HC
Chương I
CHUỖI VÒNG CỔ CỦA NỮ HOÀNG
Mỗi lần đại sứ quán nước Áo, hay phủ đệ của phu nhân Billingstone mở vũ hội, bà Bá tước phu nhân de Dreux- Soubise luôn luôn đeo trên cái cổ trắng nõn nà của mình “Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng”. Và dường như năm nào có vài dịp trọng đại như thế để Bá tước phu nhân trưng chiếc vòng quý giá đó ra.
Chuỗi vòng cổ này có lai lịch khá lừng lẫy. Năm đó, theo lệnh của vua Louis 15, hai người thợ kim hoàn của hoàng gia là Bohmer và Bassenge đã làm chiếc vòng cổ lộng lẫy có giá trị cao ngất ấy, để nhà vua tặng cho tình nhân của mình là Bá tước phu nhân de Barry. Sau đó, Hồng y giáo chủ de Rohan- Soubise đã có âm mưu hiến tặng chuỗi vòng ấy cho vương hậu Marie- Antoinette. Khi vụ việc thất bại, thì vào một đêm tháng hai năm 1785, cùng tham gia vào âm mưu đó, Bá tước phu nhân de La Motte đã gỡ những viên kim cương vô giá đính trên chuỗi vòng cổ ra để cất giấu, với sự giúp đỡ của chồng và đồng đảng Retaux de Villette.
Thật ra, bây giờ chỉ có thể khẳng định là phần giá đỡ để gắn kim cương là đồ thật thôi. Nhân lúc ông de La Motte và phu nhân còn đang vội vội vàng vàng gỡ những viên kim cương quý giá mà người thợ kim hoàn Bohmer đã lựa chọn kỹ càng ra, thì Retaux de Villette đã cất giấu phần giá đỡ. Sau đó, ông ta đã bán lại nó cho Gaston de Dreux- Soubise ở Italia. Gaston là cháu gọ bằng chú và là người kế thừa tài sản của Hồng y giáo chủ Rohan, đã ra tay giúp đỡ khi Hồng y giáo chủ sa cơ lỡ vận. Ông ta tìm đến nhà buôn kim hoàn người Anh Jeffreys- người nắm trong tay đế chế kim cương và mua lại chỗ kim cương ấy, sau đó lại nghĩ cách phối thêm một ít kim cương khác vào. Phần kim cương mới, tuy có hình dáng, kích cỡ tương tự với số cũ nhưng chất lượng thì kém hơn hẳn. Cuối cùng, ông ta dựa theo chuỗi vòng cũ cho khảm lại các hạt kim cương vào, và tạo ra được “Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng” nức tiếng gần xa ấy coi như là sự tưởng niệm đối với người chú của mình.
Hơn một thế kỷ trở lại đây, chuỗi vòng cổ này luôn luôn là niềm kiêu hãnh của gia tộc Dreux- Soubise. Dù thế sự đổi thay, dòng dõi suy yếu, nhưng các thành viên đời sau của gia tộc này thà sống tằn tiện, túng thiếu chứ cũng quyết không chịu bán lại kỷ vật vương giả quí báu ấy cho ai cả. Ông Bá tước bây giờ lại càng coi nó là vật báu gia truyền cất giữ rất kỹ. Cẩn tắc vô áy náy, ông ta đã thuê hẳn một két an toàn của Ngân hàng tín dụng Lyonnais, chuyên dùng để cất giữ chuỗi vòng cổ ấy. Khi nào vợ cần đeo “Chuỗi vòng cổ nữ hoàng” chiều hôm đó ông ta sẽ đích thân đi lấy, ngày hôm sau lại tự mình đem cất trở lại két an toàn.
Tối đó, trong buổi chiêu đãi Quốc vương Đan Mạch Christiansen tại cung Castille- sự việc này xảy ra đầu thế kỷ- Bá tước phu nhân đúng là được dịp chơi trội. Ngay đến bản thân Quốc vương cũng phải chú ý đến vẻ đẹp kiều diễm của bà ta, thật là bắt mắt. Một đồ trang sức quý báu như vậy xem ra chẳng có người phụ nữ nào có thẻ đeo nó một cách tao nhã và sang trọng như bà ấy.
Đây đúng là một thành công kép, Bá tước de Dreux quay trở về phủ đệ ở khu Saint- Germain, bước vào cửa phòng ngủ lòng đầy vui sướng. Ông vừa thấy tự hào về vợ mình, lại càng tự hào hơn về chuỗi vòng cổ gia truyền ấy đã đem lại vinh quang cho cả gia tộc ấy.
Bá tước phu nhân tháo chiếc vòng ra khỏi cổ mình một cách đầy nuối tiếc, đưa cho chồng. Ông ngắm nghía chiếc vòng cổ thật kỹ lưỡng với ánh mắt trìu mến pha lẫn sự ngưỡng mộ, cứ như mới nhìn thấy nó lần đầu vậy. Sau đó, ông cất chuỗi vòng cổ vào trong cái tráp đựng trang sức bọc da đỏ có khắc huy hiệu của Hồng y giáo chủ, để cái tráp vào trong căn phòng bí mật bên cạnh. Căn phòng nhỏ này thực ra là một không gian lõm vào phòng ngủ, tuy thông với phòng ngủ, nhưng lại ngăn cách hẳn. Muốn vào được căn phòng bí mật ấy, trước hết phải đi qua cuối chiếc giường trong phòng ngủ. Giống như mọi lần, Bá tước đặt cái tráp lên giá ngang trên cao, giấu lẫn vào đống hộp đựng mũ quần áo trong. Sau đó ông đóng cửa phòng ngủ, thay quần áo và lên giường ngủ sau một buổi tối vui vẻ.
Sáng sớm hôm sau ông dậy vào lúc chín giờ, chuẩn bị đích thân đi đến Ngân hàng tín dụng Lyonnais rồi mới quay về ăn sáng. Ông thay quần áo, uống cốc cà phê rồi ra tàu ngựa sai người chuẩn bị ngựa. Thấy có con ngựa hơi ủ rũ, ông liền sai người chăn ngựa dẫn nó đi một vòng quanh sân. Sau đó ông quay vào nhà, trở lại bên vợ.
Bà vẫn chưa ra khỏi phòng ngủ, người hầu gái đang giúp bà trang điểm. Bà hỏi ông:
- Anh định ra ngoài ư?
- Ừ…chính là vì chuyện đó…
- Vâng … đúng vậy… như thế thì an toàn hơn…
Ông bước vào căn phòng nhỏ kia. Thế nhưng mấy phút sau, ông lại hỏi:
- Em đã lấy chiếc vòng cổ rồi à, em yêu?
Bà ngạc nhiên trả lời: - Gì cơ? Không, em có lấy đâu.
- Nhưng em đã chuyển nó đi chỗ khác rồi sao? - Không hề… Cửa phòng đó em còn chưa mở cơ mà.
Ông bước ra, mặt tái nhợt, nói lắp bắp:
- Em không…? Không phải em…? Vậy thì…
Bà vội vàng đi vào căn phòng bí mật. Hai người lật tung cả căn phòng, vứt hết các hộp đựng mũ ra, bới tung chỗ quần áo trong lên. Ông Bá tước vừa làm vừa không ngớt lầm bầm:
- Chẳng ích gì nữa đâu…chúng ta có tìm nữa cũng chẳng ích gì… Anh đã để ở đây, chính là trên cái giá ngang này.
- Không chừng anh đã nhớ nhầm rồi.
- Chính chỗ này, chính là cái giá ngang này cơ, không phải cái đó- ông nói như một cái máy.
Căn phòng nhỏ này rất ít ánh sáng. Họ thắp một cây nến lên, chuyển hết quần áo và các vật dụng khác trong phòng ra. Đợi đến khi căn phòng đã hoàn toàn trống không, họ đành phải đau đớn đón nhận sự thật ấy: “Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng” đã thực sự biến mất!
Với tính cách mạnh mẽ, quyết đoán của mình, Bá tước phu nhân không lãng phí thời giờ vào việc khóc lóc kêu gào, bà sai người mời ngay cảnh sát trưởng Valorbe đến. Tài năng và sự sáng suốt của vị cảnh sát trưởng này họ đã nghe nói từ lâu. Cảnh sát trưởng lập tức phi ngựa đến ngay. Sau khi nghe kể đầu đuôi câu chuyện, ông liền hỏi:
- Thưa Bá tước, ngài có thể khẳng định rằng đêm qua không hề có người nào đi qua phòng ngủ của ngài không?
- Tôi khẳng định chắc chắn. Tôi vốn rất thính ngủ, huống hồ phòng ngủ lại được khoá. Sáng nay khi vợ tôi kéo chuông gọi người hầu, tôi chính là người mở khoá cửa cơ mà.
- Không có con đường nào khác có thể đi vào căn phòng bí mật đó chứ?
- Không có- Bá tước trả lời dứt khoát
- Không có cửa sổ?
- Tôi muốn kiểm tra một chút…
Họ thắp vàingọn nến lên, Valorbe lập tức chú ý ngay là cửa sổ chỉ được cái tủ quần áo chặn đến một nửa, hơn nữa tủ quần áo không hề kê sát vào cánh cửa sổ.
- Kê gần thế này là được rồi- Ngài Dreux giải thích- nếu có người muốn di chuyển cái tủ quần áo thì chắc chắn sẽ gây ra những tiếng động.
- Cánh cửa sổ hướng về hướng nào?
- Hướng về phía cái giếng trời trong nhà.
- Trên tầng này còn có một tầng nữa ư?
- Còn hai tầng nữa. Nhưng ở ngang với tầng mà người hầu ở, tôi đã cho giăng lưới sắt dày ở miệng giếng trời. Căn phòng này khá tối chính vì những nguyên nhân đó.
Sau khi đẩy tủ quần áo ra, họ phát hiện thấy cửa sổ đóng kín từ đó cho thấy không có ai đã bò vào qua cửa sổ.
- Trừ phi tên khốn đó- Bá tước trầm ngâm nói đã trốn sẵn trong phòng của chúng tôi.
- Nếu vậy thì chìa khoá phòng ngủ sao lại còn nguyên trên ổ khoá?
Suy nghĩ trong giây lát, cảnh sát trưởng quay sang hỏi Bá tước phu nhân:
- Thưa phu nhân, trong nhà có ai biết là tối qua bà đeo chuỗi vòng này không?
- Dĩ nhiên, điều này tôi không giấu ai cả. Nhưng không có ai biết là chúng tôi giấu nó trong căn phòng bí mật này.
- Không ai biết?
- Không ai biết ngoài…
- Thưa phu nhân , xin bà hãy nói cho rõ, điểm này rất quan trọng.
Bà quay sang như muốn nói riêng với chồng:
- Em muốn nói đến Henriette.
- Henriette? Cô ấy cũng giống mọi người, không hề biết gì về việc này đâu.
- Anh có chắc không?
- Cô Henriette này là người thế nào?- Valorbe hỏi.
- Là bạn tôi hồi học ở trường nội trú nữ tu. Cô ấy, vì chuyện hôn nhân với một người thợ mà xung đột với gia đình. Sau đó chồng cô ấy chết, tôi liền sắp xếp một gian buồng phụ cho cô ấy mang con đến ở.
Nói xong, bà ngượng ngùng bổ sung thêm một câu:
- Cô Henriette cũng giúp tôi làm chút việc nhà. Cô ấy rất khéo léo.
- Cô ấy ở tầng nào?
- Ngay tầng này, cách đây không xa… Ở đầu bên kia hành lang… Còn nữa, cửa sổ bếp của cô ấy…
- Cũng hướng về cái giếng trời này, chứ gì?
- Đúng vậy, đối diện với cái cửa sổ đó.
Nói xong thì tất cả lặng im một hồi lâu. Sau đó, Valorbe nhờ họ dẫn đường cùng đến xem chỗ của Henritte.
Khi vào phòng thì thấy cô ta đang khâu vá; con trai cô- Raoul đang đọc sách. Cảnh sát trưởng không thể ngờ rằng chỗ ở của mẹ con họ lại có thể tồi tệ đến vậy: Ngoài một căn phòng không có lò sưởi, chỉ có một khoảng sân lấn vào chỗ nhà bếp. Ông hỏi cô ta vài câu. Nghe thấy chuyện chuỗi vòng đã bị mất cắp, cô ta tỏ vẻ vô cùng kinh ngạc. Tối hôm qua, chính cô ta đã chuẩn bị quần áo cho Bá tước phu nhân, chính tay cô đã đeo lên cổ phu nhân chuỗi vòng quý giá đó.
- Trời ơi! Cô hét lên. Ai ngờ được rằng có thể xảy ra chuyện này chứ.
- Cô không hề thấy có điểm gì khả nghi chứ? Người gây án rất có thể đã đi qua phòng cô. Cô cười lớn, thậm chí chẳng hề nghĩ rằng mình cũng nằm trong diện khả nghi.
- Nhưng tôi không hề rời khỏi phòng mà! Tôi không ra ngoài lúc nào. Hơn nữa, chẳng lẽ ngài cũng không thấy ư?
Cô mở cửa sổ ngoài sân:
- Ngài xem, chỗ này cách cái cửa sổ đối diện kia ba mét đấy.
- Ai bảo cô là đồ bị lấy trộm ở căn phòng đó?
- Nhưng… chẳng phải cái vòng cổ được cất ở đó sao?
- Sao cô biết?
- Ơ! Tôi đã biết là tối qua nó ở đấy mà… Tôi nghe thấy nói như vậy ngay trước mặt mà.
Cô tuy chưa lớn tuổi, nhưng trông rất tiều tuỵ, trên khuôn mặt lộ vẻ hiền thục, vâng lời. Cô im lặng một lúc, rồi đột nhiên tỏ ra vô cùng lo sợ, dường như cô linh cảm được một tai hoạ lớn sắp giáng xuống đầu. Cô kéo đứa con trai về phía mình và ôm ghì lấy nó. Đứa bé nắm lấy tay mẹ, tựa đầu vào ngực cô ra điều hiểu biết.
Sau khi ra khỏi phòng của Henriette, ngài de Dreux nói với cảnh sát trưởng:
- Tôi nghĩ là ngài không đến nỗi nghi cho cô ấy chứ? Tôi có thể đảm bảo cho cô ấy. Cô ấy rất đáng tin cậy.
- Ồ! Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài- Valorbe đáp- Đầu tiên tôi nghĩ là có thể cô ấy đã vô tình tham gia vào vụ trộm, nhưng bây giờ thì có thể loại bỏ khả năng này rồi.
Cuộc điều tra của cảnh sát trưởng không hề có tiến triển gì cả. Vài ngày sau đó, Chưởng lý tiếp tục cuộc điều tra. Ông ta tra hỏi những ngưòi hầu, khiểm tra khóa cửa, thử đóng mở cửa sổ của căn phòng bí mật đó mấy lần, rồi lại còn kiểm tra kỹ cái giếng trời đó từ trên xuống dưới vài lần… Kết quả cũng chẳng thu được gì. Ổ khoá hoàn toàn không có một vết xước. Từ phía ngoài không cách nào mở hoặc đóng được cửa sổ cả.
Phạm vi điều tra dần dần thu hẹp lại, xoay quanh Henriette. Theo điều tra, ba năm qua cô chỉ ra khỏi nhà có bốn lần, hơn nữa đều là đi mua đồ cho bà Bá tước. Thực ra, cô chính là người hầu và thợ khâu vá gần nhất với phu nhân de Dreux. Phu nhân đối xử với cô rất nghiệt ngã, không nể nang tình nghĩa gì cả; những người hầu trong phủ đều kín đáo xác nhận điều này.
Sau một tuần điều tra, Chưởng lý đã đi đến một kết luận hoàn toàn thống nhất với cảnh sát trưởng. Ông nói:
- Chúng tôi vẫn chưa biết thủ phạm là ai. Và dù có biết đó là ai, thì chúng tôi cũng không thể xác định người đó đã gây án như thế nào. Cửa thì khoá, cửa sổ thì đóng, kẻ đó rốt cuộc đã vào bằng cách nào? Càng khiến người ta khó lý giải hơn là sau khi kẻ cắp ra khỏi, khoá cửa phòng vẫn đóng với chìa khoá còn cắm nguyên trong ổ, cửa sổ phòng cũng đóng chặt như cũ. Đúng là không thể hiểu nổi.
Công tác điều tra kéo dài bốn tháng, cuối cùng cũng chấm dứt. Nhận định được giữ kín của phía cảnh sát là: vợ chồng bá tước, do túng quẫn quá đã bán “Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng” đi rồi phao tin mất cắp. Sau khi vụ ná được khép lại thì không còn ai điều tra nữa.
Vụ mất trộm “Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng” là một đòn nặng nề đối với vợ chồng bá tước, hơn nữa ảnh hưởng của nó còn rất dài lâu. Hồi xưa có được chuỗi vòng ấy đúng là một sự đảm bảo về uy tín, nhưng giờ đây thì tình hình đã thay đổi. Thái độ của những người chủ nợ đã không còn như trước nữa, đến muốn vay chút tiền thì sắc mặt của họ không còn dễ coi như ngày xưa. Vợ chồng bá tước đành phải đưa ra quyết định khẩn cấp: giao quyền sở hữu một phần tài sản cho các chủ nợ làm thế chấp. Tóm lại, nếu không nhờ cậy vào gia sản đồ sộ mà tổ tiên để lại thì họ đã phá sản từ lâu rồi.
Bá tước phu nhân trút giận lên đầu người bạn học ở trường nội trú của mình, thường xuyên xỉ vả cô trước mặt mọi người. Trước là chính thức hạ cô xuống hạng người hầu, sau đuổi cô đi luôn. Không ngờ, sau khi Henriette rời khỏi phủ đệ bá tước, bá tước phu nhân lại nhận được một bức thư của cô gửi đến: “Phu nhân kính mến! Tôi cảm ơn bà rất nhiều. Vì tôi nghĩ chắc chắn là bà đã gửi nó đến cho tôi, nếu không thì còn có thể là ai nữa? Chẳng có ai biết tôi ở nơi hẻo lánh xa xôi này cả. Nếu như tôi đoán sai thì xin bà hãy thứ lỗi, và xin nhận lời cảm ơn của tôi đối với những gì mà bà đã giúp đỡ tôi trước đây…” Cô ta nói vậy là có ý gì? Bây giờ cũng vậy mà trước đây cũng thế, bá tước phu nhân chẳng có gì gọi là giúp đỡ cô ta cả. Cô ta cảm ơn như thế rốt cuộc là thế nào? Bá tước phu nhân viết ngay thư trả lời, yêu cầu cô ta giải thích. Thư phúc đáp đã đến, trong thư Henriette nói, cô ta nhận được một bức thư từ bưu điện, không có số hay khai giá gì cả, bên trong là hai tờ séc mệnh giá 1000 franc. Cô ta đã gửi kèm bì thư đó cùng với thư trả lời này. Trên bì thư đó đóng dấu Paris, người gửi chỉ viết địa chỉ, bút tích rõ ràng là giả mạo. 2000 Franc này ở đâu ra đây? Là ai đã gửi? Cảnh sát lại tiến hành điều tra, nhưng chẳng có manh mối gì cả. Một năm sau, lại xảy ra lại việc tương tự như thế. Cô Henriette đáng thương đã nhận được khoản trợ cấp đặc biệt như vậy liên tục trong sáu năm, năm nào cũng vậy. Chỉ khác là hai năm cuối cùng sô tiền tăng gấp hai lần, lúc ấy cô Henriette đang mắc bệnh, may mà có sô tiền ấy để chữa trị.
Còn có một điểm khác nữa: bưu điện lúc ấy đã từng mượn cớ là không có khai giá để giữ lại một bức thư. Thế là hai bức thư sau liền được gửi đi theo đúng quy định của bưu điện, bức thư trước được gửi từ Saint Germain, bức thư sau gửi từ Suresnes, người gửi ký tên là Anquety và Pechard. Nhưng địa chỉ của người gửi thì tất nhiên đều là giả. Sáu năm sau Henriette qua đời bí mật ấy vẫn không được khám phá. Trước mắt mà hai mươi năm đã trôi qua.
Hôm nay, phủ đệ của bá tước de Dreux mở tiệc. Trong số khách khứa có hai đứa cháu trai và một người em gái họ của ngài de Dreux. Ngoài ra còn có chánh án de Essavile, nghị sĩ hạ nghĩ viện Bochas, nhà quý tộc Floriany- ông này là bạn mà bá tước quen hồi đi du lịch đảo Sicily, và tướng quân de Rouzieres- bạn cũ của bá tước ở câu lạc bộ. Sau bữa cơm, các quý bà phu nhân và các cô tiểu thư uống cà phê, còn các quý ông thì rời khỏi phòng khách để đi hút xì gà; nhưng họ không đi cùng một lúc để trách làm cho không khí trong phòng khách quá vắng lặng. Thế là mọi người đều bắt đầu nói chuyện phiếm. Có cô tiểu thư lấy bài ra bói cho vài quý ông. Tiếp đến, họ lại chuyển chủ đề sang các vụ án đã từng gây xôn xao dư luận một thời. Tướng quân Rouzieres vốn rất thích trêu trọc ngài bá tước, vì thế ông ta liền lôi chuyện “Chuỗi vòng cổ nữ hoàng” ra. Đây chính là đề tài mà bá tước de Dreux sợ phải nghe thấy nhất.
Mọi người bàn tán sôi nổi và đua nhau phát biểu ý kiến. Dĩ nhiên, tất cả các giả thiết đều có chỗ sơ hở hoặc tự mâu thuẫn cả.
- Thưa ngài- bá tước phu nhân hỏi ông Floriany- xin hỏi ngài có cao kiến gì không?
- Ồ! Tôi nghe là tôi chẳng có ý kiến gì thưa phu nhân
Mọi người hò hét ầm lên. Thế là nhà quý tộc liền kể vài câu chuyện giật gân, một cách sinh động đó đều là những câu chuyện mà ông ta và cha ông ta- một vị quan tòa địa phương ở Palermo- đã đích thân trải qua. Những câu chuyện ấy cho thấy, ông ta không chỉ can đảm hiểu biết hơn người mà còn rất có hứng thú với những câu chuỵên giật gân kiểu như vậy.
- Tôi thừa nhận- ông ta nói- tôi đã may mắn giải quyết được một vài mà chính các cao thủ cũng phải bó tay. Nhưng xin các vị đừng vì thế mà coi tôi như Sherlock Holmes. Hơn nữa, tôi vẫn còn chưa biết rõ lắm về ngọn nguồn của vụ án này.
Các quan khách đều dồn ánh mắt về phía ông chủ của phủ đệ. Tuy không bằng lòng, Bá tứớc vẫn kể lại vắn tắt đầu đuôi câu chuyện. Nhà quí tộc vừa nghe vừa suy nghĩ, hỏi vài câu sau đó như là tự nói với mình:
- Lạ thật… Lúc tôi mới nghe thấy chuyện này, tôi không hề cảm thấy sự việc lại có nhiều chi tiết phức tạp đến vậy.
Bá tước nhún vai. Nhưng các quan khách thì ngồi vây quanh nhà quý tộc, muốn nghe ý kiến của ông. Thế là ông ta liền bắt đầu nói với một khẩu khí hơi võ đoán.
- Thông thường mà nói, muốn tìm ra kẻ gây án của một vụ giết người hay trộm cắp, thì trước tiên phải xác định hắn đã ra tay như thế nào. Vụ án này như tôi thấy thì cũng khá đơn giản, bởi trước mắt tôi có một giả thiết duy nhất có khả năng xảy ra: kẻ đó không phải vào từ cửa phòng ngủ, mà vào từ cửa sổ của gian phòng bí mật đó. Vì cửa phòng ngủ đã cắm chìa khóa, từ bên ngoài không cách nào mở được thì dĩ nhiên hắn chỉ có thể vào bằng đường cửa sổ.
- Nhưng cửa sổ bị đóng mà. Sau khi sự việc xảy ra chúng tôi đã kiểm tra rồi, đúng là đóng chặt mà- Bá tước giải thích.
- Nếu như hắn vào bằng chỗ ấy- Ngài Floriani không để ý đến lời nói của ông Bá tước, cứ nói tiếp
- Chỉ cần dùng thanh ván gỗ hoặc dùng thang bắc một cái cầu nối từ sân thượng đến bậu cửa sổ của gian phòng bí mật đó, đợi cái tráp…
- Nhưng tôi đã nói rồi, cửa sổ đóng mà!- Bá tước không nhịn được lại nói xem vào Lần này thì ngài Floriani không thể không để ý đến những lời nói của bá tước được nữa. Lúc trả lời bá tước ông ta trông rất tự nhiên, thoải mái dường như lố bịch đến mức không thèm cãi lại lời giải thích của đối phương.
- Tôi tin là cửa sổ đóng chặt, nhưng chẳng phải là vẫn còn có cửa sổ thông gió ư?
- Sao ngài biết?
- Trước tiên, xét tới kiến trúc kiểu này của quý phủ thì đây dường như là một kiểu bố cục thường thấy. Tiếp nữa là cũng nên có cái cửa sổ thông gió này vì nếu không thì chẳng phải là không thể giải thích nổi vụ án này sao?
- Đúng là có một cái cửa sổ thông gió nhưng lúc đó cũng đã đóng. Do đó lúc ấy chúng tôi không để ý đến nó.
- Đây là một sai lầm! Nếu như lúc ấy để ý đến nó thì chắc chắn sẽ phát hiện nó đã được mở ra.
- Thế là thế nào?
- Tôi nghĩ cái cửa sổ thông gió này cũng giống như mọi cửa sổ thông gió khác, trên đỉnh có một vòng sắt nhỏ, móc vòng sắt là có thể mở được, đúng không?
- Chính là như thế.
- Cái vòng sắt này nằm giữa cửa sổ và tủ tường đúng không?
- Đúng vậy, nhưng tôi không hiểu.
- Xin hãy nghe tôi nói. Chỉ cần có dụng cụ. Ví dụ cầm một thanh sắt có đầu là móc cong, thò vào từ kẽ hở trên cửa sổ, móc vào vòng sắt và kéo thì cửa sổ thông gió sẽ mở ra.
Bá tước nhếch mép cười nhạt:
- Hừ! Hay lắm! Ngài nói rất hay! Nhưng ngài đã quên mất một chuyện ông bạn yêu quý ạ, đó là cửa sổ thông gió không hề có một kẽ hở nào cả.
- Có kẽ hở.
- Không thể nào, lúc ấy chúng tôi không nhìn thấy.
- Nếu muốn thấy thì phải quan sát kĩ, các ngài đã không quan sát kỹ. Chắc chắn là có kẽ hở, nó nằm dọc theo lớp mát tít chét cửa kính, và dĩ nhiên là theo hướng thẳng đứng.
Bá tước đứng dậy bước vài bước trong phòng khách với vẻ kích động, sau đó bước đến trước mặt Floriani và nói:
- Đồ đạc ở chỗ đó vẫn chưa bị di chuyển, còn nguyên hiện trạng… chưa có ai vào cái phòng bí mật đó cả.
- Đã như vậy thì thưa ngài hãy đến kiểm tra một chút xem tôi nói có đúng không. De Dreux vội bước ra ngoài, phòng khách chìm vào im lặng mọi người đều lặng im như đang chờ đợi một điều gì đó.
Lát sau Bá tước xuất hiện trước cửa phòng khách, mặt tái nhợt có vẻ như đang rất xúc động. Ông run run nói với các quan khách:
- Xin các vị hãy thứ lỗi… Phán đoán của ngài đay quả là nằm ngoài sức tưởng tượng… tôi không thể nào ngờ được…
Bá tước phu nhân sốt ruột ngắt lời ông:
- Mau nói đi rốt cuộc là có không?
Bá tước lắp ba lắp bắp:
- Có kẽ hở… Chính là ở chỗ đó… dọc theo hèm cửa kính…
Bá tước tóm lấy tay nhà quí tộc, nói một cách khẩn thiết:
- Bây giờ thưa ngài, xin hãy nói tiếp!... Những lời ngài nói vừa nãy rất có lý, nhưng vẫn chưa kết thúc… Theo ngài thì rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Ngài Floriani nhẹ nhàng rút tay ra, đợi giây lát rồi mới nói tiếp:
- Hừm, theo tôi nghĩ thì thế này. Kẻ gây án biết Bá tước phu nhân đeo chiếc vòng ấy đi dự tiệc liền nhân cơ hội khi hai người không có ở nhà đã bắc thang gỗ nối. Hắn theo dõi các hành động của hai người thông qua cửa sổ, nhìn thấy ngài giấu cái tráp đi. Đợi ngài vừa ra khỏi là hắn liền kéo cửa sổ thông gió ra qua kẽ hở đó.
- Cứ coi là như vậy, nhưng nếu hắn thò người vào từ cửa sổ thông gió thì vẫn không đủ vươn đến nắm đấm cửa sổ chứ.
- Cửa sổ bên dưới đã không mở được, thì dĩ nhiên là hắn chui vào qua cửa sổ thông gió rồi.
- Như thế sao được, đàn ông có gầy bé lắm thì cũng không chui qua được.
- Vậy thì chắc chắn là một đứa trẻ rồi.
- Một đứa bé!
- Chẳng phải ngài đã bảo là bạn của ngài, cô Henriette có một đứa con trai ư?
- Đúng nó tên là Raul.
- Vậy thì rất có khả năng là chính Raul đã gây án.
- Ngài có bằng chứng gì?
- Bằng chứng?... Dĩ nhiên là có… Ví dụ…
- Ông ta ngừng lại suy nghĩ trong vài giây, sau đó nói tiếp- Ví dụ cái thanh gỗ bắc cầu ấy, nếu thằng bé đem từ ngoài vào thì hẳn người khác sẽ nhìn thấy. Vậy chắc chắn là nó lấy ngay trong nhà. Trong mảnh sân, chỗ Henriette dùng làm bếp chẳng phải có mấy thanh gỗ làm gác bếp ư.
- Tôi nhớ là có hai thanh.
- Nên đi xem lại một chút, hai thanh gỗ ấy có phải là được gắn cố định không. Nếu không phải thì dĩ nhiên có thể đưa ra giả thiết là thẳng bé đã cạy chúng ra và nối chúng với nhau. Và bên cạnh đã có một cái bếp lò thì không chừng còn có thể tìm thấy một cái cời lò có đầu cong, có lẽ thằng bé dã dùng nó để mở cửa sổ thông gió đấy.
Bá tước im lặng bước ra khỏi phòng khách. Lúc này, các quan khách thậm chí đều có thể dự cảm được là lời nói của nhà quý tộc chắc chắn sẽ không lệch đi đâu được. Quả nhiên, khi quay lại phòng khách Bá tước nói lớn:
- Đúng là thằng bé đó, đúng là thằng bé đó đã làm. Ngài nói không sai một li. - Ngài đã nhìn thấy hai thanh gỗ ấy… hay là cái cời lò?
- Tôi thấy rồi… đinh trên thanh gỗ đã bị cạy ra… cái cời lò vẫn còn ở đấy.
Bá tước phu nhân kêu lên:
- Thằng bé đó… thực ra phải nói là mẹ nó, Henriette mới là thủ phạm thực sự, chắc chắn là cô ta đã sai thằng bé…
- Không- Nhà quý tộc ngắt lời bà- Việc này không liên can gì đến mẹ thằng bé.
- Làm gì có chuyện ấy! Mẹ con nó ở cùng một phòng, mỗi cử động của đứa bé làm sao qua mắt được mẹ nó.
- Vậy "Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng" thì sao? – Bá tuớc hỏi- Nói như vậy thì lúc đó đã có thể tìm thấy nó trong đống đồ đạc của thằng bé chứ.
- Xin lỗi! Nó đã đem cái vòng ra ngoài rồi. Hôm đó, các ngài đột ngột đến chỗ ở của hai mẹ con nó, nó từ trường về. Đáng lẽ cảnh sát không nên huy động sức lực để đối phó với mẹ thằng bé, mà nên đến trường kiểm tra bàn học của nó mới phải.
- Vậy thì được, nhưng năm nào Henriette cũng nhận được hai ngàn Franc, đó lẽ nào không phải là bằng chứng cho thấy cô ta cũng là tòng phạm ư?
- Tòng phạm? Chẳng phải cô ta đã viết thư cảm ơn hai người vì món tiền đó ư? Hơn nữa, chẳng phải cô ấy luôn bị cảnh sát giám sát sao? Còn thằng bé đó thì tự do hoàn toàn, nó có thể đến các thành phố lân cận, tìm một nhà buôn và bán một vài viên kim cương với giá rẻ… Nó đặt điều kiện duy nhất là tiền phải gửi từ Paris đến và các năm sau thì cũng cứ lặp lại như thế. Vợ chồng Bá tước và các quan khách có mặt ở đó dường như đều cảm nhận được sự oái oăm, trớ trêu khó nói nên lời. Trong lời nói và sắc mặt của ngài Floriani, có một ý vị như đang chế giễu, hơn nữa dường như lại không hề là đùa cợt, mà là xuất phát từ thái độ thù địch, cố ý mỉa mai…
Bá tước phu nhân cười ha hả nói:
- Đúng là quá xuât sắc! Sự tưởng tượng của ngài đúng để người ta phải khâm phục!
- Ngài nhầm rồi- Ông Floriani tỏ ra nghiêm túc- tôi không hề tưởng tượng, tôi chỉ thuật lại toàn bộ những gì đã xảy ra mà thôi.
- Vậy làm sao ngài có thể biết được tất cả những chuyện đó?
- Chính ngài đã nói cho tôi biết. Từ tình huống mà ngài kể, tôi biết là hai mẹ con họ đã đến sống ở một thị trấn hẻo lánh. Người mẹ lâm bệnh; đứa trẻ đó nghĩ cách bán kim cương đi để chữa bệnh cho mẹ, hoặc là ít nhất cũng giúp cô ấy sống đỡ khổ hơn trong những ngày cuối đời. Cô ấy không khỏi bệnh, cô ấy đã chết. Năm tháng qua đi, đứa trẻ đó đã lớn, trở thành một người đàn ông mạnh mẽ. Thế là điểu tôi sẽ nói ra đây- tôi thừa nhận là tôi đã phát huy hết khả năng tưởng tượng của mình- chúng ta hãy giả định rằng anh ta có một nguyện vọng, muốn quay trở lại những người mà ngày xưa đã từng nghi ngờ, sai khiến, chỉ huy mẹ anh ta… Khi anh ta quay lại nơi xưa cũ ấy, nhìn thấy ngôi nhà cũ, nơi đã xảy ra bi kịch… Xin các vị thử nghĩ xem, lòng anh sẽ cảm thấy bi phẫn biết bao.
Ngài Floriani vừa dứt lời thì phòng khách im lặng khác thường, trên khuôn mặt của vợ chồng Bá tước biểu lộ rất nhiều trạng thái cảm xúc phức tạp: vừa như muốn tìm hiểu xem ẩn ý của ông khách là gì, lại vừa như sợ hãi khi đã hiểu được hết những ý tứ mà ông ta ám chỉ. Bá tước hỏi không ra hơi:
- Rốt cuộc ngài là ai, thưa ngài?
- Tôi là ai? Là tước sĩ Floriani, người đã may mắn được kết giao với ngài ở Palermo, rồi sau đó nhiều lần được ngài mời đến phủ.
- Vậy ngài kể câu chuyện này là có ý gì?
- Ôi, chẳng có ý gì cả, nói chơi thôi mà. Tôi giả sử nhé, nếu như con trai cô Henriette còn sống trên đời này, hơn thế nữa có thể chính miệng nói với ngài, rằng anh ta đã gây ra vụ án đó, chính là khi mẹ anh ta sắp … mất bát cơm của một người hầu gái. Đau lòng khi thấy mẹ phải chịu đau khổ như vậy, anh ta đã gây án. Nếu như anh ta có thể chính miệng nói ra điểu đó với ngài, thì anh ta sẽ vui sướng biết bao.
Nói xong, với một tâm trạng đang cố chế ngự kích động, ông ta đứng dậy khom người trước vợ chồng Bá tước. Không còn nghi ngờ gì nữa, Floriani chẳng phải là ai khác, mà chính là con trai của Henriette. Thần thái của ông ta, lời nói của ông ta đều để lộ ra điều này một cách rõ như ban ngày. Hơn nữa động cơ của ông ta, xem ra chính là muốn họ nhận ra ông ta trong trưởng hợp như thế này!
Bá tước do dự, cảm thấy vô cùng khó xử. Kẻ không coi trời cao đất dày ra gì này, sẽ phải đối phó sao đây? Kéo chuông gọi người đến? Cãi nhau một trận? Vạch trần toàn bộ sự việc ra, chỉ ra hắn ta chính là kẻ ăn trộm hồi ấy? Nhưng đã bao nhiêu năm qua đi rồi, ai sẽ coi những lời này là thật đây? Ai sẽ tin vào câu chuyện phiếm này đây? Không, cách tốt nhất là án binh bất động, tiếp tục giả đò như không biết gì hết.
Thế là Bá tước đến trước mặt Floriani, nói lớn bằng một giọng ôn hòa:
- Câu chuyện của ngài thật là thú vị, đúng là không thể tuyệt hơn. Chỉ có điều, đứa con trai hiếu thảo mà ngài nói tới đó, không hề biết là sau đó đã sống ra sao? Hi vọng nó vẫn có thể tiếp tục đi trên đường đời.
- Ồ! Dĩ nhiên rồi.
- Đúng vậy! Đúng là ra tay quá tài! Mới sáu tuổi mà đã lấy trộm được "Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng" , đó chính là chiếc vòng cổ mà Marie- Antoniette cũng phải thèm nhỏ dãi đấy!
- Lấy trộm- Floriani nhắc lại, rồi tiếp- Và hơn nữa là chẳng hề gặp phải chút phiềm phức nào, chẳng hề có ai muốn kiểm tra cửa sổ thông gió, hoặc kiểm tra bậu cửa sổ; trên bậu cửa sổ vốn tích một lớp bụi rất dày, vì nó để lại dấu vết trên đó nên đã lau sạch lớp bụi đi… Đúng vậy, một thằng bé vắt mũi chưa sạch, làm việc đó thì dĩ nhiên là vẫn còn thiếu kinh nghiệm lắm. Sự việc lại dễ dàng đến như thế? Chỉ cần muốn, chỉ cần thò tay ra là được?... Dĩ nhiên, nó muốn…
- Thế là nó liền thò tay ra rồi đó thôi.
- Thò cả hai tay ra- Nhà quý tộc cười lớn, đế thêm vào.
Sau đó ông ta đứng dậy, đi đến trước mặt bá tước phu nhân, lịch sự cúi người cáo từ bà. Bá tước phu nhân thấy ông ta đi đến gần bất giác co người lại. Ông ta cười mỉm:
- Ô! Phu nhân, bà sợ rồi sao! Lẽ nào vở diễn này của tôi đã không hợp với quy định của xã hội thượng lưu chăng?
- Đâu có! Câu chuyện của đứa bé này tôi rất hứng thú. Chuỗi vòng của tôi may mắn tìm được một người chủ tốt như vậy, đúng là tôi rất vui sướng. Nhưng theo ngài, người… phụ nữ ấy, đứa con trai của cô Henriette ấy, có theo ý trời, hoàn thành sứ mệnh của mình không.
Ông ta nghe thấy trong lời nói đó có chút ý châm biếm nên hơi run, rồi trả lời ngay:
- Tôi nghĩ là có, hơn nữa chắc chắn sứ mệnh này rất nghiêm túc, vì thế đứa trẻ ấy chưa bao giờ nhụt chí cả.
- Thế là thế nào?
- Chẳng phải sao, phu nhân biết đấy hầu hết kim cương đều là hàng nhái, chỉ có mấy viên mua lại của nhà buôn châu báu người Anh là đồ thật thôi. Thế mà dù cuộc sống vô cùng khó khăn, nó cũng không bán những viên kim cương thật đi.
- Nhưng rốt cuộc thì nó vẫn là "Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng", thưa ngài- Bá tước phu nhân nói với một thái độ kiêu ngạo- Điểm này, tôi nghĩ là con trai của Henriette không thể biết được.
- Anh ta biết, thưa phu nhân, dù là hàng nhái thì chiếc vòng cổ ấy vẫn là thứ có thể khoe được, tóm lại là một biểu hiện đại diện cho danh tiêng. Ngài de Dreux ra hiệu cho vợ, nhưng Bá tước phu nhân vẫn nói tiếp:
- Thưa ngài, nếu như người mà ngài nói đến đó còn một chút sĩ diện…
Bà ta chưa nói xong, thì đã bị ánh mắt của Floriani làm cho im bặt, không dám nói tiếp nữa. Ông ta nhắc lại lời bà:
- Nếu như người đó còn chút sĩ diện?....
Bà ta ý thức được rằng, nói chuyện với ông ta bằng kiểu đo thì sẽ chẳng có lợi lộc gì cả. Do đó, dù tính kiêu ngạo làm cho toàn thân run lên, bà ta vẫn cô kiềm chế bản thân, nén sự phẫn nộ lại, miễn cưỡng nói với ông ta một cách lịch sự:
- Thưa ngài, nghe nói sau khi Retaux de Villette lấy được "Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng", đã bàn với đồng bọn gỡ hết kim cương gắn trên vòng ra, nhưng không dám động đến cái giá để gắn kim cương. Ông ta biết rõ những viên kim cương đó chỉ là vật trang sức, còn cái giá đỡ đó mới chính là thứ có giá trị nghệ thuật thật sự, kiệt tác thực sự, do đó ông ta không hề làm hại đến nó. Ngài có cho rằng anh ta cũng hiểu rõ điểm này không?
- Tôi tin là cái giá đỡ đó vẫn còn nguyên vẹn, anh ta đã không phá hỏng nó- Nhà quý tộc điềm nhiên trả lời.
- Vậy thì tốt, thưa ngài. Hôm nào ngài gặp anh ta xin hãy nói với anh ta rằng, vật kỷ niệm quí báu đại diện cho tài sản và danh dự của gia tộc ấy, để anh ta cất giữ thì không hợp lắm. Anh ta có thể lấy chỗ kim cương đi, nhưng "Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng" thì vẫn thuộc quyền sở hữu của chúng tôi, giống như họ tên và danh dự của chúng tôi vậy.
Nhà quý tộc chỉ nói vẻn vẹn một câu:
- Tôi nhất định sẽ nói lại với anh ta, thưa phu nhân.
Nói xong, ông ta cúi người ra vẻ lễ phép chào phu nhân, Bá tước và các quan khách, rồi quay người ra về.
Bốn ngày sau, Bá tước phu nhân phát hiện thấy cái tráp bọc da đỏ có biểu tượng Hồng y giáo chủ ở trên chiếc bàn trong phòng ngủ. Bà hồi hộp mở ra xem bên trong như thế nào, thì thấy lại chính là "Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng" đó.
Nhưng đối với một người coi trọng logic, thì việc nào cũng phải có nguyên do của nó. Hơn nữa, cho tên mình lên báo thì cũng chẳng có hại gì- vì thế ngày hôm sau, báo “Tiếng vọng nước Pháp” đã cho đăng mẩu tin gây chấn động như sau:
"Chuỗi vòng cổ Nữ hoàng" mà gia tộc de Dreux- Soubise bị mất cắp ngày trước, nay đã được Arsene Lupin tìm lại được và hoàn trả ngay cho chủ nhân. Công chúng vô cùng tán thưởng cử chỉ cao thượng này.”
Chú ý không sử dụng màu đỏ khi post truyện.
Đã sửa giúp bạn. BQT. Jen
Những người xem bài này, cũng đã xem:
Mật mã Tây Tạng (Tập 10) _ Phần 3
Mật mã Da Vinci - Hoàn
Biểu tượng thất truyền - Hết
Thiên Thần và Ác Quỷ - hết
Pháo đài số (Dan Brown) -Hết
điểm dối lừa (dan brown)
Cô Gái Có Hình Xăm Rồng - Hoàn
Kẻ đầu tiên phải chết - James Patterson
Tay súng cuối cùng - David Baldacci
Hỏa thần - Daniel Silva
Nếu còn có ngày mai
Hãy kể giấc mơ của em - Sidney Sheldon
Kẻ phụng sự thầm lặng (Daniel Silver) - End
__________________
Lần sửa cuối bởi bonbon2907; 31-05-2012 lúc
14:21
Những người đã "Thích" bài của bonbon2907, hãy là 1 trong số họ:
…♥°Ñø†h¡ñg°♥…
(24-05-2012)
#2
25-05-2012, 22:09
bonbon2907
Hổ Phách
Hổ Phách
Tham gia: 05-2012
Bài gửi: 62
Thanks: 5
Được Thank 25 lần trong 13 bài
Ink: 597
Được thưởng
1 lần
Cám ơn
1 lần
Re: Siêu Trộm Arsène Lupin
Chương II
CÚ RA TAY CHU TOÀN MÀ CÔNG CỐC
Đã quá nửa đêm lâu rồi, trước cửa nhà dinh thự của Berthier mà vẫn còn năm sáu chiếc xe ngựa đỗ.
Ba giờ đêm, cổng dinh thự mở ra. Các quý ông, quý bà khách khứa lần lượt ra về. Có một vị khách thong dong thả bước dọc theo con đường là di chỉ tường thành cũ. Đêm đông yên tĩnh đến lạ thường, không khí trong lành pha chút se lạnh; lúc này mà dạo bước trên con phố vắng vẻ này ở Pari thì thật dễ chịu.
Nhưng càng đi, ông ấy càng cảm thấy có gì đó là lạ; dường như có người đang theo dõi mình. Quay đầu lại nhìn, quả nhiên có bóng người đang nấp sau một cây cổ thụ. Ông ta chẳng phải là người nhát gan, nhưng bất giác cũng rảo bước nhanh hơn. Kẻ theo dõi cũng theo sát, không dời… Ông ta cảm thấy tình hình không ổn, liền quay phắt lại, xông về phía kẻ đó, đồng thời rút súng trong người ra.
Nhưng chưa kịp rút súng, ông ta đã bị kẻ lạ mặt nhảy bổ tới tấn công. Hai bên giao đấu tay bo mới vài hiệp, mà ông ta đã đuổi sức đi trông thấy thế liền kêu to gọi người đến giúp. Kẻ kia thấy vậy, quật mạnh ông ta xuống đất, xiết chặt cổ… Trước mắt ông ta giờ chỉ là một màu đen kịt, tai ù nặng, có vẻ như sắp ngất đi. Đúng lúc ấy, đôi tay bóp mạnh đang đè lên người ông ta bị tập kích bất ngờ. Lúc này hắn đã mất ưu thế; đầu tiên bị một chưởng ở bả vai, tiếp đó là một cú đá mạnh vào chân…Một lúc sau, tên lưu manh kia sợ hãi cuống cuồng chạy mất.
Người nghĩa hiệp đó không đuổi theo mà cúi xuống hỏi người bị hại:
- Thưa ngài, ngài có sao không?
Ông ta không sao cả, đầu bị choáng váng nên nhất thời không thể đứng dậy được. May mà cách đó không xa là trạm thuế của thành phố, một nhân viên ở đó đã nghe thấy tiếng kêu cứu, nên chạy ra và chặn được một chiếc xe ngựa. Ông ấy được dìu lên xe, người nghĩa hiệp ấy cũng đi theo ông về phủ trên phố L’ Arsenal.
Lúc xuống xe, ông ta đã hồi phục hoàn toàn. Ông cảm kích nói với người hộ tống:
- Ngài đã cứu mạng tôi, đại ân đại đức này tôi sẽ không bao giờ quên. Bây giờ, tôi không muốn bà vợ tôi biết. Nhưng bất luận thế nào thì ngày mai, ngài cũng phải đến nhà tôi ăn bữa trưa, để vợ tôi có cơ hội gặp mặt và bày tỏ lòng biết ơn đối với ngài- ông ấy xưng tên là Lu Weider Anbel rồi hỏi:
- Có thể được hỏi quý tính ngài…
- Đương nhiên, tôi là Arsene Lupin. Hồi này, Lupin mới vào nghề chưa lâu. Sau đó vô cùng thần kỳ vượt khỏi nhà tù đặc biệt, và còn làm mấy vụ án kinh thiên động địa nữa… Tức Lupin mới là tên cướp nghĩa hiệp thần bí nổi tiếng khắp đó đây. Còn Anbel lúc này chỉ là một nhà báo nhỏ. Vợ ông được nhận một khoản thừa kế kếch xù từ phú nhà triệu phú Blau Fuder mới mất; đây là tin “nóng” nhất hiện nay trên các báo.
Hôm sau, Lupin quần áo chỉnh tề tới dinh thự trên phố L’Arsenal. Ông Anbel đích thân ra đón và giới thiệu rất trân trọng Lupin với vợ mình. Vợ ông Anbel với dáng vẻ béo lùn, cứ luôn miệng gọi ông là ân nhân, tiếp đãi rất ân cần. Trong bữa ăn, bà ta nói chuyện rất hứng thú. Khi đợi mang đồ tráng miệng ra, bà ấy và Lupin cứ như bạn thâm giao vậy, không có chuyện gì là không nói. Bà ấy kể cả những chuyện khi bà còn trẻ, cả chuyện bà và ông Anbel đã yêu nhau như thế nào, chuyện ông Anbel tốt bụng, cả chuyện bà thừa kế một trăm triệu franc, rồi chuyện khốn quẫn mà bà sắp phải đối mặt. Vì ông Blau có một đứa cháu luôn quấy phá, kiện bà về quyền thừa kế tài sản, nên hiện nay khoản tiền này bị phong tỏa, tất cả cổ phiếu đều ngừng hoạt động.
- Ông thử nghĩ xem, ông Lupin, tất cả cổ phiếu đều ở bên kia- ở két an toàn, trong thư phòng của chồng tôi. Nhưng tôi thậm chí còn chưa được thấy, như thế có quá đáng không chứ!
Còn ông Anbel rất trịnh trọng hỏi han tình hình của anh. Lupin rất thành thật về việc mình vẫn chưa tìm được công việc nào. Thế là phu nhân Anbel liền mời chàng tuổi trẻ này làm thư ký cho nhà họ, trả lương tháng là 150 franc. Anh không cần chuyển đến ở, nhưng mỗi ngày đều phải đến làm việc. Để thuận tiện, anh còn có thể tự chọn lấy cho mình một buồng làm phòng làm việc ở tầng ba.
Phòng mà anh chọn, thật tình cờ, lại nằm chính trên thư phòng của ngài Anbel tốt bụng.
Không lâu sau, Lupin phát hiện công việc của mình chỉ như là tượng trưng thôi. Trong suốt hai tháng, anh chỉ thảo có bốn bức thư không có gì là cấp bách; một lần bị chủ nhà gọi lên, vì vậy được tận mắt nhìn thấy cái két an toàn. Ngoài ra, anh còn thấy rằng công việc thư ký nhàn hạ này dường như chỉ ở một chỗ, không thể quen biết với Angadi hay vị chủ tịch luật sư Grubet. Vì chủ nhà từ trước tới nay không hề tham gia tiệc tùng mang tính xã giao.
Nhưng anh không hề thấy buồn, mà ngược lại còn cảm thấy cũng hay, không phải tiếp xúc với người khác, càng được tự do hơn. Với lại, anh không hề rảnh rối. Nhiều lần anh bí mật lẻn vào thư phòng, xem xét kỹ lưỡng cái két an toàn không lấy làm gì đẹp đẽ kia. Đối với “cái gã gang thép đần độn” này, có lẽ giũa, tuốcnơvit, xà beng… đều không có tác dụng gì.
Nhưng Lupin không hề nản lòng, anh tự nhủ rằng: “Quan trọng nhất là phải mắt tinh tai thính”
Anh kiểm tra kỹ lại một lượt căn phòng của mình, và đã tìm ra một cách. Anh đặt một dụng cụ nối đến trần nhà thư phòng của Anbel, giấu nó ở giữa hai phào chỉ của trần nhà. Đó chính là ống nghe và kính viễn vọng của anh; muốn “tai thính mắt tinh” thì phải dựa vào nó.
Từ đó trở đi, hàng ngày anh luôn dành nhiều thời gian nằm bò trên sàn nhà. Từ đây anh có thể nhìn thấy phu nhân Anbel đang kiểm tra sổ sách tài sản ở trước két an toàn; thậm chí còn nhìn thấy họ xoay bốn vòng rồi mở két. Lúc này, anh dường như không chớp mắt, chăm chú nhìn từng động tác để nhớ kỹ số vòng xoay.
Có một hôm, anh trông thấy hai vợ chông họ chưa khóa két mà đã ra khỏi thư phòng. Nhân cơ hội đó anh liền vội vã chạy nhanh xuống lầu để vào thư phòng. Đúng lúc ấy hai người họ quay lại.
- Ồ! Xin lỗi, tôi vào nhầm phòng rồi- Lupin vừa rối rít xin lỗi vừa bước ra.
- Mời vào, ông Lupin! Hãy vào đi, đây chẳng phải cũng là nhà của ông sao? Chúng tôi đang có chuyện muốn thỉnh giáo ông đây. Lúc này, nên bán cổ phỉếu nào thì tốt: cổ phiếu đối ngoại hay trái phiếu?
- Chẳng phải đã đóng băng rồi sao?- Lupin ngạc nhiên hỏi.
- Ồ! Không phải toàn bộ chứng phiếu đóng băng. Bà ta mở cửa tủ, Lupin nhìn thấy bên trong đặt một sấp cổ phiếu có giá trị, mỗi sấp được bọc trong một tấm lụa. Bà ta lấy ra một sấp trong số đó. Nhưng chồng bà lập tức phản đối:
- Không, Rewer bán cổ phiếu đố ngoại thì thật ngốc. Nó có chiều hướng sẽ tăng giá… Bây giờ có khi giá công trái cao hơn. Anh thấy thế nào?
Anh ấy không có ý kiến gì, song vẫn kiến nghị bán công trái. Thế là phu nhân Anbel cầm lên một tập khác, ông Anbel đón lấy nó và cất vào túi.
Buổi chiều, Anbel mời thư ký cùng ông đi tìm người mua, bán được bốn mươi sáu nghìn franc.
Tuy phu nhân Anbel nói “đây chính là nhà của ông”, nhưng Lupin không hề có cảm giác này. Chẳng hiểu sao mà anh luôn thấy mình thật nhỏ bé khi ở trong phủ này. Người giúp việc thì không hề biết đến tên anh, việc ấy không chỉ xảy ra một lần. Bọn họ chỉ gọi là… “ông ấy”. Ngay cả ông Anbel cũng nói với bọn họ: đi thông báo cho ông ấy…”, “Ông ấy đến chưa”. Tại sao phải làm ra vẻ bí mật thế?
Hơn nữa, sự nhiệt tình lúc đầu của phu nhân cũng không còn thấy nữa. Bây giờ, hai người dường như không nói chuyện gì với anh. Cả trong lẫn ngoài phủ, dường như đều cho rằng anh là quái nhân, không thích người khác làm phiền. Cho nên mọi người tỏ ra kính nhi viễn chi. Có lần anh bước tới tiền sảnh, nghe thấy phu nhân đang nói chuyện với hai người khác:
- “Ông ấy” tính cô độc, không thích nói chuyện…
Anh nghĩ, mặc kệ họ, dù sao thì anh cũng không cần để ý đến cái nhỏ nhặt ấy, thà suy nghĩ để thực hiện “kế hoạch” còn hơn. Có một điều anh đã nhận ra rằng không thể mong chờ phu nhân sẽ sơ ý làm rơi chìa khóa mà cả ngày bà ta không để rời xa. Anh ấy phải dựa vào chính bản thân hành động một mình.
Lúc này, vừa hay có các bài báo nói về hai vợ chông Anbel. Tờ báo nọ còn lên án là họ đang lừa đảo. Phu nhân đọc xong, hết sức giận, đứng ngồi không yên. Lupin liền quyết định hành động. Năm ngày liền, sau khi tan ca lúc sáu giờ, anh liền khóa mình trong phòng, khiến mọi người cứ tưởng anh đã về. Trong khi đó, anh nằm bò trên sàn nhà, theo dõi từng động tĩnh của ông Anbel trong thư phòng. Đêm tới, mới lặng lẽ đi ra qua cửa sau vườn, và anh có chìa khóa cửa này.
Ngày thứ sáu, anh nghe được tin bà Anbel nhằm đáp lại những lời công kích ngấm ngầm tai hại kia, đã đề nghị bên có liên quan trực tiếp mở cửa két an toàn tiến hành kiểm kê. “Được Lupin suy nghĩ- “Tối nay, chắc họ sẽ rất bận.”
Quả nhiên sau bữa tối, ông chủ liền ở lì trong thư phòng; một lúc sau, phu nhân cũng vào. Hai người bắt đầu kiểm tra sổ sách tài sản.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, rồi lại một tỉếng nữa… Anh không còn nghe thấy động tĩnh gì, tất cả người giúp việc đã đi ngủ. Bây giờ tầng hai không còn ai. Đã quá nửa đêm, hai vợ chồng họ vẫn còn làm việc.
“Đến lượt mình rồi”- Lupin thầm nhủ. Anh mở cửa sổ, bên dưới kia là vườn. Ngoài trời không trăng, không sao, tối mịt mù. Anh lấy từ trong tủ ra một sợi dây thừng, buộc một đầu vào thanh lan can, sau đó trèo qua lan can, trượt xuống tới lan can thư phòng. Cửa sổ căn phòng treo một tấm rèm rất dày, từ bên ngoài không thể nhìn vào trong được. Anh đứng một lúc, nghe ngóng xung quanh, rồi nhẹ nhàng mở cửa sổ. Cánh cửa này anh đã tháo chốt lúc chiều, nếu không ai động vào thì sẽ mở ra ngay được.
Quả nhiên, rất nhanh chóng anh đã mở được cửa. Anh cẩn thận đẩy nhẹ, rồi lại đẩy rộng thêm một chút nữa đủ để có thể ghé đầu vào. Anh khẽ vén hai mép rèm cửa và nhìn qua khe, thấy hai vợ chồng họ đang ngồi gần cái két an toàn.
Họ đang chăm chú làm việc, chỉ đôi lúc nói nhỏ vài câu. Lupin ước lượng khoảng cách, trong đầu tính kỹ phương án hành động nhanh gọn nhất để họ không kịp lên tiếng kêu cứu. đang chờ đợi, thì nghe thấy phu nhân uể oải nói:
- Sao trong phòng lại hơi lạnh thế nhỉ! Tôi phải đi ngủ đây. Còn ông thế nào?
- Tôi kiểm tra xong mới ngủ.
- Làm xong! Vậy thì ông phải thức thâu đêm à?
- Không sao đâu, chỉ còn hơn một tiếng nữa sắp xong rồi…
Bà ta đứng dậy đi. Hai nươi phút, rồi ba mươi phút trôi qua. Lupin mở cửa sổ to ra chút nữa. ông Anbel có lẽ cảm thấy có gió, nên quay mặt lại, nhìn thấy rèm cửa bị thổi bay, liền đứng lên định ra đóng cửa.
Lupin đột ngột ra tay, nhanh chóng đánh ngất ông ta, sau đó lấy rèm cửa bịt kín đầu ông ta lại, rồi trói cả người. Ông Anbel bị đánh đột ngột nên không thể kịp nhìn mặt kẻ phục kích. Lupin chạy nhanh tới két an toàn, lấy mấy tập cổ phiếu, bước xuống dưới lầu, đi qua sân, mở cửa phụ. Bên đường đã có một chiếc xe ngựa đợi sẵn. Tiện thể cũng nói luôn, rằng phu xe cũng là người chúng ta đã quen trong vở kịch ngay từ đầu truyện. Lupin cứu ông Anbel từ tay người này.
Lupin đưa món đồ kia cho người bạn này, quay lại thư phòng và lấy thêm vài sập lớn nữa. Hai lần đi lại, két an toàn đã trống không. Đợi xe ngựa đã lăn bánh đi rồi, Lupin mới quay lại phòng mình, trên tầng ba để cất dây thừng, xóa dấu vết. Việc lớn đã hoàn thành một cách thật sự thuận lợi ngoài sự tưởng tượng của anh.
Sau đó vài tiếng, Lupin và anh bạn kia bóc sấp cổ phiếu ra, kiểm tra một lượt. Không ngoài dự tính, một triệu franc là giả. Song, những cổ phiếu và trái phiếu ấy đều đang rất nổi tiếng: cổ phiếu đường sắt vùng Pari, ngân hàng quốc gia, Cùng khoáng sản miền Bắc… Anh ấy mỉm cười, nói với bạn mình:
- Đương nhiên, những cổ phiếu, trái phiếu này phải chuyển nhượng.
Ngày hôm sau, Lupin nghĩ mình vẫn cứ đến phủ như bình thường. Nhưng khi xem báo, anh đã giật mình vì một tin vô cùng giật gân: vợ chồng Anbel mất tích.
Sau đó, cảnh sát kiểm tra đến hiện trường đã nghiêm trang, trịnh trọng mở két ra: không cần nói nữa, bên trong đương nhiên rỗng không!
Từ đầu đến cuối vụ án két an toàn của phu nhân kể trên, là Lupin kể cho tôi nghe. Hôm đó, anh ấy có vẻ rất vui, vừa thủng thảng bước trong thư phòng của tôi, vừa chậm rãi kể cho tôi nghe.
- Nhưng tôi cảm thấy trong sự việc này có điểu gì rất kỳ lạ- Sau khi lắng nghe rất chăm chú, tôi nghĩ ngợi rồi hỏi- Vợ chồng Anbel sao lại phải bỏ chạy chứ? Bọn họ chỉ cần nói là “Một triệu franc thật sự đã cất trong két an toàn bây giờ không còn là do bị trộm lấy mất”, thì có làm sao?
- Có lẽ là họ đã rất lo sợ- Lupin nói, nheo mắt nhìn tôi- Thật ra..
- Thật ra gì cơ?
- Không có gì. Anh ấy ngừng lại không nói, là cớ làm sao? Trong đó ắt có ngụ ý. Chắc có liên quan đến bí mật nào đó. Nếu không, với tính cách của anh ấy sẽ không con cà con kê như vậy đâu. Tôi tiện thể hỏi luôn:
- Sau đó anh không gặp lại họ nữa à?
- Không hề.
- Vậy có khi nào anh cảm thấy thương xót họ không?
- Tôi! Anh nói tôi thương xót cho họ ư?- Arsene Lupin nhảy dựng lên. Phản ứng quá mạnh đó khiến tôi ngạc nhiên. Phải chăng, tôi đã gãi đúng chỗ ngứa của anh ấy? Tôi không làm gì khác mà dứt khoát hỏi thêm một câu:
- Lúc đó, có lẽ bọn họ rơi vào cảnh nguy khốn…Ít nhất lúc ra đi anh cũng thấy xấu hổ chứ?
- Ý anh là tôi nên cảm thấy áy náy, đúng không?
- Đúng thế. Anh ấy đập mạnh một cái lên mặt bàn:
- Tôi muốn hỏi lại rằng, tôi phải cảm thấy áy náy với ai đây?
- Với hai người đã bị ông ta tước hết cả gia sản khổng lồ kia kìa.
- Làm gì có gia sản khổng lồ chứ? Người anh em, đến thế mà ông vẫn chưa hiểu những cổ phiếu ấy đều là giả ư?
- Đều là giả sao?- Tôi trợn mắt đờ người ra.
- Là giả tất- Anh phẫn uất thét lên- tất cả đều là giả cả, là đống giấy lộn. Tôi chẳng lấy được đồng xu nào cả! Bọn họ cho tôi là tên ngốc nên đùa cợt, mà ông còn bảo rằng tôi phải cảm thấy áy náy ư! Ông muốn tôi diễn vai nào trong vở kịch này? Là Anclre Blau Fuder, người cháu không có thật của ông Blau Fuder. Bọn họ đã dựng lên câu chuyện giả tạo, khiến mọi người tin rằng tôi là cháu của ông Blau là một quái nhân, thích cô độc, lập dị. Như vậy, sự tồn tại của Blau sẽ không bị nghi ngờ, ngân hàng sẽ cho họ vay tiền, văn phòng công chứng cũng khuyên khách hàng mạnh dạn cho họ vay… Nói đên đây, bỗng anh ấy dừng lại, trên khuôn mặt nở nụ cười tự chế nhạo và chậm rãi nói rằng:
- Không dấu gì ông, phu nhân Anbel còn nợ tôi năm nghìn franc chưa trả! Tiền lương ban đầu đã thỏa thuận tôi chưa cầm được đồng nào, mà bà ấy lại còn vay tôi năm nghìn franc, nói là muốn tiếp tế người nghèo, tức làm từ thiện mà không muốn để ông chồng biết!
__________________
#3
27-05-2012, 23:30
bonbon2907
Hổ Phách
Hổ Phách
Tham gia: 05-2012
Bài gửi: 62
Thanks: 5
Được Thank 25 lần trong 13 bài
Ink: 597
Được thưởng
1 lần
Cám ơn
1 lần
Re: Siêu Trộm Arsène Lupin
Chương III
CUỘC TRUY TÌM VIÊN NGỌC CỦA MỸ NHÂN JENNY SAFIA
Một buổi sáng như thường lệ, vừa ra khỏi nhà đến tòa án thanh tra Ganimard thấy có gì đó là lạ từ trường huấn luyện ngựa: có người cứ chạy trước ông, dọc theo phố Pergolese.
Gã đàn ông ăn mặc tồi tàn, đội chiếc mũ lá dù đang là tháng 11. Cứ khoảng năm sáu mươi bước gã lại cúi xuống để buộc dây giầy để nhặt chiếc gậy đánh rơi, không rõ hay là vì một lý do gì khác... Mỗi lần như thế gã lại lén đặt một mẩu vỏ cam móc trong túi ra lên mép vỉa hè.
Ganimard vốn là người quan sát tinh tế nên không thờ ơ bỏ qua sự việc lạ lùng và kỳ quặc như một trò tiêu khiển trẻ con này. Ông quyết định theo dõi gã.
Kia rồi, trong khi gã ấy men mé bên phải đại lộ Grande- Armee, thì viên thanh tra thấy gã ra hiệu cho một thằng nhóc chừng 12 tuổi, đang đi dọc theo mé bên trái dãy phố.
Đi thêm 20 mét, gã đàn ông cúi xuống vén quần rất nhanh và một mẩu vỏ cam đánh dấu nơi gã đi qua. Cùng lúc, thằng nhóc cũng dừng lại vẽ một hình chữ thập bằng phấn trắng trong một hình tròn lên tường của một ngôi nhà kề cận.
Hai tên tiếp tục cuộc dạo bộ của chúng. Một phút sau, chúng lại lần lượt dừng. Gã đàn ông nhặt một chiếc ghim băng trên đường, như vô ý để rơi ra mảnh vỏ cam. Còn thằng bé ranh kia lại vẽ lên tường nhà một vòng tròn với một hình chữ thập bên trong bằng phấn trắng.
- Chết tiệt!- Viên thanh tra lầm bầm suy nghĩ- Chúng báo tin... Quái quỷ! Hai tên kia âm mưu gì đây?
Hai đứa tiếp tục xuống đại lộ Friedland và ngoại ô Saint- Honoré mà không theo con đường nào khác. Sự việc đáng chú ý lại tiếp diễn.
Với cự ly gần như đều đặn, động tác kép kia cứ máy móc lặp lại. Nhưng rõ ràng là “gã vỏ cam” đó chỉ thực hiện việc của mình khi chọn được ngôi nhà cần đánh dấu; còn thằng nhóc chỉ đánh dấu ngôi nhà đó sau khi trông thấy gã đồng hành ra hiệu.
Sự việc xảy ra bất ngờ trước mắt viên thanh tra khiến ông ta hết sức quan tâm tới trò phối hợp ăn ý quái lạ đó.
Đến quảng trường Beauvau, gã đàn ông có vẻ ngập ngừng rồi như là đã dứt khoát, gã vén gấu quần lền rồi lại bẻ gấu quần xuống hai lần. Thế là thằng nhóc ngồi thụp xuống mép hè, đối diện với người lính đứng gác trước Bộ Nội vụ, đánh dấu bằng hòn đá vẽ hai vòng tròn với hình chữ thập ở trong.
Ngang qua điện Elysée, cách thức ấy lại tái diễn. Nhưng trên vỉa hè, nơi lính gác dinh Tổng thống bước từng bước một chậm rãi, lại có những ba dấu hiệu thay vì chỉ có hai ở lần trước đó.
- Vậy là sao nhỉ?- Ngài Ganimard lầm bầm. Mặt ông chợt tái đi bởi một cảm giác kỳ lạ. Dù sao ông cũng nghĩ ngay đến kẻ thù truyền kiếp của mình là Lupin như ông thường nghĩ tới liền mỗi khi có một tình tiết bí ẩn nào đó xuất hiện.
- Ám hiệu đó nói lên điều gì nhỉ?
Thiếu chút nữa là ông xông ra túm cổ để tra hỏi hai đứa lạ mặt kia. Nhưng ông đã đủ khôn khéo không phạm phải sự ngu xuẩn ấy. Vả lại, “gã vỏ cam” đã dừng lại châm một điếu thuốc lá, thằng nhóc cũng cầm một đầu mẩu đến để xin lửa.
Bọn chúng thì thầm trao đổi gì đó với nhau. Liền đó, thằng nhóc chìa ra cho đồng bọn một vật gì đấy, viên thanh tra ngờ ngợ chí ít cũng là một khẩu súng lục trong bao. Cả hai tên cùng cúi xuống cái vật ấy và nhiều lần gã đàn ông quay nhìn về phía bức tường rồi đút tay vào túi làm động tác như thể lên đạn vậy.
Việc ấy vừa xong xuôi chúng quay ngay trở lại, đi dọc theo phố Surene; còn viên thanh tra vẫn bám sát theo chúng, nhiều lúc gần quá nên suýt bị chúng phát hiện... Ông thấy chúng cũng mất hút vào một ngôi nhà cổ, mà tất cả các cánh cửa đều đóng kín, trừ các cửa tầng ba và tầng trên cùng.
Ông thanh tra lao theo liền sau lưng bọn chúng. Qua cổng, ông nhìn thấy tận cùng là một khoảng sân khá rộng, treo biển hiệu của thợ sơn vôi; còn bên trái ở trên cao có cái lồng của một vận thăng.
Ông vội vàng đi lên và ngay từ tầng một đã cố leo nhanh hơn. ông nghe có tiếng động huỵch huỵch ở bên trên như những cú đánh rất mạnh.
Khi lên đến chiếu nghỉ trên cùng, ông thấy cánh cửa đã mở. Ông bước vào, lắng tai nghe giây lát nhận ra âm thanh của cuộc đánh đập từ một phòng gần đó. Chạy ngay đến căn phòng phát ra tiếng động, dừng lại ở ngưỡng cửa, ông thở hổn hển và sửng sốt khi thấy “gã vỏ cam” và thằng nhóc đang cùng nện ghế uỳnh uỳnh xuống sàn gỗ.
Vừa lúc một nhân vật thứ ba từ phòng bên bước ra. Đấy là một người đàn ông trẻ, chỉ khoảng hai mươi tám, ba mươi tuổi, râu xén ngắn, đeo kính và khoác một chiếc áo vét trong lót lông cừu khá đẹp, dáng vẻ như một người Nga...
- Xin chào Ganimard!- Người đàn ông lên tiếng chào một cách thân mật. Rồi quay sang vui vẻ nói với hai tên vô lại kia:
- Cảm ơn hai bạn và xin khen ngợi về kết quả đã đạt được. Đây là phần thưởng đã hứa. Anh ta bảo chúng đi ra sau khi trao cho chúng tờ 100 franc, rồi đóng chặt cửa lại.
- Tôi xin lỗi ông, người bạn già- Anh ta ra vẻ bí mật nói với Ganimard- Tôi cần nói chuyện với ông... một điều cấp thiết.
Khi anh chìa tay ra bắt, viên thanh tra vẫn còn bàng hoàng, nét mặt bị méo xệch vì tức giận khiến anh ta kêu lên:
- Ông có vẻ chưa hiểu... Nhưng quả tình... tôi có một việc khẩn cấp cần gặp ông... Nào, phải thế chứ? Rồi anh lại nói ngay, vẻ như đáp lại sự từ chối thẳng thừng của viên thanh tra:
- Ồ không, ông bạn già ơi, ông nhầm to rồi. Nếu tôi viết thư hoặc gọi điện tới chắc chắn ông không đến đây, hoặc sẽ đến với nhiều người nữa. Nhưng tôi chỉ muốn gặp riêng ông thôi. Thế nên tôi đã nghĩ ra cách phái hai con người tử tế kia “đón ông”, bằng cách rắc vỏ cam và vẽ chữ thập trong vòng tròn vạch đường dẫn ông tới tận đây. Mà sao ông cứ ngơ ngác vậy? Có chuyện gì ư? Có thể ông không nhận ra tôi à? Lupin... Arséne Lupin... Ông nhớ lại đi... Cái tên ấy chẳng lẽ không gợi lại cho ông một điều gì sao?
- Tên súc sinh!- Ganimard rít lên giữa những kẽ răng nghiến chặt.
Lupin tỏ vẻ như lấy làm tiếc, và bằng giọng nói thân tình anh nói to:
- Ông giận dữ ư? Tôi quả nhìn thấy điều đó trong đôi mắt ông... Là vụ Dugrival chứ gì? Tôi phải đợi để cho ông đến bắt tôi chắc?... Mẹ kiếp, chắc ông cũng đã xuất hiện ý định ấy! Tôi thề với ông mặc dù một lần khác...
- Đồ khốn- Ganimard vẫn tím mặt lại gào rít.
- Song tôi tin rằng mình đang làm ông vui! Thật thế, tôi đã tự nhủ “Ông Ganimard quyền quý và nhân từ này đã lâu lắm chúng ta chưa được gặp nhau. Ông ấy sẽ nhiệt thành ôm hôn mình.”
Ganimard vẫn chưa hề động lòng, nhưng có vẻ như đã hết sững sờ. Ông nhìn xung quanh Lupin, tự nhủ mình rằng sẽ không thèm ôm hôn hắn. Quả vậy, rồi tự kiềm chế ông giơ tay kéo một chiếc ghế ngồi xuống, bất thình lình như thể chính ông quyết định ngheo theo địch thủ nói, ông giục:
- Nói đi... nhưng chớ tào lao! Ta rất vội!
Lupin nói:
- Đúng thế, chúng ta sẽ nói chuyện. Không thể mong có một nơi nào yên tĩnh hơn. Đây là một tòa nhà cổ của công tước Rochelaure không bao giờ ở cả. Ông ta đã cho tôi thuê lâu đài này, và cho một chủ thầu tranh ảnh làm nơi vui chơi cho quần chúng. Tôi có vài ba chỗ tương tự, khá tiện lợi. Ở đây, mặc dù nom bề ngoài tôi là một kẻ hào phòng người Nga nhưng tôi lại còn là ngài Jean Dubreuil- cựu Bộ trưởng... Ông hiểu không, tôi đã chọn một nghề hơi bề bộn, để không ai chú ý...
- Anh muốn gì, tôi còn phải đi?- Ganimard khó chịu ngắt lời.
- Quả có thế. Tồi thì hơi ba hoa mà ông lại vội, mong ông thứ lỗi cho! Việc này không lâu đâu... Năm phút thôi... Tôi bắt đầu đây... Một điếu xì gà nhé? Không à? Tuyệt vời, tôi cũng không... nốt.
Anh ta ngồi xuống, gõ gõ lên bàn vẻ suy ngẫm, rồi giãi bày:
- Ngày 17 tháng 10 năm 1599, một ngày đẹp trời, ấm áp và vui tươi... Ông theo rất sát tôi hả?... Vậy là ngày 17 tháng 10 năm 1599... Xét cho cùng, có phải hoàn toàn cần thiết để ông leo lên tận nơi ngự trị của Henri IV không? Không, ông không bị chi phối bởi lịch sử của Pháp, và tôi đã liều làm cho ông nhầm lẫn ý định. Vậy chỉ cần ông biết rằng, đêm qua lúc 1 giờ sáng có một người chở xuồng qua dưới nhịp cuối cùng của chính cây cầu Pont Neuf này, ở phía tả ngạn đã nghe thấy tiếng rơi của một vật ném từ trên cầu xuống dòng sông Seine. Còn chó của người lái xuồng xồ ra, sủa rất to. Khi người lái xuồng đến, ông ta nhìn con chó của mình lắc lắc một mẩu giấy báo gói một vật nhỏ trên mõm. Ông lượm những thứ còn lại không bị rơi xuống nước, đem vào ca bin. Sự xem xét này tỏ ra có ích đối với ông. Và vì người đàn ông này có quan hệ với một người bạn của tôi nên ông ấy đã báo cho tôi biết. Sáng nay người ta đánh thức tôi dậy kịp thời nói cho tôi biết tất cả sự việc và giao cho tôi những vật thu lượm được. Chúng đây này.
Anh chỉ những thứ trên mặt bàn. Trước tiên là những mảnh báo rách. Rồi một lọ mực lớn bằng thủy tinh với cái nắp buộc dây. Cả mảnh thủy tinh vỡ nho nhỏ, một miếng bìa cứng uốn được, gập lại làm giẻ lau. Cuối cùng là một mảnh lụa hồng điều đầu mút là một quả cùng thứ vải và cùng màu sắc.
- Ông bạn tốt của tôi, ông xem những vật chứng này đi- Lupin lại nói- Hẳn là bài toán sẽ dễ giải hơn nếu ta được những vật chứng khác mà con chó ngớ ngẩn đã làm tung tóe mất. Tuy nhiên theo tôi thì ta vẫn có thể xoay xở được nếu biết cách suy xét và có óc thông minh. Và chính đấy là những đức tính tài giỏi của ông. Ông nghĩ sao?
Ganimard không phản đối. Ông đành chấp nhận những lời ba hoa của Lupin; nhưng sự trang nghiêm buộc ông không đáp lại bằng lời, ngay một cái gật đầu đồng ý hay cái lắc đầu cũng không.
- Tôi thấy là chúng ta hoàn toàn có chung ý kiến- Lupin nói tiếp như không để ý đến sự im lặng của viên thanh tra.- Và như vậy, tôi tóm tắt bằng một câu cuối cùng là những mảnh vụn tang chứng đã kể ra hết sự việc. Tối hôm qua khoảng giữa 9 giờ và 12 giờ đêm, một cô gái dáng vẻ kì quặc bị thương do dao đâm rồi sau đấy bị bóp cổ đến chết. Thủ phạm là một quý ông ăn vận lịch sự, đeo kính một mắt, thuộc giới đua ngựa. Trước đó gã đã cùng cô gái ấy ăn ba chiếc bánh trứng và một bánh kem màu cà-phê.
Lupin châm một điếu thuốc lá, rồi nắm lấy ống tay áo của Ganimard:
- Thế nào? Điều ấy làm cho ông ngỡ ngàng đấy, thanh tra ạ! Ông hãy tin rằng, trong lĩnh vực suy đoán theo kiểu cảnh sát, những chuyện phi thường nhờ vào giải đoán tiên tri đều là cấm kị. Ông sẽ phạm sai lầm đấy, thưa ông- Lupin tung hứng với những lời suy diễn như một cảnh sát điều tra trong tiểu thuyết- Những chứng lí của tôi ư? Quá dễ, nó đã rành rành ra đấy thôi!
Rồi lần lượt chỉ những vật mà đã chứng minh, anh nói thao thao:
- Vậy thì tối hôm qua, sau 9 giờ (mảnh báo ấy ghi rõ ngày tháng của hôm qua, và lời chú là “báo buổi chiều”. Vả lại ông có thể xem đây, đính kèm là một mảnh bằng màu vàng, người ta gửi những số báo của người đặt mua đến nhà theo chuyến thư lúc chính giờ). Vậy là sau 9 giờ, một người đàn ông ăn mặc chỉnh tề (xin ông vui lòng ghi nhận rằng mảnh thủy tinh nhỏ này rõ ràng là từ một vành của lỗ khuyết tròn của kính một mắt, mà chiếc kính một mắt là một đồ dùng thực sự quí phái), một người đàn ông ăn mặc chỉnh tề bước vào một cửa hàng bánh ngọt (đây là thứ bìa cứng hình chiếc hộp; ta còn thấy dính một chút kem của bánh lòng trắng trắng và bánh kem láng mà người ta vẫn thường xếp vào đó...)
Cầm cái gói của mình, người đàn ông đeo kính một mắt gặp lại người trẻ tuổi này, mà chiếc khăn choàng lụa hồng điều đủ chỉ ra dáng vẻ kỳ quặc của anh ta. Gặp lại người trẻ tuổi với những lý do lạ lùng, lúc đầu ông ấy đâm cô gái bằng nhiều nhát dao, rồi dùng chiếc khăn choàng lụa xiết chặt cổ cô ấy... (Ông thanh tra, ông hãy dùng kính lúp mà xem sẽ thấy những vết đỏ thẫm hơn trên lụa: đây này, những dấu vết một con dao đâm vào vải, và kia kìa dấu bàn tay vấy máu nắm vào vải). Thủ phạm đã gây tội ác, và để không lưu lại một dấu vết nào, hắn đã rút trong túi ra:
1- Tờ báo mà hắn đặt mua, (ông đọc nhanh mẩu báo này đi) là một tờ báo về đua ngựa, và ông sẽ dễ dàng biết tên báo là gì.
2- Một cái dây, đúng là dây roi.
Và hai chi tiết này chứng minh cho ông thấy có phải là gã đàn ông ấy quan tâm đến các cuộc đua ngựa không, vì chính hắn mà dây đeo đã bị đứt trong khi vật lộn. Hắn đã dùng kéo để cắt (ông xem những nét xơ của kéo thì rõ); hắn cắt đi phần vấy bẩn của chiếc khăn choàng, phần kia chắc là còn lại trong bàn tay co quắp của nạn nhân. Hắn vo tròn mảnh bìa cứng của hộp bánh ngọt lại. Hắn cũng đã bỏ lại một thứ có thể tố giác, chắc là đã rơi xuống sông Seine giống như là con dao. Hắn gói toàn bộ bằng tờ báo, dùng dây buộc lại, cho cả cái lọ mực thủy tinh này vào cho nặng. Rồi hắn chuồn mất. Thế đấy. Trời! Tôi phát sốt lên rồi. Ông vẫn cứ nghĩ mãi về cuộc phưu lưu của mình à?
Lupin quan sát Ganimard để biết hiệu quả bài diễn thuyết của mình đã tác động đến viên thanh tra ra sao. Ganimard vẫn không bỏ thái độ lặng thinh của mình. Lupin cười:
- Thực ra ông đã sửng sốt. Nhưng ông không hề nghi ngờ: “Tại sao cái tên Lupin ma quái này lại chuyển cho ta vụ án mà không giữ lại cho hắn để rượt theo tên giết người, để phanh phui, để lật mặt hắn ra nếu là vụ cướp”. Dĩ nhiên, câu hỏi hợp logic đấy. Nhưng mà... có một cái “nhưng mà” tôi không có thì giờ. Giờ công việc của tôi đã ngập đầu. Một vụ đánh tráo trẻ con ở Marseille, cứu vớt một cô gái mà cái chết đang rình rập..., tất cả cùng một lúc đổ dồn vào tay tôi. Thế là tôi tự nhủ: “Giá mà mình chuyển giao công việc này lại cho ông Ganimard tài giỏi đây thì có tốt hơn không? Bây giờ vụ việc đã bóc gỡ ra được phân nửa rồi; ông ấy có khả năng hoàn thành tốt. Và tôi thì lại còn có việc gì để phục vụ ông ấy! Ông ấy sẽ có thể nhận ra!”
Thế thì phải làm ngay. Lúc tám giờ sáng, tôi phái “gã vỏ cam” đến đón ông. Chín giờ thì ông cắn câu và đã đến đây, hoàn toàn... “năng động và linh hoạt”.
Lupin đứng hẳn dậy song hơi cúi xuống trước viên thanh tra và nói với ông một cách khiêu khích. Những cặp mắt nhìn thẳng vào nhau:
- Chấm hết! Chuyện kết thúc! Chiều nay chắc ông biết rõ nạn nhân... Là vũ nữ ba lê, lại là ca sĩ quán cà phê ca nhạc. Mặt khác có cơ may là kẻ tội phạm đang ở gần vùng cầu Pont-Neuf, hay đúng hơn là đang ở bên tả ngạn. Cuối cùng thì đây là những vật làm bằng chứng- tôi biếu ông đây! Ông cố làm đi. Tôi chỉ giữ lại mẩu khăn choàng này thôi. Nếu ông cần khôi phục lại chiếc khăn choàng nguyên như cũ thì hãy mang đến cho tôi phần kia, phần khăn mà cơ quan tư pháp đã tháo ở cổ nạn nhân ra. Ông trao nó cho tôi trong vòng một tháng đúng vào ngày này, có nghĩa là ngày 28 tháng 12 sau, vào lúc mười giờ! Ông chắc sẽ tìm được tôi. Nhưng ông đừng ngại: Tất cả cái đó là nghiêm túc, ông bạn tốt của tôi ạ. Tôi xin thề với ông như vậy. Không có chuyện đùa cợt nào đâu. Ông có thể cứ thăng tiến. À mà này, có một chi tiết rất quan trọng: khi nào ông bắt tên đeo kính một mắt ấy phải cẩn thận, hắn thuận tay trái đấy. Tạm biệt, chúc may mắn!
Lupin xoay một vòng, đến cửa mở ra và biến mất ngay trước khi Ganimard kịp nghĩ nên quyết định thế nào. Nhảy bật lên, viên thanh tra nhào theo. Nhưng ông nhận thấy ngay rằng quả đấm cửa có ổ khóa đã đóng lại; ông không biết cơ chế của nó nên không xoay mở được. Ông cần phải có mười phút để tháo ổ khóa này, và mười phút nữa để tháo khóa ở cửa phòng đợi. Khi đã lao xuống hết ba tầng gác, Ganimard không còn một chút hy vọng nào đuổi kịp Arséne Lupin nữa. Vả lại, ông cũng không nghĩ đến chuyện này. Lupin gợi lên trong ông một cảm giác kỳ cục và phức tạp mà ở đấy có lo sợ, thù oán, sự khâm phục dù không muốn, và cả là trực giác lờ mờ rằng ông không bao giờ với tới một địch thủ như thế, bất chấp mọi cố gắng, mọi kiên trì, và cả những tham vọng của ông. Ông đuổi theo là vì bổn phận và cũng vì lòng tự trọng nhưng với cả sự lo sợ khôn nguôi: bị cái tên bịp bợm đáng sợ đó lừa phỉnh nhạo báng trước mặt công chúng luôn luôn sẵn sàng hả hề về những rủi ro của ông. Đặc biệt, câu chuyện chiếc khăn choàng đỏ mà theo ông là rất đáng ngờ. Hẳn là lý thú nhưng không thể xác thực, không đáng tin! Nhìn bề ngoài cũng thế, sự giải thích của Lupin có vẻ logic mà lại hơi trái ngược với khi xem xét nghiêm ngặt trên mọi vấn đề.
- Không- Ganimard tự nhủ- Toàn bộ cái đó chính là chuyện tầm phào..., một mớ tạp nham những giả định và giả thiết không hề có cơ sở. Ta không chấp thuận! Khi về đến nhà số 36 bến càng Orfèvres, ông hoàn toàn dứt khoát với quyết định coi sự việc đó là không hề xảy ra. Ông lên trực ban ở cơ quan An ninh. Tại đây một đồng nghiệp nói với ông:
- Anh gặp xết chưa đấy?
- Chưa.
- Lúc nãy, ông ấy có hỏi anh.
- Vậy ư?
- Ồ. Anh đến gặp ngay ông ấy đi nào.
- Gặp ở đâu?
- Ở phố Berne... Có một vụ giết người xảy ra đêm qua...
- Không rõ lắm... Đâu như một ca sĩ ở quán cà phê ca nhạc...
Ganimard lẩm bẩm:
- Quái nhỉ!...
Hai mươi phút sau ra khỏi xe điện ngầm, ông đi thẳng đến phố Berne.
Nạn nhân rất nổi danh trong giới sân khấu, dưới biệt danh là Jenny Saphin; ở một căn hộ bình thường trên lầu hai. Ngài thanh tra được một nhân viên cảnh sát dẫn, trước tiên qua hai gian rồi vào một phòng đã có các quan viên phụ trách điều tra, cả người đứng đầu cơ quan An ninh- ông Duouis, và một bác sĩ pháp y.
Mới liếc qua, Ganimard đã thấy rùng mình. Ông nhác thấy xác một người đàn bà trẻ nằm trên chiếc đi-văng, hai bàn tay co quắp nắm chặt một mảnh lụa đỏ. Vai lộ ra bên ngoài áo cánh khoét cổ bị hai vết thương rất sâu, máu đọng lại xung quanh. Nét mặt hầu như tím đen, cau có, biểu lộ sự ghê sợ tột cùng.
Ông bác sĩ pháp y vừa khám nghiệm xong, tuyên bố:
- Kết luận sơ bộ của tôi rất rõ ràng: nạn nhân trước tiên bị đâm chí mạng bằng hai nhát dao găm rồi bị xiết cổ. Chết do ngạt thở là chắc chắn.
- Quái thật!- Ganimard nghĩ. Ông nhớ lại những lời nói của Lupin, gợi lại diễn biến tội ác.
Ông dự thẩm viên phát biểu:
- Nhưng trên cổ lại có vết bầm tím hay tụ máu nào.
- Việc xiết cổ có lẽ bằng chiếc khăn choàng lụa này- Bác sĩ tuyên bố- Nạn nhân đã choàng chiếc khăn này, khi bị tấn công hai bàn tay cô đã nắm giữ chặt nó để chống đỡ và còn sót lại một mảnh này.
- Nhưng sao chỉ sót lại một mảnh này?- Vị thẩm phán hỏi- Thế còn phần kia của chiếc khăn thì sao, nó ở đâu?
- Phần kia chắc bị vấy máu nên thủ phạm đã thủ tiêu. Có thể thấy rõ việc tách khăn do dùng kéo cắt vội nên có những vết xơ của vải.
- Quái nhỉ!- Ganimard lầm bầm nhắc lại lần thứ ba- Tên Lupin chó má này đã thấy được tất cả, ngay khi những vấn đề đó còn chưa phơi bày! Ông thẩm phán lại hỏi:
- Còn nguyên nhân của vụ giết hại? Các ổ khóa bị phá, tủ, hòm bị xới tung. Ông đã có những thông tin gì mới chưa, ông Duouis? Người đứng đầu cơ quan An ninh có vẻ không tự tin lắm khi trả lời:
- Chí ít thì tôi cũng đã có thể đưa ra một giả thiết, từ những lời khai của bà giúp việc. Nạn nhân về tài năng thì bình thường thôi. Nhưng được nhiều người biết đến là do sắc đẹp của cô ta. Cách đây hai năm, cô có một chuyến đi du lịch ở nước Nga. Khi trở về, người ta thấy cô có một viên ngọc safia rất đẹp; dường như do một nhân vật quyền quý của triều đình tặng. Từ ngày ấy, người ta gọi cô là Jenny Safia. Cô đã rất tự hào về món quà ấy, mặc dù cô không dám đeo vì thận trọng. Có thể giả thiết rằng việc cướp viên ngọc là nguyên nhân gây ra vụ sát hại được không?
- Nhưng bà giúp việc biết được nơi cất giấu viên ngọc ấy chứ?
- Không, không ai biết cả. Và sự lộn xộn của gian phòng này chứng tỏ rằng chính thủ phạm cũng không biết.
- Chúng ta sẽ hỏi bà giúp việc- Ông dự thẩm viên đề xuất.
Ông Duouis kéo viên thanh tra về phía mình và nói:
- Trông ông sao mà buồn cười quá mức đấy Ganimard ạ. Chuyện gì vậy? Ông nghi ngờ điều gì phải không?
- Thưa sếp, chẳng có gì đâu.
- Cũng không sao. Chúng ta cần phải có một việc khác ở cơ quan an ninh. Đã có nhiều tội ác kiểu như thế này, mà kẻ gây án không bị phát hiện. Lần này chúng ta cần phải bắt cho được kẻ tội phạm một cách nhanh chóng.
- Khó lắm đấy, thưa sếp.
- Phải như thế! Hãy nghe tôi nói đây Ganimard. Theo bà phục vụ thì Jenny Safia sống rất đúng giờ giấc, đã một tháng nay thường tiếp khách sau khi ở nhà hát về đến mười giờ rưỡi. Chỉ có một gã ở lại đến khoảng nửa đêm thôi. Người đàn ông đó khá lịch thiệp, muốn kết hôn với cô Jenny. Với lại ông ta hết sức thận trọng; để không bị ai trông thấy, luôn luôn dựng đứng cổ áo lên và bẻ quặp vành mũ xuống khi đi qua chòi gác cổng. Còn Jenny Safia, ngay trước khi ông ta đến thì cho bà giúp việc lánh đi.
- Hắn không hề để lại một dấu vết gì sao?
- Không một dấu vết nào! Hiển nhiên là chúng ta đang phải đối mặt với một tên ma mãnh rất nặng ký. Hắn đã chuẩn bị trước và thực hiện hành vi tội ác đó với tất cả khả năng để không bị trừng phạt. Bắt giữ được hẵn sẽ đem vinh dự đến cho chúng ta. Tôi nghĩ tới ông đấy, ông Ganimard ạ.
- Ồ! Sếp định giao cho tôi ạ?- Viên thanh tra giật nảy người trả lời- Rồi chúng ta thấy... chúng ta sẽ thấy... Tôi không nói rằng không... Nhưng...
Ông ta lộ vẻ rất căng thẳng và sự bồn chồn đó làm cho ông Dudouis phải để ý.
Ganimard lắp bắp tiếp tục:
- Nhưng, nhưng tôi thề với ông... Xin ông hãy nghe, sếp ạ, tôi thề với ông...
- Ông thề gì với tôi?
- Không có gì... Chúng ta sẽ thấy điều đó, sếp ạ... chúng ta sẽ thấy...
Chỉ mỗi một lần ở bên ngoài là Ganimard nói được gẫy gọn. Khi đập mạnh chân xuống đất, với giọng gay gắt và giận dữ:
- Nhưng xin thề trước Chúa việc bắt giữ sẽ được thực hiện bằng chính cách thức của tôi, mà không dùng bất cứ sự chỉ dẫn nào của tên khốn ấy. Ồ! Không, thế thì...
Càu nhau với Lupin, giận dữ vì bị lôi kéo vào việc này. Nhưng ông quyết định gỡ rối tơ vò thành thử đã đi dạo quanh phố xá một cách vô tình. Đầu óc ông xáo trộn; ông đang tìm cách sắp xếp những ý nghĩ và cố tìm ra một chi tiết hiếm hoi giữa bao sự việc tản mát mà Lupin không ngờ tới, để có thể dẫn ông tới thành công.
Ông ăn trưa nhanh chóng ở một quán rượu nhỏ, sau đó đi dạo. Bất thình lình ông dừng lại, bối rối và hết sức kinh ngạc. Ông đi qua cổng của phố Surène, vào chính ngôi nhà mà Lupin đã dụ ông vào vài giờ trước đấy. Một sức mạnh có uy lực nhất, như ý chí của ông lại dẫn ông đến đây. Lời giải thích của bài toán hóc búa chỉ có ở chính chỗ này. Ở đây có tất cả những yếu tố của sự thật. Dù ông có nói gì đi nữa, thì những lời khẳng định của Lupin đều hết sức chính xác. Sự trù tính của hắn đúng đến nỗi thẳm sâu tận đáy lòng, ông phải chuyển lay trước khả năng tiên đoán kỳ diệu đó. Ông chỉ tiếp tục phần việc, trừ cái mồi mà kẻ thù của ông để lại.
Không còn bất cứ trở ngại nào nữa, ông leo ào một mạch lên ba tầng gác. Căn hộ đã mở. Không có ai sờ mò đến những vật chứng. Ông thu lại và cho tất cả vào túi.
Ngay từ lúc này ông suy luận và hành động có thể nói một cách máy móc, dưới những thôi thúc của chủ nhân mà ông không hề muốn tuân theo.
Ông lại công nhận thêm rằng, đối tượng ở gần quanh cầu Pont- Neuf, và gần trên con đường từ cầu đến phố Berne; hiệu bánh ngọt mở cửa vào buổi tối mà ở đó người ta đã mua những chiếc bánh ga tô ngon lành. Việc tìm kiếm không mấy lâu la. Gần nhà ga Saint- Lazare, một người bán bánh ngọt đưa cho Ganimard những chiếc hộp nhỏ bằng bìa cứng, giống hệt về chất liệu và hình dáng với chiếc mà ông đang “có”. Một bà bán hàng thì nhớ lại, tối hôm trước đã bán cho một người đàn ông rụt đầu rụt cổ trong chiếc ao cổ da lông mà bà nhác thấy ông ta đeo kính một mắt.
- Thế là đã kiểm tra được dấu vết đầu tiên- Viên thanh tra mừng rỡ thầm nghĩ về gã đàn ông đeo kính một mắt.
Sau đó ông ta gom những mẩu báo đau ngựa, đưa cho một người bán báo xem, người này nhận ra ngay đó là số báo “Le Turfillustré”. Ngay tức khắc, ông đến tòa soạn báo hỏi danh sách người đặt mua. Ông chép lại tên và địa chỉ của tất cả những người quanh vùng Pont-Neuf, mà chủ yếu là phía tả ngạn sông Seine, vì Lupin đã nói với ông như thế.
Rồi ông trở lại cơ quan an ninh, tuyển chọn đến nửa tá nhân viên và phái họ đi với những chỉ dẫn cần thiết.
Đến bảy giờ tối, người cuối cùng trong số đó về báo cho ông tin mới nhất: ông Prévailles đặt mua báo của Turf, đang ở một gác lửng trên bến cảng Augustins. Tối hôm trước ông ấy ra khỏi nhà, mặc một chiếc ao da lông, nhận thừ từ và báo “Turfillustré” từ tay người gác cổng, rồi đi mãi đến nửa đêm
Cái nhà ông Prévailles ấy đeo kính một mắt là khách quen của trường đua ngựa. Và chính ông ta cũng có ngựa cưỡi cho thuê.
Cuộc điều tra rất nhanh chóng, những kết quả đạt được đúng như Lupin dự đoán khiến Ganimard cảm thấy ngao ngán khi nghe nhân viên báo cáo lại. Song chí ít, ông cũng đánh giá cao tầm vóc lớn lao của phương pháp mà Lupin đã sắp xếp. Suốt cuộc đời của mình, ông chưa hề gặp một sự sáng suốt, một đầu óc sắc sảo và tinh tường đến như vậy.
Rồi Ganimard đi tìm ông Dudouis:
- Tất cả đã sẵn sàng, thưa sếp! Sếp đã có lệnh chưa?
- Sao?
- Tôi nói là, tất cả đã sẵn sàng cho vụ bắt giữ, sếp ạ.
- Ông đã biết được kẻ nào giết hại Jenny Safia chưa?
- Biết rồi.
- Là như thế nào? Ông hãy nói xem!
Ganimard cảm thấy ngại ngùng, hơi đỏ mặt nhưng ông đã trả lời:
- Do tình cờ thôi, sếp ạ. Tên giết người đã ném mọi thứ có hại cho mình xuống dòng sông Seine. Một phần của cái gói những thứ ấy đã được vớt lên, giao cho tôi.
- Ai vớt? - Một người lái đò không muốn lộ tên, vì sợ bị trả thù. Nhưng tôi đã có tất cả những dấu vết cần thiết. Công việc cũng dễ dàng thôi...
Rồi viên thanh tra kể lại trình tự ông đã tiến hành.
- Thế mà gọi là tình cờ?- Ông Dudouis thốt lên- Và còn nói là công việc dễ dàng! Đây là một trong những chiến dịch tốt nhất của ông đấy. Ông cứ tự mình tiến hành cho tới cùng đi, ông bạn Ganimard thân mến ạ, và hãy thận trọng nhé!
Ganimard vội vàng kết thúc báo cáo của mình. Ông đến ngay bến cảng Augustins, cùng với các nhân viên mà ông phân bố xung quanh ngôi nhà. Bà gác cổng đã trả lời rằng người thuê nhà ăn uống ở ngoài, thường về sau bữa cơm chiều.
Trên thực tế, gần chín giờ bà mới nhô người ra ngoài cửa sổ báo cho Ganimard biết. Ngay lập tức, ông thổi một tiếng còi xé tai. Một người đàn ông đội mũ chóp cao, cả người bọc trong một chiếc áo da lông đi trên vỉa hè dọc theo sông Seine. Ông ta nhanh nhẹn vượt qua đường và đi về phía ngôi nhà.
Ganimard tiến lên:
- Khỏe chứ hả, ông Prévailles?
- Vâng, nhưng chính ông là?...
- Tôi được giao một nhiệm vụ....
Ông ta không kịp nói hết câu... Vừa nhìn thấy mấy người đàn ông từ trong bóng tối xuất hiện, Prévailles đã nhanh chóng lùi lại tới tận bức tường đứng ngay trước mặt các địch thủ của mình. Y đứng dựa lưng vào cửa ra vào của một quán hàng ở tầng trệt, mà các cánh cửa đều đóng kín. Y nói nhanh:
- Ông thanh tra tôi không hề quen biết ông.
Tay phải của y giơ chiếc can dài lên, trong khi tay trái thì lần về phía sau như thể đang tìm cách mở cửa.
Ganimard có cảm giác là ý có thể chạy trốn khỏi đây bằng một lối thoát nào đấy. Ông vừa nói vừa tìm cách áp sát vào hắn:
- Nào, đừng lôi thôi. Ông đã bị bắt... đầu hàng đi!
Nhưng trong khi nắm chiếc can của Prévailles, Ganimard sực nhớ tới lời cảnh báo của Lupin, là hắn thuận tai trái. Và đúng lúc ấy, y đang dùng tay trái lần tìm... súng ngắn.
Viên thanh tra lập tức cúi xuống, ông đã kịp thời phát hiện cử chỉ phản ứng tức thì của đối phương. Hai tiếng nổ vang lên, nhưng không ai bị dính đạn cả.
Vài giây sau, Prévailles bị một cú đấm móc hàm như trời giáng, lăn ra ngay lập tức. Đến 9 giờ, y bị tống vào nhà giam.
Dịp này, Ganimard đã có được tiếng tăm lớn. Việc bắt Prévailles được tiến hành bất ngờ và hết sức đơn giản khiến giới cảnh sát vội vàng thấy ông quá xứng đáng được tôn vinh.
Người ta quy cho Prévailles tất cả những tội lỗi chưa đến mức phải nghiêm trị. Còn các báo chí thì đua nhau tán dương những kỳ tích của Ganimard.
Lúc đầu, sự việc tiến triển thuận lợi và nhanh chóng. Trước tiên, người ta nhận thấy rằng Prévailles với tên thật là Thomas Derocq đã bất hợp tác với cơ quan xét xử. Thế nhưng việc khám xét đã tiến hành tại nhà y, nếu không có những bằng chứng gì mới thì cũng đã phát hiện được một cuộn dây nhỏ giống như dây để buộc kiện hàng, và tìm được con dao găm có thể gây nên thương tích tương tự như vác vết thương ở nạn nhân.
Nhưng đến ngày thứ tám tất cả đã thay đổi. Cho đến tận lúc ấy Prévailles vẫn từ chối không chịu khai; y dự vào luật sư bào chữa của mình, dùng thủ đoạn ngoại phạm rất công nhiên để chống lại lời buộc tội: Tối xảy ra vụ án, y còn ở Folies- Bergere.
Trên thực tế, người ta còn tìm được trong túi áo đuôi tôm của y một mảnh vải thừa của đệm ghế bành và bản chương trình biểu diễn có ghi ngày tháng tối hôm ấy.
- Đây là một thủ đoạn chuẩn bị sẵn- Ông dự thẩm bắt bẻ.
- Ông chứng minh đi!- Prévailles cũng không vừa, vặn lại.
Việc nhận diện tội phạm được thực hiện ngay. Cô gái ở hiệu bánh ngọt tin rằng mình đã nhận ra đúng người đàn ông đeo kính một mắt. Người gác cổng ở phố Berne thì khẳng định, người đàn ông đó đã đến thăm Jenny Safia. Nhưng rốt cuộc chẳng có ai dám đảm bảo chắc chắn cả.
Như vậy là việc thẩm vấn chưa có gì là chính xác: không có một chỗ dựa pháp lý vững vàng để có thể thiết lập được một bản cáo trạng nghiêm khắc dành cho kẻ phạm tội.
Ông dự thẩm mời Ganimard đến và cho ông ta biết sự lúng túng của mình:
- Tôi không thể làm mạnh hơn được nữa. Chưa đủ điều kiện để buộc tội!
- Nhưng ông đã tin chắc rồi, thưa ông dự thẩm! Prévailles không dễ gì để cho bắt mà không kháng cự lại, nếu hắn không phải là thủ phạm.
- Hắn dám chắc rằng, hẵn đã bị số đông tấn công. Hắn cũng khẳng định không bao giờ hắn gặp Jenny Safia. Và thực sự, chúng ta không thấy có ai có thể làm cho hắn phải bối rồi cả. Chúng ta không có gì hơn ngoài sự suy đoán khi cho rằng viên ngọc Safia bị mất cắp, nhưng lại không thể tìm thấy ở nhà hắn.
Ganimard đế thêm:
- Không thấy. Song ở nơi khác cũng không.
- Được, nhưng đấy không thể coi là lời buộc tội đối với hắn. Ông có biết, điều gì chúng ta phải bận tâm ít lâu nữa không, ông Ganimard? Còn mảnh kia của chiếc khăn choàng đỏ?
- Mảnh kia?
- Đúng, đó là điều dĩ nhiên, chính vì những vết máu có dấu những ngón tay trên vải, nên kẻ giết người đã mang đi.
Ganimard không nói lại thêm gì. Dù sao từ những ngày qua ông cũng cảm thấy toàn bộ cuộc phiêu lưu đã chẳng đi đến chỗ kết thúc. Không có một chứng cớ nào khác có thể tìm kiếm được. Với chiếc khăn quàng lụa đỏ và chỉ với cái đó, tội lỗi của Prévailles sẽ rõ ràng. Nhưng công trạng của Ganimard lại cần có tội lỗi này! Người chịu trách nhiệm bắt giữ được tô vẽ và ca ngợi như đối thủ đáng gờm nhất của kẻ gian ác; ông ta sẽ trở nên hoàn toàn lố bịch trong con mắt của mọi người, nếu Prévailles được thả.
Thật chẳng may bằng chứng duy nhất và vô cùng cần thiết đó lại ở trong túi của Lupin. Làm cách gì lấy được đây.
Ganimard lại đi dò xét. Và ông kiệt sức vì những cuộc tìm kiếm mới, với cả những cuộc điều tra lại; qua nhiều đêm thức trắng ở phố Berne, lật lại tung tích của Prévailles, huy động mười người đàn ông để tìm kiếm viên đá safia đang bặt tăm. Tất cả đều vô ích. Ngày 27 tháng 12, ông dự thẩm viên hỏi ông ở trong hành lang của tòa nhà:
- Ông Ganimard này, có gì mới không?
- Không, không có, thưa ông dự thẩm.
- Trong tình thế hiện nay, tôi phải thua vụ này mất!
- Xin ông hãy chờ thêm cho một ngày nữa!
- Tại sao? Chúng ta cần phải có mảnh kia của chiếc khăn choàng để làm bằng chứng. Ông đã có rồi à?
- Ngày mai mới có.
- Mai cơ á?
- Vâng, nhưng ông hãy tin tôi, tạm trao cho tôi mảnh khăn ông đang giữ.
- Ông thương lượng việc gì chăng?
- Thương lượng gì đâu. Tôi hứa với ông, là sẽ khôi phục lại hoàn tòan chiếc khăn choàng.
- Đồng ý!
Ganimard vào phòng của ông dự thẩm viên, rồi bước ra với mảnh lụa.
- Mẹ kiếp! Vâng- Ông càu nhàu- Tôi sẽ đi tìm được chứng cứ, tôi sẽ có... Tuy nhiên, Lupin liệu có dám đến chỗ hẹn không?
Thực ra, ông tin chắc rằng Lupin không có tính táo bạo ấy, và chính đấy là điều làm cho ông băn khoăn. Tại sao Lupin lại muốn nơi hẹn ấy? Với mục đích gì mà hắn đeo đẳng vụ này?
Lo lắng đến quặn cả ruột, trong lòng đầy ắp hận thù, ông quyết định phải có những biện pháp thận trọng cần thiết. Không chỉ để khỏi rơi vào một cuộc phục kích, mà là để không mắc những sai lầm ngớ ngẩn. Thời cơ đã đến, phải bắt địch thủ sập bẫy.
Thế là ngày hôm sau, tức ngày 28 tháng 12, khi đã nghiên cứu suốt đêm tòa nhà cổ ở phố Surene, và tin chắc rằng không có một lối thoát nào khác ngoài cửa lớn ra, sau khi bước vào báo hiệu cho các chiến hữu là ông sẽ thực hiện tuyên chiến với nguy hiểm; Lupin quyết định sẽ cùng họ xông trận.
Ông bố trí họ trong một quán cà phê. Quân lệnh chắc nịch: nếu ông hiện ra ở một cửa sổ của lầu ba, hoặc nếu sau một giờ ông không quay lại thì các thuộc hạ của ông phải chiếm ngôi nhà, bắt bất cứ người nào cố chạy ra ngoài.
Viên thanh tra tin vào khẩu súng lục hoàn hỏa của mình mà ông có thể dễ dàng để nguyên trong túi mà bắn ra... Rồi ông như muốn reo lên khi bước vào căn phòng.
Ông khá ngạc nhiên khi thấy lại mọi thứ vẫn như trước kể từ sau khi ông rời khỏi đây, tức là cửa vẫn mở và các ổ khóa bị phá vẫn nguyên vậy. Khi nhận thấy các cửa sổ của phòng chính mở ra phía đường phố, ông xem xét ba gian phòng khác của căn hộ. Không có ai ở đấy cả.
Ông đắc ý thầm nghĩ: “Lupin chắc sợ rồi. Không hẳn là do một sự phật ý nào đó”.
- Ông ngốc lắm- Một giọng nói vang lên đột ngột sau lưng khiến ông giật mình.
Quay lại, ông thấy một người thợ già đứng trên bậc cửa, mặc một chiếc áo dài lem luốc của thợ sơn.
- Ông đừng tìm nữa- Người đàn ông nói- Chính tôi, Lupin đây mà. Sáng nay tôi làm việc ở nhà người chủ thầu sơn vôi. Đang là giờ nghỉ ăn nên tôi mới lên đây.
Anh quan sát Ganimard với một nụ cười rõ tươi, rồi reo lên:
- Đúng rồi! Đây là giây phút tệ hại nên tôi phải có mặt ở đây, ông bạn già ạ. Tôi đã không bán rẻ nó để đổi lấy mười năm cuộc sống của ông, nhưng tôi rất thích ông! Ông nghĩ gì hở nhà nghệ sĩ? Có gì cần phối hợp, có dự kiến gì trước không? Dự kiến từ A đến Z chăng? Tôi hiểu ông suy luận gì về vụ án chứ? Tôi cũng hiểu ông phân tích về điều bí ẩn của chiếc khăn choàng? Tôi đã chẳng nói với ông rằng không thiếu mắt xích nào ở sợi dây chuyền... Nhưng kiệt tác của sự thông minh mới tuyệt vời làm sao! Ông Ganimard ạ, sự phục hiện thật tài tình! Trực giác về những gì đã xảy ra, và tất cả những gì sẽ xảy ra từ khi tôi phát hiện ra vụ giết người dã man, cho đến khi ông đến đây đi tìm bằng chứng là hoàn toàn chuẩn xác! Khả năng đoán trước thực sự là tuyệt vời! Ông có khăn choàng đấy chứ?
- Một nửa thôi, đúng vậy. Anh có nửa kia phải không?
- Nó đây. Chúng ta đối chiếu đi.
Họ trải hai mảnh lụa trên bàn. Những chỗ đứt rách do cắt kéo khớp khít với nhau. Mặt khác, màu sắc hai mảnh cũng giống hệt nhau.
Lupin phân tích:
- Nhưng tôi cho rằng, ông đến đây không chỉ vì cái đó. Điều làm cho ông quan tâm chính là những vết máu. Ông đi theo tôi, Ganimard! Ở đây không đủ ánh sáng đâu. Họ qua phòng bên cạnh, gần góc sân, ở đó quả có sáng hơn.
Lupin áp mảnh vải của anh vào cái kính trắng.
- Ông xem!- Anh nói đồng thời tránh ra nhường chỗ cho Ganimard.
Viên thanh tra run lên vì vui sướng. Rõ ràng là thấy rõ dấu của năm ngón tay và cả dấu in của gang bàn tay. Bằng chứng không thể nào bắt bẻ được. Từ bàn tay vấy máu của hắn, từ chính bàn tay đó, hắn đã đâm chém Jenny Safia; tên giết người đã nắm mảnh vải, và đã thắt vào quanh cổ nạn nhân.
- Đấy là dấu in của bàn tay trái- Lupin nói... Từ đó lời cảnh báo của tôi chẳng có gì là kỳ lạ cả, như ông thấy đấy. Tôi rất muốn rằng ông coi tôi như một vị thần linh cao siêu, ông bạn tốt ạ, chứ không phải muốn ông đối xử với tôi như là một tên phù thủy.
Ganimard đã nhanh chóng nhận lấy mảnh lụa, đút vội vào túi. Lupin vui vẻ đồng ý:
- Đúng thế, nó thuộc về ông đấy, ông bạn thân mến ạ. Như vậy sẽ khiến tôi vui thích! Và ông thấy đấy, chẳng có cạm bẫy gì trong toàn bộ sự việc,... chỉ có sự giúp đỡ tận tình thôi... Một việc phục vụ của người bạn đối với người bạn, của chiến hữu đối với chiến hữu... Tương tự, tôi thú nhận với ông, hơi có chút tò mò... Vâng, tôi muốn xem mảnh lụa kia... mảnh lụa của cảnh sát... Ông đừng sợ, tôi sẽ trả lại ông ngay, chỉ một giây thôi.
Trong khi Ganimard bất đắc dĩ phải đưa đầu khăn kia ra, anh ta mân mê đùa nghịch với quả tua ở đầu chiếc khăn bằng động tác hơi uể oải.
- Tài tình biết mấy, những tác phẩm nhỏ xíu này của phụ nữ! Ông có để ý đến chi tiết này của cuộc điều không? Jenny Safia rất khéo tay và đã tự mình cắt may những chiếc mũ và chiếc áo cho mình. Dĩ nhiên là chiếc khăn choàng này cũng do cô ấy làm ra.... Vả lại, cô đã làm như thế ngay từ ngày đầu tiên. Tò mò là bản tính của tôi, vì vậy tôi có hân hạnh nói điều đó với ông. Tôi đã nghiên cứu rất kỹ mảnh lụa mà ông vừa bỏ vào túi. Và ngay bên trong quả tua, tôi đã phát hiện ra một bức tượng thánh nhỏ mà cô gái đáng thương đã cất ở đó như là một vật làm khước. Chi tiết thật cảm động có phải không, Ganimard? Một thánh tượng Đức mẹ cứu thế.
Viên thanh tra không rời mắt khỏi những chi tiết đó, còn tỏ rõ sự tập trung cao độ. Lupin vẫn tiếp tục nói với một thái độ vô cùng phấn khích:
- Vậy là tôi tự nhủ: Thật bổ ích biết chừng nào, khi khảo sát kỹ nửa kia của chiếc khăn choàng, nửa chiếc mà cảnh sát sẽ tìm thấy trên cổ của nạn nhân! Bởi nửa chiếc khăn này tôi đang giữ, ở đầu mút cũng kiểu như thế... Đến mức, tôi biết chính cái gói giấy và cái vật nằm trong ấy... Ồ này, ông hãy xem đây, ông bạn tốt của tôi. Làm khéo léo thật! Và hơi phức tạp! Một chùm sợi kết quanh một quả ô liu rỗng bằng gỗ, hoàn toàn vừa vặn để đặt tượng thánh vào đấy, hoặc một vật gì khác... đồ nữ trang bé xíu chẳng hạn... Một viên đá safai...
Đúng lúc ấy, anh đã tách được những sợi tơ lụa ra và khoét lỗ hổng của quả ô liu cho to hơn. Anh dùng ngón trỏ và ngón cái nhón một viên đá màu xanh biếc tuyệt đẹp, trong veo, lấp lánh được cắt gọt rất hoàn hảo.
- Hử, tôi đã nói gì nào, ông bạn tốt của tôi?
Anh ngửng đầu lên với vẻ mặt đắc thắng. Viên thanh tra tái mét mặt, nhớn nhác và ngơ ngác như người mất hồn bị quyến rũ bởi viên đá lấp lánh ở trước mắt. Cuối cùng, ông ta chợt nhận ra tất cả mưu đồ của Lupin.
- Tên súc sinh!- Ông ta gầm lên lao vào Lupin như một thằng ngốc.
Hai người đàn ông đứng sát nhau đến nỗi suýt chạm vào nhau.
- Trả ta cái đó!...- Viên thanh tra gằn giọng.
Lupin làm như không biết, chìa mảnh vải ra.
- Viên đá safia!- Ganimard nói như ra lệnh.
- Ông thật ngốc!
- Đưa nó đây, không thì...
- Không thì làm sao? Người đâu mà ngu thế?- Lupin hét lên- À ra thế! Ông tưởng đấy là những quả mận tự dưng tôi trao cho ông à?
- Trả lại ta ngay!
- Ông đừng dính dáng gì đến tôi! Sao chứ? Đã bốn tuần nay, tôi làm cho ông chạy như một con hươu sao nếu ông muốn.... Nào Ganimard, chỉ là một cố gắng nhỏ bé thôi mà, con người quyền thế của tôi... Ông nên hiểu rằng từ bốn tuần lễ này, ông chỉ là một con chó bông trung thành thôi... Ganimard, hãy mang... hãy mang cho quý ông... A! Con cún ngoan... Hãy giơ hai chân trước lên... ngoan nào!
Ganimard điên tiết lên, chỉ nghĩ đến một điều là gọi nhân viên của mình tới. Nhưng vì gian phòng, nơi ông đang đứng lại quay mặt ra sân. Với một cử động quay từ từ ra sau, ông cố nhích gần lại cửa to và nhảy một cái đến sát cửa sổ, đạp vỡ một tấm kính...
- Không sao- Lupin vẫn tiếp tục với giọng khiêu khích- Ông và những người khác đều là một lũ ngu đần! Từ khi mà các ông cầm mảnh vải, không có một người nào có ý định nghĩ rằng cần sờ nắn xem nó ra sao không. Không có một ai tự hỏi, lý do gì mà cô gái đáng thương cứ cố bám chặt vào cái khăn choàng của mình. Không một ai cả! Các ông hành động không chủ định, không suy nghĩ, không có dự liệu.
Viên thanh tra đã tới đích... Lợi dụng giây lát khi Lupin rời khỏi đó, ông quay ngoắt lại ngay và tóm lấy quả đấm cửa. Nhưng một tiếng chửi rủa buột ra từ miệng ông, quả đấm không xoay được.
Lupin cười ồ lên:
- Đâu phải thế! Chính là ông không tính trước điều ấy đấy! Ông đã chăng sẵn cho tôi một cái bẫy và ông thừa nhận rằng tôi đã có thể đoán trước được sự việc... Và ông đã để cho người ta dẫn ông vào căn phòng này mà không tự hỏi là có phải chính tôi đã cố ý để cho ông vào đây không. Ông không nhớ rằng các ổ khóa đều được trang bị máy móc đặc biệt đấy sao! Nào, ông hãy thành thực nói xem, thế là thế nào?
- Ta nói về việc này à?...- Ganimard phát khùng thốt lên.
Ngay lập tức ông rút nhanh khẩu súng ra và ngắm thẳng vào giữa mặt kẻ thù:
- Giơ tay lên!
Lupin nhún vai, đứng ngay trước mặt ông.
- Giơ tay lên! Ta nhắc lại.
- Lại tầm bậy rồi. Cái dụng cụ nhà bếp ấy của ông không dùng được đâu.
- Sao? Người đàn bà giúp việc cho ông, bà già Catherine đã phục vụ tôi đấy. Sáng nay, trong khi ông đang uống cà phê sữa bà ấy đã làm ướt...
Ganimard giận sôi tiết, đút súng vào bao rồi lao vào Lupin.
- Sau đó thì sao?- Anh ta gào lên và đạp mạnh một vào cái cẳng chân ông ta, chặn viên thanh tra lại.
Hai người gần như đã gần áp sát vào nhau. Ánh mắt của họ trừng trừng nhìn nhau thách thức như thể ánh mắt của họ sắp chuyển thành màn hành động đấm đá...
Thế nhưng chẳng có cuộc đấm đá nào cả. Kỷ niệm của các cuộc vật lộn trước đây còn gợi lại những cuộc đấu vô tích sự. Ganimard nhớ lại tất cả thất bại đã trải qua, những cuộc tấn công vô bổ, bao đòn đánh trả choáng váng của Lupin. Cho nên, ông không hề nhúc nhích. Chẳng có gì để làm cả, ông cảm nhận thấy thế. Lupin đã chuẩn bị sức lực của mình chống lại cuộc tấn công ấy. Nhưng thôi, chả cần gì nữa.
- Có phải thế không?- Bằng một giọng thân tình, Lupin nói- Tốt nhất là cứ dừng lại đấy. Vả lại ông bạn tốt của tôi, ông hãy nghĩ kỹ về tất cả những gì mà cuộc phiêu lưu đã mang lại cho ông: vinh quang, sự tin tưởng được thăng quan tiến chức sắp tới và nhờ vào đấy là những viễn cảnh hiển vinh tuổi già... Nhưng ông đừng mong thêm vào đấy việc tìm ra viên ngọc Safia, và cái đầu của Lupin khốn khổ này! Điều ấy không hay. Ông không cho rằng, tên Lupin này đã cứu sống ông sao? Có đấy, thưa ông! Vậy ai đã báo cho ông chính tại đây, rằng Prévailles thuận tay trái?... Và chính vì vậy mà ông đã cảm ơn tôi theo kiểu này? Không lịch sự chút nào, Ganimard ạ... Đúng thế, ông khiến tôi buồn đấy, ông Ganimard.
Ganimard hiểu rằng kẻ thù đã thoát khỏi tay ông. Quên hết cả sự thận trọng, ông muốn chắn đường kẻ thù, do vậy đã nhận một cái húc đầu vào bụng rất mạnh làm ông ta lăn đến tận bức tường phía kia.
Bằng vài động tác, Lupin làm cho lò xo hoạt động dễ dàng, xoay quả đấm, hé mở cánh cửa rồi chuồn nhanh đi với tiếng cười ha hả. Hai mươi phút sau, khi Ganimard gặp những người thuộc hạ của mình, một người trong số họ nói:
- Có một người thợ sơn đã ra khỏi nhà vì các bạn của ông ấy trở về ăn cơm, ông ấy có đưa cho tôi một lá thứ. Ông ta nói với tôi “Anh hãy trao cái này cho chủ của anh”. Tôi bảo:
- Cho ông chủ nào? Ông ấy đã đi xa khỏi đây rồi. Tôi nghĩ, thư này là của ông.
- Đưa đây! Ganimard bóc thư. Lá thư tay viết vội bằng bút chì, nhưng nét bút vẫn rõ ràng khoáng đạt:
“Ông bạn thân mến của tôi ơi, thư này nhằm nhắc nhở ông nên cảnh giác để phòng với tính cả tin quá mức. Khi có một người nào đó nói với ông, rằng những viên đạn súng lục của ông bị ướt thì ông chưa nên tin vội, nhất là người đó tự xưng là Arsène Lupin. Ông đừng để mình bị lừa! Trước tiên ông cứ bắn đi, và nếu người ấy vẫn cứ phớt lờ thì ông sẽ có bằng chứng:
1. Những viên đạn không hề ướt.
2. Bà già Catherine là người ngay thật nhất trong số những người đàn bà nội trợ.
Trong khi chờ đợi, tôi đã hân hạnh làm quen được với bà ấy. Ông bạn thân mến, xin ông hãy nhận những tình cảm chân thành của tôi!
Arsène Lupin.”
__________________
Lần sửa cuối bởi bonbon2907; 27-05-2012 lúc
23:37
#4
29-05-2012, 09:14
bonbon2907
Hổ Phách
Hổ Phách
Tham gia: 05-2012
Bài gửi: 62
Thanks: 5
Được Thank 25 lần trong 13 bài
Ink: 597
Được thưởng
1 lần
Cám ơn
1 lần
Re: Siêu Trộm Arsène Lupin
Chương IV
VIÊN NGỌC TRÂN CHÂU ĐEN
Một tràng dài chuông cửa dồn dập, khiến người gác cửa số 9 phố Hoche bừng tỉnh dậy. Cô ta vừa kéo dây, vừa lầm bầm:
- Mình cứ nghĩ là về hết rồi chứ. Giờ chắc cũng ba giờ là ít!
Chồng cô ta cũng cằn nhằn:
- Chắc lại tìm bác sĩ đây.
Quả nhiên, có một giọng nói khàn khàn cất lên:
- Xin lỗi... bác sĩ Harel ở tầng mấy ạ?
- Phía bên trái, tầng bốn. Nhưng bác sĩ không khám bệnh ban đêm đâu- Cô ta khó chịu trả lời.
- Bệnh nặng lắm rồi, không tìm ông ấy không được.
Nói xong, người đó thò đầu vào sảnh, chạy thẳng lên tầng... Nhưng ông ta không hề dừng lại ở tầng bốn, mà chạy thẳng lên tầng sáu. Đến trước một cánh cửa, ông ta lấy hai chiếc chìa khóa từ trong túi ra; dùng một cái để mở ra, còn cái kia thì dùng để mở két.
- Tuyệt quá- Hắn từ nhủ- Mọi việc quá thuận lợi. Nhưng từ từ đã, trước khi động thủ thì phải nghĩ xem rút lui như thế nào. A... đến bấm chuông cửa nhà bác sĩ, nói chuyện sau đó rút, chỉ như vậy thì có đủ không nhỉ? Được, kiên nhẫn một chút...
Mười phút sau, hắn mới xuống lầu. Hắn vừa gõ vào cái cửa sổ cạnh cửa phòng, vừa khẽ oán thán bác sĩ không... cứu giúp. Người gác cửa mở cửa cho hắn, hắn vừa bước ra, liền đóng cánh cửa đánh “rầm” một cái. Nhưng, cánh cửa không thực sự được đóng lại. Hắn ta nhân cơ hội cửa đang đóng, liền nhanh tay chặn một miếng sắt ngang lỗ then khóa, như thế thì đầu then khóa sẽ không nhô ra được.
Sau đó, thần không hay quỷ không biết, hắn lại lẻn vào trong nhà, khẽ khàng bước lên tầng sáu một cách thông thuộc. Vào được bên trong, nhờ ánh sáng của đèn pin, hắn cởi áo gió và mũ ra rồi đặt lên một chiếc ghế, tự mình ngồi lên một chiếc ghế khác, lấy ra một chiếc giầy có đế rất mềm và dày, đi ra ngoài đôi bốt mà hắn đang đi.
Sau đó, hắn mở một mảnh giấy ra xem: đó là bản vẽ mặt bằng của tòa nhà chung cư này:
- Xác định phương hướng trước đã. Ô vuông nhỏ này chính là đại tiền sảnh- nơi mà mình đang đứng. Đại sảnh, hành lang và nhà ăn... không cần đến những chỗ này làm gì cho phí thời gian. Xem ra khẩu vị của bà bá tước phu nhân này cũng xoàng thôi, một thứ đồ đáng tiền cũng không có!... Được rồi, đừng làm lỡ việc chính... A, đây chính là lối đi thông đến phòng ngủ. Từ đây tiến lên ba mét, có lẽ là cửa của một cái tủ tường. Tủ tường này đựng quần áo ấy, thông với phòng ngủ của bá tước phu nhân.
Hắn gấp bản vẽ lại, tắt đèn pin, men theo lối đi, lần mò bước tới:
- Một mét... hai mét... ba mét... Cửa đây... đúng rồi! Bây giờ chỉ cần nhẹ nhàng khoét một lỗ cạnh ổ khóa là có thể vào được rồi. Hừm, để mình nghĩ xem nào, ổ khóa này cách mặt đất khoảng một mét tư... Nhưng từ từ đã- Hắn mò được dụng cụ cần dùng từ trong túi áo, nhưng không lấy ra ngay- Từ từ nào, đừng nóng vội; không chừng trong ổ không cắm chìa khóa... Thử một cái hẵng...
Hắn khẽ khàng lay lay tay nắm cửa. Quả nhiên cánh cửa mở ra, không một tiếng động.
Việc mở cánh cửa thứ hai đã ngốn của hắn tận nửa tiếng đồng hồ, đó là một cái cửa kính ở bên trong phòng ngủ. Hắn cẩn thận từng li từng tý, cố hết sức để không gây ra dù một tiếng động nhỏ, để ngay khi bác tước phu nhân vẫn chưa ngủ say thì bà ta cũng không thể phát giác là có người đang cạy cửa. Theo bố cục của bản vẽ, phía trước một chiếc trường kỷ là một cái ghế tựa, tiếp đó là bàn ngủ ở cạnh giường, trên bàn có một cái hộp đựng giấy viết thư... Viên trân châu đen có giá trị cao ngất trời ấy, đang nằm chính trong cái hộp này!
Hắn bò trên thảm, men theo trường kỷ, bò lên tiếp. Đến trước cái ghế tựa, hắn thò tay phải ra mò mẫm trong bóng tối, mò phải cái chân bàn. Hắn đang định đứng dậy thì đột nhiên tay trái của hắn chạm phải một vật trên thảm, hắn nhận ra ngay đó là cái giá nến, một cái giá nến bị đổ. Đúng lúc ấy, hắn lại chạm phải một cái đồng hồ nhỏ, loại đồng hồ du lịch bọc da.
Đột nhiên tay của hắn sờ phải một thứ, khiến toàn thân hắn bất giác giật thót. Hắn nín thở sờ soạng trong đêm, và nhận ra một mái tóc, một khuôn mặt... Một khuôn mặt lạnh ngắt! Hắn vội bật ngay đèn pin lên. Dưới ánh sáng lờ mờ hắn nhận ra đó là một người phụ nữ đang nằm trong vũng máu, cổ và vai bị thương rất nặng. Hắn cúi người kiểm tra một lúc, người phụ nữ đó đã chết.
Hắn đứng dậy, bật công tắc đèn điện, cả căn phòng sáng choang. Có thể thấy rõ ở đây vừa xảy ra một cuộc vật lộn vô cùng kịch liệt. Giường chiếu lộn xộn, giá nến đổ trên nền nhà; một cái đồng hồ du lịch văng ra xa, kim đồng hồ chỉ mười một giờ hai mươi phút. Cách xa một chút, chiếc ghế đổ trên nền nhà; quanh phòng toàn vết máu.
- Trân châu đen đâu rồi?- Hắn lẩm bẩm.
Hộp đựng giấy viết thư vẫn còn ở chỗ cũ. Hắn vội vàng mở hộp ra. Trong hộp giấy viết thư lại có một cái tráp nhỏ đựng đồ trang sức, nhưng bên trong tráp rỗng không.
Hắn ngồi xoay ngược vào cái ghế tựa, hay tay ôm lấy cái trán đang nóng bừng, cả người rơi vào trạng thái trầm tư.
Ngày thứ ba sau khi vụ án xảy ra, các báo đều đăng tải một tin như sau:
“Theo tin đã đưa, Victor Danegre đã bị cảnh sát bắt giữ, tên này là người giúp việc của Bá tước phu nhân D’Andillot- người bị hại hôm trước. Cục trưởng cục an ninh Dudouis đích thân đến hiện trường vụ án, và tìm thấy một bộ quần áo có số hiệu ở phòng của người giúp việc- nằm chính bên trên phòng của Bá tước phu nhân. Bộ quần áo này được giấu ở giữa tấm đệm và ga giường của hắn, thiếu một cái khuy; trên cổ áo có vết máu. Tiếp đó, lại phát hiện chiếc khuy còn thiếu kia ở dưới gầm giường của nạn nhân."
Giả thiết của cảnh sát là sau bữa tối, Danegre đã không quay trở lại phòng mình ngay, mà ngầm trốn vào trong cái tủ tường treo quần áo. Từ bên trong tủ, hắn ghé mắt nhìn trộm qua kẽ hở xem Bá tước phu nhân giấu viên trân châu đen ở chỗ nào. Sau đó, ngay trong đêm hắn đã gây án mạng, rồi lấy đi viên trân châu có giá trị rất cao ấy.
Điều đáng tiếc là, cho đến nay vẫn chưa có căn cứ xác thực nào có thể chứng minh cho giả thiết trên. Hơn nữa, còn có một chi tiết khiến người ta rất khó lý giải, đó là khoảng bảy giờ sáng sau hôm xảy ra vụ án, Danegre đã đến một cửa hàng tạp hóa ở phố Courcelles, người gác cửa và ông chủ tiệm tạp hóa đã chứng thực điều này. Và bà đầu bếp cùng người hầu gái thân cận của Bá tước phu nhận đã khẳng định rằng, vào lúc tám giờ, khi họ ngủ dậy (hai người đều ngủ ở phía cuối hành lang), cửa sảnh trước và nhà bếp đều vẫn đóng chặt. Họ đã theo hầu Bá tước phu nhân hơn hai mươi năm, vì thế lời khai của họ thật đáng tin cậy. Thế nên chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi, Danegre đã ra khỏi tòa chung cư như thế nào? Trừ phi hắn đã chuẩn bị sẵn một chiếc chìa khóa tư trước? Kết quả phiên tòa rốt cuộc như thế nào, chúng ta hãy chờ xem.
Nhưng phiên dự thẩm lại chẳng đạt được kết quả gì cả. Victor Danegre là một tên tội phạm chuyên nghiệp vô cùng nguy hiểm. Hơn nữa hắn còn nghiện rượu, sống rất bừa bãi. Cuộc điều tra để tìm ra chứng cứ dường như chẳng có tiến triển gì. Vụ án giống như một mớ bòng bong, các lời khai của nhân chứng thì mâu thuẫn với nhau.
Đầu tiên, cháu gái của người quá cố, người thừa kế tài sản duy nhất- tiểu thư De Sincleves- nói rằng một tháng trước khi bị hại, Bá tước phu nhân đã viết thư cho cô, nói cho cô ấy biết về bí mật chỗ bà cất giấu viên trân châu đen. Nhưng ngay sau cái hôm nhận được, bức thư đó đã không cánh mà bay.
Tiếp đó, trong lời khai của vợ chồng người gác cửa có nhắc đến một chuyện, đó là họ đã từng mở cửa cho một người lạ trong đêm hôm đó. Người này bảo là... lên gác tìm bác sĩ Harel. Cảnh sát hỏi bác sĩ Harel, nhưng bác sĩ nói đêm đó chẳng có ai đến gõ cửa nhà ông ta cả. Vậy người này rốt cuộc là ai? Hắn có phải là đồng phạm trong vụ này không?
Giả thuyết có đồng phạm này rất được giới thông tin và dư luận đồng tình. Ngay cả cảnh sát trưởng Ganimard tiếng tăm lẫy lừng cũng cho rằng giả thuyết này không phải là không có lý.
- Trong vụ này chắc chắn có sự can thiệp của Lupin- Cảnh sát trưởng nói với vị thẩm phán phiên dự thẩm.
- Ồ! Ngày thẩm phán không cho là như vậy; trong mắt ngài đâu đâu cũng có mặt cái tên Lupin này.
- Đúng vậy, nhưng chính là vì ở đâu hắn cũng nhúng tay vào.
- Theo như tôi thấy, mỗi lần có điểm nghi vấn nào mà ngài không thể giải thích được, ngài sẽ xướng cái tên Lupin nảy ra. Bây giờ, có một điều mà tôi muốn nhắc ngài phải chú ý: chiếc đồng hồ ở hiện trường vụ án cho thấy, vụ giết người xảy ra vào lúc mười một giờ hai mươi phút; mà theo lời khai của người gác cửa, kẻ lạ mặt kia phải ba giờ sáng mới đến cơ.
Cái kiểu tư duy “Ai vào trước, người đấy là chủ” này đã trở thành căn bệnh mãn tính của các nhân viên tư pháp khi họ làm án. Victor Danegre phạm tội có tính toán, tiền án đầy bất hảo, đã rõ rành rành ra đấy. Đối với loại nghi phạm này, dù chứng cứ có đầy đủ hay không, thì các vị thẩm phán cũng sẽ ít khi bỏ qua cho...
Ba tuần sau đó, bắt đầu được mở phiên tòa xét xử. Không khí tranh biện tại phiên tòa vô cùng nặng nề. Những lời buộc tội của Văn phòng Chưởng lý không có tính thuyết phục, lộ nhiều sơ hở. Luật sư của Dangere chiếm ưu thế rõ ràng, chỉ rõ ra rằng vụ án này chưa đủ chứng cớ buộc tội thân chủ của mình. Ông Danegre không có chìa khóa sau khi ra khỏi chung cư, thì không thể mở khóa để vào cửa quay lại được. Nếu bảo là ông ấy có một chiếc chìa khóa nữa, thì xin hỏi ai đã làm chìa khóa cho ông ấy? Và có ai đã từng nhìn thấy chiếc chìa khóa này chưa? Còn nữa, con dao mà hung thủ gây án, rốt cuộc đang nằm ở đâu?
- Tóm lại- Luật sư nói lời cuối cùng- Thứ nhất, không có chứng cứ có thể chứng minh đương sự đã phạm tội mưu sát. Thứ hai, đối với suy luận nhân vật bí ẩn vào chung cư lúc ba giờ sáng chính là hung thủ gây ra vụ án này, chúng ta không thể bỏ qua. Người ta bảo, đồng hồ hiện trường chỉ mười một giờ hai mươi phút. Nhưng, như vậy thì có thể chứng minh được điều gì chứ? Lẽ nào kẻ gây án không thể quay ngược kim đồng hồ lại thời điểm đó ư?
Victor Danegre được tuyên bố vô tội.
Sau khi ra khỏi nhà giam, hắn đã thuê một căn phòng ở khu Montmartre, với cái tên giả là Anatole Dufour, đi làm thuê sống qua ngày. Hắn thường cảm thấy như có người theo dõi hắn. Có một điểm mà trong thâm tâm hắn biết rất rõ, đó là cảnh sát sẽ không dừng lại ở đó; chắc chắn họ sẽ giăng lưới sẵn, đợi hắn sa vào.
Một buổi tối, hắn đang ăn ở một tiệm ăn gần nơi thuê nhà, thì có một người đến ngồi xuống đối diện với hắn. Người này khoảng bốn mươi tuổi, mặc bộ lễ phục cũ màu đen may rất khéo, không được sạch sẽ cho lắm. Ông ta gọi hai bát súp, cho ít rau, hành vào; còn gọi thêm chai rượu vang đỏ.
Khi người này ăn súp, cứ đưa mắt nhìn chằm chằm vào Danegre. Mặt Danegre trắng bệch. Hắn định đứng dậy, nhưng hai chân cứ run như cầy sấy, dường như không nghe theo lệnh của hăn nữa.
Người này cầm chai rượu lên tự rót cho mình một li, rồi rót rượu vào đầy li của Danegre và nói:
- Chúng ta cùng cạn li được không, ông anh?
Victor Danegre lắp ba lắp bắp đáp:
- Được... được... Chúc mạnh khỏe, ông anh!
- Chúc anh mạnh khỏe, Victor Danegre!
Hắn giật mình kinh hãi:
- Tôi... không!... Tôi không phải...
- Anh định nói ai không phải là Danegre. Anh không phải là người giúp việc của Bá tước phu nhân ư?
- Cái gì mà người giúp việc? Tôi tên là Dufour. Không tin, anh có thể ra hỏi ông chủ quán ở đây.
- Antole Dufour- đúng vậy, ông chủ quán chỉ quen biết anh dưới cái tên này. Nhưng tòa án lại biết anh là Danegre, Victor Danegre.
- Làm gì có chuyện này! Không hề có chuyện này! Đừng có nghe người ta nói lung tung.
Người đối diện móc túi lấy ra một tấm danh thiếp đưa cho hắn. Victor thấy trên đó viết: Grimaudan- cựu cảnh sát, Sở bảo an thuộc Cục tình báo.
Hắn bất giác run lên bần bật, nói líu ríu:
- Ông là người của Sở cảnh sát?
- Bây giờ thì không phải nữa rồi. Nhưng tôi thích cái nghề này, thậm chí còn muốn dựa vào nghề cũ... để kiếm ít lộc. Gặp thời cơ thuận lợi, thì còn kiếm được một khoản kha khá đấy... Chẳng phải là cánh cửa cũng đang mở ra trước anh rồi đấy ư?
- Tôi?
- Đúng, chính là anh. Nhưng chỉ cần anh chịu ngoan ngoãn nghe lời tôi, thì hai chúng ta mới bàn bạc một cách thuận lợi được.
- Nhưng nếu tôi không nghe thì sao?
- Anh sẽ nghe thôi. Với cái cảnh ngộ hiện tại của anh, thì anh không thể không nghe được.
Danegre chột dạ, rụt rè hỏi:
- Rốt cuộc là có chuyện gì?... Hãy nói đi!
- Vậy thì được- Grimaudan nói- chúng ta đừng vòng vo nữa: Tôi được tiểu thư De Sincleves cử đến.
- De Sincleves?
- Người thừa kế tài sản của Bác tước phu nhân D’Andillot.
- Vậy thì sao chứ?
- Vậy thì sao! Tiểu thư De Sincleves nhờ tôi đòi anh viên trân châu đen đó.
- Viên trân châu đen? – Danegre chực chồm lên.
- Chính là viên anh lấy trộm ấy.
- Nhưng tôi không lấy trộm- Hắn cố cãi.
- Anh đã lấy!
- Nếu như tôi đã lấy nó, thì chẳng phải tôi chính là hung thủ ư?
- Anh chính là hung thủ!
Danegre tỏ ra rất lì lợm, hắn cười lớn:
- Xin ngài hãy nghe cho rõ đây, may mà tòa án không nói như ngài. Ngài hãy xem đi, bồi thẩm đoàn đã nhất trí phán quyết là tôi vô tội. Tôi là một người trong sạch, rất tôn trọng mười hai vị bồi thẩm chính trực ở đó...
- Thôi đủ rồi, đừng có bốc phét nữa đi. Bây giờ anh phải nghe tôi nói cho kỹ đây, điều này rất có ích với anh đấy. Danegre, ba tuần trước khi vụ án xảy ra, anh đã vào bếp lấy trộm chìa khóa cửa sau, rồi đến tiệm khóa Outard số 244 phố Oberkampf để làm một cái khóa y như thế.
- Làm gì có chuyện này. Không hề có chuyện như vậy- Victor ngoan cố- Ai đã nhìn thấy chiếc chìa khóa đó chứ?
- Nó đang nằm trong tay tôi đây
Sau khoảnh khắc im lặng, Grimaundan nói tiếp:
- Anh đã dùng một con dao nhíp ba dao nhón giết chết Bá tước phu nhân. Anh mua con dao này ở quảng trường Cộng hòa, cùng với ngày làm chìa khóa...
- Anh đừng có ngậm máu phun người. Có ai từng trông thấy con dao ấy chứ?
- Nó đang nằm trong tay tôi đây.
Victor Danegre lảo đảo lùi lại vài bước.
Viên cựu cảnh sát nói tiếp:
- Trên con dao vẫn còn dính vết máu đỏ. E là chẳng cần thiết phải giải thích cho anh về nguồn gốc vết máu đó chứ?
- Nhưng như thế thì sao nào?... Anh có một cái chìa khóa, một con dao... Nhưng ai có thể chứng minh được chúng là của tôi chứ?
- Có hai người có thể chứng minh được. Một là người thợ khóa, một là chủ cửa hàng. Tôi đã bảo họ nhớ lại các chi tiết về thân hình, khuôn mặt của anh rồi. Khi đối chất trực tiếp, họ chỉ cần nhìn là nhận ra anh ngay.
Ông ta nói rất dứt khoát, lưu loát, không có chỗ nào sơ hở. Danegre sợ đến nỗi co giật toàn thân. Nhưng hắn vẫn không cam chịu khuất phục.
- Chắc anh cũng chỉ có đồ hung khí vớ vẩn này thôi chứ gì!- Hắn rít qua kẽ răng.
- Còn nữa đây. Sau khi hung bạo gây án, anh đã men theo đường cũ chuồn ra ngoài. Nhưng khi đến cạnh tủ tường, anh sợ quá đến nỗi chân mềm nhũn, vì thế anh đã dựa vào tường nghỉ một lúc.
- Sao anh có thể biết được điều này chứ?- Victor há hốc mồm hỏi- Chẳng ai có thể biết được điều này cả.
- Đương nhiên, mấy ông già ở văn phòng chưởng lý sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện thắp nến kiểm tra tường cả. Thực ra, chỉ cần chiếu sáng bức tường một chút, là có thể nhìn thấy trên bức tường trắng có lưu lại dấu vân tay màu đỏ nhạt. Và anh cần phải biết rằng, dựa vào dấu vân tay của ngón cái ấy, là có thể dễ dàng tìm ra hung thủ.
Mặt Danegre biến sắc thảm hại. Những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu rơi lã chã từ trên trán xuống. Mặt hắn đờ đẫn, ngây dại nhìn chằm chằm vào người lạ mặt đang ngồi đối diện; người này sao lại có thể thuật lại quá trình xảy ra vụ án một cách rõ ràng chính xác, giống như chính mắt ông ta đã chứng kiến vậy.
Đầu hắn gục xuống. Mấy tháng nay, hắn đã tiếp xúc với đủ các hạng người, nhưng đối diện với kẻ lạ mặt bí hiểm, hắn cảm thấy mình hoàn toàn không còn chút sức mạnh nào để kháng cự nữa.
- Nếu như tôi đưa viên trân châu đen cho ông- Hắn lắp bắp- Thì ông đưa tôi bao nhiêu?
- Một xu cũng không đưa.
- Cái gì? Ông đùa đấy à! Tôi đưa cho ông một viên trân châu có giá trị lớn như thế, mà kết quả lại chẳng thu được tí lợi lộc gì ư?
- Thu được một mạng sống.
Tên vô lại ấy run lẩy bẩy. Grimaundan nói với hắn bằng một giọng ôn hòa hơn:
- Được rồi, Danegre, viên trân châu đen này nằm trong tay anh thì chẳng đáng một xu. Anh đã không có cách nào bán nó đi, thì còn giữ nó lại làm gì?
- Tôi sẽ tìm được người mua... Đợi đến lúc ấy, dù người ta có ra giá bao nhiêu...
- ... Tất cả đã quá muộn rồi.
- Ý ông là sao?
- Ý tôi là sao! Chẳng phải là vì cảnh sát sẽ sớm tóm anh về quy án ư. Tôi sẽ giao cho họ toàn bộ chứng cứ: con dao, chìa khóa, dấu vân tay trên tường. Anh hãy đợi mà xem, ngày tận thế của anh sắp đến rồi đấy.
Victor giơ hai tay ôm lấy đầu bất lực, hắn đã ý thức được rằng, lần này đã hoàn toàn nằm trong tay đối phương rồi. Không còn chút sinh lực nào hắn thở hổn hển hỏi:
- Lúc nào ông cần?
- Đêm nay, trước một giờ.
- Nếu không thì sao?
- Nếu không, thì tôi sẽ nhét thư tố cáo của tiểu thư de Sincleves vào hòm thư.
Danegre rót cho mình hai lý rượu đầy, uống ừng ực hết sạch, sau đó đứng dậy nói:
- Ông thanh toán! Chúng ta đi thôi... Cái mầm xúi quẩy này coi như tôi đã gánh chịu đủ rồi.
Đêm khuya, hai người men theo phố Lepic, tới quảng trường Ngôi sao. Đến công viên Monceau, Victor thì thầm nói:
- Nó ở cạnh căn phòng đó...
Cả hai men theo hàng rào sắt công viên, tiếp tục đi về phía trước, rồi lại đi qua một con phố. Nhưng cứ đi mãi, Danegre càng đi càng chậm, càng lúc càng do dự. Cuối cùng, hắn ngồi vào một cái ghế băng công công bên đường.
- Sao thế?- Grimaundan ngạc nhiên hỏi.
- Ở đây, đến rồi- Danegre chán nản nói.
- Rốt cuộc thì là ở đâu?
- Giữa hai viên gạch lát đường.
- Hai viên nào?
- Ông tự tìm đi.
- Rốt cuộc là hai viên nào?- Grimaundan phát cáu hỏi lại lần nữa. Victor không lên tiếng.
- Được đấy! Anh định cho tôi ăn bả à?
- Không... nhưng... dạo này, tôi khó khăn lắm.
- À, thế nên anh định đổi ý hả? Được, tôi chấp nhận, anh muốn bao nhiêu?- Grimaundan thỏa thuận.
- Phải đủ để mua một vé tàu thủy đi đến Châu Mỹ.
- Được.
- Còn phải đưa tôi 100 đồng tiền vàng để lo liệu khi mới đến đó.
- Cho anh 200. bây giờ thì nói mau!- Grimaundan quát.
- Tính từ cống ngầm, đếm sang bên phải, nó nằm giữa viên gạch thứ hai mươi hai và hai mươi ba.
Grimaundan quan sát kỹ chung quanh. Ngoài chiếc xe điện đang đi qua ở đằng xa, trên đường không một bóng người. Ông ta lôi một con dao ra, cắm vào khe giữa hai viên gạch lát đường.
- Sâu bao nhiêu?
- Khoảng mười xăng-ti-mét.
Grimaundan móc lên một đống đất cát ẩm ướt. Đột nhiên, mũ dao chạm phải một vật cưng cứng. Ông dùng tay bậy cái lỗ cho to ra, quả nhiên nhìn thấy bọc lụa màu vàng gói rất cẩn thận. Mở ra, quả nhiên có viên trân châu đen ở trong.
- Đây, 200 đồng tiền vàng cho anh! Còn vé tàu thủy đi Châu Mỹ tôi sẽ cho người mang đến sau.
Ngày hôm sau, báo “Tiếng vọng nước Pháp” đã cho đăng một bản bin, mà sau đó các báo khác đều lũ lượt đăng tải:
“Viên trân châu đen nổi tiếng gần xa ấy, ngày hôm qua đã được Arséne Lupin thu hồi từ tay tên hung thủ đã mưu sát Bá tước phu nhân d’Andillot. Bản sao của viên trân châu này, nội trong vài ngày tới sẽ được triển lãm tại London, St. Petersburg, Calucutta, Buenos Aires và New York.”
Arséne Lupin vô cùng hoan nghênh quan khách các giới đến bàn bạc về sự kiện này.
- Đây gọi là ác giả ác báo, thiện hữu thiện báo- Sau khi thuật lại đầu đuôi vụ án với tôi, Arséne Lupin đã cảm khái thốt lên- Anh cũng biết đấy, sau khi phát hiện Bá tước phu nhân bị giết hại, tôi đã ở trong phòng bà ta tròn 40 phút. Trong thời gian 40 phút này, tôi đã phân tích rõ các chi tiết mà mình nhìn thấy, suy luận quá trình gây án của hung thủ. Từ trong đống dấu vết rối như tơ vò ấy, tôi đã rút ra kết luận: tôi phạm chính là gã giúp việc của Bá tước phu nhân. Hơn nữa tôi còn hiểu rằng, nếu muốn lấy được viên trân châu đen này thì phải để cảnh sát bắt giữ tên giúp việc ấy trước. Vì thế, tôi đã để một khuy áo của hắn ở lại hiện trường. Nhưng lại không thể để cho cảnh sát nắm được chứng cứ chính xác để phá án, thế nên tôi đã lấy con dao gây án mà hắn để quên trên thảm; giấu cái chìa khóa mà hắn để quên ở ổ khóa đi; khóa chặt cửa sau, và còn xóa dấu vân tay trên tường nữa. Tôi cảm thấy, lúc ấy trong đầu tôi có...
- Linh tính- Tôi xen vào.
- Có lẽ là linh tính. Cái y bắt trước thả sau, rõ ràng là được nhờ linh tính mà nghĩ ra. Tôi quyết định phải để cảnh sát và Văn phòng Chưởng lý cho tên này nếm mùi lợi hại, sau đó đợi hắn được thả ra, tôi liền cho hắn sa lưới tôi đã giăng sẵn!...
- Cái tên trộm cắp tội nghiệp này...
- Tội nghiệp? Anh cho hắn là tội nghiệp ư! Sao anh không nghĩ đến chuyện hắn là một kẻ giết người chứ? Để viên trân châu đen ở trong tay hắn mới là trời không có mắt. Hắn vẫn giữ được cái mạng là do tôi đã nhân nhượng lắm rồi đấy!
Anh lấy viên trân châu đen từ trong một cái túi da ra, ngắm nhìn nó với một vẻ say mê, và nhẹ nhàng mân mê nó. Lúc sau anh thở dài nó:
- Thứ châu báu vô giá đã từng được đeo trên chiếc cổ trắng nõn nà của Bá tước phu nhân d’Andillot ấy, chẳng biết lúc nào sẽ lủng lẳng trước ngực của một bà già giàu có ở Mỹ đây...
__________________
#5
30-05-2012, 15:13
bonbon2907
Hổ Phách
Hổ Phách
Tham gia: 05-2012
Bài gửi: 62
Thanks: 5
Được Thank 25 lần trong 13 bài
Ink: 597
Được thưởng
1 lần
Cám ơn
1 lần
Re: Siêu Trộm Arsène Lupin
Chương V
MÊ GÁI MÀ ARSENE LUPIN SA BẪY
Chúng tôi dần dần dời xa bờ biển nước pháp trên con tàu viễn dương “Provence”, sóng lớn Đại Tây Dương cuồn cuộn vỗ vào hai bên mạn tầu.
Chiều ngày thư hai, mưa gió sấm chớp ập tới. Một thông báo khẩn được chuyển đến qua làn sóng điện. Nội dung bức điện báo như sau:
“Arsene Lupin đang ở trên tàu. Tóc hắn màu vàng, vai bên phải có vết sẹo, không đi cùng ai, mang tên giả là R..”
Ngay chính giây phút đó, một tiếng sấm nổ vang trời, sóng điện bị ngắt nên chúng tôi không nhận được phần sau của bức điện báo. Chúng tôi chỉ biết chữ cái đầu tiên trong tên giả của Arsene Lupin là R. Nhưng không hiểu thông tin điện báo được truyền đến cho chúng tôi bằng cách nào, mà kể từ ngày hôm đó, tất cả các vị khách trên tàu cũng đều biết rằng tên trộm Arsene Lupin nổi tiếng đang trà trộn cùng họ.
Arsene Lupin đang ở đây! Mấy tháng nay. Không tờ báo nào là không đăng tải tin tức về tên trộm nghĩa hiệp chưa từng bị bắt ấy. Nhân vật bí ẩn này khiến vị thám tử lừng danh của chúng ta phải lên tiếng thách đấu một phen sống mái. Nhưng lần nào, đến phút chót vị thám tử ấy cũng bị hớ. Arsene Lupin có kỹ thuật giả trang xuất quỉ nhập thần: là lái xe, ca sĩ giọng nam cao, nhân viên trại nuôi ngựa đua, cậu ấm con nhà giàu, cụ già, nhân viên tiếp thị, hướng dẫn viên du lịch, bác sĩ người Nga, võ sĩ đấu bò Tây Ban Nha… Vai nào hắn cũng đóng y như thật.
Tất cả các vị khách đều lo ngại: gã Arsène Lupin đó đang lượn lờ ngay trên con tàu, nơi mà ngày nào ở ngay mọi người cũng chạm mặt nhau. Cũng có thể hắn ở ngay trong phòng khách, hay phòng hút thuốc… Không chừng hắn là ông nào đó… hoặc là cái nhà ông kia, hay chính là ông ngồi ngay cạnh mình… thậm chí có thể là ông ở cùng khoang với mình…
- Chẳng lẽ phải lo lắng phập phồng như thế này suốt năm ngày sao?- Một hôm tiểu thư Nelly Andre Daun la lên- Thật không chịu nổi! Tôi mong có ai đó sớm bắt lấy hắn ta.
Chợt cô quay lại nhìn tôi, nói:
- Anh Dunn Dmex, anh đã có quan hệ rất tốt với thuyền trưởng, liệu đã nghe được tin tức gì mới chưa?
Tôi rất muốn nghe ngóng được điều gì đó, để chiều lòng tiểu thư Nelly. Cô ấy là người con gái rất xinh đẹp và hấp dẫn; bất cứ đâu, chỉ cần cô xuât hiện thì mọi ánh mắt đều sẽ đổ dồn vào cô. Vẻ đẹp cũng như tài sản mà cô ấy có khiến người ta phải thèm muốn. Cô lớn lên cùng mẹ ở Pari. Lần này, cô đang trên đường đến Chicago để đoàn tụ với người cha tỷ phú của mình. Có người bạn gái của cô đi cùng.
Khi mới lên tàu, tôi chưa gia nhập ngay đội ngũ những kẻ tôn sùng và mong muốn làm bạn với cô. Nhưng không lâu sau, sức cuốn hút của cô đã mê hoặc tôi. Mỗi khi đôi mắt to, đen của cô nhìn tôi đầu óc tôi quay cuồng. Mặt khác, cô cũng rất quý mến tôi; những câu chuyện bông đùa của tôi thường khiến cô cười rất thoải mái. Và tôi cũng khiến cô phải chăm chú lắng nghe, với những “tin tức vỉa hè’ mà mình biết.
Song, có một kẻ tình địch khiến tôi cảm thấy bất an. Đó là một anh chàng đẹp trai, cử chỉ nho nhã, lịch sự, tính cách trái ngược vợi sự “hướng ngoại” của người Pari như tôi. Cô Nelly lại có vẻ thích cái tính ít nói ấy ở anh ta.
Vừa khi cô Nelly hỏi tôi, một đám con trai ngưỡng mộ cô đang quẩn quanh cô. Sau trận mưa lớn tôi hôm qua, mọi thứ đều sạch trơn, không khí cũng trở nên vô cùng sảng khoái.
- Thưa tiểu thư Nelly, rất tiếc là tôi không có tin tức gì cho cô cả.- Tôi trả lời- Nhưng chẳng nhẽ chúng ta không tự điều tra được sao? Chúng ta có thể tranh tài với ông Marjane.
- Ồ không, ý tưởng của anh có vẻ hão huyền quá!
- Lẽ nào chuyện này lại phức tạp đến thế?
- Rất phức tạp.
- Đó là vì anh quên rằng trong tay chúng ta đã có một số manh mối quan trọng.
- Manh mối gì vậy?
- Thứ nhất, hiện nay Lupin mang tên giả là R…gì đó
- Manh mối này mơ hồ quá!
- Thứ hai, là hắn ta chỉ đi có một mình
- Chỉ dựa vào những điều này thì làm được gì?
- Thứ ba, hắn có tóc và râu màu vàng.
- Vậy thì đã sao cơ chứ?
- Chúng ta chỉ cần lấy danh sách các hành khách đi trên tàu, rồi loại dần những người không có đặc điểm đáng nghi ngờ như trên là được. Trong túi tôi có một bản danh sách. Tôi lấy nó ra và nhìn lướt nhanh một lượt.
- Ở đây có 13 cái tên khiến tôi phải để ý.
- Chỉ 13 thôi à?- Nelly nghi ngờ.
- Trong khu vực khách hạng sang chỉ có từng đó thôi! Trong số 13 người này có 9 người đi cùng vợ, con gái hay người hầu. Điều này rất dễ kiểm tra. Chỉ còn lại 4 người: Có Bá tướng Delaware.
- Anh ta là bí thư của đại sứ quán- Cô Nelly cắt ngang- Tôi quen anh ta mà.
- Thiếu tá Lawson - Đó là chú tôi- Một người nào đó lên tiếng trả lời ngay.
- Ông Rivolta
- Có mặt!- Một người trong chúng tôi lên tiếng. Đó là một người Italia có chòm ria cong và đen. Cô Nelly cười lớn:
- Ông này không thể nói là có “râu, tóc màu vàng” được.
- Vậy thì...- Tôi nói tiếp- Tôi rút ra kết luận, kẻ chúng ta cần tìm là người cuối cùng trong danh sách này.
- Ai vậy?
- Ông Rozeh- có ai đã quen ông ta rồi không? Không ai trả lời. Nhưng cô Nelly thì quay người lại và nói với tình địch của tôi:
- Sao vậy, anh Rozeh, sao anh không trả lời. Tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào anh chàng Rozeh này. Anh ta đúng là có mái tóc vàng.
- Sao tôi lại phải trả lời?- Anh ta nói- Vì tôi đã sớm biết rằng cái tên và mái tóc của tôi sẽ gây cho tôi không ít phiền phức, hơn nữa tôi lại đi du lịch có một mình.
Tôi nghĩ chắc các anh định bắt tôi lại chứ hả? Chắc chắn là anh ta đang nói đùa, nhưng vẻ mặt, thái độ của anh ta khiến mọi người đều có cảm giác... là lạ.
Cô Nelly cười và nói thêm:
- Nhưng anh không bị thương chứ?
- Đúng vậy- Anh ta nói- Tôi không bị thương.
Nói rồi anh ta từ từ vén một tay áo lên, để lộ ra một bên vai. Bất chợt tôi lóe lên một ý tưởng, vội nhìn về phía cô Nelly, cũng đúng lúc cô đưa mắt nhìn tôi: anh ta cho chúng tôi xem vai trái! Nhưng, đúng khoảng khắc tôi định vạch trần sự dối trá này thì một chuyện khác đã xảy ra. Phu nhân hớt hơ hớt hải chạy về phía chúng tôi... Khó khăn lắm bà mới có thể bình tĩnh được để nói với chúng tôi:
- Trang sức của tôi... ngọc quý... bị trộm lấy hết sạch rồi!
Chúng không bị lấy đi hết, đó là sự thật. Tuy nhiên thật lạ là tên trộm đã chọn lựa những chiếc vòng đeo tay, vòng cổ, ngọc... quý nhất, tinh xảo nhất, đáng tiền nhất và nhỏ nhất để lấy đi.
Chắc chắn tên trộm đã tranh thủ lúc phu nhân đi uống trà để lấy trộm những món đồ trên. Hắn đi qua hành lang vốn có những người qua lại, lừa dịp mở cửa phòng, tìm chiếc xắc nhung để trong chiếc hộp giấy mở ra và chọn lựa! Vậy tên trộm đó là ai? Mọi người đều cùng nghĩ về một người Arsène Lupin!
Bữa tối, không ai ngồi ăn cạnh Rozeh cả. Ăn xong, thuyền trưởng cho gọi anh ta lên, sau đó tạm giam lại. Đây là điều đã được dự đoán từ trước nên ai nấy đều cảm thấy nhẹ cả người. Buổi tối hôm đó, trên tàu lại có dạ hội. Vẻ đẹp và phong thái của tiểu thư Nelly đã hoàn toàn chinh phục được tôi. Dưới ánh trăng vằng vặc, tôi đã bày tỏ lòng mình với cô ấy.
Ngày hôm sau, ai cũng ngạc nhiên khi nghe tin anh chàng Rozeh không bị giam lỏng nữa vì không đủ chứng cứ.
Nghe nói anh ta là con trai một thương nhân bán buôn lớn. Giấy tờ tùy thân của anh ta đã chứng thực điều đó. Ngoài ra, vai phải anh ta cũng không có vết thương nào.
- Giấy tờ tùy thân ư?- những tình địch của Rozeh hét lên- Giấy tờ thì làm gì được cơ chứ! Với Lupin hắn có cả đống! Còn vết thương hắn có thể đã... xử lý thì sao?
Bữa trưa Rozeh vênh mặt đi về phía chúng tôi, tiểu thư Nelly và phu nhân thấy vậy liền lánh đi chỗ khác. Có thể thấy rằng hai người sợ anh ta.
Một tiếng sau, một tờ giấy được chuyền đi khắp các nhân viên và hành khách trên tàu. Trên tờ giấy, viết Luis Rozeh ban thưởng mười nghìn franc cho người tìm ra Arsène Lupin. Anh ta còn nói với thuyền trưởng rằng:
- Nếu không ai giúp tôi xử lý tên trộm này thì chính tôi sẽ tính sổ với hắn- Rozeh đối đầu với Lupin hay như nhiều người nói, Lupin đang đối đầu với chính mình. Quả là có màn kịch hay để xem rồi!
Vậy là hai ngày đã trôi qua. Chúng tôi thấy Rozeh lùng sục khắp nơi, nghe ngóng mọi chuyện. Nửa đêm người ta còn thấy anh ta như bị ma ám, không biết đang làm trò gì. Thuyền trưởng cũng ra lệnh cho khám xét toàn bộ con tàu. Khi biện pháp này được tiến hành có người cho rằng: đồ bị lấy cắp có thể được dấu ở bất kỳ chỗ nào trên tàu, nhưng chắc chắn là sẽ không có ở trong khoang mà vụ án xảy ra.
- Chắc chắn là sẽ tìm được cái gì đó, anh thấy có đúng không?- Cô Nelly thì thầm hỏi tôi- Cho dù hắn có là tên phù thủy, thì cũng không thể làm những đồ quý đó biến mất được.
- Sao lại không cơ chứ- Tôi trả lời- Trừ khi kiểm tra toàn bộ mũ nón, quần áo... của tất cả mọi người.
Vừa nói tôi vừa cho cô ấy xem chiếc máy ảnh Kodak 9x12 của tôi, từ lúc lên thuyền tôi luôn mang nó bên mình và đã chụp được rất nhiều ảnh.
- Cô xem, một đồ dùng như thế này chẳng lẽ không cất giấu được vài món đồ trang sức của phu nhân à? Hắn ta chỉ cần giấu nó trong máy ảnh là có thể qua mắt được mọi người.
- Nhưng tôi nghe nói, kẻ trộm luôn để lại dấu vết.
- Nhưng có một người không như vậy, đó là Lupin- tôi khẳng định.
- Sao vậy?
- Tại sao ư? Vì hắn ta không chỉ tìm cách lấy trộm mà còn tìm cách làm thế nào để không bị phát hiện.
- Anh đừng tâng bốc hắn lên thế chứ!
- Hiện nay hắn đang giỡn chúng ta đó.
- Thế theo anh thì...
- Theo tôi, chúng ta đang lãng phí thời gian.
Quả nhiên cuộc điều tra không có tiến triển gì mà kết quả còn khiến người ta dở khóc dở cười: chiếc đồng hồ đeo tay của thuyền trưởng đã bị đánh cắp!
Thuyền trưởng vô cùng tức giận, đối xử với Rozeh càng nghiêm khắc hơn. Nhưng đến ngày thứ hai, chiếc đồng hồ lại bất ngờ xuất hiện ở giữa cổ áo chiếc sơ mi, trong ngăn kéo.
Mọi việc diễn ra ly kỳ đã cho thấy phong cách hài hước khoáng đạt của Lupin. Ông ta vừa thể hiện xong một vai diễn tuyệt vời.
Ở góc độ trong nghề mà nói, ông ấy quả là một nghệ thuật gia vĩ đại. Tôi đã thấy thật kính nể khi theo dõi vẻ mặt buồn rầu, thất thần của Rozeh.
Tuy vậy, đêm trước cuộc hành trình kết thúc, đã xảy ra một việc mà không ai có thể ngờ tới. Khi trực ban Nhị Phú nghe thấy tiếng rên rỉ ở góc boong tàu, tới xem thì thấy có một người đàn ông nằm trên sàn, một chiếc khăn vuông dày màu tro che đi khuôn mặt của ông ấy, còn hai tay thì bị trói bằng sợi dây thừng.
Nhị Phú cởi trói và đỡ người đàn ông dậy. Người đó chính là Rozeh. Hóa ra Rozeh đã bị đánh ngất khi đang ở trên boong tàu, ví tiền trên người ông cũng bị cướp mất, còn trên ngực áo có cài một tấm danh thiếp trên đó ghi rằng: “Xin ngài Rozeh vui lòng nhận một ngàn fanc từ ông Lupin”.
Ví tiền rốt cục vẫn ở trên người ông, bên trong còn có thêm một ngàn franc. Nếu như vậy thì Rozeh không phải là Lupin, mà ông ta chính là con trai của một thương nhân. Có điều sự việc lần này đã chứng thực một cách vô cùng rõ ràng rằng Lupin đang ở cùng chúng ta.
Nghĩ đến điều này lại khiến người ta chẳng rét mà run. Tất cả các hành khách đều không dám đứng một mình trên khoang tàu, và cũng không dám tới những nơi vắng vẻ. Mọi người đều cẩn thận tụ tập với nhau, chỉ qua lại với vài người bạn mình tin tưởng nhất.
Sau đó, những bức điện báo nhận được không hề có nội dung gì mới; thậm chí thuyền trưởng cũng không hề tuyên bố tin mới nào cả. Kiểu che giấu bí mật này đã khiến mọi người càng thêm lo lắng và sợ hãi.
Ngày cuối cùng vì thế đã trở nên dài khác thường. Mọi người đều bồn chồn như đang chờ đợi một sự việc bất hạnh nào đó sẽ xảy ra. Nhưng tôi phải công nhận rằng tôi lại có cảm giác khác, bởi chính vì thế mà tiểu thư Nelly đã càng tin tưởng tôi hơn. Phải chịu áp lực như vậy khiến cô ấy tự nguyện đến bên tôi, cần sự che chở, mà vai trò người bảo vệ ấy từ lâu tôi có cầu cũng chẳng được. Từ sâu thẳm trong trái tim, tôi thầm cảm ơn Lupin.
Vào lúc cuộc hành trình sắp kết thúc, hai chúng tôi vai kề vai ngồi tựa khoang thuyền, hướng ánh mắt về phía bờ biển nước Mỹ.
Trên tàu đã chấm dứt cuộc điều tra. Mọi người đều đang mong đợi từ khoang hạng nhất rộng rãi thoải mái đến khoang lớn chật ních dân di cư, ai ai cũng chờ đợi giây phút điều bí ẩn được giải đáp. Rốt cuộc ai là Lupin?
Ngài Lupin tiếng tăm lừng lẫy đã dùng bí danh nào, ông ấy sẽ xuất hiện với bộ mặt nào đây?
Cuối cùng giây phút ấy đã đến. Cho dù có sống đến một trăm tuổi, tôi cũng sẽ không thể quên từng chi tiết này.
- Sao sắc mặt cô nhợt nhạt vậy, tiểu thư Nelly- Tôi nói với tiểu thư. Lúc này, cô ấy đang dựa vào vai tôi, vẻ vô cùng yếu ớt.
- Còn ngài?- Cô ấy trả lời.
Chao ôi, cô ấy quả thật khác trước...
- Cô hãy nghĩ xem, thời khắc này dễ làm người ta xao xuyến, huống hồ tôi lại vinh hạnh được ngồi bên cạnh cô...
Nhưng cô ấy không hề nghe tôi nói, mà vẫn còn thở dài đầy hồi hộp. Cầu thang mạn đã được hạ xuống. Nhưng hành khách chưa kịp xuống thì dưới bờ có một toán người vây quanh, trong đó có cả nhân viên hải quan, cảnh sát. Tiểu thư Nelly nói thầm thì:
- Canh phòng nghiêm ngặt như vậy, Lupin có dám lộ diện không?
- E rằng ông ta sẽ không bó tay chịu trói đâu. Nhẫn nhục chịu đựng, chi bằng nhảy quách xuống biển cho rồi.
- Xin đừng đùa như vậy?- Cô ấy có vẻ bực tức trách tôi.
Đột nhiên tôi giật thót mình, nhìn vào ánh mắt đầy nghi hoặc của cô ấy, tôi hỏi:
- Cô có nhìn thấy ông già đang đứng ở đầu kia cầu thang không?
- Có phải là người mặc chiếc áo dài màu xanh và tay cầm ô không?
- Ông ấy chính là Marjane
- Marjane.
- Đúng là vị thám tử lừng danh rồi. Ông ấy đã từng thề là sẽ tự tay bắt được Lupin. A, tôi hiểu tại sao bên bờ lại im lặng như thế. Marjane đã đến đây từ sớm. Ông ấy không thích bất kỳ ai tham gia vào vụ án của mình.
- Nói như vậy thì Lupin sẽ bị bắt?
- Điều đó thì chưa chắc. Vì trừ lúc đã hóa trang, có lẽ từ trước đến nay, Marjane vẫn chưa hề nhìn thấy diện mạo thật của Lupin. Không thì, Marjane phải biết rõ thuật hóa trang của hắn ta...
- Ồ!- Cô ấy thốt lên với tất cả sự tò mò của phụ nữa khiến người khác phải lo ngại- Tôi rất muốn được tận mắt chứng kiến hắn ta bị bắt như thế nào!
- Đừng vội, thưa tiểu thư. Lupin chắc hẳn đã nhìn thấy đối thủ truyền kiếp của mình rồi. Có lẽ ông ta đi trong tốp người cuối cùng xuống tàu. Đến lúc đó, ngài thám tử đã hoa cả mắt rồi. Hành khách bắt đầu lên bờ. Marjane chống ô xuống đất, hai tay chắp lên tay cầm của ô, sắc mặt lạnh lùng hầu như không hề chú ý đến tốp người xuống cầu thang. Nhưng tôi để ý thấy có một vị cảnh sát đứng cạnh chốc chốc lại ghé tai ông ta thì thầm điều gì đó.
Và một vài người Italia đang lên bờ, tiếp theo là rất nhiều hành khách khác... Bỗng nhiên, tôi thấy Rozeh tiến gần đến bên Marjane.
- Rozeh đáng thương! Xem ra anh ta thật đen đủi!
- Chỉ sợ rằng chính là anh ta- Tiểu thư Nelly thì thầm với tôi- Còn anh nghĩ sao? Tôi thấy, nếu có thể chụp chúng một tấm ảnh của Marjane với Rozeh thì sẽ rất hay đó. Anh có thể lấy máy ảnh giúp tôi, vì tay tôi cứng ra rồi.
Tôi đưa máy ảnh cho cô ấy. Tiếc là chậm một bước, không chụp được cảnh đó. Rozeh đã đi qua. Vị cảnh sát kia đã nói gì đó với Marjane, ông ta nhún vai một cái thế là Rozeh đã đi qua.
- Nhưng nếu như vậy thì trời ơi, Lupin là ai đây?
- Đúng thế- tiểu thư Nelly nói to- Lupin là ai?
Trên tàu chỉ còn lại khoảng hơn hai chục người. Cô ấy ngắm nghía từng người một vẻ như sợ rằng thủ phạm không có ở trong nhóm người này.
Tôi giục cô ấy:
- Chúng ta không thể chờ đợi được nữa. Cô ấy bước đi phía trước, tôi đằng sau. Nhưng mới chỉ đi được chục bước, chúng tôi đã bị ngài Marjane chặn lại.
- Chuyện gì vậy?- Tôi hỏi lớn tiếng.
- Xin ông đợi cho giây lát! Phải chăng ông có việc gấp?
- Tôi phải cùng tiểu thư đây lên bờ.
Ông ấy nhìn kỹ tôi một lượt, sau đó nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi:
- Đây có phải là ngài Lupin không? Tôi cười lớn:
- Không, tôi tên là Berna.
- Berna đã chết cách đây ba năm ở Maggi rồi.
- Nếu như Berna đã chết thì trên thế giới này không thể xuất hiện Berna thứ hai. Nhưng tôi đang đứng đây. Đó là giấy tờ của tôi.
- Những giấy tờ này đều là của hắn ta. Còn anh làm cách nào lấy được chúng? Đó chính là điều tôi muốn nói với anh.
- Ngài nhầm rồi? Cái tên mà Lupin dùng trên tàu bắt đầu bằng chữ R.
- Đúng vậy, đó là một chiêu của anh, đó là ma trận mà anh cố tình sắp đặt! Anh giải quyết sự việc rất sạch sẽ và thông minh. Nhưng đã đến lúc anh bị bắt. Được rồi, Lupin thua cũng phải như một hảo hán...
Tôi do dự trong phút chốc. Bất ngờ, ông ta đánh mạnh vào vai trái tôi. Tôi đau đến thét lên. Ông ấy đánh đúng vào cánh tay bị thương ở bức điện báo cũng đã cố ý rùm beng điểm này.
- Được thôi, nên nhận thua thôi- Tôi quay lại với tiểu thư Nelly. Cô ấy đã nghe thấy hết, sắc mặt tái nhợt đứng không vững nữa.
Tôi và cô ấy nhìn nhau một lúc rồi chuyển ánh mắt tới chiếc máy ảnh Koda tôi đưa cho cô ấy. Bỗng nhiên cô ấy ra hiệu gì đó tôi cảm thấy rằng- không, tôi tin rằng trong khoảng khắc đó cô ấy đã hiểu hết mọi việc. Không sai, chính là ở trong này, ở trong hộp máy ảnh tôi đưa cho cô ấy trước lúc bị Marjane bắt. Một ngàn franc của Rozeh và những đồ trang sức quí giá của phu nhân Jelander đều nằm trong chiếc hộp vuông nhỏ bé này.
Thực ra, lúc Marjane và hai trợ thủ của ông ta vây quanh tôi, trong giây phút bàng hoàng tôi không hề để ý lý do gì mà bị bắt, sự chú ý của mọi người... Không, tôi chẳng mảy may để ý... Chỉ có một chuyện khiến tôi băn khoăn, áy này đó là chiếc hộp máy ảnh tôi vừa đưa cho đấy, cô ấy sẽ quyết định xử lý nó ra sao đây?
Nếu mà họ dùng chúng làm vật chứng buộc tội tôi, thì tôi không sợ. Nhưng tiểu thư Nelly có đưa những vật chứng này không?
Tôi sẽ bị cô ấy bán đứng, bị bôi nhọ danh dự? Cô ấy sẽ lấy đó mà phản bộ lại tôi không chút nương tay hay vẫn còn nhớ những ngày bên nhau mà thương hai, khoan dung cho tôi?
Cô ấy bước qua trước mặt tôi. Tôi không nói gì chỉ khom lưng cúi người một cái. Rồi cô ấy cùng những người khác đi xuống cầu thang, trên tay vẫn là chiếc máy ảnh Kodak.
Tôi nghĩ rằng, cô ấy không dám đưa nó ra trước đông người như vậy. Có lẽ một lát nữa cô ấy sẽ giao nộp nó thôi.
Nhưng khi đi đến giữa cầu thang, cô ấy làm ra vẻ vụng về làm rơi mất chiếc máy ảnh xuống biển. Sau đó, cô ấy bước đi như không có chuyện gì xảy ra.
Vóc dáng yêu kiều của cô ấy hòa dần vào dòng người lúc ẩn lúc hiện, rồi không thấy đâu nữa. Tất cả đã kết thúc, kết thúc vĩnh viễn!
Tôi đứng đó như một khúc gỗ, lúc ấy lòng dạ tôi vừa đau đớn trong tim vừa trào lên niềm cảm xúc mãnh liệt. Sau đó tôi than lên một câu mà khiến cho Marjane cũng phải ngạc nhiên:
- Thật đáng tiếc, rốt cuộc thì mình không phải là một chính nhân quân tử...
Trên đây là câu chuyện về hôm ông bị bắt mà Lupin kể lại cho tôi nghe. Chúng tôi kết thân với nhau cũng là từ những chuyện rất nhỏ và ngẫu nhiên, những chuyện ấy được tồi lần lượt ghi chép lại...
Trông ông ấy ra sao? Tôi khó có thể nói được. Cho dù rằng tôi đã gặp ông ấy hai chục lần thì mỗi lần gặp lại là một Lupin khác... Hay nói cách khác cũng vẫn là ông ấy, nhưng trước mặt tôi là hai mươi cái gương, mỗi chiếc gương phản chiếu một Lupin khác.
Ông ấy nói với tôi:
- Tôi cũng không biết, rốt cuộc tôi là ai. Khi soi gương chính tôi cũng không nhận ra mình nữa.
Tất nhiên, đó chỉ là câu bông đùa có vẻ lạ, nhưng đối với những người hay gặp ông ấy mà không thân quen thì đó là câu nói rất chân thực. Trình độ hóa trang của ông thật siêu phàm, khiến người khác phải thán phục.
Ông ấy cho rằng:
- Sao tôi lại phải mãi giữ nguyên một ngoại hình? Ai muốn nhận ra tôi thì nên dựa vào công việc tôi làm, chẳng phải tốt sao.
Tiếp đó, ông nói một cách kiêu ngạo:
- Nếu như mọi người, không có cách nào chắc chắn nói: “Đây là Arsène Lupin” thì chẳng phải càng tốt hơn sao? Nguy hại là ai ai cũng khăng khăng cho rằng: “Việc này do Lupin làm”.
Tôi sẽ viết lần lượt bằng hết những câu chuyện kinh thiên động địa mà ông ấy đã tiến hành trong những đêm mùa đông này, khi ông ấy ngồi trong thư phòng của tôi kể cho tôi nghe...
__________________
#6
01-06-2012, 10:23
bonbon2907
Hổ Phách
Hổ Phách
Tham gia: 05-2012
Bài gửi: 62
Thanks: 5
Được Thank 25 lần trong 13 bài
Ink: 597
Được thưởng
1 lần
Cám ơn
1 lần
Re: Siêu Trộm Arsène Lupin
CHƯƠNG IV
CÚ SIÊU LỪA VƯỢT NGỤC CỦA ARSÈNE LUPIN
Arséne Lupin vừa ăn xong cơm trưa, anh ta khoan khoái lấy ra một điếu xì gà thượng hạng từ trong túi áo ra ngắm nghía thật kỹ. Đột nhiên, cửa phòng giam mở ra, anh vội vàng đút điếu xì gà vào ngăn kéo. Người đi vào chỉ là một người gác ngục: đã đến giờ được ra hít thở không khí rồi.
- Anh bạn cũ, tôi cũng đang đợi anh đây!- Arséne Lupin nói to, giọng nói rất vui vẻ.
Họ vừa đi qua ngã rẽ, thì đột nhiên có hai người xộc đến, chẳng nói chẳng rằng, ra tay lục soát khắp người Arséne Lupin. Đó là thám tử Dieuzy và thám tử Folenfant.
Mọi việc có lẽ đã đến hồi kết thúc. Mọi thứ rõ ràng như trong lòng bàn tay, dù là trong tù nhưng Arséne Lupin vẫn liên lạc thường xuyên với "tay chân" ở bên ngoài để phối hợp hành động. Và mới chỉ ngày hôm qua thôi, tờ Grand Journal đã đăng một bức thư như thế này:
"Thưa các ngài!
Trong một số bài báo gần đây, các ngài đã đưa nhiều tin sai lệch về tôi, vì thế trước phiên tòa xét xử tôi bắt đầu một vài ngày, tôi sẽ đến và yêu cầu các ngài đính chính lại thông tin.
Kính thư
Arséne Lupin"
Nét bút trên thư rõ ràng là của Arséne Lupin, điều đó cho thấy anh ta vẫn có thể gửi thư, và đương nhiên vẫn nhận được thư từ bên ngoài một cách đều đặn. Vì thế, lời phát biểu "ngông cuồng" về việc sẽ vượt ngục là hoàn toàn có căn cứ. Và ngay từ bây giờ anh ta đang chuẩn bị cho giờ phút đó.
Mọi việc dường như đã đi quá đà. Ngài Dudouis, thuộc Sở cảnh sát Paris, ngay lập tức cùng pháp quan tòa phúc thẩm đến xem xét nhà tù. Ngài còn cẩn thận phái ngay hai thuộc hạ đến kiểm tra phòng biệt giam của Arséne Lupin.
Hai thám tử ra sức lục lọi mọi ngóc ngách, từng viên gạch trong nhà tù, họ dỡ tung cả giường, nhưng vẫn không tìm được chút manh mối nào. Đúng lúc hai người định nghỉ tay một lúc, thì người gác ngục chạy vào, chỉ ngăn kéo bàn và nói:
- Xin hãy tìm trong ngăn kéo bàn!- Người này thở hổn hển nói- Vừa nãy lúc tôi đến, hình như có thấy hắn đóng ngăn kéo lại.
Hai viên thám tử lập tức làm theo lời chỉ dẫn. Họ reo lên như bắt được vàng, khi lôi ra điếu xì gà:
- Lạy Chúa, cuối cùng chúng ta cũng tóm được đuôi hắn- Dieuzy kêu lên sung sướng.
- Đừng, hãy để sếp của chúng ta tự đến kiểm tra- Folenfant ngăn lại.
- Nhìn điếu xì gà này xem, lại còn là loại thượng hạng nữa cơ đấy.
- Đừng động vào điếu Havana đó, gọi sếp đến xem đã.
Chỉ hai phút sau, ngài Dudouis đã có mặt trong buồng giam, lật tung mọi thứ trong ngăn kéo ra. Ông tìm thấy một tập các bài báo viết về Arséne Lupin, một hộp thuốc, một chiếc tẩu, một tập giấy viết thư mỏng và hai quyển sách.
Ông cẩn thận xem xét hai quyển sách, đó là quyển "Heroes and Heroworship" bản tiếng Anh của Carlyle và bản dịch tiếng Đức quyển "Manual of Epictetus" tái bản tại Leyden năm 1634. Khi giở hai quyển sách ra, ông thấy trên đó có rất nhiều chỗ đánh dấu và ký hiệu. Liệu đây là những ám hiệu hay chỉ đơn thuần là những ghi chú của một người yêu sách?
- Lát nữa chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề này- Dudouis nói.
Rồi ông cầm bao thuốc và cái tẩu lên kiểm tra. Đột nhiên, ông gào lên:
- Ối trời, hắn ta còn tự cho mình là Henry Clay nữa cơ đấy!
Vừa nói ông vừa bắt chước điệu bộ của người hút thuốc, giơ tẩu lên ngang tai rồi lấy tay mân mê cái tẩu rất mạnh. Không ngờ cái tẩu đột nhiên tách ra làm mấy mảnh, khiến mọi người đều phải kêu lên ngạc nhiên, khi thấy lẫn trong đám thuốc rơi xuống đấy là một mảnh giấy nhỏ được vê lại như mội que tăm. Đó là một bức thư với chữ viết rất đẹp của phụ nữ. Bức thư viết:
"Mar đã chuyển đến chỗ khác. Tám phần mười đã xây xong. Dùng chân đạp lên thì bản kim loại sẽ mở ra. Mỗi ngày từ 12 đến 16, H-P sẽ đợi ngài. Xin cho biết địa điểm càng nhanh càng tối. Mọi việc xin hãy yên tâm vì đã có tôi lo liệu cho ngài"
- Mọi việc thế là đã rõ. Maria chính là hòm chở phạm nhân, bên trong có tám ngăn; còn từ 12 đến 16 cho thấy thời gian từ trưa đến bốn giờ chiều.
- Nhưng H-P là ai vậy?
- H-P theo như tôi suy đoán thì chính là xe hơi, H-P, horse power, mọi người vẫn dùng mã lực để nói về động cơ xe còn gì. Ví dụ như hai mươi tư H-P có nghĩa là một chiếc xe có tốc độ chạy như xe với hai mươi tư sức ngựa- Nói rồi ông đứng phắt dậy hỏi:
- Giờ chắc phạm nhận đã ăn trưa xong rồi?
- Vâng.
- Từ chi tiết cái tẩu xì gà chưa bị tháo ra có thể thấy, hắn ta còn chưa kịp đọc bức thư này. Có lẽ hắn vừa nhận được.
- Làm sao nó vào đây được nhỉ?
- Cái đó làm sao ta biết được? Chắc chắn không phải được trộn trong món ăn, có thể là được giấu trong bánh hoặc là củ khoai tây.
- Điều đó thật vô lý. Chúng ta đồng ý cho hắn ta mua đồ ăn ngoài cũng chỉ là một cái bẫy mà thôi và tất cả đã được kiểm tra cẩn thận và không thấy có bất cứ dấu hiệu khả nghi nào.
- Tối nay chúng ta sẽ biết về bức thư trả lời của Arséne Lupin. Bây giờ chúng ta cứ giữ không cho hắn ta vào phòng giam đã. Tôi sẽ mang bức thư cho quan tòa xem, nếu ông ấy cũng đồng ý với quan điểm của tôi thì chúng ta sẽ lập tức dàn dựng lại mọi việc như cũ, để nguyên vẹn điếu xì gà cùng với bức thư vào ngăn kéo. Quan trọng là không được để hắn ta nghi ngờ.
Đêm hôm đó, Dudouis cùng với thám tử Dieuzy quay trở lại văn phòng nhà ngục cao cấp, họ thực sự cảm thấy tò mò. Trên lò sưởi ở góc phòng là ba cái đĩa trống.
- Hắn đã ăn bữa tối rồi à?
- Vâng- Viên gác ngục trả lời.
- Dieuzy, hãy chịu khó tách từng sợi mì và bánh ra kiểm tra xem sao!... Không có gì sao?
- Hoàn toàn không có gì cả, thưa ngài.
Dudouis bèn tiếng lại gần kiểm tra đĩa, đĩa thìa mà Arséne Lupin đã dùng trong bữa ăn. Cuối cùng, ông cầm chiếc dao lên ngắm nghía. Con dao có đoạn chuôi tròn khá to và rất cứng. Ông bèn thử bẻ sang bên trái, rồi lại bẻ sang bên phải. Đúng lúc đó cái chuôi dao rời ra, và bên trong vừa đủ nhét một mẩu giấy nhỏ.
- Chà chà, Arséne Lupin hóa ra cũng không tinh ranh lắm nhỉ? Dù vậy, chúng ta cũng nên tận dụng thời gian. Dieuzy, anh hãy đến quán ăn ngay để điều tra!- Nói rồi ông ta mở thư ra đọc:
"Có anh lo liệu thì tôi thấy vô cùng yên tâm. Hãy nhắn với H-P mỗi ngày mở một đoạn đằng sau, tôi sẽ chạy lại. Bạn thân mến, không lâu nữa chúng ta có thể gặp lại nhau rồi."
- Cuối cùng thì vụ án đã rõ ràng rồi đấy- Dudouis tự mãn xoa xoa tay với vẻ đắc ý lắm- Có lẽ chúng ta cứ giả vờ giúp hắn vượt ngục thành công để làm một mẻ nhanh gọn chứ nhỉ?
- Nhưng nếu hắn trốn thoát khỏi tay ngài thì sao?- Viên gác ngục lên tiếng.
- Đến lúc đó, tôi sẽ điều động lực lượng cảnh sát đến mức cao nhất có thể. Nếu hắn giở trò thật, thì còn đồng bọn. Tên trùm không mở miệng, chúng ta buộc phải cạy miệng mấy tên tay chân thôi.
Nhưng sự thật là khó có thể moi được điều gì từ Arséne Lupin. Phiên tòa suốt mấy tháng qua hầu như không có tiến triển gì, dù quan tòa Jules Bouvier đã tốn không ít công sức. Mỗi phiên tòa đều chỉ là những cuộc đối thoại nhàm chán giữa quan tòa và luật sư, cho dù vị luật sư ấy là Maitre Danval, một người nổi tiếng về tài hùng biện. Nhưng điều đó không giúp ông ta hiểu Arséne Lupin hơn bất kỳ một luật sư nào.
Cứ xét xử mãi, nên cuối cùng thì Arséne Lupin cũng quyết định lễ phép nói ra một điều gì đó:
- Vâng thưa quan tòa đáng kính, vụ cướp ở ngân hàng Credit Lyonnais và đường Rue de Babylone, vụ in tiền giả, gian lận tiền bảo hiểm, những vụ mất cắp ở Chateuaux, Gouret, Imblevain, Groseillers, Malaquis đều do một tay tôi làm cả.
- Vậy anh có thể đưa ra vài lời giải thích chứ...
- Không cần đâu, tôi nhận hết, tất cả là do tôi. Ngài có nghĩ ra thêm tội gì nữa tôi cũng vẫn nhận hết.
Những phiên tòa nhàm chán kiểu đó khiến cho chính quan tòa cũng phải thấy ớn đến tận cổ. Nhưng khi hai mẩu giấy được đưa đến tay Bouvier như những chứng cứ, thì mọi chuyện có vẻ đã thay đổi. Thế là mỗi ngày Arséne Lupin đều phải lên xe hòm kín bưng cùng những tù nhân khác, từ nhà tù đến tòa, rồi lại trở về lúc ba hoặc bốn giờ chiều, mệt nhoài người.
Nhưng đến một ngày nọ tình hình trở nên khác hẳn. Trong khi những phạm nhân khác chưa được xét xử xong, thì người ta quyết định áp giải một mình Arséne Lupin về trước. Và thế là chiếc xe rộng thênh thang giờ chỉ còn mỗi một phạm nhân Arséne Lupin.
Arséne Lupin bị dẫn vào ngăn thứ ba ở bên phải, rồi chiếc xe từ từ lăn bánh. Ở bên trong, anh ta nhận thấy mình đang đi qua bến cảng Quai de I'Horloge, rồi Tòa án tối cao. Chờ đến lúc xe đi đến giữa cầu Pont Saint- Michel, anh ta giơ chân đạp ba phát vào một tấm kim loại và trong giây lát, nó bật tung ra. Anh ta phát hiện, mình đang ở giữa hai hàng bánh xe.
Arséne Lupin đứng im và cẩn thận quan sát xung quanh. Chiếc xe đang đi với tốc độ trung bình trên cầu, hướng về phía đại lộ Siant Michel. Khi đi đến đầu đại lộ Siant Germain, chiếc xe đột ngột dừng lại. Một người kéo chiếc xe chở hàng hóa nào đó đột nhiên gục ngã, khiến cho giao thông ùn tắc hoàn toàn với tầng tầng lớp lớp xe cộ chen lấn nhau.
Arséne Lupin thò đầu ra, nhìn thấy một chiếc xe chở phạm nhân khác đỗ ngay bên cạnh chiếc xe chở mình. Anh ta hơi ngẩng đầu lên, nhanh nhẹn đạp một chân lên một chiếc nan hoa, rồi nhẹ nhàng nhảy xuống đất.
Một người lái xe ngựa nhìn thấy Arséne Lupin thì cười ầm lên trước bộ dạng của anh, đến nỗi một lúc sau mới nghĩ đến việc hô hoán báo cho mọi người biết. Nhưng giao thông lúc đó đang trở lại bình thường nên tiếng gao thét của bác phu xe bị chìm nghỉm trong đám âm thanh hỗn loạn trên đường. Và lúc ấy thì Arséne Lupin của chúng ta đã đi được khá xa.
Lúc đầu, Arséne Lupin chạy một đoạn rồi dừng lại bên lề trái, liếc nhìn xung quanh như thể xem xét tình hình. Con người ta, nếu không biết tiếp theo mình sẽ đi đâu, thì thường dừng lại quan sát như thế. Một lúc sau, như thể đã xác định được rõ hướng đi, Arséne Lupin cho tay vào túi quần và ung dung rảo bước trên đường như một người bộ hành bình thường đang đi dạo phố.
Lúc đó đang mùa thu, tiết trời thật đẹp với những cơn gió nhẹ phảng phất, khiến cho các quán cafe lúc nào cũng đông khách. Arséne Lupin chọn một chỗ ngoài trời rồi ngồi xuống.
Anh ta gọi một cốc rượu và một bao thuốc rồi thảnh thơi ngồi thưởng thức từng ngụm rượu ngon, nhẹ nhàng châm thuốc hút. Cuối cùng, anh đứng dậy và bảo người phục vụ rằng mình muốn gặp chủ cửa hàng.
Gặp ông chủ cửa hàng, Arséne Lupin cố tình nói khá to để tất cả mọi người ở đó đều nghe thấy:
- Thưa ngài, thành thật xin lỗi vì tôi đã quên mang ví tiền theo. Có lẽ tên tuổi tôi ngài cũng biết rõ rồi. Vì thế, xin hãy tin tôi và cho tôi khất vài ngày! Tôi là Arséne Lupin!
Ông chủ cửa hàng ngó Arséne Lupin từ đầu đến chân, nghĩ bụng cái anh chàng này đang muốn đùa cợt gì đây. Nhưng Arséne Lupin lại vẫn nói to:
- Tôi chính là Arséne Lupin, bị giam ở nhà tù cao cấp và đang trên đường vượt ngục. Tôi tin rằng nghe thấy cái tên này thì ngài sẽ cảm thấy tin tưởng hơn.
Nói rồi không chờ ông ta có dịp nói lại, Arséne Lupin nhanh chóng bước đi trong tiếng cười rền vang của thực khách xung quanh.
Anh đi qua con đường Rue Soufflot, rẽ xuống đường Rue Saint- Jacques, cứ chậm rãi vừa hút thuốc vừa dạo bước suốt dọc đường và nhìn ngắm các cửa hàng. Khi đến đại lộ Port- Royal, anh xác định phương hướng, rồi nhằm thẳng vào nhà tù đặc biệt mà tiến bước. Chỉ một lúc sau anh đã đứng trước những bức tường cao lạnh lẽo của nhà tù. Đến bên chòi gác anh bỏ mũ xuống, rồi hỏi:
- Đây có đúng là nhà ngục đặc biệt không anh?
- Đúng vậy!
- Tôi phải trở về buồng giam của tôi. Chiếc xe áp tải phạm nhận đã để tôi lạc trên đường, nhưng tôi thì không muốn lợi dụng việc đó...
Người gác cổng nghĩ đây là thằng điên bèn mắng:
- Hãy biến đi chỗ khác ngay!
- Đừng tức giận! Nếu tôi không đi qua cánh cửa này, thì tôi... về làm sao được. Nếu anh cứ ngăn cản Arséne Lupin như thế, thì anh có chịu trách nhiệm được không?
- Arséne Lupin? Anh đang nói cái gì vậy?
- Xin lỗi, nhưng giờ thì tôi không mang theo danh thiếp!- Vừa nói Arséne Lupin vừa giả bộ tìm kiếm trên người.
Người gác cổng trợn trừng mắt nhìn người đang nói với mình từ đầu đến chân rồi mặt trắng bệch, anh vội ấn nút mở cửa và cánh cửa sắt nặng nề mở ra.
Mấy phút sau, viên cai ngục lao vào phòng với vẻ mặt giả vờ tức giận, khiến Arséne Lupin cười phá lên:
- Thôi đi, thưa ngài cai ngục kính mến! Các ngài cố tình đưa một mình tôi lên xe, rồi dàn dựng ra vở kịch tắc đường vụng về và nghĩ rằng tôi sẽ chay ngay đến với tay chân của tôi sao? Ôi, có đến hai mươi thám tử bí mật đang theo dõi từng bước đi của tôi, người thì đi bộ, người thì đạp xe, người thì lái ôtô... Thế thì sớm muộn gì tôi cũng rơi vào tay họ mà thôi. Đến lúc đó, tôi đừng có mong mà thoát được! Thưa ngài, có lẽ đây chính là điều các ngài không mong muốn đấy nhỉ?- Arséne Lupin nhún vai nói tiếp- Ngài giúp tôi một việc được chứ? Đừng để họ cứ phải chăm sóc cho tôi mãi thế. Đến lúc tôi mà muốn đi thì chẳng cần ai giúp cả đâu.
Hai ngày sau, tờ Echo de France (được coi là cơ quan phát ngôn chính thức cho những vụ việc liên quan đến Lupin) đăng tải đầy đủ cuộc vượt ngục đầy cố gắng của anh, từ chi tiết những bức thư với cô bạn gái bí mật, cách thức trao đổi thư từ, sự sắp xếp của cảnh sát, cuộc dạo bước trên đại lộ Saint Michel, đến câu chuyện nợ tiền ở quán cafe Soufflot; tất tần tật từ đầu đến cuối. Và độc giả cũng biết rằng, thám tử Dieuzy đã tiến hành thẩm vấn người phục vụ ở quán cafe, nhưng rốt cuộc chẳng thu được gì.
Chắc chắn Arséne Lupin sẽ tiếp tục vượt ngục, giờ đây không ai tỏ ý nghi ngờ về điều đó nữa. Hơn nữa, chính anh ta cũng đã có những tuyên bố chính thức về điểm này. Đó là vào ngày thứ hai sau khi Arséne Lupin vượt ngục trở về, quan tòa Bouvier với vẻ châm biếm cười cái sự mệt mỏi vô ích của anh suốt mấy ngày qua. Còn Arséne Lupin thì lạnh lùng nhìn ông ta mà nói:
- Xin ngài nghe cho rõ, ngài có tin không thì tùy, nhưng lần vượt ngục không thành công này là một bước trong kế hoạch vượt ngục của tôi.
- Tôi không hiểu điểm này lắm!- Bouvier cười nhạt.
- Ngài không cần hiểu làm gì!
Tờ Echo de France đăng tải rất đầy đủ những vụ thẩm vấtn Lupin. Có lúc ngài quan tòa cứ hỏi đi hỏi lại một vấn đề khiến Arséne Lupin mất hiết kiên nhẫn kêu lên:
- Thôi đi, thôi đi! Sao các ngài cứ phải hỏi lắm thế, trong khi chúng chẳng còn có ý nghĩa gì nữa!
- Cái gì không còn ý nghĩa gì nữa?
- Đúng thế đấy. Cứ thế này thì đến lúc mở phiên tòa, tôi sẽ không đến nữa đâu.
- Anh...
- Đúng, tôi đã quyết định rồi, cho dù các ngài có nói gì đi nữa!
Arséne Lupin đã nói quá thẳng thắn, khiến cho tất cả mọi người đều không biết đằng nào mà lần. Quan tòa và cảnh sát đều cảm thấy đau đầu, và mọi việc đúng là rồi như tơ vò. Nội tình nhất định là có uẩn khúc, nhưng uẩn khúc là gì thì chỉ có Lupin mới hiểu được mà thôi. Đã vậy, thì anh ta còn để lộ kế hoạch bỏ trốn ra làm gì? Tất cả những việc này rốt cuộc là thế nào?
Cảnh sát cuối cùng quyết định chuyển địa điểm giam giữ: họ đưa anh đến một buồng giam ở dưới lòng đất. Thẩm phán cho rằng việc thẩm tra đã kết thúc và nên chuyển sang tòa án hình sự để tiếp tục giải quyết.
Mọi việc cứ như vậy, rồi hai tháng trôi qua. Giờ Arséne Lupin chỉ biết suốt ngày nằm khoèo trong phòng và nhìn lên tường; việc chuyển phòng giam hình như khiến anh nản chí đôi chút. Anh từ chối gặp luật sư của mình, và cũng không nói chuyện phiếm với người gác ngục như trước nữa.
Nửa tháng trước khi phiên tòa bắt đầu, Arséne Lupin lấy lại được tinh thần. Anh kêu ca phòng giam quá ẩm thấp, đòi được cho phép ra ngoài hít thở không khí trong lành mỗi sáng. Đương nhiên, bên cạnh luôn có hai cảnh sát đi kèm.
Trong khi ấy thì công chúng vẫn tỏ ra hết sức tò mò. Mỗi ngày, họ đều chờ đợi tin tức Arséne Lupin vượt ngục xuất hiện trên mặt báo. Bởi vì với họ, Arséne Lupin là hiện thân cho sự gan dạ, sự lạc quan, tài xuất quỉ nhập thần và trí thông minh tột bậc. Sớm muộn gì rồi cũng có ngày đó, đấy là chắc chắn. Cứ mỗi sáng, đến cảnh sát trưởng cũng phải lên tiếng hỏi thư ký của mình:
- Sao? Hắn vẫn chưa vượt ngục à?
- Vẫn chưa, thưa ngài.
- Vậy phải chờ ngài mai thôi.
Một ngày trước khi phiên tòa bắt đầu, một người ăn vận sang trọng như một quí ông, đến tòa soạn báo Grand Journal yêu cầu gặp người phụ trách trang Tư pháp. Lúc giáp mặt, người ngày đưa ra một tấm danh thiếp rồi nhanh chóng rời đi. Trên tấm danh thiếp viết:
"Arséne Lupin không bao giờ nuốt lời hứa."
Và phiên tòa đã khai mạc trong bối cảnh như thế!
Phiên tòa đầy ắp người. Ai cũng muốn tận mắt nhìn thấy Arséne Lupin lừng danh, xem anh đùa giỡn quan tòa như thế nào. Tất cả, từ luật sư đến thẩm phán, từ nhà báo đến những nhân vật nổi tiếng, các nam thanh nữ tú, mọi tầng lớp ở Paris dường như đang tập trung hết ở đây.
Bên ngoài trời đang mưa, không khí thật ảm đạm. Quan tòa ra lệnh cho cảnh sát dẫn Arséne Lupin vào, và hầu như khó có thể nhìn rõ mặt anh. Nhưng thái độ mệt mỏi trên mặt và thư thế ngồi rệu rã của anh khiến tất cả mọi người đều có cảm giác bất an. Luật sư của anh, giờ đã chuyển sang là thư ký của ngài Maitre Danval, bởi vì ông ta cho rằng biện hộ cho người như anh là một điều xỉ nhục. Đã có vài lần ông ta muốn bắt chuyện với anh, nhưng anh chẳng thèm gạt cũng như lắc đầu, chỉ ngồi câm như hến mà thôi.
Sau lời buộc tội của thư ký phiên tòa, quan tòa bắt đầu hỏi:
- Mời bị cáo đứng dậy! Hãy khai tên tuổi và nghề nghiệp của anh!
Nhưng Arséne Lupin vẫn ngồi im, quan tòa đành nhắc lại:
- Tên của anh? Tôi đang hỏi anh đấy!
Rồi một âm thanh mệt mỏi lè nhè cất lên:
- Desire Baudru.
Phiên tòa rộ lên những tiếng xì xầm to nhỏ. Vị quan tòa hỏi:
- Desire Baudru? Thôi được rồi, lại là một cái tên giả như bao cái tên khác anh đưa ra! Chắc phải đến tám cái tên rồi đấy, và cũng do anh vừa nghĩ ra phải không? Giờ với tư cách là quan tòa, tôi quyết định gọi anh là Arséne Lupin, cái tên này với mọi người dễ nhớ hơn- Rồi quan tòa liếc nhìn biên bản vụ án, nói tiếp- Trên thực tế thì dù đã có nhiều cuộc điều tra, nhưng vẫn chưa có kết luận rõ ràng nào về thân phận của anh cả. Anh có một vị trí khác đặc biệt trong xã hội hiện đại chúng ta bây giờ đấy, vì sở hữu một quá khứ không ai biết cả. Chúng tôi không biết, rốt cuộc anh là ai, từ đâu đến, tuổi thơ anh sống ở đâu; tóm lại là không biết gì hết. Ba năm trước, anh đột nhiên xuất hiện và trở thành Arséne Lupin, một người kỳ lạ với đặc điểm thông minh lanh lợi nhưng cũng vô cùng xảo quyệt ranh ma. Từ trước đến nay, những thông tin chúng tôi có về anh, nói thật ra chỉ là những giả thiết mà thôi. Tám năm trước, người trợ lý tên là Rostat, làm việc với ảo thuật gia Dickson, có nhiều khả năng chính là Arséne Lupin. Sáu năm trước, sinh viên người Nga thường qua lại phòng thí nghiệm của giáo sư Altier và bệnh viện St. Louis, người từng đưa ra những ý kiến về virus và bệnh ngoài da khiến các giáo sư phải kinh ngạc, cũng có thể là Arséne Lupin. Tương tự, Arséne Lupin cũng có thể là huấn luyện viên môn võ Nhật Bản của một phòng tập mở ra ở Paris, khi Nhu đạo chưa mấy thịnh hành. Tôi cũng tin rằng, Arséne Lupin chính là vận động viên đua xe đạt giải thưởng lớn mười ngàn frăng ở cuộc thi năm nọ, người sau đó bặt vô âm tín. Cũng có thể Arséne Lupin chính là người đã cứu nhiều nạn nhân ở vụ cháy Charity Bazaar, rồi sau đó lột sạch tài sản của họ- Im lặng một lát rồi quan tòa tiếp tục- Vì thế, cho dù anh định đấu với tất cả xã hội thì cho đến nay, xem ra những hành động của anh chỉ là những động tác chuẩn bị rèn luyện cẩn thận mà thôi. Anh có sẵn sàng thừa nhận tất cả những sự thực mà tòa vừa cung cấp không?
Trong khi quan tòa đang chú tâm đọc lên những lời buộc tội dài dằng dặc, thì bị cáo chỉ ngồi nhấc chân lên hạ chân xuống, lắc lư người, lưng hơi cúi và tay thì thõng xuống đất. Lúc đó trời đã sáng hơn, và mọi người ngạc nhiên phát hiện ra rằng Arséne Lupin gầy một cách kinh ngạc. Hai má anh hóp lại, xương nổi lên, mặt tối sầm với chi chít những đốm đỏ trên mặt, thêm vào đó là những sợi râu mọc lưa thưa không theo hàng lối nào cả. Cuộc sống trong tù đã khiến anh trở nên già nua và tiều tụy. Khuôn mặt thông minh, tràn đầy sức sống cùng với vẻ lịch lãm của các bức ảnh đăng trên báo dường như không còn dấu vết nào nữa.
Xem ra, anh chẳng hề biết có người đang thẩm vấn mình. Quan tòa lặp lại lần nữa; đến lúc này anh mới ngước nhìn lên một cách mệt mỏi, đôi mắt như đang suy nghĩ gì đó và miệng thì lầm bầm rất khó nghe:
- Desire Baudru.
Quan tòa nhếch mép cười:
- Cái cách khôn lỏi anh đang dùng không đáng nhận được sự tán thưởng của tôi, Arsène Lupin ạ. Anh có thể giả điên, giả câm, tùy anh, nhưng dù anh có giở trò gì thì phiên tòa này cũng sẽ đi đến cuối cùng.
Tiếp đó, quan tòa tiếp tục liệt kê ra hàng loạt vụ cướp giật, rồi thỉnh thoảng lại hỏi lại Arséne Lupin. Nhưng bị cáo chỉ ậm ừ trong miệng, hoặc nhất quyết không nói gì cả.
Đến màn mời nhân chứng ra trước tòa, có những lời khai thật vớ vẫn, nhưng cũng có những lời khai rất có giá trị. Cuối cùng, như những lần trước, chúng mâu thuẫn với nhau một cách khó hiểu. Không khí phiên tòa trở nên vô cùng căng thẳng và buồn chán. Nhưng đúng lúc đó, thám tử Ganimard được gọi ra làm chứng, và cả phiên tòa như được thổi một luồng không khí khác.
Tuy vậy Ganimard đã khiến tất cả đều thất vọng, trông ông rất không tự nhiên. Cho dù đã chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong đời, nhưng lần này ông ta để lộ điều gì đó không bình thường. Thỉnh thoảng ông lại liếc nhìn bị cáo, với ánh mắt rõ ràng pha chút bất an. Nhưng ông vẫn đặt hai tay lên tay vịn chiếc ghế dành cho nhân chứng và thuật lại những chi tiết có liên quan đến ông, cả việc ông đã theo dõi bị cáo ở Châu Âu thế nào, chạy sang Châu Mỹ ra sao... Các thính giả có mặt ở phiên tòa lắng nghe một cách say mê như cố nuốt từng lời. Nhưng khi kể sắp hết sự tình, thì ông tỏ ra ngập ngừng trong việc nhắc lại chi tiết ông tìm đến gặp Arséne Lupin ở trong tù. Ông lắp bắp hai lần, và tỏ rõ vẻ do dự, luống cuống.
Rõ ràng ông ta đang suy nghĩ việc gì đó trong đầu. Quan tòa bèn gợi ý:
- Nếu ngài cảm thấy mệt, thì tốt nhất hãy tạm dừng việc làm chứng ở đây.
- Không, không. Chỉ là tôi...- Ông ngập ngừng một chút, chăm chú nhìn Arséne Lupin, rồi nói tiếp- Tôi muốn xin tòa cho tôi được tận mắt nhìn gần bị cáo một lần. Có một điểm nghi vấn mà tôi nhất định phải làm rõ.
Được sự đồng ý của quan tòa, Ganimard tiến sát lại gần bị cáo nhìn ngó hồi lâu. Rồi ông trở lại vị trí của nhân chứng, dõng dạc nói:
- Thưa quan tòa, tôi có thể khẳng định rằng người ngồi đây không phải là Arséne Lupin!
Ngay lập tức một bầu không khí trầm lặng đến tuyết đối bao trùm lên cả phiên tòa. Quan tòa bối rối hỏi lớn:
- Anh đang nói cái quái gì vậy? Anh có điên không?
- Mới nhìn thì mọi người sẽ thấy là khá giống điều này tôi không thể phủ nhận. Nhưng nếu nhìn kỹ thì ngài sẽ thấy cái mũi, cái miệng, tóc, da... đều không phải. Tóm lại, người này không phải Arséne Lupin. Hãy nhìn mắt của anh ta, mắt của Arséne Lupin liệu có mệt mỏi, khờ dại như vậy không?- Ganimard cố trấn tĩnh rồi nói.
- Chờ đã, chờ đã! Anh hãy giải thích cho cẩn thận! Vậy theo anh, việc gì đang xảy ra?
- Cái đó làm sao tôi biết được! Đương nhiên là hắn ta đã tìm ra một người thế thân cho mình để tham gia phiên tòa hôm nay. Hoặc cũng có thể tên này cùng hội cùng thuyền với hắn!
Phiên tòa rộ lên những tiếng reo thích thú, tiếng cười có, ngạc nhiên có. Quan tòa vội vàng tuyên bố tạm nghỉ và ra lệnh cho mời thẩm phán tòa sơ thẩm, trưởng cai ngục, cũng như hai nhân viên gác ngục khác ra làm chứng.
Thẩm phán tòa sơ thẩm Bouvier và trưởng cái ngục đến, cũng đồng ý rằng tên này chỉ có vài nét giống Arséne Lupin.
- Vậy- Quan tòa hỏi gần như gào lên- Người này rốt cuộc là ai? Hắn ta từ đâu đến, rồi sao lại ngồi vào vị trí của bị cáo thế kia?
Hai nhân viên canh giữ ở nhà ngục đặc biệt được mời đến. Không ngờ họ đều xác nhận, người này chính là người họ đã thay nhau canh gác. Điều này khiến tất cả người tham gia phiên tòa đều cảm thấy mông lung vô cùng.
Quan tòa chỉ biết thở dài.
Nhưng một nhân viên canh gác nói tiếp:
- Đúng mà, không thể sai được, xem ra đây chính là hắn!
- Cái gì! Xem ra?
- Vâng, các ngài nên biết rằng tôi hầu như chưa đối diện với hắn ta lần nào. Tôi trực ca đêm mà. Hai tháng nay, hắn chỉ biết quay vào tường ngủ thôi.
- Trước đó thì sao?
- Trước đấy thì hắn không ở phòng giam số 24!
Trưởng giám ngục vội vàng giải thích:
- Sau vụ vượt ngục lần trước, chúng tôi đã đổi phòng giam của hắn.
- Vậy hai tháng qua, anh có gặp hắn lần nào không?
- Không, đợt vừa qua hắn có vẻ khá an phận.
- Và người này, giờ lại không phải là người mà ngài đã bắt?
- Đúng vậy.
- Vậy anh ta là ai?
- Tôi không thể trả lời được.
- Xem ra bị cáo đã vượt ngục từ hai tháng trước rồi! Ngài giải thích thế nào về việc này?
- Việc đó không thể xảy ra được.
- Tóm lại sự việc là như thế nào?- Quan tòa hầu như đã không còn chút hi vọng nữa, ông bèn quay ra nói với bị cáo một cách nhã nhặn- Bị cáo, xin hãy giải thích cho tôi biết, anh đã vào ngục lúc nào và như thế nào?
Cách nói uyển chuyển đó của quan tòa dường như đã được xua tan tâm lý cảnh giác của bị cáo, và hình như anh ta đã có ý muốn trả lời. Cuối cùng, sau một hồi tra hỏi công phu, chúng ta cũng biết được đại thể sự việc đã xảy ra như sau: Hai tháng trước, anh ta bị bắt vào một trại giam giữ và phải ở đó một đêm cộng với một buổi sáng. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng trong người anh chỉ có một chút tiền, và thế là họ quyết định thả. Nhưng đúng lúc anh ta đi đến cổng, chuẩn bị ra ngoài thì có hai viên cảnh sát ập tới nắm lấy tay, kéo lên xe chở phạm nhân. Thế là anh ta bị nhốt vào buồng ngục số 24. Ở trong đó cũng thoải mái, ăn uống tốt, điều kiện ngủ tốt, vì thế anh ta mới không nói năng gì cả.
Những lời khai của anh ta xem ra có độ tin cậy cao, nó khiến mọi người dự phiên tòa cười rầm rầm. Trong hoàn cảnh đó, quan tòa không có cách nào khác là tuyên bố tạm ngừng xét xử vụ án để chờ điều tra thêm.
Kết quả điều tra cho thấy, tám tháng trước có một người tên là Desire Baudru bị bắt, giam giữ đúng một đêm và được thả lúc hai giờ chiều hôm sau. Đó chính là lúc Arséne Lupin kết thúc buổi thẩm vấn cuối cùng và bị áp giải lên xe.
Lẽ nào hai tên cảnh sát đã đẫn độ nhầm người? Có lẽ họ bị nhầm vì bề ngoài của hai kẻ kia khá giống nhau chăng? Nếu cho rằng họ chính là chân tay giúp đỡ Arséne Lupin thì cũng vô lý, bởi nghĩ đi nghĩ lại, liệu họ có dám làm thế hay không?
Kế hoạch hoán đổi liệu có phải đã được trù liệu trước? Đừng nói đến hoàn cảnh lúc đó của Arsène Lupin không cho phép. Và nếu vậy thì Desire cũng phải là kẻ tòng phạm, anh ta bị bắt chính là bước đầu tiên. Nhưng nếu thế thì kế hoạch này hoàn toàn được xây dựng từ những chi tiết ngẫu nhiên đến kỳ lạ, đầu tiên là Arséne Lupin tình cờ gặp Disire, tiếp nữa lại gặp được hai tên cảnh sát gà mờ... Những chi tiết tình cờ ấy liệu có thể tạo nên một màn kịch hoàn hảo như vậy được không?
Rồi người ta điều tra lý lịch và dữ liệu nhân thân của Desire; thông tin của anh ta không có trong dữ liệu tội phạm, nhưng hành tung của anh ta lại rất rõ ràng. Ở khu vực như Courbevoie, Asnieres, Levallois đều có người quen biết Desire. Bình thường anh ta sinh sống bằng nghề ăn xin, tối đến ngủ ở trong những cái lều cũ nát gần cổng thành Ternes, nơi những tay vô công rồi nghề thường tụ tập. Nhưng một năm trước, anh ta đột nhiên biến mất.
Lẽ nào Arséne Lupin đã thuê anh ta? Điều này thật khó tin, vì lúc đó chúng ta còn chưa biết có vụ vượt ngục này. Mọi việc càng điều tra càng trở nên mơ hồ. Một số bên liên quan đã đưa ra đến gần hai chục giả thiết, tuy nhiên không có giả thiết nào đứng vững cả. Nhưng có một điểm mọi người đều đồng thuận là Arséne Lupin sẽ vượt ngục, và sẽ dùng cách mà không ai ngờ đến. Không chỉ công chúng và những người làm trong nghề pháp luật đều công nhận rằng, Arséne Lupin đã phải dày công chuẩn bị sắp đặt bao chi tiết nhỏ bé và phức tạp để dựng lên một câu chuyện ly kỳ, không hề có một sai sót nào. Cuối cùng, nó chứng minh cho câu khẳng định của anh ta: "Tôi chắc chắn sẽ không ra tòa".
Hơn một tháng đã trôi qua, mà kết quả điều tra vẫn không có gì tiến triển. Không thể cứ giam giữ Baudru như thế mãi được. Vụ án về anh ta sẽ thế nào đây, tội của anh ta là gì? Thẩm phán tòa sơ thẩm cũng đã ký giấy phóng thích, nhưng cục trưởng Cục bảo an vẫn hạ lệnh tiếp tục theo dõi sát sao hành tung của Baudru.
Và đó là ý kiến của Ganimard. Ông cho rằng, nếu Baudru không phải là tay chân của Arséne Lupin thì cũng không thể ngẫu nhiên mà tham dự vào vụ án này; anh ta chính là một công cụ đắc lực mà Arséne Lupin đã sử dụng. Nếu thả Baudru ra rồi, cảnh sát có thể dựa vào đó mà lần ra Arséne Lupin, hoặc chí ít cũng là đồng bọn của anh ta.
Ganimard cẩn thận bố trí hai trợ thủ của mình là Folefant và Dieuzy bán sát Baudru. Và vào một buổi sáng tháng Giêng sương mù dày đặc, Baudru bước ra khỏi tù.
Baudru có vẻ rất bối rối, cứ như không biết mình nên làm gì. Anh ta đi qua nhà ngục, tiến đến đường Rue Saint- Jacques, rồi sà vào một cửa hàng bán đồ cũ, cởi áo khoắc và áo gi-lê ra, bán chiếc áo gi-lê, rồi lại choàng áo khoác vào, tiếp tục đi về phía trước.
Anh ta đi qua cây cầu bắc qua sông Seine, đến bến xe buýt Chatelet, vừa đúng lúc có một chiếc đến. Anh ta định lên xe, nhưng trên xe đã chật cứng người. Nhân viên soát vé bảo anh hãy mua vé trước, rồi chờ chuyến sau. Mua vé rồi anh ta lại thẫn thờ bước trở lại nhà xe chờ.
Lúc ấy, Ganimard ra hiệu cho hai trợ thủ của mình, một mặt vẫn quan sát nhà chờ xe, một mặt nói với họ:
- Hãy đi chặn một, mà không, hai xe lại, như thế sẽ tốt hơn. Một người trong hai anh hãy theo tôi, chúng ta phải bám sát anh chàng kia.
Hai trợ thủ hành động theo lời dặn dò của Ganimard. Nhưng mãi mà không thấy Baudru đi ra. Ganimard tiến lại của nhà chờ ngó vào: bên trong không một bóng người!
- Mình thật ngu ngốc!- Ganimard lẩm bẩm- Sao lại có thể quên mất cửa sau được nhỉ?
Quả thật, bên trong nhà chờ xe là một con đường tắt dẫn ra đường Saint-Martin. Ganimard vội lao ra hướng ấy, vẫn còn kịp nhìn thấy Baubru đang đi trên một chiếc xe buýt hướng về phía vườn thú. Chiếc xe sắp rẽ qua đường Rivoli. Thấy vậy, Ganimard lập tức đuổi theo và lên xe. Nhưng như thế thì ông đã để rơi hai trợ thủ của mình tụt lại. Giờ đây, chỉ mình ông đang bám theo Baubru mà thôi.
Ganimard cảm thấy bực tức vô cùng, suýt chút nữa đã lao đến cho Baudru một trận. Không ngờ anh ta trông lù đù như vậy mà có thể giở ra chiêu này, khiến ông và trợ thủ của mình phải tách ra.
Ông nhìn chằm chằm vào Baudru, anh ta đang ngồi ở cuối xe gà gật, đầu lắc lư từ bên trái sang bên phải, trông hệt một thằng ngốc. Không, tên này không thể trở thành đối thủ của Ganimard này được; tất cả chỉ là ngẫu nhiên mà thôi.
Baubru xuống xe ở trạm Carrefour des Galeries- Lafayette và lên xe điện hướng đến LaMuette. Xe chạy qua đại lộ Haussmann và Victor Hugo, mãi đến bến cuối ở La Muette, thì Baudru mới xuống xe. Rồi anh ta ung dung tiến vào vườn Boi de Boulogne.
Anh ta cứ đi hết con đường này sang con đường khác, anh ta đang tìm cái gì vậy? Anh ta có mục tiêu nào không?
Cứ lòng vòng như vậy trong một tiếng liền, Baubru cuối cùng cũng tỏ ra mệt mỏi, nhìn thấy chiếc ghế tựa anh ta bèn ngồi phịch xuống. Nơi này cách Auteuil không xa, chỗ Baubru ngồi bị một bụi cây che lấp, xung quanh cũng không có ai cả. Ganimard không thể kiên nhẫn hơn được nữa, ông quyết định tiến đến bắt chuyện với Baubru.
Ông tiến lên, ngồi xuống cạnh Baubru, châm một điếu thuốc rồi lấy ba toong vẽ mấy vòng lên đất. Cuối cùng, ông nói khẽ khẽ:
- Một ngày lạnh đấy!
Yên lặng. Đột nhiên một tràng cười bật lên sảng khoái như của một đứa trẻ không thể kìm nén được. Nó khiến Ganimard lạnh hết cả sống lưng. Ông thấy tóc mình như đang dựng đứng cả lên. Tiếng cười ấy thật vô cùng quen thuộc.
Ông tóm lấy và xốc mạnh cổ áo của người đang ngồi cạnh mình lên và nhìn kỹ hơn cả lúc ở tòa. Quả nhiên, đây không phải là người ông nhìn thấy lúc trước nữa. Vẫn là người đó, nhưng đồng thời cũng là một người khác: một con người đang... hiện nguyên hình.
Không cần phải ngụy trang gì nữa, cuối cùng Ganimard cũng thấy trước mặt mình là một người tràn đầy sức sống, không hề gầy còm, hay hình dáng kỳ dị. Đây là mắt, mũi, miệng của người khác, một người tràn đầy sức lực, một người toát ra vẻ thông minh, trẻ trung và tinh nghịch.
- Arséne Lupin? Arséne Lupin!- Ganimard lắp bắp.
Nói rồi Ganimard chồm nắm chặt lấy cổ áo của Arséne Lupin, chực quật anh ta xuống đất. Tuy đã năm mươi tuổi, nhưng sức khỏe của ông khó có người bì kịp; còn tình hình của đối thủ dường như không được tốt lắm. Hơn nữa, nếu chiêu này chính xác thì đó chính là tuyệt chiêu...
Trận đánh nhanh chóng phân định được thắng bại: Arséne Lupin gần như không hề động thủ; nhưng chính lúc Ganimard tấn công, thì cũng là lúc tay ông phải buông ngay ra. Ông chỉ kịp cảm thấy tay phải của mình như tê dại đi, rồi thõng xuống không động đậy gì được nữa.
- Nếu ngài đi học Nhu đạo ở đường Orfevres ven sông, thì ngài sẽ biết tiếng Nhật gọi chiêu này là "uli-shi-ghi"- Arséne Lupin lạnh lùng tiếp- Tôi chỉ cần dùng lực thêm chút nữa là tay ngài sẽ gãy đôi đấy. Dù gì thì cũng là do ngài tự làm tự chịu thôi. Sao, tôi nể ngài là bạn cũ nên không muốn lừa dối ngài, còn ngài thì lại phản bội niềm tin của tôi như thế? Không hay ho chút nào... Ngài còn muốn nói gì nữa không?
Ganimard không nói được câu nào. Lần vượt ngục này của Arséne Lupin không phải do một tay ông dựng lên sao? Nếu không phải do những lời làm chứng vớ vẩn của ông trên tòa thì quan tòa sẽ không bị mê muội như thế. Ông cảm thấy trong cuộc đời thám tử của mình, cuộc vượt ngục này của Arséne Lupin chính là một nỗi nhục quá lớn. Bất giác nước mắt ông trào ra.
- Này, này, Ganimard, ngài đừng có nghĩ quẩn chứ! Lúc đó nếu ngài không nói thì tôi cũng sẽ sắp xếp để người khác nói thôi. Lẽ nào tôi lại để mặc cho anh bạn Baudru bị luận tội.
- Nói vậy- Ganimard lẩm bẩm- Người trên tòa là anh và người đang ở trước mặt tôi cũng là anh?
- Là tôi, chỉ một mình tôi mà thôi!
- Làm gì có chuyện đó!
- Ôi dào, không có gì to tát đâu. Vị quan tòa đáng kính chả đã nói rồi sao, chuẩn bị trong hai mươi năm thì việc gì làm chả xong.
Anh nên biết rằng, tôi theo giáo sư Altier ở bệnh viện St.Louis mười tám tháng liền, không phải để học y khoa. Lúc đó tôi đã nghĩ, một người được xưng danh là Arséne Lupin thì phải có bề ngoài và thân phận khác mọi người. Làm thế nào với bề ngoài đây? Cài này chúng ta có thể thêm bớt tùy ý, tôi biết phải bôi chất nào lên da để da trông như bị phù thũng; chất nào khiến bạn trông như người da đỏ; chất nào ảnh hưởng đến việc sinh trưởng của râu, lông; một loại khác lại có thể làm giọng của bạn thay đổi. Cộng với chế độ ăn uống kiêng khem ở nhà ngục và luyện tập không ngừng, để tạo ra bộ mặt quái dị, dáng ngồi siêu vẹo và cuối cùng là bôi lên mắt một chất để tạo nên hiệu ứng lờ đờ mệt mỏi như ngài đã biết. Quả nhiên tôi đã thành công.
- Nhưng hai nhân viên gác ngục...
- Mọi sự thay đổi diễn ra dần dần, mỗi ngày một chút nên họ không nhận ra.
- Còn Desire Baubru thì sao?
- Baubru là một người thật như chúng ta, đó là một anh chàng đáng thương mà tôi gặp năm ngoái, anh ta quả thật có vài nét giống tôi. Lúc gặp nhau, tôi đã có dự cảm rằng việc bị bắt có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì thế tôi đã dẫn anh ta đến một chỗ an toàn, quan sát những điểm giống và khác nhau giữa hai chúng tôi, để tôi có thể điều chính.
Vào một buổi tối, bạn tôi đưa anh ta vào trạm bắt giữ, và sắp xếp để thời gian phóng thích anh ta trùng với thời gian tôi từ đó đi ra vì đây là điểm có thể điều tra ra dễ dàng. Ngài nên chú ý rằng, việc anh ta bị nhốt ở đó một đêm là rất cần thiết, nếu không quan tòa sẽ phải điều tra kỹ xem tôi thật ra là ai. Nhưng chỉ cần đưa Baudru quí giá ra trước mặt họ thì họ sẽ giữ chặt lấy anh ta, thậm chí không nghĩ đến những chi tiết phi thực tế trong kế tráo đổi. Thà tin rằng câu chuyện thần thoại đó có thật, còn hơn là tin Arséne Lupin đã thay đổi dung nhan.
- Đúng, đúng vậy!- Ganimard ngượng ngùng thừa nhận.
- Huống hồ- Arséne Lupin cao giọng- Trong tay tôi còn một lá bài nữa, lá bài chủ chốt đấy: đó là mọi người đều đang đợi tôi vượt ngục. Tôi và giới tư pháp các ngài đang chơi một trò chơi đầy kích thích và thứ được đem ra đánh cược chính là tự do của tôi. Ngài và các đồng sự của ngài ở sở dĩ thua đau trong canh bạc này, bởi các ngài nghĩ khi tôi đã thề là sẽ vượt ngục là tôi sẽ vừa bốc phét vừa thực hiện. Arséne Lupin này làm gì có chuyện ngồi im chờ chết như vậy? Lần trước, các ngài đã bị thua trong vụ nam tước Cahorn, nên các ngài cứ suốt ngày tâm niệm thế này: "Arséne Lupin đã nói là sẽ vượt ngục thì chắc chắn có lý do của hắn". Nhưng sau đó thế nào, chắc ngài đã rõ. Muốn vượt ngục thì trước đó phải làm cho việc đó trở nên hiển nhiên, trở thành một việc không còn gì phải nghi ngờ nữa; nó rõ ràng như mặt trăng mặt trời thay phiên nhau trên bầu trời vậy. Cuối cùng, tôi đã thành công vì tạo được dư luận như vậy. Ai ai cũng nói là Arséne Lupin sẽ vượt ngục, Arséne Lupin sẽ không ra tòa. Khi ngài đứng ra nói, đây không phải là Arséne Lupin thì tất cả mọi người lập tức đều tin như vậy; đây là điều hợp với logic thông thường. Nếu lúc ấy có ai đó lại nói: "Nhỡ người này vẫn là Arséne Lupin thì sao?", thì tôi coi như xong. Lúc ngài và các cộng sự của ngài vây lấy tôi mà ngắm nghía nếu trong đầu họ không có sẵn ấn tượng về câu khẳng định "Đây không phải là Arséne Lupin" của ngài, mà vẫn còn nghĩ đến khả năng tôi là Arséne Lupin thì dù tôi có nhọc công chuẩn bị thế nào, vẫn sẽ bị lỡ dở mà thôi. Nhưng tôi tin chắc không thể có gì xảy ra, bởi vì xét cả trên mặt logic học hay tâm lý học thì không ai có thể nghĩ theo hướng đó.- Arséne Lupin giơ tay ra nắm lấy tay của Ganimard.- Ôi ông bạn, ngài có thừa nhận, rằng một tuần sau khi chúng ta gặp nhau ở nhà tù đặc biệt, thì ngài đã ở nhà chờ tôi vào lúc bốn giờ chiều đúng như tôi nói không?
- Vậy, điếu xì gà của anh là...- Ganimard cố tình lờ đi không trả lời câu hỏi.
- Là tôi tự bỏ tiền ra đấy. Cả con dao cũng vậy!
- Còn hai bức thư?
- Đều do tôi viết.
- Còn người phụ nữa bí mật nọ?
- Cô ấy là tôi mà tôi là cô ấy! Tôi có thể bắt chước mọi kiểu chữ!
Ganimard im lặng một lúc, rồi lẩn thẩn hỏi tiếp:
- Lúc hoàn trả dữ liệu hình dáng của Baudru về lại hồ sơ gốc, tại sao không ai phát hiện ra những ghi chép về anh ta giống hết... Arséne Lupin?
- Vì không có thông tin nào về Arséne Lupin cả!
- Không thể có chuyện đó.
- Vì những ghi chép về tôi toàn là giả mà thôi. Điểm này tôi đã sớm trù liệu rồi. Hệ thống xác định Bertillon có hai phần, một phần là do dữ liệu nhìn... bằng mắt, anh cũng biết là không hoàn toàn tin tưởng được, một phần là dữ liệu thực tế: độ dài của đầu, của ngón tay, của tai... Mớ dữ liệu này chẳng có gì hay để... chơi cả.
- Vậy anh làm thế nào?
- Thế thì phải mất tiền thôi chứ sao! Trước khi tôi từ Châu Mỹ trở về, một người bạn của tôi đã bỏ tiền ra mua chuộc một nhân viên quản lý dữ liệu ở đó để nhờ anh ta điền thông tin sai về tôi. Như thế thì sau này thẻ của Baudru làm sao mà giống thẻ của tôi được?
Không khí lại chìm trong im lặng, rồi Ganimard nói tiếp:
- Vậy giờ anh định làm gì?
- Bây giờ ư? Bây giờ tôi sẽ nghỉ ngơi thoải mái thôi, để béo tốt hơn một chút. Để biến thành Baudru hay một người nào khác, bạn phải thay đổi hết, từ quần áo đến tính cách, vẻ ngoài, giọng nói, ánh mắt, chữ viết... đều phải đổi theo. Điều này đương nhiên có cảm giác rất đã. Nhưng có lúc sẽ biến thành một người mà chính ta cũng không nhận ra nữa; lúc đó thì thật là bi kịch. Nói thật, trước đây tôi đã trải qua cảm giác đánh mất bản thân mình, tôi phải làm lại tôi, tìm lại chính con người mình.
Rồi anh đi đi lại lại mấy bước. Ánh mặt trời cũng chỉ còn le lói ở phía xa. Anh dừng lại và nói với Ganimard:
- Tôi nghĩ, chúng ta đã nói chuyện xong xuôi rồi nhỉ?
- Chưa xong đâu, tôi rất muốn biết anh có tiết lộ bí mật về vụ vượt ngục này không? Bao gồm cả chi tiết về tôi?
- Ôi sẽ không ai biết, người mà cảnh sát thả ra lại chính là Arséne Lupin cả, không ai! Tôi muốn có gì đó bí ẩn ở xung quanh mình nên sẽ không công khai chuyện này đâu. Vì thế ngài không phải lo lắng gì cả. Chúng ta tạm biệt nhau ở đây thôi. Tối nay, tôi còn có hẹn ăn tối ở trong thành phố nữa, nếu chậm sẽ không kịp thay quần áo mất.
- Tôi cứ nghĩ anh định nghỉ ngơi thật sự cơ đấy!
- Có những mối quan hệ không thể lờ đi được! Tôi sẽ bắt đầu nghỉ ngơi từ ngày mai.
- Anh đi ăn ở đâu?
- Đại sứ quán Anh quốc!
__________________
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro