Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

HO Bieu Chanh 1

Ðóa hoa tàn

I - Hồi phát đạt

Chương 1

Nhằm tiết tháng sáu.

Một buổi chiều, bầu trời sơn màu xanh lét, ngọn gió động lá phất phơ, gây ra cái không khí mát mẻ phi thường, làm cho cây cỏ tốt tươi, mà cũng làm cho con người khỏe khoắn.

Trên khúc lộ Vĩnh Long xuống Trà Vinh ngang qua xóm Mê Phốp, là xóm nhà cửa đông đặc, cách chợ Vũng Liêm chừng ba ngàn thước, người đi đường qua lại dập dìu, lại người trong xóm cũng chòm nhom trên lề, kẻ đứng người ngồi mà hứng mát, nên cảnh xem có vẻ náo nhiệt, mà mặt người nào coi cũng có sắc hân hoan.

Cái không khí mát mẻ khỏe khoắn ấy nó làm cho người ta đã vui vẻ mà lại hăng hái về nẻo lợi đường danh, bởi vậy trong nhà thầy Cai tổng Lê Thái Bình, ở dựa lộ, nhằm chánh giữa xóm Mê Phốp, có tiếng nói om sòm xen lộn với tiếng cười inh ỏi.

Nhà nầy cất đã trên mười lăm năm rồi, ngói bị rong rêu đóng nên trỗ màu đen, tường bị nắng mưa táp hoá ra màu xám; nhưng mà nền đúc thật cao, cửa cuốn bán nguyệt, bên tay mặt có cất một cái lẫm[1] lúa rộng lớn, bên tay trái có cất một cái nhà để xe ngựa, phía sau có cất nhà bếp sạch sẽ, phía trước có dọn một cái sân, trong sắp kiểng mấy hàng, ngoài trồng bông đủ thứ, giữa sân lại có trồng một cây huỳnh mai gốc lớn nhánh nhiều, hễ qua tiết xuân nó đơm bông vàng khè, chung quanh cuộc đất[2] lại có trồng dừa bao vòng, làm cho thêm vẻ trù mật, bởi vậy ai đi ngang ngoài lộ dòm thấy cũng biết đó là chỗ ở của một người giàu có.

Thầy Cai tổng Lê Thái Bình mới bốn mươi tám tuổi vóc trung trung, tướng thanh nhã hồi nhỏ thầy cứ học chữ nho, lớn rồi thầy mới học chữ quốc ngữ, còn chữ Pháp thiệt là thầy không biết. Thầy ngồi tại bộ ghế cẩm lai[3] để giữa nhà, thầy cười ngất mà nói lớn rằng: "Hả, hả, con người ta hễ có thời, thì trời khiến gặp cái may như vậy đó. Hôm trước chú Phùng dưới chợ Vũng Liêm chú lên hỏi mà mua lúa của tôi. Chú trả bốn đồng tám cắc một tạ[4]. Tôi nài năm đồng bạc. Chú nói lỗ chú không dám mua. Bữa nay lúa lên giá tới năm đồng rưởi, coi sướng hôn? Phải mà hôm trước tôi bán thì tôi mất tiền nhiều quá".

Hương sư Diệu đi theo xã trưởng Phú đến hầu thầy Cai tổng đặng xin phép xuất công kho tu bổ nhà việc[5] làng, ông ngồi cái ghế trường kỷ để đàng chái, ông nghe thầy Cai tổng nói như vậy, thì ông khen rằng:

- Bẩm thầy, sao thầy biết lúa lên giá, thầy trằn[6] lại, thiệt thầy giỏi quá. Hôm lúa lên bốn đồng tám, nhiều người lật đật bán hết, không dám chờ nữa.

- Không phải giỏi. Làm chủ điền, mình phải biết nhắm thời thế chớ.

- Bẩm thầy, không biết lúa của thầy còn được bao nhiêu?

- Còn nhiều mà. Hôm tháng tư tôi bán đỡ vài ngàn giạ mà đóng thuế, còn bao nhiêu tôi vựa hết lại đó, chưa có bán.

- Nếu vậy thì gặp giá nầy thầy có lợi nhiều lắm.

Bà Cai tổng, tên là Lý Thị Ngọc, trạc chừng bốn mươi lăm tuổi, tánh nết ôn hòa, sắc mặt hiền hậu, bà đương ngồi ăn trầu nơi bộ ván phía bên kia, bà xen vô mà nói rằng: "hôm tháng tư thầy nó lật đật bán hai ngàn giạ lúa, giá có bốn đồng bạc, thiệt uổng quá. Theo giá bây giờ, mất lợi gần một ngàn đồng bạc ".

Thầy Cai tổng cười ngất mà đáp rằng:

- Bà nó tiếc làm chi. Mình làm lớn, mình phải làm gương cho dân sự trong tổng bắt chước chớ. Mình lỗ một hai ngàn đồng mình cũng phải bóp bụng mà chịu, chớ mình trằn lại, mình không đóng, điền chủ khác họ phân bì họ không đóng, rồi cái làng có thuế đâu mà đăng kho.

- Từ ngày thầy nó ra làm quan tới giờ, tôi coi việc nào cũng bị thiệt hại hết thảy. Chớ chi thầy nó đừng có làm tổng thì bây giờ làm giàu biết bao nhiêu.

- Nói như bà nó vậy sao được. Ở đời phải có chút công danh với người ta chớ. Giàu mà đi đến đâu thiên hạ họ khinh khi, thì giàu làm gì.

- Tôi tưởng ở đời hễ vô sự thì vô lự, tranh đua lắm càng mệt trí, chớ không ích gì.

- Ở thế gian, ai cũng vậy, không ham danh thì cũng ham lợi; nếu không ham thứ nào hết, thôi thì đi tu cho rồi, chớ ở thế gian sao được.

- Danh lợi ai mà không ham, tiếc vì cầu danh mà phải tốn hao nhiều quá, tôi mới nói chớ.

- Muốn có danh với người ta thì phải tốn hao chút đỉnh chớ sao.

- Danh cũng có nhiều thứ. Có thứ danh khỏi phải tốn hao gì hết.

- Danh gì vậy? Phải danh hà tiện hay không?

- Mình lấy nhơn nghĩa mình đối đãi với mọi người, tự nhiên thiên hạ họ kính trọng mình, cần gì phải cầu cái danh nào khác.

- Nhơn nghĩa thì tự nhiên mình phải làm chớ sao. Mà mình làm nhơn nghĩa thì bất quá người ta khen mình là người tử tế, chớ có ai kính phục. Làm người phải có phẩm cao tước lớn mới có danh chớ.

- Tại thầy nó hiểu cái danh như vậy đó nên thuở nay mới tốn hao không biết mấy muôn mà kể! Thiên hạ họ bẩm dạ mà có ích gì? Họ làm bộ trước mặt, rồi sau lưng họ khinh khi mình có hay đâu. Theo ý tôi cái danh người biết nhơn nghĩa đó là quí rồi, đòi danh cao chức lớn hao tốn quá chẳng ích gì.

Hương sư Diêu thấy vợ chồng thầy Cai tổng không đồng ý kiến, sợ để hai ông bà cãi lẽ dài rồi sanh mích lòng, nên ông xen vô mà hỏi rằng:

- Bẩm thầy, bữa nay lúa lên giá như vậy đó, không biết thầy nhứt định bán hay chưa?

- Để rồi tính lại coi. Nếu bán, sợ trong vài bữa giá lên cao hơn nữa, thì tức.

- Bẩm, giá năm đồng rưởi cũng là cao quá rồi.

Thầy Cai tổng ngồi suy nghĩ một hồi rồi day qua hỏi vợ rằng:

- Bà nó muốn bán hay chưa? Như muốn bán thì biểu bày trẻ đạp xe máy xuống chành[7] Vũng Liêm kêu nó lên mà tính giá cả.

- Thầy nó nhứt định lấy chớ?

- Bà nó tính coi lúa mình còn được hết thảy là bao nhiêu hay không?

- Con Ba nó có biên sổ, để hỏi nó coi, chớ tôi có nhớ đâu. Ba à, con ra đây cho thầy con hỏi một chút, con.

Nghe có tiếng dạ rất dịu dàng ở phía trong, rồi một người mỹ nữ, chừng mười tám mười chín tuổi, thủng thẳng bước ra, mình mặc một bộ đồ lụa trắng, chơn mang một đôi dép da đen, môi đỏ như thoa son, da trắng như giồi phấn, mặt sáng rỡ như hoa nở, tóc láng mướt như huyền giồi[8]. Ấy là cô Túy Nga, con gái của thầy Cai tổng Bình.

Cô Túy Nga chúm chím cười, miệng lại càng có duyên, mặt lại càng tốt tươi thêm nữa. Cô thấy có khách nên cúi đầu mà chào, rồi hỏi bà Cai tổng rằng: "thưa, má kêu con có chuyện chi?"

Bà Cai tổng đáp rằng: "thầy con hỏi lúa trong lẫm bây giờ còn hết thảy là bao nhiêu. Con biết hay không?"

Cô Túy Nga đương tươi cười, mà nghe hỏi như vậy, thì cô liền nghiêm sắc mặt, coi ra cô có vẻ tề chỉnh hòa hưỡn[9] vô cùng. Cô thủng thẳng đáp rằng:

- Con nhớ còn mười bốn ngàn mấy trăm giạ, số lẽ con không nhớ. Sổ lúa con đưa cho anh Hai con cất. Để con vô hỏi anh Hai con coi.

- Anh Hai con làm giống gì ở trỏng?

- Anh Hai con nằm trên võng giỡn chơi với cháu Càng, chớ có làm chi đâu.

- Con biểu nó đưa sổ lúa coi. Cô Túy Nga trở vô buồng, tướng đi coi rất dịu dàng thanh nhã.

Hương sư Diêu hỏi thầy Cai tổng rằng:

- Bẩm thầy, cô Ba thi đậu bằng cấp rồi, thầy không tính cho cô học thêm nữa sao?

- Thôi, con gái học cho biết lễ nghĩa ở đời vậy thôi. Nó cũng lớn rồi, nên mẹ nó không cho nó học nữa.

- Bẩm thầy có tính làm sui chỗ nào chưa?

- Có ông bá hộ Thiện trên Vĩnh Long gấm ghé xưa rày, ông nói chuyện muốn làm sui với tôi hai ba lần rồi, mà tôi nghe cậu nhỏ đó xài tiền dữ lắm, nên tôi còn dục dặc. Để thủng thẳng coi, không gấp gì.

- Bẩm, thầy làm sui với ông bá hộ trên châu thành[10] thì xứng lắm.

- Ai cũng nói như vậy hết, mà bà nó ý không muốn.

Một người trai trạc chừng hai mươi lăm tuổi, ở trong buồng bước ra, sau lưng có cô Túy Nga đi theo, cô bồng đứa cháu trai mới hai tuổi. Người trai ấy tên là Lê Thái Hòa, con trưởng nam của thầy Cai tổng, có vợ rồi và có một đứa con trai mới biết đi lững chững đặt tên là Càng.

Cô Túy Nga bồng cháu Càng lại ngồi trên bộ ván với bà Cai tổng, còn cậu Thái Hòa thì thẳng lại bàn viết, lấy một cuốn sổ giở ra coi rồi nói rằng: "Thưa, lúa mình thâu góp cộng chung hết thảy là mười sáu ngàn bốn trăm năm mươi ba giạ. Hôm tháng tư bán hết hai ngàn giạ, thì còn lại trong lẫm mười bốn ngàn bốn trăm năm mươi ba giạ".

Hương sư Diêu nói rằng: "Lúa của thầy còn nhiều quá. Theo giá nầy bán có hai mươi mấy ngàn đồng bạc".

Thầy Cai tổng cười và đáp rằng: "Nhờ bà nó mua lúa chịu, nên góp mới tới số đó, chớ lúa ruộng đâu có nhiều dữ vậy. Mà còn có mười bốn ngàn giạ, có phải là nhiều đâu. Bề nào cũng phải để nhịn lại vài ngàn giạ cho tá điền ăn. Còn trong số bán thì cũng có việc xài, chớ để dành sao được..."

Thầy nói tới đó, kế dòm ra ngoài cửa ngõ thấy có người biện của thầy, là Nguyễn Hải Yến, đương xâm xâm đi vô với người con trai, là Nguyễn Hải Đường, hai mươi mốt tuổi, học trên Sài Gòn, mới thi đậu bằng Tú tài khoa nầy. Thầy Cai tổng bèn cười mà nói rằng: "Chú biện Yến đi rước con chú về kia. Con chú thi đậu tú tài kỳ nhì, chú mừng quá, nên lên Vĩnh Long đón rước, không đợi nó về. Con nhà nghèo mà nó học thành danh như vậy thiệt là đáng khen lắm chớ".

Cả nhà ai nấy đều ngó ra sân. Cô Túy Nga ngồi trên ván, tay vịn cháu, mà cô cũng ngóng dòm.

Cha con biện Yến bước vô cửa và cúi đầu chào vợ chồng thầy Cai tổng.

Thầy Cai tổng vụt nói: "Thầy mừng cho cháu... Giỏi đa".

Biện Yến chận mà nói lớn rằng: "Bẩm thầy, thầy được thăng chức rồi. Có giấy của quan trên lại tới hồi sớm mơi".

Thầy Cai tổng chưng hửng, nửa mừng nửa nghi, thầy đứng dậy ngó sửng biện Yến mà hỏi rằng:

- Sao chú biết, ai nói với chú?

- Bẩm, hồi sớm mới lên tới Vĩnh Long tôi đi thẳng vô toà bố. Tôi gặp thầy năm thầy cho tôi hay. Thầy nói giấy mới lại tới hồi chiều hôm qua. Sớm mơi nầy quan lớn dạy gởi giấy xuống cho quan Chủ quận. Có lẽ sáng mai mình được trát.

- Thiệt như vậy sao?

- Bẩm thiệt. Tôi nghe thầy năm nói tôi mừng quýnh. Tôi ra bến xe đón thằng nhỏ tôi rồi tôi đi riết về đây cho thầy hay, tôi chưa kịp về nhà.

- Kỳ hầu lệ tháng trước quan lớn hứa xin thăng chức cho tôi. Tôi tưởng ngài lôi thôi, té ra có thật chớ.

Hương sư Diêu với xã trưởng Phú bước lại chúc mừng thầy. Hương sư Diêu nói: "Thầy lãnh chức Cai tổng mấy năm nay thiệt cực nhọc hết sức. Quan trên thăng thưởng thì xứng đáng không biết chừng nào. Hai bà con tôi nghe tin thiệt là mừng quá, mà hương chức mấy làng họ hay đây chắc ai cũng vui mừng hết thảy".

Ông Cai tổng mới chúm chím cười và nói rằng: "Tôi làm tổng mới có chín năm, mà năm ngoái lên hạng nhứt, hôm Tết được mề đay[11], rồi bây giờ được thăng chức nữa. Được như vậy thiệt tôi cũng vui lòng, bởi vì có nhiều ông Tổng khác, người thì hai mươi tám năm công nghiệp, người thì hai mươi lăm năm, mà họ Tổng cũng còn tổng hoài, coi buồn quá. Ở đời ai có số mạng nấy, nên tôi đi mới mau như vậy"

Biện Yến đi lại bàn đứng rót nước trà mà uống, còn Tú tài Hải Đường thì lại gần bàn viết ngồi nói chuyện với cậu hai Thái Hòa.

Biện Yến vừa bưng chén nước và nói rằng:

- Bẩm, thầy làm trong ít năm nữa đây rồi sẽ được ban khen nữa.

- Thôi, có chút đỉnh với người ta thì đủ rồi, trông mong cao quá làm chi.

- Bẩm, được chớ. Có nhiều ông Cai tổng lên tới chức cao lận chớ.

- Chú khéo bày chuyện cho bà nó thêm ghét. Tôi làm Cai tổng mà bà nó còn cằn nhằn hoài. Tôi thăng chức đây chắc là không vui rồi.

Bà Bình mới ngồi ăn trầu xỉa thuốc, bà nghe chồng nói tới bà thì bà cười mà đáp rằng:

- Nói chuyện lợi hại mà nghe, chớ cằn nhằn giống gì. Còn ông nó được lên chức, sao tôi lại không vui. Tôi than thở, là vì tôi lo hễ cao sang chừng nào càng tốn hao chừng nấy. Tôi lo là lo chỗ đó chớ.

- Ở đời nếu mình muốn có chút danh vọng với người ta, thì tự nhiên phải tốn hao chút đỉnh chớ sao.

- Sợ tốn nhiều, chớ chút đỉnh mà nói làm chi.

- Bà nó đừng có lo mà.

- Không lo sao được. Có khách mà đem chuyện nhà ra nói, thì coi cũng kỳ. Song ông Hương sư với chú biện đây cũng như bà con trong nhà, để tôi nói hết cho mà nghe. Hồi trước ông nó ra tranh chức Cai tổng, tôi can gián hết sức không được. Ông nó tranh được chức Cai tổng rồi phải đền ơn đầu nầy, phải đáp nghĩa đầu kia, phải làm tiệc ăn mừng, phải đãi đằng hương chức, tôi tính ra tốn hao hết thảy trên ba chục ngàn đồng bạc, chớ phải ít ỏi gì sao. Nợ tới bây giờ mà trả cũng chưa dứt. Nếu hồi trước đừng thèm tranh chức Cai tổng thì mấy năm nay khỏe biết chừng nào. Bây giờ còn bày lên chức, đố khỏi mắc nợ lại nữa cho mà coi.

- Bà nó đừng có lo. Lúa có giá mà sợ nỗi gì. Nếu muốn cho người ta kêu bằng "ông", thì phải vậy chớ sao.

- "Ông" rồi chém giết gì ai hay sao mà ham. Tôi tưởng ở đời mình có đủ tiền xài, khỏi mắc nợ mắc nần, khỏi cực lòng cực trí, thấy việc quấy mình tránh, gặp việc phải mình làm, được như vậy thì sung sướng hơn ông gì hết thảy.

Hương sư Diêu cười mà nói rằng: "Bẩm bà, bà không chịu se sua nên bà nói như vậy, chớ thiên hạ ai cũng muốn chức phận hết, dầu tốn mấy muôn họ cũng chịu, mà họ muốn không được, chớ phải chơi sao. Thầy được như vầy thì là có phước hết sức, dầu tốn hao chút đỉnh có hại gì".

Ông Lê Thái Bình nói rằng: "Tốn thì tốn chớ sợ gì. Để tôi xuống cám ơn quan Chủ quận và cậy ngài dắt lên cám ơn quan lớn Chánh. Sẵn dịp đi Vũng Liêm tôi hỏi dọ giá lúa luôn thể"

Biện Yến chen vô nói rằng: "Thế nào thầy cũng phải làm một tiệc cho long trọng coi mới được".

Ông Bình gật đầu đáp rằng:

- Chớ sao. Tự nhiên mình phải làm tiệc long trọng cho xứng đáng mới được chớ. Phải mời các quan Tây quan Nam trong tỉnh cho đủ, mời hết các Cai, Phó tổng, Ban biện, Hội đồng, Thông ngôn, Ký lục, thầy giáo, điền chủ.

- Bẩm, có lẽ cũng phải mời Hương chức các làng phần tổng mình nữa chớ.

- Ừ, phải mời đủ các làng chớ. Tiệc đãi sợ tới ba bốn trăm người. Có lẽ phải chia mà đãi hai ba ngày mới tiện.

Cậu hai Thái Hòa hỏi:

- Bẩm thầy, thầy tính đãi tiệc mà đặt cho khách trú[12] nấu, hay để ở nhà làm?

- Úy! Tiệc lớn mà ở nhà nấu sao đựơc. Mà đặt cho khách trú nấu cũng không ra gì. Hễ làm thì phải làm cho hẳn hòi, chớ làm quẹt lọ sao được. Hồi ông Kim ăn tiệc mừng ổng đặt cho nhà hàng trên Sài Gòn nấu đồ Tây mà đãi. Mình cũng phải làm như vậy, nếu không hơn thì cũng phải làm cho bằng ổng, chớ lẽ nào mình lại thua ổng.

- Đặt cho nhà hàng Sài Gòn nấu sợ tốn hao nhiều lắm.

- Nghe nói mỗi người ăn, giá chừng mười lăm đồng bạc, có rẻ lắm cũng phải mười hai đồng bạc.

- Cha chả! Nếu vậy thì đãi bốn trăm người, phải tốn tới năm sáu ngàn đồng bạc!

- Chớ sao, con! Tốn thì tốn, mình phải làm cho đúng coi mới được chớ.

Bà nói rằng: "Nếu đãi đồ Tây giá mắc như vậy, thôi thì mình chia ra đãi hai cách. Khách thường như hương chức với điền chủ nhỏ nhỏ thì mình đãi đồ Nam, hoặc đồ Quảng Đông, còn khách quí thì mình đãi đồ Tây, đuợc hôn?"

Ông Bình trề môi lắc đầu đáp rằng: "Ông Kim ổng làm như vậy đó, coi không được. Làm như vậy thành ra kẻ khinh người trọng. Phải đãi đồ Tây hết thảy, tốn bao nhiêu thì tốn chớ. Làm cho đúng lấy tiếng chơi. Chừng đó tôi sẽ đặt cho thợ trên Vĩnh Long làm năm trăm đồng bạc pháo bông đặng đốt cho thiên hạ xem; có lẽ tôi biểu rước hát Tiều hoặc hát bộ nó hát ít đêm cho dân sự coi chơi nữa".

Bà ngồi buồn hiu.

Ông Bình tiếp rằng: "Đây rồi còn phải mua một cái xe hơi, chớ còn đi xe đò nữa thì coi sao đuợc. Có lẽ qua sang năm cũng phải cất nhà lại nữa chớ".

Bà cũng ngồi lặng thinh hoài.

Biện Yến nói rằng: "Tôi mừng quá nên lật đật ghé báo tin cho ông hay, tôi chưa về nhà. Xin phép ông bà đặng dắt thằng nhỏ tôi về cho mẹ nó mừng".

Ông Bình gật đầu nói: "Ừ, thôi về đi kẻo thím biện thím trông. Còn Tú tài, thầy khen cháu lung lắm đa. Thôi, ở nhà nghỉ ít ngày rồi kiếm việc mà làm đặng giúp đỡ cho cha mẹ. Cháu ở nhà có buồn thì lại đàng nầy nói chuyện chơi".

Hải Đường dạ rồi cúi đầu từ giã mỗi người. Khi chàng lại mà từ giã bà Bình thì bà ngó chàng trân trân. Cô Túy Nga ngồi một bên bà, cô cũng ngó mà miệng lại cười chúm chím.

Chừng cha con biện Yến ra khỏi cửa, bà nói rằng: "Vợ chồng chú biện Yến nghèo mà có một đứa con đáng quá. Tướng Tú tài đó có thế nào mà hư được. Vậy đó là có phước".

Hương sư Diêu với xã trưởng Phú cũng từ giã mà về. Hai người vừa ra tới sân thì thấy có một cái xe hơi ngừng ngoài lộ. Ông Bình ngó ra và nói rằng: "Xe của quan chủ Quận. Có bà đi với ông nữa. Chắc ngài được giấy rồi, nên hai ông bà lên mừng mình chớ gì".

Thiệt quả quan chủ Quận với bà xuống xe rồi dắt nhau vô cửa ngõ.

Vợ chồng ông Bình không dám sái lễ tôn ty, nên ra sân mà tiếp rước.

Quan chủ Quận vừa thấy ông Bình thì ngài nói rằng: "Mừng ông! Tôi mới tiếp được giấy của quan lớn Chánh cho hay ông được thăng chức, nên lật đật chạy lên mừng cho ông".

Ông Bình vừa cười vừa nói: "Cám ơn ông, biện của tôi đi Vĩnh Long, nó nghe nói, nó mới ghé cho tôi hay đây. Tôi tính để tối sẽ xuống tạ ơn ông, tôi chưa đi, mà ông lên trước, thiệt tôi lỗi quá".

Bà Bình tiếp mời bà Quận vô nhà.

Quan chủ Quận vịn vai ông Bình mà bước lên thềm, vừa cười và nói rằng: "Tôi làm gắt lắm, nên mới được đó. Ông khoái chí chưa?"

Ông Bình cười và đáp rằng: "Cám ơn ngài lung quá".

Chương 2

Chú biện Nguyễn Hải Yến ở một cái nhà lá nhỏ hai căn xông[1], cột dầu, vách ván, dựa đầu cầu Mê Phốp, nhà tuy chón hón[2], song trong ngoài dọn dẹp đều vén khéo sạch sẽ. Trước cửa có đắp một cái sàn[3] cũng nhỏ, mà có trồng ớt, cà, rau sống đủ thứ, lại đường vô nhà có trồng cây tây hai hàng, cây đơm lá đủ màu nên coi rất đẹp mắt.

Trời chạng vạng tối. Tú tài Hải Đường bưng một cây đèn tạ đăng đem để trên bàn rồi lấy một cuốn sách lại ngồi gần đèn mà coi.

Vợ chồng biện Yến nằm tại bộ ván ngang đó mà chơi, liếc mắt ngó con tướng mạo ôn hòa, mặt mày sáng sủa, trán rộng, môi dày, mắt lớn, mày rậm, lại nhớ con đã thi đậu Tú tài đủ hai khoa rồi, đậu với lời khen của hội khảo thi cho là "thiệt giỏi", thì chồng hân hoan đắc chí, vợ khoan khoái vui lòng, tuy nằm trong cái nhà nhỏ sơ sài, song bụng chứa chan hạnh phúc.

Cách một hồi một tên tùng giả bước vô nói cô Ba con ông Bình, sai mời chú biện lại cho cô nói chuyện.

Biện Yến biểu tùng giả về trước rồi mình sẽ theo sau, lại biểu Hải Đường dẹp sách mà đi lại nhà ông Bình chơi một chút.

Vợ biện Yến hỏi chồng rằng:

- Nghe nói ông Bình đã đi Sài Gòn mà, phải hôn?

- Ông, bà với cậu hai đi Sài Gòn hồi sớm mơi, đi mua xe hơi.

- Nếu cậu hai đi nữa, thì còn có mợ Hai với cô Ba ở nhà, hai người sợ nên kêu mình lại ngủ coi nhà dùm chớ gì.

- Bạn bè đầy nhà, thiếu gì người ta. Lại điếm nào dám kéo đến nhà ông mà sợ.

- Biết chừng đâu.

Cha con biện Yến bước vô nhà ông Bình thì thấy đèn măng-song[4] đốt hai cái phía truớc sáng lòa, mợ hai Thái Hòa đương nằm trên một bộ ván với con mà quạt cho con ngủ, còn cô ba Túy Nga thì ngồi dựa bên cây đèn mà thêu khăn. Hai chị em chào rồi mời hai cha con biện Yến ngồi, kêu đứa ở biểu nấu nước chế trà uống chơi.

Cô Túy Nga ngó biện Yến vừa cười vừa nói rằng:

- Hồi sớm mơi, trước khi ra đi, thầy tôi có dặn mượn chú ngủ coi nhà giùm một đêm, mà ngày nay tôi quên nói với chú. Nhà có người ở đông, song họ ngủ nhà sau, còn phía trước không có ai nên hai chị em tôi sợ. Vậy xin chú ngủ giùm một đêm, chắc mai thầy má tôi mới về.

- Ông bà đi mua xe hơi mà mai về sao kịp. Lên tới Sài Gòn phải đi lại mấy hãng mà lựa xe rồi chạy thử. Như chịu mua thì trả giá cả cho xong rồi phải vẽ số, phải làm giấy phép. Tôi sợ ba ngày cũng chưa rồi.

- Mấy ngày cũng vậy, chú cũng phải coi nhà giùm cho tới chừng nào thầy tôi về, chớ biết làm sao.

- Cô với mợ Hai biểu, thì tôi phải vưng, coi nhà bao lâu cũng được. Ông bà với cậu Hai đi khỏi tự nhiên ở nhà tôi phải lo chớ, bởi vậy hồi chiều tôi có dặn thầy Hương quản ban đêm phải cho dân đi tuần khúc nầy cho thường.

- Không biết mua một cái xe hơi mới giá chừng bao nhiêu?

- Cái đó không có chừng. Họ nói giá mắc rẻ tùy theo hiệu xe, có thứ hai ngàn mấy, có thứ ba ngàn mấy, có thứ bốn năm ngàn, có thứ tới chín mười ngàn.

- Thầy tôi nói lắm nên má tôi mới chịu đi đó, chớ thiệt ý má tôi không muốn sắm xe hơi chút nào hết. Không biết thầy tôi lên trển rồi mua xe thứ nào.

- Hôm qua ông có nói chuyện với tôi, ý ông muốn mua xe chừng bốn ngàn, hoặc bốn ngàn rưởi.

Mợ hai Thái Hòa nói: „Ý thầy tôi thì muốn sắm xe cho thiệt tốt, còn ý ở nhà tôi thì không chịu xe nhiều tiền, tính lên trển đốc thầy tôi mua xe chừng vài ngàn thôi".

Biện Yến cười và nói: „Ý cậu Hai ít chịu se sua, bởi vậy cậu là con nhà giàu mà ai cũng kính mến cậu hết thảy".

Cô Túy Nga nói rằng:

- Anh Hai tôi giống ý má tôi, má tôi cực chẳng đã phải đi đó, chớ vái hãng đừng còn chiếc xe nào hết, cho thầy tôi mua đừng được. Hổm nay má tôi than thở hoài, nói thầy tôi lên chức, phải đền ơn đáp nghĩa, đãi đằng thiên hạ, tốn hao nhiều quá, rồi còn mua xe hơi nữa, chịu sao nổi.

- Ông thăng chức sang trọng biết chừng nào, phải sắm xe hơi đi coi mới được chớ. Còn đãi tiệc tốn hao nhiều thiệt, nhưng mà ông làm đúng quá, thiên hạ ai cũng ngợi khen hết thảy, bởi vậy tốn hao cũng không mất đi đâu. Mợ Hai với cô Ba nghĩ coi, thuở nay có ai ăn lễ mừng mà làm long trọng được như vậy hay không. Đãi gần bốn trăm khách, đãi đồ Tây hết thảy, mướn nhà hàng Tây trên Sài Gòn xuống nấu, mỗi người khách nhà hàng tính giá muời ba đồng bạc. Hương chức đều ăn cơm Tây hết thảy cũng như các quan, thiệt đúng quá. Hổm nay tôi gặp Hương chức làng nào họ cũng phục lắm. Đã vậy mà còn đốt pháo bông cho nhơn dân coi chơi trót một giờ đồng hồ, còn hát bộ, hát Tiều ba đêm, thiên hạ mê lắm.

- Làm thì đúng thiệt, ngặt tốn tiền nhiều lắm chớ.

- Không biết hổm nay ông bà có tính thử coi nội cuộc tốn chừng bao nhiêu?

- Má tôi tính tiền nầy tiền nọ xê xích một muôn lận, chớ phải ít ỏi gì.

- Tốn một muôn mà đáng lắm chớ. Tốn tiền mà được danh tiếng, chẳng hơn có nhiều người họ chơi tầm bậy mà cũng tốn một hai muôn đó sao.

- Thầy tôi thì ưa danh tiếng, làm việc gì cũng muốn được người ta khen. Còn má tôi thì không chịu se sua, nên hổm nay cằn nhằn hoài.

- Tôi tưởng nếu không có tiền thì thôi, chớ có tiền cũng nên làm cho có danh tiếng chơi chớ.

- Má tôi nói lúc mình có quyền thế hơn, có tiền bạc nhiều, mình làm việc gì họ cũng khen hết thảy, dầu làm bậy họ cũng cho là phải. Đến chừng mình suy sụp, yếu thế hết tiền rồi, họ đã không khen nữa, mà sợ e họ lại khinh khi mình chớ.

Biện Yến ngồi suy nghĩ mà nói rằng: „Bà nghĩ xa như vậy cũng phải. Thiệt thế tình thường có như vậy".

Mợ Hai Thái Hòa thấy con ngủ mê, bèn bồng đem vô buồng.

Cô Túy Nga đứng dậy rót nước trà mà mời biện Yến với Hải Đường uống.

Trên đầu xóm có tiếng chó sủa om sòm. Ngoài lộ dân đi tuần nhịp sanh lắc cắc.

Cô Túy Nga ngồi thêu, nước da trong bóng, gò má ửng hồng, miệng như hoa bán khai, mày như nguyệt mới rạng, hình vóc đề đạm, cặp mắt hiền từ, tay lần rút chỉ thêu, bàn tay đã dịu mà ngón lại dài, cườm tay tròn vo, phao tay ửng đỏ. Cô mặc một cái áo bà ba màu bông hường giợt, ánh đèn măng-song giọi vào áo, rồi áo giọi lại mặt cô, làm cho sắc cô càng thêm tươi, duyên cô càng thêm đẹp.

Tú tài Hải Đường từ nhỏ chí lớn ở gần cô Túy Nga, thường hay gặp cô, song có đêm nay mới có dịp ngồi ngó kỹ như vầy. Chàng ngó một hồi rồi nghe trong lòng khó chịu, nên day mặt ngó chỗ khác, tính không ngó cô nữa. Trí chàng quyết như vậy mà lòng lại không muốn như vậy, nên ngó quanh ngó quất rồi cặp mắt như bị đá nam châm hút, thế nào cũng phải ngó lại cô Túy Nga; mà hễ ngó cô thì lại gặp cô cũng ngó chàng, làm chàng sượng sùng ngần ngại hết sức. Chàng muốn đi về đặng tránh cái cảnh vừa vui vẻ vừa khó chịu ấy, song chàng không biết phải nói tiếng chi mà đi về, lại cũng không nỡ bỏ cái cảnh mới thấy lần đầu, mà thấy một cách khỏe khoắn tiêu diêu quá.

Hải Đường đương ngần ngại, thình lình cô Túy Nga cất tiếng hỏi rằng: „Anh Tú học trên Sài Gòn có lẽ anh biết cậu Từ Đăng Cao là con của ông bá hộ Thiện ở trên Vĩnh Long chớ?"

Hải Đường bợ ngợ nên ú ớ đáp rằng:

- Từ Đăng Cao... Con của ông bá hộ Thiện... Tôi biết.

- Nghe nói cậu đó cũng thi Tú tài kỳ nầy mà.

- Cậu học dưới tôi một lớp. Cậu ở nhà ngoài mà đi học, chớ không có ở trong truờng. Phải, nghe nói kỳ thi nầy có cậu thi, mà cậu mới thi phần thứ nhứt.

- Rớt hay đậu?

- Tôi nghe dường như cậu rớt thì phải.

Biện Yến chen vô hỏi cô rằng:

- Cậu Đăng Cao tôi biết rồi. Hôm ông đãi tiệc, vợ chồng ông bá hộ Thiện xuống dự tiệc có dắt theo một cậu chừng hai mươi tuổi, chắc là cậu đó chớ gì, phải hôn cô Ba?

- Phải, cậu đó đa.

- Sao cô biết cậu đó mà hỏi thăm?

- Hôm xuống ăn tiệc đó bà bá hộ có kêu vô nhà trong mà chào má tôi.

- Cha chả, ý bà bá hộ muốn làm sui với bà ở nhà đây rồi chớ gì.

Cô Túy Nga châu mày, chăm chỉ ngồi thêu, cô không trả lời.

Biện Yến thấy vậy bèn nói tiếp rằng: „Ông bà ở nhà đây làm sui với ông bá hộ trên Châu thành thì xứng lắm. Ổng thiệt là sang trọng quyền thế. Quan lớn Chánh yêu ông hết sức, đi đâu cũng dắt ổng theo, ổng nói giống gì quan Chánh cũng nghe hết thảy, bởi vậy ổng muốn ai sống thì sống, muốn ai chết thì chết. Đã vậy mà họ nói ổng giàu lắm, có mua ruộng miệt Bạc Liêu nhiều, mà lại còn cho vay cũng nhiều nữa. Nói lén đây mà nghe quan Chủ quận của mình đây thua quan Chủ quận Châu thành xa lắm, bởi vậy nếu ông ở nhà làm sui với ông ở Châu thành thì đúng rồi có kém bao nhiêu đâu".

Cô Túy Nga ngó Hải Đường, miệng chúm chím cười, rồi ngó biện Yến mà nói rằng:

- Chú tưởng quyền tước lớn, tiền bạc nhiều, vậy là đúng, không có cái gì hơn được hay sao? Quyền tước lớn mà không biết cứu vớt ai, tiền bạc nhiều mà không chịu giúp đỡ ai, thì quyền với tiền đó có ích gì đâu? Ở đời sang hay hèn, nghèo hay là giàu, không có chi là chắc chắn hết. Vậy chớ chú không nghe nói ông Hội đồng Kế với ông Cả Huynh đó sao? Họ nói ông Hội đồng Kế hồi trước ổng giàu sang trong xứ mình không ai dám bì, mà bây giờ ổng suy sụp đến nỗi không có nhà mà ở, đi theo bọn bài bạc bữa đói bữa no. Còn họ nói ông Cả Huynh hồi nhỏ ổng ở đợ giữ trâu, mà bây giờ ổng giàu có, ai cũng phải vay bạc của ổng hết thảy, ổng đi tới đâu ổng cũng ăn trên ngồi trước, coi sang trọng quá. Ấy vậy mình chẳng nên thấy giàu sang mà ham, còn thấy nghèo hèn mà phụ. Theo ý tôi, cưới vợ lấy chồng phải vì tình vì nghĩa, chớ không nên vì quyền thế, vì bạc tiền. Nếu cưới gả mà không chủ tâm về tình nghĩa, lại chủ tâm về bạc tiền thì cái đạo vợ chồng thấp thối quá. Tôi nói như vậy đó, anh Tú nghĩ coi có phải không, anh Tú?

Hải Đường ngó dạng cô ngồi, nghe tiếng cô nói, hiểu ý cô luận, thì mê mẩn, nửa tỉnh nửa say; thình lình nghe cô hỏi, thì chàng giựt mình lúng túng, nên đáp rằng:

- Thuở nay tôi mắc lo học, không để ý tới việc vợ chồng, nên tôi không hiểu. Mà cô Ba luận như vậy thì phải lắm chớ.

Biện Yến giành nói nữa rằng:

- Cô Ba còn nhỏ, mà cô luận việc đời nghe hơi như người lớn tuổi vậy. Đời nầy mà nói tình nghĩa làm chi nữa cô Ba. Hễ có bạc cho nhiều, thì thiên hạ kính phục, không cần tình nghĩa gì hết.

- Thiệt, đời khốn nạn lắm, ai cũng lo tranh danh đoạt lợi. Mà có lẽ cũng còn một số người biết trọng tình nghĩa chớ.

- Số ấy ít lắm. Mà dầu có ai nói chuyện nhơn nghĩa tôi sợ e họ mượn danh nhơn nghĩa đặng cầu danh cầu lợi chớ trong bụng họ cũng không có nhân nghĩa thiệt đâu.

- Nói như chú vậy thì đời nầy hoá ra dã man rồi! Thế thì nên đi tu cho rồi, chớ ở chung lộn với thế gian như vậy làm chi.

- Không, thiên hạ văn minh tấn bộ lắm chớ, văn minh theo vật chất, tấn bộ về lợi danh.

Cô Túy Nga ngồi trầm ngâm một hồi rồi cô thở dài mà than rằng:

- Đời thiệt là khổ, mà nhứt là đời của một con gái!

Biện Yến ngó cô mà bảo rằng:

- Sao cô lại than như vậy? Phận cô thì sung sướng đệ nhứt rồi. Ông bà là bực giàu có sang trọng. Một vài năm nữa đây cô lấy chồng chắc cũng ở trong hạng thượng lưu. Đời của cô rực rỡ đã thấy mòi rồi, có sao đâu mà cô buồn.

- Đường đời của tôi, ở xa mà ngó thì thấy bông hoa chớn chở; mà tôi sợ chừng bước chơn vào đó rồi chông gai dẫy đầy, đó chú...

- Cô còn nhỏ tuổi, cô không nên chán đời như vậy, cô Ba. Phải hăng hái mà đi tới, đặng nếu rủi gặp chông gai, cô mới có đủ nghị lực mà bước khỏi chớ.

- Tại chú mở việc vợ chồng mà nói, nên tôi phải trả lời với chú, chớ tôi có chán đời đâu.

- Cô than thở như vậy mà cô nói cô không chán đời, hay là cô chê con của ông bá hộ Thiện trên Châu Thành?

Cô Túy Nga lặng thinh, mà sắc mặt cô buồn hiu. Cách một lát cô mới đáp rằng:

- Làm thân con gái Việt Nam mình bị cái chế độ gia pháp bó buộc, nhứt là về duyên phận trăm năm thì mình không được tự do chút nào hết. Gả nơi nào tự cha mẹ định, mình có phép chê khen ai đâu.

- Xin lỗi cô, không biết vợ chồng ông Thiện đã có cậy mai mối nói mà xin làm sui với ông hay chưa?

- Việc đó tôi không hiểu. Song tôi lóng nghe thì in như ổng đã có nói chuyện với thầy tôi. Còn hôm đãi tiệc, bà Thiện có dắt cậu Đăng Cao xuống đó là có ý muốn cho thầy má tôi thấy cậu và cho cậu coi mắt tôi luôn thể.

- Nếu vậy, thì chắc ông bà chịu làm sui rồi nên mới cho coi đó chớ.

- Tôi không hiểu, song tôi nghe thầy tôi nói làm sui chỗ đó xứng đáng lắm.

- Ông nói như vậy thì phải lắm. Không biết ý bà với cậu Hai thế nào?

- Anh Hai tôi ảnh chim bỉm[5] hoài, ảnh có nói cho đâu mà biết. Còn má tôi thì không muốn.

- Còn theo ý cô thế nào?

- Tôi đã có nói, tôi đâu có quyền chọn lựa. Nếu tôi đuợc tự do thì nói gì...

- Duyên nợ là việc trăm năm của cô, nếu cô có điều chi không vừa ý thì cô phải thưa lại với ông đặng cho ông bà liệu định chớ.

Cô Túy Nga châu mày rồi liếc mắt ngó Hải Đường mà đáp rằng: „Khó nói lắm!"

Cô ngồi thêu một hồi nữa rồi mới hỏi Hải Đường rằng:

- Tôi hỏi anh Tú phải nói cho thiệt đa nghe hôn. Cậu Đăng Cao thi rớt đó là tại số mạng hay là tại cậu học dở?

- Tôi không hiểu.

- Còn tánh nết cậu ta thế nào?

- Tôi cũng không được biết.

- Anh không muốn nói cái tệ của người khác, chớ có lý nào anh không hiểu.

- Tại học khác lớp, nên thiệt tôi không hiểu chớ.

- Anh muốn giấu giếm, đặng anh hại tôi phải hôn?

- Có lẽ nào tôi lại đê tiện quá như vậy.

Cô Túy Nga nghiêm sắc mặt, rồi ngó ngay Hải Đường mà nói rằng: „Anh giấu tôi, nếu cái đời tôi sau nầy mà gặp việc chẳng may, thì anh mang tội lớn lắm, nói cho anh biết".

Mấy lời ấy làm cho Hải Đường càng thêm rối trí bận lòng, không thể ngồi lâu nữa được, nên đứng dậy thưa với cha rằng: „Thôi, ba ở đây ngủ coi nhà giùm cho ông, để con về kẻo má chờ". Chàng liền từ giã cô Túy Nga mà bước ra cửa. Cô ngó theo, sắc mặt coi buồn hiu.

Thuở nay Hải Đường một là mắc lo học, hai là biết xét phận thấp hèn, nên chẳng bao giờ để ý đến cô Túy Nga. Nay ngồi ngó cô một lát, nghe cô nói những lời đạo nghĩa, hiểu ý cô không ỷ giàu sang mà khinh khi kẻ nghèo hèn, thì trong lòng chàng sanh mối cảm tình chứa chan, ra khỏi cửa rồi chàng thơ thẩn bâng khuâng như ngây dại. Về đến nhà, chàng vẫn còn buồn xo.

Thiếm biện Yến hay chồng mắc ở coi nhà giùm cho ông Bình thì thím đi ngủ, không chờ nữa.

Hải Đuờng lấy một cuốn sách ngồi dựa đèn mà coi, mặt ngó vô cuốn sách mà mắt lại thấy hình dạng của cô Túy Nga hoài, tai văng vẳng nghe những tiếng cô nói, trí cứ nhớ những câu chuyện hồi nãy.

Cậu Đăng Cao là con nhà giàu. Từ khi mới lọt lòng thì cậu đã nằm trong cái địa vị cao sang, cậu muốn việc chi cũng được, cậu đòi thứ chi cũng có hết thảy. Đến chừng lớn khôn, cậu dòm thấy chung quanh cậu chẳng có một người nào không thương yêu, không bợ đỡ cậu, lần lần cậu quen cái thói coi thiên hạ đều thấp hèn hơn cậu, tưởng thiên hạ là tay sai của cậu. Bởi vậy cậu đến nhà trường đối với chúng bạn thì cậu lấn lướt kiêu hãnh, làm cho chẳng có một trò nào mà ưa cậu. Mà theo cậu, thì sự đi học là cái chước để cho cậu có thế xài phá bạc tiền của cha mẹ, chớ không phải là cái chước để cho cậu mở trí sửa lòng, bởi vậy đi học mà cậu không cần cố chi hết, chỉ lo sắm áo quần cho tốt để chúa nhựt thả đi chơi, hoặc ngồi nhà hàng, hoặc coi hát bóng.

Cậu thi rớt ấy là lẽ tự nhiên, tại học không cần nên thi không đậu, chớ không phải tại số mạng nào hết. Có lẽ cậu xét phận của cậu, nên cậu tính cưới vợ chớ không thèm học nữa. Cậu tính như vậy cũng hay, bởi vì nếu cậu học nữa thì bất quá tốn tiền thêm cho cha mẹ, chớ không chắc cậu thi đậu được. Tánh nết với tài học của cậu Ðăng Cao như vậy đó, mình có nên nói rõ ra cho cô Túy Nga biết hay không? Có lẽ nào mình lại đem việc xấu của người mà nói cho thiên hạ biết. Huống chi ông Bình đã muốn gả con cho Đăng Cao, nếu mình khai chỗ tệ của cậu, té ra mình gièm siểm, làm như vậy thì mình còn xấu hơn người mà mình nói xấu đó nữa

Mà việc nầy là việc trăm năm của một cô thiếu nữ, theo con mắt mình xem thì là một cô đứng đắn về tánh tình, lại xinh đẹp về nhan sắc nữa. Mình có nên sợ mang tiếng "Dương nhơn chi ác[6]" mà để cho cô thiếu nữ, mình vừa yêu vừa trọng đây, phải mang một người chồng bất lương, bất tài trọn đời hay không?

Hai vấn đề ấy thật là khó giải quyết.

Đã vậy mà tại sao cô Túy Nga lại nói rằng nếu mình giấu cô, hễ sau nầy có việc chi chẳng may thì mình phải mang tội? Tại sao trước mặt mình cô lại than thở về sự cha mẹ tính gả cô cho Đăng Cao? Tại sao cô than việc lấy chồng cô không đuợc tự do mà chọn lựa? Tại sao cô lại nói: „Chẳng nên thấy giàu sang mà ham, còn thấy nghèo hèn mà phụ?" Cô có tình riêng với mình chút nào hay sao, mà nay cha mẹ định gả lấy chồng, cô thất vọng nên than thở với mình như vậy?

Đó là một vấn đề nữa, mà vấn đề nầy còn khó giải hơn vấn đề trước bội phần.

Canh khuya, đêm vắng, Hải Đường ngồi ngó sửng ngọn đèn, nghe tiếng dế gáy rân ngoài thềm, với tiếng thằn lằn chắc luỡi[7] trong vách, thì chàng bâng khuâng lơ lửng, lén hỏi thầm trong trí rằng mình có duyên nợ gì với cô Tuý Nga hay không? Chàng hỏi như vậy rồi chàng giựt mình, ngó quanh trong nhà thấy cái nhà lá túm húm xịch xạc, đồ đạc sơ sài, còn chàng nhớ cái nhà của cô Túy Nga kinh dinh[8] hực hỡ, thì chàng teo gan héo ruột, ủ mặt châu mày, chàng lắc đầu mà đáp rằng: không thể có duyên nợ được, bởi vì cha mình là bộ hạ của ông Bình, mà ông lại đương tính làm sui với một ông bá hộ, thì còn gì mà ước mơ.

Mang ái tình vào lòng thì đã khó chịu lắm rồi, mà cái ái tình ấy lại không có hy vọng thỏa mãn được, thì càng đau đớn nhiều hơn nữa. Hải Đường vừa mới ra khỏi nhà trường thì đã sa vào cái đường khổ não rồi!

Từ nầy chàng lững đững lờ đờ, buồn mà không tỏ với ai được, muốn viết thơ mà tỏ tánh nết Đăng Cao cho Túy Nga biết, rồi dụ dự cũng không dám viết.

Cách chừng một tháng, một buổi chiều, biện Yến đương ngồi ăn cơm với vợ con, chú nói rằng ông Bình đã nhứt định gả cô Túy Nga cho con ông bá hộ Thiện, ngày cưới đã định rồi, bà Bình đã đi Sài Gòn mua hột xoàn và đặt may áo quần sữa soạn đưa con về nhà chồng.

Hải Đường hay tin ấy thì đau đớn như kim châm ruột. Khối tình đã rã, hy vọng đã tan, đường đời chẳng còn mục đích gì nữa. Chàng suy nghĩ trong mấy ngày, rồi quyết dục tắt lửa lòng, định lấy sự học vấn mà làm chủ hướng, không thèm kể việc gia thất. Chàng bèn thưa với cha mẹ rằng mấy ông thầy dạy chàng học đều thương chàng, thuờng hay khuyên chàng nên xin học bổng đặng qua bên Pháp mà học thêm ít năm nữa, lại hứa nếu chàng xin học bổng thì mấy ổng sẽ lập thế nói giùm cho, bởi vậy chàng muốn nghe lời thầy mà xin qua Pháp học thêm năm bảy năm nữa, lấy bằng cấp cao đẳng về mới vinh quang, làm việc ăn lương mới lớn.

Biện Yến không rõ tâm sự của con, lại thấy con có chí muốn học cao hơn nữa, thì lấy làm hiệp ý mình, bởi vậy chú đã không ngăn cản, mà lại còn xúi thêm con.

Hải Đường là một học trò giỏi nhứt trong lớp, bởi vậy từ đốc học tới giáo sư ai cũng đều yêu mến. Chàng lên Sài Gòn làm đơn xin học bổng, cậy mấy ông giúp lời. Đám cuới cô Túy Nga vừa rồi thì chàng cũng được giấy của quan trên cấp cho chàng học bổng mỗi năm sáu ngàn quan, đặng chàng qua pháp mà học.

Hải Đường từ giã cha mẹ mà đi, tuy uất tình, song đắc chí.

Chương 3

Một bữa chúa nhựt, lối mười một giờ trưa, có một cái xe hơi cũ, nước sơn đã giợt[1], máy chạy không êm, chạy chậm chậm trong Châu Thành Sài Gòn, bóp kèn inh ỏi; bọn xe kéo ngó nhau mà cười và nói: „Xe lục tỉnh coi dơ dáy quá, mà bóp kèn làm chi không biết"

Cái xe nầy chạy qua đường Lagrandière rồi ngừng ngay một căn phố lầu, ở phía sau chợ mới Bến Thành. Một cô mỹ nữ trên xe bước xuống, hình dung tuấn tú, tướng mạo nghiêm chỉnh, y phục đúng theo thời trang, mình mặc áo màu bông phấn, quần hàng trắng, đầu choàng khăn ê sạt[2] chơn mang giày thêu Hạ Châu. Cô đi ngay vô căn phố lầu, thấy cửa đóng, thì vỗ cửa kêu lớn rằng: „Anh Cánh à, anh Cánh, mở cửa coi nào. Làm giống gì chừng nầy mà đóng cửa kín mít vậy?"

Một người đàn ông, chừng ba mươi tuổi, ra mở cửa rồi chấp tay xá cô. Cô hỏi:

- Thầy đi đâu?

- Bẩm, thầy đi chơi.

- Đi hồi nào?

- Bẩm, hồi chiều hôm qua, thầy đi làm việc về, thầy thay áo quần mới rồi thầy lấy xe hơi đi luôn cho tới bây giờ, không có về.

Cô châu mày suy nghĩ một chút, rồi lột khăn ra biểu người mở cửa đó rằng: „Thôi, anh ra ngoài xe vác vali với bao gạo vô".

Cô nầy là cô Túy Nga, còn nhà nầy là nhà của thầy Đăng Cao. Số là khi Đăng Cao cưới cô Túy Nga được ít tháng, ông Thiện muốn cho con có chức có phận với người ta, nên lo đem cậu vô làm Ký lục tại Kho bạc chánh, lương mỗi ngày một đồng bốn cắc, trừ chúa nhựt nghỉ thì không ăn tiền. Kiếm được chỗ làm rồi bà Thiện mới lên sắm đồ dọn nhà cho vợ chồng Đăng Cao ở. Ông Bình muốn làm cho xứng đáng mặt cha vợ, nên ông cũng lên mua cho con rể ít món đồ, lại mua cho một cái xe hơi nhỏ hai chỗ ngồi đặng cho con rể đi chơi.

Vợ chồng Đăng Cao ở Sài Gòn đã hơn một năm rồi, lương thì ít, mà xài thì nhiều, bởi vậy mỗi tháng thường xúi vợ về xin tiền. Cách năm ngày trước cô Túy Nga đi xe hơi đò về Mê Phốp rồi bữa nay ông Bình cho xe nhà đưa cô trở lên đó, cũng là tại Đăng Cao xúi cô về xin tiền nên cô mới đi.

Anh Cánh là người ở vừa làm bồi, vừa nấu ăn, xách vali và vác bao gạo vô nhà rồi, cô Túy Nga mới kêu anh sớp phơ mà đưa sáu đồng bạc và nói rằng: „Anh lấy tiền đây ra đổ ba đồng bạc xăng, anh cất hai đồng đặng bận về trả tiền đò, còn lại một đồng anh ra chợ mà ăn cơm cho no rồi về. Anh ăn cơm, nghỉ một chút rồi về cho sớm, kẻo ở nhà thầy tôi có đi đâu không xe mà đi".

Cô thay áo rửa mặt rồi nằm trên ghế xích đu mà nghỉ.

Anh Cánh bước lại nói rằng: „Thưa, cô cho tiền đặng tôi ra chợ mua đồ về nấu cơm dọn cho cô ăn".

Túy Nga ngồi dậy, miệng chúm chím cười và hỏi rằng:

- Vậy chớ hồi sớm mai nầy anh không có đi chợ hay sao?

- Thưa, hồi chiều hôm qua thầy không có đưa tiền. Tôi tưởng thầy đi chơi rồi sáng thầy về như mấy bữa trước, nên tôi không dám hỏi.

- Hổm nay tôi đi khỏi, thầy ở nhà đêm nào thầy cũng đi chơi tới sáng thầy mới về hay sao?

Anh Cánh tự hối về sự mình nói không dè dặt, nên anh ta bối rối đứng lặng thinh.

Cô Túy Nga hiểu ý, cô không nài phải trả lời về việc ấy, mà cô lại hỏi câu khác rằng:

- Thầy không có nói với anh bữa nay tôi về hay sao?

- Thưa, không. Phải thầy nói thì tôi lo cơm nước sẵn rồi.

- Thôi, anh khỏi lo nấu cơm. Tôi ăn cơm dưới nhà tôi mới đi, nên tôi chưa đói.

Anh Cánh vô nhà bếp. Cô Túy Nga đi lên lầu. Cô mở cửa sổ, vẹt tấm màn ren mà ngó xuống đường. Nam thanh nữ tú qua lại dập dìu, xe kéo xe hơi tới lui không dứt. Cô ở giữa chốn phiền ba đô hội[3] mà cô coi cũng như ở nơi cùng cốc thâm sơn, cô ngó thiên hạ cô không biết vui, cô thấy ngựa xe cô càng áo não. Cô bước lại một cái bàn nhỏ, mặt lót đá cẩm thạch, để phía trên đầu giường ngủ, rồi cô rót một ly nuớc lạnh mà uống. Cô ngó quanh quất trong nhà, nào giường đồng mùng lưới, nào tủ gõ kiến dày, nào ván cẩm lai để nằm chơi, nào đèn bao lụa cho khỏe mắt. Cô ngó đồ đạc thì trong lòng cô lại càng buồn hơn nữa, đồ tốt mà lòng không vui thì đồ ấy không ích gì. Bấy lâu nay cô đọc trong sách, hoặc cô nghe nguời ta nói: muốn hưởng hạnh phúc không cần phải lo cho được giàu sang, mà nhứt là cần phải cho được thỏa lòng mãn ý, bởi vì nhiều khi giàu mà mình cứ buồn rầu, còn nhiều khi nghèo hèn mà mình lại vui vẻ. Bây giờ cô mới biết câu luận thuyết ấy không phải là câu của mấy nhà đạo đức bày ra để dạy đời, mà chánh là câu hạp với thế sự lắm vậy.

Cô Túy Nga bèn mở tủ lấy đồ may ra rồi cô ngồi trên bộ ván cẩm lai mà thêu. Phần ngồi xe lâu mệt mỏi, phần gió thổi hiu hiu, nên cô thêu tới ba giờ chiều rồi cô buồn ngủ, cô mới lấy gối nằm tại bộ ván ấy mà ngủ quên hết thế sự, quên cả gia đình.

Đến tối, tiếng giầy lên thang lầu rầm rầm làm cho cô Túy Nga giựt mình mở mắt ra, cô thấy dưới đường đèn khí cháy sáng, còn trong nhà thì vẫn lờ mờ. Cô lồm cồm ngồi dậy, thì đèn trên lầu bựt lên sáng lòa, Đăng Cao quần áo bàu nhàu, tóc tai chôm bôm, chàng quăng cái kết[4] lên bàn và hỏi rằng: „Lên hồi nào đó"?

Túy Nga đáp: „Tôi lên hồi trưa", rồi cô đi rửa mặt.

Đăng Cao thay đồ đi tắm. Chừng chàng tắm rồi, thì Tú Nga sai anh Cánh mua đồ dọn cơm tối cũng gần xong. Túy Nga mời chồng ăn cơm. Đăng Cao bước lại dòm bàn ăn, rồi trề môi nói rằng: „Ðồ bậy bạ ai ăn cho được. Hồi chiều ở dưới Cấp về có mua đồ bỏ theo xe ăn no rồi. Thôi, ăn đi. Tôi không ăn nữa đâu".

Lời nói xẳng xớm như vậy, mà Túy Nga không lộ sắc phiền giận chút nào hết, cô hòa huỡn đáp rằng:

- Ăn trên xe bất quá mình ăn bánh mì sơ sài. Phải ăn thêm một chén cơm cho chắc bụng chớ.

- Không. Tôi đi chơi mệt lắm, ăn không được. Hồi chiều ăn bánh mì, mà ăn nhiều rồi.

Đăng Cao nói dứt lời rồi bỏ đi lên lầu, không hỏi thăm vợ coi đi đường thế nào, ở dưới nhà mạnh giỏi hay không.

Túy Nga ngồi ăn cơm một mình, tuy ăn không biết ngon, song cũng rán ăn hết một chén. Ăn cơm rồi cô đi ra đi vô, dẹp cái nầy, quét chỗ kia, vì cô đi khỏi mấy bữa, đồ đạc để lộn xộn, có nhiều món bụi bặm đóng dơ dáy. Thình lình Đăng Cao ở trên lầu kêu lớn rằng: „Ăn cơm rồi chưa? Lên đây đặng hỏi thăm một chút coi"

Túy Nga men men lên lầu.

Đăng Cao nằm trong giường, vừa thấy mặt vợ thì hỏi rằng: „Về dưới kiếm tiền được hay không?"

Túy Nga nghe hỏi việc ấy thì miệng chúm chím cười, song mắt không dám ngó chồng, mà sắc coi cũng không vui chút nào hết. Cô đáp nhỏ nhỏ rằng:

- Được.

- Đủ năm trăm đồng bạc hay không?

- ... Không đủ.

- Không đủ sao được. Ta biểu xin cho đủ năm trăm đồng bạc đặng trả cho dứt nợ chớ.

- Dưới nhà thầy với má túng tiền quá.

- Hứ! Dữ hôn! Tưởng đâu năm bảy ngàn hay sao! Thứ có năm trăm đồng bạc, nhiều nhõi gì đó mà than túng.

- Mình không hiểu, chớ thầy má túng lung lắm.

- Than túng, mà rồi cho bao nhiêu?

Túy Nga lặng thinh, bước lại bộ ván mà ngồi, rồi đáp nhỏ rằng: „Thầy nói không phải thầy tiếc với mình, ngặt vì lúc nầy thầy túng nên không thể cho số bạc nhiều như vậy được. Hồi sáng tôi đi, má mót trong tủ còn có bảy chục đồng bạc, má đưa cho tôi năm chục đồng bạc tôi đi đây".

Đăng Cao khoát mùng bước ra, châu mày trợn mắt, nói lớn rằng:

- Năm chục mà làm cái gì được! Thôi, đem về dưới mà trả lại đi. Không thèm đâu.

- Mình đừng có nói như vậy. Của cha mẹ cho, dầu nhiều hay là ít mình cũng phải lấy, có lẽ nào mình dám trả lại.

- Tôi biết mà. Thầy với má để dành tiền mà đút cho anh Hai. Tôi là rể, cho một đồng bạc coi bộ tiếc lắm.

- Mình nói sao vậy? Anh Hai ảnh lo làm ruộng cho thầy với má, chớ ảnh không làm tư làm riêng gì. Ảnh dầm mưa dãi nắng cực khổ hết sức, mà cũng không ăn xài chi hết. Theo tôi biết thì từ hồi nào cho tới bây giờ, vợ chồng ảnh làm lợi cho thầy với má, chớ không có làm tốn hao như người ta. Còn mình đây, từ ngày mình dọn nhà ở trên nầy làm việc, chưa đầy hai năm mà thầy má tốn hao với mình gần năm ngàn đồng bạc, chớ phải ít hay sao. Mình còn phân bì với anh Hai nỗi gì.

- Bây giờ mình kể mà đòi tôi hả?

- Nói chuyện mà nghe chớ kể giống gì.

- Dữ hôn! Thứ cho trong hai năm mà kể có mấy ngàn đồng bạc, tưởng đâu nhiều lắm đa! Mà cho đó có một mình tôi ăn hay sao?

- Thì thầy má cho một trăm, khi hai trăm, vợ chồng mình xài chung với nhau, chớ tôi có nói một mình mình xài đâu mà mình sân si.

- Thầy má cho tiền bây giờ mình kể với tôi, vậy chớ tôi mướn phố lầu cho mình ở, tôi để cho mình may quần nầy áo kia, mua giày Hạ châu, sắm dù Nhựt bổn, khi dắt đi Long Hải, khi dắt đi Vũng Tàu, mấy cái đó sao mình không kể. Được, muốn kể với tôi, thôi để tôi về xin tiền ba tôi rồi tôi trả lại cho. Thằng nầy không phải mạt như họ, đưa đồng bạc ra thì chắc lưỡi hít hà như họ vậy đâu.

Túy Nga nghe chồng nói những lời nặng nề cay đắng ấy, chẳng khác nào như chồng cầm búa mà đập vô đầu; cô đau đớn tức tối hết sức, ngặt vì ý nghĩa những lời ấy không hạp với gia phong của cô, bởi vậy cô không thể đối đáp được, cô chỉ rưng rưng nước mắt ngồi lặng thinh mà chịu.

Đăng Cao thọc hai tay vào túi áo pyjama[5] đi lên đi xuống một hồi, rồi nói nữa rằng: „Hứ! Khoe mười lăm hai chục ngàn giạ lúa, mà biểu xin năm trăm đồng bạc nói không có! Vậy mà khoe giàu giống gì?"

Túy Nga lau nước mắt mà đáp rằng:

- Tôi có khoe hồi nào đâu? Thầy tôi góp lúa ruộng nhiều, song cũng phải xài nhiều việc, chớ phải góp bán rồi cất bạc được hay sao.

- Bây giờ tôi mới biết tôi lầm!

- Mình lầm cách nào?

- Lầm đủ cách hết thảy.

- Hồi trước có phải tôi năn nỉ xin mình cưới giùm tôi đâu.

- Phải, mình không có năn nỉ, mà họ nói nghe đúng lắm, nên tôi mới lầm chớ.

- Mình nói tới câu đó thì không còn nghĩa vợ chồng gì nữa hết. Đã biết làm thân nhi nữ may rủi một chồng mà thôi. Nhưng mà bây giờ mình nói mình cưới tôi đó là mình lầm, nên mình ăn năn, vậy thì mình muốn bỏ tôi cũng được, tôi chẳng dám đeo theo làm bận chân xốn mắt mình đâu mà mình ngại. Bởi ba má trên nhà đứng nói với thầy má tôi mà cưới tôi cho mình. Bây giờ mình không bằng lòng thì mình thưa với ba má xuống nói một tiếng với thầy má tôi thì tôi về liền.

- Mình thách đố tôi hả?

- Tôi nói thiệt, chớ có nói thách đâu.

- Được. Thách tôi thì tôi sẽ làm cho mà coi.

Đăng Cao chun vô mùng mà nằm lại. Túy Nga nằm chèo queo ngoài bộ ván, nước mắt tuôn dầm dề.

Tieu Thuyet Mẹ Ghẻ Con Ghẻ Hồ Biểu Chánh 8-12

-T+

Phần thứ nhì

1 - NGHỀ PHÁ SẢN

(8)

Ở đất Càng Long, có nhiều nhà giàu lớn, đứng bộ đến năm bảy trăm mẫu ruộng, mỗi năm thâu góp số huê lợi đến 30. 000 thùng lúa.

Ông Bồi bái Phan Văn Tồn chưa được cái danh nhà giàu song hồi trước ở trong làng. Mỹ Huê ông cũng là một " người có cơm tiền một vị điền chủ bực trung, bởi vậy ông mới được cử làm Hương chức, ăn trên ngồi trứơc dân chúng.

Sở dĩ ông được cái địa vị ấy, trứơc hết ông nhờ ơn tổ phụ để lại cho ông một tòa nhà ngói cất trên gần một mẫu thổ trạch, với 12 mẫu ruộng lúa nằm ngay trước nhà. Gia sản ấy có cước trong hộ, nhà là nhà thờ, đặng phụng tự ông bà cha mẹ. Vì ông là con một, khi còn nhỏ cha mẹ cưng, không cho ông đi học xa, rồi lúc gần cưới vợ, cha mẹ lại mua để cho ông đứng hộ riêng 13 mẫu ruộng trong kênh Suối Cạn nữa. thành thử khi ông 21 tuổi, cha mẹ cưới Thị Tánh là con gái của Hương chánh Quảng ở Láng Thê, cho ông có đôi bạn với người ta thì ông đã ra mặt một tiểu điền chủ trong làng.

Vì vợ chồng ông chậm con, nên năm ông được 26 tuổi cha mẹ ông tiếp nhau về âm cảnh, mà chưa thấy mặt chút cháu nội nào để nựng nịu cho phỉ tình.

Đến năm ông được 32 tuổi, làm làng đã lên chức Hương Giáo, Thị Tánh mới sinh cho ông đứa con gái đấu lòng đặt tên là Phan Thị Mỹ, rồi 2 năm sau sanh thêm đứa con trai nữa, đặt tên là Phan Văn Quí.

Phan Văn Quí này là cậu học trò giỏi của thầy Nhứt Vĩnh, vì gia thế bắt buộc phải thôi học mà ở làm bồi cho quan Kinh Lý La-Co như đã nói trong đoạn trước.

Thị Tánh, vợ của Phan Văn Tồn, vốn con nhà có ăn, mà lại biết cung kính cha mẹ, chiều chuộng bên chồng, quen thói cần kiệm, giỏi bề nội trợ. Mặc dầu trong vùng Càng Long, đàn bà ham tứ sắc, đàn ông mê đá gà, đi đến nhà nào cũng thấy những sòng bạc, cũng nghe những chuyện ăn thua, thế mà thị Tánh lại bịt mắt bít tai,không thèm ngó, không muốn nghe, cứ chăm chú lo làm ăn, mùa nước lo cấy cày, mùa khô lo trồng đậu, trồng cải, trồng thuốc, trồng dưa để bán.

Nhờ công lao và cần kiệm của Thị Tánh mà khi cha mẹ của Tồn mất rồi, thì trong nhà có dư được năm bảy ngàn. Kế thị Tánh được lãnh phần ăn bên cha mẹ hàng bữa, thành ra có trên bạc muôn.

Vì Tồn làm hương chức, hay đi đám tiệc, phải đánh bài đá gà chút đỉnh với người ta, Thị Tánh sợ chồng mê sa đỏ đen mà sạt nghiệp, nên thừa dịp có người thua khiếm phải bán 25 mẫu ruộng mà trả nợ, Thị Tánh mới xúi chồng đứng mua, nhờ vậy mà Phan Văn Tồn ra mặt "người có cơm tiền" chánh thức.

Bực kỳ lão trong làng ai thấy bề thế của vợ chồng Phan Văn Tồn phát đạt như vậy, thì cũng đoán chắc sẽ còn làm giàu thêm nữa. Mà có người hoặc muốn khoe tài tiên tri, hoặc thấy người ta làm ăn khá thì đố kỵ, lại nói rằng vợ chồng còn nhỏ mà phát đạt sớm quá, sợ không bền vững.

Không hiểu tại lời nguyền rủa ấy hay là tại mạng số dĩ nhiên, mà khi Phan Văn Tồn mới được 37 tuổi thì vợ phát bịnh có mấy ngày rồi mất làm cho lời tiên tri không sai, mà lời nguyền rủa cũng có hiệu quả.

Thị Tánh chết để lại cho chồng hai đứa con thơ là Mỹ mới 5 tuổi và bé Quí mới 3 tuổi.

Trót 16 năm đường, Tồn nhờ người vợ hiền lương cần kiệm, quản suốt gia đình, trong lo nuôi con, ngoài lo ruộng rẫy, thình lình giữa đường gẫy gánh, bởi vậy anh ta hết sức thương tiếc, thấy con rất đau lòng, nhớ vợ càng thêm tủi.

Tuy có nhà cửa đàng hoàng, có tới 50 mẫu ruộng, lại không thiếu nợ nần chi hết, song anh ta cũng chán nản, cho rằng cảnh đời đã hư hỏng hạnh phúc đã tiêu tan. Anh hết muốn vui chơi nữa, cứ lục đục ở nhà thay thế cho vợ hiền mà săn sóc hai đứa con nhỏ, coi cho bạn bè trông đậu trông dưa, đến mùa gặt thì đi thâu góp lúa ruộng. Anh em hương chức có gà hay đánh bài, thì viện lẽ con thơ mất mẹ, việc nhà bê bối phải coi trong coi ngoài, nên không nói đi đâu được.

Trong làng ai cũg biết gia đạo của Tồn xẩn bẩn ở nhà, không ai dám phiền trách hay chê cười. Nếu Tồn cứ nhớ công lao cực nhọc của vợ, cứ thương thân phận côi cút của con, cứ thay cho vợ làm ruộng rẫy nuôi con thơ thì cái vui hủ hỉ với con thì có lẽ cũng thỏa lấp được cái buồn vĩnh biệt vợ.

Ngặt Tồn thất ngẫu, mới 37 tuổi, dục vọng còng đầy đủ, khí lực còn dồi dào, ham tấn thủ hơn an nhàn, thích hoạt động hơn trầm tịnh. An mạng thuận thời để tu thân tề gia được chừng một năm rồi rồi sự ham vui chơi lần lần phát lại mà làm nguôi lòng về nghĩa nặng của vợ mình và tình nồng của con.

Ban đầu Tồn dắt hai con đi chơi đặng giải buồn, có khi đi ra chợ mua đồ, có bữa đến mấy nhà ở gần mà nói chuyện. Chỗ Tồn đem con tới chơi thường hơn hết là quán của vợi chồng Ba Thới, ở tại ngã ba đường vô giồng.

Vợ Ba Thới gốc ở Láng Thê, cũng như Thi Tánh là vợ của Tồn. Hai người sanh trưởng chung một xóm, lại có chồng về ở chung trong làng Mỹ Huê bởi vậy thuở nay thân thiết với nhau như chị em cật ruột. Vợ Ba Thới chỉ có một đứa con gái, đặt tên Hường, nhỏ hơn Quí một tuổi.

Vì tình đồng hương thân thiện ấy nên bữa nào Tồn có dắt con Mỹ với bé Quí vô chơi thì vợ Ba Thới niềm nở vui mừng, lấy bánh cho hai đứa nhỏ ăn, để Quí chơi với Hường bắt chí gỡ đầu cho Mỹ. Vợ Ba Thới muốn thử lòng Tồn, nên có khi hỏi Tồn đã có tính kiếm nơi mà chấp to nối tóc hay chưa. Tồn lắc đầu nói mình đã có con trai con gái đủ rồi, không cần có thêm mà phải cưới vợ nữa. Anh ta thường quyết ở góa mà nuôi con, đặng tránh cảnh mẹ ghẻ con riêng thuờng làm rối rấm trong gia đạo.

Nhưng có bữa Tồn than phận đàn ông nuôi con nhỏ thật là khó về sự may vá áo quần cho sắp nhỏ khỏi rách rưới.

Vợ Ba Thới nói trong nhà có chú Tiền, mà chú mắc lo cơm nước, giờ rãnh chú còn phải làm cỏ chung qunh nhà. Nếu bắt chú săn sóc hai đứa nhỏ nữa, thì chú làm sao cho xiết. Phần đơn chiếc, mà sẵn có tiền thì phải mướn người giúp đỡ trong nhà; nên mướn một người đàn bà trọng tuổi, biết đi chợ nấu ăn, đặng lo cơm nước hằng ngày và vá quần áo cho sấp nhỏ, để chú Tiền quét tước trong nhà và làma cỏ, trồng rau, cuốc giồng, xách nước. Còn hai đứa nhỏ thì phải mứơn một người theo chời bời và gìn giữ chúng nó luôn luôn, ban ngày dắt chúng nó đi chơi, chiều tắm rửa cho nó sạch sẽ, tối giũ mùng trải chiếu cho chúng nó ngủ. Giữ em chẳng cần phải mướn người lớn chỉ kiếm một đứa 14 hoặc 15 tuổi cho rẽ tiền công. Mà con Mỹ là con gái, thì không nên mướn con trai giữ phải mướn một đứa con gái sạch sẽ hiền lành, đặng tập cho hai đứa quen tánh nết ôn hòa biết ăn nói độ lượng.

Thuở nay Tồn không lưu tâm đến việc trong nhà khi cha mẹ còn thì cha mẹ cầm quyền, chứng cha mẹ khuất, thì có vợ lo lắng sắp đặt mọi việc. Thình lình vợ mất, một mình phải gánh vác mọi việc trong việc ngoài phải lo từ nhà cửa đến con thơ, từ cơm nước đến ruộng rẫy, bời vậy trót cả năm phải nhọc lòng mệt mỏi không biết phải làm cách nào cho nhẹ bớt gánh nặng gia đình. Nay được vơ Ba Thới vỉ tình thân ái với bạn xưa nên chỉ nẻo dẫn đường. Tồn nghĩ nhà có tiền dẫu mướn thêm người lo cơm nước và giữ hai con cũng không tốn hao bao nhiêu, nên tiến cậy vợ Ba Thới ra công kiếm người mà mướn giúp, tiền công mắc rẽ không cần, miễn là được người chắc chắn thật thà, biết trung tính với chủ nhà, biết thương yêu hai đứa nhỏ.

Nội tháng sau, vơ Ba Thới kiếm mướn giùm cho Tồn đủ hai người, mướn con Tốt 15 tuổi, là con trùm Sóc, ở giữ em, và mướn thím Bài, một quá phụ ở kinh Đùng Đình, lãnh phần vá may và bếp núc.

ConTốt tuy con nhà nghèo, song gòn gàng sạch sẽ, dễ thương, cách ăn nói dịu dàng, biết chiều chuộng hai đứa nhỏ. Còn thím Bài tuy quá 50, song sức vẫn còn đầy đủ, biết may vá giỏi nấu ăn, lại có tính siêng năng bặt thiệp.

Hai người ở được vài bữa, Tồn dòm xem cửa chỉ và ý tứ thì rất vừa lòng, nhứt là nhận thấy Mỹ với Quí chịu đi chơi với con Tốt, để cho chàng được rãnh rang, thì chàng lấy làm vui, nên vô cám ơn vợ chồng Ba Thới lựa giùm người đúng đắn.

Con người hễ bận việc thì phải buồn lo nên than thở, mà rãnh rang thì sanh chứng ham vui chơi. Tồn có người lo cơm nước, lại có người lãnh giữ con, thì thân được an, trí được khoẻ, sớm mơi chỉ coi chú Tiền làm vườn một lát rồi vô nhà ăn cơm. Nằm hoài cũng buồn, nên ăn cơm rồi xách dù đi dạo xóm.

Thật ban đầu thì vô quán nằm nói chuyện chơi với Ba Thới đặng giải khuấy. Mà nói khào hoài rồi cũng nhàm, lại phải gặp Ba Thới có việc phải đi qua Cù lao Dài ít bữa, Tồn mới men men đi ra phía ngoài chợ.

Chợ Càng Long là cái ổ bài tứ sắc, Tồn là tay bài có danh cao, lại có gan kỳ, bởi vậy vừa gặp mặt thì người ta chụp mà rủ ren mời thỉnh. Thật Tồn sợ, vậy ban đầu chàng từ chối nói mắc lo việc nhà, mắc bận sắp con, nên ngồi coi chúng bạn đánh với nhau trong giây lát đặng giải buồn vậy thôi. Ngặt coi đánh bài nhiều lần, tự nhiên gắp phải hoàn cảnh ép buộc đẩy xô, khó mà kháng cự được. Có bữa một tay bài đương ăn thua, thình lình mắc bận việc, nên cậy Tồn cầm đỡ giùm hắn ít bàn. Bữa khác muốn gầy sòng mà thiếu một tay, người ta năn nỉ quá, xin đánh nhỏ, chừng năm xu hoặc một cắc một lện cũng được, chơi vài giờ mà giải buồn vậy thôi, Tồn không lẽ từ hoài, mà thật cũng bị con sâu bài cứ rọ rạy nơi hai bàn tay, nên phải ngồi sòng với chúng bạn.

Bài bạc có cái áp lực lôi cuốn người ta hay say mê, hễ vướng vào thì khó dứt mà đi cho được, bởi vậy khi ráp sòng thì tính chơi giây lát đặng cầu vui, mà cuộc chơi nó có cù nhây cho đến chiều tối, chừng nào co chuyện trắc trở, như đán bà bị con khóc nhèo nhẹo, như đàn ông vợ kêu on sòm, hay là có người phải bịnh, cần chạy thuốc rước thầy, hoặc có người bài xấu thua nhiều, rồi đỗ quạu gây gỗ chừng đó mới sên mà về được.

Bài bạc lại có thói yêu mị, nó lôi cuốn, nó cám dỗ rất hay: mới bắt đầu chơi, thường nó cho mình ăn đặng mình vui lòng; mấy sòng sau có khi nó cũng để cho mình thua, nhưng bữa nào có thua thì thua chút đỉnh, thua không quá số ăn trong mấy sòng trước, nên mình không chán nản đến nỗi phải cáo từ, không lo sợ đền nỗi phải giải nghệ.

Tồn chẳng khỏi bị cái áp lực đấy đẩy đưa, chẳng khỏi bị thói yêu mị đó ám ảnh, bởi vậy ban đầu tính đánh bài đặng cầu vui, năm bảy bữa ngồi một sòng, lại đánh 5 xu hoặc một cắc hoặc một lện mà thôi. Tại chú Tiền siêng năng, tại thím Bài trung tính, nhứt là tại hai đứa nhỏ chiếu mến con Tốt, nên việc nhà an ổn. Tồn mới rãnh tay khoẻ trí mà ngồi sòng thường thường, có khi đánh luôn cả ngày tối sáng đêm, bỏ phú con Mỹ với thằng Quí cho thiếm Bài với con Tốt lo cho ăn và dỗ ngủ.

Bịnh bài bạc đã nhiễm sâu rồi, bây giờ dầu không ai mời thỉnh rũ ren, thì cũng đi tìm kiếm mà chơi. Bữa nào thiếu tay thì nằm nhà buồn hiu, trong người bần thần dã dượi. Đến chừng mãn tang vợ rồi, hai đứa con đã trông tuổi, chẳng cần phải trông nom săn sóc nữa, thì Tồn luôn tuồng, không ngồi sòng tứ sắc nữa thì đeo theo mấy trường gà. Tứ sắc thì đánh 5 cắc một lện trở lên, chớ không đánh nhỏ, còn đá gà thì mỗi độ đứng sổ tới hai ba trăm, lại thêm phóng bắt ở ngoài là khác. Khi trước có vợ khuyên dứt nên tồn chơi có chừng. Bây giờ một mình tự chủ, trong nhà có sẵn tiền bạc, lại không ai ngăn cản, bởi vậy Tồn chơi tự do, chơi thả cửa. Đến mùa gà thì Tồn chơi mê mết, ban ngày đá gà, ban đêm đánh me. Bữa nào không có cái hốt me thì đánh phé, đánh ỏ, hoặc đáng già dách tuy chơi chấm chút, song không chừa thứ nào hết.

Trong lúc ấy ở ấp Trường Định, có một cô tên là Ba Mùi, mới 25 tuổi mà chồng chết không để lại cho cô chú con nào, lại để cho cô một cái nhà lá vách ván với ít ngàn đồng bạc vốn. Cô Ba Mùi tuy nhỏ tuổi, về nhan sắc sắc thì cô cũng như các thiếu phụ khác ở trong vùng, chớ không có vẽ gì đẹp đặc biệt, song cô có khiếu thông minh, có trí lanh lẹ, nên cô có nghề đánh tứ sắc thật cao, ngối sòng 10 lần cô thua chừng vài lần, mà có thua thì cũng thua nhẹ. Hồi chồng cô còn sanh tiền thấy cô có tài đặc biệt như vậy thì để cho cô thong thả mà chơi bài, thành ra cô là tay tứ sắc nhà nghề, ai rũ cũng không chạy, ai không rũ thì cũng kiếm tay mà đánh.

Nay chồng cô Ba Mùi mất rồi, ở một mình trong nhà quạnh hiu, ra vào thấy bàn thờ chồng áo não, bởi vậy cúng tuần ba nhật cho chồng rồi cô thả ra ngồi ở Truờng An kiếm bài mà chơi cho giải khuây.

Chánh lúc ấy Phan Văn Tồn ở làng Mỹ Huê đã mướn được con Tốt giữ em và thím Bài trông nom mọi việc trong nhà, anh thả đi chơi khi ra chợ Càng Long, khi đạo xe máy vô mấy ấp. Nhiều bữa gặp người ta rủ, Tồn ngồi sòng với cô Ba Mùi. Hai đàng gặp nhau ít lần rồi chòm xóm bày chuyện cắp đôi, nói rằng một người goá vợ, một người goá chồng, hai đàng nên chấp nối đăng lập lại gia đình mới mà hưởng hạnh phúc.

Cô Ba Mùi giận người bày việc quấy, cô nói chồng mất chưa khô núm mồ mà cải giá nỗi gì. Huống hồ ông Hương giáo Tồn lớn hơn cô tới mười mấy tuổi muốn cho cô lấy chồng già đặng chịu quá bụa một lần nữa hay sao.

Bị cắp đôi Hương Tồng cũng không vui lòng, việc lẽ rằng vợ mất có để lại hai đứa con, có gái có trai đủ rồi còn muốn gì nữa mà ham chấp nối. Ở goá nuôi con cho trọn niềm chung thủy, bày cưới vợ khác rồi gây cái họa mẹ ghẻ con ghẻ, phải cực trí nhọc lòng.

Hai người nói nghe đúng đắn hết cả hai, nhưng mà qua mùa mưa gà thay lông, các trường gà đều đóng cửa, mọi người ham đỏ đen thì chỉ còn chui vào mấy sòng bài tứ sắc để giải khuây đỡ chút đỉnh.

Ba Mùi với Hương Tồn bây giờ có dịp gặp nhau hằng ngày, gặp riết thành thói quen, nên bữa nào Tồn bét đi ngã khác mà chơi, thì trong lòng không được vui như ngồi sòng với Ba Mùi.

Lửa ái tình đã ngún rồi, hễ hai người gặp nhau thì Tồn tỏ ý thân thiết mà nói chuyện với Ba Mùi, còn cô nọ cũng vui vẻ mà đàm đạo, nhiều khi dùng lời giễu cợt để cười chơi, nhứt là hay liếc mắt hữu tình mà khêu gợi.

Có bữa Tồn tới nhà Ba Mùi mà rủ đánh bài, rồi hai người dắt nhau ra ấp 8 đặng kiếm thêm tay ngồi sòng cho đủ.

Có bữa Ba Mùi đi chợ sớm, đến Mỹ Huê ghé thăm Hương Tồn. Thấy Mỹ với Quí xẩn bẩn ở bên cha thì cô kêu lại nựng nịu hỏi thăm, hỏi mỗi đứa được bao nhiêu tuổi, khen Mỹ nhu mì dễ thương, khen Quí chẫm hẫm dạn dĩ.

Tồn mời Mùi ở đánh bài chơi một bữa. Mùi dụ dự không muốn chấp lời. Tồn nài ép rồi sai chú Tiền làm vườn đi ra chợ mời cô năm với cô Sáu Trừ vô lập tứ đặng đủ tay gây sòng một bữa cho vui. Vì không mấy khi Hương Tồn mời, hai người kia vị tình đi liền. Sòng bài kéo dài tới nữa chiều, Ba Mùi đủ vốn, cô viện lẽ bỏ nhà ban đêm không được, nên cô xin sên sòng đặng cô về cho khỏi tối.

Có sòng bài đó nên ngoài chợ Càng Long đồn rùm cô sắp ụp[1] với ông Hương Tồn, vì hai đàng đã bắt đầu tới lui, mà tình ý coi có mòi thân thiện với nhau lắm.

(9)

Một buổi sớm mai, ăn cơm rồi, Hương Tồn đạo xe máy đi vô giồng chơi. Vợ Ba Thới đương đứng trước cửa thấy Tồn tới ngã ba, muốn quẹo vô Suối Cạn, thì kêu mà hỏi: "Anh đi đâu mà bửa nào cũng vô giồng hoài vậy? Mời anh ghé chơi một chút. Có cha con Hường ở đây nè".

Tồn xuống xe dắt đi vô quán. Vợ chồng Ba Thới niềm nở mời ngồi, chế bình trà mới mà đãi khách. Vợ Ba Thới hỏi thăm Mỹ với Quí, nói sao lâu rồi không thấy con Tốt dắt hai đứa nhỏ vô chơi với con Hường.

Tồn nói đường xe qua lại thường quá, không dám cho con Tốt dắt sắp nhỏ đi chơi xa, dặn nó để chơi lẩn quẩn trong sân cho khỏi lo rủi ro.

Nói chuyện nắng mưa, ấm lạnh, một hồi rồi vợ Ba Thới vừa cười vừa hỏi Tồn: " người ta nói anh sắp cưới cô Ba Mùi trong Trường Định, phải thiệt vậy không anh hai?"

Tồn chưng hửng hỏi lại:

- Ai bày chuyện nói kỳ cục như vậy?

- Ngoài chợ người ta đồn rùm, ai cũng nói như vậy hết thảy.

- Chắc hôm nọ thấy cô Ba Mùi ra ghé thăm tôi, rồi ở đánh bài chơi một ngày, nên họ đặt chuyện chớ gì.

- Mà có lẽ anh đã có tính, nên họ mới đặt chuyện được chớ,

- Tôi có nói với ai tôi sẽ cưới cô Ba Mùi đâu?

- Anh không nói, mà hai người có ý muốn phối hiệp, người ta ghé mắt tự nhiên người ta hiểu.

- Oái! Họ muốn nói giống gì tự ý họ. Mà dẫu tôi có cưới cô Ba Mùi lại hại gì hay sao mà nói.

- Hai đàng góa hết, ráp với nhau là phải, chớ có hại gì. Lại cô ở với chồng trước không có con, cái đó lại càng tiện cho anh nữa. Ngặt một điều, người ta nói cô là tay bài tứ sắc nhà nghề, cô giỏi có cái nghề đó, chớ ruộng rẫy, vá may, nấu nướng, cô không biết tới.

- Ờ đất này giỏi nghề đó cũng đủ nuôi sống

- Tôi sợ phá sản chớ.

- Hứ! Mấy tháng nay tôi có đánh bài với cô nhiều sòng; bài của cô cao thiệt, nên ít khi thua. Mà đánh bài cao như vậy, dầu có thua cũng mát ruột.

Ba Thới nói: " Mấy tháng nay tôi thấy anh đi chơi thường quá, nhứt là đi vô trong giồng. Ăn hay thua mà anh đi hành ngày vậy?"

Tồn cười, vừa đứng dậy vừa nói: " Ở nhà buồn quá nên thả đi chơi. Đánh tứ sắc một hai cắc, khi ăn khi thua có sao đâu mà sợ"

Tồn từ biệt vợ chồng Ba Thới rồi cưỡi xe đi vô giồng.

Tuy nói lơ là vậy, song lời thiên hạ đồn đó không phải là vô cớ, bởi vì cách vài tháng sau thiệt quả Hương Tồn cưới cô Ba Mùi, rước cô về ở chung một nhà. Đám cưới thân mật, chớ không làm rình rang, không nhóm họ, không mâm trầu, không lễ vật chi hết. Tồn đưa cho Ba Mùi ít trăm đồng bạc đặng may quần áo mới, nấu vài mâm cơm cúng chồng trước. Đến bữa cúng, ngoài Mỹ Huê Hương Tồn mời vài ông bạn cỡi xe máy đi với ông ta vô Trường Định ăn uống một bữa, rồi kêu xe ngựa rước Ba Mùi về Mỹ Huê. Buổi chiều Tồn làm vịt gà cúng vợ trước cho Ba Mùi lạy ra mắt, rồi mời ít người trong xóm lại ăn nhậu đặng chứng kiến.

Hương Tồn cưới vợ âm thầm, nhưng cũng đủ cho thiên hạ từ làng trong ra làng ngoài hay biết Tồn với Mùi phối hợp đủ lễ, đủ phép, có đám cưới hẳn hoi, bởi vậy không ai khen chê hay dị nghị chi hết.

Duy có vợ chồng Ba Thới nghe tin ấy thì than với nhau rằng Tồn nhờ Thị Tánh siêng năng kiệm ước, nên gây ra được một sự nghiệp tuy không to tác song cũng đủ cho gia đình sống thoe hạng trưởng giả mãn đời. Nay cưới Thị Mùi mới thanh sanh là một tay bài cao, rồi sợ đây vợ chồng sẽ say mê bài bạc mà sạt nghiệp, hư nhà, uổng công phu của Thị Tánh tiện tặn trót 16 năm, tính làm ra của mà để lại cho con, sợ e con không được hưởng nhờ, vì sẽ bị tay người khác phá tiêu hết.

Vợ chồng Ba Thới đóng không lầm. Tồn rước Thị Mùi về nhà, trong mấy ngày đầu thì vợ chồng đầm ấm, xẩn bẩn ở nhà. Mùi vui chơi làm quen với hai đứa con của chồng, còn Tồn thì coi cho chú Tiền làm cỏ trong vườn, chỉ chỗ cuốc vồng trồng khoai, gieo đậu.

Nhưng thú vui gia đình êm ấm thơi thới, không phải là sở thích của cặp vợ chồng, cả hai đều ưa cái vui khác, muốn cái vui phải pha lộn mừng với lo, may với rủi, ăn với thua, đặng gây cảm xúc từng hồi, muốn đỏ đen cho có đủ thú vị. Tồn hiểu ý vợ nên ra chợ rũ tay bài về nhà cho vợ đánh, mình ngồi coi chơi. Mà ngồi coi ít bữa rồi cũng nhàm, Tồn mới để vợ đánh trong nhà, anh ta vô giồng kiếm gây sòng khác.

Ba Mùi chơi được năm sáu sòng rồi có người mắc bận việc nhà nên không vô chơi được, làm cho thiếu tay, chị ta mới mò ra chợ kiếm mà chơi, thành thử bữa nào cũng vậy chồng đi một nơi vợ đi một ngã, tối mò mới mò về, có khi ở chơi luôn ban đêm cho tới sáng.

Qua mùa khô, mấy chuồng gà mở lại, thì ông Hương Tồn mê miết luôn tuồng, bỏ nhà cửa, quên con thơ, nhà thì bỏ phú cho chú Tiền với thím Bài làm sao thì làm, còn con thì giao cho con Tốt cho ăn giỗ ngủ không thèm ngó ngàng tới.

Chồng cứ ta bà, Ba Mùi có vui gì mà ở nhà, bởi vậy mạnh ai nấy đi, không ai trách ai hết.

Tuy vậy mà ăn ở nhau được vài ba năm thì Ba Mùi cũng sanh cho Tồn một đứa con trai đặt tên Sen, nhưng than ít sữa nên kiếm mướn vú nuôi mà kỳ thiệt là sợ cho con bú rồi mặc con đeo theo, ngồi sòng không được.

Chừng thằng Quí là con của vợ trước được chín mười tuổi, mà tối ngày nó cứ lo đi bắt dế, hoặc thả rểu ở ngoài bờ. Có người hỏi ông Hương Tồn sao con quá tuổi rồi sao chưa chịu đem nó ra trường cho nó học. Tồn nhớ lại rồi mới dắt Quí ra trường Càng Long, nói với ông đốc học Vĩnh ghi tên vào sổ cho nó học.

Con đi học, Tồn cũng không thèm để ý tới, phú cho thầy giáo làm sao được thầy làm, miễn là mỗi buổi thấy con ôm sách ra đi hoặc trưa chiều tan học trở về thì Tồn an bụng hài lòng, tưởng là đạo làm cha đã vuông tròn, mà con có thỏ thẻ xin tiền ăn bánh ăn hàng hay mua vở mua viết, thì cho ít cắc bạc lại than đời nay có con đi học tốn hao lung quá.

Ba Mùi về ở nhà chồng trong mấy năm đầu, tuy không có tình gian díu với hai đứa con riêng của chồng song hai đứa chỏ khờ khạo thiệt thà nên chị ta không có cớ chi mà oán ghét, chừng chị ta sanh được thằng Sen, thì sự ganh gỗ bắt đầu nhen nhúm trong trí. Thấy Tồn bồng Sen mà nựng nịu thì chị ta hớn hở vui cười, còn bữa nào Tồn rãnh nên vuốt ve Mỹ hay Quí, hoặc kêu hai đứa đó nói chuyện đặng giải buồn, thì chị ta chù ụ, trợn mắt châu mày, dường như muốn chồng dành để tất cả tình thương yêu cho Sen, không được chia sớt cho Quí và Mỹ.

Ba Mùi thiếu học, không thông tâm lý, cũng không biết đạo làm mẹ ghẻ đối với con chồng. Khi bước vào nhà chồng đã có sẵn hai đứa con thơ ngây, chúng nó mồ côi mẹ nên khao khát tình thương yêu ôm ấp. Nếu mình thay thế làm mẹ chúng nó, dan díu mến yêu, chăm nom săn sóc, gây chút cảm tình rồi ép buộc chúng nó gọi là má cũng được, chẳng cần gọi là dì. Nếu sau có sanh thêm thằng Sen nữa, thì mình có được ba đứa con chớ có hại gì đâu. Đã không biết có con đường êm ấm như vậy mà đi, lại còn để ganh gỗ phát sanh trong đầu óc nó hấp dẫn lần lần mà biến tình mẹ con ra phe cừu địch, gây buồn cho người lớn, gieo khổ cho trẻ con.

Mỹ với Quí mỗi ngảy một thêm lớn khôn, tự nhiên chúng nhận thấy bà mẹ ghẻ đã không yêu mà còn ghét chúng nó nữa, bởi vậy chúng nó tự dang xa ra, cho khỏi nghe những tiếng cay đắng hay nặng nề, hoặc khỏi thấy hầm hừ hay chừ hự.

Ba Mùi không thèm nói tới thằng Quí, mà hễ nói tới thì la rầy, còn con Mỹ đã lớn rồi, thì ép buộc nó phải vô bếp phụ với thím Bài rữa chén quét nhà, nói rằng tập cho nó biết nữ công mà kỳ thiệt là đày đọa cho thân nó cực khổ.

Trót hơn 10 năm trường hai chị em Mỹ và Quí sống trong một cảnh đời lạnh lẽo, sợ sệt, buồn cực, tiêu hiêu, có cha mà cha cứ mê sa bài bạc ít có dịp gần con, có mẹ ghẻ chánh là người thù nghịch. Các tình thương yêu dồn dập trong lòng chỉ hướng về hai chị em mà thôi, chớ không phát triển ra chỗ nào khác được. Mà chị em thương nhau thì lấy ý tứ mà tỏ với nhau, hay là dùng cặp mắt mà truyền tin vậy thôi, chớ không dám hở môi hở miệng.

Không được biểu lộ những yêu, không được thưởng thức thú vui vầy, hai trẻ phải dấu kỹ nỗi lòng ưu phiền rồi để trí chăm chú về phận sự kho khuây lãng.

Mỹ thì tập nấu ăn vá áo cho rành rẽ rồi được 15 hay 16 tuổi thì trong nhà khỏi mướn thím Bài ở nữa, Ba Mùi giao hết mọi việc cho Mỹ lãnh lo.

Còn Quí nhờ học tập chuyên cần, nên trở thành học trò nhứt trong làng Càng Long, được ông đốc học thương yêu, đi thi bằng sơ học được đậu cao, mà đi thi vào trường lớn cũng đậu luôn nữa.

Rất tiếc thay trong lúc hai trẻ sống với đau lòng buồn trí như vậy, ông Tồn làm làng đã lên tới Bồi bái Tồn, mà ông không tìm hiểu nỗi lòng của hai con. Còn Ba Mùi hễ thấy thằng Sen càng thêm lớn, thị chị ta càng thấy ghét Quí với Mỹ, không đổi ý chút nào hết.

Mà muốn nói cho đúng thì chị phải nói Bồi bái Tồn không có thì giờ mà tìm hiểu nỗi khổ của hai con, còn Ba Mùi không dè đối đãi với trẻ như vậy sẽ bị người ta chê cười mẹ ghẻ khắc bạc nên sợ mà cải hóa.

Tồn mắc đá gà đánh bạc, có rãnh đâu mà dòm ngó việc trong nhà. Còn Mùi mắc tứ sắc câu tôm, nào có ai chê cười mà sợ.

Bài bạc có hai vợ chồng, không làm việc gì sanh lợi, mỗi năm thua thiếu một mớ, qua mùa gặt góp lại ruộng phải đong cho người ta một phần lớn mà trừ nợ. Thâm thủng mỗi năm một ít, nhưng nhiều năm hóa ra nhiều, rồi số nhiều ấy còn đẻ thêm tiền lời, thành thử đến khi Quí thi đậu vào trừơng trung học, người ta nói cha có nhiều đất ruộng, con phải đóng tiền cơm tiền học chớ không cho hưởng học bổng, thi Bồi bái Tồn đang lặn hụp trong nợ nần liệu không thể đóng tiền nổi cho Quí học thêm 4 năm nữa, bởi vậy Quí phải dằn lòng ở bồi cho quan Kinh Lý La-Co mà nuôi thân.

(10)

Từ bữa Quí về nhà từ biệt cha mẹ, chị em đăng sáng ngày sau đi theo quan Kinh Lý La-Co lên Sài Gòn tiếp ở bồi với ông, thì Bồi bái Tồn xúc động cực điểm. Con ra đi ông đứng ngoài ngó theo, nước mắt chảy ròng ròng chớ không dặn dò con được một tiếng.

Quí ra lộ bị vướng rào che khuất dạng, ông Bồi lau nước mắt rồi đi thẳng vào trong buồn nằm thiêm thiếp mà tưởng nhớ tới con. Đến ngày nay ông mới nhận thấy tội lỗi của ông, lỗi đạo làm chồng, lỗi đạo làm cha, lỗi với người chết, lỗi với kẻ sống. Nhưng biết lỗi thì đã trễ, mọi việc đều hư hỏng, thì có khóc mà chịu, chớ làm sao mà sửa chữa bây giờ.

Đến chiều cơm dọn ra rồi thằng Sen vô dở mùng kêu cha ra ăn cơm. Ông Tồn nói không đói, ông biểu nó ra ăn với má nó đi. Bà Mùi phải vào mời một lần nữa, cực chẳng đã ông phải ráng ra ăn nữa chén rồi buôn đũa đi uống nước. Ông bước ra lộ đứng ngó mông, ngó cái gò mã trong sở đất hương hỏa nằm ngang nhà, trong gò ấy có mồ của cha mẹ và mồ của vợ trước là má của con Mỹ với thằng Quí nữa. Từ hồi chiều ông buồn rầu đau đớn bây giờ thấy mồ mã vợ, ông thêm hổ thẹn vô cùng. Ông ngồi trên lề đường gục mặt nghiên tai, ông tư tưởng người xưa, rồi dường như ông nghe hỏi: " Tôi chịu cực nhọc, tôi ráng cần kiệm mua thêm ruộng đất để cho mình có đủ huê lợi mà nuôi con ăn học, đến nỗi nó phải đi ở đợ mà nuôi sống?"

Ông Tồn khóc thầm. Ông muốn chết phức cho xong, chết đặng dứt phiền não, chết đăng cuống cữu tuyền tìm cha mẹ và tìm vợ hiền mà chịu lỗi.

Ông khóc một hồi rồi tính kiếm người quen với vợ trước mà đàm đạo, trút bầu cay đắng cho nhẹ bốt nỗi lòng. Ông nhớ vợ Ba Thới là chị em thân thiết với vợ ông hồi trước. Từ năm trước chồng chị ta chết có lẽ cũng buồn như ông bây giờ vậy đi vô thăm chị ta đặng than thở việc nhà cho đỡ đôi chút.

Trời tối đã lâu rồi. Nhưng nhờ mặt trăng đã lên cao nên dọi xuống đường sáng lòa. Ông Tồn chậm rãi đi vô ngã ba Suối Cạn. Thấy trong quán dì Ba Thới cửa chưa đóng, đèn còn sáng trưng, ông mới ghé vào.

Con Hường đương nằm trên quán nói chuyện chơi với mẹ, nó nghe động đất, thì ngóc đầu ngó ra, nó thấy ông Bồi bái Tồn thì lật đật kêu mà nói: " má, có ông Bồi bái vô kìa má".

Dì Ba Thới lòm còm ngồi dậy hỏi: " Có việc gì hay không mà anh vô tối giữ vậy?"

Ông Bồi bái nói: " Tôi thấy trăng sáng nên thả đi chơi một chút, chớ có việc chi đâu"

Dì Ba Thới mời ông ngồi, biểu con đi nấu nước đặng chế trà uống. Ông Bối bước lại cái võng mà nằm. Dì ba nói: " Hồi chiều cháu Quí có vô từ giả mẹ con tôi đạng sớm mai nó lên Sài Gòn với qua Kinh Lý. Tôi cầm ở lại cơm chơi đến gần tối nó mới về. Con Hường tính khuya nó ra cho sớm đăng đón mà đưa cháu Quí lên xe". Ông Bồi nằm êm không nói chi hết.

Dì Ba nói tiếp: " Tội nghiệp quá. Nó đi nó gượng làm vui chớ tôi dòm sắc mật nó biết nó buồn. Mới 16, 17 tuổi mà phải bỏ nhà, bỏ cha bỏ chị, đi lập thân. Mà lập thân lại ở bồi cho Tây, chớ không phải làm nghề gì sang trọng, thì vui làm sao được"

Ông Bồi cũng vẫn lặng thinh.

Dì Ba nói nữa: " Tôi có hỏi nó vậy chớ đi theo quan Kinh Lý như vậy nó tính chừng nào về hay không. Nó nói nó đã kiên quyết bước chưn vào đường đời đặng lội lặn mà lập thân; trời khiến nó đi bao lâu, đi tới đâu tùy ý trời định, nó không biết trước được. Nó nói như vậy, sợ nó không trở về đây. Nó có nói với anh chừng nào nó về hay không?"

Ông Bồi đáp cụt ngủn: " Không"

Dì Ba biết ông đương buồn về gia đạo nên dì không dám nói chuyện Quí nữa.

Hường bưng ra một cái tách với bình trà để trên bàn. Dì Ba bước lại trán tách rót trà rồi mời ông Bồi dậy uống một chút trà nóng ấm bụng.

Bây giờ ông Bồi mới chịu ngồi dậy rồi mạnh mẽ đi lại cái bàn bưng tách trà nóng rót uống một hơi. Hường ngồi trên ghế để dựa tủ kiến đựng bánh mà bán, có ý lóng nghe hai người nói chuyện về Quí đi Sài Gòn. Té ra dì Ba trở mái hỏi:

- Mùa này lúa miệt Càng Long mình đây nghe nói trúng dữ lắm phải hôn anh?

- Trúng.

- Lúa trúng còn vái cho cao giá đặng đỡ khổ cho con nhà làm ruộng, nhứt là mấy ông điền chủ nhỏ.

- Đỡ cho ai, chớ mấy người thiếu hụt đã lấy tiền trước của chành hồi tháng 7 tháng 8 bây giờ phải đong lúa chành theo giá rẽ mạt, bởi vậy có hưởng được giá cao đâu.

- Tại mình lấy tiền trước thì phải chịu, chớ biết làm sao. Năm nay anh có lấy tiền trước của chành hay không?

- Làm sao mà khỏi được. Tôi lấy của Duy Xương 200 tạ, của Kỳ Tường 200 tạ nữa, tới mùa phải cân cho 2 chành hết một ngàn 200 thùng rồi.

- Ruộng của anh cho mướn bao nhiêu lúa?

- Một ngàn 600 thùng.

- Vậy thì còn 400 thùng, làm sao mà đủ trong năm tới.

- Xài mới khỉ họ! Còn mấy mối nợ khác nữa, 400 thùng lúa đó bán không đủ tiền lời, có dư đâu mà tính xài.

- Trời ơi! Vậy rồi làm sao?

- Tới đâu hay tới đó chớ biết làm sao.

- Nguy quá, vậy mà anh không lo, cứ thả đi chơi hoài.

- Nằm nhà nhớ nợ nần không chịu nỗi, nên tôi phải đi cho khuây lãng, chớ có phải tôi mê sa bài bạc đâu dì.

- Anh đi thét càng đỗ nợ thêm nũa chớ.

- Tôi nghĩ lại, nguy đây lỗi tại mẹ thằng Quí hết thảy.

- Chỉ mất đã 13, 14 năm rồi, chỉ có làm hư hại đâu mà anh đổ thừa cho chỉ!

- Thì tại nó chết nó bỏ tôi, nó làm tôi buồn rầu, đi chơi ta bà bậy bạ, nên gia đạo mới rối, nghiệp mới hư đây.

- Thiệt đang làm ăn xẩn xẫn, mua ruộng đất, ra làm làng, ai cũng đoán vợ chồng anh sẽ làm giàu lớn. Thình lình chỉ bỏ anh mà đi theo ông bà, nên mới hư hại. Chớ nếu chỉ sống cho tới bây giờ tôi chắc ruộng đất của anh đã lên tới cả trăm mẫu, con Mỹ đã gã lấy chồng, thằng Quí được học thêm nữa, có đâu phải ra thân ở đợ cho Tây đặng nhờ mãnh áo chén cơm.

- Thôi đừng có nhắc tới thằng Quí nữa, dì ơi! Ừ hồi chiều tới giờ tôi muốn chết phứt cho rồi.

- Anh chết gia đạo của anh càng nguy thêm nữa. Anh phải sống mà lo sắp đặt lại cho yên ổn cho thảnh thơi chớ.

- Sắp đặt cách nào đâu dì nói cho tôi nghe thử coi?

- Tém dẹp cho gọn ghẻ, trả dứt nợ nần còn lại bao nhiêu thì liệu cơm gắp mắm, mỗi năm cứ ngó số thâu mà định xuất, gói ghém cho chặt chịa, làm như vậy thì được chớ gì. Anh mới 50 tuổi, chưa gìa gì lắm, anh còn đủ ngày giờ mà sắp đặt việc nhà lại đặng hưởng thảnh thơi sung sướng với người ta. Kìa ông cả Đồng ổn có một mẫu ruộng với một mẫu trên giồng, mà ổng khéo lo nên ruộng đủ lúa ăn, giồng có huê lợi, đủ đi chợ, quanh năm ổng thong thả vô cùng. Anh có tới hai ba mẫu giồng lại thêm gần 50 mẫu ruộng lẽ thì anh phải dư dả, phải ra mặt " người có cơm tiền", tại sao mà anh phải thiếu hụt đến mang nợ mang nần? Anh phải suy xét lại tại duyên có nào mà làm cho việc nhà anh phải suy sụp. Hễ tìm ra mối hại anh phải dẹp phứt nó đi, thì tự nhiên anh hưng vượng lại có gì đâu.

Ông Bồi Tồn bỏ đi lại võng nằm nữa, nằm nín khe. Dì Ba Thới nói chuyện thì ông ừ hử vần chừng, ông không muốn nói ông cũng không muốn nghe. Cả một hồi, ông đứng dậy từ giả mẹ con dì Ba Thới mà về.

Mẹ con Ba Mùi đã ngủ rồi, duy con Mỹ còn ngồi vá áo để cửa mở coi cha có về thì vô.

Ông Bồi về nhà, không dám ngó con; ông đóng cửa lại rồi xâm xâm đi lại cái giường của thằng Quí ngủ hồi trưa mà nằm.

Con Mỹ vá áo rồi, thấy cha nằm im lìm, trông cha đã an giấc nên nó dẹp đèn đi ngủ.

Ông Bồi Tồn có ngủ được đâu. Ông nằm lim dim trong trí cứ nhớ hình dáng Quí hồi chiều, bên tai cứ nghe những lời của dì Ba Thới nói hồi nãy.

Thình lình giữa đêm khuya vắng vẽ, có một chiếc thuyền đi dưới rạch phía sau vườn, chéo bỏ mái nghe rột rạt, rồi lại có người lại cất tiếng lên mà hát:

Mẹ còn gót đỏ như son.

Từ khi mẹ mất, gót con mới đẫm bùn.

Câu hát ác liệt quá! Ông Bồi đương buồn tủi, nó còn gợi mạch sầu, làm cho nước mắt ông tuôn ra dầm dề.

Đến khuya ông thấy con Mỹ thức dậy sớm rữa mặt thay đồ, rồi trời hừng sáng nó mở cửa nhè nhẹ mà đi. Ông thường nhớ bữa mặt trời mọc một lát rồi Mỹ mới đi chợ. Bữa nay nó đi sớm, chắc là nó ra chợ đặng đưa em nó lên xe. Ông Bồi muốn đi, ông đã ngồi dậy, mà rồi ông nghĩ gặp con nữa ông phải nói chuyện gì; thấy mặt con ông càng thêm tủi nhục, càng thêm thẹn thùa, chớ không có ích chi hết. Nghĩ như vậy rồi ông nằm lại, gác tay qua trán, nước mắt vẫn chảy hoài.

Chừng Mỹ đi chợ về, mẹ con Ba Mùi mới thức dậy. Bây giờ ông Bồi mới đi rữa mặt rồi đi luôn ra sau vườn coi chú Tiền làm cỏ. Ngồi lại ăn cơm, Ba Mùi thấy ông sắc mặt dầu dầu, không muốn nói chuyện, không ngó vợ con, chị ta biết chồng buồn vì sự Quí đi, nên chị ta không dám nhắc tới. Ăn cơm xong rồi ông Bồi kiếm chỗ mà nằm nữa, không tính đạo xe đi chơi như thường bữa. Ba Mùi thấy vậy chị ta cũng không dám đi.

Mấy bữa sau ông Bồi cũng lục đục ở nhà hoài, không muốn đi đâu hết. Nhịn bài tới năm sáu bữa Ba Mùi chịu không nỗi nữa, nên ăn cơm rồi chị ta làm gan lấy dù mà đi. Ông Bồi ngó thấy, nhưng ông không nói gì hết.

Bữa sau, lối nữa buổi sớm mai, có ông Hương sư Bền ở Mỹ Trường ghé nhà thăm ông Bồi bái Tồn. Hai ông nói chuyện mùa màng, hỏi thăm ấm lạnh, rồi Hương sư Bền mới hỏi qua việc nhà của Bồi bái Tồn. Ông hỏi ông Bồi được mấy người con, người nào được bao nhiêu tuổi. Ông Bồi tỏ thiệt người vợ trong đã mất có để lại cho ông con Mỹ là gái đầu lòng năm nay được 19 tuổi, với đứa con trai mới 17 tuổi. Ông chấp nối với người sau đó sanh thêm một trai đã được 9 tuổi.

Ông Hương sư Nhiều mới nói ngay ra rằng thầy giáo Lễ, dạy tại trừong Giồng Ké, cậy ông đến muốn tỏ ý cầu thân hỏi thăm tuổi của Mỹ và xin định ngày cho xuống coi mắt.

Ông Bồi suy nghĩ rồi khiêm nhượng nói Mỹ còn khờ khạo, phần thì mồ côi mẹ sớm quá nên thiếu bề dạy dỗ, bởi vậy sợ lấy chồng sợ làm dâu không kham.

Ông Hương sư nói Giáo Đỗ mới 22 tuổi vốn là con út của thầy Bang biện Sung ở trên Vũng Liêm. Cha đã mất mấy năm nay rồi, bây giờ còn mẹ già ở giữ nhà thờ, bà là một người hiền đức nên làm dâu không khó gì. Huống chi giáo Lễ đi dạy học hễ cưới vợ thì dắt vợ theo đặng lo cơm nước, có để vợ ở nhà đâu mà sợ vợ làm dâu.

Hai ông bàn cãi một hồi rồi thỏa thuận bửa sớm mơi chúa nhật sắp tới đây ông Hương sư sẽ đem mẹ con thầy giáo Lễ xuống coi con Mỹ, xuống coi một chút rồi về, khỏi đãi cơm nước chi hết.

Ông Hường sư Bền về rồi, chừng vợ chồng ông Bồi ngồi ăn cơm với hai con. Ba Mùi mới hỏi khách Mỹ Trường đến tính việc chi mà nói lâu dữ vậy. Ông Bồi cho hay Giáo Lễ dạy trừơng giồng Ké, cậy ông Hường sư Bền làm mai xin cưới con Mỹ, hẹn chúa nhựt này giắt mẹ con giáo Lễ xuống coi mắt con Mỹ. Ông dặn vợ phải sắp đặt đặng bữa đó tiếp khách cho đàng hoàng và dặn con phải bận áo quần sạch sẽ đặng ra chào khách.

Ba Mùi nghe nói chồng coi con Mỹ thì than: " Cha chả ông gã con Mỹ thì cụt tay, còn ai lo cơm nước, ai coi sóc trong nhà nữa?"

Ông Bồi Bái nỗi giận nên trợn mắt nói lớn: "Tính bắt nó làm mọi mãn đời hay sao? Con gái hễ tới tuổi người ta muốn cưới nếu mình coi phải chỗ thì gã cho nó có đôi bạn mà làm ăn. Nếu mình tham công tiếc việc không chịu gả, để nó lỡ thời rồi vác bán chi ai được?"

Vợ chồng ở với nhau hơn 10 năm, ông Bồi mới nồ nạt lần thứ nhứt. Nhưng mà Ba Mùi không nao núng: chị ta xụ mặt mà đáp liền: " Tôi nói chuyện mà nghe chớ con ông, muốn gã chừng nào, gả cho ai ông gã. Tôi đâu dám cản trở".

Ông Bồi nghe ba tiếng "con của ông", thì ông châu mày trong lòng phiền lắm, nhưng nếu nói ra thì có chuyện sẽ rắc rối, mà không có chỗ hay, bởi vậy ông liếc mắc ngó con Mỹ rồi ăn riết cho mau hết chén cơm đặng đứng dậy mà đi cho khuây lãng.

Tuy Ba Mùi cự nự, song gần tới chúa nhựt chị ta cũng biểu chú Tiền dọn dẹp, lau chùi trong nhà, quét hốt ngoài sân, đâu đó đều sạch sẽ. Chị ta cũng lo sắp đạt trầu nước, coi sữa soạn cho Mỹ, nên bữa Hương sư Bền dắt mẹ con thầy giáo Lễ đến nhà thì Mỹ bưng trầu bưng nước ra mời khách đàng hoàng, không lầm lỗi chỗ nào cho người ta có thể chê được.

Chừng khách về, ông Bồi đưa ra tới cửa ngõ thì ông Hương sư đứng lại nói nhõ với ông Bồi: "Để thầy giáo về tính lại với bà Bang coi sao rồi tôi sẽ trả lời".

Ông Bồi gật đầu. Ba người khách lên xe ngựa mà về.

Ông Bồi đi chậm rãi về nhà, ông thầm nghĩ thầy giáo Lễ tướng mạo nhu mì, con bà Bang biện, nói chuyện hòa nhã; nếu người ta xin cho bước tới thì mình gã cũng được. Ngặt hễ chịu gả thì phải sắm đồ đạc cho con, phải lo làm đám cưới, tốn hao đến một hai ngàn coi mới được. Tiền ở đâu?. . .

11)

Chồng đến coi con Mỹ làm cho ông Bồi Tồn phải bối rối mấy bữa rày. Ông bỏ dẹp hết cuộc bài bạc và đá gà; ông cũng tạm quên đi việc Quí theo ở bồi cho quan Kinh Lý; ông chú ý về sự gã con Mỹ cho thầy giáo Lễ đặng cho nó khoẻ tấm thân.

Gã con lấy chồng thế nào cũng phải tốn một hai ngàn. Chớ làm xập xệ coi sao được. Mình mắc nợ thì mình biết, chớ thiên hạ ai cũng biết mình là một vị điền chủ, một người có cơm tiền. Vậy mình phải may thêm quần áo, sắm mùng mền cho con. Dầu mình có đòi áo đòi nữ trang, đòi tiền đồng đi nữa, mình cũng phải sắm thêm cho con chút đỉnh vàng, đặng nó đeo về nhà chồng cho đỡ thẹn, với chị em bên chồng. Nội việc sửa soạn cho con đã thấy tốn cả ngàn rồi. Mà mấy năm nay con Mỹ cực khổ hết sức, ngày lấy chồng mình tốn với nó một ngàn không đáng hay sao? Đáng lắm. Dầu nó không có công lao gì trong nhà này, khi nó lấy chồng, mình là cha mình cũng phải lo, phải cho nó tiền không được phép tiếc với con.

Còn làm đám cưới, mình là điền chủ, lại làm tới chức Bồi bái trong làng, thế nào gã con mình cũng phải nhóm họ, phải mời hương chức Mỹ Huê Mỹ trường, An Trường là những người mình thù tạc thuở nay: nếu không mời đủ chắc người ta phiền trách. Mời đủ thì phải mua một con bò với vài con heo. Mặc dầu được thiệp mời đám cưới thì khách thường đi là rượu, bạc tiền, lại hễ đánh bài hốt me thì chủ nhà lấy tiền xâu nữa, nhưng mà cũng phải dự phòng một ngàn mới đủ mua bò, heo, đồ nấu bánh trái, rượu trà.

Ây vậy dẫu tiện ăn, làm gọn ghẽ thế nào, cũng phải có hai ngàn đồng mới đủ.

Làm sao mà có? Lúc cho mướn ruộng mùa này, mình phải bạc trước của hai chành, mình phải cân lúa cho họ mà trừ, còn dư có ba bốn trăn thùng, đủ ăn tết là may, dầu lúa có giá mình bán cũng không được một số tiền lớn.

Ngày đó ông Bồi cứ đi ra đi vô mà tính hoài, tính coi phải làm cách nào cho có tiền. Mắc nợ đã sáu bảy ngàn rồi, bây giờ vay nữa ai dám cho thêm. Mà dầu họ cho vay thêm, rồi mình lấy chi mà trả. Số vay thêm lớn thì số tiền lời cũng thêm nhiều. Số lúa cho mướn ruộng không tới hai ngàn thùng, theo giá lúa hiện thời bàn hết bán hết cũng chưa đũ tiền trả lời, có đâu trả vốn cho được.

Đến trưa ông nằm vác tay qua trán mà tính nữa. Ông sực nhớ mấy lời của dì Ba Thới nói đêm nọ, ông mỉm cười châu mày. Dì Ba Thới khuyên nên tém dẹp cho gọn ghẽ, nên trả dứt nợ nần, rối còn lại bao nhiêu thì liệu cơm gắp mắm cho khỏi cực lòng nhọc trí. Tám dẹp bằng cách nào? Chỉ có cách bán ruộng mà trả dứt nợ. Mười hai mẫu ruộng không thể bán được. Có bán thì hoặc bán 13 mẫu của cha mẹ cho đứng hộ hồi trước, hoặc bán 25 mẫu của má con Mỹ dàng dụm có tiền mà mua sau.

Cha chả, mà bán 13 mẫu của cha mẹ mua cho thì uổng vì ruộng tốt, còn bán 25 mẫu của vợ xúi mua thì tủi hổ với người khuất mặt quá, làm sao mà bán cho đành.

Tuy ông Bồi tiếc sự nghiệp nên viện nhiều lẽ mà bác lời khuyên của dì Ba Thới, song mấy ngày sau ông suy nghĩ tới xét lui thì chỉ có cách bán ruộng mới giải nguy.

Một buổi sáng sớm ông cởi xe máy vô giồng thăm vợ chồng Sáu Thị đã có mướn ruộng mặt của ông làm 3 năm mới mãn hạn, mùa rồi đã quen biết nhau nên dễ nói chuyện, ông ướm thử coi Sáu Thị muốn mua ruộng của ông hay không. Sáu Thị hỏi phần ruộng nào, bán giá bao nhiêu. Ông nói trong hai phần, một phần 13 mẫu ở Mỹ Huê và một phần 25 mẫu ở Mỹ Trường, muốn mua phần nào cũng được, nhưng phần nào cũng tính mỗi mẫu 600 đồng ông mới bán. Sáu thị chê mắc, tỏ ý muốn mua sở 25 mẫu cho gần đất của anh ta, nhưng nói nếu tính giá 400 đồng mỗi mẫu thì mới dám mua, chớ giá cao hơn nữa thì không mua nỗi. Ông Bồi nói lúa cao giá, tự nhiên đất phải bắt giá lên cao. Ông khuyên hãy suy nghĩ lại, nếu không chịu mua theo gía ông định thì ông sẽ bán cho bà Chánh Bái vì bà cũng đương kiếm ruộng mà mua.

Ông Bồi biết thế nào sáu Thị cũng phải trả thêm, nên ông về nhà tính nằm chờ, vì bán ruộng đất chớ không phải bán cá tôm mà vội lắm.

Cách mấy bữa Sáu Thị ra trả 450 đồng một mẫu. . ông bồi không chịu cứ đòi 600.

Ông Hương sư Bền nhơn dịp ra chơi ghé thăm ông Bồi. Ông nói mẹ con thầy giáo Lễ đi coi con Mỹ, thì mẹ con đều ưng bụng lắm nhưng đợi ít bữa kiếm thầy coi tuổi rồi sẽ nhứt định.

Cái tin ấy thúc dục ông Bồi phải quyết bán ruộng, không nên tiếc. Ông tính nếu bán với giá 450 đồng thì sở nhỏ được có 5. 850, không đủ trả nợ, còn sở lớn được 11. 250 đồng, trả nợ rồi còn dư được ít ngàn. Ông mới quyết bán sở lớn, đặng có dư tiền mà lo gã con lấy chồng. Nhưng ông cũng phải ráng nài thêm đặng bán cho được cao gía, cao nhiều mới khỏi tiếc.

Chờ hết mấy ngày mà không thấy Sáu Thị ra trả thêm, ông phải mò vô mà nói dối, sỡ ruộng 25 mẫu có bà chủ Tư trả 13 ngàn rồi, nếu không ông sẽ bán cho bà chủ Tư, Sáu Thị mới làm giàu nên phải mua ruộng, nghe như vậy sợ người ta giành, nên ráng trả lên tới 12. 300 đồng thành mỗi mẫu hơn 550 đồng, bởi vậy ông Bồi chịu bán. Hai đàng hẹn ngày rồi đi với nhau ra làng làm giấy tờ và chồng tiền bạc.

Ông Bồi nghĩ sở ruộng này hồi trước ông mua có 8000. hưởng huê lợi 10 năm, bây giờ ông bán 13. 200 đồng, thì lời 5. 200 đồng quá sướng, không có hại mà tiếc. Ông trả nợ nần dứt hết rồi, còn dư đến 5 ngàn, hết lo không tiền mà làm đám cưới cho tử tế.

Ông Bồi bán ruộng mà trả nợ, ông giấu kín không cho ai biết, nhứt là ông không nói cho vợ con trong nhà hay. Nhưng vì phải ra làng làm giấy tờ, tự nhiên xóm làng đều hay biết, làm sao mà giấu cho nhẹm.

Ba Mùi thấy chồng tuy không thèm đi đánh bài và đá gà nữa, song chị ta đi mấy lần, chồng chẳng chẳng hề ngăn cản hay rầy rà. Chị ta được trớn nên trở lại thói quen. Bây giờ bữa nào ăn cơm sớm mơi rồi cũng che dù mà đi, khi đi ra chợ, khi đi vô giồng.

Ông Bồi mắc buồn về việc nợ, bởi vậy Ba Mùi đi hay về ông không thèm hỏi tới, dường như ông ngán con người đã gieo cái buồn với cái lo cho ông ngày nay. Tuy không nói ra, song thấy mặt vợ thì ông lạnh ngắt trong lòng, vì vợ mà con ông phải đi ở bồi, ruộng ông phải về tay người khác.

Nay ông đã tém dẹp nợ nần xong rồi, ông quyết chủ tâm lo cho con, lo tổ chức đời sống mới cho thân ông được yên, trí ông được khỏe, vợ ông muốn bà ta tự ý, ông không ngăn cản làm chi.

Ba Mùi đánh bài ít bữa rồi tự nhiên hay việc ông Bồi bàn 25 mẫu đất trong Mỹ Trường cho Sáu Thị, bán khá giá quá, bán được tới 13. 200 đồng. Ông trả dứt nợ nần rồi, bây giờ ông thảnh thơi lắm.

Tối lại Ba Mùi thỏ thẻ với chồng:

- Người ta nói ông bán sở ruộng Mỹ Trường rồi phải hôn?

- Bán rồi.

- Sao lại bán?

- Mắc nợ lấp đầu, phải bán mà trả nợ chớ sao.

- Bán rồi còn đủ huê lợi đâu mà xây xài?

- Không đủ thì nhịn đói, chớ để ruộng mà con trai tôi phài đi ở đợ con gái tôi phải cực khổ lang thang thì để ruộng làm gì.

Ba Mùi khôn ngoan, nghe hơi hám thì biết ông chồng bắt đầu hối hận về cuộc vợ chồng; nếu mình kiếm lời mà chữa lỗi, sợ e sanh sự cãi vả rồi rầy rà; chi bằng ẩn núp cho qua luồng giông gió rồi sẽ yên tịnh lại. Chị ta lặng thinh bỏ đi ngủ đặng chấm dứt câu chuyện cho êm.

Cách chừng nữa tháng, ông hương sư Bến ghé nhà thăm ông Bồi bái Tồn lần nữa. Ông Bồi bây giờ có sẵn bạc tiền, ông muốn gã con phứt cho rồi. Ông cho Hương sư gạ chuyện làm mai ra nói đặng ông ừ mà chịu gả. Té ra ông hương sư cứ kiếm chuyện khác mà nói dông dài, hỏi ông Bồi lúc này có chọi gà hay không, tiếc ông Bồi bán sở ruộng Mỹ Trường uổng quá.

Ông Bồi bực trí nên phải hỏi thầy giáo Lễ xuống coi con Mỹ bộ thầy chê hay sao mà đã gần hai tháng rồi mà không thấy nói gì hết.

Hương sư Bền dụ dự một chút rồi mới đáp:

- Không. Thầy giáo chịu lắm, chớ có chê đâu. Ngặt coi tuổi không được; thầy coi mạng số họ nói hai tuổi sung khắc, không thể ở đời đời với nhau được, bởi vậy hai mẹ con thầy giáo mới dội, không dám bước tới.

- Sao không cho tôi hay trước, để bữa hổm có Ông Cả dưới Dừa Đỏ xin phép cho vợ chồng ổng lên coi mắt, tôi sợ mích lòng anh em tôi từ.

- Thầy giáo Lễ mới trả lời với tôi hai bữa rày đây. Sẵn dịp đi chợ tôi cho ông hay liền. Tôi biết ngoài này cõ lẽ ông trông tôi. Thôi, không được tuổi thì chẳng nên gã bướng. Tôi sợ sau vợ chồng cắn đắng làm buồn cho đôi bên, nên tôi không dám đốc vô.

Ông Bồi thất vọng, ông lửng lơ, không muốn nói chuyện nữa.

Chừng ông Hương sư về rồi, ông Bồi suy nghĩ ông phát nghi mẹ con Giáo Lễ muốn cưới con Mỹ là tại nghe mình có ruộng đất nhiều. Bây giờ hay mình mắc nợ nên họ thối lui. Đó là do thường tình của thiên hạ nên sanh nghi mà thôi, chớ không có bằng cớ chắc chắn. Trong ít ngày lại nghe thầy giáo Lễ đã nói con gái Sáu thị trong giồng rồi, cũng ông Hương sư Bền làm mai. Bây giờ có đủ bằng cớ chắc chắn, mẹ con giáo Lễ ham giàu, bởi vì vợ chồng Sáu Thị chỉ có một đứa con đó mà thôi, con đó cũng đồng một tuổi với con Mỹ, mà vợ chồng Sáu Thị đã đứng bộ tới 80 mẫu ruộng, lại còn đương kiếm thêm nữa.

Ông Bồi bái Tồn đương buồn rầu về việc nhà, bây giờ ông còn ghét thế thái nhơn tình hơn nữa, bởi vậy ông chán nản cực điểm, không còn biết vui vẻ với ai hết nữa. Ông ngó cảnh đời, ông chỉ thấy dơ dáy, tối tăm thấp hèn gian xảo. Người vợ là quả báo, sắp con là nợ trần, con người phải sống mà chuộc quả báo và trả nợ trần, chớ đừng tưởng sống để hưởng hạnh phúc gia đình, hạnh phúc ấy là hạnh phúc ảo mộng mà thôi, không bao giờ có thiệt.

Đến nước này còn ngại gì nữa mà không dám nhìn ngay vào khoảng đời ông vừa mới đi qua. Ông ăn ở với người vợ trước là Thị Tánh trót 16 năm, ông không biết hạnh phúc là cái gì, nhưng mà ông phải công nhận ông rất thong thả, khoẻ khoắn. Ông cũng chấm dứt bài bạc, đá gà như người ta, mà dầu ăn dầu thua ông cũng khỏi lo, vì mọi việc trong nhà đều có người vợ thế lo cho ông, năm nào rủi ông có thua năm ba trăm, thì nhờ sụ cần kiệm khéo khôn của vợ nên có tiền châm vô khỏi thiếu hụt, khỏi mắc nợ. Vợ thâu góp lúa ruộng dành dụm thế nào ông không biết tới, mà ông làm làng vúa vắc vui chơi cũng mua thêm được 25 mẫu ruộng. Tuy ông cũng ham chơi như ai, nhưng về nhà ông thấy người vợ cần kiệm chắt mót từ đồng, ông không nỡ buông tay, ông thấy hai con thỏ thẻ dễ thương ông không đành luông tuồng bỏ nhà bỏ cửa.

Ngày vợ ông chết, ông không mắc nợ, mà trong nhà lại có vốn được vài ngàn. Chớ chi ông ở một mình mà nuôi con, đừng thèm cưới Thị Mùi thì dầu ông không biết cần kiệm như vợ trước mỗi năm ông có mướn 50 mẫu ruộng nhà để lấy huê lợi mà nuôi con, thì con Mỹ đâu đến nỗi cực khổ lang thang, thằng Quí đâu đến nỗi không có tiền ăn học đến phải ra thân ở đợ.

Tại cưới Thị Mùi nên mới sinh họa, mới chơi bời luông tuồng mà đổ nợ nên phải bán sở ruộng của người vợ trước phí mồ hôi, hơi mệt, mới tạo ra được mà để lại cho chồng con.

Bây giờ mới nhận thấy:

Làm người chớ tưởng nên người dễ

Hưởng nghiệp đừng quên lập nghiệp gay.

(12)

Ông Bồi bái Tồn ở trong nhà thấy con ông buồn tủi, thấy vợ ông ưu phiền, ra ngoài đường gặp bạn làm làng, ông nghi người ta chê ông hèn hạ, có con không cho học, để cho ở đợ đặng ủi áo đánh giầy cho người ta, thấy mấy điền chủ ông sợ người ta cười ông sa mê vợ nhỏ nên suy sụp đến bán ruộng bán đất.

Ông buồn rầu mà cứ ôm ấp trong lòng, không than thở với ai được, thành thử ông chán nản, hết ham muốn hết biết vui. Ông vướng một chứng bịnh trầm trệ mà ngầm ngầm, là bịnh tâm thần bịnh trí não.

Chớ chi ông có một người vợ hiền lành sáng suốt, hoặc có một người bạn thành thật thương yêu, biết tâm bịnh của ông bình tĩnh, làm cho tinh thần của ông phục hưng, thì có lẽ lần lần nguôi ngoai ông hết bịnh mà vui sống với đời như thiên hạ.

Ông mới quá 50 tuổi, sức khỏe chưa giảm suy, ruộng còn 25 mẫu, huê lợi mỗi năm có thể giúp cho nhà ông không dư dả, song cũng ấm no. Nếu ông biết sửa cảng đời của ông lại, bỏ dẹp cái quá vãng vì lầm lạc nên sanh buồn, rồi ông xây dụng cái tương lại khác hẳn, cái tương lai thiếu rực rỡ mà đầy ấm êm, thì khoảng đời sau chót của ông sẽ được vui vẻ thảnh thơi hơn muôn ngàn người khác.

Ngặt cô Ba Mùi dốt nát ngu muội, giỏi nghề đánh bài tứ sắc, chớ không biết tâm lý, không hiểu đạo làm người vợ hiền. Cô biết xô đẩy cho chồng hư nhà sạt nghiệp, chớ không biết chồng mang tâm bịnh, mà dầu có biết đi chăng nữa cô cũng chẳng biết làm sao mà cứu chữa.

Còn anh em quen biết ở trong làng trong xóm, thì ai cũng mắc tứ sắc hoặc mắc đá gà, họ lo cho phận họ còn không kham, họ có cần gì phải lo Bồi Tồn hay lo cho người nào khác. Ai giỏi mặc ai, miễn gà của họ ăn độ thì họ vui mừng. Ai suy sụp thì mặc ai, miễn họ có tiền mà ngồi sòng thì họ thỏa mãn.

Chỉ có Dì Ba Thới là người hay lưu tâm dòm ngó đạo nhà ông Bồi, mà mỗi lần ông ghé thăm thì dì cứ phiền trách ông, phiền ông không ngó ngàng đến hai con, trách ông để cho Ba Mùi rũ quến mà mê sa bài bạc. Người đó có thể chữa tâm bịnh cho ông được, ngặt cứ theo phiền trách ông hoài, mà phiền trách nhằm lý, bởi vậy ông vừa hổ thẹn, vừa kiên nể nên ông không dám đến mà phân trần nỗi lòng đau khổ của ông.

Chớ chi ông Bồi Tồn ở một mình trong cù lao giữa biển cả, không gặp người, không nói chuyện, thì có lẽ ông vùi lấp được nỗi lòng vào cảng trời nước mênh mông. Ngặt ông ở giữa xóm giữa làng, chung quanh ông ai cũng vui chơi, nhiều người nghèo khổ hơn ông mà họ vẫn tươi cười, có người thua khiếm nặng hơn ông nữa mà họ cũng không nao núng.

Chung chạ với đám người giàu cũng ăn chơi, nghèo cũng ăn chơi, tốt cũng vui cười, xấu cũng vui cười, lâu ngày chày tháng rồi không khí cũng cảm nhiễm, thời gian kéo lôi, lần lần ông không thèm kể quấy phải làm chi, ông chập chủm làm theo người ta, trở vào lối cũ mà tìm thú xưa, ban đầu ông còn bợ ngợ ngại ngùng, riết rồi ông bước mạnh tiến sâu, ngày nào ông cũng đi chơi như hồi trước.

Ba Mùi không dè chồng mượn vui chơi mà chôn lấp nỗi buồn, thấy chồng trở lại lối cũ đường xưa thì chị ta mừng thầm, mừng vợ chồng đồng bịnh đồng thuyền cho khỏi ai trách ai mà làm xào xáo gia đạo.

Sẵn có năm ngàn đồng bạc trả nợ còn dư, ông mua hàng mướn cho con Mỹ vài quần sắm cho nó được một đôi bông tai với một chiếc vàng chạm, còn bao nhiêu ông cất riêng để dành xuất phát trong nhà và bỏ túi đi chơi, không cho Ba Mùi biết tới.

Mãn mùa gà rồi, ông kiểm điểm tiền bạc lại, thì vừa ăn xài vừa đi chơi, ông chỉ hao có 300, mà số lúa ruộng mùa rồi ông còn nguyên tám trăm thùng ông gởi ngoài ông chành ông chưa bán. Cứ theo cái đà đó ông tiếp tục chơi đặng giải buồn, thì không hại gì mà phải lo ngại. Chỉ có nhiều đêm ông nằm êm, ông nhớ tới con Mỹ chưa có chồng, với thằng Quí đi đã hơn một năm rồi mà nó bặt tin, không gởi thơ từ cho biết nó ở đâu.

Nhờ có đánh bài với đá gà mà ông Bồi Tồn quên hối hận về sự phối hiệp với Ba Mùi, và cũng nguôi được sự bán ruộng mà trả nợ. Còn số phận của Mỹ với Quí, là di tích của người vợ hiền hồi xưa, hễ ông nhớ tới thì ông bát ngát trong lòng, ông khó chịu hết sức.

Trót mấy năm sau đó, ông muốn gỡ luôn hai mối sầu đó cho nhẹ bớt nỗi lòng, ông vùi thân vào chốn đỏ đen, tính cậy bài bạc với gà chữa cái tâm bịnh nó cứ theo cắn rứt ruột gan ông mãi. Ông chơi quá độ tự nhiên phải thâm thủng thua hết số bạc để dành trong nhà rồi ông tức giận nên vai mượn thêm để theo gỡ số thua. Chẳng dè sòng này sang sòng khác, bạc trước hụ bạc sau, bán ruộng được năm năm rồi bây giờ ông mắc nợ khác, số vốn đà lên tới bốn ngàn nữa, huê lợi ruộng không đủ mà trả tiền lời.

Ông Bồi Tồn ngó lại sau lưng ông thấy buồn hiu, còn ngó tới trước mặt ông thấy tối tăm mù mịt. Ông không chán nản như năm trước,bây giờ sức ông đã yếu nên ông bắt lo sợ,như người đi lạc trong chốn núi non,tình cờ gặp một hố sâu thăm thẳm cản ngang trước mặt,bước tới nữa thì phải chết,thối lui thì không có đường. Vì lo sợ quá nên ông bịnh.

Bịnh của ông Bồi Tồn lần này không phải là bịnh tinh thần như lần trước, ông bịnh từ đầu óc cho tới ruột gan, rồi buồn nỗi con, sợ nghèo cực, phụ thêm vô mà vật ông ngã quị, làm cho ông khi nóng khi lạnh,l úc mê lúc tỉnh.

Ba Mùi lo sợ lăng xăng, rước thầy hốt thuốc, ép ông ráng ăn cơm cháo sao cho mau mạnh, xin ông ráng sống với vợ yếu con thơ. Thiệt Ba Mùi tận tuỵ nuôi chồng, nhưng vì hoặc mạng số của bịnh nhân đã gần cùng, hoặc lương y không giỏi, định chứng không nhằm, nên thuốc càng uống bịnh càng thêm trầm trọng.

Dì Ba Thới nghe ông Bồi bái Tồn đau nặng dì lật đật ra mà thăm. Ông Bồi Tồn nhướng mắt thấy dì Ba là bạn thân của vợ ông ngày trước,thì ông đưa tay ngoắc lại gần,rồi dường như ông muốn dặn dò việc chi, nhưng ông mệt mỏi quá nói không được, ông cứ lắc đầu chảy nước mắt.

Đêm đó ông Bồi Tồn làm xung rồi tắt hơi trên tay con Mỹ, nó ngồi trên giường ôm cha mà khóc kể, nghe rất thảm thiết đau thương.

Ông Bồi Tồn chết trong nhà không có tới một trăm đồng bạc. Ba Mùi phải chạy đi quơ mượn, lại nhờ làng xóm tiếp giúp và điếu bái, nên đám ma của ông cũng được ấm cúng, ông cũng được nằm một bên với người vợ trước, phía dưới chưn mồ cha mẹ mà yên giấc ngàn thu.

Chôn cất ông Bồi xong rồi, Ba Mùi biết chồng có vay bạc của bà Chủ Tư trong ấp 8, mỗi năm cứ nhập lời thay giấy, nên không biết chắc số là bao nhiêu. Chị ta làm lơ giả như không biết.

Đến ngày đến thàng bà Chủ Tư ra mà đòi. Bà nói rõ theo giấy nợ thì số vốn là 4 ngàn với tiền lời 8 trăm nữa, cộng hết là bốn ngàn tám.

Ba Mùi than ông Bồi mất ông để lại không tới một trăm đồng bạc, bây giờ biết lấy chi mà trả nợ cho ông.

Bà Chủ Tư phải vào đơn tại Toà Hộ mà kiện rồi thi hành phát mãi sở ruộng 13 mẫu của ông Bồi đứng bộ tại Mỹ Huê, vì sở 12 là ruộng hương hoả, còn nhà là nhà thờ bà thi hành không được.

Nhờ vậy mà nẹ con Ba Mùi với con Mỹ còn nhà mà ở, còn 12 mẫu ruộng cho mướn lấy huê lợi mà đánh bài.

Từ đây Ba Mùi ăn chơi tuy không dám liều lĩnh như trước kia, song chị ta cũng được sống với cảnh đời thảnh thơi, việc cơm nước có con Mỹ gồm lo, việc nặng nhẹ trong nhà có chú Tiền bao hết.

Tieu Thuyet Một Ðời Tài Sắc Hồ Biểu Chánh Chương 1-4

-T+

Chương 1

Năm 1929 tháng Juillet.

Mưa dầm dề luôn mấy ngày, rồi một buổi chiều sớm mơi, bầu trời thanh bạch, mặt trời ló ra chói nắng sáng lòa.

Cây cối bị ướt loi ngoi mấy bữa, nay gặp nắng lại, giũ lá phơi ngành, trổ bông đâm tược, từ ngoài ruộng vô tới trong vườn, khoe một màu xanh lặc lìa, coi thiệt là khỏe mắt.

Ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp, nhà ở làng Phú Lợi gần chợ Cái Tắc, thuộc tỉnh Cần Thơ, có tánh hay trồng bông trồng kiểng; mấy bữa rày bị mưa, ông không chăm sóc kiểng vật của ông được, nay thấy trời nắng, ông mới bước ra sân. Con gái lớn của ông là Võ Thị Xuân Hương, 18 tuổi, học trên Sài Gòn, thi đậu, ông mới rước về, cô cũng đi theo ông ra ngoài sân mà thăm hoa xem kiểng. Ông hội đồng tay cầm cái kéo nhỏ, đi vòng theo mấy chậu bùm sụm, quít tàu, càng thăng mà hớt đọt bắt sâu. Cô Xuân Hương thì đi dài theo mấy liếp bông hường, lo chỏi mấy nhánh bị mưa oằn, gặp cái bông nào tốt thì cô cầm mà coi, mặt gần bông, bông giọi mặt. Mặt càng đẹp, bông càng xinh.

Thình lình nghe có tiếng xe hơi ồ ồ ở xa chạy lại, tới ngang cửa, xe chạy chậm rồi quanh vô sân. Ông hội đồng ngó ra rồi nói với con rằng: „Xe nầy của ông Cai Tổng bên Thạnh Hòa mà".

Xe ngừng giữa sân, hai vợ chồng ông Cai Tổng Hà Thiện Bình leo xuống. Ông hội đồng bước tới chào mừng. Cô Xuân Hương cũng lại gần chấp tay cúi đầu thi lễ.

Bà Cai Tổng Bình ngó cô Xuân Hương và hỏi rằng:

- Bày trẻ ở nhà coi nhựt trình nói con thi đậu bằng cấp gì đó rồi phải hôn?

- Dạ thưa phải. Con thi đậu „Brevet Élémentaire".

- Giỏi à! Bác nghe nói nên lật đật qua đây mà mừng cho con. Thằng Ý ở bên Tây nó cũng đậu Tú Tài kỳ nhì rồi, nó mới đánh dây thép về hôm qua. Có má con ở nhà hôn?

- Thưa có.

Ông Cai Tổng Bình tiếp hỏi Xuân Hương rằng:

- Con đậu „Brevet Elémentaire" rồi con tính đi học nữa hay là thôi?

- Thưa, con tính xin với má cho con học thêm ít năm nữa đặng thi „Brevet Supérieur".

- Được a. Con học được thì học luôn cho đến cùng. Thằng Ý đậu Tú Tài rồi nó tính học luật. Học luật phải học 3 năm nữa mới được Cử Nhơn.

Ông Hội đồng Nghiệp mời khách vô nhà. Bà hội đồng nghe nói có hai vợ chồng ông Cai Tổng Bình qua thì bước ra cửa mà tiếp chào.

Ông Cai Tổng Hà Thiện Bình, nhà ở làng Thạnh Hòa, thuộc tỉnh Rạch Giá dựa bên cái lộ mới Long Xuyên - Rạch Giá kêu là lộ Cái Sắn.

Ông Cai Tổng với ông Hội đồng Nghiệp vốn là bạn đồng hương, hai người hồi nhỏ ở Thục Nhiêu, thuộc tỉnh Mỹ Tho.

Ông Hội đồng là con nhà giàu, rủi chừng ông cưới vợ rồi, cha mẹ lại suy sụp, gia tài bị chủ nợ thi hành phát mãi hết, ông phải qua Cái Tắc theo ở quê vợ mà nương dựa làm ăn. Ông lặn lội nhen nhúm lần lần, lại nhờ tám chín năm nay lúa gạo cao giá luôn luôn, ông dùng ít mà gây ra nhiều, nên hiện bây giờ ông có một cái nhà tốt mới cất tốn trên 12 ngàn đồng bạc lại có gần 100 mẫu ruộng trong làng Phú Lợi, 200 mẫu trong Kinh Xà No, và mới đấu giá mua thêm 200 mẫu bên làng Thạnh Hòa, thuộc hạt Rạch Giá nữa. Ông mới 42 tuổi, vợ chồng sanh được ba đứa con, đứa lớn là cô Xuân Hương đã thấy đó rồi, đứa giữa, con trai mới 15 tuổi học Tú Tài năm thứ tư, tại trường Chasseloup Laubat, còn đứa út cũng con trai, còn học tại Cần Thơ.

Còn ông Cai Tổng Bình hồi trước thiệt tên Huỳnh, làng cử ông làm thôn Trưởng, ông xài thâm công nho hơn 1.000 đồng bạc, sợ tội nên bỏ xứ dắt vợ con mà trốn, để cho hương chức Hội tề giăng tay đậu tiền bồi thường. Vô Rạch Giá ông đổi tên lại là Hà Thiện Bình, nương náu ở làng Thạnh Hòa mà làm ruộng, lần lần ông mua điền khẩn đất, trở nên một người giàu, ra làm làng rồi lên chức Cai tổng. Ông năm nay đã hơn 55 tuổi rồi, có bốn người con, người con lớn đương làm Nghị Viên Hội Đồng địa hạt trong Rạch Giá, người kế đó là cậu Hà Thiện Ý 22 tuổi, học bên Tây, một người 18 tuổi, một người 16 tuổi, thôi học ở nhà mà chưa hứa gả nơi nào.

Tuy ông Hội đồng với ông Cai tổng ở xa nhau, lại niên kỷ bất đồng, song thuở nay hai nhà thân thiện với nhau lắm, hay giúp đỡ nhau, hay tới lui thăm nhau, lại thường tính chừng Thiện Ý và Xuân Hương lớn khôn, thì hai nhà sẽ làm sui với nhau.

Chủ khách gặp nhau mừng rỡ cùng dắt nhau vô nhà, rồi ông Hội đồng với ông Cai tổng thì ngồi bộ ghế giữa, còn hai bà thì ngồi tại bộ ván cẩm lai lót gần đó.

Cô Xuân Hương lo trầu nước đãi khách, cô ra vô lăng xăng, mặt tươi cười, bộ nhâm nhẹ, tư cách phải là gái tân học, mà nết na cũng phải là con nhà giàu. Bà Cai tổng ngó theo cô hoài rồi bà nói với bà Hội đồng rằng:

- Con nhỏ năm nay nó lớn đại. Nè, tôi nói với thím nó a, phải chờ thằng Ý tôi, chớ đừng có gả chỗ khác tôi không nghe cho mà coi.

- Ai mà gả! Anh chị đã nói từ hồi nào tới giờ, gả chỗ khác sao được. Có sợ là sợ cậu Ý ở bển rồi cậu cưới đầm chớ.

- Đâu có vậy! Vợ chồng tôi có nói trước cho nó biết rồi mà.

- Ờ! Tôi quên nói cho chị hay nữa chớ. Hôm tháng giêng tôi có bịnh, tôi nghe nói ông Bình ngoài Cần Thơ hay lắm, tôi ra tôi cầu đặng xin thuốc.

- Xác ông Quan Bình phải hôn? Tôi cũng nghe họ đồn hay lắm.

- Thưa phải. Bận đó sẵn có con Xuân Hương bãi trường nên nó ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Ra đó coi cho tôi rồi, luôn dịp coi cho nó nữa. Nè, ông Bình coi cho nó, ổng nói kỳ lắm chị.

- Nói làm sao?

- Ổng nói nó thông minh, học giỏi lắm, năm nay nó thi đậu, mà sau nó còn đậu một bằng cấp lớn hơn nữa. Tôi hỏi tới căn duyên của nó, thì ổng nói nó vốn tiên phong đạo cốt nên chừng nó lớn khôn không ham phú quí vinh huê, lại ngao ngán nhơn tình thế tục. Cuối 21 bước qua 22 tuổi thì nó có chồng, nhưng mà nó có chồng có con rồi thì nó lại tu. Nói năm thi đậu trúng rồi, còn sau nữa thì không biết ra sao.

- Ối! Hơi nào mà tin chuyện ma ma phật phật. Đã có chồng có con rồi, mà còn tu nỗi gì? Có lẽ ngày sau nó bắt chước người ta ăn chay vậy chăng?

- Tôi cũng nghĩ như vậy đó.

- Ăn chay có hại gì. Đời bây giờ tôi coi người ta ăn chay muốn đều hết. Thím nó sao cứ bịnh hoài, lúc nầy nghe trong mình khá hay không?

- Lúc nầy tôi khỏe lắm, ăn ngủ được. Mà hễ có việc gì phải lo, thì nó cứ rang cái ngực hoài, nên tôi sợ quá.

- Thím đừng có lo chi hết. Có việc gì thì đờn ông họ tính sao họ tính, mình lo làm chi.

- Tôi có cái tật hay lo lắm chị.

- Thím nó làm như tôi vậy, ăn no rồi đi chơi, việc ruộng đất đờn ông họ tính làm sao họ làm. Thím nó có xe thì đi Hà Tiên hay Long Hải mà hứng gió, ở nhà làm chi.

Ông Hội đồng Nghiệp đương nói chuyện với ông Tổng, chừng nghe bà Tổng nói như vậy thì ông day qua nói rằng: „Ở nhà tôi[1] kỳ lắm chị, tôi biểu đi chơi mà bả cứ rút ở nhà không chịu đi đâu hết".

Bà Tổng xỉa thuốc, vảnh bàn tay làm cho ba chiếc cà rá hột xoàn chói lòa, bà cười mà đáp rằng:

- Tại chú a. Chú không thèm dắt, thím đi sao được.

- Nhà có hai vợ chồng, sắp nhỏ mắc đi học; nếu tôi dắt đi chơi rồi nhà cửa làm sao?

- Dữ hôn. Nhà cửa thì mượn người ta coi, ai bưng đi đâu mà sợ?

- Còn ruộng nương làm sao?

- Cấy rồi ta đi.

- Thôi, năm nay tôi nghe lời chị, hễ cấy rồi tôi dắt nhà tôi vô Hà Tiên ở hứng gió chừng một tháng.

- Chú thím có đi thì cho tôi hay, tôi đi với... À, bữa hổm đấu giá đất quốc gia bên Thạnh Hòa đó, chú đấu được mấy trăm mẫu?

- Tôi đấu được 2 lô, 200 mẫu. Cha chả, tôi nóng mũi, tôi đấu mắc quá, chị. Tôi đấu tới 310$00 một mẫu, thành ra 62 ngàn đồng, nếu kể phần bách phần, con niêm, cùng các sở phí khác vô nữa thì non non 65 ngàn. Bây giờ phải trả trước phân nửa với sở phí 35 ngàn nặng quá.

- Có sao đâu mà sợ. Đất đó chú mua rồi mùa tới đây, chú góp tiền lúa mướn lối bốn năm giạ một công mà sợ nỗi gì. Tôi dám chắc chú góp 10 ngàn giạ được, kể về lúa vay. Tính giá lúa tệ hơn hết 1$20 một giạ thì chú cũng có 12 ngàn đồng bạc. Chú thâu góp ít năm thì đủ vốn, có gì mà lo.

- Chị nói thì phải rồi, ngặt bây giờ chạy tiền mà đóng phân nửa giá mua đây cũng ngất ngư chớ.

- Chú nó khéo lo! Thứ có mấy chục ngàn đồng bạc mà sợ gì!

- Tôi bị cất cái nhà tốn nhiều quá, nên hụt tiền. Tôi nghe lời anh Tổng tôi làm bướng hổm nay tôi lo hết sức.

Ông Cai Tổng chen vô nói rằng:

- Có gì đâu mà lo. Ruộng nhà bên đây chú thâu góp mười mấy ngàn giạ. Mua ở bển chú góp thêm 10 ngàn, cộng ít nào cũng 25 ngàn giạ. Theo giá lúa nầy mỗi năm chắc chú có 30 ngàn đồng bạc. Tôi cho chú ăn xài và đóng thuế 10 ngàn, thì còn dư 20 ngàn trả tiền mua đất. Chú trả ba bốn năm thì dứt, có gì mà lo. Tôi dện một cái tới 400 mẫu, bằng hai của chú đây sao.

- Anh nhờ họ vị tình, họ không giành, nên anh mua giá rẻ hơn tôi, vậy cũng đỡ chớ.

- Phải. Nhờ tôi làm Tổng họ có vị một chút, họ ít giành. Mà tôi mua tính bổ đồng thành ra cũng 240 đồng một mẫu, cộng chung là 96 ngàn đồng bạc, chớ phải ít sao. Bây giờ trả phân nửa giá mua với sở phí cũng là 50 ngàn đồng.

- Anh có sẵn bạc hay không?

- Đâu mà có! Nhưng mà lúa tôi còn trên hơn một chài.

- Vậy rồi anh làm sao mà đóng bạc mua đất?

- Ối! Lo gì! Quơ tạm mà đóng rồi tới mùa sẽ hay.

- Anh mua sở đất mới đây nữa, thì số huê lợi của anh chừng bao nhiêu?

- Thuở nay đất cũ của tôi góp 45 ngàn giạ. Mua sở mới đây chắc 20 ngàn giạ nữa, thì thành 65 ngàn giạ.

- Anh lúa nhiều quá, nên anh không lo thì phải, chớ lúa tôi ít, tôi không lo sao được.

- Lớn thuyền thì lớn sóng, thế nào cũng phải lo chớ. Thôi từ rày sắp lên tôi nghỉ không thèm sắm điền đất nữa, để trí rảnh rang mà chơi. Già rồi, lo làm hoài mệt quá.

- Mà chuyện nhà nước đòi đóng tiền mua đất anh tính làm sao?

- Vay tiền mà đóng chớ làm sao?

- Anh biết ở bên Rạch Giá có ai cho vay anh làm ơn chỉ giùm cho tôi vay với. Bên nầy họ làm bộ, hễ tới hỏi họ thì họ nói đâu mình mạt rồi a, nên tôi ghét tôi không muốn tới họ.

- Bên Rạch Giá tôi quen thiếu gì. Như Huyện Hàm Trương Hà ở chợ Rạch Giá đó, chú muốn hỏi mấy chục muôn cũng có bạc sẵn mà. Nhưng mà lấy bạc băng cho vay, muốn lấy bạc nhà băng nào cũng được hết, dễ lắm.

- Cha chả! Rớ tới băng tôi ghê lắm. Thiệt tiền lời thì rẻ, ngặt hễ mình xin vay thì họ buộc phải đóng tiền sở phí đi xét đất, đóng tiền nầy tiền kia nhiều quá thành ra cũng không rẻ hơn Chà-và Việt Nam mình là bao nhiêu. Mà cũng có một điều nầy gay lắm, là hễ trong giấy hẹn ngày nào thì tới ngày ấy phải trả, không nói gì được hết, nếu trễ thì xin Tòa thi hành phát mãi.

- Như chú sợ thì hỏi bạc của Trương Hà. Dầu ổng ăn lời mắc. Tôi còn thiếu ổng 12 ngàn, ổng ăn lời tới một phân rưỡi.

- Như vậy cũng không mắc gì lắm.

- Chú cần dùng hỏi chừng bao nhiêu?

- Tôi phải hỏi tới 30 ngàn mới đủ đóng tiền đất.

- Tiền lời tới 4 ngàn rưỡi một năm... Phần tôi phải hỏi tới 50 ngàn. Mình hỏi nhiều mình nói ổng bớt tiền lời một phân hai có lẽ được. Chú muốn hỏi thì bữa nào chú qua bển rồi tôi dắt chú đi.

- Chắc hỏi được hôn?

- Chắc mà. Tôi lấy bao nhiêu cũng được hết. Song hỏi nhiều phải thế bằng khoán đất. Chú phải đem bằng khoán cho ổng coi.

- Thôi, mốt tôi đem qua được hôn?

- Được. Chú qua rồi tôi dắt đi. Nè, mà mốt chú qua, thím với con Hai qua chơi nghe. Qua đó để thím ở nhà, rồi hai anh em mình đi.

Bà Tổng nghe hai người đờn ông nói chuyện như vậy bà cũng tiếp mời bà Hội đồng với cô Xuân Hương qua nhà chơi. Bà Hội đồng không dám thất lễ, nên bà phải hứa lời.

Ông Tổng với bà Tổng ở nói chuyện chơi và ăn cơm trưa rồi hai ông bà mới về.

Chương 2

Dựa mé kinh Rạch Giá qua Long Xuyên, phía bên tay trái, từ cầu Quây Rạch Giá trở vô ước chừng ba bốn trăm thước, có một cuộc ở đồ- sộ, chính giữa một cái nhà lầu rộng lớn, hai bên kềm hai lẫm lúa mỗi cái dài 10 căn, phía sau có một cái nhà bếp, tại đầu lẫm lúa bên tay mặt có nhà để xe hơi, tại đầu lẫm lúa phía bên tay trái lại có một cái nhà chứa đồ làm ruộng. Ai đi ngang cũng biết cuộc ở của một vị điền chủ lớn, tiếc gì cái nhà lầu cất gần cái lộ dựa mé kinh, chừa cái sân chỉ có sáu bảy thước, lại bị hai lẫm lúa kềm khít hai bên bó rọ, sân không kiểng, nhà không vườn; bởi vậy cuộc ở coi hùng hào nhưng thiếu vẻ thanh nhã.

Cuộc ở nầy là cuộc ở của ông Trương Hà, đại điền chủ trong tỉnh Rạch Giá, có công giúp một số bạc rất lớn để cất nhà thương nên được quan trên ân tứ Hàm- Tri Huyện.

Ông Trương Hà vốn là con cháu khách, cha của ông là người Triều Châu, còn mẹ là Việt Nam .

Ông mới được 50 tuổi, vợ chồng chỉ có sanh hai người con, người lớn là gái tên là Trương Thị Lang đã gả cho ông Đốc tơ Triệu Như Hổ, học bên Tây lãnh được bằng cấp y khoa Tấn Sĩ, về cưới vợ, nhờ cha mẹ vợ mua cho cái nhà lầu tại Sài Gòn ở mà khám bịnh cho thuốc; còn người nhỏ là trai trên Trương Hoàng Kiết 20 tuổi, học bên Tây sáu năm, tốn chừng năm muôn đồng bạc, mới lãnh được một cái bằng cấp khiêu vũ, kế cha mẹ kêu về đặng phụ giúp cai quản sự nghiệp không cho học nữa.

Y theo lời hứa hôm nọ, nên đúng ngày hẹn ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp đi với vợ và con gái qua nhà ông Cai Tổng Hà Thiện Bình. Bà Tổng với hai đứa con gái nhỏ của bà thấy cô Xuân Hương thì mừng rỡ, tiếp rước rất ân cần vui vẻ không nói được. Ăn đồ lót lòng rồi, ông Hội đồng Nghiệp với ông Cai Tổng Bình vô Rạch Giá đặng tính việc vay bạc mà đóng bạc mua đất.

Hai ông vô tới nhà ông Huyện hàm Trương Hà thì lối 10 giờ sớm mơi.

Xuống xe bước vô sân thì thấy nhà lầu cửa đóng kín mít, không có cho vô.

Hai người đứng ngơ ngáo, thấy trong nhà xe có để một cái xe hơi nhỏ 4 chỗ ngồi còn mới tinh với một cái xe hơi mui kiếng lớn thình lình coi hùng vĩ lắm. Ông Tổng chỉ mà nói rằng: „Cái xe lớn đó máy 40 ngựa, ông huyện ổng mua tám chín ngàn gì đó. Nó chạy dữ quá, nội tỉnh Rạch Giá chưa có ai dám sắm cái xe như vậy".

Ông Hội đồng cười và hỏi rằng:

- Ổng đi đâu mà sắm xe dữ như vậy?

- Ổng ở nhà hoài, không bao giờ ai thấy ổng đi đâu hết.

- Vậy chớ sắm xe hơi làm chi mà lớn dữ vậy?

- Giàu có, tiền bạc không biết làm gì cho hết, nên sắm để coi chơi vậy mà.

- Người mình xài phí quá!

Hai ông đương nói chuyện, bỗng có một người gánh cặp thùng thiếc ở phía sau đi dọc theo lẫm lúa mà ra. Ông Tổng chận mà hỏi rằng:

- Có ông Huyện ở nhà hay không em? Sao đóng cửa bít bùng vậy?

- Thưa có, ông bà tôi ở nhà đủ hết. Ăn cơm rồi ông tôi mới lên lầu, còn bà tôi ngồi ở dưới từng dưới.

- Em trở vô nói có ông Tổng ở ngoài Thạnh Hòa vô thăm ông, rồi mở cửa đi chớ.

Người gánh nước đó trở vô một hồi rồi ra nói rằng: „ Thưa, bà tôi mời ông vô nhà. Ông đi theo tôi đây mà vô cửa sau cũng được".

Hai ông đi theo người ấy, đi dọc theo lẫm lúa mà vô cửa sau. Bà Huyện Trương Hà mập mạp, cao lớn, nước da đen, chơn mày rậm, bộ tướng thô tục, y phục sơ sài, bà ngồi tại bộ ván gần cửa sau, bà chào hai ông khách và nói rằng: „Mời hai ông đi ngay lên lầu, ở nhà tôi nằm hút ở trển, hai ông đi ngay lên trển nói chuyện chơi, chớ chờ biết chừng nào ổng hút mới rồi".

Hai ông khách đi thẳng lại thang mà lên lầu.

Ông Huyện Trương mập mạp mà lùn, mặt tròn, cặp mắt híp, không có râu, đầu hớt trọc lóc, khi hai ông khách bước lên thì ông Huyện bận một cái áo lá trắng có hai cái túi thiệt lớn, đương nằm vít đốc trên bộ ván, quần vén tới đầu gối, dựa bên có để một mâm thuốc á phiện, bên kia có một người nằm làm thuốc cho ông hút. Ông thấy khách thì lồm cồm ngồi dậy chào ông Cai Tổng Bình rồi hỏi rằng:

- Còn ông nầy là ai, tôi không biết?

Ông Tổng đáp rằng: „Ông đây là Hội đồng Nghiệp, anh em với tôi ở bên Cái Tắc".

Ông Huyện mời khách lại ngồi bộ ghế bành tượng cẩn ốc xa cừ để gần bộ ván chỗ ông hút, kêu trẻ lấy thuốc rót nước, ông cũng bận áo lá chớ không thay áo khác. Ông hỏi ông Tổng rằng:

- Mấy tháng nay tôi không gặp ông. Ông mạnh giỏi hả?

- Mạnh.

- Ông đi hầu việc quan rồi ghé thăm tôi chơi hay là có việc chi?

- Ờ! Ghé thăm ông chơi, mà cũng nói chuyện riêng một chút.

- Mời hai ông hút chơi.

- Cái đó hai anh em tôi không biết.

- Hút mà cái giống gì không biết. Hút cho nó khỏe trong mình chớ.

- Xin cho kiếu, không dám đâu.

- Thôi xin lỗi hai ông ngồi đó chơi, cho tôi hút ít điếu.

- Được, được, ông hút đi.

Ông Huyện nằm lại mà hút, kéo ống nghe ro ro.

Ông Hội đồng Nghiệp ngồi ngó cùng trong nhà thấy từng lầu rộng mà lại cao, tiếc vì bàn ghế, tủ gương không xứng đáng nên coi không đẹp.

Ông Tổng thấy ông Huyện đã hút ít điếu bèn hỏi rằng:

- Lúa ông còn nhiều hôn?

- Còn chút đỉnh, chừng năm sáu chài.

- Năm sáu chài, mà ông nói chút đỉnh chớ. Tới tháng nầy sao ông không bán, để lúa sụt còn gì?

- Không có sao mà. Chừng nào bán cũng được, có lo gì.

Có một người lên thang lầu, vì thang bằng cây, mà lại đi mạnh, nên tiếng nghe ầm ầm.

Ông Tổng với ông Hội đồng ngó lại, thì thấy một người trai chừng 20, 21 tuổi, mặc một bộ đồ Tây nỉ xám, may thiệt kéo, chơn mang giày vàng, đầu đội bê rê đen. Người trai ấy thấy khách thì cúi đầu chào rồi đi thẳng vô một cái phòng.

Ông Tổng hỏi ông Huyện rằng:

- Thầy đó là ai?

- Con tôi đa, ở bên Tây mới về vài tháng nay.

- Té ra cậu đây là Trương Hoàng Kiết phải hôn?

- Phải a.

- Tôi có nghe nói, mà thuở nay tôi không gặp. Cậu học bên Tây đã lấy được bằng cấp gì hay chưa?

- Nó gần thi Tú Tài, mà bị việc nhà bê bối, có một mình tôi coi không xiết, nên tôi phải kêu nó về.

- Sao không để cậu học cho đến cùng đặng có bằng cấp với người ta?

- Đời nầy học cho biết thì thôi, bằng cấp bằng kéo làm giống gì. Phải mình tính cho nó đi làm mướn hay sao, nên cần phải có bằng cấp.

- Ông đem cậu về bây giờ ông tính cưới vợ cho cậu rồi bắt cậu coi ruộng nương hay sao?

- Ờ, hổm nay mẹ nó muốn đi coi vợ cho nó, mà nó không chịu. Nó nói cưới vợ thì thà nó cưới đầm, chớ con gái Việt Nam quê mùa lắm, nó không muốn.

- Bên mình đâu có đầm mà cưới.

- Nó đòi trở qua Tây cưới vợ, rồi nó dắt về .

- Ông bằng lòng cho cậu cưới đầm hay sao?

- Đâu được! Mình quê mùa, có dâu đầm rồi làm sao mà nói chuyện.

- Nè, thầy Phó trong nầy mới cất cái nhà tốt quá ông há! Đi ngoài dòm vô coi thiệt là đẹp. Cái nhà đó cất tôi sợ không dưới 30 ngàn.

- Thầy khoe với người ta, thầy cất 35 ngàn đó đa. Thầy không khá gì mà cất nhà chi tốt dữ vậy không biết. Cất nhà hụt tiền nên phải cậy tôi giùm hết 10 ngàn. Người hay làm bướng quá, ít tiền mà muốn se sua, cất nhà tốt sắm xe hơi, cho con đi Tây, mua hột xoàn lớn, không biết rồi họ làm sao?

- Họ cũng liệu cơm mà gắp mắm chớ.

- Liệu giống gì? Họ làm cố mạng rồi hụt hạt cứ bấu lại tôi. Tôi cho vay thì ăn lời, không nói gì, ngặt tôi sợ họ vay bướng trả không nổi, họ xô ruộng đất cho tôi đây, rồi tôi không biết làm sao coi cho xiết chớ.

- Hiện giờ ông có chừng bao nhiêu ruộng?

- Có biết đâu. Hôm thằng con tôi bên Tây về, nó soạn giấy tờ trong tủ nó tính chơi, nó nói đâu chín mười ngàn mẫu gì đó.

- Nhiều quá!

- Tôi có hai đứa con, tôi không thèm sắm ruộng đất nhiều, chớ phải tôi ham như người ta thì tôi có tới bằng hai bằng ba số đó.

- Hai anh em tôi vô đây tính cậy ông một việc.

- Cậy việc gì?

- Hôm nhà nước bán đất quốc gia ngoài làng Thạnh Hòa, hai anh em tôi đấu giá, tôi mua được 400 mẫu, chú Hội đồng đây mua được 200 mẫu.

- Ờ! Tôi có nghe nói hôm đó áp giành với nhau đấu giá mua mắc lắm phải hôn? Đất mà mua mắc làm chi, có bạc để ta cho vay rồi ta lấy đất của họ, giá rẻ rề, cần gì phải giành giựt mà mua cho mắc.

- Đất Thạnh Hòa tốt, cho mướn tới 5 giạ một công. Hai anh em tôi mua giá cũng vừa, chớ không mắc gì. Ngặt vì nhà nước buộc anh em tôi phải đóng bạc phân nửa, còn phân nửa thì cho kỳ qua sang năm sẽ đóng. Bây giờ hai anh em tôi thiếu bạc, nếu hỏi mấy nhà băng thì cũng được, song nếu hỏi người mình cho dễ, nên vô xin ông liệu coi có thì giúp giùm cho hai anh em tôi được hay không?

- Hai ông muốn hỏi bao nhiêu?

- Tôi muốn hỏi 50 ngàn, có chú Hội đồng đây chú hỏi 30 ngàn?

- Số nợ cũ mấy năm nay ông cứ trả lời hoài, ông không trả vốn, mà hỏi nữa rồi làm sao?

- Nợ cũ có 12 ngàn, nhiều nhõi gì đó mà lo. Ông sợ tôi nói ngược hay sao?

- Không phải sợ. Năm nào ông cũng trả tiền lời, mà nói ngược giống gì, ông giàu có làm tới Cai Tổng, có mười mấy ngàn đồng bạc lẽ nào ông chối hay sao mà sợ.

Ông Huyện bước lại rót nước uống, ông suy nghĩ một hồi rồi nói tiếp rằng: „Anh em hễ mích lòng trước thì được lòng sau. Tôi nói thiệt hai ông muốn hỏi bao nhiêu cũng được hết. Nhưng mà hỏi số bạc nhiều như vậy thì phải cố đất. Thuở nay ai hỏi bạc, tôi cũng buộc như vậy hết thảy; bởi vì nếu không buộc cố đất, có người xấu họ vay bạc của mình rồi họ không trả bạc, mình lấy gì đâu mà trừ. Không phải tôi nghi hai ông, song bạc tiền là núm ruột, thà mình làm minh bạch vậy tốt hơn".

Ông Tổng đáp rằng: „Ông muốn anh em tôi cố đất cũng được, không hại gì. Mình thiệt tình, hễ vay thì lo trả, có sao đâu mà sợ".

Ông Tổng với ông Hội đồng lấy bằng khoán đất đưa hết cho ông Huyện Trương Hà coi.

Ông Huyện nói: „Thôi hai ông để hết bằng khoán đây cho tôi coi ít bữa rồi tôi sẽ trả lại. Mà những đất quốc gia hai ông mới mua đó, tuy chưa có bằng khoán, song trong tờ hai ông cũng phải nói cố luôn nữa mới được chớ".

Hai người khách gặt đầu, chịu cố luôn đất đó nữa.

Ông Hội đồng hỏi ông Huyện rằng:

- Nhưng ông coi bằng khoán rồi ông chịu cho, thì ông tính tiền lời bao nhiêu?

- Thường tôi cho tiền lời một phân rưỡi.

- Nặng quá. Cho bạc muôn ông phải giảm tiền lời chớ. Chà và kia nó còn cho một phân.

- Sao được. Ông hỏi băng, họ cũng tính lời ít nữa là một phần tư. Tôi cho phân rưỡi đó là rẻ lắm, bởi vì tôi còn phải tốn tiền bách cầu chứng tờ cố đất nữa chi.

- Xin ông bớt tiền lời, chớ một phân rưỡi nặng lắm, ông.

- Thôi không sao. Để tôi coi giấy tờ rồi sẽ tính. Như ông đây tôi muốn viết thơ trả lời, tôi phải đề bao làm sao?

- Ông cứ viết thơ cho Ông Tổng đây, rồi ảnh cho tôi hay cũng được.

- Như vậy thì tiện lắm. Thôi để ít bữa rồi tôi sẽ trả lời cho ông Tổng.

Trời đã trưa, mà chuyện nói cũng đã xong, hai ông khách đứng dậy từ mà về rồi cũng phải ra cửa sau, chớ cửa trước không mở.

Ông Hội đồng Nghiệp trở về nhà ông Tổng Bình mà ăn cơm, chủ khách thuận hòa, cô Xuân Hương với con gái của ông Tổng cũng thân thiết, nên bữa ăn thiệt là vui vẻ lắm. Bà Tổng hỏi thăm coi việc đi hỏi bạc có thành hay không. Ông Tổng thuật chuyện lại cho bà nghe rồi cười mà nói rằng:

- Ông Trương Hà làm màu đặng mình hầu ổng chơi, chớ tôi biết bề nào ổng cũng chịu. Trời ơi, cho vay mà gặp tôi với chú Hội đồng đây thì cầu mà cho, còn đợi ai nữa. Vậy mà còn cố đất thì chắc quá, còn sợ nỗi gì. Tôi nói không sai đâu, trong năm ba bữa đây ổng kêu làm giấy lấy bạc đa. Mà hễ ổng kêu thì mình dục dặc lại, đặng nài ổng bớt lời cho nhẹ.

Ông Hội đồng nói rằng:

- Ông Huyện ăn lời tới một phân rưỡi nặng quá.

- Được đâu. Chừng làm giấy mình xin tính một phân mà thôi. Như ổng không chịu, thì lên một phân mốt, hoặc một phân hai, chớ một phân rưỡi thì thôi xin vay chỗ khác.

- Ông Huyện đó bộ coi thô tục quá. Ổng ỷ ổng nhiều tiền, nên nói chuyện ổng coi không có trời đất gì hết.

- Nhà giàu mới bây giờ phần nhiều họ như vậy hết thảy. Họ quê mùa dốt nát, không có giáo dục, khi không họ bực lên họ giàu to, rồi tư cách không xứng với sự sản, nên mới vậy đó. Chớ nhà giàu xưa người ta biết lễ nghĩa khiêm nhượng, chớ đâu có kỳ cục như vậy bao giờ.

Ăn cơm rồi vợ chồng ông Hội đồng mới từ giã mà về Cái Tắc.

Cách chừng một tuần lễ, ông Tổng Bình được thơ của ông huyện Trương Hà. Trong thơ ổng nói ổng chịu cho ông Tổng vay 50 ngàn và cho ông Hội đồng vay 30 ngàn, song buộc bà Tổng với bà Hội đồng phải đứng giấy với chồng, lại buộc hai ông phải bảo lãnh vần công với nhau.

Ông Tổng chạy xe hơi qua Cái Tắc đưa thơ cho ông Hội đồng coi và hẹn ngày đi làm giấy lấy bạc. Đúng ngày hẹn, vợ chồng ông Hội đồng qua Thạnh Hòa hiệp với vợ chồng ông Tổng mà đi Rạch Giá.

Hai ông nài quá, nên ông huỵên hàm chịu sụt bớt tiền lời xuống một phân hai. Hai ông làm giấy theo thế thức của chủ nợ buộc, rồi lấy bạc đem qua kho bạc mà đóng phân nữa giá mua đất.

Chương 3

Trong năm phần tư năm 1920 tới năm 1929, năm nào lúa bán giá bực trung cũng 1đ50 một giạ, có lúc lên tới 1đ80 hoặc 2đ00. Dân trong xứ phần nhiều chuyên nghề làm ruộng, nhờ giá lúa cao đó, nên bạc tiền chớn chở không biết làm gì cho hết.

Những điền chủ ở các tỉnh, nhứt là ở miệt Tiền Giang, Hậu Giang, đua nhau cất nhà tốt, sắm xe hơi, mua hột xoàn, chơi bài bạc, bành trướng điền địa, cho con đi Tây, gây ra cuộc vui dầu tốn một hai ngàn không cần, được chúng bẩm dạ dầu hao đôi ba muôn cũng chịu. Từ lớn chí nhỏ coi bạc tiền như đất cục, chê nhơn nghĩa là trái mùa, phải vọc bạc muôn mới ra mặt người sang, chớ luận đạo đức thì bị coi là đồ dại.

Đất hoang vu rừng bụi mà giành nhau mua đến một hai trăm đồng một mẫu, nợ năm bảy chục ngàn mà cho là chút đỉnh không đủ gì lo. Người nào có ý nghĩ xa, thấy nhơn tình với thế cuộc như vậy thì cũng lắc đầu tự hỏi: „Vậy chớ cái đường Việt Nam mình đi đó tới đâu mới cùng? Mà cái đường đó phải hay quấy?"

Tại cái thời cuộc đó mà ông Hội đồng Nghiệp với ông Cai Tổng Bình mới mua thêm đất, lại mua mắc, rồi đi vay bạc, người 30 ngàn, kẻ 50 ngàn mà coi như chuyện chơi. Thiệt, nếu làng sóng thạnh vượng cứ bủa tới hoài, thì chừng vài ba năm, hai ông cũng trả đứt số nợ, không khó chi hết.

Rủi thay, qua năm 1930 mùa thất, ông Cai Tổng Bình thâu góp về đất cũ về đất mới chỉ có 45 ngàn giạ, chớ không phải 65 ngàn, còn ông Hội Đồng Nghiệp thâu góp được có 18 ngàn giạ. Hồi đấu mùa thì giá lúa 1đ60 một giạ. Năm nầy hai ông phải đóng tất số tiền cho nhà nước, nên mới chẩn lại ít ngày, nhóng coi như giá lúa lên thêm nữa thì sẽ bán đặng có lời thêm một mớ. Nào dè cuối tháng 5 Tây, lúa sụt xuống 1đ50. Giá 1đ60 không bán, mà bán 1đ50 sao được. Để chờ nữa. Té ra lúa không lên giá mà lại lần lần bị sụt thêm hoài, sụt xuống 1đ30, 1đ20, 1đ00, qua tới tháng 8 giá còn có 0đ80 một giạ. Chết tươi! Nhà nước gởi giấy thúc đóng tiền mua đất, chủ nợ gởi thơ buộc phải trả nợ. Ông Cai Tổng chừa 5 ngàn giạ để cho tá điền ăn, ông bán 40 ngàn giạ lấy có 32 ngàn đồng. Ông Hội đồng chừa 3 ngàn giạ, ông bán 15 ngàn giạ lấy có 12 ngàn đồng.

Ông Cai Tổng phải đóng bạc mua đất 48 ngàn, phải trả tiền lời về 62 ngàn đồng bạc nợ, 7.440 đồng.

Ông Hội đồng phải đóng bạc mua đất 31 ngàn, phải trả tiền lời cho chủ nợ là 3.600đồng.

Làm sao có đủ bạc mà trả?

Hai ông bối rối hết sức, bàn tính với nhau rồi hiệp nhau vô nhà ông Huyện hàm Trương Hà tỏ việc rủi ro đã bị thất mùa lại bị lúa rẻ, rồi năn nỉ xin vay thêm cho đủ đóng bạc mua đất, còn vốn cũ nhập với vốn mới và nhập với tiền lời mà làm chung mỗi người một cái giấy mới cho dễ.

Trương Hà nghĩ hai ông đất nhiều, dầu cho vay thêm chẳng hại gì. Đã vậy hai ông lại có đất mới mua của nhà nước. Nếu muốn cố đất đó cho chắc chắn, thì cần phải trả tất cả số bạc mua đất đặng Nhà nước sang bộ mới được. Ông Trương Hà tính như vậy nên chịu cho vay thêm và chịu cho thay giấy nhập lời làm vốn thêm nữa.

Phần ông Cai Tổng Bình:

Số vốn cũ: 62.000$

Số bạc lời: 7.440$

Số vay thêm: 20.560$

Cộng: 90.000$

Phần ông Hội đồng Nghiệp:

Số vốn cũ: 30.000$

Số bạc lời: 3.600$

Số vay thêm: 16.4000$

Cộng: 50.000$

Hai ông về dắt hai bà vô làm giấy lại, ông Cai Tổng vay 90 ngàn, ông Hội đồng vay 50 ngàn. Mỗi cái giấy đều có vợ chồng đứng đủ, có biên cố ruộng đất, mà lại còn buộc hai ông bảo lãnh vần công cho nhau nữa.

Hai ông lấy thêm bạc mà đóng tất giá mua đất thì yên được một mối rồi, chỉ còn lo một mối nợ mà thôi.

Qua năm 1931 lúa thất luôn một mùa nữa, lại giá còn có 0đ60 một giạ.

Ông Cai Tổng thâu góp có 37 ngàn giạ, để giành nuôi tá điền 7 ngàn, còn bán có 30 ngàn giạ có 18 ngàn đồng bạc.

Ông Hội đồng thâu góp có 17 ngàn giạ, để giành nuôi tá điền 3 ngàn, còn bán có 14 ngàn giạ có 8.400 đồng bạc.

Tính nội tiền lời thì ông Cai Tổng phải trả 10.8000đ. Ông Hội đồng phải trả 6.000đ. bán lúa giá như vậy, nếu trả tiền lời rồi cũng không còn đủ bạc mà đóng thuế và ăn xài, có đâu mà trả vốn được. Hai ông hiệp nhau đi nói với chủ nợ mà trả tiền lời xin để vốn lại, song ông Cai Tổng trả được có 7.800đ, còn thiếu số lời lại 3.000đ, còn ông Hội đồng rán trả được 5.000đ, để thiếu số lời lại 1.000đ.

Qua năm 1932, số lúa thâu góp chẳng nhiều hơn, mà giá lúa lại sụt hơn nữa, còn có 0đ50 một giạ. Hai ông trả tiền lời cũng không đủ, ông Cai Tổng để thiếu lại 4.000đ và ông Hội đồng 2.000đ.

Ông Huyện Hàm Trương Hà thấy 2 năm mà hai ông đều thiếu tiền lời luôn luôn, lại giá lúa sụt, đất cũng sụt theo, sợ bị tịch hết ruộng đất cũng không đủ số nợ, nên vào đơn tại Tòa Hộ mà kiện xin Tòa lên án đặng thi hành phát mãi sự sản của hai ông. Hai ông lo quá nên phải mướn Trạng sư bào chữa, viện lẽ kinh tế khủng hoảng mà xin Tòa châm chế cho đình lại chừng nào giá lúa phát lên lại rồi sẽ trả nợ. Tòa cũng có nhơn, nên lên án cho đình lại một năm, nếu mãn năm mà không trả nợ thì sẽ thi hành phát mãi.

Bà Hội đồng Nghiệp thấy việc nhà bối rối thì bà rầu quá ăn ngủ không được, bịnh ho của bà phát lại, làm cho chồng con thêm lo nữa.

Ông Hội đồng Nghiệp bàn với ông Cai Tổng Bình, muốn bán bớt phân nữa ruộng đất mà trả nợ. Ông Cai Tổng nói bán bớt ruộng đất xấu hổ nên khuyên ông Hội đồng để thủng thẳng mà tính, chẳng nên vội lắm. Cách ít tháng sau, kỳ hạn Tòa định đã cận rồi, hai ông luýnh quýnh muốn bán ruộng đất thì không ai mua, túng thế vô Rạch Giá nói với chủ nợ xin định giá đất đặng hai ông làm tờ đoạn mãi một mớ mà trả số nợ.

Ông Huyện Trương Hà cười mà đáp rằng: „Ruộng đất bây giờ không có giá, dầu hai ông bán năm chục đồng một mẫu cũng không có ai mua. Nếu hai ông bán hết ruộng đất nhà cửa cho tôi, hai ông cũng không trừ hết số nợ được. Bày mưu bán làm chi. Để chừng Tòa lên án thi hành phát mãi, nếu có ai muốn mua thì tôi cất giá lên cao cho đủ số nợ của tôi. Còn như không có ai giành mà mua, thì tôi lấy ruộng đất hết cũng được.

Hai ông trở về mặt buồn xo.

Năm ấy cô Xuân Hương thi đậu bằng cấp :"Brevet supérieur". Các nhựt báo đều khen ngợi lại đăng chơn dung của cô lên mặt báo cho công chúng biết, nhưng trong nhà đang bối rối về nợ nần, nên cha mẹ không mừng, rồi làm cho cô cũng không vui chi hết.

Hà Thiện Ý là con của ông Cai Tổng Bình, ở bên Tây cũng thi đậu bằng cấp Luật Khoa Cử Nhơn, muốn ở học thêm đặng lấy bằng Tấn Sĩ. Ngặt vì việc nhà của ông Cai Tổng Bình nguy lắm, ông không thể nuôi con ở bên Tây nữa được, nên đánh dây thép biểu phải về ngay lập tức.

Hà Thiện Ý về tới, cha mẹ dắt nhau qua thăm bà Hội đồng Nghiệp đau. Hà Thiện Ý với Xuân Hương là cặp thanh niên tân học nên không e lệ chi hết, gặp nhau thì trò chuyện vui vẻ bình thường, lại coi có mòi dan díu thân thiết lắm!

Bà Hội đồng, vì rầu việc nợ nần, nên bịnh ho của bà càng ngày càng thêm, thân thể bà ốm như tàu lá. Ông Hội đồng lo sợ, biểu con ở nhà coi sóc gia đình, rồi ông đem vợ lên Sài Gòn cho lương y chuyên môn về bịnh ho rọi kiếng mà trị bịnh. Ông đem thằng con trai lớn theo đặng giúp đỡ ông, còn đứa con trai út thì ông để ở nhà với Xuân Hương.

Một buổi sớm mơi, cậu út cỡi xe máy qua Rạch Gòi mà chơi. Cô Xuân Hương ở nhà một mình, cô đốc phách gia dịch đứa vô phân mấy bồn bông, đứa làm cỏ ngoài sau vườn. Cô mặc áo lụa trắng, quần lãnh đen, đầu gỡ sơ, chơn mang guốc, tai đeo một đôi bông lớn, tay trái đeo một chiếc vàng nhận hột xoàn, cô không trang điểm, không dồi phấn thoa son, mà vì cô có sắc sẵn, gương mặt sáng rỡ, bởi vậy ai thấy cô cũng phải trầm trồ khen thầm là gái đẹp.

Cô đi vòng theo mấy bồn bông coi bắt sâu. Cô cầm bông hường da người mà hưởi, bông kề vô mặt, coi nước da của cô còn đẹp hơn màu bông. Cô nắm bông huệ mà nhìn, mấy ngón tay của cô coi cũng đẹp như mấy búp huệ gần nở.

Cô đương xẩn bẩn trong hoa viên, bỗng có chú thường xuyên ở nhà việc làng đem một tờ nhựt báo với một cái thơ lại giao cho cô. Cô cầm cái thơ mà coi ngoài bao, thấy đề tên cô, cô chắc là thơ của chị em bạn học gởi. Cô cám ơn chú thường xuyên rồi thủng thẳng trở vô nhà. Cô men men đi lại cái bàn viết đặng đọc thơ. Cô vừa ngồi đọc thì cô thấy chơn dung của Hà Thiện Ý để trên bàn viết, cô liếc mắt ngó mà cười rồi thủng thẳng lấy cái dao rọc giấy mà rọc bao cái thơ cô mới được đọc. Cô lấy cái thơ ra mà coi thì thơ như vầy:

Thạnh Hòa, le 10 Aout 1933

Em Xuân Hương rất yêu dấu ôi!

„Mấy năm nay anh học ở bên Tây, thấy má anh viết thơ cho anh, thường hay khen tài đức của em và khuyên anh ráng học cho thành danh, đặng chừng trở về xứ sánh duyên cùng em cho xứng đáng.

„Hồi nhỏ anh có giáp mặt em mấy lần mà không có nói chuyện gì với nhau. Từ khi anh đi Tây thì sẵn có tấm hình trong rương, hễ buồn thì anh lấy ra anh nhìn. Anh nhờ cái hình đó nung chí cho anh mới thành danh được."

„Hôm qua anh qua thăm chú thím, anh muốn tỏ lời tạ ơn em, song anh bợ ngợ không mở miệng được. Vì vậy nên anh phải viết bức thơ nầy mà bày tỏ cái tình của anh đối với em cho em biết, và hứa chắc với em rằng anh sẽ hết lòng kính yêu bao bọc em trọn đời, cho tới chừng nào chết mới dứt.

Hà Thiện Ý.

Cô Xuân Hương đọc thơ rồi, cô xếp kỹ lưỡng mà bỏ vào túi. Cô vói lấy cái hình của Thiện Ý trên bàn viết, cầm mà nhìn và miệng chúm chím cười.

Thình lình có một cái xe hơi chạy vô sân. Cô Xuân Hương dòm ra thì thấy chiếc xe hơi lạ hoắc, trên xe leo xuống một người trai mập mạp vậm vỡ, nước da mét mét, mặc bộ đồ xám may thật khéo và còn mới tinh. Người ấy xâm xâm đi vô cửa.

Xuân Hương ở nhà một mình nên cô đứng dậy, tính bước ra tiếp khách.

Người trai ấy vô tới cửa, ngó thấy cô, liền dở nón cúi đầu mà chào đúng lễ. Cô cũng cúi đầu đáp lễ, không bợ ngợ chi hết và hỏi rằng:

- Ông đến nhà tôi có việc chi, xin ông vui lòng cho tôi biết?

- Xin lỗi cô, có phải nhà nầy là nhà của ông Hội Đồng Võ Kế Nghiệp chăng?

- Thưa, phải.

- Tôi là Trương Hoàng Kiết, con của ông Huyện Hàm Trương Hà ở bên Rạch Giá.

- Xin lỗi ông, thuở nay tôi không biết, vậy xin mời ông ngồi.

Trương Hoàng Kiết bước vô „salon", ngồi cái ghế phía ngoài, tay cầm nón, mắt ngó cô Xuân Hương ngồi cái ghế „canapé" phía trong và kêu gia đinh bưng nước.

Trương Hoàng Kiết hỏi:

- Xin lỗi cô, không biết có ông Hội đồng ở nhà hay không?

- Ba tôi đem má tôi đi uống thuốc ở trên Sài Gòn.

- Té ra cô đây là con của ông Hội đồng ?

- Thưa phải. Ông hỏi thăm ba tôi, vậy ông muốn nói chuyện chi hay sao?

- Thưa phải. Tôi qua đây đặng nói chuyện riêng với ông Hội đồng. Thưa cô, không biết chừng nào ông Hội đồng về?

- Thưa, cái đó tôi không biết được. Ba tôi không có nói bữa nào về. Nếu có việc chi, xin ông nói với tôi rồi chừng ba tôi về tôi sẽ nói lại.

Hoàng Kiết liếc mắt ngó cô Xuân Hương, miệng chúm chím cười và nói rằng: „Tôi có việc cần phải tỏ với ông Hội đồng, mà chuyện đó không phải là chuyện vui. Cô là một đóa hoa thơm, vừa có duyên, vừa có sắc, có lẽ nào tôi đành vô lễ đem chuyện không vui mà thỏ thẻ với cô, rồi làm cho hoa sầu liễu ủ hay sao?

Cô Xuân Hương hiểu mấy lời ấy thanh tao mà có ý chọc ghẹo, nên cô chánh sắc mà đáp rằng: „Xin ông đừng ngại. Hoa cũng có nhiều thứ, có thứ yếu ớt sợ nắng sợ mưa, mà cũng có thứ vững vàng quen giông quen gió. Ông muốn nói chuyện chi với ba tôi, xin ông cứ nói ngay ra, như chuyện huỡn thì tôi đợi ba tôi về tôi sẽ nói lại, còn như chuyện gấp thì tôi sẽ gởi thơ cho ba tôi hay".

Hoàng Kiết gặc đầu cười và nói rằng:

- Nếu cô cho phép thì tôi mới dám nói.

- Ông cứ nói mà.

- Tại cô ép quá, chớ thiệt tôi không muốn nói. Ông Hội đồng có thiếu bạc của cha tôi chút đỉnh. Bốn năm nay ông không trả vốn, mà bạc lời năm nào cũng không đủ, bởi vậy năm ngoái cha tôi kiện, ông Hội đồng xin Tòa đình lại một năm. Nay đã mãn hạn đình rồi, Tòa lên án dạy ông Hội đồng phải trả vốn và lời. Cha tôi sai tôi qua thưa cho ông Hội đồng hay, xin ông vui lòng trả số nợ theo án tòa dạy, bằng không cha tôi phải ép lòng mà giao án cho Trưởng Tòa.

- Không biết việc đó gấp hay huỡn? Đợi ba tôi về rồi tôi sẽ nói lại được hay không?

- Theo tôi thì cô muốn thế nào tôi cũng chịu hết. Ngặt vì việc nầy là việc của cha tôi, nên tôi không dám tự chuyện. Tuy vậy mà không sao. Để tôi về thưa lại với cha tôi mà xin huỡn ít ngày đặng đợi ông Hội đồng về rồi sẽ tính cũng được.

- Tôi cám ơn ông lắm.

- Thưa, tôi không dám. Tôi xin cô cho phép tôi hỏi ít điều.

- Ông muốn hỏi việc chi?

- Không biết ông Hội đồng có mấy người con?

- Có tôi với hai đứa em trai tôi nữa.

- Hôm trước tôi thấy nhựt trình in hình cô Xuân Hương thi đậu „Brevet supérieur". Không biết phải là cô hay không?

- Thưa, phải.

- Xin lỗi cô. Vậy mà nãy giờ tôi không dè. Tôi xin mừng và khen cô đã có sắc, có duyên, mà lại thêm có tài. Thiệt là ông Hội đồng có phước quá, sanh con gái đáng ngàn vàng.

- Phận tôi là gái, học biết chút đỉnh, có tài bao nhiêu mà ông khen quá như vậy.

- Ấy là lời khiêm nhường của cô.

Hoàng Kiết móc túi lấy thuốc ra hút, coi bộ muốn ngồi mết mà nói chuyện dần lân. Cô Xuân Hương bèn đứng dậy đi mở tủ lấy thuốc và hộp quẹt để trên bàn, rồi cô lại bàn viết mà đứng, không ngồi nữa. Hoàng Kiết hiểu ý chủ nhà muốn đuổi mình, nên chàng đứng dậy mà nói rằng: „Thôi, tôi xin kiếu cô tôi về. Để bữa nào có ông Hội đồng ở nhà rồi tôi sẽ qua ở nói chuyện chơi lâu".

Hoàng Kiết từ cô rồi bước ra sân. Cô Xuân Hương đi theo mà đứng tại cửa giữa. Hoàng Kiết ngó quanh quất, thấy bên tay trái có mấy liếp hường trổ màu, thì bông nào cũng lớn thì day qua nói rằng: „Cô trồng hường trổ bông đẹp quá. Xin cô cho phép tôi coi một chút. Tôi có tánh ái hoa, nên thấy hoa không thể đi được". Chàng đi lại mấy liếp hường rờ rẫm từ bông, rồi lại day vô ngó cô Xuân Hương và nói rằng:

- Yêu hoa thì phải để hoa trên nhành mà xem. Ngặt vì tôi không ở đây được mà xem, Biết làm sao. Vậy xin cô cho phép tôi hái một cái bông đem về Rạch Giá làm kỷ niệm cái ngày tôi có phước mà được đến Cái Tắc .

Cô Xuân Hương gặc đầu mà thôi, chớ cô không đáp một tiếng chi hết.

Hoàng Kiết hái một cái bông hường trắng còn hàm tiết, giắt tại túi áo trên, ngó cô Xuân Hương mà cười, rồi dở nón cúi đầu mà từ và bước lên xe.

Cô Xuân Hương trở vô, sắc mặt có vẻ buồn.

Chương 4

Ông Hội đồng Nghiệp dắt vợ lên Sài Gòn ở uống thuốc nửa tháng, bịnh giảm nhiều nên thầy thuốc khuyên mua thuốc đem về nhà mà uống tiếp thêm cũng được. Ông về nghe con thuật chuyện Trương Hoàng Kiết qua đòi nợ, nói nếu không trả thì chủ nợ sẽ đưa án cho Trưởng Tòa. Ông nghe nói như vậy thì thở dài mà nói rằng: „Việc ấy để ba lo. Con đừng có nói cho má con hay, má con buồn rồi phát bịnh lại đa nghe".

Ông liền viết thơ cho ông Cai Tổng Bình mà thuật việc ấy cho ổng hay và nói mình đi Sài Gòn mới về, mắc lo sắp đặt việc nhà, không thể qua được, nên mời ông Cai Tổng Bình qua Cái Tắc mà bàn tính việc nợ nần.

Cách ít ngày sau, hai vợ chồng Cai Tổng Bình qua. Việc nhà bối rối, mà coi bộ bà Cai Tổng không lo chi hết. Bước vô nhà, bà hớn hở vui cười, bà đi thẳng vô hậu đường mà vuốt ve cô Xuân Hương rồi nằm nói chuyện làm sui với bà Hội đồng.

Ông Cai Tổng với ông Hội đồng thì ngồi ngoài „salon" mặt mày buồn hiu, nói chuyện nho nhỏ, chớ không phải rộn ràng như hồi trước. Mời khách uống nước rồi, ông Hội đồng mới nói rằng:

- Việc nợ nần bây giờ anh tính làm sao đây? Ông Huyện có sai con ổng qua đây thôi thúc nói đã được án Tòa rồi, kỳ cho mình trong ít ngày phải trả đủ vốn lời, nếu không trả thì người ta giao án cho Trưởng Tòa biên tịch tài sản. Khổ quá, không biết tính sao được.

- Tính giống gì bây giờ! Mấy năm trước sáu bảy cắc một giạ, mà mình trả lời còn không nổi thay. Năm nay lúa còn ba cắc mấy thì chịu chết, chớ trả giống gì được mà tính. Tôi muốn bỏ xui hết, họ làm gì đó có sức họ làm.

- Bỏ xui sao được.

- Vậy chớ không bỏ thì làm sao? Đơn mình xin vay dài hạn thì chưa xét kịp. Chủ nợ thì họ được án thi hành. Điền đất thì không ai thèm mua. Số nợ chồng lời đã lên tới 100 ngàn, trả giống gì nổi. Thôi, tôi tính tôi bỏ xui, tôi xin từ chức Cai Tổng, rồi dắt vợ con lên núi, kiếm chùa ở mà tu phứt cho rảnh.

- Anh nói nghe buồn quá! Giống gì mà tới đi tu lận! Người ta làm sao thì mình cũng vậy, hơi nào mà rầu. Gặp cuộc kinh tế như vầy ai cũng bị nguy hết, chớ phải một mình mình nguy hay sao. Mấy ông lớn bằng cái bồ, họ cũng ngã rầm rầm, sự nghiệp của mình đáng bao nhiêu mà sợ.

- Chú nói hơi thị đời quá. Tuy sự nghiệp của mình nhỏ, song mình tín gần nát trí, làm đổ mồ hôi mới gây dựng được chớ phải khi không mà họ đem họ cho mình hay sao?

- Tôi nghĩ lại mình bị cái nguy nầy đáng lắm. Trong khoảng mười mấy năm về trước, mình làm thái quá, lớp xài phí vô độ, không tiếc đồng tiền, lớp làm việc gì cũng liều mạng không dè dặt. Bột ít mà muốn nắn nhưn nhiều thì không nguy sao được.

- Chú nói như vậy sao phải. Những người bị cái nạn khẩn bách nầy có phải hết thảy đều tại ăn xài vô độ đâu. Phần nhiều họ tiện tặn, lo làm ăn hết sức, lo sắm đất sắm điền, mà họ cũng bị nguy mới tức chớ.

- Mấy người đó họ bị nguy là tại họ tham, có ít họ muốn thêm cho nhiều, họ ham làm giàu nên họ bị hại.

- Như hai anh em mình đây chớ gì!

- Đó đa! Hồi trước anh có huê lợi hơn 40 ngàn giạ, tôi có ít mà cũng có 15, 16 ngàn giạ. Mình giữ đó mà ăn thì khỏe quá. Tại mình tham, mình muốn làm giàu thêm nữa, mình vay bạc mà mua đất mắc, thì ông trời ổng phạt mình chớ sao.

- Mình lo làm ăn, chớ phải cướp giựt ai hay sao mà trời phạt.

- Ấy! Tôi nói ông trời phạt đa. Mấy năm về trước mình làm thái quá, hễ mở miệng ra là tiền bạc, chớ không kể nhơn nghĩa. Ông trời thấy vậy ổng gây cuộc khẩn bách đặng làm ngã lăn hết cho biết chừng. Đáng lắm! Tôi vái nguy riết tới đặng tiêu hết chơi. Không sao, cầu cho ngã hết rồi sắp hàng chạy lại, có sao đâu mà sợ.

- Nếu được như vậy thì nói làm gì. Ngặt gì có người không ngã mà họ xô mình ngã, làm cho mình gãy tay gãy chơn rồi chạy nữa sao được.

- Buồn nên luận bậy bạ chơi cho khuây lãng, chớ bề nào cũng phải lo, bỏ xui hay là thị đời sao được. Tôi muốn hiệp với anh đi qua Rạch Giá năn nỉ với ông Huyện Hàm xin bớt tiền lời và xin phân hạn mà trả cho ổng. Mình lấy cớ kinh tế khủng hoảng nầy mà nói với ổng có lẽ được chớ. Nếu ổng phân hạn cho mình trả 15 năm, hoặc 12 năm, thì chắc mình trả được.

- Trời ơi! Nhè thằng cha đó mà chú biểu đi năn nỉ! Chú có giỏi thì chú qua bển mà nói với nó, chớ tôi đã đi rồi, nếu đi nữa thì uổng công, không ích gì. Hôm thằng con nó qua bên đây, bận về nó ghé tôi, nó cũng hâm giao án cho Trưởng Tòa thi hành. Tôi chạy vô Rạch Giá nói nó đừng giao án cho Trưởng Tòa, xin đình lại tới mùa lúa thì ta sẽ tính. Nó gạc ngang không kể chi hết. Thứ nhà giàu họ mới kể đồng tiền, chớ có kể nhơn nghĩa gì?

- Bề nào tôi cũng phải qua nói phải quấy với người ta, chớ nín khe vậy sao phải.

- Chú muốn đi thì tôi đi với. Mà tôi chắc không thể nào nói được đâu. Trời ơi, tôi xin huỡn cho tôi tới mùa lúa mà còn không được thay, làm sao chú xin phân hạn trả 15 hay 12 năm cho được.

- Ấy, củng phải nói thử coi, chừng nào không được rồi mình sẽ tính thế khác.

- Chú muốn đi thì bữa nào chú qua tôi đi với chú. Nầy, còn chuyện của sắp nhỏ, chú thím liệu sao? Bữa nay hai vợ chồng tôi qua đây muốn nói với chú thím đặng tính việc hôn nhơn phứt cho rồi. Tuy gặp hồi khẩn bách, song mình làm cha mẹ phải tính việc trăm năm cho con, đặng nó có đôi bạn mà làm ăn.

- Vợ chồng tôi thuở nay nhứt định gả con Xuân Hương cho thằng tư Ý, chừng nào anh muốn làm lễ cưới thì làm, vợ chồng tôi có nói chi đâu. Ngặt vì lúc nầy việc nợ nần lộn xộn quá, lại đờn bà của tôi có bịnh, vậy xin anh huỡn lại ít ngày, đặng rảnh trí một chút rồi sẽ hay.

- Ừ, nói vậy chớ cũng đôi ba tháng nữa rồi sẽ cưới. Tôi nhắc chú coi chú có buộc làm lễ gì trước không vậy mà.

- Ối! Họ bày lễ hỏi, lễ cầu thân lộn xộn thất công. Tôi với anh là anh em thuở nay. Chừng nào rảnh, thì sẽ làm lễ cưới một lần một nhà thôi, chẳng cần phải làm lễ gì khác.

Ông Hội đồng nói tới đó, bỗng thấy một cái xe hơi chạy vô, ngừng giữa sân, rồi có một người đờn ông trên xe leo xuống xâm xâm vô cửa. Người ấy bịt khăn đen, mặc áo dài lót, chơn đi giày tây, để râu ngạnh trê.

Ông Cai Tổng dòm ra rồi nói rằng: „Thầy Ban biện Lý Thành Hưng ở bên Long Mỹ, thầy đi đâu bên nầy kìa?"

Ông Hội đồng Nghiệp cũng dòm ra rồi hỏi rằng:

- Thầy Ban biện Hưng đó hay sao? Thuở nay tôi nghe tên chớ chưa gặp mặt lần nào.

- Thầy là em vợ của thằng cha Huyện Hàm Trương Hà. Thế khi thầy qua nói chuyện nợ nần của mình đây chớ gì?

- Không lẽ vậy.

- Biết chừng đâu!

Thầy Ban biện Lý Thành Hưng bước vô cửa. Ông Cai Tổng với ông Hội đồng đứng đậy chào. Thầy ban biện vốn quen với ông Cai Tổng nên gặp nhau thầy mừng rỡ, hỏi thăm lăng xăng, rồi day lại hỏi thăm ông Hội đồng rằng: „Phải ông ông Hội đồng đây hôn?". Ông hội đồng gặc đầu đắp rằng: „Thưa phải, thuở nay tôi thường nghe danh thầy, song chưa có dịp gặp nhau. Nay tình cờ thầy đến nhà, thiệt tôi lấy làm may mắn quá. Mời thầy ngồi".

Thầy Ban biện Hưng vừa kéo ghế mà ngồi vừa nói với ông Hội đồng rằng:

- Bên nầy sao mà cấy lúa trễ quá, tới tháng nầy mà mới bắt tay cấy?

- Cũng vừa, chớ không trễ gì.

- Bên tôi họ cấy đã giáp đồng hết, còn bìa chéo chút đỉnh vậy thôi.

- Ở bển năm nào cũng vậy cấy sớm hơn bên nây.

- Bên nây họ mua lúa khá giá hôn?

- Lúa lúc nầy đã hết rồi, còn chút đỉnh giành mua mót lối 0đ95 tới 1đ05.

- Tệ quá vậy! Bên Long Mỹ họ mua còn được 1đ.00, lúa tốt tới 1đ05.

Ông Cai Tổng Bình xen vô nói rằng: „Bên Kinh Cái Sắn nó cũng mua tới 1đ.00. Mà đều nó ít mua lắm, nó chở lúa lên chợ lớn bán rồi về nó mới chồng bạc đủ".

Thầy Ban biện cười mà nói rằng:

- Trời ơi! Bán lúa như vậy thì nguy hiểm lắm. Nó đi luôn rồi mình làm sao?

- Phải chịu. Chớ biết làm sao. Mình phải theo lên Chợ Lớn chực mà lấy bạc, có khi chờ tới 10 bữa nữa tháng lấy bạc mới được.

- Cuộc kinh tế nầy nó sanh nhiều chuyện trắc trở quá.

- Khổ lắm mà!

Ông Hội đồng mời thầy Biện uống nước và hỏi rằng:

- Thầy qua nhà tôi chơi hay có chuyện chi?

- Tôi qua đây đặng nói chuyện riêng với ông một chút. Mà bữa nay ông có khách, thôi để bữa khác rồi tôi sẽ trở qua nữa.

- Xin thầy có việc chi thì cứ nói đi mà. Anh Tổng đây là anh em của tôi phải ai đâu lạ hay sao mà thầy ngại. Anh Tổng đây với tôi đây như là anh em một nhà vậy.

- Việc tôi muốn nói đây là việc kín một chút, nên không lẽ nói như vậy.

- Không có sao đâu. Tôi với anh Tổng đây chẳng có việc gì mà giấu nhau cả. Dầu việc kín đi nữa, thầy cũng cứ nói ra, đừng ngại chi hết.

- Nếu được như vậy thì tốt. Ông có một người con gái học giỏi, mới thi đậu „Brevet supérieur" phải hay không?

- Phải. Thầy hỏi chi vậy?

- Để thủng thẳng rồi tôi sẽ nói. Cô em năm nay được mấy tuổi?

- Nó năm nay 22 tuổi.

- Chẳng giấu chi ông. Thằng cháu tôi là Trương Hoàng Kiết nó kêu tôi bằng cậu, con của anh rể tôi là anh Huyện Hàm Trương Hà bên Rạch Giá, hôm trước nó qua bên nầy thăm ông, rủi không có ông ở nhà, mà may lại được gặp cô em. Hai người nói chuyện với nhau sao đó không biết mà thằng cháu tôi về trầm trồ khen ngợi cô em bên nầy lung quá. Từ hồi nó ở bên Tây về cho đến bây giờ, anh chị tôi muốn lo vợ cho nó, có nhiều chỗ giàu sang tử tế quá mà chỉ chỗ nào nó cũng không chịu, nó cứ nói nó muốn cưới vợ đầm chớ không thèm con gái Việt Nam . Chẳng biết tại duyên nợ làm sao, mà hôm nọ nó thấy cô em bên nầy nó phải lòng, hổm nay cứ năn nỉ với anh chị tôi, xin nói mà cưới cô em cho nó. Anh chị tôi cưng con, nó muốn thế nào thì cũng chiều theo ý nó, nên hôm qua kêu tôi ra mà biểu tôi qua bên nầy hỏi dọ trước coi, vì ông Hội đồng cũng quen biết anh Huyện tôi, chớ không xa lạ gì.

Ông Cai Tổng Bình nghe nói như vậy thì chưng hửng.

Ông Hội đồng Nghiệp nghe nói như vậy biến sắc liếc mắt ngó ông Cai Tổng rồi trả lời với thầy Ban biện rằng: „Ông Huyện với bà Huyện có lòng chiếu cố đến con tôi thì con tôi lấy làm có phước lắm. Tiếc vì tôi đã hứa làm sui chỗ khác rồi, nên không biết liệu làm sao đây. Xin thầy làm ơn về thưa lại với ông Huyện rằng tôi cảm tình lắm song không thể nhận lời được, là vì tôi đã hứa gả nó rồi".

Thầy Ban biện châu mày mà đáp rằng:

- Rủi cho thằng cháu tôi quá. Nó bước tới trễ một chút. Ông đã hứa gả cô em cho chỗ khác rồi bây giờ hồi hôn sao được.

- Hồi sao được. Nếu tôi hồi hôn rồi gả cho con ông Huyện thì té ra tôi ham giàu, ai coi tôi ra gì, mà biết con nhỏ tôi nó có chịu như vậy không?

- Ờ, cái đó còn khó nữa... cha chả, mà tôi về tôi nói lại đây, chắc chị Huyện tôi chỉ buồn lắm. Hôm qua chỉ cậy tôi đi chỉ nói chuyện nghe dường như chắc ý lắm, hễ qua nói thì được liền, nay tôi về tôi nói không được đây chắc chỉ phiền.

- Xin thầy làm ơn cắt nghĩa giùm rành rẽ cho bà Huyện hiểu. Hồi nãy tôi nói chuyện với anh Tổng đây, tôi mới tính bữa nào hai anh em tôi sẽ qua bển mà nói chuyện với ông bà Huyện.

- Ông muốn qua nói chuyện chi?

- Năm trước hai anh em tôi đấu giá mua đất quốc gia, lỡ thiếu bạc, có hỏi của ông Huyện. Rủi quá, hỏi bạc rồi kế kinh tế khủng hoảng tràn tới liền, lớp thì bị thất mấy mùa, lớp thì bị giá lúa sụt riết, làm cho mấy năm nay anh em tôi lo hết sức mà năm nào trả tiền lời cũng không đủ. Ông Huyện phiền nên làm đơn kiện đã được án rồi.

- Tưởng là chuyện gì, chớ chuyện đó tôi biết. Hôm qua tôi có coi hai cái án. Vì hai ông bảo kiết vần công với nhau nên hễ thi hành án thì hai ông bị hết. Anh Huyện đã biểu Hoàng Kiết đem án giao cho Trưởng Tòa, mà nó dục dặc chưa chịu giao, nên hôm qua tôi mới ngó thấy... Cha chả, tôi về tôi nói đi không thành công đây, chắc nó giao án cho Trưởng Tòa liền!

Ông Cai Tổng với ông Hội đồng nghe nói hâm dọa giao án cho Trưởng Tòa thì biến sắc, rồi nhìn nhau, bộ buồn lắm.

Ông Cai Tổng thở ra mà nói với thầy Ban biện rằng:

- Hễ giao án cho Trưởng Tòa thi hành thì anh em tôi chắc phải co tay chịu chết, chớ năm nay mà trả nợ sao nổi. Hồi nãy tôi với chú hội đồng mới tính qua bển năn nỉ với ông bà Huyện rộng lượng hoặc huỡn cho tới mùa lúa sang năm sau, đặng cho anh em tôi trả 15 hay 12 năm, vậy mới trả nổi.

- Xin lỗi ông, ông đi mất công. Tôi biết trước nói không được đâu. Nếu chuyện làm sui mà không thành, thì chuyện nợ nần hưỡn sao được. À, chớ chi việc làm sui mà xong, thì muốn tính thế nào anh chị tôi cũng chịu hết. Tôi nói lén cho hai ông nghe, hôm qua chị Huyện tôi có nói riêng với tôi rằng: Nếu tôi qua đây nói chuyện làm sui, mà ông Hội đồng bằng lòng, thì luôn dịp tôi phải cho ông Hội đồng biết, việc nợ nần ông Hội đồng đừng có lo, tuy kiện có án rồi anh chị tôi không bó buộc chi hết, để chừng đám cưới rồi anh chị tôi cho làm giấy lại phân hạng mà trả lần lần, trả đủ số vốn mà thôi, bỏ tiền lời. Còn như nói chuyện làm sui mà không thành, thì Trưởng Tòa thi hành án liền. Anh chị tôi đã quyết như vậy mà còn nói giống gì được nữa.

Ông Cai Tổng với ông Hội đồng ứa nước mắt.

Ông Cai Tổng ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi nói rằng: „Việc làm sui hồi nãy chú hội đồng trả lời gấp quá. Việc đó là việc quan hệ phải trả lời thủng thẳng mà tính chớ".

Thầy Ban biện cười mà nói rằng: „Ông Tổng nói như vậy tôi phục lắm. Việc làm sui là việc lâu dài, phải suy đi xét lại cho kỹ mới được. Vì mình là anh em với nhau, nên tôi mới dám nói, thiệt hồi nãy ông Hội đồng trả lời có gấp một chút. Phải chậm chậm mà suy nghĩ, cần gì mà trả lời vội. Nếu tôi về nói ông Hội đồng không chịu gả con, tự nhiên anh Huyện tôi ảnh bóp chặt thì hại biết chừng nào".

Ông Hội đồng châu mày mà đáp rằng: „Không phải tôi không chịu gả. Tại tôi hứa lỡ với chỗ khác rồi, bây giờ biết làm sao?"

Ông Cai Tổng đỡ lời rằng: „Việc làm sui mình mới hứa lời chớ chưa có lễ mễ gì, thì cũng như lời nói chơi, có chắc chắn gì đâu. Bây giờ chú nói lại với người ta rằng chú hứa gả như vậy, mà con nó không ưng, thì thôi, ai trách móc gì được mà sợ".

Ông Hội đồng chưng hửng, ngồi ngó ông Cai Tổng trân trân.

Ông Cai Tổng nói tiếp rằng: „Xin thầy Ban về thưa lại với ông Huyện, bà Huyện, việc làm sui đó để thủng thẳng ít bửa cho chú Hội đồng bàn tính với vợ con rồi chú sẽ trả lời."

Thầy Ban biện chúm chím cười, vuốt râu và nói rằng: "Thưa được. Ông Hội đồng thủng thẳng mà tính cho kỹ. Tính rồi viết thơ cho tôi, đặng tôi trả lời với anh chị tôi. Còn án Tòa đó tôi về tôi biểu đình lại khoan thi hành đã".

Ông hội đồng trong trí bối rối, nên ngồi trân trân không nói được tiếng chi hết.

Thầy Ban biện từ giã mà về, ông Hội đồng với ông Cai Tổng đưa ra sân. Chừng xe chạy rồi, ông Cai Tổng mới ngó ông Hội đồng mà nói rằng:

- Chú thấy nhà giàu độc ác hay chưa? Mình mắc nợ nó, nó muốn bắt vợ con mình mình cũng phải chịu.

Ông Hội đồng lấy khăn ra lau nước mắt, ông đứng giữa sân suy nghĩ một lát rồi bộ ông giận, nên ông nói xẵng lơ rằng: „Ối! Nó làm giống gì đó nó làm. Nó có giỏi thì nó bán nhà bán đất tôi, chớ nó áp chế buộc tôi phải bán con tôi cho nó như vậy sao được".

Ông Cai Tổng cười rằng mà đáp rằng: „Chú chẳng nên nóng. Chuyện nhà để thủng thẳng mà tính. Hai anh em mình đi vòng ra sau vườn mà nói chuyện riêng với nhau mới tiện".

/ 12 Next Page

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #cong1