24, Bom người (1)
Đầu những năm năm mươi, nước Trung Quốc mới vừa mới được thành lập không lâu, xã hội vẫn còn trong thời kỳ quá độ quân quản, công tác phụ trách an ninh do quân đội phụ trách. Mặc dù có cục công an, nhưng phần lớn công an viên điều tra viên đều xuất thân từ quân ngũ. Ví dụ như lão Lương chẳng hạn, ông này cũng trở thành cán bộ theo cách như vậy, cho nên không đủ quen thuộc tình hình phá án và bắt giam trong nội thành. Khi loáng thoáng nghe thấy vài lời bình luận của người ta về Quách sư phụ, ông này cảm thấy vấn đề đó không hề nhỏ, rốt ráo tìm Quách sư phụ để nói về chuyện này. Thế nhưng, cách nghĩ của hai người không giống nhau, có nói như thế nào cũng khôngb thống nhất được ý kiến.
Lão Lương là người cứng nhắc, liên tục nhấn mạnh, bản án trạm điệnđài ngầm dưới sông được phá nhanh chóng như vậy, nguyên nhân tiên quyếtlà bởi tình hình trong nước sau cách mạng đã bước vào thời kỳ tốt đẹp,tiếp theo là cấp trên lãnh đạo chỉ huy có phương pháp, cuối cùng là cơquan công an đã dốc hết khả năng làm việc, nhưng tuyệt đối không có mộtcâu nào nhắc đến nguyên nhân mê tín nhân quả báo ứng, còn bảo cái biệthiệu "Thần sông" này chẳng ra làm sao.
Quách sư phó đâu có muốn người khác gọi mình là "Thần sông", bởi cứ mỗi lần nhắc tới danh hiệu này là y như rằng lại gặp vận rủi, cứ như là đã ăn vào số mệnh vậy, nhưng làm thế nào để bịt kín được hết miệng cả bàn dân thiên hạ. Không có biện pháp nào giải thích với lão Lương, ông ta đành phải nghe tai nọ lọt tai kia, thầm nhủ: "Ông nói cái gì tôi cũng nghe, đến khi ông nói xong việc tôi tôi làm."
Khi lão Lương kết thúc bài thuyết giáo đã là hơn bảy giờ tối. Vào mùa hạ, trời tối rất muộn, lúc bấy giờ trời vẫn còn sáng, ăn cơm tối lúc đó là vừa hợp lý. Quách sư phó và Đinh Mão đã ngồi lỳ canh ở dưới cầu đường sắt liên tiếp vài ngày, đã phải chịu không ít cực hình bởi việc chẳng liên quan gì đến mình, vất vả lắm mới phá được án, định đi ăn một bữa dạ dày bung coi như là khao thưởng, bởi vậy mới không đến căn tin ăn cơm tập thể.
Cái món dạ dày bung này được làm bằng dạ dày dê, là một món ăn vặt, dân chúng bình dân rất thích ăn, có thể ăn thay cơm. Người ta chế biến dạ dày dê thành các món "Bản đỗ, đỗ hồ lô, đỗ tán đan, đỗ ma cô, đỗ nhân"(*)..., ngoại trừ dạ dày dê tươi ngon, yếu tố quyết định độ ngon của món ăn chỉ dựa vào một chữ "bung", nếu bung vừa đủ, đã thơm lại giòn. Những ai thưởng thức món dạ dày bung cũng nên uống một hai lượng rượu.
(*) Bản đỗ: dạ cỏ, Đỗ hồ lô: dạ tổ ong, Đỗ tán đan: Dạ lá sách, Đỗ ma cô: cuống dạ cỏ, Đỗ nhân: vách ngăn.
Hai người họ đạp xe đạp về phía Nam Đại Tự, là một cái nhà thờ Hồi giáo. Sâu trong ngõ hẻm bên cạnh có một quán nhỏ sạch sẽ tới không ngờ, trước giải phóng chuyên bán dạ dày bung và đủ các loại quà vặt khác của người Hồi, ngay cửa ra vào có tấm biển bằng đồng ghi 'Dạ dày bung họ Phùng'. Hồi đó, trong tiệm chỉ có năm cái bàn hình bán nguyệt, một sư phụ một tiểu nhị quản lý công việc buôn bán. Mặc dù chỉ là một quán ăn nhỏ xíu như vậy nhưng thực ra đã kinh doanh được cả trên trăm năm. Thời mới giải phóng, vật liệu thiếu thốn, đến khi mở cửa kinh doanh lại thì họ chỉ bán có một vài món.
Sau khi ngồi xuống gọi hai đĩa dạ dày bung, Đinh Mão hỏi: "Ca ca, hôm nay lão Lương tìm anh nói chuyện gì mà muộn thế?" Quách sư phó đáp: "Những gì ông ấy nói anh chả hiểu một tí gì."Đinh Mão bảo: "Vậy thì đừng suy nghĩ nhiều, món dạ dày bung hôm nay không tệ, xem ra đói lả người ăn cái gì cũng ngon". Quách sư phó nói: "Dạ dày bung họ Phùng ấy à, chính là cái món này này, năm xưa, người của phủ Khánh Vương ở thành Bắc Kinh lúc nào cũng đặc biệt thích dùng". Đinh Mão không tin: "Vương gia mà lại đi ăn cái món như thế này?" Quách sư phó vặn lại: "Sao lại không ăn, vậy cậu cho rằng trong vương phủ người ta ăn cái gì?" Đinh Mão đáp: "Em làm gì có tí kiến thức nào về vấn đề này. Nhị ca, anh biết hay sao?" Quách sư phó nói: "Một láng giềng cũ của anh biết Thông Bối Quyền, đã từng làm bảo tiêu hộ viện ở Khánh Vương phủ. Anh đã từng được anh ta kể cho nghe". Đinh Mão hết sức tò mò về chủ đề này bèn hỏi: "Ca ca, anh nói cho thằng em biết một chút, bữa ăn của Vương gia có những món gì?"
Quách sư phó nói: "Người anh em, người trong vương phủ và dân chúng chúng ta ăn uống khác hẳn nhau. Vương gia ăn một ngày năm bữa, sáng dậy trước tiên luyện một bài kiếm, luyện xong đi thay quần áo, đến thư phòng ăn điểm tâm, ví dụ như bánh nướng hình móng ngựa, trái cây muối, mứt trái cây, mì sợi xào giòn, cháo gạo tẻ, bánh bao trắng nhân đường phèn mỡ thịt da heo thái hạt lựu, có món mua ở ngoài, cũng có món trong phủ làm."
Đinh Mão thốt lên: "Thì ra Vương gia sáng ăn điểm tâm những món này, giữa trưa thì ăn món gì?"
Quách sư phó nói tiếp: "Đến buổi trưa, người ta chỉ dùng bữa đơn giản với mì và cơm, nhưng đến bữa tối cùng ngày lại đổi sang món khác, không thể lặp lại bữa trước, sẽ dùng bữa với sáu đĩa tám chén hai canh, đây là món nóng, ngoài ra còn có bốn món ăn nguội, cật hầm nhân hạt thông, thịt dê bò muối tương gì đó, để làm món nhắm rượu. Nhưng cũng có khi chỉ ăn thịt luộc và canh rau thịt. Những khi trời lạnh thì ăn lẩu dê. Đúng bốn giờ chiều, Vương gia sẽ ngủ dậy, cần ăn lót dạ buổi chiều, gồm có chè bột mì, cháo bột, nước đậu xanh, bột nhào nước nóng chưng sủi cảo, cá xông khói, bánh cuộn thừng, bánh quế, bánh quai chèo bọc đường, bánh ga tô, bánh đúc đậu. Nếu không có chuyện gì, ăn vậy là được rồi. Nhưng nếu như trong phủ có bạn bè tình cờ đến chơi, bữa này sẽ phải chú trọng hơn nhiều, ít nhất là hai khô hai ngọt bốn mặn nguội, một chén lớn chè hạt sen đường phèn, bốn đĩa bánh trái theo thứ tự là quả phỉ rang tương, mộc tê nhục(*), gà xé phay xào đậu hà lan, rau tam tiên, sau đó lấy bánh ngọt vàng(**) kẹp lại để ăn."
(*) Là món ăn dân dã của Trung Quốc, được liệt vào tám món điển hình của Sơn Đông, được xào hỗn hợp bằng thịt lợn thái miếng, trứng gà và mộc nhĩ.
(**) Là bánh làm bằng bột kê vàng, xay nhỏ, trộn nước nặn thành hình tròn, hấp chín rồi quét một lớp dầu ăn mỏng bên ngoài.
Đinh Mão than: "Vương gia thực sành ăn! Bữa tối cùng ngày dùng với món gì?"
Quách sư phó nói: "Bữa tối cũng giống như bữa trưa, chỉ khác nhau ở món chính mà thôi. Tầm mười một giờ đêm sẽ ăn bữa ăn khuya, dùng tạm vài món lót dạ, mì hoành thánh, bánh bột mì, dạ dày bung, kẹo tam giác, những món mặn nguội được đặt trong thùng đá để bảo quản. Xong bữa này sẽ đến bữa ăn khuya, gia phó sẽ bưng lên một ly trà thơm ướp cánh hoa còn nóng bỏng, khẽ nhấp mấy ngụm, có bản tấu thì phê, không có thì đi ngủ. Ngoại trừ món bạo đỗ họ Phùng, Khánh Vương gia còn thường xuyên tới quán thịt luộc nồi đất. Thời nhà Thanh, khi tế thần người ta dùng cả gia súc, cho cả con vào trong một cái nồi đất cực lớn để luộc, gọi là thịt tế thần. Vào thời Càn Long, bí quyết này đã truyền đến tay dân chúng. Ở chợ gạch ngói có một vị sư phụ sử dụng nồi đất lớn để luộc thịt. Bởi nồi đất có thể giữ nguyên mùi vị của thịt, hơn nữa, từ quan to hiển quý cho đến người buôn thúng bán mẹt, toàn bộ đều nhất trí cho rằng ăn được một miếng thịt tế thần là phúc khí cả ba đời. Cho nên, quán bán thịt luộc nồi đất này, mỗi ngày làm ra bao nhiêu là bán hết bấy nhiêu. Cả quán chỉ có một vị sư phụ cùng với hai tiểu nhị, ngày nào cũng vậy cứ đến nửa đêm là luộc thịt, sáng sớm mở cửa bán, chưa đến buổi trưa là đã bán sạch cả rồi. Vừa bán xong là lập tức hạ biển hiệu đóng cửa quán, cho nên người ta mới bảo biển hiệu của quán thịt luộc nồi đất là: quá hẹn không đợi."
Từ khi toàn quốc giải phóng năm 1949 cho đến bấy giờ, Quách sư phó và Đinh Mão đã buộc phải nghỉ làm vàng mã, công việc vớt xác trên dòng Hải Hà lại không có thưởng, cũng chẳng còn có đám tang rình rang nào để mà trà trộn vào thừa cơ ăn uống, hai người thèm ăn đến thắt ruột. Vừa nói về cách ăn uống trong vương phủ, hai người vừa tưởng tượng món bạo đỗ không thể bình dân hơn được nữa này thành tiệc tám đĩa bốn món mặn nguội. Như thế gọi là biết cách hưởng phúc trong mọi hoàn cảnh, cũng gọi là khổ vì ăn.
Hơn tám giờ tối, bên trong tiệm ăn nhỏ đã có không ít thực khách, nội dung câu chuyện của họ chỉ xoay quanh vụ "Bom người" lúc ấy đang được bàn tán xôn xao khắp đầu đường cuối ngõ.
Vào thời kỳ ấy, những tin đồn thất thiệt thế này nhiều không đếm xuể. Câu chuyện này đại khái nói thế này, có một cây cầu lớn trên dòng Trường Giang, đêm nào cũng có chiến sĩ giải phóng quân thay phiên canh gác. Có một ngày, vào giữa nửa đêm, một người đàn ông cõng phụ nữ đang mang thai vội vàng đi lên cầu, bảo rằng vợ mình sắp sinh, phải mau chóng qua cầu đưa vào bệnh viện. Chiến sĩ giải phóng tốt bụng hỗ trợ, giúp người đàn ông đó cõng người vợ đang mang thai để nhanh chóng qua cầu. Nhưng chạy đến giữa cầu, anh ta cảm thấy người phụ nữ này không hiểu sao càng lúc càng nặng trình trịch, cũng chẳng hề nói chuyện hay hít thở, trên người lại còn ám mùi thuốc súng. Anh chiến sĩ giải phóng quân đột nhiên tỉnh ngộ, tên gián điệp đã nhét thuốc nổ vào trong bụng cái xác phụ nữ, rồi giả đưa phụ nữ có thai sang bờ bên kia, muốn phá hủy cây cầu lớn này. Thuốc nổ đã sắp nổ tung, anh chiến sĩ giải phóng quân lập tức ôm cái xác phụ nữ nhảy luôn từ trên cầu xuống sông, rốt cục vào lúc nghìn cân treo sợi tóc đã bảo vệ cây cầu an toàn.
Đinh Mão nghe thấy thế phì cười, quay sang bắt chuyện với những người đó: "Mấy vị này, tôi chưa từng thấy nên không biết cây cầu bắc qua sông Trường Giang lớn đến cỡ, nhưng có thể khẳng định Trường Giang rộng hơn dòng Hải Hà của chúng ta rất nhiều, chắc hẳn cây cầu kia cũng phải lớn tương ứng. Trong bụng một cái xác phụ nữ thì có thể dấu được bao nhiêu thuốc nổ chứ, có thể phá hủy được cây cầu lớn đến thế được không? Hơn nữa, cái anh lính kia chán sống rồi hay sao, nếu phát hiện ra trong bụng xác người phụ nữ chứa đầy thuốc nổ thì cứ lẳng mẹ nó xuống sông là xong chuyện, hà cớ gì còn phải ôm cái xác đó nhảy xuống? Như thế chẳng phải là ngu hết phần người khác hay sao?"
Những người đang ăn dạ dày bung trong quán nhỏ đều đua nhau tán thành, có một người thích hóng chuyện lên tiếng: "Đinh gia nói đúng điểm mấu chốt rồi, nghe kể chuyện này đã thấy là khoác lác rồi. Theo tôi được biết, vụ bom người căn bản không phải xảy ra trên cầu lớn ở sông Trường Giang, mà thực ra lại phát sinh ở công viên Bắc Hải. Ngày hôm đó vừa đúng dịp Tết, trong công viên có rất nhiều người. Có một cô gái xinh đẹp mặc đồ trắng ngồi trên ghế đá, tóc dài xõa vai, cúi đầu ngồi yên không nhúc nhích, giống như đang ngủ gật. Người qua lại đông như vậy, cô ta vẫn không bị đánh thức. Lúc ấy, có một đứa bé đá quả bóng da trúng đầu, nhưng cô ta vẫn không có phản ứng gì. Đúng lúc đó, có một công an viên trông thấy, cảm thấy có điều khác thường, bèn đi qua lay cô gái mặc đồ trắng đó thì phát hiện ra cô ta đã tắt thở từ bao giờ, trong bụng lại vọng ra tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Thì ra nội tạng của xác chết này đã bị người ta moi sạch ra từ trước, sau đó nhồi đầy thuốc nổ mạnh, rồi đặt trong công viên với tư thế đang ngủ gật. May mắn là đã phát hiện kịp thời, bom hẹn giờ còn chưa bị kích nổ. Trong giây phút mành chỉ treo chuông, đồng chí công an nhanh trí dốc hết sức lực ném cái xác phụ nữ đó xuống hồ trong công viên, nếu không trong công viên nhiều người như vậy, hậu quả thiết tưởng không thể nào chịu đựng nổi".
Cả một đám đông lời qua tiếng lại, mồm năm miệng mười tranh nhau nói, kẻ nào cũng kể chuyện xoay quanh vấn đề "Bom người", nội dung không khác nhau là bao, đều chỉ là nhồi thuốc nổ vào trong bụng xác phụ nữ. Còn về phần dự định phá hủy cầu lớn hay là công viên, ai cũng gân cổ lên bảo mình đúng, cứ như là được tận mắt nhìn thấy vậy. Ở ngoài đường, những lời đồn đại nhảm nhí không có căn cứ như vậy đều được sinh ra như thế này, không cái nào là ngoại lệ. Quách sư phó nghe những người này kể chuyện tào lao giật gân cả một buổi, cũng coi như có cái để giải buồn.
Sau khi nghe chán, ông ta và Đinh Mão đạp xe về nhà. Ông ta bảo Đinh Mão: "Sáng sớm ngày mai cậu phải đi trực, cứ về trước đi ngủ đi, anh vòng qua bên kia mua hai miếng lư đả cổn. Mấy ngày nay, thân thể chị dâu cậu không khỏe, không nuốt trôi được cái gì, anh mua cho cô ấy hai cái lư đả cổn để thay đổi khẩu vị." Đinh Mão nói: "Ca ca vẫn luôn là người thương chị dâu em nhất. Vậy em về trước đây, nửa đêm nửa hôm anh cẩn thận một chút."
Đến ngã tư, hai người tách ra, Quách sư phó đi mua lư đả cổn. Mặc dù tên của món này nghe quái lạ, nhưng thật ra chỉ là bánh bột đậu làm từ đậu nành, cái tên lư đả cổn xuất phát từ cách ví von rất hình tượng. Chính giữa cái bánh này có một cái nhân tròn bọc trong một lớp gạo dẻo, để chính thức thành thành phẩm phải lăn một lúc trên lớp bột đậu nành, giống như một con lừa ở vùng đồng nội lăn qua lăn lại làm bụi bốc mù mịt, cho nên mới có cái tên như vậy.
Đến giờ, hầu hết mọi người chỉ quen gọi nó là lư đả cổn, đã quên mất hẳn cái tên nguyên bản bánh đậu xanh thập cẩm của nó. Vị sư phụ làm lư đả cổn bình thường vẫn qua lại với Quách sư phó. Ông ta đến tận nhà vị sư phụ này mua mấy cái bánh, buộc chặt lên ghi đông rồi đạp xe trở về. Nhưng không ai nói trước được thế nào là vô xảo vô bất xảo. Nếu ông ta không đi mua cái món lư đả cổn này thì sẽ không về nhà theo đường vòng. Nếu như không đi theo đường vòng để về nhà, ông ta cũng sẽ không gặp chuyện.
Lại nói tiếp. Buổi tối hôm ấy, tầm giữa mười giờ đến mười một giờ, Quách sư phó đi xe đạp đến cầu Vĩnh Cửu, nhìn thấy một người đẩy xe xích lô đi theo hướng ngược lại. Người đẩy xích lô tầm bốn mươi tuổi, bầu trời tối đen nên không nhìn rõ mặc quần áo ra sao. Khi còn cách Quách sư phó một quãng, người này vẫn đều đều đẩy xe xích lô đi rất bình thường.
Nhưng khi đến gần ông ta, người này lại đột nhiên lại biến thành gắng hết sức lực, miệng mũi thi nhau thở hồng hộc. Quái lạ thật, một không lên dốc, hai không lọt hố, nhưng mặc cho hắn gò lưng cắn răng dồn sức, có bao nhiêu sức lực đều dốc ra cho bằng hết, làm cách nào cái xe xích lô cũng không chịu chuyển bánh. Nếu nói theo cách mê tín, lúc ấy giống như có quỷ ở đằng sau ghìm chân.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro