Ham doi tau san bay Hoa Ky trong WW2 3
Đặt hàng: 7 tháng 8 năm 1942
Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu New York
Đặt lườn: 1 tháng 5 năm 1944
Hạ thủy: 13 tháng 10 năm 1945
Đỡ đầu: Clarence Cannon
Hoạt động: 25 tháng 9 năm 1950
7 tháng 3 năm 1959
Bị mất: Bị đánh chìm có chủ đích tạo dãi san hô nhân tạo ngày 17 tháng 5 năm 2006
Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952
Tàu sân bay (CV): 30 tháng 6 năm 1976
Ngừng hoạt động: 2 tháng 1 năm 1957
30 tháng 9 năm 1975
Xóa đăng bạ: 25 tháng 7 năm 1989
Tặng thưởng: 7 Ngôi sao Chiến đấu
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 30.800 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 275,5 m (904 ft) chung
Mạn thuyền: 39,3 m (129 ft) mực nước
Tầm nước: 9,3 m (30 ft 6 in) tiêu chuẩn
Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Westinghouse
8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)
4 trục
công suất 150.000 mã lực (110 MW)
Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
Tầm xa: 28.000 km ở tốc độ 28 km/h
(15.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)
Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38
Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)
sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)
Máy bay: 90-100 máy bay
USS Oriskany (CV/CVA-34) - có tên lóng là Mighty O, The O-boat và Toasted O - là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex của Hải quân Hoa Kỳ được hoàn tất trong hoặc ngay sau Thế Chiến II. Đây là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ mang cái tên này, được đặt theo một trận đánh trong cuộc Chiến tranh dành Độc Lập. Lịch sử của Oriskany khác biệt đáng kể so với các tàu chị em cùng lớp với nó. Nguyên được thiết kế như một tàu sân bay lớp Essex "thân dài" (mà một số tác giả xem là một lớp riêng biệt dưới tên gọi lớp Ticonderoga), việc chế tạo nó bị hoãn lại vào năm 1947. Cuối cùng nó cũng được đưa ra hoạt động vào năm 1950 sau khi được cải biến theo một thiết kế nâng cấp có tên gọi SCB-27, và trở thành khuôn mẫu cho việc hiện đại hóa 14 chiếc tàu sân bay cùng lớp khác.Nó hoạt động chủ yếu tại Thái Bình Dương đến tận những năm 1970, được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến đấu trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm năm ngôi sao nữa trong Chiến tranh Việt Nam. Vào năm 1966, một trong những đám cháy trên tàu tồi tệ nhất sau Thế Chiến II đã bùng phát trên chiếc Oriskany khi một pháo sáng magnesium tình cờ bị kích nổ, khiến 44 người bị thiệt mạng.Cuộc đời sau khi kết thúc phục vụ của Oriskany cũng khác biệt một cách thú vị. Được cho ngừng hoạt động vào năm 1976, thoạt tiên nó được bán để tháo dỡ vào năm 1995, nhưng được sở hữu lại vào năm 1997. Đến năm 2004 người ta quyết định đánh chìm nó như một dãi san hô nhân tạo ngoài khơi bờ biển Florida trong vịnh Mexico. Sau khi xem xét những vấn đề môi trường và các sửa chữa nhằm loại bỏ các chất độc hại, nó được cẩn thận cho đánh chìm vào tháng 5 năm 2006, ở một tư thế cân bằng và tại một độ sâu mà những người bơi lặn có thể tham quan. Oriskany trở thành dãi san hô nhân tạo lớn nhất thế giới.[1]
Thiết kế và chế tạo
Cái tên "Oriskany" ban đầu được đặt cho khung tàu CV-18, nhưng nó được đổi tên thành "Wasp" khi được đặt lườn vào năm 1942. CV-34 được đặt lườn vào ngày 1 tháng 5 năm 1944 tại xưởng hải quân New York, được hạ thủy vào ngày 13 tháng 10 năm 1945, được đỡ đầu bởi Bà Clarence Cannon. Tuy nhiên công việc trang bị con tàu bị ngưng lại vào ngày 12 tháng 8 năm 1947, khi con tàu đã hoàn thành được khoảng 85%. Oriskany được thiết kế lại như một chiếc kiểu mẫu cho chương trình hiện đại hóa SCB-27. Để có thể mang được những chiếc máy bay phản lực thế hệ mới, cấu trúc của sàn đáp được gia cố chắc chắn hơn; thang nâng mạnh hơn, máy phóng thủy lực mạnh mẻ hơn, và các dây hãm mới được trang bị. Đảo cấu trúc thượng tầng cũng được thiết kế lại, tháo bỏ các tháp súng phòng không, và các tấm đắp được bổ sung vào thân tàu. Những tấm đắp này làm tăng bề mặt thiết diện ngang của con tàu, cải thiện độ nổi và độ ổn định, đồng thời gia tăng thể tích khả dụng bên trong; và trong trường hợp của chiếc Oriskany, sự gia tăng này giúp nó mang thêm nhiều nhiên liệu cho máy bay. Tuy nhiên, các cải tiến này ảnh hưởng lớn đến con tàu do đặt quá nhiều trọng lượng ở phần bên trên so với thiết kế ban đầu. Oriskany được đưa vào hoạt động ngày 25 tháng 9 năm 1950 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá hải quân Percy H. Lyon.
Lịch sử hoạt động
1950 - 1956
Oriskany rời New York ngày 6 tháng 12 năm 1950 tiến hành nhiệm vụ chuẩn nhận hoạt động trên tàu sân bay ngoài khơi Jacksonville, Florida, trước khi bước vào kỳ nghỉ Giáng Sinh tại Căn cứ Hải quân Newport ở Newport, Rhode Island. Nó tiếp tục các hoạt động ngoài khơi Jacksonville cho đến ngày 11 tháng 1 năm 1951, khi nó nhận lên tàu Liên đội Không lực 1 và tiến hành chạy thử máy ngoài khơi vịnh Guantánamo, Cuba. Sau khi thực hiện các cải biến lớn tại xưởng hải quân New York từ ngày 6 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4, nó lại nhận lên tàu Liên đội Không lực 4 để tiến hành huấn luyện ngoài khơi Jacksonville, rồi rời Newport ngày 15 tháng 5 năm 1951 hướng đến Địa Trung Hải nơi nó được bố trí hoạt động cùng Đệ Lục hạm đội.Thực hiện chuyến đi qua các cảng tại Ý và Pháp để đi đến các cảng ở Hy lạp và Thổ Nhĩ Kỳ trước khi đi đến bờ biển Tripoli, Oriskany quay trở về Quonset Point, Rhode Island vào ngày 4 tháng 10 năm 1951. Nó đi vào vịnh Gravesend, New York vào ngày 6 tháng 11 năm 1951 để cất bỏ đạn dược và tháo bỏ cột buồm nhằm cho phép nó có thể đi qua được bên dưới cầu East River để đến xưởng hải quân New York. Công việc đại tu bao gồm việc trang bị một sàn đáp, hệ thống lái và cầu tàu mới. Công việc hoàn tất vào ngày 15 tháng 5 năm 1952 và chiếc tàu sân bay khởi hành vào ngày hôm sau để nhận tiếp liệu vũ khí đạn dược tại Căn cứ Hải quân Norfolk, Virginia từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 5. Sau đó nó lên đường gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương, di chuyển ngang qua vịnh Guantanamo, Rio de Janeiro, mũi Horn, Valparaíso và Lima trước khi đến San Diego, California vào ngày 21 tháng 7.Sau các hoạt động chuẩn nhận tàu sân bay cho Liên đội Không lực 102, Oriskany rời San Diego vào ngày 15 tháng 9 năm 1952 hỗ trợ cho lực lượng Liên Hiệp Quốc tại Triều Tiên. Nó đi đến Yokosuka vào ngày 17 tháng 10 rồi gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 ngoài khơi bờ biển Triều Tiên vào ngày 31 tháng 10. Máy bay của nó bắt đầu ném bom và bắn phá các con đường giao thông tiếp tế của đối phương, phối hợp các đợt ném bom cùng các cuộc pháo kích mặt đất dọc theo bờ biển. Phi công của nó đã bắn rơi hai chiếc máy bay phản lực MiG-15 do Xô Viết chế tạo và gây hư hại cho một chiếc thứ ba vào ngày 18 tháng 11.Các cuộc không kích được tiếp tục cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1953, tấn công các vị trí phòng không đối phương, doanh trại và kho tàng dọc theo mặt trận chính. Sau một đợt bảo trì ngắn tại Nhật Bản, Oriskany quay trở lại khu vực chiến sự vào ngày 1 tháng 3 năm 1953. Nó tiếp tục các hoạt động tác chiến cho đến ngày 29 tháng 3, ghé qua Hong Kong, rồi lại tiếp tục hoạt động tác chiến vào ngày 8 tháng 4. Nó rời khu vực bờ biển Triều Tiên vào ngày 22 tháng 4, ghé qua Yokosuka, rồi lên đường hướng về San Diego vào ngày 2 tháng 5 và đến nơi vào ngày 18 tháng 5.Sau các đợt huấn luyện sẵn sàng chiến đấu ngoài khơi bờ biển California, Oriskany rời San Francisco vào ngày 14 tháng 9 để hỗ trợ cho Đệ Thất hạm đội giám sát sự ngưng bắn đầy khó khăn tại Triều Tiên, và đi đến Yokosuka vào ngày 15 tháng 10. Từ đây, nó tuần tra dọc theo biển Nhật Bản, biển Đông Trung Quốc và khu vực Philippines. Sau khi hỗ trợ trên không cho cuộc đổ bộ tập trận của lực lượng Thủy quân Lục chiến tại Iwo Jima, chiếc tàu sân bay quay trở về San Diego vào ngày 22 tháng 4 năm 1954. Nó vào xưởng hải quân San Francisco để tiến hành đại tu; và sau khi công việc này kết thúc vào ngày 22 tháng 10 nó lại ra khơi thực hiện đợt đầu tiên trong một loạt các đợt hoạt động duyên hải.Oriskany đi đến Yokosuka vào ngày 2 tháng 4 năm 1955, và hoạt động cùng lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh trải dài từ Nhật Bản và Okinawa đến tận Philippines. Đợt bố trí này kết thúc vào ngày 7 tháng 9 và chiếc tàu sân bay quay trở về Alameda, California vào ngày 21 tháng 9. Nó tuần tra dọc theo bờ biển California khi đang chuẩn nhận hoạt động trên tàu sân bay cho các phi công thuộc Liên đội Không lực 9, sau đó khởi hành từ Alameda vào ngày 11 tháng 2 năm 1956 cho một đợt bố trí hoạt động khác tại khu vực tây Thái Bình Dương.
1957 - 1969
Oriskany quay trở về San Francisco vào ngày 13 tháng 6 và đi vào xưởng tàu để được cải biến hiện đại hóa theo chương trình SCB-125A vào ngày 1 tháng 10. Oriskany được trang bị một sàn đáp chéo góc mới, thang nâng bên mạn tàu phía sau, mở rộng thang nâng phía trước và một mũi tàu kín chống bão. Máy phóng hơi nước mới mạnh mẻ thay thế cho máy phóng thủy lực cũ; và lớp lót sàn đáp bằng gỗ được thay thế bằng nhôm.Oriskany được cho hoạt động trở lại tại Xưởng hải quân San Francisco vào ngày 7 tháng 3 năm 1959 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân James Mahan Wright. Bốn ngày sau, nó khởi hành để chạy thử máy ngoài khơi San Diego cùng với Liên đội Không quân Tàu sân bay 14 trên tàu. Các hoạt động ngoài khơi bờ Tây Hoa Kỳ được tiếp tục cho đến ngày 14 tháng 5 năm 1960, khi nó được bố trí đến Tây Thái Bình Dương, và quay về San Diego vào ngày 15 tháng 12. Nó trở vào Xưởng hải quân San Francisco vào ngày 30 tháng 3 năm 1961 cho một đợt đại tu kéo dài năm tháng, bao gồm việc trang bị Hệ thống Dữ liệu Chiến thuật Hải quân (NTDS) lần đầu tiên trên một tàu sân bay.
Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex
Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia
Đặt lườn: 10 tháng 5 năm 1943
Hạ thủy: 28 tháng 6 năm 1944
Đỡ đầu: Rose Gillette
Hoạt động: 9 tháng 10 năm 1944
1 tháng 7 năm 1953
Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952
Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 31 tháng 3 năm 1959
Ngừng hoạt động: 25 tháng 2 năm 1948
13 tháng 2 năm 1969
Xóa đăng bạ: 1 tháng 6 năm 1973
Tình trạng: Bị bán để tháo dỡ vào năm 1975
Tặng thưởng: 3 Ngôi sao Chiến đấu
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 271 m (888 ft)
Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung
Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải
Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Westinghouse
8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)
4 trục
công suất 150.000 mã lực (110 MW)
Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h
(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)
Quân số: 3.448
Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38
4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38
8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56
46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78
Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)
sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)
vách ngăn 100 mm (4 inch)
40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy
60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái
Máy bay: 90-100 máy bay
1 × thang nâng cạnh sàn đáp
2 × thang nâng giữa
USS Randolph (CV/CVA/CVS-15) là một trong số 24 chiếc tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, vốn được đặt theo tên của Peyton Randolph, Chủ tịch của Quốc hội Lục địa thứ nhất, Randolph được đưa vào hoạt động tháng 10 năm 1944, và đã hoạt động trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến đấu. Được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, vào đầu những năm 1950, nó được cho hiện đại hóa và đưa vào hoạt động trở lại như một tàu sân bay tấn công (CVA), và sau cùng là một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Trong lượt hoạt động thứ hai này, nó hoạt động chủ yếu tại Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và vùng biển Caribbe. Vào đầu những năm 1960, nó đã phục vụ như tàu thu hồi cho hai chuyến bay vào vũ trụ của Chương trình Mercury, kể cả chuyến bay vào quỹ đạo trái đất đầu tiên của nhà du hành John Glenn.Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1969 và được bán để tháo dỡ vào năm 1975.
Thiết kế và chế tạo
Randolph là một tàu sân bay dạng thân dài trong lớp Essex. Nó được đặt lườn vào ngày 10 tháng 5 năm 1943, tại xưởng tàu Newport News Shipbuilding ở Newport News, Virginia; được hạ thủy vào ngày 28 tháng 6 năm 1944, được đỡ đầu bởi bà Rose Gillette, phu nhân của Nghị sĩ bang Iowa Guy M. Gillette. Randolph được đưa vào hoạt động ngày 9 tháng 10 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Felix Locke Baker.
Lịch sử hoạt động
Thế Chiến II
Sau chuyến đi chạy thử máy ngoài khơi vùng biển Trinidad, Randolph lên đường hướng về kênh đào Panama rồi đi sang Thái Bình Dương. Vào ngày 31 tháng 12 năm 1944, nó đi đến San Francisco nơi Liên đội Không quân 87 được tách ra, thay thế bởi Liên đội Không quân 12 được nhận lên tàu để hoạt động trong bốn tháng.Ngày 20 tháng 1 năm 1945, Randolph rời San Francisco hướng đến Ulithi, nơi nó lại khởi hành ngày 10 tháng 2 cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58. Nó tung ra các cuộc không kích vào các ngày 16 và 17 tháng 2 vào các sân bay tại Tokyo và nhà máy chế tạo động cơ Tachikawa. Ngày hôm sau, nó thực hiện cuộc không kích vào đảo Chichi Jima. Ngày 20 tháng 2, chiếc tàu sân bay thực hiện ba đợt càn quét hỗ trợ cho lực lượng mặt đất đang tấn công Iwo Jima và hai đợt khác nhắm vào Haha Jima. Trong bốn ngày tiếp theo sau, có thêm các đợt không kích khác nhắm vào Iwo Jima trong khi các phi vụ tuần tra chiến đấu trên không được thực hiện hầu như liên tục. Randolph còn thực hiện ba đợt tấn công các sân bay tại khu vực Tokyo và một đợt nhắm vào Hachijo Jima trong ngày 25 tháng 2 trước khi quay về Ulithi.Nhổ neo rời Ulithi ngày 11 tháng 3, trong khi tham gia Chiến dịch Tan 2, một máy bay tấn công cảm tử kamikaze Yokosuka P1Y1 "Frances" đã đâm trúng Randolph bên mạn phải con tàu ngay phía sau bên dưới sàn đáp, làm thiệt mạng 27 người (kể cả bốn người mất tích và năm người được chuyển sang tàu bệnh viện Relief nhưng qua đời sau đó) và làm bị thương 105 người khác. Sau khi được sửa chữa tại Ulithi, Randolph lại gia nhập lực lượng hoạt động tại Okinawa vào ngày 7 tháng 4. Các phi vụ tuần tra chiến đấu trên không được thực hiện liên tục cho đến ngày 14 tháng 4, khi các đợt tấn công được tung ra nhắm vào Okinawa, Ie Shima và đảo Kakeroma. Ngày hôm sau, một nhiệm vụ hỗ trợ bao gồm máy bay tiêm kích, máy bay ném bom và máy bay ném ngư lôi được tung ra nhắm vào Okinawa đồng thời với các cuộc càn quét vào một sân bay ở phía Nam đảo Kyūshū. Chịu đựng các đợt không kích liên tục từ ngày 17 tháng 4, Randolph phải liên tục thực hiện các phi vụ tuần tra chiến đấu trên không và hỗ trợ mặt đất cho đến hết tháng đó.Trong tháng 5, máy bay xuất phát từ các tàu sân bay đã tấn công dồn dập vào miền Nam Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, căn cứ hải quân và sân bay trên đảo Kikai-Amami và các sân bay ở Kyūshū. Trở thành soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 58 vào ngày 15 tháng 5, Randolph tiếp tục hỗ trợ cuộc tấn công chiếm đóng Okinawa cho đến ngày 29 tháng 5, khi nó rời chiến trường quay về Guam để đi đến Philippines.Trong hoạt động tiếp theo sau như là một thành phần của Đệ Tam hạm đội nổi tiếng dưới quyền chỉ huy của Đô đốc William Halsey, Randolph thực hiện một loạt các cuộc không kích dọc theo các hòn đảo chính quốc Nhật Bản. Cùng với Liên đội Không quân 16 thay thế cho Liên đội Không quân 12, vào ngày 10 tháng 7, chiếc tàu chiến tung ra tám cuộc không kích vào các sân bay trong khu vực Tokyo, chủ yếu ở bán đảo phía Đông vịnh Tokyo. Vào ngày 14 tháng 7, máy bay của nó tấn công các sân bay và tàu bè quanh khu vực eo biển Tsugaru. Trong cuộc tấn công này, hai trong số các phà trung chuyển tàu hỏa quan trọng giữa hai đảo Honshū và Hokkaidō bị đánh chìm và ba chiếc khác bị hư hại. Các cuộc tấn công lên các hòn đảo chính quốc Nhật được tiếp tục trong vài ngày sau đó, và đến ngày 18 tháng 7, chiếc thiết giáp hạm Nhật Nagato đang ngụy trang neo đậu dọc theo bến tàu trong Căn cứ Hải quân Yokosuka bị ném bom.Di chuyển về hướng Tây Nam, Randolph cùng các tàu sân bay khác ở ngoài khơi bờ biển Shikoku trong ngày 24 tháng 7 để tung ra một đợt càn quét các tàu bè trong vùnh biển nộ̣i địa Nhật Bản, trong đó chiếc tàu sân bay lai thiết giáp hạm Hyūga bị đánh hư hỏng nặng, cũng như các sân bay và các cơ sở công nghiệp ở Kyūshū, Honshū và Shikoku bị đánh phá nặng nề. Phi công của Randolph đã ước lượng trong thời gian từ ngày 10 đến ngày 25 tháng 7 là họ đã tiêu diệt được từ 25 đến 30 tàu bè đối phương với tải trọng cho đến 5.400 tấn và làm hư hỏng khoảng 35 đến 40 chiếc khác. Các đợt tấn công của Randolph được tiếp tục cho đến khi Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào buổi sáng ngày 15 tháng 8, lúc máy bay của nó đang tấn công sân bay Kisarazu cùng các cơ sở lân cận.
Sau chiến tranh
Sau khi chiến tranh kết thúc, Randolph quay trở về nhà. Băng ngang qua kênh đào Panama vào cuối tháng 9, nó về đến Norfolk vào ngày 15 tháng 10, nơi chiếc tàu được trang bị để thực hiện các hoạt động "Magic Carpet" (Chiếc Thảm Thần). Cho đến cuối năm, chiếc tàu sân bay thực hiện hai chuyến đi đến khu vực Địa Trung Hải để đưa các cựu quân nhân Mỹ quay trở về nhà. Sau đó, vào năm 1946, nó trở thành tàu huấn luyện cho quân nhân dự bị và học viên mới rồi thực hiện một chuyến đi đến Địa Trung Hải vào cuối năm đó. Sau một chuyến đi khác đến vùng biển Caribbe, nó nhận lên tàu các học viên mới vào đầu mùa Hè năm 1947 rồi thực hiện chuyến đi đến vùng biển Bắc Âu. Randolph được cho ngừng hoạt động để chuyển về lực lượng dự bị vào ngày 25 tháng 2 năm 1948, và neo đậu tại Philadelphia.Vào tháng 6 năm 1951, Randolph được cải biến theo chương trình hiện đại hóa SCB-27A tại Newport News. Để mang được các kiểu máy bay thế hệ mới, cấu trúc sàn đáp được gia cố. Nó được trang bị thang nâng chắc chắn hơn, máy phóng thủy lực mạnh hơn và một cơ cấu móc hãm hoàn toàn mới. Đảo cấu trúc thường tầng được chế tạo lại, các tháp súng phòng không được tháo bỏ, và các tấm thép được ghép thêm vào thân tàu. Được xếp lại lớp thành một tàu sân bay tấn công (CVA-15) vào ngày 1 tháng 10 năm 1952, Randolph được đưa ra hoạt động trở lại vào ngày 1 tháng 7 năm 1953. Sau chuyến đi thử máy ngoài khơi vịnh Guantanamo cùng Liên đội Không quân 10, nó nhận lên tàu Liên đội Không quân 14, rồi rời Norfolk lên đường sang Địa Trung Hải gia nhập Đệ Lục hạm đội vào ngày 3 tháng 2 năm 1954. Chiếc tàu sân bay hoạt động tại khu vực này trong 6 tháng, tham gia các cuộc tập trận cùng hạm đội và cùng với lực lượng Khối NATO trong giai đoạn 1954- 1955. Randolph quay trở về xưởng hải quân Norfolk ngày 18 tháng 6 năm 1955 để được trang bị một sàn đáp chéo góc cùng các cải tiến khác trong chương trình hiện đại hóa SCB-125.Rời xưởng tàu trong tháng 1 năm 1956, Randolph thực hiện các hoạt động thường xuyên ngoài khơi bờ Đông nước Mỹ trong sáu tháng tiếp theo, và là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hạmm đội Đại Tây Dương phóng một tên lửa điều khiển Regulus từ sàn đáp.Ngày 14 tháng 7 năm 1956, một lần nữa Randolph thực hiện chuyến đi đến phía Đông bắt đầu một đợt phục vụ kéo dài bảy tháng cùng Đệ Lục hạm đội. Khi Israel, Anh và Pháp tấn công Cộng hòa Ả-rập Thống nhất trong tháng 10 năm đó, Randolph đã ở trong tư thế sẵn sàng. Hoạt động gần khu vực kênh đào Suez, máy bay của nó tuần tra trên không và trinh sát hỗ trợ cho việc di tản công dân Mỹ khỏi Alexandria. Nó quay về Mỹ ngày 19 tháng 2 năm 1957.Sau một vài tháng hoạt động ngoài khơi bờ Đông nước Mỹ, Randolph lại được bố trí đến Địa Trung Hải vào ngày 1 tháng 7 năm 1957. Giữa tháng 8 và tháng 12 năm đó, khi mà sự xáo trộn chính trị tại Syria đe dọa đến tình hình tại Trung Đông vốn đang đầy mâu thuẩn, chiệc tàu sân bay thực hiện việc tuần tra trong khu vực Đông Địa Trung Hải. Quay trở về Hoa Kỳ ngày 24 tháng 2 năm 1958, chiếc tàu chiến lại thực hiện đợt hoạt động thứ 5 ở Địa Trung Hải từ ngày 2 tháng 9 năm 1958 đến ngày 12 tháng 3 năm 1959.
Chiến tranh chống tàu ngầm
Randolph được xếp lại lớp CVS-15 vào ngày 31 tháng 3 năm 1959, và thực hiện các hoạt động chống tàu ngầm ngoài khơi bờ Đông nước Mỹ trong suốt hai năm tiếp theo sau. Từ tháng 10 năm 1960 đến tháng 3 năm 1961, Randolph trải qua đợt nâng cấp SCB-144 như một phần của chương trình Phục hồi và Hiện đại hóa Hạm đội. Nó được trang bị kiểu sonar mới SQS-23 trước mũi cùng các màn hình cải tiến được trang bị cho Trung tâm Thông tin Hành quân.Vào tháng 4 năm 1961, Randolph hoạt động tại vùng biển Caribbe và phục vụ như là tàu thu hồi cho chuyến bay của nhà du hành vũ trụ Virgil Grissom, một chuyến bay có người lái thứ hai của Hoa Kỳ dưới quỹ đạo. Sang tháng 2 năm 1962, Randolph lại trở thành tàu thu hồi chủ yếu cho chuyến bay đầu tiên của Hoa Kỳ vào quỹ đạo vòng quanh trái đất cùng với nhà du hành John Glenn. Sau chuyến bay lịch sử ba vòng quanh trái đất, ông đã hạ cánh an toàn gần tàu khu trục Noa, rồi sau đó được chuyển bằng máy bay lên thẳng đến Randolph.Vào mùa Hè năm 1962, Randolph một lần nữa được bố trí đến khu vực Địa Trung Hải. Được điều quay trở về khu vực Tây Đại Tây Dương sau khi cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba nổ ra, nó hoạt động tại vùng biển Caribbe từ cuối tháng 10 đến tháng 11 năm đó. Ngày 27 tháng 10, Randolph cùng một nhóm mười một tàu khu trục Hải quân Mỹ đã bao vây tàu ngầm Xô Viết B-59 thuộc lớp Foxtrot có trang bị vũ khí hạt nhân gần Cuba và bắt đầu thả mìn sâu loại thực tập, với chủ định buộc chiếc tàu ngầm phải nổi lên mặt nước để nhận diện. Thuyền trưởng chiếc tàu ngầm, Valentin Grigorievitch Savitsky, tin là chiến tranh đã bắt đầu, đã ra lệnh chuẩn bị phóng trả đũa một ngư lôi trang bị đầu đạn hạt nhân, tuy nhiên thuyền phó Vasili Alexandrovich Arkhipov đã thuyết phục thuyền trưởng cho nổi con tàu lên mặt nước để chờ đợi chỉ thị của Moscow.Sau một đợt đại tu tại Norfolk, Randolph tiếp tục các hoạt động tại Đại Tây Dương. Trong vòng năm năm tiếp theo sau, nó thực hiện thêm hai chuyến đi đến Địa Trunbg Hải và một chuyến đến Bắc Âu, trong khi trải qua phần lớn thời gian hoạt động ngoài khơi bờ Đông và vùng biển Caribbe.
Kết thúc
Vào ngày 7 tháng 8 năm 1968, Bộ Quốc phòng thông báo sẽ cho ngừng hoạt động Randolph cùng 49 tàu chiến khác nhằm cắt giảm chi tiêu ngân sách của năm tài chính 1969. Chiếc tàu sân bay ngừng hoạt động vào ngày 13 tháng 2 năm 1969 tại xưởng hải quân Boston và được đưa về hạm đội dự bị tại xưởng hải quân Philadelphia. Randolph được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân ngày 1 tháng 6 năm 1973. Đến tháng 5 năm 1975, nó được bán cho Union Minerals & Alloys để tháo dỡ với giá 1.560.000 Đô la Mỹ. Randolph được kéo đến Kearny, New Jersey, và được tháo dỡ tại đây.
Lớp tàu: lớp tàu sân bay Ranger
Xưởng đóng tàu: Newport News Shipbuilding
Đặt hàng: 1 tháng 11 năm 1930
Đặt lườn: 26 tháng 9 năm 1931
Hạ thủy: 25 tháng 2 năm 1933
Hoạt động: 4 tháng 6 năm 1934
Bị mất: Bị bán để tháo dỡ ngày 28 tháng 1 năm 1947
Xóa đăng bạ: 29 tháng 10 năm 1946
Phần thưởng: Huy chương Phục vụ Phòng thủ Hoa Kỳ
Huy chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huy chương Chiến dịch Châu Âu-Bắc Phi- Trung Đông (2 sao)
Huy chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
Huy chương Chiến thắng Thế Chiến II
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 14.576 tấn (tiêu chuẩn)
17.577 tấn (chất đầy tải)
Chiều dài: 222,5 m (730 ft) (mực ngấn nước)
234,4 m (769 ft) (chung)
Mạn thuyền: 24,4 m (80 ft) (mực ngấn nước)
33,4 m (109 ft 5 in) (chung)
Tầm nước: 6,8 m (22 ft 5 in)
Lực đẩy: 6 × nồi hơi, turbine hơi nước
2 × trục, công suất 53.500 mã lực
Tốc độ: 54,2 km/h 29.25 knots
Tầm xa: 10.000 hải lý (18.520 km) ở tốc độ 15 knot (27,8 km/h)
Quân số: 2.148 sĩ quan và thủy thủ (1941)
Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1 [1]
Vũ khí: 8 × pháo 25 5 inch
40 × súng máy 0,50 inch
Vỏ giáp: 2 inch bên hông và vách ngăn
1 inch bên trên bánh lái
Máy bay: 86 máy bay; 3 × thang nâng
Chiếc USS Ranger (CV-4) là tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được thiết kế và chế tạo ngay từ ban đầu như là một tàu sân bay. Ranger là một tàu tương đối nhỏ, có kích thước và trọng lượng rẽ nước gần bằng chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hoa Kỳ là chiếc USS Langley (CV-1), hơn là những chiếc sau này. Một đảo kiến trúc thượng tầng không có trong thiết kế nguyên thủy, nhưng được thêm vào sau khi hoàn tất. Ranger là một trong số ba chiếc tàu sân bay trước chiến tranh còn sống sót qua Thế Chiến II, cho dù không giống như những chiếc kia, nó trãi qua phần lớn thời gian chiến tranh trong các vai trò không chiến đấu trực tiếp.
Mô tả
Chiếc Ranger được đặt lườn vào ngày 26 tháng 9 năm 1931 bởi Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia, được hạ thủy ngày 25 tháng 2 năm 1933, được đỡ đầu bởi bà Lou Henry Hoover (phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ), và được đưa vào hoạt động tại Xưởng Hải quân Norfolk ngày 4 tháng 6 năm 1934 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur L. Bristol.
Các hoạt động trước chiến tranh
Ranger thực hiện chuyến hải hành đầu tiên ngoài khơi mũi Henry vào ngày 6 tháng 8 năm 1934 và rời khỏi Norfolk vào ngày 17 tháng 8 trong một chuyến chạy thử huấn luyện đưa nó đến Rio de Janeiro, Buenos Aires và Montevideo. Nó quay trở về Norfolk ngày 4 tháng 10 cho các hoạt động ngoài khơi Virginia Capes cho đến ngày 28 tháng 3 năm 1935, rồi nó hướng sang Thái Bình Dương. Đi qua kênh đào Panama ngày 7 tháng 4, nó đến San Diego vào ngày 15 tháng 4. Trong gần bốn năm nó tham gia các cuộc tập trận hạm đội đến tận Hawaii, các hoạt động dọc theo bờ biển phía Tây, về phía Nam đến tận Callao, Peru, và về phía Bắc đến Seattle, Washington. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1939, nó rời San Diego để tham gia các hoạt động mùa Đông của hạm đội trong vùng Caribbe đặt căn cứ tại Guantánamo Bay, Cuba. Sau đó nó hướng lên phía Bắc về phía Norfolk, và đến nơi vào ngày 18 tháng 4.Ranger di chuyển dọc theo vùng biển phía Đông ngoài khơi Norfolk và vào vùng biển Caribbe. Vào mùa Thu năm 1939, nó thực hiện các chiến dịch Tuần tra Trung lập, hoạt động ngoài khơi Bermuda dọc theo các tuyến đường hàng hải khu vực giữa Đại tây Dương và dọc bờ Đông lên phía Bắc đến tận căn cứ Argentia, Newfoundland.
Thế Chiến II
1942
Vào tháng 12 năm 1941, nó đang trên đường quay về Norfolk sau chuyến tuần tra ngoài khơi kéo dài đến Port of Spain, Trinidad and Tobago, khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Đến Norfolk ngày 8 tháng 12, nó khởi hành ngày 21 tháng 12 để tuần tra Nam Đại tây Dương. Sau đó nó vào xưởng tàu Hải quân Norfolk vào ngày 22 tháng 3 năm 1942. Ranger là một trong số mười bốn tàu chiến được trang bị radar RCA CXAM-1.[1]Ranger trở thành kỳ hạm của Chuẩn Đô đốc A. B. Cook, Chỉ huy lực lượng tàu sân bay, Hạm đội Đại tây Dương Hoa Kỳ, cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1942, khi ông được thay thế bởi Chuẩn Đô đốc Ernest D. McWhorter, người cũng đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Ranger.Hướng đến căn cứ Quonset Point, Rhode Island, Ranger xếp lên tàu 68 chiếc máy bay tiêm kích Curtiss P-40 cùng nhân sự của Phi đội Cường kích 33 Lục quân, ra khơi ngày 22 tháng 4, và đưa phi đội này đến Accra, Gold Coast ở Châu Phi (Ghana) vào ngày 10 tháng 5. Nó quay trở về Quonset Point ngày 28 tháng 5, thực hiện một chuyến tuần tra đến Argentina, rồi lại khởi hành từ Newport ngày 1 tháng 7 với thêm 72 chiếc P-40 của Lục quân để đổ xuống Accra vào ngày 19 tháng 7. Cả hai nhóm phi đội này P-40 đều đang trên đường đến tăng cường cho Đội Phi Hổ tại Trung Quốc. Sau khi được gọi đến Trinidad, nó quay về Norfolk để tập trận tại chỗ cho đến ngày 1 tháng 10, rồi tiến hành huấn luyện tại Bermuda cùng bốn tàu sân bay hộ tống mới thuộc lớp Sangamon, những chiếc được cải biến từ tàu chở dầu để tăng cường sức mạnh không lực Hoa Kỳ tại Đại Tây Dương.
Vì là chiếc tàu sân bay lớn nhất của Hạm đội Đại Tây Dương, Ranger dẫn đầu Lực lượng Đặc nhiệm bao gồm nó và bốn tàu sân bay hộ tống. Chúng được giao nhiệm vụ dành ưu thế trên không trong Chiến dịch Torch tấn công Morocco đang dưới sự kiểm soát của Vichy, bắt đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 1942.Trời vẫn còn tối vào lúc 06 giờ 15 phút ngày hôm đó khi chiếc Ranger, đang ở vị trí cách Casablanca 48 km (30 dặm) về phía Tây Bắc, bắt đầu tung ra những chiếc máy bay hỗ trợ việc đổ bộ thực hiện tại ba điểm trên bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Phi (Chiến dịch Torch). Chín chiếc máy bay tiêm kích F4F Wildcat tấn công các sân bay Rabat và Rabat-Sale, các sở chỉ huy của không lực Pháp tại Morocco. Chúng đã tiêu diệt được bảy máy bay tại một sân bay và 14 máy bay ném bom tại sân bay còn lại mà không bị thiệt hại nào. Một phi vụ khác tiêu diệt bảy máy bay tại sân bay Port Lyautey. Một số máy bay của chiếc Ranger đã bắn phá bốn tàu khu trục tại cảng Casablanca, trong khi những chiếc khác bắn phá và ném bom các khẩu đội bờ biển lân cận.Chiếc tàu sân bay đã thực hiện 496 phi vụ chiến đấu trong chiến dịch kéo dài ba ngày này. Những máy bay của nó đã ném trúng đích hai quả bom lên chiếc tàu khu trục Albatros, đánh hỏng hoàn toàn phần trước của chiếc tàu và gây ra 300 thương vong. Họ cũng tấn công chiếc tàu tuần dương Pháp Primauguet khi nó rời khỏi cảng Casablanca và thả mìn sâu đến hai tàu ngầm trong khoảng cách nguy hiểm. Họ đã tiêu diệt hệ thống phòng thủ duyên hải và các khẩu đội pháo phòng không, phá hủy hơn 70 máy bay đối phương trên mặt đất, và bắn rơi 15 máy bay trong không chiến. Tuy nhiên, 16 máy bay của chiếc Ranger đã bị mất hay hư hỏng nặng không thể sửa chữa. Người ta cũng ước lượng có khoảng 21 xe tăng hạng nhẹ của đối phương cùng khoảng 86 xe vận tải quân sự (hầu hết là xe tải chở quân) bị phá hủy.Casablanca đầu hàng các lực lượng Mỹ vào ngày 11 tháng 11 năm 1942. Ranger rời bờ biển Morocco ngày 12 tháng 11, và quay trở về đến Norfolk, Virginia, vào ngày 23 tháng 11.
1943
Sau khi tiến hành huấn luyện tại vịnh Chesapeake, chiếc Ranger được đại tu tại xưởng hải quân Norfolk từ ngày 16 tháng 12 năm 1942 đến ngày 7 tháng 2 năm 1943. Sau đó nó vận chuyển 75 máy bay tiêm kích P-40L của Lục quân đến Châu Phi, đến Casablanca ngày 23 tháng 2. Sau đó nó tuần tra và huấn luyện các phi công dọc theo bờ biển New England về phía Bắc đến tận Halifax, Nova Scotia. Rời Halifax ngày 11 tháng 8, nó gia nhập Hạm đội Nhà Anh Quốc ở Scapa Flow, Scotland ngày 19 tháng 8, cùng nó tuần tra các ngã đường đến quần đảo Anh Quốc.Chiếc Ranger rời khỏi Scapa Flow cùng Hạm đội Nhà ngày 2 tháng 10 để tấn công các tàu bè Đức trong vùng biển Na Uy (chiến dịch Leader). Mục tiêu của lực lượng này là cảng Bodø của Na Uy. Lực lượng đặc nhiệm đến được vị trí xuất phát ngoài khơi Vestfjord trước bình minh ngày 4 tháng 10 mà hoàn toàn không bị phát hiện. Lúc 06 giờ 18 phút, chiếc Ranger tung ra 20 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless được hộ tống bởi tám máy bay tiêm kích Wildcat. Một nhóm máy bay ném bom tấn công chiếc tàu chở hàng 8.000 tấn La Plata, trong khi nhóm còn lại hướng lên phía Bắc tấn công một đoàn tàu vận tải Đức. Các máy bay ném bom đã làm hư hại nặng một tàu chở dầu tải trọng 10.000 tấn và một tàu vận chuyển nhỏ. Họ cũng đánh chìm hai trong số bốn tàu buôn nhỏ của Đức trong vịnh Bodö.Một nhóm tấn công thứ hai từ chiếc Ranger bao gồm mười chiếc máy bay ném bom-ngư lôi TBF Avenger và sáu chiếc Wildcat đã phá hủy một tàu chở hàng Đức và một tàu tuần duyên hải nhỏ, cũng như ném bom một tàu đổ bộ. Ba máy bay đã bị mất do hỏa lực phòng không. Chiều ngày 4 tháng 10, chiếc Ranger bị ba máy bay Đức phát hiện, nhưng lực lượng tuần tra chiến đấu trên không đã bắn rơi hai máy bay đối phương và đánh đuổi chiếc thứ ba.Chiếc Ranger quay về Scapa Flow vào ngày 6 tháng 10 năm 1943. Nó tuần tra cùng với Hải đội Tác chiến Anh Quốc 2 tại các vùng biển kéo dài đến tận Đông Bắc Iceland, sau đó nó rời Hvalfjord ngày 26 tháng 11, và đến Boston ngày 4 tháng 12 năm 1943.
1944-45
Vào ngày 3 tháng 1 năm 1944, Ranger trở thành một tàu sân bay huấn luyện ngoài khơi Quonset Point, Rhode Island. Nhiệm vụ này bị ngắt quãng vào ngày 20 tháng 4 khi nó đi đến đảo Staten để vận chuyển 76 máy bay tiêm kích P-38 Lightning cùng nhân sự của Lục quân, Không quân Mỹ và Hải quân Pháp đến Casablanca. Khởi hành ngày 24 tháng 4, nó đến Casablanca ngày 4 tháng 5. Những chiếc máy bay mới được dùng để thay thế những chiếc máy bay bị hư hại đã được đánh dấu sẽ được sửa chữa tại Hoa Kỳ, trong khi các hành khách quân sự lên tàu để được vận chuyển quay về New York.Trước chuyến đi quay về Hoa Kỳ của nó, Trưởng phòng Hành quân Hải quân là Đô đốc Admiral Ernest J. King đã có kế hoạch đại tu chiếc tàu sân bay bằng cách kéo dài thân tàu và lắp đặt các động cơ mới. Chiếc Ranger được thiết kế vào cuối những năm 1920, nên nhỏ hơn, chậm hơn, vỏ giáp yếu hơn và chở được ít máy bay và đạn dược hơn so với những tàu sân bay còn lại của hạm đội Mỹ. Đô đốc King mong muốn tiến hành việc nâng cấp, nhưng các sĩ quan tham mưu của ông đã chỉ ra rằng nguồn lực cần thiết để hoàn thành việc cải tạo này sẽ ảnh hưởng đến việc chế tạo và sửa chữa những tàu sân bay mới lớn hơn và có khả năng hơn. Dựa trên các thông tin này, toàn bộ kế hoạch bị hủy bỏ. Sau khi quay về cảng New York ngày 16 tháng 5, chiếc Ranger vào xưởng hải quân Norfolk để gia cường sàn đáp, lắp đặt máy phóng máy bay mới, cũng như hệ thống radar được nâng cấp. Điều này cung cấp cho nó khả năng huấn luyện tiêm kích đánh chặn bay đêm. Vào ngày 11 tháng 7 năm 1944, nó rời Norfolk hướng đến Panama. Nó đi qua kênh đào Panama năm ngày sau đó, đổ bộ lên bờ hàng trăm hành khách Lục quân Mỹ xuống Balboa, Panama, rồi tiếp tục đi đến San Diego, California, và đến nơi ngày 25 tháng 7. Sau khi đổ lên bờ nhân sự và máy bay của Phi đội Tiêm kích Bay đêm 102 và gần một ngàn Thủy quân Lục chiến, chiếc Ranger khởi hành đi đến vùng biển Hawaii ngày 28 tháng 7. Đến Trân Châu Cảng ngày 3 tháng 8. Trong ba tháng tiếp theo, chiếc Ranger tiến hành huấn luyện tiêm kích bay đêm trên tàu sân bay ngoài khơi Trân Châu Cảng.Chiếc Ranger khởi hành từ Trân Châu Cảng ngày 18 tháng 10 năm 1944 để huấn luyện phi công hải quân mới trong nhiệm vụ chiến đấu. Hoạt động ngoài khơi San Diego dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Không lực Hạm đội tại Alameda, California, chiếc Ranger tiếp tục huấn luyện các đội bay dọc theo bờ biển California cho đến hết cuộc chiến. Ranger là tàu sân bay Mỹ duy nhất tồn tại từ trước khi bắt đầu chiến tranh chưa bao giờ giáp chiến cùng quân Nhật trong chiến đấu.
Các hoạt động cuối cùng
Khởi hành từ San Diego ngày 30 tháng 9 năm 1945, nó đổ lên bờ các hành khách dân sự và quân sự tại Balboa rồi tiếp tục hành trình đi New Orleans, Louisiana, đến nơi ngày 18 tháng 10. Sau ngày lễ Ngày Hải quân được tổ chức tại đây, nó khởi hành ngày 30 tháng 10 cho các hoạt động ngắn tại Pensacola, Florida. Sau khi quay về Norfolk, nó vào Xưởng hải quân Philadelphia ngày 18 tháng 11 để được đại tu. Nó ở lại hoạt động dọc bờ biển phía Đông cho đến khi được rút khỏi hoạt động tại Xưởng hải quân Norfolk vào ngày 18 tháng 10 năm 1946. Được rút khỏi Danh sách đăng bạ tàu Hải quân ngày 29 tháng năm 1946, nó được bán để tháo dỡ tại Sun Shipbuilding and Drydock Company, Chester, Pennsylvania ngày 28 tháng 1 năm 1947.Chiếc Ranger đã nhận được hai ngôi sao chiến đấu vì những thành tích phục vụ của nó trong Thế Chiến II.
Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex
Xưởng đóng tàu: Newport News, Virginia
Đặt lườn: 1 tháng 2 năm 1943
Hạ thủy: 7 tháng 2 năm 1944
Đỡ đầu: Stephanie Sarah Pell
Hoạt động: 8 tháng 5 năm 1944
1 tháng 10 năm 1954
Bị mất: Bán để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 8 năm 1974
Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952
Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 21 tháng 10 năm 1969
Ngừng hoạt động: 9 tháng 1 năm 1947
1 tháng 9 năm 1973
Xóa đăng bạ: 16 tháng 11 năm 1973
Tặng thưởng: 17 Ngôi sao Chiến đấu
ba lần Đơn vị Tuyên dương Hải quân
Đơn vị Tuyên dương Công trạng.
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 271 m (888 ft)
Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước; 45 m (147 ft 6 in) chung
Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn; 10,4 m (34 ft 2 in) đầy tải
Lực đẩy: 4 × turbine hơi nước Westinghouse
8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)
4 trục
công suất 150.000 mã lực (110 MW)
Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
Tầm xa: 37.000 km ở tốc độ 28 km/h
(20.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)
Quân số: 3.448
Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38
4 × pháo nòng đơn 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38
8 × pháo bốn nòng 40 mm cỡ nòng 56
46 × pháo nòng đơn 20 mm cỡ nòng 78
Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)
sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)
vách ngăn 100 mm (4 inch)
40 mm (1,5 inch) bên cạnh và trên nóc tháp chỉ huy
60 mm (2,5 inch) bên trên bánh lái
Máy bay: 90-100 máy bay
1 × thang nâng cạnh sàn đáp
2 × thang nâng giữa
USS Ticonderoga (CV/CVA/CVS-14) là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo trong Thế Chiến II cho Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này, được đặt theo tên của đồn Ticonderoga vốn đóng một vai trò trong Chiến tranh dành độc lập Hoa Kỳ. Ticonderoga được đưa vào hoạt động vào tháng 5 năm 1944, và đã phục vụ trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng năm ngôi sao chiến đấu. Được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nó được hiện đại hóa và được đưa trở lại hoạt động vào đầu những năm 1950 như một tàu sân bay tấn công (CVA), và sau đó như một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Nó được đưa trở lại hoạt động quá trễ để có thể tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên, nhưng đã hoạt động rất tích cực trong Chiến tranh Việt Nam, được tặng thưởng thêm mười hai ngôi sao chiến đấu, ba lần danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân và một danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Công trạng.Ticonderoga khác biệt hơn năm chiếc tàu sân bay cùng thuộc lớp Essex trước nó với số hiệu nhỏ hơn, vì nó có thân tàu được kéo dài thêm 4,9 m (16 ft) để chứa các khẩu súng phòng không ở mũi tàu. Đa số các tàu sân bay thuộc cùng lớp Essex sau này được hoàn tất theo cấu hình thiết kế "thân dài" này, nên một số tác giả đã xếp chúng riêng ra thành một lớp tàu mới gọi là lớp Ticonderoga.Ticonderoga được cho ngừng hoạt động vào năm 1973 và được bán để tháo dỡ vào năm 1975.
Thiết kế và chế tạo
Con tàu được đặt lườn dưới tên gọi Hancock vào ngày 1 tháng 2 năm 1943 tại Newport News, Virginia bởi hãng Newport News Shipbuilding. Nó được đặt lại tên thành Ticonderoga vào ngày 1 tháng 5 năm 1943 và được hạ thủy ngày 7 tháng 2 năm 1944 dưới sự đỡ đầu bởi Cô Stephanie Sarah Pell. Nó được đưa vào hoạt động tại xưởng hải quân Norfolk vào ngày 8 tháng 5 năm 1944 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Dixie Kiefer.
Lịch sử hoạt động
Chạy thử và huấn luyện
Ticonderoga ở lại Norfolk gần hai tháng để được trang bị và phối thuộc Liên đội Không lực 80. Vào ngày 26 tháng 6, chiếc tàu sân bay thực hiện chuyến đi đến quần đảo British West Indies. Nó thực hiện các hoạt động huấn luyện và không quaân trên đường đi, và đến Port of Spain, Trinidad vào ngày 30 tháng 6. Trong vòng 15 ngày tiếp theo sau, Ticonderoga tiến hành huấn luyện một cách khẩn trương nhằm đưa thủy thủ đoàn và lực lượng không quân của nó trở thành một đội hình hiệu quả trong thời chiến. Nó rời West Indies ngày 16 tháng 7 quay trở về Norfolk, và đến nơi ngày 22 tháng 7 nơi nó thực hiện các sửa chữa sau khi chạy thử cùng các thay đổi khác. Vào ngày 30 tháng 8, chiếc tàu sân bay lên đường hướng về Panama. Nó vượt qua kênh đào Panama ngày 4 tháng 9 năm và vào ngày hôm sau di chuyển dọc theo bờ biển để hướng đến San Diego. Vào ngày 13 tháng 9 nó thả neo tại San Diego, nơi nó được cung cấp tiếp liệu, nhiên liệu, xăng máy bay cùng 77 máy bay bổ sung, cũng như là các đơn vị và máy bay Thủy quân Lục chiến cùng đi với nó. Vào ngày 19 tháng 9 nó khởi hành hướng về phía Hawaii và đến nơi năm ngày sau.Ticonderoga ở lại Trân Châu Cảng gần một tháng. Chiếc tàu sân bay cùng với chiếc Carina (AK-74) tiến hành các thử nghiệm đang được thực hiện nhằm chuyển bom máy bay từ tàu chở hàng sang tàu sân bay. Sau các thử nghiệm này, nó tiến hành các phi vụ bay hạ cánh ngày và đêm, thực hành tác xạ súng phòng không, cho đến ngày 18 tháng 10, khi nó rời Trân Châu Cảng hướng về phía Tây Thái Bình Dương. Sau một chặng dừng ngắn ngũi tại Eniwetok, Ticonderoga đến đảo san hô Ulithi về phía tây quân đảo Caroline vào ngày 29 tháng 10. Tại đây nó gia nhập Đội Tàu sân bay 6 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Arthur W. Radford và được phối thuộc vào Lực lượng Đặc nhiệm 38 như một đơn vị của đội Đặc nhiệm 38.3 của Chuẩn Đô đốc Frederick C. Sherman.
Chiến dịch Philippine
Chiếc tàu sân bay rời Ulithi cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 vào ngày 2 tháng 11 năm 1944. Nó gia nhập cùng các tàu sân bay khác khi chúng tiếp nối các cuộc hỗ trợ trên không cho lực lượng trên bộ chiếm đóng Leyte. Nó tung ra cuộc không kích đầu tiên vào buổi sáng ngày 5 tháng 11, và trong hai ngày sau đó máy bay của nó đã bắn phá các tàu bè gần Luzon và các căn cứ không quân trên đảo. Máy bay của nó đã ném bom và bắn phá các sân bay ở Zablan, Mandaluyong và Pasig. Nó cũng tham gia cùng các tàu sân bay khác trong việc đánh đắm chiếc tàu tuần dương hạng nặng Nachi. Thêm vào đó, phi công của chiếc Ticonderoga còn bắn rơi được sáu máy bay Nhật và phá hủy một chiếc trên mặt đất, cũng như làm hư hại 23 chiếc khác.Vào khoảng 16 giờ 00 ngày 5 tháng 11, đối phương trả đủa bằng cách tung ra một tốp đông máy bay cảm tử kamikaze. Hai chiếc máy bay tự sát đã vượt qua được vòng đai tuần tra chiến đấu trên không của máy bay tiêm kích Mỹ và hỏa lực pháo phòng không để đâm vào chiếc Lexington (CV-16). Ticonderoga thoát ra khỏi đợt tấn công này mà không bị thiệt hại gì mà còn bắn rơi được hai máy bay đối phương. Sang ngày 6 tháng 11, chiếc tàu sân bay tung ra hai đợt máy bay tiêm kích càn quét và hai đợt ném bom vào các sân bay tại Luzon cùng tàu bè ở khu vực lân cận. Phi công của nó đã phá hủy được 35 máy bay Nhật và tấn công sáu tàu đối phương trong vịnh Manila. Sau khi thu hồi máy bay, con tàu sân bay rút lui về hướng đông để được tiếp nhiên liệu.Trong ngày 7 tháng 11, nó được tiếp nhiên liệu và nhận được số máy bay thay thế cho số bị mất trong chiến đấu, rồi quay trở lại tấn công các lực lượng đối phương tại Philippines. Sáng sớm ngày 11 tháng 11, máy bay của nó kết hợp cùng số máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 tấn công một đoàn tàu vận tải tăng cường Nhật Bản khi chúng chuẩn bị vào vịnh Ormoc từ biển Camotes. Các máy bay đã cùng nhau tiêu diệt được toàn bộ số tàu hàng và bốn trong số bảy chiếc tàu khu trục hộ tống. Trong các ngày 12 và 13 tháng 11 , Ticonderoga cùng các tàu sân bay chị em với nó tung ra các đợt không kích vào các sân bay tại Luzon và các tàu bè và bến tàu chung quanh Manila. Kết quả mang lại rất đáng kể: tàu tuần dương hạng nhẹ Kiso, bốn tàu khu trục và bảy tàu buôn. Sau khi kết thúc đợt không kích, Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 rút lui về phía Đông cho một đợt nghỉ ngơi và tiếp nhiên liệu. Tuy nhiên, Ticonderoga và phần còn lại của Đội đặc nhiệm TG 38.3 tiếp tục di chuyển theo hướng Đông, đi đến Ulithi ngày 17 tháng 11 nơi chúng được tiếp liệu và tái trang bị vũ khí.Vào ngày 22 tháng 11, chiếc tàu sân bay rời Ulithi hướng về Philippines một lần nữa. Ba ngày sau, nó tung ra các đợt không kích vào miền trung Luzon và các vùng biển lân cận. Phi công của nó đã kết liễu chiếc tàu tuần dương hạng nặng Kumano, vốn đã bị hư hại trong trận Samar. Sau đó, họ tấn công một đoàn tàu vận tải cách vị trí chiếc Kumano bị đánh đắm khoảng 24 km (15 dặm) về phía Tây Nam vịnh Dasol. Trong đoàn tàu vận tải này, tàu tuần dương Yasoshima, một tàu buôn và ba tàu đổ bộ bị đánh chìm. Máy bay của Ticonderoga kết thúc một ngày chiến đấu bằng một đợt tấn công bắn rơi được 15 máy bay Nhật cùng 11 chiếc khác bị phá hủy trên mặt đất.Trong khi máy bay của nó bận bịu với các mục tiêu Nhật bản trên bờ, sự hiện diện của Ticonderoga cùng các tàu sân bay khác đã bị đối phương chú ý. Ngay sau giữa trưa, một quả ngư lôi phóng ra bởi máy bay đối phương rẽ sóng hướng đến chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Langley (CVL-27), báo hiệu cho một đợt không kích đang đến gần. Xạ thủ trên chiếc Ticonderoga nhào đến các vị trí chiến đấu khi máy bay đối phương tung ra các đợt tấn công cả vừa cảm tử lẫn theo cách thông thường. Tàu sân bay chị em Essex (CV-9) ngập trong lửa khi một trong các máy bay tấn công cảm tử kamikaze đâm trúng nó. Khi một máy bay tự sát thứ hai tìm cách kết liễu con tàu sân bay, xạ thủ trên Ticonderoga cùng các tàu khác đã cắt đường đường bay của nó. Chiều hôm đó, trong khi các đội cứu hộ còn đang ra sức khắc phục các hư hỏng của chiếc Essex, Ticonderoga tiếp đón các máy bay của con tàu sân bay bị hỏng cũng như của chiếc tàu sân bay Intrepid (CV-11) vốn lâm vào hoàn cảnh tương tự. Ngày hôm sau, Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 rút lui về hướng Đông.Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 rời Ulithi ngày 11 tháng 12 hướng về phía Philippines. Ticonderoga đi đến điểm xuất phát tấn công vào đầu buổi chiều ngày 13 và tung máy bay của nó ra tấn công các sân bay trên đảo Luzon trong khi máy bay của Lục quân đảm trách phần việc này tại miền Trung Philippines. Trong ba ngày, phi công của Ticonderoga đã tàn phá các sân bay đối phương. Nó rút lui vào ngày 16 cùng với Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 để được tiếp nhiên liệu. Trong khi đang tìm một vùng biển lặng để thực hiện tiếp liệu, Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 đi ngay vào một cơn bão dữ dội mà không được báo trước. Điều này đã khiến cho lực lượng của Đô đốc Halsey bị mất ba tàu khu trục cùng hơn 800 nhân mạng và 146 máy bay,[1] tuy nhiên Ticonderoga và các tàu sân bay khác đã thoát ra được với thiệt hại tối thiểu. Sau đó, Ticonderoga quay về Ulithi vào dịp lễ Giáng sinh.Việc sửa chữa các hư hỏng gây ra bởi cơn bão đã giữ chân Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 phải buông neo đến tận cuối tháng. Những con tàu sân bay chỉ trở ra biển vào ngày 30 tháng 12 năm 1944 hướng về phía Bắc đến Đài Loan, và đến Luzon nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên hòn đảo tại vịnh Lingayen. Thời tiết xấu đã giới hạn các cuộc tấn công lên Đài Loan trong những ngày 3 và 4 tháng 1 năm 1945. Các tàu chiến được tiếp nhiên liệu vào ngày 5 tháng 1; và cho dù thời tiết không thuận lợi trong ngày 6 tháng 1, việc tấn công các sân bay trên đảo Luzon vẫn được thực hiện. Trong ngày hôm đó, phi công của Ticonderoga cùng các lực lượng khác đã nâng chiến công của họ thêm 32 máy bay đối phương. Ngày 7 tháng 1 được tiếp nối bởi nhiều cuộc tấn công vào các cơ sở trên đảo Luzon. Sau một cuộc hẹn để tiếp nhiên liệu vào ngày 8 ,Ticonderoga di chuyển lên hướng Bắc vào ban đêm đến một vị trí chi phối các sân bay Nhật trên đảo Ryūkyū trong quá trình cuộc tấn công Lingayen sáng hôm sau. Tuy nhiên do thời tiết xấu, vận rủi của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 trong suốt mùa Đông 1944 và 1945, đã buộc Đội đặc nhiệm TG 38.3 phải từ bỏ cuộc tấn công lên các sân bay Ryūkyū để hợp cùng Đội đặc nhiệm TG 38.2 gây áp lực lên Đài Loan.
Biển Nam Trung Quốc
Trong đêm 9 rạng sáng ngày 10 tháng 1, Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 di chuyển ngang qua eo biển Luzon rồi hướng về phía Tây Nam, đi chéo qua biển Nam Trung Quốc. Ticonderoga thực hiện việc tuần tra chiến đấu trên không trong ngày 11 và đã giúp bắn rơi bốn máy bay đối phương dự định xâm nhập vào đội hình. Các tàu sân bay cùng các tàu hộ tống đã đi đến một địa điểm cách bờ biển Đông Dương khoảng 250 đến 350 km (150 đến 200 dặm). Tại đây, trong ngày 12, Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 tung ra khoảng 850 máy bay để thực hiện một loạt các cuộc tấn công vào tàu bè đối phương, trong đó họ đã đánh chìm được 44 tàu với tổng tải trọng trên 130.000 tấn.Sau khi thu hồi máy bay vào cuối buổi chiều, các con tàu sân bay di chuyển về hướng Đông Bắc. Thời tiết xấu đã gây trở ngại cho việc tiếp liệu trong các ngày 13 và 14 tháng 1, trong khi việc trinh sát đã không tìm thấy một mục tiêu giá trị. Vào ngày 15 tháng 1, máy bay tiêm kích đã càn quét các sân bay Nhật dọc theo bờ biển Trung Quốc trong khi các tàu sân bay hướng đến một vị trí để tấn công Hong Kong. Sáng hôm sau, chúng tung ra các phi vụ ném bom xuống các tàu bè và càn quét các sân bay bằng máy bay tiêm kích. Điều kiện thời tiết không cho phép hoạt động không quân trong ngày 17 tháng 1 và làm cho công việc tiếp nhiên liệu trở nên khó khăn. Nó càng trở nên tệ hại hơn trong ngày hôm sau khiến mọi việc tiếp liệu bị đình trệ và không thể hoàn tất cho đến hết ngày 19. Sau đó Lực lượng Đặc nhiệm di chuyển về hướng Bắc và vượt qua eo Luzon thông qua Balintang.
Các hòn đảo Nam Nhật Bản
Ba đội tàu của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 hoàn tất việc tiếp liệu trong đêm 20 và 21 tháng 1 năm 1945. Sáng hôm sau, máy bay của chúng tấn công các sân bay tại Đài Loan, quần đảo Pescadores và Sakishima Gunto. Thời tiết tốt mang lại cả điều lành và tin dữ. Trong khi nó cho phép các phi công Mỹ tiến hành các đợt không kích suốt ngày, nó cũng cho phép quân Nhật thực hiện các phi vụ cảm tử kamikaze.Ngay sau giữa trưa, một máy bay Nhật một động cơ đã đánh trúng chiếc Langley bằng một cú ném bom bổ nhào. Vài giây sau, một máy bay kamikaze ló ra khỏi mây và bổ nhào đến chiếc Ticonderoga. Nó đâm xuyên qua sàn đáp ngang với khẩu đội pháo 127 mm (5 inch) số 2, và quả bom của nó phát nổ ngay trên sàn chứa máy bay. Nhiều chiếc máy bay đang đậu gần đó bốc cháy. Sự chết chóc và phá hủy phát sinh khắp nơi, nhưng thủy thủ đoàn đã chiến đấu một cách dũng cảm để cứu con tàu đang lâm nguy, trong khi Thuyền trưởng Kiefer đã cơ động con tàu một cách rất thông minh. Trước tiên, ông thay đổi hướng đi của con tàu để hướng gió không làm lan thêm các đám cháy. Sau đó, ông ra lệnh cho làm ngập các hầm đạn và các ngăn khác bên dưới để ngăn ngừa các vụ nổ phát sinh thêm và để điều chỉnh lại độ nghiêng 10o qua mạn phải. Cuối cùng, ông ra lệnh cho các toán cứu hộ tiếp tục làm ngập thêm các ngăn bên mạn trái chiếc Ticonderoga. Hành động này đã khiến con tàu nghiêng 10o về mạn trái giúp dịu bớt đám cháy trên sàn đáp. Các toán cứu hỏa cùng kỹ thuật đã hoàn tất công việc khi dập các ngọn lửa và vứt bỏ các máy bay cháy bị hỏng nặng.Con thú bị thương thường thu hút các kẻ săn mồi, và Ticonderoga cũng không phải là ngoại lệ. Những chiếc máy bay kamikaze khác bổ nhào đến nó như một bầy cá mập nhận ra mùi máu. Các xạ thủ pháo phòng không đã liều mình chống trả một cách bài bản và quyết liệt, bắn hạ được ba trong số những kẻ tấn công. Nhưng một chiếc máy bay thứ tư cũng vượt qua được hàng rào phòng thủ và đâm xuống mạn phải chiếc tàu sân bay gần đảo cấu trúc thường tầng. Quả bom của nó phát nổ khiến thêm nhiều máy bay bốc cháy, gây thủng sàn đáp, và giết chết hay làm bị thương thêm khoảng 100 người nữa, Thuyền trưởng Kiefer là một trong số những người bị thương. Nhưng thủy thủ đoàn của chiếc Ticonderoga không dễ dàng chịu buông xuôi; và sau khi tránh được các đợt tấn công khác, họ dập tắt hoàn toàn các đám cháy chỉ sau 14 giờ 00 không lâu; và con tàu sân bay bị thương được cho rút lui.
Sửa chữa và tái hoạt động
Con tàu hư hỏng về đến Ulithi ngày 24 tháng 1 năm 1945, nhưng chỉ dừng lại đủ lâu để chuyển những người bị thương lên tàu bệnh viện Samaritan (AH-10), chuyển liên đội máy bay của nó sang chiếc Hancock (CV-19), và nhận lên tàu các hành khách cần quay về nhà. Ticonderoga rời vũng biển san hô ngày 28 tháng 1 hướng về phía Hoa Kỳ. Nó dừng lại Trân Châu Cảng một thời gian ngắn rồi thẳng hướng đến Xưởng hải quân Puget Sound nơi nó đến nơi vào ngày 15 tháng 2.Việc sửa chữa hoàn tất vào ngày 20 tháng 4 năm 1945, và nó rời Puget Sound ngày hôm sau hướng đến Căn cứ Hải quân Alameda. Sau khi nhận lên tàu máy bay và hành khách đi đến Hawaii, chiếc tàu sân bay hướng đến Trân Châu Cảng, nơi nó cập bến vào ngày 1 tháng 5. Ngày hôm sau, Liên đội máy bay 87 lên tàu, và trong tuần lễ tiếp theo sau họ tiến hành huấn luyện chuẩn bị cho con tàu quay trở lại chiến đấu. Ticonderoga rời Trân Châu Cảng, và đang khi trên đường đến Ulithi, nó tung máy bay của nó ra cho một đợt không kích mang tính thực hành lên đảo Taroa tại quần đảo Marshall lúc này còn do quân Nhật chiếm giữ. Vào ngày 22 tháng 5, chiếc tàu sân bay đi đến Ulithi và gia nhập lực lượng tàu sân bay nhanh như một thành phần của Đội Đặc nhiệm TG 58.4 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Radford.
Chuẩn bị cho chiến dịch Nhật Bản
Hai ngày sau khi đến Ulithi, Ticonderoga rời đảo san hô cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 hướng lên phía Bắc, trải qua những tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến tranh tại vùng biển nội địa Nhật Bản. Ba ngày sau, Đô đốc Halsey thay thế Đô đốc Raymond Spruance và Đệ Ngũ hạm đội quay trở lại thành Đệ Tam hạm đội, trong khi Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 đổi tên thành TF 38. Trong các ngày 2 và 3 tháng 6 năm 1945, máy bay của Ticonderoga tấn công các sân bay trên đảo Kyūshū trong một nỗ lực vô hiệu hóa phần còn lại của lực lượng không quân Nhật Bản, đặc biệt là các không đoản cảm tử Kamikaze, và để giảm bớt áp lực cho lực lượng Mỹ tại Okinawa. Trong hai ngày tiếp theo sau, Ticonderoga vượt qua được một cơn bão thứ hai mà nó gặp phải trong vòng sáu tháng mà hầu như không bị thiệt hại. Nó giúp hỗ trợ tuần tra chiến đấu trên không trong khi được tiếp nhiên liệu vào ngày 6 tháng 6, và bốn máy bay tiêm kích của nó đã đánh chặn và tiêu diệt ba chiếc máy bay Kamikaze xuất phát từ Okinawa. Chiều tối hôm đó, nó di chuyển tốc độ cao cùng Đội đặc nhiệm TG 38.4 để càn quét các sân bay phía Nam đảo Kyūshū trong ngày 8 tháng 6. Sau đó máy bay của Ticonderoga cùng tham gia ném bom xuống Minami Daito và Kita Daito trước khi chiếc tàu sân bay quay về Leyte, và nó về đến nơi vào ngày 13 tháng 6.Trong hai tuần nghỉ ngơi và tiếp liệu mà nó được hưởng tại Leyte, Ticonderoga được thay đổi đơn vị từ Đội đặc nhiệm TG 38.4 sang Đội đặc nhiệm TG 38.3 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Gerald F. Bogan. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1945, nó cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 rời Leyte hướng lên phía Bắc tiếp tục nhiệm vụ không kích Nhật Bản. Hai ngày sau, một bộ hộp số giảm tốc bị hỏng buộc nó phải ghé về cảng Apra tại Guam để sửa chữa. Nó ở lại đó cho đến tận ngày 19 tháng 7, khi nó lên đường gia nhập lại Lực lượng Đặc nhiệm TF 38. Vào ngày 24 tháng 7, máy bay của nó hợp cùng các tàu sân bay nhanh khác tấn công các tàu bè trong vùng biển nội địa Nhật Bản cùng các sân bay tại Nagoya, Osaka và Miko.Trong các cuộc không kích này, máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 đã tìm thấy những gì còn sót lại của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản một thời lừng lẩy và đã tiêu diệt các thiết giáp hạm Ise, Hyūga và Haruna cũng như tàu sân bay hộ tống Kaiyo cùng hai tàu tuần dương hạng nặng. Vào ngày 28 tháng 7, máy bay của nó chuyển hướng các nỗ lực sang căn cứ hải quân Kure, nơi họ đánh hỏng một tàu sân bay, ba tàu tuần dương, một tàu khu trục và một tàu ngầm. Nó lại chuyển hướng tấn công vào khu vực công nghiệp tại trung tâm đảo Honshū vào ngày 30 tháng 7, sau đó nhắm vào phía Bắc đảo Honshū và đảo Hokkaidō trong các ngày 9 và 10 tháng 8. Cuộc tấn công sau tàn phá khu vực dành cho kế hoạch không kích tự sát vào căn cứ của lực lượng B-29 đặt trên quần đảo Marianas. Trong các ngày 13 và 14 tháng 8, máy bay của nó quay trở lại khu vực Tokyo thực hiện một đợt tấn công phá hủy những cơ sở vật chất còn lại.Sáng ngày 16 tháng 8, Ticonderoga tung ra một đợt không kích khác nhắm vào Tokyo. Trong quá trình trận đánh hoặc ngay sau đó, tin tức đến được Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 là Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng. Cú sốc hòa bình, cho dù không quá bất ngờ như khi chiến tranh bắt đầu bốn năm trước đó, cũng khiến một số người mất một thời gian để làm quen. Ticonderoga cùng các tàu chị em với nó vẫn duy trì chế độ thường trực chiến đấu, tiếp tục thực hiện các chuyến bay tuần tra bên trên lãnh thổ Nhật Bản và tung ra các chuyến bay trinh sát để tìm các trại tập trung tù binh chiến tranh Đồng Minh nhằm cấp tốc thả dù tiếp liệu cho họ. Ngày 6 tháng 9, bốn ngày sau khi diễn ra lễ ký kết chính thức Văn bản Đầu hàng không điều kiện trên chiếc Missouri (BB-63), Ticonderoga tiến vào vịnh Tokyo.
Các hoạt động sau chiến tranh
Viếc đi đến Tokyo kết thúc một giai đoạn phục vụ và mở ra một giai đoạn mới. Ticonderoga nhận lên tàu những hành khách quay trở về nhà và ra khơi trở lại vào ngày 20 tháng 9 năm 1945. Sau một chặng dừng tại Trân Châu Cảng, chiếc tàu sân bay đến Alameda, California ngày 5 tháng 10. Nó đưa khỏi tàu hàng khách và hàng hóa trước khi ra khơi trở lại vào ngày 9 tháng 10 để đón một nhóm cựu chiến binh khác. Ticonderoga đã đưa hơn một ngàn binh sĩ và thủy thủ về Tacoma, Washington, và ở lại đó cho đến ngày 28 tháng 10 để kỷ niệm Ngày Hải quân. Ngày 29 tháng 10, chiếc tàu sân bay rời Tacoma quay trở lại Alameda. Trên đường đi, tất cả máy bay của Phi đoàn 87 được chuyển lên bờ để chiếc tàu chiến có thể cải biến cho có thêm chỗ trống chuyên chở hành khách trong những chuyến đi Chiến dịch Magic Carpet sắp đến.Sau khi hoàn tất các cải biến tại xưởng hải quân Trân Châu Cảng vào tháng 11, ciếc tàu chiến hướng đến Philippines và đi đến Samar ngày 20 tháng 11. Nó quay về Alameda ngày 6 tháng 12 cùng với gần 4.000 cựu chiến binh quay trở về nhà. Chiếc tàu sân bay còn tiếp tục thực hiện những chuyến đi Magic Carpet tương tự trong tháng 12 năm 194 và tháng 1 năm 1946 trước khi vào xưởng hải quân Puget Sound thực hiện các chuẩn bị để ngưng hoạt động. Gần một năm sau, vào ngày 9 tháng 1 năm 1947, Ticonderoga được cho ngưng hoạt động và được cho neo đậu cùng hải đội Bremerton thuộc Hạm đội Trừ bị Thái Bình Dương.
Tái bố trí tại Đại Tây Dương
Ngày 31 tháng 1 năm 1952, Ticonderoga được rút ra khỏi lực lượng trừ bị và được chuyển từ Bremerton sang New York. Nó rời Puget Sound ngày 27 tháng 2 và đi đến New York vào ngày 1 tháng 4. Ba ngày sau, nó vào xưởng hải quân New York bắt đầu thực hiện đợt cải biến sâu rộng SBC-27C. Trong 29 tháng tiếp theo sau đó, chiếc tàu sân bay được cải biến nhiều điểm: máy phóng hơi nước để có thể phóng máy bay phản lực, lưới ngăn bằng nylon mới, một thang nâng bên cạnh sàn đáp cùng những thiết bị điện tử và kiểm soát hỏa lực mới nhất, cho phép nó trở thành một tành phần thiết yếu trong hạm đội. Ngày 11 tháng 9 năm 1954, Ticonderoga được cho tái hoạt động trở lại tại New York dưới quyền chỉ huy của Đại tá William A. Schoech.Đến tháng 1 năm 1955, chiếc tàu sân bay chuyển về cảng nhà mới là Norfolk, Virginia, và nó đến nơi vào ngày 6 tháng 1. Trong tháng tiếp theo sau, nó thực hiện chuẩn nhận hoạt động tàu sân bay cho Phi đoàn 6 tại khu vực hoạt động Virginia Capes. Vào ngày 3 tháng 2, nó rời Hampton Roads thực hiện chuyến đi thử máy đến gần Cuba, rồi sau đó quay trở về New York ngang qua Norfolk để thực hiện các thay đổi bổ sung. Trong suốt mùa Hè tiếp theo sau, chiếc tàu chiến tiếp tục thực hiện chuẩn nhận hoạt động tàu sân bay tại khu vực Virginia Capes.Sau một lượt viếng thăm Philadelphia vào đầu tháng 9, Ticonderoga tham gia các cuộc thử nghiệm ba kiểu máy bay mới A4D-1 Skyhawk, F4D-1 Skyray và F3H-2N Demon. Sau đó chiếc tàu sân bay quay trở lại các công việc thường xuyên dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ cho đến ngày 4 tháng 11 khi nó rời Mayport, Florida hướng đến Châu Âu. Nó thay phiên cho chiếc Intrepid tại Gibraltar 10 ngày sau đó, và tiến hành tuần tra dọc theo suốt chiều dài Địa Trung Hải trong tám tháng tiếp theo sau. Ngày 2 tháng 8 năm 1956, Ticonderoga quay trở về Norfolk và vào xưởng tàu để được cải biến sàn đáp thành kiểu chéo góc và một mũi tàu kín chống bão như một phần của chương trình nâng cấp SBC-125.
Hoạt động tại Thái Bình Dương
Các công việc cải biến được hoàn tất vào đầu năm 1957, và đến tháng 4 năm đó, Ticonderoga di chuyển đến cảng nhà mới ở Alameda, California. Nó đến nơi ngày 30 tháng 5, trải qua một đợt sửa chữa, rồi tiến hành các hoạt động thường xuyên ngoài khơi bờ biển California trong cả mùa Hè. Vào ngày 16 tháng 9, chiếc tàu sân bay rời vịnh San Francisco lên đường sang Viễn Đông. Trên đường đi, nó ghé Trân Châu Cảng trước khi tiếp tục hành trình đến Yokosuka Nhật Bản, và nó đến nơi vào ngày 15 tháng 10. Trong sáu tháng, chiếc tàu chiến tuần tra trong các vùng biển Viễn Đông từ Nhật Bản phía Bắc đến tận Philippines ở phía Nam. Nó quay về Alameda ngày 25 tháng 4 năm 1958, kết thúc lượt phục vụ đầu tiên tại Tây Thái Bình Dương kể từ khi tái hoạt động.Từ năm 1958 đến năm 1963, Ticonderoga còn thực hiện thêm bốn lượt phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương; và trong các dịp đó nó thực hiện các chiến dịch huấn luyện cùng các đơn vị khác của Đệ Thất hạm đội cũng như thực hiện các chuyến viếng thăm hữu nghị đến các cảng suốt khu vực Đông Á. Đầu năm 1964, nó thực hiện những công việc chuẩn bị cần thiết cho lượt phục vụ thứ sáu đến Tây Thái Bình Dương; và sau khi hoàn tất các buổi thao dợt ngoài khơi Bờ Tây và tại vùng biển Hawaii, chiếc tàu sân bay rời Trân Châu Cảng ngày 4 tháng 5 năm 1964 cho một lượt phục vụ an bình khác tại Viễn Đông. Ba tháng đầu tiên của chuyến đi này diễn ra bình thường với những buổi thực hành và viếng thăm các cảng như thường lệ.
Các hoạt động ban đầu tại Việt Nam
Nhịp sống êm ả của nó bị cắt đứt vào ngày 2 tháng 8 năm 1964. Trong khi hoạt động trong vùng biển vịnh Bắc Bộ, tàu khu trục Maddox (DD-731) báo cáo bị các đơn vị Hải quân Bắc Việt Nam tấn công. Trong vòng vài phút sau khi nhận được tin tức, Ticonderoga gửi đến hiện trường bốn máy bay F8E Crusader trang bị rocket để hỗ trợ cho chiếc tàu khu trục. Khi đến nơi, những chiếc Crusader đã phóng rocket Zuni và càn quét những con tàu Bắc Việt Nam bằng các khẩu pháo 20 mm. Phi công của Ticonderoga phối hợp cùng các xạ thủ trên chiếc Maddox đã đánh lui cuộc tấn công, để lại một tàu phóng lôi chết đứng giữa biển và làm hư hại hai chiếc khác.Hai ngày sau, lúc chiều tối ngày 4 tháng 8, Ticonderoga nhận được những yêu cầu hỗ trợ trên không khẩn cấp từ tàu khu trục Turner Joy (DD-951), lúc đó đang tuần tra cùng với chiếc Maddox, nhằm kháng cự lại cái mà họ gọi là một cuộc đột kích bằng tàu phóng lôi khác. Chiếc tàu sân bay lại tung ra những máy bay đến hỗ trợ cho con tàu khu trục, và Turner Joy đã hướng dẫn cho chúng nhắm đến mục tiêu. Lực lượng phối hợp với nhau trong cuộc đụng độ, và tin là đã đánh chìm hai tàu đối phương và làm hư hại hai chiếc khác.Tổng thống Lyndon Johnson đã phản ứng lại cái mà vào lúc đó ông cho là hai cuộc tấn công không bị khiêu khích trước vào lực lượng hải quân Mỹ, và đã ra lệnh tiến hành các cuộc không kích trả đũa vào các căn cứ tàu phóng lôi Bắc Việt Nam. Vào ngày 5 tháng 8, Ticonderoga cùng tàu sân bay Constellation (CV-64) tung ra 60 phi vụ nhắm vào bốn căn cứ quân sự và các kho dầu. Kết quả các phi vụ tấn công được báo cáo là đã phá hủy 25 tàu phóng lôi, gây hư hại đáng kể các căn cứ và hầu như vô hiệu hóa kho dự trữ dầu. Vì đã phản ứng nhanh chóng và hoạt động tác chiến hiệu quả trong cả ba sự kiện nêu trên, Ticonderoga được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân.
Rút lui
Sau một chuyến đi quay trở lại viếng thăm Nhật Bản trong tháng 9, Ticonderoga quay trở lại các hoạt động thường xuyên tại biển Nam Trung Quốc cho đến khi kết thúc lượt phục vụ vào cuối năm. Chiếc tàu sân bay quay trở về căn cứ tại North Island, California, vào ngày 15 tháng 12 năm 1964. Sau khi nghỉ ngơi sau lượt phục vụ và dịp lễ cuối năm, Ticonderoga đi đến xưởng hải quân Hunter's Point vào ngày 27 tháng 1 năm 1965 bắt đầu một đợt đại tu kéo dài năm tháng. Nó hoàn tất các việc sửa chữa vào tháng 6 và trải qua mùa Hè hoạt động dọc theo bờ biển Nam California. Đến ngày 28 tháng 9, chiếc tàu sân bay hướng ra khơi cho một đợt phục vụ mới tại khu vực Viễn Đông. Nó trải qua một thời gian tại quần đảo Hawaii thực tập sẵn sàng chiến đấu, rồi tiếp tục hướng sang Viễn Đông, đi đến "Dixie Station" vào ngày 5 tháng 11 và ngay lập tức bắt đầu các hoạt động tác chiến.
Broken Arrow
Ticonderoga từng bị vướng vào một tai nạn hạt nhân mang mật danh Broken Arrow (Mũi tên gảy) khi một máy bay cường kích A-4 Skyhawk thuộc Phi đội VA-56 mang theo một quả bom nguyên tử B43 bị mất tích ngoài khơi bờ biển Nhật Bản vào ngày 5 tháng 12 năm 1965. Cả máy bay, phi công lẫn quả bom đều không được tìm thấy. [2]
Đợt bố trí 1965-1966
Lượt hoạt động của Ticonderoga vào mùa Đông 1965 và 1966 là đợt đầu tiên trong tổng số bốn lượt phục vụ của nó trong quá trình Hoa Kỳ can dự vào Chiến tranh Việt Nam. Trong sáu tháng tại Viễn Đông, chiếc tàu sân bay đã trải qua tổng cộng 116 ngày hoạt động ngoài khơi bờ biển Việt Nam, phân chia đều thời gian đó giữa hai trạm "Dixie" và "Yankee Station", tương ứng với hoạt động tại khu vực ngoài khơi Nam và Bắc Việt Nam. Không lực của nó đã ném trên 8.000 tấn vũ khí trong hơn 10.000 phi vụ chiến đấu, với thiệt hại 16 máy bay và 5 phi công. Máy bay của nó đã tấn công các vị trí tại Bắc Việt Nam và ngăn chặn con đường tiếp tế vào Nam Việt Nam; đặc biệt, họ báo cáo đã phá hủy 35 cầu, nhiều kho tàng, doanh trại, xe tải, thuyền và toa xe hỏa; gây hư hại đáng kể cho nhà máy nhiệt điện quan trọng của Bắc Việt Nam tại Uông Bí, phía Bắc Hải Phòng. Sau một chặng dừng tại Sasebo, Nhật Bản, từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 3 tháng 5 năm 1966, chiếc tàu sân bay lại ra khơi quay trở về Hoa Kỳ. Vào ngày 13 tháng 5, nó tiến vào cảng San Diego kết thúc lượt phục vụ.
Đợt bố trí 1966-1967
Sau khi thực hiện các sửa chữa cần thiết, Ticonderoga rời San Diego ngày 9 tháng 7 thực hiện các hoạt động huấn luyện thường trực ngoài khơi Bờ Tây Hoa Kỳ, và tiếp tục công việc này cho đến ngày 15 tháng 10, khi chiếc tàu sân bay rời San Diego hướng đến khu vực Tây Thái Bình Dương ngang qua Hawaii. Nó đi đến Yokosuka vào ngày 30 tháng 10 rồi ở lại đó cho đến ngày 5 tháng 11 khi nó hướng về phía Nam và nghỉ qua đêm tại căn cứ vịnh Subic thuộc Philippines vào ngày 10 và 11 tháng 11. Ticonderoga đi đến vịnh Bắc Bộ vào ngày 13 tháng 11 bắt đầu thực hiện lượt hoạt động thứ nhất trong tổng số ba lượt được thực hiện trong giai đoạn 1966 - 1969. Nó đã thực hiện 11.650 phi vụ chiến đấu, tất cả đều nhắm vào các mục tiêu tại Bắc Việt Nam. Một lần nữa, mục tiêu chủ yếu của nó là hệ thống hậu cần, thông tin liên lạc và vận tải. Do tất cả các nỗ lực được thực hiện cả ngày lẫn đêm để tấn công các mục tiêu đối phương, Ticonderoga và liên đội không quân phối thuộc được tặng thưởng Đơn vị Tuyên dương Hải quân thứ hai. Nó hoàn tất lượt phục vụ vào ngày 27 tháng 4 năm 1967 và quay về Yokosuka, nơi nó lại khởi hành vào ngày 19 tháng 5 để quay về Hoa Kỳ. Mười ngày sau, chiếc tàu sân bay vào cảng San Diego và bắt đầu một kỳ nghỉ kéo dài một tháng. Vào đầu tháng 7, nó đi đến Bremerton, Washington để vào xưởng hải quân Puget Sound thực hiện đợt sửa chữa kéo dài hai tháng. Sau khi hoàn tất, nó rời Bremerton ngày 6 tháng 9 di chuyển về phía Nam để hoạt động huấn luyện ngoài khơi bờ biển Nam California.
Đợt bố trí 1968
Vào ngày 28 tháng 12 năm 1967, Ticonderoga lên đường thực hiện lượt hoạt động tác chiến thứ ba tại vùng biển ngoài khơi Đông Dương. Chiếc tàu sân bay đến Yokosuka ngày 17 tháng 1 năm 1968, và sau hai ngày tu bổ, nó tiếp tục hành trình đến vịnh Bắc Bộ, nơi nó đến vị trí tác chiến và bắt đầu hoạt động từ ngày 26 tháng 1. Từ tháng 1 đến tháng 7, Ticonderoga hoạt động ngoài khơi bờ biển Việt Nam năm lần với tổng cộng 120 ngày hoạt động tác chiến. Trong thời gian này, liên đội không quân của nó thực hiện trên 13.000 phi vụ chống lại lực lượng Bắc Việt Nam và Việt Cộng tại Nam Việt Nam, hầu hết là ngăn cản sự vận chuyển tiếp liệu quân sự của đối phương. Vào giữa tháng 4, sau một đợt hoạt động, chiếc tàu sân bay thăm viếng cảng Singapore, và sau một đợt đợt tu bổ và tiếp liệu tại căn cứ vịnh Subic Bay, nó quay trở lại hoạt động ngoài khơi Việt Nam. Vào ngày 9 tháng 7, Thiếu tá Hải quân J. B. Nichols ghi được chiến công bắn hạ máy bay MiG đầu tiên của Ticonderoga. Chiếc tàu sân bay quay trở về vịnh Subic để bảo trì vào ngày 25 tháng 7.Vào ngày 27 tháng 7, nó di chuyển về phía Bắc hướng đến Yokosuka và trải qua một tuần lễ tu bổ và nhận chỉ thị trước khi quay về Hoa Kỳ ngày 7 tháng 8. Ticonderoga về đến San Diego vào ngày 17 tháng 8 và đưa liên đội không lực của nó lên bờ. Vào ngày 22 tháng 8, nó vào xưởng hải quân Long Beach để đại tu. Chiếc tàu sân bay hoàn tất công việc sửa chữa vào ngày 21 tháng 10, tiến hành chạy thử máy trong các ngày 28 và 29 tháng 10, và bắt đầu các hoạt động thường xuyên ngoài khơi San Diego từ đầu tháng 11. Trong thời gian còn lại của năm 1968, nó tiến hành huấn luyện ôn tập và chuẩn nhận tàu sân bay cho liên đội không quân phối thuộc dọc theo bờ biển Nam California.
Đợt bố trí cuối cùng 1969
Trong tháng đầu tiên của năm 1969, Ticonderoga chuẩn bị cho lượt bố trí tác chiến thứ tư liên tục tại khu vực Đông Nam Á. Vào ngày 1 tháng 2, nó rời San Diego hướng sang Viễn Đông. Sau một chặng dừng ngắn tại Trân Châu Cảng một tuần sau đó, nó tiếp tục hành trình đến Yokosuka và đến nơi vào ngày 20 tháng 2. Chiếc tàu sân bay rời Yokosuka ngày 28 tháng 2 hướng về phía bờ biển Việt Nam, và nó đi đến nơi ngày 4 tháng 3. Trong bốn tháng tiếp theo sau, Ticonderoga hoạt động ngoài khơi Việt Nam, tấn công các con đường tiếp liệu và các mục tiêu khác của đối phương.Lượt hoạt động của chiếc tàu sân bay tại Việt Nam bị ngắt quãng vào ngày 16 tháng 4 khi nó nhận được lệnh đi lên phía Bắc hướng về phía biển Nhật Bản. Máy bay của Bắc Triều Tiên đã bắn rơi một máy bay trinh sát hải quân Mỹ trong khu vực này, và Ticonderoga được gọi để tăng cường cho lực lượng ứng chiến tại đây. Tuy nhiên, sự căng thẳng trôi qua, và Ticonderoga quay về vịnh Subic ngày 27 tháng 4 để tu bổ. Đến ngày 8 tháng 5, nó rời Philippines quay lại "Yankee Station" tiếp tục các hoạt động tác chiến tại Việt Nam. Trong thời gian hoạt động này, chiếc tàu sân bay từng thăm viếng các cảng Sasebo và Hong Kong.Chiếc tàu chiến lại hoạt động ngoài khơi Việt Nam từ ngày 26 tháng 6, và trong 37 ngày tiếp theo sau đã thực hiện thành công các phi vụ tấn công mục tiêu đối phương. Sau đó nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 71 trong vùng biển Nhật Bản trong suốt thời gian còn lại của lượt phục vụ. Ticonderoga kết thúc lượt bố trí hoạt động rất thành công của nó khi được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Hải quân lần thứ ba do thành tích đạt được trong lượt này khi nó rời vịnh Subic ngày 4 tháng 9 quay trở về Hoa Kỳ.
Các hoạt động sau cùng
Ticonderoga về đến San Diego vào ngày 18 tháng 9 năm 1969. Sau gần một tháng nghỉ ngơi, nó di chuyển đến xưởng hải quân Long Beach vào giữa tháng 10 để bắt đầu thực hiện việc cải biến thành một tàu sân bay chống tàu ngầm (ASW). Công việc đại tu và cải biến được bắt đầu vào ngày 20 tháng 10, và Ticonderoga được xếp lại lớp với ký hiệu CVS-14 vào ngày 21 tháng 10. Nó hoàn tất việc đại tu và cải biến vào ngày 28 tháng 5 năm 1970 và bắt đầu tiến hành chạy thử máy ngoài khơi Long Beach đến gần hết tháng 6. Vào ngày 26 tháng 6, chiếc tàu sân bay đi đến cảng nhà mới là San Diego. Trong tháng 7 và tháng 8, Ticonderoga thực hiện huấn luyện ôn tập và chuẩn nhận tàu sân bay cho liên đội không lực mới. Nó hoạt động ngoài khơi bờ biển California suốt thời gian còn lại của năm, và tham gia hai cuộc tập trận HUKASWEX 4-70 vào cuối tháng 10 và COMPUTEX 23-70 từ ngày 30 tháng 11 đến ngày 3 tháng 12.Trong quãng đời phục vụ còn lại của nó, Ticonderoga được bố trí thêm hai lượt phục vụ tại Viễn Đông. Do nhiệm vụ được phân cho nó đã thay đổi, nó không còn tham gia tác chiến tại Việt Nam. Chúng bao gồm việc thực tập huấn luyện tại biển Nhật Bản cùng các tàu chiến của Lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản. Lượt bố trí thứ nhất còn bao gồm chuyến đi đến Ấn Độ Dương cùng các đơn vị của Hải quân Hoàng gia Thái Lan và chuyến đi ngang qua eo biển Sunda tham gia lễ hội kỷ niệm việc mất hai chiếc tàu chiến Houston (CA-30) và HMAS Perth vào năm 1942.Giữa hai lượt bố trí, Ticonderoga hoạt động tại khu vực Đông Thái Bình Dương và tham gia vào việc thu hồi tàu vũ trụ chinh phục mặt trăng Apollo 16 gần đảo Samoa do Mỹ quản lý vào tháng 4 năm 1972. Lượt bố trí thứ hai diễn ra vào mùa Hè năm 1972, và ngoài các hoạt động thực tập huấn luyện tại biển Nhật Bản, Ticonderoga còn tham gia các hoạt động huấn luyện chống tàu ngầm tại biển Nam Trung Quốc. Mùa Hè năm đó, nó quay về khu vực Đông Thái Bình Dương, và vào tháng 12, tham gia thu hồi chuyến bay Apollo 17 hạ cánh xuống khu vực Samoa. Sau đó chiếc tàu sân bay hướng về San Diego, và nó đến nơi ngày 28 tháng 12. Ngày 22 tháng 6 năm 1973, Ticonderoga còn tham gia thu hồi chuyến bay Skylab 2 hạ cánh gần San Diego.Ticonderoga tiếp tục hoạt động thêm chín tháng, trước tiên là những hoạt động thường xuyên ngoài khơi San Diego, và sau đó chuẩn bị để được ngừng hoạt động. Ngày 1 tháng 9 năm 1973, chiếc tàu sân bay được cho ngừng hạt động sau khi một đoàn điều tra và khảo sát cho rằng con tàu không còn phù hợp cho việc phục vụ trong hải quân.Tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 16 tháng 11 năm 1973, và nó được bán để tháo dỡ vào ngày 1 tháng 9 năm 1975.
Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Wasp
Đặt hàng: 19 tháng 9 năm 1935
Đặt lườn: 1 tháng 4 năm 1936
Hạ thủy: 4 tháng 4 năm 1939
Đỡ đầu: Carolyn Edison
Hoạt động: 25 tháng 4 năm 1940
Bị mất: Bị đánh chìm ngày 15 tháng 9 năm 1942
Tặng thưởng: Huy chương Phục vụ Phòng thủ Hoa Kỳ
Huy chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huy chương Chiến dịch Châu Âu-Bắc Phi-Trung Đông (1 sao)
Huy chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương (1 sao)
Huy chương Chiến thắng Thế Chiến II
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 14.700 tấn (thiết kế);
19.116 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 209,7 m (688 ft) (ở mực nước)
225,9 m (741 ft 3 in) (chung)
Mạn thuyền: 24,6 m (80 ft 9 in) (ở mực nước)
33,2 m (109 ft) (chung)
Tầm nước: 6,1 m (20 ft)
Lực đẩy: Turbine hơi nước, 6 nồi hơi ở áp suất 565 psi
2 trục, công suất 75.000 mã lực
Tốc độ: 54,6 km/h (29,5 knot)
Tầm xa: 22.200 km ở tốc độ 28 km/h
(12.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)
Quân số: 1.800 sĩ quan và thủy thủ (thời bình)
Vũ khí: 8 × pháo nòng đơn 5 inch cỡ nòng 38
4 × pháo 4 nòng 1,1 inch cỡ nòng 75
24 × súng máy cỡ nòng .50
Vỏ giáp: tháp chỉ huy bọc thép 60 lb
3,5 inch bên cạnh
thép 50 lb trên sàn tàu phía trên bánh lái
Vũ khí điện tử: radar RCA CXAM-1[1]
Máy bay: 74 máy bay
3 × thang nâng (1 ở cạnh sàn đáp)
2 × máy phóng thủy lực trên sàn đáp
2 × máy phóng thủy lực trên sàn chứa máy bay
Chiếc tàu thứ tám mang tên USS Wasp là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc duy nhất trong lớp tàu của nó. Được chế tạo để sử dụng hết hạn ngạch tải trọng còn lại dành cho tàu sân bay của Hoa Kỳ theo các hiệp ước có hiệu lực vào thời đó, nó được cấu trúc thu nhỏ lại dựa trên khung sườn của lớp Yorktown.
Thiết kế
Wasp là một "thứ phẩm" của Hiệp ước Hải quân Washington. Cùng với việc đóng hai chiếc tàu sân bay Yorktown và Enterprise, Hoa Kỳ còn lại hạn ngạch 15.000 tấn để tăng cường hạm đội tàu sân bay. Hải quân đã cố gắng dồn nén một lực lượng không quân lớn lên một chiếc tàu có lượng rẽ nước nhỏ hơn 25% so với lớp tàu Yorktown. Nhằm tiết kiệm chỗ và trọng lượng, Wasp được cấu trúc với động cơ công suất thấp 75.000 mã lực (so với chiếc Yorktown 120.000 mã lực, lớp tàu Essex 150.000 mã lực và lớp tàu Independence hạng nhẹ 100.000 mã lực). Thêm nữa, Wasp được hạ thủy mà hầu như không có vỏ giáp, mặc dù nó có thể được nâng cấp sau khi hoàn tất. Đáng kể nhất là Wasp hầu như không có được sự bảo vệ chống lại ngư lôi.Kết quả là chiếc tàu được ra đời với những khiếm khuyết cố hữu nghiêm trọng. Những điểm yếu này, cùng với kinh nghiệm tương đối kém trong việc cứu nạn trong những ngày đầu chiến tranh, đã trở thành những nguy hiểm chết người.Chiếc tàu được đặt lườn vào ngày 1 tháng 4 năm 1936 tại xưởng tàu Fore River ở Quincy, Massachusetts; được hạ thủy vào ngày 4 tháng 4 năm 1939, được đỡ đầu bởi bà Carolyn Edison (phu nhân của Trợ lý Bộ trưởng Hải quân Charles Edison), và được đưa vào hoạt động vào ngày 25 tháng 4 năm 1940 tại South Boston, Massachusetts dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng John W. Reeves, Jr..
Lịch sử hoạt động
Các hoạt động ban đầu
Wasp ở lại Boston cho đến hết tháng 5 để được tiếp tục trang bị, cho đến khi nó ra khơi vào ngày 5 tháng 6 năm 1940 để hiệu chỉnh thiết bị định vị radio. Sau khi được tiếp tục trang bị trong khi thả neo tại cảng Boston, chiếc tàu sân bay mới di chuyển một cách độc lập đến Hampton Roads, Virginia; và thả neo tại đó vào ngày 24 tháng 6. Bốn ngày sau, nó khởi hành đi Caribbean cùng chiếc tàu khu trục Morris.Trên đường đi, nó tiến hành các thử nghiệm chuẩn nhận hoạt động trên tàu sân bay. Trong số những phi công được chuẩn nhận sớm nhất có cả Trung úy David McCampbell, người mà sau này trở thành phi công "Ách" có nhiều chiến công nhất của Hải quân trong Thế Chiến II. Wasp đi đến vịnh Guantánamo kịp lúc để "trang trí" chiếc tàu nhân kỷ niệm Ngày Độc Lập.
Một bi kịch xảy ra làm hỏng chuyến đi chạy thử của chiếc tàu sân bay. Vào ngày 9 tháng 7, một trong những chiếc Vought SB2U-2 Vindicator của nó đã bị rơi cách tàu khoảng hai dặm (3 km). Wasp nhanh chóng chuyển hướng tiến đến hiện trường, cũng như là tàu khu trục canh phòng máy bay Morris. Những chiếc xuồng từ tàu khu trục đã vớt được các vật dụng trong khoang chứa của chiếc máy bay, nhưng bản thân chiếc máy bay đã chìm xuống biển cùng hai thành viên đội bay.Wasp rời vịnh Guantánamo Bay ngày 11 tháng 7 và quay về đến Hampton Roads bốn ngày sau đó. Tại đây, nó nhận lên tàu những máy bay của Liên đội Không lực Thủy quân Lục chiến 1 và ra khơi để thực hiện thử nghiệm chuẩn nhận. Hoạt động ngoài khơi khu vực thực tập phía nam, con tàu và những chiếc máy bay hoàn thiện những kỷ năng của chúng trong một tuần lễ trước khi lực lượng Thủy quân Lục chiến rời tàu ở Norfolk, sau đó chiếc tàu sân bay di chuyển lên phía Bắc đến Boston để thực hiện các sửa chữa sau khi chạy thử.Trong khi ở tại Boston, nó đã bắn 21 phát súng chào nhân dịp Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, trên chiếc tàu buồm của ông, chiếc Potomac, ghé thăm Boston Navy Yard vào ngày 10 tháng 8.Wasp rời Boston ngày 21 tháng 8 để thực hành lái tàu và thử máy hết công suất. Sáng ngày hôm sau nó hướng đến Norfolk, Virginia. Trong vài ngày tiếp theo sau đó, trong khi chiếc tàu khu trục Ellis hoạt động như là tàu hộ tống bảo vệ không quân, Wasp phóng và thu hồi các máy bay của nó: máy bay tiêm kích thuộc Phi đội Tiêm kích 7 (VF 7) và máy bay ném bom-tuần tiểu thuộc Phi đội Tuần tiểu 72 (VS 72). Chiếc tàu sân bay quay về Xưởng Hải quân Norfolk vào ngày 28 tháng 8 để thực hiện các sửa chữa thay đổi các turbine của nó. Công việc này khiến nó phải ở lại xưởng suốt tháng tiếp theo. Được đưa vào ụ tàu từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 9, Wasp đi chuyến chạy thử cuối cùng ở Hampton Roads vào ngày 26 tháng 9 năm 1940.
Cùng với Hạm đội
Sẵn sàng để gia nhập hạm đội và được phân về Đội tàu sân bay 3, Lực lượng Tuần tra, Wasp chuyển đến Căn cứ Hải quân Norfolk (NOB Norfolk) vào ngày 11 tháng 10 năm 1940. Tại đây nó nhận lên tàu 24 chiếc P-40 thuộc Phi đội Tiêm kích 8 Quân đoàn Không lực Lục quân Hoa Kỳ và chín chiếc O-47A thuộc Phi đội Quan sát 2, cũng như các máy bay dự trữ và đa dụng Grumman J2F của riêng nó vào ngày 12 tháng 10. Hướng ra biển để có khoảng trống vận động, Wasp cho cất cánh những chiếc máy Lục quân trong một thử nghiệm nhằm so sánh khoảng đường băng cất cánh của máy bay tiêu chuẩn Hải quân và máy bay Lục quân. Thử nghiệm này, lần đầu tiên máy bay Lục quân cất cánh từ một tàu sân bay Hải quân, báo trước việc sử dụng con tàu trong vai trò vận chuyển mà nó thực hiện xuất sắc trong Thế Chiến II.Sau đó Wasp hướng về Cuba cùng với các tàu khu trục Plunkett và Niblack. Trong bốn ngày tiếp theo sau, máy bay của nó thực hiện các chuyến bay huấn luyện thường xuyên, bao gồm thực hành ném bom bổ nhào và thực hành bắn súng máy. Khi đến Guantánamo, Wasp bắn chào một loạt 13 phát chào mừng Chuẩn Đô đốc Hayne Ellis, Chỉ huy Hạm đội Đại Tây Dương, lên chiếc thiết giáp hạm Texas vào ngày 19 tháng 10.Trong những ngày còn lại của tháng 10 và trong tháng 11, Wasp tiến hành huấn luyện trong khu vực Vịnh Guantánamo. Máy bay của nó thực hành thử nghiệm chuẩn nhận và bay huấn luyện và bay huấn luyện ôn tập, trong khi các xạ thủ của nó rèn luyện kỷ năng tác xạ mục tiêu tầm ngắn với mục tiêu giả được kéo bởi chiếc tàu kéo hạm đội mới Seminole.Sau khi hoàn tất các nhiệm vụ tại vùng biển Caribbe, Wasp khởi hành đi Norfolk và đến nơi vào trưa ngày 26 tháng 11. Nó ở lại Xưởng Hải quân Norfolk cho đến tận Lễ Giáng Sinh năm 1940. Sau khi thực hiện các thử nghiệm giải từ lần đầu tiên cùng với chiếc Hannibal, nó khởi hành đi một cách độc lập đến Cuba.Đến vịnh Guantánamo ngày 27 tháng 1 năm 1941, Wasp tiến hành các hoạt động huấn luyện bay thường xuyên cho đến tháng 2. Cùng với chiếc tàu khu trục Walke hoạt động như là tàu cảnh giới máy bay, Wasp hoạt động ngoài khơi Guantánamo và Culebra, tiến hành thao diễn với một loạt các tàu chiến: thiết giáp hạm Texas, tàu sân bay Ranger, các tàu tuần dương Tuscaloosa và Wichita cùng các khu trục hạm. Wasp thực hành tác xạ và tác chiến, cũng như huấn luyện bay thường xuyên cho đến tháng 3. Trên đường đến Hampton Roads ngày 4 tháng 3, chiếc tàu sân bay đã tiến hành thực tập chiến đấu ban đêm cho đến tận rạng sáng ngày 5 tháng 3.Trên đường đi đến Norfolk, thời tiết trở nên rất xấu vào chiều tối ngày 7 tháng 3. Wasp di chuyển với vận tốc chuẩn 31 km/h (19 mph, 17 knot). Ngoài khơi mũi Hatteras, một quan sát viên trên tàu nhìn thấy một pháo hiệu đỏ lúc 22 giờ 45 phút, rồi một loạt pháo hiệu thứ hai lúc 22 giờ 59 phút. Đến 23 giờ 29 phút, dưới sự trợ giúp của các đền pha tìm kiếm, Wasp tìm thấy các kẻ đang bị lâm nạn. Đó là chiếc tàu buồm chở gỗ George E. Klinck đang trên đường đi từ Jacksonville, Florida đến Southwest Harbor, Maine.Lúc đó thời tiết càng lúc càng trở nên phức tạp, từ sóng biển cấp 5 tăng lên cấp 7. Wasp tiến đến gần và chạy cặp song song lúc 00 giờ 07 phút ngày 8 tháng 3. Trong khi đó, bốn người trên chiếc tàu buồm trèo qua một thang dây Jacob lắc lư và bị gió mạnh vùi dập. Sau đó, mặc cho cơn giông tố tiếp tục hoành hành mảnh liệt, Wasp cho hạ xuống một chiếc xuồng vào lúc 00 giờ 16 phút, đem được bốn người còn lại trên chiếc tàu buồm đang đắm ở độ sâu 46 m (152 ft).Cuối ngày hôm đó, Wasp đưa lên bờ các thủy thủ bị giải cứu, và lập tức vào ụ tàu của Xưởng Hải quân Norfolk. Con tàu được tiến hành các sửa chữa cần thiết cho các turbine. Các lổ cửa sổ trên thành tàu ở hầm thứ ba được hàn lại nhằm tăng độ kín nước, và bổ sung thêm các mảnh thép bảo vệ quanh các khẩu đội pháo 5 inch và 1,1 inch. Wasp là chiếc tàu thứ mười bốn được trang bị kiểu radar thế hệ đầu tiên RCA CXAM-1.[1] Sau khi các công việc sửa chữa và thay đổi trên hoàn tất, Wasp khởi hành hướng đến Quần đảo Virgin vào ngày 22 tháng 3, đến St. Thomas ba ngày sau. Không lâu sau nó chuyển đến vịnh Guantánamo và chất lên các hàng tiếp liệu hàng hải để vận chuyển đến Norfolk.Quay về Norfolk ngày 30 tháng 3, Wasp tiến hành các hoạt động huấn luyện bay thường xuyên ngoài khơi Hampton Roads trong những ngày tiếp theo sau cho đến tận tháng 4. Cùng với chiếc tàu khu trục Sampson, chiếc tàu sân bay tiến hành một cuộc tìm kiếm vô vọng một chiếc máy bay trinh sát bị rơi gần vị trí của nó vào ngày 8 tháng 4. Trong những ngày còn lại của tháng 4, Wasp hoạt động ngoài khơi phía Đông giữa Newport, Rhode Island và Norfolk, thực hiện huấn luyện bay và tuần tra cùng các phi đội máy bay trên tàu. Nó chuyển đến Bermuda vào giữa tháng 5, thả neo tại vịnh Grassy vào ngày 12 tháng 5. Tám ngày sau, con tàu lên đường cùng chiếc tàu tuần dương Quincy và các tàu khu trục Livermore và Kearny để tập trận ngoài biển trước khi quay trở về vịnh Grassy vào ngày 3 tháng 6. Wasp khởi hành đi Norfolk ba ngày sau đó cùng với tàu khu trục Edison như là tàu hộ tống bảo vệ chống tàu ngầm.Sau một thời gian ngắn ở lại khu vực Tidewater, Wasp hướng về Bermuda vào ngày 20 tháng 6. Wasp và các tàu hộ tống tuần tra trên vùng biển Đại Tây Dương trãi dài giữa Bermuda và Hampton Roads cho đến tận ngày 5 tháng 7, như là những chuyến tuần tra trung lập của Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ. Đến vịnh Grassy ngày đó, nó ở lại cảng trong vòng một tuần trước khi quay về Norfolk, khởi hành ngày 12 tháng 7 cùng với các tàu chiến Tuscaloosa, Grayson, Anderson và Rowan.
Chuẩn bị cho chiến tranh
Sau khi quay về Norfolk vào ngày 13 tháng 7 năm 1941, Wasp cùng các phi đội máy bay trên tàu tiến hành huấn luyện ôn luyện ngoài khơi Virginia Capes. Trong thời gian đó, tình hình tại vùng biển Đại Tây Dương trở nên phức tạp, khi khả năng phía Mỹ tham dự Trận chiến Đại Tây Dương chỉ còn là vấn đề thời gian, khi Hoa Kỳ tiến thêm bước nữa trong việc can dự vào chiến tranh về phía Anh Quốc. Nhằm đảm bảo an ninh cho phía Mỹ cũng như giúp lực lượng Anh rãnh tay cho những chiến trường cần thiết khác, Hoa Kỳ đã vạch kế hoạch chiếm đóng Iceland. Wasp đã đóng một vai trò quan trọng trongbước đi này.Chiều ngày 23 tháng 7, khi con tàu sân bay đang thả neo tại Căn cứ Norfolk, 32 phi công thuộc Không lực Mỹ (AAF) đến trình diện để thực hiện một "nhiệm vụ tạm thời". Lúc 06 giờ 30 phút ngày hôm sau, thủy thủ đoàn chiếc Wasp quan sát một chuyến hàng thú vị được chuyển lên boong tàu bởi cần cẩu của chính nó: 30 chiếc Curtiss P-40C và ba chiếc máy bay huấn luyện PT-17 thuộc Phi đội Tiêm kích 33, Liên đội 8, đặt căn cứ tại Mitchell Field, New York. Ba ngày sau, ba phóng viên lên tàu, kể cả nhà báo nổi tiếng Fletcher Pratt.Chiếc tàu sân bay đảm nhận nhiệm vụ chuyên chở các máy bay cần thiết của Lục quân nói trên đến Iceland, vì người Anh không có máy bay để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của quân Mỹ. Những chiếc P-40 Hoa Kỳ sẽ cung cấp việc phòng thủ trên không cần thiết cho các lực lượng lục quân chiếm đóng trong giai đoạn đầu. Wasp khởi hành ra biển vào ngày 28 tháng 7, với các tàu khu trục O'Brien và Walke hộ tống bảo vệ máy bay. Tàu tuần dương Vincennes sau đó gia nhập đội hình ngoài biển.Trong vòng vài ngày, nhóm của Wasp gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 16, bao gồm thiết giáp hạm Mississippi, các tàu tuần dương Quincy và Wichita, năm tàu khu trục, Semmes, American Legion, Mizar và Almaack. Những chiếc tàu này cùng hướg về phía Iceland nơi các đội quân chiếm đóng đầu tiên đổ bộ lên. Vào buổi sáng ngày 6 tháng 8 năm 1941, Wasp, Vincennes, Walke và O'Brien tách khỏi đội hình chính của Lực lượng Đặc nhiệm 16. Không lâu sau đó, chiếc tàu sân bay quay ra hướng gió và phóng lên những chiếc máy bay của Phi đội Tiêm kích 33. Khi những chiếc P-40 và ba chiếc máy bay huấn luyện bay đến Iceland, Wasp quay về Norfolk cùng ba chiếc tàu theo tháp tùng hộ tống. Sau một tuần lễ nữa ở ngoài biển, nhóm về đến Norfolk vào ngày 14 tháng 8.Ra khơi trở lại ngày 22 tháng 8, Wasp tiếp tục bay chuẩn nhận và ôn luyện hạ cánh ngoài khơi bờ biển Virginia. Hai ngày sau, Chuẩn Đô đốc H. Kent Hewitt, Tư lệnh Tuần dương Hạm đội Đại Tây Dương, chuyển cờ hiệu của ông từ chiếc tàu tuần dương Savannah sang chiếc Wasp trong khi nó đang buông neo tại Hampton Roads. Tiếp tục di chuyển vào ngày 25 tháng 8, cùng với chiếc Savannah, Monssen và Kearny, chiếc tàu sân bay thực hiện bay huấn luyện trong những ngày tiếp theo sau. Những lời đồn đại của các thành viên trên tàu rằng con tàu sân bay ra khơi để truy tìm chiếc tàu tuần dương hạng nặng Admiral Hipper của Hải quân Đức, được cho là đang rong ruỗi ở vùng biển phía Tây Đại Tây Dương nhằm săn mồi. Sự suy đoán được xác nhận vào ngày 30 tháng 8 khi nhìn thấy chiếc thiết giáp hạm Anh Rodney ở khoảng cách 32 km (20 dặm), đi cùng hướng với lực lượng Mỹ.Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu thật sự nhóm đang truy lùng con tàu Đức, họ đã không tìm thấy nó. Wasp và các tàu hộ tống cho nó đã thả neo tại vịnh Paria, Trinidad, vào ngày 2 tháng 9, khi Đô đốc Hewitt chuyển cờ hiệu của mình trở lại chiếc Savannah. Chiếc tàu sân bay ở lại cảng cho đến tận ngày 6 tháng 9, khi nó lại ra khơi tuần tra nhằm "duy trì tình trạng trung lập của Hoa Kỳ ở Đại Tây Dương".Đang khi ngoài biển, nó nhận được tin cuộc tấn công không thành công của một tàu ngầm U-boat Đức nhắm vào chiếc tàu khu trục Greer. Hoa Kỳ đã ngày càng can thiệp sâu vào trong cuộc chiến; tàu chiến Mỹ giờ đây hộ tống các đoàn tàu vận tải Anh nữa chặng đường vượt Đại Tây Dương cho đến "điểm gặp gỡ giữa đại dương" (MOMP: mid-ocean meeting point).Thủy thủ đoàn trên chiếc Wasp mong mỏi được quay trở về Bermuda vào ngày 18 tháng 9, nhưng hoàn cảnh mới trên Đại Tây Dương buộc phải thay đổi kế hoạch. Chuyển sang vùng biển lạnh hơn ở Newfoundland, chiếc tàu sân bay đến vịnh Placentia vào ngày 22 tháng 9 và được tiếp thêm nhiên liệu từ chiếc Salinas vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, thời gian nghỉ ngơi tại cảng thật ngắn ngủi, khi con tàu lại tiếp tục khởi hành vào cuối ngày 23 tháng 9 để hướng đến Iceland. Cùng với chiếc Wichita, bốn tàu khu trục và chiếc tàu sửa chữa Vulcan, Wasp đi đến Hvalfjörður, Iceland, vào ngày 28 tháng 9. Hai ngày trước đó, Đô đốc Harold R. Stark, Trưởng phòng Tác chiến Hải quân, đã yêu cầu các tàu chiến Mỹ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt mọi tàu chiến Đức hay Ý gặp phải.Với các hoạt động ngày càng leo thang theo sau việc thực hiện hộ tống các đoàn tàu vận tải của Hải quân Mỹ, Wasp trở ra biển vào ngày 6 tháng 10 cùng với chiếc Vincennes và bốn tàu khu trục. Những chiếc tàu chiến này tuần tra tại vùng biển sương mù giá lạnh Bắc Đại Tây Dương cho đến khi quay về vịnh Little Placentia, Newfoundland vào ngày 11 tháng 10, thả neo tại đây trong khi một cơn cuồng phong thổi tạt qua vịnh với gió mạnh và mưa to. Vào ngày 17 tháng 10, Wasp khởi hành đi Norfolk, tuần tra trên đường đi, và về đến cảng nhà vào ngày 20 tháng 10. Không lâu sau, chiếc tàu sân bay lại khởi hành đi Bermuda, thực hiện bay chuẩn nhận và huấn luyện bay ôn tập trên đường đi. Thả neo tại vịnh Grassy ngày 1 tháng 11, Wasp hoạt động tuần tra ở vùng biển ngoài khơi Bermuda cho đến hết tháng đó.Tháng 10 năm 1941 chứng kiến nhiều sự kiện đối đầu giữa lực lượng Mỹ và Đức ngoài biển khơi. Kearny bị bắn ngư lôi vào ngày 17 tháng 10, Salinas vào ngày 28, và sự kiện bi thảm nhất của mùa Thu năm đó là chiếc tàu khu trục Reuben James bị trúng ngư lôi và chìm với tổn thất nhân mạng rất lớn vào ngày 30 tháng 10 năm 1941. Trong khi đó, tại Thái Bình Dương, sự căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản gia tăng theo theo từng ngày trôi qua.Wasp rời khỏi vịnh Grassy trở ra biển vào ngày 3 tháng 12 và gặp gỡ chiếc tàu khu trục Wilson. Trong khi chiếc tàu khu trục hoạt động bảo vệ máy bay, lực lượng không quân của chiếc Wasp thực hiện các chuyến bay huấn luyện ngày và đêm. Thêm vào đó, hai chiếc tàu chiến còn tiến hành huấn luyện tác xạ pháo trước khi quay về vịnh Grassy hai ngày sau đó. Nó thả neo tại đây vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 khi Nhật Bản tấn công vào Trân Châu Cảng.
Chiến tranh tại Đại Tây Dương
Trong thời gian đó, các quan chức Hải quân cảm thấy lo ngại rằng các tàu chiến Pháp trong vùng biển Caribbe và West Indies đang chuẩn bị để tìm cách thoát đi nhằm quay trở về Pháp. Do đó, Wasp, tàu tuần dương Brooklyn và hai tàu khu trục Sterett và Wilson khởi hành rời vịnh Grassy hướng về phía Martinique. Các tin tức tình báo sai lầm đã khiến cho các quan chức tại Washington tin rằng chiếc tàu buôn vũ trang-tuần dương Barfleur của chính phủ Vichy Pháp had gotten underway for sea. Vì vậy người pháp đã được cảnh báo rằng con tàu tuần dương phụ trợ sẽ bị đánh chìm hoặc chiếm giữ, trừ phi nó phải quay về cảng và ở lại đó. Mọi việc sau này cho thấy rằng chiếc Barfleur đã không hề khởi hành, nhưng vẫn ở lại cảng. Tình trạng căng thẳng ở Martinique cuối cùng cũng dịu đi, và cơn khủng hoảng cũng giảm bớt.Với tình hình tại vùng biển West Indies tương đối lắng dịu, Wasp rời vịnh Grassy để hướng đến Hampton Roads ba ngày trước lễ giáng sinh, đi cùng với chiếc Long Island, và được hộ tống bởi các tàu khu trục Stack và Sterett. Hai ngày sau, con tàu sân bay bỏ neo tại Xưởng Hải quân Norfolk để thực hiện việc đại tu kéo dài cho đến tận năm 1942.Sau khi rời Norfolk vào ngày 14 tháng 1 năm 1942, Wasp hướng lên phía Bắc và đi đến Căn cứ Hải quân Argentia, Newfoundland, và Casco Bay, Maine. Vào ngày 16 tháng 3, như là một phần của Đội Đặc nhiệm 22.6, nó quay trở về Norfolk. Trong buổi sáng sớm của ngày hôm sau, tầm nhìn bị giảm xuống đáng kể; và vào lúc 06 giờ 50 phút, mũi chiếc Wasp đã đâm vào mạn phải của chiếc Stack, đâm thủng một lổ và làm ngập hoàn toàn khoang lò đốt số 1. Tàu khu trục Stack được cho tách ra và hướng về Xưởng Hải quân Philadelphia, nơi nó được sửa chữa các hư hỏng.Trong khi đó, Wasp quay về đến Norfolk vào ngày 21 tháng 3 an toàn. Quay trở lại Casco Bay ba ngày sau đó, nó ra khơi hướng đến British Isles vào ngày 26 tháng 3 năm cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 39 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc John W. Wilcox, Jr. trên chiếc thiết giáp hạm Washington. Lực lượng này được đang đến tăng cường cho Hạm đội Nhà của Hải quân Anh. Đang khi trên đường đi, Chuẩn Đô đốc Wilcox bị cuốn qua boong chiếc thiết giáp hạm và bị rơi xuống biển. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi tầm nhìn rất kém, những chiếc máy bay của chiếc Wasp vẫn tham gia vào việc tìm kiếm. Thi thể của Wilcox được tìm thấy một giờ sau đó, mặt úp xuống biển đang động mạnh, nhưng đã không được vớt lên.Chuẩn Đô đốc Robert C. Giffen tiếp nhận việc chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm TF 39 và đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Wichita. Các tàu chiến Mỹ gặp gỡ một lực lượng được xây dựng quanh chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Edinburgh vào ngày 3 tháng 4. Những con tàu này hộ tống chúng đến Scapa Flow thuộc quần đảo Orkney. Đang khi ở đây, một chiếc Gloster Gladiator do Đại úy Hải quân Hoàng gia Henry Fancourt điều khiển đã hạ cánh trên chiếc Wasp, đánh dấu lần đầu tiên một chiếc máy bay Anh hạ cánh trên một tàu sân bay Mỹ trong chiến tranh.Trong khi phần lớn tàu chiến của Lực lượng Đặc nhiệm TF 39 gia nhập Hạm đội Nhà Anh Quốc, và trong quá trình đó được đổi tên thành Lực lượng Đặc nhiệm TF 99, để hộ tống các đoàn vận tải đi sang phía Bắc nước Nga, Wasp rời Scapa Flow vào ngày 9 tháng 4, hướng đến cửa sông Clyde và Greenock, Scotland. Ngày hôm sau, con tàu sân bay đi ngược dòng sông Clyde, ngang qua các cơ sở đóng tàu John Brown Clydebank. Tại đây, công nhân đóng tàu đã ngưng công việc để chào mừng nó một cách niềm nở huyên náo khi nó đi ngang. Nhiệm vụ sắp tới của chiếc Wasp là một việc quan trọng, trong đó số phận của hòn đảo pháo đài Malta đang bị treo lơ lững. Hòn đảo trọng yếu này đang bị máy bay Đức và Ý đánh phá quyết liệt hằng ngày. Người Anh, đối mặt với nguy cơ bị mất ưu thế trên không bên trên hòn đảo, đã yêu cầu sử dụng một tàu sân bay để vận chuyển số máy bay cần thiết để giành lại ưu thế trên không từ tay phe Trục. Wasp đảm nhận vai trò vận chuyển một lần nữa.Đưa lên bờ số máy bay ném ngư lôi và máy bay ném bom bổ nhào của nó, Wasp chất lên tàu 47 máy bay tiêm kích Supermarine Spitfire Mk. V thuộc Phi đội 603 Không quân Hoàng gia tại Glasgow vào ngày 13 tháng 4, rồi khởi hành vào ngày 14. Lực lượng hộ tống bảo vệ cho nó bao gồm Lực lượng "W" của Hạm đội Nhà; một nhóm tàu chiến bao gồm chiếc tàu chiến-tuần dương HMS Renown và các tàu tuần dương phòng không HMS Cairo và HMS Charybdis. Các tàu khu trục Hoa Kỳ Madison và Lang cũng cùng theo hộtống chiếc Wasp.Wasp và những tàu đi theo vượt qua Eo biển Gibraltar dưới sự che chở của bóng đen trước lúc bình minh ngày 19 tháng 4, để tránh khả năng bị tình báo Tây Ban Nha hay khối Trục phát hiện. Lúc 04 giờ sáng ngày 20 tháng 4, Wasp cho phóng lên 11 chiếc máy bay tiêm kích Grumman F4F Wildcat nhằm tạo ra một vòng đai tuần tra chiến đấu trên không (CAP) bên trên Lực lượng "W". Trong khi đó, những chiếc Spitfire được cho khởi động máy bay dưới sàn chứa máy bay. Trong khi những chiếc Wildcat tuần tra bên trên, lần lượt những chiếc Spitfire được thang nâng đưa lên rồi được cho lệnh sẵn sàng để cất cánh. Từng chiếc một cất lên khỏi sàn đáp rồi hướng về phía Malta.Khi việc phóng máy bay hoàn tất, Wasp rút lui về hướng Anh quốc, và những chiếc máy bay được giao đến nơi an toàn. Tuy nhiên, những chiếc Spitfire này vốn được chuyển đến để bổ sung cho số lượng máy bay tiêm kích Gladiator và Hurricane đang bị hao mòn, đã bị mạng lưới tình báo khá hiệu quả của phe Trục theo dõi, và sự có mặt của chúng đã bị phát hiện. Những chiếc Spitfire bị tiêu hao trên mặt đất do những cuộc ném bom nặng nề của Đức.Kết quả là tình trạng nguy cấp như vậy đòi hỏi phải có một chuyến vận chuyển thứ hai đến Malta. Vì vậy, Thủ tướng Anh Winston Churchill, lo ngại rằng Malta có thể "bị đập nát từng mảnh", đã yêu cầu Tổng thống Roosevelt cho phép chiếc Wasp thực hiện một "cú đột kích" nữa. Roosevelt đã đáp ứng một cách tích cực. Thực hiện nghĩa vụ của mình, Wasp lại chất lên tàu một nhóm Spitfire V và khởi hành đi Địa Trung Hải vào ngày 3 tháng 5. Một lần nữa, Wasp đã hành động mà không bị quấy rầy. Lần này, chiếc tàu sân bay Anh Quốc HMS Eagle cùng tháp tùng theo chiếc Wasp, bản thân nó cũng chở theo một nhóm máy bay Spitfire hướng về phía đảo Malta.Hai chiếc tàu sân bay Đồng Minh đến được điểm xuất phát vào sáng sớm ngày thứ bảy 9 tháng 5, với chiếc Wasp đi trước chiếc Eagle với khoảng cách 900 m (1.000 yd). Lúc 06 giờ 30 phút, Wasp tung ra 11 máy bay tiêm kích F4F-4 thuộc Phi đội VF-71 nhằm phục vụ cho vai trò tuần tra chiến đấu trên không (CAP) bên trên lực lượng đặc nhiệm. Chiếc Spitfire đầu tiên, do Trung sĩ Herrington điều khiển, mở hết tốc độ cánh quạt chạy dọc theo đường băng của sàn đáp lúc 06 giờ 43 phút, nhưng nó bị chết máy ngay sau khi cất cánh và bị rơi xuống biển, tổn thất cả máy bay và phi công.Không bị sợ hãi bởi trường hợp tổn thất của Trung sĩ Herrington, những chiếc máy bay khác đã cất cánh một cách an toàn, tạo thành đội hình và bay đến Malta. Tuy nhiên, vận rủi một lần nữa lại xảy ra khi một phi công bất cẩn thả rơi thùng nhiên liệu phụ khi anh ta lên đến độ cao 600 m (2.000 ft). Không có nó, anh không thể nào bay đến được Malta; và chỉ có thể lựa chọn quay lại hạ cánh trên chiếc Wasp hoặc đáp xuống biển.Trung sĩ Smith đã chọn giải pháp thứ nhất. Chiếc Wasp bẻ lái với tốc độ tối đa và thu hồi được chiếc máy bay lúc 07 giờ 43 phút. Chiếc Spitfire dừng lại khi chỉ cách mép trước của sàn đáp 4,5 m (15 ft), một cú hạ cánh mà theo như quan sát của thủy thủ trên chiếc Wasp là như chỉ với "một dây hãm". Với mục đích chính yếu của chuyến đi đã hoàn tất, chiếc tàu sân bay quay trở về quần đảo Anh Quốc, trong khi một đài phát thanh Đức lại đưa tin chiếc tàu sân bay Mỹ đã bị đánh chìm. Tuy nhiên, đa số những người trong các trại tù binh quân Đồng Minh biết rõ hơn; và vào ngày 11 tháng 5, Thủ tướng Anh Churchill đã gửi một bức điện dí dỏm đến thuyền trưởng và thủy thủ đoàn chiếc Wasp: "Cám ơn tất cả các bạn rất nhiều vì sự giúp đỡ kịp thời. Ai có thể bảo Wasp không thể "đốt" hai lần ? "
Chiến tranh tại Thái Bình Dương
Đầu tháng 5 năm 1942, gần như cùng lúc với chuyến đi thứ hai cuả Wasp đến Malta (Chiến dịch Bowery) - đã diễn ra Trận chiến biển Coral, rồi đến Trận Midway một tháng sau đó. Các trận chiến này đã khiến cho phía Mỹ chỉ còn lại hai tàu sân bay tại Thái Bình Dương, và đã đến lúc phải khẩn cấp chuyển Wasp đến đó.Wasp vội vã quay trở về Hoa Kỳ nhằm thực hiện các sửa chữa và thay đổi tại xưởng Hải quân Norfolk. Trong thời gian chiếc tàu sân bay ở lại vùng Tidewater, Thuyền trưởng Reeves được thăng chức lên hàng Đô đốc nên được thay thế bởi Thuyền trưởng Forrest P. Sherman vào ngày 31 tháng 5. Rời Norfolk ngày 6 tháng 6, Wasp di chuyển cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 37, vốn được hình thành chung quanh con tàu sân bay và chiếc thiết giáp hạm mới North Carolina, và được hộ tống bởi hai tàu tuần dương Quincy và San Juan cùng nữa tá tàu khu trục. Nhóm đi ngang kênh đào Panama vào ngày 10 tháng 6, lúc mà Lực lượng Đặc nhiệm này được đổi tên thành TF 18. Con tàu sân bay mang cờ hiệu hai sao của Chuẩn Đô đốc Leigh Noyes.Đến San Diego ngày 19 tháng 6, Wasp chất lên tàu phần còn lại của lực lượng không quân phối thuộc cho nó gồm những chiếc Grumman TBF-1 và Douglas SBD-3, những chiếc sau này dùng để thay thế cho những chiếc Vindicator cũ kỷ. Vào ngày 1 tháng 7, nó khởi hành đi quần đảo Tonga như là một phần của lực lượng hộ tống cho đoàn vận tải gồm năm chiếc vận chuyển trung đoàn Thủy quân Lục chiến 2.Trong khi đó, công việc chuẩn bị nhằm tấn công lên quần đảo Solomon cũng được tiến hành. Cho đến lúc đó, quân Nhật đang ở thế tấn công, họ đang thiết lập một vành đai phòng vệ bên ngoài chu vi của khu vực Thịnh vượng chung Đại Đông Á của họ.Vào ngày 4 tháng 7, trong khi Wasp đang trên đường đến Nam Thái Bình Dương, quân Nhật đã đổ bộ lên đảo Guadalcanal. Các nhà chiến lược Đồng Minh đã nhận thức được rằng nếu quân Nhật sử dụng máy bay đặt căn cứ trên hòn đảo quan trọng này, nó sẽ lập tức đe dọa quyền kiểm soát của Đồng Minh trên khu vực New Hebrides và New Caledonia. Thay vì đợi cho đến khi quân Nhật có thể trụ vững chắc chắn trên đảo, họ đề nghị phải đánh đuổi đối phương trước khi chúng có thể bám trụ. Phó Đô đốc Robert L. Ghormley, người đã có được thành tích tốt đẹp ở London khi làm Tùy viên Đặc biệt Hải quân, được giao phó nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch. Ông đặt sở chỉ huy chiến dịch của mình ở Auckland, New Zealand. Vì quân Nhật đã đặt được chân lên Guadalcanal, lợi thế về thời gian thuộc về phía họ; và những công việc chuẩn bị cho cuộc tấn công được tiến hành nhanh chóng dưới sự bí mật tối đa.Wasp cùng với các tàu sân bay Saratoga và Enterprise được bố trí đến Lực lượng Hỗ trợ dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Frank Jack Fletcher. Dưới quyền chỉ huy chiến thuật của Chuẩn Đô đốc Noyes đang đặt cờ hiệu trên chiếc Wasp, những chiếc tàu sân bay được giao vai trò hỗ trợ trên không cho cuộc chiếm đóng khởi đầu cho chiến dịch Guadalcanal.Wasp và thành viên đội bay của nó tích cực thao dợt ngày và đêm nhằm hoàn thiện kỹ năng của họ đến một trình độ cao, và cho đến khi sự chuẩn bị cho chiến dịch tấn công vào Guadalcanal đạt đến cao trào, Thuyền trưởng Sherman tin tưởng rằng phi công của ông có thể hoàn thành được trách nhiệm của họ. Ngày D ban đầu được hoạch định là vào 1 tháng 8, nhưng sự chậm trễ trong việc đưa đến các tàu vận tải dùng để chuyển lính Thủy quân Lục chiến khiến cho thời hạn trên phải được dời đến ngày 7 tháng 8.Chiếc Wasp được bảo vệ bởi các tàu tuần dương San Francisco và Salt Lake City cùng bốn tàu khhu trục, đã di chuyển theo hướng Tây về phía Guadalcanal vào buổi chiều tối ngày 6 tháng 8 cho đến tận nữa đêm. Sau đó, nó đổi hướng về phía Đông để đến điểm xuất phát cách Tulagi 135 km (84 dặm) một giờ trước lúc bình minh. Lúc 05 giờ 30 phút, những chiếc máy bay đầu tiên được đưa lên sàn đáp chiếc Wasp, và đến 05 giờ 57 phút, nhóm máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không bắt đầu cất cánh.Những chuyến bay đầu tiên của những chiếc F4F và SBD được giao phó các mục tiêu: Tulagi, Gavutu, Tanambogo, Halavo, Port Purvis, Haleta, Bungana, và trạm phát thanh có tên gọi lóng là "Asses' Ears."Những chiếc F4F của Đại úy Shands và Trung sĩ S. W. Forrer ngoặt xuống bờ biển phía Bắc hướng đến Gavatu, trong khi hai chiếc khác hướng đến các căn cứ thủy phi cơ ở Tanambogo. Quân Nhật dường như bị bất ngờ, và những chiếc máy bay tiêm kích Grumman đến mục tiêu gần như đồng thời lúc bình minh, đã bắn hạ tất cả những chiếc máy bay tuần tra và thủy phi cơ trong khu vực. Mười lăm chiếc thủy phi cơ Kawanishi và bảy chiếc thủy phi cơ tiêm kích Nakajima, một phiên bản thủy phi cơ của kiểu máy bay Mitsubishi "Zero", bị các máy bay tiêm kích của Shands bay gần sát mặt đất tiêu diệt. Bản thân Shands tiêu diệt được ít nhất bốn chiếc thủy phi cơ tiêm kích một động cơ Nakajima và một thủy phi cơ bốn động cơ. Đồng đội của ông là Forrer tiêu diệt được ba thủy phi cơ và một máy bay tuần tra. Đại úy Wright và Trung sĩ Kenton tiêu diệt ba máy bay tuần tra và một ca nô đang dự tính kéo thủy phi cơ; các Trung sĩ Reeves và Conklin mỗi người tiêu diệt được hai chiếc và cùng chia sẽ chiến công chiếc máy bay tuần tra thứ năm. Thêm vào đó, các máy bay F4F còn phá hủy một xe tải chở xăng máy bay và một chiếc khác chở linh kiện phụ tùng.Những chiếc SBD cũng thực hiện những cuộc tấn công ném bom rất hiệu quả. Sự đánh giá sau khi tấn công đã ước lượng rằng các vị trí pháo phòng không và khẩu đội pháo bờ biển được tình báo chỉ điểm đã bị máy bay ném bom bổ nhào tiêu diệt ngay trong đợt tấn công đầu tiên. Lực lượng Nhật Bản đã hoàn toàn không có sự chuẩn bị nào nên không có chiếc máy bay nào của Wasp bị bắn rơi. Chỉ có một chiếc trong tổng số 16 chiếc Grumman không quay về tàu, nhưng trong trường hợp ấy Trung sĩ Reeves đã hạ cánh trên chiếc Enterprise sau khi bị hết nhiên liệu.Lúc 07 giờ 04 phút, 12 chiếc Grumman TBF-1 do Đại úy H. A. Romberg chỉ huy cất cánh, chất đầy bom để tấn công các mục tiêu trên đất liền. Gặp phải sự kháng cự đáng kể, lực lượng đổ bộ ban đầu đã yêu cầu được giúp đỡ. Một tá chiếc Avenger của Romberg đã nả xuống quân Nhật đang tập trung tại phía Đông đầu khu đất được gọi là đồi 281 trong khu vực Makambo-Sasapi và nhà tù trên đảo Tulagi. Báo cáo chính thức sau đó cho biết "Mọi sự kháng cự của đối phương đều bị triệt tiêu bởi phi vụ này".Ngày đầu tiên của chiến dịch Guadalcanal tỏ ra thành công. Khoảng 10.000 quân đã đổ bộ được lên hòn đảo và chỉ gặp phải những sự kháng cự nhẹ nhàng. Tuy nhiên tại Tulagi, quân Nhật đối đầu khá kịch liệt, giữ được khoảng một phần năm đảo khi trời sụp tối. Các tàu sân bay Wasp, Saratoga và Enterprise cùng lực lượng hộ tống của chúng rút lui về phía Nam khi đêm xuống.Wasp quay lại chiến trường sáng hôm sau, ngày 8 tháng 8, để duy trì tuần tra chiến đấu trên không liên tục bên trên khu vực đổ bộ cho đến tận trưa. Những chiếc máy bay tiêm kích này được chỉ huy bởi Đại úy C. S. Moffett. Cùng lúc đó, chiếc tàu sân bay cũng tung ra một lực lượng tuần tra trinh sát gồm 12 chiếc SBD-3 do Thiếu tá E. M. Snowden chỉ huy. Những chiếc Dauntless tìm kiếm trong một khu vực đường kính lên đến 350 km (220 dặm), bao gồm cả đảo Santa Isabel và nhóm đảo New Georgia.Các phi công trên những chiếc Dauntless không thấy gì trong buổi sáng đó và không gặp phải lực lượng Nhật Bản trong suốt hai giờ ở trên không. Nhưng tình hình nhanh chóng thay đổi đối với chỉ huy phi đội. Lúc 08 giờ 15 phút, Snowden nhìn thấy một chiếc "Rufe" cách vịnh Rekata khoảng 64 km (40 dặm) và bắt đầu rượt đuổi. Phi công Nhật bay lên cao và tìm cách lợi dụng các đám mây để lẫn tránh. Snowden cuối cùng cũng tiến đến gần đối thủ và sử dụng cặp súng máy cỡ nòng .50 bắn một loạt ngắn trúng đích, khiến cho chiếc "Rufe" xoáy tròn và rơi xuống biển Solomon.Trong khi đó, một nhóm lớn máy bay Nhật đang đến gần từ hướng Bougainville, chắc chắn rằng sẽ tấn công các tàu vận chuyển ngoài khơi Lunga Point. Sau khi biết được lực lượng đối phương đang đến gần, Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner ra lệnh cho mọi lực lượng đổ bộ thực hiện cơ động và di chuyển thay đổi vị trí. Các tàu sân bay cũng dọn sạch sàn đáp để chuẩn bị hành động. Máy bay của Wasp cũng tham gia vào trận chiến hỗm độn sau đó mà một số chiếc tham gia do tình cờ.Thiếu tá Eldridge một lần nữa dẫn đầu một đội hình những chiếc SDB-3 thuộc Phi đội VS-71 hướng đến đảo Mbangi ngoài khơi Tulagi, nơi mà sự kháng cự của quân Nhật khá kịch liệt. Xạ thủ súng máy trên máy bay của Eldridge là L. A. Powers bất ngờ phát hiện một đội hình máy bay đang đến gần từ hướng Đông Bắc, nhưng vì cho rằng đó là những máy bay hỗ trợ, Eldridge tiếp tục đường bay của mình. Tuy vậy họ đã hơi chần chừ, và phát hiện ra những chiếc máy bay trên thật ra là máy bay Nhật. Vào lúc đó, sáu chiếc "Zero" xuất hiện và tấn công vào tốp bay đầu. Tuy nhiên họ tỏ ra thiếu kinh nghiệm trong tấn công, khi đã bắn đến 12 loạt đạn mà không thể bắn rơi nổi một chiếc Dauntless nào.Trong khi đó, người dẫn đầu tốp còn lại của Phi đội VS-71 là Trung úy Robert L. Howard phát hiện một nhóm máy bay ném bom hai động cơ G4M1 "Betty" đang hướng đến các tàu vận tải Mỹ. Howard bổ nhào xuống để tấn công, nhưng đang khi trong cơn phấn khích, anh ta quên bật cần gạt vũ khí sang vị trí "mở". Sau hai vòng lượn mà không thể bắn được, anh nghỉ rằng khẩu súng cần phải nạp lại đạn, và phát hiện ra sai lầm của mình; nhưng đã quá trễ để cọ́ thể làm được gì trên những chiếc máy bay ném bom Mitsubishi. Cũng vào lúc đó, bốn chiếc "Zero" đi theo hộ tống những chiếc máy bay ném bom bắt đầu tấn công chiếc SBD đơn độc.Xạ thủ súng máy phía sau trên máy bay của Howard là binh nhì Lawrence P. Lupo đã giữ được những chiếc máy bay tiêm kích Nhật ở trong tầm súng, và cũng bắn trúng được nhiều phát. Sau khoảng tám vòng lượn, một chiếc "Zero" tiếp cận và đối mặt cùng Howard. Anh khai hỏa các khẩu súng máy cỡ nòng .50 cố định phía trước khiến chiếc "Zero" bắt lửa và lướt qua sát mép cánh trái của chiếc Dauntless trước khi rơi xuống cạnh các tàu đổ bộ Mỹ bên dưới. Trong khi Howard bắn hạ chiếc "Zero" phía trước, Lupo cũng nhắm vào một chiếc "Zero" khác đang tấn công từ phía đuôi. Lupo đã giữ được chiếc máy bay Nhật ở phía xa, nhưng anh chỉ làm được bằng cách nhắm bắn xuyên qua cánh đuôi thăng bằng của máy bay mình. Những chiếc máy bay tiêm kích Nhật Bản tỏ ra mệt mỏi trong việc săn đuổi chiếc SBD và rút lui để cho Howard và các đồng đội của anh thuộc Phi đội VS-71 quay rrở về tàu sân bay an toàn.Lúc 18 giờ 07 ngày 8 tháng 8, Phó Đô đốc Frank Jack Fletcher báo cáo lên Ghormley lúc này đang ở Nouméa đề nghị cho rút lui lực lượng không quân hỗ trợ. Fletcher vốn lo ngại về số lượng lớn máy bay Nhật tham gia công kích trong ngày 8, đã báo cáo rằng ông ta chỉ còn lại 78 máy bay tiêm kích trong tổng số 99 chiếc lúc bắt đầu, và nhiên liệu của các tàu sân bay sắp cạn. Ghormley chấp thuận lời đề nghị, nên Wasp hợp cùng Enterprise và Saratoga rút lui khỏi Guadalcanal. Đến nữa đêm ngày 8 tháng 8, công việc đổ bộ đã thành công, đạt được những mục tiêu đổ bộ trước mắt đã đề ra. Mọi sự kháng cự của quân Nhật tại Gavutu và Tanombogo đã bị áp chế ngoại trừ một vài tay súng bắn tỉa. Tuy nhiên, vào sáng sớm ngày 9 tháng 8, một lực lượng tàu chiến Nhật Bản đã giao chiến cùng lực lượng Mỹ trong Trận chiến đảo Savo rồi sau đó rút lui với rất ít thiệt hại. Lực lượng Đồng Minh chịu tổn thất lớn khi bị mất bốn tàu tuần dương hạng nặng ngoài khơi đảo Savo, kể cả hai chiếc tàu kỳ cựu từng phục vụ cùng với Wasp ở Đại tây Dương: Vincennes và Quincy. Việc rút lui lực lượng hỗ trợ sớm và bất ngờ, bao gồm chiếc Wasp, khi kết hợp cùng các thiệt hại cho lực lượng Đồng Minh trong trận chiến đảo Savo, đã làm lu mờ chiến thắng của chiến dịch trên quần đảo Solomons.Sau các hoạt động trong những ngày đầu của chiến dịch Solomons, chiếc tàu sân bay trãi qua suốt tháng tiếp theo tuần tra và hộ tống các chiến dịch tiếp tế cho lực lượng đang hoạt động tại Guadalcanal. Quân Nhật thoạt đầu phản ứng một cách yếu ớt với các đòn tấn công ban đầu tại Guadalcanal, nhanh chóng đổ dồn lực lượng tăng cường nhằm tranh chấp cùng lực lượng Đồng Minh.Wasp được Phó Đô đốc Fletcher ra lệnh rút lui về phía Nam để được tiếp nhiên liệu và đã không thể tham dự Trận chiến Đông Solomons vào ngày 24 tháng 8 năm 1942. Cuộc đụng độ đó khiến lực lượng Mỹ không thể sử dụng được chiếc tàu sân bay có giá trị Enterprise. Saratoga lại bị trúng ngư lôi một tuần sau đó và cũng phải rời khỏi khu vực chiến trường Tây Nam Thái Bình Dương để sửa chữa. Điều này khiến cho chỉ còn lại hai chiếc tàu sân bay ở khu vực này: Hornet, vốn chỉ mới được đưa vào hoạt động được một năm, và Wasp.
Mất mát
Ngày thứ Ba, 15 tháng 9 năm 1942, hai chiếc tàu sân bay cùng với thiết giáp hạm North Carolina và mười tàu chiến khác hộ tống cho việc vận chuyển Trung đoàn Thủy quân Lục chiến 7 đến tăng cường cho Guadalcanal. Wasp đảm nhiệm vai trò tàu sân bay thường trực và đang hoạt động ở vào khoảng 150 dặm Anh (240 km) về phía Tây Nam đảo San Cristobal. Hệ thống bơm xăng của nó đang được sử dụng, vì máy bay của nó đang được tiếp nhiên liệu và vũ khí cho các nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm. Wasp ở trong tình trạng thường trực tác chiến từ một giờ trước khi mặt trời mọc cho đến khi nhóm máy bay tuần tra buổi sáng quay trở về tàu lúc 10 giờ 00; sau đó, con tàu quay về tình trạng cấp 2. Họ đã không tiếp xúc được với lực lượng đối phương nào trong ngày hôm đó, ngoại trừ một chiếc thủy phi cơ bốn động cơ Nhật Bản bị một chiếc Wildcat từ Wasp bắn hạ lúc 12 giờ 15 phút.Khoảng 14 giờ 20 phút, chiếc tàu sân bay xoay ra hướng gió và phóng lên tám máy bay tiêm kích cùng 18 chiếc SBD-3, và để thu hồi tám chiếc F4F-3 cùng ba chiếc SBD đã bay từ trước giữa trưa. Con tàu nhanh chóng hoàn tất việc thu hồi 11 chiếc máy bay, rồi đổi hướng nhẹ nhàng sang mạn phải. Lực lượng kỹ thuật trên tàu bình thản di chuyển máy bay và tiếp thêm nhiên liệu chuẩn bị cho các phi vụ buổi chiều. Bất ngờ vào lúc 14 giờ 44 phút, một quan sát viên hô lớn: "Ba ngư lôi... ba điểm phía trước bên mạn phải!"Một loạt sáu quả ngư lôi Kiểu 95, được tàu ngầm Nhật I-19 thuộc lớp B1 bắn ra lúc 14 giờ 44 phút, tung bọt tiến đến gần không cản được. Wasp bẻ lái gấp sang mạn phải, nhưng đã quá trễ. Ba quả ngư lôi nối tiếp nhau đâm trúng con tàu vào khoảng 14 giờ 45 phút. Trong một tình huống hiếm thấy, một quả ngư lôi nảy tung lên khỏi mặt biển và đâm trúng chiếc tàu bên trên mực nước biển. Tất cả đều trúng gần vị trí các bồn xăng và kho đạn. Hai quả trong loạt ngư lôi trượt qua trước mũi chiếc Wasp và được trông thấy trượt qua đàng sau chiếc tàu tuần dương Helena trước khi một quả trúng phải chiếc tàu khu trục O'Brien lúc 14 giờ 51 phút trong khi đang cơ động để lẫn tránh một quả khác. Quả ngư lôi thứ sáu trượt qua phía sau hoặc bên dưới chiếc Wasp, suýt trúng chiếc tàu khu trục Lansdowne trên màn hình radar của chiếc Wasp lúc 14 giờ 48 phút, được chiếc tàu khu trục Mustin trông thấy, xuất hiện trên mànhình radar của thiết giáp hạm North Carolina lúc 14 giờ 50 phút, và trúng phải chiếc North Carolina vào khoảng 14 giờ 52 phút.[2]Các vụ nổ bốc cháy bắt đầu quét qua phần trước của con tàu một cách nhanh chóng. Máy bay trên sàn đáp và trong các sàn chứa bị ném tung vào nhau và bị rơi xuống các sàn dưới với một lực mạnh đến mức các càng đáp hạ cánh của máy bay bị bẻ gãy. Các đám cháy bùng lên hầu như cùng lúc trong sàn chứa máy bay và các hầm tàu bên dưới. Không lâu sau, sức nóng của các đám cháy xăng dữ dội đã làm bắt nổ các quả đạn tại các khẩu đội pháo phòng không phía trước, mảnh vụn bắn tung tóe khắp phần trước của con tàu. Khẩu đội pháo 1.1 inch số hai bị nổ tung, và xác của người chỉ huy khẩu đội bị ném tung lên cầu tàu ngay cạnh chân Thuyền trưởng Sherman.Các đường dẫn nước chữa cháy tỏ ra vô dụng vì các ống dẫn nước bị vỡ do áp lực mạnh của các vụ nổ. Không có nước để dập lửa phần phía trước con tàu, và đám cháy nhanh chóng lan sang các kho chứa đạn, bom và kho xăng. Khi con tàu bị nghiêng sang mạn phải giữa 10 và 15 độ, dầu và xăng rỉ ra từ các thùng chứa do vụ nổ của các ngư lôi bắt đầu bắt lửa trên mặt biển.Sherman giảm tốc độ con tàu xuống còn 10 knot (18 km/h), xoay bánh lái sang trái nhằm tìm cách hứng gió phần mạn phải của mũi tàu; sau đó ông đi lùi con tàu với bánh lái bên phải cho đến khi gió ở mạn phải nhằm mục đích cô lập đám cháy ở phần phía trước. Lúc đó, một số đám cháy khiến cho không giữ được trạm trung tâm, và mọi đường dây liên lạc đều bị cắt đứt. Không lâu sau, một đám cháy xăng nghiêm trọng bột phát ở phần phía trước của sàn chứa máy bay, và trong vòng 24 phút kể từ khi đợt tấn công ban đầu, ba vụ nổ xăng nghiêm trọng đã xảy ra. Mười phút sau, Thuyền trưởng Sherman tham khảo sĩ quan cao cấp của mình là Trung tá Fred C. Dickey. Hai ông không thấy có các nào khác ngoại trừ việc phải rời bỏ con tàu, vì mọi nỗ lực chữa cháy đều không mang lại hiệu quả. Những người còn sống sót cần được cho rời tàu nhanh chóng để tránh tránh tổn thất nhân mạng không cần thiết.Một cách miễn cưỡng, và sau khi tham khảo cùng Chuẩn Đô đốc Noyes, Thuyền trưởng Sherman ra lệnh bỏ tàu lúc 15 giờ 20 phút. Những người bị thương được cho hạ xuống các bè hay thuyền cao su. Nhiều người không bị thương buộc phải bỏ tàu ở phía sau tàu vì những đám cháy ở phía trước rất dữ dội. Việc rời tàu, theo sự quan sát của Thuyền trưởng Sherman, là "có trật tự" và không hề có sự hoảng loạn. Những sự chậm trễ là do một số người do dự miễn cưỡng rời tàu cho đến khi mọi người bị thương được cứu vớt. Việc rời bỏ tàu mất khoảng 40 phút; và đến 16 giờ 00, sau khi biết chắc là không còn ai bị bỏ lại, Thuyền trưởng Sherman đu người qua đuôi tàu và trượt xuống biển.Cho dù mối đe dọa từ các tàu ngầm khiến các tàu khu trục hộ tống phải tản ra xa hoặc thay đổi vị trí, họ vẫn kiên trì tiến hành các nỗ lực cứu hộ một cách bền bỉ và quyết tâm cho đến khi những chiếc Laffey, Lansdowne, Helena và Salt Lake City vớt lên được 1.946 người. Con tàu bị bỏ lại trôi nổi với những xác người chết trên nó. Các đám cháy lan tràn đến tận phần đuôi tàu, và có thêm bốn vụ nổ rung động khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống. Lansdowne thi hành nhiệm vụ phá hủy con tàu, và được yêu cầu phải ở lại cạnh con tàu cho đến khi nó chìm hẵn. Những quả ngư lôi Mark 15 của Lansdowne cũng có những khiếm khuyết không được nhận biết như của kiểu ngư lôi Mark 14. Quả ngư lôi đầu tiên được phóng ở khoảng cách 900 m (1000 yard) và được đặt ở độ sâu 4,5 m (15 foot) bên dưới lườn tàu chiếc Wasp nhằm gây ra tổn hại cao nhất với ngòi nổ cảm ứng từ tính. Khi không nhận thấy hiệu quả nào sau một vụ nổ xem có vẻ hoàn hảo, một quả ngư lôi thứ hai được phóng ở độ sâu lườn tàu từ khoảng cách 720 m (800 yard). Một lần nữa, một phát trúng hoàn hảo cũng không mang lại kết quả mong muốn; và Lansdowne chỉ còn lại ba quả ngư lôi. Sĩ quan điều khiển ngư lôi của Lansdowne vô hiệu hóa ngòi nổ cảm ứng từ tính và đặt độ sâu còn 3 m (10 ft). Cả ba quả ngư lôi đều phát nổ, nhưng Wasp tiếp tục nổi trong ánh lửa đỏ cam của một bể xăng và dầu. Lansdowne nôn nóng chạy tới chạy lui trong ánh lửa cho đến khi Wasp chìm với mũi tàu xuống trước lúc 21 giờ 00.[3]Wasp nhận được hai ngôi sao chiến đấu vì những thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Lớp tàu: Lớp tàu sân bay Essex
Xưởng đóng tàu: Xưởng đóng tàu Fore River
Xưởng đóng tàu Kure
Newport News, Virginia
Đặt lườn: 18 tháng 3 năm 1942
Hạ thủy: 17 tháng 8 năm 1943
Đỡ đầu: Julia M. Walsh
Hoạt động: 24 tháng 11 năm 1943
28 tháng 9 năm 1951
Bị mất: Bị bán để tháo dỡ năm 1973
Xếp lại lớp: Tàu sân bay tấn công (CVA): 1 tháng 10 năm 1952
Tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS): 1 tháng 11 năm 1956
Ngừng hoạt động: 17 tháng 2 năm 1947
1 tháng 7 năm 1972
Xóa đăng bạ: 1 tháng 7 năm 1972
Tặng thưởng: 8 Ngôi sao Chiến đấu
Các đặc tính chung
Lượng rẽ nước: 27.100 tấn (tiêu chuẩn); 36.380 tấn (đầy tải)
Chiều dài: 266 m (872 ft) chung
Mạn thuyền: 28 m (93 ft) mực nước
Tầm nước: 8,7 m (28 ft 5 in) tiêu chuẩn
Lực đẩy: 4 × Turbine hơi nước Westinghouse
8 nồi hơi, áp suất 3.900 kPa (565 psi) ở nhiệt độ 450 °C (850 °F)
4 trục
công suất 150.000 mã lực (110 MW)
Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
Tầm xa: 28.000 km ở tốc độ 28 km/h
(15.000 hải lý ở tốc độ 15 knot)
Vũ khí: 4 × pháo nòng kép 127 mm (5 inch) cỡ nòng 38
Vỏ giáp: đai giáp 60 đến 100 mm (2,5 đến 4 inch)
sàn đáp và sàn bảo vệ 40 mm (1,5 inch)
Máy bay: 90-100 máy bay
USS Wasp (CV/CVA/CVS-18) là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp Essex được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Wasp được đưa vào hoạt động tháng 11 năm 1943, và đã hoạt động trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương, được tặng thưởng tám Ngôi sao Chiến đấu. Giống như nhiều chiếc tàu chị em với nó, Wasp được cho ngưng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng được cho hiện đại hóa và tái hoạt động vào đầu những năm 1950 như một tàu sân bay tấn công (CVA), và cuối cùngnhư một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Trong lượt phục vụ thứ hai này, nó hoạt động chủ yếu tại Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và vùng biển Caribbe. Nó đóng một vai trò nổi bật trong chương trình thám hiểm vũ trụ có người lái khi phục vụ như tàu thu hồi chính cho các chuyến bay Gemini VI, VII và IX.Nó được cho nghỉ hưu vào năm 1972 và được bán để tháo dỡ vào năm 1973.
[sửa] Thiết kế và chế tạo
Con tàu được đặt lườn vào ngày 18 tháng 3 năm 1942 tại Quincy, Massachusetts bởi hãng Bethlehem Steel Company. Ban đầu nó được đặt tên là Oriskany, nhưng sau khi chiếc tàu sân bay Wasp (CV-7) bị đánh chìm ngày 15 tháng 9 năm 1942 tại Nam Thái Bình Dương, nó được đặt lại tên là Wasp vào ngày 13 tháng 11 năm 1942 trong khi đang được chế tạo nhằm vinh danh chiếc tàu sân bay tiền nhiệm. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 8 năm 1943, được đ̣ỡ đầu bởi Julia M. Walsh, em gái của Nghị sĩ tiểu bang Massachusetts David I. Walsh, và được đưa vào hoạt động ngày 24 tháng 11 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Clifton A. F. Sprague.
[sửa] Lịch sử hoạt động
[sửa] Thế Chiến II
[sửa] 1943-1944
Sau những chuyến đi chạy thử máy kéo dài đến tận cuối năm 1943, Wasp quay về xưởng tàu tại Boston một thời gian ngắn để chỉnh sửa các sai sót nhận thấy khi thử máy. Vào ngày 10 tháng 1 năm 1944, chiếc tàu sân bay mới rời Boston đi đến Hampton Roads, Virginia, và ở lại đó cho đến cuối tháng khi nó khởi hành đi Trinidad, căn cứ mà nó hoạt động cho đến ngày 22 tháng 2. Nó quay về Boston năm ngày sau và chuẩn bị cho việc phục vụ tại Thái Bình Dương. Đầu tháng 5, chiếc tàu chiến hướng về phía Nam, đi ngang qua kênh đào Panama và đến San Diego, California ngày 21 tháng 3; rồi đi đến Trân Châu Cảng ngày 4 tháng 4
Sau các cuộc thực tập huấn luyện ngoài khơi vùng biển Hawaii, Wasp lên đường hướng về quần đảo Marshall; và tại Majuro nó gia nhập Đội đặc nhiệm TG 58.6 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Alfred E. Montgomery, là một thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh TF 58 của Phó Đô đốc Marc A. Mitscher. Vào ngày 14 tháng 5, nó cùng các tàu sân bay khác của Đội đặc nhiệm TG 58.6 là Essex và San Jacinto lên đường thực hiện cuộc không kích lên đảo Marcus và đảo Wake nhằm giúp cho đội đặc nhiệm mới có thêm kinh nghiệm chiến đấu, và cũng để thử nghiệm một phương thức phân công chiến đấu vừa mới được áp dụng: mỗi phi công được giao một mục tiêu cụ thể trước khi cất cánh, và cũng để vô hiệu hóa các hòn đảo trên chuẩn bị cho chiến dịch Marianas sắp đến. Khi tiến đến gần đảo Marcus, lực lượng được tách ra, gửi chiếc San Jacinto lên phía Bắc truy tìm những chiếc tàu cảnh giới Nhật Bản trong khi Wasp và Essex tung ra các đợt không kích trong các ngày 19 và 20 tháng 5 nhắm vào các cơ sở quân sự trên đảo. Máy bay Mỹ bị chống trả bởi một hỏa lực phòng không dày đặc, nhưng cũng gây được thiệt hại đang kể cho đối phương, ngăn không cho quân Nhật can thiệp vào cuộc đổ bộ sắp thực hiện lên đảo Saipan.Khi điều kiện thời tiết ngăn trở việc tung ra các phi vụ trong ngày 21 tháng 5, hai chiếc tàu sân bay hợp cùng chiếc tàu sân bay San Jacinto hướng đến Wake. Máy bay của cả ba con tàu không kích nặng nề hòn đảo vào ngày 24 tháng 5, đủ làm vô hiệu hóa căn cứ này. Tuy nhiên, hệ thống chọn lựa sẵn mục tiêu cho mỗi máy bay không đáp ứng được sự kỳ vọng của Hải quân, và do đó các vị chỉ huy không quân chiến thuật quay lại chịu trách nhiệm chỉ đạo cuộc tấn công các máy bay dưới quyền.Sau cuộc tấn công lên đảo Wake, Đội đặc nhiệm 58.6 quay trở về Majuro chuẩn bị cho chiến dịch Mariana. Ngày 6 tháng 6, Wasp giờ đây được bố trí lại vào đội đặc nhiệm 58.2 cùng dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Montgomery, khởi hành chuyến đi tấn công Saipan. Chiều ngày 11 tháng 6, máy bay được tung ra nhắm vào các sân bay trên đảo Saipan và Tinian. Chúng bị thách thức bởi khoảng 30 máy bay tiêm kích đặt căn cứ trên đất liền, và một số đã bị bắn hạ. Hỏa lực pháo phòng không khá dày đặc, nhưng máy bay Mỹ đã dũng cảm vượt qua và tiếp tục phá hủy một số máy bay Nhật còn đậu trên mặt đất.Trong ba ngày tiếp theo sau, máy bay tiêm kích Mỹ giờ đây hợp cùng những chiếc máy bay ném bom đột kích vào các căn cứ Nhật Bản trên đảo Saipan phá hủy hệ thống phòng thủ chuẩn bị cho cuộc đổ bộ được dự định diễn ra vào ngày 15 tháng 6. Cho đến ngày 17 tháng 6, máy bay từ các đội đặc nhiệm 58.2 và 58.3 đã hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng Thủy quân Lục chiến đang chiến đấu trên các bãi độ bộ Saipan.Sau khi bàn giao lại cho các tàu sân bay hộ tống trách nhiệm hỗ trợ lực lượng trên bộ, các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh tổ chức tiếp nhiên liệu rồi lên đường hội quân cùng các đội đặc nhiệm 58.1 và 58.4, vốn vừa mới quay về sau các đợt không kích lên các đảo Chichi Jima và Iwo Jima để ngăn ngừa lực lượng Nhật Bản trên các căn cứ tại đó phản công vào lực lượng Mỹ gần Saipan.Cùng lúc đó, , với ý định phòng thủ Saipan bằng mọi giá, Hải quân Nhật Bản đã tung lực lượng Hạm đội Liên hợp mạnh mẽ của Đô đốc Jisaburō Ozawa từ hướng quần đảo Sulu đến quần đảo Mariana để tìm cách đánh chìm các tàu chiến thuộc Đệ Ngũ hạm đội của Đô đốc Raymond A. Spruance và ngăn cản cuộc đổ bộ của quân Mỹ tạii Saipan. Tuy nhiên, không lâu sau khi lực lượng Nhật Bản rời Tawi Tawi sáng ngày 13 tháng 6, tàu ngầm Mỹ Redfin đã trông thấy và báo cáo. Các tàu ngầm khác cũng tiếp xúc được các tàu chiến của Ozawa giúp cho Spruance theo dõi được đường đi của đối thủ khi họ len lỏi qua quần đảo Philippine, vượt qua eo biển San Bernardino và đi vào biển Philippine.Trong suốt ngày 18 tháng 6, cả hai phía đều tung máy bay trinh sát ra để truy tìm vị trí của đối phương. Nhờ có được tầm bay xa hơn, máy bay Nhật đã có được một số tin tức về những tàu chiến của Spruance, trong khi máy bay trinh sát Mỹ không thể tìm thấy lực lượng của Ozawa. Sáng sớm ngày hôm sau, 19 tháng 6, máy bay từ các tàu sân bay của Mitscher hướng đến Guam để vô hiệu hóa sự phòng thủ của hòn đảo này cho trận chiến sắp đến, và trong một loạt các cuộc không chiến đã tiêu diệt được nhiều máy bay Nhật đặt căn cứ trên mặt đất.Trong buổi sáng, các tàu sân bay thuộc hạm đội của Ozawa trung ra bốn đợt không kích mạnh mẻ vào các đối thủ Mỹ của họ, nhưng hầu như bị đánh chặn toàn bộ. Hầu hết máy bay chiến đấu bị các máy bay tiêm kích và hỏa lực phòng không trên các con tàu bắn rơi mà không thể đánh chìm được chiếc tàu chiến Mỹ nào. Dù vậy, chúng cũng xoay sở đánh trúng được một quả bom vào South Dakota, nhưng chiến công lẻ loi này không đủ để loại chiếc thiết giáp hạm khỏi vòng chiến.Ngày hôm đó, máy bay của Mitscher vẫn chưa tìm thấy hạm đội của Ozawa, nhưng các tàu ngầm Mỹ đã thành công trong việc đánh chìm hai tàu sân bay Nhật Taihō và Shōkaku. Cuối buổi chiều, ba trong số bốn đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của Mitscher hướng về phía Tây truy tìm hạm đội của Ozawa đang rút lui, chỉ để lại Đội đặc nhiệm 58.4 cùng các thiết giáp hạm cũ quanh khu vực Marianas hỗ trợ lực lượng trên bộ tại Saipan. Máy bay từ các tàu sân bay Mỹ vẫn không thể tìm thấy hạm đội Nhật cho đến giữa buổi chiều ngày 20 tháng 6 khi một phi công lái Avenger báo cáo phát hiện lực lượng của Ozawa ở vị trí cách các tàu sân bay Mỹ gần 480 km (300 dặm). Mitscher táo bạo tung ra cuộc tấn công toàn diện cho dù ông biết rõ đêm sẽ xuống trước khi những chiếc máy bay quay trở về.Hơn hai giờ sau, các phi công Mỹ bắt kịp các con mồi. Họ đã gây hư hại nặng cho hai tàu chở dầu đến mức chúng phải bị tự đánh đắm; đánh chìm chiếc tàu sân bay Hiyō, đồng thời gây hư hại cho các tàu sân bay Ryuho, Junyō và Zuikaku cùng nhiều tàu chiến khác. Tuy nhiên, sau trận đánh vào lúc trời gần tối, một số máy bay Mỹ đã sử dụng quá nữa số nhiên liệu mang theo, gây ra sự lo ngại và căng thẳng trong chuyến bay quay trở về.Khi nhừng chiếc tàu sân bay nhìn thấy chiếc máy bay đầu tiên quay trở về lúc 20 giờ 30 phút đêm hôm đó, Chuẩn Đô đốc J. J. Clark dũng cảm bất chấp mối đe dọa của các tàu ngầm Nhật khi ra lệnh mở hết tất cả các đèn trên các tàu để hướng dẫn cho các phi công đã mỏi mệt có thể hạ cánh.Sau khi một máy bay của Hornet đáp xuống chiếc Lexington, Mitscher cho phép các phi công có thể hạ cánh trên bất kỳ tàu sân bay nào sẵn có. Tuy nhiên, cho dù có những nỗ lực bất thường như thế nhằm giúp đỡ các phi công, nhiều máy bay đã bị hết xăng trước khi về đến các tàu sân bay và bị rơi xuống biển.Khi thời gian đã trôi đi và các tính toán cho thấy không còn chiếc máy bay nào còn nhiên liệu để bay trên không, Mitscher ra lệnh cho các tàu sân bay quay lại truy đuổi những chiếc tàu của Ozawa còn sống sót; đặt niềm hy vọng nhiều vào việc tìm thấy các đội bay bị rơi xuống nước và cứu vớt họ, hơn là tham vọng bắt kịp Hạm đội Cơ động 1 Nhật Bản trước khi chúng quay về được khu vực chính quốc Nhật bản, nơi được che chở bởi những máy bay đặt căn cứ trên đất liền. Trong cuộc truy kích, tàu của Mitcher đã vớt được 36 phi công và 26 thành viên đội bay khác.Sáng ngày 21 tháng 6, Đô đốc Spruance cho tách Wasp cùng tàu sân bay Bunker Hill khỏi các đội đặc nhiệm để hợp cùng các thiết giáp hạm của Đô đốc Lee tiếp tục truy đuổi theo Ozawa hầu phát hiện và tiêu diệt những con tàu bị hỏng rơi rớt lại. Cuộc săn đuổi kéo dài hai ngày mà không mang lại kết quả, nên lực lượng ứng biến này hướng về Eniwetok để được tiếp liệu và nghỉ ngơi.Thời gian nghỉ ngơi không kéo dài được lâu, khi vào ngày 30 tháng 6, Wasp khởi hành cùng với Đội đặc nhiệm 58.2 phối hợp với 58.1 thực hiện đợt không kích Iwo Jima và Chichi Jima. Máy bay từ các tàu sân bay không kích nặng nề những hòn đảo này trong các ngày3 và 4 tháng 7, trong đó đã tiêu diệt được 75 máy bay đối phương, hầu hết là do không chiến. Cuối cùng là một màn kết thúc vĩ đại khi các tàu tuần dương trong lực lượng hộ tống đã dội pháo xuống Iwo Jima trong hai giờ rưỡi. Ngày hôm sau, 5 tháng 7, hai đội đặc nhiệm quay trở về quần đảo Mariana tấn công Guam và Rota bắt đầu một nỗ lực kéo dài trên hai tuần lễ nhằm đánh phá hệ thống phòng ngự của Nhật Bản tại đây chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Guam. Máy bay cất cánh từ Wasp cùng các tàu chị em của nó cung cấp sự hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên hòn đảo trong ngày 21 tháng 7.Ngày hôm sau, Đội đặc nhiệm 58.2 cùng hai đội tàu sân bay khác của Mitscher khởi hành đi về hướng Tây Nam đến khu vực Tây Caroline, và tung ra các đợt không kích nhắm vào Palau trong ngày 25 tháng 7. Sau đó lực lượng này được tách ra, và các đội đặc nhiệm 58.1 và 58.3 quay lên hướng Bắc tiếp tục các cuộc không kích nhằm vô hiệu hóa sự kháng cự tại Bonin và quần đảo Volcano trong khi Wasp cùng Đội đặc nhiệm 58.2 rút lui về hướng quần đảo Marshall để tiếp liệu, và đội quay về đến Eniwetok ngày 2 tháng 8.Trong thời gian Wasp ở lại căn cứ, Đô ̣đốc Willliam Halsey thay thế cho Đô đốc Spruance vào ngày 26 tháng 8 và Đệ Ngũ hạm đội được đổi tên thành Đệ Tam hạm đội. Hai ngày sau, lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh, giờ đây là Lực lượng Đặc nhiệm 38 khởi hành hướng về Palaus. Ngày 6 tháng 9, Wasp giờ đây được điều về đội đặc nhiệm 38.1 của Phó Đô đốc John McCain, bắt đầu một đợt không kích kéo dài ba ngày lên quần đảo Palaus. Vào ngày 9 tháng 9, nó hướng đến phía Nam Philippine để vô hiệu hóa lực lượng không quân đối phương tại đây trong khi lực lượng trên bộ chinh phục Morotai, Peleliu và Ulithi, ba hòn đảo sẽ hoạt động như những căn cứ tiền phương cần thiết cho chiến dịch giải phóng Philippine sắp tới. Máy bay từ các tàu sân bay không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể khi tấn công các sân bay trên đảo Mindanao vào ngày hôm đó cũng như trong ngày 10 tháng 9. Đợt không kích lên quần đảo Visayan vào các ngày 12 và 13 tháng 8 được thực hiện mà không chịu tổn thất nào và cũng đạt được thành công tương tự. Do biết được việc không có một hệ thống phòng không hoàn chỉnh của Nhật Bản tại phía Nam Philippine, các nhà chiến lược Đồng Minh đã cho ngưng một cuộc đổ bộ lên Mindanao vốn được hoạch định vào ngày 16 tháng 11. Thay vào đó, lực lượng Đồng Minh đi thẳng đến đảo Leyte tiến hành việc tái chiếm Philippine trong vòng một tháng.Vào ngày D ở Palaus, 15 tháng 9, Wasp cùng Đội đặc nhiệm 38.1 ở cách Morotai 80 km (50 dặm) và tung ra các đợt không kích. Sau đó chúng quay về Philippine để "thăm viếng" Mindanao và Visaya lần nữa trước khi rút lui về Admiralty ngày 29 tháng 9 để được tiếp liệu tại đảo Manus chuẩn bị cho việc giải phóng Philippine.Sẵn sàng để hoạt động tác chiến trở lại, chiếc tàu sân bay lên đường vào ngày 4 tháng 10 hướng về phía biển Philippine nơi Lực lượng Đặc nhiệm 38 được tập họp vào lúc chiều tối ngày 7 tháng 10 ở địa điểm 604 km (375 dặm) phía Tây quần đảo Mariana. Nhiệm vụ của nó là vô hiệu hóa các sân bay trong tầm hoạt động đến quần đảo Philippine để ngăn chặn máy bay Nhật có thể can thiệp vào cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên đảo Leyte được dự định bắt đầu vào ngày 20 tháng 10. Những chiếc tàu sân bay di chuyển lên phía Bắc để gặp gỡ một nhóm chín tàu chở dầu và thực hiện việc tiếp nhiên liệu suốt ngày hôm sau, 8 tháng 10. Sau đó chúng di chuyển theo hướng Tây Bắc về hướng quần đảo Ryūkyū cho đến ngày 10 tháng 10 khi máy bay của chúng tấn công Okinawa, Amami và Miyaki. Trong ngày hôm đó, máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 chỉ tiêu diệt được một tàu tiếp liệu tàu ngầm Nhật, 12 thuyền buồm nhỏ và khoảng hơn 100 máy bay. Nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi Trung tá Doolittle thực hiện cuộc không kích Tokyo từ tàu sân bay Hornet vào ngày 18 tháng 4 năm 1942, một lực lượng tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ tiến đến sát và tấn công vào các đảo chính quốc Nhật Bản.Bắt đầu từ ngày 12 tháng 10, Đài Loan bị đặt trong tầm ngắm của máy bay từ Lực lượng Đặc nhiệm 38. Để đáp trả, Hải quân Nhật tung ra toàn bộ lực lượng không quân có được để bảo vệ hòn đảo chiến lược, cho dù làm như vậy có nghĩa là lấy đi hầu hết số máy bay trên các tàu sân bay. Dù vậy, những nỗ lực nhằm đánh lui Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đều bị thất bại. Vào lúc kết thúc các cuộc không chiến kéo dài ba ngày, phía Nhật Bản bị tổn thất hơn 500 máy bay và trên 20 tàu vận tải. Nhiều tàu hàng khác cũng bị hư hại, cũng như là các nhà chứa máy bay, trại lính, kho chứa, nhà máy công nghiệp và kho đạn. Tuy nhiên, chiến thắng mà Hải quân Mỹ đạt được cũng phải trả bằng một cái giá đáng kể, khi Lực lượng Đặc nhiệm 38 mất 79 máy bay cùng 64 phi công và thành viên đội bay, trong khi các tàu tuần dương Canberra và Houston cùng tàu sân bay Franklin bị hư hại do trúng bom.Rời Đài Loan, Lực lượng Đặc nhiệm 38 chuyển trọng tâm sang Philippine. Sau khi di chuyển đến vùng biển phía Đông đảo Luzon, Đội đặc nhiệm 58.1 bắt đầu tung ra các cuộc không kích xuống hòn đảo này trong ngày 18 tháng 10 và tiếp tục cho đến hết ngày hôm sau, ném bom xuống Manila lần đầu tiên kể từ khi nó bị quân Nhật chiếm đóng vào đầu cuộc chiến.Vào ngày 20 tháng 10, trong khi những đơn vị Hoa Kỳ đầu tiên đổ bộ lên Leyte, Wasp di chuyển về vị trí tác chiến ở phía Nam hòn đảo nơi nó cùng các tàu sân bay chị em tung máy bay ra hỗ trợ gần mặt đất hỗ trợ cho những binh sĩ của tướng MacArthur, đồng thời tung những máy bay khác ra phá hủy các sân bay tại Mindanao, Cebu, Negros, Panay và Leyte. Đội đặc nhiệm 38.1 được tiếp nhiên liệu vào ngày hôm sau, và vào ngày 22 tháng 10, được cho rút về Ulithi để nhận thêm vũ khí và tiếp liệu.Trong khi các tàu sân bay của McCain rời xa Philippine, các sự kiện lớn đã diễn ra tại vùng biển chung quanh quần đảo này. Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản, ra lệnh thực hiện kế hoạch Sho-Go-1, một cuộc phản công mang tính quyết định của hải quân ngoài khơi Leyte, tức Trận chiến vịnh Leyte. Theo kế hoạch này, các tàu sân bay của Ozawa được sử dụng như một miếng mồi nhằm nhữ Lực lượng Đặc nhiệm 38 lên phía Bắc Luzon khỏi các bãi đổ bộ tại Leyte; sau đó các tàu chiến hạng nặng Nhật Bản sẽ thoát ra từ hai hướng: từ phía Bắc bởi eo biển San Bernandino, và từ phía Nam qua eo biển Surigao.Khi Lực lượng Trung tâm của Đô đốc Kurita vượt qua eo biển San Bernardino 30 phút sau nữa đêm ngày 25 tháng 10 và tiến dọc theo bờ Đông đảo Samar, chỉ có ba đội đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống của Hạm đội 7: "Taffy 1", "Taffy 2" và "Taffy 3", cùng các tàu hộ tống nhỏ nhoi của chúng hiện diện để ngăn cản những thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng của Kurita nhằm bảo vệ cho lực lượng đổ bộ Mỹ đang chiến đấu tại Leyte. Trong số chúng, "Taffy 3" ở vị trí cực Bắc, cách mũi Paninihian khoảng 64 km (40 dặm); "Taffy 2" bảo vệ vịnh Leyte, và "Taffy 1" còn xa hơn về phía Nam canh chừng eo biển Surigao.Lúc 07 giờ 00 sáng, lực lượng của Kurita bắt đầu khai hỏa vào các tàu sân bay hộ tống nhỏ bé của "Taffy 3", vốn đang ở gần đối phương nhất, cùng những tàu hộ tống nhỏ nhoi nhưng gan dạ. Trong hơn hai giờ, hỏa lực pháo và máy bay của Taffy 3, được sự giúp đỡ bởi máy bay từ hai đội đặc nhiệm Taffy kia, đánh trả đối phương bằng ngư lôi, pháo và bom. Sau khi bị thiệt hại ba tàu tuần dương hạng nặng, và nghĩ rằng mình đang giáp chiến cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38, Kurita đã ra lệnh rút lui.Cùng lúc đó, vào 08 giờ 48 phút, Đô đốc Halsey đánh điện cho Đô đốc McCain, ra lệnh cho Đội đặc nhiệm 38.1 - lúc đó được tiếp nhiên liệu trong khi đang trên đường đi Ulithi - phải quay lại vùng biển Philippine để giúp đỡ Taffy 3 trong cuộc chiến sống còn. Wasp và các tàu hộ tống hối hả hướng đến Samar với tốc độ tối đa, và đến 10 giờ 30 phút, tung những máy bay đầu tiên ra tấn công các tàu chiến của Kurita lúc đó còn đang cách xa đến khoảng 530 km (330 dặm). Trong khi các cuộc không kích này ít gây thiệt hại cho Lực lượng Trung tâm Nhật Bản, chúng góp phần củng cố cho quyết định của Kurita rút lui khỏi Leyte.Trong khi những máy bay của chúng còn đang trên không, các tàu sân bay của McCain tiếp tục tiến nhanh về phía Tây nhằm rút ngắn khoảng cách mà các phi công phải quay về, đồng thời đi đến một vị trí tối ưu vào lúc sáng sớm để có thể tung thêm nhiều máy bay truy kích hạm đội Nhật đang rút lui. Với những ánh sáng bình minh đầu tiên của ngày 26 tháng 10, Đội Đặc nhiệm TG 38.1, cùng với Đội Đặc nhiệm TG 38.2 của Chuẩn Đô đốc Bogan, cuối cùng cũng được Đô đốc Halsey gửi về phía Nam, đã tung ra đợt tấn công đầu tiên nhắm vào lực lượng của Kurita. Đợt tấn công thứ hai được tiếp nối hơn hai giờ sau đó. Chúng đã đánh chìm chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Noshiro, và gây hư hại nặng, nhưng không thể đánh chìm, tàu tuần dương hạng nặng Kumano. Hai đội đặc nhiệm còn tung ra một đợt tấn công thứ ba vào đầu buổi chiều, nhưng không thể nâng cao thêm thành tích.Sau trận chiến vịnh Leyte, Đội Đặc nhiệm 38.1 tiếp tục hoạt động tại Philippines thêm hai ngày, thực hiện các hoạt động hỗ trợ gần mặt đất trước khi lên đường đi Ulithi vào ngày 28 tháng 10. Tuy nhiên, khoảng thời gian nghỉ ngơi này tỏ ra ngắn ngủi - khi Chuẩn Đô đốc Montgomery nhận quyền chỉ huy Đội Đặc nhiệm 38.1 thay cho McCain được thăng chức thay thế Đô đốc Mitscher làm Tư lệnh Lực lượng Đặc Nhiệm 38. Máy bay Nhật đặt căn cứ trên bờ đã tấn công vào lực lượng đổ bộ tại các bãi đổ bộ ở Leyte vào ngày 1 tháng 11. Wasp tham gia không kích các sân bay tại Luzon vào các ngày 5 và 6 tháng 11, phá hủy được trên 400 máy bay Nhật, hầu hết là trên mặt đất. Sau khi một máy bay tấn công cảm tử "kamikaze" đánh trúng chiếc Lexington trong chiến dịch này, Đô đốc McCain chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc tàu sân bay nói trên sang Wasp, và ít lâu sau cùng với nó quay trở về Guam để hoán đổi các liên đội không lực phối thuộc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro