HAI câu5:bằng cơ sở lý luận và thực tiễn , hãy chứng minh ......
HAI câu5:bằng cơ sở lý luận và thực tiễn , hãy chứng minh việt nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu của lịch sử
1.1.1. Lí luận về hình thái KTXH của C.Mác
Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác cho thấy sự biến đổi của
các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản( XHTB) để tìm ra quy luật vận
động của nó - C. Mác và Ăngghen đều cho rằng: Phương thức sản xuất TBCN
có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
- C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Sự tiến bộ lịch sử của chế độ tư bản, vai trò cực
kỳ to lớn của nó trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hóa lao động. Đồng
thời cũng chỉ ra những giới hạn tạm thời về mặt lịch sử của chế độ đó: " Sự tập
trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không
còn thích hợp với cái vỏ TBCN của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số
của chế độ TBCN đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt".
- Đồng thời C. Mac và Ăngghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc
trưng cơ bản của xã hội mới đó là:
+ Có lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
+ Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột
người bị thủ tiêu.
+ Sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
+ Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn
xã hội.
+ Sự phân phối sản phẩm bình đẳng.
+ Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân
tay bị xóa bỏ...
Nhưng để xây dựng xã hội mới với những đặc trưng trên cần phải trải qua hai
giai đoạn: giai đoạn thấp ( giai đoạn đầu) và giai đoạn cao ( giai đoạn sau). Sau
này Lênin gọi giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản.
1.1.2. Lí luận của Lê - Nin
Vận dụng học thuyết của C.Mác vào công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô
trước đây, Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung
như sau
Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên
CNXH đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển.
Như vậy Lênin đã khẳng định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách
quan không chỉ các nước có nền kinh tế lạc hậu mà kể cả các nước có nền kinh
tế phát triển (tức được hiểu rằng những nước đã kinh qua chế độ TBCN) và
Lênin coi đó là một việc phải làm mà bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua.
- Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách sâu sắc triệt để toàn diện từ
2
xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội XHCN. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản
giành được chính quyền bắt tay vào công cuộc xây dựng xã hôi mới và kết thúc
khi xây dựng thành công những cơ sở của CNXH về các mặt: lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế, kiến trúc thượng tầng.
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ được qui định bởi đặc điểm ra đời, phát triển
cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế xã hội của CNXH.
1.1.3. Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ qúa độ là:
sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp
trong xa hội đã thay đổi một cách sâu sắc.
- Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần về khách quan và lâu dài có lợi
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
- Thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh" ai thắng ai" giữa CNXH và
CNTB quyết liệt quanh co, khúc khuỷu phức tạp.
1.1.4. Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN:
- Dự báo của C.Mác
Phân tích tính chất và đặc điểm của CNTB trong thời kỳ tự do cạnh tranh Mác
và Ăngghen đã rút ra kết luận: cách mạng cộng sản chủ nghĩa không thể xảy ra ở
riêng một nước TBCN mà sẽ đồng loạt xảy ra trong tất cả các nước tư bản văn
minh. Những dự báo trên là xuất phát từ điều kiện của CNTB đang ở thời kỳ tự
do cạnh tranh, thời kỳ mà CNTB tương đối ổn định, các mâu thuẫn giữa các
nước tư bản chưa đến mức gay gắt quyết liệt.
- Luận điểm của Lênin
Phát triển học thuyết của C. Mác trong thời kỳ mới, thời kỳ đế quốc chủ nghĩa
Lênin đã xây dựng lý luận về chủ nghĩa đế quốc và đã phát hiện ra quy luật phát
triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB và người đã rút ra kết luận
quan trọng về khả năng thắng lợi của CNXH trước tiên ở một số nước hoặc ở
một nước riêng lẻ, chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước.
- Khi CNXH thắng lợi ở một nước thì nhân loại bắt đầu bước vào một thòi đại
mới - thời đại qua độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đo
các nước lạc hậu có thể qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nhưng phải các
điều kiện bên trong và bên ngoài.
+ Điều kiện bên trong: Có ĐCS lãnh đạo và giành chính quyền và sử dụng chính
quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây
dựng CNXH.
+ Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến
đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. (CMVS)
Tuy các nướclạc hậu có khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
nhưng không phải là quá độ trực tiếp mà phải qua con đường gián tiếp với một
loạt những bước quá độ thích hợp thông qua chính sách "kinh tế mới"
2.Thực tiễn của Việt Nam
Sau khi cuộc kháng chiến của chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc
thắng lợi,tháng 7-1954 hòa bình đã được lập lại ở miền Bắc,còn miền Nam vẫn
tạm thời phải sống dưới ách thống trij của Mỹ-Ngụy.Lúc này,miền Bắc đã đã
bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,với những đặc điểm sau đây:
-Là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá thể
,cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản để lại hết sức kém cỏi và non yếu.Công
nghiệp nhỏ bé,mới phôi thai.Nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân
tán,chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân .Hơn nữa ,miền Bắc lại bị tàn
phá nặng nề của 15 năm chiến tranh.
-Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh đất
nước ta bị chia cắt làm hai miền .Đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa
và căn cứ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chuẩn bị
gây chiến tranh xâm lược.
- Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành một
hệ thống thế giới
Sau khi giải phóng miền Nam 1975, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn
mới, cả nước thống nhất đi lên CNXH. Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khoá
III, ngày 20-9-1975) đã xác định phương hướng tiến lên của cách mạng cả nước.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm mới của tình hình đất nước, Hội nghị đã thừa
nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ở mỗi miền. Miền Bắc có 3 thành
phần kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể. Ở miền Nam, Nghị quyết nêu rõ
trong một giai đoạn nhất định, còn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế quốc
doanh XHCN, kinh tế tập thể XHCN, kinh tế công tư hợp doanh nửa XHCN,
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh. Đây là lần đầu tiên trong văn bản Nghị
quyết của Đảng ghi rõ việc thừa nhận của nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng trong thực tế chúng ta đã
không nhất quán thực hiện theo tư tưởng đó. Trong quá trình hình thành và xác
lập đường lối cách mạng XHCN được nêu lên trong Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV (12-1976); Đảng ta không nghiên cứu phát triển sâu sắc
thêm về chính sách kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Tư tưởng trên đây đã
dẫn tới các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V và các Chỉ
thị, Nghị quyết sau đó đều nhấn mạnh cải tạo XHCN theo hướng xoá bỏ nhanh
chóng các quan hệ sản xuất cũ. Đến cuối những năm 70, nền kinh tế nước ta đã
bộc lộ rõ sự yếu kém về mọi mặt, mất cân đối nghiêm trọng. Trước tình hình ấy
Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần tập trung nghiên cứu để tìm cách tháo gỡ,
nhiều giải pháp đã được đưa ra nhưng đều không đem lại kết quả như mong
8
muốn. Sở dĩ như vậy là do điểm xuất phát của những giải pháp này vẫn dựa trên
những quan niệm lạc hậu, xơ cứng về CNXH, về sản xuất lớn XHCN, về cải tạo,
xây dựng và sử dụng các thành phần kinh tế. Có thể nói việc cải tạo XHCN lúc
đó chủ yếu là xoá sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể và toàn
dân đã gây ra sự lãng phí to lớn lực lượng sản xuất của xã hội.
Trước bối cảnh ấy, nhiều cơ sở đã chủ động tìm kiếm những giải pháp tháo
gỡ khó khăn, thoát ra khỏi khủng hoảng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản
xuất phát triển. Đã xuất hiện 'khoán chui' trong nông nghiệp và 'phá rào' trong
công nghiệp. Từ thực tế đó đã làm nảy sinh nhiều tư tưởng, nhận thức trái ngược
nhau. Nhưng đó cũng chính là sự khởi đầu, khai thông từng bước đổi mới nhận
thức và chính sách của Đảng về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho đến lúc này, xét về đại thể, tư duy cũ về
kinh tế vẫn tồn tại, nền kinh tế nước ta vẫn nằm trong khủng hoảng. Nhưng từ
thực tiễn đã hé mở những khả năng mang tính hiện thực có thể ngăn chặn sự
xuống dốc của nền kinh tế và đem lại một sinh lực phát triển mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) đã chỉ ra những khó
khăn và yếu kém của đất nước và nhấn mạnh khó khăn đó là do khuyết điểm và
sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh
đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Căn cứ hiện trạng các thành phần kinh tế
của đất nước, Đại hội khẳng định trong một thời gian nhất định, ở miền Nam
còn 5 thành phần kinh tế là: quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và t-
ư bản tư doanh.
Đây là sự chuyển đổi trong nhận thức về đường lối và chính sách kinh tế của
Đảng ta: chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để tận dụng mọi năng lực sản xuất sẵn có.Tuy
vậy do vẫn còn hạn chế bởi tư duy cũ về CNXH và còn chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của những quan điểm mang nặng tính chủ quan duy ý chí nên những giải
pháp mà Đại hội đề ra vẫn chưa thực sự sát với thực tiễn và với yêu cầu của
cuộc sống. Đại hội đã không đặt vấn đề chú trọng, sử dụng, liên kết phát triển
9
các thành phần kinh tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó mà tăng
cường thành phần kinh tế XHCN và cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân với
hình thức, bước đi phù hợp. Trái lại, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh nguy cơ:
trên một số trận địa XHCN, những yếu tố tư bản chủ nghĩa và phi XHCN xâm
lấn . Do đó, Đại hội đặt ra mục tiêu trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985):Hoàn
thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan
hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong cả nước .
Sau Đại hội V(3.1982), trước thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng ta
đã nhìn nhận, xem xét lại tư duy kinh tế trên những vấn đề chủ yếu và đặc biệt là
vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận chính sách kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Nhìn chung thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc
trưng là: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi XHCN
sớm bị xoá bỏ ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước.Những nhược điểm
và khuyết điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Song, cũng
chính từ thực tiễn khó khăn tưởng chừng khó vượt qua đó mà Đảng đã phát huy
cao độ ý chí quyết tâm, tinh thần độc lập suy nghĩ tìm tòi sáng tạo để đề ra các
giải pháp hữu hiệu.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12.1986) là một trong các mốc quan
trọng đánh dấu sự đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng ta về mô hình kinh
tế mới: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội lần thứ VI đã phân tích
sâu sắc những sai lầm khuyết điểm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những biểu
hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay những thành phần kinh tế phi XHCN ,chúng ta
'đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa .Về vai trò vai trò của các thành phần kinh tế ' Trong nhận
thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài
10
Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới chủ nghĩa xã hội một
cách vững chắc.Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy
kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức tính toán lại hình thức bước đi của
quá trình cải tạo chủ nghĩa , làm sao để phát huy sức mạnh của các thành phần
kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh và thực hiện mục tiêu đi
lên chủ nghĩa xã hội . Từ tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với các thành phần kinh tế , Đai hội VI khẳng định: 'Muốn phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu
đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế.
Đảng ta cho rằng, chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế
cho phép các hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong
từng khâu của quá trình sản xuất và lu thông phát triển, nhằm khai thác mọi khả
năng của các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo. Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm
của Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI xác định các thành phần đó là:
Kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ
phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
Các thành phần kinh tế khác (thực chất là phi XHCN) gồm:
Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những ngời buôn
bán và kinh doanh dịch vụ cá thể).
Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức mà cao nhất là công tư hợp
doanh.
Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Đến Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá VI (1989), Đảng ta
chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết các hình thức sở
hữu, kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. Hội nghị đã khẳng định: chính sách
11
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là
vấn đề có tính quy luật để đi từ sản xuất nhỏ lên CNXH, là thể hiện tinh thần
dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho người dân được tự do làm ăn theo pháp luật.
Song, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần theo tinh thần của Nghị quyết Đại
hội lần thứ VI không có nghĩa là thừa nhận các thành phần kinh tế đó có vị trí
ngang nhau, có tác dụng như nhau và không có sự biến đổi chuyển hoá. Cần
thấy rõ rằng các thành phần kinh tế này phải hợp với nhau thành một cơ cấu
thống nhất trong nền kinh tế quốc dân và tất cả chỉ được phát triển theo một quỹ
đạo: con đường XHCN. Đảng chủ trương sử dụng các thành phần kinh tế để
phát triển sản xuất, nhưng phải có chính sách và pháp luật, dựa vào sức mạnh
của kinh tế XHCN để kiểm soát và chi phối các thành phần kinh tế theo phương
châm 'sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn' .
Thái độ đối với các thành phần kinh tế, Đảng ta luôn chủ trương 'các thành phần
kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được khuyến khích phát triển vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh'.
Có thể khẳng định, tiếp thu những quan điểm của Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự phát triển tất yếu của kinh tế nhiều thành
phần, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần định hướng XHCN. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, phản ánh đúng thực trạng vận động
của nền kinh tế Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng ta đã khẳng định đ-
ường lối đổi mới đúng đắn do Đại hội VI (12.1986) đề ra và nhấn mạnh cần thiết
phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII (1991) nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần. Đó là:
Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo.
Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng.
12
Kinh tế cá thể có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đờng làm ăn hợp
tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh
do pháp luật quy định.
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
Đại hội VIII (6.1996) của Đảng đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành
phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.
Quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tiếp tục được Đảng ta khẳng
định và phát triển trong Đai hội IX của Đảng: ' Thực hiện nhất quán chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa , cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh'
Theo đó, nền kinh tế ở nước ta bao gồm 6 thành phần , trật tự sắp xếp các thành
phần cũng có sự thay đổi , đó là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể ( thay cho
kinh tế hợp tác trước đây) với nhiều hình thức đa dạng , trong đó nòng cốt là
kinh tế hợp tác xã ; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước , kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X diễn ra trong thời điểm có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
trải qua 20 năm . Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội đã kiểm điểm , đánh giá
khách quan toàn diện những thành tựu và yếu kém; đồng thời rút ra những bài
học kinh nghiệm, trên cơ sở đó , tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối,
quan điểm , định ra phuơng hướng mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong
thời gian tới. Về chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X tiếp tục khẳng
định trên cơ sở ba chế độ sở hữu( toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều
hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân(
cá thể ,tiểu chủ, tư bản tư nhân) , kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài . Đại hội nhấn mạnh :' các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp
13
luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh
3
1.1.5. Thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử
Vận dụng lý luận của Lênin vào hoàn cảnh của Việt Nam Đảng ta đã xác
định: thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây
dựng CNXH dù điểm xuất phát ở trình độ cao hay thấp - vì vậy thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, bởi vì:
- Một là: Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan
của lịch sử: Loài người đã phát triển qua 5 hình thái kinh tế xã hội, sự biến đổi
đó là một quá trình lịch sử tự nhiên, đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Hai là: Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của
thời đại mà còn phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro