Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

Hẹp van động mạch chủ (HC) là nguyên nhân thường gặp

nhất  gây  tắc  nghẽn  đường  tống  máu  của  thất  trái.  Các  nguyên

nhân khác bao gồm hẹp dưới van động mạch chủ do màng xơ,

hẹp dưới van động mạch chủ do cơ tim phì đại và hẹp trên van

động mạch chủ.

I.   Triệu chứng lâm sàng 

Nên nghĩ đến chẩn đoán HC trước bất kỳ bệnh nhân nào

có tiếng thổi tâm thu tống máu ở bờ phải phía trên xương ức, lan

lên động mạch cảnh. Phần lớn bệnh nhân khi đi khám chưa có

triệu chứng cơ năng tuy nhiên buộc phải hỏi kỹ để phát hiện tiền

sử đau ngực, choáng váng, ngất hoặc các dấu hiệu khác của suy

tim. Tiền sử hẹp eo ĐMC gợi ý bệnh van ĐMC có hai lá van,

ngược  lại  nếu  bệnh  nhân  được  chẩn  đoán  van  ĐMC  có  hai  lá

van, phải đo huyết áp động mạch tứ chi để loại trừ hẹp eo ĐMC.

Tiền sử thấp tim gợi ý nguyên nhân HC là di chứng thấp tim.

A.  Triệu chứng cơ năng: thường chỉ gặp khi hẹp van ĐMC

mức độ nặng.

1.   Đau ngực do tăng tiêu thụ ôxy cơ tim trong khi cung

cấp  ôxy  cho  cơ  tim  bị  giảm  hoặc  do  xơ  vữa  mạch

vành. 25% số bệnh nhân không đau ngực đã có bệnh

mạch  vành,  trong  khi  đó  40-80%  số  bệnh  nhân  HC

đau ngực có kèm bệnh mạch vành.

2.   Choáng  váng,  ngất:  do  tắc  nghẽn  cố  định  đường

tống máu thất trái và giảm khả năng tăng cung lượng

tim, bệnh nhân HC có thể tụt huyết áp nặng trong các

tình  huống  giảm  sức  cản  ngoại  vi  dẫn  đến  choáng

váng hoặc ngất.

3.   Biểu  hiện  của  suy  tim:  do  rối  loạn  chức  năng  tâm

thu hoặc chức năng tâm trương. Theo tiến triển của

bệnh, xơ hoá cơ tim sẽ dẫn tới giảm co bóp. Các cơ 

     288

chế bù trừ nhằm làm tăng thể tích trong lòng mạch sẽ

làm tăng áp lực thất trái cuối tâm trương, tăng áp lực

mao mạch phổi bít gây ứ huyết phổi. Các tình trạng

gây  rối  loạn  đổ  đầy  thất  trái  như  rung  nhĩ  hoặc  tim

nhanh đơn thuần có thể gây biểu hiện suy tim.

B.  Triệu chứng thực thể

1.   Bắt mạch: triệu chứng nổi bật của HC là mạch cảnh

nẩy yếu và trễ (pulsus parvus et tardus), là dấu hiệu

tốt nhất cho phép ước lượng mức độ HC tại giường.

Một số bệnh nhân lớn tuổi bắt mạch lại vẫn thấy gần

giống  bình  thường  do  giảm  độ  chun  giãn  của  thành

mạch, nên gây ước lượng thấp mức độ HC. Bắt mạch

ngoại vi đều giảm khi có HC nặng. Đôi khi sờ thấy

rung  miu  tâm  thu  dọc  theo  động  mạch cảnh ở bệnh

nhân  HC  khít.  Có  thể  sờ  thấy  rung  miu  tâm  thu  ở

khoang liên sườn II bên phải ở bệnh nhân HC.

2.   Sờ thấy mỏm tim đập rộng, lan tỏa nếu thất trái phì

đại nhưng chưa lớn hẳn. Đối với một số trường hợp,

sờ thấy mỏm tim đập đúp, tương ứng với sóng a hay

tiếng T4 do thất trái giãn nở kém. 

3.   Nghe tim: các tiếng bệnh lý chính bao gồm:

a.   Thổi  tâm  thu  tống  máu  ở  phía  trên  bên  phải

xương ức, lan lên cổ, đạt cường độ cao nhất vào

đầu-giữa  tâm  thu.  Mức  độ  HC  càng  nặng,  tiếng

thổi càng dài hơn, mạnh hơn và đạt cực đại chậm

hơn (cuối kỳ tâm thu). Tuy nhiên cường độ tiếng

thổi  không  liên  quan  chặt  với  mức  độ  hẹp  do

cường độ tiếng thổi có thể giảm nhẹ đi nếu cung

lượng  tim  giảm  nhiều  hoặc  chức  năng  thất  trái

giảm nặng. Trường hợp van ĐMC có hai lá van,

còn  di  động,  có  thể  nghe  được  tiếng  mở  van

ĐMC trước tiếng thổi tâm thu. 

b.   Tiếng T1 nói chung không thay đổi khi HC, tuy

nhiên  nếu  chức  năng  tâm  thu  thất  trái  rối  loạn

nặng và tăng áp lực cuối tâm trương thất trái, âm

sắc T1 giảm do hiện tượng đóng sớm và giảm lực

tác  động  đóng  van  hai  lá.  Thành  phần  chủ  của

tiếng T2 giảm đi khi HC  khít, T2 trở nên nhẹ và

gọn (đơn độc) do chỉ nghe thấy thành phần phổi

của tiếng T2. Một số bệnh nhân HC nặng có tiếng

T2  tách  đôi  nghịch  thường  do  kéo  dài  thời  gian

tống máu thất trái qua lỗ van hẹp khít. T2 tách đôi

nghịch  thường  cũng  gặp  trong  các  tắc  nghẽn

đường  tống  máu  thất  trái  khác  và  trong  bloc

nhánh  trái.  Tiếng  T3  là  dấu  hiệu  chức  năng  tâm

thu thất trái kém. Tiếng T4 xuất hiện do nhĩ trái

co bóp tống máu vào buồng thất trái có độ giãn

kém khi hẹp van ĐMC khít.

c.   Ngoài  ra,  có  thể  gặp  các  tiếng  thổi  của  hở  van

ĐMC do hẹp thường đi kèm hở van. Hiện tượng

Gallevardin xảy ra trong một số trường hợp hẹp

van ĐMC nặng, vôi hoá: thành phần âm sắc cao

của tiếng thổi lại lan xuống mỏm tim, dễ lẫn với

tiếng thổi của hở van hai lá kèm theo.

d.   Nhịp tim nhanh lúc nghỉ ở bệnh nhân HC nặng là

một trong những dấu hiệu đầu tiên của tình trạng

cung lượng tim giảm thấp.

II.  Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh 

A.  Các nguyên nhân gây hẹp van động mạch chủ

1.   Hẹp van ĐMC bẩm sinh: dạng hẹp van ĐMC hay

gặp    nhất  ở  người  lớn  là  bệnh  van  ĐMC  có  hai  lá

van,  chiếm  1-2%  dân  số,  chủ  yếu  ở  nam  giới.  Van

ĐMC thường thoái hoá và vôi sớm. Một số dạng HC

khác như dính lá van, van một cánh...

2.   Hẹp van ĐMC mắc phải:

a.   Hẹp do thoái hoá và vôi hoá là dạng bệnh thường

gặp nhất, nổi trội ở tuổi 70-80. Quá trình rối loạn

chuyển  hoá  canxi  trong  bệnh  Paget,  bệnh  thận

giai  đoạn  cuối  làm  tăng  quá  trình  vôi  hoá.  Các

yếu  tố  nguy  cơ  của  bệnh  mạch  vành  thúc  đẩy

nhanh quá trình vôi hoá ở các lá van bị thoái hoá.

b.   Hẹp  van  ĐMC  do  thấp  tim  ít  khi  đơn  thuần  mà

không kèm bệnh van hai lá. Thấp tim gây xơ hoá,

vôi hoá, dính các lá van và mép van ĐMC, dày lá

van nhất là tại bờ.

B.  Sinh lý bệnh

1.   Hẹp van ĐMC đặc trưng bởi quá trình hẹp dần lỗ van

ĐMC gây tăng dần hậu gánh cho thất trái. Để duy trì

cung  lượng  tim,  thất  trái  phải  bóp  với  sức  bóp  tâm

thu cao hơn, làm tăng áp lực lên thành tim, dẫn đến

phì đại đồng tâm, nhờ đó bình thường hoá sức ép lên

thành  tim  (theo  định  luật  Laplace:  sức  ép  lên  thành

tim = áp lực × đường kính + 2 × độ dày tim), song lại

làm giảm độ giãn nở của thất trái.

2.   Thất trái giãn kém sẽ làm giảm quá trình đổ đầy thất

trái  thụ  động  trong  giai  đoạn  đầu  của  thời  kỳ  tâm

trương. Tiền gánh thất trái phụ thuộc rất nhiều vào co

bóp  nhĩ  trái.  Thất  trái  càng  dầy,  lực  bóp  càng  gia

tăng,  thời  gian  tâm  thu  kéo  dài,  càng  làm  tăng mức

độ tiêu thụ ôxy cơ tim. Khi suy tim, áp lực cuối tâm

trương thất trái tăng làm giảm áp lực tưới máu động

mạch  vành,  gây  đè  ép  các  động  mạch  nhỏ  trong  cơ

tim  hoặc  phía  dưới  nội  tâm  mạc,  do  đó  càng  làm

giảm hơn nữa cung cấp ôxy cho cơ tim, gây biểu hiện

đau ngực...

C.  Diễn biến tự nhiên của bệnh

1.   Tiến triển của hẹp van ĐMC đặc trưng bởi một giai

đoạn  kéo  dài  không  biểu  hiện  triệu  chứng  cơ  năng

cho  tới  khi  diện  tích  lỗ  van  ĐMC  <  1,0  cm2.  Nói

chung,  chênh  áp  trung  bình  qua  van  ĐMC  tăng

khoảng  7  mmHg/năm  và  diện  tích  lỗ  van  giảm

khoảng  0,12-0,19  cm2/năm.  Do  tốc  độ  tiến  triển  rất

khác  nhau,  tất  cả  bệnh  nhân  HC  cần  được  tuyên

truyền kỹ về các triệu chứng báo hiệu tiến triển của

bệnh. Tỷ lệ sống còn gần như bình thường khi không

có  triệu  chứng  cơ  năng.  Nguy  cơ  đột  tử  <  2%/năm

ngay cả ở bệnh nhân hẹp van ĐMC nặng mà không

có triệu chứng cơ năng.

2.   Nhưng  khi  đã  phát  triển  triệu  chứng  cơ  năng,  tỷ  lệ

sống còn giảm xuống nhanh chóng nếu không mổ: 

a.   Khi bệnh nhân đã có đau ngực thì tỷ lệ sống còn

chỉ đạt 50% sau 5 năm, 

b.   Khi đã có ngất thì tỷ lệ sống còn chỉ đạt 50% sau 3 năm, 

c.   Khi đã có suy tim thì thời gian sống trung bình <

2 năm. 

d.   Đột tử có thể xảy ra ở những bệnh nhân HC đã có

triệu chứng cơ năng do các rối loạn nhịp thất trên

bệnh nhân phì đại và rối loạn chức năng thất trái

hoặc rối loạn nhịp thứ phát do thiếu máu cơ tim.

III. Các xét nghiệm chẩn đoán

A.  Điện  tâm  đồ:  thường  có  dày  nhĩ  trái  (80%)  và  phì  đại

thất trái (85%). Rối loạn nhịp ít khi xảy ra, chủ yếu ở giai

đoạn cuối và đa số là rung nhĩ, nhất là khi có kèm bệnh

van hai lá. Bloc nhĩ thất có thể gặp khi có ápxe vòng van

biến chứng của viêm nội tâm mạc.

B.  Xquang ngực: ít có giá trị chẩn đoán do hình ảnh có thể

hoàn  toàn  bình  thường.  Bóng  tim  giống  hình  chiếc  ủng

nếu phì đại thất trái đồng tâm. Hình tim thường to nếu đã

có  rối  loạn  chức  năng  thất  trái  hoặc  có  HoC  phối  hợp.

Một vài hình ảnh khác có thể bắt gặp là hình ảnh vôi hoá

van  ĐMC  ở  người  lớn  tuổi  (phim  nghiêng)  hoặc  giãn

đoạn ĐMC lên sau hẹp.

C.  Siêu  âm  Doppler  tim:  siêu  âm  Doppler  tim  là  phương

pháp được lựa chọn để chẩn đoán xác định và đánh giá

mức độ nặng của hẹp chủ. Các mặt cắt cạnh ức (2D hoặc

TM) là những vị trí tốt nhất để đánh giá cơ chế, nguyên

nhân HC và đo đạc kích thước buồng tim, thành tim.

1.   Đánh giá về tình trạng van, nguyên nhân gây hẹp

van và ảnh hưởng đến các buồng tim: 

a.   Các lá van dày, mở dạng vòm trong thời kỳ tâm

thu gặp trong HC bẩm sinh và do thấp tim, phân

biệt  bằng  kiểu  dày  của  lá  van  (mặt  cắt  trục  dài

cạnh  ức trái): HC do thấp thường dày khu trú ở

bờ tự do nhiều hơn so với thân lá van, rất hay có

HHL  kèm  theo.  Ngược  lại,  HC  do  thoái  hoá  thì

quá trình vôi hoá thường tiến triển từ thân cho tới

bờ mép van, làm giảm dần di động lá van đến độ

gần như cố định. Có thể sơ bộ đánh giá mức độ

HC  dựa  vào  biên  độ  mở  van  trên  siêu  âm  TM

(bình thường là 16-22 mm):

•    HC nhẹ: biên độ mở van ĐMC từ 13-15 mm.

•    HC vừa: biên độ mở van ĐMC từ 8-12 mm. 

•    HC nặng: biên độ mở van ĐMC < 8 mm. 

Tuy nhiên giá trị này có tính chất gợi ý, chứ

không hoàn toàn chính xác, vì chỉ đánh giá được

khoảng cách giữa 2 trong số 3 lá van ĐMC. Kỹ

thuật  đo  và  vị  trí  mặt  cắt  có  thể  làm  sai  lạc  kết

quả  đo.  Cung  lượng  tim  giảm  nhiều  cũng  làm

giảm biên độ mở của van ĐMC dù không có HC thực sự. 

b.   Số lượng mép van, đường đóng van và hình dạng

lỗ van (mặt cắt trục ngắn cạnh ức trái) cho phép

chẩn  đoán  các  loại  HC  bẩm  sinh:  van  ĐMC  có

hai lá van, van ĐMC dạng một lá-một mép hoặc

dạng một lá-không có mép van... Tuy nhiên, khi

van  ĐMC  đã  vôi  hoá  nặng  thì  việc  xác  định

nguyên nhân HC trở nên rất khó khăn.

c.   Phì đại và giãn thất trái, giãn nhĩ trái trên mặt cắt

trục  dài  cạnh  ức  trái  nhưng  nếu  hẹp  van  ĐMC

đơn  thuần,  thất  trái  thường  nhỏ  tuy  có  phì  đại.

Mặt cắt bốn buồng hoặc năm buồng từ mỏm cho

phép  đánh  giá  chung  chức  năng  co  bóp  và  vận

động thành thất. Các mặt cắt này cũng cho phép

xác  định  mức  độ  hở  van  ĐMC  kèm  theo  bằng

siêu âm Doppler mầu.

2.   Đánh giá về huyết động:

a.   Chênh  áp  qua  van  ĐMC:  thường  đo  bằng

Doppler  liên  tục  sử  dụng  mặt  cắt  năm  buồng  từ

mỏm  và  một  số  mặt  cắt  khác  như:  khoang  liên

sườn II bờ phải xương ức, trên hõm ức... dựa trên

công  thức  Bernoulli  sửa  đổi  (P  =  4  V2)  để  xác

định chênh áp  trung bình và chênh áp tối đa (tức

thời  đỉnh-đỉnh)  giữa  ĐMC  và  thất  trái.  Mức  độ

HC  được  phân  loại  dựa  vào  chênh  áp  qua  van

ĐMC:

•    HC  nhẹ:  chênh  áp  tối  đa  <  40  mmHg  hoặc

chênh áp trung bình < 20 mmHg.

•    HC vừa: chênh áp tối đa: 40-70 mmHg hoặc

chênh áp trung bình: 20-40 mmHg.

•    HC  nặng:  chênh  áp  tối  đa  >  70  mmHg  hoặc

chênh áp trung bình > 40 mmHg.

Một số yếu tố làm tăng giả tạo chênh áp qua van

ĐMC  như:  có  kèm  hở  van  ĐMC,  màng  ngăn

dưới  van  ĐMC,  tình  trạng  tăng  cung  lượng  tim,

đo sau nhát ngoại tâm thu, lấy nhát bóp không đại

diện (khi rung nhĩ) hoặc lẫn với phổ của hở van

hai lá.

 b.   Diện  tích  lỗ  van  ĐMC:  đo  theo  nguyên  lý  của

phương trình liên tục: 

Diện tích van ĐMC = π × r2 × VTITT / VTIĐMC 

Trong  đó:  VTITT  là  tích  phân  vận  tốc  theo

thời gian của dòng chảy tâm thu tại vị trí buồng

tống máu của thất trái (Doppler xung với cửa sổ

Doppler cách van ĐMC 1 cm tại mặt  cắt 5 buồng

tim); VTIĐMC  là tích phân vận tốc theo thời gian

của  dòng  chảy  qua  vị  trí  van  ĐMC  bị  hẹp;  r  là

bán  kính  của  buồng  tống  máu  thất  trái  (mặt  cắt

trục dài, ngay sát vòng van ĐMC). 

Mức  độ  hẹp  van  ĐMC  được  phân  loại  dựa  vào

diện tích lỗ van như sau:

•    HC nhẹ: diện tích lỗ van > 1,5 cm2. 

•    HC vừa: diện tích lỗ van từ 1-1,5 cm2.

•    HC nặng: diện tích lỗ van < 1 cm2, khi diện

tích  <  0,75  cm2  (<  0,5  cm2/m2  diện  tích  da)

thì được coi là hẹp van ĐMC rất khít.

c.   Chỉ số VTITT/VTIĐMC: khi < 0,3 tương ứng với

hẹp  van  ĐMC  nặng,  khi  <  0,25  tương  ứng  với

HC  khít.  Chỉ  số  này  không  phụ  thuộc  vào  lưu

lượng tim và tránh được các sai sót khi đo đường

kính  buồng  tống  máu  thất  trái,  có  ích  trong

trường  hợp  hẹp  van  ĐMC  khít  và  rối  loạn  chức

năng thất trái nặng. Tuy nhiên, cần lưu ý chỉ số

này  có  tỷ  lệ  sai  sót  cao  khi  đường  kính  buồng

tống  máu  thất  trái  rộng  >  2,2  cm  hoặc  hẹp  <

1,8cm.

3.   Siêu âm tim qua thực quản: có thể đo trực tiếp diện

tích  lỗ  van  (2D),  nhưng  khó  lấy  được  phổ  Doppler

của dòng chảy qua van bị hẹp hơn. Công cụ này rất

có  ích  để  đánh  giá  hình  thái  van  ĐMC  trong  bệnh

hẹp van ĐMC bẩm sinh.

4.   Siêu  âm  gắng  sức:  nhằm  phân  biệt  những  trường

hợp hẹp van ĐMC thực sự có rối loạn chức năng tâm

thu  thất  trái  nặng  (nên  chênh  áp  qua  van  thấp)  với

những trường hợp giả hẹp (bệnh lý ảnh hưởng đến cơ

tim từ trước, có kèm hẹp van ĐMC nhẹ, nên cũng rối

loạn chức năng tâm thu thất trái và chênh áp thấp qua

van  ĐMC)  bởi  trường  hợp  giả  hẹp  không  hề  có  cải

thiện  sau  khi  được  mổ.  Dobutamine  truyền  với  liều

tăng  dần  từ  5  đến  20  μg/kg/phút  để  tăng  dần  cung

lượng  tim,  sau  đó  dùng  siêu  âm  tim  kiểm  tra  từng

bước  diện  tích  lỗ  van  và  chênh  áp  qua  van  ĐMC.

Cần ngừng ngay nghiệm pháp khi bệnh nhân tụt áp,

đau ngực hoặc xuất hiện rối loạn nhịp tim.   

D.  Thông  tim:  trước  đây  thông  tim  là  tiêu  chuẩn  vàng  để

chẩn  đoán  và  lượng  giá  hẹp  van  động  mạch  chủ.  Tuy

nhiên ngày nay, siêu âm tim dần dần đã được chấp nhận

rộng rãi như một phương tiện để chẩn đoán và đánh giá

HC thay thế cho thông tim. 

1.   Thông tim được chỉ định khi có nghi ngờ về mức độ

hẹp  van  trên  siêu  âm  tim  hoặc  để  chụp  động  mạch

vành cho bệnh nhân nam tuổi > 40 và nữ tuổi > 50

trước khi mổ thay van. 

2.   Cần cân nhắc giữa các lợi ích của thông tim và nguy

cơ biến chứng nhất là ở bệnh nhân HC khít. Nguy cơ

tử  vong  sau  thông  tim  ở  bệnh  nhân  hẹp  khít  van

ĐMC là 0,2%. Bệnh nhân HC nặng nên dùng thuốc

cản quang loại trọng lượng phân tử thấp, không ionic

để  hạn  chế  bớt  các  nguy  cơ  tụt  huyết  áp  do  giãn

mạch  ngoại  vi,  rối  loạn  nhịp  chậm,  rối  loạn  chức

năng  cơ  tim  thoáng  qua,  hạn  chế  tác  dụng  lợi  tiểu

thẩm  thấu,  nhờ  đó  giảm  bớt  nguy  cơ  của  thủ  thuật.

Đối  với  bệnh  nhân  hẹp  khít  van  ĐMC,  nên  tránh

chụp buồng thất trái.

3.   Giá  trị  chênh  áp  trung  bình  qua  van  ĐMC  đo  bằng

thông  tim  rất  giống  với  siêu  âm  trong  khi  giá  trị

chênh  áp  tối  đa  đỉnh  đỉnh  đo  qua  thông  tim  thường

thấp hơn so với siêu âm. Có thể làm thử nghiệm kích

thích  bằng  truyền  Nitroprusside  tĩnh  mạch  để  đánh

giá sự thay đổi về chênh áp qua van và diện tích lỗ

van mỗi khi có thay đổi cung lượng tim nhằm phân

biệt các trường hợp hẹp van ĐMC thực sự với những

trường hợp giả hẹp.    

4.   Khi HC không khít thì phân số tống máu, cung lượng

tim khi nghỉ, áp lực các buồng tim bên phải và áp lực

mao mạch phổi bít đều bình thường. Áp lực cuối tâm

trương  thất  trái  thường  tăng  do  thất  trái  phì  đại  đã

giảm độ giãn. Sóng a trên đường cong áp lực nhĩ trái,

áp lực mao mạch phổi bít thường nổi rõ. Khi mức độ

HC tăng lên, áp lực cuối tâm trương thất trái, áp lực

các buồng tim phải và động mạch phổi cũng tăng lên.

Phân  số  tống  máu  và  cung  lượng  tim  sẽ  giảm  khi

bệnh  tiến  triển  đến  giai  đoạn  cuối.  Trường  hợp  HC

khít, chức năng thất trái giảm nặng thì chênh áp qua

van ĐMC sẽ giảm. Không bao giờ đánh giá mức độ

hẹp van ĐMC chỉ dựa trên giá trị chênh áp qua van

đơn thuần mà phải chú ý đến chức năng thất trái và

mức độ hở van hai lá kèm theo.   

IV. Điều trị    

A.  Lựa  chọn  biện  pháp  điều  trị:  cốt  lõi  của  điều  trị  hẹp

van ĐMC nặng là phẫu thuật thay van ĐMC. Nói chung

phẫu  thuật  ưu  tiên  cho  những  bệnh  nhân  đã  có  triệu

chứng cơ năng, do thay van ĐMC có nguy cơ biến chứng

khá cao và tỷ lệ sống còn chỉ thực sự cải thiện rõ rệt khi

bệnh nhân đã bộc lộ triệu chứng cơ năng. Ngày càng có

nhiều bằng chứng cho thấy khi hẹp van ĐMC tới mức độ

nặng, thì xu hướng sẽ xuất hiện triệu chứng và phải mổ

thay van chỉ trong vòng 3 năm. Đối với bệnh nhân lớn

tuổi  đã  hẹp  khít  van  ĐMC,  việc  mổ  khi  chưa  có  triệu

chứng  xem  ra  có  lợi  hơn  so  với  việc  đợi  đến  khi  xuất

hiện  triệu  chứng  cơ  năng.  Mổ  sớm  cũng  có  lợi  đối  với

những bệnh nhân trẻ mà chênh áp qua van ĐMC rất cao

vì hạn chế được nguy cơ cao xuất hiện đột tử. Tương tự,

bệnh nhân có diện tích lỗ van ĐMC ≤ 1,0 cm2 kèm theo

hẹp  đáng  kể  động  mạch  vành  và  cần  làm  cầu  nối  chủ-

vành thì nên tính cả đến việc mổ thay van ĐMC.

B.  Điều trị nội khoa

1.   Bắt buộc phải điều trị kháng sinh dự phòng viêm nội

tâm mạc nhiễm khuẩn.

2.   Với bệnh nhân chưa có triệu chứng cơ năng (diện

tích lỗ van ĐMC > 1,0 cm2) thì điều trị có mục đích

phòng tiên phát bệnh lý động mạch vành, duy trì nhịp

xoang và khống chế huyết áp. Tất cả bệnh nhân phải

được hướng dẫn về các dấu hiệu và triệu chứng của

đau thắt ngực, ngất hoặc suy tim để đi khám lại ngay

và xét mổ nếu xuất hiện các triệu chứng cơ năng này,

vì khi đó nguy cơ phẫu thuật thấp hơn các nguy cơ

của việc tiếp tục điều trị nội khoa.

3.   Điều trị suy tim nhằm vào việc kiểm soát cân bằng

dịch  để  giảm  ứ  huyết  phối,  thường  bằng  thuốc  lợi

tiểu.  Tuy  nhiên,  cung  lượng  tim  ở  bệnh  nhân  HC

nặng phụ thuộc nhiều vào tiền gánh, nên cần rất thận

trọng  khi  dùng  lợi  tiểu  để  tránh  dùng  liều  quá  cao,

gây tụt huyết áp (do giảm cung lượng tim) và giảm

tưới  máu  ngoại  vi.  Tránh  dùng  các  thuốc  nhóm

Nitrates  ở  bệnh  nhân  suy  tim  do  HC  nặng  vì  thuốc

làm  giảm  tiền  gánh  đáng  kể,  có  thể  gây  giảm  tưới

máu não và ngất. Digoxin thường chỉ được chỉ định

cho bệnh nhân HC suy tim nhất là khi rung nhĩ. Điều

trị HC có suy tim bằng thuốc không hề cải thiện tiên

lượng sống lâu dài của bệnh nhân. Hơn nữa, điều trị

nội khoa bệnh nhân hẹp van ĐMC nặng và rối loạn

chức năng thất trái quá tích cực không hề có lợi mà

còn nguy hiểm.

4.   Tránh dùng các thuốc giãn mạch cho bệnh nhân

hẹp chủ đơn thuần. 

a.   Trong  một  số  bệnh  cảnh  hẹp  hở  van  ĐMC,  HC

phối hợp hở van hai lá, HC phối hợp bệnh mạch

vành thì có thể cân nhắc việc dùng các thuốc giãn

mạch  song  nên  hết  sức  thận  trọng,  đôi  khi  phải

theo dõi huyết động cho bệnh nhân tại phòng hồi

sức. Trên lý thuyết, bệnh nhân hở van nhiều sẽ có

lợi khi dùng thuốc giãn mạch; bệnh nhân có bệnh

mạch vành cũng có lợi vì giảm hậu gánh sẽ làm

giảm  nhu  cầu  ôxy  cơ  tim.  Dù  vậy,  thuốc  giãn

mạch chỉ là biện pháp điều trị tạm thời trước

khi mổ làm cầu nối chủ vành.

b.   Liều khởi đầu nên dùng rất thấp tại phòng hồi sức

(tốt  nhất  là  nitroprusside  để  dễ  chỉnh  liều),  sau

khi đã ổn định liều giãn mạch sẽ chuyển dần sang

thuốc uống (ức chế men chuyển, Hydralazine).

5.   Bệnh  nhân  hẹp  van  ĐMC  nặng  chịu  đựng  rất  kém

tình  trạng  rung  nhĩ  (vì tiền gánh thất trái phụ thuộc

rất nhiều vào co bóp nhĩ), nhanh chóng-dễ dàng gây

giảm cung lượng tim và ứ huyết phổi, đồng thời tăng

nhu  cầu  ôxy  (do  nhịp  nhanh).  Bởi  vậy,  cần  điều  trị

tích cực rung nhĩ ngay từ lúc mới khởi phát ở bệnh

nhân HC nặng nhằm chuyển về nhịp xoang.         

6.   Đối  với  bệnh  nhân  hẹp  van  ĐMC  nặng  và  chức

năng thất trái rối loạn nặng, có chênh áp qua van

ĐMC  thấp:  phẫu  thuật  chỉ  cải  thiện  triệu  chứng

khoảng  50%,  50%  còn  lại  không  hề  cải  thiện  triệu

chứng và chết trong giai đoạn hậu phẫu mà không ít

trong số đó là các trường hợp giả hẹp chủ (rối loạn

chức năng cơ tim nặng từ trước kèm theo giả hẹp van

ĐMC do cung lượng tim thấp). Tuy còn nhiều điểm

chưa thống nhất song trước khi đi đến việc lựa chọn

bệnh nhân phù hợp và quyết định mổ, thì:

a.   Nên làm siêu âm tim gắng sức hoặc nghiệm pháp

kích  thích  khi  thông  tim  để  đánh  giá  những

trường  hợp  hẹp  van  ĐMC  thực  sự  gây  rối  loạn

chức năng thất trái nặng bằng cách đo diện tích lỗ

van  và  chênh  áp  qua  van  ĐMC  khi  cung  lượng

tim  tăng.  Nếu  cung  lượng  tim  tăng  đáng  kể  mà

không  gây  thay  đổi  chênh  áp  thì  đó  là  giả  hẹp,

ngược  lại  nếu  cung  lượng  tim  tăng  gây  tăng

chênh áp qua van thì đó là hẹp thật.

b.   Nên  thử  nong  van  bằng  bóng  qua  da:  nếu  triệu

chứng  suy  tim  và  cung  lượng  tim  cải  thiện  sau

can thiệp thì khả năng hồi phục sau mổ thay van

ĐMC sẽ lớn hơn.     

C.  Điều trị can thiệp

1.   Đặt bóng trong động mạch chủ (IABP): nhằm ổn

định tạm thời tình trạng huyết động ở bệnh nhân hẹp

van động mạch chủ nặng, suy tim mất bù để chuẩn bị

mổ. Hiệu quả của đặt bóng trong động mạch chủ là

nhờ tăng tưới máu mạch vành trong kỳ tâm trương,

làm  giảm  tình  trạng  thiếu  máu  của  toàn  thể  cơ  tim

khi hẹp van ĐMC khít, suy tim mất bù.

2.   Nong  van  động  mạch  chủ  bằng  bóng  qua  da:  có

vai trò rõ rệt đối với hẹp van ĐMC bẩm sinh ở trẻ em

tuy  không  được  áp  dụng  tuyệt  đối  ở  bệnh  hẹp  van

ĐMC  mắc  phải.  Mặc  dù  kỹ  thuật  này  có  nhiều  hứa

hẹn nhưng so với mổ thì vẫn chưa hiệu quả bằng: sau

thủ  thuật,  diện  tích  lỗ  van  tăng lên 50% song sau 6

tháng  có  tới  50%  tái  phát.  Vì  thế  nong  van  ĐMC

bằng bóng chỉ được chỉ định trong một số trường hợp

nhất  định  như:  hẹp  van  ĐMC  bẩm  sinh  ở  trẻ  em,

bệnh  nhân  không  thể  mổ  do  tuổi  cao  hay  có  bệnh

phối hợp, điều trị tạm thời trước khi mổ có chuẩn bị,

điều  trị thử ở bệnh nhân có rối loạn chức năng thất

trái  nặng  (xem  liệu  bệnh  nhân  có  cải  thiện  sau  mổ

hay không). Tỷ lệ tử vong của thủ thuật này khoảng

2-5%. 

D.  Điều trị ngoại khoa

1.   Chỉ định mổ thay van ĐMC:

a.   Bệnh nhân có triệu chứng cơ năng:

•    Đau ngực.

•    Ngất.

•    Suy tim.

b.   Bệnh nhân không có triệu chứng cơ năng:

•    Tuổi  trẻ  và  chênh  áp  qua  van  ĐMC  >  100

mmHg.

•    Cần làm thủ thuật/phẫu thuật lớn, có nguy cơ

cao.

•    Có chỉ định bắc cầu nối chủ vành.

•    Rối loạn chức năng tâm thu thất trái. 

2.   Các loại phẫu thuật thay van động mạch chủ: thay

van động mạch chủ được ưa chuộng hơn mổ sửa van

vì sau khi gọt mỏng và lấy vôi ở lá van, các lá van

hay  co  rút,  gây  hở  van  ngay  sau  phẫu  thuật  và  dần

dần mức độ hở sẽ tăng lên. Tuy nhiên, với hẹp van

ĐMC bẩm sinh mà van chưa vôi thì vẫn có thể sửa

van  tuỳ  theo  từng  trường  hợp  cụ  thể.  Mổ  thay  van

ĐMC  đơn  thuần  không  kèm  bệnh  mạch  vành  hoặc

các  bệnh  nặng  khác  thì  tỷ  lệ  tử  vong  quanh  phẫu

thuật khoảng 2-3%. Tỷ lệ sống còn sau mổ thay van

ĐMC vào khoảng 85% sau 10 năm. Sự lựa chọn loại

van để thay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tuổi,

nguy  cơ  dùng/không  dùng  thuốc  chống  đông,  đặc

điểm  giải  phẫu,  chức  năng  thất  trái,  mức  độ  hoạt

động  thể  lực,  dự  tính  mổ  lại...  Nói  chung,  bao  gồm

các loại như: 

a.   Phẫu thuật Ross (ghép van tự thân): van và thân

động  mạch  phổi  được  cắt  luôn  cả  khối  rồi  thay

vào vị trí của van động mạch chủ đồng thời cắm

lại hai động mạch vành. Chỗ van động mạch phổi

bị cắt sẽ được thay thế bằng một van động mạch

phổi đồng loài. Van ghép tự thân kiểu này rất tốt

về  huyết  động,  không  cần  dùng  thuốc  chống

đông,  ít  vôi  hoá  hơn  so  với  các  van  sinh  học

khác, có thể lớn lên theo phát triển của cơ thể, có

đặc tính chống nhiễm trùng rất cao… nên rất phù

hợp để làm ở trẻ nhỏ hoặc ở bệnh nhân viêm nội

tâm mạc nhiễm khuẩn song đòi hỏi kỹ thuật cao

và thời gian kéo dài, dễ gây ra nhiều rối loạn sau

mổ. Tiên lượng lâu dài phụ thuộc vào mức độ hở

van động mạch chủ, bệnh lý van động mạch phổi

(hở,  hẹp)  hay  các  rối  loạn  chức  năng  thất  phải

(thứ phát sau bệnh van ĐMP).  

b.   Thay van ĐMC đồng loài: được dùng rộng rãi ở

các  bệnh  nhân  trẻ  tuổi  do  đặc  điểm  huyết  động

tốt  và  không  cần  dùng  thuốc  chống  đông.  Tuy

nhiên  theo  thời  gian,  các  van  loại  này  không  hề

lớn lên, sẽ bị thoái hoá, vôi và gây hở. Bản thân

kỹ thuật thay van loại này cũng khá phức tạp vì

thường phối hợp với việc tạo hình một phần gốc

động mạch chủ và cắm lại động mạch vành, cho

dù vẫn đơn giản hơn so với phẫu thuật Ross. Tuổi

thọ trung bình của van là 15 năm. Phẫu thuật này

có tỷ lệ nhiễm trùng rất ít khi đang có viêm nội

tâm  mạc  và  đây  là  thay  van  đồng  loài  được  chỉ

định khi viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trên van

nhân tạo.

c.   Thay van sinh học (dị loài): thường được chỉ định

cho bệnh nhân tuổi > 70. Trong vòng 10 năm, 80-

90% van thoái hoá gây hở hoặc hẹp do thủng lá

van,  giảm  vận  động,  rò  quanh  chân  van.  Không

cần  dùng  chống  đông  lâu  dài  sau  thay  van  vì

nguy cơ huyết khối thấp. Phần lớn đều có chênh

áp qua van ngay sau mổ (vì bị vòng van, khung

đỡ cản trở một phần), ở mức độ nhiều hơn so với

van cơ học vì thế khi thay, cần chọn loại van có

kích  thước  lớn  nhất  có  thể  được  để  giảm  bớt

chênh áp qua van.

d.   Thay van cơ học: các loại van thường dùng là St.

Jude  Medical,  Metronic-Hall  và  Carbomedics.

Bệnh nhân sau thay van loại này phải uống thuốc

chống  đông  để  giảm  nguy  cơ  tạo  huyết  khối  ở

van và các biến chứng tắc mạch khác. Độ bền của

loại van này là cao nhất nếu duy trì được điều trị

chống  đông  và  dự  phòng  kháng  sinh  cẩn  thận

trong nhiều năm. 

3.   Biến  chứng:  những  biến  chứng  tiềm  tàng  sau  mổ

thay van ĐMC là hư hỏng cấu trúc van, rối loạn hoạt

động (huyết động) van, huyết khối kẹt van, tắc mạch,

chảy máu do dùng thuốc chống đông, viêm nội tâm

mạc  nhiễm  khuẩn  van  ĐMC  nhân  tạo,  huyết  tán  và

bloc nhĩ thất. Phải dùng thuốc chống đông cẩn thận

(đối với bệnh nhân nào có chỉ định) và phải dùng kéo

dài suốt thời gian tồn tại van nhân tạo (đến cả đời).

Bệnh nhân hoạt động thể lực mức độ thấp sẽ ít ảnh

hưởng hơn đến huyết động của van và do đó tốc độ

thoái hoá van cũng sẽ chậm hơn.

E.  Theo dõi     

1.   Bệnh  nhân  hẹp  van  động  mạch  chủ  nặng  chưa  có

triệu chứng cơ năng nên được theo dõi sát và hướng

dẫn  để  tới  khám  ngay  khi  có  bất  kỳ  triệu  chứng  cơ

năng nào.

2.   Siêu  âm  Doppler  tim  1-6  tuần  sau  mổ  thay  van

ĐMC  đánh  giá  hoạt  động  của  van  và  chênh  áp  qua

van nhân tạo để làm mốc theo dõi. Sau đó bệnh nhân

được kiểm tra siêu âm định kỳ 1-2 lần/năm.

3.   Kiểm   tra   hiệu   quả   chống   đông   máu   (tỷ   lệ

prothrombin,  INR)  định  kỳ  để  điều  chỉnh  liều  phù

hợp ở bệnh nhân có chỉ định dùng thuốc chống đông.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: