng khuyết hết phân nửa lửng đửng treo giữa trời dọi yếng dư xuống nên cây cỏ lờ mờ, làm cho cảnh vật đều có vẻ buồn bực. Đã vậy lại thêm đêm khuya vắng vẻ, tứ hướng im lìm, làm cho cái cảnh buồn ấy pha lộn cái vẻ huyền bí, khiến lòng người dễ sinh cảm động.
Như Thạch nhìn trăng ngắm cảnh, đương đứng bâng khuâng bỗng thấy cô Nhung cũng rón rén ra đứng một bên chàng, cái gương mặt hiền từ trung hậu của cô thuở nay bây giờ nó đổi ra gương mặt thảm sầu nhưng nghiêm trọng. Cô nắm tay chàng thủng thẳng dắt lần đi ra cửa ngõ, thấy có một cái băng bằng cây lót phía trong rào, dưới bóng hai cây mít nhành lá rậm rạp. Cô mời chàng ngồi lại đó cô ngồi một bên, tay vịn chàng, nghiêng mặt ngó và nói: "Đôi ta thương nhau, nên kết bạn trăm năm đặng chung bước trên đường đời, em tưởng sự quyết định của chúng ta là cái hạnh phúc to tát chẳng có gì sánh kịp. Chẳng dè dự định của em là mộng ảo, không giống với sự thật. Lòng em thương anh thì sung sướng cho em, song nó làm khổ não, nó gây họa cho anh. Vì em mà trong gia đình anh phải xào xáo rối loạn, vì em mà gây ra một mối ác cảm giữa má với anh. Em trông thấy em lấy làm hối hận lắm. Tuy nhiên niềm vợ chồng thì nặng, nhưng mà đạo mẫu tử cũng chẳng nên khinh. Em muốn thà đôi ta chịu đau đớn trong niềm chồng vợ, chớ không nên để phai lợt tình mẫu tử. Vậy em xin anh cho em tạm trở về Bắc, đặng cho anh khỏi lỗi với má anh, em trở vào Sở Giáo huấn dạy học lãnh lương để nuôi thân. Em đương có mang mểnh, chừng nào sanh con thì em nuôi, em sẽ nuôi tử tế, em sẽ dạy nó thờ anh. Vì dầu đất trời khiến đôi ta không được tái hiệp, em phải cô thân, độc lập trọn đời đi nữa, chút con ấy, là cái dấu tích ân ái trót một năm của chúng ta cũng đủ làm cho em sung sướng mà vui với sự sống đầy những hy vọng tái hiệp".
Như Thạch lắc đầu, tay choàng ngang cổ, mắt ngó ngay mặt vợ, đoạn nghiêm nghị nói:
- Em đừng có nói chuyện ngông cuồng. Anh hứa làm chồng em, thì chẳng bao giờ anh lìa em được, duy có sự chết mới phân rẽ nhau thôi. Nếu anh để em về ngoài Bắc, còn anh ở lại trong Nam, thì anh thương nhớ em, chẳng bao lâu chắc anh phải chết, rồi sự em muốn làm vui lòng má đó đã không có ích cho má, lại còn hại tới anh nữa. Em hiểu chưa?
- Hiểu!...
- Anh khuyên em, nếu em thiệt thương anh, thì em hãy ráng chịu nhục nhã khổ não một lúc, hãy ráng làm cho má hết giận mình; đó là một phương chước hay nhứt.
- Vâng, anh dạy thế nào em cũng vâng hết, dầu anh biểu em chết em cũng vâng nữa. Miễn được gần anh, dầu em phải nhục nhã khổ cực đến thế nào em cũng chẳng nề hà.
- Hồi chiều cậu Hội đồng có hứa cậu sẽ tận tâm khuyên má đừng có giận hai đứa mình nữa. Vậy có lẽ lần lần việc nhà sẽ hết rối được.
- Em mong mỏi lắm anh ạ! Hôm nay mặt trăng tuy khuyết, mà đêm rằm tới đây nó sẽ tròn lại, nó tròn một cách khả ái quá anh ơi! Cái hạnh phúc của đời chúng ta hôm nay nó cũng khuyết như mặt trăng kia, sau nầy nó có được tròn lại như mặt trăng chăng?
Như Thạch nghe mấy lời tha thiết ấy thì cảm động nên ngồi im một chút rồi trợn mắt quả quyết rằng: "Nó sẽ đầy lại. Nó sẽ tròn lại, qua nhứt định làm cho nó sẽ tròn như mặt trăng vậy. Em tin qua không?"
Cô Nhung ngó chồng rất hữu tình và nói nhỏ nhỏ: "Em tin, em vẫn tin anh luôn".
Như Thạch liền ôm mặt vợ vào lòng; vợ chồng đương dan díu dưới bóng trăng, bỗng có dạng cô Phụng đứng lấp ló trong cửa dòm ra, rồi cô đi mất. Như Thạch không để ý đến.
Cách một lát, thấy đèn trong nhà vặn sáng lên, rồi lại thấy bà Cả bước ra cửa đứng trên thềm.
Vợ chồng Như Thạch vùng đứng dậy. Chừng hai người sắp bước chân lên thềm, thì bà Cả la lớn rằng: "Con nầy, tao nói cho mầy biết nhà tao hẳn hòi, chớ không phải cái thói đĩ điếm, mà mầy dám tới đây làm trò trên bộc trong dâu. Hèn chi thằng Thạch nó mê mầy thì phải lắm. Đồ khốn nạn, mầy phải đi ra khỏi nhà tao, ra liền bây giờ, không cho mầy ở một phút nào hết".
Như Thạch cứ kéo vợ lên tới hàng ba, chàng quì gối chấp tay lạy mẹ và nói:
- Con xin má vuốt giận, đừng mắng chửi vợ con tội nghiệp. Nó có cái lỗi thương chồng chớ chẳng lỗi chi hết. Má muốn đánh chửi con bao nhiêu cũng được, xin má đừng nói động tới nó rất oan cho nó.
- Còn mầy nữa! Cha chả! Mầy binh hả? Nếu vậy thì mầy coi con khốn nầy trọng hơn tao rồi! Đi, mầy cũng đi cho khỏi nhà tao. Tao không biết mẹ con nào nữa.
- Tội nghiệp con lắm má ơi! Vợ chồng con thương yêu nhau lắm, má nỡ nào phân rẽ cho đành.
- Tao biểu đừng có kêu tao bằng má đa. Đồ hư, mê sa đĩ điếm như mầy, thì là yêu quỉ, chớ không phải con tao.
- Vợ của con nó đã có thai nghén ba bốn tháng rồi má à.
- Ố! Tao có màng đâu. Đồ đó sanh con đẻ cháu cũng nhục cho tông môn tao, chớ có ích gì. Mầy coi nó lớn hơn tao thì dắt nhau đi phứt cho rồi, tao không cho vô nhà tao nữa, đi đi... Thằng Hưng đâu, Hưng à! Mầy vác rương của quân nầy mà quăng ra ngoài lộ cho tao. Làm cho mau đặng nó đi, kẻo gai con mắt tao lắm.
Bây giờ cô Nhung ngồi dưới gạch, cô mới thỏ thẻ nói:
- Con lạy má xin thương con...
- Nín, tao không cần ai lạy tao hết.
- Từ ngày con lấy chồng thì con đã thuộc về họ Lý, sống con làm vợ họ Lý, mà thác con làm ma họ Lý. Bề nào con cũng ở đây chớ biết đi đâu.
- Cha chả! Bây giờ tính liều mạng với tao hả. Tao biểu mầy đi! Nếu mầy còn nói ráng, tao la làng rồi hương chức bắt đóng trăn càng thêm mang xấu đa. Đi cho mau đi đi...
Bà Cả vừa nói vừa cúi xuống đưa hai tay xô cô Nhung té lăn cù dưới thềm gạch.
Như Thạch lật đật nhảy xuống ôm vợ đỡ đứng dậy, rồi nói rằng: "Vợ chồng con đã năn nỉ cạn lời, mà má không động lòng, má cứ đuổi vợ con hoài. Thôi, má đuổi thì vợ chồng con đi hết, chớ không thể nào con bỏ vợ con được".
Cô Nhung lật đật đưa tay bụm miệng chồng mà nói:
- Anh! Anh không nên to lời bất hiếu với má. Má đuổi em, thì em đi, em lạy anh đừng đi theo em rồi làm phiền lòng má.
- Từ sớm mơi tới bây giờ, anh nói nhiều lần rằng anh không thể lìa em được. Nay má quyết đuổi em, tức thì má cũng không muốn anh ở trong nhà nầy nữa, thế thì anh ở sao được.
Như Thạch thấy chú Hưng đứng xớ rớ gần đó bèn kêu biểu vô nhà vác rương và va ly đem giùm qua chợ Ô Môn. Chàng lại thấy bà Cả xây lưng trở vô nhà thì chàng vội vã nói: "Vợ chồng con cầu chúc cho má ở nhà mạnh giỏi. Con chắc một ngày kia má sẽ nhìn nhận cho vợ chồng con có lỗi, song lỗi ấy chưa đáng cho má dứt tình mẫu tử như vậy, rồi má sẽ tự hối về sự má hà khắc con dâu".
Chú Hưng vác rương và va ly đem ra, lại còn ôm quần áo mền gối của Như Thạch ra nữa. Như Thạch ở ngoài sân thay đồ y phục, biểu vợ thâu xếp mền gối, quần áo, bỏ vào rương rồi cậy chú Hưng vác đi.
Ra khỏi cửa ngõ cô Nhung nói với chồng :
- Cậu Hội đồng thương vợ chồng mình quá. Anh nghĩ thử coi có nên ra trình cho cậu hay và tạ ơn cậu rồi mình sẽ đi.
- Thôi, còn quyến luyến chỗ nầy mà làm chi. Để lên tới Sài Gòn rồi anh sẽ viết thư tạ ơn cậu cũng được.
- Vâng.
Đến sáng chú Hưng mới trở về. Cô Phụng thấy chú bước vô thì hỏi:
- Mượn chú vác rương đi đâu vậy?
- Thưa, chắc là đi Sài Gòn. Vác vô tới chợ Ô Môn, cậu Ba biểu tôi đem để trên xe hơi đò đi Cần Thơ, rồi tôi ở đó coi chừng. Hai ông bà dắt nhau đi lên đi xuống nói chuyện, chừng xe gần chạy mới lên xe.
- Xe chạy chưa?
- Chạy rồi tôi mới về đây.
Mặt trời mọc một lát, thầy Hội đồng Quyền lơn tơn vô nhà chị. Thầy vừa ngồi yên thì hỏi Hữu Nghĩa: "Thằng Ba còn ngủ sao mậy Xã?"
Bà Cả rước đáp rằng: "Tôi đuổi nó đi hết rồi'.
Thầy Hội đồng chưng hửng, thầy day qua hỏi chị:
- Đi hồi nào?
- Đi hồi khuya.
- Chị lếu quá! Chị đuổi hết hai vợ chồng nó hay sao?
- Đuổi hết.
- Chị gắt gao quá lẽ.
- Không phải gắt. Nhà tôi giàu có, tôi không có tiền đặng cưới vợ cho con hay sao, nên con nó làm như vậy.
- Theo quan niệm về phong hoá đời nay, thằng Thạch nó làm như vậy, có quấy đâu chị. Tại chị thủ cựu quá, nên chị tưởng nó hư chớ.
- Tôi không biết xưa nay gì hết. Con thì phải chờ lịnh cha mẹ cưới gả tôi mới chịu.
Thầy Hội đồng thấy vợ chồng Hữu Nghĩa đi qua đi lại thì châu mày hỏi: "Sao chị Cả đuổi hai vợ chồng nó đi, thằng Xã không biểu đứa nào chạy ra cho cậu hay?"
Cô Phụng rước đáp liền:
- Tại cậu không có dặn, ai dám cho hay.
- Dặn giống gì? Cậu biết rồi, cháu không thương thằng Thạch nên cháu muốn má cháu đuổi nó đi cho rảnh. Xấu lắm! Xấu lắm!
- Đâu có!
- Hứ...
Thầy Hội đồng vội vàng đứng dậy từ bà Cả ra về, không thèm nói tới vợ chồng Hữu Nghĩa.
Tại Tôi
III
Ông Huyện Khoan làm quan tại Sài Gòn, ông ở một cái nhà bánh ếch nơi đầu đường Mayer, nhà tuy nhỏ song có nhà bếp, nhà xe kèm hai bên, lại trước nhà có vài cây xoài lớn che làn mát mẻ, chính giữa sân có xây bồn trồng nhiều thứ bông. Ông còn trẻ, mới bước chân vào hoạn lộ, mà được một ngôi nhà đẹp đẽ như vậy, là vì năm trước ông cưới vợ, rồi cha mẹ vợ của ông muốn cho bề ăn ở của con rể xứng với địa vị thượng lưu nên mua cái nhà ấy để cho ông ở.
Gần 12 giờ trưa, xe hơi xuống sở làm rước ông về, xe vô sân vừa ngừng, thì ông mở cửa nhảy xuống gọn gàng, rồi xăm xăm đi riết vô nhà. Ông thấy bà ngồi một mình tại phòng khách, đương xem nhựt trình thì ông bước vô, hai tay ôm mặt bà mà nựng.
Bà Huyện tuổi vừa mới đôi mươi, vóc lớn, môi dày, trán thấp, bà buông nhựt trình đứng dậy, xô chồng nhẹ nhẹ và nói: "Làm giống gì kỳ cục vậy nà".
Ông cười hịt hạt, rồi cất nón đi vô buồng thay đồ. Bà bước ra cửa sau, kêu bồi bếp biểu dọn cơm, bà nói tiếng rộn ràng, lại đứng tay chống nạnh, nên coi oai nghiêm lắm.
Cơm dọn rồi thì ông thay đồ cũng rồi, nên vợ chồng ngồi lại bàn ăn, một tên ngồi khoanh tay đứng sau lưng bà mà chờ lịnh.
Ông vui vẻ hỏi bà:
- Hồi sớm mơi mình có xuống Bến Thành không?
- Có. Tôi có đi một lát.
- Đi chơi vui hôn?
- Sớm mơi thiên hạ lo mua bán, chớ có gì mà vui.
- Tối nay mình muốn đi đâu chơi đặng tôi dắt đi?
- Vậy chớ mình không đi hội nữa hay sao?
- Không, mình muốn đi Thủ Đức chơi, hay là muốn đi coi hát bóng?
- Để tối rồi sẽ hay. Tôi muốn đi Chợ Lớn kiếm đồ mua.
- Muốn đi Chợ Lớn thì đi.
Bỗng ông Huyện dòm ra cửa thì thấy có hai cái xe kéo chạy vô sân. Ông nói lớn:
- ''Ủa! Vợ chồng anh Đốc Thạch mới mượn xe về Ô Môn hôm qua, sao bữa nay lại trở lên kia kìa?'
- Thiệt quả Như Thạch với cô Nhung bước vô cửa. Cô Nhung chắp tay xá và nói: ''Em chào quan, em chào bà''.
Ông Huyện hỏi: ''Sao mau lên như vậy?"
Như Thạch cười đáp: ''Ừ, trở lên". Chàng kêu xa phu bảo vác rương với va-ly đem vô để trước hàng ba rồi móc túi lấy bạc cắc mà trả tiền xe.
Bà Huyện nói: ''Gặp bữa tôi xin mời hai ông bà ngồi lại ăn cơm luôn thể. Vợ chồng tôi mới ăn đây''.
Cô Nhung vui vẻ đáp:
- Mời bà với quan ăn. Vợ chồng em đã dùng cơm rồi.
- Ăn ở đâu?
- Xe ghé chỗ gì đó nghỉ lâu. Hành khách ai cũng xơi cơm. Vợ chồng tôi vừa đói bụng, nên cũng làm như họ cho vui.
- A! Ghé Cai Lậy phải hôn?
- Thưa phải, Cai Lậy ạ.
- Té ra đi xe đò hay sao?
- Vâng, đi xe đò.
- Hèn chi lên trưa dữ. Thôi, hai ông bà ăn cơm rồi thì ngồi đó uống nước. Bồi, lau vài cái tách rồi rót nước trà bưng ra đây.
Như Thạch cứ đi qua lại, chớ không ngồi.
Ông Huyện thấy vậy mới hỏi:
- Mà sao toa mới về hôm qua, rồi bữa nay lại trở lên? Có việc gì hay sao?
- Ôi! Việc nhà của moa rối lắm toa ôi! Để thủng thẳng rồi moa sẽ thuật hết cho toa nghe.
- Moa chắc toa bị bà già tán toa rồi chớ gì. Phải như vậy hay không?
- Toa đoán trúng lắm, bà già rầy quá.
- Mấy bà già gắt lắm. "Bất cáo nhi thú kỳ tội chi trọng", mấy bả có chịu đâu. Hôm qua toa dắt madame đi về Ô Môn, moa muốn cản mà moa không dám. Chớ chi toa về trước một mình, toa òn ỷ cho êm, rồi toa sẽ đem madame về sau, có lẽ khỏi bị rầy.
- Cái đời của moa dầu làm việc gì cũng vậy, lấy lòng thành thật làm gốc. Mưu sự giả dối moa làm không được.
- Ở đời có kinh mà cũng có quyền. Mình phải tùy thời mà làm, thì mới nên việc chớ. Bà già rầy thì toa phải ráng mà chịu, sao lại bỏ đi?
Moa đã ráng hết sức rồi ráng không nổi nữa, nên moa phải đi đây. Mới đút đầu vô nhà, vợ moa lạy mà làm lễ ra mắt. Bà già giẫy dựng đứng, la om sòm. Moa năn nỉ hết sức mà cũng không hết giận. Hồi khuya nầy lại đánh chửi xô đuổi vợ moa nữa, từ rày sắp lên không biết moa là con. Bà già moa không thương thì moa đi, chớ ở làm gì.
- Toa bậy quá. Giận nên nói vậy, chớ mẹ con sao lại không thương. Bà già mắng chửi toa phải nhịn, toa chịu lỳ ở đó mới phải. Giận hoài hay sao? Bất quá bà già giận năm mười bữa, nguôi ngoai rồi thôi, chớ không lẽ giận trọn đời.
- Toa làm Huyện moa làm giáo sư, mà toa trở lại toa dạy moa về tâm lý thì trái đời quá. Moa vẫn biết tánh ý bà già moa, bởi vậy trước khi về moa đă sắp đặt cách hành động thế nào cho xuôi thuận chớ moa làm con, lại lấy theo cái thành kiến gia đình thì moa có lỗi thiệt, ấy vậy có lẽ nào moa không chịu nhục. Ngại vi bà già gắt quá đánh đuổi không cho vô nhà thì làm sao mà ở được. Nếu toa ngồi cái địa vị của moa, thì toa mới biết giảng tâm lý.
Vợ chồng ông Huyện ăn cơm rồi, bèn mời khách ra salon ngồi uống nước. Ông
Huyện hỏi Như Thạch ''Toa không ở dưới Ô Môn được, bây giờ toa tính đi đâu?"
Như Thạch châu mày ngẫm nghĩ một hồi rồi thở dài mà đáp: ''Moa đương bối rối quá, nên chưa biết đi đâu... Tôi xin hai ông bà làm ơn cho vợ chồng tôi ở đậu đây ít bữa rồi tôi sẽ tính''.
Ông Huyện ngó vợ. Bà Huyện cười mà đáp: ''Anh Đốc đương bối rối việc nhà. Anh chị muốn ở đây bao lâu, vợ chồng tôi cũng vui lòng mà tiếp đãi. Tôi lo có một điều là nhà không được rộng rãi cho lắm, sợ anh chị bực bội bất tiện chớ''.
Ông Huyện tiếp mà nói: - "Toa lên đây thì ở đây chớ đi đâu. Chật hẹp cũng ở đỡ với nhau ít bữa rồi sẽ tính. Toa đã từ chức rồi mà toa lại nghịch với bà già nữa, bây giờ toa phải lo tổ chức cái đời tương lai của toa, việc đó là một việc khó".
Cô Nhung nói:
- Từ hồi sớm mai cho tới bây giờ em theo năn nỉ với anh Đốc, em xin anh trở ra Bắc. Em làm Nữ giáo sư, em được phép nghỉ sáu tháng chớ em không có từ chức. Về Bắc em xin vào Sở Giáo huấn mà dạy học lại, em làm để nuôi sự sống của vợ chồng em được, em tính như vậy mà anh Đốc không chịu. Em xin quan với bà làm ơn nói hộ đặng anh Đốc xiêu lòng mà trở ra Bắc với em.
- Madame tính nghe phải quá, sao toa không chịu nghe. Toa về ở dưới Ô Môn không được, thì toa còn có một đường đi, là trở ra Bắc, chớ toa ở Sài Gòn làm cái gì. Ra Bắc rồi toa làm đơn xin phục chức đặng làm việc đỡ mà nuốt sự sống.
Như Thạch lắc đầu đáp rằng:
- Moa nghĩ trở ra ngoài Bắc không tiện. Hôm trước moa xin nghỉ một năm. Quan trên không cho. Moa giận moa làm đơn từ chức. Thì Quan trên đòi moa quở trách, nói nếu từ chức sau đừng có xin trở vô nữa. Moa giận moa nói moa không màng cái lớp giáo sư, cởi bỏ được thì moa mừng lắm, moa không thèm mang lại đâu mà sợ. Đã có cái ác cảm trước như vậy, bây giờ còn mặt mũi nào xin phục chức lại.
- Ở đời lắm lúc mình phải chịu lòn một chút cho được việc của mình có hại gì.
- Sao lại không hại? Hại lắm chứ. Ai cũng có cái nhơn phẩm riêng, nếu mình để mất nhơn phầm của mình, thì còn gì mà làm người cho được. Thà moa chịu chết đói chớ không bao giờ moa chịu lòn cúi.
- Có lòn cúi gì đâu. Mình chịu khó năn nỉ một chút cho người ta vui lòng người ta giúp mình nên việc, có gì đâu mà sợ xấu hổ.
- Cám ơn mấy lời toa khuyên. Tiếc vì moa không quen năn nỉ, nên moa không thể làm theo lời toa khuyên đó được.
- Toa cứ ôm ấp mấy cái thói hủ lậu, nên toa nói hơi nghe cũ xì. Đời nầy là đời vật chất có ai còn những "cử chỉ cao thượng", những "tánh tình chánh trực". Những đồ ấy là đồ trái mùa không hợp với thời thế nữa, nên người ta đã đem bỏ dẹp hết ngoài xó hè. Cái căn cứ để hành vi của người đời nay chỉ có một tiếng "được", mà thôi. Toa phải ở theo đời, chớ toa ở theo sách, moa chắc toa không "được" gì hết.
- Cám ơn toa vạch giùm con mắt cho moa đặng moa thấy thế thái. Nhưng mà thấy thì thấy, thấy thế tình cũng như đi coi hát thấy hề giễu trên sân khấu, moa thấy đặng cười chơi vậy thôi, chớ moa không thể xen vô đó mà làm như vậy được.
- Tánh ý toa kỳ quá, hèn chi bà già toa rầy toa chịu không được toa bỏ toa đi. Bây giờ toa không chịu trở ra Bắc, vậy toa ở đây toa làm việc gì, toa nói cho moa nghe thử coi.
- Năm moa được cấp bằng làm giáo sư ngoài Bắc moa muốn bỏ không thèm đi. Moa có ghé trường Tư thục Vân Thế ở Tân Định mà hỏi thử ông Cai Trường coi chịu cho moa dạy hay không. Ông lấy làm vui lòng cho moa dạy. Vậy để sáng mai moa xuống trường moa hỏi lại, nếu bây giờ đối với moa còn cái hảo ý ấy, thì moa sẽ đi dạy học để lấy tiền lương mà nuôi vợ moa.
Bà Huyện cười mà nói:
- Anh Đốc tính như vậy tôi coi không tiện. Dạy trường tư anh lãnh mỗi tháng có năm bảy chục đồng bạc, mà lại không có danh vọng gì hết. Anh học giỏi mà bác dưới nhà lại giàu lớn, anh đi làm như vậy coi sao được.
- Tôi xin phép trả lời theo mỗi ý của chị. Lương nhiều hay là ít không quan hệ gì, như nhiều thì xài nhiều như ít thì xài ít, nhiều ít gì cũng được, miễn đời được sung sướng, trí được thong thả thì thôi. Còn danh vọng... Danh vọng là gì? Có phải được ngồi ở cái địa vị giàu sang, bầy thù phụng theo ngợi khen đó mà gọi là danh vọng hay không? Theo tôi tưởng thì chí mình cao, lòng trong sạch không bợ đỡ trên, không khinh ở dưới, biết xét mình biết coi đời, không cầu ai trọng, vì cái trọng của kẻ ngu không quí gì, không màng ai chê vì cái chê của kẻ dại không mấy hại, làm người được như vậy thì đủ rồi, cần gì thứ danh vọng giả, nó đã không làm cao cho giá trị của mình, mà nó còn làm giảm cái chí hướng của mình nữa.
- Anh nói giống gì thì nói, mà bác dưới nhà mỗi năm thâu lúa huê lợi trên hai chục ngàn giạ lúa, bây giờ anh phải xuất thân đi làm mướn thì tức quá.
- Chị nói lời ấy tôi kính phục chị lắm. Tôi ái ngại một chút, là ái ngại chỗ đó. Mà nếu xét cho kỹ, thì cũng không nên buồn. Tuy cha mẹ mình giàu, song tài sản là tài sản của cha mẹ, chớ không phải của mình làm ra, bởi vậy dầu mình không được hưởng, mình cũng không nên phiền trách. Ví như cha mẹ mình nghèo thì mình lấy gì mà trông mong.
- Mà cha mẹ giàu thì con hưởng nhờ chớ. Nếu tôi gặp cảnh như anh, chắc tôi không làm như anh vậy đâu.
- Chớ chị làm sao? .
- Nếu bà giận mà đuổi thì tôi đến nhà bà con tôi ở đậu, hay là mướn phố tôi ở riêng, song cũng ở gần đó. Mình ở đó mình kiếm thế làm ăn. Trong làng trong xóm ai cũng biết mình là con nhà giàu, bề nào ngày sau mình cũng có gia tài, bời vậy mlnh cậy họ giúp vốn cho mình làm ăn thì chắc ai cũng sẵn lòng hết thảy. Mình nương náu một ít lâu nguôi ngoai, bà già hết giận, rồi mình trở về nhà. Nếu mình phiền, mình bỏ nhà mà đi thì gia tài của cha mẹ, chị em mình họ hưởng cũng uổng lắm chớ.
Như Thạch ngồi ngẫm nghĩ không nói nữa.
Cô Nhung thấy vậy cô mới nói với bà Huyện:
- Vợ chồng em buồn là buồn về sự má em giận, chớ gia tài vợ chồng em không sá gì.
- Sao mà không sá? Có của sẵn, khỏi làm cực khổ, ấy là cái phước riêng của mình. Mình được phước thì mình hưởng, sao mà chê. Gia tài lớn quá, chớ phải ít ỏi gì sao.
Ông Huyện đứng dậy vỗ vai Như Thạch mà nói:
- Madame nói phải lắm. Toa phiền bà già, toa bỏ nhà mà đi, thì hại cho quyền lợi của toa nhiều.
- Moa lo là lo về tình nghĩa, chớ quyền lợi có nghĩa lý gì đâu mà toa nói quyền lợi.
- Ở đời phải coi quyền lợi trọng hơn hết mới được. Tình nghĩa hay là giống gì nữa cũng đều đứng sau hết.
- Lý thuyết kim tiền.
- Phải, sanh nhằm cái đời người ta xem trọng con bò vàng, thì mình phải theo cái lý thuyết kim tiền chớ sao.
- Chớ chi toa làm giáo sư thì có ích cho dân chúng nhiều lắm, bởi vì toa lấy cái lý thuyết đó toa dạy, thì chắc học trò của toa ngày sau giàu hết.
- Moa làm quan, moa dạy dân cũng được vậy.
- Ý! Được đâu. Toa làm quan nếu toa thi hành cái thuyết đó, moa sợ dân nghèo hết chớ.
Ai nấy đều cười rộ, ông Huyện cũng cười.
Ông Huyện ngồi lại rồi nói tiếp:
- Thôi đừng có giễu cợt nữa. Phải tính việc của toa lại cho kỹ coi phải làm thế nào bây giờ. Theo ý moa thì toa nên làm như vầy: toa phải đưa madame về ngoài Bắc mà ở tạm... -
- Moa đã nói moa không thể trở ra Bắc được.
- Toa đưa madame về Bắc rồi toa trở vô liền.
- Không được. Moa không thể rời vợ moa được.
- Thôi thì toa kiếm chỗ trong nầy mà để cho madame ở yên, rồi toa trở về Ô Môn mà ở với bà già.
- Toa muốn nói cái gì vậy?
- Theo ý moa thì thế nào toa cũng phải thuận với bà già mới được, chớ nếu toa nghịch thì hại cho toa lắm. Toa cho madame về Bắc, hoặc toa gởi ở đâu đó rồi toa trở về một mình mà ở với bà già. Toa nói dối rằng toa sợ bà già buồn rầu nên toa đã bỏ madame rồi. Bà già nghe như vậy chắc bà hết giận, rồi trở thương toa lại. Toa là trưởng nam, được bà già thương thì tự nhiên toa có quyền trong nhà, có quyền rồi mới có tiền mà nuôi madame chớ. Toa ở đó, lâu lâu toa kiếm chuyện mà đi chơi, rồi toa tới lui với madame cũng được vậy. Làm thế ấy thì toa trọn đạo với mẹ, mà cũng trọn nghĩa với vợ nữa.
- Giả dối! Đạo nghĩa như vậy là đạo nghĩa giả dối, sao toa lại bày cho moa?
Ông Huyện rùn vai mà nói: "Làm như vậy thì hay quá, mà toa không chịu thì thôi, chớ moa biết tính thế nào nữa được. Thôi, toa thay đồ nghỉ trưa một chút, rồi thủng thẳng sẽ tính lại. Hai ông bà ở cái phòng phía trước đó. Cái phòng đó rất mát mẻ".
Vợ chồng ông Huyện vô buồng phía sau mà nghỉ.
Vợ chồng Như Thạch qua cái phòng phía trước.
Tối, ăn cơm rồi vợ chồng ông Huyện mời khách đi Chợ Lớn chơi. Như Thạch nói: "Cám ơn, hai ông bà cho phép vợ chồng tôi ở nhà đặng sắp đồ trong rương lại và viết thơ về nhà".
Xe hơi đi rồi, vợ chồng Như Thạch mới dắt nhau ra trước sân đi qua đi lại mà hứng mát. Đi một hồi Như Thạch mới hỏi vợ.
- Em có ăn năn chút nào không?
- Ăn năn thế nào?
- Ăn năn về sự đôi ta phối hiệp đó.
- Ồ! Sao anh hỏi thế? Sao mà ăn năn? Em được gần anh thì bao giờ em cũng sung sướng lắm ạ.
- Hồi anh cưới em, thì anh chắc anh sẽ đem hạnh phúc mà dưng cho em hưởng trọn đời, anh sẽ làm cho em vui vẻ sung sướng luôn luôn. Anh không dè hôm nay xảy ra việc bối rối trong gia đình khiến cho vợ chồng ta phải vất vả như vầy, bởi vậy anh sợ em buồn quá.
- Không ạ. Em có buồn là buồn vì thấy má giận anh mà thôi, chớ làm vợ anh mà thân em phải khổ cực đến thế nào em cũng không buồn.
- Theo công việc em đã thấy đó, thì rõ ràng từ nay cái đời của anh là đời vất vả không gia đình, không thân tộc. Anh muốn biết coi em thấy như vậy em có giựt mình mà hối hận chút nào hay không.
- Anh thương yêu em thì đủ cho em sung sướng lắm rồi. Nếu cái đời của vợ chồng ta mà phải bị vất vả nghèo nàn thì cái sung sướng ấy càng thắm nồng nàn, em vui lắm, chớ sao lại hối hận.
- Cám ơn em. Mấy lời em nói đó làm cho anh phấn chí mà đương đầu với mọi sự khó khăn của chúng ta trong lúc nầy. Em nghe vợ chồng ông Huyện nói chuyện hồi trưa, thì em đã thấy trí lý của vợ chồng ông không hạp với trí ý của anh chút nào hết. Anh không muốn ở đây lâu vì ở đây lâu sợ cái lẽ rồi sanh mích lòng. Vậy sáng mai anh sẽ đi kiếm chỗ mà dạy học liền. Hễ có chỗ làm thì mình mướn phố dọn ở riêng cho thong thả.
- Vâng. Ở yên chỗ rồi, em cũng sẽ kiếm công việc em làm đặng em giúp anh.
- Thôi em có thai nghén mệt nhọc, phải lo dưỡng sức, không nên làm việc, một mình anh làm có lẽ cũng đủ tiền nuôi nhau sống được. Em vô nhà mở rương sắp đồ đạc cho tử tế, để anh viết một bức thơ mà cáo lỗi với cậu Năm.
- Em sắp nhắc anh chuyện ấy. Anh viết thơ, anh chẳng nên tỏ ý phiền má, bởi vì làm con chẳng nên phiền cha mẹ, dầu cha mẹ không thương cũng vậy.
- Anh có phiền đâu.
Vợ chồng dắt nhau trở vô nhà, vợ lo mở rương sắp áo quần, còn chồng ngồi lại bàn viết mà viết thơ.
Chừng Như Thạch viết thơ rồi thì vợ sắp đồ cũng rồi, chàng kêu vợ lại ngồi một Bên rồi đọc thơ lại cho vợ nghe, đọc thư vầy:
Thưa cậu
''Khi cậu tiếp được thơ nầy thì chắc cậu đã hay biết công việc của cháu rồi, cháu phải bỏ mẹ lìa nhà mà đi, chẳng phải ý cháu muốn như vậy. Ấy là tại má cháu đánh đuổi không cho cháu ở.
Cậu đã hiểu vì ngọn lửa ái tình nó đốt lòng cháu, nên cháu tự chuyên mà cưới vợ không chờ mạng lịnh của cha mẹ. Cháu lỡ phạm đến gia pháp, thì cháu đã lạy lục năn nỉ hết lời mà khẩn cầu má cháu tha lỗi cho cháu. Cháu thành tâm chịu lỗi, có trước mặt cậu nghe thấy rõ ràng.
Tiếc vì má cháu thưộc về lớp lớn, cố chấp những thành kiến cũ của gia đình xã hội thái quá, không muốn thấu hiểu tâm hồn chủ hướng của lớp nhỏ, nên má cháu đành đoạn tình mẫu tử, đành đuổi vợ chồng cháu ra khỏi nhà.
Cậu hiểu cái óc của lớp nhỏ, nên cậu đã không quở trách cháu mà cậu lại còn can gián giùm cho má cháu bớt giận.
Thái độ của cậu đối với vợ chồng cháu thiệt là đáng kính đáng phục, nó khắc ghi trong đầu vợ chồng cháu dầu trăm ngàn năm cũng chẳng phai chẳng lợt.
Hồi khuya hôm qua, lúc cháu đau lòng rơi lụy mà vác rương bước ra cửa ngõ, sắp lìa khỏi cái nhà của tổ phụ là chỗ ngày xưa cháu mở mắt lần đầu mà thấy đời là chỗ cháu đau đớn ôm cha cháu mà khóc khi cha cháu thở hơi cuối cùng, là chỗ chất chứa những kỷ niệm đầm ấm về đời thơ ngây của cháu, mà cũng là chỗ hiện nay đương ra vô châu mày một mẹ già mà vợ chồng cháu thương yêu kính trọng chẳng có chi bằng, thì vợ cháu có khuyên cháu nên ra nhà cậu mà trình cho cậu hay rồi sẽ di. Lúc ấy trí cháu bối rối, lòng cháu lạnh tanh, cháu chẳng còn biết quấy phải chẳng còn kể thân tộc, nên cháu lắc đầu rồi đi luôn, dường như cháu lật đật tránh xa cái luồng không khí nặng nề của đất Thới An vậy.
Nay trí cháu bình tĩnh nên cháu vội vã viết bức thơ nầy mà cáo lỗi với cậu và xin cậu tin chắc rằng bắt đầu từ nay thân cháu bơ vơ vất vả, phận cháu trở ra một đứa vô gia dình, vô thân tộc mà chẳng bao giờ cháu quên được cái đời cháu vẫn còn một bà mẹ banh da xẻ thịt đẻ cháu ra, vẫn còn một người chị thuở nay cháu vẫn hết lòng yêu mến, vẫn còn một ông cậu thấu hiểu tâm hồn cháu nên biết thương cháu.
Thưa cậu, từ nay cháu bước chân vào một cảnh đời mới, tuy còn lờ mờ song cõi thế rộng rãi. Cháu chưa biết được cảnh đời ấy vui hay buồn hay hay dở thế nào, nhưng mà cháu vẫn hăng hái mà bước tới, không ngần ngại một chút nào hết. Ví dầu cảnh đời ấy chứa dầy những khe sâu hố hiểm. Ví dầu cháu với người bạn đồng tâm đồng chí của cháu nắm tay nhau đi trong cảnh đời ấy mà phải sụp té từng bước, phải đuối sức dọc dường, thì cháu cũng cam tâm vâng chịu chẳng dám phiền trách ai hết.
Cháu bạo gan dám trái thế tục, dám phạm gia pháp, ấy là vì cháu muốn tìm hạnh phúc phi thường cao thượng, khác hơn các hạnh phúc của các bạn đồng thời, nếu rủi hạnh phúc ấy là cái bóng không có hình, hoặc đổi ra hoạn họa, thì tức cười mà thôi, tức cười cái óc lãng mạn của cháu không hạp với ý người, mà cũng không thuận với lòng trời.
Hai cháu đồng cúi đầu chào cậu và kinh gởi lại má cháu mỗi đứa hai lạy mà xin má cháu quên cái tội bất hiếu của con và dâu".
LÝ NHƯ THẠCH
Bái thơ.
Như Thạch đọc thơ lại, rồi hỏi vợ có câu nào không vừa ý vợ chăng.
Cô Nhung cười và đáp: "Anh tỏ cho cậu Hội đồng biết tâm hồn của chúng ta một cách rõ rệt như thế, mà nhứt là trong thơ anh chẳng có viết câu nào phiền má, thì em vừa lòng lắm. Anh cứ bỏ vào bì rồi sáng mai em dán tem em gởi cho".
Vợ chồng ông Huyện đi Chợ Lớn về, chủ khách đàm luận chơi một chút rồi từ nhau mà nghỉ.
ại Tôi
IV
Buổi sớm mai, lối 8 giờ rưỡi, trời nắng chang chang dọi xuống đường tráng nhựa làm bốc hơi nóng nực khó chịu hết sức.
Như Thạch đạp xe máy trên khúc đường từ nhà gare xe điện Bà Chiểu vô nhà việc Bình Hòa xã. Chân đạp nhẹ nhẹ tay mặt nắm xe mà kềm, tay trái cầm một gói ngoài bao giấy trắng. Tuy xe chạy chậm chậm, nhưng vì bị trời nắng nên chàng đổ mồ hôi chảy từ trên mái tóc xuống tới hai bên gò má. Về gần tới nhà việc Bình Hòa chàng nghe phía sau lưng có tiếng kèn xe hơi, nên lật đật ép xe qua phía tay mặt mà tránh.
Xe hơi chạy ngang qua, thì chàng nghe có tiếng kêu tên chàng rồi lại thấy xe thắng lại và ngừng phía trước, cách ít chục thước mà đợi chàng.
Như Thạch đạp xe tới, thấy vợ chồng ông Huyện Khoan ngồi trên xe hơi, thì ngừng xe nhảy xuống mà chào.
Ông Huyện đưa tay ra cửa xe, nắm tay Như Thạch và cười và hỏi:
- Mạnh giỏi hả? Toa đi đâu đây?
- Moa đi về nhà moa.
- Nhà toa ở đâu?
- Ở phía sau rạp hát thầy Cai đây.
- Á. Mấy tháng nay nghe toa về ở trong Bà Chiểu mà có dè toa ờ chỗ nầy đâu Toa mướn nhà mà ở hay là ở phố?
- Ở phố.
- Đằng sau rạp hát có phố hay sao?
- Có phố vách ván nho nhỏ.
- À! Mà bữa nay chúa nhật toa đi đâu đây?
- Ra ngoài Dakao mua thuốc về cho mafemme uống.
Bà huyện nghe như vậy mới hỏi.
- Bà Đốc đau hay sao?
- Thưa phải. Hơn một tháng nay nhà tôi đau rề rề hoài, không ra thăm bà được, xin bà tha lỗi.
- Bà Đốc đau bịnh gì?
- Gần ngày sanh rồi, nên trong mình mệt nhọc ăn ngủ không được. Chiều hôm qua nó đi cho coi mạch thì Đốc-tơ nói trái tim nó yếu lắm, nên phải mệt hoài.
- Khổ chưa! Anh phải ráng lo thuốc men chớ gần ngày sanh mà bịnh như vậy không tốt.
- Tôi lo lắm chớ.
Ông huyện tiếp:
- Mà toa coi bộ cũng không được mạnh, lúc nầy toa ốm hơn hồi trước nhiều.
- Moa mạnh, chớ có đau gì đâu.
- Toa dạy trường Vân Thế mà toa làm việc nhiều hay ít?
- Moa xin dạy nửa chừng, mấy lớp đều có sẵn thầy rồi hết. Ông hiệu trưởng vị tình cho moa dạy phụ mỗi tuần lễ có 6 giờ nên có công việc gì nhiều lắm đâu.
- Trời ơi! Toa dạy một tuần có 6 giờ, rồi làm sao có đủ lương cho toa xài.
- Mỗi tháng chừng bốn năm chục. Có nhiều thì xài nhiều, có ít thì xài ít, không hại gì. Có lẽ chừng khai trường năm tới, ông hiệu trưởng sắp đặt giáo sư lại rồi moa mới dạy nhiều giờ được.
- Moa coi đó không phải là cách sanh hoạt rồi.
- Không, đó cũng là một cách sanh hoạt chớ.
- Theo ý moa, thì toa cũng đứng lập ra một nhà trường của toa, rồi toa làm Cai trường coi mới được.
- Tiền!
- A! Đó là một vấn đề, toa thấy chưa?
- Moa thấy lắm chớ.
- Nếu toa thấy thì toa phải công nhận lời moa khuyên toa hồi trước không phải là lời nói bậy.
- Phải lời toa khuyên đúng lắm chớ, song đúng với người thường, mà không hạp với óc của moa.
Ông Huyện rún vai rồi ngó vợ mà cười.
Bà Huyện nói:
- Bữa nay vợ chồng tôi mắc đi Gò Vấp có chuyện gấp, để bữa nào rảnh tôi sẽ vô thăm hai ông bà. Anh về nói giùm tôi có lời chúc bà Đốc mạnh nghe.
- Cám ơn.
Xe hơi chạy đi, Như Thạch leo lên xe máy đạp mà về nhà.
Mấy tháng nay Như Thạch dạy học tại trường "Vân Thế" vì lương ít nên phải mướn mà căn phố nhỏ, mỗi tháng có 5 đồng mà ở sau rạp hát thầy Cai gần ngả ba đường vô đồng ông Cộ. Nhờ miền ấy cao ráo lại có cây nhiều, nên chỗ ở sạch sẽ mát mẻ, nhưng mà phố chật hẹp quá, lại bữa nào đi dạy, phải đạp xe máy ra tới Tân Định, đường đi xa nên ở trong nhà thì tù túng, còn đi làm việc thì mệt nhọc.
Như Thạch về tới cửa, thì nhảy xuống xe gọn gàng, rồi dắt xe đem vô nhà mà dựng dựa vách.
Cô Nhung đương nằm tại bộ ván dầu nhỏ lót phía sau cái bàn viết, cô thấy chồng về thì cô lồm cồm ngồi dậy, ngó chồng với cặp mắt trõm lơ, song cũng cười mà nói: anh đi nắng mệt nên đổ mồ hôi quá Thằng bé đi chợ chưa về, vậy anh cởi áo đi để em múc nước đặng anh rửa mặt cho mát".
Như Thạch xua tay mà đáp: "Em khỏi nhọc lòng. Em cứ nằm nghỉ, để rồi anh đi ra sau anh rửa.
Chàng để nón trắng trên bàn viết rồi cầm gói thuốc đưa cho vợ mà nói tiếp:
- Bữa nay em khoẻ hơn hôm qua hay là cũng vậy.
- Em khoẻ ạ.
- Anh coi sắc mặt em cũng mệt quá, chớ có khoẻ dâu. Em mở thuốc mà uống liền đi.
Cô Nhung mở gói thuốc, còn Như Thạch đi vô buồng cởi áo rồi đi thẳng ra sau bếp mà rửa mặt. Chừng chàng trở ra, cô Nhung hỏi:
- Anh mua hết bao nhiêu tiền?
- Ve thuốc tới 3 đồng rưỡi, còn cái hộp đó có một đồng tám.
- Tốn hao nhiều quá! Hôm qua Đốc-tơ coi mạch hết 3 đồng, bữa nay mua thuốc hết 5 đồng mấy nữa.
- Đau thì phải tốn tiền thuốc chớ sao em. Em đừng có lo như vậy, phải để trí bình tĩnh cho khoẻ, chớ em lo thì em mệt, rồi bịnh càng thêm nữa.
- Nhà mình không tiền, em không lo sao được.
- Em để mặc anh lo, em cứ nằm nghỉ cho khỏe đừng lo gì hết, Đốc-tơ đã nói em đau trái tim. Vậy em không nên lo.
- Em trông đẻ cho mau đặng em mướn vú nuôi em nhỏ rồi em đi kiếm công việc làm mà giúp với anh.
- Đẻ rồi em phải ở nhà nuôi con, chớ đi làm giống gì.
Như Thạch rót một ly nước trà bưng lại đưa cho vợ và nói: "Em mở cái hộp lấy một viên thuốc mà uống trước đi. Chừng gần ăn cơm rồi em sẽ uống ve thuốc kia".
Cô Nhung vâng lời chồng, lấy một viên thuốc mà uống. Như Thạch biểu vợ nằm xuống mà nghỉ, rồi chàng ngồi một bên và nói rằng:
- Anh mới gặp hai vợ chồng anh huyện Khoan hồi nãy đây.
- Anh gặp ở đâu?
- Gặp trước nhà việc Bình Hòa.
- Thế không đi kiếm thăm mình ạ?
- Không. Đi đâu trong Gò Vấp. Gặp hỏi lơ là rồi đi luôn.
- May a! Nếu ghé thăm mình càng khổ.
- Khổ cái gì?
- Nhà mình lôi thôi, nếu Vợ chồng quan Huyện ghé thì em hổ quá.
- Sao mà hổ? Em còn theo thường tình quá! Mình nghèo thì tự nhiên nhà mình lôi thôi. Mà mình không nhơ bẩn, lương tâm mình vẫn thư thái, thì mình dám ngó ngay mọi người, không sợ ai hết, có hổ chi đâu hở em. Họ ở nhà tốt mà chắc gì cái óc họ hơn mình được.
- Vâng.
- Nếu anh chịu làm như họ, thì anh cao sang hơn họ nhiều lắm. Tại anh không thèm làm chớ.
Như Thạch ngó ra lộ thì thấy anh Tự Cường là một vị giáo sư dạy chung một trường với mình, dạy về khoa sử-ký với địa-dư, đương đi thẩn thơ, tay có ôm hai cuốn sách, đi mà cứ dòm vô dãy phố, chàng bèn bước ra cửa mà kêu hỏi: "Chào anh, anh đi vô trong nầy có việc chi?"
Tự Cường niên kỷ có lẽ hơn Như Thạch cũng vài tuổi mà thôi, chớ không lớn hơn nhiều, nhưng mà vóc cao, người mập, trán rộng, da đen cặp mắt có vẻ nghiêm nghị và kiêu ngạo, y phục lôi thôi nên không có mòi chưng diện. Chàng vừa thấy Như Thạch thì nhích miệng cười, giở nón chào rồi thủng thẳng và đi vô cửa nói:
- May có anh ở nhà đây. Tôi đi kiếm anh mà thăm anh và đàm luận chơi.
- À, nếu vậy thì mời anh vô nhà. Tôi rất cám ơn anh có tình chiếu cố. Sao anh biết nhà tôi ở đây?
- Bữa hổm nói chuyện anh có chỉ chừng, nên tôi mới biết mà vô đây chớ.
Tự Cường bước vô nhà. Cô Nhung ráng đứng dậy chấp tay cúi đầu chào.
Như Thạch chỉ vợ mà nói với bạn: "Vợ của tôi". Tự Cường cúi đầu đáp lễ và nói: "Tôi lấy làm vinh hạnh mà được biết bà và cúi xin bà tín nhiệm cái ý thành kính của tôi".
Như Thạch day lại nói với vợ: "Đây là anh Tự Cường, bạn đồng nghiệp của tôi đi Pháp học lấy được bằng cử nhân về khoa văn chương hiện đang dạy một trường với tôi".
Cô Nhung cúi đầu thi lễ và nói: "Chồng em được làm bạn với ông thì em vinh hạnh lắm. Em kính chúc cho ông mỗi ngày một thêm cao sang thêm hạnh phúc. Em xin mời ông ngồi. Vợ chồng em không có nhà tử tế mà tiếp rước ông, thật em ái ngại quá.
Thiệt trong nhà chẳng có vật chi xứng đáng, phía trước ngay cửa thì có một cái bàn viết bằng cây dầu với một cặp ghế bằng mây, dựa vách buồng thì lót một bộ ván dầu nhỏ giá chừng năm đồng bạc, còn trong buồng thì chỉ có một cái giường cây để ngủ.
Như Thạch kéo một ghế để trước bàn viết mời Tự Cường ngồi, chàng cũng ngồi cái ghế để phía trong, rồi cười và nói:
- Thật là nhà cửa lôi thôi lắm, xin anh chớ chấp.
- Tại sao mà tôi chấp? Trước khi vô đây tôi vẫn biết anh không phải là ở nhà lầu, bởi vì nếu anh ở nhà lầu, thì bao giờ anh thèm đi dạy học lãnh lương mỗi tháng có ít chục đồng bạc. Anh có được căn phố mà ở mát mẻ như vầy thì anh sung sướng hơn tôi nhiều quá, tôi không có nhà cửa, phố xá chi hết mới nói làm sao.
- Vậy chớ anh ở đâu.
- Tôi mướn một căn phòng khách sạn tôi ở, mỗi ngày tôi đi ăn cơm quán.
Cô Nhung nghe như vậy thì hỏi:
- Thế thì ông chưa có vợ à?
- Thưa chưa, mà chắc chẳng bao giờ có.
- Em không hiểu sao ông lại nói thế. Thủy chung gì rồi ông cũng phải có gia thất với người ta chớ.
- Thưa không, tôi sẽ độc thân cô lập trọn đời.
- Thế à! Chắc là ông chê phụ nữ đời nay chẳng có ai đáng làm bạn trăm năm với ông.
- Thưa không phải vậy. Phụ nữ đời nào cũng vậy, có kẻ xấu mà cũng có người tốt, tôi đâu dám chê. Tôi tự quyết không lấy vợ là vì tôi thấy nhân tình giả dối, dua nịnh, tham lam thái quá, những việc đáng khinh bỉ thiên hạ lại tranh đua mà làm, những việc đáng tôn trọng thiên hạ lại ngó lơ bỏ dẹp. Nếu tôi lập gia thất thì tôi phải đem thân mà lăn lộn trong cái vòng nhơn tình tanh hôi ấy. Tôi phải buộc mình làm những việc tôi không muốn làm, tôi phải ép trí mà vui với những việc tôi chê tôi ghét, thành ra đời của tôi là đời lại cái[1], người của tôi là người hai lòng, không có chủ hướng, không có nhân phẩm gì hết, vì vậy đó nên tôi nhứt định không lập gia thất, để một mình đặng hưởng tự do hoàn toàn, muốn thì làm, trái thì cãi, không sợ ai, không vị ai, không dính dấp một chút chi với xã hội hết!
- Té ra ông là người chán đời.
- Không phải tôi chán đời. Tôi muốn giải thoát cái thói thấp hèn của đời chớ.
- Vưng em hiểu rồi, ý muốn thoát tục. Em mong cho ông đạt được cái mục đích cao thượng ấy.
- Tôi rất cám ơn bà.
Thằng Sung là đứa tớ, đi chợ về, tay xách một cái giỏ vô cửa, rồi đi thẳng xuống nhà bếp. Cô Nhung đi theo coi bộ mệt nhọc ột ệt lắm.
Tự Cường ngó theo cô và nói:
- Tôi coi bộ madame mệt nhọc lắm. Anh phải lo thuốc men, chớ có thai nghén mà mệt nhọc như vậy chắc là không tốt.
- Hơn một tháng nay nhà tôi ăn ngủ không được cứ mệt hoài.
- Sao anh không rước Đốc-tơ coi mạch cho madame rồi mua thuốc cho madame uống?
- Chiều hôm qua tôi có đem đi Đốc-tơ. Ổng coi mạch rồi nói nhà tôi đau trái tim.
- Cha chả! Nếu vậy thì anh phải đem vô nhà thương nằm nghỉ, hoặc đem ra mé biển cho hứng gió mới được:
- Tôi cũng muốn như vậy, ngặt vì nhà tôi nó không chịu, nó nói đi nhà thương hay đi hứng gió đều tốn hao lung quá.
- Phải tốn chớ sao.
- Anh cũng biết tôi dạy mỗi tuần có sáu giờ nên số lương ít quá. Tốn hao nhiều tôi chịu sao nổi.
Tự Cường gật đầu ngồi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng.
- Phải, anh lương ít quá xài lớn sao đặng... Tôi chắc lúc nầy anh phải chịu khổ tâm lắm.
- Phải tôi khổ tâm lắm, khổ đủ mọi phương diện.
Tự Cường châu mày, ngó ra ngoài sân rồi thở dài nói rằng: "Tại muốn lập gia thất nên mới có những cái khổ ấy. Nếu độc thân cô lập thì có khổ như vậy đâu".
Như Thạch trợn mắt đáp rằng:
- Không, tuy khổ, song tôi có ăn năn chút nào đâu. Về gia thất thì chí của tôi vẫn còn hăng hái luôn luôn, mà vợ tôi cũng không buồn, không ngã lòng. Vợ chồng tôi mà thương yêu nhau hoài, thì khổ gì cũng không sợ.
- Tôi khen anh lắm, khen cái đức tính của anh về sự bền dai của gia thất.
- Anh chưa có vợ, nhứt là anh chưa có một người đồng tâm đồng chí, nên anh chưa được nếm mùi ngọt bùi trong gia thất. Có khổ cái mùi ấy càng thêm thơm tho, bởi vậy khổ mà tôi vui, chớ tôi không nao núng chi hết.
- Anh nói hữu lý! Nhưng theo tôi nghĩ vì tôi không muốn chịu khổ, mà cũng không muốn nếm ngọt bùi, tôi chỉ muốn trí thơ thới, thân tự do cho khỏi sa vào nhơn tình thế tục.
- Anh tu hay sao?
- Tu làm chi? Tôi có tu đâu, tôi lập chí chớ.
- Nếu anh lập chí, tôi e một ngày kia anh gặp một người đàn bà đồng chí với anh rồi anh cũng phải bước chân vào vòng gia thất như tôi vậy.
- Có lẽ, nhưng mà đàn bà có chí lập gia thất thì nhiều, còn đàn bà có chí tuyệt gia thất thì ít. Tôi tưởng trọn đời tôi cũng chưa gặp ai đồng chí với tôi.
- Biết chừng đâu. Nếu anh có chí đó, thì người khác cũng có vậy chớ. Đàn bà đời nay họ có học thức, họ không triết lý cũng như mình, chứ không phải lù mù như hồi xưa vậy đâu.
- Để rồi coi. Chưa thí nghiệm thì chẳng nên nói quả quyết. Lấy việc của anh mà suy thì đủ thấy gặp người đồng chí không phải dễ. Anh phải ra Bắc mới gặp được.
- Anh nói lầm. Đồng tâm đồng chí không phải dễ kiếm, bởi vậy gặp rồi làm sao mà bỏ được. Tiếc cho cái đời nầy còn có nhiều người không thấu hiểu việc ấy.
- Người ta không đồng chí với anh thì thế nào người ta hiểu được.
Như Thạch gật đầu, ngồi suy nghĩ.
Tự Cường đứng dậy thọc tay vào túi quần, đi tới đi lui, đi một hồi rồi cười và nói: "Quen với nhau đã mấy tháng rồi, vô trường thường hay bàn luận với nhau. Tôi biết ý anh cũng như ý tôi, ghét nhơn tình, khinh thế tục. Nhưng mà tôi không dè chúng ta có chỗ nghịch nhau, là anh ưa gia thất còn tôi ghét gia thất. Trong khi hai đứa mình, ai phải, ai quấy? Ai cũng giành phải hết, không ai chịu quấy. Thôi, chúng ta phải cung kính cái đức tin, chẳng nên cãi với nhau làm chi. Phải hay là quấy để sau có đủ kinh nghiệm rồi chúng ta sẽ thấy. Bây giờ chúng ta nói chuyện hiện tại nghe chơi. Nghe nói hồi trước anh làm giáo sư, dạy trường nhà nước ngoài Bắc Việt anh được một cái địa vị an ổn quá, tại sao anh bỏ đi, rồi về trong nầy dạy trường tư, lương bổng ít mà phải chịu khổ cực như vậy?"
Như Thạch thở dài đáp:
- Việc nhà của tôi kỳ cục lắm. nói ra nghe thêm buồn.
- Thấy chưa? Tại ban đầu anh đi sái đường nên mới có sự kỳ cục làm anh buồn đó.
- Mỗi người có một ý riêng nên đi riêng một đường, chớ nào phải đi sái. Phận anh thì anh khinh bỉ nhơn tình thế tục, anh quyết thoát ra ngoài vòng mà đứng một mình, anh không muốn chung lộn với người đời. Còn phận tôi thì tôi cũng khinh bỉ nhơn tình thế tục như anh, song tôi lại muốn đem thân chung chạ với người đời, chung chạ mà tôi không làm những việc thấp hèn như họ. Trái lại, tôi công kích những việc thấp hèn ấy, tôi nêu một thái độ thanh cao, tôi giữ một cử chỉ chánh trực, làm cho người đời mở mắt mà thấy những thành kiến quấy của gia đình, những phong tục xấu của xã hội, rồi sửa đổi cho đời trở nên vui vẻ cao thượng.
- Khó lắm! Cái mục đích của anh tôi coi khó đạt được.
- Phải làm thử coi, chớ thấy khó rồi do dự không làm, làm sao mà thành được.
- Đời thấp hèn dơ dáy, mình lánh thì hay hơn, mình giữ phận mình cho cao, ai thấp mặc kệ họ, hơi đâu mà lo.
- Nói như anh thì vị kỷ quá.
- Nếu mỗi người đều làm như tôi hết, đời cũng trở nên vui vẻ cao thượng chớ.
- Làm như anh đã không thấy chỗ nào vui, thử hỏi đời vui làm sao được.
- Tại anh không thấy cái vui của tôi. Tôi vui lắm chớ, tôi vui về tinh thần nên người ngoài khó thấy, chớ không phải vui về vật chất như anh mà dễ thấy.
Như Thạch ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi mới đáp:
- Anh nói phải, tôi vui về vật chất, tại vui như vậy nên mới có chỗ buồn.
- À bây giờ anh mới thấy rõ cái chủ nghĩa của anh là một món khí giới hai lưỡi. Nó làm anh vui, mà nó cũng làm anh buồn được.
- Phải. Mà bây giờ tôi không thể bỏ chủ nghĩa hiểm nghèo ấy được. Đã nếm lỡ nước đời rồi thì phải uống cạn ly, chớ không phép thối thoát.
- Thối thoát sao được chớ.
Cô Nhung bưng ra hai tách nước trà mời khách với chồng uống, làm cho câu chuyện đàm luận của hai người phải dứt.
Tự Cường uống nước rồi nói nữa:
- Tôi coi bề của anh khó quá. Phải liệu thế nào, chớ để như vầy không được.
- Tôi nói thiệt với anh, bà già tôi giàu lớn, nhưng vì tôi trái phong tục. Tôi kết hôn tự do, nên bà già tôi giận mà từ tôi. Cái khổ của tôi tự tôi làm ra, chớ nếu tôi quật lụy phong tục thì thân tôi sung sướng lắm.
- A vậy hả? Té ra anh bị hại vì cái phong tục.
- Phải.
Tự Cường không nói chuyện nữa, bước ra cửa đứng ngó mông một hồi rồi từ giã vợ chồng Như Thạch và ôm hai cuốn sách đi về.
Chiều bữa sau Như Thạch đi dạy học về, thấy vợ cũng còn mệt như mấy bữa trước, nhưng mà hỏi thì cô Nhung lại nói khỏe. Chàng thay đồ ra ngồi một bên với vợ mà nói:
- Có một việc kỳ quá, làm cho anh bối rối hết sức.
- Có việc gì xin anh nói cho em biết?
- Hồi chiều nay anh đang dạy học, anh có tiếp được cái thơ của nhà thơ phát, có dán cò hẳn hòi. Anh xé bao thì không có thơ mà lại có cái măn-đa năm chục đồng bạc. Anh coi con dấu đóng ngoài bao thì gởi tại nhà dây thép chính Sài Gòn. Măn-đa cũng mua tại Sài Gòn để tên họ anh rõ ràng song không có biên tên người gởi. Anh không hiểu ai làm việc cắc cớ như vậy. Gởi bạc cho anh làm gì?
- Em tưởng có lẽ má hay cậu Hội đồng gởi cho anh đó chăng.
- Không phải, má với cậu Hội đồng có biết anh ở Sài Gòn đâu mà gởi. Anh nghi anh Tự Cường lắm. Hôm qua ảnh có vô thăm mình. Ảnh thấy em bịnh, mà ảnh lại nghe anh than túng. Ảnh ăn lương tới một trăm rưỡi, mà ảnh không có vợ con. Ảnh xài tiền không hết. Ảnh muốn giúp đỡ mình, song ảnh sợ đưa tiền ra thì mình ái ngại không chịu lấy, nên ảnh làm như vậy chớ gì.
- Thế thì anh đi kiếm hỏi ảnh coi phải bạc của ảnh gởi hay không?
- Hồi nãy tan học, anh có gặp ảnh tại trường. Anh thuật chuyện anh được cái măn-đa kỳ cục cho ảnh coi nữa. Coi bộ ảnh không lấy chuyện ấy làm lạ mà ảnh lại nói: "Bây giờ có biết ai gởi đâu mà trả, thôi cứ lãnh bạc mà xài, chừng nào biết được người gởi sẽ hay".
- Nếu thiệt anh Tự Cường muốn giúp mình, mà dùng cách kín đáo như vậy thì ảnh cao thượng quá.
- Thiệt lúc nầy em đau, nếu có tiền cho em nằm nhà thương dưỡng bịnh thì tốt lắm. Ngặt vì người ta giúp mình cao thượng như vậy, nếu mình nhận lãnh thì mình thấp hèn.
- Vâng, lãnh thì mình hèn lắm. Mà bây giờ mình biết ai gởi mà trả .
- Hồi nãy đi về dọc đường anh có nghĩ: "Ở Sài Gòn mấy người anh quen nhiều là ông huyện Khoan còn người biết cái khổ của anh trong lúc nầy là anh Tự Cường, ấy vậy hai người đó gởi bạc cho anh, chớ không lẽ người nào khác. Vậy anh kiếm hai người đó mà hỏi gắt, nếu họ từ chối thì anh sẽ đến nhà dây thép xin coi tên người mua măn-đa, tự nhiên phải lòi ra ai gởi.
- Anh tính như thế đúng lắm.
Sáng bữa sau Như Thạch không có dạy học nhưng chừng tan học, thì chàng đạp xe máy đi ra đường đón Tự Cường. Gặp nhau chào hỏi rồi hai người thủng thẳng đi bộ nói chuyện. Như Thạch hỏi:
- Anh phải nói thiệt cho tôi biết coi cái măn-đa tôi đưa cho anh hồi chiều hôm qua đó phải của anh gởi hay không?
- Không, tôi gởi làm chi? Tại sao anh hỏi kỳ cục vậy?
- Gia đạo của tôi duy có một mình anh biết mà thôi, tôi chắc anh muốn giúp tôi nên anh làm như vậy, chớ không phải ai khác. Nếu anh chối thì tôi sẽ xuống nhà dây thép tôi xin coi tên người mua măn-đa rồi tôi trả lại.
Tự Cường nghe Như Thạch nói hơi quả quyết quá thì cười ngất mà đáp:
- Anh lanh quá! Anh làm như vậy thì tôi phải chịu phép chớ chối sao được. Tôi xin anh tha cái lỗi giả dối cho tôi tuy hai đứa mình bất đồng chủ nghĩa nhưng hôm qua tôi thấy chị bịnh n0hiều, còn anh túng rối, tôi chịu không được. Tôi muốn trao tiền cho anh đặng anh đem chị đi nhà thương nằm dưỡng bịnh mà tôi sợ anh ái ngại không chịu lấy, nên tôi làm như vậy đó, chớ không phải tôi giả dối đặng khinh bỉ anh đâu.
- Anh biết thương tôi như vậy, tôi cảm ơn anh lắm. Thiệt lúc nầy vợ tôi đau mà tôi không có tiền. Nếu anh giúp tôi ân nghĩa lớn lắm. Ngặt vì tôi thọ của anh, rồi biết chừng nào mới trả lại cho anh được.
- Ối! Hơi nào mà lo việc đó. Anh còn lo như vậy tức nhiên anh chưa thoát thường tình. Tôi dư, anh thiếu tôi sớt bớt cho anh. Anh cứ lãnh măn-đa đó đi rồi đem đóng tiền nhà thương cho chị nằm, đừng ngại chi hết. Anh ăn lương ít, nếu anh cần dùng, thì mỗi tháng tôi sớt bớt cho anh năm bảy chục đồng bạc được.
- Anh thiệt t0ình đãi tôi, nếu tôi theo thường tình ái ngại hoài té ra tôi xưa quá. Vậy tôi chịu lấy và tôi thay mặt cho vợ tôi mà cám ơn anh, nếu nó hết bịnh ấy là nhờ anh.
- Thôi, thôi, đừng có bắt chước thế tình mà nói những tiếng "Cám ơn" những tiếng "Nhờ cậy" nghe kỳ cục quá. Bọn mình phải nói, phải làm khác hẳn thiên hạ chớ, những câu đặt sẵn từ đời thượng cổ để nói mà chơi chớ không có ý nghĩa gì đọc lại làm chi. Anh đi lãnh măn-đa rồi đem chị vô nhà thương liền đi.
Tự Cường bắt tay từ giã Như Thạch rồi đi tuốt.
Như Thạch đi lãnh măn-đa rồi về thuật lại cho vợ nghe. Cô Nhung cười và nói: "Anh Tự Cường cao quá, mà anh làm ra cho rõ rệt thì anh cũng khỏi thấp".
Chiều bữa đó Như Thạch đem vợ vô nhà thương Bà Chiểu nằm...
Tại Tôi
V
Lối 12 giờ khuya. Như Thạch đứng tại hàng ba nhà bảo sanh Bà Chiểu, tay vịn lan can mắt ngó cửa phòng ngay trước mặt. Vì cửa phòng khép khít nên chàng không thấy được, trong phòng chỉ nghe tiếng cô Nhung rên mà thôi, chàng đứng trân trân không cựa quậy, mặt tái xanh, ngực hồi hộp.
Cách một lát, cửa phòng mở hé rồi một cô mụ lách mình bước ra. Như Thạch chận hỏi: "Sanh rồi hay chưa vậy cô?" Cô mụ lắc đầu mà đáp: - "Cô yếu quá nên không dám cho rặn. Để cho cô nghỉ một chút rồi tôi sẽ cho rặn thử coi, nếu không được thì phải kêu ông thầy, chớ biết làm sao".
Cô mụ đi rột rẹt rồi xách một bầu nước trở vô phòng, khép cửa lại.
Như Thạch trong lòng lạnh ngắt, day mặt ngó ra sân thấy cây cỏ lờ mờ, còn ngoài đường thì hàng đèn khí nối nhau mà chiếu, song không có dạng người qua lại. Chàng vì lo, vì sợ, vì buồn, bởi vậy trong trí bối rối ngó cây cỏ, ngó đèn mà không để ý đến cảnh vật chút nào hết.
Thình lình nghe trong phòng có tiếng rặn một hơi rất dài. Như Thạch càng thêm bối rối, nên nín hơi lóng tai nghe. Rặn rồi thở hổn hển, thở rồi rặn nữa, rồi lại nghe tiếng con nít oa oa. Như Thạch nửa mừng nửa sợ ngổn ngang mừng con đã sanh, mà lo sợ vợ đuối sức. Chàng nóng nảy, trông cho họ mở cửa phòng đặng vô mà hỏi thăm, nhưng trông hoài không thấy mở.
Cách một hồi rất lâu, một cô mụ già mở bét cánh cửa ra vừa thấy Như Thạch thì nói: "Sanh rồi, con gái. Con nhỏ mạnh lắm tới ba ký lô rưỡi. Còn cô thì mệt quá, để tôi đi kêu thầy điều dưỡng tiêm cho cô một mũi thuốc khỏe cho cô nghỉ. Ông vào mà thăm cô, bây giờ ông vô được".
Cô mụ nói rồi quày quả đi liền. Như Thạch bước vô phòng, thấy vợ nằm trong giường, mắt nhắm khít, ngực hoi hóp, mặt mét xanh, coi bộ mệt lắm. Chàng nắm tay vợ mà nước mắt rưng chảy. Cô Nhung day mắt ngó chồng, lắc đầu rồi nhắm mắt lại, Như Thạch thấy cô mụ bồng con nhỏ bước lại gần thì chàng đứng nhìn con. Cô mụ nói: "Con nhỏ này chừng lớn nó ngộ lắm".
Cô mụ già trở vô phòng lại dắt theo một ông thầy điều dưỡng còn ngây ngủ, nên mặt sật sừ. Thầy điều dưỡng tiêm cho cô Nhung một mũi thuốc, rồi bỏ đi ra, không nói mội tiếng chi hết. Hai cô mụ lo sắp đặt cái nôi đặng để em nhỏ nằm.
Cô Nhung thở dài rồi mở mắt ngó chồng, miệng chúm chím cười. Cô mụ già bước lại rờ trán cô và hỏi: "Khỏe rồi hả?". Cô Nhung gật đầu đáp nhỏ: "Em khỏe. Em cám ơn hai cô".
Hai cô mụ bước ra ngoài rồi khép cửa phòng lại.
Như Thạch nhắc một cái ghế đem để bên cạnh giường ngồi và nói chuyện với vợ:
- Em mệt nhọc quá! Vậy em ngủ một chút cho khỏe. Để anh ngồi đây anh coi chừng con cho.
- Bây giờ em khỏe rồi.
- Hồi nãy anh sợ quá.
- Thật anh ạ! Hồi nãy em mệt lắm, em tưởng đã không xong rồi.
- Em muốn uống nước hay không?
- Xin anh làm ơn rót cho em một chén.
Như Thạch rót nửa ly nước trà bưng lại cho vợ uống, rồi vén tóc, bao mền cho vợ, bộ lo lắng lắm.
Bây giờ cô Nhung thiệt khỏe nên cô nói:
- Em chưa trông thấy mặt con. Nghe nói con gái phải không?
- Con gái. Em muốn anh bồng con cho em coi hay không?
- Em muốn lắm, song sợ anh không quen bồng rồi anh đánh rơi con.
- Anh bồng được. Để anh bồng con lại cho em coi. Mặt dễ thương quá.
Như Thạch bước lại giở cái nôi mà bồng con nhỏ đem để nằm một bên mình vợ.
Cô Nhung day qua nhìn con, Như Thạch cũng đứng một bên mà ngó. Con nhỏ mở mắt rồi nhắm mắt lại một lát nó quơ hai tay, làm cho cha mẹ nó vui vẻ vô cùng.
Như Thạch nói:
- Gương mặt con giống hệt mặt em.
- Đây là dấu tích của vợ chồng ta, có con tình vợ chồng ta càng thêm khắng khít.
- Để ngày mai anh sẽ đi khai sanh cho con. Em muốn đặt tên gì?
- Em không dám. Việc ấy tự ý anh định.
- Anh muốn đặt con là Thanh Nguyên, vừa ý em hay không?
- Tên ấy tốt lắm ạ.
- Thanh Nguyên nghĩa là nguồn nước trong. Anh không muốn cho con mình nhiễm trần tục chút nào hết, nên anh mới đặt tên ấy.
- Vâng, em bằng lòng lắm.
- Thôi, để anh đem con trở lại nôi, đặng em thong thả mà ngủ một chút.
- Anh để con nằm đây với em được. Em để con nằm một mình trong nôi sợ con lạnh.
- Em muốn như vậy cũng được, song để cho anh bỏ mùng xuống kẻo muỗi cắn con.
Như Thạch bọc mùng kín đáo rồi ngồi ngoài coi chừng cho vợ ngủ.
Cô Nhung sợ chồng mệt nên khuyên chồng về mà nghỉ. Nhưng chàng không nỡ về cứ ngồi đó cho tới sáng, có mấy cô mụ vô phòng rồi, chàng mới chịu từ giã vợ về thay đồ đặng lập tức đi khai sanh cho con.
Mỗi bữa Như Thạch đều có mặt tại nhà bảo sanh mà săn sóc vợ con luôn, trừ ra tới bữa cơm và tới giờ đi dạy học thì chàng mới chịu về.
Cô Nhung nằm tại nhà bảo sanh mười bữa, tuy vậy trái tim của cô vẫn không dứt nên cô hay yếu và mệt, song cô xin chồng đem cô về nhà đặng cô nằm cho thong thả.
Về nhà vợ chồng vui vẻ hết sức, cứ thay phiên nhau mà bồng con, nhứt là cô Nhung thương con quá, nhiều khi chồng đi dạy học, cô ở nhà bồng con ngồi nhìn trót giờ mà không biết mỏi, nhìn rồi cô lại cảm xúc nên ứa nước mắt. Tại cô thấy con là kết quả rõ ràng về cái ái tình của cô mà cô cảm, hay là tại cô thấy con rồi cô lo sợ về cái đời tương lai của con nên cô cảm. Nếu lúc ấy ai cắc cớ hỏi cô như vậy thì cô không biết sao để trả lời, cô chỉ biết rằng hễ cô ở nhà một mình với con, hoặc ban đêm cô thức dậy cho con bú, cô nhìn một hồi thì cô hồi hộp trong lòng, lo sợ buồn thương lẫn lộn.
Vì trong mình đã có bịnh sẵn lại thêm sanh sản, mà cũng vì tiền bạc khiếm khuyết nên thuốc men luốt lát, bởi vậy thân thể cô Nhung ngày một thêm ốm, mặt mày của cô ngày một coi thêm mệt. Tuy cô biết trong mình có bịnh nhiều, sợ không thể sống lâu được nhưng mà cô không dám nói cho chồng biết, trước mặt chồng cô cứ làm ra vui cười luôn luôn.
Tuy vậy Như Thạch vì thương vợ nên không cần vợ nói chàng cũng đã hiểu biết, bởi vậy trong bụng chàng lo sợ lung lắm.
Một đêm cô Nhung để con Thanh Nguyên nằm ngoài ván rồi cô ngồi một bên coi chừng muỗi cho con ngủ. Như Thạch bưng đèn lại gần và chàng ngồi phía bên này ngó con với vợ. Vợ chồng nhìn con rồi nhìn nhau, bỗng sanh trong lòng mối cảm tình nồng nàn thiệt là khó chịu, song nói ra không được.
Cách một hồi lâu Như Thạch day mặt vô vách mà nói:
- Thanh Nguyên còn nhỏ quá mà em bịnh một ngày một thêm nhiều, anh nghĩ tới đường tương lai anh buồn hết sức.
- Anh sợ em chết à? Em không chết đâu, xin anh đừng lo. Em thương chồng thương con, có lẽ nào em đành chết mà bỏ hai cục thương của em đó cho được.
- Sống thác đều tại số mạng, có phải em muốn mà được đâu em.
- Số mạng là gì? Ấy là hai chữ để kẻ yếu trí đặt ra đặng khỏa lấp che đậy thói nhu nhược của họ. Anh phải cương quyết, phải dạn dĩ đặng chống cự với cuộc đời, chẳng nên thấy khổ mà ngã lòng thối chí.
- Không, anh có ngã lòng thối chí đâu, dầu đến chừng nào anh cũng còn can đảm đối phó với nhân tình thế cuộc luôn luôn. Tiếc vì bịnh hoạn mình biết làm sao chiến thắng nó cho được, vì vậy nên anh mới lo sợ chớ.
- Ví dầu em phải chết đi nữa, xin anh cũng cứ vững lòng mạnh dạn bước tới, đừng buồn rầu đừng nhút nhát.
- Không nhút nhát thì được, chớ không buồn rầu sao được! Hai đứa mình đồng tâm quyết chí nắm tay nhau đồng bước trong một đường mới, ví như một đứa ngã, đứa kia bơ vơ không nhớ thương buồn rầu sao được.
- Như em có chết, thì còn con Thanh Nguyên đó nó là dấu tích của em, có lẽ nó cũng đủ làm cho anh vui với sự sống tự do, cứng cỏi, ngay thẳng, trong sạch được vậy chớ. Mà em phải sống đặng giúp anh nuôi con rồi dạy cho nó kế chí của vợ chồng mình, em không chết đâu.
- Anh van vái cho được như lời em nói đó.
Như Thạch ngó vợ ngó con rồi chảy nước mắt.
Tuy cô Nhung nói cứng cỏi như vậy, mà sự muốn không thắng nổi chứng bịnh. Bởi vậy con đẻ vừa đầy mấy tháng thì bịnh cô trở nặng, mỗi ngày mệt đến mấy lần, và mỗi lần mệt thì tưởng cô phải tắt hơi.
Một đêm, biết trong mình cô đã hấp hối, cô bèn kêu chồng bồng con đem lại cho cô hun. Cô nằm một tay ôm con, một tay níu chồng, cô hun con hai ba cái, rồi cô hướng mặt nhìn con và chồng trân trân, giọt lệ tuôn ra chảy ướt hai gò má cô. Cô mệt lắm, song ráng nói nho nhỏ: "Em xin anh tha lỗi cho em... Em đã hứa đi với anh cho cùng đường, mà nay em phải bỏ anh giữa chừng, ấy tại bịnh hoạn nó giết em, chớ không phải em sợ khổ cực hay là thấy sự nguy hiểm mà trốn lánh... Em chết thiệt em tức lắm, tức vì không được tiếp với anh mà phá hủy những chế độ hẹp hòi của gia đình xã hội, tức vì không được dạy cho con biết kế chí của vợ chồng ta..."
Cô Nhung nói đến đó, thì mệt quá, nói không được nữa. Như Thạch đau đớn chịu không được, chàng cúi mặt xuống hun vợ, bốn giọt nước mắt hòa lộn với nhau.
Đến khuya cô Nhung tắt hơi.
Sáng bữa sau Tự Cường hay tin vội vã vô thăm. Chàng chắc Như Thạch túng tiền, nên đưa một trăm đồng bạc cho Như Thạch lo liệu tống táng cho cô Nhung.
Chôn vợ rồi Như Thạch kiếm vú mướn nuôi Thanh Nguyên. May lúc ấy chị Thì ở gần, mới sanh con được ba tháng kế con chết, nên chị mới còn sữa, Như Thạch cậy chị đem Thanh Nguyên về nuôi giùm mỗi tháng trả tiền cho chị 6 đồng bạc.
Vợ chết rồi thì sự sống của Như Thạch chẳng còn một chút gì vui vẻ nữa. Mỗi ngày chàng kêu chị Thì đem Thanh Nguyên lại cho chàng bồng giây lát, đặng nhìn mặt con cho giảm bớt nỗi buồn, té ra ngó con chừng nào thì càng nhớ vợ thêm chớ không giảm được.
Có khi chàng nhớ tới mẹ thì chàng đau đớn về sự chàng làm cho mẹ giận hờn. Nhưng đau đớn về cái lỗi của chàng, lại cũng đau đớn về sự nghiêm khắc của mẹ, nên chàng ôm lòng mà chịu, không tính trở về thú tội.
Vì trong mình đã mang sẵn bịnh lao, nay gặp sự buồn rầu dồn dập, nên bịnh càng ngày càng thêm hoài. Cô Nhung chết chưa được 5 tháng thì Như Thạch ốm như tàu lá, không thể đi dạy học được nữa. Chàng biết không sống lâu được nên một đêm chàng nằm thao thức, trong trí nhớ đường kia nẻo nọ, rồi chàng ngồi dậy đốt đèn viết một bức thơ gởi về cho mẹ mà thưa cho mẹ hay rằng mình sắp chết và xin mẹ tha lỗi. Thơ gởi đi rồi thì bịnh càng nặng thêm hoài. Cách 10 bữa sau, Như Thạch nằm liệt, Tự Cường có đến thăm thì chàng nằm nói chuyện chớ không dậy nổi.
Một buổi chiều, chị Thì bồng Thanh Nguyên lại thăm. Như Thạch ngó con rồi khóc, chớ không bồng con được.
Đêm ấy chàng ráng ngồi dậy rồi đi lại bàn viết lấy giấy viết, ngồi viết trót hai giờ đồng hồ. Viết rồi chàng lấy một cái bao thơ lớn bỏ vô, lại soạn giấy tờ trong tủ lấy 3 tờ khác và đút chung vô đó nữa.
Dán bao thơ kín đáo, lại lấy bánh kiến gắn thêm phía sau cho chắc chắn rồi mới viết mấy hàng chữ ngoài bao.
Chàng viết rồi thì mệt đuối, nên lần đi lại bộ ván mà nằm, để cái bao thơ hồi nãy dựa bên mình.
Qua ngày sau, Như Thạch biểu thằng Sung, là đứa tớ, ra trường "Vân Thế" đón mời Tự Cường vô cho chàng nói chuyện.
Tự Cường mỗi ngày đều có vô một lần đặng lo thuốc men cho bạn, biết bạn không còn sống lâu nữa được, nên được tin mời thì lật đật vô liền.
Như Thạch thấy Tự Cường thì sai thằng Sung đi kêu chị Thì bồng Thanh Nguyên lại.
Tự Cường kéo ghế ngồi một bên Như Thạch và hỏi:
- Bữa nay anh nghe trong mình có khỏe hơn hôm qua hay không?
- Tôi mệt lắm, chắc giờ chết đã gần tới rồi!
- Tôi coi anh còn tinh thần nhiều. Chưa chết đâu. Xin anh hãy vững lòng đừng lo sợ.
- Nếu tôi còn tinh thần nhiều, ấy là vì tôi còn chút nợ đời bận lòng tôi, nên tôi nhắm mắt chưa được.
Như Thạch nói mới mấy câu mà đã mệt, nên nằm yên. Tự Cường thấy vậy không muốn nói chuyện nữa, nên định đứng dậy. Như Thạch khoát tay tỏ ý muốn Tự Cường cứ ngồi đó, chàng nằm nghỉ một chút rồi nói tiếp:
- Tôi mời anh vô đây là vì tôi có một tâm sự cần phải tỏ gấp với anh.
- Anh cứ nói đi, tôi sẵn lòng nghe.
- Khi mới quen nhau tôi có tỏ cho anh biết rằng vì tôi theo cái thuyết tự do kết hôn nên bà già tôi giận, không thèm nhìn tôi là con.
- Phải. Anh có nói với tôi rồi.
- Cách mười bữa trước tôi biết tôi sẽ chết gấp, nên tôi có viết thơ từ giã và xin lỗi bà già tôi. Tôi có nói tôi có một đứa con, như bà già tôi còn nghĩ tình máu thịt, thì cho người lên đem về mà nuôi, chớ hễ tôi chết rồi con tôi nó sẽ bơ vơ, vô gia đình, vô thân tộc... Tới bữa nay mà không thấy tin tức gì hết... Chắc bà già tôi bỏ đứt tôi, mà cũng không thèm nhìn con tôi.
- Sợ thơ lạc, hoặc dưới nhà không biết anh ở đâu mà kiếm.
- Thơ không thể lạc được. lại trong thơ tôi biên chỗ tôi rành rẽ... Chắc bà già tôi còn giận nên tuyệt luôn... Có lẽ xưa nay anh đã thấy rõ thái độ của tôi. Tôi thung dung chờ ngày chết. Chẳng lo sợ chút nào hết. Tôi chỉ buồn có một việc là khi tôi chết đi rồi con Thanh Nguyên của tôi đây rồi tôi bỏ nó cho ai.
- Xin anh đừng thêm lo, đến giờ cuối cùng phải để chí cho bình tịnh. Nếu không ai nhìn nhận con Thanh Nguyên thì tôi lãnh nuôi cho.
Như Thạch mở cặp mắt chỏi hỏi mà ngó Tự Cường rồi cười nói tiếp:
- Tôi cảm tình anh lắm. Nếu được vậy thì tôi chẳng còn chút gì bận lòng nữa. Tôi mời anh vô đây là có ý muốn nói chuyện đó với anh. Hổm nay tôi không nói là vì tôi còn tưởng má tôi hoặc chị tôi lên đem nó về nuôi. Hồi chiều hôm qua chị vú bồng con tôi lại, tôi thấy mặt nó, rồi tôi nhớ ở dưới nhà không ai lên, thì tôi cảm động hết sức. Đêm hồi hôm tôi không ngủ được, tôi ráng ngồi viết một tờ di ngôn mà để lại cho con. Nếu anh sẵn lòng thế cho tôi mà nuôi giùm con tôi, thì tôi giao giấy tờ trong bao thơ nầy cho anh. Xin anh cất giùm, chừng nó được 18 tuổi có đủ trí khôn rồi anh sẽ trao cho nó.
- Tôi hứa chắc với anh rằng tôi sẽ hết lòng nuôi con Thanh Nguyên cũng như anh nuôi vậy. Anh hãy an tâm, đừng lo chi hết.
- Cám ơn anh.
Như Thạch lấy cái bao thơ niêm hồi hôm đưa cho Tự Cường rồi ngoắt chị vú biểu đem Thanh Nguyên lại, chàng với ôm đầu con hun và nói: "Thôi, cha từ giã con, tên con là Thanh Nguyên vậy chừng con khôn lớn con phải trong sạch như nước trong nguồn, đừng nhiễm một chút bụi trần nào hết, tuy cha chết, nhưng mà con đã có cha khác lãnh nuôi con, dạy con, cũng như cha còn sống vậy. Con không đến nỗi thất dưỡng thất giáo đâu mà lo". Như Thạch nói dứt rồi, bèn xô con lại cho Tự Cường mà nói: "Đây tôi giao con tôi cho anh đây, xin anh lãnh lấy". Tự Cường đưa tay ra bồng Thanh Nguyên và để cái bao thơ trước ngực con nhỏ mà nói: "Con đừng có buồn, ba sẽ thương yêu con bảo hộ con, cũng như cha đẻ của con vậy".
Con Thanh Nguyên không hiểu chi hết, nó thấy lộn xộn thì nó ngó Như Thạch rồi ngó Tự Cường ngó quanh quất, rồi lại chành miệng cười hịt hạt.
Như Thạch phỉ tình, nên nằm thơ thới, bộ bớt mệt. Thanh Nguyên đòi bú nên chị vú lãnh lại và bồng đi ra ngoài.
Tự Cường hỏi Như Thạch:
- Anh còn muốn dặn điều gì nữa hôn?
- Còn. Tôi xin anh hai điều này:
1. Hễ tôi chết rồi, thì anh phải giấu con Thanh Nguyên mà nuôi, dầu bà con thân tộc của tôi năn nỉ thế nào anh cũng đừng cho họ lãnh.
2. Nuôi con Thanh Nguyên, thì anh đừng cho nó biết căn nguyên của nó, anh cứ xưng anh là cha đẻ nó, chừng nào nó đúng mười tám tuổi anh sẽ đưa cái bao thơ cho nó. Nó đọc tờ di ngôn của tôi rồi nó liệu định thế nào tự ý nó.
- Tôi sẽ làm y theo lời anh dặn. Còn về cách giáo dục như anh có dặn điều gì chăng?
Như Thạch nằm ngẫm nghĩ một chút rồi mới đáp: "Anh quang thông triết lý, tâm lý học. Vậy dạy dỗ con Thanh Nguyên, tôi ưng để cho anh tự do mà liệu định. Tuy vậy mà tôi xin anh, dầu anh khiến cho nó đi đường nào, anh cũng ra công sửa vỗ cái óc nó cho trong sạch, cho cao thượng, đừng cho nhiễm những thành kiến hủ bại của xã hội".
Tự Cường gật đầu vừa cười vừa nói: "Tôi khen anh lắm. Đến ngày cuối cùng mà anh không nao lòng không đổi chí. Tôi sẽ ráng sửa chí con Thanh Nguyên giống như chí của anh".
Như Thạch nghe mấy lời thì hớn hở, tuy hấp hối mà mặt còn tỉnh táo lắm.
Tự Cường không nỡ lìa bạn, nên viết giấy rồi sai thằng Sung đem ra trường xin phép ông hiệu trưởng đặng ở lại đó cho Như Thạch vui lòng.
Đêm đó Như Thạch tắt hơi.
Tự Cường đứng lo tống táng. Chàng cậy ông hiệu trưởng trường "Vân Thế" đứng cáo phó giùm cho thiên hạ hay Như Thạch chết, bởi vậy tờ ai phó nầy không giống với tờ ai phó khác thường không có biên tên cha mẹ, anh em, vợ con.
Nhờ tờ ai phó ấn hành trong nhựt báo, nên ông huyện Khoan hay, bữa tống chung có ông đến dự lễ với ông hiệu trưởng và các giáo sư trường "Vân Thế".
Tại Tôi
VI
Hội đồng Quyền ăn cơm trưa rồi thầy ra đứng trước thềm xỉa răng và ngắm cảnh vật. Tên trạm làng đem tờ nhựt trình "Lục tỉnh" lại phát cho thầy.
Thầy lấy tờ nhựt trình rồi thủng thẳng trở vô nhà. Thầy đốt một điếu thuốc rồi kéo ghế ngồi và mở nhựt trình ra coi. Thầy mới coi một chút thì vùng đứng dậy ngó cô Hội đồng đương ngồi trên ván phía trong mà la lớn rằng: "Trời đất ơi! Thằng Thạch chết rồi!".
Cô Hội đồng chung hửng hỏi rằng:
- Thạch nào?
- Thằng Thạch của chị Cả chớ Thạch nào?
- Úy! Cha chả! Chết hồi nào ở đâu?
- Nhựt trình nói chết tại Bà Chiểu, chết đêm hai tây, qua bốn tây chôn.
- Bữa nay mấy tây?
- Bữa nay năm tây. Chôn hôm qua rồi. Khốn nạn quá!
- Tôi sợ Thạch nào đó, chớ thằng Ba còn nhỏ, lại nếu nó có đau nó cũng cho mình hay chớ.
- Nó mà! Nhựt trình nói rõ rằng: Lý Như Thạch giáo sư trường "Vân Thế" thì là nó chớ ai.
- Bất nhơn dữ hôn! Vậy mà xưa rày tưởng nó giận chị Cả nó trở ra ngoài Bắc chớ.
- Thì lúc nó mới đi, nó có gởi về cho tôi một cái thơ. Nó không có nói nó sẽ đi đâu. Tôi cũng tưởng nó dắt vợ nó ra Bắc, chớ ai dè nó ở trên Bà Chiểu.
- Không biết chị Cả hay rồi chưa?
- Chắc là chỉ chưa hay. Nếu hay lẽ nào chỉ không cho mình hay. Để tôi vô trong chỉ coi.
- Cha chả, chỉ hay đây chắc chỉ rầu lắm.
- Vậy cho sáng con mắt chỉ. Có một đứa con trai mà ở nghiêm khắc với nó quá lẽ.
- Mình đi vô trỏng tôi cũng đi nữa. Vô thăm chỉ một chút.
Thầy Hội đồng không kịp thay đồ. Thầy lấy nón trắng đội lên đầu rồi cầm tờ nhựt trình ra đi. Cô Hội đồng che dù đi theo, cũng không thay áo đổi quần kịp.
Buổi trưa, bà Cả Kim nằm ngửa trên bộ ván dựa cửa sổ phía trước biểu con Tý nhổ tóc ngứa. Hữu Nghĩa ăn cơm rồi dắt vợ con xuống ghe đi vô làng Định Môn thăm ruộng. Tôi tớ đều làm công việc ở nhà sau, nên phía trước vắng teo.
Từ ngày Như Thạch bị đuổi đi rồi, thầy Hội đồng Quyền phiền bà Cả và ghét vợ chồng Hữu Nghĩa nên thầy ít vô. Bữa nay thầy buồn mà lại bực tức nữa, nên bước lên thềm thầy đi mạnh chân, tiếng giày kêu lớn. Bà Cả giật mình lồm cồm ngồi dậy. Bà thấy dạng vợ chồng Hội đồng thì bà mừng nên lật đật bới đầu và nói lớn rằng: "Vô chơi sao mà đi trưa nắng quá vậy?"
Thầy Hội đồng đứng ngó ngay chị mà hỏi: "Thằng Thạch nó chết rồi! Chị hay chưa?"
Bà Cả biến sắc hỏi lại:
- Hả? Chết ở đâu sao cậu nó lại hay?
- Tôi đọc nhựt trình đây tôi mới hay chớ. Để tôi đọc cho chị nghe:
"Ông hiệu trưởng và các giáo sư trường tư thục Vân Thế lấy làm đau đớn báo cáo rằng ông Lý Như Thạch, giáo sư tại trường ấy, đã tỵ trần tại biệt xá của ông, ở Bà Chiểu, trong đêm 2 Janvier 19... hưởng được 25 tuổi.
"Lễ an táng cử hành ngày 4 Janvier 19... đúng 7 giờ sớm mơi tại căn phố phía sau rạp hát thầy Cai".
Thầy Hội đồng đọc dứt rồi, thầy ngó bà Cả mà nói: "Rõ ràng hay chưa Lý Như Thạch, giáo sư là thằng Ba chớ ai!"
Bà Cả sửng sốt, bà ngồi trân trân, không nói được tiếng chi hết, lõ cặp mắt chao oãu, nhỏ hai giọt nước mắt chảy dài xuống hai gò má.
Cô Hội đồng để cây dù trên ván, rồi cô vén áo ngồi sau lưng chị lấy khăn lau nước mắt, cô cũng không nói được một lời.
Trong nhà nằng nặng chứa đầy không khí buồn thảm, làm cho sự đau đớn ba chị em càng thêm nặng nề khó chịu.
Thầy Hội đồng quăng tờ nhựt trình trên bàn, kéo một cái ghế ngồi ngang đó rồi thủng thẳng nói rằng: "Đã biết mạng số cùng rồi thì ở đâu cũng phải chết. Nhưng mà chết ở đất khách quê người, cha mẹ bà con không được thấy mặt, thiệt tức quá. Chớ chị nghe lời tôi thì đâu có tai họa khốn nạn như vầy!"
Bà Cả thở một hơi dài rồi nói: "Tại tôi, tại tôi nên con tôi mới chết!".
Thầy Hội đồng thấy chị đã tự hối, thầy không nỡ trách nữa, song trong lòng thầy vẫn còn đau đớn quá, nên thầy hỏi rằng:
- Bây giờ chị tính sao đây?
- Cậu tính làm sao thì tính giùm, chớ tôi còn biết làm sao mà tính.
- Nó chết đã chôn hồi sớm mơi hôm qua rồi... Tuy vậy mà mình cũng phải lên Bà Chiểu, hỏi thăm coi nó đau bịnh gì mà chết, mồ mả nó nằm ở đâu, chớ bây giờ tính bỏ luôn hay sao.
- Đi thì đi. Cậu nó đi giùm với tôi, chớ tôi đi một mình lên trển tôi có biết chỗ nào đâu mà hỏi thăm.
- Vợ chồng thằng Xã đi đâu mà nãy giờ không thấy mặt? Hay tin thằng Thạch chết, ai buồn thì buồn, chớ con Phụng có buồn đâu. Thương yêu gì mà buồn.
- Vợ chồng nó mới đi vô trong đồn điền Định Môn.
Thầy Hội đồng ngẫm nghĩ một chút rồi nói: "Thế nào tôi cũng phải đi. Tưởng có thằng Xã ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Nó đi khỏi thì thôi. Còn chị đi, tôi tưởng không ích gì. Thôi, chị ở nhà, để tôi đi lên trển tôi hỏi thăm coi công chuyện ra làm sao, tôi tìm vợ nó đặng tôi biểu chỉ mồ mả cho tôi biết, rồi sau tôi sẽ dắt chị lên đặng mướn làm mả cho nó".
Cô Hội đồng tiếp nói: "Ở nhà em nói phải lắm. Thôi, để ổng đi trước một mình lên hỏi thăm coi, rồi chị sẽ đi. Chừng chị đi, em sẽ đi với chị".
Bà Cả ngồi lặng thinh một hồi rồi mới nói: "Cậu tính như vậy cũng được. Thôi, đi trước một mình lên trển coi, chớ tôi đi theo, lên đó chắc là tôi không chịu nổi. Cậu phải ráng kiếm giùm con vợ nó mà dắt về đây đặng tôi hỏi thăm cho rõ ràng, chớ chết như vậy thì tức quá".
Thầy Hội đồng đứng dậy nói: "Thôi để tôi đi thẳng vô chợ Ô Môn mướn một cái xe hơi rồi tôi chạy về nhà thay đồ đặng đi liền". Thầy Hội đồng đội nón ra đi.
Bà Cả kêu nói:
- Cậu nó lấy bạc bỏ theo lưng đặng trả tiền xe chớ.
- Thôi, tôi có bạc sẵn đây, chị đừng lo.
- Cậu nó đi thì về mau mau, ở nhà tôi trông lắm.
- Bề nào cũng ngày mai tôi về mới tới chớ.
- Nhớ kiếm con vợ nó, nghe hôn.
- Việc đó là việc cần nhứt, quên làm sao được.
Thầy Hội đồng đi rồi, thì cô Hội đồng ở lại đó mà hú hí với chị cho chị bớt rầu. Tôi tớ trong nhà nghe tin chẳng lành ấy thì xì xầm truyền ngôn với nhau, cách một giờ sau chòm xóm hay hết, nên tựu lại hỏi thăm.
Cô Hội đồng ở tới tối, vợ chồng Hữu Nghĩa đi Định Môn về rồi, cô mới chịu về nhà. Sáng bữa sau cô trở vô sớm mà đón chồng về coi công chuyện ra thế nào. Ông Chánh bái Thành cũng lại ngồi đó mà chờ tin.
Đến chiều, thầy Hội đồng về mới tới.
Bà Cả thấy thầy bước vô nhà có một mình, bà chảy nước mắt mà hỏi:
- Nó đau bịnh gì mà chết vậy? Kiếm không được vợ nó hay sao?
- Vợ nó đâu mà kiếm!
- Nó về ngoài Bắc rồi hay sao?
- Nó đã chết năm sáu tháng nay rồi.
- Úy cha chả, vợ nó cũng chết nữa.
- Chớ sao? Công chuyện nghe thảm thiết hết sức, để rồi tôi thuật lại cho chị nghe.
Thầy Hội đồng ngồi tại bàn giữa với ông Chánh bái, kêu sơp-phơ vô trả tiền xe, trong nhà lặng trang, ai nấy đều ngồi im lìm chờ nghe tin tức, duy chỉ có Hữu Nghĩa đi rót một tách nước trà bưng lại để trước mặt thầy Hội đồng.
Sơp-phơ lấy tiền đi rồi, thầy Hội đồng mới nói:
"Hôm qua 4 giờ chiều. Tôi lên mới tới Bà Chiểu. Tôi đi lại dãy phố ở phía sau rạp hát thầy Cai mà hỏi thăm. Họ chỉ căn phố của thằng Ba ở cho tôi coi, mà họ nói chôn nó rồi thì có một ông giáo sư trường Vân Thế chở đồ đạc đi hết rồi trả phố lại cho chủ, nên bây giờ phố bỏ trống. Tôi hỏi thăm vợ nó, thì họ nói cách năm sáu tháng trước vợ nó đẻ một đứa con gái, đẻ được đâu chừng một tháng thì vợ nó đau tim mà chết. Nó mướn một người vú nuôi con nhỏ, người vú tên Thì, hồi trước cũng ở gần đó. Hôm kia chôn nó rồi, thì vợ chồng người vú dọn đồ đi chỗ khác, không biết ở đâu".
Bà Cả khóc và nói: "Té ra nó có con".
Thầy Hội đồng gật đầu.
Ông Chánh bái nói: "Vợ chồng nó chết hết, mà nó có con, thì mình phải đem con nó về nuôi chớ. Người vú dọn nhà ở chỗ khác, nên mình ráng hỏi thăm, thì có lẽ cũng phải ra mối. Họ nói có ông giáo sư nào dọn đồ đạc của nó chắc ông cũng lãnh nuôi giùm con nó chớ gì. Sao cậu Hội đồng không kiếm giáo sư đó hỏi rồi đem con nhỏ về cho thiếm Cả.
Thầy Hội đồng đáp: "Tôi có đi kiếm chớ. Nhờ có đi kiếm nên tôi mới biết nhiều việc đáng buồn lắm".
Bà Cả hỏi:
- Mà thằng Ba tôi nó đau bịnh gì nó chết gấp vậy?
- Đau lâu lắm mới chết, chớ có chết gấp đâu chị? Nó mang chứng bịnh ho lao đã lâu rồi, vì buồn rầu, vì không có tiền uống thuốc, lần lần thân thể gầy mòn nên mới chết chớ.
- Bất nhơn quá! Chớ chi nó đau nó cho mình hay, thì có lẽ nào chết như vậy.
- Có! Nó có cho hay. Để tôi thuật lại hết công chuyện cho chị nghe. Hỏi trong Bà Chiểu rồi tôi trở ra Tân Định kiếm trường Vân Thế. Tôi hỏi thăm thì ông hiệu trưởng nói thằng Ba dạy trường ông hơn 10 tháng rồi.
- Từ ngày nó đi cho tới bữa nay thiệt đã hơn 10 tháng. Té ra lên Sài Gòn rồi nó vô trường đó mà dạy, chớ có trở ra ngoài Bắc đâu.
- Phải, chị đuổi nó thì nó lên đó xin dạy học liền. Tới bây giờ tôi mới hay, chớ xưa rày tôi cũng tưởng nó ra Bắc. Tôi hỏi ông hiệu trưởng vậy vợ chồng nó đau bịnh gì, mà chết hết, còn con của nó, nó có gởi cho ai nuôi giùm. Ông hiệu trưởng nói có ông giáo sư Tự Cường là bạn thân thiết của nó, lúc nó đau ổng săn sóc, lúc nó chết ổng lo tống táng, vậy tôi phải hỏi ông ấy mới rõ được. May lúc ấy mãn giờ học, ông hiệu trưởng bèn cho ông Tự Cường lại phòng khách cho tôi hỏi thăm. Ban đầu ổng dè dặt, tôi hỏi ông nói lơ là, coi bộ không chịu nói rành việc gì hết. Tôi mới nói tôi là cậu ruột của Như Thạch, tôi thương nó lắm, hồi nó dắt vợ nó về Ô Môn, chị rầy rà thì tôi can gián hết sức. Bữa chị đuổi nó đó tôi không hay mà xưa rày tôi vẫn tưởng vợ chồng nó trở ra Bắc, chớ chi tôi hay nó lên Sài Gòn mà dạy học thì tôi đã đem vợ chồng về tôi nuôi, rồi tôi bao bọc cho nó làm ăn. Nghe nói vậy ông Tự Cường mới chịu nói thiệt. Ông nói thằng Ba bị chị đuổi thì nó lên Sài Gòn xin vô trường Vân Thế liền. Vì ăn lương ít nên vợ chồng phải vô ở một căn phố chật hẹp trong Bà Chiểu. Nó nghèo cực lung lắm, vợ nó có nghén mà lại đau tim nữa. Đẻ một đứa con gái đâu được một tháng thì vợ nó chết. Nó phải mướn vú nuôi con, mà nó cũng đã mang bịnh ho mấy tháng trước rồi. Phần buồn việc gia đình, phần không có đủ tiền uống thuốc, nên bịnh càng ngày càng thêm nặng rồi mới chết, nó chết thì anh em đồng nghiệp hùn tiền mà chôn cất nó. Vì không biết bà con nó ở đâu đặng cho hay, nên anh em mới cậy ông hiệu trưởng ấn hành tờ ai phó trong nhựt trình, lại xin chở bàn ghế chút đỉnh đem về trường mà gởi. Như tôi muốn lãnh đồ ấy thì nói với ông hiệu trưởng lãnh về, ông Tự Cường lại dắt tôi vô trong ngã năm Gia Định chỉ mồ mả của vợ chồng nó cho tôi biết, ổng có mướn làm trụ đá cắm trên đầu mả rành rẽ lắm. Bà Cả nghe nói tới đó thì bà khóc rống lên nghe rất thảm thiết. Ông Chánh bái với vợ chồng thầy Hội đồng cảm động nên cũng chảy nước mắt.
Ông Chánh bái hỏi: "Sao cậu không hỏi ông Tự Cường coi bây giờ con nó ở đâu?".
Thầy Hội đồng trợn mắt đáp: "À, nãy giờ tôi thuật chuyện lại mà tôi bỏ sót việc ấy".
- Tôi có hỏi chớ. Ông Tự Cường nói cách 10 ngày trước thằng Ba nó biết nó sẽ chết, nên nó có viết thơ về mà xin lỗi chị Cả. Trong thơ nó có nói chuyện đứa con của nó. Nó đợi hoài, không thấy bà con ai lên hết, nó chắc chị Cả bỏ đứt nó, nên nó phải kêu người ta mà cho đứa nhỏ. Nó cho ai ông Tự Cường không hiểu, nên ông không biết đâu mà chỉ. Ông Tự Cường nói quả quyết với tôi rằng cách mười bữa trước ngày thằng Ba chết, nó có gởi thơ về cho chị Cả. Vậy chớ chị Cả không có được cái thơ đó hay sao?
Bà Cả đáp: "Từ ngày nó ra đi cho tới bây giờ, tôi có được cái thơ nào của nó đâu?"
Thầy Hội đồng châu mày nói: "Không, mới mười mấy bữa rày đây chị không có được thơ của nó hay sao? Thơ nó gởi có lý nào lạc được. Hay là thơ lại, chị không có ở nhà, rồi vợ chồng thằng Xã bỏ dẹp đâu đó chớ gì. Con Hai a, hổm nay có thơ nào gởi lại cho chị Cả hay không vậy cháu. Cháu nhớ lại coi?".
Cô Phụng đương ngồi phía sau lưng bà Cả, nghe hỏi thì cô đứng dậy nói không có, nhưng mà lời nói nghe yếu xịu, lại bộ tịch bợ ngợ lắm.
Thầy Hội đồng trợn mắt nói:
- Không lý không có, ông Tự Cường nói thằng Ba có trối với ổng, nó nói cách mười bữa trước nó có gởi thơ về cho chị Cả hay nó gần chết và xin chị Cả lên đem con nó về nuôi. Nó đợi hoài không thấy ai hết nên nó phải kiếm người mà cho con nó. Cháu nhớ lại coi, chừng mười mấy bữa rày đây có được cái thơ nào hay không?
- Thưa... cháu không thấy.
- Hứ? Kỳ quá, đâu cháu kêu hết bầy trẻ ở trong nhà ra đây cho cậu hỏi coi, kêu hết ra đây.
Cô Phụng vâng lời kêu con Tý, chú Hưng, chị Thình ra đủ mặt. Thầy Hội đồng hỏi: "Cách chừng mười bữa rày hoặc nửa tháng nay, đứa nào có thấy trạm đem thơ lại đây hay không? Bây nhớ coi".
Chú Hưng nhanh nhẩu nói: "Thưa có. Hôm trước tôi đứng ngoài cửa ngõ, trạm có đưa tôi một cái thơ. Tôi đem vô nhà, cậu Xã đi khỏi, bà mắc nghỉ trưa nên tôi đưa cho cô Hai".
Thầy Hội đồng ngó cô Phụng, cô ngó chú Hưng hỏi:
- Đưa hồi nào đâu?
- Cô đương nằm trên võng tôi đưa thơ cho cô đó, cô quên hay sao?
- Ờ ợ? Chuyện đó lâu rồi mà.
- Không, mới chừng mười mấy bữa rày đây mà.
- Ơ ờ. Tôi nhớ rồi, hôm trước cha thằng Nhơn đi khỏi, chú Hưng đưa cho tôi một cái thơ. Tôi bỏ vô trong tủ, tôi tính để cha thằng Nhơn về tôi sẽ biểu đọc coi thơ của ai, hổm rày tôi quên. Để tôi kiếm lại coi cái thơ còn đó hay không.
Cô Phụng đi vô buồng. Hữu Nghĩa ngồi tại bàn viết gục mặt, không nói chi hết.
Thầy Hội đồng nóng nảy ngồi không được, thầy đứng dậy ngó bà Cả mà nói: Chắc cái thơ đó rồi! Ăn ở như vầy thì giết người ta được! Khốn nạn quá!".
Bà Cả kêu nói: "Hai ạ, lấy đem ra đây cho mau đặng đọc nghe coi. Nếu bỏ trong tủ thì còn đó, chớ ai vô đây lấy".
Cô Phụng cầm cái thơ đem ra thì thơ đã xé bao rồi. Thầy Hội đồng biểu đưa cho thầy. Thầy cầm coi ngoài bao rồi nói: "Phải rồi chữ của thằng Ba đề bao đây. Mà thơ ai đã xé coi rồi đây mà".
Bà Cả muốn nghe coi con gởi nói việc gì, nên bà biểu: "Đâu cậu nó đọc thơ nghe coi mà".
Thầy Hội đồng rút thơ ra đọc:
THƯA MÁ
"Mấy tháng nay con mang một chứng bịnh không thể trị được, là chứng bịnh ho lao. Bịnh đã nặng lắm rồi, nên sự sống của con chắc chẳng còn bao lâu nữa.
Vợ của con cũng đã chết rồi, chết cách năm tháng trước, ấy vậy trong ít ngày nữa đây thì hai đứa ngỗ nghịch dám trái chế độ gia đình, đều phải bị trời phạt không cho ở thế gian nầy mà phản ngược với thành kiến của xã hội nữa.
Trước khi lìa cõi dương trần con viết thơ nầy kính gởi đôi lạy mà từ giã má và cúi xin má tha tội cho con là đứa không kể ơn sanh thành, làm cho má buồn má giận.
Sau nầy con xin thưa cho má hay: vợ chồng con có sanh một đứa con gái, hiện nay nó vừa mới được sáu tháng. Nếu má nhìn nhận nó có một phần máu thịt của má, hoặc là di tích của dòng họ LÝ thì má cho người lên đem nó về mà nuôi dưỡng chớ hễ con chết rồi thì nó sẽ trở nên một đứa vô gia đình, vô thân tộc.
Con cúi đầu vĩnh biệt má, ơn sanh thành con xin để kiếp sau con sẽ đền đáp".
LÝ NHƯ THẠCH
ở phố phía sau rạp hát thầy Cai
tại Bà Chiểu (GIA ĐỊNH)
BÁI THƠ
Thầy Hội đồng đọc thư rồi thì thầy châu mày đỏ mặt, la lớn rằng: "Phụng, thiệt rõ ràng vợ chồng mầy hiệp nhau mà giết em mầy. Ngày thằng Thạch dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ chồng mầy không có được một lời can gián. Khi nó gần chết, nó viết thơ nói như vầy, mà vợ chồng mầy giấu biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn quá. Nếu bây cho chị Cả hoặc cho tao hay thì tao lên tao rước em bây về dưới nầy mà nuôi nó, ví dầu nó phải chết đi nữa, thì cũng khỏi chết nơi đất khách quê người, lại con nó cũng khỏi phiêu lạc. Bây giờ biết con nó đâu mà tìm!... Tao hiểu hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây muốn ăn gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không cho bây trọn hưởng giàu sang đâu. Tao hứa chắc với bây tao sẽ cản đường bây. Tao sẽ kiếm con của thằng Thạch cho được tao mới nghe. Để tao cất cái thơ nầy đặng ngày sau tao đưa cho con của thằng Thạch nó coi cho nó biết lòng dạ của cô nó".
Thầy Hội đồng xếp thơ mà bỏ vô bốp phơi, bộ thầy giận lung lắm.
Hữu Nghĩa với cô Phụng mặt mày tái xanh, ngồi nín thinh, không chối cãi một lời nào hết.
Bà Cả cứ ngồi khóc, nước mắt tuôn dầm dề. Bà nói bệu rằng: "Thôi, tại tôi hết thảy. Cậu nó nóng giận rầy rà, bây giờ thằng Thạch cũng không sống lại được. Thôi để giúp tôi mà lo làm mồ mả cho vợ chồng nó hoặc xin lấy cốt đem hết về dưới nầy cho nó nằm một bên cha nó. Tôi cũng còn cậy cậu nó làm sao kiếm giùm cho được con nhỏ đặng cho tôi nuôi. Máu thịt của tôi lẽ nào tôi bỏ cho đành".
Thầy Hội đồng cười gằn mà đáp: "Chị không cậy tôi cũng làm".
Tại Tôi
Đoạn Thứ nhì
VII
Dựa bên đường Phú Nhuận lên Gò Vấp gần tới cổng xe lửa, ngó bên phía tay trái thấy một vuông đất cao ráo rộng rãi, chung quanh trồng trúc bao kín mít. Chính giữa miếng đất ấy có một cái nhà ba căn, trên lợp bằng lá vách đóng bằng ván, nhưng nhà nhờ xây cao hơn 5 tấc lại lót gạch, có mấy khuôn cửa thì đóng lá sách lại sơn màu xám tro, nên cái nhà coi mát mẻ lại có vẻ vui và đẹp.
Cạnh hai bên cái nhà ấy, song sụt vô phía trong, lại có hai cái nhà nhỏ lợp ngói cũng vách ván, cái bên phía tay mặt thì là nhà để xe hơi, còn cái bên phía tay trái thì là nhà nấu ăn.
Từ ngoài hàng rào trúc dựa lộ vô tới thềm nhà lá thì có một cái sân rộng lớn, sân xẻ đường ngang đường dọc, dài theo mỗi đường trồng xoài mít xen lộn với nhau, mà sau những hàng cây ấy lại có xây bồn trồng bông đủ màu, đủ thứ, nhờ sẵn nước trong cái giếng ở góc rào, cất lên tưới mỗi ngày hai lần, nên dầu mùa nắng nóng bông cũng thường tươi tốt.
Cái cửa ngõ thì xây hai trụ gạch, lại xây trịch một bên, ngay cửa nhà xe, nên xe hơi ra vô rất tiện.
Cuộc nhà đất nầy là chỗ của ông giáo sư Tự Cường ở với con gái của ông là cô Thanh Nguyên, cha dạy học tại trường tư "Vân Thế" dưới Tân Định còn con đương học lớp triết học tại trường trung đẳng Chasseloup-Laubat dưới Sài Gòn. Ông Tự Cường mua đất cất nhà ở đây đã lâu rồi, nên rào trúc của ông trồng bao chung quanh lên đã cao và dày bịt, mấy hàng cây ông trồng trong sân đã có trái đều hết.
Bữa rằm tháng giêng, lối tám giờ tối, mặt trăng lên cao tỏ rạng, chói ngọn cây sáng hoắc, chói bồn bông long lanh. Gió chướng thổi hiu hiu, tuy bị hàng rào trúc đóng ngăn, song cũng còn có thể làm cho ngoài sân trong nhà đều mát mẻ.
Cô Thanh Nguyên, năm nay đã được 18 tuổi. Nhờ đến trường cô học siêng năng, ở nhà lại có cha dạy thêm, nên năm trước cô thi đậu Tú tài kỳ nhứt, hiện bây giờ cô học triết lý đặng ít tháng nữa thi kỳ nhì. Đêm nay ăn cơm rồi, cô ra ngồi tại cái băng trước sân, dưới gốc một cây xoài lớn, mà xem trăng trong, hứng gió mát.
Còn ông Tự Cường, ông chưa được 45 tuổi, tuy sức ông còn mạnh mẽ, da mặt còn thẳng băng, nhưng tóc của ông đã bạc hơn phân nửa, nên học trò thấy bộ tướng của ông đểu phải kính, phải trọng. Đêm nay cũng như mấy đêm khác, ăn cơm rồi ông nằm trên ghế xích đu, miệng ngậm điếu thuốc, tay cầm nhựt báo coi. Chẳng hiểu ông đọc nhựt báo, hay là ông thấy ngoài sân trăng trong gió mát ông cảm hứng, mà tứ bề đương vắng vẻ, thình lình ông cất tiếng lên ngâm lớn:
Trước lều có bóng nga thấp thoáng
Ngẫm việc đời ngao ngán nhân tình
Mấy ai rõ biết nhục vinh,
Khòm lưng cong gối, lợi danh là gì
oOo
Thú nhàn lạc có chi sánh kịp,
Chí thanh cao sự nghiệp nhà ta.
Ngoài hiên vườn trúc thướt tha,
Ngăn chừng xe ngựa, vẹt xa phong trân
oOo
Ngọn sông quí nào cần sông cạn,
Miễn có rồng ẩn dạng thì linh.
Thấp cao mình biết lấy mình,
Non xanh, nước bích, chung tình năm canh
oOo
Mặc ai trục lợi tranh danh
Ông Tự Cường ngâm tới đó, thì trước sân cô Thanh Nguyên lại cất lên ngâm tiếp:
Ngày xuân với gió xuân man mác
Thêm mùi đời bát ngát thơm tho
Được làm người phước trời cho,
Tội gì mà phải nằm co than thầm.
Mồi chung đỉnh nên tầm mà hưởng,
Thú cao sang há nhượng cho ai.
Phải vui cười phải nhảy bay,
Phải vui với tục, phải say với tình
oOo
Vòng cạnh tranh, lấy mình làm quí,
Kể nghĩa nhơn, luân lý làm chi.
Tìm đường sung sướng mình đi.
Miễn là tới chốn, thị phi mặc dầu
oOo
Đời người gẫm chẳng bao lâu
oOo
Thanh Nguyên ngâm mấy câu, rồi cô cười ngất và bươn bả đi vô nhà.
Nhờ ngọn đèn Manchon treo giữa nhà chói sáng nên bây giờ thấy hình dung mặt mày cô rõ ràng. Cô dong dảy yểu điệu, tướng thanh nhã, bộ nghiêm trang, tuy không dồi phấn thoa son, song tự nhiên da trắng nõn, môi đỏ lòm. Cô mặc bộ đồ pyjama hàng màu cà phê sữa, tóc bới theo điệu bôm bê, hai trái tai đeo hai chiếc bông kiểu tây lòng thòng. Tuy ở trong nhà cô không trang điểm, nhưng nhờ dáng cô dịu dàng, nhờ vóc cô tròn trịa, gương mặt sáng rỡ, nhứt là cô có cái vẻ vô tội, cái vẻ thiên chân, nên tướng mạo cô đẹp đẽ khác thường, lại thêm có duyên nữa nên trai nào thấy cô cũng phải liếc ngó, song ngó rồi khen thầm, chớ ít dám buông lời chọc ghẹo.
Cô Thanh Nguyên vô nhà đứng trước mặt cha vừa cười vừa hỏi:
- Ba nghe con ngâm mấy câu trái hẳn với ý của ba, chắc ba giận con lắm hả?
- Không, ba không giận, làm sao ba giận con cho được. Song ba buồn.
- Tại sao ba buồn?
- Ba buồn vì ba dạy dỗ con, đã mười mấy năm nay, công phu lắm, ba làm cho trí con minh mẫn được, làm cho con biết phân biệt cao thấp, khôn dại, dữ lành, mà ham cái khôn, cái cao, cái lành, và ghét cái thấp cái dại, cái dữ. Còn có một chút nữa, là cái lòng của con, ba không làm cho thoát khỏi lòng thế tục được, ba buồn là buồn chỗ đó.
- Ba muốn cho con thoát tục chi vậy? Con được sanh trong dương thế lại có phước được làm con người, thì con phải làm con người cho hoàn toàn đến 100 phần 100 chớ ba. Ai làm sao con phải làm như vậy, nếu thoát tục, không chịu như thiên hạ thì sự sống của con có vui vẻ gì đây?
- Những việc của thiên hạ làm có chỗ nào cao thượng đâu mà con mong làm theo họ? Những đường của thiên hạ đi có quãng nào sạch sẽ đâu mà con muốn đi theo họ?
- Con nói làm như thiên hạ là con tính chung lộn với họ, rồi tranh đấu hay bay nhảy mà làm cho sự sống của con được sung sướng, đẹp đẽ, vui vẻ mà thôi, dầu họ làm việc đê tiện, dầu họ đi đường dơ dáy thì mặc họ, trí ý của họ có can hệ gì đến con đâu mà ba ngại.
- Lội xuống vũng bùn, làm sao khỏi lấm chân cho được.
- Chớ đứng trên chỗ cao ráo, mà đứng một mình, thì làm sao mà vui được, lại biết lấy chi so sánh mà phân biệt thấp cao, dơ sạch. Con tưởng nên lội xuống dưới bùn với thiên hạ, song giữ gìn đừng để lấm chân, rồi khuyến khích thiên hạ làm như mình, thủng thẳng kéo vớt họ lên trên cao đứng với mình cho đông, được như vậy ở trên cao mình mới vui.
Tự Cường lắc đầu nói: "Hứ! Nói hơi giống rặc".
Thanh Nguyên chúm chím cười và hỏi: "Giống ai vậy ba?"
Tự Cường đáp: "Giống triết lý của phái vật chất".
Thanh Nguyên gật đầu và nói "mà lẽ có cũng giống chủ nghĩa của phái lãng mạn nữa a!"
Cô kéo một cái ghế lại để một bên cha mà ngồi, rồi một tay cô nắm cánh tay cha, một tay cô vuốt tóc của cha luôn mà nói dịu ngọt rằng: "Gió mát mẻ, trăng sáng loà, hoa thơm tho, đời vui vẻ quá. Thiên hạ họ đều đua nhau hưởng những thú sung sướng, những mùi ngọt bùi, tại sao ba không muốn con chung hưởng với thiên hạ?"
Tự Cường lắc đầu rồi thở dài đáp:
- Đó mới thiệt là lãng mạn! Mùi đời có ngọt bùi mà cũng có cay đắng, thú đời có sung sướng mà cũng có cực khổ. Ý ba muốn cho con khỏi chịu cực khổ cay đắng mà thôi chớ. Con còn trẻ tuổi, máu con còn nóng nảy, trí con còn hăng hái, nhứt là con chưa bước chân vào thế đạo, con chưa có kinh nghiện nên con thấy bề mặt của đời đẹp đẽ hớn hở con ham. Chừng một ít năm nữa, con lớn khôn, con nếm đủ mùi của đời, con thấy rõ bề mặt trái của xã hội rồi, con mới thấu hiểu cái lý thuyết của ba không phải dở.
- Tại ba thấy thiên hạ giả dối, không có liêm sỉ, không biết nhân nghĩa nên ba chán ngán, rồi ba không muốn cho con chung chạ với thiên hạ phải hôn?
- Phải, nhứt là con không có mẹ, mà con chung chạ với cái đời như vậy lúc con còn xuân xanh, làm sao mà ba không lo cho được.
Thanh Nguyên nghe mấy lời ấy thì cô ứa nước mắt, ngồi buồn so.
Tự Cường thấy vậy, ông lấy làm ăn năn nên ông nói:
- Bậy quá! Con đương vui, mà ba vô ý làm cho con buồn!
- Không, có bậy đâu. Đó là ba ngăn cản bớt cái hăng hái của con chớ. Huống chi má chết hồi con còn nhỏ mới đẻ nên con không biết má. Lâu ba nhắc lại như vậy đặng con khỏi quên má chớ.
- Mấy lời con nói đủ cho ba thấy tánh con rõ ràng. Con là gái đa sầu đa cảm. Con có cái tánh ấy mà con chung lộn với đời, ba càng thêm lo sợ.
- Con tưởng không hại chi hết. Họ là họ, mình là mình, dầu mình ở chung với họ, mà mình có phải là họ đâu mà ba lo. Đem con gà ba nhốt chung với bầy vịt, thì bao giờ gà cũng là gà, chớ có thành vịt được đâu mà sợ. Huống chi đời cần phải có kẻ dại mới nổi người khôn lên, cần phải có kẻ quấy mới lòi người phải ra chớ. Người khôn, người phải nếu ở riêng một cõi, thì cái khôn cái phải đó ai thấy được.
- Con nói nghe cũng phải, ngặt vì thiên hạ họ không phân biệt dại với khôn, quấy với phải. Đám dại họ cho rằng khôn, đám quấy họ lại cho là phải. Đời trái ngược như vậy mình chen chân vào đó làm gì. Để thiên hạ loi nhoi trong chỗ hỗn độn ấy. Mình lánh xa rồi để chí làm bạn với nước non vui say với trăng gió mà chơi cho sạch thân, cho khoẻ trí.
- Ba nói nghe xưa quá! Sanh về thế kỷ 20 mà lập chí theo thế kỷ 15, thì con sợ e trái mùa quá. Con tưởng không nên lội ngược dòng nước, trái lại, phải lội với thiên hạ mới được.
- Ồ! Con nhiễm theo tâm hồn mới rồi!
- Có lẽ. Mà lỗi không phải tại con. Trái lại tại ba mua sách xã hội ba cho con đọc. Tự nhiên con phải nhiễm theo những tư tưởng của nhà triết học đồng thời chớ sao.
- Ba nuôi con, ba dạy con, ba muốn để cho con tự do hoàn toàn, tự do về phần xác, mà cũng tự do về phần trí nữa. Sự tự do ấy có lợi, mà cũng có hại, vậy con phải coi chừng. Đọc sách để mở trí chớ không phải để lập tánh. Thiệt hồi nãy ba nghe con ngâm mấy câu.
"Vòng cạnh tranh, lấy mình làm chí,
"Kể nghĩa nhân, luân lý mà chi,
"Tìm đường sung sướng mình đi,
"Miễn là tới chốn, thị phi mặc dầu".
Ba nghe mấy câu đó ba sợ quá.
- Mấy câu đó hạp với luân lý của người đời nay lắm chớ.
- Phải. Hạp lắm. Mà vì hạp nên ba mới lo.
Thanh Nguyên cười ngất. Cô đứng dậy lấy gói thuốc với cái hộp quẹt đưa cho cha rồi nói:
- Hôm nọ con đọc quyển sách "Tân xã hội", con lấy làm bực tức, nên con đặt mấy câu ấy để đọc với anh Hữu Nhơn mà cười chơi, chớ nào phải tâm hồn con hư vậy hay sao mà ba sợ.
- Quyển sách "Tân xã hội" luận thế nào mà con bực tức?
- Ba mua hôm tháng trước mà ba chưa đọc hay sao?
- Chưa.
- Tác giả tả luân lý của xã hội đúng lắm. Ba đọc rồi ba sẽ thấy. Tác giả nói đời mới phải luân lý mới. Ở về đời cạnh tranh, phải có luân lý cạnh tranh thì mới khỏi thất bại.
- Luân lý cạnh tranh là luân lý gì?
- Luân lý ấy nói tóm lại trong mấy câu như vầy:
"Ở đời mình phải lo lấy phận mình, bởi vì không ai lo bào chữa quyền lợi riêng của mình cho bằng mình được"
"Mình phải tập cho đủ nghị lực tranh đấu đặng chống cự với thiên hạ".
"Đừng có vì lễ nghĩa mà nhượng bộ, hoặc ái ngại, bởi vì lễ nghĩa coi đẹp mắt, nghe êm tai, mà không có lợi".
Tự Cường nằm chăm chỉ mà nghe. Chừng Thanh Nguyên nói dứt lời, thì ông thở dài và đứng dậy nói rằng: "Người viết như vậy thì hiểu rõ tâm lý của xã hội hiện thời lắm. Nhưng mà con chẳng nên giận lẫy rồi con làm quá hơn thiên hạ nữa. Con biết luân lý của họ như vậy thì con nên lánh xa".
Thanh Nguyên trợn mắt ngó cha và đáp: "Con không lánh họ đâu. Họ có luân lý của họ, con cũng có luân lý của con, con sẽ chen với họ mà hưởng mùi đời, song hưởng mùi ngọt bùi mà thôi, lại lo làm cho nhiều người khác cũng được hưởng như con vậy".
Tự Cường rún vai bước ra ngoài hàng ba, đi qua đi lại mà hứng gió.
Thanh Nguyên ra đứng tại cửa mà nói:
- Con muốn xin phép ba chiều thứ bảy cho con đi ra Vũng Tàu mà hứng gió biển, rồi chiều chủ nhật con sẽ về.
- Con đi với ai?
- Để con rủ anh Hữu Nhơn đi với con. Nếu ba rảnh ba đi nữa thì càng thêm vui.
Tự Cường suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Nếu con muốn, thì ba sẽ đi với con.
- Ba cho phép con mời anh Hữu Nhơn đi không?
- Hữu Nhơn là bạn thiết của con, con muốn rủ đi theo chơi cũng được, có chật xe đâu mà sợ.
Thanh Nguyên mừng rỡ, chạy lại cặp cánh tay của cha rồi đi qua đi lại, nói nói cười cười không dứt tiếng. Cô thấy anh sớp-phơ đi ra đằng cửa ngõ, thì cô kêu mà dặn: "Anh Tư, ngày mai anh đưa ba tôi đi dạy và đưa tôi vô trường rồi, anh về phải coi vô dầu mỡ cho kỹ lưỡng đặng chiều thứ bảy tôi đi Vũng Tàu hứng gió, nhé."
Tại Tôi
VIII
Hữu Nhơn là một người trai, năm nay đã được 23 tuổi nhưng vì chàng nhỏ vóc, lại con nhà giàu, từ nhỏ cứ đi học chớ không làm viêc lao động, mà cũng không tập thể thao, nên gương mặt coi còn non ai cũng tưởng chàng mới 19 hoặc 20 tuổi.
Chàng đã thi đậu Tú tài kỳ thứ nhứt rồi, hiện bây giờ chàng đương học lớp triết học tại trường Chassloup-Laubat như cô Thanh Nguyên. Mấy năm nay chàng với cô học chung một lớp với nhau hoài, nên quen biết nhau nhiều, lại mến nhau mà đàm luận, bởi vậy tuy chàng ở trong trường, song chúa nhựt chàng hay lên Phú Nhuận mà thăm cô, có khi ở chơi đến tối mới vô trường.
Ông Tự Cường dưỡng nuôi và dạy dỗ con, ông để cho con được tự do, lại ông thấy cử chỉ của con còn cử chỉ con nít nên ông không ái ngại về sự trai gái kết niềm bằng hữu.
Vì Thanh Nguyên đã mời trước, Hữu Nhơn xin phép ông hiệu trưởng cũng rồi, nên chiều thứ bảy tan học rồi hai trẻ đi với nhau ra ngoài cửa trường đứng chờ xe của ông Tự Cường lại rước đi Vũng Tàu, hai trẻ đi lên đi xuống dài theo lề đường nói chuyện, cô hớn hở vui cười, chàng bình tĩnh nghiêm nghị.
Chờ gần nửa giờ mới thấy xe ông Tự Cường lại. Xe vừa ngừng thì ông nhảy xuống nói rằng: "Chờ lâu lắm hả? Mắc chạy xuống chợ mua đồ đem theo xe mà ăn, vì sợ ra tới Vũng Tàu khuya quá rồi đói bụng. Thôi lên xe đặng đi cho sớm".
Thanh Nguyên hỏi sớp-phơ có đem cái va-ly áo quần cô giao hồi trưa đó không. Sớp-phơ nói có, cô mới leo lên xe ngồi chính giữa. Tự Cường ngồi bên tay mặt, còn Hữu Nhơn thì ngồi bên tay trái.
Xe chạy khỏi Biên Hoà, Tự Cường bèn trao hai gói bánh mì và thịt hộp cho Thanh Nguyên, và biểu cô mở ra ăn. Cô mở gói bánh mì, lấy một ổ đưa cho cha, rồi lấy một ổ bẻ hai đưa cho Hữu Nhơn phân nửa, còn phân nửa thì cô ăn.
Cô cũng phân phát thịt rồi ăn ngon lành.
Cô vui vẻ khác thường, nói cười ngả ngớn, còn Hữu Nhơn vốn tánh nghiêm chỉnh, mà chàng lại cung kính Tự Cường, nên chàng ngồi im lìm có hỏi chàng mới dám nói, song nói chàng phải lựa lời, chớ không lả lơi vụt chạc.
Vì xe chạy chậm, nên quá 8 giờ rưỡi tối mới xuống tới Vũng Tàu, Tự Cường ghé lại một nhà hàng khách trú mướn hai phòng, một phòng để cho Thanh Nguyên, còn một phòng để ông với Hữu nhơn .
Thanh Nguyên mặc Âu phục, cô vô phòng rửa mặt và trang điểm lại, và xin cha dắt xuống bãi trước hứng gió, cô nói ăn đồ trên xe đã no rồi, không cần ăn cơm nữa.
Tự Cường dắt hai đứa trẻ xuống bãi biển, trên trời mặt trăng tỏ rạng trước mặt thì nước biển mênh mông, lại thêm gió thổi lao rao, trăng dọi nước sáng loà, nước mừng trăng dợn sóng.
Tự Cường ngồi trên một cái băng nhìn trăng xem nước còn Thanh Nguyên với Hữu Nhơn dắt nhau đi dài trên bãi mà chơi, thấy trời nước thì khấp khởi trong lòng, nên bây giờ Thanh Nguyên đứng lại ngó mặt nước lao xao và hỏi Hữu Nhơn:
- Anh ra mé biển như vầy trong lòng anh có vui không?
- Vui.
- Em cũng vậy, thấy biển thì em vui lắm mà biển phải có núi như ở đây, hoặc bên Long Hải hoặc Phan Thiết, Nha Trang em mới chịu chớ bãi biển như bãi Long Thành ở Gò Công, bãi Ba Động ở Trà Vinh thì em không thích. Phải ý anh cũng vậy không?
- Tôi biết Vũng Tàu mà thôi, chớ tôi chưa biết chỗ khác, nên không hiểu tôi có thích mấy chỗ cô nói đó hay không.
- Nhà quê! Anh nói ra mé biển anh vui mà nãy giờ em coi anh ý anh buồn chớ không vui chút nào hết. Tại sao vậy? Hay là tại anh đi chơi với em, nên anh không vui?
Hữu Nhơn châu mày ngó ngay Thanh Nguyên, trăng tỏ soi mặt cô sáng rỡ, lại thêm gió phất tóc cô vướng hai gò má, làm cho cô càng thêm duyên, chàng ngó cô rồi châu mày cúi mặt mà nói:
- Cô nói kỳ quá. Sao đi chơi với cô mà tôi lại không vui? Nếu không vui thì tôi đi làm chi đây?
- Anh vui mà sao từ hồi mới lên xe cho tới bây giờ không nghe anh cười một lần nào hết?
Hữu Nhơn đứng trơ trơ, dường như kiếm không ra lời để đáp.
Thanh Nguyên cười ngất và nói: "Đó rõ ràng anh buồn đó, thấy chưa."
Hữu Nhơn gật đầu rồi chậm rãi nói nhỏ nhỏ. "Lời cô nói quả đúng như vậy. Không hiểu tại cớ nào, mà gần một năm nay, hễ tôi ngó mặt cô trong lòng tôi có cái gì không biết, nó làm cho tôi khó chịu buồn bực quá".
- Nếu vậy thôi, từ rày sắp lên em không dám cho anh thấy mặt nữa.
- Không phải vậy.
- Chớ sao? Nếu thấy mặt em mà anh khó chịu, cho anh thấy mặt làm gì.
- Bữa nào không thấy mặt tôi lại còn buồn hơn nữa. Như thứ năm, chủ nhựt cô không đi học tôi chịu không được, trông tới sáng cho mau đặng cô vô trường để tôi gặp cô.
- Nói kỳ quá! Thấy mặt thì buồn, mà không thấy cũng buồn, nói như vậy thì làm sao hiểu được.
Hữu Nhơn ngó mông ra biển, mà nói nhỏ nhỏ: "Dễ hiểu lắm, có chi đâu. Tại tôi thương cô, nên lòng tôi mới khó chịu như vậy đó".
Thanh Nguyên đưa hai tay mà xô vai của Hữu Nhơn một cái rất mạnh đoạn cười ngất và nói lớn: "Anh điên hả? Thương thì vui, chớ sao lại buồn. Anh vui đi. Em cấm anh không đựơc buồn nữa".
Hữu Nhơn lắc đầu ngồi bẹp dưới cát và nói: "Tôi nói như vậy cô lại cười, thiệt cô không hiểu gì hết! Cô làm cho tôi càng buồn thêm chớ có vui làm sao đựơc".
Thanh Nguyên cũng bắt chước ngồi bẹp trên cát duỗi hai cái chân ngay trước mặt, chống hai tay phía sau lưng, nẩy ngực, liếc mắt ngó Hữu Nhơn và đáp:
- Em vui lắm, chớ em có buồn đâu mà không cười. Tại sao mà phải buồn?
- Nếu vậy thì tôi thương cô mà cô không thương tôi.
- Em cũng thương anh vậy chớ. Nếu em không thương thì mấy năm nay hễ đến giờ nghỉ học em thèm kiếm anh mà nói chuyện đâu, chúa nhựt em có thèm rủ anh lên nhà chơi làm chi.
- Đó là cô ưa tôi chớ không phải thương.
- Theo tiếng Việt Nam ưa cũng như thương, hai tiếng có một nghĩa.
- Không. Khác nghĩa chớ, mình ưa một người nào nghĩa là mình thấy cử chỉ, hoặc tánh người ấy vừa ý, nên hễ gặp thì mình vui mình muốn tới lui nói chuyện chơi. Còn thương một người nào có nghĩa là mình yêu mến người ấy, muốn gần nhau luôn luôn... muốn làm vợ chồng... hễ xa cách người ấy thì mơ tưởng thương nhớ ăn ngủ không được.
- Ồ! Cái thương anh nói đó là thương về ái tình- chớ gì!
- Phải tôi thương cô là thương như vậy đó. Còn cô thương tôi, phải cô cũng thương như vậy không?
- Không.
- Tôi khốn nạn lắm! Tôi vô phước thiệt! Nếu vậy thì còn học làm gì nữa.
Hữu Nhơn nói xong rưng rưng nứơc mắt. Nhờ trăng tỏ rạng, Thanh Nguyên thấy rõ mặt chàng buồn thảm thì cô động lòng, nên cô đã hết vui cười nữa, mà cô lấy tay đùa cát suy nghĩ.
Trăng vẫn tỏ, gió vẫn mát, núi vẫn chần ngần sau lưng, nước vẫn mênh mông trước mặt, mà hai trẻ vẫn ngồi im lìm, đã không nói chuyện và cũng không ngó nhau nữa. Cách một hồi lâu Thanh Nguyên mới hỏi nhỏ nhỏ.
- Tại sao anh lại thương em mà thương về ái tình?
- Tôi có biết đâu. Có lẽ tại tôi học chung một lớp với cô mấy năm nay, tôi yêu cô mỗi ngày một chút, lần lần rồi tôi mới sanh mối ái tình trong lòng tôi.
- Còn tại sao bữa nay anh nói cho em biết làm chi vậy?
- Tôi muốn nói cả năm nay rồi, mà mỗi lần nói chuyện với cô, tôi tính bày tỏ tâm sự của tôi, thì có cái gì không biết nó khiến cho tôi ngần ngại hoài, mở miệng không được. Hồi tôi ngồi một bên cô trên xe tôi lấy làm khó chịu, nên tôi quyết định ra đây tôi sẽ nói phứt một lần cho rồi, nếu cô không thương tôi, thì tôi quyết định bỏ đi về làm ruộng cho rồi:
- Nếu em không thương anh, thì sẽ có người khác thương, chuyện gì mà phiền đến nỗi bỏ học.
- Tôi nói thiệt với cô, dầu tiên trên trời xuống tôi cũng không thèm nữa. Tôi phải cưới cho đựơc cô làm vợ mà thôi nếu không được chắc tôi buồn tôi phải chết.
- Lửa ái tình nhen nhúm trong lòng anh là tại anh đọc tiểu thuyết nhiều quá. Nếu anh lựa sách xã hội, hoặc triết lý mà đọc như em, chắc anh khỏi bị cái hoạ ấy.
- Phải lắm. Có lẽ tại như vậy mà bây giờ ngọn lửa đã cháy bừng lên rồi, biết làm sao!
- Phải dụi tắt đi. Hai anh em mình còn đương học mà gây ái tình thì học sao được.
- Có hại chi đâu. Không phải tôi tính cưới cô liền bây giờ. Tôi muốn biết trước coi cô có ưng làm vợ chồng với tôi hay không, rồi ít tháng nữa thi tú tài xong rồi tôi sẽ xin cha mẹ tôi lên nói với ông mà cưới cô. Tôi muốn biết trước đặng tôi yên lòng mà học. Cô chịu hứa làm vợ tôi hay không?
Thanh Nguyên châu mày ngồi nín khe không chịu trả lời liền, làm cho Hữu Nhơn bồi hồi trông đợi hết sức. Cách một hồi cô đứng dậy phủi cát trong áo quần. Hữu Nhơn cũng đứng dậy mà nói:
"Tôi xin cô trả lời giùm câu tôi mới hỏi đó"
Thanh Nguyên ngó ngang Hữu Nhơn mà đáp:
- Lấy chồng là điều quan hệ nhứt trong đời của con gái. Thuở nay em mắc lo học, em chưa có để ý đến việc ấy. Anh hỏi thình lình quá, nên em không biết làm sao mà trả lời.
- Cô cần phải suy nghĩ hay sao?
- Cần lắm. Từ hồi nhỏ cho tới bây giờ em tự do, muốn làm việc chi hay là muốn đi đâu, ba em cũng để cho em thong thả luôn luôn. Em sợ lấy chồng em mất tự do hết. Vì vậy nên em cần phải suy nghĩ, phải cân coi cái lạc thú vợ chồng nó có nặng bằng cái lạc thú tự do không chớ .
- Tôi hứa chắc với cô, hễ cô làm vợ tôi thì tôi sẽ để cô được tự do, chớ chẳng bao giờ tôi kiềm chế cô đâu mà sợ .
- Hễ có chồng rồi thì còn tự do gì nữa được đến tên họ cũng còn phải mất nữa ạ. Bây giờ em đi đâu em xưng em là Mademoiselle Thanh Nguyên. Nếu em làm vợ anh, em xưng như vậy nữa sao được, em phải xưng Madame Hữu Nhơn. Mất tên rồi.
- Tại phong tục như vậy biết làm sao. Mà đổi tên nghĩ chẳng hại gì.
- Ý! Hại lắm chớ. Cha mẹ đặt tên cho mình, mình phải quí trọng tên ấy. Mình đem mà đổi tên khác, nghĩ cũng đau đớn lắm chớ.
- Phải, cô nói chớm mà tôi hiểu rồi. Cô sợ đem tên trong sạch mà đổi lấy tên hèn hạ, nên cô ái ngại. Ví dụ đem tên trong sạch mà đổi lấy tên khác cũng trong sạch có lỗ lãi chi đâu mà sợ.
- Mà tại sao anh muốn em làm vợ anh chi vậy? Chớ làm anh em như mấy năm nay vậy không được hay sao?
- Tại, tôi thương cô .
- Thôi, anh đừng thương em, anh thương người khác đi.
- Tôi không thèm ai hết.
- Hứ! Đời bày tục kỳ cục. Thương thì phải kết vợ chồng, thương như vậy thấp thỏm quá, chớ có cao thượng gì đâu. Kết vợ chồng rồi sanh con, rủi chết bỏ chồng, bỏ con như má em vậy, thì khốn nạn quá, có vui sướng chỗ nào đâu.
- Lập gia thất là nghĩa vụ của loài người, dầu trai hay gái cũng phải vậy, cô quên hay sao?
- Bắt chước theo sách, mà lại sách xưa nữa! Anh nói thế ấy, ba em nghe, ba em phiền lắm.
- Ông không muốn cho cô lấy chồng sao?
- Không phải vậy. Ba em nghịch với chủ nghĩa gia đình chớ.
- Ạ! Tại bà mất ông buồn, nên ông mới nghịch.
- Có lẽ tại vậy. Thôi, trở về kẻo ba em trông.
- Khoan xin cô trả lời câu hỏi hồi nãy rồi sẽ về.
- Em đã nói để cho em suy nghĩ rồi em sẽ trả lời.
- Cô làm như thế nầy chắc tôi buồn rầu tôi học không được nữa .
- Chớ phải làm thế nào anh mới vui?
- Cô phải làm cho tôi có cái hy vọng sẽ làm chồng cô được thì tôi mới vui.
- Anh cứ nuôi cái hy vọng ấy đi.
- Phải nuôi chừng nào cái hy vọng ấy mới thành sự thiệt?
- Có lẽ tới chừng chúng ta thi đậu Tú tài kỳ nhì rồi.
Hữu Nhơn vội vã nắm tay Thanh Nguyên vừa cười vừa nói: "Cám ơn. Tôi cám ơn cô lắm, cô làm cho lòng tôi bây giờ phơi phới, trí của tôi bây giờ sáng sủa, mắt tôi thấy tương lai đẹp đẽ xán lạn vô cùng. Tôi sẽ đền bồi cái ơn ấy bằng tấm lòng yêu mến vô hạn. Tôi hứa chắc tôi sẽ đem hạnh phúc rải dài theo đời cô. Tôi sẽ làm cho cái đời của cô là đời tiên nga, đã không ưu sầu, lại hưởng đủ mùi ngọt ngon trong trần thế. Tôi chắc tôi sẽ làm được"
Thanh Nguyên nghe Hữu Nhơn nói thì cô cười. Chừng chàng nói dứt rồi, cô nói: "Lãng mạn quá! Tiểu thuyết quá! Em sợ một ngày kia anh sẽ điên vì tình".,
Hữu Nhơn nói; "Được kết chung tình với cô, dầu phải điên tôi cũng vui lòng".
Hai người kề vai nhau thủng thẳng trở lại chỗ ông Tự Cường ngồi, ngoài biển vẫn mênh mông, trong núi vẫn đồ sộ
Tại Tôi
IX
Trời chạng vạng tối, lại mưa lâm râm.
Ông Tự Cường biểu đứa ở đốt hai cây đèn manchon lên, nên trong nhà sáng trưng, ánh dọi ra ngoài sân cũng sáng .
Ông đi qua đi lại trước hàng ba, hễ thấy đèn xe hơi ở dưới miệt Phú Nhuận chạy lên thì ông đứng dòm, ông có ý trông Thanh Nguyên vì đã mấy bữa rày cô thi Tú tài kỳ nhì, thi bài viết đậu rồi còn hạch miệng khởi sự từ sớm mơi hôm qua. Có lẽ chiều nay ban giám khảo sẽ xướng danh mấy người thi đậu.
Ông đi một hồi rất lâu trong lòng không an vì không biết con đậu hay rớt. Ông lấy làm tiếc hồi chiều tan học ông không đi thẳng xuống trường Chasseluop- Laubat chờ nghe tin tức, lại bỏ đi về. Nên bây giờ bứt rứt đứng ngồi không được. Ông trở vô nhà dòm đồng hồ, thì đã bảy giờ rưỡi. Ông đương lấy một điếu thuốc đốt hút, kế nghe tiếng kèn xe hơi. Ông vội vã bước ra cửa thì xe đã tới ngừng ngay cửa ngõ và bóp kèn te te.
Người bồi trong nhà chạy ra mở cửa, và xe thủng thẳng vô ngừng bên nhà. Trời vẫn mưa lâm râm, xe vừa ngừng Thanh Nguyên nhảy xuống gọn gàng, thấy cha đứng dựa cửa cô vừa chạy vô vừa nói: Con đậu rồi ba à, đậu được mention bien[1]. Anh Hữu Nhơn cũng đậu nữa".
Tự Cường phỉ chí nên đứng chúm chím cười. Thanh Nguyên vịn hai tay lên hai vai cha, mắt ngó ngay mặt cha và nói: "Con mừng quá! Công ba dạy con nay kết quả được mỹ mãn rồi ba à"
Tự Cường cũng cười chớ không nói chi hết.
Hữu Nhơn trên xe bước xuống sau, chàng thủng thẳng đi vô, tay xách một cái va-ly lớn.
Tự Cường nắm tay mừng chàng thi đậu. Thanh Nguyên nói: "Anh Hữu Nhơn đậu, ảnh mừng quá. Ảnh xin phép ra trường liền đặng về cho nhà hay. Ảnh đi xe đò Cần Thơ, mười giờ tối có xe chạy. Con thấy vậy con mời ảnh lên trên nầy ăn cơm với con, rồi chừng chín giờ con biểu sớp-phơ mình lấy xe đưa ảnh trở xuống Sài Gòn đặng ảnh về cho kịp xe đò"
Tự Cường gật đầu dắt hai đứa trẻ vô nhà rồi kêu bồi biểu dọn cơm cho mau.
Thanh Nguyên chỉ bàn rửa mặt biểu Hữu Nhơn rửa mặt gội đầu cho mát.
Cô chạy xuống nhà bếp hối thúc dọn cơm. Cô vô ra lăng xăng nói cười không ngớt, bộ cô mừng rỡ vui vẻ lắm.
Cơm dọn lên bàn rồi. Tự Cường kêu hai trẻ biểu ngồi lại ăn, ông ngồi đầu ngoài còn hai trẻ ngồi hai bên.
Ông hỏi Hữu Nhơn.
- Cháu năm nay được mấy tuổi?
- Thưa cháu 23 tuổi.
- Cháu có bằng Tú tài rồi, bây giờ cháu tính học thêm nữa hay là thôi.
- Chắc cha mẹ cháu không cho cháu đi học nữa, bởi vì cháu có một mình, chớ không có anh em chi hết.
- Cháu còn đủ ông bà cha mẹ hả?
- Cha mẹ cháu còn song toàn. Cháu còn bà ngoại chớ ông ngoại, bà nội ông nội đều khuất hết.
- Cháu gốc ở Cần Thơ hay sao?
- Thưa, cháu gốc ở Ô Môn.
Thanh Nguyên đương ăn thình lình cô chen vô nói: "Nầy ba, anh Hữu Nhơn thương con, nên xưa rày ảnh xin con ưng ảnh, đặng ảnh cưới. Ba chịu gả hay không ba?"
- Cưới vợ, lấy chồng là việc quan hệ nhứt của con người. Cái đời mình, buồn hay vui, cực hay sướng, đều tại đó, con nói như chuyện chơi vậy sao được.
- Xưa rày ảnh nói hễ ảnh thi đậu rồi ảnh cưới con. Ảnh nói thiệt chớ không phải nói chơi đâu.
- Hứ! Ba đã nói việc ấy quan hệ lắm. Con phải suy nghĩ cho kỹ, đừng có nói vụt chạc không nên. Dầu cháu Hữu Nhơn muốn cưới con đi nữa, con cũng phải hỏi lại lòng con coi có nên lấy chồng hay không đã chớ. Việc ấy nó can hệ về đời của con, vậy con phải liệu rồi con nhứt định, chớ sao con lại hỏi ba.
- Con có cho phép ảnh nuôi cái hy vọng làm chồng con, nhưng không hiểu tại sao hễ nói việc vợ chồng lòng con không hăng hái chút nào hết.
- Nếu vậy thì con không có tình với cháu Hữu Nhơn, thế làm vợ chồng với nhau có vui vẻ gì đâu mà tính.
- Con cũng thương ảnh lắm chớ, mà không hiểu tại sao hễ nói làm vợ ảnh con không sốt sắng mấy.
- Đã vậy mà cháu Hữu Nhơn mới nói cháu còn cha mẹ và bà ngoại. Theo phong tục Việt Nam, định vợ chồng là quyền của cha mẹ ông bà, chớ cháu không được phép tự chuyện. Cháu Hữu Nhơn muốn nên cháu nói như vậy, nhưng không phải dễ đâu. Huống chi con biết cháu Hữu Nhơn thôi, chớ chưa biết cha mẹ ông bà của cháu...
Hữu Nhơn nãy giờ nghe cha con Tự Cường cãi nhau thì chàng buồn hiu. Chừng nghe nói tới cha mẹ thì chàng mới nói:- "Thưa ông vì cháu thương cô Thanh Nguyên lắm, nên cháu mới tính như vậy. Nếu ông với cô bằng lòng thì cháu về nhà cháu thưa chuyện lại cho cha mẹ cháu hay rồi cha mẹ cháu lên hỏi cưới, chớ có lẽ nào cháu dám tự chuyện"
Cô Thanh Nguyên cười và nói: "Ừ thôi anh về thưa cho ông bà lên coi em, như ông bà bằng lòng rồi em sẽ nhứt định".
Tự Cường chúm chím cười đáp:
- Con nói nghe ngược đời quá. Làm con gái hễ chồng đi coi rồi thì chàng trai nhứt định, chớ con nhứt định nỗi gì.
- Ba nói như vậy mới ngược đời chớ. Phàm muốn kết vợ chồng với nhau, hai bên đều có quyền hết thẩy. Con cũng có quyền nhứt định, nếu con không ưng thì họ cưới sao được.
- Ba tưởng việc nầy con phải chậm chậm để suy nghĩ, chẳng nên tính gấp. Cháu Hữu Nhơn cũng vậy, đừng có vội lắm.
Cô Thanh Nguyên ngó Hữu Nhơn và nói: "Ba em nói phải lắm. Anh về bàn tính lại với cha mẹ đi, rồi sau sẽ hay"
Hữu Nhơn liếc mắt ngó cô rất hữu tình và đáp:
- Tôi đã nhứt định rồi, có tính chi đâu. Để tôi về tôi mời cha mẹ lên chơi cho cô biết.
- Ừ được lắm, mời lên chơi.
- Hễ về tới thì tôi mời đi liền.
- Ý, thủng thẳng vậy chớ. Phải để ít bữa cho em suy nghĩ. Em muốn thử lòng em vắng mặt anh nó ra thế nào .
- Tôi về trong một tuần lễ tôi sẽ dắt ba má tôi lên.
Thanh Nguyên ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu chịu.
Ăn cơm rồi thì đồng hồ gõ 9 giờ. Cô Thanh Nguyên kêu sớp-phơ đem xe ra đặng đưa anh Hữu Nhơn xuống Sài Gòn. Lúc Hữu Nhơn từ biệt xách va-ly lên xe thì cô nói: "Trời mưa khó chịu quá chớ không thì em đưa anh đi đặng chạy một vòng chơi".
Hữu Nhơn cười bước lên xe và nói: :"Thôi ít bữa nữa sẽ gặp nhau. Cô đừng quên tôi nghe hôn"
Xe chạy rồi cô Thanh Nguyên về phòng thay đồ mát còn Tự Cường thì đi qua đi lại trước hàng ba, bộ ông suy nghĩ lo lắng lắm.
Bây giờ trời mưa có giọt, cây cỏ ướt loi ngoi. Tự Cường hồi nãy nghe con nói chuyện lấy chồng thì ông không vui, bây giờ thấy cảnh ẩm ỹ ông càng thêm buồn bực.
Cách một hồi lâu Thanh Nguyên bước ra cửa hỏi: "Ba làm giống gì đó, ba vô trong nhà nói chuyện với con".
Tự Cường thủng thẳng đi vào nhà, lại ngồi ghế canapé tại phòng khách lấy thuốc hút.
Thanh Nguyên ngồi dựa bên cha và hỏi:
- Con thi đậu sao nãy giờ coi bộ ba không vui vậy ba?
- Con thi đậu ba mừng lắm, nhưng tại có chuyện khác làm cho ba hết vui.
- Tại ba nghe con nói chuyện anh Hữu Nhơn tính cưới con nên ba buồn phải hôn?
- Đó là một chuyện làm cho ba lo, chớ không phải buồn.
- Tại sao mà ba lo?
- Con chưa có một chút gì kinh nghiệm về việc đời, con lại nói chuyện lấy chồng, thì làm sao ba không lo cho được.
- Không phải vậy đâu. Thiệt, tuy Hữu Nhơn kết bằng hữu với con, tới lui đây đã lâu rồi, song ba không rõ tánh tình trí ý của chàng ra thế nào. Mặc dầu chàng hay chàng trai nào khác muốn cưới con thì ba cũng lo sợ như vậy hết.
- Tại sao ba lo sợ?
- Từ nhỏ chí lớn, ba nuôi dưỡng dạy dỗ con, ba tập cho con tánh con quen thói trong sạch cao thượng, ba để cho trí con hưởng thú tự do hoàn toàn. Thiên hạ không phải như cha con mình, họ sùng bái một nền luân lý khó chịu, họ coi theo những thành kiến dễ ghét, rồi tánh tình thái độ của họ thấp thỏi, bề cư xử của họ thô tục hẹp hòi. Con một thế, còn họ một thế, nếu con chung lộn với họ chắc chẳng khỏi xung đột... Mà phận con là gái, hễ xung đột thì con ắt phải chịu thiệt thòi, còn nếu con chịu thua rồi ngay cổ để mang cái vòng áp chế, thành ra uổng công ba dồi mài cái óc của con mười mấy năm nay, nhứt là uổng cho cái đời của con đương chớn chở hy vọng.
Thanh Nguyên nghe ba đàm luận như vậy thì cô ngồi ngẫm nghĩ một hồi mới nói:
- Thiệt như vậy. Con có biết thái độ của cha mẹ anh Hữu Nhơn thế nào đâu. Chớ chi cha mẹ ảnh như ba vậy, hoặc chết hết rồi mới khỏi lo. Có một lần ảnh nói với con, cha mẹ ảnh giàu, có ruộng đất nhiều lắm. Mà giàu có nghĩa gì đâu.
- Nếu họ giàu thì mình càng thêm lo hơn nữa chớ.
- Con nghe nói gia đình có cái lạc thú êm đềm lắm.
- Phải, gia đình có lạc thú, mà cũng có bi ai nữa.
- Con chưa biết lạc thú gia đình ra thế nào, chớ lạc thú tự do con thích lắm. Thôi, để anh Hữu Nhơn mời cha mẹ ảnh lên đây cho coi người thế nào rồi con sẽ nhứt định.
- Con phải suy nghĩ cho kỹ, chẳng nên hốc tốc kẻo sau phải ăn năn trọn đời.
Thanh Nguyên bây giờ hết hớn hở nữa, mặt coi có sắc lo.
Tự Cường đứng dậy, chấp tay sau lưng đi qua đi lại... Đi một hồi đứng lại ngó con, dường như muốn nói chuyện chi vậy.
Đồng hồ gõ 10 giờ. Ngoài sân trơi cứ mưa rỉ rả. Tôi tớ ra đóng cửa rồi đi ngủ hết.
Tự Cường lại đứng bên con mà hỏi:
- Con buồn ngủ hay chưa? Khuya rồi, như con buồn ngủ thì đi ngủ đi.
- Không. Con chưa buồn ngủ. Bữa nay ba có sửa bài hay không?
- Không.
- Vậy con thức để nói chuyện với ba cho vui.
- Mấy bữa rày con lo thi chắc con mêt, vậy con phải nghỉ sớm một chút.
- Con không mệt đâu ba, song bữa nay trí con hơi lộn xộn quá, chắc đêm nay con ngủ không đựơc.
Tự Cường đứng ngó con trân trân, dợm muốn nói việc chi rồi do dự không chịu nói. Ông sụt sè một hồi rồi dường như có ám lực nó xô đẩy ông, nên ông nói:
- Nếu con khoẻ thì ba sẽ nói một chuyện quan hệ cho con nghe.
- Chuyện gì đó vậy ba?
- Chuyện riêng của con.
- Con sẵn lòng nghe. Ba nói đi. Con đang rối trí xin ba nói đặng con giải trí một chút .
Tự Cường đi lại cái tủ sách để gần chỗ bàn viết lấy chìa khóa mở cái hộc tủ, xếp soạn giấy tờ một chút, rồi lấy ra một phong thơ lớn, bao thơ bằng giấy trắng vì lâu năm nên đã trổ màu vàng. Ông khoá tủ lại, rồi cầm cái phong thơ đem đưa cho con.
Thanh Nguyên lật hai bề coi không có chữ viết chi hết thì lấy làm lạ nên ngó cha.
Tự Cường ngồi một bên con và nói: "Người ta gởi cái phong thơ ấy lại cho con, mà người gởi dặn chừng con 18 tuổi rồi sẽ đưa cho con. Con đúng 18 tuổi từ hôm tháng giêng, nhưng ba thấy con mắc lo học đặng thi, nên ba không đưa. Nay con thi rồi, trí con rảnh, nên ba giao thơ ấy cho con".
Thanh Nguyên ngó cha vừa cười vừa hỏi:
- Thơ gởi cho con sao không đề tên con?
- Đó là cái bao ngoài, con xé đi trong đó còn cái bao nữa.
- Việc gì mà bí mật quá?
Thanh Nguyên xé cái bao ngoài rồi thiệt quả ở trong một cái bao thơ khác, bề sau có gắn bánh kiến, bề trước có đề hai hàng chữ;
"Phải giao lại cho con tôi là Lý Thị Thanh Nguyên chừng nó đủ 18 tuổi"
Thanh Nguyên lấy làm lạ ngó cha:
- Ba gởi thơ cho con chi vậy?
- Con coi thì biết. Xé bao thơ thứ nhì đi rồi đọc cho cha nghe với.
Thanh Nguyên xé bao thơ nữa thấy có một cái bức thơ dài năm sáu trang giấy với hai tờ khai sinh và một tờ hôn thú.
Cô cầm bức thơ lên đọc như vầy:
TỜ DI NGÔN
Của tôi là: LÝ NHƯ THẠCH
Gởi lại cho con gái tôi là: LÝ THỊ THANH NGUYÊN.
Hỡi con thiếu phước.
"Con ôi, cha đau nhiền lắm, đau trong gan phổi, mà cũng đau về trí não nữa. Đã mấy bữa rồi sức cha đuối lần lần, nên cha nằm liệt trên giường, hết ẵm bồng con nữa được.
"Có lẽ trong tâm hồn của cha, từ ngày biết đi biết nói cho đến bây giờ là tâm hồn chất chứa đầy những tình thương yêu đầy những ý trung hậu. Tiếc vì tình thương yêu với trung hậu ấy không được một phần thưởng nào hết, vì mẹ thân sinh của cha, là bà nội của con không nhìn nhận cha là máu thịt, mà người bạn trăm năm của cha, là người mẹ đáng yêu đáng mến của con, cũng đành xây lưng về chín suối, bỏ cha mấy tháng nay bơ vơ, nơi chốn trần gian.
"Con ôi, cái khoảng đời của cha gần một năm nay là khoảng đời trải qua chẳng biết bao nhiêu nỗi ưu sầu phiền não. Tuy vậy mà cha không tức, không giận, không buồn. Mấy tháng trước cha cứ thư thái liếc cặp mắt khinh thế ngạo vật mà dòm những thói tồi bại của xã hội, cười những việc hèn hạ của nhơn tình. Lúc sau nầy cha cũng thung dung bình tĩnh mà chờ ngày nhắm mắt nín hơi đặng ngon giấc ngàn thu cho dứt mối ưu sầu về thế sự.
"Cũng như mỗi bữa, hồi chiều nầy chị vú cũng bồng con lại gần một bên cha. Mà bữa nay cha ngó con, rồi lòng cha lại sụt sùi, trí cha lại ngơ ngẩn, phát sanh một mối cảm lạ lùng. Con ôi cha thấy con thì cha thương quá, thương khác hơn cha từ ngày con lọt lòng. Có lẽ vì sự thương ấy mà từ hồi chiều cho tới bây giời cha biết tức, biết giận, biết buồn.
"Con là máu thịt của cha và của má con, con là dấu tích ân ái của một cặp thanh niên cao thượng thương nhau, hiểu nhau quyết sống thác với nhau chớ chẳng có tội chi hết. Tại sao trời lại đành giết chết hết cặp thanh niên đang sống ấy? Ví dầu cặp thanh niên phản tục ngược đời nầy, vì không thuận với chế độ hẹp hòi của gia đình, nên trời giết thì đã đành, còn phận con, nào con có tội chi đâu, trời làm cho con nên hình nên vóc, chớ con không cầu khẩn, không nài xin mà ra đờì, sao lại bắt tội con đồng loã với cha mẹ, rồi làm cho con vừa mới mở mắt thấy đời thì phải chịu khổ não đau đớn, hiện bây giờ không ai dưỡng nuôi, chừng biết nói, không ai dạy dỗ, rồi đến khi trưởng thành sẽ không gia đình, không thân tộc.
"Sở tâm của cha muốn cho con đi trong đường đời được hoàn toàn tự do... không cần biết thân tộc mà bận lòng, không cần ai nưng đỡ rồi bó buộc. Đặt tên cho con cha lấy hai chữ "THANH NGUYÊN". Bao nhiêu đó cũng đủ thấy ý cha muốn lòng con trong sạch như nước nguồn mới chảy ra, chẳng nhuốm chút bụi trần nào hết. Mà đến giờ cuối cùng cha sắp xây lưng lìa con, cha ngó con cho tỏ rõ một lần chót, cha động lòng thương con, quá thương nên lo sợ cho tương lai của con, nếu sau nầy thân con bị đời kim tiền bắt chịu vất vả dưới suối mương, phải hèn hạ, thì cha với má con ở dưới cửu tuyền phải ăn năn lắm vậy.
"Bởi cớ ấy nên cha phải gom hết nghị lực ngồi dậy ráng viết tờ nầy để lại cho con, đặng chừng con đủ trí khôn con đã khỏi oán hận kẻ sanh thành, mà con lại biết căn nguyên của con, con lại hiểu quyền lợi của con.
"Cha làm như vầy cha rất hổ thầm, hổ vì đến ngày cuối cùng mà cha lại vương vấn cái lý tưởng thấp hèn là lý tưởng kim tiền, cha lại trìu mến cái thành kiến mà làm cho cha rất đau đớn là thành kiến gia tộc. Cha mà phải lật ngược cái thái độ của cha như vầy là vì cha thương con, thương quá mà cha không có bạc tiền để lại cho con đặng con hộ thân, bởi vậy cha phải để cái lương tâm tốt đẹp, cha phải nghịch với chí của cha.
"Con ôi, con coi tờ khai sanh của con cùng tờ khai sanh và tờ hôn thú của cha mà đính theo đây, thì con sẽ biết tên họ, gốc gác của cha mẹ con. Cha là con ông Hương Cả Lý Như Kim, sanh tại làng Thới An, Tỉnh Cần Thơ, hiện giờ bà nội con tên là Trần Thị Cân, mà người ta thường kêu là bà Cả Kim, còn ở tại Thới An, thuộc tổng Định Thới, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, ông nội bà nội con chỉ sanh có hai người con: một là cô của con tên Lý Thị Phụng, hai là cha đây.
"Bà nội con là một vị điền chủ giàu có lớn, mỗi năm góp huê lợi trên hai chục ngàn giạ lúa.
"Hồi cha còn nhỏ cha học nhiều trường, lần lần tới trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Chừng cha thi đậu quan trên mới cấp bằng cho cha làm giáo sư ngoài Bắc Việt. Có lẽ cha với má con có duyên nợ với nhau, nên trời khiến cha gặp má con, đàm luận cùng nhau mấy lần, thấy đồng tâm hiệp ý với nhau, mới nhứt định kết bạn trăm năm để chung hưởng hạnh phúc với đời. Má của con là một vị nữ giáo sư, gốc con một ông Thông Phán Sở Bưu Điện. Vì đường xá xa xôi nên cha không thể thương lượng việc trăm năm của cha cùng bà nội con được, cha mới tính cưới má con trước rồi cha có dịp sẽ dắt về thú tội.
"Khi cha với má con thành hôn rồi bà nội con cứ viết thơ buộc cha phải xin đổi về Nam Việt, như xin không được phải từ chức đặng về cai sự nghiệp mà mẹ con khỏi phân cách, cha vâng lời nên từ chức mà về dắt má con về đặng chịu tội với bà nội con. Lúc ấy má con đã có thai con được bốn tháng. Tưởng về xứ đặng mẹ con vui vẻ chồng vợ thanh nhàn, nào ngờ bà nội con cố chấp tục xưa lệ cũ, bắt lỗi cha với má con làm trái chế độ gia đinh, rồi đánh đuổi cha với má con và không nhìn nhận con với con dâu.
"Cha với má con đành lau nước mắt từ mẹ lìa nhà, dắt nhau lên Sài Gòn kiếm công việc làm để nuôi thân, không lo giàu nghèo, không màng tính quí tiện, miễn được tự do về tình về chí. Cha đi dạy học, lương mỗi tháng có 4, 5 chục đồng bạc nên bề ăn ở lấy làm cực khổ, nhưng cha với má con vẫn vui vẻ vẫn thương yêu nhau không trách trời, mà cũng chẳng phiền người.
"Gần ngày sanh con, má con bị đau tim nên hơi mệt, song thấy nhà không tiền, lại sợ cha buồn, nên không dám nói ra. Còn cha thì vì ăn ở cực khổ, lại trí cứ lo nỗi gia đình nên cha phải mang chứng bịnh lao, thân thể càng ngày càng thêm ốm, mà cha cũng sợ má con buồn, nên cha không dám nói cho má con biết.
Sanh con đựơc vài tháng má con chết, chết một cách rất thảm thiết đau đớn vì sự lìa chồng, tức tối về nỗi bỏ con. Cái đời của cha đã hỏng về phương tộc, tưởng là vui được về phương diện vợ chồng, nào dè người bạn trăm năm yêu mến của cha chết đi thì sự sống của cha chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Phần cha buồn rầu, phần cha không đủ tiền uống thuốc, nên bịnh của cha càng ngày càng thêm trầm trọng, trong mấy tháng nay cha chỉ đợi ngày chết mà thôi, chớ không thèm lo tính việc chi hết. Ngặt vì cha chết rồi thân con phải ra thế nào ? Ấy là một câu hỏi mấy bữa rày cha cứ hỏi trong trí hoài. Cha nhớ tới chỗ đó cha lo, nên hôm nọ cha có gởi về cho bà nội con hay đặng như bà nội con có chịu nhìn con là máu thit của cha, là nhánh lá của dòng họ Lý thì lên đem con về nuôi thế cho cha. Đã mười ngày rồi cha không nhận được tin tức chi hết Chắc bà nội con đành bỏ đứt, không chịu nhìn nhận con.
"Con ôi! Con thấy hay chưa? Chế độ gia đình như vậy đó!
"Cha sẽ kiếm người năn nỉ cậy họ lãnh con nuôi giùm con. Cha sẽ xin họ nếu chịu nuôi con thì đợi ngày con khôn lớn rồi sẽ giao tờ nầy với những giấy tờ cha đính theo đây lại cho con. Con coi cho biết gốc gác rồi con liệu lượng coi có nên hay không nên về làng An Thới để tìm thân tộc đặng lãnh phần gia tài của cha. Sự ấy cha để cho con tự do liệu cảnh, cha không khuyên, mà cũng không cản.
"Con ôi! Viết tới đây, cha nghĩ lại cha đau đớn mà cũng hổ thẹn quá. Xin con biết giùm bụng cha, vì thương con nên cha mới đổi thái độ mà nói cho con biết gốc tích của con đó.
"Cha mệt lắm, không thể viết dài nữa được. Thôi cha từ biệt con. Chừng nào con khôn lớn, con đựơc đọc tờ nầy, dầu thế nào con cũng đừng trách cha mẹ, vì mẹ của con chết cách năm tháng cũng vậy, mà hiện bây giờ cha sắp chết đây, cha cũng vậy, mẹ cha của con đều đứt ruột mà lìa con, chớ không phải tránh nợ mà bỏ con .
"Cha muốn viết thêm ít hàng khuyên dạy con, tiếc vì cha mệt đuối rồi, mắt choá loà, tay run rẩy, nên phải buông viết mà từ giã con, phú cho trời đất dìu dắt giùm bước đường đời của con, giữ gìn giùm lòng thanh bạch cho con"
LÝ NHƯ THẠCH
Thanh Nguyên đọc dứt rồi, cô dựa ngửa trên ghế im lìm, mà cô thở hồi hộp. Cô áp tờ di ngôn vào ngực, dường như cô muốn dùng tờ ấy mà đè vào trái tim cô cho nó bớt nhẩy vậy. Cô mở mắt chau quau ngó chăm bẳm ngọn đèn, lóng tai nghe giọt mưa kêu rỉ rả ngoài vách.
Tự Cường biết con đương bối rối trong trí, đương đau đớn trong lòng, nếu lúc nầy xen vô nói một tiếng, thì làm cho con thêm rối, thêm đau chớ không ích chi, bởi vậy ông cũng ngồi lặng thinh, một lát liếc mắt dòm con thôi, chớ không nói chi hết, có ý chờ cho khóc đặng có nước mắt mà rửa giùm bớt những nỗi bực trong lòng con.
Cách một hồi lâu, Thanh Nguyên mới xổng lưng lên, rồi day lại ngó Tự Cường trân trân. Ông vẫn ngồi im lìm, không nói chi hết. Cô ngó rồi thình lình cô ngã sấp, úp mặt vào lòng ông, hai tay ôm lưng ông khóc tấm tức tấm tửi.
Tự Cường lấy tay vuốt tóc con nhè nhẹ rồi chậm rãi nói: "Khóc đi con, khóc nữa, khóc cho nhiều, khóc đặng bớt đau đớn một chút".
Bây giờ Thanh Nguyên mới nói từ tiếng, và giọng nghe như rên: "Đời khốn nạn...Hèn chi ba chán phải... nay con mới biết công ơn ba đối với con thiệt là nặng... Ví như không có ba thì con ngày hôm nay mới ra thế nào!"
Tự Cường chúm chím cười. Ông kéo sửa bâu áo của con cho ngay thẳng và nói: "Con nói nữa đi con, nói đặng hả hơi nhẹ dạ một chút".
Thanh Nguyên ngước đầu dậy, lấy khăn lau nước mắt nói tức tửi:
- Đời như vậy, con còn nói giống gì nữa ba.
- Cái màn đời con mới vén lên một góc nhỏ xíu, bức tranh xã hội con mới thấy có một chút. Còn nhiều lắm con ôi, chớ có phải bao nhiêu đó thôi đâu. Để thủng thẳng rồi con sẽ thấy thêm nữa.
- Thôi đủ rồi ba à. Con không muốn thấy thêm nữa chi. Ghê gớm lắm.
- Không muốn cũng không được. Mà con cần phải thấy thêm nữa chớ, thấy cho nhiều rồi trí con mới định tĩnh, lòng con mới vững chắc được.
- Thôi, thấy càng thêm ghét, biết càng thêm phiền chớ có ích gì. Con không cần thấy việc gì nữa, không cần biết ai nữa. Cha con mình tách mà đi riêng trong một đường đời khác thiên hạ, thì sự sống của mình cũng đủ vui sướng, chẳng phải chung lộn với họ làm chi.
- À! Bây giờ con phục cái chủ nghĩa của ba rồi hả?
- Phục lắm, tuy chủ nghĩa ấy không hợp thời, song nó giúp cho bọn vì gia đình, mà phải chịu khốn khổ đau đớn... À! Gia đình ! Gia đình... Gia đình là những chân đứng của xã hội mà gia đình bị những thành kiến trái mùa, nó ràng buộc rồi níu cứng ở dưới bùn lầy, xã hội làm sao vượt lên cao cho nguy nga đồ sộ được. Con thề sẽ hy sanh cái đời con, bứt đứt cái dây chế độ ấy, xô ngã cái thành kiến ấy cho xã hội thong thả mà vượt lên cao.
- Ờ ! việc lớn lao quá con làm sao nổi?
- Dầu không nổi con cũng làm.
Bây giờ Thanh Nguyên có sắc giận, chớ không buồn nữa, cô nín khe mà thở rồi thình lình cô nói:
- Con nhứt định không thèm lấy chồng.
- À, ạ! Con đã hứa với Hữu Nhơn rồi làm sao?
- Con hứa suy nghĩ chớ không hứa làm vợ ảnh. Con không thèm làm vợ ai hết, để con viết thơ cho anh Hữu Nhơn, nói cho anh hay là lấy lời hứa lại.
- Con biết Hữu Nhơn đâu mà viết thơ.
- Con biết, bữa hổm ảnh có biên địa chỉ của ảnh vào cuốn sổ nhỏ của con. Sáng mai con gởi thơ liền.
- Ba tưởng con nên suy nghĩ lại. Ba thấy bộ Hữu Nhơn thương con lắm, nếu con rút lời hứa gấp quá sợ chàng buồn chăng.
- Con đã suy nghĩ rồi. Thà ảnh buồn rầu một chút bây giờ nhưng ngày sau nầy khỏi khốn khổ cả hai đứa.
Tự Cường rùn vai nói: "Tự ý con"
Thanh Nguyên ngồi ngó sững ngọn đèn một lát rồi cô nói:
- Hèn chi ba họ Huỳnh mà con lại họ Lý. Thuở nay con tưởng cha mẹ không có hôn thú nên con phải theo họ mẹ chớ con có dè đâu.
- Cũng tại ba giấu không dám cho con thấy khai sanh. Ba nộp khai sanh của con vô trường mà ba căn dặn ông hiệu trưởng đừng cho con coi.
- Cha với má con chết mà mồ mả chôn ở đâu ba biết hôn?
- Sao lại không biết. Ba lo chôn cất chớ ai. Mả cha mẹ con ở trong ngã năm. Bà nội con có mướn thợ xây tử tế.
- Bữa nào rảnh ba dắt giùm con đi thăm mả cha mẹ con được hôn?
- Được lắm. Để chiều mai tan học rồi ba dắt con đi.
- Vậy để mai con mua bông cho sẵn. Ý! Mười hai giờ rồi. Thôi, đi ngủ ba, con buồn ngủ quá .
Thanh Nguyên tom góp tờ di ngôn của cha bỏ vào bao thơ rồi cầm đi vô phòng.
Tự Cường tắt đèn rồi cũng vô phòng riêng của ông.
Tuy Thanh Nguyên nói buồn ngủ mà đến ba giờ khuya ông vẫn thấy trong phòng cô đèn sáng trưng một lát lại nghe có tiếng giày đi lẹp xẹp
[1] hạng bình (hạng đậu gồm: thứ, bình thứ, bình và ưu)
Tại Tôi
X
Trời mưa dầm dề, lại thêm gió thổi vùn vụt làm cho người đi đường quần áo ướt loi ngoi, nên lạnh lẽo vô cùng.
Hữu Nhơn mới thi đậu lại có hy vọng sẽ được vợ vừa ý nên ngồi trên xe đò cực nhọc, song chàng hớn hở trong lòng, trông về tới nhà cho mau đặng báo tin cho cha mẹ mừng.
Ba giờ khuya xe mới xuống tới Cần Thơ. Chàng nóng nảy trong lòng, không thể chờ đến sáng đặng đi xe đò khác nữa được nên chàng mướn một cái xe Location về liền. Xe tới cửa, trời vẫn còn mưa lâm râm, trước sân tối đen, trong nhà im lìm. Lòng chàng khấp khởi, chí chàng hăng hái, nhưng về tới nhà thấy quang cảnh u ám buồn bực như vầy, chẳng khác ngọn lửa mới phừng lên lại bị nước xối nên hạ xuống gần muốn tắt.
Hữu Nhơn được mãn ý, nên chàng bước xuống xe rồi dầm mưa vô nhà vỗ cửa kêu om sòm.
Trong nhà có tiếng hỏi: "Ai kêu đó".
Hữu Nhơn bực mình nên nói lớn: "Tôi là Hữu Nhơn. Tôi thi đậu rồi nên về đây. Mở cửa giùm cho mau một chút".
Nghe trong nhà có tiếng nói lộn xộn rồi mới nghe lộp cộp rút cây thông hồng mở cửa.
Cánh cửa vừa mở ra, Trần Hữu Nghĩa thấy con liền hỏi: "Con thi đậu rồi hay sao?".
Hữu Nhơn bước vô nhà đáp:
- Đậu rồi. Mới dán tên hồi chiều nầy nên con đi xe tối về liền.
- Từ hôm qua tới bữa nay ở nhà trông dây thép dữ quá. Mỗi hôm cha có vô nhà dây thép hỏi thăm nữa.
- Tại họ dán tên trễ quá, nên con tính thôi con về, không đánh dây thép làm gì.
Cô Phụng bưng một cái đèn lớn đem để tại ghế giữa, thấy con quần áo loi ngoi thì nói:
- Đi sao mà mưa gió khổ cực quá. Con có đem áo quần về hay không?
- Có. Con đem về một va ly đồ còn để ngoài xe. Má biểu đứa nào ra xách vô giùm con. Má cho 3 đồng bạc đặng trả tiền xe chút má.
Hữu Nghĩa kêu đứa ở ra xe đem va ly vô, còn cô Phụng đi mở tủ lấy bạc và hỏi:
- Con mướn xe ở đâu về đó?
- Con đi xe đò về Cần Thơ, rồi con mướn xe Location về liền. Trời mưa lạnh quá.
- Thi đậu rồi thì ta mướn xe trên Sài Gòn ta về luôn, đi xe đò làm chi cực khổ quá.
- Bà ngoại mạnh hả má?
- Mạnh. Bây giờ mấy giờ rồi?
- Bốn giờ rồi.
Hữu Nhơn thấy đứa ở đem va ly vô liền biểu xách luôn vô buồng, và chàng đi theo vô thay đồ, vì quần áo ướt hết.
Vợ chồng Hữu Nghĩa mừng con thi đậu, nên kêu tôi tớ trong nhà dậy hết rồi sai đứa mở cửa, đứa đốt đèn manchon, đứa nhúm lửa nấu nước.
Bà Cả Kim đang ngủ nghe chộn rộn, nên bà thức dậy mang giày đi ra. Năm nay bà đã được 66 tuổi, tóc đã bạc, da đã dùn, răng đã rụng, vóc đã ốm, mắt đã lờ, nhưng nhờ ăn ngủ được nên đi đứng còn cứng cỏi. Từ ngày Như Thạch chết rồi mà con của Như Thạch bà tìm hết sức cũng không được, bà rất ăn năn về sự nghiêm khắc với con, bởi vậy bà không muốn biết tới sự sản nữa, bà giao hết ruộng vườn cho vợ chồng Hữu Nghĩa thâu góp huê lợi, bà đóng trang thỉnh tượng Quan Âm về thờ. Mỗi ngày vác khuya và vác tối bà đốt nhang, rót nước, đánh chuông và vái lạy, tính làm như vậy đặng chuộc cái tội nghiêm khắc giết con dâu ngày xưa.
Cô Phụng thấy mẹ ra cô liền nói: "Thằng Nhơn thi đậu má à. Nó mới về đó".
Bà Cả không tỏ dấu mừng vui chi hết, bà chỉ nói:
"Đậu hay sao" rồi bà đi lại ngồi tại bộ ván cẩm lai dựa chỗ cửa sổ chỗ bà ngồi đã mấy chục năm nay. Hữu Nghĩa lật đật bưng một cái đèn dầu lửa đem để trước mặt bà.
Hữu Nhơn rửa mặt, thay đổi quần áo xong chàng đi ra, thấy bà ngoại chàng bước lại nói: "Cháu đậu rồi ngoại à". Bà Cả ngó cháu và nói: "Ừ, bà hay rồi, má con mới nói đó... Con Hai coi biểu bầy trẻ nấu cơm hay cháo gì đó cho nó ăn. Đi đường xa quá chắc nó đói bụng".
Hữu Nhơn cười và nói: "Đi dọc đường con buồn ngủ lắm chớ không đói. Ở trển con ăn cơm rồi lên xe đi về liền. Về rửa mặt thay đồ rồi bây giờ hết buồn ngủ nữa".
Cô Phụng hỏi con:
- Còn rương của con đâu? Sao không thấy con đem về.
- Con còn bỏ trong trường. Hồi chiều con hay con đậu thì con xin phép ra liền. Để ít bữa rồi con trở lên lấy rương.
- Ta lấy về luôn thể, còn trở lên trở xuống làm gì cho mất công.
- Bề nào con cũng trở lên chớ.
Hữu Nghĩa nghe vợ cãi với con chàng không chịu được, nên xen vô nói: "Ôi, miễn thi đậu thì thôi, lấy rương chừng nào lại không được. Ví như bỏ luôn cũng không hại gì. Hơi nào lo việc nhỏ mọn như vậy".
Cô Phụng bị chồng bắt bẻ cô không dám cãi, cô lại ván ngồi với mẹ rồi têm trầu và nói: "Nó học nay đã xong rồi. Bây giờ còn lo vợ con cho nó nữa thì rảnh việc".
Hữu Nhơn cười và nói: "Việc đó má khỏi lo kiếm mất công. Con đã đành bụng một chỗ rồi, mà cô đó cũng ưng làm vợ con nữa. Cha với má đến nhà cho biết nhau rồi cha má nói cưới".
Nghe nói như vậy vợ chồng Hữu Nghĩa nhìn nhau chưng hửng, còn bà Cả thì ngồi cúi xuống lo ngoáy trầu không nói chi hết.
Hữu Nghĩa châu mày hỏi con:
- Con đành bụng chỗ nào, ở đâu? Con ai vậy?
- Con gái của một ông Cử nhơn làm giáo sư dạy trường tư trên Sài Gòn.
- Trời ơi, mình làm ruộng, mà con đòi cưới con gái ở Sài Gòn, nó về dưới nầy nó biết làm công chuyện gì?
- Cha muốn vợ con phải làm công việc gì?
- Thì phải biết coi sóc việc nhà, phải biết thăm ruộng góp lúa, vậy chớ việc gì?
- Hứ, cưới vợ cho con mà ba tính kiếm đứa cho biết làm công chuyện, thế thì ba mua mọi chớ có phải cưới dâu đâu. Làm công việc thì mướn người ta không được hay sao? Mà cha má không phải nghèo, nên cần kiếm dâu đặng nó làm nuôi cha má.
- Nghèo giàu cũng vậy, ở ruộng phải thạo nghề ruộng vườn. Má con đó cũng phải làm công việc vậy chớ, con không thấy sao?
Hữu Nhơn rùn vai rồi xây lưng đi vô buồng nằm không nói lời chi nữa hết.
Cô Phụng trách chồng:
- Tại mình cứ ép nó học hoài, nên bây giờ mới vậy đó. Hồi nó 18, 19 tuổi tôi muốn lo vợ cho phứt nó cho rồi, học làm gì.
- Học thì học chớ học mà hại gì. Khéo nói kỳ cục.
- Bởi nó đi học nên bây giờ nó mới nói ngang tàng như vậy đó.
- Nói mà chơi, chớ nó ngang sao được. Tuy thuở nay mình cưng nó mặc dầu, song làm con có lẽ nào nó dám cãi cha mẹ.
Bà Cả thở dài nói: "Con Hai nó nói phải lắm. Tại đi học. Thằng cậu nó hồi trước cũng tại đi học nên mới sanh chuyện đó. Bây giờ tới nó, coi bộ cũng vậy nữa. Ôi thôi! Nó đành nơi nào bây cưới phức cho nó, sau nên hư nó chịu, nó khỏi trách".
Hữu Nghĩa cãi lại:
- Má nói như vậy sao được má. Cưới vợ là việc trăm năm của con, mình phải lọc lừa kén chọn cho nó, chớ nó là con nít, vui đâu chúc đó, nó có hiểu việc đời đâu lại chiều theo ý nó.
- Năm nay nó 23 tuổi rồi, cũng gần bằng tuổi thằng cậu nó hồi đó, chớ phải nhỏ sao. Thằng Thạch hồi nhỏ tao gắt với nó lắm, nó còn vậy thay. Thằng Nhơn bây giờ vợ chồng bây cưng nó quá, nó quen thói ngang tàng rồi, dễ gì bây uốn nắn nó cho được.
Cô Phụng nói: "Việc đó thủng thẳng rồi sẽ hay. Nó thi đậu mới về để cho nó vui chơi, cãi lẽ với nó làm gì cho nó buồn. Ví như chỗ nó muốn đó mình coi được, cưới cũng tốt vậy chớ".
Hữu Nghĩa đứng dậy đi ra cửa và nói: "Con gái Sài Gòn cưới về dưới nầy làm cái gì?".
Cô Phụng cũng đứng đi vô buồng. Cô thấy con nằm đắp mền trùm đầu, tưởng con ngủ, nên cô đi thẳng xuống nhà sau biểu trẻ bắt gà làm thịt nấu cháo.
Tảng sáng tôi tớ trong nhà lo mở cửa tắt đèn, bưng cháo dọn lên bàn án. Cô Phụng vô buồng kêu con dậy ăn. Hữu Nhơn cứ nằm im lìm , không cục cựa, không ừ hử. Cô Phụng nắm tay vừa kéo vừa nói: " Dậy con, dậy ăn một tô cháo gà cho khỏe bụng, ăn chơi rồi trưa con sẽ ngủ nữa".
Hữu Nhơn giựt tay và nói cùng quằn: "Không thèm ăn đâu".
Con vô lễ như vậy, mà vì cô cưng nên không giận, cô lại cười rồi bước ra ngoài nói với chồng: "Thằng Nhơn nó giận nó không chịu ăn".
Hữu Nghĩa cười đáp: "Không ăn thì thôi! Phải nó lên 5 lên 3 gì hay sao mà dỗ".
Đến buổi trưa Hữu Nhơn dậy ăn cơm, nhưng chàng buồn hiu, cứ ngồi chiêm biểm, chớ không nói không cười như hồi mới về nhà vậy nữa. Ăn cơm rồi chàng thơ thẩn ngoài hàng ba một hồi rồi vô mùng nằm nữa, không nói tới ai hết.
Luôn ba ngày sau, Hữu Nhơn cứ lộ sắc buồn bực hoài, bà ngoại hay là cha mẹ có hỏi điều chi chàng đáp tiếng một cụt ngủn chớ không muốn nói chuyện. Trời mát thì chàng thơ thẩn trước sân, hoặc ra đứng tại mé sông, trời nắng thì chàng kiếm sách cũ đem lại bàn viết, ngồi đọc hoặc rút vô buồng nằm.
Hữu Nghĩa làm cứng không chịu thua con, nên không thèm nhắc tới chuyện định đôi bạn cho con nữa.
Cô Phụng yếu trí, thấy con buồn quá cô chịu hết được, nên qua đêm thứ ba, trong nhà ngủ hết, cô mới bưng một cây đèn đem để trên phòng của con, kéo một cái ghế ngồi rồi với tay giở mùng kêu con: "Dậy con, dậy má nói chuyện một chút".
Hữu Nhơn mở mắt ngó mẹ và hỏi:
- Má muốn nói chuyện gì?
- Con muốn giống gì thì con nói ra chớ con dàu dàu hoài má rầu quá.
Hữu Nhơn nằm nín khe một chút rồi chàng ngồi dậy vén mùng lên nói:
- Con muốn cha má lên Sài Gòn vô nhà thăm ông giáo sư cho cô Thanh Nguyên biết cha má rồi cha má nói cưới cô cho con.
- Việc đó có gấp gì đâu. Nếu con muốn như vậy để thủng thẳng rồi sẽ tính, chớ làm giống gì mà buồn dữ vậy.
- Con muốn cha với má đi cho mau, đi trong đôi ba bữa đây.
- Theo má thì con muốn sao cũng được hết. Ngặt vì cha con khó lắm, ổng nói ổng quê mùa, ổng sợ gái Sài Gòn, nên biểu ổng đi không dễ gì đâu. Mà con có quen cô đó hay sao con muốn dữ vậy?
- Sao lại không quen. Cô học một lớp với con đã mấy năm nay, con lên nhà cô con chơi hoài, không quen sao được. Hôm bữa con với cổ thi đậu cổ rủ con lên nhà ăn cơm tối, rồi con mới lên xe về đây.
- Ạ, cô đó cũng thi đậu Tú tài như con vậy sao?
- Phải.
- Giỏi quá hả! Cô mấy tuổi?
- Mới 18 tuổi.
- Chà! Chà! Con gái 18 tuổi lại đậu Tú tài.
- Cô giỏi lắm.
- Học chung với nhau như vậy, tới lui chơi bời với nhau thường, vậy con đã có tình tự với cô rồi hay chưa?
- Má đừng hỏi kỳ như vậy! Hễ gần nhau rồi lấy nhau hay sao. Phải, con thương lắm, mà con coi ý cô cũng thương con nữa. Nhưng thương thì thương có hại gì.
- Ai biết đâu, nghe trai với gái gần nhau như vậy má phải nghi chớ.
- Con có hứa với cô để con về thưa cho cha với má hay rồi lên nói cưới cô. Cô biểu con dắt cha má lên cho cô biết rồi cô sẽ nhứt định.
- Cha mẹ cô giàu hôn?
- Má hỏi chi vậy? Giàu nghèo có quan hệ gì đâu. Con không cần việc đó nên con không thèm hỏi. Dầu cô nhà nghèo đi nữa, mà nhà mình giàu quá, không đủ sức nuôi cô hay sao?
- Thôi, con để thủng thẳng cho má òn ỹ với cha con coi. Như ổng không chịu thì má đi.
- Như cha con không chịu đi, má đi với bà ngoại cũng được. Má mướn xe Location và đem ngoại đi, có mệt nhọc gì đâu.
- Được để hoãn vài bữa cho má tính.
- Con nói thiệt, nếu không cưới cô Thanh Nguyên cho con, thì con buồn rầu chắc con phải chết mất.
- É! Đừng có nói bậy, không nên.
Sáng bữa sau Hữu Nhơn thức dậy, tuy chàng không vui cười như ngày thường, song chàng bớt buồn, nên hay nói chuyện với cha mẹ chớ không dàu dàu nữa.
Đến xế chàng tắm gội mặc đồ tây đội nón ra đi. Cô Phụng hỏi chàng đi đâu, chàng nói đi vô chợ thăm anh em bạn, kỳ thiệt chàng tính đi hỏi thăm xe Location mướn đi Sài Gòn, đi có lại, họ tính bao nhiêu.
Ở nhà cô Phụng bèn thuật những lời của Hữu Nhơn nói hồi hôm lại cho chồng và mẹ nghe. Cô khen Thanh Nguyên còn nhỏ tuổi lại học giỏi, rồi cô tỏ ý muốn biểu Hữu Nhơn dắt lên Sài Gòn, coi tướng mạo của cô nọ về bề ăn ở cha mẹ cô ra thế nào.
Hữu Nghĩa là người không có học, mê mẩn những thói xưa tục cũ, thuở nay ít chịu se sua, chủ tâm muốn cho có ruộng đất, có bạc tiền mà thôi, mà dầu có rồi lại muốn có nhiều thêm nữa, bởi vậy hôm nọ nghe con nói người con muốn cưới làm vợ là gái ở Sài Gòn ông đã lo sợ, nay nghe vợ nói gái ấy mới thi đậu tú tài ông lại càng ghê hơn nữa, nên lắc đầu nói rằng:
- Theo ý tôi, tố nào theo tố nấy, mình ở ruộng nên kiếm dâu ở ruộng cho dễ. Chớ dâu học giỏi mình dùng về chỗ nào?
- Khéo nói kỳ hôn! Mình nói như vậy, sao mình cho con đi học làm gì?
- Con mình là con trai, nên phải cho nó học đặng ngày sau nó đủ tài gìn giữ sự nghiệp chớ.
- Nếu con mình nó học giỏi lại mình có thêm con dâu học giỏi nữa, hai đứa hiệp nhau giữ gìn sự nghiệp lại càng chắc chớ sao sợ.
- Hừ, con dâu học giỏi nó đòi đi xe hơi, đeo hột xoàn, bận áo tốt, thét rồi mình mạt chớ.
- Thằng Nhơn nó sồng sồng quyết đòi phải cưới chỗ đó cho nó, nếu không cưới thì nó chết, mình giỏi mình cãi với nó đi.
- Nói việc lợi hại mà nghe chớ cãi giống gì.
- Con mình tánh ý khó lắm, chớ phải như con người ta hay sao. Nó muốn việc gì nó đòi cho bằng được nó mới nghe. Bữa hổm mình cãi với nó một chút, mà hổm nay nó dàu dàu không muốn ăn uống gì hết, mình không thấy hay sao?
Hữu Nghĩa bất bình, song không muốn đôi co với vợ nữa, liền bỏ đi ra sau vườn.
Cách một lát có một tên trạm làng đem đưa một cái thơ. Cô Phụng không biết chữ nên lấy cái thơ và hỏi của ai. Tên trạm nói thơ của cậu Hai Nhơn, rồi xá ra về. Cô Phụng đem để cái thơ tại bàn viết, đợi con về rồi sẽ chỉ cho con.
Mặt trời chen lặn, Hữu Nhơn mới về tới nhà. Cô Phụng mắc ở đằng sau coi chừng cho trẻ quét dọn lẫm lúa, nên con về cô không hay. Chừng đỏ đèn cơm dọn rồi, Hữu Nghĩa sai một đứa ở mời cô lên ăn, cô bước lên nhà trên vừa ngó thấy con vừa nói: "Hồi nãy có trạm đưa một cái thơ của con. Má để đằng bàn viết, ăn cơm rồi con coi thử coi thơ của ai vậy"
Hữu Nhơn đã ngồi lại bàn ăn rồi, nghe mẹ nói như vậy chàng đứng dậy muốn đi lấy thơ coi liền. Hữu Nghĩa nói: "Ăn cơm rồi sẽ coi, gấp gì hay sao".
Hữu Nhơn ngồi lại ăn với cha mẹ và bà ngoại, song chàng mắc chủ ý về cái thơ nên ít nói chuyện.
Ăn cơm xong Hữu Nhơn uống một hớp nước và bươn bả đi lại bàn viết kiếm thơ. Chàng lấy đem lại đứng một bên đèn coi ngoài bao.
Vợ chồng Hữu Nghĩa ngó chừng con, thấy con coi bao thơ rồi con cười và vội vã xé một góc đặng rút bức thơ ở trong ra. Vừa mới coi thơ con lại biến sắc, coi rồi đút thơ vào bao tay run và ứa nước mắt. Cô Phụng hỏi thơ của ai gởi đó.
Hữu Nhơn không trả lời lại châu mày nhăn mặt đi vô buồng.
Cô Phụng muốn nói cho dứt vạc một lần về sự đi coi vợ cho con, lại nói cho có mặt con song cô đợi hoài không thấy con trở ra, cô bèn đi vô buồng kêu con, té ra vô tới đó thấy con đương ngồi khoanh tay trên một cái bàn nhỏ và khóc, nước mắt nước mũi chàm ngoàm, cái thơ hồi nãy còn để gần cái đèn, cô nói: "Việc đó để má tính cho, có gì đâu mà phải buồn con. Con ra đây, ra đặng má nói với cha con rồi định ngày mà đi. Như ổng không bằng lòng đi thì má đi với con".
Hữu Nhơn nước mắt càng tuôn thêm nữa, chàng lắc đầu và nói: "Còn giống gì mà đi nữa má".
Cô Phụng chưng hửng đứng ngó con trân trân và hỏi: "Ủa, sao vậy?"
Hữu Nhơn liền lấy cái thơ đưa cho mẹ và nói: "Má coi thơ thì biết... Thế nầy con chịu không nổi, chắc con tự vận chết cho rồi". Cô Phụng lấy thơ vội vã bước ra ngoài và trao cho chồng: "Mình đọc thử coi thơ ai gởi lại cho nó, mà nó coi rồi nãy giờ nó khóc dữ quá ở trỏng".
Hữu Nghĩa cầm thơ đem lại gần cái đèn chỗ bà Cả Kim rồi mở ra đọc như vậy:
"Anh Hữu Nhơn ôi.
"Anh vừa mới lên xe ra về, trong nhà em xẩy ra một việc bất ngờ, việc ấy làm cho lộn ngược cái đời của em, và nó cũng đổi luôn về tâm hồn của em nữa.
"Em không thể lấy chồng được, chẳng những là hiện giờ mà dầu đến già cũng vậy.
"Vậy em lật đật viết ít hàng cho anh hay và xin anh hủy bỏ những lời em hứa với anh xưa rày.
"Tại tâm hồn mới của em nó buộc em phải nhứt định như vậy, chớ không phải em phiền anh hay là em bị ai áp bức đâu.
"Xin anh đừng dắt ông bà lên mà thất công. Em kính chào và từ biệt anh"
THANH NGUYÊN
Hữu Nghĩa đọc dứt thơ rồi thì cô Phụng nói: "Cái gì kỳ cục vậy, hồi hôm nó nói con nọ đã ưng nó rồi, bữa nay sao lại viết thơ nói như vậy".
Hữu Nghĩa cười đáp:
- Vậy thì may cho mình lắm.
- May giống gì?
- Con đó hồi rồi, thì mình khỏi cưới, mình kiếm gái khác dưới ruộng cưới cho con mình. Vậy là may chớ sao.
- May khỉ họ chớ may, thằng Nhơn nó mới đòi tự vận. Phải tính làm sao chớ không phải dễ đâu mà cười.
- Ai biết làm sao bây giờ, nó muốn con đó nhưng con nọ không ưng thì thôi.
- Nó nói nó cưới con nọ không được thì nó chết đa.
- Giống gì lại chết, thứ cưới vợ chỗ nầy không được ta kiếm chỗ khác, hết con gái rồi hay sao.
- Tôi nói nó chỉ quyết chỗ đó mà thôi. Nó không chịu chỗ nào khác hết, biết hôn?
Bà Cả Kim nghe con, rể cãi với nhau như vậy bà mới nói: "Thôi cãi nhau làm chi, đâu bây kêu nó ra đây đặng tao hỏi cho rõ ràng coi lại sao kỳ vậy".
Cô Phụng vô buồng khuyên dỗ con thế nào đó không biết, cách hồi lâu Hữu Nhơn theo mẹ đi ra, tuy chàng thôi khóc, song cặp mắt còn ướt rượt.
Bà Cả thấy cháu bèn hỏi:
- Ngồi đó con, ngồi cho ngoại hỏi một chút. Con nói con đó nó thương con, nó cũng ưng con rồi, sao bây giờ nó lại viết thơ nói như vậy.
- Con có biết đâu.
- Cha mẹ con với ngoại không phải không muốn làm vừa ý con, ngặt bây giờ con nọ nó không ưng, ngoại ép nó làm sao được.
- Con chết cho rảnh chớ sống nữa làm gì.
- Hứ giống gì mà chết? Bây giờ ý con muốn làm sao đâu con nói cho ngoại nghe thử coi.
Hữu Nhơn ngẫm nghĩ một chút rồi mới đáp: "Con muốn cha với má lên Phú Nhuận nói với ông già cô Thanh Nguyên, năn nỉ ổng có lẽ ổng vị tình mà ép cô được".
Bà Cả ngó vợ chồng Hữu Nghĩa nói: "Đâu bây lên trển nói thử coi, dẫu nói không được, cũng mát ruột con một chút. Bây không biết nhà thì biểu nó dắt đi vô chợ mướn một cái xe hơi đi, tốn bao nhiêu đó mà sợ"
Hữu Nghĩa nói: "Người ta đã chê mình nên người ta không ưng, bây giờ còn lên nói giống gì nữa. Mang mặt lên đó xấu hổ quá, con đi không được".
Bà Cả cười đáp: "Giống gì mà xấu hổ, thôi mầy không đi ở nhà coi nhà, để tao đi với má nó, lên coi thử xem con đó ra làm sao mà nó muốn dữ vậy, khuya mầy dậy sớm đi vô chợ mướn cho tao một cái xe hơi đặng tao đi, thằng Nhơn sửa soạn áo quần đi con, đặng sáng mai đi với ngoại".
Tại Tôi
XI
Gần bốn giờ chiều, trời đã nhạt nắng cô Thanh Nguyên rửa mặt, chải đầu thoa son, cô mặc một cái áo đầm màu xanh nhạt, thêu bông trắng, kêu sơp-phơ đem xe hơi ra cho cô đi xuống Sài Gòn. Cô ôm cái bóp và lên xe bộ tướng dịu dàng, gương mặt lại hùng tráng, cái vẻ thanh nhã lẫn với vẻ can cường, làm cho nhan sắc của cô có cái đẹp khác hơn cái đẹp của gái khác.
Xuống tới Sài Gòn cô ghé vào một tiệm sách đường Catinal lựa mua mấy số nhựt báo rồi gần năm giờ cô mới trở lên Tân Định đậu xe trước cửa trường Vân Thế chờ rước cha. Cô ngồi trên xe đọc nhựt báo, người với xe qua lại dập dìu, cô không thèm ngó ai hết, dường như cô ngồi giữa một đống cát ngoài sa mạc.
Tan học Tự Cường ra khỏi trường, ông ngó thấy con thì cười, và bước lên xe hỏi: "Bữa nay trời tốt, con muốn đi chơi hay không?".
Thanh Nguyên lắc đầu và đáp: "Có chỗ nào vui cho bằng nhà mình, có ai nói chuyện vui cho bằng ba".
Tự Cường lấy làm đắc ý, chúm chím cười rồi biểu sơp-phơ chạy về.
Xe về gần tới nhà, cha con Tự Cường thấy có cái xe hơi lạ đậu ngoài lộ ngay cửa, chừng vô sân Thanh Nguyên dòm thấy Hữu Nhơn đương đứng trước hàng ba với một bà già và một người đàn bà xồn xồn thì cô châu mày, cô giục giặc không muốn xuống xe, cô để cho cha xuống trước, cô thủng thẳng xuống sau, một tay cầm cái bóp, một tay ôm sắp nhựt báo.
Hữu Nhơn với hai người đàn bà thủng thẳng đi lại thềm nhà, chừng cha con Tự Cường vô tới thì Hữu Nhơn chào và nói: "Thưa ông, có bà ngoại với má của cháu lên thăm ông và cô Thanh Nguyên cho biết nhau".
Tự Cường bắt tay Hữu Nhơn và cúi đầu chào hai bà, cô Thanh Nguyên cũng bắt tay Hữu Nhơn không bợ ngợ chi hết và cúi đầu chào hai bà nhưng mắt ngó hai bà trân trân, không ké né, không sụt sè như gái khác. Tự Cường mời khách vô nhà và dắt hết qua phòng khách. Ông mời hai bà ngồi một bên còn bên nầy ông ngồi với Hữu Nhơn. Thanh Nguyên cất nhựt trình, kêu bồi rót nước trà rồi cô ngồi ghế canapé để ngang phía trong gần với cô Phụng một bên và Hữu Nhơn một bên. Bà Cả Kim với cô Phụng ngó cô không nháy mắt.
Thanh Nguyên không đợi khách mở lời, cô khởi đầu hỏi Hữu Nhơn rất chậm hẩm: "Anh không được thơ em hay sao?"
Hữu Nhơn đáp giọng nghe rất buồn thảm: "Có"
Thanh Nguyên cười và ngó ngay Hữu Nhơn hỏi nữa:
- Có được thơ của em sao anh còn dắt hai bà lên làm chi? Đường xa đi mệt nhọc quá.
- Bà ngoại với má tôi muốn lên thăm đặng biết mặt cô một chút.
Thanh Nguyên ngó hai bà cười và nói: "Cháu rất cám ơn hai bà chẳng nệ đường xa đến thăm cháu nhưng cháu xin phép nói phứt cho hai bà biết, ví dầu hai bà thấy cháu mà bằng lòng đi nữa, cháu cũng xin hai bà đừng tính cưới cháu cho anh Hữu Nhơn, bởi vì cháu đã nhứt định không lấy chồng, dầu ai cháu cũng không ưng, chớ không phải mình anh Hữu Nhơn đâu". Hữu Nhơn ngồi ứa nước mắt không nói được một tiếng.
Bà Cả Kim thấy bộ dạn dĩ, nghe giọng cứng cỏi bà lấy làm lạ, không dè trong đời lại có hạng gái như vầy, bởi vậy bà ngó Thanh Nguyên không nháy mắt, ngó mặt mày, ngó miệng nói, ngó mắt liếc.
Cô Phụng muốn nghe Thanh Nguyên nói chuyện nữa nên cô hỏi:
- Nghe nói cháu đã có hứa ưng thằng Nhơn, sao bây giờ cháu nói như vậy?
- Cháu đã có cắt nghĩa trong thơ, tại cháu có một việc riêng làm cháu không muốn lấy chồng, nên cháu xin hủy lời hứa.
- Chắc có ai ghét thằng Nhơn, họ rơi thơ nói xấu nó việc chi đó, nên cháu không ưng chớ gì.
- Ồ! Cháu được thơ rơi rồi cháu tin lời họ thêu dệt sao? Bà coi cháu thấp thỏi quá! Từ nhỏ chí lớn cháu quen thói minh bạch, cháu có chịu việc mờ ám đâu. Nếu cháu có tiếp được thơ rơi thì cháu gởi xuống cho anh Hữu Nhơn coi chớ cháu sợ gì ảnh mà phải giấu kiếm điều nói dối.
- Vậy chớ tại sao cháu chê thằng Nhơn?
- Cháu có chê ảnh về chỗ nào đâu... À. Có! Cháu chê lắm, mà cháu chê hết thảy đàn ông con trai chớ không phải chê một mình ảnh.
- Tại sao mà chê?
- Tại cái chế độ gia đình Việt Nam hẹp hòi lắm.
- Chế độ gia đình là cái gì?
- Bà không biết hay sao? Chế độ gia đình là cái thể thức của người mình bày đặt để kềm chế con cháu trong nhà. Mà cái thể thức ấy hủ lậu thấp thỏi quá làm cho con cháu phải bực tức, phải đau đớn, có nhiều khi phải chết nữa.
Thanh Nguyên nói tới đây thì cô nổi giận, mặt ửng đỏ, mắt sáng lòa, trán đổ mồ hôi, làm cho cô có cái vẻ hùng tráng lạ lùng.
Bà Cả Kim thấy vậy bà chúm chím cười, rồi bà thủng thẳng nói rằng: "Người Việt Nam phải theo lễ nghĩa người Việt Nam chớ sao, nếu không giữ lễ nghĩa thì coi sao được".
Thanh Nguyên đứng dậy ngó ngay bà và đáp: "Lễ nghĩa. Vậy chớ nước khác họ không theo lễ nghĩa của mình rồi họ dã man hết hay sao? Cháu xin thưa thiệt với bà cháu không thèm lấy chồng là tại cái ghê gớm của lễ nghĩa đó. Cháu nhứt định ở một mình đặng khỏi mang vào cổ vòng lễ nghĩa ấy, đặng cháu hưởng tự do, đặng cháu giữ trong sạch".
Bà Cả với cô Phụng nghe những lời oán trách phong tục như vậy, tuy không hiểu cho đáo để, song cũng biết không hạp với ý trí của mình, nhưng vì không quen nghị luận về những vấn đề gia đình hoặc xã hội, nên không kiếm được lời cãi. Hai mẹ ngó chừng Hữu Nhơn thấy chàng buồn thiu. Cô Phụng không chịu được, mới nắm tay và khuyên Thanh Nguyên ngồi lại và nói rằng: "Nói chuyện nghe chơi chớ có việc chi đâu mà cháu giận. Thôi, cháu ngồi lại cho tôi nói một chút. Thằng Nhơn nó thương cháu lắm. Nó nói nó cưới không được cháu nó buồn chắc chết. Vợ chồng tôi có một mình nó nên tôi cưng nó lắm, hễ thấy nó buồn tôi chịu không được. Vậy tôi khuyên cháu suy nghĩ lại. Tôi hứa chắc nếu cháu ưng thằng Nhơn, tôi cưới cháu về tôi cũng cưng như tôi cưng nó vậy. Tôi không phải như người ta, tôi không gắt gao với nàng dâu đâu mà sợ."
Thanh Nguyên cười ngất đáp:
- Cháu nói rõ quá, mà bà không thấu hiểu ý cháu. Cháu nói vì cháu oán cái chế độ gia đình nên cháu không lấy chồng. Chừng nào người mình phá hủy cái chế độ hủ lậu ấy, họa may cháu mới tính chuyện gia thất.
- Thì tôi nói làm dâu tôi không bó buộc gì đâu mà ngại.
- Nếu cháu làm dâu cháu có sợ ai bó buộc cháu đâu! Cháu không chịu mà bó buộc sao được. Cháu ghét là ghét cái chế độ gia đình, chớ có phải cháu sợ làm dâu nên không dám lấy chồng đâu. Tuy bà dễ với dâu, mà cái chế độ gia đình còn sờ sờ đó, nó cứ trói buộc dâu bà hoài thì dâu bà có tự do đâu.
- Tôi hứa chắc tôi sẽ để cho cháu thong thả. Không phải tôi khoe, song luôn miệng tôi nói cho cháu rõ. Má tôi đây là một bà điền chủ lớn, mỗi năm góp huê lợi đến ba chục ngàn giạ lúa. Má tôi sinh có mình tôi, rồi tôi cũng sinh có một mình thằng Nhơn, bởi vậy gia tài của má tôi ngày sau về thằng nầy hưởng trọn. Nhà tôi như vậy lẽ nào tôi bắt dâu con cực khổ hay sao mà sợ.
- Bà tưởng giàu có mà con cháu có hạnh phúc hay sao? Trong mấy nhà giàu cái chế độ gia đình lại còn gắt gao độc ác hơn trong mấy nhà nghèo nữa. Bà nói rõ việc nhà của bà cho cháu hiểu, cháu cám ơn bà lắm. Tiếc rằng bà nói sai chỗ, xin bà kiếm con gái khác mà nói có lẽ công hiệu hơn.
Thanh Nguyên nói lời đó cô liền đứng dậy đưa tay nắm tay Hữu Nhơn và nói: "Tôi nực quá nói chuyện nữa không tiện. Vậy cháu xin vô lễ với hai bà và em cũng xin lỗi anh mà đi chơi cho mát".
Cô Phụng còn ráng hỏi:
- Thiệt cháu nhứt định không ưng thằng Nhơn hay sao?
- Cháu đã tỏ ý ấy rõ ràng nhiều lần rồi.
- Tôi xin cháu thương giùm nó.
- Cháu có ghét ảnh đâu.
- Cháu cứu giùm nó kẻo nó buồn tội nghiệp.
- À cứu! Cháu có tài phép gì cứu thiên hạ được. Huống chi thân cháu đây có biết ai cứu hay không. Nay cháu dám lãnh cứu người khác.
Thanh Nguyên cúi đầu chào hai bà và bước ra sân lên xe hơi đi.
Mẹ con bà Cả nhìn nhau hơi hổ thẹn.
Tự Cường mời khách uống nước.
Bà Cả hỏi Tự Cường: "Bà ở nhà đi đâu vắng?". Tự Cường châu mày suy nghĩ rồi đáp:
- Thưa, tôi không có vợ.
- Không có vợ, sao lại có con? Thế khi bà mất hay sao chớ?
- Thưa phải. Mất hồi con Thanh Nguyên mới có năm sáu tháng.
- Hèn chi! Ông là đờn ông, mà ông nuôi con gái biểu sao tánh nó không giống con trai cho được. Cháu học giỏi nên nói chuyện nghe dạn dĩ quá.
- Thưa, nuôi con, tôi để tánh ý nó tự do phát ra, tôi chẳng chịu kềm chế sợ mất cái chơn tánh của con.
- Cháu nó nói như vậy, còn ông là cha mẹ ông liệu định thế nào?
- Việc vợ chồng là việc trăm năm của nó, tôi phải để nó thong thả mà định, chớ tôi định sao được. Bữa hổm có trước mặt cháu Hữu Nhơn đây nó nói nó muốn ưng cháu Hữu Nhơn làm chồng. Tôi khuyên hai đàng phải suy nghĩ, chớ tôi không cản. Bữa nay nó nói vì nó ghét chế độ gia đình nên nó không thèm lấy chồng thì thôi, chớ tôi ép sao được.
Cô Phụng đã không hiểu tâm hồn, lại cũng không rõ thái độ của Tự Cường nên cô xen vô nói:
- Tôi nghe con tôi nói mấy năm nay nó thường tới lui nhà ông chơi. Có lẽ ông biết rõ tánh ý nó. Nó thiệt thà lắm. Không biết tại sao nó lại thương cháu ở nhà đây. Nó sồng sồng quyết một phải cưới cho được nó mới chịu, chớ nó không đành nơi nào khác. Xin ông thương giùm nó.
- Thương thì thương, mà bây giờ biết làm sao. Tôi đã nói chẳng bao giờ tôi chịu ép con tôi, dầu có việc gì cũng vậy.
Hữu Nhơn nghe mấy lời ấy thì hết trông cậy nữa, nên chàng lấy khăn đắp vô mặt mà khóc.
Mẹ con bà Cả ngồi buồn hiu, còn Tự Cường cũng không vui.
Trời đã tối rồi nên bồi đốt đèn lên.
Tự Cường thấy khách không chịu về, không lẽ ngồi lặng thinh cứ ngó nhau hoài nên ông hỏi: "Hai bà ở Ô Môn mà ở tại chợ hay ở trong làng?"
Cô Phụng đáp: "Nhà tôi ở xa chợ chừng một ngàn ngoài thước, ở về làng Thới An".
Tự Cường châu mày ngó bà Cả rồi hỏi: "Làng Thới An, phải thuộc tổng Định Thới hay không?"
Bà Cả gật đầu đáp: "Thưa phải, sao ông biết?"
- Thưa tôi biết. Nếu bà ở làng Thới An chắc bà biết bà Cả Kim?
Bà Cả chưng hửng, bà nhìn Tự Cường rồi cười đáp: "Bà Cả Kim là tôi đây. Sao ông biết tên tôi mà hỏi?"
Bây giờ Tự Cường chưng hửng, ông vừa nghe nói thì ông vùng đứng dậy ngó bà Cả trân trân. Ông châu mày suy nghĩ một chút, rồi thủng thẳng ngồi lại lắc đầu nói tiếp: "Cuộc đời kỳ quá! Làm sao mà đoán trước cho được".
Bà Cả cũng còn cười và hỏi: "Ông nói việc gì mà kỳ?"
Tự Cường lặng thinh một hồi rồi hỏi lại:
- Bà có biết con Thanh Nguyên là con của ai hay không?
- Ông khéo hỏi trặc trẹo không! Con của ông chớ con của ai.
- Không. Không phải con của tôi... Nó là con của anh Như Thạch, cháu nội bà đó.
- Trời đất ôi! Ông nói thiệt hay là nói chơi?
- Tôi đâu dám nói chơi với bà.
- Con của thằng Thạch sao lại lọt vào tay ông nuôi?
- Lúc anh Như Thạch gần chết, ảnh có viết thơ cho bà mà nói chuyện con nhỏ. Bà không lên lại cũng không trả lời, cùng thế ảnh phải cậy tôi nuôi giùm nên tôi nuôi từ hồi đó cho tới bây giờ.
- Bất nhân dữ hôn! Vậy mà em tôi nó kiếm hết sức song kiếm không ra mối... À, à! Ông làm giáo sư, phải hồi con tôi chết ông lo chôn cất nó hay không?
- Thưa phải.
- Tôi nhớ năm đó em tôi nó hay tin thằng Thạch chết nó chạy lên hỏi thăm. Nó nghe thằng Thạch có con, nó muốn tìm đặng bắt đem về cho tôi nuôi. Nó hỏi thăm ông, sao ông lại nói ông không biết con nhỏ lưu lạc về đâu?
- Vì tôi tuân theo lời anh Như Thạch trối nên phải giấu.
- Cha chả, em tôi nó hay việc này chắc nó trách ông lung lắm. Mười mấy năm nay nó kiếm con nhỏ hết sức, mà kiếm không được. Tôi tình cờ lại kiếm được thiệt là may quá... Hèn gì hồi nãy nói chuyện cái miệng nó giống hệt cái miệng thằng cha nó... Ý mà cái trán nó cũng giống, tới tướng đi cũng giống quá... Thôi để tôi ở đây tôi chờ nó về đặng tôi nhìn nó, rồi tôi nói với ông đem nó về dưới.
Cô Phụng nguýt mẹ rồi nói:
- Hứ! Nhìn giống gì kỳ cục vậy mà nhìn.
- Sao mà kỳ cục? Con cháu thì nhìn, chớ kỳ giống gì.
- Sao má dám chắc nó là cháu nội của má?
- Ông giáo sư mới nói đó.
- Ai nói việc gì má cũng tin hết. Má giàu có lớn, ai lại không muốn nhận làm con cháu má. Ông giáo sư nói cô Thanh Nguyên là con của thằng Ba. Nói thì nói vậy chớ có bằng cớ gì đâu mà mình dám tin.
Tự Cường giận đỏ mặt, ông ngó ngay cô Phụng nói lớn: "Mấy lời bà nói đó, theo bà thì không quan hệ gì, chớ theo tôi thì nhục nhã cho tôi lắm. Tôi xin tỏ thiệt cho bà hiểu, vì bà Cả đây là mẹ của một người bạn thiết tôi, lại vì bà là chị ruột của người bạn ấy nữa, nên tôi phải cung kính. Nếu người nào khác tới nhà tôi mà nói như vậy, thì nãy giờ tôi tôi đã xô ra ngoài sân rồi. Tuy cha con tôi nghèo, song có phải thấy giàu mà ham như họ vậy đâu. Bà tưởng lầm, lầm xa lắm. Tôi mà thưa cho bà Cả hay con Thanh Nguyên là con của anh Như Thạch, ấy là vì bây giờ con nhỏ cũng biết việc ấy rồi, nên tôi không cần phải giấu. Đã vậy cháu Hữu Nhơn quyết cưới nó nên tôi phải nói cội rễ của nó đặng cháu Hữu Nhơn đừng có hy vọng nữa. Tại vậy đó nên tôi phải nói thiệt, chớ có phải tôi mưu sự đặng cho con Thanh Nguyên lãnh gia tài đâu. Tôi làm phước nói giùm cho bà biết: "Nếu bà còn ngồi nán lại đây, con Thanh Nguyên về mà nó hay hai bà là bà nội và cô nó, tôi e sợ nó nói mích lòng chớ không phải nó nhìn mà lãnh gia tài đâu. Tôi tưởng hai bà nên tránh nó mà về trước tốt hơn".
Cô Phụng đứng dậy nói: "Thôi, về má, ở đây có ích gì. Thằng Nhơn cũng về, con. Về rồi má kiếm chỗ khác má cưới cho, thiếu gì con gái mà lo. Ông giáo sư đã nói như vậy, mình còn nói giống gì nữa".
Bà Cả nói:
- Tao muốn ngồi nán lại đặng chờ con nhỏ về tao hỏi nó một chút.
- Thôi, má muốn ở đó thì ở, tôi về à.
Tự Cường chúm chím cười rồi đứng dậy lại bàn viết mở nhựt trình coi.
Cô Phụng bước lại cúi đầu chào kiếu chủ nhà. Bà Cả và Hữu Nhơn thấy vậy phải ép lòng đứng dậy mà từ giã Tự Cường. Hữu Nhơn không khóc nữa, nhưng cặp mắt đỏ au.
Tự Cường giữ lễ, nên phải đưa khách ra cửa. Lúc bước xuống thềm, bà Cả day lại nói: "Để ít bữa rồi tôi sẽ trở lên nữa".
Tự Cường day mặt chỗ khác không nói chi hết.
Bà Cả với con cháu lên xe trở xuống Sài Gòn. Đồng hồ chợ Bến Thành chỉ bảy giờ rưỡi. Sơp-phơ hỏi coi chạy đi kiếm khách sạn mướn phòng mà nghỉ hay là phải đi đâu. Cô Phụng bảo về luôn Ô Môn. Sơp-phơ xin cho đi ăn cơm một chút rồi về.
Xe hơi ngừng trước một tiệm cơm ở đường D'Espange. Cô Phụng hỏi bà Cả ăn cơm hay không thì bà nói không đói. Cô hỏi Hữu Nhơn thì chàng cũng lắc đầu.
Cô leo xuống đi mua thịt với ba ổ bánh mì. Chừng cô trở lại, bà Cả nói thằng Nhơn nó nóng hầm. "Bị đi ngày nay nắng gió chớ gì".
Cô Phụng rờ trán con, thiệt nó nóng nhiều lắm. Cô hỏi: "Con nóng mà về ban đêm được hôn? Hay là con muốn mướn phòng nghỉ rồi sáng mai về".
Hữu Nhơn lắc đầu đáp cụt ngủn "Về".
Sơp-phơ ăn cơm rồi mới đổ xăng đi về. Xe xuống khỏi Cai Lậy thì trời xáng xuống một đám mưa thiệt lớn. Tuy xe giương mui lại bao lá phủ, song bị gió lòn nên giọt mưa nhiễu vô xe làm cho áo quần phải ướt nhiều ít. Hữu Nhơn lạnh run lập cập mà ngoài da thì nóng hự. Mẹ con bà Cả lấy làm lo sợ và hối hận về nghe lời Hữu Nhơn đi về trong lúc ban đêm.
Trời mưa luôn luôn, xe về tới nhà trời vẫn còn mưa lớn. Hữu Nhơn vô nhà nằm dụi trên giường run. Cha mẹ thay áo quần cho chàng, chàng mê man không biết gì hết.
ại Tôi
XII
Mưa dầm mấy bữa, đường sá ướt át, cây cỏ loi ngoi.
Sớm mai nầy mặt trời mọc lên bủa nắng sáng loà, làm cho khúc đường từ chợ ra vàm Ô Môn, cảnh vật đều có vẻ tươi cười vui vẻ. Trên đầu, nhành cây long lanh phơi lá, bộ mát mẻ lại sởn sơ. Ở dưới sông nước chảy vô, giọt lờ đờ mà không dứt. Ngoài đường người qua lại dập dìu, trong sân gà kiếm ăn sẩn bẩn.
Ông Quyền trước kia làm hội đồng địa hạt rồi ông thăng chức cai tổng đã mười mấy năm nay, vì tánh ông ngay thẳng công bình nên trong tổng từ hương chức cho tới bình dân thảy đều kính trọng. Năm nay tuy ông đã trộng tuổi, song sức lực vẫn còn mạnh khoẻ, thái độ cũng còn cứng cỏi như trước hoài. Sớm mai nầy ông uống nước trà rồi ông đi ra sân thăm mấy chậu kiểng cưng của ông coi mưa mấy bữa rày mà cây có oi nước hay không. Ông đương xới đất trong một chậu kim quít, thình lình ông nghe có tiếng giày bước vô sân, ông day lại thấy bà Cả Kim, ông chưng hửng, liền hỏi:
- Chị ra sớm dữ ! Chị đi xuồng hay là đi bộ ?
- Đi bộ. Sớm mai trời mát thủng thẳng đi chơi.
- Hôm nào đây nghe nói chị đi Sài Gòn, chị về bao giờ vậy ?
- Ừ, tôi đi hôm mùng hai. Tôi có đi một bữa, đi sớm mơi rồi tối về liền.
- Mời chị vô nhà uống nước.
Bà Cả Kim đi vô trước, ông cai tổng Quyền theo sau, vừa đi vừa phủi đất dính tay.
Bà Cả vừa bước lên thềm, có bà cai tổng chực sẵn chào, và mời vô nhà kêu trẻ ở dạy lấy trầu chế nước lăng xăng.
Hai bà ngồi lại bộ ván phía trong, ông cai tổng lại cái bàn rửa mặt gần đó đứng rửa tay.
Bà cai tổng mời chị uống nước và hỏi:
- Hồi hôm nghe bầy trẻ ở nhà đây nó nói con của con hai đau nhiều lắm, phải vậy hay không chị.
- Phải. Nó đau nhiều.
- Đau sao đó.
- Đi Sài Gòn về dọc đường mắc mưa một đám lớn lại dài quá, làm thằng nọ phát nóng lạnh. Mấy bữa rày nó mê man, nóng luôn luôn, nóng tới nói xàm nữa.
- Vợ chồng con Hai rước thầy thuốc nào cho nó uống thuốc đó ?
- Rước ông thầy thuốc trong nhà thương Ô Môn, mỗi ngày ổng ra hai lần đặng tiêm thuốc cho nó. Không biết tại sao thằng nọ còn nóng hoài nhứt là nó nói xàm, có bữa nó bứt áo bứt quần, chạy cùng nhà thấy sợ hết sức.
Ông cai tổng nói :
- Chắc nó đau ban bạch chớ gì. Đau ban bạch nó nóng hung lắm, nóng tới mê sảng. Phải chạy thuốc cho hẳn hòi mới được.
- Hai vợ chồng con Phụng tính đợi bữa nay coi như bịnh không giảm thì mai nó sẽ xuống Cần Thơ rước thầy thuốc Tây lên coi mạch thử coi.
- Ông thầy thuốc của mình đây cũng giỏi, cần gì phải rước ai nữa làm chi. Ví dụ như mạng nó phải chết, dầu rước tiên đi nữa cũng không cứu được. Còn như mạng nó không chết, thì thầy thuốc nào cũng cứu được hết, lộn xộn làm chi.
- Thây nó, nó muốn như vậy thì để cho nó chạy thuốc cho hết lòng với con nó.
- Mấy năm nay tôi mắc lo việc quan, tôi ít hay ghé trong nhà. Nghe nói thằng Nhơn thi đậu Tú tài rồi mà.
- Đậu rồi.
- Còn bữa hổm chị đi Sài Gòn chi vậy ? Đi mua đồ hay là đi coi việc chi ?
- Cha chả! Chuyện đó lộn xộn lắm! Bữa nay tôi ra đây là ra đặng nói cho cậu nó hay.
- Chuyện gì mà lộn xộn ?
- Tôi tìm ra được con của thằng Thạch rồi.
- Hả ? Ở đâu mà chị tìm được ?
- Ở trên Sài Gòn, mà khỏi Sài Gòn một chút, chỗ đó kêu là Phú Nhuận.
- Ai nói cho chị biết mà chị tìm ?
- Việc tình cờ, chớ có ai nói đâu.
- Nếu chị gặp tình cờ thì làm sao chị dám chắc là con của thằng Thạch.
- Để tôi thuật đầu đuôi cho cậu mợ nó nghe. Hôm thằng Nhơn thi đậu rồi nó về nó nói cô Thanh Nguyên, 18 tuổi, con của một ông giáo sư trên Sài Gòn, học giỏi lắm, học một lớp với nó và cũng thi đậu tú tài một lượt với nó. Nó thương con đó lắm, mà con nọ cũng thương nó nữa. Nó đòi mẹ nó phải lên coi rồi cưới cho nó. Thằng cha nó không chịu cưới con gái Sài Gòn nhứt là con gái học giỏi, mình cưới về dưới nầy rồi nó có biết làm công việc gì đâu mà cưới. Thằng Nhơn làm giận làm hờn, bỏ ăn, bỏ ngủ, đòi tự vận. Kế con nọ gởi thơ cho nó và nói nhứt định không lấy chồng. Thằng Nhơn càng thêm buồn rầu, cứ nói đến cưới không được con nọ thì nó chết. Tôi thấy vậy tôi mới biểu mướn xe rồi nó dắt tôi và mẹ nó lên coi con Thanh Nguyên đó ra thể nào mà nó muốn dữ vậy. Té ra lên tới đó, thiệt con nọ nói quả quyết nó không chịu lấy chồng, nói rồi nó bỏ đi chơi. Ông giáo sư là cha của nó đó tên là Tự Cường, ổng hỏi thăm rồi ổng mới hay tôi là mẹ của thằng Thạch. Ông mới nói thiệt cho tôi biết con Thanh Nguyên đó là con của thằng Thạch, nhờ vậy nên tôi tìm mới tìm ra đó chớ.
Ông cai tổng ngồi ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi :
- Té ra ông giáo sư đó là cha nuôi của con nọ?
- Phải, ổng chịu thiệt ổng là cha nuôi, ổng nuôi con nọ từ hồi thằng Thạch chết cho tới bây giờ đó.
- Ổng tên Tự Cường?
- Phải.
- Bây giờ tôi nhớ rồi. Hồi thằng Thạch chết, tôi lên Sài Gòn hỏi thăm thì ông giáo sư Tự Cường nầy thuật công chuyện cho tôi nghe đây chớ ai. Vậy mà tôi hỏi đứa con thằng Thạch thì ổng giấu tôi, ổng nói ổng không biết. Chị giỏi quá, từ hồi đó tới bây giờ chị không đi đâu hết mà chị lại gặp con nhỏ trước tôi, còn tôi cứ hỏi đầu nầy tìm đầu nọ hoài lại không gặp. Chị tìm ra cháu nội rồi bây giờ chị tính sao đây ?
- Tôi tính rước nó về tôi nuôi chớ tính sao.
- Ông Tự Cường chịu cho hay không?
- Tôi chưa có nói với ổng. Hôm nọ mẹ thằng Nhơn nói bậy bạ làm ổng phiền, tôi thấy vậy tôi về, nên chưa nói kịp. Tôi tính cậy cậu nó đi với tôi lên trển nói đặng đem con nhỏ về. Cậu nó lên coi con nhỏ nói chuyện cái miệng giống cha nó hết sức, giống sao tới cái trán tới cái tướng đi cũng giống nữa. Con nhỏ dễ thương lắm, ngặt nó học chữ tây giỏi nên nó nói chuyện ồ ào dạn dĩ chớ không phải nhỏ nhoi như con gái thường.
- Ông Tự Cường nuôi nó, ông cho ăn học thi đậu đến bực Tú tài, thế thì ổng thương nó lung lắm. Tôi sợ bây giờ chị nói bắt con nhỏ ổng không chịu chớ.
- Tôi chắc ổng chịu, bởi vì nếu ổng không muốn cho tôi nhìn cháu nội tôi, thì ổng nói thiệt gốc tích của con nhỏ cho tôi biết làm chi. Tại ổng nói ra trước, chớ nếu ổng giấu luôn thì tôi làm sao biết được.
- Chị nói phải. Chắc là ý ổng muốn cho chị nhìn cháu nội nên ổng mới nói ra. Cha chả, mà bề của chị tôi coi khó lắm, chị đem con nhỏ về chị nuôi tôi thấy có nhiều chỗ bất tiện.
- Sao mà bất tiện?
- Chị nói thằng Nhơn nó muốn con nọ. Vậy chị đem nó ở chung một nhà sao được.
- Hồi trước nó không biết cho nên nó muốn chớ bây giờ nó với con nọ là anh em nhà cô nhà cậu còn muốn nỗi gì. Nhưng con nọ không chịu, thì có sao đâu mà mình sợ.
- Con nít hễ nó muốn thì khó cản lắm, nó không kể gì hết, như nó muốn và con nọ chịu thì loạn luân, không tốt. Còn như nó muốn mà con nọ chống cự không thèm nó thì sanh oán cũng không tốt. Song việc đó cũng chưa khó mấy. Còn một điều đáng lo sợ nhứt là cái óc của vợ chồng con Phụng. Bữa nay tôi xin nói thiệt cho chị biết. Từ ngày thằng Thạch chết rồi, tôi ít tới nhà chị là vì tôi ghét vợ chồng con Phụng đó. Quân đó bề ngoài làm bộ thiệt thà lễ nghĩa, song trong lòng nó tham lam độc ác nhỏ mọn khốn nạn lắm. Tại chúng nó chị mới đánh đuổi vợ chồng thằng Thạch, tại chúng nó, mà vợ chồng thằng Thạch phải chết hết, và cũng tại chúng nó nên chị mất cháu nội của chị mười mấy năm nay đó. Chị có biết tại sao quân đó làm như vậy hay không? Chúng nó muốn ăn trọn gia tài của chị. Tại bụng tham đó nên làm cho thằng Thạch chết đi rồi sau lại làm cho con nó phiêu bạt biệt tích nữa. Tôi nói cho chị biết, nếu chị đem con thằng Thạch về, mà chị còn để vợ chồng con Phụng ở chung một nhà, thì một lẽ ấy vợ chồng con Phụng tra thuốc độc cho con nhỏ chết, hoặc một lẽ nữa chúng là chúng nó dụ dỗ cho con nhỏ đánh ụp với thằng Nhơn đặng ăn cho trọn gói. Vì chị cưng con Phụng quá, nên chị không thấy rõ hết. Tôi nói thiệt, nếu chị còn để vợ chồng con Phụng ở trong nhà thì tôi ngăn cản, tôi không cho con của thằng Thạch về đó, và chừng chị nhắm mắt theo ông theo bà tôi sẽ làm trưởng tộc, tôi cầm đầu cho con thằng Thạch đuổi vợ chồng con Phụng liền.
Bà Cả ngồi khóc, bà không cãi một tiếng chi hết. Bà khóc một hồi bà mới nói: "Tôi nghĩ lời cậu nói đó có lý lắm. Bây giờ tôi mới nhớ lại hồi thằng Thạch đem vợ nó về, tuy vợ chồng con Phụng không nói tiếng gì, song nó châm chích làm cho tôi giận thêm, nên tôi mới đánh đuổi đi. Sau thằng Thạch gần chết, nó gởi thơ về để nói chuyện con của nó, vợ chồng con Phụng lại giấu thơ nên thằng Thạch chết tôi không thấy mặt và con nó lại phiêu bạt nữa. Mới bữa hổm đây, tôi nghe ông Tự Cường nói con Thanh Nguyên là con của thằng Thạch. Tôi mừng quá tôi tính nhìn cháu thì con Phụng kiếm chuyện bắt bẻ không chịu cho nhìn rồi ép tôi về liền, không kịp thăm mồ mả của vợ chồng thằng Thạch".
Ông cai tổng trợn mắt nói:
- À, bây giờ chị mới thấy rõ ràng rồi há!
- Mà tôi nghĩ cũng tại tôi hết thảy, tại tôi thương con Phụng nên mới ra cớ đỗi như vậy đó. Thôi, để tôi giao sở đất trong Định Môn cho vợ chồng nó, tôi cất một cái nhà ở trỏng cho vợ chồng và con nó ở còn nhà ngoài nầy tôi ở với cháu nội tôi. Tôi làm như vậy cậu nó nghĩ thử coi được hôn?
- Được, làm như vậy thì được.
- Cha chả, mà không biết nó chịu hay không?
- Ai không chịu?
- Con Phụng chớ ai.
- Không chịu sao được. Nó là con, chị muốn thế nào nó phải theo thế nấy, chớ nó cãi sao được. Tôi làm Cai tổng đây, nếu nó chống cự chị làm đơn thưa với tôi, thử coi tôi biết trị nó đặng hay không. Chị làm cha mẹ mà chị nói yếu ớt quá. Sao hồi chuyện thằng Thạch chị cứng cỏi dữ vậy? Bây giờ việc đáng cứng lắm, chị phải cứng chớ.
- Tôi xin cậu nó phải giúp sức cho tôi đặng tôi sắp đặt việc nhà lại mới được.
- Tôi sẵn lòng giúp chị mà thưởng con cháu đáng thương, và phạt con cháu đáng ghét. Chị làm đi có tôi đây.
- Bây giờ thằng Nhơn đau, vợ chồng con Phụng đang bối rối, vậy để ít ngày thằng Nhơn mạnh rồi tôi sẽ lo cất nhà ở trong Định Môn cho tụi nó ở. Còn con Thanh Nguyên tôi thấy mặt nó có một chút mà sao hổm nay về nhà tôi thương nhớ hoài. Tôi muốn cậy cậu làm ơn đi giùm với tôi lên trển đặng nói mà nhìn phứt nó, thủng thẳng sau mình lo xong việc nhà rồi mình sẽ rước nó về.
- Tôi sẵn lòng đi lắm. Tôi có sẵn xe nhà đó, chị muốn đi bữa nào tôi đi cho.
- Cậu nó định coi bữa nào rảnh thì đi, muốn bữa nào cũng được.
- Mai thứ bảy... mốt chúa nhựt chắc ông Tự Cường rảnh... Thôi xế mai đi lên Sài Gòn nghỉ một đêm cho khoẻ, rồi sáng mốt mình sẽ lên Phú Nhuận đặng nói chuyện, chị nghĩ coi được không?
- Được.
- Thôi trưa mai chị sửa soạn đồ cho sẵn, rồi chừng hai giờ chiều tôi đem xe vô tôi rước đi.
Bà Cả ở chơi, ăn cơm sớm mai rồi ông cai tổng mới cho xe hơi đưa bà về.
Trưa bữa sau đúng hai giờ, ông cai tổng ngồi xe vô đậu trước cửa. Ông biểu sớp-phơ vô mời bà Cả ra đi, chớ ông không ghé nhà. Chừng bà Cả lên xe, ông mới hỏi:
- Thằng Nhơn bữa nay bớt hôn?
- Cha chả, bữa nay sao nó lại nói xàm còn hơn nữa, bộ như cuồng tâm. Cha nó tính để chiều mát đi rước ông thầy thuốc tây ở Cần Thơ đặng ổng coi mạch thử xem.
- Tôi sợ ban nhập lý chớ gì.
- Không hiểu đau bịnh gì, mà bộ nó coi như người điên vậy.
Xe hơi rút chạy.
Tại Tôi
XIII
Sớm mai chúa nhựt, Tự Cường đi nghễu nghến ngoài sân, lúc đứng ngó thấy trái mít treo lểnh nghểnh trên nhành, khi cầm coi mấy bông hường đượm đâm trắng tươi trong chậu. Đi vòng lại cửa ông kêu con hỏi: "Con a, con rửa mặt rồi chưa".
Trong buồng có tiếng đáp: "Rồi, rồi... ba vô đi, con sẽ ra liền bây giờ".
Tự Cường thủng thẳng vô nhà, rồi lại bàn ăn ngồi. Ông túm miệng hút gió, chống hai cánh tay trên bàn, rồi gõ mười ngón tay trên mặt bàn nhịp lộp cộp.
Thanh Nguyên trong buồng bước ra, bộ gọn gàng, mặt tươi, miệng chúm chím cười. Cô đi riết lại vịn hai tay lên vai của ông Tự Cường, nghẻo đầu nghiêng mặt gần mặt cha và hỏi: "Ba chờ con dữ lắm hả?"
Tự Cường cũng cứ gõ tay trên bàn, mặt hớn hở đáp:
- Ba ngủ tới năm giờ thì đã rồi, nên dậy đi vòng ngoài sân cho khoẻ. Đêm nay con ngủ ngon hay không?
- Con ngủ ngon lắm. Ờ, mà con ngủ ngon không hiểu tại sao con lại nằm chiêm bao mới kỳ.
- Con thấy ngộ lắm, để rồi con thuật cho ba nghe.
Thanh Nguyên đi vòng theo cái bàn qua phía bên kia và ngồi ngang mặt cha. Cô bưng dĩa trứng gà luộc đưa cho cha, rồi lật hai cái tách ra rót cà phê. Tự Cường lấy trứng gà đập và húp, Thanh Nguyên cũng làm như cha. Mỗi người ăn hết hai hột gà rồi Tự Cường mới lấy ổ bánh mì bẻ hai đoạn chia con phân nửa. Ông vừa cắn bánh mì vừa hỏi:
- Con nói con nằm chiêm bao sao đó? Nói lại nghe chơi.
- Để con nhớ lại coi.. À, à, con thấy con đi chơi, đi chỗ gì không biết, tứ phía đều ruộng coi buồn hết sức. Con trở về, con gặp một bà già giống hệt bà ngoại của anh Hữu Nhơn hôm trước đó. Bà dang tay chận con lại, bà hỏi con đi đâu. Con nói con đi chơi. Bà cười bà biểu con đi chơi với bà, con không chịu. Bà muốn nắm tay con. Con xô bà rồi con đi. Đi được ít bước, con hỏi bà muốn thể nào, bà cứ ngồi khóc hoài.. không chịu nói gì cả. Con tức mình bỏ đi. Bà bèn đứng dậy nắm tay con kéo ngồi xuống. Con giật tay lại, sau dáng chừng sức con mạnh làm bà mất thăng bằng ngã văng vào gốc cây cổ thụ cạnh đấy. Con vội ngoái cổ lại, kêu thét lên... rồi con giựt mình thức giấc. Nằm chiêm bao thấy có bao nhiêu đó.
Tự Cường chăm chỉ nghe, chừng con nói dứt rồi ông cười nói:
- Giấc mộng vỡ tan chỗ đó uổng quá.
- Sao mà uổng ba?
- Chớ chi con chiêm bao thêm nữa đặng biết coi con sau đấy chịu ngồi cạnh bà để hoặc nghe bà nói chuyện hoặc xem bà muốn gì hay không.
Thanh Nguyên suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Con nhớ không được... Hôm trước ba nói bà ngoại của anh Hữu Nhơn đó là bà nội của con phải không ba?
- Ừ, bà đó là bà Cả Kim. Theo tờ di ngôn của cha con thì bà đó là bà nội con.
- Bà già bộ coi thiệt thà, nhưng sao hồi trước bà ở gắt gao với cha mẹ con quá ba há?
- Mấy bà già xưa bà nào cũng vậy, chớ có phải một mình bà già đó hay sao con.
- Con ghê quá... À, bữa hổm bà nói để bà về ít bữa rồi bà trở lên hôn ba? Trở lên mà làm chi nữa.
- Có lẽ trở lên đặng nhìn con là cháu nội.
Thanh Nguyên đứng dậy gọn gàng, chấp tay xá xá nói: "Cám ơn! Sao hồi cha con gần chết, cha con viết thơ, không thèm lên đem con về nuôi, đợi bây giờ con lớn rồi lại nhìn?" Cô nói dứt lời liền bưng tách cà phê lên uống. Tự Cường chúm chím cười rồi ông lấy muỗng khuấy tách cà phê của ông. Lúc ấy có một cái xe hơi ngừng ngoài cửa ngõ. Cha con Tự Cường ngó ra thấy một bà già với một ông già thủng thỉnh đi vô sân.
Thanh Nguyên đứng ngó trân trân rồi nói : "Ý, bà già bữa hổm lên nữa kìa, ba!"
Tự Cường gật đầu, song ông cứ ngồi khuấy cà phê chậm rãi từ hớp dường như không muốn để ý đến khách.
Bà Cả Kim với ông cai tổng Quyền bước vô cửa rồi đứng lại đó ngó. Chừng ấy Tự Cường mới chịu đứng dậy bước ra chào và mời vô phòng khách, còn Thanh Nguyên, cô cứ đứng tại bàn ăn và cúi đầu chào, chớ không chịu lại gần.
Ông Cai tổng Quyền vừa ngồi, ông liền ngó Tự Cường và cười và hỏi:
- Ông giáo sư nhớ tôi không?
- Xin lỗi ông, tôi không nhớ.
- Tôi là Cai tổng Quyền ở quận Ô Môn, cậu của Như Thạch. Năm Như Thạch mất, tôi có lên tôi kiếm ông tôi hỏi thăm công chuyện đó.
- Lâu quá tôi quên.
- Con của Như Thạch là cháu đó phải hôn?
- Phải.
- Xin ông kêu nó lại đây đặng cho tôi thấy nó cho rõ ràng một chút. Ông giấu ông nuôi, ông báo hại tôi kiếm nó từ hồi đó đến giờ dữ quá.
- Xin ông tha lỗi. Tôi giấu là vì tôi vâng theo lời trối của bằng hữu tôi, chớ không phải tôi muôn gạt ông.
- Thôi ông kêu nó lại coi, chị Cả tôi về nói chuyện lại, tôi hay mừng quá, nên tôi lên đây.
Tự Cường bèn bảo cô Thanh Nguyên lại
Thanh Nguyên ở bên phòng ăn đi qua bộ tự nhiên không ái ngại, miệng chúm chím cười.
Ông cai tổng ngồi nhìn cô trân trân.
Chừng cô lại gần bên Tự Cường, bà Cả đứng dậy bước tới và đưa hai tay ra tính ôm cô, Thanh Nguyên liền đưa hai tay đỡ bà và sụt lui mấy bước.
Bà thất vọng nên đứng ngó sững Thanh Nguyên, ứa nước mắt và nói: "Bà nội đây con. Lại đây cho bà nội biểu một chút... Đừng có sợ".
Thanh Nguyên nhích miệng cười bầy hai hàm răng nhỏ rứt khít rịt, lại trắng trong. Cô gục gật đầu nói:
"Ạ ! Bà nói bà là bà nội... bà nội là cái gì? Tôi không biết".
Bà Cả chắc lưỡi lắc đầu, trở lại ghế ngồi, lấy khăn đậy mặt và khóc. Ông cai tổng với ông Tự Cường châu mày nhìn nhau, không mở miệng nói một tiếng chi được. Còn Thanh Nguyên trở lại đứng sau lưng Tự Cường tay vịn ghế, mắt ngó bà Cả, miệng chúm chím cười hoài.
Bà Cả khóc tức tửi và nói: "Cũng tại tôi nên bây giờ cháu nội tôi nó gặp tôi mà nó coi tôi cũng như người dưng. Trời phật phạt tôi nặng lắm... Con trai thì giận lẫy đến huỷ mình! Con gái thì nó bợ đỡ mà bợ đỡ đặng giựt sự sản! Bây giờ còn có một chút cháu nội mà nó không biết thương ! Thôi, sống nữa có vui sướng gì mà sống
Ông Cai tổng nghe mấy lời than ấy thì động lòng nên ngó Thanh Nguyên nói:
- Con nghe bà nội con nói hay không? Con bước lại đứng một bên bà nội đặng bà nội vui lòng đi con.
- Tôi đã nói tôi không biết bà nội là cái gì, bà muốn nói việc chi cứ nói đi, cần gì tôi lại gần.
- Con đừng có làm như vậy không nên. Con là ruột thịt của bà nội con, bà nội con thương con lắm, sao con không biết thương lại?
- Hứ! Sự thương yêu thuộc về tình, chớ không phải thuộc về lý. Phải gần gũi nhau, phải giúp đỡ nhau, lâu ngày sanh mối cảm tình rồi mới thương nhau, chớ không quen biết nhau, chớ viện lẽ bà sao có cảm tình để thương được.
- Từ ngày bà nội con hay cha mẹ con chết hết bỏ con bơ vơ, bà nội con thương con lung lắm, tìm kiếm luôn luôn nhưng tìm không ra mối, nay mới gặp con đây. Nếu không thương thì kiếm làm chi.
- Không chắc! Nếu thương tôi sao lúc cha tôi gần chết cha tôi gởi thơ lại làm thinh không lên đem tôi về nuôi? Tôi nói có bằng cớ. Để tôi lấy tờ di ngôn của cha tôi rồi tôi đọc cái khoản ấy cho mà nghe.
Thanh Nguyên liền đi vô phòng lấy hết giấy tờ của cha để lại, đem để trên bàn rồi lấy tờ di ngôn ra đọc một khúc như vậy:
"Trong mấy tháng nay cha chỉ đợi ngày chết mà thôi, chớ không thèm lo tính việc chi hết. Ngặt vì cha chết rồi thân con ra thế nào, ấy là một câu hỏi mấy bữa rày cha cứ hỏi trong trí hoài. Cha nhớ tới chỗ đó cha lo, nên hôm nọ cha có gởi thơ về cho bà nội con hay đặng như bà nội con chịu nhìn nhận con là máu thịt của cha, là nhành lá của giòng họ Lý, thì lên đem con về mà nuôi thế cho cha. Đã muời ngày rồi cha không được tin tức chi hết. Chắc là bà nội con đành bỏ đứt, không chịu nhìn nhận con".
Thanh Nguyên đọc rồi cô cười: "Đó rõ ràng chưa? Còn cái gì nữa? Tôi phải tin lời của cha tôi để lại chớ".
Ông cai tổng Quyền chưng hửng, ông ngó Tự Cường và hỏi:
- Cháu tôi nó chết có để lại di ngôn hay sao?
- Có, ảnh giao tờ di ngôn đó cho tôi với tờ hôn thú khai sanh đủ hết.
- Vậy sao hồi đó ông không nói cho tôi biết chớ.
- Nói làm chi? Anh Như Thạch giao cho tôi, ảnh dặn tôi cất chừng Thanh Nguyên đúng 18 tuổi nên tôi mới giao lại cho nó đó.
- Cho phép tôi coi một chút được hôn?
- Được. Bây giờ cần gì phải giấu nữa.
Ông Cai Tổng Quyền với tay lấy tờ di ngôn với tờ hôn thú, Thanh Nguyên kéo ghế ngồi một bên Tự Cường. Bà Cả cứ khóc hoài. Cai tổng Quyền day qua nói với chị: "Thôi chị đừng khóc nữa, để tôi đọc di ngôn của cháu Thạch cho chị nghe".
Ông nói rồi ông bắt đầu đọc lớn, đọc chừng nào bà Cả càng khóc chừng nấy. Ông đọc rồi ông cũng cảm động nên rưng rưng nước mắt, ông nói với Thanh Nguyên: "Lời con trách bà nội con hồi nãy đó quá đáng một chút. Để ông cắt nghĩa chuyện ấy cho con hiểu. Thiệt trước khi cha con chết, nó có gởi thơ về cho bà nội con, bị cô con lấy giấu thơ nên bà nội con với ông không hay biết chi hết. Đến chừng ông đọc nhựt trình ông hay tin cha con chết, ông mới lên Sài Gòn hỏi thăm ông giáo sư đây, ông mới hay có cái thơ đó. Ông trở về rầy quá, cô hai con mới chịu đưa thơ ra. Bà nội con và ông tức giận hết sức chớ có phải được cái thơ mà nỡ bỏ cha con chết, không thèm lên và định bỏ đứt con không nhìn nhận con đâu.
Việc ấy tại mụ cô của con độc ác chớ không phải tại bà nội con đâu. Cái thơ ấy ông có giữ đây".
Cai tổng Quyền bèn móc túi lấy thơ ra đưa cho Thanh Nguyên.
Thanh Nguyên tiếp thơ đọc rồi hỏi:
- Trong tờ di ngôn của cha tôi có nói tôi có một người cô tên là Lý Thị Phụng, phải người đó hay không?
- Phải, mẹ của Hữu Nhơn đó?
- À! Người đi với anh Hữu Nhơn lên đây bữa hổm đó à?
- Phải.
- Anh Hữu Nhơn có một bà mẹ đích đáng dữ! Người như vậy lại muốn làm mẹ chồng tôi chớ!
- Mẹ chồng sao được. Con với thằng Nhơn là anh em cô cậu mà.
- Không, nói chuyện mà nghe, chớ tôi đã có nói dứt rồi, tôi có ưng đâu.
- Thôi, bây giờ con đã hiểu rõ công việc ấy rồi con hết phiền bà nội con nữa, vậy con bước lại mà hun bà nội con đi, cho bà nội con vui lòng.
Thanh Nguyên đứng ngó bà Cả trân trân một hồi rồi thủng thẳng đi lại một bên lấy khăn mouchoir lau nước mắt cho bà. Bà đưa hai tay ôm ngang cô và kéo vào lòng vừa mừng vừa cảm nên nước mắt tuôn ra nữa. Cô cười và để cho bà tỏ ý thương yêu dan díu. Bà thò tay vào túi lấy ra một sấp giấy săn đưa cho cô và nói: "Nội cho con một ngàn đồng bạc đây. Con lấy đặng may áo quần mà bận. Chừng hết nội sẽ đưa nữa".
Thanh Nguyên thụt tay và bước dang ra. "Không. Tôi không cần tiền. Chớ chi tiền nầy hồi trước bà đưa cho cha mẹ tôi uống thuốc thì có lẽ khỏi chết"
Bà cả lắc đầu và khóc nữa.
Ông cai tổng quản nói:
- Bà nội con đã ăn năn việc xưa lung lắm. Con chẳng nên nói như vậy kẻo bà nội con buồn. Con phải làm cho bà nội con vui để lo việc xảy tới. Trước khi đi lên đây bà con có bàn tính với ông để sắp đặt việc nhà rồi sẽ tính với ông giáo sư đặng rước con về dưới cho bà cháu sum họp.
- Ý! Được đâu. Tôi ở với ba tôi. Tôi không chịu về đâu hết.
- Bà nội con già lắm rồi, con phải về dưới đặng bà cháu hủ hỉ với nhau chớ.
- Chẳng bao giờ con chịu.
- Sao vậy? Trong tờ di ngôn cha con chỉ cội rễ là cố ý cho con nhìn thân tộc đặng hưởng gia tài. Con phải vưng lời cha chứ.
- Thân tộc... thân tộc... nhìn thân tộc đặng đút cổ vào cái vòng chế độ gia đình như cha tôi hồi trước vậy hả? Cám ơn. Tôi không dám mà cha tôi tuy nói cho tôi biết cội rễ, song có ép tôi phải nhìn thân tộc phải lãnh gia tài đâu. Tôi nhứt định không thèm cái nào hết.
- Con đừng có nói dại như vậy. Con phải về đặng hưởng phần gia tài của cha con chớ, có lẽ nào con bỏ cho mụ cô của con nó hưởng hết hay sao?
- Không, tôi không hưởng. Như không muốn cho cô tôi hưởng thì kêu nhà nghèo phân phát cho họ đi, họ nghèo họ cần dùng, chớ tôi có cần dùng tài sản làm chi.
Nói dứt, Thanh Nguyên liền tom góp giấy tờ của cha để lại và bỏ vào bao cầm đi vô buồng.
Cai tổng Quyền day nói với chị: "Tuy nó nói như vậy chớ có lẽ nào nó không chịu về hưởng gia tài. Chị về sắp đặt việc nhà như chị tính với tôi bữa hôm đó đi. Còn việc rước nó về để tôi lo lãnh cho". Bà Cả nói với Tự Cường.
- Ông giáo sư nuôi cháu tôi từ hồi nhỏ cho tới bây giờ, ơn nghĩa nhiều quá, chẳng bao giờ tôi dám quên.
- Thưa bà, việc ấy không đáng gọi là ơn, bởi vì tôi nuôi Thanh Nguyên tôi đã được hưởng cái thú vui riêng nhiều lắm.
- Ông nuôi nó ông phải tốn hao cực nhọc chớ vui giống gì.
- Thưa không. Tôi được vui nhiều lắm chớ. Tôi làm cho người bạn thiết của tôi được an lòng lúc hấp hối gần tắt hơi ấy là một sự vui. Còn tôi là một đứa vô gia đình nên không có vợ con, nhờ có Thanh Nguyên tôi mới ung đúc ra cho xã hội một người chí cao thượng, lòng trong sạch đó là một sự vui nữa.
- Dầu thế nào ông cũng làm ơn cho tôi nhiều lắm. làm ơn thì làm cho trót. Xin ông cắt nghĩa giùm cho cháu tôi biết thương tôi đặng nó về ở với tôi, ông làm như vậy thì ơn của ông càng thêm nặng.
- Xin lỗi bà, bà dạy việc ấy tôi không thể vâng được. Thuở nay tôi dưỡng nuôi dạy dỗ con Thanh Nguyên, tôi để trí nó tự do, chẳng bao giờ tôi chịu ráng ép kềm chế nó. Bây giờ nó chịu về với bà hay là không chịu thì tự ý nó, tôi không thể nói vô được.
- Nếu ông nói phân hai như vậy, tôi sợ nó không chịu về hưởng phần gia tài của cha nó.
- Nó không chịu thì thôi. Hồi nãy đọc tờ di ngôn bà có nghe chớ. Rất đỗi là cha phần xác của nó kia mà còn không chịu xúi nó nhìn nhận thân tộc đặng lãnh gia tài thay. Tôi là cha nuôi, có lẽ nào tôi xúi nó trong việc ấy cho được.
Cai tổng Quyền nói: "Mình tìm được cháu rồi thì thôi, còn việc rước nó về, để thủng thẳng rồi tính không gấp gì. Chị cần phải đuổi vợ chồng con Phụng ra khỏi nhà đi đã rồi sẽ nói chuyện rước cháu nội".
Bà Cả đáp: "Để về rồi tôi sẽ tính liền". Cai tổng Quyền nói với Tự Cường : "Tôi giúp việc nhà cho nhà nước nên bỏ phần tổng đi lâu không tiện. Xin ông cho tôi từ giã đặng dắt chị Cả tôi vô thăm mồ mả vợ chồng Như Thạch một chút rồi về cho sớm. Ông làm ơn kêu cháu ra đặng bà nội nó nói với nó mà về.
Tự Cường kêu Thanh Nguyên nên cô ra. Bà Cả đứng dậy từ giã Tự Cường rồi day qua nói với cháu : "Thôi, con ở lại đây, để nội về sắp đặt việc nhà ít ngày rồi nội sẽ trở lên nội rước!".
Thanh Nguyên lắc đầu và chúm chím cười.
Cai tổng Quyền cũng từ giã ra về, chừng đi tới cửa ông đứng lại nói nhỏ với Thanh Nguyên: "Để ông làm cho rành rẽ, rồi con sẽ đặng ở nhà thờ. Ông sẽ hết lòng lo bao thủ quyền lợi cho con. Ông không để cho đồ khốn nạn nó xâm phạm được đâu mà lo".
Thanh Nguyên lắc đầu cười chớ không nói chi hết.
Ông Cai tổng Quyền với bà cả Kim vô ngã năm thăm mồ mả vợ chồng Như Thạch rồi về liền. Xe về tới nhà vừa ngừng ngoài cửa thì có người ở trong nhà bà Cả chạy ra nói rằng: "Thưa bà, cô Hai và dượng Hai chở cậu Nhơn đi lên nhà thương Biên Hoà rồi, hồi khuya".
Bà Cả với Cai tổng đều chưng hửng.
Ông cai Tổng xuống xe đi theo chị vô nhà. Ông hỏi tại sao lại chở Hữu Nhơn lên nhà thương Biên Hòa. Người ở đáp: "Hôm qua bà đi rồi kế chiều dượng Hai mướn xe hơi đi xuống Cần Thơ rước thầy thuốc Tây. Ông thầy thuốc Tây nói cậu Nhơn bị chứng bịnh điên, bị nặng lắm, nên phải chở lên nhà thương Biên Hoà mới được. Tại vậy đó nên hồi khuya nầy cô Hai với dượng Hai phải chở cậu Nhơn đi. Cậu lên xe mà cậu giãy giụa cậu rầy rà lung lắm, không biết đi dọc đường có êm không".
Ông cai tổng Quyền lắc đầu rồi cười gằn: "Rõ ràng hễ làm dữ thì gặp dữ".
Còn bà Cả Kim ngồi im lìm, mắt ngó sững ra ngoài sân một hồi lâu, bà thở một hơi thiệt dài mà nói: "Tại tôi hết thảy!".
VĨNH HỘI, tháng 3 năm 1938
CHUNG
Vợ già chồng trẻ
Phần một:
Trời chạng vạng tối.
Đèn điện bựt cháy khắp Đô Thành Sài Gòn Chợ Lớn, đường nào cũng nhờ ánh sáng nhơn tạo nên khỏi chìm ngấm trong tịch mịch tối tăm.
Thế mà bên vùng Vĩnh Hội có mấy xóm bình dân nằm dọc theo mé kinh phía trong, từ bến đò Long Kiển vô tới xóm Ụ Tàu, vì đường chưa giăng đèn điện, còn trong nhà lá thì đốt dầu leo heo, bởi vậy lúc gần tối mặc dầu dưới kinh nước đầy, gió chiều phất mát, mà quang cảnh trông có vẻ âm u, có hơi buồn bực.
Trong xóm Ụ Tàu, nằm xéo xéo vàm rạch Ông Lớn là xóm nghèo hơn hết ở vùng nầy, còn một vài ông thợ thuyền đi làm về trễ, nên xung xăng đi về riết kẻo vợ con chờ ăn cơm. Vài anh xa phu mặc quần vắn, áo vắt vai, bươn bả ra sang xe để chạy cử tối. Cũng có ít chị đàn bà mua bán, chị thì bán hết xôi bưng thúng về, chị thì gánh chè cháo ra đi bán dạo. Nhờ rãi rác có kẻ vô người ra như vậy, nên quang cảnh linh động vui vui làm phai lạt bớt hơi buồn bã.
Giữa lúc lờ mờ gần hết sáng nhưng chưa thiệt tối đó, một chị đàn bà ngồi trước căn nhà lá xịch xạc, mắt ngó xuống kinh xem tàu dắt ghe đi ngang. Một đứa con gái nhỏ xẩn bẩn chơi một bên chị, thình lình nó hỏi: "Cha đi đâu mà chưa thấy về vậy má? Con đói bụng quá. "
Chị nói: "Rán chờ một chút nữa con. Như thiệt tối mà cha con không về, thì má sẽ đốt đèn và xúc cơm cho con ăn."
Một người trai chừng vài mươi tuổi, bộ tướng mạnh mẽ, ở phía ngoài xâm xâm đi vô xóm, vừa đi vừa hút gió. Chị đàn bà thấy đi ngang qua chị mới kêu và hỏi:
- Em có thấy anh hai em làm giống gì ở ngoải hay không vậy em Giao?
- Ủa! Anh Hai chưa về hay sao?
- Chưa. Chờ từ hồi chiều đến giờ mà không thấy tăm dạng gì hết. Con Tý đói bụng mà không chịu về ăn cơm cho rồi chớ.
- Thôi, chắc ảnh mắc nhậu nhẹt ngoài quán thím Phòn chớ gì. Mãn giờ tôi qua Cầu Kho có chuyện một chút. Tôi về trễ. Đi về tới ngã ba hồi nãy tôi thấy trong quán thím Phòn có mấy người ngồi đánh chén nói chuyện om sòm. Tôi mắc lo đi riết về, sợ anh Bảy chờ cơm, nên tôi không dòm kỹ coi ai ở trong quán.
Tên trai nói rồi đi thẳng lại căn nhà xéo xéo gần đó mở cửa mà vô.
Chị đàn bà đứng dậy thở một hơi dài rồi nói với đứa con gái: "Thôi vô đây má đốt đèn rồi má xúc cơm múc cá cho con ăn trước đi. Chờ không được nữa đâu."
Trong xóm Ụ Tàu nầy có chừng một chục rưởi cái nhà. Vì chỗ ở dầu bao lớn cũng dùng tiếng chung mà gọi là nhà, chớ nếu nói cho đúng thì mới gọi là chòi cho trúng chánh nghĩa, bởi vì mỗi nhà chỉ có một căn thấp thỏi, chật chội, vô cửa phải cúi đầu. Mái nhà thì lợp bằng lá xé[1], hoặc lá chầm[2], có chỗ thiếu lá phải chèn một vài tấm thiếc. Còn cửa với vách thì dùng đủ thứ, ai có thứ gì dùng được thì dùng, lá có, thiếc có, ván thùng có, bởi vậy không kín đáo gì hết.
Chị đàn bà trông chồng không được nên phải vô dọn cơm cho con ăn, đây là cô Hai Xuyến, vợ của anh Hai Túc, làm thợ máy ngoài hãng cưa. Vợ chồng ở đây từ khi phối hiệp với nhau tính đã hơn mười năm rồi, sanh được con Tý đó, nó đã lên 7 tuổi. Vì Hai Túc đứng coi cho máy cưa chạy, anh ăn tiền khá, nên nhà anh tốt hơn hết, tuy một căn mà cửa kín đáo, vách chắc chắn lại có kềm được một cái xép[3] một bên để nấu ăn.
Cô Hai Xuyến có nghề làm bánh cam đường với bánh ếch thiệt ngon, còn thêm biết nghề may, lại may khéo. Hồi 20 tuổi, cô gặp Hai Túc rồi vô cất nhà ở xóm nầy, trong 3 năm đầu, chưa có con, thì cô làm bánh cam đường và gói bánh ếch mỗi bữa bưng đi bán khá quá, kiếm lời mua cơm gạo vợ chồng ăn không hết. Chừng có con cô không thể đi bán bánh được, cô mới bỏ nghề làm bánh mà sang qua nghề may. Nhờ mấy năm đi bán bánh cô quen hết mấy xóm dọc theo mé kinh, lại cũng quen luôn trong xóm Cầu Dừa nữa, bởi vậy người ta tin cậy mới đưa đồ cho cô may, nên cô có đồ may thường thường hoài. Nhưng vì ở xóm bình dân may đồ vải mà thôi, lâu lâu mới có một cái áo bà ba hoặc một cái quần hàng mà may, bởi vậy tiền công không được nhiều lắm.
Đường quan lộ vô tới đầu xóm thì dứt. Trong xóm Ụ Tàu chỉ có đường mòn chằng chịt, bởi vậy chỗ nào có đất trống cao ráo thì người ta cất nhà mà ở, thành thử nhà cửa trong xóm không có thứ tự, lúm khúm cái nằm ngang, cái nằm dọc, không hàng ngũ chi hết.
Từ đầu lộ trở vô xóm, bên tay trái dựa theo mé kinh đất không bằng thẳng cất nhà ở không được. Bên tay mặt gặp trước hết nhà ông Kèo, thợ mộc, ở với bà vợ và một đứa cháu nội gái 15 tuổi, tên Nhơn, bán bánh ú. Kế đó là nhà bà Lữ ở với người con gái tên Hiền, 29 tuổi, chồng chết, bán xôi. Cách một cái vũng thì tới nhà của thợ máy Hai Túc thì con đường mòn lại cong vô phía tay mặt, trong đó nhà cửa lộn xộn hơn một chục chủ ở.
Tên Giao đi ngang nhà Hai Túc đứng nói chuyện với cô Hai Xuyến hồi nãy đó, nhà nó cất xéo về phía bên kia đường mòn. Nó cũng làm thợ máy ngoài hãng cưa, nhưng thợ phụ. Nó mới 20 tuổi, chưa có vợ, mà cũng không có cha mẹ, anh em, nên ở cái chòi nhỏ một mình. Nó ăn cơm tháng tại nhà anh Bảy Cao làm cu ly[4] trong một hãng với nó, nhà ở kế nó đó, Bảy Cao đã 40 tuổi, có vợ, nên vợ ảnh nấu cơm luôn cho Giao ăn, mỗi tháng nó trả tiền cho chị, vì hai người làm một chỗ, về ăn cơm một lượt, tại bạn nghèo với nhau có gì ăn nấy, không có chi bất tiện.
Bữa nay Giao có nói trước cho Bảy Cao hay nó có việc phải qua bên Cầu Kho một lát nên về trễ, tuy vậy nó sợ vợ Bảy Cao chờ lâu chị phiền, nên về tới nhà nó cởi áo bỏ đó, lật đật đi ăn cơm, không kịp đốt đèn.
Giao nhỏ tuổi, biết chữ lại rành nghề, ăn nói nhỏ nhoi, tánh tình vui vẻ, biết thương người hoạn nạn, ưa tiếp giúp anh em, bởi vậy ở trong sở làm cũng như đối với xóm riềng không bao giờ mích lòng ai, trái lại ai cũng yêu mến.
Ngồi ăn cơm tối với vợ chồng Bảy Cao, Giao thỏ thẻ nói: "Anh Hai Túc có vợ con mà cứ ta bà[5] hoài, không kể tới gia đình. Bữa nay ảnh đi nhậu nhẹt ở đâu nữa, bỏ vợ con ở nhà chờ cơm tới chừng nầy mà chưa về. Hồi nãy tôi về ngang chị Hai Xuyến kêu hỏi tôi có biết ảnh đi đâu hay không, bộ chị buồn quá".
Vợ Bảy Cao nói: "Có lạ gì đâu mà phải hỏi. Chừng nầy mà chưa về là mắc nhậu ngoài quán nào đó chớ gì". Bảy Cao nói: "Tội nghiệp thím Hai Xuyến, mắc anh chồng cũng như có con quỷ ở trong nhà. Chú đi làm không về thím buồn, nào phải thím sợ ảnh đi trai gái nên thím ghen hay là sợ đi ăn uống tốn hao tiền bạc đâu. Thím buồn là vì thím sợ nhậu nhẹt say sưa rồi về đánh vợ chửi con, làm tưng bừng túi bụi, náo động cả xóm chứ".
Giao châu mày nói:
- Tôi tưởng anh thợ Túc có phước lớn lắm ảnh mới gặp được người vợ đàng hoàng đúng đắn như chị Hai Xuyến.
- Thiệt vậy. Có phước lắm. Thím Hai Xuyến may khéo, thím may mướn kiếm tiền phụ nuôi sống chồng con. Chú đi làm thím ở nhà lui cui lo nuôi con, lo dọn đẹp nhà cửa, lo cơm nước cho sẵn đặng về có mà ăn. Hễ rảnh thì thím may kiếm thêm tiền nữa. Vậy thì chú khoẻ quá. Nếu chú biết suy nghĩ, biết xét công ơn của vợ, chú biết vui với vợ con, thì gia đình của chú sướng bực nhứt trong xóm nầy, chớ đâu có xào xáo hoài, làm cho thím Hai Xuyến buồn rầu như vậy.
- Thiệt tôi thấy thân phận của chị Hai Xuyến tôi tội nghiệp cho chỉ quá. Mỗi lần ảnh say về ảnh đánh chỉ tôi chịu không được, nên tôi can thiệp luôn luôn. Lần nào tôi cũng bị ảnh mắng chửi, nhiều lần bị ăn thoi nữa, mà tôi không kể, cứ can thiệp hoài.
Vợ Bảy Cao chận nói:
- Em chẳng nên can thiệp. Chú đánh vợ mà em can, nhiều lần chú nói xấu cho em, chú la em lấy vợ chú nên em binh. Vậy thì còn can làm chi.
- Ối! Ảnh say nên ảnh nói bậy, hơi nào mà chấp ảnh. Hết say rồi anh em cũng tử tế với nhau như thường, chị Bảy không thấy hay sao?
- Nên để cho người già cả họ can gián tốt hơn.
- Già cả có ai đâu. Ông thợ Kèo ở ngoài xa, Bà Lữ bán xôi với chị Hiền ở gần, can một hai lần không được, hai mẹ con ghét không thèm nói tới nữa. Anh Bảy, chị Bảy cũng không chịu lại mà khuyên dỗ. Tôi ở gần, nếu tôi làm lơ nữa, thì rủi sẩy tay anh Hai Túc đánh chết vợ ảnh còn gì.
- Chết thì bị đày. Để luật pháp trừng trị một lần cho chú tởn. Em can đã không có ơn, mà nhiều lần em còn bị đòn nữa chớ.
- Anh Hai Túc yếu xịu, ảnh thoi có thấm tháp gì đâu. Tôi nghe nói uống ruợu ăn cơm mới ngon. Tôi có nếm thử thì rượu hôi rình chớ phải ngon ngọt gì sao mà mê. Mà có uống thì uống chút đỉnh vậy thôi, uống làm chi cho tới say rồi sanh giặc với vợ con.
Bảy Cao nói: "Tại chú thợ Túc có tánh kỳ cục, hễ say thì gây gổ, chớ họ say đâu có như vậy. Có người say thì họ ngủ. Cũng có người say thì họ nói chuyện vui lắm. Có một mình chú hễ say thì về đánh chửi vợ con, chú không chịu bỏ tật say của chú, sợ có ngày chú mang họa lớn."
Ăn cơm rồi vợ Bảy Cao mang chén vô trong nhà rửa. Giao cứ ngồi nói chuyện chơi với Bảy Cao. Cách một hồi nghe đằng nhà thợ Túc có tiếng la hét om sòm. Vợ Bảy Cao bước ra nói: "Đó, ông men về rồi nên làm om đó."
Giao ngồi lóng tai nghe. Ban đầu nghe tiếng Hai Túc rầy om sòm. Một lát lại nghe tiếng chị Hai Xuyến la khóc: "Trời đất ơi, chết tôi còn gì! Chòm xóm đành để cho chồng tôi giết tôi hay sao?" Rồi tiếp nghe tiếng con Tý khóc la nữa.
Giao xúc động chịu không nổi. Nó đứng dậy biểu vợ chồng Bảy Cao đi với nó lại can. Vợ Bảy Cao biểu chồng đừng thèm đi. Có đi thì đi ra bót xin lính vô bắt đem Hai Túc về bót mà giam thì tốt hơn.
Giao bỏ ra cửa đi riết lại nhà thợ Túc. Thấy Giao ở với bạn trong sở mà trong xóm cũng như vậy, Bảy Cao không nỡ làm lơ nên thủng thẳng đi theo sau. Vợ thấy chồng đi, chị cũng đi nữa.
Giao đi vô gần tới cữa, tuy ngọn đèn dầu không được tỏ lắm, song nó cũng thấy Túc một tay đè vợ vô vách, còn một tay đưa lên muốn đánh. Nhưng anh ta ốm yếu không có sức bao nhiêu lại thêm say mèm, mắt nhắm mắt mở, đánh không trúng đâu hết, phần thì chị vợ miệng la, tay đưa ra mà đỡ, còn thêm con Tý binh mẹ, nó níu nhũng nhẵng phía sau nữa, bởi vậy anh ta làm dữ mà đánh không được. Giao ở trần, nó a vào, xếp hai cánh tay Túc ôm chặt mà kéo anh ta ra, đặng gỡ nạn cho Xuyến.
Túc vùng vẫy muốn kiếm thế đánh Giao, mà sức yếu lại say, làm không lại sức trai sung túc, nên bị Giao ôm mà kéo cho nằm trên ván.
Vợ chồng Bảy Cao vô tới. Hai Xuyến lật đật chạy ra đứng một bên vợ Bảy Cao, dường như muốn yêu cầu ủng hộ.
Bị Giao đè nằm trên ván cựa quậy không nổi, co chân đạp vô vách cây nghe đùng đùng, chớ không trúng Giao. Hai Túc mới chửi Giao, chửi vợ, chửi hết chòm xóm theo một phe với vợ mà hiếp anh ta.
Vợ Bảy Cao ngó chồng rồi cười ngạo mà nói: "Thấy hôn? Tôi nói hễ can thì bị nghe chửi, có ơn nghĩa gì."
Hai Xuyến nói: "Ảnh say rồi ảnh nói điên, xin anh Bảy, chị Bảy đừng chấp ảnh."
Túc vùng vẫy, mắng chửi một hồi rồi mỏn hơi đuối sức nên nằm êm. Giao thấy vậy mới buông Túc; anh ta nằm ngủ ngáy khò khò.
Vợ Bảy Cao mới nói: "Thôi, êm rồi, mình về." Vợ chồng Bảy Cao mới rút đi Hai Xuyến theo cám ơn.
Giao theo sau mới nói với Hai Xuyến: "Chị Hai để cho ảnh ngủ. Khuya thì ảnh hết say chớ gì. Nếu ảnh có làm dữ nữa thì chị chạy ra ngoài la lên; chòm xóm người ta hay tự nhiên họ lại cứu chị."
Giao về tới nhà, xô cửa bước vô, mò kiếm hộp quẹt đốt đèn rồi nằm trên cái ghế bố hút gió theo hơi bản đờn vọng cổ.
Một mình với ngọn đèn leo lét, Giao hút gió một hồi rồi nhớ tới cảnh Hai Túc say sưa làm náo động trong xóm hồi nãy thì cảm thương thân phận của chị Hai Xuyến có nghề, có hạnh, mà nhan sắc lại đẹp hơn chị đàn bà trong hạng bình đân, chị đã làm tội tình gì mà bây giờ phải mang anh chồng say, anh không biết yêu quý người vợ đẹp đẽ, hiền lành, trung thành, tận tụy, đã không làm cho vợ vui, mà hưởng thú gia đình, lại theo đánh chửi hoài làm cho vợ buồn như ở trong địa ngục, bạn cùng quỉ sứ.
Giao suy nghĩ rồi nhớ lại ở đời các chú trai cũng như các cô gái, hễ lớn lên thì ai cũng mong cưới vợ lấy chồng đặng vui hưởng hạnh phúc gia đình. Có lẽ chị Hai Xuyến cũng mong hưởng hạnh phúc ấy nên hồi trước chị mới ưng anh Hai Túc có nghề thợ máy, còn chị có nghề thợ may, dầu thế nào vợ chồng cũng kiếm cơm đủ nuôi nhau, không đến nỗi đói rách. Thiệt nhờ có nghề nên không đói rách mà chị Hai Xuyến mắc anh chồng say sưa, thô lỗ thì chị có thấy hạnh phúc gì đâu. Xưa rày có nhiều anh thấy mình lãnh tiền kha khá mà ở có một mình, hay khuyên mình kiếm vợ đặng có người lo may vá áo quần cho mà bận, lo đi chợ nấu cơm cho mà ăn, gây hạnh phúc gia đình mà hưởng như chúng bạn.
Cũng như nhiều đêm khác, hễ Giao nhớ tới lời khuyên kiếm vợ thì chúm chím cười, thầm hỏi sao dám chắc có vợ sẽ hạnh phúc? Nếu không gây được hạnh phúc mà gây ra tai họa rồi làm sao? Nếu rũi gặp người vợ ghen như chị Bảy Cao, cứ đeo theo chồng không cho ra khỏi nhà, bữa nào chồng đi làm về trễ thì kiếm chuyện rầy rà, vậy là hạnh phúc hay sao? Nếu lỡ gặp người vợ hỗn ẩu, mình nói một tiếng vợ nói mười tiếng, coi chồng như thằng mọi, phải làm ra tiền cho vợ ăn hàng ăn bánh, sắm áo sắm quần, không kể công chồng cực khổ, vậy là hạnh phúc hay sao? Nếu gặp người vợ như vài chị ở trong xóm kia, mỗi bữa đợi chồng đi làm rồi thì giụm lại đánh bài đánh bạc, hoặc thả đi kiếm đàn ông, con trai mà nói chuyện, không trọng trinh tiết, không kể thị phi, vậy là hạnh phúc hay sao?
Giao nghĩ tới mấy trường hợp chẳng may đó thì giựt mình, thầm nói thôi ở một mình cho thong thả và khoẻ trí, không nên có vợ mà sanh chuyện rắc rối.
Lóng nghe đằng nhà Hai Túc êm luôn. Giao mới tắt đèn mà ngủ.
[1] lá (dừa nước) được xé đôi dọc theo sóng
[2] lá rọc ra khỏi sóng và được kết dính với nhau bằng lạt dừa. Lá chầm có hai loại là lá chầm sóng và lá chầm tấm. Lá chầm sóng dùng làm vách hay lợp nhà; lá chầm tấm dùng làm vách bồ chứa lúa.
[3] chái nhỏ
[4] gốc từ chữ cooly (tiếng Anh) hoặc couli (tiếng Pháp), chữ này để gọi phu khuân vác.
[5] đi chơi rày đây mai đó
[4] người làm mướn
[5] đi chơi rày đây mai đó
Vợ già chồng trẻ
Phần hai:
Cách ba bữa sau.
Gà cồ trong xóm Ụ Tàu tiếp nhau gáy sáng. Gà ở mé kinh bên kia cũng hưởng ứng gáy theo.
Cô Hiền, là con gái của bà Lữ, góa chồng, ở gần nhà thợ Hai Túc, nghe tiếng gà gáy thúc mới mở hé cửa dòm ra ngoài. Thấy ngoài đường sắp sáng gấp, nên đi được, cô bèn lấy cái khăn vằn sọc xanh mà choàng đầu, rồi bưng thúng xôi đi bán dạo.
Ra tới đường quan lộ có trải đá, cô Hiền đi được chừng mười bước cô thấy có người nằm nghiêng vắt ngang trên khúc cây bần[1] người ta đốn bỏ bên mé đường để khô rồi sẽ khiêng về mà bửa làm củi. Cô không hiểu ai làm gì nằm đó, cô bước lại gần mà coi mặt. Trời chưa sáng, thấy không rõ, nhưng gương mặt mường tượng thợ Hai Túc, cô vội vã thối lại mà đi riết vô nhà Hai Túc kêu chị Hai Xuyến hỏi có Túc ở nhà hay không.
Hai Xuyến đã thức dậy lâu rồi nhưng thấy trời chưa sáng thiệt nên chưa mở cửa. Cô nghe Hiền kêu mà hỏi thì cô vừa mở cửa, vừa trả lời:
- Không có ở nhà. Đi làm mà chiều hôm qua không có về ăn cơm, đi mất luôn đêm nay nữa. Cô hỏi chi vậy?
- Chị ra đây coi. Tôi đi bán, ra tới lộ tôi thấy có ai nằm vắt ngang trên khúc cây bần, bộ giống ảnh quá. Chị ra coi phải ảnh hay không?
- Trời Đất ơi! Hay là đi về mà say quá nên té nằm đó. Đâu, chỗ nào đâu, cô dắt chỉ cho tôi coi.
Hai người vừa đi vừa chạy.
Trời sáng lần lần, bây giờ đã thấy rõ, nên đi gần tới Xuyến vừa ngó thì biết là chồng, mới chạy lại ôm ngang mình mà đỡ dậy.
Hai Túc không cựa quậy, cặp mắt mỡ trao tráo. Xuyến đỡ không nổi. Cô rờ tay chưn đều lạnh ngắt. Cô đưa tay ngay lỗ mũi thì không còn thở. Cô vùng la lớn: "Trời Đất ơi! Chết rồi còn gì đâu! "
Xuyến đứng dậy vừa cậy Hiền làm ơn chạy về kêu anh Bảy Cao với Giao. Cô đứng một mình ngó thây chồng mà khóc, không dám rờ tới nữa.
Vợ chồng Bảy Cao thức dậy rồi, nghe Hiền kêu Giao mà nói Hai Túc chết thì kinh tâm, vội vã tung cửa ra hỏi chết ở đâu. Hiền chỉ ngoài lộ và nói có Hai Xuyến ra ngoài chỗ đó rồi. Cao biểu kêu giùm Giao dậy. Anh chạy riết ra lộ.
Giao còn đương ngủ, nghe kẻ kêu người hỏi om sòm, giựt mình ngồi dậy nghe nói Hai Túc chết ngoài lộ thì tái mặt, mắt nhắm mắt mở, nó nhảy xuống đất xô cửa mà ra, rồi thấy Bảy Cao chạy, nó cứ chạy theo, không thèm hỏi hai chị đàn bà đương nói chuyện. Hai chị cũng lật đật đi theo. Qua khỏi nhà Hai Túc, Giao gặp con Tý đương chạy ra lộ. Giao tránh nó mà dông[2] theo cho kịp Bảy Cao.
Cao với Giao đến một lượt. Hai Xuyến khóc mà nói: "Chết rồi, còn gì đâu anh em. Chiều hôm qua đi làm không có về, mất biệt luôn tới đêm nay. Hồi nãy cô Hiền đi bán xôi, cô thấy nằm đây. Cô chạy về kêu tôi. Tôi ra thì đã chết bao giờ rồi. Tôi đỡ lên không nổi. Vậy hai anh em làm ơn khiêng giùm về nhà."
Bảy Cao nói: "Không được. Chú Hai chết nằm bên đường, chết hồi nào và tại sao mà chết mình không biết. Vậy mình không nên động tới tử thi. Phải đi ra bót mà báo cho ông cò[3] vô tra xét coi chú có thương tích gì hay không, tại sao chú chết. Không biết chừng chú bị người ta đánh chết. Phải để cho nhà chức trách tra xét rồi mình sẽ xin xác về mà chôn chớ. Em Giao em chạy ra bót mà báo cho ông cò hay giùm chút em."
Giao nói nó ở trần, nó tới bót[4] vô phép quá. Để nó về bận áo rồi nó đi. Cao nói thôi nó ở nhà coi chừng để Cao đi ra bót.
Hiền bưng xôi đi bán để vợ Bảy Cao ở đó với Hai Xuyến. Con Tý ngồi ngó thây cha mà khóc làm cho Giao động lòng. Giao chạy về nhà rửa mặt và bận áo rồi trở ra.
Hai Xuyến cứ khóc hoài. Thấy Giao ra, cô nói cô chắc chồng cô say quá, đi về dọc đường ba chùm ba chân vấp té rồi nằm đó, dậy không nổi nên nhiễm gió mà chết, chớ không phải bị ai đánh. Nếu đánh lộn thì phải có vết tích. Không có máu, còn mặt mày không sưng không bằm có phải bị đánh đâu.
Vợ Bảy Cao nói phải để cho quan thầy khám nghiệm, người ta mới biết tại sao mà chết. Không chừng đâu trong mình làm sao mình thấy được.
Mặt trời vừa mọc thì có một thầy đội với hai anh lính cỡi xe máy vô tới. Ba người xúm lại xem tử thi. Thầy đội biểu Giao dở áo của Túc coi, thì ngực và lưng không có vết tích chi hết.
Bảy Cao về tới, Giao nói không có bị đánh, chắc uống rượu say té nhiễm gió.
Thầy đội nói thầy ở Vĩnh Hội mấy năm rồi, thầy biết anh thợ máy nầy có tật say. Tuy vậy mà để thầy tra hỏi mấy quán dọc đường coi hồi hôm anh ta nhậu nhẹt quán nào, nhậu với ai rồi sẽ biết. Thầy biểu hai anh lính ở đó gác, để thầy về kêu xe Hồng Thập Tự chở lên nhà xác cho quan thầy khám nghiệm.
Giao nói với Hai Xuyến để nó với Bảy Cao ra hãng cho anh em trong sở hay và xin với ông xếp ở nhà đặng giúp chị mà lo cuộc tống táng Hai Túc.
Thầy đội cỡi xe máy đi về.
Vợ Bảy Cao không nỡ bỏ mà về nên phải ngồi lại đó mà an ủi mẹ con Hai Xuyến.
Gần 8 giờ, Bảy Cao trở lại, có Tư Thìn theo. Hai người cỡi hai chiếc xe máy. Bảy Cao nói với Hai Xuyến rằng thằng Giao xin phép nghỉ không được, bởi vì Hai Túc mất thì nó phải thế mà cho máy chạy, nếu nó nghỉ thì không ai coi. Ông xếp cho phép Bảy Cao với Tư Thìn ở nhà đặng lo làm đám ma cho Hai Túc cũng đủ. Thầy Năm Giác lãnh làm sổ đặng góp tiền anh em lớn nhỏ trong hãng ai muốn phúng điếu bao nhiêu thẩy[5] thâu giùm cho.
Vợ Bảy Cao hỏi xe máy ở đâu mà ảnh cỡi đi đó. Ảnh nói của anh em trong hãng cho mượn đặng ảnh đi lo công việc cho lẹ.
Một lát có xe Hồng Thập Tự lại chở tử thi đem lên nhà xác. Hai Xuyến hỏi phải đem lên đó mà mổ hay sao. Người ta nói đem lên cho quan thầy thuốc khám nghiệm coi chết vì cớ nào và chết hồi mấy giờ. Có khi quan thầy không cần mỗ thì mình xin xác liền chở về làm đám ma. Còn nếu phải mổ rồi thì mình liệm rồi cũng xin phép đem về mà tế lễ được. Hai Xuyến gởi con Tý ở nhà với vợ Bảy Cao. Chị về lấy tiền bạc rồi kêu xe xích lô đi theo xác chồng với Bảy Cao và Tư Thìn.
Xe hơi Hồng Thập Tự chạy mau, mấy người theo không kịp. Tư Thìn nói không hại gì. Anh biểu Bảy Cao cứ lên nhà xác ở đó mà chờ, để anh ghé trại hòm Cầu Ông Lãnh biểu trại hòm cho xe lên chở tử thi về Ụ Tàu rồi chở hòm qua đó mà liệm. Còn như quan thầy định phải mổ thì anh trở về biểu trại hòm chở hòm với đủ đồ tẩm liệm đem lên nhà xác mà liệm rồi sẽ chở về Ụ Tàu mà cúng tế. Bề nào cũng phải bữa sau mới chôn được.
Hai Xuyến với Bảy Cao lên nhà xác ngồi dựa gốc cây mà chờ hơn nửa giờ thì anh Tư Thìn cũng lên tới. Anh nói anh sắp đặt đã xong rồi hết.Vì anh quen với chủ đồ âm công nên họ tính với giá rẻ, lại cho chôn trong đất riêng của họ nữa. Họ cũng lãnh đi khai tử và lo giấy tờ phép tắc, mình khỏi lo gì hết.
Đến 11 giờ, Ông Đốc tơ[6] mới lên nhà xác. Nhân viên trong nhà xác đã lột hết áo quần của Hai Túc, để anh nằm trần truồng trên bàn sẵn ra. Đốc tơ xem phía trước rồi biểu lật cho ông xem sau lưng và hai bên hông. Tuy không thấy vết tích chi hết mà Đốc tơ định phải mổ.
Tư Thìn nghe nói mổ thì anh biểu Bảy Cao với cô Hai Xuyến ở đó, anh cởi xe máy đi xuống Cầu Ông Lãnh liền.
Đốc tơ mổ ngay lá mía thì thấy lá mía bể, nên nạn nhơn mới chết. Nhưng coi ngoài ra ngay chỗ đó thì không thấy bầm hoặc có một dấu chi hết. Ông nói có lẽ người ta đá hoặc đập một cây ngay chỗ đó nên lá mía bể mà ngoài ra không có một vết thương chi hết. Ông coi trái tim và nói nạn nhơn tắt thở trong khoảng từ 9 tới 10 giờ trong đêm rồi. Thầy y tá gom đồ mổ bỏ vào cái hoa ly rồi xách lên xe đi với ông Đốc tơ.
Cách một chút xe hơi chở hòm lên tới, cô Tư Thìn đem xe máy lên để trên xe mà ngồi.
Nhơn viên của nhà âm công[7] khiêng hòm và đồ vô nhà xác mà liệm Hai Túc, trước mặt vợ anh đứng khóc dầm và hai người bạn rất cảm xúc.
Liệm xong rồi mới khiêng để lên xe hơi. Anh sớp phơ nói xe rộng nên anh mời cô Hai Xuyến và Thìn bỏ xe máy lên xe hơi rồi anh chở hết về Vĩnh Hội cho mau.
Gần một giờ trưa xe chở quan tài mới về tới Ụ Tàu. Thằng Giao chưa đi làm buổi chiều, nó dắt con Tý chạy ra tiếp rước. Vợ Bảy Cao, mẹ con bà Lữ, vợ chồng ông Kèo đều có ra đủ hết.
Bảy Cao biểu Giao theo anh trở vô dọn chỗ đặng để quan tài. Vác ván bưng bàn đem để ngoài sân cho trống hết phía trước rồi người ta khiêng quan tài vô. Mấy người ở xóm trong hay tin kéo nhau ra phân ưu với cô Hai Xuyến.
Tư Thìn định trưa bữa sau, lối 12 giờ rưỡi thì phát hành đi chôn đặng anh em trong hãng có thể đưa một khúc đường cho được. Nhơn viên nhà âm công hứa sẽ đem xe có phủ mộ lại trước 12 giờ, rồi lên xe đi về.
Bây giờ Tư Thìn với Bảy Cao giao cho đàn bà trong xóm lo việc cúng quải, hai anh đi ra quán ăn cơm rồi lo việc khác, người đi cho anh em trong hãng hay quan tài chở về rồi và định giờ chôn cũng rồi, người đem giấy căn cước của Hai Túc giao cho chủ đồ âm công mà cậy đi khai tử, xin phép chôn và dặn đào huyệt cho tử tế.
Được tờ chứng chỉ của ông Đốc tơ về cuộc khám nghiệm tử thi, ông xếp bót Vĩnh Hội nghi Hai Túc có đánh lộn với ai, bị người ta đá hoặc đập bể lá mía nên mới chết, bởi vậy buổi chiều ông mở cuộc điều tra liền. Ông xét hỏi thì chiều bữa trước, mãn giờ làm việc rồi, Hai Túc về trong kinh có ghé quán thím Phòn mà ăn nhậu. Đòi thím Phòn ra bót thì thím chịu có như vậy. Thím khai thì hồi chiều Hai Túc ngồi nhậu một mình. Đến chạng vạng tối thì có tên Quì với tên Kèn làm việc cho hãng dầu phọng bên Cầu Kho, nhà ở phía dưới sở rác, hai người ghé quán ăn uống nữa. Hai Túc quen với tên Quì nên ban đầu hai người nói chuyện với nhau rất vui vẻ và thân thiết. Ly nầy tiếp ly nọ, ba người ngồi nhậu hoài không ai chịu về.
Nhậu đến quá 9 giờ, Hai Túc với tên Kèn say nhiều, duy có tên Quì còn tỉnh táo. Túc với Kèn nói chuyện rồi cãi lẽ với nhau, la lớn tiếng lại muốn gây lộn nữa. Tên Quì tỉnh nên can gián, trả tiền rượu, rồi nắm tay kéo tên Kèn ra lộ và dắt đi về phía dưới nhà máy. Hai Túc cũng trả tiền ăn uống rồi đi về sau, đi vô phía hãng dệt, mà ra lộ rồi thì chưn bước tới, chưn thối lui, đâm qua vát lại, bộ đi không vững. Đòi tên Quì với tên Kèn mà hỏi thì hai tên nầy cũng khai y như lời của thím Phòn. Quì cương quyết nói thấy Kèn say quá nên nó dắt về trước, bỏ Túc ở lại sau, không hiểu Túc đi đâu hay là còn uống tới chừng nào. Hai người ở phía dưới nhà máy khai có gặp dắt Kèn về. Bà già ở khít vách với Kèn khai đêm đó Kèn say về mửa rồi ngủ khò tới sáng, không nghe la rầy chi hết.
Ông xếp bót đòi cô Hiền bán xôi mà hỏi cô gặp tử thi hồi nào và thấy nằm cách nào. Hỏi xong hết rồi, ông đoán Hai Túc say quá đi không vững, ba chùm ba chân vấp khúc cây bần mà té, rủi khúc cây chạm ngay chỗ lá mía mà chết, chớ không phải bị ai đánh đá.
Thợ thuyền trong xóm Ụ Tàu hay Hai Túc chết vì rượu thì giựt mình, ai cũng quyết bỏ cái tật hễ đến bữa lãnh tiền thì rủ nhau ghé quán nhậu nhẹt. Thằng Giao thề trước mặt vợ chồng Bảy Cao trọn đời nó không bưng ly rượu mà uống.
Hạng bình dân ở với nhau thật có lòng. Dầu bình thường hai người không ưa nhau đi nữa, rủi có người nầy chết thì người kia cũng tận tâm lo lắng. Nông dân ở chốn thôn quê cũng vậy, mà thợ thuyền ở nơi thành thị cũng vậy. Họ có tình đoàn kết dĩ nhiên. Quan, hôn, tang, tế phải giúp nhau. Một người được vui cả thảy đến mừng. Một nhà bị tai họa cả thảy đến chia buồn và lo lắng. Đó là cái tập quán di tích của phong hóa cổ truyền. Người ở trong xóm một làng thì chung vui chia buồn với nhau, không cần ai ép buộc hay rù quến. Phải có ở chung lộn với giới bình đân Việt Nam mới thấy rõ cái cá tánh đặc biệt của dân tộc đó.
Vì cái tình đoàn kết cố hữu như vậy mà buổi chiều đó cả xóm Ụ Tàu ra tới xóm dọc theo mé kinh, ai có ở nhà thì đều đến thăm Hai Xuyến tỏ lời phân ưu và cúng chút đỉnh để tống táng người quen biết cho linh hồn người được an vui nơi chín suối. Gần tối thầy Năm Giác, nhơn viên của hãng cưa, với bốn anh thợ thuyền làm trong hãng, thay mặt cho anh em lớn nhỏ đem nhan đèn với một bó hoa tươi vô cúng Hai Túc với năm trăm đồng bạc của anh em chung đậu và cũng có ông chủ với mấy ông xếp phụ thêm để góp sức mà lo cuộc tống chung của Hai Túc.
Tư Thìn lãnh chấp hết các số tiền phúng điếu để rồi đám trả tiền mua hòm tẩn liệm, tiền phủ mộ chở đi chôn, cùng các số tiền tổn phí lặt vặt khác.
Trưa bữa sau đi chôn thì người trong xóm với anh em ngoài hãng theo đưa cả trăm. Những người mắc làm việc thì đưa ra tới bến đò Cầu Kho rồi đi làm, để cho Tư Thìn với Bảy Cao được phép nghỉ trưa luôn lên tới Hoà Hưng với cô Hai Xuyến và mấy chị đàn bà ở xóm Ụ Tàu.
Chiều Giao đi làm về, thấy chị Hai Xuyến chôn cất chồng xong, chị đã về rồi, thì Giao ghé vô mà hỏi thăm. Hai Xuyến mượn Giao phụ với chị khiêng cái bàn ngoài sân vô để dựa tấm vách buồng làm bàn thờ Hai Túc. Còn bộ ván[8] dầu nhỏ chị muốn lót dựa vách, gần ngoài cửa cho sáng đặng chị ngồi may. Giao không cho chị khiêng, biểu để một mình nó ôm nổi, nó mới ôm ván vô lót chắc chắn theo ý chị muốn.
Giao dọn dẹp giùm rồi mới về ăn cơm với vợ chồng Bảy Cao. Bảy Cao nói Hai Túc chết rồi chắc Giao sẽ đứng coi cho máy chạy thế cho Hai Túc. Giao nói ông xếp đã có tính như vậy rồi, vì kêu thợ khác sợ họ không quen rồi máy trục trặc.
Đến tối Tư Thìn vô kêu Bảy Cao đi với anh lại nhà Hai Xuyến mà tính sổ xuất phát. Giao với vợ Bảy Cao đi theo coi chơi.
Tính sổ thì tiền phúng điếu được gần sáu trăm. Tư Thìn trả tiền tẩn liệm chôn cất đủ hết rồi thì còn dư được 52 đồng. Anh đếm mà giao cho Hai Xuyến. Vợ Bảy Cao nói hai bữa rày Hai Xuyến cũng tốn bộn, mua vải may đồ chế[9] cho hai mẹ con, mua đồ để cúng quải, sắm trầu cau, trà lá để đãi khách. Số tiền dư năm mươi mấy đồng đó chắc vừa đủ ngám[10] chớ không dư gì.
Hai Xuyến nói chị bị tai họa nhờ anh em giúp công, giúp trí, giúp bạc, giúp lời, nếu không có vậy thì chị không biết làm sao mà chôn chồng cho được. Chị cám ơn Bảy Cao với Tư Thìn và cậy hai anh trao lời cám ơn của chị với các anh em lớn nhỏ trong hãng, ơn ấy không bao giờ chị quên.
Các việc xong rồi mới rã.
Vợ chồng Bảy Cao với Giao cũng về, ai về nhà nấy, không bàn luận tới sự Hai Túc chết. Nhưng mà đêm đó ba người nầy nằm suy nghĩ chắc chẳng khỏi nói thầm trong trí rằng Hai Túc chết thì Hai Xuyến hết tai họa, hết buồn rầu rồi.
Tối một lát, chị Hai Xuyến đốt đèn để trên bộ ván gần cửa rồi bưng rổ may ra ngồi dựa ánh đèn mà may riết cái áo bà-ba bằng vải trắng cho rồi đặng sáng bữa sau người ta lấy.
Vì sợ gió phất làm chao ngọn đèn nên chị khép bớt cánh cửa. Chị chăm chỉ ngồi may. Con Tý nằm chơi một bên, nó nói đỏ đẻ với mẹ một lát rồi ngủ khò. Giao ăn cơm rồi nó ngồi nói chuyện chơi với Bảy Cao một hồi rồi đi về, để cho ảnh nghỉ. Về tới cửa nó ngó thấy bên nhà Hai Túc có ánh đèn giọi ra ngoài. Nó nghĩ còn sớm về nằm một mình thì buồn, chớ chưa ngủ nghê gì được, nó bèn đi luôn, tính lại thăm chị Hai Xuyến một chút.
Hai Xuyến ngồi may, tư bề vắng vẻ bỗng nghe như có người đi vô cửa, chị bèn ngước mặt lên mà ngó.
Giao đứng tại cửa ngó vô mà hỏi:
- Chị may tới ban đêm hay sao chị Hai?
- Ừ, có cái áo gấp nên may cho rồi đặng mai giao cho người ta.
- Tôi thấy đàng nầy đốt đèn, tôi tưởng có việc chi, nên tôi lại coi chị có cần dùng tôi hay không. Bất luận việc chi, hễ chị muốn có người giúp thì chị cứ kêu tôi, nghe hôn chị Hai. Chuyện chị em tôi không tiếc công với chị đâu. Hồi ảnh còn, tôi ăn ở làm sao thì bây giờ cũng vậy, chị đừng ngại chi hết.
- Cám ơn em, em vô ngồi chơi.
Giao vừa bước vô, vừa nói: "Chị mắc may. Tôi vô nói chuyện sợ làm mất thời giờ của chị."
Hai Xuyến chúm chím cười và nói: "May với tay, chớ phải may với miệng hay sao mà sợ mất thì giờ. Nhắc cái ghế kia ngồi nói chuyện chơi em."
Giao xách cái ghế đẩu đem để gần cái đèn mà ngồi, đối diện với Hai Xuyến. Nó ngó con Tý nằm day mặt vô vách rồi nó nói:
- Con Tý ngủ rồi? Ngủ sớm dữ.
- Nó ngủ nãy giờ. Có hai mẹ con, nó nói khào một lát rồi buồn nên ngủ.
- Ảnh mất hổm nay coi bộ nó buồn hay không chị?
- Thuở nay xẩn bẩn theo tôi, ít gần cha, bởi vậy nó không trìu mến cho lắm. Tuy vậy mà nó cũng buồn buồn. Hổm nay em làm gì ở đâu mà không lại đằng nầy chơi?
- Hồi trước tôi lại có ảnh. Anh em ngồi nói chuyện chơi. Bây giờ tôi lại còn có một mình. Tôi sợ chị thấy tôi chị nhớ ảnh rồi chị buồn, nên tôi không muốn lại.
- Thấy được một người cũng còn đỡ. Không thấy người nào hết mới buồn chớ.
- Vậy à? Hổm nay tôi lo cho chị một chuyện, tôi lo quá.
- Chuyện chi vậy em?
- Thuở nay tuy ảnh hay nhậu nhẹt, song mỗi kỳ lãnh tiền ảnh cũng đưa cho chị mớ nhấm để mua cơm gạo mà ăn. Bây giờ không có ảnh nữa, chị với con Tý mới làm sao mà sống.
- Tôi rất cám ơn em có lòng tốt lo cho phận mẹ con tôi. Thiệt hôm cô Hiền chạy về kêu tôi ra, tôi thấy ảnh nằm chết tôi bủn rủn tay chưn. Tôi cũng muốn chết phứt cho rồi. Em nghĩ coi trong nhà có năm ba đồng, chứ không có tiền dư nhiều. Tôi lấy gì mà chôn cất ảnh. Bà con anh em có thương ra tiền cho mượn thì tôi phải mắc nợ. Nợ đó là nợ ơn nghĩa, tôi phải lo mà trả người ta, chớ để day dưa sao được. Tôi làm gì có đủ tiền mà trả. Tôi nhờ anh em ngoài hãng với bà con trong xóm thương, ai cũng phụ giúp nên chôn ảnh tử tế lại còn có dư ít chục nữa. Tôi khỏi mắc nợ thiệt may hết sức. Còn phận mẹ con tôi thì tôi có lo đâu. Mẹ con tôi hẩm hút với nhau, không tốn hao bao nhiêu. Tôi nhờ nghề may của tôi, tuy ở đây may đồ vải nên tiền công không được nhiều song thế nào cũng đủ cơm gạo mà sống chứ. Tôi còn có nghề làm bánh nữa, bánh cam, bánh ếch, bánh ú, thứ nào tôi làm cũng ngon. Đợi ít năm nữa con Tý trộng rồi, tôi làm bánh cho nó bưng đi bán, hoặc nó coi nhà cho tôi đi, thì mỗi bữa kiếm lời dễ như chơi, làm sao mà đói.
- Tôi nghe chị nói như vậy tôi mới hết lo. Hổm nay thiệt tôi lo cho chị về khoảng đó lung lắm. Tôi thiệt tình mà nói với chị. Nếu chị có thiếu hụt thì cho tôi hay. Tôi không phải giàu có gì, nhưng tôi có một mình nên bề của tôi dễ lắm. Tôi có thể nhín nhúc mà giúp cho chị được.
- Tôi rất cám ơn em. Em cũng nghèo mà em thương bạn nghèo như vậy thì quí lắm. Lòng dạ tốt đó ít ai có.
Giao đứng dậy ngó Xuyến mà nói: "Tại tôi có tánh kỳ cục lắm. Thấy ai bị hoạn nạn tôi chịu không được. Cũng tại cái tánh đó nên mỗi lần ảnh đánh chửi chị, tôi nghe chị la, chị khóc, tôi chạy lại tôi can liền. Mấy lần ảnh chửi luôn tới tôi, hay là ảnh thoi tôi, về nhà nằm nghĩ lại tôi phiền. Tôi làm ơn mà lại mắc oán. Tôi nhứt định không thèm can thiệp nữa, để cho ảnh giết chị đặng ảnh ở tù cho ảnh biết chừng. Té ra chừng ảnh làm dữ nữa, tôi nghe chị la khóc, tôi chịu không nổi, tôi cũng mang đầu chạy lại can nữa."
Xuyến nói: "Thiệt cha con Tý hễ say rượu thì ảnh như thằng điên, không biết phải quấy gì hết. Em út thương ảnh hết sức mà ảnh không biết ơn. Đánh vợ thì chòm xóm khuyên can, ảnh không kể, ảnh đánh chửi người ta mà có khi còn nói bậy nói bạ nữa chớ. "
Giao cười mà nói: "Ảnh là anh mà lại say nữa. Ảnh muốn nói giống gì ảnh nói, tôi không thèm kể, chớ người khác đối đãi tôi như vậy sao được chị Hai. Nói chuyện nghe chơi chứ ảnh chết rồi thì để cho vong hồn của ảnh bình yên, không nên nhắc cái quấy của ảnh. "
Giao bước lại trước bàn thờ đứng ngó, rồi đi luôn qua cửa buồng dòm vô trong tối đen. Nó vùng xây lưng đi ra và nói: "Thôi, tôi về nghe hôn chị Hai."
Xuyến buông kim ngó theo mà hỏi:
- Em về hay sao? Sao không ở chơi? Còn sớm mà.
- Về nghỉ để cho chị may. Bữa nào chị rảnh rồi sẽ lại nữa.
Giao ra cửa, đưa tay nắm cánh cửa, đứng ngó xuống mé kinh, dường như chưa muốn về gấp.
Xuyến ngó theo mà nói: "Thôi tối mai em lại chơi. Mai không còn đồ phải may gấp nữa."
Giao ừ rồi bước ra đi liền.
[1] loại cây mọc nơi nước lên xuống, ngoài rễ đất còn có rễ phổi gọi là cặc bần, bông trắng, trái tròn dẹp.
[2] chạy lẹ.
[3] cò : commissaire de police: cảnh sát điều tra, nhưng người bình dân gọi cảnh sát là cò, không nhất thiết là cảnh sát điều tra.
[4] (poste): trạm cảnh sát
[5] thầy ấy
[6] bác sĩ
[7] cửa tiệm lo việc chôn cất
[8] là một loại "bàn" thấp để nằm hoặc ngồi
[9] tang phục
[10] từ ngữ Việt hóa từ tiếng Hoa:vừa ngám=đúng kích thước, vừa đủ không dư không thiếu
[8] là một loại "bàn" thấp để nằm hoặc ngồi
[9] tang phục
[10] vừa đủ không dư không thiếu
]Vợ già chồng trẻ
Phần ba:
Cô Hai Xuyến gốc gác ở trong giới bình dân. Cha cô làm thợ mộc ở vùng Cầu Chông, gần chợ Xóm Chiếu. Cha mẹ sanh có một mình cô mà thôi. Khi cô được mười tuổi thì mẹ cô mất. Cha cô chấp nối với người đàn bà khác có nhà ở Thị Nghè, tính dọn đồ về bển mà ở với người vợ sau, đặng xin vô làm sở Ba Son.
Người dì của cô sợ ở với mẹ ghẻ cực khổ tội nghiệp, mới nói với cha cô mà xin để cô ở với bà, đặng bà nuôi giùm mà dạy cho cô biết nghề sau khỏi bị đói rách. Bà dì không có chồng con. Bà chuyên nghề làm bánh rồi đếm cho trẻ nhỏ lãnh đi bán. Trót mấy năm bà tập cho cô Xuyến biết cái nghề của bà, rồi chừng cô được 16 tuổi, ban ngày bà cho cô đi học chữ rồi học may, ban đêm bà bắt phụ với bà mà chiên bánh cam và gói bánh ú, bánh ếch.
Cô Xuyến có sắc đẹp, nước da trắng, gương mặt vui, nói chuyện có duyên, tướng đi yểu điệu. Khi cô được 20 tuổi thì sắc đẹp nẩy nở hoàn toàn, lại nghề may với nghề làm bánh cô cũng rành lắm nữa. Nếu cô là con nhà khá giả thuộc trong giới trung lưu thì cô làm thơ ký, cô thông, hoặc bà kia bà nọ cũng xứng đáng lắm. Ngặt sanh nhằm đời kim tiền, con nhà nghèo không ai thèm ngó tới, nên bà dì phải gả cho Hai Túc làm nghề thợ máy có tương lai cũng nhiều.
Nếu Túc cư xử đứng đắn, biết đạo làm chồng, anh ta được người vợ có sắc có tài như Xuyến, thì dù không làm giàu, anh ta cũng được hưởng gia đình hạnh phúc ngỏa nguê, đâu đến nỗi ngụp lặn trong nghèo hèn, đen tối.
Ngặt Túc có nghề mà không có giáo dục, tánh khí thô lỗ, ăn nói không chừng, không biết giá người vợ có tài nghề, không biết xây dựng gia đình hạnh phúc, đi làm thì say mê nhậu nhẹt, về nhà thì đánh vợ chửi con, mới làm cho gia đình biến thành địa ngục.
Trót 11 năm trường, cô Xuyến sống trong cảnh đời đau khổ, biết buồn chớ không biết vui là gì, đau khổ về phần xác lẫn phần hồn, đau khổ mà không biết than thở với ai, vì cha với bà dì lần lượt chết hết, còn chòm xóm họ không có tâm hồn như cô, họ có hiểu biết nỗi lòng của cô đâu mà phân trần với họ.
May cô Xuyến còn có được chút con, cô hủ hỉ với con mà khuây lãng phận thiểu phước vô duyên. Cô nhắm mắt bịt tai làm lơ mà nuôi con, thầm tính vui đạo làm mẹ có lẽ sẽ khỏa lấp buồn đạo làm vợ được.
Tình cờ Hai Túc chết, chết một cách thiệt bất ngờ. Từ giờ cô thấy thây chồng nằm chết bên đường cho tới giờ đạo tỳ để quan tài xuống huyệt mà lấp đất, thì cô Xuyến tán loạn tinh thần, cô ví cho nỗi khổ của cô thuở nay không có nghĩa gì, thêm tai họa nầy nữa nỗi khổ mới lên đến cực điểm.
Chôn cất Hai Túc xong rồi, Tư Thìn với Bảy Cao đến tính sổ thì bạc tiền đâu đó đều đủ hết, khỏi thiếu nợ ai, chừng đó cô Xuyến mới tỉnh trí yên lòng, hết lo nữa. Ðêm đó cô nằm với con, mắt ngó ngọn đèn leo lét trên bàn thờ chồng, cô nhớ dĩ vãng, cô nhìn tương lai, cô mới nhận thấy cô đã thoát khỏi cảnh đời cũ vui ít buồn nhiều, mà bước qua cảnh đời mới, tuy chưa biết nó sẽ được sáng suốt, tươi cười hay là nó cũng còn âm u đau khổ, song hiện thời cô thấy cô đã được thân thong thả, trí thảnh thơi thì cô mừng thầm, mừng từ rày mỗi buổi tối hết lo sợ anh chồng say sưa về đánh đập mắng chửi tưng bừng nữa.
Cái mừng nầy cô không phép biểu lộ cho người ta biết được, bởi vì chồng chết mà mừng đó là một điều bất nghĩa, trái với luân lý, nghịch với thế tình. Nhưng ôm ấp trong lòng, cô lại thấy khó chịu. Ðã mấy bữa rồi cô có ý trông gặp người hiểu biết tâm hồn của cô, thuở nay biết thương xót số phận vô phước của cô, đặng cô tỏ bày tâm sự mà trút sạch nỗi khổ chồng chất đã hơn mười năm nay cho nhẹ túi sầu, vui lòng mà bước qua cảnh đời mới.
Kiểm điểm những người quen trong xóm, cô Xuyến nhận thấy duy có một mình Giao thương xót phận cô hơn các người khác. Mỗi lần cô bị chồng đánh chửi thì mau mau nó chạy lại khuyên can, dầu gỡ tai hại cho cô mà nó phải bị đánh, bị chửi luôn nó cũng không nệ. Thái độ đó đủ chứng nó hiểu nỗi khổ của cô, nên cô có thể bày tỏ tâm sự với nó được. Hổm nay nó biệt mất, bữa nay nó mới lại chơi, rủi gặp cô mắc may nó không chịu ngồi lâu, hẹn đêm sau có rảnh rồi nó sẽ lại nữa.
Bữa sau cô Xuyến giao cái áo gấp cho người ta rồi. Cô còn lãnh một cái áo với một cái quần nữa, tuy người ta nói may chừng nào rồi cũng được, song ban ngày lo nấu cơm đặng mẹ con ăn rồi thì cô cặm cụi ngồi may, ráng may ban ngày cho khỏi thâm tới ban đêm đèn dầu leo heo, lại có khách tới thăm nói chuyện không được. Cô cứ ngồi may đến mặt trời gần lặn cô mới chịu dẹp mà đi nấu cơm.
Mẹ con ăn uống dọn rửa xong rồi thì trời đã sẫm tối. Cô Xuyến kể chắc Giao sẽ lại chơi, bởi vì đêm trước cô có biểu, mà Giao cũng có ừ. Cô đốt đèn để trên bàn thờ rồi lên ván nằm chơi với con. Mẹ con rù rì nói chuyện với nhau một hồi rồi con Tý day mặt vô vách mà ngủ. Cô Xuyến nằm buồn, có ý trông Giao lại đặng nói chuyện của cô cho Giao nghe. Tư bề vắng vẻ, trong nhà quạnh hiu. Một lát nghe ghe đi dưới kinh bỏ mái chèo sạt sạt.
Chắc bây giờ Giao ăn cơm đã rồi nên cô ngồi dậy đi ra cửa mà dòm. Thấy nhà Giao dạng dạng[1] mà trong nhà không có đốt đèn. Cô tính Giao ăn cơm rồi mắc nói chuyện với vợ chồng Bảy Cao nên chưa về nhà. Cô khép bớt một cánh cửa, để mở một cánh cho ánh đèn giọi ra ngoài sân rồi cô ra ngồi chỗ khoảng sáng mà ngó mông, ngó ra mé kinh, ngó phía trong, ngó phía ngoài, ngó quanh quất rồi thế nào cũng ngó nhà Giao.
Mà nhà của Giao cứ lờ mờ trong đêm tối, cứ im lặng với canh khuya. Cô Xuyến ngồi trót giờ, bỗng thấy có bóng người ở phía trong đường mòn đi ra. Cô tưởng Giao nhớ lời hứa nên lại thăm cô, té ra bóng người ấy đi tới trước nhà cô rồi vụt hỏi: "Chưa ngủ hay sao mà còn ngồi đó cô Hai?" Cô mới biết bà Hai Liệu ở xóm ngoài đi vô xóm trong hồi gần tối nên bây giờ bà về. Cô Xuyến nói ngồi chơi một chút cho mát rồi cô đứng dậy đi vô nhà.
Thấy con Tý nằm ngoài ván muỗi cắn, Cô Xuyến bồng nó vô buồng để nó vô mùng rồi cô trở ra sân đứng ngó về phía nhà của Giao nữa. Cũng lờ mờ, cũng vắng hoe. Cô thất vọng, trở vô ván kéo gối mà nằm. Chờ gần một giờ nữa không thấy gì hết, cô mới đóng cửa tắt đèn mà vô ngủ với con. Sáng bữa sau, mới bững tưng, cô Xuyến biểu Tý ở nhà chơi mà coi nhà, để cô ra ngả ba bến đò mua gạo với tôm cá đem về ăn, rồi cô xách cái thúng nhỏ ra đi. Cô ghé quán chú Lù mua 5 lít gạo với 5 trứng vịt. Gặp con nhỏ bưng tôm cá chài đi bán, cô mua một chén tép bạc với mươi con cá chốt, vô quán xin giấy nhựt trình[2] gói lại rồi đi về.
Vô khỏi hãng dệt cô gặp Giao cô hỏi có hứa hồi hôm lại nói chuyện chơi, sao cô chờ khuya quá mà không thấy lại. Giao cười mà nói vì anh Bảy Cao cầm ở lại nói chuyện khuya quá rồi buồn ngủ nên về ngủ.
Cô Xuyến lộ vẻ buồn, cô bỏ đi về, không mời nữa. Ðến tối cô tính Giao thấy cô phiền chắc đêm nay chàng sẽ lại chơi. Té ra cô chờ mà không thấy tâm dạng. Qua đêm sau nữa cũng vậy. Chờ đến đêm thứ ba, thấy tối đã lâu rồi mà Giao cũng không lại, cô ra ngoài đứng ngó nhà Giao. Nhà cũng vẫn lờ mờ quang cảnh chung quanh cũng vẫn vắng vẻ. Cô buồn mà lại phiền, buồn phận cô đơn không ai thương tưởng, phiền em út thấy chồng mình chết rồi thì nó dan lơ. Cô muốn đi lại nhà mà trách Giao, rồi cô nghĩ Giao có bà con gì đâu mà mình trách được. Nó làm lơ có lẽ nó sợ mình mượn tiền, mượn bạc, nếu mình còn tới nhà mà cầu lụy thì chi cho khỏi nó càng khinh bỉ thêm. Cô nghĩ như vậy nên cô vô đóng cửa tắt đèn mà đi ngủ.
Cô Xuyến quyết định không thèm chờ Giao nữa. Sáng bữa sau cô thấy nó không lại nói chuyện chơi mà Giao cũng lầm lũi đi luôn, không hỏi thăm chi hết.
Tưởng Giao có thể kết tình chị em thân thiết nên muốn nó tới lui đặng mình tỏ bày tâm sự cho nhẹ bớt nỗi buồn tủi ấm ức thuở nay. Té ra nó cũng lạt lẽo như người khác thì thôi, cần gì mà phải quyến luyến. Cô tính lo may mà vui với con cũng xong. Mấy chục đồng bạc đám ma rồi còn dư thì cô để dành phòng khi đau ốm có sẵn tiền mà rước thầy uống thuốc. Tiền may mướn chắc đủ cho mẹ con sống dễ dàng. Khi nào không có đồ may, trong nhà phải thiếu hụt thì gói bánh ú đem gởi cho mấy quán họ bán, giao 12 bánh cho họ bẻ đầu 2 bánh, tự nhiên họ chịu liền.
Ðã không thèm chờ Giao nữa mà một đêm cô Xuyến ngồi may đặng giải buồn, thấy con Tý nằm chơi một bên nó ngủ khò, cô mới buông đồ may, xốc bồng con đem vô mùng cho khỏi muỗi cắn. Cô tính cô cũng dẹp đồ may rồi đóng cửa đi ngủ với con. Nào dè cô trở ra thì cô thấy Giao đứng chần ngần tại cửa.
Cô Xuyến chào với giọng phiền trách: "Dữ hôn! Bữa nay mới lại."
Giao vừa bước vô vừa cười mà nói:
- Sợ lại chơi, tôi nói chuyện lộn xộn chị rối trí may không được, nên hôm nay tôi mới lại té ra cũng gặp chị may nữa.
- May là cái nghề của tôi. Phải may mẹ con tôi mới sống được chớ.
- Vậy thì để tôi về cho chị may.
- Không. Bữa nay không có đồ gì gấp. Tôi phải đốt đèn một lát. Thấy đèn cháy mà không làm gì hết, sợ hao dầu vô ích, tôi mới ngồi may bậy mũi nào hay mũi nấy đặng nói chuyện với con Tý cho nó vui. Nó ngủ rồi. Tôi tính ra dẹp mà đi ngủ đây.
- Chị buồn ngủ rồi sao?
- Không. Ngủ nghê gì mới chừng nầy.
- Như chị buồn ngủ thì nói cho tôi biết đặng tôi về cho chị ngủ.
- Không. Chưa buồn ngủ. Em ngồi đó chơi. Ðể tôi dẹp đồ may.
Cô Xuyến ngồi xếp cái áo đặng bỏ vô rổ may. Giao cản: "Chị đừng dẹp, cứ ngồi may tiếp đặng nói chuyện chơi. "
Giao xách một cái ghế, vói khép bớt cánh cửa lại rồi để ghế bên cái đèn mà ngồi và nói: "Chị may đi đặng tôi ngồi coi chơi. Ðàn bà may cái tay họ dịu nhỉu coi ngộ quá. Ðàn ông không thể nào làm được."
Cô Xuyến ngồi phành cái áo ra lại và đặt mũi kim vô vừa may, vừa nói: "Ðàn ông sao lại may không đuợc? Mấy ông thợ Huế, thợ Bắc họ may khéo lắm chớ."
Giao không nói nữa, cứ ngồi ngó tay cô Xuyến may, ngó tay một hồi rồi ngước lên ngó mặt mũi, ngó tóc tai, ngó miệng như cười, ngó má trắng trẻo, ngó tới cổ, tới vai, tới mình mẩy, tới chưn cẳng.
Cô Xuyến liếc thấy, nhưng cô làm lơ, cứ ngồi chăm chú may không nói chi hết.
Cách năm sáu đêm trước cô trông đứng, trông ngồi, trông Giao lại chơi đặng cô tỏ nỗi niềm tâm sự cho Giao nghe. Ðêm nay cô không trông nữa mà Giao lại ngồi trước mặt cô, ngồi im lìm, có lẽ trông cô nói chuyện. Cô muốn nói mà không biết khởi đầu thế nào.
Cô đương tư lự thì Giao vụt hỏi:
- Chị năm nay thiệt chị mấy tuổi vậy chị Hai?
- Ba mươi mốt tuổi rồi; em hỏi chi vậy em?
- Hỏi cho biết, chớ có chi đâu. Anh mất hổm nay, chị ở nhà một mình với con Tý, chị có buồn hay không?
- Chồng chết mà vui sao được em.
- Không còn ai say sưa đánh chửi nữa, vậy không phải hết buồn hay sao?
- Ạ ! Nói gì cái đó...Nạn đó thì tôi thoát khỏi rồi.
Giao ngồi nghĩ thế nào không hiểu mà tình cờ nó lại hỏi:
- Chị tính lấy chồng hay là ở góa nuôi con?
- Chồng ở đâu mà lấy?
- Như chị chịu lấy chồng khác, người nào muốn họ mới dám nói mà cưới chớ.
- Trên ba mươi tuổi rồi, lại có con lòng thòng, ai mà thèm cưới.
- Chị không biết chớ chị còn đẹp lắm, chị Hai à. Ðẹp như gái chưa chồng.
- Thôi mà, ngạo tôi chi vậy hử.
Xuyến vừa nói vừa đưa tay vén mái tóc và ngó Giao mà cười. Giao chồm tới mà nói nhỏ:
- Tôi nói thiệt chớ không phải ngạo đâu. Chị còn đẹp lắm. Trai mới lớn lên cũng phải mê hồn.
- Ồ trai nào ở đâu? Bà già mà mê nỗi gì?
- Còn nheo nhẻo, già đâu mà già. Nếu chị chịu lấy chồng khác thì có người xin cưới liền cho chị coi.
- Tôi ghê chồng rồi. Mới thoát khỏi một ông men rồi, nếu gặp một ông khác nữa thì chắc phải tự vận, chớ sống gì được.
- Không. Nếu chị muốn lấy chồng thì chị lựa người không uống ruợu, không biết hút thuốc, không biết bài bạc. Ai biểu lựa ông say nữa chi mà tự vận.
- Ðời nay đâu có người toàn vẹn, không có tật gì hết. Nếu họ không rượu chè, không hút xách, không bài bạc, thì họ trai gái cái đó cũng khổ cho vợ vậy.
- Nếu vợ chồng thân thiết thương yêu trìu mến nhau thì anh chồng có thèm ngó tới ai nữa đâu mà sợ ảnh đi trai gái.
- Tôi có chồng hơn mười năm, tôi có kinh nghiệm chút đỉnh về thói đời. Ðàn ông có nhiều người kỳ cục lắm. Họ có vợ đẹp đẽ, khôn ngoan, hiền đức ở trong nhà, không biết họ còn thèm nỗi gì mà họ cũng đi kiếm mèo kiếm chuột. Nhiều khi con mèo của họ kém hơn vợ họ đủ mọi phương diện, vậy mà họ mê rồi họ hất hủi vợ nhà mới lạ cho chớ.
- Mấy người đó họ điên, kể làm chi.
- Không phải điên.Tại cái tật ưa trai gái chớ. Như có người họ lấy đày tớ của họ, đày tớ mà hơn vợ sao, thế mà họ cũng lấy.
- Thôi không cần nói dông dài. Tôi hỏi gắt chị, vậy chớ nếu có người không say sưa, không hút xách, không bài bạc, không trai gái, họ xin cưới chị thì ưng hay không?
Cô Xuyến cười ngất, cô buông đồ may vá ngó ngay Giao mà hỏi: "Ai ở đâu vậy? Phải nói cho tôi biết đặng tôi dọ hỏi rồi tôi mới quyết định chớ. Tôi không biết người đó làm sao mà ưng được."
Giao ngồi ngó Xuyến trân trân rồi tình cờ vụt đi ra cửa, vừa đi vừa nói: "Thôi để tôi về cho chị nghĩ. Bữa khác tôi sẽ trả lời cho chị biết."
Xuyến ngó theo, rồi bước lại cửa thấy Giao ra đường và xâm xâm đi về nhà. Cô đứng ngó mất dạng trong đêm tối rồi cô trở vô đóng cửa, dẹp đồ may và tắt đèn đi vô buồng.
[1] mờ mờ
[2] báo
Vợ già chồng trẻ
Phần bốn:
Ðêm nay cô Xuyến thổn thức hoài, cô ngủ không được, nằm nhớ những lời Giao hỏi cô, thì cô cứ hỏi đi hỏi lại trong trí vậy chớ Giao muốn cái gì đây? Có phải Giao muốn đánh ụp[1] với cô mà vì sợ cô không chịu nên không dám nói thiệt, cứ nói xa nói gần đặng dọ ý cô hay không? Cô cứ hỏi thầm như vậy mà cô không dám trả lời. Cô nhớ những lời Giao nói, nhớ cử chỉ, nhớ cách đứng ngồi, nhớ cách liếc ngó, nhớ sắc ái ngại, nhớ bộ lơ lững, vừa muốn nói mà lại ngừng, thì cô biết Giao muốn cô, biết mà không dám nói ra.
Cô biết mà cô không dám nói tới là vì sự phải với sự quấy chàng ràng ngăn đón làm cho cô cũng ái ngại, cũng lơ lững như Giao. Cô trông có dịp gặp Giao trong khoảng thanh tịnh đặng to nhỏ cô tỏ bày tâm sự của cô cho Giao nghe hoặc may nhẹ bớt túi sầu mà hăng hái bước qua cảnh đời mới. Cô chưa kịp nói thì Giao quậy phá, làm lộn xộn trí cô, làm cho cô ngơ ngẩn không biết đường nào là đường phải, đường nào là đường quấy, khi cô để chân vào cảnh đời mới.
Cô biết Giao muốn cô, nhưng có một lý do là tuổi chinh lịch làm cho cô không dám nói cô biết chắc. Nếu sự nhận định của cô trúng sự thật, thì cô phải đối phó cùng Giao với thái độ nào? Phải xuôi thuận hay là phải chống cự? Xuôi thuận sẽ bị tiếng thị phi chê cười hay không? Còn nếu sự nhận định của cô có sai lầm, thì cô sẽ hổ thẹn với Giao, nó là em út, trước kia nó biết tội nghiệp về số phận của mình, sau nầy nó còn biết lo lắng về đời sống tương lai của mẹ con mình, sợ mình thiếu hụt phải vất vả cực khổ.
Suy tới nghĩ lui mệt trí rồi cô Xuyến ngủ quên. Mà mơ màng một vài canh rồi cô thức dậy mà suy nghĩ nữa. Khi trước mỗi lần cô bị chồng say đánh chửi thì Giao chạy lại can gián liền, can cho tới bị nhục, bị đòn cũng không nệ. Can thiệp là tại tội nghiệp cho phận đàn bà vô phước hay là vì nặng tình u ẩn ngấm ngầm? Ðám ma xong rồi, Giao lại mà tỏ ý lo lắng cho đời tương lai của cô, hỏi thăm cô lấy tiền đâu mà độ nhựt, tính làm nghề gì mà sống, rồi hứa sẵn lòng giúp đỡ mọi phương diện. Có lòng lo lắng đó là tại tội nghiệp hay là tại ái tình? Rồi bữa hổm hứa lại chơi mà cứ lánh mặt luôn tới năm sáu bữa có phải cũng là tại ái tình làm cho Giao ngần ngại nên Giao không dám gần cô chăng? Hồi hôm cô không trông mà Giao lại, có phải tại ái tình xô đẩy, Giao muốn dang ra xa mà dang không được chăng?
Qua ngày sau cô Xuyến ngồi may mà trí cô cứ lập lại các câu hỏi cô nêu ra trong lúc đêm vắng canh khuya đó hoài, cô nhớ hồi hôm Giao hỏi gắt cô nếu có người không say sưa, cũng không có tật chi khác, họ xin cưới cô thì cô ưng hay không. Cô có đáp rằng phải cho cô biết người muốn cưới đó là ai thì cô mới quyết định được. Giao vụt đứng dậy mà nói để bữa khác Giao sẽ trả lời cho cô biết, nói rồi bỏ đi về liền. Nếu nay mai Giao trở lại mà nói ngay ra chính Giao muốn thế cho Túc mà làm chồng cô, chớ không phải người nào khác, cha chả! Gặp trường hợp đó mới liệu làm sao, phải trả lời cách nào?
Trót ngày đó cô không kiếm được câu để trả lời với Giao, cô chưa định được cách đối phó với cảnh tình rắc rối đó. Ðến tối cô thầm vái Giao đừng lại, mà có lại thì đừng nói cho cô biết người nào muốn kết tình nghĩa vợ chồng với cô. Thiệt vì phận nghèo hèn cô cần phải có nơi mà nương dựa, bởi vậy cô không dám tính thủ tiết trọn đời với người chồng quá vãng. Nhưng mà bây giờ cô sợ quá, sợ Giao vì tình yêu nồng nàn đắm đuối song phải che đậy giấu kín trong thâm tâm bấy lâu nay bây giờ Túc chết rồi, không cần giấu nữa, nên Giao tỏ thiệt nỗi lòng với cô, thì cô hết sức khó liệu, thỏa thuận thì khó, mà không thoả thuận cũng khó.
May quá, tối bữa đó con Tý đã ngủ. Cô Xuyến bồng nó đem vô buồng đã lâu rồi mà không thấy Giao lại. Cô có ý mừng thầm, mừng sự khó khăn hăm dọa nhưng chưa phát hiện. Cô bước ra sân đứng ngó mông, thấy nhà của Giao cũng như nhà ở chung quanh cô đều im lìm, không nhà nào còn đốt đèn.
Cô chắc Giao cũng như các người trong xóm ai cũng ngủ hết, ngủ cho khoẻ đặng sáng đi làm. Cô trở vô cửa tắt đèn mà ngủ như thiên hạ.
Tuy tính đi ngủ, song nằm trong mùng tối đen và nằm một bên đứa con yêu là di tích của người chồng mới chết, nấm mồ có lẽ chưa khô, mà cô Xuyến mở mắt trao tráo, cứ nhớ những lời nói xa gần, và nhớ những cử chỉ dị thường của Giao, thì cô trạo trực ngủ không được. Tưởng thoát khỏi cảnh đời cũ, thân cô sẽ được khoẻ khoắn, nào dè vừa bước qua cảnh đời mới mà trí cô phải rộn ràng như vầy. Cô nghĩ tới đó rồi cô lo sợ, sợ mạng số vô duyên mãn đời, dầu trước dầu sau, ở khoảng nào cô cũng phải chịu đau khổ, trước thì đau khổ về phần xác, sau lại đau khổ về phần trí.
Giữa đêm khuya vắng vẻ im lìm, cô Xuyến đương nằm ôm lòng lo ngại, bỗng cô nghe có ai gõ cửa nhẹ nhẹ và kêu nhỏ nhỏ: "Chị Hai, chị còn thức không chị Hai? Chị mở cửa cho tôi vô nói chuyện một chút."
Cô Xuyến biết tiếng Giao, nhưng không trả lời, cứ dở mùng chun ra, rồi đi thầm ra cửa. Phía ngoài có tiếng kêu nữa. Cô phải nói: "Tôi đương ra mở cửa đây."
Bây giờ trong ngoài đều nín khe, chỉ nghe chốt cửa kêu kẹt kẹt, rồi một cánh cửa nhẹ nhẹ mở ra. Giao bước vô. Trong nhà tối đen. Cô Xuyến lần đi lại bàn thờ mò kiếm hộp quẹt đặng đốt đèn. Giao khép cánh cửa lại rồi cũng mò đi vô. Cô Xuyến quẹt cây quẹt cháy lên, cô thấy Giao đứng sau lưng cô thì cô hỏi: "Ði chơi sao lại để khuya dữ vậy? Giao cười mà nói: "Tôi muốn ngủ mà ngủ không được. Tôi chắc chị cũng còn thức nên tôi lại đây. Thiệt quả chị cũng chưa ngủ."
Cô Xuyến châm cây quẹt vào tim đèn mà đốt. Cô thầm nghĩ sự rắc rối hôm qua hâm dọa, thì bữa nay nó phát hiện rồi. Với giọng nói của Giao đó thì sự cô biết trước đó trúng chứ chớ không trật. Trước khó khăn thì phải bình tĩnh mà đởm đương, không nên chộn rộn. Cô bưng cái đèn, miệng cô nói: "Em ngồi đó chơi." Cô muốn để đèn trên ván. Giao không cho. Chàng nói: "Chị để đèn luôn trên bàn đó đi. Bữa nay có may đâu mà phải để trên ván."
Cô Xuyến nghe lời, bưng đèn để lại trên bàn.
Giao nói: "Chị ngồi đi, chị Hai, ngồi đặng tôi nói chuyện một chút. Tôi có một chuyện quan hệ lắm. Tôi cần phải nói phứt cho chị nghe. Tôi không thể nín nữa được". Cô Xuyến càng nhận thấy rõ ràng cô đoán trúng ngay rồi. Cô bình tĩnh ngồi liền, ngồi chờ coi Giao nói thể nào rồi cô sẽ liệu mà đối phó.
Giao đi lại vách xách một cái ghế đẩu để ngay trước mặt cô Xuyến, chàng ngồi trên ghế, hai tay vịn tấm ván bìa, gần bắp vế cô, ngước mặt nhìn ngay cô mà nói: "Chị Hai hôm qua tôi nói với chị rằng nếu chị tính cải giá thì sẽ có người không có tật gì hết, họ sẽ xin lãnh làm chồng chị liền. Chị biểu phải chỉ người đó cho chị biết đặng chị liệu rồi chị mới quyết định được. Tôi bỏ đi về, tôi có nói bữa khác rồi tôi sẽ cho chị biết người đó. Bữa nay tôi trở lại mà nói cho chị biết người muốn kết nghĩa vợ chồng với chị là tôi đây, chớ không phải là ai khác. Chị ưng hay không xin chị nói phứt cho tôi biết đi. "
Giao nói một giọt, chừng dứt rồi chàng cứ chống tay bên cạnh ván, mắt nhìn ngay cặp mắt của cô Xuyến mà chờ trả lời. Cô Xuyến cũng ngó ngay Giao. Cô đã quyết bình tĩnh, nhưng nghe lời Giao nói thì cô cảm xúc, nói không được, chỉ nhìn Giao mà rưng rưng nước mắt. Cô nhìn một hồi rồi thở một hơi dài mà hỏi lại, hỏi nhỏ nhỏ đủ Giao nghe: "Em có suy nghĩ kỹ hay không em? "
Giao vội vã đáp:
- Tôi suy nghĩ kỹ lắm. Từ bữa chôn ảnh rồi thì ý nầy liền phát sanh trong trí tôi. Tôi biết cái ý đó không thuận với tình cảnh, không hạp với con mắt của thiên hạ, mà trái ngược với tình nghĩa chị em nữa. Bởi vậy nó vừa bùng dậy thì tôi lật đật kiếm thế đè ép không cho nó phát triển mạnh mẽ, tính để thủng thẳng tôi liệu sức tôi và tôi dò lòng chị rồi sẽ hay. Chẳng dè tôi càng đè ép thì nó càng lôi cuốn, xô đẩy, thúc dục mạnh hơn nữa. Tôi viện đủ lý, tìm đủ cách mà chống cự với nó không nổi, bởi vậy tôi phải đành chịu thua. Tôi chịu thua là tại nó có một cái lý rất cứng, rất đẹp, cái lý phải làm chồng chị đặng nuôi chị với con Tý no ấm hằng ngày, đặng cho chị biết hưởng thú vui trong đạo làm vợ, kẻo thuở nay chị chưa nếm, và sau hết, đặng hiệp cùng chị mà xây một nền hạnh phúc gia đình để hai chị em mình hưởng chung, mặc dầu ai thương ghét, ai khen chê, tùy ý họ, đừng thèm kể. Tôi xuôi xị chịu thua chỉ tại cái lý đó. Rồi nó được trớn nó biến hóa thành như một lò lửa trong lòng tôi, nó thui gan đốt ruột tôi nên tôi phải nói thiệt cho chị biết mà liệu coi bây giờ phải làm sao.
- Em nói cái ý em muốn gần tôi mới phát sanh từ bữa chôn cất cha con Tý xong rồi. Tôi sợ em lầm. Tôi tưởng nó đã nứt mộng đâm chồi lâu rồi mà em không hay. Tôi nghi nó phát sanh từ ngày cha con Tý say về đánh chửi tôi, em chạy lại em can. Ảnh thoi em và ảnh nói: "Mầy lấy vợ tao hay sao mà mầy binh nó." Tại lời nói vô ý thức đó mà em để ý đến phận tôi, nên em can thiệp luôn luôn. Vì thương tôi nên em không kể gì hết.
- Không, không. Ðâu phải vậy. Thiệt từ ngày tôi làm ngoài hãng cưa, tôi nghe theo lời ảnh tôi mua nhà về ở xóm nầy, tôi thấy chị bị ảnh hiếp đáp, hễ say thì đánh chửi, tự nhiên tôi tội nghiệp cho chị, tôi có thiện cảm với chị. Tôi thương phận chị, mà tôi lại coi ảnh như anh cả của tôi, nên tôi can thiệp luôn luôn, không thèm kể gì hết. Mà trong mấy năm đó lòng tôi thương chị cũng như thương chị tôi vậy thôi, chớ không có ý gì khác. Tôi biết lòng tôi hơn chị. Năm nay tôi đã 20 tuổi rồi. Từ khi lớn lên, tôi học máy móc xong rồi, tôi ra đi làm cho tới ngày nay, tôi chẳng hề có thương một cô gái nào hết. Gặp đàn bà con gái, tôi xem cũng như đàn ông con trai, không bao giờ tôi để ý tới.
- Sao em lại để ý đến tôi là người gần già rồi?
- Hôm qua chị nói chị 31 tuổi mà già nỗi gì?
- Ba mươi mốt tuổi đã hết nửa đời người.Còn không mấy năm nữa răng sẽ rụng, mắt sẽ lờ, da sẽ dùng, tóc sẽ bạc. Hiện thời tuy chưa già, song màu xuân xanh đã phai lợt, tôi còn vẻ đẹp son giá đâu mà hiến cho em để đền đáp thạnh tình đại nghĩa của em. Em đã lấy thiệt tình mà nói với tôi, tôi không phép đem giả dối mà đối lại. Thuở nay tôi khao khát ái tình. Tình yêu của tôi tràn ngập trong lòng. Có chồng đã 11 năm mà chồng tôi không biết khai nguồn ân ái chứa chan đó ra mà thưởng thức. Vì vậy nên khối tình yêu của tôi vẫn còn toàn vẹn trong đáy lòng. Tôi dám chắc bây giờ tôi đem ra mà hiến cho em thì không đến nỗi em thất vọng. Ngặt tôi đã đến từng tuổi nầy, tôi chẳng khác nào một đoá hoa đã héo, nay mai đây sẽ tàn, sẽ rụng, không còn quí báu, xinh đẹp gì nữa mà em mong hái. Nếu em vì tình dục nhứt thời xô đẩy, em hái bướng thì chắc chắn một ngày gần đây em xem lại thì đóa hoa đã khô héo, dầu em không nỡ vụt nó xuống hào hay xuống vũng cho rồi, em để nó trong bình, em ra vô em thấy nó thì em bực mình chớ không vui gì hết.Vậy em phải suy nghĩ lại cho kỹ, chẳng nên vội lắm.
- Tôi đã có nói tôi suy nghĩ kỹ rồi. Tôi phải làm chồng chị chớ tôi không thể để cho người khác, vì tôi sợ họ cũng sẽ tiếp mà gây sầu não cho chị nữa. Tôi nói thiệt, không hiểu tại sao mà hổm nay tôi thương chị nồng nhiệt, thương đến ăn không ngon, đêm không ngủ được. Ðể tôi nói hết cho chị hiểu tại sao lửa tình phừng dậy trong lòng tôi, phừng dậy rồi tràn lan ra thể nào. Bữa chôn ảnh rồi tôi ghé thăm chị. Rồi phụ với chị mà dọn dẹp nhà cửa lại. Tối tôi còn theo anh Bảy Cao trở lại chơi đặng coi anh Tư Thìn tính sổ. Tôi hay còn dư ít chục đồng bạc thì tôi mừng cho chị khỏi mang nợ nần. Nhưng đêm ấy tôi nằm nghĩ lại mấy chục đồng bạc dư đó chị ăn hết rồi chị lấy gì mà sống nữa. Tôi bắt đầu lo lắng về chuyện tương lai của chị với con Tý. Tôi có một mình. Tôi lại được hãng chọn đứng máy thế cho anh Hai Túc. Tôi được lãnh tiền công cũng như anh hồi trước. Tôi đủ sức bảo bọc vợ con ảnh no ấm. Mà bảo bọc cách nào chớ? Tôi lấy cớ gì mà mỗi tháng tôi chia cho chị số tiền công của tôi? Dầu chị chịu như vậy đi nữa, tôi với chị không có ý gì u ẩn, không có làm điều chi quấy, mà cũng chẳng khỏi thiên hạ dị nghị. Mà lâu ngày chầy tháng rủi tôi với chị vì có cảm tình cùng nhau rồi núp lén xú xí với nhau thì hèn hạ quá. Tôi sẽ mang tiếng dùng tiền bạc mà mua tiết hạnh của chị, còn chị bị chúng cười chê chị ham tiền mà lấy em út. Hai đàng cũng không ra gì hết. Chi cho bằng hai chị em mình công khai kết nghĩa vợ chồng, rồi tôi đi làm mà nuôi mẹ con chị. Chị ở nhà mà lo cơm nước áo quần cho tôi. Hết ai nói gì được nữa. Ái tình của tôi phát sanh tại đó, tôi lo lắng cho tương lai của chị, tại tôi biết thuở nay chị mang túi đau khổ trìu trịu, tôi quyết đem một khối tình yêu mến nồng nàn đắm đuối mà thay thế cho cái túi khốn nạn đó, tại tôi quyết xây một nền hạnh phúc gia đình, không phải với bạc tiền nên không rực rỡ, nhưng với tình dài nghĩa nặng, nên chắc chắn sẽ êm ấm, sẽ tươi cười luôn luôn, để cho chị em mình chung hưởng đến già, nhứt là cho chị bù trừ nỗi khổ trong 11 năm dài đăng đẳng.
- Nếu em có lòng thương tôi, thì kết làm chị em với nhau chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn nhiều.
- Không được chị ạ, lửa tình đã phừng dậy rồi, không thể vụt tắt được. Tôi cố rán sức đàn áp ngọn lửa tình trong mấy bữa, tôi không dám thấy mặt chị mà đàn áp không nổi, nên tôi lại thăm chị, tính nói thiệt cho chị nghe. Té ra lại ngồi coi chị đương may đồ gấp cho người ta, tôi nhận thấy bộ chị tề chỉnh, đàng hoàng, lại có bàn thờ của ảnh sờ sờ một bên đó, tôi kính nể, tôi không dám bày tỏ tình duyên, chỉ hỏi thăm cách ăn ở tương lai, cho chị biết tôi lo lắng cho chị và tôi hứa tôi sẵn lòng giúp đỡ chị đủ mọi phương diện. Mà không nói ra thì lửa tình hừng hực trong lòng, tôi chịu không nổi, sợ ngồi nhây sẽ sanh chuyện không tốt lành, tôi phải bỏ đi về. Chị biểu tôi bữa sau lại chơi đặng chị rãnh chị nói chuyện. Tôi ừ bướng mà tôi không dám léo lại nữa. Trót năm sáu đêm hễ ăn cơm tối rồi thì tôi quyết ngủ liền, không dám đốt đèn, ngủ đặng quên tình nồng nàn của tôi đối với chị. Ngủ không được, quên cũng không được, chị Hai à. Hình dạng của chị cứ ở trước mắt tôi hoài, làm sao quên được mà ngủ. Nếu mê mệt quá tôi ngủ được một hai giờ, thì thức dậy tôi càng tưởng nhớ chị nhiều hơn nữa. Chị thấy sức mạnh của tình yêu nó xô đẩy tôi hay không chị Hai? Chị thấy tôi ráng sức mà chống cự với nó thể nào hay chưa? Tôi xem xét lẽ phải lẽ quấy rồi hết. Tôi suy nghĩ hiện tại với tương lai cũng rồi. Tình yêu nó cứ biểu tôi phải xông tới, đừng thèm kể tuổi không đồng nhau, vì tình yêu hai bên đều như nhau, nó không có tuổi, nên không già không trẻ. Nó lại biểu tôi đừng thèm kể tiếng thị phi, bởi vì nếu đôi bên đã công khai kết nghĩa vợ chồng, chớ không núp lén, thì không lỗi gì hết mà sợ thiên hạ chê cười nhạo báng.Tại như vậy đó, nên đêm nay đợi xóm riềng ngủ hết tôi mới lại mà nói ngay việc tôi tính kết tình nghĩa vợ chồng với chị cho chị nghe. Nếu đối với tôi chị cũng có chút cảm tình, hoặc nếu tình yêu nồng nhiệt của tôi nó có thể gây tình yêu cho chị, thì đôi ta phối hiệp với nhau phứt cho rồi, đặng chúng ta sớm lo xây đắp nền hạnh phúc mà chung hưởng. Tôi hứa tôi sẽ tận tâm giúp cho chị quên hết nỗi đau khổ chị đã mang trót 11 năm nay và bước qua khoảng đời mới chị sẽ sống với thương yêu, với tình nghĩa, thương yêu dồi dào, mà tình nghĩa cũng chan chứa.
Nghe Giao nói tới đây, cô Xuyến cảm xúc cực điểm, cô hết bình tĩnh, cô hết dằn lòng nữa được. Cô khóc ngay, khóc ra tiếng, nước mắt tuôn dầm dề, phải lấy vạt áo mà lau, nhưng càng lau nước mắt càng tuôn ra nữa. Giao đứng dậy đi qua đi lại, rồi hé cửa mà dòm ra ngoài. Trời tối đen tư bề im lìm, nhà nhà đều ngủ.
Giao thấy Xuyến ngồi thút thít khóc hoài, chàng mới lại đứng trước Xuyến mà hỏi: "Tôi sanh chuyện làm cho chị đau đớn buồn rầu lắm hay sao mà chị khóc dữ vậy chị Hai? Nếu có vậy thì xin chị tha lỗi cho tôi. Thiệt tôi cố tâm muốn làm cho chị an vui, chớ không bao giờ tôi tính gây buồn cho chị. Nếu những lời tôi nói có điều nào gợi mạch sầu của chị xin chị cho tôi biết đặng sau tôi tránh."
Cô Xuyến ngước mặt nhìn Giao với cặp mắt chứa chan ân ái. Tiếc vì đêm tăm tối, lại ngọn đèn leo lét đằng xa không cho Giao thấy được nên Giao không rõ được tâm hồn của Xuyến trong giờ phút quan hệ nầy, giờ phút yêu thương pha trộn với lo ngại.
Xuyến nhìn Giao rồi nói: "Nghe lời em nói nãy giờ tôi vui sướng lắm, chớ có buồn rầu đâu. Buồn rầu quá nên khóc, mà vui sướng quá, nói không được cũng khóc vậy chớ." Giao mừng nên cười mà nói: "Ạ! Nếu tại vui sướng nên chị khóc thì chị cứ khóc đi. Tôi ước mong nước mắt của chị thuở nay, đặng chị vào cảnh đới mới, nhẹ nhàng, trong trẻo, sạch sẽ, mà tiếp rước tình yêu của tôi sẵn sàng và hăng hái đem hiến cho chị."
Cô Xuyến tuy nước mắt chưa ráo, song cô nhìn Giao và nhích miệng cười rất hữu duyên mà nói: "Tôi rất cám ơn em, cảm cái ơn rót nước cam lộ[2] vào lòng tôi đương khô khan xào héo. Tôi cảm cái ơn em đặt tình yêu vào tôi, tình yêu ấy thiệt nồng nhiệt nên em mới không màng tuổi tác, mà cũng không kể thị phi. Em ngồi ghế đó, ngồi đặng tôi nói cho nghe. Thiệt trót hơn 10 năm nay tôi đau khổ hết sức, đau khổ mà không có người thân thiết đặng thở than. Từ bữa chôn cha con Tý rồi, tôi nghĩ có một mình em thương xót phận tôi, nên tôi có ý trông đợi em lại chơi đặng tôi bày tỏ các nỗi khổ của tôi cho em hiểu, mong trút sạch bầu buồn tủi để nhẹ nhàng mà bước qua khoảng đời mới. Em cứ lánh mặt, tôi mời mà em cũng không thèm lại. Tôi trông đợi không được rồi tôi phiền em. Tôi tưởng em đối với tôi em cũng lãnh đạm như người khác. Ðêm nay em nói ra tôi mới hay em muốn tránh tôi là tại ái tình, mà cũng tại ái tình nên tôi mới trông đợi em không được tôi mới phiền giận. Tôi đã thấy em hiểu hết nỗi khổ của tôi rồi, vậy tôi không cần nhắc lại làm chi, nhắc lại thì đụng chạm vong linh của người quá cố tội nghiệp. Còn em hay tôi trông đợi, em đã hiểu tâm hồn của tôi rồi, vậy tôi không cần bày tỏ cảm tình của tôi đối với em làm chi. Bây giờ tôi chỉ nói với em rằng em đã lấy lòng thành thiệt mà đáp lại. Em muốn kết tình nghĩa vợ chồng với tôi, đó là một việc hết sức quan hệ. Thuở nay tôi chẳng hề được nghe một câu tình nghĩa. Hôm nay được nghe em phân trần đủ hết, thì lòng tôi khoan khoái vui sướng vô cùng. Nhưng được vui phải ngừa cái buồn, được phước phải ngừa cái họa. Nếu muốn vui cho bền, phước cho chắc, thì phải dè dặt không nên hốt tốc. Vậy xin em hãy phải để cho tôi thong thả đặng tôi suy nghĩ lại. Tôi khuyên em cũng phải bình tĩnh mà ngó trước xem sau. Tôi thấy có một cách giúp cho mình yêu nhau êm ấm mà khỏi ai dị nghị gì được. Mình đừng kết nghĩa vợ chồng, mình chỉ kết tình chị em với nhau mà thôi. Tôi hứa tôi sẽ ở góa trọn đời mà chăm nom hạnh phúc cho em. Còn về phần em, thì tôi sẽ chọn lựa một cô gái xứng đôi vừa lứa và hiệp ý đồng tình với em, tôi làm mai cho em cưới làm vợ. Vợ chồng em về ở chung một nhà, em có vợ để giao tình ái ân lại có chị để chăm nom hạnh phúc. Có vậy thì em đã thỏa mãn tình duyên, mà đôi ta gần nhau cũng khỏi tiếng tăm chi hết. Em nên suy nghĩ lại. Cái cách tôi nói đó là cách khôn ngoan tốt đẹp hơn hết. "
Giao ngồi trầm ngâm một hồi lâu rồi lắc đầu mà nói: "Không được chị à. Tôi không thể thương người khác ngoài chị được. Phải chị làm vợ tôi thì tôi mới được vui sướng."
Cô Xuyến thở dài rồi chậm rãi nói: "Vậy thì em phải để cho tôi suy nghĩ. Việc đó quan hệ quá, nó ảnh hưởng trót cả đời chị em mình. Phải suy nghĩ cho kỹ mới được. Tôi xin em cho tôi hẹn mười ngày rồi tôi sẽ trả lời. Mãn hạn đó rồi em sẽ trở lại đây mà bàn tính nữa. Phải để cho tôi tĩnh trí lại đặng tôi sáng suốt mà định đoạt."
Giao đứng dậy mà nói: "Chị thong thả mà suy nghĩ. Trong mười ngày nữa tôi sẽ trở lại. Nhưng tôi nói trước cho chị biết rằng chị yêu tôi hay không yêu tùy ý chị. Tôi không dám ép chị yêu, bởi vì tình yêu ép buộc thì không có giá trị gì hết. Tình yêu tự nhiên kia mới quí. Mà mãn hạn mười ngày rồi, nếu chị nói vì chị không yêu tôi nên chị không thể làm vợ tôi được, cha chả, nếu chị nhẫn tâm đến thế thì chắc chị không còn gặp mặt tôi nữa."
Cô Xuyến ngó Giao mà hỏi: "Tại sao vậy?"
Giao xây lưng đi lại cửa, vừa đi vừa nói: "Tại sao chị hiểu mà. Cần gì phải nói."
Giao mở cửa sắp bước ra. Cô Xuyến theo sau mà nói: "Trong khoảng mười ngày đó em cũng phải suy nghĩ lại nghe hôn."
Giao đứng lại mà nói: "Tôi cũng sẽ suy nghĩ chớ, suy nghĩ coi phải tổ chức ổ uyên ương thế nào cho đôi ta chung sống trong cảnh thần tiên ngoài vòng thị phi, khỏi mắt tục dòm ngó. "
Giao nói rồi đi tuốt mất. Cô Xuyến đóng cửa rồi lại kéo gối mà nằm, tay gác tay ngang qua trán, mắt ngó lên mái nhà. Ngọn đèn leo lét trên bàn, tiếng gà gáy vang trong xóm.
[1] Ðánh ngay vào. Ở đây có nghĩa tỏ tình thẳng, không quanh co.
[2] Amrta, nước ngọt, từ ngữ Phật Giáo: nước trường sanh. Cành dương rưới cam lộ, Làm sống dậy mùa Xuân (trang web Làng Mai); Cam lồ rưới giọt nhành dương, Thất tình lục dục như dường tiêu tan (Kinh Cao Đài)
Vợ già chồng trẻ
Phần năm:
Lật bật kỳ hạn mười ngày đã mãn.
Thường nghe người ta nói ngày giờ kỳ quái vô chừng. Ai có việc trông nó tới mau, thì nó chần chờ chậm tới để trông nó mõn hơi chơi. Còn ai có việc muốn nó tới chậm, thì nó lại hăng hái tới mau, đặng hốp tốp lo chưa xong, làm không kịp.
Giao muốn ngày hẹn tới mau hay là tới chậm? Không ai biết được.
Còn cô Xuyến có trông mãn hạn cho mau không? Cũng không ai hiểu.
Người ta chỉ thấy trong khoảng mười ngày đó mỗi ngày hai buổi, Giao đi làm như thường, qua lại trước nhà cô Xuyến thì Giao ngó lơ mà đi, không dòm vô nhà. Chiều tối ăn cơm bên nhà Bảy Cao rồi, thì Giao về khép cửa mà nghỉ, không đi đâu chơi hết. Còn cô Xuyến, trong khoảng đó, ai đi qua đi lại, sớm mơi cũng như buổi chiều, đều thấy cô chăm chú may. Tối thì cô đốt đèn nằm trên ván mà chơi với con, chừng con buồn ngủ thì cô đóng cửa tắt đèn đem con vô mùng mà nằm.
Tuy không nói ra chớ chắc là trong khoảng mười ngày đó, Giao cũng như Xuyến, cả hai đều suy nghĩ lung lắm. Dấn thân vào một cuộc tình duyên trớ trêu, trặc trẹo, bước tới thì ái ngại, thối lui thì không đành, rắc rối cực điểm, làm sao mà không suy nghĩ. Nhưng hai người suy nghĩ thế nào không biết mà đến mãn hạn, chiều Giao về ăn cơm với vợ chồng Bảy Cao thì Giao hớn hở cười om sòm. Ăn cơm rồi Giao về nhà liền, nói bữa nay làm mệt nên về nghỉ sớm. Thiệt Giao về đốt đèn một lát rồi khép cửa tắt đèn nằm im lìm.
Còn đàng kia, buổi chiều đó, cô cũng vẫn bình tĩnh như các buổi chiều khác. Ðến giờ nấu cơm, cô cũng dẹp đồ may đi nấu cơm rồi mẹ con ăn với nhau. Ðến tối cô cũng đốt đèn nằm chơi với con. Chừng con buồn ngủ cô cũng đem nó vô mùng và ra ngoài ngồi chơi.
Cô vẫn biết Giao sốt sắng quá, thế nào đêm nay chàng cũng lại mà nghe cô trả lời. Mà với tánh kỹ lưỡng của chàng, cô biết chắc cũng như mấy lần trước chàng chờ cho chòm xóm tắt đèn ngủ hết rồi chàng mới lại. Cô không trông đợi, mà cô cũng không bâng khuâng. Cô làm như việc cô phối hiệp với Giao là đã quyết định xong rồi, quyết định từ bữa Giao thăm dọ lòng cô. Giao hỏi cô tính thủ tiết thờ chồng nuôi con hay là tính cải giá đặng gây cuộc tình duyên mới.
Nhưng ngồi lâu một mình cô Xuyến buồn. Cô mở một cánh cửa bước ra ngoài, thấy ánh trăng mùng sáu lờ mờ, cô mới ngồi trước hàng ba mà nhìn trăng lướt gió. Cô ngó ra phía ngoài thì nhà ông Kèo với nhà bà Lữ đều ngủ hết. Cô ngó vô phía trong, thì nhà của Giao cũng sùm sụp im lìm. Cô ngó trăng lu mà nói thầm có lẽ tại ánh trăng lờ mờ nầy mà Giao sợ người ta thấy nên không dám đi sớm.
Cô Xuyến đứng dậy vừa muốn trở vô nhà mà nằm, thì nhờ ánh trăng nên cô thấy Giao xăng xớm đi lại. Cô nhích miệng cười và đứng lại mà chờ. Giao đi gần tới thấy dáng Xuyến xớ rớ ngoài cửa, chỗ ánh đèn trong nhà giọi ra, thì chàng đi riết lại vừa cười vừa hỏi nhỏ nhỏ: "Chị chờ tôi hả? Tôi muốn để họ ngủ rồi tôi mới đi, sợ họ thấy tôi lò mò đi lại ban đêm rồi họ nói tôi nhiều chuyện." Xuyến nói: "Tôi cũng biết như vậy, nên tôi ra ngó trăng chơi, chớ không có trông."
Xuyến vô nhà. Giao theo sau, khép cánh cửa cho khít rồi hỏi nữa: "Chị suy nghĩ rồi phải hôn?" Xuyến day lại ngó Giao mà cười và nói: "Tôi có suy nghĩ gì đâu."
Giao ngạc nhiên, ngồi ghé trên ván và hỏi nữa: "Ủa! Sao chị huởn lại 10 ngày cho chị suy nghĩ rồi chị sẽ trả lời? Bây giờ chị lại nói chị không suy nghĩ gì hết. Chị gạt tôi hay sao?"
Xuyến vén áo ngồi trên đầu ván phía trong mà đáp:
- Tôi muốn huởn 10 ngày đặng em suy nghĩ thêm cho kỹ, sau em khỏi ăn năn chớ.
- Tôi có nói tôi suy nghĩ kỹ rồi. Tôi đã quyết định sống thác với chị. Tôi suy nghĩ làm chi nữa mà phải trì huởn. Bữa hổm tôi tỏ tình của tôi rồi, tôi xin chị như vậy đó, chị ưng hay không chị làm ơn nói liền cho tôi biết. Chị đừng kiếm thế dục dặc nữa, tôi chịu không nổi.
- Tôi dục dặc là tại tôi vì em, chớ có phải tôi vì tôi đâu. Tôi là một đàn bà góa, nghèo nàn, tuổi trên 30, có đứa con nhỏ lòng thòng, chồng chết không có để tiền chi hết, bỏ vợ con ở lại bơ vơ, không có người mà cậy nhờ mà nương dựa. Em là trai mới lớn lên, hình vóc mạnh mẽ, sức khoẻ dồi dào, có nghề làm thợ máy, tự nhiên dễ kiếm công việc làm, mà hễ đi làm thì được tiền công khá. Em hào hiệp thấy phận mẹ con tôi bơ vơ vất vả em thương, nên đưa tay ra mà cứu vớt. Em ở đây mấy năm, tôi biết rõ tánh tình em, tôi lại từng nhờ em luôn luôn bào chữa. Giữa lúc nguy nan, em có can đảm nên dám đưa tay dìu dắt, nếu tôi hất tay, tôi không thèm níu mà sống với con Tý té ra tôi mù quáng dại khờ quá hay sao.
Giao hết sức vui mừng, lật đật bước lại nắm hai tay cô Xuyến mà nói: "Chị chịu rồi! Tôi cảm ơn chị. Thiệt tôi mừng lắm. Tôi đứng trước bàn thờ ảnh đây, tôi xin thề tôi sẽ gắng công rán sức mà làm cho chị vui sướng mãn đời. Tôi nuôi và thương con Tý như con của tôi. Tôi nói thì tôi nhớ lời. Chị yên tâm. Chị cứ yêu tôi cũng như tôi yêu chị vậy thì vợ chồng mình vui sướng khỏi lo gì hết."
Cô Xuyến ngồi nghe Giao nói thì cô sung sướng nên chúm chím cười hoài, để cho Giao nói dứt lời rồi buông tay muốn choàng ôm ngang mình cô. Chừng đó cô mới nhẹ nhẹ đứa tay cản tay Giao mà nói rất dịu ngọt: "Xin đừng có làm như vậy không nên. Việc vợ chồng là việc trăm năm, chớ không phải một ngày một buổi mà vội. Yêu nhau vì tình vì nghĩa mới lâu dài, chớ vì sắc đẹp hay là vì ôm ấp thì không thể bền vững, bởi vì yêu tại sắc đẹp thì một ngày kia sắc sẽ lợt sẽ phai, hết đẹp nữa rồi phải bỏ. Còn yêu tại ôm ấp thì một ngày kia sẽ chán sẽ nhàm, rồi trở mặt xây lưng, kẻ thì nói phải tôi dè như vầy tôi có thèm lấy nó đâu, còn người thì than chớ chi tôi biết trước thì có thế nào tôi chịu ưng nó, ân ái hóa ra giận hờn, tự nhiên phải rã rời, mỗi người đi một ngã, không tốt lành gì hết. Ngồi đây, ngồi đặng bàn tính mà sắp đặt cuộc đời mới của đôi ta thì có ích hơn là bắt chước thường tình, hễ yêu nhau thì ôm ấp, hun hít, coi tồi bại quá."
Nghe mấy lời đoan trang chơn chánh như vậy, Giao kính nể nên ríu ríu ngồi một bên Xuyến, không dám làm hỗn nữa. Cô Xuyến tiếp: "Tôi nghe nói bực cao thượng họ nuôi ái tình trong sạch, yêu nhau thì nhìn nhau cũng đủ, chẳng cần phải nắm tay hay đụng mình. Vợ chồng kính nhau như kính người khách. Mình nên rán bắt chước mà giữ ái tình cho thanh cao, được vậy mới khỏi nhàm, khỏi chán." Xuyến nói rồi ngó Giao mà cười.
Giao nói: " Tôi là hạng thợ thuyền, chớ không phải thuộc bực cao thượng, bởi vậy chắc tôi bắt chước làm như mấy ông Tiên ông Phật đó không nổi." Giao vói nắm tay Xuyến nữa, Xuyến không giựt tay, cứ để cho Giao nắm, nhưng cố cười mà giễu: "Tôi đã ưng rồi. Tôi có tính chạy trốn đâu mà phải nắm tay cho chắc." Giao kề mặt mà nói nhỏ: "Tôi thương quá, được phối hiệp với nhau tôi mừng quá. Cho phép tôi nắm tay cho thoả chút tình hoài vọng hổm nay."
Xuyến không muốn để cho Giao lôi cuốn vào địa hạt dan díu sớm quá, sợ ngọn lửa cháy mau nó cũng sẽ tàn mau, bởi vậy mặc dầu cô cũng xúc động về ái tình như Giao, nhưng cô rán giữ bình tĩnh, nghiêm trang mà nói:
- Ðược vui phải đề phòng cái buồn, thì cái vui nó mới kéo dài ra được. Làm việc gì cũng vậy, nếu muốn việc của mình bền vững lâu dài, thì trước khi làm mình phải lo tính cho kỹ lưỡng đặng việc làm khỏi hư hỏng.Vậy trước khi chánh thức chấp thuận lời nguyện ước tơ tóc trăm năm, tôi muốn gạn hỏi một vài điều cho chắc ý đặng sốt sắng với cuộc hoà hiệp. Có vui lòng cho tôi hỏi hay không?
- Ðược gần nhau thì tôi vui lòng luôn luôn. Muốn hỏi điều chi thì cứ hỏi, chẳng cần phải ái ngại.
- Tuổi của đôi ta cách nhau xa quá, chớ chi tôi lớn hơn 5, 3 tuổi, có lẽ mình ăn ở với nhau người ta không để ý cho lắm. Ngặt tôi lớn hơn tới 11 tuổi, ai nghé mắt cũng thấy sự chinh lịch sờ sờ. Nếu người ta cười chê thằng nhỏ mê con mẹ già, người ta ngạo báng, có buồn hay không?
- Tôi đã có nói với mình...Xin cho phép tôi kêu bằng mình, chớ kêu bằng chị nữa thì kỳ cục quá. Nói với tôi mình cũng kêu bằng mình, chẳng nên kêu bằng em. Nếu cứ kêu như cũ, té ra chị em lấy nhau hay sao.
- Muốn thế nào cũng được. Nhưng trong xóm ai cũng biết hai đứa mình thuở nay coi nhau như chị em.Vậy lúc ban đầu ở trong nhà, nói chuyện với nhau thì kêu bằng mình...còn trước mặt thiên hạ thì phải kêu như cũ cho khỏi trái tai người ta. Thủng thẳng quen lần lần, họ biết gia đạo của mình rồi, chừng đó mình sẽ ra mặt chồng vợ.
- Mình tính như vậy phải lắm...Hồi nãy mình nói mình ái ngại về sự mình lớn tôi nhỏ, mình sợ tôi bị người ta chê cười tôi mắc cỡ rồi tôi bỏ mình. Mình đừng lo việc đó. Tôi không thể bỏ mình được đâu. Tôi coi mình cũng như trái tim của tôi. Nếu tôi mổ mà quăng trái tim thì tôi sống nữa sao được. Còn sự thiên hạ cười chê, tôi không thèm kể đâu. Họ có hiểu tình yêu của tôi thể nào đâu mà họ xía miệng vô. Họ có chê cười, nếu họ xầm xì nói lén thì mặc kệ họ. Còn nếu họ nói ngay với tôi thì tôi sẽ dạy khôn giùm cho họ.
- Mình không kể miệng thiên hạ thì dễ. Còn cặp mắt của mình, tôi sợ e nó không để cho mình không kể lắm.
- Cặp mắt tôi thể nào mà sợ?
- Hiện giờ tôi đã qua khỏi thời kỳ xuân xanh, song tôi chưa đến tuổi già cả, da tôi còn láng, thịt tôi còn vun, răng tôi chưa lung lay, mắt tôi chưa lờ lệt, mình thấy nhan sắc tôi chưa phai lợt cho lắm, nên mình thèm, mình yêu tôi. Mình quên sự chinh lịch tuổi tác của đôi ta. Nhưng tôi xét phận tôi, tôi không phép quên. Tôi phải nhớ tôi đã 31 tuổi rồi, chừng mười năm nữa răng tôi sẽ bắt đầu rụng, mắt tôi sẽ bắt đầu lờ, rồi ngày kia lần lần nó tới hoài, tóc tôi sẽ bạc, da tôi sẽ dùn, thân thể tôi khô héo ốm teo, chút đỉnh nhan sắc còn dư cho mình lượm mà thưởng thức đây nó sẽ tiêu tan hết. Chừng đó mình mới được lối 30 tuổi, thân còn trai tráng, sức đương sung túc, mà mình phải mang con vợ già xấu xa, chàng ràng trong nhà, ngày đêm trông thấy mình gai mắt, bẩy gan, đuổi đi thì mình sợ tiếng bất nghĩa vô tình, còn để ở thì mình buồn, mình chán, té ra hạnh phúc mình mong muốn mình hưởng có mấy năm rồi nó biến thành tai hoạ. Phận mình thì mình không kể tiếng thị phi của thiên hạ, còn phận tôi thì tôi phải kể sự xao lảng tình yêu của người chồng, chớ không kể sao được. Mình yêu tôi thì tự nhiên tôi cũng yêu mình. Mình yêu nồng nàn có lẽ nào tôi yêu lợt lạt. Nhưng tình yêu của tôi thì tôi bảo đãm nó vững bền được, còn tình yêu của mình thì tôi biết lấy chi mà kéo níu nó ở lại với tôi. Tôi nghĩ tới trường hợp đó nên tôi ái ngại hoài, bởi vậy hôm trước tôi mới khuyên mình phải suy nghĩ lại việc đó, phải làm sao cho tôi hết ái ngại, hết lo sợ về ngày sau, có vậy sự vui sướng của đôi ta mới hoàn toàn được.
- Tôi đã có nói tình yêu nếu đôi bên đều nồng nhiệt thì không có tuổi. Từ hồi tôi mới lớn lên cho tới bây giờ tôi chưa yêu một cô gái nào hết. Tình yêu tôi giao cho mình hôm nay là tình yêu son giá để cho tay mình mở dây với tình yêu của mình. Còn mình nói tuy mình có chồng trót mười năm nay, mình đã có một mặt con, song mình chưa được nghe một câu ân tình nào hết. Tình yêu của mình còn y nguyên. Mình lại khao khát ái tình. Thế thì tình yêu của mình cũng như của tôi, cả hai tình yêu đều còn mới mẻ, còn son giá. Hai tình yêu hiệp lại thì xứng lắm, có chinh lịch gì đâu mà ngại người lớn kẻ nhỏ. Tôi có nói với mình nếu tôi không được làm chồng mình thì đời tôi hư hỏng, bởi vì tôi không thể yêu người nào khác ngoài mình được. Ðêm nay là đêm mình chọn lựa cho đôi ta nắm tay nhau mà bước vào cảnh đời mới, cảnh đời chứa chan tình nghĩa thương yêu, trước ngọn đèn leo lét trên bàn kia: "Tôi thề trên có Trời dưới có Ðất, lại có vong linh của anh Hai Túc dưới mồ nữa, tôi xin cả thảy trên dưới trước sau đều chứng minh lòng chơn thành của tôi. Nếu ngày sau tôi thấy vợ tôi già mà tôi phụ rãy thì Trời Ðất cùng hai bên vai vác đừng để mạng tôi."
Giao thề rồi quay qua hỏi Xuyến: "Tôi thề độc như vậy đó tin bụng tôi hay chưa? Còn điều gì nghi ngại nữa hay không?"
Cô Xuyến nhìn Giao, nước mắt chảy ròng ròng. Giao choàng tay ôm cổ Xuyến mà kéo lại gần. Xuyến úp mặt vào ngực Giao mà khóc, trong lòng tràn ngập thân yêu, hạnh phúc, hy vọng, tín thành, nghĩa tình, tận tụy. Giao hiểu nước mắt của Xuyến là nước mắt vui sướng, vì xúc động nên tuôn ra, bởi vậy chàng để cho Xuyến khóc, không khuyên dỗ, không an ủi, chỉ vuốt tóc Xuyến, trong lòng chàng cũng thơ thới, sung sướng thuở nay chưa từng được gặp cái hạnh phúc thần tiên ấy lần nào.
Hai người chung nếm cảnh thú an vui tuyệt đối đó một hồi rồi cô Xuyến buông ra mà đi vô trong đặng rửa mặt. Giao kéo gối nằm ngay trên ván mà thưởng thức riêng ý vị tình yêu nó vẫn còn nực nồng chan chứa từ trên đầu óc xuống dưới bụng dạ chàng.
Cách một hồi cô Xuyến ở trong buồng đi ra, bây giờ mặt mày cô hớn hở tươi cười. Cô ngồi lại ván, vì bộ ván nhỏ nên không xa Giao, nhưng cô không ái ngại, cô ngó Giao mà nói: "Bây giờ mình biết rõ bụng nhau rồi, thệ ước kết nghĩa vợ chồng đặng chung sống cùng nhau cho tới ngày chết. Muốn sống cho được an vui, khỏi sợ người cười chê mà cũng khỏi thẹn thùa với lương tâm mình nữa, thì phải bàn tính mà tổ chức một cảnh đời mới của mình cho êm ấm đàng hoàng. Bữa hổm nói phải suy nghĩ đặng tạo ra một tổ uyên ương để đôi ta chung sống trong cảnh thần tiên. Ổ uyên ương đó tổ chức cách nào đâu, nói nghe thử coi."
Giao lồm cồm ngồi dậy nói: "Tôi tính như vầy: hoặc tôi hoặc mình, một người phải bán nhà đặng về ở chung với nhau. Mình bán nhà về ở chung với tôi thì phải hơn. Ngặt nhà tôi thì tệ quá.Vậy thì nên để tôi bán quách cái nhà của tôi, bán năm bảy đồng cũng phải, rồi tôi lại nhà mình mà ở. Nhà mình rộng rãi, sạch sẽ, lại cây lá còn mới, ở tiện hơn.
Tôi đi làm lãnh tiền công, tôi giao cho mình giữ mà mua cơm gạo nuôi sống gia đình. Nếu mình có rãnh và ai đem đồ mướn may thì mình may cho người ta mà kiếm tiền thêm. Nếu không có đồ may thì mình nghỉ, tiền công của tôi có lẽ đủ nuôi sống, khỏi đói rách.
Tối thứ bảy hoặc chúa nhựt mình có buồn thì tôi dắt qua Sài gòn ăn uống chơi, hoặc đi coi hát bội, hát bóng hay là hát cải lương tùy ý mình muốn. Mình rán tiện tặn; nếu có dư tiền thì mua sắm thêm đồ trong nhà mà dùng, mua tủ bàn, quần áo, thứ gì mình cũng còn thiếu. Mà tôi nghĩ miễn là mẹ con mình với tôi mạnh khoẻ, có đủ cơm ăn, có áo quần mà mặc, dầu ở nhà rách, ngủ dưới đất mình cũng vui sướng, chẳng cần gì nhà tốt, đồ nhiều.
Vợ chồng mình cứ yêu nhau, đừng xao lãng, tôi đi làm về thấy mặt mình thì đủ cho tôi vui, dầu mệt cũng khoẻ, vậy là hạnh phúc, tôi không thèm mong hạnh phúc nào khác nữa. Nếu thiệt mình yêu tôi thì chắc ý mình cũng vậy, phải hôn mình?"
Cô Xuyến chúm chím cười mà nói: "Hổm nay tôi dọ thử ý mình, tôi nhận thấy mình thành thiệt yêu tôi, mình cứ lo cho mẹ con tôi no ấm, mình không kể đến phận mình, mà cũng không kiêng nể ai hết. Tôi đã lớn tuổi mà mình không nệ. Mình biết mình ráp với tôi thì thiên hạ cười chê mà mình không kể tiếng thị phi. Tình yêu của mình phải nồng nhiệt lắm, nên mình mới tối mắt, mới cả gan như vậy. Tôi rất cảm ơn mình, nhứt là cảm tình mình".
„Bữa nay tôi phải nói thiệt cho mình biết hôm đêm mình lại chơi, mình nói xa nói gần mà dọ dẫm lòng tôi thì tôi nhờ có kinh nghiệm về việc đời ít nhiều, nên tôi quyết khuyên giải mình, không muốn để cho mình làm việc trái ngược với nhơn tình, với thế tục. Ðến bữa mình bị thui gan đốt ruột, mình chịu không nổi, mình trở lại mà tỏ thiệt cho tôi biết ý mình quyết tính cuộc trăm năm tơ tóc với tôi, thì bộ tịch của mình với giọng nói của mình làm cho tôi thấy đối với tôi mình mang một khối tình cực kỳ nặng nề, cực kỳ mạnh mẽ".
„Mình làm cho tôi xúc động thái quá, tinh thần tán loạn, nghị lực tiêu tan, tôi xuôi xị, không tìm được lời mà kháng cự, chỉ vu vơ khuyên mình suy nghĩ mà khuyên một cách yếu xịu, dường như gợi thêm tình yêu của mình chớ không phải can gián mình. Có lẽ mình thấy lửa tình đương đốt gan ruột mình nó bắt qua mà cháy lòng dạ tôi nữa chớ chẳng không. Lửa tình bắt cháy tới lòng dạ tôi nên bữa nay tôi quăng khí giới mà hàng đầu, để cho tình yêu của mình xâm chiếm cả hồn xác của tôi dễ dàng, tôi không kháng cự chi hết".
„Tôi phải cắt nghĩa dông dài cho mình hiểu rõ ràng tâm hồn của tôi đối với tình yêu của mình là thể nào đặng mình khỏi nghi ngại chi hết. Tôi tuy đã có chồng có con, song tôi cũng như mình, thuở nay tôi mới bị lửa tình phừng dậy trong lòng lần thứ nhứt. Tôi chắc nó cũng nồng nhiệt, cũng mạnh mẽ, không thua gì ngọn lửa tình của mình đâu. Mình yêu tôi bao nhiêu thì tôi cũng yêu mình bấy nhiêu, mà tôi lớn tuổi hơn, tôi có rồi một đời chồng, tôi có lăn lộn theo thế tình, có lẽ tình yêu của tôi sáng suốt hơn tình yêu của mình."
Cô Xuyến nói một hơi rồi cô ngừng mà suy nghĩ. Giao sung sướng quá, muốn nghe cô nói hoài, nên thấy cô ngừng thì nói: "Nói nữa chớ, nói hoài cho tôi nghe đi mà. Tôi muốn ngày đêm tôi được nghe nói chuyện như vầy luôn luôn, tôi không cần ngủ, mà cũng không cần ăn làm chi."
Cô Xuyến cười mà nói tiếp: "Tôi sẽ nói nữa. Mới gặp gỡ nhau lần đầu, tôi cần phải nói hết cho mình hiểu mà sắp đặt cảnh đời sống chung của đôi ta. Theo cách mình sắp đặt mình mới nói cho tôi nghe đó thì tôi nhận thấy mình coi trong thế gian nầy chỉ có một mình tôi với mình mà thôi, không còn ai nữa. Tính như vậy không được. Ở đời mình sống chung với thiên hạ thì mình phải đi xuôi dòng với người ta, không nên đi ngược. Mình tính phối hiệp với nhau mà cũng ở luôn tại xóm nầy. Song phải bán bớt một cái nhà đặng về ở chung với nhau. Làm như vậy mình khinh rẻ thiên hạ quá. Tôi sợ không êm. Chẳng những họ chê cười không thôi, mà họ còn ghét nữa."
Giao trợn mắt mà nói:
- Họ chê cười nỗi gì? Tôi có làm việc gì bậy đâu mà chê cười. Bất quá họ nói tôi là trai mới lớn lên mà tôi dại nên tôi lấy đàn bà có con, tuổi đáng chị cả tôi mà làm vợ. Tôi muốn lấy ai tôi lấy, mắc mớ gì họ mà họ cười.
- Tôi sợ họ còn nói mình là em út làm chung một sở với anh Túc. Ảnh mới chết, nấm mồ chưa khô mình ve vãn mà thỉnh vợ ảnh. Họ cho mình làm như vậy là bất nghĩa nên họ chê cười chớ.
- Tôi với anh Hai Túc là người dưng, chớ có bà con dòng họ gì đâu. Rủi ảnh chết, ảnh bỏ vợ con ảnh bơ vơ nghèo khổ. Tôi thấy vậy tôi động lòng. Vì tình anh em tôi ra gánh vác thay thế mà nuôi dùm vợ con ảnh. Tôi lãnh như vậy là làm nghĩa, sao lại gọi tôi bất nghĩa? Họ nói bậy mà kể làm chi. Còn mình nói mình sợ họ ghét tôi. Tại sao mà ghét?
- Mình làm gai mắt họ. Họ nói mình coi họ rẻ quá, nên họ ghét chớ sao.
- Họ ghét rồi họ làm gì tôi mà lo?
- Ở đời chọc cho người ta ghét làm chi. Ðể cho người ta thương có ích hơn. Lòng dạ của thiên hạ nham hiểm lắm, ít có người lương thiện. Chọc cho họ ghét, nhiều khi họ kiếm chuyện họ làm cho mình nguy chớ phải chơi sao.
- Tôi làm thợ máy, tôi lo chăm nom cho máy chạy đều đều, tôi có làm điều chi sái phép đâu mà sợ họ làm nguy tôi được.
- Chừng họ muốn làm hại mình, họ bày chuyện mình biết sao được. Ví như cha con Tý mới chết chưa đầy một tháng mà hai đứa mình ráp với nhau, họ bày chuyện nói mình lấy nhau đã lâu rồi, mình có ý giết cha con Tý chết đặng ăn ở với nhau cho thong thả.
- Trời Ðất ơi! Bày chuyện như vậy ai mà tin. Ảnh chết có quan thầy mổ mà khán nghiệm, có cò bót tra vấn hẵn hòi, ai cũng nhận ảnh say ba chìm ba chán té nhằm gốc cây bần nên giập lá mía mà chết. Họ nói tôi giết ảnh sao được.
- Ví như họ nói mình biết ảnh uống rượu trong quán thím Phòn, mình chực ngoài đường mà đón ảnh. Mình làm bộ đưa giùm ảnh về. Thừa lúc không có ai, mình xô ảnh vào gốc cây bần cho bể lá mía mà chết, rồi mình bỏ ảnh nằm đó mình lén đi về. Mình cãi làm sao được. Họ cáo như vậy bề nào mình cũng bị bắt mà tra xét. Sợ tôi cũng bị bắt luôn nữa chớ.
Giao nghe tới cái đó mới lo sợ, nên ngồi lơ lửng mà hỏi:
- Vậy thì bây giờ phải làm sao? Mình có ý kiến gì để đôi ta ăn ở với nhau cho yên đâu, mình nói cho tôi nghe thử coi.
- Hể ráp làm vợ chồng ở chung với nhau, thì phải dời đi chổ khác xa lạ, cho người ta đừng biết mình, chớ ở đây hoặc ra ở mấy xóm dài theo mé kinh hay là ra ở xóm Cầu Dừa không được. Họ quen biết với mình tự nhiên họ dị nghị nhiều chuyện, ở không yên. Mà chẳng nên ở xa quá, như phía Xóm Chiếu hoặc Cầu Chông, bởi vì ở xa quá, mỗi bữa mình đi làm xa thì cực cho mình. Có phía từ Cầu Kho vô nhà đèn không ai biết tôi. Nếu sang được một căn nhà bên phía đó mà ở thì tiện, khỏi lo ai dị nghị, mà mình đi làm cũng không xa, khỏi phải qua đò thất công chờ đợi một chút.
- Chiều mai tôi sẽ đi kiếm nhà tôi sang.
- Mà kiếm được chỗ ở rồi, hai đứa mình không nên dời đi một lượt. Làm như vậy người ta biết. Ðể một người đi trước chừng một tháng rồi người kia sẽ bán nhà đi theo sau.
- Kiếm nhà phải mất một hai tháng mà sợ kiếm cũng chưa được. Lâu quá. Biết chừng nào được ở chung với nhau.
- Kiếm chưa được nhà thì cứ ở đây. Nhưng ai ở nhà nấy như thường. Nếu mình muốn tới lui thì phải chịu khó núp lén, ban đêm chờ khuya một chút rồi sẽ lại, rồi chừng bốn năm giờ thì dậy sớm mà về cho thiên hạ đừng thấy. Thương nhau thì phải chịu cực. Muốn được bình yên thì phải cẩn thận.
- Tôi muốn nói với vợ chồng Bảy Cao tôi thôi không ăn cơm tháng đằng ảnh, để mình nấu cơm mỗi bữa cho tôi ăn. Tôi đặt chuyện tôi nói mình than đồ may ít quá, may không đủ cơm cho mẹ con ăn. Tôi muốn giúp cho mình, là vợ của bạn quá cố, nên tôi ăn cơm quán đặng mỗi tháng mình có được thêm chút đỉnh tiền mà nuôi con. Nói như vậy thì chắc vợ chồng anh không nghi.
- Không nên, anh Bảy Cao thiệt thà tử tế, dầu ảnh biết tâm sự của mình, chắc ảnh cũng không nói gì. Ngặt cái miệng của vợ ảnh khó lòng lắm. Chỉ hỗn ẩu, ghen tương, ăn hiếp chồng, mà còn quen thói ngồi lê đôi mách, ưa nói hành thiên hạ. Nếu mình thôi ăn cơm quán đằng chỉ, mình lại ăn với tôi, chỉ mất lợi tự nhiên chỉ giận rồi chỉ kiếm chuyện bán dê bán díu mà nói xấu cho mình. Trong xóm ai cũng hay hết rồi họ xầm xì nói hành nói tỏi chịu sao cho nổi. Mình cứ ăn cơm ở đẳng như cũ thì tốt hơn.
- Thiệt bực mình quá! Tôi là trai mới lớn lên chưa có vợ. Mình là đàn bà chồng chết rồi. Hai đứa mình đều thong thả, muốn lấy ai tùy ý. Mình thương nhau mà không ở chung với nhau liền được, mình nghĩ đôi ta có tức hay không hử?
- Thế sự xằng xịu như vậy thì phải rán mà chịu chớ ức làm chi.
- Còn việc con Tý, mình nghĩ coi tôi ráp với mình nó ghét tôi hay không?
- Con nít còn khờ dại nó có hiểu gì đâu mà ghét. Huống chi cha nó còn sanh tiền, cha nó ít khi nựng nịu vui chơi với nó. Bởi vậy nó không trìu mến, nó cứ theo tôi. Mình ăn ở với tôi mà mình để lòng thương nó như con ruột của mình, thì nó sẽ thương mình lại, thương như cha ruột, chớ lẽ nào nó ghét mà lo.
- Tôi có hứa với mình tôi thương nó, tôi sẽ nuôi và dạy nó như con ruột của tôi vậy. Mà mình có tính mình sẽ biểu nó kêu tôi bằng chú, bằng cậu, hay bằng cái gì hay không?
- Kêu bằng cậu, té ra mình là em của tôi mà mình lấy tôi hay sao? Không nên. Họ chê mình loạn luân. Kêu bằng chú có lẽ được hơn. Nếu ai nghi thì bất quá họ nói mình là em chồng của tôi, anh mình chết, mình đánh ụp với tôi. Nói như vậy thì dễ chịu một chút.
- Tôi muốn bắt nó kêu tôi bằng ba. Mà chừng đi ở chổ khác kìa, chớ còn ở đây thì nó kêu bằng chú như cũ.
- Muốn như vậy cũng được.
Giao cứ bàn tính với Xuyến tới gà gáy canh ba rồi Giao ở ngủ luôn,chừng sao mai mọc mới dậy đi về.
Vợ già chồng trẻ
Phần sáu:
Từ đêm mùng sáu, trăng lờ mờ, xóm vắng vẻ, tay bắt tay, mặt nhìn mặt, tình yêu thố lộ, rồi ân ái tràn trề, hai đàng đã thề nguyền cùng nhau sát cánh kề vai bước qua giai đoạn mới trong đường đời, nhưng trót cả tháng hai người cũng vẫn sống như bình thường trong xóm Ụ Tàu, bên vùng Vĩnh Hội.
Mọi bữa người ta cũng thấy cô Xuyến cặm cụi ngồi may có con Tý xẩn bẩn chơi một bên cô, hoặc chơi ngoài cửa. Có vài lần cô khóa cửa, dắt con lại gởi nhà cho bà Lữ coi chừng dùm rồi mẹ con ra đi, nói đi kiếm đồ may, vì lúc nầy may ế lắm.
Còn Giao thì mỗi buổi đều đi ra hãng cưa mà làm như thường không có lân la đến nhà Xuyến mà chơi, vẫn tiếp tục ăn cơm quán tại nhà Bảy Cao. Bữa nào đi làm về ngang, hể thấy Xuyến thì hỏi thăm sức khỏe, còn thấy con Tý thì kêu ra cho tiền. Có bữa mới lãnh tiền Giao ghé, nhưng đứng ngoài sân kêu Xuyến mà đưa tiền cậy mua vải may dùm một áo sơ mi tay cụt với một cái quần dài ống.
Có nhiều buổi chiều, mãn giờ làm việc rồi Giao nói cho Bảy Cao hay chàng mắc đi Sài Gòn hoặc Ông Lãnh mà thăm bà con hay anh em. Chàng dặn về như đói bụng thì cứ ăn cơm trước, chàng về trễ thì chàng sẽ ăn sau.
Giữa thanh thiên bạch nhựt, và trước mắt mọi người trong xóm Ụ Tàu thì Xuyến cũng như Giao, cả hai đều giữ cử chỉ đàng hoàng, không có điểm nào làm cho người ta nghi bậy bạ được.
Xuyến với Giao thiệt có đi kiếm nhà lá hoặc phố lá mà mướn đặng dời chỗ ở thì chẳng hề cho ai biết, lại kiếm cớ mà nói cho người ta tin mình đi có việc riêng. Con Tý là con mồ côi của người bạn cũ nên Giao cho nó tiền. Cô Xuyến là thợ may nên Giao đưa tiền cậy mua giùm vải may áo, may quần. Các việc đó là việc thường, có chi đâu mà nghi ngờ được.
Ðêm nào Giao cũng lén đi lại nhà Xuyến mà ngủ, nhưng nghe theo lời Xuyến căn dặn nên Giao hết sức cẩn thận, đêm nào chàng cũng đợi 9, 10 giờ cho xóm riềng ngủ hết rồi chàng mới đi. Khuya về thì luôn luôn hễ sao mai mọc thì Xuyến kêu chàng dậy mà về, khi đi cũng như khi về chẳng bao giờ có gặp người nào hết. Người xưa có để lại một câu phương ngôn: "Mạt hiện hồ ẩn, mạt hiển hồ vi" thiệt là trúng.Việc càng giấu, người ta càng dễ biết, vật càng nhỏ người ta càng dễ thấy.
Cuộc tình duyên u ẩn của chàng Giao và nàng Xuyến, cả hai người đều giấu giếm thiệt kỷ lưỡng, thiệt kín đáo. Thế mà chắc gì giấu cho khỏi con mắt lục lạo của người đời được.
Mấy hôm rồi đến bữa cơm vợ Bảy Cao thường bàn luận phận góa bụa của cô Xuyến trước mặt Giao. Chị nói cô Xuyến kiếm chồng nghĩ cũng phải, mà có chồng làm ăn tiền công nhiều, vậy mới khôn. Có chồng như vậy nó mới nuôi nổi mẹ con no ấm, khỏi ngồi may mệt nhọc.
Giao lặng thinh, không dám chen vô mà nói gì hết, giả bộ như việc đó không can hệ gì đến mình. Nhưng tối lại Giao cho Xuyến hay những lời xiên xéo của vợ Bảy Cao làm cho Xuyến lo ngại thôi thúc Giao kiếm chỗ dời đi cho gấp. Giao gắng công đi kiếm nhà mà mướn, nhưng đi giáp hết từ Ông Lãnh vô nhà đèn[1] không gặp được một căn nhà nào trống mà mướn.
Cách ít bữa sau cô Xuyến ra phía bến đò kiếm tôm cá mua ăn. Cô gặp bà Mười Liệu ở gần hãng dệt, quen với cô mấy năm nay. Bà vui vẽ mừng cô mà hỏi:
- Nghe nói em có chồng rồi phải hôn?
- Chồng ở đâu?
- Coi! Sao họ nói em đã đụng thợ Giao? Có chồng thì ta mừng cho, tội gì phải giấu?
- Ai nói với bà vậy bà Mười?
- Vợ Bảy Cao. Bữa hổm cổ ra nói chuyện ngoài bến đò. Xóm ngoài nầy ai cũng hay hết, còn giấu làm chi?
- Bà Mười làm ơn nói lại với bà con ngoài nầy, chuyện đó có lẽ Giao muốn rồi chú nói sao đó tôi chưa hay biết gì hết. Tôi đương kiếm người mà bán cái nhà đặng trở về Xóm Chiếu tôi ở, tôi chưa có tính lấy chồng.
- Ở trên nầy cho vui, về dưới Xóm Chiếu làm chi?
- Ở đây đồ may ít quá mẹ con tôi sống không nổi. Về chỗ bà dì tôi ở hồi trước đó tôi có quen nhiều, tôi làm bánh tôi đếm cho trẻ nhỏ bưng đi bán, có lẽ dễ chịu hơn. Bà nghe có ai muốn kiếm chỗ mà ở, bà làm ơn chỉ dùm vô tôi, nghe hôn bà Mười. Tôi cám ơn bà lắm.
- Ừ, để có ai muốn mua nhà tôi chỉ cho họ vô.
Hai người từ giã nhau mà đi.
Cô Xuyến thấy nguy hiểm đã tới do vợ Bảy Cao thọp thẹp. Cô chắc chị ta tọc mạch ban đêm rình mò thấy Giao lén đi, nên mới dám nói quả quyết cho người ta hay như vậy. Cô buồn quá, trông cho mau tối đặng gặp Giao cô biểu chàng kiếm cho được một chỗ ở, tốt xấu không cần, cô bán nhà mà đi phứt cho rồi, đặng tránh tiếng thị phi khó chịu.
Ðêm đó Giao nghe Xuyến thuật chuyện bà Mười Liệu nói với cô hồi sớm mơi thì Giao nổi giận, tính sẽ hỏi vợ Bảy Cao sao dám đặt chuyện mà nói như vậy, rồi mắng chị một lần cho chị chừa cái thói ăn no đi nói chuyện thiên hạ.
Cô Xuyến đã lịch lãm nhơn tình, nên cô bình tĩnh mà khuyên: "Tôi nói lại cho mình biết vậy thôi, chớ sanh rầy làm chi. Tôi chắc ban đêm chỉ rình mò thấy mình đi lại đằng nầy nên chỉ mới dám nói. Chỉ nói trúng chớ phải đặt chuyện nói bậy hay sao mà giận. Mình bày đối chọi, chỉ nói tùm lum ra hết, càng thêm xấu hổ chớ có ích gì. Mình làm chuyện trái đời, người ta có nói thì mình làm lơ tốt hơn. Bày cãi qua cãi lại, thiên hạ hay hết càng khó chịu nữa.Vậy mình giả đò không hay gì hết, rán lo kiếm giùm chỗ cho tôi dọn đồ đi trước cho rồi. Nếu tôi bán nhà không kịp thì tôi khóa cửa để cho bà Lữ coi chừng và có ai mua bà bán giùm cho tôi, bán giá nào cũng được, miễn tôi ra khỏi xóm nầy thì thôi. Mình thủng thẳng ở lại sau, đừng có đi theo gấp. Có sớm lắm là một tháng rồi sẽ bán nhà mà đi cho thiên hạ khỏi nghi. Hồi sớm mơi tôi có nói bà Mười Liệu tôi tính trở về Xóm Chiếu. Phải nói dối mỗi người đi một ngả cho họ khỏi nghi."
Giao nói: "Ối! Ai muốn nghi giống gì thì cho họ nghi. Hơi nào mà lo. Tôi lo là lo kiếm một căn nhà sạch sẽ tử tế đặng dọn cho vợ chồng mình thong thả sung sướng vậy thôi. Nếu mình đi mà tôi phải ở lại đây tới một tháng thì tôi chịu sao nổi. Tôi mướn phố cho mình dọn ở rồi thì tôi cũng lo bán nhà liền. Hễ bán được thì tôi đi, bất luận bữa nào. Ðồ đạc của tôi không có vật gì đáng kể. Tôi bán luôn hết, lấy nội áo quần mền chiếu mà đi vậy thôi. Tôi nói có một người anh em bà con biểu tôi về ở chung, nên tôi không cần chở đồ đạc theo. Trong nhà có mình là đủ cho tôi vui sướng rồi, dầu họ có bàn cẩn ốc xa cừ, tủ cẩm lai, tôi coi cũng như bỏ."
Cô Xuyến nghe những lời chan chứa tình yêu như vậy thì cô cảm động cực điểm, không dè mạng số của cô đã định cô phải đến từng tuổi nầy cô mới nếm được thú vị của ái tình. Cô thầm mong ước hạnh phúc nầy sẽ kéo dài đến mãn đời của cô để bù trừ nỗi lòng lạnh lẽo cô phải chịu trong thời kỳ xuân xanh, như hoa đang nở tốt tươi mà xơ rơ ở góc rào không có người đoái hoài thưởng thức.
Vài bữa sau, buổi sớm mơi, bà Mười Liệu dắt một chị đàn bà lạ vô coi nhà của cô Xuyến mà mua. Bà nói chị nầy là vợ của cặp rằng[2] làm ngoài hãng cao su. Chị ở phía bến đò Long Kiển, muốn kiếm nhà mua về ở trên nầy đặng chồng chị đi làm cho gần. Chị xem trong nhà từ trước ra sau rồi chị bước ra sân đứng nhắm nhía bốn phía, bộ chị bằng lòng lắm.
Chị nói chị có đủ đồ đạc sẵn nên chị mua cái nhà mà thôi. Chị hỏi cô Xuyến tính để nhà lại cho chị với giá nào. Cô Xuyến nói đồ của cô không bao nhiêu, cô phải mướn chở về Xóm Chiếu mà dùng. Cô bán cái nhà không, mà nhà mới lợp hồi năm rồi, cửa vách đều chắc chắn lại có bếp nấu ăn riêng, nên cô bán giá không thể dưới hai trăm được.
Chị đàn bà đó nói để chị về tính lại với chồng rồi chị sẽ trả lời.
Ðến trưa bà Mười Liệu trở vô nói người coi nhà đó vừa lòng lắm, nhưng chị tính chiều chị sẽ dắt chồng chị vô coi nữa? Chị lại than giá hai trăm thì mắc, bởi vậy chị cậy bà Mười Liệu vô xin bớt đôi ba chục giùm cho chị.
Cô Xuyến nghe người ta muốn mua thì cô tính nên cầm giá không dại gì mà phải bán rẻ. Cô biểu bà Mười Liệu nói giúp cho cô bán được hai trăm thì cô kỉnh[3] cho bà mười đồng để ăn trầu. Như họ có nài lắm thì bớt chừng mười đồng mà thôi.
Chiều bữa đó vợ anh cặp rằng ra hãng cao su đón chồng mà dắt vô nhà của cô Xuyến nữa. Anh cặp rằng cũng vừa lòng lắm, nói cái nhà còn chắc, khen chỗ ở rộng rãi. Vợ chồng cặp rằng nài xin cô Xuyến bớt chút đỉnh. Cô Xuyến nói cô ở chỗ nầy hơn mười năm, cô mến lắm. Vì chồng cô bất hạnh, cực chẳng đã cô phải bán nhà trở về Xóm Chiếu mà nương náu với bà con. Vì cô phải đi nên mua giá nào cô cũng phải bán. Vậy cô xin vợ chồng anh cặp rằng thương giùm phận cô góa bụa, đừng có bớt tội nghiệp cho cô, lẽ thì nên giúp thêm cho cô nuôi con đặng làm nghĩa.
Anh cặp rằng nghe cô nói như vậy, anh biểu vợ đừng có bớt. Anh hẹn với cô Xuyến sáng bữa sau vợ anh trở lên cho cô làm giấy rồi vợ chồng đủ số hai trăm.
Vợ chồng cặp rằng với bà Mười Liệu ra về thì trời đã chạng vạng tối. Cô Xuyến đưa khách ra tới đường; cô thấy dạng chàng Giao đương hăm hở đi vô xóm, cô đứng đó mà chờ. Chừng Giao đi ngang qua, cô mừng mà nói: "Tôi bán nhà được rồi, bán hai trăm. Sáng mai tôi làm giấy rồi họ chồng bạc."
Giao cười mà nói: "May dữ hôn! Tôi cũng mới sang[4] được một căn phố rồi, phố ngói vách ván, có lót gạch, có nhà bếp hẵn hòi, ở trong đường hẻm phía sau trường học Cầu Kho." Giao nói có mấy lời rồi đi riết về ăn cơm, hứa tối sẽ lại mà nói chuyện thêm cho Xuyến nghe.
Cô Xuyến mừng quá, cô trở về nhà đốt đèn, dọn cơm đặng mẹ con ăn với nhau, vì hồi chiều có khách, ăn chưa kịp, nên con Tý đói bụng.
Ðêm đó cô Xuyến có ý trông Giao lại sớm đặng cô hỏi thăm coi sang phố tốn hao bao nhiêu và chừng nào dọn qua ở được.
Bữa nay Giao mừng, lại không thèm sợ miệng lằn lưỡi mối[5] nữa, nên lúc ăn cơm chàng nói với vợ chồng Bảy Cao rằng có người anh bà con mới mở ga ra sửa xe hơi gần rạp hát Cầu Muối, anh cứ biểu chàng về ở với anh đặng trưa tối có rãnh thì giúp anh về việc máy móc. Vậy có ai mua nhà thì chàng sẽ bán đặng cuối tháng chàng ra Cầu Muối ở giúp anh.
Vợ Bảy Cao chúm chím cười và nói:
- Em ra Cầu Muối mà ở, em đi làm xa quá.
- Cũng như ở đây, không xa gì lắm.
- Xóm nầy lần lần đi hết. Nghe nói má con Tý cũng đương kiếm người mà bán nhà đặng đi về đâu dưới Xóm Chiếu.
- Tôi không nghe nói.
- Có lẽ cũng cuối tháng nầy đi.
Nghe lời mỉa mai đó Giao nổi giận, nhưng nhớ lời cô Xuyến dặn nên chàng phải ẩn nhẫn làm lơ, không thèm nói chuyện nữa.
Ăn cơm rồi Giao về nhà nằm nghỉ một hồi, chàng nóng nảy muốn bàn tính với Xuyến đặng dọn đồ đi gấp, bỏ xóm nầy cho rồi, bởi vậy không cần chờ khuya, chàng mở cửa xâm xâm đi lại nhà Xuyến.
Chàng vừa bước vô thì cô Xuyến hỏi:
- Họ sang căn phố đó họ đòi bao nhiêu?
- Họ đòi 200. Tôi bớt xuống 150. Họ chịu.
- Không mắc đâu. Phố ngói vách ván, lại có nhà bếp, ở khoẻ quá.
- Phố tốt lắm, cao ráo sạch sẽ, có vài thầy ở dãy đó. Chiều mai mình đi đò qua ga xe điện Cầu Kho ngồi chờ tôi. Hãng đóng cửa tôi qua tôi dắt mình đi coi. Tôi chắc mình thấy thì mình ưng bụng liền.
- Người ta đương ở, mình nói thế nào mà họ chịu sang cho mình?
- Hổm nay tôi gặp ai tôi cũng dặn hễ nghe có người nào muốn sang nhà, sang phố, thì làm ơn cho tôi hay. Vì vậy nên hồi chiều tôi qua đó tôi liền gặp một anh quen ảnh cho tôi hay ở dãy phố sau trường học Cầu Kho có người muốn sang đặng về Bình Tây, Bình Ðông gì đó mà ở. Người bạn tôi dắt tôi vô đó coi. Tôi chịu liền. Tôi hỏi chủ nhà sang bao nhiêu? Người đó đòi hai trăm. Tôi bớt xuống một trăm rưởi. Người đó chịu. Tôi đưa trước năm chục. Người đó có làm biên nhận cho tôi cầm và hứa bất luận bữa nào hễ tôi đóng tiền đủ thì người ta giao nhà.
- Vậy còn một trăm nữa, sáng mai họ chồng tiền nhà thì chiều tôi qua tôi trả đủ cho họ đặng sáng mốt tôi chở đồ qua dọn ở liền được hôn?
- Ðược. Dầu họ chưa đi kịp thì mình ở tạm đó với họ một vài bữa. Ðồ đạc của họ không có gì lắm. Ðồ mình để đỡ vô thêm được. Sang được phố, bán được nhà thì đi phứt cho rồi, ở đây nữa làm chi, ghét lỗ miệng của vợ Bảy Cao quá.
- Vậy sáng mai làm giấy lấy tiền rồi tôi cũng cho chị cặp rằng hay sáng mốt tôi giao nhà, đặng tôi mướn chở đồ đi.
- Tiền sang phố còn thiếu một trăm nữa thì chiều mai tôi đóng luôn chớ mình đóng làm chi. Tôi có đủ tiền.
- Tôi bán nhà được tới hai trăm. Bà Mười Liệu đem mối, tôi thưởng công bà mười đồng thì tôi còn một trăm chín. Tôi đóng một trăm đó; mà tôi cũng trả năm chục lại cho mình nữa. Sang phố cho mẹ con tôi ở, tôi phải trả tiền chớ lẽ nào tôi để cho mình chịu tốn.
- Ðã là vợ chồng thì tiền bạc là của chung, bày tiền mình tiền tôi làm chi. Tôi có tiền sẵn đây thì để cho tôi trả luôn cho người ta. Tiền bán nhà thì mình cất đó đặng dọn về bển xong rồi mình muốn mua giường, mua tủ hay mua ghế, mua bàn gì thêm thì mình mua, không được hay sao?
- Mình tính như vậy thì được. Ðể coi nếu trong buồng có chỗ rộng thì mua thêm một cái giường mới đặng vợ chồng mình ngủ, để cái giường cũ cho con Tý.
- Người ta gọi vợ là người nội trợ. Chồng lo việc ngoài, vợ lo việc trong nhà. Tôi tận tâm tập nghề thợ máy của tôi cho giỏi đặng tôi ăn tiền lương cho nhiều mà đem về giao cho mình gìn giữ. Mình phải lo việc trong nhà, để dành tiền bạc bao nhiêu, phải mua sắm vật gì cần dùng, phải dọn cách nào ở cho sung sướng tùy ý mình liệu, tôi không cần biết tới. Miễn là mình tổ chức nhà mình thành một ổ uyên ương tốt tươi, êm ấm, để vợ chồng mình sống trong cảnh thần tiên, mặc ai nói gì thì họ nói. Mình rán làm sao cho đúng với câu ngạn ngữ: "Vợ già chồng trẻ là tiên non bồng" đó thì mình làm.
Hai người cười ngất, vui vẻ phi thường, thương yêu cực điểm.
Hồi nhỏ ở Xóm Chiếu bà dì của Xuyến có cho cô học chữ gần một năm rồi mới học may, bởi vậy cô đọc mau viết lẹ.
Sáng bữa sau cô Xuyến đi ra xóm ngoài cậy bà Mười Liệu kiếm nài[6] cho cô tờ giấy trắng và mượn một cây viết với bình mực cô đem về sẵn đặng có làm tờ bán nhà.
Quá nửa buổi, chị mua nhà với bà Mười Liệu vô. Chị biểu Xuyến làm giấy bán rồi chị chồng tiền. Cô Xuyến hỏi tên họ anh cặp rằng rồi cô viết nảo mà đọc cho chị mua nghe thử. Chị chịu. Cô mới viết sạch lại mà đưa cho chủ mua. Chị cặp rằng đếm đưa hai trăm đồng bạc và hỏi cô tính bữa nào dọn đồ mà giao nhà. Cô Xuyến nói sáng bữa sau cô sẽ mướn người xe đồ[7] đi rồi trưa giao nhà được. Nếu có trễ lắm thì ngày mốt, chớ không trễ hơn nữa.
Chủ mua nói trưa mai sẽ lên thăm chừng, rồi từ giã mà về.
Ðến trưa cô đem mực viết ra trả bà Mười Liệu, cô đưa cho bà mười đồng bạc và tỏ lời cám ơn giúp cho cô bán nhà xong. Cô cậy bà kiếm mướn giùm cho cô hai người phu với một chiếc xe tay đặng sáng mai chở đồ đạc của cô đem đi cho trống nhà giao cho chủ mua đã chồng đủ tiền bạc rồi.
Chiều cô lại bà Lữ cho bà hay cô đã bán nhà về Xóm Chiếu ở đậu với bà con. Cô gởi nhà cho bà coi chừng giùm đặng cô đi kiếm chỗ gởi đồ đạc, rồi cô dắt con ra đi.
Mãn giờ làm việc rồi Giao biểu Bảy Cao về ăn cơm chớ đừng chờ, vì chàng mắc ra Cầu Muối ăn cơm với anh. Qua bên Cầu Kho gặp cô Xuyến mới dắt nhau đi coi căn phố. Cô Xuyến chịu lắm, không chê chỗ nào hết.
Giao đưa thêm cho anh chủ nhà một trăm nữa thì đủ số. Anh làm giấy cho Giao cầm làm tin. Giao nói sáng bữa sau sẽ chở đồ đem qua dọn mà ở. Anh chủ nhà chịu. Anh biểu cứ chở đồ qua. Ðồ của anh còn chút đỉnh anh sẽ đem ra ngoài cho mà dọn và anh cũng sẽ mướn chở đồ của anh đi liền.
Việc xong rồi Giao mới kêu hai xe xích lô đi với mẹ con Xuyến ra Sài Gòn ăn uống chơi một bữa cho vui. Thấy con Tý buồn ngủ nên ăn no dắt nhau đi chơi vài con đường rồi Xuyến đem xe kêu con đi về trước. Giao thủng thẳng đi bộ về sau, thấy xóm riềng ngủ hết chàng ghé luôn vào nhà Xuyến, không thèm về nhà chàng.
Giao phụ với Xuyến mà dọn dẹp đồ đạc cho sẵn đặng sáng chở đi cho gọn. Ðồ không có bao nhiêu, xe tay chở một chuyến thì xong hết.
Tảng sáng cô Xuyến mới đi từ giã mấy người ở gần. Thăm vợ chồng Bảy Cao cũng như bà Lữ và vợ chồng ông Kèo, đến đâu cô cũng nói cô trở về Xóm Chiếu ở đậu, nhưng vì nhà của người bà con chật quá nên cô phải đem đồ của cô mà gởi cho người quen ngoài Ông Lãnh, đợi mướn được một căn nhà riêng rồi cô sẽ đem đồ về mà dọn.
Hồi cô ở trong nhà Bảy Cao đi ra thì cô nghe vợ Bảy Cao nói với chồng: "Khéo mà[8] con mắt người ta! Bán nhà đi mướn phố xóm khác mà ở với Giao, tưởng người ta không biết hay sao mà giấu." Lại nghe Bảy Cao nói: "Mình nhiều chuyện quá! Người ta làm sao xong thì thôi. Nói làm chi cho mích lòng. Cứ giữ tật cũ hoài, không chịu bỏ."
Cô Xuyến nghe rõ, nhưng cô làm lơ mà đi luôn.
Trưa trưa một chút bà Mười Liệu vô với hai người kéo một chiếc xe tay. Hai người ráp dọn đồ. Họ vác bộ ván sắp dưới hết rồi tới cái giường với cái bàn. Mùng, chiếu, nồi, ơ, chén, bát, ghế đẩu, áo quần, cùng đồ lặt vặt chèn nhét lên trên.
Chị cặp rằng lên tới. Cô Xuyến giao nhà. Hai người phu dọn đồ hết lên xe rồi, cô Xuyến mới từ giã bà Mười với chị cặp rằng mà đi. Xe đi trước, một người kéo, một người đẩy. Cô Xuyến dắt con theo sau. Cô ngó quanh trong xóm Ụ Tàu, là chỗ cô nương náu trong mười năm nay, mà bây giờ cô phải lìa xa thì cô phải cảm động. Nhưng cô nhớ khoảng đời cô ở đây cô không biết vui sướng chút nào, rồi cô còn nhớ mấy lời của vợ Bảy Cao xoi xỉa hồi sớm mơi nữa, thì cô dắt con đi mau, nói đi theo cho kịp xe đồ, mà kỳ thiệt cô muốn đi khỏi xóm nầy cho mau, đặng tới chỗ khác hoặc may cô được hưởng an vui nhiều ít.
Ra tới bến đò Cầu Kho, cô Xuyến dặn hai anh phu đẩy xe qua Cầu Ông Lãnh rồi vòng vô chợ Cầu Kho. Cô đi đò qua chợ cô chờ rồi cô sẽ chỉ đường cho mà đi.
Qua chợ Cầu Kho cô dắt con Tý vô tiệm ăn hủ tiếu rồi ăn thêm bánh mì với thịt bò kho cho no, vì bữa nay không thể nấu cơm được. Cô lại mua hai gói xôi với một cặp lạp xưởng nướng, tính gói đem theo để trưa chiều có đói thì ăn, bởi vì cô chưa biết ở gần đó người ta có bán đồ ăn hay không nên cô phải đề phòng.
Xe đồ qua tới. Cô dặn đi lên đường hẻm sau trường học. Anh sang phố đã dọn đồ của ảnh ra ngoài hàng ba rồi. Hai anh phu khiêng đồ vô mà dọn, khen cô Xuyến mướn được căn phố tốt quá. Cô nói phố của người bà con mướn, cô đem đồ qua đây cô gởi, chớ không phải phố của cô. Gởi đồ rồi mẹ con sẽ về Xóm Chiếu mà ở đậu.
Ðồ dọn xong rồi cô trả tiền công cho hai anh phu. Cô cho thêm mỗi người một đồng đặng lại chợ ăn uống rồi sẽ về. Hai anh cảm ơn rồi đẩy xe đi.
Ðến xế người sang phố cũng chở đồ của ảnh đi hết. Bây giờ cô Xuyến hoàn toàn làm chủ căn phố rồi. Cô bận áo vắn, quét dọn cho sạch sẽ, tính chiều sẽ có Giao ghé thăm. Cô đứng nhắm nhía, cô thấy đồ của cô dọn trong căn phố như vầy coi không được. Nhưng cô nói thầm để thủng thẳng rồi sẽ tính.
Thiệt quả chiều Giao ra khỏi hãng rồi thì chàng đi ngay qua nhà mới chớ không về. Cô Xuyến mừng chàng, nhưng khuyên chàng chơi một chút rồi về bển ăn cơm và ngủ luôn kẻo vợ Bảy Cao báng dê báng díu nhiều chuyện. Giao nói chàng đã có dặn Bảy Cao đừng chờ ăn cơm và chàng nói dối người anh ở Cầu Muối biểu qua ăn cơm rồi coi sửa máy xe giùm cho ảnh. Xuyến than ở bên nầy rồi lấy gì mà ăn, bởi vì mới dọn về nên chưa nấu cơm được. Sớm mơi hai mẹ con ăn hủ tiếu với bánh mì mà trừ cơm. Hồi xế đói bụng mẹ con ăn hết hai gói xôi. Bây giờ còn hai ổ bánh mì nhỏ với một cặp lạp xưởng làm sao đủ cho Giao ăn nữa. Giao nói được sống chung thong thả như vầy thì chàng no không cần ăn gì hết. Nếu tối có đói thì kiếm mì cháo ăn bậy cũng được.
Cô Xuyến nói về nhà mới có đủ vợ chồng thì phải ăn lễ tân gia đặng cùng nhau mừng vui cái ngày bước chưn qua cảnh đời mới. Cô khuyên Giao ở nhà với con Tý, để cô xuống chợ Cầu Kho mua thêm đồ về dọn ăn với nhau. Giao nói chợ Cầu Kho không có bán chi lắm. Ở đầu đường Arras gần đây và vô trong chợ Thái Bình cách đó một chút, họ bán đồ ăn đủ thứ. Chàng nói Xuyến không biết thì ở nhà để chàng đi kiếm đồ chàng mua cho.
Giao ra đi, Xuyến xách thùng ra máy nước xách luôn hai thùng nước để uống và rửa ráy. Cô lau chén đũa sửa soạn đợi chồng mua đồ về thì dọn mà ăn với nhau một bữa tại nhà mới, gọi là lễ tân gia mà cũng là lễ tân hôn.
Giao ôm về một ổ bánh mì lớn với hai gói mà đưa cho vợ mà nói túi bụi: "Ôi! Ở phía sau ga Arras, gần một bên đây, họ nhóm bán đủ thứ đồ ăn hết: mì, phở, xỉu cẩu, hoành thánh, hủ tiếu, cháo gà, cháo vịt, cháo cá, bánh canh, chè đậu, tàu thưng, bánh ếch, bánh cam, bánh bò, dào cháo quảy[9], rượu, trà, cà phê, muốn ăn thứ gì cũng có hết thảy. Gần tối thiên hạ tựu lại đó ăn uống vui biết chừng nào. Có bán cơm bình dân nữa. Mắc mình nói ăn tân gia, tự nhiên phải ăn tại nhà, chớ không thì tôi trở về tôi dắt hai mẹ con lại đẳng ăn chơi vui lắm. Phần thì đi hai tay không tôi có mua đồ nước được đâu. Tôi mua bánh mì, thịt với đồ ngọt ăn đỡ. Từ rày sắp lên tới kỳ lãnh tiền, buổi chiều đừng thèm nấu cơm, dắt nhau lại đó ăn chơi."
Cô Xuyến mở hai gói ra thì một gói là thịt xá xiếu có năm cái xiếu mại, còn một gói có hai bánh ếch với ba bánh bông lan. Cô để dẹp đồ ngọt trên bàn, vì phải ăn đồ mặn rồi mới tráng miệng. Cô lấy chén trút xá xiếu riêng. Cô cũng đem bánh mì lạp xưởng của cô ra để chung hết trên mâm. Thấy trời đã sẫm tối, cô mượn Giao đốt giùm cái đèn rồi hai vợ chồng với con Tý ngồi lại ăn với nhau, vui vẻ vô cùng.
Giao thấy con Tý vui, chàng mới nói với nó: "Tý, từ rày sắp lên qua về ở chung với con và má con. Con chịu hay không?" Tý gặc đầu chịu. Giao nói tiếp: "Con nhớ kêu qua bằng ba nghe hôn, chứ đừng kêu bằng chú hay bằng cậu." Tý gặc đầu nữa. Giao với Xuyến ngó nhau mà cười.
Ăn hai ổ bánh mì nhỏ với xá xiếu và xiếu mại thì ai nấy đã no rồi, không đụng tới cặp lạp xưởng với ổ bánh mì lớn. Xuyến tính cất để dành bữa sau ăn. Qua tới đồ ngọt thì Giao ăn một cái bánh ếch rồi ăn luôn một cái bánh bông lan. Mẹ con Xuyến ăn mỗi người một bánh bông lan rồi dội ăn bánh ếch không nổi.
Ăn uống rồi Xuyến lo dọn rửa và cất bánh mì lạp xưởng với cái bánh ếch còn dư. Giao dắt Tý ra trước đứng chơi. Giao thấy trong dãy phố có vài căn gắn đèn điện nên sáng, còn bao nhiêu thì đốt đèn dầu lu lu.
Con Tý chơi một hồi rồi nó chạy kiếm má nó mà nói nó buồn ngủ và hỏi nó phải ngủ đâu. Cô Xuyến bưng đèn vô giăng mùng trên giường và biểu con chung vô đó mà ngủ trước rồi một lát cô sẽ vô sau. Con nhỏ thiệt dễ dạy, mẹ nó biểu thì nó vâng lời liền.
Cô Xuyến ra nói với Giao:
- Tôi muốn mình chơi một lát rồi trở về bên nhà mà ngủ cho chòm xóm khỏi nghi.
- Có vợ Bảy Cao nhiều chuyện, chớ chòm xóm có ai nói gì đâu. Mà hồi chiều tôi có nói với anh Bảy Cao rồi. Tôi nói anh tôi bên Cầu Muối biểu tôi chiều qua ăn cơm với ảnh, sửa máy giùm cho ảnh. Có ai nghĩ gì được đâu.
- Tôi đi mà mình theo liền tự nhiên người ta biết.
- Ối! Ai biết thây kệ họ, hơi nào mà lo. Bữa nay là ngày tân gia mà lại tân hôn nữa, tôi phải ngủ một nhà với vợ tôi. Ông Trời sai Thiên Lôi vác búa xuống đây mà đuổi tôi cũng không đi nữa. Làm gì thì làm.
- Tôi muốn đi trước, mình phải rán ở lại bển chừng một tháng rồi sẽ bán nhà đi sau. Mình đi theo gấp quá, khó coi dữ.
- Cách mấy bữa trước tôi có nói chuyện với vợ chồng Bảy Cao rồi. Tôi nói anh tôi có ga ra bên Cầu Muối biểu tôi về bển ở với ảnh đặng giờ nào rảnh tôi phụ với ảnh. Ảnh cho tôi ăn cơm mà còn trả tiền công cho tôi nữa. Tôi biểu vợ chồng Bảy Cao có biết ai muốn mua nhà thì chỉ cho họ mua giùm nhà tôi đặng tôi về bên Cầu Muối tôi ở.
- Họ có tin đâu.
- Không tin thì thôi. Có hại gì đâu mà sợ.
- Tôi ngại quá.
- Thôi, mình nói quá thì tôi kỳ năm ngày. Nếu mãn hạn mà không có ai mua nhà của tôi thì tôi đốt, hoặc tôi đá cho sập rồi tôi đi, chớ mình ở bên nầy mà bắt tôi nằm chèo queo một mình ở bển, tôi chịu sao nổi.
- Cô Xuyến thở dài, biết không thể cãi được với trai đương si tình, rất đỗi Thiên Lôi vác búa hầm hừ cũng không sợ, huống chi là miệng thọp thẹp của đàn bà trong xóm như vợ Bảy Cao mà kể gì. Cô xây qua chuyện khác mà nói:
- Mình kiếm mà sang được căn phố nầy thiệt tôi ưng bụng quá. Thuở nay lục đục trong cái chòi lá tum húm, bây giờ được ở trong căn nhà ngói cao ráo, sạch sẽ, rộng rãi, tôi khoái chí vô cùng. Tôi rất cám ơn mình, vì thương tôi nên không nệ mỗi tháng phải trả tiền mướn phố tốn nhiều, mình cho tôi hưởng mùi đời sung sướng mà từ ngày xuất thân lấy chồng cho đến bây giờ chưa ai dám cho tôi nếm thử. Có vậy tôi càng thấy rõ đối với tôi mình nặng tình đến thế nào. Tôi đau khổ hơn 10 năm làm cho tấm lòng tôi khô héo song nay nhờ mình rưới nước, nên tôi cảm thấy lòng tôi đã bắt đầu tươi xanh lại, chắc rồi đây nó cũng sẽ như bụi huỳnh mai nhờ ngọn gió xuân nó đơm bông trổ đọt để cho người săn sóc nó thưởng thức mà đáp nghĩa đền ơn.
- Mấy lời mình nói đó đủ cho tôi vui sướng, không cần phải đền đáp gì nữa.Tôi rất tiếc phận tôi là một tên thợ máy côi cúc nghèo hèn. Nếu tôi là con nhà giàu sang có tiền bạc dẫy đầy như họ, dầu mình được sung sướng mà tôi phải tốn mấy ngàn mấy muôn tôi cũng không nệ.
- Tình yêu phát triển tràn ngập mà lôi cuốn con người, nó nhờ lòng chơn thành, nhờ cách tận tụy, chớ không phải nhờ bạc tiền hay nhờ thứ gì khác. Những người giàu sang phần nhiều họ say mê đàn bà là họ muốn thỏa mãn nhục dục chớ nào phải họ đắm đuối tình yêu. Họ bỏ bạc ngàn bạc muôn ra mà mua sự vui sướng cho họ, chớ nào phải họ làm vui sướng cho người họ yêu, bởi vậy họ vui chơi cho ngỏa nguê một hồi rồi họ chán, họ trở mặt xây lưng mà đi bét[10] ngả khác, họ bỏ biệt người mà họ gọi là người yêu, kỳ thiệt là nạn nhơn của họ, bơ vơ với hối hận, buồn thảm với hổ ngươi. Mình tuy nghèo, song tôi nhận thấy tình yêu của mình thành thiệt, nặng nề, khác hơn tình yêu của thiên hạ, bởi vậy tôi cảm xúc rồi tôi xụi lơ mà giao cả danh giá, tiết hạnh cùng đời sống của tôi cho mình. Mình muốn xử dụng thế nào tùy ý. Miễn là tôi được vui với tình yêu trong ít năm cho thỏa mãn khao khát rồi dầu mình cũng như thiên hạ, mình bỏ cho tôi buồn thảm mà chết tôi cũng mát ruột.
- Tôi đã có thề sanh tử với mình. Chừng nào tôi chết thì tình yêu của tôi mới chấm dứt. Bữa nay đôi ta đã công khai thành vợ chồng rồi, không còn núp lén gì nữa. Chúng ta phải bàn tính mà sắp đặt cuộc đời sống chung của chúng ta, dầu không rực rỡ bằng người, mà phải luôn luôn được êm ấm, an vui, thảnh thơi, khoẻ khoắn. Mỗi tháng tiền công của tôi được bảy tám chục. Tôi lấy năm mười đồng bỏ túi phòng khi gặp anh em rủ ăn uống thì có sẵn tiền mà chơi với người ta. Còn bao nhiêu tôi giao hết cho mình liệu mà mua chác ăn xài cho khỏi thiếu hụt.
- Dọn đồ về đây rồi, tôi ra vô nhắm nhía, tôi thấy đồ đạc của mình tệ quá, để trong chòi lá xịch xạc thì được, mà dọn về căn phố nầy thì coi thiệt là kỳ. Tôi tính phải bỏ đồ nầy hết mà sắm đồ khác cho xứng đáng mới được.
- Ðồ đạc không sá gì. Không phải có đồ tốt mới được hạnh phúc. Hôm trước, với đồ nầy, mà hai đứa mình gần hạnh phúc được đó. Theo tôi thì tôi được sống chung với mình, đó là hạnh phúc. Miễn là có chỗ ăn chỗ nằm thì thôi, tôi không cần đồ gì khác. Mình sống cho mình, chớ không phải sống cho thiên hạ, nên cần phải sắm đồ tốt cho họ coi đẹp mắt họ. Mình còn nghèo thì phải tiện tặn. Thủng thẳng chừng nào khá rồi lần lần sẽ sửa soạn trong nhà. Bây giờ mỗi tháng tôi giao tiền lương cho mình để cung cấp đời sống, thì trước hết mình nên tính để riêng một số đặng trả tiền phố, một số nữa đặng mua gạo, củi, dầu lửa, mắm muối, tiền chợ, tiền bánh hàng cho con Tý, tiền quần áo cho vợ chồng mình. Nếu có dư thì mới sắm đồ trong nhà được.
- Phận tôi là nội trợ. Sự ăn xài về phần tôi sắp đặt. Tôi sanh sống trong nghèo nàn, tôi biết tiện tặn, biết trang trải, mình khỏi lo. Tôi muốn sắm đồ đạc trong nhà không phải tôi có ý làm lòe lẹt cho đẹp mắt thiên hạ. Tôi chỉ muốn làm cho đẹp mắt mình, làm cho mình vui lòng, tôi muốn tổ chức ổ uyên ương cho ấm áp, tốt tươi, đặng vợ chồng mình sống cho vui sướng mà thôi, chớ tôi kể gì thiên hạ. Ðể tôi tỏ ý tôi cho mình hiểu. Tôi muốn sắm đồ là đồ hữu ích, chớ không phải đồ chưng diện. Trước hết phải mua gấp một cái giường với mùng chiếu mà lót trong buồng cho vợ chồng mình ngủ, để cái giường cũ cho con Tý.
- Mua cái giường mới thì phải.
- Lần lần nếu có tiền dư thì mua một bộ ván khá khá mà lót ngang dựa vô vách buồng, để trưa hay tối mình nằm chơi cho khỏe, đem bộ ván cũ lót dưới nhà bếp để nấu ăn có chổ ngồi nghỉ chưn. Mua một cái đèn tạ đăng đặng ban đêm tôi có may thì đốt cho sáng. Chừng nào có tiền thì mua một cái bàn với bốn cái ghế để ngồi ăn cơm, hoặc khi nào có khách tới thăm có chỗ mà tiếp. Mua một cái máy may cho họ thấy họ biết tôi là thợ may họ mới đem đồ tới mà mướn may. Bên Sài Gòn tuy đồ vải họ cũng buộc may máy, mình may tay dầu khéo cho mấy họ cũng không chịu. Còn cái bàn nhỏ nầy thì đem vô buồng để dựa đầu giường con Tý cho nó thờ cha nó. Sau hết mới mua một cái tủ áo để cất đồ vặt với quần áo. Ðó, tôi muốn sắm đồ là sắm như vậy đó.
- Sắm như vậy thì được, nhưng phải chậm chậm, thủng thẳng sắm lần lần. Phải nhớ để tiền mà ăn. Hiện giờ tôi còn được 70 trong túi đây. Tháng nầy thì khỏi thiếu, nhưng cũng không dư đến sắm đồ được.
- Tôi tính phỏng cho mình nghe, chớ sắm cho đủ phải tốn bạc ngàn, làm sao sắm một lượt cho nổi. Nhưng hôm đám ma rồi tôi còn được ít chục đồng bạc. Thưởng bà Mười Liệu và mướn chở đồ tốn vài chục, nên còn dư được chút đỉnh. Bán nhà được hai trăm tôi còn giữ y nguyên đây. Tôi muốn nói với mình để tôi xuất bớt một trăm mà mua vài món cần dùng gấp. Ðược hôn? Mua giường, mua đèn.
- Ðược. Ðể tôi giao tiền của tôi cho mình giữ. Tôi lấy vài chục để trong mình mà thôi.
Giao móc túi đếm 50 mà đưa cho Xuyến.
Giao ở ngủ tới sáng rồi đi làm luôn chớ không về nhà. Khi ra đi Xuyến dặn tối bữa sau đừng có qua ngủ bên nầy nữa, đợi bán nhà được rồi sẽ đi luôn. Giao nói: "Tôi đã kỳ hạn năm ngày mà." Giao nói rồi thì bỏ mà đi, bộ không vui.
Chiều bữa sau Giao không qua, Xuyến có ý mừng, vì thấy Giao biết nghe lời phải, nên sợ tiếng thiên hạ dị nghị. Cô chắc chàng ở bển luôn cho tới năm ngày, nên cô tính đi mua đồ. Người sang nhà có để lại ống khóa và chìa khóa cửa đủ hết, lại còn cho một cái khạp đựng nước uống nữa. Xuyến cũng có chở qua một cái khạp, nhờ vậy nên có đủ đồ đựng nước uống và nước rửa ráy.
Cô Xuyến ra quán ngoài đầu đường hẻm mua gạo, củi, nước mắm, dầu lửa, đi một lát rồi về biểu con Tý ở nhà chơi coi nhà. Còn đi lâu và đi xa như đi chợ và đi kiếm giường ghế mà mua thì cô khóa cửa đem Tý đi với cô, sợ để ở nhà một mình nó buồn.
Qua đêm thứ nhì, cô Xuyến cũng chắc Giao không qua nên cô đốt cái đèn tạ đăng mới mua mà để trên cái bàn cũng mới mua, bàn để giữa nhà, gần cửa, có bốn cái ghế cây hai bên, ghế ngồi dựa lưng rất khỏe. Cô bước ra hàng ba đứng ngó vô cô vui lòng hết sức. Cô tính thầm nên mua một bộ ván gõ nhỏ lót sát trong vách buồng nữa thì mới mất vẽ nghèo nàn. Cô đi thẳng vô trong đứng nhắm cái giường mới nữa, giường cũng mới mua dưới trải chiếu bông, trên giăng mùng vải trắng, cô mừng nên khoan khoái trong lòng, chắc ít bữa nữa Giao qua Giao ngó thấy ổ uyên ương Giao thích lắm.
Chưa tới 8 giờ mà con Tý đã chun vô mùng riêng của nó mà ngủ rồi. Cô Xuyến vui mừng mà không có người đặng nói chuyện, cô trở ra ngoài kéo ghế ngồi với cái đèn tạ đăng cô ao ước thuở nay, bây giờ cô mới sắm nổi.
Thình lình một chiếc xích lô ngừng ngay trước cửa. Cô Xuyến ngó ra thấy Giao ở trên xe đương bước xuống có ôm đồ đùm đề. Cô lật đật đi ra và hỏi: "Bán cái nhà được rồi hay sao?"
Giao lắc đầu nói: "Có ai mua đâu mà bán. Tôi nằm co một mình chịu không nổi nên tôi giao nhà cho anh Bảy Cao mượn anh bán giùm. Tôi kêu xe chở hết quần áo, mùng mền tôi đi."
Cô Xuyến nói: "Thôi, trước sau gì cũng vậy. Hễ trồng dưa thì được dưa có oan ức gì đâu."
Cô ra xe phụ ôm đồ vô.
Giao trả tiền xe, vô thấy bàn ghế mới với cái đèn thì nói: "Ủa! Mua rồi! Lẹ quá." Chàng đi thẳng vô thấy cái giường mới nữa, có mùng chiếu cũng mới, thì cười và nói: "Ô! Ổ uyên ương tốt quá! Thiệt đáng khen."
Cô Xuyến đương sắp đồ của chồng trên bộ ván lót phía sau cái bàn, cô nghe khen, thì chúm chím cười.
Vợ già chồng trẻ
Phần bảy
Cô Xuyến tuy là con nhà nghèo hèn côi cúc, phải lăn lóc theo đời mà sống giữa đau khổ cần lao, song tạo hóa cắc cớ khi cô sanh lại gắn cho cô một tâm hồn đa sầu, đa cảm, sầu về số phận bần hàn, cảm những tình yêu nồng nhiệt. Chừng lớn lên, được tiếp xúc với đời, tâm hồn ấy càng thêm bồng bột, nằm đêm cô thầm ước mong có được một người chồng là bạn tri âm, người bạn thân yêu tâm đồng tâm, ý hiệp ý, để siết tay sát cánh mà đi cùng nhau trên đường đời, chia sớt ngọt bùi, chung nuốt cay đắng, miễn vợ chồng khắn khít thương nhau, dầu ăn cơm với muối, ở trong lều tranh cũng vui lòng phỉ chí.
Khi bà dì định gả cô cho Túc, cô tưởng cảnh vui của cô chờ đợi đã lù đù hiện ra mà tiếp rước cô. Nào dè Túc là một anh thợ máy cũng như muôn ngàn anh thợ máy khác, cũng ăn, cũng ngủ, cũng vui, cũng buồn, mà không phải người bạn tri âm theo trí cô tưởng tượng. Túc chỉ là một người chồng, nghĩa là một người chủ trong nhà, có đủ các quyền mà sai khiến, rầy la, nộ nạt đánh chửi cô, lại cũng có quyền xử dụng thân thể cô, ép buộc trí não cô, dầu muốn dầu không, cô cũng phải vâng chịu, chớ không được phép trả treo chống cự.
Trót 11 năm trường, cô Xuyến sống chung với một người chồng đã có sanh được một đứa con, nhưng mà chẳng bao giờ cô được thấy chồng chia sớt chút ngọt bùi nào cho cô, chỉ bắt cô ngày nào cũng nuốt những đắng cay gay gắt. Chẳng bao giờ cô được nghe chồng nói với cô một lời nào mà tỏ bày tình nghĩa, hay là hàm súc thân yêu. Mà mấy năm sau nầy người chồng còn sanh tật say sưa, làm cho nỗi đau khổ của cô chồng chất đã nhiều rồi mà cứ thêm hoài hằng bữa.
Ðùng một cái, đống đau khổ tan rã !
Quen mang xiềng xích trót mười năm, tình cờ được thong thả, nhẹ nhàng mà cô Xuyến còn bợ ngợ nên ngơ ngáo chưa biết còn buồn hay là được vui, chưa thấy đường lối nào mà bước tới. Ðứng trước cảnh đời mới vừa nở ra tiếp rước cô, nhưng vì còn ngán cảnh đời cũ, nên cô nhút nhát không dám mạnh bước đi vào, cũng không còn nghị lực mà hy vọng hạnh phúc nữa.
Thời may cô Xuyến gặp chàng Giao, cũng là thợ máy như Hai Túc, nhưng chàng trẻ tuổi, chưa mang tật nào, giống như Túc khi mới cưới cô vậy.
Giao là trai mới 20 mươi tuổi, trí còn non, máu đương nóng, đầy đủ sức khỏe, chưa biết ái tình. Ai xuôi khiến Giao lại yêu Xuyến là một đóa hoa thuở nay ở dựa rào không ai ngó tới, nên khô héo sắp tàn nay mai. Giao yêu mà thiệt thà nên nói ngay ra không thèm môi miếng. Chàng lại can đảm nên cứng cỏi, xin thay cho Túc mà tạo hạnh phúc cho Xuyến hưởng, để bù trừ những nỗi đau khổ trong khoảng đời vừa mới qua.
Thuở nay Xuyến khao khát những lời tình nghĩa mà chưa hề được nghe. Ðến 31 tuổi rồi, đã có một đời chồng, lại có đứa con tới 7 tuổi, Xuyến lại gặp bạn tri âm hiểu biết nỗi khổ của cô. Xuyến ngạc nhiên, không biết sự có thiệt hay là lời phỉnh phờ, hay là giấc mơ mộng.
Xuyến gạn lại thì quả là sự thiệt. Nhưng cô cũng chưa dám mừng. Cô khuyên Giao phải suy nghĩ lại, phải dọ xét tình yêu cho châu đáo, cô cũng xin để cho cô hỏi lại lòng của cô, nhứt là cô phải ngó kỹ cảnh tương lai coi sự tuổi tác bất đồng nó có thể tạo hạnh phúc mà chung hưởng với nhau, hay là nó gây ra những đau khổ khác.
Té ra thái độ cương quyết của Giao tiếp theo tình âu yếm thiết tha, lời thề thốt nặng nề, và khinh rẻ tiếng thị phi của thiên hạ, các điều đó hiệp nhau mà phá vỡ tan những lo ngại của Xuyến, làm cho cô lớn tuổi nên sáng suốt và dè dặt, mà cảm xúc đến nỗi bó tay để cho lửa tình của Giao tràn lan cháy luôn qua gan ruột của cô rồi tình đồng tình, nghĩa cảm nghĩa, cả hai khối ái tình đều nồng nhiệt như nhau mới gây cuộc vợ chồng say sưa đầm ấm, mê mết thân yêu, không cần thị phi, không cần tuổi tác.
Từ khi dọn qua ở chung với nhau trong đường hẻm sau trường học Cầu Kho, vợ chồng Giao với Xuyến vui sống với chuổi ngày luôn luôn êm ấm, tươi cười, tràn ngập tình yêu, nực nồng đạo nghĩa. Giao mê mết ái tình, nên không thấy tuổi bất đồng, chắc rằng hạnh phúc của mình không có hạnh phúc nào bì kịp, dầu cưới vợ tuổi mười chín hay đôi mươi như mình, thì con vợ đó không thể gây hạnh phúc cho mình hưởng như Xuyến vậy được. Còn Xuyến thuở nay khao khát tình yêu, bây giờ cô đã gặp được rồi thì cô hớn hở lo củng cố hạnh phúc tuyệt vời trời phật ban cho cô lúc bóng đã xế, hoa sắp tàn. Cô ví phận cô chẳng khác nào một bụi cây thuở nay cứ khô héo nhờ Giao đoái tưởng nên tưới nước vun phân giùm mới đơm lá xanh tươi. Cô phải biết ơn Giao, phải lo đền đáp ơn ấy, lo duy trì chút nhan sắc còn sót, lo gìn giữ tình yêu cho nồng nàn, đặng Giao hưởng hạnh phúc mà Giao mong muốn khi Giao đến dọ lòng tỏ ý.
Vì vậy nên được an vui, cả hai đều không nhàm, không chán. Giao thì lo trau giồi nghề nghiệp đặng ăn lương cho nhiều để giúp cho gia đình càng ngày càng thêm tốt đẹp, thêm thảnh thơi. Còn Xuyến thì lo bề nội trợ cho vuông tròn, lo tiện tặn cho có tiền dư mà sắm đồ đạc trong nhà lần lần đặng chồng đi làm mệt hễ về tới nhà thì hưởng không khí khoẻ khoắn tốt tươi, thấy vợ đẹp vui lòng, thấy đồ tốt vừa ý, ăn đồ ăn ngon miệng, nằm chỗ nằm khỏe lưng. Chồng cứ lo cho vợ vui, vợ cứ lo cho chồng khỏe, chồng vợ nương nhau, lo cho nhau, tự nhiên tình yêu không thể lợt phai, hạnh phúc khó mà sụp đổ.
Cô Xuyến có tánh nhỏ nhoi, vui vẻ, nên ở được vài tháng cô làm quen hết với đàn bà ở vùng nầy. Người ta biết cô là thợ may mới đưa đồ cho cô may thử. Thấy cô may khéo mà lại kỹ, ai cũng chịu nên lần lần cô có đồ may luôn luôn. Hồi đó máy may bán giá rẻ, cô Xuyến mua chịu một cái đặng may cho mau, mỗi tháng góp cho người ta một số tiền, trong một năm thì dứt nợ, cô làm chủ cái máy. Còn hãng cưa thấy Giao siêng năng, giỏi giắn, lại tận tụy với nghề, muốn cầm chưn Giao nên tăng lương lên mỗi tháng một trăm.
Chồng ăn lương lớn, lại vợ may mướn mỗi tháng có tiền thêm năm ba chục nữa, bây giờ tiền bạc phủ phê, trong nhà đồ đạc hực hỡ chẳng khác gì nhà mấy thầy ở ngoài đường lớn. Nhờ nhà ở một bên có vô đèn khí[1], cô Xuyến òn ỷ với vợ thầy ở gần nhà bên mà xin cho câu đặng ban đêm may cho tiện, thành thử nhà của vợ chồng Giao cũng đốt đèn điện như ai.
Vợ chồng Giao ở nhà thì mặc quần hàng áo lụa và mang guốc luôn luôn. Giao đi làm thì mang giày Tây, mặc đồ Tây bằng bố xanh theo điệu thợ máy. Mà chiều thứ bảy dắt nhau đi ăn uống rồi coi hát thì vợ chồng với con Tý đều mặc đồ đàng hoàng, không thua ai hết.
Con Tý mỗi ngày lại trường Cầu Kho mà học, lần lần nó biết đọc biết viết, thêm vui cho mẹ cha nữa.
Cô Xuyến sợ già nên mỗi ngày chăm nom trau giồi trang điểm không dám loè loẹt như gái nhỏ, chỉ rửa mặt sạch sẽ, bới tóc vén khéo, làm cho tuổi của cô bớt chinh lịch với tuổi chồng.
Giao làm thợ máy tự nhiên da nám tay chai. Xuyến lục đục ở trong nhà lại mai chiều đều điểm trang sắc sảo. Vợ chồng chẳng hề nói chuyện nhà của mình cho ai biết, cũng không cho ai biết thiệt tuổi của mình làm chi. Con Tý vẫn kêu Giao bằng ba, cha con vui vẻ trìu mến nhau luôn luôn. Vì vậy nên chi trong xóm nghi Giao có vợ lớn tuổi hơn chồng chút đỉnh vậy thôi, không ai dè chồng nhỏ hơn vợ đến 11 tuổi và Tý là con ghẻ của Giao chớ không phải con ruột.
Vợ chồng Giao với Xuyến ăn ở cùng nhau trót mười hai năm, chẳng những là nhà cửa đàng hoàng, bạc tiền chời chở, cả hai đều quên hết những chuyện thắc mắc với những lời chê cười hồi còn ở bên xóm Ụ Tàu mà thôi, mà nhiều đêm vợ chồng vui sướng nằm rù rì nói chuyện với nhau, lại còn khinh thiên hạ dại khờ kết đôi bạn cứ lo bạc vàng ít nhiều, cứ kiếm tuổi tác cho xứng, không thèm lựa đồng chí đồng tình, tâm đầu ý hiệp, mới tạo gia đình hạnh phúc như mình được.
Mà thiệt trót mười hai năm nay, mặc dầu tuổi tác bất đồng, vợ chồng Giao với Xuyến nhiệt thành yêu nhau đắm đuối, chồng không làm cho vợ buồn, vợ cứ chăm nom làm cho chồng vui, nhờ vậy mà trên thuận dưới hòa, trong êm ngoài ấm, cả hai đều cảm kích vì nghĩa, say sưa vì tình, nghĩa càng ngày càng thêm nặng, tình càng bữa càng thêm sâu, mới nảy nở ê hề hạnh phúc trong gia đình cho chồng vợ an hưởng.
Con Tý ham học, trí sáng, tánh siêng, hồi 14 tuổi đã thi đậu bằng sơ học dễ dàng. Giao hết sức vui mừng, biểu vợ đừng sợ tốn hao, cho nó vào trường tư thục tiếp theo lớp trung học, đặng trong bốn năm nó thi lấy bằng thành chung[2] rồi xin làm nữ giáo viên cho đời sống của nó ra khỏi vòng lao động đặng tấm thân nó thảnh thơi sung sướng.
Vâng ý chồng, cô Xuyến kiếm thế cho con Tý học tiếp. Tý cố gắng đêm ngày, mà cũng nhờ cha mẹ an ủi chăm nom nên khi được 19 tuổi nó thi đậu bằng thành chung và được cấp bằng làm nữ giáo viên dạy trường con gái tại tỉnh lỵ Gò Công.
Giao lấy làm đắc chí, vì đã làm tròn lời hứa với Xuyến khi tha thiết xin phối hiệp cùng nàng. Còn Xuyến thầm nghĩ dầu Túc sống cho tới ngày nay, chưa chắc Túc lo cho con ăn học mà lập thân được như Giao vậy, bởi vậy cô xem nghĩa của Giao càng thêm nặng dày, nên cô quyết đem tất cả tình yêu nồng nàn thành thiệt của cô mà đền đáp.
Vâng theo lời chồng dạy, cô Xuyến đưa Tý xuống Gò Công, kiếm chỗ tử tế gởi con ăn ở mà dạy học, sắp đặt đâu đó yên ổn rồi cô mới trở về lo nuôi chồng.
Qua năm sau có một giáo viên tên Thành cũng có bằng thành chung, lại có tập sự một năm tại trường sư phạm. Thầy dạy tại trường tỉnh Gò Công thấy tánh hạnh của cô Tý thầy vừa lòng, nên cậy mai lên nói với vợ chồng Giao mà xin cưới Tý. Giao biểu vợ xuống hỏi ý con và dọ tánh tình của chàng rể. Nghe hai trẻ xứng đôi vừa lứa lại hiệp ý đồng nghề, Giao mới đứng gã Tý lấy chồng, làm đám cưới rỡ ràng, gây cho cô Xuyến phải mang thêm cái nghĩa nặng nề nữa.
Xuyến khao khát tình yêu thì mấy năm nay đã được thưởng thức tình yêu mỹ mãn, Giao hứa ra tay làm nghĩa thương Tý như con, thì vẹn toàn. Từ đây vợ chồng đồng an vui với tình nghĩa ngỏa nguê, mặc dầu ngày lại tháng qua, Xuyến với Giao cứ say sưa mê mẩn tình nghĩa nặng dày, tin chắc cảnh đời thương yêu êm ấm nầy sẽ kéo dài cho đến khi nhắm mắt lìa trần, bởi vậy không cần phải lo ngại chi hết.
Vợ già chồng trẻ
Phần tám:
Bầu trời dầu thanh bạch thế nào cũng phải lấp ló một vài cụm mây đen. Biển cả dầu im lìm thế nào mặt nước cũng lăng nhăng dợn sóng.
Mảng say sưa tình nghĩa, cô Xuyến cho tình yêu đưa đẩy, nghĩa nặng dập dồn. Cách vài năm sau Xuyến nhận thấy cặp mắt cô đã bắt đầu lờ mờ, hàm răng cô đã lung lay hết vài cái, chắc muốn rụng. Cô giựt mình nhớ lại phận vợ chồng tuổi tác bất đồng, cô mới lo. Ôi thôi rồi! Cảnh xuân sắp tàn! Ngày già đã đến! Rồi đây mới lấy chi mà níu được tình yêu? Hạnh phúc gia đình sẽ tiêu tan như cụm mây, sẽ bay mất theo ngọn gió!
Cô Xuyến ứa nướt mắt mà tính lại, thì năm nay cô đã 47 tuổi rồi, hình vóc đã ốm gầy, nhan sắc đã phai lợt. Chồng cô mới 36 tuổi, máu thịt dồi dào, sức khỏe sung túc. Hình vóc với nhan sắc nầy còn được người yêu như hồi mười lăm mười sáu năm trước nữa hay không?
Cũng như người té xuống sông gặp vật gì cũng phải níu cho khỏi chìm khỏi chết, cô Xuyến quyết kiếm thế cậy nhờ để duy trì tình yêu của chồng, duy trì được ngày nào hay ngày ấy. Cô lén chồng, đi mua một cặp mắt kiếng để lúc chồng đi làm việc thì cô mang kiếng cho tỏ mà may. Cô đi mướn nhổ mấy cái răng lung lay muốn rụng và làm răng giả mà thế. Mà thay xong cái răng nầy rồi thì cái răng khác lung lay nữa, biết làm sao cho hai hàm răng cứng chắc tốt đẹp như xưa. Mà lại thêm mái tóc cũng bắt đầu điểm bạc nhiều chỗ rồi nữa. Có chỗ thì gỡ đầu bới tóc cô ém nó vô trong mà giấu được, còn có chỗ chan nhản ở ngoài cô không biết lấy chi mà che mắt người. Cô nghe người ta nói dùng thuốc mà nhuộm cho tóc đen được. Cô muốn làm thử, mà rồi cô nghĩ răng rụng thì làm răng giả mà thay thế được.Tóc bạc có thể dùng thuốc mà nhuộm cho đen được. Còn da đã dùn, làm sao cho nó mịn và láng; vóc đã ốm teo, làm sao trở lại phương phi; nhan sắc đã lợt phai, làm sao đem lại cái màu tốt tươi như hồi lúc xuân xanh vậy được.
Cô Xuyến kiếm phương thế mà ngăn cản cái già trong mấy tháng, cô nhận thấy cô không đủ sức mà chống nổi. Cô phải đành co tay mà chịu thua, phú cho tuế nguyệt định đoạt phần số của cô. Khao khát tình yêu, thì nhờ Giao mà cô được hưởng ngỏa nguê tình yêu trót mười mấy năm rồi, không còn uất ức gì nữa. Giao đã làm ơn cho cô nhiều lắm, đã giúp cho thưởng thức tình yêu trong một khoảng đời rất dài, lại còn giúp tác thành cho đứa con của cô nữa. Khi ưng làm vợ Giao, cô vẫn biết sẽ có ngày già hôm nay.Vì Giao có thề thốt sẽ trọn đời chung thủy với cô, vậy thì cô phải bình tĩnh mà đợi xem tương lai, chẳng nên lo sợ. Ví dầu Giao có quên lời thệ ước, chê cô già bỏ mà kiếm vợ trẻ đi nữa, ấy là lý tự nhiên, cô không nên trách Giao bội nghĩa bạc tình, bởi vì cô đã tính cho đời cô hư hỏng hoàn toàn, may mà được sung sướng, vui cười trót 16 năm đã nhiều lắm rồi, không còn ức hiếp gì mà phiền trách.
Trót mấy tháng trong đầu óc cô Xuyến bối rối như tơ vò, nhưng hễ chồng đi làm về thì cô bình tĩnh như thường, cứ chiều chuộng vui cười, cứ lo miếng ăn giấc ngủ của chồng rất châu đáo, không dám bê trễ đạo làm vợ, cũng không dám lộ vẻ buồn rầu, không dám tỏ lời nghịch ý, sợ làm mặt buồn rồi chồng chán, sợ nói nghịch ý rồi chồng giận hờn, buồn hay giận là nguồn gốc của cuộc phân ly, cũng như vui với yêu là cha sanh mẹ đẻ cuộc thuận hòa, thân ái.
Ngày qua tháng lại, tình của Giao đối vợ chưa có chi mà dám nói lảng xao. Nhưng có bữa Giao nhìn vợ rồi sắc mặt dường như lửng lơ, Xuyến liếc thấy thì lạnh lẽo cả thâm tâm, nghi chồng đã ngán sắc cô lợt phai, thân cô tiều tụy. Cô thắt thẻo muốn làm vui mà làm không được, muốn khóc mà tỏ nỗi khổ tâm cho chồng nghe thì sợ khai mạch sầu cho chồng rồi dục thúc phân ly thêm mau chớ không ích gì. Cô phải rán nuốt giọt lụy, chận mạch sầu, thầm vái Phật Trời kéo dài giùm hạnh phúc cho cặp chồng trẻ vợ già, kéo được tới đâu cũng là ơn, chớ cô không dám nuôi tham vọng duy trì hạnh phúc của cô cho tới ngày cô chết.
Cô Xuyến nghi không lầm. Nhìn vợ mà lơ lửng đó là cái ngòi chán nản của Giao. Từ đó cử chỉ của Giao bắt đầu biến đổi. Có bữa đi làm việc trưa Giao không về ăn cơm, chiều về chàng nói một người bạn trong sở mời ăn cơm thình lình chàng không về mà cho hay được. Có đêm chàng đi chơi mà không rủ vợ, đi tới 11, 12 giờ mới về, có nhiều chúa nhựt chàng đi mất cả ngày, nói anh em rủ đi Lái Thiêu hoặc đi Thủ Ðức.
Ngoài giờ làm việc mà chồng bỏ nhà đi chơi như vậy thì cô Xuyến ở nhà cô buồn tủi vô cùng, dầu ban đêm cô cũng không dám vô mùng mà nằm, sợ nằm rồi nhớ tới việc chồng chê già nên chồng bỏ thì càng buồn tủi thêm nhiều, cô phải kiếm đồ ngồi may đặng mắc chăm chú về việc làm mà khuây lãng. Có bữa cô thức tới một hai giờ khuya cô cũng thức. Mà khi chồng về kêu cửa thì cô vội vã mở liền, lại vui vẻ mừng chồng, không lộ sắc buồn, cũng không dám hỏi đi chơi chỗ nào mà ở khuya dữ vậy.
Có lẽ nhờ vậy mà Giao không nỡ bỏ vợ, nấn ná để dành cho vợ một chút tình yêu. Mà có lẽ cũng tại như vậy nên cô Xuyến tuy buồn tủi song cô không dám than phiền, nghĩ vì phận già dung nhan đã suy kém, mà chồng trẻ còn để lại cho một chút tình yêu, đó cũng đáng gọi là may lắm rồi, không nên tham lam kêu đòi, mà làm cho chồng buồn rồi nó bỏ biệt, thì không còn một mảy tình yêu nào hết.
Cô Tý có chồng lật đật đã hơn hai năm rồi. Cô sanh được một đứa con trai vừa mới năm tháng. Nhơn dịp bãi trường nghỉ hai tháng, vợ chồng cô quyết định đem nhau ra Vũng Tàu ở mười bữa mà hứng gió biển đặng dưỡng sức khỏe. Nhưng chồng cô tính trước khi đi hứng gió thầy phải về Bạc Liêu thăm cha mẹ vài bữa rồi sẽ đi; ngặt em còn nhỏ quá, mà đường Bạc Liêu thì xa, bởi vậy thầy sợ em nhỏ đi đường xa em bịnh, nên thầy định đem vợ con lên Sài Gòn rồi gởi ở lại đó với cha mẹ vợ, thầy đi một mình về Bạc Liêu thăm nhà, chừng thầy trở lên thầy sẽ rước đi Vũng Tàu.
Gần mười giờ sớm mơi, cô Xuyến đương lúc thúc ở sau bếp nấu cơm, cửa trước khép lại vặn chìa khóa. Thình lình cô nghe có tiếng kêu: "Má ơi ! Mở cửa cho con vô, má. Con về đây nè."
Cô Xuyến ngồi lặt rau, cô nghe kêu, cô biết tiếng con. Cô buông mà đi ra trước. Thấy Tý tại cửa sổ, ngay chỗ cô để bàn máy may, cô vui mừng hết sức, nên lật đật vặn khóa mà mở bét hai cánh cửa ra.
Tý bồng con đi vô, vừa cười vừa hỏi: "Ba má đều mạnh giỏi hết phải hôn má?
Cô Xuyến ừ rồi mắc mừng rể, là thầy giáo Thành, dở nón chào cô mà theo Tý bước vô, tay có xách một cái hoa ly lớn và nặng, sau lưng có một con nhỏ giữ em, mặc áo bà ba vải trắng, tuổi lối 15 hoặc 16, tay xách một cái giỏ đồ.
Vợ già chồng trẻ
Phần chín:
Cô giáo Tý đem em nhỏ vô mùng dỗ em ngủ rồi cô kêu con Hòa biểu vô nằm với em. Cô bước ra ngoài thấy sắp nhỏ trong đường hẻm chạy chơi la giỡn cười nói om sòm, còn mẹ cô ngồi chống hai tay trên bàn, mặt mày buồn hiu, cô nghi mẹ cô có việc ưu phiền trong lòng nên mới lộ vẽ áo não ra ngoài mặt.
Cô Tý kéo ghế ngồi ngang với mẹ, nhìn mẹ một chút rồi nhỏ nhẹ hỏi: "Lúc nầy ở trong nhà có đủ tiền xài hay không má?"
Cô Xuyến ngó con mà đáp: "Ðủ chớ. Ba con bây giờ mỗi kỳ lãnh tiền được tới tám chục, thành ra mỗi tháng một trăm sáu, giữ sáu chục mà xài, giao cho má tới một trăm. Má may cầm chừng cho chị em trong xóm, phần má kiếm mỗi tháng được năm ba chục nữa. Má không cần mướn người ở, thành ra số ăn xài trong nhà không tốn hao lắm đâu. Tháng nào cũng có dư đôi ba chục luôn luôn; có thiếu hụt đâu mà con lo."
Tý hỏi nữa: "Vậy thì sao mà má ốm? Chuyến nầy con về con thấy má ốm nhiều. Mà con còn nhận thấy tuy có con về má mừng, song bộ má không được vui như hồi trước. Sắc mặt má có nét buồn. Có việc chi hay sao mà má buồn? Bây giờ có một mình con với má, đâu má nói thiệt cho con nghe thử coi."
Cô Xuyến thở một hơi dài rồi chậm rãi đáp: "Có việc chi đâu con."
Tý nói: "Má không bịnh hoạn, tiền bạc dư, trong nhà không có việc chi thì tại sao mà má ốm. Con nghi phải có việc chi làm cho má buồn ngấm ngầm trong lòng, má ăn ngủ không được, nên má mới ốm chớ. Má phải nói thiệt với con, chớ sao má lại giấu con?"
Cô Xuyến ngồi lặng thinh, sắc mặt càng thêm buồn.
Tý nói tiếp: "Má sanh có một mình con. Nhờ ơn ba má lo cho con ăn học, nên ngày nay con đã có một địa vị tuy không cao sang cho lắm, song cũng không đến nỗi hèn hạ. Con đã có chồng tử tế, đã sanh được một đứa con trai khứa kháo dễ nuôi. Con về từ sớm mơi hôm qua tới giờ, con để ý dòm xem cử chỉ của ba, thì thấy con về ba rất vui mừng, ba thân thiết với rể, ba nựng nịu cháu ngoại. Ðối với con, ba cũng vẫn thương yêu như hồi con còn nhỏ. Ðối với má thì ba cũng quí trọng, vui vẻ như xưa. Gia đình của mình êm ấm no đủ như vầy thì khá gọi là có hạnh phúc lắm rồi, còn mong muốn cao xa trật dọc làm chi nữa."
Tý liếc thấy mẹ ngồi trầm ngâm mà ứa nước mắt, cô bèn nói tiếp nữa: "Con nhớ ngày ba trước mất, con mới được bảy tuổi, nhưng mà con biết chuyện đủ rồi. Mẹ con mình ở trong một căn nhà lá bủm thủm bên xóm Ụ Tàu, ngày đêm má phải ngồi may mướn mới có tiền mua gạo mà ăn với nhau. Mà ăn cơm thì chỉ có một món mặn mặn dễ nuốt vậy thôi, chớ đâu có thịt cá như bây giờ. Nhờ ba sau yêu má, rồi mướn căn nhà nầy đem mẹ con mình về ở chung với ba, má mới được thảnh thơi, lần lần sắm đồ đạc trong nhà, bề ăn ở mới được sung sướng một chút. Còn phận con thì con cũng nhờ ba sau lo cho con ăn học hẳn hòi con mới lập thân được, rồi đứng gả con lấy chồng, con mới được tử tế như vầy. Con thấy chuyện bây giờ rồi con nhớ chuyện hồi trước, thì con cho mẹ con mình đã có phước lắm rồi. Vậy má nên vui lòng mà ăn ngon, ngủ khỏe đặng bổ sức sống lâu với con, má chẳng nên ân hận về việc xưa, dầu ba có làm điều chi má không ưng ý, má cũng nên khỏa lấp, má đừng thèm kể, đừng thèm buồn. Má nên vui với ngày già mà sống đặng hưởng hạnh phúc với chồng con. Năm nay tóc má đã bạc, răng má đã rụng, da má đã dùn, nếu má ôm lòng ưu phiền thì con sợ e má ốm o mà sanh bịnh hoạn, rồi cảnh già sẽ tới gấp cho má nữa thì càng thêm khổ."
Cô Xuyến mang tâm hồn đa sầu đa cảm, mà bị con đụng tới nhược điểm của cô, thì cô xúc động chịu không nổi, nên nước mắt cô tuôn ra cô cầm không được. Cô đứng dậy bước ra khép khít hai cánh cửa rồi mới trở lại ngồi mà khóc.
Tý thấy mẹ như vậy cô cũng ứa nước mắt mà nói: "Má có việc chi ức uất xin má nói rõ cho con biết đặng con liệu coi có thể gở mối sầu cho má được hay không. Má banh da xé thịt má đẻ con ra. Con là khí huyết của má. Có việc chi làm cho má buồn rầu, má phải chia sớt cho con, chớ sao mẹ lại giấu con."
Cô Xuyến nhìn con với cặp mắt chan chứa thân yêu, cô lấy vạt áo mà lau giọt lụy rồi cô nói:
- Má thắc mắc nỗi lòng đã hai năm rồi mà má không thể nói ra được. Con là máu thịt của má, mà má cũng không thể cho con biết, nghĩ vì con biết thì bận thêm lòng con mà không ích gì cho má.
- Dầu không ích, má cũng phải nói cho con hiểu chớ. Vì má mà con bận lòng là việc dĩ nhiên. Má không chịu nói, con càng bận nhiều hơn nữa.
- Con muốn biết thì bữa nay má nói hết cho con nghe.
- Má cứ nói thiệt, đừng dấu chi hết. Con đã có đủ trí khôn, con biết quấy phải, biết xử sự. Nếu má giấu thì con có biết má đau khổ chỗ nào đâu mà chữa.
- Hồi nãy con nói khi cha con chết, con mới được bảy tuổi, nhưng con biết đủ chuyện hết. Con có biết là biết chuyện con thấy, còn chuyện con không thấy, hoặc không hiểu, thì con biết sao cho được. Từ ngày má làm bạn với cha con cho tới ngày cha con chết, khoảng đời đó dài đến 11 năm, má chịu đau khổ hàng ngày, mà khổ thân má không kể, má chỉ buồn và khổ trí mà thôi.
- Con nhớ hễ cha say rượu thì cha cứ đánh chửi má.
- Ðó là một trong những cái khổ của má mà thôi. Nỗi đau khổ nhứt của má là vợ mà không thấy chồng làm một điều gì, cũng không nghe chồng nói một câu nào có tình hay có nghĩa hết. Thân má cũng như vật ngộ ngộ để cho người chồng thỏa nhục dục vậy thôi. Bởi vậy má chán nản, kể đời của má là một chuỗi sầu đến chết cũng chưa được biết một ngày hoặc một giờ vui nào hết. Tấm thân má chẳng khác nào cái xác không hồn. Ngày má sanh con ra, má thương con, nên má lấy con mà làm mục đích cho đời sống của má. Từ đó má kể con, chớ má không kể đến chồng nữa, dầu chồng làm khổ cho má cách nào má cũng sống mà nuôi con. Thình lình cha con vì tật say sưa mà chết bờ chết bụi. Chồng chết không lẽ má vui, mà thiệt cái chết đó mới giải thoát khổ não cho má. Má quyết ở giá mà may mướn hoặc làm bánh bán kiếm tiền lời mà nuôi con cho nên vai nên vóc. Má đã chán cảnh đời làm vợ người rồi, nên má quyết định không làm vợ ai nữa hết. Nào dè ba con bây giờ đó, lúc ấy là trai mới lớn lên, anh ta ở gần nhà mình mấy năm, biết gia đạo của mình, hiểu tâm hồn của má, lại thương nỗi khổ của má nữa. Thấy cha con đã chết, anh ta đến nói ngay với má rằng đối với má anh ta mang một tình yêu nồng nhiệt nặng nề. Anh ta xin má ưng làm vợ đặng anh để tất cả tình yêu cho má thưởng thức, gây hạnh phúc gia đình cho má vui hưởng. Anh ta quyết giúp cho má sung sướng trong khoảng đời tương lai và giúp nuôi con hẳn hòi, hứa sẽ thương yêu con cũng như con ruột của anh ta vậy.
- Con công nhận ba đã giữ vẹn mấy lời hứa đó.
- Má cũng không chối cãi. Nhưng con nên biết rằng hồi đó ba con mới 20 tuổi, còn má tới 31 tuổi, má lớn hơn ba con nhiều quá. Tuy má ngao ngán cái cảnh vợ chồng, song má là người khao khát tình yêu, bởi vậy nghe lời nói thiết tha lại thấy bộ tướng thành thiệt, má phới động tâm hồn, không có đủ nghị lực mà cự tuyệt. Nhưng má trọng tuổi mà có kinh nghiệm về thế thái nhân tình, má lo ngại quá, một là vợ chồng không xứng đôi vừa lứa sợ thiên hạ cười chê, hai là nghĩ không còn mấy năm nữa má sẽ già, mà ba con còn trai trẻ, ba con sẽ chán mà bỏ má, làm cho đời má phải mang thêm một tủi nhục khác nữa. Má nói ngay với ba con, má khuyên anh ta phải suy nghĩ lại, không nên hốt tốc mà hại má phải đau khổ lần thứ nhì. Má xin cưới gái son đồng chạn mà cưới vợ, còn có yêu má thì yêu theo tình chị em rồi gần gũi hoặc chung chạ cho vui vậy thôi. Mãn kỳ hạn 10 ngày, ba con trở lại nói cương quyết rằng trên đời chỉ yêu có một mình má, phải phối hiệp với má mà thôi, thề thốt sẽ yêu má mãn đời, sẽ thương con như con ruột và sẽ xây nền hạnh phúc cho mẹ con mình hưởng, không kể tiếng thị phi về tuổi tác chinh lịch. Má khao khát tình yêu, lúc đó mới được gặp tình yêu vừa chơn thành vừa nồng nhiệt, má không còn sức mà phân trần phải quấy nữa, xuôi tay nhắm mắt giao trái tim của má cho ba con, phú may rủi cho số mạng.
- Theo ý con, thì may chớ đâu phải rủi.
- Khoan! Ðể má nói hết rồi con sẽ biết.Vì má không chống nổi tình yêu trặc trẹo của ba con đó, nên ba con mới kiếm sang căn phố đặng dọn về ở chung với nhau mà tránh tiếng cười chê của người quen biết bên vùng Vĩnh Hội. Trót mười mấy năm ở đây, tuy không phải giàu có gì, song ba con giao tất cả tình yêu cho má, lại còn làm đại nghĩa với con nữa, thiệt nhờ ba con mà đời của má tưởng đã khô héo rồi chết rụi, chẳng dè nó xanh tươi lại, làm cho má vui sướng chẳng khác nào như lặn hụp giữa vời được người cứu vớt đem lên bờ. Chung sống với ba con trong căn nhà nầy má vui sướng như ở trên cõi thần tiên. Chừng con thi đậu được đi làm cô giáo thì má còn mãn nguyện mà ba con cũng làm tròn lời hứa. Năm đó má nhận thấy má đã bắt đầu già rồi. Nhưng má nghĩ dầu má chết má cũng vui lòng mát dạ, ngặt tình yêu với nghĩa nặng của ba con sờ sờ đó, má phải níu sự sống mà đền đáp cho ba con, chớ chết té ra má vô tình bạc nghĩa. Nào dè cảnh già của má càng ngày càng phát hiện rõ ràng, không thể giấu giếm được. Trong vài năm sau đây, chính từ ngày gả con lấy chồng rồi, má liếc mắt dòm coi thì ba con đã thấy sắc điêu tàn của má. Ðiều má lo ngại ngày trước thì ngày nay nó đã tới rồi. Thiệt tuy thấy má già, song ba con chẳng hề khinh bỉ hay bạc bẽo má. Vợ chồng cũng vẫn đầm ấm như thường nhưng vài năm nay ba con thường có sắc buồn rồi hay thả đi chơi, mỗi tuần vài đêm, có đêm lối 11 giờ thì về, mà có đêm đi tới một hai giờ khuya. Còn thứ bảy, chúa nhựt thì đi luôn luôn, đi như bữa nay, tối thứ bảy hễ ăn cơm rồi thì đi biệt, có khi sáng chú nhựt thì về, có khi chiều tối mới về.
- Má có hỏi ba đi đâu không?
- Hỏi làm chi con. Hỏi sợ ba con buồn. Mà có khi tự nhiên ba con nói người nầy rủ đi chơi, hoặc người nọ mời đi ăn uống, nói sao má hay vậy chớ má không dám gạn hỏi. Mà hễ đi ban đêm thì má ngủ không được, má ở nhà má thức má may mà chờ, có khi má thức tới sáng bét.
- Tại như vậy nên má ốm chớ gì. Ăn ngủ không được, tự nhiên phải ốm, phải già gấp. Má không chịu hỏi, thì ít nữa má cũng lén đi theo mà rình coi ba con đi đâu chớ.
- Con bày cái đó càng bậy hơn nữa. Trót mười mấy năm nay ba con cho má hưởng tình yêu ngỏa nguê, hưởng cái hạnh phúc tuyệt vọng mà má đã chắc má hết thấy được. Say sưa với tình yêu chơn thành và nồng nhiệt tới mười mấy năm, má nghĩ đã nhiều lắm con à. Ngày nay má già rồi, mà ba con còn trẻ, má đã có biết cái hoàn cảnh ấy từ khi ba má muốn phối hiệp với nhau, bởi vậy má không lạ gì, mà cũng không uất ức gì mà ghen tương, nên đi theo đặng rình rập. Má biết thân phận má đã già, sắc đã phai màu dã lợt, nên ba con mới đi tìm mùi thơm sắc đẹp mà vui chơi. Thiệt ban đầu má cũng có lo gìn giữ tình yêu của ba con cho lâu dài hơn, giữ được ngày nào hay ngày nấy. Má sửa dáng, má thay răng, má dấu chỗ da dùn, má che mái tóc bạc. Ngặt cái già nó không để cho má ngăn cản, nó cứ mạnh dạn mà tới hoài. Má ngăn cản không nổi, má phải đành chịu thua khoanh tay an phận. Má thầm nghĩ hễ người chồng mà chán rồi thì chẳng nên làm cho họ buồn, họ giận. Nếu mình ghen tương chọc họ giận, họ buồn thì họ càng bỏ mình mau hơn nữa. Bởi nghĩ như vậy nên hai năm nay má đau khổ về tình yêu sắp tan rã, nhưng má rán dằn lòng mím miệng mà chịu, không dám than thở với ba con, cứ làm cho ba con vui vẻ luôn luôn, nhờ vậy má mới níu được chút đỉnh tình yêu, ba con không nỡ bỏ má già cả mà theo tình yêu trẻ trung son giá.
- Má đau khổ mà má cứ giấu giếm ôm lòng mà chịu riêng, má phải chết gấp chớ. Má phải làm sao cho ba đừng đi chơi nữa. Như má không chịu rầy rà, thì ít nữa má cũng năn nỉ khóc lóc mà can ba mới phải chớ.
- Can gián sao được con. Má phải biết thân phận má đã già mà ba con còn trẻ. Tại má già nên ba con mới kiếm người trang lứa cho vui. Ðó là lẽ tự nhiên. Má cượng cầu sao được. Hơn nữa ba con đã cho má thưởng thức tình yêu mười mấy năm trường, má nghĩ đã nhiều quá rồi, má không được phép đòi hỏi thêm nữa. Huống chi má còn chịu cái ơn của ba con tác thành cho nó (???). Ðó là nghĩa nặng, mà phải lo mà đáp, chớ đâu dám làm buồn cho ba con. Thà má ôm đau khổ mà chết, chớ má không nỡ làm phật ý người tình, người nghĩa của má.
- Ba đi chơi hoài như vậy chắc ba có trai gái với người nào đó chớ gì. Má có biết ba kết tình với ai hay không? Việc lâu quá có lẽ người ta cũng đồn thấu tới tai má chớ.
Cô Xuyến ngồi trầm ngâm không nói nữa. Tý thôi thúc xin mẹ nói cho cô biết coi cha cô kết tình với ai ở đâu mà gây buồn thảm cho mẹ như vầy.
Cô Xuyến nghĩ mấy năm nay không có người tâm phúc cho cô than thở đặng nhẹ bớt nỗi lòng. Hôm nay có dịp gặp con, cô đã tỏ bày tâm sự gần đủ hết rồi, không cần phải giấu làm chi nữa, bởi vậy cô thở một hơi dài rồi nói tiếp: "Thiệt hai năm nay vì sợ làm buồn cho ba con nên má không dám hỏi đon hỏi reng, mà má cũng không dám theo mà rình rập. Nhưng chị em trong xóm họ thương má, họ hay hết nên hôm trước họ có học với má. Họ nói hơn một năm nay ba con trai gái với cô Lựu, con gái bà Tư Yến, có sặp bán hàng vải ngoài chợ Ông Lãnh, người thì gặp dắt nhau đi chơi, người thì gặp hai người đi coi hát."
Cô Tý trợn mắt ngó mẹ mà hỏi:
- Họ có nói cô Lựu đó bao lớn hay không má?
- Họ nói hai mươi ngoài tuổi, lối 23 hoặc 24 tuổi, chớ không lớn hơn.
- Cỡ tuổi con, có lẽ con biết. Họ có nói đẹp hay không má?
- Nước da trắng, dễ coi, gương mặt vui vẻ.
- Họ có nói nhà cửa ở đâu hay không?
- Có người biết. Họ nói ở bên rạch Cầu dừa. Họ lại chỉ rành, họ nói ở nhà ngói hai căn vách ván, ở bên phía hãng Liên Thành, trở cửa ngang lò heo, ở ngoài dốc cầu đi theo mé rạch mà vô, bỏ vài cái nhà thì tới. Cô Lựu ở đó với cha mẹ.
- Má biết rõ như vậy, sao má không qua mà bắt ba?
- Bắt làm chi? Ba con đi làm về, má không dám làm mặt buồn với ba con. Có lẽ nào má dám làm rầy rà xấu hổ cho ba con.
Cô Tý lắc đầu, bậm môi, kế nghe tiếng con khóc trong buồng, cô vội vã đi vô mà dỗ con. Cô Xuyến gài cửa rồi tắt đèn đi vô giường mà nằm.
Vợ già chồng trẻ
Phần mười:
Ðược nghe mẹ bày tỏ nỗi lòng, cô Tý cảm xúc quá, thương mẹ một là vì tình hai là nghĩa, nên phải ôm lòng đau khổ mà chịu, không dám làm buồn cho chồng. Ðêm đó cô thổn thức liệu lo, không biết làm sao gỡ mối sầu cho mẹ, bởi vậy gần hai giờ khuya, mệt mỏi hết sức cô mới ngủ được.
Ðến sáng chúa nhựt, quá 7 giờ rồi, mặt trời đã mọc lên cao, cô Tý mới thức dậy. Cô không thấy mẹ, chỉ có con Hoà bồng em ngồi chơi dựa cửa, cô hỏi nó vậy chớ bà đi đâu. Con Hòa nói hồi tảng sáng bà khuấy giùm sữa cho em bú rồi bà xách giỏ đi chợ.
Cô Tý đi rửa mặt rồi gỡ[1] đầu mà bới tóc.
Cô Xuyến đi chợ về, cô thấy con thì cô vui vẻ nói:
- Hồi sáng thấy con ngủ ngon quá, má để êm cho con ngủ, má đi chợ một lát. Má có mua ít gói xôi với vài cái bánh ú đây. Con muốn ăn thứ nào con ăn, hay là con muốn ăn hủ tiếu thì biểu con Hòa lấy tô đi lại đầu đường kia nó mua cho.
- Thôi, để con ăn một cái bánh ú cũng đủ...Sáng nay mà ba cũng chưa về thấy hôn má?
- Ừ, chừng nầy mà chưa về chắc chiều mới về.
Cô Xuyến lấy hai dĩa sắp xôi với bánh ú ra. Cô kêu con Hoà đem em vô để nó nằm chơi. Cô đưa cho Hoà một gói xôi biểu ngồi đó ăn với em.
Tý lấy một cái bánh ú mà ăn, rồi thay đồ mặc áo dài đàng hoàng. Cô Xuyến hỏi con tính đi đâu thì Tý nói ra chợ Sài gòn kiếm vải mà mua. Tý dặn Hoà ở nhà đúng 9 giờ khuấy sữa cho em bú rồi cô cầm bóp mà đi.
Ra tới đường lớn cô gặp một chiếc xe xích lô, cô bước lên mà ngồi, rồi biểu xa phu đi qua Cầu Dừa.
Hồi nãy sợ mẹ cản, nên cô phải nói dối với mẹ rằng cô đi chợ Sài gòn, chớ kỳ thiệt cô quyết đi tìm cha mà năn nỉ cho cha về. Cô tính nói thiệt cho cha biết nếu cha bỏ mẹ cô mà đi hoài như vầy thì chắc mẹ cô sẽ chết gấp, cô phải nói ngay ra coi cha nhẫn tâm mà giết người đàn bà ngày trước tin tình yêu bền vững của cha nên mới trao thân gởi phận.
Xe qua tới dốc Cầu Dừa, cô biểu xa phu ngừng lại, cô bước xuống mở bóp trả tiền xe. Nhớ lời mẹ nói hồi hôm cô lại con đường nhỏ dọc theo mé rạch mà đi vô. Vừa khỏi hai cái nhà lá thì cô thấy có một cái nhà ngói hai căn, lại thấy rõ ràng có Giao đương đứng trước cửa ngó xuống rạch.
Cô Tý đi riết lại gần tới và kêu "Ba" một tiếng lớn. Giao quay qua ngó thấy Tý thì chưng hửng, nên đứng trơ trơ, không kịp tính trốn lánh ngả nào hết.
Cô Tý cứ mạnh dạn đi vô. Giao hỏi: "Con đi đâu đây?"
Tý vui vẻ cười mà đáp: "Con đi kiếm ba."
Giao ngẩn ngơ, không kịp hỏi có việc chi mà kiếm, thì Tý lại hỏi:
- Phải nhà chị Lựu đây không ba?
- Phải. Sao con biết?
- Chị em bạn học của con hồi còn học trường Cầu Kho.
- Vậy hay sao?
- Thiệt chớ. Có chị Lựu ở nhà hay không vậy ba?
- Có. Ở đàng sau.
- Có ba má chỉ ở nhà hay không?
- Không có. Ba cô đi Lái thiêu, còn má cô đi bán hàng ngoài Ông Lãnh. Cô ở nhà có một mình.
- Xin ba làm ơn kêu chỉ ra cho con hỏi thăm một chút.
- Con muốn hỏi chuyện gì?
- Con không hỏi chỉ chuyện gì hết. Con xin chỉ cho phép con ngồi trong nhà mà nói chuyện với ba một lát mà thôi. Ở nhà có má, con nói chuyện riêng với ba không tiện, nên con phải qua bên nầy mà kiếm ba đây.
Nãy giờ Giao nghi Tý hay tình sự của chàng nên Tý binh mẹ mới qua đây kiếm chuyện mà rầy, bởi vậy chàng có ý lo ngại. Chừng thấy Tý bình tỉnh, vui vẻ, không có sắc giận hờn, thì chàng bớt lo. Chàng lại nghĩ Tý muốn làm dữ, thì có chàng ở đây, chàng ngăn cản được, không đến nỗi dở lỡ đâu mà sợ. Chàng mới biểu Tý vô ván ngồi chơi rồi chàng đi thẳng vô phía sau bếp.
Cách một hồi Giao trở ra, có cô Lựu theo sau. Cô Tý vừa thấy cô Lựu thì vội vã đứng dậy nói: "Chị Lựu, dữ quá, đến bảy tám năm rồi chị em mới gặp mặt nhau đây! Chị mạnh giỏi hả? Chị nhớ em hay không?"
Cô Lựu vừa hổ thẹn, vừa lo ngại, nên bợ ngợ. Cô ú ớ đáp:
- Nhớ chớ...Chị Tý mà...Tưởng ai lạ.
- Phải. Em là Tý đây. Hồi học bên Cầu Kho, em ở phía sau nhà trường đó.
- Tôi nhớ rồi. Năm ngoái đi xe điển tôi có gặp chị Danh, chỉ làm cô giáo dạy trường Chợ Quán. Chỉ nói chị cũng thi đậu một lượt với chỉ và chị cũng làm cô giáo nữa mà.
- Phải. Em làm cô giáo dạy dưói Gò Công đã ba năm nay.
- Tôi rất mừng cho chị. Chị kiếm tôi có việc chi hay không?
Cô Tý vừa ngồi lại trên ván, vừa nói: "Em có chút chuyện riêng cần phải nói với ba em đây. Nghe nói ba em chơi bên nầy nên em qua em kiếm. Chị có thể cho phép em ngồi đây nói chuyện riêng với ba em một lát hay không?"
Cô Lựu vội vã đáp: "Ðược, được mà. Nhà tôi cũng như nhà anh chị. Chị thong thả tự tiện, đừng ngại chi hết. Xin lỗi chị, tôi mắc lỡ tay trong nầy một chút. Chị nói chuyện đi."
Cô Lựu nói rồi cô quày đi vô phía sau, có ý để cho cha con cô Tý nói chuyện riêng.
Cô Tý ngó quanh quất thấy căn bên kia có một cái bàn với bốn cái ghế, cô bèn nói với Giao: "Mời ba lại kia ngồi cho con hỏi thăm ba một chút." Giao thấy Tý với Lựu quen biết nhau, lại hai nàng thuận hòa, nói chuyện với nhau nhã nhặn, thì có bụng mừng, không còn lo sợ rầy rà nữa, nên đi theo Tý liền, coi Tý muốn nói chuyện chi.
Cô Tý nhắc một cái ghế để tại đầu bàn mời cha ngồi, cô ngồi cái ghế gần một bên đó rồi nhỏ nhẹ hỏi cha:
- Con xin phép hỏi ba từ ngày con đi dạy học cho tới bây giờ, má con ở nhà có khi nào má con than phiền việc chi hay không?
- Không. Con được làm cô giáo, má con đắc chí lắm, có phiền con về việc chi đâu.
- Con muốn hỏi đối với ba, má có phiền trách ba hay không kìa?
- Cũng không. Má con chiều chuộng ba, vui vẻ với ba luôn luôn, cũng như hồi con còn ở nhà, không đổi tánh ý chút nào hết.
- Có khi nào ba thấy má lộ sắc buồn rầu hay không?
- Ðâu mà có. Ba đi làm về thì má con vui vẻ lắm, lo miếng ăn chỗ ngủ cho ba từ chút, có bao giờ ba thấy má con buồn đâu con. Tại sao mà con hỏi như vậy?
- Con xin thưa thiệt với ba, con không có bà con thân tộc nào khác hơn ba với má. Má có công đẻ con ra rồi ẵm bồng đút cơm cho bú, con mới nên vai nên vóc. Còn ba tuy không phải là cha ruột, song ba làm nghĩa nuôi dạy con từ hồi con mới bảy tuổi, ba cho ăn học, ba lập thân danh cho con, dầu cha ruột cũng không bì kịp, công ơn cao cả đó dầu thế nào con cũng không dám quên. Từ nhỏ con thương yêu kính mến ba má hơn tất cả mọi người trên thế gian. Bây giờ con có chồng có con rồi, nhưng tình con thương ba má vẫn đậm đà, xa ba má con càng thương nhiều hơn nữa. Chuyến nầy con về thăm ba má, bước vô nhà, con xốn xang khó chịu. Con hỏi má có bịnh hay không thì má nói không. Con hỏi tiền bạc có đủ mà ăn xài hay không thì má nói dư dả. Con hỏi việc nhà có điều chi làm buồn hay không thì má nói không có. Má trả lời xuôi hết như vậy thì con không tin. Con chắc phải có việc gì làm cho má con ưu sầu, ăn ngủ không được nên mới ốm, mới mau già như vậy. Hồi hôm nầy ba đi chơi rồi, con ở nhà với má, con gạn hỏi lại. Ban đầu má con cứ nói nhờ ba mà thân má cũng như bụi cây khô héo, may được người vun phân tưới nước nên nhành lá sum suê, nhờ tình yêu của ba nên má mới được nếm mùi hạnh phúc mà trước kia má kể chắc đã tuyệt vọng. Ba đã giúp cho má say sưa tình yêu, ngỏa nguê hạnh phúc, được mười mấy năm dài, má đã thỏa mãn, không còn mong muốn điều chi nữa mà buồn. Con không tin, con cứ nài nỉ hoài đến khuya má mới chịu tỏ thiệt với con, má có một tâm sự trót hai năm nay nó làm cho má đau khổ đêm ngày, đau khổ nhưng phải cắn răng mà chịu, không thể than thở với ai được. Má khóc má nhắc trường hợp trớ trêu khiến cho ba với má thề nguyền kết tóc trăm năm cùng nhau, mặc dầu ba còn trai trẻ mới 20 tuổi, còn má là người đàn bà đã 31 tuổi, đã có một đời chồng, lại có một đứa con 7 tuổi lòng thòng theo nữa. Ba hứa với má, ba sẽ gắng công đưa tất cả tình yêu, gây cho được hạnh phúc để má hưởng. Con của má tức là con của ba, ba sẽ thương yêu nuôi dạy như con ruột. Ba chỉ kể tình yêu của ba với má mà thôi, ba không cần lời khen tiếng chê của thiên hạ. Má còn lo ngại về sự tuổi tác bất đồng, trong ít năm má già, sắc phai sức yếu, già trước ba rồi ba ăn năn, ba lợt lạt tình yêu, hoặc ba bỏ má, thì má phải chịu đau khổ một lần nữa. Về cái điểm nầy thì ba cương quyết mà thề thốt ba sẽ yêu má trọn đời, không bao giờ ba ăn năn mà bỏ bê má. Phải vậy không ba?
- Phải, má con nói đúng.
- Hồi đó con còn nhỏ quá, con không hiểu. Nay nghe má con nói lại, con muốn hỏi ba cho chắc ý.
- Ba công nhận má con nói đúng. Vậy mà má con có công nhận các điều ba hứa đó ba giữ vuông tròn hết hay không?
- Ðiều nào má cũng công nhận hết. Má nói ba cho má hưởng tình nghĩa tràn trề, hưởng tới mười mấy năm, má mang nặng tình sâu nghĩa cả của ba, má không biết làm sao mà đền đáp cho vừa.
- Má con đã công nhận ba không thất ước, vậy thì còn tâm sự gì nữa mà má con đau khổ?
- Má con đau khổ là vì má con nhận thấy cái điều má con lo ngại ngày trước, mà vì cảm tình yêu nồng nhiệt của ba, má con bỏ dẹp, không thèm kể, bây giờ điều đó phát hiện, nó làm cho má con bối rối, không biết xử trí cách nào cho thỏa tình hiệp nghĩa, nên má con buồn rầu ăn ngủ không được, rồi ốm lần lần, già sắp tới, có lẽ sẽ chết nay chết mai, mà chưa đáp tình trả nghĩa đầy đủ cho ba được.
- Má con đau khổ như vậy, sao không nói cho ba biết. Mà ba thấy má con cũng vui vẻ luôn luôn, chớ có buồn rầu bao giờ đâu.
- Chính đau khổ mà không nói ra cho ba biết, không dám biểu lộ cho ba thấy, cứ ôm mấp dấu kín trong thâm tâm, nên mới ốm, mới tiều tụy đó. Má nói ba hai năm nay hay sanh tật thả đi chơi đêm, có khi đi sáng đêm, chúa nhựt thì đi luôn cả ngày đêm, má lại càng phải làm vui không dám buồn, không dám hỏi, vì má sợ làm nhọc lòng, bực trí ba, thì ba giận, ba ghét, ba đi luôn, không thèm về nhà, càng khổ hơn nữa. Thà là làm lơ, giả vui, giả dại, cho ba vừa lòng mà để chút cảm tình với má, tốt hơn là than khóc hay giận hờn, hay rình mò, làm cho ba ghét rồi ba bỏ biệt.
- Thiệt hay sao?
- Thiệt vậy, nên ba không thấy má buồn, mà cũng không nghe má than phiền chi hết.
Giao ngồi trầm ngâm suy nghĩ rồi lại hỏi Tý:
- Má con có nói má con biết ba hay đi qua bên nầy hay không?
- Thưa có. Má nói ba đi đâu thì đi, má má không dám hỏi đon hỏi reng, cũng không dám núp lén theo rình rập. Nhưng mà chị em trong xóm họ thường gặp ba đi chơi hoặc đi coi hát với chị Lựu, họ biết hễ ba đi thì đi qua đây chớ có đi đâu. Họ thương phận má cứ lục đục ở nhà ngồi may sáng đêm mà đợi ba, họ học chuyện cho má biết hết. Nhưng biết thì biết, vì sợ làm buồn cho ba, nên má cắn răng mà chịu, có dám nói ra đâu. Buồn rầu, đau khổ mà cứ ôm ấp, không nói ra, cái đó mới mau chết.
Giao châu mày xụ mặt, ngồi lặng thinh.
Cô Tý nhìn cha rồi cô chảy nước mắt và chậm rãi nói tiếp: "Ba nhớ lại coi, ngày ba yêu cầu nài nỉ quyết kết tóc trăm năm với má, tuy má đã được nửa đời người, má lớn tuổi hơn ba nhiều, song sắc má vẫn còn tươi, vóc má còn đẹp nên ba mới yêu má. Nhưng má biết má sẽ già trước ba, má lo sợ về cái điểm đó, sợ một ngày kia má già, tóc bạc da dùn, vóc teo răng rụng, rồi ba hết yêu nữa, ba bỏ má, thì càng khổ cho phận má. Cái ngày má sợ đó nay đã tới rồi. Vả ba có ơn nuôi dạy con, còn má có công sanh thành con, nên con kính mến ba má đồng nhau. Ba ở chung với má, ba không thấy thân thể má biến đổi. Con phân cách má mấy tháng nên về tới thì con liền nhận thấy má khô héo, tiều tụy, con thương quá, nên con đau lòng xót dạ, chịu không nổi. Vậy con xin ba nếu má già ốm, tình yêu của ba lợt phai, ba không gần má nữa, thì ba cho con rước má xuống Gò Công ở với con đặng con nuôi má. Con sẽ rán làm cho má vui lòng đặng má sống lâu với con, chớ má ở với ba, má thấy ba hết yêu má nữa, má coi như ba chê má già, nên ba bỏ má, thì má cứ ôm lòng đau khổ như vầy, chắc má sẽ chết gấp."
Giao xúc động cực điểm nên vụt đứng dậy mà nói: "Ba có tính bỏ má con bao giờ đâu? Má con bỏ ba mà theo ở với con sao được. Ba không bằng lòng để má con đi. Ðâu để ba về ba hỏi má con lại coi."
Giao xăng xớm vừa kêu cô Lựu vừa đi lại chỗ móc nón lấy nón nỉ mà đội.
Cô Lựu nghe kêu cô lật đật bước ra.
Giao ngó thấy liền nói: "Coi chừng nhà nghe hôn...Qua về". Chàng day lại nói với cô Tý đã lau nước mắt và đương cầm bóp đứng dậy: "Thôi, về con."
Giao đi ra cửa. Tý nói với cô Lựu: "Em xin tạm biệt chị. Mai hoặc mốt em phải ra Vũng Tàu ở ít bữa hứng gió biển với chồng em. Chừng em trở về, nếu em còn ở Sài gòn lâu thì em sẽ mời chị qua nhà chơi. Em chào chị."
Cô Tý ra cửa đi riết theo cha. Cô Lựu ngơ ngẩn đứng ngó, có sắc thẹn thùa.
Ra tới dốc cầu, cô Tý kêu xích lô, Giao không cho, biểu lại đò qua Cầu Kho mà về đi xe phải đi vòng xa vô ích lại tốn tiền nhiều.
Gần 11 giờ cô Xuyến kho thịt kho cá xong rồi hết, cô bắt nồi cơm mà nấu, cơm cũng đã cạn rồi. Cô biểu con Hòa ở dưới bếp coi chừng, cô bồng em nhỏ ra cửa đứng chơi, có ý chờ Tý.
Tình cờ cô thấy chồng với con ở ngoài xăng xớm đi vô đường hẻm. Cô thụt vô đứng dựa cái bàn. Giao bước vô nhìn vợ trân trân. Cô Tý xớt bồng em nhỏ đi thẳng vô buồng, có ý để cho cha mẹ thong thả mà nói chuyện.
Giao nhìn vợ một chút rồi hỏi:
- Mình buồn rầu cả hai năm nay, sao mình không chịu nói cho tôi hay, để đau khổ ăn ngủ không được đến ốm o như vầy?
- Nói cho mình biết sợ mình không vui lòng.
- Nếu mình nói thì tôi ở nhà, chớ đi chơi làm chi.
- Ðể cho mình đi chơi đặng mình vui chớ. Tôi đã già rồi, tôi phải biết phận tôi. Thà tôi chịu buồn một mình, tôi kéo thêm cho mình buồn với có ích gì?
Giao lắc đầu rồi kéo ghế mà ngồi. Giao biểu vợ ngồi cho chàng nói chuyện. Vợ ngồi ngay mặt chàng mà khóc. Chàng xúc động, nên chàng nói:
- Từ ngày con Tý đi dạy học cho tới bây giờ, tôi thấy mình vẫn vui vẻ như thường, nên tôi đi chơi. Nếu tôi dè như vầy thì tôi có thèm đi đâu. Thời may con Tý về, nó dọ dẫm lòng mình, rồi nó nói tôi hay mình âm thầm mà chịu đau khổ cho tôi vui.
- Tôi phải xét phận tôi. Tôi già rồi mà mình còn trẻ. Vì tôi thành thiệt yêu mình, lại tôi còn phải đáp tình trả nghĩa cho mình nữa, thì tôi phải hy sinh, tôi tránh qua một bên cho mình vui theo tuổi của mình vậy mới phải.
- Mình để cho tôi vui mà mình buồn rầu mình phải chết, thì té ra tôi giết mình, tôi vui làm sao được.
- Tôi chết cũng vừa rồi. Nhờ mình mà tôi được thưởng thức tình yêu, thưởng thức ngỏa nguê trót mười mấy năm trường, thì đã quá sự mong muốn của tôi ngày trước. Tôi còn ức uất gì nữa mà níu sự sống làm cho mình mất vui, thiệt thòi cho phận mình.
- Mình cứ lo phận tôi, mình không kể phận mình.
- Thì trước kia mình cứ lo cho phận tôi, nên bây giờ tôi phải lo cho phận mình chớ sao.
- Con Tý nói với tôi nó xin rước mình xuống Gò Công ở với nó đặng nó nuôi. Mình có tính như vậy hay sao?
- Không. Tôi có tính như vậy bao giờ đâu. Ðể tôi kêu con Tý ra tôi hỏi coi tại sao nó nói kỳ cục như vậy. Tôi đi theo nó tôi bỏ mình sao được. Ai lo cơm nước, áo quần cho mình?
Nãy giờ cô Tý ngồi trong buồng lóng nghe cha mẹ nói chuyện. Chừng nghe nói tới cô thì cô bồng con ra bộ ván trước mà ngồi.
Giao nghe vợ nói không thể bỏ chàng được, thì chàng châu mày mà nói:
- Mình không bỏ tôi được, thì tôi đành bỏ mình hay sao?
- Chừng nào mình bỏ tôi thì tự nhiên tôi phải theo con.
- Tôi có tính bỏ mình hồi nào đâu. Thôi, gần 12 giờ, coi cơm chín thì dọn ăn. Tôi không thèm đi chơi nữa đâu. Mình đừng buồn rầu nữa, phải lo tiếp dưỡng sức khỏe đặng sống lâu với tôi. Hễ tôi hứa thì chắc. Mình đã ngó thấy rồi, chẳng nên nghi tôi nói dóc.
Cô Xuyến đứng dậy đi dọn cơm cho chồng ăn. Cô Tý thấy mẹ cha đã hoà thuận, mẹ đã già cha còn trẻ, mà cả hai vẫn còn giữ tình yêu nồng nhiệt, thì cô hết sức vui mừng, bồng con đi vô giao cho Hòa rồi phụ với mẹ dọn cơm ăn.
Bữa cơm hoà hiệp nầy chứa chan tình thân ái, nên cả cha mẹ và con đều vui vẻ, không ai muốn nhắc tới chuyện đau khổ về cảnh vợ già chồng trẻ nữa, nên cô Xuyến ăn biết ngon, bởi vậy cô ăn nhiều.
Qua trưa thứ hai, Giáo Thành đi Bạc Liêu, thầy trở lên rồi sáng thứ ba đem vợ con đi Vũng Tàu hứng gió.
Tối lại rảnh rang, Giao với Xuyến khép cửa nằm trên ván mà nói chuyện. Cô Xuyến mới hỏi chồng vậy chớ sớm mơi chúa nhựt Tý đi chợ, Tý gặp Giao ở đâu mà cha con dắt nhau trở về đó.
Giao nói Tý qua nhà cô Lựu mà kiếm chàng. Tý gặp chàng tại đó làm cho chàng hổ thẹn bối rối hết sức, tưởng Tý kiếm chuyện mà gây gổ. Chẳng dè Tý với Lựu là chị em bạn học tại trường Cầu Kho hồi trước. Hai đàng mừng nhau, nói chuyện vui vẻ và nhã nhặn, rồi Tý xin phép nói chuyện riêng với chàng. Giao thuật lại cho vợ nghe đủ hết các lời Tý nói với chàng. Nhờ vậy chàng mới hay, hai năm nay chàng đi chơi, chàng làm đau khổ cho vợ ở nhà. Chàng nghe Tý nói chàng động lòng. Chàng ăn năn về sự chàng vô ý, thấy Xuyến vẫn vui vẻ, chăm nom, chàng quên lời thề ước ngày xưa, Cô Tý nhắc chàng mới tỉnh ngộ nên lật đật đi về, kẻo Xuyến lầm tưởng chàng đã dứt tình yêu với nàng, kỳ thiệt dầu nàng đã già nhưng tình yêu của nàng vẫn còn nồng nhiệt như xưa, yêu đến hy sinh cho chồng vui sướng, tình yêu đó là tình yêu quí vô giá, có thế nào mà chàng bỏ được.
Giao nói tới đó, chàng vùng ngồi dậy ngó vợ mà nói tiếp:
- Thà tôi bỏ cô Lựu chớ tôi bỏ mình sao được. Tôi xin mình tha lỗi cho tôi. Tôi vô ý nên mới lầm lạc. Bây giờ tôi biết bụng mình rồi, tôi không nỡ làm cho mình buồn nữa đâu.
- Mình bỏ cô Lựu có lẽ tội nghiệp cho cô. Tôi xin mình nói thiệt cho tôi biết coi cô Lựu phải là con bà Tư Yến bán hàng vải ngoài chợ Ông Lãnh hay không,
- Phải. Cô ở chung với cha mẹ bên xóm Cầu Dừa, ở trong một nhà ngói hai căn. Bà Tư Yến bán hàng. Ông húng hính ở nhà, coi bộ không làm gì hết. Nhưng mà trong nhà cũng đủ ăn.
- Mình kết tình với cô Lựu từ hồi nào? Tôi hỏi cho biết, chớ không phải tôi ghen.
- Năm ngoái tôi đi chơi, tôi gặp cô. Thấy cô vui vẻ tôi làm quen nói chuyện rồi mời cô đi coi hát. Tôi giao tình với cô từ hồi đó, rồi tới lui thăm cô.
- Mình tới nhà cô ở ngày đêm, cha mẹ cô không rầy la, ngăn cản hay sao?
- Vợ chồng ông Tư Yến có một chút con đó mà thôi, nên cưng lắm. Lựu muốn thế nào tự ý, cha mẹ không bao giờ rầy.
- Cô Lựu biết mình có vợ hay không?
- Biết chớ. Tôi có nói. Nhưng cô nghĩ nhà ai nấy ở, nên cô không ngại gì.
- Cô là gái lỡ thời hay là gái bị chồng bỏ hoặc chồng chết?
- Không. Cô là gái mới lớn lên. Năm nay mới được 24 tuổi.
- Té ra lớn hơn con Tý mình một tuổi.
- Hai đứa nó một chạn với nhau, bởi vậy hồi nhỏ mới học một lớp.
- Cô Xuyến gác tay qua trán nằm suy nghĩ một hồi rồi cô cũng ngồi dậy mà nói:
- Không được mình không nên vì tình yêu của tôi mà bỏ cô Lựu. Làm như vậy tội lắm.
- Tội gì? Hồi mới gặp nhau cô biết tôi có vợ. Nhưng cô không nệ, cô nói thương nhau thì gần nhau, nhưng ai ở nhà nấy, có hại chi đâu mà sợ. Bây giờ tôi không tới lui nữa cô biết tôi bỏ, thì cô kiếm chồng khác chớ gì.
- Mình nói nghe dễ quá! Lòng dạ đàn bà khó lắm mình ơi! Nếu cô Lựu thành thiệt yêu mình, mà mình bỏ cô thì cô nói mình gạt mà phá trinh cô, mình vui chơi cho đã rồi mình bỏ. Cô tức giận, cô oán thù rồi cô giết mình chớ phải chơi sao.
- Ðâu có dữ vậy!
- Biết chừng đâu. Con người chừng họ uất ức thì họ có kể tội phước gì nữa. Vậy chớ mình không nghe đàn bà đốt chồng, cắt cổ chồng, tra thuốc độc cho chồng, mà nhựt trình nói rùm beng đó hay sao? Mình không nên bỏ cô Lựu. Tôi không bằng lòng chút nào hết, bởi vì làm như vậy vợ chồng mình đều mang tiếng không tốt, tôi mang tiếng "bà già ghen tương.", còn mình mang tiếng "đàn ông đản hậu." Huống chi cô Lựu là gái mới lớn lên, nếu cô thành thiệt yêu mình mà mình gạt cô rồi mình bỏ thì tội nghiệp cho tình của cô lắm, lại cũng tội nghiệp cho danh giá của cô lem luốc nữa. Ðã vậy mà cha mẹ cô có lẽ yêu mình, tin bụng mình lắm, nên từ năm ngoái cho tới giờ mới để cho mình tới lui thong thả. Ổng bả tử tế với mình như vậy mà mình đành lòng làm cho ổng bả xấu hổ buồn rầu hay sao mình?
- Tôi biết làm sao? Tôi xa mình không được, tự nhiên tôi phải bỏ Lựu.
Cô Xuyến suy nghĩ nữa rồi cô nói:
- Tôi thấy có cách nầy thì lưỡng toàn: tối mai mình dắt tôi qua Cầu Dừa đặng tôi làm quen với vợ chồng ông Tư Yến và tôi dọ tánh tình cô Lựu luôn thể. Nếu cô Lựu thiệt yêu mình, tôi xin cưới cô cho mình. Ðời nay thiếu chi người hai vợ.
- Mình chịu chia sớt tình yêu của tôi hay sao?
- Sao lại không chịu. Tình tôi già rồi, tình mình còn trẻ. Tôi phải để tình trẻ phối hiệp với tình trẻ, tình già ở một bên chăm nom săn sóc, làm cho hạnh phúc gia đình bền vững hoài hoài. Vậy không phải là tốt hay sao? Ðược như vậy, gom về ở chung một nhà, tôi hết buồn rầu mà chết gấp, mình được thỏa mãn tình yêu trẻ trung, cô Lựu cũng khỏi uất ức mà oán hận. Ðó là giải pháp hay nhứt, tôi đã có bày tỏ với mình hồi mới gặp nhau, mình còn nhớ hay không?
- Nhớ. Mình muốn thế nào tôi cũng chịu hết, miễn mình khỏi đau khổ nữa thì tôi bằng lòng.
- Vậy thì chiều mai, mãn giờ làm việc, mình ghé cho cô Lựu hay trước, rồi tối mình dắt tôi qua thăm. Nếu liệu được thì tôi sẽ tính cuộc sum hiệp cho đâu đó đều an vui mà chung sống trong cảnh đời thân ái.
Bữa sau, ăn cơm tối xong rồi, Giao với Xuyến mặc y phục đàng hoàng, khóa cửa đi qua Cầu Dừa.
Vợ chồng Tư Yến với cô Lựu, nhờ có Giao ghé cho hay trước hồi chiều rồi, nên cũng sắp đặt sẵn sàng mà tiếp khách.
Vợ chồng Giao vô cửa. Cô Lựu bước ra tiếp chào cô Xuyến mà mời vô nhà. Vợ chồng ông Tư Yến niềm nở chào mừng. Bà Tư mời Xuyến ngồi bên ván với bà mà uống nước, để ông Tư với Giao ngồi ghế gần đó. Lựu lăng xăng lo trầu nước mà đãi khách.
Chủ khách vui vẻ nói chuyện mưa nắng cùng giá sanh hoạt mắc mỏ một hồi thì cô Xuyến nhận thấy vợ chồng ông Tư Yến thiệt thà tử tế, còn cô Lựu không phải là một hoa khôi về sắc đẹp, song gương mặt sáng rỡ, tướng mạo yêu kiều, đi dứng dịu dàng, lời nói khiêm nhượng, điểm trang không son phấn, y phục không lả lơi mà cũng không lòe loẹt. Ðàng kia cô Lựu cũng như cha mẹ cô đều công nhận thấy cô Xuyến trộng tuổi, tánh nết ôn hòa, lời nói hiền lành, gương mặt đạo đức, không có vẻ hung hăng độc hiểm. Hai bên đều vừa ý nhau hết.
Nhưng cô Xuyến chưa biết được tánh tình của cô Lựu nên không dám nói tới việc hôn nhơn. Bà Tư Yến chưa biết ý cô Xuyến nên bà cũng không dám mở lời.
Ông Tư Yến muốn kết thúc công việc phứt cho rồi nên ông hỏi: "Theo lời của Giao nói hồi chiều thì cô hai qua thăm vợ chồng tôi đặng bàn tính chuyện lẹo tẹo giữa Giao với Lựu phải hôn cô Hai?"
Cô Xuyến cười và đáp:
- Thưa phải. Cháu qua trước thăm bác với em Lựu, sao tính chuyện đó cho ổn thỏa, không nên để thầm tối rồi hóa ra tồi tệ người ta chê cười. Nãy giờ cháu chưa biết ý hai bác thế nào, nên cháu không dám nói ra.
- Dầu việc gì cũng vậy, mình lấy lòng thành thiệt mà đối đãi với nhau thì tốt hơn cô hai à. Tại duyên nợ gì đâu không biết mà Giao với Lựu thương nhau từ năm ngoái đến giờ, nó làm cho vợ chồng tôi lo ngại hết sức. Nếu cô hai không nghĩ, cô đến đây làm rầy thì vợ chồng tôi không còn mặt mũi nào ngó chòm xóm.
- Cháu không có vậy đâu bác. Dầu cháu có máu ghen đi nữa thì cháu làm sao chớ có lẽ nào cháu dám nói động tới hai bác. Sanh con há dễ sanh lòng, hai bác lẽ nào xúi con làm việc quấy hay sao mà phiền hai bác. Mà việc của em Lựu với ở nhà[2] cháu đây chắc là cuộc tình duyên của ông trời sắp đặt, theo như lời bác mới nói hồi nãy. Nếu hai bác vui lòng cho phép chánh thức phối hiệp thì càng tốt, cháu mừng lắm chớ sao lại rầy rà. Người ta đồn đãi tới tai cháu lâu rồi, ngặt ở nhà cháu giấu, không nói cho cháu biết, có lẽ sợ cháu buồn, bởi vậy cháu không có phép hở môi ra được. May có con nhỏ cháu về chơi nó hay chuyện nầy, nó khơi ra, ở nhà cháu mới chịu nói thiệt. Bữa nay cháu qua đây cháu có ý muốn thăm dò hai bác có vui lòng cho phép ở nhà cháu chánh thức phối hiệp với em Lựu hay không, đặng cháu tính sắp đặt gia đạo rồi gây cuộc xum hiệp một nhà cho vui.
Bà Tư Yến lộ sắc mừng, bà giành với ông mà trả lời:
- Việc dĩ lỡ rồi, được như vậy thì vợ chồng tôi mừng lắm. Tôi nói thiệt với cô hai, con Lựu đã có nghén hơn hai tháng rồi. Nếu cô hai xuôi thuận thì cô cứu giùm danh giá cả nhà tôi.
- Nếu có vậy thì cháu càng xuôi thuận nhiều hơn nữa. Ðó là phước đức lớn của Trời ban cho nhà cháu. Vậy cháu xin hai bác cho phép cháu mời em Lựu trưa mai qua nhà cháu ăn cơm đặng chị em bàn tính với nhau cho trên thuận dưới hoà trong êm ngoài ấm.
- Ðược. Cô hai thương em út, hễ cô biểu thì nó phải qua, cần gì phải xin phép vợ chồng tôi.
Cô Xuyến nói với Lựu để mai chồng cô làm mãn giờ ghé rước thì đi theo qua ăn cơm. Cô Lựu nói cô biết nhà, chẳng cần phải rước. Cô hỏi Xuyến muốn cô qua giờ nào. Xuyến nói buổi sớm mơi cô đi chợ một lát thì cô về. Lựu muốn qua giờ nào cũng được.
Lựu hứa chừng chín mười giờ cô qua.
Vợ chồng Giao từ mà về. Lựu đưa Xuyến ra tới dốc cầu rồi chị em phân rẽ.
Sáng bữa sau cô Xuyến đi chợ về, cô lui cui làm cá xắt thịt mà kho xong rồi hết, đợi 11 giờ sẽ nấu canh chua và chiên thịt bò.
Cô đi ra trước ngồi chơi. Cô ngó đồng hồ mới 9 giờ một khắc. Cô nghĩ thầm trong trí rằng mình mời ăn cơm trưa mà Lựu biết Giao làm hãng cưa 11 giờ rưỡi mới được nghỉ mà về ăn cơm, thì dầu Lựu có qua sớm cũng lối 11 giờ nàng mới qua tới. Chẳng dè vừa nghĩ như vậy kế thấy Lựu bước vô tay có xách một cái giỏ đồ, đầu đội khăn lụa trắng; chưn mang đôi guốc vông, mình mặc quần lãnh đen với áo dài lụa trắng.
Lựu lột khăn chào Xuyến, Xuyến đứng dậy mà mừng, rồi kéo ghế, mời Lựu ngồi. Lựu không ngồi, cứ xách giỏ đi vô trong, làm như người quen biết trong nhà lâu rồi vậy, chớ không phải người khách.
Xuyến đắt ý nên cô đi theo, miệng chúm chím cười.
Lựu vắt cái khăn trên sào áo, để cái giỏ trên bộ ván, rồi lại cửa ngó xuống bếp, bộ như muốn kiếm vật chi vậy. Xuyến hỏi muốn kiếm chi, thì Lựu xin cho mượn hai cái dĩa. Xuyến lấy đưa hai cái dĩa bàn. Lựu dở giỏ mà sắp ra một dĩa bánh ngọt với một dĩa trái cây.
Xuyến nói: "Mua làm chi nhiều dữ vậy?"
Lựu cười mà nói: "Em đem qua cho chị ăn chơi. Em ra mắt chị phải có lễ vật chút đỉnh. Em xin chị nhận đặng chứng lòng kỉnh thuận của em."
Nghe lời khiêm nhượng khôn ngoan, Xuyến lấy làm hài lòng nên biểu Lựu ngồi lên ván rồi nói:
- Hồi hôm nghe bà bác nói em có nghén chị mừng quá. Em chắc được mấy tháng rồi?
- Thưa, chừng hai tháng rưỡi.
- Bây giờ chị mới thấy rõ ba con Tý làm phải nên Trời Phật cho hưởng phước. Chị mời em qua chơi, chị có ý muốn bày tỏ việc nhà của chị cho em hiểu, rồi cậy em hiệp với chị mà tạo cảnh gia đình hoàn toàn thân yêu, êm ấm, vì một mình chị không đủ khả năng mà tạo ra. Chị tỏ thiệt với em; khi chị làm bạn trăm năm với ba con Tý thì chị đã lớn tuổi, mà con Tý cũng đã được bảy tuổi rồi. Có lẽ ba nó đã có nói chuyện đó cho em biết chớ.
- Thưa, không có. Té ra cô Tý là con riêng của chị hay sao?
- Con riêng. Vợ chồng chị ăn ở với nhau trót 15 năm nay thuận hòa vui sướng vô cùng. Ba con Tý cho chị hưởng tình yêu ngỏa nguê, lại nuôi dạy cho con Tý lập thân vẻ vang, đó là một việc nghĩa rất lớn. Vì chị lớn tuổi hơn nhiều nên chị già gấp, không còn tình yêu trẻ trung mà đáp với tình yêu của ba nó, cũng không sanh con được đặng trả nghĩa cho ba nó. Vì vậy nên mấy năm sau đây chị buồn rầu ăn ngủ không được, nên chị ốm yếu rồi già thêm mau. Nay gặp được em, chị hết sức vui mừng. Chị mong em về ở chung một nhà với chị đặng em đem tình yêu trẻ trung của em mà đáp cho ba nó giùm cho chị. Em sanh con thì chị bảo lãnh chị thế cho em mà nuôi dạy nó để trả nghĩa cho ba nó. Thiệt ý của chị là vậy đó. Chị xin em đừng nghi ngại bụng chị. Em coi chị cũng như chị ruột của em. Chị già chị không ghen tương gì đâu mà sợ. Chị coi em cũng như em ruột, cái gì em sơ sót chị chỉ bảo cho. Chị chỉ mong em làm trọn đạo người vợ hiền, thì em sẽ được một người chị thân yêu với một người chồng dan díu.
- Em rất cảm động mà được chị thành thiệt thương em. Em sẽ tận tâm lo đền đáp tình nghĩa của chị, dầu cực khổ, dầu nát thân đi nữa em cũng không nệ, nhưng em phải thưa thiệt với chị, cha mẹ em chỉ có một mình em là con mà thôi, thuở nay không rời em. Về ở bên nầy với chị thì em sẵn lòng. Ngặt em sợ cha mẹ em không vui.
- Nói về bên nầy nhưng không phải bắt luôn, không cho em về bển. Ðây với đó không xa xuôi gì. Mỗi ngày em về thăm hai bác cũng được, chớ có bỏ bê gì mà sợ, chị không có cha mẹ, chị sẽ kính mến cha mẹ của em cũng như của chị. Chị em mình hiệp nhau mà chăm nom. Nếu em xuôi thuận thì chị bảo lãnh chị sẽ nói cho hai bác vui lòng.
- Còn việc nầy nữa. Em với cô Tý là chị em bạn học hồi trước. Em về ở bên nầy, cô gặp cô có vui lòng không?
- Em khỏi lo điều đó. Nó là con của chị, nó đâu nghịch ý chị. Mà nó qua đến nhà em mà phân trần việc gia đạo, nó không có nói một tiếng mích lòng em. Bao nhiêu đó cũng đủ thấy nó không có ác cảm gì với em hết.
- Vì em sợ chị nghi em trái ý nên em phải tỏ mấy điều em lo ngại cho chị nghe, chớ chị đã sẵn lòng thương em út, chị muốn lẽ nào em cũng vâng, em đâu dám chối cãi.
- Thôi, bây giờ chị em mình xuống lo làm đồ ăn đặng 12 giờ ba con Tý về có cơm mà ăn.
Cô Lựu cởi áo dài ra mà máng trên sào, cô mặc áo bà ba ở trong mà phụ lo bữa cơm với cô Xuyến.
Chừng Giao về, chàng thấy hai vợ lăng xăng trong bếp thì chàng cười, mừng thầm về sự mình núp lén vợ con mà làm điều quấy, nhưng nhờ con khôn ngoan, biết trọng nghĩa và nhờ vợ thành thiệt đến già mà cũng vẫn nặng tình, bởi vậy cảnh buồn hóa ra cảnh vui, điều quấy biến thành điều phải.
Bữa cơm trưa nầy là bữa cơm thứ nhứt Giao được ăn chung với hai vợ trong bầu không khí chan chứa thân yêu, bởi vậy Giao đắc chí cười hoài, ngó vợ lớn mà ngó vợ nhỏ cũng cười, dường như muốn chia sớt tình yêu đầy đủ cho cả đôi bên, không để bên nào mừng nhiều, còn bên nào chê ít.
Cô Xuyến thuật lại cho chồng nghe các điều cô mới bàn tính với Lựu đặng tổ chức cuộc xum hiệp êm ấm và lâu dài. Cô không giấu chồng về trí ý và về mục đích của cuộc xum hiệp nầy. Cô cũng không quên hai điều mà Lựu ái ngại, một là ở bên nầy sợ cha mẹ buồn, hai là đối với Tý, Lựu khó xử.
Giao khen vợ khéo sắp đặt, khen trí cao thượng, mà cũng khen mục đích nghĩa nhân. Về sự Lựu ái ngại thì Giao nói tối nay hoặc tối mai vợ chồng Giao qua thưa với ông và bà Tư Yến về hảo ý của đôi bên tự nhiên hai ông bà vui lòng; Còn sợ Lựu gặp Tý, Lựu ngỡ ngàng thì chờ vợ chồng Tý hứng gió xong rồi và đã trở về Gò Công rồi sẽ rước Lựu về ở chung, đợi lâu lâu sẽ cho hai đàng gặp nhau tự nhiên hết ngần ngại.
Giao nghe chắc Lựu có thai chàng càng vui mừng thêm nữa, bởi vậy chừng ăn cơm rồi ba người cứ bàn luận về việc đó, ai cũng mong ước Lựu sanh con trai thì phải đặt tên Quì để kỷ niệm sự gặp gỡ nhau và dắt nhau đi coi hát nhằm tuồng họ hát có Tiết Giao với Tiết Quì.
Giao đi làm buổi chiều được một lát rồi Lựu mới xin phép với Xuyến mà về.
Tối bữa đó Giao hỏi Xuyến muốn đi qua nói chuyện với vợ chồng ông Tư Yến hay không. Xuyến nói phải để cho Lựu bàn tính với cha mẹ cho xong rồi mình sẽ qua, chờ một hai bữa nghĩ không muộn.
Ðêm sau vợ chồng Giao qua bày tỏ trí ý tính đem Lựu về ở chung thì vợ chồng ông Tư Yến nói vì tình vì nghĩa nên dầu thương con hai ông bà cũng phải ép bụng để cho con theo chồng. Nhưng hai ông bà xin đôi ba bữa cho Lựu về thăm một lát cho ông bà bớt nhớ.
Tuần sau vợ chồng Thành với Tý đi hứng gió rồi trở về. Cô Xuyến thuật cho Tý nghe chuyện cha mẹ tính rước Lựu về ở chung và ông bà Tư Yến cũng đã thỏa thuận rồi. Tý thấy mẹ có sắc hân hoan, chớ không phải buồn bực như hôm trước nữa, lại nghe Lựu đã có nghén hơn hai tháng thì Tý vui mừng, tán thành cuộc xum hiệp một nhà và hứa không về thăm gấp cho Lựu khỏi ngần ngại.
Vợ chồng Tý ở chơi vài bữa rồi trở về Gò Công.
Vợ chồng Giao qua xin ông Tư Yến chọn ngày tốt rồi đủ hai vợ chồng đi rước Lựu về ở chung một nhà.
Từ đây nhà của Giao chứa đầy hạnh phúc tràn trề. Giao vui với nghĩa, say với tình, quyết yêu hai vợ đồng nhau cho khỏi sanh xích mích. Xuyến cố gắng làm cho xứng đáng bực chị cả. Lựu cũng thành tâm chiều chuộng, thương chồng kỉnh chị cho trọn niềm vợ nhỏ đối với vợ lớn. Lựu lo cơm nước để cho Xuyến may. Nhưng Xuyến có rảnh thì cũng phụ với Lựu hoặc đi chợ nấu cơm, còn giờ nào Lựu rảnh thì dạy Lựu may vá.
Cách sáu bảy tháng sau Lựu sanh con, lại sanh con trai y như ý vợ chồng Giao mong ước. Giao mừng rỡ hết sức, khai sanh cho con chàng đặt tên Quì. Y như lời hứa. Xuyến tận tâm nuôi Lựu lúc còn nằm dưỡng sức tại nhà bảo sanh. Chừng rước về nhà thì Xuyến chăm nom săn sóc em nhỏ châu đáo.
Vợ chồng ông Tư Yến cũng mừng rỡ hết sức, thay phiên nhau qua thăm con, thăm cháu ngoại hằng ngày.
Cô Xuyến gởi thơ cho Tý mà báo tin mừng. Tý hồi âm chúc cho Lựu mau phục sức và hứa bữa ăn đầy tháng nhằm dịp lễ được nghỉ, Tý sẽ về thăm mà chung vui với cha mẹ.
Giao được thỏa mãn đủ mọi điều, thỏa mãn với nghĩa của vợ lớn, với tình vợ nhỏ, với dĩ vãng thân yêu, với tương lai hứa hẹn, bởi vậy chàng khoái chí nên bữa ăn đầy tháng, cô Tý để con ở nhà với chồng, cô về một mình mà chung vui, chàng biểu hai vợ mua đồ làm một tiệc đặng mừng tiếp hạnh phúc.
Trong lúc vợ chồng con cái ăn uống vui cười, Giao cao hứng nên chàng nói: "Người ta thường nói: "Vợ già chồng trẻ là tiên non bồng". Bây giờ tôi mới công nhận lời ấy thiệt là đúng. Tôi nhờ có vợ già nên tôi mới được vui sướng như tiên ở trong cảnh Bồng Lai như vầy đây."
Cô Tý cười mà nói: "Con nghe người ta cũng nói Tiên có khi cũng phải đọa trần. Vậy con xin ba nhớ má con lớn hơn ba có 11 tuổi, còn ba lớn hơn dì Lựu tới 12 tuổi. Một ngày kia ba sẽ gặp cái cảnh "chồng già vợ trẻ." Con sợ ba sẽ đọa trần, ba hết vui sướng nữa."
Giao cũng cười mà nói: "Chồng già vợ trẻ là duyên." Duyên nợ là việc Trời định, có sao đâu mà con sợ. Trời định lẽ nào ba cũng phải chịu. Nếu trời biểu ông Tiên nầy phải đọa trần, thì ba đội nón mà đi liền. Mà con cũng phải nhớ nợ trái oan hễ vay thì phải trả. Ba đã vay thì dầu phải trả ba cũng sẵn lòng. Ba không chạy chối đâu con."
Xuyến với Lựu nhìn nhau mà cười. Tại sao mà cả hai nàng cười? Cười Giao khôn ngoan dùng lời kín đáo mà dạy vợ nhỏ.
Phú Nhuận, tháng 11 1956 Ý và tình
Phần thứ nhứt
(1) I
Năm 1929, giữa tháng sáu, sau một cơn hạn kéo dài hơn 10 ngày, rồi liên tiếp mấy bữa giọt mưa chan tưới đều hết làm cho đồng ruộng chỗ nào cũng có nước đầy đủ. Nông gia hớn hở, ai cũng lo làm cho kịp thời. Cái quang cảnh ngoài đồng, ở miền Hậu Giang, có vẻ náo nhiệt khác thường, vì ở đâu người ta cũng lăng xăng hoạt động, vui vẻ cần lao, chỗ thì cào phát, chỗ thì cày bừa, chỗ thì nhổ mạ chở đi, chỗ thì lum khum cấy lúa.
Lối hai giờ trưa, trên khúc liên tỉnh từ Sóc Trăng qua Bạc Liêu, có một chiếc xe hơi nhỏ, 2 chỗ ngồi, ở phía Sóc Trăng chạy vô, xe sơn màu đỏ và cũ xì, máy kêu rầy rà, thùng khua lạch cạch. Khi gần tới Phú Lợi thì giàn máy chúng chứng, không muốn quay nữa, bởi vậy xe lúc chạy được, lúc rề rề, giục giặc một hồi rồi người sốp-phơ[1] khó ép buộc giàn máy ráng nữa được, nên phải đành ngừng sát bên lề đường mở cửa leo xuống.
Một cậu trai, chạc chừng đôi mươi tuổi, gương mặt sáng sủa, bộ tướng mạnh mẽ, mình mặc một bộ Âu phục bằng bố xám may thiệt khéo, mà trên cánh tay trái lại có cuốn một miếng nỉ đen, cậu cũng mở cửa xe phía bên kia mà bước xuống gọn gàng. Cậu thấy sốp-phơ đương lum khum dòm vô giàn máy thì cậu hỏi:
- Sao mà giục giặc vậy? Nghẹt xăng phải không?
- Thưa, không phải, xăng xuống đều lắm, chắc thiếu lửa, để tôi coi lại coi.
- Mấy bữa đám ma, anh đi chợ hoài, có giục giặc như vầy hay không?
- Thưa, không. Hổm nay chạy êm lắm mà. Xe tuy cũ nhưng mà nhờ ông ít đi, nên máy còn tốt, có hư đâu.
- Anh ráng sửa, chớ nếu nằm đường chỗ nầy thì khổ lắm đa.
- Thưa, có lẽ nào mà nằm đường. Cậu chơi một chút đợi tôi kiếm coi hư cái gì mà trắc trở đây.
Cậu trai nầy là cậu Xuân, con của Hội đồng Kinh ở trên Bình Thuỷ, thuộc tỉnh Cần Thơ. Cậu là con một, mồ côi mẹ từ hồi mười hai tuổi, học đã đậu tú tài Phần thứ nhứt, rồi mới đây ông Hội đồng lại từ trần, làm cho cậu từ còn non nớt, đương chăm chú về đèn sách, chớ chưa để ý đến việc đời, mà bây giờ trơ trọi có một mình, trong nhà không còn cha mẹ, lại cũng không có anh em, nên cậu phải lo lắng mọi bề, phải sắp đặt các việc.
Cậu thọc hai tay vào túi quần mà đi qua đi lại trên lộ, trong trí tư lự rồi sự lo biểu lộ ra ngoài, nên sắc mặt coi rất nghiêm trang.
Trời ui ui chớ không nắng, lại nhờ ngọn gió Tây thổi lao xao, bởi vậy không khí được mát mẻ rồi làm cho con người khoẻ khoắn. Cậu Xuân ngước mắt mà ngó tứ hướng, thấy dưới ruộng chẳng cách lộ bao xa, có một đám đàn bà, đầu đội nón lá, quần xăn lên tới bắp vế, đương lum khum cấy lúa. Mỗi người đều chăm chú về công việc của mình, hễ tay đâm cây nọc[2], thì tay rút tép mạ mà giâm[3] liền, làm rất lẹ làng, làm hoài không mỏi. Gần đó lại có một đám đàn ông ở trần phơi lưng đen trạy, người thì đem đám mạ rải trên ruộng đã dọn dẹp sạch sẽ rồi, người nào mình mẩy cũng lấm lem, song ai cũng hớn hở vui cười, chớ không phiền về việc cực nhọc.
Phía bên nầy lộ có hai cặp trâu đương trục đặng dọn đất cấy, hai người đứng trục tay huơi ngọn roi mây, miệng la thá ví[4] om xòm. Gần đó có một đứa trẻ cỡi một con trâu, tay dắt theo một con nữa, nó ngồi trên lưng trâu, quần áo tả tơi, mái tóc xấp xải, mà có lẽ nó vui lòng đắc ý lắm, nó nghêu ngao hát:
"Em ơi đám bắp trổ cờ,
Đám dưa trổ nụ, em chờ mà ăn"
Cậu Xuân lắng nghe lời lẽ rất thật thà, khác hẳn với giọng du dương, tứ dâm dật, của những câu hát ở thành thị, cậu chúm chím cười, đứng ngó trân trân theo đứa cỡi trâu đang thủng thẳng đi lần vào xóm. Mà trong xóm bây giờ lại có khói bay là đà trên mái lá của mấy nhà nhỏ dựa mé ruộng, cậu thấy vậy thì tin chắc trong nhà lo nhúm lửa nấu cơm đặng gần tới giờ mấy người đi trục, cấy và nhổ mạ nầy về có sẵn mà ăn.
Cậu Xuân tuy sinh trưởng nơi chốn điền viên, nhưng mà vừa lớn lên thì cậu mắc đi học, lúc bãi trường về nhà thì cậu mắc đi chơi. Đã biết cậu có thấy người ta cày, trục, cấy, nhổ mạ và gặt lúa, song thấy là thấy thoáng qua trước mắt, chớ cậu chưa quan sát cho tường tận những công việc cực nhọc của nông phu.
Hôm nay tình cờ mà cậu phải đứng lâu giữa đồng, đứng rồi tự nhiên ngó chơi mấy việc của nông phu đương làm, cậu ngó một hồi sanh cảm, trí bắt đầu suy nghĩ đến sự sống của kẻ ở chốn thôn quê. Từ đứa nhỏ cỡi trâu kia, cho tới đám đàn bà cấy lúa nầy, tới mấy anh đàn ông đứng trục và nhổ mạ đó, mỗi người đều dãi nắng dầm mưa cả năm, mọi người đều cực thân nhọc xác tối ngày, mà coi bộ ai ai cũng vui vẻ hăng hái, cực mà chẳng hề than phiền, nhọc mà chẳng hề thối chí.
Hết mùa cấy rồi tới mùa gặt, hết mùa khô rồi qua mùa ướt, quanh năm cứ chuyên làm cho ra hột lúa hoài. Như may được trúng mùa lúa tốt, hột nhiều nên vui mà làm nữa, ấy chẳng lạ chi; rủi gặp thất mùa, huê lợi không xứng với công phu cực nhọc, mà cũng vẫn hăng hái làm nữa, ấy mới thiệt mà kiên tâm bền chí.
Rõ ràng nông phu nước mình là hạng người vui vẻ mà chuyên cần lao, tận tụy với nghề nghiệp, sống thác với vườn ruộng, ai giàu sang mặc ai, ai khôn khéo mặc ai, miễn là mình an phận thủ thường, lòng bình tịnh, trí thơ thái thì thôi. Con người mà có đức tánh như vầy, thì sự sống tự nhiên vui vẻ khỏi buồn, khỏi lo, lại có thể giúp nhà thêm giàu, nước thêm mạnh.
Cậu Xuân nghĩ tới đó thì phát tâm yêu mến kính phục nông phu, rồi nhớ tới phận mình đương hăng hái học tập tài trí đặng tranh khôn, tranh khéo với đời, thì trong trí phưởng phất chút ít sự hối ngộ. Mà vừa hối ngộ thì cậu liền nghĩ nông phu có cái thú thong thả thiệt. Nông nghiệp là một nguồn lợi lớn của nước nhà thiệt, song nếu muốn dân giàu nước mạnh, thì cần phải gầy dựng công nghệ, mở rộng thương trường nữa mới được, chớ cả mọi người chuyên cày sâu cuốc bẫm, thì nền kinh tế khó mà thạnh vượng. Đời tấn hoá thì người phải tấn hoá theo...
Cậu Xuân nghĩ chưa hết ý, kế nghe xe hơi rồ xăng.
Cậu mừng rỡ chạy lại chỗ xe đậu mà hỏi:
- Chạy được rồi hả?
Sốp-phơ lắc đầu đáp:
- Thưa, ít lửa quá.
- Sao máy chạy được đó?
- Tuy chạy được, nhưng chạy không đều, hễ hụt lửa là tắt.
- Bây giờ làm sao?
- Để ráng chạy thử coi.
- Ừ, anh ráng chạy cho tới Bạc Liêu. Nếu tối thì tôi ghé nhà anh Triều tôi nghỉ, để anh sửa máy cho tử tế rồi ngày mai mình sẽ đi Cà Mau.
Ý và tình
(2) II
Đến chiều, mặt trời ló ra một chút rồi chen lặn lần lần vào một vùng mây đen kịt, giăng sừng sựng như một dãy núi cao bên hướng Tây.
Đi tới nhà Ông Từ Tệt, ở ngoài châu thành Bạc Liêu, dựa bên lề đường đi Cà Mau, xe của cậu Xuân mới quẹo vô sân rồi đậu ngay trước thềm. Cậu Xuân thủng thẳng mở cửa ra bước xuống, sốp-phơ rồ xăng, máy kêu ồ ồ, khói ra nghi ngút.
Ông Từ Tệt, đã gần 50 tuồi, đương ngồi trong nhà đọc truyện "Đông Châu liệt quốc", bỗng nghe có tiếng xe hơi vô sân, thì ông lơn tơn bước ra cửa đứng ngó, mình mặc một cái quần lãnh đen mới tinh, với một cái áo lá lụa trắng, để trống hai cánh tay rất cứng cỏi mạnh mẽ.
Cậu Xuân vừa thấy chủ nhà thì vội vã cúi chào rất hiệp lễ, nhích miệng cười, đôi môi đỏ lòm như thoa son, hai hàm răng trắng trong và khít rịt.
Ông Từ Tệt mau mắn hỏi:
- Cháu có việc gì hay sao mà đi tối như vầy?
- Thưa, cháu đi Cà Mau nên ghé thăm chú thím với anh Triều.
- Cháu đi thăm ruộng phải không?
- Dạ. Thưa chú, không biết có anh Triều ở nhà hay không?
- Không có. Nó đi chơi ngoài Đà Lạt.
- Ủa? Ảnh tính lên Đà Lạt mà sao hôm lên đám ba cháu ảnh không nói cho cháu hay! Thưa, ảnh đi hồi nào?
- Nó mới đi hôm qua. Lúc nầy bãi trường, có hai thầy giáo muốn ra ngoài đó nghỉ chơi ít ngày, họ rủ nó, nên nó đi với họ. Nó nói nó đi chừng gần khai trường rồi nó sẽ về mà đi học.
- Anh nầy thông thả quá! Còn gần một tháng nữa mới khai trường. Nếu vậy thì anh Triều sẽ ở lại Đà Lạt lâu lắm.
- Phải. Nó nói nó ở vài mươi ngày. Cháu đi Cà Mau, mà bây giờ gần tối rồi, đi làm sao được?
- Cháu thưa thiệt với chú, ở nhà cháu đi hồi 12 giờ trưa, tính chiều chắc xuống tới Cà Mau, không dè cái xe bất nhơn quá, máy thiếu lửa, nên từ Phú Lộc qua đây cứ giục giặc hoài, nên bây giờ cháu mới tới đây. Đường đi Cà Mau còn tới 60 cây số, mà trời đã tối rồi, nếu xe nằm đường thì cháu chắc sẽ nhịn đói, mà lại bị muỗi cắn nữa. Vậy cháu xin chú cho cháu nghỉ đây một đêm, cho sốp-phơ sửa máy cho tử tế rồi sáng mai cháu sẽ đi.
- Được, được. Cháu vô nhà...Anh Hội đồng mới mất mà cháu đã biết đi thăm ruộng như vậy thì được lắm. Chú khen đa. Cháu phải nong nả[1], chớ đừng có bỏ phế như anh Hội đồng thì uổng lắm. Có đất mà không lo khai phá, thì làm sao thành điền cho có huê lợi được...Thôi, vô đây cháu, vô chơi một chút rồi thím cháu sẽ về ăn cơm.
- Té ra cũng không có thím ở nhà?
- Bả đi với con Quyên vô trong chợ, đi từ hồi 4 giờ, chắc cũng gần về.
Cậu Xuân vui vẻ day lại kêu sốp-phơ biểu kiếm chỗ để xe và dặn phải ráng sửa máy để sớm mai đi khỏi trục trặc nữa.
Ông Từ Tệt chỉ một cái nhà trống bên phía tay mặt mà biểu sốp-phơ đem xe vô đó, rồi ông mới dắt cậu Xuân vô nhà.
Ông Từ Tệt ở một toà nhà rộng lớn, nền đúc cao ráo, sau có nhà cặp, hai bên có hai lẫm lúa, coi rất đồ sộ. Tuy ông gốc con cháu khách, song ông cố lo làm giàu, chớ không chịu khoe khoang kiêu hãnh như mấy ông nhà giàu mới trong xứ, bởi vậy kiểu nhà ở ngoài trông không có vẻ mỹ thuật mà trong nhà bàn ghế cũng lôi thôi, không có vẻ thanh nhã.
Cậu Xuân vô nhà, vừa ngồi thì liền hỏi theo lệ thường của hạng người có giáo dục:
- Thưa, chú thím ở dưới nầy mạnh giỏi?
- Thím của cháu thì mạnh. Còn chú từ hôm đưa đám tang của anh Hội đồng về rồi hai cái vai nó nhức dữ quá, nhức gần 10 bữa ngồi không được, mới bớt vài bữa rày đây.
- Chắc tại chú lên ở mấy bữa đó chú ngồi hoài nên mệt mỏi rồi nhức vai chớ gì?
- Có lẽ tại vậy đó. Một đời người có một lần chết mà thôi. Anh Hội đồng là anh em thuở nay yêu thương nhau, rủi ảnh từ trần, chú phải ở mà đưa ảnh lên đường cho bảo mãn, chớ lên thăm nhếu nháo[2] rồi bỏ về sao được. Vì mấy bữa đó khách khứa đông phải ngồi nói chuyện với người ta, nên có mỏi mệt chút đỉnh.
- Chú trộng tuổi mà chú ráng ngồi luôn mấy bữa tự nhiên phải bịnh.
- Không đến nỗi bịnh. Nhức mỏi hai vai chút ít vậy thôi. Anh Hội đồng mất rồi, bây giờ cháu còn có một mình, nhà cửa minh mông mới làm sao đây? Ai coi trong, ai lo ngoài? Chắc cháu phải thôi học và lo cưới vợ đặng có người giúp coi nhà cửa cho cháu, lo về ruộng vườn mới được.
- Thưa, cháu không thể thôi học được. Cháu cũng như anh Triều, thi Tú tài đã đậu một phần thứ nhứt rồi. Vậy phải ráng học thêm một năm nữa đặng thi phần thứ hai cho xong rồi sẽ hay. Mà dầu thế nào thì cháu cũng không cưới vợ.
- Sao vậy?
- Cháu muốn thong thả đặng bay nhảy với đời. Có vợ con lòng thòng khó mà lo việc lớn cho được. Cháu chắc cái đời của cháu là đời cô lập, chẳng bao giờ cháu có vợ đâu.
- Cháu nói kỳ cục quá! Người ở đời có ai mà không có vợ.
- Thưa chú, có chớ. Cháu thấy có nhiều người họ ở một mình, không thèm cưới vợ, bởi vậy họ thong thả mà kinh dinh sự nghiệp được. Cháu muốn bắt chước làm theo những người ấy.
- Cháu nói quấy. Không phải vậy đâu. Dầu ở đâu cũng vậy, ai cũng phải coi gia đình là một điều quan hệ, cần thiết hơn hết của con người. Phải có gia đình mới có Quốc gia. Nếu bỏ gia đình thì lấy chi mà duy trì chủng tộc. Mà nếu chủng tộc tiêu tuyệt thì còn chi mà lập thành Quốc gia. Ấy vậy dầu cháu học giỏi đến bực nào đi nữa, cháu cũng chẳng nên quên sự ấy. Cháu phải tôn trọng gia đình, cháu phải lo gầy dựng gia đình, rồi muốn làm việc chi sẽ làm. Muôn việc ở đời phải có gốc rồi mới có ngọn. Cháu muốn làm việc lớn mà cháu không lo bồi đắp cái gốc trước cho vững chắc, thì dầu làm việc gì cũng khó nên được.
Cậu Xuân không cãi mà lại chúm chím cười làm cho Ông Từ Tệt thấy rõ ý cậu không phục lời ông giảng dạy đó. Ông là một người nuôi chủ nghĩa thực tế, lại có tánh kiên nhẫn đầy đủ, bởi vậy ông không ngã lòng, cứ chậm rãi nói tiếp: "Theo phận của cháu thì cháu cần phải lo lập gia đình hơn người khác. Anh Hội đồng sanh có một mình cháu. Cháu phải lo cưới vợ đặng có con mà phụng tự ông bà, nối nghiệp về sau chớ. Theo phong tục người mình, bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Cháu không nhớ câu đó hay sao? ".
Cậu Xuân châu mày suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Bề nào thì cháu cũng phải lo học đặng lấy cái bằng cấp Tú tài phần thứ nhì rồi sẽ hay.
- Cháu đi học nữa, rồi bỏ nhà cửa, ruộng vườn cho ai coi?
- Cháu đã có cậy bà cô với ông dượng của cháu về ở coi nhà dùm cho cháu.
- Cô ruột phải không?
- Thưa, không. Cô bà con một họ, thuở nay ở gần một bên nhà cháu. Cháu hứa cho huê lợi trong vườn nên vợ chồng cô bằng lòng.
- Nghe nói nhà cháu đó là nhà thờ phải hôn?
- Thưa, phải.
- Người ta nói mấy năm sau đây, anh Hội đồng có bán đất cũ của ảnh ở trên Bình Thủy. Vậy chớ bây giờ ảnh còn ruộng đất ở trển được bao nhiêu, cháu biết không?
- Thưa, không còn chi hết. Ba cháu đã bán hết mà trả nợ, bây giờ còn một mẫu vườn là đất hương hoả chỗ nhà thờ đó với một ngàn mẫu đất mua của Nhà nước ở trong làng Tân Hưng, dưới Cà Mau mà thôi.
- Sở đất dưới Tân Hưng thì chú biết, bởi vì chú cũng có một sở giáp ranh đó. Sở đất đó tốt lắm. Tại anh Hội đồng có bịnh, ảnh không xuống được để qui tụ tá điền mà khai phá, ảnh cho Hương thân Kiêm nó hoá[3], mỗi năm nó đóng cho ảnh vài ba ngàn giạ lúa, thiệt uổng hết sức.
- Thưa chú, lúa ruộng của chú chắc là nhiều lắm?
- Chút đỉnh, chú góp không tới 50 ngàn giạ.
- Trời ơi! Năm chục ngàn giạ mà chú nói là chút đỉnh.
- Người ta góp tới một hai trăm ngàn giạ kia chớ.
- Cháu cầu được như chú thì sung sướng lắm rồi, không cần nhiều hơn nữa.
- Cháu muốn được số lúa gạo bằng của chú, thì cháu phải lo khai phá đất ở dưới Tân Hưng đó đi. Hễ cháu lo làm ăn thì tự nhiên cháu sẽ giàu, chắc chắn như vậy. Có đất sẵn, nếu biết cần mẫn, biết bền chí thì làm giàu dễ như chơi,
Cậu Xuân không muốn kéo dài câu chuyện ấy nữa, nên cậu trở mái mà hỏi:
- Từ hồi bãi trường năm ngoái tới giờ, cháu không có xuống dưới nầy, nên không có gặp em Quyên, không biết năm nay em còn nhõng nhẽo hay không?
- Vì má nó cưng nó quá, nên nó nhõng nhẽo lung lắm, làm sao mà hết được. Nó học trường con gái ở đây năm nay lên tới lớp nhứt rồi đó. Nó thấy con người ta đi học trên Sài Gòn, nó cứ đòi đi. Thím của cháu sợ nó đi xa rồi nhớ nó, nên không chịu cho nó đi. Nó làm giận làm hờn hổm nay.
- Cho em lên Sài gòn học mau hơn chớ.
- Chú cũng muốn như vậy, ngặt vì thím của cháu không chịu rời nó ra. Thôi, để nó học lớp nhứt dưới nầy cho có bằng Sơ học rồi sẽ hay.
- Nước da của em còn đen không?
- Nó là "Tiểu thơ mặt lọ" làm sao hết đen cho được.
- Con gái mà đen quá, chừng em lớn làm sao mà gả lấy chồng.
- Lo gì cháu! Nghèo kia mới sợ, chớ hễ có tiền thì nó bao phủ, rồi có thấy đen hay trắng gì đâu.
- Chú nói đúng lắm. Đời nay thiên hạ họ coi tiền là hơn hết.
Ông Từ Tệt cười. Cậu Xuân cũng cười.
Trời đã tối. Gia dịch đốt đèn bưng ra. Sốp phơ xách va ly của cậu Xuân đem vô nhà cho cậu.
Bà Tệt với con gái là cô Quyên đi chợ về. Khi bước vô nhà thấy Xuân thì bà mừng rỡ, rồi bà day lại hỏi con:" Con có biết anh nào đó hay không?"
Cô Quyên nay đã 15 tuổi, nước da bánh ếch lại mặc đồ đen, nên coi gương mặt tối hù. Cô nghe mẹ hỏi thì cười và đáp: "Anh Xuân là con bác Hội đồng trên Cần Thơ chớ ai."
Bà Tệt vui vẻ hỏi Xuân:
- Cháu xuống hồi nào?
- Thưa, cháu xuống hồi chiều.
- Sao cháu không đi sớm mai? Cháu đi tối rồi bỏ nhà cửa ai coi cho cháu?
Ông Từ Tệt hớt mà đáp:
- Cháu nó nói có bà cô với ông dượng về coi nhà dùm. Nó đi Cà Mau, bị xe trục trặc lỡ tối nên ghé đây mà nghỉ rồi sớm mai sẽ đi. Má nó biểu bầy trẻ dọn cơm riết đi đặng cháu nó ăn với.
Bà Tệt nghe như vậy thì vội vã đi thẳng vô nhà sau.
Cô Quyên, tóc còn bỏ xoã sau lưng chớ chưa bới, cô ngó cậu Xuân mà cười rồi đi theo mẹ vô trong.
Cách chẳng bao lâu cô Quyên trở ra mời cha và cậu Xuân vô trong dùng cơm.
Bốn người ngồi chung quanh một cái bàn tròn, Quyên ngồi gần Xuân cứ ngó Xuân mà cười.
Bà Tệt hỏi Xuân:
- Cháu đi Cà Mau thăm ruộng hay có việc chi?
Xuân dụ dự một chút rồi mới đáp:
- Dạ thưa... cũng vì việc ruộng đất đó nên cháu mới đi.
- Cháu muốn kiếm người khác mà cho hoá phải không? Bây giờ lỡ mùa rồi, muốn đổi người hoá thì phải chờ cho qua tháng giêng gặt rồi mới đổi được. Mà theo ý thím, thì cháu nên xuống đó cất nhà cất lẫm mà ở rồi qui tụ tá điền, bổn thân cháu khai phá thì tốt hơn. Họ hoá đất, họ lo kiếm cơm họ ăn, chớ họ có lo làm ruộng mình tốt đâu. Nếu cháu không cho Hương thân Kiêm hoá nữa, cháu đổi người khác thì cũng vậy. Đất của chú thím cũng mua một lượt với đất của anh Hội đồng. Nhờ chú thím ra công khai phá, nên bây giờ thành điền hết rồi. Thím mắc ở dưới gần một tháng, thím coi cấy xong, thím mới trở về ba bữa nay, chớ không thím đi theo cháu đặng thím chỉ cho cháu coi. Một ngàn mẫu của chú thím năm nay cấy giáp hết. Thím cho mướn tới hai giạ một công. Mấy chỗ tốt tới hai giạ rưỡi. Cháu ra công mà làm, trong ít năm nữa rồi đất của cháu cũng thành điền tốt như vậy.
- Cháu không biết làm ruộng lại không có vốn, nên khó mà làm được.
- Cháu không biết thì chú thím chỉ cho; còn như thiếu vốn thì chú thím giúp cho.
- Cháu xin thưa thật với thím, không biết ngày sau như thế nào, chớ hiện giờ cháu không thích nghề làm ruộng chút nào hết, cháu muốn học cho có tài rồi làm những việc vĩ đại kìa.
- Cháu không thích làm ruộng, là vì cháu chưa đặt chơn vào nghề ấy. Nghề làm ruộng vui lắm cháu. Lúc cấy rồi, lúa lên tươi tốt, sớm mai hoặc chiều mình ngó vô ruộng thì trong lòng khoẻ khoắn không biết chừng nào. Lúc lúa trổ đều rồi, hay là lúc lúa chín cũng vậy, nhà nông vui vẻ vô hồi. Lại ở ruộng, mình trồng cây trái chung quanh nhà, mình nuôi gà vịt, mình trồng cải rau, mình đào ao nuôi cá, mỗi ngày mình chăm sóc thú mình nuôi, mình vun phân tưới nước đồ mình trồng, vui biết bao nhiêu. Chốn điền viên có nhiều thú vui lắm cháu.
- Cháu thưa thiệt, tâm hồn của cháu chưa biết thú vui ấy.
Ông Từ Tệt cười và nói:
- Hồi chiều cháu nói cháu không thèm cưới vợ, nghĩa là cháu nói cháu không biết yêu thú gia đình. Bây giờ cháu lại nói cháu không thích thú điền viên. Thiệt chú không hiểu ý cháu muốn sự gì. Cháu không chịu làm ruộng, vậy chớ cháu xuống Cà Mau làm chi vậy?
Xuân lơ lửng một chút rồi thủng thẳng đáp:
- Cháu xin tỏ thật với chú thím, có ông Cả Bình ở dưới Cà Mau lên hỏi cháu mà mua sở đất của ba cháu đó. Vì vậy cháu đi xuống đó đặng tính thử coi.
Ông Từ Tệt nghe mấy lới ấy thì ông chống đũa ngó Xuân trân trân và hỏi:
- Cháu tính bán sở đất đó hay sao?
- Thưa, đất ở xa quá, lại nước mặn, phần thì cháu không thạo ruộng nương, bởi vậy cháu tính nếu họ mua phải giá thì bán cho rảnh.
- Hứ! Anh Hội đồng mới mất mấy bữa rày, cháu làm giống gì mà gấp dữ vậy?
- Cháu không biết làm ruộng, nếu để ruộng thì không có ích chi.
- Ruộng mà cháu nói không có ích, thế thì còn thứ gì có ích nữa đâu! Anh Hội đồng mất, ảnh không có chút ít tiền bạc gì cho cháu hay sao, nên cháu phải bán đất mà xài?
- Thưa, hôm ba cháu mất, cháu mở tủ sắt thì còn một ngàn bảy trăm đồng, tống táng ba cháu thì chỉ tốn có 900đ00, trong nhà còn dư lại được 800đ00.
- Còn dư tiền sao lại lật đật bán đất? Người có chí cần kiệm, nếu hễ có vốn tám trăm đồng, thì họ làm rồi có thể gây dựng sự nghiệp lớn được. Hồi chú cưới vợ rồi ra ở riêng, chú chỉ có năm trăm đồng mà thôi, chớ nhiều nhỏi gì. Cháu bây giờ có tới tám trăm đồng, lại có một ngàn mẫu đất, có nhà cửa vườn tược sẵn sàng nữa. Cháu có đủ phương thế làm giàu, sao cháu không tính bồi đắp mà lại tính phá hoại?
Xuân thấy sắc ông Từ Tệt không vui, lại không kiếm được lời mà đáp với mấy câu hữu lý của ông, bởi vậy cậu không cãi nữa.
Ăm cơm rồi, bà Tệt biểu Xuân thay đồ mát và biểu người nhà trải chiếu giăng mùng sẵn tại bộ ván lớn để Xuân nghỉ.
Ông Từ Tệt ngồi tại bàn giữa mà ăn trầu, có cô Quyên cà rà ngồi một bên. Chừng ông thấy Xuân thay đồ mát rồi, ông mới kêu cậu lại ngồi ngay trước mà hỏi: "Hồi chiều cháu nói dầu thế nào cháu cũng đi học nữa, chớ cháu không chịu bỏ học để cưới vợ mà lo việc nhà. Nếu cháu đi học nữa, mà cháu bán đất rồi cháu lấy tiền bạc làm việc gì đâu, cháu nói chú nghe thử coi."
Xuân suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Cháu bán đất lấy bạc gởi hết vào ngân hàng, mỗi năm cháu rút số tiền lời mà ăn học. Chừng nào cháu học thành tài rồi, cháu sẽ dùng số bạc ấy để làm vốn mà làm ăn.
- Vậy cháu giữ nguyên đất ấy, mỗi năm cháu lấy huê lợi mà ăn học không được sao?
- Huê lợi ít quá, lại nếu để đất thì mỗi năm phải lo đóng thuế, phải lo cho mướn, phải lo thâu góp lúa ruộng, cực lòng mà lại tốn hao nữa.
- Cháu cần dùng tiền mà ăn học mỗi năm chừng bao nhiêu?
- Thưa, chừng vài ba ngàn.
- Học gì mà lại tốn hao dữ vậy?
- Cháu tính hễ lấy đủ hai bằng Tú tài rồi thì sẽ đi Tây mà học thêm nữa, học cho tới bực cao đẳng.
Ông Từ Tệt gãi đầu, châu mày rồi nhìn vợ nằm bên bộ ván ngang đó.
Bà Từ Tệt nói:
- Cháu nói mỗi năm cháu cần dùng ba ngàn đồng bạc mà ăn học. Vậy thôi cháu đừng bán đất; cháu để thím mướn, mỗi năm thím trao cho cháu ba ngàn, thuế vụ thím đóng cho hết thảy.
Xuân ngồi lặng thinh suy nghĩ. Cô Quyên ngó cậu mà cười, song cậu cũng giữ một mực nghiêm nghị.
Ông Từ Tệt hỏi:
- Anh Hội đồng mất, mà ảnh có để nợ nần gì hay không? Cháu nói thiệt cho chú biết.
- Thưa, không. Ba cháu mắc nợ năm ngoái đã bán đất Bình Thuỷ mà trả dứt rồi, không còn thiếu ai đồng nào hết.
- Nếu không có nợ sao lại lật đật bán đất? Nầy cháu, tuy anh Hội đồng với chú là anh em bạn, chớ không phải anh em ruột thịt, song thuở nay chú thương ảnh lung lắm. Vì thương nhau nên năm trước chú mới xúi ảnh đấu giá mua đất Cà Mau đó. Chú mua một ngàn mẫu, ảnh mua một ngàn mẫu, hai anh em tính hiệp lực mà khai phá. Vì bị họ giành mua nên mới mắc một chút.
- Cháu có coi giấy tờ, mua sở đất đó tốn gần 30 ngàn.
- Phải, tuy nói mắc, song theo giá bây giờ thì không mắc đâu. Tiếc vì mua mới có một năm kế ảnh có bịnh, rồi ảnh phải hút, nên không thể chịu cực xuống Cà Mau ở mà khai phá được. Nay ảnh theo ông, theo bà, cháu là con trai thôi đừng đi học nữa, cháu cưới vợ rồi xuống ở Cà Mau, lo qui tụ tá điền mà mở đất. Chú dám nói chắc, cháu khai kinh đắp đập, lên bờ, làm trong năm năm thì cháu sẽ trở nên một vị điền chủ lớn, có đôi ba chục ngàn huê lợi. Như cháu chịu làm thì chú sẽ bày bảo giùm cho, có cần dùng tiền mà đào kinh cất nhà, hoặc mua lúa mà nuôi tá điền, thì chú sẽ giúp cho. Chú thương cháu cũng như thằng Triều nên chú mới chỉ bảo như vậy; cháu phải nghe lời chú.
Xuân ngồi cạy móng tay mà suy nghĩ.
Cô Quyên mới lấy một cái vú cau mà liệng trúng cánh tay Xuân mà cười ra tiếng. Bà Tệt thấy vậy thì trách con: "Đừng có vô phép như vậy con. Để anh con nói chuyện chớ."
Xuân lượm cái vú cau mà quăng lại cô Quyên rồi cười và đáp với ông Tệt:
- Chú cứ xúi cháu cưới vợ hoài. Đời nầy bọn thanh niên như cháu đều muốn hưởng trọn quyền tự do của mình đặng hoạt động cho dễ. Cưới vợ rồi thì vợ con ràng buộc làm cho bước đường đời lúng túng, khó mà tính việc cao xa vĩ đại cho được.
- Cháu không muốn cưới vợ thì thôi. Mà bề nào cháu cũng đừng bán sở đất đó, bán uổng lắm. Đất đến một ngàn mẫu, dễ gì kiếm hay sao cháu. Đó là cái cơ sở để giúp cháu làm giàu, lại làm giàu lớn nữa. Hột lúa quí lắm, cả bầu trời đâu đâu cũng cần dùng. Mình ở nhằm chỗ đất điền phì nhiêu, tự nhiên mình phải làm có lúa cho nhiều đặng mà lấy lợi. Nghề nông lợi lắm, lại thong thả nữa.
- Cháu cũng biết nghề nông thì lợi lắm. Mà bây giờ cháu còn nhỏ nên cháu muốn đi học, chớ chưa muốn làm ruộng. Cháu phải học cho rộng trí thức tài nghề, đặng như có làm ruộng thì làm theo cách văn minh, dùng máy móc, làm cho có hột lúa nhiều, hột lúa nặng cân đặng bán cao giá.
- Văn minh làm gì cháu. Cháu làm theo cách quê mùa thuở nay đó thì cũng có lúa được vậy.
- Nghề gì cũng vậy, phải tấn hoá chớ.
Ông Từ Tệt có tánh ngủ sớm, nên ông không cãi nữa, đứng dậy đi uống nước, sửa soạn ngủ.
Cô Quyên liền hỏi Xuân:
- Khai trường anh cũng lên Sài gòn mà học nữa như anh Hai tôi phải không?
- Ừ, qua học nữa.
- Tôi muốn lên trển tôi học quá, má tôi không chịu cho đi. Học dưới nầy cứ lù đù quá.
- Phải, trường dưới nầy nhỏ tự nhiên bực học phải thấp. Như ý em muốn lên Sài Gòn thì em thưa thiệt cho má em nghe, chắc má em dầu thương nhớ em đến đâu đi nữa cũng không lẽ không cho em lên trển mà học.
- Hay anh nói dùm với má tôi đi.
- Em muốn thì em lên xin với thím, qua đâu dám nói.
Bà Tệt nghe hai trẻ nói chuyện, bà hỏi: "Con Quyên nó nói giống gì đó?"
Xuân cười và đáp:
- Em Quyên cậy cháu xin với thím cho em lên trường Sài Gòn em học.
- Trời ơi! Đen thui mà đòi học trường Sài Gòn.
Cô Quyên cùn quằng nói:
- Con đen mặc kệ con. Sao hồi đẻ con má không đẻ cho trắng, rồi bây giờ má trở lại má cười con.
Bà Tệt cười ngất và ngồi dậy mà đáp:
- Ai biết làm sao mà đẻ cho trắng được. Ối! Má nói giễu chơi, chớ đen hay trắng cũng không cần, miễn là mình giỏi mà thôi. Khuya rồi, thôi đi ngủ con. Để cho anh con nghỉ sớm, vì ngày nay đi xa nó mệt.
Mẹ con bà Tệt dắt nhau đi vô buồng.
Xuân thấy dạng ông Tư Tệt còn thơ thẩn ngoài hàng ba, cậu sợ ông trở vô giảng luân lý nữa, nên cậu lật đật chun vô mùng mà nằm.
Ý và tình
(3) III
Sáng hôm sau, cậu Xuân thức dậy, nghe sốp-phơ đã sửa xe xong rồi, bây giờ máy có lửa đủ, hết sợ trục trặc nữa, thì cậu liền thay đồ sửa soạn đi Cà Mau.
Ông Từ Tệt thấy vậy mới hỏi:
- Cháu đi đâu mà sửa soạn thay đồ?
- Thưa, đi Cà Mau.
- Hồi hôm qua chú thím nói như vậy mà cháu không chịu đổi ý, cứ quyết bán đất hay sao, nên đi Cà Mau.
- Cháu tính nếu không bán đất, thì cháu không thể học nữa được.
- Cháu có cái trí muốn học cho cao thì tốt lắm. Thôi thì cháu cho thím cháu mướn đất đó, mỗi năm thím đóng cho cháu ba ngàn đồng bạc đặng cháu ăn học cũng được, cần gì phải bán.
- Cháu nghĩ làm như vậy không tiện.
- Sao mà không tiện? Vậy chớ họ mua bao nhiêu mà cháu ham lợi, nên bươn bả bán gấp vậy.
- Thưa, ông Cả Bình lên kiếm cháu mà trả giá 30 ngàn, cháu đòi 50 ngàn. Ồng trả thêm 5 ngàn nữa là 35 ngàn. Vì bán giá đó thấp hơn giá mua hồi trước thì bán làm sao được. Cháu tính xuống nói với ổng nếu thiệt bụng ổng muốn mua, thì ít nào 40 ngàn cháu mới bán.
- Thiệt cháu định bán và cháu dứt giá 40 ngàn hay sao?
- Dạ.
Ông Từ Tệt châu mày nghĩ một hồi lâu rồi thở dài mà nói:
- Chú không bằng lòng cho cháu bán đất. Sự nghiệp của anh Hội đồng bây giờ chỉ còn có sở đất đó mà thôi. Cháu bán rồi còn gì nữa đâu! Nếu cháu không nghe lời chú, cháu nhứt định bán, thôi thì chú mua. Cháu bán cho người ta giá nào thì chú mua giá đó. Thà là chú mua, chớ chú không đành để đất ấy về tay người khác.
Xuân chúm chím cười mà đáp:
- Như chú muốn mua, thì cháu phải bán cho chú, chớ có lẽ nào cháu bán cho thiên hạ.
- Không phải chú muốn mua. Chú nói nếu cháu quyết bán thì chú tranh mà mua, vì chú không chịu để lọt vào tay người khác. Còn như cháu để mà làm, thì chú sẽ giúp cho cháu đặng khai phá cho thành điền, chớ chú mua làm chi.
- Cháu nhứt định bán, bởi vì cháu tính đi học nhiều năm nữa, không thể để được.
- Cháu nói như vậy thì chú mua. Cháu định 40 ngàn thì chú mua 40 ngàn, chú không bớt.
- Còn 4 tuần lễ thì tới khai trường, cháu phải đi học. Vậy nếu chú mua thì chú làm giấy tờ cho gấp gấp, chớ để khai trường e bất tiện cho cháu.
- Được, cháu muốn làm giấy tờ gấp thì làm. Mình vô nói với với ông Lục sự Nô-te[1], ổng làm giấy tờ trong mấy bữa thì xong. Mà cháu có đem bằng khoán đất đi theo hay không?
- Thưa, có đủ hết, có bằng khoán, có bản đồ. Mà cháu cũng sao lục khai tử của ba cháu và có lập tờ tông chi sẵn sàng rành rẽ nữa.
- Được lắm. Cha chả, mà cháu còn nhỏ, không biết Nô-te họ có nài phải có trưởng tộc đứng hay không?
- Thưa, không. Cháu đúng 21 tuổi rồi, cần gì trưởng tộc. Cháu cũng có đem khai sanh của cháu theo trong va ly.
- Cháu sắp đặt thiệt sẵn sàng, rành rẽ. Thế thì cháu đã quyết bán đất đã lâu rồi hay sao chớ?
- Thưa không. Hôm ông Cả Bình lên nói rồi cháu mới lục giấy tờ đó.
- Anh Hội đồng ảnh chần chờ lắm. Còn cháu bây giờ lại mau mắn quá. Cháu không giống ảnh chỗ đó.
- Tánh ngày xưa khác hơn tánh ngày nay. Hạng thanh niên bây giờ thảy hết đều cương quyết, làm việc gì cũng vậy, hễ nhứt định là làm liền, không chịu dụ dự.
- Bởi vậy nên thường hay lầm.
- Thưa chú, mà nhiều khi khỏi mất cơ hội tốt.
Bà Tệt biểu gia dịch dọn đồ ăn lót lòng. Xuân được như ý muốn, mà khỏi đi Cà Mau mà bàn về sự bán đất với ông Cả Bình thì cậu vui vẻ ngồi ăn mà cứ giỡn với cô Quyên.
Ăn uống xong rồi, Xuân mới lấy giấy tờ ra xe hơi mà đi với ông Từ Tệt vô toà cậy ông Lục sự Nô-te lập tờ bán đất. Thấy mối hậu, ông Lục sự Nô-te tiếp rất hậu, xem xét giấy tờ rồi chịu lãnh làm liền và hứa sẽ làm mau mau.
Chừng về nhà, ông Từ Tệt mời luôn Xuân ở dưới nầy đợi bữa nào giấy tờ làm xong thì ký tên liền cho khỏi trễ. Bà Tệt với cô Quyên cũng ân cần cầm ở lại, nói rằng nhà đã có sẵn người coi, nên không phải cần về làm chi. Xuân chịu ở, mới sai sốp-phơ đi xe đò về Bình Thuỷ lấy thêm áo quần và lấy luôn cái máy chụp hình đem xuống cho cậu.
Cô Quyên là con cưng nhứt trong nhà nên trừ ra đi học mới đi chơi bời với chị em trong trường, còn về nhà cô không có bậu bạn nào hết, vì Triều mắc học trên Sài Gòn, không ở nhà. Nay nghe Xuân chịu ở chơi, thì cô mừng quá cô cứ đeo theo một bên Xuân, cậy Xuân dạy cô học, rủ Xuân ra vườn chơi.
Trưa bữa sau anh sốp-phơ đem đồ xuống. Xuân lấy máy chụp hình ra mà chùi, tính chiều mát mẻ đi kiếm cảnh đẹp mà chụp lấy hình để dành chơi.
Cô Quyên đòi đi theo Xuân đặng coi chụp hình. Vợ chồng ông Tư Tệt cưng con, không muốn làm cho con buồn, lại nghĩ con vẫn còn khờ dại, còn Xuân như con cháu trong nhà, một thể với Triều, bởi vậy ông bà đều chịu cho đi, song căn dặn con phải mặc quần áo cho tử tế và lên xe ngồi tề chỉnh, chẳng nên liến xáo[2].
Đến xế mát, Xuân thay y phục, mặc bộ đồ Tây, Quyên mặc áo quần toàn lụa trắng cũng mới, tóc chải láng mướt, chưn mang giày thêu, hai trẻ vui vẻ dắt nhau lên xe hơi. Vì xe có hai chỗ ngồi nên Xuân biểu sốp-phơ ở nhà, cậu cầm tay bánh để Quyên ngồi một bên, mượn Quyên ôm giùm cái máy chụp hình, rồi mới mở máy cho xe chạy ra lộ. Quyên đắc ý, liếc mắt ngó Xuân, miệng chúm chím cười. Vợ chồng ông Từ Tệt đứng bên thềm ngó theo, tuy mặt tươi cười, song lòng có chút lo ngại.
Xuân không thông thạo đường sá tỉnh Bạc Liêu, nên cậu vào chợ rồi cậu bợ ngợ không biết phải đi đường nào mới có cảnh đẹp mà lấy hình. Cậu day qua hỏi Quyên thì cô ú ớ không biết đường nào mà chỉ. Cậu đi nhầu, té ra nhằm đường qua Hưng Hội.
Ra khỏi châu thành thì hai bên đường ruộng lúa cấy đã hơn một tháng, lúa nở bụi tốt tươi, lá phơi màu xanh lét, trải ngay trước mặt là một bức tranh thiên nhiên gồm đủ cảnh quảng đại và cảnh u nhàn.
Cô Quyên có tánh cũng liến xáo, song cô có lòng đa cảm, bởi vậy thấy cảnh đẹp cô chẳng khỏi động lòng. Tiếc vì cô không đủ lời để tả cảnh tả tình, bởi vậy cô chỉ nói với giọng rất thiệt thà rằng:
- Lúa coi xanh tốt quá, anh Xuân hả?
Xuân không hiểu ý cô, nên gật đầu mà thôi, không nói tiếng chi hết, làm cho cô thất vọng ngồi buồn hiu.
Xe chạy một hồi thì tới xóm Thổ[3], kêu là Sóc Đồn.
Xuân thấy dựa trên đường có một cảnh chùa Thổ, chùa tuy không tốt lắm song chung quanh có cây cao tàn lớn, làm cho cảnh xem rất huyền ảo, đáng lấy hình dành chơi. Cậu ngừng xe bên đường mà leo xuống.
Cô Quyên xách máy chụp hình cũng leo xuống, rồi hai trẻ song song dắt nhau đi trên lộ, lựa chỗ thuận tiện mà chụp hình.
Xuân muốn lấy cái chùa và lấy luôn cho được vài cây lớn vào trong hình nên đứng lại mà nhắm. Quyên trao cái máy cho cậu, rồi đứng khít một bên, tay vịn vai cậu, mắt dòm theo chỗ cậu nhắm. Xuân chụp cái chùa rồi day qua ngó Quyên và cười mà hỏi:
- Qua muốn em lại đứng trước lùm cây kia đặng qua chụp mà lấy hình của em. Em chịu không?
- É! Không dám đâu...
- Sao mà không dám?
- Tôi sợ lắm.
- Có qua đây mà sợ cái giống gì?
- Anh đứng với tôi thì tôi mới chụp.
- Qua mắc cầm máy mà chụp, làm sao mà đứng với em được. Em lại đứng đó đi. Qua đứng trước mặt em đây, chớ phải đi đâu mà sợ.
Cô Quyên đứng suy nghĩ rồi hỏi:
- Anh muốn chụp hình tôi lắm hả?
- Ừ. Chụp đặng lấy hình "Tiểu thơ mặt lọ" để dành chơi.
Cô Quyên châu mày xụ mặt, ngoe ngoảy bỏ đi lại phía xe đậu.
Xuân lật đật đi theo, vừa cười vừa hỏi:
- Qua nói chơi, mà em giận qua hay sao?
Quyên chừ bự không trả lời.
Xuân lấy tay gõ gò má Quyên mà nói:
- Thôi dừng giận nữa. Giận rồi cái mặt trông xấu quá.
Quyên cười mà nói:
- Anh phải năn nỉ tôi mới chịu.
Xuân nói:
- Hay hờn mát quá! ...Thôi để qua xin lỗi. Vì hôm qua chú kêu em là "Tiểu thơ mặt lọ" nên qua bắt chước mà nói chơi, chớ không phải có ý ngạo em, vậy xin em đừng giận qua nữa, lại đứng đặng qua chụp hình em để làm kỷ niệm.
Quyên cùng quằng đáp:
- Nói như vậy tôi không chịu.
Xuân lắc đầu chúm chím cười và nói:
- Trời ơi! Vậy chớ phải nói thế nào em mới vừa lòng? Thôi, để qua hun em một cái, cũng như anh Triều hun em vậy, đặng qua chuộc tội nói mích lòng em, em chịu không?
Quyên cười.
Xuân bèn kề mặt mà hun gò má Quyên, cũng như đứa em gái của mình, rồi lại dắt Quyên đứng trước lùm cây, mở máy nhắm mà chụp hình. Bóng trời chiều rọi mặt Quyên, coi cô rất vui vẻ thơ thái.
Chụp hình rồi Xuân khoá máy và nói:
- Hình của em chắc tốt lắm vì bóng, vừa không nắng nhiều, mà cũng không mát lắm.
- Chắc tốt hả? Phải anh đứng chụp chung với tôi chơi.
- Làm sao được. Có ai đâu mà mượn họ chụp.
- Thôi để về nhà, tôi với anh đứng rồi cậy tía tôi chụp được không?
- Sợ chú không biết rồi chụp hư chớ.
- Anh chỉ trước thì biết chớ gì. Coi bộ dễ mà. Để tôi biểu anh Hai tôi mua cho tôi một cái máy đặng tôi chụp chơi. Anh dạy tôi trước đi. Nghe không?
- Ừ! Để về nhà rồi qua chỉ cách chụp cho em biết.
Hai trẻ dắt nhau đi dài theo lộ mà chơi. Xa xa dưới ruộng, có mấy người đàn bà Thổ đi hái rau chóc, đội thúng rau trên đầu nước chảy xuống mặt ướt nhem.
Mặt trời chen lặn, Xuân rủ Quyên trở lại mà về, Quyên giục giặc, dường như quyến luyến cảnh đồng ruộng lúa xanh, vui khí trời mát mẻ khoẻ khoắn, ham nghe tiếng dế kêu chéo chét quanh mình, nên không nỡ bỏ mà về, cứ đứng ngóng trông.
Xuân thấy vậy mới hỏi:
- Em ưa ruộng lắm hay sao?
- Tôi ưa lắm.
- Ngoài đồng buồn xo mà ưa nỗi gì?
- Ngó ruộng chơi, vui lắm chớ. Anh không ưa hay sao?
- Qua ưa đi chơi trong chợ. Ngoài ruộng buồn lắm, qua chịu không được.
- Tôi ưa ruộng chớ không ưa chợ.
- Tại em có óc "Nhà quê".
Quyên cười rồi đi theo Xuân trở lại xe mà về. Trời đã chạng vạng tối.
Khi xe vô sân rọi đèn thì thấy vợ chồng Ông Từ Tệt đương đứng trên thềm nhà mà chờ. Xe vừa ngưng thì bà Tệt nói: "Đi đâu xa lắm hay sao nên về tối dữ vậy."
Cô Quyên lật đật leo xuống xe và vui vẻ nói:
- Đi ra ngoài chỗ nào đó không biết, ruộng lúa thiệt tốt lại có chùa Thổ ngộ lắm má à. Anh Xuân chụp hình chùa rồi có chụp hình con nữa. Mai con đi nữa.
Ông Từ Tệt nói:
- Có đi thì phải về sớm sớm; về trễ ở nhà lo sợ hết sức. Chắc là đi ra ngoài Sóc Đồn chớ gì, nên mới có chùa Thổ. Thôi, đi thay đồ rồi ăn cơm.
Sáng bữa sau, vừa thức dậy thì Quyên nài Xuân phải dạy cô chụp hình. Xuân cầm máy ra đứng trước sân rồi chỉ cho cô Quyên biết cách nhắm, biết cách chụp. Quyên lấy làm đắc ý, biểu Xuân chụp cái nhà lớn, chụp hai lẫm lúa, chụp cái xe hơi có cô đứng một bên.
Quyên kêu cha mẹ ra coi. Luôn dịp Xuân chụp ông Tệt, bà Tệt, rồi chụp luôn cô Quyên ngồi trên thềm nhà.
Quyên biểu Xuân cậy ông Tệt nhắm đặng ông cầm máy mà chụp cô với Xuân đứng chung. Ban đầu ông Tệt không chịu, mà bị con ép quá, nên rồi ông cũng phải làm theo ý con.
Chụp xong rồi Quyên muốn làm sao có hình cho mau đặng cô coi. Xuân phải vô chợ kiếm tiệm chụp hình mà mướn họ rửa.
Chiều lại, Quyên đòi đi chơi nữa. Hai trẻ mới ngồi xe hơi đi vô chợ lấy hình về. Tấm hình nào cũng tốt hết thảy, mà nhứt là hình Quyên đứng trước lùm cây và hình Quyên với Xuân đứng chung thì rõ ràng đẹp lắm. Vợ chồng ông Tệt lấy làm vui lòng, biểu tiệm rửa thêm nữa, mỗi thứ làm ra 5 tấm đặng để dành chơi.
Từ ấy Quyên càng dan díu với Xuân, tối ngày không chịu rời Xuân một giây phút nào hết. Cô mặc quần áo mới luôn luôn, gỡ đầu bới tóc vén khéo, chớ không bỏ tóc xoã xuống lưng như trước nữa. Hễ xế mát thì cô năn nỉ Xuân đem xe hơi đi chơi, Xuân không thể không làm theo ý muốn của cô được, nên bữa nào cũng phải cầm bánh xe chở cô đi chơi. Khi đi Phú Lộc, khi đi Hoà Bình, khi đi Sóc Đồn, khi đi Om Trà Cổ.
Có bữa ra đồng trống vắng vẻ, cô biểu ngừng xe lại, rồi cô leo xuống, hoặc ngồi dựa gốc cây, hoặc quì gối trên cỏ mà cậy Xuân chụp hình cô. Có bữa cô mang theo bánh trái, rồi ra đồng cỏ mở gói bánh ra để trên đám cỏ non xanh lè ăn chung với nhau, nói nói cười cười thiệt là hoan lạc.
Xuân đợi 10 ngày mới ký tên bán đất được. Ông Từ Tệt chồng bạc cho cậu đủ 40 ngàn, rồi cậu sửa soạn mà đi về.
Quyên hay tin Xuân tính về thì cô buồn hiu, ra vô dàu dàu. Cô thấy Xuân đứng có một mình cô mới hỏi:
- Anh về hay sao?
- Ừ! Qua về.
- Tôi muốn anh ở lại chơi.
- Sao được, qua phải sửa soạn đặng lên Sài Gòn mà học chớ.
- Tôi cũng sẽ lên Sài Gòn mà học nữa.
- Ừ! Em muốn thì nói với chú thím đem lên trển cho em học. Có anh Triều dìu dắt em cũng tiện.
- Chừng khai trường anh xuống đây rồi đi cùng một lượt với tôi và anh Hai tôi được không?
- Sợ không được, bởi vì qua có công việc nhiều lắm
Quyên châu mày ủ mặt, mà Xuân mắc lo sửa soạn hành lý nên không ngó thấy.
Lúc Xuân từ giã vợ chồng ông Tệt và cô Quyên rồi lên xe mà đi về, thì cô Quyên đứng trước cửa ngó theo, nước mắt chảy rưng rưng.
Ý và tình
(4) IV
Mấy năm nay nhà nông trong xứ làm ruộng trúng mùa luôn luôn. Mà bán lúa cũng đặng cao giá nữa. Cuộc thương mại nhờ đó mà trở nên thịnh vượng, bởi vì mọi người đều làm dễ ra tiền rồi ai cũng mua đồ dùng trong nhà, ai cũng sắm áo quần loè loẹt. Bề ăn ở của bình dân thì rộng rãi, còn của phú gia thì xa xỉ, nhứt là ở mấy châu thành, sự ăn xài quá độ phát hiện rõ hơn hết.
Tại Sài Gòn, trong dãy phố trệt ở đường Lagrandière bây giờ là đường Gia Long, giáp với đường Verdun bây giờ là đường Lê Văn Duyệt, căn nào cũng chưng dọn hực hỡ. Nhưng mà có một căn dọn vén khéo, đồ đạc tốt đẹp hơn hết. Trên hai lan can phía trước có để hai cái chậu, mỗi chậu trồng một bụi cau, lá sum sê, cọng vàng tươi. Tại cửa giữa có treo một tấm màn màu trứng gà, rẽ vén hai bên đặng ra vào cho tiện. Hai cửa sổ có giăng hai tấm màn ren cũng màu trứng gà để ngăn cát bụi, chớ không ngăn ánh sáng mặt trời.
Trong nhà, phía trước để một cái bàn nhỏ với 4 cái ghế, trên bàn có để một bình bông, còn mặt ghế thì có lót nệm gòn đặng khách ngồi cho êm; phía trong, đụng vách buồng, có để một cái đi văng, trên cũng trải nệm mỏng còn chung quanh thì đóng hộc mà để đồ. Hai bên vách cũng không bỏ trống, một bên thì để một cái tủ nhỏ, trên tủ có để một cái máy hát.
Phía trong buồng có giường sắt, giăng mùng, trải "drap"[1] trắng muốt; có bàn viết, có tủ áo, có tủ sắt, lại dựa cửa sổ có lót một cái bàn để ăn cơm cho mát.
Căn nhà đẹp đẽ nầy là nhà của cậu Xuân mướn ở mấy tháng nay đặng mỗi ngày vô trường Chasseloup Laubat mà học cho gần.
Một bữa chủ nhật, lối 4 giờ chiều. Xuân mặc một bộ đồ mát bằng lụa trắng, cậu ra đứng dựa cửa sổ rồi kêu thằng Chí, là đứa nhỏ làm bồi, mà biểu nó nhắc cái ghế xích đu đem ra để trong hàng ba.
Cậu trở vô lấy một cuốn sách rồi nằm trên ghế mà đọc.
Mặt trời ngả bóng lần lần, trước cửa bây giờ mát rượi, còn ngoài đường thì người và xe đi lại nườm nượp.
Thằng Chí xách nửa thùng nước đem tưới hai bụi cau vàng. Nó mới trở vô thì chị chín Thiện là người ở đi chợ nấu ăn, chị ở trong lại bước ra khỏi thềm rồi đứng nói om xòm: "Bữa nay chị nghỉ may phải không chị Hai? Có cô Hai ở nhà hay không?"
Tưới cau rồi nói chuyện, những sự ấy làm cho Xuân lo ra không thể đọc sách được. Cậu mới xếp sách đứng dậy rồi bước ra đứng trước thềm. Lúc ấy dì Hai Oanh, là thợ may, tuổi trên bốn mươi, ở cách Xuân một căn phố, đương thủng thẳng đi lại. Mấy tháng nay Xuân ở gần ra vô thường gặp mặt dì Hai Oanh, nên vừa thấy dì là Xuân cúi đầu chào liền.
Dì Hai Oanh đáp lễ, vui vẻ hỏi Xuân:
- Chúa nhựt nghỉ học, cậu không đi chơi sao?
- Dạ, cháu mới đi hồi sớm mai rồi, buổi chiều ở nhà học bài. Mời dì vô nhà uống nước.
- Để cậu học chớ, có lẽ nào tôi dám làm rộn cậu.
- Thưa, không. Có bận rộn chi đâu. Cháu học bài rồi, nãy giờ ở không xem sách chơi.
Chị Thiện bải buôi tiếp lời:
- Vô nhà chơi chị Hai... vô uống nước. Tôi mới chế một bình trà còn nóng hổi.
Xuân coi bộ dì Hai Oanh chịu vô, thì cậu thối lui đứng nép một bên. Dì Hai Oanh đi trước, chị Thiện đi theo sau mà vô nhà. Xuân tiếp theo sau nữa, và kéo một cái ghế mời dì Hai Oanh ngồi. Chị thiện lo rót nước trà mà đãi khách.
Xuân lại ngồi trên đi văng rồi hỏi dì Hai Oanh:
- Dì may coi thế đắt mối dữ. Cháu thấy có người ta đến thường thường hoài.
- Không mấy khá cậu à. Tôi lãnh may của mấy cô quen thuở nay, chớ người lạ họ có biết tôi đâu mà đưa đồ cho tôi may.
- Dì có mướn người phụ với dì chớ?
- Tôi có mướn một người luông[2] cho tôi may. Đồ có nhiều đâu mà phải mướn thợ phụ.
- Dì lập tiệm, lãnh bài sanh ý[3], treo bảng và rao trong báo, thì người ta mới biết mà đặt may đồ chớ.
Dì Hai Oanh ngó Xuân và chúm chím cười mà đáp:
- Lập tiệm phải có vốn bảy trăm hoặc một ngàn. Vì không có vốn, nên tôi không dám tính tới việc đó, tôi may ở nhà vậy thôi.
- Dì may ở nhà thì làm sao có lợi đủ trả tiền phố và tiền ăn xài?
- Tiện tặn thì cũng đủ. Tôi có con cháu đi thêu, nó phụ giúp với tôi.
Chị Thiện đứng vịn cái máy hát, chị tiếp mà cắt nghĩa:
- Chị Hai đây có một người cháu gái là cô Hai Quế thêu khéo lắm cậu. Cô đi thêu cho nhà hàng ngoài đường Catinat lãnh lương mỗi tháng tới 5,6 chục.
Xuân hỏi:
- Cô thêu thứ chi? Thêu lối Việt Nam hay lối Tây?
Chị Thiện làm lanh mà rồi bít lối, không trả lời được.
Dì Hai Oanh mới thế mà đáp với Xuân:
- Hồi con em tôi còn sanh tiền, có cho cháu tôi học trường Nữ học đường được hai năm, bởi vậy nó biết thêu theo lối Tây. Chừng em tôi khuất rồi, tôi đem cháu tôi về ở với tôi, thì tôi cho nó học thêm lối Việt mình nữa. Nhờ vậy nên nó biết thêu cả hai điệu. Nó thêu mặt giày, khăn tay, thêu màn, làm ren, thêu bông vào áo cho mấy ông, mấy bà, thêu thứ gì cũng được hết.
- Giỏi dữ há. Có nghề như vậy thì sự sống mới vững vàng, khỏi lo thiếu thốn.
- Phải, nó khỏi lo đói rách. Mấy tiệm may lớn họ giành nhau mà mướn nó.
- Nếu dì có tiệm may lớn, dì để cho cô lãnh phần thêu thì chắc tiệm phát đạt lắm.
- Nói gì cái đó.
Dì Hai Oanh dòm cùng trong nhà rồi nói tiếp:
- Cậu ở có một mình mà dọn nhà đẹp quá.
- Tại tánh tôi ưa sạch sẽ vén khéo.
- Cậu gốc ở tỉnh nào?
- Tôi là người Cần Thơ.
- Nghe nói Cần thơ là tỉnh giàu đệ nhứt...Ông cụ, bà cụ còn song toàn chớ.
- Thưa, ba má tôi đều khuất hết.
- Tội nghiệp dữ hôn! Mồ côi sớm quá.
- Tại cái mạng của tôi như vậy, biết làm sao bây giờ.
Dì Hai Oanh rờ bình bông trên bàn mà nói:
- Trên bàn nầy thì lẽ cậu phải để một tấm thêu tròn, hoặc hột soài, rồi để bình bông chính giữa coi mới đẹp.
Xuân đáp:
- Hôm trước có một người bạn học của tôi cũng nói như vậy. Để bữa nào rảnh rồi tôi sẽ kiếm để tôi mua.
Chị Thiện chen vô nói nữa:
- Cậu cậy cô Hai thêu cho.
Dì Hai Oanh tiếp lời:
- Con cháu tôi nó thêu thứ nầy hoài, thêu lẹ lắm, chừng ít bữa thì rồi.
Xuân dụ dự đáp:
- Cô Hai mắc đi thêu cho người ta, có thời giờ đâu mà thêu cho tôi.
- Không. Ai đặt đồ riêng thì nó thêu ban đêm ở nhà. Cậu muốn thêu cách nào, thêu bông gì thì vẽ kiểu cho cậu coi, như cậu chịu rồi nó thêu cho.
- Thiệt tôi dốt về khoa đó. Tôi không biết phải thêu bằng cách nào mà nói.
- Thứ trải bàn đây, tôi thấy có sẵn nhiều kiểu. Để nó đưa kiểu cho cậu lựa, cậu chịu kiểu nào nó thêu kiểu nấy cho cậu.
Chị Thiện nói:
- Chị Hai, để tôi lại tôi kêu cô Hai Quế đem kiểu cho cậu tôi coi.
Chị nói dứt lời thì đi liền. Xuân nói với dì Hai Oanh:
- Tôi làm nhọc lòng dì, mà lại mất công cho cô Hai nữa, tôi ái ngại quá.
- Không có nhọc lòng đâu. Dì cháu tôi là thợ may thợ thêu. Cậu đặt đồ cho chúng tôi thêu, ấy là cậu giúp cho chúng tôi chớ.
- Dì nói như vậy thì tôi mới dám.
Cô Hai Quế đi theo chị Thiện lại tới cửa. Cô bước lên thềm rồi dụ dự, chưa dám vô. Cô vừa được 20 tuổi, chơn mang guốc, mình mặc y phục tầm thường, áo lụa đen, quần lãnh đen, không dồi phấn thoa son, tay trái cô đeo cà rá nhận một hột ngọc màu đỏ bầm, chớ không có nữ trang nào khác, nhưng nhờ da trắng má bầu, nhờ gương mặt sáng rỡ, nhờ cặp mắt có đức, nhờ hình vóc dong dảy, nhờ tướng đi dịu dàng, nhứt là nhờ vẻ đẹp thiên nhiên, bởi vậy ai thấy cô cũng đều cho cô có quốc sắc.
Chị Thiện mời cô vào, mà dì Hai Oanh ở trong cũng kêu cô, bởi vậy cô chậm rãi bước vô nhà.
Xuân đứng dậy chào cô. Cô cúi đầu đáp lễ, mỗi cử động đều duyên dáng.
Dì Hai Oanh nói:
- Cậu đây muốn đặt cho con thêu một tấm trải trên bàn đặng để bình bông coi cho đẹp. Con có kiểu nào hay thì đem lại cho cậu coi.
Xuân mời cô Quế ngồi, mà cô cứ đứng ngó cái bàn, mặt tỉnh táo mà suy nghĩ một chút rồi mới nói: "Cái bàn nầy vuông. Theo ý con thì tấm thêu cũng cắt hình vuông theo chiều bàn coi mới được; song chính giữa phải có mặt trăng tròn đặng để cái bình bông. "
Dì Hai Oanh hỏi Xuân:
- Còn màu thì cậu muốn màu nào?
Xuân bỡ ngỡ nói:
- Tôi không biết màu nào đẹp.
Lúc ấy đứa tớ gái của dì Hai Oanh chạy lại cho dì hai hay rằng có bà lục sự ghé đặng may áo và biểu mời dì về nói chuyện. Dì Hai Oanh liền từ giã Xuân và chị Thiện và dặn cô Hai Quế ở đó bàn việc thêu với Xuân rồi dì lật đật ra về.
Cô Quế đứng ngó cùng trong nhà, Xuân kéo một cái ghế ra và mời cô ngồi nột lần nữa. Bây giờ cô ngồi. Xuân ngồi phía bên kia bàn, ngang mặt cô, chị Thiện đi vô trong, vì đã chiều rồi nên phải lo nấu cơm.
Cô Quế khiêm nhượng hỏi Xuân:
- Cậu muốn thêu hàng hay là thêu vải và muốn màu nào?
- Cha chả, tôi không thạo việc nầy rồi! Xin cô liệu dùm coi thứ nào tốt thì cô làm cho tôi.
- Theo ý em, tấm thêu màu cũng phải một màu với mấy tấm màn coi mới có vẻ thanh nhã.
- Cô nói phải lắm.
- Trải bàn chẳng cần phải dùng tơ lụa, làm bằng vải cũng được. Chẳng nên thêu rằn rực, thêu bốn phía bốn nhành mai, lan, cúc, trúc thì đủ đẹp.
- Tôi chịu, xin cô thêu đi.
- Để em về vẽ kiểu cho cậu xem trước.
- Khỏi, khỏi mà. Cô liệu dùm mà làm coi cho được thì thôi. Cô thêu chừng nào mới xong?
- Chừng năm ba bữa.
- Không gấp gì. Cô thêu một tuần rồi cũng được. Song cô thêu giùm cho khéo để làm kỷ niệm chơi.
Cô Quế chúm chím cười, mặt mày càng ửng đỏ như hoa hường mới ướm nở. Cô ngó Xuân mà hỏi:
- Cậu nói thêu cho khéo để làm kỷ niệm. Vậy chớ kỷ niệm việc chi? Nên cho em biết đặng em liệu coi như cần phải sửa cho hợp với việc làm kỷ niệm.
Nghe Xuân dùng hai chữ "Kỷ niệm" không biết cô Quế có nghi cậu không thông nghĩa nên dùng đùa, như là cậu thanh niên đời nay, hay là cô nghi cậu chú ý muốn ghẹo tình cô, như nhiều cậu trai đa tình lãng mạn, mà cô gạn hỏi như vậy làm cho Xuân bối rối, sắc mặt thẹn thùng một lát rồi mới nói:
- Tôi mới phác một ý riêng, tôi muốn kỷ niệm cái ý ấy. Tôi tưởng dầu tôi có tỏ cái ý riêng ấy cho cô hiểu, có lẽ chẳng hại gì mà cần phải giấu cô. Số là mấy năm nay, ở trong trường, tôi có kết bạn thâm giao với hai người bạn học một lớp.
Ba anh em tôi tính kiếm thêm một người nữa cho đủ bốn đặng làm bạn "mai, lan, cúc, trước (trúc?)" để tiêu biểu một tánh chất tứ thời. Chúng tôi chưa gặp một người nào đồng tâm đồng chí đáng nhận làm người thứ tư.
Hôm nọ một anh bạn tôi có tỏ ý nếu kiếm bạn nam nhi không ra thì chúng tôi có lẽ sẽ chọn một cô gái làm người thứ tư cũng được. Người bạn tôi tỏ ý như vậy, tôi tưởng là muốn giễu cợt, chẵng dè hôm nay cô tính thêu "mai, lan, cúc, trước", mà cô lại là gái nữa, ấy vậy họ biết chừng cô là người thứ tư trong đám bằng hữu, mà người bạn tôi đã đoán trước hôm nọ. Tôi muốn cô thêu để kỷ niệm cái ý ấy.
- Em lựa kiểu thêu, thiệt em không dè kiểu ấy lại thích hợp với việc riêng của cậu. Vậy em cũng thêu kiểu đó, khỏi cần phải sửa đổi, mà em lại ráng thêu cho đẹp, để biểu hiện cho xứng đáng cái tình cảm của cậu.
- Tôi rất cám ơn cô. Cô cần phải lấy tiền trước đặng mua hàng, mua chỉ thêu hay không?
- Thưa, không.
- Mấy năm nay ba anh em tôi kêu nhau như vầy: Tôi trơ trọi một mình, không có anh em, lại nhứt định không cưới vợ, bởi vậy mấy bạn tôi cho tôi là Mai. Anh Triều, người gốc Bạc Liêu, anh tha thướt, yếu đuối lắm, nên anh là lan. Anh Quan gốc Trà Vinh, anh lỏng khỏng ốm yếu mà tánh tình lại ghét cái dở, cái thấp, cái bậy, nên cho anh là quân tử Trước.
Còn Cúc, thì chưa có ai. Cúc biểu hiện cho người ẩn dật mà thơm tho xinh đẹp. Cô là người ẩn núp trong hạng bình dân, mà cô lại có sắc đẹp, có danh thơm, nếu cô vui lòng làm biểu hiện cho Cúc thì chúng tôi hân hạnh lắm.
Cô Quế nghiêm nét mặt mà suy nghĩ một chút, rồi cô ngó ngay Xuân mà đáp:
- Em rất cảm ơn cậu. Em không dám.
- Sao mà cô không dám? Cô ngại sợ nam nữ làm bạn với nhau rồi mang tiếng phải không?
- Thưa, không. Nam nữ làm bạn với nhau rồi mang tiếng xấu, ấy là tại tánh tình thấp thỏi, rồi gây ra những chuyện không hay, nên mới mang tiếng xấu, chớ người đã quyết lập tánh tình cao thượng như: Mai, Lan,Trước thì quí lắm. Em được làm bạn, em có ngại chi đâu. Em nói em không dám là vì em sợ em không xứng đáng ngang hàng với mấy cậu là bực giàu có sang trọng đó mà thôi.
- Lời cô nói đó là lời khiêm nhượng, chớ tôi chắc cô dư biết theo ý chí của người quân tử, thì nhân nghĩa, đạo đức mới quí chớ không phải là giàu sang mà quí đâu. Mà bọn anh em tôi không phải giàu sang gì cả, có người cũng nghèo khổ lắm chớ.
- Mấy cậu học giỏi còn phận em dốt nát quá, em phải đi thêu mướn mới có cơm mà ăn.
- Ố. Theo ý tôi, dầu cầm cây viết hay là cây kim cũng vậy, hễ nghiệp nghề mình được chí thiện, tận mỹ thì quí như nhau, chớ không phải người cầm viết mà sang hơn người cầm kim. Chúng tôi học chữ, ví như chúng tôi có tài viết văn hay; còn như cô đi thêu mướn mà cô có tài thêu khéo. Cái hay đối với cái khéo thì bằng nhau chớ có cao thấp chi đâu.
Cô Quế cười mà thôi, chớ cô không trả lời nữa. Cô đứng dậy dợm từ mà về, Xuân biết ý liền nói:
- Mời cô ngồi nói chuyện chơi một chút nữa.
- Em sợ làm mất thời giờ của cậu.
- Không, không ...Cô nói chuyện nghe có ích lắm. Chúa nhựt không đi học, tôi ở nhà tôi buồn hết sức. Nãy giờ có cô nói chuyện, tôi vui không biết chừng nào.
- Em mới đến nhà cậu lần đầu, mà em nói chuyện nhiều quá em sợ khiếm nhã. Vậy em xin từ cậu mà về, để khi khác có lẽ em sẽ ngồi lâu hơn.
- Cô sợ ngồi chơi lâu rồi dì Hai không vui hay sao?
- Thưa, không. Dì Hai em biết tánh tình của em, nên chẳng bao giờ hiềm nghi chỗ đó.
- Còn tấm thêu cô chắc bữa nào thêu rồi?
- Cậu cho em một tuần thì mãn tuần rồi em sẽ đem lại.
- Bữa nay chúa nhựt, té ra chúa nhựt tuần sau tôi sẽ có tấm thêu mà trải bàn.
- Thưa, phải.
Xuân đứng dậy mà suy nghĩ, rồi nói tiếp:
- Xin cô cho biết cô có chịu làm Cúc, theo như lời tôi nói hồi nãy đó hay không?
- Xin cậu để cho em suy nghĩ ít bữa rồi em sẽ trả lời.
- Được. Tôi muốn sáng chúa nhựt cô đem tấm thêu lại được hôn.
- Thưa, được.
- Tôi sẽ cho hai người bạn tôi hay, đặng hiệp với tôi mà tiếp rước tấm thêu đó. Cô Hai, tôi muốn mời cô sớm mai chúa nhựt cô ở lại chơi rồi ăn cơm trưa với ba anh em tôi, được không? Tôi sẽ lại nhà cô mà xin phép với dì Hai cho.
- Nếu vậy thì có lẽ được.
- Để mai mốt rồi tôi sẽ xin phép với dì Hai mà mời cô ăn cơm.
Cô Quế cười rồi từ mà đi về. Xuân đưa khách ra tới thềm rồi mà còn đứng ngó theo, và miệng chúm chím cười.
Ý và tình
(5) V
Chúa nhựt tuần sau.
Lối bảy giờ rưỡi sớm mai. Triều là con của ông Từ Tệt ở Bạc Liêu, với Quan là con một bà sương phụ ở Trà Vinh, cả hai đều học tại trường Chasseloup Laubat, ăn ngủ trong trường và là bạn thâm giao của cậu Xuân, y theo lời Xuân mời nên hiệp nhau ra nhà Xuân.
Khi bước vô cửa, hai cậu có ý sụt sè, vì sợ có khách lạ đã tới trước rồi. Chừng thấy có một mình Xuân từ trong đi ra, y phục đàng hoàng, mặc đồ trắng mới ủi thẳng băng, cổ thắt nơ đen, đầu chải láng mướt thì Triều cười mà hỏi:
- Cô Cúc chưa lại hay sao?
- Chưa, mời hai anh ngồi. Có lẽ 8 giờ rồi cô mới lại.
- Cô hứa chắc không?
- Chắc chớ. Hôm thứ năm, moa có lại nhà mà xin phép với dì của cô. Dì cô bằng lòng, mà cô cũng hứa lời nữa. Tại sao mà toa nghi nên toa hỏi như vậy.
- Con gái hay mắc cỡ. Moa sợ cô ái ngại không dám ăn cơm với mình chớ.
- Không, đời nay con gái Việt mình dạn dĩ lanh lẹ lắm, chớ phải như con gái đời xưa hay sao?
- Cô chịu kết tình bằng hữu với ba anh em mình hay không?
- Việc đó cô chưa có hứa. Cô nói để cho cô suy nghĩ ít bữa.
- Moa sẽ năn nỉ với cô.
- Năn nỉ làm chi?
- Toa ở ngoài nầy toa buồn; để toa năn nỉ cho toa có một người bạn đặng nói chuyện chơi cho vui.
Nãy giờ Quan ngồi im lìm. Chừng nghe Triều nói như vậy Quan mới nói: "Anh Triều bày chuyện quá! Anh muốn làm cho anh Xuân vui rồi cuối năm ảnh thi rớt cho mà coi."
Triều ngoe ngoảy hỏi Quan:
- Vui mà sao lại thi rớt?
- Mắc vui nên cứ chơi hoài, học có được đâu mà thi đậu.
- Con người phải làm việc, mà cũng phải giải trí, nếu làm việc hoài mà không giải trí thì phải bịnh, hoặc phải điên.
- Giải trí có nhiều cách. Ta đi chơi ngoài đồng, ta đi xem hát. Giải trí như vậy dầu không có ích thì cũng không hại. Chớ kiếm con gái mà làm bạn, đặng nói chuyện để giải trí. Trời ơi! Hiểm nghèo lắm, moa sợ có hại chớ không có lợi đâu.
- Toa tụng kinh cho hai đứa moa nghe hả?
Xuân can hai người:
- Hai anh chẳng nên cãi. Triều sợ moa buồn, còn Quan sợ moa hư, hai người đều lo cho moa hết. Vậy moa cám ơn. Song moa xin Quan chẳng cần phải lo cho moa lắm, bởi vì moa như một gốc cây, không biết nhiễm ái tình, không để ý đến gia thất, bởi vậy moa gần đàn bà con gái không hại gì đâu mà sợ.
Quan rùng vai mà đáp:
- Cần phải thí nghiệm rồi sẽ đoan chắc.
- Ba anh em bàn luận tới đó, kế cô Quế bước vô, tay cô cầm một gói giấy màu trắng hường. Bữa nay cô mặc một bộ y phục bằng lụa trắng mới tinh, may thiệt khéo, tuy cô không trang điểm cho lắm, song nhờ có vẻ đẹp thiên nhiên, nên cô thiệt có duyên, lại có sắc nữa.
Ba cậu đứng dậy chào cô. Cô cúi đầu mà đáp lễ, vừa đoan trang, vừa nghiêm nghị.
Xuân muốn tiến dẫn hai người bạn cho cô Quế biết, nên nói:
- Anh nầy là Triều, tiêu biểu cho Lan; còn anh nầy là Quan, tiêu biểu cho Trước, hai người bạn thiết tôi đã nói cho cô nghe hôm trước.
Cô Quế chào hai người một lần nữa rồi nói:
- Còn cô Quế 20 tuổi mà thôi. Hết thảy phải tôn Triều làm anh cả, còn cô Quế đành chịu làm em út.
Xuân hỏi Triều vậy chớ được chức anh cả sao không đãi tiệc hoặc làm lễ gì, để ra mặt người lớn. Triều suy nghĩ rồi kêu thằng Chí đưa cho 5 đồng bạc và biểu nó đi mua hai đồng bạc bánh ngọt còn bao nhiêu thì mua nước cam với nước đá đặng đãi các em. Xuân với Quan vỗ tay mà khen cử chỉ xứng đáng.
Lúc đợi thằng Chí đi mua đồ ăn uống thì Xuân mời hết anh em đi cùng trong nhà từ trước ra sau, đặng anh em thấy cách sắp đặt chỗ ăn ở của mình. Triều khen cái nầy chê cái nọ, nói vang rân, duy có Quan với cô Quế đi theo mà không nói chi hết. Xuống tới nhà bếp thấy chị Thiện đương lăng xăng nấu nướng, Triều kiểm soát các vật thực coi chủ nhà sẽ đãi món gì, rồi móc túi lấy ra một đồng bạc mà cho chị Thiện và nói: "Chị nấu cho ngon, nghe không. Nếu tôi ăn ngon thì tôi còn thưởng."
Quan cười nói với Xuân:
- Anh Triều bữa nay rộng rãi quá.
- Được chức "anh cả" người ta khoái, nên xài lớn.
Xuân mời trở ra trước đặng nghe vặn "ra đô". Cô Quế xin để cho cô tiếp tay với chị Thiện lo nấu ăn. Anh em đều không chịu, ép cô phải chơi, chớ không được làm.
Đương hát trong máy thu thanh thì thằng Chí, cô Quế đi lấy dĩa mà sắp bánh, còn Xuân với Quan thì vô trong lau ly và coi thằng Chí chặt nước đá, duy chỉ có Triều cứ ngồi nghe hát, làm ra tuồng anh cả để các em lo cho mình. Chừng bánh với nước cam dọn ra xong rồi, Triều mới tắt máy thâu thanh, buộc mỗi người phải ngồi ngay hiệu của mình.
Xuân với tay tính lấy một cái bánh, Triều liền cản mà nói:
- Khoan đã! Phải để cho anh cả đọc đích cua[1] rồi mới được ăn uống.
Quan có tánh trầm tĩnh hơn hết, mà nghe nói như vậy thì vỗ tay và nói:
- Đích cua chắc hay lắm. Vậy để tôi vỗ tay trước.
Triều không thèm để ý đến lời châm biếm của Quan, cậu thủng thẳng đứng dậy, bộ coi rất nghiêm nghị, mắt ngó tấm thêu trên bàn rồi nói lớn:
- Các em. Bộ tứ thời của chúng ta mấy năm nay chỉ có ba tấm mà thôi là Mai, Lan và Trước , còn thiếu một tấm Cúc chúng ta tìm không ra. Hôm nay chúng ta mới tìm được một bụi Cúc. Mà Cúc nầy vừa thơm tho, vừa tươi đẹp, thiệt chúng ta có phước không biết chừng nào. Vậy chúng ta mỗi người phải ăn vài cái bánh, uống cạn một ly nước cam, đặng chào mừng bụi Cúc xinh đẹp mới tìm được, cầu chúc cho tình Mai, Lan, Cúc, Trước của chúng ta trăm năm bền vững, nhứt là thệ tâm gìn giữ thái độ và tánh tình cho cao thượng cũng như bốn thứ cây biểu hiện cho của chúng ta.
Triều nói dứt lời liền lấy một cái bánh ăn. Anh em đều vỗ tay lốp bốp rồi ăn uống.
Xuân nói:
- Lan mừng Cúc, theo phép lịch sự thì Cúc phải cám ơn. Đợi nghe em Quế nói sao đây.
Cô Quế nghe lời khiêu khích như vậy, thì cô đứng dậy, bộ rất yểu điệu, miệng chúm chím cười rất duyên dáng. Cô chậm rãi nói:
- Kính thưa ba anh, phận em hèn mọn, em có phước nên được ba anh hạ cố, khứng kết nghĩa kim bằng với em, cái ơn ấy dù ngàn năm em cũng chưa quên được. Em là em út, vậy em xin ba anh dạy bảo cho em, nếu em có sơ sót chỗ nào xin ba anh dung thứ. Em nguyện sẽ giữ gìn bản tánh như Cúc, cũng như ba anh hứa giữ gìn tánh tình như Mai, Lan và Trước vậy. Em van vái ba anh ăn học, công sớm thành, danh được toại, rồi chung lộn với đời mà làm những việc ích quốc lợi dân, nghĩa là đem tài hay đức tốt làm cho dân tộc ta được tiến bộ, được văn minh, ngang hàng với những dân tộc tiên tiến trên thế giới.
Ba cậu vỗ tay một hồi rất lâu, rồi mỗi người đều cúi đầu và đưa tay nắm tay cô Quế, để biểu hiện tình bằng hữu kết chặt từ đây.
Chừng ngồi ăn uống lại, Triều mới nói:
- Bữa nay vui quá. thiệt tôi không dè em Quế chơn chất mà lại dạn dĩ đến thế. Từ rày sắp lên, hễ chúa nhựt thì anh em mình tựu nhau lại đây đặng ăn uống đàm luận chơi cho vui, toa chịu hay không, Xuân?
Xuân đáp ngay:
- Chịu lắm.
Triều suy nghĩ một lát rồi nói tiếp:
- Mà đàm luận thì phải nói chuyện có ích, chớ không nên nói chuyện pha lửng bậy bạ, đã mất thời giờ, lại tổn đức nữa. Moa là anh cả sẽ coi chừng, nếu ai nói chuyện quấy hoặc vô ích, moa sẽ rầy thẳng tay. Bữa nay là buổi nhóm đầu tiên. Vậy mỗi người nên tỏ cho anh em biết quan niệm về sự ở đời của mình như thế nào.
Ai nấy đều nín khe.
Triều bèn nói lớn:
- Xuân, toa nói trước đi. Toa nói cái ý toa muốn đường tương lai của toa ra thể nào.
- Anh cả phải nói trước chớ.
- Mấy em nói trước rồi anh cả sẽ nói sau.
- Nếu muốn tôi nói trước thì tôi nói...Từ ngày tôi có đủ trí khôn, tôi thấy xã hội Việt Nam mình, tôi buồn lắm. Xã hội gì mà có rất ít người biết lo cho dân khôn ngoan, lo cho nước cường thạnh, mỗi người chỉ lo phận mình, ai cực chết mặc ai, nước nghèo nước yếu mặc nước. Giữa lúc trong hoàn vũ người ta lấy chủ nghĩa Quốc gia làm mục đích, còn mình cứ ôm thờ chủ nghĩa cá nhân. Tôi coi thế Quốc gia mình cứ mỗi ngày mỗi nghèo yếu, tôi thấy xã hội mình ngày càng thêm suy bại, chớ không thể phát đạt nổi, dầu vật chất hay là tinh thần cũng vậy. Vì thấy tình cảnh như vậy nên tôi nhứt định ráng học cho cùng đường, học thành tài rồi cũng không thèm lập gia đình, tôi để hết trí lực tài năng mà lo chấn hưng xã hội, lo nâng cao trình độ cho quốc dân, lo làm cho Quốc gia được giàu được mạnh.
- Hứ! Chú nó có cái óc tham lo quốc sự, tính thí thân đi lo cho nước cho dân. Nầy, người ta nói gia đình là nền tảng của quốc gia, của xã hội. Nếu muốn cho quốc gia được phú cường, xã hội được cao thượng, thì trước hết phải lo bồi đắp tô điểm gia đình, chớ sao toa lại nói toa không thèm lập gia đình? Toa cày ruộng mà toa để lưỡi cày đi trước con trâu, thì làm sao toa cày được? Toa phải suy nghĩ lại. Mà toa quyết học cho cùng đường vậy chớ toa học khoa nào?
- Việc đó moa chưa quyết định, để lấy đủ hai bằng Tú tài rồi sẽ hay.
- Được. Toa có ý muốn lo việc công ích, lo bồi đắp Quốc gia thì cũng được. Song moa khuyên toa phải nhớ rằng chủ nghĩa gia đình là chủ nghĩa tối yếu, dầu làm việc gì cũng phải nương theo gốc ấy mới được... Còn Quan, toa có sắp tiến trình của toa rồi hay chưa?
Quan chúm chím cười và thủng thẳng đáp:
- Phận tôi mẹ goá con côi, trong nhà vừa đủ ăn chớ không có dư dả, bởi vậy quan niệm về tiến trình tôi không dám nuôi chí viễn đại. Tôi mong học thi cho đậu hai bằng Tú tài rồi tôi kiếm chút công việc làm để nuôi thân, cho má tôi và anh tôi khỏi tốn hao với tôi nữa.
- Toa làm việc rồi toa cưói vợ, hay là toa cũng không thèm lập gia đình như Xuân vậy.
Nghe Triều hỏi như vậy, Quan lộ sắc mặt mắc cỡ, liếc ngó cô Quế, rồi cúi mặt mà suy nghĩ.
- Toa nói đại cho anh em nghe chơi, có chi đâu mà mắc cỡ.
- Nếu tôi làm việc mà có tiền dư thì tôi sẽ cưới vợ. Mà cưới vợ thì tôi chẳng cần kiếm con nhà giàu sang, tôi chỉ lựa người bạn trăm năm có đức, có hạnh, ham cần lao, biết tằn tiện, biết quí trọng chồng, biết dạy dỗ con cái vậy thôi, để tạo lập một gia đình thuận hoà vui vẻ, mà hưởng hạnh phúc ở đời. Gia đình của tôi chẳng cần giàu, miễn được xum hiệp trong một căn nhà lá cao ráo sạch sẽ, chung quanh có một miếng đất để trồng cây, hoặc trồng rau cải, rồi sớm mai và buổi chiều, tôi tưới cây, tưới rau chơi cho giải trí. Tôi hy vọng nhỏ nhen thấp thỏm như vậy song không biết có được mãn nguyện hay không?
- Moa biết tánh ý của toa. Moa chắc toa sẽ mãn nguyện. Toa có muốn giàu sang gì đâu mà thất vọng... Còn em Quế quan niệm của em về đời tương lai như thế nào, em nói cho mấy anh nghe thử coi.
Cô Quế cười mà đáp:
- Em không có tính tới việc tương lai. Phận em nghèo, nên em mắc lo bề hiện tại.
- Em có tính lấy chồng đặng lo làm ăn chớ?
- Việc ấy không phải việc của em phải tính. Mà em cũng đã nhứt định không thèm tính.
- Phải, con gái dầu muốn lấy chồng mà không có chú trai nào xin cưới thì làm sao lấy chồng cho được mà tính. Anh muốn biết ví như có một chú trai nào xin cưới em, vậy chớ em có chịu lấy chồng hay không?
- Anh hỏi như vậy, em không trả lời được. Vợ chồng phải tâm đầu ý hợp thì gia đình mới có hạnh phúc. Anh nói có một người trai xin cưới em, mà em không biết người ấy hay dở, cao thấp thế nào, làm sao em ưng được? Mà đời nay đàn ông con trai phần đông đều giả dối, họ có biết danh dự, có kể gia đình là gì.
- Anh hiểu rồi. Em cũng trọng chủ nghĩa gia đình như Quan, song em kén chọn người bạn trăm năm phải tâm đầu ý hiệp em mới ưng, chớ không phải nuôi ý tưởng "vô gia đình " như chú Xuân.
Xuân rùn vai mà cãi với Triều:
- Muốn hỏi em Quế về việc tương lai thì hỏi coi em tính làm ăn cách nào, chớ sao toa lại hỏi việc vợ chồng. Cử chỉ của toa coi khiếm nhã.
- Chú Xuân quên tôi là anh cả hay sao nên kêu tôi bằng "toa" vậy hả?
- Thôi, kêu bằng "anh cả". Vậy xin anh cả hỏi em Quế có tính việc làm ăn thế nào hay không? Hay là cứ đi thêu mướn cho tới già.
Triều gật đầu và ngó cô Quế mà nói:
- Em trả lời với Xuân đi.
Cô Quế suy nghĩ một chút rồi mới đáp:
- Cần lao là chủ hướng của em thuở nay, bởi vì em nghĩ sanh làm con người thì phải làm việc; lại có làm việc cực nhọc thì trí mới mở mang, thân mới tráng kiện. Ngặt vì thêu mướn cho người ta mà ăn tiền ngày tiền tháng, thì tấm thân có hèn hạ đôi chút. Vì vậy em tính tiện tặn để dành tiền, đặng ngày nào em có chút ít vốn, em lập một tiệm may nho nhỏ, em thêu đồ em bán, em làm chủ thân em, cho khỏi cái thấp hèn tôi tớ. Hy vọng của em chỉ có bấy nhiêu đó.
Quan ngồi trơ trơ mà sắc mặt coi tư lự lắm.
Xuân nói:
- Ba em đã nói đủ rồi. Bây giờ tới phiên anh cả. Anh nói đi.
Triều tằng hắng rồi mới chậm rãi nói:
- Để anh tóm tắt chủ trương của ba em coi rồi anh nói tới việc anh tính. Xuân thì chủ hướng về Quốc gia xã hội. Quan thì chủ hướng về gia đình. Còn em Quế thì chủ trương về cần lao. Ba em tuy chí khác nhau, song bổn tâm người nào cũng tốt hết. Còn phận anh bây giờ muốn cái gì nào. Mình ở nhằm xứ ruộng, lại con nhà làm ruộng. Thuở nay anh thích nghề nông lắm. Mình gieo một đám mạ, trong ít ngày mạ lên tốt, phơi màu xanh lặc lìa, xem khoẻ con mắt biết chừng nào. Chừng cày cấy rồi cũng vậy, lúa nở bụi coi vui quá. Còn nói gì lúa trổ, sớm mai mình đi thăm ruộng, mình hửi mùi thơm tho lạ thường, tới chừng lúa chín mình ngó đám ruộng, mình thấy một màu vàng tươi, mình mừng hết sức, mừng vì công phu của mình được kết quả và nhứt là mừng vì lúa sẽ làm cho mình có tiền nhiều. Ấy vậy học xong rồi có lẽ anh sẽ về nhà cưới vợ rồi lo làm ruộng đặng có lúa cho nhiều mà nuôi thiên hạ.
Xuân cười và nói:
- Anh nuôi người ta, mà người ta phải trả tiền cho anh.
- Chớ sao!... Trả tiền mặt nữa à!
- Tôi thay mặt cho dân làm ruộng mà cảm ơn anh!
- Nếu tránh sự anh bán lúa mắc thì hết thảy ra làm ruộng như anh đặng có lúa mà ăn khỏi đi mua.
- Nếu dân cả nước đều làm ruộng hết thì ai bán cá thịt, rau cải cho mà ăn, làm sao có áo quần mà mặc, làm sao có xe cộ mà đi?
- Chưa gì mà toa đã bàn về vấn đề kinh tế, toa muốn binh xã hội rồi đó. Khoan đã, để sau rồi sẽ hay. Bữa nay mình nói chủ trương của mình cho anh em nghe chơi chớ có việc chi đâu mà cãi. Nhưng mà trong bọn có ba người biết yêu chủ nghĩa gia đình, duy có một mình toa khác ý. Toa phải suy nghĩ lại chỗ đó.
- Tôi nhứt định không cưới vợ. Chắc chắn như vậy.
- Không chắc chắn đâu, để sau rồi sẽ biết.
Đồng chỉ 11 giờ, chị chín Thiện nấu nướng đã xong, thằng Chí bưng dọn lên bàn ăn ở trong, rồi ra nói nhỏ cho chủ hay.
Xuân bèn đứng dậy mời khách vô dùng cơm. Chủ khách ngồi chung quanh bàn ăn, cũng theo thứ tự Mai, Man, Cúc, Trước, tức thì cô Quế ngồi đối diện với Xuân bên tay trái của cô thì có Triều, còn bên tay mặt thì có Quan.
Bữa ăn nầy ở trong một bầu không khí vừa vui vẻ vừa thân mật. Tuy Xuân thì có tánh nghiêm nghị, còn Quan ưa trầm tĩnh lại khiêm nhượng, nên hai người ít cười, song nhờ có Triều lanh lợi bãi buôi, nên câu chuyện kéo dài, mà chẳng bao giờ khiếm nhã.
Gần một giờ trưa, ăn cơm rồi, cô Quế mới từ ba cậu mà về. Vì mấy anh theo nài xin, nên cô phải hứa cô sẽ xin phép với dì cô đặng mỗi chúa nhựt cô lại nhà Xuân nói chuyện chơi cho trọn niềm bằng hữu.
Ý và tình
(6) VI
Trót mấy tháng trường, bốn bạn Mai, Lan, Cúc, Trước, hễ chúa nhựt thì hội nhau lại nhà cậu Xuân mà nghị luận, hoặc về nhân tình thế thái, hoặc về văn chương, rồi khi thì ở ăn cơm với nhau, khi rủ nhau đi chơi, hoặc lên miền Lái Thiêu, hoặc vô trong Chợ Lớn. Đối với cô Quế thì Xuân, Quan và Triều đều giữ mực cung kính, bởi vậy cô Quế không ái ngại, không sụt sè chi hết, cô trọng ba cậu cũng như anh ruột của cô. Vì gần gũi nhau như vậy nên tình bằng hữu ngày càng càng thêm mặn nồng, và tuy cãi lẽ với nhau, song mỗi người đều giữ vững cái chủ hướng của mình, không ai chịu vì ai mà thay đổi tâm chí.
Gần tới ngày thi Tú tài kỳ nhì, Triều, Xuân và Quan lo học đêm học ngày, hễ chúa nhựt chẳng nói chuyện chi khác là sách vở. Cô Quế sợ mấy anh vì cô mà lo ra rồi lơ đãng sự học, bởi vậy cô xin mấy anh cho phép chúa nhựt khỏi hội nữa, đợi chừng nào thi xong rồi sẽ tái hiệp mà đàm luận việc đời. Mấy cậu cũng nhứt định đình cuộc hội hiệp.
Một bữa chúa nhựt, Xuân đương ngồi học ôn những bài về triết lý, thình lình Quan bước vô, sắc mặt buồn hiu. Xuân chỉ ghế mời bạn ngồi và hỏi:
- Toa đã nhứt định ở luôn trong trường mà học, mà sao toa còn ra đây?
- Mấy tuần nay ở luôn trong trường, trí vừa mệt lại thấy buồn hiu, vì vậy moa đi giải trí một chút. Toa học triết lý phải không?
- Phải.
- Quan châu mày, ngó cùng trong nhà rồi hỏi:
- Em Quế bữa nay không lại chơi hay sao?
- Không. Mình đã nhứt định đình cuộc hội hiệp, nên mấy tuần nay em Quế không có lại chơi nữa.
- À, phải. Moa mệt mà ra đây thấy toa ngồi học moa càng thêm mệt.
Quan dứt lời liền đứng dậy đi qua đi lại. Cách một hồi lâu cậu hỏi Xuân:
- Toa mệt hay không?
- Không. Toa hỏi chi vậy?
- Tưởng toa học mệt thì anh em thả đi chơi một chút mà giải trí.
- Đi đâu?
- Đi đâu cũng được, thả đi bậy ngoài chợ, hay là đi thăm em Quế chơi.
- Toa muốn thăm em Quế à?
- Ừ! Thăm chơi một chút.
- Mỗi ngày em đi ngang cửa nhà moa, nên moa thấy em luôn luôn, có cần gì phải thăm em, nếu toa muốn đi thì moa đi dùm cho.
- Không... Không phải moa muốn.
Quan chấp tay sau lưng, đi qua đi lại nữa. Chẳng hiểu cậu nghĩ thế nào mà thình lình cậu nói: "Ừ! Buồn quá. Thay đồ đặng lại thăm em Quế chơi toa ".
Muốn làm vui lòng bạn, Xuân xếp sách đi thay y phục.
Cô Quế đương ngồi chăm chỉ thêu tại hàng ba. Cô mặc áo bà ba lụa trắng, quần lãnh đen, không trang điểm chi hết, nhưng mà gương mặt sáng rỡ như trăng rằm, miệng đẹp đẽ như đoá hoa hường mới nở, cặp mắt thanh bạch biểu lộ lòng vô tư lự.
Xuân với Quan tới ngang cửa bèn đứng ngoài cửa mà ngó vô. Có lẽ hai cặp mắt chong ngó có điện lực mạnh mẽ lắm hay sao, mà cô đương chăm chỉ trông bàn thêu thình lình cô lại ngước mắt lên ngó ra đường. Thấy Xuân và Quan thì sự vui vẻ liền phát hiện ra mặt mày cô, làm cho diện mạo cô tươi tắn lại càng tăng thêm vẻ đẹp. Cô buông bàn thêu, vội vã đứng dậy, vừa cười vừa hỏi lớn: "Hai anh đi đâu đó? Kiếm thăm em phải không? Em xin mời hai anh vô chơi một chút".
Xuân với Quan đi vô, Xuân đi trước chăm hẩm bước lên thềm, còn Quan theo sau trong lòng ngần ngại nên bước không được mạnh mẽ.
Cô Quế vui vẻ nói:
- Hai anh lại thăm em, thiệt em mừng lắm. Em mời hai anh vô nhà.
Xuân ngó vô nhà mà hỏi:
- Có dì Hai ở nhà hay không?
- Thưa, có. Dì em ở nhà sau. Mời hai anh vô chơi, rồi một chút dì em sẽ ra. Anh Quan định ở luôn trong trường mà học cho đến ngày thi, sao anh ra?
Quan đương cầm cái bàn thêu đưa lên mà coi, mắt chăm chỉ ngó tấm thêu, chừng cô Quế hỏi như vậy thì cậu bối rối đáp:
- Tôi định ở luôn trong truờng song hôm nay học mệt quá, nên đi ra chơi một chút.
Xuân nói:
- Tôi đương học, Quan ra rồi biểu tôi thay đồ đặng lại thăm em, nên hai đứa tôi mới lại đây.
Cô Quế ngó Quan vừa cười vừa nói:
- Té ra nhờ anh Quan chủ mưu, nên mới có cuộc gặp gỡ nầy. Em rất cám ơn anh Quan.
Quan bối rối, không đáp theo ý cô Quế, mắt cứ ngó tấm thêu mà hỏi:
- Em thêu hình chi đây?
- Em mới bắt đầu thêu từ hồi sáng nay nên chưa ra hình chi hết. Để chừng em thêu xong rồi hãy cho mấy anh xem. Có lẽ chừng ba anh thi đậu thì em thêu cũng rồi.
- Mà em tính thêu cảnh chi đây chớ? Em nói trước nghe chơi.
Cô Quế bước lại đứng khít một bên Quan rồi chỉ vô tấm thêu mà nói:
- Em tính giấu mấy anh mà giấu không được. Em ngụ ý muốn thêu một cây thông già, trên ngọn có một cặp chim phượng hoàng đậu mà ngó mông ra một khoảng trời rộng minh mông, trông mút mắt. Đồng không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, mà chỗ nào cũng cỏ non đua mọc, phơi màu xanh mướt như gấm như nhung. Ở xa thì có một dãy núi lúp xúp, song thấy dàng dạng mà thôi, chớ không tỏ rõ.
- Em bắt đầu thêu cây thông đây phải hôn?
- Thưa, phải. Em thêu cây thông ở gốc nầy, để dư chỗ cho nhiều đặng thêu khoảng đồng với dãy núi.
- Dãy núi nằm chỗ nào?
- Phía trên đây.
- Cái cảnh em nói đó thiệt là cảnh chứa chan thi vị. Cha chả, mà thêu ra cảnh đó có lẽ hơi khó, chớ không dễ đâu. Nếu mình vẽ thì mình liệu mà cho màu, có lẽ được, chớ thêu mà làm cho ra cỏ non, cho ra dãy núi thấy mờ mờ đàng xa, cho ra màu da trời, thiệt là khó. Phải có cái tâm hồn mỹ thuật đầy đủ thì thêu mới được.
- Vẽ hay thêu cũng vậy, nếu không có tâm hồn mỹ thuật thì làm sao cho ra cảnh vật được. Tấm tranh em tính thêu đây thiệt là khó, nhưng em ráng để hết tâm hồn trí ý của em vô đặng thêu thử coi được hay không?
Xuân gật đầu hỏi Quế:
- Tấm tranh nầy em thêu đặng bán hay là thêu để chơi?
- Trong một tuần lễ, em phải làm việc cho người ta đến 6 ngày, để lấy tiền mà nuôi sự sống, còn có một ngày chúa nhựt em rảnh rang, em phải để dành ngày ấy em chơi, em có thèm tính làm đặng bán lấy tiền thêm đâu.
- Em tưởng tượng cảnh để thêu như vậy đó, có lẽ em còn ẩn ý gì chớ chẳng không. Tôi muốn biết chỗ đó.
Cô Quế ngó ngay Xuân mà chậm rãi đáp:
- Anh muốn hiểu chỗ đó thì em nói cho anh nghe. Mấy tháng nay em được ba anh hạ cố, cho em làm bằng hữu rồi đàm luận việc đời với nhau, mấy anh làm cho em suy nghĩ đến những việc mà thuở nay em không để ý. Mấy anh vạch tấm màn thế sự ra cho em dòm thấy bọn thanh niên hiện thời, dù trai gái cũng vậy, người nào cũng xem đường đời cùa mình chớn chở hy vọng, song nó minh mông lại lờ mờ quá, không biết phải theo hướng nào mà đi cho tới cảnh hạnh phúc. Tại em thấy như vậy nên em hội ý, muốn thêu bức tranh nầy để ghi tạc tâm hồn thanh niên trong lúc nầy chơi.
Quan gật đầu khen:
- Em đã sẵn tâm hồn mỹ thuật, em còn có thêm tâm hồn thi sĩ nữa, hai tâm hồn ấy lại hướng về xã hội, gái như em mới đáng lãnh chức "gái tiền tiến".
Cô Quế lật đật xua tay và nói vội:
- Anh đừng quá khen em. Anh khen như vậy, một là em tự thẹn rồi không dám làm, hai là tự đắc rồi em không ráng sức, thua sút người ta còn gì.
Quan chưa kịp trả lởi, kế thấy dì Hai Oanh từ nhà sau đi ra. Cô Quế nói:
- Dì của em kia. Mời hai anh vô chơi.
Xuân với Quan cúi đầu chào dì Hai Oanh. Dì Hai Oanh biết Xuân, nên vui vẻ nói:
- Tôi chào hai cậu. Con dại quá, sao con không mời hai cậu vô nhà, để đứng ngoài hàng ba mà nói chuyện? Tôi mời hai cậu vô nhà chơi.
Xuân với Quan vô nhà. Cô Quế nhắc ghế mời khách ngồi rồi lo rót nước trà đãi khách.
Xuân và Quan ngó trong nhà thì thấy gần cửa có để một cái máy may lau chùi sáng ngời, dựa vách buồng có để một cái tủ kiếng nhỏ, trong tủ có để hàng lụa nhiều màu, lại có mấy gói vuông đẹp đẽ. Trên bộ ván gõ, chỗ dì Hai ngồi thì có treo hai khúc tầm vông láng lẫy, mỗi khúc có áo vắt lòng thòng.
Dì Hai Oanh nói:
- Cách mấy tháng trước, con nhỏ tôi có thưa cho tôi hay rằng ba cậu thấy nó nghèo nên chiếu cố đến nó, muốn kết tình bằng hữu với nó, rồi chúa nhựt hội nhau mà dạy cho nó biết cách ở đời. Nó học ít, mà được hai cậu dạy dỗ thì quí biết chừng nào. Tôi vui lòng mà cho phép nó liền. Đã biết theo lễ nghĩa của Việt Nam mình thì con gái không được gần gũi với con trai như vậy. Nhưng mà tôi nghĩ sanh ở đời nào phải theo phong tục đời ấy. Ở đời nay mà giữ lễ xưa thì bất hợp thời. Đã vậy mà mấy cậu là người học giỏi, lại tôi biết tánh ý con nhỏ tôi, nhứt là nó có đeo chiếc cà rá của mẹ nó đó, thì tôi không cần ái ngại.
Lúc ấy cô Quế đương bưng hai tách nước trà đem lại để trên bàn, chỗ khách ngồi. Xuân với Quan ngó tay cô, thiệt cô đeo một chiếc cà rá vàng nhận hột ngọc đỏ bầm.
Cô Quế bước lui lại đầu ván mà ngồi, tay rờ rẫm, mắt ngó trân vào chiếc cà rá, sắc mặt buồn thảm chớ không vui vẻ như hồi nãy nữa.
Bây giờ trong nhà im lìm, một làn không khí sầu não phảng phất làm cho chủ khách đều không an.
Trong lòng ăn năn về mấy lời nói đó, dì Hai Oanh liền nói tiếp:
- Hễ nhắc tới chiếc cà rá là nó buồn. Hai cậu lại thăm chơi mà tôi vô ý tôi nhắc tới chiếc cà rá nên mất vui.
Cô Quế nói:
- Hột ngọc đỏ gắn trong chiếc cà rá nầy là máu của má con. Dì nhắc tới thì con làm sao vui cho được.
Quan không thể nín được, nên hỏi dì Hai:
- Theo lời của dì Hai và lời của em Quế nói, thì dường như chiếc cà rá mà em Quế đeo đó có một sự tích bí mật. Không biết anh em tôi có nên biết sự tích ấy không?
Cô Quế nói:
- Chiếc cà rá mà con đeo đây là cây nêu, là đèn rọi, để con nhắm mà đi trong đường đời. Dì cứ nói cho hai anh con biết, có hại chi đâu mà ngại.
Dì Hai Oanh ngó hai cậu mà nói:
- Chiếc cà rá đó là chuyện không đẹp trong thân tộc. Nhưng mà hai cậu đã là anh em với cháu tôi, chắc hai cậu biết chuyện không lẽ hai cậu chê cười. Vậy để tôi nói cho hai cậu hiểu. Chị em tôi là con nhà nghèo, từ nhỏ chí lớn phải chuyên nghề may mướn mà nuôi thân. Em tôi, là má của con Quế đây, hồi nhỏ có nhan sắc, ai thấy cũng ngấm nghé. Chúng tôi vẫn biết phận mình nghèo hèn, chúng muốn là muốn chơi qua đường, chớ có ai tính kết nghĩa trăm năm với mình bao giờ. Em tôi biết số phận như vậy, nên nó giữ gìn tới 20 tuổi không chút bợn nhơ. Một lúc nọ, có một người thuộc về hạng thượng lưu chớ không phải điếm đàng du đãng cứ theo dụ dỗ rù quến nó, nói nhân nghĩa nghe hay lắm, mua cho nó chiếc cà rá đó, hứa hễ để vợ[1] xong rồi thì cưới nó. Em tôi tưởng nghĩa trăm năm, không cần dè dặt, nên kết tình với người ấy rồi sanh con Quế đó. Lúc sanh, em tôi nài nỉ người ấy đứng khai sanh giùm cho con Quế có cha. Người ấy nói vì để vợ chưa xong, nên đứng khai sanh thì trái luật, bởi vậy phải đợi để vợ xong rồi thì sẽ ra Toà mà nhìn nhận con, chẳng muộn gì. Chị em tôi không biết luật, nên tưởng thiệt như vậy, không nghi ngại chi hết, chẳng dè chừng người ấy để vợ được rồi, lại kiếm cớ khác mà nói, cứ lần lựa hoài, không ra Toà nhìn con Quế là con, mà cũng không đem mẹ con nó về ở chung. Đến chừng con Quế được 10 tuổi, người ấy lần lần không tới lui nữa, rồi sau lại đi cưới vợ, cưới con một ông điền chủ ở dưới vườn, bỏ dứt mẹ con Quế. Em tôi buồn rầu hết sức, ăn ngủ không yên. Một đêm con Quế đương ngủ, em tôi kêu con nhỏ thức dậy khóc mà nói hết sự bạc bẽo của cha nó cho nó nghe, lấy chiếc cà rá đeo vào tay con nhỏ, rồi lấy dao cắt họng mà chết. Em tôi nó trối với con nhiều lắm, làm cho con nhỏ cảm động, nên từ đó đến nay con Quế giữ chiếc cà rá đó hoài, không khi nào rời ra. Thấy gương của mẹ nó như vậy, con Quế nó oán hết đàn ông con trai, mấy năm nay trai nào chọc ghẹo nó đều bị nó từ nan hết thảy. Sự tích chiếc cà rá là vậy đó.
Quan trầm tĩnh, song ngay thẳng, bởi vậy nghe dì Hai Oanh thuật chuyện thì nóng giận không thể dằn được. Chừng dì Hai nói dứt lời, Quan châu mày hỏi: "Thưa dì, ông thượng lưu bạc tình giết đàn bà đó, chừng hay tin ổng có ăn năn hay không?"
Dì Hai lắc đầu đáp:
- Người ta có thèm tới lui gì đâu mà mình biết người ta ăn năn hay không ăn năn.
- Đã được một bài học ở đời rất thảm thương như vậy, ít nữa cũng phải hối hận mà nhìn nhận em Quế là con chớ.
- Không. Có nhìn đâu.
Cô Quế vùng nói lớn:
- Dầu có muốn nhìn đi nữa em cũng không chịu. Một người cha như vậy mà mình nhận là cha làm chi. Không đáng cho mình kêu là người nữa kìa.
Xuân nói:
- Anh kính phục mấy lời em nói đó lắm.
Quan nói với dì Hai Oanh:
- Dì Hai coi hai cháu cũng như con cháu trong nhà, nên mới đem việc gia đình mà nói cho hai cháu biết. Bây giờ anh em cháu được biết sự thống khổ của em Quế, thì anh em cháu lại càng quí trọng kính mến hơn nữa, quí mến thập bội phần.
Dì Hai Oanh nói:
- Xin mấy cậu thương giùm phận nó.
Xuân đứng dậy mà đáp:
- Ba anh em cháu hứa chắc chắn với dì, anh em cháu sẽ tận tâm mà bảo hộ em Quế, bảo hộ luôn luôn, không để ai gạt gẫm em Quế được đâu.
Dì Hai gật đầu cười và nói:
- Cám ơn các cậu.
Xuân và Quan từ mà về, sắc mặt buồn hiu, nhứt là Quan.
Ý và tình
(7) VII
Một buổi chiều trời chuyển mưa, mây giăng mù mịt, gió thổi ào ào. Thầy thợ ra khỏi sở, ngó thấy quanh cảnh như vậy thì sợ mắc mưa, nên bươn bả đi riết về nhà. Ngoài đường người ta đi dập dìu, lại thêm xe hơi, xe ngựa, xe máy, chiếc xuống chiếc lên, tiếng chuông leng keng, tiếng còi te tét.
Cô Quế đi thêu ngoài nhà hàng, cô cũng đi về nhà như người ta và cũng như người ta cô đi xăng xớm, bộ như sợ mắc mưa. Thế mà cô không đi thẳng về nhà, cô lại ghé vô nhà cậu Xuân. Thấy cửa giữa đóng chặt, cô lại đứng chỗ cửa sổ mà kêu thằng Chí.
Chị Chín Thiện ra mở cửa và nói:
- Cô Hai đi thêu về sớm dữ. Thằng Chí mới đi ra chợ mua bánh mì. Cô Hai cần dùng nó đi đâu hay sao?
Cô Quế mau mắn đáp:
- Không, không... Anh Xuân chưa về hay sao?
- Thưa, chưa. Cậu tôi đi thi trong trường.
- Tôi biết... Thi đã cả tuần rồi chớ. Bữa nay vô trường đặng nghe xướng danh coi đậu hay rớt, sao tới chừng nầy mà chưa về!
- Tôi cầu khẩn cho cậu tôi đậu.
- Tôi cũng mong ước như vậy. Tôi vái van cho đậu hết, nếu có người nào rớt tôi buồn dữ lắm.
- Mời cô hai vô nhà chơi. Tối rồi chắc cậu tôi gần về...
- Dì đi nấu cơm đi dì Chín. Để tôi đứng ngoài nầy tôi chơi một chút.
Chị Chín trở vô bếp, cô Quế đứng trước hàng ba ngó ra đường có ý trông cậu Xuân.
Thằng Chí đi chợ về, tay cầm một ổ bánh mì.
Cô Quế thấy nó bước vô thì nói:
- Em coi nhà nghe không em Chí. Để qua về một chút rồi qua trở lại.
Thiệt quả cô về chẳng bao lâu thì cô lại nữa.
Bây giờ trời đã tan mây lặng gió. Thằng Chí thấy đã tối rồi, nên vặn đèn trong nhà cho sáng. Thế mà cô Quế không vô, cô đứng trên thềm nhà ngó mông, bỗng thấy Xuân với Triều đằng xa đi lại, bộ đi chậm rãi dường như không muốn tới nhà cho mau.
Cô Quế nóng nảy, muốn hay tin liền về cuộc thi, nên cô bước ra đường mà đón hai cậu. Chừng hai người đi gần tới thì cô lật đật hỏi: "Đậu hay không?"
Triều lắc đầu và chúm chím cười và đáp:
- Rớt!
- Hả? Rớt hết sao?
- Rớt hết!
- Trời ơi! Anh Quan cũng rớt nữa à?
- Quan mà rớt sao được. Nó đậu mà còn được lời khen của ban giám khảo nữa chớ.
Ba người đắt nhau vô nhà.
Xuân buồn hiu, quăng cái nón lên bàn rồi nằm ngửa trên ghế xích đu, mắt lim dim, không nói một tiếng chi hết, Triều quay máy hát dĩa "Trảm Trịnh Ân", đứng hát tự nhiên, dường như không quan tâm đến việc thi rớt.
Cô Quế thấy cậu Xuân buồn thì nói:
- Người ta thường nói "Học tài thi mạng". Kỳ nầy rủi rớt thì ráng học thêm nữa đặng kỳ sau thi lại. Phải kiên nhẫn, phải cố gắng, phải phấn chí luôn luôn, chẳng nên ngã lòng.
Xuân cứ nằm thiêm thiếp. Triều cứ đứng nghe máy hát.
Cô Quế muốn giải nỗi buồn cho hai cậu, cô bèn bước lại ngừng máy hát, mời Triều ngồi, kêu thằng Chí biểu dọn cơm. Cô đi lăng xăng, cô nói không ngớt chớ không tề chỉnh nghiêm nghị như trước nữa.
Thấy Xuân cứ nằm trơ trơ, cô mới kêu mà nói:
- Anh Xuân dậy đi thay đồ rửa mặt rồi ăn cơm chớ. Em có thưa cho dì em rồi, bữa nay em ở đàng nầy đặng em ăn cơm với anh. Em đói bụng quá, dậy ăn cơm đặng em ăn với chớ.
Triều nói tiếp:
- Dậy ăn cơm toa, Xuân. Moa cũng đói bụng nữa.
Xuân thủng thẳng đứng dậy mà nói:
- Tôi hết muốn ăn cơm.
Cô Quế cười và nói:
- Trời ơi! Thi rớt rồi tính tuyệt thực hay sao? Làm trai mà yếu trí quá vậy? Thanh niên tân học ta phải có trí kiên nhẫn, có óc hùng cường. Đường đời đương nhiên có chông gai nhiều, mình phải lập thế tránh mà đi tới nơi tới chốn mới hợp. Đã biết thi rớt là một việc trắc trở đáng tiếc lắm. Nhưng mà sự trắc trở ấy nhỏ mọn không đáng cho mình sầu não. Thi rớt thì học thêm đặng thi lại, học hoài cho tới thi đậu mới nghe. Phải có cái trí như vậy mới được. Làm trai nếu gặp việc khó khăn rồi buồn rầu thất trí như thế có hơn đàn bà con gái chỗ nào đâu!
Có lẽ mấy lời cứng cỏi ấy làm cho Xuân hoặc phấn chí hoặc hổ thầm, bởi vậy cậu mau mau đi rửa mặt không ngẩn ngơ dã dượi nữa.
Triều ngồi hút gió rồi nói:
- Ai học nữa thì học, tôi xin kiếu; về cưới vợ, rồi làm ruộng đặng làm giàu đi xe hơi chơi.
Thình lình Quan từ ngoài bước vô nói:
- Hai anh rớt, tôi buồn quá, phải hai anh đậu hết tôi mới vui.
Cô Quế mừng nói:
- Em nghe anh đậu, em vui quá. Em mừng cho anh.
- Cám ơn em.
- Anh Xuân với anh Triều nãy giờ buồn hiu. Em xin anh ở ăn cơm nói chuyện cho hai anh đó bớt buồn một chút.
- Thình lình quá, đâu có cơm sẵn mà ăn.
- Có mà. Để em sắp đặt mà mua đồ ăn thêm.
Cô Quế bỏ ba cậu ở ngoài nói chuyện, cô đi vô trong lo bữa cơm. Cách độ một hồi cô trở ra mời ba cậu đi ăn cơm, đồ ăn đã dọn đủ hết. Bốn người ngồi ăn cũng theo thứ tự Mai, Lan, Cúc, Trước.
Triều hỏi Xuân:
- Bây giờ toa tính sao đây Xuân? Toa nói nghe thử coi.
- Tính giống gì?
- Toa nghe lời em Quế toa học nữa hay sao?
- Moa chưa nhứt định, để suy nghĩ ít bữa rồi sẽ hay.
- Moa tính như vầy hay lắm toa. Toa về Cần Thơ mà ở, moa về Bạc Liêu moa xin với tía moa kiếm hai cô con gái con nhà giàu, nói mà cưới vợ cho hai anh em nhà mình, rồi mình lo làm ruộng, buôn lúa, đặng làm nhà giàu.
- Moa không có chí làm nhà giàu.
- Toa cứ tính chuyện viển vông hoài!
- Không phải viển vông. Thuở nay moa đi học, moa quyết học thành tài, đặng moa dùng tài học cùa moa mà mở trí đồng bào, cải lương xã hội, làm cho quốc dân cao thượng, làm cho nước nhà chấn hưng. Moa đã nói với toa, moa nhứt định không cưới vợ mà moa cũng nhứt định không làm giàu. Vậy toa muốn làm việc gì thích ý toa, toa cứ làm, đừng rủ moa.
- Toa thích làm việc minh mông, đã mệt trí lại không ích gì cho toa hết.
- Nếu mỗi người đều chỉ biết lo cho mình, xã hội còn ra gì nữa. Moa giận rồi, có lẽ moa phải đi Pháp mà học.
- Tự ý toa. Moa chỉ xin nhắc cho toa nhớ rằng lúa gạo là vật báu trời ban cho xứ mình có nhiều. Vậy mình cứ níu cái hạnh phúc ấy mà sống, chẳng cần phải lo minh mông cho nhọc trí.
- Cái tâm hồn của toa là tâm hồn nhà quê. Toa không thể hiểu chí hướng của moa nổi. Đừng có nói chuyện ấy với moa nữa.
Triều rùn vai mà hỏi Quan;
- Quan, toa thi đậu rồi bây giờ toa tính làm việc gì?
- Có lẽ tôi sẽ kiếm chỗ mà làm việc nhà nước.
- Làm việc gì?
- Biết đâu. Để đợi cơ hội mở kỳ thi vào ngạch công chức nào thì tôi sẽ lập đơn dự thi chớ bây giờ biết đâu mà nói trước được.
Xuân liền nói với Quan:
- Toa đi Tây mà học thêm với moa.
- Ồ! Phận tôi nghèo, tôi đâu dám đèo bồng quá như vậy.
- Moa còn ba mươi bảy ngàn bạc gởi dưới băng. Số bạc ấy không đủ cho hai đứa mình ăn học bên Pháp năm mười năm hay sao? Toa đi với moa thì moa bao cho toa.
- Cám ơn. Phận tôi mẹ goá con côi, tôi không thể tính việc xa vời.
- Toa là người không có đại chí, toa không có lợi ích cho nước nhà chi hết.
- Ở đời mình làm việc chi cũng phải lượng sức mình chớ.
- Moa tiếc cho toa lắm, tiếc vì tài lớn mà chí nhỏ. Chớ chí toa mà chí lớn như moa, thì toa quí không biết chừng.
Bây giờ cô Quế mới xen vô:
- Ba anh mỗi người có một chí riêng, không ai giống ai hết. Mới có ba người, lại là ba anh em thân thiết với nhau, mà cũng chưa đồng tâm được, thế thì mười mấy triệu đồng bang làm sao mà hiệp ý cùng nhau.
Mấy lời của Quế đây là lời bình luận nghe chơi cho vui, chớ không có ý chê bai hay nhạo báng. Thế mà ba cậu trai nghe qua, dường như ăn năn hay hổ thầm nên liếc mắt ngó nhau rồi ngồi gầm mà ăn không nói thêm một tiếng chi nữa hết. Có lẽ lời bình phẩm ấy động tới Xuân nhiều nhứt, bởi vì Xuân châu mày cúi mặt trầm tư nghiêm nghị lắm, làm cho không khí thêm nặng nề.
Cô Quế dòm thấy cái lỗi của cô, thì cô ăn năn muốn kiếm thế mà gây cuộc vui vẻ lại, song cô không tìm ra chước, bởi vậy khoảng sau bữa ăn có vẻ lãng đạm đìu hiu.
Ăm cơm rồi, Triều với Quan từ giã đi vô trường lo sửa soạn hành lý đặng sáng mai đi về nhà. Xuân với cô Quế đưa ra cửa. Chừng hai cậu đi rồi, cô Quế thấy Xuân có sắc trầm tư bèn hỏi cậu:
- Anh nhứt định đi qua Pháp học nữa hay sao?
- Đó là con đường qua chọn lâu rồi. Trước sau gì rồi qua cũng phải theo con đường ấy. Vậy nên đi liền bây giờ thì phải hơn.
- Nếu anh có trí un đúc cho có tài cao, thì anh qua Pháp mà học là phải. Học cho thiệt cao mới có ích.
- Em đồng ý với qua hay sao?
Cô Quế nhếch miệng cười rất có duyên; tuy ngoài hàng ba không có đèn, song Xuân thấy cô ngước mắt ngó mình và nói:
- Không phải em đồng ý. Vì anh có chí như vậy nên em phải trưởng chí cho anh chớ.
Xuân thở dài mà nói:
- Cám ơn em.
Cô Quế muốn nói chuyện nữa, nhưng cô nghĩ thế nào không rõ, cô đứng dụ dự rồi nói:
- Thôi, để em về cho anh nghỉ. Em chào anh.
Cô Quế bước xuống thềm. Xuân đứng ngó theo tư lự châu mày.
Ý và tình
(8) VIII
Gần 6 giờ chiều, đèn ngoài đường phực cháy lên làm cho quang cảnh châu thành Sài Gòn nằm giữa lúc giao thời, nửa sáng nửa tối.
Xuân thay đồ mà đi từ hồi 3 giờ, đi xuống nhà băng, đi qua hãng tàu. Cậu về nãy giờ, song cậu ngồi không yên, cứ đi ra đi vô hoài. Bây giờ cậu mới bước ra đường rồi thủng thẳng đi bách bộ, có ý đón cô Quế đi thêu về. Chừng thấy dáng cô đi xa xa, thì cậu mừng thầm nên chúm chím cười, đứng nép bên đường mà chờ cô.
Vừa gặp nhau thì cô Quế hỏi:
- Anh làm gì đứng đây?
- Qua đón em.
- Cần gì phải đón. Có việc chi gấp hay sao?
- Có. Qua có một việc riêng cần nói với em.
- Vậy thì trở về nhà.
Hai người dắt nhau đi về nhà Xuân. Cô Quế vừa đi vừa nói:
- Có việc chi quan hệ lắm hay sao mà anh phải đón em, anh làm em lo sợ quá.
- Để một chút rồi qua sẽ nói.
- Việc không gấp, vậy thì để em về rồi thì anh sẽ lại nhà em anh nói, hoặc anh sai thằng Chí kêu em cũng được, cần gì phải đón ngoài đường?
- Vì qua bối rối trong trí quá, không thể ngồi yên được nên phải đi ra đường.
- Vậy hả? Anh có hỏi thăm chắc chắn bữa nào tàu chạy hay chưa?
- Hỏi rồi. Sáng mốt đúng 6 giờ tàu kéo neo.
- Vậy thì chừng nào anh phải xuống tàu?
- Qua tính tối mai, chừng 10 giờ qua xuống tàu.
- Vậy để tối mai em đưa anh xuống tàu, rồi sáng mốt lúc tàu gần chạy em sẽ qua bến tàu mà từ giã anh.
Vô nhà rồi, cô Quế ngồi liền, còn Xuân thì cứ đi qua đi lại, dòm sắc mặt thì cậu lo lung lắm. Cô Quế ái ngại, không muốn biết gấp việc riêng làm cho cậu phải đón mình, nên cô ngồi lặng thinh. Thình lình cô nhớ đến việc cậu Quan cô liền hỏi:
- À, hôm qua anh nói anh có được thơ của anh Quan. Ảnh nói hôm tháng trước ảnh thi vô làm việc trong dinh Đốc lý đã đậu rồi mà mới được lịnh đòi đi làm, nên mai ảnh sẽ lên. Không biết ảnh lên kịp mà đưa anh xuống tàu hay không?
- Quan lên tới rồi.
- Hồi nào?
- Hồi trưa. Nó có ghé nhà qua.
- May dữ! Ảnh đi đâu rồi?
- Hồi trưa nó ghé một chút rồi đi kiếm chỗ ở đậu mà làm việc. Nó nói tối nay nó sẽ trở lại.
- Chừng nào anh Quan trở lại anh phải cho em hay. Em muốn chiều mai em mời anh với anh Quan ăn cơm với em một bữa. Bữa cơm ấy là bữa lễ tiễn biệt anh và là lễ mừng anh Quan bước chân vào đời.
- Thôi, đãi đằng làm chi. Em chẳng nên nhọc lòng. Mà em cũng chẳng nên làm cho qua nhọc lòng thêm nữa.
- Em có làm nhọc lòng anh hay sao?
- Nhọc lòng lắm.
- Em không dè. Em xin anh tha lỗi cho em. Vậy chớ trước khi anh đi, anh có thể cho biết lỗi của em đặng em ăn năn trước mặt anh hay không?
- Sự làm nhọc lòng qua đó không phải lỗi của em. Mà qua mời em ghé đây, chánh qua muốn tỏ sự ấy cho em biết.
- Vậy thì anh nói đi.
- Nãy giờ qua dụ dự là vì việc ấy khó nói quá, nói ra sợ em phiền.
- Anh thiếu can đảm, mà cũng thiếu trí quyết đoán. Anh tính qua Pháp học, mà gần ngày xuống tàu, anh thối chí, không muốn đi hay sao?
- Không, không... qua có thối chí bao giờ đâu, qua quyết đi lắm chớ.
- Nếu anh quyết đi thì anh phải hăng hái lo mua sắm đồ đặng xuống tàu đi, chớ còn dụ dự nỗi gì. Em nói thiệt, em không muốn anh dụ dự.
- Vì qua có một việc, qua muốn tính cho vuông tròn, rồi qua sẽ đi.
- Việc chi? Anh có thể nói cho em biết hay không?
Xuân kéo ghế ngồi một bên cô Quế mà đáp:
- Qua sẽ nói. Chỉ còn có hai đêm với một ngày nữa thì qua sẽ từ biệt quê cha đất tổ mà gởi thân nơi xứ lạ. Việc tương lai không biết nó ra sao. Chừng nào qua trở về xứ? Mà qua sẽ về hay, hay không? Lại qua sẽ có phước mà gặp lai em nữa hay không? Đó là những câu hỏi làm cho qua nhọc lòng khổ trí hết sức.
- Ở đời phải nuôi tâm hồn lạc quan thì trí mới thơ thới được.
- Tại qua hay lo xa, mà cũng tại qua thương thân phận em út, nên qua bi quan như vậy.
- Thân phận của em an ổn lắm, có làm sao đâu mà anh phải thương.
- Để qua nói rõ cho em hiểu. Ba anh em kết tình bằng hữu với em gần một năm nay, qua không hiểu ý của Triều và Quan như thế nào, chớ riêng qua thì qua thương em lắm. Qua nói thiệt nếu qua không lập chí hiến thân cho Tổ Quốc, qua thích thú gia đình như Triều với Quan, thì qua thưa với dì Hai mà xin cưới em.
- Cám ơn anh.
- Ngặt vì qua nuôi cái chí viển vông quá, nếu cưới em thì qua sẽ làm cho em nhọc lòng chớ không hạnh phước chi hết. Qua đã thương em mà ngày nọ qua nghe dì Hai kể chuyện thương tâm của em nữa thì qua càng yêu mến em, nên qua có hứa sẽ bảo hộ thân em đến cùng. Ngày nay qua phải bỏ xứ lìa em mà đi, thì làm sao qua bảo hộ em nữa được. Chỗ qua nhọc lòng là chỗ đó.
Cô Quế nghe những lời chứa chan tình nghĩa, thì cô cảm động, nên hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Xuân cũng cảm động, song phải gắng gượng mà nói tiếp:
- Hồi trưa qua có cậy Quan ở nhà bảo hộ giùm em. Để rồi qua cũng phải viết thơ cho Triều mà gởi gắm thêm nữa. Tuy vậy mà qua cũng chưa yên lòng. Qua nhớ ngày nọ em có nói với qua rằng em hy vọng có được một tiệm may nho nhỏ đặng làm chủ, khỏi đi thêu mướn cực nhọc mà hèn hạ. Em quyết tiện tặn đặng thực hiện hoài vọng ấy. Em tiện tặn đến chừng nào mới có đủ số vốn lập tiệm cho được? Lâu lắm. Vậy nay qua gần đi, qua muốn để lại cho em một ngàn đồng bạc đặng em dọn tiệm liền, khỏi đi thêu mướn nữa. Xin em vui lòng lãnh số bạc ấy, nếu em từ chối thì qua buồn lắm.
Cô Quế lau nước mắt rồi ngó ngay Xuân mà đáp:
- Em rất cám ơn anh. Anh thương em nên em muốn giúp em như vậy, em cảm tình anh không biết chừng nào. Nhưng mà có nhiều cớ khiến em không thể nhận số tiền anh cho được. Thứ nhứt, anh qua Pháp mà học, phải học lâu nên tốn hao nhiều; Vậy thì anh phải để dành tiền mà ăn xài, không nên để lại cho em. Thứ nhì, em nghe nói những người gần gũi với anh đều được thưởng công xứng đáng. Anh cho dì Chín Thiện một trăm, cho thằng Chí năm chục đặng đền công họ cực nhọc với anh trót mấy năm nay. Bây giờ anh cho em tiền nữa, té ra anh cũng thưởng công em làm cho anh vui xưa nay đó hay sao?
- Hai cớ em nói đó đều sai hết. Hiện bây giờ qua có tới ba mươi bảy ngàn đồng bạc; qua để lại cho em một ngàn, cũng còn 36 ngàn, không đủ ăn học hay sao? Còn em viện cớ thưởng công, cái lý do không chánh đáng nên qua xin phép qua cãi lại. Qua muốn để lại cho em một ngàn, ấy là vì qua muốn tính giúp em được thoả mãn chỗ mơ ước của em, chớ có thưởng công gì đâu. Mà số tiền ấy cũng như số tiền qua gởi em để em cất giùm cho qua; đã làm anh em, sao em còn ái ngại điều nhỏ mọn ấy?
Xuân liền thò tay vào túi lấy ra một cái bao thơ đựng mười tấm giấy một trăm mà đưa cho cô Quế và nói tiếp:
- Em hãy lấy mà cất đi. Nêu em từ chối thì qua buồn lắm vậy.
Cô Quế châu mày ngồi lặng thinh mà suy nghĩ một chút, rồi cô đứng dậy nói xẳn xớm:
- Anh nói như vậy thì em phải nhận lấy số tiền nầy, mà em xin phép hỏi gắt anh một câu: Anh để một ngàn đồng bạc lại cho em là vì anh muốn giúp em làm ăn chớ không có ý gì khác phải không?
Xuân cũng đứng dậy mà nói cứng cỏi:
- Thiệt như vậy. Qua chỉ có ý đó mà thôi, chớ không có ý nào khác.
Cô Quế chảy nước mắt một lần nữa. Cô lấy cái bao thơ của Xuân rồi thủng thẳng nói: "Anh muốn làm nghĩa với em. Vì tình anh em nên em phải lấy số bạc của anh."
Xuân hớn hở nói:
- Em làm cho qua hết buồn. Qua vui lắm, qua cám ơn em. Còn một việc nầy nữa: đồ đạc trong nhà đây qua không biết làm sao. Hồi trưa qua khuyên Quan về ở đây mà làm việc thì nó nói lương nó ít, nó không có sức ở nổi một căn phố, nó phải đi ở đậu với anh em; qua nói hết sức mà nó cứ từ chối hoài. Bây giờ chở đồ đi bán coi kỳ quá. Còn chị Chín Thiện với thằng Chí, thì qua đã có cho tiền rồi, không lẽ qua còn cho thêm đồ đạc nữa. Vậy qua xin gởi hết đồ đạc trong nhà của em. Hễ qua đi rồi, thì em đem đồ đạc về nhà mà dùng rồi trả phố lại cho chủ. Tiền phố qua đã trả đủ tháng nầy rồi.
Cô Quế nói:
- Chớ chi anh Quan về ở đây, ảnh giữ đồ giùm cho anh thì tiện lắm.
- Qua nói hết lời mà nó không chịu. Mà nó không chịu cũng phải, bởi vì tiền phố mắc quá, nó ăn lương thì ít chịu sao nổi. Vì vậy nên qua không dám ép.
- Anh Quan không chịu lãnh thì em giữ giùm cho anh, chớ biết làm sao bây giờ.
- Cám ơn em. Sự buồn sự lo của anh giờ đã bay hết. Qua vui lắm. Qua muốn em thưa cho dì Hai hay, rồi ở đằng nầy ăn cơm với qua.
- Có anh Quan về ăn cơm hay không?
- Nó không có hứa.
- Vậy để em về thưa cho dì hay rồi em trở lại.
Cô Quế bước ra cửa thì gặp Quan vô, hai người mừng nhau rồi cô Quế đi về, cô hứa lát nữa cô trở lại ăn cơm.
Thiệt quả cách chẳng bao lâu cô Quế trở lại, mà bây giờ cô rửa mặt sạch sẽ, bới đầu vén khéo, lại bận đồ mới chớ không phải bộ đồ cũ bận đi làm như hồi nãy. Vừa bước vô, cô trách Quan:
- Anh Quan lên làm việc mà anh không thèm ghé nhà em chơi.
- Tôi mới lên tới. Nên chưa kịp thăm em.
- Chừng nào anh bắt đầu đi làm?
- Sáng mai.
- Anh sẽ ở đâu?
- Tôi ở đậu nhà người quen trên chợ Đủi.
Anh em nói chuyện tới đó, kế thấy một chiếc xe hơi lớn dừng ngay trước cửa rồi ba bốn người mở cửa leo xuống xe.
Xuân dòm ra rồi nói: „ Ý! Anh Triều lên kìa! Có tía má ảnh nữa chớ."
Ba người trong nhà đều đứng dậy. Triều bước vô trước, theo sau là vợ chồng ông Từ Tệt và cô Quyên. Xuân chào mừng. Triều tiến dẫn cô Quế với Quan cho cha mẹ biết. Mỗi người chào nhau rồi Xuân mời ngồi rồi kêu thằng Chí biểu rót trà đãi khách. Xuân lại đứng gần cô Quyên, ngó cô mỉm cười và nói: "Em Quyên đi Sài Gòn, tôi không dè chút nào hết. Em lên trên nầy đặng chụp hình hả".
Cô Quyên ngó Xuân, nét mặt hơn hở, cô cười và đáp: "Nếu chụp hình thì anh chụp cho em, chớ em không chịu người khác chụp."
Xuân cười và hỏi ông Từ Tệt:
- Chú thím lên tới hồi nào? Đi Sài Gòn chơi hay là có việc chi?
- Mới lên hồi xế. Con Quyên cứ đòi đem nó lên trên nầy cho nó học. Bởi vậy chú thím dắt nó lên trường Nhà Trắng đặng nó coi như nó chịu, thì xin cho nó một chỗ để khai trường nó ở nó học.
- Chú thím đã dắt em đi coi hay chưa?
- Đi coi hồi chiều rồi. Nó chịu, nên chú thím cũng đã xin chỗ cho nó rồi nữa.
- Chú thím ở đâu?
- Mướn phòng ở ngoài khách sạn. Nghe thằng Triều nói cháu tính đi Tây mà học nữa phải không?
- Thưa, phải.
- Té ra thiệt cháu không chịu nghe lời chú? Thiệt cháu nhứt định đi Tây hay sao?
- Thưa, cháu nhứt định đi Tây, cháu xin giấy thông hành và mua giấy tàu rồi. Sáng mốt tàu chạy.
Ông Từ Tệt ngó Xuân rồi lắc đầu, sắc mặt không vui. Cô Quyên nghe nói thì chưng hửng; cô cũng ngó Xuân trân trân và ứa nước mắt mà hỏi:
- Sáng mốt anh đi Tây hay sao?
- Phải, sáng mốt anh đi.
- Tưởng lên trên nầy học cho gần anh, té ra anh đi Tây!
Triều hỏi Quan:
- Toa lên hồi nào?
- Mới lên hồi trưa.
- Toa lên đặng đưa Xuân xuống tàu phải không?
- Không. Moa lên đặng làm việc.
- Làm ở đâu?
- Dinh Đốc lý.
- Moa mừng cho toa. Để moa xin tía má moa ở nán lại đặng sáng mốt đưa Xuân xuống tàu.
Cô Quyên vội nói:
- Tôi cũng ở nữa.
Ông Từ Tệt cười và nói:
- Muốn ở thì ở. Đưa cháu Xuân xuống tàu rồi sẽ về. Nầy, cháu Xuân, chú mời cháu chiều mai ra nhà hàng ăn cơm với chú thím một bữa rồi sẽ đi.
Xuân bợ ngợ đáp:
- Lời chú biểu cháu không dám cãi. Mà nếu vâng chịu thì có chỗ bất tiện cho cháu.
Bà Từ chận hỏi:
- Sao mà bất tiện?
- Dạ, cháu tính tối mai cháu ăn cơm với cô Quế và anh Quan đây rồi cháu xuống tàu.
- Tưởng ai đâu lạ, chớ anh em với thằng Triều thì thím xin mời hết chiều mai ăn cơm chung với nhau cho thím vui. Thím xin mời hết anh em.
Triều đứng dậy nói lớn:
- Hội Mai, Lan, Cúc, Trước nhóm đại hội, không ai được phép vắng mặt. Lời của trưởng hội truyền. Chiều mai anh em tụ lại đây rồi tôi đem xe vô rước đi. Ăn cơm rồi mình sẽ tính việc đưa Xuân xuống tàu. À, Xuân, toa hay chuyện moa đã nói vợ hay chưa?
Xuân cười mà hỏi lại:
- Nói vợ ở đâu?
- Bên Long Mỹ, con gái một vị điền chủ, đẹp lại giàu.
- Người ta ưng gả hay không?
- Sao lại không ưng?
- Nếu vậy thì toa gần đạt được mục đích của toa rồi.
- Phải, chớ chi toa làm như moa thì xong quá, khỏi đi học tốn của tốn công.
- Ai có chí nấy...
Bà Tệt nói:
- Thi rớt rồi về nhà nó đòi cưới vợ, chú thím phải lo nói vợ cho nó. Chỗ đó người ta chịu gả rồi, song ra giêng mới cưới.
Xuân với Quan bắt tay mừng cho Triều.
Vợ chồng ông Từ Tệt ở chơi một lát rồi trở ra khách sạn mà nghỉ với hai con, ân cần mời Xuân, Quan và cô Quế chiều mai phải ra nhà hàng mà ăn cơm, không ai được từ chối.
Khách đi rồi, Xuân liền hối Chị Thiện dọn cơm đặng ăn với Quan và cô Quế. Ba người ăn uống nói chuyện chơi tới 10 giờ rồi cô Quế về. Còn Quan ở đó ngủ với Xuân.
Chiều bữa sau Triều đem xe hơi vô nhà Xuân mà rước anh em. Cô Quế đi thêu về, cô thay đổi y phục, trang điểm chút đỉnh rồi lên xe đi với ba cậu ra nhà hàng.
Trong bữa ăn, cô Quế nói chuyện khôn ngoan vui vẻ, làm cho vợ chồng ông Từ Tệt mới quen mà cũng yêu mến cô như đã quen lâu rồi.
Còn cô Quyên ngồi một bên Xuân, cô cứ ngó Xuân hoài, sắc mặt buồn hiu, không nói chi hết.
Ăn cơm rồi, vợ chồng ông Từ Tệt với cô Quyên sửa soạn lên xe đi về phòng. Mấy anh em đưa ra xe. Cô Quyên hỏi nhỏ Xuân:
- Anh đi bên Tây chừng nào anh về?
- Học xong anh mới về.
- Chừng mấy năm.
- Năm mười năm, không biết trước được.
- Lâu quá!..Anh đem mấy tấm hình của em theo hay không.
- À, quên. Để lát nữa về nhà rồi anh sẽ lấy mà bỏ trong rương.
- Anh phải nhớ đa, nghe không.
- Nhớ! Em hãy an tâm.
Xe đưa vợ chồng ông Từ Tệt với cô Quyên về phòng rồi trở lại nhà hàng. Triều mời Xuân, Quan và cô Quế lên xe trở về nhà trước. Bốn người đều vui vẻ, tính bỏ đêm ấy không thèm ngủ, để trò chuyện chơi với nhau. Đem đồ xuống tàu xong rồi bốn người bèn lên xe đi Thủ Đức ăn nem.
Xuân nhân dịp ấy mới gởi gắm cô Quế cho Quan và nhứt là căn dặn Quan ở Sài Gòn phải hết lòng bảo vệ cô, phải giữ cho trọn nghĩa kim bằng.
Đến ba giờ khuya mấy người mới trở về Sài Gòn. Triều đưa Xuân, Quan và Quế xuống bến tàu rồi trở về khách sạn mà rước cha mẹ. Gần 5 giờ sáng, vợ chồng ông Từ Tệt với cô Quyên mới xuống tới. Chị Chín Thiện với thằng Chí cũng qua bến tàu mà đưa chủ.
Lúc tàu gần kéo neo, Xuân từ giã mọi người đặng lên tàu. Cô Quế chúc Xuân lên đường bình an, chúc học mau thành tài, cô vui vẻ như thường, chẳng bịn rịn chi hết. Riêng cô Quyên thì cô khóc mùi, cô nắm cánh tay Xuân chặt cứng, dường như không muốn để Xuân đi song cô không nói ra được.
Tàu rút chạy. Lúc nầy là lúc cảm động hết sức, cảm động giữa kẻ ở người đi. Người dưới tàu đưa tay mà ngoắc; người trên bờ cũng ngoắc lại, và ai ai cũng ngó theo chiếc tàu, song có người buồn mà cũng có người vui, bởi mỗi người có một tâm sự riêng mà không ai thấu hiểu của ai được.
Ý và tình
Phần Thứ Nhì
(9) I
Cách bảy năm sau.
Một buổi chiều tháng giêng, bầu trời sáng trong, gió thổi mát mẻ. Tan hầu, mấy ông mấy thầy từ các sở đi ra, ai cũng muốn thả lều bều trên đường Catinat, hoặc đi chung quanh Chợ Mới mà hứng gió xem hàng, duy có người nào có việc nhà mới vội vã về gấp.
Ông Còm-mi Quan ra khỏi cửa dinh Đốc lý thì bước lên chiếc xe nhỏ ba chỗ ngồi, tay cầm tay lái, chân đạp máy, cho xe chạy xuống đường Espagne bây giờ gọi là đường Lê Thánh Tôn. Tới trước tiệm may "Xuân Quan" xe ngừng sát lề đường. Quan tắt máy rồi bước xuống xe mà đi vô tiệm may.
Dì Hai Oanh đương ngồi tiếp chuyện với ba người khách đặt may áo, vừa thấy Quan vô thì vui vẻ hỏi:
- Tan sở rồi hay sao con?
- Dạ, tan sở rồi.
- Hôm nay tan sở rồi mà trời còn sớm quá.
Dì liền day vô nhà trong mà nói trổng: "Đứa nào ở không đó thì cho cô Hai hay đặng về kẻo sắp nhỏ nó trông."
Cô Quế tươi cười đi xuống thang và vội vã nói với chồng:
- Được, được. Em đang lật đật xuống để về cùng anh đây.
- Về sớm đặng qua tưới đồ một chút, vì bữa nay trời nắng quá, sợ vườn hoa khô héo hết.
- Anh sợ vườn hoa khô héo, còn anh không sợ hai con trông hay sao?
- Quan ngó vợ rồi cười mà đáp nho nhỏ: "Sợ hết cả hai."
Cô Quế càng thêm vui vẻ, màu hạnh phúc càng chói loà mặt mày cô.
Quan với Quế dắt nhau đi ra, tới chỗ dì Hai Oanh ngồi nói chuyện với khách, thì ngừng lại từ giã rồi mới lên xe. Dì Hai Oanh ngồi ngó theo hai trẻ bằng cặp mắt chứa chan thân ái.
Một bà khách hỏi dì Hai Oanh:
- Con và dâu bà đó phải không?
- Thưa, không. Con nhỏ là cháu gọi tôi bằng dì, chớ không phải là con, còn chồng nó hiện làm Còm-mi trên dinh Đốc lý.
- Hèn chi hai vợ chồng không ở chung với bà.
Một bà khách quen với dì hai đã lâu nên biết gia đạo của dì, bèn rước đáp:
- Vợ chồng cô Hai có nhà trên Phú Nhuận, mỗi bữa cô xuống coi thêu rồi chiều cô về, chớ ở dưới nầy sao được.
Dì Hai Oanh tiếp lời:
- Nó có tới hai đứa con, bữa nay có đồ thêu gấp, trưa nó phải ở lại mà thúc cho thợ họ thêu, mà nó nhảy nhót nhớ con ngồi không an. Nó là chủ tiệm mà nó bỏ phú cho tôi. Phần lúc nầy đồ nhiều, nên tôi mệt hết sức.
Thiệt như vậy, tiệm may "Xuân Quan" nầy là tiệm của cô Quế. Còn Quan là người bạn trong nhóm Mai, Lan, Cúc, Trước hồi trước đó là chồng của cô.
Số là khi Xuân xuống tàu đi Tây rồi, thì cô Quế không đi thêu mướn nữa, cô dùng một ngàn đồng bạc Xuân để lại cho cô đó mà mướn phố dọn tiệm may. Dọn tiệm may xong rồi, cô không biết phải đặt hiệu tiệm thế nào, cô mới lấy tên của hai người bạn thiết là Xuân và Quan mà đặt, ý muốn kỷ niệm tình thân ái của cô với hai anh bạn.
Trong tiệm thì cô Quế quản xuất về phần thêu, còn dì Hai Oanh chủ trương về phần may. Thêu thiệt tươi mà may cũng thiệt khéo, bởi vậy tiệm "Xuân Quan" lập ra trong vòng mấy tháng thì danh tiếng lẫy lừng khắp Sài thành. Mấy bà mấy cô mặc quần áo hay là đi giày thêu mà không phải của "Xuân Quan" may hay thêu thì chưa phải là người biết ăn mặc đứng đắn. Hàng ngày khách đến tiệm may áo may quần hoặc đặt thêu mặt gối nườm nượp. Dì cháu cô Quế phải mướn đến hai mươi người thợ phụ thêu và may mới kịp.
Vì Quan đã hứa bão hộ cô Quế, mà lại có lời Xuân căn dặn thêm nữa, nên Quan làm việc ở Sài Gòn thường hay ghé lại tiệm mà thăm. Mỗi lần Quan ghé thì cô Quế niềm nở vui vẻ, cùng nhắc nhở Xuân luôn luôn. Quan mừng cho cô Quế làm ăn thịnh phát, cô Quế cám ơn đạt được hy vọng cô ôm ấp từ lâu.
Tới lui gần gũi nhau thường, tình của Quan với Quế càng thêm dan díu. Có khi ngồi nói chuyện chơi rồi Quan từ giã ra về, chừng ra đường Quan tự hỏi thầm trong trí: "Có phải cô Quế là người bạn trăm năm của ta hay không?"
Còn cô Quế khi thanh vắng nằm một mình, cô nhớ tới Xuân và Quan, cô cũng thì thầm trong trí: "Anh Xuân nhứt định không lập gia đình. Còn anh Quan trái hẳn, ảnh giữ chủ nghĩa gia đình, song ảnh đợi người đồng tâm, đồng chí ảnh mới chịu phối hiệp. Không biết mình có phải là người đồng tâm đồng chí đó không?"
Hai người tuy có để ý tới sự hiệp nhau dựng gia đình, xây hạnh phúc, song hoặc còn ái ngại, hoặc chưa quyết định, nên ai giữ kín ý nấy, không tỏ cho nhau biết.
Sự làm ăn của cô Quế thiệt mau phát đạt. Dọn tiệm mới có một năm mà trong tủ có đôi ba ngàn tiền dư. Cô Quế đã có sắc có hạnh, lại có tiền nữa thì càng thêm duyên. Bởi vậy có nhiều ông sang trọng gấp ghé muốn cậy mai mối mà cưới cô.
Một đêm Quan ghé thăm. Dì Hai Oanh mệt mỏi nên đã nghỉ rồi. Cô Quế mời Quan lên lầu. Bữa nay cô Quế có sắc nghiêm trọng chớ không vui vẻ như lúc trước. Quan lấy làm lạ, đương suy nghĩ thì thình lình cô Quế nói:
- Em có một việc riêng muốn tỏ với anh.
- Việc chi thì em cứ nói cho qua nghe.
- Có một ông Đốc-tờ muốn cưới em.
- Em ưng hay không?
- Em chưa nhứt định. Em muốn hỏi anh coi ý anh nghĩ thế nào?
Quan châu mày nghĩ một chút rồi mới hỏi lại:
- Em biết tánh tình ông Đốc-tờ đó hay không?
- Em biết mặt chớ không biết tánh tình.
- Vợ chồng thì phải ý hiệp tâm đầu thì mới ở đời với nhau được. Em nên dọ tánh tình của người cho rõ rồi sẽ nhứt định. Qua không quen với người ấy, nên qua khó mà tỏ ý kiến của qua về cuộc trăm năm của em.
Cô Quế trầm ngâm rồi cô đưa tay chỉ vào chiếc cà rá mà nói: "Chiếc cà rá nầy nó làm cho em ngần ngại nhiều lắm. Em không dám tin người đàn ông nào hết, trừ ra anh với anh Xuân."
Quan chưng hửng, ngước mắt ngó ngay cô Quế và hỏi:
- Thiệt như vậy hay sao?
- Thiệt như vậy.
- Tại sao em lại tin qua với anh Xuân?
- Tại em thấu hiểu tánh tình của hai anh.
Quan lơ lửng một hồi rồi mới nói:
- Xuân không chịu lập gia đình.
- Phải...Ảnh quyết định như vậy.
- Còn qua thì trọng gia đình... Ví như hai anh em mình hiệp nhau mà lập gia đình, theo ý em, cái gia đình ấy có thể có hạnh phúc hay không?
- Sẽ có hạnh phúc nhiều lắm.
- Vậy thì chúng ta sẽ lo lập gia đình ấy, lập cho mau.
Cô Quế gật đầu và ngó Quan mà cười.
Quan khoan khoái trong lòng không ngồi yên được nữa nên đứng dậy đi qua đi lại mà nói:
- Chúng ta sẽ thành một cặp phụng hoàng đứng trên cây tùng già ngó mông ra khoảng đồng ruộng mênh mông như trong tấm thêu của em năm ngoái.
Cô Quế nói:
- Chẳng những cặp phụng hoàng ấy đậu trên cây tùng rồi ngó mông mà thôi, nó còn kêu mà chỉ đường hạnh phúc cho thanh niên nam nữ khác nữa.
Quan hết sức vui mừng sung sướng, đứng ngó cô Quế mà nói;
- Qua cũng bắt đầu nếm mùi hạnh phúc rồi.
- Em cũng vậy.
- Cha chả, Xuân biết chúng ta phối hiệp trăm năm đây chắc ảnh không vui.
- Sao lại không vui? Ảnh không chịu lập gia đình thì thôi, ảnh muốn người khác cũng phải theo ảnh sao được. Mà em muốn chúng ta đừng cho ảnh biết cuộc phối hiệp của chúng ta. Chúng ta viết thơ cho ảnh thì nói việc thường mà thôi, chớ đừng nói tới việc nầy. Chừng nào ảnh về rồi thì ảnh hay chẳng muộn gì. Anh chịu như vậy hay không?
- Chịu. Em tính như vậy thì hay lắm. Ảnh mắc lo học. Mình phải để cho ảnh yên chí, chẳng nên làm rộn cho ảnh. Huống chi ảnh nghịch với chủ nghĩa gia đình, thì đám cưới chẳng cần phải cho ảnh hay.
Người ta thường nói phải có duyên nợ mới kết thành vợ chồng được. Không biết cái lý thuyết ấy có chánh đáng hay không, nhưng mà đối với cô Quế và Quan đây thì nó đúng lắm. Cô Quế kết bạn với Quan và Xuân, vì Xuân có tánh đa sầu đa cảm, còn Quế có tánh thận trọng trầm tĩnh, nên cô tưởng Xuân có tình với cô nhiều hơn Quan, chẳng dè tình ý bây giờ lộn ngược, làm cho người mà cô để ý lại không có tình, còn người cô không để ý lại có tình. Đó không phải là duyên nợ hay sao?
Ngày lễ Quan về Trà Vinh thưa với mẹ và anh hay, rồi chánh thức tỏ với dì Hai Oanh mà xin cưới cô Quế. Đám cười làm đơn tiện, mời bà con mà thôi, đến Triều mà Quan cũng không cho hay. Cưới rồi Quan về ở chung tại tiệm may mà đi làm việc. Tình vợ chồng ngày nay cũng như tình bằng hữu hồi trước, vẫn một mực chân thành ái kính luôn luôn. Y như lời cô Quế đoán trước, gia đình thiệt là đầm ấm, chồng yêu vợ, vợ kính chồng, mỗi người đều giữ nhiệm vụ vuông tròn nên bầu trời cứ thanh bạch, chẳng bao giờ có một cụm mây phưởng phất.
Cái hạnh phúc của Quan với Quế càng bữa càng lớn thêm hoài. Chẳng những tiệm may được thạnh lợi hơn mà thôi; mà vợ chồng ở được vài năm thì sanh được một đứa con trai đặt tên là Minh, rồi mới năm ngoái đây lại còn sanh thêm một đứa con gái nữa, đặt tên là Phượng. Minh và Phượng là kết quả của niềm ân ái vừa nồng nàn vừa thanh bạch giữa Quan và Quế, mà cũng hai đóa hoa tươi đẹp vừa mới nảy nở để thêm duyên thêm quí cho gia đình trẻ nầy. Bởi vậy Quan với Quế trân trọng đêm ngày, tuy vợ chồng phải đi làm việc, song chẳng có lúc nào hình ảnh hai trẻ không có vởn vơ trong trí.
Năm ngoái, khi sanh Phượng rồi, cô Quế một là muốn mẹ chồng được chung hưởng hạnh phúc gia đình, hai là muốn đem cái hạnh phúc ấy mà để vào một cảnh thanh tịnh tiêu diêu, nên cô than thở xin chồng kiếm mua một miếng đất gần Sài Gòn cất một cái nhà nho nhỏ mà ở cho con chơi thong thả và đặng rước mẹ chồng về ở chung cho vui.
Có một căn nhà, không cần mỹ lệ, song phải cao ráo mát mẻ, ở giữa một miếng đất có hoa quả, cải rau, ấy là cái hy vọng của Quan thuở nay. Hôm nay Quan thấy vợ cũng hiệp ý với mình, lại trong nhà bây giờ có dư đến năm bảy ngàn đồng bạc, bởi vậy Quan không dụ dự, quyết tán thành nguyện vọng của vợ mà cũng là sự mơ ước của mình.
Lúc ấy ở chung quanh Sài Gòn đất trống có nhiều mà bán giá rẻ. Nhờ có anh em quen chỉ dẫn, Quan mua bên Phú Nhuận, dựa trên đường lên Lăng Cha Cả, một miếng đất rộng hơn một mẫu mà giá chỉ có một ngàn đồng thôi. Mua đất rồi Quan đặt cất một cái nhà ngói ba gian vách ván, có nhà bếp, nhà xe, có lồng bồ câu, có giếng nước ngọt, các cuộc tốn hao hết hai ngàn nữa.
Nhà cất xong rồi, vợ chồng Quan dọn hết những đồ của Xuân để lại mà đem về đó, có thiếu bàn ghế tủ giường thì mua thêm, rồi vợ chồng về ở với con và Quan cũng rước mẹ là bà Hương sư Huy lên ở với mình.
Quan mua một chiếc xe hơi nhỏ để mỗi ngày, sớm mai cũng như xế chiều, vợ chồng xuống Sài Gòn, chồng làm việc, vợ coi tiệm. Ở nhà thằng Minh có đứa giữ, con Phượng có vú nuôi, lại có bà Hương sư coi sóc trong ngoài, cũng như ở dưới tiệm có dì Hai Oanh nên vợ chồng Quan khỏi nhọc lòng cực trí.
Miếng đất rộng quá. Quan liệu khó mà trồng cho giáp hết được, bởi vậy Quan chia hai ra rồi phía sau cho người ta trồng thuốc, trồng đậu, trồng bắp, trồng khoai. Quan ra vốn mua giống, mua phân rồi giao cho họ trồng, họ ra công ươm trồng, vô phân rồi tưới nước, chừng bán được bao nhiêu tiền thì họ chia cho Quan phân nửa. Kẻ có của người có công, hai đàng đều vui lòng, Quan xuất vốn thì có lợi, mà họ ra công cũng không thiệt hại.
Còn phân nửa miếng đất nằm về phía trước, thuộc chung quanh nhà thì Quan mướn người coi trồng. Trước sân trồng đủ thứ bông, dọc theo mé quan lộ trồng một hàng mít, hai bên nhà trồng rau trồng cải, trồng ớt, trồng nhãn, trồng trầu, còn phía sau nhà trồng mỳ trồng khoai lang, có khi cũng thay đổi mà trồng bắp, trồng mía.
Trót một năm nay gia đình Quan yên tĩnh cũng như mặt biển lúc trời còn êm, hạnh phước của cô Quế như mùa xuân trăng tỏ. Chung kính mẹ, chung kính dì, chung yêu con, chung làm việc, vợ chồng Quan chẳng mơ ước điều chi khác nữa, chỉ mong làm sao cho chuỗi ngày hạnh phúc nầy kéo dài cho mãn đời.
Chiều hôm đó Quan ghé tiệm "Xuân Quan" mà rước vợ chạy riết về nhà. Xe vô sân vừa ngừng thì thằng Minh chạy ra kêu ba má líu lo, còn con Phượng còn nằm trên tay chị vú, song nó cũng đưa hai cánh tay mềm mại non nớt ra đòi má ẵm. Quan bồng Minh, Quế ẵm Phượng cùng đi vô nhà, vừa đi vừa hun con, vẻ hân hoan chan hoà trên các mặt, từ cha mẹ cho đến hai con. Bà Hương sư ngồi chơi trước hàng ba, bà thấy con cháu tràn trề thân ái như vậy thì bà vui lòng khôn tả, nên bà chúm chím cười mà vì bà cảm động quá nên bà ứa nước mắt.
Gia đình hạnh phúc là đó!
Bức tranh thêu cặp phụng hoàng đứng trên cây tùng già ngó thẳng ra đồng ruộng bát ngát kêu mà chỉ đường hạnh phúc cho thanh niên nam nữ là đó.
Quan nựng nịu Minh, kề mặt Phượng mà hun rồi đi thay đồ đặng ra tiếp với hai đứa ở tưới hoa tưới kiểng. Quan mặc quần vắn, đi chân không, tay xách thùng nước đi tưới cây coi gọn gàng mạnh mẽ. Thằng Minh lẩm đẩm chạy theo cha, tay cầm một chiếc lon mà bắt chước cha tưới nước coi rất ngộ nghĩnh.
Ăm tối rồi thì trăng mọc đã cao.
Chị vú đem em bé Phượng vô buồng mà dỗ ngủ.
Bà Hương sư và cô Quế dắt Minh ra ngồi trên băng đá để giữa sân mà thưởng nguyệt nhìn hoa.
Còn Quan thì cũng như mỗi buổi tối, hễ ăn cơm rồi thì ngồi tại bàn viết hút thuốc và đọc báo, đọc cho hết rồi mới chịu ra ngoài đi bách bộ mà hóng mát.
Bóng trăng tròn tỏ rạng, mùi hoa thơm ngào ngạt, hơi gió thổi lai rai, nhành cây đưa lúc lắc.
Minh đương ôm bắp vế mẹ mà nói nhõng nhẽo: "Mai má cho con xuống tiệm nghe hôn má."
Cô Quế vuốt tóc con mà đáp:
- Con xuống tiệm chi con? Ở nhà chơi với bà nội chớ.
- Con chơi với bà nội hổm nay. Con muốn xuống con chơi với bà ngoại.
- Con muốn đi thì con phải xin phép với bà nội. Như bà nội cho thì má sẽ dắt đi.
Minh buông mẹ ra mà bước qua bà Hương sư mà nói: "Bà nội cho con đi, nghe bà nội".
Bà Hương sư ôm cháu hun khắp mặt mày rồi nói:
- Ừ, mai con đi theo ba má xuống thăm bà ngoại. Hổm nay con lâu xuống chắc bà ngoại nhớ lắm.
Thình lình trong nhà Quan cất tiếng kêu và nói lớn: "Em ơi em, anh Xuân về gần tới rồi."
Cô Quế chưng hửng vừa đứng dậy đi vô nhà vừa nói: "Anh Xuân về?...Ai nói với anh mà anh biết."
Quan cứ ngồi trong nhà mà đáp: "Qua thấy trong nhựt trình đây. Em vô coi".
Cô Quế bươn bả vô nhà, Quan vừa chỉ vào tờ nhựt trình vừa vui vẻ nói: "Nhựt báo đăng đủ hành khách đi chiếc tàu "ARAMIS", ở Marseille chạy bữa 10 tháng 2. Trong số hành khách có tên Xuân, kỹ sư nông học rõ ràng đây. Mấy năm nay tuy anh Xuân ít gởi thơ và giấu kín không chịu cho mình biết ảnh học khoa nào, song qua có hỏi mấy người ở bên Tây về, thì họ nói ảnh học trường Nông Phố Nogent- sur- Marne. Tên Xuân kỹ sư nông học đi chiếc "ARAMIS" đây, thì ảnh chớ ai ".
Cô Quế cúi xuống xem kỹ lại rồi cảm xúc nên thủng thẳng nói: "Phải rồi...Chắc ảnh..."
Cô Quế lại ngồi cái ghế để trước bàn viết, mắt ngó chồng trân trân và nói tiếp:
- Anh Xuân về!... Em mừng quá!...
- Qua cũng mừng...
- Phải đón tàu mà rước ảnh. Không biết chừng nào tàu tới?
- Ở Marseille đi bữa 10 tháng 2, chừng 7 tháng 3 sẽ tới Sài Gòn. Bữa nay đã ra khỏi Biển Đỏ rồi. Để gần tới qua sẽ hỏi thăm hãng Nhà Rồng coi chắc giờ nào, ngày nào về.
- Nên cho anh Triều hay đặng ảnh lên mà rước với mình hay không?
- Thôi, lúc nầy đương gặt hái anh Triều mắc lo góp lúa chẳng nên làm rộn ảnh.
- Nhóm Mai, Lan, Cúc, Trước phải hội đại hội chớ... Đã bảy năm rồi.
- Để Xuân về mình phải dọ coi ý ảnh thế nào rồi sẽ hay.Từ ngày ảnh đi Tây, cả năm ảnh mới gởi cho mình một tấm bưu thiếp viết ít chữ sơ sài, không chắc tình bằng hữu như trước nữa. Vậy mình cũng chẳng nên nói chuyện đó làm chi.
- Phận em có thọ ơn của anh Xuân: nhờ có một ngàn đồng của ảnh, em mới leo lên địa vị chủ nhơn rồi làm ăn khá đây, dầu thế nào vợ chồng mình cũng phải lo đền bồi ơn ấy.
- Đó là lẽ dĩ nhiên. Ơn nghĩa phải lo đền đáp, quên làm sao được.
- Em coi ý anh Triều không thích anh Xuân; ảnh thương vợ chồng mình hơn. Anh nhớ không? Lúc vợ chồng mình mới cưới được vài tháng, anh Triều có dịp lên Sài Gòn ảnh kiếm mình ảnh thăm. Ảnh hay hai anh em mình kết nghĩa trăm năm thì ảnh mừng lắm, ảnh khen mình quá, còn ảnh nói hơi như ghét anh Xuân.
- Anh Triều xu hướng về chủ nghĩa gia đình. Mình đồng ý với ảnh nên ảnh thích. Còn ảnh nói anh Xuân là người "Vô gia đình" nên ảnh không ưa.
- Anh Xuân học xong rồi, chừng về xứ chắc ảnh cũng cưới vợ như người ta chớ gì?
- Cái đó qua không dám biết. Anh Xuân nuôi ý khác mọi người. Ảnh mê mẫn với chủ nghĩa chấn hưng xã hội. Ảnh quyết hy sinh đời ảnh để lo khai phá. Không biết mấy năm nay ảnh đổi ý chưa?
- Em tiếc cái nhóm "Mai, Lan, Cúc, Trước" không sum hiệp được như hồi xưa nữa.
- Qua cũng tiếc như em. Cuộc đời thường thay đổi, lòng người cũng vậy. Để thủng thẳng coi...
Bà hương sư dắt Minh vô nhà. Minh lại đứng trước cha mẹ và khoanh tay xin phép đi ngủ. Vợ chồng Quan ôm con mà hun một hồi rồi Minh mới đi theo bà nội mà đi ngủ.
Bóng trăng càng thêm tỏ, khí trời càng thêm mát, tuy gió vàng đã lặng êm, ngọn cây đều đứng sững.
Bây giờ vợ chồng Quan mới vặn cho lu đèn trong nhà rồi cùng nhau đi ra giữa vườn hoa thơm rực rỡ ngồi mà bàn tiếp chuyện Xuân, tính coi phải rước Xuân như thế nào, phải làm cách nào cho chưng hửng, phải mời Xuân ở đâu, phải làm sao mà đem trí ý thực tế để thay cho đầu óc mơ mộng của Xuân, nhứt là phải liệu phương nào gây lại tình bằng hữu thuở xưa.
Vợ chồng bàn tính tới khuya mới đi ngủ.
Ý và tình
(10) II
Buổi sớm mai, sở Thương khẩu dán cáo thị nói chiếc tàu "ARAMIS" 3 giờ chiều sẽ cặp bến Sài Gòn.
Quan xin phép sở nghỉ buổi chiều, còn cô Quế lo mua thực phẩm để tiếp rước đãi Xuân
Mới 2 giờ chiều mà vợ chồng Quan đã ngồi xe hơi qua bến Nhà Rồng rồi. Những người đi rước bà con anh em như Quan, họ lần lượt tựu tới cũng đông.
Nước lớn đầy mà chiếc "ARAMIS" cao vòi vọi, sơn trắng toát, quanh theo cái doi ngang Lăng-tô, rồi nhắm chạy vô bến, hình dáng oai nghiêm, đồ sộ.
Cô Quế với Quan đứng ngó, trong lòng khấp khởi, vừa vui thấy chiếc tàu, vừa trông gặp bạn cũ. Vì cảm xúc nên cô Quế nắm tay Quan, Quan ngó vợ mà cười, rồi cũng nắm chặt tay vợ, dường như muốn trình lần cho Xuân còn ở trên tàu được biết rằng mình theo thực tế tập tánh giản dị, nên mình cũng được hưởng hạnh phúc, chẳng cần lặn lội kiếm tìm.
Tàu cặp bến. Vợ chồng Quan dòm hành khách có ý kiếm Xuân mà không thấy. Tại sao vậy? Xuân mắc dọn dẹp hành lý, hay là Xuân về Xuân không cho ai hay, Xuân chắc không có ai rước, nên không cần dựa mé tàu cho trên bờ thấy?
Thang bắt xong, hành khách chen nhau mà xuống tàu nườm nượp. Vợ chồng Quan dắt tay nhau lại đứng gần cầu thang mà đón Xuân. Chẳng bao lâu hai người thấy Xuân thủng thẳng đi xuống, hình vóc cao lớn mạnh mẽ, tay xách một cái va ly, sau lưng lại có người phụ vác rương đi theo.
Cô Quế kêu lớn:
- Anh Xuân, có em đi rước anh đây!
Xuân đứng lại ngó, thấy Quan với cô Quế thì chàng nhích miệng cười rồi phải trôi theo lược sóng người mà xuống cầu, không thể dừng lại được mà cũng không nói một tiếng chi hết.
Xuân xuống hết cầu thang thì gặp Quan với cô Quế đứng chực sẵn nơi đó. Xuân bắt tay mừng bạn cũ và hỏi Quan:
- Sao toa với em Quế hay moa về nên xuống bến mà rước moa?
- Đọc nhựt báo.
- À!... Nhựt báo!
Người phu vác rương nặng, sợ Xuân đứng nói chuyện lâu nên thúc: "Đem xe lại xe kéo phải không ông "
Quan hớt mà đáp: "Không. Đem lại xe hơi kia ". Quan vội vã dắt người phu lại xe hơi, coi để rương lên xe tử tế rồi móc tiền mà đền công vác.
Xuân với Quế thủng thẳng đi theo sau. Cô Quế thấy Xuân vẫn nghiêm nghị, cặp mắt vẫn sâu xa như hồi trước, duy hình vóc lớn hơn và ở dưới tàu gần một tháng nên bị nắng biển táp, gió thổi đùa nên nước da sậm hơn mà thôi. Lìa quê cha đất tổ đã trót bảy năm, hôm nay mới được để chơn lên cõi thân yêu mà người gặp trước nhứt là hai bạn cố giao, bởi vậy tuy Xuân có tánh trầm tĩnh song trong lòng cảm động nao nao.
Cô Quế dắt Xuân lại tới xe hơi, Quan rước lấy va ly mà bỏ lên xe nữa. Xuân hỏi trổng: "Xe của ai đây?". Cô Quế cười mà nói: "Xe của anh Quan."
Xuân ngó Quan dường như muốn hỏi Quan làm việc có dư tiền lắm hay sao mà sắm xe hơi.
Quan hiểu ý, không muốn Xuân dị nghị nên vụt nói:
- Xe có 3 chỗ ngồi, mà bị rương với va ly choán hết, bây giờ làm sao mà đi được. Thôi, để tôi tính như vầy: hai người ở đây, để tôi chở hành lý về trước, rồi tôi sẽ trở qua mà rước.
Cô Quế nói:
- Không. Anh cứ chở đồ đi đi. Em kêu xe kéo em đi với anh Xuân. Anh khỏi trở qua nữa.
Quan liền kêu lại hai chiếc xe kéo mà giao cho cô Quế rồi lên xe hơi cầm bánh đi trước.
Dì Hai Oanh thấy Quan ngừng xe thì bước ra hỏi:
- Còn cậu Xuân đâu con?
- Ảnh đi xe kéo, một chút nữa ảnh sẽ tới.
Quan kêu một người ở trong tiệm mà dặn:
- Chừng khách vô tiệm rồi, anh kêu một chiếc xe kéo lại anh chở giùm rương với va ly đem trước lên nhà tôi, anh nhớ không?
Người ở cúi đầu đáp:
- Thưa nhớ.
- Ừ, mà phải chờ tôi vô tiệm rồi ở ngoài nầy anh sẽ làm nghe không. Đừng có cho khách thấy.
- Dạ.
- Xe kéo của Xuân và cô Quế qua tới, ngừng sau xe hơi. Xuân thấy dì Hai Oanh bước ra thì mừng, lật đật cúi đầu chào và hỏi:
- Dì Hai ở nhà mạnh?
- Cám ơn. Cậu đi mấy năm nay mạnh giỏi?
- Dạ cháu mạnh luôn luôn.
- Cô Quế vui vẻ nói:
- Tiệm may của anh đó; dì cháu em ở nhà lập giùm cho anh mấy năm nay, song giấu kín không cho anh biết.
Xuân châu mày rùn vai, ngó lên thấy tấm bãng hiệu "Xuân Quan " rồi gật đầu chúm chím cười.
Dì Hai Oanh nói: "Thôi mời cậu vào tiệm chớ".
Quan để bàn tay lên lưng Xuân mà xô nhè nhẹ đưa Xuân vào tiệm, dì Hai với cô Quế tiếp đi theo, Xuân thấy thợ may ngồi hơn mười người, hàng chất đầy tủ, áo treo đầy nhà, thì đứng ngó và suy nghĩ.
Quan nói:
- Từng dưới đây là may, còn thêu thì ở trên lầu. Toa đi luôn lên trên xem cho biết.
Quan dắt Xuân lại thang mà lên lầu, cô Quế với dì Hai cũng đi theo sau song không nói một lời nào cả.
Trên lầu Xuân thấy cũng có cả chục người thợ đương ngồi chăm chỉ thêu. Cậu đi vòng coi chơi rồi gục gặc đầu.
Cô Quế bước tới nói với Xuân:
- Anh xuống tàu mà đi Tây rồi thì em vâng lời anh dạy em dùng một ngàn đồng bạc của anh mà lập tiệm Xuân Quan nầy. Phần may từng dưới thì về dì em coi sóc, còn phần trên nầy thì chính mình em quản xuất. Nhờ trời phật độ nên mấy năm nay tiện Xuân Quan phát tài luôn luôn. Nhờ anh mà em được leo lên địa vị chủ nhân, ơn ấy chẳng bao giờ em dám quên.
Xuân châu mày đáp:
- Qua không nhớ tiền bạc gì hết. Qua để cho em một ngàn đồng bạc bao giờ đâu?
- Anh muốn giễu chơi hả? Em biết anh là người thành thật, kỹ lưỡng, hay tính trước hay lo xa. Có lẽ nào lìa quê hương mới bảy năm mà anh đổi tánh đến thế.
Mấy lời ấy làm cho Xuân ăn năn nên lật đật nói lại:
- Qua nói chơi. Mà cũng tại em làm cho qua bước ra ngoài vòng chơn chánh.
- Sao vậy? Em làm sao mà anh đổ tội cho em?
- Ai biểu em nhắc chuyện cũ làm chi?
- Không nhắc sao được.
- Xin em đừng nhắc.
- Cô Quế vừa muốn cãi nữa thì Quan nói: "Thôi mà, anh Xuân mới về tới, chúng ta nói chuyện mới nghe cho vui, em nhắc chuyện cũ làm chi. Coi tiệm Xuân Quan rồi, thôi bây giờ mời anh Xuân lên Phú Nhuận chơi".
Xuân hỏi Quan:
- Lên Phú Nhuận làm gì?
- Ậy! Cứ đi mà. Làm chi rồi sẽ biết.
- Để tôi mướn phòng ngủ mà cất hành lý rồi đi đâu sẽ đi chớ.
- Đừng lo chuyện ấy.
Quan liền cắp tay Xuân mà xuống lầu. Dì Hai Oanh với cô Quế ngó nhau mà cười. Xuống từng dưới rồi Quan nói với dì Hai: "Mời dì lên Phú Nhuận chơi với mấy cháu."
Dì Hai ngó vòng mấy người thợ may rồi nói:
- Không tiện. Đồ may gấp lắm, dì phải thúc cho họ may, không dám đi chơi. Mấy cháu đi đi. Cậu Xuân đi chơi, để bữa nào cậu rảnh rỗi rồi tôi sẽ nói chuyện với cậu, vì tôi có nhiều chuyện phải nói, mà lại nói dài lắm.
Ba người cúi đầu từ giã dì Hai rồi nối nhau ra cửa. Xuân thấy xe hơi còn đậu ngay cửa song không có hành lý của mình thì hỏi Quan:
- Ủa, đồ đạc của moa ai đem đi đâu rồi?
- Moa đã sai người chở trước lên Phú Nhuận.
- Chi vậy?
- Đem lên trển cho toa chớ có chi đâu.
- Bí mật quá.
- Có gì là bí mật đâu.
Xuân rùn vai mà trong trí suy nghĩ lung lắm.
Cô Quế mở cửa xe hơi leo lên ngồi phía sau, Quan lên ngồi đằng trước, biểu Xuân lên ngồi một bên mình, rồi cầm bánh cho xe chạy lên Phú Nhuận.
Cách bảy năm trời mới thấy Sài Gòn, Xuân ngồi xe cứ ngó hai bên, không muốn nói chuyện. Cô Quế ngồi phía sau cô vui vẻ hỏi:
- Anh Xuân, anh coi Sài Gòn bây giờ có khác hơn hồi trước hay không?
- Bên Khánh Hội thì khác nhiều. Phía Chợ Mới người ta đông đảo và buôn bán thịnh vượng hơn. Còn phía trên nầy thì nhà cửa cũng như cũ, chớ không thay đổi chi hết.
- Qua khỏi cầu Kiệu rồi thì anh sẽ thấy đổi nhiều. Để rồi anh coi.
Thiệt khi xe qua khỏi cầu Kiệu rồi thì Xuân thấy người ta đông đảo rần rộ, nhà phố hai bên cất giáp hết, chớ không phải là đường quạnh hiu, nhà sơ sài dơ dáy như hồi trước.
Cô Quế hỏi Xuân:
- Phải khác hơn hồi trước hay không anh Xuân? Em nhớ hồi trước chúa nhựt mấy anh dắt em đi chơi phía trên nầy, có phải như vầy đâu.
- Từ chợ Tân Định trở lên phía trên nầy người ta đông quá.
- Phải. Nhờ chánh phủ làm đường xe lửa từ Bắc vào Nam, đồng bào ta ngoài Bắc Việt, Trung Việt có thể vào trong nầy dễ dàng, nên ở buôn bán làm ăn. Tại như vậy nên bây giờ Sài Gòn dân số tăng lên vùn vụt, phải tràn ra mà ở các vùng chung quanh châu thành.
- Đó là sự tiến hoá của quê hương về mặt kinh tế. Đáng mừng lắm.
- Ừ. Tiệm may, tiệm đóng giày, tiệm bàn ghế, tiệm giặt ủi bây giờ toàn là của người mình hết anh ạ.
- Vậy hả? Được vậy thì qua mừng lắm. Đó là một sự qua ao ước từ thuở nhỏ.
- Việt Nam mình lập tiệm buôn bán nhiều, để rồi anh đi chơi anh sẽ thấy.
Xuân mắc nói chuyện, chừng thấy xe hơi quanh vô nhà thì chưng hửng hỏi: "Nhà ai đây?"
Quan với cô Quế dường như không nghe nên không trả lời. Xe ngừng bên nhà. Quan mời Xuân xuống, Xuân hỏi nữa; "Nhà ai đây?"
Quan chúm chím cười và đáp:
- Nhà của moa chớ nhà ai.
Xuân không dè Quan có xe hơi, mà lại còn có nhà, nên đứng ngạc nhiên. Quan mời Xuân lên hàng ba đặng vô. Bà Hương sư nắm tay cháu Minh đứng sẵn tại cửa giữa, mà chị vú bồng cháu Phượng cũng ra đứng gần đó.
Quan thấy mẹ liền tiến dẫn với Xuân:
- Má của moa. Thưa má, bạn của con là anh Xuân bên Pháp mới về tới.
Xuân cúi đầu chào nói:
- Cháu kính chào bác và chúc bác an khương.
Bà hương sư đáp:
- Tôi mừng cậu. Mấy năm nay thằng Quan tôi nhắc nhở cậu hoài. Từ nay anh em được gần nhau, tôi lấy làm vui lắm.
Quan bước tới đưa tay bồng cháu Phượng mà hun. Thằng Minh thấy có khách lạ nên nãy giờ đứng êm, chừng thấy ba nó bồng em nó, thì nó buông tay bà nội rồi lại ôm ba nó. Xuân thấy vậy thì hỏi Quan:
- Con của toa?
- Phải. Con của moa.
- Được mấy đứa?
- Có hai đứa đây.
Quan biểu Minh:
- Con xá bác đi con.
Minh chắp tay cúi đầu chào Xuân. Xuân cười đưa tay nắm chặt tay mặt của Minh, rồi ngó vô nhà rồi hỏi Quan: „Toa làm ơn tiến dẫn Madame Quan cho moa biết". Lúc ấy cô Quế đứng sau lưng Quan chúm chím cười. Quan day lại chỉ vợ mà nói: „Madame Quan đây. Toa quen trước moa nên moa không tiến dẫn." Xuân ngạc nhiên ngó cô Quế, ngó Quan, ngó hai cháu nhỏ, rồi gật đầu và chậm rãi hỏi Quan:
- Lạ lùng quá. Moa không dè chút nào hết! Toa làm như vậy hay sao? Toa cưới em Quế hồi nào?
- Toa đi một năm rồi moa cưới.
- Sao không cho moa hay?
- Toa không ưa gia đình thì cho toa hay ích chi? Khi ra đi toa dặn moa ở nhà phải bảo hộ em Quế. Moa suy nghĩ mãi, sau moa định rằng phải cưới em Quế thì mới bảo hộ em được, nên moa cưới.
Xuân vui vẻ bắt tay mừng cho bạn:
- Toa cao thượng mà lại giản dị quá. Moa mừng cho toa mà moa cũng kính phục toa.
Xuân day qua nói với cô Quế:
- Qua cũng mừng cho em lắm. Em với Quan đều kính trọng chủ nghĩa gia đình, hai người phối hiệp, gia đình tự nhiên đầm ấm. Qua mừng lắm. Qua vui lắm. Em khỏi phải đeo chiếc cà rá mặt đỏ nữa.
Cô Quế đưa bàn tay cho Xuân xem. Thiệt quả không có chiếc cà rá mặt đỏ. Cô cười và nói: „Anh Quan không cho em đeo chiếc cà rá đó mà anh lại biếu em một chiếc dây chuyền có trái tim vàng để em đeo luôn luôn trước mặt em đây. Hồi anh ra đi thì hai đứa em có tình bằng hữu mà thôi chớ chẳng có ý gì khác. Vì gần nhau rồi lại thấy tâm đầu ý hiệp nên lần lần mới gây tình vợ chồng. Nhờ có tình với ý ấy chung lộn nên vợ chồng em mới tạo được hạnh phúc mà hưởng mấy năm nay."
Xuân vội vã nói:
- Hạnh phúc ấy em sẽ hưởng hoài, hưởng tới già, hưởng trọn đời.
Mọi người đều hân hoan, cô Quế rước bé Phượng mà bồng. Bà hương sư mời hết vô nhà.
Xuân đứng giữa phòng khách ngó cùng nhà, bộ đắc ý lắm. Cậu thấy tấm thêu cặp chim phượng hoàng đậu trên cây tùng già bây giờ lộng kiếng đóng khuông treo tại cửa giữa ngó thẳng ra phỏng khách thì cậu chỉ và hỏi: "Tấm thêu năm trước đấy phải không?"
Cô Quế đáp:
- Phải. Mà em với anh Quan làm cho cặp phụng hoàng ngó thẳng ra khoảng trống đó bây giờ biết kêu, kêu thanh niên nam nữ mà chỉ giùm đường hạnh phúc...
Xuân ngó Quan mà hỏi:
- Thiệt như vậy hay sao, Quan?
Quan gập đầu đáp:
- Thiệt như vậy... Bây giờ trời mát rồi moa mời toa đi xem vườn đất của moa chơi.
Quan dắt tay Xuân ra vườn qua phía trước, rồi dắt đi xem những rau, ớt, trầu, khoai của Quan coi cho người ta trồng chung quanh nhà. Quan không biết nông học là gì, nhưng bắt chước thiên hạ trồng thuở nay, vô phân tưới nước săn sóc hàng ngày, rồi hoa coi cũng tươi, rau trầu khoai củ coi cũng sởn sơ mạnh mẽ. Đi coi đến đâu Xuân cũng khen đến đó làm nông[1] chí Quan thêm, nên Quan dắt đi vô miếng đất phía sau, là chỗ Quan ra vốn cho người ta trồng. Chiều người ta đương tưới đồ trồng, bởi vậy đàn ông, đàn bà, con nít lăng xăng. Đầu nầy trồng thuốc, đầu kia trồng cà, bên kia trồng bắp, thứ nào cũng tốt xem ra ngoạn mục.
Quan chỉ mà nói với Xuân:
- Miếng đất của moa được hơn một mẫu. Moa để phía trước moa trồng, còn phía sau moa ra vốn cho người ta trồng. Moa bây giờ làm bậy bạ như vậy mà ba bốn gia đình no cơm ấm áo.
Xuân nghiêm nét mặt mà đáp:
- Làm như vậy sao gọi là bậy. Đó cũng là một việc công ích chớ. Tiếc vì toa làm nhỏ nên không được mấy người. Phải làm lớn mới được, làm sao cho mọi người được nhờ thì mới quí.
- Moa làm theo sức moa, moa không dám nuôi viễn vọng.
- Toa vẫn giữ tánh tẳn mẳn hoài!
- Làm nhỏ mà thành công có lẽ tốt hơn làm lớn mà thất bại. Nếu mỗi cái nhỏ đều thành công hết, mình gom lại thì cũng bằng cái lớn thành công.
- Ấy là lý luận của người dè dặt. Con người có chí viễn đại thì lý luận khác.
- Toa cũng còn nuôi viễn chí hoài sao?
- Đầu óc của moa như vậy làm sao moa đổi được?
- Toa phải đổi. Moa khuyên toa phải đổi.
- Moa nhứt quyết gìn giữ vững vàng.
- Toa sẽ hối hận.
- Toa không phải nhà tiên tri. Mà dầu toa là đấng tiên tri đoán số mạng cho moa như vậy, moa vẫn cũng không dời đổi.
- Moa lập lại lần nữa, toa nên đổi chí. Ấy là moa nhận xét theo kinh nghiệm.
- Cám ơn.
Hai anh em đi dạo vườn và nói chuyện đến tối mới trở vô nhà.
Đèn đã bật sáng, bàn ăn cũng đặt sẵn. Quan đã biểu dọn trước cho Xuân một căn phòng ở phía ngoài, trong phòng để đồ đạc của Xuân hồi trước, và hồi chiều cũng đem rương với va ly vô đó rồi, bởi vậy Quan mở cửa phòng mà nói với Xuân:
- Phòng nầy của toa, có đồ đạc sẵn sàng hết. Toa rửa mặt thay đồ rồi ăm cơm.
- Toa bắt moa ở đây hay sao?
- Về đây thì toa ở với moa chớ sao?
- Không được.
- Sao vậy? Tại sao toa không muốn ở với moa?
Xuân dụ dự một chút rồi mới đáp: "Ở trên nầy xa quá?"
Quan hiểu câu trả lời ấy không thành thật, nhưng không muốn cãi với bạn, nên rùn vai mà nói: "Thôi, toa rửa mặt thay đồ đi; rồi chúng ta sẽ nói chuyện."
Vợ chồng Quan coi dọn cơm, chừng Xuân trở ra, liền mời dùng bữa tối. Bà Hương sư với cô Quế ngồi một bên, còn Quan với Xuân ngồi một bên. Minh đã ăn cơm trước hồi chiều, song cũng đòi ngồi đầu bàn đặng gần cha mẹ.
Những cảnh Xuân trông thấy từ hồi xế đến giờ, nào là tiệm Xuân Quan rần rộ thạnh phát, nào là gia đình cô Quế đầm ấm sum vầy, nào là vườn tược của Quan sạch sẽ tốt tươi, đều là cảnh lạ lùng trước mắt, mà cũng lạ lùng với trí nữa, bởi vậy Xuân lấy làm cảm xúc, ngồi ăn cơm mà bộ cứ lơ lững như người trên cung trăng rơi xuống dương trần. Xuân ngó bà Hương sư hiền lành, ngó vợ chồng Quan vui vẻ, ngó cháu Minh nói đỏ đẻ ngây thơ với mẹ, ngó bé Phượng chị vú bồng đương đứng dựa đèn, thì trong lòng thiệt là mừng cho bạn thân yêu được hạnh phúc nhưng không hiểu vì sao mừng mà lại ái ngại, mừng mà lại bồi hồi, mừng mà lại bắt suy nghĩ.
Thình lình Xuân lại nói với Quan:
- Toa muốn moa ở đây với toa. Moa cảm cái thạnh tình của toa lắm, song moa ở chơi với vợ chồng toa năm mười bữa, nửa tháng thì được, chớ không thể ở luôn.
Bà hương sư nói:
- Vợ chồng nó là bạn thiết của cháu, thuở nay hoài vọng cháu luôn luôn. Cháu không có vợ thì ở chung với nhau cho tiện, nhà tuy nhỏ, song mát mẻ, cháu chẳng nên ái ngại.
Xuân đáp:
- Thưa bác, cháu về đây cháu đã thấy hai người bạn thiết của cháu đã phối hiệp với nhau mà lại được hưởng hạnh phúc hoàn toàn thì sự vui mừng của cháu không biết lấy chi ví cho xứng. Thiệt cháu không ái ngại chi hết. Cháu không chịu ở chung với Quan là vì cháu thấy gia đình hạnh phước của Quan và em Quế đương đầy dẫy tràn trề, đương nồng nàn đầm ấm, cháu phải chắp tay mà xá rồi nhè nhẹ bước dan ra, đứng xa mà nhắm coi cho vui nghĩ cũng đủ rồi, không nên chen lộn vào mà làm cho cái cảnh hạnh phước cao quí ấy thất thường rộn rực. Cháu không chịu là tại vậy đó, chớ không phải là ái ngại.
Quan liền hỏi Xuân:
- Toa nhìn nhận hạnh phúc gia đình là cao quí, vậy toa hết chê chủ nghĩa gia đình phải không?
- Đó là một việc khác. Mỗi người theo đuổi một sở thích riêng. Toa nhớ lại mà coi, chẳng bao giờ moa cám dỗ toa theo sở thích của moa. Vậy thì toa cũng nên tôn kính giùm chí ý của moa, đừng khuyến khích theo sở thích của toa mới phải chớ.
Cô Quế sợ Xuân phiền nên nói tiếp:
- Có lẽ tại anh Quan nói chưa hết ý, nên anh tưởng ảnh cám dỗ anh lập gia đình. Không phải vậy đâu. Sở thích của anh, vợ chồng em không dám đá động. Song hồi nãy anh nói vợ chồng em tràn đầy hạnh phúc, anh muốn lánh xa để vợ chồng em trọn hưởng... Em cám ơn anh, cám ơn cái lòng thanh nhã cao thượng của anh. Nhưng em xin phép anh nói thêm rằng cái hạnh phúc gia đình mà vợ chồng em gây dựng được đây nguyên bởi anh mà có. Có anh, em mới được biết anh Quan và anh Quan mới được biết em; có anh ám trợ nên vợ chồng em mới gây dựng được hạnh phúc nầy. Em muốn anh ở chung với vợ chồng em đặng chung hưởng một chút hạnh phúc anh làm ra đó. Em muốn như vậy có lẽ không phải em cầu kỳ. Xin anh nghĩ lại.
- Cám ơn em. Qua nói thiệt với em, những việc qua làm đều do lương tâm mà làm chớ không mong hưởng phần thưởng. Hồi làm qua không dè có kết quả nầy. Hôm nay qua thấy nhờ có công qua chút đỉnh, mà Quan ái mộ gia đình, bây giờ cũng được một người bạn trăm năm có đức có hạnh, biết trọng chồng biết thương con: còn em là gái côi cút nghèo nàn em được một người bảo hộ chân chánh thận trọng xứng đáng tu mi nam tử. Qua vui lắm, qua mừng lắm, vui mừng ấy là phần thưởng cao quí hơn việc của qua làm lắm. Đủ rồi em ạ, em khỏi lo đền ơn đáp nghĩa chi nữa. Qua ước mong cho Quan và em duy trì hạnh phúc gia đình nầy cho bền vững trăm năm, cho khỏi trái với chí ý của tấm thêu cặp phụng hoàng kia, tự lòng em nghĩ ra, rồi Quan còn thêm ý nghĩa sâu xa hơn nữa. Qua không hiểu tại sao đầu óc của qua không giống như đầu óc của Quan, vì không giống nên qua không thể hưởng thú hạnh phúc của Quan hưởng, mà chắc chắn Quan cũng không biết thưởng thức cái hạnh phúc của qua tưởng tượng.
Cô Quế nghe những lời lẽ cao thượng nhân nghĩa ấy thì cô cảm xúc quá, kiếm không ra lời mà nói với Xuân nữa. Quan muốn tiếp vợ mà biện luận, nhưng nghĩ chưa phải cơ hội, nên kéo câu chuyện qua ngã khác và hỏi Xuân:
- Tại sao mấy năm nay toa giấu kín, không chịu cho vợ chồng moa hiểu toa học về khoa nào?
- Cho toa hiểu làm chi? Toa đi một đường, moa đi một ngả, nếu nói cho toa biết ngả của moa đi, chi cho khỏi toa làm mặt "thầy đời", toa khuyên lơn, toa can dứt càng rộn trí moa. Còn tại sao toa cưới em Quế mà toa không cho moa hay?
- Toa ghét chủ nghĩa gia đình, cho hay ích gì. Moa đã nói hồi chiều rồi.
- Được. Toa cắt nghĩa như vậy nghe có lý.
- Chuyện moa giấu toa bây giờ toa biết rồi. Còn chuyện toa giấu moa bây giờ toa cần gì phải giấu nữa. Phải toa học nông phố, toa đậu kỹ sư rồi hay không?
- Phải. Moa học trường Nogent- sur- Marne, đậu kỹ sư nông phố. Chánh phủ cấp bằng cho moa làm bác vật canh nông, phái moa về nước khảo cứu vấn đề chấn hưng nông nghiệp trong Nam Việt. Ngày mai moa sẽ trình diện với Sở Canh nông, rồi bắt đầu làm việc.
- Nếu vậy thì toa sẽ ở Sài Gòn, gần gũi vợ chồng moa.
- Phải, mà moa sẽ mướn phố ở riêng một mình đặng thong thả mà lo việc khác.
- Lo việc khác là việc gì?
- Để rảnh rồi moa sẽ cắt nghĩa cho toa nghe.
Ăn cơm rồi Xuân với Quan ra trước sân đi bách bộ mà hứng mát. Bà Hương sư quen ngủ sớm nên sắp nhỏ ngủ rồi thì bà cũng đi ngủ.
Cô Quế biểu gia dịch đốt một cái đèn lồng treo giữa vườn hoa, nhắc ghế, bưng bình trà đem ra để đó, rồi thì mời Xuân và Quan lại ngồi uống trà nói chuyện chơi.
Thời kỳ phỉnh phờ nhau chơi cho vui đã qua rồi. Bây giờ ba người ngồi dưới bóng đèn, chung quanh hoa đua nở, trên trời sao tứ giăng. Xuân nhớ niềm Mai, Lan, Cúc, Trước năm xưa, mới hỏi thăm Triều: "Còn anh cả của mình mấy năm nay ảnh làm việc gì? Bây giờ ảnh ra sao?".
Cô Quế nghe hỏi tới Triều thì cô cười lớn mà đáp:
- Anh Triều có vợ có con, mập ú, đen thui. Bây giờ ảnh thành chú làm ruộng trăm phần trăm. Anh thấy xa chắc anh nhận không ra.
- Qua nhớ hồi đó ảnh nói vợ ở dưới Long Mỹ, con của ông đại điền chủ nào đó phải không?
- Không có. Ảnh cưới con ông gì đó, ở tại chợ Bạc Liêu cũng giàu lớn lắm.
- Sao vậy?
- Ảnh nói ông điền chủ Long Mỹ đó ban đầu chịu gả, rồi sau nghe lại ảnh không có hai bằng tú tài nên muốn làm khó. Ảnh giận ảnh bỏ mà cưới chỗ khác.
- Cuộc đời biến đổi mau quá, không ai dám định trước. Em với Quan có hay gặp anh Triều hay không?
- Hễ ảnh vô Sài Gòn thì ảnh hay ghé thăm em. Ảnh có lên nhà nầy một lần. Mấy tháng nay chắc ảnh mắc góp lúa nên không thấy ảnh lên nữa.
- Ảnh cũng là người ái mộ gia đình. Ảnh lập gia đình mà không biết ảnh có hưởng hạnh phúc chăng?
- Bộ ảnh phấn chí hân hoan lắm chớ không than phiền chi hết. Chắc đời ảnh cũng tươi cười như ảnh.
Xuân kêu Quan mà dặn:
- Nầy Quan, toa đừng cho Triều hay moa về nghe không?
- Sao vậy?
- Nếu cho hay thì moa phải đi thăm ông và bà già ảnh. Moa mắc lo việc quan hệ lắm, không thể thăm được. Để sau rồi sẽ hay.
- Hồi ăn cơm toa nói toa muốn ở riêng cho thong thả đặng lo việc khác. Chắc toa đương tính việc gì lớn lắm. Toa có thể nói cho vợ chồng moa biết đại ý được không?
- Moa nói thiệt với toa, về khoa nông phố moa học đã gọi tạm hoàn toàn mà moa còn khảo cứu về nông nghiệp trong Nam Việt cũng kỹ lưỡng rồi nữa. Moa lãnh chức bác vật canh nông đây là lãnh tạm mà thôi. Moa tính moa sẽ cổ động cho điền chủ trong Nam Việt hiệp cùng moa mà cải lương nông nghiệp, làm ruộng theo phương pháp văn minh đặng giúp cho dân mình từ điền chủ tới nông dân đều được giàu có chớ nước mình có ruộng đất phì nhiêu, mà không giàu mạnh như thiên hạ thì tức quá.
- Vì tình nghĩa anh em thân thiết nên moa phải tỏ thiện ý của moa. Việc toa tính đó nghe thì phải, nhưng làm thì khó lắm. Moa nói khó là bởi vì mấy lẽ nầy: 1) Người mình có tánh ích kỷ, chưa dám hi sinh tư lợi để tán thành công ích; 2) Mấy năm sau nầy có nhiều nhà trí thức mượn công ích hô hào rủ ren nhơn dân hiệp bổn để khai thương mại, lập công nghệ, khẩn điền địa, mà việc nào cũng thất bại hết thảy làm cho người ta chán ngán, không dám tin cậy ai nữa. Vì hai lẽ ấy mà cũng còn nhiều lẽ khác moa không muốn kể hết, nên moa sợ việc toa tính đó khó thành.
- Moa sẽ viết sách, moa sẽ mướn nhựt báo cổ động gây thành phong trào chấn hưng kinh tế, cho đồng bào ham công ích rồi hiệp với moa làm cho dân cho nước được giàu.
- Moa nói theo ý riêng của moa cho toa nghe mà thôi. Còn việc của toa làm thì tự toa liệu định, moa không dám cản.
- Moa tin chắc việc của moa tính đó sẽ thành.
- Nếu được thì moa mừng lắm. Mà mình là anh em với nhau, moa lấy lòng thành thiện mà nói với toa chuyện nầy: trước khi đi Tây toa có để cho vợ moa một ngàn đồng bạc. Nhờ có số bạc ấy mới có tiệm may Xuân Quan. Tiệm may bây giờ có lời nhiều, trong tủ có tới bảy tám ngàn. Vợ chồng moa muốn hỏi coi toa có cần dùng thì lấy số bạc ấy lại mà xài.
- Nhờ vốn của moa mà em Quế làm ra lời như vậy, moa nghe moa mừng lắm. Moa không cần dùng tiền. Số bạc bán đất hồi trước, moa ăn học bên Tây tuy tốn hao nhiều, song bây giờ cũng còn được mười mấy ngàn.
Cô Quế chận nói:
- Dầu anh không cần dùng tiền em cũng xin anh lấy số vốn ấy lại.
- Em cất giùm cho qua.
- Anh nói như vậy em không dám nài ép nữa. Còn nếu anh không chịu ở với vợ chồng em, anh muốn dọn nhà ở riêng cho thong thả thì em xin trả đồ đạc của anh hồi trước lại cho anh dùng. Những đồ ấy em còn giữ đủ hết.
- Em không muốn có vật gì của qua ở trong nhà em hay sao, nên em xin trả?
- Không phải như vậy, em muốn trả cho anh dùng chớ.
- Qua để đó làm vật kỷ niệm. Vợ chồng em hàng ngày thấy đồ ấy cũng như thấy qua. Không biết chị chín Thiện thằng Chí còn ở Sài Gòn hay không?
- Lâu lâu em có gặp hai người ấy một lần, chắc còn ở Sài Gòn. Để sáng mai em biểu người đi hỏi coi họ ở đâu.
Ba người nhắc chuyện cũ đến việc mới tới khuya rồi mới đi nghỉ.
Ý và tình
(11) III
Tháng bảy trời mưa dầm dề luôn mấy ngày, đến bữa nay mặt trời mới ló dạng, nhưng ánh sáng dường như còn nhút nhát, nên nắng vừa ấm cỏ chớ chưa làm khô được vũng bùn lầy, đường còn ướt át.
Ông Tư Tệt cũng như các nông gia ở thôn quê, ban đêm ngủ sớm, khuya thức dậy sớm, chẳng bao giờ ông biết nghỉ trưa, bởi vậy mặt trời đứng đầu mà ông mặc áo lá đương ngồi ngoài lẫm lúa coi cho thợ dọn quét, bởi vì hôm qua ông đã bán hết lúa bây giờ lẫm trống, nên ông không muốn để bụi trấu dơ dáy trong lẫm.
Thình lình có một chiếc xe hơi ngừng ngoài cửa ngõ. Ông ngó ra thấy ông Hội đồng Quì, ở Ngã Bảy, người ông quen thuở nay, xuống xe rồi đi vô sân, tóc râu bạc phếu, y phục tề chỉnh.
Ông Từ Tệt lật đật đứng dậy đi vô nhà lớn để đón tiếp khách. Ông mời khách vào nhà, lấy áo dài mặc cho đủ lễ, kêu đứa ở biểu chế nước lấy trầu, rồi nói chuyện với khách.
Những câu chuyện của chủ khách nói với nhau hôm nay là những câu chuyện chung thường nghe trong các làng các xóm, khi hai vị nông gia gặp nhau. Ban đầu hỏi thăm nhau về sự mạnh giỏi, rồi lần tới giá bán lúa. Có mấy câu chuyện ấy mà chủ khách có thể kéo dài tới tối vẫn chưa dứt, nhưng ông Hội đồng Quì có tánh thiết thực, bởi vậy nói chuyện ruộng nương lúa thóc mới được chừng một giờ thì ông xây qua ngã khác mà hỏi thăm gia đình rồi nói chuyện làm sui.
Ông Từ Tệt nói chuyện ruộng nương thì ông hăng hái bao nhiêu chừng nói chuyện làm sui ông lại dè dặt bấy nhiêu. Ông dè dặt đến nỗi không nhứt định, không cả quyết chút nào hết, chỉ nói những câu: „Để rồi coi" hoặc: „Thủng thẳng rồi sẽ tính", hoặc: „Anh nói vậy hay vậy". Sự dè dặt nguội lạnh ấy làm cho khách bất mãn nên phải từ mà về, song khi ra cửa khách còn muốn nuôi chút hy vọng nên nói với: "Chỗ đó xứng đáng lắm. Xin ông suy nghĩ lại, chẳng cần phải trả lời vội. Ông suy nghĩ coi được hay không rồi bữa nào rảnh ông viết thơ cho tôi biết. Nếu được thì anh em mình có dịp gần nhau thường".
Khách lên xe đi về rồi Ông Từ Tệt thủng thẳng trở vô nhà trong, trí tư lự, nên sắc mặt nghiêm trang.
Bà Tệt năm nay tóc đã bạc hoa râm, bà ở nhà sau đi lên, vừa thấy ông thì bà hỏi:
- Khách nào đó mà nói chuyện dai chi dữ vậy ông?
- Anh Hội đồng Quì ở trên Ngã Bảy.
- Hội đồng Quì nào? Phải sui gia với bà Sang ở bên Cái Giầy hay không?
- Phải.
- Ổng xuống thăm chơi hay là có việc chi?
- Ảnh muốn làm mai.
- Làm mai cho ai?
- Ảnh nói thầy Cai Hoà trên Rạch Giá muốn làm sui với mình, nên thẩy cậy ảnh nói trước giùm xin mình định ngày đặng thẩy đem coi trai thẩy xuống coi con Quyên.
- Coi con Quyên? Nó cứ ở miết dưới ruộng, nó có ở nhà đâu mà coi. Người ta nói như vậy mà ông có hứa hay không? Nếu có hứa thì phải sai người xuống Cà mau mà kêu nó về.
- Không. Tôi không có hứa chi hết. Tôi nói nó còn nhỏ, mà coi ý nó ham làm ruộng hơn lấy chồng. Anh Hội đồng Quì nài nỉ, cứ khoe thầy Cai Hoà giàu có lớn mà vợ chồng nhơn đức, tôi nói để tôi tính lại rồi sẽ trả lời.
- Con Quyên năm nay 23 tuổi rồi, có phải nhỏ đâu. Nếu coi phải chỗ nào thì cũng nên gả phức cho rồi, để nó lỡ thời rồi thì làm sao mà gả.
- Bà nó khéo lo dữ! Có tiền bà đừng sợ con nó ế chồng. Bà không nghe thằng Triều nói bữa hổm hay sao? Nó nói kỹ sư, bác sĩ họ đương rầm rầm kéo xuống miệt vườn mà kiếm vợ. Sớm muộn gì thì họ cũng mó tới cho coi. Bà đừng lo mà.
- Con thầy Cai Hoà có học hành gì hay không?
- Nghe nói đậu tú tài đủ hai kỳ, muốn đi Tây học song thầy Cai không chịu, nên bắt cưới vợ.
- Học tới bực tú tài cũng đủ rồi. Ông đèo bòng làm chi?
- Không phải tôi đèo bòng. Gả con tôi muốn chọn thằng rể lo làm ăn chớ không màng chức tước hay bằng cấp đâu. Người không có chí cần lao dầu học giỏi hay làm lớn tới bực nào đi nữa cũng không quí.
- Sao ông biết con thầy Cai không lo làm ăn?
- Tôi có biết đâu. Song tôi nghĩ con nhà quan, sung sướng từ nhỏ chí lớn quen rồi, nó biết lo làm ăn đâu, vì vậy nên tôi giục giặc chớ.
- Có con gái mà ông nghĩ đủ thứ như vậy, tôi sợ e tới già nó cũng chưa có chồng được. Chồng con là cái duyên của con gái. Người ta xin coi con Quyên thì cho người ta coi. gả hay không, tự nơi mình. Họ coi rồi mình sẽ dọ dẫm lại, như thằng rể tánh nết được thì mình gả, bằng không thì thôi, cho coi có buộc mình gả đâu mà sợ.
- Tôi không muốn như vậy. Bà muốn cho họ coi hay sao?
- Tôi không muốn chi hết, nhưng có con gái hễ họ xin coi thì phải cho coi.
- Tự ý bà. Thôi để bữa nào con Quyên nó về, tôi hỏi như nó chịu cho người ta coi thì tôi viết thơ hẹn ngày với anh Quì.
Hai ông bà đương cãi nhau kế cô Quyên ở dưới Cà Mau đi xe đò về tới.
Cô Quyên bây giờ là một cô gái 23 tuổi, khác hẳn với cô Quyên bảy tám năm trước. Tuy nước da ngâm ngâm của cô vẫn còn ngâm ngâm như cũ, tuy gương mặt vui vẻ của cô vẫn vui vẻ như thường, song bây giờ cô trổ mã con gái hoàn toàn, nên nét mặt của cô có u ẩn thiện chơn, hình vóc cô coi dong dảy mà lại đều đặn.
Cái giọng nói của cô lại trong trẻo, tướng đi của cô lại thanh nhã, bởi vậy nước da bánh ếch ngọt của cô bất quá làm cho cô không được mang danh gái mỹ miều mà thôi, chớ không đến nỗi liệt cô vào hạng gái thô hay là gái xấu được. Nhờ có học được mấy năm trên Sài Gòn nên cô nói tiếng Tây làu, cô thêu khéo, cô dạn dĩ, cô lanh lẹ.
Bỏ cái tánh liếng xáo hồi trước, bây giơ cô chỉnh tề nghiêm nghị. Bỏ cái tánh đỏng đảnh, cứ ăn rồi chơi như hồi trước, bây giờ cô biết tôn kính cha mẹ, cô cần mẫn xem xét mọi việc trong nhà, cô còn giúp đỡ chị dâu từ việc nấu ăn cho tới việc may vá. Vợ chồng ông Từ Tệt có một chút gái nên ông bà cưng thiệt là cưng, mà thấy con nết na như vậy ông bà càng yêu chuộng hơn nữa. Mà còn có một điều làm cho ông bà vui mừng hơn hết, là ba năm nay cô Quyên thôi học ở nhà, cô lại ưa thích nghề nông, cô xin với cha mẹ để cô lãnh coi khai phá sở đất mua của Xuân năm trước.
Ông Từ Tệt nhờ cần lao mà làm giàu, nay thấy con giống tánh, ông thấy vừa ý nên ông chịu liền, thầm tính sẽ chỉ bảo dìu dắt cho con làm mau thành điền mà hưởng lợi. Vì vậy mấy năm nay cô Quyên ở dưới ruộng nhiều hơn ở trên nhà, nhứt là trong mùa cấy và gặt thì cô chẳng hề rời sở đất.
Ở trong ruộng cô sống chung với nông phu, cô thấy tận mắt sự cực nhọc và tánh giản dị của những con người ấy, rồi cô đem lòng thương. Vì cô biết thương người, tự nhiên người thương lại, bởi vậy cô êm đềm thuận thảo, cô lo cho người, người cũng giúp lại cô. Hôm nay cấy xong rồi nên cô mới trở về nhà thăm cha mẹ.
Bà Tệt thấy con vô sân thì bà mừng rỡ, lật đật bước lại cửa mà nói lớn: "Mới nhắc đó thì con về liền"
Cô Quyên mới bước lên thềm thì ông Tệt hỏi:
- Cấy xong rồi hết, phải không con?
- Dạ, xong rồi hết.
- Bữa hổm tía sợ lúa sụt, nên lật đật về trước mà bán, té ra về cũng không kịp.
- Giá lúa sụt nhiều lắm hay sao tía?
- Một tạ sụt tới hai cắc.
- Hôm tháng trước con xúi tía bán, tía không chịu để nay tía bán lỗ thấy không?
- Chút đỉnh...Không sao.
- Bà Tệt tiếp hỏi con:
- Tía con nói phần đất của con năm nay cấy giáp hết, phải không con.
- Thưa, giáp hết.
- Giỏi đa.
- Có tía phụ chớ con tài gì mà má khen... Anh hai chị hai với sắp nhỏ đi đâu vắng vậy má?
- Vợ chồng con cái nó mới đi Sóc Trăng hồi sớm mai.
- Đi chi vậy?
- Đi thăm cậu Tư con.
- Cậu Tư sao mà thăm?
- Nghe nói trúng số 10 ngàn.
- Chà! Cậu Tư hên dữ à! Còn anh hai con đi chơi khoẻ quá. Ảnh không thèm đợi con về con đi với ảnh chớ.
- Ngoài Cổ Cò cũng mới cấy rồi. Anh Hai con mới về hôm kia. Nó có dè con về bữa nay đâu mà chờ con.
Cô Quyên thay áo rửa mặt rồi cô đi cùng trong nhà xem từ trước ra sau, sắc mặt hân hoan hớn hở.
Lần lần mặt trời dịu nắng, cô đi vòng ra phía trước đứng ngó mông. Cái sân rộng lớn bằng phẳng, cô muốn ra đó mà rồi thấy đất chưa được khô nên cô phải đứng lại. Ông Từ Tệt đương chỉ cho người ta sửa vách lẫm lúa, cô muốn qua nói chuyện, mà rồi cô thấy một người bạn già đương quét bụi bay tưng bừng nên cô hết muốn đi.
Thình lình có một chiếc xe hơi chạy ngang ngoài lộ. Cô Quyên ngó ra thấy một chiếc xe giống hịt chiếc xe của cậu Xuân năm xưa thì trong dạ bồi hồi.
Cô ngẩn ngơ một hồi rồi bước lên thềm mà vô nhà.
Trong nhà vắng hoe, cô đi thẳng vô phòng riêng của cô, mở tủ lấy mấy tấm hình Xuân chụp hồi trước rồi đem lại đứng dựa cửa sổ mà xem. Cô xem từng tấm, mà tấm nào cô nhìn cũng lâu. Cô đương thưởng thức cái khoảng đời niên thiếu bỗng nghe mẹ đi chợ về nói om xòm đàng trước. Cô liền để mấy tấm hình lại trong tủ, rồi thủng thẳng đi ra.
Vì con ở dưới ruộng trót tháng không có bánh hàng mà ăn, bà Tệt sợ con thèm nên bà biểu một đứa ở gái lấy rổ đi chợ với bà đặng mua đồ cho con ăn. Trước khi đi bà lại kêu người nấu ăn mà dặn: "Chiều nấu cơm cho sớm nghe không. Bữa sớm mai chắc cô Ba ăn sơ sịa rồi đi chắc cô đói bụng. Tao đi chợ một chút tao về liền."
Bà Tệt đi rồi cô Quyên ra sau nhà thăm chuồng gà, chuồng heo, rồi lần qua coi mấy đám rau thơm, mấy cây ớt hiểm của cô trồng hồi trước. Cô vui mà thấy mấy con gà mái nằm ấp, thấy mấy con heo đen ú nú, cô hái mấy trái ớt chín cầm tay. Hổm nay ở trong ruộng cô say cảnh điền viên, bây giờ về nhà cô cảm thú gia đình, bởi vậy tâm hồn cô an ổn thần tiên, chẳng bợn chút hồng trần, nhứt là chẳng nghĩ tới việc thất gia, là việc thường làm rộn trí hạng gái tới tuần cập kê.
Bà Tệt thấy con thì nói:
- Con lấy dĩa bàn đặng sắp bánh ra mà ăn con. Má có mua bánh bàn bánh thèo lèo đủ thứ. Con ăn đỡ rồi lát nữa ăn cơm. Chợ chiều họ không có bán thứ gì ngon hết. Má phải mua xá xiếu thịt quay cho con ăn đỡ rồi sớm mai sẽ hay.
- Cô Quyên vừa đi lấy dĩa đặng sắp bánh vừa nói:
- Má lo làm chi! Có gì con ăn nấy mà.
- Ở trong ruộng thèm khát, về nhà phải ăn chớ.
- Má nói như vậy, chớ người ta ở trong ruộng năm nầy qua năm nọ đó sao. Họ cũng sống được vậy.
- Mấy lời ấy đủ biểu lộ tánh giản dị của cô Quyên, bởi vậy bà Tệt nghe thì bà cảm hết sức, ngồi ngó con với cặp mắt chan chứa tình thân yêu.
- Cô Quyên tuy nói vậy, song cô không muốn phụ cái hảo ý của mẹ, bởi vậy cô mở gói thèo lèo cô bốc vài cục bỏ miệng rồi mới sắp vô dĩa.
- Ông Từ Tệt ở ngoài bước vô, thấy con vừa sắp bánh vừa nhai thì ông nói:
- Bà nó khéo làm lếu! Sao không mua bánh hộp cho con ăn, bà mua đồ đó rồi nó đau bụng cho mà coi.
Bà cười và đáp:
- Bánh mới ra lò còn nóng hổi, ngon lắm mà, giống gì tới đau bụng lận. Thuở nay nó ăn hoài, có sao đâu.
Bà mới nói tới đó, kế nghe tiếng xe hơi quanh vô cửa ngõ. Cô Quyên ngó ra và nói: „Anh Hai chị Hai về kìa!"
Thiệt quả xe của vợ chồng Triều về, một chiếc xe hơi bảy chỗ ngồi, lớn thình lình quanh co êm u mà đậu dưới thềm. Cô Quyên lật đật bước ra mừng anh chị và rước ba cháu.
Triều mập mạp, cao lớn, mạnh mẽ, nước da đen hù, chánh là một anh làm ruộng trăm phần trăm. Vợ Triều thấy cô Quyên cũng mừng hỏi: „Cô Ba về bao giờ."
Quyên đáp: „Em mới về tới hồi nãy.". Cô vội bồng cháu nhỏ hơn hết, là con Kim mới giáp thôi nôi. Hai đứa cháu lớn là thằng Ngọc 6 tuổi, con Ngân 4 tuổi, thấy vậy cũng chen nhau xuống xe rồi cũng áp ôm cô mà mừng, biểu lộ rõ ràng tình cô cháu thương yêu dan díu.
Vợ chồng Ông Từ Tệt đứng trong nhà ngó ra, ngắm bức tranh con cháu thuận hoà thì lòng thoả thích lộ ra ngoài mặt.
Triều nói với Quyên:
- Phải qua dè bữa nay em về thì qua sẽ để mai sẽ đi thăm cậu Tư đặng em đi luôn một lượt.
Cô Quyên châu mày trách:
- Anh lén em anh đi, còn nói nữa! Cậu Tư trúng số phải không?
- Ừ!.. Trúng 10 ngàn.
- Lãnh chưa?
- Chưa. Cậu nộp giấy số tại kho bạc rồi.
- Cậu mừng dữ hả?
- Mừng lắm.
- Cậu Tư thường vái trúng số đặng đi Bắc chơi. Chắc cậu sửa soạn đi.
- Không. Cậu đổi ý rồi. Bây giờ cậu tính để số bạc ấy cất nhà lại.
- Người ta nói có tiền thì hay hà tiện. Cậu Tư có tiền nên hết muốn xài!
- Mợ Tư còn tính cao hơn nữa. Mợ không cho cất nhà, mợ biểu để mua ruộng đặng có huê lợi.
Anh em cha mẹ vui cười rồi dắt nhau vô nhà.
Vợ Triều với cô Quyên coi dọn cơm chiều rồi mời cha mẹ vô ăn.
Một bữa ăn vui vẻ hết sức. Thình lình bà Tệt nói: "Có con Quyên về đây. Vậy ông nó trả lời cho ông Hội đồng Quì đặng người ta có muốn xuống coi thì xuống mà coi."
Triều nghe như vậy liền hỏi mẹ:
- Có ai xin coi con Quyên hay sao?
- Có, hồi trưa có ông Hội đồng Quì ở Ngã Bảy xuống thăm, rồi muốn làm mai con Quyên cho con thầy Cai Hoà trên Rạch Giá. Ổng xin định ngày đặng người ta đến coi.
- Con biết nhà thầy Cai Hoà ở dựa bên lộ Long Mỹ. Nhà tốt dữ. Mà không biết con thầy Cai ra thế nào?
- Thì để người ta tới đây rồi thì mình sẽ thấy chớ.
- Tía chịu cho coi hay không?
Ông Từ Tệt thủng thẳng nói:
- Con hỏi em con chớ. Như nó chịu thì tía mới cho, còn như nó không chịu thì cho coi làm sao được.
Triều ngó ngay cô Quyên mà hỏi:
- Em chịu chồng coi hay không em?
- Cô Quyên nghiêm nét mặt đáp cụt ngủn:
- Không.
- Sao vậy?
- Coi làm chi?
- Coi như phải chỗ tía má định đôi bạn cho em.
- Em chưa lấy chồng đâu.
- Tại sao vậy?
- Tại em chưa tới hồi lấy chồng!
- Vậy chớ chừng nào mới tới hồi em lấy chồng?
- Em cũng không biết được.
- Em nói nghe kỳ quá. Em lớn rồi phải tính tới việc gia thất chớ lôi thôi sao được. Em quyết chôn đời em dưới ruộng Cà Mau, em không chịu lấy chồng hay sao?
- Không. Em có nói em không lấy chồng đâu. Em cũng sẽ lấy chồng như thiên hạ vậy, nhưng không phải chỗ đó.
- Vậy chớ chỗ nào?
- Chỗ nào phải duyên nợ em mới ưng.
- Biết chỗ nào là duyên nợ?
- Em cũng chưa biết.
Ông Từ Tệt ngó bà mà nói:
- Bà nó thấy hôn? Tôi sợ có không chịu, nên hồi trưa tôi không dám hứa gì hết. Phải ừ bướng thì bậy biết chừng nào.
Bà Tệt lộ sắc buồn, song không cãi với ông, mà cũng không ép con. Vì vậy không khí hoà lạc hồi nãy bây giờ trở nên nặng nề nghiêm trọng.
Xế bữa sau, vợ Triều rủ Quyên đi chợ kiếm hàng mua may áo. Cô Quyên nài nỉ phải đem sắp cháu theo chơi, rồi kêu sốp-phơ đem xe đi với cháu.
Trong nhà vắng teo.
Triều nằm trên ghế xích đu mà đọc nhựt trình. Bà Tệt ăn trầu ở bộ ván gần cửa sổ. Ông Tệt đi dạo sau vườn rồi vô đứng tại bộ ghế giữa rót trà mà uống.
Bà hỏi ông:
- Ông biết tại sao mà con Quyên không chịu cho con thầy Cai Hoà đến coi nó hay không?
- Ông ngồi xuống vừa cười vừa đáp:
- Con nó ham ruộng, nó muốn một mình thong thả làm ruộng cho vui, nó không chịu lấy chồng, chớ có gì đâu?
- Không phải vậy. Hồi hôm tôi dỗ tôi hỏi nó. Nó thú thật với tôi rồi.
- Nó thú ra sao?
- Nó nói nó chờ thằng Xuân, nên nó không ưng ai hết.
- Tại sao mà nó lại chờ thằng Xuân?
- Nó nói nó thương nhớ thằng Xuân mấy năm nay. Nó nhứt định làm vợ thằng Xuân mà thôi. Như thằng Xuân không cưới nó thì thà nó ở một mình mãn đời, chớ nó không ưng làm vợ người nào khác.
- Thằng Xuân đi Tây bảy tám năm nay biệt tích, nó đâu đây mà thương với nhớ?
- Bởi vậy mới kỳ.
Triều nghe cha mẹ nói vậy thì buông nhựt trình bước lại nói: „Xuân đã về mấy tháng nay rồi, làm bác vật canh nông trên Sài Gòn, tía má không hay hay sao?" Ông bà đều chưng hửng. Ông hỏi Triều:
- Ai nói với con là thằng Xuân làm bác vật canh nông trên Sài Gòn?
- Con thấy trong nhựt trình. Mấy tháng nay, nó viết báo khuyên điền chủ hãy đoàn kết mở mang kinh tế. Nó viết luôn luôn trong hai ba tờ báo, nó cổ động dữ lắm mà. Con tưởng tía hay chớ.
- Tao có hay tin đâu. Thằng vậy đó! Nó đi Tây về mà nó không thèm xuống đây thăm mình chớ.
- Con ghét, nên con cũng không thèm kiếm mà thăm nó. Tại sao mà em Quyên lại thương nó?
- Con Quyên có gặp nó hay sao?
- Thưa, không. Từ hồi trong năm đến giờ em Quyên có đi Sài Gòn đâu mà gặp.
Bà Tệt nói:
- Không có gặp đâu. Theo lời con Quyên nói với tôi hồi trưa thì nó cũng hay Xuân về rồi, mà nó lại trách Xuân không nhớ tới nó.
Ông Từ Tệt lắc đầu nói:
- Chuyện gì mà kỳ vậy? Nó không gần thằng nọ mà sao nó lại thương?
- Nó nói nó thương trước ngày thằng Xuân đi Tây lận.
- Mà người ta có thương nó hay không? Có hứa cưới nó hay sao mà nó chờ?
- Nó nói nó không được biết. Thằng nọ không hứa hẹn chi hết.
- Vậy thì thương nỗi gì?
- Nó nói hồi trước Xuân xuống ở nhà mình chờ làm giấy tờ xong đặng ký tên bán đất đó, mỗi bữa Xuân chở nó đi xe hơi, Xuân chụp hình nó, rồi từ đó đến giờ nó thương Xuân. Tôi thủng thẳng dỗ nó nên nó chịu thú thiệt như vậy. Bây giờ mình phải tính làm sao nè.
Ông Từ Tệt ngồi ngó sững ra sân mà suy nghĩ.
Triều hỏi cha:
- Em Quyên thiệt thương Xuân, nên mới thổ lộ với má như vậy. Ví như Xuân xin cưới em, thì tía gả không?
- Biết nó thương con nọ hay không mà gả. Nó là con cháu, mà nó làm bác vật rồi coi bộ nó trở mặt, nên về mấy tháng nay nó không thèm bước chân đến đây thăm mình. Tao chắc nó có kể gì đến con Quyên đâu mà tính.
- Không chừng nó mắc bận việc nên chưa xuống được. Để ít bữa nữa rảnh rang con đi Sài Gòn kiếm Xuân đặng con dọ ý nó coi nó có thương con Quyên hay không.
- Phải nó thiệt thương tao mới gả. Chớ nó không thương mà mình ép mình gả, rồi cưới về nó hất hủi con nhỏ tao không chịu đâu.
Bà Tệt tiếp nói:
- Ông nói phải lắm. Dầu nó làm ông gì cũng vậy, nó phải thương con Quyên thì tôi mới chịu gả.
Triều nói:
- Để thủng thẳng con dọ ý em Quyên rồi con sẽ tính. Nếu thiệt em thương thì con sẽ đi Sài Gòn mà kiếm Xuân.
Ông Từ Tệt nói:
- Chừng con đi Sài Gòn có lẽ tía má cũng đi nữa... Con Quyên có tình với Xuân, hèn chi nó học rồi mấy năm nay nó lãnh phần lo khai phá sở đất của anh Hội đồng hồi trước, nó làm dữ quá. Bây giờ mình mới hiểu.
Triều suy nghĩ rồi nói:
- Xuân hồi còn học thường nó nói nhứt định không lập gia đình. Không biết nó có đổi ý hay không?
Ông bà Từ Tệt ngồi trầm ngâm tư lự
Ý và tình
(13) V
Chiều bữa ấy, đồng hồ đã chỉ 5 giờ rồi mà Xuân vẫn còn nằm dựa trên chiếc ghế xích đu, mắt lờ đờ, trí tư lự. Tuy hồi trưa khi vợ chồng Quan về, cô Quế hẹn đúng 5 giờ cô với Quan sẽ đem xe xuống rước Xuân đi chơi, đi dài theo khoảng đường chợ gạo, An Lạc, Bình Điền đặng xem mấy đám lúa sớm đã chín và người ta đương bắt tay cắt đập, nhưng mà Xuân chưa chịu rửa mặt thay đồ, dường như không nhớ đến lời hẹn của bạn, hoặc không vui đi xem lúa, là hai việc thuở nay Xuân luôn luôn hăng hái.
Chừng nghe tiếng còi xe hơi bóp te te ngoài cửa. Xuân mới châu mày đứng dậy, song cũng không lật đật đi thay đồ, cứ bước lại cửa đứng ngó ra đường.
Cô Quế ngó thấy liền la lớn:
- Trời ơi, anh Xuân chưa thay đồ! Phải vô thúc ảnh mới được.
Vợ chồng Quan mở cửa xe leo xuống rồi nối gót bước vô nhà. Bây giờ Xuân mới chịu đi rửa mặt.
Quan la lớn:
- Riết đi toa. Đi sớm đặng coi lúa chín chơi. Họ nói năm nay lúa sa-mo[1] trúng lắm. Mình đi sớm đặng 7 giờ về cho kịp mà dự tiệc của anh Triều.
Xuân nói:
- Ừ, ừ, chờ moa một chút, không trễ đâu mà sợ.
Nói xong Xuân liền lên lầu thay đồ.
Vợ chồng Quan biết Xuân đương ngụp lặn giữa lượn sóng khủng hoảng tinh thần nên không muốn thúc nữa, chỉ ngó nhau mà cười rồi đi xem mấy tấm ảnh treo chung quanh phòng khách. Phía trong có hai tấm hình rọi ra lớn và lồng trong khuôn kiếng chạm khéo. Đấy là hình ông và bà hội đồng, hai đấng sanh thành của Xuân, nay đã hoá ra người thiên cổ. Phía ngoài cũng có một tấm hình rọi ra lớn, mà là hình của một người pháp, tuổi trên năm mươi ấy là vị giáo sư đã tận tâm dạy dỗ Xuân nên Xuân luôn luôn mến yêu tôn kính.
Cô Quế xem cùng hết, rồi cô vịn vai Quan mà nói:
- Ba chữ quân sư phụ đã thâm nhiễu trong đầu óc người mình từ ngàn xưa. Anh Xuân tuy không nói tới quân vương song anh trọng quốc gia thì cũng vậy, bởi vì quân vương nếu cắt nghĩa rộng thì là quốc gia chớ gì. Còn trong nhà mà treo hình để suy niệm công ơn cha mẹ với thầy, thì rõ ràng anh biết trọng hai chữ sư và phụ. Người có tâm hồn như vậy mà không chịu lập gia đình, thiệt em không hiểu ý làm sao.
Quan đáp nho nhỏ:
- Anh Xuân bị chứng bịnh về tinh thần. Qua hiểu rồi, em đừng nói chi hết, qua sẽ lập thế trị bịnh cho ảnh. Qua sẽ trị được.
Cô Quế đối với chồng có một đức tin rất vững vàng, bởi vậy nghe chồng nói quả quyết thì cô mừng nên cô gật đầu mà cười và kêu lớn: „Anh Xuân! Riết đi chớ? Em nóng đi xem ruộng quá mà".
Xuân thay đồ rồi trở xuống từng dưới, nét mặt nghiêm trang, cứ theo vợ chồng Quan mà lên xe, không nói một tiếng chi hết.
Bầu trời xanh lét, mặt nước khô queo, cây cỏ hai bên đường khoe vẻ tươi cười, ngựa xe chạy trên lộ đua nhau rộn rực. Quan cầm bánh cho xe chạy, có Xuân ngồi một bên, lựa đường thẳng mà đi riết vô chợ gạo. Quan muốn gạy[2] cho Xuân nói chuyện, nên day qua nói: "Trời mát đi chơi vui quá hả?" Xuân không đáp chỉ gật đầu mà thôi, làm cho Quan bịt đường gạy chuyện.
Xe qua khỏi Phú Lâm rồi thì mặt trời gần lặn, chói ánh sáng loè trên đồng ruộng phân nhiều màu, chỗ lúa mới đứng cái[3] thì xanh rờn, chỗ lúa đương trổ bông thì xam xám, chỗ lúa gần chín thì vàng tươi.
Cô Quế ngồi phía sau kêu Xuân mà nói:
- Anh Xuân, cảnh nhà quê coi đẹp quá thấy không? Nếu em có một đám ruộng lúa gần chín kia và có một cái nhà ở đầu xóm giáp với đám ruộng đó thì em vui lắm vậy. Em sẽ giành với anh Quan mà đi thăm lúa mỗi ngày. Đến chừng gặt em cũng giành mà coi cho họ gặt. Em lấy làm tiếc cho cái mạng của em không được sanh ở nơi chốn thôn quê. Em làm đàn bà quê chắc em mạnh và vui lắm.
Mấy lời cảm ứng ấy làm Xuân động lòng nên cậu quay lại nói:
- Em sanh trưởng nơi chốn thị thành, mà sao em lại thích cảnh thú đồng ruộng?
- Em thích như vậy, có lẽ vì cảnh thú ấy phù hợp với tâm hồn của em.
- Vậy thì em ráng làm cho có dư tiền rồi biểu Quan mua một sở ruộng gần Sài Gòn để em lui tới thăm chơi.
- Đó là hy vọng của vợ chồng em, song chưa có tiền nên không dám nói ra.
- Em muốn như vậy không phải là quá đáng, với tánh cần kiệm của Quan và của em có lẽ sự muốn ấy sẽ thành sự thực.
Gần đến An Lạc cô Quế thấy một đám ruộng người ta đương gặt, cô la lớn: "Ngừng lại anh Quan, ngừng đặng em coi gặt chơi."
Quan liền ngừng xe dựa lề đường. Cô Quế rủ Quan và Xuân leo xuống coi chơi. Tuy trời đã gần tối rồi, song đám ruộng không còn lúa bao nhiêu nên năm sáu người còn gặt ráng, tính gặt cho hết rồi nghỉ.
Cô Quế đứng coi người ta gặt, cô vui vẻ tươi cười. Cái cảnh ấy không lạ gì với Xuân và Quan, nên hai cậu dắt đi chơi dài theo lộ.
Quang cảnh yên tĩnh ở thôn quê nó thường làm cho người ta thơ thới trong lòng rồi quên hết mùi lợi danh mà cũng quên hết cạnh tranh. Chắc là tại như vậy nên Xuân ngó mông trong cánh đồng mà thở dài mà nói với Quan:
- Nghĩ cho chí lý, con người lao tâm với sự hơn thua, cao thấp, hay dở thiệt là bậy quá. Cao làm gì, hay làm gì, chung cuộc rồi ai cũng phải chết, thế thì cái cao, cái hay đó có khác chi cái thấp, cái dở đâu.
- Ồ, toa thất chí lắm hay sao nên toa nói như vậy?
- Không, moa có thất chí chi đâu. Moa luận việc đời chớ.
- Làm người, nhứt là người Việt Nam ở vào thời đại nầy, chẳng nên để phưởng phất trong trí những ý tưởng toa vừa mới nói đó. Phải nuôi chí tiến thủ, phải tập tánh cạnh tranh mới được chớ. Bất luận ở địa vị nào, mình phải vui với đời sống của mình luôn luôn, dầu sang hay hèn, dầu giàu hay nghèo cũng vậy. Ở bực nào mình phải theo bực ấy, mình nhớ lấy nhân nghĩa đạo đức mà làm mục đích thì đủ rồi. Còn sự thành hay bại, có hay không, là những hình thức bề ngoài, không quan hệ gì lắm.
- Đó là thuyết của nho giáo.
- Ấy là đạo làm người quân tử.
Xuân suy nghĩ một hồi mới nói nữa:
- Moa khảo cứu vấn đề chấn hưng nông nghiệp tốn công phu nhiều lắm, nay việc ấy bất thành, moa bùi ngùi hoài, khó quên được. Vì vậy hồi nãy moa mới thổ lộ mấy lời làm cho toa nghi moa thất chí, nghĩ cũng phải.
- Moa khuyên toa đừng buồn, ở đời nầy tùy thời mà hành sự. Làm người quân tử hễ gặp hồi nên nói thì phải nói, gặp hồi nên nín thì phải nín, gặp hồi nên ra mặt đặng làm việc thì phải ra, gặp hồi nên ở ẩn để tu tâm dưỡng tánh thì phải ẩn. Nếu việc chấn hưng nông nghiệp không hợp thời thì tạm đình lại đó, có hại chi đâu mà buồn. Huống chi toa đã nhứt định đổi phương pháp, lo chấn hưng luân lý, soi sáng tâm hồn cho đồng bang trước rồi sẽ lo việc quốc gia lợi ích sau thì phải lắm, sao toa còn bồi hồi ái ngại làm chi vậy?
- Theo ý toa, thì bây giờ moa nên nín, nên ẩn dật hay sao?
- Phải, nên nín, nên ẩn dật mà chờ thời.
- Anh hùng phải tạo thời thế chớ.
- Thì lo chấn hưng luân lý, soi sáng tâm hồn cho quốc dân, để làm phú cường cho quốc gia, là tạo thời thế, chớ còn sao nữa.
Xuân gật đầu và chúm chím cười, rồi đứng ngó thẳng ra cánh đồng bát ngát, không cãi với Quan nữa mà cũng không cho Quan là phải.
Trời tối lần lần. Bây giờ mấy người liệu thế gặt không hết lúa kịp nên rủ nhau về để sáng mai sẽ gặt tiếp.
Cô Quế kêu Xuân với Quan mà nói:
- Tối rồi, thôi mình về, kẻo anh Triều ảnh chờ.
Xuân với Quan quay trở lại, rồi ba người lên xe quay về Sài Gòn.
Đúng 7 giờ xe quay trở về nhà hàng Đại Đồng. Triều thấy xe ngừng liền chạy ra tiếp rước.
Triều ồn ào bao trùm địa vị chủ và khách, vỗ vai Quan, ôm chặt Xuân, níu kéo hết vô nhà hàng, giành vấn đáp luôn một mình, không chừa chỗ cho anh em nói vô một lời nào được.
Vào nhà hàng, Xuân thấy ông bà Từ Tệt với cô Quyên thì chưng hửng, ngần ngại, lại có hơi thẹn thùng. Vợ chồng Quan cũng chưng hửng nhưng hội ý hân hoan, nên đi riết vô mà chào mừng. Xuân gắng gượng bước tới nói: "Cháu kính chào chú thím. Có em Quyên nữa kìa!...".
Ông bà Từ Tệt gật đầu cười. Cô Quyên đương chào mừng vợ chồng Quan mà nghe Xuân nói tới cô thì cô day qua ngó Xuân với cặp mắt vui vẻ, tiếp theo một nụ cười chân thành mà thanh nhã.
Xuân bợ ngợ trách Triều:
- Có chú thím lên chơi, vậy mà hồi sớm mơi moa hỏi, toa lại dấu moa chớ.
- Moa có dấu đâu, hồi sơm mơi toa hỏi giống gì? Toa hỏi tía má moa có mạnh hay không. Moa nói mạnh. Toa đâu có hỏi tía má moa lên Sài Gòn mà moa nói.
- Toa khó lòng quá!
- Moa dễ lắm, chớ có khó đâu. Có lẽ toa khó chớ không phải moa. Bao giờ moa cũng dễ luôn luôn.
Xuân rùn vai rồi nói với ông bà Tệt:
- Cháu ở bên tây về đã lâu rồi, mà cháu không xuống Bạc Liêu thăm chú thím được, thiệt cháu có lỗi với chú thím nhiều lắm, cháu thất lễ với chú thím là tại vì về Sài Gòn phải làm việc liền rồi lại còn lo công việc riêng của cháu nữa, nên cháu không đi được. Cháu cúi xin chú thím tha lỗi cho cháu.
Ông Từ Tệt hịch hặc đáp:
- Cháu về lâu rồi mà chú có hay đâu. Chú mới nghe thằng Triều nói mấy bữa nay đây. Thôi, mấy anh em ngồi uống chút rượu khai vị rồi còn dùng bữa.
Mấy anh em phân nhau mà ngồi hai bên. Bên nam thì ông Tệt ngồi giữa, ông biểu Xuân ngồi phía tay mặt và Quan ngồi phái tay trái của ông. Bên nữ thì bà Tệt ngồi giữa, cô Quế ngồi phía tay mặt còn cô Quyên ngồi phía tay trái của bà, thành ra Xuân với Quyên ngồi ngang nhau, rồi Triều nhắc nghế ngồi đầu, giữa Xuân với Quyên.
Triều kêu bồi biểu đem rượu khai vị. Bà Tệt vui vẻ nói:
- Mấy cháu tụ họp như vầy thiệt vui lắm. Thím mừng lắm. Năm trước mấy bà con mình ăn cơm tại đây, bây giờ cũng ăn tại đây nữa, mà cũng có đủ mặt hết, vậy ngộ lắm chớ.
Cô Quyên cứ ngó Xuân mà cười, mặt mày hớn hở, không lả lơi mà cũng không e lệ chút nào. Còn Xuân tuy thỉnh thoảng liếc cô một cái, song đủ thấy Quyên chẳng phải là "tiểu thơ mặt lọ" nữa, mà là một nữ nhi tề chỉnh, đàng hoàng, vì nước da đen lại dang nắng nên diện mạo không rực rỡ mỹ miều, song hình vóc đầy đặn với duyên dáng thiên nhiên giúp cho cô khỏi tiếng xú nữ.
Bà Tệt hỏi cô Quế:
- Cháu năm nay được mấy em rồi?
- Dạ, cháu được hai đứa.
- Giỏi đa!
- Thưa, cháu dở hơn anh Triều.
- Triều cưới vợ trước cháu Quan, tự nhiên phải có con trước nên hơn cháu một đứa, chớ có giỏi đâu.
- Cháu mong cho cô Quyên có chồng có con thì mới thiệt vui.
- Nói gì cái đó...!
Cô Quyên mắc cỡ liếc ngó Xuân rồi cúi mặt xuống bàn.
Ông Tệt day qua ngó Xuân vừa cười và hỏi:
- Nghe nói cháu qua Tây cháu chuyên học nghề làm ruộng phải không?
- Dạ, cháu học nghề nông.
- Được lắm, mình ở xứ làm ruộng, học nghề làm ruộng là phải hơn hết.
Cô Quế nói tiếp: "Thưa bác, anh Xuân có bằng kỹ sư nông phố, ảnh giỏi về nghề làm ruộng lắm bác, ảnh biết cách lựa giống lúa cho hợp đất, biết cách gieo mạ hợp thời, biết cách làm cho mùa màng khỏi thất, làm cho hột lúa nặng cân để bán cao giá. Ảnh giỏi lắm.
Ông Tệt gật đầu rồi hỏi tiếp Xuân:
- Bây giờ cháu làm Bác vật trong sở canh nông phải không?
- Dạ.
- Lương được bao nhiêu?
- Dạ, mỗi tháng được ba bốn trăm.
- Ít quá, có nghề thì ta ra làm ruộng chắc khá hơn nhiều.
- Dạ thưa, cháu không có ruộng.
- Cháu thấy không? Chớ chi hồi trước cháu không bán sở đất thì bây giờ cháu khoẻ lắm.
- Thưa, không bán thì lấy tiền đâu mà ăn học.
Cô Quyên nghe nói tới ruộng là việc cô ưa cô thạo, nên cô chen vô hỏi Xuân:
- Anh muốn làm ruộng mà vì anh không có đất nên anh cổ động địa chủ lập nông nghiệp liên đoàn phải không?
- Sao em biết qua lập nông nghiệp liên đoàn?
- Em xem nhựt báo.
- Té ra em hay qua về hay sao?
- Em hay, song em không dám đoán chắc. Trong báo anh ký tên: "Xuân, kỹ sư nông phố", em nghi là anh mà không biết có phải hay không. Anh lập liên đoàn xong chưa?
Xuân buồn thở ra mà nói:
- Qua cổ động mà vì địa chủ của mình nguội lạnh quá nên việc đó không có hiệu quả. Qua đã bỏ và chuyển công cuộc hoạt động sang việc khác rồi.
Ông Tệt nói:
- Ruộng của mình thì mình làm, bày hùn hiệp khó lòng lắm. Tại cháu mắc lo việc đó nên cháu không đi thăm chú được phải không?
Xuân thấy có cớ cho mình chạy lỗi, nên lật đật đáp:
- Dạ thưa, cháu mắc việc đó.
- Cháu bậy lắm. Nếu tại vì mắc lo việc như vậy mà không thăm chú được thì chú càng phiền thêm nữa.
- Xin chú tha lỗi.
- Tha không được. Chớ chi cháu xuống thăm chú trước, cháu nói chuyện cho chú nghe thì chú bày cho cháu làm, hễ làm thì chắc lợi lắm, chớ có phải như vậy đâu.
Triều nãy giờ lặng thinh, cố ý để dọ thái độ của Xuân, bây giờ mới hỏi Xuân:
- Toa lo việc đó không thành mà lại hao tốn nhiều chớ?
- Tốn chừng vài ngàn.
- Uổng hết sức!
Ông Tệt nói:
- Làm gì phải tốn, đừng có nói uổng. Làm việc gì cũng phải tốn, phải tốn trước rồi mới có lợi sau chớ. Tuy việc đó cháu Xuân làm không thành song đó cũng là một bài học, bài học mắc một chút. Nầy cháu Xuân, chú có một việc nếu làm được thì lợi lắm, lợi cho người làm, mà cũng lợi cho nhà nước nữa. Để rảnh rồi chú sẽ nói rõ ý của chú cho cháu nghe.
Xuân không tin nên hỏi:
- Thưa, việc chú nói đó thuộc về nghề nông hay nghề nào?
- Nghề nông, chớ nghề khác chú có biết đâu mà nói. Phải người biết nghề làm ruộng giỏi mới làm được. Cháu học nông ngiệp, có bằng cấp kỹ sư, có tài năng bác vật chắc cháu làm được.
- Cháu muốn biết liền coi việc ấy là việc gì?
- Không nên, chú muốn cháu đi xuống Bạc Liêu ở chơi ít bữa rồi chú sẽ tỏ hết việc đó cho cháu hiểu.
- Cháu mắc làm việc, cháu đi không được.
- Xin phép, cháu xin phép nghỉ một tuần hoặc mươi bữa mà đi với chú.
Xuân dụ dự. Triều vui vẻ nói lớn:
- Ừ, được đa Xuân. Moa mời vợ chồng Quan đi nữa. Hai người xin phép một tuần lễ rồi đi với moa. Sáng mai xin phép đi, moa ở nhà moa chờ.
Cô Quế nói:
- Nếu anh Xuân chịu đi thì vợ chồng em đi. Em đem hai đứa nhỏ theo đặng đo với con anh Triều chơi.
Quan nói:
- Phần tôi chắc sẽ xin phép được.
Triều thôi thúc:
- Kìa Xuân, vợ chồng Quan chịu rồi kìa. Toa xuống dưới rồi đi Cà Mau xem sở đất của toa hồi trước. Nè sở đất đó mấy năm nay em Quyên lãnh lo khai phá, mùa nầy cấy lúa giáp hết, tốt lắm toa ơi, toa xuống toa coi.
Cô Quyên coi bộ tự đắc nên ngó ngay Xuân mà cười.
Ông Tệt tiếp luôn:
- Con Quyên không có học Bác vật canh nông gì hết, mà nó làm coi cũng được. Lúc nầy lúa đương nở, cháu Xuân xuống coi, như phải đào mương đắp đập gì thì chỉ giùm cho nó.
Cô Quế xen vào:
- Cháu ham ruộng lắm. Xin phép đặng đi chơi, anh Xuân; đi xuống coi ruộng cô Quyên chơi mà.
Cô Quyên nói:
- Nếu được anh Xuân, anh Quan, chị Quế xuống ruộng của em mà chơi thì em mừng lắm.
Hết thảy đều áp vô đốc Xuân, làm cho Xuân không thể nào cáo thối được, nên hứa sáng mai sẽ xin phép mà đi.
Ai nấy đều vui vẻ bàn luận cuộc hành trình. Triều hứa sẽ ở chờ Xuân với Quan xin phép đặng đi một lượt. Tính chừng đi thì cô Quế sẽ đi xe lớn của Triều, còn Quan, Xuân, Triều sẽ đi xe nhỏ của Quan đặng dọc đường nói chuyện chơi cho vui.
Ăn uống bàn luận đến mười giờ mới mãn tiệc.
Ý và tình
(14) VI
Chiếc xe hơi của Triều chở ông Tệt và bà Tệt, cô Quyên, cô Quế hai đứa con Quan và chị vú. Xe sức mạnh tới 18 mã lực[1] lại mới mua có mấy tháng nay nên máy còn mới, bánh còn tốt, chạy mau như giông, đã đi trước lâu rồi. Chiếc xe hơi nhỏ của Quan, Triều dành cầm tay bánh, bắt Xuân ngồi một bên để chủ xe ngồi phía sau, thủng thẳng chạy lần theo con đường Mỹ Tho lúc sớm mai mặt trời vừa mới mọc.
Hai bữa rày Triều không nhắc đến chuyện duyên nợ nữa, mà cô Quyên vẫn tự nhiên, cô không tỏ vẻ quyến luyến hay thân ái chút nào bởi vậy Xuân vững bụng an lòng, tưởng Triều bày chuyện nói chơi cho vui, nên không lo đến chuyện gia thất ràng buộc nữa.
Ba cậu trẻ trai hăng hái, lại được xem cảnh tươi tốt bình minh, tự nhiên vui vẻ tràn trề, nói nói cười cười, nhắc chuyện đã qua, bàn chuyện sẽ tới.
Quá mười giờ ba cậu xuống tới Cần Thơ. Biết chiếc xe lớn đã đi riết về Bạc Liêu mà ăn cơm trưa, nên ba cậu không tính theo nữa, ghé vô nhà hàng kiếm đồ lót lòng rồi sẽ đi sau.
Tuy từ ngày ở bên Tây về. Xuân đã có xuống Bình Thủy mà thăm nhà cửa mồ mả, nhưng mà hôm nay tới Cần Thơ, Xuân vẫn nao nao nhớ cảnh cũ làng xưa, Xuân tỏ ý muốn về Bình Thuỷ thăm nhà, Quan với Triều thuận theo liền, nên ăn uống no rồi ba anh em mới lên Bình Thủy.
Ông dượng với bà cô ở coi nhà giùm cho Xuân, vì được hưởng huê lợi sở vườn, nên ân cần lo dọn dẹp trước sau đều sạch sẽ. Mồ mả cha mẹ ở phía sau cũng vậy, ông dượng có trồng bông chung quanh nên quang cảnh không đến nỗi âm u sầu não. Xuân dắt hai bạn đi xem từ trong nhà ra ngoài vườn, đi viếng mồ mả, ở chơi trót giờ rồi mới lên xe đi Bạc Liêu.
Hai giờ chiều xe tới nhà Triều, cả nhà đều ra cửa đón ba cậu. Triều kêu sốp-phơ dạy coi mang hành lý vô nhà và đem xe vô nhà rồi chùi rửa cho sạch sẽ..
Thằng bé Minh ôm mừng Quan, thằng bé Ngọc với con Nhân ôm mừng Triều, nói tiếng líu lo, tỏ ý mến yêu chân thật, vẽ ra rõ ràng một bức tranh "Phụ tử đoàn viên" hay muốn nói rộng ra là bức tranh "Gia đình sum họp" có nét tươi cười pha lẫn nét đậm đà mật thiết. Ông Tệt, bà Tệt đứng ngó bức tranh thiên nhiên ấy, trong lòng khuấy động, càng vững chắc trong cái hy vọng "Phụ truyền tử kế" mà cũng thoả mãn về những công phu "Sáng nghiệp khai cơ". Vợ Triều và vợ Quan cảm động nhiều hơn hết, cảm động mà sung sướng, cảm động mà tự hào về công lao của mình đã giúp gây dựng chút hạnh phúc ấy giữa bến mờ biển khổ.
Cô Quế liếc thấy Xuân với cô Quyên đứng ngoài vòng cái bức tranh hạnh phúc ấy thì cô nao lòng, nên cô vỗ vai cô Quyên mà an ủi: "Rồi đây cô cũng sẽ như chúng tôi". Cô Quyên ngó Xuân mà cười, cái cười đầy thân ái, đầy hy vọng, Xuân cúi mặt xuống không nói gì hết, mà như có hơi gió lạnh phất vào tâm can!
Cô Quyên tự nhiên hỏi Xuân: "Xe tới trễ, em chắc vì anh Xuân ghé Bình Thuỷ mà viếng mộ hai bác, phải vậy không anh Xuân?" Xuân gật đầu, cô Quyên đắc ý nói tiếp: "Em đoán trúng thấy không chị Quế?"
Triều tiến dẫn vợ con cho Xuân và Quan biết, rồi Triều bồng con Kim, Quan vác con Phượng vô nhà.
Một nhà vui vẻ giữa buổi chiều thu đầm ấm mà trong xanh. Bầu không khí thân yêu bao trùm các mặt cố giao hoà hiệp. Một lúc sau ai nấy đều rã ra, người xuống nhà xe, người ra ngoài sân, người ra sau vườn mà chơi. Cô Quyên thấy Xuân một mình thơ thẩn trước hàng ba, thì cô mở tủ lấy mấy tấm hình của Xuân chụp hồi trước đem ra cho Xuân xem và nói: "Đây, anh nhớ mấy tấm hình nầy không? Em lộng kiếng rồi cất trong tủ luôn, nên hình không phai, còn rõ như hồi mới chụp."
Xuân cầm xem, ngó hình và ngó cô Quyên, miệng chúm chím cười.
Cô Quyên cũng cười và hỏi:
- Tại sao anh cười? Có phải anh thấy hình em hồi trước khác với em bây giờ phải không?
- Khác xa lắm.
- Lớn rồi khác chớ sao. Mấy tấm hình anh giữ hồi trước, bây giờ anh còn hay không?
- Còn chớ, qua gắn trong quyển "album". Hôm qua, qua cậy Triều mời chú thím với em lại nhà chơi cho biết. Chú thím đi, sao em không đi? Chớ chi có em lại thì thì em đã được thấy mấy tấm hình đó.
- Hôm qua má và tía có biểu, song em không chịu lại nhà anh.
- Sao vậy?
- Anh phải đến nhà em mà thăm trước, rồi sau em sẽ thăm lại. Làm như vậy mới trúng lễ chớ.
- Bây giờ qua xuống thăm em rồi đây. Sau em có đi Sài Gòn, em chịu ghé thăm qua không?
- Đây chưa phải là nhà em, nhà em ở dưới Cà Mau kìa.
- Mai mốt qua sẽ đi với anh em xuống dưới, xuống coi tài làm ruộng của em ra sao.
Cô Quyên cười mà nói: "Gái nhà quê mà tài nỗi gì?".
Xuân muốn thấu hiểu tận đáy lòng của Quyên để quyết định thái độ chọn Quyên khỏi lầm, mà ra mình là người chân chánh nên Xuân ngó ngay cặp mắt cô mà hỏi: "Triều nói với qua rằng em chờ qua. Thiệt có như vậy hay không?".
Cô Quyên day mặt ngó ra sân mà cười, chớ không trả lời. Xuân đã hiểu ý nên thở dài. Trả mấy tấm hình lại cho cô rồi nói: "Không nên".
Cô Quyên quay lại hỏi chậm rãi:
- Sao vậy?
- Tâm hồn của qua không có đủ điều kiện khả dĩ gây hạnh phúc cho đời em được.
- Em sợ anh hiểu lầm.
- Không lầm đâu. Qua biết qua hơn là em biết.
- Tự ý anh!
Cô Quyên nói ba chữ sau với giọng đau đớn, với sắc mặt u sầu làm cho Xuân là người đa cảm, lấy làm khó chịu hết sức. Cô ngó mấy tấm hình và nói:
- Mấy năm nay, chiều bữa nào đi xe hơi với chị hai, em thường đi những chỗ mình đã đi hồi trước. Ra mấy chỗ đó em vui quá.
- Em có trở lại chỗ chùa Thổ đó hay không?
- Anh còn nhớ chùa Thổ hay sao? Chỗ đó em đến chơi thường hơn hết. Bây giờ chùa cất lại đẹp lắm, mà cây cũng đã lớn hơn hồi trước, nên cảnh xem thú vị hơn nhiều. Sáng mai anh lấy xe đi ra đó mà coi, tuy khác hơn trước, mà em ngó vẫn nhớ cảnh hồi trước.
- Có lẽ qua sẽ rủ Triều với Quan đi.
- Anh nên đi lắm. Anh hai có máy chụp hình lớn. Như đi thì chắc anh đem theo máy đặng chụp hình hết anh em để kỷ niệm chơi. Kìa, anh hai em vô kìa, để em dặn trước ảnh.
Cô Quyên với Xuân bước xuống thềm đón rước Triều và Quan đương ở dưới nhà xe đi lên. Cô Quyên xúi Triều sáng mai mời hết anh em ra Sóc Đồn chụp hình, Triều chịu và nhứt định sáng mai dậy sớm đặng đúng sáu giờ rưỡi đi. Bữa cơm chiều vui vẻ, mà tối ấy cũng rất vui vẻ, các anh chị em hiệp nhau trò chuyện, tình hòa nhã chan chứa, niềm thân yêu mặn nồng. Ông bà Tệt ngồi ngó con cháu vầy đoàn thì hân hoan hết sức.
Ông Tệt định ngày mai ở Bạc Liêu chơi một bữa, sáng mốt cả nhà đi hết xuống Cà Mau rồi sẽ chỉ mối lợi lớn cho Xuân và Quan biết. Ông cứ giữ bí mật chuyện đó mà ông cũng chẳng hề nói tới nhân duyên của cô Quyên làm cho Xuân không hiểu rõ ý ông nên cậu chơi mà trong lòng ái ngại.
Bữa sau mới tảng sáng mà Triều đã thôi thúc dọn đồ ăn lót lòng cho mau, đặng đi chơi cho sớm, Triều lấy xe lớn đem ra bổn thân cầm tay bánh, bắt Xuân và Quan ngồi ở phía trước, chừa hết phía sau cho đàn phụ nữ với sắp nhi đồng. Bà Tệt thấy phía sau có ba chỗ ngồi với hai chiếc ghế mà phải chất chứa vợ Triều, vợ Quan, cô Quyên, với năm đứa nhỏ chật cứng thì bà không bằng lòng. Bà muốn lấy thêm cái xe lớn cũ nữa biểu sốp-phơ cầm bánh mà đi cho rộng. Mấy cô muốn đi chung cho vui nên xin đi một xe, sắp nhỏ để ngồi trong lòng mỗi người nên không chật gì lắm.
Mặt trời ló dạng. Ngoài đường người ta đi chợ dập dìu. Triều hỏi đi đâu thì cô Quyên khuyên đi Sóc Đồn đặng chụp hình lấy cảnh chùa Thổ. Sớm mai giọt sương đọng trên lá lúa, ánh nắng như chưa xoá tan, bởi vậy lúa gần đứng cái mà ngọn cứ là đà làm cho đám ruộng bằng thẳng ở trên, bằng thẳng mà phơi màu xanh lặc lìa, cái xanh thiên nhiên xem vừa vui lòng, vừa khoẻ mắt.
Cô Quyên lãnh ôm cả cháu Minh lẫn cháu Ngân trong lòng, ngó thấy giạng cây Sóc Đồn xa xa thì cô hân hoan kêu Xuân mà nói: "Anh Xuân, cái chùa Thổ chỗ lùm cây cao đó, thấy không?".
Xuân day lại đáp: "Qua không nhớ chỗ nào hết."
Mấy lời lạt lẽo ấy làm cho sự hân hoan của cô Quyên giảm đi hết phân nửa. Tuy vậy mà cô còn gượng mà nói thêm: "Em nhớ năm trước, lúc em và anh đi chơi đó, thì lúa cấy mới rồi. Bây giờ lúa đã gần trổ, nên quang cảnh tự nhiên xem khác. Em nhớ như chuyện mới vừa hôm qua."
Có lẽ Xuân ăn năn mấy lời vô tình hồi nãy, nên lật đật đáp:
- Phải, phải. Bây giờ qua nhớ rồi. Mình đi buổi chiều, qua chụp hình em, rồi mình đi dọc theo lộ mà chơi.
- Ừ, dưới ruộng có mấy chị Thổ hái rau chóc, đội thúng đi về.
- Phải. Em nói em ưa cảnh đồng ruộng, em ở chơi đến tối mà em cũng chưa muốn về.
- Anh nhớ đủ hết, vậy mà hồi nãy anh nói anh không nhớ chớ.
- Lâu quá ...tám, chín năm rồi.
Cô Quế cười và nói:
- Anh Xuân vô ý luôn luôn! Ảnh không chịu nhớ chuyện gì hết. Hay là ảnh làm bộ quên, đặng gạt cho người ta nhắc chuyện xưa cho ảnh nghe.
Quan day lại đáp với vợ:
- Em nói trúng lắm.
Xuân ngồi im, dường như không nghe lời châm chích của vợ chồng Quan.
Xe tới Sóc Đồn. Triều ngừng ngay trước chùa Thổ. Mấy anh em leo xuống đi chơi. Cô Quyên nhắc chụp hình. Bây giờ mặt trời đã lên cao, có ánh sáng vừa chụp hình lắm. Triều lấy máy ra. Quan bồng dùm bé Phượng cho vợ. Cô Quế nắm dắt bé Minh. Vợ Triều bồng bé Kim, cô Quyên dắt cháu Ngân và cậu Xuân dắt giùm cháu Ngọc.
Cô Quyên ngó quanh quất rồi chỉ một chùm cây lớn mà nói:
- Anh Xuân, năm xưa anh chụp hình em trước lùm cây nầy đây. Anh nhớ không? Cây bây giờ cao lớn hơn hồi đó. Vậy mình lại đứng đó mà chụp nữa, chụp chung hết, để kỷ niệm chơi.
Xuân gật đầu rồi dắt cháu Ngọc đi lại lùm cây. Cô Quyên dắt cháu Ngân đi theo; hai người đi sóng đôi nhau mỗi người có dắt tay một cháu nhỏ.
Vợ chồng Quan còn lụi đụi ở chỗ xe đậu với vợ chồng Triều, Quan thấy Xuân đi với Quyên thì kêu mà nói: "Anh Triều, coi kìa. Cặp đó coi phải quá. Hai vợ chồng dắt hai đứa con đi chơi. Vậy là một gia đình có đầy đủ hạnh phúc chớ còn đợi gì nữa. Nếu Xuân cứ đeo theo chủ nghĩa "Vô gia đình" thì thiệt là điên."
Triều vừa ráp máy chụp hình, vừa đáp:
- Đừng thèm nói. Moa thấy rồi. Con Quyên bây giờ không phải là con Quyên hồi trước đâu. Nó sẽ phá chủ nghĩa vô gia đình của Xuân cho mà coi.
Cô Quế nói:
- Em coi chủ nghĩa đó đã bắt đầu lung lay rồi.
Triều chúm chím cười mà tiếp:
- Qua chắc xuống Cà Mau là sập liền chớ không phải lung lay mà thôi đâu.
Quan nghe vậy ngạc nhiên nên hỏi Triều:
- Sao vậy? Cà Mau có cái chi bí mật hay sao?
- Xuống dưới rồi sẽ biết.
Triều ráp máy rồi kêu hết lại đứng trước lùm cây đặng lấy hình kẻo trời nắng. Vợ chồng Triều đứng giữa, cô Quế với Quan đứng bên tay mặt, cô Quyên với Xuân đứng bên tay trái, mỗi người có một đứa nhỏ, thành ra ba người đàn bà đứng giữa hai người đàn ông. Xuân đứng cặp với cô Quyên, duy Triều mắc chụp hình nên vô nhóm anh em không được.
Chụp hình xong rồi anh em dắt nhau vô chùa Thổ xem đến trời nắng mới trở về chợ.
Buổi chiều lại rủ nhau đi chơi lên phía Om Trà Nõ. Lúc xe đương chạy, cô Quyên kêu Xuân mà chỉ chỗ xưa hai anh em ăn bánh trên cỏ. Xuân gật đầu mà cười chớ không dám nói hay không nỡ nói quên nữa.
Ăn cơm tối rồi, Triều đi vô chợ mua đồ đặng sáng mai có đem theo xuống Cà Mau mà dùng. Nhóm phụ nữ cũng lo sửa soạn hành lý vì ông Tệt muốn đi sớm kẻo sắp nhỏ bị nắng.
Xuân thấy Quan đi bộ trước sân thì men ra đi với Quan.
Đêm nay nhằm đêm 12 âm lịch, nên mới tối mà trăng đã lên cao, rọi tỏ rõ ánh sáng từ trong sân ra ngoài đường cái. Xuân rủ Quan ra lộ hứng mát, Quan y theo lời nói của bạn, nghi Xuân muốn tỏ lòng của mình, nhưng không thèm gợi ý trước, thầm tính để coi Xuân nói thế nào rồi sẽ liệu mà công kích hoặc khuyến dụ.
Hai người thủng thẳng đi ra khỏi gốc rào của ông Từ Tệt, tới một khoảng trống, trên trăng tỏ rạng, dưới cảnh im lìm. Xuân thình lình than với bạn:
- Ở đời chẳng có chi bận lòng bằng mình vuớng một án lương tâm.
- Toa muốn nói cái gì? Moa không hiểu.
- Moa muốn nói việc cô Quyên.
- A! Việc Triều nói bữa hôm đó phải không?
- Việc đó.
- Triều là một người nhiều chuyện. Moa tưởng Triều muốn ghẹo toa đặng đùa chơi, chớ không có gì hết. Mấy bữa rày moa thấy cử chỉ của cô Quyên tự nhiên, mà ông bác bà bác cũng vậy, thế thì có chi đâu mà toa nói toà án lương tâm.
- Toa lầm, Triều nói thiệt chớ không phải nói chơi.
- Hả? Triều nói thiệt? Cô Quyên chờ toa mấy năm nay không chịu lấy chồng?
- Ừ.
- Tại sao toa biết? Cô có nói với toa hay sao?
- Cô không có nói rõ; nhưng mà moa hỏi cô có như vậy hay không thì cô cười. Tuy cô không chịu thiệt, song cô cũng không cãi. Thế thì không phải Triều nói chơi đâu.
- À! nói vậy thì toa hơi khó xử một chút. Mà cô Quyên chờ toa đi Tây về, biết toa sẽ lên danh bởi vậy cô Quyên chờ đặng lên làm bà kỹ sư, bà bác vật hay là vì ái tình ràng buộc cô không thể gỡ được nên cô chờ toa, cần phải biết rõ điều ấy.
- Điều ấy là điều tâm lý. Phải gần gũi với cô Quyên, phải đàm luận với cô nhiều lần thì mới biết chắc được. Moa sợ mắc bẫy, moa không dám nói chuyện nhiều lần với cô.
- Toa thận trọng như vậy là phải lắm. Toa chẳng nên thân mật với cô. Sẵn có em Quế của moa ở đây, vậy để moa dặn em dọ ý cô giùm cho toa. Nếu cô Quyên muốn làm bà kỹ sư, bà bác vật, nên cô chờ toa, thì không quý báu gì hết...À, còn nếu cô Quyên chờ toa là vì hai chữ "Ái tình", ái tình trong sạch, thì quan hệ lắm chớ không phải chơi đâu.
- Để em Quế dọ thử coi.
- Ừ, để lát nữa vô nhà rồi moa sẽ dặn riêng. Mà dầu thương vì vinh dự hay vì ái tình, trước hết cần phải biết cô Quyên có thương toa không đã chớ.
- Nếu không thương moa thì chờ moa làm gì? Lại cô đi chơi với mình ngày nay cô cứ nhắc những chỗ ký tích hồi trước với moa hoài, cử chỉ ấy có lẽ đã chỉ cho moa thấy được nỗi lòng của cô chút ít.
- Phải, toa quan sát như vậy là đúng lắm. Cô Quyên thương toa nên chờ toa, việc ấy chắc chắn khỏi phải nghi ngờ gì. Bây giờ chỉ muốn biết rõ coi cô thương là vì ái tình hay là vì vinh dự. Mà chừng toa được biết khoản ấy rồi thì toa làm sao?
- Đó là cái án lương tâm mà moa vừa nói với toa hồi nãy đó.
- Dầu cô thương toa về phương diện nào cũng vậy hễ cô thương toa đến nỗi có công chờ toa bảy tám năm, mà bây giờ toa phụ rẫy tình cô thì toa ác quá.
- Phải rồi. Mà nếu cô vì vinh dự nên thương moa thì moa phụ cô moa không ăn năn cho lắm. Còn cô vì ái tình mà thương thì moa khó liệu quá.
- Khó thiệt, nhưng mà cũng dễ thiệt.
- Moa không hiểu ý toa muốn nói cái gì?
- Moa nói khó, là nếu cô Quyên lấy tình trong sạch mà thương toa thì khó cho toa phụ cô vì làm như vậy toa sẽ giày đạp một tấm tình chơn chánh, toa sẽ bẻ gẫy một cảnh đời chớn chở của một cô gái thân yêu.
- Còn moa nói dễ, là đường của toa đi đã mở sẵn trước mắt, toa cứ nhắm mắt mà bước tới; dễ quá, khỏi sợ lầm lạc, vấp ngã chi hết.
- Không phải vậy, toa không hiểu ý moa. Moa nói khó liệu là vì moa có tâm hồn xã hội chớ không có tâm hồn gia đình. Không thể nào moa có vợ được, bởi vậy moa không nỡ làm một người đàn bà vì moa mà cảnh đời phải lãnh đạm hư hỏng, toa hiểu chưa? Moa không phải là người sẵn ác tâm gieo tai hoạ cho đàn bà. Lương tâm của moa không an tâm là vì cái đó.
Bây giờ Quan đã thấy tâm hồn Xuân rồi, Xuân dầu chưa có tình với cô Quyên nhưng đã không nỡ phụ cô. Tâm hồn bất nhẫn đã không xa tâm hồn thân ái. Tuy biết như vậy nhưng Quan không nói ra. Cậu làm mặt vô can, nên nghiêm nghị nói: "Đường đời của toa, toa phải tự liệu lấy mà chọn lựa. Moa không dám nói vô hay bàn ra. Nhưng nhờ có chút kinh nghiệm nên moa dám nói quả quyết rằng ái tình nó đẹp đẽ, còn gia đình nó ngon ngọt làm sao, có đặt mình vào mới thưởng thức được màu đẹp đẽ, mùi ngon ngọt ấy.
Ái tình với gia đình nó làm cho lòng người hẹp hòi hoá ra rộng rãi, nó làm chí nhỏ bé hoá ra lớn lao, nó làm cho từ thấp thành cao, nó làm cho đời người có ý nghĩa, có mục đích. Moa tin chắc dầu xã hội, dầu quốc gia, nếu có nẩy nở rực rỡ được ấy là nhờ hai chữ ái tình và gia đình.
Xuân thở dài, Quan liếc mắt nhìn Xuân, tuy lúc ấy trăng bị mây án, nhưng cũng thấy Xuân tư lự. Quan chúm chìm cười rồi rủ Xuân trở về, tính ngủ sớm đặng sáng mai đi sớm.
[1] PS (sức ngựa), đơn vị đo sức mạnh của máy xe hơi
Ý và tình
(15) VII
Ông Từ Tệt là một nông gia Việt Nam, tánh tình của ông cũng như các nông gia khác. Thuở nay vẫn giữ mực giản dị, thận trọng, trầm tĩnh, kiên nhẫn. Dầu làm việc gì ông cũng tính trước lo xa; Mà hễ quyết đoán rồi, thì ông cố gắng nơi sự thành công, nên hăng hái làm chớ không hăng hái nói.
Còn bà Tệt cũng là một phụ nữ giống như phần nhiều phụ nữ Việt Nam ở chốn thôn quê, bà vui vẻ bải buôi, thức khuya dậy sớm lo cho chồng con hơn lo phận mình, biết chuyện trong nhà hơn chuyện hàng xóm.
Về việc mời khách đi xuống ruộng chơi, thì ông định cả nhà phải đi hết. Vợ con Triều cũng đi cho vui. Nhắm chiếc xe nhỏ của Triều chở không hết nên ở trên Sài Gòn về thì ông đã biểu sốp-phơ sửa soạn thêm chiếc xe của ông. Xe cũng lớn, chở được bảy tám người, xe tuy cũ nhưng máy còn tốt, ông thường dùng để đi thăm ruộng.
Còn bà thì lo sắm phẩm thực. Trong nhà sẵn tiền, lại vui đãi khách, nên bà mua thứ gì cũng ngon và cũng nhiều, một tay bà coi mua để cho con dâu, con gái thong thả mà chơi với chúng bạn.
Tảng sáng chủ khách thức dậy đặng sửa soạn đi Cà Mau thì đồ lót lòng đã dọn sẵn một bàn dài cơm rau, cháo vịt, lạp xưỡng, bánh mì, thứ nào cũng nhiều, bà Tệt vui mời, ông Tệt thúc hối ăn đặng có đi cho sớm.
Mặt trời vừa mọc thì chủ khách lên xe. Bà Tệt đi xe mới với mấy cô, cháu nhỏ, giao cho sốp-phơ cầm bánh. Còn ông Tệt đi chung với ba cậu trên chiếc xe cũ. Triều lãnh cầm tay bánh và xe chở đồ bùm sùm. Mấy cậu đều mặc áo sơ mi, ông Từ Tệt thì mặc đồ mát, ông nói rằng xuống ruộng chẳng cần phải mặc y phục đàng hoàng tráng lệ.
Từ Sài Gòn xuống Bạc Liêu cô Quế đã được thấy nhiều cảnh đồng quê rộng lớn là những vựa lúa của xứ Nam Việt. Từ Bạc Liêu xuống Cà Mau đồng lại càng lớn hơn nữa, lớn mà lại không cây, không xóm, ngó minh mông mút mắt, bầu trời mặt ruộng giáp nhau nơi tuyệt mù. Cô Quế ngắm cảnh mà bồi hồi về công phu của nông dân khai khẩn nặng dầy mà càng bồi hồi về hồng phúc của quê hương chứa đầy điền địa phì nhiêu quảng đại. Bây giờ cô mới thấy cái đời của người thôn quê là đời lợi ích cho mình, lợi ích cho người, lợi ích cho quốc gia. Còn đời của người thị thành là đời húng hính, làm ít chơi nhiều, đời lạnh lẽo không có công với quốc gia xã hội. Cô ngó cô Quyên mà khen thầm, khen cô không nhiễm chí ý mới của phụ nữ tân thời, khen cô biết chọn thú vui trong sạch mà sống. Biết sợ thói nhảm nhí để tránh.
Vì hôm qua ông Từ Tệt có sai người xuống trước mà sắp đặt cuộc tiếp khách nên quá 9 giờ xuống tới Cà Mau, thì đã có hai chiếc thuyền nhỏ trực sẵn để tiếp rước khách chở đồ vô ruộng.
Tới đây thì về địa hạt của cô Quyên, bởi vậy cô lăng xăng sai nha dịch đem đồ xuống thuyền, cô sắp đặt từ chút, cô xem xét mọi việc, biểu lộ rõ ràng thái độ của điền chủ, thân thiện với kẻ dưới, vui vẻ trong lời nói làm người ta thương mà kính sợ, làm cho người ta cực mà không phiền. Xuân đứng rình cô, thấy cử chỉ của cô như vậy thì lấy làm kỳ, khác hẳn với cô Quyên bơ phờ, đỏng đảnh liếng xáo như hồi trước, như đen khác với trắng.
Chủ khách xuống thuyền xong rồi, hai chiếc thuyền mới nối đuôi nhau đi vào làng Tân Hưng.
Thuở nay cô Quế chưa bước chân xuống thuyền lần nào, bởi vậy ngồi trong thuyền lúc lắc, nghe tiếng thuyền lạc xạc thì cô vui, song trong lòng lo ngại, cô bảo chị vú bồng bé Phượng cho chặt, dặn Quan coi chừng bé Minh.
Cô Quyên hiểu ý nên nói:
- Không sao đâu mà sợ, chị Quế. Em có một chiếc ca nô, để dùng đi chợ cho mau, vì chiếc ấy nhỏ quá không thể rước hết được nên phải dùng thuyền chèo cho vững.
Cô Quế hỏi:
- Cô có sắm ca nô hay sao?
- Có ca nô nhỏ, đi chừng ba bốn người.
- Xuống tới nhà rồi chiều cô chở tôi đi ca nô chơi thử nghe hôn?
- Được, chiều mai rồi chị em mình đi.
- Thuyền đi chừng một giờ đồng hồ thì thấy bên phía cột chèo lái có một toà nhà ngói cao cẳng, hai bên kềm hai lẫm lúa rộng và dài cũng lợp ngói đỏ lòm.
Cô Quế hỏi:
- Nhà của ai vậy cô Quyên?
- Nhà ruộng của tía em cất cho em.
- Tới rồi à? Gần chợ quá!
Thuyền vừa xuôi chèo đặng cặp vào cầu thang thì trên nhà nổi trống vang rân, bởi vậy mấy anh em leo lên cầu thang đứng ngó, trong lòng vui vẻ phi thường, vui được hưởng không khí điền viên, vui được thấy cô Quyên quản xuất một đám người mặt thật thà, sức khoẻ mạnh.
Ông Tệt cũng lên cầu mà đứng với khách, rồi ông đưa tay chỉ mà nói:
- Phía trên nầy rạch là sở điền tôi đấu giá mua của nhà nước hồi trước. Tôi khai phá thành điền đã hơn mười năm rồi. Còn sở đất của Xuân thì ở bên kia rạch đó, thấy không cậu Xuân?
Mấy người đứng ngó thì thấy cả hai bên lúa nở tốt tươi, chỗ nào cũng có lúa, không bỏ hoang một khoảng nào hết; song phía bên nầy thì cách quãng có hàng dừa trồng ngay thẳng đã có trái rồi, còn phía bên kia thì đồng bằng một mực, lúa xanh một màu, không có cây cối chi hết, rải rác có một ít chòi lá lum khum trên mé rạch quanh quẹo.
Cô Quế được thấy cảnh đồng ruộng thuở nay cô chưa biết nên cô thoả thích hơn hết, cô hỏi ông Tệt:
- Thưa bác, mỗi sở điền được bao nhiêu mẫu?
- Mỗi sở khoảng mười ngàn công.
- Mười ngàn công là bao nhiêu? Cháu không hiểu.
- Một ngàn mẫu.
- Cha chả! Nhiều quá.
- Có nhiều đâu cháu.
- Mỗi năm bác thâu lúa ruộng được bao nhiêu ?
- Đất nước mặn, lại dưới nầy ít tá điền nên tôi cho mướn rẻ. Phía bên nầy đất cũ nên tôi cho mướn mỗi công hai giạ. Mấy năm nay góp được chừng mấy chục ngàn giạ. Còn phía bên kia đất mới mở, con Quyên phải cho mướn rẻ hơn. Năm nay nó cho mướn giáp hết, mỗi công có một giạ.
- Sở đất phía bên kia rạch là của cô Quyên hay sao?
- Nó lãnh khai phá ba năm nay đó.
- Nếu vậy thì chừng gặt cô Quyên sẽ có đến mười ngàn giạ lúa.
- Phải nhưng vái trời cho khỏi sâu bọ, khỏi tim, khỏi háp, thì tới mùa nó góp mười ngàn.
- Cô Quyên sẽ làm giàu...Sao hồi nãy nói đất nầy của anh Xuân?
- Cô bảo cậu Xuân cắt nghĩa cho cô nghe. Năm anh hội đồng mất, cậu Xuân quyết đem sở đất đó mà bán cho họ. Tôi cản hết sức không được, vợ chồng tôi biểu thôi để cho vợ chồng tôi mướn đó mà ăn học. Cậu cũng không nghe, cứ nằng nằng đi kiếm người mà bán. Không muốn để cậu bán cho họ nên tôi phải mua, rồi mấy năm nay con Quyên lãnh coi làm đó.
Cô Quế với Quan nghe chuyện đó thì chưng hửng. Đất của Xuân bây giờ về cô Quyên làm chủ, mà cô Quyên lại muốn kết tóc trăm năm với Xuân. Hễ Xuân ừ thì đất bán sẽ hoàn lại cố chủ. Tạo hoá khéo gây cuộc lăng nhăng quá.
Quan hỏi Xuân:
- Sao hồi đó toa bán vậy Xuân?
Xuân có hơi thẹn, ngượng ngùng đáp:
- Có đất mà không biết dùng thì để làm gì?
Ông Tệt sợ Quan hỏi nhiều làm phiền lòng Xuân nên ông thôi thúc khách vô nhà. Bà Tệt, cô Quyên với vợ chồng Triều đã vô trước trong nhà. Xuân với vợ chồng Quan thủng thẳng bước theo ông Tệt, thấy trước nhà có một cái sân rộng lớn không trồng vật chi hết, song hai bên nhà dọc theo hai mé rạch thì trồng mít trồng chuối, thứ nào cây lá cũng sởn sơ.
Cô Quyên tiếp khách ân cần, bà Tệt bải buôi, vợ chồng Triều vui vẻ.
Vợ chồng Quan rất thoả thích về cuộc đi chơi nầy, duy có một mình Xuân sắc mặt buồn bã, không biết cậu buồn về chuyện cô Quyên, hay là buồn về sự bán đất.
Chơi một lát dọn lên bữa cơm đơn sơ, dùng gà vịt và một ít món đồ mang theo mà thôi. Nhưng vì có lời cô Quyên cáo lỗi hữu duyên, lại nhờ đi đường đói bụng, nên ai nấy ăn ngon lắm. Đương lúc ăn cơm, tá điền bắt heo chọc huyết, heo la om sòm ở phía sau. Cô Quế hỏi cô Quyên: "Làm thịt heo hay sao?" Cô Quyên vừa cười vừa đáp: "Không mấy thuở anh chị đến chơi nhà em, tự nhiên em phải đãi chớ sao?"
Bà Tệt tiếp nói:
- Ở ruộng hễ có khách thì gà vịt với heo chớ có gì nữa đâu. Tôi có biểu người qua Đầm Dơi kiếm sấu, kỳ đà, cua gạch, nếu mua được thì mai mốt ăn đồ đó.
Ăn cơm rồi, Triều lấy ra ba cây cần câu và hỏi:
- Xuân với Quan có đi câu cá với moa hay không? Dân làm ruộng không biết ngủ trưa. Đi câu kiếm ít con cá trê chiều nấu chua ăn chơi.
Đi câu cá trê. Một việc lạ nữa! Quan sốt sắng đi với Triều, Xuân cũng đi theo, duy cô Quế thấy trời nắng gắt, sợ nhức đầu nên cô ở nhà.
Ba cậu trai đứng câu dài theo mé rạch, vì mỗi cậu đều có bắt được vài con cá trê hoặc con cá úc, nên cậu nào cũng say mê, kiếm chỗ có bóng cây mà đứng, rồi cầm cần câu hoài mà không biết mỏi. Người ta nói câu là môn giải trí, mà kỳ thiệt là một cách để giúp trí yên tĩnh mà suy nghĩ. Vì vậy nên người hay lo tính, thường thích ngồi. Hôm nay ba cậu trai nầy say mê đây, có lẽ cũng có chuyện lo tính trong trí. Xuân lo về nỗi bận bịu của cô Quyên, còn Triều với Quan tuy không nói cho nhau biết, song cả hai đều tính phải coi dùng chước nào mà chữa bịnh thần kinh cho Xuân, quay Xuân trở về đường hạnh phúc gia đình, cho hội Mai, Lan, Cúc, Trước khỏi có người lạc lối.
Đến xế mát nước lớn mà đầy, cô Quyên dắt cô Quế đi kiếm ba cậu. Gặp ba cậu đang ngồi chăm chỉ câu thì cô Quế cười ngất. Cô kêu Xuân mà nói: "Anh Xuân, cô Quyên mời anh xuống ca nô đặng đi thăm ruộng của cô. Chiếc ca nô có ba chỗ ngồi. Vậy anh đi với chị em tôi."
Xuân dụ dự.
Cô Quyên nói:
- Em muốn mời ông Bác vật canh nông đi xem giùm kinh em đào và đập em đắp coi có trúng theo nông học không?
Triều tiếp nói:
- Toa đi đi Xuân, moa với Quan sẽ lấy xuồng đi theo sau, vì ca nô chở không hết năm người.
Không hiểu Xuân muốn dọ ý cô Quyên hay là muốn xem tài làm ruộng của cô mà bây giờ Xuân không dụ dự nữa, cậu cuốn nhợ, trả câu cho Triều, rồi theo hai cô trở lại cầu thang đặng xuống ca nô. Xuân ngồi day mặt ra phía trước. Cô Quyên với cô Quế ngồi đâu mặt với Xuân. Người coi máy quay máy bành bạch rồi ca nô phát chạy trong rạch.
Cô Quyên đem cô Quế với Xuân đi xem bờ đê đắp đập vòng theo ruộng của cô nhằm ngăn nước mặn, rồi vô kinh cái đào băng ngang sở đất, cô chỉ cho Xuân thấy mấy cái kinh nhỏ trổ ra kinh cái, trên bờ kinh cô đã bắt đầu trồng mít, trồng dừa, cô lại chỉ hai cái đập lớn dùng chặn nước, nhờ đập ấy nên mùa vừa rồi lúa không bị háp. Vì việc nào cô cắt nghĩa cũng rành rẽ, làm cho cô Quế không thạo nghề nông, cô nghe cô cũng rất phục, mà Xuân là bác vật canh nông, cậu cũng không thấy chỗ nào đáng chê.
Xuân cắc cớ hỏi cô Quyên:
- Ai dạy em mà em biết đào kinh đắp đập đây?
- Tía em chỉ.
- Chú giỏi quá. Công việc em làm đây qua thấy công phu lắm. Em tính chôn sống đời em luôn tại đây hay sao mà em chịu cực làm như vậy?
- Đi đâu làm gì? Anh tưởng ở đây không có thú vui hay sao? Vui lắm. Anh ở đây rồi anh sẽ biết. Cấy xong rồi trong ít ngày mình trông thấy cây lúa lên tươi tốt, bụi nở lớn lá xanh dờn, chừng lúa trổ, sớm mai mình vui ngửi mùi thơm ngọt ngào. Đến khi lúa chín, mình thấy công phu của mình được kết quả. Người làm ruộng mới thưởng thức được những thú vui ấy, thú vui êm đềm, thú vui khoẻ khoắn, không lộn một mảy tật đố hay cạnh tranh. Đã vậy mà những tá điền ở chung quanh mình, nếu mình thương họ, mình giúp đỡ họ, thì họ tỏ lòng biết ơn một cách chân thành, dễ cảm động lắm. Em không có đủ lời mà nói rõ cái sự vui ở ruộng cho anh hiểu được. Anh phải ở trong ruộng thì anh mới biết được.
Những lời thật thà tự nhiên ấy đã biểu lộ tâm hồn cô Quyên rõ ràng. Không cần dò xét làm chi nữa. Cô Quyên không tính đi đâu hết, cô quyết ở chốn nầy, ở đặng hưởng thú điền viên, ở đặng giúp đỡ nông dân. Rõ ràng cô thương mình chính vì cô nặng tình chờ không phải vì cô ham muốn làm bà Bác vật. Rõ ràng vì mình nên cô đổi hết tánh nết, vì mình nên cô lãnh mở sở đất nầy, vì mình nên mấy năm nay cô chịu dãi nắng dầm mưa muỗi mòng cực nhọc.
Xuân nghe những lời của cô Quyên rồi nghĩ lại thì cậu rung động tâm can, ngẩn ngơ trí não. Cậu là người đa cảm, bởi vậy cậu day mặt ngó lên ruộng chớ không dám ngó cô Quyên, và cậu cũng không dám hỏi chuyện chi khác.
Cô Quế là gái sáng trí, liếc mắt xem sắc mặt của Xuân cô biết rõ tâm hồn của cậu trong lúc nầy; cô muốn thực hành cái lý tưởng và tấm tranh thêu của cô, nên cô nói: "Theo lời bác nói hồi trưa thì sở đất nầy hồi trước của anh Xuân, bây giờ cô Quyên làm chủ. Nếu anh Xuân muốn đòi lại, tôi chắc cô Quyên sẽ vui lòng mà giao liền, dẫu cô đã nhọc công khai phá cho thành điền. Anh muốn hay không anh Xuân? Như muốn thì năn nỉ với cô Quyên đi"
Cô Quế tưởng nói đùa như vậy tưởng Xuân giận, té ra Xuân cười.
Còn cô Quyên thì cúi mặt có sắc thẹn.
Xuân nói:
- Nếu tôi làm chủ sở đất nầy có lẽ tôi phải thí nghiệm, như được thì tôi lên liếp mà trồng dừa. Ruộng nước mặn lúa hay háp, trồng dừa khỏi sợ thất mà lại có huê lợi nhiều hơn.
Cô Quyên chăm hẳm hỏi:
- Anh chắc trồng dừa lợi hay sao?
- Dừa bây giờ có giá lắm, nên lợi nhiều hơn.
- Người ta nói trồng dừa sợ đuông. Dừa của tía em trồng bên kia thiệt có một hai cây bị đuông ăn.
- Dừa trồng lai rai thì đuông ăn, chớ trồng nhiều mình giữ gìn thì khỏi bị hại.
- Bị ở dưới nầy đường chở chuyên xa quá, nên sợ dừa khô khó bán.
- Phải cái đó một chút. Dừa tự nhiên bán giá nhẹ hơn miệt trên.
Đi giáp vòng rồi ca nô trở về cầu thang. Triều với Quan bơi thuyền đi chơi trong sở đất bên nầy cũng lục thục về tới. Vợ chồng Quan lăng líu khen đất lớn, khen lúa tốt, nhứt là cô Quế tán dương tài làm ruộng của cô Quyên, nói rằng phải có cái cảm tình nồng nàn với điền viên hoặc phải say mê với nhiệm vụ nào đó thì mới làm được như vậy.
Triều hỏi Xuân:
- Sao? Toa coi em Quyên làm việc như vậy được hay không?
- Được lắm, được lắm.
- Toa vị tình nên nói vậy hả?
- Không. Nói thiệt chớ. Moa chắc nội bọn mình đây không ai làm được như em Quyên đâu.
Cô Quế nói với chồng:
- Em muốn có một miếng đất nho nhỏ ở dưới nầy đặng lên xuống chơi với cô Quyên và bắt trước cô Quyên mà làm.
- Làm sao mà có đất được em?
- Mua.
- Ý! Đất mắc lắm.
Cô Quyên nói:
- Không mắc đâu, anh Quan. Để thủng thẳng em hỏi thăm rồi em mua giùm cho vài trăm mẫu.
Trời gần tối. Trong nhà cơm đã dọn sẵn. Bà Tệt sai người ra mời khách ra dùng cơm. Bữa cơm tối có làm heo nên đồ ăn đầy bàn, chủ khách vui vẻ, kẻ nói người cười, tiếng nghe không dứt, Xuân bây giờ cũng hết sụt sè ái ngại nữa, cậu tỏ lời chánh thức khen cô Quyên, khen lại kính, chẳng những kính công phu dày dặn trong cuộc phá rừng cấy lúa mà thôi, mà còn kính tâm hồn siêu phàm tìm thú chân chính mà vui riêng, vui theo hân hoan tinh thần trong lúc loài người áp nhau tranh giành khoái lạc vật chất.
Triều, Quan và cô Quế ngó nhau chúm chím cười. Còn cô Quyên cô nghe lời khen của Xuân cô không ái ngại hay khiêm tốn, trái lại cô ngước mắt ngó ngay Xuân với sắc tự hào, tai lắng nghe, miệng mỉm cười, mà cặp mắt ướt rượt.
Ông Từ Tệt ngồi trên đầu bàn, ông vuốt râu dài le the điểm bạc, sắc mặt vẫn giản dị tự nhiên, không luận đàm, không cãi lẽ. Bữa ăn vừa mãn, ông biểu mọi người cứ ngồi y chỗ để cho tôi tớ dọn dẹp chén dĩa, rồi đem đồ tráng miệng và bưng nước lại đó uống luôn.
Ông nói tề chỉnh làm cho cái không khí ồn ào vui vẻ thành trở ra nghiêm trang an tịnh. Ông mới tằng hắng rồi chậm rãi nói:
- Bữa hổm chú có nói với cháu Xuân rằng chú có thấy một việc nếu làm được thì có lợi lắm. Bữa nay cháu Xuân xuống đây chú nói chuyện ấy cho cháu nghe. Ở vùng Cà Mau nầy đất quốc gia còn hoang vu nhiều lắm. Bên Khánh An dọc theo sông Đốc đất hoang còn mấy chục ngàn mẫu. Nếu mình xin khẩn rồi ra công ra của mà khai phá thì trong vòng năm mười năm là thành sở điền to tát, nuôi được đôi ba ngàn nông dân. Làm việc ấy bây giờ chú có vốn sẵn. Ngặt vì chú đã lớn tuổi rồi, lại chú mắc lo mấy sở điền của chú nên chú không thể làm được. Cháu có sẳn tài học về nghề nông mà cháu lại còn trẻ tuổi chắc cháu làm được. Như cháu định hùn với chú thì chú ra vốn cho cháu làm, chú chịu của, cháu chịu công, mình hiệp nhau mà lập một sở điền cho đúng đắn theo cách văn minh, có máy móc, có kỹ thuật, có cơ quan nuôi tá điền cho đời sống của họ được bớt khó khăn cực khổ, dạy tá điền cho trí thức của học được sáng suốt thông minh. Việc chú tính làm đây, nếu được thành thì mình sẽ có lợi lớn, mà cũng lợi cho nhà nước nữa. Cháu suy nghĩ thử coi chú tính như vậy có được hay không.
Ai nấy tưởng Xuân dụ dự té ra ông Tệt vừa dứt lời thì Xuân hăng hái đáp liền:
- Thưa chú, được lắm, cháu bằng lòng dâng cả học thức, cả nghị lực cả tâm hồn của cháu để phụng sự và tán thành cái kế sách cao quý của chú mới tỏ ra cháu nghe đó.
Ông Tệt gật đầu vừa cười vừa hỏi:
- Cháu mắc làm Bác vật sở canh nông thì thong thả, đâu có lo việc nầy cho được?
- Cháu sẽ bỏ hết. Cháu sẽ từ chức để hiệp với chú mà làm. Cháu thưa thiệt với chú, vì cháu ham giúp ích cho đời nên cháu mới bán đất mà đi học. Cháu học thành tài rồi trở về xứ mấy tháng nay, đem sở học mà giúp dân giúp nước. Chẳng dè điền chủ của mình lãnh đạm với chuyện công ích, nên cháu đã gần như ngã lòng thất chí. Hôm nay cháu được nghe những lời chú nói, cái chí công ích của cháu phấn khởi lại, cũng như bếp lửa gần tắt nhờ chú thêm củi nên cháy bùng lên. Cháu cám ơn chú nhiều lắm. Té ra điền chủ của mình cũng có người biết thương xã hội, biết trọng quốc gia, chớ không phải đều ích kỷ, đều vụ tư dục.
- Cháu chẳng nên phiền trách điền chủ người mình, không phải họ không có lòng công ích. Nếu cháu nói việc phải mà không ai hưởng ứng, chú chắc một phần tại họ không hiểu rõ cái lợi, còn một phần họ dè dặt không dám tin ai nữa. Nếu cháu ráng làm cho thành việc, họ sẽ dòm thấy chỗ hay chỗ lợi mà có nghĩa, tự nhiên họ kính phục rồi cháu muốn bày làm việc công ích nào khác thì họ sẽ hưởng ứng hết thảy.
- Cháu xin vâng. Để cháu trở về Sài Gòn từ chức mà làm liền.
- Khoan! Chú còn muốn nói với cháu một việc khác. Sở đất cháu bán cho chú đó, nay con Quyên đã làm thành điền rồi. Hồi trước chú muốn mua là tại vì chú không muốn để lọt vào tay người khác, mua đặng giữ đó cho cháu. Bây giờ nếu cháu muốn lãnh lại thì cháu biểu con Quyên nó giao cho. Chú còn hai sở đất khác, một sở bên nầy đây, với một sở bên Cổ Cò. Chú có hai đứa con mà thôi. Thằng Triều coi sở Cổ Cò, con Quyên coi sở bên nầy, hay là chúng nó thay đổi với nhau cũng được. Cháu muốn lãnh lại sở đất của cháu không?
Cả nhà nghe lời ông Tệt nói đều cảm xúc. Rúng động cả tâm hồn, Xuân tái mặt, thủng thẳng trả lời: "Thưa chú, chú cao thượng quá! Bạn thiết của ông thân cháu, chú coi cháu cũng như con trong nhà, dạy dỗ không được, nên chú lo về tương lai cho cháu. Ông thân cháu mất, mà chú còn, hạnh phúc của cháu ở chỗ đó. Hôm nay cháu mới hay cháu có hai người cha, một cha sinh thành, một cha bảo bọc, nghĩa hai cha nặng như nhau, ơn hai cha dày như nhau. Chú muốn cháu lãnh lại sở đất của ông thân cháu. Trước khi tỏ ý, cháu xin phép chú thím hỏi em Quyên có vui lòng cho cháu làm như vậy hay không đã. Như em vui thì cháu mới ưng thuận.
Triều với vợ chồng Quan đều nín thở, hổm nay thầm tính lập kế để xoay Xuân về gia đình, mà nghe những câu chuyện nãy giờ thì cảm động quá không dám chen vô một tiếng.
Cô Quyên đứng dậy đáp với Xuân:
- Tía má em định như vậy, thì em vui lòng lắm. Mấy năm nay em lo làm đó là làm giùm cho anh. Song anh phải bỏ chức Bác vật trở về đồng ruộng để dùng tài học mà giáo hoá tá điền, cải cách điền địa thì em mới chịu.
- Cảm ơn em. Qua sẽ trở về đây, về sống với đồng ruộng, vui với thú điền viên, say với công cuộc canh tác nghề nông xứ mình.
Triều vỗ tay la lớn:
- Điền viên vạn tuế!
Xuân nghiêm nét mặt mà nói:
- Cháu xin chú thím vui lòng cho phép cháu cưới em Quyên đặng cháu đền bồi nghĩa nặng tình sâu của em đối với cháu.
Triều với Quan vỗ tay la lớn nữa:
- Gia đình vạn tuế.
Ông Tệt hân hoan ngồi vuốt râu mà cười.
Bà Tệt nói:
- Tôi vui quá. Đám cưới rồi, giao luôn hai sở ruộng Cà Mau cho vợ chồng nó coi. Nó vừa làm vừa lo khẩn đất bên Khánh An thì tiện lắm. Con chịu như vậy hay không Xuân?
Xuân với Quyên đáp một lượt: "Con chịu".
Triều nói:
- Để kiếm mua giùm cho vợ chồng Quan một sở đất dưới nầy đặng gom hết mai lan cúc trước đem về một chỗ mà chung hưởng thú điền viên với nhau.
Xuân hớt nói tiếp:
- Và đặng chung lo một mặt nâng cao kỹ thuật nông nghiệp, một mặt chấn hưng tinh thần, tài bồi nền luân lý cho xã hội Việt Nam.
Cô Quế thêm:
- Và đặng thêu thêm một bầy phụng hoàng để ngày đêm kêu mà chỉ đường hạnh phúc cho thanh niên nam nữ.
Mấy anh em phấn chí vỗ tay la lớn:
Gia đình viên miễn.
Xã hội thăng bình.
Nông nghiệp phú phong.
Quốc gia cường thạnh.
Vĩnh Hội 9 - 1938
11 - 1942
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro